Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
12/02 Phép lạ Bánh hóa nhiều lần 2
- Viết bởi Mc 8,1-10
Phép lạ Bánh hóa nhiều lần 2.
Thứ Bảy tuần 5 thường niên.
"Họ ăn no nê"
Lời Chúa: Mc 8,1-10
Trong những ngày ấy, dân chúng theo Chúa Giêsu đông đảo, và họ không có gì ăn, Người gọi các môn đệ và bảo: "Ta thương đám đông, vì này đã ba ngày rồi, họ không rời bỏ Ta và không có gì ăn. Nếu Ta để họ đói mà về nhà, họ sẽ mệt lả giữa đường, vì có nhiều người từ xa mà đến".
Các môn đệ thưa: "Giữa nơi hoang địa nầy, lấy đâu đủ bánh cho họ ăn no". Và người hỏi các ông: "Các con có bao nhiêu bánh?" Các ông thưa: "Có bảy chiếc".
Người truyền dân chúng ngồi xuống đất, rồi Người cầm lấy bảy chiếc bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ phân phát. Các ông chia cho dân chúng. Các môn đệ còn có mấy con cá nhỏ. Người cũng đọc lời chúc tụng và truyền cho các ông phân phát.
Dân chúng ăn no nê và người ta thu lượm những miếng còn thừa lại được bảy thúng. Số người ăn độ chừng bốn ngàn. Rồi Người giải tán họ, kế đó Người cùng các môn đệ xuống thuyền đến miền Ðam-ma-nu-tha.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Bị xỉu dọc đường
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Thân xác có những nhu cầu cơ bản của nó.
Nó biết đói, biết khát, biết mệt và có thế bị xỉu vì kiệt sức.
Khi Đức Giêsu làm phép lạ bánh hóa nhiều để nuôi dân,
Ngài cho thấy mình chẳng hề duy linh hay duy tâm chút nào.
Tin mừng Máccô kể lại hai phép lạ bánh hóa nhiều.
Lần đầu năm cái bánh và hai con cá cho năm ngàn người (Mc 6, 32-44).
Bài Tin mừng hôm nay nói đến một phép lạ bánh hóa nhiều khác,
bảy cái bánh và mấy con cá nhỏ cho bốn ngàn người ăn.
Lần đầu Đức Giêsu chạnh lòng thương
vì dân chúng bơ vơ như chiên không người chăn dắt (Mc 6, 34).
Lần này ngài chạnh lòng thương đám đông vì họ không có gì ăn (Mc 8,1).
Đức Giêsu đã giải thích cặn kẽ các lý do khiến Ngài thương họ:
vì họ đã ở với Ngài ba ngày rồi mà không có gì ăn (c.2),
vì Ngài sợ họ sẽ bị xỉu dọc đường nếu nhịn đói mà về nhà,
vì có một số người từ xa đến (c.3).
Rõ ràng Đức Giêsu quan tâm đến sức khỏe của đám đông.
Họ đã theo Ngài, ở với Ngài và được ăn bánh tinh thần trong mấy ngày qua.
Nhưng họ cũng cần tấm bánh vật chất cho thân xác.
Có thực mới vực được đạo.
Chính Đức Giêsu, chứ không phải các môn đệ, đã nhận ra điều ấy.
Ngài gọi họ lại để nhắc họ về nhu cầu của đám đông (c.1).
Bảy cái bánh được Đức Giêsu bẻ ra và trao cho các môn đệ.
Các môn đệ lại làm cử chỉ như vậy cho đám đông.
Bẻ ra và trao đi là những hành vi của bác ái, chia sẻ.
Bẻ ra là chấp nhận bị vỡ, chẳng còn nguyên vẹn như trước.
Trao đi là chấp nhận mất mát, chẳng còn giữ lại gì cho mình.
Nhưng chỉ khi dám bẻ ra và trao đi mới đem lại hạnh phúc dư dật.
Phép lạ bánh hóa nhiều là phép lạ các Kitô hữu làm mỗi ngày,
khi họ dám bẻ ra và trao đi tấm bánh của đời họ.
Họ bỗng thấy mình sung mãn khi người khác được no nê.
Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa là Tình Yêu,
xin cho con biết nhạy cảm trước nỗi đau của con người,
những trẻ em bất hạnh, những phụ nữ bị bạo hành,
những người trẻ mất niềm hy vọng, những người già neo đơn.
Trong cơn khủng hoảng hiện nay trên toàn cầu,
có bao người thất nghiệp, bao người lâm cảnh đói ăn.
Xin cho tim con chạnh lòng thương như Chúa,
dám chấp nhận sống nghèo để giúp nhiều người thoát cảnh nghèo,
dám chấp nhận liên đới và chia sẻ để thế giới được công bằng hơn.
Ước gì khi thế giới ngưng chiến tranh và các cuộc chạy đua vũ trang,
khi nước giàu chia sẻ cho nước nghèo,
khi bất công và thù hận không còn thống trị,
chúng con được hạnh phúc vì thấy Nước Chúa đã gần bên. Amen.
Suy Niệm 2: Đói và no
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Ăn trái cấm, nguyên tổ thỏa mãn dục vọng. Nhưng lại bắt đầu những cơn đói khát. Đói khát sự hợp nhất. Tưởng rằng có tất cả nhưng bây giờ mất tất cả. Chia rẽ giữa con người với Thiên Chúa. Chia rẽ giữa con người với tạo vật. Chia rẽ giữa con người với nhau. Một cuộc trốn chạy Thiên Chúa. Đổ lỗi cho nhau và cho con rắn. Đói khát tình yêu. Không còn khả năng yêu mến Thiên Chúa. Nên phải ẩn trốn. Không còn tự nhiên yêu mến nhau vì tình yêu đã biến thành dục vọng thèm khát. Không còn yêu mến thiên nhiên vì đã có mối thù với con rắn. Đói khát hạnh phúc. Con người đánh mất hạnh phúc. Không còn thoải mái với chính mình. Phải lấy lá che thân cho khỏi xấu hổ. Hạnh phúc được ở với Thiên Chúa trở thành hình phạt giày vò. Hạnh phúc với thiên nhiên trở thành lời kết án. Hạnh phúc vợ chồng trở thành nỗi thèm khát. Hạnh phúc có con cái trở thành đau khổ. Hạnh phúc lao động trở thành án phạt vất vả. Đói khát sự sống. Trên hết là đánh mất sự sống. Bị đuổi ra khỏi vườn E-đen. Bị cấm đến gần cây trường sinh. Con người giờ đây đói khát sự sống. Nhưng cái chết cứ rình rập. Và nỗi sợ hãi cái chết trở thành một ách nô lệ đè nặng lên kiếp người (năm lẻ).
Đó là số phận của ông bà nguyên tổ. Đó cũng là số phận của vương quốc Israel. Gia-róp-am đói khát quyền lực. Nhưng khi vun đắp quyền lực bằng quay lưng lại với Chúa ông đánh mất tất cả. Và ông mau chóng đánh mất quyền lực. Vương quốc Israel mau chóng sụp đổ (năm chẵn).
Trái lại những người đói khát Lời Chúa lại được no đầy. Họ bỏ nhà cửa, công ăn việc làm, bỏ cả ăn uống nghỉ ngơi, để được gần Chúa và nghe Lời Chúa. Nên họ được tất cả. Chúa là nguồn mạch hợp nhất. Họ được kết hợp với Chúa, kết hợp với nhau và kết hợp với thiên nhiên vạn vật. Chúa là nguồn mạch tình yêu thương. Ở bên Chúa họ được tình yêu mến Chúa, yêu mến nhau và yêu mến mọi người. Cụ thể tỉnh yêu được tỏ lộ qua Lời Chúa giảng dậy, qua sự thân mật thân tình và qua sự quan tâm chăm sóc của Chúa. Chúa là hạnh phúc nên họ ngập tràn hạnh phúc đến quên ăn quên ngủ quên cả đường về. Ta thấy giống như thánh Phêrô trên núi Tabor. Họ được no thỏa sự sống. Vì họ được nuôi dưỡng bằng bánh hằng sống. Bên Chúa họ cảm thấy sự sống thật. Sự sống viên mãn. Họ được no thỏa. Đói trần gian. No thiên đàng.
Suy Niệm 3: Lòng quảng đại của Chúa
Tin Mừng hôm nay nêu bật lòng quảng đại của Chúa Giêsu đối với con người. Sở dĩ Chúa Giêsu đã có thể nuôi sống được đám đông dân chúng, dù chỉ bắt đầu với bảy chiếc bánh và mấy con cá nhỏ, là vì Ngài đã chạnh lòng thương xót họ. Mọi sáng kiến bác ái từ thiện và mọi chính sách phân phối thực phẩm đều phải được khởi đi từ tấm lòng yêu thương, nếu không chúng ta sẽ dễ bỏ cuộc khi gặp khó khăn, trở ngại, hoặc không sớm thì muộn, những công việc ấy cũng bị chen vào những ý đồ ích kỷ, vụ lợi.
Một khía cạnh khác, đó là mọi hành vi của Chúa Giêsu đều bắt đầu từ sự thật của chính Ngài hay của những người khác. Chúa Giêsu đã không khởi sự phép lạ một cách mơ hồ, nhưng từ chính sự thật của con người, cho dù đó là sự thật yếu kém đến đâu đi nữa. Ngài đã làm phép lạ từ bảy chiếc bánh và mấy con cái và mấy con cá nhỏ. Hành vi của Chúa không phải là hành vi đột xuất, bởi vì Ngài vẫn tiếp tục phục vụ kẻ khác một cách quảng đại như thế ngay cả khi đã chết. Quả thật, các kiểu nói và từ ngữ trong Tin Mừng hôm nay, cũng chính là các kiểu nói và từ ngữ được áp dụng cho Bí tích Thánh Thể, như "cầm lấy bánh", "dâng lời tạ ơn", "bẻ ra, trao cho các môn đệ". Như vậy, phải hiểu Bí tích Thánh Thể là một hành vi cứu giúp người đói khát, là sự nối dài hành vi quảng đại của Chúa Giêsu hôm nào, khi từ bảy chiếc bánh và mấy con cá nhỏ, Chúa Giêsu đã cho đám đông ăn no nê chỉ vì Ngài yêu thương họ.
Ngày hôm nay, để nuôi sống nhân loại, Chúa Giêsu đã lấy chính Thịt Máu Ngài làm lương thực. Với lương thực này, Ngài tin chắc mọi người sẽ được no thỏa để phát triển đến mức tối đa. Tuy nhiên, để lương thực ấy đủ cho mọi người thuộc mọi thế hệ, Chúa Giêsu cần đến sự cộng tác của con người, đặc biệt của Giáo Hội, bằng cách phân phát, chia sẻ. Ðám đông sẽ vẫn tiếp tục đói khát, nếu hôm ấy, các Tông đồ không phân phát bánh và cá cho người khác, vì sợ thiếu hay sợ không còn phần cho mình. Nếu vậy, cảnh đói khát hiện nay vẫn còn, là vì người ta từ chối phân phát và chia sẻ cho người khác, mà chỉ bo bo giữ lấy cho mình.
Nếu không có tấm lòng yêu thương, thì chẳng những chúng ta không thể có sáng kiến trong việc cứu giúp người khác, mà còn biện hộ cho khả năng giới hạn của mình và đình hoãn việc trợ giúp. Những lúc ấy, Bí tích Thánh Thể chúng ta đón nhận mỗi ngày trở thành vô hiệu: thay vì là nguồn lương thực không bao giờ cạn thúc đẩy chúng ta quảng đại hiến tặng người khác, nó trở thành gia sản độc quyền và cằn cỗi của riêng chúng ta.
Xin cho chúng ta ngày càng có tấm lòng yêu thương của Chúa, để những người xung quanh chúng ta không còn bị đói khát vì sự ích kỷ của chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Hóa bánh ra nhiều
Trong những ngày ấy, lại có một đám rất đông, và họ không có gì ăn, nên Đức Giêsu gọi các môn đệ lại mà nói: “Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi mà không có gì ăn!”.
Người truyền cho họ ngồi xuống đất. Rồi Người cầm lấy bảy chiếc bánh, dâng lời tạ ơn, và bẻ ra, trao cho các môn đệ để các ông dọn ra. Và các ông đã dọn ra cho đám đông. (Mc. 8, 1-2. 6)
Maccô vá Mat-thêu kể lại cho chúng ta hai phép la hóa bánh ra nhiều; có hai phép lạ chăng? Có thể, nhưng có lẽ đúng hơn chúng ta có ở đây bản trình thuật thứ hai về cùng một biến cố. Trình thuật này hình như bắt nguồn từ một truyền thống lâu đời, từ cộng đoàn các Kitô hữu gốc Hy lạp. Trình thuật kể lại sự việc như đang xảy ra coi như không liên kết gì với những biến cố dã xảy ra trước vậy.
Dĩ nhiên là có vài dị điểm về những con số giữa hai bản trình thuật: bảy chiếc bánh thay vì năm, mấy con cá nhỏ thay vì năm, bảy giỏ thay vì mười hai, bốn ngàn người thay vì năm ngàn. Chúng ta còn gặp những dị biệt đáng ngại hơn khi đối chiếu với những Phúc âm nhất lãm khác, nếu ta coi những bản văn Phúc âm như những tài liệu “lịch sử” theo đúng nghĩa của thời nay. Các tác giả chép Phúc âm thực ra không mấy bận tâm trong việc kiểm chứng các nguồn tài liệu của mình theo kiểu phê bình lịch sử hiện đại: sự thật của Tin Mừng tiên vàn không phải là những sự kiện được kiểm nghiệm gắt gao theo khoa học, mà chỉ là sự thật về ơn cứu độ để loan báo cho mọi người.
Trong văn chương người ta cũng thường xử dụng kiểu này: một sự kiện cùng được nhiều nhân chứng kể lại, mỗi người từ một quan diểm, một góc cạnh khác nhau; từ đó mới có những bản không giống nhau lạ thường; thế nhưng bản này cũng như những bản kia cũng đều đúng, không ai sẽ có ý tưởng loại bỏ bản này hay bản kia, mỗi bản đều chứa đựng sự thật của mình.
Trong việc rao giảng Tin mừng, đường lối chủ trương của Matthêu không phải là của Maccô, cũng không phải là của Luca, càng không phải là của Gioan, thế nhưng chân lý các ngài rao giảng thì vẫn là một. Cùng phát sóng một chương trình, nhưng phát hình đen trắng khác xa với phát hình mầu, thế mà không một ai dám có ý tưởng khẳng định rằng chương trình này phóng khoáng, chương trình kia đúng. Tượng Đức Kitô do Bourgault điêu khắc không có nét giống với tượng điêu khăc của Rodin, thế mà tượng nào cũng gợi lên trong lòng người nhìn ngắm cùng một niềm tin, cùng một lòng yêu mến. Khi so sánh với nghi lễ Rôma, những cử hành phụng vụ cực kỳ long trọng thuộc nghi lễ Đông phương cho ta cảm tưởng như đến từ một thế giới thật khác lạ, nhưng đằng sau những nét văn hóa khác nhau của đôi bên, người ta mới thấy rõ cả hai cùng chung một niềMt.in, một phép rửa, một Thiên Chúa và đúng là một sự hài hòa tuyệt vời.
Mầu nhiệm Đức Kitô quả đúng là một mầu nhiệm phong phú khôn lường đến nỗi chỉ có một thánh sử mà thôi sẽ không bao giờ diễn đạt được hết, mà chỉ cho ta biết được một mặt nào của mầu nhiệm tuyệt vời đó mà thôi.
Suy Niệm 5: Hãy biết chạnh lòng thương
Khi kể về ơn gọi của Mẹ Têrêxa Calcutta với người nghèo, người ta không quên được sự kiện làm cho mẹ thay đổi ơn gọi. Từ một giáo viên dạy địa lý và là một nữ tu của Dòng Nữ Vương Ðức Bà Loreto, mẹ đã trở thành một nữ tu khiêm tốn, chuyên phục vụ người nghèo khi quyết định rời bỏ dòng cũ để lập nên Hội Dòng Nữ Tu Bác Ái với hy vọng xoa dịu nỗi khổ cho biết bao con người ngày đêm kêu cứu. Vì thế, mẹ đã trở thành người nổi tiếng về lòng bao dung, nhân hậu.
Nguyên nhân để mẹ trở thành vĩ nhân là vì mẹ đã cảm nghiệm sâu xa lời kêu cầu của Đức Giêsu trên Thánh Giá “Ta khát” qua hình ảnh của một người già nghèo khổ, trong sân ga tàu hỏa khi mẹ lên đường để đi chữa bệnh.
Tin Mừng hôm nay trình thuật việc Đức Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều lần thứ hai. Qua phép lạ này, chúng ta thấy nổi bật lên sự quảng đại, lòng nhân hậu, thương xót của Đức Giêsu với đám đông dân chúng.
Thấy một đám đông đang theo mình, Đức Giêsu đã không thể yên vị được khi thấy họ vất vưởng và bụng đói, nên Ngài đã nói với các môn đệ: “Thầy chạnh lòng thương đám đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi mà không có gì ăn” (Mc 8, 2). Và Đức Giêsu đã làm phép lạ để nuôi dân chúng.
Hình ảnh thật đẹp về một Đức Giêsu: Ngài nhìn đám đông với một ánh mắt đăm chiêu, trìu mến và lộ rõ sự thao thức! Ngài nói với các môn đệ về nỗi thao thức của mình, rồi lường trước được những mối nguy hại khi họ bụng đói ra về! Và cuối cùng Ngài đã hành động để nuôi dân chúng.
Ngày hôm nay, vẫn có nhiều chương trình phúc lợi xã hội, nhưng không biết có phải là những chương trình được khởi đi từ tình thương hay là một dịp thuận tiện để những kẻ chuyên tham nhũng, bóc lột có cơ hội trục lợi cá nhân và đoàn thể khi nhân danh điều thiện???
Thật vậy, nếu mọi việc công ích, không được khởi đi từ lòng nhân hậu và tình thương thì sớm muộn gì nó cũng sẽ bị những ý đố đen tối, xấu xa xen vào và bị biến thái.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết mặc lấy tấm lòng từ bi nhân hậu và thương xót của Chúa, để chúng con biết đem Chúa đến với anh chị em chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân, vì Ngài chạnh lòng thương xót họ. Người Kitô hữu cũng có trách nhiệm cộng tác với Chúa Giêsu để nuôi sống nhân loại.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con dâng lời cảm tạ Chúa đã nuôi con mỗi ngày. Cơm gạo con ăn hàng ngày là ơn Chúa ban. Không những Chúa nuôi con phần xác mà Chúa còn dưỡng nuôi tâm hồn con bằng bánh Lời Chúa và bánh Thánh Thể.
Lạy Chúa, ngày xưa đứng trước đám đông dân chúng mệt lử, vì đói khát, các môn đệ biết rằng phải cứu giúp họ. Thế nhưng các ngài không có khả năng, không đủ phương tiện. Hôm nay, Chúa cũng sai con đến với người khác với hai bàn tay trắng. Con biết mình rất hạn chế khả năng và hạn hẹp lòng quảng đại. Tuy nhiên, với tất cả cố gắng và thiện chí, con đóng góp một mẩu bánh nhỏ. Phần còn lại, con tin Chúa sẽ lo liệu. Con chỉ có một mẩu bánh nhỏ như một lời chia sẻ ủi an, như một việc thiện giúp đỡ người khác, như một đồng bạc chia sẻ cho kẻ túng thiếu, như một lời kinh cầu cho những kẻ đau khổ… Một mẩu bánh ấy, con hiến dâng với cả tấm lòng và con tin Chúa sẽ thực hiện phép lạ làm no thỏa những đói khát của lòng người.
Lạy Chúa, con vui sướng được cộng tác với Chúa nuôi sống nhân loại. Những gì con đang có đều do Chúa thương ban. Con không muốn giữ riêng cho mình, nhưng muốn quảng đại trao tặng người khác. Xin Chúa ban cho con quả tim biết động lòng thương xót trước những thiếu thốn của anh chị em con. Lạy Chúa, của cải lương thực trần gian không thiếu, nhưng chúng con thiếu sự phân phối công bằng và thiếu lòng quảng đại xót thương. Xin Chúa làm cho nhân loại chúng con biết sống quảng đại, biết trao tặng, biết hiến dâng, biết để dành lại cho người khác phần của họ. Amen.
Ghi nhớ: “Họ ăn no nê”.
Suy Niệm 7: Phép lạ bánh hóa nhiều lần hai
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Vào thời Xuất hành khoảng năm 1250 trước Chúa Giêsu giáng sinh. Bấy giờ đoàn người Do Thái vừa ra khỏi đất Ai Cập màu mỡ. Họ theo Môisê vào nơi hoang địa trong hành trình về đất hứa chảy sữa và mật. Ở giữa sa mạc hoang vu, họ thiếu lương ăn nước uống. Họ kêu trách Môisê và ông kêu cầu Thiên Chúa, Ngài ban cho họ một thứ bánh là Manna.
Suy niệm
Dân Chúa hết lòng hết tâm đến nghe Lời, dù giữa cảnh đói khát… Nhìn thấy hoàn cảnh của họ, Chúa Giêsu gọi các môn đệ và bảo: “Ta thương đám đông, vì này đã ba ngày rồi, họ không rời bỏ Ta và không có gì ăn…”.
Trước những người thiện tâm đến với Chúa Giêsu, Ngài luôn thương họ… như Tin Mừng có ghi nhận lại: Chúa chạnh lòng thương giơ tay đụng và chữa lành anh cùi xin ngài (x. Mc 1,41) Chúa chạnh lòng thương đoàn dân bơ vơ đến nghe ngài (x. Mc 6,34). Chúa chạnh lòng thương hoàn cảnh của bà góa thành Naim mất con (Lc 7,13) và cho con bà sống lại, Chúa thổn thức lòng trước cái chết của bạn hữu Ladarô với lời than khóc của gia đình bạn hữu (x. Ga 11,33.38) và Ladarô được Chúa cho sống lại…
Chúa thương dân đói khát Ngài làm bánh hóa nhiều từ bảy chiếc bánh và vài con cá nhỏ cho bốn ngàn người ăn. Đây là phép lạ bánh hoá nhiều lần hai. Lần thứ nhất từ năm chiếc bánh và hai con cá cho năm ngàn người không kể đàn bà và con trẻ là phép lạ duy nhất được cả bốn tác giả Tin Mừng cùng thuật lại (x. Mt 14,13-21; Mc 6,35-44; Lc 9,12-17; Ga 6,1-13). Riêng hai tác giả Matthêu và Maccô còn ghi nhận thêm phép lạ bánh hóa nhiều lần hai (x. Mt 15,32-38; Mc 8,1-10). Như vậy, chắc chắn sự kiện Chúa làm phép lạ cho dân chúng mang nội dung hết sức quan trọng và Giáo hội luôn xác tín đó là hình ảnh báo trước về Thánh Thể sẽ được dâng hiến cho muôn người.
Trong thánh lễ, Lời Chúa được giảng dạy và Thánh Thể nuôi dưỡng trong đời sống của các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Cho nên, người ta không còn ngạc nhiên về vai trò đặc biệt nổi bật mà việc hóa bánh ra nhiều thể hiện trong đời sống của Đức Giêsu cùng với giáo huấn của Ngài.
Những người cất bước tìm nước Thiên Chúa và nghe lời giảng dạy, được Ngài thương, chăm sóc đỡ nâng, chữa lành mọi vết thương, cho đủ thỏa tất cả. Hơn nữa, Ngài trao ban Thánh Thể. Thật thế, chúng ta đến với Ngài, tôi và bạn sẽ cảm nghiệm được tình yêu bao la của Thiên Chúa, một tình yêu khiến chúng ta luôn vững vàng bước đi, đó là tình yêu được Thiên Chúa ban phát.
Xin cho chúng con một lòng khao khát tìm đến bên Chúa, lắng nghe lời giảng, được Ngài chạnh lòng thương và ban phát Thánh Thể hồng ân, như xưa Ngài ra tỏ tình thương qua phép lạ bánh hóa nhiều. Và từ lòng thương nơi Đức Giêsu, toả ban nguồn mạch của tình yêu thương. Chúng ta mở lòng lãnh nhận lòng yêu thương làm nên tính cách tình yêu nơi mỗi người chúng ta: Con tim biết rung động và chạnh lòng thương.
Ý lực sống: “Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói;
ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ” (Ga 6,35).
Suy Niệm 7: Phép lạ hóa bánh lần thứ hai
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đã ba ngày đám dân chúng đi nghe Chúa giảng mà không có gì ăn, Đức Giêsu động lòng thương xót họ nên bảo các môn đệ lo cho họ ăn, vì sợ họ về mệt lả dọc đường. Các môn đệ thưa ở nơi hẻo lánh này không thể tìm đâu đủ bánh cho họ ăn vì các ông chỉ có bảy chiếc bánh và mấy con cá. Chúa liền bảo dân chúng ngồi xuống, rồi Người cầm lấy bánh và cá của các ông, tạ ơn, rồi trao cho các ông phân phát cho dân chúng ăn. Mọi người đều ăn no nê và còn dư bảy thúng. Số người ăn độ bốn ngàn.
2. Bài Tin Mừng hôm nay nêu bật lòng thương và quyền năng của Đức Giêsu. Người tỏ lòng thương những người dân đơn sơ, chất phác đi theo Người không kể gian nan, không nghĩ đến việc phải tìm đâu ra của ăn. Sở dĩ Đức Giêsu đã có thể nuôi sống được đám đông dân chúng, dù chỉ bắt đầu với bảy chiếc bánh và mấy con cá nhỏ, là vì Người đã chạnh lòng thương xót họ. Vì thế, mọi sáng kiến bác ái từ thiện và mọi chính sách phân phối đều phải được khởi đi từ tấm lòng yêu thương, nếu không chúng ta sẽ dễ bỏ cuộc khi gặp khó khăn, trở ngại, hoặc không sớm thì muộn, những công việc ấy cũng bị chen vào ý đồ ích kỷ, vụ lợi.
3. Chúa Giêsu làm phép bánh xong, Người không đích thân phân phát mà trao cho các môn đệ để các ông phân phát. Nghĩa là tuy Chúa có thể ban bánh cho lương dân, nhưng Người muốn chúng ta góp phần mình vào đó. Chính Chúa Giêsu đã bảo các ông hãy dọn ra cho đám dân chứ không nhờ ai khác. Như vậy, Chúa cũng bảo chúng ta phải có liên đới với những người chung quanh (nơi giáo xứ, trường học, nơi làm việc) cả tinh thần lẫn vật chất:
- Về tinh thần: có trách nhiệm về đức tin với cận nhân. Đó không phải là chuyện chỉ dành cho cha xứ, dành cho các giáo lý viên, mà là mọi người con Chúa đều mang trên mình sứ mạng phải truyền bá và làm chứng đời sống đức tin và đạo đức cho anh em.
- Về vật chất: biết chia sẻ cơm áo cho người thiếu thốn hơn mình. Đó không phải chỉ là việc những nhà từ thiện, những tổ chức cứu trợ, mà là trong khả năng chung tay đóng góp của mình.
4. Nhiều nhà chú giải còn gọi phép lạ hóa bánh ra nhiều là phép lạ của tình thương. Vì thế mà phép lạ hóa bánh ra nhiều được coi như là hình ảnh của Bí tích Thánh Thể. Vì yêu thương mà Chúa đã lấy thịt máu mình để nuôi con người. Với lương thực này, Người tin chắc mọi người sẽ được no thỏa để phát triển đến mức tối đa.
Tuy nhiên, để lương thực ấy đủ cho mọi người thuộc mọi thế hệ, Đức Giêsu cần đến sự cộng tác của con người, đặc biệt của Giáo hội, bằng cách phân phát, chia sẻ. Đám đông sẽ vẫn tiếp tục đói khát, nếu hôm ấy, các Tông đồ không phân phát bánh và cá cho người khác, vì sợ thiếu hay sợ không còn phần cho mình. Nếu vậy, cảnh đói khát ngày nay vẫn còn, là vì người ta từ chối phân phát và chia sẻ cho người khác, mà chỉ bo bo giữ lấy cho mình.
5. Truyện: Một nồi cháo đá tuyệt vời.
Một người lạ mặt đến gõ cửa nhà một bà góa nghèo để xin ăn. Nhưng bà góa nghèo này biết, trong nhà bà không có gì để ăn cả.
Người lạ mặt nói:
- Không sao, tôi có mang theo một hòn đá. Hòn đá này có thể biến nước lã thành một thứ cháo tuyệt vời. Vậy xin bà cho tôi mượn một cái nồi lớn.
Thấy người là mặt này có vẻ thành thật, bà góa kia đi lấy một cái nồi lớn, bắc lên bếp, rồi đổ nước đầy nồi. Nhóm bếp lên để nấu nồi nước xong, bà chạy qua các nhà hàng xóm báo cho họ biết về hòn đá lạ lùng của người lạ mặt đang ở nhà bà. Thế là người này truyền miệng người kia. Một lát sau, người ta kéo đầy đến nhà bà... đông quá đến nỗi không còn chỗ chứa. Trước những đôi mắt mở to vì tò mò, người lạ mắt lấy ra từ trong bị của ông một hòn đá, rồi trịnh trọng bỏ vào nồi nước lúc này đang sôi. Ông ta lấy chiếc đũa giá lớn, quậy nồi nước lên. Một lát sau, ông lấy một muỗm nhỏ, múc nước ở trong nồi, đưa lên miệng thổi cho nguội đi rồi nếm, vừa nếm ông vừa hít hà nói:
- Thật là tuyệt vời. Nhưng nếu giá có thêm một ít khoai bỏ vào nữa, thì còn tuyệt hơn nhiều
Nghe người lạ mặt nói thế, một người đàn bà có mặt lên tiếng:
- Nhà tôi có khoai.
Nói xong, bà vội chạy về nhà, đem đến một rổ khoai. Người lạ mặt cho những miếng khoai đã được gọt rửa, rồi xắt nhỏ, bỏ vào nồi cháo. Ông ngồi đó để quậy nồi cháo.
Một lát sau, ông lại lấy muỗm múc ra để nếm thử, rồi nói:
- Tuyệt lắm rồi. Nhưng giá có thêm một chút thịt thì ngon hơn nhiều.
Nghe nói thế, một bà có mặt ở đó, nhà làm thịt heo, chạy về nhà lấy ngay mấy miếng xương và mấy miếng thịt heo chưa bán hết đem tới.
Người lạ mắt bỏ những miếng xương và mấy miệng thịt kia vào nồi, rồi lại ngồi đó quậy nồi cháo một hồi lâu.
Trước những con mắt chờ đợi để xem sự lạ, người lạ mặt lại múc cháo nếm thử, rồi nói:
- Bây giờ thì chúng ta có thể thưởng thức nồi cháo này được rồi. Nhưng giá có thêm một ít hành ngò và một chút tiêu nữa thì tuyệt hảo.
Thế rồi người ta đã đem hành, ngò và tiêu đến. Sau khi đã bỏ những thứ này vào nồi cháo, người lạ mặt bảo bà góa chủ nhà:
- Hãy lấy bát múc cho mọi người ăn thử.
Trong khi mọi người đang vui vẻ nếm thử cháo đá, thì người lạ mặt đã lén đi mất. Vậy là nhờ mỗi người đóng góp một tí mà hôm đó mọi người đã có một món cháo ngon lạ lùng.
Suy Niệm 8: Chúa Giêsu ban lương thực cho cả lương dân
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống...)
Trong các quyển Phúc Âm theo Thánh Matthêu và Thánh Maccô, có tới hai phép lạ hóa bánh ra nhiều, một xảy ra ở vùng đất Do Thái, một ở vùng đất lương dân. Phép lạ “lần thứ hai” này xảy ra ở vùng đất lương dân. Có vài chi tiết đáng lưu ý:
- Không nhắc tới những con cá, chỉ nói tới bánh thôi.
- Số lượng bánh ban đầu là 7 cái.
- Số người ăn là 4 ngàn.
- Số bánh dư là 7 giỏ.
Những con số 7 và 4 là những con số tượng trưng cho lương dân: các thành phố Hy Lạp có một hội đồng quản trị gồm 7 thành viên, người ngoại thường nói “4 phương trời”, “tứ hải giai huynh đệ”…
Như thế, ý nghĩa chính của phép lạ này là: Chúa Giêsu không chỉ ban lương thực cho người Do Thái mà còn cho lương dân.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Thấy dân chúng đói khát, Chúa Giêsu động lòng thương, Ngài không muốn họ nhịn đói mà về, sợ họ bị xỉu dọc đường. Tấm lòng Chúa Giêsu là thế và mãi mãi là thế, ngày xưa là thế mà ngày nay vẫn là thế.
Lạy Chúa, con đang đói khát, con sắp xỉu dọc đường, xin nhìn đến con.
2. Phép lạ này là hình bóng của bí tích Thánh thể. Và như thế, qua phép lạ “lần thứ hai” này, Chúa Giêsu có ý muốn cho lương dân cũng được nuôi dưỡng bằng bí tích Thánh thể của Ngài. Nhưng thực tế là ngày nay, còn biết bao nhiêu người lương chưa được hưởng thứ lương thực tuyệt vời ấy!
Ý thức xã hội đã tăng nên ngày nay các Kitô hữu đã biết lưu ý đến những người nghèo đói vật chất. Nhưng chúng ta có biết xót xa khi thấy những người đói khát tinh thần, những người chưa được ăn bánh của Chúa không?
3. Chúa Giêsu làm phép bánh xong, Ngài không đích thân phân phát mà trao cho các môn đệ để các ông phân phát. Nghĩa là tuy Chúa có thể ban bánh cho lương dân, nhưng Ngài muốn chúng ta góp phần mình vào đó. Mỗi khi chúng ta xin Chúa điều gì thì đừng chờ Chúa làm tất cả mà hãy cùng làm với Chúa theo điều ta đã xin.
4. “Người cầm lấy bảy chiếc bánh, dâng lời tạ ơn và bẻ ra, trao cho các môn đệ để các ông dọn ra. Và các ông đã dọn ra cho đám đông”. (Mc 8,6)
Một lần nọ, khi dừng xe lại ở ngã tư vì đèn đỏ, tôi bất chợt thấy hai đứa trẻ nghèo ngồi bên vệ đường, bẻ đôi chiếc bánh cho nhau và cùng ăn cách ngon lành. Bỗng dưng tôi cảm thấy xúc động. Nhìn lại bản thân, tôi mới nhận ra rằng lâu này mình vẫn sống trong “tháp ngà” và bàng quan với mọi chuyện của “thiên hạ”. Chỉ tích lũy và thu vén cho bản thân hơn là cảm thông và chia xẻ với mọi người.
Tôi thực sự là kẻ nghèo và vẫn nghèo vì bao lâu nay chỉ biết thu vén và tích lũy mà không hề biết cho đi, dù chỉ là một ánh mắt trìu mến, một nụ cười cảm thông hay “bẻ đôi tấm bánh”.
Lạy Chúa, xin cho con thâm tín rằng mình chỉ thực sự hạnh phúc khi học biết “bẻ đôi tấm bánh” hay chia xẻ với mọi người anh em. (Epphata).
11/02 Chúa Giêsu và người điếc
- Viết bởi Mc 7, 31-37
Chúa Giêsu và người điếc.
Thứ Sáu tuần 5 thường niên. – Đức Mẹ Lộ Đức. Ngày Quốc Tế các bệnh nhân.
"Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được".
* Năm 1858, Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội hiện ra với chị Bécnađét Xubiru ở hang Maxabien gần Lộ Đức. Qua người thôn nữ khiêm hạ này, Đức Maria kêu gọi những người tội lỗi ăn năn sám hối.
Biến cố này đã khơi dậy lòng nhiệt thành cầu nguyện và sống bác ái, nhất là công tác phục vụ các bệnh nhân và người nghèo. Các tín hữu đến cầu khẩn Đức Mẹ đã nhận thấy Người là hình ảnh của Hội Thánh ngày mai, hình ảnh tiên báo thành Giêrusalem mới luôn mở rộng đón nhận mọi dân tộc.
Lời Chúa: Mc 7, 31-37
Khi ấy, Chúa Giêsu từ địa hạt Tyrô, qua Siđon đến gần biển Galilêa giữa miền thập tỉnh. Người ta đem đến cho Người một kẻ điếc và xin Người đặt tay trên kẻ ấy. Người đem anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh.
Ðoạn ngước mắt lên trời, Người thở dài và bảo: Ephata, nghĩa là "hãy mở ra", tức thì tai anh được sõi sàng. Chúa Giêsu liền cấm họ: đừng nói điều đó với ai cả.
Nhưng Người càng cấm, thì họ càng loan truyền mạnh hơn. Họ đầy lòng thán phục, mà rằng: "Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Nói được rõ ràng
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Khi đến thăm những trẻ em khuyết tật,
ta thấy mình dễ tiếp xúc, gần gũi các em mù,
hơn các em bị câm điếc.
Thật khó làm cho các em câm điếc hiểu được chúng ta,
và chúng ta cũng không hiểu được điều các em diễn tả.
Ðôi bên cứ như ở hai thế giới, không gặp được nhau.
Trong bài Tin Mừng hôm nay,
Ðức Giêsu chữa một người vừa ngọng vừa điếc.
Người ngọng là người gặp khó khăn khi trình bày,
khi phải diễn đạt bằng lời nói cho người khác hiểu.
Ta có cảm tưởng lưỡi anh bị một sợi dây trói buộc.
Ðức Giêsu đã đụng đến lưỡi anh,
và sợi dây đó được tháo cởi.
Giờ đây anh có thể nói được tự nhiên và rõ ràng.
Nói sao để người khác hiểu được mình,
đó là ước mơ của nhiều người trong chúng ta.
Nhưng ta lại thấy có cái gì đó trói buộc mình
khiến mình ngần ngại, sợ hãi, né tránh...
Nhiều người đã trở nên ngọng hay câm
vì đã trải qua những kinh nghiệm đau đớn:
kinh nghiệm bị châm chọc, bị khinh miệt, bị khước từ...
Bao kinh nghiệm làm con người mất tự tin và khép lại.
Có những đe dọa ám ảnh làm con người câm nín.
Epphatha, xin hãy mở miệng con
để con có thể hồn nhiên vén mở thế giới của mình,
hầu gặp được sự cảm thông và nâng đỡ.
Nếu bệnh ngọng làm chẳng ai hiểu tôi,
thì bệnh điếc làm tôi chẳng hiểu ai.
Tôi như người đang xem một phim trên truyền hình
mà máy đột nhiên mất tiếng.
Tôi chỉ thấy hành động, nhưng không hiểu được ý nghĩa.
Chẳng ai muốn mình bị điếc hay lãng tai,
nhưng trong thực tế, ta vẫn có thể mắc bệnh này,
nghĩa là mất khả năng lắng nghe người khác.
Chúng ta thường chỉ nghe điều mình muốn nghe,
hay lắm khi nghe điều người khác nói
nhưng lại hiểu dưới cái nhìn chủ quan của mình.
như thế vẫn là chưa hiểu được điều người kia muốn nói.
Nghe bằng tai, không đủ.
Cần lắng nghe bằng cả trái tim.
Chỉ trái tim yêu thương mới giúp ta hiểu đúng, hiểu đủ,
hiểu ý nghĩa đàng sau lớp vỏ ngôn từ.
Epphatha, xin giúp con ra khỏi cái tôi cứng cỏi,
ra khỏi những thành kiến, những suy nghĩ cứng nhắc,
để nghe được cái tôi của anh em.
Thế giới hôm nay thiếu cảm thông và đối thoại,
vì có nhiều người bị câm điếc về mặt tinh thần.
Bệnh này làm người ta thành những hòn đảo,
chẳng có gì để cho, chẳng có gì để nhận,
để rồi chết dần trong sự nghèo nàn của mình.
Xin cho con đừng câm điếc trước Thiên Chúa và anh em,
đồng thời giúp người khác ra khỏi sự câm điếc của họ.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin cứ dùng con theo ý Chúa,
làm chân tay cho những người què cụt,
làm đôi mắt cho ai phải đui mù,
làm lỗ tai cho những người bị điếc,
làm miệng lưỡi cho người không nói được,
làm tiếng kêu cho người chịu bất công.
Lạy Chúa, xin cứ gởi con ra đồng lúa,
để đem cơm cho người đói đang chờ,
và đem nước cho người họng đang khô,
đem thuốc thang cho người đang đau ốm,
đem áo quần cho người đang trần trụi,
đem mền đắp cho người rét đang run.
Lạy Chúa, xin cứ gởi con ra đường vắng,
thắp đèn soi cho ai bước trong đêm,
đốt lửa ấm cho những ai giá lạnh,
truyền cảm thông cho lữ khách đơn côi,
nâng phẩm giá cho kẻ đời chà đạp,
đem tự do cho những kiếp đọa đày.
Lạy Chúa, xin cứ gởi con vào thôn xóm,
đem an hòa cho những ai bất thuận,
đem thanh bình cho kẻ sống âu lo,
đem ủi an cho người đang sầu khổ,
đem niềm vui cho những ai bất hạnh,
đem vận may cho người gặp rủi ro.
Lạy Chúa, xin cứ đặt con như một sự tình cờ,
đem may mắn cho những ai gặp được,
giữa đường đời khi lỡ bước bơ vơ,
cứ cho con đừng bao giờ khiếp sợ:
giữa biển đời mang con tim núi lửa
với đôi tay êm ái của mẹ hiền.
Lạy Chúa, xin cứ dùng con làm tất cả
cho mọi người được hạnh phúc yên vui;
còn phần con xin gởi hết nơi Ngài
là Thiên Chúa, Tình Yêu và Lẽ Sống.
Ngài cho con tất cả niềm hy vọng
để tin yêu và vui sống trọn đời. Amen. (NCĐ)
Suy Niệm 2: Mở và đóng
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Con người có tương giao. Nhưng không phải tương giao nào cũng tốt. Vì thế tâm hồn cần có cánh cửa để đóng mở hợp lý. Mở ra với những tương giao tốt đẹp làm phong phú bản thân. Đóng lại với những tương giao nguy hiểm để bảo toàn tâm hồn.
Bà E-và không đóng mở hợp lý. Bà mở ra với loài rắn độc nguy hiểm. Bà lắng nghe những lời phỉnh nịnh đường mật. Bà mở sang thế giới tội lỗi. Nên thấy mình thật xấu xa. Khi mở sang thế giới ma quỉ, bà đóng lại tương giao với Thiên Chúa. Đóng lại cánh cửa ân phúc. Cắt đứt mối tình cha con. Và trốn tránh Thiên Chúa. Trốn tránh cả tha nhân bằng che phủ mình đi. Khi còn tương giao tốt đẹp với Thiên Chúa bà tự do và thành thực. Đến với Chúa và tha nhân làm phong phú và tươi đẹp nên không cần che giấu. Nhưng khi đóng chặt tâm hồn bà chìm trong tội lỗi. Thấy mình thật nghèo nàn nhơ uế. Không dám gặp gỡ. Trốn trong bụi rậm. Không còn chân thực. Nên phải che giấu (năm lẻ).
Đó cũng là trường hợp của Sa-lo-mon.Khi còn tương giao tốt đẹp với Thiên Chúa và toàn dân ông càng thêm phong phú. Nhưng khi đóng lại với Thiên Chúa ông trở nên nghèo nàn. Càng chiếm hữu thêm dục vọng và tà thần càng thấy trống rỗng, nghèo túng và khô cằn. Ông giống như manh áo rách. Ông đánh mất đất nước. Đánh mất dân chúng (năm chẵn).
Chúa Giê-su đến mở ra cánh cửa tâm hồn. E-pha-ta. Chúa đóng kín cánh cửa xấu xa. Giam kín ma quỉ và dục vọng. Để con người mở ra tiếp xúc với Thiên Chúa và tha nhân. Để lắng nghe và trao đổi. Để làm cho tâm hồn phong phú. Tương giao với Thiên Chúa là tương giao thân tình và quan tâm chăm sóc. Hãy chiêm ngắm Chúa “đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh”. Thật là thân tình. Thật là quan tâm chăm sóc. Cảnh tượng này gợi nhớ đến thuở tạo dựng Thiên Chúa nặn nên con người, thổi hơi vào lỗ mũi, ban sự sống cho con người. Hôm nay Chúa Giê-su ban sự sống mới. Sự sống trong tương giao. Con người mở ra để gặp gỡ Thiên Chúa và đồng loại. Để cho đi và lãnh nhận trong một trao đổi phong phú. Để dứt khoát với thái độ đóng kín vào bản thân đầy nghèo nàn, tù túng và tàn lụi. Để mở ra trong một đời sống mới phong phú, tự do và triển nở.
Suy Niệm 3: Hãy mở ra
Michel-Angelo là một trong những danh họa đã để lại nhiều tác phẩm bất hủ nhất, bất hủ vì giá trị nghệ thuật siêu vượt thời gian đã đành, mà còn bất hủ vì sự sống động mà ông đã mặc cho các tác phẩm của ông, điển hình là bức tượng Môsê. Người ta kể lại rằng sau khi hoàn thành bức tượng này, Michel-Angelo đứng chiêm ngắm một cách say sưa, và sự sống động của pho tượng làm ông ngây ngất đến độ ông đã cầm búa gõ vào và thốt lên: "Hãy nói đi".
Quả thật, lời nói là một trong những biểu lộ sống động nhất của sự sống. Khi chúng ta mở miệng thốt ra lời, là lúc chúng ta muốn biểu lộ sự sống, đồng thời nói lên rằng chúng ta đang sống cùng và sống với người khác. Sự hiện diện của chúng ta trong thế giới này cần phải được xác nhận bằng tiếng nói của chúng ta. Những người câm điếc một phần nào bị hạn chế trong sự liên lạc với thế giới xung quanh, sự hiện diện của họ dễ bị người khác quên lãng. Nhưng đáng thương hơn, có lẽ là những người thấp cổ bé miệng, những người mà tiếng nói không được nhìn nhận, những người bị tước đoạt quyền được lên tiếng, quyền sống của họ gần như bị khước từ.
Sống xứng với phẩm giá con người, đó là phải được có tiếng nói. Có lẽ đó cũng là điều mà Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể cũng muốn khẳng định với chúng ta qua cuộc sống và cái chết của Ngài. Phép lạ chữa người câm điếc như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay, không chỉ là một chữa lành bệnh tật thân xác, mà còn là dấu chỉ của một thực tại cao siêu hơn, đó là sự sống đích thực mà Chúa Giêsu muốn mang lại cho con người. Khi phục hồi người câm điếc trong khả năng nghe và nói, có lẽ Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng con người không chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng Lời Chúa nữa; con người chỉ có thể sống thực, sống trọn phẩm giá con người, khi nó biết mở rộng tâm hồn đón nhận và sống Lời Hằng Sống của Chúa.
Cử chỉ Chúa Giêsu trong phép lạ chữa lành người câm điếc, đã có một thời được Giáo Hội lặp lại khi cử hành Bí tích Rửa tội. Thật thế, Bí tích Rửa tội cũng là một phép lạ trong đó chúng ta được chữa lành và tái sinh trong đời sống mới. Trong phép lạ này, Chúa Giêsu cũng nói với mỗi người chúng ta: Ephrata, Hãy mở ra. Hãy mở lớn đôi tai để nghe được tiếng Ngài trong từng biến cố, từng giây phút của cuộc sống. Hãy mở rộng con tim và đôi tay để cảm thông và chia sẻ với người khác. Hãy mở miệng để cảm tạ, chúc tụng và loan báo tình thương Chúa; để nói những lời của yêu thương và hòa bình, của cảm thông và tha thứ.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận Lời Hằng Sống của Chúa, chính Ngài là lương thực mang lại sự sống đích thực cho chúng ta. Xin cho sự sống ấy tràn ngập tâm hồn chúng ta để chúng ta lớn lên trong tình yêu Chúa và không ngừng yêu thương, liên đới, chia sẻ với mọi người xung quanh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Với một chút nước miếng
Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh ta. Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. (Mc. 7, 32-33)
Các thánh sử thích những phép lạ chữa lành những người câm và điếc; ta đếm được ít nhất sáu câu chuyện được kể lại tỉ mỉ và Chúa Giêsu thì coi những phép lạ ấy như những dấu chỉ về Đấng Thiên sai đã được các ngôn sứ loan báo. Dầu sao đó cũng là những phép lạ nhỏ khi so sánh với những phép lạ về phục sinh và hóa bánh ra nhiều.
Maccô dùng lại chủ đề của Cựu ước vốn coi tật câm, điếc và sự thiếu lòng tin như có liên hệ với nhau. Ta thấy nhiều lần Chúa Giêsu than phiền về điều người ta có tai mà không nghe. Việc mở tai và tháo cởi cho lưỡi như thế không chỉ đơn thuần là việc chữa khỏi, mà còn có ý nghĩa sâu xa hơn, nếu không các thánh sử đã chẳng gán cho một tầm quan trọng như thế trong các sách Phúc âm.
Trình thuật của Maccô hình như bắt nguồn từ nghi thức đầu tiên trong nghi lễ thọ giáo trong đó có việc đặt tay lên mặt, mũi, tai. Theo quan niệm của Kinh thánh, nước miếng được coi như hơi thở đã đông đặc lại nên có đặc tính ám chỉ ơn ban của Thần Khí thực hiện ơn tái tạo trong con người. Tác giả còn giữ tiếng “Eppheta” vì trong phụng vụ phép rửa lúc buổi đầu người ta đã giữ lại lời này.
Nên nhớ rằng ông Mô-sê có tật nói ngọng và Thiên Chúa đã chữa ông khỏi tật và nói: “Giờ đây, ngươi hãy ra đi, Ta ở với môi miệng ngươi và sẽ dạy cho ngươi biết phải nói gì” (Xh. 4, 10-12). Ngôn sứ I-sai-a kể lại việc Chúa kêu gọi ông như sau: “Một trong những thiên thần Xê-ra-phim bay đến với tôi, tay cầm một cục than hồng… cham vào miệng tôi và nói: khi cục than hồng này đã chạm tới môi ngươi, thì lỗi của ngươi được cất khỏi” (Is. 6,6). Giê-rê-mi-a trỏ thành ngôn sứ khi “Thiên Chúa giơ tay ra chạm vào miệng tôi và nói: đây Ta đặt lời Ta trong miệng ngươi.”
Người ta dùng những lối nói như trên để ám chỉ rằng người ngôn sứ không thể tự mình nói Lời-Cứu-độ được, rằng ông phải loan truyền điều ông nhận được từ AI đó.
Nếu Chúa không mở tai tôi, không tháo cởi cho lưỡi tôi, tôi sẽ không biết nghe, lại càng không biết loan báo Lời Chúa. Khi tôi trưởng thành, người ta đưa tôi đi chịu phép rửa tội, lúc ấy vú bõ tôi như đưa đến một người điếc và không có thể nói được; người ta đã xin linh mục nhân danh Chúa đặt tay trên người ấy.Phép lạ chữa người điếc và câm đã được lặp lại và một ngôn sứ khác đã gia nhập Giáo hội vậy.
Suy Niệm 5: Hãy biết nhạy bén với những dấu chỉ
Ngày nay, người ta nói nhiều về sự vô cảm, dửng dưng trước nỗi khổ của con người. Họ đưa ra rất nhiều lý do để giải thích cho sự dửng dưng và vô cảm đang trở thành phổ quát trong xã hội hôm nay.
Nguyên nhân mấu chốt, căn bản có lẽ chính là thiếu sự nhạy bén!
Thật vậy, nếu người ta có một chút nhạy bén thì hẳn họ đã không hờ hững khi thấy một người phải đói lả trong khi mình lại quá dư thừa; hay thiếu trách nhiệm khi xả rác cách bừa bãi trong khi hằng đêm vẫn có những người phải thức trắng để dọn dẹp đường phố; hoặc vô tâm đến mất nhân tính khi cướp đi từng gói mỳ tôm, từng nắm gạo của những người vô gia cư, nghèo khổ, đói khát đang thoi thóp mong chờ chút lương thực cho ấm lòng...! Tệ hơn nữa, đó là nhiều khi chúng ta lại phủi tay đến lạnh lùng trước tấm lòng của những người làm việc tốt, để rồi tung ra những lời nói không thật gây nên một sự hoang mang làm cho người ta bị khổ tâm!
Tin Mừng hôm nay trình thuật việc Đức Giêsu ra tay cứu chữa cho một người điếc và nói ngọng được nghe và nói rõ ràng. Đây là niềm vui mừng của người bị bệnh và cũng là niềm vui của những người đã dẫn anh ta đến gặp Đức Giêsu.
Tuy nhiên, nếu chúng ta đọc lui lại các chương trước thì chúng ta sẽ thấy rõ giữa Đức Giêsu và những người Pharisêu luôn có sự đối kháng, và họ luôn cho rằng: Đức Giêsu lấy quyền của tướng Quỷ mà trừ Quỷ. Như vậy, họ không hề có chút nhạy bén với điều thiện, mà ngược lại, họ luôn lạnh lùng, vô cảm và vô tâm trước những nghĩa cử tốt lành của Đức Giêsu.
Lối sống và cái nhìn của những người Pharisêu khi xưa có thể cũng chính là quan điểm và lựa chọn của chúng ta! Nhiều khi vì thành kiến cá nhân, mà chúng ta không thể thấy được điều tốt nơi anh chị em mình. Lòng ích kỷ nơi bản thân nó đã làm cho lương tâm bị che khuất, sự thật bị bóp méo, vì thế, hậu quả chính là sự chia rẽ, bất công và không thể nhận ra chân lý.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn có tâm tình như đám đông dân chúng trong bài Tin Mừng hôm nay, đó là luôn biết ca ngợi và chúc tụng những điều tốt đẹp Chúa đã làm chung quanh và cho bản thân chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Đức Kitô là thầy thuốc tuyệt hảo
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Bị khuyết tật về thể lý đã là một đau khổ, nhưng bị khuyết tật về tâm linh lại càng đau khổ hơn. Chỉ có Đức Kitô là thầy thuốc tuyệt hảo sẽ chữa lành mọi khuyết tật thể xác và tâm linh.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, người bị bệnh câm điếc giao tiếp rất vất vả, khó khăn. Họ chỉ có thể nói và nghe bằng dấu hiệu bàn tay. Còn con, con cám ơn Chúa vì được diễm phúc vẫn là người lành lặn về thể xác. Nhưng lạy Chúa, rất nhiều lúc con lại câm điếc về cuộc sống thiêng liêng. Vâng, con câm điếc vì chẳng nghe Chúa nói và cũng chẳng biết nói Chúa nghe. Vì mải mê lạc thú trần gian và đi tìm vui chơi giải trí, con chẳng còn giờ đến với Chúa. Tiền bạc danh vọng chi phối con, nên con không còn thiết tha với việc cầu nguyện. Con hững hờ trước việc đọc kinh, các buổi phụng vụ, con dửng dưng với bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể.
Còn đối với những người chung quanh, nhiều lúc con cũng trở thành một kẻ câm điếc. Bên cạnh con, biết bao người đang cần đến con: cần một nụ cười, một lời thăm hỏi, hay một sự giúp đỡ nào đó. Thế mà vì ích kỷ khép kín, con đã bịt tai ngậm miệng. Con chỉ nghĩ đến con, chỉ lo cho gia đình con.
Lạy Chúa Giêsu, hôm nay con đến với Chúa, xin cứu chữa con khỏi căn bệnh trầm trọng đó. Xin Chúa mở tai con, để con lắng nghe tiếng Chúa, để con nghe được những nhu cầu của tha nhân. Xin cho con biết thương xót, biết lo lắng cho những ai ở gần con. Xin cho con biết sống yêu thương.
Xin Chúa dạy con biết lặng thinh khi không nên nói, và xin dạy con biết nói khi không được im lặng. Amen.
Ghi nhớ: “Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được”.
Suy Niệm 7: Ephata – Hãy mở ra
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một phụ nữ có người bạn bị điếc. Bà hỏi người bạn muốn gì nhân dịp sinh nhật. Người bạn trả lời: “Nhờ bạn viết thư cho Ann Landers, yêu cầu cho tôi bản kinh cầu nguyện cho người điếc”.
Và ngày sinh nhật của người điếc đó, bà Ann đã gửi tặng lời kinh như bà thỉnh nguyện. Trong đó có lời cầu như sau:
“Lạy Chúa, người ta thường có thiện cảm với kẻ mù, người què, nhưng nổi sung bực bội với kẻ điếc, nên người điếc luôn phải ẩn tránh bạn hữu và ngày càng phải sống cô đơn khép kín!”...
Lời kinh trên đây cho chúng ta thấy nỗi khổ của kẻ điếc. Chúng ta thường nghĩ rằng người mù khổ hơn kẻ điếc. Nhưng Helen Keller vừa mù vừa điếc thì cho rằng bị điếc còn khốn hơn bị mù nhiều, vì các cánh cửa cuộc đời bị khóa chặt lại: mở radio vô ích, xem truyền hình chẳng thú vị gì, không thể nói chuyện với ai, và cảm thấy cô đơn chán nản... (Câu chuyện theo Br. Thiện Mỹ, CMC).
Suy niệm
Chúa Giêsu dùng nước miếng để mở môi miệng, tai anh câm điếc, chúng ta cũng thấy cùng một cử chỉ khi Đức Giêsu chữa người mù ở Bétsaiđa trong Tin Mừng Marcô (x. Mc 8,23) và làm cho người mù từ mới sinh được sáng mắt trong Tin Mừng Gioan (x. Ga 9,6). Tác giả J.Potin nghiên cứu môi trường văn hóa trong Kinh Thánh xác nhận việc chữa lành bằng cử chỉ đụng chạm với nước miếng là: “Những cách thức chữa bệnh này rất thông dụng trong các đền thờ ngoại giáo và vẫn còn thịnh hành trong các môi trường Kitô giáo” (Theo Đức Giêsu Lịch sử đích thực, Centurion, tr.172). Ngài dùng các phương thế bình dân để tỏ bày quyền năng Thiên Chúa.
Thánh Bède le Vénérable nhìn cử chỉ của Chúa Giêsu làm cho anh chàng câm điếc đã xác tín: “Trong phép lạ này tỏ hiện hai bản tính trong Chúa Giêsu, đó là bản tính con người – Người ngước nhìn lên trời, Người xao xuyến, cầu nguyện. Tiếp theo lời quyền năng Thiên Chúa (Ephata - Hãy mở ra) và Ngài thực hiện cuộc chữa lành” (Theo Commentaire de l’évangile selon saint Marc).
Cuộc sống của chúng ta không chỉ điếc, mù, ngọng, câm về thể lý, như chúng ta thường thấy nơi các anh em khuyết tật với tất cả sự xót thương dành cho họ. Tuy nhiên, nơi con người nói chung tình trạng tự nhiên lúc vừa sinh ra của chúng ta, trải qua đường đời bao nhiêu sóng gió, nghịch cảnh, khiến sự thất vọng rơi vào cõi lòng của con người, khiến cho họ tự nhốt kín mình, một tình trạng cô đơn cách biệt. Đó là tình trạng câm, mù khi con người bị “bít kín” trước những sự việc của Thiên Chúa gợi mở và làm cho tương lai của con người. Còn nữa, những toan tính, những ích kỷ, những lười biếng trở thành những sợi dây trói buộc lưỡi ta, làm ta trở thành câm nín, ngọng nghịu.
Thật thế, cuộc sống của chúng ta, như Chúa Giêsu đã có lần mắng các tông đồ: “Các anh có mắt mà như mù, có tai mà như điếc”. Hôm nay trước Ngài, chúng ta phải xin được Đức Giêsu “mở ra” để đón nhận mầu nhiệm nước Trời.
Ephata – Hãy mở ra:
Xin hãy mở miệng con, để con ca ngợi tình thương của Ngài, để con biết hỏi đường với Chúa và với anh em hầu gặp được sự cảm thông và nâng đỡ, để con có thể hồn nhiên vén mở khám phá ra thế giới của mình, để con nhìn thấy tương lai, ơn gọi mà Chúa đã dành cho chúng con.
Xin mở mắt con để con biết nhìn kỳ công của Ngài, để con biết rằng Ngài đã thương con, mở mắt con để con biết nhìn vào tương lai với tâm tình xác tín Chúa dẫn con đi.
Xin mở tai con để con nghe lời Ngài - lời sự sống dẫn con đi trên khắp nẻo đường cuộc sống. Mở tai lắng nghe tiếng Chúa qua những giây phút thinh lặng. Chúng con thưa lên với Chúa như Samuel ngày xưa: “Lạy Chúa xin hãy phán vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe” (1Sm 3,10).
Như anh chàng câm điếc được Đức Kitô đến và chữa lành, chúng ta cũng được Ngài đang đến bên cạnh, mời gọi tin và giơ tay chạm đến mỗi người: Ephata - hãy mở ra. Ngài khai thông mọi ngăn cách, cản ngăn vốn làm cho chúng ta ù tai, đau nhức để lắng nghe học hỏi thánh ý Thiên Chúa trong cuộc đời. Ngài mở môi, miệng lưỡi để chúng ta cất lời và tìm lại đời sống cầu nguyện, gắn bó thân tình với Thiên Chúa trong hành trình tiến vào tương lai... Chính lúc đó, tương lai của chúng ta đang mở ra, dù phải đối diện với bao nghịch cảnh, bao khốn khổ.
Ý lực sống: “Bấy giờ mắt kẻ mù sẽ mở, tai người điếc sẽ thông. Bấy giờ què quặt sẽ nhảy nhót tựa hươu nai, lưỡi người câm sẽ reo hò niềm vui. Nước sẽ phun lên trong sa mạc, khe suối tuôn chảy giữa vùng đất hoang vu… đất khô cằn có mạch nước trào ra” (Is 35,6-7a).
Suy Niệm 8: Chúa chữa người câm và điếc
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Trên thế giới ngày nay còn nhiều người bị câm điếc. Những người câm thường hay bị điếc. Người bị câm điếc thường phải chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống, họ bị coi như sống bên lề xã hội nên họ cảm thấy lẻ loi cô đơn. Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô thuật lại việc Đức Giêsu chữa lành cho người bị câm điếc để đem lại đức tin và niềm vui cho anh ta. Sự chữa lành đó thuộc thể lý, nhưng qua đó, Chúa Giêsu muốn nói đến bệnh câm điếc thiêng liêng mà mọi người kẻ ít người nhiều đều mắc phải.
3. Tâm lý người bị câm điếc.
Người câm điếc gặp khó khăn khi muốn trình bầy hay diễn đạt một lời nói cho người khác hiểu ý mình, nhưng họ lại cảm thấy ngại ngùng giống như có một sợi dây vô hình trói buộc, làm cho họ không thể nói ra. Tình trạng bất hạnh ấy dễ làm người ta mặc cảm, không nói được mà cũng chẳng nghe được, tự thân đã khiến người bị tật khó hiểu thế giới bên ngoài, và thế giới bên ngoài càng khó hiểu người bị tật ấy.
Do đó, người bị tật tự nhiên cảm thấy mình lẻ loi như đứng bên lề xã hội, họ có khuynh hướng muốn rút lui và sống trong cô đơn. Vì thế, những người bị tật ấy cần những người lành mạnh có thái độ thông cảm, tôn trọng và yêu thương thành thật.
3. Chúa Giêsu chữa người câm điếc.
Hôm nay chúng ta thấy Đức Giêsu không chữa bệnh đơn giản như mọi khi, nghĩa là chỉ đặt tay hay dùng một lời nói để chữa bệnh: Ta muốn ngươi được khỏi bệnh! Đức Giêsu lại đưa anh chàng ra khỏi đám đông, xỏ ngón tay vào tai người câm điếc, bôi bọt vào lưỡi anh ta và ngước mắt lên trời rên lên: “Epphata”: Hãy mở ra.
Về cử chỉ xỏ tay vào tai, bôi nước bọt vào lưỡi là cốt để khêu gợi đức tin là điều rất cần để Chúa ban ơn, mà bệnh nhân còn thiếu. Anh này điếc nên không nghe được, chỉ còn làm thế nào cho anh ta hiểu. Xỏ tay vào tai và đụng vào lưỡi để cho anh ta hiểu rằng: đó là những kết quả anh ta mong đợi.
4. Bệnh câm điếc thiêng liêng.
Cử chỉ Chúa Giêsu trong phép lạ chữa lành người câm điếc, đã có một thời được Giáo hội lặp lại khi cử hành Bí tích Rửa tội. Thật thế, Bí tích Rửa tội cũng là một phép lạ trong đó chúng ta được chữa lành và tái sinh trong đời sống mới. Trong phép lạ này, Chúa Giêsu cũng nói với mỗi người chúng ta: Epphata, Hãy mở ra. Hãy mở lớn đôi tai để nghe được tiếng Ngài trong từng biến cố, từng giây phút của cuộc sống. Hãy mở rộng con tim và đôi tay để cảm thông và chia sẻ với người khác. Hãy mở miệng để cảm tạ, chúc tụng và loan báo tình thương Chúa, để nói những lời của yêu thương và hòa bình, của cảm thông và tha thứ.
5. Tránh sự dửng dưng trong đời sống.
Trong truyện ngắn Máu Cá (tức máu lạnh), nhà văn Nguyễn Minh Châu kể chuyện một bà mẹ trẻ mất con ở ga Hàng Cỏ, kêu la thảm thiết, nhưng chẳng ai đoái hoài. Nhà văn xin một công an trực rao trên loa, người này cũng chẳng nói chẳng rằng. Cả ngàn người trên ga Hàng Cỏ như điếc, như câm trước nỗi khổ của người mẹ quẫn trí vì mất con! Bài Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu không dửng dưng trước đau khổ của con người, Ngài đã chữa lành cho người câm điếc. Lời tán dương của đám đông gợi nhớ lại lời kết luận của sách Sáng thế về công trình sáng tạo (St 1,31). Chúa Giêsu đến để phục hồi sự tốt đẹp của công trình sáng tạo: một thế giới trong đó mọi người tin nhận và sống tư thế con thảo của Cha trên trời, nhìn vào mặt người khác và nhận ra họ là anh em, chị em mình (5 phút Lời Chúa).
6. Hãy biết lắng nghe và chia sẻ.
Chúng ta phải phá bỏ bức tường câm điếc đã làm cho chúng ta xa cách tha nhân, không còn hiểu nhau, không còn thông cảm và thương yêu nhau, coi nhau như kẻ thù. Trái lại, phải xây lại nhịp cầu thông cảm và yêu thương mà chính Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta khi chịu phép Rửa tội. Trong ngày đó, chúng ta được cởi mở khỏi xiềng xích tội lỗi và được đàm đạo với Chúa như với người bạn chí thiết.
7.Truyện: Bức tường Bá Linh.
Ngày 13/08/1961, người ta xây một bức tường chưa từng thấy trong lịch sử loài người: cao 8 mét, dài 700 cây số ngăn đôi một gia đình, một thành phố, một dân tộc, một nước Đức, không ai được qua lại với nhau, coi nhau như kẻ thù ghê gớm. Ai vượt qua bức tường đó hoặc bị bắt hoặc bị bắn chết. Mãi đến 28 năm sau, ngày 13/11/1989 bức tường đó bị phá đổ, chấm dứt hận thù chia rẽ. Gia đình, dân tộc được đoàn tụ với nhau, nước Đức được thống nhất, thế giới chấm dứt chiến tranh lạnh, trở thành đồng minh đồng chí với nhau.
Suy Niệm 9: Ép-pha-ta – hãy mở ra
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống...)
Phép lạ này có nhiều ý nghĩa biểu tượng:
- Diễn ra “giữa miền Thập Tỉnh”, nghĩa là miền đất lương dân.
- Nạn nhân là một người câm và điếc, tức là một người mất khả năng tương giao với kẻ khác: người ta nói thì anh không nghe, anh muốn nói cho người ta nghe cũng không được.
- Lúc chữa bệnh, Chúa Giêsu nói: Epphata (Hãy mở ra), tiếng nầy ngày nay được phụng vụ dùng lại trong bí tích Rửa tội. Khi đọc câu đó, Linh mục cũng đưa tay sờ vào miệng và tai người thụ tẩy.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Hoạt động cứu rỗi của Chúa Giêsu nhằm giúp con người được sống sung mãn cương vị làm người của mình, trong đó khả năng tương giao rất quan trọng.
Có những người vì một lý do nào đó nên không “nói” lên được nỗi lòng của mình, và cũng không “nghe” được nỗi lòng của người khác. Có lẽ vì không có người tế nhị biết lắng nghe họ và không khéo léo khuyến khích họ nói.
2. “Có mắt miệng không nhìn không nói; có mũi tai không ngửi không nghe” (Tv 115,5-6). Lời Thánh Vịnh này ám chỉ dân ngoại và những tượng thần của họ, không thấy những kỳ công của Thiên Chúa và không biết ngợi khen Ngài. Nhưng cũng đúng cho tôi nữa, vì nhiều khi tôi cũng như câm điếc đối với Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy phán với miệng và tai con: Epphata.
3. Căn bệnh của anh này làm tôi nghĩ đến căn bệnh của rất nhiều người, nhất là những người sống trong xã hội ích kỷ ngày nay, đó là căn bệnh “đóng cửa”, đóng mắt, đóng tai, đóng tay, đóng lòng. Căn bệnh khiến người ta sống bên cạnh nhau mà không hề để ý tới nhau và quan tâm cho nhau.
4. “Chúa Giêsu ngước mắt lên trời và nói: “Epphata”, nghĩa là hãy mở ra. Lập tức, tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại” (Mc 7,34)
Khi sắm một bộ đồ mới, tôi không biết rằng có nhiều người đang mong bộ đồ cũ của tôi. Khi ngồi uống nước ngoài quán, tôi chẳng ngờ rằng có những người đang chờ tôi đứng lên để họ vét những giọt cuối cùng. Khi đổ thức ăn thừa vào thùng rác, tôi không biết là ngay lúc đó có biết bao con người đang chết dần vì đói.
Lạy Cha, xin hãy mở mắt con để con nhìn thấy những người khốn cùng trong xã hội. Xin hãy mở tay con để con đón nhận họ và nắm lấy tay mọi người (Epphata).
10/02 Chúa Giêsu và bà mẹ ngoại giáo
- Viết bởi Mc 7, 24-30
Chúa Giêsu và bà mẹ ngoại giáo.
Thứ Năm tuần 5 thường niên. – Thánh Côláttica, trinh nữ. Lễ nhớ.
"Những con chó ở dưới gầm bàn cũng ăn những mụn bánh rơi của con cái"
* Thánh nữ là em của thánh Biển Đức, nhà lập luật cho các đan sĩ Tây phương. Thánh nữ chào đời ở Nuốc-xi-a, nước Ý, khoảng năm 480. Thánh nữ sống đời thánh hiến ở chân núi Cátxinô, nơi thánh Biển Đức đã lập ra một đan viện nổi tiếng.
Thánh nữ qua đời không bao lâu trước anh người (+ năm 547). Chính vì thế, các nữ đan sĩ Biển Đức tôn kính thánh nữ Côláttica như người mẹ tinh thần của mình.
Lời Chúa: Mc 7, 24-30
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt Tyrô và Siđon. Vào một nhà kia, Người không muốn ai biết mình, nhưng người không thể ẩn náu được.
Vì ngay lúc đó, một bà kia có đứa con gái bị thần ô uế ám, bà nghe nói về Người liền đến phục lạy Người. Bà đó là người dân ngoại, dòng giống Syrô-Phênixi và bà xin Người trừ quỷ ra khỏi con bà.
Người nói: "Hãy để con cái ăn no trước đã, vì không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó". Nhưng bà trả lời và thưa Người rằng: "Thưa Thầy, đúng thế, nhưng các chó con cũng được ăn những mụn rơi dưới bàn ăn của con cái".
Người liền nói với bà: "Vì lời bà nói đó, bà hãy về; quỷ đã ra khỏi con gái bà rồi". Khi bà về đến nhà, thì thấy cô gái nhỏ nằm trên giường và quỷ đã xuất rồi.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Những mảnh vụn
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Để có được cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu với người phụ nữ,
hai bên đã phải vượt qua nhiều đường ranh, nhiều rào cản.
Đức Giêsu đã bỏ đất Ítraen để đến vùng Tia, vùng đất ô uế của dân ngoại.
Người đàn bà dân ngoại đã vượt qua sự ngăn cách với người đàn ông Do thái.
Qua câu đáp của bà, bà cũng vượt qua được sự lụy phục thường gặp nơi phụ nữ
sống trong một nền văn hóa do đàn ông làm chủ ở thế kỷ đầu.
Trong Tin Mừng Máccô, đây là phép lạ duy nhất nhắm đến dân ngoại.
Rõ ràng Đức Giêsu không có ý làm phép lạ trừ quỷ này,
Chúng ta ngạc nhiên khi thấy Đức Giêsu từ chối giúp bà ta, rồi lại đổi ý.
Nhiều người không tin đây là cách cư xử vốn có của Đức Giêsu
trước nỗi đau của trái tim người mẹ có đứa con bị quỷ ám.
Tuy nhiên, nên nhớ rằng sứ vụ của ngài không bao gồm dân ngoại.
Ngài chỉ được sai đến với dân Ítraen,
để rồi chính môn đệ ngài sẽ chịu trách nhiệm đến với dân ngoại.
Hãy lắng nghe cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và người phụ nữ.
Bà nài xin ngài đuổi quỷ ra khỏi con gái của bà,
nhưng bà đã phải nghe một câu trả lời rất khó chịu và có thể gây tổn thương.
“Hãy để con cái ăn trước,
vì không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó con” (c. 27).
Đức Giêsu ví dân Do thái với những đứa con trong nhà,
còn dân ngoại là mẹ con bà, được ví với những chó con.
Con cái dĩ nhiên là có quyền ưu tiên rồi, được ăn bánh trước.
Bánh của con cái đương nhiên không nên ném xuống đất cho chó con.
Với người khác, câu trả lời gây sốc của Đức Giêsu có thể khép lại mọi hy vọng.
Nhưng đối với bà, chính câu này lại mở ra niềm hy vọng mới.
“Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn
cũng được ăn những mảnh vụn của lũ trẻ nhỏ” (c. 28).
Bà khiêm tốn nhận mình là chó con,
được nuôi trong nhà, nằm dưới gầm bàn lúc mọi người ăn uống,
nên thỉnh thoảng cũng được đám con cái cho ăn những mảnh bánh vụn.
Như thế những đứa con cũng chẳng giữ riêng tấm bánh cho mình.
Chúng cũng biết chia sẻ, thậm chí cho mấy chú chó con.
Hôm nay bà chẳng xin ngài cho tấm bánh trên bàn dành cho con cái,
Bà chỉ xin ngài cho vụn bánh dành cho chó con nằm dưới bàn.
Đức Giêsu hẳn hết sức bất ngờ với câu trả lời này,
vừa tin tưởng, hy vọng, vừa khiêm tốn, khôn ngoan.
Chính câu trả lời này đã chinh phục và làm cho Đức Giêsu đổi ý.
“Vì bà nói thế, bà cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi” (c. 29).
Phép lạ này rất “lạ” vì Đức Giêsu đã đuổi quỷ từ xa,
và ngài cũng chẳng đưa ra một lời uy quyền nào để đuổi quỷ.
Khi người mẹ này về nhà, thì thấy con gái mình đã được bình an.
Chúng ta học được gì nơi cách cư xử của người phụ nữ?
Chúng ta học được gì nơi thái độ của Đức Giêsu?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
có những ngày con cảm thấy
đời sống thật nặng nề;
có những lúc con muốn buông trôi,
để mặc cho dòng đời đưa đẩy;
có những khoảng thời gian dài,
con như mảnh đất khô khan cằn cỗi.
Xin cho con ánh sáng của Chúa
để con biết lối mà đi.
Xin cho con tấm bánh của Chúa
để con có sức mà dấn bước.
Xin cho con Lời của Chúa
để con vững một niềm tin.
Xin cho con sự sống của Chúa
để con lấy lại niềm hăng say và sự tươi tắn,
niềm vui và sáng tạo.
Lạy Chúa Giêsu,
con thấy mình cần Chúa
trong mỗi giây phút của cuộc đời.
Ước gì ai gặp con
cũng gặp được sự hiện diện của Chúa. Amen.
Suy Niệm 2: An và loạn
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thiên Chúa tạo dựng tất cả vì con người và cho con người. Đặt mọi vật dưới chân con người. Cho con người đặt tên cho mọi sinh vật. Theo quan niệm Do thái, đặt tên trên ai là có quyền trên người đó. Thấy con người vẫn chưa vui, Thiên Chúa tạo dựng nên phụ nữ để làm bạn ngang hàng với người nam. Thuở ban sơ mọi thứ đều đẹp đẽ, ổn định trong trật tự: Thiên Chúa – con người – vạn vật. Mọi loài thanh thản an vui vì sống trong tự do, trong Thiên Chúa. Nam nữ không là đối tượng để chiếm đoạt hay thống trị. Nhìn nhau với tâm hồn thiên thần. Nên không hề xấu hổ (năm lẻ).
Nhưng ma quỉ đến phá vỡ tình trạng bình an trong tự do. Trật tự bị đảo lộn. Con người không còn vâng phục Thiên Chúa. Vạn vật nổi loạn muốn thống trị nhau. Nam nữ trở thành đối tượng chiếm đoạt. Nhìn nhau với ánh mắt thèm muốn. Vì thế trở thành ngẫu tượng. Sa-lo-mon khôn ngoan là thế mà cũng rơi vào lầm lạc khi để cho dục vọng chi phối. Để cho phụ nữ điều khiển. Vì thế rơi vào tôn thờ ngẫu tượng. Vì thế mất hết ơn nghĩa với Thiên Chúa. Mất hết quyền trên vạn vật. Đang là con cái trong nhà được ngồi trên bàn ăn bỗng nhiên trở thành chó con phải ngồi dưới gầm bàn. Đang tự do trở thành nô lệ. Đang giầu có bỗng mất tất cả (năm chẵn).
Muốn chuộc lại phải có đức tin mạnh mẽ. Như người phụ nữ Ca-na-an. Vượt qua hết mọi chướng ngại. Từ bỏ tất cả để trở về với Chúa. Tin nhận Chúa trên hết. Tất cả chỉ là phụ thuộc. Kể cả bản thân cũng chỉ là chó con dưới gầm bàn. Chúa là tất cả. Chúa là tuyệt đối. Nhờ đó thân phận được phục hồi. Từ chó con dưới gầm bàn trở thành con cái trong nhà. Được đồng bàn với Thiên Chúa. Được hưởng mọi ơn lành Chúa ban. Khi trật tự được vãn hồi, bình an trở lại. Ma quỉ phải ra đi. Bệnh tật chấm dứt. Và Thiên Chúa ngự trị.
Suy Niệm 3: Ơn cứu độ đại đồng
Trong nhật ký của mình, Mahatma Gandhi cho biết khi còn theo học ở Nam Phi, ông rất say mê đọc Kinh Thánh, nhất là Bài Giảng Trên Núi, đến nỗi ông xác tín rằng Kitô giáo chính là câu trả lời cho nạn kỳ thị giai cấp đã từng hành hạ dân Ấn suốt bao thế kỷ, thậm chí ông còn muốn trở thành Kitô hữu nữa. Thế nhưng, một ngày nọ, khi đến nhà thờ dự lễ, ông bị người giữ cửa chặn lại và bảo ông phải đi lễ ở nhà thờ dành cho người da đen, kể từ đó, ông không bao giờ quay trở lại nhà thờ nữa.
Chúa Giêsu không bao giờ tỏ ra kỳ thị con người như thế. Tin Mừng hôm nay là một bằng chứng. Cũng như các tác giả Tin Mừng khác, thánh sử Marcô cho thấy phần lớn hoạt động và thời giờ của Chúa Giêsu được dành cho người Do thái; chỉ sau khi sống lại, Ngài mới chính thức sai các Tông đồ truyền giảng Tin Mừng cho mọi người, bất luận là Do thái hay không Do thái. Thật ra ngay những năm rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã hé mở cho thấy chiều kích phổ quát của giáo lý và của ơn cứu độ mà Ngài mang lại. Ngoài những giáo huấn về tình huynh đệ đại đồng và thái độ không bài ngoại của Chúa Giêsu, Tin Mừng còn thuật lại các chuyến đi của Ngài tới vùng đất ngoại giáo, tại đây, Ngài cũng đã làm nhiều phép lạ, như trừ quỷ cho một thanh niên ở Gêrasa, cho một người câm ở miền Thập tỉnh nói được, và lần này trừ quỷ cho con gái của một phụ nữ Hy lạp gốc Phênixi.
Dựa vào những yếu tố trên, câu nói của Chúa Giêsu: "Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con" không thể giải thích đó là dấu biểu thi sự khinh miệt của Ngài đối với người khác đạo và khác tổ quốc; đúng hơn, Chúa muốn mọi người đừng quên ưu thế của người Do thái trong việc thừa hưởng ơn cứu độ, bởi vì Thiên Chúa đã chọn cha ông họ và muốn tỏ lòng trung thành với cha ông họ. Người Do thái được ưu tiên, chứ không phải là những người duy nhất được hưởng ơn cứu độ; vì thế, dù quan tâm săn sóc người Do thái nhiều đến đâu, Chúa Giêsu cũng không để trở thành vật sở hữu độc quyền của họ, Ngài vẫn có tự do bày tỏ tình thương đối với người khác.
Chúng ta chấp nhận sự tự do của Thiên Chúa trong việc ban phát ơn huệ và tình thương của Ngài. Dù ý thức mình chẳng là gì, chúng ta hãy tin rằng mình luôn là đối tượng yêu thương của Thiên Chúa. Với một Ðấng vô biên như Thiên Chúa, thì bất cứ hành vi nào của Ngài cũng có chiều kích vô hạn và quà tặng của Ngài cũng tràn trề sung mãn. Xin cho chúng ta cảm nhận được rằng Chúa đang yêu thương chúng ta và như thế là đủ cho chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Thế giới tha nhân
Thật vậy, một người đàn bà có đứa con gái nhỏ bị quỷ ám, vừa nghe nói đến Người, liền vào sấp mình dưới chân Người. Bà ta là người Hy-lạp, gốc Phê-ni-xi thuộc xứ Xy-ri-a. bà xin Người trừ quỷ cho con gái bà. (Mc. 7, 25-26)
Để hiểu rõ câu chuyện gặp gỡ này, đừng quên rằng Chúa Giêsu là người Do thái. Theo tâm thức của người Do thái, chuyện gặp gỡ một người ngoại là điều không ổn, cũng giống như ta gặp một người nào đó không cùng chủng tộc với ta vậy.
Nhưng ở đây lòng khiêm tốn tháo gỡ tất cả, bởi lẽ lòng khiêm tốn là cánh cửa mở rộng. Trước tấm lòng cởi mở của người phụ nữ này, tâm hồn của Chúa Giêsu cũng mở rộng ra. Bà ta không phải là thành phần của dân giao ước, nhưng lòng tin của bà tiếp nối lòng tin của Áp-ra-ham. Bà ta đã đi vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa, đã làm thay đổi hoàn cảnh lịch sử lúc đó mà trở thành con cái của Chúa Cha. Nhờ Chúa Giêsu, Chúa Cha nhậm lời bà cầu xin. Thiên Chúa mở đường cho việc rao giảng tin mừng sau này.
Và để loan báo tin mừng này, chỉ cần yêu thương, trung thực cho đến cùng. Chỉ cần sống say mê nhiệt tình: khi người ta thực tâm thực tình để chỉ lo cho một chuyện, mọi chuyện khác đều thấy là tương đối thôi.
Qua bai Phúc âm hôm nay, Chúa muốn mở mắt mở lòng ta để hướng về thế giới những người ngoại. Họ là những con người biết thu lượm những mảnh vụn từ bàn ăn khi họ đòi hỏi ta phải tôn trọng sự thật, công bằng, khi họ lo lắng cho việc phục vụ những người nghèo, khi họ muốn dỡ đi những hàng rào ngăn cách do những đặc quyền đặc ân của ta đã dựng lên.
Cuộc sống của ta có loan báo điều mới lạ này không, một điều làm cho ta có được trái tim nhân lành, thực nhân lành, theo đúng nghĩa của lời “không có ai nhân lành cả trừ một mình Thiên Chúa”?
Suy Niệm 5: Niềm tin cần được tôi luyện qua thử thách
Trong đời sống đức tin của mỗi người, nhiều khi chúng ta phải mần mò đi trong đêm tối! Có những lúc tưởng chừng như Chúa đang bỏ rơi chúng ta! Có khi cuộc đời chúng ta đi vào ngõ cụt với biết bao thách đố mà chúng ta khó hòng vượt qua.
Tuy nhiên, khi chúng ta không còn biết cậy dựa vào ai, thì lúc đó Chúa có mặt và giải thoát chúng ta cách nhiệm mầu. Điều quan trọng là chúng ta có dám lỳ trong đức tin hay không mà thôi.
Tin Mừng hôm nay thuật lại gương sáng của người đàn bà dân ngoại. Một mẫu gương về niềm tin tuyệt đối vào Đức Giêsu. Bà thừa biết mình là người dân ngoại, nên không thể có lý do gì để xin Đức Giêsu chữa lành cho con gái bà. Thế nhưng, niềm tin và sự hy vọng đã làm cho bà vượt qua hàng rào ngăn cách đó, nên bà đã mạnh dạn đến xin Đức Giêsu chữa lành cho con gái bà.
Quả thật, Đức Giêsu đã không chữa ngay, mà ngược lại, Ngài đã nói một câu rất nặng để thử thách đức tin của bà, Ngài nói: “Phải để con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà mà nén cho lũ chó con” (Mc 7,27). Người phụ nữ này đã không nản lòng, nhưng qua câu nói đó, bà lại càng khiêm tốn và đức tin mỗi lúc lại mãnh liệt hơn, bà thưa với Đức Giêsu: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con”(Mc 7, 28).
Chính đức tin mãnh liệt như thế, nên phép lạ đã xảy ra. Đức Giêsu đã chạnh lòng thương và cứu thoát con gái bà khỏi Quỷ ám.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy kiên trì, trung thành và vững tin nơi Chúa. Bởi lẽ đức tin chỉ có thể trưởng thành khi chúng ta trải qua đau khổ và được tôi luyện bằng nghịch cảnh. Nhờ thế, chúng ta mới có kinh nghiệm về sự hiện diện của Thiên Chúa, đồng thời xứng đáng trở nên chứng nhân về niềm hy vọng cho con người hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con, để chúng con vững tin vào quyền năng của Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Kiên nhẫn - khiêm nhường trong đức tin vững mạnh
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một người vô thần rất mê leo núi. Ngày kia trượt chân té ngã lăn từ đỉnh núi xuống. Nhưng may thay ông bám được một cành cây nằm chơ vơ giữa đỉnh cao và vực thẳm. Giữa lúc chỉ còn biết chờ chết, một ý nghĩ chợt đến với ông: Tại sao không gọi Chúa đến cứu giúp. Thế là ông lấy hết sức lực, và la lớn: “Lạy Chúa”.
Tuy nhiên bốn bề chỉ có thinh lặng và ông chỉ nghe được tiếng dội của lời kêu van. Một lần nữa, người vô thần lại kêu xin tha thiết hơn: “Lạy Chúa, nếu quả thật Chúa hiện hữu thì xin hãy cứu con. Con hứa sẽ tin Chúa và dạy cho những người khác cũng tin Chúa”. Sau một hồi thinh lặng, bỗng người vô thần nghe một tiếng vang dậy cả vực thẳm và núi cao: “Gặp hoạn nạn thì ai cũng cầu xin như thế”. “Không, lạy Chúa, nghìn lần không. Con không giống như những người khác. Chúa không thấy sao, con đã bắt đầu tin từ khi nghe tiếng Chúa phán. Nào bây giờ xin Chúa hãy cứu con đi, và con sẽ cao rao danh Chúa cho đến tận cùng trái đất”. Tiếng ấy trả lời: “Được lắm, Ta sẽ cứu ngươi. Vậy nếu ngươi tin thì hãy buông tay ra”. Người vô thần thất vọng thốt lên: “Buông tay ra ư, bộ Chúa tưởng tôi điên sao!” (Trích “Món quà giáng sinh”).
Suy niệm
Người phụ nữ đau khổ vì hằng ngày chứng kiến cảnh quỷ dữ hành hạ con gái bà. Bà đã tìm thầy chạy thuốc khắp nơi rồi nhưng con bà vẫn không khỏi...
Chúa Giêsu đang ở vùng đất Tyrô và Siđon, rất xa quê hương bà. Thế nhưng bà đã tìm đến gặp Ngài. Tuy nhiên có sự ngăn cách giữa bà và Chúa Giêsu vì Người là người Do Thái mà người Do Thái lại không tiếp xúc với dân ngoại như bà, dòng giống Syrôphênixi. Tuy nhiên bà đến và phục lạy Ngài. Phục lạy là thái độ chỉ dành cho thần minh, như vậy có nghĩa là bà đã tôn vinh Ngài là vị thần.
Chúa Giêsu hiền lành, luôn chạnh lòng trước nỗi khổ của người dân (x. Mc 6,30-34) và sẵn sàng đáp trả… Thế nhưng Ngài có vẻ dửng dưng, thoái thác trước nỗi khổ tâm của người đàn bà đau khổ này. Thái độ của Chúa Giêsu đáp lại làm cho chúng ta bị “sốc”: “Hãy để con cái ăn no trước đã, vì không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó” (Mc 7,27). Nhưng bà càng tỏ ra cương quyết và đặt trọn niềm phó thác vào tình thương cùng với quyền năng của Ðức Giêsu: “Thưa Thầy, đúng thế, nhưng các chó con cũng được ăn những mụn rơi dưới bàn ăn của con cái” (Mc 7,28).
Với cách đối xử có vẻ phân biệt chủng tộc, giai cấp… và dường như dửng dưng khinh miệt, nhưng trước niềm tin mạnh của bà, Ngài vẫn ban cho bà điều mà bà kêu xin. Ngài muốn dạy cho bà và qua đó cũng dạy cho chúng ta sự kiên nhẫn và khiêm nhường trong một đức tin vững mạnh trải qua gian nan thử thách.
Xin Chúa cho chúng ta một đức tin kiên trung, đức cậy trông vững vàng, để không khó khăn thử thách nào có thể tách chúng ta ra khỏi đức tin vào Ngài.
Ý lực sống: “Ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu độ” (Mt 24,13).
Suy Niệm 7: Chúa trừ quỉ ở miền Tyrô
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Bài Tin Mừng hôm nay nói về việc Chúa Giêsu chữa trừ quỉ cho người đàn bà xứ Phênixi. Qua phép lạ này chúng ta thấy người đàn bà ngoại giáo này được Chúa chữa bệnh cho con bà nhờ bà có những đặc tính này:
- Bà là một người ngoại, nên lẽ ra theo kế hoạch hành động của Chúa Giêsu, bà không được hưởng những ơn phúc của Chúa Giêsu, bởi vì theo kế hoạch ấy, Ngài đến ban ơn cho người Do thái trước. Vì thế, ban đầu Ngài đã từ chối bằng những lời rất nặng “Phải để cho con cái ăn no trước đã. Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con”.
- Nhưng lòng tin kiên trì cùng với lòng khiêm nhường của bà đã biến bà thành “con cái trong nhà” nên Chúa Giêsu đã ban ơn theo lời bà xin.
2. Người đàn bà dân ngoại trong câu chuyện hôm nay có nhiều đức tính đáng chúng ta chú ý và bắt chước:
- Chúng ta thấy bà là người rất khiêm tốn, dám chịu nhận mình là “chó con: “Thưa Ngài đúng thế, nhưng lũ chó con lại được ăn những mảnh vụn trên bàn rơi xuống”.
- Bà có một đức tin kiên trì: dù bị khước từ ngay từ lúc đầu bằng những lời rất nặng nề nhưng bà vẫn không nản lòng. Lòng tin của bà không hề lay chuyển.
- Bà có một lòng phó thác mạnh mẽ nơi Chúa: Chúa Giêsu bảo bà “Cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi” Mc 7,29). Dù chưa thấy hiệu quả trước mắt, nhưng vì tin lời Chúa nên bà ra về trong tin tưởng.
3. Trước sự cầu xin của người đàn bà ngoại giáo (không thuộc Do thái giáo), lời trả lời đầu tiên của Chúa Giêsu nghe có vẻ nặng nề và miệt thị, nhưng cũng qua đó cho thấy niềm tin của người đàn bà rất mạnh vượt lên trên mọi ngăn cách tôn giáo, sự kỳ thị và có thể cả sự khinh khi.
“Phải để cho con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con”. Câu nói này có vẻ mang dáng dấp của một sự khinh miệt và xúc phạm danh dự, nhưng thật không ngờ người đàn bà không nao núng theo tính tự ái mà còn thân thưa: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con”. Trước đức tin cao độ như thế, Chúa Giêsu đành chào thua mà ban cho bà điều bà xin. Bà tin lòng thương xót của Chúa bao la, chắc chắn cũng vượt ra bên ngoài dân Do thái, nên bà có thể hưởng được những mảnh vụn của lòng thương xót của Thiên Chúa. Thiên Chúa thương yêu mọi người, muốn cứu rỗi mọi người. Lòng tin khiêm tốn bền vững của con người càng chiếm được tình yêu và ơn cứu rỗi của Chúa.
4. Tại sao một số người có đức tin mạnh mẽ đang khi số khác đức tin lại yếu kém? Tại sao một số người thấy đức tin là điều dễ dàng đang khi số khác lại thấy đó là điều khó khăn? Người đàn bà ngoại giáo này biết mình là người ngoại, không hy vọng được Chúa đoái nghe vì người Do thái không ưa người Canaan, nếu không muốn nói là ghét và khinh bỉ họ. Thái độ lãnh đạm khó chịu và muốn xua đuổi của các Tông đồ đối với bà? Nhưng bà tin rằng thế nào Chúa cũng phải thương bà. Bà có lòng tin như một người ngoại khác là viên bách quan kia: “Thưa Thầy, tôi chẳng đáng Thầy vào nhà tôi, song xin Thầy chỉ phán một lời”(Mt 8,8). Nghe vậy, Chúa Giêsu bỡ ngỡ nói với các kẻ theo Ngài: “Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta chưa hề gặp được lòng tin như thế nơi một người nào trong Israel’(Mt 8,10).
5. Đọc Tin Mừng chúng ta thấy, Chúa Giêsu là người không thích phô trương, cũng không thích người ta theo Ngài vì những phép lạ. Ngài chỉ muốn âm thầm kín đáo gieo đức tin vào trong lòng người ta, và khi người ta đã tin thì người ta sẽ theo Ngài cách trung thành hơn. “Ngài vào nhà nọ, không muốn cho ai biết (Mc 7,24).
Chúa sống như vậy, còn chúng ta thì sao? Hãy tập cho mình biết sống âm thầm như Chúa.
Newton, một nhà vật lý học và thiên nhiên học trứ danh, sau những thành công hiển hách của sự tìm tòi, ông đã viết: “Không biết thế giới nghĩ về công việc của tôi như thế nào, nhưng tôi, trong tất cả các sự tìm tòi của tôi về khoa học, tôi chỉ như một đứa trẻ con chơi ngoài bãi biển. Có lẽ, đôi khi cũng đã tìm được những hạt sỏi tròn hơn, những vỏ hến đẹp hơn những cái bạn tôi tìm, nhưng biển mênh mông của chân lý, dưới con mắt tôi vẫn còn mầu nhiệm quá”.
Văn sĩ Walter Scott người Anh đã nói một cách rất nhũn nhặn, sau bao nhiêu năm làm việc chuyên cần: “Trong đời sống của tôi, cái dốt đã ngăn tôi lại và dày vò tôi. Người ta càng biết nhiều bao nhiêu thì lại phải khiêm nhường bấy nhiêu, người ta càng học nhiều thì lại càng thấy mình còn dốt”.
Truyện: Giữ vững lòng tin sắt đá.
Một sĩ quan quân đội Nga đến gặp một vị linh mục Hungari và xin được nói chuyện riêng với ông. Viên sĩ quan là một chàng trai trẻ, tướng khí hung hãn và dương dương tự đắc trong tư thế của kẻ chiến thắng.
Khi cửa nhà khách được đóng lại rồi, viên sĩ quan chỉ cây thánh giá treo trên tường và nói với vị linh mục rằng: “Ông biết không, cái đó là sự dối trá do các linh mục bầy ra để làm mê hoặc đám dân nghèo để giúp những người giầu dễ dàng kềm hãm họ trong tình trạng ngu dốt. Bây giờ chỉ có tôi và ông, ông hãy thú nhận với tôi rằng: ông không bao giờ tin rằng Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa”.
Vị linh mục cười và trả lời rằng: “Ông bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật”.
“Ông đừng có lừa dối tôi, cũng đừng diễu cợt tôi”, vị sĩ quan hét lên. Anh ta rút ra một khẩu súng lục, chĩa vào đầu linh mục và hăm dọa: “Nếu ông không nhận rằng đó chỉ là một sự dối trá, thì tôi sẽ nổ súng”.
Vị linh mục điềm tĩnh trả lời: “Tôi không thể nói như thế, Đức Giêsu thực sự là Con Thiên Chúa”.
Viên sĩ quan vứt khẩu súng xuông sàn và chạy đến ôm vị linh mục. Anh ta vừa khóc vừa nói: “Đúng thế, đúng thế. Tôi cũng tin như vậy, nhưng tôi không thể tin rằng có những người dám chết vì Đức tin cho đến khi chính tôi khám phá ra điều này. Tôi xin cám ơn ngài. Ngài đã củng cố lòng tin của tôi. Bây giờ chính tôi cũng có thể chết cho Đức Kitô. Ngài đã chứng minh cho tôi rằng: Điều này có thể làm được”.
Suy Niệm 8: Đức tin của bà mẹ người Phênixi
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu chữa con gái một phụ nữ Phênixi
- Bà là một người ngoại, nên lẽ ra theo kế hoạch hành động của Chúa Giêsu, bà không được hưởng những ơn phúc của Chúa Giêsu, bởi vì theo kế hoạch ấy, Ngài đến ban ơn cho người do thái trước. Vì thế, ban đầu Ngài đã từ chối bà bằng những lời rất nặng "Phải để cho con cái ăn no trước đã. Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con".
- Nhưng lòng tin kiên trì của bà đã biến bà thành "con cái trong nhà" nên Chúa Giêsu đã ban ơn theo lòng bà xin.
B.... nẩy mầm.
1. "Ngài vào nhà nọ, không muốn cho ai biết" Chúa Giêsu không thích phô trương, cũng không thích người ta theo Ngài vì những phép lạ. Ngài muốn âm thầm kín đáo gieo đức tin vào lòng người ta, và khi người ta đã tin thì người ta sẽ theo Ngài cách trung thành.
Nhưng hình như môn đệ Chúa ngày nay không theo cùng một đường lối đó thích phô trương những sự "vĩ đại" của Giáo Hội, của nhà thờ, của tổ chức Giáo Hội, mà quên đi điều cốt yếu hơn là gieo niềm tin vào lòng người.
2. Đức tin của người phụ nữ Phênixi này là nguyên do khiến bà được ơn Chúa. Ta hãy nhìn lại đức tin của bà
- một đức tin khiêm tốn chịu nhận làm "chó con"
- một đức tin kiên trì dù bị từ khước ban đầu nhưng vẫn không nản lòng.
- một đức tin phó thác Chúa Giêsu bảo bà "cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi". Dù chưa thấy hiệu quả nhưng vì tin Lời Chúa, bà ra về.
3. Chính nhờ Chúa Giêsu đã thử thách đức tin của bà này bằng những lời rất nặng, nên Ngài mới biết được đức tin của bà rất mạnh.
Cũng vậy, đức tin của ta có được thử thách thì mới chứng tỏ là một đức tin thật.
Xin cho con kiên trì chịu đựng những thử thách về đức tin.
3. Một người da trắng và một người thổ dân cùng nghe giảng. Người thổ dân cảm động và xin nhập đạo ngay. Còn người da trắng cũng cảm động nhưng cả năm sau mới nhập đạo. Trong một buổi phụng vụ, người da trắng hỏi
- Tôi phải mất một thời gian mới có lòng tin, sao anh có lòng tin sớm thế? Người thổ dân đáp
- Này bạn, để tôi nói cho bạn nghe. Có vị hoàng tử hứa cho chúng ta chiếc áo mới. Bạn nhìn vào áo mình, tự nhủ áo mình còn đẹp, để mai sau hãy lấy. Còn tôi, tôi nhìn vào tấm chăn cũ kĩ của mình, thấy nó chẳng ra gì, nên vội vàng đến nhận áo mới. Bạn ạ, bạn đã có chút khôn ngoan, nên bạn còn muốn dùng chúng. Còn tôi, tôi không có, nên tôi mau mắn đón nhận sự khôn ngoan của Chúa Giêsu. (Góp nhặt)
4. - Phải để con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con.
- Thưa Ngài đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con.
- Vì bà đã nói thế, nên bà cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi (Mc 7,27-29)
Trong cuộc đối thoại thú vị ấy, người phụ nữ ngoại đạo đã dành phần thắng con gái chị được khỏi bệnh; và Chúa Giêsu cũng được lợi giúp một người thoát khỏi cảnh khốn cùng.
Đúng là một cuộc đối thoại thành công mà bí quyết thuộc về cả hai phía chị phụ nữ khiêm tốn với ý chí và đức tin mạnh mẽ; Chúa Giêsu thì hiền hòa, linh hoạt trong cách làm việc.
Tôi chợt nghĩ đến những cuộc đối thoại hôm nay giữa các vị nguyên thủ quốc gia, giữa tôi với Chúa, giữa tôi với anh em…
Lạy Chúa, xin cho loài người chúng con biết đối thoại để thế giới này hạnh phúc hơn. (Epphata)
Suy Niệm 9: Bà mẹ ngoại giáo vững tin
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
1. Chúa Giêsu chữa bệnh cho người con gái của một phụ nữ Phênisi:
Đọc trong Tin Mừng chúng ta thấy, Chúa Giêsu là người không thích phô trương, cũng không thích người ta theo Ngài vì những phép lạ. Ngài chỉ muốn âm thầm kín đáo gieo đức tin vào trong lòng người ta, và khi người ta đã tin thì người ta sẽ theo Ngài cách trung thành hơn. “Ngài vào nhà nọ, không muốn cho ai biết” (Mc 7,24).
Chúa sống như vậy. Còn chúng ta thì sao?
Hãy tập cho mình biết sống âm thầm như Chúa.
Newton, một nhà vật lý học và thiên văn học trứ danh, sau những thành công hiển hách của sự tìm tòi, ông đã viết:
- Không biết thế giới nghĩ về công việc của tôi như thế nào, nhưng tôi, trong tất cả các sự tìm tòi của tôi về khoa học, tôi chỉ như một đứa trẻ con chơi ngoài bãi biển. Có lẽ, đôi khi cũng đã tìm được những hạt sỏi tròn hơn, những vỏ hến đẹp hơn những cái bạn tôi tìm, nhưng biển mênh mông của chân lý, dưới con mắt tôi vẫn còn mầu nhiệm quá.
Văn sĩ Walter Scott người Anh đã nói một cách rất nhũn nhặn, sau bao nhiêu năm làm việc chuyên cần:
-Trong đời sống của tôi, cái dốt đã ngăn tôi lại và dày vò tôi. Người ta càng biết nhiều bao nhiêu thì lại càng phải khiêm nhường bấy nhiêu, người ta càng học nhiều thì lại càng tự thấy mình còn dốt.
Socrate đã nói rất có lý:
- Bậc hiểu biết cao nhất của con người là biết được rằng mình chưa biết gì cả.
Và Sénèque cũng đã viết:
- Đừng tưởng mình là khôn ngoan, mới là khôn.
Ở Hungary có câu châm ngôn rất đúng:
- Nếu anh thông minh, anh đừng khoe khoang.
Người ta thường nói: gà cục tác nhiều thì đẻ trứng ít.
Một hôm, Alcibiade khoe với Socrate là thầy dạy mình về những lãnh thổ mênh mông của ông chung quanh vùng Athènes. Socrate liền mở bản đồ ra hỏi:
- Hãy chỉ cho tôi biết Á Đông ở đâu?
Alcibiade chỉ đúng cái lục địa rộng lớn ấy.
- Đúng! bây giờ chỉ cho tôi biết Hy Lạp ở đâu?
Alcibiade vẫn chỉ đúng.
- Đâu là Péloponèse, Socrate vẫn hỏi.
Alcibiade cố gắng mãi mới tìm thấy cái chấm nhỏ trong bản đồ.
-Vịnh Attique ở đâu?
Alcibiade thấy vịnh Attique là một cái chấm nhỏ quá gần như không trông thấy, Socrate kết luận: - Đó, bây giờ hãy cho tôi biết phần đất rộng lớn của anh chỗ nào!
Alcibiade nhận ra lãnh thổ của mình không đáng một phần nhỏ nào trong bản đồ.
Như vậy, chúng ta thấy cuộc sống của mỗi người đâu có gì đáng tự hào mà phải khoe khoang, phô trương.
2. Người đàn bà trong câu chuyện hôm nay là tấm gương cho chúng ta về vấn đề này. Đối với Chúa quả là bà ta chẳng là gì. Chúng ta hãy xem cách bà đối thoại với Chúa, chúng ta sẽ thấy điều đó:
Trước hết chúng ta thấy bà là một người rất khiêm tốn: chịu nhận làm “chó con”
Thứ đến bà có một đức tin kiên trì: dù bị khước ngay từ lúc đầu bằng những lời rất nặng nề nhưng bà vẫn không nản lòng, lòng tin của bà không hề lay chuyển.
Và cuối cùng, bà có một lòng phó thác mạnh mẽ nơi Chúa: Chúa Giêsu bảo bà “Cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi”(Mc 7,29). Dù chưa thấy hiệu quả trước mắt, nhưng vì tin Lời Chúa nên bà ra về.
Trong cuộc đối thoại thú vị này, người phụ nữ đã dành được phần thắng: con gái của bà đã được khỏi bệnh, và Chúa Giêsu cũng được lợi: vì đã giúp được một người thoát khỏi cảnh khốn cùng.
Đây quả là một cuộc đối thoại thành công mà bí quyết thuộc về cả hai phía: Người đàn bà thì khiêm tốn với ý chí và đức tin mạnh mẽ, không có một chút phô trương tự mãn nào nơi người bà, còn Chúa Giêsu thì hiền hòa, linh hoạt trong cách làm việc. Kết quả quá đẹp. Đẹp cả cho Chúa và đẹp cả cho người đàn bà.
Phần chúng ta không biết cho đến bao giờ chúng ta mới học được sự khiêm nhường của người đà bà này và không biết đến bao giờ chúng ta mới học được sự hiền hòa như Chúa Giêsu trong câu chuyện chúng ta vừa được nghe.
Thánh nữ Syncletica nói: “Bảo tàng sẽ mất giá trị khi bị phơi bày, nhân đức khi phô trương cũng tan biến như vậy; sáp tan chảy lúc để gần lửa thế nào, thì linh hồn cũng bị hư hoại vì lời ca tụng và mất hết mọi thành quả lao nhọc của mình như vậy”.
Xem ra có vẻ rất khó, nhưng nếu chúng ta biết cậy dựa vào ơn của Chúa, tôi tưởng chúng ta có thể làm được.
Chúa đã khiêm tốn và kiên trì
nhận lấy những thất bại trong cuộc đời
cũng như mọi đau khổ của Thập Giá,
xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách
chúng con phải gánh chịu mỗi ngày,
thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến
và trở nên giống Chúa hơn.
Xin dạy chúng con biết rằng
chúng con không thể nên hoàn thiện
nếu như không biết từ bỏ chính mình
và những ước muốn ích kỷ.
Xin làm cho chúng con biết trở nên giống Chúa mỗi ngày. Amen.
08/02 Điều chính yếu của Tin Mừng
- Viết bởi Mc 7, 1-13
Điều chính yếu của Tin Mừng.
Thứ Ba tuần 5 thường niên.
“Các ngươi gác bỏ một bên các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục phàm nhân".
Lời Chúa: Mc 7, 1-13
Khi ấy, những người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem tụ tập lại bên Chúa Giêsu, và họ thấy vài môn đệ Người dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch, nghĩa là không rửa trước. Vì theo đúng tập tục của tiền nhân, những người biệt phái và mọi người Do-thái không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa, như rửa chén, rửa bình, rửa các đồ đồng.
Vậy những người biệt phái và luật sĩ hỏi Người: "Sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân mà lại dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch?" Người đáp: "Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: "Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người". Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người: rửa bình, rửa chén và làm nhiều điều như vậy".
Và Người bảo: "Các ngươi đã khéo bỏ giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục của các ngươi. Thật vậy, Môsê đã nói: "Hãy thảo kính cha mẹ", và "ai rủa cha mẹ, sẽ phải xử tử". Còn các ngươi thì lại bảo: "Nếu ai nói với cha mẹ mình rằng: Những của tôi có thể giúp cha mẹ được là Corban rồi (nghĩa là của dâng cho Chúa)", và các ngươi không để cho kẻ ấy giúp gì cho cha mẹ nữa. Như thế các ngươi huỷ bỏ lời Chúa bằng những tập tục truyền lại cho nhau. Và các ngươi còn làm nhiều điều khác giống như thế".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Lòng chúng thì xa Ta
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Trong Bài Tin Mừng hôm nay có năm từ truyền thống (cc. 3, 5, 8, 9, 13).
Đó là truyền thống của tiền nhân, truyền thống của người phàm,
truyền thống mà các ông Pharisêu nắm giữ và muốn người khác phải theo.
Sông song với truyền thống này là điều răn của Thiên Chúa (cc. 8, 9)
Đức Giêsu tố cáo người Pharisêu đã gạt bỏ, đã coi thường điều răn này
chỉ vì muốn khư khư giữ lấy truyền thống của họ (cc 8, 9, 13).
Đây là một điều đáng tiếc,
vì mục tiêu của người Pharisêu không phải là hủy bỏ lời của Thiên Chúa (c. 13).
Trái lại, họ muốn dân Do thái sống nghiêm túc hơn ơn gọi của mình,
sống như một dân tộc thánh thiện giữa một xã hội vàng thau thời Đức Giêsu.
Chính vì thế họ chẳng những muốn tuân giữ điều được viết trong Luật Môsê
mà còn muốn sống theo những truyền thống
dựa trên luật truyền khẩu được ban cho Môsê nữa.
Họ đòi cả dân chúng cũng phải sống theo các luật về thanh sạch của các tư tế.
Bởi vậy, họ than phiền chuyện vài môn đệ của Đức Giêsu
đã không rửa tay trước khi ăn.
Thật ra chẳng phải người Do thái nào cũng giữ luật rửa tay trước khi ăn.
Các sách Cựu Ước cũng không hề đòi hỏi chuyện này (x. Lêvi 11-15).
Đáng tiếc là khi tập trung vào chuyện sạch sẽ bên ngoài,
người Pharisêu có nguy cơ bỏ rơi hay lơ là chuyện trong sạch nơi trái tim.
Đây mới là điều quan trọng mà Đức Giê su muốn nhấn mạnh.
Theo truyền thống hội đường Do Thái, có cả thảy 613 điều răn,
365 điều cấm làm và 248 điều phải làm.
Cả một rừng điều răn này chi phối toàn bộ đời sống của người Do thái giáo.
Người Pharisêu cho rằng sự thánh thiện nằm ở chỗ chu toàn hết mọi luật này.
Còn Đức Giêsu coi sự thánh thiện nằm ở sâu nơi trái tim thuộc trọn về Chúa.
Ngài trích lời của ngôn sứ Isaia (29, 13):
“Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta.”
Làm thế nào để trái tim của chúng ta gần với Chúa?
Làm thế nào chúng ta khỏi trở thành những kẻ đạo đức giả?
Làm thế nào chúng ta giữ luật Chúa và Giáo Hội với sự mềm mại, tự do, vui tươi?
Ước gì từng hành vi giữ luật của ta được chi phối bởi trái tim đầy yêu mến.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình,
nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa
vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ nhen,
mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng,
không một biến cố nào làm xáo trộn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn
để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm cả những người thù ghét con. Amen.
Suy Niệm 2: Hình và bóng
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
“Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình”. Thật trân trọng biết bao. Thật yêu thương biết bao. Nhưng cũng phải biết vị trí giới hạn. Dù được nâng lên hàng cao quí, con người cũng chỉ là bóng mãi mãi thuộc về hình. Hình có tồn tại thì bóng mới hiện hữu. Thiên Chúa như mặt trời tỏa ánh sáng. Con người chỉ như mặt trăng. Dù có đẹp đẽ sáng láng. Nhưng cũng chỉ sáng bằng ánh sáng mặt trời. Không có mặt trời mặt trăng chìm vào đêm tối (năm lẻ).
Nhưng con người không hiểu điều đó. Ngay từ khởi đầu bà Evà đã muốn thoát khỏi Thiên Chúa. Vì thế lâm vào khốn cùng. Các Pha-ri-sêu và Kinh sư cũng không hơn gì. Tuân giữ truyền thống của con người hơn tuân thủ Lời Chúa. Bóng muốn thoát khỏi hình sao được. Thế mà ở đây mặt trăng còn muốn lấn át mặt trời. Con người muốn lấn át Thiên Chúa khi đặt thói lệ của tiền nhân lên trên Lời Chúa dạy.
Thế giới hôm nay không khác gì. Người ta coi trọng con người hơn Thiên Chúa. Sợ hãi con người hơn Thiên Chúa. Chạy theo dư luận, lợi nhuận, chức quyền, danh vọng, và cả dục vọng. Nên phải chối từ Thiên Chúa. Con người muốn lấn át Thiên Chúa. Muốn tự mình trở thành mặt trời. Muốn điều hành cả vũ trụ lẫn Thiên Chúa. Vì thế lâm vào cảnh khốn cùng.
Hãy noi gương Sa-lo-môn, người khôn ngoan nhất trần đời. Khi xây xong ngôi đền thờ nguy nga tráng lệ, Sa-lo-mon đã nhận biết đền thờ chẳng xứng đáng với Thiên Chúa: “Này trời cao thăm thẳm còn không chứa nổi Ngài, huống chi ngôi nhà con đã xây đây”. Ngôi nhà không chứa đựng Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa ấp ủ ngôi nhà. Sa-lo-mon giầu sang tuyệt đỉnh, quyền uy ngập trời. Nhưng ông không dám trông nom Thiên Chúa. Trái lại ông cầu xin Thiên Chúa “xin Ngài để mắt nhìn đến ngôi nhà này đêm ngày”. Dù cao sang nhất trần đời nhưng ông không bao giờ dám ra lệnh cho Thiên Chúa. Trái lại ông luôn khiêm nhường cầu nguyện: “Xin Chúa đoái đến lời tôi tớ Chúa cầu xin khẩn nguyện, mà lắng nghe tiếng kêu cầu của tôi” (năm chẵn).
Con chỉ là bóng. Chính Chúa là hình. Xin cho con biết luôn đi theo Chúa, vâng nghe Lời Chúa, thực thi ý Chúa. Như bóng luôn đi theo hình. Có thế bóng mới tồn tại.
Suy Niệm 3: Tìm cái cốt yếu
Nhiều tôn giáo lấy việc tẩy rửa làm một trong những nghi thức linh thiêng của Ðạo. Chẳng hạn người Ấn giáo tắm ở sông Hằng trước khi vào tế tự ở đền thờ, hoặc các thành viên Cộng đoàn Qumrân thời Chúa Giêsu lấy việc tắm rửa hằng ngày để diễn tả thái độ sẵn sàng của mình cho ngày Ðấng Mêsia đến; ngay cả Gioan Tẩy giả cũng coi việc dìm người xuống dòng sông Giođan rồi trồi lên khỏi nước như cử chỉ nói lên sự hoán cải tâm hồn, sẵn sàng gia nhập đoàn dân mới của Thiên Chúa khi Ngài ngự đến. Người Do thái còn đi xa hơn đến mức đưa nghi thức tẩy rửa ấy vào từng chi tiết đời sống thường ngày, như rửa tay trước khi ăn, rửa chén đĩa, bình lọ...
Tin Mừng hôm nay kể lại cuộc đối chất giữa Chúa Giêsu và những người Biệt phái về vấn đề tập tục của tiền nhân. Ðối với người Do thái, việc rửa tay, rửa chén đĩa, rửa thực phẩm, không chỉ là một biện pháp vệ sinh nhằm phòng bệnh, mà còn là một nghi thức tôn giáo nói lên ước nguyện trở nên thanh sạch để có thể hiệp thông với Thiên Chúa là Ðấng Thánh. Ðây là điều tốt, nhưng người Biệt phái đã quá vụ hình thức mà bỏ quên điều thiết yếu, họ phán đoán một người tốt hay xấu dựa trên những hình thức bên ngoài. Chúa Giêsu đã trả lời cho thái độ vụ hình thức ấy như sau: "Các ông gạt bỏ giới răn của Thiên Chúa qua một bên, mà duy trì truyền thống của người phàm". Chúa Giêsu muốn cho thấy các việc làm bên ngoài ấy, dù có tính cách tôn giáo đến đâu, cũng không thể thay thế cho một việc khác quan trọng hơn. Ðiều quan trọng là sự thanh sạch của tâm hồn, chứ không phải việc rửa tay, rửa vật dụng bên ngoài; đừng lẫn lộn tập tục của truyền thống phàm nhân với lề luật do chính Thiên Chúa ban bố.
Chúa Giêsu nhắc đến trường hợp những người Do thái nhân danh tập tục dâng cúng một số của cải vào Ðền thờ, gọi là copan, nghĩa là lễ phẩm đã dâng cho Chúa, để rồi biện minh cho sự thiếu sót bổn phận đối với cha mẹ. Tập tục dâng cúng là do con người, thảo kính cha mẹ là lệnh truyền của Thiên Chúa, thế nhưng trong trường hợp vừa kể, vì tinh thần sống vụ hình thức, những người Biệt phái đã bỏ luật của Thiên Chúa để tuân giữ tập tục loài người.
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta trở về với điểm căn bản: hãy đặt Chúa vào chỗ thứ nhất và tuân giữ giới răn của Ngài. Chúa không chủ trương phá bỏ hình thức lễ nghi cơ cấu, nhưng chỉ muốn đặt chúng vào đúng vị trí. Xin cho chúng ta biết trân trọng và thực hiện điều chính yếu mà Chúa đang chờ đợi chúng ta, thay vì cứ loay hoay với những điều phụ thuộc do loài người đặt ra.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Sống đạo?
Vậy người Pha-ri-sêu và kinh sư hỏi Đức Giêsu: “Sao các môn đệ của ông theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?” Người trả lời họ: “Ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng:
“Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng,
còn lòng chúng thì lại xa Ta.” (Mc. 7, 5-6)
“Dân này tôn kính Ta bằng môi, bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta… Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa mà duy trì truyền thống của các ông”. Chúa Giêsu phản đối chính những tập tục và truyền thống của người Do thái, bởi vì những tập tục và truyền thống ấy đi tới chỗ che khuất đi tính đơn sơ mà Chúa đòi hỏi nơi con người.
Trong Kitô giáo phải chăng lời ăn tiếng nói và cách sống đạo của ta không làm mất đi vẻ đơn sơ trong sáng sao?
Đúng là chúng ta thường nói nhiều mà thực ra lại không sống thực điều răn của Chúa.
Chúa dạy ta trước tiên phải yêu mến Chúa Cha, yêu thương anh em và mọi người. Giáo hội tiên vàn là môi truờng thuận lợi nhất để Chúa dạy và ta thực hành điều răn này.
Nhân dịp này Chúa Giêsu cũng tra vấn ta về cách ta thực hành những việc đạo đức, đọc kinh, xem lễ… về tất cả những việc ta làm cốt để cho yên lương tâm. Có những ngày có lẽ Chúa muốn nói với ta rằng: “Hãy ngưng lại đi thôi, lòng ngươi xa Ta rồi.”
Tôi sẽ trả lời Chúa rằng nếu tôi không làm những việc đạo đức ấy, tôi sẽ còn xa cách Chúa hơn. Đừng bắt người khác làm điều gì khi chính mình lại không sống sâu xa điều ấy. Đó mới chính là điều quan trọng.
Hãy hiểu rằng Chúa Giêsu không đòi hỏi tôi phải giữ đạo theo kiểu duy tâm, không việc làm, không cử chỉ.Tôi cần phải có những biểu tượng, những nghi thức. Nhưng tôi không được nấp sau những nghi thức này để mà không thực hành lòng yêu mến anh em, không lắng nghe Lời Chúa.
Những thực hành đạo đức này có thể là phương thế giúp ta lượng giá mình xem đã tìm kiếm Chúa thế nào, đã trung tín với Tình yêu của Người đến đâu.
Lạy Chúa, xin ban cho con Thần Khí Chúa, để Phúc âm Chúa nâng dậy đời con.
Suy Niệm 5: Đừng vụ luật mà xa lạ với tin mừng
Tại đất nước Philippines hay tại Ấn Độ, người ta có thói quen ăn cơm bằng tay thay vì dùng muỗng nĩa như người Tây Phương hay đũa như người Việt Nam.
Khi dùng tay để ăn, họ buộc phải dùng tay phải để lấy cơm và thức ăn đưa vào miệng. Tay trái là điều cấm kỵ vì họ cho rằng tay trái là biểu tượng của sự dơ bẩn; hay tay trái là dấu chỉ của những người khó có thể được cứu độ! Chính vì vậy, mà những người thuận tay trái thường bị cho rằng sau này khó có thể được vào Nước Trời!
Tin Mừng thánh Máccô được trích đọc hôm nay ghi lại cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu và những người Pharisêu về vấn đề rửa tay trước khi ăn.
Theo luật, buộc khách dự tiệc phải rửa tay trước khi ăn. Việc rửa tay trước khi ăn có ý nghĩa tôn giáo rất tốt lành, đó là ý muốn nói hay nhắc nhở mỗi người về sự trong sạch trong tâm hồn. Trước khi họ dâng lời chúc tụng, tạ ơn Chúa thì họ phải thanh tẩy tâm hồn cho xứng đáng. Còn về mặt xã giao, thì đây là biểu lộ sự kính trọng với người đồng bàn với mình.
Tuy nhiên, trải qua thời gian, khi người ta chỉ còn biết hình thức bên ngoài mà không hề khám phá hay sống ý nghĩa, giá trị bên trong, thì tập tục này trở nên thuần túy phô trương, hình thức. Chính vì lý do này mà khi thấy các môn đệ của Đức Giêsu không rửa tay trước khi ăn, nên những người Pharisêu đã thắc mắc!!! Nhân cơ hội này, Đức Giêsu nhắc lại lời ngôn sứ Isaia nói về sự giả hình nơi những người này, vì họ chỉ thờ Thiên Chúa bằng môi bằng miệng, còn lòng họ thì không. Vì thế, họ như cái thùng rỗng. Những lời dạy của họ trở nên trò hề khi họ chỉ cậy dựa vào tập quán của phàm nhân.
Ngày nay, nơi nhiều cộng đoàn, vẫn còn đó những lối suy nghĩ như những người Pharisêu khi xưa, đó là: tập trú vào hình thức bên ngoài quá nhiều mà không để ý đến ý nghĩa, sứ điệp ngang qua những hoạt động tôn giáo.
Nhiều khi chỉ biết đọc kinh mà không hề biết ý nghĩa của lời kinh! Hoặc nhiều khi giữ đạo từ nhỏ, nhưng nói về tinh thần huynh đệ, bác ái thì xem ra quá xa vời, bởi bấy lâu nay ta sống theo kiểu: “Đèn ai nấy rạng”.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta thấy rằng: lời nói phải đi đôi hành động. Việc bề ngoài chỉ có giá trị khi nó được toát ra từ bên trong. Đừng chỉ lo loay hoay hình thức mà đánh mất đi nét đẹp của tâm hồn. Mất đi ý nghĩa này, mọi sự trở nên giả dối, trống rỗng và vô ích.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tạ ơn Chúa vì đã dạy cho chúng con bài học về việc giữ luật. Xin cho chúng con ngày càng gắn bó với Chúa mật thiết để được sống trong tình yêu và chiếu tỏa tình yêu ấy cho tha nhân cách chân thành. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Yêu mến tôn thờ Chúa chân thành tận đáy lòng
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu dạy ta yêu mến tôn thờ Thiên Chúa cách chân thành, tận đáy lòng. Đừng vì những thói quen tập tục của loài người mà coi thường những giới răn của Thiên Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, Chúa là Đấng cao cả trổi vượt vô cùng, nhưng đồng thời Chúa cũng ở trong lòng con, sâu thẳm trong con hơn chính con. Chúa thấu suốt mọi tư tưởng, mọi tâm tình, mọi ước muốn và việc làm của con. Con có thể giả dối với người đời nhưng không thể giả dối đối với Chúa. Tất cả cuộc đời con luôn xuất hiện rõ ràng trước Nhan Thánh Chúa, con chẳng thể che giấu Chúa điều gì.
Vậy lạy Chúa, xin Chúa tha thứ những điều giả dối hời hợt nơi con. Đã bao lần con tôn kính Chúa ngoài môi miệng mà lòng con lại xa Chúa. Khi đọc kinh, dự lễ, làm việc đạo đức và bác ái, con đã làm một cách miễn cưỡng, làm vì thói quen, làm vì sợ dư luận chứ không làm vì lòng mến Chúa. Bề ngoài có lẽ con không có gì đáng trách. Nhưng Chúa thấu tỏ lòng dạ con chưa chân thành hết tình với Chúa. Xin Chúa giúp con canh tân tâm hồn để từ nay con luôn dành cho Chúa một tình yêu chân thành nồng nàn.
Chúa đã ban cho con trái tim để yêu thương, yêu mến Chúa và yêu thương nhau, nhưng con lại bóp nghẹt con tim để làm cho đời con ra như cái xác không hồn. Dòng máu yêu thương trong con đã thành khô cạn và con chết cứng trong bệnh hình thức. Xin Chúa sưởi ấm trái tim con. Xin Chúa thúc đẩy con chạy đến với bí tích Thánh Thể để con được kín múc tình yêu từ nguồn mạch yêu thương của trái tim Con Chúa. Xin Chúa lôi kéo lòng con lại gần lòng Chúa, để từ lòng Chúa, con ra đi gieo rắc tình thương. Amen.
Ghi nhớ: “Các ngươi gác bỏ một bên các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục phàm nhân”.
Suy Niệm 7: Chúa khuyên đừng vụ hình thức
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Tin Mừng hôm nay kể lại cuộc đối chất giữa Chúa Giêsu và những người biệt phái về vấn đề tập tục của tiền nhân. Đối với người Do Thái, việc rửa tay, rửa chén đĩa, không chỉ là một biện pháp vệ sinh nhằm phòng bệnh, mà còn là một nghi thức tôn giáo nói lên ước nguyện trở nên thanh sạch để có thể hiệp thông với Thiên Chúa là Đấng Thánh. Đây là điều tốt, nhưng người biệt phái đã quá vụ hình thức mà bỏ quên điều thiết yếu, họ phán đoán một người tốt hay xấu dựa trên những hình thức bên ngoài. Điều quan trọng là sự thanh sạch của tâm hồn, chứ không phải việc rửa tay, rửa vật dụng bên ngoài; đừng lẫn lộn tập tục của truyền thống với lề luật do chính Thiên Chúa ban bố.
2. Thực hành lề luật không có nghĩa là chỉ thi hành những nghi thức bên ngoài và coi đó là xong nhiệm vụ. Những hình thức bên ngoài là cần thiết, nhưng chúng chỉ là những yếu tố bổ sung và phụ thuộc, mà cái cần thiết nhất là tấm lòng. Hay nói cách khác, cần nhất là cái động lực thúc đẩy chúng ta làm: nếu động lực tốt thì việc làm sẽ tốt, nếu động lực xấu thì việc làm sẽ xấu. Nếu việc làm mà thiếu động lực tốt thì việc làm chỉ là giả tạo và người làm việc ấy chỉ là giả hình: “Dân này thờ kính Ta bằng môi miệng, mà lòng chúng thì xa Ta” (Is 29,13).
3. “Dân này kính Ta bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta” (Mc 7,6).
Chẳng cần phải nói nhiều, chúng ta cũng thấy, ngày nay người ta sống giả dối với nhau rất nhiều. Cái gì ngày này người ta cũng có thể làm giả được. Nếu như trước đây chỉ mới có chân giả, da giả thì ngày nay có hàng loạt những thứ giả khác như tóc giả, lông mi giả, hoa giả trái cây giả, gạo giả... Gần đây chúng ta còn được nghe rất nhiều thứ giả khác: bẳng giả, chứng chỉ giả, tiến sĩ giả... Những thứ ấy còn đi vào cả những sinh hoạt thiêng liêng như mâm quả, hoa nến, nhang, đèn giả. Mức độ “giả” rất tinh vi nên nhiều khi cái giả xem ra còn đẹp hơn những cái thật, khó mà phân biệt được. Ở đây, Chúa Giêsu chỉ mới nói đến “Giả hình”. Ngày nay, còn một thứ giả tệ hơn. Đó là “Giả nhân giả nghĩa”. “Giả hình” mà còn đáng trách thì giả nhân giả nghĩa còn đáng trách hơn chừng nào.
4. Chúa Giêsu khiển trách những người biệt phái và luật sĩ thờ phượng Chúa trên đầu môi chót lưỡi, còn tấm lòng lại xa cách Người. Họ chăm chăm tuân giữ các truyền thống xa xưa, còn điều răn yêu thương là cốt lõi cũa Lời Chúa dạy thì họ lại không tuân giữ. Chúa Giêsu cũng đả kích các nhà thông luật Do thái vì họ quá tôn trọng hình thức bề ngoài, qua đó, Người mời gọi chúng ta hãy sống thật với lương tâm của mình. Để sống đạo tốt, chúng ta cần chu toàn các lề luật của Giáo hội, nhưng đồng thời còn phải sống tình mến với Chúa và mọi người.
5. Những người giả hình này đáng người ta tặng cho cái nhãn hiệu “Tốt mã dẻ cùi”. Chim dẻ cùi là một giống chim đẹp, mỏ đỏ, đuôi dài, lông mã, lông đuôi sặc sỡ ngũ sắc, coi giống chim phượng. Người ta đã gọi là phượng hoàng Nam (phượng hoàng của nước Nam) hay phượng hoàng đất. Nhưng chim dẻ cùi phải cái tật hay ăn cứt chó, cứt lợn. Người ta đã có câu:
Dẻ cùi tốt mã dài đuôi,
Hay ăn cứt chó, ai nuôi dẻ cùi.
Dẻ cùi tiếng hót lại không hay, vì vậy dẻ cùi tuy đẹp mã thật, nhưng người ta không quí mà lại khinh. Người ta thường dùng câu “Tốt mã dẻ cùi” để chế riễu người bề ngoài đẹp đẽ sáng sủa, ăn vận diêm dúa mà bụng dạ bẩn thỉu không tốt mà lại vô tài (Văn Hòe, Tục ngữ lược giải, 1957, tr 198).
6. Ngày nay thật đáng lo ngại là cho sự khủng hoảng đạo lý nơi nhiều gia đình. Có những người con chỉ dừng trên nghĩa vụ, bổn phận lo lắng cho cha mẹ của cải vật chất, mà quên đi cha mẹ còn phải được kính trọng và yêu mến. Vật chất chỉ là giá trị bề ngoài nhưng chính giá trị tinh thần, giá trị đạo đức mới quan trọng cho đời sống cha mẹ. Giá trị đạo đức bị đảo lộn bởi có những đứa con coi vật chất là trên hết, đặt tiền tài trên nghĩa vụ làm con, sẵn sàng gửi cha mẹ vào các nhà dưỡng lão mà quên rằng bổn phận của con cái là nuôi dưỡng, thăm hỏi khi cha mẹ còn sống, và cầu nguyện xin lễ cho các ngài khi đã qua đời.
7. Truyện: Sư máy.
Tuần báo Newsweek số ra ngày 10/08/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ ở Nhật, đó là “sư máy”. Vị sư máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực thụ: đầu cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp trên gương mặt cử động theo nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi giơ lên, một tay thì gõ mõ, và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của mười giáo phái Phật giáo khác nhau tại Nhật.
Sáng kiến này đưa ra nhằm đáp ứng cho ơn gọi sư sãi ngày càng khan hiếm trong các Giáo hội Phật giáo tại Nhật. Tuy nhiên, như tác giả bài báo ghi nhận: những cái máy làm được mọi sự, duy chỉ có một điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương (Mỗi ngày một tin vui).
Suy Niệm 8: Kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống...)
Chúa Giêsu và nhóm biệt phái cùng kinh sư tranh luận với nhau về vấn đề sạch dơ.
Họ bám sát mặt chữ những quy của luật lệ về sự phân biệt cái gì là sạch cái gì là dơ và về những đòi buộc về rửa tay chân chén dĩa…
Chúa Giêsu nói đó mới chỉ là sạch dơ bề ngoài, không quan trọng bằng sạch dơ trong tâm hồn.
Ngài nhận xét đạo đức của họ chỉ là đạo đức giả: “Dân này kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta”.
Ngài còn kết án họ lấy tập tục của loài người mà thay thế lệnh truyền của Thiên Chúa. Ngài lấy tục lệ Corban ra làm thí dụ điển hình: Corban là của dâng cúng cho Thiên Chúa. Mặc dù Xh 20,12 buộc con cái phải phụng dưỡng cha mẹ. Nhưng để khuyến khích người ta đóng góp cho đền thờ, biệt phái và kinh sư dạy rằng nếu ai khấn hứa đem những gì phải giúp cho cha mẹ để dâng cho Đền thờ thì không còn phải giúp cha mẹ nữa. Quả thật đây là một cách bóp méo Lời Chúa.
B. Suy niệm (...nẩy mầm)
1. Những sai lầm của biệt phái và kinh sư là những sai lầm mà chúng ta dễ mắc phải:
Dễ tưởng mình đã là người “công chính” rồi.
Từ đó dễ phê phán những người khác không được “công chính” như mình.
Thực ra, sống công chính là một mục tiêu phải phấn đấu suốt đời mà cũng chưa chắc đạt tới. Lời Chúa Giêsu khiển trách họ cũng là một lời khuyên chúng ta lo tu luyện bản thân hơn là để ý so sánh người khác.
+ Giữ hình thức bề ngoài dễ hơn sống tâm hồn bên trong. Rất tiếc nhiều người mới lo được vẻ bề ngoài thì đã vội tự mãn.
+ Corban là một cớ để người biệt phái dựa vào để tự chuẩn miễn những bổn phận quan trọng. Chúng ta cũng thường có những thứ Corban của chúng ta.
Nhiều khi chúng ta lấy cớ bận lo việc Chúa để trốn tránh bổn phận lo cho con người.
+ “Dân này kính Ta bằng môi miệng”.
Một bà cụ năng đến nhà thờ cầu nguyện. Một cậu bé lấy làm ngạc nhiên liền theo dõi. Cậu nấp sau bàn thờ nghe bà cầu nguyện lớn tiếng: “Lạy Chúa, con đã già và sống đủ. Bất cứ lúc nào Ngài gọi, con sẵn sàng”
Bà cầu nguyện suốt ba ngày cũng vẫn những lời ấy. Ngày thứ tư, sau khi bà cầu nguyện, cậu bé giả giọng nói vọng ra ngay sau bàn thờ: “Ta đã nghe lời cầu xin của con, Ta sẽ đến đón con lúc chín giờ sáng mai.”
Bà về nhà, không sao ngủ được vì lo lắng về điều đã nghe. Bà không chấp nhận nổi những gì bà đã cầu nguyện. (Góp nhặt)
2. “Dân này kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta” (Mc 7,6)
Một trong những đặc trưng của kỹ thuật hiện đại là kỹ thuật làm đồ giả. Nếu như trước đây chỉ mới có chân giả, da giả … thì ngày nay có hàng loạt những thứ giả khác như tóc giả, lông mi giả, hoa giả, trái cây giả … Những thứ ấy đi vào cả những sinh hoạt thiêng liêng như quả, hoa, nến, nhang, đèn giả… mức độ “giả” còn tinh vi nên lắm khi cái giả xem ra còn đẹp hơn cái thật, khó mà phân biệt được thực hư, tốt xấu: trông thật hóa “dỏm”; trông xịn hoá “xoàng”. Vì thế mới có kẻ dở khóc dở cưòi.
Nhưng tệ nhất vẫn là thứ “Giả nhân giả nghĩa”, thứ “giả hình” mà Chúa đã nặng lời khiển trách (x. Mát Thêu 23,13-29). Và thánh Gioan đã lật tẩy:
“Ai nói rằng mình biết Thiên Chúa mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối” (1 Gioan 2,4);
“Ai bảo mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, ngưòi ấy là kẻ nói dối. Vì ai không yêu ngưòi anh em mà mình trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ trông thấy” (1 Gioan 4,20)
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin giúp cho con biết thờ phượng Chúa trong thần khí và sự thật (x. Ga 4,23). (Epphata)
Suy Niệm 9: Thói giả hình và truyền thống của tiền nhân
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
Có hai điều Chúa muốn nói với chúng ta hôm nay
1. Về thói giả hình.
Ngày xưa Chúa đã phê phán: “Dân này kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta” (Mc 7,6).
Chẳng cần phải nói nhiều, chúng ta cũng thấy, ngày nay người ta sống giả dối với nhau rất nhiều. Cái gì ngày nay người ta cũng có thể làm giả được. Nếu như trước đây chỉ mới có chân giả, da giả thì ngày nay có hàng loạt những thứ giả khác như tóc giả, lông mi giả, hoa giả, trái cây giả. Gần đây chúng ta còn được nghe rất nhiều những thứ giả khác: Bằng giả, chứng chỉ giả, tiến sĩ giả... Những thứ ấy còn đi vào cả những sinh hoạt thiêng liêng như mâm quả, hoa, nến, nhang, đèn giả. Mức độ “giả” rất tinh vi nên nhiều khi cái giả xem ra còn đẹp hơn cả những cái thật, khó mà phân biệt được. Ở đây Chúa Giêsu mới chỉ nói đến “Giả hình”. Ngày nay còn một thứ giả tệ hơn. Đó là “Giả nhân giả nghĩa”.”Giả hình” mà còn đáng trách thì “giả nhân giả nghĩa” còn đáng trách hơn chừng nào.
Sách cổ học tinh hoa có chép một câu chuyện xảy ra tại Hàn Châu.
Có một người bán trái cây đã tìm ra được một bí quyết giữ cho cam lâu ngày mà vỏ cam vẫn luôn đỏ hồng. Ông bán với giá rất đắt, thế mà thiên hạ vẫn tranh nhau mua. Có người mua được một trái đem về bóc ra mới vỡ lẽ ra bên trong chỉ là một trái cam thối. Người đó bèn đem trả lại cho người bán và mắng nhiếc thậm tệ.
Người bán cam cũng chẳng có vừa. Ông ta cười nói:
- Tôi làm nghề này đã lâu, tôi bán và người ta mua, không ai than phiền, chỉ có ông mới kêu ca. Thiên hạ giả dối nhiều, chẳng riêng gì tôi, ông thật chẳng chịu nghĩ cho đến nơi đến chốn. Này thử xem có người đeo hộ phú, hùng dũng như một quan võ, kỳ thực không biết người đó có giỏi được như Tôn Tần, Ngô Khởi không? Có người đội mũ cao, đóng đai dài, trông giống như một quan văn, nhưng liệu họ có giỏi được như Y Doãn, Cao Dao không? Giặc nổi lên không biết dẹp, dân khổ không biết cứu, quan lại tham nhũng không biết trừng trị, pháp độ hỏng nát không biết sửa đổi, ngồi không ăn lương mà không biết xấu hổ. Thế mà lúc ngồi công đường, đi xe ngựa, uống rượu ngon, ăn cao lương mỹ vị, oai vệ hách dịch vô cùng. Đó bề ngoài chẳng như vàng như ngọc, còn bề trong chẳng như hỏng nát là gì? Tại sao ông không chịu đi xét những hạng người ấy, mà lại đi xét quả cam của tôi.
Chúa Giêsu cũng đã nghiêm trách những thành phần lãnh đạo thời đại của Ngài. Ngài so sánh họ với mồ mả tô vôi, bên ngoài thì sơn phết bóng bẩy, nhưng bên trong chỉ là những xác chết hôi thối.
Lạy Chúa, xin giúp con biết thờ phượng Chúa trong Thần Khí và sự thật (Ga 4,23). (Epphata)
2. Còn về vấn đề truyền thống của tiền nhân thì Chúa muốn ta phải hiểu thế nào?
Xin đan cử một thí dụ:
Một nhà quí phái kia mở một bữa tiệc để thết đãi khách. Trong số những thực khách được mời tham dự bữa tiệc này có một bác nông dân. Sở dĩ bác nông dân này được mời vì bác là người giàu có trong vùng, lại có lòng tốt. Chính bác đã tặng cho nông dân ở trong vùng một số tiền lớn để xây cất một nhà thương.
Hôm ấy, trên bàn ăn người ta dọn ra món đầu tiên là cua nướng. Ngoài dĩa cua nướng dọn cho mỗi người, người ta còn để ở bên cạnh một ly nước nóng và một lát chanh tươi.
Vì là một nông dân, tính tình chất phác, không lễ nghi khách sáo, đàng khác có lẽ bác nông dân kia cũng đã đói, vì thế sau khi khai mạc bữa tiệc, bác đã cắm đầu cắm cổ ăn một hơi hết món cua nướng.
Ăn cua xong, thấy bên cạnh đó có một ly nước nóng và một lát chanh tươi, tưởng là để cho khách uống, nên bác nông dân vắt chanh vào nước rồi uống một hơi hết sức tự nhiên. Thực ra đây là những thứ để rửa tay, sau khi ăn món cua nướng.
Thấy bác nông dân ăn uống như thế, mọi người chung quanh đều trố mắt nhìn nhau rồi tủm tỉm cười với một sự khinh bỉ. Nhưng riêng với ông chủ nhà, khi thấy bác nông dân kia đã uống như thế, thì ông đã xử sự một cách hết sức khôn khéo. Ông cũng vắt chanh vào ly nước của ông và đưa lên uống, để bác nông dân không bị mất mặt trước những thực khách được mời hôm đó.
Thế là mọi người trong bàn tiệc hôm đó, không ai bảo ai, tất cả đều vắt chanh vào ly nước của mình, rồi bưng lên uống.
Một tập tục đã được bỏ qua. Như vậy, tập tục chỉ có giá trị tương đối. Tất cả những nghi thức bên ngoài chỉ có giá trị đích thực khi chúng hướng về Thiên Chúa, thể hiện được xã hội tính và tinh thần tôn trọng con người. Không vì những mục đích đó thì mọi nghi thức, tập tục, cung cách, chỉ là những sinh hoạt giả dối trống rỗng.
07/02 Chúa Giêsu hoạt động
- Viết bởi Mc 6, 53-56
Chúa Giêsu hoạt động.
Thứ Hai tuần 5 thường niên.
"Tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh".
Lời Chúa: Mc 6, 53-56
Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ qua biển rồi, các ngài tới miền Giênêsarét và ghé bến. Các ngài lên khỏi thuyền, tức thì người ta nhận ra Người, họ liền rảo chạy khắp miền, và nghe tin Người ở đâu thì khiêng những người đau yếu nằm trên chõng đến đó.
Bất cứ Người vào làng trại hay đô thị nào, người ta cũng đặt các bệnh nhân ở các nơi công cộng và xin Người cho họ ít là được chạm tới gấu áo Người, và tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Chạm đến thì được khỏi
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Tiếng Việt có nhiều động từ nói về xúc giác:
sờ, mó, đụng, chạm, rờ…
Xúc giác là một trong năm ngũ quan.
Nhìn thấy, nghe thấy, ngửi thấy, có khi vẫn chưa đủ.
Người ta còn muốn sờ thấy, xem đằng mặt, bắt đằng tay.
Sờ là một cách kiểm chứng đôi khi được coi là đáng tin hơn thấy.
Đức Giêsu phục sinh đã nói với các môn đệ:
“Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà!
Cứ rờ xem, ma đâu có xương thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc 24, 39).
Thánh Tôma xem ra thích kiểm chứng bằng đụng chạm:
“…nếu tôi không đặt ngón tay tôi vào lỗ đinh,
không đặt bàn tay tôi vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20, 25).
Đức Giêsu phục sinh đã chiều Tôma (Ga 20, 27).
Thiên Chúa đã chiều nhân loại, khi cho Con Ngài làm người như ta,
nhờ đó chúng ta có thể đụng chạm đến Thiên Chúa theo nghĩa đen.
Thánh Gioan đã reo lên khi loan báo Tin Mừng này:
“Điều vẫn có ngay từ lúc đầu, điều chúng tôi đã nghe,
Điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng,
và bàn tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống” (1 Ga 1, 1).
Bài Tin Mừng hôm nay là một bản tóm lược dài về quyền năng của Đức Giêsu.
Quyền năng này được thi thố qua việc chữa bệnh.
“Người ở đâu thì người ta cáng bệnh nhân đến đó.
Người đi tới đâu…người ta cũng đặt kẻ ốm đau ở chỗ công cộng” (cc. 55-56).
Dân chúng tin vào sức mạnh xuất phát từ chính con người Đức Giêsu.
Ở đây không phải là chuyện Ngài đụng chạm vào các bệnh nhân để chữa họ,
mà là các bệnh nhân xin “ít là được chạm đến tua áo choàng của Người;
và “bất cứ ai chạm đến, thì đều được khỏi” (c. 56).
Cái chạm của bệnh nhân là cái chạm của lòng tin vào Đức Giêsu.
Nó giống với cái chạm của người phụ nữ bị băng huyết (Mc 5, 28).
Không phải chỉ là chạm bằng tay, mà bằng cả con người.
Nơi đáy lòng con người vẫn có khát khao được đụng chạm đến Thiên Chúa,
cả nơi những người không tin có Ngài hay bướng bỉnh như Tôma.
Truyền giáo là giúp người ta thực hiện ước mơ chính đáng: chạm đến Thiên Chúa.
Nhà truyền giáo phải là người đã có kinh nghiệm chạm đến Thiên Chúa.
Mong mỗi Kitô hữu trở nên một nhà truyền giáo
nhờ đụng chạm đến Lời Chúa và các Bí Tích mỗi ngày.
Cầu nguyện:
Con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Ôi lạy Chúa là vẻ đẹp vừa cổ kính,
vừa luôn mới mẻ,
con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Bấy giờ Chúa ở trong con
mà con thì ở ngoài,
con cứ chạy đi tìm Chúa ở ngoài.
Con thật hư hỏng,
khi chạy theo các thụ tạo xinh đẹp.
Bởi thế, bấy giờ Chúa ở với con
mà con lại không ở với Chúa.
Các thụ tạo xinh đẹp kia cứ giữ con ở xa Chúa,
trong khi chúng hiện hữu được là nhờ Chúa.
Chúa đã gọi con, đã gọi to
và phá tan sự điếc lác của con.
Chúa đã soi sáng
và xua đi sự mù lòa của con.
Chúa đã tỏa hương thơm ngát
để con được thưởng thức,
và giờ đây hối hả quay về với Chúa.
Con đã nếm thử Chúa
và giờ đây con đói khát Người.
Chúa đã chạm đến con,
nên giờ đây con nóng lòng
chạy đi tìm an bình nơi Chúa. Amen. (Thánh Âu-Tinh)
Suy Niệm 2: Quyền năng và yêu thương
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thuở tạo thiên lập địa, quyền năng Thiên Chúa trổi vượt và chiến thắng. Chiến thắng bóng tối để sáng tạo ánh sáng. Chiến thắng khối hỗn mang để tạo dựng vũ trụ nên hình dạng tốt xinh. Chiến thắng khoảng không vô định hình để làm nên trật tự lạ lùng. Chiến thắng lớn lao nhất là ban sự sống cho muôn loài. Sự sống là một chiến thắng kỳ diệu. Đó là món quà quí giá nhất. Thiên Chúa ban cho muôn loài được tham dự vào sự sống của Người (năm lẻ).
Thời Cựu ước, quyền năng của Người bày tỏ ra trong sự hiện diện uy nghiêm. Khói tỏa mịt mù trong lều hội ngộ. Sức mạnh phi thường của Hòm Bia khiến cả quân thù cũng phải khiếp sợ. Thực ra trong Hòm Bia không có gì. Chỉ có hai bia đá làm bằng chứng giao ước (năm chẵn).
Đến thời sau hết, loài người được diễm phúc chiêm ngưỡng Thiên Chúa bằng xương bằng thịt trong Chúa Giê-su Ki-tô. Đó là Thiên Chúa vẫn tràn đầy quyền năng phép tắc. Quyền năng phép tắc thậm chí còn mạnh mẽ hơn. Vì phải đối địch lại với ác thần. Cánh tay hùng mạnh của Ngài vẫn chiến thắng. Chiến thắng tội lỗi để tha thứ cho con người. Chiến thắng bệnh tật cho con người lành mạnh. Nhất là chiến thắng ác thần xua đuổi ma quỉ ra khỏi con người.
Nhưng còn hơn cả quyền năng phép tắc. Vì Thiên Chúa đến ở với con người, gần gũi con người. Con người có thể đụng chạm đến Người. Xưa kia Thiên Chúa uy nghi xa cách, con người chỉ “kính nhi viễn chi”. “Áo ngài mặc toàn oai phong lẫm liệt. Cẩm bào ngài khoác là muôn vàn ánh hào quang”. Nay thì con người có thể đụng đến gấu áo của Người. Và gấu áo tuy gần gũi nhưng vẫn có quyền năng chữa lành. Con người cảm thấy tình yêu thương của Chúa thật ấm áp. Chúa cảm thương. Chúa cầm tay người bệnh. Chúa vuốt ve vết thương của người bệnh phong. Chúa chúc lành trẻ em.
Xin cho con biết nối tiếp công trình của Chúa. Tiếp tục kiến tạo trần gian nên tốt đẹp. Tiếp tục bày tỏ quyền năng Chúa chống lại cái ác, cái xấu. Nhất là tiếp tục tình yêu thương của Chúa. Gần gũi những người đau yếu, bệnh tật, bị thần ô uế ám ảnh. Lạy Chúa, xin chiếu tỏa quyền năng của Chúa cho sự thiện hiển trị.
Suy Niệm 3: Chấp nhận bị quấy rầy
Tin Mừng hôm nay là một bản khái quát những hoạt động của Chúa Giêsu làm cho con người, những hoạt động này vừa nhiều vừa đa dạng, đến mức làm cho người ta có cảm tưởng Chúa Giêsu là một lương y đa khoa.
Nhìn vào cách thức hành động của Chúa Giêsu, con người thời nay có thể cho rằng Ngài làm việc thiếu khoa học. Dường như Chúa Giêsu không lên kế hoạch làm việc cho từng ngày, ngày nào của Ngài cũng chỉ theo một chương trình duy nhất, là rao giảng Tin Mừng và làm cho Nước Trời hiện diện cụ thể trong đời sống con người. Ðối tượng phục vụ của Ngài là người nghèo đủ loại, và nhu cầu của người nghèo lại cấp bách đến độ không thể dời lui dời tới hoặc giới hạn vào một số giờ nhất định. Sống với người nghèo và cho người nghèo là chấp nhận bị quấy rầy: quấy rầy vì những vấn đề của họ thật cấp thiết nhưng lại không dễ giải quyết, quấy rầy vì họ luôn ở cạnh chúng ta mà chúng ta không được phép quên đi.
Giáo Hội hôm nay muốn chọn người nghèo làm đối tượng ưu tiên để phục vụ như Chúa Giêsu ngày xưa đã làm, thì Giáo Hội cũng không thể quên sự quấy rầy của người nghèo và các vấn đề liên quan đến người nghèo. Nếu Giáo Hội có phải phân nhiệm cho ủy ban này, ủy ban khi lo từng vấn đề, nếu Giáo Hội có phải lên thời khóa biểu hằng ngày, thì tất cả chỉ vì muốn phục vụ người nghèo cho có kết quả hơn, chứ không phải để giảm bớt hoặc thoái thác công việc.
Chúa đã không phục vụ con người theo kiểu trưởng giả, gián tiếp, nhưng đã dấn thân phục vụ tất cả mọi người bất cứ giờ phút nào. Xin cho Giáo Hội và mỗi người chúng ta đừng phục vụ người nghèo trên môi miệng, trên giấy tờ hoặc trong tư duy, nhưng là phục vụ trong hành động cụ thể và mau mắn.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Phép lạ xảy ra hằng ngày
Thầy trò vừa ra khỏi thuyền, thì lập tức người ta nhận ra Đức Giêsu. Họ rảo khắp vùng ấy và nghe tin Người ở đâu, thì bắt đầu cáng bệnh nhân đến đó. (Mc. 6, 54-55)
Sách Sáng thế ký kể rằng lần đầu tiên ánh sáng chiếu dọi vào trái đất còn trống trải và mông lung. Ánh sáng là tốt đẹp, là phản ánh của Thiên Chúa. Ánh sáng cho sự sống, tô mầu cho vạn vật và con người, đem nguồn vui đến các tâm hồn.
Giờ đây Chúa Giêsu đang ở miền Ghê-nê-xa-rét, vùng dân ngoại mà người Do thái vẫn coi là chốn tối tăm, ở giũa những con người ốm đau tật nguyền. Người là ánh sáng trần gian và ánh sáng là sự sống.
Bệnh tật cho người ta kinh nghiệm về sự yếu đuối, sự bất lực của con người đối với người đau ốm. Những phù phép và mê tín dị đoan không làm cho người ta khỏi bệnh.Tình yêu thương mới có thể chữa lành khi người ta có khả năng tin tưởng vào tình yêu ấy. Chính vì thế mà Chúa Giêsu chỉ dùng lời nói và sự hiện diện thể lý của Người mà chữa bệnh cho người ta. Người cầm tay hay chạm đến kẻ chết, kẻ chết sống lại. Chỉ cần biết rằng Người đang ở đó. Ngay cả hôm nay, Đức Kitô phục sinh vẫn đang ở giữa chúng ta, Người vẫn là ánh sáng duy nhất, là sự sống vĩnh hằng.
Người quan tâm đến chúng ta, Người yêu thương chúng ta… Ta hãy đến với Người cùng với những tầm thường, yếu đuối thể xác và tâm hồn của ta, giống như một đứa trẻ nương tựa vào cha mình, quẳng đi mọi lo âu để chỉ biết rằng cha đang ở đó.
Nếu ta tiếc rẻ không được sống vào thời đó để có thể chạm đến tua áo choàng của Người hầu được khỏi bệnh, là bởi ta thiếu lòng tin. Trong mỗi Thánh lễ, chúng ta đọc lời, “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh.” Hoặc là chúng ta không biết mình mắc bệnh gì cần được chữa khỏi. Hoặc là chúng ta không tin vào sự hiện diện và quyền năng của Chúa Giêsu.
Dẫu sao, hôm nay cũng như trong những ngày còn rao giảng Phúc âm, Chúa Giêsu đều nói với chúng ta rằng Cha chúng ta vẫn chăm sóc ta trong mọi giây phút cuộc đời, rằng phép lạ vẫn xảy ra thường ngày để chữa lành những tật bệnh của ta nếu ta biết chú ý đến tình yêu của Người. Đó là tình yêu khiến ta được an bình thanh thản, mang lại cho ta ơn lành mạnh tâm hồn, hơn là sức khỏe phần xác.
Suy Niệm 5: Giáo Hội vì người nghèo
Mẹ Têrêxa Calcutta nổi tiếng trên khắp thế giới không phải ngài là một người giỏi giang, cũng không phải nơi mẹ có những điểm hấp dẫn về nhan sắc... Tuy nhiên, mẹ trở nên một người có thể làm đảo lộn thế giới chỉ vì tình yêu rất lớn của mẹ dành cho người nghèo và những người bện tật, đến nỗi có những ngày các nữ tu trong dòng của mẹ phải nấu thức ăn cho khoảng 7 ngàn người, và cả những người phải cung cấp lương thực, có lúc lên đến 9 ngàn người.
Chúng ta còn nhớ ngày mẹ lìa cõi trần, nhiều nguyên thủ quốc gia đã tuyên bố quốc tang, nhiều bài phát biểu bày tỏ sự ngưỡng mộ được phát đi với những lời lẽ hết sức xúc động như: “Từ nay, thế giới bớt tình thương hơn”; hay: “Hôm nay, người nghèo mất đi một người mẹ yêu thương, người bạn đồng hành...”.
Hôm nay, bài Tin Mừng cũng thuật lại cho chúng ta khái quát về những hoạt động của Đức Giêsu. Ngài làm việc không biết mệt mỏi, đi đến đâu là thi ân giáng phúc tới đó.
Đối tượng mà Đức Giêsu nhắm đến để phục vụ chính là những người nghèo. Vì họ mà Ngài chấp nhận quên ăn, quên ngủ, bất chấp bị quấy rầy, bởi Ngài thấy được những vấn đề cấp thiết mà họ đang mong đợi.
Ngày nay, Giáo Hội của Đức Giêsu, không có con đường nào khác để loan báo về Đức Giêsu tốt hơn cho bằng lựa chọn người nghèo, người sống bên lề, vùng biên của xã hội.
Nếu Giáo Hội quên đi điểm căn cốt, bản lề này, thì Giáo Hội đánh mất đi bản chất và ý nghĩa của sự hiện diện.
Tuy nhiên, điều chúng ta đặt ra là: trong khi phục vụ, chúng ta có thái độ nào với họ? Phải chăng là trưởng giả, hay chỉ phục vụ gián tiếp? Không! Phục vụ như Chúa, đến để phục vụ chứ không phải được phục vụ. Tinh thần Kitô giáo không chấp nhận phục vụ hình thức, hay trên môi miệng, hoặc chỉ dừng lại nơi tư duy mà không đi đến hành động cụ thể!
Lạy Chúa Giêsu, xin thương ban cho chúng con mặc lấy tâm tư của Chúa. Sẵn sàng trở nên điểm tựa và niềm hy vọng cho những ai cần sự giúp đỡ của chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu đã chữa lành tất cả các bệnh nhân đến gặp Chúa. Chúa đang đi qua cuộc đời ta, cần phải biết gặp Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, thật diễm phúc cho con. Con là người phàm hèn đầy những giới hạn và tật nguyền nơi thân xác và trong linh hồn, nhưng con có Chúa là thầy thuốc tuyệt vời. Không ai đến với Chúa mà không được chữa lành. Đặc biệt tội lỗi đã làm cho con ra yếu đuối, tê bại, chết đuối trong bể khổ. Con muốn học ở nơi những người Ghen-nê-xa-rét mà mau mắn và tin tưởng đến cùng Chúa.
Trong các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể và bí tích Giải Tội. Chúa hằng ban ơn sự sống đời đời cho con. Nhưng con lại dễ dàng chạy tìm an ủi và khoái lạc trần tục chóng qua. Trong khi ấy, chỉ mình Chúa mới ban cho con hồng ân được mạnh khỏe thiêng liêng và sống đời đời.
Con thành thật thưa cùng Chúa rằng: đức tin con còn quá yếu đuối. Con để cho tiếng nói của thế gian, xác thịt và ma quỷ lấn át mất tiếng Chúa. Vì quá yếu tin, nên con khó nghe được tiếng nói tình thương của Chúa. Con thấy chán ngán khi nghe Lời Chúa. Và con không thấy hấp dẫn đến cùng Chúa mỗi ngày.
Lạy Chúa, mọi người tật nguyền bệnh hoạn đã đến cùng Chúa và đã được chữa lành. Nay con đến với Chúa mang theo mọi tật nguyền của đời con. Xin Chúa cứu chữa con. Xin làm cho con nên mạnh mẽ nhất là về đàng thiêng liêng. Xin cho con cảm mến được sự thích thú khi dừng chân ngồi bên Chúa để nghe Chúa nói và để được chữa lành. Xin cho con hằng biết về bên Chúa để được Chúa gia tăng lòng mến Chúa mỗi ngày một nhiều hơn. Amen.
Ghi nhớ: “Tất cả những ai chạm tới Người, đều được khỏi bệnh”.
Suy Niệm 7: Chữa bệnh của Chúa Giêsu, tại Giênêsarét
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Bác sĩ Longet người Pháp đã từng phục vụ ở Việt Nam cách đây mấy mươi năm (và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tom Dooley người Mỹ đã phục vụ ở Đông Nam Á). Ông tận tụy săn sóc, yêu thương các bệnh nhân trong bệnh viện mình, bất kể giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, ngày cũng như đêm…
Mỗi sáng, khi đi dự lễ bệnh nhân lương giáo ai muốn đi, ông đều cho đi. Mỗi chiều Chúa nhật, ông lại cho các bệnh nhân đi chơi, tham quan nơi này, nơi nọ. Và mỗi tối, ông lần chuỗi chung với bệnh nhân Công giáo. Vì là người Pháp, ông chỉ thuộc các kinh Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng danh đủ để lần hạt chung với họ là những người khác quốc tịch.
Ít lâu sau, Longet trở về lại Pháp, vào chủng viện dâng mình làm linh mục và tình nguyện sang phục vụ những người nghèo khổ nhất ở giáo phận Cần Thơ. Nhưng tiếc thay, sau khi chịu chức, ông bị bệnh và qua đời trước khi tới nơi mong ước.
Suy niệm
Tin Mừng hôm nay nói về việc chữa bệnh của Chúa Giêsu, tại Giênêsarét. Theo thánh sử Luca, sự việc xảy ra sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi đám đông dân chúng hơn 5000 người, và Ngài đã khống chế sự dữ trên biển cả khi thuyền của các tông đồ bị chao đảo, bị sóng dập vùi…
Chứng kiến phép lạ hóa bánh ra nhiều của Ngài, dân chúng tìm đến với Chúa Giêsu để xin được chữa lành những căn bệnh… Họ đặt những bệnh nhân nằm la liệt bên các vệ đường, nơi mà Ngài sẽ đi ngang qua, được Ngài đặt tay trên mình hoặc được đụng chạm đến tua áo Ngài là họ được chữa lành. Trong văn hóa Sêmít, y phục tượng trưng cho chính bản thân con người. Khi đụng đến áo của người nào là ta tiếp xúc đến chính bản thân người đó. Qua đó, tác giả muốn khẳng định từ thân thể Chúa toát ra một uy quyền thần linh cứu độ (x. Mc 6,56) và ân sủng này vượt quá những điều trị thể lý thông thường.
Chúa Giêsu theo một chương trình duy nhất, là rao giảng Tin Mừng và làm cho nước Trời hiện diện cụ thể trong đời sống con người. Ðối tượng phục vụ của Ngài là tất cả mọi người, ưu tiên cho người nghèo, người đau khổ và nhu cầu của họ. Ngài đã thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng cứu độ một cách hoàn hảo: Loan báo Tin Mừng bằng cả lời nói và hành động cụ thể cho thấy sức mạnh Tin Mừng: Ngài chữa lành mọi bệnh tật, khai trừ tội lỗi và giải thoát con người khỏi ách thống trị của sự dữ là ma quỷ.
Xin vì tình thương và lòng trắc ẩn của Chúa đã chạnh lòng thương dân Do Thái năm xưa, xin Chúa cũng thương chữa lành những căn bệnh thể lý và tinh thần của chúng ta hôm nay.
Ý lực sống
“Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1,50).
Suy Niệm 8: Chúa chữa lành các bệnh nhân
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Khi Chúa Giêsu vừa lên bờ đến miền dân ngoại là Ghenêxaret, người ta đã nô nức kéo nhau đến với Chúa. Khi người đi đến đâu thì người ta cũng khiêng những người bệnh tật đến đấy, xin cho chạm vào áo Người. Tất cả những ai được chạm vào áo Người đều được khỏi bệnh. Chúa Giêsu luôn tỏ ra yêu thương và quan tâm đến con người, nhất là những người đau khổ và yếu đuối. Không ai đến với Người mà phải thất vọng.
2. Sự hiện diện của Chúa Giêsu.
Chúng ta vẫn thường hát: “Đâu có tình yêu thương, ở đấy có Đức Chúa Trời, đâu có lòng từ bi, ở đấy có ân sủng Người...” Phải, nơi nào có Chúa, nơi đó có niềm vui, bình an, trông cậy và chữa lành. Cụ thể là như bài Tin Mừng hôm nay nói tới, Chúa Giêsu có mặt ở đâu, thì người ta chen nhau tới với Người để được ân sủng Người chữa lành. Sự hiện diện của Chúa Giêsu là sự hiện diện của tình yêu và lòng bác ái. Ngài gần gũi và quan tâm đến con người, đặc biệt những người đau khổ và yếu đuối.
Thế nên, Chúa Giêsu mời gọi mọi người chúng ta sống chiều kích hiện diện đầy yêu thương, đem đến bình an và thực thi đức bác ái, hầu xoa dịu sự đau khổ của kiếp người. Chính sự hiện diện đó làm cho mọi người cảm kích mà chạy đến với Chúa, tựa như bông hoa tỏa hương thu hút muôn loài đến với nó.
3. Lúc bệnh và đau khổ là lúc người ta dễ hướng về Chúa.
Người hấp hối than thở với Cha sở rằng chẳng cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa. Cha sở lấy một chiếc ghế đặt bên cạnh, rồi bảo ông hãy nghĩ rằng Chúa Giêsu đang ngồi đó, hãy đặt tay mình trên tay Ngài trên thành ghế. Người đó làm theo và cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa. Mấy hôm sau, được tin ông qua đời, Cha sở đến thăm và thấy tay ông vẫn còn đặt trên bàn tay vô hình ở thành ghế (Góp nhặt).
4. “Người ta cũng đặt kẻ đau ốm ở ngoài chợ và xin Chúa Giêsu cho họ được chạm đến tua áo choàng của Người; và bất cứ ai chạm đến, thì được khỏi” (Mc 6,56).
Ngày quốc tế bệnh nhân được thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II thiết lập liên kết với ngày lễ kính Đức Mẹ tại Lộ Đức, nơi khách hành hương tuôn đến xin chữa bệnh và chứng kiến những phép lạ chữa lành. Chính Ngài cũng chứng nhận về những ơn lạ Thiên Chúa ban cho trong những đau đớn thương tích của Ngài. Kinh nghiệm được chữa lành như thế cũng là kinh nghiệm về tình yêu của Thiên Chúa, bởi mọi sự chữa lành đều phát xuất từ lòng thương xót của Thiên Chúa.
Nói cách khác, lòng thương xót là phương dược Thiên Chúa chữa lành mọi cơn đau đớn bệnh tật của con người. Bất cứ ai chạm đến Chúa đều được khỏi. Niềm tin vững mạnh đó càng thôi thúc bệnh nhân mọi thời nài xin Mẹ khẩn cầu Chúa thương chữa lành những ai đang đau đớn thể xác, tinh thần và linh hồn, những người đang đối mặt với bệnh tật. Tình yêu của Chúa chữa lành bệnh nhân, tình yêu của Mẹ khẩn nài cho bệnh nhân (5 phút Lời Chúa).
5. Tất cả đều cảm thấy “cần đến Chúa” cho nên họ đã đích thân đến với Chúa và Chúa đã không phụ lòng mong ước của họ.
Một ngày kia, có một nhà lãnh đạo Trung hoa theo Kitô giáo đến thăm Hoa Kỳ. Sau khi nghe ông nói chuyện tại một buổi hội họp, một sinh viên hỏi: “Tại sao nước ông đã có Khổng Tử mà còn muốn có Kitô giáo nữa”?
Ông đáp: “Có ba lý do:
- Thứ nhất: Khổng Tử là một vị tôn sư, còn Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Chúng tôi cần Đấng Cứu Thế hơn là cần vị tôn sư.
- Thứ hai: Khổng Tử đã chết, Đức Kitô vẫn đang sống, chúng tôi cần một Đấng Cứu Thế đang sống chứ không cần một người đã chết.
- Thứ ba: Khổng Tử cũng có ngày chịu phán xét, chúng tôi cần biết Đức Kitô là Đấng Cứu Thế trước khi là vị thẩm phán”.
6. Truyện: Hãy đến với Chúa ngay đi.
June là một em bé 5 tuổi xinh đẹp và lanh lợi. Cha của em là một mục sư. Mẹ em mỗi khi đi đâu thường cho em theo. Ngày nọ, khi hai mẹ con vào bưu điện, một ông lão thấy em liền nói:
- Này bé, ai cho bé mái tóc đẹp thế?
- Chúa cho cháu đó!
Nói xong bé nhìn thẳng vào ông hỏi:
- Thế ông có được Chúa cho gì không? Có được Chúa cứu không?
Ông già kinh ngạc và xúc động trước câu hỏi đơn sơ đó. Ông thẫn thờ đáp:
- Không, bé ạ!
- Thế thì ông phải đến với Chúa ngay đi. Rồi Chúa sẽ cho ông thành một người thật đẹp đẽ!
Nói xong, bé vội chạy theo mẹ. Ít tuần sau, người ta thấy ông tìm đến nhà thờ và xin theo đạo. Ông cho biết lời của em bé luôn ám ảnh trong đầu và ông quyết định theo Chúa.
Suy Niệm 9: Sức thu hút mãnh liệt của Chúa Giêsu đối với dân chúng
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống...)
Trong bốn câu rất ngắn gọn, thánh Mác-cô đã mô tả sức thu hút mãnh liệt của Chúa Giêsu đối với dân chúng:
- ”Họ rảo qua khắp vùng ấy, và nghe tin Ngài ở đâu thì bắt đầu cáng bệnh nhân tới đó”
-“Ngài đi tới đâu…người ta cũng đặt kẻ ốm đau ở ngoài đường ngoài chợ, và xin Ngài cho ít là được chạm đến tua áo cuả Ngài. Và bất cứ ai chạm đến là được khỏi.”
B. Suy niệm (...nẩy mầm)
1. Có thể tìm được hai lý do để giải thích sự thu hút này:
- Dân chúng có những nhu cầu Chúa Giêsu có khả năng đáp ứng những nhu cầu đó.
Diễn viên Lê Công Tuấn Anh có tất cả những thứ mà bất cứ người trẻ nào cũng mơ ước. Nhưng anh cũng có những nhu cầu và những đau khổ thâm sâu mà không ai giúp anh được. Anh chết vì không tìm được Đấng giúp anh.
2. “Bất cứ ai chạm đến đều được khỏi”. Nếu tôi thực sự chạm đến Chúa, chắc chắn tôi cũng được khỏi những bệnh tật linh hồn tôi.
3. Lúc bệnh tật và đau khổ là lúc người ta dễ hướng về Chúa nhất.
4. Người hấp hối than thở với Cha sở rằng chẳng cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa. Cha sở lấy một chiếc ghế đặt bên cạnh, rồi bảo ông hãy nghĩ rằng Chúa Giêsu đang ngồi đó, hãy đặt tay mình trên tay Ngài trên thành ghế. Người đó làm theo và cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa. Mấy hôm sau, được tin ông qua đời, Cha sở đến thăm và thấy tay ông vẫn còn đặt trên bàn tay vô hình ở thành ghế. (Góp nhặt)
5. Nghe tin Người ở đâu, họ bắt đầu cáng bệnh nhân đến đó…và bấy cứ ai chạm đến Người thì đều được khoải” (Mác-cô 6,55-56)
Một cảnh tượng tuyệt đẹp và đầy xúc động, đẹp ở sự chủ động của đám đông, xúc động vì lòng tin vững vàng của họ. Họ đã không đòi hỏi gì hơn là được chạm đến tua áo người, và mong được chữa khỏi.
Sự kiện đó khiến tôi liên tưởng ngay đến câu chuyên về họa sỹ Holman Hunt. Ông đã vẽ một bức tranh trong đó Chúa Giêsu đang đứng gõ của một ngôi nhà. Nhưng điểm khác thường ở đây là cánh cửa đó không có tay cầm và cũng không có ổ khóa, và vì thế cánh cửa đó chỉ có thể mở bên trong.
Đám đông dân chúng nay đã tự mở cánh cửa lòng mình cho Đấng chữa lành, và vì thế họ đã được khỏi bệnh.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, lòng con đầy dẫy những ích kỷ tự kiêu, đam mê….hay có khi mặc cảm, chống đối và than van. Xin cho con biết mở lòng để có thể chạm đến Chúa. (Epphata)
Suy Niệm 10: Chúa không phụ lòng mong ước của người cần đến
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
Tin Mừng hôm nay chỉ có bốn câu rất ngắn gọn, vậy mà thánh Marcô đã mô tả cho chúng ta thấy được sức thu hút mãnh liệt của Chúa Giêsu đối với dân chúng:
- Họ rảo qua khắp vùng ấy, và nghe tin Ngài ở đâu thì bắt đầu cáng bệnh nhân tới đó (Mc 6,55).
- Ngài đi tới đâu người ta cũng đặt kẻ ốm đau ở ngoài đường ngoài chợ, và xin Ngài cho ít là được chạm đến tua áo cuả Ngài. Và bất cứ ai chạm đến là được khỏi (Mc 6,56).
1. Có thể tìm được hai lý do để giải thích sự thu hút này:
* Dân chúng có những nhu cầu và Chúa Giêsu có khả năng đáp ứng lại những nhu cầu đó.
Trong Tin Mừng chúng ta thấy có rất nhiều trường hợp như thế:
Viên trưởng Hội đường với đứa con gái sắp chết đang nằm trên giường. Họ cần đến Chúa.
Người đàn bà bị mắc bệnh bại huyết 12 năm, chạy thầy chạy thuốc đến tán gia bại sản mà vẫn không khỏi.
Viên bách quan đội trưởng với tên đầy tớ bị đau không thể nào chữa khỏi.
Tất cả đều cảm thấy cần đến Chúa cho nên họ đã đích thân đến với Chúa và Chúa đã không phụ lòng mong ước của họ.
Một ngày kia có một nhà lãnh đạo Trung Hoa theo Kitô-giáo đến thăm Hoa Kỳ. Sau khi nghe ông nói chuyện tại một buổi hội họp, một sinh viên hỏi: “Tại sao nước ông đã có Khổng Tử mà còn muốn có Kitô-giáo nữa? “
Ông đáp: “Có ba lý do: Thứ nhất: Khổng Tử là một vị tôn sư, còn Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế. Chúng tôi cần Đấng Cứu Thế hơn là cần vị tôn sư. Thứ hai: Khổng Tử đã chết, Đức Kitô vẫn đang sống, chúng tôi cần một Đấng Cứu Thế đang sống chứ không cần một người đã chết. Thứ ba: Khổng Tử cũng có ngày chịu phán xét, chúng tôi cần biết Đức Kitô là Đấng Cứu Thế trước khi là vị thẩm phán.
2. “Nghe tin Người ở đâu, họ bắt đầu cáng bệnh nhân đến đó và bất cứ ai chạm đến Người thì đều được khỏi” (Mc 6,55-56).
Một cảnh tượng tuyệt đẹp và đầy xúc động, đẹp ở sự chủ động của đám đông, xúc động vì lòng tin vững vàng của họ. Họ đã không đòi hỏi gì hơn là được chạm đến tua áo người, và mong được chữa khỏi.
Nếu đọc kỹ Tin Mừng chúng ta thấy chẳng một người nào tin tưởng tìm đến với Chúa mà lại phải về tay không. Rất nhiều người đã được những ơn ngoài sự mong ước của họ. Xin kể ra một vài thí dụ điển hình:
- Giakêu người thu thuế một con người chỉ mong được nhìn thấy Chúa thôi, thế mà Chúa đã đích thân đến tận nhà và Chúa bảo: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ” (Lc 19,9). Thật là ngoài sự mong ước và tưởng tượng của ông.
- Bathôlômêo một người Pharisêu chính hiệu, đã lén lút tìm đến với Chúa ban đêm và chỉ sau một lần gặp gỡ, ông đã thay đổi hẳn. Trong cuộc xử án Chúa, đang lúc mọi người hăng say yêu cầu kết án thì một mình ông đứng ra bênh vực cho Chúa.
- Đẹp nhất là người trộm lành. Chỉ một lời van xin vậy mà anh đã chiếm được cả Nước Thiên Đàng.
Họa sỹ Holman Hunt đã vẽ một bức tranh rất lạ đời. Ông vẽ Chúa Giêsu đang đứng gõ của một ngôi nhà. Điểm khác thường ở đây là cánh cửa đó không có tay cầm và cũng không có ổ khóa, và vì thế cánh cửa đó chỉ có thể mở từ bên trong. Ngụ ý ông muốn nói rằng, cho dù người bên ngoài có muốn vào thì cũng chẳng làm sao mà vào được nếu người ở bên trong không mở cửa cho.
Đám đông dân chúng trong bài Tin Mừng hôm nay thì không như thế. Họ đã mở toang cánh cửa lòng họ cho Đấng chữa lành, và vì thế họ đã được khỏi bệnh.
June là một em bé 5 tuổi xinh đẹp và lanh lợi. Cha của em là một mục sư. Mẹ em mỗi khi đi đâu, thường cho em theo. Ngày nọ, khi hai mẹ con vào bưu điện, một ông lão thấy em liền hỏi:
- Này bé, ai cho bé mái tóc đẹp thế?
- Chúa cho cháu đó!
Nói xong bé nhìn thẳng vào ông hỏi:
- Thế ông có được Chúa cho gì không? Có được Chúa cứu không?
Ông già kinh ngạc và xúc động trước câu hỏi đơn sơ đó. Ông thẫn thờ đáp:
- Không, bé ạ!
- Thế thì ông phải đến với Chúa ngay đi. Rồi Chúa sẽ cho ông thành một người thật đẹp đẽ!
Nói xong, bé vội chạy theo mẹ. Ít tuần sau, người ta thấy ông tìm đến nhà thờ và xin theo đạo. Ông cho biết lời của em bé luôn ám ảnh trong đầu và ông quyết định theo Chúa.
Lạy Chúa,
Xin ở lại với con,
vì con cần có Chúa hiện diện
để con khỏi quên Chúa.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con yếu đuối,
con cần Chúa đỡ nâng để con khỏi ngã quỵ.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn,
cuộc đời qua đi, vĩnh cửu đang gần đến.
Xin ở lại với con
vì con chỉ tìm Chúa, yêu Chúa
để được yêu Chúa nhiều hơn. Amen.
06/02 Kẻ chinh phục con người
- Viết bởi Lc 5, 1-11
Kẻ chinh phục con người.
CHÚA NHẬT 5 THƯỜNG NIÊN Năm C.
"Các ông đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người".
Lời Chúa: Lc 5, 1-11
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, dân chúng chen nhau lại gần Ðức Giêsu để nghe lời Thiên Chúa, lúc đó Người đứng ở bờ hồ Giênêsarét. Người trông thấy hai chiếc thuyền đậu gần bờ; những người đánh cá đã ra khỏi thuyền và họ đang giặt lưới. Người xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Simon, và Người xin ông đưa ra khỏi bờ một chút. Rồi Người ngồi trên thuyền, giảng dạy dân chúng.
Vừa giảng xong, Người bảo ông Simon rằng: "Hãy đẩy thuyền ra chỗ nước sâu, và thả lưới bắt cá". Ông Simon thưa Người rằng: "Thưa Thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết; nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới". Các ông đã thả lưới và bắt được rất nhiều cá; lưới các ông hầu như bị rách. Bấy giờ các ông làm hiệu cho các bạn đồng nghiệp ở thuyền bên cạnh đến giúp đỡ các ông. Những người này tới, họ đổ cá đầy hai chiếc thuyền, đến nỗi những thuyền chở nặng gần chìm.
Thấy thế, ông Simon sụp lạy dưới chân Chúa Giêsu và thưa Người rằng: "Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi". Ông kinh ngạc và tất cả mọi người ở đó với ông cũng kinh ngạc trước mẻ cá mà các ông vừa mới bắt được; cả ông Giacôbê và Gioan, con ông Giêbêđê, bạn đồng nghiệp với ông Simon cũng thế.
Nhưng Chúa Giêsu phán bảo ông Simon rằng: "Ðừng sợ hãi: từ đây con sẽ là kẻ chinh phục người ta". Bấy giờ các ông đưa thuyền vào bờ, và đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
CHÚA NHẬT 5 THƯỜNG NIÊN C
Lời Chúa: Is 6,1-2a.3-8; 1Cr 15,1-11; Lc 5,1-11
1. Từ nay anh sẽ bắt người--Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
Chẳng ai ngờ cuộc đời Simon có thể chuyển hướng.
Ông đã có nghề nghiệp ổn định và đã lập gia đình.
Thế giới của ông là hồ Ghênêxarét,
là những con cá quẫy đuôi trong lưới,
là gia đình cần phải chăm nom.
Ông yêu vợ con, ông yêu biển cả.
Chúa đã đặt ông vui sống trong thế giới ấy,
nên chỉ có Ngài mới có thể kéo ông ra,
và bất ngờ đưa ông vào một thế giới mới,
một đại dương bao la hơn nhiều,
một gia đình rộng lớn hơn vạn bội.
Chỉ Chúa mới có thể làm trái tim ông say mê một Ai khác,
yêu một Ai đó hơn những người ông đã từng yêu.
Đức Giêsu đã đến với Simon thật tự nhiên.
Ngài chọn thuyền của ông làm nơi giảng dạy.
Sau đó Ngài mời ông thả lưới bắt cá,
Simon có nhiều lý do để khước từ.
Ông có thể nhân danh kinh nghiệm của mình
để thấy tốt hơn nên chờ dịp khác,
hay nại lý do mệt mỏi, sau một đêm ra khơi.
Nhưng Simon đã vâng lời, chỉ vì tin Lời Thầy Giêsu,
Lời đầy quyền uy, Lời trừ được quỷ (Lc 4,30).
Lời mạnh mẽ đã chữa cho mẹ ông khỏi bệnh (4,39).
Mẻ cá lạ lùng, mẻ cá chỉ có trong mơ.
Mẻ cá làm Simon run rẩy nhận ra mình tội lỗi,
và nhận ra Đấng ở gần bên.
Mẻ cá bất ngờ mở đường cho một lời mời gọi mới:
"Đừng sợ, từ nay anh sẽ thành kẻ bắt người."
Simon lại có nhiều lý do hơn để từ chối.
Chuyện gia đình bề bộn, tương lai bấp bênh.
Kẻ quen bắt cá đâu có khả năng bắt người.
Kẻ tội lỗi đâu xứng với sứ mạng.
Nhưng một lần nữa, Simon dám tin vào Lời Chúa,
để cho Chúa tự do lôi kéo mình.
Ông đã bỏ lại bao điều ông yêu mến.
Khi bỏ lại hai thuyền đầy cá,
ông tin rằng những mẻ cá mới đang đợi ông.
Chúa vẫn gọi tôi ra khỏi lối mòn quen thuộc,
khỏi những điều tưởng như không thể đổi.
Tôi có sẵn sàng lên đường theo Ngài không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Nghe theo tiếng Chúa, buông lưới và gặt hái được một kết quả không ngờ: có khi nào trong đời, bạn có một kinh nghiệm tương tự như kinh nghiệm của Simon không?
Theo ý bạn, để sống cho tha nhân, điều gì là khó bỏ hơn cả?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,
một người đánh cá ít học và đã lập gia đình,
để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong manh,
để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa,
sống cho Chúa, đặt Chúa lên trên mọi sự:
gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối
viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn, đến những nơi bất ngờ,
vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon,
bỏ mái nhà êm ấm để lên đường,
hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
2. Dựa vào lời Thầy--Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
Simon là một giáo dân, có gia đình, có nghề nghiệp.
Cuộc đời ông tưởng như chẳng thể nào đổi thay.
Vậy mà ông ngư phủ bộc trực và ít học này
lại lọt vào cặp mắt của Đức Giêsu.
Ngài đã từng đến nhà chữa bệnh cho bà mẹ vợ của ông.
Chắc ông cũng đã có lần nghe Ngài giảng
và thấy một số phép lạ Ngài làm.
Đôi bên đã quen biết nhau qua nhiều mối liên hệ đời thường,
nên Đức Giêsu rất tự nhiên xuống thuyền của Simon,
và từ thuyền, Ngài giảng cho đám đông lời Thiên Chúa.
Khi giảng xong, Ngài bảo ông thả lưới chỗ nưóc sâu.
Đây thật là một thách đố lớn cho Simon.
Kinh nghiệm dân chài cho ông biết
nếu đêm không có cá thì đánh cá ban ngày cũng uổng công.
Vả lại ông và các bạn đã mệt nhoài sau một đêm vất vả.
Lưới đã được giặt và đem phơi...
Nhưng Simon còn có một kinh nghiệm khác,
kinh nghiệm về sức mạnh của Lời Đức Giêsu.
Lời đầy uy quyền, lời đuổi được ma quỷ,
lời chữa cho mẹ vợ ông.
Thế nên, giờ đây ông dám dựa vào lời Thầy mà thả lưới.
Mẻ cá sau đó là lời đáp của Thầy trước niềm tin của ông.
Điều mà ông đã vất vả tìm kiếm thì không gặp.
Còn khi chẳng cố gắng mấy thì lại được dư tràn.
Tràn trề dư dật là dấu hiệu của bàn tay Thiên Chúa.
Qua mẻ cá kinh khủng, Đức Giêsu tỏ mình cho ông.
Ngài cho ông gặp Ngài và gặp bản thân mình.
Chính lúc đó ông cảm được khoảng cách giữa mình với Chúa.
Ông thú nhận mình là tội nhân trước mặt Đấng Thánh.
Nhưng khi ông muốn Ngài tránh xa ông,
thì Ngài lại đến gần ông để trao sứ mạng.
Ngài mở đời ông sang một trang mới:
"Từ nay, anh sẽ bắt sống người ta."
Không phải bắt để làm chết như bắt cá,
nhưng bắt để đưa vào cuộc sống mới.
Simon đã trải qua một chuỗi kinh nghiệm với Đức Giêsu:
kinh nghiệm quen biết, kinh nghiệm bị thách đố trong niềm tin,
kinh nghiệm thấy Chúa tỏ mình mình chói lòa qua mẻ cá lạ,
kinh nghiệm được gọi và kinh nghiệm đáp trả.
Kinh nghiệm trước dẫn đến kinh nghiệm sau.
Gặp Đức Giêsu là bước vào một cuộc đối thoại.
Chỉ cần đứt một mắt xích là tương quan đổ vỡ.
Simon cứ lớn dần lên sau mỗi bước của lòng tin.
Tin đòi vượt trên lối suy luận thông thường,
vượt trên kinh nghiệm, vượt trên mệt mỏi của xác thân.
Tin đòi tôi ra khơi buông lưới thêm một lần nữa.
Tin đòi tôi bỏ lại tất cả để theo Chúa.
Bỏ tất cả là đặt tất cả dưới Chúa
và sử dụng tất cả trong Ngài.
Hôm nay, Đức Giêsu vẫn cần các giáo dân cộng tác.
Tôi có dám bước vào chuỗi kinh nghiệm như Simon không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Có nhiều người đi lễ, nhưng ít người nghe được tiếng mời gọi cộng tác của Đức Giêsu.
Bạn có thấy vai trò quan trọng của giáo dân trong Hội Thánh không? Họ có thể làm gì và phải làm gì?
Cuộc đời Kitô hữu của bạn có những đêm vất vả mà không được gì.
Bạn đã làm gì để giữ vững niềm tin trong giai đoạn ấy?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,
một người đánh cá ít học và đã lập gia đình,
để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong manh,
để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa,
sống cho Chúa, đặt Chúa lên trên mọi sự:
gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối
viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn, đến những nơi bất ngờ,
vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon,
bỏ mái nhà êm ấm để lên đường,
hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
3. Đào tạo tông đồ--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật về mẻ cá lạ lùng mà Phêrô và các bạn được chứng kiến. Đây khám phá chỉ đơn thuần là một phép lạ lớn lao cho ta ngưỡng phục quyền năng của Thiên Chúa. Nhưng qua dấu lạ này, Chúa Giêsu còn muốn mời gọi ta ra khơi truyền giáo. Và qua tiến trình của phép lạ, Chúa Giêsu đã áp dụng một chương trình đào tạo các môn đệ, đặc biệt là Phêrô, người đứng đầu các môn đệ. Chương trình đào tạo này gồm 4 điểm.
Điểm thứ nhất: cảm nghiệm về sự nghèo nàn của bản thân. Phêrô và các bạn đang giặt lưới. Các ông mệt mỏi sau một đêm thức trắng vật lộn với biển khơi. Tâm trạng các ông chán nản sau thất bại chua cay não nề. Thế mà giờ đây, Chúa Giêsu lại bảo các ông ra khơi. Ra tận chỗ nước sâu. Nước sâu là chỗ nguy hiểm. Nước sâu là chỗ Phêrô gặp thất bại. Chúa Giêsu muốn Phêrô trở lại chỗ nước sâu để nhận thức rõ sự vô tài bất lực của bản thân. Chúa Giêsu muốn Phêrô nhìn rõ những thất bại để ông biết khiêm nhường. Khiêm nhường là bài học đầu tiên Chúa Giêsu muốn gửi đến các môn đệ của Người.
Điểm thứ hai: cảm nghiệm về sự cao cả của Thiên Chúa. Người tông đồ phải làm chứng về Thiên Chúa. Muốn làm chứng phải có kinh nghiệm. Ai chưa từng gặp được Thiên Chúa, chưa từng tiếp xúc với Người thì không thể làm chứng về Người. Trong những trường hợp đặc biệt, Thiên Chúa thường chủ động tỏ mình ra. Chúa tỏ mình cho Môsê trong bụi gai cháy đỏ. Chúa tỏ mình ra cho thánh Phaolô qua làn ánh sáng chói lọi trên đường đi Đa mát. Hôm nay Chúa tỏ mình ra cho Phêrô qua mẻ lưới lạ lùng. Lập tức Phêrô nhận biết sự cao cả, sự thánh thiện của Chúa. Sợ hãi vì thấy mình tội lỗi, Phêrô vội quỳ xuống xin Chúa rời xa. Phêrô đã sống bên cạnh Chúa. Ông đã được tiếp xúc với Chúa. Ông đã cảm nghiệm được sự thánh thiện cao cả của Chúa. Sau này ông đi rao giảng chỉ là để kể lại những gì ông đã mắt thấy tai nghe.
Điểm thứ ba trong chương trình đào tạo môn đệ của Chúa đó là sự vâng lời tuyệt đối. Phêrô hẳn là rất ngạc nhiên khi Chúa Giêsu bảo ông ra khơi đánh cá, lại còn chỉ rõ nơi thả lưới. Không ngạc nhiên sao được khi Phêrô là người miền biển trong khi Chúa Giêsu là người miền núi. Phêrô làm nghề chài lưới lâu năm kinh nghiệm trong khi Chúa Giêsu chỉ làm nghề thợ mộc. Thế mà khi Chúa Giêsu bảo ông thả lưới bên phải thuyền, ông đã tăm tắp làm theo. Phêrô đã vâng lời tuyệt đối. Phêrô đã học được thái độ vâng lời của người môn đệ. Ông đã thành công. Ông đã thấy kết quả rõ ràng. Và Chúa đã đặt ông làm tông đồ trưởng.
Điểm sau cùng mà Chúa muốn người môn đệ phải có đó là sẵn sàng ra đi. Ra đi là một thái độ liều lĩnh. Vì vượt qua những khoảng không gian vật lý cheo leo. Ra khơi là chấp nhận đối đầu với phong ba bão táp.
Vượt qua những khoảng không gian vật lý đã khó. Vượt qua những khoảng không gian tâm lý còn khó hơn. Ra đi là bỏ nơi an toàn để đến nơi bấp bênh. Ra đi là bỏ nơi quen biết để đến nơi xa lạ. Lên đường truyền giáo là bỏ lại tất cả: gia đình, thuyền bè, chài lưới. Bỏ cả nghề nghiệp cũ đã thành thạo để bắt tay vào nghề mới còn chập chững. Bỏ lưới cá để chài người.
Nhưng khó nhất chính là ra khỏi chính mình. Dù có đi xa ngàn dặm nhưng vẫn giữ được những thói tật xưa cũ thì người ta vẫn còn ở khởi điểm. Muốn lên đường người môn đệ phải ra khỏi tính tự ái tự mãn của mình. Ra khỏi những quan niệm xưa cũ hẹp hòi. Ra khỏi những ảo tưởng viễn vông. Ra khỏi những ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân.
Khi đã từ bỏ tất cả, người môn đệ sẽ trở nên hoàn toàn nghèo nàn. Gia tài chỉ có niềm cậy tin phó thác hoàn toàn vào Đấng kêu gọi ta. Vũ khí chỉ có lòng vâng phục tuyệt đối vào Đấng sai ta.
Mỗi người được Chúa huấn luyện. Bao lâu ta chưa cảm nghiệm được sự hèn kém của bản thân, chưa cảm nghiệm được sự thánh thiện cao cả cũng như tình yêu của Thiên Chúa, chưa có niềm vâng phục tuyệt đối, chưa ra đi trong tự do và khó nghèo, ta vẫn chưa thực sự trở thành môn đệ của Chúa. Chưa được đào tạo kỹ lưỡng mà đã làm việc thì phần thành công chắc chắn sẽ ít hơn phần thất bại.
Lạy Chúa, xin hãy dạy bảo con theo đường lối của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn có tuyệt đối vâng lời Chúa trong mọi hoàn cảnh không?
2. Bạn có cảm nghiệm về sự vô tài bất lực của mình không?
3. Bạn đã ra đi khỏi chính mình chưa?
4. Bạn có cảm thấy Chúa có chương trình đào tạo mình không?
4. Chúa gọi các Tông Ðồ--Giải Nghĩa Lời Chúa--GM Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
Tiếp tục chương trình của những Chúa nhật mở đầu mùa Thường Niên day dỗ chúng ta về những bước đầu trong cuộc đời truyền đạo của Chúa Giêsu, bài Tin Mừng Luca hôm nay nói đến việc Chúa chọn những tông đồ đầu tiên. Bài Cựu Ước được dùng để báo trước vấn đề này là đoạn sách Isaia kể lại việc Chúa gọi nhà tiên tri. Các tông đồ ngày nay ở trong Hội Thánh tiếp nối công việc của những người được Chúa chọn trong Cựu Ước cũng như Tân Ước.
Thế nên bài Thánh Thư nói họ phải rao giảng giáo lý nào cho trung thành với truyền thống. Như vậy, Chúa nhật hôm nay đáng gọi là ngày ơn gọi. Chúng ta xem Chúa đã gọi chúng ta như thế nào để chúng ta biết phải sống thế nào cho xứng đáng với ơn gọi ấy.
1. Chúa gọi Isaia
Chúng ta đều biết những câu đầu chương VI sách Isaia. Nhà tiên tri kể lại ơn gọi của mình. Năm ấy Ôzya, vị vua thứ 10 của Israen mới thăng hà. Ðó là điềm không tốt cho quốc gia này. Vì Ôzya, cũng có tên là Azarias, là một vị vua đạo đức. Dưới triều đại ông, Israen không những thái bình, mà còn ghi vào lịch sử một số chiến thắng. Ông thăng hà, có nghĩa là thời vận Israen bắt đầu thay đổi. Sách Isaia nói đến thế lực của Assyria phương bắc đang dần dần kéo xuống gần bờ cõi Israen. Người ta run sợ trước kỵ binh và tên nỏ. Nhưng chính những lúc ấy, Chúa lại tỏ ra thương dân lạ lùng. Người sai đến cho họ những người sẽ nói nhân danh Người.
Isaia được ơn gọi vào năm ấy, năm 740 trước Ðức Giêsu ra đời. Ông đang ở trong đền thờ. Bỗng dưng ông thấy Chúa hiện ra ngự trên ngai, có áo choàng phủ khắp đền thờ. Lại có những Sêraphim chầu hầu. Và có tiếng tung hô: "Thánh, thánh, thánh, Chúa các đạo binh, khắp đất đầy tràn vinh quang Người". Rồi mộng cửa rung rinh, nhà nghi ngút khói.
Có thật Isaia đã thấy như vậy không? Hay đây là những nét tả đầy tính cách thần học? Dù sao quang cảnh này cũng có nhiều ý nghĩa. Trung thành với truyền thống không bao giờ dám mô tả chính Thiên Chúa, - vì mắt phàm thấy sao được long nhan Người? ở đây tác giả nói đến những sự chung quanh Thiên Chúa hơn là diễn tả chính Người. Việc Người ngự trên ngai và có áo choàng trải khắp đền thờ chứng tỏ Người là vị hoàng đế cao cả, làm cho những kẻ đang sợ danh tướng của vua Assyria đến, được an tâm bình tĩnh lại. Và việc có các Sêraphim chầu hầu quanh ngai còn nói lên hơn nữa rằng Chúa trổi vượt hơn các thần dân xâm lược. Là vì ở Assyria người ta sợ hãi sùng bái các Sêraphim, đang khi ở đây chúng chỉ đáng bậc tôi tớ.
Và khác với thần thánh ở Assyria chỉ là những ngẫu tượng kính nhi viễn chi, tức là phải sợ hãi tôn thờ để khỏi bị oán trả, Thiên Chúa của Isaia trải vinh quang Người khắp cả mặt đất. Và tuy là Ðấng Thánh và ngàn trùng chí thánh, siêu việt ngàn lần đối với tạo vật... Người là Ðấng Thiên Chúa ở liền với các đạo quân của dân Người, và Người can thiệp vào lịch sử để mặt đất đầy vinh quang Người.
Hôm nay Người hiện ra với Isaia khác nào hôm Người ngự xuống trên núi Sinai: Có đất động và mây khói phủ đầy.
Tự nhiên Isaia phải sợ. Nhưng đây là một sự sợ tinh thần, khác hẳn sự sợ nô lệ. Isaia thấy Ðấng Thánh chiếu cố đến mình. Ông thấy mình bất xứng. Sự sợ của ông nói lên ý thức tội lỗi của con người ở giữa dân tội lỗi. Ông cầu cứu ơn cứu độ. Và ông đã được nhận lời. Vị thần sứ đã gắp một cục than hồng trên bàn thờ hương đi đến thanh tẩy môi miệng ông để xóa tội lỗi và biến môi miệng ấy nên xứng đáng cho việc rao giảng Lời Chúa.
Viết lại những dòng chữ này, Isaia khẳng định những quan điểm thần học sâu xa của ông. Mọi người đều là phàm nhân và tội lỗi, không thể cáng đáng những công việc thánh thiện, trước khi được thanh tẩy bằng chính ơn của Chúa, chứ không phải bằng nỗ lực và sự nghiệp của mình.
Có thể vì ý thức đã được thanh tẩy, Isaia chấp nhận ngay đề nghị của Chúa để đi làm tiên tri. Nhưng cũng có thể vì đứng trước một vị hoàng đế cao cả đến nỗi các Sêraphim cũng phải ngoan ngoãn chầu hầu, ai mà dám không mau lẹ thi hành ý muốn của Người.
Dù sao Isaia cũng đã hân hoan lãnh nhận sứ mạng tiên tri vì tất cả quang cảnh ông vừa thấy đầy khích lệ cứu độ. Israen không còn phải lo quân xâm lược nữa. Thiên Chúa là hoàng đế cao cả, siêu việt vượt hẳn vua chúa Assyria. Người điều khiển cả các Sêraphim của nước ấy. Người thánh thiện thật nhưng không ở xa dân. Người sẽ làm cho mặt đất đầy vinh quang Người. Và trước hết Người sẽ thanh tẩy, xóa bỏ tội lỗi cho chúng ta, để chúng ta nên tông đồ tiên tri rao giảng tin mừng cho các dân tộc.
Như vậy, bài sách Isaia rất nhiều ý nghĩa. Tuy nhiên phụng vụ hôm nay cũng chỉ dùng để đưa chúng ta vào bài Tin Mừng. Vì ở đây sẽ có những sự thực cụ thể hơn và nhất là có tầm mức phổ cập và luôn luôn hiện đại. Chúng ta hãy xem.
2. Chúa Gọi Các Tông Ðồ
Thánh Luca không xác định hôm ấy là ngày nào. Có lẽ tính cách "không có thời gian" rõ rệt này thuận lợi hơn để nói đến những công việc luôn có giá trị hiện đại.
Tác giả thoạt tiên cho chúng ta thấy một quang cảnh khác hẳn với những gì Isaia đã nhìn thấy. Ở đây là bờ hồ Giênêzaret chứ không phải là tại đền thờ Giêrusalem. Quang cảnh cởi mở này hợp với tinh thần truyền giáo và công giáo của sách Phúc âm Luca hơn. Nhưng tuy ở trên bờ hồ, Ðức Giêsu vẫn không thiếu vẻ oai phong cao cả, vì quần chúng xán lại bên Người và chăm chú muốn nghe Lời Người dạy dỗ... Người thấy có hai chiếc thuyền bỏ neo gần đó. Không một người nào ở trên hai chiếc thuyền ấy vì những người đánh cá đã xuống cả rồi và đang giặt lưới.
Ðó là hình ảnh những cái ngai đang còn trống. Ðức Giêsu lên chiếc thuyền thuộc về Phêrô và truyền đẩy ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống phán dạy quần chúng đang đứng trên bờ.
Rõ ràng Luca muốn cho những bức họa có phần oai phong như lại sống động. Một Ðức Giêsu ngồi một mình trên thuyền nhìn xuống quần chúng dưới bờ mà phán dạy họ những điều cao cả, cũng có Ðấng "Thánh" đang can thiệp vào thế gian. Chúng ta có thể nói Chúa trong điện thờ mà Isaia đã nhìn thấy, nay đang ở giữa loài người. Người ở gần chúng ta mà vẫn không mất vẻ siêu vời, Người muốn đem tinh thần và sức mạnh thần linh của Người vào thế gian.
Người bảo Phêrô: "Hãy chèo ra khơi thả lưới mà bắt cá". Làm sao ông có thể không vâng lời? Chúng ta có thể thấy ông đã tức khắc sửa soạn hành trang. Nhưng đồng thời ông đã thành thật thưa: Ðêm vừa rồi ông không bắt được gì cả, nhưng Thầy đã dạy, ông xin làm theo. Phản ứng của ông rất thành khẩn. Nó vừa nói lên đức vâng lời và niềm tin tưởng, lại vừa báo trước và làm nổi bật phép lạ sắp xảy ra. Cả đêm đã đánh không được cá, huống nữa là lúc này, trời đã sáng.
Thế mà vì lệnh truyền, lưới của Phêrô đã đầy cá, sắp nứt ra rồi. Ông không kéo nổi và phải gọi đồng bạn ở cái thuyền kia đến giúp.
Từ trước đến giờ, Luca chỉ nói đến Giêsu và Phêrô. Tác giả muốn đề cao vai trò của vị tông đồ này ở trong Hội Thánh. Phêrô được ưu tiên trong cái nhìn của Chúa. Sau đó ông mới gọi đồng bạn là Gioan và Giacôbê ở thuyền kia đến giúp.
Thấy mẻ cá lạ lùng này, họ đâm kinh sợ con người đã truyền lệnh cho họ. Phêrô liền bắt chước Isaia, quỳ mọp xuống trước mặt Người, xưng thú thân phận tội lỗi chẳng dám đứng trước long nhan. Nhưng Chúa ôn tồn bảo: "Ðừng sợ, từ nay hãy đi lưới các linh hồn". Người đã gọi các tông đồ một cách cụ thể hơn Chúa gọi Isaia ngày trước. Các ông sẽ đi làm công việc của các ông vừa làm, nhưng trên bình diện khác. Và công việc của các ông đã được báo trước sẽ kết quả lạ lùng như các ông vừa thấy cá đua nhau chạy vào lưới các ông.
Chúng ta hãy tạ ơn Chúa. Người đã làm những việc cao cả trong cuộc đời của Isaia. Nhưng nơi các tông đồ của đạo mới, Người còn tỏ ra uy quyền và mạnh hơn biết bao. Không những nơi Ðức Kitô, Thiên Chúa đã đến với loài người và ở giữa chúng ta, cụ thể hơn khi Người bày tỏ vinh quang cho Isaia nơi đền thánh, Người còn gọi Phêrô và các tông đồ để Hội Thánh làm cho vinh quang của Người trải ra trên khắp địa cầu.
Tác giả Luca thật ra đã muốn nói lên những điều ấy trong đoạn Tin Mừng hôm nay. Người viết lại câu chuyện Chúa gọi Phêrô sau khi Ðức Giêsu đã phục sinh và lên trời. Khi ấy đã là thời đại của Hội Thánh. Do đó câu chuyện Người kể nhất thiết phải mang các tính chất Kitô học và Giáo hội học. Ðức Giêsu đã là vua và là Chúa. Hội Thánh đã có Phêrô đứng đầu. Và công cuộc truyền giáo của các tông đồ đang mang lại nhiều kết quả. Nhưng tất cả đã khởi sự ngay khi Ðức Kitô còn tại thế.
Ðưa các hình ảnh về phục sinh đặt lên khoảng thời gian Ðức Giêsu mới xuất thân giảng đạo, tác giả Luca khiến chúng ta tin tưởng nhiều hơn về Hội Thánh hiện nay. Bề ngoài đời sống Hội Thánh như không có gì lạ lùng, nhưng cũng như cuộc đời trần gian của Chúa Cứu Thế, đây chẳng phải là lúc đang chứa chấp nhiều thành quả phong phú trong tương lai sao? Gioan chỉ kể chuyện về mẻ cá lạ sau phục sinh, Luca đặt lên trước phục sinh để đảm bảo thành công rực rỡ cho ơn gọi của các tông đồ và của Hội Thánh. Ta sẽ sống ơn gọi này thế nào?
3. Thi Hành Sứ Mạng Kitô Giáo
Muốn hiểu đoạn thư Phaolô hôm nay, chúng ta cần biết rằng nhiều người trong cộng đoàn Côrintô hồi ấy không tin lắm vào mầu nhiệm xác thịt sau này sẽ sống lại. Họ sống trong nền văn minh Hy Lạp vốn coi rẻ thân xác. Nhiều lý thuyết thời ấy quan niệm thân thế là tù ngục giam hãm linh hồn. Người ta phải mong có ngày ra khỏi chốn tối tăm ấy để được lên nơi tinh thần... Nhiều khi chúng ta không mặc nhiên nghĩ như vậy sao?
Nhưng đó là suy nghĩ rất tai hại, sai hẳn với tin mừng cứu độ. Thánh Phaolô nhắc lại cho người Côrintô biết: Nếu nghĩ như vậy thì đã theo đạo một cách vô ích. Chúng ta không những tin Chúa đã chịu chết, mà đặc biệt hơn, chúng ta tin Người đã sống lại. Có phục sinh, Người mới ban ơn cứu độ, chứ nếu cứ chết mãi thì hỏi Người cứu được ai? Tin điều Chúa sống lại vì thế là nền tảng và khởi điểm của đức tin trong Hội Thánh. Hội Thánh nắm vững niềm tin này vì mầu nhiệm Tử nạn Phục sinh phù hợp với Sách Thánh; vì Phêrô và đoàn 12 tông đồ đã được nhìn thấy Chúa sống lại; vì cả cộng đoàn tín hữu đã được xem thấy Chúa Phục sinh hiện ra.
Cuối cùng chính Phaolô cũng được Người tỏ mình ra ở trên đường Ðamas. Nhưng dù là Phaolô, Giacôbê, hay Phêrô, mọi tông đồ trong Hội Thánh chỉ có một giáo lý. Ðó là Ðức Giêsu đã chết vì tội lỗi của chúng ta như lời Sách Thánh dạy và Người cũng đã sống lại theo như lời Kinh Thánh nói, để chúng ta có đức tin và được ơn cứu độ.
Thành ra ơn gọi của chúng ta là niềm tin vào Ðức Giêsu tử nạn phục sinh. Ðó là Tin Mừng cứu độ mọi người. Nó phải hướng dẫn đời sống chúng ta. Chúng ta không được bi quan về tương lai, như thể sẽ có sự chết mãi mãi. Ngược lại chúng ta phải lạc quan mạnh mẽ vì sẽ có sự sống lại cho ngay cả thân xác yếu đuối này. Sống niềm tin này một cách cụ thể, chúng ta sẽ trung thành tiếp nối truyền thống của Hội Thánh không những từ thời các tông đồ mà có thể nói ngay từ thời các tiên tri. Isaia trong bài đọc một hôm nay chẳng hạn đã nhìn thấy ơn gọi của mình rất lạc quan trong tình hình đáng run sợ của đất nước. Luca khẳng định ơn gọi của các tông đồ nhất định đem lại thành công như mẻ cá lạ lùng. Phaolô kêu gọi chúng ta hãy nhớ mình là tín hữu khi tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô chịu chết và sống lại. Người Công Giáo phải lạc quan phấn khởi. Dân Chúa phải rao truyền mầu nhiệm Chúa Phục Sinh.
Ở nhà thờ này, chúng ta vẫn làm như thế. Khi cử hành Thánh Lễ chúng ta hân hoan tuyên xưng việc Chúa chịu chết và sống lại. Chúng ta tin rằng thánh lễ ban sự sống mới cho tâm hồn. Thế thì chúng ta hãy ra về đi vào xã hội với niềm tin mạnh mẽ và ơn phục sinh mà Thánh Thể đã đặt vào lòng ta để đổi mới cuộc đời, xây dựng xã hội tốt đẹp hơn, nhìn thấy tương lai hấp dẫn lạ thường. Xin Chúa thêm niềm tin cho chúng ta.
5. Mau mắn đáp lời Chúa gọi--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
"Họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Ngài"
(Lc 5,11)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Từ Chúa nhật đầu mùa Thường niên, chúng ta đã từng bước đi theo hành trình sứ vụ của Chúa Giêsu. Hôm nay Phụng vụ dẫn chúng ta tới lúc Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ đầu tiên là Simon Phêrô, Giacôbê và Gioan. Điểm đáng chú ý trong chuyện này là các ông đã mau mắn bỏ hết mọi sự để đi theo Chúa.
Ngày hôm nay Chúa vẫn tiếp tục kêu gọi chúng ta. Chúng ta hãy lắng nghe tiếng Ngài và hãy mau mắn đi theo Ngài.
II. Gợi ý sám hối
Vì mải mê lo những công việc thế tục, chúng ta đã phớt lờ đi những lần Chúa lên tiếng kêu gọi chúng ta.
Có nhiều thứ chúng ta quá quyến luyến nên không thể từ bỏ mặc dù biết là nó xấu.
Cũng như thánh Phêrô ngày xưa, giờ đây chúng ta hãy khiêm tốn thưa cùng Chúa: "Lạy Chúa, con là kẻ tội lỗi".
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Is 6,1-8)
Tường thuật ơn gọi của Isaia. Chúng ta hãy để ý đến tâm trạng và phản ứng của ông:
Trong một thị kiến, Isaia thấy mình đang ở trong Đền thờ. Qua những hiện tượng đặc biệt như cảnh các thiên thần tung hô, các cửa đền thờ rung chuyển, đền thờ nghi ngút khói v.v. Isaia, biết là có Thiên Chúa đang hiện diện.
Cảm giác đầu tiên của Isaia là thấy mình quá tội lỗi khi đứng trước Thiên Chúa thánh thiện.
Nhưng khi Thiên Chúa sai một thiên thần thanh tẩy Isaia và sau đó mời gọi ông làm ngôn sứ, thì Isaia đã mạnh dạn đáp lời.
2. Đáp ca (Tv 137)
Đây là bài ca được hát trong đền thờ, "giữa chư vị thiên thần, con đàn ca kính Chúa". Thánh vịnh này rất hợp với tâm tình của Isaia khi được Chúa kêu gọi.
3. Tin Mừng (Lc 5,1-11)
Bài tường thuật việc Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ đầu tiên trong Tin Mừng Luca có nhiều chi tiết hơn bài tường thuật ngắn gọn trong Mt 4,19-22:
Họ đang giặt lưới để dẹp cất, vì suốt đêm đánh không được con cá nào.
Chúa Giêsu bảo họ thử đánh một mẻ nữa. Phêrô không tin vào sự thành công, nhưng nễ lời Ngài nên ông thả lưới.
Một mẻ lưới nhiều cá quá sức tưởng tượng đã khiến Phêrô và các bạn khám phá ra thân phận siêu phàm của Chúa Giêsu đồng thời cũng ý thức thân phận hèn hạ tội lỗi của mình.
Khi đó Chúa Giêsu lên tiếng gọi họ theo Ngài làm môn đệ. Và họ đã từ bỏ mọi sự để theo Ngài.
4. Bài đọc II (1 Cr 15,1-11)
Nhiều người chống đối Phaolô, cho rằng ông không đủ tư cách làm tông đồ.
Để trả lời họ, Phaolô nói rằng tất cả những gì ông rao giảng đều là những gì ông đã lãnh nhận từ giáo huấn của Chúa Giêsu. Phaolô cũng chứng mình rằng chính Chúa Giêsu đã chọn ông như đã chọn các tông đồ khác.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Chúa gọi
Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta hiểu được rất nhiều điều về ơn gọi.
a/ Con người không chọn Chúa, mà chính Chúa kêu gọi con người: Isaia tin có Chúa đang hiện diện trong Đền thờ, nhưng ông không dám nghĩ tới việc được "thấy" Chúa và được Ngài "gọi" (bài đọc I). Phaolô đang trên đường lùng bắt các môn đệ Đức Kitô thì được gọi (bài đọc II). Còn Phêrô và các bạn chài thì đang lo đánh lưới bắt cá nhưng lại được gọi làm những kẻ quăng lưới bắt người (bài Tin Mừng). Đúng như lời Chúa Giêsu nói: "Không phải các con chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con".
b/ Có khi ơn gọi phát sinh từ một cuộc gặp gỡ đặc biệt với Chúa. Cuộc gặp gỡ đặc biệt làm nẩy sinh một cảm nghiệm sâu sắc. Rồi cảm nghiệm sâu sắc cuốn hút con người vào một tương quan thân thiết mới mẻ với Chúa. Như trường hợp của Isaia, ông vẫn biết Thiên Chúa là Đấng vĩ đại và mạnh mẽ hơn các thần khác. Nhưng hôm ấy trong Đền thờ ông biết thêm rằng Ngài là Đấng hoàn toàn khác, là Đấng thánh gấp 3 lần. Điều đó khiến ông xúc động mạnh. Ông diễn tả cảm xúc mạnh mẽ ấy qua những hình ảnh các trụ của đền thờ rung chuyển và khói tỏa mịt mù khắp Đền thờ. Còn Phaolô thì mô tả việc Chúa gọi ông đột ngột như "một đứa trẻ sinh non" trước khi đủ ngày đủ tháng. Phần Phêrô, mẻ cá lạ làm ông chợt nhận ra Chúa Giêsu không phải chỉ là con người mà còn là Đức Chúa, đồng thời ông ý thức thân phận tội lỗi bất xứng của mình. Ông đã thốt lên "Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi".
c/ Nhưng nhiều khi Chúa gọi con người trong những hoàn cảnh rất bình thường. Như Phêrô và các bạn khi ấy đang làm công việc thường ngày là đánh cá. Hoàn cảnh thì bình thường, nhưng ý nghĩa lại đặc biệt: nó khiến con người khám phá một chân lý quan trọng, nó thôi thúc con người làm một cuộc lựa chọn mới mẻ chuyển hướng cả cuộc đời. Hôm đó Phêrô và các bạn đã bỏ tất cả mà đi theo Chúa Giêsu.
Dù gặp Chúa trong hoàn cảnh đặc biệt hay trong cuộc sống bình thường, hễ gặp được Chúa thì cuộc đời chắc chắn sẽ biến đổi.
* 2. Bất xứng và tín nhiệm
Ba bài tường thuật ơn gọi hôm nay đều có những nét giống nhau:
Tất cả những người được gọi đều cảm thấy bất xứng: Isaia thốt lên "Khốn thân tôi, tôi chết mất, vì tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế"; Phaolô tự nhận "Tôi là người hèn mọn nhất trong số các tông đồ, tôi không đáng được gọi là tông đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa"; Phêrô thì sấp mình xuống dưới chân Chúa Giêsu "Lạy Chúa xin tránh xa con vì con là kẻ tội lỗi".
Nhưng tất cả đều được Thiên Chúa tín nhiệm: Isaia được trao sứ mạng ngôn sứ; Phêrô được chọn làm tông đồ; Phaolô được sai đi làm tông đồ cho lương dân.
Dù biết mình bất xứng mà Thiên Chúa vẫn tín nhiệm, nên các ngài đã nhiệt thành chu toàn sứ mạng được trao phó: Isaia mạnh dạn thưa lại với Chúa "Dạ con đây, xin sai con đi"; Phêrô "đưa thuyền vào bờ rồi bỏ hết mọi sự mà theo Ngài"; Phaolô dám khoe "Tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác, nhưng không phải tôi, mà là Thiên Chúa ở cùng tôi".
* 3. Thành quả vàng son
Thánh Gioan Vianney, lúc còn là chủng sinh, học rất chậm. Ngày kia, một giáo sư thần học, thừa lệnh Đức Giám Mục đến khảo sát Vianney xem có đủ khả năng học vấn để tới chức linh mục chăng?
Tuy đã dốc hết sức học hành, Vianney vẫn không thể trả lời được câu nào cho trôi chảy.
Nổi nóng, vị giáo sư đập bàn nói: "Vianney, anh dốt đặc như con lừa! Với một con lừa như anh, Giáo Hội hy vọng làm nên trò trống gì".
Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời: "Thưa cha, ngày xưa Samson chỉ dùng một cái xương hàm con lừa mà đánh bại 3000 quân Philitinh. Vậy với cả một con lừa này, Thiên Chúa không làm được việc gì sao?"
***
Quả thật, con lừa của Thiên Chúa đó, sau này không chỉ trở thành một cha sở, mà còn được tôn phong làm thánh bổn mạng của các cha sở.
Hôm nay, Simon cũng vất vả suốt một đêm chài lưới mà không bắt được một con cá nào, nhưng: "Vì lời Thầy con sẽ thả lưới" (Lc 5,5). Và lạ thay, một mẻ cá lớn bất ngờ, đến nỗi lưới hầu như sắp rách. Trước tình thế này, Simon chỉ còn biết bỏ thuyền, chạy đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà nói: "Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi" (Lc 5,8).
Kẻ nhận mình là tội lỗi yếu hèn đó, sau này đã trở thành Phêrô, người thuyền trưởng của con thuyền Giáo Hội.
Có một điểm gì đó rất giống nhau, rất tương đồng giữa Vianney và Phêrô. Đó chính là nhận mình yếu hèn khuyết điểm và hoàn toàn để Chúa lèo lái điều khiển đời mình. Nhờ đó, Chúa đã ban tặng cho các ngài những đậc ân vô cùng lớn lao. Vì ơn Chúa chỉ ban xuống cho những kẻ khiêm nhượng.
"Thưa Thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà không bắt được gì hết. Nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới" (Lc 5.5). Đây là lời bày tỏ sự bất lực của con người, để chính sự bất lực này sẽ làm nổi bật quyền năng của Thiên Chúa: Chính sự vâng phục của con người trước uy quyền của Thiên Chúa sẽ đem lại hiệu quả vượt sức tự nhiên loài người.
Từ vâng phục dẫn đến phép lạ, từ phép lạ dẫn đến niềm tin: Trước mẻ cá, Simon xưng Chúa Giêsu là Thầy: "Vì lời Thầy, con sẽ thả lưới", nhưng sau mẻ cá diệu kỳ, người lại tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa: "Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi". Qua phép lạ mẻ cá, Simon đã nhận ra quyền năng Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu và đã tin vào Người. Đây chính là lời tuyên xưng thiên tính nơi Chúa Giêsu.
Chính khi tin vào quyền năng Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu, mà Simon đã ý thức thân phận tội lỗi bất xứng của mình trước sự thánh thiện vô song của Thiên Chúa. Đó cũng là kinh nghiệm của ngôn sứ Isaia trước Thiên Chúa: "Khốn cho tôi, tôi chết mất, vì lưỡi tôi dơ bẩn" (Isaia 6, 5). Nhưng sau khi được than hồng là lửa tình thương Chúa thanh tẩy, ông đã mau mắn xin vâng, ra đi làm ngôn sứ cho Chúa: "Lạy Chúa, xin hãy sai con". Hôm nay, Chúa cũng trấn an Phêrô: "Đừng sợ hãi, từ đây các con sẽ là kẻ chinh phục người ta" (Lc 5,10). Thành ngữ này thường gặp trong Cựu ước, để trấn an con người hãy tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa. Ở đây Chúa Giêsu muốn trấn an các Tông đồ, đặc biệt ba vị là Phêrô, Giacôbê và Gioan, để các ngài tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa khi đón nhận và thi hành sứ mạng Chúa giao.
Quả thật, ngay sau đó các Tông đồ đã "bỏ mọi sự mà đi theo Người " (Lc 5, 11). Đó là ơn gọi của Phêrô, con người đã gặp gỡ Chúa và đã được Chúa thu hút chinh phục, để rồi Phêrô lại ra đi chinh phục các tâm hồn về cho Người.
Trước khi gặp Chúa, Simon dù có vất vả suốt đêm cũng không được một con cá nào; sau khi gặp Chúa, Chúa đã hướng dẫn ngài kéo lên một mẻ cá bội thu. Nhưng dù cá có nhiều đến rách lưới ngài cũng không màng, vì từ đây mục đích đời ngài không phải là thành quả vàng son mà chính là Chúa mà thôi.
***
Lạy Chúa, từ bỏ mọi sự là điều kiện để đi theo Người. Xin cho chúng con một đức tin can đảm, dám từ bỏ những gì chúng con đã từng bám víu, cũng chẳng sợ thiệt thòi khi đã hiến dâng.
Xin cho chúng con một đức tin liều lĩnh, sẵn sàng mất đi tất cả, để chỉ xin giữ trọn một mình Chúa mà thôi. Vì Chúa chính là gia nghiệp và là phần phúc cuộc đời chúng con. Amen. (Thiên Phúc)
* 4. Thất bại và thành công
Phêrô và các bạn "đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả". Chán nản, mỏi mệt, các ông không đánh cá nữa và đi giặt lưới.
Cho dù đã làm hết sức mình nhưng con người vẫn có thể gặp thất bại. Người học sinh luyện thi rất chăm chỉ, nhưng rồi thi rớt. Vận động viên thể thao cố gắng chơi hết sức mình, vậy mà lại thua. Cha mẹ đã làm tất cả để giáo dục con nên người tốt, nhưng nó lại làm người xấu. Hầu hết chúng ta đều có khi gặp thất bại như thế.
Khi Phêrô và các bạn bị thất bại, Chúa Giêsu có thể trách các ông "Các anh đã hành nghề bao nhiêu năm trời rồi, thế sao đánh lưới suốt đêm mà không bắt được con cá nào hết vậy?" Nhưng Ngài đã không trách. Tại sao? Vì Ngài thông cảm với các ông. Đã cố gắng hết mình rồi mà vẫn thất bại, điều đó đã làm các ông đau khổ lắm rồi. Không cần trách móc để các ông càng đau khổ thêm. Thất bại đã là một vết thương, không cần sát muối vào cho nó càng xót xa thêm.
Điều người ta cần khi bị thất bại là có ai đó vẫn tin mình, an ủi mình và khuyến khích mình vươn lên. "Thất bại không phải là ngã quỵ, mà là không chịu vươn lên".
Vả lại, thành công là gì? Thành công không phải là tất cả. Ta có thể thành công cãi thắng một cuộc tranh luận, nhưng rồi bị mất một người bạn. Ta có thể thành công trong cuộc tranh dành một địa vị cao hơn, nhưng sau đó các mối tương quan với đồng nghiệp trở thành lạnh nhạt hơn. Hương vị của ly rượu thành công có thể rất ngọt ngào ngây ngất ngay lúc đó, nhưng về sau hầu hết đều cạn dần và cuối cùng là trống rỗng.
Chúa Giêsu không trách Phêrô và các bạn, nhưng Ngài không cho các ông cứ ở đó mãi để gậm nhấm nỗi chua cay. Ngài kích thích họ làm lại: "Hãy chèo ra chỗ nước sâu và thả lưới bắt cá".
Emerson nói rằng mỗi người chúng ta đều có một tiềm năng to lớn, giống như một căn phòng, một vòi nước chưa bao giờ được mở ra. Cần có ai đó chỉ cho ta biết tiềm năng đó và khuyến khích chúng ta mở ra: "Hãy chèo ra chỗ nước sâu".
Chúa Giêsu biết Phêrô yếu đuối tội lỗi, nhưng Ngài cũng biết ông có khả năng làm được những việc to lớn. Ngài không kích thích chỗ yếu đuối tội lỗi của ông, nhưng kích thích đúng vào tiềm năng của ông. Nhờ được kích thích, các ông đã thả lưới bắt được nhiều cá. Sau đó các ông còn hăng hái bỏ mọi sự để theo Ngài thả lưới bắt người.
Con người thường thất bại. Nhưng con người cần có người tin tưởng và khuyến khích để lại vươn lên, vì "Từ thành công đền thất bại chỉ là một bước. Nhưng từ thất bại đến thành công là cả một con đường dài" (Yiddish) (FM)
* 5. "Vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới"
Ban đêm là lúc thuận tiện để đánh cá. Nếu một người nào khác nói với Phêrô "Hãy chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá", có lẽ ông đã vặn lại "Bộ anh khùng hả? Anh muốn cho tôi thành trò cười cho các bạn chài khác sao? Đã thả lưới suốt đêm mà không bắt được con cá nào thì làm sao mà bắt được nữa khi trời đã sáng".
Nhưng vì người nói câu đó là Chúa Giêsu nên Phêrô đã không vặn lại như thế. Ông cũng trình bày quan điểm của mình "Thưa Thầy, chúng con đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả", nhưng liền sau đó thì vâng lời "Nhưng vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới". Đối với Phêrô, lời nói của Chúa Giêsu không như lời của những người khác, vì nó có uy tín mà lời của bất cứ ai khác đều không có. Bởi thế, nếu Chúa Giêsu đã bảo, thì cho dù tình thế có vô vọng bao nhiêu đi nữa, cho dù ông đã mệt mỏi bao nhiêu đi nữa, và cho dù người ta có thể nhạo cười bao nhiêu đi nữa, Phêrô cũng phải vâng theo.
Phêrô đã tin tưởng tuyệt đối vào Chúa Giêsu. Tin vào lời Ngài, ông đã thử làm điều bất khả. Sau này chúng ta lại thấy ông tin vào lời Chúa Giêsu mà bước đi trên mặt biển.
Chúa Giêsu chẳng những bảo ông thả lưới bắt cá, mà còn bảo ông làm môn đệ, chia xẻ sứ mạng của Ngài. Phêrô có đức tính gì mà được Chúa Giêsu mời gọi như thế? Đức tính thứ nhất và quan trọng nhất Chúa Giêsu thấy nơi Phêrô là Tin vào Lời Ngài. Đức tính thứ hai là Khiêm tốn.
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay không chỉ là chuyện về đánh cá, mà còn là chuyện về lòng tin tưởng. Vì Phêrô tin tưởng vào lời Chúa Giêsu, nên Ngài chẳng những bảo ông thả lưới lại một lần nữa, mà còn kêu gọi ông lãnh nhận một sứ mạng quan trọng hơn "Từ nay anh sẽ là người thu phục người ta".
Mọi kitô hữu chúng ta cũng đều được Chúa gọi như Phêrô. Và điều quan trọng nhất Ngài chờ đợi nơi chúng ta là tuyệt đối tin tưởng vào Ngài. (FM)
* 6. Một bước khởi đầu tốt đẹp
Isaia, Phaolô và Phêrô là những gương mặt trung tâm của các bài đọc hôm nay. Cả ba đều đã làm được những việc trọng đại cho Chúa. Tuy nhiên cả ba, ai cũng mang mặc cảm thấp hèn, coi mình là người yếu kém. Các ngài không tự mình tiến lên phía trước, nhưng được Chúa mời gọi tiến lên. Các ngài đáp lại tiếng Chúa gọi một cách miễn cưỡng vì biết mình không xứng đáng.
Bước đi đầu tiên với nhận thức về thân phận bất xứng của mình, xét theo phương diện đạo đức, đó là một bước khởi đầu rất tốt. Người nào quá tự tin tiến về phía trước thì thường làm hại hơn là làm tốt, vì người đó dựa vào khả năng của mình và tìm kiếm vinh dự cho mình. Kiêu căng và tự phụ chỉ là cát, mà xây nhà trên cát thì sẽ sụp đổ thôi.
Ngược lại, khi ta gặp người nào biết sợ, biết lo thì ta có thể tin tưởng người đó. Thánh Phaolô nói một câu rất nghịch lý: "Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh" (2 Cr 12,10). Nghịch lý nhưng rất có lý, bởi vì khi Ngài biết mình yếu thì Ngài tìm về Chúa, và chính sức mạnh của Chúa làm cho Ngài mạnh.
Khi ta biết mình yếu, Chúa sẽ thêm sức cho ta. Khi ta biết mình trống rỗng, Chúa sẽ đong đầy cho ta. Khi ta biết mình nghèo nàn, Chúa sẽ làm giàu cho ta. Khi đó ta sẽ có thể làm được công việc của Ngài, và Ngài sẽ hoàn thành trong ta những điều ta không làm nổi.
Khiêm tốn là một bước khởi đầu tốt. Nhưng không phải vì thế mà ta cứ khăng khăng chối từ. Như thế chỉ là hèn nhát, lười biếng và ích kỷ. Cứ như thế thì ta không thể cứu nổi mình, càng không thể cứu ai khác. Isaia nói rằng môi miệng ông ô uế, nhưng Chúa đã sai thiên thần lấy than hồng thanh tẩy miệng ông. Phêrô xin Chúa lánh xa ông, nhưng Chúa gọi ông chia xẻ sứ mạng của Ngài. Chúa không chê bỏ người tội lỗi, trái lại Ngài đến với những kẻ tội lỗi, để cứu họ, và để mời họ hợp tác cứu những người tội lỗi khác. Chúa giúp những người tội lỗi đi bước đầu.
Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta lòng khiêm tốn để nhận biết sự yếu đuối của mình. Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta sức mạnh để chúng ta vượt lên sự yếu đuối ấy. Rồi chúng ta hãy mạnh dạn làm theo Lời Ngài dạy bảo. Khi đó chúng ta sẽ vui mừng cảm nhận được như Phaolô là "khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh" (FM)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, vì yêu thương mà Chúa đã chọn chúng ta làm người Kitô hữu, làm tông đồ của Chúa. Với tâm tình cảm tạ tri ân, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Hội thánh là Nhiệm Thể của Chúa Giêsu Kitô / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa tuôn đổ ơn Thánh thần xuống trên Hội thánh / để Hội thánh ngày càng được tinh tuyền / vững mạnh / và phát triển không ngừng.
2. Hằng năm / thiên tai vẫn hoành hành ở nhiều nơi trên thế giới / gây ra biết bao tang tóc cho nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho mưa thuận gió hòa / để mọi người được sống trong cảnh an cư lạc nghiệp.
3. Chúa Giêsu bảo thánh Phêrô: / Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá / Chúng ta hiệp lời cầu xin / cho những anh chị em đã từ bỏ mọi sự mà dấn thân theo Chúa hiểu rằng / nếu vâng theo thánh ý Chúa / họ sẽ thu được những kết quả bất ngờ.
4. Đời sống đức tin của người Kitô hữu / không chỉ giới hạn trong việc đọc kinh / tham dự thánh lễ / lãnh nhận các bí tích ở nhà thờ / mà còn phải thể hiện ngoài xã hội nữa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết thể hiện niềm tin của mình / bằng đời sống bác ái yêu thương đối với hết thảy mọi người.
Chủ tế: Lạy Chúa, Chúa đã mời gọi chúng con từ bỏ mình và vác thập giá mà theo Chúa. Xin cho tất cả chúng con luôn cố gắng thực hiện lời mời gọi quan trọng ngày. Chúng con cầu xin...
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước Kinh Lạy Cha: Chúa Cha đã sai Chúa Giêsu mang Tin Mừng cứu độ cho loài người. Chúa Giêsu lại kêu mời chúng ta chia xẻ sứ mạng ấy. Cùng với Chúa Giêsu, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện lên Chúa Cha.
VII. Giải tán
"Hãy ra khơi thả lưới". Đó là lời Chúa mời gọi chúng ta. Chúng ta hãy mau mắn đáp lại như Phêrô xưa. Chúc anh chị em ra đi bình an.
6. Thiên Chúa kêu gọi con người--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP.
Có thể nói chủ đề của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay là “Ơn gọi”. Thiên Chúa muốn con người tham gia vào công cuộc cứu chuộc của Ngài. Vì thế, mỗi người đều có ơn gọi làm tông đồ, hay nói cách khác, mỗi người có ơn gọi làm chứùng nhân.
Thiên Chúa không phải là một Thiên Chúa xa cách mà gần gũi với con người, Ngài muốn cho con người gặp Ngài khi Ngài muốn để cho kẻ ấy có kinh nghiệm đặc biệt về Ngài và chọn kẻ ấy làm chứng nhân. Chuyện đã xẩy ra như thế cho Isaia, cho Phêrô và các bạn, cho Phaolô. Chuyện đã xẩy ra cho họ ngày xưa chính là chuyện đời của mỗi người chúng ta, chuyện ơn gọi của cá nhân chúng ta hôm nay.
Dựa trên phép Rửa tội và Thêm sức, mỗi Kitô hữu có nhiệm vụ phải làm chứng cho Chúa trong đời sống thường ngày. Ngày xưa, các Tông đồ đã lãnh nhận sứ mạng đi truyền giáo, ngày nay Giáo hội và mỗi người chúng ta cũng phải tiếp tục công việc của các ngài. Với tư cách là một Kitô giáo dân, mỗi người có trách nhiệm tham gia vào việc tông đồ giáo dân như công đồng Vatican II đã dạy. Việc tông đồ giáo dân phải được thực hiện trong môi trường sống hằng ngày của mỗi người.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Is 6,1-2a.3-8.
Ngày nay Thiên Chúa không còn tỏ mình ra nơi sa mạc hay trên núi nữa. Ngày nay Thiên Chúa ba lần chí thánh tỏ vinh quang của Ngài ra cho tiên tri Isaia trong đền thờ. Trong một thị kiến, Isaia thấy mình đang ở trong đền thờ, qua những cảnh huy hoàng và ngoạn mục ông trông thấy, Thiên Chúa vô cùng thánh thiện, ông cảm thấy mình tội lỗi quá, vô cùng bất xứng nên đã kêu lên:”Khốn thân tôi, chết tôi rồi, vì tôi là một người môi miệng ô uế…” Nhưng khi Thiên Chúa sai thiên thần thanh tẩy miệng lưỡi ông, tha thứ tội cho ông và sau đó gọi ông làm tiên tri, thì ông đầy lòng tin tưởng và mạnh dạn đáp lời:”Có con đây, xin Chúa sai con đi”(Is 6,8). Và Isaia đã trung thành làm chứng về lòng tin của mình.
+ Bài đọc 2: 1Cr 15,1-11.
Tại Corintô, nhiều người chống đối Phaolô, cho rằng ông không đủ tư cách làm Tông đồ. Ngài cũng ý thức về điều đó. Ngài tự coi mình là tông đồ nhỏ nhất như đứa con sinh sau đẻ muộn, nhưng dù sao, ông cũng được Chúa chọn làm tông đồ để đi rao giảng Đấng Phục sinh cho dân ngoại. Ngài đã truyền đạt cho họ những điều chính yếu mà Ngài đã nhận được, đó là mầu nhiệm Phục sinh và lời chứng về Đấng Phục sinh của những người có thẩm quyền.
Ngày nay Giáo hội vẫn rao giảng mầu nhiệm đó, và cũng vẫn trung thành rao giảng vì niềm tin này chính là nền tảng cho đời sống Kitô hữu chúng ta.
+ Bài Tin mừng: Lc 5,1-11.
Không phải vô cớ mà thánh Luca nối kết ơn gọi của Tông đồ với một mẻ cá đặc biệt dồi dào. Theo Ngài, rao giảng Tin mừng là một việc cứu nạn, kéo nhân loại ra khỏi chỗ đắm chìm. Tông đồ là kẻ thu phục người ta. Nói cách khác, một người giải phóng.
Bài Tin mừng hôm nay thuật lại câu chuyện về mẻ cá lạ lùng. Phép lạ này gợi lên cho ta mấy ý tưởng:
- Sở dĩ có phép lạ này vì Phêrô không tin vào sự thành công của mình, nhưng vì nể lời Chúa ông mới thả lưới.
- Thuyền đầy cá là hình ảnh báo trước là hình ảnh nhân loại sẽ tin theo Chúa, gia nhập vào Giáo hội và Giáo hội sẽ được lan truyền khắp nơi.
- Mẻ cá lạ lùng khiến các ông nhận ra uy quyền của Đức Giêsu và đồng thời nhận ra sự yếu đuối bất lực và thân phận tội lỗi của mình:”Lạy Thầy, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi”.
- Các môn đệ cứ đi rao giảng Tin mừng, còn việc có nhiều người ăn năn trở lại, vâng theo Tin mừng hay không, là việc của Chúa.
- Qua biến cố này, các ông đã bỏ mọi sự mà đi theo Chúa. Các ông đã mau mắn đi theo tiếng Chúa gọi để đi truyền giáo.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Sống ơn gọi làm Tông đồ.
I. CHÚA KÊU GỌI CON NGƯỜI.
Qua các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay, Giáo hội muốn cho chúng tôi nhận ra ý nghĩa của việc tông đồ trong Giáo hội, để nhờ đó, chúng ta đáp lại tiếng Chúa gọi bằng cách quảng đại dâng hiến cuộc đời cho Chúa và sẵn sàng theo Chúa làm việc tông đồ.
Truyện: Tổng thống Abraham Lincoln.
Một ngày nọ, Tổng thống Abraham Lincoln đi đến thành phố Charleston, tiểu bang South Carolina. Khi đi ngang qua trung tâm thành phố, ông trông thấy người ta đang tổ chức một cuộc đấu giá buôn bán nô lệ. Chứùng kiến cảnh buôn bán người, tận đáy linh hồn ông cảm thấy bị khuấy động lên cơn giận dữ của Thiên Chúa, và một nỗ lực phải làm để cứu những người nô lệ. Do đó ông đã làm một điều độc đáo và bất thường nhất. Ôâng bước vào trong đám đông, khi cuộc trả giá bắt đầu, trước tiên là một em gái nô lệ rất nghèo, ông đã bước ra trả giá trước. Cuộc đấu giá càng lúc càng sôi động, ông tham gia rất tích cực, và sau cùng đã trúng giá, đánh hạ tất cả mọi người. Ôâng trao tiền để lấy người nô lệ. Cô bé gái được đem đến cho ông. Con bé sợ hãi hỏi ông sẽ làm gì đối với nó. Abraham Lincoln trả lời:”Tôi sẽ để cho cô được tự do”. “Tự do? Tự do để làm gì”? Cô bé kinh ngạc hỏi. Ôâng trả lời:”Tự do để làm bất cứ cái gì cô muốn”. Cô bé thắc mắc có phải mình được tự do đi đến bất cứ chỗ nào cô muốn, làm bất cứ điều gì cô thích, nói bất cứ điều gì cô nghĩ, và làm bất cứ nghề nào cô ước muốn. Sau cùng cô bé mỉm cười và nói:”Cháu sẽ đi theo ông”.
Abraham Lincoln đã chứng tỏ cho chúng ta thấy, ông là một con người gương mẫu và biết cách “kêu gọi” dân chúng “theo ông”. Ôâng đã gọi họ bằng chính gương sáng của mình. Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu kêu gọi Phêrô, rồi Giacôbê, Gioan và Anrê cũng đi theo Ngài. Đức Giêsu đã cho họ biết Ngài là ai qua việc giảng dạy, chữa lành, và bằng các đức tính tốt lành, nhân từ và tha thứ của Ngài.
1. Ơn gọi của các Tông đồ.
Hồ nước lớn danh tiếng tại Galilê được gọi bằng 3 tên: biển Galilê, biển Tibêriat và hồ Giênêxaret. Hồ này dài 20,8 km, rộng 12,8 km. Hồ ở vào chỗ trũng của mặt đất, nơi sâu nhất là 225 mét dưới mặt biển, vì thế nó có khí hậu giống khí hậu nhiệt đới. Ngày nay cư dân không đông đúc lắm, nhưng vào thời Đức Giêsu, có 9 thị trấn chung quanh bờ hồ, không thị trấn nào dưới 15.000 người.
Đức Giêsu rao giảng Tin mừng ở đây, dân chúng chen nhau lại gần để nghe Ngài giảng. Việc đó diễn tả hiệu quả hấp dẫn do lời giảng dạy của Ngài. Vì dân chúng quá đông nên Đức Giêsu phải xuống thuyền của ông Simon đang đậu gần bờ, ra xa bờ một chút để có thể dễ dàng giảng dạy… Giảng dạy xong, Đức Giêsu bảo ông Simon đưa thuyền ra chỗ nước sâu mà bắt cá. Simon, một ngư dân dày kinh nghiệm trong nghề chài lưới, đã cho Chúa biết kết quả thạm bại: sau một đêm cực nhọc vất vả mà chả bắt được con cá nào. Ôâng nói đúng, nhưng không biết nghĩ ngợi thế nào, ông đã thưa với Chúa:”Vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới”. Kết quả thật bất ngờ, cá nhiều vô kể đến nỗi lưới muốn rách.
Đây là một phép lạ? Hồ Giênêsaret có nhiều cá. Nhưng suốt đêm các ông không bắt được gì mà bây giờ bắt được nhiều như thế là một phép lạ. Biết được chỗ có nhiều cá, để bảo Simon thả lưới phải do sự hiểu biết của Thiên Chúa. Thường thì ban ngày ít đánh được cá hơn ban đêm, đây ban đêm không được gì mà ngày thì lại được cá nhiều quá sức tưởng tượng thì phải coi là cái gì khác thường. Chính những người bắt cá xác nhận là phép lạ.
Trước mẻ cá lạ lùng này, ông Simon sụp lạy dưới chân Ngài và thưa:”Lạy Chúa, xin hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi”. Cả ông Giacôbê và Gioan cũng kinh ngạc như ông. Nhung Đức Giêsu phán bảo ông Simon:”Đừng sợ ! từ nay con sẽ là kẻ chinh phục người ta”. Bấy giờ các ông đưa thuyền vào bờ, và đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Ngài.
Đây là những môn đệ đầu tiên đi theo Ngài. Họ đi theo Ngài từ đây. “Đi theo” theo nghĩa thần học, động từ này ám chỉ sự dâng hiến chính mình, thoát khỏi mọi sự ràng buộc. Vì thế ở đây ta liên tưởng đến ý nghĩa từ bỏ của cải vật chất (Mc 10,21), từ bỏ cha mẹ, bạn bè và tất cả (Lc 5,11).
2. Ơn gọi của tiên tri Isaia.
Tiên tri Isaia, trong bài đọc 1, được chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa và nghe tiếng các Thiên Thần Sốt mến luân phiên tung hô:”Thánh, thánh, thánh, Chúa là Thiên Chúa các đạo binh, trời đất đầy vinh quang Chúa”. Điều đó khiến ông run sợ và cảm thấy mình bất xứng, nên đã thốt lên lời:”Vô phúc cho tôi, tôi chết mất, vì lưỡi tôi nhơ bẩn”. Trước sự khiêm tốn ấy, Chúa sai sứ thần đến thanh tẩy ông bằng than lửa hồng, ông trở nên thanh sạch và được Chúa tuyển chọn, ông đã can đảm đáp lại:”Này con đây, xin hãy sai con”.
3. Ơn gọi của tông đồ Phaolô.
Thánh Phaolô, trong bài đọc 2, sau khi được Chúa kêu gọi và cải hóa từ tay bắt bớ Đạo Chúa, nay trở nên một vị Tông đồ nhiệt thành truyền bá giáo lý của Chúa, là thầy dạy dân ngoại. Ngài đã khiêm tốn thú nhận mình hèn mọn nhất trong các Tông đồ, nhưng nay được như thế này là nhờ ơn Chúa ban. Bởi ngài đã can đảm đáp lại tiếng Chúa gọi khi thưa với Chúa:”Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì”?
Phaolô là con người đầy nhiệt huyết, đã đi vòng quanh đế quốc La mã 4 lần, đã đưa dân ngoại vào Đạo. Làm sao cắt nghĩa được nội tâm của con người đầy lửa ấy? Thưa vì người đã gặp gỡ Chúa Kitô. Cuộc gặp gỡ đó đã đảo lộn cuộc đời Phaolô, từ một kẻ bắt bớ tín hữu trở nên một Tông đồ nhiệt thành. Tất cả là ơn của Chúa và Ngài vui mừng vì được trả giá rất cao để “Ơn Chúa không ra vô ích”: 5 lần bị đánh đòn 39 trượng, 3 lần bị tra tấn, một lần bị ném đá, 3 lần bị đắm tầu một ngày một đêm chơi vơi trong lòng biển (2Cr 12,24-25).
4. Ơn gọi của chúng ta.
Chúa vẫn còn kêu gọi mọi người chúng ta, và ngày nay nhu cầu ấy càng to lớn. Và vẫn còn có những người đáp lại lời Ngài. Một số người (như các Tông đồ) được kêu gọi để tận hiến mình, đi theo Đức Kitô bằng một phương thế “chuyên nghiệp”. Nhưng không phải mọi Kitô hữu đều được kêu gọi theo Đức Kitô bằng cách ấy.
Bằng phép Rửa tội, chúng ta cũng được kêu gọi đi theo Đức Kitô. Nhưng đối với một người bình thường, đi theo Đức Kitô có nghĩa là gì? Là sống xứng danh một Kitô hữu trong ngành nghề của mình ở bất cứ nơi nào mình có mặt. Còn có nhiều cách phục vụ Đức Kitô và Tin mừng của Ngài hơn nữa.
Một số người Kitô hữu khi ý thức về tội lỗi mình thì tự ý miễn trừ cho mình những việc hoạt tông đồ hay những việc phục vụ dân Chúa. Họ nghĩ rằng Chúa không gọi họ làm việc tông đồ. Họ cho rằng việc tông đồ là thuộc phạm vi linh mục và tu sĩ nam nữ. Đọc lịch sử Giáo hội, ta thấy khi Chúa muốn để lại một ấn tượng sâu xa về quyền năng của Ngài, Chúa không ngừng dùng những phương thế khác thường, nghĩa là dùng quyền năng Chúa biến đổi họ tức thời, như Chúa đã biến đổi Phaolô, người bách hại Đạo trở thành người hăng say rao giảng Tin mừng, như Augustinô, một thanh niên trụy lạc trác táng, thành một giám mục thánh.
II. SỐNG THEO ƠN GỌI.
1. Ơn gọi là hồng ân của Thiên Chúa
Mọi người đều có ơn gọi. Ơn gọi phải phát xuất từ Thiên Chúa, con người chỉ biết đón nhận với lòng thành thực và biết ơn. Con người không chọn Chúa, mà chính Chúa chọn con người: Isaia tin có Chúa đang hiện diện trong Đền thờ, nhưng ông không dám nghĩ tới việc được “thấy” Chúa và được Ngài “gọi” (bài đọc 1). Phaolô đang trên đường lùng bắt các môn đệ Đức Kitô thì được ơn gọi (bài đọc 2). Còn Phêrô và các bạn chài thì đang lo đánh lưới bắt cá nhưng lại được gọi làm những kẻ quăng lưới bắt người (bài Tin mừng). Đúng như lời Đức Giêsu nói:”Không phải các con chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con”.
Chúa có thể gọi ta trong những hoàn cảnh đặc biệt, nhưng ngày nay, Chúa thường gọi con người trong những hoàn cảnh rất thông thường và qua trung gian. Dù được gọi trong hoàn cảnh đặc biệt hoặc trong cuộc sống bình thường thì tất cả là hồng ân Thiên Chúa. Con người phải đáp lại tình thương yêu của Chúa.
2. Con người bất xứng trước ơn gọi.
Thiên Chúa đã kêu gọi mỗi người và mỗi người đều cảm thấy mình bất xứng, tội lỗi. Chúng ta có 3 ví dụ về ơn gọi:
- Isaia thốt lên:”Khốn thân tôi, tôi chết mất, vì tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế”(bài đọc 1).
- Phaolô tự nhận “Tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông đồ, tôi không đáng được gọi là tông đô, vì đã ngược đãi Hội thánh của Thiên Chúa”.
- Phêrô, sau mẻ cá lạ lùng, sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà thưa:”Lạy Chúa, xin tránh xa con vì con là kẻ tội lỗi”.
Tuy thấy mình bất xứng nhưng vẫn được Thiên Chúa tín nhiệm. Đáp lại hồng ân của Chúa, các ông cố gắng chu toàn nhiệm vụ Chúa trao:
- Isaia mạnh dạn thưa lại với Chúa:”Dạ, có con đây, xin sai con đi”.
- Phaolô dám khoe:”Tôi đã làm việc hơn tất cả các vị khác, nhưng không phải tôi, mà là Thiên Chúa ở cùng tôi”.
- Còn Phêrô thì “đưa thuyền vào bờ và đi theo Ngài”
3. Cần có ơn Chúa trợ lực.
Ôâng Simon thưa với Đức Giêsu:”Thưa Thầy, chúng con đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả”. Đúng vậy, ông đã mất công toi cả một đêm với kinh nghiệm đánh cá. Nhưng Đức Giêsu thuyết phục ông thử thêm một lần nữa mà ông đã thành công rực rỡ giữa thất bại. Câu chuyện này nhắc cho các ông và cho chúng ta một bài học: Khi Đức Giêsu bắt đầu tham dự vào sự việc, thì lập tức sự việc ấy sẽ đổi thay. Những lần buông lưới trước đó – có lẽ từ 20 đến 30 lần suốt đêm ấy – các môn đệ làm một mình. Nhưng lần cuối cùng, Đức Giêsu bắt đầu can dự vào, thì sự tình quay hẳn 180 độ. Việc diệu kỳ xẩy ra đã vượt quá ước mơ của họ.
Trên mảnh đất chuyên môn của mình, Simon tưởng mình có khả năng, nhưng Đức Giêsu đã đánh trúng ông, đã chỉ cho ông thấy những giới hạn của mình: ông không là gì cả nếu không có Ngài. Chúng ta cũng thế, trong chiếc thuyền của chúng ta, chúng ta thường phải nhường chỗ cho một Đấng Khác, để thả lưới ở nơi mà chúng ta không tự mình làm được.
“Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nhấéc bổng trái đất lên”. Nếu Archimède dám khẳng định như vậy thì tại sao ta lại không dám xác tín rằng: Dựa vào Đức Giêsu, Đấng đã hiến mạng vì tình yêu, tôi có thể chinh phục mọi tâm hồn? Như Simon đã dựa vào Lời Chúa mà thả lưới và bắt được mẻ cá lớn, thì chúng ta cũng có thể trở thành người chinh phục các tâm hồn cho Chúa một khi chúng ta biết dựa vào quyền năng của Chúa hơn là vào sức riêng mình.
Truyện: Thánh Gioan Vianney.
Thánh Gioan Vianney, lúc còn là chủng sinh, học rất chậm. Ngày kia, một giáo sư thần học, thừa lệnh Đức Giám mục đến khảo sát Vianney xem có đủ khả năng học vấn để tiến tới chức linh mục chăng?
Tuy đã cố hết sức học hành, Vianney vẫn không thể trả lời được câu nào cho trôi chảy.
Nổi nóng, vị giáo sư đập bàn nói:”Vianney, anh dốt đặc như con lừa ! Với một con lừa như anh, Giáo hội hy vọng làm nên trò trống gì “?
Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời:”Thưa cha, ngày xưa Samson chỉ dùng một cái xương hàm con lừa mà đánh bại 3000 quân Philitinh. Vậy với cả con lừa này, Thiên Chúa không làm được việc gì sao”?
4. Thực hành ơn gọi tông đồ.
a) Về phần các Tông đồ.
Sau khi Đức Giêsu về trời, các Tông đồ chia nhau ra đi truyền giáo. Các ông đã hăng say hoạt động, hy sinh rất nhiều vì danh Chúa và sau cùng đã nhận lấy cái chết để tỏ lòng trung thành với Chúa..
Trong bài đọc 2, chúng ta được nghe thánh Phaolô bộc bạch tâm tư của mình. Phaolô là một con người đầy nhiệt huyết, đã vòng quanh đế quốc La mã 4 lần, đã đưa dân ngoại vào Đạo. Làm sao cắt nghĩa được nội tâm của con người đầy lửa ấy? Thưa vì ngài đã gặp gỡ Chúa:”Rồi sau cùng Ngài đã hiện ra với tôi như một đứa con sinh non”(1Cr 15,8). Phải, cuộc gặp gỡ đã đảo lộn cuộc đời Phaolô, từ một kẻ bắt bớ tín hữu trở nên một Tông đồ nhiệt thành. Tất cả là ơn của Chúa và ngài được vui mừng trả giá rất cao để “Ơn Chúa không ra vô ích”: 5 lần bị đánh đòn 39 trượng, 3 lần bị tra tấn, 1 lần bị ném đá, 3 lần bị đắm tầu, 1 ngày 1 đêm chơi vơi trong lòng biển (2Cr 12,24-25).
b) Về phía Giáo hội.
Trước khi về trời, Đức Giêsu trao sứ mạng truyền giáo cho các Tông đồ:”Các con hãy đi khắp nơi giảng dạy cho muôn dân”. Các ngài đã ra đi rao giảng và cũng đã chu toàn sứ mạng Chúa trao phó. Nối tiếp các Tông đồ, Giáo hội tiếp tục sứ mạng đó như Công đồng Vatican II đã dạy:
“Vốn phát sinh từ ơn gọi làm Kitô hữu, việc tông đồ giáo dân không bao giờ có thể khiếm khuyết trong Giáo hội. Trong những buổi đầu Giáo hội, việc tông đồ này thật là hăng say và kết quả biết bao ! Chính Thánh kinh chứng minh cách phong phú điều đó (Cv 11,19-21; 18,26; Rm 16,1-16). Càng ngày dân số càng gia tăng, khoa học và kỹ thuật càng tiến triển, những mối tương quan mật thiết hơn giữa con người không những mở rộng môi trường hoạt động tông đồ giáo dân đến bao la, môi trường mà phần lớn chỉ dành riêng cho họ, và còn tạo nên nhiều vấn đề mới đòi hỏi họ phải đặc biệt lưu tâm học hỏi” (Apostolicam Actuositatem, đoạn 1).
Theo giáo huấn của công đồng, ta thấy người giáo dân thực hành việc tông đô có hiệu quả hơn các linh mục và tu sĩ. Bởi vì các Linh mục đâu có đến các gia đình hay gặp gỡ được những người không có đạo, và họ cũng đâu có đến nhà thờ để nghe các linh mục giảng. Chính các giáo dân là những Tông đồ cụ thể, trực tiếp và hữu hiệu nhất.
Lời Chúa hôm nay, cùng với lời kêu gọi của công đồng Vatican II đối với mỗi Kitô hữu trong việc phục vụ Giáo hội, nhắc nhở cho chúng ta về sứ vụ truyền giáo. Sự thường chúng ta hay tìm đủ mọi lý do để từ chối hay không tích cực đáp lại lời mời gọi này. Chúng ta thường viện lý do cho rằng mình không đủ phẩm chất để theo Chúa, thiếu kiến thức, thiếu lòng đạo đức, không xứng đáng được mời gọi đến phục vụ. Tuy nhiên, Thiên Chúa không mời gọi chúng ta theo sự xứng đáng, phẩm chất hay kiến thức. Ngài gọi chúng ta theo ân sủng và tình yêu của Ngài. Khi Thiên Chúa mời gọi, nếu chúng ta đón nhận ơn gọi của Ngài, Ngài sẽ biến đổi cuộc đời chúng ta, làm cho chúng ta trở nên giống như Ngài, và ban cho ta những ơn cần thiết để thi hành điều Ngài muốn chúng ta làm (Lc 1,38).
Thiên Chúa không bao giờ khước từ thiện chí của chúng ta. Bất kể chúng ta là ai, có khả năng gì, yếu đuối thế nào, Ngài luôn cần chúng ta trong công việc phục vụ Giáo hội của Ngài. Ngài luôn mời gọi chúng ta đi theo Ngài và trở thành những Tông đồ đồng hành với Ngài trong công cuộc cứu rỗi nhân loại.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho mọi người chúng ta biết tin theo Chúa, tham gia vào công việc tông đồ giáo dân một cách tích cực, quảng đại để đem về cho Chúa nhều linh hồn, theo kinh của thánh Inhaxiôâ Loyola:
“Lạy Chúa, xin dạy con biết sống quảng đại,
Biết phụng sự Chúa cho xứng đáng,
Biết cho đi mà không cần tính toán,
Biết chiến đấu mà không sợ thương tích,
Biết làm việc mà không tìm an nghỉ,
Biết xả thân mà không tìm một phần thưởng nào khác
Ngoài việc biết mình đang thi hành thánh ý Chúa.
7. Được gọi cộng tác với Thiên Chúa--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Các bài đọc trong thánh lễ Chúa Nhật hôm nay đều đề cập đến ơn gọi. Tiên tri Isaia đã được thấy Thiên Chúa và cảm nhận thân phận nhơ uế của mình. Thiên Chúa đã xá tội bằng thanh tẩy đôi môi nhơ uế của Ysaya với than hồng nơi bàn thờ. Thiên Chúa phán: “Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng ta?” Isaia đã lên tiếng đáp lời: “Dạ, con đây, xin hãy sai con”. Thiên Chúa cần con người, và Isaia đã sẵn sàng đáp trả.
Đức Giêsu đã mời gọi Phêrô trở nên thợ lưới người sau khi Phêrô nhận ra mình tội lỗi bất xứng ở bên Đức Giêsu: “Lạy thầy, xin xa tôi ra vì tôi là kẻ tội lỗi”: “Đừng sợ, từ nay ngươi sẽ là kẻ chài lưới người”. Chèo thuyền vào bờ, Phêrô và các bạn đã bỏ mọi sự mà đi theo Đức Giêsu. Phêrô và các bạn đã quảng đại bỏ tất cả để theo Đức Giêsu.
Phaolô đã từng giữ áo cho những người Do Thái ném đá Stephen (Cv.7, 58); ông cũng tán thành việc giết Stephen (Cv.8, 1). Tuy nhiên, trên đường đi Đamas để bắt các Kitô hữu đem về Giêrusalem trị tội, Phaolô đã được ơn trở lại. Từ đó, Phaolô là khí cụ đặc biệt Thiên Chúa dùng để rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu Kitô: “Thưa anh em, trước hết, tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta… Người đã trỗi dậy và đã hiện ra với Kêpha và với nhóm mười hai” (1Cr. 15, 3-5).
Cả ba người được gọi trong các bài đọc Kinh Thánh hôm nay đều đã là tội nhân hoặc đã ý thức mình là tội nhân. Chính Thiên Chúa đã tha thứ tội cho họ, và gọi họ cộng tác với Ngài. Được Thiên Chúa mời gọi cộng tác, là vinh dự đặc biệt cho những ai đã từng phạm tội chống cưỡng Ngài. Và rồi ngay cả khi đã đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa mà vẫn còn vấp ngã, thì Thiên Chúa vẫn tiếp tục trung thành mời gọi con người vươn lên. Điều này cũng đúng đối với các người theo Chúa, đặc biệt như các tông đồ. Dù đã là môn đệ, Phêrô cũng có lúc chối Thầy (Mc.14, 71), và có lúc chưa can đảm sống như mình phải sống (Gl.2, 11-14). Thiên Chúa vẫn tiếp tục mời gọi những người Ngài mời gọi, cho du họ giới hạn khiếm khuyết. Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài vẫn yêu thương và liên lỉ mời gọi con người cho dù họ bất trung.
Kitô hữu cũng là những người đã được Thiên Chúa mời gọi. Ngài mời gọi con người hãy sống như con cái Thiên Chúa, trở thành tình yêu và sự hiện diện của Thiên Chúa cho con người hôm nay. Thiên Chúa mời gọi mỗi người hãy yêu thương mọi người, để mỗi người cảm được Thiên Chúa yêu thương qua những người sống xung quanh mình.
Người đời thường tìm tiền tài, danh vọng, địa vị. Thiên Chúa mời gọi con người trở thành tình yêu của Thiên Chúa cho con người hôm nay. Bao nhiêu người nghèo cần sự giúp đỡ của người khác. Ngày nay Thiên Chúa không làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, nhưng Ngài mong những người nghèo hôm nay nhận được tấm bánh từ tay anh chị em mình. Những ân nhân của người nghèo thực sự là đại diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa cho họ ăn và giúp họ những gì họ cần thiết qua trung gian những ân nhân này. Thiên Chúa hiện diện với tôi qua anh chị em. Phần tôi, tôi được mời gọi để trở thành tình yêu của Thiên Chúa cho người khác.
Nhiều người tưởng rằng tiền của, địa vị, danh vọng chức quyền, sự thỏa mãn về thể xác làm cho người ta hạnh phúc, nên họ đã đi tìm những điều đó. Nhưng nếu biết quan sát và nhận định, họ sẽ thấy tiền bạc, danh vọng chức quyền địa vị, thỏa mãn vật chất, không làm con người được hạnh phúc đích thực. Chính khi giúp đỡ tha nhân, khi yêu thương vượt qua chính mình, khi hy sinh để giúp đỡ người khác, con người tìm được hạnh phúc thực. Kitô hữu được mời gọi để làm chứng về điều này. Phục vụ làm con người hạnh phúc.
Kitô hữu được mời gọi để làm vua. Không nô lệ vật chất, làm chủ, tự do với tất cả để chỉ có Thiên Chúa là nhất đối với mình; đó là nét vua mà Thiên Chúa muốn chia sẻ với con người. Ai thua thì bị làm nô lệ. Thiên Chúa không muốn con người nô lệ cho xác thịt, cho vật chất; Ngài mời gọi con người vượt lên, chiến thắng, làm chủ làm vua. Thiên Chúa mời gọi con người trở nên người tự do thật sự.
Kitô hữu được mời gọi để trở thành tiên tri. Tiên tri là người của Thiên Chúa, người nói nhân danh Thiên Chúa cho con người hôm nay. Nói cho người khác biết Đức Giêsu đã phục sinh, Ngài là người của Thiên Chúa, Ngài thuộc về Thiên Chúa đến độ có thể nói Ngài là Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Một khi con người nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, con người biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Rao giảng tin mừng Đức Giêsu Phục Sinh, không phải chỉ bằng lời nói, nhưng còn bằng và chính yếu bắng chính cuộc sống của mình. Kitô hữu được mời gọi để làm chứng cho Đức Giêsu Phục Sinh bằng niềm tin và cách sống thấm nhuần đức tin của mình. Kitô hữu không phải là người không cảm thấy những khó khăn trong cuộc sống, cũng không phải là người không bị cám dỗ; Kitô hữu là người chia sẻ thân phận con người như bất cứ ai khác, nhưng vẫn có thái độ và cách hành xử khác với những người có lối sống không theo Tin Mừng. Kitô hữu được mời gọi sống vui và phó thác trong mọi hoàn cảnh vì họ biết Thiên Chúa yêu thương họ, và thế gian này không có giá trị tuyệt đối.
Kitô hữu được mời gọi để trở thành tư tế của Thiên Chúa, người đại diện con người tôn thờ Thiên Chúa. Cầu nguyện, dâng chính con người mình lên Thiên Chúa, là thái độ tôn thờ Thiên Chúa đích thực. Cầu nguyện phải là chính sức sống và hạnh phúc của con người. Được đại diện con người dâng lên Thiên Chúa lễ tế là chính con người mình, là một hạnh phúc của Kitô hữu. Chính khi kết hiệp với Thiên Chúa, con người được hạnh phúc đích thực.
Thiên Chúa mời gọi con người, đặc biệt là Kitô hữu, làm cho thế giới này vui hơn tươi hơn đẹp hơn, làm cho con người ngày hôm nay tin tưởng vào nhau hơn, sống vui và hạnh phúc với nhau hơn. Đó là ơn gọi của Kitô hữu. Xin cho Kitô hữu ý thức sứ mạng của mình, và cảm nghiệm hạnh phúc khi thực hiện sứ mạng này.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, nơi con người Đức Giêsu có gì đặc biệt không? Ơn gọi của Đức Giêsu là gì? Sứ mạng của Đức Giêsu là gì?
2. Thiên Chúa có mời gọi bạn đặc biệt điều gì không? Thiên Chúa muốn bạn sống như thế nào? Thiên Chúa mời gọi bạn làm gì cho Thiên Chúa và con người ngày nay?
8. Vâng lời Thầy con thả lưới – ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa, dù chưa biết gì về đạo Thiên Chúa, thế mà đã có những lời nguyện thành khẩn trông cậy trời:
“Lạy trời mưa xuống, lấy nước tôi uống,
Lấy ruộng tôi cầy, lấy đầy bát cơm,
Lấy rơm đút bếp”.
Lời van xin đơn sơ mộc mạc đó đã nói lên sự bất lực của mình và nhận ra quyền phép vô cùng của Thiên Chúa, đã tỏ bày lòng thành khẩn của mình và nhận biết lòng thương xót vô biên ban ơn giáng phúc của Thiên Chúa. Quyền phép và tình thương của Thiên Chúa đã làm ra mưa, ra nước, ra ruộng, ra rơm. Giới hạn khả năng của con người ở chỗ biết cầy, biết uống, biết ăn, biết lấy rơm đút bếp.
Thiên Chúa đã làm những việc vĩ đại, những thứ căn bản, những thứ nguồn gốc sinh sự sống cho muôn loài muôn vật. Con người phải biết trông cậy, nương nhờ, tham gia, khai triển để làm ăn, nuôi dưỡng và phát triển sinh sống sao cho đáng lãnh ơn trời, chứ đừng phung phí, phá hoại.
Phaolô trước khi trở lại ông đã hăng hái phá hoại, bắt bớ những kẻ khác. Nhưng nhờ ơn Chúa, ông trở lại đạo Chúa, ông đã tham gia vào công trình cứu độ của Chúa, đã làm việc nhiều hơn tất cả các vị khác, nhưng ông đã thú nhận “thật ra không phải tôi, mà là ơn Chúa nơi tôi”, ông cũng nói: “Tôi gieo, anh em tưới và Thiên Chúa cho mọc lên!”
Isaia cũng nhận vô tài bất lực trước Thiên Chúa: “Thánh! chí Thánh! ngàn trùng chí thánh, Chúa tể càn khôn, cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa!”. Ông đã thốt ra: “Khốn thân tôi, chết tôi rồi! Tôi là người môi miệng ô uế”. Nhưng nhờ than hồng là lửa tình thương của Chúa, ơn Thánh thần của Chúa đã thanh tẩy ông, ông đã được sạch, được sai đi làm tiên tri và ông đã mau mắn xin vâng: “Có con đây, xin Chúa sai con đi”.
Đặc biệt hôm nay, Đức Giêsu muốn chúng ta đưa mắt nhìn con thuyền Phêrô với cánh buồm no gió căng phồng lướt sóng, xa dần rồi mất hút giữa biển cả bao la. Phêrô sống với cái nghề vô danh, đầy may rủi và luôn phải vật lộn với giông tố nguy hiểm. Vô danh vì công việc nặng nhọc giữa biển khơi, không ai biết tới. May rủi vì chẳng bao giờ nắm chắc kết quả, thất bát thường xuyên, dù cố gắng vật lộn với nghề nghiệp. Con thuyền lại luôn tròng trành trên sóng nước, bảo tố. Mạng sống con người quá mong manh. Phêrô dầu kiên cường, hăng hái, lạc quan chống đỡ, nhiều lúc phải chán nản, thất vọng thở dài: Suốt đêm kéo lưới cực khổ chẳng được gì!
Đang lúc buồn phiền mệt nhọc đó, Đức Giêsu lại còn đến cậy nhờ lên thuyền để giảng cho dân chúng đông nghẹt đứng trên bờ. Tuy nhiên, Phêrô không quản ngại rước Người lên thuyền. Giảng xong, Người cũng không để Phêrô nghỉ ngơi, lại bảo ông chèo thuyền ra khơi thả lưới bắt cá. Dầu cực nhọc và biết rõ Thầy chẳng bao giờ làm người chài lưới. Còn ông rất rành nghề. Thế mà ông chỉ nói: “Thưa Thầy, suốt đêm chúng con vất vả kéo lưới chẳng được gì; nhưng vâng lời Thầy, con xin thả lưới”. Thật lạ lùng trước lòng tin của Phêrô vào Thầy! chính nhờ đức tin đó, Phêrô đã hiến nhà mình làm trung tâm truyền giáo cho thành phố Caphanaum, và các miền lân cận. Người đã ban cho ông một trung tâm truyền giáo vĩ đại là đế quốc Rôma. Ông đã hiến cho Chúa con thuyền bé nhỏ mong manh. Người đã ban cho ông con tầu Giáo Hội vững chắc dù sức hùng satan vẫy vùng như vũ bão, cũng phải đầu hàng. Ông đã hiến cho Chúa nghề đánh cá, Người đã làm cho ông nên ngư ông trên biển cả trần gian. Ông đã hiến cho Chúa trót cả mạng sống, Người đã ban cho ông được đời sống vinh quang muôn đời. Ông đã hiến tất cả cái tạm thời và ông đã được tất cả cái trường tồn vô cùng. Ông đã hiến cái nhỏ bé trần gian và ông đã được chìa khóa vĩ đại trên trời. Nhờ vâng lời Thầy, ông đã được tất cả.
Việt Nam có câu: “Không thầy đố mày làm nên” - “Nhờ thầy mới được làm thầy”. Loài người với nhau, còn phải cần nhau, nhờ nhau như thế mới nên người. Huống chi loài người với Thiên Chúa, Đấng làm nên mình, dựng nên vũ trụ vạn vật, thì loài người phải cần, phải nhờ, phải cầu khẩn Thiên Chúa biết chừng nào! Thế mà, có kẻ đã cả gan tuyên bố như Nietzsche: Thiên Chúa đã chết rồi, thay trời làm mưa, để họ tự tôn mình lên làm Chúa, làm chủ, để làm mưa, làm gió, tung hoành phá hoại khắp nơi. May thay những hạng đó đã chết rồi!
Nếu biết nhận ra mình quá bé nhỏ, quá bất lực để chạy đến cầu khẩn, vâng theo Thiên Chúa, thì họ đã được cứu sống muôn đời.
Thiên tài vĩ đại bậc nhất nhân loại như Newton hơn cả Descartes, Einstein, thế mà ông chỉ dám nói: “Tôi chỉ là một em bé chơi đùa trên bờ biển và thỉnh thoảng nhặt được một hòn sỏi nhẵn hơn, hoặc một vỏ sò đẹp hơn những cái người ta thường tìm thấy, trong khi đó biển chân lý mênh mông trải ra trước mắt nó, vẫn hoàn toàn bí mật, chưa hề bị xâm phạm”. Càng khiêm tốn, ông càng được thế nhân tôn vinh và nhớ ơn, nên trên bia mộ ông được khắc ghi câu: “Let men rejoice that so great a glory of the human race has appeared”: Loài người hãy hân hoan rằng một vinh quang lớn lao bậc ấy của nhân loại đã xuất hiện” (Nguyễn hiến Lê: Gương Hy Sinh – tr. 7).
Isaia cũng đã kêu lên: Khốn thân tôi, chết tôi rồi và được Thiên Chúa cho làm tiên tri vĩ đại. Phaolô đã thú nhận “Tôi là người hèn mọn nhất trong các tông đồ” và đã được ơn Chúa giúp cho làm việc nhiều hơn tất cả các vị khác. Phêrô đã sấp mình dưới chân Đức Giêsu và van xin: “Lạy Thầy, xin tránh xa tôi, vì tôi là kẻ tội lỗi”. Và đã vâng lời Thầy đi thả lưới được muôn linh hồn về cho Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con hết lòng khiêm tốn vâng lời Chúa ra khơi biển đời để thả lưới, cho lưới con được đầy bạn hữu biết khẩn cầu và tôn vinh Chúa. Amen.
9. Hãy ra khơi thả lưới bắt cá--Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: Mau mắn đáp lại ơn Chúa kêu gọi làm tông đồ
Bài Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu đã ngồi trên thuyền của Simon mà rao gảng Tin mừng cho dân chúng, và sau đó đã cho Simon đánh bắt được một mẻ cá lạ lùng. Trước phép lạ này, Simon đã tuyên xưng đức tin: Đức Giêsu là Con Thiên Chúa và đã “Từ bỏ mọi sự mà đi theo Người”.
CHÚ THÍCH:
- C 1-2: + Bờ hồ Ghennêxarét: Đây là chiếc hồ lớn hình quả trám nằm tại miền Galilê, được thánh sử Luca gọi là hồ Ghennêxarét (x Lc 5,1), Mát-thêu gọi là biển hồ Galilê (x. Mt 4,13) Máccô gọi trống là Biển Hồ (x. Mc 4,1), còn Gioan gọi là Biển hồ Tibêria (x Ga 21,1).
- C 3-4: + Người bảo ông Simon: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”: Ra chỗ nước sâu hay “ra khơi”, là chỗ “nước trên vực thẳm”. Đức Giêsu ra lệnh cho thuyền Hội thánh tiến vào nơi vực thẳm của thế gian với nhiều nguy hiểm đang chờ đón (x. Lc 10,3).
- C 5-7: + Chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả: Câu nói của Phêrô cho thấy sự yếu đuối bất lực của các ông. Nhưng chính sự bất lực này lại làm nổi bật quyền năng mạnh mẽ vô song của Thiên Chúa (x Ga 15,5).
- C 8-9: + Simon Phêrô: Ở đây Luca dùng biệt danh Phêrô (nghĩa là Đá) mà sau đó Đức Giêsu sẽ chính thức đặt cho ông khi chọn ông vào danh sách 12 Tông đồ (x. Lc 6,14; Mt 16,18). + Sấp mình dưới chân Đức Giêsu: Trước sự hiện diện của Thiên Chúa, Simon cảm thấy mình tội lỗi bất xứng và đã run sợ sấp mặt xuống đất vì không dám diện kiến thánh nhan của Chúa như Môsê (x. Xh 2,6) hay như Isaia xưa (x. Is 6,4). + “Lạy Chúa”: “Kurios” trong tiếng Hy-lạp có nghĩa là “Chúa”, một danh hiệu dành riêng để gọi Đức Giêsu sau khi phục sinh (x. Lc 24,34-35; Pl 2,6-11).
- C 10-11: + “Đừng sợ”: Đây chính là một lời an ủi thường được các thiên sứ nói với những kẻ đang sững sờ khi gặp điều linh thánh (x. Lc 1,13.30; 2,10); là lời Đức Giêsu nói với các Tông đồ đang sợ hãi giữa biển khơi (x. Mt 14,27), và khi Người hiện ra vào buổi chiều ngày phục sinh (x. Mt 28,10). + Bỏ hết mọi sự mà theo Người: Các Tông đồ đã đáp trả ơn Chúa kêu gọi bằng việc quảng đại từ bỏ mọi sự mà đi theo Người và sẵn sàng cộng tác với Người chu toàn sứ vụ truyền giáo (x. Lc 5,11).
CÂU HỎI:
1) Hồ Galilê còn được các sách Tin mừng gọi bằng những tên gì khác nữa? 2) Ra khơi có liên quan thế nào đến công việc truyền giáo được Chúa trao cho Hội thánh? 3) “Đức Giêsu” được gọi là “Chúa” từ khi nào? 4) Câu “Đừng sợ” có nghĩa là gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới” (Lc 5,5).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Ơn gọi của ngôn sứ Isaia:
Khi chứng kiến vinh quang của Đức Chúa nơi Đền thờ, Ngôn sứ Isaia đã thốt lên: “Khốn cho tôi, tôi chết mất, vì lưỡi tôi nhơ bẩn!” (Is 6,5). Nhưng sau khi được một thiên thần lấy than hồng từ bàn thờ đến thanh tẩy môi miệng, ông đã tình nguyện xin lãnh nhận nhiệm vụ: “Lạy Chúa, này con đây, xin hãy sai con” (Is 6,8).
2) Ơn gọi ra khơi của tông đồ Simon Phêrô:
Bài Tin mừng hôm nay cho biết ông Simon đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì. Ông đã khiêm tốn nói lên sự bất lực của mình với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào Lời Thầy, con sẽ thả lưới” (Lc 5,5). Quả thật nhờ vâng Lời Chúa mà Simon đã đánh bắt được một mẻ cá lạ lùng. Trước kết quả lớn lao này, ông đã tin Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa, ông sấp mình dưới chân Người và thưa rằng: “Lạy Chúa, xin hãy tránh xa con ra, vì con là kẻ tội lỗi!”. Kẻ tự nhận mình là tội lỗi bất xứng ấy sau này đã trở thành “đá tảng” của đức tin, mà trên đức tin đó, Hội thánh đã được xây dựng và sẽ tồn tại bền vững đến muôn đời (x. Mt 16,16-18). Từ đây, Phêrô trở thành thủ lãnh của Nhóm 12, được Chúa Giêsu trao chìa khóa Nước Trời với quyền cầm buộc tháo cởi (x. Mt 16,19) và được trao nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên của Người là Hội thánh (x. Ga 21,15-17).
3) Ơn gọi của Cha Gioan Viannây:
Khi bị giáo sư thần học quở trách là dốt như con lừa! Thầy Viannây đã khiêm tốn thừa nhận sự dốt nát của mình, và chỉ biết trông cậy vào tình thương của Thiên Chúa. Cuối cùng Vi-an-nây bất tài vô lực kia đã trở thành một vị thánh lớn trong Hội thánh, được đặt làm bổn mạng của các linh mục chăm sóc các linh hồn và nên gương mẫu cho các mục tử noi theo. Chính nhờ ơn Chúa giúp, mà cha Viannây đã làm được việc hoán cải các tâm hồn, đưa được nhiều tội nhân trở về với Chúa.
4) Những cuộc ra khơi của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II:
Noi gương Chúa Giêsu, đức thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đã liên tục ra khơi, chèo ra chỗ nước vừa sâu lại vừa nguy hiểm. Qua 26 năm của triều đại giáo hoàng, ngài đã thực hiện 146 chuyến công du bên trong nước Ý (không tính Rôma), 104 chuyến công du ra ngoài nước Ý để thăm viếng hơn 130 quốc gia trên thế giới. Tưởng cũng cần thêm rằng trong số đó, ngài đã tám lần đến thăm viếng các nước Hồi Giáo, đặc biệt là vị giáo hoàng đầu tiên bước vào một ngôi Đền thờ Hồi giáo cổ kính tại Syria vào năm 2001.
Tính ra, Thánh Gioan Phaolô II đã đi công du 1,400,607 km, tương đương 28 lần vòng quanh trái đất. Ngoài ra mỗi ngày Ngài còn làm việc đến 18 tiếng đồng hồ.
Ngài đã 'chèo' đến những vùng biển nhiều sóng gió: đến thăm cả những miền đất thù nghịch với Hội Thánh, vào những 'miền đất thánh' của Phật giáo, Ấn giáo, Hồi giáo hay Chính Thống giáo... vào cả những nơi mà một số đông dân chúng sở tại không muốn cho ngài đến, lại đòi ngài phải xin lỗi họ (như trong chuyến tông du tại Hy Lạp vào tháng 5 năm 2001), đến cả những nơi mà tính mạng bị đe doạ... Ngài là vị giáo hoàng can đảm nhất trong lịch sử, sẵn sàng ra khơi, dấn thân vào những 'chỗ nước sâu', những vũng xoáy, những nơi sóng gió nguy hiểm cho tính mạng... mà không hề biết sợ là gì, miễn sao Tin Mừng được loan báo.
3. THẢO LUẬN:
1) Phêrô trong Tin mừng hôm nay đã thưa với Chúa Giêsu: “Dựa vào Lời Thầy con sẽ thả lưới” và sau đó ông đã bắt được mẻ cá lạ lùng. Vậy để làm được những việc tông đồ vượt quá sức tự nhiên, chúng ta phải cậy dựa vào ai?
2) Trong những ngày này tôi sẽ làm gì để ra khơi, hầu đưa được nhiều đồng bào lương dân Việt Nam về làm con cái Thiên Chúa?
4. SUY NIỆM:
Sau khi đã trải qua thử thách bị đồng hương bất tín hãm hại, Đức Giêsu vẫn tiếp tục chu toàn sứ vụ rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Tin Mừng hôm nay đan kết việc rao giảng của Đức Giêsu trên thuyền với phép lạ mẻ cá lạ lùng giúp đỡ ông Simon, nhằm kêu gọi ông và các bạn bè thuyền chài của ông quyết tâm từ bỏ mọi sự mà đi theo làm môn đệ của Người, tích cực góp phần vào sứ vụ loan báo Tin Mừng đi khắp thế gian.
1) Gương đáp tại ơn Chúa kêu gọi của tông đồ Phêrô:
- Đức Giêsu xuống thuyền của Simon giảng đạo và kêu gọi ông: Sau một đêm vất vả chài lưới luống công vô ích, Simôn và các bạn đã neo thuyền gần bờ để giặt lưới. Đức Giêsu đã chọn xuống thuyền của ông Simon và yêu cầu ông chèo thuyền ra xa bờ một chút, rồi Ngừơi sử dụng thuyền như một giảng đài lộ thiên để công bố Tin Mừng cho đám đông dân chúng đang đứng đầy trên bờ hồ.
- “Hãy ra khơi thả lưới bắt cá”: Giảng xong, Đức Giêsu bảo ông Simon “Hãy chèo thuyền ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”. Trước lời mời gọi ấy, tuy cảm nhận được sự bất lực của mình do đã vất vả làm việc suốt đêm cách vô ích, nhưng sau khi nghe Đức Giêsu giảng đạo trên thuyền, ông Simon đã tin vào sứ vụ Thiên Sai của Chúa. Lòng tin yêu Chúa đã khiến ông mạnh dạn thưa với Người: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. Kết quả thật bất ngờ: Simon đã bắt được một mẻ cá lớn. Sự thành công này cho thấy không phải do tài sức của ông mà hòan tòan do quyền năng của lời Đức Giêsu đem lại, khiến ông xác tín Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai và tình nguyện xin đầu phục Chúa.
- “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!”: Phêrô đã ý thức thân phận tội nhân yếu đuối của mình và sự cao cả khôn lường của Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, nên ông đã khiêm tốn thưa với Người rằng: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!”. Đây cũng là thái độ của các ngôn sứ như Môsê đã sấp mình xuống khi đối diện với Đức Chúa hiện ra với ông trong ngọn lửa bụi gai cháy mãi; như Isaia khi được Chúa gọi đã cảm thấy mình dơ bẩn bất xứng… Còn chúng ta hôm nay phải có thái độ thế nào khi lên rước lễ mỗi ngày?
- “Từ nay, anh sẽ là người cứu sống người ta”: Qua câu này, Đức Giêsu đã chọn Simon vào hàng ngũ tông đồ của Người. Thực ra Si-môn được Đức Giêsu chọn làm tông đồ không phải vì sự tài giỏi: Về văn hóa chắc Simon học không cao. Về tài năng thì ngoài nghề lưới cá cũng không có gì giỏi giang. Về tính khí thì hay nóng nảy phát ngôn bộc trực… Nhưng ông vẫn được Đức Giêsu chọn đứng đầu Hội Thánh là nhờ đức tin (x Mt 16,15-19) và lòng mến của ông dành cho Thầy (x Ga 21,15-17). Từ giây phút này tên của Simon được Đức Giêsu gắn liền với tên mới Phêrô nghĩa là Đá Tảng đức tin (x Mt 16,18). Chính ơn Chúa đã biến đổi Simon từ một người bắt cá ngoài biển trở thành kẻ chuyên đi đánh bắt các linh hồn.
2) Chúng ta phải làm gì?
- Quảng đại góp phần và khiêm tốn cậy nhờ ơn Chúa giúp: Trong Tin Mừng hôm nay, chính nhờ vâng nghe và làm theo lời Chúa mà ông Simon đã ra khơi thả lưới và đã bắt được một mẻ cá lạ lùng. Trong việc tông đồ, các tín hữu chúng ta cũng chỉ đạt kết quả nếu biết năng học sống Lời Chúa và cậy trông vào Thần Khí của Chúa trợ giúp như Người đã cho biết: “Vì không có Thầy anh em không làm được gì” (Ga 15,5).
- Bỏ hết mọi sự mà đi theo Chúa: Đức Giêsu không từ chối thiện chí của chúng ta. Bất kể chúng ta là ai, có khả năng gì, yếu đuối tội lỗi như thế nào… Người luôn mời gọi chúng ta đồng hành để loan báo Tin Mừng cho những anh em lương dân chưa biết Thiên Chúa. Chúng ta hãy mau mắn đáp lại ơn Chúa kêu gọi bằng việc năng tham dự các buổi học sống Lời Chúa dưới ơn soi dẫn của Thánh Thần, quyết tâm chừa bỏ các thói hư, xin ơn Chúa biến đổi chúng ta nên hòan thiện hơn, chu tòan được sứ vụ loan báo Tin Mừng, làm chứng nhân cho Chúa, hầu giúp mọi người được hưởng ơn cứu độ.
5. NGUYỆN CẦU:
- Lạy Chúa Giêsu. Trước đây con cứ thắc mắc không biết tại sao Chúa lại chọn ông Simon, một người thuyền chài ít học và đã có vợ con, đi theo làm môn đệ của Chúa, trở thành người đứng đầu Nhóm 12 Tông Đồ. Xem ra Chúa đã xây dựng Hội thánh trên tảng đá Phêrô không mấy vững chắc, vì ông đã từng hèn nhát chối Chúa ba lần và có nhiều khuyết điểm khiến Chúa đã phải uốn nắn, có những lời nói theo ý riêng khiến Chúa phải nặng lời quở trách là Satan! Nhưng qua bài Tin mừng hôm nay, con nhận ra rằng: Chúa thường sử dụng những gì thế gian coi thường, những con người yếu đuối, dốt nát... như các người thuyền chài, người thu thuế, gái điếm... cộng tác với Chúa trong sứ vụ loan báo Tin Mừng. Chúa cũng chọn một Vi-an-nây bị đánh giá dốt như con lừa làm linh mục... để qua những con người yếu đuối này, Chúa biểu lộ quyền năng cao cả của Chúa.
- Lạy Chúa. Xin dạy con biết sống quảng đại: Biết phụng sự Chúa cho xứng đáng. Biết cho đi mà không cần tính toán. Biết chiến đấu mà không sợ thương tích. Biết làm việc mà không tìm an nghỉ. Biết xả thân mà không tìm một phần thưởng nào khác, ngoài việc biết mình đã thi hành thánh ý Chúa- AMEN” (Thánh Inhaxiô Loyôla).
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
10. Đức Giêsu và vị Tông Đồ đầu tiên--Lm. PX Vũ Phan Long
Đức Giêsu đã đào tạo môn đệ bằng phương tiện là những bước nhảy trong đức tin và bằng cách làm cho người ấy biết quyền lực thần linh của Người.
1.- Ngữ cảnh
Với bài Lc 5,1-11, chúng ta có một bản văn riêng của tác giả Luca. Như thế, bản văn này có thể giúp độc giả nhận biết cách thức bản văn này tiếp cận với truyền thống Tin Mừng và liên kết với truyền thống ấy.
Quả thật, nếu trong tất cả ch. 5, tác giả đi theo bài tường thuật của Mc (x. 1,40–2,22), ở đây ngài lại tách ra. Trong khi tác giả Mc (1,16-20), và cả Mt (4,18-22), mô tả truyện kêu gọi các môn đệ đầu tiên trước sứ vụ công khai của Đức Giêsu, tác giả Lc lại đặt tiếng gọi ở sau, khi Đức Giêsu đã bắt đầu hoạt động giảng dạy và chữa lành (x. 4,14-44). Người đã biết ông Simôn, vì đã đến nhà ông và chữa là bà mẹ vợ (4,38-39).
Bài tường thuật này là một đơn vị riêng, đến sau bức tranh bộ đôi Nadarét-Caphácnaum (4,14-44), được đóng khung bởi hai toát yếu về sứ vụ rao giảng nay đây mai đó của Đức Giêsu (4,14; 4,44), và được nối tiếp bởi một giai thoại mới, việc chữa lành một người phong hủi (5,12-16).
Đoạn văn của chúng ta thuộc về một phân đoạn lớn hơn (5,1–6,19), trong đó có những đơn vị được dẫn nhập bởi công thức mà các bản dịch thường bỏ, “xảy ra là” (egeneto: 5,1.12.17; 6,1.6.12), với trung tâm là việc kêu gọi Lêvi và bữa ăn ông thết đãi (5,27-39).
Trong phân đoạn này, chân trời của sứ vụ của Đức Giêsu được mở rộng. Cho tới nay, Người hoạt động một mình, qua việc giảng dạy và chữa bệnh (các môn đệ đầu tiên vẫn còn đang ở trong tình trạng vô danh). Bây giờ cử tọa đang mở rộng ra hơn; Đức Giêsu không chỉ nói với những người hay lui tới hội đường mà thôi, nhưng với một đám đông sẵn sàng lắng nghe. Nhất là nay phát sinh nhóm các môn đệ, họ đi theo Người trong hành trình truyền giáo; bên trong nhóm này nổi lên khối sẽ là hạt nhân căn bản của Hội Thánh, đó là nhóm các Tông Đồ. Chính là trong ngữ cảnh này mà chúng ta đọc bài tường thuật Mẻ cá lạ lùng với việc kêu gọi Simôn và các bạn.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Giới thiệu khung cảnh và công việc của Đức Giêsu (5,1-3);
2) Đức Giêsu - Phản ứng của Simôn trước mẻ cá (5,4-7);
3) Phản ứng của Simôn sau mẻ cá - Đức Giêsu (5,8-10);
4) Kết luận: Đời môn đệ (5,11).
3.- Vài điểm chú giải
- Ghennêxarét (1): Đây là tên Hy Lạp của giải đất nhỏ thuộc phía tây “biển hồ”, có đất đai mầu mỡ và đông dân cư; giải đất này ở phía nam Caphácnaum.
- lời Thiên Chúa (1): Đây là lần đầu tiên Tin Mừng Lc dùng công thức này (Lc dùng 4 lần: 5,1; 8,11.21; 11,28; Cv dùng 14 lần: 4,31; 6,2.7; 8,14; 11,1; 12,24 (?); 13,5.7.44.46.48; 16,32; 17,13; 18,11). Trong khung cảnh sách Cv, công thức ấy có nghĩa là sứ điệp Kitô giáo do các tông đồ rao giảng; ở đây tác giả Lc lại cho thấy là Đức Giêsu rao giảng. Như thế, tác giả đặt việc rao giảng của cộng đoàn trên nền tảng là lời rao giảng của Đức Giêsu. Nhưng nền móng tối hậu là chính Thiên Chúa, bởi vì công thức nói rõ là “Lời Thiên Chúa” hoặc “Lời do Thiên Chúa ban” (thuộc-cách diễn tả chủ từ hoặc tác giả hợp lý hơn là “lời nói về Thiên Chúa”: thuộc-cách diễn tả đối tượng).
- Người ngồi xuống (3): Đây là tư thế bình thường khi ở trên một chiếc thuyền nhỏ. Nhưng hẳn tác giả cũng muốn gợi ra tư thế của một vị thầy.
- Thưa Thầy (5): Lần đầu tiên Lc dùng từ epistata (hô-cách của epistatês) (x. 8,24.45; 9,33.49; 17,13). Các bản văn Nhất Lãm song song dùng từ didaskale, “thưa thầy”, hoặc rabbi, “thưa rabbi”. Trong văn chương Hy Lạp, từ ngữ epistatês thường có sắc thái rộng hơn, đó là “vị chỉ huy, vị điều hành, vị giám sát” (ví dụ trong việc huấn luyện giới trẻ). Trong các tác phẩm Lc, từ này luôn luôn được đặt trên môi miệng các môn đệ, còn từ didaskalos được người ngoài dùng. Epistatês diễn tả một đức tin sâu xa hơn vào uy quyền của Đức Giêsu.
- chúng tôi đã vất vả (5): Động từ kopiaô, “làm việc vất vả”, là một động từ được Tân Ước dùng cho những dịp mô tả công việc tông đồ vất vả.
- Xin tránh xa con (8): Qua mẻ lưới lạ thường, Simôn nhận ra Thiên Chúa đang tỏ mình ra nơi Đức Giêsu, do đó ông đã gọi Người là “Chúa”. Từ đó, ông cũng ý thức về tình trạng tội lỗi, bất xứng của mình; ông cảm thấy sợ hãi khi đứng trước Thiên Chúa là Đấng Thánh (x. Is 6,5). Simôn vừa bị thu hút về phía Đức Giêsu do lòng thán phục, vừa muốn tránh xa Người do ý thức về sự bất xứng của mình.
- Anh sẽ là kẻ đi bắt người ta (10): So với Mc 1,17, câu nói này không nhấn mạnh đến thân thế môn đệ, nhưng nhấn mạnh đến hoạt động truyền giáo. Zôgreô (do zôos, “sống động”; agreô, “bắt”) có nghĩa là “bắt để làm cho sống”. So với Mc 1,17, bản văn nhấn mạnh trên hoạt động truyền giáo hơn là trên thân phận người môn đệ.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Các tác giả còn tranh luận xem bản văn này thuộc thể văn nào: bài tường thuật ơn gọi, bài tường thuật về sự giao phó nhiệm vụ, tiên tri và lời hứa… Thật ra, đề tài ơn gọi chắc chắn có trong bản văn, nhưng dưới dạng một lời hứa và một lời tiên tri. Quả thế, chính lời hứa long trọng của Đức Giêsu nổi bật rõ nhất (“Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta”).
Điều đánh động trong bài tường thuật chính là sự xen kẽ giữa số đơn và số phức. Ngay từ đầu, độc giả chuyển từ “đám đông” (ochlon) của c. 1 sang “các đám đông” (ochlous) ở c. 3. Tại c. 4, Đức Giêsu nói với Simôn: “Chèo ra chỗ nước sâu (epanagage [số đơn] eis to bathos) mà thả lưới bắt cá (kai chalasate [số phức] ta diktya hymôn eis agran); như thế, không phải chỉ có một mình Simôn ở trên thuyền. Sang c. 5, câu trả lời của Simôn lúc đầu khẳng định: “Chúng tôi đã vất vả (poiasantes)…”, nhưng rồi: “Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới (chalasô)”. Và nếu ở c. 8, Simôn xin Đức Giêsu: “Xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi”, lý do lại là vì Simôn, những người có mặt ở đó, và cả Giacôbê và Gioan cũng kinh ngạc (cc. 9-10). Cuối cùng, Đức Giêsu nói với riêng Simôn: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta” (c. 10), nhưng ngay sau đó các bạn của Simôn lại xuất hiện: “Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người” (c. 11).
Sự xen kẽ giữa Simôn và các bạn không chỉ gợi ý là mẻ cá cần nhiều người, mà còn nêu bật rằng Simôn, ngoài nhân cách độc đáo của ông, cũng đại diện cho một nhóm, nhóm các ngư dân sẽ bỏ mọi sự để trở thành môn đệ của Đức Giêsu.
Một nét khác trong bài tường thuật là cách vận dụng “khoảng cách” giữa các nhân vật khác nhau, để đưa lại cho mỗi nhân vật một nét độc đáo riêng. Đám đông quy tụ quanh Đức Giêsu để nghe Lời, nhưng Người lại lên thuyền của Simôn và bảo ông ra xa bờ một chút. Một cách nghịch lý, việc lấy khoảng cách như thế lại đưa Đức Giêsu đến gần các đám đông hơn, bởi vì do quá gần, việc loan báo Lời lại bị cản trở, và cũng đưa Người đến gần Simôn và các bạn hơn, bởi vì các ông đang ở trên thuyền với Thầy, nên cũng trở thành thính giả nghe Lời. Bằng cách đó, Đức Giêsu vừa có thể ngỏ lời với người ở gần lẫn người ở xa.
Việc lấy khoảng cách vẫn tiếp tục. Trước tiên lệnh của Đức Giêsu cho Simôn (“Chèo ra chỗ sâu”, epanagage eis to bathos) vừa giữ khoảnh cách chiều ngang với đám đông, vừa bắt đầu một chuyển động theo chiều đứng, một chiều hướng đầy xuống thấp và dấn dần kéo cả Simôn vào. Lệnh của Đức Giêsu theo nghĩa chữ là: “Đi ra xa, vào chỗ (nước) sâu”; đây không chỉ là đi ra xa hơn, mà còn là đi vào chiều sâu của cái hồ! Một vài động từ xác nhận chiều hướng biểu tượng này: “Các anh hãy thả lưới” (c. 4), “tôi sẽ thả lưới” (c. 5), “hầu như rách cả lưới” (c. 6), “đến gần chìm” (c. 7). Đây không chỉ là một chuyển động thể lý, gắn liền với việc đánh cá, vì chính cử chỉ và lời nói sau cùng của Simôn cho thấy: ông phục xuống dưới chân Đức Giêsu và nói: “Xin tránh xa con…”. Vấn đề là tương quan với Đức Giêsu, là gắn bó với Người hay tránh xa Người.
Tới cuối bài tường thuật, nhờ lời hứa của Đức Giêsu, khoảng cách đáng sợ giữa Đức Giêsu và Simôn được điều chỉnh lại và khoảng cách với đám đông cũng được xóa đi, bởi vì Simôn Phêrô và các bạn đã kéo thuyền vào bờ, nơi có đám đông, và đi theo Đức Giêsu.
Như vậy, qua biện chứng “cách xa”, chủ đề của bài tường thuật là việc kêu gọi Simôn và các bạn, việc kêu gọi này có nghĩa chính xác là đến gần Đức Giêsu, bằng cách lấp đầy các khoảng cách ngăn cách với Người. Vậy đây là hành trình đức tin. Nhưng điều này không chỉ liên hệ đến các môn đệ, mà còn liên hệ đến tất cả các thính giả hoặc độc giả Tin Mừng tương lai; chính vì thế mà có sự xen kẽ số đơn và số phức. Chúng ta sẽ thấy bản văn trình bày diễn tiến của hành trình đức tin.
* Giới thiệu khung cảnh và công việc của Đức Giêsu (1-3)
Sau thất bại ở Nadarét (4,16-30), Đức Giêsu vẫn có những người sẵn sàng lắng nghe, chính đám đông “chen chúc” (epikesthai) bên bờ hồ Ghennêxarét đã chứng tỏ điều đó. Chúng ta ghi nhận: không phải là họ tìm nghe lời một người phàm, nhưng nghe “lời Thiên Chúa”. Một ghi nhận kế tiếp: Đức Giêsu không rao giảng trong hội đường nữa. Đây là một biểu tượng: kể từ nay, nơi duy nhất chúng ta có thể nghe được lời của Thầy chí thánh chính là cộng đoàn Kitô hữu; đây là nơi mà tất cả những ai đi tìm ánh sáng, sự an ủi và niềm hy vọng đều phải đến. Trên con thuyền này, chỉ có Đức Giêsu là thánh thiện, còn những người khác thì tốt lành, nhưng đều là những “kẻ tội lỗi”. Dù vậy, cũng chính là từ con thuyền này mà Lời Chúa được công bố.
Đức Giêsu mau chóng chỉ định các cộng sự viên. Truyện hôm nay cho thấy bản chất của tương quan giữa Người và các ông này. Ở đây mọi sự đều do sáng kiến của Người và được nhắm đưa tới kinh nghiệm như Simôn sẽ có. Tuy vậy, bản văn cho thấy Đức Giêsu chỉ tỏ ra năng động có hai lần thôi: lần đầu khi Người ra lệnh (c. 4) và lần thứ hai khi Người ban một lời hứa (c. 10); còn ở giữa là hành động và phản ứng của Simôn và các bạn. Simôn cũng có hai câu nói thưa với Đức Giêsu: một câu là khẳng định về kinh nghiệm đánh cá (c. 5), một câu là lời mời (c. 8). Chính do quảng đại mà Simôn đã hỗ trợ cho việc loan báo Lời. Trong giai thoại chữa bà mẹ vợ (4,38-39), Simôn là một nhân vật chìm: không nói không làm gì cả! Còn ở đây, nổi bật lòng quảng đại và sự sẵn sàng của ông, khiến ông trở thành một thính giả ưu tiên của Lời.
* Đức Giêsu - Phản ứng của Simôn trước mẻ cá (4-7)
Việc lắng nghe Lời không tự động đưa tới đức tin. Để cho việc lắng nghe này là thật, thì cần có việc tận tình đáp trả những yêu cầu của Lời. Nói xong với đám đông, Đức Giêsu ban một lệnh trực tiếp cho một người, ngay giữa lòng cuộc sống cụ thể của người ấy (c. 4): “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá” (c. 4). Simôn đã phản ứng, ông khẳng định theo kinh nghiệm của ông: người ta bắt cá ban đêm; thế mà suốt đêm các ông đã vất vả (kopiasantes) mà chẳng bắt được gì, phương chi bây giờ là ban ngày! Lệnh này có vẻ như một sự gây chuyện! Tuy nhiên, Đức Giêsu không hề nêu lý do hoặc thêm ý soi sáng; Người nói một lời và cho thấy mọi sự tùy thuộc lời này. Đối với Simôn, Đức Giêsu không phải là một người xa lạ. Ông đã thấy Người chữa lành nhạc mẫu của ông (4,38-39). Do đó, ông tín nhiệm vào lời Đức Giêsu cho dù lời này có yêu cầu những điều bề ngoài không mong đạt kết quả, hoặc những điều phi lý vì đi ngược lại mọi kinh nghiệm của loài người. “Thưa Thầy, … dựa vào lời Thầy”, epistata, … epi de tô rêmati sou (c. 5): Những từ ngữ này hết sức quan trọng, vì đây là công thức diễn tả thái độ của con người đối với Thiên Chúa (x. Tv 119, 25b.42.57.105). Epistatês theo nghĩa chữ là “người ở trên”, “người chủ tọa”. Simôn nhận biết Đức Giêsu là người dẫn đường, Người không chỉ là một thầy dạy, mà là một chủ nhân đời sống!
Điều chúng ta ghi nhận ở đây là chính Simôn đã đưa thuyền ra khơi (c. 4); chính ông công bố niềm tin vào lời Đức Giêsu (c. 5); chính ông gọi Người là “Lạy Chúa” (c. 8); ông là người được mời trở thành “kẻ lưới người” (c. 10). Tất cả các yếu tố này cho thấy rằng Simôn được chọn cho một thừa tác vụ đặc biệt trong Hội Thánh. Nhiệm vụ của ông là nghe lời Chúa và di chuyển, không phải ra nơi mà kinh nghiệm dẫn đưa ông, nhưng nơi mà Thầy muốn ông đến.
Và để chứng minh là người ta có thể tin vào lời Đức Giêsu, các ông đã kéo được mẻ cá quá sức phong phú. Lưới gần bị rách. Cả hai thuyền đều đầy cá, nặng đến nỗi gần chìm. Kết quả này không do tài năng của Simôn, nhưng do lời của Đức Giêsu. Simôn cần trợ giúp; ông ra hiệu cho các bạn chài ở thuyền kia đến giúp (c. 7). Nay ta biết tên họ là Giacôbê và Gioan, con ông Dêbêđê. Các ông này được gọi là “bạn” (koinônoi) của Simôn (c. 10). Koinônos không chỉ là bạn cùng nghề nghiệp; các tác giả Tân Ước dùng từ ngữ này để chỉ những tín hữu hiệp thông với nhau (x. Cv 2,42.44; 4,32; Rm 12,13; 15,26.27; …).
* Phản ứng của Simôn sau mẻ cá - Đức Giêsu (8-10)
Tức khắc, Simôn nhận ra Đức Giêsu là ai và chính ông là ai: kinh ngạc sợ hãi. Ông thưa với Đức Giêsu như là “Chúa tể”, là điều mà trước đây các mục đồng đã được loan báo: Đấng Cứu thế, Đức Kitô, Đức Chúa (2,11). Simôn đã trải nghiệm quyền năng thực thụ của vị Chúa tể này. Do đó, bây giờ không những ông biết ông không ở trên cùng một bình diện với Người, mà còn biết rằng đối diện với Người, ông là một kẻ tội lỗi. Đứng trước quyền năng và sự thánh thiện của Thiên Chúa, con người cảm thấy có nhiều điều trong đời mình không coi được. Kinh nghiệm về Đức Chúa cho thấy nơi Phêrô có nhiều chuyện sai lạc, đi ngược lại với Người và làm cho ông nên bất xứng và không trong sạch. Ông thấy giải pháp cho hoàn cảnh không thể chịu nổi này là Chúa xa ông đi: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” (c. 8). Việc Simôn quỳ phục xuống, gọi Đức Giêsu là “Chúa” (kyrios), lời nói về thân phận bất xứng, cho thấy ông đang gặp Thiên Chúa, một kinh nghiệm về thần hiển như trong trường hợp Môsê (Xh 3,6) và Isaia (x. Is 6,5). Ở đây, y như thể Simôn muốn nói rằng: Chúa tránh xa con, để như thế con lại có thể chịu nổi con và lại có sự bình an bề ngoài của con. Nhưng chắc chắn cách xử sự của Đức Giêsu không phải là tránh xa những người tội lỗi và bỏ mặc họ trong tội lỗi và với số phận của họ (x. 5,32). Ý thức của Simôn hoàn toàn đúng, nhưng giải pháp ông đề ra không được Đức Giêsu chấp nhận: Người không tránh xa ông, Người cũng không đẩy ông xa Người, nhưng nhận lấy ông, đưa ông vào phục vụ chương trình của Người. Chính Simôn, người đã nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con!”, lại sẽ đi theo Đức Giêsu cùng với các bạn (5,11).
Ở đây lần đầu tiên và lần duy nhất, bên cạnh tên Simôn quen thuộc, có tên Phêrô: phải chăng đây là một gợi ý kín đáo về sự phản bội của Phêrô trong tương lai? Trong thực tế, việc nhận biết thân phận tội lỗi của mình, trước khi đươc kêu gọi, chứng tỏ sứ vụ của Phêrô không dựa trên các đức tính của ông, nhưng hoàn toàn dựa trên sự ban tặng nhưng-không của Thiên Chúa.
Đức Giêsu tỏ ra rất tế nhị với Simôn. Người không nhận định gì về tình trạng tâm hồn của ông, Người không khuyến cáo; trái lại Người để cho ông làm một hành vi đức tin. Kết quả là Simôn nhận ra sự cao cả, sự tốt lành và quyền lực của Đức Giêsu, nên ông đã dễ dàng, như theo bản năng, từ bỏ các tội lỗi của ông. Khi đó, ông trở nên hoàn toàn tự do, ông có thể hiểu lời mời gọi của Người. Lời mở đầu: “Đừng sợ!” chứng tỏ sự can thiệp của Đức Giêsu mang màu sắc một cuộc thần hiển thực thụ. Lời hứa của Đức Giêsu: “Từ nay, anh sẽ là người thu phục người ta như bắt cá” (NTT: “sẽ là kẻ chài lưới bắt người”) được thêm vào kinh nghiệm mà Simôn đã có về tính vững chãi của lời Đức Giêsu nói. Simôn nhận biết Đức Giêsu như là Đấng muốn người ta đón tiếp Tin Mừng. Trong một cách thức chưa rõ mấy, Đức Giêsu cho ông hiểu rằng ông phải tham gia vào lối hành động này, nhưng luôn dựa vào quyền lực của Người.
* Kết luận: Đời môn đệ (11)
Simôn và các ông khác, tức Giacôbê và Gioan, “đã bỏ hết mọi sự mà theo Người”. Từ nay, Simôn và tất cả các môn đệ phải nhận biết rằng việc phục vụ mà Đức Giêsu đưa các ông vào dựa trên không phải là các đức tính, các năng khiếu cá nhân, nhưng dựa trên Lời của Người. Hai động từ “bỏ” và “theo” mô tả sứ mạng của người môn đệ. Nằm tại trung tâm cuộc sống của các ông, không phải là một giáo thuyết, nhưng là một con người và một dự phóng đời sống. Tiếng gọi này phát sinh không từ một mệnh lệnh, nhưng từ kinh nghiệm về một Lời mạnh mẽ và hữu hiệu, có thể không những tạo ra một mẻ cá dồi dào lạ lùng, nhưng còn gây nên một tiếng “xin vâng” cho trọn một cuộc đời.
+ Kết luận
Simôn đã hiểu thi hành một nhiệm vụ Đức Giêsu giao nghĩa là gì. Ông cũng trải nghiệm về bản thân ông là ai khi đứng trước Đức Giêsu. Như thế, ông cũng hiểu ra rằng, khi đứng trước một lời hứa của Đức Giêsu, tất cả các khả năng con người, dù có hạn hẹp, cũng như những cơ may thành công, dù có mong manh, cũng không còn đáng bận tâm nữa. Bài tường thuật phép lạ trước tiên là một biểu tượng về sự phong nhiêu của Lời Chúa.
Đây là một sự đảo lộn hoàn cảnh nguyên thủy. Lúc đầu, Simôn, có phần tự hào về bản thân, đã trở thành một người có khả năng nhảy một bước trong đức tin. Từ đó, ông cũng nhận ra được sự nghèo hèn của mình; do đó ông nên khiêm tốn để sống đức tin chan hòa. Chỉ nhờ kinh nghiệm về quyền năng của Thiên Chúa như thế, người môn đệ mới được đào tạo.
Sứ mạng được ký thác cho toàn thể cộng đoàn Kitô hữu, để cho thấy rằng có thể có một tập thể hoàn toàn đặt nền tảng trên sự tha thứ, việc chia sẻ của cải, việc phục vụ lẫn nhau, tôn trọng những người khác. Các Kitô hữu sẽ phải luôn luôn tự hỏi những người khác đang trông chờ mình đưa lại cho họ thứ “ơn cứu độ” nào, mình có thể phục vụ họ tốt nhất cách nào, mình đang lo tìm cứu độ từng con người hay chỉ bảo vệ một cơ cấu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Hoạt động tông đồ không thể dựa trên khả năng của các tông đồ hoặc trên thiện chí của những người mà các ngài được cử đến gặp, nhưng chỉ dựa trên trách nhiệm được giao và quyền năng của Chúa. Người ta chỉ có thể đảm nhận công việc ấy “theo lời Người”. Simôn có thể trải nghiệm quyền năng và giá trị của lời Đức Giêsu và phải trải nghiệm về sự giới hạn yếu đuối của bản thân ông. Đồng thời ông cũng trải nghiệm được sự hạ cố nhân ái của vị Chúa tể quyền năng, đã đưa ông vào phục vụ Người. Việc phục vụ này mãi mãi được liên kết với các kinh nghiệm cơ bản này.
2. Các mục tử hôm nay lại không nhận ra bài học cho mình sao? Quyền lãnh dạo của họ trên cộng đoàn Kitô hữu không phải là để họ áp đặt ý muốn của mình, nhưng là để giúp nhận ra ý muốn của Đức Giêsu. Họ có nhận ra tiếng nói của Thầy chí thánh và phân biệt tiếng nói này giữa các cảm xúc, các trực giác và các ý tưởng của họ chăng?
3. Người ta không thể trách Simôn về sự kiện ông là kẻ tội lỗi. Chính ông đã biết rồi, và ông sẽ trải nghiệm về điều này cách cay đắng (Lc 22,33t.54-60). Nhưng Đức Giêsu đã đưa kẻ tội lỗi ấy vào phục vụ Người, đã cầu nguyện cho ông (22,31t), đã nhìn ông với ánh mắt nhân hậu (22.61t). Như thế, Simôn có thể chu toàn nhiệm vụ, mà không bao giờ cậy dựa vào các sức mạnh của mình, nhưng tín thác vào Lời Chúa.
4. Khi biết nhìn đến lòng thương xót của Thiên Chúa đối với chúng ta, quyền năng cũng như lòng tốt của Ngài, chúng ta mới nhận ra sự nghèo nàn và cần ơn cứu độ của chúng ta. Simôn đã nhân ra điều đó, ông không sợ hãi gì nữa; cho dù kẻ khác có nghĩ ông là một kẻ tội lỗi, điều này cũng quan hệ gì. Ông đã bước được một bước quyết liệt trong việc giải phóng bên trong. Đức Giêsu đã đào tạo môn đệ bằng phương tiện là những bước nhảy trong đức tin và bằng cách làm cho người ấy biết quyền lực thần linh của Người. Con thuyền của Phêrô chính là Hội Thánh. Đức Giêsu vẫn tiếp tục dạy chúng ta trên chiếc thuyền này, dọc theo dòng các cuộc cử hành Phụng vụ, và nhất là trong Bí Tích Thánh Thể.
5. Chính Thiên Chúa ban ơn gọi cho loài người. Mọi người phải bỏ mọi sự mà đáp trả quảng đại. Như thế là thực hiện một bước điên rồ, nhưng chính bước điên rồ này làm nên con người. Simôn đã thực hiện sự từ bỏ này khi thả lưới trái với kinh nghiệm thông thường, rồi sau đó, khi bỏ mọi sự mà bước theo Đức Giêsu. Nhờ dám “đánh liều cuộc đời”, Simôn trở thành người mà Thiên Chúa nhắm khi cho ông xuất hiện trong cuộc đời. Trong gia đình Kitô hữu, giáo dục con cái biết sống quảng đại là cách thức tốt nhất để chuẩn bị cho con cái sống quảng đại, để nhờ đó, chúng thực hiện được chương trình của Thiên Chúa.
11. Được gọi để gọi--Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc
Tin mừng Lc 5: 1-11: Chúa Nhật hôm nay nhắc lại cho chúng ta ba ơn gọi: ơn gọi của Isaia trong đền thánh Giêrusalem (Bđ.1), ơn gọi của Phaolô trên đường đi Đamas (Bđ.2) và ơn gọi của Simon Phêrô bên bờ hồ Giênêzaret (bài Tin Mừng)...
- "Thưa ông bà muốn gặp ai ạ?"
Chị Céline đã nói câu ấy lần đầu tiên cách đây 40 năm. Từ đó ngôi nhà khách với chùm chìa khóa, cái chổi, chiếc ghế đã trở thành giang sơn của chị.
Bổn phận của chị giữ nhà khách là gọi người khác. Trong suốt 40 năm trường, chị Céline chỉ làm ngần ấy công việc. Câu hỏi trên kia chị phải lặp đi lặp lại đến hơn 10 lần mỗi ngày. Với thời gian, phương thế có đôi phần thay đổi: từ cái kẻng đến chuông điện, rồi điện thoại, sau đó lại trở về chuông kéo, kẻng sắt… nhưng công việc luôn luôn vẫn là gọi người khác.
Ôi chao! biết bao khuôn mặt đã xuất hiện tại nhà khách, bao giọng nói đã vang rền trong điện thoại. Nhưng có một điều chị Céline hằng đoán chắc: người ta đang gọi, đang xin gặp một người nào đó… trừ ra chị. Vì thế chị thường nói đùa: "Tôi chỉ được Chúa gọi một lần duy nhất và từ dạo ấy, tôi đã luôn luôn gọi người khác: tôi được gọi để gọi".
Một ngày của chị bị cắt vụn thành từng miếng, công việc của chị bị chẻ thành từng mảnh, luôn luôn là gián đoạn. Khi cầm chuỗi lần hạt, chị biết mình sẽ không đọc được quá 10 kinh, khi xem sách chị đoán sẽ thưởng thức không quá 10 dòng ; trong nhà nguyện, chị quỳ ở ghế cuối cùng, gần cửa ra vào, luôn thấp thỏm đợi chờ chuông reo… Luôn bị gián đoạn, nhưng chỉ với "sự gián đoạn" này của mình, chị mới có thể tạo nên "sự liên hệ" của người khác. Chị bao giờ cũng nhanh nhẹn đối với một khách sang cũng như một bà lão nhà quê. Tất cả mọi người đều ăn cắp giờ của chị. Không ai cần gặp chị… Với thời gian, da mặt chị nhợt nhạt hơn, người chị tiều tụy hơn, nhưng nụ cười vẫn tươi nở như thuở nào, lời kinh dâng Chúa mỗi ngày lại càng thêm sốt sắng hơn.
Và rồi một hôm, trong lúc vội vã đi gọi người khác, chị Céline đã ngã quỵ trong hành lang nhà dòng, thổ huyết! Chị bập bẹ: "Chúa đến gọi tôi lần thứ hai" (và cũng là lần cuối). Đôi tay chị run run ôm lấy lồng ngực khiến chùm chìa khóa rơi trên nền gạch hoa. Đàng kia, chiếc ghế vẫn vô tình không biết từ nay mình sẽ là vô chủ…
Chị Céline đã suốt đời trung thành với tiếng gọi của Chúa và với công việc bổn phận hằng ngày của chị: được gọi để gọi người khác. Giá trị và sự cao cả của chị không phải là ở chỗ đó sao?
Thưa anh chị em,
Chúa Nhật hôm nay nhắc lại cho chúng ta ba ơn gọi: ơn gọi của Isaia trong đền thánh Giêrusalem (Bđ.1), ơn gọi của Phaolô trên đường đi Đamas (Bđ.2) và ơn gọi của Simon Phêrô bên bờ hồ Giênêzaret (bài Tin Mừng). Nhưng chắc chắn có chủ ý dạy chúng ta lắng nghe tiếng gọi của Chúa và làm theo ý Chúa, ra đi gọi những người khác đến với Chúa: được gọi để gọi người khác.
Isaia tự thuật về chính ơn gọi làm ngôn sứ của ông. Chúa đã gọi ông. Ông đã can đảm, sẵn sàng đáp lại: "Tôi đây, hãy sai tôi đi". Thái độ của Isaia là thái độ của Đức Giêsu sau nầy khi Ngài đi vào thế gian: "Này con xin đến để thực thi ý Chúa" (Dt 10,9).
Thánh Phaolô cũng khéo léo tế nhị nhắc lại ơn gọi của mình và cách mình đáp lại ơn gọi đó. Phaolô cho biết khi Chúa hiện ra với ông trên đường đi Đamas và chọn ông làm tông đồ cho dân ngoại. Ông khiêm tốn cho mình là một tông đồ hèn mọn nhất, chẳng đáng gọi là tông đồ vì đã bắt bớ Giáo Hội. Ông coi đây là một ân huệ Chúa ban và không dám uổng phí, trái lại ông nhờ ơn Chúa mà hết lòng hết sức chịu khó làm theo ơn gọi.
Còn Simon Phêrô đã được Chúa gọi một cách rõ ràng và công khai sau mẻ cá thật nhiều đến nỗi gần rách lưới, Chúa Giêsu nói với ông: "Đừng sợ, từ nay anh sẽ đi lưới người như lưới cá". Điều gì sẽ xảy ra sau đó? Tin Mừng cho thấy không phải chỉ có Phêrô, người được gọi đích danh, đã theo Chúa, mà cả những người khác nữa cũng đã vội vã theo Chúa: "Họ đưa thuyền vào bờ và bỏ mọi sự mà theo Chúa". Đến đây chúng ta mới rõ "mẻ cá lạ" Chúa làm là có dụng ý hay có mục đích "mở đường" cho ơn gọi của Phêrô và đồng bạn. Nghề nghiệp đánh cá của các ông thật đã giúp ích cho các ông hiểu một cách dễ dàng sứ vụ mới là làm "những kẻ chài lưới người" (Mt 4,19), nhưng mẻ cá lạ mới giúp các ông quyết định đáp lại ơn gọi một cách mau chóng, vì biết rằng có Chúa giúp khi thi hành sứ vụ của mình.
Anh chị em thân mến,
Chính Thiên Chúa, bằng cách trực tiếp hay gián tiếp, đã chọn gọi những người làm việc cho Ngài, làm cộng tác viên của Ngài trong công trình cứu chuộc nhân loại. Ngài đã gọi các tiên tri, các tông đồ, đã gọi bao nhiêu người khác, đã gọi chính chúng ta. Những ai được Chúa gọi phải mau mắn đáp lại ơn huệ của Chúa - Chúa kêu gọi đó là một ân huệ Ngài ban - một cách khiêm tốn và biết ơn vì ta chẳng đáng được vinh dự lớn lao như thế, và tự sức ta, ta cũng chẳng làm nổi việc gì.
Phải làm trọn ơn gọi của mình, khi đã chấp nhận thì không ngoái cổ lại đàng sau và hãy bắt tay vào việc một cách cần mẫn, hết lòng trông cậy vào ơn phù trợ của Ngài, vâng lời Ngài, tin tưởng phó thác và để Ngài tùy ý hoàn tất công việc lúc nào theo như Ngài muốn.
Chúng ta cầu xin Chúa ban ơn phù trợ giúp cách đặc biệt cho những người Chúa đã chọn, đã và đang khiêm tốn chịu khó làm việc Chúa trên khắp mọi cánh đồng và vườn nho của Chúa, nhất là cho Đức Thánh Cha, cho các vị Giám mục và các linh mục, cùng tất cả những người cộng tác chặt chẽ với các Ngài.
Chúng ta cũng cầu xin Chúa ban ơn gọi cho những người muốn vào làm việc tông đồ của Hội Thánh, đặc biệt trong những nơi đang xảy ra tình trạng "lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít".
Chính chúng ta cũng hãy xin ơn biết lắng nghe tiếng Chúa chỉ bảo ta làm việc nầy hay việc khác trong hoàn cảnh Giáo Hội hiện nay trên quê hương đất nước chúng ta. Trước hết là giữ vững niềm tin vào Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Đó chính là ơn gọi đưa chúng ta vào Nước Trời bây giờ và sau nầy. Đó cũng là ơn gọi làm tông đồ giáo dân bằng chính cuộc sống đức tin của mình trong môi trường xã hội.
Nhưng nhất là giờ đây, chúng ta kính nhớ Đức Kitô chịu chết và tuyên xưng Ngài sống lại vì chúng ta qua cử hành Thánh Thể, chúng ta hãy hết lòng tạ ơn Chúa đã gọi chúng ta đến tham dự vào mầu nhiệm cứu rỗi nầy. Nhờ nghe Lời Chúa và ăn uống Mình Máu Thánh Chúa, chúng ta sống với ơn gọi một cách tốt đẹp để đời sống chúng ta cũng là một lời mời gọi nhiều người khác đến với Chúa.
12. Chinh phục người khác
- Đừng sợ, từ nay các con sẽ là những kẻ chinh phục người ta.
Chúa Giêsu vừa mới truyền dạy Phêrô như thế, tuy nhiên qua đó, chúng ta có thể rút ra một bài học quí giá.
Vào một buổi sáng, đang khi các môn đệ giặt lưới, Chúa Giêsu xuống thuyền và đứng đó giảng dạy cho đám đông. Khi đã kết thúc, Ngài bảo Phêrô:
- Con hãy ra khơi và thả lưới.
Đây là một lệnh truyên vô lý dưới mắt Phêrô. Thực vậy, Chúa Giêsu sinh ra tại Bêlem, lớn lên tại Nagiarét, kiếm ăn bằng nghề thợ mộc, không phải là người sống bên sóng nước nơi biển hồ Giênêgiarét, nên chẳng có chút kinh nghiệm nào về chài lưới.
Còn Phêrô, với mười mấy năm lăn lộn trong nghề, ông biết rất rõ: ra khơi và thả lưới giữa ban ngày ban mặt như thế này, thì chẳng hy vọng chút nào. Hơn nữa, suốt cả một đêm Phêrô và các bạn đã vất vả mà chẳng bắt được một con cá nào. Nếu ra khơi vào lúc này, thì chỉ chuốc lấy mệt mỏi vào thân mà thôi. Đúng là dạ tràng xe cát biển Đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì. Thế nhưng, Chúa Giêsu có lẽ muốn thử thách vị thủ lãnh tương lai của Giáo Hội, xem Phêrô có biết vâng lời và tin tưởng vào Ngài hay không?
Sau một lúc do dự, Phêrô đã lấy lại bình tĩnh vì biết rằng đây là lệnh truyền của Chúa, cho nên phải thi hành mà chẳng cần đặt điều kiện hay đưa ra những câu hỏi và thắc mắc. Nghĩ vậy, Phêrô đã thưa lên cùng Chúa:
- Lạy Thày, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà chẳng được gì cả, nhưng vâng lời Thày, chúng con sẽ ra khơi và thả lưới.
Phần thưởng lớn lao cho niềm tin tưởng ấy là gì? Đó là một mẻ cá thật bất ngờ đến nỗi cả hai ghe phải chở đầy, mà theo lẽ tự nhiên sẽ chỉ là một mẻ lưới luống công vô ích. Trước sự kiện lạ lùng ấy, Phêrô đã quì xuống và thưa lên cùng Chúa:
- Lạy Thày, xin hãy xa con vì con là kẻ tội lỗi.
Phép lạ này đã để lại một dấu ấn sâu xa trong tâm hồn Phêrô và đã chuẩn bị cho sứ mạng tương lai của ông trong Giáo Hội. Đúng thế, Phêrô sẽ không còn thả lưới trên mặt biển hồ nữa, nhưng cùng với các bạn đồng nghiệp, ông sẽ ra đi chinh phục thế gian về cho Chúa Giêsu, như lời Ngài truyền dạy:
- Đừng sợ, từ nay con sẽ là kẻ chinh phục người ta.
Nhưng để chu toàn một bổn phận, một trách nhiệm cao cả và nặng nề như thế, Phêrô phải có một lòng khiêm tốn và tin tưởng hoàn toàn vào Chúa:
- Hãy chuẩn bị cho một sứ mạng siêu việt ở ngoài tầm tay và khả năng của con. Hơn một lần con đã thất bại, đã vất vả mà chẳng bắt được một con cá nào. Con hãy ý thức sự yếu đuối của con, nhưng đồng thời phải can đảm và tin tưởng vào Ta. Ta sẽ ở bên con. Ta là ai thì con đã biết. Ta là Thiên Chúa quyền năng. Ta là Đấng cả đất trời và muôn loài đều phải vâng phục. Ta sẽ chúc lành cho những cố gắng của con, nhờ đó con sẽ gặt hái được những thành quả tốt đẹp.
Chính phép lạ này, một lần nữa đã xảy ra cho cuộc đời của Phêrô. Thực vậy, tự bản chất, Phêrô chỉ là một người thuyền chài quê mùa, dốt nát và nhát đảm. Thế nhưng, Phêrô đã vâng lời Chúa, lên đường truyền giáo và đã đem về cho Chúa một mẻ cá lạ lùng, đó là những tâm hồn tin vào Phúc âm. Chắc chắn Phêrô đã nhiều lần suy nghĩ về bài học thấm thía này, nhất là vào những năm tháng cuối đời.
Đúng thế, Phêrô đã tới Rôma vào thời bạo vương Nêron, giữa lúc cơn bách hại đang nổi lên như cuồng phong vũ bão. Ông đã bị bắt, bị tống giam và sau cùng bị đóng đanh vào thập giá, đầu ngược xuống đất trên ngọn đồi Vatican. Thế nhưng, ngày hôm nay trên phần mộ của ông, một ngôi đền thờ nguy nga và lộng lẫy nhất đã được xây dựng và mang tên ông: Đền thờ thánh Phêrô.
Bài học của Phêrô cũng là bài học của mỗi người chúng ta: hãy kiên nhân và tin tưởng vào Chúa. Đứng trước những thất bại đắng cay, nhiều người đã phàn nàn và kêu trách Chúa, để rồi đi tới chỗ tuyệt vọng, vì họ nghĩ rằng Chúa đã ngoảnh mặt làm ngơ, thậm chí còn bịt tai không còn nghe tiếng họ kêu xin. Thế nhưng, họ đã lầm. Hãy bình tĩnh và tự vấn lương tâm xem: chúng ta đã hành động một mình hay là đã hành động với Chúa? Tự sức riêng, chúng ta sẽ chuốc lấy thất bại như lời Chúa đã phán:
- Không có Thày, các con chẳng làm gì được.
Hãy biết bắt đầu lại trong niềm cậy trông vào Chúa, nhất là trong lãnh vực hoạt động tông đồ.
Thực vậy, sứ mạng tông đồ là sứ mạng chung của mọi người tín hữu, bởi vì đã là phần tử của Giáo Hội, chúng ta có bổn phận làm cho nhiệm thể Đức Kitô được phát triển và lớn lên. Tuy nhiên, phương pháp tuyệt diệu nhất bảo đảm cho những thành quả tốt đẹp, chính là kiên nhẫn và tin tưởng vào Chúa.
Đúng thế, tục ngữ Việt Nam đã nói:
- Có công mài sắt, có ngày nên kim.
- Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo.
- Chớ thấy sóng cả mà lo,
Sóng thời mặc sóng, chèo cho có chừng.
Sự kiên nhẫn chính là một bí quyết dẫn tới thành công. Một Augustinô đã trở lại nhờ vào đâu, nếu không phải nhờ vào những lời cầu nguyện liên tục và những giọt nước mắt khổ đau của người mẹ hiền là thánh nữ Monica.
Cùng với sự kiên nhẫn, chúng ta hãy đặt trót niền tin tưởng cậy trông vào Chúa. Chúng ta hãy ý thức mình chỉ là một đầy tớ vô dụng, một dụng cụ tầm thường, chính Chúa mới là Đấng làm nên kết quả. Một Saulô hung dữ, thế mà chỉ trong nháy mắt, Chúa biến đổi để trở nên một Phaolô nhiệt thành, một vị tông đồ dân ngoai.
Mỗi người chúng ta đều có thể và phải trờ nên một vị tông đồ, một kẻ chinh phục người khác về cho Chúa Giêsu, miễn là chúng ta biết kiên nhẫn và tin tưởng và Chúa.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, đã hai ngàn năm trôi qua, thế mà vẫn còn biết bao nhiêu người chưa được đón nhận tin mừng của Chúa. Và như vậy, lệnh truyền của Chúa ngày xưa vẫn còn vang vọng bên tai chúng con: hay ra khơi và thả lưới. Xin cho mỗi người chúng con, bằng một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, góp phần nhỏ bé vào công cuộc truyền bà đức tin của Giáo Hội.
13. Dám một lần nữa
Có những người đã xả thân nhiều cho Giáo Hội hay cho giáo xứ hoặc để cung cấp một nền giáo dục tốt nhất cho con cái họ, và sau nhiều năm cố gắng họ đã thất vọng, chua xót và ngã lòng. Họ có cảm tưởng như đã làm việc luống công. Họ không thấy xuất hiện những hoa quả tốt đẹp mà lẽ ra công việc của họ phải làm nảy sinh. Và thậm chí thường là điều trái ngược đã xảy ra! những gì họ đã rất vất vả xây dựng đều sụp đổ; những gì tốt nhất họ đã cho con cái họ, thì chúng ta lại vứt bỏ đi.
Phải, những con người mà hôm qua đầy hăng say phấn khởi thì nay lại ủ rũ, buồn sầu! và có lẽ chúng ta cũng thuộc vào số những người ấy. Vậy thì chúng ta hẵy chăm chú nghe lời kinh thánh nói với chúng ta hôm và để cho những lời ấy thấm sâu vào lòng chúng ta. Những lời này có thể gây nên niềm phấn khởi hoặc thoa dịu cõi lòng và trợ giúp chúng ta nhiều.
Sự mệt mỏi của thánh Phêrô.
Không khó khăn gì nếu chúng ta muốn nhận ra một chút kinh nghiệm bản thân trong kinh nghiệm mà thánh Phêrô tông đồ đã trải qua. Suốt đêm ông thả lưới. Hàng chục và hàng chục lần ông đã quăng lưới xuống hồ, nhưng không được gì cả. Không bắt được một con cá nào.
Biết bao nhiêu lần chúng ta đã đọc đi đọc lại cũng những cử chỉ đó, làm đi làm lại cũng những cố gắng đó, nói đi nói lại những lời đó, mà không bao giờ đạt được những điều mình muốn. Không lạ gì sau bao nhêu cố gắng chẳng mang lại kết quả chúng ta kiệt sức rồi và sự mệt mỏi đã xâm chiếm chúng ta hoàn toàn. Không còn chút hy vọng nào nữa.
Tuy nhiê , vì chính Chúa Giêsu yêu cầu, nên một lần nữa Phêrô lại ra khơi thả lưới. Một lần nữa ông làm điều mà ông không muốn làm chút nào cả. Và chính lần đó đã đem lại kết quả. Lưới đầy muốn rách.
Ta hãy nhớ bài học này: những gì tự sức mình chúng ta không làm được, thì chúng ta có thể làm được với sự cộng tác của Chúa. Thường thường, khi con người mệt nhọc nhất, họ họ sắp hỏ cuộc, thì Chúa xuất hiện và ban ơn can đảm cần thiết đẩ một lần nữa họ tiếp tục công việc.
Sự đổi mới của ngôn sứ Isaia và thánh Phaolô.
Sau khi xem xét ngắn gọn kinh nghiệm của thánh Phêrô, ta hãy xem kinh nghiệm của ngôn sứ Isaia và thánh Phaolô tông đồ. Nó rất đáng cho chúng ta quan tâm tìm hiểu. Isaia rất thành thật tuyên bố: “Lạy Chúa, cong không thể nói nhân danh Chúa được. Con không xứng đáng làm ngôn sứ của Chúa”. Thánh Phaolô cũng Không kém thành thật khi người viết: “Tôi là kẻ rốt trong các tông đồ. Tôi không xứng đáng được gọi là tông đồ…Thậm chí tôi là một đứa sinh non”.
Ta biết điều gì sẽ xảy ra cho hay vị này. Cả hai đều được ơn của Chúa thanh tẩy và biến đổi. Cả hai sẽ trở thành những chứng nhân xuất sắc của Thiên Chúa.
Nơi đây nữa có một bài học ta cần đón nhận: dù chúng ta là ai, bất chấp những giới hạn và yếu đuối của chúng ta, chúng ta vẫn là quí báu trước mắt Thiên Chúa, va dều có thể được ân sủng của Ngài biến đổi.
Thánh Phaolô nói: “Những gì tôi đã trở thành, chính là nhờ ơn Chúa mà tôi được như vậy”. Isaia sẽ trả lời Thiên Chúa khi Ngài đang tự hỏi sẽ sai ai đi làm sứ igả cho Ngài: “Lạy Chúa, xin hãy sai con, con sẽ là sứ giả của Chúa”. Thánh Phaolô và Isaia, hai con người được đổi mới.
Những biến cố có ý nghĩa đối với chúng ta.
Nếu xem những biến cố này như là những biến cố đã qua, không có ý nghĩa cụ thể đối với chúng ta thì đó là sai lầm. Trái lại, nếu những biến cố ấy được nhắc lại cho chúng ta là vì chúng soi sáng con đường của chúng ta hôm nay.
Nếu, như thánh Phêrô, chúng ta dám một lần nữa thả lưới xuống hồ… Nếu, như ngôn sứ Isaia và thánh Pholô, chúng ta quay về Chúa và tin tưởng nơi Ngài, thì không gì – thật sự không gì – ngăn cản chúng ta có được kinh nghiệm giống như các Ngài. vì Thiên Chúa không thay đổi. Ân sủng mà trước kia Ngài đã ban cho vẫn là một ơn luôn luôn được ban lại cho người nào một lần nữa….Ơn này sẽ dcban lại cho người nào một lần nữa lại thả lưới…Người nào để cho Ngài gặp gỡ và biến đổi. Ta chớ nghi ngờ: kinh nghiệm cảu Thánh Phêrô, của thánh Phaolô, của ngôn sứ Isaia có thể là kinh nghiệm của chúng ta.
14. Họ bỏ hết mọi sự mà theo Người--Lm. Trầm Phúc
Chúa Giêsu ở biển hồ Ghennêxaret. Dân chúng chen lấn nhau đến gần Người để nghe lời Thiên Chúa. Vì dân chúng quá đông, Ngài xuống một trong hai chiếc thuyền đang đậu gần bờ để không bị đám đông chen lấn. Chiếc thuyền đó của ông Simôn. Ông đang giặt lưới.
Giảng xong,Ngài bảo ông: “Hãy ra chỗ nước sâu đánh cá.”
Đây là một lệnh truyền chứ không chỉ là một lời khuyên. Những người đánh cá đang giặt lưới, Ngài thấy điều đó, tức là họ đang thu dẹp để nghỉ ngơi, nhưng Ngài vẫn bảo họ ra khơi đánh cá. Điều nầy cho chúng ta thấy rằng Ngài đã chủ ý ra lệnh cho họ, vì Ngài đang định một điều gì khác quan trọng.
Simôn trả lời: “Thưa Thầy, chúng con vật vả suốt đêm mà không bắt được gì”. Nhưng ông chấp nhận: “Vâng lời Thầy, tôi thả lưới”.
Chúa Giêsu muốn kêu gọi ông Simôn và các bạn ông, nhưng trước khi làm việc đó, Ngài muốn cho các ông thấy quyền năng lạ lùng của Ngài.
Simôn chèo thuyền ra và bủa lưới, và lạ thay! Trong chốc lát, cá đầy lưới đến nỗi phải nhờ một thuyền bạn chở cá về.
Trong đời chài lưới của ông chưa từng thấy được cá nhiều và nhanh như thế. Ông cảm nhận đây không phải là một việc bình thường mà ông vẫn thường làm, nhưng là một dấu hiệu lạ lùng mà ông chưa từng thấy và vượt xa những gì ông biết được. Đứng trước sự lạ đó, Simôn kinh sợ. Người Do thái sống trong một thế giới vừa tự nhiên vừa linh thiêng. Họ vẫn còn giữ tâm thức về mối liên hệ với Thiên Chúa. Họ luôn sợ hãi khi đứng trước những dấu lạ bất ngờ mà họ không giải thích được và vì thế họ nghĩ là do Thiên Chúa. Vẫn cảm thấy bàn tay Thiên Chúa luôn can thiệp vào cuộc sống của họ, như đã can thiệp vào lịch sử của cha ông họ. Simôn mang một tâm trạng như thế, do vậy ông kinh sợ trước mẻ cá lạ lùng vừa mới bắt được. Ông cảm nhận đây không phải là một việc bình thường nữa mà là một hiện tượng vượt xa tầm tưởng tượng của ông. Ông nhìn Chúa Giêsu như Đấng Thần linh, không phải người thường.
Ông mang tâm trạng của Môsê trước ngọn lửa tỏa hào quang trong bụi gai, tâm trạng của tiên tri Isaia trong Đền thờ khi diện kiến với Chúa đang ngự trên ngai. Ông phản ứng như Môsê và Isaia, ông sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và nói: “Xin Thầy xa con vì con là kẻ tội lỗi”. Đứng trước một Đấng cao cả như thế, ông cảm thấy mình tội lỗi và bất xứng.
Nhưng Chúa Giêsu bảo ông: “Đừng sợ! Từ nay anh sẽ là người lưới người ta”. Đây là mệnh lệnh thứ hai mà Simôn nhận từ nơi Chúa Giêsu. Mệnh lệnh đầu là: “Hãy ra khơi đánh cá”. Mệnh lệnh thứ hai là: “Anh là người lưới người ta”.
Đứng trước hai mệnh lệnh ấy, Simôn luôn cảm thấy mình bất lực, bất xứng.Chính vì thế mà Chúa đã chọn ông.
Chúng ta cũng thế thôi. Đứng trước lời mời gọi của Chúa, chúng ta không ai xứng đáng cả. Chỉ vì thương mà Chúa chọn chúng ta cộng tác với Ngài. Chính Chúa đã nói: “Không có Thầy, chúng con không thể làm được việc gì”. Và Ngài cũng dạy chúng ta: “Sau khi đã làm xong mọi sự, chúng con hãy nhận rằng mình chỉ là tôi tớ vô dụng”.
Nhiều người trong chúng ta, sau khi thành công được một vài công việc, thường khoác cho mình vòng hoa chiến thắng. Chúa chỉ có thể hoạt động dể dàng trong những tâm hồn nhỏ bé. Chúa chỉ sử dụng những con người biết vâng phục như Simôn. Chính những người đó mới mang lại nhiều kết quả cho các linh hồn.
Các thánh chính là những con người nhỏ bé và khiêm tốn. Thánh Maria Vianney, cha sở họ Ars là một người luôn cảm thấy mình tội lỗi và dốt nát. Ngài đã được Giáo Hội xem như một “kẻ lưới người” vĩ đại.
Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu luôn thấy mình bé bỏng trong tay Cha trên trời, đã trở nên gương mẫu cho bao thế hệ kitô hữu, là thầy dạy con đường yêu mến Chúa, là một nhà truyền giáo không bôn ba ngoài thế gian, nhưng là một nhà truyền giáo lừng danh.
Thánh Luca ghi lại: “Họ bỏ hết mọi sự mà theo Người”. Đây chính là điều kiện quan trọng nhất.Người thanh niên giàu có, đầy thiện chí đã đến gặp Chúa Giêsu và được Ngài mời gọi: “Ngươi hãy về bán hết của cải, phân phát cho những người nghèo rồi đến đây theo Ta”. Người thanh niên thiện chí kia không dám bước theo Ngài vì không thể từ bỏ gia sản vật chất để đổi lấy kho tàng quí báu nhất là Ngài.
Lời mời gọi ấy được gởi đến, không phải chỉ cho những tu sĩ hay linh mục mà thôi, mà được gởi đến cho mọi người đã lãnh nhận kho tàng đức tin. Công Đồng Vatican II đã nói đến nhiều lần về ơn gọi của giáo dân là “trở nên nắm men trong bột, góp phần vào việc thánh hóa thế giới từ bên trong, và như thế, họ làm cho người khác nhận biết Đức Kitô… (Hiến chế Giáo Hội số 31). Như thế có nghĩa là họ phải là những kẻ lưới người ta. Đặc biệt hơn, Công Đồng dành riêng một Sắc Lệnh để nói về Tông Đồ giáo dân, vạch rõ những nhiệm vụ và trách nhiệm của giáo dân phải tích cực tham gia vào việc truyền giáo của Giáo Hội.
Hiện nay, chúng ta vui mừng thấy rằng nhiều giáo dân đã nghe theo tiếng gọi đó và đã dấn thân vào việc “lưới người ta”, nhưng vẫn còn quá ít so với nhu cầu. Chúng ta có cả một thế giới chưa biết đạo để Phúc Âm hóa. Vậy chúng ta cần phải làm gì?
Chúng ta được mấy người dám bỏ mọi sự mà theo Ngài? Ngay cả một số đã tự nguyện dấn thân vào đời sống tu trì, nhưng vẫn “cầm cày còn ngó lại sau lưng”, thì huống hồ là giáo dân!
Hãy cầu nguyện, xin Chúa sai nhiều thợ gặt đến trong ruộng lúa, sai nhiều tay chài lưới dám xông pha vào biển cả thế gian đang từ chối Thiên Chúa để bủa lưới. Hãy cầu xin cho mỗi người chúng ta đủ can đảm nghe theo tiếng gọi của Chúa.
Chúa Giêsu đang kêu gọi chúng ta bằng chính sự có mặt của Ngài nơi bàn tiệc yêu thương nầy. Ngài đến như một của ăn để thâm nhập một cách hết sức thực tế vào mỗi người chúng ta, mời gọi chúng ta dành cho Ngài cuộc sống nhỏ bé nầy, thời gian sống cơ cực nầy, để làm cho Nước Cha trị đến. Đứng trước tình yêu tha thiết của Ngài, chối từ là đắc tội. “Hãy đứng lên, chúng ta đi thôi!”.
15. Kitô hữu là loan báo Lòng Thương Xót Chúa--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
Ba bài Lời Chúa hôm nay nói về 3 bài sai cho ba người được Chúa chọn và sai đi nói về Lòng Thương Xót Chúa: Isaia trong bài đọc 1, Phaolô trong bài đọc 2 và Simon Phêrô trong bài Tin Mừng. Isaia tự thuật về chính ơn gọi làm ngôn sứ của ông. Chúa đã gọi ông. Ông đã can đảm, sẵn sàng đáp lại: “Tôi đây, hãy sai tôi đi”. Thái độ của Isaia chính là thái độ của Đức Giêsu sau nầy khi Ngài đi vào thế gian: “Này con xin đến để thực thi ý Chúa” (Dt 10,9). Phaolô cho biết khi Chúa hiện ra với ông trên đường đi Đamas và chọn ông làm tông đồ cho dân ngoại, ông khiêm tốn cho mình là một tông đồ hèn mọn nhất, chẳng đáng gọi là tông đồ vì đã bắt bớ Giáo Hội. Ông coi đây là một ân huệ Chúa ban và không dám uổng phí, ông hết lòng hết sức và sẵn sàng đáp lại tiếng gọi ra đi loan báo Lòng Thương Xót Chúa các các dân ngoại để họ tin vào Chúa và được cứu độ. Còn Simon Phêrô đã được Chúa gọi một cách rõ ràng và công khai sau mẻ cá thật nhiều đến nỗi gần rách lưới, Chúa Giêsu nói với ông: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá." Ông Si-môn đáp: "Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. “Bấy giờ Đức Giê-su bảo ông Si-môn: "Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta."
Chính Thiên Chúa, bằng cách trực tiếp hay gián tiếp, đã chọn gọi những người làm việc cho Ngài, làm cộng tác viên của Ngài trong công trình thương xót cứu chuộc nhân loại. Ngài đã gọi các tiên tri, các tông đồ, đã gọi bao nhiêu người khác, đã gọi chính chúng ta khi chúng ta lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội. Qủa thế, Giáo lý Hội Thánh dạy rằng: “Người đã chịu Phép Rửa trở thành phần tử của Hội Thánh, họ không còn thuộc về mình nữa, nhưng thuộc về Đấng đã chết và sống lại vì chúng ta. Từ nay, họ được mời gọi để phục tùng lẫn nhau và phục vụ người khác trong tình hiệp thông của Hội Thánh” (số 1269). Như vậy, hôm nay Chúa cũng kêu gọi chúng ta hãy thu phục lòng người ta. Làm thể nào để thu phục lòng người ta? “Hãy thương xót như Chúa Cha”. Chúa Cha thương xót chúng ta thế nào?
Trong Tông Sắc Dung Nhan Lòng Thương Xót, Đức Thánh Cha trả lời rằng nhìn vào Chúa Giêsu và dung nhan nhân hậu của Ngài, chúng ta thấy được Tình Yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi, là tình yêu tự hiến, viên mãn, hữu hình và chạm tới được bởi vì chính Ngôi Con làm người đã hoàn tất mọi hành vi bằng tình yêu, trong tình yêu và qua tình yêu. Vì thế, trong Ngài, tất cả đều nói về Lòng Thương Xót (số 8§1). Qủa thế, lược lại những trang Tin Mừng, chúng ta thấy rõ ràng cử chỉ tình yêu thương xót của Chúa Giêsu: chạnh lòng thương, chữa bệnh, trừ quỉ, cho ăn, yêu thương, tha thứ, phục sinh kẻ chết… Thật vậy, Thiên Chúa luôn tha thứ, cảm thông và thương xót. Đó là cốt lõi của Tin Mừng và Đức Tin. Lòng Thương Xót tỏ ra sức mạnh vượt thắng tất cả, tỏ ra niềm an ủi khi tha thứ (số 9§1). Chúa Giêsu nói đến hai dụ ngôn: tha thứ mấy lần? (x. Mt 18, 21-22) và tên mắc nợ không biết thương xót (x. Mt 18, 23-33) để nhấn mạnh về tha thứ của con người. Hãy tha thứ cho tha nhân vô hạn như Chúa tha cho ta, nếu không Cha trên trời cũng sẽ đối xử với ta như vậy (x. Mt 18, 35). Để tỏ ra là những người con đích thực của Thiên Chúa giàu Lòng Thương Xót, chúng ta cũng phải sống Lòng Thương Xót trong Năm Thánh này bằng việc tha thứ để có được bình an và hạnh phúc vì vậy,"Chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn" (Ep 4, 26) và "Phúc thay ai thương xót, vì họ sẽ được xót thương" (Mt 5,7). Cuối cùng, Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định Lòng Thương Xót là trách nhiệm của Thiên Chúa, luôn là hành động, là thái độ thường ngày, cụ thể và rõ ràng. Từ đó, con cái Thiên Chúa cũng nhận thấy trách nhiệm của mình mà thương xót nhau, như "nằm trên một cùng bước sóng" với Lòng Thương Xót của Thiên Chúa vậy (số 9§4).
Lòng thương xót Chúa đã làm người và hôm nay hiện diện giữa chúng ta trong Thánh Lễ, trong bí tích Thánh Thể. Chúa Giêsu Thánh Thể là lòng thương xót Chúa ở giữa chúng ta. Vậy, là Kitô hữu, chúng ta hôm nay được Chúa sai đến hiện diện giữa xã hội này để Tân Phúc Âm hóa xã hội. Đức Thánh Cha Phanxico đã nói: “Tân Phúc Âm hóa là thế này: Nhận ra tình yêu thương xót của Thiên Chúa nhờ đó chúng ta nên khí cụ của ơn cứu độ cho anh chị em mình. Con người ngày nay mong đợi điều gì nơi Giáo Hội: đó là Giáo hội đồng hành với họ, làm chứng về điều mình tin, sống tinh thần hiệp nhất đại đồng, đặc biệt liên đới với những người nghèo khổ, cô độc và bị loại trừ. Thế giới hôm nay có quá nhiều người nghèo! Nghèo vật chất. Nghèo tâm linh. Họ đang chờ Tin Mừng có sức mạnh giải thoát vùng ngoại vi do một xã hội vô thần, thao túng gây nên. Họ đang chờ đợi sự gần gũi và liên kết của chúng ta! Nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho chúng ta là bước trước hết khơi gợi lên nơi ta biết trợ giúp người khác. Thiên Chúa đã đến để cứu chúng ta khỏi tình trạng yếu nhược của mình. Và ơn cứu độ của Ngài làm cho chúng ta nhận ra sự hiện diện và sự gần gũi thiết thân của Ngài.”
Trong Thánh Lễ này, chúng ta hãy sốt sắng cảm tạ Chúa đã thương xót chúng ta và thế giới, đồng thời dâng Chúa quyết tâm để đẩy còn thuyền đời ta ra biển xã hội và dùng lời nói và đời sống của chúng ta loan báo lòng thương xót cho mọi người. Amen.
16. Tin vào sức mạnh Lời Chúa--Lm. Joshepus Quang Nguyễn
Bài thánh ca “Tin vào tình Chúa” của Cha Mi Trầm viết rằng: “Người đời dạy con phải sống khôn ngoan nhưng Chúa dạy con phải sống điên dại.. Người đời dạy con tin vào quyền lực nhưng Chúa dạy con tin vào tình thương. 2. Người đời dạy con nắm giữ thật chặt nhưng Chúa dạy con phát hết cho người. Người đời dạy con sẵn sàng dừng lại nhưng Chúa dạy con sẵn sàng mà đi. 3. Người đời dạy con hãy tin tưởng mình nhưng Chúa dạy con phó thác nơi Ngài.. Người đời dạy con sống vì hiện tại nhưng Chúa dạy con sống vì ngày mai. ÐK: Xin cho con tin vào tình Chúa mà dấn bước đời con. Xin cho con tin vào tình Chúa mà đánh liều đời con”. Quả thế, chủ nghĩa cá nhân và thực dụng của xã hội hôm nay gây ra nhiều mối nguy hại cho cuộc sống, nhất là chúng làm cho các mối tương quan con người với nhau, giữa con người với thiên nhiên và giữa con người Thiên Chúa bị đảo lộn. Thậm chí, nhiều khi nó làm cho chúng ta không nhìn thấy Chúa hiện diện trong đời sống chúng ta và Lời của Ngài không ứng nghiệm nữa! Chính vì thế, Lời Chúa hôm nay, đầu năm Kỷ Hợi này cho thấy Chúa luôn hiện trong mọi cảnh huống của cuộc sống của chúng ta và mời gọi chúng ta phó thác tin vào Lời Chúa vì Lời có sức mạnh đem lại hạnh phúc đích thực cho chính mình, gia đình, giáo xứ, giáo hội và xã hội của chúng ta ngay ở đời này và đời sau.
Trang Tin Mừng chúng ta vừa nghe kể rằng Chúa Giêsu xuống thuyền của ông Phêrô, thuyền đó là thuyền đánh cá của ông Phêrô, tức là Người đi vào cuộc sống làm ăn hằng ngày của ông. Người bảo ông Phêrô chèo ra chỗ sâu, thả lưới bắt cá, đó là hành nghề của ông. Dựa vào sự hiểu biết, kinh nghiệm tay nghề của mình, ông tự nhủ làm sao Chúa Giêsu biết nghề này sành điệu bằng mình, vì Chúa Giêsu làm nghề thợ mộc mà. Cho nên, Phêrô thành thực nói cho Thầy biết rằng điều Thầy yêu cầu là hoàn toàn sai lầm, “"Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả”. Nhưng, ông Phêrô tin vào sức mạnh kỳ diệu lời của Thầy mình, Lời đã chữa lành cho mẹ vợ khỏi cơn sốt, Lời trục xuất tên quỷ, Lời chữa lành nhiều người đau yếu khác… “Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới". Cho nên, ông gạt bỏ những kinh nghiệm riêng tư, quên đi sự mệt nhọc suốt đêm vất vả nhưng chẳng bắt được con cá nào, để rồi vâng lời Thầy thả lưới trong thái độ tự do, tín thác. Qủa thực, Chúa đã thoả đáp lòng tin của ông bằng mẻ cá lạ lùng đồng thời kêu gọi ông làm ngư phủ lưới người. Nghĩa là từ nay Đức Giêsu không chỉ là một vị thầy, nhưng còn là Chúa của ông.
Tiên tri Isaia và Thánh Phaolô trong hai bài đọc hôm nay đã tin và hiểu rõ sức mạnh lời Chúa nên với sự can đảm, họ đã vất bỏ mọi sự, cất đi những hàng rào khép kín của tính hư tật xấu, tính tự cao tự đại, để chọn Chúa làm gia nghiệp và ra đi rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng cứu độ dù phải đối đầu với nhiều mưu mô xảo quyệt của thế gian, bất chấp những cám dỗ bị lây nhiễm, bị hiểu lầm, hay thất bại dù phải chết vì Đạo hầu mong Lời Chúa được chiếu sáng và Nước Chúa được rộng lan khắp nơi.
Còn chúng ta thì sao? Nhờ việc lắng nghe Lời, sống và thi hành Lời Chúa và giáo huấn của Giáo hội, chúng ta vững tin và đủ sức để đương đầu với những mối nguy hiểm làm lây chuyển đức tin của chúng ta, và nhờ sức mạnh của Lời Chúa, chúng ta có thể phá toang hoang những ngục tù nội tâm vô hình: đó là tính kiêu căng, lòng hận thù, sự gian ác hay mưu mô xảo trá gian tà… Cho nên, Thánh Phaolô trong bài đọc hai nói rõ ràng rằng nhờ Tin Mừng mà các ngài loan báo mà chúng ta hôm nay được cứu thoát, nếu chúng ta giữ đúng như lời ngài đã loan báo, bằng không thì chúng ta có tin cũng vô ích.
Con thuyền đức tin của chúng ta đã ra khơi, có người một năm, hai năm, 5 năm, 15 năm, 20 măm… Chắc chắn chúng ta gặp không ít nhiều khó khăn thiếu thốn và không thiếu những sóng gió bão táp của biển đời, biển tình, biển kinh tế… những điều đó có lúc làm chúng ta cũng e ngại, lo âu hoặc hoảng sợ, hốt hoảng chao đảo dễ mất đức tin nhưng, với Lời Chúa hôm nay, chúng ta hãy tín thác, cậy trông vì có Chúa Giêsu cùng thuyền cùng hội với chúng ta mà đồng hành bên đỡ phù trì thì chắc chắn con thuyền đức tin của chúng ta dẫu có chông chênh nhưng không bao giờ chìm. Thế nhưng, tin vào Chúa và sức mạnh của Lời Ngài đòi hỏi chúng ta từ bỏ tất để theo Ngài, bỏ tất cả ở đây là đặt tất cả dưới Chúa và sử dụng chúng theo ý Ngài để sống và làm chứng cho Chúa và chân lý của Ngài giữa lòng nhân thế hôm nay. Cho nên, dù ai, hạn người nào thiên tài hay bất tài, Chúa vẫn yêu thương, tín nhiệm và trao ban cho ta muôn vàn ân sủng và sứ mạng rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Vì Chúa muốn dùng chúng ta như khí cụ bình an của Chúa để đem yêu thương vào nơi oán thù, đem an bình vào nơi tranh chấp đem chân lý vào chốn lỗi lầm, đem tin kính vào nơi nguy nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng ngõ hầu toàn thể mọi người trên đất nước chúng ta và toàn thể thế giới sống chan hoà yêu thương nhau như anh em một nhà, “tứ hải giai huynh đệ”.
Ước gì qua lời Chúa hôm nay, tựa như Phêrô, tiên tri Isaia và Phaolô, xin cho chúng ta biết tin tưởng tuyệt đối vào Lời Chúa mà dấn bước đời ta theo Chúa là chính nguồn tình yêu, sự thật và sự sáng Chúa. Đồng thời xin cho chúng ta sự khiêm nhường để nhận biết những yếu đuối của chúng ta, và tin vào sức mạnh của Lời Chúa sẽ giúp chúng ta vượt lên yếu đuối, những lần vấp ngã vì chưng Chúa đang ở với chúng ta và quyền năng của Lời Chúa có hiệu lực trong đời sống chúng ta.
17. Ra khơi, mà thả lưới!--AM Trần Bình An
Chủ đề tĩnh tâm Giáo phận năm nay là truyền giáo. Đức Giám mục hô hào đẩy mạnh phong trào truyền giáo. Phương pháp truyền giáo là phát triển Dân Sinh, Dân Trí và Dân Đạo.... Bất ngờ ngài nói với anh em một câu của một vị thừa sai nào đó: “Linh mục Việt Nam chỉ có tài coi sóc họ đạo, chứ không biết gầy dựng họ đạo”.
Vì tự ái dân tộc, mình giơ tay và đứng bật lên như một cái lò xo: “Thưa Đức cha, không phải linh mục VN không biết gầy dựng họ đạo, nhưng vì chưa có “Bài sai" (Văn thư bổ nhiệm một linh mục do Đức Giám Mục ấn ký) của Đức Cha.” Mình hung hăng chừng nào thì Đức Giám mục bình tĩnh chừng ấy. Với giọng trầm buồn, ngài thủng thẳng trả lời: “Tôi biết đi truyền giáo thì thiếu thốn và cực khổ nhiều lắm, nên không nỡ tâm sai các cha đi. Cha nào tình nguyện thì tôi mới dám. Vậy cha nào tình nguyện thì giơ tay lên.” Mình đếm được sáu cánh tay giơ thật cao và thật thẳng: Hai cha già, hai cha sồn sồn, và hai cha trẻ. Đức Giám mục cười và khôi hài: “Các cha đi truyền giáo thì bỏ họ đạo, bỏ chủng viện, bỏ trường học cho ai?”
Cả hội trường cười hì một cái. Thế là đánh trống bỏ dùi. Vấn đề truyền giáo chỉ được nêu lên như một sự gợi ý và thăm dò. Rồi đây, sau tuần tĩnh tâm, ai nấy lại trở về với họ đạo của mình và tiếp tục rao giảng Tin Mừng cho người đã nghe. Tuyệt nhiên không nghĩ gì, không làm gì cho người lương dân, những người chưa bao giờ được nghe Tin Mừng.
Viết đến đây, mình liên tưởng đến Đức Giêsu khi Ngài đến rao giảng tại Caphácnaum. Sau khi được nghe giảng và chứng kiến nhiều phép lạ, dân thành Caphácnaum nảy ra một sáng kiến: “Xin Thầy ở lại với chúng tôi, đừng đi đâu nữa.” Câu nói của họ hàm nhiều ý nghĩa: Thứ nhất, vì quá thương, họ muốn Chúa ở lại với họ. Họ không muốn Chúa lúc nào cũng đầm đìa mồ hôi, ăn không trọn bữa, ngủ không đầy giấc, do các chuyến đi liên tục. Họ muốn có một “ngôi nhà xứ” có đủ tiện nghi cho Chúa sử dụng. Họ sẽ kiếm cho Chúa một bà bếp nấu ăn thật giỏi, có thể đó là mẹ vợ của Simon. Thứ nhì, họ muốn gởi gắm sự nghiệp của mình vào sự nghiệp của Chúa. Caphácnaum sẽ là trung tâm rao giảng, trung tâm trị bệnh. Caphácnaum sẽ trở thành thủ đô của nước “Israel mới.” Sự nghiệp của Chúa sẽ gắn liền với sự nghiệp vẻ vang của Caphácnaum. “Xin Thầy ở lại với chúng tôi, đừng đi đâu nữa!” Ôi thương quá là thương ! Nghe mà nẫu cả ruột ! Đó là một chước cám dỗ, chước cám dỗ dễ thương vô cùng. Để đối phó, Chúa đã khẳng định: “Ta còn phải loan báo Tin Mừng cho các thành khác nữa. Chính vì thế mà Ta được sai đến.” Sau đó Chúa đã đi thật, và đi mãi.
Chúa ơi, Chúa đã giã từ Caphácnaum để đi loan báo Tin Mừng, còn chúng con thì đã chui vào đó để “Ngồi Họ.” Quả vậy, Giáo hội của Chúa có một truyền thống yêu thương giáo xứ. Con cái của Chúa quây quần bên nhau thành một xóm đạo…(Lm Piô Ngô Phúc Hậu, Giáo xứ Caphácnaum, Nhật ký Truyền Giáo)
Tin Mừng Thánh Luca Chúa nhật hôm nay tường thuật mẻ cá ban ngày trúng đậm, khiến ông Simon nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa toàn năng, cảm thấy mình yếu hèn tội lỗi, bất xứng gần gũi Người. Nhưng Đức Giêsu đã hân hoan thâu nạp hai ông Anrê, và ông Simon, và các bạn chài con ông Dêbêđê, là hai ông Giacôbê và Gioan, làm những môn đệ đầu tiên thực hiện nhiệm vụ “chài lưới bắt người.” (theo bản dịch của Lm Nguyễn Thế Thuấn, DCCT)
Lời Chúa hôm nay còn muốn nhắn gửi đến tất cả Kitô hữu, không phân biệt chủ chăn hay con chiên, sứ mạng truyền giáo rất cấp bách, đòi hỏi toàn thể tín hữu dấn thân vào đời, vào nơi đông đảo quần chúng chưa được vinh dự biết đến Tin Mừng, mặc dù ở vùng xa xôi, hẻo lánh, như ngoài khơi biển cả. Can đảm noi gương Đức Giêsu rời khỏi “Giáo xứ” Caphácnaum thuần đạo vẻ vang, để còn “loan báo Tin Mừng cho các thành khác nữa.”
Ra khơi
Sau khi giảng dạy cho dân chúng từ trên thuyền neo gần bờ, Đức Giêsu bảo ông Simôn: “Ra khơi, mà thả lưới đánh cá!” Lệnh truyền súc tích, vắn gọn, rõ rang, chính xác, không thừa hay thiếu chữ nào. Người đi rao giảng không được nấn ná, ở lì, cắm dùi một chỗ Tin Mừng đã được loan báo, đã hình thành cơ cấu và sinh hoạt tâm linh.
Ra khơi là mệnh lệnh dấn thân phiêu lưu theo Đức Giêsu, sẵn sàng chấp nhận đối đầu những phong ba, bão táp, những ngày biển động, những thách đố bất ngờ, những tai ương hoạn nạn có thể đổ ập đến bất cứ lúc nào, nhưng sẽ luôn có Chúa ở cùng, luôn có Chúa Quan Phòng chở che, nếu một lòng một dạ mãi tín thác nơi Ngài.
Ra khơi còn là biểu lộ thái độ dứt khoát, một quyết định vững chãi, không còn dấm dớ theo Chúa nửa vời, nửa muốn theo Chúa, nửa lo sợ thế gian ghét bỏ, hãm hại, lo mất cuộc sống yên ả, sung túc, tiện nghi, lo đói khát, cực nhọc, khó khăn.“Kẻ vừa tra tay cầm cầy vừa ngó lui sau, là người bất kham đối với Nước Thiên Chúa”(Luca 9, 62)
“Đi, đi, đi mãi, đi quyết liệt, đi không nhượng bộ cũng như không ai đi với người đi lui. Không nhượng bộ cho xác thịt, Không nhượng bộ cho lười biếng, Không nhượng bộ cho ích kỷ... Con không thể gọi đen là trắng, xấu là tốt, gian là ngay được.” (Đường Hy Vọng, số 12 & 13)
Vâng lời
Lời đáp lại mau mắn của ông Simon chính là lời tuyên xưng đức tin công khai, với tâm hồm khiêm nhường, tôn kính, hoàn toàn vâng phục: "Thưa Thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết; nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới."
Dẫu rằng ông Simon vốn là dân chài chuyên nghiệp, dẫu đã bao năm kinh nghiệm dầy dạn sương gió trên biển hồ Giênêdarét, dẫu vừa mới thức trắng một đêm lao nhọc chài lưới công cốc, ông vẫn tận tâm, tận tuỵ thi hành mệnh lệnh, dù nghe thật chướng tai và bất hợp lý, khi đánh cá ngay ban ngày.
Khiêm nhường, bỏ đi những khôn ngoan thế gian, những lập luận lô gích, những kinh nghiệm cá nhân, để vâng theo Thánh Ý Chúa không bao giờ dễ dàng. Nhưng“Trời cao hơn đất chừng nào, thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy.” (Is 55, 9)
“Đức Chúa có ưa thích lễ toàn thiêu và các hy lễ như ưa thích người ta vâng lời Đức Chúa không? Này, vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ, lắng nghe thì tốt hơn dâng mỡ cừu.”(1 Sam. 15, 22)
“Thế gian bảo con vâng phục như vậy là “điên khùng.” Chúa nói con vâng phục, vì Chúa là “anh hùng.” (Đường Hy Vọng, số 393)
Từ bỏ
Kinh ngạc trước phép lạ nhãn tiền, mẻ cá đầy ắp vô tiền khoáng hậu, ông Simon sụp lạy dưới chân Chúa Giêsu và thưa Người rằng: "Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi." Không chỉ mình ông Simon ngạc nhiên, mà tất cả bạn chài cũng kinh ngạc không kém. Tất cả mọi người, mọi loài thụ tạo đều phải quy phục trước quyền năng siêu phàm của Thiên Chúa. Khi đó, con người mới có cơ hội nhận thức được thân phận yếu kém, hèn hạ của mình, mà tôn kính, thờ lạy Đấng Tạo Hoá muôn loài, mới cảm thấy bất xứng, tội lỗi, xấu xa, trước Thánh Nhan Chúa.
Chính khi nhận ra mình phận hèn, là lúc Chúa đoái thương, gần gũi, nâng đỡ, mời gọi. Chúa không nỡ lìa xa, như ông Simon khẩn khoản nài xin, mà Lòng Thương Xót Chúa có dịp chiếu toả, sưởi ấm, vỗ về, bao bọc, chở che, tin tưởng, trao phó trọng trách:"Đừng sợ hãi: từ nay ngươi sẽ là kẻ chài lưới bắt người." Chèo đò vào bờ, họ đã bỏ mọi sự mà theo Ngài.” Bỏ lại tất cả những gì vướng víu, tiền của, nghề nghiệp, gia đình, tình cảm riêng tư, bỏ cả tương lai sáng lạn của thế gian, mà dấn thân phục vụ Nước Chúa, phục vụ rao truyền Tin Mừng, phục vụ tha nhân mọi nơi.
Từ bỏ tất tần tật mọi sự thế gian, nhưng chưa bỏ chính mình thì cũng vô ích hoàn toàn. Vì thế, Đức Giêsu đích danh kêu gọi từ bỏ bản thân, vị kỷ, ham muốn, bản năng, xác thịt, sẵn sàng chấp nhận gian khó, thử thách, đau khổ mà theo Chúa: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứu được mạng sống mình.” (Mc 8, 34-35)
“Bỏ tất cả mà chưa bỏ mình thì con chưa bỏ gì cả, vì chính mình con sẽ dần dần quơ góp lại những gì con bỏ trước.” (Đường Hy Vọng, số 3)
Lạy Chúa Giêsu, xin thức tỉnh chúng con khỏi đam mê thế gian, khỏi xác thịt nặng nề, khỏi u mê, mù loà trong đời phù vân, khỏi trầm luân trong đam mê hư ảo, tội lỗi, để chúng con nghe được tiếng Chúa mời gọi từ bỏ thế gian, mà can đảm ra khơi, trở nên con Chúa, vâng lệnh làm chứng nhân cho Tin Mừng, dẫu muôn khó khăn đau khổ đang chờ đợi chúng con.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là ánh sao dẫn đường chỉ lối cho chúng con bước đi. Khấn xin Mẹ cầu bầu cho chúng con dấn thân theo Mẹ, cùng trung kiên đồng hành với Chúa đến tận cuối đời. Amen.
18. Ơn gọi Kitô hữu--Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng
Tin mừng Lc 5: 1-11: Thánh Luca kể lại việc Đức Giêsu sau phép lạ mẻ cá trên hồ Tibêria đã mời gọi một số ngư phủ theo Người để trở nên những Tông đồ là những kẻ chài lưới người.
Qua Bí tích Thanh tẩy, Kitô hữu được trao ban một sứ mạng làm sứ giả Tin mừng. Mỗi Kitô hữu là một người được chính Chúa mời gọi làm cho Nước Chúa trị đến. Mỗi người phải quan tâm đến ơn gọi và sứ vụ loan báo Tin mừng của mình làm sao để cuộc sống mình luôn thể hiện những giá trị Tin mừng, nhờ đó, lôi kéo đựơc người chung quanh theo Chúa.
I. Tìm Hiểu Lời Chúa
1. Bài đọc I: Is 6, 1-2a, 3-6
* Ơn Gọi Của Isaia
Chúa nhật vừa qua chúng ta đã nghe đọc bản văn về ơn gọi của Tiên tri Giêrêmia. Hôm nay, chính Tiên tri Isaia nói cho chúng ta biết ông đã được Thiên Chúa gọi như thế nào và đã giao phó cho ông sứ mạng nào.
Khi Isaia đang cầu nguyện trong đền thờ thì ông nhận được một thị kiến lớn lao: Thiên Chúa mạc khải cho ông sự thánh thiện và vinh quang của Người.
Đối diện với màu nhiệm lớn lao này, Isaia khám phá ra lòng thương sót của Thiên Chúa. Với môi miệng nhơ uế làm sao ông có thể mang Lời Thiên Chúa, nhưng môi miệng ông sẽ được Thiên Chúa thanh luyện. Ông đã manh dạn thưa vâng: Lạy Chúa! này con đây.
Thiên Chúa tìm kiếm những cộng sự cho công trình Cứu độ của Ngài. Nhưng để được gọi cần thiết phải gặp gỡ với Thiên Chúa: gặp Ngài trong đức tin và cầu nguyện là điều cần thiết triệt để, để làm tròn sứ mạng được uỷ thác.
2. Bài đọc II: 1Cr 15, 1-11
* Ơn Gọi Của Phaolô
Sau khi nhắc lại rằng sự Phục Sinh của Đức Kitô là một trong những cứ liệu nền tảng của đức tin, Thánh Phaolô khẳng định trang trọng: Ngài là chứng nhân của Đức Kitô. Ngài đã thấy Đức Kitô Phục Sinh.
Không chuẩn bị gì cho sứ vụ tông đồ, thận chí còn là người miệt mài truy bắt các môn đệ của Đức Kitô, Phaolô đã phải cúi đầu trước một sự thật hiển nhiên: Đức Kitô đã hiện ra sống động với ông.
Cùng lúc khám phá ra ý nghĩa và tầm quan trọng về sự phục sinh của Đức Giêsu; được Thần khí soi dẫn, Phaolô đã hiểu rằng ông có sứ mạng công bố điều này, đặc biệt là cho các dân nước ngoài Do Thái.
Ngày nay, có nhiều dòng tư tưởng khác nhau tìm cách rút ra từ sự phục sinh của Đức Kitô những sự giải thích không có gì là chính thống. Chúng ta cần phải gắn bó với đức tin của Hội Thánh để sống đúng kho tàng đức tin mà các Tông đồ đã để lại.
3. Tin Mừng: Lc 5, 1-11
* Ơn Gọi Của Các tông Đồ
Thánh Luca kể lại việc Đức Giêsu sau phép lạ mẻ cá trên hồ Tibêria đã mời gọi một số ngư phủ theo Người để trở nên những Tông đồ là những kẻ chài lưới người.
Sau khi giảng dạy dân chúng từ trên thuyền của Phêrô, Đức Giêsu nói các ông thả lưới. Cho đến lúc ấy, các ngư phủ đã hoài công vất vả mà không được gì. Ngay ở lần thử đầu tiên các lưới đã đầy cá muốn rách.
Phêrô và các bạn đã bị lôi cuốn. Được Chúa mời gọi không chần chừ, các ông đã bỏ mọi sự để theo Người. Các ông sẽ không bao giờ quay trở lại nữa.
" Chài lưới người" … Tất cả mọi Kitô hữu không ngoại trừ ai đều được mời gọi để trở nên "kẻ chài lưới người". Mỗi người theo khả năng, nghề nghiệp, văn hóa của mình đều được Thiên Chúa kêu mời hãy thả lưới.
II. Gợi ý Suy Niệm
1. Kitô hữu, một ơn gọi: Các bài đọc Kinh Thánh hôm nay trình bày về ơn gọi của ba người mà cuộc đời của họ trước khi được Chúa gọi khác nhau, cũng chẳng có gì là nổi bật, thận chí còn thù địch với Chúa: Isaia, một quí tộc Israel; Phaolô, một người Biệt phái nhiệt thành hăng say bắt bớ các môn đệ Đức Giêsu; và Phêrô cùng các tông đồ đầu tiên, những anh chài lưới tầm thường bên hồ Tibêria. Tuy nhiên qua ơn gọi của các ông, chúng ta cũng nhận ra ơn gọi của mỗi người chúng ta hôm nay, ơn gọi Kitô hữu. Khi nhận lãnh bí tích Thanh Tẩy, không chỉ đơn giản là tin vào Chúa, theo Chúa để trở nên thành viên trong Nước Chúa mà cơ bản đó còn là một ơn gọi để dựng xây Nước Chúa. Nghĩa là cũng như Isaia, cũng như các Tông đồ, cũng như Phaolô, Kitô hữu cũng được mời gọi lên đường loan báo Tin mừng của Chúa đến cho người khác. Kitô hữu cũng chính là những kẻ nhận lãnh sứ mạng đi chài lưới người, đi chinh phục tâm hồn người ta về với Chúa. Xuất thân từ mọi thành phần trong xã hội với nhiều hoàn cảnh, với nhiều khả năng khác nhau, nhưng đều có chung một đức tin, một tình yêu và một ơn gọi, ơn gọi làm Kitô hữu để sống niềm tin vào Thiên Chúa. Thể hiện niềm tin đó qua việc loan báo công trình yêu thương cứu độ của Thiên Chúa cho anh chị em chung quanh.
Kitô hữu là người được gọi để sai đi loan báo; Kitô hữu là các tông đồ của ngày hôm nay. Chúng ta đã ý thức và đón nhận ơn gọi Kitô hữu như thế nào? Hãy tự hỏi lòng mình hôm nay với tư cách Kitô hữu tôi là ai? Tôi đang làm gì để loan báo Tin mừng của Chúa?
Ơn gọi Kitô hữu, ơn gọi của tình yêu: Nhìn vào các Tông đồ, vào Phaolô hay vào Isaia nếu theo tâm lý bình thường chắc khó mà gọi họ trở nên những cộng sự của mình được vì xem ra chẳng có tài cán hay đức độ gì cả. Thận chí như Phêrô là anh chàng chài lưới quê mùa dốt nát, một Phaolô nhiệt tình bắt đạo là kẻ thù của Kitô Giáo thời các Tông đồ. Thế nhưng, tất cả đều được Chúa tuyển chọn. Vì sao Chúa lại chọn những con người như vậy để sai đi loan báo Tin mừng cứu độ? Không phải vì họ giỏi, không phải vì họ có thế lực cũng không phải vì họ đạo đức thánh thiện hơn những người khác mà chỉ đơn giản là vì Chúa chỉ muốn chọn những ai Chúa muốn. Và Chúa chọn chỉ vì Chúa yêu mà thôi. Chính vì tình yêu mà các ông được chọn. Chúa chọn để minh chứng tình yêu hải hà của người, yêu cả kẻ thù. Với Kitô hữu cũng vậy, được gọi vì yêu và được gọi để sai đi làm nhân chứng và loan báo tình yêu. Ơn gọi Kitô hữu cũng như ơn gọi Tông đồ xuất phát từ tình yêu của Thiên Chúa để ra đi loan báo tình yêu của Người. Một Tình yêu dám chết cho người mình yêu; một tình yêu được thể hiện tròn đầy trong màu nhiệm nhập thể và màu nhiệm Tử Nạn_Phục sinh của Người. Vì yêu, Người đã dám chết cho tội lỗi nhận loại và sống lại để mang lại sự sống, hạnh phúc và tình yêu bất tử cho nhân loại.
Kitô hữu, ơn gọi của tình yêu nên mỗi người trước hết phải khám phá, phải sống huyền nhiệm tình yêu Thiên Chúa để rồi một khi đã được yêu, thì sẽ biết yêu và dám yêu đến cùng. Kiếp sống Kitô hữu không yêu là kiếp sống thừa.
2. Sống ơn gọi Kitô hữu trong hoàn cảnh hôm nay: Giáo Hội Việt Nam qua thư chung của Hội Đồng Giám Mục năm 2003 mời gọi dân Chúa hãy đáp lại lời mời gọi "Ra khơi" của Đức Thánh Cha, qui hướng lời cầu nguyện và hoạt động của Hội Thánh tại Việt Nam vào việc "Loan báo Tin Mừng". Trong thư chung này Hội Đồng Giám Mục đã trình bày khá chi tiết và rõ nét đường hướng loan báo Tin mừng của cả Giáo Hội Việt Nam cũng như phần việc cụ thể của mỗi Kitô hữu. Sống ơn gọi Kitô hữu ngày nay chính là tìm ra cách thế phù hợp để loan báo Tin mừng. Chúng ta cùng trích một số tư tưởng trong thư chung để suy gẫm, tìm hiểu cách sống ơn gọi Kitô hữu thiết thực và hiệu quả trong bối cảnh hôm nay. Trước hết là hãy trở về với nguồn mạch ơn gọi nơi chính Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô, qua việc bắt chước Người: Noi gương Chúa Giêsu Kitô Chúa Giêsu là sứ giả Tin Mừng đầu tiên và vĩ đại nhất … Để rao giảng Tin Mừng, Ngài đã không biết mệt mỏi đi đến khắp mọi nơi, tiếp xúc với tất cả mọi hạng người, thực hiện rất nhiều việc lạ lùng để làm chứng Nước Chúa đã đến. Xác định rao giảng Tin Mừng theo ý Chúa Cha là lẽ sống (x. Mc 1,38; Lc 4,43) nên Ngài hiến trọn cuộc đời, đến tự nguyện hy sinh cả mạng sống, chấp nhận cái chết tủi nhục trên Thánh Giá để hoàn thành thánh ý Chúa Cha. (TCHĐGMVN, 2003, số 3). Đồng thời, trung thành với truyền thống của Hội Thánh sơ khai. Chúa Giêsu đã thiết lập và uỷ thác cho Hội Thánh nhiệm vụ loan báo Tin Mừng (x. Mc 16,15; Mt 28,19-20). Lệnh truyền này đã trở thành sứ mạng chính yếu của Hội Thánh Chúa Kitô. Hội Thánh không hiện hữu cho mình nhưng cho con người và với con người. Hội Thánh hiện hữu là để loan báo Tin Mừng và làm cho những ai thành tâm đón nhận Tin Mừng trở nên môn đệ Chúa Kitô (x. Mt 28,19) đồng thời quy tụ cho Thiên Chúa mọi con cái tản mác về lại một mối (x. Ga 10, 52). (TCHĐGMVN, 2003, số 4). Từ đó, Hội Đồng Giám Mục đã đề ra những cách thế phù hợp với những cách sống năng động như cầu nguyện. Nêu gương sống lương tâm công giáo. Trước khi rao giảng bằng lời nói, hãy rao giảng bằng đời sống. Người tín hữu giáo dân hãy nỗ lực cùng với đồng bào xây dựng một nếp sống lành mạnh trong khu phố xóm làng, loại trừ mọi tệ đoan tật xấu. Đăc biệt hãy nêu gương tôn trọng sự sống, tôn trọng phẩm giá con người, sống theo lương tâm ngay thẳng làm chứng về sự hiện diện của Nước Thiên Chúa. Thăm viếng thân hữa các thành viên tôn giáo bạn. Việc thăm viếng các thành viên tôn giáo bạn và nhất là thăm viếng các gia đình cũng như cá nhân ngoài công giáo là trình bày Phúc Âm một cách cụ thể. Thăm viếng để chúc mừng khi vui, an ủi khi buồn, nâng đỡ khi gặp hoạn nạn là những trang Phúc Âm sống động giúp anh chị em ngoài công giáo nhận rõ chân dung Chúa Giêsu Cứu Thế và hiểu biết đạo Chúa một cách chính xác hơn. Và Làm việc bác ái, việc bác ái cụ thể được thấy qua những cứu trợ thiên tai, giúp đỡ người nghèo về mọi mặt. Việc bác ái trong lâu dài phải nhắm đến phát triển toàn diện, giúp người nghèo có một đời sống xứng đáng với phẩm giá con người, vì "Phát triển là tên gọi mới của hòa bình" (x. Progressio Populorum). Những hoạt động xã hội bác ái là những lời rao giảng dễ được đón nhận,
III. Lời Cầu Chung
* Lời Mở: Anh chị em thân mến, chúng ta đựơc Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô yêu thương mời gọi và sai đi loan báo Tin mừng của Chúa. Trong niềm vui tri ân, chúng ta cùng dâng lên Thiên Chúa những lời cầu nguyện chân thành cho Hội Thánh và cho mọi người chúng ta.
1. Ngày nay, sứ mạng Tông đồ được tiếp nối qua các Đức Giám Mục trong Giáo Hội. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng, cho hàng Giám Mục và cho hàng giáo sĩ luôn hằng say nhiệt thành trong sứ mạng loan báo Tin mừng bằng đời sống yêu thương phục vụ của mình.
2. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Giáo Hội Việt Nam thân yêu của chúng ta trong năm thánh Truyền Giáo này thu hoạch được một mùa lúa bội thu nhờ ơn Chúa và nhờ lòng nhiệt thành của mọi thành phần dân Chúa nỗ lực sống đức tin.
3. Mỗi Kitô hữu đều được gọi để trở nên những kẻ chài lưới người, thu phục nhân tâm về cho Chúa, cho Hội Thánh. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người, mọi nhà trong cộng đoàn chúng ta luôn tràn đầy ơn Chúa để biết sống yêu thương, hiệp nhất làm gương sáng lôi kéo mọi người tìm về với Chúa.
* Kết Nguyện: Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương chọn gọi chúng con trở nên môn đệ của Đức Giêsu Kitô để loan báo Tin mừng cứu độ của Chúa cho mọi người. Chúng con xin Chúa gia tăng ân sủng và nghị lực để ai nấy đều nhiệt thành ra khơi là cho danh Thánh Chúa vinh hiển và nước Chúa ngày càng phát triển. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
19. Bất lực
Đang đi bên này sông, tình cờ nhìn thấy một người bạn thân lâu năm không gặp, đang đứng ở bên kia sông, bấy giờ chúng ta sẽ làm gì? Tôi xin thưa rằng chúng ta làm mọi việc có thể, nào gọi to, nào vẫy tay, nào kiếm một cái xuồng để qua sông. Thế nhưng có một điều chúng ta lại không làm đó là nhảy xuống sông để bơi qua bờ bên kia, vì làm như thế chúng ta sẽ bị cho là điên khùng.
Tuy nhiên, điều điên khùng này chính thánh Phêrô đã làm. Phúc Âm kể lại, khi nhìn thấy Chúa Giêsu đi trên mặt nước, thánh Phêrô cũng đã nhảy xuống nước mà tiến lại với Chúa Giêsu. Có lẽ lúc bấy giờ thánh Phêrô cũng đã thầm nghĩ: Điều Thầy đã làm thì tại sao tôi lại không làm được. Nhưng rồi ông bắt đầu nghi ngờ và bị chìm dần xuống mặt nước. Bấy giờ ông bèn van xin Chúa giúp đỡ. Chính trong cái bối cảnh này mà chúng ta nhận thấy Phêrô cần phải sửa chữa cái thói tự cao tự đại, quá ỷ vào sức riêng của mình. Ông cần phải ý thức được những giới hạn của mình, cũng như những khả năng nhỏ bé và những bất lực của mình để nhờ đó mà khiêm nhường hơn.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng đã dùng chiến thuật đó để răn dạy Phêrô. Sau một đêm vất vả chẳng bắt được một con cá nào, thế mà giữa ban ngày ban mặt Chúa Giêsu lại truyền cho ông phải thả lưới, và rồi sau đó một mẻ cá lạ lùng đã xảy ra. Sau mẻ cá lạ lùng ấy Phêrô đã thú nhận sự bất lực của mình: Lạy Chúa, xin hãy xa con vì con là kẻ tội lỗi.
Với mỗi người chúng ta cũng vậy, Chúa chờ mong chúng ta thú nhận sự bất lực, sự hạn hẹp của mình, để rồi tin tưởng và phó thác cho Ngài, cũng như để Ngài sẽ ra tay cứu giúp. Và đó chính là cái nền tảng để xây dựng đức tin.
Thế nhưng con người thời nay, đã hành động một cách khác hẳn. Với những thành công của khoa học, với những bước tiến nhảy vọt của kỹ thuật, người ta muốn lên ngôi bá chủ và không còn lệ thuộc vào Thiên Chúa nữa. Người ta không còn muốn cầu nguyện vì tưởng rằng sẽ không bao giờ còn cần đến một sự trợ giúp từ trời cao.
Thế nhưng nếu suy nghĩ cho chín chắn, chúng ta nhận thấy rằng: Khoa học càng tiến bộ thì lãnh vực của nó càng mở rộng, tưởng chừng như vô tận. Hơn nữa dù kỹ thuật có tân kỳ thì những sơ hở và trục trặc vẫn có thể xảy ra. Chỉ sơ hở một chút là sẽ tiêu ma cả một công trình nghiên cứu, như trường hợp đã xảy ra cho phi thuyền “Schalenger” của Mỹ, đã thiêu sống cả một phi hành đoàn gồm 6 người.
Đứng trước không gian vô tận, đứng trước thiên nhiên hùng vĩ, đứng trước những sự trục trặc của kỹ thuật, chúng ta mới nghiệm ra rằng: Tài năng con người thật nhỏ nhoi và có nhiều lãnh vực dường như con người cũng phải bó tay chưa khám phá ra nổi. Để rồi trong cố gắng, chúng ta vẫn phải khiêm nhường, nhờ đó mà chúng ta sẽ nhận được những sự trợ giúp của Thiên Chúa.
20. Thành quả vàng son – Thiên Phúc--‘Như Thầy Đã Yêu’
Thánh Gioan Vianney, lúc còn là chủng sinh, học rất chậm. Ngày kia, một giáo sư thần học, thừa lệnh Đức Giám Mục đến khảo sát Vianney xem có đủ khả năng học vấn để tới chức linh mục chăng?
Tuy đã dốc hết sức học hành, Vianney vẫn không thể trả lời được câu nào cho trôi chảy.
Nổi nóng, vị giáo sư đập bàn nói: "Vianney, anh dốt đặc như con lừa! Với một con lừa như anh, Giáo Hội hy vọng làm nên trò trống gì".
Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời: "Thưa cha, ngày xưa Samson chỉ dùng một cái xương hàm con lừa mà đánh bại 3000 quân Philitinh. Vậy với cả một con lừa này, Thiên Chúa không làm được việc gì sao?"
***
Quả thật, con lừa của Thiên Chúa đó, sau này không chỉ trở thành một cha sở, mà còn được tôn phong làm thánh bổn mạng của các cha sở.
Hôm nay, Simon cũng vất vả suốt một đêm chài lưới mà không bắt được một con cá nào, nhưng: "Vì lời Thầy con sẽ thả lưới" (Lc 5,5). Và lạ thay, một mẻ cá lớn bất ngờ, đến nỗi lưới hầu như sắp rách. Trước tình thế này, Simon chỉ còn biết bỏ thuyền, chạy đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà nói: "Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi" (Lc 5,8).
Kẻ nhận mình là tội lỗi yếu hèn đó, sau này đã trở thành Phêrô, người thuyền trưởng của con thuyền Giáo Hội.
Có một điểm gì đó rất giống nhau, rất tương đồng giữa Vianney và Phêrô. Đó chính là nhận mình yếu hèn khuyết điểm và hoàn toàn để Chúa lèo lái điều khiển đời mình. Nhờ đó, Chúa đã ban tặng cho các ngài những đậc ân vô cùng lớn lao. Vì ơn Chúa chỉ ban xuống cho những kẻ khiêm nhượng.
"Thưa Thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà không bắt được gì hết. Nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới" (Lc 5.5). Đây là lời bày tỏ sự bất lực của con người, để chính sự bất lực này sẽ làm nổi bật quyền năng của Thiên Chúa: Chính sự vâng phục của con người trước uy quyền của Thiên Chúa sẽ đem lại hiệu quả vượt sức tự nhiên loài người.
Từ vâng phục dẫn đến phép lạ, từ phép lạ dẫn đến niềm tin: Trước mẻ cá, Simon xưng Chúa Giêsu là Thầy: "Vì lời Thầy, con sẽ thả lưới", nhưng sau mẻ cá diệu kỳ, người lại tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa: "Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi". Qua phép lạ mẻ cá, Simon đã nhận ra quyền năng Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu và đã tin vào Người. Đây chính là lời tuyên xưng thiên tính nơi Chúa Giêsu.
Chính khi tin vào quyền năng Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu, mà Simon đã ý thức thân phận tội lỗi bất xứng của mình trước sự thánh thiện vô song của Thiên Chúa. Đó cũng là kinh nghiệm của ngôn sứ Isaia trước Thiên Chúa: "Khốn cho tôi, tôi chết mất, vì lưỡi tôi dơ bẩn" (Isaia 6, 5). Nhưng sau khi được than hồng là lửa tình thương Chúa thanh tẩy, ông đã mau mắn xin vâng, ra đi làm ngôn sứ cho Chúa: "Lạy Chúa, xin hãy sai con". Hôm nay, Chúa cũng trấn an Phêrô: "Đừng sợ hãi, từ đây các con sẽ là kẻ chinh phục người ta" (Lc 5,10). Thành ngữ này thường gặp trong Cựu ước, để trấn an con người hãy tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa. Ở đây Chúa Giêsu muốn trấn an các Tông đồ, đặc biệt ba vị là Phêrô, Giacôbê và Gioan, để các ngài tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa khi đón nhận và thi hành sứ mạng Chúa giao.
Quả thật, ngay sau đó các Tông đồ đã "bỏ mọi sự mà đi theo Người" (Lc 5, 11). Đó là ơn gọi của Phêrô, con người đã gặp gỡ Chúa và đã được Chúa thu hút chinh phục, để rồi Phêrô lại ra đi chinh phục các tâm hồn về cho Người.
Trước khi gặp Chúa, Simon dù có vất vả suốt đêm cũng không được một con cá nào; sau khi gặp Chúa, Chúa đã hướng dẫn ngài kéo lên một mẻ cá bội thu. Nhưng dù cá có nhiều đến rách lưới ngài cũng không màng, vì từ đây mục đích đời ngài không phải là thành quả vàng son mà chính là Chúa mà thôi.
***
Lạy Chúa, từ bỏ mọi sự là điều kiện để đi theo Người. Xin cho chúng con một đức tin can đảm, dám từ bỏ những gì chúng con đã từng bám víu, cũng chẳng sợ thiệt thòi khi đã hiến dâng.
Xin cho chúng con một đức tin liều lĩnh, sẵn sàng mất đi tất cả, để chỉ xin giữ trọn một mình Chúa mà thôi. Vì Chúa chính là gia nghiệp và là phần phúc cuộc đời chúng con. Amen.
21. Được mời gọi để loan báo Tin Mừng--‘Suy Niệm Lời Chúa’--Radio Veritas Asia
Franco là một kịch sĩ người Italia nổi tiếng. Suốt 40 năm lão luyện trong nghề, ông đã đặt hàng trăm vở kịch thành phim được chiếu trên màn ảnh truyền hình nhà nước, từ năm 1980 đến nay ông đã dùng để rao giảng Lời Chúa. Franco đi khắp các thành phố và xứ đạo Italia, vào các nhà tù hay tham dự đại hội ca múa dân tộc để trình diễn Phúc Âm. Ông dùng mọi nhân tố kịch nghệ để đạo diễn Tin Mừng, chẳng hạn 16 chương Phúc Âm thánh Marcô được ông diễn xuất thành 96 cảnh. Ước mong duy nhất của ông là dùng kịch nghệ để loan báo Lời Chúa. Trong số bạn bè và người thân, có kẻ chế nhạo ông là người mất trí, nhưng cũng có nhiều người khuyến khích ông trong sáng kiến mới này, và đã có hàng trăm ngàn người được nghe loan báo Tin Mừng cứu độ qua hình thức nghệ thuật đó. Ông tâm sự: "Tôi thật may mắn được tin vào Chúa Giêsu và có Ngài làm bạn đường trong đời. Không có Chúa Giêsu, cuộc đời thật là nhạt nhẽo vô vị. Và chính lòng tin đã giúp tôi nảy ra sáng kiến lấy Ngài làm đề tài diễn xuất. Trong bao nhiêu năm cuộc đời nghệ sĩ, tôi đã chỉ nói và diễn xuất những gì người khác biết. Nhưng từ 10 năm nay, tôi đã lựa chọn việc thông truyền cho khán thính giả lịch sử nhất thế giới, đó là Phúc Âm kể lại cuộc đời Chúa Cứu Thế".
Là Kitô hữu, mỗi người trong chúng ta cũng được mời gọi dùng các tài năng và cuộc sống của mình để loan báo Tin Mừng cứu độ của Chúa, đó là sứ điệp Giáo Hội muốn nhắn gởi chúng ta qua các bài đọc Chúa Nhật hôm nay. Ba bài đọc giới thiệu với chúng ta ba ơn gọi khác nhau. Ơn gọi của tiên tri Isaia, thánh Phaolô, thánh Phêrô và các bạn đồng nghiệp.
Isaia 6 lồng khung ơn gọi của ông trong lịch sử cứu độ của dân Do Thái, để khiển trách dân Do Thái sống trong tội lỗi và bất trung với Thiên Chúa. Ngài can thiệp bằng cách mời gọi Isaia trở thành sứ giả ra đi rao giảng Lời Ngài, giúp dân Israel hoán cải, dẫn đưa họ về với Chúa. Tiên tri chẳng những là người thấy trước tương lai nhưng còn là phát ngôn viên của Chúa, là sứ giả mang sứ điệp của Thiên Chúa xuống cho loài người. Ơn gọi đổi đời của Isaia xảy ra trong khung cảnh lúc cử hành phụng tự ở đền thờ Giêrusalem, ông được sống kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa bằng các giác quan của mình. Isaia trông thấy Thiên Chúa ngự trị trên tòa vinh quang. Tòa cao là hình ảnh diễn tả xa cách con người ở trần gian hư hỏng tội lỗi này. Isaia còn được nghe tiếng của các thiên thần hát tung hô Thiên Chúa. "Thánh, Thánh, Thánh". Ba lần thánh là kiểu cách diễn tả sự vẹn toàn siêu việt và thánh thiện của Ngài. Trước sự thánh thiện cao cả tuyệt đối của Thiên Chúa, Isaia nhận thức ra thân phận yếu hèn tội lỗi bất xứng của mình. Xác tín con người tội lỗi không thể xem thấy Thiên Chúa, nếu trông thấy Người, con người sẽ phải chết. Tuy nhiên, Kinh Thánh cũng thường diễn tả tội lỗi của con người bằng cách nêu bật sự kiện Thiên Chúa Abraham cứu độ con người, bởi vì Ngài là Đấng duy nhất có thể biến đổi và thánh hóa con người. Để hiện thực điều đó, Thiên Chúa chọn lửa dùng thiêu đốt của lễ trên bàn thờ để thanh tẩy tội lỗi của Isaia, tạo dựng một tâm hồn mới. Ơn gọi của Isaia đã phát sinh trong khung cảnh của một đền thờ, giữa bầu khí trật tự trong lúc nguyện cầu thinh lặng trước mặt Chúa. Sự lựa chọn của ông là kết quả của một sự tự do, tươi vui, hăng hái nhưng là một quyết định liều lĩnh, bởi vì nó dẫn đưa Isaia vào một cuộc đối thoại đổi đời, một cuộc phiêu lưu mạo hiểm với những hệ lụy không lường được.
Thánh Luca đoạn 5 kể lại ơn gọi của thánh Phêrô và các bạn chài đồng nghiệp. Trong tường thuật, thánh sử Luca không cố ý nhấn mạnh đến phép lạ mẻ lưới nhiều cá cho bằng nêu bật kết quả mà Lời Chúa có thể tác động trong thế giới và ngay tâm lòng con người. Do đó, mọi nhân tố của bài tường thuật đều mang một ý nghĩa lệnh lạc. Hồ Giênêsareth mênh mông dài 21 cây số, ngang 12 cây số, và sâu 45 thước diễn tả thế giới này. Lời Chúa là cái lưới đánh cá, Phêrô và các bạn chài và tất cả những ai có nhiệm vụ rao truyền Lời Chúa. Một đêm vất vả mỏi mệt và thái độ chán nản của Phêrô với các bạn chài đồng nghiệp diễn tả các đặc thái sinh hoạt của Giáo Hội cũng như các động tác các thừa tác viên Lời Chúa. Mỗi khi Giáo Hội và các thừa tác viên coi mình là trung tâm điểm, là nhân vật chính trong công tác rao truyền Tin Mừng, mỗi khi Giáo Hội và các thừa tác viên chỉ cậy dựa trên sức lực của mình, trên các phương diện tài chính, trên các con số, các nhân lực, làm thế các thừa tác viên Lời Chúa sẽ không được gì. Trừ khi nào biết có thái độ khiêm tốn, vâng lời, phó thác hoàn toàn nơi sức mạnh Lời Chúa và để cho Chúa chủ động hướng dẫn mọi sự, thì Giáo Hội và các thừa tác viên Lời Chúa mới được một mẻ lưới đầy cá.
Đối với tâm lòng của mỗi người, Lời Chúa có sức mạnh biến đổi toàn cuộc sống đó là điều đã xảy ra cho Phêrô. Phêrô lại chèo thuyền ra khơi thả lưới. Sự kết quả nghe Lời Chúa, Phêrô và các bạn đồng nghiệp nhận ra mình là người yếu hèn và tội lỗi. Chúa Giêsu chỉ chờ có thế và kêu mời các ông trở thành cộng sự viên của Ngài trong công tác loan báo Tin Mừng cứu độ cho toàn thế giới. Phêrô và các bạn đồng nghiệp đã gặp gỡ Chúa Giêsu ngay trong khung cảnh cuộc sống thường ngày của họ và các sinh hoạt nghề nghiệp, qua biến cố của nếp sống thường nhật, Chúa Giêsu kêu gọi họ trong chính khung cảnh và tình trạng sống vật chất và tinh thần hạn hẹp ấy của cuộc đời họ. Chúng ta tất cả cũng có thể gặp gỡ Chúa ở khắp mọi nơi và trong mọi lúc của cuộc đời chúng ta. Và mỗi một cuộc gặp gỡ sâu đậm thật sự với Chúa Giêsu và Lời Ngài có tác dụng biến đổi tâm lòng của cuộc sống chúng ta để trở thành những nhà truyền giáo. Vấn đề là chúng ta biết thái độ của thánh Phêrô hay không? "Vâng lời Thầy con thả lưới".
Thư thứ nhất gởi cho giáo đoàn Côrintô đoạn 15, thánh Phaolô truyền lại cho giáo hữu Côrintô kinh Tin Kính của cộng đoàn Kitô tiên khởi tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chết để đền bù tội lỗi cho loài người. Đấng đã bị chôn trong mồ và ngày thứ ba sẽ sống lại như lời Thánh Kinh. Thánh nhân cũng ghi lại những lần Chúa Kitô Phục sinh hiện ra cho các tông đồ, cho thánh Giacôbê, thủ lãnh của cộng đoàn Kitô hữu ở Giêrusalem và cho năm trăm môn đệ của cộng đoàn Kitô hiện thời. Và sau cùng, Chúa Kitô Phục sinh cũng đã hiện ra với thánh nhân trên đường Đamas, nghĩa là niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh là một kinh nghiệm sống động chớ không phải là một chuyện trừu tượng không chứng cớ. Kẻ sinh sau đẻ muộn thánh Phaolô, các biến cố đổi đời và ơn gọi của ngài là một cuộc tái sinh, bất ngờ gặp gỡ, không thể tưởng tượng được đối với một người chẳng những đã không tin vào Chúa Kitô mà lại còn bắt bớ thù ghét Chúa nữa. Trên con đường lòng tin, thánh nhân giống như một bào thai bị phá hoại và phải chết xa lòng mẹ. Những cuộc gặp gỡ bất ngờ với Chúa Kitô Phục sinh chẳng những đã trao ban cho thánh nhân cuộc sống mới trong ơn thánh, và còn cho thánh nhân trở thành tông đồ nhận lãnh từ Chúa Giêsu trong sứ mạng loan báo Tin Mừng cứu độ của Ngài cho muôn dân nữa. Ơn gọi Kitô là ơn gọi phát sinh từ một cuộc gặp gỡ đổi đời đối với Chúa Kitô Phục sinh. Những cuộc gặp gỡ ấy Chúa Kitô Phục sinh trao ban cho chúng ta sứ mạng làm chứng cho Ngài, và loan báo Tin Mừng cứu độ cho tất cả mọi người. Nhưng chúng ta có sẵn lòng nhận và ra đi như tiên tri Isaia, như thánh Phaolô, thánh Phêrô và các bạn đồng nghiệp của ngài hay không?
22. Lòng thương xót Chúa biến đổi con người--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chủ đề nổi bật hơn cả trong Chúa nhật thứ V mùa Thường niên là "ơn gọi". Chúa gọi Isaia (x. Is 6, 1-2a. 3,8), Phêrô (x. Lc 5,1-11) và Phaolô (1Cr 15,1-11). Cả ba đều thú nhận mình bất xứng, nhưng họ đã tin tưởng vào lòng thương xót và tha thứ, nhất là quyền năng của ơn thánh Chúa và sự đáp trả cách quảng đại của con người. Quả là lòng xót thương của Thiên Chúa biến đổi con người.
Chúa gọi Isaia
Trong một thị kiến uy nghi, Isaia cảm thấy mình hiện diện trước tôn nhan Thiên Chúa ba lần Thánh, khiến ông hoảng sợ và nhận ra sự vô phúc, bất xứng của chính mình. Nhưng một Thiên Thần Sốt Mến đã cầm cục than cháy đỏ thanh tẩy môi miệng ông, đồng thời xóa bỏ tội lỗi của ông: "Hãy nhìn xem, than lửa này đã chạm đến lưỡi ngươi, lỗi của ngươi được xoá bỏ, và tội của ngươi được thứ tha" (Is 6,7). Thế rồi ông cảm thấy sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa gọi, và thưa: "Lạy Chúa, này con đây, xin hãy sai con" (x. Is 6,8). Sự thứ tha và lòng quảng đại của Thiên Chúa đã biến đổi Isaia thành đại ngôn sứ của Thiên Chúa.
Chúa gọi Phêrô
Tâm trạng trên cũng xảy ra trong câu chuyện mẻ cá lạ lùng được Luca thuật lại. Chúa Giêsu bước xuống thuyền của Simon, rồi ngồi trên thuyền mà giảng dạy dân chúng, có Simon ở bên để giữ cho thuyền khỏi tròng trành, còn Chúa Giêsu thì cố gắng giảng dạy đám đông. Về phương diện thể lý, Simon gần Chúa hơn, ông nghe Chúa rõ lời Chúa và lời Chúa thấm nhập vào ông. Vừa giảng xong, Chúa Giêsu bảo ông Simon: "Hãy đẩy thuyền ra chỗ nước sâu, và thả lưới bắt cá" (Lc 5,4). Phản ứng của Simon là: "Thưa Thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết; nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới" (Lc 5,8). Lời Chúa Giêsu tác động mạnh lên Phêrô, đặt ông vào tình thế phải thả lưới bắt cá tiếp, dù kinh nghiệm ngư phủ là không thể. Phêrô tin vào lời Chúa Giêsu, đức tin được nuôi dưỡng bằng tình Thầy trò, đức tin tái tạo cái mới và tôn vinh khả năng của con người. Ông tin Chúa, nên bắt được một mẻ đầy cá.
Bảo Phêrô: "Hãy đẩy thuyền ra chỗ nước sâu", là Chúa muốn ông bước ra ngoài sự toàn, thói quen, chắc chắn, "và thả lưới bắt cá". Ðứng trước sự lạ lùng ấy, Simon Phêrô đã không ôm choàng lấy Chúa Giêsu để bầy tỏ lòng biết ơn vì thu lượm được nhiều cá quá sức mong đợi. Nhưng, theo như thánh sử Luca ghi lại, ông đã quỳ xuống trước mặt Người và thưa: "Lạy Chúa, xin tránh xa con đi, bởi vì con là một kẻ tội lỗi"(Lc 5,8). Chúa trấn an: "Ðừng sợ:từ đây con sẽ là kẻ chinh phục người ta" (Lc 5,10); ông đã từ bỏ tất cả để đi theo Người.
Chúa Giêsu thật nhân lành! Phêrô, kẻ chài lưới, được Chúa gọi và trở nên nhà hùng biện đáng được ca ngợi nếu ông hiểu được công việc chài lưới người. Đó là tại sao thánh Phaolô gửi cho các tín hữu tiên khởi và nói: "Hãy coi đến, hỡi anh em, việc anh em được kêu gọi! Hẳn không có mấy người khôn ngoan xét theo xác thịt, không mấy người quyền thế, không mấy người tôn quí. Nhưng chính những điều thế gian coi là điên rồ, thì Thiên Chúa đã chọn để bêu nhuốc hạng khôn ngoan; và những điều thế gian coi là yếu đuối, thì Thiên Chúa đã chọn để bêu nhuốc những gì là mạnh mẽ.Những điều thế gian cho là ti tiện, là không đáng kể, thì Thiên Chúa đã chọn, những điều không không, để hủy ra không những điều có" (1Cr 1,26-28).
Vì nếu Chúa Giêsu chọn người hùng biện trước, người ấy có thể nói, "Tôi đã được chọn vì tài hùng biện của tôi" Nếu Chúa chọn làm một thượng nghị sĩ, thượng nghị sĩ có thể nói, "Tôi được chọn vì cấp bậc của mình". Sau cùng, nếu Chúa chọn một hoàng đế, hoàng đế có thể nói, "Tôi được chọn vì khả năng của mình".
Chúa gọi Phaolô
Phaolô, khi nhớ lại rằng mình đã từng là một kẻ bách hại Giáo hội, ông thú nhận mình không xứng đáng được gọi làm tông đồ, nhưng ông nhìn nhận rằng, Chúa Giêsu Phục Sinh đã thương xót ông và đã thực hiện nơi ông những điều kỳ diệu, và bất chấp con người có giới hạn của ông, Chúa còn trao cho ông nhiệm vụ và vinh dự được loan truyền Tin Mừng (x. 1Cr 15,8-10). Há chẳng phải lòng thương xót Chúa biến đổi con người ông sao?
Kinh nghiệm cuộc đời
Trong cả ba kinh nghiệm kể trên, chứng tỏ con người dù nghèo nàn và bất xứng, giới hạn và tội lỗi, kể cả mỏng dòn. Nhưng nếu gặp được Thiên Chúa là Ðấng giàu lòng xót thương và tha thứ, Chúa sẽ biến đổi con người. Isaia, Phêrô và Phaolô đã làm gương cho tất cả những ai được Chúa gọi thì hãy nhìn vào Chúa và lòng khoan nhân của Người, để thay lòng đổi dạ và hân hoan từ bỏ tất cả mọi sự vì Người.
Đây là lúc chúng ta kiên định và tin tưởng vào Lời hứa của Đấng đã không bao giờ bỏ chúng ta mồ côi. "Thưa Thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết; nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới"(Lc 5,5). Câu trả lời của Phêrô tương tự như lời của Đức Maria tại tiệc cưới Cana: "Người bào gì thì phải làm theo" (Ga 2,5). Phải tin tưởng và thi hành thánh ý Chúa, nỗ lực của chúng ta mới hữu ích. Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Phêrô thật đơn giản nhưng sâu sắc, chúng ta có thể lấy làm của riêng của mình: giữa nơi sóng cả ba đào trong một thế giới tội lỗi, chúng ta đấu tranh và lội ngược dòng, tìm cách để loan báo Tin Mừng cách tốt nhất.
Mượn lời Phêrô chúng ta thưa Chúa: "Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi" (Lc 5,8). Thánh Irênê nói: ai nhận thức được bản chất tội lỗi của mình, thì người ấy có khả năng nhận biết tình trạng tạo vật của mình nữa. Chỉ có những người như Phêrô, mới chấp nhận những giới hạn của chính mình và nhận những thành quả tông đồ của mình. Chúa đã kêu gọi các Tông Đồ để trở thành kẻ lưới người, nhưng ngư dân đích thực chính là Chúa: trò giỏi không chỉ giỏi chài, mà còn bắt cá người giỏi. Điều này chỉ có hậu nếu chúng ta liều bỏ tất cả để theo Chúa.
Lạy Mẹ Maria, chúng con phó thác đời chúng con cho Mẹ. Xin Mẹ gợi lên nơi mỗi người chúng con lòng ước muốn đáp lại "Xin Vâng" với Chúa trong niềm hân hoan vui sướng. Amen.
23. Vì vâng lời--Trầm Thiên Thu
Kinh Thánh xác định: “Vâng lời trọng hơn của lễ” (1 Sm 15:22; Tv 50:8-9). Điều đó chứng tỏ rằng nhân đức vâng lời rất quan trọng. Thật vậy, khi Chúa Giêsu mặc xác phàm làm người, và theo nhân tính, Ngài cũng đã run sợ trước “chén đời” quá đắng, nhưng Ngài vẫn bỏ ý riêng mình mà hoàn toàn xin vâng theo ý Chúa Cha (Mt 26:39 và 42; Mc 14:23 và 36; Lc 22:42).
Vâng lời liên quan sức mạnh. Vâng lời KHÓ đối với người yếu, vâng lời DỄ đối với người mạnh. Ở đây là sức mạnh tinh thần chứ không là sức mạnh thể lý, bởi vì có người yếu đuối thể lý nhưng mạnh mẽ tinh thần, có người mạnh mẽ thể lý nhưng yếu đuối tinh thần. Vâng lời là tuân phục, tạo nên sức mạnh. Thánh Giacôbê khuyên: “Anh em hãy phục tùng Thiên Chúa. Hãy chống lại ma quỷ; chúng sẽ chạy xa anh em” (Gc 4:7). Tuyệt chiêu!
Với ít nhiều kinh nghiệm, ai cũng biết rằng Yếu và Mạnh là hai thái cực đối nghịch nhau. Yếu – Mạnh có thể về thể lý, tâm sinh lý, tinh thần, năng lực,… Theo khái niệm đó, mỗi người đều có sở trường (yếu điểm, điểm mạnh) và sở đoản (nhược điểm, điểm yếu). Con người có vẻ mạnh mẽ nhưng lại yếu đuối, con kiến có vẻ yếu đuối nhưng lại mạnh mẽ. Thật vậy, con kiến có thể kéo một vật nặng hơn thể trọng của nó gấp nhiều lần, còn con người thì không thể làm như vậy!
Như một chân lý đời thường, người ta thường nói: “Lý của kẻ mạnh bao giờ cũng thắng”. Vật chất và đồng tiền có thể đổi trắng thay đen. Nhưng Thánh Phaolô minh định: “Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12:10). Đó là dạng nghịch lý mà người đời không thể hiểu nổi, nếu không cảm nghiệm được chính “sự yếu đuối” của Đức Kitô, nhất là khi Ngài ở trong Vườn Dầu và trên Thập Giá.
Cái yếu có thể hóa cái mạnh – và ngược lại, cái không có thể thành cái có – và ngược lại. Có những cái không thực sự không đáng sợ, nhưng có những cái không lại rất đáng sợ. Những cái-không-rất-đáng-sợ đó là gì? Đây là vài “cái không rất đáng quan ngại” mà các thánh tiết lộ:
1. “KHÔNG có đức tin thì KHÔNG thể vui trong Thiên Chúa, KHÔNG có lòng lương thiện thì cũng KHÔNG vui với người, càng KHÔNG thể chăm sóc người” (Thánh Bênađô).
2. “KHÔNG có đức ái mà đi truyền giáo thì giống như mình hái quả trên cây rồi tự mình đốn ngã cây vậy” (Thánh Inhaxiô Loyola).
3. “Nếu KHÔNG có đức ái thì KHÔNG có bất kỳ đức hạnh nào, giống như nếu KHÔNG có mặt trời thì cũng KHÔNG có một tinh tú nào cả” (Thánh Tôma Aquinô).
4. “Nếu ai KHÔNG có đức ái thì dù có đức tin chính xác thì đều KHÔNG thể có hạnh phúc vĩnh viễn; bởi vì trong tất cả các nhân đức thì đức ái chiếm hàng thứ nhất” (Thánh Hiêrônimô).
5. “Hơi thở hôi là bằng chứng bao tử bị hư hoại, dễ nói lời châm biếm người khác là bằng chứng tâm hồn băng hoại, người KHÔNG có đức ái thì miệng chỉ nói lời làm tổn thương người khác” (Thánh Ambrôsiô).
Thật tuyệt vời với lời ngôn sứ Isaia cho biết: “Năm vua Út-di-gia-hu băng hà, tôi thấy Chúa Thượng ngự trên ngai rất cao; tà áo của Người bao phủ Đền Thờ. Phía bên trên Người, có các thần Xê-ra-phim đứng chầu. Mỗi vị có sáu cánh: hai cánh để che mặt, hai cánh để che chân và hai cánh để bay” (Is 6:1-2). Các vị ấy đối đáp tung hô: “Thánh! Thánh! Chí Thánh! Đức Chúa các đạo binh là Đấng Thánh! Cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa!” (Is 6:3). Trong các Thánh Lễ, hằng ngày Giáo Hội chúc tụng và tôn vinh Thiên Chúa bằng lời kinh này.
Các vị đó là các thần Xêraphim (seraphim), nghĩa là “lửa cháy”, được mô tả có 6 cánh, luôn bay quanh ngai tòa Thiên Chúa và ca tụng: “Thánh, thánh, thánh”. (Seraphim là số nhiều – đọc là ˈsɛr.ə.fɪm, tiếng Do Thái là שְׂרָפִים – đọc là śərāfîm; số ít là seraph, tiếng Do Thái là שָׂרָףśārāf; tiếng Latin là seraphi[m], seraph[us]; tiếng Hy Lạp là σεραφείμ.
Và vô cùng lạ lùng, tiếng tung hô đó làm cho các trụ cửa rung chuyển, và khói toả mịt mù khắp Đền Thờ. Lúc đó, ngôn sứ Isaia vừa ngạc nhiên vừa hoảng sợ nên đã phải thốt lên: “Khốn thân tôi, tôi chết mất! Vì tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế, thế mà mắt tôi đã thấy Đức Vua là Đức Chúa các đạo binh!” (Is 6:5). Ông cảm thấy mình quá yếu đuối và nhỏ bé. Khi được diện kiến Tôn Nhan Chúa, người ta mới biết rõ mình bất xứng tới mức nào, phàm ngôn không thể đủ từ ngữ để diễn tả. Thiết tưởng có một cách tương đối để chúng ta khả dĩ cảm nhận: Khi bình thường, chúng ta ra bờ biển và thấy vẫn bình thường, nhưng khi trời chuyển mưa hoặc giông tố, chúng ta sẽ cảm thấy mình quá bé nhỏ trước sự hùng vĩ của biển. Và thật đáng sợ!
Được chứng kiến tỏ tường, ngôn sứ Isaia kể: “Một trong các thần Xêraphim bay về phía tôi, tay cầm một hòn than hồng người đã dùng cặp mà gắp từ trên bàn thờ. Người đưa hòn than ấy chạm vào miệng tôi và nói: ‘Đây, cái này đã chạm đến môi ngươi, ngươi đã được tha lỗi và xá tội’. Bấy giờ tôi nghe tiếng Chúa Thượng phán: ‘Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng ta?’. Tôi thưa: ‘Dạ, con đây, xin sai con đi” (Is 6:6-8). Ông cảm thấy lo sợ, nhưng ông vẫn cảm thấy vui thích, vì thế ông đã phấn khởi nhận lời Chúa sai đi. Ông thấy mình yếu đuối nhưng rồi ông đã hóa nên mạnh mẽ!
Chúng ta may mắn là Kitô hữu vì được thông phần ba chức vụ ngay khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy: Tư tế, ngôn sứ, và vương đế. Trở thành Kitô hữu nghĩa là chúng ta được sai đi trên những “nẻo đường” khác nhau, với các sứ vụ khác nhau, thậm chí cả mức độ cũng khác nhau. Vì thế, chúng ta phải ý thức trách nhiệm mà cảm tạ Thiên Chúa: “Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ, Ngài đã nghe lời miệng con xin. Giữa chư vị thiên thần, xin đàn ca kính Chúa, hướng về đền thánh, con phủ phục tôn thờ. Xin cảm tạ danh Chúa, vì Ngài vẫn thành tín yêu thương, đã đề cao danh thánh và lời hứa của Ngài trên tất cả mọi sự. Ngày con kêu cứu, Chúa đã thương đáp lại, đã gia tăng nghị lực cho tâm hồn” (Tv 138:1-3). Ngài trao trọng trách cho chúng ta, nhưng Ngài không phó mặc chúng ta, mà Ngài luôn che chở và độ trì mọi nơi, mọi lúc.
Mọi loài đều phải khâm phục Thiên Chúa vì Ngài là Đấng Toàn Năng duy nhất: “Lạy Chúa, mọi đế vương dưới trần đều cảm tạ khi nghe những lời miệng Ngài phán ra. Họ sẽ ca ngợi đường lối Chúa: Vinh quang Chúa vĩ đại dường bao! Cho dù con gặp bước ngặt nghèo, Chúa vẫn bảo toàn mạng sống con. Địch thù đang hằm hằm giận dữ, Ngài ra tay chận đứng, lấy tay uy quyền giải thoát con” (Tv 138:4-5). Do đó, mỗi chúng ta cũng phải không ngừng chân nhận, tôn vinh và cầu xin Ngài: “Việc Chúa làm cho con, Ngài sẽ hoàn tất; lạy Chúa, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Công trình do tay Ngài thực hiện, xin đừng bỏ dở dang” (Tv 138:8).
Một trong ba chức vụ mà chúng ta dễ nhận thấy là nhiệm vụ ngôn sứ, không hẳn là phải loan báo Tin Mừng bằng lời nói, mà là hành động, cách sống, sáng tác (thơ, văn, nhạc, họa,...) hoặc viết lách. Thánh Phaolô nói: “Thưa anh em, tôi xin nhắc lại cho anh em Tin Mừng tôi đã loan báo và anh em đã lãnh nhận cùng đang nắm vững. Nhờ Tin Mừng đó, anh em được cứu thoát, nếu anh em giữ đúng như tôi đã loan báo, bằng không thì anh em có tin cũng vô ích” (1 Cr 15:1-2). Tin thì phải chứng minh đức tin đó ra, như Thánh Giacôbê nói: “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2:17 và 26). Đó là sống đức tin một cách cụ thể và tích cực.
Có gì thì chia sẻ cái đó, không thể giữ riêng cho mình. Thánh Phaolô xác định và chứng minh: “Trước hết, tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh. Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với Nhóm Mười Hai. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt, trong số ấy phần đông hiện nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ. Tiếp đến, Người hiện ra với ông Giacôbê, rồi với tất cả các Tông Đồ. Sau hết, Người cũng đã hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non” (1 Cr 15:3-8).
Tiếp theo, thánh nhân khiêm nhường cho biết: “Thật vậy, tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa. Nhưng tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu; trái lại, tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác, nhưng không phải tôi, mà là ơn Thiên Chúa cùng với tôi. Tóm lại, dù tôi hay các vị khác rao giảng, thì chúng tôi đều rao giảng như thế, và anh em đã tin như vậy” (1 Cr 15:9-11). Những lời chân thành như rót vào tai, như được uống những giọt mật ngọt ngào vậy. Cũng giống như ngôn sứ Isaia, Thánh Phaolô thấy mình yếu đuối nhưng rồi ông lại hóa nên mạnh mẽ!
Như một đoạn phim phóng sự qua trình thuật Lc 5:1-11 (≈ Mt 4:18-22; Mc 1:16-20), Thánh sử Luca tường thuật sự việc: Một hôm, Đức Giêsu đang đứng ở bờ hồ Ghen-nê-xa-rét, dân chúng chen lấn nhau đến gần Ngài để nghe lời Thiên Chúa. Ngài thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới. Đức Giêsu xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Simôn, và Ngài xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Ngài ngồi xuống, và từ trên thuyền Ngài giảng dạy đám đông.
Giảng xong, Ngài bảo ông Simôn: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”. Ông Simôn vừa gãi đầu vừa đáp: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng VÂNG LỜI Thầy, tôi sẽ thả lưới” (Lc 5:5). Ông Phêrô ngần ngại lắm, vì ông là ngư dân nên ông biết con nước này không có cá. Tuy nhiên, ông vẫn thực hiện vì vâng lời Sư Phụ. Tốt lắm! Lạ lùng thay, họ đã bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm. Một phép lạ nhãn tiền, và chỉ có Thiên Chúa mới làm được đại sự kỳ diệu như vậy, chứ chẳng một thần linh nào có thể làm được.
Rất rõ ràng, thế nên ông Simôn Phêrô run sợ vì cảm thấy mình quá nhỏ bé và yếu đuối, ông liền sấp mặt dưới chân Đức Giêsu và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!”. Một câu thú nhận trên cả sự tuyệt vời! Chúa chỉ mong chúng ta như vậy thôi. Ngài muốn thấy chúng ta tự nhận mình là tội nhân, luôn cảm thấy yếu đuối. Đó là khiêm nhường, và rồi hồng ân và lòng thương xót của Ngài sẽ tác động mà biến đổi người yếu thành người mạnh, nhỏ thành to, không thành có.
Nhìn mẻ cá vừa bắt được, ông Simôn và mọi người có mặt ở đó đều kinh ngạc. Cả hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan, bạn chài với ông Simôn, cũng kinh ngạc như vậy. Họ cứ nhìn nhau, mắt chữ O và miệng chữ A mà chẳng nói được lời nào. Bình thường thì con nước này làm gì có cá, thế mà… Ôi chao, vô cùng lạ lùng!
Đúng là kỳ diệu quá chừng. Thấy vậy, Chúa Giêsu trấn an ông Simôn: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta”. Mọi người thở phào nhẹ nhõm. Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Đại Sư Giêsu. Ông Phêrô đã biến đổi từ một người yếu để trở thành người mạnh, nhờ Đức Giêsu Kitô, và được làm Giáo hoàng tiên khởi của Giáo hội chiến đấu – tức là Giáo hội trần gian. Chúng ta cũng phải bỏ tất cả để theo Ngài: Thói hư, tật xấu, tội lỗi, kiêu căng, ích kỷ, lười biếng, thù hận, lọc lừa, đểu cáng, khoe khoang, xu nịnh, phe cánh, tham lam, ghen ghét,…
Lạy Thiên Chúa duy nhất và toàn năng, xin tha thứ và nâng đỡ chúng con, xin biến đổi chúng con từ những con người yếu đuối trở thành những con người mạnh mẽ, để chúng con loan truyền Thánh Danh Ngài và Lòng Xót Thương của Ngài. Xin Đức Mẹ dạy chúng con luôn biết xin vâng như Mẹ. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên-Chúa-Làm-Người và Đấng Cứu Độ của chúng con. Amen.
24. Hãy chèo ra chỗ nước sâu--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Tại sao Chúa Giêsu chọn bốn môn đệ đầu tiên trong hàng ngũ những người đánh cá? Ngài có dụng ý gì chăng? Phải chăng tiêu chí đầu tiên cần cứu xét để tuyển chọn tông đồ là phải dạn dày sương gió, phải sẵn sàng xông xáo giữa biển đời đầy bão tố cuồng phong?
Có lẽ chính vì đã quen chịu nhọc nhằn trên biển cả, nhiều phen đối đầu với bão táp, thách thức với cuồng phong mà Simon và các bạn chài của anh đã "lọt vào mắt xanh" của Chúa Giêsu.
Nhưng trước khi kêu gọi Phêrô và các bạn chài của anh dấn bước vào công cuộc loan báo Tin Mừng đầy gian khổ, Chúa Giêsu muốn dạy cho các anh bài học vỡ lòng. Ngài truyền cho các anh chèo ra chỗ nước sâu...
Dù mệt mỏi và chán nản vì phải lao nhọc suốt đêm mà chẳng được tích sự gì, các anh vẫn vâng lời Chúa Giêsu để ra khơi, để chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới. Nhờ đó, các anh đã trúng một mẻ cá rất tuyệt vời. Qua đó, các anh học được bài học đầu tiên: Muốn bắt được nhiều 'tôm cá', thì hãy vâng lệnh Chúa chèo thuyền ra 'chỗ nước sâu'.
Cuộc ra khơi của Chúa Giêsu
Ngự trên ngai trời mà cứu thế, mà phán dạy loài người, hay ít ra, dùng các tiên tri mà phán dạy, thì 'đỡ khổ' hơn nhiều. Nhưng Ngôi Hai Thiên Chúa đã không làm như thế.
Ngài đã rời bỏ bờ bến an toàn và đầy đủ tiện nghi, đã bỏ hết mọi sự lại đằng sau để ra khơi. "Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân". (Philíp 2, 6-7)
Ngài phải mạo hiểm đến chỗ nước sâu nhất: sinh ra trong máng cỏ thấp hèn, đến ngụ nhờ nhà người tội lỗi, hoà mình với những người tội lỗi để xin nhận phép rửa bên bờ sông Gio-đan, chịu chết đau thương tủi nhục giữa những tên gian phi, chịu mai táng trong mồ...
Rồi, thay vì yên vị trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem mà giảng dạy hoặc ít ra ngồi giảng trong các hội đường vào các ngày sa bát như các ráp-bi Do Thái, Chúa Giêsu đã xông xáo vào khắp hang cùng ngõ hẽm để loan Tin Mừng: trên triền núi, giữa đồng hoang, bên bờ giếng, bên bãi biển, bờ hồ...
Cuộc ra khơi của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
Noi gương Chúa Giêsu, vị đại diện của Ngài là Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã liên tục ra khơi, chèo ra chỗ nước vừa sâu vừa nguy hiểm. Qua 26 năm trong triều đại giáo hoàng, Ngài đã thực hiện 104 chuyến công du ngoài nước Ý và 146 chuyến công du trong nước Ý (không tính Rô-ma), thăm viếng hơn 130 quốc gia trên thế giới. Tưởng cũng cần thêm rằng trong số đó, ngài đã tám lần đến thăm viếng các nước Hồi Giáo, đặc biệt Ngài là vị Giáo Hoàng đầu tiên bước vào một ngôi Đền Thờ Hồi Giáo cổ kính tại Syria vào năm 2001.
Tính ra, Ngài đã đi công du 1,400,607 km, tương đương 28 lần vòng quanh trái đất. Ngoài ra mỗi ngày Ngài làm việc đến 18 tiếng đồng hồ.
Ngài đã 'chèo' đến những vùng biển nhiều sóng gió: đến thăm những miền đất thù nghịch với Hội Thánh, vào những 'miền đất thánh' của Phật giáo, Án giáo, Hồi giáo hay Chính Thống giáo... vào cả những nơi mà một số đông dân chúng sở tại không muốn cho ngài đến, lại đòi ngài phải xin lỗi họ (như trong chuyến tông du tại Hy Lạp vào tháng 5 năm 2001), đến cả những nơi mà tính mạng ngài đang bị hăm doạ... Ngài là vị giáo hoàng can đảm nhất trong lịch sử, sẵn sàng dấn thân vào những 'chỗ nước sâu', những vũng xoáy, những nơi sóng gió... mà không hề biết sợ là gì, miễn là Tin Mừng được loan báo.
Nối gót Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phalô II, vị Giáo Hoàng đương kim Bênêđictô, cuối tháng 11 năm 2006 vừa qua đã thực hiện chuyến viếng thăm Thổ-nhĩ-kỳ đang lúc tại đây đang nổi lên làn sóng chống đối ngài mãnh liệt và nhiều người quá khích hăm doạ sẽ giết ngài bằng mọi giá khiến cho nhiều người hết sức quan ngại.
Hội Thánh đang mời gọi chúng ta ra khơi
Trong tông thư Novo Millennio Ineute được công bố vào ngày kết thúc đại năm thánh 2000, Đức Giáo Hoàng Phaolô II khẩn thiết kêu gọi mọi thành phần Dân Chúa trên khắp thế giới hãy 'Chèo ra chỗ sâu' (Lc 5, 4) để thả lưới, vì 'một thiên niên kỷ mới đang mở ra trước mặt Hội Thánh như là một biển cả mà chúng ta sẽ mạo hiểm trong đó, cậy dựa vào Đức Kitô, Con Thiên Chúa' (số 58)
Trong dịp Hội Đồng Giám Mục Việt Nam triều yết Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhân chuyến đi viếng mộ hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô vào ngày 22-1-2002, vị Cha chung của Hội Thánh cũng mời gọi Giáo Hội Việt Nam hãy ra khơi. Ngài ngỏ lời với Hội Đồng Giám Mục Việt Nam: 'Giáo Hội Việt Nam được mời gọi ra khơi: Tôi muốn khích lệ anh em hãy hết sức quan tâm rao giảng Tin Mừng và truyền giáo...'
Thủ lãnh của chúng ta là Chúa Giêsu đã dấn thân vào chỗ nước sâu như thế, vị lãnh đạo của Hội Thánh là Đức cố giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng như Bênêđictô đã anh dũng ra khơi như thế... thì với tư cách là thân mình của Đức Kitô, chúng ta không còn chọn lựa nào khác là cùng chèo ra chỗ nước sâu với Chúa Kitô, cùng ra khơi với Hội Thánh.
Lạy Chúa, con xin thú lỗi với Chúa là con chỉ muốn bám chặt đất bằng cho yên ổn và chẳng hề muốn ra khơi, vì ra khơi thì nhọc nhằn quá, phải hy sinh nhiều thứ quá mà đời sống lại rất đỗi bấp bênh và dẫy đầy nguy hiểm.
Ước gì cuộc 'ra khơi' vĩ đại của Chúa sẽ là một nhắc nhở không ngừng để con noi theo mà dấn bước.
Ước gì tấm gương chèo ra chỗ nước sâu đầy hiểm nguy sóng gió của Đức Thánh Cha là một thôi thúc liên tục thúc giục con lên đường đến với anh em con.
25. Vâng lời vì yêu--Lm. Phạm Quốc Hưng
Trong Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật tuần trước, chúng ta nhận thấy Chúa Giêsu đã đồng hóa ơn gọi và số phận của Người với các ngôn sứ, vì Người chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa, Đấng luôn hiện diện trong mọi sứ điệp của tất cả các ngôn sứ để chuyển thông thánh ý Thiên Chúa cho con người, để mời gọi con người hướng lòng lên Thiên Chúa và sống theo các đòi hỏi của Thiên Chúa. Hơn nữa, Chúa Giêsu còn chính là “con đường hoàn hảo nhất” (1Cor. 12:31), là mẫu gương của đức yêu thương tuyệt hảo như Thánh Phaolô nói đến trong “bài ca đức ái” trong Thư thứ nhất gửi Tín Hữu Corintô. Điều này có thể khiến chúng ta tưởng rằng Lời Chúa là những gì tuy thật cao siêu linh thánh nhưng lại xa rời thực tại đời sống, hay có thể gây trở ngại hoặc phiền toái cho đời sống thực tế của chúng ta. Đây là một sự lầm tưởng lớn lao vẫn xảy ra trong mọi thời đại. Đây cũng là lý do khiến các ngôn sứ thường bị khước từ và bách hại. Đây cũng là lý do Lời Chúa và giáo huấn của Hội Thánh không được đón nhận và thực hành!
Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta cho thấy rằng Lời Chúa Giêsu không phải chỉ là thuần thiêng, nghĩa là chỉ giới hạn trong lãnh vực siêu nhiên, nhưng còn mang tính cách thực tế, nghĩa là gần gũi và gắn liền với đời sống tự nhiên con người, khi thuật về thuật về việc Thánh Phêrô, sau khi “đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết” (Lc 5:5) nhưng nhờ vâng theo lời Chúa Giêsu để “đẩy thuyền ra chỗ nước sâu và thả lưới bắt cá”(Lc 5:4), nên đã “bắt được rất nhiều cá; lưới các ông hầu như bị rách” (Lc 5:6). Chúa Giêsu yêu mến và cứu độ con người chúng ta cách toàn diện, cả hồn lẫn xác. Nhưng có một điều Người đòi hỏi nơi chúng ta để Người ban phúc cho chúng ta: đó là lòng tin yêu của ta dành cho Người, để đón nhận và thực hành các lời dạy của Người, như được ghi nhận trong Thánh Kinh và giáo huấn của Hội Thánh.
Thật vậy, với những người làm nghề đánh cá như Phêrô, mức độ đời sống vật chất của họ gắn liền với thành quả của công việc chài lưới, với số cá họ bắt được. Cá là tiền, là bạc, là cơm no áo ấm, là tất cả những gì mà tiền bạc có thể mua được! Ngoài việc cầu cho trời êm biển lặng, họ dựa vào sức lực, tài năng, kinh nghiệm và sự chịu khó của bản thân mình để chài lưới đánh cá. Đối với một người đánh cá chuyên nghiệp như Phêrô, sau một đêm cực nhọc mà chẳng đánh bắt được gì, quả là một thất bại ê chề, một nỗi buồn lo tê tái! Ở đây, Phêrô đã học được sự bất lực của mình trước sự nghiệt ngã của thực tế của biển đời! Chính trong giây phút này, giây phút Phêrô nhận ra sự bất lực của mình, lại là giây phút ông nhận biết quyền năng của Chúa Giêsu và mãnh lực của Lời Người!
Phêrô có thực sự tin rằng Chúa Giêsu, tuy là một bậc thầy đáng kính đáng mến với đời sống khiêm nhu khả ái và những lời giảng dạy cao siêu, nhưng vốn chỉ là một người thợ mộc thành Nazareth và chưa hề có kinh nghiệm với biển khơi, biết cách giúp ông bắt được nhiều cá không? Có lẽ Phêrô không xác tín điều này đâu! Nhưng Phêrô vẫn vâng theo lời Chúa Giêsu để thả lưới, vì ông mến Chúa, nể Chúa và không muốn làm mất lòng Chúa. Ông thà chấp nhận cực nhọc thêm một chuyến ra khơi nữa mà chưa hẳn sẽ kiếm được gì, hơn là làm mất lòng Chúa.
Rồi mẻ cá lạ đã làm Phêrô và mọi người bỡ ngỡ! Phêrô cảm nghĩ gì khi ông “sụp lạy dưới chân Chúa Giêsu và thưa Người rằng: Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi” (Lc 5:8). Các nhà chú giải Thánh Kinh thường cho rằng lời thú tội của Phêrô ở đây là hệ quả của việc ông cảm nghiệm sự hiện diện đầy uy nghi thánh thiện của Thiên Chúa nơi Đức Kitô qua mẻ cá lạ. Đây cũng là cảm nghiệm của tất cả những ai được Chúa tỏ mình, như cảm nghiệm của ngôn sứ Isaia trong bài đọc một hôm nay khi ông thưa cùng Chúa: “Vô phúc cho tôi! Tôi chết mất, vì lưỡi tôi nhơ bẩn, tôi ở giữa một dân tộc mà lưỡi họ đều nhơ nhớp, mắt tôi đã trông thấy Đức Vua, Người là Chúa các đạo binh” (Is 6:5). Trước sự hiện diện của Thiên Chúa toàn thánh, không ai cảm thấy mình thanh sạch cả!
Nhưng chắc hẳn còn một lý do nữa khiến Phêrô nói thế; đó là sự ngờ vực hay yếu tin của ông trước lời Chúa Giêsu truyền dạy ông ra khơi thả lưới. Chính lòng mến phục của ông dành cho Chúa Giêsu đã giúp vượt thắng sự ngờ vực và yếu tin để thực hành lời Chúa truyền dạy và được chứng kiến mẻ cá lạ. Một khi đức tin được củng cố, ông không quyến luyến với lợi nhuận mà mẻ cá lạ sẽ mang lại, nhưng “đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người” (Lc 5:11), để trở thành “kẻ chinh phục người ta” (Lc 6:10). Ở đây, Phêrô và các môn đệ đã có một chọn lựa và quyết định khôn ngoan và sáng suốt khi chọn Chúa Giêsu trên tất cả mọi sự!
Vâng theo lời Chúa với lòng tin yêu và từ bỏ mọi sự để đi theo Chúa mãi mãi là sự chọn lựa, là quyết định, và là chương trình hành động của tất cả các thánh trong lịch sử Hội Thánh. Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII, Đấng Kế Vị Thánh Phêrô và có công khai mở Công Đồng Vaticanô II, chắc hẳn đã từng chiêm ngắm gương vâng lời vì yêu của Thánh Phêrô, nên đã chọn câu “vâng lời và bình an” làm tôn chỉ cho đời mục tử của ngài. Và ngài đã nên thánh như lòng mong ước.
Sự hiện diện của Hội Thánh Công Giáo trên khắp thế giới hôm nay với bao nhiêu ngôi thánh đường, bao nhiêu tu viện, bao nhiêu công trình nghệ thuật, bao nhiêu công cuộc từ thiện bác ái, bao nhiêu gương hy sinh xả kỷ tuyệt vời của các thánh đều là kết quả của những sự chọn lựa và quyết định vâng theo Lời Chúa với lòng tin yêu, từ bỏ mọi sự để theo Chúa, để chọn Chúa, để được Chúa biến đổi thành những kẻ chinh phục con người bằng tình yêu cứu thế nơi các tín hữu đích thực của Chúa Kitô!
Với trình thuật Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn chúng ta nhận biết rằng: Như Người đã bước xuống chiếc thuyền của Phêrô, Người cũng muốn bước vào con thuyền của đời sống chúng ta; và như Phêrô đã nhờ vâng theo lời Chúa nên đã được chứng kiến mẻ cá lạ và từ bỏ mọi sự để theo Người và trở thành tông đồ của Người, chúng ta cũng sẽ chứng kiến biết bao điều huyền diệu trong cuộc đời chúng ta nhờ tin yêu và vâng theo lời Chúa và trở thành những môn đệ chân thành của Người.
Trái lại, nếu vắng bóng Chúa Giêsu trong con thuyền cuộc đời hay từ khước vâng theo lời Chúa để bước theo Chúa trong tin yêu, chúng ta sẽ mãi mãi ở lại trong sự mệt mỏi chán ngán trước sự hạn hẹp của sức mình, những sự nghiệt ngã của biển đời đen bạc, những sự phù phiếm của trần gian, những sự gian dối của tình đời! Bao vấn nạn trong đời sống cá nhân, gia đình, cộng đoàn, xã hội và Giáo Hội trên thế giới hôm nay chẳng qua chỉ là kết quả tất nhiên của việc đánh mất hay suy giảm lòng kính sợ tin yêu đối với Thiên Chúa, việc khước từ sự hiện diện của Chúa Giêsu, việc bất phục Lời Chúa và giáo huấn tốt lành chân thực của Hội Thánh.
Ave Maria, xin Mẹ giúp con luôn biết đón tiếp Chúa Giêsu Con Mẹ vào con thuyền của đời con, biết hết lòng tin yêu và vâng theo lời Chúa, biết mau mắn từ bỏ mọi sự để theo Người, để được trở nên những môn đệ của Người, những kẻ chinh phục tha nhân bằng tình yêu của Tin Mừng cứu độ. Amen.
26. Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh
Một chiếc thuyền đánh cá, trở thành toà giảng dạy và rồi biến thành biểu tượng của Giáo hội truyền giáo.
(Lc. 5,1-11)
1. Một chiếc thuyền đánh cá…
Chúng ta sẽ được thấy Luca vẽ bức tranh này một cách rất tài tình, khi đặt việc Đức Giêsu kêu gọi những môn đệ đầu tiên trong bối cảnh một mẻ lưới lạ lùng, quanh chiếc thuyền đánh cá
- Theo Phúc Âm Máccô và Mátthêu, hành động đầu tiên của Đức Giêsu khi thi hành sứ vụ là kêu gọi các môn đệ. Còn trong Phúc Âm Luca, đầu tiên Đức Giêsu lại được giới thiệu xuất hiện một mình đứng trước đám đông, rồi chỉ sau đó Người mới kêu gọi các môn đệ.
+ Trước tiên là "Simon", chủ chiếc thuyền mà lát nữa Đức Giêsu sẽ ngồi vào vị trí của ông. Chỉ trong có ít dòng mà tên ông được nói tới năm lần, trong đó có một lần và là lần đầu tiên ông được gọi là Simon-Phêrô
+ Rồi đến "hai con ông Zêbêđê là Giacôbê và Gioan, bạn chài với ông Simon"
+ Cả ba ông, Phêrô, Giacôbê, Gioan, được kêu gọi trước tiên, sẽ là những chứng nhân đặc tuyển được chứng kiến việc hồi sinh cho con gái ông Giairô, việc Chúa biến hình sáng láng trên núi Taborê (Lc.9,28) và vào riêng vườn Giệt Mt 26,37.
- Khung cảnh là "ven bờ Biển hồ Ghennêxarét": Đức Giêsu giảng dạy bên bờ hồ, bao quanh Người là đông đảo dân chúng chen lấn nhau "để nghe lời Thiên Chúa ". Luca kể: Có hai chiếc thuyền đậu gần đó. Còn "những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới", sau khi đã đi đánh cá suốt đêm trở về mà chẳng được con cá nào.
R. Meynet nhận xét: "Đức Giêsu ở bên bờ hồ, bao quanh Người là đông đảo dân chúng chen lấn nhau. Trong khi đó, những người dân chài đang lo toan công việc thường ngày của họ: họ đang giặt lưới. Đám đông có đó, nhưng dân chài (cả 3 môn đệ đầu tiên Phêrô, Giacôbê, Gioan) họ lại không tham dự cùng với đám đông. Đám đông đang lắng nghe lời Chúa, còn họ đang giặt lưới" ("L’Évangile selon saint Luc. Phân tích tu từ", tập 2, trg 70).
2. Trở thành tòa giảng …
Bỗng dưng mọi sự bắt đầu đảo lộn. Đức Giêsu xuống một chiếc thuyền, "thuyền đó của ông Simon và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút".
Thế là từ đây hai người, Đức Giêsu và ông Simon, là những kẻ "đồng hội đồng thuyền" dấn thân vào cùng một cuộc phiêu lưu: Simon, người dân chài của Biển hồ sát cánh liền kề với Đức Giêsu, người đang "ngồi" trong tư thế của một vị tôn sư dạy dỗ các môn sinh của mình, để ngỏ lời với đám đông. "Con thuyền của Phêrô đã trở thành tòa để giảng dạy" (Sđd).
Ngày nay, trong các đám đông vận động hoặc biểu tình, ta cũng thường thấy cảnh diễn giả, người vận động đứng trên mui xe, nóc nhà để cho mọi người dễ thấy và nhất là để nói cho mọi người dễ nghe. Họ biến mui xe, nóc nhà thành diễn đàn; còn Đức Giêsu biến con thuyền thành toà thuyết giáo di động. (Nhà thờ di động)
3. và cũng là biểu tượng Giáo hội truyền giáo.
Giảng xong, Chúa Giêsu nói " Hãy chèo ra chỗ nước sâu, (ra khơi: duc in alto) mà thả lưới bắt cá", giờ đây Đức Giêsu lệnh cho ông Phêrô như vậy. "Bắt cá", chuyện đó các ông đã vất vả "suốt cả đêm rồi mà không bắt được gì cả" dù rằng đêm tối vẫn là thời điểm thích hợp nhất cho việc đánh cá. Vậy mà, đang lúc các bạn chài người Nadarét của ông từ chối đề nghị kia của Đức Giêsu, thì Simon lại đầu hàng trước lệnh của người dân quê miền đồi núi Nazaret ấy, tức là Giêsu, thợ mộc vốn chẳng biết gì về chuyện chài lưới cả, ông đáp: "Thưa Thầy, dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới".
- Lời của Đức Giêsu tỏ ra rất hữu hiệu, vì mẻ lưới bắt được rất nhiều cá, đến nỗi lưới hầu như bị rách; họ phải "làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp", dẫu sao hai thuyền đều đầy cá đến gần chìm.
Thế là ông liền quỳ gối sấp mặt dưới chân người khách trên thuyền của mình như sấp mặt trước "Đức Chúa" vậy:"Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi".
- Câu trả lời mà Simon nhận được từ Đức Giêsu sẽ đánh dấu một khúc quanh quyết định cho cuộc đời của ông:"Đừng sợ, từ nay anh sẽ bắt người như bắt cá" (=lưới người).
+ "Anh sẽ bắt người": sát nghĩa là: anh sẽ bắt những con người sống, có nghĩa là anh sẽ giựt lên những con người đang sống, anh sẽ kéo họ ra khỏi thế lực của sự ác để bảo đảm cho họ được sống an lành. Là "ngư dân, dân chài", Simon-Phêrô vẫn sẽ giữ nghề đánh cá, nhưng cái nghề đi tìm cá ban đêm của ông, một khi thay đổi đối tượng: cá “người,” thì cũng sẽ thay đổi ý nghĩa.
"Từ nay", sứ mệnh của ông sẽ là lôi kéo người ta ra khỏi vòng kiềm tỏa của sự ác và cái chết, mà thời đó người ta vốn dùng hình ảnh biểu tượng là chỗ nước sâu, để đưa họ đến cõi sống.
- Thế rồi, sau khi đã đưa thuyền vào bờ, Simon-Phêrô, Giacôbê và Gioan "bỏ hết mọi sự mà theo Đức Giêsu " "để dấn thân vào con đường mà theo kiểu nói của Ph. Bossuet và J. Radermakers, sẽ là một cuộc thả lưới lâu dài nhất và phi thường nhất trong cả cuộc đời của các ông" ("Đức Giêsu, Lời ban Ân sủng theo thánh Luca", tr.183).
Nếu Chúa Giêsu biến thuyền Phêrô thành toà giảng và thành biểu tượng của giáo hội truyền giáo (ra sâu bắt người sống), thì ta cũng có thể biến nhiều thứ thành toà giảng để bắt người sống. Ta có thể thấy khó mà sánh kịp với một Phanxicô Xavie, biến thuyền thành toà, biến đất thành đế, (nâng niu bàn chân Việt) biến biển thành nước thánh tẩy, để đưa 100 ngàn, và ngài còn dự định xa nữa, nhưng Chúa đã gọi ngài về lúc 46 tuổi (1506-1552), khi tại đảo Thượng Xuyên ngay cửa khẩu Quảng Châu, mắt hướng về Trung Quốc cánh đồng sẽ bội thu. Nếu ta khó có thể sánh kịp một góc nhỏ của Phanxicô Xavie, thì ta không nên thua một vị khác, biến bốn bức tường thành toà giảng, và thành nơi câu các linh hồn sống.
Trong “Truyện Một tâm hồn” thánh nữ Terexa Hài đồng Giêsu có thuật lại một hy sinh rất đẹp của thánh nữ: “Một lần tại nhà giặt, con ngồi đàng trước một chị. Chị này giặt khăn tay, chốc chốc lại làm bắn nước bẩn vào con. Thoạt đầu, con muốn là ngay ra lau mặt cho chị ấy biết để đừng làm bắn nước bẩn vào con nữa. Nhưng nghi lại như thế là dại, vì bỏ mất những hạt ngọc người ta tặng cho mình một cách rất đại lượng, và con đã thôi không tỏ vẻ khó chịu gì hết. Hơn nữa, con lại cố nén mình để ước ao nước bẩn ấy bắn lên con rất nhiều. Qua nửa giờ, con đã cảm thấy sự vui thú được vấy nước bẩn. Con định bụng hễ sau này có dịp lại đến chốn đất lành ấy để được làm giầu (hạt ngọc) không mấy khó khăn”.
Chỗ khác, chị thánh còn nói: “Với lòng kính mến Chúa, thì dù cúi xuống đất nhặt một cây kim nhỏ, ta cũng cứu được một linh hồn.
Một lần nọ, chị coi nhà liệt khuyên Chị thánh mỗi ngày nên đi bách bộ ngoài vườn 15 phút. Chị thánh coi lời khuyên đó như một mệnh lệnh. Bữa kia vào lúc quá trưa, một chị trông thấy Chị thánh bước đi khó khăn quá, mới thương hại bảo rằng:
- Chị về nằm nghỉ có lẽ lợi hơn đi bách bộ, đi như thế chỉ thêm mệt.
Chị thánh thưa lại:
- Vâng chính thế: nhưng chị có biết em lấy sức gì để đi được không ? Em đi để làm ích cho một vị truyền giáo, với ý nghĩ: ở cõi xa xăm kia, có vị truyền giáo dường như đã kiệt sức vì mải miết theo đuổi công cuộc mở mang nước Chúa: em muốn dâng lên Chúa những bước đi mệt nhọc này để vị tông đồ kia đỡ nhọc mệt.
Hãy biến bàn học, bàn giấy, quày hàng, cỗ máy… thành những toà giảng, để câu, chài, bắt nhiều người sống về cho Chúa, ít ra là như cách bắt của chịTêrêxa trên. Amen.
27. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Những ngày cuối năm, thông thường các Sr. các Thầy đã khấn trọn đời trong năm qua được về quê nghỉ tết và dâng lễ tạ ơn.
Năm nay, Giáo xứ chúng ta vinh dự có 5 thánh lễ tạ ơn cho 3 Sr. và 2 Thầy. Đây là niềm vui cho Giáo xứ, gia đình và đặc biệt là niềm vui cho bản thân các tân vĩnh khấn. Trong lời cám ơn sau lễ, hầu hết các tân khấn sinh đều bày tỏ tâm tình của mình về tình thương cao cả của Thiên Chúa trước sự bất xứng của thân phận con người.
1. Ơn gọi là một huyền nhiệm
Thật vậy, ơn gọi nói chung và nhất là ơn gọi đi tu là một huyền nhiệm. Ơn gọi phát xuất từ Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đã từng nói: “Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con”(x. Ga 15,16). Thiên Chúa luôn đi bước trước để tuyển chọn con người. Cụm từ “hãy theo Ta” được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong Kinh Thánh. Thiên Chúa chọn Isaia làm tiên tri. Thiên Chúa chọn Phaolô làm Tông đồ dân ngoại. Thiên Chúa chọn Phêrô làm kẻ chài lưới người. Thiên Chúa chọn tôi, chọn anh chị em làm việc nọ việc kia. Mỗi người đều được Thiên Chúa kêu gọi để giao trách nhiệm tuỳ hoàn cảnh và địa vị của mình.
2. Trước Thiên Chúa, con người luôn cảm thấy bất xứng
Nhưng, đứng trước lời mời gọi của Thiên Chúa, con người luôn cảm thấy bất xứng.
Bài đọc thứ nhất cho chúng ta biết, trước nhan Thiên Chúa ba lần Thánh, tiên tri Isaia đã tự nhận mình là kẻ bất xứng, ông thốt lên rằng: "Vô phúc cho tôi! Tôi chết mất, vì lưỡi tôi nhơ bẩn, tôi ở giữa một dân tộc mà lưỡi họ đều nhơ nhớp, mắt tôi đã trông thấy Ðức Vua, Người là Chúa các đạo binh"(Is 6,5).
Bài đọc thứ hai, Thánh Phaolô cũng đã nhận mình là kẻ hèn mọn nhất trong các Tông đồ. Ngài cho mình là kẻ bất xứng không đáng làm Tông đồ, Ngài nói: “Tôi vốn là kẻ hèn mọn nhất trong các Tông đồ, và không xứng đáng được gọi là Tông đồ, vì tôi đã bắt bớ Hội Thánh của Thiên Chúa”(1Cr 15,9).
Bài Tin mừng Thánh Luca kể lại, sau khi thấy mẻ cá lạ lùng, Phêrô cảm thấy mình tội lỗi, không xứng đáng đứng gần Chúa. Ngài đã thốt lên với Chúa Giêsu rằng: "Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi"(Lc 5,8).
Đối với chúng ta, chắc chắn ai cũng cảm thấy bất xứng, vì không ai hoàn hảo.
3. Thiên Chúa biến sự bất xứng thành khí cụ của Ngài
Thiên Chúa đã làm cho Isaia trở thành một tiên tri, Thần Sốt Mến đã nói với Isaia rằng: "Hãy nhìn xem, than lửa này đã chạm đến lưỡi ngươi, lỗi của ngươi được xoá bỏ, và tội của ngươi được thứ tha"(Is 6,7). Và khi nghe tiếng Chúa phán: "Ta sẽ sai ai đi? Và ai sẽ đi cho chúng ta?"(Is 6,8). Isaia đã mạnh dạn thưa với Chúa rằng: “Này con đây, xin hãy sai con”(Is 6,8). Isaia đã trở thành một tiên tri lớn, một tiên tri vĩ đại trong thời Cựu Ước.
Thiên Chúa cũng đã biến Phaolô từ một người bắt bớ Giáo Hội trở thành vị Tông đồ dân ngoại. Chính thánh Phaolô đã nói: “Nhưng nay tôi là người thế nào, là nhờ ơn của Thiên Chúa, và ơn của Người không vô ích nơi tôi, nhưng tôi đã chịu khó nhọc nhiều hơn tất cả các Ðấng: song không phải tôi, nhưng là ơn của Thiên Chúa ở với tôi”(1Cr 15,10).
Còn Phêrô, từ một người làm nghề đánh cá, Chúa đã biến ông thành một Tông đồ đánh bắt các linh hồn. Từ một người đã từng phạm tội chối Thầy ba lần, trở thành người làm đầu Hội Thánh, vị Giáo Hoàng đầu tiên. Thật là kỳ diệu. Thiên Chúa biến sự bất xứng của con người thành khí cụ của Ngài. Đối với Ngài, “Không có gì mà Ngài không làm được”(Lc 1,37).
4. Thiên Chúa cần sự cộng tác của con người
Thánh Augustinô nói một câu rất nổi tiếng: “Chúa dựng nên con không cần có con nhưng để cứu chuộc con, Chúa cần sự cộng tác của con”. Mặc dầu, Thiên Chúa ban ơn để biến đổi con người từ bất xứng trở thành khí cụ hữu hiệu của Chúa. Nhưng Thiên Chúa luôn luôn cần sự cộng tác của con người. Khi nghe Thiên Chúa mời gọi, Isaia đã sẵn sàng đáp trả và dấn thân trong sứ mạng tiên tri.
Cũng vậy, sau cú ngã ngựa trên đường Đamát, Phaolô đã hỏi Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, con phải làm gì?”(Cv 22,10). Sau đó, Phaolô đã làm theo sự hướng dẫn của Chúa: Lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy bởi ông Anania. Cố gắng hoà nhập với các Tông đồ và các Kitô hữu tiên khởi. Đặc biệt, Phaolô đã dùng khả năng và cống hiến sức lực của mình để loan báo Tin Mừng cho dân ngoại. Có thể tóm tắt sự cộng tác của Ngài với ơn Chúa qua chính lời Ngài kể trong thư 2 Côrintô sau đây: “… Bao lần suýt chết. Năm lần tôi bị người Do-thái đánh bốn mươi roi bớt một; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị đắm tàu; một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi! Tôi còn hơn họ, vì phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em. Tôi còn phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng. Không kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh!”(x. 2Cr 11, 23-28).
Với Thánh Phêrô, mặc dầu đang yên bề gia thất, nghề nghiệp ổn định...Nhưng Ngài đã đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu. Ngài đi theo Chúa trong suốt thời gian ba năm, được Chúa huấn luyện, uốn nắn. Mặc dầu Phêrô đã chối Chúa ba lần, nhưng sau đó đã ăn năn khóc lóc, hối hận về hành động của mình. Trước khi đặt làm đầu Giáo Hội, Chúa Giêsu đã hỏi Phêrô ba lần, con có yêu mến Thầy không? Phêrô đã không ngần ngại thưa lên rằng: “Lạy Thầy, con yêu mến Thầy”(x. Ga 21, 15-19). Phêrô đã thực sự yêu mến Chúa hết lòng hết sức, Ngài cống hiến hết mình vì sự tồn tại và phát triển của Giáo Hội thuở ban đầu.
5. Với chúng ta hôm nay
Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta cũng là những người bất xứng, tội lỗi. Nhưng Thiên Chúa thương mời gọi chúng ta gia nhập Giáo hội. Dầu là linh mục, tu sỹ hay giáo dân, chúng ta phải biết cộng tác với ơn Chúa để chu toàn bổn phận của mình. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, Chúa giao cho chúng ta sứ mạng tư tế, vương đế và ngôn sứ. Chúa mời gọi chúng ta đóng góp phần mình trong công cuộc xây dựng và phát triển Giáo Hội. Mỗi chúng ta có trách nhiệm Phúc Âm đời sống chính mình, Phúc Âm hoá đời sống gia đình, Phúc Âm hoá đời sống xã hội, để qua chúng ta mọi người sẽ biết và tin yêu Chúa. Đặc biệt, đối với mỗi người giáo dân, sống giữa lòng xã hội và thế giới, Công Đồng Vaticanô II đã dạy rằng: “ …Giáo dân được đặc biệt kêu mời làm cho Giáo Hội hiện diện và hoạt động trong những nơi và hoàn cảnh mà nếu không có họ, Giáo Hội sẽ không trở thành muối của thế gian” (LG, số 33)
Lạy Chúa, con có thể thưa với Chúa như tiên tri Isaia, như Phaolô hay như Phêrô. Vì con cảm thấy mình yếu kém hơn nhiều so với các Ngài. Nhưng tin tưởng vào Chúa, con mạnh dạn dùng khả năng và những gì Chúa ban cho con để phục vụ Chúa và Giáo hội. Xin Chúa luôn đồng hành và giúp đỡ con. Amen.
28. Lợi ích của vâng lời--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Người ta vẫn thường nói: "sau đêm dài là ánh bình minh". Cuộc đời không phải lúc nào cũng tối tăm. Có những lúc tưởng như vô vọng nhưng dịp may lại đến với chúng ta. Có những lúc tưởng như không còn lối thoát nhưng bàn tay kỳ diệu của Đấng Tạo hoá đã kịp thời mở lối cho chúng ta.
Lời Chúa hôm nay kể về một câu chuyện rất đời thường của những người dân nghèo thuyền chài miền Galilêa. Họ vật vã với sóng gió biển cả suốt đêm. Họ luôn phải đối mặt với biết bao hiểm nguy. Thế nhưng lưới vẫn nhẹ, thuyền vẫn rỗng vì chẳng bắt được con cá nào. Ánh bình minh hôm nay không đem lại cho họ niềm vui. Niềm hân hoan của ngày mới không đến với họ. Họ thất vọng nhiều hơn vui. Một đêm vất vả chẳng được gì là dấu chỉ cho một ngày cơm bữa no bữa đói. Lòng buồn vời vợi. Họ ngồi giặt lưới trong tâm trạng nặng trĩu những âu lo. Thuyền lứơi của họ xem ra đã vô dụng. Bỗng dưng Thầy Giêsu lại muốn sử dụng chiếc thuyền của họ. Chúa mượn thuyền của Phêrô. Con thuyền mà Phêrô tưởng chừng như chẳng giúp ích gì cho ông. Thuyền đánh cá nhưng có được con cá nào đâu? Chúa mượn thuyền Phêrô không phải để đánh cá mà dùng làm phương tiện rao giảng tin mừng. Cuối đoạn tin mừng Chúa lại mượn luôn con người Phêrô làm kẻ chuyên lo chài lưới người.
Xem ra những thất bại trong cuộc đời luôn là cơ hội để chúng ta thay đổi cuộc sống. Vì Thất bại là mẹ thành công. Thất bại để hiểu rõ sự thật, để hiểu rõ con người và lượng giá sức người cho phù hợp với khả năng để tiến tới thành công. Phêrô đã thay đổi phận số đời mình từ ngày ông cho Chúa mượn chiếc thuyền làm phượng tiện rao giảng Tin mừng. Từ ngày Phêrô vâng lời Thầy Giêsu chèo ra chỗ sâu mà thả lưới bắt cá xem ra đã thay đổi mọi suy nghĩ của Phêrô. Phêrô từ đó đã đi theo Chúa. Phêrô từ đó càng hiểu hơn về giá trị của vâng lời. Vâng lời Thầy là tin tưởng hoàn toàn vào Thầy. Vâng lời là nhìn nhận sự yếu kém bất toàn của mình để làm theo lời Thầy chí thánh mà có lần ông đã tuyên xưng: "Thầy là Con Thiên Chúa". Vâng lời Thầy là làm tất cả những gì Thầy muốn Phêrô làm. Phêrô đã thành công khi vâng lời thầy chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới. Ông đã được một mẻ cá quá lớn, lớn đến nỗi một mình Phêrô không mang về hết phải nhờ đến các bạn đồng nghiệp. Mẻ cá này là hình ảnh tiên báo cho lời giảng thuyết đầu tiên của Phêrô sau ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống. Phêrô đã mang về cho Giáo hội hơn 3000 người tin theo Chúa.
Vâng, những thất bại trong cuộc đời. Những cay đắng trong cuộc sống đôi khi thật cần thiết để hoàn thiện con người chúng ta. Có những người suốt đời gặp toàn điều may lành có lẽ họ không cảm thấy sự bất toàn của mình để khiêm tốn sống đúng với con người thật của mình. Vì "biết người biết ta trăm trận trăm thắng". Không biết rõ mình nên khó có thể đứng vững trước nguy nan, trước sóng gió cuộc đời. Khi con người biết rõ giới hạn của mình là lúc con người sống khiêm tốn để cần sự trợ giúp của tha nhân, nhất là của Thiên Chúa.
Nhà bác học Archimède đã từng nói: "Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nhấc bổng trái đất này lên". Kinh nghiệm cho thấy: cho dù phiến đá đồ sộ to lớn mấy chăng nữa! nếu đòn bẩy có điểm tựa sẽ dễ dàng lăn tảng đá rời khỏi vị vị. Archimède đã dựa vào kinh nghiệm rất đời thường để xác tín điều đó. Ở đời cũng vậy, có nhiều việc tưởng chừng như sẽ bỏ dở dang, thế nhưng nhờ ơn trời và sự trợ giúp của nhiều người công việc đã tiếp diễn thật tốt đẹp, ngoài sức tưởng tượng. Và đôi khi cũng có nhiều ngừơi xem ra bất tài vô dụng nhưng họ vẫn thành công khiến chúng ta sững sờ ngạc nhiên. Sự thành công đến với họ không do tài trí của họ mà do sự trợ giúp của những người thân, của đồng nghiệp. Và trên hết đó chính là ơn ban của Chúa dành cho những ai biết tin tưởng cậy trông vào Chúa. Simon Phêrô đã dựa vào Lời Chúa mà ông đã bắt được một mẻ cá thật kỳ diệu. Các tông đồ đã dựa vào sức mạnh của Chúa để ra đi loan báo tin mừng. Các ngài đa phần là dân chài nghèo hèn thế mà đã thay đổi cả thế giới. Văn hoá kytô giáo đã phủ khắp năm châu bốn biển không do tài trí của con người, mà do quyền năng Chúa thực hiện trên những con người yếu hèn như khí cụ của Chúa.
Ước gì mỗi người chúng ta luôn biết cậy dựa vào Chúa để can đảm ra đi loan báo tin mừng. Ước gì mỗi người chúng ta dầu trong hoàn cảnh nào, cũng không bỏ cuộc nhưng luôn tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa sẽ dẫn chúng ta đi qua những thăng trầm của cuộc đời. Cuộc đời luôn có những khó khăn. Dòng đời luôn có những bấp bênh nhưng chúng ta hãy tin tưởng, Chúa sẽ luôn kịp thời nâng đỡ và giải cứu chúng ta khỏi những nguy nan, bất trắc và hiểm nguy. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết chạy đến với Chúa và kêu cầu Chúa trong những lúc nguy nan. Amen.
29. Đại Lãn thời @ thèm VRLH--Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Người xưa dạy con cháu rằng: “Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ”. Nhưng nhìn vào xã hội ngày nay ta thấy rất nhiều người chẳng muốn làm, chỉ chực chờ ăn. Những loại người này có thể gọi là Đại Lãn thời @.
Chuyện xưa kể rằng: Một ngày nọ, Đại Lãn đến bên một cây sung to. Chao ôi, bao nhiêu là quả chín! Lại nữa, thỉnh thoảng một quả rơi xuống bên gốc cây. Hắn nghĩ ngay ra một diệu kế. Cần phải nằm ngửa, há to miệng, thế nào cũng có quả rơi đúng miệng. Lúc đó, hắn sẽ nhai ngon lành, mà chẳng cần phải hoài công leo trèo, hái lượm gì… Nhiều quả sung lần lượt rơi chung quanh mình, nhưng chẳng có một quả nào rơi vào miệng hắn. Vừa đói, vừa mệt, hắn đành nuốt nước bọt thất vọng đứng dậy. Thành ngữ ''Há miệng chờ sung'' hay “Đại Lãn chờ sung'' từ đó đã gán cho những kẻ lười biếng mà lại đòi có cái ăn, cái để...
Chuyện ngày nay kể rằng: cứ đất nào đẹp, địa thế thuận lợi thì lãnh đạo sẽ quy hoạch để cướp đất, phân lô và bán đất. Các quan chức này chỉ thấy đất là thấy vàng mà không nhìn thấy biết bao mồ hôi người dân đã đổ ra trên mặt đất này từ bao đời nay. Họ giống như Đại Lãn cứ tưởng há miệng là sung rơi trúng cho mà ăn, nhưng họ đã lầm! Chân lý luôn thắng. Những người không làm mà đòi ăn đều thất bại đắng cay. Điển hình là TP Đã Nẵng với cái tên Vũ Nhôm làm bình phong cho các quan chức để thâu tóm đất giá rẻ mạt mà bán với giá trên trời nay cũng đang bóc lịch 17 năm và trả lại cho đất nước cả hàng ngàn tỉ. Và đắng lòng hơn là chẳng cần quy hoạch theo chương trình phát triển đất nước, nhưng vẫn to tiếng đuổi dân chiếm đất như Thủ Thiêm để bây giờ chín rõ mươi mươi không có quy hoạch, và tuyên bố trả lại cho dân, cho giáo xứ, cho Dòng Thủ Thiêm... Gần đây nhất là VRLH, những Đại Lãn thời @ cũng ngang nhiên giải toả để làm gì thì không có văn bản rõ ràng. Họ chỉ thấy đất vàng và muốn chiếm mà đâu nghĩ đất đã có chủ từ rất xa xưa , giáo hội Công giáo đã khai phá , và cho dân trồng cấy. Người dân bao đời đã gìn giữ cho con cháu chứ đâu nghĩ rằng một đất nước dường như không còn luật pháp, không đối thoại, không ra toà xét xử mà tự dưng bị mất nhà, mất đất trước những ngày xuân đoàn tụ gia đình. Chúng ta tin rằng chân lý sẽ thắng vì “Có làm thì mới có ăn – Không dưng ai dễ mang phần cho ta”.
Bài phúc âm hôm nay nhiều người nghĩ đơn giản là chỉ cần vâng nghe lời Chúa là có mẻ cá kỳ diệu. Chúa chẳng bao giờ ban cho kẻ lười biếng dư thừa. Chúa chỉ chúc phúc cho những ai đã vất vả cực nhọc được nhìn thấy công lao của mình bỏ ra thật xứng đáng.
Phúc âm kể rằng anh em nhà ngư phủ Simon và Anre đã vất vả đánh cá cả đêm mà chẳng được con nào. Họ vật vã với sóng gió biển cả suốt đêm. Họ luôn phải đối mặt với biết bao hiểm nguy. Thế nhưng lưới vẫn nhẹ, thuyền vẫn rỗng vì chẳng bắt được con cá nào. Ánh bình minh hôm nay không đem lại cho họ niềm vui. Niềm hân hoan của ngày mới không đến với họ. Họ thất vọng nhiều hơn vui. Một đêm vất vả chẳng được gì là dấu chỉ cho một ngày cơm bữa no bữa đói. Lòng buồn vời vợi. Họ ngồi giặt lưới trong tâm trạng nặng trĩu những âu lo. Thuyền lứơi của họ xem ra đã vô dụng. Bỗng dưng Thầy Giêsu lạichỉ cho họ cách bắt cá. Hãy thả lưới bên mạn thuyền sẽ có cá. Họ đã làm và đã thấy điều kỳ diện.
Quả đúng là “Trời không bao giờ phụ ta”. Trời luôn chúc phúc cho những ai thành tâm thiện chí sẽ không đói khổ bao giờ. Chúng ta hãy tin tưởng vào chân lý luôn thằng, sự cần cù của chúng ta luôn được chúc phúc từ Thiên Chúa.
Năm mới Nhâm Dần đang bắt đầu, chúng ta hãy xin Chúa chúc lành cho công việc chúng ta một năm thuận buồm xuôi gió. Một năm luôn được nhìn thấy thành quả của mình sau những ngày tháng vất vả vun trồng.
Ước gì mỗi người chúng ta dầu trong hoàn cảnh nào, cũng không bỏ cuộc nhưng luôn tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa sẽ trợ giúp những ai tin tưởng cầu xin Ngài. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết chạy đến với Chúa và kêu cầu Chúa trong những lúc khó khăn. Amen.
30. Muôn sự nhờ Trời--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Ngày đầu năm chúng ta hay thăm hỏi nhau bạn làm ăn thế nào? Cuộc sống của bạn có bình an không? Dường như ai cũng khiêm tốn trả lời: nhờ ơn Trời mà năm nay làm ăn tốt hơn. Nhờ ơn Chúa mà được bình an mọi sự.
Nhà thơ Nguyễn Du năm xưa cũng từng tin vào Trời. Ông Trời định đoạt mọi sự cho nhân gian.
Trời còn để có hôm nay
Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời
Hoa tàn mà lại thêm tươi
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa
Quả thực, “Trời còn để có hôm nay” để sống, để nhìn thấy nhau, là ân ban bởi Trời. Mỗi ngày là một tặng phẩm của đất trời. Dầu không biết ngày mai sẽ ra sao nhưng vẫn phải trân quý giây phút hiện tại để cám tạ ơn Trời đã ban cho chúng ta được đoàn viên hôm nay. Dẫu rằng có những lúc “Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời”, thế nhưngsau những rủi ro, cùng cực, khổ đau, thao thức, ba đào... Trời vẫn cho chúng ta có ngày hôm nay để có thề sum vầy bên nhau.
Ngày xưa có người hỏi Socrates: “Ông là người có học vấn uyên thâm, ông có biết khoảng cách giữa trời và đất là bao nhiêu không?”
Socrates trả lời: “Khoảng 1 mét”.
Người đó không tin nói:“Thưa ông, ngoài trẻ sơ sinh ra, chúng ta ai cũng cao hơn 1m, nếu độ cao giữa trời và đất chỉ có 1m, thì chẳng phải chúng ta đã đâm vào bầu trời rồi hay sao?”
Socrates tiếp tục nói: “Đúng, ai mà chả cao hơn 1m, nếu muốn nổi bật giữa trời đất, thì phải biết cách cúi đầu”.
Hóa ra con người cần phải học cúi đầu. Cúi đầu để thấy mình không bằng ai. Cúi đầu để thấy con người mình thật hạn hẹp cần đến sự trợ giúp của Trời cao. Cúi đầu để thấy rằng mình cần sự trợ giúp của anh em. Cúi đầu để thấy mọi sự đều là ân ban của Trời mà biết sống cảm mến tri ân.
Phê-rô và các bạn chài năm xưa đã thấy quyền năng Chúa nhờ biết cúi đầu. Cúi đầu để vâng lời Thầy mà chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới. Họ đã được một mẻ cá quá lớn, lớn đến nỗi một thuyền không mang về hết mà phải nhờ đến các bạn đồng nghiệp.
Mẻ cá này cũng là hình ảnh tiên báo cho lời giảng thuyết đầu tiên của Phêrô sau ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống. Phêrô đã nhờ ơn Chúa thánh Thần mà mang về cho Giáo hội hơn 3000 người tin theo Chúa.
Các tông đồ cũng dựa vào sức mạnh của Chúa để ra đi loan báo tin mừng. Các ngài đa phần là dân chài nghèo hèn thế mà đã thay đổi cả thế giới. Văn hoá kytô giáo đã phủ khắp năm châu bốn biển không do tài trí của con người, mà do quyền năng Chúa thực hiện trên những con người vốn dĩ bất toàn vẫn làm nên những chuyện phi thường.
Cuộc đời luôn đưa đến biết bao khó khăn thử thách. Hãy tin tưởng phó thác vào Chúa. Hãy bước đi trong niềm tín thác nơi Chúa. Chính Chúa sẽ trợ giúp chúng ta. Chính Chúa sẽ dẫn chúng ta đến chỗ thành toàn. Nơi Thiên Chúa không gì mà Ngài không làm được. Ngài có đủ quyền năng để hoàn tất chương trình của chúng ta.
Ước gì mỗi người chúng ta luôn biết cậy dựa vào Chúa để can đảm ra đi loan báo tin mừng. Ước gì mỗi người chúng ta dầu trong hoàn cảnh nào, cũng không bỏ cuộc, nhưng luôn tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa sẽ dẫn chúng ta đi qua những thăng trầm của cuộc đời. Cuộc đời luôn có những khó khăn. Dòng đời luôn có những bấp bênh nhưng chúng ta hãy tin tưởng, Chúa sẽ luôn kịp thời nâng đỡ và giải cứu chúng ta khỏi những nguy nan, bất trắc và hiểm nguy. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết chạy đến với Chúa và kêu cầu Chúa trong những lúc nguy nan. Amen.
31. Chúa gọi - Ta đáp trả--Jos. Vinc. Ngọc Biển
Tin mừng Lc 5: 1-11: Nếu mỗi một Chúa Nhật đều có một chủ đề để làm nổi bật lên ý nghĩa của Phụng Vụ được cử hành, thì Chúa Nhật hôm nay, chủ đề chính đó là nói về ơn gọi và sứ mạng loan báo Tin Mừng.
Tuy nhiên, để trở thành một ơn gọi, cần phải có tương quan hai chiều, đó là: Chúa gọi và lời đáp trả của mỗi người. Nhưng để một ơn gọi có giá trị trước mặt Chúa, con người cần phải có một sự cảm nghiệm sâu sắc về tình yêu giữa Thiên Chúa và bản thân.
Đây chính là mẫu số chung cho các ơn gọi mà Phụng Vụ hôm nay đề cấp đến.
1. Ơn gọi của Isaia và các Tông đồ
Trong bài đọc I, chúng ta thấy việc Chúa chọn và gọi tiên tri Isaia qua việc Người tỏ cho ông thấy vinh quang chói lòa trong đền thờ.
Trước cảnh huy hoàng và tráng lệ đó, ông nhận ra Thiên Chúa là Đấng vô cùng Thánh Thiện, toàn năng, trong khi ấy, Isaia là một người tội lỗi, bất xứng! Nhưng khi được Thiên Chúa thanh tẩy, khiến ông trở nên trong sạch..., rồi người gọi ông trở nên tiên tri cho Người, ông đã mau mắn đáp lại trong sự tin tưởng và đầy quyết tâm: “Có con đây, xin Chúa sai con đi” (Is 6,8).
Sang bài đọc II, thánh Phaolô trình thuật hành trình rao giảng của ngài bị nhiều người chống đối, chê bai đủ điều và cho rằng ngài không xứng đáng để trở thành Tông đồ. Phaolô không chối cãi, không đôi co hay tìm cách kháng chế, nhưng ngược lại, ngài đã luôn nhận mình là con người thấp hèn vì đã bắt bớ, hành hạ Giáo Hội một thời, hơn nữa lại được chọn và gọi sau hết so với các Tông đồ, nên bản thân chỉ như là đứa trẻ sinh non...
Nhưng nhờ ân sủng và tình thương của Thiên Chúa, nên ngài đã trở nên vị Tông đồ lừng danh về mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh.
Sang bài Tin Mừng, thánh sử Luca trình thuật việc Đức Giêsu gọi và chọn các môn đệ đầu tiên trong bối cảnh mẻ cá lạ nơi bờ biển.
Khởi đi từ việc Đức Giêsu mượn chiếc thuyền của Simon để làm chỗ đứng giảng dạy, rồi tiếp theo là lệnh truyền thả lưới bên phải mạn thuyền, và cuối cùng là một mẻ cá lạ!
Đứng trước những sự trùng khớp và nhiệm mầu như vậy, Simon đã sụp lạy dưới chân Đức Giêsu và thưa: “Lạy Chúa, xin hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi”. Cả ông Giacôbê và Gioan cũng kinh ngạc như ông. Thấy vậy, Đức Giêsu đã phán bảo các ông: “Đừng sợ! từ nay con sẽ là kẻ chinh phục người ta”. Bấy giờ các ông đưa thuyền vào bờ, và đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Ngài.
2. Sứ điệp Lời Chúa
Qua các bài đọc hôm nay, chúng ta thấy sứ điệp Lời Chúa toát lên một điểm chung, đó là: Chúa gọi và chọn những người Chúa muốn. Mọi ơn gọi đều phát xuất từ Chúa do tình thương của Người. Điều quan trọng, con người phải ý thức rằng: mình chẳng là gì trước mặt Chúa, nhưng lại được Chúa yêu thương và tuyển chọn. Phần còn lại, đó là đương sự cảm nghiệm được tình thương của Chúa và mau mắn đáp lại là thôi.
Chúa không chọn ai khi người đó còn đang trong tình trạng kiêu ngạo, vì thế, Người chỉ gọi và chọn những ai có một tấm lòng khiêm nhường thẳm sâu và cảm nghiệm được tình yêu của Chúa trên cuộc đời mình.
Mặt khác, qua phép lạ mẻ cá lạ, Đức Giêsu mặc khải cho chúng ta thấy:
Trước quyền năng của Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được! Mẻ cá lạ đã minh chứng cho chúng ta thấy điều đó, đồng thời cũng cho thấy sự bất lực, giới hạn của con người, vì thế, con người có làm được việc gì là hoàn toàn dựa vào ơn Chúa.
Cá đầy thuyền là hình ảnh tiên báo về một Giáo Hội rộng khắp nơi nơi và sứ mạng loan báo Tin Mừng đến tận cùng trái đất của người môn đệ.
Sự dứt khoát từ bỏ mọi sự để đi theo Chúa của các môn đệ cho ta thấy: người môn đệ của Chúa, muốn theo Chúa thì phải dứt khoát từ bỏ những ràng buộc như tiền bạc, danh vọng, chức nghiệp và ý riêng để đi theo và thi hành ý muốn của Thiên Chúa.
Như vậy, Chúa chọn và gọi ai thì Người sẽ cho họ cảm nghiệm được Ngài là Đấng quyền năng, yêu thương và con người là bất xứng, để những người được gọi sẽ đi từ ngỡ ngàng đến vâng phục; từ vâng phục đến niềm tin và rồi ý thức mình chẳng là gì vì bất xứng, nên chỉ là dụng cụ Chúa dùng để ra đi thi hành sứ vụ của Người mà thôi!
3. Ơn gọi của chúng ta và lời đáp trả
Từ ơn gọi của các tiên tri, đến ơn gọi của các Tông đồ và cuối cùng là ơn gọi của mỗi người chúng ta.
Câu chuyện ơn gọi của ngôn sứ Isaia, Phaolô, Phêrô và các bạn trong các bài đọc hôm nay, cũng là mẫu số chung cho ơn gọi của mỗi người.
Ngày chúng ta được lãnh nhận Bí tích Rửa tội, chúng ta được Chúa chọn để trở thành Kitô hữu, thành môn đệ của Ngài và nhất là trở nên chứng nhân của lòng thương xót mà chính mình đã cảm nghiệm.
Ơn gọi đó là ơn gọi phổ quát cho hết mọi người, vì thế, sứ mạng loan báo Tin mừng không chỉ dành riêng cho các linh mục hay tu sĩ, mà là cho hết thảy những ai đã trở thành Kitô hữu.
Nhiều khi chúng ta nghĩ rằng mình không xứng đáng để trở thành sứ giả của Chúa, hay nhiều khi đùn đẩy và coi như một gánh nặng, lại có khi thi hành nhưng kiêu ngạo và tự phụ...!
Tất cả những thái độ đó đều không phù hợp với chúng ta là những người tin và đi theo Chúa cũng như chung chia sứ mạng với Ngài.
Thái độ cần có đối với mỗi người, đó là: khiêm nhường, ý thức mình bất xứng nhưng được Chúa thương, sẵn sàng để Người biến đổi như tiên tri Isaia, Phaolô, Phêrô...
Thiết nghĩ, với ơn Chúa, chúng ta sẽ làm được tất cả. Archimède đã khẳng định: “Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nhấc bổng trái đất lên”.
Điểm tựa của chúng ta là chính Đức Giêsu, nếu chúng ta tựa vào Ngài, chúng ta sẽ làm được mọi chuyện. Chúng ta mặc lấy Ngài, chúng ta sẽ có sức hút lạ thường, chẳng khác gì các môn đệ bắt được một mẻ cá lạ!
Mong sao mỗi người chúng ta khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, đều ý thức được trách nhiệm, bổn phận cao quý của mình là trở nên sứ giả cho Thiên Chúa trong lòng xã hội hôm nay!
Ước gì mỗi người biết chu toàn trách vụ trong lòng mến, để nhờ sự quảng đại dấn thân của mỗi người, chúng ta sẽ làm cho nhiều người nhận biết Chúa và tin theo Ngài để được sự sống đời đời.
Lạy Chúa Giêsu, ngày nay vẫn còn quá nhiều người chưa tin hay không biết đến Chúa. Xin Chúa ban cho sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội được nhiều người quan tâm, quảng đại và dấn thân để ra đi loan báo Tin Mừng cứu rỗi cho anh chị em chưa biết đến Chúa. Amen.
32. Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay tập trung vào một chủ đề duy nhất: “Ơn Gọi”, hay đúng hơn: “Ơn Thiên Triệu”.
Is 6: 1-2a, 3-8
Trong Bài Đọc I, ngôn sứ I-sai-a thuật lại ơn gọi ngôn sứ của mình từ một thị kiến uy nghi hùng vĩ xảy ra trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, vào năm 740 trước Công Nguyên.
1Cr 15: 1-11
Trong đoạn trích thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô nhắc lại ơn gọi đặc biệt mà thánh nhân đã lãnh nhận từ chính Chúa Ki-tô Phục Sinh. Ngài đã biến đổi thánh nhân từ một kẻ bách đạo cuồng tín trở thành một Tông Đồ nhiệt thành loan báo Tin Mừng.
Lc 5: 1-11
Thánh Lu-ca thuật lại câu chuyện về ơn gọi của các môn đệ tiên khởi: ngay liền sau Mẻ cá kỳ diệu, thánh Phê-rô, thánh Gia-cô-bê và thánh Gioan đáp trả lời mời gọi của Chúa Giê-su, họ từ bỏ mọi sự mà cất bước đi theo Ngài.
BÀI ĐỌC I (Is 6: 1-2a, 3-8)
Chúa Nhật vừa qua chúng ta đã đọc bài tường thuật về ơn gọi của ngôn sứ Giê-rê-mi-a; Chúa Nhật này, chúng ta đọc ơn gọi của ngôn sứ I-sai-a. Hai bài tường thuật được viết theo văn phong rất khác nhau và hai phản ứng của hai vị ngôn sứ này cũng đối lập với nhau. Nét đặc trưng của ơn gọi ngôn sứ Giê-rê-mi-a là bầu khí thân tình lòng bên lòng với Thiên Chúa, trong khi ơn gọi của ngôn sứ I-sai-a được định vị vào một thị kiến uy nghiêm hùng vĩ trong một cuộc thần hiển. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a không hề run sợ trước Thiên Chúa, nhưng lại sợ hãi khi phải đối đầu với con người. Trái lại, ngôn sứ I-sai-a run sợ trước vẻ uy nghi cao cả của Thiên Chúa và tự nguyện xin Chúa sai mình đi thi hành sứ vụ của Ngài cho con người.
Xem ra ngôn sứ I-sai-a xuất thân từ một gia đình thế giá ở Giê-ru-sa-lem và có mối quan hệ gần gũi với giai cấp lãnh đạo. Những người mà ông có sứ mạng chuyển giao sứ điệp là vua và các triều thần ở chốn cung đình. Ơn gọi của ngôn sứ I-xai-a được định vị vào “năm vua Út-di-gia-hu băng hà”. Vua Út-di-gia-hu là vị vua bất hạnh của vương quốc Giu-đa. Vào cuối triều đại hạnh phúc và thịnh vượng, vua bị bệnh cùi và qua đời năm 740 trước Công Nguyên.
1. Thị kiến khai mạc:
I-sai-a sinh vào năm 765 trước Công Nguyên. Vào khoảng 25 tuổi, ông đón nhận thị kiến ở Đền Thánh Giê-ru-sa-lem, trong những giờ phút xuất thần hay trong một buổi phụng vụ. Dù thế nào, ông đón nhận một mặc khải về tính siêu việt và sự thánh thiện của Thiên Chúa đến nổi làm xáo động tâm trí của ông. Ngay liền sau đó, ông trở thành vị ngôn sứ của Thiên Chúa ngàn trùng chí thánh.
Cuộc thần hiển được diễn tả theo hình tượng truyền thống: đất rung chuyển, khói tỏa mù mịt, như ở trên núi Xi-nai trong Cựu Ước hay như ở Nhà Tiệc Ly vào ngày lễ Ngũ Tuần trong Tân Ước. Đền Thờ Giê-ru-sa-lem đã là nơi Thiên Chúa ngự giữa cõi thế. Đức Chúa tỏ mình ra cho ông I-sai-a như một vị vua quyền năng mà sự uy nghi cao cả của Ngài bao phủ đền thánh, có các thần Xê-ra-phim hộ giá. Các thần này tung hô: “Thánh! Thánh! Chí Thánh! Đức Chúa các đạo binh là Đấng Thánh! Cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa!”. Đây là lời tung hô “ba lần thánh”, nghĩa là, cực thánh hay ngàn trùng chí thánh, xem ra được dùng trong phụng vụ rồi. I-sai-a hiểu lời tung hô này và sẽ đặt nó vào trọng tâm sứ điệp của mình. Ông sẽ gọi Đức Chúa là “Đấng Thánh của Ít-ra-en”.
2. Sự khiêm hạ của con người và lòng xót thương của Thiên Chúa:
I-sai-a nhận ra ngay sự bất xứng của mình nên thốt lên: “Khốn thân tôi, tôi chết mất! Vì tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế, thế mà mắt tôi đã thấy Đức Vua là Đức Chúa các đạo binh!”. Với lời thú nhận đầy khiêm hạ này, Đức Chúa đáp trả bằng lòng xót thương; Ngài sai một trong các thần Xê-ra-phim, tay cầm một hòn than hồng trên bàn Hương Án và thanh tẩy môi miệng ô uế của vị ngôn sứ tương lai: “Đây, cái này đã chạm vào đến môi ngươi, ngươi đã được tha tội và xá tội”, để ông có thể xứng đáng là sứ giả của Ngài, người được Chúa sai đi truyền đạt Lời Chúa cho con người.
3. Ơn gọi:
Đức Chúa đã bày tỏ sự siêu việt của Ngài nhưng cũng sự hào hiệp của Ngài. Trước tiếng gọi của Thiên Chúa: “Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng ta?”, I-sai-a vào lúc đó mới 25 tuổi đời mau mắn đáp trả không một chút đắn đo suy nghĩ: “Dạ, con đây, xin sai con đi”. Cảm thấy mình có liên đới với dân này, “một dân môi miệng ô uế”, I-xai-a sẽ là sứ giả của Thiên Chúa cho họ. Trong Tân Ước, thánh Phê-rô, thánh Gia-cô-bê và thánh Gioan sau Mẻ cá kỳ diệu, sau này thánh Phao-lô sau thị kiến về Đấng Phục Sinh trên đường đi Đa-mát, đã không thể nào cưỡng kháng lại trước tiếng gọi của Chúa Ki tô.
BÀI ĐỌC II (1Cr 15: 1-11)
Chúng ta tiếp đọc thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô.
1. Hai điều lợi ích:
Đoạn trích hôm nay cho chúng ta hai điều lợi ích. Điều lợi ích thứ nhất đó là thánh Phao-lô biện minh phẩm chất Tông Đồ của mình, vì thánh nhân đã lãnh nhận ơn gọi của mình từ chính Chúa Ki-tô. Điều lợi ích thứ hai rất nổi tiếng: bản văn này là lời tuyên xưng đức tin về giá trị cứu độ của cái chết Đức Ki tô và một lời khẳng định quý báu về cuộc Phục Sinh, kèm theo danh sách của tất cả những chứng nhân đã thấy Đấng Phục Sinh, danh sách mà chỉ một mình thánh Phao-lô cho đầy đủ nhất. Các tác giả Tin Mừng không nói đến việc Chúa Ki tô hiện ra cho năm trăm người, cũng không nói đến việc Ngài hiện ra cho ông Gia-cô-bê, người anh em họ của Chúa Giê-su, người đảm nhận trách nhiệm của Cộng Đoàn Giê-ru-sa-lem. Trong danh sách này, thánh Phao-lô cũng kể ra việc Chúa Giê-su hiện ra cho tất cả các Tông Đồ. Thuật ngữ “Tông Đồ” ở đây rõ ràng phải được hiểu theo nghĩa rất rộng, bởi vì Nhóm Mười Hai được trích dẫn trước đó.
Chúng ta ghi nhận rằng thánh Phao-lô đặt cuộc xuất hiện của Chúa Ki-tô mà thánh nhân đã được thụ hưởng trên đường đi Đa-mát trên cùng một bình diện với những lần xuất hiện của Chúa Ki-tô giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Thăng Thiên. Ở đây chúng ta chỉ dừng lại ở nơi ơn gọi của thánh Phao-lô mà chủ đề phụng vụ Lời Chúa hôm nay muốn hướng đến.
2. Ơn gọi của thánh Phao-lô:
Như ngôn sứ I-sai-a, thánh Phao-lô đã bị Thiên Chúa bắt lấy. Thánh nhân đã có một thị kiến về Đức Ki-tô Phục Sinh, Ngài tỏ mình ra trong một luồng ánh sáng rực rỡ khiến thánh nhân ngã xuống đất. Kẻ trước đây đã cuồng tín ra tay bắt hại các người Ki-tô hữu, bây giờ thú nhận là mình bất xứng: “Tôi là kẻ hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa”. Nhưng giống như I-sai-a, thánh Phao-lô đã được tha thứ và được gọi đích thân: “Nhưng tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu”. Chúng ta nhận ra tâm hồn của vị Tông Đồ này: một sự trộn lẫn thường hằng giữa sự khiêm tốn và sự tự hào hãnh diện.
3. Thánh Phao-lô biện minh ơn gọi Tông Đồ của mình:
Thánh Phao-lô có nhiều lý do để mà biện minh ơn gọi của mình. Trong số những tín hữu Cô-rin-tô, vài người bác bỏ tước hiệu Tông Đồ của thánh nhân và buộc tội thánh nhân là huênh hoang tự đắc.
Ở đầu thư, thánh Phao-lô tự giới thiệu mình: “Tôi là Phao-lô, bởi ý Thiên Chúa được gọi làm Tông Đồ của Đức Giê-su Ki tô” (1Cr 1: 1). Như vậy, ngay từ đầu thư, các tín hữu Cô-rin-tô được báo trước rằng vị rao giảng của họ đòi hỏi tính chính danh ơn gọi Tông Đồ của mình. Sự đòi hỏi này được lập lại xa hơn một chút: “Tôi không phải là tông đồ ư? Tôi đã không thấy Đức Giê-su, Chúa chúng ta sao? Anh em không phải là công trình của tôi trong Chúa sao? Nếu đối với những người khác tôi không phải là tông đồ, thì ít ra đối với anh em tôi là tông đồ, vì ấn tín chứng thực chức vụ tông đồ của tôi trong Chúa chính là anh em” (9: 1-2).
Đoạn văn mà chúng ta đọc hôm nay được định vị vào cuối thư, vì thế, đây là lời thánh Phao-lô nhắc lại lần thứ ba về tính chất đặc thù của ơn gọi mình: chính Đức Ki-tô đã đích thân ủy thác sứ vụ tông đồ cho thánh nhân, chứ không có bất kỳ trung gian phàm nhân nào.
TIN MỪNG (Lc 5: 1-11)
Xem ra khi viết đoạn Tin Mừng này, thánh Lu-ca vận dụng cùng một phương pháp văn chương mà thánh ký đã sử dụng rồi trong bài tường thuật “Chúa Giê-su viếng thăm Na-da-rét”: tập hợp lại những sự kiện nối tiếp nhau thành một bài trình thuật duy nhất trong cùng một khung cảnh, để tránh những lập lại và để câu chuyện trở nên sống động hơn, thậm chí kịch tính hơn. Bài trình thuật này là “một bức tranh có ba cảnh” nối tiếp nhau:
- Chúa Giê-su rao giảng trên bờ hồ Ghen-nê-xa-rét (5: 1-3).
- Mẻ cá kỳ diệu (5: 4-7).
- Ơn gọi của các môn đệ đầu tiên (5: 8-11).
1. Chúa Giê-su rao giảng bên bờ hồ (5: 1-3):
Theo Tin Mừng Lu-ca, trước đây Đức Giê-su chọn các hội đường để truyền đạt đạo lý của Ngài cho dân chúng, giờ đây Ngài chọn bờ hồ Ghen-nê-xa-rét làm khung cảnh cho lời rao giảng của Ngài. Trong cùng câu chuyện này của thánh Mác-cô (Mc 1: 16-20), Chúa Giê-su chưa ban cho ông Si-mon một tên mới là Phê-rô; chỉ sau này Ngài sẽ cho ông tên mới này vào lúc Ngài chọn Nhóm Mười Hai (Mc 6: 14). Nhưng ngay trong câu chuyện của thánh Lu-ca, Chúa Giê-su chỉ định trước người ngư phủ miền Ga-li-lê này sẽ là thủ lãnh của Giáo Hội Ngài qua tên kép “ông Si-mon Phê-rô”. Như vậy, câu chuyện của thánh Lu-ca mang đậm nét viễn cảnh Giáo Hội hơn câu chuyện của thánh Mác-cô.
Trong hai con chuyền neo đậu ở đó, Chúa Giê-su chọn thuyền của ông Si-mon, “từ trên thuyền này Người giảng dạy đám đông”. Đây không phải là một sự tình cờ. Hình ảnh con thuyền Giáo Hội được thánh Phê-rô lèo lái đã trở thành kinh điển kể từ Giáo Phụ Tết-tu-li-a-nô và thánh Giáo Phụ Âu-gút-ti-nô; hình ảnh này xem ra tiềm ẩn ở nơi đoạn Tin Mừng này rồi. Đối với các Giáo Phụ, hình ảnh này là một biểu tượng kinh điển về Giáo Hội lữ hành trên trần thế, như lời giải thích của thánh Am-rô-si-ô: “Đây là con thuyền mà theo thánh Mát-thêu đang có nguy cơ bị chìm và theo thánh Lu-ca thì đầy cá. Ở đây chúng ta có thể thấy những bước khởi đầu đầy khó khăn của Giáo Hội và những thành quả sau này của nó” (St Ambrose, Expositio evangelii sec. Lucam, in loc.). Đức Ki-tô bước vào thuyền của thánh Phê-rô để giảng dạy đám đông dân chúng – và từ con thuyền của thánh Phê-rô, tức Giáo Hội, Ngài vẫn tiếp tục giảng dạy toàn thể thế giới.
2. Mẻ cá kỳ diệu (5: 4-7).
Mẻ cá kỳ diệu được thánh Lu-ca thuật lại ở đây, một tình tiết mà thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu không biết. Chúng ta cũng gặp thấy Mẻ cá kỳ diệu này ở trong phần phụ chương của Tin Mừng Gioan (ch. 21), nhưng được đinh vị sau biến cố Phục Sinh. Có thể chỉ có một biến cố duy nhất, nhưng chúng ta không còn biết rõ biến cố này được định vị vào lúc nào. Điều này cho thấy mỗi tác giả Tin Mừng có quan điểm thần học khác nhau về cùng một biến cố.
Sau khi rao giảng cho đám đông dân chúng, Chúa Giê-su đòi hỏi thánh Phê-rô một hành vi đức tin. Đối với một ngư phủ chuyên nghề đánh cá trên biển Hồ, đêm là thời gian thuận tiện để ra khơi thả lưới bắt cá, chứ không phải ban ngày. Ấy vậy, Chúa Giê-su lại bảo ông Si-mon: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”. Dựa trên kinh nghiệm nghề nghiệp của mình, ông Si-mon nhấn mạnh sự phi lý của sự đòi hỏi này: “Thưa Thầy, chúng tôi vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả”; tuy nhiên, đức tin của ông mách bảo ông chấp nhận sự thách đố này: “Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. Đối với đức tin, điều không thể lại có thể. Một mẽ lưới đầy cá đến nổi họ phải ra hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền khác, là Gia-cô-bê và Gioan, đến giúp.
Chúng ta ghi nhận rằng ông An-rê, anh của ông Si-mon, không được kể ra. Tuy nhiên thánh Lu-ca dùng số nhiều: “Họ đã làm như vậy, và bắt được nhiều cá”, khi nói về những người bạn đồng nghiệp cùng ở với ông Si-mon. Sở dĩ không nêu tên thánh An-rê ở đây, thánh Luca nghĩ đến bộ ba: thánh Phê-rô, thánh Gia-cô-bê và thánh Gioan, bộ ba này sẽ được liên kết với Chúa Giê-su một cách đặc biệt hơn các Tông Đồ khác: chỉ ba người môn đệ này sẽ được diễm phúc chứng kiến việc Chúa phục sinh con gái của ông trưởng hội đường (Lc 8: 51), biến cố Chúa Giê-su biến hình trên núi (Lc 9: 28), và cơn hấp hối của Ngài trong vườn Ô-liu (Mc 14: 33). Thật đáng ghi nhận rằng Chúa Giê-su vẫn tôn trọng tình bạn đồng nghiệp của họ trong suốt cuộc đời thi hành sứ vụ của Ngài; tuy nhiên, ba người môn đệ này sẽ là cột trụ của Giáo Hội tiên khởi. Sự cộng tác của tất cả họ vào Mẻ cá kỳ diệu này phác họa sứ vụ của Giáo Hội tương lai rồi.
3. Ơn gọi của các môn đệ đầu tiên (5: 8-11).
Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều trình thuật “ơn gọi của các môn đệ tiên khởi” trong cùng một khung cảnh bên bờ hồ. Trong khi họ đang làm công việc hằng ngày của những ngư phủ: thánh Phê-rô và thánh An-rê đang quăng lưới đánh cá, còn thánh Gioan và thánh Gia-cô-bê thì đang vá lưới ở trong thuyền, Chúa Giê-su gọi họ: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”. Trước tiếng gọi của Chúa Giê-su, không một chút đắn đo suy tính hơn thiệt, họ mau mắn đáp trả bằng thái độ dứt khoát: lập tức họ bỏ tất cả mà đi theo Ngài. Hoạt cảnh thật giản dị nhưng thật cảm động.
Nét độc đáo của thánh Lu-ca là liên kết câu chuyện về ơn gọi của các môn đệ tiên khởi với Mẻ cá kỳ diệu. Khi làm như thế, thánh Lu-ca làm cho câu chuyện nầy thêm phần kịch tính hơn. Các môn đệ tương lai xem ra không thể cưỡng lại trước Đức Giê-su, một nhà phép thuật thần thông hơn là một nhà giảng thuyết lưu động, cho dù họ không tách biệt quá rõ nét hai khía cạnh hấp dẫn này ở nơi con người Đức Giê-su. Thánh Phê-rô phản ứng như ngôn sứ I-sai-a khi thánh nhân bày tỏ một khoảng cách tách biệt giữa phàm nhân tội lỗi và Thiên Chúa thánh thiện: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!”. Như trong câu chuyện ơn gọi của vị ngôn sứ I-sai-a, lòng xót thương của Thiên Chúa đáp trả sự khiêm tốn của vị ngôn sứ, Chúa Giê-su cũng trấn an thánh Phê-rô: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta”. Chính con người mà thánh nhân có sứ mạng thu phục. Trong viễn cảnh của sứ mạng này, bờ hồ Ghen-nê-xa-rét mờ nhạt trước một thế giới bao la đang chờ đợi Tin Mừng thu phục.
Một bức tranh ba cảnh của thánh Lu-ca có một sự duy nhất thật thấm thía: trên phong nền của toàn cảnh nổi bật một viễn cảnh về Giáo Hội phổ quát.
33. Yếu đuối và sức mạnh--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
(Viết theo “Bài giảng Tĩnh Tâm Linh Mục GP Phan Thiết 2010”, ĐGM. Giuse Võ Đức Minh).
Đọc lại trình thuật ơn gọi các Ngôn sứ lớn trong Cựu ước, ta sẽ thấy các ngài luôn ý thức sự thấp hèn bất xứng của mình.
- Môisen: người chăn cừu cho nhạc phụ Yethrô. Có một lần ông lùa đàn cừu tận núi Khoreb, bỗng nhiên ông nhìn thấy một quang cảnh hùng vĩ: Bụi gai bốc cháy mà không bị thiêu rụi. Bị cuốn hút trong khung cảnh hùng vĩ ấy, ông chạy đến để nhìn xem. Khi ông tới gần, một tiếng nói uy nghiêm từ bụi gai tuyên phán: Chớ lại gần, cởi dép ra vì đất ngươi đang đứng là Đất Thánh. Rồi Chúa gọi Môisen nhưng ông ngại ngùng thoái thác: “Lạy Chúa, tôi là ai mà dám đối đầu với Pharaon …Từ xưa tới giờ, tôi đâu có lợi khẩu, tôi chỉ là một đứa nói cà lăm… Vì thế, lạy Chúa, Chúa muốn chọn ai thì chọn, sai ai thì sai, nhưng xin tha cho tôi” (Xh 3,11;4,13). Chúa thuyết phục Môisen “cứ yên tâm! Ta sẽ ở với ngươi, cho ngươi làm phép lạ, tài ăn nói và cho cả Aaron nói thay ngươi”. Môisen đã nhận lời nhưng vẫn run sợ sứ vụ cao cả Chúa trao.
- Isaia đã kể lại ơn gọi của mình: Trong một thị kiến đã nhìn thấy Đức Chúa trong một khung cảnh huy hoàng của Đền thờ. Các Thiên Thần tung hô “Thánh! Thánh! Thánh! ĐỨC CHÚA đạo binh là Đấng Thánh! Cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa!”.Tôi thốt lên với tất cả nổi kinh sợ: “Khốn cho tôi, tôi chết mất! Vì tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế, thế mà mắt tôi đã thấy Đức Vua là ĐỨC CHÚA các đạo binh!”. Một trong các thần Xê-ra-phim bay về phía tôi, tay cầm một hòn than hồng người đã dùng cặp mà gắp từ trên bàn thờ. Người đưa hòn than vào ấy chạm vào miệng tôi và nói: “Đây, cái này đã chạm đến môi ngươi, ngươi đã được tha lỗi và xá tội”. Bấy giờ tôi nghe tiếng Chúa Thượng phán; “Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng ta?” Tôi thưa: “dạ con đây, xin sai con đi” (Is 6,1-8).
- Giêrêmia cũng kể về việc Chúa gọi ông: Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng: “ Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho dân”. Nhưng tôi thưa: “Ôi! Lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, con đây còn quá trẻ, con không biết ăn nói!”. ĐỨC CHÚA phán với tôi: “Đừng nói ngươi còn trẻ! Ta sai ngươi đi đâu ngươi cứ đi; Ta truyền cho ngươi nói gì, ngươi cứ nói. Đừng sợ chúng, vì Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi”. Rồi ĐỨC CHÚA giơ tay chạm vào miệng tôi và phán: “Đây Ta đặt lời Ta vào miệng ngươi. Coi, hôm nay Ta đặt ngươi đứng đầu các dân các nước, để nhổ, để lật, để huỷ, để phá, để xây, để trồng.” (Gr 1,4-10).
Các Ngôn sứ luôn có tâm trạng kinh hãi đến run sợ trước sứ vụ Thiên Chúa trao. Tại sao phải kinh khiếp và run sợ như vậy? Nổi run sợ phát xuất từ cảm nhận cùng một lúc sự thánh thiện tuyệt đối của Thiên Chúa và thân phận tội lỗi của mình. Cảm nhận khoảng cách tuyệt đối giữa Thiên Chúa Chí Thánh và con người yếu đuối; giữa sứ vụ trọng đại và thân phận hèn mọn bé bỏng của mình.Ý thức khoảng cách ấy làm cho con người ta run sợ.
Và trang Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng thuật lại, ngư phủ Simon run sợ, cảm nhận sự thấp hèn trước Thiên Chúa chí thánh. Thấy mẻ cá lạ lùng, Simon Phêrô đã sấp mặt dưới chân Đức Giêsu và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi! ” (Lc 5,8). Chúa đã chọn Phêrô: Đừng sợ, từ nay anh sẽ bắt người như bắt cá. Thế rồi: Họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người.
Từ ngày theo Chúa, cuộc đời của Phêrô có nhiều sôi nổi, có nhiều lỗi lầm, nhiều va vấp và nhiều yếu đuối. Cho đến khi xác tín ba lần: “Thưa Thầy, thầy biết là con yêu mến Thầy” thì bình minh đã rửa tội quá khứ để rồi Phêrô viết nên một thiên anh hùng ca cho Giáo hội sơ khai, rao giảng, làm chứng và chết cho Chúa Giêsu.
Thánh Phêrô làm nghề chài lưới (x. Mt 4,18), tên là Simon, con ông Gioan và là anh em với Anrê (x. Ga 1,40.42). Sinh tại Bétxaiđa (x. Ga 1,44), nhưng thường trú tại Caphácnaum (x. Mc 1,29). Ong đã có gia đình riêng và Tin Mừng nói đến mẹ vợ của ông (x. Lc 4,38). Simon được Đức Giêsu đổi tên thành Phêrô (x. Mt 16,18), và được đặt làm đầu của Nhóm 12 Tông Đồ (x. Mt 10,2). Ong thường đại diện các tông đồ lên tiếng trả lời các câu hỏi của Đức Giêsu (x. Lc 5,3-10; Ga 6,68). Phêrô đã sai lỗi chối Thầy ba lần (x. Mc 14,30) và nhiều lần khác bị Đức Giêsu quở trách vì đã có quan điểm lệch lạc về chương trình cứu thế của Đức Giêsu (x. Mt 16,23; Ga 13,8-10). Nhưng ông đã khiêm tốn hồi tâm sám hối (x. Mt 26,69-75), và đã tuyên xưng lòng yêu mến Thầy, nên đã được tha tội và còn được trao nhiệm vụ lãnh đạo đoàn chiên (x. Ga 21,15-17). Tại thành Xêdarê Philipphê, Simon đã tuyên xưng đức tin và đã được Đức Giêsu đổi tên thành Phêrô và còn được trao tối thượng quyền (x. Mt 16,18-19). Ông cũng được Đức Giêsu hứa sẽ cầu nguyện để ông luôn kiên vững đức tin để chu toàn nhiệm vụ củng cố đức tin cho các anh em (x. Lc 22,32). Ong là một trong ba môn đệ thân tín được xem Người biến hình (x. Mt 17,1), chứng kiến phép lạ một bé gái mới chết được sống lại (x. Mc 5,37) và có mặt khi Đức Giêsu hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-ni (x. Mt 26,37). Trong ngày Chúa Phục Sinh, Phêrô và Gioan đã cùng nhau chạy ra mồ khi nghe Maria Mácđala báo tin xác Thầy bị đánh cắp (x. Ga 20,1-9). Phêrô cũng được Chúa Phục Sinh hiện ra cách riêng (x. Lc 24,34). Sau khi Chúa về trời, Phêrô có mặt trong nhà tiệc ly để xin Chúa Thánh Thần hiện xuống (x. Cv 1,14). Trong những ngày ấy, Phêrô tổ chức cuộc tuyển chọn Mátthia bổ xung vào Nhóm Mười Hai thay chỗ của Giuđa phản bội (x. Cv 1,26).Vào lễ Ngũ Tuần, sau khi được ơn Thánh Thần, Phêrô đã bắt đầu rao giảng Tin Mừng (x. Cv 2,14-36). Nhờ Thánh Thần tác động mà người nghe dù thuộc nhiều dân tộc và ngôn ngữ khác nhau, vẫn hiểu được bài giảng của Phêrô giống như được nghe bằng tiếng mẹ đẻ của mình (Cv 2,5-8). Ngày hôm ấy đã có tới 3.000 người xin theo đạo. Họ được chịu phép Rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô để được ơn tha tội và nhận ân huệ là Thánh Thần (x. Cv 2,37-38.41). từ đây, Phêrô lãnh đạo cộng đoàn Giêrusalem mới thành hình. Ông rảo khắp nơi để đi thăm các giáo đoàn như tại Lốt (x. Cv 9,32), làm nhiều phép lạ (x. Cv 9,33-35.40-41). Ong là người đầu tiên đã làm phép Rửa cho gia đình Conêliô ngoại giáo mà không bắt họ phải chịu phép Cắt Bì trước (x. Cv 10,47-48). Trong Công Đồng Giêrusalem vào năm 49, Phêrô ủng hộ Phaolô và Banaba và cùng quyết định chung là: Không buộc dân ngoại phải chịu phép Cắt Bì trước khi chịu phép Rửa để gia nhập đạo Công Giáo, mà chỉ cần họ kiêng ăn đồ cúng thần, kiêng ăn tiết, kiêng thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm (x. Cv 15,28-28). Sau đó Phêrô đến Rôma và đã bị án tử hình thập giá vào năm 64 trong cuộc bắt đạo dưới thời hoàng đế Nêrông.
Ân sủng của Chúa thật kỳ diệu trong cuộc đời Thánh Phêrô và cả chúng ta nữa. Chiêm ngắm cuộc đời thánh nhân qua các đặc điểm.
Người môn đệ đi theo Chúa.
Yếu tố đầu tiên mà thánh Phêrô có thể nói với chúng ta đó là sự từ bỏ. Không thể đi theo Chúa nếu không có sự từ bỏ. Luôn có cái gì đó để từ bỏ với mỗi thời gian với mỗi tuổi đời.
Vậy thánh Phêrô đã có cái gì để từ bỏ? Điều lạ lùng hết sức mà sau này khoa khảo cổ bên thánh địa đã khai quật lên cơ ngơi của thánh Phêrô. Ngôi nhà của thánh Phêrô kế bên hồ Tiberia, một cơ ngơi rất lớn đến nỗi nhìn vào chúng ta phải giật mình. Theo những chuyên viên về khảo cổ thì thánh Phêrô là người rất giàu có, có những đội thuyền, có gia sản, sự nghiệp và ngay cả có người để yêu, đó là người vợ của ngài. Theo Chúa là từ bỏ. Từ bỏ những gì mà đối với thế gian là gắn bó hết sức. Từ bỏ gia sản, của cải, danh vọng, từ bỏ ngay cả tình yêu chính đáng của mình để đi theo Chúa Giêsu. Sự từ bỏ này đưa Phêrô tới một hồng phúc rất lớn lao đó là yêu mến Chúa Giêsu. Từ bỏ để yêu mến. Nếu chúng ta nhìn lại tư cách môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta có thể nói hai đặc điểm nổi bật đó. Phêrô luôn luôn phải từ bỏ. Nếu được phép nhìn lại môi trường hoạt động của Chúa Giêsu ở vùng Galilê, loanh quanh ở vùng Caphanaum, vậy Chúa ăn ở chỗ nào? Rất có thể là Chúa ở nhà Phêrô, nơi tiếp đón Chúa Giêsu và các môn đệ thời bấy giờ. Rồi giả như Phêrô chỉ một lần rời bỏ cơ ngơi của mình để theo Chúa thì lúc đầu chắc cũng xao xuyến, đau đớn nhưng sau đó thì yên thân. Còn đàng này đi xong lại trở về lại nhà của mình. Có thêm sự nghiệp rồi Chúa lại ra đi và Phêrô lại theo Chúa ra đi. Cho nên nhìn vào cuộc đời của Phêrô, tôi nghĩ rằng, cái sâu xa nhất của Phêrô trong tư cách là môn đệ là liên lỉ từ bỏ nếu không dám nói là từng ngày. Phêrô có rất nhiều điều để từ bỏ hầu có thể theo Chúa Giêsu và khi đã yêu mến Chúa Giêsu Phêrô bộc lộ sự gắn bó của mình lạ lùng hết sức. Có khi chúng ta có cảm tưởng Phêrô giống như một em bé bên cạnh bà mẹ yêu dấu của mình, bất cứ phản ứng gì Phêrô cũng bộc lộ và nói chuyện với Chúa, tâm sự với Chúa và ngay cả những điều thô thiển Phêrô không ngần ngại nói ra với Chúa ở giữa đám đông.
Nếu không vì lòng yêu mến, nếu không có một tâm hồn trẻ thơ mà còn giữ kẽ với Thầy của mình thì không bao giờ dám nói. Ngay cả câu chuyện này tôi thấy thương Phêrô hết sức. Tại Xêdarê Philipphê, Chúa Giêsu hỏi: Người ta bảo Con Người là ai? Người thì nói Thầy là Êlia, người thì nói là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó. Còn chúng con, chúng con nói Thầy là ai? Phêrô thay mặt anh em mình: "Thưa Thầy, Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống". Và Chúa Giêsu nói ngay: Này Phêrô không phải tự sức con có thể nói được điều đó, bởi nếu tự sức con, con chỉ có thể nói như tất cả những người bình thường khác. Nhưng nếu con có thể nói Thầy là Đấng Kitô, con hãy nhớ rằng Cha trên trời đã ban cho con ơn đó. Cha trên trời đã đổ đầy Thánh Thần cho con, vì không ai có thể gọi Thầy là Kitô nếu không có ơn của Chúa Thánh Thần. Con hãy nhớ điều đó.
Tất cả những ai tin Đức Giêsu là Đấng Kitô thì mới có thể trung thành đi theo Đức Kitô, còn ai chỉ nghĩ Ngài là một tiên tri, nghĩ Ngài là một vị anh hùng thì chỉ theo Ngài được một thời gian thôi. Hai môn đệ Emmau cũng như thế. Khi buồn bã rời Giêrusalem về Emmau. Người lữ khách hỏi họ: “Tại sao buồn vậy?” Tại ông Giêsu Nazaret mà chúng tôi tin là Đấng tiên tri, nhưng đã bị người ta giết chết. Đức Giêsu mới nói “Sao lại chậm tin?”. Rồi Ngài dùng Thánh kinh để giải thích cho họ biết Đức Giêsu Nazaret là Đấng Kitô, Đấng Thiên Chúa xức dầu, đã đến thế gian để thi hành sứ mạng. Nếu không tin Đức Giêsu là Đấng Kitô thì rõ ràng không thể trung thành đi theo Chúa. Phêrô đã tuyên xưng điều đó. Rồi Chúa Giêsu đã bộc lộ sứ mạng của Đấng Kitô là phải lên Giêrusalem, chịu nạn, chịu chết, ngày thứ ba sống lại. Phêrô yêu mến Chúa, gắn bó với Chúa, thủ thỉ với Chúa và can ngăn Người, bởi nếu Chúa chết là hết. Vậy mà Chúa Giêsu quay lại trước mặt anh em và mắng Phêrô: Xéo đi Satan! Chúa nói công khai. Trong đời có vị tông đồ nào bị mắng như thế, kể cả Giuđa bị mang tiếng là Satan. Phêrô hiểu được rằng đã là môn đệ đi theo Chúa thì không được đi trước mặt Chúa. Đây là cốt lõi của vấn đề cuộc hành trình người môn đệ. Phêrô cản Chúa nghĩa là muốn đi trước Chúa. Phêrô không thể mở đường vào ơn cứu độ. Phêrô phải đi sau lưng để Chúa đi trước. Người môn đệ đi sau Thầy của mình, người môn đệ đặt vết chân của mình vào dấu chân của Thầy, người môn đệ không lớn hơn Thầy của mình. Bài học này Phêrô hiểu hết sức là thấm thía. Từ bỏ để yêu mến, yêu mến để đi theo. Và chính vì thế những gì Chúa Giêsu làm Phêrô học lấy và rao truyền lại cho mọi người. Phêrô trong tư cách là môn đệ cho chúng ta thấy rằng đi vào trường phái của Chúa Giêsu sẽ mãi mãi là người môn đệ chứ không bao giờ ra trường đâu. Ở học viện này học viện kia khi ra trường có khi người học trò còn hơn Thầy của mình. Còn trong mái trường của Chúa Giêsu người môn đệ sẽ mãi là người môn đệ. Kinh nghiệm của Phêrô soi sáng cho chúng ta để rồi trong cuộc sống của chính mình, dù có thành đạt đến mức nào đi nữa, dù có nổi tiếng đến mức nào đi nữa, thì mình vẫn đi sau lưng Chúa Giêsu. Chúa đi trước mình theo sau.
Người môn đệ yếu đuối và vấp ngã.
Kinh nghiệm của Phêrô soi sáng cho chúng ta hình ảnh người môn đệ yếu đuối và vấp ngã. Thường tình khi nói về một vị thánh, người ta thường nói những điểm tốt nhất, tích cực nhất, anh hùng nhất để ca ngợi. Còn về Phêrô, nếu đọc kỹ Thánh kinh sẽ thấy lạ lùng. Phêrô có nhiều giới hạn, nhiều khuyết điểm và thậm chí rất nhiều vấp ngã.
Suy nghĩ về điều này, nếu chúng ta hỏi thánh Phêrô: Thầy là Đấng điều khiển Hội Thánh sơ khai, biết bao nhiêu áng văn chương Tân ước hình thành, thể hiện lòng kính trọng của các tông đồ trong Hội Thánh sơ khai đối với Thầy, sao lại ghi chép những chi tiết cho đời sau có thể hiểu những yếu đuối những vấp ngã như vậy? Chắc chắn thánh Phêrô sẽ nói rằng: điều đó để cho Chúa được lớn lên. Nếu Thầy có công trạng gì thì người ta sẽ khen Thầy, còn đàng này Thầy không là gì, con người của Thầy là như thế. Chúa đã chọn Thầy ở giữa những con người tầm thường hết sức. Chúa không thay đổi sự tầm thường của Thầy, nhưng xuyên qua sự tầm thường của Thầy Chúa trao ban kho tàng vô giá. Thấm thía điều đó nên sau này một người bạn của Thầy là Phaolô đã nói: “Tôi chỉ là chiếc bình sành dễ vỡ trong khi tôi được chứa đựng kho tàng vô giá là Đức Giêsu Kitô”.
Vậy những yếu đuối và vấp ngã của thánh Phêrô cho chúng ta thấy nền tảng, một nền tảng bị vấp váp rất nhiều vì Phêrô không vựơt qua lập tức được con người tự nhiên của mình là háo danh và tự phụ. Vì Phêrô là con người thành đạt, là con người nổi tiếng nên Chúa đã uốn nắn con người của Phêrô. Nếu như dựa trên sức lực, tiền bạc, uy tín thì Phêrô có thể thành đạt trong một thời gian nhất định, với những con người nhất định mà thôi. Nhưng nếu qua thời gian, vượt không gian mà danh tiếng của Phêrô vẫn trường tồn mãi mãi như chúng ta thấy ngày hôm nay. Điều này để thấy rằng, xuyên qua yếu đuối và vấp ngã, Chúa nâng đỡ Phêrô, tha thứ cho Phêrô. Một con người cần người khác nâng đỡ thì họ không bao giờ quá tự tin. Một con người cần lãnh nhận ơn tha thứ thì sẽ dễ dàng nói lời tha thứ với những người xung quanh, dễ cảm thông với người thất bại.
Cùng học nơi thánh Phêrô để chúng ta trở nên sứ giả đem lại ơn giao hòa, lòng thương xót, ơn tha thứ, sự cảm thông với biết bao nhiêu người quanh mình. Không yếu đuối không cảm thông. Không phạm tội thì không thể nào hiểu được niềm hạnh phúc của con người được tha thứ. Nói như thế không có nghĩa là nên phạm tội. Tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm đó. Thánh Phaolô nói rằng: “Điều phải làm tôi lại không làm, điều phải tránh tôi lại làm”. Nếu không suy niệm kinh nghiệm yếu đuối và vấp ngã của Phêrô có lẽ chúng ta đều trở nên những quan tòa.
Khi tin rằng mình vững vàng mà quên ơn Chúa thì có thể vấp ngã. Đêm tiệc ly, Chúa Giêsu nói “Đêm nay chúng con sẽ bỏ Thầy mà đi hết”. Mọi môn đệ khác im lặng lắng nghe run sợ, còn Phêrô gần như vỗ ngực để thưa với Chúa rằng: “Thà chết không bỏ Thầy, con sẵn sàng liều chết với Thầy”. Chúa nói: “Đêm nay trước khi gà gáy, con sẽ chối Thầy ba lần”. Phêrô tự phụ: “Người khác chối chứ làm sao con chối Thầy được”. Câu nói của Chúa lạ lùng lắm, đêm nay gà phải gáy và nó sẽ câm đi nếu con không chối, chối rồi nó mới gáy, nếu con không chối thì nó phải câm. Cho nên đứng về khía cạnh đó của Phêrô, nếu tự phụ thì bảo đảm sẽ phải chối giống như con gà phải gáy. Nếu không tựa vào ơn của Chúa, chúng ta sẽ vấp ngã. Lúc còn nhỏ chúng ta thấy ơn Chúa vừa vừa, càng lớn chúng ta thấy tất cả là hồng ân. Càng có những chức vụ, những gánh nặng chúng ta sẽ thấy rằng nếu không có ơn Chúa, sức mình không thể nào làm được. Từ đó Phêrô để lại cho chúng ta bài học rất quý giá mà ngay từ đầu Chúa Giêsu đã nói với ông mà ông không chú ý. Khi ông tuyên xưng Thầy là Đấng Kitô thì Chúa Giêsu nói tự sức con không thể làm được điều đó, Cha trên trời soi sáng cho con. Nếu con là nền của Hội Thánh thì con hãy nhớ rằng mọi việc hướng về Cha, hãy có hiếu với Cha. Cha trên trời đã chọn con, đã thương ban hồng ân cho con, đã luôn giữ gìn con, ngày nào con lơi đi mối tương quan với Cha trên trời bấy giờ con sẽ vấp ngã. Nhưng Thầy bảo đảm cho con, vấp ngã Thầy cũng kéo con trỗi dậy dù khi đó con sẽ ê chề.
Kinh nghiệm vấp ngã của Phêrô còn là, coi thường anh em mình. Mấy người kia có chối thì chối còn Phêrô thì sao chối Thầy được. Lời nói có vẻ tự phụ, xúc phạm tới anh em. Mỗi người đều là bình sành dễ vỡ. Làm sao để bảo tồn được cái bình sành trở thành của quý. Khi các bình sành để gần nhau, gió có lùa vào cũng không làm đổ. Để gần nhau là chia sẻ nâng đỡ nhau.
Người môn đệ yêu mến Chúa.
“Tôi đi đánh cá đây, anh em hãy đi với tôi” (Ga 21,. Lao nhọc vất vả suốt đêm mà không được gì cả. Đang lúc chán nản thì có tiếng bảo: Hãy thả lưới bên hữu thuyền. Phêrô buông lưới và cá quá nhiều, họ kéo cá lên, thuyền gần như chìm. Khi đó, có tiếng nói của Gioan: Chúa đó. Lời ấy như nhắc bảo Phêrô, tự sức mình không đưa tới kết quả đâu. Phải có Chúa, bao lâu hình ảnh của Chúa rọi soi nơi lời nói, việc làm, đời sống của Phêrô thì bấy giờ mới có thành quả. Còn nếu Phêrô chỉ dựa trên tài sức của mình, dù lao nhọc suốt đêm không bắt được một con cá nào.
Đâu phải dễ để đưa một người đến với đạo thánh Chúa. Dễ gì làm cho một người tin theo Chúa là tình yêu. Hãy có Chúa trong đời sống. Chúa đã thu phục nhân tâm bằng yêu thương. Chúa gọi Phêrô ra một bên và hỏi: Con có mến Thầy không? Lần thứ nhất Phêrô trả lời: Lạy Chúa, có. Lần thứ hai ông nói: Lạy Chúa, có. Lần thứ ba Chúa hỏi thì Phêrô buồn vì Chúa hỏi cùng một câu hỏi đến ba lần.
Trong tiếng Hy Lạp có bốn từ ngữ nói về tình yêu.
- Eros: yêu thương là chiếm đoạt, đưa tới nhục dục.
- Storghê: là tình âu yếm chỉ dành cho những người cùng một tương quan huyết thống với nhau, ai không có tương quan huyết thống, không có được tình âu yếm đó.
- Philia: tình bằng hữu, tình đồng nghiệp, tình cùng sở thích và đặc điểm là sự trung thành; yêu thương là đồng cảm với nhau, trung thành với nhau, chia vui sẻ buồn với nhau.
- Agapê: yêu thương là từ bỏ cho người mình yêu thương. Không tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người trao ban, từ bỏ mạng sống mình vì người mình yêu thương, Agapê.
Vậy khi Chúa Giêsu hỏi thánh Phêrô (trong bản văn tiếng Hy Lạp): Phêrô, con có Agapê đối với Thầy không? Phêrô đáp: Con có Philia đối với Thầy. Và Chúa nói: Hãy chăm sóc đoàn chiên. Lần thứ hai Chúa nói: Con có Agapê đối với Thầy không? Phêrô đáp: Con có Philia đối với Thầy. Lần thứ ba Chúa hỏi: Con có Philia đối với Thầy không? Phêrô buồn vì Chúa hỏi ông có Philia đối với Thầy không. Bấy giờ Phêrô nói: Lạy Thầy, Thầy thông hay mọi sự, Thầy biết con chỉ có thể có Philia đối với Thầy mà thôi. Con quá tự phụ, không đủ sức để trao ban sự sống của con cho Thầy, không có ơn của Thầy, con chỉ có thể đối xử với Thầy như người môn đệ, như người bạn, như người ngưỡng mộ trong trường phái nhưng mà trao ban sự sống như Thầy trao ban sự sống của Thầy cho con, tự sức con con chỉ có Philia thôi. Philia và Agapê: hai điều đó rất khác nhau.
Phêrô lúc bấy giờ nói lên con người của mình để cho Chúa biết: Lạy Chúa, con chỉ là con người tầm thường. Đó là lần thứ nhất trong đời Phêrô bộc lộ chân tướng của mình; khác nào như Đức Maria: Này tôi là tôi tớ Chúa. Phêrô nói: Con chỉ là vật mọn phàm hèn trước mặt Chúa. Chính khi đó, Chúa Giêsu mới trao cả Hội Thánh cho Phêrô. Con biết con là ai thì con có thể chăm sóc Hội Thánh; bởi vì con đang làm công việc Thiên Chúa ủy thác và tin tưởng con. Con đang làm việc của Chúa!
Nhìn cuộc đời Thánh Phêrô ta thấy một điều rất rõ là trong trái tim ông lúc nào cũng yêu Chúa. Ngay cả khi Chúa bảo ông là Satan, ông cũng không giận Chúa. Ngay khi vì sợ hãi mà chối Chúa thì ông vẫn yêu mến Chúa. Không phải vì Phêrô yếu đuối hay tội lỗi mà Chúa bỏ ông. Tình yêu chân thành trong tâm hồn ông làm Chúa giữ ông lại và đặt làm lãnh đạo đoàn chiên của Chúa.
Vị Giáo Hoàng đầu tiên của Hội Thánh có một dung mạo là người môn đệ đi theo Chúa, người môn đệ yếu đuối và vấp ngã, nhưng đã đứng dậy, không chán nản, không để mất phương hướng, không đầu hàng, không bỏ cuộc; người môn đệ sống bởi ơn Chúa, chan hòa ân sủng, bình an, niềm vui của Chúa.
Hội Thánh được xây dựng trên Tảng Đá là tông đồ Phêrô, hay đúng hơn là trên đức Tin vào Chúa Giêsu là "Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16,16; 1 Cr 3,10). Mỗi tín hữu chúng ta phải làm gì để trở thành viên đá sống động xây nên tòa nhà Hội Thánh (x. 1 Cr 3,16-17), hay nên Đền Thờ của Thiên Chúa, có nền móng là các Tông Đồ và Ngôn Sứ, và Đá tảng góc tường là chính Đức Kitô Giêsu" (Ep 2,20)?
Lạy Chúa Giêsu, Chúa tin tưởng và trao trách nhiệm cho người hiểu biết Chúa, yêu mến Chúa và đặt trọn niềm tin nơi Chúa. Chúng con sẽ được Chúa tin tưởng và trao sứ mệnh xây dựng Hội Thánh, nếu chúng con có lòng tin, lòng cậy và lòng mến Chúa. Vậy xin Chúa cho chúng con có một đức tin vững chắc, một lòng cậy trông tín thác và một lòng mến chân thành như Thánh Phêrô để chúng con có thể trở thành một viên đá sống động, góp phần xây nên tòa nhà Hội Thánh. Amen.
(Lm Giuse Nguyễn Hữu An - Viết theo “bài giảng tĩnh tâm linh mục GP Phan thiết năm 2010”, ĐGM Giuse Võ Đức Minh).
34. Gặp gỡ Chúa trong cuộc đời--Lm Hồng Phúc
Giữa công trường Thánh Phêrô ở La-mã, một công trường rộng mênh mông, có hai pho tượng khổng lồ đứng oai vệ như những chứng nhân của lịch sử. Đó là tượng Thánh Phêrô và Thánh Phaolô, hai vị Tông đồ Cả.
Phêrô và Phaolô là hai người khác biệt nhau về tính tình, về văn hóa và nghề nghiệp. Nhưng cả hai đã gặp gỡ Chúa Kitô và được Chúa biến hóa trở nên những chứng nhân, những tông đồ “đi bắt người”.
Bài Phúc Âm hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu kêu gọi Phêrô.
Thật ra, Chúa đã gặp Phêrô rồi, khi em ông là Anrê đem anh đến giới thiệu với Chúa, như Gioan kể lại (Gio. 1, 49). Lòng nhiệt huyết của Anrê cũng như lòng trinh bạch của Gioan không làm cho Chúa cảm động, nhưng khi nhìn thấy Simon, con Gioan, Chúa nhìn ông và nói: “Hỡi Simon, con Giona, từ nay con sẽ gọi là Kêpha nghĩa là Đá”. Đây là nền tảng của Giáo hội mà Ngài sắp thiết lập. Tuy nhiên, đây chỉ là cuộc sơ vấn gặp gỡ đầu tiên. Rồi ai về nhà nấy. Phêrô và các bạn vẫn còn nặng tình với vợ con, với sông sâu biển cả. Thì hôm nay, Chúa muốn kêu gọi ông cách dứt khoát, bằng một phương pháp mạnh, một phép lạ để cho ông nhìn thấy và “sờ đụng” quyền năng của Thiên Chúa.
Sau một đêm lao lực, thức trắng đêm – cá vẫn ăn về đêm – mà không bắt được con cá nào, Phêrô gặp Chúa. Chúa bảo: “Hãy ra khơi thả lưới”. Ông vừa từ ngoài khơi trở về, nhưng vâng lời Chúa, Ông lại ra khơi… Từng đàn cá ùn ùn chun vào lưới, khiến cho lưới gần rách, phải gọi các bạn thuyền đến trợ lực.
Cũng như ngày xưa, tiên tri Isaia, trong bài đọc I, đã nhìn thấy vinh quang của Chúa và kêu lên: “Chết tôi rồi, lưỡi tôi dơ bẩn”, thì ngày nay, Phêrô cũng cảm thấy mình bất xứng và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là người tội lỗi”. Nhưng Chúa trả lời: “Con đừng sỡ hãi. Từ đây, con sẽ là kẻ chinh phục người ta”. Con sẽ bỏ nghề bắt cá, để đi “bắt” các linh hồn. Và Phúc Âm nói: “Ông chèo thuyền vào bờ, bỏ hết mọi sự và đi theo Người”. Đó là ơn kêu gọi của Phêrô, con người đã gặp gỡ Chúa và được Chúa thu hút chinh phục.
Người thứ hai đã gặp gỡ Chúa là Thánh Phaolô, như bài đọc II kể lại. Phaolô là một con người đầy nhiệt huyết, đã đi vòng quanh Đế quốc La-mã 4 lần, đã đưa dân ngoại vào Đạo. Làm sao cắt nghĩa được nội tâm của con người đầy lửa ấy? Thưa vì người đã gặp gỡ Chúa. Đức Kitô… đã sống lại theo lời Thánh Kinh. Ngài đã hiện ra với Phêrô và mười một Tông đồ. Rồi cuối cùng Ngài đã hiện ra với tôi như đứa con sinh non” (1Cor. 15, 8).
Phải, cuộc gặp gỡ đó đã đảo lộn cuộc đời Phaolô, từ một kẻ bắt bớ tín hữu trở nên một Tông đồ nhiệt thành. Tất cả là ơn của Chúa và Người vui mừng được trả giá rất cao để “Ơn Chúa không ra vô ích”: 5 lần bị đánh đòn 39 trượng, 3 lần bị tra tấn, 1 lần bị ném đá, 3 lần bị đắm tàu 1 ngày 1 đêm chơi vơi trong lòng biển (2Cor 12, 24-25).
Trong cuộc đời, chúng ta cũng đã gặp gỡ Chúa trong nhiều hoàn cảnh. Nhưng phải chăng chỉ gặp Ngài như gặp một khách bàng quang…
Lạy Chúa, Xin Chúa hãy đến với con, đừng xa lánh con là kẻ tội lỗi.
35. Ân huệ được gọi--Dã Quỳ
Trong xã hội hiện nay, dường như ai cũng có kinh nghiệm đi tìm việc làm. Để tìm được một công việc hay một chỗ trong công ty, xí nghiệp tốt...quả là không dễ! Thường người ta phải chứng minh được là có khả năng, có kinh nghiệm lâu năm trong nghề và như thế mới có thể mở được những cánh cửa đang đóng kia, mới được tuyển nhận.
Với Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay ta nghe thì không như thế. Người đã chọn môn đệ mà không cần chứng nhận khả năng của họ. Chúa đã gọi Phêrô khi ông đang làm công việc chài lưới hằng ngày. Còn Tông đồ Phaolô được Chúa gọi lúc ông đang đi bách hại những Kitô hữu. Thiên Chúa luôn làm chúng ta ngạc nhiên bởi vì Người trao tặng cho mỗi chúng ta một ơn đặc biệt là xứng đáng được gọi. Chúng ta thường tự hỏi Chúa chờ đợi điều gì khi Người muốn chọn chúng ta cho sứ mệnh của Người? Chúng ta hay có thói quen so sánh với những người khác trong chức vụ nghề nghiệp để biết tài năng và ta nghĩ ngay đến địa vị xã hội của họ. Chúa Giêsu không theo cái lối suy luận mua bán này. Người gọi chúng ta với trái tim và xác tín rằng Người cần chúng ta cho sứ mệnh rao giảng Tin Mừng và cứu độ nhân loại.
- Chúa cần chúng ta cho sứ mệnh Rao Giảng Tin Mừng. Khi Chúa Giêsu đặt chân lên thuyền của Phêrô, Người đã nhìn thấy nơi ông một cộng tác viên đắc lực cho công cuộc rao giảng Tin Mừng "Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút...và từ trên thuyền, Người giảng dạy đám đông."(Lc 5,3) Đây là vùng sông nước mà Phêrô đã quen thuộc và hơn nữa ông là một người chài lưới đầy kinh nghiệm. Ông sẽ biết làm cho con thuyền vững vàng và lưới cá thành công. Thế nhưng, với sự hiện diện của Chúa Giêsu trên thuyền, Phêrô không còn là chủ, không phải là tay đánh bắt tài giỏi nữa. Sau lời Chúa mời gọi ra chỗ nước sâu thả lưới, Phêrô đã thú thực với Chúa "Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả."(Lc 5,5a) Có lẽ lúc này Phêrô và đồng bạn cũng ngạc nhiên hay mỉm cười trong lòng vì...Thầy Giêsu làm gì có kinh nghiệm gì về việc đánh cá. Nơi nào có cá nhiều, tay này đã rành rẽ. Chỗ nước sâu làm gì có cá mà lưới. Như vậy, Chúa đã yêu cầu những điều thật ngạc nhiên và không hợp lý. Dù thế, lòng chân chất của người thuyền chài và niềm hy vọng sẽ có mẻ cá mang về, Phêrô đã nhanh miệng "Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới."(Lc 5,5b) Vâng, bây giờ có Thầy trên thuyền, ra chỗ nước sâu cũng không sợ. Và Phêrô đã chèo thuyền theo sự hướng dẫn của Chúa.
Tiếp tục ra khơi thả lưới khi cả đêm đã vất vả mà không được gì. Đó là những điều mà đức tin đòi hỏi thực hiện. Công việc Rao Giảng Tin Mừng hay Truyền Giáo cũng thế. Hãy tin tưởng vào Chúa Giêsu. Đừng tự hào về tài năng hay tính toán của chính mình. Không dựa vào những phương tiện trần tục hay cậy sức bản thân. Ra chỗ nước sâu; rời những nơi gần bờ an toàn, tiện nghi, được bảo bọc... Người môn đệ Chúa Kitô cần dấn thân. Có Chúa và cùng với Chúa, lên đường đến những nơi xa xôi, gian khổ, những nơi anh chị em chưa biết Chúa và chưa được nghe Tin Mừng, họ đang rất cần chúng ta và Chúa cũng đang thật muốn chúng ta thi hành sứ mệnh. Và chỉ khi ta vâng theo Lời Chúa, kết quả sẽ thật mĩ mãn "Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá." (Lc 5,6)
- Chúa cần chúng ta cho sứ mệnh cứu độ nhân loại. Tự nhiên, chúng ta thường run sợ trước những việc kỳ diệu ngoài sức tưởng tượng. Phêrô cũng thế, ông đã kinh hãi khi thấy mẻ cá lạ lùng và nhận ra Thầy Giêsu chính là Thiên Chúa, Đấng có thể làm được mọi sự tốt lành. Nhưng Chúa đã luôn giữ cho các ông được bảo đảm và bình an: "Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người cứu sống người ta."(Lc 5, 10b) Đừng sợ! Đây như là điệp khúc của Chúa Giêsu. Người thường trấn an và động viên môn đệ hãy tin vào Ngài, đừng sợ hãi. Chúa đã thay đổi số phận của Phêrô. Từ nay ông mang một ơn gọi thần linh, một sứ mệnh cứu độ. Biển trần gian rộng lớn, Chúa cần những ngư phủ nhiệt tâm và Người đã gọi Phêrô, đồng bạn và anh em ông: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá."(Mt 4,19)
Trong sứ mệnh cứu độ nhân loại, Chúa đã chọn gọi các Tông đồ và môn đệ cùng Chúa đem nhiều người về với Giáo Hội, trở nên con cái Chúa và được hưởng Ơn Cứu Độ của Chúa. Tiếp bước các Tông Đồ, mỗi người Kitô hữu cũng được Chúa gọi để loan báo Tin Mừng và đem nhiều tâm hồn về với Chúa. Loan Tin Mừng Cứu Độ cho muôn dân là trách nhiệm và sứ mệnh của Giáo Hội, của từng Kitô hữu. Chúng ta là những cánh tay nối dài của Chúa. Hãy hăng say thả lưới trong mọi hoàn cảnh sống của ta nơi gia đình, làng xóm; nơi công sở, chỗ làm việc; trong cộng đoàn hay ngoài xã hội. Hãy nhiệt tình đáp lại tiếng Chúa mời gọi và vâng lời Chúa để thực hiện sứ mệnh truyền giáo.
Ước gì mỗi Kitô hữu Việt nam hôm nay cũng luôn can đảm thưa lên như Isaia "Này con đây, xin hãy sai con đi"(Is 6, 8c) và vui mừng với ân huệ được gọi cách nhưng không.
Nguyện xin Chúa Giêsu luôn hướng dẫn, đồng hành với chúng con. Và xin ban cho chúng con ơn kiên trì, khiêm tốn, trung thành và không bao giờ bỏ cuộc vì chúng con luôn có Chúa cùng sống, cùng làm trong chúng con và qua chúng con. Amen.
36. Mẻ cá lạ--Linh Xuân Thôn
Một trong những lời giảng dạy làm nhiều người khó chịu, nhưng cũng rất thú vị, của Minh Sư là: ”Thượng Đế gần gũi kẻ có tội hơn là người thánh thiện.”
Ngài dùng hình ảnh để giải thích như sau:
- Thượng Đế ở trên thiên đàng nắm mỗi người ở đầu một sợi dây. Khi người ta phạm tội, sợi dây đó bị cắt đứt. Bấy giờ Thượng Đế cột sợi dây lại bằng cách làm một nút thắt - và như vậy, Ngài kéo họ lại gần Ngài hơn. Cứ như thế, mỗi khi người ta phạm tội, sợi giây bị cắt đứt, Thượng Đế lại buộc một nút thắt mới để kéo chúng ta lại gần Ngài nhiều hơn nữa.
Anthony de Mello, trích trong “One Minute Wisdom”
***
“Lạy Ngài! Xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc. 5,8).
Bạn thân mến! Trên đây là lời nói của Simon Phêrô thưa với Chúa Giêsu khi ông cảm nhận được sự thấp hèn tội lỗi của mình trước đấng thánh cao cả Giêsu, khi ông kinh ngạc trước phép lạ “Mẻ Cá Lạ” mà ông đã được chứng kiến và cũng là người trong cuộc. Xin mời bạn cùng tôi, chúng ta hãy lần theo dấu vết của Simon Phêrô trong Tin Mừng Chúa nhật hôm nay (Lc. 5:1-11) để hiểu thêm về ông, để biết thêm về “Mẻ Cá Lạ” ngày xưa đã tác động đến ông và các bạn chài của ông như thế nào? Và cũng để nhận ra “Mẻ Cá Lạ” ngày xưa đã tác động đến tôi và bạn hôm nay ra sao?
Trước hết, Simon Phê-rô là một người truyền giáo: Trong lúc ông và các bạn chài đang giặt lưới sau 1 đêm dài mệt mỏi vật lộn với biển khơi để đánh bắt cá nhưng chẳng được gì. Chúa Giêsu đã đến bên ông, Ngài lên thuyền của ông, xin ông chèo ra xa bờ 1 chút để Ngài ngồi trên thuyền mà giảng dạy cho dân chúng. Ông đã không ngại mệt mỏi sau một đêm vất vả làm việc, Ông đã bỏ công việc riêng bề bộn sau lưng, đã đứng dậy và làm theo lời yêu cầu của Ngài…Chúa giảng, ông chèo …Chắc hẳn trong lúc ông chèo thuyền cho Chúa giảng dạy, ông cũng đã lãnh nhận những lời vàng ngọc, những chân lý ngàn đời không thay đổi nơi môi miệng của Chúa Giêsu. Ông chèo, Chúa giảng...Ông đã góp công sức vào việc giúp những người xung quanh biết về Chúa và nghe Lời Ngài. Với chiếc thuyền nhỏ bé của ông, ông đã “mang Chúa đến cho người khác”, Ông đã làm công việc truyền giáo trong lúc Giáo Hội chưa được hình thành.
Bạn thân mến! Nếu hôm nay Chúa dùng những người xung quanh để mời gọi tôi và bạn đóng góp công sức của mình cho việc truyền giáo, Tôi và bạn sẽ đáp trả ra sao? Sự đáp trả của tôi và bạn có giống Simon Phêrô ngày xưa không?
Simon Phêrô: một người khiêm nhượng và biết lắng nghe. Sau 1 đêm vất vả đánh cá mà chẳng được gì, chắc hẳn ông mang một tâm trạng mệt mỏi, chán nản. Thế mà giờ đây, Chúa Giêsu lại bảo ông ra khơi đánh cá giữa ban ngày, lại ra tận chỗ nước sâu, nơi nguy hiểm nhất và cũng là chỗ khó bắt được cá nhất …Theo lẽ thông thường, Phêrô phải ngẫm nghĩ trong lòng: “Ông Giêsu ơi! Ông làm nghề thợ mộc mà! Đánh cá là nghề của tôi. Tôi đã sống bằng nghề này mấy mươi năm rồi, Ông biết gì về đánh cá mà lại hướng dẫn chỉ bảo tôi?” Nhưng không phải thế, Simon Phêrô đã lắng nghe lời hướng dẫn của Chúa Giêsu trong khiêm nhượng và tin tưởng. Ông đã nói lên tâm tình đó qua câu: "Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới".(Lc. 5:5)
Bạn thân mến! Trong cuộc sống hằng ngày, qua những vị linh mục trong cộng đoàn giáo xứ, qua các thầy cô trong trường học, qua cha mẹ anh chị em trong gia đình, qua bạn bè thân hữu ngoài xã hội…Có lẽ Chúa cũng đã gởi đến tôi và bạn biết bao lời khuyên răn nhắn nhủ, nhưng tôi và bạn có biết lắng nghe hay không? Tôi và bạn có đủ khiêm nhượng và tin tưởng để lắng nghe như Simon Phêrô ngày xưa không?
Simon Phêrô: Người được Chúa tỏ mình ra: Chứng kiến “Mẻ Cá Lạ”, Simon Phêrô đã nhận ra sự cao cả thánh thiện của Chúa Giêsu. Sợ hãi vì nhận thấy mình tội lỗi thấp hèn, ông đã vội quì xuống và thưa với Chúa Giêsu: “Xin Thầy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc.5:8). Nếu Chúa Giêsu không chủ động tỏ mình ra, chắc hẳn ông không thể nhận ra “Mẻ Cá Lạ” là do quyền năng cao cả của Thiên Chúa. Nếu không có ơn Chúa, chắc hẳn ông không thể nhận biết thân phận tội lỗi thấp hèn của mình. Một đêm dài vất vả mệt mỏi, ông đã làm việc với sức của riêng mình, kết quả là con số không, Ông chẳng đánh bắt được gì. Nhưng khi có Chúa bên cạnh, Ông đã cùng làm với Chúa và dùng sức của Chúa, kết qủa là ông đã có “Mẻ Cá Lạ” gần chìm thuyền.
Bạn thân mến! Cuộc sống có Chúa bên cạnh thật quan trọng và cần thiết biết bao! Xin bạn cùng với tôi, chúng ta hãy tự hỏi chính mình: ”Chúa ở đâu trong cuộc sống hằng ngày của tôi? Những lúc tôi ăn uống nghỉ ngơi, những lúc vui lúc buồn, những lúc thành công hạnh phúc cũng như lúc thất bại mệt mỏi vất vả… Ngài ở đâu? Ngài ở đâu?"
Simon Phêrô: Người biết phó thác để sẵn sàng ra đi và lên đường: Ra đi là bỏ nơi an toàn để đến nơi bấp bênh không chắc chắn. Ra đi là bỏ nơi quen biết để đến nơi xa lạ. ”Vâng lời thầy, con đi thả lưới” (Lc.5:5). Lên đường ra khơi thả lưới là chấp nhận đối đầu với phong ba bão táp, chấp nhận gian lao thử thách…”Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người” (Lc.5:11). Ra đi theo Chúa là bỏ lại tất cả: gia đình, thuyền bè, chài lưới… Bỏ cả nghề nghiệp cũ đã thành thạo để bắt tay vào nghề mới còn chập chững. Bỏ lưới cá để chài lưới người.
Bỏ tất cả để bước đi theo Chúa, để làm môn đệ của Ngài…Đây là việc đòi hỏi nhiều cố gắng nỗ lực, gặp nhiều khó khăn thử thách, nhưng cái khó khăn nhất có lẽ là “bỏ mình”, là ra khỏi “cái tôi hạn hẹp ích kỷ” của chính mình. Dù có đi xa ngàn dặm nhưng vẫn giữ những thói tật xưa cũ thì người môn đệ vẫn còn ở khởi điểm. Muốn lên đường theo Chúa, người môn đệ phải ra khỏi tính tự mãn của mình. Ra khỏi những quan niệm xưa cũ hẹp hòi. Ra khỏi những ảo tưởng viễn vông. Ra khỏi thói ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân. Và khi đã từ bỏ tất cả, người môn đệ sẽ trở nên hoàn toàn nghèo nàn. Gia tài chỉ có niềm cậy tin phó thác hoàn toàn vào Đấng kêu mời ta. Vũ khí chỉ có lòng vâng phục tuyệt đối vào Đấng sai ta.
***
Lạy Chúa, lên đường bước đi theo Chúa là được Chúa biến đổi. Giống như Simon Phêrô xưa kia đã được Chúa biến đổi từ “Simon lưới cá” trở thành “Phêrô lưới người”. Xin Chúa ban ơn giúp sức cho con để biết noi gương bắt chước Simon Phêrô xưa kia, biết cố gắng nỗ lực lên đường bước đi theo Chúa và cũng được Chúa biến đổi. Amen.
37. Tự do
Các ông từ bỏ mọi sự mà theo Chúa.
Đọc lại Phúc Âm chúng ta phải cảm phục thái độ dứt khoát và từ bỏ của các môn đệ trước lời mời gọi của Chúa Giêsu. Thực vậy, sau khi Chúa Giêsu nói: Các con hãy theo Ta và Ta sẽ làm cho các con trở nên những kẻ chài lưới người ta, thì Phêrô, Anrê cũng như Giacôbê và Gioan đã từ bỏ ghe thuyền, chài lưới và cả những người thân yêu để bước theo Chúa Giêsu. Cũng vậy, khi Chúa Giêsu đi qua bàn thu thuế tại Capharnaum, Ngài lên tiếng gọi Matthêu: Hãy theo Ta. Lập tức Matthêu đã đứng dậy, từ bỏ bàn giấy, từ bỏ nghề nghiệp mà bước theo Chúa. Thái độ mau mắn và dứt khoát ấy làm cho chúng ta nhớ tới lời Chúa đã phán: Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Ta”. Các môn đệ là như thế, chúng ta thì sao?
Chúng ta thường nói rất nhiều mà làm thì chẳng được bao nhiêu. Trong tâm tư nguyện vọng, chúng ta muốn tôn thờ Chúa như một vị vua duy nhất của lõi lòng. Chúng ta muốn dâng tất cả cho Ngài, thế nhưng trong cuộc sống cụ thể, chúng ta rất ngại phải hy sinh, phải từ bỏ, phải dâng hiến cho Ngài. Tình yêu chúng ta dành cho Ngài giống như một ngọn đèn thiếu dầu. Bình thường thì nó cháy một cách leo loét, nhưng mỗi khi phải cố gắng, phải hy sinh thì nó bỗng dưng phụt tắt.
Chính vì thế, mỗi người chúng ta phải kiểm điểm lại đời sống, phải hồi tâm xét mình và phải chấp nhận con người thực sự của chúng ta là như thế nào? Chúng ta có quảng đại đáp trả lời mời gọi của Chúa hay không, bởi vì chính sự quảng đại này mới là thước đo sự gắn bó và tình yêu của chúng ta đối với Chúa.
Là người tín hữu, chúng ta có biết hy sinh những thú vui, cho dù là chính đáng, để chu toàn những bổn phận đạo đức của chúng ta đối với Chúa, để tuân giữ giới luật yêu thương của Ngài cũng như để thực thi thánh ý của Ngài trong lòng cuộc đời chúng ta hay không?
Là những bậc làm cha mẹ, chúng ta có biết chấp nhận những hy sinh gian khổ vì cuộc sống và tương lai của con cái hay không? Cho dù những khó khăn, những bất đồng, chúng ta có đem vào trong gia đình chúng ta một bầu khí yêu thương và đạo đức hay không?
Là những người con, chúng ta có biết mau mắn vui vẻ vâng theo những lời khuyên bảo của cha mẹ. Chúng ta có biết chia sẻ những lo lắng của cha mẹ bằng cách chu toàn những bổn phận của mình hay không?
Để kết luận, chúng ta nên nhớ điều này, đó là nếu chúng ta còn ngại hy sinh, nếu chúng ta không dám từ bỏ, thì đó là dấu chỉ chắn chắn nhất chứng tỏ chúng ta chưa hề yêu mến Chúa, chưa hề là người môn đệ đích thực của Ngài.
38. Khiêm nhường
Nhìn vào cuộc sống, chúng ta thấy: người khôn ngoan là người biết tận dụng mọi cơ hội để làm giàu cho mình, nhưng đồng thời cũng phải khiêm tốn để biết mình và biết người. Kẻ thành công đỗ đạt là kẻ biết tin tưởng, cậy dựa vào kinh nghiệm, kể cả kinh nghiệm của người khác.
Và hành trình của đức tin cũng không đi ra ngoài sự khôn ngoan ấy. Đoạn Tin Mừng hôm nay mô tả cho chúng ta khuôn mặt người khôn ngoan đi tìm Chúa và đã nhận ra Ngài, không ai khác hơn là thánh Phêrô.
Thực vậy, ông là một dân chài chuyên nghiệp, một người đi biển nhiều kinh nghiệm quý giá, thế nhưng ông không quá tự phụ với những sự từng trải ấy, trái lại, ông vẫn có một sự khôn ngoan đặc biệt, đó là khiêm tốn, tin tưởng và vâng phục vào lời Chúa Giêsu:
- Thưa Thầy, dựa vào lời Thầy, con xin thả lưới.
Trước mẻ cá lạ lùng này, Phêrô không tự hào về đức tin của riêng mình để mà khoe khoang với các bạn, cũng như để kể công với Chúa. Trái lại, thêm một lần nữa, ông vẫn khôn ngoan dựa vào mẻ cá lạ lùng ấy, để suy nghĩ và nhận ra Đức Kitô là Thiên Chúa của mình. Đứng trước mẻ cá, Phêrô đã thực sự khiêm tốn thú nhận:
- Lạy Chúa, xin hãy xa con vì con là kẻ tội lỗi.
Chính nhờ thái độ này, đức tin của ông được củng cố đến độ ông không chỉ nói lên lời cảm tạ suông, mà còn đáp trả bằng cả cuộc sống của mình, đó là ông đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa.
Còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta có đủ khiêm tốn để lắng nghe lời Chúa qua những con người, qua những biến cố mà Ngài gởi đến hay không? Có lẽ Phêrô vẫn đoán biết Đức Kitô không có nhiều kinh nghiệm về biển cả, nhưng ông rút kinh nghiệm qua những phép lạ, vì thế ông vẫn khiêm tốn vâng phục và tin tưởng vào Chúa Giêsu vì Ngài còn là Thầy, là người hướng dẫn của ông. Liệu chúng ta có biết hồi tâm để rút ra những kinh nghiệm như Phêrô hay không?
Kinh nghiệm bản thân cho ông hay ban đêm là cao điểm để đánh bắt. Thế mà ông đã từng cực nhọc suốt cả đêm mà chẳng đánh bắt được một con cá nào, vậy mà lòng trọng kính đối với Chúa Giêsu đã thúc đẩy ông thả lưới giữa ban ngày ban mặt, là thời điểm chẳng thuận tiện chút nào. Liệu chúng ta có quá tự hào về kinh nghiệm bản thân, để rồi khép kín cõi lòng mình trước lời mời gọi của Chúa hay không?
Những kinh nghiệm và hiểu biết, đôi khi có thể trở thành chướng ngại vật cản trở cho hành trình đức tin, nếu chúng ta không có được sự khiêm tốn của Phêrô. Hãy cư xử như Phêrô, bằng cách đón nhận ý Chúa qua kinh nghiệm của Hội Thánh, đồng thời cảm tạ Ngài bằng một thái độ cụ thể và quyết liệt như Phêrô, đó là từ bỏ mọi sự mà đi theo Ngài.
39. Môn đệ Đức Kitô trên hoàn vũ--Achille Degeest
Bài Phúc Âm hôm nay rất dễ hiểu, không cần giải thích theo nghĩa này nghĩa khác có thể không có trong bản văn. Chúng ta chú ý đến nhiều điểm. Đức Giêsu sai Phêrô đánh thuyền ra khơi thả lưới. Chúa biết, khi ra lệnh như thế Người đòi hỏi Phêrô làm một việc trái ngước kinh nghiệm dân chài lành nghề. Thật vậy, Phêrô tin chắc rằng sau một đêm mệt nhọc uổng công, bây giờ là ban ngày, cố gắng cũng vô ích. Tuy nhiên vì vâng lời Chúa, vì tin Chúa, Phêrô thả lưới. Sau khi vớt được mẻ Chúa nhiều quá sức tưởng tượng, ông phản ứng như những tâm hồn ngay thẳng khi đứng trước tôn nhan Chúa: “Lạy Thày, con là một kẻ quá nhiều sai lỗi, một kẻ có tội”. Bằng một giọng uy nghi khích lệ, Chúa cho ông rõ phần thưởng đích thật của cuộc gặp gỡ trên mặt hồ. Qua hình ảnh phép lạ đánh cá, ông thoáng nhìn thấy số mệnh ông.
Chúng ta suy niệm về hai câu:
1) “Hãy ra khơi”. Chúa phán thế vì biết ngoài khơi là vùng có nhiều cá. Chúng ta nghĩ đến một Phêrô thuyền trưởng con thuyền Giáo Hội, như ảnh đạo thời xưa thường trình bày. Thày ra lệnh cho ông hãy lái Giáo Hội tiến vào chỗ hiểm nguy là thế giới trong đó cái khối nhân loại sống, lao động và chết. Trên thuyền với thuỷ thủ đoàn là những Kitô hữu, lệnh được ban ra là thả lưới xuống biển mặc dầu đã phí rất nhiều thì giờ mà chẳng được gì. Đức vâng lời đã đem lại một mẻ lưới thần kỳ. Tuy nhiên có phải bao giờ cũng gặt hái được kết quả lạ lùng không? Nếu thế chẳng quá dễ dàng ư? Điều quan trọng là đừng có lạm dụng cách chơi chữ của Chúa khi Người phán bảo Phêrô: “Từ nay ngươi sẽ là kẻ lưới người”. Thật vậy, nhân loại không bị cưỡng bách vào trong “lưới” của Giáo Hội. Ở đây là một thực tại cơn bản hơn: Phêrô và các tông đồ, do một hành vi biểu lộ đức tin trái ngược sự thật hiển nhiên theo quan niệm loài người, đã tỏ ra xứng đáng được Chúa cho biết số phận. Các ông được liên hợp với công cuộc cứu độ của Người trên thế giới.
2) “Bỏ lại mọi sự, họ đã theo Chúa”.
Thánh chép sử diễn tả cách đơn giản về một trong những khía cạnh đòi hỏi gắt gao nhất của thiên chức các ông. Giáo Hội đã áp dụng câu đó cho thiên chức tu sĩ và thiên chức linh mục. Phêrô và các bạn không có được gia nghiệp súc tích của thanh niên nhà giàu, nhưng vốn liếng khiêm tốn của các ông, chiếc thuyền đánh cá, căn nhà, thôn xóm, đối với các ông là những gì tha thiết. Các ông cũng như chàng thanh niên đều được kêu gọi bỏ lại mọi sự. Trong thông điệp về sự độc thân của linh múc (đoạn 24), Đức Phaolô VI nhắc đến câu nói trên. Thế giới chúng ta gồm những vùng nước sâu lắm cá cần có những môn đệ bỏ lại mọi sự để theo Đức Kitô.
40. Con đường của Thiên Chúa là tốt nhất--Charles E. Miller
Thiên Chúa thì kiên bền không thay đổi. Chúng ta có thể tùy thuộc vào Thiên Chúa. Thánh Kinh đã mặc khải những hành động và những lời của Thiên Chúa trong quá khứ. Những gì Thiên Chúa đã thực hiện trong quá khứ là những gì mà Người sẽ thực hiện trong ngày hôm nay. Những gì Thiên Chúa đã nói trong quá khứ là những gì Thiên Chúa sẽ nói với chúng ta hôm nay. Những gì xảy ra cho Phêrô trong bài Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay đã xảy ra cho tất cả chúng ta trong cùng một cách thế như thế ngày hôm nay.
Thánh Phêrô là một người đánh cá, không phải là môn thể thao, nhưng là kế sinh nhai của thánh nhân. Ngài có một nghề nghiệp. Ngài và những người đồng nghiệp đã làm việc vất vả suốt đêm, đó là thời điểm tốt nhất để đánh cá trong vùng sông hồ này, nhưng họ đã không đánh bắt được gì. Tiếp đó, Chúa Giêsu là một người thợ mộc, đã nói với Phêrô là một người đánh cá, hãy thả lưới một lần nữa. Vấn đề to lớn ở đây, bây giờ là thời điểm tệ hại nhất để đánh cá. Chúng ta có thể nghe được việc nhấn mạnh và xác quyết trong giọng của Phêrô: “Lạy Thầy, chúng con đã khó nhọc suốt đêm mà không đánh bắt được gì”. Ngài đã trình bày quan điểm với Chúa Giêsu để nhắc Chúa Giêsu đừng quên điều đó nhưng khi ngài thình lình nhận biết mình đang nói với ai. Sau một lúc, có lẽ nhìn vào ánh mắt của Chúa Giêsu thấy sự nhấn mạnh trong đôi mắt của Ngài, nên Phêrô nói thêm: “Nhưng nếu Thầy đã phán như thế, con sẽ thả lưới”. Đức tin của Phêrô thì giống như một con trẻ khác xa với những người trưởng thành, nhưng nó đã mạnh đủ để ông đặt sự nhấn mạnh của ông vào từ”Thầy” khi ông nói: “Nếu Thầy nói như vậy con sẽ thả lưới”. Kết quả sự tin tưởng của Phêrô vào Chúa đã đưa đến một mẻ lưới kinh ngạc. Phêrô nghĩ rằng cách của ông là tốt nhất nhưng ông đã học biết rằng cách của Chúa thì tốt nhất.
Trước đó, tiên tri Isaia đã học cùng bài học như chính Phêrô đã học. Đầu tiên, Isaia không muốn chấp nhận sứ vụ trở thành một tiên tri cho dân Chúa. Ông cảm thấy mình bất xứng, ông tự mô tả chính mình như một người không biết ăn nói. Ông sung sướng bỏ đi và theo một cách sống khác, nhưng Thiên Chúa đã muốn ngài. Một thiên thần Sêraphim đã đụng đến môi của tiên tri Isaia, đó là một biểu hiện ân sủng của Thiên Chúa. Với ân sủng này Isaia đã đáp trả: “Này tôi đây xin hãy sai tôi”, ngài đã trở thành một trong những vị tiên tri lớn nhất bởi vì ngài đã theo đường lối của Chúa.
Trong lúc suy nghĩ chúng ta không thấy điều gì quen thuộc, xảy ra với chúng ta sao? Có lẽ các bạn có nơi trái tim hình ảnh của một người nào đó mà các bạn muốn kết hôn. Điều đó đã thực hiện được. Một người khác bước vào đời sống của các bạn và bây giờ các bạn sẽ cảm ơn Thiên Chúa, vì hôn thê của các bạn thật hợp với các bạn hơn. Có thể các bạn có một công việc mà các bạn thích, các bạn có vẻ như có một tương lai với một công ty đặc biệt. Nhưng trong thời suy thoái kinh tế, công ty giảm biên chế, bạn mất công việc của mình. Tiếp đó, một cơ hội lớn thình lình mở ra cho bạn và bạn trở thành một người có công việc khác khiến các bạn thấy rằng có một sự chăm sóc kỳ diệu mà các bạn không bao giờ nghĩ ra trước đó.
Những thí dụ này có thể không thích hợp với các bạn. Mọi người chúng ta phải có thời gian để suy nghĩ về những gì Thiên Chúa đã hành động trong cuộc sống của chúng ta theo một cách vượt xa những gì chúng ta đã dự định và mong đợi. Thánh Phaolô nghĩ rằng ngài đang thi hành bổn phận của một người Do Thái sốt sắng nhiệt tình. Thiên Chúa có một dự định khác cho ngài, như là một tông đồ và là tác giả của những bức thư Tân Ước. Ngài đã đặt bút viết những điều về những giáo lý quan trọng nhất cho chúng ta. Cách của Thiên Chúa thì tốt hơn của Thánh Phaolô.
Đôi khi chúng ta không bắt được một mẻ cá lớn. Những điều xem ra là sai, là thất bại đối với chúng ta. Tiếp đó chúng ta phải kêin nhẫn và dành thời gian để cho Chúa hành động. Từ thị kiến thiên đàng của tiên tri Isaia chúng ta sẽ ca lên khúc tán tụng của mình: “Thánh Thánh Thánh, Chúa là sức mạnh và quyền năng, trời và đất đầy vinh quang Chúa”. Sự diễn tả vẻ huy hoàng của Thiên Chúa sẽ nhắc nhở chúng ta rằng, Thiên Chúa siêu việt hơn chúng ta. Đường lối của Người thì không phải là đường lối của chúng ta và đường lối của Ngài luôn luôn là tốt nhất.
41. Được gọi để gọi người khác
- “Thưa ông bà muốn gặp ai ạ?”
Chị Céline đã nói câu ấy lần đầu tiên cách đây 40 năm. Từ đó ngôi nhà khách với chùm chìa khóa, cái chổi, chiếc ghế đã trở thành giang sơn của chị.
Bổn phận của chị giữ nhà khách là gọi người khác. Trong suốt 40 năm trường, chị Céline chỉ làm ngần ấy công việc. Câu hỏi trên kia chị phải lặp đi lặp lại đến hơn 10 lần mỗi ngày. Với thời gian, phương thế có đôi phần thay đổi: từ cái kẻng đến chuông điện, rồi điện thoại, sau đó lại trở về chuông kéo, kẻng sắt… nhưng công việc luôn luôn vẫn là gọi người khác.
Ôi chao! Biết bao khuôn mặt đã xuất hiện tại nhà khách, bao giọng nói đã vang rền trong điện thoại. Nhưng có một điều chị Céline hằng đoán chắc: người ta đang gọi, đang xin gặp một người nào đó… trừ ra chị. Vì thế chị thường nói đùa: “Tôi chỉ được Chúa gọi một lần duy nhất và từ dạo ấy, tôi đã luôn luôn gọi người khác: tôi được gọi để gọi”.
Một ngày của chị bị cắt vụn thành từng miếng, công việc của chị bị chẻ thành từng mảnh, luôn luôn là gián đoạn. Khi cầm chuỗi lần hạt, chị biết mình sẽ không đọc được quá 10 kinh, khi xem sách chị đoán sẽ thưởng thức không quá 10 dòng; trong nhà nguyện, chị quỳ ở ghế cuối cùng, gần cửa ra vào, luôn thấp thỏm đợi chờ chuông reo… luôn bị gián đoạn, nhưng chỉ với “sự gián đoạn” này của mình, chỉ mới có thể tạo nên “sự liên hệ” của người khác. Chị bao giờ cũng nhanh nhẹn đối với một khách sang cũng như một bà lão nhà quê. Tất cả mọi người đều ăn cắp giờ của chị. Không ai cần gặp chị… Với thời gian, da mặt chị nhợt nhạt hơn, người chị tiều tụy hơn, nhưng nụ cười vẫn tươi nở như thuở nào, lời kinh dâng Chúa mỗi ngày lại càng thêm sốt sắng hơn.
Và rồi một hôm, trong lúc vội vã đi gọi người khác, chị Céline đã ngã quỵ trong hành lang nhà dòng, thổ huyết! Chị bập bẹ: “Chúa đến gọi tôi lần hai” (và cũng là lần cuối). Đôi tay chị run run ôm lấy lồng ngực khiến chùm chìa khóa rơi trên nền gạch hoa. Đàng kia, chiếc ghế vẫn vô tình không biết từ nay mình sẽ là vô chủ…
Chị Céline đã suốt đời trung thành với tiếng gọi của Chúa và với công việc bổn phận hằng ngày của chị: được gọi để gọi người khác. Giá trị và sự cao cả của chị không phải là ở chỗ đó sao?
Chúa Nhật hôm nay nhắc lại cho chúng ta ban ơn gọi: ơn gọi của Isaia trong đền thánh Giêrusalem (Bđ. 1), ơn gọi của Phaolô trên đường đi Đamas (Bđ. 2) và ơn gọi của Simon Phêrô bên bờ hồ Giênêzaret (bài Tin Mừng). Nhưng chắc chắn có chủ ý dạy chúng ta lắng nghe tiếng gọi của Chúa và làm theo ý Chúa, ra đi gọi những người khác đến với Chúa: được gọi để gọi người khác.
Isaia tự thuật về chính ơn gọi làm ngôn sứ của ông. Chúa đã gọi ông. Ông đã can đảm, sẵn sàng đáp lại: “Tôi đây, hãy sai tôi đi”. Thái độ của Isaia chính là thái độ của Đức Giêsu sau nầy khi Ngài đi vào thế gian: “Này con xin đến để thực thi ý Chúa” (Dt 10,9).
Thánh Phaolô cũng khéo léo tế nhị nhắc lại ơn gọi của mình và cách mình đáp lại ơn gọi đó. Phaolô cho biết khi Chúa hiện ra với ông trên đường đi Đamas và chọn ông làm tông đồ cho dân ngoại, ông khiêm tốn cho mình là một tông đồ hèn mọn nhất, chẳng đáng gọi là tông đồ vì đã bắt bớ Giáo Hội. Ông coi đây là một ân huệ Chúa ban và không dám uổng phí, trái lại ông nhờ ơn Chúa mà hết lòng hết sức và sẵn sàng đáp lại tiếng gọi bằng cả cuộc sống.
Còn Simon Phêrô đã được Chúa gọi một cách rõ ràng và công khai sau mẻ cá thật nhiều đến nỗi gần rách lưới, Chúa Giêsu nói với ông: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ đi lưới người như lưới cá”. Điều này sẽ xảy ra sau đó? Tin Mừng cho thấy không phải chỉ có Phêrô, người được gọi đích danh, đã theo Chúa, mà cả những người khác nữa cũng đã vội vã theo Chúa: “Ho đưa thuyền vào bờ và bỏ mọi sự mà theo Chúa”. Đến đây chúng ta mới rõ “mẻ cá lạ” Chúa làm là có dụng ý hay có mục đích “mở đường” cho ơn gọi của Phêrô và đồng bạn. Nghề nghiệp đánh cá của các ông thật đã giúp ích cho các ông hiểu một cách dễ dàng sứ vụ mới là làm “những kẻ chài lưới người” (Mt 4,19), nhưng mẻ cá lạ mới giúp các ông quyết định lại ơn gọi một cách mau chóng, vì biết rằng có Chúa giúp khi thi hành sứ vụ của mình.
Anh chị em thân mến,
Chính Thiên Chúa, bằng cách trực tiếp hay gián tiếp, đã chọn gọi những người làm việc cho Ngài, làm cộng tác viên của Ngài trong công trình cứu chuộc nhân loại. Ngài đã gọi các tiên tri, các tông đồ, đã gọi bao nhiêu người khác, đã gọi chính chúng ta. Những ai được Chúa gọi phải mau mắn đáp lại ơn huệ của Chúa – Chúa kêu gọi đó là một ân huệ Ngài ban – một cách khiêm tốn và biết ơn vì ta chẳng đáng được vinh dự lớn lao như thế, và tự sức ta, ta cũng chẳng làm nổi việc gì.
Phải làm trọn ơn gọi của mình, khi đã chấp nhận thì không ngoái cổ lại đàng sau và hãy bắt tay vào việc một cách cần mẫn, hết lòng trông cậy vào ơn phù trợ của Ngài, vâng lời Ngài, tin tưởng phó thác và để Ngài tùy ý hoàn tất công việc lúc nào theo như Ngài muốn.
Chúng ta cầu xin Chúa ban ơn trợ giúp cách đặc biệt cho những người Chúa đã chọn, đã và đang khiêm tốn chịu khó làm việc Chúa trên khắp mọi cánh đồng và vườn nho của Chúa, nhất là cho Đức Thánh Cha, cho các vị Giám mục và các linh mục, cùng tất cả những người cộng tác chặt chẽ với các ngài.
Chúng ta cũng tha thiết xin Chúa kêu gọi thêm những người đang ước muốn vào làm việc tông đồ của Hội Thánh, đặc biệt trong những nơi đang xảy ra tình trạng “lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít”.
Chính chúng ta cũng hãy xin ơn biết lắng nghe tiếng Chúa chỉ bảo ra làm việc nầy hay việc khác trong hoàn cảnh Giáo Hội hiện nay trên quê hương đất nước chúng ta. Trước hết là giữ vững niềm tin vào Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Đó chính là ơn gọi đưa chúng ta vào Nước Trời bây giờ và sau nầy. Đó cũng là ơn gọi làm tông đồ giáo dân bằng chính cuộc sống đức tin của mình trong môi trường xã hội.
Nếu tình yêu đòi biểu lộ, và có khi biểu lộ bằng những cách “kỳ lạ”, thì Thiên Chúa vì quá yêu nhân loại, nêu đã biểu lộ bằng nhiều cách thế, trong đó có cách thế cho con người được tham dự vào việc truyền bá Tin Mừng, được đọc và được giảng Lời của Thiên Chúa. Lạ lùng lắm thay! Miệng lưỡi con người mà được nói Lời của Đấng siêu việt. Tình yêu Thiên Chúa vẫn gửi tới mỗi người tín hữu để họ đem Lời Thiên Chúa nói cho những người xung quanh, những người thân thuộc và cả những người đi theo Chúa, dùng chính nghề nghiệp khả năng của mình để thành nghề lôi kéo người khác về cho Chúa. Và Đấng là Tình Yêu đang luôn chờ đợi lời đáp trả của từng người chúng ta.
Và nhất là giờ đây, chúng ta kính nhớ Đức Kitô chịu chết và tuyên xưng Ngài sống lại vì chúng ta qua cử hành Thánh Thể, chúng ta hãy hết lòng tạ ơn Chúa đã gọi chúng ta đến tham dự vào mầu nhiệm cứu rỗi nầy. Nhờ nghe Lời Chúa và ăn uống Mình Máu Thánh Chúa, chúng ta sống ơn gọi một cách tốt đẹp để đời sống chúng ta cũng là một lời mời gọi nhiều người khác đến với Chúa.
42. Kêu gọi các môn đệ đầu tiên--McCarthy
Suy Niệm 1. LẠY CHÚA, THEO LỜI CHÚA…
Thời gian ban đêm là thời gian để đánh cá. Nếu có người nào khác nói với Phêrô: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá” hẳn ông sẽ nói: “Bạn có điên không? Phải chăng bạn muốn tôi trở thành một kẻ điên trước mặt những bạn chài khác? Nếu bọn ngư phủ chúng tôi suốt đêm đã không bắt được con cá nào, thử hỏi chúng tôi còn có cơ may nào để bắt được cá giữa ban ngày?”.
Nhưng khi Đức Giêsu nói những lời ấy với Phêrô, câu trả lời tự phát của Phêrô là: “Thưa thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng theo lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”.
Đối với Phêrô, lời của Đức Giêsu khác với lời của bất cứ ai. Lời người mang theo quyền bính mà lời người khác không có được. Vì thế nếu Đức Giêsu đã yêu cầu, thì dù tình thế có vẻ tuyệt vọng, dù Phêrô có mệt mỏi hoặc có vẻ điên rồ, ông cũng phải thử làm lại.
Phêrô hoàn toàn tín thác vào Đức Giêsu. Theo lời Người, ông được chuẩn bị để cố gắng làm điều không thể làm được. Sau này chúng ta còn thấy được điều này trong Tin Mừng khi ông cố gắng đi trên mặt nước theo lời của Đức Giêsu.
Có bao nhiêu người mà chúng ta coi lời họ là nghiêm chỉnh? Chúng ta hoàn toàn tín thác vào lời ai? Chúng ta hoàn toàn tin cậy vào lời ai? Câu trả lời là “rất ít”.
Đánh cá là một nghề xứng đáng. Tuy nhiên, Đức Giêsu thấy Phêrô có khả năng làm những việc khác. Đức Giêsu cần loại người như Phêrô để giúp đỡ Người trong công việc của Người. Đức Giêsu đã nhìn thấy những đức tính nào của Phêrô khiến Người kêu gọi ông chia sẻ công việc với Người? Ông có một đức tính hàng đầu và quan trọng nhất là đức tin vào Đức Giêsu. Ông cũng có đức khiêm nhường.
Câu chuyện Tin Mừng không còn là một câu chuyện về việc đánh cá, nhưng về lòng tín thác. Đức Giêsu đã nói với Phêrô: “Anh sẵn sàng tín thác vào Thày tới đâu?”. Đây là một khúc quanh trong cuộc đời của Phêrô. Điều gì bắt đầu từ một khởi điểm mới sau một thất bại thì bắt đầu với một phương hướng mới.
Đánh cá là một nghề quan trọng. Nhưng Đức Giêsu đã kêu gọi Phêrô và các bạn chài của ông đến với một công việc còn quan trọng hơn. Người đã mang lại cho họ không chỉ một công việc mới, nhưng một mục tiêu để họ cống hiến cả cuộc đời họ cho mục tiêu ấy. Họ biết rằng người kêu gọi họ để phục vụ những người khác: “Thày làm cho anh em thành những người đi đánh lưới người”. Khi các giáo chủ của các giáo phái kêu gọi người ta đi theo họ, họ biến đổi người ta thành những nô lệ của họ. Đức Giêsu kêu gọi các Tông đồ không phải để họ phục vụ Người, nhưng phục vụ người khác.
Chúa vẫn còn kêu gọi con người, và ngày nay nhu cầu ấy to lớn. Và vẫn còn có những người đáp lại lời Người. Một số người (như các tông đồ) được kêu gọi để tận hiến mình, đi theo Đức Kitô bằng một phương thế “chuyên nghiệp”. Nhưng không phải mọi Kitô hữu đều được kêu gọi theo Đức Kitô bằng cách ấy.
Bằng phép Rửa tội, chúng ta cũng được kêu gọi đi theo Đức Kitô. Nhưng đối với một người bình thường, đi theo Đức Kitô có nghĩa là gì? Là sống xứng danh một Kitô hữu trong ngành nghề của bạn ở bất cứ nơi nào bạn có mặt. Còn có nhiều cách phục vụ Đức Kitô và Tin Mừng Người hơn nữa. Ơn gọi ban đầu không hướng đến những tông đồ nhưng hướng đến những người môn đệ.
Suy Niệm 2. MỘT KHỞI ĐẦU TỐT ĐẸP
Isaia, Phaolô và Phêrô là trung tâm của các Bài đọc hôm nay. Cả ba người đã làm những điều vĩ đại cho Thiên Chúa. Tuy nhiên họ đều có mặc cảm tự ti. Họ có một quan điểm thấp kém về mình. Họ không đặt mình ra trước, nhưng được Thiên Chúa kêu gọi. Họ chấp nhận ơn gọi ấy một cách miễn cưỡng, nghĩ rằng họ không xứng đáng với ơn gọi.
Isaia nói: “Tôi là một người có đôi môi ô uế”. Phaolô nói: “Tôi là người nhỏ nhất trong các tông đồ. Tôi không xứng đáng mang danh tông đồ”. Và Phêrô tuyên bố: “Lạy Chúa, xin hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi”. Đó không phải là một sự khiêm nhường giả tạo của ông mà là một chân lý rõ ràng.
Mỗi người bắt đầu bằng sự nhận ra sự bất xứng và không thích hợp của mình. Theo một quan điểm tâm linh, sự khởi đầu như thế là lý tưởng. Người nào đặt mình ra trước xem ra làm hại hơn có lợi. Người ấy chỉ cậy dựa sức mình là cát mà thôi và ngôi nhà tâm linh xây trên cát chắc chắn sẽ sụp đổ.
Mặt khác, khi chúng ta gặp một người lo sợ, miễn cưỡng ngần ngại, chúng ta nhận thấy người ấy đáng tin hơn, và nhân đạo hơn. Yếu tố miễn cưỡng này là cốt lõi của vấn đề, bởi lẽ nếu một thánh nhân hoặc tử đạo hăm hở đi tìm cái chết hoặc cực hình xem ra không chân thật.
Ở đây có một nghịch lý to lớn. Phaolô nói: “Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,10). Nghĩa là khi ông nhận ra sự yếu đuối của mình và chạy đến Thiên Chúa, quyền năng của Thiên Chúa trở nên có hiệu lực nơi ông.
Khi chúng ta biết những yếu đuối của chúng ta, Thiên Chúa có thể làm chúng ta mạnh mẽ. Khi chúng ta biết sự trống rỗng của chúng ta, Thiên Chúa có thể đổ đầy chúng ta. Khi chúng ta biết sự nghèo nàn của chúng ta. Lúc đó, chúng ta thích hợp để làm công việc của Người, và Người hoàn thành trong chúng ta những việc mà chúng ta nghĩ mình không làm được.
Sự khiêm nhường là một khởi điểm. Điều đó không có nghĩa là chúng ta chỉ yếu đuối, vị kỷ và hèn nhát. Không có ân sủng, chúng ta không thể cứu lấy mình, càng không thể cứu người khác.
Tuy nhiên, người ta có thể dùng tội lỗi và yếu đuối của mình như một lá chắn. Isaia xin Thiên Chúa chọn người khác, người nào có cái miệng thanh sạch. Phêrô xin Đức Kitô tránh xa ông vì ông là kẻ tội lỗi. Khi chúng ta làm điều đó, chúng ta nhượng bộ sự yếu đuối của chúng ta. Chúng ta dùng sự yếu đuối của mình như một mánh khoé thách đố làm điều thiện hảo.
Theo Phêrô, Đức Giêsu là Đấng Thánh phải tránh xa ông là kẻ tội lỗi. Nhưng Đức Giêsu khước từ làm như thế. Người đã đến vì những người tội lỗi. Bằng cách ấy, Người đã thay đổi cách hiểu của con người về Thiên Chúa. Thiên Chúa không phải là Đấng xa lánh tội nhân, nhưng là một Thiên Chúa muốn họ được cứu, và đem đến cho họ một sự khởi đầu mới mẻ.
Isaia, Phaolô và Phêrô sau cùng đã chấp nhận lời mời gọi của Thiên Chúa, và cả ba đã làm một công việc sáng chói. Đây là một nghịch lý –sức mạnh vươn lên từ sự yếu đuối. Khi chúng ta đáp lại lời kêu gọi của Thiên Chúa, Người sẽ ban cho chúng ta sức mạnh để chúng ta có thể làm những điều mà chúng ta không bao giờ nghĩ mình làm được.
Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta sự khiêm nhường để hiểu biết những yếu đuối của chúng ta, và cho chúng ta sức mạnh vượt lên yếu đuối. Lúc đó, chúng ta sẽ có được niềm vui để khám phá ra rằng chính khi chúng ta yếu là lúc chúng ta mạnh, bởi vì quyền năng của Chúa trở nên có hiệu lực đối với chúng ta.
43. Đào tạo môn đệ
Hồ nước lớn danh tiếng tại Galilê được gọi bằng ba tên: biển Galilê, biển Ti-bê-ri-át và hồ Ghen-nê-xa-rét, hồ này dài 20,8km, rộng 12,8km. hồ ở vào chỗ trũng của mặt đất, nơi sâu nhất là 225m dưới mặt biển, vì thế nó có khí hậu giống như khí hậu nhiệt đới. Ngày nay cư dân không đông lắm, nhưng vào thời Chúa Giêsu, có chính thị trấn chung quanh bờ hồ, không thị trấn nào dưới mười lăm ngàn dân. Ghen-nê-xa-rét thực ra là tên của một cánh đồng xinh đẹp nằm ở phía tây bờ hồ, đó là vùng đất phì nhiêu nhất.
Tại đây chúng ta đối diện với một khúc quanh trong chức vụ Chúa Giêsu. Lần trước Chúa giảng trong nhà hội nữa, bây giờ Ngài ở tại bờ hồ. Rồi Ngài sẽ còn trở lại nhà hội nữa, nhưng sẽ đến một ngày, cửa nhà hội đóng lại trước mặt Ngài, thì Hội Thánh của Ngài sẽ ở nơi bờ hồ, sẽ ở ngoài đường cái, và tòa giảng của Ngài sẽ là chiếc thuyền. Ngài sẽ đi tới bất cứ nơi nào người ta muốn nghe Ngài giảng. Khi nhà hội đóng cửa thì Chúa Giêsu giảng ngoài đường, bên bờ hồ. Vào dịp này Ngài mượn một chiếc thuyền của một người bạn dùng làm tòa giảng để giảng cho quần chúng. Khi giảng xong, Ngài ban cho bốn người sắp được kêu gọi một bài học cụ thể về tính cách của công tác và sự thành công vĩ đại sẽ đến với chức vụ của họ, nếu họ bằng lòng từ bỏ tất cả để đi theo Ngài. Ngài đã làm một phép lạ vô cùng kích động, và chúng ta có thể liệt kê các điều kiện để một phép lạ xảy ra:
1. Có mắt biết nhìn xem:
Chúng ta không cần nghĩ rằng Chúa Giêsu đã dựng nên bầy cá lớn đó trong trường hợp này. Biển Galilê có nhiều bầy cá đông đảo đến nỗi có thể che đặc cả mặt biển trong một khu rộng lớn. Có lẽ con mắt thấu suốt của Chúa Giêsu đã nhìn thấy bầy cá lớn đó mà các ngư phủ không thấy. Chúng ta cần đôi mắt biết nhìn thấy. Nhiều người đã nhìn nước sôi làm bật cái nắp vung nhưng chỉ một mình James Watt đã nhìn thấy và sáng chế ra máy hơi nước. Nhiều người đã nhìn thấy táo rơi, nhưng chỉ một mình Isaac Newton đã nhìn thấy và đã tìm ra luật hấp lực của trái đất. Nhìn lên bầu trời các nhà thiên văn học tìm thấy nhiều điều hơn là một người thường. Nhìn vào một hàng rào cây cỏ, các nhà thảo mộc khám phá ra nhiều điều kỳ diệu mà một người nông dân thường không nhận ra được.
“Đức Giêsu thấy đám đông, Người chạnh lòng thương vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt. Bấy giờ Người nói với các môn đệ: lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít, vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” (Mt 9,36-38).
Sau cuộc tiếp xúc với người phụ nữ xứ Samari ở bờ giếng Gia-cóp, Chúa nói với các môn đệ viễn tượng tốt đẹp của mùa gặt Tin Mừng: “Nào anh em chẳng nói: còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt. Nhưng này, Thầy bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái!” Và thánh Gioan ghi tiếp: “Có nhiều người Samari trong thành đó tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng. Khi gặp Người họ xin Người ở lại với họ, Người ở lại hai ngày. Số người tin còn đông hơn nữa.” (Ga 4,35.39.40) Thế giới đầy dẫy những phép lạ cho những ai biết nhìn xem.
2. Có tinh thần biết cố gắng nhẫn nại:
Khi Chúa Giêsu nói thế, dù rất mệt nhọc, Phêrô cũng sẵn lòng thả lưới một lần nữa. Nhiều người đành chịu thảm bại trong cuộc đời vì họ ngã lòng quá sớm. Trong cuốn hồi ký “Cuộc đời những thành tựu của tôi”, nhà tỷ phú Mỹ Henri Ford với biệt danh vua ô tô, đã ghi lại biết quyết thành công của ông: “Những người đầu hàng thường đông hơn những người chiến thắng, không phải họ thiếu tiền của, sự hiểu biết, trí thông minh, lòng ham muốn… cái họ thiếu là lòng kiên nhẫn.” Và ông gọi đó là “nữ hoàng không vương miện của ý chí.” Ray Knoe, một thiên tài của công ty sản xuất thực phẩm “mì ăn liền” Mc Donald, cũng có cùng một quan điểm khi xếp lòng kiên trì vào hàng đầu các năng lực của con người, ông viết: “Không có gì trên thế gian có thể thay thế lòng kiên trì. Tài năng ư? Cứ xem có biết bao người đầy tài năng mà vẫn cứ thất bại! Thiên tài ư? Thiếu gì thiên tài đã không được tán thưởng. Giáo dục ư? Thế gian đầy dẫy những kẻ vô dụng cho dù có học thức. Vậy chỉ có lòng kiên trì và cương quyết là vạn năng. Nếu thêm vào đó năng lực của lời cầu nguyện thì không có gì có thể địch nổi.”
3. Có tinh thần cố gắng trong trường hợp hầu như tuyệt vọng:
Đêm đã qua rồi, đêm mới thuận tiện cho cuộc đánh bắt cá, tất cả hoàn cảnh đều không thuận tiện, nhưng Phêrô nói: “Trong hoàn cảnh như vậy, nhưng nếu Thày bảo thì chúng con xin vâng.”
Chúng ta thường chờ đợi vì thời cơ chưa thuận lợi, nếu cứ chờ đợi cho đến lúc mọi sự đều thuận lợi thì chắc sẽ không bao giờ chúng ta bắt đầu được. Nếu chúng ta theo đúng lời Chúa Giêsu truyền dạy khi Ngài bảo chúng ta làm một việc không thể thực hiện thì phép lạ sẽ xảy ra.
Rõ ràng đó là do một quyền phép siêu nhiên khiến Phêrô cảm thấy mình đang đứng trước sự hiện diện của Đấng Thần linh và tỏ vẻ sợ hãi như cảm giác của một người đối diện với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã phán những lời chẳng những đánh tan sự kinh hãi của Phêrô, nhưng cũng đem lại can đảm cho ông và đồng bạn trong những năm tới: “Đừng sợ, từ nay ngươi sẽ là kẻ chinh phục người ta.”
Ngay nay Chúa cũng đang kêu gọi chúng ta làm môn đệ Ngài. Vâng phục có thể bao hàm sự hy sinh, nhưng chắc chắn sẽ đem lại kết quả là cứu rỗi các linh hồn.
Để kết thúc, chúng ta nên suy gẫm lời của chân phước Eserive, sáng lập Opus Dei: “Nếu bạn bị cám dỗ để tự hỏi: Ai bảo tôi xía vô chuyện ấy? Tôi phải trả lời ngay cho bạn: Chính Đức Kitô ra lệnh cho bạn đó. Ngài bảo bạn phải xin “vì lúa chín đầy đồng mà thợ gặt ít quá, hãy cầu xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa!” Đừng có ươn lười: Việc ấy, tôi, tôi làm sao được? Tôi có nhiều việc phải làm. Những công việc như vậy không phải để cho tôi! Không, không có ai khác. Nếu bạn nói được như vậy, nhiều người cũng sẽ nói như thế. Lời mời của Chúa là dành cho tất cả và mỗi người Kitô hữu. Không có ai được miễn trừ, dầu là tuổi tác, dầu là sức khỏe, dầu nghề nghiệp. Không có một miễn trừ nào, một là chúng ta mang lại kết quả cho việc tông đồ hoặc đức tin ta kiệt quệ.” (Escriva amis de Dieu).
44. Được gọi
“Thưa ông, thưa bà muốn gặp ai ạ?”. Đó là câu nói mà Chị Céline phải lặp đi lặp lại mỗi ngày khoảng 10 lần và cứ thế suốt ròng rã trong 40 năm trường khi Chị coi giữ phòng khách của nhà dòng để đi gọi người khác. Biết bao nhiêu khuôn mặt đã xuất hiện, biết bao nhiêu giọng nói đã vang lên, nhưng Chị biết rõ một điều là người ta đến nhờ Chị để xin gặp một người khác. Do đó, một ngày của Chị bị cắt vụn thành những miếng, công việc của Chị bị chẻ thành từng mảnh, nghĩa là luôn luôn bị gián đoạn, không khi nào được yêu thân lâu. Nhưng sự gián đoạn của Chị là sự liên lạc của người khác. Và rồi một hôm, trong lúc vội vã đi gọi, Chị Céline đã ngã quỵ nơi hành lang và thổ huyết. Chị qua đời, nhưng đôi tay của Chị vẫn giữ chùm chìa khóa như bảo chứng của ơn gọi. Chị Céline đã suốt đời trung thành với tiếng gọi của Chúa và với công việc bổn phận hằng ngày của mình là: được gọi để gọi người khác. Giá trị và sự cao cả của Chị là ở chỗ đó.
Và đó cũng lã ý tưởng chủ yếu của bài Phúc âm hôm nay. Bốn môn đệ đầu tiên được Chúa gọi bằng việc chứng kiến một mẻ cá lạ, rồi các ông tin phục và bỏ mọi sự mà đi theo Chúa với một mục đích là được Chúa huấn luyện để trở thành những kẻ sau này đi chài lưới người về cho Chúa. Như thế, rõ ràng các ông được Chúa gọi không phải đi theo Chúa để hầu hạ Ngài hay làm quan này chức nọ, nhưng để các ông đi gọi để kẻ khác về với Chúa.
Ngày nay, tuy không được Chúa gọi trực tiếp, công khai như các môn đệ ngày xưa, nhưng chúng ta vẫn được Chúa gọi cách gián tiếp qua trung gian để đi gọi kẻ khác về cho Chúa. Chỉ khác một điều là cách thức chinh phục các linh hồn có thể không giống nhau vì tùy theo khả năng, hoàn cảnh và địa vị riêng. Chính vì sự khác nhau này mà mỗi người chúng ta cần phải lưu tâm đến hai yếu tố quan trọng sau đây:
Trước hết, đã là Kitô hữu thì bất cứ ai cũng đều phải chấp hành nghiêm chỉnh sứ mạng mà Chúa giao phó là ra sức chinh phục các linh hồn về cho Chúa. Đây là lệnh truyền của ơn gọi vì nó gắn liền với bản chất của những ai muốn làm môn đệ Chúa, của những ai mang danh công giáo đích thực. Nghĩa là được gọi làm con cái Chúa chỉ có thể xứng đáng và đúng nghĩa khi biết đi gọi người khác trở thành như mình. Nhưng hãy coi chừng vì chúng ta không được phép chinh phục người khác cho mình mà là cho Chúa, không phải để thống trị họ mà là phục vụ giúp đỡ họ, không vì tư lợi mà là hoàn toàn bác ái vị tha. Do đó, trong việc làm tông đồ đúng nghĩa thì chúng ta chỉ là kẻ môi giới, trung gian, dẫn đường cho người khác đến với Chúa, nhưng nếu chúng ta lấy mình làm đích điểm cho việc truyền giáo thì chẳng những không đưa được ai trở lại đạo mà chính bản thân mình lại lạc đạo.
Thứ đến, việc được gọi làm con Chúa để đi gọi người khác về cho Chúa là một trách nhiệm mà mọi người phải chu toàn. Nhưng nếu vì lười biếng, khinh thường không cố gắng hoàn tất bổn phận quan trọng đó mà Chúa giao phó đã là lỗi nặng, huống chi khi sống bất xứng, làm gương mù gương xấu khiến nhiều người ngoài chê cười đạo, xa lánh đạo thì tai hại biết chừng nào! Bởi vì, Giáo Hội được ví như một mắt lưới chài cá, mà mỗi Kitô hữu giống như một mắt lưới. Giả sử mô mắt lưới đứt thì bao nhiêu cá theo đó mà lọt ra ngoài. Cũng thế, một tín hữu xấu làm nhiều người vì đó mà không tin vào đạo nữa; một người công giáo sống bất xứng không làm cho Giáo Hội xấu, nhưng lại làm nhiều người nghĩ xấu về đạo.
Tóm lại, được gọi để gọi là mục đích của việc chinh phục người ngoài về cho Chúa chứ không phải cho mình. Và phương cách chinh phục không thể bằng mưu mô xả quyệt, thủ đoạn lừa đảo, mua chuộc hay áp lực vì những thứ đó là trò của ma quỉ, nhưng bằng sự hấp lực của một đời sống thánh thiện gương mẫu.
45. Người trẻ mau thoái chí và an phận
. Câu chuyện Tin mừng
Một hôm, Đức Giê-su đang đứng ở bờ hồ Ghen-nê-xa-rét, dân chúng chen lấn nhau đến gần Người để nghe lời Thiên Chúa. Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới. Đức Giê-su xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Si-môn, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy dân chúng.
Giảng xong, Người bảo ông Si-môn: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”. Ông Si-môn đáp: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm.
Thấy vậy, ông Si-môn Phê-rô sấp mặt dưới chân Đức Giê-su và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Si-môn và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc. Cả hai người con ông Dê-bê-đê, là Gia-cô-bê và Gio-an, bạn chài với ông Si-môn, cũng kinh ngạc như vậy. Bấy giờ Đức Giê-su bảo ông Si-môn: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta”. Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người.
. Dẫn giải
Nếu năm bạn trẻ chúng ta làm quen hôm qua phấn khởi và hào hứng thế nào thì anh bạn Phê-rô và có lẽ cả các bạn bè của anh hôm nay lại “ỉu xìu” và tầm thường tới mức đáng thất vọng.
Sáng hôm ấy, tại bờ hồ Ghen-nê-xa-rét ở Ga-li-lê, mặt trời đã lên cao, dân chúng đang chen lấn nhau rất đông. Tưởng là họ tụ tập để đón các thuyền đánh cá xa bờ trở về. Nhưng kì thực không phải. Hay nếu có thì đó chỉ là lí do ban đầu. Sau khi biết các thuyền trở về với khoang trống, người ta đã lập tức đổ dồn sang một hướng khác. Lần đầu tiên, làng chài hèn kèm của họ được một vị ngôn sứ nổi tiếng đến thăm và giảng đạo. Các tay chài đã thất vọng vì đánh cá hụt, càng thất vọng hơn trước nhân tình thế thái: thường ngày khi thuyền họ chở đầy cá về thì hết người nịnh nọt tới kẻ chiều chuộng để mua cho được cá; còn hôm nay khi họ tay trắng trở về, không có lấy một người nào hỏi han để an ủi và động viên họ. Họ cũng đâm ra bực lây cả vị ngôn sứ nổi tiếng kia. Si-môn và các bạn nhanh tay neo thuyền vào bến, giặt lưới, rồi vội vàng quay về: lúc này vào giường ngủ là thượng sách!
Nào ngờ, Đức Giê-su lại chọn ngay thuyền của Si-môn, xin ông cho mượn để ngồi giảng đạo và xin ông chèo ra xa một chút để dễ nói với dân chúng. Miệng lẩm bẩm: “Thế là lại mất một buổi sáng và … mất luôn cả giấc ngủ!”. Si-môn vừa ngáp dài vừa ngồi bó gối ở cuối thuyền chờ Đức Giê-su giảng xong. Ông hí hửng định chèo thuyền vào bờ khi thấy Đức Giêsu kết thúc bài giảng. Nhưng lại một lần nữa, Ngài đề nghị ông chèo thuyền ra xa hơn không phải để giảng mà là để ….đánh cá. Thế này thì thật quá đáng! Trước mặt bàn dân thiên hạ mà Ngài chẳng nể nang ông: gián tiếp nhắc lại vết thương lòng của ông là đã đánh cá thất bại cả đêm qua, trực tiếp dạy khôn ông về việc săn bắt cá - một người làm nông cả đời bám chặt đất liền lại dám chỉ vẽ chuyện sông nước cho tay chài chuyên nghiệp!
Nhưng vừa nể Ngài đang được dân chúng ái mộ, vừa muốn chứng tỏ sự thất bại của mình là có lí nếu lần này ông cũng chẳng bắt được gì, Si-môn chèo ra chỗ nước sâu. Có ngờ đâu, chỉ trong nháy mắt, tay ông đã buông thõng xuống vì cá vào lưới quá nhiều. Ông vội vàng hô to gọi các bạn chài ở thuyền khác đến tiếp sức. Cả đám thanh niên vạm vỡ mới kéo nổi lưới lên thuyền: không phải vài con cá lòng tong, mà cả hai thuyền đầy những con cá to bằng bàn chân người và còn lớn hơn thế nữa.
Đến lúc này, Si-môn mới thấy xấu hổ vì đã có những cử chỉ, lời nói và ý nghĩ không tốt về Đức Giê-su. Không riêng gì ông, mà cả đám bạn như Gia-cô-bê và Gio-an cũng lặng người đi vì ngạc nhiên: Giê-su chẳng những không phải là tay mơ về sông nước, mà hình như còn là chủ nhân của sông nước nữa! Bây giờ, cả đám không còn dám huênh hoang to tiếng nữa, mà chỉ biết lặng lẽ làm những gì Ngài nói. Họ đưa thuyền vào bờ và đi theo Ngài.
Thật ra, sự chán nản tới mức chỉ muốn bỏ việc và quay về nhà ngủ nghỉ - sự an phận thủ thường của Si-môn và bạn bè ông rất dễ hiểu và rất dễ thông cảm. Có ai không buồn bã thất vọng khi đã chuẩn bị tất cả, từ lương thực cho người tới mồi cho cá, từ thuyền bè tới lưới cá, từ sự hồ hởi phấn chấn trong tâm hồn tới sự khoẻ khoắn chắc chắn trong thân xác, mà rốt cuộc chẳng làm được gì, ngoài khoang thuyền trống hoác!
Rồi khi đã có cá, nhiều nữa là khác, đủ hái ra tiền tiêu cả mấy tháng, ai dại gì ra khơi một lần nữa. Cám ơn Đức Giê-su rối rít, xin lỗi Ngài tới tấp, nếu cần đãi Ngài mấy bữa ăn liền, là đủ. Nếu sáng nay cả bọn chỉ muốn yên thân trong giấc điệp là vì hoàn cảnh bắt phải chịu vậy, thì bây giờ cả đám sẵn sàng an phận vì đã được toại nguyện. Dù có là thanh niên trai tráng, ai cũng muốn có lúc dừng tay chèo, dừng chân bước để hưởng thụ, để nghỉ ngơi.
Chỉ tiếc đó cũng chính là sai lầm của ông và các bạn ông. Câu nói của Đức Giê-su: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá” không chỉ là một lời mách nước cho người đánh cá, mà là bí quyết cho mọi thành công trong cuộc đời. Si-môn thất bại trong lần đánh cá đêm qua, có thể không phải vì chưa ra khơi tính theo cây số biển, mà là chưa ra khơi tính theo thước đo của sự quyết tâm trong lòng: tuy đã ra khơi, nhưng mới thử vài keo đã bỏ cuộc. Sau khi đánh được mẻ cá lớn chưa từng thấy, ông lại tính tới chuyện không “ra khơi” nữa. Ông chỉ nghĩ tới việc loay hoay trong xó nhà hay cùng lắm, hì hục trên sông nước, kiếm cá, mua bán, sắm sửa và…chơi. Một lần nữa, Đức Giê-su cho biết Ngài giúp ông bắt được cá không phải chỉ để như thế thôi, mà để ông nghĩ đến một số phận mới, một chân trời mới và một kiếp sống khác: đó chính là không chỉ nghĩ cho mình và gia đình mình, mà còn phải nghĩ tới những người khác, không chỉ nghĩ đến chuyện mưu sinh, mà còn phải nghĩ đến chuyện hạnh phúc đời đời… Vẫn biết mỗi lần “ra khơi” như thế là mỗi lần phải đương đầu với những thử thách và bất ngờ, nhưng tục ngữ Việt Nam có câu: “Không vào hang, làm sao bắt được cọp!”. Nhất là nếu những lần “ra khơi” ấy là những lần ra khơi do Chúa đề nghị và có Chúa đi cùng – những lần ra khơi cao đẹp và ý nghĩa!
Tuổi trẻ hiếu kì tọc mạch, tuổi trẻ hăng hái xông pha. Nhưng tuổi trẻ cũng rất mau nản chí, mau thất vọng và sớm hưởng thụ, cầu an. Thử hỏi nếu Đức Giê-su không đến khuấy động cuộc đời Si-môn và bạn bè ông, thì cuộc đời họ và cuộc đời nhiều người đã ra sao? Thử hỏi nếu các ông không chấp nhận cùng với Đức Giê-su ra khơi, thì cuộc đời họ và cuộc đời nhiều người đã thế nào?
. Gợi ý để suy nghĩ thêm
Hiện nay, tôi thấy mình đang ở trong tình trạng nào: chán nản thất vọng? buông xuôi để mặc? ích kỉ và lười biếng thụ hưởng? lao đầu vào những việc không đâu? phấn đấu để thực hiện những điều tốt?
Có bao giờ tôi dám tiến lên thực hiện những điều tốt không: chẳng bao giờ, vì sợ bị thiệt hại? chỉ một đôi lần, chứ không dám hơn? chỉ khi nào nắm vững mọi sự trong tay? sẵn sàng nếu thấy Chúa ra hiệu, dù có thể bị thương tích hay thậm chí bị ngã?
46. Những môn đồ tiên khởi--R. Gutzwiller
Cho đến bây giờ vẫn chỉ có một mình Đức Giêsu giảng Tin mừng. Bây giờ Ngài tụ tập các môn đệ quanh Ngài. Chắc hẳn đó là một cộng đoàn thính giả, nhưng cũng là những cộng tác viên mà Ngài cho tham dự tích cực vào công việc của Ngài. Điều này xem ra có vẻ bất ngờ và ngạc nhiên. Thế nhưng, ngay bản chất của Thiên Chúa nhập thể đòi hỏi Ngài phải sử dụng con người để xây dựng Nước Thiên Chúa. Lời mời gọi thật là ý nghĩa bắt đầu nơi Simon Phêrô.
1. Chuẩn bị.
Nơi Simon, thửa đất được chuẩn bị thật kỹ lưỡng, mặc dầu ông không ý thức được điều đó. Ông có mặt khi Chúa chữa lành người quỷ ám trong hội đường. Nơi nhà ông, Chúa đã chữa lành bà nhạc của ông và chiều đến, trước cửa nhà ông, nhiền bệnh nhân đã tìm lại được sức khoẻ một cách lạ lùng. Đây Chúa Giêsu đang ngồi trên chiếc thuyền đánh cá của ông, nhẹ nhàng đi ra xa bờ và từ đó, Ngài cất tiếng giảng dạy dân chúng; vị trí đặc biệt này cũng là vị thế của ông trong lãnh vực thiêng liêng.
Trong việc sửa soạn trực tiếp cho vị Tông đồ có hai phương diện: đòi hỏi và củng cố.
Yêu cầu thứ nhất là phải luôn dễ dàng suy phục đức tin. Chúa Giêsu bảo ông ra khơi thả lưới. Phêrô cũng từ chối như bất cứ người nào khác: ông tuyên bố rõ rằng: mình đã vất vả suốt đêm –thời gian thuận tiện để đánh cá- cùng các bạn, thế mà chuảng kết quả gì. Bây giờ tại sao lại phải làm nữa, vào một lúc bất lợi, khi mà con người mệt mỏi và xét theo loài người thì tất bại là cái chắc!
Nhưng ông cũng thưa: ‘Vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới’. Tinh thần đức tin đưa đến chỗ vâng phục, khiến cho ông được thừa nhận và được ban thưởng một mẻ cá lạ lùng. Mẻ cá mà Simon và em là Anrê bắt được quá nhiều đến độ ông phải làm hiệu cho bạn là Giacôbê và Gioan ở một chiếc thuyền khác đến giúp đỡ. Và cả hai thuyền đầy ắp những cá.
Con người lao công, Thiên Chúa thưởng công. Cần con người phải ra tay hành động, phải cố gắng, phải sử dụng mọi phương tiện cần thiết, nhưng trong việc phụng vụ nước Chúa, phần kết quả không tuỳ thuộc ở con người.
Kể từ thời ấy, Giáo Hội rất thường sử dụng mọi phương pháp để hoạt động tông đồ, dốc toàn lực và kiên trì làm việc; dầu hạt giống đã gieo, nhưng số thu hoạch không tăng gấp bội.
Ngược lại, khi không, ở một miền nào đó trên trái đất, nơi người ta chẳng hy vọng gì thì nhiều lần Thiên Chúa lại làm phát sinh một mùa thâu hoạch thật là phong nhiêu, chỗ mà người ta cho rằng kết quả chẳng có bao nhiêu. Ở đây trong sự mời gọi thi hành nhiệm vụ khởi đầu của Simon, rõ ràng thành công hay thất bại đều ở trong tay Chúa, vất cả chỉ có ý nghĩa khi nó hợp với Thánh ý và giới mệnh của Chúa, thi hành cả lúc coi là có viễn tượng thất bại, nhưng làm với một niềm tin trung kiên bền vững.
Đòi hỏi thứ hai là ý thức tình trạng tội lỗi của mình. Thánh Phêrô đã hiểu mẻ cá này có ý nghĩa gì rồi. Nó làm cho ông chú ý đến Đức Kitô dường như ngôi sao lạ đối với các đạo sĩ, bởi vì mẻ cá nhiều quá đỗi, trong một khoảng thời gian vắn, một nơi bất lợi, tất cả cho ông biết rằng có sự hiện diện của một lực siêu nhiên.
Do vậy, Thánh Phêrô có kinh nghiệm về Thiên Chúa nhờ gần gũi với Đức Kitô. Sự gần gũi này làm ông sợ hãi đến cùng cõi thâm sâu trong người ông, ông ý thức được tình trạng tội lỗi của mình, đó là cái không thể tồn tại trước nhan Thiên Chúa. Con người càng cảm thấy sự hiện diện của Thiên Chúa hằng sống, thì càng thấy cái tôi tội lỗi cua mình biểu hiện ra thật đau khổ và không thể nào chịu được. Vì đó Thánh Phêrô, đã sụp xuống và sợ hãi thưa: ‘Lạy Chúa xin hãy xa tôi, vì tôi là kẻ tội lỗi’.
Đó hẳn là thái độ xứng hợp. Con người được mời gọi cộng tác vào nước Thiên Chúa chẳng phải vì có những khả năng đặc biệt như những tư chất tri thức, điều kiện luân lý và đạo đức, nhưng chỉ đơn giản là vì Thiên Chúa muốn họ cộng tác, có thế thôi, chứ nơi con người không có chi xứng đáng để Thiên Chúa phải chọn lựa. Một khi con người biết rằng mình được Thiên Chúa mời gọi không phải vì ‘mình thế này thế nọ’, nhưng ‘cho dù mình bất xứng, Thiên Chúa cũng vẫn…’, và nếu thành thực thú nhận rằng mình tội lỗi thì sẽ chẳng quy kết quả và vinh dự cho bản thân mình nhưng cho duy mình Thiên Chúa mà thôi.
Thế cho nên mẻ cá lạ lùng này là một chuẩn bị tuyệt hảo. Khi con người tội lỗi tín thác vào sức mạnh và sự cao cả của Thiên Chúa, và bắt tay vào việc với tinh thần dễ dậy và ngoan ngoãn với đức tin, thì lúc đó họ đang sống trong chân lý. Mọi thái dộ khác xuất phát từ nguyên một triết lý tự nhiên thôi, đều phải coi là sai lạc. Chúa Giêsu không đòi hỏi mà thôi, phép lạ của Ngài còn làm cho Simon và các đồng bạn được vững chắc trong tâm hồn.
Là những ngư phủ thiện nghệ, họ sẽ chẳng bao giờ quên được mẻ cá này. Họ chưa từng thấy hay kinh nghiệm một trường hợp nào tương tự. Nay bỗng dưng vào một lúc bất tiện, cả một đàn cá từ tứ phía đổ tràn vào lưới; nay bỗng nhiên mẻ cá nhiều đến độ hai thuyền chở nặng gần chìm; họ coi đây là hiện tượng siêu phàm không thể hiểu được.
Sau này khi đi giảng Tin mừng các ông sẽ gặp sự chống đối từ phía Israel, và sẽ phải từ bỏ dân riêng của mình sau bao năm trường vất vả mà không kết quả để quay về phía các dân ngoại.
Với một thiểu số ít ỏi, họ đã chinh phục được những thành phố lớn; đến giờ chịu tử đạo, các ông sẽ phải bỏ mạng sống mình và bỏ tất cả để chấp nhận một số phận bấp bênh hầu phục vụ nước Thiên Chúa. Thế nhưng các ông không lầm khi theo Chúa Kitô bởi vì từ nay các ông biết rằng kết quả có thể đến bất ngờ, hoàn toàn bất ngờ ở nơi nào, lúc nào tuỳ sự tự do cao cả Chúa định đoạt. Các ông không còn lo lắng đến thành công hay thất bại, chính Chúa Kitô sẽ quyết định những điều đó.
Sau những đêm trường vất vả mà công dã tràng, các ông nhận được những buổi mai vinh thắng. Trong nước Thiên Chúa, vất vả cố gắng không được cân đo theo những quy luật tự nhiên. Ta hãy tin rằng mọi sự đều ở trong tay Thiên Chúa; phải luôn luôn thi hành công việc với lòng hy vọng và đừng khi nào thất vọng.
2. Sứ vụ
Simon nài xin: ‘Lạy Thày, xin hãy tránh xa con’. Chúa Giêsu trả lời ông theo một hướng trái ngược hẳn: ‘Đừng sợ, các con sẽ là kẻ chinh phục người ta’. Tạo vật tội lỗi có lý do để sợ hãi. Nhưng ơn sủng của Chúa Kitô sẽ xua đuổi nỗi lo sợ này. Tội lỗi đẩy ra xa, còn ân sủng kéo lại gần. Không phải chỉ để vui hưởng yên ủi hay bản thân được cảm nghiệm, nhưng là để tham dự và cộng tác vào công trình của Chúa. ‘Con sẽ là ngư phủ lưới người ta’.
Chiếc ghe nhỏ của Phêrô từ đây sắp lướt trên đại dương, tức là lịch sử thế giới, đoàn người đi với Ngài không ngừng tìm cách câu lưới người ta. Con người sẽ trở nên miếng mồi của Thiên Chúa, nhưng không phải để bị huỷ diệt, mà là để được giải thoát: để được cứu vớt khỏi cái đầm lầy đáng thương tức là cuộc sống hoàn toàn có tính cách trần thế, và được đưa sang đại dương mênh mông tức là tình yêu của Thiên Chúa.
Bởi vì một khi sóng nước đời này muốn làm biển cả thì thực tế lại chỉ là một cái đầm lầy nước đọng. Chỉ khi nào sa vào lưới của Chúa và rồi được Ngài cho chìm ngập trong những cuộn sóng ơn sủng, bấy giờ, họ mới có được cái kinh nghiệm thế nào là sự phong phú của một đời sống trong Chúa.
Để thực hiện chương trình này, Chúa Giêsu sắp chinh phục những con người mà Ngài sẽ lấy quyền năng của mình để trang bị cho và trao cho nhiệm vụ ra đi giảng dạy. Do đó không được hoàn toàn quên đến phần đóng góp của con người để cho rằng một mình Thiên Chúa làm hết mọi sự.
Nhưng thể theo ý của Đức Kitô, Đấng đã sắp đặt như thế chứ không theo cách khác, những con người này phải chịu vất cả với sự kiên nhẫn, đam mê kiên trì của một ngư phủ, để đem hiểu biết cũng như tài khéo trong việc đánh bắt những con người ‘cô đơn’ sử dụng những phương pháp tinh xảo để thu phục đám đông, dành mọi nỗ lực để phục vụ sứ mạng đã được trao phó.
Không có gì cao quí cho bằng nghề lưới người: phải bắt đầu lại luôn luôn, hết mẻ này đến mẻ khác… đến với mọi giai tầng xã hội, mọi ý thức hệ chính trị, mọi phe nhóm quốc gia, chủng tộc.. Mọi tuổi tác, giới phái, trình độ văn hoá… Các ngư phủ lưới người phải làm việc theo lệnh của Chúa ở khắp mọi nơi. Đó là sứ vụ của họ.
Vậy họ trả lời ra sao? ‘Các ông đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Ngưới’. Bản văn không thuật lại một lời phản kháng nào của bốn môn đệ tiên khởi cả. Không bán tín bán nghi, cũng không từ chối vì thứ khiêm nhường giả tạo, cũng không vì nhiệt tình bồng bột; nhưng chỉ nhấn mạnh đến hai mặt của sự kiện: ‘Các ông đã bỏ mọi sự mà đi theo Người’. Mỗi một mặt đều có tầm quan trọng riêng của nó.
Bỏ mọi sự. Con người phải cởi bỏ những mối dây làm mình bị vướng víu và tê liệt. Cần phải có bàn tay và tâm hồn tự do. Không còn thuộc về thế giới xung quanh và cái vũ trụ quen thuộc. Chúa Kitô muốn cho kẻ được Ngài mời gọi cộng tác phải hoàn toàn tuỳ Ngài xếp đặt. Ân huệ tuyệt đối giả thiết sự từ bỏ hoàn toàn. Nhờ từ bỏ, con người chuẩn bị cho mình thật sẵn sàng.
Đi theo Người. từ nay có một nhóm môn đồ ở với Thầy. Các ông không theo Ngài kiểu như những học trò thụ giáo một bậc Thầy triết lý: bởi vì đây không nhằm mục đích tri thức, nhưng là một sự dấn thân thực sự. Chúa Giêsu đã biến những ngư phủ này thành những ngư phủ lưới người, kéo họ ra khỏi cái thế giới nhỏ hẹp của họ; họ sắp đi theo Ngài, cùng Ngài đi vào thế giới mênh mông. Họ thuộc về Ngài hoàn toàn, họ đã khám phá một tâm điểm mới cho cuộc sống, một mục đích mới để hoạt động.
Giờ đây chính Chúa Giêsu sắp xếp mọi sự cho họ; Chúa Kitô sẽ là số phận của họ trong suốt cuộc sống của họ trên dương thế, và là cuộc sống mới của họ. Sau mẻ cá lạ lùng này, họ đã cập bờ nhưng với con người hoàn toàn khác hẳn. Sự ra đi này biến thành một cuộc vượt biển mới, cuộc Vượt qua bao la và đòi can đảm mà họ chỉ thoáng linh cảm thấy.
Theo gương Chúa Kitô, qua việc từ bỏ và tận hiến mình thực sự là điều lớn lao nhất trong cuộc sống của con người.
47. “Con sẽ là kẻ đánh lưới người”
Một cái hồ nhỏ, một bến đò nhỏ, một nhà giảng thuyết trẻ, vài ngư dân mộc mạc. Cuộc phiêu lưu của Giáo Hội mà Luca là người thuật lại đã bắt đầu như thế. Trong khi mô tả bước đầu này ngài hiểu những chuyến đánh cá người đầu tiên, những bước đầu của Giáo Hội nơi thế giới ngoại giáo. Và chúng ta, làm sao chúng ta không nghĩ đến những đám đông các tín hữu?
Nhưng cũng nghĩ đến những đám đông chờ đợi những ngư phủ nữa. Tin Mừng này là dành cho mỗi một người chúng ta, ngay cả đoạn 10 nổi tiếng mà vì Tin Mừng đó, đoạn này đã được viết: “Từ nay đây là những người mà con sẽ bắt lấy”. Đây là những từ ngữ thật sự đánh trúng những thanh thiếu niên đã trở nên những linh mục và những nhà truyền giáo.
Và có thể đánh trúng những ai trong khi đọc lại trang Tin Mừng của Luca cảm thấy nổi lên sự nản chí: đánh cá ở đâu và như thế nào đây?
Đây chính là mục tiêu của trần thuật này của Luca: niềm tin vào Chúa Giêsu như là phương thuốc chống lại sự nản chí. Trong khi khai mào mùa đánh cá tông đồ lớn lao, Chúa Giêsu nêu bật một sự cảnh cáo đừng nên quên bao giờ: không có Ta, lưới của các con sẽ trống trơn. Chúng ta không luôn luôn thấy rõ chân lý cơ bản này ở vào lứa tuổi đôi mươi. Một khi đã dấn thân vào sứ mạng tông đồ, chúng ta lao nhọc ngày đêm mà không làm việc một cách đầy đủ với Chúa Giêsu. Chúng ta bỏ không nghe bài giảng, xao lãng các bí tích, chúng ta hoạt động, chạy vạy và một ngày kia cảm thấy nản lòng: tôi làm cật lực một cách vô ích.
Làm phương thuốc phòng ngừa, và khi chúng ta muốn thoát ra khỏi một giây phút nghi ngờ, chúng ta hãy suy niệm trang Tin Mừng này. Đây là trang Chúa Giêsu tỏ cho thấy chúng ta có thể làm gì khi chúng ta tin cậy vào Ngài. Ngài chọn điều có thể đánh động nhiều nhất Phêrô và các tông đồ đầu tiên: nghề nghiệp của họ. Và Ngài làm cho họ bực tức. Ngài là thợ mộc mà đưa ra những lời khuyên cho những người chuyên đánh cá, và là những người vất vả qua một đêm nỗ lực nhưng vô ích.
Những nhà chuyên môn trong công tác tông đồ sẽ gặp cảnh này. Cạn kiệt những nỗ lực vô ích, họ bị cám dỗ có ý phó thác cho Chúa Giêsu, nghĩa là cho việc cầu nguyện. Và tôi nghĩ rằng mọi Kitô hữu, trong công tác tông đồ hạn hẹp hơn và không chính thức hơn, có cùng ước muốn xuôi tay hoặc tìm kiếm những phương pháp khác hơn là chuyên chú cầu nguyện.
Dầu vậy, chỉ có cầu nguyện mới lại mang đến cho chúng ta lòng nhiệt thành của Phêrô. Là thợ mộc hoặc không phải là thợ mộc, Chúa Giêsu đã chinh phục ông: “Theo lời Thầy, tôi xin thả lưới”.
Chúng ta sẽ không đưa về những mẻ lưới và những chiếc thuyền đầy cá. Chúng ta không còn ở vào thời kỳ Chúa Giêsu phải nhờ đến phép lạ củng cố một niềm tin vừa chớm nở. Nhưng chúng ta biết điều mà con người đã có thể làm cùng với Chúa Giêsu, qua những mẻ lưới truyền giáo lớn. Chúng ta có quyển Công Vụ Tông Đồ, những câu chuyện truyền giáo và những hạnh các thánh để làm sống lại niềm tin của chúng ta. Một mình đức tin, đức tin có thể làm cho chúng ta thành các tông đồ làm việc cật lực nhìn lên Ngài “theo lời Thầy, tôi xin thả lưới”.
48. Cuộc phiêu lưu
Chúng ta vừa nghe qua câu chuyện phiêu lưu của ba nhân vật quan trọng nhất của Thánh Kinh, đó là Isaia, Phaolô và Phêrô. Cả ba đã gặp Chúa trong những biến cố lạ lùng, để rồi sau đó đã hy sinh cả cuộc đời cho Ngài. Vậy thì cuộc phiêu lưu ấy như thế nào?
Đối với Isaia, Thiên Chúa đã kêu gọi ông trong một thị kiến khác thường. Ông thấy vinh quang Thiên Chúa bằng một cảnh sắc hùng vĩ, với các thiên thần đứng chầu và không ngớt tung hô. Một cảnh tượng uy nghiêm và trang trọng.
Đối với Phaolô, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho ông một cách trực tiếp hơn. Sau khi đã kể lại những người đã được Đức Kitô phục sinh hiện đến, ông cũng cho biết là Đức Kitô cũng đã hiện ra với ông vì lúc đó ông đang bắt bớ Giáo hội, nhưng là do tình yêu Thiên Chúa thúc đẩy. Lần hiện ra này đã là một biến cố quan trọng trong đời sống của ông.
Còn Phêrô và các bạn thì đã bị bắt lấy đang lúc làm việc và đã thấy được quyền năng của Đức Kitô qua mẻ cá lạ lùng. Biến cố đó đã làm cho ông và các bạn ông tin theo Ngài. Như vậy, Thiên Chúa đã dùng ba cách thức khác nhau để mạc khải, để tỏ lộ mình ra.
Đối với Isaia thì Thiên Chúa là một Đấng vinh quang. Đối với Phaolô thì Đức Kitô là chủ của sự sống, còn đối với Phêrô, thì Ngài là Chúa của tạo vật. Đối với mỗi vị, Ngài tỏ ra là một người khác, vừa thu hút lại vừa chế ngự. Vừa có vẻ như xa xôi nhưng lại rất gần gũi. Gặp gỡ họ bằng những lời mời gọi mãnh liệt nhất và trong những gì là sâu xa nhất. Ngài đến với họ như để hoàn thành một cách sung mãn niềm ước mơ đã có từ lâu trong tâm hồn họ.
Đồng thời trong cuộc gặp gỡ này, cả ba đều có cùng một phản ứng, vừa bất ngờ lại vừa mạnh mẽ. Các ông đều cảm thấy mình bất xứng và hổ thẹn.
Isaia đã kêu lên:
- Vô phúc cho tôi, tôi chết mất vì lưỡi tôi nhơ bẩn.
Phaolô thì tự thú:
- Tôi vốn là kẻ hèn mọn nhất trong các tông đồ và không xứng đáng với danh hiệu ấy, vì tôi đã bắt bớ Hội Thánh của Thiên Chúa.
Còn Phêrô thì thưa lên với Chúa Giêsu rằng:
- Lạy Thầy, xin Thầy hãy xa tránh tôi vì tôi là kẻ tội lỗi.
Giữa lý tưởng cao cả mời gọi họ và con người yếu đuối của họ có một hố sâu cách biệt, làm cho họ cảm thấy mình bất lực và muốn đẩy Thiên Chúa ra xa. Trước mặt Thiên Chúa, con người đều cảm thấy sợ hãi và xấu hổ. Thế nhưng chính Ngài sẽ hành động để nâng đỡ sự yếu hèn của con người.
Miệng lưỡi của Isaia đã được tinh luyện bằng than hồng. Phaolô được biến đổi bởi ơn Chúa. Còn Phêrô, người đánh cá xui xẻo,. thì cảm thấy như được an tâm để dấn thân vào công việc mới. Như thế mỗi người đều được Thiên Chúa tái tạo và chấp nhận vào chính lúc mà họ cảm thấy bất xứng và thất vọng nhất. Từ đó họ cảm thấy cả con người và cuộc đời họ lệ thuộc vào Thiên Chúa. Nên họ hoàn toàn phó thác, để Thiên Chúa thực hiện những gì Ngài mong muốn nơi họ. Họ chỉ còn biết theo Ngài và tuân phục Ngài.
Để đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, thì Isaia đã trả lời:
- Này tôi đây, xin hãy sai tôi.
Phaolô thì nói:
- Tôi đã chịu khổ nhọc nhiều hơn những người khác.
Còn Phêrô và các bạn thì đã bỏ chài lưới, ghe thuyền mà đi theo Chúa Giêsu.
Sự sợ hãi đã nhường chỗ cho niềm tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa. Tin tưởng vì Thiên Chúa chính là tất cả những gì chúng ta muốn và Ngài sẽ làm cho chúng ta trở nên như thế, vì nếu không có Ngài chúng ta không là gì cả.
Cuộc phiêu lưu của ba đấng trên đây, phải chăng cũng là cuộc phiêu lưu của mỗi người chúng ta. Thiên Chúa nói với chúng ta bằng nhiều cách. Thiên Chúa đến với chúng ta bằng nhiều ngả đường.
Vì thế, cần phải chăm chú lắng nghe và tìm hiểu. Có những lúc chúng ta cảm thấy bối rối và lo sợ, nhưng đừng vội thất vọng ngã lòng, bởi vì Chúa sẽ nâng đỡ và phù trợ. Điều cần thiết đó là, hãy sẵn sàng từ bỏ và vâng phục Ngài.
49. Mẻ lưới
Sau khi kết thúc bài giảng của mình, Chúa Giêsu nói với Phêrô rằng:
- Hãy ra khơi và thả lưới.
Và chúng ta đã thấy được phản ứng tức thời của Phêrô. Ông nói:
- Thưa Thày, chúng con đã vất cả cực nọc suốt đêm mà chẳng bắt được một con cá nào. Nhưng vâng lời Thày, chúng con sẽ thả lưới.
Qua lời nói này, chúng ta thấy được thái độ của Phêrô. Ông không tranh luận và bàn cãi với Chúa Giêsu về những kinh nghiệm nghề nghiệp của mình, trái lại ông hoàn toàn tin tưởng và vâng phục, chính vì thế mẻ cá lạ lùng đã xảy ra. Đồng thời, nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ tự hỏi: các ông đã làm lụng vất vả suốt đêm, tuy nhiên các ông đã làm lụng như thế nào?
Tôi xin thưa:
- Các ông đã làm lụng một mình.
- Và kết quả ra làm sao?
Tôi xin thưa:
- Chỉ là một con số không.
Với chúng ta cũng vậy. Nếu chúng ta làm việc một mình, có nghĩa là chúng ta quá ỉ vào sức riêng, quá cậy dựa vào tài năng của mình, để rồi thất bại sẽ làm cho chúng ta bực bội và thất vọng. Trái lại, với tâm tình cầu nguyện và tin tưởng, chúng ta hãy mời Chúa cùng làm với chúng ta và chúng ta sẽ thấy mọi sự tốt đẹp hơn nhiều, bởi vì như một câu danh ngôn đã bảo:
- Có Chúa thì màng nhện cũng sẽ trở nên tường thành. Còn không có Chúa, thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.
Hay như Thánh vinh đã nói:
- Ví như Chúa chẳng xây nhà,
Thợ nề vất vả chỉ là uổng công.
Thành trì Chúa chẳng giữ trông,
Hùng binh kiện tướng cũng không ra gì.
Và chính Chúa cũng đã xác quyết:
- Không có Thày, các con không thể làm gì được.
Tiếp nối đoạn Tin mừng, chúng ta thấy sau mẻ cá lạ lùng ấy, các môn đệ đã đi từ ngạc nhiên đến sợ hãi. Trong khi đó, Phêrô đã quì xuống dưới chân Chúa và thưa lên với Ngài:
- Lạy Thày, xin hãy xa con vì con chỉ là một kẻ tội lỗi.
Phải chăng đây là một tiếng kêu xuất phát từ cõi lòng khiêm nhường của ông, khiến chúng ta liên tưởng tới lời nói của viên đội trưởng:
- Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con.
Chúa Giêsu không những đã không rời xa Phêrô, trái lại Ngài đã yêu thương và dành cho ông một sứ mạng:
- Từ nay con sẽ trở thành kẻ chài lưới người ta.
Và Phúc âm đã kết thúc: các ông cho thuyền vào bờ, rồi sau đó đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa Giêsu. Một vài câu ngắn ngủi này đã nói lên tất cả. Các ông đã trở thành những mẫu gương sáng chói cho muôn đời noi theo, bởi vì qua dòng thời gian, biết bao nhiêu người cũng đã từ bỏ mọi sự, bước theo Chúa trên dấu chân của các ông.
Lời Chúa phán với các ngư phủ bên bờ hồ Tibêriade ngày xưa vẫn còn vang vọng tới chúng ta cho đến hôm nay:
- Các con hãy ra khơi và thả lưới.
Vâng theo lệnh truyền ấy, biết bao nhiêu vị tông đồ đã đi tới những vùng đất xa xôi hẻo lánh để rao giảng Tin mừng Phúc âm, thực hiện những hành động bác ái yêu thương hầu giúp đỡ những kẻ khốn cùng.
Riêng chúng ta thì sao? Là những người dân ở hậu phương, chúng ta có bổn phận phải yểm trợ cho các chiến sĩ ngoài tiền tuyến bằng lời kinh cầu nguyện, bằng đời sống gương mẫu, bằng những hy sinh gặp phải cũng như bằng chính tiền bạc vật chất, để hoạt động của các vị thừa sai gặt hái được những thành quả tốt đẹp, và bản thân chúng ta, dưới một góc độ nào đó, cũng sẽ trở nên những người thợ gặt trên cánh đồng truyền giáo.
Thế nhưng, chúng ta đã làm được những gì để góp phần nhỏ bé vào công cuộc truyền bá đức tin của Giáo hội? Chúng ta có thực sự muốn ra khơi và thả lưới hay không?
50. Mẻ cá lạ
Chúa Giêsu là một người đã sinh ra ở trần gian thì Chúa chỉ có thể sống ở trần gian một thời hạn nào đó, và chúng ta đã biết là 33 năm, rồi Chúa đã về trời. Nhưng đạo lý của Ngài, sự nghiệp của Ngài, cần phải được duy trì và loan truyền khắp nơi, nên Chúa phải nghĩ đến chuyện tuyển chọn những người cộng tác, để ở với Ngài, đi theo Ngài, tham dự vào sinh hoạt của Ngài, tiếp thu giáo huấn của Ngài và chứng kiến các việc Ngài làm… để sau này trở thành những người tiếp tục duy trì và truyền bá công cuộc cứu độ mà Ngài đã khởi đầu.
Chính vì thế khi bắt đầu công khai giảng dạy, chúng ta thấy việc trước hết Chúa làm là kêu gọi một số môn đệ. Những môn đệ đầu tiên đó là Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan. Các ông này đã đi theo Chúa nhưng chưa một ai quyết định dứt khoát bỏ mọi sự đi theo luôn. Nên theo Chúa được một thời gian các ông lại trở về nghề nghiệp cũ là chài lưới đánh cá. Vậy là các ông chưa hiểu ơn gọi và sứ mạng cao cả Chúa muốn trao phó cho các ông.
Hôm nay, một lần nữa, Chúa lại kêu gọi các ông và nói cho các ông biết sứ mạng quan trọng Chúa muốn trao phó. Để các ông vững tin vào Chúa, Chúa đã cho các ông chứng kiến một phép lạ, và qua phép lạ này các ông sẽ hiểu sứ mạng của mình hơn. Phép lạ này xảy ra vào quãng đầu cuộc đời công khai giảng dạy của Chúa Giêsu, tức là khoảng đầu năm 28, xảy ra ở bờ hồ Tibêria, gần Bếtsaiđa, quê hương của bốn tông đồ đầu tiên. Đó là phép lạ Chúa Giêsu cho các môn đệ bắt được nhiều cá.
Hồ Tibêria còn được gọi là hồ Ghennêxarét, có nhiều cá. Người ta thường đánh cá về đêm. Nhưng đêm ấy, các tông đồ đã thả lưới thâu đêm mà không bắt được gì cả. Nghề đánh cá có nhiều may rủi, cay cực. Nghề đánh cá phải chấp nhận sống giữa thiên nhiên với cuồng phong bão tố sóng cả. Phải chấp nhận sống bồng bềnh trên chiếc thuyền tròng trành tối ngày. Cuộc sống phải lấy đêm làm ngày là chuyện thường. Các môn đệ cũng thế, sau một đêm vất vả nhọc mệt mà chẳng được gì. Giờ đây các ông ngồi giặt lưới, rũ lưới, rồi đợi chờ chiều tối thuận tiện sẽ lại ra khơi.
Nhưng giữa lúc ấy Chúa bảo: “Hãy chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”. Các ông vâng lời Chúa ngay và bắt được rất nhiều cá quá sức mong tưởng, là hai thuyền đầy đến nỗi gần chìm. Dù các tay chài thiện nghệ đến đâu cũng phải kinh ngạc và công nhận đó là phép lạ. Một điều này thôi cũng đủ minh chứng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng quyền phép vô cùng. Trước phép lạ tỏ tường này, Chúa Giêsu bảo các môn đệ: “Từ nay các anh sẽ là người thu phục người ta”, nghĩa là những người có sứ mạng đi thu họp người ta để đưa vào Nước Thiên Chúa. Thế là từ lần kêu gọi này các ông quyết định dứt khoát từ bỏ mọi sự đi theo Chúa để thực thi sứ mạng đó.
Bài Tin Mừng này rất phù hợp với khẩu hiệu của đại hội giới trẻ Công giáo toàn cầu tổ chức tại Manila, Philippin, từ ngày 10 đến 15 tháng một năm 1995. Khẩu hiệu duy nhất của đại hội do chính Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chọn là “Như Cha đã sai Thầy đi thế nào, Thầy cũng sai chúng con đi như vậy”. Đức Giáo Hoàng đã dùng lời Chúa Giêsu làm khẩu hiệu như một lời hô hào gửi đến giới trẻ Công giáo toàn cầu, và cũng cho tất cả mọi Kitô hữu nữa.
Đức Kitô được Chúa Cha sai đến trần gian để công bố và thiết lập Nước Trời. Đức Kitô đã hoàn thành sứ mạng đó. Và trước khi về trời Ngài lại trao sứ mạng đó cho các tông đồ: “Các con hãy đi khắp nơi giảng dạy cho muôn dân”. Các tông đồ đã đóng vai trò chài lưới người. Các ngài đã ra đi rao giảng và cũng đã chu toàn sứ mạng Chúa trao phó. Nối tiếp các tông đồ, hiểu theo sát nghĩa, đã có biết bao người hiến thân làm tông đồ, rao giảng Tin Mừng để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Nhưng hiểu một cách rộng rãi, tất cả chúng ta đều là tông đồ của Chúa. Điều này Công đồng Vaticanô II đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần: mỗi Kitô hữu là một tông đồ của Chúa. Tất cả chúng ta đều được Chúa truyền phải làm mọi cách để chinh phục người ta về cho Chúa.
Người giáo dân thực thi mệnh lệnh này có hiệu quả hơn các linh mục, tu sĩ. Bởi vì các linh mục, tu sĩ đâu có đến các gia đình hay gặp gỡ được những người không có đạo, và họ cũng đâu có đến nhà thờ để nghe các linh mục giảng. Chính các giáo dân là những tông đồ cụ thể, trực tiếp và hữu hiệu nhất. Vậy anh chị em hãy suy nghĩ, hãy cố gắng hơn nữa, để đời sống của anh chị em, cách giao tiếp, gặp gỡ của anh chị em vừa làm chứng cho Chúa, cho đạo, vừa là động lực lôi kéo hay thúc đẩy người ta đến với Chúa.
Riêng các bạn trẻ, các bạn cũng hãy sẵn sàng muốn được sai đi xây dựng Nước Trời. Đối với phần đông giới trẻ Công giáo hiện nay, Nước Trời được nhìn như một cuộc sống hạnh phúc phần xác và phần hồn. Muốn dấu chỉ của Nước Trời được nhìn thấy trong cuộc sống, các bạn trẻ hãy cố gắng làm sao để cái tốt, cái đẹp của Nước Trời được thể hiện ngay trong đời sống cá nhân và gia đình các bạn. Nếu mỗi người chúng ta cố gắng sống được như thế thì Nước Trời đang ở giữa chúng ta.
51. Ơn gọi
Cả ba bài đọc của Chúa nhật V Mùa thường năm C đều quy về một đề tài chính là “Thiên Chúa đi tìm và kêu gọi con người”. Ngài không để cho những yếu hèn của người được gọi cản trở chương trình hành động của Ngài, nhưng Ngài ban hồng ân tràn đầy và một biến đổi người được chọn trở thành dụng cụ thích hợp: “Đừng sợ, hãy theo Ta, từ nay con sẽ là kẻ đánh cá người”. Lời này xưa kia Chúa đã nói cho thánh Phêrô, nhưng không những cho Phêrô mà thôi, mà còn cho tất cả mọi tín hữu là những kẻ tin nhận Ngài. Ngài kêu gọi từng người một với những khả năng, nhất là với những khuyết điểm, những bất toàn để rồi Ngài biến đổi họ trở thành những kẻ làm chứng cho Ngài.
Nơi bài đọc 1 chúng ta nhận thấy rằng, trước khi kêu gọi vị tiên tri, hoặc trước khi kêu gọi một ai đến theo Chúa thì Thiên Chúa đến với người đó, cho họ được cảm thấy Ngài, được cảm nghiệm sự hiện diện của Ngài trong đời sống người đó và ban ơn thánh như than hồng cháy đỏ trong thị kiến để thanh tẩy và biến đổi đương sự vừa được gọi trở thành hữu dụng hơn.
Khởi đầu của ơn gọi là kinh nghiệm sống động về ơn Chúa, là những lúc nói được là sốt sắng nhất. Lúc khởi đầu, người được gọi còn sốt sắng trong ơn gọi, vì còn cảm thấy như gần gũi Thiên Chúa, sống bên cạnh Ngài. Nhưng rồi trong cuộc đời theo Chúa có những thử thách đen tối, điều quan trọng là đương sự được gọi còn trung thành với ơn Chúa ban, và đây là trường hợp của thánh Phaolô tông đồ như được gợi lại nơi bài đọc 2 của thánh lễ Chúa nhật V mùa thường.
Thánh Phaolô đã được gọi sau rốt, nhưng không vì công nghiệp và tài năng của ngài, mà vì tình thương nhưng không của Thiên Chúa. Lúc đó ngài đang đi lùng bắt những đồ đệ của Chúa Giêsu Kitô trên đường tiến về Damas, nhưng rồi Chúa đã tìm đến Phaolô, từ đó Phaolô đã không bất trung với ơn Chúa đến độ thánh nhân đã viết và chúng ta đọc lại trong thơ của ngài như sau: “Ơn Chúa đã không trở thành vô ích nơi tôi, nhờ ơn Chúa tôi được như ngày nay”.
Nơi bài Phúc âm trích từ Phúc âm thánh Luca, chúng ta cũng quan sát thấy cùng một kinh nghiệm tôn giáo về ơn gọi đã xảy ra, đó là việc Chúa thực hiện một phép lạ để rồi nhờ phép lạ này mà Phêrô nhận ra sự hiện diện của Chúa và thốt lên: “Thưa Thầy, xin hãy xa con, vì con là kẻ có tội”.
“Lạy Chúa, xin hãy xa con, vì con là kẻ có tội”. Trước nhan Thiên Chúa ai là người vô tội hoàn toàn? Thiên Chúa tìm và kêu gọi con người, Ngài không để cho những yếu đuối của người được gọi cản trở chương trình hành động của Ngài, nhưng ban hồng ân tràn đầy để biến đổi người được chọn trở thành dụng cụ thích hợp.
“Đừng sợ, hãy theo Ta, từ nay con sẽ là kẻ đánh cá người”. Thật, kinh nghiệm sống động về Thiên Chúa Đấng trọn tốt trọn lành, và đồng thời cho con người vừa được gọi ý thức về thân phận yếu hèn tội lỗi của mình không xứng đáng được gọi, nhưng vì Chúa đã trấn an Phêrô và từ đó không bao giờ ngưng trấn an những kẻ Ngài gọi: “Đừng sợ, con sẽ là kẻ đánh cá người”.
Ơn Chúa sẽ biến đổi người đồ đệ, nhưng liệu chúng ta có đủ sức can đảm đi đến cùng để cho ơn Chúa biến đổi cuộc sống mình hay không? Liệu chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: Ơn Chúa không trở thành vô ích nơi tôi hay không? Nhờ ơn Chúa tôi được như ngày nay, như là tông đồ của Chúa, mặc dù tôi đã là kẻ tội lỗi, bắt bớ những tín hữu của Chúa.
52. Ơn gọi
Phụng vụ lời Chúa hôm nay trình bày những phản ứng khác nhau của con người phàm tục khi đối diện với Đấng Thiên Chúa thánh thiêng qua con người và sứ vụ của Đức Giêsu. Con người do kinh nghiệm dạn dày của một đời dấn thân vào mọi khoảnh khắc thăng trầm của cõi nhân sinh, đã từng vào sinh ra tử nơi những trận tuyến dữ dội nhất của xã hội loài người, đã nếm trải mọi vinh nhục của lòng dạ người đời. Có lẽ đầy xác tín và sẽ mãi bám chặt lấy kinh nghiệm bản thân theo góc độ có thể định hình. Đó có thể là một thế giới quyến rũ, một nhân loại hồn nhiên mở ra những khả năng vô hạn cho công trình xây xây nên một địa đàng tương lai. Đó có thể là một đấu trường dữ dội nơi sàng lọc các giá trị, nó ưu đãi cho sức mạnh của trí tuệ, của thế lực, của vật chất. Đó có thể là một bãi tha ma, một đống đổ nát điêu tàn của mọi ước mơ, nơi chôn vùi mọi giá trị hão huyền, mọi toan tính thành tâm thiện chí, mọi khát vọng công bằng, hòa bình, yêu thương, để cuối cùng trơ ra một thế gian trần trụi, chết chóc, tanh hôi, một mảnh vườn hoang vô chủ, một mảnh đất màu mỡ mọc lên đủ mọi thứ gian tà ác độc. Đó là một thế giới đã bị nguyền rủa. Đó là một nhân loại đã bị nhiễm độc không còn hy vọng tìm ra lối thoát.
Đức Giêsu đến đề nghị giải pháp của Người cho một thế giới mới, một nhân loại mới dựa trên nền tảng của giá trị Tin Mừng. Công cuộc Người dự định là qui tụ cộng đoàn nhân loại đã được phục hồi những giá trị nhân bản và tâm linh nguyên thủ qua quá trình hoán cải để hình thành một thể chế mới họa theo mẫu cộng đoàn Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần. Đó là một thể chế của Thiên Chúa, hay đúng hơn một gia đình của Thiên Chúa là nơi để yêu thương, để trao ban và đón nhận yêu thương không còn mức độ, không còn giới hạn và theo một chu kỳ vô tận.
Phản ứng của con người ra sao trước kế hoạch của Đức Giêsu?
Thưa, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được con cá nào. Chúng tôi đã vất vả suốt đêm, rõ ràng là rất tự tin, rất xác tín nơi kinh nghiệm và hiểu biết của mình mà không bắt được gì cả. Liệu công cuộc và nỗ lực của Thiên Chúa có sinh được kết quả gì hơn những cố gắng của nhân loại không? Nhân loại đã có thừa mứa tiện nghi, cuộc sống đã và còn tiếp tục tự lập, tự mãn trên đà tiến khoa học kỹ thuật. Lời giảng của Chúa liệu sẽ đem đến điều gì đáng ước mơ hơn những giá trị vật chất và tinh thần mà con người đang thụ hưởng? Đường hướng của Chúa liệu có thay đổi được cục diện giống gần như đã được cài đạp, đã được chương trình hóa của thế giới, của nhân loại hay không?
“Nhưng vâng lời Thầy, chúng tôi sẽ thả lưới”. Kể cả khi không còn lựa chọn nào khác, con người vẫn tỏ ra miễn cưỡng, không mảy may tin tưởng, hy vọng nơi công cuộc thực hiện nhân danh Chúa. Thế nhưng, để rồi xem Đức Giêsu có kế hoạch của Người. Là Thiên Chúa, hơn ai hết, hơn mọi trí tuệ của phàm nhân, Người tiên liệu tất cả mọi hoàn cảnh, mọi điều kiện, mọi khí hậu, mọi chuyển vận của cuộc đời và của con người, để chương trình yêu thương và cứu độ của Người phải nhất thiết thành tựu và thành tựu mỹ mãn.
Không cần thiết nữa, bất cứ một lý do thối thoát nào như trường hợp của ngôn sứ Isaia: “Khổ thân tôi vì miệng tôi ô uế”, hay như ông Simon Phêrô: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ có tội”. Thái độ hợp tình hợp lý nhất có lẽ là con người nên khiêm tốn nhập cuộc vào kế đồ đại nghĩa của Đức Giêu, như cung cách của thánh Phaolô: “Tôi có gì cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu”.
Đó là phản ứng thuận ý trời hơn hết để có được những mẻ cá lạ lùng.
53. Mầu nhiệm
Bài Tin Mừng hôm nay có tên gọi truyền thống là “mẻ cá lạ lùng” qua việc Chúa gọi Simon từ kẻ “lưới cá” Ngài đã làm cho ông trở nên kẻ “lưới người”. Qua hành trình ơn gọi ta thấy Chúa thử thách Simon, ông tin tưởng cậy trông vào Chúa và cuối cùng Chúa đã thương chọn ông trở thành tông đồ của Ngài.
Hôm nay là Chúa nhật V Mùa thường niên tôi xin kính mời quí ông bà anh chị em cùng với tôi lần mở lại trang Tin Mừng để tìm hiểu về hành trình ơn kêu gọi của mỗi người chúng ta trong cuộc sống hiện tại.
Phúc âm kể lại: đang khi Simon giặt lưới, tranh thủ nắng để phơi lưới, thế mà Đức Giêsu lại bảo ông bỏ việc riêng đó mà chèo thuyền ra xa bờ một chút để Ngài rao giảng. Rõ ràng đây là một thử thách nhắm đến tinh thần vâng phục, nhưng mới chỉ là thử thách lần đầu, phải bỏ mình.
Rồi khi giảng xong, Ngài lại bảo ông chèo thuyền ra khơi thả lưới. Đây là thử thách thứ hai ta thấy nặng ký hơn lần đầu. Vì Đức Giêsu không biết gì về nghề chài lưới, thế mà lại bảo Simon là một người chuyên về nghề chài lưới, chèo thuyền ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá. Đây là một điều vô lý hết sức: “Múa rìu qua mắt thợ”. Thả lưới cả đêm mà không bắt được một con cá nào. Thả lưới ban ngày làm gì có cá. Nhưng Simon lại phải bỏ mình “vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới, chứ ai khác thì… còn khuya!”
Quả thật, vì nể Thầy, Simon thả lưới. Cuối cùng các ông đã bắt được rất nhiều cá đến nỗi hầu như rách lưới. Đến lúc này Simon rất mệt vì đã vất vả suốt đêm, mà giờ này cá quá nhiều, một mình không làm gì được. Ông phải nhờ đến các bạn đồng nghiệp đến giúp đỡ ông. Đây là thử thách thứ ba Chúa đòi hỏi Simon phải bỏ mình sống tương quan liên đới với anh em. Nhưng qua những lần thử thách, Simon đặt niềm tin vào Thầy thế nào?
Trước hết, nhờ kinh nghiệm sống thân mật bên Thầy mấy tuần trước đó, Simon đặt hết tin tưởng vào Thầy: ông ra khơi thả lưới.
Lòng tin và sự vâng phục của Simon được tưởng thưởng tức khắc. Nhờ quyền năng phi thường Chúa Giêsu chỉ cho Simon phải thả lưới chỗ nào để chắc chắn bắt được nhiều cá.
Một mẻ cá như thế, giữa ban ngày, ngay mẻ lưới đầu tiên, sau một đêm tốn công vô ích; đối với những ngư phủ rành nghề, quả là một việc khác thường.
Sau đó, ông Simon sụp lạy dưới chân Chúa Giêsu và thưa Người rằng: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là người tội lỗi!” Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Simon và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc.
Simon đã từng chứng kiến phép lạ ở Cana, nhưng phép lạ này có liên quan mật thiết tới cá nhân ông, khiến ông bị xúc động mạnh. Ông thấy Thiên Chúa hiện diện ngay bên ông khiến ông có thể cảm nghiệm, sờ được. Bài đọc 1 cũng cho ta biết: ngày xưa Isaia khi nghe Chúa gọi, khi chiêm ngưỡng Thiên Chúa ngự trên ngai lửa, đã la hoảng lên:”… khốn thân tôi, tôi chết mất vì miệng lưỡi tôi nhơ bẩn, mà mắt tôi đã thấy Giavê.
Simon cũng kinh hãi ông quỳ xuống chân Thầy và nói “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!”, nhưng Chúa Giêsu bảo ông Simon rằng: “Đừng sợ hãi: từ đây con sẽ là kẻ chinh phục người ta”. Như vậy, nhờ vào lòng tin và vâng phục Phêrô đã được Chúa tuyển chọn. Qua Bí tích Rửa tội đã làm cho chúng ta trở nên con cái của Thiên Chúa. Như thế, mỗi người chúng ta sống ơn gọi của mình như thế nào?
Đối với những người sống trong bậc gia đình phải chu toàn trách nhiệm của mình là nuôi dưỡng và giáo dục con cái. Khi nói đến vấn đề giáo dục con cái ngày nay là một vấn đề rất khó khăn, chắc chắn rằng cha mẹ sẽ gặp nhiều thử thách. Vì thế, trang Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta phải biết vượt qua những thử thách đó và thêm tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Cách riêng, những người đang theo đuổi ơn gọi sống đời tận hiến, bài Phúc âm mời gọi chúng ta hãy lạc quan tin tưởng vào tình yêu của Đức Kitô, sống tốt giây phút hiện tại của mình. Kiên trì vượt qua thử thách, thêm tin tưởng vào Chúa. Vì hành trình ơn gọi của mỗi người không do một mình chúng ta thực hiện, nhưng luôn có Chúa cùng đồng hành với ta.
Một mình Phêrô không bắt được gì cả; nhưng có Chúa giúp, Phêrô đánh được một mẻ cá lạ lùng.
Gioan Vianney khi còn là chủng sinh đã học hành rất chậm. Ngày kia, một cha giáo vâng lời bề trên địa phận đến khảo hạch xem Vianney có đủ khả năng làm linh mục hay không? Tuy đã cố gắng học hành chăm chỉ, nhưng Vianney vẫn không trả lời được bất cứ câu hỏi nào cho trôi chảy. Tức giận, vị giáo sư đập bàn và nói “Vianney, anh thật dốt đặc như một con lừa! Với một con lừa như anh, thử hỏi Hội thánh sẽ hy vọng làm được gì đây?” Sau một giây suy nghĩ, Vianney khiêm tốn và bình tĩnh trả lời: “Thưa cha, theo ý con: ngày xưa Samson chỉ dùng một cái xương hàm của con lừa mà đánh bại được 3000 quân Philitinh. Vậy thì với cả một con lừa như con, chẳng lẽ Thiên Chúa lại không làm được việc gì hữu ích hay sao?
Quả thật, con lừa Vianney của Thiên Chúa đó sau này không những đã trở thành cha sở họ Ars, mà còn là một người nhân đức thánh thiện, làm ích rất nhiều cho Chúa và các linh hồn.
Qua tấm gương của cha Vianney, ngài đã sống trọn vẹn ơn gọi của ngài. Ước mong mỗi người chúng ta cũng xem lại việc sống ơn gọi trong bậc sống của mình và khi gặp thử thách xin cho chúng ta biết tin cậy vào sự quan phòng của Chúa.
54. Tuân theo Thiên Ý - Chìa khóa hạnh phúc--Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
“Vâng lời Thầy, con xin thả lưới” (Lc 5:5b).
“Hạnh phúc là nỗi khao khát triền miên có mặt trong từng hành động của con người.” Một nhà tư tưởng đã nói như thế. Tuy nhiên, trong thực tế, ai cũng nhận rằng dường như lúc nào khổ đau cũng nhiều hơn hạnh phúc. Nước mắt khi nào cũng đầy hơn tiếng cười. Tại sao vậy?
Tại sao đi tìm hạnh phúc mà cứ như đi bắt cái bóng, còn sự hiện hữu đích thật của hạnh phúc thì vẫn trốn ở nơi nào? Tại sao bao nhiêu người “thương” nhau lắm, những bất đồng thế nào cũng không màng, cha mẹ đôi bên có phản đối can ngăn cũng không xong? Họ cứ lấy nhau… Ấy thế mà, khi được vài mặt con, có người thẳng thừng tuyên bố: “Tôi chẳng có chút tình yêu nào với người ấy cả.”
Tại sao có người tu đã bao năm, tưởng rằng đắc đạo lắm, thế mà cũng có khi cởi áo nhảy rào? Phải chăng không có hạnh phúc thật trên cõi đời này? Hay vì “đời là bể khổ” nên đụng đâu cũng khổ sầu và nước mắt?
Thiết tưởng một câu trả lời đúng cho những câu “tại sao” trên đây sẽ là: vì con người đi tìm hạnh phúc nhưng cứ lẫn lộn mù mờ giữa những gì là tương đối với tuyệt đối, phương tiện với đích cùng, hữu hạn và vô hạn.
Có người đã nhận xét: “Sống trên đời, ai lại không cần tiền”. Thế nhưng khi hỏi tiền là phương tiện hay cùng đích thì ai cũng bảo tiền là phương tiện. Ấy vậy mà trong thực tế, biết bao người đã lấy tiền làm mục tiêu sống và giá trị trên mọi thứ giá trị, nên đã bất chấp nhân phẩm, luân lý, tình người, và những liên hệ thiêng liêng cao quí, miễn sao có tiền là được. Bao nhiêu quan hệ vợ chồng, cha mẹ, anh em bị sụp đỗ tan nát cũng vì người ta nhìn tiền là cùng đích chứ không phải phương tiện, tuyệt đối chứ không phải tương đối. Thế nên khổ đau và nước mắt là ở chỗ đó.
Một câu trả lời khác khả dĩ giải đáp cho các câu hỏi “tại sao” trên đây và giúp con người tìm được bình an cùng niềm vui sống sẽ là: vì người ta cứ chạy theo ý mình mà không hề nhận biết và vâng theo ý Chúa. Nếu như có ai đó có lòng kết hợp mật thiết với Thánh ý Thiên Chúa, thì chắc chắn, dù gặp bao nghịch cảnh gian nan trước mắt thế gian, họ vẫn là người bình an và hạnh phúc hơn thế gian suy tưởng.
Trong Thánh Kinh Cựu ước có hình ảnh nào khốn nạn và đau khổ như ông Gióp. Một người công chính, đang sống đời hạnh phúc giàu sang, thình lình đau thương ập xuống. Gia đình đang an lành, bỗng dưng thiên tai từ sa mạc thổi vào làm đổ tan nhà cửa. Con cái bị giết chết. Cơ nghiệp bị cướp sạch. Chính thân thể ông Gióp cũng bị lở loét, giòi bọ rúc rỉa. Đói khát hành hạ thường xuyên.
Trước cảnh sầu đau như thế, Gióp còn bị kẻ này người kia mỉa mai khinh bỉ, cho là bị trời phạt. Chính vợ ông cũng đay nghiến suốt ngày, xúi Gióp chửi Thiên Chúa. Gióp đã có lần than thở: “Ôi, đời người có khác chi cảnh tôi tớ, kiếp sống như kẻ làm thuê. Tôi tớ thì khát khao chút bóng mát để nghỉ ngơi; kẻ làm thuê thì trông mong giờ lãnh tiền công. Ấy thế mà thân tôi chẳng bao giờ được trả công, nghỉ ngơi một chút cũng không được. Bởi vì vừa nằm xuống thì tâm hồn sầu buồn mong cho trời mau sáng. Đến khi trời sáng thì thấy ngày đời trôi nhanh như con thoi” (G 7:1-6).
Trước cảnh khốn đốn tận cùng, dường như không còn chút hy vọng nào cho cuộc sống, Gióp vẫn một niềm kiên cường thốt lên: “Chúa đã cho, Chúa đã lấy đi. Ý Chúa muốn làm sao, thì nên như vậy. Xin chúc tụng danh Chúa” (G 1:21).
Thật lạ lùng! Giữa chốn âm u bão bùng mà vẫn nhắm ý Chúa thẳng tiến.
Kết quả, vì biết vâng theo thánh ý Thiên Chúa mà cuối cùng Gióp đã tìm lại ý nghĩa và hạnh phúc cho cuộc đời.
Như Đức Giêsu, suốt cả kiếp người đã không làm gì khác hơn là thi hành ý Cha. Cho đến giờ chết vẫn cứ là: “Lạy Cha, xin vâng như ý Cha.” Nhờ thế sự sống nơi Ngài đã tuôn tràn chứa chan cho nhân loại.
Liên quan đến chủ đề này, Thánh Anphongsô có nói về một thầy dòng kia, trông diện mạo bên ngoài thì không có gì đáng chú ý. Thầy cũng chẳng thường hãm mình bao nhiêu. Thế mà lại hay làm phép lạ. Bề trên ngạc nhiên mới hỏi: “Con có nhân đức gì trổi hơn anh em, hay có thi hành việc lành nào sốt sắng, mà sao cha thấy con làm được nhiều sự lạ vậy?” Thầy dòng khiêm tốn trả lời: “Con không dám so sánh với các nhân đức của anh em con… Chỉ có một điều con luôn chú ý hơn cả là vâng theo thánh ý Chúa hết lòng: Sự gì Chúa muốn là con muốn, dù vui sướng hay buồn khổ, an lành hay gian truân.”
Nghe thế bề trên liền hỏi lại: “Thế chứ cách đây mấy hôm, có kẻ đã làm thiệt hại cho dòng ta, họ đã đốt phá nhà cửa đất đai của ta tan tành, con có lấy làm đau đớn ưu phiền không?” Thầy liền thưa lại: “Thưa cha, con không lấy gì làm đau khổ, cũng chẳng lấy chi làm ưu phiền. Con vẫn bình an như thường, vì biết rằng Chúa luôn muốn cho chúng ta được phần ích lợi hơn. Nên con cảm tạ Chúa luôn.” Cha bề trên nghe những lời ấy đã công nhận rằng: Đây là một vị thánh, có đủ các nhân đức, vì thầy có lòng vâng phục thánh ý Thiên Chúa hết mình (Anphongsô, Chân Lý Đời Đời, tr. 299).
Vâng theo ý Chúa sẽ giúp ta vượt qua gian truân khốn khó của đường đời và tìm được bình an và niềm vui dồi dào phong phú. Vâng theo Chúa không chỉ lúc thuận ý nhưng cả khi nghịch lý. Không chỉ khi thành công may mắn nhưng cả lúc rủi ro thất bại ê chề.
Không phải là Thánh Phêrô đã thốt lên “Thưa Thầy, chúng tôi đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết; nhưng vì ý Thầy muốn, tôi sẽ thả lưới” sao?
Các tay đánh cá chuyên nghiệp của biển hồ Giênêsarét tất biết rõ chỉ thả lưới ban đêm mới mong bắt được cá. Ít ra thì cũng phải là “lúc chạng vạng hay khi rạng đông.” Chứ đời thuở nào mặt trời đã lên cao mà còn mong bắt được cá. Đó là chưa nói đến việc Phêrô và các bạn chài đã vất vả suốt đêm, chưa được nghỉ ngơi chút nào, lại mới giặt lưới xong, bây giờ nếu thả lưới xuống, lúc kéo lên là phải giặt lại, mệt nhọc biết bao.
Vậy mà “vâng lời Thầy, con xin thả lưới.” Và kết quả của việc xin vâng là một ngày bội thu hoan hỉ: “Họ thả lưới và bắt được một mẻ cá nhiều lắm, đến nỗi lưới muốn rách. Họ ra hiệu cho các bạn đồng nghiệp trên thuyền gần đó đến giúp. Những người này tới, và họ chất được hai thuyền đầy cá, đến sắp chìm” (Lc 5:6-7).
Dẫu rằng chủ đề của Lời Chúa tuần này là “Sai Đi” nhưng sống “Vâng Phục Ý Chúa” cũng không có chi là lạc đề. Bởi vì không “vâng phục” sẽ chẳng “sai đi” được. Nói đến “sai đi” là hàm ngậm một chỗ đến. Và dầu đã đến nơi phải tới, thì vai trò của người được sai vẫn là chu toàn sứ mạng. Còn không vâng phục đừng mong sứ mạng hoàn thành. Không có sứ mạng nào cao đẹp cho bằng làm đúng ý người sai mình đi. Thế nên Đấng Cứu Thế đã từng cầu nguyện: “Này con xin đến để thi hành ý Cha.” Thực thi ý Cha chính là lẽ sống của Người Con hiếu thảo quí yêu.
Thiết tưởng không có tâm tình nào ý nghĩa và sinh hoa trái nhiều hơn cho nhân gian bằng tâm tình xin vâng đó.
55. Người ấy biết đứng lên
Theodore Roosevelt đã từng nói, "Người đáng được chú ý không phải người biết nhận xét hoặc người biết ý kiến cho người khác con đường tốt, nhưng là người ở trong cuộc. Người phải chịu xây sát với nước mắt và mồ hôi, dũng cảm đấu tranh, lầm lỗi và gặp những trắc trở, biết hăng hái nhiệt tình, mạnh mẽ tin tưởng vào sự thành công của công việc nhưng lại bị thất bại. Như thế, chỗ đứng của họ không chung với những tâm hồn cô đơn và nhút nhát, nhưng với những tâm hồn biết cảm nghiệm được thất bại và chiến thắng."
Không biết trong đầu của Roosevelt đã có ai là thần tượng hay không, nhưng thật ra điều đó miêu tả một ngư phủ được Chúa Giêsu kêu gọi theo Ngài để cộng tác vào việc rao giảng Nước Thiên Chúa: Thánh Phêrô, một con người thuộc giới lao động. Đây là một người ở "trong trận chiến, xây sát bằng nước mắt và mồ hôi, dũng cảm chiến đấu, lầm lỗi và luôn gặp những trắc trở, hăng hái nhiệt tình, mạnh mẽ tin tưởng vào sự thành công của công việc nhưng lại bị thất bại." Hơn hết, đây là một người biết thế nào là "thất bại" và "chiến thắng."
Thánh Phêrô là một người đã từng ngã đi ngã lại. Ngài đã từng phải cảm nghiệm hết cái thất bại này đến thất bại nọ. Thí dụ, một lần Chúa Giêsu đã hỏi các môn đệ Ngài về câu hỏi người ta nói Chúa Giêsu là ai? Sau cùng, Ngài đã hỏi chính các môn đệ Ngài nghĩ Ngài là ai? Thánh Phêrô đã nhanh nhẩu đáp ngay, "Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống." Câu trả lời này của Thánh Phêrô đã làm cho Chúa Giêsu hài lòng về ông. "...Anh thật là có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời" (Mt 16:15 & 17). Sau đó, Chúa Giêsu đã dùng cơ hội này để diễn tả sứ mệnh của Đấng Cứu Thế. Sứ mệnh đó chính là phải chịu đau khổ và chịu chết. Chính ngay sau khi nghe điều đó, Thánh Phêrô đã vấp ngã. Ông đã nói với Chúa Giêsu rằng, "Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!" Và Chúa Giêsu đã quay lại bảo ông, "Satan, lui lại đàng sau Thầy!" (Mt 16: 22-23).
Khoảng một thời gian sau đó, trên núi biến hình, Thiên Chúa đã ban cho Thánh Phêrô thêm một món quà đặc biệt nữa: đó là được nhìn thấy Maisen và 'lia đàm đạo với Chúa Giêsu. Câu truyện đó là để chứng thực về điều mà Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ Ngài về sứ mệnh của Đấng Cứu Thế. Lúc đó Thánh Phêrô đã phản ứng ra sao? Ông đã nói với Chúa Giêsu rằng họ có thể ở trên núi và xây nhà dựng cửa.
Một thời gian sau lần đó nữa, Thánh Phêrô đang ở trên thuyền với các môn đệ khác. Họ nhìn thấy Chúa Giêsu đi trên nước đến với họ. Chúa Giêsu đã kêu Thánh Phêrô đến với Ngài. Thánh Phêrô đã ra khỏi thuyền và khi ông rời mắt khỏi Chúa Giêsu thì một tí nữa là ông bị chết chìm.
Trong những giờ phút cuối cùng trước giờ tử nạn của Chúa Giêsu tại nhà Tiệc ly, chính là giây phút cực kỳ khó hiểu đối với Thánh Phêrô khi ông nhìn thấy Thầy mình rửa chân cho các môn đệ. Một việc làm của các đầy tớ. Không hiểu được ý nghĩa của việc làm đó, Thánh Phêrô đã lên tiếng, "Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!" Tuy nhiên, khi ông hiểu được việc làm của Chúa Giêsu thì chính ông lại còn muốn Chúa Giêsu không những rửa chân của ông mà còn cả mình ông nữa (Gn 13:8-9).
Chúa Giêsu đã muốn Thánh Phêrô ở với Ngài trong vườn Ghétsimani với Ngài, thế nhưng ông đã ngủ.
Chúa Giêsu đã dạy dỗ về lòng tha thứ và không được dùng bạo động. Thế nên trong khi bị quân dữ bao vây, chính Thánh Phêrô đã cầm kiếm và vung văng để một tên lính phải bị chém đứt tai. Một lần nữa, Thánh Phêrô đã hành động như là ông chưa nắm được ý nghĩa đích thực của những lời giảng dạy của Chúa Giêsu.
Sau cùng, cái giờ phút tệ bạc nhất đó là chính Thánh Phêrô đã mạnh dạn thề thốt cho dù có bất cứ chuyện gì xảy ra thì ông cũng sẽ không bỏ Chúa Giêsu. Thế nhưng, trong sân Philatô, ông đã sợ hãi mà chối Chúa đến ba lần, không phải với những người có chức quyền gì, mà là những đứa đầy tớ thấp hèn (Mt 26:35, 70, 72, 74).
Chúa Giêsu đã gọi Thánh Phêrô là đá. Tuy nhiên đó là một viên đá cứ rơi lên rớt xuống. Hết lần này đến lần khác, ngài đã phải cúi mặt xuống ăn năn. Đó là một con người đã phạm hết lỗi lầm này đến lỗi lầm khác, thế nhưng sau cùng đã trở nên Tông Đồ Cả., Trong cuộc bách hại bởi quân Rôma, Thánh Phêrô chính là người đã liên kết và gìn giữ Hội Thánh. Đó là thời gian mà Giáo Hội tiên khởi đã bị giết chết cả hàng ngàn người. Trong ngày Lễ Hiện Xuống, chính Thánh Phêrô đã đứng ra và giảng dạy. Sau khi Chúa Giêsu không còn hiện hữu một cách thể lý nữa, nhưng những người tàn tật và mù lòa vẫn còn tiến đến, và chính Thánh Phêrô đã chữa cho họ được khỏi.
Tin mừng của Phúc Âm là ơn thánh vẫn hằng luôn ban xuống cho chúng ta. Ơn thánh của Chúa hằng luôn hiện hữu ở giữa chúng ta, ở đây, ngày hôm nay trong buổi tụ họp này. Tuy nhiên, câu hỏi được đặt ra là, "Làm sao chúng ta thể hiện công việc ấy ngay? Làm sao nó có thể trở thành một cái gì đó hơn là một ý tưởng suông?" Ở tại chỗ này, tài liệu Thánh Phêrô để lại có thể giúp ích cho chúng ta rất nhiều. Chúng ta có thể thấy được Thánh Phêrô đã làm cho sự hiện diện của Thiên Chúa gần gũi là một tiến trình lớn lên của cuộc sống chúng ta. Chúng ta có thể nhìn thấy trong Thánh Phêrô một tiến trình lớn lên kèm theo sự chỗi dậy của những lần ngã qụy; biết chỗi dậy sau những lần bị thất bại; Simon Phêrô có lòng nhiệt thành. Ông có lòng đạo đức cao siêu. Khi thánh nhân bị ngã, thì ngài luôn biết chỗi dậy.
Nếu bạn chỉ biết ngồi ở trong căn phòng của mình và đóng cửa lại, thì những tài năng của bạn sẽ bị chôn vùi và không được phát triển. Nếu vậy, thì bạn gìn giữ chính bạn để làm cái gì? Bây giờ chính là lúc chúng ta sống. Đây chính là lúc mà Thiên Chúa đang hiện diện bên bạn, và Ngài uốn nắn bạn để trở thành người môn đệ tốt đẹp. Chúng ta không cần phải lo ngại sẽ bị thất bại. Những người mà cố gắng để làm những việc có giá trị, và rồi bị thất bại thì chắc chắn được hưởng niềm vui lớn lao hơn là những người không cố gắng để làm bất cứ chuyện gì cả.
Cũng như Thánh Phêrô, chúng ta phải có một tiến trình lớn lên kèm theo sự đứng lên sau những lần ngã quỵ; biết chỗi dậy sau những lần bị thất bại.
56. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
MẺ LƯỚI CÁ LẠ VÀ GỌI SIMON PHÊRÔ
Bản văn đóng khung ở dưới đây sẽ cho thấy: việc kêu gọi Simon là đối tượng của một sự chuyển vị. Thực vậy, đối với Luca lời kêu gọi này giả thiết Chúa Giêsu và Simon đã quen biết nhau; lời đáp của Simon sẽ dễ hiểu hơn khi ông biết Chúa Giêsu như một người giảng dạy và chữa bệnh cách lạ lùng.
Lc 5,1-11 không đơn giản, vì nó không chỉ vay mượn ở cảnh kêu gọi các môn đệ trong Mc 1,16-20. Lúc đầu, vì quá đông dân chúng, Chúa Giêsu phải lên một chiếc thuyền để giảng dạy, đó là cảnh ở Mc 4,1-2. Nhưng đặc biệt, bản văn này kết hợp trình thuật về mẻ lưới lạ đến từ truyền thống và cụng thấy việc đánh cá trong cả hai trường hợp đều ám chỉ sứ mệnh của Giáo Hội. Việc gắn liền phép lạ này vào trình thuật kêu gọi môn đệ không có mục đích cung cấp cho Simon một dấu hiệu mới về quyền năng của Chúa Giêsu, nhưng trước hết phép lạ đó làm cho kẻ đánh lưới cá trở thành kẻ đánh lưới người. Như vậy, toàn bộ trình thuật được cấu trúc trên ẩn dụ này.
Việc đặt vị trí cho câu chuyện (c. 1-3), việc giảng dạy của Đức Giêsu – mà Luca có ý nhấn mạnh nhiều – bị cản trở do chính thành công của mình = đám đông chen lấn Người để nghe lời Thiên Chúa – Lời Thiên Chúa mà về sau Phêrô và nhóm Mười Hai cũng sẽ không bỏ quên được (Cv 6,2). Hai chiếc thuyền và đoàn thủy thủ đang sẵn sàng – nếu họ giặt lưới là vì công việc đã xong. Hơn nữa, Chúa Giêsu và Simon đã biết nhau. Chiếc thuyền của ông không chỉ giúp cho Thầy tách ra khỏ đám đông và tiếp tục việc giảng dạy một cách thỏa đáng hơn.
Vì liền sau đó, Chúa Giêsu bảo Simon đưa thuyền ra chỗ nước sâu và, cùng với cả đoàn ngư phủ thả lưới (c. 4-7). Đã từng trải trong nghề, ông chủ thuyền bực bội trước lệnh của một người sống ở nông thôn và trước một kết quả hết sức là bấp bênh. Tuy nhiên, nếu ông thả lưới, không phải vì ông thử bắt cá – bởi lẽ ông đã vất vả suốt đêm và đã thất bại – mà vì muốn vâng theo một lời nói mà ông đã có kinh nghiệm về hiệu quả. Mà, trong trường hợp này, hiệu quả còn ở điểm hẹn: hiệu quả vượt hẳn qua sức chứa của những chiếc lưới của Simon đến nỗi sắp rách. Không thể rách lưới được, vì bằng một dấu hiệu ngầm, đoàn ngư phủ khác đã đến giúp: như vậy chiếc thuyền thứ hai nêu rõ sự vĩ đại của phép lạ. Nhưng Luca còn nhấn mạnh thêm đến hiệu quả của Lời Chúa Giêsu: dưới sức nặng của mẻ cá bắt được: hai chiếc thuyền suýt gần như chìm.
Với các câu 8-11, mọi chú ý đều hướng về Simon Phêrô, bằng cách ghép hai tên mà Chúa Giêsu đặt người đứng đầu nhóm Mười Hai (6,14). Thấy phép lạ, Simon cùng có một phản ứng như Isaia (Is 6,5-6): một con người, tất nhiên là tội nhân, không thể sống được khi tiếp cận với quyền năng thần linh của Thiên Chúa. Sự kinh hãi thánh thiêng chiếm ngự cả các bạn đồng nghiệp của Phêrô. Để làm nổi vai trò của Phêrô, mãi đến bây giờ Luca mới nhắc đến Giacôbê và Gioan, Anrê được nói đến ở Mc 1,16 với ba vị khác, ở đây bị bỏ qua – như ở 4,38. Chính vì Luca đặt nổi bộ ba Phêrô, Gioan và Giacôbê, sẽ là những nhân chứng về hai dấu chỉ của quyền năng thần linh khác nữa (8,51; 9,28).
Nhưng trở ngại mà Phêrô đặt ra đã được giải tỏa: cũng giống như các sứ giả thần linh trong các cảnh mặc khải (x. 1,13-30; 2,10). Chúa Giêsu vượt qua khoảng cách khi bảo Phêrô đừng sợ. Rồi, không gọi rõ tên Simon như đã xảy ra cho ông và anh của ông ở Mc 1,17, Chúa Giêsu chỉ nói lên một lời hứa cho mình ông thôi. Luca viết lại lời hứa này để giải tỏa ẩn dụ của việc đánh cá khỏi khía cạnh tiêu cực của nó – những con cá chết – và nhắc tới việc phán xét của Chúa (Gr 16,16): “Từ nay, anh sẽ là kẻ cứu sống người ta”. Động từ mà Luca chọn có nghĩa đen là “bắt sống”. Bởi đó chúng ta hiểu mẻ lưới lạ tiên báo lời rao giảng Kitô giáo có mục đích quy tụ những con người lại – hình ảnh chiếc lưới bắt cá – để họ được sống. Cũng có những tiếng “từ nay” – một diễn ngữ quen thuộc của Luca (xem trong kinh Mangificat 1,48), mở ra giai đoạn mới của ơn cứu độ. Thời tương lai được mở ra bởi câu 10, đó là hiện tại của Giáo Hội đã bắt đầu từ ngày ấy.
Simon Phêrô không chỉ là phát ngôn viên của nhóm người quy tụ xung quanh Chúa Giêsu (Lc 9,20); ông sẽ còn giữ một nhiệm vụ tương tự trong cộng đoàn đầu tiên ở Giêrusalem sau Phục Sinh (Cv 1,15). Nhất là ông sẽ rao giảng lời Chúa, như vậy là thả một mẻ lưới lớn quy tụ nhiều người để họ được sống (Cv 2,14-41).
Chúa Giêsu không có một lời kêu gọi nào cho các bạn đồng nghiệp của Simon; phép lạ và lời Chúa nói với Simon đã là một tiếng gọi và tất cả sẽ theo Người. Được mượn ở ngôn ngữ của các Kinh sư, thuật ngữ này chỉ điều kiện của người môn đệ chấp nhận đi theo bước chân của Thần mình (x. Lc 5,27-28). Sau cùng, một nét đặc trưng nữa của Luca; những môn đệ mới bỏ tất cả, không chỉ bỏ lưới như ở Mc 1,18. Theo Chúa Giêsu, đó làm một chọn lựa triệt để.
57. Chú giải của Noel Quesson
Trang Tin Mừng này, như nhiều trang khác, dưới vẻ bề ngoài hời hợt kể về một giai thoại của đời sống Đức Giêsu thật ra là một trang về giáo hội học hay thần học về Giáo Hội.
Một hôm, Đức Giêsu đang đứng ở bờ hồ Ghen-nê-xa-rét, dân chúng chen lấn nhau đến gần Người để nghe lời Thiên Chúa
Trước tiên, tôi nhìn ngắm quang cảnh cụ thể. Rồi tôi thử tưởng tượng. Đức Giêsu ở giữa một đám đông. Người nói. Đám đông lắng nghe Người. Người không nói bất kỳ điều gì: Người nói Lời Chúa. Nhà thần học Luca nói với chúng ta đó là vai trò đầu tiên của Giáo Hội: việc rao giảng! Điều mà Giáo Hội cố gắng thực hiện chính.Đức Giêsu đã bắt đầu điều đó. Sự rao giảng của Giáo Hội là sự kéo dài việc rao giảng của Đức Giêsu và có cùng một nội dung.
Lạy Chúa, xin cho con lòng yêu mến Lời Chúa, lòng khao khát được lắng nghe Lời Ngài.
Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới. Đức Giêsu xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Simon, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy đám đông
Quang cảnh cụ thể và hiện thực. Nhưng cũng là quang cảnh có tính tượng trưng sâu sắc. Chiếc thuyền tạo ra một khoảng cách; giữa Đức Giêsu và đám đông, như thế nhấn mạnh vẻ uy nghi nào đó của Đức Giêsu đang ngồi giảng dạy. Và "thuyền đó là thuyền của Simon "tức Phêrô” Giữa đám đông các môn đệ, Luca thong thả nhận ra một vài người sẽ trở thành "nhóm mười hai mà Đức Giêsu gọi là các Tông Đồ." (Lc 6,12)...và trong nhóm mười hai này, Luca còn nhận ra Simon là trọng tâm của bài tường thuật và được gọi đích danh sáu lần trong trang Phúc âm này. Vì thế, đây là cơ cấu chủ yếu của Giáo Hội mà Đức Giêsu mong muốn.
Cơ cấu tổ chức của Giáo Hội có thể làm cho chúng ta vui mừng hay khó chịu. Dọc dài theo lịch sử, các giáo hoàng và các giám mục có thể đã đóng những vai trò trần tục theo hình ảnh các ông hoàng của thế gian này, hỡi ôi! Nhưng về mặt thần học, chính Đức Giêsu thiết lập cơ cấu tông truyền của Giáo Hội. Trong Giáo hội, các vị có chức tránh trước tiên không phải là một thủ lĩnh, một bề trên trong phẩm trật, một người chấp chính, mà là một người phục vụ đại diện cho Đức Kitô, Đấng Phục vụ trong bí tích. Giáo sĩ là một dấu chỉ, một Bí tích của Đức Giêsu Kitô. Giữa đám đông các môn đệ có linh mục là dấu chỉ rằng chúng ta không chinh phục ân sủng và Lời Chúa, nhưng chúng ta tiếp nhận Lời từ một Đấng khác. Thánh chức đại diện cho Đức Kitô quả là một trách nhiệm đáng sợ. Ngày hôm nay, chẳng phải chúng ta có khuynh hướng nguy hiểm là đánh giá thấp "lời giảng dạy" của Giáo Hội, là bác bỏ khỏi Giáo Hội khía cạnh bí tích, mầu nhiệm, thiêng liêng đó sao? Để chỉ nhìn thấy con người đang nói mà quên đi Đấng mà người ấy đại diện và biểu thị một cách hiệu lực đó sao? Công đồng dám khẳng đinh: "Chúa Kitô hằng hiện diện trong Giáo Hội nhất là trong các hoạt động phụng vụ Người hiện diện trong con người thừa tác viên. Người nói khi người ta đọc Thánh Kinh. Ai rửa tội chính là Đức Kitô rửa. Phụng vụ đáng được xem là việc thực thi chức vụ tư tế của chính Chúa Giêsu Kitô, trong đó công cuộc thánh hóa được biểu tượng nhờ những dấu chỉ khả giác" (S.C 7). Chúng ta có cầu nguyện để các Giáo hoàng, các Giám mục, các linh mục đóng đúng vai trò ấy hay không?
Chiếc thuyền ấy của Simon, neo trong cái vũng nhỏ ở Ca-phác-na-um; tôi thích tưởng tượng nó như một chiếc thuyền cũ kỹ tồi tàn mà khắp mọi chỗ có những mảnh ván đóng đinh chong vào để lấp kín những chỗ hư hại... một chiếc thuyền rất phàm nhân, rất bình thường, rất nghèo hèn! Nhưng Đức Giêsu đã bước lên chiếc thuyền ấy và từ đó Người nói! Ôi! Chiếc thuyền mẫu nhiệm, Giáo Hội của Người, và Lạy Chúa, nó vừa rất con người và cũng rất thánh thiêng…
Giảng xong, Người bảo ông Simon: "Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá
Bản dịch theo mặt chữ thì tốt hơn và nói rằng: Ra chỗ nước sâu hay đúng hơn: "Ra chỗ nước trên vực thẳm "eis to bathos" ' tiếng Hy Lạp. Từ tiếng Bathos có nghĩa là vực thẳm, mà có từ tiếng Pháp "bathiscaphe": Chiếc tàu lặn của Cousteau để thám hiểm các vực sâu dưới đáy biển. Đối với dân Sêmít, dân cư của các vùng đất khô cằn, biển là nơi đáng ngại nhất, biểu tượng của các vực thẳm nội tâm, nơi ở của các quái vật trong hỏa ngục (St 7,17; Tv 74,13-24,2; Gr 38,16; Gn 2,2; Kh 9,l-3-20,3-13,1). Nghề biển là một nghề nguy hiểm. Oi có biết bao thủy thủ, thuyền trưởng “bị nuốt chửng, nhận chìm" vào cái hàm mở rộng của biển cả!
Như thế, Đức Giêsu nói một cách tượng trưng điều này: "Con thuyền của Simon, Giáo Hội của Ta, hãy tiến vào nơi hiểm nghèo của biển cả, vào nơi hiểm nghèo của thế gian, hãy rời bỏ sự an toàn của bờ bến; hãy tiến lên trên vực thẳm". Lạy Chúa! Xin cho chúng con biết mạo hiểm.
Ông Simon đáp: "Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới.
Sứ mạng của Giáo Hội hoàn toàn vượt quá những sứ mạng của con người: Người môn đệ chân chính lắng nghe "lời" Chúa dù lời đòi hỏi người ấy những điều xem ra phi lý.
Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm
Luca nhấn mạnh đến tính chất phi thường của việc đánh cá siêu phàm ấy: Lưới rách, một sự giúp đỡ cần thiết, người ta đổ cá đầy "hai" thuyền, thuyền sắp chìm!
Giáo Hội chỉ có thể thành công nhờ tin vào Lời của Đức Giêsu. Thế thì Simon tư tế phải nhớ lại thôi! Trên mảnh đất chuyên môn của mình Simon tưởng mình có khả năng, nhưng Đức Giêsu đã đánh trúng ông, đã chỉ cho ông những giới hạn của mình: Vì thế, ông không là gì cả nếu không có Người. “Chúng tôi đã vất vả mà không bắt được gì cả!" Chúng ta cũng thế, trong chiếc thuyền của chúng ta, chúng ta thường phải nhường chỗ cho một Đấng Khác, để thả lưới ở nơi mà chúng ta không tự mình làm được.
Đó là ý nghĩa mẫu nhiệm của sự thất bại: giai đoạn đau khổ và khiêm hạ để chúng ta từ bỏ chính mình và đem lại cho chúng ta cơ hội giải phóng mình khỏi những ảo tưởng vẫn làm cho chúng ta tin tưởng vào giá trị của mình. Như thế, có chẳng lúc, chúng ta được mời gọi phải thực hiện một bước liều của đức tin: để hoàn thành các bổn phận nghề nghiệp của chúng ta, để yêu thương chồng mình để chấp nhận một đứa con, để chịu đựng một thử thách... hay hoàn toàn đơn giản, để chịu đựng một ngày của cuộc sống khô cằn trong đó chúng ta vất vả mà không thu hoạch được gì. Chúng ta phải tiến lên trên vực thẳm", phải liều mình với một cử chỉ điên rồ mà Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta! Hỡi Giáo Hội! Tại sao bạn còn nghi ngại?
Thấy vậy, ông Simon Phêrô sấp mặt dưới chân Đức Giêsu và nói: "Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!" Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Simon và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc
Ở đây Luca đùng trước biệt danh "Phêrô" mà sau này Đức Giêsu sẽ đặt cho ông Simon (Lc 6,14). Cũng vậy, Luca dùng trước danh hiệu "Chúa" ("Kurios" trong tiếng Hy Lạp) sẽ là danh hiệu của Chúa phục sinh trong vinh quang (Lc 24,3 - 24,34).
Trước sự hiện diện của Thiên Chúa, con người luôn cảm thấy một sự run sợ lạ lùng, đây là nền tảng hầu như phổ biến của tình cảm tôn giáo trong mọi tôn giáo trên thế giới. “Khốn cho tôi, tôi là một con người có đôi môi ô uế". Isaia đã nói (6, 1) khi nghe thấy các thiên sứ kêu lên: “Thánh! Thánh! Thánh! Lạy Chúa là Thiên Chúa hoàn vũ" Chúng ta còn nhớ những người dân ở Nadarét xin Thiên Chúa làm những phép lạ! Còn người môn đệ chân chính lại sợ hãi trước phép lạ và cầu khẩn Thiên Chúa tránh xa mình. Xin Chúa trách xa con, Phêrô khẩn khoản nài xin. Con là kẻ tội lỗi. Sau này khi nghe tiếng gà gáy, ông sẽ còn khám phá một cách sâu xa hơn tình trạng tội lỗi của mình! à thì ra người ta không thờ phụng nhân cách trong Giáo Hội, cũng không tôn thờ giáo hoàng. Con người mà Đức Giêsu đã yêu cầu đại diện Người tức vị giáo hoàng đầu tiên là một "con người tội lỗi". Trước đó, Phêrô là trưởng nhóm", ông tin tưởng vào kiến thức và kinh nghiệm của mình. Nhưng cuộc gặp gỡ với Đức Kitô đã cho ông thấy sự nhỏ bé của ông. Đức Giêsu chuẩn bị ông trở thành thủ lãnh tối cao của Giáo Hội Người bằng cách làm cho ông ý thức sự vô nghĩa của mình. Thánh Gioan khi kể lại sự đánh cá mầu nhiệm đã đặt nó sau sự Phục Sinh (21,1,19) và câu chuyện chấm dứt bằng việc nhắc đến Phêrô đã ba lần chối Chúa, và bằng sự tín nhiệm của Đức Giêsu đem lại cho người tội lỗi ấy một sứ mệnh!
Cả hai người con ông Dê-bê-đê, là Gia-cô-bê và Gio-an, bạn chài với ông Simon, cũng kinh ngạc như vậy
Ở đây trong quá trình câu chuyện, Luca kể lại cho chúng ta tên những người khác như để làm nổi bật Phêrô trước đó.
Và các người bạn ấy của Phêrô được kể ra để nói rằng họ chia sẻ niềm kinh ngạc lạ lùng của Phêrô là cũng là những người sẽ có đặc ân đáng sợ là bộ ba chứng kiến (Phêrô, Giacôbê và Gioan) sự sống lại của một bé gái (Lc 8,51), sự biến hình trên núi (Lc 9,28), sự hấp hối trong vườn cây dầu (Mt 26,37).
Ngày nay, sự sợ hãi mà điều thánh thiêng gây ra dường như biến mất. Nhưng đó không phải là sự biến mất. Đó là một sự di chuyển: Khi người ta mất đi sự kính sợ Thiên Chúa, thì người ta bị mọi thứ hốt hoảng và sợ hãi xâm chiếm: nguy cơ nguyên tử, sự mất quân bình đủ loại sự mỏng dòn mới về tâm lý, sự lo lắng trước tương lai.
Bấy giờ Đức Giêsu bảo ông Simon: Đừng sợ
Đó là lời an ủi mà trong Kinh Thánh các thiên sứ luôn luôn nói với những con người sững sờ vì sự hiện diện thánh thiêng (Lc 1,13-30 - 2,10). Đó cũng là lời mà Đức Giêsu sẽ luôn luôn nói sau khi Người sống lại (Mt 28,10; Kh 1,17).
Từ nay anh sẽ là người thu phục người ta.
Theo hình ảnh tượng trưng của biển cả được khai triển bên trên, vấn đề là "cứu sống những con người khỏi vực thẳm quỷ quái": Đó là vai trò của Giáo Hội. Nhân loại là mồi ngon của những sức mạnh đáng sợ muốn nuốt trửng nhân loại. Bạn"hãy là "kẻ đánh lưới người", bạn hãy cứu họ!
Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người
Phép lạ thật sự không phải là đánh cá ngoài khơi xa mà là đánh cá trong các tâm hồn; họ đã chọn lựa sự liều lĩnh ấy của Đức tin để theo Đức Giêsu và bỏ hết mọi sự.
58. Chú giải của Fiches Dominicales
BÊN BỜ HỒ GHEN-NÊ-XA-RÉT, NGƯ PHỦ SIMON
ĐƯỢC CHÚA KÊU GỌI TRỞ THÀNH PHÊRÔ,
KẺ BẮT NGƯỜI NHƯ BẮT CÁ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Một chiếc thuyền đánh cá.
Một lần nữa, chúng ta lại sắp được thấy Luca vẽ nên bức tranh này một cách rất tài tình. Khi đặt việc Đức Giêsu kêu gọi những môn đệ đầu tiên trong bối cảnh một mẻ lưới lạ lùng, mà ta sẽ gặp lại Phúc âm Gioan 21, 1-11, Luca có ý lấy Simon-Phêrô làm một nguyên mẫu, và dùng chiếc thuyền làm biểu tượng Giáo Hội truyền giáo.
Theo Phúc âm Máccô và Matthêu, hành động đầu tiên của Đức Giêsu khi thi hành sứ vụ là kêu gọi các môn đệ. Còn trong Phúc âm Luca, đầu tiên Đức Giêsu lại được giới thiệu xuất hiện một mình đứng trước đám đông, rồi chỉ sau đó Người mới kêu gọi các môn đệ.
+ Trước tiên là "Simon", chủ chiếc thuyền mà lát nữa Đức Giêsu sẽ ngồi vào vị trí của ông. Chỉ trong có ít dòng mà tên ông được nói tới năm lần, trong đó có một lần và là lần đầu tiên ông được gọi là Simon-Phêrô Lúc này ông là târn điểm của bài tường thuật, mà cũng sẽ là tâm điểm trong Phúc âm của Luca nữa.
+ Rồi đến "hai con ông Zêbêđê là Giacôbê và Gioan, bạn chài với ông Simon"
+ Cả ba ông, được kêu gọi trước tiên, sẽ là những chứng nhân đặc tuyển được chứng kiến việc hồi sinh cho con gái ông Giai-rô, việc Chúa biến hình sáng láng trên núi Taborê (Lc.9,28).
- Khung cảnh là "ven bờ Biển hồ Ghennêxarét": Đức Giêsu giảng dạy bên bờ hồ, bao quanh người là đông đảo dân chúng chen lấn nhau "để nghe lời Thiên Chúa ". Có hai chiếc thuyền đậu gần đó. Còn "những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới", sau khi đã đi đánh cá trở về.
R. Meynet nhận xét: "Đức Giêsu giảng dạy bên bờ hồ, bao quanh Người là đông đảo dân chúng chen lấn nhau. Trong khi đó, những người dân chài đang lo toan công việc thường ngày của họ: họ đang giặt lưới. Đám đông có đó, nhưng họ lại không tham dự cùng với đám đông. Đám đông lắng nghe lời Chúa, còn họ đang lao dộng" (Lévangile se lon saint Luc. Phân tích tu từ ", tập 2 trg 70).
2. Trở thành toà giảng
Bỗng dưng mọi sự bắt đầu đảo lộn. Đức Giêsu xuống một chiếc thuyền, "thuyền đó của ông Simon và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút ".
Thế là từ đây hai người, Đức Gìêsu và ông Simon, là những kẻ "đồng hội đồng thuyền" dấn thân vào cùng một cuộc phiêu lưu: Simon, người dân chài của Biển hồ sát cánh liền kề với Đức Giêsu, người đang "ngồi" trong tư thế của một vị tôn sư dạy dỗ các môn sinh của mình, để ngỏ lời với đám đông. "Con thuyền của Phêrô đã trở thành tòa để giảng dạy" (Sđd).
3….và cũng là biểu tượng Giáo Hội truyền giáo.
“Hãy chèo ra chỗ nước sâu, mà thả lưới bắt cá”, giờ đây Đức Giêsu lệnh cho ông Phêrô như vậy. "bắt cá", chuyện đó các ông đã vất vả "suốt đêm rồi mà không bắt được gì cả”dù rằng đêm tối vẫn là thời điểm thích hợp nhất cho việc đánh cá. Vậy mà, đang lúc các bạn chài người Nadarét của ông từ chối đề nghị kia của Đức Giêsu, thì Simon lại đầu hàng trước lệnh của người dân quê miền đồi núi ấy vốn không biết gì về chuyện chài lưới cả, ông đáp: “Thưa Thầy, dựa vào lời Thầy tôi sẽ thả lưới".
- Lời của Đức Giêsu tỏ ra rất hữu hiệu, vì mẻ lưới bắt được rất nhiều cá, đến nỗi lưới hầu như bị rách; họ phải "làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp", dẫu sao hai thuyền đều đầy cá đến gần chìm.
- Đối với người dân chài chân chất kia, chẳng có gì phải nghi ngờ nữa: trong Đức Giêsu Nadarét này, đúng là Thiên Chúa đã đột nhập vào đời sống của Người. Thế là ông liền quỳ gối sấp mặt dưới chân Người hành khách trên thuyền của mình như sấp mặt trước Đức Chúa" vậy. Con người ông giờ đây bỗng dưng giống như Isaia xưa khi được thị kiến ở trong Đền Thờ (bài đọc thứ nhất), đang ý thức được khoảng cách tách biệt ông với Đấng, mà như ông thấy, đang thực hiện những việc lạ lùng trong con thuyền của ông: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi".
- Câu trả lời Simon nhận được từ Đức Giêsu sẽ đánh dấu một khúc quanh quyết định cho cuộc đời của ông: "Đừng sợ, từ nay anh sẽ bắt người như bắt cá".
+ "Đừng sợ ": kiểu nói thường đi theo sau mọi loan báo quan trọng trong Kinh thánh: loan báo cho Apraham trong sách Sáng thế 15, 1; loan báo cho Zacaria trong Luca 1,13; loan báo cho Đức Maria trong Luca 1,30.
+ "Từ nay" cuộc đời của Simon, vị quan thầy-ngư dân bắt đầu mở sang trang mới. Cuộc đời của ông xoay chiều đổi hướng để hướng đến một bến bờ khác.
+ "Từ nay": một giai đoạn mới của chương trình cứu độ, giai đoạn truyền giáo, được mở ra ngay tức thì.
+ "Anh sẽ bắt người": sát nghĩa là: anh sẽ bắt những con người sống, có nghĩa là anh sẽ giựt lên những con người đang sống, anh sẽ kéo họ ra khỏi thế lực của sự ác để bảo đảm cho họ được sống an lành. Là "ngư dân", Simọn-Phêrô vẫn sẽ giữ nghề đánh cá, nhưng cái nghề đi tìm cá ban đêm của ông, một khi thay đổi đối tượng, thì cũng sẽ thay đổi ý nghĩa.
"Từ nay", sứ mệnh của ông sẽ là lôi kéo người ta ra khỏi vòng kiềm tỏa của sự ác và cái chết, mà thời đó người ta vốn dùng hình ảnh biểu tượng là chỗ nước sâu, để đưa họ đến cõi sống nên R. Meynet có thể viết: "Mẻ lưới lạ lùng hôm nay chỉ là hình ảnh báo trước mẻ lưới lạ lùng đích thực. Giống như mẻ lưới lạ lùng xưa, mẻ lưới lạ lùng đích thực cũng sẽ diễn ra dựa vào Lời của Đức Giêsu" (Sđd, tr.68).
- Thế rồi, sau khi đã đưa thuyền vào bờ, Simon-Phêrô, Giacôbê và Gioan "bỏ hết mọi sự mà theo Đức Giêsu" để dấn thân vào con đường mà theo kiểu nói của Ph. Bossuyt và J. Radermakers sẽ là một cuộc thả lưới lâu dài nhất và phi thường nhất trong cả cuộc đời của các ông ("Đức Giêsu, Lời ban ân sủng theo thánh Luca” tr. 183).
BÀI ĐỌC THÊM.
1. “Tin là dám liều”
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật việc Đức Giêsu kêu gọi ông Phêrô. Chúa xuống thuyền của ông; Người đi vào đời ông. Đúng là sáng kiến từ phía Chúa. Mà điều Chúa yêu cầu Phêrô làm cũng không có chi là hoàn toàn mới lạ cả. Người đòi Phêrô hành nghề của ông. Phêrô làm nghề đánh cá. Nghề này thì ông rành quá rồi; ông biết phải đánh bắt khi nào, đánh bắt ở đâu. Nên ông chẳng sợ hãi gì khi phải thưa với Chúa rằng ông gặp ngày không hên thôi. Dựa vào sự hiểu biết và tay nghề của mình, Phêrô thành thực nói cho Thầy biết rằng điều Thầy yêu cầu là hoàn toàn sai lầm. Vậy mà điều Chúa yêu cầu ông thực hiện lại là điều mới lạ: tin cậy vào lời của Người. Và thế là Phêrô, dù bụng dạ chẳng vững chút nào, ông vẫn mạnh dạn thả lưới" Chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả, Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới. Phêrô dám đặt cọc vào sự tin tưởng hơn cả uy tín của mình. Và cá đang ở điểm hẹn.Vai trò chủ động của con người trước sáng kiến của Chúa được Phúc âm mô tả như vậy đó. Nó hệ tại ở một lòng tin tưởng. Lòng tin tưởng ấy không phải là thái độ thụ động, mà đôi khi là sự anh hùng và luôn luôn là sự dám liều táo bạo. Lòng tin tưởng thường là một thái độ tình nguyện can đảm nhất, bởi lẽ lòng tin tưởng không bị ai chỉ huy nhưng là một sự tặng ban, một hành vi tự do.
2. "Một bài tường thuật lúc nào cũng có tính thời sự"
Nếu bài tường thuật của Luca, chỉ là kể lại một phép lạ tỏ tường, thì chúng ta chỉ cần vỗ tay ca ngợi, và bày tỏ vẻ ngỡ ngàng cùng cảm tạ Chúa vì quyền năng của Người đã được biểu lộ ra trong Đấng Mêsia của Người, thiết tưởng cũng đủ rồi. Nhưng còn hơn một phép lạ nữa."Mẻ lưới lạ lùng" chính là một ẩn dụ mà mỗi chi tiết của câu chuyện đều quy chiếu về một thực tại thiêng liêng", và mỗi nét biểu hiện đều đòi hỏi phải được cắt nghĩa bằng biểu tượng". Không chỉ là một cú ngoạn mục diễn ra trên Biển hồ Ghennêxarét cách đây gần hai ngàn năm mà thôi, mà chính là một vấn đề lúc nào cũng mang tính thời sự.
Ở thế kỷ XX hôm nay cũng như ở thế kỷ đầu, Đức Kitô vẫn luôn bồn chồn đi lại dọc theo các bờ sông, bờ biển và các nẻo đường của chúng ta. Người hòa mình với dân chúng, đi vào các nhà, năng lui tới các nơi làm việc hay các khu vui chơi giải trí. Gặp lúc thuận tiện hay không thuận tiện, Đấng Mêsia vẫn không mệt mỏi loan báo, đề nghị Tin Mừng kêu gọi sám hối, Tin Mừng chữa lành, Tin Mừng giải thoát. Như thời ngôn sứ Isaia, Người là Thiên Chúa làm cho những người mắc bệnh cùi dơ bẩn được lành sạch. Người tha thứ tội lỗi và muốn cho những người hối cải đáp ứng lời người kêu gọi và tự nguyện hiến thân phục vụ Người.
Hôm nay vị Tôn sư ấy vẫn còn gặp gỡ "những ngư phủ" do ơn gọi, có năng lực, giầu kinh nghiệm và đảm đang; họ đã neo thuyền không người của họ ở bến an toàn. Họ đã được huấn luyện rất sâu và kỹ, đã theo những lớp đào tạo lại, đã phác thảo một cách ý thức và thông minh những chương trình và kế hoạch, đã chọn nơi và những hoàn cảnh thuận lợi. Họ đã trở về tay không và chán nản; lưới chẳng dính lấy được một con tép; trái tim họ bị đâm xiên và lòng trí thật ê chề.
Nhưng con thuyền của Phêrô không thể cứ trú ẩn mãi ở cảng, cũng chẳng được bỏ neo an toàn ở một vùng vịnh thanh bình không còn sợ gì nguy hiểm. Cùng với Chúa và theo lệnh Người, Giáo hội phải ra khơi, bất chấp những hiểm nguy của miền nước sâu gợi lên bao loài thủy quái cùng những hang sâu vực thẳm là vương quốc của những hung thần, của Satan và sự chết.
Không thể nào đánh cá được, những chuyên viên từng tuyên bố và lặp đi lặp lại như vậy. Còn các vị "quân tử gàn" mà lòng tin đã què quặt, nỗi sợ đã làm họ tê liệt và phần họ lại chỉ muốn được an thân thì tuyên bố: thật là sự điên rồ giết người, là sự thiếu khôn ngoan và lệch lạc, là muôn vàn khó khăn nguy hiểm không sao tính được.
Nhưng ta phải tin tưởng vào Thầy chứ.
Phêrô, các bạn đường của ông và các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi cuối cùng đều đã hiểu rõ lời kêu gọi của Đấng Phục-sinh là phải rời bỏ cái nôi của buổi ấu thơ đã được những truyền thống và luật lệ lỗi thời và trì trệ bao kín. Với sự can đảm, nếu không muốn nói là anh hùng, họ đã cất đi những hàng rào bao quanh khu vực khép kín của họ để liều lĩnh đi vào miền đất dân ngoại, đối đầu với thế gian, bất chấp những cám dỗ bị lây nhiễm, bị hiểu lầm, phải thất bại hay phải chết vì đạo.
Hôm nay đức tin vẫn đủ để đương đầu với những khu vực nguy hiểm, dám đối thoại, mở toang những cánh cửa vẫn đóng kín, từ bỏ lối độc quyền cao ngạo về chân lý, về độc quyền rao giảng Tin Mừng và sự thánh thiện. Hãy tách những con thuyền của các bạn ra! Hãy ra xa bờ! Hãy tiến ra khơi và thả lưới ngay nơi mà bạn đã vất vả và thất bại ê chề!
Tuy nhiên, ẩn dụ về mẻ lưới không phải là một công cuộc đi chinh phục để chiếm đất đai, hay quyền lợi hoặc bổng lộc. Không phải là vấn đề lôi kéo những con cá ra khỏi thiên đường của chúng, để cắt xẻ thịt nó, mà ăn cho thỏa, hoặc đem đi buôn bán. Những kẻ đánh bắt người như bắt cá phải là những con người cứu nhân độ thế, những người giải phóng nô lệ và tù nhân khỏi bóng tối, giải phóng những ai bị trói buộc vì những dục vọng mù quáng, hay bị bầm dập vì những bất công, những ai ngụp lặn trong dòng tư lợi nhỏ nhen bẩn thỉu, những ai bị chới với vì những thử thách gian truân. Chính trong những vực sâu tăm tối này, chính trong những ngục tù không chắn song kia mà lưới của nhà giải phóng ấy làm nên những việc thần kỳ. Nghĩa là một bầu khí tự do, một vùng trời đầy ánh sáng, một niềm hân hoan trở về miền đất hứa, nhưng luôn luôn là có các bạn chài của chiếc thuyền kia đến giúp".
59. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
GỌI BỐN MÔN ĐỆ ĐẦU TIÊN
1. Luca biên soạn đoản văn này từ những chất liệu văn chương khác nhau (xem ghi chú của BJ), nhưng cách tác giả dùng để tổng hợp chúng lại thành một trình thuật mới, đặc biệt nhấn mạnh đến ý nghĩa truyền giáo của trình thuật (hay giáo hội học) hơn là phương tiện thần thiêng của nó: trước tiên, phép lạ trở thành một biểu tượng về sự phong phú của Lời Chúa (c.1) do Chúa Giêsu và sau đó là Simon Phêrô (c.5). Luca làm cho độc giả chú ý tới chính công việc tông đồ hơn là điều kiện để làm tông đồ; ông muốn người ta phải tìm xem trước biến cố phục sinh (x. Cvsđ 1,21-22) đã có sứ mệnh và những ràng buộc của công việc truyền giáo. Lời hứa với Phêrô ở đây, ngay từ đầu sứ mệnh công khai của Chúa Giêsu ("từ đây con sẽ là kẻ chài lưới người” c.10) tương ứng với lời uy quyền tại bàn tiệc ly. Khi hoàn tất sứ mệnh của Chúa Giêsu, quyền đó đã được ủy thác cho Phêrô thi hành sau phục sinh ("khi con người trở lại, hãy củng cố anh em con” Lc 22,31-32). Chính mối ưu tư đó đã hướng dẫn Luca trong trình thuật tuyển chọn (6,12-16) và ban sứ mệnh cho nhóm 12 (9,1-6) mà không cần phải ban lại cho họ sau biến cố phục sinh. Tuy nhiên, để họ có thể thi hành tốt bổn phận, Thánh Thần còn phải “mặc cho họ sức mạnh từ trời cao” trước khi họ có thể “làm chứng nhân cho Chúa Giêsu đến tận cùng trái đất” (Lc 24,49; Cvsđ 1,8).
2. Địa vị trọng yếu của Phêrô trong trình thuật cho thấy chủ tâm của Luca, và tác giả còn làm nổi bật (Phêrô) ở nhiều đoạn khác trong phúc âm (x. Lc 45 nghịch với Mc 14,13; Lc 22,31-34; 24,34) địa vị này tương ứng với chức vụ của vị lãnh đạo công việc truyền giáo cho người Do thái, rồi sau đó cho dân ngoại mà tác giả phúc âm đã gán cho Phêrô trong phần đầu của công vụ sứ đồ (chương 1-12).
Vậy, cùng với Chúa Giêsu, Simon là nhân vật chính của trình thuật này: ông được gọi trước là Simon - Phêrô một lần (c.8) vì chỉ về sau (6,14) Simon mới được Chúa đổi tên là Phêrô. Nơi Mt 4,18-22 và Mc 1,16-20 chúng ta thấy cả hai anh em Simon và Anrê cùng thả lưới với nhau. Đây không phải chỉ có mình Phêrô (chính vì cách dùng số nhiều các câu 4,5,6,7) còn những người khác, tác giả chỉ nhắc đến một cách lờ mờ, có thể họ chỉ là những người làm thuê. Hình như Luca tránh gọi tên Anrê, và lời loan báo ơn gọi làm chài lưới người ta, chỉ nhắc đến Simon, không đả động gì đến Anrê, trong lúc Matthêu và Maccô nói đến cả hai anh em Simon và Anrê.
Chiếc thuyền là thuyền của Simon (c.3); chính với Simon mà Chúa Giêsu nói: “Hãy ra khơi” (c.4); và cũng chính Simon đáp lại Ngài (c. 5). Chính Simon còn kêu lên: “Xin thày tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (c.8). Tất cả điều gì làm cho Chúa Giêsu: đón Chúa xuống thuyền thì cũng do Simon làm; tất cả những điều gì Chúa Giêsu làm cũng để làm cho Simon; và tất cả những lời khác là lời của Simon.
Simon cũng làm lu mờ 2 con ông Giêbêđê: thuyền của họ cũng được đề cập ở câu 2, nhưng không có nói đến họ. Thuyền của họ còn được nói ở câu 7, còn họ thì được gọi trống là bạn chài của Simon. Tên của họ chỉ được nói đến ở cuối trình thuật, nơi câu 10, như là một sự vớt vát, trong đó giải thích là họ ngạc nhiên như Simon bạn của họ. Luca trì hoãn nhắc đến họ cốt để Simon độc diễn hầu như trong suốt cả trình thuật. Tuy nhiên tác giả cũng nói đến Giacôbê và Gioan ngoại trừ Anrê, chắc hẳn là ba người là nhóm được biệt đãi, là nhóm được mục kích con gái ông Gia-ia sống lại (8,51), biến cố biến hình (9,28). Anrê không được gọi tên có lẽ vì ông là bạn chài của Simon là người mà Luca muốn lưu tâm. Vì Luca liệt hai con Giêbêđê vào màn cuối của trình thuật, người ta dễ dàng hiểu rằng tác giả ít bận tâm đến trường hợp và thời gian Chúa gọi họ. Tác giả chỉ thu tóm những gì liên hệ đến lời kêu gọi của Chúa Giêsu và việc mau mắn đáp trả trong một câu kết luận vắn gọn ở cuối trình thuật (c.11).
3. Khi các nhà chú giải đã phân vân trong việc nghiên cứu ý hướng của Luca khi đặt câu chuyện này ở đây. Một số cho rằng mục đích bài tường thuật phép lạ là để giải thích hay “nêu lý do” việc các ngư dân đáp trả lời kêu gọi của Chúa Giêsu: một khi đã chứng kiến sức mạnh phi thường của Chúa Giêsu, họ sẵn sàng tin tưởng vào Ngài. Có lẽ Luca đã làm cho sự mau mắn, mà nhờ đó nhóm dân chài Galilêa trở thành môn đệ. Chúa Giêsu từ lúc khởi đầu sứ mệnh của Ngài, được dễ chấp nhận và dễ hiểu hơn. Chắc hẳn, Luca đã biên soạn theo ý hướng này. Và dù tác giả có những ý hướng khác, thì cũng không nhất thiết phải loại trừ ý hướng này.
Nhưng nhiều nhà chú giải nhìn thấy trong trình thuật này một biểu tượng về giáo hội học: lệnh thả lưới và mẻ cá gợi đến khắp thế giới và thành quả họ sẽ thâu lượm được đối với nhân loại. Có nhiều lý chứng mạnh mẽ xác quyết giả thuyết này. Trước hết sự kiện Luca đã liên kết mẻ lưới lạ lùng này với trình thuật về ơn gọi của các môn đệ. Tiếp đến Luca ưu tư đến vấn đề truyền giáo cũng như lưu tâm đến thuyết phổ quát về ơn cứu chuộc, thường được diễn tả trong phúc âm thứ ba và Cvsđ. Cũng có sự kiện là về sau Gioan đã dùng (ch.21) trình thuật về mẻ lưới lạ lùng này để dẫn đưa vào trình thuật thiết lập chức mục tử tối cao của Phêrô nghĩa là trong bối cảnh có tính cách phi thường về giáo hội - điều này giả thiết rằng trên bình diện truyền khẩu, thì các tác giả khác ngoài Luca đã liên kết cách tự nhiên mẻ lưới kỳ lạ và biểu tượng về giáo hội. Cũng có thể là dụ ngôn về chiếc lưới (Mt 13,47-50) nếu thực sự dụ ngôn này có ý nghĩa về giáo hội, dẽ dàng liên kết chài lưới - giáo hội. Nhưng lý chứng quan trọng nhất là chính Chúa Giêsu liên kết tương quan giữa việc đánh cá và việc chinh phục người ta: trong những bản văn song song của Matthêu và Maccô, sự liên kết này ám chỉ rõ ràng về bản tính giáo hội. Vậy có thể khẳng định rằng tất cả khung cảnh này có thể rất nhiều điểm biểu tượng và là tiền ảnh của sứ vụ tương lai của các tông đồ cũng như sự thành công của sứ mệnh đó.
KẾT LUẬN
Lời Chúa Giêsu kêu mời thật đầy uy quyền, Ngài gọi người Ngài muốn và làm điều Ngài thích. Thiên Chúa cũng đã làm như vậy đối với các tiên tri. Nếu không thì Giacobê và Gioan đưa thuyền lên bờ và từ chối không làm ngư phủ: họ bỏ tất cả. Một sức sống mới tràn đầy trong đời sống của họ. Họ theo Chúa Giêsu với tư cách là môn đệ. Bây giờ họ bước theo Chúa Giêsu như các học trò đi theo thày rabbi để đồng hóa các lời dạy bảo, cách sống của họ. Từ đây điều làm cho các môn đệ tràn đầy sức sống, chính là Chúa Giêsu, Nước Thiên Chúa và việc truyền giáo. Simon đã có một kinh nghiệm về thần tính của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu, ông được nhìn nhận là kẻ chài lưới và được trao nhiệm vụ cứu độ. Thời cứu độ đã bắt đầu: nhận biết ơn cứu độ qua việc thú nhận tội lỗi (1,77). Nước Thiên Chúa được tỏ hiện trong việc tiếp nhận các tội nhân.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Chính từ Thiên Chúa mà Giáo hoàng, các giám mục (hàng giáo phẩm) cũng như các linh mục lãnh nhận ơn gọi, trách nhiệm và quyền hành của mình. Các Ngài có nhiệm vụ tiếp tục công việc của Chúa Kitô để rao truyền Lời Chúa và tuyển chọn các môn đệ, giáo sĩ, cũng như giáo dân. Nhờ ân sủng của Chúa, các Ngài là những kẻ chài lưới người.
2. Ơn gọi của những người được thánh hiến phải bắt chước gương của Simon và các bạn đồng nghiệp, từ bỏ tất cả để theo Chúa Giêsu. Thiên Chúa quan phòng sắp đặt mọi ơn gọi trong giáo hội. Điểm then chốt là đáp trả ơn gọi đó một cách quảng đại. Để được vậy, giáo dục đức tính quảng đại trong một gia đình Kitô giáo là một phương thế chuẩn bị tốt nhất. Phêrô đã chuẩn bị tiếng gọi của Chúa bằng sự quảng đại và sẵn sàng giúp đỡ của mình; ông đã cho Chúa Giêsu mượn thuyền để rao giảng; đã ý thức sự bất công của mình trước mặt Chúa.
3. Trình thuật này của Phúc âm nhắc nhở chúng ta rằng việc tông đồ trong giáo hội phải được thực hành trong những điều kiện nào. Lúc Chúa chưa có mặt trong thuyền thì Simon thả lưới cũng không bắt được gì hết. Nhưng khi có Chúa Giêsu, ông bắt được một mẻ lưới kỳ lạ. Đó là mộ ví dụ minh chứng chân lý này là không có Chúa không thể làm gì được (Gio 15,5) với ân sủng Ngài thì không gì là không có thể ("tôi có thể chịu đựng mọi sự trong đấng ban sức mạnh cho tôi” Phil 4,13).
4. Simon nói: “thưa thầy, chúng tôi đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết”. Cũng một cám dỗ ấy thường làm ta nản chí. Đó là đêm tối những tình trạng đầy mặc cảm, người ta chỉ thấy mình làm quá sức; một công việc đã gắng hết sức mà hình như không có được một kết quả nào, và người ta đâm ra buồn bực vì những cố gắng bền tâm của mình xem ra vô hiệu. Lúc đó muốn bỏ tất cả: có lẽ có những lúc nào đó người ta mơ đến một mẻ lưới kỳ lạ. Lúc đó hãy biết nghe lời Chúa mời gọi ta ra khơi: Hãy tiếp tục! Bắt đầu lại! Và nếu cuối cùng được thành công thì hãy biết khiêm nhượng nhận rằng những cố gắng của ta đã nỗ lực không đáng được thành công ấy, nó vượt quá những cố gắng của ta. Hãy thú nhận như Simon - Phêrô rằng chúng ta là những người tội lỗi và những thành công thu đạt được là do Chúa quảng đại ban phát cho ta.
5. Thuyền của Phêrô chính là giáo hội. Chúa Giêsu vẫn luôn tiếp tục dậy dỗ ta từ trong chiếc thuyền này. Nhất là trong lúc cử hành Thánh lễ, đặc biệt trong phần phụng vụ lời Chúa, cũng chính Chúa Giêsu bây giờ vẫn còn tiếp tục dậy chúng ta.
6. Dù Phêrô là người tội lỗi, Chúa Giêsu cũng chọn làm môn đệ của Ngài. Chúng ta khiêm nhường thú nhận tội lỗi thì Chúa không lìa xa ta. Chỉ có óc bè phái, tưởng rằng mình thánh thiện và không thể chê trách trước mặt Thiên Chúa là dựng nên một hàng rào ngăn cách giữa Thiên Chúa và con người.
60. Chú giải của William Barclay
NHỮNG ĐIỀU KIỆN CỦA MỘT PHÉP LẠ
Hồ nước lớn danh tiếng tại Galilê được gọi bằng ba tên: hồ Galilê, hồ Tibêriát và hồ Giênêdarét (Ghennêxaret), hồ này dài 20,8 km, rộng 12,8 km. Hồ ở vào một chỗ trũng của mặt đất, nơi sâu nhất là 225m dưới mặt biển. Vì thế nó có khí hậu giống như khí hậu nhiệt đới. Ngày nay cư dân không đông lắm, nhưng vào thời Chúa Giêsu, có chín thị trấn ở chung quanh bờ hồ, không thị trấn nào dưới 15.000 dân. Giênêdarét thực ra là tên của một cánh đồng xinh đẹp nằm phía Tây bờ hồ, đó là vùng đất phì nhiêu. Người Do Thái thích chơi “lắp chữ”, họ có ba cách lắp chữ cho Giênêdarét, cả ba cách đều có nghĩa là xinh đẹp.
1. Bởi chữ kinnor, nghĩa là cây đàn, bởi vì “trái của nó ngọt như tiếng đàn”, hoặc bởi vì tiếng sóng vỗ vui như tiếng đàn.
2. Bởi chữ gan, nghĩa là vườn cây, và chữ sar nghĩa là vua, tức là “vua của các vườn”.
3. Bởi chữ gan, một khu vườn và chữ asher, của cải, tức “vườn đầy của cải”.
Tại đây chúng ta đối diện một khúc quanh trong sứ vụ Chúa Giêsu. Lần trước Chúa giảng trong hội đường, bây giờ Ngài ở tại bờ hồ, sẽ ở ngoài đường cái, và toà giảng của Ngài sẽ là chiếc thuyền. Ngài sẽ đi tới bất cứ nơi nào người ta muốn nghe Ngài giảng. John Wesley đã nói: “Các ‘linh đoàn’ của chúng ta hình thành bởi những kẻ phiêu bạt trên các vùng núi non tăm tối, không thuộc về một Giáo Hội, nhưng họ đã được thức tỉnh bởi lời giảng của những người đã theo đuổi họ qua các khu rừng hoang vắng cho tới các làng mạc hẻo lánh hoặc các phố chợ sầm uất, các đồi cao trũng thấp, những người đã dựng cờ thập giá trên các đường phố, cùng ngõ hẻm của các đô thị, trong các thôn xóm, trong các nhà kho, trong các nhà bếp trại quê, v.v… và các việc đó được thực hiện như chưa từng có ai làm kể từ thời các tông đồ”. Wesley còn nói: “một căn phòng tiện nghi, một cái gối quỳ êm ái, và một toà giảng xinh xắn tiện nghi thật, nhưng giảng ngoài đồng cứu được nhiều linh hồn hơn”. Khi hội đường đóng cửa thì Chúa Giêsu giảng ngoài đường, bên bờ hồ…
Trong chuyện này có một điều có thể gọi là bảng liệt kê các điều kiện của một phép lạ.
1. Có mắt biết nhìn xem. Chúng ta không cần suy nghĩ rằng Chúa Giêsu đã dựng nên bầy cá lớn đó trong trường hợp này. Biển Galilê có nhiều bầy cá đông đảo đến nỗi có thể che đặc mặt biển trong một khu vực rộng lớn. Có lẽ con mắt thấu suốt của Chúa Giêsu đã nhìn thấy bầy cá lớn đó mà những người ngư phủ không thấy. Chúng ta cần cặp mắt biết nhìn. Nhiều người đã thấy nước sôi làm bật cái nắp vung nhưng chỉ một mình James Watt đã nhìn và sáng chế ra máy hơi nuớc. Nhiều người đã nhìn thấy trái táo rơi, nhưng chỉ một mình Isaac Newton đã tìm ra định luật hấp lực của trái đất. Thế giới đầy dẫy những phép lạ cho những đôi mắt biết nhìn xem.
2. Có tinh thần biết cố gắng. Khi Chúa Giêsu nói vậy, dù rất mệt nhọc, Phêrô cũng sẵn lòng thả lưới một lần nữa. Nhiều người đành chịu thảm bại trong cuộc đời vì họ đã ngã lòng quá sớm.
3. Có tinh thần dám cố gắng trong trường hợp hầu như tuyệt vọng. Đêm đã qua rồi, đêm mới thuận tiện cho việc đánh bắt. Tất cả hoàn cảnh đều không thuận lợi, nhưng Phêrô nói: “Tuy hoàn cảnh như vậy nhưng nếu Thầy bảo thì chúng con xin vâng”. Chúng ta thường chờ đợi vì thời cơ chưa thuận lợi, nếu cứ đợi cho tới lúc mọi sự đều thuận lợi thì chắc sẽ không bao giờ chúng ta bắt đầu được. Nếu chúng ta theo đúng lời Chúa Giêsu truyền dạy khi Ngài bảo chúng ta làm một việc không thể thực hiện thì phép lạ sẽ xảy ra.
05/02 Dung mạo yêu thương của Chúa Giêsu
- Viết bởi Mc 6, 30-34
Dung mạo yêu thương của Chúa Giêsu.
Thứ Bảy đầu tháng, tuần 4 thường niên. – Thánh Agata, trinh nữ, tử đạo. Lễ nhớ.
"Họ như đàn chiên không người chăn".
* A-ga-ta là một thiếu nữ quê ở Xi-xi-li-a. Chị đã chịu tử đạo ở Catana, vào thời hoàng đế Đê-xi-ô bách hại đạo (năm 251). Đồng bào của chị vẫn tin tưởng kêu cầu chị, nhất là những lúc núi lửa Étna hoạt động. Rồi việc tôn kính chị được phổ biến rộng rãi trong toàn thể Hội Thánh, cả ở phương Đông lẫn phương Tây.
Lời Chúa: Mc 6, 30-34
Khi ấy, các tông đồ hội lại bên Chúa Giêsu và thuật lại với Người mọi việc các ông đã làm và đã giảng dạy.
Người liền bảo các ông: "Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút". Vì lúc ấy dân chúng đến tấp nập đến nỗi các tông đồ không có thì giờ ăn uống. Vậy các ngài xuống thuyền, chèo tới một nơi vắng vẻ hẻo lánh. Thấy các ngài đi, nhiều người hiểu ý, và từ các thành phố, người ta đi bộ kéo đến nơi đó và tới nơi trước các ngài.
Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Đến một nơi thanh vắng
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Các môn đệ trở về gặp lại Thầy Giêsu
sau cuộc hành trình tông đồ đầu tiên nhiều thú vị.
Họ cùng nhau tụ họp chung quanh Thầy
và thi nhau kể cho Thầy nghe tất cả những gì họ đã làm và đã dạy.
Thầy Giêsu thấy họ vui vì đã có thể đuổi được quỷ, chữa được bệnh.
Những ông đánh cá ít học, nói năng bỗ bã,
trở thành người rao giảng mạnh bạo Tin Mừng về Nước Trời.
Nhưng Thầy Giêsu cũng thấy nét mêt mỏi nơi khuôn mặt họ.
Các tông đồ không có giờ ăn uống vì bị đám đông bao vây.
“Anh em hãy lánh riêng ra,
đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” (c.31).
Lời mời trên cho thấy mối quan tâm của Thầy đối với các môn đệ,
những người thợ cần được nghỉ ngơi cả thân xác lẫn tinh thần.
Họ cần tách mình ra khỏi đám đông, khỏi công việc,
để đến nơi hoang mạc mà tĩnh tâm.
Tĩnh tâm là nghỉ ngơi bên Thầy trong sự ấm áp của tình thầy trò,
không bị vướng bận bởi công việc phục vụ.
Tĩnh tâm là dành một thời gian để lòng mình lắng xuống,
đọc lại những biến cố đã xảy ra trong đời mình,
nhìn lại những kinh nghiệm mình đã trải qua bằng cái nhìn của Chúa,
cả những khó khăn và thất bại, những bất trung và vấp ngã…
Nhưng tĩnh tâm không phải chỉ để nhìn lui, mà còn để nhìn tới.
Các tông đồ cần vượt qua những hứng khởi nhất thời do thành công.
Họ cần trầm lắng để chuẩn bị cho những khó khăn sắp đến.
Lời mời của Thầy Giêsu vẫn đụng đến chúng ta hôm nay,
những con người tất bật, vội vã, lo âu và căng thẳng,
những con người kiệt sức vì đòi hỏi của công việc hay vì nghiện việc.
Lánh riêng, nghỉ ngơi ở nơi hoang vắng, tĩnh tâm,
đó không phải là những điều dành riêng cho giới tu sĩ.
Đó là nhịp bình thường của những người bỗng thấy mình đang bị cuốn đi,
trôi đi, mất hướng, mất chính mình, trở nên con rối ngờ nghệch.
Tuy nhiên, không dễ tìm được nơi hoang vắng, để cách ly mình khỏi công việc.
Khi Thầy và các môn đệ đến được nơi hoang vắng ưng ý,
thì chỗ đó chẳng còn vắng nữa, vì dân chúng đã đến trước rồi.
Chúng ta vẫn cứ phải tìm chỗ vắng riêng cho mình với Chúa suốt đời.
Cầu nguyện:
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào,
xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,
xin cho con quý chuộng những lúc
được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo,
xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa
để nghe lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng,
xin cho con thoát được lên cao
nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa,
ước gì tinh thần cầu nguyện
thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện,
xin cho con gặp được con người thật của con
và khuôn mặt thật của Chúa. Amen.
Suy Niệm 2: Lời ban sự sống
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành. Mục tử ban sự sống cho đoàn chiên. Sự Sống đến từ Lời Chúa. Vì Lời Chúa là Ngôi Lời, là chính Thiên Chúa. Chính vì thế khi thấy đám đông tất tưởi bơ vơ thì Chúa dậy dỗ họ. Chính vì thế mà dân chúng say mê nghe Lời Chúa đến quên ăn quên ngủ, quên cả đường về.
Con người là một tổng thể phức tạp với những khát vọng vô biên. Những con người, phương tiện, lý thuyết, tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội của loài người chẳng thể nào thỏa mãn được khát khao của con người. Từ xa xưa biết bao người nghĩ tưởng có thể giải quyết được mọi vấn đề trên thế giới, đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Nhưng tất cả đều chỉ là ảo tưởng, có khi còn tha hóa, hạ nhục con người. Thế kỷ 20 chứng kiến sự sụp đổ của hai lý thuyết lớn là Phát xít và Cộng sản. Hai lý thuyết này khi mới xuất hiện từng đưa ra ảo tưởng xây dựng thiên đường nơi trần thế. Nhưng 1 thế kỷ trôi qua, họ đã xây dựng những địa ngục trần gian với tất cả sự chết chóc qua 2 cuộc thế chiến, qua các trại học tập cải tạo. Sự nghèo đói. Và khủng khiếp hơn, sự suy thoái đạo đức. Tất cả chỉ là bánh vẽ. Tệ hơn nữa là những trái cây bên ngoài đẹp đẽ nhưng bên trong chứa thuốc độc chết người. Tất cả chỉ là những người chăn thuê bóc lột đoàn chiên cho lợi ích riêng tư.
Chỉ có Chúa là mục tử nhân lành. Chúa ban lương thực nuôi sống đoàn chiên. Lương thực đó không chỉ là vật chất. Nhưng còn là lương thực thiêng liêng. Dẫn con người đi trên đường ngay nẻo chính. Đến sự thật toàn vẹn. Đến sự sống muôn đời. Chính Chúa chịu chết để minh chứng điều đó. Thịt Máu Chúa trở thành lương thực nuôi đoàn chiên (năm lẻ). Đường Chúa đi trở thành con đường dẫn ta đến hạnh phúc thiên đàng. Chính vì thế Salomon không xin điều gì khác ngoài biết lắng nghe và biết theo Lời Chúa mà phân biệt phải trái. Vì thế ông trở thành người khôn ngoan nhất trong các kẻ khôn ngoan (năm chẵn).
Ta hãy noi gương dân chúng thời Chúa Giêsu. Hâm mộ tìm nghe Lời Chúa. Say mê Suy Niệm Lời Chúa. Và nhiệt thành thực hành Lời Chúa. Đó chính là Con Đường ngay thẳng. Đó chính là Sự Thật toàn vẹn. Đó chính là Sự Sống viên mãn. Sẽ lấp đầy mọi khát vọng thâm sâu của con người. Sẽ giải quyết mọi vấn đề của thế giới. Sẽ đem đến hạnh phúc cho nhân loại.
Suy Niệm 3: Dung mạo Chúa Giêsu
Manio Flajano, văn sĩ, ký giả kiêm đạo diễn người Italia, qua đời năm 1972, đã để lại những trang nhật ký thật cảm động: năm 1942, đứa con gái 8 tuổi của ông bị bệnh sưng màng óc và kéo lê cuộc sống tàn tật đó cho đến năm 1992. Nhìn đứa con mà lòng đau xót, nhưng người cha vẫn đặt tin tưởng, phó thác vào Thiên Chúa. Trong một trang nhật ký, ông viết: "Một người đàn ông nọ dẫn đến cho Chúa Giêsu đứa con gái bệnh tật và nói với Ngài: "Con không muốn chữa lành nó, nhưng chỉ xin Chúa yêu thương nó mà thôi". Chúa Giêsu cúi xuống hôn đứa bé mà nói: "Ta nói thật, người đàn ông này đã xin điều mà có thể cho được". Nói xong, Chúa Giêsu biến đi trong ánh sáng chói ngời bỏ lại một đám đông tiếp tục bàn tán về các phép lạ, còn các nhà báo thì cố gắng mô tả các phép lạ".
Những dòng trên đây của Flajano đưa chúng ta vào trọng tâm của Tin Mừng. Thật thế, Tin Mừng không phải là một mớ lý thuyết hay giáo điều, Tin Mừng cũng không phải là một Thiên Chúa cao xa trừu tượng. Tin Mừng thiết yếu là một con người bằng xương bằng thịt, với một trái tim dễ rung động và biết yêu thương. Ðọc lại các sách Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã không làm phép lạ như một phù thủy múa may cây đũa thần của mình, Chúa Giêsu không bao giờ làm phép lạ để làm lóe mắt thiên hạ. Phép lạ là dấu chỉ của ơn cứu độ, là dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, một Thiên Chúa yêu thương đến độ hóa thân làm người và sống thiết thân với con người.
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô như tóm tắt tất cả dung mạo của Chúa Giêsu trong câu nói: "Chúa Giêsu thấh đông đảo dân chúng thì chạnh lòng thương". Ðây là tất cả mạc khải về tình yêu Thiên Chúa đối với con người: thay cho một Thiên Chúa ở trên cao, thưởng phạt chí công, lạnh lùng nghiêm khắc, Chúa Giêsu đã bày tỏ cho chúng ta một Thiên Chúa đi vào lịch sử con người, một Thiên Chúa sinh ra như một em bé, một Thiên Chúa có trái tim cảm thông và tha thứ, một Thiên Chúa gần gũi với con người, có mặt trong từng nhịp thở của con người.
Chiêm ngắm một Thiên Chúa như thế qua con người Chúa Giêsu Kitô, chúng ta cũng nhận ra được một chân lý về con người, bởi vì như Công Ðồng Vaticanô II trong Hiến chế "Vui mừng và Hy vọng" đã nói: Chỉ trong ánh sáng của Ngôi Lời Nhập Thể, chân lý về con người mới được sáng tỏ. Con người bởi đâu mà đến? sẽ đi về đâu? chúng ta nhận ra điều đó trong Chúa Giêsu đã đành, mà trong Ngài, chúng ta còn phải biết sống thế nào cho phải đạo làm người. Qua cung cách của Ngài, chúng ta thấy phải đối xử thế nào với người đồng loại. Qua cuộc sống yêu thương và yêu thương đến chết trên Thập giá, chúng ta hiểu được rằng hiến thân cho tha nhân là ơn gọi của con người, chỉ có con người mới được mời gọi để sống cho tha nhân mà thôi.
Tin mừng của chúng ta là một con người, đó là Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta không ngừng được mời gọi để sống kết hiệp với Ngài, để đón nhận sức sống của Ngài và sống theo lý tưởng của Ngài. Ước gì chúng ta luôn được củng cố trong niềm xác tín rằng Ngài đang hiện diện và đồng hành với chúng ta trong từng phút từng giây cuộc sống.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Hãy nghỉ ngơi đôi chút
Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi việc các ông đã dạy. Người bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút.” Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông chẳng có thì giờ ăn uống nữa. (Mc. 6, 30-31)
Tuần làm việc đã kết thúc. Thế là ngày thứ bảy. Mặc dầu một số lớn các công nhân phải trực ca ở sở, sinh hoạt phố xá vẫn thay đổi nhịp độ kể từ năm giờ chiều thứ sáu đến tám giờ sáng thứ hai. Người ta muốn lấy hơi thở, dù rằng cứ thứ bảy và chủ nhật nào ai nấy lại thường không phải hết cả hơi, vì những công chuyện như: đi chợ mua thực phẩm, đi tiệm sắm đồ, công việc nội trợ, chơi thể thao, thăm viếng gia đình, bạn bè, họp mặt liên hoan…
Nhưng tất cả những hoạt động đầy ắp những ngày cuối tuần này thật ra có giúp ích gì cho việc nghỉ ngơi không? Phải chăng những hoạt động ấy chỉ là tiếp nối cuộc chạy đua với thời gian làm việc trong tuần? Những hoạt động này có tăng thêm sinh khí cho con người, trí tuệ và đời sống thiêng liêng của ta không? Chúng ta có thực sự đạt được việc dành cho mình những giây phút để trở về với lòng mình, mặt đối mặt với Thiên Chúa, hoặc để thưởng thức một công trình âm nhạc hay văn chương, nhờ đó ta tiến gần tới sự thật, sống có bề sâu, sống thánh thiện và mang vẻ đẹp của một con người luôn đổi mới và biết xây dựng mình? Chúng ta có biết bố trí thời giờ dành để tập thể dục giúp cho thân thể được khỏe mạnh để làm việc không?
Những việc kể lại trong Phúc âm hôm nay chứng tỏ rằng Chúa Giêsu muốn cho các môn đệ của Người, sau khi đi truyền giáo về, cần nghỉ “ngày thứ bảy cuối tuần”, cần được nghỉ ngơi. Dầu rằng quanh các ông, dân chúng vẫn tấp nập, kẻ lui người tới, hỏi han thì Chúa vẫn dưa các ông lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng để nghỉ ngơi và có thì giờ ăn uống.
Làm việc và nghỉ ngơi thay phiên nhau vẫn là luật căn bản của con người, ai coi thường người ấy làm việc kém năng xuất, nếu không sẽ ốm đau và suy giảm tinh thần. Quá mệt mỏi, lúc nào cũng tù túng trong cùng một bầu khí, hoặc thường xuyên bận bịu với cũng một công việc, con người phải sống trong cái vòng lẩn quẩn hoặc tệ hơn, ta đánh mất ý thức về việc làm của mình.
Vậy thì “Anh em hãy nghỉ ngơi đôi chút”.
Suy Niệm 5: Lánh sang nơi thanh vắng
Sự quan tâm của Đức Giêsu với các môn đệ hôm nay làm cho chúng ta thấy một hình ảnh đẹp tuyệt vời về thái độ liên đới và nghĩ đến môn sinh của mình nơi vị Thầy khả ái.
Sau khi sai các môn đệ đi loan báo Tin Mừng, hôm nay, các ông về hối hả kể cho Đức Giêsu nghe những thành tích của mình. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã khuyên các ông: “Anh em hãy lánh đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một chút".
Nghỉ ngơi đôi chút, đây là cách nói thể hiện sự quan tâm của Đức Giêsu đến sức khỏe thể xác, nhưng không dừng lại ở chỗ bề ngoài, mà nó còn đi sâu xa hơn để thấy được ý nghĩa, giá trị của sự nghỉ ngơi tâm linh.
Nếu người môn đệ của Đức Giêsu quá quan tâm đến những thành quả bên ngoài, đến những kết quả bằng con số, thì e rằng họ đang bám víu vào công việc của Chúa hơn là chính Chúa, tức là cậy dựa vào những điều phụ thuộc hơn là chính yếu.
Tuy nhiên, Kinh Thánh kể tiếp, Đức Giêsu và các môn đệ đi sang bờ bên kia, nhưng khi các Ngài tới thì dân chúng đã đến trước rồi, nên Đức Giêsu đã chạnh lòng thương họ như đàn chiên không người chăn dắt, vì thế Ngài đã dạy họ nhiều điều.
Sống trong một xã hội tân tiến như hiện nay, mọi sự trở nên gần gũi khi ngôi nhà thế giới được xích lại nhờ những phương tiện truyền thông. Người ta có thể ngồi trong một căn phòng chỉ mấy mét vuông, nhưng có thể nhìn ra cả thế giới bên ngoài. Nhưng lại chớ trêu thay, những điều đó tưởng chừng như làm cho người ta gần nhau, quan tâm đến nhau hơn thì lại làm cho người ta chỉ biết nghĩ đến mình trong khi biết bao người kêu gào tình yêu, đói khát sự liên đới!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta một mặt hãy tập trung vào đời sống thiêng liêng, coi đời sống thiêng liêng như là nhu cầu không thể thiếu trong đời sống đạo. Mặt khác, luôn biết quan tâm đến những người xung quanh, để lời nói và hành động của chúng ta được thiết thực khi chúng đi đôi với nhau.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con biết sống tình liên đới với anh chị em, nhất là với người nghèo. Xin Chúa cũng ban cho chúng con biết coi trọng đời sống nội tâm để chúng con tìm thánh ý Chúa và thực thi điều Chúa muốn chúng con làm. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Sự cần thiết của sự nghỉ ngơi thánh
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Người ta đồn rằng thánh Gioan tông đồ thích chơi với chim sẻ nuôi trong nhà. Ngày kia, một thợ săn đến thăm và rất ngạc nhiên thấy một người nổi tiếng như vậy mà lại vui chơi. Ông nghĩ có thể dùng thời giờ đó làm một việc tốt lành và quan trọng. Nên ông hỏi: “Tại sao ngài lãng phí thì giờ vui chơi? Sao ngài lại dành thì giờ cho một chú chim sẻ vô dụng thế?”.
Thánh Gioan nhìn anh với vẻ ngạc nhiên. Tại sao ông ta không vui chơi? Vì thế, ngài hỏi ông: “Tại sao dây cung của ông không kéo căng ra?”.
“Nó không thể kéo căng, vì như thế dây cung sẽ mất độ đàn hồi và không thể bắn tên”.
Thánh Gioan bảo ông: “Này bạn, anh cần thả lỏng dây cung, nghĩa là anh cũng phải giải thoát sự căng thẳng trong anh và nghỉ ngơi. Nếu tôi không nghỉ ngơi và giải trí, tôi sẽ không có sức cho bất kỳ công việc hệ trọng nào. Tôi cũng sẽ không có sức làm những việc tôi phải làm và cần làm, đòi hỏi sự chú tâm hoàn toàn của tôi”.
Suy Niệm
Ngay từ thời tạo dựng trời đất, Thiên Chúa đã ấn định thời gian nghỉ ngơi bằng ngày thứ Bảy (x.St 2,2). Trong Giao ước với dân Chúa tuyển trọn, Ngài cũng truyền cho dân phải tôn trọng ngày nghỉ thứ Bảy (x.Xh 23,12).
Tin Mừng Mc 6,30-34 một lần nữa xác quyết cho chúng ta sự cần thiết của sự nghỉ ngơi thánh, các tông đồ sau những ngày làm việc trong bước rao giảng Tin Mừng quay về bên Chúa Giêsu, Ngài đã truyền lệnh cho các ông đi vào thời gian nghỉ ngơi: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi…” (Mc 6,31), Đức Kitô đã thấu hiểu nguyên tắc làm việc và nghỉ ngơi phải luôn đi đôi với nhau. Ngài xác lập một cách gián tiếp cho các tông đồ biết việc nghỉ ngơi là một giai đoạn quan trọng trong đời sống thường ngày sau những giây phút làm việc và trực tiếp hơn nữa, nghỉ ngơi tâm linh là một giai đoạn quan trọng trong công tác tông đồ và cuộc sống tâm linh.
Theo lời dạy của Đức Kitô, chúng ta đặt cuộc sống mình trong ánh sáng của Tin Mừng về làm việc và nghỉ ngơi:
Nơi đời sống thường ngày, để làm việc có hiệu quả và cuộc sống thêm phát triển trong công việc, tôi đã thu xếp cho mình một giấc nghỉ ngơi, giải trí thật hợp lý. Một khi có giấc ngủ sâu và những giây phút giải trí lành mạnh, bạn sẽ cảm nghiệm được hiệu quả của thời gian tĩnh dưỡng và thời gian giải trí đối với cuộc sống mỗi ngày. Xin hãy thử, rồi bạn sẽ thấy…
Về đời sống tâm linh, tôi đã làm việc tông đồ, đã tích cực tham gia những hoạt động mục vụ của cộng đoàn, Gx, đã đến nhà thờ để cầu kinh dâng thánh lễ, tất cả đều tốt cho đời sống tinh thần, đó là biểu hiện hoa trái của đời sống tôn giáo. Nhưng đời sống tâm linh tôi có để những giây phút tĩnh tâm, thinh lặng thánh để được nghỉ ngơi trong bàn tay của Thiên Chúa. Như sách Khôn Ngoan viết: “Trở về nhà, tôi nghỉ ngơi bên cạnh Đức Khôn Ngoan, vì làm bạn với Đức Khôn Ngoan, không bao giờ cay đắng, và chung sống với Đức Khôn Ngoan, chẳng khi nào đau khổ, mà luôn luôn thích thú, hân hoan” (Kn 8,16).
Nơi giây phút thinh lặng và nghỉ ngơi đó, tôi được tâm sự với Chúa về gia đình tôi, về những khó khăn nặng nhẹ của công ăn việc làm về tất cả những gì trong đời sống tôi. Trong những giờ phút nghỉ ngơi linh thiêng đó tôi có tha thiết:
“Như nai rừng mong mỏi tìm về suối nước trong,
hồn con cũng trông mong được gần Ngài, lạy Chúa” (Tv 42,2).
Hãy dành những giây phút thinh lặng thánh trong đời sống, có thể đó là thời điểm của đầu ngày hay là những giây phút trước giấc ngủ, trong những giờ phút nghỉ ngơi này, chúng ta cùng nhau gặp gỡ tâm sự với Chúa. Chính Ngài bồi dưỡng thêm sức cho như Ngài đã khẳng định:
“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề,
hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng…” (Mt 11,28).
Ý lực sống:
“Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi,
hồn con mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2).
Suy Niệm 7: Hãy nghỉ ngơi một chút
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Thánh Marcô cho biết: sau khi vâng lệnh Chúa đi giảng đạo, các Tông đồ trở về bên Chúa, tường trình về các việc đã làm, các lời đã giảng dạy. Và vì Chúa thấy dân chúng kéo theo các ông đồng đảo quá, đến nỗi không có thời giờ ăn uống, nên Chúa bảo các ông tìm nơi vắng vẻ nghỉ ngơi một chút. Thế là thầy trò xuống thuyền đi... nhưng dân chúng đoán biết nơi Chúa và các Tông đồ định đi, nên kéo nhau đến đó trước.
Vì thế, khi vừa bước lên bờ Chúa đã thấy họ ở đó đợi rồi, nên Người cảm động và thương xót dạy dỗ họ lâu giờ, vì họ bơ vơ như đàn chiên không có người chăn dắt giúp đỡ.
2. Chúa quan tâm đến các Tông đồ.
Trước hết, Chúa Giêsu cảm thông với nỗi vất vả của các Tông đồ khi làm việc truyền giáo nên cần có thời gian nghỉ ngơi để hồi phục sức khỏe cả về thể xác cũng như tâm hồn. Nghỉ ngơi để lấy lại sức, để nhìn lại những việc đã làm, để sống thân tình với Chúa và với nhau. Đây là nhu cầu chính đáng và rất bổ ích nhằm quân bình cuộc sống.
Lại nữa, Chúa Giêsu muốn các Tông đồ cần có sự quân bình giữa đời sống cầu nguyện và truyền giáo, giữa chiêm niệm và hoạt động, giữa việc đạo đức kết hợp với Chúa và công việc mục vụ. Đó cũng là một điều hết sức cần thiết cho các vị lo việc truyền giáo và mục vụ ngày nay. Có những vị “quá dấn thân” cho việc “mục vụ” và “xây dựng” đến nỗi không còn thời giờ để đọc kinh Phụng vụ, không còn những phút thinh lặng cầu nguyện và dần dần đời sống đạo đức èo uột, nói về Chúa mà không sống với Chúa và cuối cùng chỉ còn công việc mà không có Chúa đồng hành nữa.
3. Truyện: Nghỉ ngơi cần thiết và có lợi.
Trong một buổi thuyết trình về vấn đề thư giãn trong cuộc sống, người dẫn chương trình giơ cao một ly nước lên và hỏi khán giả:
- Quý vị thử đoán xem ly nước này nặng bao nhiêu?
- Điều đó còn tùy thuộc vào chuyện anh cầm nó trong bao lâu chứ? Một khán giả nói.
- Đúng vậy – Người dẫn chương trình trả lời – Nếu tôi cầm nó trong một phút thì không có gì đáng nói. Nhưng nếu tôi cầm nó trong một tiếng đồng hồ thì tay tôi sẽ mỏi. Còn nếu tôi cầm nó cả một ngày, quý vị sẽ phải gọi xe cấp cứu cho tôi. Cùng một khối lượng, nhưng mang nó càng lâu thì nó càng trở nên nặng hơn.
Trong cuộc sống cũng vậy. Nếu chúng ta cứ liên tục chịu đựng gánh nặng, nó sẽ càng ngày càng trở nên trầm trọng. Không sớm thì muộn chúng ta gục ngã. “Điều quý vị phải làm là đặt ly nước xuống nghỉ một lát, rồi lại tiếp tục cầm nó lên”.
Thỉnh thoảng, chúng ta phải biết đặt gánh nặng cuộc sống, nghỉ ngơi lấy sức để còn tiếp tục mang nó trong quãng đời tiếp theo. Mỗi ngày, chúng ta đều cần phải có giây phút nghỉ ngơi, không bận tâm đến bất kỳ một gánh nặng nào.
4. Chúa Giêsu quan tâm đến dân chúng.
Họ giống như đàn chiên đang bơ vơ không có mục tử chăn dắt. Đây là hình ảnh đáng thương của dân Isrsel thời bấy giờ. Không phải dân không có các vị lo việc phụng tự và dạy dỗ, bởi vì trong 12 chi tộc thì đã có cả một chi tộc Lêvi làm tư tế, trung bình 1/12. Họ còn có những tầng lớp lãnh đạo, các luật sĩ, biệt phái... Thế nhưng, những đầu mục, các tư tế và các luật sĩ chỉ lo tìm kiếm tư lợi hơn là dạy cho dân nghe Lời Chúa. Họ tìm cách chú giải những điều luật theo ý mình và có lợi cho mình hơn là Lời Chúa.
Chính vì thế mà sự xuất hiện của Tin Mừng mà Chúa Giêsu và các môn đệ rao giảng làm họ phấn khởi đi theo. Chính điều này đã đạt ra một sự cấp bách truyền giáo, mà Chúa Giêsu và các môn đệ phải xả thân đến nỗi không còn thời giờ để nghỉ ngơi vì sự khao khát của dân chúng.
5. Truyện: Tổng thống Abraham Lincoln.
Abraham Lincoln là vị tổng thống Hoa kỳ đã phải đương đầu với cuộc nội chiến tang thương nhất trong lịch sự đất nước. Ngày nọ, căng thẳng gần như điên cuồng, ông đã nhờ người về nơi sinh quán của mình là Kentusky để mời cho được người bạn già đến thủ đô Washington cho ông tham khảo ý kiến. Hai người bạn mừng mừng tủi tủi khi gặp nhau. Sau những giờ phút tâm tư, tổng thống Lincoln cảm thấy tươi vui hẳn lên.
Về sau có người hỏi ông đã làm gì để tổng thống phấn khởi lên như thế. Người bạn già của tổng thống cho biết: tổng thống không bàn hỏi với ông bất cứ điều gì có liên quan đến chiến tranh hay chuyện đất nước. Ông cũng cho biết là ông chỉ ngồi thinh lặng để lắng nghe tổng thống trút hết nỗi lòng của mình (Chờ đợi Chúa).
Suy Niệm 8: Làm việc và nghỉ ngơi
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu như một chiếc phao giữa biển mà nhiều người lênh đênh bám vào. Thánh Mác-cô viết "Lúc ấy dân chúng kẻ đến người đi tấp nập đến nỗi các tông đồ không có thời giờ ăn uống".
Trong hoàn cảnh bận rộn như vậy, Chúa Giêsu làm sao? Một mặt Ngài lo liệu cho các môn đệ Ngài được nghỉ ngơi: "Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút". Mặt khác, về phần mình, Ngài hy sinh thời giờ nghỉ ngơi của mình để tiếp tục phục vụ cho dân.
Động cơ của cách cư xử đầy lòng nhân hậu ấy là tình thương của Ngài "Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông thì động lòng thương".
B.... nẩy mầm.
1. Sau khi làm việc mệt nhọc, tôi có quyền nghỉ ngơi. Chính Chúa Giêsu cũng đã kêu các môn đệ tìm chỗ yên tĩnh để nghỉ ngơi.
Vì tôi có quyền nghỉ ngơi, nên lúc tôi đã mệt mà người ta vẫn đến "quấy rầy", tôi thường bực bội gắt gỏng. Hãy xem gương Chúa Giêsu Ngài không hề gắt gỏng, trái lại Ngài động lòng thương và tiếp tục phục vụ.
Nếu tôi chưa được như Chúa hy sinh cả thời giờ nghỉ ngơi, thì ít ra tôi đừng gắt gỏng với người ta. Tôi phải học biết "động lòng thương" họ.
2. Khi Chúa Giêsu động lòng thương dân chúng thì Ngài làm gì? Việc trước tiên Ngài làm không phải là chữa bệnh, mà là "dạy dỗ họ nhiều điều". Chúa thương người ta đau khổ, nhưng Chúa càng thương hơn vì người ta không biết Tin Mừng. Nói cho người ta một lời đem lại sức sống còn ích lợi hơn chữa cho người ta khỏi bệnh phần xác.
Tôi có sẵn những lời đó không? Nếu tôi gặp một người đang đau khổ, tôi sẽ nói gì để người đó thực sự được an ủi và lạc quan hơn chứ không có cảm tưởng nghe một lý thuyết suông?
3. Abraham Lincoln là vị Tổng thống Hoa kỳ đã phải đương đầu với cuộc nội chiến tang thương nhất trong lịch sử đất nước. Ngày nọ, căng thẳng gần như điên cuồng, ông đã nhờ người về nơi sinh quán của mình là Kentusky để mời cho được người bạn già đến thủ đô Washington cho ông tham khảo ý kiến. Hai người bạn mừng mừng tủi tủi khi gặp nhau. Sau những giờ phút tâm sự, tông thống Lincoln cảm thấy tươi vui hẳn lên.
Về sau có người hỏi ông đã làm gì để tổng thống phấn khởi lên như thế, người bạn già của tổng thống cho biết tổng thống không bàn hỏi với ông bất cứ điều gì có liên quan tới chiến tranh hay chuyện đất nước. Ông cũng cho biết là ông chỉ ngồi thinh lặng để lắng nghe tổng thống trút hết nỗi lòng của mình. (Chờ đợi Chúa)
4. "Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài" (Mc 6,33)
"Em thân mến! Giờ đây chị đã bình an. Chị không còn oán trách, giận hờn anh ấy và các bạn nữa. Trước đây, chị luôn nghĩ mình là người vững vàng, bản lãnh, là chỗ dựa của mọi người. Chị yêu anh ấy, nhưng lại cho rằng anh ấy thật yếu đuối. Chị đã làm tổn thương đến danh dự và lòng tự trọng của anh. Tình yêu tan vỡ, bạn bè xa lánh, chị rơi vào vực thẳm cô đơn, buồn thảm.
Trong hoàn cảnh tối tăm ấy, chị đã cầu nguyện thật nhiều. Và khi đối diện với Chúa, Đấng hiền lành và khiêm nhượng, chị nhận ra mình kiêu căng và tự mãn biết bao. Cảm ơn Người đã cho chị nhận biết sự thật về chính mình, dù là một sự thật đau lòng.
Em thân mến, khi thuận lợi cũng như lúc khó khăn, em hãy lắng nghe Lời Chúa và khám phá ra thánh ý Người trong mọi biến cố của cuộc sống. Chị tin rằng mọi sự sẽ trở nên tốt đẹp hơn và tâm hồn em sẽ được bình an.
Phúc cho chị vì chị đã chạy đến với Chúa và nhận ra ý Người. Còn em, có lẽ chỉ biết khóc và oán giận thôi; chẳng để ý đến sự hiện diện của Chúa và cũng chẳng tìm kiếm thánh ý Người."
Lạy Chúa, Chúa vẫn ở bên con và đỡ bước con đi. Xin mở mắt cho con được thấy tôn nhan Chúa và nhận ra thánh ý Người. (Epphata)
04/02 Gioan Tẩy giả bị trảm quyết
- Viết bởi Mc 6, 14-29
Gioan Tẩy giả bị trảm quyết.
Thứ Sáu đầu tháng, tuần 4 thường niên.
"Ðó chính là Gioan Tẩy Giả trẫm đã chặt đầu, nay sống lại".
Lời Chúa: Mc 6, 14-29
Khi ấy, vua Hêrôđê nghe nói về Chúa Giêsu, vì danh tiếng Người đã lẫy lừng, kẻ thì nói: "Gioan Tẩy giả đã từ cõi chết sống lại, nên ông đã làm những việc lạ lùng"; kẻ thì bảo: "Ðó là Êlia"; kẻ khác lại rằng: "Ðó là một tiên tri như những tiên tri khác". Nghe vậy, Hêrôđê nói: "Ðó chính là Gioan trẫm đã chặt đầu, nay sống lại".
Vì chính vua Hêrôđê đã sai bắt Gioan và giam ông trong ngục, nguyên do tại Hêrôđia, vợ của Philipphê anh vua mà vua đã cưới lấy. Vì Gioan đã bảo Hêrôđê: "Nhà vua không được phép chiếm lấy vợ anh mình". Phần Hêrôđia, nàng toan mưu và muốn giết ông, nhưng không thể làm gì được, vì Hêrôđê kính nể Gioan, biết ông là người chính trực và thánh thiện, và giữ ông lại. Nghe ông nói, vua rất phân vân, nhưng lại vui lòng nghe.
Dịp thuận tiện xảy đến vào ngày sinh nhật Hêrôđê, khi vua thết tiệc các quan đại thần trong triều, các sĩ quan và những người vị vọng xứ Galilêa. Khi con gái nàng Hêrôđia tiến vào nhảy múa, làm đẹp lòng Hêrôđê và các quan khách, thì vua liền nói với thiếu nữ ấy rằng: "Con muối gì, cứ xin, trẫm sẽ cho", và vua thề rằng: "Con xin bất cứ điều gì, dù là nửa nước, trẫm cũng cho". Cô ra hỏi mẹ: "Con nên xin gì?" Mẹ cô đáp: "Xin đầu Gioan Tẩy Giả". Cô liền vội vàng trở vào xin vua: "Con muốn đức vua ban ngay cho con cái đầu Gioan Tẩy Giả đặt trên đĩa". Vua buồn lắm, nhưng vì lời thề và vì có các quan khách, nên không muốn làm cho thiếu nữ đó buồn. Và lập tức, vua sai một thị vệ đi lấy đầu Gioan và đặt trên đĩa. Viên thị vệ liền đi vào ngục chặt đầu Gioan, và đặt trên đĩa trao cho thiếu nữ, và thiếu nữ đem cho mẹ.
Nghe tin ấy, các môn đệ Gioan đến lấy xác ông và mai táng trong mồ.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Vì đã trót thề
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Như mọi con người khác ở trên đời,
con người của Hêrôđê bị giằng co giữa cái xấu và cái tốt.
Vấn đề là ông ta sẽ ngả theo cái nào.
Hêrôđê biết Gioan là người công chính thánh thiện nên sợ ông.
Hêrôđê đã bảo vệ che chở cho Gioan và thich nghe ông nói,
dù những điều đó làm Hêrôđê hết sức bối rối (c. 20).
Nhưng Hêrôđê cũng là người đã sai bắt Gioan và xiềng ông trong ngục,
chỉ vì Gioan dám nói: “Nhà vua không được lấy vợ của anh mình.”
Rõ ràng cái ác trong Hêrôđê đã thắng cái thiện, cái xấu đã thắng cái tốt.
Hêrôđê thuộc loại người “nghe lời thì liền vui vẻ đón nhận,
nhưng không đâm rễ, mà là những kẻ nông nổi nhất thời…” (Mc 4, 16-17).
Chính vì thế khi gặp thử thách thì ông vấp ngã ngay.
Hêrôđê còn quỵ ngã một lần nữa nặng hơn.
Ngày sinh nhật của ông cũng là ngày chết của một vị ngôn sứ.
Khi con gái bà Hêrôđia biểu diễn một điệu múa làm vui lòng mọi người,
Hêrôđê đã lỡ thề hứa một điều thiếu khôn ngoan,
trước mặt bá quan văn võ và các thân hào miền Galilê:
“Con xin gì, ta cũng cho, dù một nửa nước của ta cũng được” (c. 23).
Không biết lúc đó Hêrôđê đã say chưa,
nhưng chắc chắn nhà vua đã quên một điều quan trọng.
Ông quên mình chỉ là một tiểu vương nắm vùng Galilê và Pêrê (Lc 3,1),
nên ông không có quyền cho đất hay chia đất.
Bà Hêrôđia đã không bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng này để trả thù Gioan.
Bà nói với cô con gái xin đầu Gioan Tẩy giả (c. 24).
Hẳn điều này là một bất ngờ lớn đối với Hêrôđê.
Lập tức ông bị đặt vào thế giằng co xâu xé.
Một mặt ông hết sức đau buồn vì quý mạng sống của Gioan.
Mặt khác ông lại không muốn thất hứa với cô bé,
một lời hứa đã trót nói ra công khai trước mặt quan khách dự tiệc.
Hêrôđê có dám chịu đánh mất chút danh dự của mình không
khi khiêm tốn xin rút lại lời thề hứa vội vàng, bồng bột?
Ông có dám nhận mình đã sai và chịu mất mặt không?
Tiếc quá! Hêrôđê đã không có được can đảm này.
Như người thanh niên giàu có buồn rầu bỏ đi (Mc 10, 22),
Hêrôđê cũng sẽ buồn suốt đời vì cái chết do ông gây ra.
Như Hêrôđê, sau này Philatô cũng chịu áp lực khi ông xử án Đức Giêsu.
Ông cũng phạm đúng tội của Hêrôđê trước đám đông (Mc 15, 15),
coi ghế ngồi của mình quý hơn mạng sống của Đức Giêsu, người vô tội.
Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện:
Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi
mọi biển lận tầm thường.
Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên
để gánh chịu mọi buồn vui.
Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang
để đem tình yêu gánh vác việc đời.
Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường
để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,
hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.
Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai
để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.
Và cho tôi sức mạnh tràn trề
để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn. Amen.
(R. Tagore - Ðỗ Khánh Hoan dịch)
Suy Niệm 2: Đa-vít và Hê-rô-đê
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đa-vít và Hê-rô-đê là hai vị vua có nhiều điểm giống nhau. Đa-vít say mê sắc dục. Chiếm vợ của U-ri-gia. Lại còn giết chết U-ri-gia. Hê-rô-đê cũng say mê sắc dục. Chiếm đoạt bà Hê-rô-đi-a là vợ của Phi-líp-phê, anh vua.
Nhưng càng về sau hai vị vua càng khác biệt. Được Na-than nhắc nhở, Đa-vít tỉnh ngộ và ăn năn sám hối. Nhưng Hê-rô-đê chỉ lưỡng lự phân vân. Sau đó còn nghe lời tình nhân, giết chết Gio-an Tẩy giả.
Từ khi ăn năn sám hối, Đa-vít sống tốt lành thánh thiện. Luôn tuân phục thánh ý Thiên Chúa. Đặc biệt ông dùng tài ca nhạc, sáng tác ca tụng Thiên Chúa. “Với trọn cả tâm tình, ông hát lên những khúc thánh thi tỏ lòng yêu mến Đấng tạo thành ông”. Ông còn sắp đặt lễ nghi phượng tự cho long trọng. Vì thế “Đức Chúa đã xoá bỏ tội lỗi của ông và nâng cao uy thế ông luôn mãi” (năm chẵn).
Còn Hê-rô-đê vì lưỡng lự nên không những không tiến bộ mà ngày càng lún sâu vào tội ác. Nếu Đa-vít dùng đàn ca ca tụng Thiên Chúa, thì Hê-rô-đê bị đàn ca mê hoặc đến nỗi đưa ra những lời hứa nhẹ dạ. Nếu Đa-vít khiêm tốn nhận mình tội lỗi, thì Hê-rô-đê sĩ diện, lỡ hứa rồi, biết là nông nổi, nhưng không dám rút lại. Nếu Đa-vít nghe lời can gián, thì Hê-rô-đê giết người can ngăn mình phạm tội. Vì thế triều đại Đa-vít bền vững mãi mãi. Còn triều đại Hê-rô-đê mau chóng suy tàn.
Thư Do thái khuyên nhủ ta hãy noi những tấm gương ấy mà chọn một con đường tốt đẹp. “Anh em hãy nhớ đến những người lãnh đạo đã giảng lời Chúa cho anh em. Hãy nhìn xem cuộc đời họ kết thúc thế nào mà noi theo lòng tin của họ. Đức Giê-su Ki-tô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời”. Chúa vẫn thế. Thế cuộc đổi thay. Nhưng những nguyên tắc đạo đức ở trong thánh ý Chúa không hề thay đổi. Vẫn là kim chỉ nam đưa ta đến sự sống.
Xin cho con noi gương thánh vương Đa-vít. Biết sám hối tội lỗi. Và dành thời gian còn lại của đời sống đền bù lỗi lầm. Ca tụng tôn vinh Chúa.
Suy Niệm 3: Sự bất tử của thánh nhân
Những bậc vĩ nhân thường được nhân gian biến thành bất tử. Người Do thái tin rằng vị tiên tri vĩ đại nhất của họ là Êlia đã không chết, nhưng được cất nhắc về Trời; khi Gioan Tẩy Giả xuất hiện, người ta lại tin rằng ngài chính là hiện thân của Êlia: rồi đến lượt Gioan Tẩy Giả bị giết chết, người ta lại cho rằng ngài đang sống lại trong con người Chúa Giêsu.
Có lẽ để xóa tan những lời đồn đoán như thế, thánh sử Marcô đã kể lại từng chi tiết cuộc xử trảm Gioan Tẩy Giả, cũng như ghi lại việc chôn cất thánh nhân. Gioan Tẩy Giả đã thực sự chết và ngài đã không bao giờ sống lại, cũng chẳng được cất nhắc lên trời như Êlia.
Gioan Tẩy Giả là nạn nhân của bất công. Có bất công khi người ta đặt chính trị lên trên những giá trị khác của cuộc sống, như tinh thần và niềm tin; có bất công khi người ta hành động theo bản năng hơn là theo tinh thần. Vua Hêrôđê lẫn nàng Hêrôđia đều đã hành động theo lối ấy. Hêrôđia sống bất chấp luân thường đạo lý, còn Hêrôđê thì cho dù vẫn sáng suốt để phân biệt được điều ngay với lẽ trái, nhưng lại chọn sống theo bản năng hơn là lý trí.
Gioan Tẩy Giả đã lên tiếng tố cáo bất công và sẵn sàng chết cho công lý. Trong ý nghĩa ấy, ngài là vị tiền hô của Chúa Giêsu, ngài qua đi nhưng tinh thần ngài vẫn sống mãi trong các môn đệ của ngài, và một cách nào đó, ngài cũng sống trong chính con người Chúa Giêsu và nơi mỗi người Kitô hữu. Từ 2000 năm qua, Giáo Hội vẫn sống trong niềm xác tín đó. Chính tinh thần của Gioan Tẩy Giả, của các Tông Ðồ, của các Thánh Tử Ðạo, đã sống mãi trong Giáo Hội và trở thành giây liên kết mọi Kitô hữu. Ðiều này luôn được Giáo Hội thể hiện qua cử chỉ hôn kính hài cốt các thánh được đặt trên bàn thờ. Tập san Giáo Hội Á Châu do Hội Thừa Sai Paris xuất bản tháng 12/1995, có ghi lại chứng từ của một vị Giám mục:
"Chúng tôi đã cất giữ hài cốt của vị Giám mục tiên khởi của Giáo Hội chúng tôi. Chúng tôi tin rằng hài cốt này là thánh thiêng đối với chúng tôi, là dấu chỉ mà chúng tôi không bao giờ được phép quên lãng. Hài cốt này là sợi giây liên kết với Giáo Hội mọi thời, mọi nơi. Chúng tôi đã luôn nghĩ rằng chúng tôi không thể cất khỏi sợi giây liên kết hữu hình ấy. Ðây là một dấu chỉ nối kết chúng tôi trực tiếp với Chúa Kitô. Làm sao người ta có thể đánh mất Chúa Kitô? Chúng tôi cất giữ hài cốt này, chúng tôi vẫn tiếp tục yêu mến Chúa Kitô và kết hiệp với Người mãi mãi".
Chúng ta cũng hãy hiên ngang nói lên niềm tin và lòng trung thành với Chúa Kitô. Cùng với thánh Phaolô, chúng ta cũng hãy thốt lên: "Không gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến Thiên Chúa trong Chúa Giêsu Kitô".
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Tấn tuồng của con người
Vua Hê-rô-đê nghe biết về Đức Giêsu, vì Người đã nổi danh. Có kẻ nói: “Đó là ông Gia-an Tẩy Giả từ cõi chết chỗi dậy, nên quyền làm phép lạ mới tác động nơi ông.” Kẻ khác nói: “Đó là ông Ê-li-a.” Kẻ khác nữa nói: “Đó là một ngôn sứ như một trong các ngôn sứ.” Vua Hê-rô-đê nghe thế, liền nói: “Ông Gio-an, ta đã cho chém đầu, chính ông đã chỗi dậy!” (Mc. 6, 14-16)
Cái chết của thánh Gioan Baotixita là một trong những trang bi thảm nhất của Phúc âm vì những hoàn cảnh éo le đã xui nên. Những tâm tình hắc ám nhất của nhân loại đều thấy cùng gặp gỡ nhau ở đây: một người có ý định sát nhân, đúng hơn lại muốn để cho người khác can tội vì muốn bảo toàn danh dự mình hoặc khỏi mất thanh danh đối với những khách dự tiệc có lẽ đang say xỉn; một cô gái nhảy đùa giỡn với mạng sống con người với tư thế ung dung như cô đang chơi trò giật dây con rối vậy. Đó là một trong những trang bi đát nhất của tất cả tấn tuồng của con người từ đó để lộ ra lẫn lộn tất cả sự hèn nhát, nhân nhượng, mưu mô, thù oán, say sưa và tàn bạo hầu làm nên cái mà Mauriac gọi là uẩn khúc nham hiểm của loài rắn độc.
Tính nhu nhược của Hêrôđê là đầu mối cho tất cả sự việc này. Từ khi nghe lời Hêrôđia xúi xiểm tống giam Gioan Tẩy giả cho đến khi bị mắc kẹt trước các khách dự tiệc, không thể rút lại mà không phơi trần một sự yếu hèn hơn, Hêrôđê sẽ vẫn là một con người bị người khác vận dụng và sẵn sàng nhượng bộ tất cả với điều kiện là “giữ được thể diện” cho mình. Ông sẽ chẳng coi chi những tâm tình vị nể và cảm phục ông Gioan, người mà tự thâm tâm ông vẫn thích nghe.
Sau đó ít lâu, một tấn tuồng khác gần tương tự sẽ còn làm nổi bật tính nhu nhược này của con người. Tại pháp đình, trước đám đông người Do thái bị các trưởng tế xúi giục hò hét, Philatô sẽ rửa tay tỏ ra vô can trong cái chết của Đức Kitô, mặc dầu ông không tìm được chứng cớ nào để kết án tử Người.
Thiết lập một danh sách liệt kê những biến cố đại loại như trên, thiết tưởng không phải là chuyện khó làm. Những vụ giết người và phản bội thường có nguồn gốc là một lô những nhu nhược, hèn nhát, yên lặng đắc tội…Những người có quyền, có địa vị mà nhu nhược thường bao che cho những kẻ quỷ quyệt để chúng hưởng lợi. Quả thực, ít có những người có sự thật và biết tôn trọng sự thật đến cùng, một sự thật ngoan cường.
Còn chúng ta, chính chúng ta thường tỏ ra khôn khéo hơn trong vai những người mềm yếu và nhu nhược khi chúng ta diễn lại tấn tuồng trên đây của con người.
Suy Niệm 5: Số phận của các ngôn sứ
Có những cái chết đã đi vào bất tử, trường tồn, bởi nó đã trở thành biểu tượng cho một tinh thần bất khuất. Vì thế, muôn thế hệ sẽ còn tưởng nhớ chính nhân.
Cái chết đó chính là cái chết của Gioan Tẩy Giả.
Nếu các Ngôn Sứ là những người thay mặt Chúa, thông truyền sứ điệp của Thiên Chúa cho dân; sứ mệnh của các ngài chính là việc dạy dỗ, khuyên răn dân đi theo đường lối của Thiên Chúa để được sống; đồng thời, lên tiếng tố cáo những việc làm sai trái mà dân đang thực hiện. Mặt khác, các ngài cũng không quên một nhiệm vụ quan trọng, đó là nhắc dân từ bỏ con đường bất chính gian tà để trở về với Thiên Chúa. Chính vì thế, các ngài thường bị dân chúng giết chết để khỏi trướng tai gai mắt họ.
Thật vậy, Gioan cũng đã chung số phận khi lên tiếng tố cáo cuộc sống loạn luân của vua Hêrôđê khi ông ta bỏ vợ để cướp vợ của anh cùng cha khác mẹ với mình. Cuộc sống của vua đã trở thành đồi bại, vô luân, và nhất là gây nên một gương mù lớn trong dân.
Khi Gioan tố cáo Hêrôđê, thì đồng nghĩa với việc ông lên tiếng phản đối cả một hệ thống lãnh đạo suy đồi khi cùng với vua hưởng lạc trong lúc chứng kiến con gái bà Hêrôđia múa hát để chiêu mộ lòng vua!
Sự thật thì mất lòng! Gian dối lên ngôi! Tội lỗi hoành hành! Và, nhất là một con người nhu nhược, không có lập trường như Hêrôđê, Gioan đã bị giết dưới lưỡi gươm của tội lỗi!
Tiếp nối sứ vụ của Gioan, và nhất là thi hành lệnh truyền của Đức Giêsu, suốt hơn 2.000 năm nay, Giáo Hội không ngừng lên tiếng cho công lý, sự thật, bảo vệ những người nghèo, không có tiếng nói..., thế nên nhiều chứng nhân anh dũng đã can đảm nói không với ái ác, bất nhân và vô luân. Họ đã: "Vâng lời Thiên Chúa, hơn là vâng lời con người". Vì thế, biết bao nhiêu máu đào đã đổ ra và những đống xương “chất đầy thành núi” qua các cuộc tử đạo để gióng lên tiếng nói của lương tâm, hầu tố cáo những thói vô luân của con người, nhất là những vị lãnh đạo bất nhân và ham dục...
Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi trở nên ngôn sứ của Đức Kitô, trở nên người loan báo chân lý...
Tuy nhiên, theo bản tính tự nhiên, chúng ta khó có thể vượt qua được những toan tính thiệt hơn của con người, nên thay vì làm chứng cho Chúa, chúng ta lại phản chứng khi trở nên như Hêrôđê, ghen tỵ, oán ghét, và tàn độc.
Những lúc như thế, ấy là lúc chúng ta chưa dám sống công chính và đi theo giáo huấn của Đức Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con lòng can đảm, trung thành với sứ vụ, đồng thời, xin cũng ban cho chúng con lòng nhân hậu, quảng đại và tha thứ cho anh chị em chúng con, khi bị thù ghét, bỏ vạ, cáo gian. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Hêrôđê chém đầu Gioan Tẩy Giả
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Hoàng hậu Ideven của vua Akhap rước thần ngoại bang vào vương quốc Israel và bảo trợ cho các tư tế, phù thủy của tà thần, đuổi bắt các ngôn sứ của Thiên Chúa.
Dù trước bạo quyền, ngôn sứ Êlia một mình chống lại các tư tế của thần dân ngoại. Tinh thần chính trực của ông đã bị vua và hoàng hậu truy bắt đuổi giết, khiến thân phận ngôn sứ của Thiên Chúa thật gian nan, khốn khổ và luôn sống trong sự trốn tránh (1V 17-18).
Suy Niệm
Gioan, cái tên được Thiên Chúa đặt là dấu chỉ thuộc về Thiên Chúa, sự công minh chính trực của Gioan đã được ngôn sứ Isaia nói trước: “Chúa đã gọi tôi, từ khi tôi còn trong bụng mẹ, lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tôi. Người đã làm cho miệng lưỡi tôi như gươm sắc bén, dấu tôi dưới bàn tay Người... biến tôi thành mũi tên nhọn, cất tôi trong ống tên của Người” (Is 49,1-2).
Sứ mạng ngôn sứ và ơn thánh đã nuôi dưỡng Gioan: “Cậu bé càng lớn lên, thì tinh thần càng vững mạnh” (Lc 1,80). Vì thế, người quân tử này không sợ trước bất kỳ quyền lực nào, chỉ luôn biết sống trung tín và loan báo những gì mà Thiên Chúa muốn ông nói và làm.
Gioan bộc trực, thẳng thắn phê phán những quyền lực tôn giáo sống không đúng với chức danh (Mt 3,7), ông phê phán, đương đầu trực diện cả vương quyền khi họ thực hiện những điều bất nghĩa: Ông đã ngăn cản vua Hêrôđê đã cướp vợ của anh trai vua, chính vì thế mà ông bị tống ngục và Hêrôđia - người tình của vua đã tìm cách ám hại ông (Mc 6,17-29).
Cái chết của ông là minh chứng cho sự trung thực thẳng thắn, là triều thiên tử đạo đổ máu đào cản ngăn những điều bất nghĩa bất nhân.
Suy Niệm 7: Thánh Gioan bị trảm quyết
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Marô thuật lại cho chúng ta cuộc tử nạn của thánh Gioan Tẩy Giả. Khi ấy, danh tiếng Chúa Giêsu lẫy lừng vì những lời giảng và hành động thật uy quyền đã đến tai Hêrôđê khiến ông ta sống bất an, lương tâm cắn rứt và nghĩ rằng chính Gioan Tẩy Giả tiếp tục sống trong Đức Giêsu. Những ray rứt của kẻ giết người lại nổi lên trong con người ông và lên án chính ông. Đây chính là tâm trạng của những kẻ gây ra những điều gian ác. Tâm hồn họ đã đánh mất sự hiện diện của Thiên Chúa. Tiếng lương tâm cắn rứt chính là dấu chỉ Thiên Chúa vẫn luôn mời gọi họ hối cải.
2. Gioan Tẩy Giả không phải là ánh sáng, nhưng chỉ đến làm chứng cho ánh sáng. Dù biết rằng mình sẽ phải chấp nhận cái bi đát nhất của cuộc đời, Gioan vẫn nói lên tiếng nói bất khuất của vị tiên tri. Mọi tiên tri đều phải trả giá cho lời minh chứng của mình. Gioan Tẩy Giả đã sống anh dũng, can trường với lời nói của mình. Cái đầu phải trả giá là giá nặng nề và đáng nguyền rủa nhất của vị tiên tri sau cái chết đóng đinh nơi thập giá đối với ngưới Do thái lúc đó. Gioan Tẩy giả đã tự xóa mình để cho Đấng Cứu độ lớn lên trong lịch sử nhân loại. Lời chứng và cái chết của Ngài, đã nói lên sự thật muôn đời là Gioan đã hoàn toàn đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa: ”Ngài không sợ hãi, lớn tiếng trước mặt các vua chúa. Ngài đã hiến mạng sống cho công bình và chân lý.
3. Còn vua Hêrôđê, ông là hình ảnh của những con người yếu đuối, hướng chiều theo tội lỗi. Sở dĩ ông tống ngục ông Gioan Tẩy Giả là cũng vì nghe lời Hêrôđiađê xúi giục, chứ riêng ông thì ông nể sợ Gioan Tẩy Giả vì biết Gioan là người công chính thánh thiện. Marcô viết: ”Ông che chở Người. Khi nghe ông nói, nhà vua rất phân vân nhưng lại thích nghe”. Hêrôđê chính là mẫu người yếu đuối, buông theo sự dễ dãi đến khi muốn trở lại thì đã quá trễ, không thể làm lại được nữa.
Hêrôđê để cho mình bị thú vui nhục dục che khuất, loạn luân, rơi vào cái bẫy “mỹ nhân kế” của mẹ con bà Hêrôđiađê bầy ra, rồi lỡ miệng thề thốt trong cơn say, cuối cùng để bảo vệ danh dự, ông đã phạm vào tội ác giết người vô tội. Cũng vậy, xã hội ngày hôm nay, và cách riêng mỗi người chúng ta, giữa những cám dỗ thế tục, những thú vui nơi các cuộc ăn chơi – tụ điểm múa nhảy, rồi kéo theo những hệ lụy sau đó không còn kiểm soát được. Rồi một khi, ai đó dám cảnh tỉnh chúng ta, thì thay vì quay đầu sửa lỗi, lại tìm cách ám hại người nhắc nhở mình, thậm chí sẵn sàng ám hại người khác để bịt đầu mối và bảo vệ danh dự của mình.
4. Còn bà Hêrôđiađê từng là vợ của tiểu vương Hêrôđê Philipphê (cũng là một trong ba người con của Hêrôđê Cả), do bị thánh Gioan Tẩy Giả can ngăn, làm ảnh hưởng đến chuyện tư tình của mình với Hêrôđê Antipas, nuôi lòng thù hận và đã bầy ra trò mỹ nhân kế của cô con gái rồi dùng bàn tay tình nhân để hãm hại người công chính. Bà là mẫu gương sống theo sự dữ. Đã pạm tội loạn luân, lấy em chồng của mình thì chớ, lại còn căm thù ông Gioan và muốn giết ông...
Giữa xã hội hôm nay cũng thế, nhiều người không ngại dùng nhiều thủ đoạn thậm chí còn tàn độc hơn cả Hêrôđiađê để trả thù những ai dám cản trở những cuộc tình mờ ám hay những việc làm sai trái của mình.
5. Gioan Tẩy Giả đã lên tiếng tố cáo bất công và sẵn sàng chết cho công lý. Trong ý nghĩa ấy, ngài là vị tiền hô của Chúa Giêsu, ngài qua đi nhưng tinh thần ngài vẫn còn sống mãi trong các môn đệ của ngài, và một cách nào đó, ngài cũng sống trong chính con người Chúa Giêsu và nơi mỗi người Kitô hữu. Từ 2000 năm qua, Giáo hội vẫn sống trong niềm xác tín đó. Chính tinh thần Gioan Tẩy Giả, của các Tông đồ, của các thánh Tử đạo, đã sống mãi trong Giáo hội và trở thành dây liên kết mọi Kitô hữu. Điều này luôn được Giáo hội thể hiện qua cử chỉ hôn kính hài cốt của các thánh được đặt trên bàn thờ.
Tập san Giáo hội Á châu do hội Thừa sai Paris xuất bản tháng 12/1995, có ghi lại chứng từ của một vị Giám mục: “Chúng tôi đã cất giữ hài cốt của vị Giám mục tiên khởi của Giáo hội chúng tôi. Chúng tôi tin rằng hài cốt này là thánh thiêng đối với chúng tôi, là dấu chỉ mà chúng tôi không bao giờ được phép quên lãng. Hài cốt này là sợi dây liên kết Giáo hội mọi thời, mọi nơi. Chúng tôi đã luôn nghĩ rằng chúng tôi không thể cất khỏi sợi dây liên kết hữu hình ấy. Đây là một dấu chỉ nối kết chúng tôi trực tiếp với Chúa Kitô. Làm sao người ta có thể đánh mất Chúa Kitô? Chúng tôi cất giữ hài cốt này, chúng tôi vẫn tiếp tục yêu mến Chúa Kitô và kết hợp với Người mãi mãi”(Mỗi ngày một tin vui).
6. Truyện: Một học sinh can đảm.
Suy Niệm gương thánh Gioan Tẩy Giả: tôi có can đảm và sống Lời Chúa bất chấp mọi khó khăn, mất mát không?
Một học sinh Nhật là Kitô hữu duy nhất trong ngôi trường có 150 học sinh. Trước mỗi bữa ăn, em thường mạnh dạn làm dấu thánh giá và đọc kinh. Các học sinh đến tố cáo với thầy giáo là em có “hành vi ma thuật”. Nghe thấy thế, thầy cho gọi em lên đứng giữa lớp, hỏi xem em đã làm gì?. Em thẳng thắn nói rằng em chỉ cám ơn Chúa đã ban lương thực hằng ngày. Nghe vậy, thầy giáo gục xuống bàn, nước mắt ràn rụa nói: “Này con, ta cũng là Kitô hữu, nhưng ta không can đảm tỏ ra cho mọi người biết. Giờ thì cảm ơn Chúa, ta đã biết là Kitô hữu, mình phải làm gì” (Góp mặt).
Suy Niệm 8: Cái chết của Gioan tẩy giả
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Câu chuyện về cái chết của Gioan tẩy giả gồm 4 nhân vật với những đặc điểm tâm lý khác nhau
- Hêrôđê là một người không có lập trường một đàng kính trọng Gioan nhưng đàng khác khi bị Gioan vạch tội thì căm thù Gioan; khi nghe Gioan giảng thì ông thích, nhưng khi nghe bà Hêrôđia xúi bậy thì lại bắt Gioan tống ngục; Lúc thì hứa sẽ cho cô con gái của Bà Hêrôđia bất cứ điều gì nó xin, nhưng khi nó xin cái đầu của Gioan thì ông lại buồn, nhưng không dám từ chối…
- Bà Hêrôđia một người đàn bà chạy theo đam mê bằng mọi giá bất chấp thủ đoạn phụ tình với chồng cũ, giết Gioan…
- Con gái bà Hêrôđia (nàng Salômê) không biết dùng nhan sắc và tài năng vào việc tốt, lại dùng chúng để làm tội…
- Gioan tẩy giả một ngôn sứ chính danh. Ngôn sứ là sứ giả của Lời Chúa, can đảm nói lời Chúa cho dù phải tù tội và phải chết.
B.... nẩy mầm.
1. Những dư luận về Chúa Giêsu rất khác nhau Gioan tẩy giả sống lại, Êlia, một ngôn sứ… Ngày nay cũng có nhiều dư luận về Chúa Giêsu, trong đó có những dư luận không tốt. Tôi phải làm gì để cho người ta hiểu đúng về Ngài?
2. Tên "Giêsu" nghĩa là "Chúa Cứu độ", hay nói theo ngôn ngữ thông dụng, Ngài là Đấng "cứu nhân độ thế". Người ta không quan tâm lắm đến những danh hiệu khác của Ngài (Con Thiên Chúa, Kitô Messia, Con Vua Đavít v.v.). Nếu Ngài là đấng "cứu nhân độ thế" thì ai cũng thấy cần đến Ngài bởi vì ai cũng có điều cần Ngài cứu giúp, hoặc vật chất hoặc tinh thần. Nhưng làm sao cho người ta không chỉ biết mà còn thấy rõ Ngài là Đấng cứu nhân độ thế? Giáo Hội và các môn đệ Ngài phải cho người ta thấy điều đó qua cách sống và những việc làm của mình.
3. Suy nghĩ về tính thiếu cương quyết của Hêrôđê nếu thấy một điều gì đó là đúng thì phải cương quyết làm; nếu thấy một điều gì đó sai thì cũng phải cương quyết bỏ; không chần chứ, không rút lại điều đã quyết định.
4. Suy nghĩ về những đam mê của bà Hêrôđia: đam mê là một động lực rất mạnh nhưng cũng là một con dao hai lưỡi. Nếu đam mê một điều tốt thì người ta sẽ làm được những kỳ công; nếu đam mê một điều xấu thì tai hại rất lớn…
5. Xem câu chuyện của nàng Salômê, tôi phải xin Chúa giúp tôi biết xử dụng những khả năng Chúa ban cho đúng.
6. Suy gẫm gương thánh Gioan tẩy giả, tôi có can đảm nói và sống Lời Chúa bất chấp mọi khó khăn, mất mát không?
7. Một học sinh Nhật là Kitô-hữu duy nhất trong ngôi trường có 150 học sinh. Trước mỗi bữa ăn, em thường mạnh dạn làm dấu thánh giá và đọc kinh. Các học sinh đến tố cáo với thầy giáo là em có "hành vi ma thuật". Nghe thấy thế, thầy cho gọi em lên đứng giữa lớp, hỏi xem em đã làm gì? Em thẳng thắn nói rằng em chỉ cám ơn Chúa đã ban lương thực hằng ngày. Nghe vậy, thầy giáo gục xuống bàn, nước mắt ràn rụa nói: "Này con, ta cũng là Kitô-hữu, nhưng ta không can đảm tỏ ra cho mọi người biết. Giờ thì cám ơn Chúa, ta đã biết là Kitô-hữu, mình phải làm gì." (Góp nhặt)
03/02 Chúa Cha hằng làm việc luôn
- Viết bởi Mt 25, 14-30
Chúa Cha hằng làm việc luôn.
Thứ Năm đầu tháng, tuần 4 thường niên.
MỒNG BA TẾT NHÂM DẦN. THÁNH HÓA CÔNG ĂN VIỆC LÀM.
"Chúa Cha yêu Chúa Con, và bày tỏ cho Chúa Con biết mọi việc mình làm".
Lời Chúa: Mt 25, 14-30
Bấy giờ, Đức Giêsu kể cho các môn đệ nghe dụ ngôn này: “Người kia sắp đi xa, gọi tôi tớ đến mà giao phó của cải mình cho họ. Ông đưa cho người này năm nén, người kia hai nén, người khác nữa một nén, tùy khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi.
Lập tức, người đã lãnh năm nén lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm nén khác. Cũng vậy, người đã lãnh hai nén gây lời được hai nén khác. Còn người đã lãnh một nén thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ.
Sau một thời gian lâu dài, ông chủ của các đầy tớ ấy đến và yêu cầu họ thanh toán sổ sách. Người đã lãnh năm nén tiến lại gần, đưa năm nén khác, và nói: “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm nén, tôi đã gây lời được năm nén khác đây.” Ông chủ nói với người ấy: “Khá lắm! anh đúng là tôi tớ tốt lành và trung tín! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!”
Người đã lãnh hai nén cũng tiến lại gần và nói: “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi hai nén, tôi đã gây lời được hai nén khác đây”. Ông chủ nói với người ấy: “Khá lắm! anh đúng là tôi tớ tốt lành và trung tín! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!”
Rồi người đã lãnh một nén cũng tiến lại gần và nói: “Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu nén bạc của ông dưới đất. Của ông vẫn còn nguyên đây này!” Ông chủ đáp: “Anh thật là tôi tớ xấu xa và biếng nhác! Anh đã biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, thì đáng lý anh phải gởi số bạc của tôi cho các chủ ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn lời chứ! Vậy các ngươi hãy lấy nén bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười nén. Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng.”
Lời Chúa: Ga 5,16-20
Khi ấy, các người Do thái gây sự với Chúa Giêsu, vì Người đã chữa bệnh trong ngày sabbat. Chúa Giêsu trả lời họ rằng: "Cha Ta làm việc liên lỉ, Ta cũng làm việc như vậy".
Bởi thế, các người Do thái càng tìm cách giết Người, vì không những Người đã phạm luật nghỉ ngày sabbat, lại còn gọi Thiên Chúa là Cha mình, coi mình ngang hàng với Thiên Chúa. Vì thế, Chúa Giêsu trả lời họ rằng: "Thật, Ta bảo thật cho các ngươi biết: Chúa Con không thể tự mình làm gì, nếu không thấy Chúa Cha làm.
Ðiều gì Chúa Cha làm, thì Chúa Con cũng làm y như vậy. Vì chưng, Chúa Cha yêu thương Chúa Con, và bày tỏ cho Chúa Con biết mọi việc mình làm, và sẽ còn bày tỏ những việc lớn lao hơn thế nữa, đến nỗi các ngươi sẽ phải thán phục".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
1. Tôi tớ tốt lành và trung tín--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Lao động đúng là vinh quang của con người,
Thiên Chúa vẫn cần con người cộng tác cho công cuộc sáng tạo còn dang dở…
Ngài vẫn muốn nhờ con người mà làm cho thế giới này đẹp hơn, dễ sống hơn,
làm cho trái đất này trở thành một ngôi làng ấm áp, xinh xắn, gần gũi
cho hơn sáu tỷ người sống như anh chị em.
Từng ngày bao người vẫn cộng tác với Thánh Thần để biến đổi bộ mặt trái đất.
Có một lời nguyện rất hay của Phụng vụ Giờ Kinh tóm kết về giá trị của lao động:
“Ước gì những công việc chúng con phải làm, vừa nuôi dưỡng chúng con,
vừa mưu ích cho những người chúng con chịu trách nhiệm,
lại vừa làm cho triều đại Chúa mau đến.”
Như thế lao động là một bổn phận của người Kitô hữu.
Lao động không phải là một hình phạt của tội nguyên tổ.
Thống trị mặt đất và làm bá chủ mọi loài (St 1, 28).
là sứ mạng Thiên Chúa trao cho con người ngay sau khi nó được tạo dựng.
Trước khi phạm tội, con người đã được Đức Chúa “đặt vào vườn Êđen,
để cày cấy và canh giữ đất đai” (St 2, 15).
Làm việc với đất, với vườn, với đủ thứ cây trái là một vinh hạnh lớn.
Thánh Phaolô cũng thấy cái thú trong việc “làm lụng vất vả”
để nuôi thân và để “giúp đỡ những người đau yếu” (Cv 20, 35).
Có pha một chút tự hào, vị tông đồ lừng danh này khoe:
“Những gì cần thiết cho tôi, và cho những người sống với tôi,
đôi tay này đã tự cung cấp” (Cv 20, 34).
Chẳng biết từ đâu Phaolô nghe được câu này mà ông bảo là của chính Chúa Giêsu:
“Cho thì có phúc hơn là nhận”
Làm việc chính là “cho”, và “cho” thật là một hồng phúc.
Đầu tư là vấn đề nóng bỏng của mọi nền kinh tế.
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu dám ví đời sống Kitô hữu với chuyện làm ăn.
Ông chủ Giêsu đi vắng thời gian lâu (c.19), giao của cải cho tôi tớ đầu tư sinh lợi.
Chẳng phải ai cũng được số nén bạc như nhau,
nhưng mỗi người phải cố gắng tối đa với những gì mình đã lãnh nhận.
Hai người đầu tiên đã đi làm ăn và sinh lợi tương xứng,
được ông chủ coi là “tôi tớ tốt lành và trung tín.” (cc. 21.23).
Người thứ ba lại đào lỗ đưới đất và chôn dấu nén bạc duy nhất của mình.
Nén bạc của anh thứ ba còn nguyên, không sinh lợi,
vì thế anh bị coi là “tôi tớ xấu xa, biếng nhác và vô dụng” (cc. 26.30).
Trong khi chờ Chúa trở lại, chúng ta nỗ lực sử dụng tài năng Chúa ban.
Làm sao sinh lợi được nhiều nhất và hiệu quả nhất từ số vốn mình nhận?
Làm sao để Thiên Chúa được vinh danh hơn trên mặt đất này?
Đầu tư đòi sáng tạo của khối óc và đam mê của trái tim.
Đầu tư đòi chấp nhận liều lĩnh, nỗ lực và căng thẳng.
Nhưng chúng ta dám chấp nhận sự dấn thân này chỉ vì yêu Giêsu.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa quang lâm,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,
còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,
Chúa đâu muốn mất một người nào…
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa
xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,
vui tươi và hạnh phúc,
để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn
cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con
niềm tin vững vàng
và niềm hy vọng nồng cháy,
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
2. Sinh lời nén bạc Chúa trao --TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Sức khỏe, thời giờ, tài năng, các ơn Chúa ban, đó là những nén vàng nén bạc Chúa trao cho đời ta. Ta hãy sinh lời bằng việc sử dụng những món quà đó cho đẹp lòng Ngài.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì Chúa đã tín nhiệm con, ban cho con sức khỏe, thời giờ, tài năng, và muôn ngàn ân huệ, như những nén vàng nén bạc. Vốn liếng đó Chúa mong con phát huy thành mối lợi thiêng liêng. Chúa sẽ vui lòng biết bao khi thấy con biết tận dụng thời gian để làm những điều đẹp lòng Chúa. Con biết dùng sức khỏe, khả năng và các ơn Chúa ban, để phục vụ Chúa và giúp đỡ anh em, đó là con biết sống xứng đáng với lòng thương của Chúa.
Lạy Chúa, Chúa là Chân Thiện Mỹ, Chúa đã chẳng tiếc gì khi chia sẻ điều tốt lành cho con, nhưng với mục đích để con sử dụng các ân huệ ấy mà cộng tác vào công trình sáng tạo và cứu chuộc của Chúa.
Tuy thế, con biết Chúa ban cho mỗi người những ân huệ và với mức độ khác nhau. Chúa chỉ cần con sử dụng các ân huệ ấy hết khả năng của con. Ai được ban nhiều, Chúa đòi sinh lời nhiều, kẻ được ít, Chúa đòi ít hơn. Xin cho con đừng ghen tương phân bì với số phận anh em con.
Khi con được năm nén, xin đừng để con kiêu căng tự đắc, nhưng xin cho con biết tạ ơn Chúa: tạ ơn bằng cách quảng đại phục vụ chứ không phung phí ơn Chúa. Khi con được hai nén, xin cho con cũng biết quảng đại phục vụ với khả năng nhỏ bé của mình. Và nếu con được Chúa ban một nén, xin đừng để con vì vậy mà lười biếng, tự ti mặc cảm, than trách phận mình và oán than cả Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi”.
3. Làm ăn sinh lời--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Mồng Ba Tết, chúng ta xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm.
Chúng ta muốn dâng cho Chúa
những điều chúng ta đang làm ở công ty, ở trường, ở chợ,
ở phòng thí nghiệm, ở sân khấu, ở nhà thương,
hay ở góc tối âm thầm của một căn phòng nhỏ.
Chúng ta muốn dâng cho Chúa
những việc giúp chúng ta đủ ăn, đủ mặc, đủ sống,
những việc làm đem lại lợi ích cho tha nhân,
những việc làm cho trái đất này đẹp hơn, đáng sống hơn.
Tất cả những việc ấy, dù nhỏ bé hay trần tục, tầm thường,
chúng ta xin trao vào tay Chúa,
để chúng trở nên vĩ đại, thánh thiêng, và cao cả.
Ngay từ lúc sáng thế, làm việc không phải là một hình phạt,
nhưng là một đặc quyền Thiên Chúa dành cho con người.
Ngài cho họ được cộng tác với Ngài trong công trình sáng tạo.
Công trình này, tuy tốt đẹp, nhưng vẫn còn dở dang.
Thiên Chúa cố ý để dở dang, và nhờ con người hoàn thiện nó.
“Cho đến nay Cha Tôi vẫn làm việc, và Tôi cũng làm việc” (Ga 5,17).
Làm việc là hoạt động của Thiên Chúa hướng về con người.
Làm việc cũng là hoạt động của con người hướng về Thiên Chúa.
Bài Tin mừng hôm nay là một dụ ngôn khá đặc biệt,
vì rất gần với chuyện ngoài đời như làm ăn, đầu tư, sinh lời.
Dụ ngôn kể chuyện một ông chủ phải đi xa,
nên cấp vốn cho các đầy tớ của mình.
Ông tin tưởng họ và dám giao cho họ những số vốn rất lớn,
nhưng không phải ai cũng như nhau.
Người được năm yến, người hai yến, người một yến.
Có sự khác biệt như vậy vì ông biết khả năng của từng người.
Điều ông muốn là các đầy tớ dùng số vốn đó mà kinh doanh.
Hai anh đầy tớ đầu tiên quả xứng đáng với kỳ vọng của ông.
Anh lãnh năm yến đã sinh lợi được năm yến khác.
Anh lãnh hai yến đã sinh lợi được hai yến nữa.
Còn anh thứ ba thì đào lỗ chôn dấu nén bạc của chủ.
Sau một thời gian dài, ông chủ trở về, kêu họ tính sổ.
Hai anh đầy tớ đầu tiên được khen một câu giống hệt nhau:
“Khá lắm, hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành,
Được giao ít mà anh trung thành, tôi sẽ giao nhiều cho anh.
Hãy vào hưởng niềm vui của chủ anh!” (Mt 25,21.23).
Như thế, người đầy tớ sinh lợi hai yến
cũng được khen thưởng như người sinh lợi năm yến,
vì anh ấy đã cố gắng hết sức với số vốn nhỏ hơn được giao.
Đến lượt anh đầy tớ thứ ba, người được giao một yến.
Anh này coi ông chủ là người hà khắc, bất công,
quen gặt thu ở nơi mình không gieo vãi (Mt 25,24).
Chính vì thế anh sợ, mới đem chôn giấu yến bạc đi.
Anh bị chủ mắng là đầy tớ tồi tệ và biếng nhác,
vì yến bạc còn nguyên, không sinh lợi được chút nào.
Ông chủ có là người hà khắc như anh này nghĩ không ?
Ông có bắt các đầy tớ đầu tư để sinh lợi cho mình không ?
Rõ ràng là không, vì ông đã lấy lại yến bạc của anh cuối,
để đưa cho anh đầu tiên,
anh này hiện đang có mười yến (Mt 25,28).
Ông chủ đi xa là hình ảnh của Đức Giêsu,
chúng ta như đầy tớ chờ Ngài đến vào ngày Quang Lâm.
Trong khi chờ đợi, Ngài đòi chúng ta phải kinh doanh,
với số vốn Ngài ban là các khả năng tự nhiên, siêu nhiên.
Dù vốn nhiều hay ít, Ngài không cho phép chúng ta ngồi yên,
giữ khư khư nén bạc vì sợ mất vốn hay thua lỗ.
Ngài muốn chúng ta mạnh dạn, và đôi khi liều lĩnh
dấn thân vào những công việc mới mẻ, khó khăn.
Ngài không đòi chúng ta phải nộp cho Ngài cả vốn lẫn lời.
Hạnh phúc của Thiên Chúa là thấy chúng ta trưởng thành
nhờ cùng làm việc với Thiên Chúa cho trái đất này,
cho những anh chị em thiếu may mắn.
Cuộc đời của Kitô hữu được ví như chuyện kinh doanh.
Vào ngày tận thế, Chúa sẽ gọi tôi ra sao:
Đầy tớ trung tín tốt lành, hay đầy tớ xấu xa biếng nhác ?
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa, con cám ơn Chúa
về tất cả những điều Chúa đòi hỏi nơi con trong suốt cuộc đời.
Chúc tụng Chúa về thời đại con đang sống.
Chúc tụng Chúa về những giờ phút sướng vui
và những ngày tủi thân buồn bã.
Chúc tụng Chúa về cả những gì
Chúa đã không cho con được hưởng.
Lạy Chúa, xin đừng sa thải
người tôi tớ bất xứng và lười biếng của Chúa đây.
Ôi lạy Chúa khôn ngoan, nhân hậu và yêu thương,
xin đừng đuổi con xa Chúa.
Xin giữ con để con luôn phụng sự Chúa trong suốt đời con.
Xin giữ con để con phục vụ bất cứ điều gì Chúa muốn.
Dù khi mỏi mệt, dù khi chán chường,
con xin Chúa vẫn luôn kiên nhẫn,
để không bao giờ mỏi mệt về con,
và giữ con luôn luôn phụng sự Chúa.
Xin Chúa đến giúp con,
ban cho con ơn bắt đầu và lại bắt đầu,
cho con biết cậy trông
cả những khi cùng đường tuyệt vọng,
cho con tin chắc rằng Chúa sẽ thắng,
một chiến thắng huy hoàng nơi con.
Karl Rahner
4. Mồng Ba Tết 2021—Thánh hóa công việc làm ăn--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Trong những ngày đầu xuân, chúng ta vẫn thường chúc nhau: “Năm mới làm ăn thịnh vượng. Con cháu siêng năng ngoan ngoãn…” Điều đó cho thấy người Việt Nam chúng ta rất quý trọng lao động. Trong kho tàng ca dao tục ngữ không thiếu gì những câu đề cao giá trị của lao động như: “Có làm thì mới có ăn, không dưng ai dễ đem phần đến cho”.
Đồng cảm với dân tộc, Giáo hội Việt Nam đã dành riêng ngày Mồng Ba Tết để xin Chúa thánh hoá và chúc lành cho công việc làm ăn trong năm mới, giúp cho người Kitô hữu hiểu rõ giá trị của lao động, lao động trí óc cũng như chân tay.
Đồng thời, nhân dịp đầu năm, Giáo hội còn nhắc nhở cho con cái mình hiểu rằng: lao động không còn là một hình phạt khổ sai, nhưng là một vinh dự vì nhờ lao động, con người được cộng tác với Thiên Chúa, Đấng vẫn luôn làm việc trong công trình sáng tạo của mình; và cũng góp phần làm cho con người được hạnh phúc.
I. MỌI NGƯỜI PHẢI LÀM VIỆC
1. Thiên Chúa đã và đang làm việc
Thật vậy, ngay từ đầu, Kinh thánh đã cho thấy Thiên Chúa làm việc luôn. Nếu đọc chương I sách Sáng thế, chúng ta biết Thiên Chúa đã hành động để tạo dựng nên vũ trụ, muôn loài, muôn vật và cả con người: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bùn đất nhào nặn thành con người… Đức Chúa là Thiên Chúa khiến từ đất đai mọc lên mọi thứ cây trồng đẹp mắt, ăn ngon miệng” (x. St 2,7-9). Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người để được thông phần vào sự sống của Ngài.
Thiên Chúa không chỉ làm việc trong công trình sáng tạo vào buổi khai thiên lập địa, Ngài vẫn còn tiếp tục quan phòng, gìn giữ những gì Ngài đã sáng tạo. Chính vì thế, sau này Chúa Giêsu đã nói cho người Do thái: “Cho đến nay, Cha Ta vẫn làm việc liên lỉ, thì Ta cũng làm việc” (Ga 5,17).
2. Tổ tông đã làm việc ở vườn Địa đàng
Nếu đọc kỹ bài đọc thứ nhất trích sách Sáng thế có lẽ chúng ta sẽ ngạc nhiên. Xưa nay chúng ta tưởng rằng hai ông bà nguyên tổ trong vườn Địa đàng chỉ ở không và hưởng thụ, không phải làm gì cả. Nhưng sách Sáng thế nói Thiên Chúa cho ông bà ở trong vườn Địa đàng để “canh tác và giữ vườn”. Địa đàng là hình ảnh của hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc ấy con người phải “canh tác” nghĩa là phải làm việc để tạo ra. Và con người cũng cần phải “giữ vườn” nữa, nghĩa là hạnh phúc ấy con người phải gìn giữ thì nó mới tồn tại và con người mới tiếp tục được hưởng nó.
3. Sự làm việc trở nên vất vả
Khi còn ở trong ơn nghĩa với Chúa, tổ tông làm việc trong vườn Địa đàng một cách nhẹ nhàng thảnh thơi, không cảm thấy khó nhọc vất vả. Nhưng ông bà đã nghe lời khuyến dụ của ma quỷ dưới dạng con rắn, không vâng lời Thiên Chúa dám cả gan hái trái cấm mà ăn. Ông bà đã bị Thiên Chúa ra án phạt. Từ đó công việc làm ăn trở nên khó nhọc vất vả, phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có của ăn.
Sách Sáng thế còn ghi lời Chúa:
“Vì ngươi đã nghe lời vợ và ăn trái cây mà Ta đã truyền cho ngươi rằng: ‘Người đừng ăn’, nên đất đai bị nguyền rủa vì ngươi; ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn cho đến khi trở về bụi đất” (St 3,17-19).
Truyện: Con trâu
Có một câu chuyện huyền thoại về con trâu như sau: Thuở xưa, Ngọc Hoàng sai một vị thần xuống trần gian mang theo một bao hạt giống và một bao cỏ để gieo xuống trần gian. Trước khi xuống trần, Ngọc Hoàng đã tỉ mỉ căn dặn, đến trần gian phải gieo bao hạt giống lúa trước để dân cư có dư giả mà ăn, còn bao cỏ thì gieo sau để nuôi thú vật. Nhưng khi vị thần này đến trần gian, thấy phong cảnh khác lạ, nên mải mê xem mà quên lời dặn của Ngọc Hoàng, để rồi gieo bao cỏ trước và bao hạt giống lúa sau. Từ đó, cỏ không cần trồng cũng mọc tràn lan khắp mọi nơi, các thú vật ăn không bao giờ hết, vì quá dư thừa và không làm sao diệt cỏ hết được. Còn lúa thì phải gieo trồng rất cực khổ và khó khăn mới có ăn, bởi vì bị cỏ mọc lấn át làm lúa phát triển chậm hơn cỏ.
Bởi lỗi ấy của vị thần, làm cho người trần gian trồng lúa rất khó nhọc mới có ăn và cỏ thì mọc tự nhiên quá nhiều, cho nên Ngọc Hoàng mới đẩy vị thần này xuống trần gian hoá thành con trâu, để giúp người trần gian cày bừa trồng lúa và ăn cỏ, chừng nào hết cỏ sẽ được tha thứ cùng phục hồi địa vị cũ, nhưng ăn hoài vẫn không bao giờ hết cỏ được, nên trâu chưa thoát kiếp trở về thiên đường…
Câu chuyện này phải chăng muốn nói với chúng ta: “Có làm thì mới có ăn, không dưng ai dễ đem phần đến cho”. Vì ở trần gian, cỏ thì nhiều, lúa lại ít. Cây ăn được thì ít, cây không ăn được thì nhiều. Xem ra con người vất vả hơn con vật. Vì người phải làm việc vất vả mới có mà ăn, còn con vật thì không cần làm mà Trời vẫn cho ăn: “Trời sinh voi, trời sinh cỏ” (Tục ngữ).
II. Ý NGHĨA CỦA SỰ LÀM VIỆC
1. Về phương diện tôn giáo
Chúng ta biết rằng ngoài việc tạo dựng, Thiên Chúa còn quan phòng nữa, nghĩa là tiếp tục chăm sóc những loài Ngài đã dựng nên. Và việc chăm sóc này thì Ngài làm không bao giờ nghỉ. Nếu Chúa chỉ buông lơi một phút thôi không chăm sóc chúng ta thì chúng ta sẽ chết liền. Bởi thế, Chúa Giêsu mới nói: “Cha Ta làm việc liên lỉ”. Ngài còn nói tiếp: “Cho nên Ta cũng làm việc” (Ga 5,17).
Như vậy, lao động chân tay hay trí óc đều có một ý nghĩa sâu xa. Nhờ lao động, chúng ta được cộng tác vào công trình sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa trong thế giới này. Đây là một vinh dự lớn lao cho con người.
Ngoài ra, noi gương Thiên Chúa, chúng ta làm việc không chỉ làm việc vì mình và những người thân của mình, mà còn để phục vụ và giúp đỡ những người khác, nhất là những người khốn khổ như lời thánh Phaolô nói: “Bằng mọi cách, tôi đã tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế” .
“Lạy Chúa là Cha rất nhân hậu,
Chúa đã giao trái đất cho loài người chúng con
Trông coi và khai thác,
Để ai nấy giúp nhau tiến bộ không ngừng;
Xin dạy cho chúng con biết hoàn thành mọi công việc
Trong tinh thần hiếu thảo đối với Chúa
Và huynh đệ đối với mọi người”.
(Giờ Ba, ngày thứ hai trong tuần)
2. Về phương diện xã hội
Lao động không những giúp chúng ta có của nuôi thân, mà còn giúp làm tăng giá trị nhân phẩm của từng người chúng ta. Nhờ lao động chúng ta phát triển tình yêu thương, tinh thần tương thân tương ái, tính kỷ luật và nhanh nhẹn, như lời một danh nhân đã nói: “Lao động làm ta khuây khỏa được nỗi buồn, tiết kiệm được thời gian, chữa được bệnh lười biếng” (Giám mục Bossuet).
III. NỖ LỰC RỒI CẬY TRÔNG
Ngày xưa, cha ông chúng ta là những người nhà nông bám chặt vào mảnh đất, chuyên cần làm việc với một tinh thần cao. Quanh năm làm việc với mọi thời tiết khắc nghiệt của bốn mùa, không quản mưa nắng, quanh năm ngày tháng chỉ biết “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, không sợ dãi nắng dầm sương. Qua kinh nghiệm làm ăn, các ngài đã khẳng định với con cháu rằng:
“Có cấy có trông, có trồng có ăn”
Các ngài rất khổ tâm với những người làm biếng không chịu làm việc, quanh năm chỉ biết ăn bám. Họ là những người đáng trách, không đáng ăn, suốt đời phải nghèo khổ, không bao giờ ngóc đầu lên được, vì:
“Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ”.
Các ngài khuyên con cháu phải biết tự lực cánh sinh, phải biết đổ mồ hôi sôi nước mắt ra mới có miếng cơm manh áo, đừng bao giờ ỷ lại vào người khác, những gì của mình làm ra mới có giá trị, mới đáng quý, mới giữ gìn cẩn thận:
Khó nghèo cấy mướn làm thuê,
Lấy công đổi của chớ hề luỵ ai.
Tuy các ngài đã biết làm việc với tất cả sức lực của mình rồi, nhưng các ngài biết rõ con người yếu đuối, sức con người có hạn nên cần có ơn trên phù giúp:
“Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”
Đó là thái độ khiêm tốn con người cần phải có trước vũ trụ bao la. Con người nhỏ bé giới hạn nên cần phó dâng cho Ông Trời mọi công việc của mình. Hơn nữa niềm tin của tổ tiên còn xác tín về lòng nhân ái của Trời. Trời không phụ lòng người. Trời không bao giờ bỏ quên con người:
Trời nào có phụ ai đâu,
Hay làm thì giàu, có chí thì nên.
Tin tưởng vào quyền năng và lòng thương xót vô biên của Ông Trời, con người cứ vững tâm làm việc không ngơi nghỉ, nhưng đêm ngày vẫn ngước mắt nhìn lên Ông Trời, khấn vái xin ơn trên độ trì để cho được mưa thuận gió hoà, giúp con người có một đời sống ấm no:
Lạy Trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cầy
Lấy đầy bát cơm
Lấy rơm đun bếp.
Còn đối với chúng ta là những Kitô hữu, chúng ta phải hoàn toàn phó thác cho Chúa, bởi vì mọi sự phải tùng phục quyền năng của Chúa, con người hoàn toàn bó tay nếu không có ơn trợ giúp của Chúa. Thánh vịnh 127 đã nói lên tư tưởng đó, chúng ta nên nghiền ngẫm để xác tín về điều đó:
Ví như Chúa chẳng xây nhà
Thợ nề vất vả cũng bằng uổng công.
Thành kia mà Chúa không canh giữ
Uổng công người trấn thủ canh đêm.
Bạn có thức khuya dậy sớm
Khó nhọc vất vả cũng hoài công.
Còn kẻ được Chúa thương dầu có ngủ
Người vẫn ban cho đủ tiêu dùng. (Tv 127,1-2)
Vì thế, Giáo hội dành riêng ngày Mồng Ba Tết cầu xin Chúa thánh hoá ruộng vườn, mùa màng, cây cối và công ăn việc làm, và xin “Chúa gieo màu mỡ ngập tràn lối đi”. Đây cũng là dịp để mọi người đừng nghĩ rằng: của cải là do bàn tay lao động của mình làm ra, còn thành quả khoa học kỹ thuật do khả năng tích lũy bởi bộ óc của con người mà có, nhưng đừng quên rằng: không có gì ngoài sự giúp đỡ và quan phòng của Chúa. Tin như vậy, nên người dân quê mộc mạc với một tâm tình biết ơn đã nói một cách vô tư: “Làm bởi bay và ban bởi Ta”.
Bước sang năm mới, mỗi người sẽ dùng quỹ thời gian của mình để phụng sự Chúa và phục vụ anh em, vì thời gian là của Chúa ban cho con người.
Chúng ta hãy dâng lên Chúa tất cả những việc chúng ta sẽ làm trong năm mới này, cùng với những lao nhọc cực khổ chúng ta sẽ gặp phải khi làm việc với tâm tình ca ngợi tình thương của Chúa vì tất cả đời con là ân huệ Chúa ban. Hãy sống theo lời thánh Phaolô: “Dù ăn, dù uống hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1Cr 10,31).
Lạy Chúa,
Chúa không ngừng sáng tạo vũ trụ càn khôn,
Và muốn cho con người cộng tác vào công trình của Chúa.
Xin đưa mắt nhìn những công việc chúng con phải làm:
Ước gì những công việc đó vừa nuôi dưỡng chúng con,
Vừa mưu ích cho những người chúng con có trách nhiệm,
Lại vừa làm cho triều đại Chúa mau đến.
(Kinh sáng, thứ ba, tuần III)
5. Cầu nguyện cho việc làm ăn--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Ngày mồng ba Tết, chúng ta cầu nguyện cho việc làm ăn trong năm mới được thịnh đạt, đồng thời cũng xin Chúa thánh hóa chúng ta qua cuộc sống lao động hằng ngày.
I. Nhưng tại sao chúng ta lại phải cầu nguyện cho việc làm ăn ?
Ngày nay với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, nhiều người tưởng rằng mình đã chiếm được chỗ đứng của Thiên Chúa. Có một thời chúng ta thường nghe thấy người ta nói: Thằng trời xếp lại một bên, để cho nông hội tiến lên làm Trời! Hoặc những câu như biến sỏi đá thành cơm gạo, thay trời làm mưa.
Thế nhưng kinh nghiệm cho chúng ta thấy nếu Chúa không cho thì chúng ta chẳng làm được gì. Nhiều cơn động đất và sóng thần cũng như dịch cúm gà, cơn dịch Covid 19 đang làm cho cả thế giới hôm nay phải đảo điên là bài học rất quí giá cho chúng ta. Chính vì thế mà người xưa đã có câu: mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Người nông dân ý thức được thân phận của mình nên đã cầu xin: Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày lấy đầy bát cơm, lấy rơm đun bếp.
Về vấn đề bày thánh Phaolô viết rất hay: Phaolô trồng, Apollo tưới, nhưng chính Thiên Chúa mới làm cho mọc lên. Vì thế ngày mồng ba tết chúng ta cầu nguyện cho việc cày cấy làm ăn là phải lẽ, vì không có Thiên Chúa thì: người lính canh đêm cũng hoài công.
Một vị linh mục nọ qua đời, và được đưa đến trước mặt thánh Phêrô để làm một thẩm tra. Thánh Phêrô hỏi:
- Ở dưới thế cha làm được điều gì ?
Vị linh mục nhanh nhẹn và tự hào trả lời:
- Thưa thánh Phêrô, con xây được một ngôi thánh đường lớn.
Thanh nhân lấy bút ghi trên giấy: Một điểm.
- Cha còn làm được gì nữa ?
- Dạ, con còn xây một trường học cho một ngàn học sinh.
Thánh Phêrô ghi tiếp: một điểm.
- Và gì nữa ?
Vị linh mục bắt đầu suy nghĩ, rồi trả lời:
-Dạ, con công tác nhiều vào các công việc xã hội, từ thiện.
Thánh Phêrô ghi thêm: một điểm.
- Còn gì nữa ? Thánh Phêrô hỏi tiếp.
Lần này vị linh mục lo lắng hỏi thánh Phêrô:
- Dạ thưa thánh cả Phêrô, được bao nhiêu điểm thì vào thiên đàng ?
Thánh Phêrô vui vẻ trả lời: một ngàn điểm.
Nghe nói thế, vị linh mục bỗng chột dạ, nghĩ thầm: “Chết mình rồi, làm sao có được chừng ấy điểm đây ?” Nếu có moi óc kể tất cả các sự việc mình làm ở dưới thế e cũng không đủ…”
Và vị linh mục bắt đầu lo sợ, rồi thất vọng, không còn tự tin.
Trong lúc đó, thánh Phêrô nhắc lại:
- Cha còn làm được điều gì nữa, cứ kể hết đi!
Với giọng nói nhuốm màu sắc khiêm tốn và lo sợ, vị linh mục nói:
-Thưa thánh cả, Nhờ Ơn Chúa con cũng làm được đôi ba việc nhỏ.
Nghe vậy, thánh Phêrô lấy bút ghi ngay: một ngàn điểm.
Ngài nói:
-Thế là cha được một ngàn lẻ ba điểm rồi đấy. Cha đã dư được ba điểm. Mời cha vào!
Phải! Tất cả là nhờ ơn Chúa.
II. Những giá trị của lao động.
Chúa Giêsu đã nói: Cha Ta hằng làm việc, và Ta cũng vậy. Khi quả quyết như thế Chúa Giêsu muốn cho chúng ta hiểu rằng: lao động làm việc là qui luật của tình yêu và cũng là qui luật của sinh tồn.
*Làm việc là qui luật của Tình yêu
Thiên Chúa đã không dựng nên một vũ trụ hoàn hảo mà Người đã chỉ dựng nên một vũ trụ còn dang dở. Người muốn con người cộng tác với Người để làm cho công trình của Người càng ngày càng hoàn hảo hơn. Trong bài đọc (sách sáng thế), tác giả nói: “Sau khi dựng nên con người, Thiên Chúa đã đặt nó trong vườn địa đàng, không phải chỉ để hưởng thụ, mà còn để canh tác giữ vườn”. Như thế làm việc là sứ mạng cao cả Thiên Chúa đã giao cho con người ngay từ khi mới tạo dựng nên nó và khi làm việc là con người thể hiện tình yêu của mình đối với Thiên Chúa.
Nếu con người không làm việc thì quả họ đã không chu toàn được sứ mạng của mình. Điều này chính mỗi người phải quyết định cho mình. Nếu không muốn làm việc thì con người có muôn vàn cái cớ để thoái thác. Nhưng nếu đã muốn làm việc thì họ chẳng sợ bất cứ một trở ngại nào.
Một ông chủ kia giao cho bảy người thợ cưa, mỗi người phải cưa một khúc cây.
Người thứ nhất nói: khúc cây của tôi còn tươi quá, nguyện lưỡi cưa sẽ mắc trong đó. Tôi chờ cho đến khi khúc cây đó khô rồi tôi mới cưa, thế là anh ta nghỉ.
Người thứ hai: lưỡi cưa của tôi cùn quá, tôi chờ ông chủ đổi cho tôi lưỡi cưa khác bén hơn rồi tôi mới cưa. Và anh ta cũng nghỉ.
Người thứ ba: khúc cây này cong bên này cong bên kia. Tôi chờ ông chủ đổi cho tôi khúc cây khác thẳng hơn. anh cũng đi nghĩ.
Người thứ bốn: khúc cây của tôi quá cứng, cứng gấp hai lần khúc cây thường. Tôi chờ có khúc khác mềm hơn. Anh ta cũng nghỉ.
Người thứ năm: hôm nay trời nóng quá, đợi ngày nào mát trời hãy cưa. Anh ta cũng nghỉ.
Người thứ sáu: hôm nay tôi nhức đầu, đợi tới khi nào khỏi tôi mới cưa. Và anh ta cũng nghỉ.
Người thứ bảy cũng nhận một khúc cây còn tươi, nó cũng cong bên này cong bên kia, thịt nó cũng rất cứng, lưỡi cưa của anh cũng cùn, trời hôm đó cũng nóng và anh đó cũng nhức đầu. Nhưng anh đi mài lưỡi cưa và bắt tay vào việc. Nhờ lưỡi cưa đã được mài, khúc cây đã được cưa xong, do trời nóng và do làm việc, anh ta đổ mồ hôi ra và hết nhức đầu. Anh sung sướng vì hoàn thành công các được giao.
Hôm sau anh xin ông chủ cho anh một khúc cây khác để cưa. (A.R Wells)
Vâng! Dù ở vườn địa đàng, Ađam cũng vẫn phải “canh tác”. Cuộc sống ở địa đàng rất hạnh phúc, nhưng cái hạnh phúc ấy con người phải “canh tác”, nghĩa là phải ra tay kiến tạo. Chính trong lúc làm việc con người mới cảm thấy hạnh phúc. Ngôi vườn hạnh phúc con người phải “giữ gìn” bằng việc làm của mình.
* Đàng khác làm việc còn là qui luật của sinh tồn.
Lao động ngoài mục đích giúp ta thánh hóa cuộc sống, nó còn có mục đích giúp bảo tồn cuộc sống của chúng ta.
Trong Kho tàng những câu chuyện ngụ ngôn người ta đọc được câu chuyện này:
Một người nông dân nọ có một con lừa già. Một hôm con lừa bị rơi xuống giếng và đau đớn kêu la thống thiết. Sau khi cẩn thận đánh giá tình hình, dù rất thương cảm cho con lừa, nhưng người nông dân cũng phải quyết định nên nhanh chóng giúp nó kết thúc sự đau đớn. Anh gọi thêm mấy người hàng xóm để cùng lấp đất chôn con lừa với ông.
Lúc đầu con lừa bị kích động vì những gì người ta đang làm đối với nó. Nhưng khi từng xuổng từng xuổng đất tiếp theo nhau rơi trên vai nó, một ý nghĩ chợt lóe lên:
Cứ mỗi lần xuổng đất rơi xuống đè lên vai, mình sẽ lắc cho đất rơi xuống và bước lên trên.
Và nó đã làm như vậy, từng chút từng chút một.
Hất nó xuống và bước lên trên, hất nó xuống và bước lên trên, hất nó xuống và bước lên trên – con lừa lặp đi lặp lại để tự cổ vũ mình.
Mặc cho sự đau đớn phải chịu sau mỗi xuổng đất. Mặc cho sự bi đát cùng cực của tình huống đang gánh chịu, con lừa liên tục chiến đấu chống lại sự hoang mang, hoảng sợ, và tiếp tục theo đúng phương châm “hất nó xuống và bước lên trên”.
Không mất nhiều thời gian, cuối cùng con lừa già, dù bị bầm dập và kiệt sức, đã hoan hỉ và đắc thắng bước ra khỏi cái giếng. Những gì tưởng như sẽ đè bẹp và chôn sống nó, trên thực tế đã cứu sống nó… đều là nhờ cái cách mà con lừa đối diện với nghịch cảnh của mình.
Cuộc sống là như vậy đó. Nếu chúng ta đối mặt với những vấn đề của mình một cách tích cực, khước từ sự hoảng loạn, sự cay đắng và sự thương hại…, những nghịch cảnh tưởng như chôn vùi chúng ta sẽ tiềm ẩn trong chính nó những phần thưởng không ngờ tới. Hãy “Hất nó xuống và bước lên trên”, để bước ra khỏi cái giếng mà bạn đang gặp phải.(Nước Biếc.)
Cuộc đời đâu phải là thiên đàng. Đâu có phải lúc nào cuộc đời cũng trải thảm đỏ để chào đón chúng ta. Cuộc đời là một bãi chiến trường. Nó đang chờ đợi chúng ta bước vào với tinh thần chiến đấu. Hãy can đảm đối đầu với mọi khó khăn trong cuộc sống đừng lẩn tránh. Thái độ lẩn tránh chẳng khác gì thái độ đầu hành. Khi nói về việc Giêsu vác Thánh Giá lên đỉnh đồi Golgotha, một nhà văn hào của Pháp đã nói: Đồi Canvê ở đầu đường và vinh quang cũng xuất hiện ở đó” Hãy hất xuống và bước lên trên cuộc sống của chúng ta sẽ tốt đẹp hơn. Amen.
6. “Đi làm ăn buôn bán”--Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc, S.J.
1. Thánh hóa công ăn việc làm
Trong ba ngày đầu năm mới, Mồng Một, Mồng Hai và hôm nay Mồng Ba, chúng ta được mời gọi vừa tạ ơn Chúa và vừa xin ơn Chúa, như thánh Phao-lô mời gọi chúng ta trong bài đọc hai của Thánh Lễ Tân Niên: «Trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn mà giải bày trước mặt Thiên Chúa… (Ph 4, 6)
Vậy, trong ba ngày đầu năm mới, chúng ta tạ ơn Chúa và xin ơn Chúa về điều gì, nếu không phải là ba điều thiết yếu cho cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Thật vậy:
Trong Thánh Lễ Tân Niên, Mồng Một Tết, chúng ta vừa tạ ơn Chúa đã ban thêm cho chúng ta sự sống của một năm mới, vừa xin Chúa ban ơn bình an cho năm mới, bởi vì cuộc sống của chúng ta không thể tồn tại, nếu không có bình an, bình an giữa người với người, bình an giữa dân tộc với dân tộc, bình an khỏi mọi tai họa và tai nạn, và sâu sa hơn, bình an trong tâm hồn chúng ta.
Trong Thánh Lễ Mồng Hai Tết hôm qua, chúng ta vừa tạ ơn Chúa đã ban cho chúng ta Tổ Tiên và Ông Bà Cha Mẹ và vừa cầu nguyện cho các ngài, bởi vì ai trong chúng ta cũng có nguồn có gốc, và chúng ta được mời gọi: “Uống nước nhớ nguồn, làm con phải hiếu, công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra, một lòng thờ mẹ kính cha, cho trọn chữ hiếu, mới là đạo con.”
Và hôm nay, trong Thánh Lễ Mồng Ba Tết chúng ta đang cử hành, chúng ta được mời gọi tạ ơn Chúa đã ban cho chúng ta “công ăn việc làm” và vừa xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm của chúng ta. Trong cuộc sống, chúng ta không thể sống hạnh phúc mà không có công ăn việc làm, và nếu được có công ăn việc làm thích hợp. Vậy trong Thánh Lễ này, chúng ta hãy đem đến đặt trước mặt Chúa:
Công ăn việc làm của chúng ta, để xin Chúa thánh hóa: công ăn việc làm chúng ta ưa thích hay không ưa thích, công ăn việc làm sinh lợi nhiều hay sinh lợi ít, công ăn việc làm chúng ta đang vất vả đảm nhận, công ăn việc làm chúng ta đang cất công tìm kiếm hay công ăn việc làm chúng ta hằng mơ ước…
Và chúng ta cũng được mời gọi trong Thánh Lễ hôm nay, đặt trước mặt Chúa mọi công việc của chúng ta và xin Chúa thánh hóa: những công việc phục vụ lớn nhỏ trong Giáo Xứ, trong cộng đoàn hay trong hội dòng, những việc không tên và nhỏ bé hằng ngày trong gia đình, những công việc nhiều khi nặng nhọc mất nhiều thời gian, nhưng không lương bổng…
Và, với những người trẻ, là các em thiếu nhi, thiếu niên và thanh niên còn đang đi học, chúng con cũng được mời gọi dâng cho Chúa việc học tập ở trường và những bổn phận nhỏ bé hằng ngày của chúng con trong gia đình, để xin Chúa thánh hóa.
Trong Thánh Lễ của ngày đầu năm mới hôm nay, chúng ta xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm và chúng ta được mời gọi tìm kiếm và đảm nhận công ăn việc làm của chúng ta như là “của thánh”. “Của thánh” là điều được thánh hóa, nghĩa là đến từ Chúa, thuộc về Chúa và hướng về Chúa.
Và Lời Chúa mà Giáo Hội cho chúng ta nghe trong Thánh Lễ hôm nay sẽ giúp chúng ta tìm kiếm và đảm nhận công ăn việc làm của chúng ta như là “của thánh”.
2. Sứ mạng Chúa trao
Tìm kiếm và đảm nhận công ăn việc làm của chúng ta như là “của thánh”, nghĩa là tìm kiếm và đảm nhận “công ăn việc làm” như là sứ mạng Chúa trao. Thật vậy, theo mặc khải của bài đọc một trích sách Sáng Thế, “công ăn việc làm” của loài người chúng ta được chính Thiên Chúa, Đấng Tạo Dựng, trao phó và trao phó như một sứ mạng: ‘‘ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Ê-đen, để cày cấy và canh giữ đất đai’’. (St 2, 15)
Và sứ mạng “cày cấy và canh giữ đất đai” được Thiên Chúa trao cho Adam, đại diện cho loài người chúng ta, trước khi Người ban lệnh truyền và trước khi con người vi phạm lệnh truyền. Như thế, trước khi phạm tội, đã có “công ăn việc làm” rồi; trong khi đó, chúng ta nhiều khi lại hiểu rằng, trước khi loài người phạm tội, con người rảnh rỗi, vui chơi, không phải làm việc, và chúng ta hiểu “công ăn việc làm” như là hình phạt!
Sứ mạng “canh tác đất đai, tương tự như sứ mạng làm vườn nho trong dụ ngôn “Vườn nho và các tá điền” (x. Mt 21) là ơn huệ Thiên Chúa ban, để cộng tác với Người trong công trình sáng tạo, nghĩa là làm cho sinh hoa trái phục vụ cho sự sống của con người.
Ngoài ra, còn có sứ mạng “canh giữ”, mà chúng ta ít để ý, nhưng trong thực tế, lại rất cần thiết. “Canh giữ” ở đây không phải là canh giữ của cải mình làm ra, nhưng là canh giữ Con Rắn, Ma Quỉ, Sự Dữ và tất cả liên quan đến Sự Dữ trong cách thức chúng ta đảm nhận “công ăn việc làm”, trong cách thức chúng ta làm ra của cải: đó là canh giữ khỏi lòng ham muốn, nô lệ cho tiền bạc của cải, bất chính, gian lận, lừa đảo, làm hại người khác, tôn vinh bản thân…
Sứ mạng “canh giữ” được trao cho Adam, nhưng ông đã canh giữ làm sao mà để cho con rắn nó vào cám dỗ bà Evà!
3. Làm sinh lợi “yến vàng” Chúa trao
Tìm kiếm và đảm nhận công ăn việc làm của chúng ta như là “của thánh”, nghĩa là tìm kiếm và đảm nhận “công ăn việc làm” nhằm mục đích làm cho sinh hoa kết quả “nén bạc” Chúa trao. Trong bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay, Đức Giê-su kể một dụ ngôn: “Người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ đến mà giao phó của cải mình cho họ. Ông chủ cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tuỳ khả năng riêng mỗi người”. Theo các nhà chuyên môn, mỗi yến bạc trị giá sáu ngàn ngày công, tương đương với hai mươi năm làm việc. Số vốn quá lớn! Điều này có nghĩa là, dù có sự khác biệt khách quan năm, hai hay một nén, tất cả những gì Chúa ban cho mỗi người chúng ta tự bản chất đều quá lớn, có thể nói được là vô giá, vô giá như chính sự sống.
Chúng ta có thể hiểu những yến bạc là những năm tháng cuộc đời Chúa ban cho mỗi người, dài ngắn khác nhau. Chúng ta cũng có thể hiểu những yến bạc là tất cả những gì Chúa ban cho chúng ta trong cuộc sống: chủng tộc, xã hội, gia đình, giới tính, ngoại hình, khả năng, số phận… Như vậy, tất yếu có sự khác biệt. Chúng ta vẫn mơ là ai cũng y trang như nhau, thế là hết rắc rối. Không phải như vậy, sẽ rắc rối to hơn nữa, bởi vì sẽ chẳng còn niềm vui mở ra và chung hiệp, chẳng còn hạnh phúc đón nhận và trao ban, chẳng còn kinh ngạc và thán phục trước những điều kì diệu Chúa thực hiện đặc biệt cho mình hoặc cho người khác, chẳng còn tâm tình ca tụng và tạ ơn, chẳng còn lời kêu cầu tín thác, chẳng còn tương quan tình bạn, tình yêu… Hơn nữa, cung lòng của Thiên Chúa và cung lòng của mẹ chúng ta không thể như cái lò làm bánh mì, làm ra sản phẩm y như khuôn mẫu.
Dụ ngôn của Đức Giêsu, và nhất là cuộc đời của Ngài mời gọi chúng ta sống tâm tình tạ ơn, mỗi Thánh Lễ là một lời tạ ơn, là Lễ Tạ Ơn, là lời kinh Tạ Ơn: tạ ơn về chính mình, mình y như thế đó, tạ ơn vì sự tin tưởng quá lớn Chúa trao tặng cho chúng ta, tạ ơn vì quà tặng Đức Giêsu Kitô Chúa cho chúng ta mỗi ngày thật quảng đại và nhưng không. Chính với tâm tình tạ ơn mà chúng ta mới có thể bao dung và quảng đại làm sinh hoa kết quả cho vinh quang Thiên Chúa.
Khi cho đi, như dụ ngôn mời gọi chúng ta nhận ra, thì kết quả tất yếu sẽ viên mãn, năm nén sinh năm nén, hai nén sinh hai nén, và đáng lẽ ra, một yến cũng phải sinh ra một yến. Tuy nhiên, kết quả dù ít dù nhiều không quan trọng, miễn là chúng ta đã cho đi tất cả, và lời hứa Chúa dành cho chúng ta đều như nhau, nghĩa là “gấp trăm” do lòng quảng đại của Thiên Chúa:
Hưởng niềm vui khôn tả của Chúa.
Niềm vui mà Chúa cho chúng ta cảm nếm ngay hôm nay, trong những ngày họp mặt đầu Năm Mới.
4. Để chia sẻ
Tìm kiếm và đảm nhận công ăn việc làm của chúng ta như là “của thánh”, nghĩa là tìm kiếm và đảm nhận “công ăn việc làm” để có thể giúp đỡ người khác. Đó chính là chiều kích thánh thiêng thứ ba, mà Lời Chúa, trong bài đọc hai, trích sách Công Vụ Tông Đồ kể lại lời khuyên nhủ của thánh Phao-lô, mời gọi chúng ta đảm nhận “công ăn việc làm” của chúng ta: ‘‘Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giê-su đã dạy: “cho thì có phúc hơn là nhận.” (Cv 20, 35)
Thánh Phao-lô mời gọi chúng ta “làm lụng vất vả” để giúp đỡ những người đau yếu; và chúng ta có thể hiểu rộng hơn, để giúp đỡ những người nghèo, những người thiếu may mắn hay thiếu khả năng, hay đơn giản là để nuối sống nhau, nuôi sống những người già yếu, nuôi sống những em bé, những người trẻ trong xã hội, trong gia đình và trong cộng đoàn, hội dòng.
Chúng ta làm như thế, chính là để sống theo lời của Đức Giê-su, vì Người nói: “Cho thì có phúc hơn là nhận”; và hơn thế nữa, để nên giống chính Đức Giê-su, vì Người đã và vẫn cho đi chính mình Người, chính sự sống của Người trong mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Thánh Thể, được hoàn tất bởi Mầu Nhiệm chết và phục sinh.
Xin Chúa thánh hóa “công ăn việc làm” của chúng ta; và xin Chúa ban ân sủng và tình yêu của Người, để mỗi ngày và suốt năm mới, chúng ta có thể sống chiều kích thánh thiêng của “công ăn việc làm”, nghĩa là:
“công ăn việc làm” là sứ mạng Chúa trao,
“công ăn việc làm” là để sinh hoa kết quả nén bạc, là cuộc đời và ơn gọi của chúng ta,
và “công ăn việc làm” là để có thể phục vụ, chia sẻ và giúp đỡ.
Như Lời Chúa mời gọi chúng ta. Amen.
7. Chúa thánh hoá công ăn việc làm--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Những ngày tết là những ngày vui chơi, nghỉ ngơi, giãn xả về mặt thể xác, nhưng Giáo Hội là người Mẹ luôn khôn ngoan hướng con người nhìn xa thấy rộng hơn, thể xác thảnh thơi đôi chút sau những ngày tháng làm việc vất vả, Giáo Hội hôm nay muốn nhắc nhớ mọi người phải hướng về Đấng tối cao, hướng về Thiên Chúa vì Ngài là Đấng có quyền ban phát mọi sự. Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên, câu tục ngữ của Pháp quả mang một ý nghĩa thâm sâu, cao vời. Hội Thánh Việt Nam dành ngày mồng ba tết để cầu xin Chúa thánh hoá công ăn việc làm.
LAO ĐỘNG LÀ LẼ SỐNG CỦA CON NGƯỜI:
Được Thiên Chúa tạo dựng, con người sống trong cảnh địa đàng hạnh phúc, huy hoàng và êm đềm không vất vả. Tuy nhiên, khi ông bà nguyên tổ phạm tội, con người mất hạnh phúc địa đàng trần gian, Thiên Chúa đuổi ông bà tổ tiên ra khỏi vườn Éđen và bắt đầu một cuộc sống trần thế với bao truân chuyên, thử thách, vất vả vì tội lỗi ông bà tổ tiên gây ra. Tuy nhiên Chúa không bỏ rơi nhân loại, con người mà đã sai Con của Người là Đức Giêsu Kitô đến để mang lại cho cuộc đời trần thế một ý nghĩa mới, biến công ăn việc làm trở nên có ý nghĩa cứu rỗi vì nó không còn là lời nguyền rủa mà là hạnh phúc khi con người biết làm ra của cải để mang lại giầu sang, phú quí và hạnh phúc cho cuộc sống, miễn là con người biết làm theo ý Thiên Chúa. Vì thế, trong ngày mồng ba tết, thánh Matthêu đã thuật lại dụ ngôn của Chúa Giêsu về các nén bạc Chúa trao cho mỗi người tùy theo khả năng, mức độ và trí tuệ mà họ được nhận lãnh, miễn là họ biết sinh lợi theo ý của ông chủ, và không lười biếng, ngồi chờ sung rụng…Chúa muốn mỗi con người dù trí thức, lao động bình thường: chân tay, trí óc đều phải sinh lợi theo mức độ khả năng Chúa trao cho.
XIN CHÚA THÁNH HÓA VIỆC LAO ĐỘNG VÀ CÔNG ĂN VIỆC LÀM CỦA MỖI NGƯỜI:
Để được Chúa thánh hóa công ăn việc làm, con người phải biết tùy theo khả năng siêng năng, lanh lẹ làm cho của cải sinh hoa kết quả tốt. Con người phải hiểu rằng Chúa đến trong thế giới, nhận một gia đình để được sinh ra và để sống là vì Chúa đem lại cho lao động, cho cuộc sống một giá trị, một ý nghĩa hoàn toàn mới. Chúa nâng đời sống lao động và thánh hoá đời sống lao động, Chúa làm gương về đời sống phục vụ, mỗi giọt mồ hôi, mỗi sự mệt mỏi trong lao động của Chúa Giêsu đều mặc một giá trị cứu rỗi.Con người luôn phải ý thức lời Kinh Thánh viết, hướng dẫn và chỉ bảo:” Bao lâu trái đất này còn, còn gieo còn gặt, còn vun còn trồng; bốn mùa xuân hạ thu đông, ngày đêm thời tiết không ngừng luân phiên” hoặc: ” bốn mùa Chúa đổ hồng ân, Ngài gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi” (Tv 64, 2).
Mồng ba tết xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm, chúng ta mỗi người tạ ơn Chúa vì Ngài đã ban cho chúng ta người năm nén, người hai nén, người một nén. Tất cả đều do hồng ân Chúa. Xin Chúa giúp chúng ta biết làm lợi cho Chúa, cho bản thân, cho gia đình, cho xã hội. Làm biếng, chơi bời lêu lổng không chịu lao động để sinh lợi theo khả năng Chúa ban là lỗi với Chúa và đáng Chúa khiển trách:” Hỡi tôi tớ lười biếng…”.
Lạy Chúa, chúa đã muốn cho con người phải lao động để làm chủ thiên nhiên. Xin cho chúng con được thấm nhuần Kitô giáo, để công ăn việc làm của chúng con trong năm mới này nêu cao tình tương thân tương ái, và góp phần vào sự nghiệp chung là hoàn thành chương trình sáng tạo của Chúa (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh hoá công ăn việc làm).
8. Mưu sự tại nhân – Thành sự tại Thiên--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Từ lâu người Việt Nam đã biết có ông Trời. Tin ông Trời. Cầu khẩn ông Trời. ông Trời trở thành một thần linh luôn đồng hành với con người qua mọi thăng trầm. Tuy không rõ Ông Trời thế nào nhưng không ai lại không kính Trời. Ai cũng sợ Trời và cố gắng làm vui lòng Trời. Vì ông trời làm chủ vận mệnh muôn loài. Ông Trời quyền phép vô cùng. Thế nên,
Mưu sự tại nhân – Thành sự tại Thiên.
Trời cho ai nấy hưởng
Sống nhờ ơn Trời – Chết về chầu Trời.
Khi làm ăn mùa màng không được như ý thì người ta cầu trời:
“Lạy trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cày
Lấy đầy bát cơm
Lấy rơm đun bếp”
Làn mưa từ Trời sẽ mang lại niềm vui cho công việc, cho cuộc sống con người:
“Nhờ Trời mưa thuận gió hoà
Nào cày, nào cấy trẻ già đua nhau
Người Việt cũng luôn tin vào Trời rất công bình, hoạ phúc công minh; Ông Trời như một ông chủ luôn thưởng phạt công minh:
“Trời nào có phụ ai đâu
Hay
làm thì giầu, có chí thì nên”
Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta trao phó công việc làm ăn cho Thiên Chúa. Chúng ta tin rằng Thiên Chúa quyền năng, Ngài điều khiển mọi loài. Ngài là Đấng cho mưa thuận gió hoà trên kẻ lành người dữ. Ngài là Đấng ban lại cho chúng ta sự thành công trong công việc mà thánh vương Đa-vít đã từng nói: “Nếu Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng bằng uổng công”.
Lịch sử nhân loại đã từng chứng minh có biết bao công trình mà không có bàn tay Thiên Chúa, hay cố tình loại trừ Thiên Chúa sẽ khó hoàn thành, đôi khi còn bị huỷ diệt.
Đó chính là sự kiện xây tháp Babel. Con người đã từng không chấp nhận thua Thiên Chúa. Họ muốn chống lại Thiên Chúa nên hợp lực với nhau để xây tháp tới Trời. Thế nhưng, lực bất tòng tâm. Công trình của họ đã bị dang dở. Họ chia rẽ nhau ngay khi công việc còn dở dang.
Gần đây nhất là sự kiện con tàu Titalic. Con tàu của sự kiêu hãnh của con người có thể chống lại phong ba bão tố. Người ta tưởng rằng với sự văn minh của nhân loại, người ta không cần ơn Trời vẫn có thể đi biển bình yên. Thế nhưng, con tàu đó đã bị chìm xuống đại dương cùng với sự ngạo nghễ của con người khi đâm vào một tảng đá ngầm mà không ai học được “chữ ngờ”.
Thế nên, việc cầu Trời, khấn trời dù ở khung trời văn minh hay chốn hồng hoang vẫn là cần thiết. Con người luôn bất lực trước sức mạnh của thiên nhiên. Con người như cảm thấy mình quả nhở bé so với vạn vật được tạo thành. Sự khiêm tốn đòi hỏi con người phải cần đến Đấng Tạo Thành, cầu xin Đấng Tạo, Khấn vái Đấng Tạo Thành. Sự khiêm tốn để nhìn nhận những gì mình có không phải do tài năng của mình, không phải do mưu trí của mình mà có mà là do ân ban của Thiên Chúa.
Tất cả là hồng ân. Thiên Chúa luôn tưới gội hồng ân của Ngài xuống trên con người. Thiên Chúa luôn làm biết bao việc kỳ diệu cho con người. Con người chỉ là loài thụ tạo được thừa hưởng muôn ơn lộc Chúa ban mà thôi.
Hôm nay, ngày xin ơn thánh hoá công ăn việc làm. Chúng ta dâng lên Chúa những ưu tư hoài bão của chúng ta lên Thiên Chúa. Chúng ta cầu xin Chúa ban cho một năm “mưa thuận gió hòa”, mùa màng trĩu hạt. Xin Chúa là Đấng quyền năng chúc lành cho công việc của chúng ta từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen
9. Mùng ba ra mắt--Lm Giuse Đinh lập Liễm
I. CÔNG VIỆC BA NGÀY TẾT
Người Việt nam chúng ta rất qúi trọng ba ngày Tết. Ba ngày này được coi như là linh thiêng. Mỗi ngày được phân chia cho một công việc. Công việc ba ngày Tết là:
Mùng một tết cha,
Mùng hai tết mẹ,
Mùng ba tết thầy.
Tại sao lại chia ra như vậy? Vì muốn cho ba ngày tết có đầy đủ ý nghĩa:
Nhà cha là nhà bên nội, ngày mùng một linh thiêng nhất nên ai cũng về từ đường bên nội cúng gia tiên, viếng thăm, mừng tuổi và chúc tụng họ hàng.
Cũng vậy, ngày mùng hai, lại kéo cả nhà về bên ngoại, cố thực hiện cho bằng được ý nghĩa đoàn tụ truyền thống trong mấy ngày Tết nhất.
Ai cũng hiểu, cha mẹ là đấng sinh thành, dưỡng dục, còn việc dạy dỗ cho nên người hữu dụng chính là thầy dạy học của mình; do đó, ngày mùng Ba thì học trò đồng môn rủ nhau đi viếng thầy (dạy chữ hoặc dạy nghề). Họ mang theo lễ vật để tỏ chút lòng thành. Thầy trò làm thơ, nói chuyện văn chương hoặc trao đổi chuyện làm ăn, nghề nghiệp trong bầu khí vui tươi, bổ ích.
Do mọi việc xã giao, chúc tụng được tập trung cho kịp trong ba ngày Tết, nếu để “ra ngoài ngày” (tức từ mùng bốn trở đi) sẽ giảm mất ý nghĩa, nhất là về mặt tình cảm, tôn kính, qúi trọng, cho nên người ta cũng sắp xếp có người trực ở nhà vừa để không trống vắng lạnh lẽo, vừa cũng để tiếp khách. Do đó có qui ước truyền thống “Mùng một tết cha, mùng hai tết mẹ, mùng ba tết thầy”, nên bạn bè muốn đến vui chơi trong ba ngày Tết đều nhất thiết phải hẹn trước.
(Nguyễn hữu Thiệp, Dân ta ăn Tết, 1995, tr 135-136)
II. MÙNG BA RA MẮT
Do “Mùng Ba tết Thầy” nên ngày này cũng là ngày ra mắt Tổ sư, Tiên sư nghề nghiệp mình.
Sáng sớm ngày ấy, ai làm nghề gì thì đem đồ nghề ra khởi động nghề ấy. Khởi động lấy lệ, mang tính hình thức. Đại khái, nhà nông thì mang lưỡi hái ra quơ cắt một ôm cỏ đem về cho trâu ăn (nhưng chưa làm động thổ). Người buôn bán thì mở cửa hàng bán tượng trưng vài món lấy ngày. Thợ thầy cũng đem kéo, búa ra cắt đập ít cái để “gọi là”. Nói chung, mọi công việc đều có tính cách tượng trưng, gọi là ra mắt Tổ nghề, mong Tổ sư và Tiên sư hộ độ suốt năm làm ăn phấn phát. Tất nhiên, trong những ngày này, bàn thờ các ông Thần tài, Thổ địa và Tổ nghề đều rất tươm tất, hương đăng không tắt, hoa trái lúc nào cũng đầy ắp.
Sau lễ ra mắt, người ta lại tiếp tục ăn Tết. Nhà giầu ăn tết đến hết ngày mùng 7 hoặc hơn. Người lao động nghèo tranh thủ khai trương sớm (Sđd, tr 137-138).
III. THÁNH HÓA CÔNG VIỆC LÀM ĂN
Hội thánh Công giáo Việt nam luôn đồng hành cùng dân tộc cố gắng làm phát huy những gì tốt đẹp phù hợp với bản sắc văn hoá dân tộc. Nếu “Mùng Ba ra mắt”, các người thợ trình diện với Tổ sư ngành nghề của mình về công việc làm ăn trong năm, Hội thánh Việt nam cũng muốn dành ngày mùng ba Tết để thánh hoá công việc làm ăn. Chúng ta hãy trình lên Chúa công việc làm ăn trong năm, để xin Chúa chúc lành và ban ơn phù giúp để mọi công việc của chúng ta phù hợp với thánh ý Chúa.
Đọc chương đầu của sách Sáng thế, ta thấy Đức Chúa Trời đã dựng nên loài người “giống hình ảnh Ngài” (St 1,26). Các nhà chú giải Thánh kinh cho rằng loài người giống Thiên Chúa nhờ sự thông minh và tự do, giống Thiên Chúa ở điểm loài người có uy quyền bá chủ trên vạn vật:”Ta hãy dựng nên loài người giống hình ảnh Ta để họ làm chủ cá biển, chim trời, muôn thú vật trên đất và mọi côn trùng sống động trên địa cầu” (St 1,26).
Như vậy, theo nghĩa chung, lao động tinh thần hay vật chất đều mang ý nghĩa trọng đại:”cộng tác vào việc sáng tạo” của Thiên Chúa. Giữa ý niệm lao động và giáo thuyết về sáng tạo có một tương liên mật thiết.
E. Krebs đã không ngần ngại tuyên bố:
“Khái niệm căn bản về giá trị tuyệt đối của tất cả hoạt động nhân sinh đã được phú ban cho loài người nhờ lòng tin vào Thiên Chúa sáng tạo, Ngài là Đấng tự do và khôn ngoan, sau khi dựng nên loài người đã nghỉ ngơi ngày thứ bảy để giao phó cho họ tiếp tục thực hiện chương trình sáng tạo của Ngài có từ đời đời”(Die wertprobleme, tr 43; theo J. Haessle, Le Travail, Paris, 1933, tr 350).
Mọi sự trên thế gian này là của Chúa, nhưng Ngài muốn cho con người quản trị, đổi mới và làm cho phong phú thêm. Chúng ta có thể nói Thiên Chúa là nguyên nhân đệ nhất, còn chúng ta là nguyên nhân đệ nhị của vũ trụ. Ngay sự quan phòng hằng ngày của Thiên Chúa trên vạn vật cũng là một cuộc sáng tạo không ngừng. Chúng ta là nguyên nhân đệ nhị và chỉ có thể góp phần vào với nguyên nhân đệ nhất. Chính vì thế Haessle viết:
“Nguời thợ là hình ảnh đặc biệt của Thiên Chúa… sản xuất và sản xuất trong niềm vui là con người đã đem năng lực của mình ra hành dộng để thực hiện một đời sống trọn vẹn hơn và làm cho mình nên giống Thiên Chúa dầu họ có ý thức hay không. Đời sống “làm việc” tức là hành động và phản ảnh sức hoạt động tuyệt đối… Thiên Chúa là nguyên nhân đệ nhất tuyệt đối… người thợ là nguyên nhân kết thành xét như chính họ làm cho những sự vật trở thành chính nó và hoàn hảo hơn. Con người đã truyền sức lực, tư tưởng, nhân vị mình cho chúng. Nguyên nhân tương đối là phản ảnh trung thực của nguyên nhân tuyệt đối”.
(J. Haessle, Le Travail, Paris, 1933, tr 63-64)
Công đồng Vatican 2 cũng xác quyết sự làm việc là góp phần sáng tạo và hoàn thành ý định của Thiên Chúa trong lịch sử:
“Thực vậy, trong khi mưu sinh cho mình và cho gia đình, tất cả những người nam cũng như nữ hoạt động để phục vụ xã hội một cách hữu hiệu đều có lý để tin rằng nhờ lao công của mình họ tiếp nối công trình của Tạo hóa, phụng sự anh em, đóng góp công lao của mình vào việc hoàn thành ý định của Thiên Chúa trong lịch sử” (Gaudium et Spes, bản dịch của GHHV Piô X, Đà lạt).
Nếu lao động là được cộng tác vào chương trình sáng tạo của Thiên Chúa, thì đây là vinh dự lớn lao của con người, vì “nhân linh ư vạn vật”. Theo ý nghĩa đó, ta có thể kết luận mà không sợ sai lầm:”LAO ĐỘNG LÀ VINH QUANG”.
KẾT LUẬN
Trong ngày mùng Ba Tết hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được biết thánh hoá công việc làm ăn của chúng ta, đặc biệt trong thánh lễ này.
Trước hết, như bài Tin mừng thánh lễ hôm nay, ta hãy cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta những nén bạc cơ bản làm vốn: sự sống, sức khỏe, trí khôn, thiên hướng, những kinh nghiệm của cộng đồng, tri thức của người đi trước, những nhu cầu phát triển của thời đại…
Sau đó, xin Chúa ban ơn nâng đỡ tinh thần và nghị lực để chu toàn mọi trách nhiệm liên quan đến công việc.
Đồng thời cũng xin luôn ý thức công việc làm ăn của bản thân và của mọi người là thước đo về công bằng và phát triển của xã hội. Ai cũng có quyền được làm việc và quyền được chuẩn bị chu đáo để có việc làm phù hợp với nguyện vọng và khả năng.
Như vậy, khi nguyện ước công ăn việc làm của mình được Thiên Chúa thánh hoá, người Kitô hữu đang khao khát diễn tả, qua thực tiễn lao động của bản thân, hình ảnh một Thiên Chúa hoạt-động-không-ngừng và đã trao cho loài người quyền được làm giầu đẹp thêm cho cuộc sống.
10. Mọi sự đều nhờ ơn Chúa--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Ngày Mồng Ba Tết, chúng ta dành để dâng lên Chúa những dự định và tương lai của chúng ta. Chúng ta xác tín rằng mọi sự đều nhờ ơn Chúa, vì “nếu Chúa không xây nhà thì thợ nề vất vả cũng bằng uổng công”.
Thực vậy, nhìn lại năm 2010 với biết bao thiên tai giáng xuống địa cầu, cho chúng ta thấy con người thật nhỏ bé trước bao sóng gió của thiên nhiên. Con người cần phải có ơn Chúa để gìn giữ, chúc lành cho chúng ta một năm bình an.
Vâng, có thể nói năm 2010 đã vụt qua, nhưng đã để lại nỗi hãi hùng cho con người với những trận thiên tai kinh thiên động địa nhất.
Xin được lướt qua những thiệt hại về nhân mạng cũng như vật chất:
1) Trận động đất 7 độ Richter ở Haiti xảy ra ngày 24-01, đã giết chết 230,000 người, hơn 300,000 người bị thương và hơn một triệu người màn trời chiếu đất. Đến nay, một năm sau, vẫn chưa hồi phục dù thế giới đã đổ hàng tỷ đô-la vào xứ sở nghèo đói bệnh tật này.
2) Ngày 27-2, lại một trận động đất mạnh tới 8.8 độ Richter, đã xảy ra ở vùng duyên hải Chí Lợi (Chile), rung chuyển 6 tiểu bang lớn và một phần của Á Căn Đình. Động đất kéo theo sóng thần, quét qua các thị trấn ven biển, khiến 500 người thiệt mạng, hơn 200.000 người mất nhà cửa, gây thiệt hại 30 tỷ đô.
3) Ngày 21-3, núi lửa ở Băng đảo (Iceland) bỗng nhiên thức giấc sau 200 năm, phun bụi và khói ngập trời khiến hàng ngàn người phải di tản. Thiên tai này đã ảnh hưởng nặng nề tới hoạt động hàng không, làm cho 100.000 chuyến bay của các nước Âu Châu bị hủy bỏ và 8 triệu hành khách bị mắc kẹt ở các sân bay trong suốt 6 ngày, thiệt hại gần 2 tỷ đô-la.
4) Tháng Bảy, sau những trận mưa dai dẳng đã gây ra lụt lội tại Pakistan. Trận mưa lụt này được coi là thiên tai lớn nhất trong 100 năm tại Pakistan. Một phần năm (1/5) diện tích quốc gia này đã chìm trong biển nước, hơn 2.000 người bị cướp đi sinh mạng. Con số này còn tăng cao vì dịch bệnh, gây thiệt hại lên tới 10 tỷ đô-la, khiến ít nhất 9 triệu người, trong đó phần lớn là trẻ em, lâm vào cảnh đói khát.
5) Cũng vào tháng Bảy, nóng chưa từng có đã kéo theo nạn cháy rừng nhiều nơi ở Nga. Bầu trời thủ đô Moscow bị bao phủ khói đen, nhiều chuyến bay đã bị hủy bỏ. Hỏa hoạn và cháy rừng làm cho 50 người thiệt mạng và 3.000 người mất nhà cửa. Nguyên nhân của thảm họa cháy rừng là do mức nhiệt độ lên cao kỷ lục trong hơn 100 năm qua.
Đó là những trận thiên tai lớn đã xẩy ra trong năm 2010, khiến thế giới phải lo ngại sẽ tạo thêm khủng hoảng tài chánh, vì hai năm qua kinh tế thế giới đã gặp nhiều khó khăn chưa giải quyết nổi. Các nhà tiên tri cho rằng, năm 2010 chỉ là năm bắt đầu của những thiên tai, bệnh tật mà nhân loại sẽ phải gánh chịu vào những năm kế tiếp.
Người Việt thì nói rằng: mỗi năm, làm ăn càng ngày càng khó khăn hơn. Người đông của ít, khiến con người phải bon chen vật lộn với cuộc sống nhiều hơn. Thêm vào đó lại thiên tai, lũ lụt, thời tiết khắc nghiệt khiến ngành chăn nuôi, trồng cấy càng mong manh. Như dịch bệnh cùm gia gia cầm, dịch tai xanh… tràn lan suốt năm qua.
Hôm nay, Ngày Đầu Năm, chúng ta hướng về Cha trên trời, là Đấng làm chủ mọi loài, là Đấng quan phòng kỳ diệu, xin Chúa chúc lành cho chúng ta một năm bình an hạnh phúc, một năm an khang thịnh vượng.
Xin Chúa chúc lành cho những dự định tương tai của chúng ta được thành toàn.
Chúng ta hãy trao vào tay Chúa những lo toan vất vả của đời người.
Chúng ta hãy bước đi trong sự tín thác vào tình thương quan phòng của Chúa.
Xin Chúa là Chúa của mùa xuân chúc lành cho những ước nguyện đầu xuân của chúng ta. Amen
11. Thánh hóa công ăn việc làm (Mt 25, 14-30)--Giuse Trần Công Thượng
Kính thưa cộng đoàn,
Từ thuở khai thiên lập địa Thiên Chúa sáng tạo con người và ủy thác cho con người nhiệm vụ cai trị trái đất. “Ngài đặt con người vào vườn Eđen để cày cấy và canh giữ đất đai”. (St 15,2) Như vậy, Thiên Chúa gắn liền lao động với con người, coi lao động như một sứ vụ, một tương lai. Con người tiếp tục công cuộc tạo dựng lưu truyền đời sống và biến đổi thiên nhiên.
Lao động là hoạt động đặc thù của con người, giúp con người tạo ra của cải vật chất và tinh thần, góp phần phát triển khoa học, văn hóa và đạo đức. Vì vậy, lao động mang một ý nghĩa lớn đối với đời sống con người.
Chính Đức Giêsu là một người lao động. Ngài làm nghề thợ mộc tại làng Nazaret, một nghề tầm thường trong xã hội bấy giờ, để dễ dàng gần gũi với người lao động nghèo. Tin Mừng của Ngài là “Tin Mừng của lao động”, vì người rao giảng Tin Mừng ấy chính là một người lao động. ngài thuộc về thế giới lao động, ưa chuộng lao động, tôn trọng sự lao động của con người. Trong lời giảng của Ngài ta thấy toát lên chân lý căn bản về vấn đề lao động, một chân lý đã được diễn tả trong tất cả truyền thống, ngay từ sách sáng thế. (X. Tông huấn Lao động của con người, của Đức Thánh Cha Gioan Phao lô II, ngày 14.9.1981). Các bài giảng của Ngài cũng thật gần gũi với người lao động.
Gương mẫu và giáo huấn của Chúa Giêsu đã ảnh hưởng tới các môn đệ theo Ngài, đặc biệt là thánh Phaolô. Thánh nhân không ngừng nêu gương và khuyên nhủ các tín hữu về giá trị của lao động. Khi ngỏ lới các kỳ mục ở Êphêsô, thánh Phaolô nói: “Chính anh em biết rõ: những gì cần thiết cho tôi và cho những người sống với tôi, đôi tay này đã tự cung cấp. Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giê-su đã dạy: cho thì có phúc hơn là nhận.” (Cv 20, 34-35). Trong thư gửi tín hữu Thêxalônica, thánh nhân khẳng định: “Chúng tôi đã chẳng ăn bám ai, trái lại đêm ngày đã làm lụng khó nhọc vất vả, để khỏi nên gánh nặng cho người nào trong anh em”(2Tx 3,8) hay ngài chỉ thị “ai không chịu làm thì cũng đừng ăn” (2Tx 3,10).
Tất cả chúng ta là những người lao động. Hằng ngày chúng ta vẫn bán mặt cho đất bán lưng cho trời trên đồng ruộng, vất vả trong các nhà máy, miệt mài với những trang sách, tất bật ngược xuôi ngoài chợ. Đó là vinh dự cũng là một trách nhiệm Thiên Chúa trao cho chúng ta để cộng tác với Ngài trong việc xây dựng thế giới này.
Hôm nay, mồng 3 Tết – những giây phút đầu tiên của năm mới, Mẹ Giáo Hội dành cho con cái một ngày đặc biệt cầu xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm. Đây là dịp thuận lợi để chúng ta suy nghĩ về sứ vụ lao động của mỗi người, dâng lên Thiên Chúa thành quả lao động trong một năm qua đồng thời có những quyết tâm cho năm mới.
Năm mới, chúng ta đưa ra bao nhiêu dự tính cho công việc phải làm. Nhưng những dự tính đó có thành công hay không, chúng ta không hoàn toàn quyết định. Quả thế, cổ nhân nói: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Tuy nhiên, với niềm tin vào ơn Chúa giúp, chúng ta phải cố gắng hết mình để chu toàn công việc.
Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu kể cho các môn đệ nghe dụ ngôn các nén bạc. Ông chủ đi xa, trao cho các đầy tớ những nén bạc: người năm nén, người 2 nén, người một nén. Người thứ nhất và người thứ hai đã cố gắng và hăng say làm việc để sinh lời cho ông chủ. Đó là những người có tinh thần trách nhiệm: trách nhiệm với ông chủ và trách nhiệm với bản thân. Người thứ ba thì ngược lại: vì lười biếng, nghi ngờ ông chủ nên anh đã chôn giấu số bạc đã được giao, phụ lòng tin tưởng của ông chủ. Và kết quả, khi ông chủ về, người thứ nhất và người thứ hai được vào hưởng niềm vui của chủ vì đã trung tín, còn người thứ ba vì biếng nhác nên bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng.
Qua dụ ngôn Chúa Giêsu muốn nhắc nhở chúng ta điều gì trong ngày cầu xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm hôm nay.
Thiên Chúa là chủ tể mọi loài mọi vật, con chúng ta là những tôi tớ của Ngài. Ngài trao cho mỗi người chúng ta những nén bạc là: đức tin, sức khỏe, tài năng, cơ hội, nghị lực, tiền của, ân nhân, nền giáo dục…Mỗi người được trao những nén bạc khác nhau, kẻ nhiều người ít, nhưng Thiên Chúa muốn chúng ta phải cố gắng hết mình để sinh lời tùy theo cuộc sống và hoàn cảnh của mỗi người. Chúng ta sử dụng tài năng, sức khỏe, tiền của, cơ hội Chúa ban để làm việc và tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho bản thân, gia đình và xã hội hầu làm vinh danh Chúa và mang lại lợi ích cho tha nhân.
Ngày đầu năm mới này, chúng ta ngẫm xem Chúa trao cho mình bao nhiêu nén bạc. Dưới cái nhìn đức tin, có lẽ cuộc đời chúng ta chìm ngập trong hồng ân của Chúa quan phòng và khôn ngoan. Ngài ban cho chúng ta đủ điều kiện để làm tốt công việc phù hợp với khả năng của mình. Năm mới này, chúng ta phải quyết tâm bắt chước người đầy tớ thứ nhất và thứ hai trong dụ ngôn, cố gắng làm việc tốt để sinh lời từ “nén bạc” Chúa trao. Muốn vậy, chúng ta phải sử dụng những ơn riêng như lời khuyên của thánh Phêrô: “Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy, anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. Ai có nói, thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban. Như thế, trong mọi việc, chúng ta tôn vinh Thiên Chúa nhờ Đức Giê-su Ki-tô” (1Pr 4,10-11). Đồng thời chúng ta cũng quyết tâm xóa bỏ tư tưởng biếng nhác, nghi ngờ của người đầy tớ thứ ba để luôn làm việc theo tinh thần Tin Mừng. “Bất cứ làm việc gì, chúng ta làm tận tâm như thể làm cho Chúa, chứ không phải cho người đời, vì biết rằng chúng ta sẽ nhận được phần thưởng Chúa ban, là gia nghiệp dành cho dân Người “. (x.Cl 3,23-24)
Lạy Chúa Giêsu, khi ở trần gian, Chúa là một người lao động để nêu gương nên thánh cho chúng con trong công việc lao động thường ngày. Trong năm mới này, xin cho chúng con biết học nơi Chúa, luôn cố gắng và siêng năng làm việc để những nén bạc Chúa trao không trở nên vô hiệu.
Lạy Chúa Giêsu, biết bao người khổ công trên đồng ruộng, tất bật trong các nhà máy, xuôi ngược trên thương trường mà không đủ ăn, bao người lo lắng vì thiếu việc làm – trong giây phút đầu năm mới này, xin chúc lành cho hoa màu ruộng đất, cho các phương tiện làm ăn, cho các công việc chúng con đang làm và sẽ làm, hầu mong cuộc sống chúng con luôn hòa nhịp với lời thánh vịnh:
“Bốn mùa Chúa đổ hồng ân
Ngài gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi”. (Tv 65,12).
12. Cha Tôi không ngừng làm việc (Mt 25,14-30)--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Ngày mồng ba tết mỗi năm, Hội Thánh luôn dành riêng một ngày đầu năm để cầu nguyện xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm của mọi người giữa lúc con người đang mải mê ăn tết, có khi quên cả mặt thiêng liêng, đạo đức. Sở dĩ Hội Thánh dùng ngày mồng ba tết để cầu xin Thiên Chúa đổ muôn ơn phúc xuống trên mùa màng bởi vì Hội thánh ý thức:” Làm bởi bay, ban bởi Ta ” (L’homme propose, Dieu dispose). Hội Thánh cũng nhắc nhở tấm gương lao động của Thiên Chúa khi Ngài miệt mài sáng tạo vũ trụ, thế giới và con người. Giáo Hội cũng cho ta thấy gương lao động của Chúa Giêsu ở Nagiarét để chúng ta noi gương, bắt chước. Do đó, ngày mồng ba tết Giáo Hội dành riêng để xin ơn thánh hóa công ăn việc làm là để dạy con người:” Không làm thì đừng có ăn” như thánh Phaolô tông đồ đã viết.
THIÊN CHÚA TẠO DỰNG CON NGƯỜI ĐỂ CON NGƯỜI LAO ĐỘNG LÀM RA CỦA CẢI: Tất cả ba bài đọc trong thánh lễ ngày mồng ba tết đều xoay chung quanh việc lao động. Bài sách sáng thế cho thấy Thiên Chúa đặt con người trong vườn Eden và dạy con người trồng trọt nghĩa là lao động để làm ra của cải. Thiên Chúa muốn con người xây dựng thế giới, tô đẹp thế giới và làm cho thế giới càng ngày càng trở nên phong phú, tươi xinh theo ý của Thiên Chúa. Đoạn Tin Mừng nói về việc ông chủ trao cho đầy tớ các nén bạc để các đầy tớ làm lợi ra những nén bạc khác, làm ra nhiều lợi nhuận. Tuy nhiên lao động chắc chắn đòi hỏi sự cố gắng của con người và nhiều khi làm cho con người mệt nhọc, nhưng lao động quả thực mang lại nhiều ý nghĩa thiết thực cho cuộc sống:
LAO ĐỘNG LÀ BÀI CẢM TẠ TRI ÂN: Nói đến lao động là nói đế sự làm việc mà làm việc dù trí óc hay tay chân đều làm cho con người mệt mỏi, đòi hỏi con người phải phấn đấu hy sinh, có khi phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có miếng cơm mà ăn, có cần cù lao động với óc sáng kiến, với khả năng, với kỹ thuật mới mong có của ăn của để. Mặc dù như thế, nhưng lao động vẫn là sự vinh quang bởi vì phải lao động mới tốt đẹp được, mới đem lại cho con người sức sống. Giầu đâu đến kẻ ngủ trưa, sang đâu đến kẻ say sưa tối ngay, ca dao tục ngữ Việt Nam quả thực đã nói đến lý tưởng của lao động và đề cao giá trị của lao động. Đối với người công giáo lao động là bài ca tình yêu bất tận bởi vì con người làm nhưng chính Thiên Chúa định đoạt thành quả của việc làm. Do đó, lao động nói theo ngôn ngữ nhà đạo là bài ca tình yêu, là lời cảm tạ tri ân không ngừng bởi Thiên Chúa không ngừng lao động và Chúa Giêsu cũng đã lao động không ngừng.
LAO ĐỘNG NÂNG CAO PHẨM GIÁ CON NGƯỜI: Con người sẽ chẳng ra chi nếu không chịu làm việc. ” Đừng ngồi chờ sung rụng “, vâng, Thiên Chúa đã lao động không ngừng, Chúa Giêsu cũng đã noi gương Chúa cha làm việc không mệt mỏi. Do đó, con người cũng phải làm việc vì việc làm do trí óc, do bàn tay con người sẽ nâng cao giá trị của con người và làm cho việc làm có giá trị. ” Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho con người phải lao động để làm chủ thiên nhiên. Xin cho chúng con được thấm nhuần tinh thần Kitô giáo, để công ăn việc làm của chúng con trong năm mới này nêu cao tình tương thân tương ái, và góp phần vào sự nghiệp chung là hoàn thành chương trình sáng tạo của Chúa” (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh hóa công ăn việc làm). Lao động Chúa sẽ chúc lành nếu con người luôn hướng lao động theo ý Chúa:” Bốn mùa Chúa đổ hồng ân. Ngài gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi ” (Tv 64, 12) hoặc ” Bao lâu trái đất này còn, còn gieo còn gặt còn vun còn trồng. Bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông, ngày đêm thời tiết không ngừng luân phiên “.
LAO ĐỘNG MANG Ý NGHĨA GIẢI THOÁT, CỨU RỖI: Kinh tiền tụng ngày mồng ba tết viết:” Chính Cha đã dựng nên con người giống hình ảnh Cha và giao trách nhiệm trông coi trái đất. Cha còn sai Con Một giáng trần để chia sẻ thân phận người lao động, và thực hiện chương trình cứu độ muôn dân. Quả vậy, Người đã bắt chước Cha hoạt động không ngừng, nêu gương cho chúng con biết chuyên cần làm việc, không những để no cơm ấm áo, và góp phần xây dựng xã hội loài người, mà còn để làm rạng danh Cha, và mở rộng Nước Trời ngay tại trần thế “. Con người làm ra vật chất không chỉ để nuôi sống mình nhưng còn để chia sẻ cho những kẻ khó nghèo và như thế của bố thí với ý ngay lành sẽ có ý nghĩa cứu rỗi.
ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ: Con người được Chúa tạo dựng để góp tay với Chúa làm cho vũ trụ, thế giới đẹp hơn, ấm hơn. Bởi vì, khi làm ra của cải, con người tạo được no ấm và hạnh phúc cho mình, cho gia đình mình. Nhưng còn hơn thế, con người biết nghĩ đến kẻ khác nhờ đó họ sẽ làm cho của cải có giá trị đẹp và có tính cứu rỗi. Chính vì thế, giầu quý thực nhưng nếu không biết chia sẻ cho những người nghèo thì lời của Chúa:” Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu có vào được nước Thiên Chúa ” quả thực sẽ là lời cảnh cáo mạnh mẽ đối với những con người ích kỷ, bo bo giữ của mà không biết sẻ chia cho những người bé nhỏ, khó nghèo.
Lạy Chúa, nhân dịp đầu xuân, cộng đoàn chúng con dâng lên Chúa lễ phẩm này, cùng với mọi công việc chúng con sẽ làm trong năm mới.Cúi xin Chúa vui lòng chấp nhận, và cho chúng con được cộng tác với Con Một Chúa, để thực hiện công trình cứu độ của Người.Amen.
13. “Ơn Trời Mưa Nắng Phải Thì”--Lm Jos Tạ Duy Tuyền
Có một câu chuyện huyền thoại về con trâu như sau:
Thuở xưa, Ngọc Hoàng sai một vị thần xuống trần gian mang theo 1 bao hạt giống lúa và 1 bao cỏ để gieo xuống trần gian. Trước khi xuống trần, Ngọc Hoàng đã tỉ mỉ căn dặn, đến trần gian phải gieo rắc bao hạt giống lúa trước để dân có dư giả mà ăn, còn bao cỏ thì gieo sau để nuôi thú vật. Nhưng khi vị thần này đến trần gian, thấy phong cảnh khác lạ, nên mãi mê xem mà quên lời căn dặn của Ngọc Hoàng, để rồi gieo bao cỏ trước và bao hạt giống lúa sau. Từ đó, cỏ không cần trồng cũng mọc tràn lan khắp mọi nơi, các thú vật ăn không bao giờ hết vì quá dư thừa và không làm sao diệt cỏ hết được. Còn lúa phải gieo trồng rất cực khổ và khó khăn mới có ăn, bởi vì bị cỏ mọc lấn áp làm lúa phát triển chậm hơn cỏ. Bởi lỗi ấy của vị thần, làm cho người trần gian trồng lúa rất khó nhọc mới có ăn và cỏ thì mọc tự nhiên quá nhiều, cho nên Ngọc Hoàng mới đày vị thần này xuống trần gian hóa thành con Trâu để giúp người trần gian cày bừa trồng lúa và ăn cỏ, chừng nào hết cỏ sẽ được tha thứ cùng phục hồi địa vị cũ, nhưng ăn hoài vẫn không bao giờ hết cỏ được, nên Trâu chưa thoát kiếp trở về thiên đường.
Câu chuyện này phải chăng muốn dạy chúng ta: “Có làm thì mới có ăn – Không dưng ai dễ mang phần cho ta”. Vì ở trần gian, cỏ thì nhiều, lúa thì ít. Cây ăn được thì ít, cây không ăn được thì nhiều. Xem ra con người vất vả hơn con vật. Vì người làm lụng vất vả mới có mà ăn, còn vật thì không cần làm mà trời vẫn cho ăn.
Hôm nay ngày Mồng Ba Tết, Giáo hội mời gọi chúng ta trao phó công việc làm ăn cho Thiên Chúa. Chúng ta xin Chúa ban cho một năm “thuận buồm xuôi gió”. Chúng ta xin Chúa chúc lành cho công việc chúng ta được mọi sự như ý, ân phước dư đầy. Chúng ta tự ý thức sự nhỏ bé, giới hạn của con người trước biết bao công việc mưu sinh hằng ngày. Chúng ta cần ơn ban của trời cao. Chúng ta xác tín như người xưa đã xác tín vào trời: “Mưu sự tại nhân – Thành sự tại Thiên”. Đó là thái độ khiêm tốn cần có của con người trước vũ trụ bao la. Con người nhỏ bé giới hạn nên cần phó dâng trong tay Thiên Chúa. Tổ tiên chúng ta xưa cũng từng làm như thế. Không phải vì lạc hậu. Không phải vì thiếu ý thức khoa học mới tin vào Trời, nhưng vì cảm nghiệm sự nhỏ bé của con người trước sự lớn lao của Trời:
“Đèn Trời đèn sáng bốn phương
Đèn tôi sáng tỏ đầu giường nhà tôi”.
Hơn nữa niềm tin của tổ tiên còn xác tín về lòng nhân ái của Trời. Trời không phụ lòng người. Trời không bao giờ bỏ quên con người:
“Trời nào có phụ ai đâu
Hay làm thì giầu, có chí thì nên”.
Biết được lòng trời rộng rãi bao la. Tổ tiên xưa còn biết lợi dụng mưa nắng phải thì của Trời mà trồng cấy:
Trời nắng tốt dưa
Trời mưa tốt lúa.
Nhất là biết cầu khẩn cùng Trời cho một năm:
“Nhờ trời mưa gió thuận hoà
Nào cầy nào cấy trẻ gia đua nhau”
Thực vậy, cuộc sống mưu sinh thật khó khăn. Nếu không có ơn trời thì công việc chúng ta cũng tựa như “dã tràng xe cát biển đông”. Nhìn lại một năm qua, chúng ta thấy thật rõ điều đó. Việc làm ăn mỗi ngày một khó. Không chì là do suy thoái kinh tế toàn cầu, mà quan yếu còn do thiên tai lũ lụt hoành hành. Ở Việt Nam ngay từ đầu năm Mậu Tý đã xảy ra rét đậm, rét hại khiến hàng ngàn trâu bò bị chết, hàng ngàn hecta hoa màu không thể đơm bông kết trái. Rồi thiên tai lũ lụt trong năm đã phá huỷ biết bao ruộng lúa, vườn rau. Nhiều người nói rằng: năm nay làm ăn không chỉ trắng tay mà con nợ nần chồng chất. Cuộc sống vốn dĩ đã khổ lại khổ thêm do không gặp thời vận của Trời ban.
Đó là lý do mà hôm nay chúng ta cùng nhau dâng lên Thiên Chúa công việc và dự định của chúng ta trong năm nay. Chúng ta trao gởi công việc chúng ta cho Thiên Chúa. Xin Chúa chúc phúc và thánh hoa công việc chúng ta được mọi sự như ý. Chúng ta xác tín rằng: “Nếu Chúa không xây nhà, thợ nề vất vả cũng bằng uổng công”. Xin Chúa thương đón nhận những ước nguyện đầu năm chân thành của chúng ta. Amen
14. Thánh hóa công ăn việc làm (Mt 25, 14-30)--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Bao lâu trái đất này còn,
Còn gieo còn gặt còn vun còn trồng;
Bốn mùa xuân hạ thu đông,
Ngày đêm thời tiết không ngừng luân phiên (St 8, 22).
Hằng năm Giáo Hội không ngừng dùng ngày mồng ba tết để cầu xin cho công ăn việc làm, xin Chúa thánh hóa công việc của mỗi người,đặc biệt xin ” Chúa gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi “. Có người nghĩ rằng công việc là do bàn tay lao động của mình. Trí óc là do khả năng tích lũy của mình. Đất đai tự nó tốt, tự nó có mầu có mỡ. Không, Giáo Hội là người Mẹ hiền luôn nhìn thấy những gì do mình, điều gì do Chúa. Chính vì vậy, giữa bôn ba của cuộc đời, giữa những ngày vui chơi ăn tết, con người vì vẻ bề ngoài, vì lao mình vào các thú vui, vì say xưa chè chén, họ sao nhãng việc thiêng liêng, quên đi ” Làm bởi bay, ban bởi Ta “. Chính vì thế, Giáo Hội dành ngày mồng ba tết để xin Chúa thánh hóa ruộng vườn, mùa màng, cây cối và xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm. Thánh Phaolô đã viết một câu mạnh mẽ nhưng hoàn toàn hợp lý:” Không làm việc thì đừng ăn “, na ná như câu:” Đừng nằm chờ sung rụng “…
THIÊN CHÚA SAI CON CỦA NGÀI ĐẾN TRẦN GIAN ĐỂ NÊU GƯƠNG LAO ĐỘNG CHO CON NGƯỜI: Khi tạo dựng vũ trụ, dựng nên con người, Thiên Chúa đặt con người trong vườn địa đàng và cho con người hưởng dùng mọi vật Ngài tạo dựng nên. Tuy nhiên, khi Ông bà Ađam và Evà phạm tội, Ông bà phải lao động cực nhọc, vất vả mới có của ăn để nuôi thân và nuôi con cái. Lao động bắt đầu từ khi con người sa ngã, ngang nhiên chống lại Chúa. Lao động vất vả nhưng luôn có giá trị bởi vì không có Chúa, con người dù có làm mấy đi nữa cũng không mang lại hiệu quả bao nhiêu…
Khi Con Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô được sai đến trần gian qua cung lòng thanh sạch của Đức Trinh Nữ Maria bởi phép Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu lớn lên ở Nagiarét, Ngài đem lại cho lao động một ý nghĩa cao vời. Chúa lao động để nêu gương cho nhân loại bởi vì lao động mang lại ý nghĩa thiết thực cho cuộc sống con người. Một ngày Chúa trao ban cho mỗi người 24 tiếng đồng hồ để con người như nhau nhưng tùy khả năng, tài trí làm lợi cho Chúa, cho Giáo Hội, cho bản thân, cho tha nhân. Chúa Giêsu đã cùng thánh cả Giuse và mẹ Maria lao động để mang lại cho lao động ý nghĩa cứu rỗi.
CON NGƯỜI LUÔN PHẢI LAO ĐỘNG: Dù làm việc bằng chân tay, hay làm việc bằng trí óc, mọi người đều phải làm việc. Chúa Giêsu đã nói:” Cha Ta làm việc, Ta cũng làm việc không ngừng “. Chắc chắn, ở Nagiarét, Chúa Giêsu có lúc cũng đã phải đổ mồ hôi, mệt nhọc, vất vả vì lao động. Tuy nhiên, gia đình Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse đã lao động với tất cả tình yêu, với tất cả niềm tin và đem lại cho lao động một ý nghĩa tôn giáo tuyệt vời. Khi Chúa làm việc lao động, Ngài muốn chúng ta hãy luôn kết hợp với Ngài, như Ngài luôn kết hợp với chúng ta. Ai luôn kết hợp với Ngài, Chúa luôn kết hợp với người ấy, thì người ấy sinh hoa kết quả dồi dào (Ga 15, 45b). Con người noi gương Chúa luôn phải lao động không ngừng vì theo thánh Phaolô dạy:” Không làm việc thì đừng có ăn “.Câu nói xem ra mạnh mẽ đấy, nhưng quả thực không lao đ8ộng làm sao có lương thực để nuôi thân, có của cải để độ trì. Do đó, bất cứ ai đã sinh ra ở trần gian muốn tồn tại phải làm việc hoặc bằng trí óc hoặc bằng chân tay.
LAO ĐỘNG MANG Ý NGHĨA CỨU RỖI: Khi nhìn vào gia đình thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu, ai cũng hiểu rất rõ dù Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Ngài đã làm người, nên Ngài làm việc không ngừng. Thánh Giuse lao động để nuôi gia đình. Mẹ Maria làm việc nội trợ để tạo nên hạnh phúc gia đình. Cả gia dình thánh đã làm việc để nâng lao động lên tầm cao mới, nghĩa là làm cho lao động có một ý nghĩa cứu độ.Chính Thiên Chúa đã nêu gương lao động cho con người. Do đó, con người làm việc không chỉ để nuôi sống bản thân mình mà còn góp tay vào công trình cứu độ nhân loại…Thực tế, Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người giống hình ảnh Ngài và giao cho con người trông coi vũ trụ, tô đẹp vũ trụ.Lao động và tín thác nơi Chúa vì chính Chúa là mục tử chăn dắt chúng ta, nên chúng ta không còn thiếu thốn gì (Tv 22, 1).
ÁP DỤNG VÀO CUỘC SỐNG CỦA CON NGƯỜI, CỦA MỖI NGƯỜI: Chúa đã thánh hóa công ăn việc làm do tự lòng tin của chúng ta. Đọc Kinh Tiền Tụng chúng ta nhận ra rằng:” Chính Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Chúa và giao trách nhiệm trông coi trái đất. Chúa còn sai Con một giáng trần, để chia sẻ thân phận người lao động, và thực hiện công trình cứu độ muôn dân “. Chúa đã lao động để làm gương cho nhân loại, cho con người. Chúa giúp con người làm việc làm ra cơm áo và hơn nữa để xây dựng Nước Trời ngay tại trần thế.
Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho con người phải lao động để làm chủ thiên nhiên. Xin cho chúng con được thấm nhuần tinh thần Kitô giáo, để công ăn việc làm của chúng con trong năm Nhâm Thìn này nêu cao tình tương thân tương ái, và góp phần vào sự việc chung là hoàn thành chương trình sáng tạo của Chúa. Amen. (Lời nguyện nhập lễ, lễ ngày Mồng Ba Tết).
15. Xin Chúa Chúc Lành (Mt 25, 14-30)--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Người Pháp có câu nói thật chí lý:” Làm bởi bay, ban bởi Ta ” (L’homme propose, Dieu dispose). Giáo Hội Việt Nam luôn hướng dẫn, dạy con cái mình:” Phải cầu nguyện, phải kêu xin không ngừng “. Do đó, làm việc là do bàn tay, do trí óc sáng tạo, lao động của con người nhưng nếu người môn đệ Chúa không được Chúa ban ơn, sức khỏe không có, trí khôn không sáng, chắc chắn công ăn việc làm của mình không tốt đẹp. Giáo Hội Việt Nam dành ngày mồng ba tết âm lịch để cầu xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm.
Có nhiều người lầm tưởng, công ăn việc làm cần gì phải được thánh hóa. Làm ăn được là do sự năng nổ, giỏi giang của mình mà. Nói thế cũng đúng một phần mà hoàn toàn không phải thế. Vì, con người luôn có phần hồn phần xác. Xác có khỏe mới lao động được, còn thân xác yếu đuối, đau lên đau xuống hoài, chắc chắn công việc cũng không đi tới đâu. Con người có giỏi, có kỹ thuật cao, nhưng mưa không thuận, gió không hòa thì mùa màng cũng không đem lại nhiều kết quả.Thánh lễ hôm nay xoay quanh việc lao động, sản xuất.Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh của Người và đặt con người trong vườn Eden, rồi dạy con người trồng trọt nghĩa là dạy con người lao động. Thiên Chúa muốn con người góp tay và trí tuệ để làm cho vũ trụ mà Chúa dựng xây càng ngày càng đẹp, càng ngày càng phong phú, mọi người đều có của ăn, của để. Bài Tin Mừng đề cập đến việc ông chủ trao cho mỗi người một số vốn và bắt con người phải lao động để làm lời số vốn ông chủ đã trao. Lao động phải mệt nhọc, lao động đòi hỏi phải cố gắng, phấn đấu hy sinh, nhưng lao động luôn mang ý nghĩa đẹp, ý nghĩa cao sâu, tuyệt vời do Chúa chúc lành:” Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho con người phải lao động để làm chủ thiên nhiên. Xin cho chúng con được thấm nhuần tinh thần Kitô giáo, để công ăn việc làm của chúng con trong năm mới này nêu cao tình tương thân tương ái, và góp phần vào sự nghiệp chung là hoàn thành chương trình sáng tạo của Chúa ” (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh hóa công ăn việc làm). Hoặc “Bao lâu trái đất này còn, còn gieo còn gặt còn vun còn trồng. Bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, ngày đêm thời tiết không ngừng luân phiên” và Thánh vịnh 64, 12 cũng viết:” Bốn mùa Chúa đổ hồng ân, Ngài gieo mầu mỡ ngập tràn lối đi “.
Như thế, đối với người môn đệ Chúa lao động trí óc hay chân tay đều do quyền Chúa. Ngài có chúc lành, có ban ơn thì công việc mới tốt lành được. Chúa Giêsu cũng đã làm việc và làm việc không ngừng. Ngài đã làm việc để nêu gương cho nhân loại và để mang lại cho lao động ý nghĩa cao cả. Lao động đối với Ngài là lời tạ ơn, là cầu nguyện, là cứu độ, là nâng cao phẩm giá con người. Thánh Phaolô đã viết một câu thật chí lý:” Không làm thì đừng có ăn “.
Chúng ta hãy dùng lời tiền tụng thánh lễ ngày mồng ba tết để cùng nhau cầu nguyện:” Lạy Chúa, chính Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Chúa và giao trách nhiệm trông coi trái đất. Chúa còn sai Con Một giáng trần để chia sẻ thân phận người lao động, và thực hiện chương trình cứu độ muôn dân. Quả vậy, Người đã bắt chước Cha hoạt động không ngừng, nêu gương cho chúng con biết chuyên cần làm việc, không những để no cơm ấm áo, và góp phần xây dựng xã hội loài người, mà còn để làm rạng danh Cha, và mở rộng Nước Trời ngay tại trần thế “. Amen.
16. Thánh hóa công ăn việc làm (Mt 25,14-30)--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Thật hạnh phúc biết bao hằng năm Giáo Hội dành ngày mồng ba tết để cầu nguyện cho việc thánh hóa công ăn việc làm. Quả thực, con người làm lụng, Thiên Chúa trao ban. Câu nói của người Pháp rất chí lý (L’homme propose, Dieu dispose). Con người có đầu óc, có kế hoạch, có tài năng, bầy mưu hiến kế, nhưng nếu Chúa không ban ơn, không tiếp sức, không cho sức khỏe, con người cũng không thể hoàn thành công việc theo ý muốn. Hiểu rõ ràng, mọi việc là do Chúa. Giáo Hội là người Mẹ hiền luôn quan tâm tới con cái của mình dành trọn ngày mồng ba để cầu xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm.
Vâng, ngay trang Sách Sáng Thế 2,4-9.15, tác giả đã viết: “Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Êđen, để con người canh tác và coi sóc đất đai “. Rõ ràng Thiên Chúa không muốn để con người ở nhưng không, năm chờ sung rụng, nhưng Ngài truyền lệnh hay nói một cách khác bắt con người phải làm việc. Bởi vì, ở nhàn rỗi, nhưng không sẽ gây ra tội lỗi. Nhàn cư vi bất thiện là thế. Sách Tông đồ Công vụ lại viết:” Bằng mọi cách tôi đã tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả và như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giêsu đã dạy: cho thì có phúc hơn là nhận “. Chính Chúa Giêsu đã làm gương cho nhân loại, cho chúng ta về đời sống lao động. Chúa đã chọn một gia đình để sinh ra. Cha của Ngài làm nghề thợ mộc. Thánh Giuse âm thầm làm việc để nuôi thân, nuôi gia đình Nadarét không quản nhọc nhằn. Mẹ Maria chăm lo việc nội trợ để phục vụ trong yêu thương Chúa Giêsu và thánh Giuse. Chúa Giêsu ngoan ngoãn vâng phục và san sẻ vất vả với Cha mẹ của Ngài. Tại Nadarét, nhân loại tìm lại được giá trị siêu việt của lao động, đó là giá trị cứu rỗi. Những giọt mồ hôi của Chúa trong gia đình Nadarét không hề kém giá trị cứu rỗi hôn việc rao giảng, loan báo Nước Thiên Chúa hay trong cuộc thống khổ tử nạn của Ngài, vì trong tất cả mọi sự Ngài đều tìm làm đẹp lòng Thiên Chúa, Cha của Ngài.
Chúa Giêsu đã dạy nhân loại, dạy chúng ta bài học để đời:”…phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi”.Dụ ngôn ông chủ đi phương xa, trao cho các đầy tớ các nén bạc, minh chứng rằng:” Cần cù lao động, chịu khó với công việc, vâng nghe lời chủ, sẽ đem lại hiệu quả tốt đẹp”. Lời kinh tiền tụng lễ ngày mồng ba tết dạy chúng ta nhiều điều:” …Cha còn sai Con Một giáng trần, để chia sẻ thân phận người lao động và thực hiện chương trình cứu độ muôn dân. Quả vậy, Người đã bắt chước Chúa Cha hoạt động không ngừng, nêu gương cho chúng con biết chuyên cần làm việc, không những để no cơm ấm áo, và góp phần xây dựng xã hội loài người mà còn để làm trạng Danh Cha, và mở rộng Nước Trời ngay tại thế “. Chúa Giêsu đã làm việc để cho Nước Chúa được rạng sáng vinh quang, để cho thế giới được an bình, thịnh vượng. Nên, chúng ta hãy bắt chước Chúa, làm việc và làm việc không ngừng, nhưng phải mặc cho công việc một ý nghĩa cao quý. Đã đành, mọi người làm việc là để cho gia đình, cho bản thân của mình được tồn tại.Tuy nhiên, lao động cũng có nghĩa là góp tay với mọi người thăng tiến cuộc sống và làm cho công việc, lao động có ý nghĩa cứu rỗi…
Ngày mồng ba tết, chúng ta xin Chúa thánh hóa công ăn viêc làm của chúng ta: công việc lao động tay chân và việc làm trí óc vv…Xin Chúa chúc lành cho công ăn việc làm của chúng ta trong năm mới này để chúng ta hiểu rõ:” làm do chúng ta và ban do Chúa “.
Lạy Chúa, Chúa đã muốn cho con người phải lao động để làm chủ thiên nhiên. Xin cho chúng con được thấm nhuần Kitô giáo, để công ăn việc làm của chúng con trong năm mới này nêu cao tình tương thân tương ái, và góp phần vào sự nghiệp chung là hoàn thành chương trình sáng tạo của Chúa. Amen.(Lời nguyện nhập lễ, lễ Thánh Hóa Công Ăn Việc Làm).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Lao động để làm gì?
2. Làm việc tay chân và làm việc trí óc có mệt ngang nhau không?
3. Chúa Giêsu có lao động?
4. Đối với Chúa Giêsu lao động có ý nghĩa gì?
17. Làm bởi bay, ban bởi Ta (Mt 25,14-30)
Ngày mồng ba tết, Giáo Hội nhắc nhở con người về sự hiện diện của Chúa trong mọi việc, trong mọi trạng huống của cuộc đời:” Không có Ta các con không thể làm gì được”. Chúa ban cho ta sức mạnh, tài năng, trí tuệ, khả năng để lao động sản xuất. Khoa học kỹ thuật cao, văn minh tiến bộ, nhưng sức riêng con người nào đâu có thể thành công được gì! Chúa ban cho ta vốn liếng để ta sinh lợi, nhưng:” Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên” (L’ homme propose, Dieu dispose). Ngày tết, người ta có tục lệ lì xì cho trẻ con để lấy hên, mỗi em tùy cách với số tiền mừng tuổi có thể làm nên việc cho bản thân mình.Bài Tin Mừng hôm nay cũng có thể áp dụng vào câu chuyện lì xì ngày tết.
VÍ DỤ NÉN BẠC: Mỗi người chúng ta sinh ra trong trần gian này đều được Chúa ban cho những ơn huệ đặc biệt. Có người Chúa ban cho ơn thông minh, có người được ơn ngôn sứ, được ơn phân giải những điều hay lẽ phải.Có người được Chúa ban cho tài năng làm nên danh phận. Mỗi người dù Chúa trao nhiều hay Chúa trao ít, Chúa vẫn đòi hỏi con người phải sinh lợi ra trên số vốn Chúa trao ban. Tin Mừng hôm nay ra định mức là phải làm lợi ra gấp đôi. Chúa lấy dụ ngôn này để ám chỉ tới Ngài. Ngài đã trao cho người 5 nén, 2nén và 01 nén. Tất cả phải làm ra, sinh lời ra vì làm biếng và xét nét trước lòng nhân hậu của chủ, của Thiên Chúa như người được trao một nén sẽ bị lấy lại nén bạc Chúa đã tặng ban mà còn bị luận phạt vì tính ích kỷ và làm biếng nữa. Đúng là đoạn Tin Mừng cho ta thấy tính cách nghiêm minh của Thiên Chúa, sự công bằng và lòng ngay thẳng của Ngài trước thái độ của mỗi người. Đoạn Tin Mừng này cho thấy tính hài hước, cười ra nước mắt và hạnh phúc đến tột độ của mỗi người được Thiên Chúa trao ban tài năng và kho tàng tài sản của mình. Chúa cũng giúp con người ý thức hơn về việc quản lý những gì Chúa trao ban cho mỗi người: trí khôn, khả năng, vật chất, của cải và cả vũ trụ, tài nguyên Chúa ban nhưng không cho nhân loại, cho mỗi người. Tất cả, những thứ đó đều do Chúa ban, con người phải biết phát huy những thứ đó cho tốt đẹp, để phục vụ chứ không phải để sở hữu riêng cho mình.Ý thức mọi sự là của Chúa ban và con người, loài người chỉ là quản lý những thứ đó, nên con người phải làm sao cho những của Thiên Chúa ban được phát triển tốt đẹp theo ý của Chúa.
MƯU SỰ TẠI NHÂN, THÀNH SỰ TẠI THIÊN: Vật chất, lương thực theo cái nhìn Kitô là của Chúa. Con người có dự tính, có kế hoạch nhưng mưa thuận gió hòa là do Trời, do Thiên Chúa.Chính vì thế, trung thành với ông chủ, với Thiên Chúa sẽ sinh lợi theo ý của Ngài. Đời là vốn và sự sống chính là biết phát triển những gì Chúa đã trao ban nhưng không cho mỗi người. Thánh hoá công ăn việc làm là điều cần thiết để mỗi người nhận ra sự hiện hữu của Chúa trong vũ trụ, trong đời sống, trong mỗi người. Lao động trí óc hay chân tay đều là những khả năng Thiên Chúa ban cho. Con người dù có giỏi đến đâu mà không cậy trông sức thiêng hộ phù chắc chắn khó thành đạt trên bước đường kinh doanh hay trồng cấy.
Mồng ba tết, Giáo Hội dành riêng để cầu nguyện cho việc thánh hóa công ăn việc làm là điều cần thiết nhất để nói lên sự phù trợ của Thiên Chúa và ” Không Thầy, các con không làm được gì “.
Xin Chúa chúc lành cho những công việc con người đang theo đuổi. Xin Chúa ban bình an cho những tâm hồn thành tâm thiện chí. Cuộc sống do Chúa ban. Sự sống của con người thuộc về Thiên Chúa. Xin Chúa chúc lành cho những gì Thiên Chúa tặng ban cho mỗi người. Nếu con người luôn ước mong làm lợi cho cuộc đời, họ phải hiểu rằng người Kitô hữu luôn hướng về bàn tiệc nước trời, bàn tiệc của mùa xuân vĩnh cửu, bất diệt.
Lạy Chúa, xin chúc lành cho công ăn việc làm của chúng con để cuộc đời của mỗi người chúng con luôn nhận ra sự có mặt của Chhúa.Amen.
18. Suy niệm Lời Chúa--Lm. Nguyễn Thể Hiện
Lãnh vực công ăn việc làm là một trong những lãnh vực quan trọng trong đó chúng ta thể hiện mối tương quan đích thực của chúng ta với Thiên Chúa. Chính khi thực hiện các trách nhiệm của mình trong đời sống thực tế hàng ngày, chúng ta tự diễn tả mình là ai trong tương quan với Thiên Chúa; và ngang qua việc thực hiện các trách nhiệm của mình trong đời sống thực tế hàng ngày mà chúng ta sẽ được Thiên Chúa đưa vào hưởng niềm hoan lạc của chính Ngài.
1. Một dụ ngôn được nói cho chúng ta và nói về chúng ta
Với dụ ngôn những yến bạc, Đức Giêsu công bố rằng chúng ta hoàn toàn tuỳ thuộc vào Thiên Chúa như những đầy tớ phải chịu trách nhiệm trước mặt Người; rằng mọi sự chúng ta có đều là của cải Thiên Chúa ký thác cho chúng ta; rằng chúng ta không được tuỳ tiện sử dụng những thứ chúng ta có theo ý riêng mình, song là phải theo đường hướng mà Thiên Chúa muốn; rằng Thiên Chúa sẽ đòi chúng ta phải tính toán sổ sách với Người về những điều thiện hảo đã được trao phó cho chúng ta; và rằng sự thành công hay thất bại của cuộc đời chúng ta tuỳ thuộc vào cách hành xử của chúng ta trong những gì Thiên Chúa trao phó cho chúng ta.
Qua cách hành xử và số phận của hai người đầy tớ tốt lành và trung tín, Đức Giêsu cho thấy đâu là cách hành xử đúng đắn của chúng ta trong cuộc sống hiện tại. Còn qua cách hành xử và số phận của tên đầy tớ xấu xa và biếng nhác, Ngài cho thấy một kẻ xấu xa sẽ đi đến chỗ bị huỷ diệt như thế nào.
2. Điều quan trọng là mối tương quan giữa ông chủ và các đầy tớ của ông
Những người đầy tớ không được tự tại nơi mình, nhưng là ở trong một mối tương quan tuỳ thuộc và phục vụ đối với ông chủ. Chính bản thân họ thuộc về ông chủ, những điều thiện hảo được ký thác cho họ là của ông chủ và những gì họ có thể làm ra cũng xuất phát từ tài sản của ông chủ chứ không phải hoàn toàn xuất phát từ bản thân họ. Như thế là trong những phương diện khác nhau, họ đều được nối kết chặt chẽ với ông chủ. Mà nếu vậy, cách hành xử của họ sẽ vừa tuỳ thuộc vừa biểu lộ cái quan niệm mà họ có về ông chủ của mình.
Hình ảnh những người đầy tớ trong dụ ngôn này cũng là hình ảnh của chúng ta trong tương quan với Thiên Chúa. Hình ảnh này cho thấy rằng chúng ta, và cùng với chúng ta là tất cả những gì chúng ta có, đều là thụ tạo của Thiên Chúa; rằng chúng ta không thể tự tại nơi chính mình; rằng mọi khả năng của ta đều đến từ bàn tay Thiên Chúa.
Nhưng không phải là mọi người đều được đón nhận cùng những ân huệ y như nhau; ông chủ giao phó của cải của mình cho các đầy tớ nhiều hay ít là tùy khả năng của họ. Ông biết rõ từng đầy tớ của mình. Tình yêu tôn trọng tự do và điểm độc đáo riêng của mỗi người. Thật phi lý nếu chúng ta đòi Thiên Chúa phải ký thác tài sản của Ngài cho mọi người theo lối bình quân chủ nghĩa cứng nhắc và phi nhân.
3. Cách hành xử và số phận của hai người đầy tớ tốt lành
Hai người đầy tớ tốt lành lập tức bắt tay vào việc. Họ sử dụng những điều thiện hảo đã được ký thác cho mình phù hợp với ý muốn của ông chủ. Họ đặt mình dưới những mục tiêu của ông chủ và lưu tâm đến những bận tâm của ông chủ. Hoạt động của họ hữu hiệu. Họ đến trình diện với ông chủ trong tư thế đàng hoàng của người đã thực hiện tốt những gì được trao phó cho mình.
Và họ đã nhận được niềm vui trào tràn. Ông chủ đã tuyên bố họ là những đầy tớ tốt lành và trung tín. Người đầy tớ tốt lành là người hoàn toàn đón nhận vị trí của mình trong tương quan với ông chủ và đặt mình trong tư thế phục vụ ông chủ. Anh ta không chạy theo những ý tưởng riêng của chính mình hoặc những tâm trạng riêng của mình, anh ta không giữ khoảng cách xa với ông chủ, nhưng hành động theo những mục tiêu và những mối quan tâm của ông chủ. Người đầy tớ trung tín là người phục vụ ân cần và luôn ý thức rằng những điều anh ta có trong tay là những điều được ký thác cho anh.
Sau khi hai người đầy tớ đã chứng tỏ những phẩm chất tốt lành và trung tín, ông chủ có thể tin tưởng mà trao phó cho họ những nhiệm vụ lớn lao hơn. Ông cho họ vào hưởng hạnh phúc dư tràn: “Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh” (25,21.23). Nhiều lần Tin Mừng Mt nói về sự “vào Nước Trời” (thí dụ 5,20; 7,21; 18,3), về sự “vào cõi sống” (18,8.9; 19,16), còn ở đây thì là “vào niềm vui”. Nước Trời có nghĩa là cõi sống và niềm hoan lạc vô biên dành cho những ai thuộc về Nước ấy. Ông chủ không giữ khoảng cách với những người đầy tớ tốt lành, nhưng ông đón nhận họ vào cõi sống của ông, vào sự hoan lạc đầy tràn của ông. Chúng ta không thể đạt tới cùng đích đó và không thể đi vào trong sự hoàn thành phúc lạc cuộc đời chúng ta chỉ dựa trên sức lực của riêng chúng ta, cũng không phải là ngang qua một cuộc hành trình do chúng ta chọn lựa và quyết định, nhưng chỉ là trong sự phục vụ Đức Chúa. Hai người đầy tớ tốt lành, cho dù khác nhau về kết quả công việc, đã đều được hưởng cũng một niềm hạnh phúc như nhau. Điều đó cho thấy niềm hạnh phúc mà họ được hưởng không được ban phát tuỳ theo điều họ đã làm được, mà là tuỳ theo lòng tốt của ông chủ và lòng trung thành của họ.
4. Cách hành xử và số phận của anh đầy tớ xấu xa
Ngay từ đầu, anh đầy tớ này đã có một mối tương quan sai lạc đối với ông chủ của anh ta. Anh ta coi ông chủ là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, và anh sợ ông chủ (25,24.25). Anh ta biết mình tuỳ thuộc ông chủ, nhưng anh ta không đặt mình dưới quyền bính của ông trong tin tưởng và chuyên cần. Anh ta sống sự tuỳ thuộc của mình vào ông chủ như một sự gì nặng nề, và anh ta bực tức với ông chủ như là với một người chuyên đi áp bức người khác, bắt người khác làm việc cho mình và bóc lột người khác. Trong mắt anh ta, ông chủ là người hà khắc xấu xa. Và anh ta từ chối dịch vụ mà ông chủ muốn anh ta thực hiện. Anh ta không thi hành ý muốn của ông chủ. Tuy anh ta không phung phí của cải đã được trao cho anh ta, anh ta cũng không dùng của cải ấy để tư lợi hay tiêu xài, nhưng anh ta lại đã để cho những của cải mà ông chủ đã ký thác cho anh ta thành ra vô dụng, rồi đem trả lại cho ông chủ đúng như anh ta đã nhận từ ông.
Kết cục, ông chủ gọi anh ta là tên đầy tớ xấu xa, biếng nhác và vô dụng, một người đã hoàn toàn đánh mất chính mình và đánh mất quyền lợi của mình khi không thực hiện bổn phận mình. Như anh ta đã từng cố ý giữ khoảng cách thật xa với ông chủ, thì bây giờ, ông chủ sẽ giữ khoảng cách thật xa với anh ta. Anh ta đã không đặt mình trong sự hiệp thông sâu xa và hữu hiệu với ông chủ, nên ông chủ phải để anh ta bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, nơi không có niềm vui, không có hạnh phúc, không có sự sống, mà chỉ có khóc lóc nghiến răng vì phải chịu sự huỷ diệt kinh hoàng. Chỗ tối tăm bên ngoài, nơi khóc lóc nghiến răng… chính là sự huỷ diệt dành cho những kẻ bị truất quyền hưởng Nước Trời (x. Mt 8,12). Bị loại khỏi sự hiệp thông với Thiên Chúa, bị loại khỏi ánh sáng, bị loại khỏi sự hiện diện đầy tình yêu của Thiên Chúa, thì không chỉ có nghĩa là không được tràn đầy hạnh phúc, không được sống viên mãn, mà còn là phải ở trong tình trạng khốn khổ, đau đớn, tuyệt vọng và tăm tối.
Chúng ta chỉ có thể đạt tới cùng đích tối hậu của mình nếu chúng ta đặt mình phục vụ Thiên Chúa, bằng cách sử dụng đúng đắn, theo ý Thiên Chúa, tất cả những gì Thiên Chúa ban tặng và trao phó cho chúng ta: sự sống, thời gian, khả năng, cơ hội, của cải… Thiên Chúa đã trao phó cho chúng ta những thực tại tốt lành đó, và chúng ta sẽ phải trả lời về việc sử dụng chúng.
Chúng ta thực hiện cuộc sống mình không phải là trong sự sợ hãi đối với Thiên Chúa, nhưng là trong tin tưởng, phó thác và yêu mến Người. Chính vì vậy mà chúng ta cầu xin Người thánh hoá công ăn việc làm của chúng ta. Lời cầu nguyện như thế sẽ được nhận lời, nếu trong lời cầu nguyện đó, chúng ta tuyên xưng mình chỉ là đầy tớ của Người, luôn chỉ muốn sử dụng, phù hợp với ý muốn của Người, tất cả những điều thiện hảo đã được ký thác cho mình, luôn đặt mình dưới những mục tiêu của Người và luôn lưu tâm đến những bận tâm của Người.
Lời cầu nguyện đó sẽ được mang vẻ đẹp của chính lời nguyện xin của Đức Thánh Trinh Nữ, Mẹ chúng ta: “Này tôi là tôi tá Chúa, xin hãy thành sự cho tôi theo lời Ngài!” (Lc 1,38).
19. Suy niệm Lời Chúa--Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện
(Bài giảng chép lại từ băng ghi âm)
Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ,
Hôm nay là ngày thứ ba và cũng là ngày cuối cùng trong tam nhật hành hương minh niên của chúng ta kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Trong lịch phụng vụ của Hội Thánh Việt Nam, ngày Mồng 3 Tết là ngày cầu xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm của chúng ta. Do đó, hôm nay, khi quây quần bên Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp để cầu nguyện, có lẽ tâm hồn của mỗi chúng ta đều mang nặng những ưu tư, những bận tâm về công ăn viêc làm và về đời sống của chúng ta trong năm mới này. Chính trong mối ưu tư về công ăn việc làm và về đời sống đó, chúng ta hiệp lời với Đức Mẹ nài xin Thiên Chúa thánh hóa tất cả công việc mà chúng ta sẽ làm trong năm mới này.
Bài Tin Mừng vừa được công bố trích trong Tin Mừng theo Thánh Gioan, kể về dấu lạ đầu tiên Đức Giêsu thực hiện tại tiệc cưới Cana. Đối với người Do Thái ngày xưa, rượu trong tiệc cưới là biểu tượng của tình yêu giữa cô dâu với chú rể, giữa chú rể với cô dâu, tức là biểu tượng cho thực tại quan trọng nhất làm cho mọi sự kiện, mọi biến cố, mọi thực tại trong lễ cưới trở nên có ý nghĩa. Tình yêu giữa người vợ và người chồng là yếu tố căn bản làm nên gia đình, làm nên sự thành công của gia đình. Thế mà trong đám cưới này lại xảy ra tình trạng thiếu rượu, tức là thiếu yếu tố quan trọng đem đến sự thành công. Ông quản tiệc là người chịu trách nhiệm về việc tổ chức đám cưới và xử lý những vấn đề nảy sinh ở đám cưới thì lại chẳng biết gì về tình trạng bi đát ấy. Nhưng có một người, là thân mẫu Đức Giêsu, đã nhận ra tình trạng bi đát đó. Thân mẫu Đức Giêsu đã trình bày vấn đề với Đức Giêsu, Con của Người. Mẹ đã không đến với ông quản tiệc để nói cho ông quản tiệc biết mà xử lý vấn đề của tiệc cưới. Mẹ đến với Đức Giêsu, trình bày với Đức Giêsu và chờ đợi sự can thiệp của Đức Giêsu. Và quả thật, Đức Giêsu đã can thiệp để giải quyết tình trạng hết sức cấp bách và bi đát ấy. Người đem lại cho đám cưới Cana sự thành công như lòng Thiên Chúa mong ước.
Kính thưa anh chị em,
Ngày hôm nay, khi chúng ta đến với Đức Mẹ và trình bày với Đức Mẹ về tình trạng của cuộc sống và những ưu tư của chúng ta về công ăn việc làm, là chúng ta đến trong lòng tin rằng Mẹ sẽ can thiệp bên cạnh Chúa Giêsu để Chúa Giêsu chúc lành, thánh hóa và làm cho công ăn việc làm của chúng ta trong năm nay được thành công. Chính trong cái xác tín đức tin ấy mà chúng ta quây quần bên Mẹ. Vậy đâu là những tâm sự mà chúng ta muốn thưa với Đức Mẹ bây giờ, thưa anh chị em?
(1) Trước hết, chúng ta đến đây, trong buổi chiều Mồng 3 Tết này, là để cùng với Đức Mẹ tuyên xưng rằng sự thành công của đời sống chúng ta và của công ăn việc làm của chúng ta trong năm mới này, hoàn toàn tùy thuộc vào Thiên Chúa là Đấng quyết định. Chính Thiên Chúa là Đấng làm cho công ăn việc làm và đời sống của chúng ta trong năm mới này thành công. Nói như lời tác giả Thánh Vịnh: “Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công; thành kia mà Chúa không phòng giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm”. Vậy chính trong lòng tin đó mà chúng ta đặt dưới chân Đức Mẹ những ưu tư của chúng ta về công ăn việc làm trong năm mới này, xin Đức Mẹ can thiệp với Thiên Chúa để Thiên Chúa chúc lành cho công ăn việc làm và cho đời sống chúng ta. Vì thế, vượt xa hơn một lời cầu xin, sự quy tụ của chúng ta chiều hôm nay ở đây là một lời tuyên xưng đức tin vào quyền năng và quyền quyết định của Thiên Chúa trên vận mạng và sự thành công của chúng ta.
(2) Nhưng không chỉ như thế, thưa anh chị em. Ngày lễ hôm nay được gọi là ngày xin ơn thánh hóa công ăn việc làm. Chúng ta không chỉ xin sự thành công trong công ăn việc làm. Nhưng còn đi xa hơn nữa, chúng ta xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm của chúng ta, nghĩa là làm cho những hoạt động của chúng ta trong năm mới này trở nên phương thế đem lại ơn cứu độ cho chúng ta. Ơn cứu độ không phải chỉ là thực tại của thế giới mai hậu. Ơn cứu độ không phải chỉ là thực tại siêu nhiên mà thôi. Ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho chúng ta là ơn cứu độ con người toàn diện. Trong cái toàn diện và cụ thể trong đời sống chúng ta, Thiên Chúa cứu chúng ta. Và mọi thực tại thuộc về đời sống con người đều có thể trở nên phương thế để đem ơn cứu độ đến cho chúng ta. Thiên Chúa cứu chúng ta là cứu trong cái thực tại thế tạm, thực tế và cụ thể của đời sống chúng ta.
Khi đến đây xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm của chúng ta, khi đến đây xin Thiên Chúa thánh hóa những hoạt động của chúng ta trong năm mới này, chúng ta tuyên xưng một xác tín, rằng ơn cứu độ Thiên Chúa ban cho chúng ta là một thực tại toàn diện. Khi qui tụ đông đảo ở đây để xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm, chúng ta đang tuyên bố với thế giới và với mọi người rằng tôn giáo không chỉ gói gọn trong những thực tại siêu nhiên thuộc thế giới bên kia, vì mọi thực tại thế tạm đều “dính dấp” đến tôn giáo và đời sống tôn giáo của chúng ta cũng “dính dấp” đến mọi thực tại của cuộc sống này. Vậy ai nói rằng Hội Thánh Công Giáo không được quyền lên tiếng về những vấn đề xã hội, hoặc rằng Hội Thánh Công Giáo chỉ nên gói gọn hoạt động của mình trong các lễ hội bên trong nhà thờ, thì người ấy đang phản bội Tin Mừng đấy, thưa anh chị em. Bởi vì Thiên Chúa đến cứu chúng ta và Người muốn thánh hóa mọi hoạt động của chúng ta trong cuộc sống cụ thể của chúng ta. Mọi hoạt động của chúng ta trong cuộc sống thế tạm và cụ thể đều trở thành phương thế cứu độ.
Thành ra, với việc anh chị em qui tụ ở đây bên cạnh Đức Mẹ và xin Đức Mẹ chuyển cầu để Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm, chúng ta đang tuyên xưng một sự dấn thân làm cho những thực tại thế tạm, những thực tại của công ăn việc làm chẳng hạn, trở thành phương thế cứu độ con người. Đó là ý nghĩa và tâm tình thứ hai mà chúng ta thưa lên với Đức Mẹ và cùng với Đức Mẹ tuyên xưng đức tin trước nhan Thiên Chúa trong buổi chiều ngày Mồng 3 Tết này.
(3) Nhưng, kính thưa anh chị em, tất cả chúng ta ở đây đều không ai sống một mình. Ngay cả trong lãnh vực công ăn viêc làm, chúng ta cũng ý thức rất rõ ràng tác động của cộng đồng và của xã hội trên đời sống riêng của mỗi người chúng ta.
Không ai trong chúng ta có thể phủ nhận được rằng những quyết định của nhà cầm quyền sẽ ít nhiều ảnh hưởng trực tiếp lên công ăn việc làm của chúng ta. Tôi lấy thí dụ: mô hình tăng trưởng nào được lựa chọn để làm mô hình tăng trưởng cho đất nước chúng ta? Điều đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến công ăn việc làm của chúng ta. Chính sách thuế khóa sẽ trực tiếp ảnh hưởng trên công ăn việc làm của mỗi người chúng ta. Một quy hoạch nào đó của một vùng nào đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ trên cuộc sống và trên công ăn việc làm của cộng đồng cư dân trong vùng đó. Không thể phủ nhận được tác động của các chính sách của những nhà cầm quyền trên công ăn việc làm của chúng ta.
Chúng ta cũng không thể phủ nhận được tác động của những hiện tượng xấu như tệ nạn xã hội, tình trạng an ninh, tệ quan liêu, nạn tham nhũng, sự lãng phí, sự suy thoái trong đời sống đạo đức, cách riêng là sự suy thoái đạo đức của những người có quyền trong các lĩnh vực khác nhau, công cũng như tư. Chúng ta không thể phủ nhận được tác động trực tiếp và tiêu cực của những chuyện đó trên công ăn việc làm của chúng ta. Sự thành công trong công ăn việc làm của chúng ta trong năm mới này sẽ chịu ảnh hưởng và tác động của những điều đó.
Ý thức như thế, chúng ta đến với Đức Mẹ chiều hôm nay để trình bày với Đức Mẹ cuộc sống cụ thể của chúng ta. Xã hội của chúng ta vẫn còn đầy dẫy những bất công. Chính ông Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh trong báo cáo tổng kết 5 năm cầm quyền vừa qua của Đảng Cộng sản tại đại hội lần thứ 11 cũng đã phải thừa nhận rằng: “Nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tệ nạn xã hội, tình trạng tội phạm, sự suy thoái về đạo đức và lối sống … vẫn chưa được ngăn chặn”, có nghĩa là vẫn còn tồn tại đầy dẫy trong xã hội. Đi xa hơn ông Nông Đức Mạnh, ông Nguyễn Văn An – nguyên Chủ tịch Quốc Hội từ năm 2001 đến 2006, cách đây vài tháng, khi trả lời phỏng vấn của báo Vietnamnet, đã không chỉ đề cập đến những sự suy thoái hay những hiện tượng này khác. Ông đề cập đến một lỗi hệ thống và ông bàn đến chuyện sửa sai lỗi hệ thống ấy. Có một số đảng viên cộng sản không đồng ý với cách lý giải của ông Nguyễn Văn An, tức là không đồng ý rằng có một lỗi hệ thống trong đường lối xây dựng xã hội chúng ta. Nhưng tôi chắc rằng không ai trong các đảng viên cộng sản hiện nay và cũng chẳng ai trong chúng ta ở đây mà không đồng ý với ông Nông Đức Mạnh rằng trong xã hội chúng ta còn đầy dẫy tệ quan liêu, nạn tham nhũng, sự lãng phí, tình trạng tội phạm, tình trạng tệ nạn xã hội, tình trạng suy thoái đạo đức của nhiều người, cách riêng là rất nhiều người cầm quyền trong các lĩnh vực khách nhau. Vì đó là thực tế đập vào mắt chúng ta hàng ngày.
Và tất cả những điều đó tác động trực tiếp đến công ăn việc làm của chúng ta.
Thế mà, như lời Kinh Thánh nói: “Khi nền móng cương thường đổ nát, người công chính còn làm được chuyện gì?”.
Vậy, hôm nay, khi chúng ta quây quần bên cạnh Đức Mẹ để cùng với Đức Mẹ đặt những ưu tư của chúng ta về công ăn việc làm và về đời sống chúng ta lên trước nhan Thiên Chúa, là chúng ta xin Đức Mẹ nhìn đến tình trạng đó của chúng ta. Chúng ta xin Đức Mẹ can thiệp trước nhan Thiên Chúa để Thiên Chúa giúp chúng ta ngăn chặn tệ nạn tham nhũng, ngăn chặn tệ nạn hối lộ, ngăn chặn sự xuống cấp về đạo đức của những người có quyền. Chúng ta xin Đức Mẹ ngăn chặn và hơn nữa, triệt tiêu những tệ nạn trong việc phân chia lợi tức xã hội, những tệ nạn trong lĩnh vực giáo dục, trong lĩnh vực kinh tế, trong lĩnh vực giao thông…, tức là những tệ nạn trong tất cả các lĩnh vực của đời sống ảnh hưởng đến công ăn việc làm và ảnh hưởng đến hoạt động của chúng ta trong năm nay. Chúng ta xin Đức Mẹ và chúng ta biết rằng Đức Mẹ đủ quyền năng để giúp chúng ta ngăn chặn và triệt tiêu những tác hại của các tệ nạn đó.
Đàng khác, chúng ta biết rằng sự thành công đích thực của toàn xã hội và vì vậy là của tất cả chúng ta, chính yếu thuộc về điều này: đó là tự do và phẩm giá của con người phải được tôn trọng. Khi nào tự do và phẩm gián của con người được tôn trọng, khi ấy xã hội mới phồn vinh đích thực, mới ổn định đích thực. Còn khi nào tự do, phẩm giá và nhân quyền không được tôn trọng, thì lao động và công ăn việc làm, thay vì là phương thế làm cho chúng ta triển nở và làm cho chúng ta trở nên người hơn, thì lại trở thành gánh nặng, lại trở thành ách nô lệ, lại trở thành yếu tố làm cho con người tha hóa, vong thân. Thành ra, chúng ta đến đây với Đức Mẹ để xin Đức Mẹ phù trợ, để xin Đức Mẹ chúc lành, xin Đức Mẹ cùng với Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm của chúng ta trong năm này, là chúng ta xin cho sự tự do, xin cho phẩm giá của con người, xin cho các quyền căn bản của con người… ngày càng được tôn trọng, và xin cho xã hội của chúng ta trở nên một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
(4) Tất nhiên, bên cạnh những tệ nạn, chúng ta cũng biết rằng trong xã hội chúng ta vẫn còn đấy những yếu tố hết sức tích cực, đặc biệt là những yếu tố tích cực từ những phận đời nhỏ bé. Anh chị em hãy nhớ lại: năm vừa rồi, khi bão lụt tràn về miền Trung, rất nhiều người đã cùng nhau góp phần của mình giúp anh chị em miền Trung qua cơn đại nạn lũ lụt. Rất nhiều người trong cộng đồng chúng ta đã góp phần nhỏ bé của mình đề đem lại sự ổn định cho đời sống của anh chị em ở miền Trung. Một ví dụ khác: nhiều người trong chúng ta đã góp phần nhỏ bé của mình để anh chị em dân tộc thiểu số ở bên cạnh dòng sông Pôkô trên Tây Nguyên không còn phải đi học hay vận chuyển những gùi sắn, gùi lúa của mình qua sông bằng cách đu dây cáp. Một chiếc cầu dây đã được bắc qua sông Pôkô từ những tấm lòng của bạn đọc khắp nơi của báo Tuổi Trẻ. Đấy là một bằng chứng về lòng nhân ái và về sự trợ giúp của những người nghèo với nhau. Một ví dụ khác: anh Trương Xuân Thức, người lái tàu trên một chuyến tàu hỏa gặp nạn, đã làm hết cách, thậm chí là hy sinh cánh tay trái của mình, để bảo đảm an toàn cho chuyến tàu ấy. Và khi thấy anh gặp nỗi đau vì hy sinh như thế, nhiều người ở khắp nơi đã an ủi, đã nâng đỡ, đã góp phần cùng với anh xoa dịu nổi đau của sự tật nguyền mà anh phải mang do sự hy sinh cứu những người khác. Đấy là bằng chứng rằng những người nghèo trong xã hội chúng ta, những phận đời bé nhỏ trong xã hội chúng ta, vẫn đóng góp phần mình để làm cho xã hội được nhân bản hơn, văn minh hơn. Rồi chúng ta biết có nhiều luật sư đã dám dấn thân để bảo vệ người nghèo trong các vụ án, cho dù họ phải trả giá bằng sinh mạng kinh tế, sinh mạng chính trị và ngay cả sinh mạng thể lý. Có những nhà báo bất chấp nguy hiểm để phanh phui những tệ nạn, tố giác tiêu cực… để xã hội nên trong sáng hơn… Và còn nhiều lắm. thưa anh chị em, những tấm lòng nhân ái làm cho cuộc sống của chúng ta an bình hơn, làm cho cuộc sống của chúng ta nhân bản hơn và nhờ vậy sự thành công của mỗi người được đảm bảo hơn.
Vậy hôm nay, khi qui tụ về đây để xin Đức Mẹ cầu bầu với Chúa thánh hóa công ăn việc làm, chúng ta xin Đức Mẹ chúc lành và nâng đỡ những tâm hồn ấy, những con người ấy, tức là chính chúng ta và là biết bao người nghèo khác. Đức Mẹ, tại tiệc cưới Cana, đã khích lệ, đã dạy dỗ, đã chỉ dẫn cho các gia nhân để họ cộng tác với Chúa Giêsu mà đem rượu mới cho đám cưới. Xin Mẹ, ngay hôm nay, trong năm này, cũng an ủi, khuyến khích, nâng đỡ chúng ta và tất cả những người thành tâm thiện chí khác, để chúng ta góp phần mình làm cho làm cho tự do, nhân quyền và phẩm giá con người được tôn trọng trong xã hội chúng ta. Và trên cái nền ấy, chúng ta sẽ thành công trong việc xây dựng cuộc sống của mình.
Tóm lại, kính thưa anh chị em, chiều hôm nay,
– thứ nhất, khi đến bên cạnh Đức Mẹ để cùng với Mẹ dâng lên Thiên Chúa những ưu tư của chúng ta về công ăn việc làm, về hoạt động, về đời sống của chúng ta trong năm mới, chúng ta thưa lên với Đức Mẹ xác tín rằng đời sống và sự thành công của chúng ta lệ thuộc vào Thiên Chúa: “Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công”.
– thứ hai, khi cùng với Đức Mẹ ra trước nhan thánh Thiên Chúa để dâng lên lời cầu xin Thiên Chúa thánh hóa công ăn việc làm của chúng ta, chúng ta xác tín rằng những hoạt động nhỏ bé và trần thế của chúng ta có thể trở thành phương thế cứu độ chúng ta.
– thứ ba, cùng với Đức Mẹ, chúng ta dâng lên Thiên Chúa lời nguyện xin tha thiết, để Thiên Chúa giúp chúng ta ngăn chặn và triệt tiệu những tệ nạn đang tác oai tác quái trên đời sống chúng ta: “Khi nền móng cương thường đổ nát, người công chính còn làm được chuyện gì?”.
– thứ tư, chúng ta nguyện góp phần mình làm cho xã hội ý thức hơn về tự do, về nhân phẩm và nhân quyền. Chúng ta nguyện góp phần vào việc làm cho xã hội ổn định hơn, làm cho xã hội phát triển một cách đích thực hơn như chương trình của Thiên Chúa. Chúng ta xin Đức Mẹ khích lệ, nâng đỡ để giúp chúng ta dám dấn thân xây dựng xã hội tốt lành, trong đó mọi người có cơ hội phát triển đích thực như thánh ý Chúa muốn.
Kính thưa anh chị em,
Ngày xưa, Đức Mẹ đã nhìn thấy tình trạng tiệc cưới Cana thiếu yếu tố căn bản làm cho bữa tiệc ấy có ý nghĩa. Ngày nay, Đức Mẹ cũng đang nhìn thấy những thiếu thốn căn bản để cuộc sống của chúng ta có thể phát triển.
Ngày xưa Đức Mẹ đã thưa với Chúa Giêsu để Người can thiệp tại tiệc cưới Cana và ban rượu ngon làm cho bữa tiệc cưới ấy được thành công và có ý nghĩa. Ngày nay, Đức Mẹ vẫn luôn cầu nguyện với Chúa để Người ban những yếu tố căn bản, giúp cho xã hội chúng ta được vận hành và phát triển một cách đích thực như lòng Chúa muốn.
Xin Đức Mẹ gìn giữ chúng con và ban ơn cho chúng con. Xin Đức Mẹ chúc lành cho công ăn việc làm của chúng con trong năm mới này. Amen.
20. Thánh hóa công ăn việc làm (Mt 25,14-30)
VIỆC LÀM VÀ LÀM VIỆC TRONG NĂM MỚI SẼ NHƯ THẾ NÀO?
Hôm Tĩnh tâm các Linh mục của GP Xuân Lộc, ông Trưởng ban Tôn Giáo cho biết tỉnh Đồng Nai năm vừa qua cũng chịu ảnh hưởng nặng nề bởi nền kinh tế thế giới suy thoái, một trong những vấn đề chính quyền tỉnh quan tâm đó là năm vừa qua có hàng trăm ngàn công nhân mất việc, nghỉ việc vì công ty làm ăn khó khăn thua lỗ. Con số hàng trăm ngàn người mất việc này sẽ còn ảnh hưởng đến các gia đình và bao nhiêu người khác nữa, chưa kể là vấn đề tội phạm xã hội sẽ tỷ lệ thuận với con số này. Nhìn vào bức tranh kinh tế và công ăn việc làm của cả nước năm qua, con số lạm phát đã lên đến mức kỷ lục, tình trạng nợ nần của Nhà nước khá trầm trọng, đồng tiền mất giá, giá cả các mặt hàng tăng mạnh… tất cả những thông tin ấy đang ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của mỗi người, hay nói cụ thể hơn nó ảnh hưởng đến cái túi, đến bữa cơm của các gia đình. Cuối năm vừa qua, các công ty xí nghiệp đều có thưởng, có những người được thưởng cả trăm triệu, nhưng cũng có những ngành nghề chỉ được thưởng mấy ký hạt dưa hạt bí và có những ngành nghề không được đồng nào…
Thưa quý OBACE, vấn đề việc làm ngày càng trở thành vấn đề quan tâm của nhiều người. Có việc làm, và làm việc như thế nào lại là chuyện khác, và việc làm có phù hợp có thoải mái, có đủ sống hay không lại là chuyện khác. Vấn đề chủ và thợ ngày nay cũng đã trở thành một vấn đề nan giải, chủ thì muốn thu hồi vốn nhanh lợi nhuận nhiều, thợ thì muốn lương cao và những điều kiện làm việc thật tốt. … Bài Tin Mừng hôm nay kể cho chúng ta về mối tương quan chủ và thợ:
Có một ông chủ sắp đi xa liền gọi các đầy tớ đến mà trao phó tài sản của ông- Ông chủ này quá tốt, đã tin tưởng trao hết tài sản mình cho công nhân, ông không đắn đo tính toán, ông cho họ có cơ hội để lập nghiệp. Ông cũng rất nhân đạo và biết nhìn người, ông trao cho người này năm nén, người kia ba nén, người khác một nén tùy khả năng mỗi người. Điều đó có nghĩa là ai có khả năng như thế nào thì ông chủ tạo điều kiện cho như thế, ông không bắt ép họ phải chịu trách nhiệm vượt quá khả năng của mình. Điều ông chờ đợi và đòi ở đầy tớ của ông không phải là chuyện lời hay lỗ, vì ông có thiếu gì đâu, mà là sự chăm chỉ làm việc và làm việc trong sự hăng say phấn khởi biết ơn ông, ông không chấp nhận sự lười biếng, không suy nghĩ tính toán, không cố gắng. Câu chuyện cho thấy khi ông chủ trở về, đã gọi đầy tớ đến để tính sổ, người năm nén sinh lời được năm nén khác, người ba nén cũng vậy, những người này đều được ông chủ khen là những đầy tớ tốt lành và trung tín, vì người đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn. Sự tín trung với chủ và giữ chữ tín trong công việc chính là điều những người này được khen thưởng.
Trái lại, sự bất tín biếng nhác, lười suy nghĩ tính toán, ù lỳ thụ động là điều không thể chấp nhận, đó là trường hợp của người lãnh một nén. Anh này đã đem chôn giấu nén bạc ông chủ đã trao, vì anh đã có cái nhìn hoàn toàn sai lạc về chủ của mình. Anh phân bì cho rằng chủ mình keo kiệt tham lam, hà khắc gặt chỗ không gieo thu nơi không phát, và anh còn mang một thái độ khác nữa đó sợ hãi thay vì yêu mến biết ơn ông chủ nên đã chôn giấu nén bạc của chủ. Chính từ cái nhìn không đúng về chủ, nên anh cũng không quan tâm gì đến việc kinh doanh sinh lời vốn liếng chủ trao. Đối với ông chủ, ngay việc giữ huề vốn nguyên vẹn một nén bạc đã không thể chấp nhận, ít ra anh ta cũng phải làm lời theo lãi suất ngân hàng… Ông chủ đã sa thải anh vì anh biếng nhác, không suy nghĩ không tính tóan để làm sinh lời vốn liếng chủ trao.
Qua thái độ của ông chủ và những người đầy tớ trong câu chuyện của Tin Mừng, Chúa Giêsu đã chỉ cho thấy Thiên Chúa chính là ông chủ tốt lành, Ngài đang ban cho chúng ta mỗi người những khả năng và tài năng khác nhau, Ngài còn tạo cho chúng ta có nhiều cơ hội để làm phát triển các khả năng và tài năng đó, và Ngài muốn chúng ta làm việc hết mình với lờng biết ơn và yêu mến Ngài, Ngài chờ đợi chúng ta hãy biết tận dụng thời giờ để làm sinh lời những gì chúng ta đã nhận được từ nơi Chúa. Nén bạc Chúa trao cho chúng ta hôm nay có thể là thời giờ, sức khỏe, tuổi trẻ tài năng và kể cả của cải vật chất nữa, chúng ta đã nhận được gì thì chúng ta phải sinh lời gấp đôi gấp ba những cái chúng ta đã nhận. Có những người Chúa ban cho nhiều cơ hội nhưng vì lười biếng hoặc chần chừ, thụ động nên đã để vuột mất cơ hội ấy, còn có những người khác họ đã nắm bắt được cơ hội và đã sinh lời cho bản thân và cho gia đình của mình.
Bài đọc một cho thấy vốn liếng Thiên Chúa trao cho con người nói chung và cho mỗi người nói riêng là phù với khả năng mỗi người. Vũ trụ này, trái đất này cùng mọi sinh vật tài nguyên khoáng sản trong đó là của Thiên Chúa, do Chúa dựng nên và làm chủ, thế mà Thiên Chúa đã trao tặng hoàn toàn cho con người, với chỉ một mong muốn là con người làm cho nó ngày càng thêm tốt đẹp hơn. Không chỉ trao cho con người tài sản vật chất, Thiên Chúa còn làm nên một vườn Êden, vườn thượng uyển của Chúa, là nơi và là tình trạnh hạnh phúc, cũng được Thiên Chúa trao cho con người làm chủ và chịu trách nhiệm chăm sóc cả khu vườn ấy và cả vũ trụ này. Adam Eva tổ tông của chúng ta đã đứng ra nhận tài sản của Thiên Chúa, nhưng hai ông bà cũng không khác gì người đầy tớ lãnh một nén bạc, đã chôn dấu tài sản của Thiên Chúa, đã làm tổn hại đến tài sản là hạnh phúc, đã hủy hoại sự cân bằng trong vũ trụ và trong tâm hồn mình, làm cho vũ trụ nên gai góc và chai đá vì tội bất tuân, nghì ngờ Thiên Chúa và phản bội lại sự tín trung, nên đã để mình và con cháu bị loại ra ngoài.
Bài đọc một cũng còn cho thấy rằng thiên Chúa của chúng ta như một người thợ, Ngài cũng hăng say tận tụy làm việc để tạo dựng nên vũ trụ, đặc biệt Thánh kinh diễn tả Thiên Chúa như người nghệ sỹ làm việc đổ mồ hôi để tạo nên tác phẩm tuyệt đẹp là con người. Như thế cho thấy rằng nếu thiên chúa của chúng ta là một Thiên Chúa luôn làm việc, thì con người cũng phải biết làm việc và làm việc giúp chúng ta nên giống Thiên Chúa, và làm việc để đem lại sư tốt đẹp cho vũ trụ và sự no cơm ấm áo hạnh phúc cho con người, đó là chúng ta đang sinh lời cho Thiên Chúa và đang cộng tác với Thiên Chúa trong việc tạo dựng và tô điểm cho vũ trụ này thêm tốt hơn, xin nhắc lại là làn cho vũ trụ nên tốt đẹp hơn. Như thế khi chúng ta hủy hoại mội trường xung quanh, làm cho nó ra ô nhiễm bẩn thỉu là chúng ta đã không trung tín với Thiên Chúa và gây tổn hại đến tài sản của Ngài.
Không dừng lại ở đó việc làm và làm việc còn là cách thế để chúng ta bày tỏ lòng yêu mến biết ơn và sự tín trung của chúng ta với Chúa, và còn là để có điều kiện chúng ta thực thi đức bác ái. Thánh Phaolô còn nhắc cho chúng ta một thái độ làm việc khác quan trọng hơn là làm ăn tìm kiếm của cải vật chất để giúp tự mình nuôi sống bản thân, làm tăng phẩm giá con người và còn là để chia sẻ giúp đỡ những người thiếu thốn vì: Cho thì có phúc hơn là nhận. Mỗi người đã nhận lãnh nhận rất nhiều từ Thiên Chúa, chúng ta cũng cần phải biết rộng mở đôi tay để cho đi và chia sẻ.
Thưa quý OBACE, ngày Mồng Ba Tết là ngày thánh hóa công ăn việc làm, có nghĩa là chúng ta xin Chúa giúp chúng ta biết thánh hóa công việc làm của mình, cho chúng ta có việc làm tốt, và giúp chúng ta sống và làm việc theo giáo huấn của chúa, làm việc trong công bình và bác ái, người chủ thì biết tôn trọng sự công bằng và quyền lợi người thợ, người thợ cũng phải biết tôn trọng quyền lợi của chủ để tất cả mọi người làm việc trong sự ý thức rằng Thiên Chúa đã tín nhiệm và trao phó tài sản của Ngài cho ta, và chúng ta chỉ là người quản lý nên phải biết tận dụng cơ hội và khả năng Chúa ban và làm việc hết mình trong tinh thần yêu mến tương thân tương ái.
Cầu chúc cho mọi người có được công việc làm như mong muốn và làm việc thật hiệu quả. Amen
21. Thánh hóa công việc làm
Quý vị và các bạn thân mến,
Hôm nay ngày mùng 3 Tết, Giáo Hội Việt Nam mời gọi mọi người cầu xin Chúa thánh hóa công việc làm ăn. Lời Chúa trong Tin Mừng Thánh Luca, tường thuật việc Chúa Giêsu dùng dụ ngôn “những người đầy tớ và những yến bạc” để dạy dỗ các đồ đệ của mình nhiều điều, liên quan đến công việc làm ăn:
Thứ nhất, Chúa đưa ra dụ ngôn để nhắc nhở các đồ đệ, không phải là “số các yến bạc được trao bao nhiêu”, mà là “những người đầy tớ đã sử dụng chúng như thế nào”. Người lãnh năm nén đã đi làm lợi năm nén khác, người lãnh hai nén làm lợi hai nén khác, riêng người lãnh một nén lại đem chôn. Tất nhiên ông chủ khen hai người đầu và nổi giận vì cách thế biếng nhác của người cuối cùng kia. Ta thấy người thứ nhất và thứ hai khác nhau về số các yến bạc, nhưng giống nhau ở chỗ đã mạnh dạn đem các nén bạc được trao ra sử dụng mặc dù chưa biết thắng bại ra sao. Riêng người cuối cùng không bắt tay vào việc, không tin vào sự nâng đỡ của ông chủ, và rồi đã đem chôn đi cái mình được trao, cái mình đã lãnh nhận. Quan sát ba người đầy tớ ta thấy: người ta không bằng nhau ở “số lượng” nhưng bằng nhau ở “nỗ lực”. Nếu so “số lượng nén bạc” được trao của người thứ nhất và người thứ hai chắc chắn ta thấy khác nhau, nhưng “nỗ lực công việc” và phần thưởng danh dự dành cho hai người chắc chắn giống nhau.
Hẳn điều nhắc nhở này cho các đồ đệ, cũng là điều nhắc nhở mỗi người chúng ta, số yến bạc là các khả năng Chúa trao cho mỗi người rất khác nhau. Có lẽ Chúa chẳng đòi hỏi gì nhiều, Chúa chỉ đòi hỏi mỗi người hải nỗ lực cố gắng làm việc trong tin tưởng phó thác vào quyền năng Chúa.
Thứ hai, dụ ngôn ấy, Chúa cũng nhắc nhở các đồ đệ là: phần thưởng dành cho người hoàn tất công việc được giao cách tốt đẹp, là người đó được giao thêm công việc mới và được hưởng niềm vui hạnh phúc với chủ, chứ không phải là người đó sẽ nghỉ ngơi. Hình phạt dành cho người biếng nhác là ngay cả cái công việc anh ta có, bây giờ cũng bị lấy đi và trao cho người đã có.
Quà tặng cũng như phần thưởng, Chúa chỉ dành cho những người đã nỗ lực cộng tác với Chúa. Và như thế, Chúa sẽ trao thêm cho họ nhiều khả năng khác đang khi họ thi hành điều Chúa muốn.
Sau cùng, qua dụ ngôn Chúa nhắc nhở các đồ đệ là: những khả năng được đem ra sử dụng sẽ phát triển và còn mãi, khả năng cất kỹ sẽ mai một và sẽ mất đi. Ví như bạn có khả năng hội họa, khả năng đàn nhạc,… nếu bạn đem ra sử dụng chắc chắn nó sẽ được thăng hoa, nhưng nếu chôn vùi bạn sẽ đánh mất nó.
Quý vị và các bạn thân mến,
Ngày hôm nay mùng 3 Tết, ngày lễ cầu xin Chúa thánh hóa công việc làm ăn của chúng ta. Chúng ta tin tưởng vào sức mạnh của Chúa đã luôn nâng đỡ chúng ta. Chúng ta cám tạ ơn Chúa vì Chúa đã ban cho mỗi người các nén bạc khác nhau. Nhưng chúng ta cũng xin ơn Chúa và cộng tác với Chúa để làm phát triển các yến bạc mà Chúa đã trao vào tay chúng ta. “Ai trung tín trong việc nhỏ, sẽ trung tín trong việc lớn”.
Lạy Chúa,
Đôi lúc trong cuộc sống, chúng con chưa nỗ lực cộng tác với ơn Chúa, nhưng chúng con lại hay kêu trách Chúa, khi so sánh mình với người khác. Đôi lúc chúng con biếng nhác, nhưng lại ưa đòi phép lạ. Đôi lúc chúng con không xứng đáng Chúa trao những nén bạc lớn, vì thái độ thiếu nhiệt thành của chúng con.
Chúng con xin lỗi Chúa, và xin Chúa đỡ nâng chúng con.
Xin ban cho chúng con có công ăn việc làm ổn định, đời sống an bình tươi vui. Amen.
22. Giọt mồ hôi có Chúa (Mt 25, 14-30)--Nt. Anna Têrêxa Thiên Hoàng
Phụng Vụ Lời Chúa và các lời nguyện trong thánh lễ hôm nay nhắc nhớ chúng ta về bản chất và ý nghĩa công ăn việc làm của con người. Thiên Chúa đặt mỗi người vào một khu vườn phù hợp với họ như ruộng đồng, nhà máy, phòng thí nghiệm, giảng đường, sân khấu, … để thực hiện nhiệm vụ cao cả là hoàn thành công trình sáng tạo của Người (BĐ1). Tuy vậy, con người không lao tác một mình và cho bản thân mình, nhưng cần dùng thành quả lao động để chia sẻ và đỡ nâng những ai túng cực (BĐ2). Muốn vậy, chắc chắn con người phải siêng năng làm việc, phải dùng hết sức lực và trí khôn Chúa ban để sinh lợi theo ý Người muốn (BĐ3).
Nói cách khác, lao động của con người được Thiên Chúa chúc phúc và mặc cho một cùng đích siêu việt: làm việc không chỉ để có phương tiện độ nhật, không chỉ để sống hạnh phúc trên trần gian này, mà còn để đạt được kho tàng vĩnh viễn và hạnh phúc viên mãn, nơi mối mọt không đục khoét và kẻ trộm không lấy đi được. Thành ra, những giọt mồ hôi con người đổ ra khi vất vả làm lụng, khi khổ sở kiếm sống, … là những giọt mồ hôi có Chúa, những giọt mồ hôi đã được Cha Nhân Lành thấu biết và đếm cả rồi. Và khi đó, chúng ta lao động, làm ăn, bán buôn, nghiên cứu, … khác với những người không nhìn biết Thiên Chúa!
Thực vậy, thiên hạ cầu trời khấn phật, coi tướng số, cúng kiếng, xin xăm, … cho công việc được thành đạt. Có người lọc lừa, dối trá, thủ đoạn để cầu lợi; nhưng cũng có người quảng đại chia tài sản mình cho người nghèo; có người dành cả đời cống hiến cho xã hội, cho cộng đồng, …
Người Công giáo chúng ta thì xin lễ, xin khấn,… để Chúa thánh hóa và chúc phúc cho công ăn việc làm của chúng ta…Chúng ta chia sẻ, đỡ nâng biết bao người anh chị em nghèo khổ, bệnh tật, … bằng chính lòng bác ái và đồng tiền thu được trong lao công vất vả. Nhưng thật lòng mà nói, cũng đã có những cạnh tranh không lành mạnh, những mánh khóe, những giành giựt, những đấu khẩu, khấu thủ với nhau trên thương trường, nơi đồng ruộng hay trên nương rẫy, …. Và như thế, vô tình hay cố ý, chúng ta đã tự mâu thuẫn với chính mình, tự trở nên hợm hĩnh trước Chúa: chúng ta mời Chúa ra chỗ khác, cho con tự xoay sở, tự làm việc theo cách của con, dù trước đó chúng ta đã hết lòng cầu nguyện, xin khấn, xin lễ … để phó thác vụ việc cho Chúa.
Nói một chút về những tiêu cực trong tiết xuân tươi mới, để chúng ta kịp lắng lòng lại, kịp giật mình tự hỏi: những giọt mồ hôi tôi đổ ra đêm ngày để kiếm miếng cơm manh áo; để đem lại tương lai tươi sáng cho con cái; để tìm phồn vinh cho gia đình, cho đất nước; … có sự đồng hành của Chúa không? Có giống với giọt mồ hôi của anh thợ mộc làng Nadarét xưa không?
Ước gì trong những rộn rã của hoa quả, của lễ vật người người dâng Chúa Xuân hôm nay, chúng ta nhận ra và khao khát một điều: Xin cho những giọt mồ hôi con đổ ra là giọt mồ hôi có Chúa, hòa vào những giọt mồ hôi của Chúa, mang đậm ước muốn và phúc lành của Chúa.
Giọt mồ hôi có Chúa, là giọt mồ hôi lao tác cật lực với sức khỏe, với trí khôn, nhưng luôn tín thác vào Chúa.
Giọt mồ hôi có Chúa, là giọt mồ hôi tính toán công mua sức bán, nhưng luôn tôn trọng sự thật và luật công bằng của Chúa.
Giọt mồ hôi có Chúa, là giọt mồ hôi tìm kiếm tiền bạc như những đầy tớ tốt, chứ không phải là những ông chủ khắc nghiệt.
Và, giọt mồ hôi có Chúa, là giọt mồ hôi được tích cóp từng ngày, qua năm qua tháng, … để cuối cùng, góp thành một bể yêu thương cho ta vui đùa ngụp lặn, gột rửa ta nên sạch trong, và mở ra dòng chảy vào Biển Yêu Thương của Đấng đã chấp nhận bước xuống Biển Đời lem lấm phận người để thánh hóa, để thay dòng đổi lượng cho nó đượm hương Thiên Đàng và in bóng Người Cha yêu thương đang mở rộng vòng tay đón đợi ta.
23. Thánh hóa công việc--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Chính phủ đang cố gắng đưa nước Việt Nam mình từ tình trạng nông nghiệp lạc hậu để bước qua giai đoạn hiện đại, và dần dần sẽ biết đất nước thành một quốc gia công nghiệp. Ước mơ là như thế, còn khi nào thực hiện được thì chưa biết, nhưng có một thực tế là số lượng dân cư bỏ ruộng để lên thành phố làm việc ngày càng gia tăng. Vì không được chuẩn bị cho nếp sống và sự phức tạp của đô thị, nên những người này khi nhập cư đã gặp không ít khó khăn và rủi ro, ngược lại tình trạng nông dân bỏ nông thôn lên thành phố đang kéo theo việc nông thôn hóa thành phố từ đời sống văn hóa đến những vấn đề xã hội.
Trong khi đó tình hình kinh tế xã hội của chúng ta chưa có gì là khả quan lắm, năm vừa qua hàng loạt công ty đã phải đóng cửa, kéo theo hàng triệu người thất nghiệp. Tìm được việc làm vào thời điểm này thật khó khăn, và tìm được việc như ý muốn càng khó khăn hơn nữa, chưa kể vấn đề lương bổng có hợp lý hay không. Cuối năm vừa qua có những công ty thưởng tết cho công nhân bằng nửa tháng lương, bằng mấy chai nước mắm, bằng vài gói giấy vệ sinh…
Ngày nay, công ăn việc làm vẫn là một trong những lo toan hàng đầu của những người trong độ tuổi lao động, vì không ai muốn mình trở thành người vô dụng ăn bám xã hội. Ngược lại làm việc cũng đang là vấn đề gây mệt mỏi cho nhiều người, vì có nhiều người đang bị trói buộc với công việc, khiến họ cảm thấy cuộc sống gò bó, nhàm chán, cuộc sống như một cái máy đã được lập trình ngày nào cũng như ngày đó, khiến cho nhiều người cảm thấy mệt mỏi và căng thẳng vì công việc.
Hôm nay ngày Mồng Ba Tết, Giáo Hội mời gọi chúng ta đến với Chúa, phó dâng công việc và những dự tính của năm mới cho Chúa để xin Chúa chúc lành và xin Chúa giúp chúng ta biết làm việc như thế nào cho đẹp ý Chúa. Chúng ta có thể kinh nghiệm thấy: cùng một công việc và điều kiện làm việc, nhưng công việc ấy trở nên vui tươi phấn khởi hay trở nên nhàm chán là tùy thuộc ở thái độ của người đó với công việc, hay nói khác hơn đó là tùy thuộc người đó làm việc vì mục đích gì và với ý nghĩa nào.
Lời Chúa hôm nay chỉ cho chúng ta thấy những giá trị của công việc theo quan điểm Kitô giáo. Bài đọc một sách Sáng Thế cho thấy, làm việc không phải là một hình phạt, cũng không phải bởi hậu quả tội lỗi, mà khi làm việc chúng ta được trở nên cộng tác viên của Thiên Chúa. Thiên Chúa chúng ta tôn thờ không phải là một vị thần bất động mà là một vị Thiên Chúa làm việc liên tục. Kinh Thánh đã dùng những hình ảnh hết sức con người để diễn tả về một Thiên Chúa như một người thợ, một nghệ nhân, một người nông dân, miệt mài với công việc sáng tạo nên vũ trụ này. Ngài dựng nên mặt trời mặt trăng cùng cây cối, muôn loài động vật và thực vật, Ngài cho nước phát sinh từ lòng đất để tưới giội cho cây cối xanh tươi, Ngài làm cho vủ trũ xoay vần khiến thời tiết mùa màng thuận lợi cho con người, cho cây kết trái nảy mầm. Sau mỗi công việc tạo dựng, Thánh Kinh khẳng định: Thiên Chúa thấy mọi sự Ngài đã dựng nên đều tốt đẹp. Với sự khẳng định này cho thấy rằng mọi vật, mọi loài và vũ trụ thiên nhiên đều tốt đẹp ngay từ lúc ban đầu. Trong khung cảnh tốt đẹp đó, Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người, đặt con người vào vườn địa đàng để con người được hưởng những kỳ công của Thiên Chúa, làm chủ mọi loài và tiếp tục canh tác, cũng như làm cho vũ trụ mỗi ngày được nên hoàn hảo hơn. Như vậy khi chúng ta làm việc, đừng làm như một kẻ nô lệ phải làm, mà hãy làm việc và bắt đầu mỗi ngày mới bằng tư thế của một một cộng tác viên của Thiên Chúa, được Thiên Chúa tín nhiệm cậy nhờ, và hãy làm vì sự hãnh diện đó và vì lòng yêu mến và biết ơn Chúa.
Làm việc vì lòng yêu mến biết ơn và cộng tác với Chúa, là thái độ Chúa Giêsu muốn nhắc cho chúng ta trong câu chuyện của bài Tin Mừng. Thiên Chúa như một ông chủ sắp đi xa đã tin tưởng trao phó tất cả gia sản cho những đầy tớ: Ông cho người này năm nén, người ka ba nén, người khác nữa một nén tùy theo khả năng mỗi người. Điều đó cho thấy Thiên Chúa trao cho ai điều gì, việc gì là theo khả năng của họ, Thiên Chúa không không bất công, và không muốn làm khổ ai khi trao cho họ những trách nhiệm vượt khả năng. Như thế có nghĩa là những hoàn cảnh điều kiện chúng ta đang có, đang được lúc này, là phù hợp với khả năng của mỗi người, khi chúng ta có khả năng hơn, Thiên Chúa lại trao cho ta nhiều hơn.
Tuy nhiên được trao vốn nhiều hay ít điều đó không quan trọng cho bằng mỗi người có thái độ nào khi đón nhận những điều kiện và những nén vàng Chúa trao. Câu chuyện cho thấy người lãnh năm nén ngay lập tức làm ăn sinh lời được năm nén khác, người lãnh ba nén cũng vậy, còn người lãnh một nén thì lại sợ hãi và lười biếng, than thân trách phận, đem chôn vùi số vốn của mình mà không làm gì cả. Đến ngày Thiên Chúa đòi mỗi người tính toán lại sổ sách cuộc đời, khi ấy, người lãnh năm nén đã sinh lời được năm nén khác, người ba nén cũng sinh lời ba nén khác, hai người này đã khiến ông chủ rất vui, đã khen thưởng cho hai người này: Anh là đầy tớ tài giỏi và trung thành, được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh.
Trái lại, người lãnh một nén đã thể hiện thái độ tiêu cực của anh. Anh không hề biết ơn hoặc yêu mến chú, anh mang trả lại cho chủ với lời lẽ cay cú: Tôi biết ông là người hà khắc gặt chỗ không gieo, thu nơi không phát, vì thế tôi sợ nên đem chôn giấu nén vàng của ông, đây của ông tôi trả lại ông. Ông chủ đã không chấp nhận như thế, nên đã gọi anh là tên đầy tớ xấu xa và biếng nhác. Ông chủ còn ra lệnh lấy lại những gì ông đã trao cho hắn để cho người đã có mười nén, còn tên đầy tới lười biếng đó thì bị quăng ra ngoài. Chứng tỏ rằng, vì người đầy tớ này đã không làm việc, và đã không có lòng yêu mến biết ơn chủ đã trao vốn cho mình, mà anh còn quay lại trách móc ông chủ, và vì thế anh tự biến mình thành một kẻ nô lệ thay vì là một người được yêu thương tin nhiệm.
Thưa quý OBACE, trước sự nhắc nhở của Lời Chúa hôm nay, chúng ta sẽ dự đinh làm việc gì và làm việc như thế nào trong năm mới này?
Những ngày đầu năm cũng là ngày người ta tìm kiếm và quyết định cho công việc làm ăn trong năm mới, và khi gặp nhau, mọi người đều cầu chúc cho nhau năm mới bình an, mạnh khỏe và công ăn việc làm được thuận lợi. Chúc cho nhau như thế là cũng ngầm hiểu rằng bình an, sức khỏe và công ăn việc làm thuận lợi không phải do con người đem lại, mà là do Thiên Chúa ban tặng cho mỗi người.
Như thế, chúng ta hãy làm việc trong tinh thần cậy trông tin tường nơi Chúa, biết phó thác công việc cho Chúa. Vì là cộng tác viên của Thiên Chúa, nên hãy làm việc với niềm tự hào là con Chúa, đừng kiêu căng cậy dựa vào sư tài khéo của mình mà vô ơn đối với Thiên Chúa, cũng đừng làm việc với sự chản nản oán trách Thiên Chúa, vì Thiên Chúa trao ban cho mỗi người những nén bạc tùy theo khả năng của họ. Nén bạc Chúa đang trao cho mỗi chúng ta là thời giờ, là trí tuệ, đừng phí phạm thời giờ vào những chuyện chơi bời lêu lổng buông thả, vì Chúa sẽ không thêm cho ai một phút nào trong 24 giờ một ngày, hãy sử dụng khả năng trí tuệ Chúa ban, để học hỏi, để suy nghĩ và để biết chọn lựa phân biệt điều tốt điều xấu, điều đúng điều sai. Nén bạc Chúa trao còn là sức khỏe, là tuổi trẻ, là nghị lực và tất cả những điều kiện hiện tại, hãy cố gắng để làm cho cuộc sống của mình nên tốt đẹp hơn, làm cho mình mỗi ngày nên tốt đẹp xứng đáng với phẩm giá con người và con Chúa hơn.
Đồng thời hãy làm việc với tinh thần tôn trọng thiên nhiên và môi trường sống, vì trái đất và vũ trụ này là tác phẩm của Thiên Chúa, đừng hủy hoại nó, nhưng hãy làm cho môi trường sống thêm sạch sẽ hơn, xinh đẹp hơn. Khi chúng ta sống và làm việc như thế, là chúng ta đang cộng tác với Thiên Chúa, để làm cho cuộc sống và vũ trụ thêm tươi đep hơn theo ý Chúa.
Xin Chúa chúc lành cho những toan tính và công việc của mọi người và cho công việc được thành công theo ý Chúa Amen.
24. Lời Chúa Ngày Mồng 3 Tết--Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Thiên Chúa ban cho mỗi người một nén bạc. Nén bạc tượng trưng cho khả năng, cho điều kiện của mỗi người khác nhau. Thế nên, phải biết “liệu cơm gắm mắm” cho phù hợp với khả năng và điều kiện của mình. Đừng mơ tưởng những sự viễn vông, vì điều đó vượt ngoài khả năng. Đừng làm những việc không trong tầm tay kẻo uống phí thời gian, vì uổng công vô ích.
Có một con Dê tự tách ra khỏi đàn, bị con Sói đuổi theo. Dê quay lại, nói với Sói:
- Thưa ngài, tôi biết thân phận mình phải hiến dâng cho ngài. Nhưng để ngài thưởng thức món ăn đựơc ngon, ngài hãy thổi sáo và tôi múa nhảy cho mà xem.
Sói bắt đầu thổi sáo cho Dê nhảy quay cuồng. Lũ chó nhà nghe tiếng huyên náo bèn nhảy ra đuổi Sói.
Sói vừa chạy vừa quay đầu lại nói với Dê:
- Ta chịu thua ngươi vì ta vốn anh hàng thịt lại giở trò làm nhạc công, nên bỏ lỡ mất thời cơ.
Hóa ra khi chúng ta làm những việc ngoài khả năng thì chúng ta chỉ là một anh hề mà thôi. Có khi vất vả mà chằng nên công trạng gì. Thế nên, hãy nắm bắt những gì mình có thể làm được và trong tầm tay của mình. Đừng làm những chuyện “vá trời” mà chẳng được công ích gì! Hãy làm những chuyện trước mắt, những chuyện cần làm ngay mới đem lại hiệu quả cao. Con sói đã sổng mất con mồi khi làm việc không đúng khả năng của mình. Con người cũng sẽ thất bại nếu không biết làm đúng chuyên môn, hay đúng khả năng của mình.
Hôm nay, ngày Mồng Ba Tết, chúng ta hướng lòng lên Đấng Tạo thành để cúi xin Ngài chúc phúc cho công việc một năm được thuận buồm xuôi gió. Chúng ta tin rằng “Mưu sự tại nhân, Thành sự tại Thiên”. Con người chúng ta dù mưu lược đến đâu! Dù cần cù đến đâu mà không có sự chúc phúc của Thiên Chúa thì cũng chỉ là “dã tràng xe cát biển Đông” mà thôi! Hơn nữa, sự vất vả lao nhọc của chúng ta nếu được hỗ trợ bởi ơn trên phù hộ, chắc chắn công việc của chúng ta sẽ được thành toàn, được viên mãn theo dự định.
Chúa ban cho chúng ta mỗi người một khả năng, tựa như mỗi đóa hoa làm cho vườn hoa đa sắc. Cuộc đời con người nếu biết dùng khả năng của mình cũng vẽ lên bức tranh đẹp cho cuộc đời. Sự cần cù lao động cũng là dịp để chúng ta thể hiện vai trò cộng tác vào công trình sáng tạo và cứu chuộc của Thiên Chúa. Thiên Chúa tạo dựng con người để con người tiếp tục hoàn thiện công trình mà Ngài đã tạo dựng. Sự hoàn thiện đòi con người phải cần mẫn, phải sáng tạo. Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn đòi chúng ta quy hướng về Ngài, Ngài vẫn đòi chúng ta trao phó mọi sự trong tay Ngài, tựa như người con chỉ làm theo sự xếp đặt của cha mẹ, dầu vẫn phải sáng tạo và làm tốt hơn cho công việc.
Ngày đầu năm chúng ta hãy dâng cho Chúa những công việc và dự định của chúng ta. Xin Chúa hãy làm vơi đi những gánh nặng cuộc đời bằng ân sủng của Chúa. Xin Chúa hãy chúc lành cho những dự định của chúng ta sớm được hoàn thành. Chúng ta tin vào Thiên Chúa quyền năng. Chúng ta tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa sẽ chăm sóc từng cuộc đời chúng ta theo lòng nhân ái của Ngài. Trong niềm tin đó, chúng ta hãy để cho Ngài an bài mọi sự theo thánh ý Ngài, còn chúng ta hãy làm mọi sự theo khả năng của mình. Amen.
25. Mồng ba Tết 2019: Làm việc với lòng yêu mến Chúa—và với tinh thần trách nhiệm--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Cuộc chiến thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc vẫn chưa hạ nhiệt. Việt Nam là quốc gia lệ thuộc nhiều vào Trung Quốc cũng bị ảnh hưởng không nhỏ trong vấn đề làm ăn với Hoa Kỳ. Cuối năm qua, tổng kết lại tình hình kinh tế cả nước, chính phủ vui mừng báo cáo tổng thu nhập quốc gia đạt được hơn 7%, vượt với chỉ tiêu đề ra. Theo con số này, có nghĩa là kinh tế đang phát triển. Tuy nhiên trong thực tế, nông dân Việt Nam vẫn cứ bị tình trạng được mùa mất giá, bị ép giá. Các nhà kinh doanh đang đối diện với rất nhiều khó khăn, những người lao động lại càng khó khăn hơn vì hàng hóa tiêu dùng tăng giá. Ngày đầu năm dương lịch, ngân hàng chính thức tăng tỷ giá đola, có nghĩa là đồng tiền Việt lại bị trượt giá; nhiều ngân hàng lớn rơi vào tình trạng thiếu vốn phải trông chờ nhà nước bơm tiền để cầm cự. Chính phủ có kế hoạch tăng nhiều loại thuế phí và bán bớt tài sản công để có tiền chi tiêu… những điều đó cho thấy bức tranh kinh tế hình như không mấy lạc quan. Những ngày cuối năm, có dịp hỏi thăm các doanh nghiệp trong xứ về tình hình làm ăn, thì đều có chung một tình trạng đó là sản xuất chậm, hành hóa khó bán…
Thưa quý OBACE, sau những ngày nghỉ tết mọi người đã nghĩ ngay đến công việc làm ăn trong năm mới: Không biết mình sẽ làm gì và làm như thế nào để có lợi nhuận tốt, chu cấp cho các nhu cầu của gia đình. Ngày mồng ba tết, Giáo Hội mời gọi chúng ta xin Chúa thánh hóa, chúc lành, cho những toán tính, dự định và công việc làm ăn của mỗi người, mỗi gia đình trong năm mới. Lời Chúa hôm nay cũng chỉ cho chúng ta biết phải làm việc trong tinh thần nào, để qua công việc hằng ngày, chúng ta có thể sống thánh và thánh hóa gia đình mình.
Đoạn sách Sáng Thế mặc khải cho thấy: Việc làm và làm việc là một vinh dự Chúa ban, để chúng ta được cộng tác với Chúa làm cho cuộc sống và vũ trụ ngày càng thêm tốt đẹp hơn. Thiên Chúa dựng nên vũ trụ thật xinh đẹp, tốt lành. Thiên Chúa vì yêu thương con người, đã trao tặng tuyệt tác của Ngài cho con người, để con người tiếp tục duy trì, bảo vệ và góp phần làm cho vũ trụ xinh đẹp thêm. Sách Sáng Thế diễn tả: Thiên Chúa trồng một vườn cây ơ Eđen về phía đông và đặt vào đó con người do chính mình nặn ra. Qua câu Kinh Thánh này cho chúng ta thấy Thiên Chúa của chúng ta, được so sánh như một nông dân, tự tay Ngài trồng một khu vườn. Thiên Chúa phán một lời là có tất cả, nhưng đoạn Kinh Thánh này lại diễn tả Thiên Chúa như một người luôn làm việc, Ngài lấy bùn đất mà nặn nên con người. Như thế, có nghĩa là khi chúng ta làm việc, không chỉ là cộng tác với Thiên Chúa trong việc bảo vệ và làm cho vũ trụ nên tốt đẹp hơn, mà khi làm việc, chúng ta sẽ làm cho mình trở nên giống Thiên Chúa hơn.
Kinh Thánh còn kể tiếp: Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Eđen để cầy cấy và canh giữ đất đai. Như thế có nghĩa rằng, Thiên Chúa đã tín nhiệm con người, trao cho con người quyền quản lý và canh giữ vũ trụ này. Thiên Chúa không muốn con người sống như một vị khách đi thăm quan khu vườn vũ trụ, nhưng là người làm việc và có trách nhiệm bảo vệ vũ trụ này. Với cách diễn tả bình dân như trên, Sách Sáng Thế chuyển tải những nột dung giáo lý thật sâu xa và nhấn mạnh đến phẩm giá cũng như trách nhiệm của con người đối với vũ trụ. Khi con người làm việc với hết khả năng, trách nhiệm của mình là đang thi hành ý muốn của Thiên Chúa từ khi tạo dựng vũ trụ.
Khi hiểu được những lời Kinh Thánh nói trên, chúng ta thấy rằng: lao động làm việc ngay từ ban đầu, không phải là hình phạt của Thiên Chúa, cũng không phải là cách Thiên Chúa dùng để đày ải con người. Lao động nó chỉ trở thành nỗi nhọc nhằn cho con người, từ sau khi con người phản bội Thiên Chúa. Con người muốn tự mình định đoạt tất cả, làm chủ tất cả, kể cả tương lai của mình, mà không cần Thiên Chúa, khiến cho trật tự của vũ trụ bị đảo lộn. Con người trở nên tham lam ích kỷ, vũ trụ và muôn vật trở nên thù nghịch với con người, đất đai trở nên gai góc và sỏi đá, con người phải đổ mồ hôi mới có miếng ăn.
Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta thái độ làm việc theo gương của Ngài, đó là làm mọi công việc trong tình yêu mến và tín thác nơi Chúa. Khi làm việc vì lòng yêu mến Chúa thay vì sự tham lam ích kỷ, chúng ta sẽ tìm lại được niềm vui trong công việc và qua công việc Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta nên thánh.
Chúa Giêsu đã kể câu chuyện các đầy tớ và những nén bạc được trao để nói lên thái độ chúng ta phải có khi làm việc. Trước hết, Thiên Chúa như ông chủ trong câu chuyện, Ngài yêu thương và tín nhiệm mỗi người, Ngài trao gửi cho mỗi người “tài sản” của Chúa. Những nén bạc này chính là những khả năng, điều kiện, thời giớ, sức khỏe, trí tuệ và các cơ hội vv, tất cả là của Chúa. Chúa lại trao cho kẻ nhiều người ít không phải vì Chúa không tín nhiệm hoặc không công bằng, nhưng tùy theo khả năng riêng của họ: Người thì năm nén, người hai nén, người một nén. Điều này có nghĩa rằng, Thiên Chúa không đòi chúng ta làm việc quá khả năng, nhưng Ngài chỉ mong chúng ta làm việc hết mình, với hết trách nhiệm, hết khả năng vì lòng yêu mến Chúa.
Câu chuyện cho thấy thái độ của những đầy tớ khác nhau: Lập tức, người đã lãnh năm nén lấy số tiền ấy đi làm ăn và sinh lời được năm nén khác. Người lãnh hai nén cũng làm như vậy. Điều này cho thấy, các đầy tớ này nhận thấy chủ thương mình, tin mình, nên họ cũng không muốn phụ lòng chủ, họ không để mất thời gian so đo tính toán, không đứng đó ghen tị phân bì. Nhưng ngay lập tức, họ đem số vốn Chúa cho để đi làm ăn và sinh lợi. Trái lại, người lãnh một nén thì chần chừ, đắn đo cân nhắc. Cuối cùng, vì lười biếng, để an phận, anh đã đi đào lỗ chôn giấu nén vàng Chúa trao.
Thiên Chúa là ông chủ quảng đại không quan tâm đến chuyện lời hay lỗ, nhưng ông quan tâm đến việc anh sử dụng khả năng và thái độ của anh đối với Chúa và đối với số vốn trong tay. Khi chủ trờ về, người lãnh năm nén và hai nén đến trình lại cho chủ số lời tương đương. Thiên Chúa không thu lại số vốn và số lời Chúa đã cho họ, nhưng Chúa khen họ: Anh là người tài giỏi và trung thành. Chính sự lanh lợi, biết sử dụng khả năng trí tuệ và sức lực để làm việc và trung thành với Chúa là điều được Chúa khen. Vì sự trung thành này, Thiên Chúa lại còn quảng đại, tín nhiệm trao gấp nhiều lần hơn nữa cho họ: Được trao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ trao nhiều cho anh. Thiên Chúa còn cho những kẻ trung thành được vào hưởng niềm vui với Chúa: Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh.
Còn người lãnh một nén trở lại trình diện Chúa với những suy nghĩ hết sức tiêu cực. Chủ chưa hỏi anh câu nào, thì anh đã càm ràm trách móc chủ: Tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế tội sợ, đem chôn dấu nén bạc của ông dưới đất. Của ông vẫn còn nguyên đây. Người đầy tớ này thiếu hẳn lòng yêu mến và biết ơn ông chủ vì sự tín nhiệm của ông. Trái lại, anh mang trong mình sự sợ hãi, nhìn ông chủ như người hà khắc keo kẹt. Để biện minh cho sự lười biếng của mình, anh chôn giấu nén bạc dưới đất để trả lại cho ông nguyên vẹn. Mặc dù trả lại nguyên vẹn nén bạc, nhưng ông chủ không hài lòng về cách cư xử này. Chủ đòi anh, ít ra cũng phải động não một chút, chứ không thể thụ động lười biếng, phải sinh lời, cho dù lãi suất thấp, chứ không phải là không làm gì với nén vàng Chúa trao. Cuối cùng, không những tên đầy tớ lười biếng này bị phạt, mà còn bị lấy lại những gì chủ đã trao phó, vì hắn đã phụ lòng tin của chủ.
Qua sự chỉ dạy của Lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người biết tích cực siêng năng làm việc, tận dụng hết mọi khả năng và cơ hội Chúa ban để sinh lời vốn liếng Chúa trao. Xin cho chúng ta làm việc trong tâm tình biết ơn, yêu mến đối với Thiên Chúa, làm việc với tất cả trách nhiệm, Chúa sẽ chúc phúc cho công việc và biến nó trờ thành niềm vui và đem lại hạnh phúc ơn cứu độ cho chúng ta. Amen.
26. Mồng ba Tết 2018: Thánh hóa công ăn việc làm--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Trong Tiếng Việt có nhiều từ ghép, nhưng có lẽ các từ được ghép với chữ “ăn” là nhiều nhất: ăn tết, ăn gian, ăn cắp, ăn trộm, ăn nói,.. công ăn – việc làm. Sở dĩ chữ ăn được dùng nhiều, có lẽ vì “ăn” là nhu cầu căn bản của con người, nó chi phối, gắn liền với đời sống của con người và cũng là mục tiêu cho nhiều hoạt động của con người. Trong năm vừa qua, tòa án Việt Nam đã xét xử nhiều vụ làm ăn bất chính, ăn gian của công, lên đến hàng ngàn tỉ đồng. Những kẻ có tội phải lãnh những mức án hết sức nặng nề. Trong số các phạm nhân, có những người từng là quan chức cao cấp đã làm ăn không minh bạch, có những kẻ vì hám lợi trước mắt mà đầu tư ồ ạt để rồi thua lỗ nên bị xử phạt. Tình trạng ăn gian, làm gian, làm dối, ăn thật làm giả, đang tràn lan trong xã hội, đến độ có người còn nói: “Ở Việt Nam, nếu cứ khui ra sòng phẳng, chẳng có ai làm giàu mà không ăn gian”.
Việc làm ăn ngày nay đã trở thành việc ăn gian làm dối, lừa đảo. Việc làm và làm việc đã trở thành mưu mô xảo trá để kiếm lợi. Người ta đã đánh mất cái đẹp ban đầu của công việc và việc công. Công việc và việc công, việc làm và làm việc đã bị nhuốm màu gian dối, bất chính. Vì thế, ngày mồng ba tết, Giáo hội mời gọi chúng ta vượt lên trên cái phàm tục thông thường, bằng cách thánh hóa các công việc của mỗi người, biến công việc thường ngày trở thành việc thánh và thành phương thế để nên thánh, đó là mục đích, ý nghĩa của ngày thánh hóa công ăn việc làm hôm nay. Như vậy, Giáo Hội không tổ chức ngày này, như ngày cầu may, hay cầu hên trong công việc, mà mời gọi mọi người biết tin tưởng vào Chúa khi làm việc và phó dâng việc làm hằng ngày cho Chúa để xin Chúa ban ơn lành.
Sách Sáng thế cho thấy, ngay từ đầu, khi tạo dựng nên con người và vũ trụ, Thiên Chúa đã tạo dựng chúng trong sự trật tự, hài hòa, xinh đẹp. Mặc dù được sống trong tình trạng hạnh phúc, vui hưởng thành quả công trình tạo dựng của Thiên Chúa, nhưng khi đặt con người vào vườn địa đàng, Chúa vẫn trao cho con người trách nhiệm phải lao động, canh tác. Việc lao động này, hoàn toàn là một lời mời gọi và là ân phúc Thiên Chúa ban cho con người, được cộng tác với Chúa trong việc bảo tồn và làm phát triển trái đất, vũ trụ, con người lúc đó làm việc với niềm vui và hạnh phúc. Tuy nhiên, sau khi phạm tội, đất đai trở nên cằn cỗi, gai góc, chống lại con người, khiến cho việc lao động của con người trở thành vất vả, phải đổ mồ hôi và nước mắt để kiếm sống. Đồng thời, ma quỷ và tội lỗi đã đẩy con người đến chỗ kiêu căng, muốn chiếm trọn cả vũ trụ về tay mình và loại trừ Thiên Chúa ra khỏi vũ trụ trái đất. Chính sự kiêu ngạo đó, đã khiến việc làm của con người ngày càng trở nên nặng nề, vất vả hơn. Cũng vậy, dục vọng của con người trỗi dậy, ma quỷ xúi giục lòng tham nổi lên, khiến cho con người chỉ còn biết nghĩ đến phần lợi cho mình, chiếm hữu cho mình. Từ đó, việc lao động trở thành gáng nặng cho chính con người, vì họ làm việc mà không vui, sống mà không hạnh phúc, luôn phải đề phòng và tranh giành với người khác. Như thế, việc lao động là hợp tác với Thiên Chúa, là ân phúc cơ hội Chúa ban, đã bị con người làm hoen ố và biến nó trở thành gánh nặng cho chính mình và tổn hại đến người khác.
Ngày mồng ba tết, bắt đầu cho một năm làm việc mới, Giáo Hội mời gọi con cái mình, đừng để việc lao động trở nên phàm tục, mà cần phải thánh hóa chúng. Thánh hóa công ăn việc làm, là thánh hóa công việc lao động, làm ăn thường ngày, để trả lại cho nó ý nghĩa và mục đích thuở ban đầu Thiên Chúa đặt định, đó là những việc thánh thiện. Chúng ta thánh hóa công việc làm ăn bằng cách nào? Lời Chúa hôm nay soi rọi cho chúng ta: Làm việc trong tâm tình tạ ơn vì được cộng tác với Thiên Chúa và tin tưởng vào sự quan phòng của Chúa, phó thác thành quả lao động cho Chúa, cho dù kết quả đó như ý hay không như mong muốn. “Các con chớ áy náy lo lắng, mình sẽ ăn gì, uống gì hay lấy gì mà mặc”, nhắc nhở điều này, Chúa muốn chúng ta nhớ rằng: Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, đừng tưởng rằng chúng ta có nhiều khả năng, nhiều tài lực, chúng ta không cần Thiên Chúa, nghĩ như thế là tự kiêu, sai lầm. Chúa cũng không muốn chúng ta suy nghĩ theo kiểu dân ngoại, hoặc như kẻ kiêu ngạo, muốn giành tương lai của mình về cho mình quyết định, mà không cần sự trợ giúp của Thiên Chúa. Ngày xưa bà Eva đã bị cám dỗ muốn mình trở nên như thần linh, muốn mình biết trước tương lai của mình và người khác, không cần Thiên Chúa. Bà đã gặp thất bại, đã rơi xuống vực sâu của ham muốn và bị chính sự ham muốn dục vọng dày vò hành hạ.
Chúa muốn ta thánh hóa công việc bằng cách vừa làm việc vừa tìm kiếm nước trời, hay đúng hơn trong khi làm việc thường ngày, vẫn dành ưu tiên cho việc tìm kiếm hạnh phúc nước trời. Vì, của cải và những nhu cầu vật chất, Thiên Chúa vẫn lo liệu cho chúng ta dùng đủ hàng ngày, như Chúa vẫn nuôi sống chim trời và cá biển, Ngài vẫn tô điểm cho cây cối, hoa cỏ muôn màu xinh tươi; chúng ta là con của Chúa không lẽ nào Chúa bỏ quên chúng ta. Nước trời và sự sống đời đời Chúa đã dành cho con người, Chúa còn ban ơn trợ giúp để mỗi người cần nỗ lực cộng tác với sự Chúa để vun đắp mỗi ngày, ngay trên trần gian này. Dạy như thế, Chúa muốn lưu ý chúng ta rằng, cho dù trong cuộc sống vất vả mưu sinh hoặc sung túc, thì cũng phải biết đặt cho mình thứ tự ưu tiên trong cuộc sống. Đặt Chúa và hạnh phúc nước trời là mục tiêu ưu tiên tìm kiếm trước hết và trên hết, còn công việc và chuyện ăn uống, dù cần nhưng cũng chỉ là thứ yếu mà thôi.
“Tiên vàn, các con hãy tim sự công chính và nước Thiên Chúa” Tìm sự công chính là “tìm” chu toàn giới răn lề luật của Thiên Chúa, “tìm” sống sao cho đẹp lòng Chúa. Như thế, thánh hóa công ăn việc làm, tức là mỗi người cần làm và ăn trong sự công chính, phù hợp với lề luật và giáo huấn của Chúa. Công việc của chúng ta sẽ trở thành việc thánh khi chúng ta loại bỏ khỏi công việc sự gian dối, bất công, gian ác và nhẫn tâm.
Hơn lúc nào hết sự gian dối đang lan tràn trong xã hội, không chỉ trong đời sống, lời nói, mà người ta gian dối trong hành động và công việc. Ngày nay, hàng giả, hàng gian, hành kém chất lượng đang tràn lan, đánh lừa người tiêu dùng, thu nhiều lợi nhuận. Những cách nói trúng mánh, trúng quả, trúng kèo thơm,… là mỹ từ che đậy cho những phi vụ làm ăn gian dối lừa lọc người khác, con người tìm lợi nhuận bằng mọi giá. Thiên nhiên là quà tặng chung của Chúa cho mọi người, vậy mà, có những nhóm vì lợi ích riêng, đã phá hủy, khai thác thiên nhiên đến kiệt quệ để thu lợi cho cá nhân. Chung quanh chúng ta, môi trường đang bị hủy hoại tàn bạo, nước sông ô nhiễm, khói bụi độc hại do con người thải ra, chính chúng ta đang phải chịu những tác động xấu từ việc làm đó.
Trong lãnh vực nông nghiệp, chăn nuôi, chế biến thực phẩm, nhiều người vì hám lợi, đang đầu độc và giết chết anh em bằng những hóa chất độc hại, gây bệnh tật, ung thư và nhiều thứ bệnh lạ khác. Hậu quả là chính chúng ta phải gánh chịu. Có người nói: "không có khi nào con đường từ bao tử đến nghĩa trang lại gần như lúc này” ăn gì cũng có chất độc, gây bệnh và chết người. Những việc làm gian ác như thế và hậu quả của nó, đều phát xuất từ lòng tham, sự ham muốn chiếm hữu thật nhiều và thống lĩnh thiên hạ, khiến cho chúng ta phải chịu hậu quả.
Trong ngày xin ơn Thánh Hóa Việc Làm hôm nay, chúng ta cầu xin Chúa cho mỗi người, mỗi gia đình có được công việc để có thể lo cho cuộc sống. Nhưng hơn hết, xin cho mỗi người biết làm việc trong tâm tình tạ ơn, cộng tác với Chúa, làm cho trái đất và cuộc sống thêm tốt đẹp hơn. Xin cho mỗi người dù làm việc gì cũng tôn trọng giới răn lề luật của Chúa, làm theo tiếng lương tâm nhắc bảo, để qua đời sống và công việc thường ngày, chúng ta góp phần làm cho Nước Trời hiện diện ngay tại trần gian này, qua một cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc, bác ái và yêu thuơng. Amen.
27. Mồng ba Tết 2017: Thánh hóa công việc --Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Bước qua ngày mồng ba tết, Giáo hội mời gọi chúng ta xin Chúa thánh hóa công việc làm ăn của mỗi người, mỗi gia đình, trong năm mới. Xin Chúa chúc lành và làm cho những cố gắng, toan tính công việc, của mỗi người mỗi gia đình được thành công, đem lại cơm no áo ấm cho các gia đình. Qua ngày lễ này, Giáo hội nhắc chúng ta biết làm việc trong tinh thần tự do trách nhiệm, cộng tác với Thiên Chúa trong việc làm cho vũ trụ thêm tốt đẹp, đời sống con người được thăng tiến, chia sẻ và góp phần đem lại cuộc sống tốt đẹp cho mọi người. Người Kitô hữu tin rằng: Mưu sự tại nhân, thành sư tại thiên, toan tính bởi con người nhưng Thiên Chúa mới cho thành công.
Tuy nhiên trong thực hành, nhiều người lại không xác tín như thế, họ vừa tin Thiên Chúa, nhưng vẫn tin vào những thần thánh khác, hoặc tin sự thành bại là do hên xui, do chọn ngày, chọn hướng. Vì thế, có những người chọn ngày để khởi công làm nhà, chọn ngày chọn giờ để khai trương đầu năm, chọn ngày để đám cưới. Những tin kiêng chọn lựa như thế đều đi ngược lại đức tin công giáo và là một tội rất năng đến điều răn thứ nhất.
Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta những điểm giáo lý quan trọng: Thiên Chúa của chúng ta là một vị Thiên Chúa hoạt động và làm việc; làm việc là cộng tác với Thiên Chúa trong việc tạo dựng và làm cho vũ trụ trái đất thêm tốt đẹp. Sách Sáng thế muốn khẳng định điều đó, khi tác giả đã dùng hình ảnh và ngôn ngữ rất bình dân để diễn tả quyền năng của Thiên Chúa: Ngày Đức Chúa là Thiên Chúa làm ra đất và trời, chưa có mưa cũng như chưa có bụi cây nào ngoài đồng; có một dòng nước từ đất trào lên tưới khắp mặt đất.Thiên Chúa lấy bùn đất mà nặn ra con người. Đọan Kinh thánh này muốn cho thấy: Thiên Chúa không phải là vị thần bất động chỉ ngồi đó để đón nhận hương khói, nhưng Ngài là Thiên Chúa làm việc. Thiên Chúa làm việc bằng quyền năng, bằng lời của Ngài và con bằng chính đôi tay của Ngài như một người thợ. Nếu so sánh với các loài khác, Thiên Chúa chỉ cần phán hoặc khiến cho có, thì liền có, nhưng đối với con người, Thiên Chúa dường như phải xắn tay áo, phải đổ mồ hôi vất và để làm nên con người từ bụi đất. Thiên Chúa còn thổi sinh khi vào con người, để cho con người có sự sống. Như thế, sự sống của con người là do Thiên chúa trực tiếp trao ban và con người hoàn toàn tùy thuộc vào Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã đặt con người vào vướn Eden để con người cầy cấy canh giữ đất đai. Thiên Chúa khi dựng nên con người, Ngài không muốn con người làm nô lệ cho công việc, cũng không làm nô lệ cho vũ trụ này, nhưng trao cho con người làm chủ và có bổn phận chăm sóc, cũng như cầy cấy và làm cho trái đất mỗi ngày một xinh tươi tốt đẹp hơn. Làm chủ và chăm sóc vũ trụ, là trách nhiệm Chúa trao. Tuy nhiên, con người không được phép lạm quyền, để biến vũ trụ, trái đất và tài nguyên thành sở hữu của cá nhân, nhưng là của mọi người và phục vụ cho nhu cầu của mọi người. Đồng thời việc chăm sóc vũ trụ, không cho phép con người tàn phá, khai thác cạn kiệt, nhưng phải chung tay bảo bệ, chăm sóc trái đất này như ngôi nhà chung cho mọi người.
Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta thái độ phải có, khi làm việc và hết mình làm việc trong tin tưởng và yêu mến Thiên Chúa. Dụ ngôn cho thấy: Một ông chủ sắp đi xa, ông gọi các đầy tớ đến và trao cho người này năm nén, người kia hai nén người khác một nén tùy theo khả năng của họ. Thiên Chúa rất công bằng và khôn ngoan, Ngài không ép ai phải làm việc quá với khả năng của mình, ngài trao cho mỗi người những điều kiện, hoàn cảnh, phù hợp với khả năng của họ. Thiên Chúa là ông chủ chờ đợi nơi mỗi người thái độ làm việc hết mình, hết khả năng và với tình yêu dành cho Chúa. Những người đầy tớ này, khi nhận được số vốn của chủ đã lập tức sinh lợi. Còn người nhận một nén, đã không làm gì, anh đem chôn giấu khả năng và số vốn của chủ gửi.
Ngày ông chủ trở về, những người lãnh năm nén đã làm lợi được năm nén, người lãnh hai nén lợi được hai nén. Có nghĩa là những người này đã làm việc hết khả năng sức lực của mình; họ làm việc vì biết rằng ông chủ tin tưởng và yêu thương họ; họ làm việc để đáp đền công ơn của chủ. Trái lại người lãnh một nén đã mang tâm trạng thụ động lười biếng. Anh không có lòng yêu mến ông chủ, anh oán trách ông chủ là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không phát. Anh sống với chủ không với tâm tình là cộng tác viên, nhưng là một người đầy tớ sợ hãi, biếng nhác và có ác cảm với chủ.
Ngày ông chủ trở lại, mọi người sẽ phải trình lại cho ông tất cả những vốn liếng, công việc và thái độ của mình. Người lãnh năm nén, hai nén đã phấn khởi báo cáo với chủ cả vốn lẫn lời. Ông chủ không thu lại những gì ông đã cho các người này, ông khen ngợi họ là những đầy tớ tốt lành và trung tín. Họ tốt lành vì đã làm việc trong thật thà ngay thẳng, không gian dối và hết mực trung thành với chủ và với công việc chủ trao. Vì thế, ông chủ đã ban thưởng lại cho các người này gấp bội và còn cho họ được vào nhà với chủ, đồng hưởng sự vui mừng với chủ.
Còn người lãnh một nén, mang tâm trạng thụ động lười biếng, anh đến trình lại cho chủ số vối của mình và sự ác cảm, hằn học của mình: Tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo thu nơi không phát, tôi sợ nên tôi đã chôn nén bạc của ông. Đây của ông, tôi trả lại ông. Ông chủ không bằng lòng với thái độ thụ động, lười làm việc, lười suy nghĩ tính toán của anh này. Ông đã ra liệnh thu hồi số bạc và đã loại trừ anh vì sự biếng nhác đó.
Thưa quý obace, Lời Chúa ngày mồng ba tết hôm nay nhắc mỗi người phải làm việc trong thái độ yêu mến và biết ơn Thiên Chúa là Đấng đã cho chúng ta điều kiện để làm việc, đó là sức khỏe, trí tuệ, thời gian và nhiều cơ hội khác nữa. Ngài muốn chúng ta làm việc không phải như một kẻ nô lệ sợ hãi, cũng không lười biếng thụ động, nhưng với thái độ là một cộng tác viên và là người nhà của Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta không thể biến mình thành kẻ làm việc như một nô lệ cho công việc, không để cho công việc cuốn hút và trói buộc, khiến chúng ta không còn nhớ tới Chúa. Chúng ta phải làm việc trong tinh thần yêu mến, biết ơn và tin tưởng vào sự quảng đại trợ giúp của Thiên Chúa. Đừng kiêu căng tự mãn cho rằng, mình có thể làm được tất cả mà không cần Thiên Chúa. Đồng thời luôn nhớ rằng, sẽ đến ngày chúng ta phải trình nộp lại cho Chúa tất cả công việc, cuộc sống và cả vốn lẫn lời mà Chúa đã ký thác cho ta.
Nhiều người đang tin tường phó thác vào Chúa, làm việc hết mình để sinh lợi cho mình cho gia đình và giúp cho cuộc sống được sung túc hơn. Đó là điều đẹp ý Chúa. Bên cạnh đó có nhiều người đang làm ăn trong sự kiêu căng tự mãn về khả năng, vốn liếng và sự thành công của mình. Họ không nghĩ rằng: đó là do Chúa ban. Vì thế, họ lo hưởng thụ, kể công và không muốn dâng lại cho Chúa những thành quả đã đạt được. Một số người có đạo nhưng trong công việc, họ loại trừ Thiên Chúa, âm thầm bắt tay, thỏa hiệp với ma quỉ với bùa phép, cùng những sự tin kiêng và cho rằng do sự tin kiêng, do chọn được ngày đẹp ngày tốt, do hên xui hoặc thầy phong thủy đã chỉ cho thành công ăn nên làm ra. Sống đạo và tin kiêng theo kiểu dân ngoại như thế là lỗi trầm trong đến điều răn thứ nhất và biến mình trở thành thù nghịch với Thiên Chúa, giống như người lãnh một nén trong dụ ngôn hôm nay.
Xin Chúa cho chúng ta luôn tin tưởng, phó thác cho Chúa tất cả những toan tính dự định và công ăn việc của làm của mình và gia đình trong năm mới này và xin Chúa chúc lành cho chúng ta được bằng an và thành công theo ý Chúa. Amen.
28. Mồng ba Tết 2012: Việc làm và làm việc trong năm mới sẽ như thế nào?--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Hôm Tĩnh tâm các Linh mục của GP Xuân Lộc, ông Trưởng ban Tôn Giáo cho biết tỉnh Đồng Nai năm vừa qua cũng chịu ảnh hưởng nặng nề bởi nền kinh tế thế giới suy thoái, một trong những vấn đề chính quyền tỉnh quan tâm đó là năm vừa qua có hàng trăm ngàn công nhân mất việc, nghỉ việc vì công ty làm ăn khó khăn thua lỗ. Con số hàng trăm ngàn người mất việc này sẽ còn ảnh hưởng đến các gia đình và bao nhiêu người khác nữa, chưa kể là vấn đề tội phạm xã hội sẽ tỷ lệ thuận với con số này. Nhìn vào bức tranh kinh tế và công ăn việc làm của cả nước năm qua, con số lạm phát đã lên đến mức kỷ lục, tình trạng nợ nần của Nhà nước khá trầm trọng, đồng tiền mất giá, giá cả các mặt hàng tăng mạnh… tất cả những thông tin ấy đang ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của mỗi người, hay nói cụ thể hơn nó ảnh hưởng đến cái túi, đến bữa cơm của các gia đình. Cuối năm vừa qua, các công ty xí nghiệp đều có thưởng, có những người được thưởng cả trăm triệu, nhưng cũng có những ngành nghề chỉ được thưởng mấy ký hạt dưa hạt bí và có những ngành nghề không được đồng nào…
Thưa quý OBACE, vấn đề việc làm ngày càng trở thành vấn đề quan tâm của nhiều người. Có việc làm, và làm việc như thế nào lại là chuyện khác, và việc làm có phù hợp có thoải mái, có đủ sống hay không lại là chuyện khác. Vấn đề chủ và thợ ngày nay cũng đã trở thành một vấn đề nan giải, chủ thì muốn thu hồi vốn nhanh lợi nhuận nhiều, thợ thì muốn lương cao và những điều kiện làm việc thật tốt. … Bài Tin Mừng hôm nay kể cho chúng ta về mối tương quan chủ và thợ:
Có một ông chủ sắp đi xa liền gọi các đầy tớ đến mà trao phó tài sản của ông- Ông chủ này quá tốt, đã tin tưởng trao hết tài sản mình cho công nhân, ông không đắn đo tính toán, ông cho họ có cơ hội để lập nghiệp. Ông cũng rất nhân đạo và biết nhìn người, ông trao cho người này năm nén, người kia ba nén, người khác một nén tùy khả năng mỗi người. Điều đó có nghĩa là ai có khả năng như thế nào thì ông chủ tạo điều kiện cho như thế, ông không bắt ép họ phải chịu trách nhiệm vượt quá khả năng của mình. Điều ông chờ đợi và đòi ở đầy tớ của ông không phải là chuyện lời hay lỗ, vì ông có thiếu gì đâu, mà là sự chăm chỉ làm việc và làm việc trong sự hăng say phấn khởi biết ơn ông, ông không chấp nhận sự lười biếng, không suy nghĩ tính toán, không cố gắng. Câu chuyện cho thấy khi ông chủ trở về, đã gọi đầy tớ đến để tính sổ, người năm nén sinh lời được năm nén khác, người ba nén cũng vậy, những người này đều được ông chủ khen là những đầy tớ tốt lành và trung tín, vì người đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn. Sự tín trung với chủ và giữ chữ tín trong công việc chính là điều những người này được khen thưởng.
Trái lại, sự bất tín biếng nhác, lười suy nghĩ tính toán, ù lỳ thụ động là điều không thể chấp nhận, đó là trường hợp của người lãnh một nén. Anh này đã đem chôn giấu nén bạc ông chủ đã trao, vì anh đã có cái nhìn hoàn toàn sai lạc về chủ của mình. Anh phân bì cho rằng chủ mình keo kiệt tham lam, hà khắc gặt chỗ không gieo thu nơi không phát, và anh còn mang một thái độ khác nữa đó sợ hãi thay vì yêu mến biết ơn ông chủ nên đã chôn giấu nén bạc của chủ. Chính từ cái nhìn không đúng về chủ, nên anh cũng không quan tâm gì đến việc kinh doanh sinh lời vốn liếng chủ trao. Đối với ông chủ, ngay việc giữ huề vốn nguyên vẹn một nén bạc đã không thể chấp nhận, ít ra anh ta cũng phải làm lời theo lãi suất ngân hàng… Ông chủ đã sa thải anh vì anh biếng nhác, không suy nghĩ không tính tóan để làm sinh lời vốn liếng chủ trao.
Qua thái độ của ông chủ và những người đầy tớ trong câu chuyện của Tin Mừng, Chúa Giêsu đã chỉ cho thấy Thiên Chúa chính là ông chủ tốt lành, Ngài đang ban cho chúng ta mỗi người những khả năng và tài năng khác nhau, Ngài còn tạo cho chúng ta có nhiều cơ hội để làm phát triển các khả năng và tài năng đó, và Ngài muốn chúng ta làm việc hết mình với lờng biết ơn và yêu mến Ngài, Ngài chờ đợi chúng ta hãy biết tận dụng thời giờ để làm sinh lời những gì chúng ta đã nhận được từ nơi Chúa. Nén bạc Chúa trao cho chúng ta hôm nay có thể là thời giờ, sức khỏe, tuổi trẻ tài năng và kể cả của cải vật chất nữa, chúng ta đã nhận được gì thì chúng ta phải sinh lời gấp đôi gấp ba những cái chúng ta đã nhận. Có những người Chúa ban cho nhiều cơ hội nhưng vì lười biếng hoặc chần chừ, thụ động nên đã để vuột mất cơ hội ấy, còn có những người khác họ đã nắm bắt được cơ hội và đã sinh lời cho bản thân và cho gia đình của mình.
Bài đọc một cho thấy vốn liếng Thiên Chúa trao cho con người nói chung và cho mỗi người nói riêng là phù với khả năng mỗi người. Vũ trụ này, trái đất này cùng mọi sinh vật tài nguyên khoáng sản trong đó là của Thiên Chúa, do Chúa dựng nên và làm chủ, thế mà Thiên Chúa đã trao tặng hoàn toàn cho con người, với chỉ một mong muốn là con người làm cho nó ngày càng thêm tốt đẹp hơn. Không chỉ trao cho con người tài sản vật chất, Thiên Chúa còn làm nên một vườn Êden, vườn thượng uyển của Chúa, là nơi và là tình trạnh hạnh phúc, cũng được Thiên Chúa trao cho con người làm chủ và chịu trách nhiệm chăm sóc cả khu vườn ấy và cả vũ trụ này. Adam Eva tổ tông của chúng ta đã đứng ra nhận tài sản của Thiên Chúa, nhưng hai ông bà cũng không khác gì người đầy tớ lãnh một nén bạc, đã chôn dấu tài sản của Thiên Chúa, đã làm tổn hại đến tài sản là hạnh phúc, đã hủy hoại sự cân bằng trong vũ trụ và trong tâm hồn mình, làm cho vũ trụ nên gai góc và chai đá vì tội bất tuân, nghì ngờ Thiên Chúa và phản bội lại sự tín trung, nên đã để mình và con cháu bị loại ra ngoài.
Bài đọc một cũng còn cho thấy rằng Thiên Chúa của chúng ta như một người thợ, Ngài cũng hăng say tận tụy làm việc để tạo dựng nên vũ trụ, đặc biệt Thánh kinh diễn tả Thiên Chúa như người nghệ sỹ làm việc đổ mồ hôi để tạo nên tác phẩm tuyệt đẹp là con người. Như thế cho thấy rằng nếu thiên chúa của chúng ta là một Thiên Chúa luôn làm việc, thì con người cũng phải biết làm việc và làm việc giúp chúng ta nên giống Thiên Chúa, và làm việc để đem lại sư tốt đẹp cho vũ trụ và sự no cơm ấm áo hạnh phúc cho con người, đó là chúng ta đang sinh lời cho Thiên chúa và đang cộng tác với Thiên Chúa trong việc tạo dựng và tô điểm cho vũ trụ này thêm tốt hơn, xin nhắc lại là làn cho vũ trụ nên tốt đẹp hơn. Như thế khi chúng ta hủy hoại mội trường xung quanh, làm cho nó ra ô nhiễm bẩn thỉu là chúng ta đã không trung tín với Thiên Chúa và gây tổn hại đến tài sản của Ngài.
Không dừng lại ở đó việc làm và làm việc còn là cách thế để chúng ta bày tỏ lòng yêu mến biết ơn và sự tín trung của chúng ta với Chúa, và còn là để có điều kiện chúng ta thực thi đức bác ái. Thánh phaolô còn nhắc cho chúng ta một thái độ làm việc khác quan trọng hơn là làm ăn tìm kiếm của cải vật chất để giúp tự mình nuôi sống bản thần, làm tăng phẩm giá con người và còn là để chia sẻ giúp đỡ những người thiếu thốn vì: Cho thì có phúc hơn là nhận. Mỗi người đã nhận lãnh nhận rất nhiều từ Thiên Chúa, chúng ta cũng cần phải biết rộng mở đôi tay để cho đi và chia sẻ.
Thưa quý OBACE, ngày Mồng Ba Tết là ngày thánh hóa công ăn việc làm, có nghĩa là chúng ta xin Chúa giúp chúng ta biết thánh hóa công việc làm của mình, cho chúng ta có việc làm tốt, và giúp chúng ta sống và làm việc theo giáo huấn của chúa, làm việc trong công bình và bác ái, người chủ thì biết tôn trọng sự công bằng và quyền lợi người thợ, người thợ cũng phải biết tôn trọng quyền lợi của chủ để tất cả mọi người làm việc trong sự ý thức rằng Thiên Chúa đã tín nhiệm và trao phó tài sản của Ngài cho ta, và chúng ta chỉ là người quản lý nên phải biết tận dụng cơ hội và khả năng Chúa ban và làm việc hết mình trong tinh thần yêu mến tương thân tương ái.
Cầu chúc cho mọi người có được công việc làm như mong muốn và làm việc thật hiệu quả. Amen.
29. Mồng Ba Tết--Mt 25,14-30---Ai không làm việc thì cũng đừng ăn—Lm Đan Vinh
1. LỜI CHÚA: "Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy, anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. Ai có nói, thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban. Như thế, trong mọi việc, chúng ta tôn vinh Thiên Chúa nhờ Đức Giê-su Ki-tô" (1Pr 4,10-11).
2.CÂU CHUYỆN: SỰ TÍCH CON TRÂU ĐI CÀY
Ngày xưa, khi thế gian mới được tạo thành, Thượng Đế đã sai một vị thần từ trời xuống trần mang theo 1 bao hạt lúa và 1 bao cỏ để gieo trên mặt đất. Thượng Đế đã dặn đi dặn lại vị thần gieo trồng là phải gieo hạt lúa làm thức ăn cho loài người trước rồi mới được gieo cỏ làm thức ăn cho loài vật. Nhưng khi xuống tới trần gian, do mãi mê ngắm phong cảnh tuyệt đẹp khác lạ ở trần gian nên thần gieo trồng đã quên lời dặn nên đã gieo cỏ trước gieo lúa. Từ đó, cỏ không cần trồng mà vẫn mọc lên khắp nơi và thú vật không cần lao động vẫn có dư cỏ ăn, đang khi loài người muốn có gạo phải chịu vất vả cày bừa gieo trồng mà vẫn bị bữa no bữa đói. Thượng Đế thấy vậy liền phạt tội vị thần gieo trồng tắc trách này phải bị hóa kiếp thành con Trâu để giúp loài người cày bừa trước khi gieo lúa và khi nào ăn hết cỏ mới được lên thiên đường. Nhưng rồi do cỏ mọc nhanh nên Trâu không sao ăn hết được, nên Trâu cứ phải tiếp tục chịu cảnh vất vả cày bừa để chịu đền tội và không sao thoát được kiếp làm trâu để có thể trở lại thiên đường.
Câu chuyện dạy chúng ta bài học: phải luôn làm việc cách nghiêm túc và chăm chỉ để có cái ăn như câu người ta thường nói: "Tay làm hàm nhai, tai quai miệng trễ". Hoặc như câu tục ngữ phương Tây: “Hãy làm hết sức mình rồi trời sẽ giúp”. Tránh thái độ ở không lười biếng không chịu làm việc mà chỉ biết ngồi “há miệng chờ sung rụng”.
3. THẢO LUÂN: 1) Thánh Kinh dạy gì về việc lao động bằng trí óc và tay chân? 2) Mỗi tín hữu chúng ta cần làm gì trong Năm Mới này?
4. SUY NIỆM:
Có người nghĩ rằng con người làm bá chủ thiên nhiên và có toàn quyền làm chủ trái đất mà quên rằng Thiên Chúa mới là Đấng sáng tạo và làm chủ vũ trụ vạn vật. Tin mừng Gio-an đã cho biết về công trình Thiên Chúa tạo dựng và cứu chuộc như sau: “Lúc khởi đầu, đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa, nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tao thành” (Ga 1,1-3). Hôm nay, Hội Thánh muốn các tín hữu hiểu biết giá trị của công việc tạo dựng của Thiên Chúa và dạy chúng ta phải tích cực cộng tác với Thiên Chúa để góp phần hoàn thiện thiên nhiên như Chúa đã tự nhủ khi sáng tạo nên loài người: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất” (St 1,26).
1) Loài người được trao quyền làm chủ thiên nhiên:
Sau khi sáng tạo trời đất, Thiên Chúa đã trồng một vườn cây ở Ê-đen về phía Đông, và đặt vào đó con người do ngài dựng nên… “Thiên Chúa khiến từ đất mọc lên đủ mọi thứ cây, trông thì đẹp, ăn thì ngon, với cây trường sinh ở giữa vườn, và cây cho biết điều thiện điều ác” (St 2,9). Như vậy, Thiên Chúa không muốn con người ở không, nhưng đòi họ phải làm việc. Bởi vì: “Nhàn cư vi bất thiện”. Từ đây con người phải làm việc theo thánh ý Thiên Chúa và chỉ làm việc thành công khi biết cậy dựa vào ơn Chúa giúp như tác giả Thánh Vịnh đã viết: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công” (Tv 127,1).
2) Gương sáng lao động của thánh gia Na-da-rét:
Khi xuống thế làm người, Đức Giê-su đã được sinh ra trong một gia đình lao động nghèo khó tại làng Na-da-rét: Cha nuôi của Người là ông Giu-se hành nghề thợ mộc, còn mẹ đẻ là bà Ma-ri-a thì chăm lo công việc nội trợ phục vụ chồng con. Riêng trẻ Giê-su thì ngoan ngoãn hiếu thảo vâng lời cha mẹ (x. Lc 2,51), chia sẻ nỗi vất vả của cha mẹ, luôn qui hướng mọi việc theo thánh ý Chúa Cha (x. Lc 22,41), và làm vui lòng Ngài (x. Lc 2,46; Ga 4,34).
Trong khi đi giảng đạo, Đức Giê-su đã đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, kèm theo việc chữa lành mọi thứ tật bệnh. Người đặt nặng công việc phục vụ hơn là giữ Luật Mô-sê. Do đó Người đã chữa bệnh trong ngày sa-bát là ngày bị Luật cấm làm việc. Người đã trả lời cho các đầu mục Do thái như sau: "Ngày sa-bát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày sa-bát” (Mc 2,27-28). Đức Giê-su cũng khẳng định vai trò ngang hàng với Thiên Chúa trong công việc như sau: “Cho đến nay Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5,17).
3) Phải chăm chỉ làm việc để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân:
Tin Mừng hôm nay thuật lại dụ ngôn của Đức Giê-su về những nén bạc nhằm dạy môn đệ phải cộng tác để làm lợi thêm các nén bạc vật chất tinh thần được Chúa trao phó như sau:
Có một ông chủ sắp đi xa liền gọi các đầy tớ đến mà trao phó tài sản của ông: người này năm nén, người kia ba nén, người khác một nén tùy khả năng mỗi người. Điều ông muốn nơi các đầy tớ là sự chăm chỉ làm việc theo ý của ông và không chấp nhận sự lười biếng. Khi ông chủ trở về và đòi các đầy tớ tính sổ: người đã lãnh năm nén ba nén bạc đều đã làm lợi thêm gấp đôi nên được chủ khen thưởng. Trái lại, người lãnh một nén do bất tín và biếng nhác đã mang nén bạc của chủ đi chôn vì sợ bị phạt thay vì yêu mến làm lợi thêm cho chủ. Cuối cùng anh ta đã bị mất tất cả những gì đang có.
4) “Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn!” :
Thời Giáo Hội sơ khai, tông đồ Phao-lô nghe biết có một số tín hữu ở Thê-xa-lô-ni-ca lười biếng làm việc vì nghĩ rằng sắp đến ngày tận thế, ngài đã viết thư khuyên họ như sau: "Khi còn ở với anh em, chúng tôi đã chỉ thị cho anh em: ai không chịu làm thì cũng đừng ăn! Thế mà chúng tôi nghe nói: trong anh em có một số người sống vô kỷ luật, chẳng làm việc gì, mà việc gì cũng xen vào. Nhân danh Chúa Giê-su Ki-tô, chúng tôi truyền dạy và khuyên nhủ những người ấy hãy ở yên mà làm việc, để có của nuôi thân. Phần anh em, hãy làm việc thiện, đừng sờn lòng nản chí!” (2 Tx 3,10-13). Rồi khi từ biệt các tín hữu ở Ê-phê-sô, Phao-lô đã chia sẻ kinh nghiệm về sự làm việc như sau: "Chính anh em biết rõ: những gì cần thiết cho tôi và cho những người sống với tôi, đôi tay này đã tự cung cấp. Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giê-su đã dạy: Cho thì có phúc hơn là nhận." (Cv 20,33-35).
5) Chúng ta phải làm gì?
Trong Kinh Tiền Tụng Thánh lễ Mùng Ba Tết, Hội Thánh đã ca tụng Thiên Chúa như sau: "Cha còn sai Con Một giáng trần, để chia sẻ thân phận người lao động và thực hiện chương trình cứu độ muôn dân. Quả vậy, Người đã bắt chước Cha hoạt động không ngừng, nêu gương cho chúng con biết chuyên cần làm việc, không những để no cơm ấm áo, và góp phần xây dựng xã hội loài người mà còn để làm trạng Danh Cha, và mở rộng Nước Trời ngay tại thế ".
Ông Tê-tu-li-a-nô dạy người tín hữu phải làm mọi việc với tinh thần đức Tin như sau: “Dù khi thức dậy hay đi ngủ, dù khi ăn hay khi làm một việc gì quan trọng, hãy bắt đầu bằng dấu thánh giá”. Thánh Phao-lô đã khuyên các tín hữu phải làm mọi sự để qui hướng về Thiên Chúa: “Vậy, dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cr 10,31). Mỗi người chúng ta hãy làm việc theo đúng luật và phù hợp với thánh ý Thiên Chúa khi sử dụng những gì Chúa trao như: Sự sống, thời gian, tài năng, của cải, con cái... và cần ý thức rằng: chúng ta sẽ phải trả lẽ trước tòa phán xét sau này.
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa. Trong cuộc sống hằng ngày, đôi lúc chúng con vẫn còn có thái độ lười biếng, chưa tích cực cộng tác với Chúa để chu toàn nhiệm vụ được Chúa và Hội Thánh trao phó. Chúng con cũng thường hay kêu trách Chúa khi cầu xin những điều chúng con nghĩ là tốt mà không được như ý. Xin Chúa giúp chúng con biết sử dụng những gì ở trong tầm tay để phục vụ Chúa và tha nhân. Xin cho chúng con sau này được Chúa cho vào Nước Trời hưởng Tôn nhan Chúa đến muôn đời.- Amen.
30. Xin Chúa sáng soi cho biết việc phải làm (Ga 20, 19-31)--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Để thánh hóa ba ngày Tết Nguyên Đán, Hội Thánh Việt Nam đã chỉ định Ngày mồng ba Tết, Ngày Cầu Mùa, để xin Chúa chúc lành cho công việc làm ăn được phát đạt.
Sau khi đã vui chơi ăn Tết, đến lúc phải bắt tay vào làm việc. Lời nguyện nhập lễ giao thừa chúng ta cúi xin Chúa rộng ban cho chúng ta một năm mới dồi dào phúc lộc và đầy lòng hăng hái làm việc lành để tôn vinh Danh Thánh.
Thánh Phaolô đã có một kinh nghiệm tuyệt vời khi chia sẻ: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,19). Điều này có nghĩa là, chúng ta không thể điều khiển được chính mình, chúng ta không đủ nghị lực để dám chắc mọi điều ta làm đều tốt.
Vì thế, Giáo Hội mời gọi chúng ta đọc “Kinh Sáng Soi” để xin Chúa hướng dẫn, nhất là thánh hóa trước khi bắt đầu việc làm trong năm mới. “Cúi xin Chúa sáng soi cho chúng con được biết việc phải làm, cùng khi làm xin Chúa giúp đỡ cho mỗi kinh mỗi việc chúng con, từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen”.
Lời kinh này chất chứa niềm tin tưởng và lòng cậy trông vững vàng của những người con Chúa.
Quả thật, khi chúng ta: “Xin Chúa sáng soi cho chúng con được biết việc phải làm” là chúng ta khơi lên niềm khát mong được nguồn ánh sáng của Chúa soi dẫn tâm trí, lời nói, việc làm… cho chính bản thân ta và đồng thời xin Chúa thánh hóa. Bởi đã có không ít lần chúng ta bắt đầu làm việc mà không biết phải làm gì hoặc phải bắt đầu từ đâu. Vì thế, khi giục lòng cậy trông xin ơn Chúa soi sáng là ta nhận biết về uy quyền của Thiên Chúa trong đời sống chúng ta suốt năm tháng ngày giờ.
Thiên Chúa đặt con người làm chủ
Sau khi đã tạo dựng vạn vật muôn loài, Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh giống như Ta, để chúng làm chủ cá biển, chim trời, dã thú khắp mặt đất” (St 1, 26). Thế là “Thiên Chúa lấy bù đất nắn thành con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi và con người trở thành một vật sống. Thiên Chúa lập một vường tại Eđen về phía đông và đặt vào đó con người mà Ngài đã dựng nên” (St 2, …).
Việc con người được dựng nên từ bùn đất cho thấy tính chất yếu hèn, mỏng giòn của thân phận. Nhưng Thiên Chúa lại tạo nên con người và ban cho con người hình ảnh Chúa, cho con người được chia sẻ sự sống của Chúa, phú ban cho con người sự sống siêu nhiên và nhiều đặc ân như trí khôn minh mẫn, ý chí hướng thiện, không phải đau khổ và không phải chết và nhất là đặt con người làm chủ công trình Chúa sáng tạo, làm chủ chính mình trong ơn sủng mà Thiên Chúa đã ban cho.
Việc làm trong chương trình của Thiên Chúa
Công ăn việc làm là một phần trong chương trình của Thiên Chúa Sáng Tạo. Trong sách Sáng Thế, đề tài trái đất như là nhà – vườn được trao phó cho con người săn sóc và canh tác (x. St 2,8.15) đã đuợc diễn tả như sau: “Ngày Thiên Chúa làm ra đất và trời, chưa có bụi cây ngoài đồng nào trên mặt đất, chưa có đám cỏ ngoài đồng nào mọc lên, vì Chúa là Thiên Chúa chưa cho mưa xuống đất và không có người để canh tác đất đai, và Người làm trào lên từ đất nước của các con kinh để tưới” (St 2,4b-6). Vẻ đẹp của trái đất và phẩm giá của công ăn việc làm được làm ra để nối kết với nhau. Cả hai song hành cùng nhau: trái đất trở nên xinh đẹp, khi nó được con người canh tác.
Hình ảnh địa đàng, nơi con người là chủ, sống, cày cấy và canh giữ đất đai (x. St 2,4-15), cho thấy con người nguyên thủy sống trong mối hiệp thông thân tình với Thiên Chúa, hài hòa với chính mình, với nhau và với cả vạn vật chung quanh. Trong tình trạng hạnh phúc và công chính nguyên thủy đó, con người làm chủ chính mình, không phải đau khổ và không phải chết.
Lao động không là gánh nặng nhưng là sự cộng tác của con người với Thiên Chúa, nhằm kiện toàn chính bản thân và cả công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Vì “khi chúng ta làm việc là chúng ta cộng tác với Đấng đang làm việc…bởi vì không có Chúa chúng ta không thể làm được gì” (Thánh Augustino – GL HTCG Số 2001). Ý thức được giá trị ấy, con người phải có nghĩa vụ sinh lời từ những ân phúc do Chúa tặng ban.
Làm gì với nén bạc Chúa trao
Tin Mừng hôm nay thuật lại câu chuyện ba người đầy tớ được ông chủ tin tưởng trao phó tài sản của mình trước khi ông bắt đầu một cuộc hành trình dài. Hai trong số họ đã làm rất tốt công việc của mình, vì họ đã làm sinh lợi gấp đôi cái nhận được. Nhưng người thứ ba thì không: “Người lãnh một nén, thì đi đào lỗ chôn giấu tiền của chủ mình” (Mt 25,18). Anh đào lỗ chôn giấu, vì sợ ông chủ, không biết làm thế nào để sinh hoa lợi. Đây có lẽ là trung tâm của dụ ngôn.
Việc gì đến cũng sẽ đến, chủ trở về, ông gọi các đầy tớ lại để tính sổ những gì ông đã trao phó cho họ. Ông hoan nghênh hai người đầu tiên, và tỏ sự thất vọng đối với người thứ ba. Trong thực tế, người thứ ba đã sai lầm khi chôn kín số tiền nhận được, anh hành xử như thể sẽ không có ngày anh sẽ bị hỏi về những việc anh đã làm. Với dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta cách sử dụng tốt những gì chúng ta đã được ban tặng.
Ý nghĩa của dụ ngôn này thật rõ ràng. Ông chủ trong dụ ngôn này là Chúa Giêsu, những đầy tớ là chúng ta và những nén bạc là tài sản mà Thiên Chúa đã giao phó cho chúng ta. Khi thông ban cho chúng ta sự sống, Thiên Chúa cũng phú ban cho chúng ta những nén bạc, có thể là khả năng nhiều hay ít. Các nén bạc tượng trưng cho những ơn ban của Chúa để phát triển cá nhân, đạo đức và tôn giáo. Các nén bạc ấy, Ngài đã ủy thác để chúng ta làm cho chúng sinh lời. Cái hố được đào dưới đất bởi người “đầy tớ xấu xa và biếng nhác” (Mt 25, 26). Chúa không yêu cầu chúng ta phải bảo quản ân ban của Ngài trong két sắt! Nhưng mong muốn rằng, chúng ta sử dụng nó để sinh lợi cho tha nhân.
Những nén bạc không đồng đều, kẻ nhiều người ít. Nhiều hay ít, số lượng không quan trọng. Quan trọng là cách mỗi người làm việc với những nén bạc đó. Chúa chú ý tới cố gắng của mỗi người. Bởi thế, người đã lãnh năm nén và người đã lãnh hai nén mà xử dụng tốt đều được thưởng như nhau, là “vào hưởng sự vui mừng của chủ” (x. Mt 25, 21.23). Bạc Chúa trao cho chúng ta phải ra sức làm việc để sinh lời. Việc sinh lời không hệ tại số lượng nén bạc được gia tăng, mà hệ tại tấm lòng của người tôi tớ, người ấy biết chủ tín nhiệm mình nên để đáp lại anh cũng hết lòng với chủ.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa sáng soi, để chúng ta biết việc phải làm. Đồng thới luôn ý thức về sứ mạng Chúa trao ban là làm chủ, để chúng ta mến yêu lao động, cộng tác vào công trình cứu độ của Chúa. Chúng ta không làm việc một mình, nhưng có Chúa cùng hoạt động.
Xin Chúa chúc phúc cho công ăn việc làm của chúng con trong suốt cả năm mới này. Amen.
Thứ Năm: Mc 6, 7-13
Thứ Năm 03/02/2022 – Chúa Giêsu sai đi mười hai tông đồ.
03/02 – Thứ Năm đầu tháng, tuần 4 thường niên.
"Người bắt đầu sai các ông đi".
Lời Chúa: Mc 6, 7-13
Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi, Người ban cho các ông có quyền trên các thần ô uế.
Và Người truyền các ông đi đường đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo. Người lại bảo: "Ðến đâu, các con vào nhà nào, thì ở lại đó cho đến khi ra đi. Ai không đón tiếp các con, cũng không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ".
Các ông ra đi rao giảng sự thống hối. Các ông trừ nhiều quỷ, xức dầu chữa lành nhiều bệnh nhân.
Suy Niệm 1: Không được mang gì
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Đức Giêsu đã chọn nhóm Mười Hai
để họ ở với Ngài và để được Ngài sai đi rao giảng và trừ quỷ (Mc 3, 14-15).
Bây giờ, sau một thời gian sống gần gũi bên Thầy,
đã đến lúc họ được sai đi để làm những điều họ thấy Thầy làm:
kêu gọi người ta hoán cải, trừ quỷ, xức dầu chữa bệnh nhân (cc. 12-13).
Các môn đệ trở nên cánh tay nối dài của Thầy.
Họ được Thầy Giêsu tin tưởng cho chia sẻ cùng một sứ mạng.
Các môn đệ mang gì khi lên đường?
Một lệnh sai đi, một người bạn đồng hành, một quyền lực trên thần ô uế.
Đức Giêsu cho phép họ mang một cái gậy và đôi dép để đi đường xa.
Tất cả hành trang chỉ có thế!
Những thứ bị cấm mang khi đi đường
là những thứ vốn tạo ra sự bảo đảm hay dư thừa không cần thiết:
lương thực, bao bị, tiền giắt lưng, hai áo trong.
Như thế người được sai đi phải hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa lo liệu,
và phải hoàn toàn cậy dựa vào lòng tốt mỗi ngày của tha nhân.
Nhẹ nhàng, đơn sơ là thái độ của người luôn sẵn sàng ra đi.
Siêu thoát, vô vị lợi là thái độ của người không dính bén với vật chất.
Người tông đồ cũng không dính bén đến cơ sở hay tiện nghi.
Họ không tìm cách đổi chỗ ở để có chỗ tốt hơn (c. 10).
Hơn nữa họ chấp nhận sự thất bại, sự từ chối không muốn đón tiếp (c.11),
vì chính Thầy của họ cũng đã chịu cảnh ngộ tương tự ở quê nhà.
Nhóm Mười Hai đã ra đi theo lệnh Thầy Giêsu
và đã làm được những điều họ không dám mơ (cc. 12-13).
Họ đã học được kinh nghiệm về tin tưởng, khó nghèo, siêu thoát.
Họ đã thấy sức mạnh của Nước Trời đang thu hẹp lại mảnh đất của Satan.
Họ đã đem lại niềm vui cho bệnh nhân và người khao khát Tin Mừng.
Giáo Hội mọi thời vẫn được nhắc nhở từ đoạn Lời Chúa trên đây.
Chẳng ai giữ từng chữ của bản văn, nhưng tinh thần thì không được bỏ.
Sự nhẹ nhàng, cơ động của một Giáo Hội đến phục vụ con người,
luôn kéo chúng ta ra khỏi những nặng nề, trì trệ dễ vướng phải.
Hôm nay Chúa cho phép tôi được mang gì
và cấm tôi mang gì?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin sai chúng con lên đuờng
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay vào những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm đuợc những gì Chúa đã làm:
rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,
chữa lành những người ốm đau.
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với niềm vui của người tìm đuợc viên ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng
đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ
của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu,
thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đuờng,
nhẹ nhàng và thanh thoát.
Suy Niệm 2: Vương quyền
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đa-vít là vị vua đạo đức. Chúa hứa cho dòng dõi ông trường tồn. Vương quyền thuộc về nhà ông mãi mãi. Nếu con cháu ông đi trong đường lối của Chúa. Ý thức điều đó nên trước khi lìa đời Đa-vít kỹ lưỡng dặn dò Sa-lô-môn: “Hãy tuân giữ các huấn lệnh của Đức Chúa, Thiên Chúa của con, mà đi theo đường lối của Người, là giữ các giới răn, mệnh lệnh, luật pháp, và chỉ thị của Người, như đã ghi trong Luật Mô-sê. Như thế con sẽ thành công trong mọi việc con làm và trong mọi hướng con đi, và Đức Chúa sẽ thực hiện lời Người đã phán với cha rằng: “Nếu con cái ngươi sống cho phải đạo, là hết lòng hết dạ bước đi trung thực trước nhan Ta, thì ngươi sẽ không bao giờ thiếu người ngự trên ngai Ít-ra-en”“(năm chẵn).
Lời hứa đó đã ứng nghiệm nơi Chúa Giê-su. Nhưng đã đổi mới. Chúa Giê-su thuộc dòng tộc Đa-vít. Nhưng khai mạc một vương quốc mới. Không phải vương quốc trần thế. Nhưng vương quốc trên trời. Không còn cai trị Ít-ra-en cũ với 12 chi tộc. Nhưng một dân mới đặt trên nền tảng 12 tông đồ. Không còn chiến đấu với các dân nước lân bang. Nhưng chiến đấu với thần ô uế, với quỉ dữ. Không còn giữ luật Mô-sê. Nhưng tuân giữ Lời Chúa. Không cậy dựa vào sức mạnh trần gian. Nhưng tin vào sức mạnh của Thiên Chúa. Không chỉ làm cho dân được an cư lạc nghiệp. Mà còn cho dân được an vui hạnh phúc. Nhưng để được làm dân trong vương quốc mới của Thiên Chúa, ta phải ăn năn sám hối. Từ bỏ lối sống cũ trong tội lỗi. Để sống đời sống mới trong ân sủng, thánh thiện. “Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối. Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh”.
Vương quyền của Chúa Giê-su bền vững muôn đời. Vương quyền Người nhận được vì đã đổ máu ký kết giao ước mới: “Máu đó kêu thấu trời còn mạnh thế hơn cả máu A-ben”. Ta được trở thành công dân mới. Sống trong “thành đô Thiên Chúa hằng sống, là Giê-ru-sa-lem trên trời”. Nơi đó ta không còn bị tà thần ám ảnh. Vì ta sống “với muôn vàn thiên sứ”. Nơi đó ta “tới cùng Thiên Chúa, Đấng xét xử mọi người, đến với linh hồn những người công chính đã được nên hoàn thiện”. Ta tới vương quốc hạnh phúc muôn đời: “Anh em đã tới dự hội vui, dự đại hội giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa, là những kẻ đã được ghi tên trên trời”.
Suy Niệm 3: Sứ mệnh tông đồ
Một tôn giáo chỉ tồn tại, nếu mỗi ngày một phát triển và có thêm người gia nhập. Kitô giáo do Chúa Giêsu thiết lập cũng nằm trong diện đó. Dưới con mắt Chúa, mỗi linh hồn đều có giá trị như nhau và mỗi người đều được sai đi tìm những con chiên lạc và dẫn chúng về đồng cỏ xanh tươi. Ngài ý thức rằng Thiên Chúa đã tạo dựng con người, không phải để bị vất vào lò lửa đời đời, nhưng là để được thu vào kho lẫm. Do đó, mối bận tâm lớn nhất của Ngài khi đến thế gian chính là đem Tin Mừng cứu độ cho mọi người.
Từ trước tới giờ, Ngài vẫn làm việc đó một mình, nhưng nay vì tính cách khẩn thiết của việc tông đồ, Ngài cần có những con người cộng tác: Mùa gặt bề bộn, mà thợ gặt thì ít. Sứ mệnh tông đồ từ nay được trao cho họ. Sứ mệnh đó thật cao cả và cấp bách, vì thế Chúa đòi hỏi nơi họ sự thoát ly trọn vẹn, hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa quan phòng. Ra đi một cách thảnh thơi, không bồn chồn, không bối rối, không bận tâm đến bị, đến tiền. Không những thế, họ còn phải hy sinh tất cả cho sứ mệnh, đo lường mọi sự theo lợi ích của Nước Thiên Chúa. Họ chấp nhận giao tiếp với thế gian nếu đó là cơ hội để phổ biến sứ điệp, họ không mưu cầu tư lợi, nhưng dũ bỏ hết những gì không liên quan đến sứ mệnh, chỉ như thế, họ mới có thể đạt tới trình độ siêu thoát và dễ dàng chinh phục các linh hồn về cho Nước Chúa.
Mỗi người chúng ta cũng được kêu gọi vào sứ mệnh tông đồ, chúng ta có ý thức sứ mệnh cao cả ấy không? Các linh hồn được cứu rỗi hay bị luận phạt, một phần lớn tùy thuộc vào đời sống của chúng ta. Ðiều đó có thể làm chúng ta run sợ, nhưng nếu chúng ta nhiệt tâm mở rộng Nước Chúa nơi các tâm hồn, chúng ta sẽ được an tâm, không ai có thể trách chúng ta đã đùa giỡn với số phận đời đời của họ, và các linh hồn sẽ là triều thiên cho chúng ta trong ngày Chúa vinh quang ngự đến.
Chúng ta hãy sống kết hiệp với Chúa. Tất cả hoạt động của chúng ta sẽ chẳng có giá trị gì, nếu không bắt nguồn từ tình yêu Thiên Chúa. Càng kết hiệp với Chúa, chúng ta càng có khả năng chu toàn bổn phận người tông đồ giữa dân Chúa, và như vậy chắc chắn chúng ta sẽ nhận được phần thưởng Chúa hứa cho người thợ tận tâm, nhiệt tình cho Nước Chúa trị đến.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Nếp sống nghèo cần thiết
Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ quỷ. Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng. (Mc. 6, 7-8)
Hôm nay các Tông đồ bắt đầu thực tập công việc truyền giáo. Các ông đã được thấy Chúa làm, nghe Chúa nói, thì giờ đây đến lượt các ông nói và làm. Tuy thời kỳ huấn luyện các ông còn chưa xong – chỉ đến ngày Lễ Hiện Xuống công việc này mới kết thúc – nhưng các ông đã có thể thử nghiệm cho biết cuộc đời truyền giáo là thế nào.
Khi sai đi truyền giáo, Đức Giêsu đã dặn dò, chỉ thị cho các Tông đò nhiều điều. Chúng ta sẽ lưu ý hai sự kiện có ý nghĩa này: dặn dò sống khó nghèo và làm cho xong công việc.
Đừng mang theo gì cả
Chúa Giêsu căn dặn các Tông đồ không được mang theo gì cả; các ông phải ra đi không cồng kềnh vướng vít, không mang theo ngay cả đồ ăn thức uống nữa.
Tôi nghĩ: xem ra đây là một điều kiện để người truyền giáo có được thảnh thơi. Ra đi không hành lý, chính là từ chối kéo theo mình những gì là riêng tư, là không khui và phô ra trước mặt người khác, tiền bạc, của cải, uy thế của mình… Ra đi không hành lý là muốn nói lên rằng chỉ có bản thân, tư cách con người truyền giáo mới là chiếc xe tốt cần thiết cho việc đi rao giảng Tin mừng. Làm chứng là nói bằng chính con người và đời sống của mình, chứ không phải bằng nhừng lời nói xuông mà thôi, nghĩa là sống sao thì dạy vậy, và dạy sao thì sống vậy.
Một khía cạnh khác nữa của nếp sống nghèo cần có đối với người truyền giáo là chấp nhận lòng hiếu khách của người ta, sẵn lòng khi được người ta mời. Người ta dễ đón nhận mình hơn khi ta không choán hết chỗ của họ!
Ta đến không mang theo đồ đạc lỉnh kỉnh, người ta sẵn lòng đón tiếp ta; hai việc này thường đi đôi với nhau. Ai cũng biết rõ rằng nếu ta tới nhà họ với đôi bàn tay trống – ngoại trừ chứng từ của đời sống ta - thì sự tiếp đón của họ mới thật trong sáng: người ta sẽ tỏ ra quan tâm đến chứng từ, chứ không phải vì món đồ nào đó được cất dấu trong những chiếc va-li của ta.
Làm cho xong công việc
Các Tông đồ đều là những người mới vào nghề; việc các ông làm chẳng phải là điều mắt thấy tai nghe: xức dầu cho vài người bệnh, săn sóc cho mấy bệnh nhân, úy lạo những người khốn khổ, thất vọng.
Có lẽ chúng ta quá tán dương việc các Tông đồ làm, nên đâm ra nhát sợ không có khả năng làm chứng như các ngài. Lần này, ta hãy cứ tạm biết rằng các ngài cũng đã chỉ làm những việc bình thường mà ta có thể làm được, và trước hết các ngài đã trở thành những bàn tay săn sóc, trước khi miệt mài với công việc rao giảng.
Lúc này đây, Chúa Giêsu đang bảo ta: “Nào con, ta đi làm việc thôi, và hãy làm với tinh thần đơn sơ mà can đảm!”.
Suy Niệm 5: Giảng gì? Giảng như thế nào?
Sau khi được Đức Giêsu gọi và chọn các môn đệ, các ông đã ở lại với Ngài một thời gian, nay Ngài sai họ đi để rao giảng Tin Mừng.
Đức Giêsu truyền cho họ đi rao giảng, và không những thế, Ngài còn dạy cho họ biết giảng điều gì, và giảng như thế nào!
Về nội dung lời giảng: “Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối”. Đây cũng chính là sự tiếp nối lời giảng dạy của Đức Giêsu và của Gioan Tiền Hô.
Về cách giảng:
- Trước tiên, để lời giảng của các ông có giá trị, họ phải là chứng nhân.
- Thứ đến, chữa lành thể xác bằng việc chữa bệnh.
- Cuối cùng, giải thoát con người khỏi xiềng xích trói buộc của Ma Quỷ.
Về thái độ, tác phong của người môn đệ: người thừa sai phải là người nghèo. Nghèo để thanh thoát; để liên đới; để tin tưởng, phó thác nơi Thiên Chúa.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy đi loan báo Lời Chúa cho mọi người, nhất là những người đau khổ cả về thể xác lẫn tinh thần.
Người đi theo Chúa phải là người luôn luôn xây dựng và cổ võ sự hiệp nhất, sống tình huynh đệ và yêu thương, trở nên chứng nhân cho Lời Chúa bằng hành động.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sẵn sàng ra đi loan báo Tin Mừng cho mọi người, nhất là những người nghèo. Nhưng trước tiên, xin cho chúng con biết sống nghèo, tin tưởng, phó thác nơi Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Được Chúa sai đi rao giảng
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Tông đồ là người được Chúa sai đi, được giao nhiệm vụ rao giảng ơn cứu độ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên thế giới và dựng nên con. Con thật nhỏ bé giữa vũ trụ mênh mông rộng lớn này. Ai cũng có một mảnh đời riêng, một khoảng hẹp riêng cho đời mình. Dù không là gì so với vô tận không gian, con vẫn biết rằng Chúa không bỏ quên mỗi một người trong chúng con. Đàng khác, dù con có muốn lẩn trốn vào góc quên lãng, muốn cuộn mình vào trong lớp vỏ lặng câm, vì mặc cảm nhỏ nhoi hèn kém, thì con vẫn không thể tránh khỏi cái nhìn yêu thương của Chúa.
Chúa đã sai các tông đồ đến với chúng con, gọi chúng con bước ra khỏi vỏ bọc của mình, khiến trái tim khép kín phải mở cửa nhảy mừng, khiến môi miệng lặng câm phải cất vang lời hát, và khiến mọi khao khát được no thỏa niềm vui. Các mục tử chính là sự hiện diện sống động của Chúa giữa đàn chiên, là những người được Chúa sai đến tới mọi ngõ ngách của thế giới này. Qua các ngài, chính con cũng được sai đi để đến với anh em mình, nhìn vào mắt nhau để nói lời yêu thương, cầm tay nhau mà sánh bước về Nước Chúa. Như vậy, con sẽ chìm lặng trong sự hủy diệt nếu con quay mặt làm ngơ trước sự săn sóc của Chúa. Trái lại, khoảng hẹp đời con sẽ rộng mở thênh thang nếu con đón lấy ánh lửa yêu thương Chúa gửi đến với con.
Lạy Chúa, con mong sao được là ngọn lửa thắp lên từ lửa tình yêu của Chúa, và được sai đi để thắp sáng cuộc đời anh em, biến những khoảnh khắc thành vĩnh cửu, biến những vui buồn mau qua thành hạnh phúc đời đời. Xin Chúa chúc lành cho ý nguyện của con. Amen.
Ghi nhớ: ”Người bắt đầu sai các ông đi”.
Suy Niệm 7: Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai đi
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Cha Piô Ngô Phúc Hậu vị tông đồ truyền giáo vùng sông nước mênh mông, đất đai thẳng cánh cò bay hiu quạnh ở vùng cực nam của Tổ quốc, cha chia sẻ về một trong những kinh nghiệm truyền giáo: Mình xách môbylét đi một đường, vừa đi vừa liếc, lòng thầm cầu nguyện để Chúa chọn cho người truyền giáo một nơi dừng chân. Tự nhiên lòng mình thấy ấm hẳn lên khi nhác thấy một căn nhà lá có trồng cây lựu ở phía trước. Trái lựu to bằng nắm tay đang đánh đu theo gió. Như một phản xạ, mình lái môbylét vào tới hàng ba, làm bộ ngắm nghía cây lựu. Bà chủ nhà, nét mặt hiền từ, mái tóc muối tiêu, nghe tiếng xe nổ và tắt máy vội vàng chạy ra.
- Thầy kiếm ai đó?
- Chào bác. Cây lựu nhà bác dễ thương quá, cho tôi ngắm một tí.
- Thì vô trong nhà uống nước đã.
- Bác thứ mấy để tôi xưng hô cho dễ.
- Tôi thứ năm. Thứ của ông nhà tôi.
- Thế bác trai đi đâu rồi, bà Năm?
- Ông tôi mất từ lâu rồi.
- Bây giờ bà Năm ở với ai?
- Có hai bà cháu à. Thầy ở đâu mà vô đây?
- Tôi ở Ô Môn vô đây dạy giáo lý. Sáng vô, chiều về. Đi tới đi lui thấy bất tiện quá. Tôi muốn ở lại đây luôn, mà chưa kiếm được chỗ nào ở cho thuận lợi.
- Thì thầy ở đây với tôi. Nhà rộng rinh à. Thầy ở đây thì cũng như con cháu trong nhà chứ gì.
- Thế bà Năm theo đạo nào?
- Tôi chẳng theo đạo nào hết. Thờ ông bà vậy thôi.
- Cám ơn Chúa. Cám ơn bà Năm. Vậy ngày mai tôi vô ở luôn nhá.
- Ừa (Trích Nhật ký Truyền giáo, Bà Năm).
Suy Niệm
Người môn đệ được sai đi, hành trang duy nhất là sự nhiệt thành và lòng tin thác cậy trông. Mang tâm tình của Đức Kitô truyền cho các môn đệ: “Đi đường, đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo”. Người lại bảo: “Đến đâu, các con vào nhà nào, thì ở lại đó cho đến khi ra đi”...
Thánh Gioan Kim Khẩu Suy Niệm lệnh truyền của Chúa trên các tông đồ: “Ngài phòng giữ cho các môn đệ khỏi mọi sự nghi ngờ của những ý niệm trần gian lưu tâm; Ngài cất đi nơi các ông khỏi mọi sự lo toan trần thế, để toàn tâm lo việc Lời Chúa, và Ngài làm cho các ông biết quyền năng và sự chăm sóc mà Ngài dành cho họ”. Thật thế, đêm hôm trước cuộc tử nạn, Ngài chất vấn các ông về sự quan tâm của chính Ngài: “Khi Thầy sai anh em ra đi, không túi tiền, không bao bị, không giày dép, anh em có thiếu thốn gì không?” (Lc 22,35)… Sau khi đã trang bị cho các ông những quyền lực cần thiết cho sứ vụ, Ngài ra lệnh cho các ông để lại tất cả những gì không cần thiết” (Theo Homélie XXXII sur l’évangile selon saint Matthieu, 4). Để lại những lo toan trần thế, không cần thiết để làm “nhẹ bớt”, sẵn sàng theo sự thúc đẩy của Thánh Thần như Đức Hồng y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận nhận định: “Hãy cắt đứt xích xiềng ràng buộc con, dù là xích vàng, để tiến tới. Cuối đường có Chúa đón chờ con” (ĐHV số 179).
Làm việc tông đồ một tay nắm lấy tay Chúa, một tay nắm lấy tay anh em. Vì thế Chúa Giêsu nói đến hình ảnh sai hai người ra đi. Trong Công vụ sứ đồ, các thừa sai luôn luôn đồng hành với nhau: Phêrô và Gioan (x.Cv 3,1; 4,13); Phaolô và Barnabê (x.Cv 13,2); Giuđa và Sila (x.Cv 15,22b)…
Chúa gọi và sai người môn đệ. Người tín hữu qua bí tích Rửa Tội cũng được gọi sai đi. Mỗi ngày, hay ít là Chúa nhật, chúng ta tham dự thánh lễ, Missa – Messe, chữ Messe- Missa - thánh lễ có nghĩa là “sự sai đi” như lời truyền: “Anh hãy đi! Anh em được sai đi” “Ite, Missa est”. Chính Chúa đã thiết lập nhịp sống sai đi và trao cho mọi người chúng ta. Sai đi để sinh hoa kết quả tôn vinh Thiên Chúa như lời mời gọi: “Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy” (Ga 15,8), đó là ơn gọi chung của mọi Kitô hữu như Chúa nói: “Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại”(Ga 15,16).
Thật thế, đời con là một sự ra đi, ra đi tiến vào đời vì được sai như lời ca được tấu lên tiễn bước con: “Ngài sai tôi đi vào đời, niềm tin vui gieo lòng người, Ngài sai tôi đi mọi nơi…”.
Suy Niệm 8: Chúa sai các Tông đồ đi truyền giáo
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Sau một thời gian huấn luyện, hôm nay Chúa Giêsu sai các Tông đồ đi thực tập truyền giáo. Chúa sai các ông đi từng hai người một, ban cho các ông có quyền chữa bệnh và khử trừ ma quỉ. Người không cho các ông mang theo gì, trừ ra cây gậy và đôi dép, để các ông hoàn toàn phó thác vào Người. Người dặn bảo các ông: đến nơi nào thì cứ kiên trì ở đó giảng và làm phúc cho họ. Nếu nơi nào người ta không chịu nghe lời thì hãy đi nơi khác, nhưng hãy cảnh cáo cho họ biết lỗi của họ.
2. Hôm nay các Tông đồ bắt đầu thực tập công việc truyền giáo. Trong thời gian qua, các ông đã được trong thấy việc Chúa làm, Chúa giảng dạy... thì giờ đây đến lượt các ông phải nói và làm. Tuy thời kỳ huấn luyện các ông còn chưa xong – chỉ đến ngày lễ Hiện Xuống việc này mới kết thúc – nhưng các ông có thể thử nghiệm cho biết cuộc đời truyền giáo là thế nào.
3. Chúa muốn các ông sống khó nghẻo và đơn sơ phó thác.
Chúa Giêsu căn dặn các tông đồ không được mang theo gì cả, các ông phải ra đi không cồng kềnh vướng vít, không mang theo ngay cả đồ ăn thức uống nữa.
Xem ra đây là một điều kiện để người truyền giáo có được thảnh thơi. Ra đi không hành lý, chính là từ chối kéo theo mình những gì là riêng tư, và phô ra trước mặt người khác, tiền bạc, của cải, uy thế của mình... Ra đi không hành lý là muốn nói lên rằng chỉ có bản thân, tư cách con người truyền giáo mới là chiếc xe tốt cần thiết cho việc đi rao giảng Tin Mừng. Làm chứng là nói bằng chính con người và đời sống của mình, chứ không phải bằng những lời nói xuông mà thôi, nghĩa là sống sao thì dạy vậy, và dạy sao thì sống vậy.
4. Một khía cạnh khác của nếp sống nghèo cần có đối với người truyền giáo là chấp nhận lòng hiếu khách của người ta, sẵn lòng khi được người ta mời. Người ta dễ nhận mình hơn khi ta không choán hết chỗ của họ. Ta đến không mang theo đồ đạc lỉnh kỉnh, người ta sẵn lòng đón tiếp ta; hai việc này thường đi đôi với nhau. Ai cũng biết rõ rằng nếu ta tới nhà họ với đôi bàn tay trống – ngoại trừ chứng từ của đời sống ta – thì sự tiếp đón của họ mới thật trong sáng: người ta sẽ tỏ ra quan tâm đến chứng từ, chứ không phải vì món đồ nào đó được cất giấu trong những chiếc Va-li của ta.
5. Chúa muốn các nhà truyền giáo làm chứng cho Người.
Mỗi người chúng ta có trách nhiệm phải thi hành sứ mạng tiên tri nghĩa là phải làm chứng cho Chúa Giêsu như lời Người dạy: “Các con là chứng nhân của Thầy”. Rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho Chúa không phải chỉ dùng lời nói suông nhưng phải dùng cả đời sống, cả con người của mình để làm chứng, vì con người chúng ta là phương tiện hữu hiệu để chỉ cho người ta biết Thiên Chúa. Vì vậy, mỗi người phải có đời sống gương mẫu để xứng đáng là “chứng nhân” của Chúa, ngược lại chỉ là những”phản chứng” thôi. Cho nên chúng ta có thể nói: cách giảng hữu hiệu nhất là làm chứng, và cách làm chứng hữu hiệu nhất là cuộc sống nghèo, không cần gì khác ngoài ơn Chúa.
Về phương diện này có người kể lại rằng: “Đã có lần Lénine nói về thánh Phanxicô Assisi: “Để có thể thay đổi bộ mặt thế giới, có lẽ chỉ cần 10 con người như vậy” (Trích Mỗi ngày một Tin vui”).
6. Chúa cũng muốn chúng ta phải làm chứng nhân cho Chúa.
Mỗi công việc đều có phương tiện để đạt tới mục đích. Trên thế giới này có biết bao nhiêu ngàng nghề, biết bao lãnh vực cho nên có vô vàn vô số những phương tiện thích hợp. Trong lãnh vực truyền giáo, Chúa cũng dùng đủ mọi phương tiện để nhờ đó người ta có thể nhận biết Chúa, nhưng phương tiện sống động và hữu hiệu nhất là chính con người chúng ta, chính con người chúng ta là dấu ấn của Thiên Chúa để người ta trông thấy chúng ta thì đồng thời cũng nhìn ra Chúa.
Trong việc phong thánh cho linh mục Gioan Vianney, cha sở xứ Ars, một nhà điều tra phong thánh có hỏi một người trong giáo xứ về đời sống của Ngài, thì người giáo dân ấy chỉ trả lời vỏn vẹn bằng mấy chữ: “Tôi đã trông thấy Thiên Chúa trong một con người”.
7. Truyện: Thánh Phanxicô Assisi giảng đạo.
Ngày kia, thánh Phanxicô Assisi nói với thầy dòng: “Nào chúng ta cùng đi phố và giảng đạo”. Hai người ra đi, hết con đường trước mặt, quẹo sang đường khác rồi về nhà. Thầy dòng thắc mắc hỏi: “Con nghe ngài nói là mình đi phố và giảng đạo cơ mà”!
Thánh Phanxicô đáp: “Chúng ta đã giảng đạo rồi đó! Khi chúng ta đi đường. Mọi người nhìn ta, thấy phong cách của ta, nghĩ về đời sống của ta và rồi họ sẽ thắc mắc về nguồn sống linh hồn của họ. Như thế chẳng phải là ta đã giảng đạo cho họ rồi sao”?
Câu nói của thánh nhân quả là khôn ngoan. Người Kitô hữu không có cách truyền giáo nào hay hơn là chính đời sống chứng tá của họ (Góp nhặt).
Suy Niệm 9: Để họ đi rao giảng
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống...)
Trước đây Chúa Giêsu đã chọn 12 tông đồ, mục đích là “để họ ở với Ngài và để Ngài sai họ đi rao giảng” (Mác Cô 13,14). Vậy sau khi họ đã “ở với Ngài” một thời gian, nay Ngài “sai họ đi rao giảng”. Đây Là những người còn non yếu, cho nên trước khi họ ra đi, Chúa chỉ dẫn họ những điều cần thiết.
Mục đích lần sai đi này là “để họ đi rao giảng”. Họ phải giảng điều gì và giảng thế nào?
- Về nội dung lời giảng, Thánh Marcô tóm lược trong công thức rất gọn “các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối”. Như thế, đây là nôi dung chính, tất cả những lời rao giảng khác đều qui về nội dung chính này. Hơn nữa, đây cũng chính là nội dung rao giảng của Chúa Giêsu (x. Mác Cô 1, 15) và của Gioan Tiền Hô (x. Mác Cô 1,14).
- Về cách giảng: họ không chỉ giảng bằng lời kêu gọi, mà còn bằng
a/ việc làm chứng (c7: họ đi từng nhóm hai người, đúng qui định của luật lệ Môisê và điều kiện để sự làm chứng có giá trị);
b/ việc giải thoát người ta khỏi xiềng xích của thế lực gian tà (“trừ Quỷ”);
c/ việc giải thoát người ta khỏi đau khổ thể xác (“chữa bệnh”).
- Những chỉ dẫn về tác phong người rao giảng có thể toám lại trong hai điều: nghèo và tin tưởng vào Chúa quan phòng.
B. Suy Niệm (...nẩy mầm)
1. Cách giảng hữu hiệu nhất là làm chứng, và cách làm chứng hữu hiệu nhất là một cuộc sống nghèo, không cần gì khác ngoài ơn Chúa.
Đã có lần Lênin nói với thánh Phanxicô Assisi “Để có thể làm thay đổi bộ mặt Thế giới, có lẽ chỉ cần 10 con người như vậy” (Trích “mỗi ngày một tin vui”)
2. Chúa Giêsu sai các môn đệ đi “từng hai người một”. Việc truyền giáo là việc là của tập thể và phải làm trong tinh thần cộng tác với nhau.
Có những người làm việc Chúa những không theo tinh thần ấy: họ làm theo chủ nghĩa anh hùng cá nhân, không thích bị người khác kiểm soát, không muốn người khác chia sẽ thành công…
Ngày kia, Thánh Phanxicô Assisi nói với một thầy dòng: “nào chúng ta cùng đi phố và giảng đạo”. Hai người ra đi, hết con đường trước mặt, quẹo sang đường khác và về nhà. Thầy dòng thắc mắc hỏi: “Con nghe Ngài nói là mình đi phố và giảng đạo cơ mà!”
Thánh Phanxicô đáp: “Chúng ta đã giảng đạo rồi đó! khi chúng ta đi đường. Mọi người nhìn ta, thấy phong cách của ta, nghĩ về đời sống của ta và rồi họ sẽ thắc mắc về nguồn sống nơi linh hồng của họ. Như thế chẳng phải là ta đã giảng đạo cho họ rồi sao?”
Câu nói của thánh nhân quả là khôn ngoan. Người Kitô hữu không có cách truyền giáo nào hay hơn là chính đời sống chính tá của họ. (Góp nhặt)
3. ”Nơi nài người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì ra khỏi nơi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ” (Mc 6,11)
Để tiện việc ôn thi đại học của đứa em, tôi phải thuê nhà trọ ở gần trường và ở chung với nó. rồi một buổi tối, trời mưa như trút nước, ba mẹ con hành khất đến xin chủ nhà cho ngủ trọ. Người chủ nhà từ chối và tìm cách đuổi khéo.
Nhìn bóng ba mẹ con hành khất khuất dần trong bóng tối, tôi cảm thấy sức nặng của Tin Mừng và những đòi hỏi quyết liệt của nó. Giả như các môn đệ của Chúa đến với tôi không bị, không bánh, không tiền, liệu tôi có thể tiếp nhận các Ngài không? Rất có thể một lần nữa, các Ngài sẽ bị xua đuổi hay khước từ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con biết nhận ra Chúa nơi tất cả mọi người nhất là những người cùng khổ, để luôn ân cần đón tiếp mọi người. (Epphata)
Suy Niệm 10: Nội dung, tác phong và cách rao giảng
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
Chúa Giêsu đã chọn 12 tông đồ, mục đích là ”để họ ở với Ngài và để Ngài sai họ đi rao giảng”.
Họ phải giảng điều gì và giảng thế nào?
- Về nội dung lời giảng, Thánh Marcô tóm lược trong công thức rất gọn: “Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối” (Mc 6,12).
- Về cách giảng: họ không chỉ giảng bằng lời kêu gọi, mà còn bằng những việc làm cụ thể.
- Tác phong của người rao giảng: Biết sống nghèo và tin tưởng vào Chúa quan phòng.
Cách giảng hữu hiệu nhất là làm chứng, và cách làm chứng hữu hiệu nhất là một cuộc sống nghèo, không cần gì khác ngoài ơn Chúa.
Đức Thánh cha Phaolô VI: ”Con người thời đại chúng ta thích nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, hoặc nếu có nghe các bậc thầy thì vì những vị thầy này là những chứng nhân”.
Đã có lần Lênin nói về thánh Phanxicô Assisi như thế này: “Để có thể làm thay đổi bộ mặt thế giới, có lẽ chỉ cần 10 con người như vậy” (Trích “mỗi ngày một tin vui”).
Ngày kia, Thánh Phanxicô Assisi nói với một thầy dòng:
- Nào chúng ta cùng đi phố và giảng đạo.
Hai người ra đi, hết con đường trước mặt, quẹo sang đường khác rồi về nhà. Thầy dòng thắc mắc hỏi:
- Con nghe cha nói là mình đi phố và giảng đạo cơ mà!
Thánh Phanxicô đáp:
- Chúng ta đã giảng đạo rồi đó! Khi chúng ta đi đường. Mọi người nhìn ta, thấy phong cách của ta, nghĩ về đời sống của ta và rồi họ sẽ thắc mắc về nguồn sống nơi linh hồn của họ. Như thế, chẳng phải là ta đã giảng đạo cho họ rồi sao?
Câu nói của thánh nhân quả là khôn ngoan. Người Kitô hữu không có cách truyền giáo nào hay hơn là chính đời sống chứng tá của họ. (Góp nhặt)
Người rao giảng Tin Mừng phải thực sự là người cảm nghiệm được một cách sâu xa niềm vui của một cuộc sống siêu thoát. Có như vậy, họ mới có thể thanh thản sống cuộc đời làm chứng cho Tin Mừng
Một ngày nọ, người cha giàu có dẫn con trai đến vùng quê để thằng bé thấy những người nghèo ở đây sống như thế nào. Họ tìm đến nông trại của một gia đình nghèo nhất nhì vùng.
Đây là một cách để dạy con biết quí trọng những người có cuộc sống cơ cực hơn mình – Người cha nghĩ đó là bài học thực tế tốt cho đứa con bé bỏng của mình.
Sau khi ở lại và tìm hiểu đời sống tại đây, họ lại trở về nhà. Trên đường về, người cha nhìn con trai mỉm cười:
- Chuyến đi như thế nào hả con?
- Thật tuyệt vời bố ạ!
- Con đã thấy người nghèo sống như thế nào rồi đấy!
- Ô, vâng rất tuyệt!
- Thế con rút ra được điều gì từ chuyến đi này?
Đứa bé không ngần ngại:
- Con thấy chúng ta có một con chó, họ có tới bốn con. Nhà mình có một hồ bơi dài đến giữa sân, còn họ thì có cả một con sông dài bất tận. Chúng ta phải đưa những chiếc đèn lồng vào trong vườn, còn họ thì có cả một bầu trời sao lấp lánh suốt đêm. Mái hiên nhà mình chỉ đến trước sân, còn họ thì nhà cửa rộng tít đến cả chân trời. Chúng ta có một miếng đất để sinh sống, còn họ thì có cả những cánh đồng trải dài. Chúng ta phải có người phục vụ, còn họ lại phục vụ người khác. Chúng ta phải mua thực phẩm, còn họ lại trồng ra những thứ ấy. Chúng ta có những bức tường bảo vệ xung quanh, còn họ có những người bạn láng giềng che chở nhau…
Đến đây người cha không nói gì cả.
- Bố ơi, con đã biết chúng ta nghèo như thế nào rồi. Cậu bé nói thêm.
Rất nhiều khi chúng ta đã quên mất những gì mình đang có và chỉ luôn đòi hỏi những gì mình chưa có hay không có. Có những thứ không giá trị với người này nhưng lại là mong mỏi của người khác, điều đó còn phụ thuộc vào cách nhìn và cách đánh giá của mỗi người. Xin Chúa cho chúng ta đừng quá lo lắng, chờ đợi vào những gì chúng ta không có hay sẽ có, mà bỏ quên những điều chúng ta đang có, dù chúng là những gì rất nhỏ nhoi. Có như thế chúng ta mới thấy cuộc đời có nhiều niềm vui và mới hăng say trong sứ mạng tông đồ.
W. Goethe nói: “Sự chiếm hữu có ý nghĩa gì đâu. Sự ưng thuận mới là tất cả”
Giữa một thế giới
chạy theo tiện nghi, hưởng thụ,
xin cho con biết bằng lòng với cuộc sống đơn sơ.
Giữa một thế giới còn nhiều người đói nghèo,
xin cho con đừng thu tích của cải.
Giữa một thế giới mà sự sống bị chà đạp,
xin cho con biết quý trọng phẩm giá từng người.
Giữa một thế giới không tìm thấy hướng sống,
xin cho con biết xây lại niềm tin.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con cảm được cơn đói đang giày vò bao người,
xin cho con nghe được lời mời của Chúa:
“Các con hãy cho họ ăn đi”.
Ước gì chúng con dám trao
tất cả những gì chúng con có cho Chúa,
để Chúa trao tất cả những gì Chúa có
cho chúng con và cho cả nhân loại. Amen.
02/02 Dâng con trẻ
- Viết bởi Lc 2, 22-40
Dâng con trẻ.
Thứ Tư tuần 4 thường niên – DÂNG CHÚA GIÊSU TRONG ĐỀN THÁNH (Lễ nến). Lễ kính.
"Mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu độ".
* Dâng Chúa trong Đền Thánh, Chúa Kitô gặp gỡ dân thánh nơi con người cụ già Simêon, Đức Maria được thanh tẩy theo luật Môsê, lễ Nến, đó là những tên gọi khác nhau để chỉ ngày lễ hôm nay, bốn mươi ngày sau lễ Giáng Sinh, kết thúc những ngày lễ trọng mừng việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho con người nơi Ngôi Lời mặc xác phàm.
Lời Chúa: Lc 2, 22-40
Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa". Và cũng để dâng lễ vật cho Chúa, như có nói trong Luật Chúa, là một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu con.
Và đây ở Giêrusalem, có một người tên là Simêon, là người công chính, kính sợ Thiên Chúa, và đang đợi chờ niềm ủi an của Israel. Thánh Thần cũng ở trong ông. Ông đã được Thánh Thần trả lời rằng: Ông sẽ không chết, trước khi thấy Ðấng Kitô của Chúa. Ðược Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ ngay lúc cha mẹ trẻ Giêsu đưa Người đến để thi hành cho Người những tục lệ của Lề luật. Ông bồng Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
"Lạy Chúa, giờ đây, Chúa để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an theo như lời Chúa đã phán: vì chính mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là Ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa".
Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà và nói với Maria mẹ Người rằng: "Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ!"
Lúc ấy, cũng có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel.
Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo Luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
1. Tiến Dâng Cho Chúa—Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
Sống là chấp nhận thuộc về.
Mở mắt chào đời là thuộc về một gia đình, một đất nước.
Càng sống con người càng thấy mình thuộc về nhiều hơn.
Thuộc về một nhóm, một giáo xứ, một nơi làm việc...
Khi đôi bạn trẻ yêu nhau, họ muốn trái tim của họ thuộc về nhau.
Thuộc về nhau là nền tảng của sự chung thủy.
Đối với Do thái giáo, bé trai đầu lòng mới sinh ra
thì thuộc về Chúa, được thánh hiến dành riêng cho Chúa.
Cha mẹ cậu phải bỏ ra một món tiền tượng trưng
để chuộc cậu về cho mình (x. Ds 18,15-16; Xh 13,13)
Bài Tin Mừng hôm nay không nói đến chuyện chuộc con,
nhưng lại nói đến việc bà Maria và ông Giuse
tiến dâng con trai đầu lòng cho Chúa.
Đức Giêsu đã sống nghiêm túc sự tiến dâng này suốt đời.
Ngài thuộc về Thiên Chúa Cha một cách trọn vẹn.
Từ khi vào đời làm người, Ngài đã nói:
"Này tôi xin đến để thực thi ý Chúa." (Dt 10, 9)
Năm 12 tuổi, cậu Giêsu đã cố ý ở lại Đền Thờ,
mà cậu gọi là nhà Cha của cậu (x. Lc 2, 49).
Khi chịu phép rửa ở sông Giođan,
Đức Giêsu ý thức rõ hơn mình là Con, thuộc về Cha,
được Cha sai vào giữa lòng nhân loại (x. Mc 1,11).
Có biết bao cám dỗ trong những năm rao giảng,
cám dỗ từ ma quỷ, từ đám đông, từ môn đệ.
Cám dỗ lôi kéo Ngài sống cho mình,
và không muốn thuộc về Cha, Đấng sai Ngài đi.
"Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra" (Ga 14,10).
"Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì
ngoại trừ điều Con thấy Chúa Cha làm" (Ga 5,19).
Đức Giêsu không tự mình nói, tự mình làm,
vì Ngài đã vượt qua được cái tôi,
và để cho Cha chiếm hữu toàn bộ cuộc sống.
Nếu chúng ta dám nói và làm theo ý Cha,
chúng ta sẽ giống Đức Giêsu: thuộc trọn về Thiên Chúa.
Thuộc về Thiên Chúa phải là nền tảng
chi phối mọi tương quan của ta với thụ tạo khác.
Cậu bé Giêsu được đưa lên Đền Thờ lần đầu tiên.
Chúng ta thấy một đôi vợ chồng nghèo với đứa con nhỏ,
đứng lẫn trong đám đông, chờ đến phiên mình.
Ai có mắt để thấy được sự lớn lao của mầu nhiệm?
Si-mê-on: một người công chính và mộ đạo,
một người đầy Thánh Thần và sống trong chờ đợi.
An-na: một góa phụ già nua phụng thờ Chúa đêm ngày,
trong ăn chay và cầu nguyện.
Để thấy Chúa trong cái đều đặn, bình thường, buồn tẻ,
cần có một đời sống đạo đức sâu xa.
Chúa có thể gặp ta như một sự tình cờ,
nhưng thật ra lại là kết quả của những năm dài chuẩn bị.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn hãy chia sẻ cho biết hiện nay bạn đang thấy mình "thuộc về" những người nào hay những tập thể nào. Sự thuộc về mạnh nhất của bạn hiện nay đặt ở đâu? Bạn thấy có nguy hiểm gì không?
Thuộc về Thiên Chúa, thuộc về tha nhân: có khi nào bạn cảm nghiệm điều đó một cách mãnh liệt không? Xin chia sẻ.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả
để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà
để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con
cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình,
ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan
để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng
trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa
thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen.
2. Ánh sáng và vinh quang—Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy niệm:
“Thứ bốn thì ngắm, Đức Bà dâng Chúa Giêsu trong đền thánh,
ta hãy xin cho được vâng lời chịu lụy.”
Đức Mẹ đã muốn giữ Luật Chúa một cách nghiêm chỉnh.
Luật trong sách Lêvi (12, 2-8) đòi buộc người mẹ 40 ngày sau khi sinh con trai
phải lên đền thờ để được thanh tẩy và phải dâng lễ vật nữa.
Nếu không đủ khả năng dâng một con chiên và một bồ câu non
thì phải dâng một cặp bồ câu non hay một đôi chim gáy.
Ngày nay chúng ta không thể hiểu tại sao Đức Mẹ phải dâng lễ tạ tội
và phải được thanh tẩy sau khi sinh Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa.
Tại sao việc sinh nở lại bị coi là ô uế?
Dù sao Mẹ Đấng Cứu Thế đã vâng theo Luật dạy.
Hơn nữa, cùng với thánh Giuse, Mẹ đã dâng Con cho Chúa trong đền thờ.
Điều này Luật không buộc, nhưng Mẹ đã làm vì lòng sốt sắng.
Thật ra để chuộc lại con trai đầu lòng,
chỉ cần trả cho tư tế gần 60 gam bạc (Ds 18, 15-16).
Mẹ sung sướng đem Con lên đền thờ dâng cho Thiên Chúa
vì hơn ai hết Mẹ biết rằng Hài Nhi Giêsu này là quà tặng Chúa ban cho mình.
Dâng Con là nhìn nhận Con mình mãi mãi thuộc trọn về Chúa,
ở với Chúa và làm việc cho Chúa suốt đời,
dù mình đã chuộc Con về bằng một số bạc được ấn định theo Luật dạy.
Bài Tin Mừng hôm nay có 4 lần nói đến “Luật” (cc.23.24.27.39).
Về việc giữ Luật, Đức Maria đã không đòi một ngoại lệ hay đặc ân nào.
Hãy nhìn ngắm Thánh Gia lên đền thờ.
Một đôi vợ chồng nghèo bồng một đứa con còn rất nhỏ.
Ai có thể nhận ra đứa bé này là Đấng Kitô, là ơn cứu độ cho muôn dân?
Đó là cụ Simêon, một người đạo hạnh, luôn mong chờ điều Chúa hứa.
Hơn nữa cụ là người có Thánh Thần hằng ngự trên (c.25),
người được Thánh Thần linh báo (c. 26), và thúc đẩy lên đền thờ (c. 27).
Chính Thánh Thần làm cụ nhận ra điều mắt thường không thấy,
Và cụ sung sướng, mãn nguyện bồng Hài Nhi trên tay.
Cụ bà ngôn sứ Anna cũng nhận ra Đấng Cứu chuộc đến với mình.
Cụ là người đạo đức, ăn chay cầu nguyện, đêm ngày thờ phượng Thiên Chúa.
Cụ bà Anna đã công khai giới thiệu Hài Nhi cho những người chung quanh.
Để gặp được Chúa trong đời thường, chúng ta cần có lòng mong ngóng,
cần sống đời sống đẹp lòng Chúa và cần được Thánh Thần mách bảo.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu,
và trọn cả ý muốn của con,
cùng hết thảy những gì con có,
và những gì thuộc về con.
Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con,
lạy Chúa, nay con xin dâng lại cho Chúa.
Tất cả là của Chúa,
xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa.
Chỉ xin ban cho con lòng mến Chúa và ân sủng.
Được như thế, con hoàn toàn mãn nguyện. Amen.
(Kinh dâng hiến của thánh I-Nhã)
3. Bảo vệ ánh sáng--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Khi dâng Đức Giêsu trong đền thờ, Đức Mẹ tự nhận mình không có quyền trên Đức Giêsu. Đức Giêsu thuộc về Thiên Chúa. Thiên Chúa trao cho Đức Mẹ để Đức Mẹ săm sóc dưỡng nuôi. Đức Mẹ dâng Đức Giê-su trong đền thờ không chỉ nhằm chu toàn lề luật, nhưng là công nhận quyền của Thiên chúa và cũng là để cầu xin Chúa chúc phúc cho Hài Nhi Giê-su.
Lễ Đức Mẹ dâng Con cũng được gọi là lễ Nến. Việc làm phép nến nói lên Đức Giê-su là ánh sáng soi trần gian.
Cụ Si-mê-on đã nhận biết Đức Giêsu là ánh sáng. Nhưng ánh sáng khởi đầu còn non nớt. Mà chung quanh thì bóng đêm và cuồng phong đang thét gào, hằm hè huỷ diệt làn ánh sáng run rẩy yếu ớt vừa ló dạng.
Có bóng tối cám dỗ của loài ma quỉ thâm độc lúc nào cũng rình chờ phá hoại chương trình của Thiên chúa. Có bóng tối độc ác của Vua Hêrôđê ghen ghét vì sợ mất quyền hành. Có bóng tối chán nản do những thất bại trong công cuộc rao giảng. Có bóng tối u mê của đám đông không hiểu những mầu nhiệm Nước Trời. Có bóng tối nhút nhát của các môn đồ mau chóng bỏ cuộc. Có cuồng phong ganh ghét của các thượng tế, luật sĩ. Có bóng tối vô tình của quân lính hành hình. Có bóng tối của cái chết đau đớn tủi nhục.
Đức Mẹ đã là người che chở làn ánh sáng, chống lại mọi bóng tối vây bọc. Đức Mẹ đã ấp ủ làn ánh sáng chống lại bão gió cuồng phong. Vì thế Đức Mẹ đã bị một lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn.
Hôm nay các bà mẹ trong xứ noi gương Đức Mẹ, đến nhà thờ dâng con cho Chúa. Khi dâng con các bà công nhận con cái là hồng ân Chúa ban tặng. Khi dâng con các bà cũng cầu mong Chúa chúc phúc cho tương lai của con cái.
Nhìn những đôi má, những bàn tay trắng hồng của các em nhỏ đang vây quanh bàn thờ, tôi tưởng như đang thấy những mầm cây non mơn mởn vừa mới lú lên khỏi mặt đất.
Nhìn những đôi mắt long lanh, trong sáng, tôi thấy hiển hiện những làn ánh sáng xinh tươi vừa hé.
Đó là ánh sáng đức tin mà các em đã lãnh nhận ngày chịu phép rửa tội. Đó là ánh sáng trí tuệ trinh nguyên như một tờ giấy trắng. Đó là ánh sáng nhân đức của một linh hồn chưa vương tội lỗi.
Thế nhưng chung quanh các em có biết bao hiểm nguy rình rập. Những cơn nắng cháy khô hạn tình người rình chực thiêu rụi mầm cây vừa hé. Những lớp bóng tối vật chất đang tìm vây bủa ánh sáng đức tin. Những cơn gió lười biếng đang kéo màn mây ngu muội dập tắt ánh sáng trí tuệ. Những cơn cuồng phong sự dữ đang huy động lực lượng dập tắt ánh sáng nhân đức của linh hồn.
Các bà mẹ đang dâng con cho Chúa. Các bà hãy bảo vệ kho tàng quý giá Chúa trao cho các bà gìn giữ chắc chắn. Khi đương đầu với sự dữ để bảo vệ ánh sáng nơi con cái, các bà sẽ phải chịu những thương tích như Đức Mẹ. Hãy học nơi Đức Mẹ nghệ thuật nuôi dạy con cái, để các cháu bé hôm nay được Chúa chúc phúc sẽ "càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan, càng được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến".
Lạy Đức Ki-tô là ánh sáng soi trần gian, xin chiếu ánh sáng ân sủng vào các em nhỏ đang chờ được Chúa chúc phúc, để làn ánh sáng đức tin, ánh sáng nhân đức và ánh sáng trí tuệ Chúa đã nhóm lên trong các em ngày càng vươn cao và lan rộng.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp các bà mẹ can đảm bảo vệ ánh sáng của con cái, để ánh sáng của chúng vẫn còn sáng mãi cho đến ngày ra đón rước Chúa.
4. Dâng tiến Chúa Giêsu cho Thiên Chúa--TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Lễ dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh còn được gọi là lễ NẾN, vì ông Simêon đã gọi Chúa Giêsu là ánh sáng các lương dân, và là vinh quang của It-ra-en, Dân Chúa. Người tín hữu có sứ mạng chiếu tỏa ánh sáng Chúa Kitô bằng đời sống thánh thiện.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, như bất cứ gia đình Do Thái nào, sau khi sinh 40 ngày, Đức Mẹ và thánh Giuse đã đem Chúa lên đền thờ Giêrusalem để dâng cho Thiên Chúa, như luật Mô-sê dạy: mỗi con trai đầu lòng phải được hiến dâng cho Thiên Chúa, để ghi nhớ kỳ công Chúa đã thực hiện cho dân Do Thái, mỗi đứa con trai đầu lòng đều được Thiên Chúa cứu thoát trong biến cố xuất hành, nên phải dâng cho Chúa vì nó thuộc về Chúa.
Lạy Chúa, bản thân con cũng không khác gì đứa con trai đầu lòng của người Do Thái, nghĩa là hoàn toàn do ơn Chúa mà có. Vì thế, cuộc đời con hoàn toàn thuộc về Chúa. Con chỉ thuộc về Chúa khi đời sống con thực sự tựa nương vào một mình Chúa. Nhờ đó, con trở thành ngọn đèn cháy sáng giữa lòng thế giới hôm nay.
Lạy Chúa, xin cho con trở thành ánh sáng khi dám ra khỏi chính mình, dám ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan, để can đảm sống những đòi hỏi của Tin Mừng.
Xin cho con trở thành ánh sáng khi dám chấp nhận bóng tối cuộc đời, chấp nhận những thử thách của cuộc sống, chấp nhận những bước đường gồ ghề phải đi qua. Lạy Chúa, xin giúp con. Amen.
Ghi nhớ: “Mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu độ”.
5. Dâng Chúa Giêsu vào Đền thánh--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
* LịCH Sử
Thánh lễ 40 ngày sau lễ Giáng Sinh đã xuất hiện từ đầu thế kỷ thứ V tại Giêrusalem và được “mừng một cách trọng thể như lễ Phục Sinh vậy” (tường trình của thánh nữ hành hương Aetheria). Mãi đến năm 650, thánh lễ này mới du nhập vào Roma. Nội dung thánh lễ được triển khai theo đoạn Phúc Âm thánh Lu-ca 2,22-40.
Giáo hội Phương Đông hiểu thánh lễ này như lễ gặp gỡ của Chúa: Đấng Mê-si bước vào Đền Thờ và gặp dân Thiên Chúa của Cựu Ước qua ông Si-mê-on và bà tiên tri An-na; Giáo Hội Tây Phương lại coi đây là thánh lễ mừng kính Đức Maria: thanh tẩy theo luật Do Thái (Lv 12).
Khi du nhập vào phụng vụ Rô-ma, Đức Thánh Cha Sét-gi-ô I (678-701) lại thêm vào nghi thức rước nến, vì thế từ thế kỷ VIII, thánh lễ được gọi là Lễ Nến. Trong cuộc rước nến này, Đức Thánh Cha và cả đoàn đồng tế mặc phẩm phục tím, ám chỉ sự chưa thanh tẩy của Đức Maria khi lên Giêrusalem; khi đoàn đồng tế đến Đại thánh đường Đức Bà Cả, liền thay phẩm phục trắng, chỉ sự tinh tuyền đã được thanh tẩy của Đức Maria.
Từ cuộc canh tân Phụng Vụ năm 1960, ngay cả trong phụng vụ Rô-ma, thánh lễ này cũng qui hướng về Chúa, hơn là Đức Mẹ Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thờ.
Thánh lễ này chấm dứt chu kỳ Giáng Sinh. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống...
Đoạn này gồm 3 chuyện:
1. Thánh Giuse, Đức Maria và Chúa Giêsu lên Đền thờ Giêrusalem để chu toàn 2 bổn phận của lề luật: Thanh tẩy cho Đức Maria sau khi sinh con; dâng Chúa Giêsu là con trai đầu lòng cho Thiên Chúa Câu chuyện cho thấy Thánh gia tuân giữ lề luật rất chu đáo; đồng thời những lễ vật các Ngài dâng chứng tỏ Thánh gia nghèo.
2. Trong dịp này Thánh Gia đã gặp được cụ Simêon. Cụ được Thánh Thần soi sáng cho biết trẻ Giêsu chính là Đấng Messia cho nên toại nguyện vì gặp được Ngài. Cụ nói Chúa Giêsu là “ánh sáng soi đường cho dân ngoại”
3. Trong dịp này các Ngài cũng gặp nữ ngôn sứ Anna và bà cũng nói tiên tri về tương lại Chúa Giêsu.
B.... nẩy mầm.
1. Gia đình Nadarét được gọi là Thánh Gia, là gương mẫu cho mọi gia đình tín hữu. Qua đoạn Tin Mừng này, ta có thể thấy những nét của một gia đình tín hữu tốt:
- Một gia đình tốt không chỉ co rút trong ngôi nhà của mình, nhưng còn thích cùng nhau lên Nhà Chúa: theo luật, việc dâng con cho Thiên Chúa có thể thực hiện tại nhà; cũng theo luật, việc thanh tẩy người mẹ không buộc người cha phải đi theo lên Đền thờ. Nhưng cả ba đã cùng nhau lên Đền thờ.
- Một gia đình tốt là gia đình tuân giữ luật Chúa: “Cha mẹ hài nhi đem con lên Đền thờ để chu toàn Lề luật...”.
- Một gia đình tốt là gia đình biết dâng cho Chúa nhũng gì tốt nhất của mình: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh dành cho Chúa”.
- Gia đình tốt có thể nghèo (lễ vật của Thánh Gia chứng tỏ các Ngài nghèo), và không tránh khỏi đau khổ (“Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà”), nhưng vẫn hạnh phúc vì có Chúa Giêsu ở giữa, có Chúa Giêsu là thành viên.
2. Một thanh niên Scốt-len tìm được một chân làm vườn trong một gia đình giàu có. Nhưng chỉ hai tuần sau, anh xin thôi việc. Một người bạn hỏi:
- Có phải công việc quá cực nhọc không?
- Không, công việc rất nhàn.
- Có phải lương quá ít không?
- Không, lương khá lắm.
- Hay anh không thích đồ ăn ở đó?
- Cũng không phải. Đồ ăn rất ngon.
- Vậy tại sao anh thôi việc?
- Vì nhà đó không có mái che.
Đối với người Scốtlen, thành ngữ “nhà không có mái che” nghĩa là gia đình không biết cầu nguyện. (Tonne).
3. Một nhóm người thiện chí bàn nhau cách phổ biến Tin Mừng. Có người đề nghị quảng cáo trên TV, người khác đề nghị dùng báo chí. Một thiếu nữ Châu Phi chia xẻ: Ở xứ tôi, khi muốn loan Tin Mừng cho một vùng nào đó thì chúng tôi gởi đến đấy một gia đình công giáo tốt để gia đình này sống giữa những người khác trong vùng. (Barclay)
4. Trên tường một nhà thờ cổ ở Đức có một bức tranh được vẽ cách nay khoảng 500 năm, diễn cảnh trẻ Giêsu đang đi học. Họa sĩ vẽ Ngài là một cậu bé 6 tuổi đang một tay nắm tay bà ngoại Anna và tay kia cầm cặp.
Trẻ Giêsu cũng giống như những bé trai, bé gái cùng thời đến trường để thêm kinh nghiệm, như Thánh Kinh nói: “Con trẻ ngày càng khôn lớn”. (Góp nhặt).
5. Trong khi người Ấn độ được đánh giá là giỏi triết lý, người Trung hoa được đánh giá là giàu lễ nghĩa, thì người do thái được đánh giá là tinh thần tín ngưỡng cao. Nhờ đâu? Nhờ người cha do thái biết quan tâm đến việc đạo trong gia đình. Trong gia đình do thái, người cha chủ sự những buổi cầu nguyện, người cha lãnh trách nhiệm khai tâm tôn giáo cho con, người cha hãnh diện truyền lại cho con truyền thống đạo đức của ông bà tổ tiên.
6. “Vì chính mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân” (Lc 2,30-31)
Bước chân vào trại dưỡng lão, hình ảnh đập vào mắt tôi trước tiên là những cụ già lưng còng, ốm yếu hay liệt giường. Không khí ở đây thật khó chịu. Tôi phải lấy hết can đảm mới có thể đến gần thăm hỏi các cụ. Đến giờ ăn, chúng tôi chia nhau đút cơm cho các cụ. Một bà cụ nắm lấy tay tôi và nói: “Nhờ các cô mà chúng tôi mới được ăn no. Nhiều lúc muốn ăn cũng không được. Cám ơn các cô nhiều. Lần sau các cô nhớ đến nhé”. Nghe cụ nói, tôi cảm thấy hối hận vì những ý nghĩ và thái độ thoạt đầu khi mới đến.
Nếu như ngày xưa Đức Giêsu đã được Mẹ Maria và thánh Giuse đưa lên Giêrusalem để tiến dâng cho Thiên Chúa theo luật Môsê, đồng thời bày tỏ vinh quang của Ngài cho muôn dân, thì ngày nay tôi cũng đã được cha mẹ đưa đến nhà thờ để tiến dâng cho Thiên Chúa, và nhờ bí tích Thanh Tẩy trở nên một kitô hữu. Là một kitô hữu, tôi sẽ làm gì để bày tỏ vinh quang Chúa nếu không phải là cảm thông và chia sẻ với những người nghèo khổ chung quanh, đặc biệt là những người già nua, bệnh hoạn, tật nguyền.
Xin cho con biết bày tỏ vinh quang Chúa bằng nỗ lực vun trồng sự sống, đón nhận và chia xẻ với những người nghèo khổ bất hạnh quanh con. (Epphata)
6. Dâng Chúa trong Đền thánh--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Đến ngày theo luật định, thánh Giuse và Đức Maria bồng Chúa Hài Nhi đến đền thờ Giêrusalem để dâng cho Đức Chúa Cha. Ở đó có ông Simêon là người công chính. Ông được Chúa Thánh Thần soi sáng nên nhận biết Chúa Giêsu và cất tiếng khen ngợi Chúa, vì Chúa đã thương cho Đấng Cứu Thế đến cứu chuộc dân Người; đồng thời ông cũng cho Đức Maria biết: Mẹ phải chịu nhiều đau khổ vì Chúa Hài Nhi.
Mẹ Maria và thánh Giuse dâng Chúa Hài nhi trong đền thánh để tuân giữ luật thời đó. Và việc dâng hiến này báo trước Chúa Giêsu tự dâng hiến đời Người chịu chết trên khổ giá để cứu độ loài người.
Đức Giêsu là “con trai đầu lòng” (x. Lc 2,7), theo luật Maisen: “Mọi con trai đầu lòng phải được dâng hiến lên Thiên Chúa”, như chúng ta đọc thấy trong Cựu ước: “Đức Chúa phán với Maisen: “Hãy thánh hiến cho Ta mọi con so, mọi con đầu lòng trong số con cái Israel, dù là người hay là thú vật: nó thuộc về Ta” (Xh 13,1-2). Vì thế, Đức Mẹ và thánh Giuse dâng hiến Hài nhi Giêsu cho Thiên Chúa trong Đền thờ. Từ nay cuộc đời Hài nhi hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Ngài đã được dâng và cũng tự hiến dâng, để Thiên Chúa toàn quyền sử dụng trên Ngài trong sứ mạng nhập thể cứu độ: Dâng trọn vẹn trên đỉnh cao Thập tự.
Người Kitô hữu được dâng cho Thiên Chúa qua bí tích Rửa tội để trở thành con cái Thiên Chúa. Là Kitô hữu, chúng ta ý thức được diễm phúc làm con Thiên Chúa, để cảm tạ bằng cách thờ phượng Thiên Chúa hết mình, và sống xứng đáng với phẩm giá đó bằng cách thánh hóa bản thân mỗi ngày.
Chúng ta nhận thấy: hai ông bà đang được diễm phúc làm mẹ Thiên Chúa và làm cha nuôi Đức Giêsu, nhưng không tìm đặc ân riêng cho mình, vẫn khiêm nhường tuân giữ lề luật: thanh tẩy và dâng con vào Đền thờ. Noi gương hai Đấng: người Kitô hữu không nên tìm đặc ân gì, để miễn chước cho mình những bổn phận đối với xã hội, cộng đoàn, gia đình và tha nhân, nhưng phải khiêm nhường đơn sơ và nhiệt tình tuân giữ mọi lề luật chính đáng.
Đối với các bậc cha mẹ Kitô hữu, con cái là quà tặng của Thiên Chúa. Để bày tỏ lòng trân trọng quà tặng quý báu đó, các bậc cha mẹ tiến dâng con cái của mình cho Thiên Chúa. Tiến dâng bằng cách nuôi dạy con cái theo ý Chúa; giúp con cái đón nhận và nuôi dưỡng đức tin, giúp con cái hướng tình yêu về Thiên Chúa.
Cụ già Simêon nói với Đức Maria: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được trỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng” (Lc 2,34).
Cụ Simêon trong tư cách là tiên tri tiên báo rằng: con trẻ sẽ trở nên dấu cho người ta chống đối. Lời tiên tri được ngỏ cho Đức Maria để nói về sứ mạng cứu độ của Hài nhi trong tương lai và sự mật thiết hiệp nhất trong công cuộc cứu độ của người con trong vai trò cộng tác: “Phần Bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà” (Lc 2,35). Maria không hiểu lời cụ Simêon mang ý nghĩa gì, nhưng khắc ghi nghiền ngẫm trong lòng và xin Thiên Chúa ban cho được thêm can đảm, Maria cũng chịu đau khổ thương khó như Con Mẹ, nhất là tại Núi Sọ hiến tế con Mẹ trên Thập giá.
Đức Giêsu cũng đã đến để yêu thương, cứu giúp mọi người. Ngài vốn là Thiên Chúa cao sang nhưng đã trở nên thấp hèn để nâng đỡ con người lên. Nhưng cuối cùng Ngài đã bị con người đóng đinh thập giá, bỏ mặc trong cái chết đau đớn và tủi nhục.
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta theo gương Mẹ tiếp bước theo Chúa trên con đường yêu thương, dẫu có bị người đời chống báng hay từ chối.
Truyện: Lời cầu xin tốt đẹp
Có người coi như mình bị thất bại, vì Chúa không nhận lời cầu xin của mình. Có vẻ nản lòng. Nhưng một ngày kia, đang khi cầu nguyện Chúa soi sáng cho người ấy hãy vững tin và đặt tất cả niềm tin phó thác vào Chúa. Họ đã sáng tác được lời cầu nguyện sau đây:
Lạy Chúa, con cầu xin ơn mạnh mẽ để thành đạt, thì Chúa làm cho con ra yếu ớt để biết vâng lời, khiêm hạ.
Con cầu xin có sức khỏe để thực hiện những công trình lớn lao, thì Chúa lại bắt con bị tàn tật và chỉ làm được những việc tốt nho nhỏ.
Con cầu xin được giàu sang để sống một cuộc đời sung sướng, thì Chúa lại bắt con nghèo nàn để học biết thế nào là khôn ngoan.
Con cầu xin có được uy quyền để mọi người phải kính nể, thì Chúa lại cho con sự thấp hèn để con biết cần đến Chúa.
Con cầu xin cho có được tất cả để tận hưởng cuộc đời, thì Chúa lại cho con cả một cuộc đời để được hưởng mọi sự.
Con xin gì cũng chẳng được theo ý con muốn, nhưng những điều con đáng phải mơ ước mà con không hề biết thốt lên lời cầu xin, thì Chúa lại đã ban cho con thật dư đầy từ lâu.
Lạy Chúa, hoá ra con lại là người có phúc hơn hết trên đời này, bởi con đã nhận được ơn phúc Chúa vô vàn.
7. Chúa Giêsu được dâng tiến lên Thiên Chúa--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Câu chuyện chúng ta vừa nghe trong bài Tin Mừng hôm nay là một trong những câu chuyện rất đẹp về cuộc đời thơ ấu của Chúa Giêsu Kitô. Qua câu chuyện này, một lần nữa, chúng ta lại có dịp hiểu thêm về một vài khía cạnh đặc biệt trong cuộc đời của Ngài.
1. Qua câu chuyện hôm nay rõ ràng chúng ta thấy Chúa Giêsu muốn được trở nên một con người hoàn toàn giống chúng ta. Trong thư gửi Tín hữu Do Thái, Thánh Phaolô đã viết rất hay về vấn đề này. Ngài viết như sau: “Vì những kẻ được Người giúp đỡ không phải là các Thiên Thần, nhưng là con cháu Apraham. Bởi thế Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện để trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa để đền tội cho dân” (Dt 2,1617).
Chúng ta khó có thể tìm thấy một diễn tả nào về Chúa Giêsu-làm-người hay hơn thế.
Như anh chị em đã biết Chúa đến với loài người chúng ta là để cứu chuộc con người chúng ta. Chúa đã không muốn thực hiện công việc cứu chuộc này từ xa. Để làm công việc này, Chúa đã làm người. Thánh Gioan đã viết: “Ngài đã hóa thành nhục thể và cư ngụ giữa chúng ta”(Ga 1,14)
Một Thiên Chúa cao cả, linh thiêng, đã nhận lấy một thân xác như mọi người chúng ta. Nguyên việc này thôi thì tôi tưởng cũng đã là một việc kỳ diệu rồi. Thế nhưng Chúa chưa muốn dừng lại ở đó. Nhận lấy một thân xác để được ở giữa loài người như một người, Chúa Giêsu vẫn chưa lấy làm đủ. Người còn muốn đi xa hơn như lời Thánh Phaolô nói, Người muốn trở nên giống mọi người trong mọi sự... “chỉ trừ tội lỗi”
Bài Tin Mừng hôm nay nói Chúa Giêsu được dâng tiến lên Thiên Chúa theo luật của Môise. Thực ra thì việc này là bổn phận của Đức Maria và thánh Giuse. Theo nghĩa vụ thì Thánh Giuse và Đức Mẹ phải làm như thế. Theo luật Môise cũng là tục lệ của người Do thái, thì những người con trai được sinh ra, nhất là con đầu lòng, sau 40 ngày, phải đưa đến Đền thờ, trước là dâng con cho Chúa, sau là bà mẹ phải làm lễ tẩy uế: Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Môisê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa (Lc 2,22). Dù Đức Maria và thánh Giuse biết rằng trẻ Giêsu là Con Thiên Chúa, nhưng các ngài cũng vẫn chu toàn mọi lề luật: Như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa” (Lc 2,23). Dâng con trong đền thờ là để thánh hiến người con cho Thiên Chúa và cha mẹ có thể chuộc lại bằng cách dâng cúng của lễ như luật định.
2. Bên cạnh đó bài Tin Mừng hôm nay còn cho chúng thấy những bài học khác cũng không kém quan trọng. Tôi muốn nói đến sự vâng phục và lòng khiêm nhường, đặc biệt của Đức Maria.
Sự vâng phục thánh ý Chúa là một trong nét đẹp trong đời sống của Đức Maria và Thánh Giuse. Các Ngài đã thể hiện sự vâng phục này ngay từ khi các ngài được Chúa trao cho trách nhiệm cộng tác với Thiên Chúa trong việc thực hiện công cuộc cứu chuộc loài người. Thánh Giuse đã vâng phục thế nào thì mọi người chúng ta đã biết.
Còn với Đức mẹ Maria thì chúng ta thấy: Mẹ Maria đẹp đẽ hơn mặt trời, trong sáng hơn mặt trăng và rực rỡ hơn rạng đông, nhưng Mẹ đã tuân hành giữ luật của Thiên Chúa một cách thật hoàn hảo. Mẹ giữ luật vì lòng yêu mến Thiên Chúa. Mẹ đã lên đền làm lễ dâng con và thanh tẩy. Thánh Phanxicô Salêsiô nói: “Rất Thánh Trinh Nữ tự ý tuân giữ luật thanh tẩy vì Mẹ yêu mến và kính trọng Thiên Chúa. Mẹ hay Con Mẹ không buộc phải vâng phục, nhưng vì tình mến làm cho Mẹ tuân giữ. Mẹ tuân giữ luật để làm gương cho những người khác”.
Thêm vào đó chúng ta còn thấy được nơi Đức Mẹ một tấm gương khác về lòng khiêm tốn
Chúng ta biết, dù được mọi đặc ân vượt mức trên mọi thụ tạo, Mẹ Maria vẫn hạ mình thẳm sâu dưới mọi tạo vật: Mẹ xao xuyến bối rối trước lời chào tán tụng của Thiên sứ Gabriel (Lc 1,29), và nhận mình là phận nữ tỳ thấp hèn của Chúa (Lc 1,48). Cả cuộc sống Mẹ Maria được dệt bằng đức khiêm tốn, nhất là từ ngày thiên sứ truyền tin qua ngày Mẹ thăm viếng thánh Elizabeth tới ngày Mẹ dâng Con trong đền thờ. Thánh Phanxicô Salesiô nói: “Cao sâu biết bao sự khiêm tốn mà Chúa chúng ta và Mẹ Maria đã thi hành khi lên đền thờ: Chúa đến đền thờ để được hiến dâng như tất cả các con trẻ của những người tội lỗi. Mẹ Maria đến để làm lễ thanh tẩy như tất cả các bà mẹ phàm trần. Cần gì mà Mẹ phải thanh tẩy, vì Mẹ đã không bị ô nhiễm do đặc ân tuyệt diệu từ lúc đầu thai mà các thần Cherubim và các Seraphim không tài nào sánh ví”. Vậy mà Chúa Giêsu và Đức Mẹ vẫn làm như thế.
Mẹ đã làm thế bởi vì
Mẹ thực sự nhận biết được Thiên Chúa là Đấng cao cả và biết mình chỉ là một thụ tạo thấp hèn.
Chúng ta hãy tập sống khiêm tốn như Đức Mẹ để được luôn xứng đáng với tình thương của Chúa.
Đức cố Giáo Hoàng Gio-an 23 kể lại một kinh nghiệm độc đáo của đời mình như sau: “Lúc tôi mới được bầu làm Giáo Hoàng để lãnh đạo Giáo Hội hoàn vũ, tôi rất lo lắng và sợ hãi trước một trách nhiệm quá lớn lao và nặng nề. Nhưng một đêm kia, trong giấc ngủ chập chờn không yên, tôi nghe có một tiếng nói phán bảo tôi: “Kìa Gio-an, đừng tự xem mình là quan trọng!”
Tôi choàng tỉnh dậy, ngẫm nghĩ thấm thía về ý nghĩa giấc chiêm bao. Và kể từ dạo ấy, tôi đã cố gắng áp dụng câu nói này trong đời tôi, trong mọi công việc của Giáo Hội mà tôi phải giải quyết mỗi ngày. Đừng tự xem mình là quan trọng! Và thật sự, tôi đã ăn ngon ngủ yên như trước khi được chọn làm Giáo Hoàng!
Khiêm nhường là một đức tính được Thiên Chúa yêu mến. Khác hẳn với tính tự cao, tự đại có thể được so sánh với những ngọn núi, triền đồi. Đức khiêm nhường giúp chúng ta đào sâu những trũng thấp, để đón nhận được những Hồng Ân của Thiên Chúa đã không dừng lại trên đỉnh núi hay triền đồi, những chảy tràn xuống và đọng lại chan chứa ở những nơi thấp nhất dưới chân đồi...
Có người hỏi Thánh Phanxicô thành Assisi (1182-1226) tại sao và bằng cách nào ngài làm được nhiều sự trọng đại, Ngài vui vẻ trả lời:
- Cũng dễ thôi, Chúa từ trời cao nhìn xuống và nói: “Ta kiếm đâu được một người yếu đuối nhất, bé mọn nhất, vô nghĩa nhất ở trần gian này!”
Ngài nhìn thấy tôi, Ngài nói:
- Đây là người Ta tìm được và Ta muốn hành động qua người này. Người ấy sẽ thấy rằng Ta dùng nó chỉ vì nó là con người hèn mọn nhất, khiêm hạ nhất.
Lạy Mẹ Maria đầy lòng khiêm nhu, xin uốn lòng mỗi người chúng con nên giống Mẹ. Amen.
8. Trinh nữ hiến dâng
Mừng kính biến cố Mẹ dâng Chúa vào đền thờ, chúng ta cùng nhau chia sẻ về tâm tình dâng hiến của Mẹ. Thực vậy, trong tông huấn “Marialis Cultus”, bàn về lòng tôn sùng kính mến Mẹ, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã gọi Mẹ là “Trinh nữ hiến dâng Virgo offerans”. Chỉ cần nhìn vào cuộc đời của Mẹ, chúng ta sẽ thấy ngay được sự dâng hiến ấy.
Trước hết, theo truyền thuyết thì năm lên ba, Mẹ đã theo cha mẹ lên đền thờ, rồi ở lại đó một thời gian. Trong thời gian này, Mẹ đã học hỏi Kinh thánh, tập luyện các nhân đức và khấn giữ mình đồng trinh, một nhân đức rất hiếm người Do thái hiểu và giữ lúc bấy giờ. Mẹ đã dâng hiến trọn vẹn tâm hồn và thể xác cho Thiên Chúa.
Tiếp đến trong hoạt cảnh truyền tin, Mẹ đã dâng hiến cõi lòng của Mẹ, làm thành như một chiếc nôi hồng cho Ngôi Lời giáng thế. Và hôm nay, Mẹ đã dâng hiến người con yêu dấu của Mẹ cho Thiên Chúa theo như lề luật qui định, để rồi sự dâng hiến này đạt tới cao điểm của nó trên đỉnh đồi Canvê, khi Mẹ đứng dưới chân cây thập giá nhìn Chúa chịu sát tế làm của lễ đền tội cho nhân loại.
Nhìn vào mẫu gương của Mẹ, chúng ta rút ra được một kết luận như sau:
Dâng hiến và đau khổ luôn đi liền với nhau.
Thực vậy, không một sự dâng hiến nào mà lại không có khổ đau. Và hơn thế nữa, chính những khổ đau này sẽ làm cho việc dâng hiến trở nên cao cả và có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Tại sao thế?
Tôi xin thưa vì dâng hiến là gì nếu không phải là lấy đi phần cao quí nhất để trao cho người mình thương mến. Mà đã cho đi thì phải mất mát. Mà mất mát thì phải tiếc xót. Chính vì thế, sự dâng hiến nào cũng đòi buộc phải chấp nhận hy sinh và khổ đau.
Nhìn vào Mẹ, chúng ta sẽ thấy được sự thật ấy. Một khi đã cúi đầu xin vâng, Mẹ cũng sẵn sàng chấp nhận mọi khổ đau sẽ xảy đến.
Chúng ta hãy nghĩ tới bàu khí ngột ngạt và căng thẳng trong gia đình, khi thánh Giuse nhận ra Mẹ đã mang thai không bởi hành động của mình. Mẹ đã âm thầm chịu đựng, mặc cho Thiên Chúa hành động và làm sáng tỏ vấn đề.
Chúng ta hãy nghĩ tới việc Mẹ lên đường trở về Bêlem để đăng ký hộ khẩu giữa lúc bụng mang dạ chửa, việc sinh Chúa trong cảnh nghèo túng của máng cỏ giữa nơi đồng vắng, việc trốn chạy giữa đêm khuya và những cực nhọc nơi đất khách quê người bên Ai Cập cũng như những lao động vất vả tại Nagiarét.
Rồi trong ngày hôm nay, Mẹ đã phải đón nhận lời tiên báo đầy cay đắng của ông già Simêon:
- Một lưỡi gươm sẽ đâm thâu qua lòng bà…
Lời tiên báo này đã được thực hiện qua từng biến cố cuộc đời và đã trở nên trọn vẹn trên đỉnh đồi Canvê. Tại đây, sự dâng hiến trở nên tuyệt hảo nhất, thì hy sinh và đau khổ cũng đáng cay và chua xót nhất. Mẹ đã kết hiệp với Đức Kitô trong máu và nước mắt, để dâng hiến cho Thiên Chúa một của lễ cao cả nhất.
Nhìn vào Chúa, chúng ta lại càng thấy rõ sự thật này hơn nữa.
Thực vậy, mục đích của việc xuống thế làm người là gì nếu không phải là để cứu chuộc nhân loại. Nhưng đâu là giây phút quan trọng nhất trong chương trình cứu độ, nếu không phải là giây phút Ngài hiến dâng trên bàn thờ thập giá. Tất cả cuộc đời của Ngài chỉ là một sự chuẩn bị cho giây phút trọng đại này. Mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của Ngài đều hướng tới đỉnh cao thập giá, chính tại đây Ngài đã chấp nhận những đớn đau và tủi nhục. Ngài đã sinh ra trong khó nghèo, lớn lên trong vất vả và chết đi trong nhục nhã. Thế nhưng, chính nhờ việc tự hạ này, mà Thiên Chúa đã nâng Ngài lên và tôn vinh Ngài.
Còn chúng ta thì sao?
Nếu muốn sống tâm tình dâng hiến như Chúa và Mẹ, chúng ta cũng phải chấp nhận hy sinh và khổ đau trong cuộc sống hằng ngày. Đúng thế, chúng ta vốn thường ngại hy sinh và chạy trốn đau khổ, nhưng làm sao có thể lẩn tránh vì chúng được chất đầy trong cuộc sống chúng ta, chi bằng hãy can đảm chấp nhận.
Hy sinh va khổ đau không phải là một cái gì làm cho chúng ta sợ hãi, những là một phần của đời sống chúng ta. Nếu biết đón nhận, nó sẽ thanh tẩy và làm cho chúng ta trở nên tinh ròng, như tục ngữ cũng đã nói: lửa thử vàng, gian nan thử đức.
Hơn thế nữa, nếu chúng ta biết chấp nhận vì lòng yêu mến Chúa, thì những hy sinh và khổ đau ấy sẽ trở nên công phúc cho chúng ta, bởi vì lòng yêu mến là như chiếc đũa thần biến những hy sinh và khổ đau trở thành những sợi chỉ vàng, dệt nên tấm vải cuộc đời và làm cho cuộc đời chúng ta thực sự có giá trị trước mặt Thiên Chúa.
Chính vì thế, thánh Phaolô đã khuyên nhủ: Anh em hãy hiến dâng thân xác anh em làm của lễ đẹp lòng Thiên Chúa, bởi vì Ngài yêu thích những ai trao ban một cách vui vẻ.
9. Đức Giêsu hay Đức Maria: Lễ Dâng Con
Cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem để dâng Hài Nhi Giê-su trong đền thờ là tục lệ sau này, thời Abraham và Môisê chưa có đền thờ! nhưng lễ dâng con thực sự có từ thời cắt bì, đó là lúc dâng con trẻ và lễ hy sinh đền tội và lễ tạ ơn.
Của lễ Đức Ma-ri-a dâng hoàn toàn hợp luật Môisê. Đức Ma-ri-a dâng mình trong đền thờ, Ngài vào đền thánh xin tư tế dâng lễ hy sinh lên trước Giavê Thiên Chúa để đền tội và thanh tẩy.
Điều đó dạy tôi gì? tôi phải hiểu sứ điệp đó thế nào? vì luôn luôn Tin Mừng nói với tôi một sứ điệp qua những câu kinh thánh. Tôi phải suy niệm, mới giúp tôi hài lòng về những đợt sóng lời Chúa, xem ra bên ngoài có vẻ vô dụng, nhưng đó là những tiếng nói linh ứng cho ai biết tự cầu nguyện tự phát.
Sứ điệp đó là sứ điệp sống dịu hiền, vui mừng trung thành theo luật dạy một cách đơn sơ chân thành. Bài ca của cụ già Simêon rất đẹp, lời tiên tri của bà Anna gợi lên một hình ảnh huyền diệu tô điểm thêm cho ngày dâng con.
Hai chứng nhân này nói với chúng ta rằng những kẻ nhỏ bé, khiêm tốn, nghèo khó cầu nguyện Thánh Thần trong con tim của họ. Chúa Thánh Thần mặc khải rằng Thiên Chúa ở đó với họ, và khi Chúa tự tỏ mình ra, thì chẳng còn gì bên ngoài thế giới lay chuyển được họ. Vinh quang của Thiên Chúa tỏ ra trong sự thấp hèn và tối tăm như Hài Nhi tỏ vinh quang nơi hang lừa máng cỏ.
“Cháu còn là dấu hiệu gây chia rẽ...”. Lời tiên tri này là tiếng vang của lời Chúa sau này nghe như xé nát tâm can: Ai yêu mến cha mẹ mình... hơn tôi, không đáng làm môn đệ tôi”. “Ai không thuận với tôi, là chống lại tôi”. “Ai muốn theo tôi, phải tự bỏ mình, vác thập giá mình mà theo tôi”.
Môn đệ không trọng hơn Thầy. Không thể cứu mình khi còn nắm lấy những chuỗi xích khoái lạc và những tư tưởng riêng tư của mình.
Cần hoàn toàn đơn sơ chân thành yêu mến Đấng ban ơn hơn là xin ơn.
J.M
10. Xin Mẹ Dâng Chúng Con Cho Chúa--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Lễ này còn được gọi là Lễ Nến. Ông Simêon, người công chính và mộ đạo, được Thánh Thần linh báo cho biết, ông sẽ không thấy cái chết trước khi gặp Đức Kitô. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền, được Thần Khí thúc đẩy, hôm đó ông lên Đền Thánh, gặp gỡ Hài Nhi trên tay, ẵm trên tay và chào là “Ánh Sáng muôn dân” (Lc 2, 32).
Đức Maria dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh, vì theo Luật Môisen (x. Xh 13, 11-13); “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa” (Lc 2, 23) đó là lý do Hài Nhi Giêsu được dâng cho Thiên Chúa.
Đây cũng là Lễ Thanh Tẩy, kính nhớ việc Đức Maria được thanh tẩy theo luật Môsê, 40 ngày sau khi sinh Đức Giêsu. Đức Trinh Nữ Maria đã tuân theo nghi lễ thanh tẩy được ghi trong sách Lêvi: “Luật cho phụ nữ sinh trai hay gái” (Lv 12, 6-8).
Sự kiện dâng Chúa Giêsu vào đền thánh và thanh tẩy Đức Trinh Nữ đã được Luca ghi lại (Lc 2,22-39). Sự kiện này nhằm thực hiện những lề luật đã được ghi rõ trong Cựu ước (Lv 12,8). Theo luật Môsê, phụ nữ sau khi sinh con thì bị coi là nhơ uế trong 40 ngày nếu sinh con trai và trong 80 này nếu sinh con gái.
Lễ này được du nhập vào Đế quốc Đông Phương dưới triều vua Justinianô (527-565). Đối với Hội thánh Tây phương, lễ này được nhắc đến trong sách bí tích của Giáo hoàng Gelasianô vào thế kỷ 7. Kể từ cuối thế kỷ IV, Giáo hội Giêrusalem đã mừng kính lễ này. Giáo hội Hy Lạp và Milanô kể lễ này vào một số lễ trọng kính Chúa, một nghi lễ chính trong năm. Giáo hội Rôma lại thường kể lễ này vào số các lễ Đức Trinh Nữ.
Trong thông điệp về lòng tôn sùng Maria, Giáo hoàng Phaolô VI viết: “Lễ mùng 2 tháng 2, được cải tên là lễ”dâng Chúa vào đền thánh", cũng cần nhắc nhở để hưởng nguồn phong phú lớn lao của ân sủng Chúa Giêsu và Maria đi song song. Đức Kitô thực hiện mầu nhiệm cứu độ. Maria mật thiết kết hợp với Chúa chịu khổ hình, để thực hiện một sứ mạng vừa thuộc về Dân Chúa của Cựu ước, vừa là hình ảnh của Dân Tân ước luôn luôn vị bắt bớ gian khổ, thử thách đức tin và lòng trông cậy” (Lc 2,21-35) (Marialis Cultur, số 7b).
Trong ngày này, người ta làm phép nến để tưởng nhớ lời tiên tri Simêon gọi Đức Kitô là “ánh sáng soi đường cho dân ngoại” (Lc 2,32) và tổ chức kiệu nến trong nhà thờ, tượng trưng cho việc Đức Giêsu tiến vào đền thờ Giêrusalem.
Khi sát nhập vào Phụng vụ Rôma, Đức Giáo Hoàng Sergiô I (678-701) lại thêm vào nghi thức rước nến. Vì thế, từ đây, lễ này được gọi là Lễ Nến. Vì trước Thánh lễ có nghi thức làm phép nến và kiệu nến vào nhà thờ như cuộc đón rước Chúa Giêsu là Ánh Sáng của muôn dân. Những cây nến được làm phép và thắp sáng trong ngày lễ này, tượng trưng cho ánh sáng và vinh quang của Chúa Giêsu. Từ cuộc canh tân Phụng vụ năm 1960, thánh lễ này cũng qui hướng về Chúa Giêsu, hơn là Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ.
Trong ngày này, Giáo hội ca vang “Vui lên, hỡi Đức Trinh Nữ Mẹ Chúa Trời, Đấng đầy ân sủng, vì từ lòng Mẹ đã sinh ra Đức Kitô Chúa chúng con là Mặt Trời công chính, Ánh Sáng chiếu soi những ai ngồi trong bóng tối. Vui lên, hỡi cụ Symêon, người công chính, vì chính cụ đã bồng ẵm Đấng giải thoát muôn dân, cho muôn dân tham dự vào sự Phục sinh của Người” (x. Phụng vụ Byzantine).
Giáo hội Đông phương hiểu Thánh lễ này thể hiện cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và dân Người. Được Ðức Maria và thánh Giuse đem vào Ðền Thánh, Chúa Giêsu đã gặp gỡ dân người mà hai cụ già Symêon và Anna là đại diện. Ðây cũng là cuộc gặp gỡ lịch sử của dân Chúa, gặp gỡ giữa các người trẻ là Ðức Marria và thánh Giuse và các người già là Symêon và Anna. Chúa Giêsu là trung tâm, chính Người lôi kéo con người đến Ðền Thánh, nhà Cha Người. Ðây còn là cuộc gặp gỡ giữa sự vâng phục của người trẻ và lời tiên tri của người già. Việc tuân giữ Luật được chính Thần Khí linh hoạt, và lời tiên tri di chuyển trên con đường do Luật vạch ra.
Lời của cụ già Symêon nói: “Đó là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân” (Lc 2, 32). Hôm nay ai trong chúng ta cầm nến sáng trong tay mà không nhớ tới ngày cụ già Symêon bồng ẵm Hài Nhi Giêsu, Ngôi Lời trong xác phàm, là Ánh Sáng. Chính cụ là ngọn lửa cháy sáng, chứng nhân của ánh sáng, khi được đầy ơn Chúa Thánh Thần, cụ đã làm chứng rằng Hài Nhi Giêsu là Tình Yêu và là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân.
Vậy hôm nay, chúng ta hãy nhìn cây nến cháy sáng tên tay cụ già Symêon, từ ánh sáng đó hãy thắp sáng cây nến của chúng ta…Như thế, chúng ta không những sẽ cầm ánh sáng trong tay, mà chính chúng ta là ánh sáng, ánh sáng trong lòng ta, cho đời ta, và cho mọi người.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa, Mẹ Đồng Trinh, chúng con đặt cuộc đời chúng con vào trong vòng từ mẫu của Mẹ để Mẹ dâng lên Thiên Chúa như xưa Mẹ đã dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh, tất cả chúng con thuộc về Mẹ. Amen.
11. Đức Giêsu, ánh sáng soi muôn dân--Ngọc Biển, SSP
(Ml 3, 1-4; Dt 2, 14-18; Lc 2, 22-40)
Có một câu chuyện kể về người nông dân: ông ta trồng trong vườn nhà mình nhiều loại trái cây. Hằng năm, mỗi khi mùa trái cây về, những hoa trái đầu tiên, ông ta nhất định phải hái để dâng kính tổ tiên. Khi được hỏi lý do, ông trả lời: “Sống trên đời phải có hiếu nghĩa với đấng sinh thành, hơn nữa, hôm nay, tôi được hưởng những hoa trái này cũng là do công khó của tiền nhân đi trước để lại. Vì thế, việc dâng tiến các cụ hoa trái đầu mùa là thể hiện sự hiếu kính, lòng biết ơn và chân nhận công khó của các ngài để lại”.
Hôm nay, Phụng Vụ Giáo Hội cũng làm toát lên ý nghĩa việc Đức Maria dâng lên Thiên Chúa hoa quả đầu mùa của Mẹ là chính Chúa Giêsu để bày tỏ sự hiếu kính, tôn thờ và vâng phục của Mẹ đối với Thiên Chúa.
1. Lịch sử ngày lễ
Lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu vào đền thờ được mừng kính ở thế kỷ V tại Giêrusalem. Vào ngày kết thúc mùa giáng sinh, tức là 40 ngày sau lễ giáng sinh, Giáo Hội tại Giêrusalem tổ chức rất long trọng biến cố này. Sau đó, vào năm 650 của thế kỷ VII, lễ này được mừng kính rộng rãi trong toàn thể Giáo Hội hoàn vũ.
Tuy nhiên, lối hiểu và cách thức diễn tả của Giáo Hội Đông phương thì nhấn mạnh đến việc gặp gỡ. Gặp gỡ giữa Thiên Chúa và dân của Người. Hình ảnh cụ già Simêon và nữ tiên tri Anna chính là biểu trưng cho dân Chúa thời Cựu Ước mong chờ Đấng Cứu Thế, hôm nay, Đấng ấy đến, Ngài là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân. Còn đối với Giáo Hội Tây Phương thì tập trung vào ý nghĩa của việc Đức Maria Dâng con vào đền thờ và việc tẩy uế theo Luật nơi Mẹ Maria (x. Lv 12).
Trong những năm cuối thế kỷ thứ VII, đầu thế kỷ thứ VIII (678-701), Đức Giáo Hoàng Sét-gi-ô I đã quyết định thêm vào đó nghi thức rước nến trước thánh lễ. Cũng chính từ đây, lễ này còn được gọi là Lễ Nến, bởi vì trước thánh lễ có nghi thức làm phép nến ở tiền sảnh nhà thờ hay một nơi nào đó thuận tiện, và sau đó kiệu nến vào trong nhà thờ để cử hành thánh lễ. Điều này làm toát lên ý nghĩa Đức Giêsu chính là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân. Hôm nay Ngài đã đến và soi chiếu dân Người. Chính vì lý do này mà sau này, phụng vụ Giáo Hội tập trung và quy hướng về Đức Giêsu nhiều hơn về Đức Mẹ để làm toát lên vai trò là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân nơi Đấng Cứu Thế.
Trong phần khai mạc và cuộc rước nến, Đức Giáo Hoàng và đoàn đồng tế mặc phẩm phục tím nói lên sự sám hối và ý hướng muốn được thanh tẩy. Điều này ngầm ám chỉ về Đức Maria chưa được thanh tẩy theo luật Do thái sau khi sinh con.
Khi đoàn rước tiến tới cửa đền thờ Đức Bà Cả, thì Chủ tế và đoàn đồng tế thay lễ phục màu trắng để diễn tả sự tinh tuyền, trong sạch của Đức Maria.
2. Ý nghĩa của ngày lễ
Hình ảnh nổi bật và ý nghĩa của ngày lễ chính là việc Dâng Đức Giêsu trong đền thờ. Việc Đức Giêsu được dâng lên cho Thiên Chúa trước sự vui mừng và hạnh phúc của cụ già Simêon và nữ tiên tri Anna đã làm toát lên ý nghĩa của sự khao khát đợi trông của dân Itrael về Đấng Cứu Thế. Hôm nay, Ngài đến, Ngài đã trở thành Ánh Sáng chiếu soi nhân loại, trở thành trung tâm điểm của mọi tâm hồn.
Ngoài việc tập trung vào Chúa Giêsu như là Ánh Sáng soi chiếu muôn dân, Giáo Hội còn mời gọi con cái mình hướng về Mẹ Maria và thánh Giuse như là những mẫu gương công chính và thánh thiện.
Sự công chính và thánh thiện ấy được tìm thấy rõ nơi cung cách của thánh Giuse và Mẹ Maria. Các ngài đã trở thành nữ tỳ và tôi trung của Thiên Chúa, vì thế, sự khiêm nhường và vâng phục đã được tìm thấy nơi các ngài như là điểm son của đời sống thánh thiện.
Việc dâng Đức Giêsu, người Con Chí Ái và duy nhất lên cho Thiên Chúa đã thể hiện điều đó. Mặc dù các ngài thừa hiểu rằng: Người Con mà mình sắp dâng cho Thiên Chúa đây chính là Thiên Chúa làm người. Ngài là Chúa tể trời đất. Là Ánh Sáng cho muôn dân. Tuy nhiên, vì muốn trung thành với Luật và thể hiện lòng biết ơn Thiên Chúa, nên các ngài đã sẵn sàng tiến lên đền thờ để thi hành bổn phận như mọi người.
Thật vậy, theo truyền thống thì việc dâng con có thể thực hiện tại nhà. Còn việc tẩy uế nơi người mẹ thì cũng không nhất thiết phải cả chồng cùng đi. Tuy nhiên, vì yêu mến đền thờ, yêu mến nhà Thiên Chúa, nên các ngài đã vượt mọi khó khăn để lên đền thờ tiến dâng Đức Giêsu và thanh tẩy người Mẹ theo Luật định.
Như vậy, sự thánh thiện qua việc vâng lời đã làm cho thánh Giuse và Mẹ Maria xứng đáng được coi là những con người tốt lành và gương mẫu.
Dấu chỉ tiềm ẩn dành cho một gia đình tốt còn được biểu hiện qua việc sống nghèo và chịu nhiều đau khổ. Hình ảnh cặp bồ câu non chứng minh cho cái nghèo của gia đình Thánh Gia. Mặt khác, lời tiên tri của cụ già Simêon tiên báo về cuộc khổ nạn mà Đức Giêsu phải chịu và nỗi đau trong tâm Mẹ Maria như muốn tô đậm thêm điểm tốt của một gia đình trung thành với lề luật và Thiên Chúa để đón nhận thánh ý Chúa trong cuộc đời.
Tuy nhiên, điều quyết định để thánh Giuse và Mẹ Maria thực sự trở nên một con người bình an, thánh thiện và tốt lành, đó là có sự hiện diện của Đức Giêsu trong gia đình và nhất là nơi tâm hồn.
3. Sống sứ điệp ngày lễ
Mỗi khi mừng lễ Đức Mẹ dâng Chúa vào đền thờ, mỗi người chúng ta được mời gọi nhớ lại Bí tích Rửa Tội chúng ta đã lãnh nhận. Ngày đó, mỗi chúng ta được thuộc trọn về Chúa. Được trở nên con cái Thiên Chúa. Cũng chính từ đó, chúng ta được mời gọi đón nhận Ánh Sáng Chúa Kitô trong cuộc đời của mình, đồng thời có sứ mạng lan tỏa Ánh Sáng ấy cho người khác.
Khi đã thuộc về Chúa và đi theo Ánh Sáng là chính Ngài, chúng ta được mời gọi thực thi Lời Chúa cách yêu mến và trung thành như Mẹ Maria và thánh Giuse đã trung thành giữ luật trong lòng mến.
Mừng lễ dâng Chúa vào đền thờ hôm nay, chúng ta còn được mời gọi hãy tín thác và phó dâng cuộc đời, sự nghiệp, tương lai của chúng ta cho Chúa để được sống dưới sự hướng dẫn, dạy dỗ và soi dẫn của Người.
Lạy Chúa Giêsu là Ánh Sáng chiếu soi trần gian. Xin Chúa ban cho mỗi người chúng con được trung thành và yêu mến Luật Chúa như Mẹ Maria và thánh cả Giuse, để luôn được đi trong Ánh Sáng của Ngài. Amen.
12. Chúa Giêsu là Ánh Sáng (Lc 1, 21-28)--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Cách đây bốn mươi ngày, chúng ta đã hân hoan cử hành lễ Chúa Cứu Thế giáng sinh. Hôm nay chúng ta mừng ngày Chúa Cứu Thế được Thân Mẫu và thánh Giuse dâng vào Đền Thánh, đưa chúng ta đi từ Mầu Nhiệm Nhập Thể đến Mầu Nhiệu Cứu Chuộc của Đấng Cứu Thế. Ngôi Lời, Con Thiên Chúa nhập thể làm người, sinh ra và sống trong xã hội loài người, bị luật lệ loài người chi phối, theo Luật Môisen (x. Xh 13, 11-13); "Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa" ( Lc 2, 23 ) đó là lý do Hài Nhi Giêsu được dâng cho Thiên Chúa. Đức Trinh Nữ Maria đã tuân theo nghi lễ thanh tẩy được ghi trong sách Lêvi: "Luật cho phụ nữ sinh trai hay gái" (Lv 12, 6-8). Ông Simêon người công chính và mộ đạo, được Thánh Thần linh báo cho biết, ông sẽ không thấy cái chết trước khi gặp Đức Kitô. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền, được Thần Khí thúc đẩy, hôm đó ông lên Đền Thánh, gặp gỡ Hài Nhi, ẵm Hài Nhi trên tay và chào là "Ánh Sáng muôn dân" (Lc 2, 32).
Trong ngày này, Giáo hội ca vang "Vui lên, hỡi Đức Trinh Nữ Mẹ Chúa Trời, Đấng đầy ân sủng, vì từ lòng Mẹ đã sinh ra Đức Kitô Chúa chúng con là Mặt Trời công chính, Ánh Sáng chiếu soi những ai ngồi trong bóng tối. Vui lên, hỡi cụ Symêon, người công chính, vì chính cụ đã bồng ẵm Đấng giải thoát muôn dân, cho muôn dân tham dự vào sự Phục sinh của Người "(x. Phụng vụ Byzantine).
Tại sao Con Thiên Chúa lại phải dâng cho Thiên Chúa và Đức Maria trinh khiết vẹn tuyền phải chịu thanh tẩy?
Theo thánh Dimitri de Rostov: "Mẹ Thiên Chúa tiến vào Đền Thánh vâng theo Luật Chúa, tay bồng ẵm chính Đấng là Lề Luật. Mẹ là Đấng vô tội, tinh tuyền không tì vết đến xin điều mà Mẹ không cần là thanh tẩy. Mẹ không nhận lãnh sự khoái lạc sung sướng của phu quân, đã sinh con mà không đau đớn, Mẹ được gìn giữ tinh tuyền không tì vết trước khi sinh và sau khi sinh Đấng là nguồn suối trong sạch, há Mẹ lại không tinh sạch sao? Đức Kitô đã sinh ra từ lòng Mẹ! Quả không bị hư hoại bởi cây, cây không bị nhơ bẩn bởi quả: Đức Trinh Nữ Rất Thánh vẫn trinh khiết vẹn tuyền sau khi sinh hạ Đức Kitô, Con lòng Mẹ. Mặt Trời công chính không làm tổn thương sự đồng trinh của Mẹ. Lẽ thường, máu không làm ô uế Cửa thiên đàng theo luật tự nhiên, Thiên Chúa ngập tràn ánh sáng thần linh đã vượt qua Cửa này, gìn giữ sự đồng trinh của Mẹ".
Thánh Phaolô nói: "Vậy bởi vì con cái có chung máu thịt với nhau, thì phần Ngài, giống y như vậy, các điều ấy Ngài cũng đã thông chia, để giải thoát những kẻ vì sợ chết mà suốt cả bình sinh sa vòng nô lệ" (Dt 2,14-15). Chúa đến với loài người là để cứu rỗi và giải thoát, chứ không phải để kết án luận phạt: "Vì thiết tưởng không phải Thiên Thần được Ngài bao bọc, nhưng Ngài bao bọc dòng giống Abraham... Ngài đã nên giống các anh em Ngài, để trở thành vị Thượng tế lo việc Thiên Chúa, vừa biết xót thương vừa trung tín, cốt để lo tạ tội cho dân" (Dt 2,16-17).
Đức Maria Trinh Nữ Rất Thánh Mẹ Thiên Chúa, cũng như Chúa Giêsu không buộc phải tuân theo nghi thức này, nhưng vì khiêm nhường và cũng để cho nhân loại noi theo mà tuân giữ luật Chúa, nhất là để cứu con người Chúa Giêsu đã làm điều đó, nên lễ này được gọi là Lễ Thanh Tẩy.
Hy Tế Cứu Chuộc
Lễ Dâng Chúa Giêsu vào Đền Thánh, mà chúng ta cử hành ngày 02 tháng 01 có một vị trí đặc biệt: vì lễ này loan báo Hy Tế Cứu Chuộc mang lại ơn cứu độ sau này. Đức Maria và thánh Giuse bồng Chúa Giêsu trên tay, dù là Con Thiên Chúa, Đấng giầu sang phú quí để dâng vào Đền Thánh với của lễ đơn sơ là "cặp bồ câu non"! Đây là lần đầu tiên loan báo về Hy Tế Thánh. Chính Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người mạc khải cho chúng ta, việc dâng hiến này ám chỉ tương quan giữa nhân loại với Thiên Chúa Cha, qua trung gian cần thiết của Đức Trinh Nữ Maria đồng công cứu chuộc. Đây là Hy Tế đền tội hoàn hảo duy nhất cứu chuộc nhân loại. Lễ này là "bản lề" chuyển tiếp giữa hai mầu nhiệm Nhập Thể (Truyền tin) và Cứu Chuộc (Phục Sinh). Chúa Giêsu đến trần gian (Nhập thể), để Cứu chuộc chúng ta.
Sao lại làm phép nến và rước nến hay gọi là Lễ Nến?
Giáo hội Đông phương hiểu Thánh lễ này thể hiện cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và dân Người. Được Ðức Maria và thánh Giuse đem vào Ðền Thánh, Chúa Giêsu đã gặp gỡ dân người mà hai cụ già Simêon và Anna là đại diện. Ðây cũng là cuộc gặp gỡ lịch sử của dân Chúa, gặp gỡ giữa các người trẻ là Ðức Marria và thánh Giuse và các người già là Symêon và Anna. Chúa Giêsu là trung tâm, chính Người lôi kéo con người đến Ðền Thánh, nhà Cha Người. Ðây còn là cuộc gặp gỡ giữa sự vâng phục của người trẻ và lời tiên tri của người già. Việc tuân giữ Luật được chính Thần Khí linh hoạt, và lời tiên tri di chuyển trên con đường do Luật vạch ra.
Giáo hội Tây phương lại coi đây là Thánh lễ mừng kính Đức Maria: Thanh tẩy theo luật Do thái. Khi sát nhập vào Phụng vụ Rôma, Đức Giáo Hoàng Sergiô I (678-701) lại thêm vào nghi thức rước nến. Vì thế, từ đây, lễ này được gọi là Lễ Nến. Vì trước Thánh lễ có nghi thức làm phép nến và kiệu nến vào nhà thờ như cuộc đón rước Chúa Giêsu là Ánh Sáng của muôn dân. Những cây nến được làm phép và thắp sáng trong ngày lễ này, tượng trưng cho ánh sáng và vinh quang của Chúa Giêsu. Từ cuộc canh tân Phụng vụ năm 1960, thánh lễ này cũng qui hướng về Chúa Giêsu, hơn là Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ.
Lời của cụ già Simêon nói: "Đó là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân" (Lc 2, 32). Quả thật, hôm nay ai trong chúng ta cầm nến sáng trong tay mà không nhớ tới ngày cụ già Simêon bồng ẵm Hài Nhi Giêsu, Ngôi Lời trong xác phàm, là Ánh Sáng. Chính cụ là ngọn lửa cháy sáng, chứng nhân của ánh sáng, khi được đầy ơn Chúa Thánh Thần, cụ đã làm chứng rằng Hài Nhi Giêsu là Tình Yêu và là Ánh Sáng chiếu soi muôn dân.
Vậy hôm nay, chúng ta hãy nhìn cây nến cháy sáng trên tay cụ già Simêon, từ ánh sáng đó hãy thắp sáng cây nến của chúng ta... Như thế, chúng ta không những sẽ cầm ánh sáng trong tay, mà chính chúng ta phản chiếu ánh sáng, ánh sáng trong lòng ta, cho đời ta, và cho mọi người. Amen.
13. Cha mẹ hãy cho con tình thương--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Trong một lần dạy giáo lý hôn nhân tôi hỏi: Nếu như bạn phải tặng cho con cái điều quý giá nhất bạn sẽ chọn: dạy dỗ, làm gương, dành thời giờ ở bên con, miệt mài làm việc cho con tiền ăn học, vợ chồng yêu thương nhau thì các bạn sẽ chọn điều gì?
Xem ra yếu tố nào cũng quan trọng và cần thiết nhưng có một yếu tố quan trọng hơn theo tôi đó là vợ chồng yêu thương nhau.
Câu trả lời xem ra không thỏa mãn. Thế nhưng, thử hỏi nếu vợ chồng không thương yêu nhau thì mái nhà có giữ được không? Và nếu như vợ chồng không yêu thương nhau con cái sẽ ra sao? Mái nhà có là mái ấm hay là hỏa ngục trần gian?
Người ta thống kê số các tội phạm thanh thiếu niên hay những thanh thiếu niên hư hỏng đa phần là do cha mẹ chúng thiếu tình yêu thương nhau. Có thể họ đã ly dị nên con cái trả thù đời bằng việc lao vào các tệ nạn xã hội. Có thể do cha mẹ chúng hay bất hòa với nhau nên con cái không muốn ở nhà chỉ thích lêu lổng và phá phách. Có thể cha mẹ chúng thiếu hợp nhất nên con cái cũng mạnh đứa nào đứa nấy sống.
Thực vậy, điều quý nhất mà cha mẹ có thể tặng cho con cái mình là tình yêu thương của gia đình. Cha mẹ yêu thương nhau. Con cái hòa hợp với nhau. Ðó chính là một cái nôi hạnh phúc mà khi con người được sống trong cái nôi êm đềm ấy thì khó có thể hư hỏng được. Cha và mẹ cứ nên nhắn nhủ với con cái với sứ điệp rằng "mặc dù cha mẹ không phải là hoàn hảo, thỉnh thoảng cũng có cãi lẫy, giận hờn với nhau, nhưng ba mẹ lúc nào cũng ở bên cạnh nhau và bên cạnh các con". Cha và mẹ sống yêu thương nhau thì con cái sẽ học được bài học tình yêu từ chính trong nôi gia đình.
Các nhà xã hội học cho rằng trẻ em hôm nay đang sống trong một thế giới đầy bất an. Những nỗi lo sợ chồng chất từ gia đình đến xã hội là nguyên nhân gây nên những biến chứng trong cách cư xử của các em, bệnh trầm cảm và các rối loạn tinh thần. Một trong các mối lo sợ lớn nhất của các em ở lứa tuổi đi học là sợ cha mẹ chúng ly dị. Nhiều em thường xuyên phải nghe các tin đau lòng rằng cha mẹ của bạn mình trong lớp đang chia tay, hay thần tượng điện ảnh này của các em đang ra tòa xin ly dị, và các em cũng vô cùng hoang mang không biết chừng nào đến phiên cha mẹ mình sẽ chia ly. Nhiều em mắc phải sự lo âu thấp thỏm mỗi ngày, không biết chừng nào cái tin sét đánh này xảy đến cho cuộc đời của chúng nó.
Ðây cũng là điều gia đình thánh gia có thể vượt qua sóng gió khi họ yêu thương nhau. Họ bỏ qua những hồ nghi, những niềm vui riêng để gánh lấy trách nhiệm nuôi nấng Con Chúa Trời Chí Thánh. Các ngài luôn chứng minh cho mọi người rằng các ngài luôn sẵn sàng ở bên nhau và cùng dìu nhau đi qua những thăng trầm của dòng đời. Các ngài luôn lấy tình yêu của lòng nhân hậu bao dung để đối xử với nhau. Nhất là các ngài luôn ở bên nhau vì tin vào Chúa nên dám đón nhận nhau trong yêu thương hợp nhất.
Hôm nay chúng ta quy tụ nhau nơi đây để cử hành nghi thức dâng con vào đền thờ. Hành vi dâng con vào đền thờ là hành vi thờ phượng để tạ ơn về ân ban Chúa ban là con cái được sinh ra. Dâng con vào đền thờ cũng xác định quyền và bổn phận giáo dục con cái của chúng ta. Chỉ có cha mẹ mới có quyền giáo dục con cái mình. Chỉ có cha mẹ mới có bổn phận giáo dục con cái của mình. Quyền và bổn phận vừa là vinh dự , vừa là trách nhiệm mà chúng ta phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa và xã hội.
Trước mặt xã hội cha mẹ phải lãnh lấy trách nhiệm nếu con cái hư hỏng trước tuổi thành niên. Trước mặt Thiên Chúa thì cha mẹ phải trả lẽ trước mặt Chúa trong chính lương tâm của mình suốt cuộc đời.
Ðứng trước một trách nhiệm lớn lao như vậy, đòi hỏi cha mẹ phải hy sinh để nuôi dậy con cái. Sự hy sinh đòi cha mẹ phải "một điều nhịn chín điều lành" để gìn giữ mái ấm gia đình ngập tràn yêu thương. Sự hy sinh không chì dừng lại sự lam lũ kiếm tiền cho con cái mà còn hy sinh để cho con cái thấy tình thương của cha mẹ dành cho nhau và cho con cái. Có như vậy chúng ta mới mang lại sự phát triển tâm sinh lý nơi con trẻ một cách hoàn hảo. Và chắc chắn con cái sẽ biết ơn cha mẹ vì được sống trong một cái nôi đầy ắp yêu thương.
Ước gì chúng ta luôn dành tình yêu cho gia đình chúng ta, cho vợ chồng, cho con cái. Trên hết mọi sự hãy lấy tình yêu mà đối xử với nhau để xây dựng mái ấm gia đình hạnh phúc và là chỗ dựa vững chắc cho con cái vào đời. Amen.
14. Ánh sáng soi đường cho dân ngoại, vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài--Lm Giuse Nguyễn Văn Tuyên
Nếu như trong lễ Hiển Linh chúng ta cử hành việc Đức Giêsu tỏ mình ra cho các Đạo sĩ, là Dân ngoại, thì hôm nay khi được dâng trong Đền Thờ, Ngài đã tỏ mình ra cho chính dân tộc của Ngài.
Lễ Nến được mừng vào ngày thứ 40 sau lễ Giáng Sinh, kết thúc những ngày lễ trọng mừng việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho con người nơi Ngôi Lời mặc lấy xác phàm. Lễ này còn có tên gọi là lễ Đức Maria được thanh tẩy theo Luật Môsê hay lễ Dâng Chúa trong Đền Thờ.
Sở dĩ có ngày lễ này là vì theo Luật Môsê quy định: Thứ nhất, các trẻ sơ sinh, trong thời gian Luật định, phải mang lên Đền Thờ dâng cho Thiên Chúa. Thứ hai, người phụ nữ sau khi sinh con (nếu là con trai) thì sau 40 ngày phải lên Đền Thờ để được thanh tẩy. Vì thời đó người ta cho rằng khi sinh con, người phụ nữ bị ô uế. Thứ ba, con đầu lòng là tài sản của Thiên Chúa. Vì thế có tục lệ dâng con và lễ vật cho Thiên Chúa để chuộc lại con.
Sau khi sinh Đức Giêsu được 40 ngày, Đức Maria và Thánh Giuse đã làm như Luật dạy. Thực ra, Đức Mẹ không cần phải làm nghi thức thanh tẩy, bởi vì Mẹ sinh con mà vẫn trọn đời trinh khiết, không một vết nhơ nào có thể chạm đến con người thánh thiện của Mẹ, nhưng Mẹ vẫn khiêm tốn thi hành những gì lề luật truyền dạy.
Tuy nhiên, sự xuất hiện của vị “sứ giả của giao ước” hôm nay có vẻ không giống như những gì mà ngôn sứ Malakhi đã loan báo. Bởi theo viễn tượng của vị ngôn sứ này, thì vị sứ giả của Thiên Chúa sẽ đến một cách bất ngờ để tái lập lại nền phụng tự của dân Thiên Chúa vốn đã trở nên lệch lạc bởi sự chểnh mảng của các tư tế cũng như sự thờ ơ của dân chúng: “Kìa, vị sứ giả của giao ước mà các ngươi đợi trông đang đến, - ĐỨC CHÚA các đạo binh phán. Ai chịu nổi ngày Người đến? Ai đứng được khi Người xuất hiện? Quả thật, Người như lửa của thợ luyện kim, như thuốc tẩy của thợ giặt. Người sẽ ngồi để luyện kim tẩy bạc; Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi và tinh luyện chúng như vàng, như bạc” (Ml 3,1-3).
Không riêng gì ngôn sứ Malakhi, mà ngay cả Gioan Tẩy Giả cũng loan báo về Đấng Messia với những lời lẽ tương tự: “Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi." (Mt 3,12).
Trái ngược hẳn với những hình ảnh đáng kinh sợ mà các ngôn sứ đã loan báo, hôm nay, Chúa Giêsu - vị sứ giả của giao ước - lại bước vào đền thờ một cách âm thầm dưới hình hài của một trẻ thơ. Có lẽ sẽ chẳng có ai nhận ra Ngài cho đến khi cụ già Simêon – người được Thánh Thần linh hứng – loan báo rằng: Hài Nhi Giêsu mà ông đang bồng ẵm trên tay chính là “Ơn cứu độ mà Chúa đã dành sẵn cho muôn dân. Là Ánh sáng soi đường cho nhân loại và là vinh quang của Israel dân Ngài” (Lc 2,30-32)
Mừng lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong đền thờ hôm nay, Giáo Hội muốn giới thiệu cho chúng ta: Chúa Giêsu là ÁNH SÁNG từ trời cao, được đưa vào đền thờ, để thắp sáng cho trần gian. Nhưng tiếc rằng, ánh sáng đó đã được chiếu soi vào nhân loại hơn 2000 năm qua mà vẫn chưa được nhiều người đón nhận.
Ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội, chúng ta cũng được trao cho cây nến sáng với lời nhắc nhở rằng: Con hãy nhận lấy ánh sáng Chúa Kitô và hãy làm cho ánh sáng ấy cháy lên mãi… Vậy hôm nay, chúng ta hãy tự kiểm điểm lại xem, tôi và gia đình tôi đã làm gì để ánh sáng Chúa Kitô được thắp sáng nơi môi trường sống của mình?
Việc Chúa Giêsu được dâng trong đền thánh là hình bóng hiến lễ Ngài sẽ dâng chính mình trên đồi Canvê. Thư Do Thái dạy rằng: Đức Kitô vừa là của lễ hoàn hảo đền tội chúng ta, vừa là tư tế dâng chính mình Ngài như của lễ. Mừng lễ hôm nay, chúng ta cũng được mời gọi hãy phó dâng bản thân cũng như mọi thành viên trong gia đình chúng ta cho Thiên Chúa để chính Ngài sẽ dẫn dắt chúng ta đi. Đó cũng là ý nghĩa cao đẹp mà nhiều hội dòng lựa chọn ngày lễ này làm lễ khấn dòng của mình. Để qua việc công khai đáp trả lại ba lời khuyên Phúc Âm, các tu sĩ cũng muốn trở nên ánh sáng cho trần gian và hiến dâng cuộc đời mình làm của lễ sống động cho Thiên Chúa và cho anh chị em mình.
Sau cùng, mỗi tín hữu cũng được mời gọi noi theo các nhân đức của Đức Mẹ và thánh Giuse bằng việc yêu mến và thực thi nghiêm chỉnh những lề luật của Thiên Chúa, cho dù đó là điều nhỏ bé và tầm thường nhất, để nhờ đó, chương trình và ý định của Thiên Chúa được thể hiện trong cuộc đời này.
Lạy Chúa Giêsu là ánh sáng đã đến trong trần gian. Như mặt trăng tiếp nhận ánh sáng từ mặt trời, xin cho chúng con cũng biết tiếp nhận ánh sáng từ nơi Chúa là mặt trời công chính, để trần gian luôn tràn ngập ánh sáng của tình yêu thương, sự cảm thông và tha thứ. Nhờ đó nơi gia đình, giáo họ, giáo xứ và cộng đoàn chúng con luôn được sống trong bình an và hạnh phúc. Amen.
15. Tiến dâng Đức Giêsu cho Thiên Chúa--JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Gia đình của Đức Giê-su tôn trọng lề luật như thế nào? Tại sao phải tôn trọng lề luật?
2. Các kinh sư Do Thái là những người giữ các luật tôn giáo một cách rất nhiệm nhặt. Họ có vì thế mà trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa không? Tại sao? Bạn rút ra được bài học gì cho việc giữ luật của bạn?
3. Tình yêu và lề luật, cái nào là mục đích, cái nào là phương tiện? Cái nào làm cho bạn trở nên công chính, thánh thiện?
Suy tư gợi ý:
1) Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se tôn trọng lề luật
Bài Tin Mừng cho thấy Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se đã chu toàn những tập tục của luật Mô-sê liên quan đến việc hạ sinh Đức Giê-su. Luật Mô-sê qui định tất cả các trẻ nam đều phải cắt bì và đặt tên vào ngày thứ 8 sau khi chào đời (x. Lv 12,3; Lc 1,59-60; 2,21). Khi được 1 tháng tuổi, trẻ phải được đem tới đền thờ để làm lễ chuộc lại con, vì mọi con đầu lòng - dù là người hay là thú vật - đều phải tiến dâng cho Thiên Chúa, vì nó thuộc về Ngài, rồi phải chuộc nó lại từ Thiên Chúa (x. Xh 13,2.12-13; Ds 18,15-16). Nếu sinh con trai thì khi nó được 40 ngày, hoặc nếu sinh con gái thì khi nó được 80 ngày, người mẹ phải làm lễ tẩy uế, và phải dâng lễ toàn thiêu bằng một con chiên con, người nghèo có thể thay thế bằng một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non như Đức Ma-ri-a đã làm (x. Lv 5,7; 12,8). - Mặc dù biết Đức Giê-su, con của mình, là Con Thiên Chúa, Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se vẫn tuân thủ tất cả những gì lề luật đòi buộc. Đó là một gương mẫu cho chúng ta.
2) Vấn đề: có nên giữ luật như các kinh sư Do Thái không?
Như vậy là chúng ta phải nghiêm chỉnh tuân giữ lề luật. Nhưng một vấn đề rất cụ thể và hết sức thiết thực đặt ra cho chúng ta là: các kinh sư Do Thái, những người Pha-ri-sêu, nổi tiếng là giữ luật một cách nhiệm nhặt, nhưng lại bị Đức Giê-su chê trách rằng họ chẳng hề tuân giữ lề luật. Thật vậy, Đức Giê-su đã từng tuyên bố với các kinh sư Do Thái rằng: « Ông Mô-sê đã chẳng ban Lề Luật cho các ông sao? Thế mà không một ai trong các ông tuân giữ Lề Luật!» (Ga 7,19). Stê-pha-nô cũng nói với các kinh sư Do Thái tương tự như thế trước khi bị họ ném đá chết: «Các ông là những người đã lãnh nhận Lề Luật do các thiên sứ công bố, nhưng lại chẳng tuân giữ» (Cv 7,53). - Vậy phải giữ luật như thế nào mới được gọi là thật sự giữ luật? mới đẹp lòng Thiên Chúa? mới trở nên thánh thiện đích thực?
3) Cần phân biệt luật tổng quát và luật chi tiết
Trong tôn giáo, lề luật là những điều mà mọi tín đồ phải thực hiện hay tuân giữ để thực hiện tinh thần hay mục đích của tôn giáo: nên trọn lành, được cứu rỗi. Luật lệ gồm hai phần mà chúng ta cần phân biệt:
Phần tinh thần, mang tính tổng quát, phát xuất từ Thiên Chúa. Phần này - tương tự như hiến pháp trong một quốc gia - là những nguyên tắc mang tính tổng quát, nhưng hết sức quan trọng. Có thực hiện được những nguyên tắc tổng quát này thì mới đạt được mục đích của tôn giáo. Trong Ki-tô giáo, có hai nguyên tắc tổng quát nhất là: «Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình» (Lc 10,27); «Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy» (Mt 22,40).
Hai nguyên tắc này đã được thánh Phao-lô và Gia-cô-bê tổng hợp lại thành một nguyên tắc duy nhất: «Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật (...) Yêu thương là chu toàn Lề Luật» (Rm 13,8.10); «Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Ki-tô» (Gl 6,2); «Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình» (Gc 2,8). Chính Đức Giê-su cũng tuyên bố rất rõ ràng: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,35).
Phần cụ thể, mang tính chi tiết, thường do con người lập nên bằng cách suy diễn từ những điều luật tổng quát trên cách áp dụng cụ thể những điều luật ấy trong mọi tình huống của đời sống con người. Phần này - tương tự như luật pháp trong một quốc gia - gồm những điều luật cụ thể giúp thể hiện một cách chi tiết những điều luật tổng quát (trong quốc gia là hiến pháp). Ki-tô giáo có vô số điều luật - trong giáo luật cũng như trong từng lãnh vực của tôn giáo - nhằm cụ thể hóa và chi tiết hóa hai nguyên tắc tổng quát «mến Chúa, yêu người» nói trên. Mọi Ki-tô hữu đều phải cố gắng thực hiện những qui định mang tính chi tiết này, để nhờ đó thực hiện cách hoàn hảo hai nguyên tắc tổng quát trên.
4) Giá trị của hai thứ luật trên
Những điều luật căn bản, mang tính tổng quát thì có giá trị tuyệt đối, con người phải thực hiện trong bất kỳ tình huống nào, và không hề có luật trừ. Đó là luật phát xuất từ Thiên Chúa. Theo tinh thần của đoạn Tin Mừng Mt 25,31-46 thì Thiên Chúa chỉ phán xét con người theo điều luật tổng quát này của Ngài mà thôi.
Những điều luật mang tính chi tiết đều phải nhằm giúp con người thực hiện điều luật tổng quát trên trong những tình huống cụ thể hơn. Do đó, chúng chỉ có giá trị khi nhằm mục đích thực hiện hoàn hảo những nguyên tắc tổng quát trên và khi phù hợp với mục đích ấy. Do đó, bất cứ điều luật chi tiết nào nếu đem áp dụng trong những hoàn cảnh cụ thể mà phản ảnh đúng hay phù hợp với những nguyên tắc tổng quát trên, thì người tín hữu buộc phải tuân giữ. Trái lại, nếu trong một hoàn cảnh cụ thể nào đó, việc áp dụng những luật cụ thể này lại đi ngược với tinh thần của điều luật tổng quát trên, thì trong hoàn cảnh cụ thể ấy, người tín hữu không buộc phải tuân theo. Chính Đức Giê-su đã sẵn sàng lỗi luật ngày sa-bát khi mà nếu giữ luật chi tiết này trong những trường hợp cụ thể Ngài gặp thì hóa ra lại vi phạm một luật tổng quát hơn, là luật yêu thương (x. Mt 12,1-8; 9-14; Lc 13,10-17; 14,1-6; Ga 5,1-18; 9,1-41). Vì khi soạn ra những điều luật chi tiết này, không ai có thể nghĩ ra hết tất cả những trường hợp luật trừ, là những trường hợp mà tuân hành những luật này sẽ trở nên vi phạm những lề luật cao hơn hay tổng quát hơn.
Trong hiến pháp của một quốc gia thường có một khoản qui định rằng bất cứ một điều khoản nào trong luật pháp mà đi ngược lại tinh thần của bất kỳ một điều khoản nào trong hiến pháp, thì điều khoản trong luật pháp ấy trở thành vô giá trị, không phải tuân giữ. Hiến pháp mới là căn bản, luật pháp chỉ là công cụ hay phương tiện để thể hiện hay thực hiện hiến pháp mà thôi. Vậy chúng ta cần phải tập trung quan tâm vào việc thực hiện điều luật tổng quát của Ki-tô giáo là «mến Chúa, yêu người», mà tóm gọn hơn nữa là «yêu người», hơn là chú tâm thực hiện những chi tiết của lề luật thành văn. Nói thế không có nghĩa là không cần thực hiện những điều luật chi tiết, vì theo Đức Giê-su thì: «Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ» (Mt 23,23b).
5) Một cám dỗ thường xảy ra đối với việc thực hiện lề luật
Người tín hữu không được giáo dục đức tin đầy đủ thường bị cám dỗ chỉ quan tâm thực hiện những điều luật chi tiết, cụ thể, thậm chí quan trọng hóa cả những chi tiết của luật lệ, mà không hề quan tâm tới tinh thần tổng quát của lề luật. Do đó, thường xảy ra tình trạng như sau: có những tín hữu giữ những luật lệ tôn giáo một cách hết sức chi tiết, tỉ mỉ, được mọi người coi là đạo đức, thánh thiện. Nhưng nếu những người ấy tự xét mình một cách nghiêm túc xem mình đã thật sự mến Chúa yêu người chưa, thì họ phải tự nhìn nhận là chưa, hoặc còn thiếu sót hơn cả những người bình thường khác.
Điều chúng ta phải lấy làm lạ và phải suy nghĩ thật nghiêm túc là: các kinh sư Do Thái giữ luật nhiệm nhặt như vậy, thế mà Đức Giê-su lại đánh giá rằng «không một ai trong các ông tuân giữ Lề Luật!» (Ga 7,19), tại sao? Vì tuy họ quan tâm giữ nhiệm nhặt nhiều điều khoản của tôn giáo, nhưng họ lại «bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng chân thành » (Mt 23,23). Và những khoản luật mà họ tuân giữ nhiệm nhặt ấy nghĩ cho cùng cũng «chỉ là giới luật của phàm nhân» (Mt 15,9). Nên việc giữ luật nhiệm nhặt ấy cuối cùng lại trở thành «sôi hỏng bỏng không», hay như «công dã tràng»!
Còn cách giữ Luật Chúa của chúng ta thì sao? Liệu Thiên Chúa có đánh giá chúng ta, những người đang tự hào là giữ luật một cách nghiêm nhặt, tương tự như thế không? Rất có thể, vì chúng ta chỉ chú ý tới cái «xác của lề luật», là những điều khoản thành văn, mà không chú ý tới cái «hồn của lề luật», tức tinh thần của lề luật. Xác mà không có hồn thì chỉ là xác chết, vô giá trị! Chắc chắn tới ngày phán xét, rất nhiều người đã giữ luật một cách nhiệm nhặt không kém gì các kinh sư Do Thái, nhưng lại đứng vào hàng ngũ «quân bị nguyền rủa » (Mt 25,41), chỉ vì "xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống, v.v...» (25,42tt). Tội nghiệp cho họ là những kẻ mà Luật Chúa thì không thèm giữ chỉ toàn lo giữ «luật của phàm nhân»!
Lạy Cha, xin cho con biết tôn trọng Luật Cha là luật yêu thương. Xin ban cho con tinh thần của thánh Âu-Tinh: «Cứ yêu đi, rồi làm gì thì làm!» Con nhận ra rằng con chỉ chu toàn được Luật của Cha khi con thật sự yêu thương mà thôi. Vì thế, xin Cha cho con biết yêu thương!
16. Thắp lên một ngọn nến
Thế giới hôm nay có những kẻ thù địch với Kitô giáo. Họ hăng say tuyên truyền cho tội ác và tìm mọi cách để thu hút, lôi cuốn đám đông đi theo đường hướng của họ.
Trước sự kiện này, một số các tín hữu nhiệt thành đã thiết lập phong trào thánh Christôphôrô. Những người gia nhập phong trào này không cần phải ghi tên hay đóng góp chi cả, miễn là cố gắng làm thế nào chứng minh cho kẻ khác biết được rằng: tất cả chúng ta đều được Chúa yêu thương và chăm sóc. Chính vì thế mà phải sống một cuộc sống chan hòa tình người, tôn trọng những quyền lợi của nhau, cũng như sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau. Điều mà phong trào này tâm niệm đó là:
- Thà thắp lên một ngọn nến, còn hơn là ngồi đó mà rủa xả bóng đêm.
Đọc lại Phúc âm, chúng ta ghi nhận điều này: Đức Kitô là ánh sáng muôn dân.
Thực vậy, hôm nay trước cửa đền thờ, ông già Simêon đã nói tiên tri về Hài nhi Giêsu như sau:
- Lạy Chúa, xin để tôi tớ này được ra đi bình an, vì mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu độ, Chúa dọn ra trước mặt nhân trần, làm ánh sáng rạng soi dân ngoại, còn Israen dân Chúa được vinh quang.
Rồi trong cuộc sống công khai, chính Đức Kitô cũng đã từng công bố:
- Ta là ánh sáng thế gian, ai theo Ta sẽ không còn ngồi trong đêm tối.
Hay như thánh Gioan đã xác quyết:
- Nơi Ngài có sự sống. Và sự sống là ánh sáng cho muôn dân. Anh sáng đã chiếu soi trong u tối.
Một khi Đức Kitô đã là ánh sáng, thì Mẹ Maria chính là chiếc đèn, bởi vì Mẹ mang trong mình ánh sáng và từ đó tỏa lan khắp nơi. Hôm nay nơi đền thờ Giêrusalem, Mẹ bồng ẵm trong vòng tay của mình Hài nhi Giêsu, ánh sáng muôn dân. Không phải Mẹ chỉ bồng ẵm Chúa trên đôi tay của mình, mà hơn thế nữa, tâm hồn Mẹ hoàn toàn được ánh sáng Chúa chiếu soi và biến đổi. Mẹ chính là tấm gương trung thực nhất phản ảnh mọi nhân đức của Chúa.
Trên trời cũng như dưới đất, không một tạo vật nào giống Chúa cho bằng Mẹ. Mẹ chính là người môn đệ đầu tiên đã đi trên dấu chân của Chúa, qua đau khổ và thập giá để tiến đến vinh quang. Mẹ hoàn toàn tin tưởng và phó thác để được trọn vẹn trung thành với thánh ý của Chúa.
Còn chúng ta thì sao?
Tôi xin thưa: - Chúng ta cũng phải trở nên ánh sáng như Đức Kitô, chúng ta cũng phải trở nên đèn cháy như Mẹ. Thực vậy, thánh Phaolô đã khuyên nhủ:
- Trước kia anh em là tối tăm, nhưng hiện nay anh em là ánh sáng trong Đức Kitô.
Phải chăng đây cũng chính là điều Đức Kitô mong ước nơi mỗi người chúng ta, khi Ngài phán: - Các con là ánh sáng thế gian. Một thành xây trên núi, không thể giấu được. Và người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới gậm giường, nhưng sẽ đặt trên giá, để nó chiếu sáng cho mọi người trong nhà.
Là người Kitô hữu, chúng ta phải mang Đức Kitô, hay nói cách khác, phải mang ánh sáng của Ngài trong tâm hồn, rồi từ đó chiếu tỏa ánh sáng ấy cho những người chung quanh.
Là người tín hữu, chúng ta phải trở thành ngọn đèn cháy sáng, để những người còn ngồi trong tối tăm lầm lạc, nhờ chúng ta, sẽ tìm thấy đường ngay nẻo chính. Muốn được như thế, thì tâm hồn và cuộc đời chúng ta phải trong suốt như pha lê, cho ánh sáng Chúa chiếu qua.
Thế nhưng có kẻ lại nghĩ rằng:
- Ánh sáng của tôi còn quá yếu ớt, làm sao có thể chọc thủng được đêm đen?
Trong một buổi thuyết trình, vị linh mục được mời nói chuyện, đã bắt đầu bằng cách tắt hết các bóng điện, khiến cho tăm tối phủ kín khắp phòng. Rồi ngài đánh một que diêm và thắp lên một ngọn nến. Ánh sáng của ngọn nến tuy yếu ớt, nhưng cũng đủ để họ nhìn thấy được khuôn mặt của người bên cạnh. Và nếu người nào cũng thắp lên một ngọn nến như thế, thì hẳn căn phòng sẽ rực rỡ, sẽ chan hòa ánh sáng.
Đừng nói rằng: - Mình chẳng làm gì được.
Trái lại, thay vì ngồi phê bình và chỉ trích, thở dài và bi quan, chúng ta hãy góp phần nhỏ bé của chúng ta vào công cuộc đẩy lui ảnh hưởng của đêm tối, của tội ác.
Nếu hoạt động của đêm tối là âm mưu, là thù oán, là tham vọng bất chính, thì hoạt động của ánh sáng phải là nhân hậu, phải là tha thứ, phải là khiêm cung.
Nếu một con én không làm nổi mùa xuân thì ít nữa nó cũng góp phần báo tin mùa xuân đang đến.
Chúng ta cũng vậy, thà thắp lên một ngọn nến, còn hơn là ngồi đó mà rủa xả bóng đêm.
17. Mẫu gương của bậc cha mẹ--Lm. Gioan Trần Khả
Tổng Thống George Washington một trong những nhà anh hùng của nền độc lập Hoa Kỳ, thường được đề cao như một người con hiếu thảo đối với mẹ. Sau những trận chiến cam go nơi sa trường, sau những cuộc họp căng thẳng với các chính khách, sau những công việc bề bộn của một nguyên thủ quốc gia, ông vẫn dành cả tiếng đồng hồ để về nhà thăm người mẹ hiền và trò chuyện với bà nhiều giờ liền. Một hôm thấy con đã vất vả công việc quốc gia, lại còn mất nhiều thời giờ thăm viếng, an ủi mình, bà mẹ mới hỏi ông:
"Tại sao con lại chịu khó và mất thời giờ như vậy để ngồi bên cạnh mẹ?"
Vị Tổng thống vĩ đại của nước Mỹ đã trả lời, "Thưa mẹ, ngồi bên cạnh để lắng nghe mẹ nói, không phải là một việc mất giờ. Bởi vì, sự thanh thản và lòng nhân hậu của mẹ đã giúp con vui sống" (Trích trong Thiên Phúc: Maria Mẹ Tuyệt Mỹ, Tr. 27-28).
Vai Trò Của Cha Mẹ
Làm cha mẹ, khi thấy con cái treo những bức hình của những ca sĩ, những tài tử, diễn viên kịch ảnh, những anh hùng thể thao... và khi thấy chúng lúc nào cũng mê man nghe nhạc, nghe khi vừa thức dậy, khi ăn, khi đi học, khi ngồi làm bài, khi làm việc vặt trong nhà, thì chúng ta e ngại là con cái chúng ta sẽ bị ảnh hưởng qúa nhiều bởi những mẫu người đó. Tuy nhiên, khảo cứu tâm lý cho chúng ta biết, khi tuổi trẻ truởng thành hơn thì chúng sẽ ít bị ảnh hưởng bởi những mô phạm nhất thời đó. Người có ảnh hưởng nhiều nhất nơi con cái là cha mẹ. Cha mẹ cần dạy và sống những gía trị đạo đức và luân lý để con cái noi theo khi chúng còn sống chung dưới mái ấm gia đình. Một bà mẹ nhận xét, "Cái quan trọng trong đời sống của gia đình không phải là những món ăn sang trọng, cái bếp sạch sẽ ngăn nắp, hay biết sắp xếp liệt kê những việc phải làm trong nhà. Không gì có thể thay thế việc cho con cái chúng ta nhìn thấy tình thương và sự tận tụy hy sinh của chúng ta đối với chúng. Đồ chơi, quần áo mới, dĩa nhạc, đồ trang sức sẽ không thể thay thế tấm lòng hy sinh và tình thương của cha mẹ tỏ ra đối với con cái."
Những Tấm Gương
Khi chúng ta mừng lễ kính Đức Mẹ Dâng Chúa Giêsu vào đền thánh, phúc âm thánh Luca giới thiệu cho chúng ta hình ảnh những con nguời tôi trung của Thiên Chúa: Giuse, Maria, Simeon và Anna. Là bậc cha mẹ gương mẫu, là đôi vợ chồng đạo đức, đầy lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa. Khi vừa đủ ngày, Giuse và Maria đem con lên đền thờ để hiến dâng cho Thiên Chúa. Hành động Hiến Dâng của các ngài biểu lộ một đức tin sâu đậm, và lòng xác tín yêu mến lề luật của Chúa. Các ngài dâng Con không phải chỉ bằng môi miệng hay lời kinh suông, nhưng còn kèm với của lễ tuy đơn sơ nhưng gói gọn cả tấm lòng đối với Thiên Chúa trong khả năng của các ngài. Hơn nữa, cho dù được tiên báo là con mình sẽ như một Luỡi Gươm Đâm Thấu Tâm Hồn, các Ngài vẫn can đảm lãnh nhận và chu toàn trách nhiệm dậy dỗ con. Con trẻ lớn lên thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người. Được như thế là do bởi cha mẹ Ngài là những nguời công chính và đạo hạnh.
Hầu hết những nguời làm cha mẹ đều có tình thương yêu đối với con cái. Tuy nhiên không phải ai cũng biết cách tỏ tình thưong yêu và phương cách dậy dỗ giáo dục con cái cho đúng. Việt Nam chúng ta có câu, "Cha mẹ sanh con, Trời sanh tánh." Câu này chỉ trúng một phần nhỏ. Để chu toàn trọng trách làm cha mẹ, bậc cha mẹ còn có bổn phận tìm hiểu và học hỏi đào sâu về đức tin, về tâm lý và luân lý để huấn luyện dậy dỗ con mình lớn lên trong đường lối của Thiên Chúa.
Nhận Ra Dấng Cứu Thế
Khi đến đền thờ, các ngài gặp hai Nhân Vật cao niên Simeon và Anna. Con trẻ Giêsu mới chỉ được có 40 ngày. Ông Simeon và bà Anna chưa hề gặp con trẻ và cha mẹ của con trẻ. Nhưng tại sao họ đã nhận ra con trẻ Giêsu là Đấng Cứu Thế? Sở dĩ họ nhận ra con trẻ Giêsu là Đấng Cứu Thế bởi vì Simeon là Người công chính biết kính sợ Thiên Chúa, cho nên lòng trí của ông luôn tỉnh thức. Ông đã nghe và nhận ra tiếng thúc đẩy của Thần Khí và ông đã nhận ra Đấng Cứu Thế. Khi ông đã được nhìn thấy Chúa Giêsu và ẵm bồng Ngài thì ông mãn nguyện sung sướng. Ông Simeon đã nhìn ra giá trị đích thực và không còn luyến tiếc sự đời. Do đó, ông xin bằng lòng xuôi thác, "Lạy chúa bây giờ Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an theo như lời Chúa, vì chính mắt tôi đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn cho muôn dân." Cũng thế, bà Anna, sau khi chồng chết, đã thủ tiết và dành cuộc đời của bà sống ăn chay cầu nguyện trong đền thờ trông chờ Đấng Cứu Thế. Vì có tấm lòng thành kính và sống trong tinh thần chuẩn bị và mong chờ Đấng Cứu Thế cho nên bà cũng đã được diễm phúc gặp Ngài và nhận ra Ngài để công bố và xác nhận cho những nguời khác về Đấng Cứu Thế.
Tuy nghèo túng nhưng Giuse và Maria vẫn có thể tìm được của lễ để dâng cho Thiên Chúa và chu toàn trách nhiệm làm cha làm mẹ. Phần chúng ta, chúng ta có thể liệu được những gì để dâng cho Thiên Chúa và làm những gì để nói lên tinh thần của bậc làm cha làm mẹ đối với con cái? Trong tuổi già lưng còng mắt kém, nhưng ông Simeon và và Anna vẫn có thể nhìn và nhận ra Đấng Cứu Thế. Phần chúng ta, chúng ta có nhận ra Chúa Giêsu trong hoàn cảnh sống hàng ngày không?
18. Lễ Đức Mẹ dâng Con trong đền thờ
Bài Tin Mừng anh chị em vừa nghe là một trong những bài Tin Mừng có những hình ảnh đẹp nhất trong thời thơ ấu của Chúa Giêsu. Có thể nói cuộc gặp gỡ của những người được nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay là cuộc gặp gỡ của những người đại diện cho dến ba thế hệ.
Tiên tri Simêon và Anna thuộc thế hệ cao niên. Đức Mẹ và thánh Giuse thuộc thế hệ đương thời và Chúa Giêsu thuộc thế hệ mai sau. Cả ba thế hệ hội tụ lại trong khung cảnh của đền để thực hiện cho Lễ Đức Mẹ Dâng Con
Những lưỡi gươm sầu khổ.
Đang khi thăm viếng bệnh viện, một cha sở dừng lại nhìn một giáo dân trẻ, có đứa con đầu lòng mới được 4 ngày. Mặc dầu vẻ bề ngoài thật dễ thương, nhưng người mẹ trẻ đó lại đầm đìa nước mắt. Cha sở hỏi: "Sao con lại khóc vậy hở Rosie?". Để đáp lại, Rosie chỉ ngước nhìn lên Đức Mẹ bồng ẵm Chúa Giêsu Hài Đồng mà mắt đẫm lệ. Đó là một bức họa của một phần bài Tin Mừng hôm nay: "Khi ông già Simeon được Chúa Thánh Thần linh hứng, đã nói với Đức Mẹ rằng: Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà". Rosie đã nhỏ lệ vì chị cảm thương Đức Mẹ, vì Mẹ biết rằng: Chúa Kitô Con Mẹ sẽ phải đau khổ, và cũng vì chị cảm thấy nỗi lo âu của người mẹ sợ rằng con nhỏ của mình sẽ phải đau khổ, cha sở giải thích cho chị rằng Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ sức mạnh phi thường để đón lấy lời báo tin đắng cay ấy, để nhận lấy lưỡi gươm sầu khổ ấy.
Các bà mẹ ngày nay cũng có thể nhìn thấy vô vàn những nguy hiểm đe dọa con mình. Những đe dọa thể xác: như bệnh tật đủ loại, tai nạn mất sự sống và tàn tật, những kẻ hung ác, ngược đãi trẻ nhỏ, những thứ ma túy hủy hoại thể xác và cả tâm hồn, ăn uống say sưa quá độ, lái xe ẩu. Và còn biết bao tệ hại làm tan nát thể xác giới trẻ. Rồi những nguy hiểm cho linh hồn đứa trẻ lại càng tệ hại: những bạn bè xấu làm mất cả đức tin, mất phán đoán về sự chân thực và sự sai lầm, những bạn bè say sưa, những bạn bè nghiện ngập, những phim ảnh và tạp chí khêu gợi dục vọng, những sách vở và thầy dạy làm sai lạc điều chân thật, và tinh thần của ma quỉ ngày nay gào thét lên rằng: mọi sư đều tốt, bao lâu bạn có thể chiếm được chúng.
Thực vậy, các bà mẹ có nhiều điều lo lắng, nhưng tình trạng vẫn còn hy vọng. Một người có ảnh hưởng giúp đỡ. Một người mẹ gương mẫu, hoàn toàn vô tội, rất mực tinh tuyền, biết chắc rằng: con trẻ bà bồng ẵm trong tay rồi một ngày kia sẽ được đặt lại vào tay bà. Mà lúc ấy con bà đã bị thương tích, đầy máu me và hết sống. Người mẹ trên trời này nóng lòng giúp đỡ người mẹ ngày nay.
Như Đức Maria, các bà mẹ có những niềm vui và nỗi sầu. Chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa về niềm vui, như Đức Maria đã làm. Sự lo sợ của Đức Mẹ về tương lai, thay vì làm cho Người lìa xa Thiên Chúa, hay là làm cho Người quên Thiên Chúa, thì lại làm cho Người hứơng mắt về Cha trên trời đầy thông suốt và quyền năng.
Như thánh Phaolô viết cho tín hữu Do thái: "Chúa Giêsu đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành Vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong mọi việc phụng thờ Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân (B. đ.2; Dt 2,17).
Hôm nay Thánh lễ này thể hiện điều đó cho chúng ta. Lễ hiến tế làm sống lại những biến cố vui buồn trong cuộc đời Đấng cứu thế, Ngài sinh lại; chết và lại phục sinh. Từ sự làm mới lại cuộc thương khó và tử nạn của Ngài, mọi bà mẹ, mọi Kitô hữu, có thể lấy lại được sức mạnh để mang lấy sự lo lắng về tương lai, và đón nhận đau khổ khi nó xảy đến.
19. Dâng Chúa Giêsu trong đền thánh
Ý nghĩa của ngày lễ
Bốn mươi ngày trước đây, chúng ta đã mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Theo luật Môsê, Sau khi sinh con trai đầu lòng được 40 ngày, người mẹ phải đến Đền Thờ Giêrusalem để làm lễ thanh tẩy cho mình và hiến dâng con trẻ cho Thiên Chúa, rồi chuộc lại bằng lễ vật một con chiên hay một cặp bồ câu: vì mọi con trai đầu lòng đều thuộc về Thiên Chúa. Ý nghĩa này nhắc cho dân Do Thái cảm tạ Thiên Chúa vì Ngài đã tha không giết các con trai đầu lòng của họ, đang khi các con trai đầu lòng của dân Ai Cập đều bị giết chết, trong đêm Thiên Chúa giải phóng họ khỏi ách nô lệ Ai Cập đưa về Đất Hứa (x. Xh 13,l-3a.11-16).
Đức Maria và thánh Giuse cũng tuân giữ diều luật này. Hai ông bà đem Hài nhi Giêsu lên đền Thờ hiến dâng cho Thiên Chúa và gặp ở đây hai vị tiên tri già lão: Simêon và Anna. Hai vị được Thánh Thần linh ứng dã nhận ra Chúa Cứu Thế. ông Simêon đã mãn nguyện vì được tận mắt chiêm ngưỡng Đấng muôn dân trông đợi. Ông đã lớn tiếng chúc tụng Thiên Chúa và nói tiên tri về Hài nhi Giêsu: Hài nhi này sẽ là ánh sáng của muôn dân nhưng lại là đối tượng cho người ta chống đối.
Sự kiện dâng Chúa Giêsu vào Đền Thờ cho thấy Người là con đầu lòng thuộc về Thiên Chúa. Ông Simêon và bà Anna tượng trưng cho tất cả sự trông đợi của It-ra-en, họ đã tới gặp Cứu Chúa của mình. Đức Giêsu được nhìn nhặn là Đấng Mêsia người ta trông đợi từ lâu, là ánh sáng của muôn dân và là vinh quang của Ít-ra-en, nhưng Người cũng là dấu hiệu của sự chống đối. Thanh gươm của đau khổ được báo cho Mẹ Maria đã loan báo một sự hiến dâng toàn hảo và độc nhất của thập giá. Sự hiến dâng sẽ mang lại ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã chuẩn bị trước mặt tất cả mọi dân tộc
Lễ của ánh sáng
Lễ hôm nay còn được gọi là Lễ Nến, vì có cuộc rước nến vào Nhà thờ như cuộc đón rước Chúa GIÊSU là ánh sáng của muôn dân. Thánh Xốp-rô-ni-ô, Giám Mục Giêrusalem dã nói: "Đây là ý nghĩa của mầu nhiệm: chúng ta tiến bước, đèn sáng trong tay, chúng ta hăm hở đi tới, mang theo đèn sáng để nói lên rằng ánh sáng đã chiếu soi chúng ta và ánh sáng đó sẽ làm cho chúng ta nên rạng ngời. Nào mau lên, tất cả chúng ta cùng nhau ra đón Chúa. Người là ánh sáng thật đã đến, ánh sáng chiếu soi mọi người sinh ra trên thế gian. Vậy, thưa anh em, mọi người chúng ta hãy đón nhận ánh sáng và hãy toả sáng" (x. Kinh Sách, các bài đọc ngày 2/2)..
Công đồng Vaticanô II đã lấy lại lời tiên tri của ông Simêon để mời gọi mọi người Ki tô hữu ý thức sứ mạng và ơn gọi của mình là phải làm cho mọi người được nhận biết Chúa Ki tô, phải đem ánh sáng Tin Mừng của Ngài chiếu soi hướng dẫn mọi người trên thế giới. Chính Chúa Giêsu đã tuyên bố. "Thầy là ánh sáng trần gian. Ai đi theo Thầy sẽ không bước đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống" (x.Ga 12, 34-50). Bao lâu con người chưa nhận biết Chúa Ki tô và ánh sáng Tin Mừng của Ngài, thì bấy lâu con người còn dò dẫm trong tăm tối và dễ bị lầm lạc.
Tuy nhiên, Chúa Ki tô đã trở nên đối tượng chống đối của con người. Có những người biết Chúa để sống theo Ngài. Có những người khác lại chống đối Ngài. Chúng ta lấy làm đau xót với thánh Giuse và Mẹ Maria khi nghe tiên tri Simêon tiên báo điều đó ngay trong ngày vui của Chúa Giêsu: "Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng, còn chính Bà (Đức Ma ria) thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra". Lời tiên tri đó đã ứng nghiệm ngay từ lúc Chúa Giêsu mới sinh ra cho đến khi bắt dấu cuộc đời rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Cuộc chống dối đó ngày càng lan rộng và quyết liệt cho đến khi giết được Ngài treo lên Thập giá. Nhưng Ngài dã Phục Sinh và đã trở thành ánh sáng của muôn dán, nguồn sống cho nhân loại.
Hãy sống trong ánh sáng
Từ nay, ai đã tin Chúa Giêsu Ki tô và lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy đều đón nhận sự sống của Thiên Chúa và được ánh sáng của đức Ki tô chiếu soi, hướng dẫn cuộc sống. Thật vậy, nhờ Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được thánh hiến cho Thiên Chúa và được trở nên con của Ngài trong Đức Giesu Ki tô. Thiên Chúa đã thương gọi chúng ta từ tối tăm vào ánh sáng huyền diệu của Ngài. Xưa kia, chúng ta là tối tăm, nhưng nay trong Chúa Ki tô, chúng ta là "con cái của sự sáng là ánh sáng của trần gian" (x. Ga 12,85-36). Do đó chúng ta phải sống như con cái của sự sáng, phải chiếu sáng trước mặt mọi người, để "người ta nhận thấy việc tốt chúng ta làm mà ngợi khen Cha chúng ta trên trời" (Mt 5.14-16).
Thánh Phao lô nhắn nhủ những người đã được thánh hiến cho Thiên Chúa qua Bí tích Thánh Tẩy: Hãy bước đi trong ánh sáng của Chúa, Hãy vật bỏ những việc tối tăm, Hãy mang khí giới ánh sáng,Hãy hành động đàng hoàng như giữa ban ngày, để luôn được hiệp thông với Chúa Ki tô tà ánh sáng muôn dân" (x. Ep 6,8-14).
Chúa Giêsu hôm nay đang tiến vào Đền Thờ của Ngài. Chúng ta hãy tiếp dón Ngài vào tâm hồn, vào cuộc sống của ta, để ánh sáng của Ngài biến đổi chúng ta thành những ngọn nến chiếu sáng như những vì sao trong đêm tăm tối của trán gian, hầu dẫn đưa những ai còn ngồi nơi tăm tối đến gặp gỡ Đức Giêsu Ki tô, 'đấng Cứu Độ mà Thiên Chúa đã dọn sẵn trước mặt muôn dân" và dã bày tỏ cho mọi người.
20. Dâng Chúa trong đền thờ
Một bà lão gặp vị linh mục và nói: "Thưa cha, con đã cầu nguyện rất nhiều, con chỉ mong thấy Chúa một lần là đủ cho con, nhưng Chúa chưa nhận lời".
Ước mong đơn sơ của bà thật sự gói trọn niềm hy vọng của người Kitô hữu; bởi cùng đích của cuộc đời chúng ta là gặp gỡ và kết hợp trọn vẹn với Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc ông già Simêon được diễm phúc gặp Chúa Hài Đồng, được bồng ẵm Chúa khi Chúa được Mẹ Maria và Thánh Giuse dâng tiến trong đền thờ.
Việc Chúa Giêsu được dâng tiến trong đền thờ và thái độ của cụ già Simêon cho chúng ta nhiều bài học:
- Đức Giêsu được dâng tiến trong đền thờ: Nghi thức dâng con trai đầu lòng cho Thiên Chúa là nghi thức Do thái nhắc nhở rằng mọi con trai đầu lòng thuộc về Thiên Chúa. Đức Giêsu -Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể- là Con Chúa Cha từ thuở đời đời. Tuy nhiên, đi vào lịch sử nhân loại trong văn hóa Dothái giáo, Ngài được cha mẹ dâng tiến cho Thiên Chúa theo như luật định. Qua đó, Ngài nêu gương cho chúng ta về việc tuân giữ lề luật và dâng mình cho Thiên Chúa.
Mỗi người Kitô hữu chúng ta, từ khi còn tấm bé, đã được cha mẹ dâng cho Thiên Chúa trong ngày chịu phép rửa. Nhờ phép rửa, chúng ta trở nên con Thiên Chúa, thuộc về Thiên Chúa và được gọi Thiên Chúa là Cha. Chúng ta hãy ý thức và sống xứng đáng với hồng ân này.
- Tiếp theo là thái độ của cụ Simêon: Sau cả một đời chờ mong, giờ đây, cụ sung sướng thỏa mãn; bởi vì cụ đã thấy, đã được bồng ẵm Đấng Cứu Thế trên tay mình.
Ông cụ Simêon mới được thấy Chúa, được ẵm Chúa trên tay mà đã sung sướng và tạ ơn Thiên Chúa như vậy, huống cho chúng ta được rước Chúa Giêsu vào tâm hồn mỗi ngày! Chúng ta có nhận ra hồng ân cao trọng này mà ca tụng Chúa hay không?
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, ông già Simeon -được Thánh Thần thúc đẩy- đã lên đền thờ và gặp được Chúa -Đấng Cứu độ- mà lâu nay ông hằng mong ước. Ước gì chúng con năng đến nhà thờ tham dự thánh lễ mỗi ngày; để nhờ vậy, chúng con không chỉ gặp được Chúa mà còn được rước Chúa ngự trong tâm hồn. Amen.
21. Dâng Chúa Giêsu trong đền thánh--Lm PX Vũ Phan Long
1- Ngữ cảnh
Chương 1-2 của Tin Mừng Luca có ý tưởng chủ đạo là sự hoàn tất lời Thiên Chúa hứa ban Đấng Mêsia. Các truyện kết cấu nhịp nhàng và đạt tới đỉnh điểm khi Đức Giêsu được dâng trong Đền Thờ. Trong biến cố này, tác giả đã nhìn thấy Đức Giêsu tỏ mình công khai. Ngài diễn tả được điều đó khi dùng Đanien 9-10 trong các lời loan báo cho Đức Maria và Dacaria, cũng như khi dùng Malakhi 3 trong lời loan báo cho Dacaria, trong bài ca "Chúc tụng" (Benedictus) và trong truyện Dâng con trong Đền Thờ. Được quy tụ lại quanh khái niệm "sự hoàn tất các ngày" (= đã mãn: 1,23.57; 2,6.21-22), các bản văn thiên sai này nêu bật ý tưởng là thời thiên sai đã đến. Vậy các chương này thuộc lịch sử tôn giáo được viết theo ngôn ngữ Kinh thánh.
Lc 1,5-2,22 là một chuỗi các thời điểm. Tác giả đã muốn nối kết biến cố sứ thần Gabriel hiện ra ở Đền Thờ với việc Đức Giêsu tỏ mình ra cũng tại đấy bằng một con số huyền bí (70 tuần 7 ngày):
- 6 tháng (Lc 1,26.36) kể từ khi Dacaria được báo tin tới khi Đức Maria được báo tin: 30 ngày x 6 = 180 ngày
- 9 tháng kể từ khi Đức Maria được truyền tin đến khi Đức Giêsu chào đời: 30 ngày x 9 = 270 ngày
- 40 ngày kể từ khi Đức Giêsu chào đời cho đến khi được tiến dâng: = 40 ngày
Tổng cộng: = 490 ngày = 70 tuần 7 ngày
Thế mà theo lời sấm Đn 9,21-24, sau 70 tuần, Israel sẽ được thanh tẩy khỏi các tội và Đền Thờ Giêrusalem sẽ được tái cung hiến (thời vua Antiôkhô IV Êpiphanê / Giuđa Macabê). Tác giả Lc muốn cho thấy rằng việc Đức Giêsu được tiến dâng trong Đền Thờ đã khởi sự việc "Vinh quang" của Thiên Chúa (x. cụ Simêôn gọi Đức Giêsu là "vinh quang của Israel") đến cư ngụ vào thời cánh chung để thanh tẩy Đền Thờ và Israel. Việc này cũng làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Ml (3,1).
2- Bố cục
Nên đọc bản văn này từ câu 21, để duy trì được sự song đối giữa Gioan và Đức Giêsu. Do đó, chúng tôi xác định bố cục có cả c. 21. Đoạn này gồm hai phần chính và một kết luận:
1) Hai khúc dạo đầu (2,21-24):
- cắt bì và đặt tên (c. 21),
- thanh tẩy Đức Maria và dâng Đức Giêsu (cc. 22-24).
2) Hai cuộc tỏ mình (2,25-38):
- tỏ mình cho cụ Simêôn (cc. 25-35),
- tỏ mình cho bà Anna (cc. 36-38).
3) Kết: Nhắc lại điệp khúc của bài tường thuật về Thời thơ ấu (2,39-40).
3- Vài ghi chú về chú giải
- Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài (22): "Các ngài" là Đức Maria và Giuse? hay là Đức Maria và Đức Giêsu? Luật không buộc thanh tẩy người chồng hoặc đứa con trai sơ sinh. Tuy vậy, "các ngài" phải được hiểu là quy về Giuse và Đức Maria, bởi vì các ngài là chủ từ của động từ "đem [con] lên". Các nhà chú giải nhìn nhận rằng tác giả Lc, vì không phải là một Kitô hữu gốc Do Thái Paléttina, nên đã không được hiểu biết chính xác về tập tục thanh tẩy một phụ nữ sau khi sinh con. Và đây cũng là một dấu cho thấy rằng thông tin ngài có được không phát xuất từ những kỷ niệm hay ghi nhớ của Đức Maria.
- theo Luật Môsê(22): Theo Lêvi 12,2-8, một phụ nữ sinh một con trai bị coi là ô uế trong vòng 40 ngày: sau 7 ngày, đứa bé phải được cắt bì (vào ngày thứ tám), và người mẹ còn phải chờ ở nhà 33 ngày nữa, "cho đến khi mãn thời gian thanh tẩy của bà" (Lv 12,4), trước khi bà được đụng chạm vào bất cứ vật thánh nào hoặc đi vào các sân Đền Thờ. Sau ngày thứ bốn mươi (hoặc thứ tám mươi), bà phải đem đến cho vị tư tế phục dịch tuần ấy tại Lều Hội Ngộ hay Đền Thờ một con chiên một tuổi làm lễ toàn thiêu và một bồ câu non hay một chim gáy làm lễ tạ tội. Nếu không thể dâng con chiên, bà phải dâng hai chim gáy hoặc hai bồ câu non.
- để tiến dâng cho Chúa (22): Chi tiết này mô phỏng truyện bà Anna dâng Samuen ở 1 Sm 1,22-24. Tuy vậy, đến câu sau, tác giả Lc nối kết việc dâng Đức Giêsu với luật về đứa con đầu lòng. Đức Giêsu được gọi là "con trai đầu lòng" ở 2,7, và việc chuộc lại Người là nhiệm vụ của cha mẹ Người. Trong Xh 13,1-2, chúng ta đọc: "Đức Chúa phán với ông Môsê: 'Hãy thánh hiến cho Ta mọi con so, mọi con đầu lòng trong số con cái Israel, dù là người hay là thú vật: nó thuộc về Ta". Sự thánh hiến này sẽ bảo đảm phúc lành cho những đứa con đến sau. Đứa con đầu lòng được chuộc lại bằng cách trả năm sê-ken (= mười lăm chỉ bạc), tính theo đơn vị đo lường của thánh điện (Ds 3,47-48; 18,15-16), nộp cho một thành viên của gia đình tư tế, khi đứa bé đã được một tháng. Tác giả Lc không nhắc gì đến việc trả số bạc; thay vào đó, ngài diễn tả việc chuộc con như là việc dâng con vào Đền Thờ Giêrusalem, một tập tục không có chỗ nào trong Cựu Ước hoặc sách Mishnah nói cả.
- để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền (24): Hy lễ không phải là cho việc chuộc con đầu lòng, nhưng là cho việc thanh tẩy bà mẹ.
- công chính và sùng đạo (25): Các chi tiết mô tả cụ Simêôn đã đặt ông cùng với Dacaria và Êlisabét, Giuse và Đức Maria, và bà Anna, vào số những đại diện của những người Do Thái trung thành đang sống tại Paléttina vào thời gian sát ngay trước khi Đức Giêsu chào đời.
- niềm an ủi của Ít-ra-en (25): Ta hiểu đây là niềm hy vọng hậu Lưu đày: dân trông chờ Thiên Chúa khôi phục lại chế độ thần quyền tại Israel (x. Is 40,1; 61,2).
- ra đi (29): Ông Simêôn dùng ngôn ngữ của người canh đêm, sau khi đã hoàn tất công việc, xin được nghỉ ngơi.
- một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà (35): Có những tác giả cho rằng "thanh gươm" đây là nỗi ngờ vực về chân tính sâu xa của Con mà Đức Maria sẽ cảm nghiệm khi nhìn Đức Giêsu bị đóng đinh (chẳng hạn Origiênê, Reuss, Bleek...). Cách giải thích này không tương ứng với TM Lc, và có vẻ là một cách giải thích theo tâm lý không có cơ sở. Cách giải thích truyền thống (kể từ Paulin de Nole và thánh Âutinh) đã coi "thanh gươm" này là nỗi đau đớn đồng cảm Đức Maria cảm nhận khi chứng kiến Con mình bị đóng đinh. Tuy nhiên, cách giải thích này cũng không phù hợp với TM Lc, bởi vì Đức Maria chỉ xuất hiện dưới chân thập giá trong TM Ga mà thôi (Ga 19,25-27) và cũng chỉ trong Ga, cạnh sườn của Đức Giêsu mới bị một ngọn giáo đâm thâu (Ga 19,34). TM Lc không bao giờ nói rằng Đức Maria ở trong số các phụ nữ đã đi theo Người từ Galilê (Lc 23,49.55; 24,10). Cách giải thích này lại cắt ngang chuyển động của bản văn và dường như đưa vào đó một ngoặc đơn (x. bản dịch Bible de Jérusalem, CGKPV) hơi lạ. Cách giải thích này cũng giới hạn quá đáng vào cá nhân Đức Maria, điều này dường như trái với cái nhìn của tác giả Lc: đối với ngài cũng như đối với tất cả các tác giả Tân Ước, tâm lý của các nhân vật không đáng kể bằng vai trò của họ trong Lịch sử cứu độ (ta thấy điều này trong các bản văn về Thời thơ ấu: Đức Maria chỉ luôn đóng một vai trò lệ thuộc vào vai trò của Đức Giêsu). Đã thế, lối giải thích này lại chỉ ưu tiên chú ý đến Núi Sọ. Cần phải tìm ý nghĩa của lời này của ông Simêôn trong nhãn quan của tác giả Lc về Đức Maria.
(1) Ở trong Cựu Ước, hình ảnh "thanh gươm" là biểu tượng của sự "chia rẽ" và "mâu thuẫn" (x. Ed 12; 14;...). Ở Is 49,2, Thiên Chúa đã làm cho miệng lưỡi Người Tôi Trung nên như một "lưỡi gươm sắc bén". Sách Khải huyền đã lấy lại hình ảnh này và áp dụng cho Đức Kitô (1,16; 2,12.16; 19,15.21). Khi ta thấy rằng viên Kỵ sĩ trong Kh được gọi là "Lời của Thiên Chúa" và "từ miệng Người phóng ra một thanh gươm sắc bén" (Kh 19,13.15), đàng khác, ta lại nhận thấy rằng Is 49,2 chỉ đi trước Is 49,6 một chút, trong đó Người Tôi Trung được gọi là "ánh sáng muôn dân", tức khắc ta nghĩ rằng hai câu này hiện diện trong tâm trí tác giả Lc khi ngài viết cc. 32.35a, và thanh gươm phân rẽ giữa lòng Israel chính là Lời mạc khải của Thiên Chúa là chính Đức Giêsu, Lời mang lại ơn cứu độ, nhưng cũng là Lời sẽ phán xét (x. Dt 4,12). Thế mà dọc theo hai chương đầu, ta thấy tác giả Lc giới thiệu Đức Maria như là Thiếu nữ Sion, nghĩa là Israel được nhân-cách-hóa (đọc Lc 1,28 dưới ánh sáng của Xp 3,14-15 và Dcr 2,14). Theo hướng này, ta hiểu tác giả đang vận dụng một kiểu nhân-cách-hóa tiên trưng để trình bày hoạt cảnh Dâng Con trong Đền Thờ, và như vậy, ngài đã đặt vào miệng ông Simêôn c. 35a để ngỏ lời với Đức Maria trong tư cách là Thiếu nữ Sion: nơi Mẹ, chính là Israel sẽ bị thanh gươm của Đức Chúa đâm thâu.
Cách giải thích này (được gợi ý bởi Sahlin, Black, Laurentin, Boismard, Benoýt...) có điểm thuận lợi là làm cho c. 35a ăn khớp hài hòa với ngữ cảnh. Thay vì đưa vào đó một ngoặc đơn, chi câu này trở thành một mắt xích của một phần triển khai, trong đó tư tưởng trước được nối tiếp và tư tưởng sau được chuẩn bị. Các câu 34 và 35a mô tả cuộc khủng hoảng gây ra nơi Israel bởi "dấu hiệu gây chống báng" được ngôn sứ Êdêkien coi như một thanh gươm của Thiên Chúa đâm thâu tâm hồn dân Chúa; còn c. 35b là kết luận: sự thử thách gây ra bởi việc Đức Giêsu đến, do việc đòi hỏi phải chọn lựa theo hay chống Người, sẽ đưa tới chỗ thâm tâm của người ta phải lộ ra.
Hiểu như thế, cc. 34-35 hoàn toàn di theo và minh họa cc. 30-32. Lời sấm của ông Simêôn được phân phối thành hai cánh của một bức tranh bộ đôi: một cánh thì cho thấy Dân Ngoại được ánh sáng soi đường và muôn dân được cứu độ, và đây phải là vinh quang cho Israel; cánh kia cho thấy khủng hoảng của chính Israel này, khiến nhiều con cái của Dân Chúa chọn phải vấp ngã. Vậy đây chính là toàn thể tấn bi kịch của Lịch sử cứu độ được ông Simêôn trình bày cô đọng, và sẽ được tác giả Luca tiếp tục trình bày trong Tin Mừng cũng như trong Công vụ.
(2) Có một cách giải thích khác cũng có thể chấp nhận như một tầng ý nghĩa khác của câu này, và như một cách chứng minh kiểu tiêu cực cho cách trên đây. Trong Ed 14,17 (Hy Lạp), có nối kết "thanh gươm" với "đâm thâu (= xuyên qua)". Theo hình ảnh này, thanh gươm phân biệt ra (chọn ra) một số người để bị tiêu diệt và một số người để được cứu độ (x. Ed 5,1-2; 6,8-9). Trong ngữ cảnh của Lc, hình ảnh này phát xuất từ ý tưởng nói rằng vai trò của Đức Giêsu là làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Đức Maria, là thành viên của Israel, cũng sẽ phải chịu ảnh hưởng. Trong Lc, chính Đức Giêsu sẽ được mô tả như một người gây chia rẽ trong các gia đình (12,51-53). Như vậy, với hình ảnh thanh gươm đâm thâu Đức Maria, ông Simêôn gợi đến khó khăn mà Mẹ sẽ gặp thì mới học ra rằng việc vâng phục Lời Thiên Chúa phải vượt lên trên cả những dây liên hệ gia đình (x. 8,21; 11,27-28).
4- Ý nghĩa bản văn
* Hai khúc dạo đầu (21-24)
Cũng như việc cắt bì và đặt tên cho Gioan là cơ hội để con trẻ tỏ mình ra và để Dacaria nói lên một lời sấm, ở đây cũng vậy, việc cắt bì và đạt tên cho Đức Giêsu là cơ hội để Người tỏ mình ra. Cũng như Gioan, Đức Giêsu được ghi dấu ấn là dấu chỉ của giao ước (St 17,11) và tháp nhập vào Israel (x. Gs 5,2-9). Ngài cũng được đặt tên là Giêsu, một tên được chính Thiên Chúa ban cho. Bản văn nhấn mạnh trên việc đặt tên hơn là trên việc cắt bì.
Trong cc. 22-24, có hai biến cố được kể lại nhân dịp Đức Giêsu tỏ mình ra: (a) việc thanh tẩy Đức Maria, 40 ngày sau khi sinh Đức Giêsu (cc. 22a.24); và (b) việc chuộc lại Đức Giêsu, một tháng sau khi sinh (cc. 22b.23). Dường như Luca đã mô phỏng truyện dâng Samuel (1 Sm 1,22-24) mà tả cảnh này. Bản văn nhấn mạnh trên sự trung thành của Đức Maria và ông Giuse, như là những người Do Thái đạo đức, khi thi hành những điều buộc của Luật Môsê. Trong các câu này, Luật được nhắc đến 3 lần (cc. 22a.23a.24a) và trong truyện tỏ mình ra cho ông Simêôn (c. 27) và trong phần kết (c. 39). Hình thái cứu độ mới của Thiên Chúa đến với việc vâng phục Luật này.
* Hai cuộc tỏ mình (25-38)
Hình ảnh ông Simêôn gợi nhớ đến tư tế Êli trong 1 Sm 1-2 cũng như Dacaria trong truyện Gioan Tẩy Giả. Cũng như Dacaria đã tiên báo sự cao cả của Gioan Tẩy Giả trong bài ca "Chúc tụng", nay sự cao cả của Đức Giêsu được ông Simêôn ca tụng. Do có sự song đối như thế, đến đây ông Simêôn nói hai lời tuyên bố, một là bài thánh ca ở cc. 29-32 và một là lời sấm ở cc. 34-35. Bài thánh ca công bố hình thái cứu độ mới của Thiên Chúa. Lời sấm được ngỏ với Đức Maria để nói về sứ mạng của Đức Giêsu và thân phận của Mẹ.
Tác giả luôn luôn viết một truyện về phái nam đi song song với một truyện về phái nữ, ở đây cũng vậy: bà Anna song đối với ông Simêôn. Sự cao cả của Gioan được Dacaria công bố trong bài ca của ông; nhưng sự cao cả của Đức Giêsu lại không chỉ được ông Simêôn công bố mà được cả bà Anna giới thiệu nữa. Tuy nhiên, bà Anna không nói một tuyên bố nào; vai trò của bà là phổ biến tin mừng về hài nhi mà ông Simêôn đã nhận biết.
* Nhắc lại điệp khúc của bài tường thuật về Thời thơ ấu (39-40)
Hai câu kết làm vọng lại điệp khúc đã có trong bài tường thuật về Thời thơ ấu (1,80; 2,52). Câu này nhắc lại từng chữ bản mô tả Gioan (1,80). Toàn c. 40 gợi lại truyện Samuen, nhất là 1 Sm 2,21c.26.
+ Kết luận
Câu truyện này là một lễ mừng các cuộc gặp gỡ trong niềm vui. Truyện được kể cho chúng ta ở đây cho thấy nhiều tương quan khác nhau. Chúng ta thấy Đức Giêsu trong dây liên hệ có một không hai với Thiên Chúa. Chúng ta cũng thấy cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và ông Simêôn, Đức Maria và bà Anna. Gặp gỡ Đức Giêsu đưa lại niềm vui vô biên, nhưng cũng tạo nên một quan hệ buộc người ta phải rảo qua trọn con đường với Người và phải luôn luôn ở gần kề với Người.
5- Bài học
1. Hôm nay, trong bản thân hài nhi Giêsu, chính Thiên Chúa trở lại với thánh điện của Ngài lâu nay bị bỏ hoang. Cho dù tọi lỗi của Israel có thế nào, Thiên Chúa vẫn trung thành giữ những lời đã hứa. Vào dịp chúng ta chịu phép rửa tội, Thiên Chúa đã nhận chúng ta làm con. Cho dù chúng ta có bất trung thế nào, Người vẫn không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Cho dù các tội lỗi của chúng ta đã xua đuổi Người ra khỏi thánh điện là trái tim chúng ta, Người vẫn tìm mọi cách để đưa chúng ta đến chỗ hoán cải. Hãy mở rộng thánh điện tâm hồn mà đón Đức Kitô.
2. Chúa Thánh Thần luôn luôn có mặt và làm việc. Chúng ta cũng có thể sống thường xuyên dưới tác động của Người nếu chúng ta ở trong ơn nghĩa với Thiên Chúa và chăm chú đi theo những gợi ý của Người trong lòng. Khi đó, Chúa Thánh Thần có thể trở thành một nguồn ánh sáng giúp chúng ta hiểu niềm tin của chúng ta rõ hơn cũng như hiểu bổn phận của chúng ta chính xác hơn, một nguồn sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta can đảm sống đời môn đệ của Đức Kitô, một nguồn gợi hứng trong khi chúng ta cầu nguyện cũng như sống nếp sống hằng ngày.
3. Ông Simêôn và bà Anna là gương mẫu cho chúng ta về cách sống hy vọng và trung thành. Sự trung thành của họ đã được ban thưởng. Mỗi khi chúng ta rước lễ, chúng ta cũng được nhận ân huệ ấy. Do đó, cần chuẩn bị với thái độ chờ đợi trung thành và nhận Thánh Thể với những tâm tình biết ơn.
4. Tất cả cuộc sống của Đức Maria và ông Giuse tập trung vào Đức Giêsu, trong khi Người lớn lên bình thường như mọi trẻ em khác. Nhưng "ơn nghĩa của Thiên Chúa vẫn ở trên Đức Giêsu" (c. 40) đã tạo nên trong gia đình này một bầu khí hiệp nhất, êm đềm, yêu thương. Bí quyết của hạnh phúc đơn giản và siêu nhiên ấy, chính là sự hiện diện phong phú của Đức Giêsu. Đây là điển hình hoàn hảo cho mọi gia đình Kitô hữu. Nếu Đức Kitô thật là trung tâm của gia đình, thì mặc dù có những thử thách của cuộc đời, chúng ta vẫn sẽ cảm nhận được hạnh phúc lớn lao là được yêu thương người khác và được người khác yêu thương, dưới cái nhìn của Thiên Chúa.
5. Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa đã đi vào Đền Thờ của Người. "Đó mãi mãi là cách Thiên Chúa đến viếng thăm...: sự thinh lặng, sự bất ngờ dưới mắt thế gian, mặc dù có những lời tiên báo mà mọi người đều biết ... Không thể khác được. Các lưu ý của Thiên Chúa thì rõ ràng, nhưng thế giới vẫn tiếp tục dòng lưu chuyển của nó; khi đã dấn thân vào các hoạt động của họ, loài người không biết biện phân ra ý nghĩa của lịch sử. Họ coi các biến cố lớn là những sự kiện không quan trọng và do lường giá trị các thực tại theo một tầm nhìn hoàn toàn loài người... Thế giới vẫn mù lòa, nhưng sự Quan phòng ẩn tàng của Thiên Chúa thì tự thể hiện ngày qua ngày" (Hông Y John Henry Newman, 1801-1890).
22. Dâng Con trong đền thờ--Lm Đaminh Nguyễn Ngọc Long
Lần chuỗi kinh mân côi chục thứ bốn có lời ngắm nguyện: "Đức Bà dâng Chúa Giêsu trong đền thánh".
Tập tục đạo đức dâng con cho Thiên Chúa có ý nghĩa gì trong đời sống đức tin?
Đức tin nói với chúng ta:
Con cái là hoa qủa phúc lộc Trời cao ban cho cha mẹ. Tuy cha mẹ là người sinh thành nuôi dưỡng con mình.
Con cái không là sản phẩm do cha mẹ chế biến tạo thành. Nhưng sự sống, tính tình cùng hình hài thân xác của con cái là do Thiên Chúa sáng tạo thành.
Con cái tuy là giọt máu tình yêu thương của cha mẹ. Nhưng mầm sự sống trong dòng máu tình yêu thương của cha mẹ lại là hình ảnh giọt máu tình yêu thương của Thiên Chúa, Đấng là nguồn sự sống của con người.
Đức Mẹ Maria và Thánh Giuse ngày xưa đã không nhìn Chúa Giêsu là con riêng do mình tạo ra. Nên đã đem con mình vào đền thờ khấn nguyện tạ ơn dâng cho Thiên Chúa. Cử chỉ đạo đức này của Đức Mẹ nói lên lòng tin tưởng phó thác vào bàn tay Thiên Chúa. Vì đã nhận được ân đức qùa tặng từ nơi Thiên Chúa, cùng coi làm việc đạo đức này là bổn phận tất yếu của người đã lãnh nhận được ân phúc.
Lần thứ nhất, Thiên Thần Gabriel hiện đến truyền tin cho Đức Mẹ: Chúa Giêsu xuống thế làm người trong cung lòng Đức Mẹ. Và nói cùng Đức Mẹ: người con trong cung lòng bà sinh ra là Đấng thánh cao cả.
Lúc đem con vào đền thờ dâng cho Thiên Chúa, Đức Mẹ lại nghe lời truyền tin thứ hai của Tiên Tri Simeon: Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel vấp ngã hay được vực dậy đứng lên. Cháu là dấu hiệu cho người đời chống báng. Còn chính bà một lưỡi gươm sẽ đâm thâu qua lòng bà!
Lòng vui mừng vì người con đã chào đời. Nhưng cũng có nhiều lo âu bối rối, nhất là khi nghe những lời truyền tin thứ hai về con mình và về đời mình.
Tuy vậy Đức Mẹ qua tập tục đạo đức đem dâng con cho Thiên Chúa trong đền thờ, thầm nói lên tâm tình phó thác vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa không chỉ riêng cho đời con mình, mà cho cả chính mình nữa.
Là cha mẹ, người Công giáo chúng ta, ai cũng vui mừng khi hay tin có con. Và mừng rỡ hơn nữa khi người con mở mắt chào đời mạnh khoẻ. Nhưng ngay từ khi hay tin sự sống hình hài thân xác người con bắt đầu thành hình trong cung lòng mẹ cha, ai cũng đọc kinh khấn nguyện xin ơn phù hộ cho người con tương lai. Đến khi người con ra đời, cha mẹ nào cũng hằng dâng lời tạ ơn cùng kêu xin khấn nguyện cho con mình trong suốt cả đời sống.
Ngày xưa khi còn thơ bé, chúng ta đã được cha mẹ bồng ẵm vào thánh đường xin cho được nhận lãnh Bí tích rửa tội, ánh sáng đức tin vào Thiên Chúa là hướng đi cho đời sống.
Ngày nay lớn lên trưởng thành lập gia đình, cha mẹ trẻ có con, họ cũng làm việc nối lửa đức tin cho con mình như thế.
Nếp sống đức tin này gói ghém tâm tình tạ ơn cùng phó thác vào bàn tay quan phòng Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh của đời sống gia đình.
Tâm tình tạ ơn dâng hiến hòa lẫn trong làn khói ánh nến lung linh và lời cầu xin thoát ra tự đáy tâm hồn niềm tin: "Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con khi nay và trong giờ lâm tử. Amen."
23. Các con là ánh sáng thế gian
Tối hôm thứ bảy 30.1.1993 là tối đánh dấu 65 năm ngày Hitler lên cầm quyền tại Đức, đã gây ra không biết bao nhiêu tang tóc đau thương cho cả nhân loại. Tại khắp nơi trên nước Đức đã có hàng trăm ngàn người xuống đường tuần hành, nhiều ánh sáng rực rỡ nhóm lên, nhiều nến cháy trên tay của mỗi người tham dự cuộc tuần hành. Ánh nến ấy là biểu trưng của một chút ánh sáng mà nhiều người dân Đức muốn thắp lên để xoá tan màn đêm dày đặc của hận thù, ích kỷ, bại hoại do những người theo tân Đức Quốc Xã.
Hôm nay, tại nhiều nhà thờ trên khắp thế giới, người tín hữu Kitô cũng cầm nến cháy sáng trong tay để tưởng niệm một biến cố quan trọng trong cuộc đời của Chúa Giêsu. đó là việc Ngài được cha mẹ dâng vào đền thờ Giêrusalem. Cũng như mọi bé trai đầu lòng Do Thái khác, Chúa Giêsu cũng được cha mẹ mang đến đền thờ Giêrusalem để dâng hiến cho Thiên Chúa theo đúng quy định của luật Môisê. Nhưng theo chương trình của Thiên Chúa, đây không chỉ là một lề luật có sẵn, nhưng điều chính yếu là việc tỏ mình của Con Thiên Chúa như ánh sáng của muôn dân.
Thật thế, như chúng ta đã nghe trong bài Tin Mừng hôm nay, lời chúc tụng của cụ già Simêon là một kỷ niệm về lời tiên báo của tiên tri Isaia: "Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân để mở mắt những người mù loà, để đưa tù nhân ra khỏi lao tù, để đưa dân riêng ra khỏi bóng tối" (Is 42,6). Và chính Chúa Giêsu đã từng tuyên bố: "Ta là ánh sáng thế gian".
Thật vậy, qua cuộc sống và cái chết cùng sự Phục Sinh của Ngài, Chúa Giêsu đã chiếu giãi ánh sáng cho những bí ẩn của cuộc sống con người. Trong ánh sáng của Ngài, chúng ta biết được mình bởi đâu mà ra và mình sẽ đi về đâu. Đồng thời ánh sáng của Ngài cũng xoá tan mọi tăm tối tội lỗi của thế gian. Nơi đâu ánh sáng của Chúa Giêsu được chiếu toả, nơi đó bóng đêm của tội lỗi, của ích kỷ, của hận thù sẽ tan biến đi. Chúa Giêsu đã mang ánh sáng đến trên trần gian và Ngài muốn ánh sáng đó được chiếu toả trong mọi hang cùng ngõ hẻm của trần gian.
Nhiệm vụ mang ánh sáng của Ngài đi khắp nơi đã được Chúa Giêsu uỷ thác cho Giáo Hội, Ngài đã nói với các môn đệ: "Các con là ánh sáng thế gian". Giáo Hội và một cách cụ thể là mỗi người Kitô hữu đều là ánh sáng của Chúa Kitô được thắp lên để soi sáng cho trần gian.
Theo một truyền thống đã có từ lâu trong Giáo Hội, ngày hôm nay các tu sĩ cầm nến cháy trên tay để cùng với Chúa Kitô tự hiến cho Chúa Cha và cùng với Ngài trở thành ánh sáng cho mọi người. Nhưng ngày lễ nến hôm nay không chỉ là ngày lặp lại lời tuyên khấn của các tu sĩ, mà còn là lễ của mỗi người Kitô hữu.
Ngày hôm nay mỗi người Kitô hữu chúng ta được mời gọi để đốt lên ngọn nến mà chúng ta đã lãnh nhận trong ngày chịu phép Rửa tội. Họ được mời gọi để cùng với toàn thể Giáo Hội lặp lại những lời cam kết chống lại sức mạnh của tăm tối trong cuộc sống của họ. Những ngọn nến đã được đốt lên trên toàn nước Đức biểu hiện của một ý chí muốn xoá tan những bóng tối riêng tư của hận thù, ích kỷ, bạo động... và đồng thời khơi dậy nguồn ánh sáng của sự tha thứ, yêu thương, quảng đại và cảm thông.
Ngày hôm nay, những ngọn nến mà mỗi người Kitô hữu thắp sáng lên cũng nhắc nhở cho họ về sứ mệnh cao cả là trở thành ánh sáng cho mọi người. Trong đêm tối của một xã hội dầy đặc những hận thù, ích kỷ, lừa lọc... mỗi người tín hữu Kitô đều có thể nói: "Thà đốt lên một ánh nến còn hơn ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối". Một cuộc sống tin tưởng, hân hoan, phó thác và yêu thương, phục vụ quên mình, đó là một chút ánh sáng mà mỗi người tín hữu Kitô đều có thể đốt lên để soi sáng cho một góc trời nào đó, để từ đó người khác có thể nhận ra ánh sáng đích thực của Chúa Kitô.
24. Lễ Nến--Lm. Nguyễn Ngọc Long
A. Lịch sử
Lịch sử Ngày này trong Hội thánh công giáo là ngày lễ mừng, vẫn quen gọi là lễ Nến hay lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu vào đền thờ. Tại sao lại có lễ này và gọi như vậy? Theo luật Maisen trong kinh thánh cựu ước ( Xh 13,11-16; Lv 12,1-8; Is 88,14f;42,6) ghi chép:
1. Trẻ em sơ sinh trong thời han luật định phải mang đến đền thờ dâng hiến cho Thiên Chúa.
2. Một người phụ nữ sau khi sinh con được 40 ngày phải mang vào đền thờ Thiên Chúa lễ vật, để được thanh tẩy. Vì thời đó người ta hiểu là sau khi sinh con, người phụ nữ không còn được thanh sạch. Thanh sạch về thể xác hay tâm hồn? Trong sách luật không nói rõ.
3. Người con đầu lòng là tài sản của Thiên Chúa. Vì thế có tục lệ dâng con và lễ vật cho Thiên Chúa để chuộc.
Sau khi hạ sinh Chúa Giêsu được 40 ngày Đức Mẹ và Thánh Giuse cũng làm theo luật đã ghi chép trong đạo thời đó. Nhưng lễ dâng Chúa Giêsu trong đền thánh theo luật định lại trở nên cuộc gặp gỡ: Hai người đạo đức Ông gìa Simeon và Bà Hanna được hạnh phúc bồng bế haì nhi Giêsu trên tay mình. Qua cuộc gặp gỡ này họ đã nhận ra hài nhi Giêsu là "ánh sáng cho mọi dân tộc" ( Lc 2,22-40).
Bên Hội thánh Đông phương lễ này gọi là Lễ gặp Đấng Cứu Thế: Chúa Giêsu, vị Cứu thế vào đền thờ và gặp hai vị đại diện cho thời đạo cũ: Simeon và Hanna. Tục lệ này trở thành lễ mừng kính trong hội thánh bên Giêrusalem từ đầu thế kỷ thứ tư: 40 ngày sau khi Đức Mẹ hạ sinh Chúa Giêsu.
Bên Hội thánh tây phương lễ này là lễ kính Đức Mẹ: Đức Mẹ Maria cũng như bao người phụ nữ khác, sau khi sinh hạ con, mang lễ vật vào đền thờ, để được thanh tẩy như luật định. Bên Roma mừng kính ngày lễ này cũng vào thế kỷ thứ tư trong các thánh đường. Sau này, vào ngày lễ này nến được làm phép và mọi người rước nến cháy sáng trong nhà thờ. Vì thế lễ có tên là Lễ Nến.
Từ năm 1969 lễ ngày mùng Hai tháng Hai không còn thuần ý nghĩa lễ dành kính Đức Mẹ Maria, nhưng được đổi thành lễ Dâng Chúa Giêsu vào đền thờ, 40 ngày sau khi Chúa mở mắt chào đời trong hang đá Belem. Nếu lễ Chúa giáng sinh được mừng kính ngày 25. 12., ngày lễ dâng Chúa vào đền thờ, sẽ là ngày 02 tháng hai. Nếu lễ giáng sinh được mừng kính vào ngày 06.01., ngày lễ dâng Chúa vào đền thờ sẽ vào ngày 14. tháng Hai.
B. Ý nghĩa ngày lễ mừng
Tục lệ đạo đức lễ Nến ăn sâu trong cuộc sống người tín hữu. Ỡ nhiều nơi, giáo dân tín hữu mang nến đến nhà thờ để được làm phép trong ngày này. Họ mang nến đã làm phép về thắp lên mỗi khi đọc kinh gia đình, khấn nguyện khi có người ốm đau hoặc trẩy đi xa, trong những dịp vui mừng cưới hỏi hay tang chế.
Lễ mừng này nói lên ý nghĩa cuộc gặp gỡ: Chúa Giêsu con Thiên Chúa được đưa vào đền thờ, một biểu hiêu trong công trình thiên nhiên. Ngài đi vào thiên nhiên gặp gỡ đời sống con người: tôn giáo và đời sông gặp gỡ nhau.
Vì thế, sau này trong bước đường rao giảng nước Thiên Chúa, Ngài hay dùng những thí dụ cụ thể trong đời sống để cắt nghĩa về nước đó: ơn kêu gọi là con Thiên Chúa và nước Thiên Chúa là quê hưong của mọi người.
Hai thế hệ con người gặp gỡ nhau. Gìa trẻ gặp gỡ nhau. Hai vị trưởng lão Simeon và Hanna gặp gỡ trẻ Giêsu. Cuộc gặp gỡ tình người này là cuộc trao đổi. Thế hệ lớn tuổi trao lại cho thế hệ trẻ kinh nghiệm sống đã thu lượm được, những gía trị đời sống, niềm hy vọng cùng lời chúc lành mong chờ trông đợi của mình. Thế hệ trẻ đón nhận những trối trăn của lớp trưởng thượng trao lại.
Thế hệ lớn tuổi qua lời ông Simeon: Giờ đây lạy Chúa, xin để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an. Vì mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu chuộc cho muôn dân, biểu lộ lối sống biết nhận lãnh và cũng sẵn sàng cho đi trối lại. Cung cách chuyển giao này gây niềm phấn khởi cho thế trẻ đang lên sẵn sàng nhận lãnh lời trối trăn như bảo vật làm nền tảng cho tương lai đời sống cùng niềm tin đạo giáo.
Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng từ trời cao, được đưa vào đền thờ như lời mời gọi mọi người cùng đến gặp gỡ nhau trong tình khoan dung tha thứ cho nhau và mang đến cho nhau niềm hy vọng.
Lễ dâng Chúa vào đền thờ ngày mùng hai tháng hai hằng năm như lời mời gọi mỗi người đón nhận Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng cho tâm hồn mình. Anh sáng Chúa Giêsu chiếu soi vào đền thờ tâm hồn con người và mang đến niềm vui cùng sự an ủi trong những giờ phút đen tối của cuộc đời.
25. Dâng con trẻ
Trong ngày lễ hôm nay, chúng ta mừng kính hai biến cố: đó là việc thanh tẩy của Đức Maria và việc dâng Chúa Giêsu nơi đền thờ.
Trước hết là việc thanh tẩy của Đức Maria.
Theo luật Maisen, người đàn bà sau khi sinh nở, thì bị coi là uế tạp... Suốt 40 ngày, người ấy không được lên đền thờ tham dự vào những nghi lễ đạo đức. Sau đó người ấy phải đến trình diện trước thầy cả để được thanh tẩy.
Trên nguyên tắc Mẹ Maria không cần phải giữ luật Maisen vì Mẹ là Đấng trong sạch tuyệt vời. Nhưng cũng như Đức Kitô, Mẹ muốn hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, nên hôm nay Mẹ đã chịu thanh tẩy theo như đã quy định.
Tiếp đến là việc dâng Chúa nơi đền thờ.
Kể từ khi thiên thần đã giết các con đầu lòng của người Ai cập, còn dân Do Thái lên đường, ra khỏi đất nước này với kiêp sống nô lệ lầm than, thì những con đầu lòng của người Do Thái được coi như là thuộc về Thiên Chúa và có bổn phận lo việc phụng tự Ngài. Thế nhưng sau đó, công việc phụng tự này được trao lại cho chi họ Lêvi. Vì vậy, những người con trai đầu lòng phải được cha mẹ chuộc lại bằng một số tiền nhỏ.
Ngày hôm nay Mẹ Maria cũng tuân giữ điều luật này khi dâng hài nhi Giêsu nơi đền thờ.
Hiện giờ tại nhiều xứ đạo, người ta tổ chức nghi lễ dâng những người mẹ và những đứa con cho Đức Maria. Đây không phải là một nghi lễ thanh tẩy của người Do Thái, vì bí tích Hôn nhân là một cái gì thánh thiện, và khi sinh sản con cái, cha mẹ tham dự vào công việc sáng tạo của Thiên Chúa, nhưng nghi lễ này có mục đích tôn vinh người mẹ.
Cũng như Mẹ Maria không tới đền thờ một mình, nhưng tới với hài nhi Giêsu. Người mẹ hôm nay đến nhà thờ với những đứa con nhỏ của mình. Vị linh mục mặc áo các phép, tiến đến cửa nhà thờ để chào đón các bà. Ngài cầm cây nến, tượng trưng cho tình trạng ơn sủng mà mỗi người chúng ta đã lãnh nhận trong ngày chịu phép Rửa tội. Rồi sau đó những người mẹ và những đứa con tiến vào nhà thờ trong tiếng hát tạ ơn của lời kinh Magnificat: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa và thần trí tôi hoan hỉ trong Đấng cứu độ tôi”.
Vị linh mục dâng lên Thiên Chúa và Mẹ Maria lời cầu nguyện:
- Lạy Chúa, nhờ lời bầu cử của Đức Trinh Nữ Maria, xin cho những người mẹ và những đứa con này, sau cuộc sống trần gian, được đạt tới niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
Sau đó, ngài cầu xin Chúa Giêsu, Đấng đặt biệt yêu thương các trẻ nhỏ, chúc lành và gìn giữ những em nhỏ này khỏi mọi sự dữ, để các em được lớn lên trong sự khôn ngoan và ân sủng của Chúa, hầu ngày sau cùng được Chúa đón nhận vào quê hương Nước Trời.
Linh mục rảy nước thánh và ban phép lành:
- Xin Thiên Chúa là Cha, và Con và Thánh Thần ban phúc lành cho anh chị em.
Nghi thức và những lời kinh thập đẹp. Ước chi mỗi bà mẹ cũng hãy cảm tạ Thiên Chúa vì thiên chức cao cả mà Ngài đã dành cho chúng ta. Đồng thời hãy noi gương bắt chước Mẹ Maria dâng con mình cho Chúa để Chúa nâng đỡ và phù trợ chúng luôn mãi, hôm nay và sau này, trên vạn nẻo đường đời.
********************************************************
Thứ Tư: Lc 1, 67-75 hoặc Mt 15, 1-6
Thứ Tư 02/02/2022 – Mừng xuân với những liên hệ.
02/02 – Thứ Tư tuần 4 thường niên.
MỒNG HAI TẾT NHÂM DẦN. KÍNH NHỚ TỔ TIÊN VÀ ÔNG BÀ CHA MẸ.
"Ðể tỏ lòng từ bi với tổ tiên chúng ta".
Lời Chúa: Lc 1, 67-75
Khi ấy, Dacaria, cha của Gioan, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng: "Chúc tụng Thiên Chúa của Israel, vì Chúa đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người. Chúa đã gầy dựng cho chúng ta một uy quyền cứu độ. trong nhà Ðavít là tôi tớ Chúa, như Người đã phán qua miệng các thánh nhân từ ngàn xưa, là tiên tri của Chúa; để giải phóng chúng ta khỏi quân thù, và khỏi tay những người ghen ghét chúng ta; để tỏ lòng từ bi với tổ tiên chúng ta, và nhớ lại lời thánh ước của Người: lời minh ước mà Người tuyên thệ, với Abraham tổ phụ chúng ta, rằng: Người cho chúng ta không còn sợ hãi, sau khi thoát khỏi tay quân thù, được phục vụ trước tôn nhan Người, trong thánh thiện và công chính trọn đời chúng ta".
Lời Chúa: Mt 15, 1-6
Bấy giờ có mấy người Pha-ri-sêu và mấy kinh sư từ Giê-ru-sa-lem đến gặp Đức Giê-su và nói rằng: “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân, không chịu rửa tay khi dùng bữa? “
Người trả lời: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa? Quả thế, Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử. Còn các ông, các ông lại bảo: “Ai nói với cha với mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa”.
Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa.
1. Cầu cho cha mẹ--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy niệm
Đã có lúc người ta cho rằng theo đạo Công giáo là bỏ ông bà,
nhất là khi Hội thánh chưa cho phép bày tỏ lòng hiếu thảo
bằng cử chỉ vái lạy tổ tiên đã khuất.
Ở đất nước ta, thờ cúng tổ tiên là chuyện quan trọng,
đến độ người ta có thể nói đến đạo thờ ông bà, đạo hiếu.
Ai không giữ đạo hiếu thật đáng khinh.
Nhiều người tin khi chết thì con người đi về thế giới bên kia,
và thế giới bên kia cũng không khác lắm với thế giới bên này,
người chết cũng có những nhu cầu vật chất cần thỏa mãn.
Tết là thời gian mời ông bà đã khuất về ăn Tết với con cháu.
Như thế ông bà và con cháu được gần nhau, thông hiệp với nhau.
Đạo Công giáo tin có thế giới bên kia,
nhưng không quan niệm thế giới ấy một cách vật chất.
Người chết không cần ăn uống, không cần xài tiền vàng mã,
nhưng lại rất cần lời cầu nguyện để sớm hưởng nhan Chúa.
Thảo kính cha mẹ là điều răn đặc biệt trong 10 điều răn,
vì không cấm làm một điều xấu, nhưng buộc làm một điều tốt.
Các sách Cựu Ước đều coi trọng mệnh lệnh này (Xh 20,12; Đnl 5,16).
Thậm chí một người con có thể bị xử tử bằng cách ném đá
nếu không vâng lời hay nguyền rủa cha mẹ (Xh 21,17; Lv 20,9; Đnl 21,21).
Còn ai hiếu thảo sẽ được Chúa cho sống thọ trên đất hứa (Xh 20,12).
Thảo kính cha mẹ là kính trọng và yêu mến kẻ đã sinh dưỡng mình,
Thăm viếng khi khỏe mạnh, chăm sóc khi yếu đau, hầu hạ khi cao tuổi.
Thảo kính cha mẹ cũng là làm cho cha mẹ được vinh danh.
Nhờ con cháu mà “danh thơm mãi lưu truyền hậu thế” (Hc 44,14).
Có thể nói Đức Giêsu đã giữ điều răn này một cách nghiêm chỉnh.
Khi nghe Ngài giảng, có người đã kêu lên để ca ngợi Mẹ Ngài:
“Phúc cho người đã cưu mang Thầy và cho Thầy bú mớm” (Lc 11,27).
Bà Êlisabét đã ca ngợi Mẹ Maria là có phúc hơn mọi phụ nữ,
vì Người Con mà Mẹ đang cưu mang là Đấng có phúc tuyệt vời (Lc 1,42).
Đức Giêsu hằng vâng phục cha mẹ khi lớn lên ở Nadarét (Lc 2,51),
Và lo liệu cho Mẹ Ngài trước khi nhắm mắt (Ga 19,25-27).
Mồng Hai Tết, Giáo Hội mời ta nhớ lại nguồn cội tổ tiên đã xa ta,
và cũng nhớ đến nguồn cội đang ở gần ta với lòng biết ơn.
Đạo thờ ông bà, dù khác, nhưng cũng rất gần với đức tin Công giáo.
Thảo kính cha mẹ là “lời”, là “điều răn”của Thiên Chúa (Mt 15,3.6).
Không ai được phép bỏ qua hay coi nhẹ.
Qua tổ tiên, Thiên Chúa tạo dựng nên con người chúng ta.
Qua ông bà cha mẹ, Thiên Chúa cho chúng ta nên người thành toàn.
Tri ân tổ tiên là tri ân chính T. Chúa, Nguồn Cội của mọi nguồn cội.
Sách Nhị Thập Tứ Hiếu kể lại 24 gương hiếu thảo đối với mẹ cha.
Lão Lai tuy đã già vẫn nhảy múa như con nít để giúp vui cho cha mẹ.
Lục Tích là đứa bé ăn cắp quýt ở bữa tiệc để đem về, vì biết mẹ thích.
Ngô Mãnh, tám tuổi, cởi trần cho muỗi đốt mình để khỏi đốt cha mẹ.
Diễm Tử có cha mẹ già, thèm sữa hươu, nên ông khoác bộ da hươu,
giả làm hươu con vào rừng, để đến gần hươu mẹ vắt sữa.
nên suýt nữa bị các thợ săn nhắm bắn.
Nếu không hiếu thảo đến mức cao như các gương trên đây
thì ít là hôm nay ta biết ngước lên trời cầu nguyện cho cha mẹ:
“Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời,
Cầu cho cha mẹ sống đời với con”
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, sau hơn 30 năm
sống dưới mái nhà ở Nadarét,
Chúa đã thành một người chín chắn và trưởng thành,
Sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng Cha giao.
Bầu khí yêu thương đã góp phần không nhỏ
trong việc hình thành nhân cách của Chúa.
Chúa đã học nơi thánh Giuse
sự lao động miệt mài,
sự mau mắn thi hành Thánh Ý Thiên Chúa,
sự âm thầm chu toàn trách nhiệm đối với gia đình.
Chúa đã học nơi mẹ Maria
sự tế nhị và phục vụ,
sự buông mình sống trong lòng tin phó thác
và nhất là một đời sống cầu nguyện thâm trầm.
Xin nhìn đến gia đình chúng con, xin biến nó thành nơi sản sinh con người tốt,
biết yêu thương tha thứ,
biết cầu nguyện và phục vụ.
Ước gì xã hội chúng con lành mạnh hơn, Giáo Hội chúng con thánh thiện hơn,
nhờ có những con người khỏe mạnh, khôn ngoan
và tràn đầy ơn Chúa.
2. Thờ cha kính mẹ--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy niệm:
Giáo Hội dành Mồng Hai Tết để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ.
Người Công Giáo thường bị coi là bỏ rơi việc thờ cúng ông bà tổ tiên,
như thế họ có thể bị coi là bất hiếu.
Thật ra thảo kính cha mẹ là điều răn thứ bốn Thiên Chúa đòi chúng ta phải giữ.
Cha Đắc Lộ trong cuốn Phép Giảng Tám Ngày (1651) cho rằng
thảo kính cha mẹ gồm bốn phần, đó là yêu mến, kính sợ, chịu lụy và giúp đỡ.
Cha còn ghi nhận một tập tục đặc biệt vào thời đó.
Ngày Mồng Một Tết, người dân và cả những quan lớn,
sau khi theo vua chúa đi tế Nam Giao về,
“ai nấy về nhà mà lạy cha mẹ ông bà ông vải.”
Vào năm 1625, các thừa sai cho phép cúng giỗ các vị đã khuất.
Trong các gia đình, ngoài bàn thờ kính Chúa, còn có “bàn thờ” tổ tiên
Chỉ có hai điều không được phép,
đó là đốt vàng mã và tin tổ tiên về ăn đồ cúng.
Thật ra, người Công Giáo nhớ đến người quá cố
không qua những nghi lễ giỗ chạp hàng năm,
cho bằng qua việc cầu nguyện và dâng lễ hàng ngày.
Nhà Vua tế Trời ở đàn Nam Giao, nhà sư thờ Phật tại Chùa,
các bậc chức sắc trong làng xã thờ Thành Hoàng tại đình làng,
còn việc cầu nguyện, cúng giỗ tổ tiên được cử hành tại gia đình,
nơi người sống và người đã qua đời vẫn thông hiệp với nhau chặt chẽ.
Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu bênh vực quyền lợi của cha mẹ.
Ngài đòi người ta phải giữ điều răn thứ tư của Thiên Chúa.
Thảo kính cha mẹ hàm chứa việc săn sóc và phụng dưỡng cha mẹ.
Cụ thể người con phải giúp cha mẹ về mặt tài chánh.
Đức Giêsu phản đối một truyền thống được bày đặt bởi người Pharisêu,
đó là khi một người con lấy số tiền lẽ ra dành để nuôi cha mẹ
mà dâng cúng cho đền thờ làm lễ phẩm
thì anh ta khỏi phải dùng tiền đó mà nuôi cha mẹ nữa (cc. 5-6).
Đối với Đức Giêsu, làm thế là nhân danh một truyền thống con người
mà “vi phạm điều răn của Thiên Chúa”và “hủy bỏ lời của Thiên Chúa” (cc. 3.6).
Khi suy nghĩ về tương quan giữa cha mẹ và con cái,
chúng ta cần tự hỏi:
Làm sao để có sự cảm thông giữa những thế hệ?
Làm sao để con cái biết vâng phục và tôn kính cha mẹ?
Làm sao để cha mẹ biết giáo dục con cái bằng khuyên răn và sửa dạy?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
sau hơn 30 năm sống dưới mái nhà ở Nadarét,
Chúa đã thành một người chín chắn
và trưởng thành,
sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng Cha giao.
Bầu khí yêu thương đã góp phần không nhỏ
trong việc hình thành nhân cách của Chúa.
Chúa đã học nơi thánh Giuse
sự lao động miệt mài,
sự mau mắn thi hành Thánh ý Thiên Chúa,
sự âm thầm chu toàn trách nhiệm đối với gia đình.
Chúa đã học nơi Mẹ Maria
sự tế nhị và phục vụ,
sự buông mình sống trong lòng tin phó thác
và nhất là một đời sống cầu nguyện thâm trầm.
Xin nhìn đến gia đình chúng con,
xin biến nó thành nơi sản sinh những con người tốt,
biết yêu thương tha thứ,
biết cầu nguyện và phục vụ.
Ước gì xã hội chúng con lành mạnh hơn,
Giáo hội chúng con thánh thiện hơn,
nhờ có những con người khỏe mạnh, khôn ngoan
và tràn đầy ơn Chúa.
3. Hiếu kính cha mẹ thật lòng--TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Chúa Giêsu dạy ta phải hiếu kính cha mẹ thật lòng. Đó là giới răn quan trọng, không được vịn cớ nào đó để coi thường hay bỏ rơi cha mẹ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, ngày đầu năm, con nhớ về cội nguồn của đời sống con. Chính Chúa đã nhờ cha mẹ để tác tạo nên con, nuôi dưỡng và giáo dục con để con được như ngày hôm nay. Công lao của tổ tiên, ông bà, cha mẹ đổ dồn lên tấm thân con. Con mang nặng trên vai món nợ công ơn và tình thương bao la ấy. Và qua đó con nhận ra tình thương Chúa dành cho con thật vô bờ bến. Con cảm tạ Chúa. Khi con biết ơn ông bà cha mẹ, chính là lúc con bày tỏ lòng biết ơn Chúa. Con bất hiếu với các ngài chính là con vô ơn đối với Chúa.
Chính vì vậy, Chúa dạy con phải sống hiếu thảo, thờ cha kính mẹ cho phải đạo làm con. Nhưng lạy Chúa, trong thực tế, con thiếu sót rất nhiều. Cũng như các biệt phái và luật sĩ ngày xưa, con vẫn lớn tiếng tuyên bố lòng hiếu thảo, nhưng lại vịn đủ mọi lý lẽ để bỏ rơi hoặc khinh thường cha mẹ. Con vịn cớ bận rộn, vất vả, con cái, con nại đến những bổn phận đạo đức, xã hội, học hành, để rồi bỏ mặc cha mẹ con sống thiếu thốn, cô đơn tủi nhục. Lạy Chúa, thậm chí có những lúc con đã có những lời nói việc làm khinh thường hoặc xúc phạm đến ông bà cha mẹ con.
Con xin Chúa tha thứ cho con, xin Chúa dạy con biết noi gương vâng phục và hiếu thảo của Chúa Giêsu. Xin giúp con biết đem lại niềm vui và an ủi cho các bậc sinh thành. Xin ban cho con sống xứng đáng với công ơn các ngài dành cho con. Xin Chúa tuôn đổ muôn phúc lành hồn xác trên các ngài. Và xin cho những vị đã an nghỉ được Chúa ban phúc trường sinh bên Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “ Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử.”
4. Ấm áp nghĩa tình--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Ngày đầu Năm Mới, chúng ta được mời gọi sống truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, bởi lẽ tất cả những gì ta nhận được hôm nay đều do ông bà cha mẹ để lại, cho nên đạo hiếu nhắc nhở chúng ta bổn phận: “Uống nước nhớ nguồn”. Mùa Xuân là dịp khơi gợi lại trong chúng ta nguồn sống ấy. Mùa xuân cũng là cơ hội để con cháu bày tỏ lòng hiếu kính, biết ơn với tổ tiên, ông bà, cha mẹ, những người đã sinh thành, nuôi dưỡng, giáo dục ta nên người. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cũng mời gọi chúng ta sống lại truyền thống ấy với một chiều kích sâu xa hơn trong tương quan giữa Thiên Chúa và nhân loại, hay giữa con người với nhau. Do đó, khi chúng ta sống trọn tình thảo hiếu với ông bà, cha mẹ thì cũng đồng thời ta đáp trả lời mời gọi của Tin mừng trong thái độ yêu mến và tôn phục Thiên Chúa.
Cùng quy tụ bên gia đình trong bữa cơm ấm áp nghĩa tình ngày đầu năm, chúng ta không khỏi không nhắc đến những kỷ niệm thân thương của ông bà, cha mẹ khi các ngài còn hiện diện với chúng ta. Nhiều gia đình còn xum họp bên nhau quanh nấm mồ của những người đã khuất, cùng thắp lên nén hương gói trọn bao lời cầu nguyện trong yêu thương luyến nhớ. Ngày mùng Hai tết không chỉ nhắc chúng ta tưởng nhớ đến những người đã khuất, mà còn nhắc ta bổn phận làm con đối với ông bà cha mẹ, những bậc sinh thành dưỡng dục đang còn sống. Đây là cơ hội quý báu để chúng ta bày tỏ lòng hiếu thảo với những người còn sống, đồng thời cũng để nói lên lời tạ lỗi với mẹ cha.
Lần giở lại những trang Tin Mừng, chúng ta gặp lời của Thiên Chúa trong sách Huấn ca: “Của dâng cho Cha sẽ không rơi vào quên lãng. Của biếu cho mẹ sẽ đền bù tội lỗi, và xây dựng đức công chính của ngươi” (Hc 3, 14-15). Theo đó, lòng hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ sẽ làm cho ta trở nên công chính và bản thân ta, cuộc đời của ta có ý nghĩa và giá trị hơn trước mặt người đời. Sau bổn phận đối với Thiên Chúa thì thái độ thảo hiếu đối với cha mẹ được coi là yếu tố căn bản của nhân vị trong tương quan với tha nhân. Tuy nhiên, trong xã hội ngày nay, khi người ta đề cao chủ nghĩa duy vật thì các giá trị đạo đức xuống cấp. Chúng ta không thể không đau lòng khi thấy trong nhiều gia đình con cái đối xử tệ bạc với cha mẹ. Khi cha mẹ già yếu, họ không thương tiếc đẩy cha mẹ vào các viện dưỡng lão mà không một lời thăm hỏi, trong khi họ có đủ điều kiện để phụng dưỡng cha mẹ. Chúng ta không thể không đau lòng khi có người bỏ bê cha mẹ già đau ốm, hầu mong cha mẹ chết sớm đi để rảnh nợ. Trong nhiều gia đình, con cái còn đùn đẩy trách nhiệm phụng dưỡng cha mẹ cho nhau… Như những người Pharisêu và Kinh sư trong Tin mừng hôm nay, một số những người trẻ sẵn sàng quay lưng lại với truyền thống, với các chuẩn mực đạo đức xã hội mà coi thường giá trị nền tảng của gia đình, không tuân giữ luật Chúa “thảo kính Cha mẹ”. Mỗi chúng ta, hơn một lần trong cuộc đời, cũng đã có lúc làm cha mẹ buồn lòng, gây cho cha mẹ những khổ đau phiền lụy và cả những hao tổn về tinh thần.
Chúng ta không khỏi ngậm ngùi ân hận khi nghĩ lại bao lầm lỗi, xúc phạm gây bao khổ đau cho ông bà cha mẹ hôm nào. Những gì của quá khứ đang sống lại trong chúng ta như đang mời gọi ta tìm cách đền đáp công ơn cha mẹ, thảo hiếu với ông bà. Chúng ta không khỏi xúc động khi nghĩ lại bao yêu thương, hy sinh mà các ngài đã dành cho mình: “Cha thời sinh ta, mẹ thời nuôi ta. Cái ơn sâu nghĩa nặng cao vời ấy tựa Thái Sơn, làm sao ta báo đáp”. Chúng ta, kẻ làm con ít khi thực sự cảm nhận được hạnh phúc có cha có mẹ, hạnh phúc được sống trong tình yêu nồng ấm của mẹ cha, thường khi các ngài đã về với Chúa, chúng ta mới cảm nhận sâu xa tình yêu của các ngài, mới thèm được cha thương, mẹ chiều, mới ngậm ngùi hiểu ra cái lẽ: ngọn roi cha dạy làm xót lòng cha, làm đau lòng mẹ hơn là làm con đau đớn; mới hiểu ra rằng tất cả những gì cha mẹ làm cho ta cũng chỉ vì mong con nên thân nên người, mong con hạnh phúc. Những gì chúng ta có được hôm nay đều ghi đậm dấu ấn của mẹ cha; sự thành đạt, niềm hạnh phúc của chúng ta hôm nay có sự đánh đổi những hy sinh vất vả của cha mẹ. Cha mẹ đã phải hao gầy, cằn khô theo năm tháng bởi bao lo lắng, hy sinh, bao vất vả đắng cay, bao giọt lệ chảy ngược vào lòng để chúng ta khôn lớn, nên người. Lòng cha mẹ quá quảng đại, bao dung, không ngại gian khổ, không sợ hy sinh, chấp nhận mọi khổ đau để đời chúng ta được thành đạt, hạnh phúc.
Nhớ về công ơn cha mẹ, luôn là lời mời chúng ta hướng về nguồn cội của sự sống, của tình yêu, của mọi ân phúc trong đời là chính Chúa để chúng ta tỏ lòng yêu mến, biết ơn trước hết với Chúa là nguồn cội mọi ân phúc và với mẹ cha là những người sinh thành dưỡng dục ta nên người. Tạ ơn Chúa đã thương cho chúng ta được sinh ra và lớn lên trong mái ấm gia đình có ông bà, có cha mẹ, có những người thân bên cạnh để yêu thương, nâng đỡ dạy dỗ, bảo ban để chúng ta không ngừng lớn lên trong thân xác và nhân bản, về trí tuệ và tình yêu, nhất là được giáo dục trong lòng tin yêu Chúa.
5. Mồng 2 Tết--Kính nhớ Tổ tiên--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
(Hc 44,1.10-15 Ep 6,1-4 Lc 1,67-75)
A. Hạt giống...
1. Bài đọc I trích sách Huấn ca, nội dung là ca ngợi công đức của tổ tiên: các ngài là những người nhân đức, đã tạo dựng cơ nghiệp và truyền lại cho con cháu; các thế hệ con cháu sẽ ghi nhớ ký ức về các ngài, giữ gìn thanh danh các ngài và truyền tụng sự khôn ngoan của các ngài.
2. Bài đọc II trích thư Êphêxô ghi những lời khuyên cụ thể cho những kẻ làm con cháu:
- Phải vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa.
- Hãy tôn kính cha mẹ.
3. Bài Tin Mừng trích bài ca Benedictus của ông Dacaria nói về di sản của tổ tiên là thừa hưởng Lời Thiên Chúa hứa sẽ “giải phóng ta khỏi địch thù”. Lời hứa này nhằm mục đích “cho ta chẳng còn sợ hãi”, “để ta sống thánh thiện công chính trên nhan Ngài và phụng thờ Ngài suốt cả đời ta”.
B.... nẩy mầm.
1. Việc tôn kính ông bà tổ tiên nhắc chúng ta:
- nhớ đến công ơn của các ngài - ta phải cố gắng sống xứng đáng để đền đáp những công ơn ấy.
- nhớ đến tâm nguyện của các ngài muốn chúng ta là những con người tốt, những kitô hữu tốt, những tu sĩ Linh mục tốt - ta phải cố gắng hoàn thành những tâm nguyện ấy.
- nhớ rằng cuộc đời cũng như một sân khấu, người này bước lên diễn xong vai tuồng của mình thì bước xuống cho người sau bước lên. - Ta phải diễn thật đạt vai tuồng của mình, để khỏi phụ lòng những người đi trước và khỏi xấu hổ cho người đi sau.
2. Một góa phụ vất vả làm lụng trong nhà máy để nuôi bốn đứa con, giờ nằm hấp hối trên giường.
Đứng xung quanh bà bây giờ là con cái lớn khôn. Anh trai cả khóc và nói với bà: “Mẹ ạ, mẹ thật tốt và hết lòng yêu thương chúng con. Chúng con muốn cám ơn mẹ. Chúng con thật hãnh diện về mẹ”.
Bà nhướng đôi mắt và hỏi: “Tại sao các con đợi cho đến bây giờ mới nói điều đó? Trước đây các con chẳng bao giờ nói như vậy”.
Rồi bà nhắm mắt từ biệt. (Góp nhặt)
6. Kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ (Mt 15,1-6)--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Luật của Chúa
Hằng tuần chúng ta vẫn đọc kinh Mười điều răn Đức Chúa Trời, khi đọc đến giới răn thứ bốn, ta nhớ ngay đến nghĩa vụ phải thảo kính cha mẹ. Thảo kính cha mẹ là gì ? Thưa là phải yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ khi còn sống và khi đã qua đời. Ta phải hiếu thảo ngay cả khi cha mẹ đã qua đời, vì tuy các ngài đã khuất nhưng vẫn còn ở bên chúng ta.
Chữ hiếu của người Á đông
a) Người Á đông đề cao chữ hiếu, coi như cội rễ của mọi đức. Người con bất hiếu là người con bỏ đi, và tội nặng nhất là tội “bất hiếu”.
b) Người Phật giáo cũng có một lễ riêng vào ngày rằm tháng bảy, ngày xá tội vong nhân mà ta gọi là lễ Vu Lan. Ngày này, người ta có những nghi lễ đặc biệt để nhớ đến ông bà tổ tiên.
c) Người ta còn có lệ “cúng cô hồn”, tặng cho các cô hồn thức ăn cho khỏi đói, một nghĩa cử cao quý đối với những hồn cô đơn không ai nhớ tới. Bên Công giáo chúng ta gọi là cứu giúp các linh hồn mồ côi trong luyện ngục.
Sự tử như sự sinh
Những người thờ cúng tổ tiên có vẻ sống gần gũi với ông bà cha mẹ đã khuất. Người ta coi “sự tử như sự sinh” (phụng dưỡng người chết cũng như người sống). Do đó, người ta khấn vái, nói chuyện với cha mẹ đã chết giống như nói chuyện với người còn sống. Họ dâng cho cha mẹ hoa quả, nén hương, thậm chí cả mâm cơm để tỏ tấm lòng thành với các ngài.
Truyện: Đôi đũa thứ năm
Bác Năm Hớn có một vợ và hai con. Chẳng may vợ mất sớm. Một hôm bác mời cha Piô Ngô Phúc Hậu đến dùng cơm với bác. Trong mâm chỉ có bốn người mà sao lại thắp những 5 đôi đũa bát.
Cha Hậu ngạc nhiên hỏi: “Bát đũa này dành cho ai ?”
Bác trả lời: “Dành cho vợ bác”. Tuy vợ bác đã khuất, nhưng bác vẫn mời vợ về cùng dùng cơm.
Giáo hội Việt Nam luôn đồng hành với dân tộc, không những phải giữ lấy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà còn nâng cao lên, cho nó một ý nghĩa cao quý. Vì thế, Giáo hội Việt Nam muốn dùng ngày mùng hai Tết để chúng ta kính nhớ ông bà tổ tiên, vì
Người ta có cố có ông,
Như cây có cội, như sông có nguồn (Ca dao)
Không có ông bà tổ tiên thì không có ta, tất cả những cái ta có là do ông bà cha mẹ để lại. Không ai được quên công ơn lớn lao đó:
Ai mà phụ nghĩa quên công,
Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm (Ca dao)
Một Phong trào vô danh đã gợi ý các thành viên mình suy nghĩ về câu châm ngôn: “Những cụ già là một hồng ân”, với những tư tưởng như sau:
- Phúc cho anh chị khi hiểu rằng: tay tôi đã khởi sự run rẩy và chân tôi bắt đầu yếu dần.
- Phúc cho anh chị khi nhớ rằng: tai tôi không còn nghe rõ như xưa và dù muốn hay không những người lớn tuổi cũng phải chấp nhận câu: “Trẻ khôn ra, già lú lại”.
- Phúc cho anh chị, nếu biết rằng: mắt tôi không còn sáng được như xưa.
- Phúc cho anh chị, nếu không giận dữ vì tôi đánh rơi một cái tách đắt tiền, khi tôi năm lần bảy lượt thuật lại cùng một câu truyện.
- Phúc cho anh chị, nếu anh chị biết trao cho tôi những nụ cười thông cảm, nếu anh chị hỏi tôi về quãng đời quá khứ, những kinh nghiệm của tuổi thanh xuân, nếu anh chị hiểu được những dòng nước mắt cô đơn của tôi, nếu anh chị dành cho tôi chút tình yêu thương kính trọng.
- Phúc cho anh chị, nếu ở lại với tôi thêm giây lát dù trời sắp tối.
- Phúc cho anh chị, nếu nắm lấy tay tôi khi tôi phải giã từ cõi đời để một mình đi vào bóng đêm, bóng đêm của sự chết.
- Phải, phúc cho anh chị, vì khi lên thiên đàng, tôi sẽ thắp cho anh chị những vì sao.
Chúng ta có hiểu câu thành ngữ tha thiết và trách móc này không:
Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng,
Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày.
Để dễ dàng lấp đầy hố sâu chia cách hai thế hệ, giới trẻ chúng ta phải ghi nhớ công ơn sinh thành của cha mẹ mà giữ trọn chữ hiếu. Đấy là bài học hữu hiệu để giữ được mãi trong xã hội chúng ta nét đặc thù mà xã hội Âu Mỹ đã đánh mất từ lâu.
Hôm nay chúng ta hãy làm hai việc khẩn thiết trong ngày kính nhớ ông bà tổ tiên:
- Sốt sắng hiệp dâng thánh lễ cầu nguyện cho các ngài, vì Thánh lễ là một phương thế hiệu nghiệm nhất chúng ta có thể kéo ơn Chúa xuống cho ông bà cha mẹ chúng ta khi các ngài còn sống cũng như đã qua đời.
- Khơi lại lòng hiếu thảo của chúng ta đối với các ngài bằng những việc làm cụ thể nhất là trong những ngày Tết này. Hãy ghi nhớ lại điều răn Chúa đã dạy chúng ta trong kinh Mười điều răn: “Thứ bốn thảo kính cha mẹ”.
Ơn ai một chút chớ quên,
Phiền ai một chút để bên cạnh lòng (Ca dao)
7. Kính Nhớ Ông Bà Tổ Tiên--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
I. Ý NGHĨA BA NGÀY TẾT
Theo tục lệ Việt nam, ngày Tết là ngày con cháu dù ở nơi xa cũng xum họp cùng gia đình để chúc tuổi mới ông bà cha mẹ. Đồng thời nói lên lòng yêu mến, biết ơn của con cháu đối với các bậc tiền bối.
Giáo hội Việt nam cùng đồng hành với dân tộc cũng muốn đề cao ba ngày Tết để giúp giáo dân thánh hóa ngày Tết với ý chỉ:
* Mùng một : cầu bình an cho năm mới.
* Mùng hai: kính nhớ ông bà tổ tiên.
* Mùng ba: thánh hoá công việc làm ăn.
Hôm nay mùng hai Tết, Giáo hội muốn cho giáo dân tỏ lòng hiếu thảo đối với ông bà tổ tiên bằng cách dâng thánh lễ đặc biệt để cầu cho các ngài còn sống hay đã qua đời, tuy đã khuất nhưng còn luôn ở bên cạnh chúng ta.
II. ĐẠO HIẾU CỦA TA
1. Luật của Chúa.
Hằng tuần chúng ta vẫn đọc kinh Mười điều răn Đức Chúa Trời, khi đọc đến giới răn thứ bốn, ta nhớ ngay đến nghĩa vụ phải thảo kính cha mẹ. Thảo kính cha mẹ là gì? Thưa là phải yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ khi còn sống và khi đã qua đời. Ta phải hiếu thảo ngay cả khi cha mẹ đã qua đời, vì tuy các ngài đã khuất nhưng vẫn còn ở bên chúng ta.
2. Chữ hiếu của người Á đông.
a) Người Á đông đề cao chữ hiếu, coi như cội rễ của mọi đức. Người con bất hiếu là người con bỏ đi, và tội nặng nhất là tội “bất hiếu”.
b) Người Phật giáo cũng có một lễ riêng vào ngày rằm tháng bảy, ngày xá tội vong nhân mà ta gọi là lễ Vu lan. Ngày này, người ta có những nghi lễ đặc biết để nhớ đến ông bà tổ tiên.
c) Người ta còn có lệ “cúng cô hồn”, tặng cho các cô hồn thức ăn cho khỏi đói, một nghĩa cử cao qúi đối với những hồn cô đơn không ai nhớ tới. Bên Công giáo chúng ta gọi là cứu giúp các linh hồn mồ côi trong luyện ngục.
3. Sự tử như sự sinh.
Những người thờ cúng tổ tiên có vẻ sống gần gũi với ông bà cha mẹ đã khuất. Người ta coi “sự tử như sự sinh” (phụng dưỡng người chết cũng như người sống). Do đó, người ta khấn vái, nói chuyện với cha mẹ đã chết giống như nói chuyện với người còn sống. Họ dâng cho cha mẹ hoa quả, nén hương, thậm chí cả mâm cơm để tỏ tấm lòng thành với các ngài.
Truyện: Đôi đũa thứ năm.
Bác Năm Hớn có một vợ và hai con. Chẳng may vợ mất sớm. Một hôm bác mời cha Piô Ngô phúc Hậu đến dùng cơm với bác. Trong mâm chỉ có bốn người mà sao lại thắp những 5 đôi đũa bát. Cha Piô Ngô Phúc Hậu ngạc nhiên hỏi: ”Bát đũa này dành cho ai”? Bác trả lời: ”Dành cho vợ bác”. Tuy vợ bác đã khuất nhưng bác vẫn mời vợ về cùng dùng cơm.
III. Ý NGHĨA NGÀY MÙNG HAI TẾT
Giáo Hội Việt nam luôn đồng hành với dân tộc, không những phải giữ lấy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà còn nâng cao lên, cho nó một ý nghĩa cao qúi. Vì thế, Giáo hội Việt nam muốn dùng ngày mùng hai Tết để chúng ta kính nhớ ông bà tổ tiên, vì
Người ta có cố có ông,
Như cây có cội, như sông có nguồn. (ca dao)
Không có ông bà tổ tiên thì không có ta, tất cả những cái ta có là do ông bà cha mẹ để lại. Không ai đuợc quên công ơn lớn lao đó:
Ai mà phụ nghĩa quên công,
Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm (ca dao)
Truyện: Con kiện mẹ.
Tại bang New Jersey bên Hoa kỳ, một bà mẹ 78 tuổi bị đứa con trai kiện vì bà không trả tiền công cho chàng đã sửa chiếc xe vận tải của bà.
Bà đã đệ đơn tố ngược lại con mình, với đề nghị là chàng phải bị đánh đòn vì lúc chàng còn nhỏ, bà đã không áp dụng câu:”Thương con cho roi cho vọt”.
Trả lời đơn người con trai kiện mình, bà đã viết:”Nguyên cáo mắc nợ bị cáo 40 năm phục dịch của một người mẹ, một người giữ em, một người giúp việc nhà, một nhà tâm lý để cố vấn khuyên bảo… Tất cả những dịch vụ trên nguyên cáo đã không trả tiền công cho bị cáo”.
Bà mẹ viết tiếp:”Như một người mẹ, nếu luật pháp cho phép, tôi sẽ công khai đánh con tôi, những roi vọt cần thiết cho nó mà tôi đã không dành cho nó lúc nó còn bé. Nếu pháp luật không cho phép mẹ đánh con, thì xin tòa hãy cử một nhân viên ngành tư pháp đánh đòn để sửa trị con tôi”. (R. D. Warhreit, Ánh sáng hy vọng, tr 226)
Ngược lại câu truyện cười ra nước mắt trên đây, một PHONG TRÀO vô danh đã gợi ý các thành viên mình suy nghĩ về câu châm ngôn:”Những cụ già là một hồng ân”, với những tư tưởng như sau:
Phúc cho anh chị khi hiểu rằng tay tôi đã khởi sự run rẩy và chân tôi bắt đầu yếu dần.
Phúc cho anh chị khi nhớ rằng tai tôi không còn nghe rõ như xưa và dù muốn hay không những người lớn tuổi cũng phải chấp nhận câu:”Trẻ khôn ra, già lú lại”.
Phúc cho anh chị nếu biết rằng mắt tôi không còn sáng được như xưa.
Phúc cho anh chị nếu không giận dữ vì tôi đánh rơi một cái tách đắt tiền, khi tôi năm lần bảy lượt thuật lại cùng một câu truyện.
Phúc cho anh chị nếu anh chị biết trao cho tôi những nụ cười thông cảm, nếu anh chị hỏi tôi về quãng đời quá khứ, những kinh nghiệm của tuổi thanh xuân, nếu anh chị hiểu được những dòng nước mắt cô đơn của tôi, nếu anh chị dành cho tôi chút tình yêu thương kính trọng.
Phúc cho anh chị nếu ở lại với tôi thêm giây lát dù trời sắp tối.
Phúc cho anh chị nếu nắm lấy tay tôi khi tôi phải giã từ cõi đời để một mình đi vào bóng đêm, bóng đêm của sự chết.
Phải, phúc cho anh chị, vì khi lên thiên đàng, tôi sẽ thắp cho anh chị những vì sao.
KẾT LUẬN
Chúng ta có hiểu câu thành ngữ tha thiết và trách móc này không:
Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng,
Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày.
Để dễ dàng lấp đầy hố sâu chia cách hai thế hệ, giới trẻ chúng ta phải ghi nhớ công ơn sinh thành của cha mẹ mà giữ trọn chữ hiếu. Đấy là bài học hữu hiệu để giữ được mãi trong xã hội chúng ta nét đặc thù mà xã hội Âu Mỹ đã đánh mất từ lâu.
Hôm nay chúng ta hãy làm hai việc khẩn thiết trong ngày kính nhớ ông bà tổ tiên
1. Sốt sắng hiệp dâng thánh lễ cầu nguyện cho các ngài vì Thánh lễ là một phương thế hiệu nghiệm nhất chúng ta có thể kéo ơn Chúa xuống cho ông bà cha mẹ chúng ta khi các ngài còn sống cũng như đã qua đời.
2. Khơi lại lòng hiếu thảo của chúng ta đối với các ngài bằng những việc làm cụ thể nhất là trong những ngày Tết này. Hãy ghi nhớ lại điều răn Chúa đã dạy chúng ta trong kinh Mười điều răn:”Thứ bốn thảo kính cha mẹ”.
Ơn ai một chút chớ quên,
Phiền ai một chút để bên cạnh lòng. (Ca dao)
8. Hiếu kính Cha Mẹ
Có một chàng trai sắp thi tốt nghiệp đại học. Trước đó, anh đã nói với cha về ước muốn có chiếc xe thể thao xinh đẹp và mong rằng nó sẽ là quà tặng của cha nhân ngày tốt nghiệp.
Người cha nghe xong im lặng, không có ý kiến gì.
Sau ngày chàng trai tốt nghiệp, người cha đã gọi anh vào phòng, nói rằng ông rất yêu thương và hãnh diện có được đứa con như anh. Sau đó, ông trao cho anh một hộp quà được gói cẩn thận. Ngạc nhiên, chàng trai mở hộp quà và nhìn thấy đó là một quyển sách thể loại “rèn nhân cách” được đóng gáy và bọc bìa da rất đẹp. Chàng trai nhíu mày, “với tất cả tài sản mà cha mình đã có… và món quà tặng cho con tốt nghiệp đại học chỉ là một quyển sách tầm thường này hay sao?”.
Chán nản và buồn phiền với ý nghĩ đó, chàng trai không nói lời nào với cha mình, rời khỏi phòng, để lại quyển sách trên bàn. Sau đó anh bỏ nhà ra đi…
Trong một thời gian dài, chàng trai không liên hệ với cha mình. Cho đến một ngày anh nhận được tin cha mình đã qua đời và để lại toàn bộ tài sản cho anh ta.
Khi anh về đến căn nhà cũ xưa, sự buồn phiền và hối hận tràn ngập trong lòng chàng trai khi anh nhớ đến sự cư xử lạnh nhạt mà anh đã có với cha trước đây. Anh tìm đọc những giấy tờ quan trọng của cha mình và nhìn thấy cuốn sách “rèn nhân cách” vẫn còn nguyên vẹn trên bàn như ngày anh từ bỏ nó. Chàng trai mở cuốn sách ra, lật từng trang và thấy một bao thư được ép chặt trong đó. Anh đã nhẹ nhàng mở bao thư ra, và bỗng dưng nước mắt anh tuôn trào khi nhận ra đó chính là một chìa khóa xe hơi và tờ hóa đơn của chính chiếc xe mà anh ta yêu thích ngày trước. Tờ hóa đơn ghi đúng ngày anh ta tốt nghiệp với dòng chữ đã thanh toán đầy đủ…
Trong cuộc sống của chúng ta, không ai mà không mắc những sai lầm. Có những sai lầm thì sau đó được sửa chữa và trở nên bình thường. Nhưng có những sai lầm sau khi khắc phục rồi, nó vẫn còn để lại “một vết sẹo” mà khó có thể phai mờ được.
Có thể nói, “vết sẹo” mà chúng ta đã gây ra đối với đấng sinh thành, là đáng trách nhất. Vết sẹo đó sẽ mãi mãi ở bên chúng ta, khiến chúng ta luôn bị nhức nhối lương tâm mỗi khi nhớ đến nó. Như trong câu chuyện trên, chàng trai sau khi thức tỉnh, đã vô cùng ân hận, nhưng người cha đã không còn nữa để anh ta làm một cái gì đó, dù chỉ là một lời xin lỗi…
Ngày Tết là dịp để chúng ta về đoàn tụ bên các đấng sinh thành để xin lỗi, để cầu chúc các đấng an khang trường thọ.
Ngày Tết là dịp để con cái nhìn nhận tình thương của cha mẹ là tình thương không thể thiếu cho con bước đi trong cuộc đời.
Dầu rằng, Tình Cha, Tình Mẹ có khác nhau nhưng nhờ Ơn Cha, nhờ Nghĩa Mẹ mà con cái mới đứng vững trước những sóng gió cuộc đời.
Thực vậy, tình cảm của người cha không bao giờ như người mẹ.
Tình thương của cha luôn giấu kín trong lòng, đôi khi còn tỏ ra nghiêm nghị, cứng rằn mỗi khi dạy con. Cha giống như một thân cây vững chắc, bám rễ thật sâu dưới lòng đất để hút nhựa nuôi dưỡng cành lá, hoa, quả.
Mẹ là tình cảm, cha là lý trí, mẹ mềm lòng, cha phải giữ kỷ cương, mẹ chín bỏ làm người, cha phải cầm cân nảy mực. Cuộc sống đòi buộc cha lăn lộn với đời để kiếm tìm miếng cơm manh áo cho gia đình.
Cha thường xuyên phải xa gia đình, xa con cái, nên tình cảm đôi khi cũng lạt hơn mẹ.
Cha còn thẳng tay trừng phạt những đứa con thiếu ý chí vươn lên, lười biếng, vô dụng.
Cha luôn đòi đứa con phải tự bước đi trên đôi chân của mình, cho dù có té ngã, vẫn phải một mình đứng dậy. Đó chính là một tình thương mà chỉ có người cha mới rèn nên cho con tính đoan trang, tính mực thước và nghị lực khi bước vào đời vốn dĩ luôn ngập tràn những khó khăn.
Nhưng đáng tiếc, chỉ khi nào mất cha, người con mới cảm thấy mất núi Thái Sơn, mất đi cái nóc cột trụ gia đình.
Mất cha, người con mới ngậm ngùi nói rằng:
Còn cha, gót đỏ như son
Mất cha, gót mẹ, gót con đen sì.
Hay:
Thương cha lam lũ một đời,
Tìm trong xa vắng những lời xa xưa.
Bồng bềnh gió đẩy mây đưa,
Bơ vơ con đứng, bóng mưa ngập lòng. (Nguyễn Ánh Hồng)
Vâng, đời của những người làm con sẽ trở nên trống vắng lạc lõng vô cùng nếu như một ngày kia cha mẹ vĩnh viễn ra đi, bỏ lại thân xác trong nấm mồ cô đơn lạnh lẽo. Lúc đó, lòng con lại dâng trào một nỗi buồn mênh mông sâu lắng:
Thấy bơ vơ lạc lõng dấy trong lòng
Khi chợt nhớ mẹ già không còn nữa.
Bởi vì:
Mẹ ơi, trên vạn nẻo đường
Con đi, mới hiểu tình thương mẹ hiền.
Đời con xuôi ngược bao miền
Nhưng tình của mẹ là nguồn yêu thương.
Bởi thế, đạo làm con luôn mời gọi chúng ta hãy thờ cha kính mẹ, để mai này, chúng ta khỏi phải xót xa mà nói rằng:
Tình thương xuôi chảy một miền
Nhưng con nào biết giữ niềm kính yêu
Con nay hầu mẹ tuổi chiều
Nuôi cha dưỡng mẹ, ít nhiều kể công.
Và với lòng hiếu kính đang trào dâng trong ngày Mồng Hai Tết, có lẽ ai trong chúng ta cũng thầm mong ước cho cha mẹ mãi mãi ở cùng chúng ta:
“Ngày đêm khấn nguyện cầu Trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con”.
Cầu cho cha mẹ sống đời với con, đó là tâm nguyện của tất cả những người con dành cho cha mẹ. Bởi lẽ không có một tình con người nào sâu đậm, gắn bó, chân thành bằng tình cha mẹ yêu con, và càng không có một tình yêu nào trên trái đất này có thể thay thể được tình phụ mẫu yêu con, mà bài cầu cho cha mẹ của Linh mục Nguyễn Duy đã lột tả.
“Này chúng con sinh vào đời nhờ có tay của mẹ cha. Là Thái Sơn cao xa cao xa, là Biển Đông bao la bao la, như một rừng hoa ngát hương cả bốn mùa. Ôi tình mẹ cha nói lên tình Chúa. Đời chúng con yên vui hân hoan, nhờ mẹ cha gian nan lo toan, trong giọt mồ hôi có chung cả máu hồng, luôn dạy lòng con biết câu mặn nồng.
Rồi lớn lên, con vào đời, gặp biết bao nhiêu người thương. Dù có ai hy sinh cho con. Dù được ai cho mâm cơm ngon, đi gần về xa, thấy đâu một mái nhà, như nhà mẹ cha thiết tha từ ấy. Rồi lớn lên, con xây non cao, vượt biển khơi bay lên trăng sao. Khi về nhà xưa với cha và với mẹ, vẫn là trẻ thơ bé như ngày nào”
Vâng, lời ca như muốn mời gọi chúng ta hãy sống trọn tình con thảo ngay từ hôm nay. Hãy sống ngoan hiền bên những người cha mẹ đang còn trẻ để hưởng nếm giây phút ngọt ngào mà ai đó nói rằng: là chùm khế ngọt cho con trèo hái mỗi ngày.
Hãy sống thảo hiếu, quan tâm chăm sóc các đấng sinh thành khi đã còng lưng vì một đời lam lũ cho đoàn con.
Vâng, hãy tạ ơn Chúa đi, hãy sống cho trọn vẹn đạo làm con, trọn nghĩa tình với cha mẹ mình, vì cha mẹ là món quà thiêng liêng và quí giá nhất, tình cha mẹ là cái gì rất cao siêu lành thánh, mà lại thật thân mật gần gũi, được Chúa dành cho chúng ta.
Nguyện xin Chúa chúc lành và trả công cho các bậc sinh thành và ước gì những ngừơi con hôm nay đang vinh dự được chúc mừng tuổi mới của cha mẹ, thì cũng biết sống hiếu thảo để đền đáp ân nghĩa cù lao chín chữ mà cha ông ta đã từng khuyên răn rằng:
Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ngời ngời biển Đông
Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi.
Amen.
+++++++++
Note: Chín chữ cù lao, tức là chín điều khó nhọc của cha mẹ sanh dưỡng con cái.
Chín chữ cù lao gồm:
1. Sinh: Sanh đẻ.
2. Cúc: Nâng đỡ.
3. Dục: Dạy dỗ.
4. Phủ: Vuốt ve triều mến.
5. Xúc: Cho bú sữa.
6. Trưởng: Nuôi cho khôn lớn.
7. Cố: Trông nom.
8. Phục: Ôm ấp.
9. Phúc: Bảo vệ.
9. Hiếu kính cha mẹ--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
Hôm nay Mồng Hai Tết Kỷ Sửu. Hội thánh Việt nam muốn dùng ngày này cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà cha mẹ với mục đích nhắc nhở và khuyến khích con cháu hãy tỏ lòng hiếu kính với ông bà cha mẹ. Nhân ngày đầu năm, chúng ta hãy cùng nhau suy niệm về giới răn thứ bốn của Chúa và cố gắng đem ra thực hành trong đời sống, nhất là trong dịp đầu năm này.
I. LỜI CHÚA DẠY.
1. Điều răn thứ bốn.
Trong mười điều răn, Thiên Chúa đã dành hẳn điều răn thứ bốn nói về lòng hiếu thảo của con cháu đối với ông bà cha mẹ, trước các điều răn hướng về con người. Đây không phải là lời khuyên mà là một luật buộc phải thi hành như các điều răn khác.
Vậy hiếu kính cha mẹ là gì? Theo giáo lý Công giáo, hiếu kính cha mẹ là phải yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ khi còn sống và đã qua đời (Theo cuốn Giáo lý Tân định). Hôm nay Giáo hội Việt nam muốn chúng ta hãy tỏ lòng hiếu kính đối với tổ tiên, ông bà cha mẹ trong cuộc sống, nhất là trong dịp Tết nguyên đán này.
2. Sách Huấn ca dạy.
Sách Huấn ca đã đề cập đến lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ. Theo tác giả# Ben Sira, lòng hiếu thảo đối với cha mẹ đem lại nhiều lợi ích:
– Được đền bù tội lỗi.
– Được con cái cháu chắt thảo hiếu lại.
– Sẽ được Chúa nhận lời.
3. Gương Chúa Giêsu.
Thánh Luca cho chúng ta biết Đức Giêsu đã làm gương cho chúng ta về lòng hiếu thảo đối với thánh Giuse và Đức Maria tại Nazareth, mặc dù chỉ bằng một câu rất vắn tắt:”Rồi Ngài theo cha mẹ trở về Nazareth và vâng lời các Ngài”(Lc 2, 51)
4. Lời khuyên của thánh Phaolô.
Trong thư gửi cho tín hữu Êphêsô, thánh Phaolô khuyên bảo con cái:”Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này”(Ep 6, 1-3).
II. CHỮ HIẾU NGÀY XƯA.
Theo truyền thống Đông phương, chữ Hiếu được đề cao trong đời sống gia đình và ngoài xã hội, vì xã hội này chịu ảnh hưởng sâu xa nền luân lý Khổng Mạnh. Đức Khổng Tử đã dạy môn sinh của mình phải phụng dưỡng cha mẹ, quạt nồng ấp lạnh, tối sớm chăm nom:
Tử viết:”Phụ mẫu tại bất viễn du,
Du tất hữu phương”.
Đức Khổng Tử nói: cha mẹ còn sống không nên đi chơi xa, và đi đâu thì phải cho biết có nơi có chốn.
Ngài còn đặt ra nhiều phong tục rất tỉ mỉ và phiền toái để tỏ lòng hiếu với cha me như việc ma chay, tang chế, kiêng kỵ… Ngày nay nhiều điều không còn phù hợp nữa.
Theo tục lệ ngày Tết, con cháu dù ở nơi xa xôi cũng phải về họp mặt cùng ông bà cha mẹ vì ngày này được coi là linh thiêng. Ai vắng mặt không có lý do chính đáng bị coi như là bất hiếu.
III. CHỮ HIẾU NGÀY NAY.
Xưa nay, chữ Hiếu rất quan trọng đối với người Việt nam. Theo học thuyết Khổng Mạnh, chữ Hiếu là nhân đức làm đầu của đạo con cái. Và trong các tội phạm đến cha mẹ thì bất hiếu là tội lớn nhất. Người Việt nam đã tôn phong chữ Hiếu lên thật cao, thành một đạo khi người ta nói:
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho trọn chữ Hiếu mới là ĐẠO CON.
Hai từ ngữ THỜ và KÍNH là hai từ dùng trong những việc làm của tôn giáo. Thờ kính cha mẹ là có hiếu với cha mẹ, và người ta nâng chữ Hiếu lên thành ĐẠO, đạo làm con. Do đó, chúng ta phải ý thức rằng thảo kính cha mẹ không còn là những tình cảm chủ quan tùy tiện, cũng không phải chỉ là lẽ công bằng mà là một ĐẠO. Mà lỗi đạo là phạm tội chứ không phải chỉ là một sự sơ sót.
Theo điều răn thứ bốn thì con cái phải thảo hiếu cha mẹ, nhưng ngày nay người ta coi thường điều răn này, có người cho là lỗi thời trong thời đại tiến bộ, văn minh và dân chủ này. Con cái đến tuổi khôn là đã muốn sống độc lập đối với cha mẹ, không cần sự hướng dẫn bảo ban của các ngài. Người ta quên rằng:
“Khôn đâu đến trẻ, khỏe đâu đến già” (Tục ngữ)
Cha mẹ có tuổi thì già yếu thật, nhưng kinh nghiệm và khôn ngoan thì nhiều hơn tuổi trẻ. Vì thế người ta mới nói:
“Người 70 còn phải học người 71″(Tục ngữ)
Ngày nay, cha mẹ già trở nên gánh nặng cho con cái, không muốn nuôi dưỡng cha mẹ trong tuổi già. Để bớt gánh nặng, con cái chỉ việc gửi cha mẹ đến viện dưỡng lão, nếu tốt thì ít lâu gửi cho một số tiền, hay một món quà. Do đó, cha mẹ phải sống cô đơn. Thực ra cha mẹ cần tình thương hơn là tiền bạc, sự viếng thăm cần hơn của cải.
Công ơn cha mẹ như trời như bể,
Con nuôi cha mẹ con kể từng ngày.
Truyện: Tờ hóa đơn.
Có một bà mẹ nọ, vì muốn khuyến khích đứa con nhỏ của mình chăm lo việc nhà, nhất là những công việc nhỏ nhặt, nên hầu như lúc nào bà cũng thưởng cho nó một món tiền nhiều ít tùy theo công việc nặng nhẹ.
Lần kia, suốt cả một tuần, bà mẹ đau liệt giường. Thế là em nhỏ phải giúp mẹ trong nhiều công việc, nhưng không thấy mẹ tính thù lao. Cuối tuần, em nhỏ viết một cái hóa đơn ghi những công tác chưa được nhận tiền thưởng gồm: xách nước 2 đồng, nấu cơm 3 đồng, giặt quần áo 5 đồng… Tất cả các thứ tính chung trong một tuần lễ là 80 đồng. Xong, em rón rén bước vào phòng, dúi tờ hóa đơn vào tay bà mẹ.
Ba phút sau, bà mẹ đưa cho em bé 80 đồng kèm theo một tờ hóa đơn khác, trong đó ghi: công sinh, công nuôi dưỡng, công dạy dỗ, công học hành, công thầy thuốc mỗi khi đau bệnh… x 10 năm: chưa có mục nào được thanh toán cả. !
Cầm tờ hóa đơn trong tay, em nhỏ chợt hiểu, vội chạy vào xin lỗi mẹ.
Lại còn cách xưng hô với cha mẹ!
“Cha mẹ” hai từ ấy linh thiêng và cao quí dường nào. Thế nhưng nhiều người trong chúng ta cố ý hay vô tình quên đi ý nghĩa cao quí đó. Không ít bạn đã gọi các bậc sinh thành của mình bằng từ “ông già, bà già, ổng, bả”… thậm chí còn có bạn gọi là “ông bô, bà bô”.
Phần lớn những ngôn từ này thường phát ra từ miệng của phái nam. Tuy nhiên ở nữ cũng không kém. Chúng ta hãy nghe một bạn nữ nói:”Ông già mình chịu khó lắm. Suốt đời chỉ lo cho mình ăn học không à”! Nghe xong, thấy có điều chẳng xuôi. Có cái gì đó mâu thuẫn giữa lời nói và tấm lòng của người con ấy.
Thật tội nghiệp! Nếu cha mẹ còn trẻ măng đã bị “lão hóa” bởi chính cái miệng của đứa con mình rứt ruột sinh ra.
IV. QUYẾT TÂM CỦA CHÚNG TA.
Truyền thống của cha ông chúng ta rất coi trọng chữ hiếu. Để đánh giá tư cách của một người nào, các cụ ngày xưa thường dựa vào cách người đó đối xử với cha mẹ, anh chị em theo tinh thần “Hiếu đễ”. Thậm chí, các cụ coi việc báo hiếu còn quan trọng hơn cả việc đi tu:
Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha kính mẹ, ấy là chân tu. (Ca dao)
Mặt khác, đối với người Kitô hữu, việc thảo kính cha mẹ không chỉ là một bổn phận tự nhiên, nhưng còn là một đòi hỏi của Thiên Chúa. Nhìn lại bản thập giới, chúng ta thấy ngay sau ba giới răn nói về bổn phận của con người đối với Thiên Chúa, thì giới răn “Thảo kính cha mẹ” được đặt đầu tiên trong các giới răn nói về mối tương quan của con người với nhau. Điều đó cho thấy, việc hiếu thảo với cha mẹ là bổn phận hàng đầu của mỗi người Kitô hữu.
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu cũng đã lặp lại giới răn này và khẳng định đó chính là ý muốn từ ban đầu của Thiên Chúa và con người không có quyền thay đổi, Ngài nói:”Thiên Chúa dạy:”Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử”.
Truyện: Ý kiến của tù trưởng.
Trong quyển tiểu thuyết nhan đề “Cội rễ”, tác giả E. Heili viết như sau:
Ở một bô lạc bên Phi châu, người thanh niên khi đến tuổi trưởng thành sẽ được gọi là “chiến sĩ”. Tuy nhiên, muốn được mang danh hiệu này, anh phải trải qua một cuộc sát hạch, thường là thả vào rừng sâu một thời gian.
Năm ấy, có ba thanh niên đến tuổi trưởng thành và rất muốn được gọi là “chiến sĩ”. Ba chàng đã đến trình diện vị tù trưởng. Vị tù trưởng chúc mừng và hỏi người thứ nhất:”Trong một tháng qua, anh đã làm được những gì”? Người thanh niên thưa:”Tôi đã giết được một con hổ dữ”.
Tù trưởng khen “tốt” rồi bảo anh đứng sang một bên và hỏi người thứ hai:”Trong tháng qua, anh đã làm được những gì? Anh có giết được con hổ dữ nào không”? Người thanh niên đáp:”Thưa ngài, hổ dữ thì tôi không giết được, nhưng tôi cũng đã chém được một con trăn to”.
Tù trưởng khen “tốt”, bảo anh đứng sang một bên và hỏi người thứ ba:”Một tháng qua, anh đã làm được những gì? Anh có chém được một con hổ dữ hay một con trăn nào không”? Người thanh niên đáp:”Thưa ngài, hổ hay trăn thì tôi không chém được”. Tù trưởng hỏi tiếp:”Thế anh làm được gì”? Anh đáp:”Thưa tôi kiếm được một tảng mật ong to”. Tù trưởng hỏi:”Ngươi kiếm mật ong để làm gì”? Người thanh niên đáp:”Thưa ngài, tôi có mẹ già, mà nhà tôi lại nghèo, nên tôi kiếm mật ong để cho mẹ tôi bồi dưỡng”.
Nghe xong, vị tù trưởng rút con dao ra trao cho anh và nói:”Ta phong anh làm chiến sĩ, bởi là người thì phải biết sống hiếu thảo với cha mẹ”.
Hôm nay Giáo hội Việt nam kính nhớ ông bà tổ tiên nhân dịp đầu năm. Kính nhớ các tiền nhân chính là thể hiện tinh thần đạo hiếu của dân tộc Việt nam “Uống nước nhớ nguồn”, “Aên quả nhớ kẻ trồng cây”. Các ngài đã tận tụy nuôi dưỡng, giáo dục chúng ta nên người, đặc biệt là giúp chúng ta biết Chúa là Đấng đáng tôn thờ và yêu mến. Công ơn của tổ tiên ông bà cha mẹ đòi hỏi chúng ta phải báo hiếu bằng cách cầu nguyện cho các ngài trong ngày đầu Xu6n này, đồng thời tiếp tục những gì các ngài đã làm: hãy tận tâm săn sóc dạy dỗ con cháu chúng ta nên người
Để khích lệ chúng ta tỏ lòng hiếu thảo đối với tổ tiên, ông bà cha mẹ, thiết tưởng chúng ta nên nhắc lại một câu rất hay trong sách Huấn ca:”Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu”.
10. Đền đáp công ơn của tổ tiên--Lm Giuse Đinh Tất Quý
Anh chị em thân mến
Hôm nay là ngày mồng hai tết. Giáo Hội Mẹ của chúng ta muốn chúng ta dùng ngày đầu năm đặc biệt này để nhớ đến công ơn của tổ tiên, ông bà cha mẹ của chúng ta.
I. Công ơn của Tổ tiên Ông Bà cha mẹ thật không sao mà kể cho hết, như trời như biển. Công cha chẳng khác gì núi Thái - Nghĩa mẹ chẳng khác gì như nước trong nguồn.
Ngày xưa Đức Phật đã dạy các đệ tử: “Trên đời này có hai người mà ta không thể trả hết ơn được là cha và mẹ ta. Dù có cõng cha mẹ trên vai suốt cả trăm năm cuộc đời, hay có tán xương lóc thịt để làm thức ăn cho cha mẹ cả trăm ngàn kiếp, cũng chưa đáp đền được công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, vì công ơn cha mẹ to lớn lắm” (Kinh Vu Lan).
+ Có rất nhiều câu chuyện cảm động về những lo lắng của cha mẹ dành cho con cái. Nhưng câu chuyện về Mạnh Tử là một trong những câu truyện hay nhất. Thầy Mạnh Tử lúc còn nhỏ đã may mắn có được một người mẹ hết lòng lo lắng dạy dỗ cho mình. Truyện kể rằng hồi đó nhà Thầy Mạnh Tử ở gần nghĩa địa. Mẹ thầy Mạnh Tử thấy con bắt chước người ta đào bới rồi lăn ra khóc. Bà liền dời nhà đến gần chợ. Tại đây bà lại thấy con bắt chước người ta sống nghịch ngợm và gian dối. Bà cho đây không phải là chỗ thích hợp cho con của bà. Bà lại dời nhà đi nơi khác. Lần này thì chuyển nhà của bà đến ở gần trường học. Ở đây Mạnh Tử thấy các bạn trẻ cùng lứa tuổi đua nhau tập lễ phép và học chữ nghĩa thì cậu cũng bắt chước. Bà mẹ thấy như vậy mừng quá và bà quyết định ở lại đây luôn.
+ Tin Mừng không nói cho chúng ta nhiều về việc Thánh Giuse và Đức Mẹ đã lo lắng cho Chúa Giêsu như thế nào, nhưng chắc chắn Chúa Giêsu đã được Thánh Giuse và Đức Mẹ giáo dục thật kỹ. Điều này quả không ai còn có thể hoài nghi.
II. Nếu công ơn của tổ tiên Ông Bà Cha mẹ lớn lao như thế thì con cái phải làm gì để đền đáp ?
Trong bức tâm thư gửi các gia đình nhân dịp năm quốc tế gia đình năm 1994 số 18 Đức Thánh Cha Gioan Phao-lô đã viết như sau:”Hãy thảo kính cha mẹ bởi vì theo một nghĩa nào đó, các vị ấy đối ngươi là những người đại diện của Chúa, những người đã ban tặng sự sống cho ngươi, đã đưa ngươi vào cõi sống nhân linh, vào trong một dòng dõi, một quốc gia, một nền văn hóa. Sau Thiên Chúa các vị ấy là những ân nhân đầu tiên của ngươi. Nếu chỉ một mình Thiên Chúa là đấng tốt lành, nếu chỉ mình Ngài là Đấng thiện hảo, thì cha mẹ ngươi cũng được thông phần một cách độc nhất vô nhị vào chính sự tốt lành tối thượng ấy. Bởi đó ngươi hãy thảo kính Cha mẹ ngươi”.
Nhưng bằng cách nào kính thưa anh chị em ?
Có nhiều cách nhưng tôi chỉ xin được đề cập một vài cách cụ thể này:
a- Trước hết là phải biết ơn ông bà cha mẹ tổ tiên mình
Biết ơn là một trong những giá trị nền tảng cao quí nhất của cuộc sống làm người và đồng thời nó cũng là biểu hiện rõ rệt nhất của một con người biết sống với tư cách làm người của mình.
Trong Cựu Ước Thiên Chúa đã dùng cả một giới răn để nói về vấn đề này. Đó là giới răn thứ tư. “Ngươi hãy thảo kính cha mẹ ngươi”
Ngược lại vô ơn là thái độ đáng lên án. Đức Cha Bùi Tuần trong cuốn “Nói với chính mình” có viết những lời rất nặng như sau:”Người ta cho con chó một cái gì nó còn ngoáy ngoáy cái đuôi để tỏ lòng biết ơn. Con người mà không có lòng biết ơn thì không bằng con chó” Hơi nặng một chút nhưng thật là thấm thía.
Dân gian có một câu truyện đã được truyền lại từ đời này qua đời kia như thế này. Có một đôi vợ chồng kia làm ăn khá giả nhưng lại cư xử rất keo kiệt với những người trong gia đình. Trong nhà có một ông bố già. Vì già - đã trên 80 tuổi - cho nên mắt đã mờ, sức đã yếu tay chân không còn được khoẻ mạnh như hồi còn trẻ. Chính vì vậy mà mỗi khi ăn uống ông thường đánh rơi ly chén xuống đất làm bể rất nhiều ly chén. Người con dâu thấy như vậy nên cứ cằn nhằn hoài với chồng. Người cha tuy mắt đã mờ nhưng tai còn rất thính. Ông rất buồn nhưng không thế làm cách nào khác hơn. Ngồi ăn mà không cầm được nước mắt. Rồi một hôm khi chị ta xúi chồng đẽo cho cha một cái chén bằng gỗ để tiện cho việc ăn uống.
Câu truyện tưởng như thế là suôn sẻ nhưng thật không ngờ là một ngày kia khi hai vợ chồng có việc phải đi xa trở về. Khi vào trong nhà thì nghe thấy có tiếng gì như những tiếng đục đẽo vọng ra từ ở một góc nhà. Hai vợ chồng lại gần thì thấy đứa con trai cưng của mình đang cầm một cái chén bằng gỗ đã được đẽo gần xong. Bà mẹ tò mò hỏi thì đứa con ngây thơ trả lời:
- Con làm cái chén này để mai sau ba má có chén mà dùng giống như chén ba má đẽo cho ông nội đang dùng vậy đó.
Kính thưa anh chị em. Không biết anh chị em có còn nhớ không chứ riêng tôi, tôi rất nhớ câu ngạn ngữ đã có từ bao thế hệ như thế này: “Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó - Vâng sóng trước đổ đâu thì sóng sau sẽ đổ ở đó” anh chị em.
Đó là điều thứ nhất.
b - Điều thứ hai là phải hiếu thảo với ông bà cha mẹ.
+ Cách hiếu thảo tốt nhất là vâng lời cha mẹ trong những điều hợp lẽ nhất là khi còn trẻ.
Tin Mừng tóm gọn cả cuộc đời thơ ấu của Chúa Giêsu ở Nazareth bằng những lời như thế này: ”Ngài vâng lời và chịu lụy hai ông bà”
Tại tiệc cưới Cana vì Đức Mẹ mà Chúa Giêsu đã làm phép lạ.
+ Tiếp đến là hãy biết làm vui lòng cha mẹ.
Đời nhà Hán bên Trung hoa có một người nổi tiếng là có lòng hiếu thảo với cha với mẹ. Đó là Bá Du. Hồi còn nhỏ mỗi khi làm điều gì sai quấy mà bị mẹ đánh thì Bá Du luôn tươi cười vui vẻ nhận lỗi, không bao giờ dám cãi. Nhưng một ngày nọ sau khi bị mẹ sửa phạt bằng roi thì Bá Du oà lên khóc. Thấy thế bà mẹ thắc mắc hỏi:
- Bao nhiêu lần mẹ đánh con để dạy con mà con không khóc thế thì tại sao lần này con lại khóc ?
Bá Du lễ phép trả lời:
- Thưa mẹ, những lần trước mẹ đánh con đau lắm thế nhưng con không khóc vì con thấy sức của mẹ còn mạnh. Lần này mẹ đánh con, tuy không đau bằng những lần trước nhưng con lại khóc vì con thấy sức mẹ không còn khoẻ như xưa…mẹ đã già yếu. Con khóc vì thương mẹ chứ không phải vì giận hờn.
+ Cuối cùng nếu có thể được thì phải lo phụng dưỡng cho cha mẹ để cha mẹ được sống an vui khi tuổi đã xế chiều.
Dương Phủ sinh ra trong một gia đình nghèo. Nhưng ông để hết tâm phụng dưỡng song thân.
Một hôm, ông nghe nói bên đất Thục có ông Vô Tế đại sĩ. Dương Phủ bèn xin từ biệt song thân để đến thụ giáo bậc hiền triết.
Đi được nửa đường, ông gặp một Vị lão tăng. Vị lão tăng khuyên Dương Phủ: “Gặp được bậc Vô Tế chẳng bằng gặp được Phật”.
Dương Phủ hỏi vặn lại: “Phật ở đâu ?”. Vị lão tăng giải thích: “Nhà ngươi cứ quay trở về, gặp người nào mặc cái áo sắc như thế này, đi đôi dép kiểu như thế này thì chính là Phật đấy”.
Dương Phủ nghe lời quay về. Đi dọc đường, ông chẳng gặp ai như thế cả. Về đến nhà thì đã khuya, Dương Phủ gõ cửa gọi mẹ. Người mẹ mừng rỡ, khoác chăn, đi dép ra mở cửa. Bấy giờ, Dương phủ mới chợt nhận ra nơi mẹ mình hình dáng của Đức Phật mà vị lão tăng đã mô tả. Từ đấy, Dương Phủ mới nhận ra rằng cha mẹ trong nhà chính là Phật.
Thứ nhất thì tu tại gia
Thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa.
Tu đâu cho bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ mới là đạo con.
Một trong những hình ảnh đẹp nhất về cuộc đời của Chúa Giêsu là cảnh Chúa Giêsu trao phó Đức Mẹ cho thánh Gioan ở dưới chân cây Thập giá. Trước khi nhắm mắt Chúa còn cẩn thận gửi gắm người mẹ của mình cho người môn đệ yêu quí nhất để Gioan thay cho Chúa mà lo cho Đức Mẹ. Thật hiếm có một việc làm nào đẹp như thế.
Xin Chúa thánh hoá tất cả mọi gia đình Việt Nam. Xin Chúa ban cho bậc cha mẹ ý thức được trách nhiệm giáo dục của họ. Xin Chúa ban cho con cái lòng hiếu thảo để biết vâng phục, kính yêu và phụng dưỡng cha mẹ, nhất là trong lúc tuổi già của các ngài... Và xin cho mọi gia đình Việt Nam luôn biết tranh đấu để bảo vệ sự hiệp nhất trong gia đình và biến gia đình thành Giáo Hội nhỏ của Chúa.
11. “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ”--Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
Các môn đệ đã không rửa tay trước khi dùng bữa, nhưng người ta lại đi chất vấn vị Thầy của họ, là Đức Giê-su: “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân, không chịu rửa tay khi dùng bữa?”(c. 2)
Như thế, các môn đệ làm điều không đúng dưới mắt của những người tuân giữ và bảo vệ Truyền Thống, nhưng người nghe lời than trách, lại là vị Thầy. Điều này có nghĩa là lời giảng của Thầy, cung cách hành xử của Thầy và chính bản thân của Thầy có vấn đề !
Đối với người Do Thái, rửa tay trước bữa ăn không phải là vấn đề vệ sinh, nhưng là một nghi thức thanh tẩy. Bởi vì, lương thực là ân huệ Thiên Chúa ban, nên phải chuẩn bị mình đển đón nhận. Hiểu như thế, nghi thức thanh tẩy này thật là có ý nghĩa trên bình diện thiêng liêng và cũng là một nghi thức tôn giáo nên bảo tồn. Và thật ra, chính chúng ta cũng làm như thế: trước bữa ăn, chúng ta làm dấu Thánh Giá, đọc lời nguyện xin Chúa chúc lành; khởi đầu Thánh Lễ, chúng ta xin Chúa thanh tẩy để trở nên xứng đáng lãnh nhận Lời và Mình của Đức Ki-tô như là lương thực; và theo Phụng Vụ Thánh Lễ, linh mục phải rửa tay trước khi cử hành nghi thức truyền phép, đồng thời đọc thầm: “Lạy Chúa, xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội con đã phạm xin Ngài thanh tẩy”» (x. Tv 51, 4).
Như thế, những người Pha-ri-sêu và Luật Sĩ thật có lí, khi lưu ý Đức Giê-su rằng, các môn đệ của Ngài đã không rửa tay trước bữa ăn. Cũng tương tự như các nhà chuyên môn về phụng vụ của chúng ta, hay những người yêu thích phụng vụ vẫn thường lưu ý hay góp ý người này người kia đã làm sai hoặc không làm một qui định chữ đỏ nào đó trong Sách Lễ Roma. Tuy nhiên, Đức Giê-su lại bênh vực các môn đệ của mình. Vậy, đâu là vấn đề của những người Pha-ri-sêu và Luật sĩ ? Và phải chăng, vấn đề của họ cũng có thể là vấn đề của chúng ta ?
Nghi thức thanh tẩy dù có ý nghĩa và quan trọng, nhưng cũng chỉ là một cách diễn tả của con tim, là một lời mời gọi hướng tới một thái độ nội tâm. Thật vậy, giữ nghi thức và giữ thật đúng qui định nói lên điều gì hay sẽ đem lại hoa trái nào, khi mà trong lòng trống rỗng, hay có những tâm tình hay cảm nghĩ bất xứng hay không phù hợp ? Như Đức Giê-su đã nói trong Bài Giảng Trên Núi: “Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5, 23-24). Sai lầm là ở chỗ, người ta bị xét đoán là thanh sạch hay nhơ uế tùy theo việc giữ hay không giữ nghi thức rửa tay hay những nghi thức khác ; như thế, nghi thức trở thành tiêu chuẩn xét đoán về tương quan giữa con người và Thiên Chúa, và do đó, giữa con người với nhau, bởi vì người ta sẽ cư xử đặc biệt với những « người nhơ uế », những « người tội lỗi ».
Đối với Đức Giê-su, điều làm cho người ta trở nên thanh sạch hay nhơ uế không phải là điều ở bên ngoài, nhưng là điều trong nội tâm. Trước đó, Đức Giê-su đã trích lời Kinh Thánh này : « Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân » (Mt 15, 8-9). Và trong các Mối Phúc, Đức Giê-su nói: “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (5, 8).
Ước gì chúng ta có được một con tim biết sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa ; vì đó là con đường duy nhất làm cho con tim của chúng ta trở nên gần gũi với Thiên Chúa, làm cho các việc làm, các thực hành đạo đức của chúng ta trở nên đáng yêu dưới mắt Chúa. Nhưng ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về sự bất lực trong nỗ lực điều khiển con tim, trong việc làm chủ những diễn biến nội tâm, và nhất là những diễn biến ở những tầng lớp sâu thẳm của tâm hồn. Chỉ có Thiên Chúa, ngang qua Lời và Mình của Đức Giê-su, mới có thể làm cho con tim của chúng ta nên thanh sạch, mới có thể tái tạo và làm cho con tim của chúng ta nên mới. Xác tín này làm cho chúng ta bình an và khiêm tốn.
Truyền thống và Lời Chúa
Trong bài Tin Mừng chúng ta vừa được nghe công bố, Đức Giêsu nói hai lần về cùng một điều, đó là tương quan giữa truyền thống và Lời Chúa. Lần thứ nhất về chuyện rửa tay trước khi dùng bữa: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa?”(c. 3)
Lần thứ hai, nghiêm trọng hơn, vì liên quan đến luật thảo kính cha mẹ của Mười Điều Răn: “Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa.”(c. 6b)
Trong câu nói này, Đức Giêsu coi giới răn như là lời Thiên Chúa. Trong Tin Mừng theo thánh Mác-cô, Đức Giê-su còn thêm: “Các ông còn làm nhiều điều khác giống như vậy nữa !” (Mc 7, 13) Truyền thống là một giá trị qui chiếu quan trọng, hơn nữa là một ơn huệ, bởi vì đó là một cách sống giới răn của Chúa, sống Lời Chúa của một cộng đoàn trong một thời gian và nơi chốn đặc thù. Nhưng với thời gian, các việc thực hành tốt đẹp này trở thành máy móc, nghĩa là nghi thức tự động tạo ra sự thanh sạch, trở thành quan trọng hơn so với chính Lời Thiên Chúa, trở thành ngẫu tượng.
Chúng ta cũng có rất nhiều truyền thống ở mọi cấp độ: Giáo Hội, Dòng tu, tu hội, dân tộc, cộng đoàn, nhóm… Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhận định lại toàn bộ dưới ánh sáng của Lời Chúa ban sự sống và diễn tả lòng thương xót.
Giới răn “Thờ cha kính mẹ”
Tại sao, giới răn “thờ cha kính mẹ” mang tầm mức Lời Chúa, vượt trên mọi lề luật, thói quen, tập quán phát xuất từ Truyền Thống?
Bởi vì, năng động sống « uống nước nhớ nguồn, làm con phải hiếu », thuộc về nhân tính, vốn được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. Như thế, đạo hiếu từ ngàn xưa của Dân Tộc Việt Nam đã phát xuất và chất chứa Lời Thiên Chúa. Ngoài ra, giới răn này không chỉ có nền tảng nhân bản, nhưng còn có nền tảng thiêng liêng nữa. Bởi vì:
“Thờ cha kính mẹ” là con đường dẫn con người đến việc tin nhận Thiên Chúa. Thực vậy, tổ tiên ông bà và cha mẹ sinh ra chúng ta, nhưng các vị không phải là nguồn sự sống; hơn nữa, sự sống rất nhiệm mầu và chỉ có thể đến từ Thiên Chúa mà thôi, như chúng ta vẫn nói: cha mẹ sinh con, trời sinh tính. Nhất là trong việc giáo dục đức tin ngày nay, giáo dục lòng biết ơn là con đường tốt nhất dẫn người trẻ đến kinh nghiệm tin nhận Thiên Chúa: biết ơn, biết ơn đối với cha mẹ, đối với cuộc đời, đối với Giáo Hội, và đối với chính Thiên Chúa, cội nguồn và điểm tới của mọi sự.
“Thờ cha kính mẹ” là con đường dẫn đến hiểu biết khuôn mặt đích thật của Thiên Chúa, một khuôn mặt rất dễ bị bóp méo bởi những hệ thống tư tưởng, khuynh hướng tuyệt đối hóa những điểm tùy phụ và bởi chính luật lệ. Bởi vì Thiên Chúa là tình yêu và “Đấng Hay Thường Xót”; và khuôn mặt này được phản ánh tốt nhất nơi cha mẹ. Đức Giê-su cũng đã khởi đi từ tình yêu của cha mẹ, để giúp chúng ta hiểu đúng về Thiên Chúa: “Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Mt 7, 11).
Và cuối cùng, một thái độ “thờ cha kính mẹ” sẽ khơi dậy nơi chúng ta lòng ước ao Thiên Chúa, bởi vì chỉ có Thiên Chúa mới làm thỏa mãn niềm hi vọng gia đình tái đoàn tụ mãi mãi bên nhau trong tình yêu thương mà thôi.
12. Mừng xuân với những liên hệ
Dịp Tết, ta thường gửi thiệp chúc Tết, thăm viếng và tặng quà cho nhau. Những sinh hoạt ngày Tết như thế là những sinh hoạt của các mối quan hệ. Nếu không có nhưng liên hệ, ngày Tết sẽ mất đi ý nghĩa của nó. Tết là của người khác chứ không phải của riêng mình. Vì thế, đối với trẻ em,Tết là những ngày hội vui. Nhưng đối với người trưởng thành, Tết là một trách nhiệm:
Người ta sống được ở đời là nhờ những liên hệ. Không ai có thể sống một mình. Ta cần có cha mẹ để mặt ở đời. Ta cần có thầy cô để khai thông trí hoá. Ta cần có bạn bè để chia sẻ buồn. Ta cần người nông dân để có lúa gạo, rau trái. Ta cần có thợ may để có quần áo. Ta cần người quét đường để đường phố được sạch sẽ. Có thể tất cả những gì ta có được: từ sự sống đến kiến thức, từ cơm ăn áo mặc đến xe cộ, thuốc men, tất cả đều nhờ người khác.
Những mối liên hệ giống như những con đường chuyên chở đến cho ta những chất liệu nuôi dưỡng cuộc sống. Những mối liên hệ là những mạch máu đem máu đỏ đến tận những tế bào bé nhỏ nhất trong thân thể ta. Những mối liên hệ chính là chiếc tay vịn giúp ta leo lên những bậc thang làm người và thành đạt.
Đời ta có nhiều liên hệ. Có những liên hệ chiều rộng giúp cho cuộc đời thêm tươi đẹp phong phú. Có những liên hệ chiều sâu tạo bản chất cuộc đời. Gia đình với ông bà cha mẹ tổ tiên nằm trong mối liên hệ chiều sâu của đời ta. Không có ông bà cha mẹ tổ tiên, ta không có mặt ở đời. Ông bà cha mẹ là những hạt giống chịu vùi chôn dưới những lớp đất vất vả nhọc nhằn để cho cây đời ta được mọc lên xanh tươi. Ông bà cha mẹ đã tư nguyện quên bản thân mình, chịu mục nát như lớp phân bón cho cây đời chúng ta đơm bông kết trái. Ta là điểm tới của một quá trình phấn đấu gian nan dài đằng đẵng của ông bà cha mẹ. Nếu ví đời sống ta như một bông hoa thì những bông hoa ấy đã được tưới bằng những giọt mồ hôi và cả những giọt nước mắt của ông bà cha mẹ. Nếu ví đời ta như một toà nhà cao tầng thì ông bà cha mẹ chính là lớp nền móng chịu vùi chôn dưới lòng đất, còng lưng gánh chịu mọi sức nặng cho toà nhà đứng vững, phô trương vẻ đẹp với đời. Hạt mầm hiện hữu vì bông hoa sắp nở. Nền móng có mặt vì ngôi nhà sắp xây. Trọn một đời ông bà cha mẹ đều dành cho hạnh phúc của con cháu.
Đời sống mỗi người, vì thế, đều có một lịch sử rất dầy và rất sâu. Bề dầy ấy không chỉ đo bằng những trang sách của cuốn gia phả, nhưng còn đo bằng những tranh đời của bao thế hệ tổ tiên. Độ sâu ấy không chỉ đo bằng những cố gắng của bản thân, mà còn đo bằng bề sâu ân nghĩa của biết bao hi sinh vất vả của ông bà cha mẹ.
Ngày Tết là ngày của những mối liên hệ. Mùng Một Tết, chúng ta đã sống mối liên hệ với Chúa, nguồn gốc và cứu cánh của đời ta. Mùng hai Tết, Giáo hội muốn chúng ta sống mối liên hệ với ông bà cha mẹ, những người thay mặt Chúa, trực tiếp ban sự sống cho ta.
Sự sống là món quà nhất nên mối liên hệ với người ban sự sống cũng là mối liên hệ sâu nhất.
Tục lệ lập bàn thờ và kính nhớ tổ tiên trong ngày Tết là một nét văn hoá rất cao của người Việt Nam. Hình ảnh của ông bà cha mẹ trong nhà không chỉ nói lên sự sum họp của một gia đình đầm ấm, hình ảnh ấy còn nhắc ta về lòng biết ơn, cho ta nhìn thấy bề sâu bề dầy của lịch sử đời mình. Và vì thế giúp ta ý thức về trách nhiệm của mình đối với tổ tiên, đối với bản thân, và đối với những thế hệ kế tiếp.
Muốn xây một căn nhà thật cao thật đẹp, trước hết phải xây dựng nền móng vững chắc. Muốn xã hội tiến nhanh tiến mạnh, phải xây dựng gia đình vững chắc. Thờ kính tổ tiên, nhớ ông bà cha mẹ là nền tảng giúp xã hội tiến bộ vững mạnh.
Nếu những mối liên hệ là những con đường chuyển tải sự sống thì những liên hệ chiều sâu chính là những xa lộ huyết mạch. Nếu những mối liên hệ là những mạch máu nuôi dưỡng sự sống thì mối liên hệ chiều sâu chính là những động mạch chủ. Sửa chữa, củng cố và tăng cường những liên hệ gia đình chính là phát triển sự sống, phát triển xã hội.
Chính trong ý hướng đó mà Giáo hội, muốn ta sống tình gia đình, lòng biết ơn ông bà cha mẹ trong ngày mùng Hai Tết.
13. Lòng hiếu thảo với tiên nhân--Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Sách khải huyền có viết:” Phúc thay kẻ nhắm mắt lìa đời, đã lìa đời trong ơn nghĩa Chúa. Trải qua bao nhọc nhằn vất vả, giờ đây họ xứng đáng nghỉ ngơi. Vì công đức xưa kia vẫn còn theo họ mãi”(Kh 14, 13). Lời Kinh thánh giúp ta hiểu rõ của những người đi trước đã nhắm mắt lìa đời trong ân nghĩa Chúa. Niềm tin Kitô giáo dậy nhân loại, dậy mỗi người Kitô hữu rằng bổn phận của người còn sống có bổn phận và nghĩa vụ đối với những người đã khuất, đặc biệt đối với các bậc tiền nhân, tiên tổ, ông bà, cha mẹ. Đây cũng là điều răn thứ bốn trong mười thập giới của Đạo công giáo. Riêng đối với người Việt Nam vấn đề đạo hiếu có một tầm quan trọng đối với cá nhân, gia đình và họ hàng thân tộc.
NGƯỜI VIỆT NAM MANG NẶNG CHỮ HIẾU:
Đối với người Việt Nam chữ hiếu luôn đứng đầu trong mọi đức tính sẵn có của con người. Người Việt Nam vốn lấy đạo đức làm căn ban cho cuộc sống, cho bản thân, cho gia đình và cho dòng tộc của mình. Con cái thảo hiếu với cha mẹ lúc còn sống, khi cha mẹ đã khuất, người con hiếu thảo là người con luôn tưởng nhớ tới cha mẹ bằng việc cầu nguyện, xin lễ cho những người thân đã mất. Người Việt thường có bàn thờ gia tiên để tôn kính tổ tiên, ông bà cha mẹ đã qua đời. Sự hiếu thảo của con cái được thể hiện bằng nhiều cách như khi cha mẹ còn sống, con cái kính trọng, nuôi dưỡng, vâng phục cha mẹ và khi các vị đã mất, con cái cháu chắt lại tưởng nhớ tới các bậc tiền nhân trong những ngày giỗ, ngày kỵ, này tết nơi gia đình, nơi dòng tộc của mình. Người Việt Nam cũng không chỉ đóng khung trong gia tộc, gia đình mà họ còn đi xa hơn biết ơn cả đối với những người đã hy sinh để xây dựng quê hương, bảo vệ đất nước.
Tấm lòng tốt, sự biết ơn là một nét độc đáo trong nền văn hóa và đạo đức của người Việt Nam. Chính vì thế, người Kitô hữu Việt Nam đã cảm nghiệm sâu xa giới luật thứ bốn của đạo công giáo và hài hòa với truyền thống tôn kính, tưởng nhớ, ghi ơn những người đã có công với đất nước, quê hương, dân tộc.
NIỀM TIN KITÔ GIÁO:
Người Kitô hữu thể hiện chữ hiếu Kitô giáo bằng nhiều cách:khi cha mẹ còn sống, con cái chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ, khi cha mẹ đã khuất lòng hiếu thảo được thể hiện bằng việc cầu nguyện, dâng lễ, làm việc lành dành riêng cho cha mẹ đã qua đời. Việc chăm sóc mồ mả, nhớ ngày giỗ, ngày kỵ, hương nhang, nến đèn cho người chết cũng là một cách biểu tỏ lòng biết ơn đối với những kẻ đã khuất, đã chết. Xưa có quan niệm theo Chúa, theo đạo công giáo là bỏ tổ tiên, bỏ ông bà cha mẹ, quan niệm ấy đã lỗi thời vì xưa kia đã có ngộ nhận như thế. Nay, người công giáo là người nhận mọi người là anh em. Theo Chúa, theo đạo, người Kitô hữu như được dọn trước để mở rộng vòng tay đón nhận mọi người. Người Kitô hữu không chỉ đóng khung trong gia đình, gia tộc, họ hàng của mình mà họ còn có nhiều tổ tiên, ông bà, cha mẹ vì đạo Chúa bao gồm tất cả mọi người không loại trừ bất cứ ai. Trong tình yêu của Chúa mọi người đều là anh em với nhau. Đức ái Kitô giáo không phân biệt, không loại trừ bất cứ người nào.
Ngày mồng hai tết, Giáo Hội Việt Nam dành ngày này để kính nhớ tổ tiên, ông bà cha mẹ, đây là một việc làm thật đáng trân trọng và hữu ích vì trong những ngày tết, mọi người đều vui vẻ, hạnh phúc sum vầy, êm ấm để ăn tết, tưởng nhớ, dâng lễ và cầu nguyện cho những bậc tiền nhân là một nghĩa cử cao đẹp và là một nhắc nhớ cho mọi người hãy sống hiếu thảo, hãy thực hành giới luật thứ bốn của thập giới Kitô giáo. Sống đạo hiếu là nét son văn hóa và nét nổi bật đức tin của người Kitô hữu Việt Nam.
Lạy Chúa là Cha rất nhân từ, Chúa dậy chúng con phải giữ lòng hiếu thảo. Hôm nay, nhân dịp đầu năm mới, chúng con họp nhau để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ. Xin Chúa trả công bội hậu cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con, và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các Ngài (Lời nguyện nhập lễ, lễ Kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ).
14. Sống thảo hiếu--Lm. Tạ Duy Tuyền
Theo tục lệ Việt nam, ngày Tết là ngày con cháu dù ở nơi xa cũng sum họp cùng gia đình để chúc tuổi mới ông bà cha mẹ. Đồng thời nói lên lòng yêu mến, biết ơn của con cháu đối với các bậc sinh thành.
Nhiều bài ca dao, tục ngữ, nhiều bài hát, câu chuyện, đã kể về công cha nghĩa mẹ và răn dạy con cái cần sống đáp đền công ơn ấy:
“Công cha nghĩa mẹ cao vời
Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta.
Nên người con phải xót xa
Đáp đền nghĩa nặng như là trời cao
Đội ơn chín chữ cù lao
Sinh thành kể mấy non cao cho vừa”.
Khi nhận ra công cha nghĩa mẹ, thì đạo hiếu luôn nhắc nhở chúng ta:
“Ơn ai một chút chớ quên,
Phiền ai một chút để bên cạnh lòng”
Thế nên,
Ai mà phụ nghĩa quên công,
Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm
Lòng hiếu thảo quả là một tấm lòng thơm tho, đáng yêu. Lòng hiếu thảo làm cho con người thêm thanh cao, giá trị. Bởi được người đời kính trọng, yêu thương những ai có hiếu với mẹ cha.
Thế nhưng, giữa dòng đời hôm nay vẫn còn đó những mảnh đời cô đơn nơi các bậc cha mẹ vì thiếu tình thương của con. Ở đâu đó, trong nhiều mái gia đình, ông bà cha mẹ lại là gánh nặng cho con cái. Ở đâu đó, vẫn còn những tiếng nghẹn ngào của những bậc sinh thành bị bỏ rơi ngay giữa đàn con cháu của mình.
Thiết tưởng, ngày đầu xuân chúng ta cùng lắng đọng tâm hồn để nghe lời bộc bạch chân thành từ lá thư của một người cha viết cho con.
Lá thư ấy viết rằng:
Con thân mến,
Ngày bố mẹ già đi, con hãy cố gắng kiên nhẫn và hiểu giùm cho bố mẹ. Nếu như bố mẹ ăn uống rớt vun vãi… Nếu như bố mẹ gặp khó khăn ngay cả đến cái ăn cái mặc… Xin con hãy bao dung!
Con hãy nhớ những ngày giờ mà bố mẹ đã trải qua với con, để dạy cho con bao điều lúc thuở bé.
Nếu như bố mẹ cứ lập đi lập lại hàng trăm lần mãi một chuyện, thì đừng bao giờ cắt đứt lời bố mẹ… mà hãy lắng nghe!
Khi con còn ấu thơ, con hay muốn bố mẹ đọc đi đọc lại mãi một câu truyện hằng đêm cho đến khi con đi vào trong giấc ngủ… và bố mẹ đã làm vì con.
Nếu như bố mẹ không tự tắm rửa được thường xuyên, thì đừng quở trách bố mẹ và đừng nên cho đó là điều xấu hổ.
Con hãy nhớ… lúc con còn nhỏ, bố mẹ đã phải viện cớ bao lần để vỗ về con trước khi tắm.
Khi đôi chân của bố mẹ không còn đứng vững như xưa nữa… hãy giúp bố mẹ, nắm lấy tay bố mẹ như thể ngày nào bố mẹ đã tập tềnh con trẻ những bước đi đầu đời.
Và một ngày như một ngày sẽ đến, bố mẹ sẽ nói với con rằng… bố mẹ không muốn sống, bố mẹ muốn từ biệt ra đi.
Con đừng oán giận và buồn khổ… vì con sẽ hiểu và thông cảm cho bố mẹ khi thời gian sẽ tới với con.
Hãy giúp bố mẹ trong từng bước đi vào chiều…
Cách duy nhất còn lại mà bố mẹ muốn cảm ơn con là nụ cười và cả tình thương để lại trong con.
Thương con thật nhiều
Là người Ki-Tô, chúng ta cũng được mời gọi sống giới răn: “hãy thảo hiếu cha mẹ”. Đây là lệnh truyền chứ không phải lời khuyên. Lời khuyên thì có thể không làm nhưng lệnh truyền thì buộc phải thi hành.
“Phải thờ cha kính mẹ” còn là lễ dâng đẹp lòng Thiên Chúa. Ngược lại, Kinh Thánh còn ví kẻ khinh rẻ cha mẹ là chọc giận Thiên Chúa: ”Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai khinh rẻ mẹ, là chọc giận Đấng tạo thành ra nó” (Hc 3, 16). “Phải thờ cha kính mẹ” đó là điều răn duy nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6, 1-3).
“Phải thờ cha kính mẹ” còn phải được thể hiện qua những lời khuyên nhủ thật chân tình trong sách Huấn Ca: “Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già; bao lâu người còn sống chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dễ người” (Hc 3, 12-16).
Người ta nói: ”Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó". Việc thất đức mình làm cho tiền nhân cũng có thể tái diễn ngay chính cuộc đời chúng ta. Nếu chúng ta không muốn con bất hiếu với mình thì chính chúng ta hôm nay cũng phài làm gương sáng về hiếu thuận với mẹ cha. Nếu chúng ta muốn con cái đối xử tốt với mình thì hôm nay chúng ta cũng phải ân cần săn sóc mẹ cha.
Nguyện xin Chúa Xuân chúc lành cho buổi họp mặt gia đình hôm nay. Xin Chúa Xuân cư ngụ đến từng gia đình, mang ơn lành đến cho muôn nhà để mọi người được hưởng nếm những giây phút bình yên nhất bên gia đình và người thân. Amen
15. Xuân Đẹp Ngời Đạo Hiếu (Mt 15, 1-6)--J. B. Nguyễn Quốc Tuấn
Ước mong nén hương lòng trong ngày đầu năm luôn thơm phức hương thảo hiếu của chúng ta khi chu toàn bổn phận của người con, người cháu với ông bà, cha mẹ.
“Biển cả mênh mông đong sao đầy tình mẹ
Gió trời lồng lộng ngăn không nổi công cha” (Danh ngôn đạo đức)
Đạo hiếu, một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Nó được thể hiện rõ nét trong mỗi dịp Tết cổ truyền. Những ngày vui tươi đầu xuân cũng là thời điểm thuận tiện để con cháu bày tỏ lòng biết ơn, hiếu kính đối với các đấng bậc đã có công sinh thành dưỡng dục mình cả về thể lý và tâm linh. Người Kitô hữu ý thức Đạo hiếu mang một chiều kích sâu xa hơn trong mối tương quan giữa Thiên Chúa và nhân loại và giữa con người với nhau. Do đó, khi chúng ta sống trọn chữ Hiếu cũng đồng thời ta đáp trả lời mời gọi của Tin Mừng trong thái độ yêu mến và tôn phục Thiên Chúa.
1. Đạo hiếu theo Tin Mừng và giáo huấn của Giáo Hội
Tiếp sau bổn phận của con người đối với Thiên Chúa được nêu lên trong Thập giới (mười điều răn), Kinh Thánh đã coi thái độ hiếu thảo với cha mẹ là nền tảng thứ nhất và quan trọng nhất trong những tương quan giữa con người với con người (Is 49, 15; 63, 16…).
“Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6, 1-3).
Đạo hiếu đối với bề trên được khởi đi từ việc thấu hiểu và đáp trả xứng hợp công ơn của các ngài là những cánh tay nối dài của Thiên Chúa ở dưới thế, đã hy sinh, nâng đỡ ta trên đường trọn lành. “Hãy hết lòng tôn trọng cha con và đừng quên những cơn đau đớn của mẹ. Hãy nhớ rằng nhờ cha mẹ, con mới sinh ra. Làm sao con báo đền được điều cha mẹ cho con” (Hc 7, 27-28). “Hỡi những người con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là đẹp lòng Chúa” (Cl 3, 20).
Biểu lộ của lòng hiếu thảo thể hiện qua sự chú tâm lắng nghe lời chỉ bảo của cha mẹ trong sự vâng phục, khiêm kính. “Hỡi con, hãy giữ lấy lời huấn hụ của cha, và đừng ruồng rẫy giáo huấn của mẹ… Chúng sẽ hướng dẫn con khi con đi, canh giữ con khi con nằm, và khi con thức dậy, chúng chuyện trò với con” (Cn 6, 20-22). “Con ngoan mến chuộng lời cha quở mắng, kẻ nhạo báng chẳng nghe lời khiển trách” (Cn 13, 1).
Lòng hiếu thảo là một hành vi nhân linh đặc biệt quan trọng có giá trị kiện toàn bản thân ta nên công chính thánh thiện hơn mỗi ngày. “…Vì của dâng cho cha sẽ không rơi vào quên lãng. Của biếu cho mẹ sẽ đền bù tội lỗi, và xây dựng đức công chính của ngươi…” (Hc 3, 14-15).
Tân ước đề cao Đạo hiếu qua mẫu gương của Chúa Giêsu. Ngài đã chu toàn trọn hảo bổn phận làm con với cha mẹ trong suốt ba mươi năm sống cùng Thánh Gia (Lc 2, 51-52). Trong thời gian thi hành sứ vụ, lòng hiếu thảo được Ngài đề cập như một trong những chuẩn mực nền tảng của luật Thiên Chúa. “Quả thế, Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ kính cha mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải xử tử”.
Thư 1Tm 5, 8 xác quyết bổn phận sống đạo hiếu là đòi buộc của đức tin: “Ai không biết lo lắng đến người thân và nhất là gia quyến mình, thì nó đã chối bỏ đức tin, và còn tệ hơn là người không tin” (1Tm 5, 8).
Công đồng Vatican II dạy: “Con cái sẽ đáp lại công ơn cha mẹ với lòng biết ơn, tâm tình hiếu thảo và tin cậy, sẽ theo đạo làm con mà phụng dưỡng cha mẹ trong nghịch cảnh cũng như trong tuổi già cô quạnh” (MV, số 48).
Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo nêu lên vai trò của cha mẹ và bổn phận đáp trả của chúng ta: “Thiên Chúa muốn rằng sau Ngài, chúng ta phải tôn kính cha mẹ vì đã sinh thành và dạy cho chúng ta biết Thiên Chúa” (GLHTCG, số 2197).
2. Niềm vui chưa trọn vẹn
Trong ngày đầu xuân, thật hạnh phúc khi chúng ta được đoàn tụ trong bầu khí yêu thương của gia tộc để bày tỏ đạo hiếu với tổ tiên. Nhưng niềm vui của chúng ta chưa thể trọn vẹn được, khi vẫn còn đó bao cụ già neo đơn, bao bậc làm cha, làm mẹ phải đau xót khốn cùng vì bị con cái hắt hủi, bỏ rơi giữa ngày đời tàn hơi, xế bóng…
Chúng ta vui sao được trước thực trạng xã hội, trong đó, một bộ phận đông đảo những người trẻ đang chạy theo lối sống tự do mất định hướng, cố tình ngoảnh mặt trước các chuẩn mực truyền thống và quan niệm sự vâng phục các đấng bậc sinh thành như một thứ bó buộc tiêu cực đối với họ.
Nếp sống đề cao tính cố kết gia tộc trong bản sắc văn hóa của các làng xã Việt Nam dường như đang bị phai nhạt dần. Các cặp vợ chồng trẻ mới thành hôn có xu hướng thích “ra riêng” (gia đình độc lập) hầu có thể thoát ra ngoài “chiếc vòng kim cô” của đại gia đình nhiều thế hệ. Điều này đang có nguy cơ dẫn tới việc các thế hệ sau ngày càng có biểu hiện xem nhẹ vai trò của những người đi trước. Và hậu quả là, họ cố tình “bỏ ngoài tai” những giáo huấn vốn được kết tinh từ kinh nghiệm sống của ông bà, cha mẹ, thầy cô.
Ngày Tết là thời điểm thật thuận tiện để những người con, người cháu cháu chúng ta tự vấn lại bổn phận và thái độ sống cần thiết đối với các bậc tiền nhân. Năm cũ qua đi, có biết bao lần ta đã làm phiền lòng những người đã phải vật lộn một nắng hai sương, lam lũ giữa dòng đời cay đắy với bao nhiêu mồ hôi nước mắt chỉ vì mong muốn, dìu dắt ta nên người. Biết bao lần ta đã vi phạm trầm trọng chuẩn mực đạo hiếu chỉ vì muốn được tự do sống theo ý riêng mình…
Năm mới, ta hãy sống sao cho đẹp Chữ Hiếu.
3. Sống đẹp Chữ Hiếu
Nhiều giáo xứ đang phát huy truyền thống tốt đẹp, đó là tổ chức long trọng thánh lễ kính nhớ tổ tiên tại nghĩa trang giáo xứ vào ngày Mồng Hai Tết. Trong ngày này, con cháu, dâu rể… dù ở phương xa phải bận bịu trăm công nghìn việc, vẫn cố gắng sắp xếp quy tụ về bên phần mộ gia tộc, cùng nhau thắp lên nén hương lòng kính hiếu và chung lời nguyện xin cho người quá cố được sớm an nghỉ trong Chúa. Thật là nghĩa cử đẹp đẽ, nói lên Đức ái Kitô giáo được biểu lộ qua đạo hiếu.
Ước mong nén hương lòng trong ngày đầu năm sẽ cháy mãi và bừng lên nơi tâm hồn của những người con hiền, cháu thảo như một lời tri ân đáp trả nồng nhiệt công ơn của các đấng bậc đã sinh thành, dưỡng dục ta.
Ước mong nén hương lòng trong ngày đầu năm cho tổ tiên sẽ lan tỏa trong đời bạn, đời tôi để chúng ta luôn sống xứng với truyền thống Đức tin rạng ngời của tiền nhân.
Ước mong nén hương lòng trong ngày đầu năm luôn thơm phức hương thảo hiếu của chúng ta khi chu toàn bổn phận của người con, người cháu với ông bà, cha mẹ.
Ước mong nén hương lòng đầu năm trước người quá cố đang và sẽ thức tỉnh những ai có biểu hiện xem thường chuẩn mực đạo hiếu.
Và nguyện ước cho nén hương lòng đầu năm trước tổ tiên là tất cả tâm thành của ta hướng về Chúa, cảm tạ Ngài đã ban cho ta có được tổ tiên ông bà cha mẹ. Nhờ sống trọn, sống đẹp Đạo Hiếu, chúng ta góp phần tôn vinh Thiên Chúa, tôn vinh Đạo Trời.
16. Thảo kính cha mẹ (Mt 15, 1-6)--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Mỗi năm vào ngày mồng hai tết, Giáo Hội luôn dành một ngày để con cái cháu chắt có dịp báo hiếu tưởng nhớ tới ông bà tổ tiên. Đây là hình thức rất có ý nghĩa, Giáo Hội giúp mỗi người còn được diễm phúc sống dưới trần gian này hiểu được thế nào là công lao của ông bà tổ tiên. Có tổ tiên, có ông bà mới có cha mẹ rồi mới có chúng ta: đây là một điều hiển nhiên ai cũng phải hiểu và cảm nghiệm một cách sâu sắc công ơn trời biển của tổ tiên ông bà, của cha mẹ vv…” Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra “, ca dao Việt Nam quả có lý khi đề cập tới nghĩa vụ của con cái đối với mẹ cha. Do đó, hôm nay, mọi người dâng thánh lễ này cầu nguyện cho các bậc sinh thành rất hợp với truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam chúng ta, đồng thời cũng rất thực tế với dạy của Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu.
CUỘC TRANH LUẬN GIỮA CÁC NGƯỜI PHARISÊU, CÁC KINH SƯ VÀ CHÚA GIÊSU: Trong đoạn Tin Mừng thánh Matthêu xoay quanh cuộc tranh luận của Đức Giêsu với các người Pharisêu, các Kinh sư về bổn phận của con cái đối với cha mẹ. Đối với các người Pharisêu, các kinh sư họ cho rằng theo lời của tiền nhân thì tất cả những gì họ làm cho cha mẹ đều là tế phẩm dâng lên Thiên Chúa, do đó, họ làm như thế là vừa đủ rồi, không cần phải thờ cha kính mẹ nữa. Người Pharisêu và Kinh sư giới hạn bổn phận con cái dựa trên hoàn toàn vật chất, một nghĩa vụ vật chất được họ gán cho nghĩa vụ đạo đức. Đối với Đức Giêsu, Ngài nhắc nhở cho các Pharisêu, các Kinh sư và mọi thế hệ, mọi người chúng ta rằng:” Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử “. Ngay trong điều răn thứ bổn của thập giới cũng viết:” Thảo kính cha mẹ “. Như thế rõ ràng Thiên Chúa dạy con người phải thảo hiếu với mẹ cha không chỉ dừng ở của cải vật chất nhưng phải hiếu thảo bằng cả tấm lòng yêu thương, tôn kính, mến yêu đến nỗi ai nguyền rủa cha mẹ tức là đụng đến nhân phẩm, đụng đến quyền làm người của cha mẹ, thì phải bị xử tử. Chính vì thế, lập trường của Chúa Giêsu hoàn toàn khác với người Pharisêu và các Kinh sư. Chúa Giêsu mở ra một giá trị mới, một đạo hoàn toàn dựa trên tình thương.
VẤN ĐỀ HIẾU THẢO BỊ LUNG LAY: Nếu lược qua các nơi, các nước chúng ta như nhận ra được cái yếu của nhiều gia đình. Bởi vì đời sống của nhiều gia đình hiện nay đang vấp phải khủng hoảng về đức tin, về đạo lý, Nhiều con cái chỉ dừng trên nghĩa vụ, bổn phận lo lắng cho cha mẹ của cải vật chất, mà quên đi cha mẹ còn phải được kính trọng và yêu mến. Vật chất chỉ là giá trị bề ngoài nhưng chính giá trị tinh thần, giá trị đạo đức mới quan trọng cho đời sống cha mẹ. Ngày nay có nhiều gia đình con cái đối với cha mẹ không ra làm sao cả. Nên, giá trị đạo đức bị đảo lộn, con cái coi vật chất là trên hết, có nhiều đứa con đặt tiền tài trên nghĩa vụ làm con. Ở nhiều nước văn minh có nhiều gia đình con cái sẵn sàng gửi cha mẹ vào các nhà dưỡng lão đầy đủ tiện nghi nhưng lại thiếu thái độ”thờ cha kính mẹ ” theo ý của Thiên Chúa là ” Hãy thảo kính cha mẹ “. Các Giám mục Việt Nam trong năm 2007 và 2008 đã ra hai thư mục vụ nói về gia đình. Điều này nói lên sự quan trọng của nền tảng gia đình. Thư mục vụ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 2008 viết về gia đình Nagiarét:” Các Ngài là những bậc cha mẹ gương mẫu, luôn biết đón nhận thánh ý Chúa và đem ra thực hành. Trong gia đình Nagiarét mọi thành viên đều tôn trọng nhau, mong muốn cho nhau điều tốt và cùng nhau thực hiện ý của Cha trên trời. Thánh Giuse và Đức Maria là những nhà giáo dục tài giỏi đã chu toàn sứ mạng được trao phó trong sự khôn ngoan và trung tín. Xin các Ngài chuyển cầu và luôn phù trợ cho các gia đình chúng ta”. Gia đình thánh gia là gia đình gương mẫu cho mọi gia đình bởi vì Chúa luôn hiếu thảo đối với thánh Giuse và mẹ Maria.
ÁP DỤNG VÀO ĐỜI SỐNG: Cha mẹ là người sinh ra chúng ta, chúng ta phải hết lòng tôn kính, yêu thương cha mẹ. Ai cũng có cha có mẹ. Cha mẹ sinh ra chúng ta, cha mẹ nuôi dưỡng chúng ta, chúng ta phải hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Chúa nói: ” Hãy thảo kính cha mẹ “. Bổn phận của con cái là nuôi dưỡng, thăm hỏi khi cha mẹ còn sống, lúc qua đời phải xin lễ, cầu nguyện cho cha mẹ.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu được rằng Chúa cũng có một gia đình, có cha có mẹ, Chúa đã hiếu thảo với cha mẹ, xin cho chúng con luôn biết báo đáp mẹ cha. Amen.
17. Kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ (Mt 15, 1-6)--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Giáo Hội Việt Nam luôn dành ngày mồng hai tết mỗi năm để cầu nguyện cho tổ tiên và ông bà cha mẹ đúng như đoạn Sách Cách ngôn 6, 29-23abc viết trong ca nhập lễ:
” Con ơi giữ lấy lời cha,
Chớ quên lời mẹ nhớ mà ghi tâm.
Đèn soi trong chốn tối tăm,
Ấy là chính những lời răn, lệnh truyền.
Nhớ cầu cho bậc tổ tiên,
Khắc ghi công đức một niềm tri ân“.
Vâng, Giáo Hội là người Mẹ luôn âu yếm, nâng niu đoàn con và dạy dỗ con cái hãy sống điều răn Chúa phán truyền:” Hãy thảo kính cha mẹ ” (Điều răn thứ 4 của Thập Giới Đạo Công Giáo).
Từ ngàn xưa nhân loại luôn ghi nhớ công ơn tổ tiên, ông bà cha mẹ. Bởi vì, nước có nguồn, sông có cội, con người phải có tổ tông. Tổ tiên sinh ra ông bà nội ngoại và rồi nội ngoại sinh ra con cái, sinh ra chúng ta. Công ơn tổ tiên, công ơn ông bà, ơn nghĩa sinh thành của cha mẹ luôn luôn phải được đền đáp cho cân xứng. Chỉ cần đọc lại kinh tiền tụng lễ mồng hai tết, chúng ta sẽ thấy Giáo Hội chủ tâm tới những Đấng Bậc sinh thành, dưỡng dục như thế nào:” Quả thực, khi ngẫm xem muôn loài trong vũ trụ, tự nhiên chúng con thấy vạn sự đều có cội rễ căn nguyên: chim có tổ…. Nhưng phải nhờ ơn Cha mạc khải, chúng con mới nhận biết Cha là nguyên lý sáng tạo muôn loài, là Cha chung của tất cả chúng con. Cha đã ban sự sống cho tổ tiên và ông bà cha mẹ chúng con, để các ngài truyền lại cho con cháu. Cha cũng đã ban cho các ngài ơn huệ dư đầy, để chúng con được thừa hưởng mà nhận biết, tôn thờ và phụng sự Chúa “. Do đó, con người phải có hiếu đễ, lúc cha mẹ còn sống phải thăm nom, chăm sóc, khi cha mẹ khuất bóng, phải cầu nguyện, lo ngày giỗ ngày chạp vv…Đó là ơn nghĩa con cái phải đáp trả báo đền. Thánh vịnh 111, 1-2 viết rất rõ:” Hạnh phúc thay, người kính sợ Chúa, những ưa cùng thích mệnh lệnh Chúa truyền ban. TRên mặt đất, con cháu của họ sẽ hùng cường, dòng dõi kẻ ngay lành được Chúa thương giáng phúc “. Thánh Phaolô khuyên nhủ giáo đoàn Êphêxô:” Kẻ làm con, hãy vânbg lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này “. Thánh Matthêu còn nhấn mạnh hơn:” Quả thế, Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải xử tử “.
Vâng, đạo hiếu vẫn là đạo mà mọi nước, mọi dân tộc trên thế giới này đều khuyên nhủ con người thực hiện. Còn sống phụng dưỡng cha mẹ, không được làm phật lòng cha mẹ để cho cha mẹ buồn. Khi qua đời phải hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh…”. Bởi vì như Sách Khải Huyền viết: ”Phúc thay kẻ nhắm mắt lìa đời, đã lìa đời trong ơn nghĩa Chúa. Trải qua bao nhọc nhằn vất vả. Giờ đây họ xứng đáng nghỉ ngơi. Vì công đức xưa kia vẫn còn theo họ mãi“.
Những ngày đầu năm mới trong khi mọi người ăn uống, sum vầy, Giáo Hội luôn khuyên dạy chúng ta hãy nhớ tới công ơn của tổ tiên, ông bà và cha mẹ. Chính là các bậc tiên tổ, bậc cha ông mà chúng ta mới có ngày hôm nay…
Lạy Chúa là Cha rất nhân từ,
Chúa dạy chúng con phải giữ lòng hiếu thảo.
Hôm nay nhân dịp đầu năm mới … Nhâm Thìn
Chúng con họp nhau để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ.
Xin Chúa trả công bội hậu cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con, và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các ngài. Amen (lời nguyện nhập lễ, lễ mồng hai tết).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Tại sao ngày mồng hai tết, Giáo Hội lại dành để cầu cho tổ tiên, ông bà và cha mẹ?
2. Tổ tiên là ai?
3. Ông bà là ai?
4. Tại sao chúng ta lại phải trả ơn cho tổ tiên, ông bà và cha mẹ?
18. Kính nhớ tổ tiên (Lc 1, 67-75)--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Truyền thống Dân tộc Việt Nam chúng ta luôn đề cao chữ hiếu. Bởi vì, dù có đi đạo hay không, người Việt Nam từ ngàn xưa đã biết thờ Cha kính Mẹ. Như thế, quả rất thích hợp với điều răn thứ tư trong mười điều răn của Thiên Chúa. Ngày mồng hai tết bao giờ, Giáo Hội cũng dành riêng để kính nhớ ông bà cha mẹ, tổ tiên. Đây là nét son của Giáo Hội.
Vâng, ngay từ khi khởi đầu công cuộc truyền giáo ở đất nước chúng ta, Cha Alexandre de Rhodes đã luôn quan tâm và dạy dỗ con người hãy trung thành, hiếu thảo với Thiên Chúa, với Vua và với Cha mẹ. Đây là giáo lý nói về tam phụ. Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời đất, dựng nên con người. Nên, con người phải biết ơn Thiên Chúa, trung thành với Ngài. Cha mẹ thừa lệnh Thiên Chúa sinh ra chúng ta, do đó, chúng ta phải hiếu thảo và trung thành với Cha mẹ. Con người có đất nước, có tổ quốc. Đứng đầu nước là Vua, nên con người phải trung với Vua vv…Đây là đạo lý của con người. Tuy nhiên, lúc đó vì chưa hiểu rõ các địa phương, các đất nước. Giáo Hội đã có những thông tư nghịch lại với nghi lễ Trung Hoa. Nên, một thời gian dài đã có những hiểu lầm và nghi kỵ đối với đạo Công giáo.
Ngày nay, với Công Đồng Vatỉcanô II, Giáo Hội đã có cái nhìn phù hợp với hoàn cảnh, truyền thống của các đất nước, các địa phương. Nên, mọi Kitô hữu đều cảm thấy thoải mái hơn với việc tôn kính tổ tiên vv…Giới răn bốn trong thập giới đã viết:” Hãy tháo kính Cha mẹ “. Điều này rất phù hợp với các đoạn Sách Thánh như Cn 6, 20, 23abc:” Con ơi giữ lấy lời cha, chớ quên lời mẹ, nhớ mà ghi tâm. Đèn soi trong chốn tối tăm, ấy là chính những lời răn, lệnh truyền. Nhớ cầu cho bậc tổ tiên, khắc ghi công đức một niềm tri ân “. Hoặc Sách Khải Huyền 14, 13 viết:” Phúc thay kẻ nhắm mắt lìa đời, đã lìa đời trong ơn nghĩa Chúa. Trải qua bao nhọc nhằn vất vả, giờ đây họ xứng đáng nghỉ ngơi, vì công đức xưa kia vẫn còn theo họ mãi “.
Người công giáo Việt Nam bao giờ cũng có lòng biết ơn và kính nhớ ông bà tổ tiên cha mẹ. Hầu như nhà nào cũng có bàn thờ ông bà tổ tiên với những hoa nến, nhang hương tỏa hương thơm ngát, nghi ngút khói bay…Thật đúng như lời Sách Đức Huấn Ca viết:” Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại, vinh quang các ngài sẽ chẳng phai mờ. Các ngài được mồ yên, mả đẹp, và danh thơm mãi lưu truyền hậu thế. Dân dân sẽ kể lại đức khôn ngoan của các ngài, và cộng đoàn vang tiếng ngợi khen “. Thánh Augustinô cũng viết một đoạn đáng ghi nhớ:” Các ngài thấy, các thế hệ loài người trên mặt đất cũng giống như những chiếc lá trên cành cây, luôn luôn xanh tươi. Trái đất này cũng mang những con người, như cây mang những chiếc lá. Trái đất đầy dẫy những con người kế tiếp nhau, người này chào đời, trong khi người kia vẫy tay giã biệt. Cây không bao giờ cởi bỏ bộ áo màu xanh của mình, nhưng hãy nhìn xuống gốc cây: các ngài đang đạp trên một tấm thảm dầy những chiếc lá khô mục “. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Êphêsô đã khuyên nhủ:” Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ…”.
Thảo kính cha mẹ, tôn kính tổ tiên là truyền thống đạo lý của dân tộc Việt Nam. Cài bông hồng đỏ trên áo để chứng tỏ cha mẹ còn sống. Đó là cách biểu lộ tình thương đối với cha mẹ, do đó, phụng dưỡng cha mẹ, an ủi cha mẹ là tỏ lòng hiếu thảo đối với cha mẹ. Cài bông hồng trắng trên áo để tưởng nhớ cha mẹ đã khuất. Con người nhớ để cầu nguyện, dâng lời kinh, tạ lễ cầu cho cha mẹ, ông bà, tổ tiên đã mất là cách tỏ lòng tôn kính, thảo hiếu đối với các bậc sinh thành…
Xin Chúa cho chúng con luôn biết hiếu thảo với ông bà tổ tiên cha mẹ và quyết tâm nối tiếp sự nghiệp của các ngài, để luôn luôn làm rạng rỡ dòng họ và làm rực sáng gia phong.
Lạy Chúa là Cha rất nhân từ,
Chúa dạy chúng con phải giữ lòng hiếu thảo.
Hôm nay nhân dịp đầu năm mới,
Chúng con họp nhau để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ.
Xin Chúa trả công bội hậu
Cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con,
Và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các ngài. (Lời nguyện nhập lễ, lễ Kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Tại sao lại phải hiếu thảo đối với Ông bà cha mẹ và tổ tiên?
2. Chúa dạy sao về hiếu thảo?
3. Cài bông hồng đỏ trên áo có nghĩa gì?
4. Cài bông hồng trắng trên áo có ý nghĩa gì?
19. Thảo kính mẹ cha (Mt 15, 1-6)--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Hôm nay Hội Thánh dành riêng ngày mồng hai tết để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ. Giáo Hội quả thực là người Mẹ rất khôn ngoan dậy con cái đủ điều. Thảo kính cha mẹ và các bậc tổ tiên là việc làm vừa phù hợp với tập tục, truyền thống hiếu thảo của dân tộc Việt Nam, vừa phù hợp với điều răn thứ tư trong thập giới của Chúa, đồng thời thực hiện lời Chúa trong đoạn Tin Mừng Mt 15, 1-6 hôm nay.
CUỘC TRANH LUẬN CỦA PHARISIÊU VỚI CHÚA GIÊSU: Đọc Tin Mừng hôm nay chúng ta nửa khóc nửa cười với các ông Pharisiêu và kinh sư bề ngoài xem ra đạo mạo, đạo đức nhưng bên trong lại toàn dao găm. Họ sống cái vỏ bên ngoài chứ thực ra họ chẳng sống cái lõi của Tin Mừng là bác ái yêu thương. Cuộc tranh luận của nhóm Pharisiêu và các kinh sư xoay quanh vấn đề rửa tay trước bữa ăn để rồi họ muốn tránh điều căn bản nhất là thảo kính cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Kinh sư và Pharisiêu giới hạn việc làm con trong bổn phận thuần túy thế tục, vật chất, một nghĩa vụ vật chất được họ gán cho ý nghĩa tôn giáo, ý nghĩa đạo đức. Đức Giêsu nhắc lại, nói lại với Pharisiêu, với kinh sư và với con người muôn thời:” Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử” (Mt 15, 4). Rõ ràng, đối với Chúa Giêsu, nghĩa vụ đối với cha mẹ không chỉ dừng lại ở vật chất, nhưng còn đi tới cả nghĩa vụ tinh thần, thái độ đối với cha mẹ, đến nỗi ai nguyền rủa cha mẹ sẽ bị xử tử.
CUỘC SỐNG HÔM NAY VÀ MUÔN THỜI ĐỐI VỚI LỜI DẬY CỦA CHÚA GIÊSU: Ông bà cha mẹ, tổ tiên là những người có công sinh ra, dưỡng dục và xây dựng cuộc đời cho chúng ta. Các Ngài tận tụy dậy dỗ chúng ta sống đời sống làm người, đặc biệt nhờ các Ngài mà chúng ta được biết Chúa và yêu mến Ngài. Công lao của các bậc tiền nhân, ông bà, cha mẹ thật bao la trời biển. Ca dao Việt Nam đã viết:” Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Chữ hiếu đối với chúng ta rất có giá trị hợp với đạo lý làm người. Hiếu là yêu thương. Chúa là tình yêu. Do đó, đạo công giáo chúng ta là đạo yêu thương. Chính vì thế, mà tục ngữ ca dao đã viết rất dí dỏm, nửa khóc, nửa mếu vì nếu khi cha mẹ ông bà còn sống mà chẳng cho ăn, chẳng chăm sóc: vật chất cũng như tinh thần sẽ mang cái tội tầy trời:” Khi sống mà chẳng cho ăn, đến khi thác xuống làm ma tế ruồi “. Cuộc sống của chúng ta hôm nay và mãi mãi đang vấn nạn chúng ta hay đang hạch xét chúng ta về chữ hiếu, về nền tảng của gia dình. Các giá trị của đời sống gia đình hình như bị lung lay khá nhiều, nếu nói được là đang bị giao động đến tận gốc rễ, đến tận cuộc sống của nhiều người, của nhiều gia đình. Ngày nay, có nhiều người định mức cuộc sống bằng việc làm ra vật chất, làm ra của cải. Người ta định mức số tiền, của cải làm ra được bao nhiêu. Người trẻ không thích cha mẹ sống lâu, người già sống thọ. Muốn tiến thân người trẻ phải loại trừ người già vv…Nhiều nước trên thế giới, con cái đưa cha mẹ vào viện dưỡng lão cho xong, vì viện dưỡng lão nhiều tiện nghi vật chất, nhưng lại thiếu thái độ cần thiết nhất là ‘ thờ cha, kính mẹ “. Chính vì thế, con người ngày nay cũng na ná như Pharisiêu và kinh sư tưởng rằng mình biện minh được cho thái độ bất hiếu của mình cũng như nhóm Pharisiêu và kinh sư xưa đã nhân danh lời của tiền nhân để lại. Lời của Đức Giêsu nhắc lại trong đoạn Tin Mừng Mt 15, 1-6 không cho phép ai được biện hộ cho thái độ bất kính, bất hiếu đối với cha mẹ, ông bà tổ tiên, ngay cả khi họ nại ra lý do tôn giáo nữa.
Ngày đầu xuân Giáo Hội nhắc lại cho mỗi người, mọi người sự đáp trả, báo ơn cha mẹ, ông bà, tổ tiên là việc làm rất ư cần thiết. Ngày đầu xuân mới, chúng ta nhớ đến các Ngài. Chúng ta xin lễ, cầu nguyện cho các Ngài, xin Chúa là Đấng từ bi thương xót xóa hết lỗi lầm các Ngài đã trót phạm và mau đưa các Ngài về hưởng nhan thánh Chúa mãi mãi, muôn đời.
Lạy Chúa, xin thương ban thiên đàng cho tất cả những người đã nuôi nấng, lo lắng và giáo dục chúng con. Amen.
20. Từ đạo Hiếu đến đạo Chúa--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Ngày Tết Việt nam luôn có một ý nghĩa gia đình rất sâu đậm. Dù đi đâu xa người ta vẫn cố gắng về quê ăn Tết. Ngày xuân gia đình đoàn tụ, con cái chúc tuổi cha mẹ, học trò chúc tuổi thầy cô, kẻ dưới chúc tuổi người trên, bà con bạn bè thăm viếng nhau. Ngày Tết mọi người được liên kết trong niềm vui yêu thương chia sẻ. Ngày Tết còn liên kết người sống với người chết, hiệp thông con cháu với tổ tiên ông bà cha mẹ đã qua đời. Nhiều người có thói quen đi tảo mộ những ngày trước Tết. Người ta tin rằng dịp đầu năm ông bà tổ tiên về sum họp với con cháu. Niềm tin đó có tác dụng tích cực giúp người sống luôn nhớ tới cội nguồn, sống hiếu thảo, ăn ở xứng đáng với dòng tộc của mình.
Người Việt nam rất trọng lễ giáo, coi trọng sự bền vững gia đình với những tôn ti trật tự, với cung cách ứng xử theo mỗi bậc người. Theo đó người Việt nam có nét đặc trưng trong cách thức chào hỏi, xưng hô giao tiếp mà những ngôn ngữ của các dân tộc khác dù văn minh cũng không có được. Linh mục F. Buzomi, dòng Tên, nhà truyền giáo đã đặt chân lên đất Việt nam khá sớm vào ngày 18. 1. 1615, có nhận xét chí lý: “Nhờ Khổng giáo, xã hội và gia đình Việt nam đã có một tổ chức rất cao, người dân Việt nam có những đức tính, phong tục rất đáng khâm phục, nó đã giúp rất nhiều vào công việc truyền giáo” (Nguyễn Hồng “Lịch sử truyền giáo ở Việt nam”, Sài gòn 1959, tr. 55).
Trong lễ giáo thì ân nghĩa là đầu tiên. Tôn kính tổ tiên là một cách tỏ ân nghĩa đối với các vị tiên nhân, ông bà cha mẹ. Lúc ông bà cha mẹ còn sống, con cháu phải kính mến, phụng dưỡng các ngài thì lòng phải vui, vâng lời chiều ý các ngài, ăn ở sao cho các ngài hài lòng. Khi các ngài qua đời, lo an táng tử tế, con cháu thờ kính, giỗ chạp hàng năm. Khi tam giáo (Phật, Khổng, Lão) chưa du nhập Việt Nam thì người Việt đã biết kính thờ tổ tiên, trọng kính cha mẹ, thương yêu anh, chị, em và hầu như mọi gia đình đều lập bài vị ông bà, cha mẹ để thờ cúng. Những ngày giỗ kị thì thắp nhang, dâng hoa quả, cơm nước đặt trên bàn thờ để mong ông bà, cha mẹ (những người đã khuất) về hưởng. Nhà nghèo nhất cũng có chén cơm trắng với quả trứng luộc dâng lên với tất cả lòng thành. Tuy người đã khuất không hưởng được, nhưng lễ nghi ấy lại cần thiết để giáo hóa con cái để sau này chúng cũng nhớ đến ông bà, cha mẹ như vậy. Người Việt vốn hiền hoà, tình cảm, lại chung sống cộng đồng với nhau, suốt đời quanh quẩn bên luỹ tre làng; cho nên dù sống, dù chết, họ vẫn gần gũi bên nhau, ấm áp tình người. Việc thờ cúng tổ tiên là mạch nước ngầm trong mát vẫn mãi nuôi sống và nối kết những tâm hồn Việt Nam giàu tình trọng nghĩa.
Mỗi người Việt nam đều có một đạo rất gần gũi, đó là Đạo Ông Bà hay Đạo Hiếu. Trong mỗi gia đình người Việt, dù sang hay hèn cũng dành một nơi trang trọng nhất để đặt bàn thờ gia tiên. Ông bà cha mẹ dù có khuất đi nhưng vẫn luôn hiện diện gần gũi với con cháu. Những ngày đầu tháng, ngày rằm, ngày tết, gia đình làm mâm cơm cúng ông bà. Tấm lòng của con cháu tỏ bày lòng hiếu kính biết ơn. Mỗi khi trong gia đình có việc gì quan trọng như dựng vợ gả chồng cho con cái, hoặc con cái thi cử đỗ đạt… cha mẹ đều dẫn con cái đến trước bàn thờ gia tiên để trình diện với các ngài, bày tỏ mọi việc để các ngài chứng giám. (x. Gia đình Việt nam, mảnh đất phì nhiêu cho hạt giống Tin mừng, Thời sự thần học số 32 tháng 06/03).
Đạo Hiếu là cốt tuỷ của nền văn hoá Á châu trong đó có Việt nam. Hiếu là gốc của đức. Người ta có 100 nết nhưng hàng đầu vẫn là Hiếu. Chưa từng có người nào hiếu thảo lại bất trung, cũng như chưa từng có người hiếu thảo nào lại bất nhân.
Cốt lõi của Hiếu bắt đầu bằng: tôn kính cha mẹ lúc còn sống, thờ phượng cha mẹ lúc qua đời. Biết ơn cha mẹ phải được nói lên bằng đạo hạnh, bằng thờ cúng tổ tiên. Đó là nhiệm vụ thiêng liêng, là phẩm chất tối cao của con người.
Việc hiếu lễ từ ngàn xưa đã in sâu vào tâm linh mỗi người. Dân tộc Việt nam từ nam chí bắc dù ai theo tín ngưỡng nào, dù có bài bác thần linh, nhưng với ý niệm “Cây có cội, nước có nguồn” đều coi trọng gia lễ.
Ca dao đã đúc kết lòng hiếu nghĩa ấy:
Cây có gốc mới nở ngành sanh ngọn.
Nước có nguốn mới bể rộng sông sâu.
Người ta có gốc từ đâu.
Có cha có mẹ rồi sau có mình.
Đạo Hiếu chính là đạo của lòng biết ơn. Biết ơn trời đất, biết ơn tổ tiên ông bà cha mẹ. Ơn cha nghĩa mẹ sinh thành, ơn chín chữ, đức cù lao, ơn võng cực biển trời “Ai ai phụ, mẫu sinh ngã cù lao, dục báo chi đức, hạo thiên võng cực”. Cha mẹ sinh ra ta, nâng đỡ ta từ cung lòng, vỗ về âu yếm, nuôi dưỡng bú mớm, bồi bổ cho lớn khôn, dạy ta điều hay lẽ phải, dõi theo mỗi bước đường đời của ta, tuỳ tính tình mỗi đứa con mà khuyên dạy, che chở bảo vệ con. Ơn đức cha mẹ như trời biển “Công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.
Đạo Hiếu là nền tảng văn hoá gia đình Việt nam. Người Việt yêu chuộng những gì là tình, là nghĩa, coi tình nghĩa hơn lý sự “một trăm cái lý không bằng một tí cái tình”; chấp nhận “bán anh em xa mua láng giềng gần”; thích “dĩ hoà vi quý”, độ lượng “chín bỏ làm mười”; quý trọng con người, không tôn thờ của cải “người là vàng , của là ngãi; người làm ra của chứ của không làm ra người”; mong muốn anh em bốn biển một nhà “tứ hải giai huynh đệ”; đề cao tinh thần khoan dung “đánh kẻ chạy đi, ai đánh người chạy lại”. Đỉnh cao của lòng nhân ái là “thương người như thể thương thân”.
Gia đình Việt nam có nhiều thế hệ sống với nhau “tứ đại đồng đường”. Người Việt quan niệm “một mẹ già bằng ba hàng dậu”. Cha mẹ già không còn lo việc đồng áng, ở nhà chăm nom giữ cháu. Bầu khí gia đình luôn ấm cúng. Tuổi thơ con trẻ được ươm đầy tiếng ầu ơ của bà, câu chuyện cổ tích của ông. Từ lúc chưa rời vành nôi, trẻ thơ đã được trau dồi cái nhân cái nghĩa. Khi lớn lên, con cái lập gia thất, cha mẹ cho miếng đất dựng căn nhà, con cháu sum vầy bên ông bà cha mẹ, tối lửa tắt đèn có nhau. Chính gia sản tinh thần gia đình là chất keo nối kết tầm hồn con người lại để rồi ai ai cũng cảm thấy “quê hương mỗi người chỉ một…. đi đâu cũng phải nhớ về” (Quê hương, Đỗ trung Quân). Dù đi học xa, đi làm xa, đi đâu xa cũng phải về với gia đình sum họp những ngày cuối năm, ngày đầu năm. Ngày Tết là những ngày thiêng liêng ấm áp tình gia đình. Con cháu quy tụ chúc Tết với cử chỉ thành kính chắp tay chào lạy, dâng quà lễ mừng thọ.
Gia đình Việt nam là môi trường đào tạo con người toàn diện, tỉ mỉ và hiệu lực nhất. Dưới mái trường này, con người được đào tạo cả về kiến thức, tâm hồn, tư duy, nhân cách, lối sống để rồi có đủ bản lãnh và khả năng bước vào đời sống xã hội. Gia đình là nơi đào tạo căn bản nhất lòng đạo đức, giúp phát triển cái tài, nhân rộng cái đức cho con cái vào đời.
Đạo Hiếu chính là sợi chỉ vàng nối kết mọi người, mọi sinh hoạt gia đình. Đạo Hiếu làm nên bản sắc văn hoá người Việt. Như thế, tâm thức dân Việt rất gần với Tin mừng Đạo Chúa. Điều răn thứ bốn dạy thảo kính cha mẹ được đặt ngay sau ba điều răn về Thiên Chúa đủ nói lên tính cách quan trọng của nó. Sách Giảng Viên dạy: “thảo kính cha mẹ là thảo kính Chúa, tôn kính cha mẹ là tôn kính Chúa”. Chính Chúa Giêsu là mẫu mực hiếu thảo với Cha, yêu mến Cha, vâng ý Cha, luôn làm đẹp lòng Cha. Chúa Giêsu đã lên án bọn người lấy cớ để tiền của dâng cúng vào đền thờ mà trốn tránh bổn phận giúp đỡ cha mẹ. Đạo Chúa cũng là Đạo Hiếu. Hiếu với cha mẹ, đấng bậc sinh thành dưỡng dục. Hiếu với Thiên Chúa và thờ phượng Người, Đấng sáng tạo muôn loài, dựng nên con người giống hình ảnh Người. Như vậy Đạo Chúa cũng chỉ gồm chữ Hiếu. Thờ lạy Thiên Chúa là chân nhận Người chủ tể muôn loài, con người có bổn phận tôn vinh thờ phượng tỏ bày lòng hiếu thảo. Đối với tha nhân, Đạo Chúa dạy phải sống hiếu, phải thể hiện hiếu. Điều răn trọng nhất “kính Chúa, yêu người” là điều răn của Đạo Hiếu. Không một tôn giáo nào khai triển Đạo Hiếu cho bằng Đạo Chúa. Hiếu với Chúa, hiếu với tha nhân, đặc biệt hiếu với tổ tiên ông bà cha mẹ. Vì hiếu với Chúa nên phải tu thân tích đức để làm vui lòng Chúa, xứng đáng làm con cái của Người. Vì hiếu với ông bà cha mẹ nên phải sống đạo làm con, giữ nề nếp gia phong lễ nghĩa, làm vinh dự cho gia đình, gia tộc.
Chính từ tổ tiên ông bà cha mẹ mà người Việt nam có thể tìm đến với Đấng là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất. Đạo Hiếu là một điểm tựa, một bước đi khởi đầu thuận lợi, một lối đi dễ dàng, gần gũi, một mãnh đất phì nhiêu để đưa con người vào Đạo Chúa. Loan báo Tin mừng của Đạo Chúa chính là làm sáng lên những nét tinh tuý tiềm tàng trong mỗi nền văn hoá. Đối với môi trường gia đình Việt nam, đó chính là “minh minh đức”, làm sáng cái đức sáng trong môi trường gia đình. Tin mừng chính là nguồn nước thẩm thấu qua mọi lớp ngăn văn hóa và tôn giáo, Tin mừng là ánh sáng các dân tộc (LG), là ánh sáng trần gian (Ga 8, 12). Tin mừng và văn hóa giao thoa và hoà điệu với nhau. Phụng vụ Giáo hội dành ngày Mồng Hai Tết để cầu cho tổ tiên. Hằng ngày trong mọi thánh lễ, Giáo hội đều có lời cầu nguyện cho ông bà tổ tiên.
Đạo Chúa dạy, có một Cha trên trời mà con người phải tôn kính hiếu thảo;dạy yêu thương nhau “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”;dạy sống chan hoà, bình dị “anh em hãy học cùng tôi vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng”, dạy yêu quý sự sống “Tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào”. Tin mừng làm sáng lên những giá trị sáng ngời có sẵn trong môi trường văn hoá Việt nam, mang đến cho các giá trị văn hoá ấy chiều kích siêu việt, chiều kích cứu độ. (Quốc Văn, OP).
Đức Cố Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận đã đề cao vai trò gia đình, lòng thảo hiếu của con cái “chủng viện thứ nhất, đệ tử viện thứ nhất, trường sư phạm thứ nhất là gia đình công giáo. Không vị giám đốc tài ba, chuyên môn đến đâu có thể thay thế cha mẹ được. Nếu cơ sở bậc nhất ấy bị hỏng, tương lai Hội thánh và xã hội nhân loại cũng rung rinh sụp đổ. Đức Gioan XXIII biên thư cho cha mẹ ngày ngài được ngũ tuần: “Thưa thầy mẹ, hôm nay con được 50 tuổi. Chúa thương ban cho con nhiều chức trong Hội thánh, đi nhiều nơi, học nhiều sách, nhưng không trường nào dạy dỗ con, làm ích cho con hơn hồi con được ngồi trên chân thầy mẹ” (ĐHV 505).
Tinh thần hiếu hoà, lòng thảo hiếu của người Việt là điểm son đậm đà bản sắc dân tộc. Tin mừng bén rễ sâu vào nền văn hoá ấy làm xanh lên chồi lộc sự sống tình yêu rồi kết thành hoa trái tốt lành cho con người và cuộc đời.
21. Hiếu thảo với cha mẹ (Mt 15, 1-6)--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Truyền thống dân tộc Việt Nam quả rất cao quí khi ông bà tổ tiên, cha mẹ luôn được mọi người kính yêu, hiếu thảo. Tuy nhiên, Hội Thánh Việt Nam luôn dành ngày mồng hai tết để con cái cháu chắt tưởng nhớ tới tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Giáo Hội luôn cho con cái hiểu rằng việc hiếu thảo có giá trị rất cao và là một trong những điều Chúa dạy. Bởi vì, trong mười điều răn của Chúa, giới răn thứ bốn:” Hãy thảo kính cha mẹ ” là một giới răn được xếp trong mười điều Chúa dạy bảo. Chính vì thế, hôm nay, con cái của Chúa dâng thánh lễ này để cầu nguyện cho ông bà tổ tiên, cha mẹ là một điều thích hợp, phải lẽ đồng thời cũng rất hợp với lời dạy của Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu 15, 1-6.
Ngược lại với quan niệm, suy nghĩ của dân Do Thái, đặc biệt là các Kinh sư, Pharisêu về vấn đề báo hiếu, Chúa Giêsu luôn đề cao việc hiếu thảo đối với ông bà tổ tiên, cha mẹ, các bậc sinh thành, dưỡng dục. Kinh sư và Pharisêu cho rằng theo lời của tiền nhân thì tất cả những gì họ làm cho cha mẹ đều là tế phẩm dâng lên Thiên Chúa, do đó, họ làm như thế là đủ rồi, là tròn bổn phận và trách nhiệm rồi, không cần phải thờ cha kính mẹ nữa. Họ giới hạn bổn phận và nghĩa vụ dựa trên vật chất, và họ gán cho nó tính chất đạo đức. Đối với Chúa Giêsu, Ngài nói cho các Pharisêu, các Kinh sư và mọi người biết rằng:” Phải thảo kính cha mẹ…” theo đúng giới răn thứ bốn trong thập giới của Thiên Chúa đã trao cho ông Môsê:” Thảo kính cha mẹ “. Chúa nói :” Kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử “. Chúa Giêsu mở ra cho thế giới, cho con người, cho mỗi người một chân trời mới về nghĩa vụ và bổn phận đối với các bậc sinh thành. Vật chất cần thật nhưng tấm lòng, con tim, tinh thần còn có giá trị cao vời hơn. Thật vậy, xưa cũng như nay, vấn đề hiếu thảo đối với các bậc sinh thành luôn được đặt ra với nhiều quan niệm và suy nghĩ khác nhau. Ngày nay, tại nhiều đất nước, việc truyền bá tự do luôn được đề cao, nhiều nơi xem sự tự do là chính mà quên đi giá trị đạo đức. Do đó, giá trị truyền thống hiếu thảo đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ bị coi nhẹ. Nhiều nước, luật pháp bảo vệ tự do quá đáng: cha mẹ không được nói nặng tới con cái, chứ chưa nói tới quát nạt, to tiếng hay đánh sửa dạy. Nhiều nước, con cái tới 18 tuổi được luật pháp bảo hộ theo ý của mình. Cha mẹ luôn phải dè chừng với con cái. Nên, giá trị đạo đức bị lung lay: con cái muốn làm gì thì làm. Luân lý bị coi nhẹ. Cha mẹ được xem như gánh nặng đối với con cái. Con cái thích tự lập, ở riêng. Người già đã có nhà xã hội, nhà dưỡng lão vv…Việc hiếu thảo đối với cha mẹ được xem nhẹ. Cha mẹ già thường cảm thấy cô đơn, buồn tủi. Có người đã nói cay chua, mỉa mai:” Ước gì mình được con cái chăm sóc như con chó mà con mình đang nuôi “. Đó là sự thực nhưng sự thực thật cay đắng và mỉa mai. Thiết tưởng, mọi gia đình phải nhìn vào mẫu của gia đình thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu để noi gương bắt chước. Chúa là Chúa nhưng làm người, Ngài luôn vâng lời, tuân phục và sống thảo hiếu với cha mẹ của mình.
Dân tộc Việt Nam luôn còn giữ được truyền thống thảo hiếu và giáo dân Việt Nam còn biết lắng nghe lời Chúa và thực hành lời Chúa. Do đó, nghĩa vụ, bổn phận đối với các bậc sinh thành, tổ tiên luôn được trân trọng giữ gìn.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng mến cho chúng con để chúng con luôn biết thảo hiếu với tổ tiên, cha mẹ: sống thì thăm hỏi, giúp đỡ, nuôi dưỡng, khi các Ngài khuất bóng thì biết xin lễ, cầu nguyện và làm những việc phúc đức dâng cho cha mẹ, tổ tiên. Amen.
22. Suy Niệm Lời Chúa (Mt 15, 1-6)
Lời Chúa trong đoạn Tin Mừng trên cho thấy, cuộc đụng độ giữa Chúa Giêsu và những người lãnh đạo Do Thái. Trọng tâm chính của lần này, không phải là cuộc chạm trán trực tiếp có tính cách cá nhân giữa Chúa Giêsu và các rapbi nữa, nhưng là sự đụng độ giữa hai quan niệm về những đòi hỏi của Thiên Chúa, hai hình thức giữ luật. Các luật sĩ thắc mắc: “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân?…” Chúa Giêsu trả lời họ cũng bằng một câu hỏi: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa?”
Theo người Do Thái, quan niệm về những đòi hỏi của Thiên Chúa được ghi trong luật. Luật gồm hai phần: Luật thành văn là luật Chúa chứa đựng trong Kinh Thánh, và luật truyền khẩu được các kinh sư triển khai qua nhiều thế hệ, và được xem như là truyền thống của tổ tiên. Luật này có tính cách bắt buộc tuân giữ, nếu không muốn nói là hơn cả luật thành văn. Đối với người Do Thái, tất cả những luật truyền thống là lệnh truyền của Chúa, thực thi những điều luật truyền thống là làm vừa lòng Chúa, là trở nên một người công chính. Tuân giữ luật Chúa là tuân thủ những luật lệ, những nguyên tắc và những lễ nghi bề ngoài, nghiêm ngặt phần hình thức như “rửa tay trước khi ăn”, “dâng lễ phẩm cho Chúa thay thế sự hiếu kính cha mẹ”.
Đối với Chúa Giêsu, quan niệm về những đòi hỏi của Thiên Chúa được thể hiện lớn nhất bằng luật yêu thương. Ngài xem giữ luật là một cảm nghiệm sống ở trong lòng, một biểu hiện liên đới, nhân từ, vượt trên hình thức, là tấm lòng trong sạch và đời sống yêu thương.
Hôm nay, Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi của Pharisêu và các kinh sư cách trực tiếp. Nhưng Ngài lấy một ví dụ về việc thực hành luật truyền khẩu để cho họ thấy, chẳng những đây không phải là luật Chúa mà còn có thể đi ngược lại Luật Chúa. Luật Thiên Chúa đã đặt ra là phải “hiếu thảo với cha mẹ của mình”. Nhưng những người Do Thái lại nói: “Những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi”. Những người Do Thái này, đã dùng nghi lễ bề ngoài, để thoái thác một bổn phận căn bản là hiếu kính cha mẹ. Họ đã lấy quy ước của các kinh sư để xóa bỏ đi điều răn của Thiên Chúa.
Quý vị và các bạn thân mến,
Hôm nay ngày mùng hai Tết, Giáo Hội Việt Nam dành để nhắc nhở mọi thành phần dân Chúa về lòng hiếu thảo, biết ơn tổ tiên – ông bà – cha mẹ. Trong 10 điều răn Chúa truyền dạy, sau ba điều dành cho Thiên Chúa thì đến điều thứ tư dành cho ông bà, cha mẹ. Thánh Phaolô đã làm cho điều răn thứ tư này mạnh mẽ hơn khi nói: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này (Ephêsô 6, 1-3)”.
Vâng, thảo kính cha mẹ không phải là chuyện gởi những món quà to, nhưng lỡi tết nặng, nhưng thảo kính cha mẹ là về bên các ngài trong những ngày nghỉ, thăm hỏi, chăm sóc, hiện diện, an ủi, đỡ đần và yêu thương. Thảo kính cha mẹ không phải là chuyện khoe thành tích, cũng chẳng là chuyện dâng cúng ít nhiều, nhưng là biết vâng nghe nhưng lời dạy dỗ bảo ban; biết kính trên nhường dưới; biết ghi lòng tạc dạ đền đáp công ơn:
Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.
Núi cao biển rộng mênh mông,
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!
Lời Chúa hôm nay mạnh dạn nhắc nhở, không thể có một sự thỏa hiệp nào giữa hai quan niệm luật hình thức và luật yêu thương; không thể san bằng nghi thức bên ngoài với lệnh truyền của Chúa. Những kinh sư đã lẫn lộn mọi luật lệ của Chúa với những nguyên tắc bên ngoài, và họ đã biến những nguyên tắc ấy thành một thứ luật mà họ coi là điều Thiên Chúa đòi hỏi cho riêng họ.
Thảo kính cha mẹ là điều Thiên Chúa muốn, Giáo Hội nhắc nhở, đạo làm người mong khắc ghi:
Đố ai đếm được lá rừng,
Đố ai đếm được mấy từng trời cao,
Đố ai đếm những vì sao,
Đố ai đếm được, công lao mẹ thầy.
Lạy Chúa,
Xin chúc lành cho cha mẹ của chúng con.
Xin ban muôn ơn lành hồn xác cho các ngài.
Xin chúc phúc cho những người con thảo hiếu như Chúa đã hứa.
23. Suy niệm Lời Chúa
Giáo hội dành ngày mùng hai tết để cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ, và cũng là để nhớ đến công ơn của các ngài. Giáo hội nhớ đến và cầu nguyện cho các ngài là bởi vì, tổ tiên, ông bà, cha mẹ là những người có công sinh thành, dưỡng dục và xây dựng cuộc đời cho chúng ta. Các ngài tận tụy dậy dỗ mình sống đời sống làm người, và đặc biệt nhờ các ngài mà mình được biết Chúa và yêu mến Ngài. Công lao của các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ thật bao la trời biển.
“Công cha như núi Thái Sơn.
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
Quả thật, truyền thống cha ông chúng ta rất coi trọng chữ hiếu. Chính vì vậy mà để đánh giá tư cách của một người nào, các cụ ngày xưa thường dựa vào cách người đó đối xử với cha mẹ của mình như thế nào. Thậm chí, các cụ coi việc báo hiếu còn quan trọng hơn cả việc đi tu:
“Tu đâu cho bằng tu nhà,
thờ cha kính mẹ, ấy là chân tu”.
Và hơn nữa, đối với người kitô hữu, việc thảo kính cha mẹ không chỉ là một bổn phận tự nhiên, nhưng còn là một đòi hỏi của Thiên Chúa. Nhìn lại bản thập giới, ngay sau ba giới răn nói về bổn phận của con người đối với Thiên Chúa, thì giới răn “thảo kính cha mẹ” được đặt đầu tiên trong các giới răn nói về mối tương quan của con người với nhau.
Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô cũng nhắc: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo”.
Và đặc biệt trong bài Tin mừng, Đức Giêsu nhắc lại với Pharisiêu, với kinh sư và với con người mọi thời rằng: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử”. Rõ ràng, đối với Chúa Giêsu, việc hiếu thảo đối với cha mẹ là điều hết sức quan trọng và là bổn phận hàng đầu của mỗi người kitô hữu.
Như thế, việc thảo kính cha mẹ không còn tùy thuộc vào ý thích cá nhân, nhưng đó là thánh ý của Thiên Chúa, đó là lệnh truyền của Thiên Chúa, và đó là đòi buộc của Thiên Chúa.
Ngày đầu xuân Giáo hội nhắc lại sự đáp trả, báo ơn cha mẹ, ông bà, tổ tiên là việc làm rất ư cần thiết. Thế nhưng, ta phải có những thái độ nào, phải có những cách hành xử như thế nào, để đạo “thờ cha, kính mẹ” cho phù hợp với thánh ý Thiên Chúa? Đó có phải chỉ là cấp tiền nuôi dưỡng cha mẹ? Hay đó có phải chỉ là đến ngày, đến tháng vào xin một thánh lễ cho cha mẹ, ông bà, tổ tiên là xong?
Trong sách xưa có một bài về đạo hiếu rất hay và cũng phù hợp với tinh thần Kitô giáo:
“Hiếu hữu tam:
Đại hiếu tôn thân
Kỳ thứ phất nhục
Kỳ thứ năng dưỡng”
Tạm dịch là:
Đạo hiếu có ba điều:
Hiếu lớn nhất là tôn vinh cha mẹ
Hai là không làm nhục cha mẹ mình
Ba là có thể nuôi dưỡng cha mẹ mình.
Vậy, thế nào là tôn vinh cha mẹ? Thế nào là không làm nhục cha mẹ? Và thế nào là dưỡng nuôi cha mẹ mình?
1. Tôn vinh cha mẹ trước mặt Thiên Chúa và con người
Theo quan niệm của Kitô giáo, thì sự tôn vinh cha mẹ ở cấp độ cao nhất đó là sự tôn vinh cha mẹ, làm rạng rỡ cha mẹ ở trước mặt Thiên Chúa. Niềm vinh dự lớn lao của cha mẹ đó là được tôn vinh trước mặt Thiên Chúa. Thành ra, người có hiếu lớn nhất đó là người sống ngay lành, làm điều tốt trước mặt Thiên Chúa: sống theo thánh ý Chúa, sống theo luật Chúa đó là tốt nhất. Do đó khi sống đạo tốt, đó là mình thể hiện cái hiếu lớn nhất đối với cha mẹ.
Mặt khác, tôn vinh cha mẹ không chỉ trước mặt Thiên Chúa mà còn là tôn vinh, làm rạng danh cha mẹ trước mặt người đời. Mình không thể nói là có hiếu với cha mẹ khi mà đời sống của mình bê bối đủ điều. Mình không thể nói là có hiếu nếu mình cứ sống một cuộc sống mua gian bán lận, một cuộc sống thiếu yêu thương bác ái đối với người khác, một cuộc sống muốn loại trừ những người khác. Do đó, cái hiếu đối với cha mẹ, đó còn là việc thể hiện một đời sống tốt trước mặt người đời. Bởi vì khi mình sống tốt trước mặt người đời là mình đang làm rạng danh, đang tôn vinh cha mẹ mình.
Hơn thế nữa, cái hiếu lớn nhất là tôn vinh cha mẹ, không chỉ là tôn vinh cha mẹ trước mặt Thiên Chúa và tôn vinh cha mẹ trước mặt người đời, nhưng còn là thể hiện cái hiếu qua việc tôn vinh cha mẹ trước mặt chính mình. Tôn vinh cha mẹ trước mặt chính mình đó là khi mình biết vâng lời cha mẹ, tôn kính cha mẹ. Do đó, mình không thể nói là có hiếu trong khi mình cứ luôn cãi lời cha mẹ, không biết tôn kính cha mẹ.
2. Cái hiếu thứ hai đó là không làm nhục cha mẹ
Trước hết chúng ta xét đến tương quan với Thiên Chúa, đó là đừng làm nhục cha mẹ trước mặt Thiên Chúa. Nghĩa là, khi xa lánh tội lỗi, không làm điều xấu đó là mình thể hiện cái hiếu đối với cha mẹ. Chúng ta không thể là người có hiếu nếu cứ sống trong tình trạng lầm lạc, trong những đam mê, những thú vui tội lỗi. Khi chúng ta phạm tội đó là mình đang làm nhục cha mẹ trước mặt Thiên Chúa, và như thế thì không thể nói là mình đang sống trọn chữ hiếu với cha mẹ được. Và chúng ta không chỉ đừng làm nhục cha mẹ trước mặt Thiên Chúa mà còn không làm nhục cha mẹ trước mặt người đời. Mình đừng để cho người đời vì mình mà chửi cha mẹ mình. Con cái đi làm điều bậy bạ để rồi cha mẹ phải lãnh lấy hậu quả, bị người đời coi thường, khi đó chúng ta không thể là người sống có hiếu được.
3. Và cái hiếu thứ ba đó là có thể nuôi dưỡng cha mẹ
Nuôi dưỡng hay chu cấp cho cha mẹ ở đây không chỉ là về những nhu cầu vật chất nhưng là còn về tinh thần.
Trước mặt Thiên Chúa, mình cầu nguyện cho cha mẹ đó là nuôi dưỡng cha mẹ. Khi cha mẹ còn sống hay đã qua đời, lời cầu nguyện của chúng ta cho cha mẹ thể hiện lòng hiếu thảo đối với cha mẹ.
Trước mặt người đời, người có hiếu là người có thể phụng dưỡng cho cha mẹ về vật chất cũng như tinh thần, đem lại niềm vui, đem lại niềm hạnh phúc cho cha mẹ.
Như vậy, cái hiếu lớn nhất của mỗi người đó là tôn vinh cha mẹ, làm rạng danh cha mẹ trước mặt Thiên Chúa, trước mặt người đời và trước mặt chính mình.
Cái hiếu thứ hai đó là không làm nhục cha mẹ trước mặt Thiên Chúa, không làm nhục cha mẹ trước mặt người đời.
Cái hiếu thứ ba đó là nuôi dưỡng cha mẹ, phụng dưỡng cha mẹ trước mặt Thiên Chúa, trước mặt người đời.
Làm được như thế đó là mình sống trọn lòng hiếu thảo đối với cha mẹ như lòng Chúa mong muốn.
Lắng nghe lời Chúa trong ngày đầu năm này, ước gì mỗi người một lần nữa ý thức hơn về những hồng ân Thiên Chúa đã ban cho mình qua ông bà cha mẹ, để hết lòng tri ân và cảm tạ các ngài. Đồng thời, đây cũng là cơ hội thuận tiện để mình duyệt xét lại lòng thảo hiếu đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Việc thảo kính này, không chỉ là dâng một ít quà hay một lời cầu chúc trong ngày đầu năm, nhưng lòng thảo hiếu này, cần được kéo dài trong suốt cuộc đời mỗi người.
Xin Chúa cho mỗi người có được lòng mến yêu, có được một tinh thần thảo hiếu, để chúng ta có thể luôn biết thể hiện lòng hiếu thảo đối với tổ tiên, ông bà cha mẹ.
24. Kính nhớ tổ tiên--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Ngày Mồng Một tết chúng ta dâng lên Thiên Chúa tâm tình tạ ơn và những ước nguyện cho ngày đầu năm mới, hôm nay ngày Mồng hai, chúng ta bày tỏ lòng biết ơn và thảo kình đối với ông bà tổ tiên những người còn sống cũng như đã qua đời. Tuy nhiên với thời buổi người ta đặt lợi nhuận kinh tế lên hàng đầu, thì hình như bổn phận thảo hiếu đối với tổ tiên nơi nhiều người, nhiều gia đình cũng đang bị tính toán thiệt hơn. Nhiều câu chuyện xảy ra trong năm qua đã kiến cho cộng đồng bức xúc, vì có những đứa con giàu có nhưng đùn đẩy không ai muốn đón bố về chăm sóc, nên họ đã để bố của mình năm ở vỉa hè trong lúc sắp chết, có người con thì kiện mẹ ra tòa để đòi mấy trăm triệu tiền công chăm sóc trong mấy năm trời. Đọc và nghe những mẩu tin như thế thật đau lòng khi thấy tình nghĩa đạo lý trong gia đình đã xuống cấp trầm trọng.
Những ngày cuối năm gặp nhau câu hỏi đầu tiên có lẽ là câu: Năm nay có về quê ăn tết không? Ai đã từng phải đón cái tết xa quê thì mới thấm thía thế nào là nỗi nhớ nhà trong những ngày này. Nỗi nhớ nhà của ngày tết nó thôi thúc mọi người bằng mọi giá phải trở về với cha mẹ với tổ tiên để thắp một nén nhang trước bàn thờ tổ tiên, để được ngả đầu vào bờ vai cha mẹ, để ăn một bữa cơm đầu năm, dù là bữa cơm thật đạm bạc, nhưng trong bữa cơm ấy nó chứa đựng bao nỗi vất vả của cha, bao sự chờ đợi lo lắng của mẹ, bao tình yêu thương để chia sẻ. Sau một năm bận rộn vất vả chỉ có những ngày này trở về với gia đình, người ta mới cảm thấy thư thái bình an, vì không có nơi nào an toàn cho bằng trái tim của người mẹ, và không nơi nào vững chắc cho bằng bờ vai của cha. Vì thế những người không còn cha không còn mẹ sẽ thấm thía đến tận cùng sự trống vắng thiếu thốn trong ngày tết này, sẽ cảm nhận sự đau đớn sự buồn bã, lạc lõng khi mình đi không ai nhớ, về không ai mong.
Nhớ ơn cha mẹ, ông bà trong dịp đầu năm là giúp chúng ta trở về cội nguồn, với dòng tộc, giúp mỗi người sống đúng với con người của mình và sống trọn bổn phận với cha mẹ tổ tiên. Biết ơn mẹ cha là nhớ đến công sinh thành dưỡng dục. Các ngài đã trải qua bao gian lao vất vả, mang nặng đẻ đau, bao tháng ngày bú mớm chăm sóc, kể làm sao hết những gọt mồ hôi của cha, những sư lo lắng của mẹ khi chúng ta đau ốm, bao nhiêu hy sinh vất vả nắng mưa sớm hôm để cho ta được bằng người. Kể làm sao hết sự hy sinh thầm lặng nhịn ăn nhịn mặc để cho con không thua kém bạn bè, để cho con được đến trường thì mỗi ngày cha mẹ lại phài vất vả nhiều hơn.
Việc thảo hiếu với tổ tiên ông bà không chỉ là bổn phận của đạo hiếu, đạo làm người, của lòng biết ơn, mà nó còn là giới răn và đòi buộc của đạo Chúa. Tuy nhiên người ta sẽ không thể chu toàn được đạo Chúa nếu không chu toàn đạo làm con và đạo làm người. Sách Huấn Ca dạy chúng ta sống sao để làm rạng danh cha mẹ tổ tiên, và đừng bao giờ quên công đức của các ngài, và vì các ngài chính là gia tài quý giá nhất mà người ta không thể tìm kiếm hoặc mua ở đâu được, và chính chúng ta đang được hưởng phúc đức và dòng máu các ngài để lại cho chúng ta.
Ngày xưa các thày tiến sĩ Do Thái đã đưa ra một thứ luật, mà sau này Chúa Giêsu đã cực lực phản đối sự trốn tránh trách nhiệm của luật ấy. Luật dạy rằng: Ai nguyền rủa và đối xử tệ bạc với cha mẹ thì bị xử tử. Còn các ông lại nói: Ai nói với cha mẹ rằng: của phụng dưỡng cha mẹ đã được dâng cho Thiên Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa. Các ông dựa vào truyền thống của các ông để chối bỏ luật Thiên Chúa và Thiên Chúa không chấp nhận một của lễ được dâng lên do sư bất hiếu, trốn tránh trách nhiệm như thế. Sách Khôn Ngoan còn nhấn mạnh: Của dâng cho cha sẽ không bị quên lãng, của biếu cho mẹ sẽ đền bù được tội lỗi. Như thế, có thể nói việc thảo hiếu với cha mẹ được Thiên Chúa đón nhận như việc thảo hiếu đối với Ngài vậy.
Thánh Phaolô còn khuyên rằng: Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ theo tình thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo, và ai tôn kính thảo hiếu cha mẹ thì được trường thọ trên mặt đất. Thế nhưng ngày nay đang diễn ra bao cảnh trái ngang: Con cái hất hủi coi thường, chửi mắng đánh đập cha mẹ là đấng sinh ra mình, đùn đẩy trách nhiệm báo dưỡng vì sợ phiền phức tốn kém, sợ bẩn nhà, nhiều người đối xử với cha mẹ như đầy tớ. Dịp tết này, hãy điều chỉnh lại cách sống thảo hiếu của mình với cha mẹ để còn làm gương cho con cái, vì sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đấy, chúng ta bắc cầu tới đâu, con cái sẽ đi tới đó. Hôm nay chúng ta đối xử với cha mẹ thế nào, thì ngày mai con cái chúng ta cũng sẽ đối xử với chúng ta y như vậy.
Trong Năm Gia đình Sống và Loan Báo Tin Mừng, trong sư mới mẻ của đất trời mùa xuân, Giáo Hội mời gọi chúng ta làm mới lại tương quan trong gia đình. Sự đổi mới phải bắt đầu từ mỗi thành viên của gia đình, nhưng trước hết vẫn là cha me. Người cha người mẹ hãy nỗ lực vươn lên, sẽ là niềm vui hạnh phúc cho con cái, mọi thành viên trong gia đình cố gắng canh tân, sẽ là niềm vui hạnh phúc cho cả gia đình.
Hãy bắt đầu từ nơi người cha, người chồng: các ông hãy là mùa xuân cho gia đình bằng một đời sống đạo hạnh, hãy vì vợ, vì tương lai gia đình mà đem niềm vui về cho gia đình, hãy dẹp bỏ những đám mây u ám trong gia đình là những cuộc nhậu nhẹt rượu chè, bài bạc, chửi bới đánh đập vợ con…, đừng biến gia đình thành địa ngục cho nhau. Đừng để con cái sơ hãi, mặc cảm với bạn bè về cha của mình, vì con cái không chỉ cần tình thương, mà nó còn cần danh dự phẩm giá của cha mẹ để có thể tự hào hãnh diện với bạn bè. Cuộc sống đạo đức thành thật của người cha sẽ là tia nắng ấm mùa xuân cho gia đình, hãy trở nên người chồng người cha có trách nhiệm với gia đình, nuôi sống gia đình bằng mồ hôi lương thiện, bằng nỗ lực của chính mình. Hãy là một người cha cương nghị. trở nên hàng rào bảo vệ gìn giữ con cái trên con đường lương thiện và là trụ cột vững chắc cho gia đình những khi sóng gió. Hãy biết chia sẻ trách nhiệm với vợ mình và hết lòng chăm lo cho cha mẹ khi các ngài luống tuổi.
Phúc đức tại mẫu, các bà vợ, người mẹ hãy có một cuộc sống đạo hạnh dịu hiền bao dung, hãy trở thành cành mai cành đào tô điểm cho gia đình thêm tươi thắm bằng sự dịu dàng khả ái, bằng đời sống nết na đạo đức. Người mẹ là người có trái tim nhạy bén, hãy thông cảm và chia sẻ những lo toan với chồng và hãy bao dung tận tụy với con cái. Người mẹ hãy trở nên mùa xuân cho gia đình bằng sự cần mẫn, hãy làm cho gia đình trở nên ấm cúng sạch sẽ ngăn nắp gọn gàng, làm cho những bữa cơm thêm thân mật, cho gia đình đầy ắp tiếng cười. Hãy dùng trái tim nhạy cảm của một người vợ, người mẹ để làm cho gia đình thực sự trở thành một tổ ấm, là nơi cư ngụ tốt nhất cho chồng con sau những ngày mệt mỏi với công việc, thông cảm với chồng, chia sẻ với những khó khăn của con cái bằng sự nhẫn nại dịu hiền.
Còn những người làm con hãy trở thành mùa xuân cho gia đình, cho cha mẹ, khi biết tôn kính mến yêu vâng lời các ngài, đừng để cha mẹ phải đau khổ hơn nữa vì sư lêu lổng ngỗ nghịch của mình, đừng để cho tệ nạn ăn chơi, nghiện hút cá độ làm tan nát gia đình. Hãy làm vơi đi sư nhọc nhằn của cha mẹ, đem lại sư hãnh diện cho cha mẹ, bằng việc chăm chỉ rèn luyện học hành, bằng tư cách đạo đức tốt. Hãy trở nên một thanh thiếu niên Công giáo tốt nơi gia đình nơi công ty xí nghiệp trường học, hãy thảo hiếu và biết ơn cha mẹ và làm cho tình anh em trong gia đình thêm mặn mà hạnh phúc vui tươi hơn. Nếu cha mẹ già yếu, hãy kiên nhẫn yêu thương kính trọng và chăm sóc cho các ngài, vì chúng ta sẽ không thể tìm được cha mẹ nữa một khi các ngài đã không còn.
Cầu chúc cho mọi người, mọi gia đình noi gương gia đình Thánh Gia xây dựng gia đình êm ấm thuận hòa con cái thảo hiếu, chúc cho mọi người biết chu toàn bổn phận của mình như lời Chúa dạy hôm nay, và hãy dành cho nhau tình yêu thương, hãy yêu thương nhau hết lòng và hãy làm tất cả những gì tốt đẹp cho nhau, để khi cha mẹ hay người thân có mất đi, chúng ta không phải hối tiếc vì chưa làm gì cho họ. Amen.
25. Cần có một tấm lòng--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Trong tác phẩm “Để gió cuốn đi” nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã đặt một câu hỏi: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng, để làm gì em có biết không?” Nhạc sĩ đã trả lời: “Để gió cuốn đi, để gió cuốn đi”. Có người thắc mắc tại sao lại cần có một tấm lòng để gió cuốn đi như vậy? Có lẽ, nhạc sĩ họ Trịnh này muốn dùng hình ảnh “gió cuốn đi” không phải là một cơn bão xóa sổ một ngôi làng, nhưng đây là một cơn gió mát giữa trưa hè oi bức, một ngọn gió thu lúc buổi sớm, mang theo hương cau, mùi lúa mới, làm nhẹ lòng người, khiến lòng con người cảm thấy thanh thản và yêu cuộc sống hơn. Như thế, theo Trịnh Công Sơn, tấm lòng chân thành là điều cần thiết giúp lòng người có thể gặp nhau và làm vui lòng nhau.
Thiên Chúa khi dựng nên con người, Ngài ban cho con người có một dáng vẻ bên ngoài và một thế giới bên trong được gọi bằng ngôn ngữ bình dân đó là lòng người. Thế nhưng, không phải lúc nào dáng vẻ bên ngoài của một người cũng đồng nhất với cái lòng bên trong. Có nhiều lúc, bên ngoài có vẻ thành thật nhưng cái lòng lại gian dối, bên ngoài có vẻ tươi cười vui vẻ, nhưng lòng lại đau thắt. Ngược lại, có những lúc trong lòng rất yêu rất thương, nhưng bên ngoài lại tỏ ra giận dỗi. Thông thường, người ta thường lấy cái vẻ bên ngoài, để che đây cái lòng bên trong. Nhưng khi có một tấm lòng thành, lòng thật, thì sự thành thật sẽ thể hiện ra bên ngoài qua ánh mắt, cử chỉ lời nói. Khi có một người tấm lòng thành, người khác sẽ dễ dàng cảm nhận được điều đó qua các cử chỉ bên ngoài.
Thiên Chúa là Đấng thấu suốt cả bên ngoài lẫn trong lòng của mỗi người. Ngài thấu tỏ từ ý nghĩ, lời nói và tấm lòng của con người, cho dù con người chưa tỏ lộ ra bên ngoài. Thiên Chúa muốn mỗi chúng ta đến với Chúa và sống với Chúa, bằng một tấm lòng thành thật chứ không chỉ là những hình thức bên ngoài. Chúa muốn chúng ta làm việc tốt với một tấm lòng tốt, không tính toán, không gian dối, Chúa cũng muốn chúng ta đối xử với nhau bằng tấm lòng chân thành, không hình thức, không chiến thuật. Câu chuyện Tin Mừng hôm nay cho thấy, những người Biệt Phái đã sống và thực hành đạo chỉ có hình thức bên ngoài mà không có tấm lòng bên trong, họ đến với Chúa bằng áo quần lượt thượt và nghi lễ dài dòng, nhưng lại không có tấm lòng. Những người Biệt Phái trách Chúa Giêsu và các môn đệ không rửa tay trước khi ăn theo tập tục của tiền nhân. Việc rửa tay của người Do Thái không phải là việc giữ vệ sinh như ngày nay, nhưng là một nghi lễ thanh tẩy. Tuy nhiên, do trở thành thói quen, người Do Thái không còn biết mình rửa tay trước khi ăn để làm gì. Chúa Giêsu đã trách họ, vì họ chỉ còn hình thức mà không có nội dung, giữ các tập tục, hình thức bên ngoài mà không có tấm lòng. Chúa muốn đưa họ trở về với ý nghĩa đích thực của tập tục này, đó là việc thanh tẩy bên ngoài, rửa tay rửa bình, nhắc cho mỗi người phải không ngừng tẩy rửa lòng mình khỏi mọi thói quen xấu từ bên ngoài và thanh tẩy những vết nhơ tính xấu và tội lỗi từ bên trong. Chúa Giêsu đã trích lời tiên tri Isaia cảnh cáo lối sống giả dối của họ: “Dân này tôn kính ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa ta”. Hơn nữa, Chúa còn cảnh cáo lối sống hai lòng hai dạ của họ: Thay vì những Biệt Phái và Luật Sĩ phải có bổn phận dạy cho dân chúng Lời và Ý của Chúa thì họ lại không làm như vậy. Họ đã khéo đánh tráo vào công việc và lời nói của mình, thay vì nói Lời của Chúa, họ lại nói lời của họ; thay vì làm việc làm của Chúa, họ lại làm việc theo ý riêng cá nhân và dạy người khác làm. Họ đã đánh tráo cả vị trí của Thiên Chúa để thay thế mình vào chỗ của Thiên Chúa.
Điểm thứ hai Chúa trách các Biệt Phái về lòng gian của họ. Họ đã bẻ quẹo Lời Chúa để phục vụ cho lợi ích cá nhân. Luật Chúa đòi mọi người phải thờ cha kính mẹ, hết lòng thảo hiếu phụng dưỡng các Ngài nhất là khi tuổi già sức yếu. Tuy nhiên, các Luật Sĩ lại mượn Thiên Chúa để bẻ quẹo luật Chúa, khi họ dạy người khác rằng: Ai tuyên bố dâng cúng tất cả tài sản của mình cho đền thờ, thì không phải nuôi dưỡng phụng kính cha mẹ nữa. Như thế, có nhiều kẻ không muốn phụng dưỡng cha mẹ, kẻ ấy chỉ cần tuyên bố sẽ dâng hết tài sản cho Chúa. Chắc chắn Chúa không chấp nhận của lễ dâng cho Ngài từ một kẻ bất hiếu như thế. Chúa cũng không muốn một cái lòng gian dối, quanh co, luồn lách trách nhiệm như vậy. Chúa mong muốn, trước hết mỗi người phải có một tấm lòng thành đối với cha mẹ và lòng trung đối với Thiên Chúa, không thể bỏ qua bên nào, cũng không thể chỉ chọn một trong hai. Đồng thời, Chúa cũng không chấp nhận con người tìm cách thay thế luật Chúa bằng những tập tục gian dối của mình, hoặc chỉ chú trọng đến tập tục truyền thống mà làm lu mờ luật Chúa. (Dựa theo ý bài chia sẻ của Đức Cha Giuse ngày thường huấn 06/2/2018)
Ngày mồng hai tết, Giáo Hội nhắc chúng ta nhớ đến bổn phận thảo hiếu với ông bà tổ tiên. Việc nhớ đến ông bà tổ tiên cũng phải đặt trên một tấm lòng thành. Lời Chúa hôm nay soi rọi cho Chữ Hiếu của người Việt Nam, việc hiếu thảo phải được thể hiện một cách đặc biệt qua các dịp lễ tết, bằng việc trân trọng gìn giữ nét đẹp truyền thống của gia đình. Kế đến, là việc thảo kính vâng lời và làm vui lòng các bậc sinh thành và tiền nhân.
Bài đọc một khuyên chúng ta: “Hãy ca tụng công đức của các bậc tiền nhân vì bao công lao khó nhọc và phúc ấm các ngài để lại cho con cháu”. Hãy gìn giữ và làm phát huy những giá trị tốt đẹp, là tài sản quý giá mà cha ông để lại. Gần đây, có một vài tiến sĩ đề nghị bỏ cái tết cổ truyền, với lý do là nghỉ tết nhiều, sẽ ảnh hưởng đến kinh tế. Nói như thế chứng tỏ, những nhà tiến sĩ này đã quên các giá trị đạo đức gia đình, truyền thống và văn hóa dân tộc, để chỉ nghĩ đến tiền (kinh tế). Ngày tết không đơn thuần là ngày nghỉ, vì ngày tết còn là ngày mỗi người có thể đụng chạm đến hồn dân tộc và cảm nhận được văn hóa lâu đời của một dân tộc, là dịp để mọi người sống, cảm nhận và vun đắp cho truyền thống gia đình. Vì vậy, không có ngày nào trong năm mà mỗi người cảm thấy thiêng liêng, quan trọng như đêm ba mươi và sáng mồng một tết. Cũng vì sự thiêng liêng quan trọng này, mà cha mẹ ở nhà mong con cháu về xum họp, mọi người đi xa đều mong về đến nhà, để xum họp với ông bà, mẹ cha và nhất là để thắp cho ông bà, tổ tiên một nén hương, thể hiện tấm lòng thảo hiếu biết ơn. Như thế, có bài học biết ơn nào hay hơn bài học thực tế này trong ngày tết; có tình cảm nào thiêng liêng, ấm cúng cho bằng tình cảm của gia đình xum họp trong ngày đầu năm. Chính trong dịp xum họp đầu năm này, mà các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình được lưu truyền cho con cháu. Cha mẹ, ông bà hạnh phúc vì con cháu thành đạt, xum họp đông đủ, con cháu tự hào, trân trọng, duy trì và làm phát huy truyền thống gia đình. Tuy nhiên, lòng thảo hiếu biết ơn, tình cảm gia đình, cuộc xum họp ngày xuân chỉ thực sự trở nên có ý nghĩa, khi mỗi người trở về với mẹ cha và gia đình bằng một tấm lòng thành. Thiếu tấm lòng thành, sự thảo hiếu chỉ còn là hình thức, thiếu tấm lòng, ngày xum họp gia đình, anh em chỉ còn là một màn kịch, bằng mặt mà không bằng lòng. Có nhiều gia đình ngày tết cha mẹ anh em gặp nhau mà không mừng, gần nhau mà không quý, còn có sự hiện diện của cha mẹ, anh em mà không biết trân trọng.
Thư Ephêsô dạy chúng ta duy trì bầu khí ấm cúng, truyền thống của gia đình mọi ngày trong đời sống bằng cách: “Hãy vâng lời và thảo hiếu cha mẹ, để ngươi cũng được trường thọ trêm mặt đất này”. Yêu trẻ, trẻ đến nhà; kính già, già để tuổi cho, thảo hiếu cha mẹ trước hết bằng sự tôn kính và vâng lời các ngài, vì các Ngài thay mặt Chúa, cộng tác với Chúa để sinh thành, nuôi dưỡng dạy dỗ và yêu thương chúng ta. Vì vậy, đạo làm con là phải biết vâng nghe lời dạy của mẹ cha, vì các ngài luôn muốn điều tốt và làm điều tốt cho ta. Ta yêu mến kính trọng các ngài, đừng hắt hủi khinh dể khi các ngài tuổi cao sức yếu, vì các ngài đã một đời hi sinh vất vả cho ta ngày hôm nay và vì các ngài hết mực yêu thương không tiếc gì với ta. Nay cha mẹ tuổi cao, ta có bổn phận phải làm cho tuổi già của các ngài được an vui hạnh phúc. Đừng khi nào tỏ ra bội nghĩa vong ân, hỗn láo hay cử xử tệ bạc với cha mẹ vì đó là điều đáng bị nguyền rủa và bị Thiên Chúa kết án.
Lời Chúa ngày tết hôm nay nhắc cho những người đang lơ là với cha mẹ và gia đình, cần biết điều chỉnh lại lòng mình. Gạt bỏ những gì là ấm ức tức tối, bất hòa bất đồng, những gì là bằng mặt mà không bằng lòng, để vun đắp lại tình nghĩa gia đình và tình cảm mẹ cha anh em. Vì, các thứ khác trên đời này có thể mua bằng tiền, nhưng cha mẹ, anh em và hạnh phúc gia đình không thể mua bằng tiền, mà phải đổi bằng hy sinh có khi là của cải, kể cả công danh sự nghiệp mới có được thứ hạnh phúc ấy - hạnh phúc gia đình. Amen.
26. Mồng Hai Tết—Kính nhớ Tổ Tiên, Ông Bà Cha Mẹ--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Ngày tết là dịp để chúng ta đoàn tụ với gia đình. Ai cũng mong được về cùng chung với gia đình bên mân cơm. Cùng dâng cho nhau ly rượu chúc mừng năm mới. Bữa cơm tết với gia đình thật ấm cúng, thật đáng quý biết bao. Vì ở giữa cuộc đời bon chen, không ở đâu bình yên bằng gia đình. Không ở đâu có tình yêu chân thật bằng cha mẹ con cái yêu thương nhau. Gia đình là tổ ấm, là điểm tựa của mỗi người, dù đi đâu thì gia đình vẫn luôn sẵn sàng là bến đỗ để ta trở về.
Thế nhưng, để hiểu điều này đôi khi phải chờ đến khi rời xa gia đình, lúc ấy chúng ta mới nuối tiếc về mái ấm gia đình mà chúng ta đã từng làm lơ hay hững hờ:
Khi rời xa mới biết ý nghĩa của gia đình
Mới biết niềm vui trong từng cử chỉ
Mới biết hạnh phúc phải đâu nào xa xỉ
Vì chỉ một nụ cười cũng đủ ấm con tim…(Kim Liên)
Có những người khi xa gia đình mới cảm thấy thương cha thương mẹ. Họ mới cảm nhận được “Công cha như núi Thái Sơn – Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Xa cha, nhớ mẹ, họ chỉ mong cho các ngài bình yên hạnh phúc trong lời kinh nguyện mà thôi:
Giữ mãi gia đình trong một góc riêng
Để nhớ để mong để âm thầm cầu nguyện:
- Xin nỗi buồn đừng hằn trên mặt mẹ
Và nụ cười đừng chia cách môi cha… (Kim Liên)
Khi rời xa khỏi vòng tay nồng ấm của cha mẹ, người ta mới thấy hụt hẫng, bâng khuâng. Tuy trong đời họ có tiền, có địa vị nhưng lại thiếu một tình yêu ôm ấp bảo ban. Thế nên, có những người thầm ước được trở về tuổi thơ, để nơi đó họ được sống trong vòng tay yêu thương của mẹ cha:
Thời gian thấm thoắt trôi đi,
Tìm đâu một vé trở về tuổi thơ?
Một thời lém lỉnh ngây ngô,
Sống trong đùm bọc bến bờ yêu thương. (ST)
Tuổi thơ ai cũng hạnh phúc. Cái hạnh phúc là được ở trong vòng tay yêu thương của cha mẹ. Cái hạnh phúc nồng ấm khi được cha mẹ “Nâng như nâng trứng – Hứng như hứng hoa”. Cái hạnh phúc được làm nũng, được ăn vạ và được mẹ vỗ về. Đó cũng là món nợ ân tình mà những người làm con phải trả cho các bậc sinh thành đến suốt cuộc đời.
Con nợ mẹ cha những ngày vui bất tận
Rong ruổi suốt cuộc đời không định hướng tương lai
Con nợ những chiếc hôn còn nóng hổi vành môi
Trong cơn điên loạn giữa bạc tiền mến mộ
Nợ ân nghĩa mẹ cha đòi hỏi chúng ta phải trả cho suốt cuộc đời. Nếu các ngài đang trong tuổi già lầm lũi cô đơn thì hãy chăm nom, săn sóc, phụng dưỡng tuổi già. Nếu các ngài là những cha mẹ trẻ đang bươn chải một nắng hai sương thì phận làm con, hãy chia sẻ gánh nặng với các ngài trong khả năng của mình. Và nếu các ngài đã qua đời thì xin dành cho các ngài những nén hương với lời nguyện cầu tha thiết cho các ngài sớm hưởng phúc thiên đàng bên Chúa.
Một nén hương nồng nàn lặng lẽ
Nỗi lòng con gửi gắm những niềm thương
Dù bao năm dù có hóa vô thường
Công sinh dưỡng vẫn là công lớn nhất.
Nhưng dù muốn dù không khi nói đến tình nghĩa mẹ cha, ai cũng cảm thấy mình còn thiếu sót, còn nhiều lỗi lầm với mẹ cha. Có những người đã từng cãi lời mẹ cha. Có những người đã từng quên lãng mẹ cha để mải miết đi tìm danh vọng. Có những người còn bất hiếu với mẹ cha qua những việc làm thất đức, đáng xấu hổ với “liệt tổ, liệt tông”. Đó là lý do khiến bao người khi nghĩ đến mẹ cha lại cảm thấy nuối tiếc về thời gian bên cha mẹ, nuối tiếc vì những việc làm đã gây đau khổ cho cha mẹ. Thế nên, có ai đó nói rằng:
Bài học đầu đời thật vất vả mẹ cha ơi!
Xin cho con im lặng để mắt con cay
Xin cho con lạnh lùng để con không bật khóc
Xin cho con góp nhặt để còn chút lương tâm
Xin cho con chuộc lỗi dù biết đã muộn màng.
Hôm nay Mồng Hai Tết, ngày cầu cho ông bà cha mẹ. Ai cũng phải nợ ân, nợ nghĩa ông bà cha mẹ. Hãy dùng thời gian hôm nay để nói lên lòng hiếu kính của chúng ta với các ngài. Hãy dâng cho các ngài lời nguyện cầu với lòng biết ơn mong sao các ngài luôn hạnh phúc bên đàn con cháu. Chúng ta hãy dành thời gian hôm nay để sum vầy bên các ngài quanh cầu chuyện đầu năm. Cùng chúc mừng các ngài vạn sự cát tường.
Xin cầu chúc cho các gia đình một ngày ngập tràn niềm vui sum vầy bên những người thân yêu nhất. Cầu chúc cho mọi nhà rộn ràng tiếng cười vui bên mâm cơm gia đình. Xin Chúa chúc lành cho ngày sum họp hôm nay được trọn niềm trong Chúa và bên nhau. Amen.
27. MỒNG HAI TẾT 2019: Kính nhớ tổ tiên, ông bà cha mẹ--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Ngày xưa, với nền văn hóa nông nghiệp, có nhiều thời gian nông nhàn, việc nghỉ tết, ăn tết, vui xuân kéo dài cả tháng. Ngày nay xã hội công nghiệp, mọi sự đều phải rút ngắn thời gian, vì thế những ngày nghỉ tết, vui tết cũng bị rút ngắn lại. Cùng với sự rút ngắn thời gian, các giá trị văn hóa, tập tục truyền thống ngày tết cũng bị đơn giản lại hoặc bị bào mòn. Ví dụ: Trước đây ngày ba mươi và mồng một tết hầu như không ai ra khỏi nhà, mọi người dành trọn vẹn cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ và gia đình. Đêm ba mươi cùng với việc tạ ơn trời, người Việt nam còn mời tổ tiên về ăn tết. Vì vậy đêm ba mươi, mọi người đều phải quy tụ trước bàn thờ tổ tiên để đón ông bà. Ngày mồng một, nén nhang, hoa trái, bánh kẹo đầu tiên được dâng lên tạ ơn trời, kế đến là cúng ông bà với lòng biết ơn để xin trời đất, ông bà phù hộ. Sau đó trọn ngày mồng một dành để chúc tuổi ông bà nội ngoại hai bên. Từ mồng hai trở đi sẽ là ngày đi chúc tuổi chú bác cô dì, họ hàng.
Ngày nay, các sự kiện được tổ chức vào đêm ba mươi để kéo mọi người ra khỏi nhà, cướp mất giờ phút linh thiêng giao thừa bên gia đình. Có nhiều người còn “trốn tết” bằng những cuộc du lịch dài ngày ngay từ ngày mồng một; những cuộc thăm viếng ông bà cha mẹ, họ hàng chỉ còn là thủ tục phải làm cho qua lần. Cứ như thế, tương quan gia đình ngày càng lỏng lẻo, liên hệ họ hàng ngày càng mờ nhạt, dẫn đến tình cảm và bổn phận thảo hiếu cũng bị vơi cạn, lâu dần các giá trị đạo đức cũng bị bào mòn. Có lẽ vì thế, thỉnh thoảng trên mạng lại loan truyền những đoạn clip con cái bạo hành cha mẹ, bất hiếu đuổi cha mẹ ra đường, đùn đẩy trách nhiệm chăm lo cho cha mẹ.
Ngày mồng một chúng ta được mời gọi hướng tâm hồn lên Chúa với tâm tình tạ ơn và phó dâng năm mới cho Chúa, cầu xin cho gia đình được an vui. Bước qua mồng hai tết, Giáo Hội nhắc chúng ta bổn phận kính nhớ và bày tỏ lòng thảo hiếu biết ơn tổ tiên, ông bà, cha mẹ, những người còn sống và những người đã qua đời.
Sách Huấn ca dạy chúng ta bày tỏ lòng biết ơn bằng việc học hỏi thực hành những điều cha ông truyền dạy và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp các ngài để lại: Giờ đây, chúng ta hãy ca ngợi các vị danh nhân cũng là cha ông của chúng ta qua các thế hệ. Công đức của các ngài không chìm vào quên lãng. Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con. Như thế, lòng biết ơn đối với tiền nhân là tiếp nối truyền thống đạo đức của cha ông mà các ngài đã dày công xây dựng, vun đắp cho gia đình và dòng họ. Là hậu sinh, chúng ta được mời gọi lưu giữ và bảo vệ thanh danh cho gia đình và dòng họ, giữ gìn nếp sống đạo hạnh mà cha ông đã tạo lập nên. Trong xã hội hiện đại, gia đình nào duy trì và vun đắp được những giá trị đạo đức truyền thống, như việc thảo hiếu, lễ phép, kính trên nhường dưới, trên thuận dười hòa, gia đình xum họp, con cháu thảo hiền, gia đình dòng họ đó sẽ êm ấm hạnh phúc. Cũng theo sách Huấn Ca: Khi các gia đình sống thư thế là chúng ta thể hiện lòng biết ơn đối với tiền nhân cách tốt đẹp nhất và cũng là cách chúng ta làm vẻ vang tổ tiên của gia đình hơn là xây các mồ mả cho to cho đẹp.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu phản đối lối sống bất hiếu vô ơn đối với cha mẹ của những người Do Thái. Những người Biệt phái đến trách Chúa Giêsu vi phạm truyền thống của tiền nhân khi không thanh tẩy chén bát, đồ dùng trước khi dùng bữa. Chúa Giêsu chỉ cho những người này thấy giá trị truyền thống đích thực, không phải là các tập tục rửa tay, rửa bình, nhưng là phải chu toàn bổn phận thảo hiếu với ông bà cha mẹ. Chính việc thảo hiếu, tôn kính, biết ơn ông bà cha mẹ mới là giá trị truyền thống tốt đẹp và hơn nữa đó còn là giới răn lề luật của Thiên Chúa. Các luật sĩ và biệt phái đã đưa ra một điều luật thay thế bổn phận thảo hiếu là: Khi một người tuyên bố dâng cúng tất cả tài sản của mình cho đền thờ, thì được miễn mọi bổn phận phụng dưỡng báo hiếu, thờ cha kính mẹ. Việc dâng tặng lại cho nhà Chúa hoa trái và thành quả lao động của mình là điều tốt, đáng khuyến khích, nhưng Thiên Chúa không chấp nhận lễ dâng với sự vô ơn bất hiếu với cha mẹ như thế.
Chúa Giêsu đã phản đối điều luật này vì nó vi phạm trầm trọng đến giới răn thứ bốn của Thiên Chúa: Hãy thảo kính cha mẹ. Theo quan điểm của Chúa Giêsu, không có bất cứ thứ gì có thể đánh đổi hoặc thay thế được giới răn này của Thiên Chúa. Vì cha mẹ chính là những người được Thiên Chúa cho cộng tác với Chúa để sinh ra chúng ta. Cũng qua cha mẹ, Thiên Chúa tiếp tục yêu thương, chăm sóc và dạy dỗ chúng ta. Vì thế, tất cả mọi người đều có bổn phận hiếu thảo, thờ cha kính mẹ, ai không chu toàn bổn phận này thì cũng là lỗi giới răn Thiên Chúa.
Qua thư Ephêsô, thánh Phaolô nhắn nhủ chúng ta bổn phận đối với cha mẹ: Hỡi những người làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ, đó là điều răn thứ nhất kèm theo lời hứa: Để ngươi được hưởng thọ trên mặt đất này. Vâng lời cha mẹ không chỉ thể hiện sự thảo hiếu ngoan hiền đối với cha mẹ, mà vì cha mẹ là những người luôn yêu thương ta, hy sinh cả cuộc đời cho ta, chỉ dạy ta những điều tốt lành. Cha mẹ nhiều kinh nghiệm hơn ta và luôn muốn điều tốt cho ta. Nghe lời cha mẹ, chúng ta sẽ học được sự khôn ngoan và trưởng thành.
Mỗi người chúng ta mắc nợ cha mẹ về công sinh thành dưỡng dục. Kể sao hết công cha nghĩa mẹ vì chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm và nhiều năm dài nuôi ta khôn lớn; đong sao hết bao nhiêu mồ hôi, nước mắt, sức lực các ngài đã phải hao mòn vì con cái; đếm sao được biết bao đêm mất ngủ, biết bao ngày lo toan khi ta đau yếu bệnh tật vv. Phận làm con, khi khôn lớn, ta có bổn phận phải chia sẻ gánh nặng gia đình với cha mẹ, chia sẻ với các ngài những lo toan của cuộc sống kinh tế gia đình, để các ngài bớt phần vất vả. Khi cha mẹ lớn tuổi, chúng ta phải chăm sóc, yêu thương, kính trọng và phục vụ các ngài. Khi các ngài yếu đau, trí nhớ giảm sút, con cái phải hết sức kiên nhẫn và lễ phép với cha mẹ, vì khi ta còn nhỏ, các ngài cũng đã hết sức kiên nhẫn và quảng đại với chúng ta. Cha mẹ đã đổ biết bao nước mắt vì chúng ta, khi cha mẹ về già, chúng ta phải đem niềm vui đến cho các ngài đừng để các ngài phải đổ thêm những giọt nước mắt khổ đau buồn tủi nữa.
Thưa quý OBACE, ngày tết là ngày đoàn viên xum họp gia đình, ông bà, cha mẹ, con cháu quây quân bên nhau. Gia đình nào cũng mong ước có một bầu khí ngày tết xum vầy như thế. Tuy nhiên, không phải tất cả các ông bà, cha mẹ đều có được niềm vui hạnh phúc trọn vẹn bên con cháu. Thời nay, con người trọng tiền hơn trọng tình. Vì thế, nhiều người con đã rất thiết sót bổn phận với cha mẹ, bổn phận thảo hiếu phụng dưỡng cha mẹ được tính toán theo giá đất, được quy ra thành tiền. Có nhiều người phụng dưỡng cha mẹ không phải vì biết ơn, mà vì ngóng trông phần hơn, khi chia tài sản của cha mẹ. Khi cha mẹ nghèo khó, hết tiền, hết của, con cái đùn đầy nhau trách nhiệm trông coi, nuôi dưỡng. Có những người con đem cha mẹ mình quăng ra đường hoặc hắt hủi cha mẹ như con ăn đầy tớ trong nhà.
Ngày mồng hai tết, Giáo Hội nhắc lại bổn phận kính nhớ tổ tiên ông bà cha mẹ, để mỗi người rà soát lại xem mình đang chu toàn bổn phận thảo hiếu cách vuông tròn chưa. Chắc chắn cha mẹ sẽ không sống mãi với chúng ta, vì thế ai còn cha mẹ hãy làm cho cha mẹ cảm thấy an vui hạnh phúc trong tuổi già. Những ai đã không chu toàn hoặc đã từng đối xử tê bạc với cha mẹ, cần điều chỉnh lại thái độ của mình với cha mẹ.
Ngày hôm nay cũng nhắc cho chúng ta nhớ đến các bậc đã qua đời bằng việc chu toàn việc đọc kinh, cầu nguyện, xin lễ và nhắc cho con cháu cầu nguyện thường xuyên cho ông bà. Nhắc cho con cháu biết ơn ông bà cách riêng các dịp giỗ chạp; chăm sóc cho bàn thờ tổ tiên trong gia đình, đừng để tắt hương lạnh khói vì sự vô ơn hay vô tình của mình. Hôm nay ta chu toàn bổn phận thảo hiếu, biết kính trong cha mẹ ông bà, sau này con cái cũng theo gương đó mà kính trọng biết ơn ta.
Xin Chúa ban niềm vui và bình an xuống trên tổ tiên, ông bà cha mẹ của chúng con, vì các ngài dã một đời hy sinh vất vả vì chúng con. Xin Chúa ban cho các gia đình được anh phúc trên thuận dưới hòa, con cháu thảo hiền Amen.
28. Mồng Hai Tết: Sống Chữ Hiếu--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Chuyện xảy ra ở hành lang một bệnh viện.
Cô con dâu nhăn mặt nói với chồng: “ở nhà đủ thứ phải lo, làm sao mà vô trong đây hầu ba được? Anh nói cô Năm hay cô Bảy ở không thì chia nhau vô chăm sóc ba “. Anh con trai chưa kịp trả lời thì có lẽ cô Năm hay cô Bảy gì đó đã cong môi phản đối: ” Tui cũng có đủ thứ chuyện để lo chứ bộ, quên tui đi”. Một cậu con trai khác cau cau lông mày: “Nói chung là ai cũng bận hết, với lại ba mắc bệnh lây nhiễm, vô hầu ba rồi lỡ bị lây thì làm sao ? “. Cô con dâu trưởng phán một câu: “Thôi khỏi bàn tán gì hết, mướn người nuôi là xong chuyện “.
Tất nhiên sau đó, sự việc xảy ra đúng như hoạch định của họ. Một phụ nữ khỏe mạnh, có dáng vẻ nông dân đang nuôi một người bệnh nằm giường bên cạnh ông cụ đã chủ động đề nghị nuôi bệnh cho ông cụ luôn. Công việc tỉ mỉ, cần sự chu đáo, từ việc cho uống sữa, uống thuốc đến thay quần áo, lau người, nhưng chị vẫn làm với sự chăm chút, không để lộ bất cứ thái độ ghê tởm nào, lại còn có vẻ hiền hậu, dịu dàng như con đối với cha mẹ.
Trong lúc ấy, có lẽ yên tâm vì cha đã có người chăm sóc, đám con trai, con gái, dâu, rể hơn một chục người của ông cụ thỉnh thoảng mới lượn qua như một luồng gió nhẹ. Tiếc thay, sự chăm chút của chị phụ nữ không kéo dài bao lâu, chỉ hơn một tuần sau là ông cụ đã qua đời. Con cái, cháu chắt ông kéo vào mới đông chứ. Họ khóc lóc khá ồn ào nhưng vẫn bình tĩnh chỉ huy việc khâm liệm ông cụ, và ở hành lang lại xảy ra một cuộc cãi vã xem người nào phải chi nhiều nhất cho đám tang ?… Anh con trai trưởng cầm một xấp tiền đến trả cho chị phụ nữ đã nuôi bệnh cha mình. Hai mắt đỏ hoe, chị trả lời: ” Tôi nuôi cụ ấy vì thấy xót xa cho cụ có lắm con nhiều cháu mà chẳng ai đoái hoài, chứ tôi có làm cái nghề này đâu mà lấy tiền ?”.
Đám người đang khóc mếu, cãi nhau… đột nhiên im bặt. Rồi từng người một lẻn ra ngoài…
Đúng là “một mẹ nuôi được 10 con nhưng 10 con lại không nuôi được một mẹ”. Cho dù câu ca dao xưa dạy rằng:
Đói lòng ăn hột chà là
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng
Thế nhưng, lời dạy ấy dường như chỉ dừng lại nơi môi miệng mà rất khó mang ra thực hành. Dẫu biết rằng đi khắp thế gian cũng không có tình nghĩa nào cao sâu cho bằng tình cha tình mẹ yêu con. Dẫu biết rằng không ở đâu có tình yêu chân thành cao cả như tình cha mẹ yêu con.
Con đi khắp vạn nẻo đường
Giờ con mới hiểu tình thương mẹ hiền
Người con yêu quý nhất trên đời
Chính là mẹ đó tuyệt vời tình sâu
Ngày xuân con cái sum vầy bên cha mẹ không chỉ để nhận phong bao lì xì hay chỉ để kính biếu các ngài đồng quà tấm bánh mà quan yếu là để nhận sự chúc lành của các ngài, để nói lời cám ơn các ngài và tỏ tâm tình tri ân về tình yêu thẳm sâu mà các ngài dành cho con cháu. Ngày xuân là dịp để con cháu thổ lộ chữ hiếu dành cho các bậc sinh thành. Đây là dịp để nói lên tấm lòng chân tình tri ân dâng lên bậc sinh thành:
Tạ ơn cha đã cho con nhìn thấy
Núi rất cao và biển rất tuyệt vời
Tạ ơn mẹ, đã cho con hơi thở
Và trái tim nhân ái làm người
Đây là dịp con cái biểu lộ chữ hiếu qua những hành vi không chỉ dâng hương kính bậc tổ tiên mà còn khiêm cung cúi mình kính lạy các bậc sinh thành.
Lạy thứ nhất con kính mừng tuổi mẹ
Phong sắc hồng hào tâm thể khang an
Những lo toan cơm áo chẳng dễ dàng
Nên quá ít thời gian hầu cận mẹ
Lạy thứ hai xin tạ lòng trời bể
Ơn sinh thành dưỡng dục kể sao khuây
Mỗi lần xuân con cháu tụ về đây
Mừng tuổi mẹ kính dâng thêm một tay
Như thế, mùa xuân còn là mùa của đoàn tụ, của sum họp. Mùa xuân không chỉ có không gian rạng ngời mà lòng người cũng tràn ngập niềm vui vì có nghĩa tình đằm thắm của tình cha mẹ, ông bà, anh em một nhà sum vầy bên nhau. Ước chi mùa xuân mãi ở lại đây để tình nghĩa gia đình mãi hòa hợp yêu thương, để con cháu mãi sum vầy bên cha mẹ và anh em hòa hợp bên nhau.
Xin Chúa làm chủ thời gian xin ban cho nhân gian một mùa xuân hạnh phúc sum vầy bên nhau. Xin Chúa xuân chúc lành cho những ngày sum họp gia đình được đằm thắm yêu thương. Amen
29. Mồng Hai Tết – Kính nhớ tổ tiên--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Một vài năm gần đây, vào dịp cuối năm, trên mạng có nhiều đoạn clip để nhắc cho mọi người trở về xum họp gia đình trong dịp tết. Có những đoạn film rất xúc động với hình ảnh cha mẹ già, ngày ngày đợi con đi làm ăn xa trở về đoàn tụ. Cũng có nhiều lời kêu gọi: Cha mẹ ngày càng già, hãy trở về xum họp với mẹ cha trong ngày tết. Ngày tết là ngày của gia đình, ngày xum họp không chỉ với mẹ cha, anh em để bày tỏ lòng thảo hiếu biết ơn, nhưng người Việt Nam còn tin rằng: Ngày tết cả ông bà tổ tiên, những người đã khuất cũng trở về gia đình xum họp với con cháu. Ngày nay, xã hội có xu hướng tổ chức những tụ điểm vui chơi vào đêm giao thừa và mồng một, để kéo mọi người ra đường đón tết. Việc làm này có lẽ đi ngược lại với truyền thống Việt Nam, đêm ba mươi và mồng một, mọi người luôn gắn liền với gia đình. Không biết có phải vì sự thay đổi này dẫn đến sự lỏng lẻo trong tương quan các gia đình? Bên cạnh đó, có những người đã trốn tết bằng cách đi du lịch vào đúng ngày ba mươi mồng một, với lý do cả năm bận rộn, tranh thủ những ngày tết để đi nghỉ ngơi.
Nhà thơ Trần Đăng Khoa có đăng một đoạn nhận xét rằng: Ngày tết bỏ nhà đi du lịch không ở với mẹ cha là bất hiếu. Đoạn nhận xét này đã có phản ứng mạnh từ nhiều thành phần. Có người ủng hộ, có người phản đối. Người phản đối cho rằng, nhu cầu nghỉ ngơi là cần thiết, đưa cả gia đình đi chơi cũng là điều hay… Dù đồng tình với nhận xet trên hay không đồng tình, người ta cũng thấy rằng, mối tương quan gia đình ngày nay đang bị rạn nứt, tình cảm gia đình bị lỏng lẻo, các giá trì văn hóa truyền thống tốt đẹp của gia đình đang bị mai một.
Giáo Hội công Giáo Việt Nam đã đón nhận những tập tục và những giá trị văn hóa tốt đẹp của truyền thống để đưa vào phụng vụ ngày tết. Giáo hội dạy giúp chúng ta duy trì và phát triển những giá trị tốt đẹp về gia đình trong truyền thống văn hóa cho phù hợp với Tin Mừng. Ngày Mồng một tết, chúng ta hướng về Thiên Chúa là cội nguồn của vũ trụ và sự sống, để tạ ơn tôn vinh Chúa, cũng như xin ơn bình an cho năm mới. Hôm nay mồng hai tết, Giáo hội hướng chúng ta về cội nguôn của gia đình để kính nhớ tổ tiên ông bà và các đấng sinh thành dưỡng dục, đồng thời làm sáng tỏ và vun đắp cho các giá trị tốt đẹp của đời sống mỗi gia đình.
Bài đọc sách Huấn Ca mời gọi chúng ta giữ gìn nề nếp truyền thống tốt đẹp của gia đình qua lời văn rất hay: Chúng ta hãy ca tụng các vị danh nhân cũng là cha ông chúng ta qua các thế hệ, công đức các ngài không chìm vào quên lãng, dòng dõi các ngài là lũ cháu đàn con. Đọc những lời dạy của Kinh Thánh trong bầu khí ngày tết, mời gọi chúng ta luôn sống tâm tình biết ơn đối với ông bà cha mẹ. Các ngài là những người đã dày công sinh thành dưỡng dục chúng ta nên người hôm nay. Kể sao hết được sự vất vả của người cha dầm mưa dãi nắng, lo cơm, kiếm gạo về cho gia đình, nuôi cho con khôn lớn; nói sao cho vừa với sự hy sinh đêm ngày để lo cho con học hành bằng anh bằng chị. Diễn tả sao hết sự vất vả tần tảo của người mẹ, thân cò lăn lội, mang nặng đẻ đau, lo cho con từng li từng tí, từng ngày từng giờ. Cho dù con còn nhỏ hay khôn lớn, thì trong mắt mẹ cha, nó vẫn luôn là đứa bé cần được yêu thương chăm sóc. Cho dù vất vả truân chuyên trăm bề, mẹ cha không bao giờ kể lể, tính toán với con cái, các ngài luôn dành cho con lòng bao dung độ lượng. Cho dù con cái ngỗ nghịch phá phách, làm đau lòng mẹ cha, bất hiếu bất kính với cha mẹ, cha mẹ vẫn sãn lòng để yêu thương tha thứ và ôm con vào lòng. Vì tất cả những công lao hy sinh vất vả ấy, phận làm con không bao giờ được phép quên và cũng không bao giờ được vô ơn bạc hiếu với các ngài.
Cha mẹ không mong đợi gì nhiều nơi con cái, các ngài chỉ mong muốn được nhìn thấy con cháu lớn khôn, thành nhân, thành đạt. Niềm vui của cha mẹ ông bà là được nhìn thấy con cái cháu chắt xum vầy, thấy con cháu yêu thương nâng đỡ lẫn nhau. Không gì đau khổ bất hạnh cho bậc cha mẹ, khi thấy các con kèn cựa, cãi vã, giận hờn lẫn nhau. Ngày tết là ngày của xum họp gia đình, các bậc ông bà tuổi cao sức yếu không mong đồng quà tấm bánh, nhưng chỉ mong được gặp con cháu xum họp và lấy niềm vui tiếng cười của con cháu, làm niềm vui và hạnh phúc cho tuổi gìa của mình. Chính vì thế, ngày tết đừng để cha mẹ mòn mỏi đợi chờ, cũng đừng gây đau khổ cho cha mẹ bằng những chuyện anh em bất hòa, nhưng hãy lấy tình yêu thương tha thứ để cư xử với nhau, đó là cách đem đế hạnh phúc an vui cho ông bà cha mẹ.
Thánh Phaolô trong thư Ephesô khuyên dạy: ‘‘Các kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ, đó là điều răn thứ nhất. Cha mẹ chính là những người cộng tác với Thiên Chúa trong việc tạo dựng và sinh thành, đưa chúng ta vào đời. Con cái là hoa trái tình yêu của cha mẹ. Mỗi chúng ta được cưu mang trong tình yêu, nuôi dưỡng không chỉ bằng sữa hoặc cơm bánh, nhưng được lớn lên trong tình yêu. Vì thế, việc tôn kính vâng lời trong yêu mến, chính là thái độ đền đáp tình yêu thương cha mẹ đã dành cho chúng ta. Khi tôn kính vâng lời cha mẹ, là chúng ta tôn kính vâng lời Thiên Chúa, vì chính Thiên Chúa đã cậy nhờ cha mẹ để sinh thành và dưỡng dục chúng ta. Trái lại bất kính và không vâng lời, không chỉ là bất hiếu, làm tổn thương đến tình yêu của cha mẹ, mà còn là xúc phạm đến chính Thiên Chúa.
Ngày nay, con cái dường như được học hành nhiều hơn thế hệ cha mẹ ngày xưa, hiểu biết nhiều về khoa học và công nghệ nhiều hơn các ngài, nhưng lại cư xử rất tệ với cha mẹ, khinh chê, bất kính bất hiếu với cha mẹ. Các ngôi nhà của các gia đình, sang trọng, đẹp đẽ, có đầy đủ tiện nghi, nhưng dường như không có chỗ cho cha mẹ. Họ sợ cha mẹ già bôi bẩn ra nhà, sợ hôi nhà, không cho ông bà gần con cháu, vì sợ bẩn, sợ hôi, họ hắt hủi khinh dể cha mẹ già, chỉ mong ông bà ra khỏi nhà.
Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay cảnh báo về thái độ bất hiếu bất kính nhân danh bất cứ lý do gì, kể cả nhân danh việc đạo đức. Những người Do Thái ngày xưa đã nhân danh Thiên Chúa để từ chối bổn phận nuôi dưỡng chăm sóc cho cha mẹ. Họ tự đặt ra một truyền thống cho rằng: Những người tuyên bố dâng cúng của cải cho Thiên Chúa, thì không phải phụng dưỡng cha mẹ nữa. Chúa Giêsu đã phản đối và chỉ trích truyền thống vô đạo đức này và lặp lại giáo huấn của Thiên Chúa: Ngươi phải thờ cha kính mẹ, và kẻ nào nguyền rủa cha mẹ sẽ bị xử tử. Khi nhấn mạnh bổn phận thờ cha kính mẹ, có thể nói Chúa Giêsu nâng bổn phận của con cái thảo hiếu với ông bà cha mẹ, trở thành một đạo, đó là đạo hiếu, đạo làm người. Ai không chu toàn được bổn phận đạo hiếu, đạo làm người, thì cũng không thể chu toàn đạo với Thiên Chúa. Cũng vậy, chỉ những ai chu toàn đạo hiếu với cha mẹ trần gian thì mới có thể biết và chu toàn bổn phận thảo hiếu với Thiên Chúa là Cha trên trời.
Thưa quý OBACE, tôn kính thảo hiếu, biết ơn tổ tiên ông bà cha mẹ là điều giáo hội dạy, là đạo lý của người Việt chúng ta. Tuy nhiên, trong cuộc sống xã hội, chúng ta vẫn còn thấy nhiều cảnh trái tai gai mắt, khi con cháu đối xử tệ bạc với ông bà, bất hiếu bất kính và hành hung đánh đập ông bà cha mẹ, là những Đấng bậc sinh thanh dưỡng dục mình. Chúng ta vẫn thấy những gia đình đông con, nhưng con cháu đùn đẩy bổn phận phụng dưỡng cha mẹ già, họ tính toán thiệt hơn với ông bà cha mẹ từng đồng. Ngày xưa cha mẹ đã hết sức kiên nhẫn để yêu thương dậy dỗ chúng ta nên người, không hề tính toán thiệt hơn, nhưng đến nay dường như con cái lại không kiên nhẫn yêu thương khi cha mẹ tuổi cao sức yếu, khi trí khôn trí nhớ các ngài giảm sút.
Cử hành ngày Tết kính nhớ tổ tiên hôm nay, nhắc mỗi chúng ta biết ơn ông bà cha mẹ của mình và cũng xét lại bổn phận và lòng thảo hiếu của mỗi chúng ta đối với các ngài. Nếu chưa chu toàn vuông tròn, thì hãy tận dụng thời gian này, để đền đáp công ơn cha mẹ, vì các ngài không còn ở với chúng ta lâu nữa. Đồng thời mỗi người cũng cần vun đắp cho gia đình mình bằng tình yêu, sự quảng đại và tha thứ, để gia đình thực sự đầm ấm yên vui không chỉ trong những ngày tết mà là suốt đời.
Cầu chúc cho mọi gia đình được được an vui thuận hòa, con cháu ngoan hiền, gia đình êm ấm và là dấu chỉ lòng thương xót Chúa cho xã hội hôm nay Amen.
30. Biết ơn tổ tiên, ông bà cha mẹ--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Kính thưa quý OBACE, tết là ngày xum họp gia đình, là dịp mọi người dù đi làm ăn nơi phương xa thì cũng thu xếp để kịp về nhà vào những ngày này để quây quần bên nhau. Có dịp đi dọc quốc lộ trong những ngày vừa qua có thể thấy được sự khao khát trong ánh mắt của anh chị em công nhân chờ đón những chuyến xe cuối năm đề trở về nhà. Chính vì khao khát bằng mọi giá phải có mặt ở nhà dịp tết mà nhiều khi họ chấp nhận bị nhồi nhét trên những chiếc xe chật chội, cũ kỹ. Trở về nhà trong dịp đầu năm là về với gia đình, về với mẹ cha, dù nhiều người cha mẹ, ông bà đã không còn, nhưng họ vẫn muốn trở về ngôi nhà tổ, nơi ông bà cha mẹ đã từng sinh sống để thắp lên một nén nhang, để bày tỏ tấm lòng thành của con cháu biết ơn mẹ cha.
Giáo Hội đã dành ngày mồng hai tết để dạy chúng ta biết ơn các bậc sinh thành, dưỡng dục; nhắc chúng ta nhớ đến các bậc tổ tiên, những người đã khuất và bày tỏ lòng hiếu kính đối với ông bà cha mẹ là những người còn đang sống. Đã từ lâu, do cách sống và giải thích sai của người có đạo, khiến nhiều người ngoại đạo nghĩ rằng : người Công giáo là những người bất hiếu, không thờ cúng ông bà tổ tiên. Chúng ta nghĩ gì khi người ngoại trách chúng ta như thế ? Và, chúng ta cần phải sửa lại cách sống thế nào để giải thích cho mọi người về giáo lý của đạo chúng ta?
Người Công giáo có được “thờ cúng ông bà tổ tiên” hay không ? Tức là, cúng giỗ ông bà có được phép hay không ? Thưa - thờ cúng ông bà là bổn phận thảo hiếu buộc tất cả mọi người có đạo cũng như không có đạo phải chu toàn. Việc thờ cúng ông bà hoàn toàn khác với việc thờ phượng Thiên Chúa. Thờ cúng công bà là đòi buộc của đạo làm con, đạo làm người. Vì đạo làm người, đạo hiếu, đạo làm con là đạo đức căn bản trong đời sống nhân bản của con người. Ai không chu toàn bổn phận đạo hiếu, đạo làm người, thì không thể chu toàn đạo nào khác được. Vì thế, việc thờ cúng ông bà, việc tổ chức cúng giỗ tổ tiên là việc bổn phận phải làm của mọi người, còn cách thức làm như thế nào thì tùy thuộc vào tập tục văn hóa của mỗi vùng, mỗi gia đình.
Đối với người Công Giáo, việc thờ cúng tổ tiên và chu toàn đạo hiếu, đạo làm con còn là đòi buộc của giới răn thứ bốn : Thảo kính cha mẹ. Trong mười giới răn của đạo Chúa, ba giới răn đầu là những đòi buộc về những bổn phận đối với Thiên Chúa, còn bảy giới răn sau là những đòi buộc trong tương quan đời sống con người thì giới răn thứ bốn đứng đầu trong bảy giới răn này. Điều đó cho thấy bổn phận thảo kính cha mẹ là bổn phận đầu tiên của con người. Cũng như các giới răn khác, khi xúc phạm đến giới răn thứ bốn này, thì cũng là một trọng tội trước mặt Thiên Chúa và là sự xúc phạm trực tiếp đến chính Thiên Chúa.
Chính vì thế, ngày mồng hai tết hôm nay, các bài đọc nhắc cho chúng ta về những đạo lý và bổn phận căn bản của con người, đó là thảo hiếu, biết ơn ông bà cha mẹ, những người còn sống và đã qua đời. Bài đọc một sách Huấn Ca nhắc nhở rằng : Chúng ta hãy ca tụng các bậc tiền nhân, có những người đã ra đi mà không được con cháu nhớ đến nữa, nhưng có những người vẫn còn lưu danh cho hậu thế vì công phúc của họ đã để lại. Người Việt nam nói rằng : Cha mẹ hiền lành để đức cho con, và nhiều người vẫn tin rằng, họ đang được hưởng phúc lộc của ông bà. Như thế, trong chúng ta ngồi đây, ai cũng được thừa hưởng phúc lộc từ nơi cha mẹ ông bà của mình, ai cũng đang mang trong mình một món nợ ân tình của mẹ cha.
Kể sao hết được những món nợ ân tình ấy. Trước hết, chúng ta đang mang trong mình dòng máu và sự sống của cha mẹ. Thiên Chúa đã cho cha mẹ chúng ta cộng tác với Ngài trong việc sinh ra chúng ta, trao tặng chúng ta sự sống. Vì món quà sự sống mà mỗi người đang có là từ Thiên Chúa được trao qua mẹ cha nên ơn sinh thành là ơn trời biển mà phận con cái không sao có thể đáp đền mẹ cha cho cân xứng. Kế đến là sự dưỡng dục và tình yêu thương cha mẹ dành cho con cái. Chính vì tình yêu thương, vì lo cho con cái có cơm ăn áo mặc mà cha mẹ phải lặn lội, vất vả sớm hôm. Kể sao hết những nỗi nhọc nhằn, những giọt mồ hôi vất vả người cha phải chịu. Đong sao hết những tháng ngày vất vả của mẹ: chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm và cả một đời yêu thương con. Những lúc con ốm con đau, những khi con đói vì khát sữa, những đêm con quấy vì mọc răng, biết lẫy, là những đêm mẹ cha mất ngủ. Để nuôi con khôn lớn nên người bằng anh bằng em, thì người mẹ đã phải tần tảo một nắng hai sương, thân cò lặn lội sớm hôm ; người cha phải còng lưng vất vả lo cho con có cái áo, quyển vở đến trường, và bao nhiêu nỗi nhọc nhằn khác nữa.
Vì thế, trong thư gửi cộng đoàn Ephêsô, Thánh Phaolô khuyên nhủ mọi người : Hỡi những bậc làm con, hãy vâng phục cha mẹ trong Chúa, hãy thảo kính cha mẹ, đó là giới răn thứ nhất kèm theo lời hứa: để ngươi được phần phúc và sống lâu trên địa cầu. Điều đó có nghĩa là Thiên Chúa chúc lành và ban ơn cho những ai biết thảo hiếu với cha mẹ ông bà mình. Yêu mến và kính trọng cha mẹ ông bà bằng việc vâng nghe những lời dạy bảo, vì cha mẹ là người thương chúng ta nhất và có kinh nghiệm nhiều hơn chúng ta, nên lời dạy bảo của các ngài là những lời dạy bảo khôn ngoan. Hãy yêu mến thảo hiếu ông bà cha mẹ khi các ngài về già, khi sức khỏe và trí khôn của các ngài giảm sút. Hãy kính trọng, thông cảm, phục vụ và chăm sóc các ngài, vì khi xưa chúng ta còn bé, cha mẹ cũng đã thông cảm, đã ân cần săn sóc chúng ta từng miếng ăn, giấc ngủ như vậy. Khi cha mẹ qua đời, hãy nhớ đến cha mẹ bằng việc đọc kinh cầu nguyện, dâng lễ cho các ngài, vì khi xưa các ngài cũng đã đêm ngày cầu nguyện và âm thầm hy sinh cho chúng ta. Đừng bao giờ tỏ ra vô lễ, bất hiếu với mẹ cha, đừng bao giờ để tuổi già của mẹ cha phải buồn tủi vì những lời nói hay cử chỉ coi thường, xúc phạm.
Cuối cùng, mỗi người hãy sống thảo hiếu hết lòng, đừng nại vào bất cứ lý do gì để từ chối mẹ cha, từ chối bổn phận phụng dưỡng các ngài, để các ngài có thể hưởng một tuổi già hạnh phúc. Mỗi người chỉ có một mẹ một cha mà thôi, đừng để tuổi già của các ngài phải rơi nước mắt vì tủi nhục, vì con cháu bỏ bê, đùn đẩy cho nhau. Những người Do Thái ngày xưa đưa ra một điều luật vô trách nhiệm đối với cha mẹ và đã bị Chúa Giêsu cảnh cáo. Họ đã bỏ giới răn của Thiên Chúa để tuân giữ những tục lệ của nhau. Trong khi Chúa đòi phải thảo kính cha mẹ, thì những thầy luật sĩ lại dạy rằng : Nếu ai tuyên bố với cha mẹ rằng những của tôi có để giúp cha mẹ đã được dâng cho Thiên Chúa rồi, thì không còn phải giúp cha mẹ nữa. Chúa Giêsu đã không chấp nhận thứ tục lệ ấy, vì nó đi ngược lại với đạo làm người, đi ngược lại giới răn Thiên Chúa, và Thiên Chúa cũng không chấp nhận một của lễ dâng tiến bất hiếu như thế.
Thưa quý OBACE, ngày tết là ngày của gia đình, là ngày đoàn tụ, ngày trở về với cội nguồn của gia đình là ông bà cha mẹ. Song ngày nay, dường như nét đẹp văn hóa này đang bị mai một bởi cuộc sống kinh tế và lối sống thực dụng. Nhiều gia đình đã vì đồng tiền, tấc đất, mà anh em đánh lộn, chửi bới, mất tình mất nghĩa, không nhìn mặt nhau. Cha mẹ và con cái chỉ vì phân chia chút tài sản mà đi đến giận hờn, hỗn láo. Có nhiều gia đình ngày tết mà cũng không thể tổ chúc được bữa cơm chung xum họp ông bà cha mẹ con cháu. Nhiều cảnh con cái bất hiếu, chửi bới, khinh thường cha mẹ đang xảy ra mà chúng ta có thể chứng kiến. Tất cả những điều ấy đang làm tổn thương các gia đình và làm đổ vỡ các tổ ấm. Nguy hiểm hơn nữa là nó đang tạo ra những gương xấu cho các thế hệ trẻ sau này.
Các bậc làm cha mẹ hãy cố gắng vun đắp cho gia đình mình thực sự trở thành một tổ ấm yêu thương, là nơi mọi thành viên có thể cảm nhận được sự nâng đỡ và cảm thông, chia sẻ. Đừng vì mải mê lo tìm kiếm cơm áo gạo tiền mà quên tìm hạnh phúc cho gia đình. Đừng biến gia đình mình trở thành một nhà trọ sáng đi tối về. Đừng để cho khó khăn cuộc sống cướp đi tiếng cười, tiếng nói trong gia đình. Nhất là các bậc làm cha mẹ đừng để cho rượu chè, cờ bạc, số đề, say sưa làm cho gia đình mình tan nát, làm cho con cái hoảng sợ; Trái lại, hãy dùng tình yêu thương, lòng đạo đức để vun đắp hạnh phúc và sự ấm cúng cho gia đình.
Còn các bậc làm con, hãy hết lòng yêu mến, kính trọng cha mẹ mình. Đừng để cha mẹ đã khổ sở nhọc nhằn vì cơm áo, lại phải khóc thầm khóc vụng vì ta. Hãy góp phần làm cho gia đình thêm hạnh phúc bằng việc siêng năng học tập và làm việc để chia sẻ gánh nặng với cha mẹ. Hãy trở thành nhưng người con ngoan và đạo đức để làm yên lòng mẹ cha, để cho tuổi già các ngài được vui trọn vẹn.
Xin Chúa, Đức Maria ban cho các gia đình mỗi ngày một thêm ấm cúng, thuận hòa, hạnh phúc hơn. Amen.
31. Mồng Hai Tết 2016: Tri Ân Ông bà cha mẹ--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Đạo truyền thống Việt Nam được coi là đạo hiếu. Cốt tuỷ của Đạo hiếu là Đức Hiếu thảo được thể hiện qua hai điều: Tôn kính cha mẹ lúc còn sống và thờ kính cha mẹ, ông bà khi các ngài qua đời.
Nhiều bài ca dao, tục ngữ, nhiều bài hát, câu chuyện, đã kể về công cha nghĩa mẹ và răn dạy con cái cần sống đáp đền công ơn ấy:
“Công cha nghĩa mẹ cao vời
Nhọc nhằn chẳng quản suốt đời vì ta.
Nên người con phải xót xa
Đáp đền nghĩa nặng như là trời cao
Đội ơn chín chữ cù lao
Sinh thành kể mấy non cao cho vừa”.
Bởi đó khi cha mẹ về già, con cái phụng dưỡng cha mẹ với của ngon vật lạ, sáng viếng tối thăm:
“Muốn cho gần mẹ gần cha
Khi vào thúng thóc, khi ra quan tiền.”
Suốt dọc dài lịch sử, cha ông đã để lại rất nhiều mẫu gương sáng ngời về đạo hiếu. Lòng hiếu thuận ấy sâu đậm đến nỗi khóc thương mẹ mà mù cả đôi mắt như chuyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu.
Chuyện kể rằng:
Lục Vân Tiên đang trên đường đi thi, nghe tin mẹ mất, quá thương xót mẹ, chàng khóc lóc thảm thiết. Chàng đã bỏ thi - bỏ dở cả con đường công danh sự nghiệp sáng lạn đang ở phía trước, quay về quê để chịu tang mẹ. Trên đường về khóc thương mẹ đến thành bệnh mà mù mắt. Mắt đã mù nhưng nỗi sầu vẫn chưa nguôi ngoai:
Ôi thôi ! Con mắt đã mang lấy sầu
Mịt mù nào thấy gì đâu.
Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã nêu bật chữ Hiếu nơi Lục Vân Tiên để rồi răn bảo người đời:
Hỡi ai lẳng lặng mà nghe
Dữ răn việc trước, lành dè thân sau
Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình
Vào những ngày đầu Năm Mới, Giáo hội Việt Nam dành trọn ngày Mồng Hai Tết để con cái dâng thánh lễ đặc biệt cầu nguyện cho ông bà, cha mẹ, tổ tiên . Đây là dịp để con cái tri ân công ơn trời bể của cha mẹ. Cuộc đời chúng ta được dệt nên từ những giọt mồ hôi lao công vất vả của ông bà cha mẹ. Các ngài đã hy sinh một nắng hai sương cho cuộc đời ta tươi vui, hạnh phúc. Công ơn của các ngài thật lớn lao, lớn lao đến nỗi ca dao cũng từng nói:
“Công cha như núi Thái Sơn.
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha.
Cho tròn Chữ Hiếu mới là Đạo con”
Lời ca dao thật đơn sơ, mộc mạc nhưng biểu lộ một giá trị bất hủ của Đạo hiếu trong lòng người Việt Nam. Điểm nổi bật của lòng hiếu nghĩa là lòng biết ơn và sống báo đáp công sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Hiếu nghĩa khi còn ở với cha mẹ thì vâng lời kính yêu các ngài. Hiếu nghĩa khi ở xa thì luôn biết thăm hỏi, dành đồng quà tấm bánh cho các ngài. Hiếu nghĩa cả khi các ngài qua đời thì cầu kinh dâng lễ.
Hôm nay trong ngày mừng xuân là dịp con cái quây quần bên cha mẹ ông bà để tỏ lòng tri ân. Thật hạnh phúc trong ngày xuân chúng ta được cha mẹ ông bà chúc lành cho ngày xuân của chúng ta. Thật hân hoan khi ngày xuân được sum họp bên nhau trong tình nghĩa ruột thịt. Đúng như thánh vịnh nói:
“Anh em sum họp một nhà
Bao là tốt đẹp, bao là tốt tươi”.
Xin Chúa là Chúa của mùa xuân, là cùng đích của mọi vạn vật chúc lành cho ngày sum họp của các gia đình luôn nồng nàn mến thương. Xin cho chúng ta luôn biết trân trọng mái ấm gia đình, vì chẳng ở đâu có người yêu thương, lo lắng cho ta bằng những người thân trong gia đình. Hãy trân trọng gia đình bằng việc sống có trách nhiệm với bổn phận của mình. Đừng vì thói lười biếng, trốn tránh trách nhiệm của mình mà mang lại những nỗi đau cho người thân. Xin đừng bao giờ vui xuân mà bán hết gia tài, gây nên đau khổ cho gia đình chỉ vì đam mê cờ bạc, rượu chè, trai gái, …
Xin cho ngày xuân luôn thắt chặt tình ruột thịt để cùng nhau xây dựng gia đình trong yêu thương nồng ấm và mỗi ngày an khang thịnh vượng hơn. Amen.
32. Mồng hai Tết: Ông bà tổ tiên--Lm. Đaminh Nguyễn Thành Tiến
(Hc 44, 1.10-15; Ep 6, 1-4.18-23; Mt 15, 1-6)
Trong mồng một tết, Giáo Hội mời gọi chúng ta -trước hết- dâng lời tạ ơn Chúa, cầu bình an, thì trong ngày mồng hai tết, Giáo Hội mời gọi chúng ta kính nhớ tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Mừng lễ hôm nay là dịp nhắc nhở chúng ta nhớ đến nguồn cội của mình và công ơn sinh thành dưỡng dục của tổ tiên, ông bà, cha mẹ chúng ta...
Người Á Đông nói chung, đặc biệt người VN nói riêng rất đề cao chữ HIẾU và nâng chữ Hiếu lên thành ĐẠO, đó là ĐẠO HIẾU.
“Mẹ cha vất vả nuôi mình//Từ khi trứng nước công trình biết bao./ Làm con phải nhớ công lao,/ Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
Kẻ làm con phải “Dĩ hiếu vi tiên” nghĩa là lấy hiếu làm đầu. Theo truyền thống Nho giáo, trong các tội người ta phạm thì tội bất hiếu là tội nặng nhất.
Bởi vậy, từ thuở mới cắp sách tới trường, bài học đầu tiên của ta là: Công cha như núi Thái Sơn / Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra / Một lòng thờ mẹ kính cha / Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Sự hiện diện của mỗi người trên cõi đời này không phải là một sự xuất hiện ngẫu nhiên, nhưng là mắt xích của cả một công trình vĩ đại, một chuỗi dài những liên hệ yêu thương từ Adam đến các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ và giờ đây là chúng ta,… Người ta thường nói: “Con người có cố có ông,/ Như cây có cội như sông có nguồn”. Người ta có cha có mẹ/ Không ai ở chỗ nẻ chui lên (Tục ngữ).
Trong đời sống người Kitô hữu, chữ Hiếu càng được quý trọng hơn. Hiếu thảo đối với cha mẹ không phải chỉ là một cảm tình tự nhiên hay là một qui định xã hội mà còn là một điều răn Chúa dạy trong 10 điều Chúa truyền qua ông Môsê: “Thứ bốn thảo kính cha mẹ”. 10 điều răn được khắc vào 2 bia đá; và nếu để ý một chút ta sẽ thấy không phải là mỗi bên 5 điều nhưng một bên 3, một bên 7; bia đá thứ nhất gồm 3 điều ghi lại bổn phận của con người đối với Thiên Chúa; bia đá thứ hai 7 điều ghi lại bổn phận giữa con người với nhau; và như thế ta mới thấy điều răn mà ta gọi là thứ tư lại là điều răn thứ nhất trong đạo làm người.
Các bài đọc Lời Chúa thánh lễ hôm nay, có chung chủ đề là chữ Hiếu.
Bài đọc thứ nhất trích sách Huấn ca nhắc chúng ta không chỉ biết ơn mà còn tôn vinh những bậc vĩ nhân và các tổ phụ chúng ta qua các thời đại.
Bài đọc 2, thánh Phaolô nói với chúng ta qua thư gửi tín hữu Ephêso: “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ, theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Để ngươi được hạnh phúc và trường thọ trên mặt đất này” (Ep 6,1).
Đúng ra, Phaolô đã viết lại lời Chúa trong sách Xuất Hành: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi” (Xh 20,12).
Bài tin mừng, Chúa Giêsu cũng nhắc lại lời trong sách Xuất Hành và Lêvi: “Ngươi phải thờ cha kính mẹ, kẻ nào nguyền rủa cha mẹ thì phải bị xử tử”. Đặc biệt, Chúa Giêsu khiển trách những luật sĩ và biệt phái về việc áp dụng sai luật Chúa. Đối với họ, lễ vật gọi là ‘Coban’, tức là những gì họ dâng cho Chúa rồi thì họ không còn bổn phận giúp cha mẹ nữa.
Ngày hôm nay cũng còn có những người con như thế: đưa cha mẹ vào trại dưỡng lão, đóng tiền cho người ta nuôi; hay cho cha mẹ tiền, quà rồi cho đó là thảo hiếu, nhưng không hề về thăm hay hỏi han cha mẹ mạnh khỏe ra sao? Đau yếu thế nào?
Chúa Giêsu không chỉ nhắc nhở con người về đạo làm con mà chính Ngài từ muôn thuở đã luôn là Người Con đẹp lòng Chúa Cha. Hơn nữa, khi nhập thể làm người, Ngài cũng luôn thảo kính, vâng phục Đức Maria và thánh Giuse.
Theo truyền thống tốt lành của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, ngày mồng hai tết là ngày con cháu kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ. Hôm qua, ngày mồng một tết, trước hết ta thờ kính Chúa, tạ ơn Ngài và xin Ngài ban bình an; hôm nay, ngày mồng 2 tết, ta thảo kính OBTT, cha mẹ chúng ta. Trong ngày mồng hai Tết này chúng ta hãy nhìn lại lòng thảo kính của chúng ta đối với cha mẹ.
Vậy thảo kính cha mẹ là gì ?
Thảo kính cha mẹ (theo sách giáo lý Tân định) là yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ khi [các ngài] còn sống và [cũng như] đã qua đời.
1. Khi cha mẹ còn sống.
Khi cha mẹ còn sống nếu con cái chỉ tỏ lòng yêu mến và biết ơn thì chưa đủ, còn phải thực hiện bằng việc làm là giúp đỡ cha mẹ, nhất là khi các ngài đã về già. Nuôi cha mẹ già không phải là dễ. “Mẹ nuôi con như trời như bể, con nuôi mẹ con kể từng ngày”; bởi vậy, người ta nói: “Có nuôi con mới hiểu lòng cha mẹ”.
Tiếc thay, rất nhiều người -dù đã đang nuôi con- đã có kinh nghiệm vất vả vì con nhưng lại quên ơn nghĩa sinh thành. Họ coi việc chăm sóc cha mẹ già là một gánh nặng nên đùn đẩy trách nhiệm cho nhau. Tục ngữ VN có câu: “Sống không cho ăn, chết thì làm văn tế ruồi” là lời nhắc nhớ con cháu phải cần kíp chăm sóc cha mẹ bao nhiêu có thể khi các ngài còn sống với ta trong cõi đời này. Ngày hôm nay, có những người con tuy vui tết, nhưng vẫn cứ ân hận vì mình đã không lo chu toàn bổn phận chữ hiếu với cha mẹ mình, bây giờ cha mẹ không còn nữa; trái lại, ngày hôm nay, chúng ta vẫn thấy có những người con trước khi đi làm đã tranh thủ đút cháo và sếp giường chiếu cho cha mẹ; có những người con dìu dắt cha mẹ già lọm khọm bước lên bực cấp nhà thờ để dự lễ. Hình ảnh này làm cho tất cả chúng ta cảm động và thấy mình cần có trách nhiệm hơn nữa đối với song thân sinh thành dưỡng dục mình. Hơn nữa: “Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó”. Nếu ta không trọng cha mẹ ta, khi ta về già, sao con cháu có thể trọng ta được!
2. Khi cha mẹ đã qua đời.
Người ta thường nói: “Cách mặt xa lòng”. Điều đó rất đúng trong đời sống thực tế hằng ngày bởi vì xa nhau thì mối tình dễ bị nhạt nhòa, dễ bị quên lãng. Nếu ông bà cha mẹ còn sống mà ta còn ít nhớ đến thì làm sao ta có thể nhớ đến các ngài hằng ngày khi các ngài đã qua đời? Thật ra, các ngài qua đời/khuất núi nhưng vẫn hiện diện [Chứ không phải trở về hư vô]. Giữa âm và dương thật gần gũi. “Người chết nối linh thiêng vào đời” là vậy.
Bởi thế, mỗi dịp giỗ chạp, đặc biệt là tháng 11 và mồng 2 tết là dịp thuận tiện để chúng ta hâm lại lòng yêu mến của chúng ta đối với các ngài: “Ai mà phụ nghĩa quên công/ Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm”.
Hôm rồi, lễ an táng 1 bà cụ Anna Nguyễn Thị Đẫm [bà Tộ], một cha già nhắc tôi: đối với cha mẹ và ân nhân, các cha phải nhớ: “Sống thì phải tết, chết thì phải lễ”. Lời cha già nhắc tôi cũng là lời nhắc tất cả chúng ta vì ai trong chúng ta ra đời cũng có cha có mẹ.
Vậy, mồng Hai Tết hôm nay, chúng ta được nhắc nhớ về bổn phận hiếu thảo với các bậc tổ tiên, ông bà cha mẹ. Hãy chăm sóc, phụng dưỡng khi cha mẹ còn sống; Hãy dâng một nén hương, một lời nguyện cầu lên Thiên Chúa để cầu nguyện cho linh hồn tổ tiên ông bà cha mẹ đã qua đời, để ngày Xuân của chúng ta không chỉ là mùa xuân của ân nghĩa đối với nhau mà còn là mùa xuân của lòng báo hiếu với người đã khuất. Amen.
33. Uống nước nhớ nguồn--Trầm Thiên Thu
Mồng Hai Tết là ngày cầu cho tiền nhân, những người đã “ra đi” trước chúng ta, mang tính cách cầu hồn. Tuy nhiên, dù cầu nguyện cho những người đã khuất bóng, nhưng lại vẫn liên quan chuyện hiếu nghĩa – tức là liên quan những người thân còn sống với chúng ta dịp Xuân này. Hãy nghe Thánh Phaolô nói: “Ai không chăm sóc người thân, nhất là người sống trong cùng một nhà, thì đã chối bỏ đức tin, và còn tệ hơn người không có đức tin” (1 Tm 5:8). Cách so sánh thật “mạnh” khiến chúng ta phải “giật mình”.
Nói đến hiếu nghĩa, nhiều người ngoại giáo thường nghĩ rằng đạo Công giáo không cho thờ kính tổ tiên. Đúng và sai. Đúng vì “không ai được thờ kính (tôn thờ) bất kỳ thụ tạo nào” (Xh 20:3; Xh 34:14; Đnl 4:35; Đnl 4:39; Đnl 5:7; Đnl 32:39), kể cả tổ tiên, nhưng họ nghĩ sai vì Công giáo không chỉ “cho phép” (được) mà còn “bắt buộc” (phải) kính nhớ tổ tiên, các thân nhân và người có công trạng. Đúng như tục ngữ Việt Nam nói: “Uống nước nhớ nguồn”. Như vậy, đừng vội “kết án” Công giáo khi chưa hiểu rõ!
Cổ thư nói về đạo hiếu rất hay, tất nhiên cũng phù hợp với tinh thần Kitô giáo: “Hiếu hữu tam: Đại hiếu tôn thân, kỳ thứ phất nhục, kỳ thứ năng dưỡng”. Nghĩa là “Đạo hiếu có ba điều: Hiếu lớn nhất là tôn vinh cha mẹ, hai là không làm nhục cha mẹ, ba là có thể phụng dưỡng cha mẹ”.
Liên quan đạo hiếu vào dịp Tết, chúng ta nhớ tới chuyện An Tiêm: Vào đời Hùng Vương, ở một vùng quê cách xa kinh đô Phong Châu, có một cậu bé mồ côi thường theo người lớn đi săn thú và đánh cá. Năm tám tuổi, cậu được lên kinh đô gặp vua Hùng. Thấy cậu thông minh, nhà vua nhận làm con nuôi và đặt tên là Mai An Tiêm.
Vua Hùng cưới vợ cho An Tiêm và cho cả hai vợ chồng đi phá rừng, làm rẫy trồng trọt. Chỉ ít lâu sau, An Tiêm đã dựng được nhà cửa và gặt được nhiều thóc lúa chứa đầy kho. Thấy thế, bọn người ghen tị tâu nịnh với vua vì cho rằng An Tiêm coi thường ơn vua. Vua Hùng giận lắm, không cần tìm hiểu thực hư ra sao, và đày hai vợ chồng ra hoang đảo.
Cây ngay không sợ chết đứng, vì “người công chính được Chúa độ trì” (Tv 37:17). Ở hoang đảo, có con chim trắng bay tới làm rơi hạt đen xuống bãi cát trắng. An Tiêm đem trồng thử hạt này. Chúng mọc thành những dây bò lan trên mặt cát. Cây có nhiều trái màu xanh thẫm to bằng đầu người. An Tiêm hái một trái đem về cho cả nhà ăn thấy ruột đỏ mà ngọt, lại có nhiều nước. Loại trái “xanh vỏ, đỏ lòng” đó chính là trái dưa hấu.
Bài học về chữ hiếu: Dù bị Phụ vương đày ra hoang đảo, nhưng An Tiêm vẫn giữ trọn đạo hiếu với cha, không hề trách hờn ai. Về sau, vua Hùng hối hận và phục chức cho An Tiêm.
Và chắc hẳn nhiều người (tuổi trung niên trở lên) còn nhớ sách “Nhị Thập Tứ Hiếu”, tác phẩm văn học của tác giả Quách Cư Nghiệp, kể lại gương hiếu thảo của 24 người con đời nhà Nguyên (Trung Hoa). Chính tác giả cũng là người con chí hiếu.
Sách Huấn Ca dạy: “Hãy ca ngợi những vị danh nhân, cũng là cha ông của chúng ta qua các thế hệ” (Hc 44:1). Đồng thời xác nhận: “Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con. Dòng dõi các ngài giữ vững các điều giao ước; nhờ các ngài, con cháu cũng một mực trung thành. Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại, vinh quang các ngài sẽ chẳng phai mờ. Các ngài được mồ yên mả đẹp và danh thơm mãi lưu truyền hậu thế” (Hc 44:10-14). Do đó, nhân dân sẽ “kể lại đức khôn ngoan của họ và cộng đoàn vang tiếng ngợi khen họ” (Hc 44:15).
Thánh Vịnh ca tụng những thành quả của gia đình: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may. Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn” (Tv 128:1-3). Tuy nhiên, phúc lộc đó không phải ai cũng có được: “Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128:4). Đúng nhu Chúa Giêsu đã nói chắc: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5).
Thánh Phaolô phân tích lý do mà con cái phải tuân giữ đạo hiếu: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6:1-3). Tuy nhiên, không phải là làm lớn thì có thể làm láo, là cha mẹ thì có thể độc đoán, muốn làm gì thì làm, mà cũng phải tuân giữ nghiêm luật và thể hiện tình yêu thương đúng nghĩa: “Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy” (Ep 6:4).
Cuộc sống đời thường và tâm linh đều có những điều phức tạp, cần phải biết kết hợp và cân bằng. Thánh Phaolô nói: “Theo Thần Khí hướng dẫn, anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi. Để được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin cho toàn thể dân thánh. Anh em cũng hãy cầu xin cho tôi nữa, để khi tôi mở miệng nói, thì Thiên Chúa ban lời cho tôi, hầu tôi mạnh dạn loan báo mầu nhiệm của Tin Mừng; tôi là sứ giả của Tin Mừng này cả khi tôi đang bị xiềng xích. Anh em hãy cầu xin cho tôi để khi rao giảng Tin Mừng, tôi nói năng mạnh dạn, như bổn phận tôi phải nói” (Ep 6:18-20).
Về đạo hiếu, sách Huấn Ca nhắc nhở những người con: “Cha con, con hãy hết lòng tôn kính, và đừng quên ơn mẹ đã mang nặng đẻ đau. Hãy luôn nhớ công ơn dưỡng dục sinh thành, công ơn ấy, con sẽ lấy chi đáp đền cho cân xứng?” (Hc 7:27-28).
Và Công đồng Vatican II dạy: “Con cái sẽ đáp lại công ơn cha mẹ với lòng biết ơn, tâm tình hiếu thảo và tin cậy, sẽ theo đạo làm con mà phụng dưỡng cha mẹ trong nghịch cảnh cũng như trong tuổi già cô quạnh” (Hiến chế Gaudium et Spes – Mục vụ về Giáo hội trong Thế giới Ngày nay, số 48).
Hãy ghi nhớ và noi theo tấm gương tột đỉnh: Dù là Ngôi Hai Thiên Chúa, nhưng khi mặc xác phàm và làm con trong một gia đình, Chúa Giêsu đã chu toàn bổn phận làm con với cha mẹ trong suốt 30 năm (x. Lc 2:51-52).
Không chỉ vậy, Chúa Giêsu còn có phong cách hoàn toàn không giống ai khác. (Mt 15:1-6)
Một hôm, có mấy người Pha-ri-sêu và mấy kinh sư từ Giêrusalem đến gặp Đức Giêsu và nói: “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân, không chịu rửa tay khi dùng bữa?” (Mt 15:2). Đúng là lũ người xấu bụng, chuyên thọc gậy bánh xe, thích phá rối, ưa gài bẫy, chuyên gia sử dụng loại phần mềm về “dấu trừ” và “dấu chia”, chứ không rành (hoặc không thích) sử dụng “dấu cộng” và “dấu nhân”.
Chọc vào ổ kiến lửa thì sẽ “đỏ người”, chọc tổ ong vò vẽ thì “sáng mắt” ngay thôi. Họ vừa hỏi xong, Chúa Giêsu liền trả lời một hơi: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa? Quả thế, Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử. Còn các ông, các ông lại bảo: ‘Ai nói với cha với mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa’. Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa” (Mt 15:4-6).
Tất nhiên là họ chỉ có nước ngậm bồ hòn và im như thóc thối. Ai bảo ngu dốt mà lại chảnh, dám vênh váo “ta đây”, muốn chứng tỏ mình là “ngon” lắm! Thùng càng rỗng càng kêu to, kêu càng to càng mau… xẹp. Phải thế mới đáng đời bè lũ Pha-ri-sêu hèn nhát!
Lạy Thiên Chúa, chúng con chúc tụng Ngài là Chúa Tể càn khôn! Chúng con xin lỗi Chúa về mọi lỗi lầm năm cũ, xin ban Thánh Linh để chúng con biến đổi nên giống Ngài mỗi ngày mỗi hơn. Chúng con xin tán dương Ba Ngôi Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết một lòng hướng về Mùa Xuân Vĩnh Hằng trên Thiên quốc; xin Chúa lì xì nhiều Hồng Ân để chúng con sống trọn vẹn năm mới; và chúng con cũng xin lì xì cả cuộc đời của chúng con cho Chúa, xin Ngài thương thánh hóa và hướng dẫn chúng con đi đúng Đường Chân Lý của Ngài.
Xin Đức Mẹ Maria, Đức Thánh Giuse, chư Thần và chư Thánh nguyện giúp cầu thay cho chúng con luôn, để mai đây chúng con cũng được hợp đoàn và chung lời với các ngài mà ca tụng Thiên Chúa muôn đời. Nguyện xin Chúa thương cho mọi người đã hoàn tất đường lữ hành trần gian được niềm vui Xuân Trường Sinh nơi Thiên Quốc.
Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người và cứu độ chúng con, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
34. Suy niệm Lời Chúa
Câu chuyện
Dù ai buôn bán nơi đâu
Nhớ đến ngày Tết rủ nhau mà về
Vào dịp Tết Nguyên đán, người dân ở phương xa về quê sum họp gia đình và dành thời gian để thăm viếng thân nhân, cúng bái tổ tiên, thờ phượng đất trời. Vì Tết là dịp để mọi người Việt Nam tưởng nhớ, tri ân tổ tiên, nguồn cội; giao cảm nhân sinh trong quan hệ đạo lý: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn”.
Biết ơn trời, nhớ nguồn gốc tổ tiên thật là một tục lệ tốt đẹp và mang đầy nét nhân văn của lòng biết ơn được văn hóa Việt Nam trân trọng và được chính Chúa Kitô đánh giá cao (x. Lc 17,11-19).
Ngày mùng hai tết, người Trung Quốc (gồm cả Đài Loan) có một truyền thống rất tốt đẹp là: Tất cả những người con gái đã xuất giá (lấy chồng) đều cùng với chồng và con trở về nhà cha mẹ ruột của mình, để cùng ăn cơm, cùng vui Tết, cùng chúc tuổi cha mẹ, đó cũng là một cách báo hiếu của con gái đã lấy chồng.
Suy niệm
Mùng hai tết, tuy không khí ngày tết vẫn rộn ràng vui tươi của ngày xuân, những người Công giáo Việt Nam đến nhà thờ và viếng nghĩa trang với tâm trạng bồi hồi xúc động, vì hôm nay kính nhớ tổ tiên, những người con dâng thánh lễ với tấm lòng hiếu thảo cầu nguyện cho gia tiên và hồi tưởng về tổ tiên, ông bà cha mẹ và những người thân đã qua đời. Những ánh nến lung linh soi hồi ức của người con về những kỷ niệm đẹp với ông bà cha mẹ và người thân khi họ còn sống bên cạnh, những nén hương thơm tựa như lời cầu nguyện chân thành dành cho người đã khuất bay tới trời cao như Thánh Vịnh có nói: “Ước chi lời con nguyện, tựa hương trầm bay tỏa trước Thánh Nhan” (Tv 141,2), những bông hoa muôn sắc dâng tiến như tâm tình biết ơn đẹp mãi không phai và luôn thắm như hoa xuân.
Nhớ về tổ tiên, chúng ta làm sống lại tâm tình của sách Huấn ca về sự nghiệp của tổ tiên luôn sống động mãi: “Miêu duệ họ sẽ tồn tại đến muôn đời, và vinh quang của họ không bao giờ bị lu mờ. Thân xác họ được chôn cất bình an, tên tuổi họ sẽ sống đời này qua đời nọ. Sự khôn ngoan của họ cộng đoàn truyền tụng, và công hội thuật lại lời ngợi khen họ” (Hc 44,12-15).
Thảo hiếu với cha mẹ còn sống và kính nhớ ông bà tổ tiên đã khuất bằng lời cầu nguyện trong ngày mùng hai Tết, chúng ta sống tâm tình của thánh Phaolô về chữ hiếu trong gia đình luôn làm phần phúc cho người con thảo mà ngài đã viết khuyên nhủ cộng đoàn tín hữu Êphêsô: “Hãy thảo kính cha mẹ ngươi, đó là giới răn thứ nhất kèm theo lời hứa để ngươi được phần phúc và sống lâu dài trên địa cầu” (Ep 6,1-2).
Hôm nay ngày cầu nguyện cho tổ tiên ông bà cha mẹ đã qua đời, chúng ta càng thêm xác tín: “Tôi tin xác loài người ngày sau sẽ sống lại”, tin vào lời Thầy Giêsu đã phán dạy: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không chết bao giờ, cả những ai tin vào Người Con thì được sống muôn đời” (Ga 11,25-26). Được sống muôn đời là sống trong mùa xuân vĩnh cửu với Chúa trên thiên đàng.
Cầu nguyện cho tổ tiên ông bà cha mẹ là hành động của niềm tin vào Đấng Phục Sinh - Chúa Xuân vĩnh cửu sẽ ban cho chúng ta hạnh phúc thật trường tồn. Kính nhớ ông bà tổ tiên còn là “đạo làm người” trong tư cách con người, biểu hiện lòng biết ơn các đấng sinh thành dưỡng dục.
Ngày xuân nhớ đến gia tiên, với cây nến, nén hương trong tay chúng ta tin rằng: Mừng xuân hôm nay nói về mùa xuân Thiên quốc: Tất cả đều trổ bông với một sức sống mới: Con người cũng sẽ phục sinh, nở hoa khi theo bước chân của Đức Kitô, như thánh Phaolô đã tuyên xưng: “Chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Ðức Giêsu, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Ðức Giêsu” (1Tx 4,14). Tất cả sẽ cùng Đức Kitô đi vào trong Giáo hội Chiến Thắng - Mùa Xuân Cứu Độ.
Ý lực sống
“Người kính mẹ khác nào kẻ tích trữ kho tàng…
Kẻ kính cha sẽ được trường thọ” (Hc 3,4.6).
35. Kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ--Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
Nhân ngày tết, theo truyền thống dân tộc VN, chúng ta luôn tỏ lòng biết ơn và hiếu thảo với tổ tiên, ông bà, cha mẹ còn sống cũng như đã qua đời. Người công giáo Việt Nam ngay từ thưở ban đầu, tuy không theo những nghi thức nơi dân ngoại, nhưng luôn kính viếng các phần mộ cha ông, và dâng lễ cầu nguyện cho các Ngài. Sau nhiều cố gắng HĐGMVN trước 1975 cũng đã được Tòa Thánh chấp thuận những khẩn cầu để có thể thiết lập bàn thờ tổ tiên trong gia đình, để hằng ngày có thể hiệp thông với các ngài trong cầu nguyện.
Thực sự, ngay từ thời Cựu Ước, tương quan với tổ tiên không chỉ là tương quan nghi lễ, mà còn là tương quan gắn liền với Giao Ước của Thiên Chúa. Theo đó “Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con” “Dòng dõi các ngài giữ vững các điều giao ước” nhờ đó mà “Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại”.
Đến thời Tân Ước, tương quan đó được đẩy lên mức cao tuyệt đối, vì thánh Phaolô đặt tương quan ấy “theo tinh thần của Chúa” mà thánh sử Luca gói trọn trong lời “Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài” và trước khi từ giã cõi đời, Chúa đã trối Mẹ mình cho người môn đệ Ngài yêu để thay Ngài chăm sóc Mẹ, và Hội Thánh đã nhận lời trối của Chúa để luôn có lòng đón nhận Mẹ Ngài như là mẹ của mình. Thật ra phải nói rằng theo tinh thần của Chúa, thì đời sống đặt nền tảng trên đức hiếu thảo không chỉ với Chúa Cha mà cả với cha mẹ trần gian nữa. Và đức hiếu thảo này chính là nền tảng cho sự thánh thiện của Dân mới.
Thánh Phaolô nhìn vào đức Hiếu Thảo của Chúa là một tương quan 2 chiều : Cha mẹ - con cái. Về phần con cái thì phải “tôn kính cha mẹ” như là “điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này”. Về phần cha-mẹ “đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy.”.
Bài Tin Mừng cho thấy người làm cha là Giacaria đã nhìn thấy nơi người con của mình là Gioan tiền hô, có một sứ mạng mà Thiên Chúa trao cho, sứ mạng làm cho mọi người nhận biết “Chúa đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người” theo “lời minh ước mà Người tuyên thệ, với Abraham tổ phụ chúng ta”. Sứ mạng gắn liền với Giao Ước. Mỗi người cha, người mẹ, người con đều phải “phục vụ trước tôn nhan Người, trong thánh thiện và công chính trọn đời”.
Tương quan hai chiều này suốt theo dòng lịch sử luôn bị khủng hoảng, nhiều khi rất khủng khiếp : cha mẹ-con cái nhiều khi trở thành thù hận, thậm chí chém giết như thấy trên các báo ngày nay. Vì thế muốn giữ được tương quan theo tinh thần của Chúa thánh Tông Đồ khuyên chúng ta “Để được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin cho toàn thể dân thánh”, nghĩa là cho mọi người được Thánh Thần nâng đỡ để chu toàn giới răn này.
Và tôi mượn lời của Thánh Tông Đồ “Nguyện xin Thiên Chúa là Cha, và nguyện xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ơn bình an và lòng mến cùng với lòng tin.”
36. Mồng Hai Tết Mt 15,1-6---Hãy hiếu kính ông bà cha mẹ--Lm Đan Vinh
1. LỜI CHÚA: Chúa phán: “Thiên Chúa đã dạy : Ngươi hãy thờ cha kính mẹ. Kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử. Còn các ông, các ông lại bảo: Ai nói với cha với mẹ rằng: Những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa” Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà hủy bỏ lời Thiên Chúa” (Mt 15,4-6).
2. CÂU CHUYỆN:
Một người đàn ông kia sống chung với người cha cao niên và đứa con trai mới năm tuổi của anh ta. Một hôm người cha của anh do tuổi già nên tay thường bị run, và có lần đã làm bể bát chén kiểu đắt tiền khi đang ăn cơm, nên anh ta ra vườn nhặt một chiếc gáo dừa mang về gọt dũa làm thành một cái chén bằng gáo dừa để bố anh ta dùng. Đứa con trai của anh ta thấy vậy liền hỏi lý do tại sao thì anh trả lời con rằng: Để ông nội con dùng chén này ăn cơm nếu có run tay làm rơi cũng không bị bể.
Một hôm anh ta thấy đứa con trai của anh đang loay hoay dùng dao chơi với một chiếc gáo dừa. Sợ con bị đứt tay anh liền ngăn cản. Khi được hỏi tại sao làm như vậy thì được đứa con trả lời: “Con thấy bố cho ông nội ăn cơm bằng chiếc gáo dừa để khỏi bị bể, nên con cũng chuẩn bị trước cho bố một cái, để sau này khi bố già dùng sẽ không bị bể nếu bị run tay giống như ông nội bây giờ!”.
3. THẢO LUẬN: Bạn sẽ làm gì để thể hiện lòng hiếu thảo với cha mẹ ông bà trong dịp Tết và trong thời gian sắp tới?
4. SUY NIỆM:
1) Bổn phận thảo kính cha mẹ:
Ba ngày Tết, sau ngày Mùng Một dành Tạ Ơn Chúa xin ơn bình an năm mới, thì ngày Mùng Hai dành để Kính nhớ Tổ Tiên và Ông Bà Cha Mẹ. Có lẽ không ai trong chúng ta lại không biết câu thơ đã trở thành câu ca dao và bài hát bất tử về đạo làm con: “Uống nước nhớ nguồn. Làm con phải hiểu. Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra…”. Hay: “Tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ hơn là đi tu”…
Và chắc không ai trong chúng ta lại không biết nhạc phẩm Lòng mẹ của cố nhạc sĩ Y Vân: “Lòng mẹ bao la như biển thái bình…”
Với người Ki-tô hữu, ai cũng nằm lòng Mười Điều Răn, trong đó, ba điều răn đầu tiên dành cho Chúa, ngay sau đó, điều răn thứ tư dành cho cha mẹ. “Thứ bốn: Thảo kính cha mẹ”. Người Công Giáo có tháng 11, tháng cầu cho các tín hữu đã qua đời, cũng là dịp đặc biệt nhớ về ông bà cha mẹ đã an nghỉ. Hằng ngày, người Công Giáo tham dự Thánh Lễ luôn kính nhớ nguyện cầu cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ: “Xin Chúa cũng nhớ đến anh chị em chúng con đang an nghỉ trong niềm hy vọng sống lại, và mọi người, đặc biệt là các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ…” (Kinh Nguyện Thánh Thể).
Ngày Tết cũng là ngày hội vui của đại gia đình. Ai cũng mong ngày Tết được đoàn tụ với người thân trong gia đình. Mọi người Việt Nam đều muốn được đón giờ phút thiêng liêng ngày đầu xuân bên cha mẹ, ông bà và con cháu.
2) Phương cách tỏ lòng hiếu thảo với ông bà cha mẹ:
Sự hiếu thảo không chỉ được biểu lộ trong những ngày Lễ Tết, nhưng còn phải thể hiện trong suốt thời gian sống chung với ông bà cha mẹ trong gia đình.
Phải sống thế nào cho tròn chữ hiếu với tổ tiên ông bà cha mẹ. Nếu cha mẹ chúng ta còn khỏe, con cái phải tạ ơn Chúa vì Chúa đã ban cho chúng ta cha mẹ là lá chắn che chở suốt đời mình.
Nếu cha mẹ già yếu, con cháu không được xem thường và coi các ngài như gánh nặng. Hãy nói với các ngài bằng những lời thưa gởi hiếu kính, cảm thông với những sự lẩm cẩm của các ngài và đừng bao giờ tỏ thái độ vô lễ to tiếng cãi lại hoặc khinh thường cáu gắt với các ngài. Hãy luôn tôn trọng các ngài vì chính các ngài cũng đã từng phải kiên nhẫn ân cần chăm sóc, cho bú mớm và lau dọn vệ sinh khi ta còn thơ bé.
Khi cha mẹ qua đời, con cái hãy năng đọc kinh cầu nguyện, xin lễ và làm các việc lành để các ngài sớm được về thiên đàng. Hãy lập bàn kính nhớ tổ tiên bên cạnh và thấp hơn bàn thờ Chúa. Hãy năng đọc kinh cầu nguyện cho ông bà cha mẹ vào giờ kinh tối gia đình hằng ngày hoặc trong những ngày Giỗ Tết.
3) Làm gì trong những ngày này?:
Xin đừng phụ công ơn dưỡng dục của các bậc sinh thành. Hãy sống sao cho đúng phận làm con, vì như câu ca dao người xưa dạy:
“Công cha như núi thái sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
“Sóng trước vỗ đâu, sóng sau vỗ đó”. Chúng ta cư xử với cha mẹ mình thế nào thì con cái của chúng ta sau này cũng sẽ đối xử với chúng ta như vậy.
Dịp Xuân Mới, bạn sẽ mua biếu quà gì cụ thể để tỏ lòng hiếu thảo đối với cha mẹ ông bà còn sống và những đấng bề trên đã qua đời?
5. LỜI CẦU:
Lạy Thiên Chúa là Chúa của Mùa Xuân đất trời.
Xin chúc lành cho ngày họp mặt của gia đình chúng con hôm nay.
Xin liên kết mọi người chúng con trong tình yêu của Cha.
Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con biết trân trọng giây phút xum vầy trong ngày đầu Xuân, coi đó là hồng ân Cha ban để sống trọn tình con thảo với tổ tiên ông bà cha mẹ và sống yêu thương huynh đệ với anh chị em trong gia đình ruột thịt của chúng con.
Xin cho chúng con một Năm Mới an lành và hạnh phúc trong bàn tay quan phòng của Cha.- Amen.
37. Mồng Hai Tết 2021—Nhớ cầu cho bậc tổ tiên --Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Theo tập tục vẫn có từ đời cha Đắc Lộ, để thánh hóa ba ngày Tết Nguyên Đán, Hội Thánh đã chỉ định Ngày Mồng Một Tết, là Ngày cầu cho thế giới được hòa bình, cho quốc thái dân an, cho gia đình ấm êm hạnh phúc. Hôm nay Ngày Mồng Hai Tết, ngày kính nhớ tổ tiên ông bà, cha mẹ, theo tinh thần của Đạo Hiếu, hướng chúng ta về với cội nguồn là những đấng cộng tác với Thiên Chúa để sinh thành, dưỡng dục chúng ta thành người.
Ý tưởng của Lời ca nhập lễ: “Nhớ cầu cho bậc tổ tiên, khắc ghi công đức một niềm tri ân. Phúc thay kẻ nhắm mắt lìa đời, đã lìa đời trong ơn nghĩa Chúa. Trải qua bao nhọc nhằn vất vả, giờ đây họ xứng đáng nghỉ ngơi. Vì công đức xưa kia vẫn còn theo họ mãi”. Lời nguyện tiến lễ mới đẹp làm sao: “Cúi xin Chúa vui lòng chấp nhận mà tuôn đổ hồng ân xuống trên tổ tiên và ông bà cha mẹ chúng con, để chúng con cũng được thừa hưởng phúc ấm của các ngài”.
Chúa truyền phải thảo cha kính mẹ
Thụ ơn ắt phải báo đền, mẹ cha là hình ảnh của Thiên Chúa: ngoài việc sinh thành, dưỡng dục, các ngài còn là người đại diện Chúa, là hình ảnh của Thiên Chúa tình thương hằng bao bọc, che chở và nuôi dưỡng chúng ta nên người. Chính trong bậc sống gia đình, cha mẹ được Thiên Chúa mời gọi để cộng tác vào chương trình tạo dựng của Ngài, để cho ra đời những người con, mang hình ảnh Chúa, và tô điểm thêm cho trái đất nhiều người ca ngợi và kính sợ Chúa. Vì thế, bổn phận của cháu con, ngoài việc phụng dưỡng, giúp đỡ cha mẹ khi già yếu, còn phải hằng ngày cầu nguyện cho cha mẹ: luôn sống xứng bậc mình, sẵn sàng hy sinh để nuôi dưỡng và giáo dục cho tròn bổn phận mình. Thiên Chúa dạy chúng ta: “Hãy thảo kính cha mẹ” (Mc.7, 8-13). Phụng dưỡng mẹ cha theo đúng lời Chúa truyền dạy, chớ dựa vào: “truyền thống của cha ông mà hủy bỏ lời Thiên Chúa” (Mt 13, 6).
Ơn phúc đến từ việc tôn kính mẹ cha
Nhớ đến công ơn sinh thành, dưỡng dục, tất cả chúng ta đều phải biết sống hiếu thảo, vâng lời, giúp đỡ cha mẹ lúc sinh thời cũng như khi đã khuất bóng. Việc “đền ơn đáp nghĩa” là một nghĩa vụ thiêng liêng và cũng là bổn phận của kẻ làm con. Ai thực hành Lời Chúa dạy sẽ được Chúa ban dư tràn phúc lành.
Ước muốn sống lâu, sống hạnh phúc trên địa cầu này là lời cầu chúc trên cửa miệng của chúng ta trong ngày đầu năm mới, bởi ai cũng mơ sống hạnh phúc, khang an và trường thọ. Chúa dạy: “Ai thảo kính cha sẽ được sống lâu dài” (Hc 3,6). Thánh Phaolô Tông đồ khuyên chúng ta “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ, theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Để ngươi được hạnh phúc và trường thọ trên mặt đất này” (Ep 6,1).
Ngoài việc sống vui sống hạnh phúc, kẻ tôn kính mẹ cha còn được tha thứ tội lỗi: “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm” (Hc 3,2). Được nhận lời khi cầu xin: “Ai hiếu thảo với cha mẹ, khi cầu xin họ sẽ được lắng nghe” (Hc 3,5b). Được con cái báo đền: “Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái” (Hc 3,5a). Vì “Sóng trước đổ đâu, sóng sau theo đấy”. Người bất hiếu với cha mẹ sẽ bị con cái đối xử tàn tệ hơn. Người có hiếu với cha mẹ cũng sẽ được con cái đối xử tốt đẹp. Được ơn lành tích trữ trong kho tàng: “Ai kính mẹ thì tích trữ kho báu” (Hc 3,4).
Phận làm con cho tròn chữ Hiều
Thật phù hợp với đạo lý dân tộc Việt Nam, chiếc bánh chưng, một sản phẩm cổ truyền, một chứng tích của đạo lý, chúng ta làm để ăn ngày Tết nhắc nhớ chúng ta mang nặng nghĩa mẹ tình cha. Bởi Lang Liêu, vị hoàng tử thứ mười tám, con người hiền lành, hiếu thảo đã dâng lên vua cha thứ bánh chưng tượng trưng cho đất, bánh dầy tượng trưng cho trời, nhân bánh tựa công ơn sinh thành của cha mẹ; với ý nghĩa xem công cha nghĩa mẹ to lớn như trời cao đất rộng, che chở cho con cái sống an vui giữa đời.
Vì cha nên mới có mình,
Mẹ cha đối đáp công trình biết bao
Ơn này sánh với trời cao
Trong lòng con dám lúc nào lãng quên
Ngày Tết, cầm bánh chưng lên ăn, làm chúng ta nhớ đến tổ tiên để tỏ lòng hiếu thảo như: thăm viếng, chúc tết, giúp đỡ là một lẽ, chúng ta còn phải xin lễ cầu nguyện cho những người đã khuất. Tất cả đều là những nghĩa cử cần thiết, không thể thiếu được.
“Cây có cội, nước có nguồn, con người có tổ có tông: có cha có mẹ, có ông có bà”. Ai trong chúng ta cũng đều thuộc nằm lòng những câu ca dao tục ngữ của người xưa răn dạy về đạo hiếu đối với mẹ cha.
Tôn kính
Công cha nghĩa mẹ cao dày,
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ.
Nuôi con khó nhọc đến giờ,
Trưởng thành con phải biết kính thờ song thân.”
Phụng dưỡng
Còn nữa, phận làm con đối với cha mẹ:
“Khi ấm lạnh ta hầu săn sóc
Xem cháo cơm thay thế mọi bề
Ra vào thăm hỏi từng khi
Người đà vô sự ta thì an tâm.” (Nguyễn Trãi, Gia Huấn Ca)
Vâng lời
Dạy sao cho được con hiền
Để cho cha mẹ khỏi phiền về con
Một niềm phép tắc nết na
Biết sống biết kính mới là khôn ngoan
Có một số người, không biết sống đạo gì mà lại đối xử nhất trọng nhất khinh. Bởi vì đối với người Việt Nam, tương quan với họ hàng gia tộc là điều quan trọng. Lấy vợ, lấy chồng không chỉ là lấy một người mà “lấy” cả họ hàng nhà chồng, nhà vợ. Cách cư xử với họ hàng bên chồng hay bên vợ không chỉ liên quan đến bản thân mà còn liên quan đến cả họ hàng bên mình.
Trong tác phẩm “Gia Huấn Ca” Nguyễn Trãi đã đề cao đạo đức, và chữ hiếu được nhấn mạnh rất rõ:
“Dù nội ngoại bên nào cũng vậy,
Đừng tranh dành bên ấy, bên này,
Cù lao đội đức cao dày,
Phải lo hiếu kính đêm ngày khăng khăng.” (Nguyễn Trãi, Gia Huấn Ca)
Khi cha mẹ qua đời
Con cái tỏ lòng hiếu kính bằng cách lo an táng chu đáo, cầu nguyện và xin lễ cho cha mẹ. Không những cầu nguyện cho cha mẹ, con cái còn xin cha mẹ cầu nguyện cho mình trước mặt Chúa, như khi còn sống, các ngài vẫn cầu nguyện cho mình.
Hội Thánh Công giáo nhìn nhận đó là một hình thức tốt đẹp để bày tỏ lòng tưởng nhớ công ơn tiền nhân. Hội Thánh khuyến khích các tín hữu phát huy những tinh hoa trong văn hoá dân tộc.
Thực hành chữ hiếu
Trong ngày Mồng Hai Tết năm nay chúng ta hãy nhìn qua lại lòng hiếu thảo của chúng ta đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ để mà yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ các ngài khi còn sống và đã qua đời. Đồng thời Lời Chúa nhắc cho chúng ta phải thi hành bổn phận thảo hiếu của chúng ta.
Ai mà phụ nghĩa quên công
Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm. (Ca dao)
Xin Chúa trả công bội hậu đời này và đời sau cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con, và giúp chúng con luôn sống cho phải đạo đối với các Ngài. Amen.
- 01/02 Các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai
- 31/01 Người bị quỷ ám và đàn heo
- 30/01 Không tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương
- 29/01 Chúa Giêsu quyền năng
- 28/01 Nước Thiên Chúa phát triển.
- 27/01 Đèn đặt trên đế cao
- 26/01 Diễn Văn Truyền Giáo
- 25/01 Tông Đồ Phaolô Trở Lại.
- 24/01 Ngoan cố, tội phạm đến Chúa Thánh Thần
- 23/01 Thánh Thần Chúa ngự trên tôi.