Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
12/01 Tiếp tục rao giảng.
- Viết bởi Mc 1, 29-39
Tiếp tục rao giảng.
Thứ Tư tuần 1 thường niên.
"Ngài chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau".
LỜI CHÚA: Mc 1, 29-39
Khi ấy Chúa Giêsu ra khỏi hội đường. Người cùng với Giacôbê và Gioan đến nhà Simon và Anrê. Lúc ấy bà nhạc gia của Simon cảm sốt nằm trên giường, lập tức người ta nói cho Người biết bệnh tình của bà. Tiến lại gần, Người cầm tay bà, và nâng đỡ dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi tiếp đãi các Ngài. Chiều đến, lúc mặt trời đã lặn, người ta dẫn đến Người tất cả những bệnh nhân, tất cả những người bị quỷ ám; và cả thành tụ họp trước cửa nhà. Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ, và không cho chúng nói, vì chúng biết Người.
Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó. Simon và các bạn chạy đi tìm Người. Khi tìm được Người, các ông nói cùng Người rằng: "Mọi người đều đi tìm Thầy". Nhưng Người đáp: "Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành lân cận, để Ta cũng rao giảng ở đó nữa". Và Người đi rao giảng trong các hội đường, trong khắp xứ Galilêa và xua trừ ma quỷ.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Bà phục vụ các ngài
(Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
Sau khi chữa người bị quỷ ám tại hội đường Caphácnaum,
Đức Giê su trở về một căn nhà của một gia đình quen biết,
gia đình của hai anh Simon và Anrê, những người mới bỏ nhà để theo ngài.
Không may bà mẹ vợ của Simon lại đang lên cơn sốt.
Đức Giêsu đã lại gần giường bà nằm, cầm lấy tay bà và nâng bà dậy.
Lập tức cơn sốt lui khỏi bà và bà phục vụ các ngài.
Đây là phép lạ chữa bệnh đầu tiên của Đức Giêsu
cho một phụ nữ, tại một ngôi nhà.
Sốt chẳng phải là một bệnh quá nặng và nguy hiểm,
nhưng cũng đủ để làm người bệnh không hoạt động được,
gây cản trở những sinh hoạt bình thường trong gia đình.
Đức Giêsu đến đem lại sự chữa lành, niềm vui và sức sống.
Khi người phụ nữ được khỏi bệnh, mọi sự như sống lại.
Bếp lại có lửa, bàn lại có thức ăn, và người ta ngồi quanh cười nói rôm rả.
Hạnh phúc gia đình có khi chỉ tùy thuộc vào những điều be bé.
Hạnh phúc bị sứt mẻ lắm khi chỉ vì những chuyện không đâu.
Hãy nhìn cách Đức Giêsu chữa bệnh cho người phụ nữ này.
Thật gần gũi và thân tình, ngài chẳng nói lời nào để đuổi cơn sốt.
Khi nắm tay người bệnh nặng, ngài chấp nhận nguy cơ bị nhiễm nhơ uế.
Nhưng Đức Giêsu chẳng hề bị nhiễm gì, trái lại ngài đem đến bình an.
Ngài đã nâng bà dậy (êgeiren), có nghĩa là ngài làm bà phục sinh.
Sau khi được phục sinh thì bà đi phục vụ các vị khách.
Phục vụ hiểu theo nghĩa đơn sơ nhất là đi chuẩn bị bữa ăn.
Các thiên thần cũng đã phục vụ Đức Giê su
sau khi ngài thắng các cơn cám dỗ (Mc 1, 13).
Tuy nhiên có thể hiểu phục vụ theo nghĩa rộng hơn nhiều.
Sau khi Đức Giêsu chết trên thập giá, chỉ còn các phụ nữ ở lại đến cùng.
“Họ đã đi theo ngài và phục vụ ngài từ hồi ngài còn ở Galilê
và họ đã cùng ngài lên Giêrusalem” (Mc 15, 40-41).
Như vậy không phải chỉ các ông môn đệ mới là người phục vụ (Mc 10, 43).
Các bà cũng đã trung tín phục vụ đến cùng,
phục vụ như Thầy Giêsu, Đấng đã đến để phục vụ” (Mc 10, 45).
Chúng ta cần nhìn nhận
vai trò quý báu của người vợ, người mẹ trong nhà,
và vai trò của người phụ nữ trong giáo xứ cũng như ngoài xã hội.
Cầu nguyện:
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin cho các kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết quảng đại cho đi
và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con,
và trong lòng từng con người bé nhỏ.
Suy Niệm 2: Mầu nhiệm hiệp thông
Chúa Giês-su hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa. “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện”. Kết hợp trọn vẹn với Chúa Cha nên việc cầu nguyện là một việc vừa tự nhiên vừa là nhu cầu thiết yếu của Chúa Giê-su. Bắt đầu ngày mới bằng việc cầu nguyện, Người múc lấy sức mạnh và tìm những chỉ dẫn cho mọi hoạt động từ nơi Chúa Cha. Không chỉ hiệp thông trong tâm tình mà còn trong hành động. Nên Người đã xuống thế làm người theo chương trình của Thiên Chúa. Trong suốt cuộc đời Người không làm gì tự ý mình, nhưng hoàn toàn làm theo thánh ý Chúa Cha. Vâng lời Chúa Cha cho đến bằng lòng chịu chết trên cây thánh giá. Đó là cuộc hiệp thông trọn vẹn. Hoàn toàn từ bỏ bản thân. Để thánh ý Chúa Cha được thể hiện.
Người cũng hoàn toàn hiệp thông với nhân loại. Hiệp thông trọn vẹn với nhân loại nên Người trở nên đồng huyết nhục, trở thành anh em của mọi người. Người đã sống hoàn toàn như một con người. Sống cuộc sống vất vả của người thợ mộc. Lang thang đây đó, “không có nơi tựa đầu”. Chịu đói chịu khát. Trải qua biết bao thử thách và đau khổ. Chịu cám dỗ. Bị phản bội. Bị trao nộp. Chịu hành hình và chịu chết. Người luôn ở gần những người nghèo khổ bệnh tật để giúp đỡ họ. Hãy chiêm ngắm cảnh tượng Người cầm tay bà nhạc mẫu của Phêrô, ân cần nâng dậy và chữa khỏi bệnh tật. Hãy chiêm ngắm cảnh tượng lớp lớp trùng điệp người bệnh vây quanh Người. Tất cả trở nên một cơ thể đau khổ vì Người hoàn toàn hòa nhập với con người. Hiệp thông trọn vẹn với con người, Người trở thành người đại diện, người trung gian, trở thành vị Thượng Tế nhân từ và trung tín dâng tâm tình thờ phượng lên Đức Chúa Cha. Và lời cầu nguyện của Người được đẹp lòng Thiên Chúa. Hiệp thông trọn vẹn với con người nên Người đã dùng cái chết mà giải phóng con người khỏi nô lệ sợ hãi cái chết. Và vì đã trải qua thử thách đau khổ Người có thể cứu những ai bị thử thách (năm lẻ).
Sa-mu-en phần nào giống Chúa Giêsu. Kết hợp mật thiết với Thiên Chúa nên “không để cho một lời nào của Người ra vô hiệu”. Kết hợp mật thiết với toàn dân. Ông quên bản thân mà lo cho việc dân việc nước. Ông đã sống mầu nhiệm hiệp thông (năm chẵn).
Để hiệp thông phải từ bỏ chính mình. Chúa Giê-su đã từ bỏ chính mình. Hoàn toàn sống cho Thiên Chúa. Hoàn toàn hiến mình vì nhân loại. Từ mầu nhiệm hiệp thông phát sinh nguồn ân phúc bao la cho nhân loại. Xin cho chúng ta hiểu điều này. Biết sống mầu nhiệm hiệp thông. Để thế giới được chứa chan ân sủng của Chúa.
Suy Niệm 3: Ðộng lực của việc tông đồ
Tin Mừng rất nhiều lần nhắc đến Chúa Giêsu cầu nguyện với Cha Ngài, đó là những giây phút gặp gỡ thân tình với Chúa Cha mà Ngài không bao giờ bỏ. Về phương diện thiên tính, Chúa Giêsu là Chúa Con, đồng bản tính với Chúa Cha, cho nên Ngài luôn kết hiệp với Chúa Cha. Nhưng như một con người, Chúa Giêsu đã nêu bật thái độ sống của Ngài, đó là sống mối tương quan thân tình với Chúa Cha qua lời cầu nguyện.
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô ghi nhận: "Sáng sớm, lúc trời còn tối, Chúa Giêsu đã chỗi dậy, đi đến một nơi vắng vẻ để cầu nguyện". Mặc dù bận rộn với rất nhiều công việc trong ngày, Chúa Giêsu vẫn không quên cầu nguyện. Nhưng đây không phải là lần duy nhất, Tin Mừng còn cho thấy rất nhiều lần Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha, và chính Ngài đã dạy các Tông đồ cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha. Ngài lấy hình ảnh cây nho và cành nho để nói lên tầm quan trọng của cầu nguyện: "Thầy là cây nho, các con là cành nho; ai lưu lại trong Thầy và Thầy trong người ấy, thì người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, các con không thể làm được gì".
Chúng ta hãy noi gương Chúa, dành thời giờ để tiếp xúc, đối thoại, chiêm ngưỡng Thiên Chúa, như Ngài đang hiện diện trước mặt chúng ta. Muốn đạt tới việc cầu nguyện như thế, chúng ta cần phải có đức tin mạnh mẽ và lòng yêu mến Thiên Chúa như người con đối với người cha. Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói: "Cầu nguyện là việc tiếp xúc với Thiên Chúa. Hãy bắt đầu và kết thúc mỗi ngày bằng cầu nguyện. Hãy đến với Chúa như đứa con đến với cha mình".
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa đã cho chúng ta có những giờ phút thuận lợi để bắt đầu một ngày sống tốt đẹp hơn. Xin cho chúng ta biết sống kết hiệp mật thiết với Chúa trong cầu nguyện, nhờ đó chúng ta có thể chu toàn thánh ý Chúa và phục vụ tha nhân một cách hữu hiệu hơn.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Một ngày chồng chất công việc
Chiều đến khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói vì chúng biết Người là ai (Mc. 1, 32-34)
Khi liệt kê tất cả những công việc Chúa Giêsu đã thực hiện trong hai ngày, thánh Maccô cho ta cảm tưởng là Chúa Giêsu không cà kê công việc, mà Người đã phải đầu tắt mặt tối, nào là giảng dạy ở hội đường, đi đến nhà ông bà nhạc của Phêrô, chiều đến lại dành thời giờ chữa nhiều kẻ bệnh tật. Ngày hôm sau Người thức dậy thật sớm, đi cầu nguyện ở một nơi thanh vắng, rồi lại lên đường đi rao giảng và phục vụ những người đau ốm tật nguyền.
Mô tả trên đây giúp chúng ta nhìn ra ba nét tính nơi con người Đức Giêsu.
Một con người hoạt động
Thánh Maccô cho ta thấy Chúa Giêsu mang hình ảnh khá giống với những con người nam nữ thời nay: họ bận bịu với trăm công nghìn việc, lúc nào cũng tất bật và đa đoan đủ chuyện.
Một con người biết dừng lại
Thế nhưng, dù phải đảm đang công kia việc nọ, vậy mà Chúa Giêsu vẫn có thời giờ dừng lại để làm những công chuyện quan trọng như đáp lại tình nghĩa bạn bè và cầu nguyện.
Khoảng thời giờ giữa hai lần giảng dạy cho dân chúng, Người dành cho việc đi thăm tình nghĩa và bao lâu kẻ tiếp đón còn cần đến Người thì Người không vội ra đi.
Chúa Giêsu cũng không cắt xén những thời giờ quý báu dành cho việc cầu nguyện của Người. Người thà cắt bớt giờ ngủ và có lẽ cả giờ nghỉ ngơi giải trí nữa: “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy…”.
Một con người thấy rõ việc phải làm
Đây là nét tính nổi bật nơi con người Đức Giêsu mà ta thường gặp thấy trong sách Phúc âm. Người biết rõ việc Người phải làm. Nếu đã tổ chức chuyến đi truyền giáo lần đầu tiên ở Galilê rồi thì Người lại trở về miền Samari. Nếu đã kết nạp xong mấy môn đệ, thì Người vẫn không quên “những con chiên lạc”. Người không nghỉ ngơi sau một vài thành công. Người biết rõ mình còn phải làm gì và lần lượt tới viếng thăm và giảng dạy ở các hội đường theo một lịch trình rõ rệt.
Còn một ngày của chúng ta thì sao?
Khi phác họa một ngày làm việc của ta, ngày ấy có sẽ đầy đủ công việc như ngày làm việc của Chúa Giêsu không? Ta có biết làm cho ngày đó đầy tràn hiệu quả tốt không? Ta có biết dừng chân để đáp lại tình nghĩa bạn bè, tình nghĩa với Chúa, tình nghĩa với bà con lân cận không? Và mặc dầu đã mệt mỏi rã rời và đã chu toàn bổn phận rồi, ta có dám nhìn trước ngày hôm sau để hoạch định công việc mà không ai sẽ làm thay cho ta?
Suy Niệm 5: Sống tinh thần liên đới
Chúng ta đã nghe đây đó lời của một bài hát, trong đó có đoạn: “Sống trong cuộc sống, cần có một tấm lòng”. Thật vậy, trong một xã hội ngày càng giàu có, tiện nghi sang trọng, nhiều ngôi nhà cao tầng mọc lên; điện, đường, trường, trạm được mọi người quan tâm... Tuy nhiên, về tinh thần liên đới, trách nhiệm, đạo đức... thì e rằng đang xuống cấp hơn bao giờ hết! Những chuyện vô lương tâm, tàn nhẫn, bất trung diễn ra nhan nhản đến mức báo động! Lại có những chuyện tưởng chừng chỉ trong tiểu thuyết, thì giờ đây nó lại xảy ra như cơm bữa trong đời sống hằng ngày...!
Hôm nay, bài Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu chữa bệnh cho mẹ vợ ông Simon. Mẹ vợ ông Simon được Đức Giêsu biết đến là nhờ vào sự liên đới của mọi người, họ kể cho Ngài nghe về bệnh tình của bà.
Phải chăng Đức Giêsu cần sự thông báo của người ta? hay Ngài buộc họ phải nói thì Ngài mới ra tay cứu giúp? Không! Tuy nhiên, cứ theo cảm tính tự nhiên, thì việc quan tâm này rất cần thiết vì nó thể hiện sự yêu thương, liên đới tới nhau.
Sứ điệp Lời Chúa hôn nay mời gọi mỗi chúng ta hãy sống tinh thần yêu thương, liên đới, để cho ý Chúa được thể hiện trong cuộc sống thường ngày của mình, và để cho mọi người nhận ra chúng ta là con cái của Chúa khi mỗi người sống bác ái, xây dựng tình huynh đệ trong cuộc sống thường ngày.
Lạy Chúa Giêsu, chắc chắn Chúa sẽ không vui khi chúng con sống mà chỉ biết mình. Nhưng Chúa sẽ vui biết bao khi chúng con sống liên đới với tha nhân, nhất là biết giúp đỡ những người khổ đau, nghèo đói.
Xin Chúa ban cho chúng con trái tim của Chúa để chúng con yêu với tình yêu không phân biệt. Amen.
Ngọc Biển
Suy Niệm 6: Tin tưởng đến với Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Mọi hoạt động của Chúa đều nhằm cứu độ con người khỏi sự dữ phần hồn cũng như phần xác. Ta hãy tin tưởng đến với Chúa là Đấng Cứu Độ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa hôm nay gợi lên cho con thực trạng đau khổ của cuộc sống nhân loại. Khi xưa cũng như ngày nay, loài người phải mang lấy biết bao bệnh hoạn, tật nguyền. Đặc biệt con nghĩ đến những chứng bệnh nan y mới phát sinh, đang đe dọa tính mạng của nhiều người. Con nghĩ tới những nạn nhân chiến tranh, những kẻ tàn phế. Con nhớ tới những nạn nhân tâm thần càng ngày càng nhiều. Con nhớ tới những kẻ đang sống nô lệ cho ma quỷ, tội lỗi, sự ác và bất công. Con nhớ tới những đau khổ hồn xác của mọi người trên thế giới, của những người trong gia đình con và của chính con.
Lạy Chúa, những đau khổ ấy thật là khó hiểu và dễ làm con nổi loạn. Nhưng lạy Chúa, con tin Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Trái tim Chúa đã và vẫn mãi ôm ấp và chữa lành những đau khổ của chúng con. Hằng ngày con chạy đến với Chúa trong thánh lễ. Xin Chúa cứu chúng con khỏi mọi sự dữ. Lạy Chúa, ngày nay Chúa vẫn đang hiện diện giữa chúng con và đang biểu lộ quyền năng cứu độ chúng con. Chúa đã lại gần cầm tay bà mẹ vợ ông Simon và đỡ dậy. Con tin rằng trong các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể, Chúa đang lại gần con, cầm tay và đỡ con lên. Chúa có đủ quyền năng và muôn vàn phương thế để phục hồi và tái tạo cuộc đời chúng con cả hồn lẫn xác. Xin Chúa ra tay thực hiện và xin Chúa dạy con biết góp phần xóa bớt những đau khổ của anh chị em, để họ được sống trong niềm vui và hạnh phúc. Amen.
Ghi nhớ: “Ngài chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau”.
Suy Niệm 7: Chúa Giêsu nhạc mẫu của Phêrô
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Bác sĩ Tissot là một bác sĩ rất nổi tiếng người Thuỵ Sĩ. Tissot theo đạo Tin Lành nhưng luôn tôn trọng nếp sống của người Công giáo.
Một hôm ông tới chữa bệnh cho phụ nữ ngoại quốc, bà đang sốt nặng và tỏ ra hoảng hốt cáu kỉnh. Là người Công giáo, bà đòi gặp một Lm trước rồi mới chịu để bác sĩ chích thuốc chữa bệnh. Sau khi được giải tội và xức dầu, bác sĩ Tissot thấy bệnh nhân bình tĩnh dịu dàng khác thường.
Sáng hôm sau, bác sĩ Tissot trở lại, thấy bà giảm sốt và bắt đầu bình phục. Bác sĩ Tissot thường nói chân thành như là một chứng nhân cho bí tích bệnh nhân: “Nhiều bệnh nhân Công giáo đã lành bệnh nhờ bí tích xức dầu”.
Trong Đức tin Công giáo, bí tích xức dầu trợ giúp người tín hữu trong cơn đau yếu, giúp họ không nao núng trước thử thách bệnh tật cả về thể xác lẫn tinh thần. Người được lãnh bí tích thánh này được giữ vững lòng trung thành với niềm tin. Bí tích xức dầu như là bàn tay của Thiên Chúa thể hiện tình thương của Ngài chăm sóc trên bệnh nhân. Hình ảnh bí tích xức dầu chăm sóc, chữa lành bệnh nhân đưa chúng ta đến hình ảnh Chúa Giêsu đặt tay trên bà nhạc mẫu của Phêrô, bà liền được bình phục.
Suy niệm
Đức Giêsu đã “cầm tay” nhạc mẫu của Phêrô đang cơn bệnh và làm cho bà trỗi dậy. Người cũng đưa tay ra chữa lành tất cả bệnh tật, đau khổ nơi chúng ta như Ngài đã làm cho những kẻ tin được đưa đến bên Ngài (x. Mc 1,29-39).
Trong sự đau khổ bệnh tật của con người, Chúa Giêsu luôn luôn mang trong chính thân thể Ngài những đau khổ của nhân loại qua mọi thời đại. Ngài chăm sóc và chữa lành họ qua các bí tích, chính Ngài đi vào trung tâm lịch sử cứu độ mang tất cả đau thương trong thân xác Ngài trên thập tự để mọi đau thương được chữa lành như Phêrô đã tuyên tín: “Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành” (1Pr 2,24).
Ngài vẫn ở với nhân loại và đưa cánh tay cứu chữa cho những người tin. Tác giả F. Deleclos suy niệm về hình ảnh bà nhạc mẫu của Phêrô được chữa lành trong tương quan với chúng ta trong thế giới hôm nay: “Là những kẻ tội lỗi, chúng ta được quy tụ bởi đức tin, làm nên cộng đoàn Hội Thánh tìm kiếm Đức Kitô và kêu cầu Người. Giống như bà mẹ vợ của ông Phêrô, chúng ta bị nằm liệt giường và lên cơn sốt, chẳng được vui hưởng cuộc sống đích thực” (F. Deleclos, Prends ét mang La Parole, Centurion – Duculot tr. 137-138). Ngài đến và mang niềm vui được chữa lành cho chúng ta và như nhạc mẫu của Phêrô, được chữa lành, đứng lên tiến bước với niềm vui phục vụ.
Chúng ta hãy để Chúa Giêsu đụng vào trái tim nhỏ bé của mình, dù nhỏ bé nhưng vương vấn tội lỗi, để chúng ta được thanh sạch như Lời Chúa trong sách ngôn sứ Êdêkien nói: “Ta sẽ rảy nước thanh sạch trên các ngươi và các ngươi sẽ được thanh sạch, các ngươi sẽ được sạch mọi ô uế và mọi tà thần. Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi” (Ed 36,25-26).
Tất cả những yếu đuối, lo âu, bệnh tật, khiếm khuyết tâm thể lý được chữa lành. Ước chi Ngài cũng vào nhà tâm hồn của tôi, nhà tâm hồn bạn và “nâng chúng ta dậy” để chúng ta không nằm bất toàn trong sự yếu đuối, mất sức lực trong sự dữ, trong cơn u mê tội lỗi… Nhưng nhờ Ngài, chúng ta “đứng lên” như Chúa Giêsu muốn những người chạy đến với Ngài trong cơn đau bệnh.
Ý lực sống: “Người chữa trị bao cõi lòng tan vỡ, những vết thương, băng bó cho lành” (Tv 147,3).
Suy Niệm 8: Làm việc và cầu nguyện
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Một ngày ở Capharnaum, Chúa Giêsu bận bịu với biết bao nhiêu công việc. Ngài giảng dạy trong hội đường, chữa mẹ vợ ông Simon khỏi cơn sốt nặng; chiều đến, Ngài lại chữa mọi người bệnh tật được người ta mang tới. Được thúc đẩy vì tình yêu Cha và yêu con người, Chúa Giêsu tất bật với sứ vụ được trao phó. Ngài con dành thời giờ cầu nguyện vào ban sáng sớm trước khi bắt đầu một ngày mới. Ngài vẫn còn thao thức bồn chồn cho đến khi sứ vụ được hoàn tất.
2. Nhìn lại một ngày làm việc của Chúa Giêsu, ta thấy Ngài rất bận rộn: giảng ở hội đường; giảng xong, chữa một người bị quỉ ám; rời hội đường, Ngài đi chữa bệnh cho nhạc mẫu của ông Simon Phêrô. Chiều đến chưa kịp nghỉ ngơi, người ta lại đem các bệnh nhân tới và Ngài lại cứu chữa họ. Sáng sớm hôm sau khi trời còn tối mịt, Ngài đã thức dậy sớm đi đến một nơi hoang vắng để cầu nguyện, và bắt đầu một ngày mới. Dù rất bận rộn, nhưng Chúa Giêsu vẫn dành thời giờ để cầu nguyện. Dù bị đám đông ồn ào bao vây suốt ngày, Chúa Giêsu cũng có cách tìm nơi yên tĩnh để cầu nguyện.
3. Chúa yêu thương, nâng đỡ và thông cảm với con người, nhất là những con người đang gặp đau khổ. Ngài đến thăm nhà, chữa bệnh cho người ta cũng là cách làm cho người ta được hạnh phúc vì vừa được chữa khỏi bệnh, vừa có dịp được giãi bầu tâm sự.
Người ta kể: Vị linh mục dừng lại ghé thăm một gia đình nghèo ở Kentucky. Vừa khi linh mục chào bà mẹ, bà ứa nước mắt kêu lên:”Ôi thưa cha, con vừa được biết cha đến thăm hôm nay. Con tin cha có thể giúp con”. Bà dốc hết bầu tâm sự, bao lo âu, bao rắc rối. Thỉnh thoảng vị linh mục chen vào một vài lời khích lệ, nhưng ngài cảm thấy hoàn toàn bất lực trước nỗi khổ tâm của bà. Kể xong, bà ngưng một lát rồi kêu lên:”Ôi thưa cha, cha giúp con nhiều quá. Cha đã giải quyết cho con mọi vấn đề”. Vị linh mục bối rối, ngài chẳng giải quyết được vần đề nào cả. Rồi ngài bắt đầu hiểu ra: bà chỉ cần mong được thông cảm.
4. Chúa Giêsu là thầy dạy của sự cầu nguyện.
Chúng ta không muốn định nghĩa sự cầu nguyện như các nhà tu đức học mà chỉ nói đơn sơ như thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã nói:”Con đã ở như một đứa trẻ không biết chữ: con cứ đơn sơ thật thà than thở cùng Chúa những điều con ước muốn, bao giờ con cũng được Chúa hiểu thấu tình”.
Cầu nguyện có thể ví như tình yêu. Chúng ta không thể học yêu qua sách vở được. Phải có phần thực hành. Cầu nguyện ví như học bơi lội, muốn biết bơi thì phải nhảyxuống nước, không thể vừa khô ráo trên bờ lại biết bơi. Cầu nguyện cũng như học gia chánh, muốn thực tập làm các món ăn thì phải lăn vào bếp. Cầu nguyện cũng giống như việc chăm sóc mảnh vườn, muốn có hoa đẹp thì phải trồng, phải vun xới, phải có nắng, phải tưới nước và phải chăm làm cỏ. Cầu nguyện không phải là một đề tài để bàn luận, nhưng là một thực tại để sống. Chúa Kitô là thầy dạy chúng ta, và tất cả chúng ta đều là học trò trong “lớp cầu nguyện”. Muốn có một đời sống sung mãn trong Chúa Kitô, chúng ta phải cầu nguyện (Thanh Thủy, Con đường tình yêu, tr 197).
5. Chiêm ngắm một ngày sống của Chúa, chúng ta được mời gọi sống như Ngài. Cuộc sống người Kitô hữu không thể chỉ có những khoảnh khắc dành cho Chúa trong Thánh lễ hay kinh nguyện, mà còn phải trải dài qua những sinh hoạt và gặp gỡ hằng ngày trong cuộc sống. Người Kitô hữu phải biết thống nhất đời sống bằng cách biến những giây phút hoạt động thành một cuộc gặp gỡ thân tình với Chúa.
Thường người ta quan niệm rằng làm việc và cầu nguyện là hai việc khác nhau, có khi đối chọi nhau. Thực ra, với lòng yêu mến, chúng ta có thể biến tất cả công việc làm của chúng ta thành kinh nguyện. Như thế, suốt ngày làm việc của chúng ta là một lời kinh nguyện dâng lên Chúa. Cần nhất ban sáng khi thức dậy, chúng ta đã dâng lên Chúa mọi công việc trong ngày, thì mọi việc trong một ngày có thể trở thành kinh nguyện liên miên.
6. Truyện: Cầu nguyện và làm việc.
Một ông cụ già dẫn một thanh niên xuống thuyền của mình. Thuyền này có hai mái chèo đề chữ “cầu nguyện”, một chiếc khác có đề hai chữ “làm việc”.
Người thanh niên nói kháy cụ già:
- Ông cụ ơi, chèo thế này chậm lắm. Người đã làm việc thì không cần cầu nguyện nữa (có ý nói: chỉ cần chèo một chiếc chèo có chữ “làm việc” thôi).
Ông cụ không nói gì, chỉ buông chiếc chèo có hai chữ “cầu nguyện” ra thôi, rồi cứ chèo chèo một chiếc có hai chữ “làm việc” kia.
Ông cụ cứ cố sức chèo nhưng thuyền không đi được bước nào, chỉ quay tròn đi thôi.
Thấy thế người thanh niên kia mới hiểu rằng, ngoài chiếc chèo làm việc ra, còn cần phải có chiếc chèo cầu nguyện nữa, thuyền mới đi được.
Suy Niệm 9: Một ngày của Chúa Giêsu ở Capharnaum
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống...)
Chuyện này cũng diễn ra trong khung cảnh một ngày ở Capharnaum và tiếp liền chuyện hôm qua. Sau khi làm một cuộc trừ tà ở Hội đường, Chúa Giêsu đi chữa bệnh cho nhạc mẫu của Simon. Chúa Giêsu không nói lời nào, chỉ làm một cử chỉ nhỏ là đến gần cầm tay bà nâng dậy. Việc khỏi bệnh xảy ra tức thì. Bà hết bệnh và lo tiếp đãi các ngài.
Người Do thái quen coi bệnh tật là do ma quỷ gây nên. Đặc biệt bệnh sốt là dấu chỉ Thiên Chúa trừng phạt tội bất trung (x. Lv 26,15-16 Đnl 28,22). Vì người ta coi bệnh này là do ma quỷ gây nên, do đó việc Chúa Giêsu cứu chữa bệnh này cũng là một việc trừ tà (Lc 4,39), cho thấy Chúa Giêsu là Đấng đến giải thoát con người khỏi xiềng xích của sự dữ và sự chết.
Kết thúc một ngày làm việc: "Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Ngài đã dậy, đi ra một nơi hoàng vắng và cầu nguyện".
B. Suy niệm (...nẩy mầm)
1. Nhìn lại một ngày làm việc của Chúa Giêsu, ta thấy Ngài rất bận: giảng ở Hội đường (câu 21); giảng xong, chữa một người bị quỷ ám (cc 23-28); rời hội đường, Ngài đi chữa bệnh cho nhạc mẫu của Simon Phêrô (cc 29-32); chiều đến chưa kịp nghỉ ngơi người ta lại đem các bệnh nhân tới và Ngài lại cứu chữa (cc 32-34); Sáng sớm hôm sau khi trời còn tối mịt, Ngài thức dậy sớm đi đến một nơi hoàng vắng để cầu nguyện (c 35), và bắt đầu một ngày mới cũng rất bận rộn. Dù rất bận rộn, nhưng Chúa Giêsu vẫn dành thời giờ đề cầu nguyện; dù bị đám đông ồn ào bao vây suốt ngày, Chúa Giêsu vẫn có cách tìm nơi yên tĩnh để cầu nguyện.
2. Nhìn lại cuộc sống đã qua, một nhà hiền triết thú nhận: Lúc thiếu thời tôi là một kẻ hiếu động. Trong sự hăng hái của tuổi trẻ, tôi thường xin Chúa cho tôi sức mạnh biến đổi thế giới này nên tốt hơn. Khi được nửa đời người, tôi ý thức mình chưa làm gì được cả, chưa thay đổi được bất cứ người nào, tôi liền đổi lại lời cầu nguyện cho thiết thực hơn: Lạy Chúa, giờ đây con chỉ xin Chúa cho con khả năng thay đổi cuộc sống của những người con tiếp xúc hằng ngày thôi". Nhưng rồi khi tuổi đời sắp hết, tôi thấy rằng mình quá cao vọng và ảo tưởng, tôi lại thay đổi lời cầu nguyện như sau: "Lạy Chúa, xin ban cho con ơn thay đổi chính đời sống của con". Nếu từ tuổi thanh xuân tôi đã cầu nguyện như thế thì có lẻ tôi không phải hối tiếc vì đã sống một cuộc đời vô ích" (Trích "Mỗi ngày một tin vui")
3. "Chúa Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ. Nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai" (Mc 1,34)
"Tại sao Con Thiên Chúa không muốn làm vua Do thái hở mẹ ? Những điều kỳ diệu của Người khiến con kinh ngạc. Chỉ cần một hơi thở của Người đủ huỷ diệt sức mạnh của Rôma. Thế mà Người lại từ chối sự trợ giúp của các binh đoàn, khiến bao gian lao khó nhọc đã trở thành vô ích ? Chúng ta lại phải rên siết dưới sự bảo hộ của Rôma và để vũ khí mà ta khổ công đúc rèn phải rỉ sét ư ?"
Ben Hur đã thốt lên lời ấy trong thất vọng, chán chường. Anh cũng như những người do thái khác đã thất vọng về Con Thiên Chúa. Họ chờ đợi Đấng Messia như một người có thể đem lại cho họ phồn vinh và công lý trong trần thế. Họ chỉ muốn thấy vinh quang Thiên Chúa trừng phạt đế quốc Lamã.
Phải chăng vì thế mà Chúa Giêsu không cho quỷ nói Người là ai ? Con đường cứu độ không dẫn Người đến ngai vàng và vương miện trần gian. Người đến để mặc khải tình yêu của Cha, và để mặc khải được trọn vẹn, Người đã chết thay cho mọi người, những kẻ đã dửng dưng để cho máu của Người đổ trên đầu mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, giờ đây công cuộc cứu chuộc của Người đã hoàn tất. Xin cho con luôn biết đón nhận con đường của Người, con đường đưa đến sự sống đời đời. (Epphata)
Suy Niệm 10: Một ngày làm việc và cầu nguyện của Chúa Giêsu
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
1. Nhìn lại một ngày làm việc của Chúa Giêsu, ta thấy Ngài rất bận: giảng ở Hội đường (câu 21) ; giảng xong, chữa một người bị quỷ ám (cc 23-28); rời hội đường, Ngài đi chữa bệnh cho nhạc mẫu của Simon Phêrô (cc 29-32) ; chiều đến chưa kịp nghỉ ngơi người ta lại đem các bệnh nhân tới và Ngài lại cứu chữa (cc 32-34) ; Sáng sớm hôm sau khi trời còn tối mịt, Ngài thức dậy sớm đi đến một nơi hoang vắng để cầu nguyện (c 35), rồi lại bắt đầu một ngày mới cũng hết sức bận rộn. Dù rất bận rộn, nhưng Chúa Giêsu vẫn dành thời giờ để cầu nguyện; dù bị đám đông ồn ào bao vây suốt ngày, Chúa Giêsu vẫn có cách tìm nơi yên tĩnh để cầu nguyện. Tại sao Chúa làm thế ? Thưa vì cầu nguyện là việc hết sức cần thiết.
Hôm ấy chàng sinh viên Ozanam, bước vào một nhà thờ cổ ở thủ đô Paris để tìm một chút thanh thản cho tâm hồn. Đứng ở cuối nhà thờ nhìn lên, anh thấy một bóng đen đang quì cầu nguyên nơi hàng ghế đầu.
Đến gần, Ozanam mới nhận ra đó chính là nhà bác học André Marie Ampère (1775-1836). Chàng sinh viên không ngừng theo dõi cử chỉ cầu nguyện của vị giáo sư vật lý và hóa học nói trên. Khi ông đứng dậy ra về, chàng liền đi theo cho tới phòng làm việc của ông. Thấy chàng thanh niên đứng trước cửa phòng dáng vẻ rụt rè, giáo sư Ampère liền cất tiếng hỏi
- Này, người bạn trẻ, anh cần gì đó ? Tôi có thể giúp anh giải bài toàn vật lý nào không ?
Chàng sinh viên nhỏ nhẹ trả lời:
- Thưa giáo sư, con là một sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm, xin giáo sư cho phép con được hỏi một chút về vấn đề đức tin mà thôi.
Giáo sư Ampère khiêm tốn đáp lại:
- Đức tin là môn yếu nhất của tôi. Nhưng nếu được giúp ích cho anh về điều gì, tôi sẽ lấy làm hân hạnh.
Chàng sinh viên lại hỏi:
- Thưa giáo sư, người ta có thể vừa là nhà bác học vĩ đại vừa là một tín hữu cầu nguyên bình thường được chăng ?
Giáo sư Ampère ngỡ ngàng trước câu hỏi vừa nêu. Với cặp môi run rẩy đầy cảm xúc, ông trả lời:
- Chúng ta chỉ vĩ đại khi cầu nguyện mà thôi!
2. Tác giả cuốn “Đường Hy Vọng” viết: “Hoạt động không cầu nguyện là vô ích trước mặt Chúa” (ĐHV 118).
Có lẽ chúng ta sẽ không tìm ra được mẫu gương nào, về việc liên kết giữa cầu nguyện và hoạt động hoàn hảo hơn là mẫu gương Giêsu.
Thánh sử Marcô đã cho biết: “Chiều đến, lúc mặt trời lặn, người ta dẫn đến cho Người, tất cả những bệnh nhân, những người bị quỉ ám... Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều ma quỉ” (Mc 1,32-35). Chúa rất bận rộn. Chính Chúa đã quả quyết: “Cha Ta và Ta hằng làm việc luôn” (Ga.5,17). Thế nhưng, không bao giờ vì công việc mà Chúa Giêsu đã bỏ qua việc cầu nguyện.
“Từ sáng sớm tinh sương, Chúa Giêsu đã chỗi dậy, ra khỏi nhà, tìm đến nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó” (Mc 1,35).
Chúa Giêsu đã thực sự hoà nhập hai việc cầu nguyện và hoạt động trong đời sống của Ngài. Với hồn tông đồ đầy nhiệt huyết này, Chúa Giêsu đã hoàn thành sứ mệnh và hoạt động cho Nước Trời Chúa Cha trao phó cho Ngài.
Còn chúng ta thì sao ? Chúng ta đã dành bao nhiêu thời giờ trong ngày cho việc cầu nguyện ? Đời sống hạnh phúc thực sự của chúng ta ở đâu ? Nhờ Lời Chúa, nhờ sự khát khao đời sống tâm linh, hay nhờ sự cuốn hút của tiền bạc và danh lợi ?
Một linh mục kia muốn làm một cuộc thống kê về tình hình của xứ đạo, ngài hỏi gia đình kia một câu hỏi thường lệ:
- Các con có thường cầu nguyện chung cả gia đình không ?
Ông gia trưởng trả lời:
- Thưa cha, chúng con không có thời giờ.
- Giả như con biết một đứa con sẽ bị bệnh nếu không cầu nguyện, gia đình con có cầu nguyện không ?
- Ồ con đoán chúng con sẽ cầu nguyện.
- Giả sử con biết ngày nào đó khi gia đình lơ là việc cầu nguyện, một đứa con sẽ gặp tai nạn. Con có cùng cầu nguyện không ?
- Tất nhiên chúng con sẽ cầu nguyện.
- Giả sử mỗi ngày con quên cầu nguyện, giáo luật phạt 5 đô la. Con có dám sao lãng việc cầu nguyện không ?
- Chắc chúng con sẽ cầu nguyện. Nhưng cha hỏi như thế để làm gì ?
- Vấn đề của con là không có thời giờ. Con có thể tìm được thời giờ. Con không nghĩ cầu nguyện chung gia đình là quan trọng như nộp phạt hay giữ sức khỏe cho con. Ơn Chúa ban qua lời cầu nguyện quan trọng hơn bất cứ những gì con có thể nghĩ tới.
Bao nhiêu tấm gương của biết bao nhiêu người vẫn còn đó. Bỏ đạo, bỏ Chúa! Người ta nại ra đủ mọi thứ lý do để lý giải cho những hành vi xuống dốc về đời sống tâm linh đạo đức của mình. Nào là bận công ăn việc làm, nào là không có giờ v.v và v.v. Thế nhưng, thử hỏi, kết cục cuộc đời rồi sẽ đi về đâu?
11/01 Công việc của Chúa Giêsu.
- Viết bởi Mc 1, 21-28
Công việc của Chúa Giêsu.
Thứ Ba tuần 1 thường niên.
"Ngài giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền".
LỜI CHÚA: Mc 1, 21-28
(Ðến thành Capharnaum), ngày nghỉ lễ, Chúa Giêsu vào giảng dạy trong hội đường. Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền, chứ không như các luật sĩ.
Ðang lúc đó, trong hội đường có một người bị thần ô uế ám, nên thét lên rằng: "Hỡi Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai: là Ðấng Thánh của Thiên Chúa". Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: "Hãy im đi, và ra khỏi người này!" Thần ô uế liền dằn vật người ấy, thét lên một tiếng lớn, rồi xuất khỏi người ấy.
Mọi người kinh ngạc hỏi nhau rằng: "Cái chi vậy? Ðây là một giáo lý mới ư? Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả các thần ô uế, và chúng vâng lệnh Người".
Danh tiếng Người liền đồn ra khắp mọi nơi, và lan tràn khắp vùng lân cận xứ Galilêa.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Đấng thánh của Thiên Chúa
(Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
Trong Tin Mừng theo thánh Máccô,
ta không thấy có những bài giảng dài như Tin Mừng Mátthêu hay Gioan.
Nhưng bù lại Máccô đã kể khá nhiều phép lạ của Đức Giêsu.
Khung cảnh của bài Tin Mừng hôm nay
là hội đường vùng Caphácnaum vào một ngày sabát.
Theo Máccô, Đức Giêsu đã bắt đầu sứ vụ từ đây.
Chúng ta cần xem Ngài đã sống ngày sabát như thế nào.
Trước hết Ngài đã vào hội đường và giảng dạy.
Thánh Máccô không kể lại nội dung của bài giảng,
chỉ cho biết là người ta sửng sốt khi nghe Ngài
vì cách giảng đầy uy quyền (c. 22) và lời giảng thì mới mẻ (c.27).
Phép lạ đầu tiên Đức Giêsu làm ở hội đường này là trừ quỷ.
Ở đây có một người đàn ông bị thần ô uế ám.
Trước sự hiện diện của Đức Giêsu, anh ta sợ hãi nên kêu lên:
“Ông Giêsu Nadarét, ông đến tiêu diệt chúng tôi ư?
Tôi biết ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (x. câu 24).
Sự hiện diện của Đấng Thánh cũng đủ làm cho thần ô uế phải khiếp sợ,
vì ô uế và thánh thiện không đội trời chung.
và Đấng thánh thiện có khả năng triệt phá thần ô uế.
Lời của Đức Giêsu bây giờ là lời trừ quỷ, lời quát mắng,
lời ra lệnh đầy uy quyền, lời khiến thần ô uế phải tuân theo.
“Câm đi, hãy xuất khỏi người này !”
Thần ô uế đã nhập vào và làm người ấy bị tha hóa,
bị mất tự do, bị chi phối và sai khiến như một nô lệ.
Lời Đức Giêsu là lời giải phóng để anh ấy được thật sự là mình,
được giải thoát khỏi tình trạng ô uế.
Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới bị ô nhiễm,
từ không khí, nước uống đến những sản phẩm nhiễm độc của con người.
Nhưng điều đáng sợ hơn cả là bầu khí ô nhiễm về tinh thần,
bầu khí ô uế của sex thấm vào mọi ngõ ngách của cuộc sống.
Xin Đức Giêsu trả lại cho ta sự trong sạch nơi cái nhìn,
sự trong trắng nơi trái tim và sự trong suốt nơi mọi cuộc gặp gỡ.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
giàu sang, danh vọng, khoái lạc
là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
và không cho chúng con tự do ngước lên cao
để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con
khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
nhờ cảm nghiệm được phần nào
sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
bán tất cả những gì chúng con có,
để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
trước những lời mời gọi của Chúa,
không bao giờ ngoảnh mặt
để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.
Suy Niệm 2: Uy quyền của Chúa Giêsu
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thiên Chúa toàn năng uy quyền phép tắc. Đó là điều dễ hiểu và dễ tin nhận. “Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời. Một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú”(Tv 33, 6). Cho người trinh nữ sinh con. Cho người son sẻ như bà Anna được có người con xuất sắc là Samuel. Chúa có thể làm được mọi sự. Nhưng với Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người thì khác. Chúa Giêsu tuy là người nhưng gây ngạc nhiên vì Người rao giảng như Đấng có uy quyền.
Uy quyền trong lời nói. Người đưa ra một giáo lý mới mẻ. Người nói xác quyết. Vì Người biết rõ mọi sự. Vì Người từ trời xuống nên biết rõ những sự trên trời. Vì Người từ Chúa Cha mà ra nên chỉ có Người biết Đức Chúa Cha. Hơn nữa Đức Chúa Cha đã trao cho Người nhiệm vụ làm người lãnh đạo thập toàn, đưa muôn vàn con cái đến vinh quang. Thày cả Hêli cũng có uy quyền trong lời nói. Vì thầy nói lời của Thiên Chúa. Thầy truyền đạt sứ điệp của Thiên Chúa khiến bà Anna đang lo buồn được bình an. Tuy nhiên thầy không có uy quyền trong việc làm vì thầy không thể tự mình làm được những điều kỳ diệu.
Chúa Giêsu không chỉ uy quyền trong lời nói mà còn uy quyền trong việc làm. Không chỉ nói mà còn làm. Những việc làm chưa từng có trong thế giới loài người. Chữa bệnh đã khó nhưng còn thấy được. Phục sinh kẻ chết thì tuyệt nhiên ngoài khả năng của con người kể cả những danh y tài ba lỗi lạc nhất. Nhưng Người còn thống trị được ma quỉ. Đây là điều hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Chúa Giêsu có toàn quyền chế ngự được thiên nhiên, vũ trụ, con người và cả ma quỉ cũng phải vâng phục.
Tuy nhiên uy quyền Người chỉ đạt tới mức thập toàn sau khi đã trải qua đau khổ và nhất là trải qua cái chết. Đó chính là để cảm thông với nhân loại. Và nhất là để chiến thắng quyền lực cuối cùng của ma quỉ là cái chết. Từ đó mở ra nguồn ơn cứu độ cho con người. Mở cho con người con đường dẫn đến Thiên Chúa.
Vì thế uy quyền lớn lao nhất của Chúa Giêsu đó là uy quyền thương yêu. Vì thương yêu nên dám hi sinh mạng sống mình. Vì dám chết nên khuất phục được thần chết. Vì thế uy quyền của Chúa Giêsu chính là sự sống cho nhân loại.
Xin cho chúng ta biết đi theo người trên đường thương yêu. Hoàn toàn tin tưởng nơi tình yêu thương của Người. Theo Người trên con đường hi sinh. Đó chính là con đường sự sống.
Suy Niệm 3: Ðấng có uy quyền
Tin Mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu giảng dạy tại hội đường và chữa lành một người bị quỷ ám.
Sau khi Gioan Tẩy Giả bị bắt giam, Chúa Giêsu trở về Galilê và giảng dạy trong Hội đường một cách công khai. Ngài giảng dạy với uy quyền của Thiên Chúa, chứ không như các Tiên tri trong Cựu Ước là những người được Thiên Chúa ủy thác cho; Ngài cũng không giảng dạy như các kinh sư Do thái là những người chỉ giải thích Kinh thánh và chất lên vai người dân gánh nặng của những luật lệ tỉ mỉ bên ngoài. Giáo huấn của Chúa Giêsu là một cuộc giải phóng, một việc loan Tin Mừng cứu rồi, cách riêng cho những người nghèo khổ, những người bị loại ra bên lề xã hội. Dân chúng nghe Chúa đều nhận thấy có sự khác biệt sâu xa giữa giáolý của Chúa và những lời giảng dạy của các kinh sư Do thái.
Kèm theo lời giảng dạy, Chúa Giêsu còn làm một phép lạ chữa một người bị quỷ ám. Phép lạ này chứng minh Ngài là Thiên Chúa, Ngài có toàn quyền trên quỷ dữ, Ngài đến để chấm dứt quyền thống trị của tà thần trên con người. "Ông ấy ra lệnh cho các thần ô uế và chúng phải vâng theo". Phép lạ Chúa Giêsu thực hiện gây hứng thú và kinh ngạc nơi dân chúng; trái lại, những kẻ chống đối Chúa thì hạch sách Ngài: "Ông lấy quyền nào mà làm như vậy?" Họ không muốn công nhận những việc Chúa làm, họ mơ ước một Vị Cứu Tinh hùng mạnh giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma, trong khi đó Chúa Giêsu lại đến để giải phóng con người khỏi quyền lực của ma quỷ và tội lỗi.
Thánh Phêrô đã mời gọi các người đồng hương của ngài: "Thưa đồng bào Israel, xin hãy lắng nghe Chúa Giêsu Nazaret, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ mệnh của Ngài, Thiên Chúa đã cho Ngài làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em như chính anh em đã biết điều đó".
Nguyện cho Lời Chúa hôm nay củng cố niềm xác tín rằng sứ mệnh cứu thế phát xuất từ nơi Chúa và vẫn tiếp tục trong Giáo Hội. Giáo Hội đã lãnh nhận kho tàng đức tin và quyền thánh hóa và giáo huấn từ nơi Chúa. Xin cho chúng ta luôn trung thành với Giáo Hội và sẵn sàng đón nhận giáo huấn của các chủ chăn mà Chúa đã đặt lên hướng dẫn Dân Chúa trên đường tiến về Nước Trời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Trong đám cử tọa
Lập tức trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên rằng: “Ông Giêsu Nagiarét, chuyện chúng tôi có can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” Nhưng Đức Giêsu quát mắng nó: “Câm đi hãy xuất khỏi người này!” Thần ô uế lay mạnh người ấy, thét lên một tiếng, và xuất khỏi anh ta (Mc. 1, 23-26).
Ngày nay đâu đâu người ta cũng nghe vang lên những lời quảng cáo rùm beng cao rao cho thông điệp của mình. Và quảng cáo nào thì cũng tìm cách nói hay nói tốt cho mình là muốn phục vụ hạnh phúc mọi người. Nghe rồi, có những cái thu phục được lòng tin tưởng của ta, có những cái lại khiến ta ngờ vực. Nhưng là tín hữu xét cho cùng, chúng ta có Lời Chúa trong Phúc âm làm kim chỉ nam, và ta coi đó là chuẩn mực để đo lường phải trái, thực hư. Ta nhìn nhận rằng Lời Chúa là chân lý và uy quyền. Thế nên mỗi ngày ta tụ họp nhau để siêng năng và chăm chú lắng nghe Lời Chúa. Nhưng…
Vấn đề ai là kẻ chân chính đích thực
Trong đám cử tọa, có một người đã biết rõ Chúa Giêsu là ai: “Tôi biết ông là ai rồi”. Anh ta biết rõ Chúa Giêsu là người có uy quyền và ảnh hưởng: “Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Nhưng cách anh tuyên xưng lại sai lạc; anh biết rõ Người, nhưng anh không phục tùng Người. Anh bài xích, anh đối đầu với Người: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi?”
Con người Giêsu này luôn đặt ra vấn đề ai là kẻ chân chính đích thực, và nhất là Người thường đặt ra cho chúng tôi mỗi khi chúng tôi tuyên xưng Thiên Chúa là đấng thánh, mỗi khi chúng tôi hát bài ca Thánh, Thánh, Thánh. Giờ đây chúng ta cũng đang là người trong đám cử tọa … Liệu Chúa sẽ bảo ta câm đi hay sẽ chấp nhận lời ta ca tụng Người?
Những đòi hỏi của sự thánh thiện
Khi Mô-sê được Thiên Chúa tỏ cho ông biết sự thánh thiện của Người, tác giả sách Xuất Hành ghi nhận như sau: “Mô-sê lấy khăn che mặt, vì ông không dám nhìn Chúa” (Xh. 3, 6). Còn tác giả Thánh vịnh khi đặt câu hỏi: “Lạy Chúa, ai sẽ được cư ngụ nơi nhà Chúa?”, liền trả lời rằng: “Chính là người sống thanh liêm và thực thi công chính, và trong lòng suy nghĩ điều ngay… Người không làm ác hại đồng liêu, cũng không làm nhục cho ai lân cận …” (Tv. 15).
Bởi thế ta không thể đến với Thiên Chúa thánh thiện, nếu như ta không tỏ lòng thần phục và kính sợ Người, hay những hành động của ta không được ngay thẳng.
Chúa Giêsu nghĩ gì về lời kinh ca ngợi của tôi?
Nếu Chúa Giêsu có bảo người bị quỷ ám ấy câm đi, thì không phải vì những lời anh ta nói có chi sai lạc, mà bởi vì những lời nói ấy không đi đôi với tâm tình của anh. Ta không thể mở miệng cao rao Thiên Chúa thánh thiện, mà lại là kẻ bài xích Người, hoặc ca bài Thánh Thánh Thánh mà lại chẳng thần phục suy tôn Người. Cũng không thể lấy câu hỏi này: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can chi đến ông?”, mà thay thế cho lời kinh Lạy Cha ta vẫn thường đọc: “Nguyện cho ý Cha thể hiện”.
Suy Niệm 5: Giá trị của Lời Chúa
Ngày nay, rất nhiều người ham mê đọc sách, nào là sách: kiếm hiệp, truyện tranh, tiểu thuyết, nấu ăn, xã giao... lại có những người thích đọc báo, hết báo này rồi lại đến báo khác, cũng có nhiều người mê xem phim ảnh, lướt web...
Họ thi nhau kể thao thao bất tuyệt những câu chuyện ly kỳ, hấp dẫn “rất new”; và “hot” mới đọc được đây đó.
Thế nhưng, Lời Chúa là lời Hằng Sống, lời Quyền Năng, lời Biến Đổi thì lại chẳng mấy người để ý tới... Hoặc có để ý thì cũng chẳng mấy chốc Lời Chúa đã đi vào dĩ vãng vì họ không yêu mến và giữ Lời Chúa trong lòng.
Phải chăng chúng ta cũng không khác gì những người đương thời với Đức Giêsu, họ thấy những việc Chúa làm, Lời Chúa nói có uy lực, quyền năng thì trầm trồ khen ngợi, nhưng khi bảo hãy thi hành những gì Chúa dạy thì họ viện đủ mọi lý chứng để khước từ.
Mong sao, mỗi người chúng ta hãy yêu mến Lời Chúa, năng đọc và suy niệm Lời Chúa, hầu đem ra thực hành trong cuộc sống. Có thế, chúng ta mới thực sự là người tin và đi theo Chúa, nếu không, chúng ta chẳng khác gì xác không hồn, hay tin và theo Chúa trong sổ Rửa Tội, còn trong thực tế thì không có chất Kitô gì cả!
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết được giá trị của Lời Chúa, nhất là biết đón nhận Lời Chúa như lương thực cho linh hồn, để chúng con có đủ sức chống trả trước cám dỗ của Ma Quỷ. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Uy quyền của Chúa Giêsu trên quỷ ma
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu đến tiêu diệt quyền lực của ma quỷ. Con người chỉ có thể thoát khỏi sự ràng buộc của nó khi biết chạy đến với Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, với cái nhìn của Chúa, chắc chắn Chúa thấy không phải chỉ có một số ít người bị ma quỷ chế ngự, nhưng là toàn thể loài người, mỗi người một cách, đang bị ma quỷ quấy phá hoặc chế ngự. Từ khi Chúa dựng nên loài người, chẳng bao giờ ma quỷ buông tha chúng con. Nhân loại càng văn minh, ma quỷ lại càng núp dưới những bộ mặt mới lạ hấp dẫn, con người lại càng dễ bị ma quỷ chế ngự. Ảnh hưởng của nó rộng và sâu.
Nhưng lạy Chúa, Chúa là Đấng Thánh và là Con Thiên Chúa. Chúa đã đến tiêu diệt quyền lực ma quỷ và thiết lập triều đại của Thiên Chúa. Quyền năng Chúa đã chiến thắng ma quỷ. Con tin vào Chúa và chạy đến kêu cầu xin Chúa thương cứu con.
Đã nhiều lần ma quỷ chế ngự xác hồn con, đã nhiều lần con quằn quại trong đau khổ vì tội lỗi, đã nhiều lần con muốn chỗi dậy và thoát khỏi sự ràng buộc của nó, nhưng lạy Chúa, con bất lực. Xin Chúa thương nâng đỡ và giải thoát con. Xin Chúa ban ơn thúc đẩy con chạy đến với bí tích Giao Hòa để con tìm lại được sự tự do của con cái Thiên Chúa. Mỗi lần con đến với Chúa trong bí tích Thánh Thể, xin Chúa ở lại với con và ban sức mạnh cho con, để nhờ Chúa, con chiến thắng ma quỷ và tội lỗi. Xin cho con biết tiếp tay với Chúa để đẩy lùi ảnh hưởng của ma quỷ ra khỏi thế giới hôm nay. Amen.
Ghi nhớ: “Ngài giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền”.
Suy Niệm 7: Chúa Giêsu giảng dạy với uy quyền đến từ Thiên Chúa
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một vị Lm nổi tiếng và thánh thiện đã chia sẻ một sự việc mà chính ngài đã gặp và trực tiếp giải quyết: Một anh thanh niên khoảng 30 tuổi, anh hãnh diện mình là cháu một Đức cha, và tự hào bản thân có nhiều khả năng đặc biệt hơn người. Nhân dịp về Bến Tre, anh ra nghĩa trang thách thức ma quỷ nhập vào mình. Ngay từ đêm ấy anh trở thành một người lạ lùng, bị điên loạn, phá phách, gia đình phải đưa vào nhà thương tâm thần Biên Hoà chữa trị nhưng chữa mãi vẫn không hết. Gia đình đem anh về nhà, ban ngày anh uống thuốc an thần liều cao nên ngủ li bì, nhưng ban đêm dù uống thuốc thế nào anh vẫn tỉnh như sáo, phá phách mọi người…
Một hôm gia đình đưa anh lên gặp cha – vị Lm đang chia sẻ câu chuyện trên. Ngài đề nghị anh xưng tội rồi đặt tay cầu nguyện cho anh. Khi cha đặt tay trên đầu anh để cầu nguyện, anh la hét lớn đến nỗi nhiều người ở dưới đường không biết có chuyện khủng khiếp gì xảy ra. Ngay sau đó tâm trí anh được ổn định và sau nhiều lần đặt tay cầu nguyện ma quỷ không còn phá anh nữa… Điều này nhắc nhở ta đừng bao giờ thách thức quỷ ma. Đây chỉ là một sự việc trong các sự việc về quỷ ám và chữa lành những người bị quỷ ám của vị Lm khả kính… Ma quỷ luôn có mặt trong thế giới con người, cuộc chiến với ma quỷ, con người trong thân phận mỏng giòn không phải là địch thủ ngang tài đồng sức, nên thường thua cuộc nếu không có trợ giúp.
Suy niệm
“Đi vào trong hội đường, Chúa Giêsu giảng dạy”, sự hiện diện của Ngài trong hội đường đã khiến cho Satan - thần ô uế đang mai phục trong một anh em phải chường mặt ra và khiếp sợ thét lên: “Ông Giêsu Nagiarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi ? Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1,23-24).
Thật thế, Đức Giêsu là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1,24) như chính miệng của quỷ ma tuyên xưng, “vì là Đấng Kitô, nghĩa là Đấng được xức dầu, được thánh hiến, và là Con Thiên Chúa” (Kinh Thánh Tân ước 1995:185). Người đã xuất hiện như một ngôn sứ “có uy quyền” (Mc 1,27) và chính uy quyền đó biểu lộ nơi sức mạnh trấn áp “thần ô uế”: “Câm đi, hãy xuất khỏi người này” (Mc 1,23). Trước lời giảng dạy, và lời truyền cho Satan phải rút lui, “Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người” (Mc 1,22). Ngài giảng dạy không như các ký lục, nhưng Ngài giảng dạy với uy quyền đến từ Thiên Chúa.
Ma quỷ và hoạt động của chúng vẫn luôn hiện hữu trong xã hội ngày nay, chúng tạo vật vô hình, mưu mô, có thật và vẫn còn hoạt động rất mạnh. Nó hành động một cách trực tiếp hoặc qua những sự cám dỗ con người. Riêng trong xã hội Việt Nam hôm nay chúng ta vẫn còn nghe nói và có khi thấy: bùa ngải, thư yểm, nhất là nơi những người buôn bán như ta từng nghe nói: “ngậm ngải tìm trầm” hay “bùa yêu” của một vài người thỉnh về, đó là những thế lực của sự dữ của bóng tối mà Satan làm chủ trói buộc con người.
Chúng ta xin Chúa đến giúp chúng ta khỏi những ách nô lệ của quyền lực bóng tối này như xưa Ngài đã trục xuất chúng ra khỏi người bị quỷ ám trong hội đường lúc Ngài giảng dạy. Theo sự chỉ dẫn của Chúa Giêsu: “Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy họ sẽ trừ được quỷ” (Mc 16,17; x. Lc 9,1; 9,49; 10,17-20). Bản thân của chúng ta tin mạnh, nhưng đức tin được tuyên tín nơi con người hết sức khiêm tốn phục vụ mọi người và tăng cường sự kết hợp mật thiết với Đức Giêsu Kitô bằng đời sống cầu nguyện (x. Mc 9,29), và bằng cuộc sống chay tịnh (x. Mt 17,14-24).
Ý lực sống: “Xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần” (Ga 17,15).
Suy Niệm 8: Một ngày ở Capharnaum
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đức Giêsu vào hội đường Capharnaum trong ngày hưu lễ để giảng dạy, người ta kinh ngạc về giáo huấn của Ngài. Giao huấn của Đức Kitô mới mẻ vì biểu lộ tình yêu thương vô vị lợi. Ngài dạy dỗ như Đấng có uy quyền vì lời Ngài có sức biến đổi, có sức tiêu diệt thần ô uế. Sự hiện diện của Đức Giêsu làm cho thần ô uế phải tru tréo lên. Mặc dù đối kháng với Thiên Chúa, nhưng ma quỉ cũng phải tuyên xưng Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa và Ngài đã chiến thắng chúng.
2. “Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền chứ không như các luật sĩ”.
Khi giảng dạy, các rabbi Do thái phải dựa theo truyền thống của cha ông chứ không dám có ý kiến riêng; còn Chúa Giêsu thì lấy chính sứ điệp của mình ra giảng dạy, và Ngài dạy một cách xác tín trong tư cách là Đấng Messia.
Chúa Giêsu là bậc Thầy duy nhất hiểu rõ và làm chủ hoàn toàn sứ điệp của Ngài cũng như thấu suốt khả năng thu thập của người nghe những gì hữu ích cho họ trong hoàn cảnh thực tế. Tước vị Thầy đó đã được chính Chúa Giêsu xác nhận với các môn đệ trong bữa tiệc ly:”Các con gọi Ta là Thầy, là Chúa thì thật là đúng: kỳ thực Ta là thế” (Ga 13,13).
3. Kèm theo lời giảng dạy, Chúa Giêsu còn làm một phép lạ chữa một người bị quỉ ám. Phép lạ này chứng minh Ngài là Thiên Chúa, Ngài có quyền trên quĩ dữ, Ngài đến để chấm dứt quyền thống trị của tà thần trên con người. Phép lạ Chúa Giêsu thực hiện gây hứng thú và kinh ngạc nơi dân chúng. Trái lại, những kẻ chống đối Chúa thì hạch sách Ngài:”Ông lấy quyền nào mà làm như vậy” ? Họ không muốn công nhận những việc Chúa làm, họ mơ một Vị Cứu Tinh hùng mạnh giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma, trong khi đó Chúa Giêsu lại đến giải phóng con người khỏi quyền lực của ma quỉ và tội lỗi.
Nguyện cho Lời Chúa hôm nay củng cố niềm xác tín rằng sứ mệnh cứu thế phát xuất từ nơi Chúa và tiếp tục trong Giáo hội. Giáo hội đã lãnh nhận kho tàng đức tin và quyền thánh hóa và giáo huấn từ nơi Chúa. Xin cho chúng ta luôn trung thành với Giáo hội và sẵn sàng đón nhận giáo huấn của các chủ chăn mà Chúa đã đặt lên hướng dẫn Dân Chúa trên đường tiến về Nước Trời.
4. Thần ô uế, hoặc ma quỉ, là những thiên thần sa ngã, chúng liên kết với Satan để chống lại Thiên Chúa và chương trình cứu độ của Ngài. Chúng cám dỗ con người phạm tội và gây ra biết bao đau khổ trong đời sống con người. Thế nhưng bất cứ khi nào chúng đối diện với Chúa Giêsu, chúng đều thảm bại. Chúa Giêsu dùng quyền năng của Thiên Chúa để giải thoát con người khỏi sự thống trị của ma quỉ.
Truyện: Chúa có quyền trên quỉ.
Một bé trai hỏi bố:
- Quỉ lớn hơn con không ?
- Lớn hơn.
- Quỉ lớn hơn bố không ?
- Lớn hơn.
- Quỉ lớn hơn Chúa Giêsu không ?
- Không con ạ. Chúa Giêsu lớn hơn quỉ.
Chú bé thinh lặng, rồi mỉm cười:
- Vậy con không sợ quỉ (Góp nhặt).
5. Truyện: Phụng sự cho ai ?
Trong kho tàng truyền thuyết của Giáo hội, chúng ta cũng có thấy một câu truyện dụ ngôn về một anh chàng khổng lồ muốn đi tìm một người mạnh mẽ nhất để phục vụ.
Truyện kể rằng: có một người không lồ sống tại đất Canaan chán cuộc sống đơn điệu buồn tẻ, chàng muốn phiêu lưu và quyết tìm cho được một người nào mạnh nhất để phục vụ.
Thoạt đầu chàng nghĩ chẳng ai mạnh bằng tướng cướp, nên xin đi theo hộ vệ cho tướng cướp. Nhưng mỗi lần sắp đi cướp, viên tướng cướp này phải nhờ đến thầy phù thủy làm phép xuất quân, thế là chàng rời bỏ tướng cướp mà đi theo thầy phù thủy.
Một hôm, thầy phù thủy đang đi bỗng gặp một cây Thánh giá thì sợ hãi dừng lại không dám đi tiếp. Thế là chàng khổng lồ bỏ rơi thầy phù thủy đến đứng bên cạnh Thánh giá, để chờ chủ nhân đó đến mà xin đi theo. Chàng cứ đứng đó chờ mãi mà chẳng thấy chủ nhân cây Thánh giá.
Tình cờ anh nghe thấy có tiếng gọi thật nhẹ nhàng. Anh quay lại bắt gặp một cậu bé với đôi má phúng phính và mái tóc óng ánh. Cậu bé nhờ anh chàng này đưa cậu qua khúc sông gần đó. Nhận lời, nhắc cậu bé lên vai, người khổng lồ lội xuống dòng sông đang chảy siết. Nhưng kỳ lạ nước mỗi lúc một dâng cao và chảy mạnh. Cậu bé mỗi lúc một đè nặng trên vai, chống chọi với sông nước để cuối cùng đem cậu bé lên bờ bên kia. Người khổng lồ mới thốt lên:
- Này cậu bé, cậu nặng đến độ tôi tưởng chừng mang cả vũ trụ trên vai.
Cậu bé mỉm cười đáp:
- Ngươi mang Đấng còn hơn cả vũ trụ nữa. Bởi vì chính tôi đã tạo nên cả trời và đất.
Cậu bé còn cho biết thêm mình chính là chủ nhân của cây Thánh giá.
Thế là chàng khổng lồ kia xin phò tá Vị Chúa Tể trời đất. Chúa dạy rằng: muốn phụng sự Ta, ngươi cứ đứng ở khúc sông này, mỗi lần có ai muốn sang sông thì ngươi hãy cõng người ấy sang.
Chàng khồng lồ tuân theo. Từ đó trở đi, người ta gọi tên chàng là Christophe, nghĩa là người mang Chúa Kitô trên vai.
Chúng ta đã chọn Đức Kitô là thủ lãnh của đời ta, chúng ta hãy tin theo và phục vụ Ngài. Nếu chúng ta muốn phụng sự Đức Kitô, chúng ta hãy theo gương thánh Christophe, bởi vì trên đời này không còn ai xứng đáng hơn ngoài Đức Kitô để cho ta đi theo phụng sự.
Suy Niệm 9: Chúa Giêsu giảng dạy và trừ quỷ
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống...)
1. Đoạn Phúc Âm này mở đầu cho một đơn vị văn chương trải dài từ câu 21 đến câu 34, được gọi là “Một ngày ở Caphácnaum”, trong đó Marcô liệt kê và mô tả những việc làm tiêu biểu của Chúa Giêsu trong một ngày. Việc thứ nhất là giảng dạy, việc thứ hai là trừ quỷ. Đáng chú ý là Chúa Giêsu làm cả hai việc một cách rất uy quyền.
2. ”Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư”: Khi giảng dạy, các rabbi do thái phải dựa theo truyền thống cha ông chứ không dám có ý kiến riêng; còn Chúa Giêsu thì lấy chính sứ điệp của mình ra giảng dạy, và Ngài dạy một cách xác tín trong tư cách là Đấng Messia.
3. Và cũng bằng uy quyền đặc biệt ấy, Chúa Giêsu làm một hành động phi thường, là buộc quỷ xuất khỏi một người bị nó ám.
4. Phản ứng của dân chúng: “Mọi người sửng sốt và hỏi nhau thế nghĩa là gì”: Họ hỏi nhau về nét mới mẻ trong lời giảng của Ngài và về uy quyền đặc biệt của Ngài trên cả tà thần. Câu hỏi này cũng tương đương với câu hỏi “Ông là ai ?”, là câu hỏi sẽ được lập đi lập lại mãi trong tác phẩm.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Mở đầu hoạt động công khai của mình, việc đầu tiên Chúa Giêsu làm là nhằm thuyết phục người ta tin tưởng vào quyền năng của Ngài, quyền năng trong lời giảng dạy và trong hoạt động. Thái độ đầu tiên ta phải có đối với Chúa Giêsu cũng là phải tin tưởng vào quyền năng của Ngài.
2. Nhưng tin tưởng không phải chỉ là tin suông mà còn phải dám phó thác vào Ngài, đừng như câu chuyện sau:
Một người vô thần rất mê leo núi. Ngày kia trượt chân té ngã lăn từ đỉnh núi xuống. Nhưng may thay ông bám được một cành cây nằm chơ vơ giữa đỉnh cao và vực thẳm. Giữa lúc chỉ còn biết chờ chết, một ý nghĩ chợt đến với ông: Tại sao không gọi Chúa đến cứu giúp. Thế là lấy hết sức lực, người vô thần la lớn: “Lạy Chúa”. Tuy nhiên bốn bề chỉ có thinh lặng và ông chỉ nghe được tiếng dội của lời kêu van. Một lần nữa, người vô thần lại kêu xin tha thiết hơn: “Lạy Chúa, nếu quả thật Chúa hiện hữu thì xin hãy cứu con. Con hứa sẽ tin Chúa và dạy cho những người khác cũng tin Chúa”. Sau một hồi thinh lặng, bỗng người vô thần nghe một tiếng vang dậy cả vực thẳm và núi cao: “Gặp hoạn nạn thì ai cũng cầu xin như thế”. “Không, lạy Chúa, nghìn lần không. Con không giống như những người khác. Chúa không thấy sao, con đã bắt đầu tin từ khi nghe tiếng Chúa phán. Nào bây giờ xin Chúa hãy cứu con đi, và con sẽ cao rao danh Chúa cho đến tận cùng trái đất”. Tiếng ấy trả lời: “Được lắm, Ta sẽ cứu ngươi. Vậy nếu ngươi tin thì hãy buông tay ra”. Người vô thần thất vọng thốt lên: “Buông tay ra ư, bộ Chúa tưởng tôi điên sao!” (Trích “Món quà giáng sinh”)
3. Một bé trai hỏi bố:
- Quỷ lớn hơn con không ?
- Lớn hơn.
- Quỷ lớn hơn bố không ?
- Lớn hơn.
- Quỷ lớn hơn Chúa Giêsu không ?
- Không con ạ. Chúa Giêsu lớn hơn Quỷ.
Chú bé thinh lặng, rồi mỉm cười: “Vậy con không sợ Quỷ”. (Góp nhặt)
4. “Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ bàn tán với nhau: ‘Thế nghĩa là gì ? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có thẩm quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh”. (Mc 1,27)
Vào đại học, tôi cảm thấy mọi cái đều xa lạ. Tôi náo nức chờ buổi học đầu tiên. Ngay buổi đầu, với phương pháp giảng giải, thầy đã đưa tôi đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Tôi thấy thầy thật vĩ đại. Tôi nghĩ: Thầy quả là đường dẫn tôi vào đời. Còn Chúa, Đấng đã dựng nên cả tôi và mọi người xung quanh. Chúa cho tôi tự do, dạy tôi biết yêu thương, biết cho đi và hy sinh vì anh em. Sao tôi lại có thể dửng dưng trước tình yêu và quyền năng của Chúa ?
Lạy Chúa, xin cho con biết ngạc nhiên trước những điều kỳ diệu Chúa đã và đang làm cho con cũng như hết mọi người mỗi ngày. (Epphata)
Suy Niệm 10: Uy quyền của Chúa Giêsu
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
1. Vâng, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai của Chúa bằng việc giảng dạy. Và Tin Mừng bảo, Chúa giảng dạy như một Đấng có uy quyền chứ không như các luật sĩ. Tại sao lại có sự khác biệt như thế ?
Thưa vì khi giảng dạy, các Rabbit Do Thái phải dựa theo truyền thống cha ông chứ không dám có ý kiến riêng; còn Chúa Giêsu thì Ngài lấy chính sứ điệp của mình ra để giảng dạy. Lời của Ngài chính là cuộc sống. Ngài dạy những gì Ngài sống. Ngài dạy một cách xác tín vì Ngài đang sống như thế, chính vì vậy là Lời dạy của Ngài có hấp lực mạnh mẽ và đầy uy quyền.
Tôi tưởng cũng nên nhắc lại ở đây một câu chuyện có thật mà tôi rất thích. Mahatma Gandhi là một vị lãnh tụ chính trị chủ trương bất bạo động, do vậy ông được mọi người dân Ấn Độ tin cậy quí mến trong mọi việc lớn nhỏ. Một hôm, có một bà mẹ dắt một bé gái đến, khẩn nài Gandhi thuyết phục con bà chừa bỏ tật xấu ăn quá nhiều kẹo. Gandhi trầm ngâm hồi lâu rồi bảo:
- Thế này nhé, tôi xin hẹn ba tuần nữa bà đưa cháu bé trở lại đây, tôi sẽ nói chuyện với cháu.
Ba tuần sau, người mẹ đưa con trở lại. Lần này Gandhi gọi bé gái đến bên cạnh và ôn tồn giải thích cho em nghe về những tai hại của thói quen ăn quá nhiều chất ngọt như kẹo bánh. Em bé gật đầu hiểu ra và hứa sẽ chừa bỏ. Bà mẹ mừng rỡ, rối rít cám ơn Gandhi, nhưng bà cũng không quên thắc mắc:
- Thưa ngài sao ngài không bảo ngay cho cháu cũng những lời khuyên quí báu ấy cách đây ba tuần ?
Gandhi khiêm tốn thú nhận:
- Cách đây 3 tuần, lúc ấy chính tôi cũng còn đang mắc phải tật xấu ăn quá nhiều đồ ngọt.
Vâng! Muốn cho lời nói có uy, nghĩa là có sức thuyết phục, thì ta phải sống trước.
Người Rôma có câu châm ngôn: Không ai có thể cho cái mình không có.
2. Ngoài việc giảng dạy như một Đấng có uy quyền chúng ta còn thấy Chúa mang trong mình một sức mạnh lạ lùng. Dân chúng khi thấy uy quyền của Chúa như vậy đã phải kinh ngạc thốt lên: “Thế nghĩa là gì ? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh” (Mc 1,27).
Ngày xưa, ở Nam Mỹ có nhiều sắc tộc chưa được nghe Tin Lành cứu rỗi của Chúa Giêsu. Ông bà Whittington, đã tự nguyện đến Martha Grosso, xứ Brasil để truyền bá danh Chúa cho họ. Hai ông bà đã lập được nhiều cộng đoàn ở đây. Cuộc sống đã được cải thiện cách rõ rệt. Rồi khi nghe còn có một sắc tộc khác nữa chưa biết đến Chúa. Không những chưa biết Chúa mà trái lại họ còn tin theo phù phép, đồng bóng. Hai ông bà quyết định dọn nhà đi đến đó ở.
Ông bà tự túc xây lấy nhà ở của mình và vì cả sắc tộc đều theo đồng bóng nên rất ghét ông bà. Hai ông bà phải tự túc trồng trọt và săn bắn mới đủ mà ăn.
Rồi thình lình một hôm kia, người ta thấy ông lý trưởng và ông trưởng ban pháp sư của sắc tộc cùng với một số người kéo đến nhà của hai ông bà. Họ khẩn khoản:
- Xin ông bà nói cho chúng tôi biết về Chúa của ông bà. Chúng tôi muốn biết rõ để cả làng chúng tôi tôn thờ Ngài.
Ông Whittington lấy làm lạ, vì trước đây họ coi mình như kẻ thù muốn trừ diệt, không biết vì lý do gì mà hôm nay họ mau đổi thái độ như vậy. Ông liền trình bày tình yêu và ơn cứu rỗi bởi Chúa Giêsu cho họ nghe. Nghe xong, tất cả đều quì mọp xuống xin giáo sĩ cầu nguyện cho họ tin Chúa.
Trong mấy tuần lễ tiếp theo, họ hăng hái đốn cây dựng ngay một nhà thờ để làm nơi thờ phượng Chúa.
Một lần kia, ông Whittington hỏi người trước là trưởng ban pháp sư nay đã tin Chúa:
- Tại sao các ông thình lình kéo đến để xin tin Chúa vậy ?
Ông chủ bọn đồng bóng trả lời:
- Thưa ông bà, từ đời tổ phụ chúng tôi đến bây giờ. Tất cả chúng tôi đều làm pháp sư, đồng bóng và tà thuật. Chúng tôi nghe ma quỉ cho biết ông bà đến đây trừ diệt chúng nó. Chúng nó tức giận lắm và sai chúng tôi làm ma thuật để giết ông bà. Mỗi lần ma quỉ sai chúng tôi đi như vậy thì không ai thoát chết. Buổi tối nào chúng cũng sai tà thần đến giết ông bà, nhưng lần nào chúng cũng trở về và nói rằng, không làm sao vào nhà được, có hàng rào bọc kín chung quanh vườn, chỉ đi loanh quanh mãi rồi đành trở về. Lúc đó chúng tôi biết rằng, thần của ông bà lớn hơn các quỉ của chúng tôi nên chúng tôi quyết định bỏ tà thuật mà tin theo Đấng Chí Cao.
Lạy Chúa là Chúa toàn năng, mọi sự đều qui phục uy quyền Chúa
và không ai có thể chống lại ý Chúa.
Xin Chúa đừng chê chúng con là gia nghiệp Chúa,
xin dùng uy quyền của Chúa mà thánh hoá chúng con,
để đời đời chúng con ca ngợi danh Chúa. Amen.
10/01 Sám hối và tin yêu.
- Viết bởi Mc 1, 14-20
Sám hối và tin yêu.
Thứ Hai tuần 1 thường niên.
"Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng".
LỜI CHÚA: Mc 1, 14-20
Sau khi Gioan bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng của nước Thiên Chúa, Người nói: "Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng".
Ðang lúc đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy Simon và em là Anrê đang thả lưới xuống biển, vì các ông là những người đánh cá. Chúa Giêsu bảo các ông: "Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người". Lập tức bỏ lưới, các ông theo Người.
Ði xa hơn một chút nữa, Người thấy Giacôbê con ông Giêbêđê và em là Gioan đang xếp lưới trong thuyền, Người liền gọi các ông. Hai ông bỏ cha là Giêbêđê ở lại trên thuyền cùng với các người làm công, và đi theo Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Thấy - Gọi - Bỏ - Theo
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Sau khi chịu phép rửa của Gioan ở sông Giođan
Đức Giêsu biết đã đến lúc mình phải rời bỏ gia đình ở Nadarét,
phải chia tay với người mẹ thân yêu,
phải từ giã nghề nghiệp mà mình đã theo đuổi mấy chục năm trời.
Sau khi nhận Thánh Thần từ trên xuống,
Đức Giêsu biết đã đến lúc mình phải lên đường
dấn thân cho sứ mạng do Cha ủy thác.
Vùng Galilê là vùng Ngài bắt đầu rao giảng Tin Mừng về Nước Trời (c.14).
Ngài mời người ta sám hối và tin vào Tin Mừng mà Ngài rao giảng.(c.15).
Nhưng Đức Giêsu không nghĩ rằng mình có thể tự mình làm mọi sự.
Ngài cần người cộng tác, dù nước Ítraen chỉ là một nước bé nhỏ.
Đức Giêsu đi tìm môn đệ, và Ngài bắt gặp các anh đánh cá nơi hồ Galilê.
Có hai đôi anh em ruột đã lọt vào mắt của Ngài.
Ngài THẤY Phêrô và Anrê đang quăng lưới bắt cá.
“Hãy theo tôi. Tôi sẽ làm các anh thành những kẻ lưới con người” (c. 17).
Đây là một mệnh lệnh nhưng cũng là một lời mời thân thương.
Ngài GỌI họ đi theo Ngài, theo chính con người của Ngài,
chứ không phải theo một lý tưởng hay một chủ nghĩa nào đó, dù là cao đẹp.
Theo Ngài sẽ dẫn đến một thay đổi lớn nơi họ: từ lưới cá đến lưới con người.
Bây giờ con người là mối bận tâm của họ, không phải là cá như xưa nữa.
Đức Giêsu cũng thấy cặp anh em ruột thứ hai là Giacôbê và Gioan.
Họ đang vá lưới trong khoang thuyền với người cha.
Khung cảnh cha con thật êm đềm, tưởng như chẳng gì có thể làm xáo trộn.
Tiếng gọi của Thầy Giêsu vang lên, gây cuộc chia ly.
Bốn anh đánh cá đầu tiên này đã BỎ để dáp lại tiếng gọi của Thầy Giêsu.
Họ đã bỏ chài lưới, bỏ nghề dánh cá, bỏ những thú vui của sông nước.
Hơn nữa họ còn bỏ gia đình, bỏ vợ, bỏ cha, để gắn bó với Thầy Giêsu.
Họ bỏ một giá trị để sống cho một Giá Trị lớn hơn,
bỏ một tình yêu để sống cho một Tình Yêu lớn hơn.
Đức Giêsu đã có kinh nghiệm về sự đau đớn khi phải từ bỏ như vậy.
Nhưng bỏ chính là để THEO (cc. 18.20).
Theo một Đấng sống không chỗ tựa đầu, và bước vào cuộc phiêu lưu bấp bênh.
Hôm nay Đức Giêsu vẫn cần những con người dám sống cho người khác,
dám bỏ lại những điều rất quý giá và thân thương,
dám bỏ lại cuộc sống ổn định và ấm êm, tiện nghi và dễ chịu.
Xin cho chúng ta nghe được tiếng gọi thì thầm của Ngài và vui sướng đáp lại.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,
một người đánh cá ít học và đã lập gia đình,
để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội
trên một tảng đá mong manh,
để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con
theo Chúa, sống cho Chúa,
đặt Chúa lên trên mọi sự:
gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối
viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn,
đến những nơi bất ngờ,
vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon,
bỏ mái nhà êm ấm để lên đường,
hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
Suy Niệm 2: Hãy sám hối
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
“Thời đã mãn”. Đã hết thời cũ. Gioan Tẩy giả là tiên tri cuối cùng của thời cũ đã bị bắt giam. Hết thời của các trung gian. Nay đến thời mới, thời Thiên Chúa trực tiếp nói với nhân loại. Con Thiên Chúa xuất hiện với đầy đủ quyền năng. Người là trưởng tử mọi loài thọ sinh. Người mở đường cho đoàn em đông đảo đi theo Người vào con đường đạt tới vinh quang (năm lẻ).
Khởi đầu một thời kỳ mới đòi phải có con người mới. Hôm nay, khi đầu tiên ngỏ lời với nhân loại, Người kêu gọi đào tạo con người mới bằng 2 phương thế: Sám hối và Tin vào Tin mừng. Sám hối là từ bỏ con người cũ để trở thành người mới. Tin vào Tin Mừng để sống một đời sống mới.
Bốn môn đệ đầu tiên đã thực hành Lời Chúa dậy. Các ngài bỏ con người cũ để đi theo Thiên Chúa. Xưa kia các đệ tử đi theo thầy. Như Anrê và Gioan đã từng là môn đệ của Thánh Gioan Tẩy giả. Chỉ qua trung gian người thầy mới đến với Thiên Chúa. Nay con người mới trực tiếp được Chúa kêu gọi, trực tiếp đi theo Thiên Chúa, đến với Thiên Chúa, sống cùng Thiên Chúa.
Bỏ con người cũ với những lo toan cũ như Phêrô và Anrê. Xưa lo toan về cuộc sống trần gian. Nay lo toan về cuộc sống thiên đàng. Xưa chài lưới để bắt tôm cá. Nay đi qui tụ con người. Xưa bận tâm đến phát triển cuộc sống trần gian với bữa cơm có cá ngon. Nay lo dọn bữa tiệc trên trời.
Bỏ người cũ với những tài sản, địa vị cồng kềnh như Gioan và Giacôbê, có cả lưới và thuyền, có cả cha mẹ và những người làm công, để từ nay sống không cửa không nhà, không kẻ hầu người hạ, không có người thân thích bên mình, để hoàn toàn sống cho Nước Trời, chỉ có Chúa làm gia nghiệp, sống chết cho ơn cứu độ.
Bỏ con người cũ chỉ tin vào loài người như bà Anna. Để hoàn toàn tin vào Thiên Chúa. Quả nhiên Thiên Chúa ban cho bà một người con để sống đời sống mới vui tươi trong Chúa. Người con này là Samuel, Thiên-Chúa-nhận-lời, sẽ chấm dứt thời cũ của Hêli vì các con thầy cả không còn giữ lề luật Chúa. Chính Samuel cũng khởi đầu thời kỳ mới cho lịch sử Israel khi ông tấn phong hai vị vua đầu tiên cho Dân Chúa (năm chẵn).
Xin ban ơn cho con biết sám hối và tin vào Tin Mừng.
Suy Niệm 3: Sám hối và tin vào Tin Mừng
Trong sưu tập về các thánh ẩn tu trong sa mạc, có kể giai thoại như sau: Có hai tội nhân quyết tâm vào sa mạc để ăn chay đền tội. Nguyên một năm ròng rã, mỗi người giam mình trong một túp lều riêng, ngày đêm ăn chay, cầu nguyện và đánh tội. Ngày ngày các tu sĩ của cộng đoàn nọ đem thức ăn đến tận căn lều riêng cho từng người. Sau đúng một năm thử thách, các tu sĩ nhận thấy có sự khác biệt giữa hai người: một người thì vui vẻ, khỏe mạnh; một người thì ốm o buồn phiền. Cả hai đến trình diện trước Bề Trên cộng đoàn để chờ xem họ có xứng đáng được gia nhập cộng đoàn hay không. Khi được hỏi suốt một năm qua, họ đã suy niệm về những gì.
Người ốm o buồn sầu cho biết:
- Trong năm qua, ngày ngày tôi nhớ lại những tội đã phạm, từng giây từng phút tôi nhớ đến những hình phạt sẽ gánh chịu, tôi sợ hãi đến mất ăn mất ngủ.
Ðến lượt mình, người vui vẻ khỏe mạnh trả lời:
- Suốt một năm qua, từng giây từng phút, tôi hằng cảm tạ Chúa vì đã tha thứ cho tôi: tôi luôn nghĩ tới tình yêu của Ngài.
Các tu sĩ trong cộng đoàn rất cảm kích trước tâm tình của người vui tươi khỏe mạnh vì lòng sám hối của anh đã biến thành lời ca cảm tạ tri ân tình yêu Chúa.
Sám hối là khởi đầu của sự nên thánh. Dĩ nhiên, không phải tất cả những vị thánh đều bắt buộc phải là những tội nhân, nhưng tất cả đều phải bắt đầu với ý thức về tội lỗi và sự yếu hèn của mình. Càng ý thức về con người tội lỗi, bất toàn của mình, con người càng cảm nhận được tình yêu của Chúa. Ðó là cảm nhận của vua Ðavít, của thánh Phêrô, của thánh Augustinô và của tất cả các vị đại thánh trong lịch sử Giáo Hội.
Lời đầu tiên Chúa Giêsu dùng để khai mạc sứ mệnh của Ngài chính là: "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng". Chúa Giêsu đã nối kết sám hối với Tin Mừng. Tin Mừng là gì, nếu không phải là tình yêu Thiên Chúa được thể hiện qua con người Chúa Giêsu Kitô. Sám hối không chỉ là ý thức và hồi tưởng về tội lỗi của mình; sám hối đích thực không dừng lại ở buồn phiền, sợ hãi và thất vọng, mà là ngõ tất yếu dẫn đến Tin Mừng, nghĩa là vui mừng, hoan lạc.
Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mạc khải qua cuộc sống và nhất là qua cái chết của Ngài, là một người Cha muốn được con cái yêu mến hơn là sợ hãi. Ðạo mà Chúa Giêsu thiết lập không phải là đạo của buồn phiền, của khổ đau, nhưng là đạo của Tin Mừng, của tình yêu, của hân hoan và hy vọng. Ðành rằng Thập giá là biểu tượng của Kitô giáo, nhưng người Kitô hữu không dừng lại ở chết chóc, khổ đau, buồn phiền; trái lại họ luôn được mời gọi để nhìn thấy ánh sáng, hy vọng, tin yêu và sự sống bên kia Thập giá.
Ước gì Lời Chúa hôm nay ban sức sống để chúng ta không bị đè bẹp dưới sức nặng của tội lỗi, của yếu hèn. Xin cho chúng ta luôn tiến bước trong hân hoan và tin tưởng, vì biết rằng Thiên Chúa là Cha yêu thương, không ngừng nâng đỡ và tha thứ cho chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Chúa Giêsu đi qua, Người gọi các ông.
Người đang đi dọc biển hồ Galilê, thì thấy ông Simon với người anh là ông An-rê, đang quăng lưới xuống biển, vì họ là người đánh cá. Người bảo họ: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người (Mc. 1, 16-18)
Phúc âm Maccô có một lối văn sống đọng và cụ thể, dùng đối thoại vắn gọn và sắc bén. Câu chuyện kể cũng có một tính cách giản dị. Hiếm có những bài nói và lời giải thich dài dòng. Trái lại, chỉ bằng một từ ngữ, một chi tiết nhỏ thôi, thánh Maccô tạo cho Phúc âm của ngài một sức diễn đạt phong phú mà lại cô đọng lạ thường.
Hôm nay Maccô tóm tắt cả Tin Mừng trong vài tiếng: “Nước Thiên Chúa đã đến gần… Anh em hãy sám hối”. Liền sau đó ngài đưa ra một thí dụ là câu chuyện Chúa gọi các môn đệ đầu tiên. Chúng ta dừng lại suy niệm ở trích đoạn này.
Người liền gọi các ông.
Chúng ta thường nhấn mạnh đến việc các môn đệ đã tỏ ra mau mắn đáp lời Chúa gọi. Thực ra không phải chỉ có sự mau mắn đáp lời, mà tiếng gọi cũng diễn ra mau lẹ: “Đi xa hơn một chút. Người thấy hai ông Gia-cô-bê và Gioan, Người liền gọi các ông”.
Việc Chúa Giêsu đi dọc theo Biển Hồ là dấu chỉ Nước Trời đang hiện diện. Thiên Chúa đi vào vũ trụ, đến với con người như thế, coi như Người đã gióng lên tiếng mời gọi tức thời và khẩn thiết vậy.
Các ông liền đi theo Người.
Người ta không phải chờ đợi sự đáp trả. Cả bốn ông Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan đều dấn thân vào một nghề mới. Và thánh Maccô ghi nhận một cách rất tế nhị việc dấn thân đi theo Chúa này có điều đáng giá. Phêrô và Anrê phải bỏ lại chài lưới, dụng cụ sinh sống của các ông, còn Giacôbê và Gioan phải giã biệt người cha, không những các ông phải từ bỏ một tay nghề sẵn có, mà còn tất cả những mối giây liên hệ và tình cảm thân thương nữa.
Dấn thân trở lại với Chúa không chỉ là hành động khác trước, là thực hiện một điều gì khác, mà cũng còn là hướng dẫn con tim và cuộc sống của ta về một bến bờ khác.
Còn chúng ta…
Mỗi ngày có biết bao hoạt động đòi ta phải có sức, có tài. Cùng với mọi người. chúng ta cùng đồng lao cộng tác. Chúa Giêsu đang đi qua, Nước Trời đang hiện diện ngay tại những ven bờ này, và tiếng Chúa gọi vẫn đang vang lên cho mỗi người đang cùng ta chung sức. Đến lượt chúng ta cũng phải xem lại những mối giây liên hệ của ta hầu nối kết với những ai Chúa Kitô đang quan tâm tới.
Suy Niệm 5: Dứt khoát
“Hãy theo Thầy” chính là lời mời gọi đầy yêu thương, trìu mến của Đức Giêsu dành cho các môn đệ. Nhưng sự đáp trả: “Xin theo Thầy” chính là thể hiện thái độ dứt khoát của các ông cũng không kém phần tin yêu với Đấng đã yêu thương mình trước.
Hôm nay, Kinh Thánh thuật lại việc Đức Giêsu đi dọc biển hồ Galilê, Ngài thấy các ông Simon và Anrê đang quăng lưới xuống biển, rồi đi xa hơn chút nữa, Ngài thấy Giacôbê và Gioan đang vá lưới trong thuyền, cùng một mẫu số chung, Ngài cất tiếng mời gọi các ông: “Hãy theo Tôi”. Ngay lập tức, các ông bỏ mọi sự để đi theo Ngài.
Sự dứt khoát của các ông cho thấy họ đã tìm được kho tàng, chân lý, lẽ sống đích thực là chính Chúa. Các ông cũng khám phá ra lý tưởng của cuộc đời. Vì thế, các ông đành mất hết và coi mọi sự là rơm rác so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô, Chúa của các ông. Từ đây, các ông được sống cùng và sống với Đấng là đường, là sự thật và là sự sống. Thật là hạnh phúc cho bốn môn đệ đầu tiên này!
Đến lượt chúng ta, mỗi người cũng được Chúa gọi rất nhiều lần trong cuộc đời! Ngài gọi chúng ta qua lương tâm, qua các dấu chỉ, qua những sự kiện, biến cố, qua những người này hay người kia...
Ngài mời gọi chúng ta thi hành bác ái, yêu thương người nghèo, từ bỏ con đường tội lỗi, hoán cải, sống công chính và trung thành với đức tin... Tuy nhiên, nhiều khi chúng ta đã không nhạy bén đủ, hay cũng có những lúc chúng ta không muốn đáp lại lời mời gọi đó và viện cớ đủ mọi lý do để khước từ.
Như vậy, chúng ta không lạ gì khi Lời Chúa hằng ngày vẫn đọc, nhưng Lời ấy không hề ăn nhập gì với cuộc sống của mỗi chúng ta! Và lẽ tất nhiên, chúng ta vẫn trơ trọi như cây không sinh trái mà thôi.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho tâm hồn chúng con khao khát Chúa, để chúng con nhạy bén nhận ra tiếng Chúa gọi và can đảm đi theo Chúa như các Tông đồ khi xưa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Chúa Giêsu mời gọi môn đệ
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Được nghe loan báo Tin Mừng của Chúa và được gọi để phục vụ
Tin mừng: đó là hồng ân cao trọng Chúa ban một cách nhưng không. Vậy ta hãy hoán cải, quay về với Chúa, quảng đại đáp lại tiếng Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã không ngại khó khăn, vất vả, cất bước đến miền Ga-li-lê để loan báo
Tin mừng: “Nước Thiên Chúa đã gần đến”. Chúa tha thiết mời gọi con người thay đổi đời sống để được nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa. Hơn thế nữa, Chúa cũng đã cất bước đi tìm và gọi các môn đệ đầu tiên để các ngài được ở với Chúa, yêu Chúa và cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa.
Lạy Chúa, giữa cuộc sống đầy bon chen của chúng con hôm nay, có biết bao tiếng gọi mời của thế gian và lạc thú làm con xa Chúa. Chúa đã gởi đến chúng con một tin vui và một lời mời tha thiết: “Hãy theo Ta”. Chúa muốn con được về với Chúa. Xin đừng để con mải mê với cuộc sống ở đời đến nỗi không nhận ra tiếng Chúa. Nhưng xin cho con biết lắng nghe tiếng Chúa gọi từ trên cao, ngay khi còn đang làm những việc bình thường hằng ngày, ngay khi con đang là tội nhân. Lạy Chúa, con hiểu rằng theo Chúa là từ bỏ tất cả. Dù sống trong bậc giáo dân, con vẫn xin đặt Chúa trên cha mẹ, gia đình, bạn bè, nghề nghiệp, để được cùng Chúa đi khắp nơi, đến với những ai bị bỏ rơi, những người đau khổ, tội lỗi.
Lạy Chúa, xin cho con can đảm ra khỏi con người mình, để con được Chúa hoàn toàn chiếm đoạt, hầu con có thể trở thành khí cụ tình thương của Chúa cho mọi người, để con thành dấu chỉ Nước Trời đã đến. Amen.
Ghi nhớ: “Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng”.
Suy Niệm 7: Chúa Giêsu gọi và chọn 4 môn đệ - tông đồ đầu tiên
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Socrate gặp chàng trai trẻ Xenophon lần đầu. Thoạt tiên, ông hỏi chàng có biết ở đâu bán cái này, cái nọ, và ở đâu người ta chế ra vật này, vật kia. Xenophon chỉ cho Socrate những thông tin cần thiết. Rồi Socrate hỏi:
- Anh có biết người ta chế tạo điều lành và nhân đức ở đâu không?
- Không.
- Vậy anh hãy theo Ta.
Đó cũng là câu của Chúa Giêsu: Hãy theo Ta.
Suy niệm
Trên bước đường rao giảng Tin Mừng, Đức Kitô đã gọi và chọn môn đệ - tông đồ đầu tiên: Simon, cũng gọi là Phêrô, và Anrê, em ông, ông Giacôbê và người em là ông Gioan, Người bảo: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người”. Nghe được tiếng Chúa gọi, các ông đã bỏ lại mọi sự để lên đường bước đi theo Chúa. Tin Mừng ghi nhận lại thái độ của các ông: “Lập tức bỏ lưới, các ông theo Người”. Các ông bỏ chài lưới, bỏ thuyền, bỏ gia đình lại mà “bước theo”. Bước theo Đức Giêsu có nghĩa là dấn thân trọn vẹn vào một cuộc phiêu lưu, cuộc phiêu lưu mà Thầy đang đi.
“Các anh hãy theo Ta”, theo Người, “Ở với Người và để Người sai đi” (x. Mc 3,14). Lời mời gọi gắn bó với Đức Kitô là ánh sáng, là nguồn sống: “Sự sáng thế gian, chính là Ta! Ai theo Ta sẽ không phải đi trong tối tăm, nhưng nó sẽ có ánh sáng sự sống” (Ga 8,12), và lên đường chia sẻ thao thức của Ngài đem ánh sáng Tin Mừng cứu độ cho mọi tâm hồn, mọi dân tộc khắp cùng trái đất.
Chúa cũng đang thì thầm gọi tôi, gọi bạn, Ngài gọi đích danh tên mỗi người: “Hãy theo Ta”, theo Ngài trước tiên là gắn bó với Ngài, sống thân mật với Ngài như Ngài mời gọi: “Hãy lưu lại trong tình yêu của Thầy” (Ga 15,9). Có tình yêu, người môn đệ ra đi tiếp nối công trình của Ngài, mang Tin Mừng cứu độ cho anh em.
Ý lực sống: “Hãy theo Thầy”, các tông đồ đã bỏ mọi sự theo Chúa, con có dứt khoát một phen theo Chúa không? Chúa phải gọi con mấy lần rồi? (Đường Hy Vọng, 61)
Suy Niệm 8: Gọi bốn môn đệ đầu tiên
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Nghe tin Gioan bị bắt, Chúa Giêsu trở về Galilê và giảng cho mọi người biết: Nước Chúa đã gần đến. Hãy sám hối và tin theo Người... Và khi đi rao giảng dọc bờ biển, Người gặp ông Simon và anh là Anrê đang thả lưới. Người gọi hai ông theo Người để “lưới người ta”. Và Người cũng gặp ông Giacôbê và em là Gioan đang vá lưới. Người cũng gọi hai ông. Hai ông liền bỏ chài lưới và cha là Giêbêđê mà theo giúp Người.
2. Sự việc Gioan bị tống giam trong ngục đã chấm dứt sứ vụ của ông dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Lời đầu tiên Chúa Giêsu dùng để khai mạc sứ mệnh của Ngài là: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Chúa Giêsu đã nối kết sám hối với Tin Mừng. Tin mừng là gì, nếu không phải là tình yêu Thiên Chúa được thể hiện qua con người của Chúa Giêsu Kitô.
Satan phàn nàn với Chúa: “Ngài không công bằng. Nhiều tội nhân làm điều sai trái và Ngài lại đón nhận họ. Thật ra, có người trở lại sáu bảy lần và Ngài vẫn nhận. Tôi chỉ phạm một lỗi lớn mà Ngài kết án tôi đời đời”. Chúa nói: “Đã bao giờ ngươi xin tha thứ hoặc ăn năn chưa”? (Góp nhặt)
3. Sám hối gồm hai khía cạnh. Khía cạnh tiêu cực là nhìn về dĩ vãng, về quá khứ của cuộc đời mình để xem mình đang sống đúng hay sai, còn thiếu những gì cần bổ khuyết. Sám hối còn mang khía cạnh tích cực là hướng đến tương lai, quyết tâm thay đổi cuộc đời để sống tốt đẹp hơn. Muốn được như vậy thì người sám hối phải biết trở nên khiêm tốn, trở nên bé nhỏ và đặt tất cả niềm tin vào Người Cha Nhân ái là Thiên Chúa tình yêu.
Ngoài ra, sám hối không chỉ là ý thức và hồi tưởng về tội lỗi của mình; sám hối đích thực không dừng lại ở buồn phiền, sợ hãi và thất vọng, mà là cửa ngõ tất yếu dẫn đến Tin Mừng, nghĩa là vui mừng, hoan lạc...
4. Chúa Giêsu nhìn sự việc Gioan bị bắt giam bằng cái nhìn siêu nhiên và Người coi đó là sứ vụ dọn đường của Gioan chấm dứt, nên Người khởi sự đi rao giảng Tin Mừng cứu độ, hòng mọi người sẽ được hưởng ơn cứu rỗi.
Để thực hiện chương trình đó, Chúa đã kêu gọi nhiều người đến cộng tác với Người trong công cuộc lớn lao này. Đúng như lời thánh Augustinô đã nói: “Khi dựng nên chúng con, Chúa không cần chúng con, nhưng để cứu rỗi chúng con, Chúa cần chúng con giúp Chúa”. Chúa đã gọi các tông đồ đầu tiên trong hoàn cảnh đời thường như làm nghề chài lưới và ít chữ nghĩa, nhưng Chúa chỉ cần người ta có thiện chí và nhiệt thành theo Chúa. Nên khi gọi bốn tông đồ đầu tiên, thì “Lập tức các ông đã bỏ chài lưới mà đi theo Người” (Mc 1,18).
5. Chúa gọi các môn đệ trong những tình huống khác nhau. Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy ơn gọi xem ra thật bất ngờ. Marcô cho thấy họ đang sinh hoạt bình thường (thả lưới), bỗng Chúa đến bất ngờ và gọi các ông, và điều làm cho ta ngạc nhiên là phản ứng của họ: Họ cũng theo Chúa một cách mau mắn, cũng là một bất ngờ không kém: “Họ liền bỏ chài lưới mà đi theo Người” (Mc 1,18). Nghe kêu là đi liền, làm như hai bên đã hẹn hò với nhau trước. Đối với loài người thì thật là bất ngờ, nhưng đối với Thiên Chúa thì không, và người ta gọi đó là Chúa quan phòng.
Cái bất ngờ thứ hai là Thiên Chúa thường chọn những con người mà người đời cho là không mấy hứa hẹn hay không còn hy vọng (Abraham già nua tuổi tác), không mấy khả năng (những môn đệ đầu tiên là những người chài lưới), không mấy tốt lành (Matthêu là ngươi thu thuế). Hình như Thiên Chúa không theo tiêu chuẩn của loài người: chọn những người có tài có đức, có triển vọng tương lai. Việc Chúa làm thật bất ngờ!
6. Truyện: Chúa làm những việc không thể ngờ.
Trong dịp lễ nhậm chức của Đức Tổng Giám mục Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, người ta đọc được bài thơ này:
Khi Thiên Chúa cần một người cha cho dân của mình, Người chọn một cụ già. Thế là Abraham đứng lên.
Thiên Chúa cần một người phát ngôn, Người lại chọn một anh chàng vừa nhút nhát vừa có tật nói ngọng. Thế là Maisen đứng lên.
Thiên Chúa cần một thủ lãnh để hướng dẫn dân của mình, Người lại chọn một người thanh niên nhỏ nhất và yếu nhất trong nhà. Thế là Đavít đứng lên.
Thiên Chúa cần một tảng đá làm nền cho ngôi nhà Giáo hội, Người đã chọn một anh chối đạo. Thế là Phêrô đứng lên.
Thiên Chúa cần một khuôn mặt để diễn tả tình Người cho nhân thế, Người lại chọn một cô gái điếm. Đó là Maria Madalena.
Thiên Chúa cần một chứng nhân để hô vang sứ điệp của mình, Người lại chọn một kẻ bắt đạo. Đó là Phaolô gốc thành Tarsô.
Thiên Chúa cần một ai đó để dân Người được qui tụ và đi đến với những người khác,
Người đã chọn ngươi. Cho dù run sợ, lẽ nào ngươi không đứng lên đáp lại lời Người.
Suy Niệm 9: Chúa Giêsu rao giảng và mời gọi
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống...)
Bài Phúc Âm này gồm 2 đoạn:
a. Tóm lược nội dung lời rao giảng của Chúa Giêsu: Người nói: “Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến”; Ngài cho biết điều kiện để được vào Nước ấy là “Hãy sám hối và tin vào Phúc Âm”.
b. Ơn gọi của những môn đệ đầu tiên. Qua đó ta biết được những điểm chính yếu của một ơn gọi:
- Chúa Giêsu “thấy” (động từ đầu tiên của cả 2 bài tường thuật): ơn gọi xuất phát từ sáng kiến của Chúa.
- “Hãy theo Ta”: được gọi tức là được mời đi theo Chúa Giêsu để ở với Ngài, học với Ngài, noi gương Ngài và chia sẻ sứ mạng của Ngài.
- “Lập tức”: mau mắn đáp trả lời Chúa gọi.
- “Hai ông bỏ (bài đầu “Bỏ chài lưới”; bài sau “bỏ cha và những người làm công”) mà đi theo Ngài”: theo ơn gọi thì phải từ bỏ, kể cả tất cả những gì thân thiết nhất.
B. Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Sám hối: Satan phàn nàn với Chúa: “Ngài không công bằng. Nhiều tội nhân làm điều sai trái và Ngài lại đón nhận họ. Thật ra, có người trở lại sáu bảy lần và Ngài vẫn nhận. Tôi chỉ phạm một lỗi lớn mà Ngài kết án tôi đời đời”. Chúa nói: “Đã bao giờ ngươi xin tha thứ hoặc ăn năn chưa?”. (Góp nhặt)
2. Paddy đang hồi phục sau ca mổ, ba bạn thân ghé thăm để khích lệ anh. Ngoài chuyện thăm hỏi, họ kể cho anh về những ca mổ họ nghe biết.
Một người nói: “Tôi nghe có một ca mổ họ để quên cái gạc trong bụng bệnh nhân và phải mổ để lấy ra”.
Người khác kể về ca mổ bác sĩ để quên kéo bên trong và bệnh nhân phải mổ lần nữa để lấy ra. Vừa nói xong, bác sĩ thực hiện ca mổ cho Paddy thò đầu vào cửa gọi lớn: ”Có ai thấy mũ của tôi không?” Và Paddy ngất đi.
Một lần xưng thú không chân thành giống như một ca mổ tồi tệ. Một vài thứ bị để quên và phải thực hiện một ca mổ khác để lấy ra. (Góp nhặt)
3. Người ta thường hiểu ơn gọi theo nghĩa hẹp là ơn gọi làm Lm, Tu sĩ. Nhưng thực ra mọi Kitô hữu cũng đều được Chúa gọi để làm Kitô hữu xứng đáng trong bậc sống của mình.
4. Khi Chúa gọi ai, việc đầu tiên là Ngài bảo người đó từ bỏ. Ơn gọi đầu tiên trong Cựu Ước là như thế: Thiên Chúa nói với Abraham “Hãy đi khỏi xứ sở ngươi, khỏi nhà cha ngươi”... (x. St 12,1). Ơn gọi đầu tiên trong Tân Ước cũng như thế: 4 môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu “lập tức bỏ chài lưới (bỏ thuyền, bỏ cha mẹ lại) mà theo Ngài” (x. Mt 4,20.22). Tất cả những ơn gọi khác cũng phải như thế thôi.
5. Hai người giáo dân đứng ngoài chợ nói chuyện với nhau:
- Anh nghĩ xem chúng ta có cần tiếp tay với Cha xứ để lo việc họ đạo không? Người thứ nhất hỏi.
- Tôi cũng thường nghĩ đến điều đó. Nhưng khi tôi thấy chung quanh cha chỉ có một nhóm nhỏ những người thân tín thì tôi không muốn gia nhập nhóm nhỏ ấy nữa.
Nãy giờ đứng bên cạnh đã nghe hết, anh chen vào:
- Đúng thế, chung quanh cha xứ chỉ có một nhóm nhỏ thôi. Nhưng các anh có biết tại sao không?
- Tại sao? Tại sao? Xin cho chúng tôi biết với.
- Hồi cha mới đến xứ đạo, cha đã kêu mời mọi người cộng tác. Nhưng sau đó chỉ có một ít người đáp lời thôi. Đó là những người biết nói “VÂNG”. (Góp nhặt)
Suy Niệm 10: Rao giảng-chọn gọi
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
1. Bài Tin Mừng này gồm 2 đoạn:
a. Đoạn một: Tóm lược nội dung lời rao giảng của Chúa Giêsu: Ngài nói “Nước Thiên Chúa đã đến gần” (Mc 1,15); Ngài cho biết điều kiện để được vào Nước ấy là “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15).
b. Đoạn 2: Ơn gọi của những môn đệ đầu tiên.
2. Sứ điệp Chúa muốn rao giảng: "Nước Thiên Chúa đã đến gần" (Mc 1,15). Vâng, đó là sứ diệp của Chúa Giêsu. Nước Trời hay Nước Thiên Chúa mà Chúa Giêsu rao giảng không phải là cuộc cách mạng chính trị như phần lớn người Do Thái bấy giờ nghĩ đến, nhưng đó là sự ngự trị của Ngài trong đời sống của những ai tin nhận Ngài. Sứ điệp của Chúa nhằm kêu gọi mọi người ăn năn, đặt niềm tin nơi Ngài, và bước đi theo Ngài.
Sứ điệp ấy ngày nay vẫn còn phải được tiếp tục rao truyền cho mỗi người chúng ta cho đến khi chúng ta để cho Ngài chiếm hữu trọn vẹn mọi khía cạnh của đời sống hầu chúng ta có thể thấy, có thể cảm nghiệm được Nước Trời ngay trên trần thế này.
Để cho Ngài chiếm hữu trọn vẹn mọi khía cạnh của đời sống điều đó không phải dễ.
Có hai người giáo dân đứng ngoài chợ nói chuyện với nhau:
- Anh nghĩ xem chúng ta có cần tiếp tay với cha xứ để lo việc họ đạo không? Người thứ nhất hỏi.
- Tôi cũng thường nghĩ đến điều đó. Nhưng khi tôi thấy chung quanh cha chỉ có một nhóm nhỏ những người thân tín thì tôi không muốn gia nhập nhóm nhỏ ấy nữa.
Một người thứ ba từ nãy đến giờ đứng bên cạnh đã nghe được câu chuyện giữa hai người, anh chen vào:
- Đúng thế, chung quanh cha xứ chỉ có một nhóm nhỏ thôi. Nhưng các anh có biết tại sao không?
- Tại sao? Tại sao? Xin cho chúng tôi biết với.
- Hồi cha mới đến xứ đạo, cha đã kêu mời mọi người cộng tác. Nhưng sau đó chỉ có một ít người đáp lời thôi. Đó là những người biết nói “VÂNG”. (Góp nhặt)
Để Ngài chiếm hữu trọn vẹn mọi khía cạnh của đời sống và làm cho chúng ta cảm nghiệm được Nước Trời đang hiện diện ngay trên trần thế này chúng ta cũng phải biết nói tiếng “Vâng” như Mẹ Maria.
3. Chúa gọi các môn đệ đầu tiên. Chúa Giêsu gọi bốn môn đệ đầu tiên trong những tình huống khác nhau. Qua bài Tin Mừng hôm nay chúng ta thấy ơn gọi xem ra thật bất ngờ.
Marcô cho thấy họ đang sinh hoạt bình thường (thả lưới), bỗng Chúa đến bất ngờ và gọi các ông, và điều làm cho ta ngạc nhiên là phản ứng của họ: Họ cũng theo Chúa một cách mau mắn, cũng là một bất ngờ không kém: “Họ liền bỏ chài lưới mà đi theo Người” (Mc 1,18).
Nghe kêu là đi liền, làm như hai bên đã hẹn hò với nhau trước. Đối với loài người thì thật là bất ngờ, nhưng đối với Thiên Chúa thì không, và người ta gọi đó là việc Chúa quan phòng.
* Cái bất ngờ thứ hai là Thiên Chúa thường chọn những con người mà người đời cho là không mấy hứa hẹn hay không còn hy vọng gì (Abraham già nua tuổi tác), không mấy khả năng (những môn đệ đầu tiên hôm nay chỉ là những người chài lưới), không mấy tốt lành (Matthêô là người thu thuế). Hình như Thiên Chúa không theo tiêu chuẩn của loài người, chọn những người có tài có đức, có triển vọng tương lai.
Trong tập lễ nhậm chức của Đức Tổng Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn người ta đọc được bài thơ này.
Khi Thiên Chúa cần một người cha cho dân của mình,
Người đã chọn một cụ già.
Thế là Abraham đứng lên.
Thiên Chúa cần một người phát ngôn,
Người lại chọn một anh chàng vừa nhút nhát vừa có tật nói ngọng.
Thế là Môisen đứng lên.
Thiên Chúa cần một thủ lãnh để hướng dẫn dân của mình,
Người lại chọn một cậu thanh niên nhỏ nhất và yếu nhất trong nhà.
Thế là Đavid đứng lên.
Thiên Chúa cần một tảng đá làm nền cho ngôi nhà Giáo Hội
Người đã chọn một anh chối đạo.
Thế là Phêrô đứng lên.
Thiên Chúa cần một khuôn mặt để diễn tả tình Người cho nhân thế.
Người lại chọn một cô gái điếm.
Đó là Maria Mađalêna.
Thiên Chúa cần một chứng nhân để hô vang sứ điệp của mình.
Người lại chọn một kẻ bắt đạo.
Đó là Phaolô gốc thành Tarsô.
Thiên Chúa cần một ai đó để dân Người được quy tụ và đi đến với những người khác.
Người đã chọn ngươi. Cho dù run sợ, lẽ nào ngươi không đứng lên đáp lại lời Người.
Vâng, các môn đệ đầu tiên đã mau mắn đáp lại lời mời gọi của Chúa
lẽ nào chúng ta lại không đứng lên đáp lại lời Người.
Lạy Chúa,
chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,
một người đánh cá ít học và đã lập gia đình,
để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong manh,
để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa,
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon, bỏ mái nhà êm ấm để lên đường,
hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
09/01 Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha.
- Viết bởi Lc 3, 15-16. 21-22
Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha.
CHÚA NHẬT CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA năm C.
"Khi Chúa Giêsu đã chịu phép rửa và đang cầu nguyện thì trời mở ra".
Lời Chúa: Lc 3, 15-16. 21-22
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, trong lúc dân chúng đang mong đợi, và mọi người tự hỏi trong lòng rằng: "Gioan có phải là Ðấng Kitô không?", Gioan lên tiếng bảo mọi người rằng: "Phần tôi, tôi rửa anh em trong nước, nhưng Ðấng cao trọng hơn tôi đang đến, và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người, chính Người sẽ rửa anh em trong Chúa Thánh Thần và trong lửa!"
Vậy khi tất cả dân chúng đã chịu phép rửa, và chính lúc Chúa Giêsu cũng đã chịu phép rửa xong, Người đang cầu nguyện, thì trời mở ra và Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Người dưới hình chim bồ câu, và có tiếng từ trời phán: "Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
LỄ CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA C
Lời Chúa: Is 42,1-4.6-7; Cv 10,34-38; Lc 3,15-16.21-22
1. Trời mở ra--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
(Trích trong ‘Manna’)
Các Kitô hữu ở thế kỷ đầu thật hết sức bối rối
trước sự kiện Đức Giêsu lãnh phép rửa của Gioan.
Tại sao Ngài lại đến với Gioan như một môn đệ
để chịu phép rửa, nhằm bày tỏ lòng sám hối?
Ngài có cần sám hối không nếu thật sự Ngài vô tội?
Đã có bao câu trả lời cho vấn nạn này.
Chúng ta chỉ cần nhìn ngắm Đức Giêsu bên bờ sông Giođan.
Ngài đứng xếp hàng cùng với dân tộc của Ngài.
Ngài trà trộn với những tội nhân muốn sám hối.
Ngài chấp nhận dìm mình xuống cùng một dòng sông.
Có ai nhận ra Ngài là Chiên Thiên Chúa,
là Đấng xóa tội trần gian không?
Đấng thánh thiện lại khiêm nhu đứng bên kẻ tội lỗi.
Đấng sẽ làm phép Rửa trong Thánh Thần
nay lại xin được chịu phép rửa sám hối trong nước.
Hành vi đầu tiên công khai của Đức Giêsu
lại là một hành vi khiêm hạ, dìm mình, mất hút...
Ngài chỉ là một kẻ vô danh bên cạnh một Gioan tăm tiếng.
Nhìn Đấng Cứu Độ cúi mình chịu phép rửa,
chúng ta hiểu được thế nào là đồng hành và liên đới.
Đồng hành với người khác đòi tôi phải đi chậm lại.
Liên đới với người khác đòi tôi nhỏ bé đi.
Đồng hành đòi tôi có chung một tâm tình với người khác.
Đấng vô tội nếm được cái ray rứt của tội nhân
và cảm được nỗi khát khao đổi đời của họ.
Đức Giêsu đã đồng hành với con người cho đến chết.
Ngài đã chia sẻ thân phận của người nghèo, người khổ đau,
người bị bỏ rơi, bị thất bại, bị kết án
và cả thân phận khắc khoải của tội nhân.
Mầu nhiệm Nhập Thể là mầu nhiệm đồng hành.
Thiên Chúa tập làm người để hiểu được con người.
Ngài cúi xuống để nâng con người lên.
Sau khi chịu phép rửa, Đức Giêsu cầu nguyện với Thiên Chúa.
Ngài muốn gặp gỡ Cha trong tư cách là Con.
Chính trong giây phút hiệp thông sâu đậm này
mà Ngài cảm thấy được Thánh Thần tràn ngập,
và tự thâm tâm, Ngài nghe rõ tiếng của Cha.
Cha âu yếm gọi Ngài là Con và phong Ngài làm Mêsia:
"Con là Con của Cha. Hôm nay, Cha đã sinh ra Con."
Từ hôm nay, Đức Giêsu hiểu rằng giờ lên đường đã điểm.
Thời gian ẩn dật ở Nadarét đã kết thúc.
Cha ban Thánh Thần để ủy thác cho Ngài một sứ mạng.
Đức Giêsu đã trải qua một kinh nghiệm tuyệt vời...
Sông Giođan, nơi Ngài gắn bó với tội nhân, với dân tộc,
đã trở nên nơi Ngài gắn bó với Cha trong Thánh Thần.
Nơi đi xuống cũng là nơi đi lên.
Nơi Ngài được sai đến cũng là nơi Ngài đang hiện diện.
Chúng ta đã chịu phép Rửa của Đức Giêsu trong Thánh Thần.
Phép Rửa này có đưa chúng ta lên đường phục vụ không?
Mỗi ngày, ta có lại thấy mình được Cha sinh ra không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Càng lúc con người càng cảm thấy mình không thể sống lẻ loi. Sống là đồng hành, liên đới với người khác. Bạn nghĩ gì về khả năng sống với và sống cho người khác của bạn?
Khi Đức Giêsu cầu nguyện thì Thánh Thần ngự xuống và Cha ngỏ lời với Ngài. Có khi nào bạn được một kinh nghiệm tương tự như Đức Giêsu không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, khi đến với chúng con
Chúa thường đến như một người hành khất.
Chúa cần chút nước của người phụ nữ Samari.
Chúa cần năm chiếc bánh và hai con cá.
Chúa cần nhà ông Giakêu để nghỉ chân.
Chúa khiêm tốn cúi xuống xin chúng con,
để rồi tuôn đổ trên chúng con nhiều gấp bội.
Xin dạy chúng con biết cách đến với mọi người,
và khám phá ra đốm lửa nhỏ của sự thiện
vẫn cháy sáng nơi lòng người tội lỗi.
Ước gì chúng con nhìn tha nhân bằng ánh mắt của Chúa,
dám hy vọng không ngơi vào lòng tốt của mỗi người,
và can đảm tin tưởng vào sự quảng đại của họ,
nhờ đó thế giới của chúng con trở nên nhân bản hơn và thần linh hơn.
2. Phép Rửa khiêm nhường--TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Sông Gio-đăng, tiếng Do Thái là “yarad” có nghĩa là đi xuống. Sông Gio-đăng phát nguồn từ ngọn núi Héc-mon ở độ cao 520m. suốt 220km đường dài dòng sông không ngừng đi xuống. Thoạt tiên sông chảy vào hồ Hu-lê chỉ còn 68m trên mực nước biển. Kế đó sông chảy vào biển hồ Galilê, nơi Chúa Giêsu thường qua lại, và các tông đồ thường chài lưới. Ở đây lòng hồ sâu 212m dưới mực nước biển. Sông tiếp tục chảy xuống miền Nam, đổ vào Biển Chết. Ở đây độ sâu là 394m dưới mức nước biển. Có thể nói đây là điểm thấp nhất của địa cầu.
Khi Chúa Giêsu bước xuống sông Gio-đăng để chịu phép rửa, Người đã xuống chỗ thấp nhất không chỉ về chiều sâu theo không gian địa lý mà còn về chiều sâu tâm lý xã hội. Bước xuống để Gioan Baotixita làm phép rửa tội, Chúa Giêsu đã hoà mình vào dòng thác người tội lỗi, cần thống hối ăn năn. Tuy đến để cứu độ người tội lỗi, nhưng Chúa Giêsu không cho mình quyền đứng trên kẻ tội lỗi. Người đã hạ mình xuống ngang hàng với họ, liên đới với họ và trở nên anh em của họ. Không ai nhận ra Người. Mọi người đều cho rằng Người là một trong những kẻ tội lỗi.
Trong đêm Giáng Sinh, ta được chứng kiến một Thiên Chúa hạ mình xuống làm người. Làm một người bé nhỏ nghèo hèn như chưa đủ đối với tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa, nên hôm nay người lại hạ mình xuống thêm một bậc nữa, xuống tận đáy xã hội nhân loại khi nhận mình tội lỗi.
Hôm nay, bắt đầu cuộc đời công khai của Chúa Giêsu. Người bắt đầu xuất hiện để rao giảng Tin Mừng. Trước khi tiến ra gặp gỡ quần chúng, Chúa Giêsu đã tới gìm mình trong dòng sông Gio-đăng. Để chuẩn bị ra gặp loài người Chúa Giêsu cảm thấy cần phải thanh tẩy. Mặc lấy xác phàm, Chúa Giêsu chưa cảm thấy mình gần với nhân loại cho đủ. Người còn hạ mình xuống làm một người tội lỗi. Người gìm mình xuống lòng sông Gio-đăng, dường như muốn mượn làn nước trong xanh tẩy sạch đi tất cả dáng vẻ cao quý của Thiên Chúa còn vương vấn nơi thân xác nhân loại của Người. Tẩy sạch đi tất cả những gì ngăn cách, để Người được thực sự là một người anh em của mọi người.
Dòng nước sông Gio-đăng có trong xanh đến mấy cũng đâu đủ sức rửa Thiên Chúa làm người. Thực ra chính Người tự rửa mình bằng sự khiêm nhường thẳm sâu. Khiêm nhướng là một phép rửa. Vì khiêm nhường là sự quên mình, là chết đi một chút. Gìm mình vào dòng sông là chấp nhận đau khổ và chết đi. Cái chết chính là phép rửa như Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Thầy còn phải chịu một phép rửa, và Thầy những bồn chồn chờ đến lúc hoàn tất” (Lc 12,50). Người còn hỏi hai ông Gioan và Giacôbê khi hai ông này đến xin được ngồi bên tả, bên hữu trong nước Người: “Các ngươi có thể uống chén Ta uống và chịu thanh tẩy thứ thanh tẩy Ta phải chịu không?” (Mc 10,38). Khi nói thế Chúa Giêsu có ý nói đến cái chết Người sẽ phải chịu.
Một câu châm ngôn nói; Không ai thấy được tình yêu. Người ta chỉ thấy được những bằng chứng của tình yêu. Bằng chứng tình yêu của Chúa Giêsu đối với ta đó là sự hạ sinh làm một em bé nghèo hèn yếu ớt. Đó là sự khiêm nhường hoà mình vào đoàn lũ những tội nhân tới gìm mình trong dòng sông Gio-đăng. Tình yêu đã thúc đẩy Người đi những bước táo bạo, bất ngờ. Mượn dòng nước sám hối xoá đi mọi khoảng cách còn lại giữa Thiên Chúa và con người.
Cử chỉ khiêm nhường của Người là một lời mời gọi ta. Nếu ta cảm thấy mình còn xa cách Chúa. Nếu ta cảm thấy mình cần được thanh tẩy. Đừng ngần ngại thay đổi đời sống. Hãy mạnh dạn tiến đến lãnh nhận phép rửa của Chúa Giêsu để trở nên gần gũi với Người. Nếu ta chưa thể lãnh nhận phép rửa trong cái chết tủi nhục như Chúa Giêsu, ta vẫn có thể được thanh tẩy trong phép rửa khiêm nhường. Hãy rửa mình trong dòng lệ sám hối. Hãy tắm mình trong dòng nước khiêm cung. Như lời vua Đavit nói: “Lễ dâng Chúa là tâm hồn sám hối. Một tấm lòng tan nát giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50)/
Khiêm nhường sám hối là bước khởi đầu để ta đón nhận Phúc Âm. Khiêm nhường sám hối là quay trở về nhà Cha, sống trọn tâm tình của người con thảo hiếu. Khi khiêm nhường trở về, ta sẽ gặp được người Cha nhân hậu đang đứng chờ ta. Người sẽ nói về ta như nói về Chúa Giêsu: “Đây là con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về con”.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con biết đến với Chúa và đến với anh em bằng sự khiêm nhường sám hối. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Chúa Giêsu không ngừng đi xuống. Còn bạn, bạn có tự hạ, hay là lúc nào bạn cũng muốn gìm người khác xuống?
2. Làm thế nào để trở nên “Con yêu dấu” của Đức Chúa Cha?
3. Hằng ngày, bạn có cảm thấy cần phải chịu phép rửa khiêm nhường của Chúa Giêsu không?
3. Đức Giêsu chịu phép rửa--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Kitô hữu ngày nay biết Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể; nhưng những người ngày xưa như dân Bêlem, dân làng Nadarét và cả những người nghe Đức Giêsu rao giảng, đều không biết Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể. Họ đã đối xử với Đức Giêsu như một con người. Vì thế, khi Đức Giêsu mặc khải Ngài ngang hàng với Thiên Chúa thì Ngài bị người ta kết án tử hình. Đối với người thời đó, không có chuyện Thiên Chúa ba ngôi vị, nên chẳng có chuyện Thiên Chúa nhập thể.
Đức Giêsu là con của Đức Maria ở Nadarét. Ngài đã được sinh trong chuồng chiên cừu ở Bêlem khi cha mẹ Ngài không tìm được chỗ qua đêm. Ngài sinh ra như một người nghèo hèn nhất trong thiên hạ. Không ai biết chân tướng của Ngài. Có lẽ cả Đức Maria và thánh Giuse cũng chỉ biết Đức Giêsu là một người rất đặc biệt, là người của Thiên Chúa, nhưng vẫn chưa biết Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Người ta chỉ biết Thiên Chúa là ba ngôi vị sau biến cố Đức Giêsu Phục Sinh.
Đức Giêsu đã sống một thời gian dài ở Nadarét như tất cả những người Do Thái thời đó. Ngài hành nghề lao động như bao người nghèo. Tin về Gioan con ông Dacaria rao giảng làm phép rửa sám hối đến làng Nadarét, chắc Đức Giêsu không phải là người duy nhất từ Nadarét muốn đi nhận lãnh phép rửa sám hối với Gioan. Có lẽ Ngài đã xin Đức Maria, và được sự đồng ý của Mẹ, Ngài đã lên đường tới sông Giordan. Ngài chờ đợi tới phiên mình. Ngài cũng gục đầu sám hối như bao người. Ngài cảm thấy mình liên đới với con người tội lỗi. Ngài thống hối xin Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho tất cả mọi người. “Đây chiên Thiên Chúa, đây Đấng gánh tội trần gian”. Ngài chịu phép rửa, vì Ngài gánh tội trần gian.
Đức Giêsu đã sống một thời gian dài sống ở Nadarét, vì Ngài không thấy Thiên Chúa muốn Ngài làm điều gì đặc biệt. Với biến cố này, Thiên Chúa thúc đẩy Ngài tới với Gioan để nhận phép rửa sám hối. Sau khi lãnh nhận phép rửa sám hối, Thánh Thần Thiên Chúa đã thúc đẩy Ngài vào sa mạc ăn chay cầu nguyện (Mt.4, 1tt). Ngài cầu nguyện để biết Thiên Chúa muốn Ngài làm gì. Đức Giêsu là một người chia sẻ thân phận con người hoàn toàn, nghĩa là, Ngài cũng chấp nhận “đi tìm ý Thiên Chúa” như tất cả mọi người. Cũng chính trong bầu khí này mà người ta hiểu tại sao Ngài lại bị cám dỗ. Ma quỷ cám dỗ Ngài làm sai ý của Thiên Chúa Cha, nhưng Ngài đã chống lại. Đức Giêsu đã chiến thắng.
Đức Giêsu cũng đã phải nhận định xem mình có nên chịu phép rửa hay không, vì Ngài thấy mình đâu có tội lỗi gì để mà phải nhận lãnh phép rửa sám hối. Đức Giêsu đã muốn liên đới với con người, với tội nhân, nên Ngài đã đi nhận lãnh phép rửa. Hành vi này của Ngài, đã được Thiên Chúa chuẩn nhận. “Khi Ngài đang cầu nguyện, thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim câu. Và có tiếng từ trời phán rằng: ‘Con là Con yêu dấu của Cha; Cha hài lòng về Con’”.
Hành vi Đức Giêsu nhận lãnh phép rửa sám hối, làm đẹp lòng Thiên Chúa. Khiêm tốn, liên đới với người nghèo và người tội lỗi, là cung cách hành xử của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã thực hiện đúng ý Người. Đức Giêsu luôn tìm kiếm ý Thiên Chúa, và một khi thấy thì Ngài thi hành:
Của ăn của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta (Ga.4, 34),
Lạy Cha, nếu có thể thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng đừng theo ý con, mà theo ý Cha.
Đức Giêsu luôn tìm kiếm để biết Thiên Chúa muốn Ngài làm gì. Sở dĩ vậy, vì Đức Giêsu chia sẻ thân phận con người hoàn toàn (Dt.2, 17; 4, 15). Con người không biết nên phải tìm kiếm ý Thiên Chúa, thì cũng vậy Đức Giêsu cũng chia sẻ tính vô tri này của con người, và Ngài cũng phải liên tục tìm biết ý Thiên Chúa.
Khiêm tốn là nhìn nhận sự thật về chính mình. Đức Giêsu đã nhìn nhận sự thật về chính Ngài, và hơn nữa, Ngài còn tự hạ mình, muốn chia sẻ thân phận của anh em mình vì yêu thương. Hành vi này của Ngài, đã làm đẹp lòng Thiên Chúa Cha. Hành vi khiêm tốn, là hành vi chấp nhận sự thật về chính mình, và cũng là hành vi được điều khiển bởi tình yêu. Yêu thương sẵn sàng hy sinh chính mạng sống mình để anh em mình được sống.
Biến cố Đức Giêsu xuất hiện, đã được Giáo Hội nhìn như một biến cố đặc biệt mà Cựu Ước đã loan báo như chúng ta nghe trong bài đọc thứ nhất: “Hỡi kẻ loan tin mừng cho Sion, hãy trèo lên núi cao; Hỡi kẻ loan tin mừng cho Yêrusalem, hãy cất tiếng lên cho thật lớn … kìa Thiên Chúa các ngươi đang tới”. Nơi Đức Giêsu, người ta thấy vinh quang của Thiên Chúa. Thiên Chúa đến cách đặc biệt nơi Đức Giêsu.
Biến cố Đức Giêsu cũng đã chi phối và biến đổi đời sống của những người tin Ngài một cách dứt khoát. Đời sống của Kitô hữu phải dọi theo đời sống của chính Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu luôn chọn ý Thiên Chúa trên tất cả, Ngài luôn yêu thương anh chị em mình. Ngài yêu họ đến độ dám hy sinh chính mạng sống mình cho họ, nói cho họ biết Thiên Chúa yêu thương họ đến cùng khi cho Con Ngài nhập thể, cho dù khi nói như vậy Ngài bị người ta hiểu lầm và giết Ngài. Đức Giêsu là người đã đến sống cho tình yêu và chết cho tình yêu. Xin cho mỗi người chúng ta sống theo gương Ngài, yêu thương và khiêm tốn, để đem hạnh phúc cho những người chúng ta gặp gỡ và sống với.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, tại sao Đức Giêsu chịu phép rửa khi Ngài thấy mình không có tội?
2. “Đức Giêsu cũng đi tìm ý Thiên Chúa như mỗi con người”. Theo bạn, nói như vậy có hạ phẩm giá của Đức Giêsu không? Tại sao?
3. Bạn thấy Đức Giêsu gần gũi hay xa lạ với bạn? Xin bạn chia sẻ.
4. Kitô hữu đích thực--Lm Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Trước khi bước vào đời sống công khai đi rao giảng Tin mừng cứu độ, Chúa Giêsu đến xin ông Gioan Tẩy giả làm phép rửa cho mình tại sông Giorđan. Ngài hòa nhập với dòng người đến nhận phép rửa, không phải để xin ơn tha tội vì Ngài là Đấng trong sạch vô cùng, nhưng Ngài nêu gương khiêm hạ cho mọi người; đồng thời thánh hóa nước để thanh tẩy trong phép Rửa tội mà Ngài sẽ thiết lập.
Sau khi được kéo ra khỏi nước và đang khi cầu nguyện, Chúa Giêsu thấy” trời mở ra và Thánh Thần hiện hình giống như chim bồ câu ngự xuống trên Người. Lại có tiếng từ trời phán rằng: ”Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Lc 3,21-22). Đấy là lời Chúa Cha tuyên phong Đức Giêsu là Đấng Messia để ra đi rao giảng Tin mừng cứu độ.
Chúa Giêsu đã thiết lập Bí tích Rửa tội để tha tội cho chúng ta. Mọi người đã được chịu phép Rửa tội đều được gọi là Kitô hữu, một danh hiệu vô cùng cao quí. Vì thế, mỗi Kitô hữu phải sống cho xứng với hồng ân được mang danh Chúa Kitô, được sát nhập vào Chúa Kitô. Mọi người phải lo chu toàn sứ vụ của mình đối với gia đình, đối với xã hội, đối với Giáo hội và đối với mọi người, để đời sống của chúng ta phải được ca ngợi là chứng nhân trung thành của Chúa, có một đời sống “nội thánh ngoại vương”.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Is 42,1-4.6-7.
Khi ấy dân Do thái bị thử thách nặng nề, phải đi đầy ở Babylon. Để khích lệ họ,ïtiên tri Isaia loan báo: họ vinh dự được Thiên Chúa chọn làm đầy tớ lý tưởng của Ngài, có trách nhiệm giới thiệu Thiên Chúa cho dân ngoại.
Đây là bài thứ nhất trong 4 bài ca về Người Tôi Tớ trong sách đệ nhị Isaia. Vì được Thánh Thần ngự trên mình, Người Tôi Tớ của Thiên Chúa là Đấng mạnh mẽ và sẽ chiến thắng mọi kẻ thù. Nhưng Ngài không thích dùng bạo lực, trái lại, Ngài yêu thương cứu vớt những kẻ tội lỗi yếu đuối, “không lớn tiếng”, “không bẻ gẫy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn leo lét”.
Tất cả những nét Isaia mô tả Người Tôi Tớ đều được thực hiện nơi Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu sẽ đảm nhận vai trò Người Tôi Tớ. Vai trò này, Ngài sẽ hoàn thành khi biến tôn giáo của đức tin thành một sự ưng thuận thắm tình con thảo mà mọi người đều có thể nói lên, dù người ấy thuộc bất cứ nền văn hoá hay quốc gia nào. Theo gương Đức Kitô, các Kitô hữu cũng phải thực hiện nhiệm vụ trên.
+ Bài đọc 2: Cv 10,34-38.
Đây là phần đầu bài giảng của thánh Phêrô ở Cêsarêa cho ông Corneliô, viên sĩ quan Rôma và gia đình của ông để giúp họ hoán cải và chịu phép rửa. Đây là một việc làm có tính cách cách mạng vì từ trước đến nay các tông đồ chưa nghĩ đến việc cho người ngoại gia nhập Giáo hội.
Trong bài nói chuyện với người Do thái, Phêrô cho biết sở dĩ Ngài dám làm như vậy vì “Thiên Chúa không thiên tư tây vị ai, hễ ai thực hành sự công chính, đều được Ngài đón nhận”. Chính Đức Giêsu Nazareth đã được Thiên Chúa dùng Thánh Thần và quyền năng xức dầu tấn phong Ngài và Ngài đã đi khắp nơi để ban phát ơn lành.
+ Bài Tin Mừng: Lc 3,15-16.21-22.
Cả 3 bài Tin mừng của lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa có rất nhiều điểm giống nhau. Chúng ta có thể chia bài Tin mừng thành 2 phần:
* Phần một: Ông Gioan thanh minh là mình không phải là Đấng Kitô như người ta tưởng. Có Đấng sẽ đến sau ông và cao trọng hơn ông. Hiện nay ông chỉ rửa họ bằng nước, còn Đấng đến sau sẽ làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần.
* Phần hai: Đức Giêsu nhận phép rửa của ông Gioan và trong nghi lễ này Đức Giêsu được tấn phong làm Đấng Messia, Đấng Cứu thế. Đó chính là ý nghĩa việc Thánh Thần hiện xuống,”các tầng trời mở ra”, cách diễn tả lấy lại của Isaia 63,11-14.19 khi công bố tấn phong một vị giải phóng mới. Có tiếng nói từ trời vang trên Đức Giêsu, tiếng nói ấy cũng thuộc về nghi thức phong vương một vị vua mới:”Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Kitô hữu đích thực
I. CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA
Phép rửa tại sông Giorđan
Chúng ta đang ở bên bờ sông Giorđan, nơi Gioan Tẩy giả rao giảng, kêu gọi mọi người sám hối, nhận phép rửa để được ơn tha thứ. Thế nhưng, chúng ta thấy rằng điều quan trọng không phải chỉ nhằm ở việc ông Gioan rao giảng, mọi người tuốn đến lãnh nhận phép rửa,… mà đó còn xẩy ra một sự kiện hết sức trọng đại: Chúa Giêsu cùng với bao nhiêu người khác đi vào dòng sông Giorđan để lãnh nhận phép rửa từ tay ông Gioan.
Sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa không chỉ là bước khởi đầu cho sứ vụ rao giảng Tin mừng mà Chúa sẽ thực hiện sau này; biến cố chịu phép rửa cũng không chỉ là việc Chúa Giêsu được Gioan Tẩy giả giới thiệu mà đó còn là một sự kiện xuất phát từ chính Thiên Chúa được minh chứng bằng những việc lạ lùng như việc trời mở ra và việc Thánh Thần dưới hình chim bồ câu ngự trên Người cùng với lời tuyên phong của Chúa Cha.
Đời sống công khai của Chúa Giêsu bắt đầu bằng việc Người chịu phép rửa (Lc 3,21). Mặc dầu phép rửa mà Chúa lãnh nhận không phải là bí tích rửa tội, nghĩa là không để được tha tội vì Người không có tội, phép rửa đó cũng đánh dấu quyết liệt trong đời sống của Người. Phép rửa đánh dấu cái sứ mệnh công khai của Người trong việc rao giảng và chữa lành. Người chịu phép rửa để thánh hóa nước để trở thành chất thể trong bí tích rửa tội do Người thiết lập.
Chúa Giêsu được tấn phong
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay gợi lên ý tưởng một cuộc lễ phong vương. Ngày xưa khi một vị hoàng vương được tôn lên làm vua thì họ phải trải qua một cuộc phong vương gồm ba sự việc:
- Phải tắm rửa sạch sẽ.
- Phải được xức dầu.
- Phải được tôn phong làm vua.
Hôm nay khi sắp ra giảng đạo để thi hành sứ mệnh Thiên Sai, Chúa Giêsu cũng được tấn phong làm vua qua ba nghi lễ như sau:
+ Trước tiên Người chịu phép rửa của Gioan dưới sống Giorđan như một dấu ăn năn sám hối, mặc dầu Người là con chiên trong sạch.
+ Sau đó, “Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người”(Cv 10,38b; Is 61,1), để trở nên Đấng Thiên Sai:”Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỉ kiềm chế”(Cv 10,38c).
+ Cuối cùng, Người đã được Chúa Cha công nhận là Vua Cứu Thế và là Con Thiên Chúa, như Tin mừng Luca viết:”Khi Người cầu nguyện thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng:”Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”(Lc 3,22).
Dấu chỉ Bí tích Rửa tội.
Câu hỏi tại sao Chúa Giêsu lại chịu phép rửa? Các thánh sử đưa ra nhiều khía cạnh như Matthêu (3,14-15), Luca (3,21) hay Gioan (1,31-34). Các thánh giáo phụ còn đưa ra nhiều lý do khác, ví dụ Chúa chạm đến nước để thánh hóa nước và làm cho nước được thần lực tẩy xóa tội lỗi trong Bí tích Rửa tội…
Chúa Giêsu xin đến rửa, không phải là cho mình, mà là cho người khác, vì người khác. Người chịu phép rửa là có ý nói lên: từ nay, Người chung số phận với người tội lỗi và đó là tất cả ý nghĩa đời Người, và cuộc đời này chỉ hoàn tất với Phép Rửa cuối cùng, của sự chết (Lc 12,50) vì chết là cùng chung số phận của con người tội lỗi, con người bị sa ngã và là số phận bi đát nhất, tệ hại nhất.
Chúa Giêsu đến với ông Gioan để lãnh nhận phép rửa, nhưng chính ông Gioan đã khẳng định ông chỉ làm phép rửa bằng nước, còn Chúa Giêsu là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần. Chúa Giêsu đã khai mở bí tích Rửa tội cho những kẻ theo Người bằng việc đích thân Người xin lãnh phép rửa từ Gioan. Chúa Giêsu muốn chúng ta có sự tiếp nối giữa Giao ước cũ và Giao ước mới, tiếp nối giữa lời rao giảng của vị tiên tri cuối cùng cao đẹp hơn tất cả các vị trước với lời rao giảng của chính Người để thiết lập Nước Thiên Chúa. Tuy nhiên, lễ rửa này Người đã biến đổi để có thể thực sự khai mào cho Bí tích Rửa tội.
II. HIỆU QUẢ CỦA BÍ TÍCH RỬA TỘI.
Khi Chúa Giêsu để cho Gioan dìm mình trong nước không phải là để thanh tẩy Người vì Người không vương tội lỗi, Người muốn nói lên một ý nghĩa khác, đó là loan báo cái chết và sự phục sinh của Người: dìm mình xuống nước là biểu hiệu cái chết, trồi lên khỏi nước là loan báo sự sống lại.
Khi chúng ta nhận lãnh bí tích Rửa tội, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta tham dự vào sự chết và sống lại của Người. Chúng ta vào đời khi được sinh ra, và vào đạo Thiên Chúa khi được rửa tội. Trong phép rửa tội chúng ta được thanh tẩy mọi tội lỗi, tội tổ tông và tội riêng. Do đó, nó biến chúng ta thành “một tạo vật mới” (2Cr 5,17), một nghĩa tử của Thiên Chúa (Gl 4,5-7), được thông phần vào sự sống thần linh (2Pr 1,4), trở nên chi thể của Chúa Kitô (Rm 8,17) và được gọi là đền thờ của Chúa Thánh Thần (1Cr 6,15).
Đó chính là ơn siêu nhiên, “ơn thánh hóa”, “ơn sủng của sự công chính hóa” mang lại các nhân đức đối thần và luân lý, cùng các hồng ân của Chúa Thánh Thần. Tóm lại, “toàn bộ cơ thể của sự sống siêu nhiên của người Kitô hữu bắt nguồn nơi bí tích Rửa tội (Giáo lý Công giáo, số 1266).
Ngày được chịu phép rửa tội là một ngày trọng đại, ngày đáng ghi nhớ của chúng ta. Đức Giáo hoàng Piô XI đã nói với hàng ngàn thanh niên nhân ngày kỷ niệm rửa tội của Ngài:”Ngày chịu phép rửa tội là ngày cao quí nhất của đời Cha. Cũng như ngày các con chịu phép rửa tội là ngày cao quí nhất của đời các con”.
Chúng ta đã được chịu phép rửa tội, một hồng ân cao quí Chúa đã ban cho chúng ta. Chúng ta cũng nên có một vài cảm nghĩ về phép Rửa tội.
Phép rửa không chỉ được ban một lần khi chúng ta được mang đến giếng Rửa tội trong nhà thờ.
Chúng ta được rửa bởi tất cả các biến cố xẩy ra trong đời:
- Chúng ta được rửa bởi những cực nhọc, khó khăn: đó là những dòng nước biến động thanh luyện chúng ta khỏi những gì gian trá và vô dụng.
- Chúng ta được rửa bởi những đau khổ, buồn rầu: đó là những dòng nước u ám nhưng chỉ có khả năng giúp ta lớn lên trong đức khiêm tốn và cảm thông.
- Chúng ta được rửa bởi niềm vui: đó là dòng nước róc rách khiến ta cảm nghiệm được vị ngọt của cuộc đời.
- Chúng ta được rửa bởi tình yêu: đó là dòng nước ấm áp làm cho đời ta tươi nở như hoa dưới ánh nắng mặt trời.
Phép rửa là một hạt giống, cần phải nảy mầm trong suốt cả đời sống.
(Lm Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm C, tr 119)
III. KITÔ HỮU, NGƯỜI LÀ AI?
Tất cả những người chịu phép rửa tội đều được gọi là Kitô hữu, một danh hiệu cao quí mà chính thánh Phaolô đã gọi lần đầu tiên ở Antiochia:”Barnabê và Saulê đến thành Antiochia. Hai người gặp dân chúng trong nguyện đường và dạy dỗ nhiều người. Chính ở Antiochia lần đầu tiên, những tín hữu được gọi là Kitô hữu”(Cv 11,26)
Nhờ phép rửa tội, chúng ta được mang tước hiệu là Kitô hữu. Kitô hữu là người có Đức Kitô, được mang danh Chúa Kitô. Kitô hữu là một Kitô khác (Alter Christus). Mỗi Kitô hữu là một nối dài của chính Đức Kitô. Đó là tước hiệu cao cả của chúng ta. Tước hiệu ấy không chỉ sáng ngời trong những dịp lễ lạc, hội hè mà phải luôn chiếu tỏa từng giây phút của cuộc sống.
Truyện: Kitô là gì?
Sau đệ nhị thế chiến, tại một vùng mỏ than bên Anh, người ta hỏi tụi con nít:
- Kitô là gì?
Chúng trả lời:
- Là một tiếng chửi thề.
Điều tra ra mới biết người lớn ở vùng này dùng từ Kitô để chửi thề.
Ở Việt nam, trước giải phóng, có một hãng bột giặt lấy tên Kitô mà đặt cho một loại sản phẩm của họ, cũng như một hãng mì ăn liền lấy tên Phật Tổ để đặt tên cho mì chay họ sản xuất
Vậy mà người Công giáo lẫn Phật giáo chẳng thấy ai phản đối. Trong khi đó, ở Pháp, hồi cuối thập niên 50, hãng phô-mai sản xuất loại “con bò cười”, trước tiên gọi nó là “con bò cầu nguyện” (La vache qui prie), đã bị các Kitô hữu kiện, vì đã nhạo báng tôn giáo.
(Thiện Cẩm, Trái chín đầu mùa, tr 13)
Kitô hữu phải là người mặc lấy Chúa Kitô, trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài như thánh Phaolô đã khuyên nhủ tín hữu Rôma:”Anh em hãy mặc lấy Chúa Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng”(Rm 13,14). Mặc lấy Chúa Kitô là trở nên chính Chúa Kitô để có thể nói:”Tôi sống, nhưng không phải là tôi sống, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi”(Gl 2,20).
Một người đàn bà quan sát người ta phân phát quần áo cũ cho người lang thang ngoài đướng phố. Thình lình một ý tưởng đến với bà: Nếu mang áo quần của người khác, gầy dép của người khác, thì mình sẽ như thế nào? Và từ đó bà khám phá ra ý nghĩa của Kitô giáo. Kitô hữu là người mang giầy của người khác: giầy của Chúa Kitô. Họ đi đến nơi mà Chúa Giêsu muốn đến và làm những gì Ngài muốn thực hiện. Và đó cũng là ý nghĩa của việc muốn trở thành Chúa Giêsu trong thế giới ngày nay.
Khi mang giầy của Chúa Giêsu, tôi cảm thấy dễ chịu đến mức độ nào? Và đôi giầy làm tôi khó chịu ở chỗ nào? Mỗi đặc tính đều có một động lực bên trong. Xin hãy để cho Chúa Kitô là động lực đó. Mỗi hành động đều có một ý nghĩa chính. Xin hãy để cho Đức Kitô là ý nghĩa chính đó (Henry Drummond).
Định nghĩa trên nghe cũng hay hay. Dùng những từ như: việc mặc lấy, mang lấy giầy của Chúa Kitô, để diễn tả phần nào thực thể người Kitô là ai, việc dùng từ như vậy, không diễn đạt hết thực thể của người Kitô. Người Kitô không phải chỉ là là kẻ mang giầy của Chúa mà phải là chính Chúa Kitô, Ngài như thế nào, chúng ta phải như thể ấy.
Khi nói về Kitô hữu, sử gia Tertullianô viết:
“Những người tin theo Chúa được mệnh danh là Kitô hữu. Kitô hữu (Christianus) nghĩa là thuộc về Chúa Kitô, nên họ đã và phải có một tâm tình như Chúa Kitô. Họ không sợ chết. Họ không sợ hình khổ. Họ không sợ bách hại, bởi vì họ đã đi cùng một đường với Chúa.
Câu:”Kẻ muốn theo Ta thì phải từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo” đã thấm nhập vào tâm hồn họ, nên mỗi khi phải đau khổ, cũng như bị bách hại, cũng như bị cấm cách, câu nói ấy lại đến với họ như chính Đấng hiện hình. Hèn gì mà trên tín trường họ coi gươm giáo như hoa hồng, coi lý hình như bạn hữu. Họ chỉ sợ một Thiên Chúa – Đấng sẽ phán xét họ, nếu họ đi trệch đường” .
IV. SỨ VỤ NGƯỜI KITÔ HỮU.
Ngày Chúa Giêsu chịu phép rửa là ngày Ngài được tôn phong để đi rao giảng Tin mừng cứu độ. Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa làm người, là Đấng Thiên Sai, mà dân tộc Israel hàng ngàn năm mong đợi.
Đức Giêsu đã sinh ra trong trần gian với sứ mạng làm Đấng Messia mang ơn cứu độ đến cho mọi người. Ngài đã chu toàn sứ mạng ấy một cách tuyệt hảo. Mỗi người chúng ta cũng có một sứ mạng. Vậy mỗi người hãy tự hỏi:”Sứ mạng của tôi là gì đối với gia đình, đối với xã hội, đối với Giáo hội và đối với những anh em không cùng tín ngưỡng”?
Chiêm ngắm Đức Giêsu chịu phép rửa không thể không nhắc nhở chúng ta nhớ đến sứ vụ của người Kitô hữu. Nhờ Bí tích Rửa tội chúng ta được nhận làm con Thiên Chúa, được hưởng gia tài vĩnh cửu của Thiên Chúa và nhất là cùng được sai đi đến với mọi người. Không việc làm gì cụ thể khác hơn là chúng ta học theo mẫu gương của Đức Giêsu và thực thi sứ mạng rao giảng Tin mừng, để nối tiếp công việc của Ngài.
Là con cái Thiên Chúa quả là một hạnh phúc lớn lao mà Thiên Chúa ban cho mỗi người. Nhưng chúng ta phải làm gì để Chúa Cha được hài lòng? Nếu Bí tích Rửa tội được cử hành cần đến nước thì cuộc sống người Kitô hữu cũng cần được gội rửa trong nước để trở nên thanh sạch và bắt đầu cuộc sống mới, trở nên con người mới thuộc hoàn toàn về Thiên Chúa. Muốn được như vậy mọi suy nghĩ, lời nói, và hành động của chúng ta phải phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa, hơn là ý riêng của mình, và hãy để cho Chúa Thánh Thần dẫn dắt như Đức Giêsu.
Truyện: Nội ngoại đồng nhất.
Có hai người bộ hành đi đường xa mệt nhọc, đêm đến phải vào ngủ trong một cái miếu nổi tiếng là có ma quái. Một người là Kitô hữu tin tưởng vào sự che chở của Chúa nên không chút sợ hãi. Trái lại, người bộ hành không phải Kitô hữu lại cảm thấy lo sợ, nên đã đề nghị với người bạn cho mình mượn Thánh giá đeo cổ.
Quả thực, đêm đó yêu tinh xuất hiện, nó lần mò đến từng người, sờ vào cổ người Kitô để sát hại. Con yêu tinh mới thốt lên:”Người này có trong mà không có ngoài”, nghĩa là người này là Kitô đích thực, dù không đeo một dấu hiệu nào.
Sang người bộ hành kia, con yêu tinh chạm đến Thánh giá trên cổ người ấy mà nói: ”Người này có ngoài mà không có trong”, nghĩa là người này tuy mang Thánh giá, nhưng không phải là Kitô hữu đích thực.
Chúng ta là những Kitô hữu. Chúng ta thi hành các bổn phận đạo đức, chúng ta mang trên mình nhiều hình ảnh của Chúa và Đức Mẹ, nhưng liệu tâm hồn chúng ta có đích thực là tâm hồn Kitô hữu không? Hay có lẽ chúng ta chỉ có cái bên ngoài hào nhoáng của thời trang, mà bên trong lại trống rỗng (Mỗi ngày một tin vui, tr 119).
Chúng ta thường gọi vua Đavít là thánh vương. Người Á đông cũng gọi các vua đạo đức thánh thiện là “thánh vương” như vua Văn, vua Vu thời xưa. Người ta lấy câu nói của Vương Dương Minh làm châm ngôn cuộc sống của các vị ấy:”Nội thánh, ngoại vương”, bên trong là vị thánh, bên ngoài là một ông vua.
Người Kitô hữu được tham dự vào chức tư tế vương giả của Đức Kitô, và cung cách vương giả của Đức Kitô chính là lòng quảng đại, biểu hiệu một tâm hồn luôn liên kết với Thiên Chúa Tình yêu.
Ước gì mọi tư tưởng, mọi hành động của chúng ta đều là một thể hiện của niễm tin sâu xa của đời sống đạo đích thực, chân thành và không giả dối.
5. Chúa Giêsu lãnh nhận sứ mạng--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
I. Dẫn vào Thánh lễ
Biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa là gạch nối giữa giai đoạn Chúa Giêsu sống ẩn dật với giai đoạn Ngài rao giảng công khai: sau thời gian sống với gia đình tại Nadarét, Chúa Giêsu bắt đầu đi rao giảng. Việc đầu tiên Ngài làm là lãnh nhận phép rửa của Gioan Tẩy giả ở sông Giođan. Như thế, lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa cũng là gạch nối giữa mùa Giáng sinh với mùa Thường niên: Chúng ta đã cùng sống với Chúa Giêsu qua các biến cố giáng sinh và hiển linh. Kể từ hôm nay chúng ta sẽ cùng sống với Ngài qua các biến cố của đời rao giảng.
Trong dịp Chúa Giêsu chịu phép rửa, Chúa Thánh Thần đã lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài, và tiếng Chúa Cha từ trời phán xuống xác nhận Ngài là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Đó cũng chính là thân phận kitô hữu của mỗi người chúng ta: chúng ta cũng đã lãnh nhận phép rửa, cũng được Chúa Thánh Thần ngự xuống. Vậy chúng ta cũng hãy noi gương Chúa Giêsu mà cố gắng sống xứng đáng là con của Thiên Chúa.
II. Gợi ý sám hối
- Do bí tích Rửa tội, chúng ta đã được nhận là con của Chúa. Nhưng chúng ta chưa sống xứng đáng với danh nghĩa ấy.
- Dù là Con Thiên Chúa, nhưng Chúa Giêsu đã sống như một Người Tôi Tớ hạ mình phục vụ mọi người. Còn chúng ta, chúng ta không thích hạ mình, không ưa phục vụ.
- Chúa Giêsu luôn sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Ngược lại chúng ta hay sống theo ý riêng.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Is 42,1-4.6-7):
Ngôn sứ Isaia được Thiên Chúa soi sáng đặc biệt nên đã hiểu Đấng Messia tương lai là một Người Tôi Tớ. Ông đã mô tả Người Tôi Tớ trong 4 bài thơ. Đoạn được phụng vụ trích đọc hôm nay nằm trong bài thơ thứ I:
Đó là người được Thiên Chúa tuyển chọn và Thiên Chúa rất hài lòng.
Người đó rất hiền lành và dịu dàng: "không lớn tiếng, không nở bẻ gãy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn khói".
Sứ mạng của Người Tôi Tớ là: a/ Tái lập công bình; b/ nên ánh sáng cho muôn dân; c/ giải thoát những người khốn khổ.
2. Đáp ca (Tv 28):
Bài thơ này ca tụng Thiên Chúa uy phong. Sự uy phong của Thiên Chúa thể hiện qua việc Ngài thống trị các sức mạnh của thiên nhiên: Ngài ngự trên những ngọn thuỷ triều, tiếng Ngài vang rền trên sóng nước.
Chính Thiên Chúa uy phong ấy sẽ tấn phong Chúa Giêsu làm Đấng Messia của Ngài trong biến cố phép rửa.
3. Tin Mừng (Lc 3,15-16.21-22):
Bài Tin Mừng này cho ta biết về người làm phép rửa và người được làm phép rửa:
1. Người làm phép rửa là Gioan Tẩy giả: lời giảng và hoạt động của ông đã khiến ông nổi tiếng, đến nỗi dân chúng nghĩ rằng ông chính là Đấng Messia. Gioan đã khiêm tốn thanh minh ông không phải là thế, và còn giới thiệu cho họ biết Đấng Messia thực sắp đến sau ông và cao trọng hơn ông nhiều.
2. Người lãnh nhận phép rửa là Chúa Giêsu. Chính Thiên Chúa (chim câu, tiếng từ trời) giới thiệu Ngài:
- Ngài là Con của Thiên Chúa ("Con là con của Cha")
- Là Đấng Messia mà Tv 2 và ngôn sứ Isaia đã tiên báo (Kiểu nói "Con là con của Cha" là tước hiệu Isaia dùng để nói về Đấng Messia; kiểu nói "Hôm nay Ta sinh ra con" là của Tv 2 cũng nói về Đấng Messia).
4. Bài đọc II (Cv 10,34-38):
Dân Do Thái có quan niệm hẹp hòi cho rằng Thiên Chúa là Chúa riêng của họ, và ơn cứu rỗi của Thiên Chúa được dành riêng cho họ. Vì thế, khi thánh Phêrô rửa tội cho ông Cornêliô một người thuộc dân ngoại, một số người Do Thái đã thắc mắc.
Thánh Phêrô biện minh rằng ông đã làm như thế cũng chỉ là theo đúng sứ mạng của Chúa Giêsu:
Trong biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan, Ngài đã được Thiên Chúa tấn phong làm Đấng Messia: "Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong cho Ngài".
Sứ mạng Messia của Chúa Giêsu là mang Tin Mừng cho tất cả mọi người và mọi dân tộc, vì thế nên "Ngài đi qua mọi nơi, ban bố ơn lành và chữa mọi người". Phêrô còn nói: "Thiên Chúa không tây vị ai. Nhưng ở bất cứ xứ nào ai kính sợ Người và thi hành sự công chính đều được Người đón nhận".
IV. Gợi ý giảng
1. Mỗi người đều có sứ mạng
Hai tiếng "sứ mạng" nghe có vẻ nghiêm trọng quá. Nhưng thực ra mọi người, mọi sinh vật, mọi thụ tạo - nói chung là mọi "hữu thể" - đều có sứ mạng:
Sứ mạng của mặt trời là sưởi ấm các sinh vật trên mặt đất
Sứ mạng của cây lúa là nuôi sống con người
Thậm chí những con vi sinh nhỏ bé đến nỗi mắt thường không thấy được cũng có sứ mạng làm phân huỷ những chất thải.
Chúa Giêsu đã sinh ra trong trần gian với sứ mạng làm Đấng Messia mang ơn cứu độ đến cho mọi người. Ngài đã chu toàn sứ mạng ấy một cách tuyệt hảo.
Mỗi người chúng ta cũng có sứ mạng. Vậy mỗi người hãy tự hỏi "Sứ mạng của tôi là gì đối với gia đình, đối với xã hội, đối với Giáo Hội, đối với anh chị em không cùng tín ngưỡng?"
Tôi được sinh ra trên đời là vì sứ mạng. Nếu tôi không chu toàn sứ mạng, hay tệ hơn nữa, nếu tôi không lưu tâm gì đến sứ mạng, thì sự hiện hữu của tôi là vô ích, chỉ là ăn hại. Chúa Giêsu đã nói "Nếu muối mà nhạt thì chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp dưới chân".
2. "Con yêu dấu"
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Qua phép rửa, chúng ta cũng trở thành con Thiên Chúa. Về phần Chúa Giêsu, Ngài đã được khen là "Con yêu dấu của Cha".
Thế nào là một người "con yêu dấu"?
- là biết ý của cha mình: Chúa Giêsu luôn cầu nguyện để biết ý của Chúa Cha.
- và luôn làm theo ý cha mình: Chúa Giêsu nói "Lương thực của Ta là làm theo ý của Cha Ta". Trong vườn Cây Dầu, sau khi đơn thành tỏ cho Chúa Cha biết Ngài rất sợ chén đắng của cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu nói tiếp ngay "Nhưng xin đừng theo ý con, mà hãy theo ý Cha".
Nếu chúng ta muốn trở thành con yêu dấu của Thiên Chúa thì chúng ta cũng hãy bắt chước Chúa Giêsu: luôn cầu nguyện, khi đã thấy được ý Chúa thì sẵn sàng bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa.
3. "Nếu..."
Nếu tôi là dân Do Thái lúc đó, có thể tôi cũng đi từ Galilê bên Chúa Giêsu suốt bốn năm ngày đường, tới sông Giođan để chịu phép rửa, mà không ngờ rằng Người là Đấng mà Gioan đang rao giảng. Khi tới nơi, chắc chắn tôi sẽ chen lấn Người để tôi được tới gần Gioan hơn. Tôi trố mắt nhìn và lắng tai. Gioan kêu gọi tôi sám hối. Tôi cảm động và rán lội tới sát Gioan. Tôi đẩy Người ra để xin Gioan rửa tôi trước, vì tôi nóng lòng mong đợi điều Gioan đang nói "Hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến". Rửa xong, tôi an tâm ra về mà không ngờ Người là Đấng Cứu Thế đồng hành với tôi, đứng sát bên tôi, đã bị tôi gạt Người ra ngoài.
Thực tế hàng ngày đã xảy ra trăm ngàn lần tôi cư xử như thế đối với những người bên cạnh tôi. Tôi không ngờ rằng họ là chi thể Đấng Cứu Thế. Tôi bao nhiêu lần xô lấn những người bên cạnh tôi để tôi được hơn, được trước họ mà chẳng nhớ gì lời Chúa dạy: "Con phải kính nhường và yêu mến người bên cạnh con". Thành thử ra tôi cũng không nhận ra Đấng Cứu Thế đang ở với tôi.
Nếu tôi được làm địa vị của Gioan tiền hô, thì khi vừa thấy Đấng Cứu Thế, tôi sẽ tự đắc hô to: Đấy, tôi nói có sai đâu. Ngài đến đây nè... Rồi tôi kêu gọi mọi người ủng hộ Ngài, hoan hô Ngài, đón rước Ngài, xin Ngài phất cờ giải phóng dân tộc, làm cho nước ta độc lập tự do giàu mạnh, đem quân xâm chiếm các nước, trở thành bá chủ hoàn cầu. Tôi rất phàn nàn và lấy làm tiếc vì không thể ngờ được rằng Gioan không làm như tôi mong muốn. Trái lại ông đã cúi mình xuống nhỏ nhẹ thưa với Ngài rằng "Tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài. Tôi chỉ rửa anh em trong nước, còn chính Ngài mới rửa chúng tôi trong Thánh Thần. Vậy xin Ngài rửa cho tôi đi để tôi được ơn cứu độ". Thật là con người đầy khiêm tốn, đầy tin tưởng, để rồi Gioan đã phó thác trót mạng sống mình cho Đấng Cứu Thế: dù phải chặt đầu, ông vẫn luôn quyết tâm chu toàn nghĩa vụ Thiên Chúa trao.
Còn Chúa Giêsu, Người rất từ tốn và ẩn mình tuyệt diệu hơn nữa. Người đã thưa lại Gioan: "Chúng ta cần phải chu toàn nghĩa vụ thánh như thế". Người đồng hóa mình với dân chúng, chịu những kẻ cậy sức mạnh xô đẩy, chèn ép để thông cảm với mọi nỗi xót xa của cuộc đời những kẻ thấp mũi bé miệng, neo đơn, cô thế cô thân. Người đã cúi mình trước Gioan làm phép rửa cho Người để cho những tội nhân biết cúi mình xuống trước tòa giải tội. Người đã dìm mình xuống nước để cứu vớt những kẻ chết trong dòng đời, cho họ được sống lại làm con chí ái với Người trong gia đình thiên quốc. Người chôn mình trong bản tính hư nát của loài người để cho con người được trường sinh vinh phúc.
Lạy Chúa Giêsu xin cho chúng con biết kính nhường nhau. Đó chẳng phải là kính mến Chúa sao? Xin cho chúng con biết phó thác thân phận làm người, làm kitô hữu cho Đấng Cứu Thế. Chắc chắn chúng con sẽ được Người thanh tẩy và kết nạp chúng con vào nhà Cha chí ái trên trời. (Linh mục Vũ Khắc Nghiêm, "Xây nhà trên đá" Năm A)
4. Tình yêu cứu thế (Lc 3,15-16, 21-22)
Một vị quan lớn mở tiệc mời nhiều người đến dự. Tất cả các người được mời đều ăn mặc sang trọng và dùng xe đi đến. Trong số ấy có một người khách già. Rủi thay, vì già yếu nên ông cụ này khi xuống xe đã trượt chân té vào vũng bùn. Khách đến dự tiệc thấy vậy phá lên cười.
Xấu hổ và cảm thấy mình không xứng đáng, ông quyết định quay về. Gia nhân nài nỉ cách mấy ông cũng không chịu ở lại dự tiệc. Khi đó vị quan chủ tiệc bước ra sân, đi tới chỗ vũng nước đó, rồi cũng cố tình té ngã vào vũng nước. Thế là áo quần của ông quan cũng dơ dáy y như cụ già kia. Mọi người chung quanh chẳng ai dám cười nhạo nữa. Sau đó, vị quan lớn cầm tay ông cụ đưa vào phòng tiệc. Ông cụ chẳng còn lý do nào để chối từ.
***
Chỉ có hành động cố tình té ngã của vị quan lớn kia, mới có thể đưa ông cụ vào bàn tiệc.
Con Thiên Chúa trên tầng trời cao thẳm, lại hạ mình xuống làm kiếp phàm nhân.
Đấng thánh thiện vô cùng, lại khiêm nhu đứng xếp hàng bên những tội nhân.
Đấng xoá tội trần gian, lại hoà mình trong đoàn người tội lỗi.
Đấng thanh sạch vô biên, lại chịu dìm mình trong dòng sông "sám hối".
Đấng sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần, lại xin chịu phép rửa của Gioan.
Chính hành vi rất mực khiêm hạ của Đấng Cứu Thế đã cho thấy tình yêu sâu nặng của Thiên Chúa dành cho con người.
Chính thái độ tự huỷ tột cùng của Đấng Cứu Thế đã cho thấy tình yêu dấn thân của Thiên Chúa đối với con người cát bụi chúng ta.
Vâng, chính Thiên Chúa đã có sáng kiến tuyệt vời là tình nguyện hoá thân làm kiếp phàm nhân:
Để chia sẻ thân phận đói nghèo, khổ đau, bệnh hoạn của con người.
Để nếm cảm nỗi ray rứt khắc khoải của tội nhân.
Để thấu hiểu niềm khao khát đổi mới trong lòng người tội lỗi.
Vâng, chính Con Thiên Chúa đã thực hiện những phép lạ thật ngoạn mục ngay trước mắt con người,
Người đã muốn nên anh em với chúng ta để chia sẻ những gì Người đã nhận từ Cha: "Mọi sự của Cha là của Con".
Người đã muốn chung phận con người để chia sẻ phận Con Thiên Chúa: "Phàm là con cái thì chung huyết nhục, nên Người cũng chung phần huyết nhục với chúng ta" (Dt 2,14).
Người đã muốn chung phần khổ đau, để có thể cứu giúp những ai đau khổ: "Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách"(Dt 2,18).
Chiêm ngắm Đấng Cứu Thế cúi mình chịu phép rửa, chúng ta hiểu được thế nào là Tình Yêu: Một Tình Yêu vui lòng tự huỷ để cùng đồng hành với anh em cho đến cùng, một Tình Yêu sẵn sàng chia sẻ trọn vẹn cho anh em, một Tình Yêu chấp nhận cúi xuống để nâng anh em chỗi dậy cùng bước về nhà Cha.
Chiêm ngắm Đấng Cứu Thế cầu nguyện với Cha nơi dòng sông Giođan, chúng ta hiểu được thế nào là Hiệp Thông: Chính trong giây phút Hiệp Thông sâu đậm này mà Người cảm nhận được đầy tràn Thánh Thần và nghe được tiếng Cha âu yếm: "Con là Con của Cha. Hôm nay, Cha đã sinh ra Con" (Lc 3,22).
Ngày nay, chúng ta đã chịu phép Rửa của Đức Kitô trong Thánh Thần, chúng ta được mời gọi Hiệp Thông thân mật với Ba Ngôi Chí Thánh, chúng ta cũng được mời gọi lên đường phục vụ anh em, nhất là những anh em đang cần một Tình Yêu chia sẻ, đỡ nâng và trao ban trọn vẹn: Tình Yêu Cứu Thế!
***
Lạy Chúa, trong con mắt Chúa chúng con là tất cả. Xin cho chúng con luôn nhìn anh em bằng cái nhìn của Chúa, và yêu thương anh em chúng con bằng tình yêu trọn vẹn của Người. Amen. (Thiên Phúc "Như Thầy đã yêu")
5. Chuyện minh họa
Ở một nước kia có luật cấm đạo. Hai vợ chồng kia bị bắt đưa ra tòa vì tội là Kitô hữu. Người chồng tên là Moran.
Để cứu vợ chồng này khỏi tội, luật sư đã hùng hồn đọc bài biện hộ mà đại ý như sau:
Hai thân chủ của tôi bị kết tội là Kitô hữu. Tôi xin chứng minh rằng sự thật không phải là thế.
Họ có một cuộc sống đàng hoàng, siêng năng làm việc, không hề gian tham trộm cắp, không làm thiệt hại ai điều gì, không xích mích gì với hàng xóm... Như thế họ là những con người tốt, những công dân tốt. Không có gì sai trái.
Ngày Chúa nhật họ đi dự lễ, ở nhà họ có bàn thờ và thường đọc kinh trước bàn thờ, họ đeo ảnh Thánh giá... Chính vì những biểu hiện bề ngoài này mà họ bị kết tội là Kitô hữu. Nhưng những biểu hiện bề ngoài ấy không đủ để kết luận họ thực sự là kitô hữu.
Chính Thánh Kinh của Kitô giáo đưa tiêu chuẩn để xác định ai là kitô hữu thật: "Cứ xem quả thì biết cây" (Mt 7,15); Mà hoa quả chứng minh ai là kitô hữu là những việc bác ái yêu thương, như một câu Thánh Kinh khác: "Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con thương yêu nhau" (Ga 13,35). Nếu căn cứ vào những tiêu chuẩn này để xét, thì tôi dám khẳng định rằng thân chủ của tôi chắc chắn không phải là kitô hữu: mọi người đều không thấy họ có chút quan tâm nào đến những người nghèo, những người khổ sở, những người già yếu...; mỗi khi có cuộc lạc quyên để giúp thiên tai, hoạn nạn, họ cũng đóng góp nhưng chỉ đóng góp cho có với người khác chứ thực sự ít hơn mọi người khác.
Vì những bằng chứng trên, tôi xin quý tòa hãy hủy bỏ tội danh Kitô hữu của thân chủ tôi.
Toà tạm ngừng để nghị án. Sau đó Tòa kết luận: Tội danh Kitô hữu không được thành lập. Hai vợ chồng Moran được tự do! (FM)
6. Bài giảng được gán cho Thánh Hippolite (+ 236)
Nếu Chúa chìu theo lời ngăn cản của Gioan mà không chịu phép rửa thì chúng ta đã bị mất mát biết bao điều quan trọng.
Trước đó các tầng trời bị đóng chặt, chúng ta không ai có thể đến được quê hương trên trời. Sau khi xuống thấp tận đáy, chúng ta không còn có thể trở về trên cao. Nhưng Chúa Giêsu đã chịu phép rửa. Không phải một mình Ngài chịu phép rửa, mà Ngài còn canh tân con người cũ và ban lại cho nó thân phận làm dưỡng tử của Thiên Chúa. Bởi thế lúc đó "trời mở ra". Các thực tại hữu hình được giao hòa với những thực tại vô hình; các phẩm trật trên trời hớn hở vui mừng, dưới đất thì bệnh tật được chữa lành...
7. Suy nghĩ về phép rửa
Phép rửa không chỉ được ban một lần khi chúng ta được mang đến giếng Rửa Tội trong Nhà thờ.
Chúng ta được rửa bởi tất cả mọi biến cố xảy ra trong đời:
Chúng ta được rửa bởi những cực nhọc, khó khăn: đó là những dòng nước biến động thanh luyện chúng ta khỏi những gì là gian trá và vô dụng.
Chúng ta được rửa bởi những khổ đau, buồn rầu: đó là những dòng nước u ám nhưng có khả năng giúp ta lớn lên trong đức khiêm tốn và cảm thông.
Chúng ta được rửa bởi niềm vui: đó là dòng nước róc rách khiến ta cảm nghiệm được vị ngọt của cuộc đời.
Chúng ta được rửa bởi tình yêu: đó là dòng nước ấm áp làm cho đời ta tươi nở như hoa dưới ánh nắng mặt trời.
Phép rửa là một hạt giống, cần phải nẩy mầm trong suốt cả đời sống.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, khi chịu phép rửa tại sông Giođan, Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta biết mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Vậy chúng ta cùng nguyện xin Người:
1. Chúa Giêsu đã tự hạ / đến xin ông Gioan làm phép rửa / hấu chỉ lối khiêm nhường cho người Kitô hữu học đòi bắt chước / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / biết noi gương Chúa Giêsu mà phục vụ tha nhân trong yêu thương và khiêm nhường.
2. Chúa Giêsu đã dùng phép rửa mà thánh hóa nhân loại / và mở cửa cho những người thống hối trở về / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho kẻ có tội biết từ bỏ đời sống tội lỗi / mà quay trở về nẻo chính đường ngay.
3. Đức Kitô là ánh sáng muôn dân / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban ánh sáng đức tin cho hết thảy mọi người đang đi tìm Chúa.
4 Đức Kitô là nguồn hy vọng của những ai tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết tìm đến Chúa khi gặp gian nan thử thách / để được Người nâng đỡ ủi an.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu Kitô là Đấng đã được Chúa Trời tuyển chọn, Chúa không nỡ nghiền nát cây lau đã gãy, cũng chẳng nỡ dập tắt tim đèn còn cháy. Xin cho tất cả chúng con cũng biết noi theo lòng nhân hậu của Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước Kinh Lạy Cha: Qua bí tích Rửa tội, chúng ta được làm con Thiên Chúa như Chúa Giêsu. Vậy, cùng với Chúa Giêsu, chúng ta hãy dâng lên Chúa Cha lời kinh Lạy Cha.
VII. Giải tán
Thánh lễ đã hết, anh chị em lại trở về cuộc sống bình thường. Anh chị em hãy cố gắng sống xứng đáng là con của Thiên Chúa.
6. Ý nghĩa phép rửa--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
"Đông Ca-mê-lô" là tên một cuốn phim, trong đó nêu bật cuộc đối đầu liên tục giữa vị linh mục và ông thị trưởng. Xem ra hai bên lúc nào cũng hoạt động sát cánh bên nhau để phục vụ công ích, nhưng lúc nào cũng bảo vệ quan điểm của mình: một bên là niềm tin Công giáo, một bên là ý thức hệ vô thần. Một trong những cảnh trong đó dường như ông thị trưởng muốn thỏa hiệp với tôn giáo, đó là cảnh ông lén lút đưa đứa con mới sinh đến nhà thờ xin vị linh mục rửa tội. Nhưng đến khi đặt tên thánh cho con ông lại đưa ra một cái tên là Sta-lin.
Cũng như ông thị trưởng trên đây, ngày nay có nhiều người Công giáo đưa con mới sinh đến nhà thờ xin linh mục cử hành bí tích rửa tội mà không hiểu ý nghĩa tôn giáo cũng như các cam kết mà bí tích này đòi hỏi. Nói khác đi, người ta trở thành Ki-tô hữu mà không sống cho đến cùng niềm tin tôn giáo của mình. Ông thị trưởng trên đây cũng có thể nhìn vào bí tích rửa tội như nhiều người ngoài Ki-tô giáo. Họ xem nghi thức này như một thứ ma thuật, bùa chú, có hiệu năng bảo vệ con người khỏi nghịch cảnh và bất hạnh trong cuộc sống. Nhiều người khác cũng có thể nhìn vào bí tích này như một thứ mê tín dị đoan cần phải loại bỏ. Vậy đâu là ý nghĩa đích thực của bí tích rửa tội?
Chúng ta hãy trở lại dòng sông Gio-đan bên Pa-lét-tin, nơi Chúa Giêsu đã đến dìm mình trong nước. Tại đây, Gio-an Tẩy Giả đã lôi kéo được đông đảo dân chúng đến nghe giảng và tỏ dấu sám hối bằng cách dìm mình trong nước. Chúa Giêsu cũng chen lẫn trong đám đông ấy để xin Gio-an thanh tẩy cho Ngài. Nhưng là một người không vương tội lỗi, Chúa Giêsu đến dìm mình trong nước không phải để thể hiện sự sám hối. Ngài muốn nói lên một ý nghĩa khác, đó là loan báo cái chết và phục sinh của Ngài: dìm mình xuống nước là biểu hiệu cái chết. Trồi lên khỏi nước là loan báo sự sống lại.
Đây cũng là ý nghĩa bí tích rửa tội. Khi chúng ta lãnh nhận phép rửa tội, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta tham dự vào mầu nhiệm sự chết và sống lại của Ngài. Chúng ta vào đời khi được sinh ra, và vào đạo Thiên Chúa khi được rửa tội. Trong nghi thức rửa tội, chúng ta được dìm trong nước hoặc đổ nước trên đầu để chỉ việc tẩy rửa khỏi tội tổ tông và mọi tội riêng, được sinh lại làm con cái Thiên Chúa và gia nhập vào Giáo Hội. Vì thế, Giáo Hội coi bí tích rửa tội như một cuộc tái sinh: người được rửa tội trở thành một con người mới. Họ thấy đâu là ơn gọi và định mệnh của con người, đâu là ý nghĩa của cuộc đời.
Tôi thấy một số người không mừng sinh nhật ngày họ sinh ra vào đời, nhưng mừng ngày họ được chịu phép rửa tội. Thiết nghĩ điều này rất hay, rất đúng, vì đây mới là ngày trọng đại, cao quý, như Đức Giáo hoàng Pi-ô XI đã nói với hàng ngàn thanh niên nhân ngày kỷ niệm rửa tội của ngài: "Ngày cha chịu phép rửa tội là ngày cao quý nhất của đời cha. Cũng như ngày các con chịu phép rửa tội là ngày cao quý nhất của đời các con".
Nhờ phép rửa tội, chúng ta được mang tước hiệu Ki-tô hữu. Ki-tô hữu là người có Đức Ki-tô. Mỗi Ki-tô hữu là một Đức Ki-tô thứ hai. Mỗi Ki-tô hữu là một nối dài của chính Đức Ki-tô. Đó là tước hiệu cao cả của chúng ta. Tước hiệu ấy không chỉ sáng ngời trong những dịp lễ lạc, hội hè mà phải luôn chiếu tỏa trong từng giây phút của cuộc sống.
Nhưng tôi xin phép hỏi: Phải chăng nhiều người trong chúng ta đã là Ki-tô hữu một cách miễn cưỡng? Đức tin chưa phải là niềm vui sống mà chỉ là một mớ những ràng buộc khiến chúng ta cảm thấy nặng nề, khó khăn? Ngoài những ràng buộc của luân lý Ki-tô giáo và gánh nặng của những sinh hoạt đạo giáo, biết đâu nhãn hiệu Ki-tô lại không là đầu mối của biết bao kỳ thị, thiệt thòi trong cuộc sống của chúng ta? Chúa Ki-tô đã mang lại cho chúng ta cuộc sống mới của những người con Thiên Chúa, cho dầu cuộc sống ấy có thể tạo ra nhiều ràng buộc, có thể đòi hỏi nhiều hy sinh và chiến đấu, có thể gây nên những phiền toái, thua thiệt...nhưng đó là giá để chúng ta đạt được niềm vui đích thực trong cuộc đời làm con Chúa.
Có thể nói đó là một ước mơ của người Ki-tô. Bình thường có một ước mơ để theo đuổi, đó là sức mạnh giúp người ta có thể thành công và kiên trì trong cuộc sống. Thì trong đời sống đức tin cũng thế, xem ra người Ki-tô cũng theo đuổi một ước mơ. Chẳng hạn: ngay từ khi còn nhỏ, thánh Đông Bốt-cô đã ước mơ được chăm sóc và hướng dẫn các trẻ em lang thang nơi đầu đường xó chợ. Cả cuộc đời ngài đã cống hiến để ước mơ ngày trở thành hiện thực. Mục sư Lu-thơ Kinh cũng đã từng ước mơ một ngày nào đó con cái của những người nô lệ da đen sẽ ngồi đồng bàn với con cái của những chủ nhân da trắng. Cả cuộc đời ông là một cuộc tranh đấu cho đến khi ngã gục, để thực hiện ước mơ ấy. Mẹ Tê-rê-xa Can-cút-ta cũng đã có lần ước mơ được lên tới cổng thiên đàng. Nhưng khi thấy thánh Phê-tô không cho những người khốn khổ cùng được vào thiên đàng, thì mẹ đã trở lại trần gian để tranh đấu cho tới khi nào những người cùng khổ cũng được vào thiên đàng.
Đâu là ước mơ của chúng ta? Đâu là động lực khiến chúng ta tiêu hao tất cả cuộc sống? Đâu là lẽ sống của đời chúng ta? Đó là một cuộc sống đúng danh nghĩa người Ki-tô. Đó là hạnh phúc nước trời. Đây chính là ước mơ, là động lực, là lẽ sống của đời chúng ta.
7. Con yêu dấu của Ta (Dành cho Thiếu Nhi)--Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
Các em Thiếu Nhi rất thân mến!
Khi nào thì các em cần rửa tay chân? Khi tay chân dơ bẩn, cần phải rửa sạch sẽ. Để làm gì? Ạ, để giữ gìn vệ sinh và tránh bệnh tật nguy hiểm. Thông thường các em còn phải tắm mỗi ngày nữa. Mặc dù có những em cũng làm biếng tắm lắm, nhất là những hôm trời lành lạnh như mấy hôm nay. Có ai 3 tháng mới tắm một lần không? Có hả? Có thì mang đi làm yaourt được rồi đấy!
Các em thấy trên Tivi người ta quảng cáo nhiều loại xà bông diệt khuẩn: nào là Lifebouy, nào là Safeguard… nhằm diệt các vi khuẩn có hại và nguy hiểm bám trên da.
Ngay từ thời xa xưa con người đã biết ý thức về việc giữ gìn vệ sinh thân thể, tức là tắm rửa. Việc thanh tẩy còn có ý nghĩa tôn giáo nữa, như trong đạo Do thái. Người ta gọi đó là phép rửa, nhằm khu trừ các bệnh tật của linh hồn, tức là tội lỗi và các thói hư tật xấu…. Gioan Tiền Hô đã làm phép rửa này cho dân chúng và Chúa Giêsu cũng đã đến để lãnh nhận phép rửa của Gioan.
Vậy cha hỏi các em nè, phép rửa mà các em cũng như cha đã lãnh nhận và phép rửa mà Chúa Giêsu chịu từ tay Gioan có giống nhau không? Thưa không. Phép rửa mà chúng ta lãnh nhận là Bí tích do chính Chúa Giêsu thiết lập để tha tội, tội chung và tội riêng, đồng thời cho chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa. Đây là phép rửa nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi. Bởi đó khi rửa tội, các em nghe linh mục đọc: “Cha rửa con, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.
Còn phép rửa mà ông Gioan thực hiện thì sao? Có tha được tội nguyên tổ và tội riêng không? Có làm cho chúng ta trở nên con Thiên Chúa không? Có nhân danh Ba Ngôi không? Thưa không. Vì đây chỉ là nghi thức sám hối, kêu gọi mọi người ăn năn hoán cải, sửa đổi đời sống, hầu chuẩn bị tâm hồn đón nhận Đấng Cứu Thế và đón nhận ơn tha tội mà Chúa Giêsu sẽ ban sau này.
Nhưng Chúa Giêsu có tội không? Chắc chắn là không rồi. Vì lẽ đó mà ban đầu ông Gioan không dám làm phép rửa cho Chúa Giêsu như lời ông nói: “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa. Thế mà Ngài lại đến với tôi”. Vậy tại sao Chúa lại phải lãnh nhận phép rửa của Gioan? Chúa lãnh nhận phép rửa của Gioan vì Chúa muốn đồng cảm với con người chúng ta để chia sẻ kiếp người yếu đuối mỏng manh, dễ bị tổn thương bởi chính tội lỗi của mình, cũng như dễ làm người khác bị tổn thương. Chúa hòa vào dòng người tội lỗi ấy để đến xin Gioan làm phép rửa cho, như một cử chỉ nhắc nhở và khích lệ thánh Gioan tiếp tục can đảm làm chứng nhân và làm tiền hô cho Chúa. Sau hết, Chúa đón nhận phép rửa của Gioan để cho thánh ý Chúa Cha được nên trọn, nghĩa là để Chúa Cha có thể giới thiệu Ngài với nhân loại chúng ta.
Mặc dù Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, không vướng mắc một tội lỗi nào, nhưng vì yêu thương và muốn cứu chúng ta khỏi tội lỗi, nên Ngài đã vâng lời Chúa Cha, xuống thế làm người, mặc lấy thân phận yếu hèn của con người. Hành động này đã làm cho Chúa Cha hài lòng, nên Chúa Cha đã xác nhận: “Này là con yêu dấu của Ta, Con đẹp lòng Ta”.
Các em thân mến! Qua Bí tích Rửa Tội, các em đã được Chúa Thánh Thần ban ơn thánh hóa và được trở nên con cái Thiên Chúa. Vậy các em hãy dâng lên Chúa tâm tình cảm tạ tri ân, vì Chúa đã cho các em được làm con của Người, được gọi Chúa là Cha và được đón nhận mọi người như là anh em, chị em của mình.
Trong phép lần hạt Năm Sự Sáng, ngay gẫm thứ nhất, chúng ta vẫn đọc: “Thứ nhất Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giođan. Ta hãy xin cho được sống xứng đáng là con cái Chúa”. Vậy lúc này đây, các em hãy dâng lên Chúa quyết tâm sống thật tốt, thật xứng đáng là con Thiên Chúa qua cuộc sống của mình. Cụ thể là luôn biết yêu thương, thảo hiếu trong gia đình, biết hoà nhã khiêm tốn đối với mọi người chung quanh, và biết chăm chỉ siêng năng học hành nơi trường lớp. Có như thế, các em mới có thể được nghe Chúa nói với mình: “Đây là cu Tí, cu Tèo; đây là bé Na, bé Ni yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về các con… Ta rất vui và rất yêu thương tất cả các con…”. Chứ không phải nghe lời Chúa nói: “Đây là con yêu…quái của Ta; Ta… buồn lòng về nó”.
Các em thích nghe câu nào? Câu thứ nhất hay câu thứ hai? Tất nhiên là câu trên rồi. Vậy thì các em hãy biết sống xứng đáng là người con ngoan của Chúa nhé!
8. Đức Giêsu chịu phép rửa--Lm PX. Vũ Phan Long
Giống như nơi Đức Kitô, mọi cuộc sống Kitô hữu cũng phải đi qua mầu nhiệm Vượt Qua. Mọi cuộc sống Kitô hữu cũng là hạ mình và tôn vinh.
1.- Ngữ cảnh
Do sự chọn lựa của Phụng Vụ, trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta được đọc một đoạn giới thiệu lời chứng của Gioan Tẩy Giả và một đoạn nói đến phép rửa của Đức Giêsu. Câu Lc 3,19 tách đoạn nói về Gioan Tẩy Giả với đoạn liên hệ tới Đức Giêsu, để nói về hai thời đại cứu độ. Gioan đã hoàn tất nhiệm vụ Tiền Hô. Bây giờ tới lúc Đức Giêsu thì hành sứ vụ.
2.- Bố cục
Đoạn văn có hai phần tách biệt:
1) Lời chứng của ông Gioan Tẩy Giả về Đức Giêsu (3,15-16);
2) Đức Giêsu chịu phép rửa và cuộcthần hiển (3,21-22).
3.- Vài điểm chú giải
- Đấng Mêsia (15): tức là "Đấng được xức dầu". Ít ra từ đầu thế kỷ II tCN, trong Do Thái giáo Paléttina, có kết tinh một nỗi niềm chờ mong Đấng Mêsia. Lời sấm của ngôn sứ Nathan (2 Sm 7,14-17) và "những lời cuối cùng của vua Đavít" (2 Sm 23,1-17) tiết lộ lời Thiên Chúa hứa ban một vương tộc và minh nhiên qui chiếu về vua Đavít lịch sử như là "đấng được xức dầu" của Thiên Chúa Giacóp. Xem Tv 18,51; 89,39.52; 132,10.17.
- Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến (16): Dịch sát là "Đang đến Đấng mạnh hơn tôi". Tác giả Luca nhấn mạnh đến động từ "đang đến" (HL. erchetai) đặt ở đầu câu; ngài đã lấy lại Mc 1,7, nhưng bỏ cụm từ "sau tôi". Đây là một gợi ý tới bản văn Ml 3,1.23.
- tôi không đáng cởi quai dép (16): Hành vi này là nhiệm vụ của một nô lệ. Tập tục được thực thi như sau: người chủ đi dự một cuộc tiếp tân, có một nô lệ đi theo; vào phòng, người chủ phải cởi dép; khi đó, người nô lệ quỳ xuống (x. Mc 1,7) để tháo quai dép cho ông (x. Mc và Lc); và trong suốt cuộc tiếp tân, người nô lệ phải xách dép của chủ (x. Mt 3,11). Trong truyền thống kinh sư Do Thái, các kinh sư cấm môn đệ làm việc này cho thầy mình. Hình ảnh ông Gioan dùng nêu bật vị trí thấp kém của ông trong quan hệ với Đức Giêsu, Đấng mạnh hơn.
- phép rửa trong Thánh Thần và lửa (16): Nước có ý nói về nghi thức bên ngoài, thực hiện trên thân xác; còn lửa là biểu tượng diễn tả sự biến đổi bên trong tâm hồn. Trong khi nước chỉ đạt tới bề mặt của các sự vật, thì lửa thấm sâu vào, thanh luyện, soi sáng, đốt cháy. Trong phép rửa Đấng Mêsia thiết lập, người ta sẽ không gặp được thứ lửa nào ngoài thứ lửa của Thánh Thần, bởi vì chính Người thánh hóa các tâm hồn.
Dựa theo Mt 3,11, ta phỏng đoán rằng rất có thể ông Gioan Tẩy giả lịch sử đã không nói đến phép rửa trong Thánh Thần, nhưng là phép rửa trong "gió [khí]", như thế để cho từ "lửa" vẫn giữ được ý nghĩa "lửa Phán xét" trong suốt bản văn. Sau đó, các Kitô hữu đã đọc lại và đã giải thích lại "gió [khí]" như là làn hơi Thánh Thần: đọc như thế cũng là hợp lý, bởi vì trong tiếng Híp-ri cũng như tiếng Hy Lạp, một từ ngữ duy nhất (Hp. ruâh, HL. pneuma) được dùng để chỉ gió và Thần Khí. Như vậy, hẳn là ông Gioan Tẩy Giả đã nói đến một phép rửa "trong gió [khí] và lửa" Phán xét, nhưng chẳng bao lâu (có khi là ngay lúc còn đang truyền khẩu), các Kitô hữu đã hiểu các lời này như loan báo một phép rửa "trong [Thánh] Khí hoặc Thánh Thần và lửa" của Lễ Ngũ Tuần.
Cũng cần nói rằng không nên giới hạn tầm mức lời ông Gioan nói vào phép rửa mà thôi. Cần phải thấy đó là mọi cuộc thông ban Thánh Thần do Đức Giêsu thực hiện, hoặc bằng phép rửa Kitô giáo, hoặc bằng bí tích thêm sức, hoặc bằng cách nào khác: Lc 12,49 (Đức Giêsu ném lửa xuống thế gian); Cv 1,4-5 (điều Chúa Cha đã hứa); 2,1-4 (lưỡi lửa).
Nhưng cũng vẫn có nghĩa là lửa Phán xét. Chúng ta bị đặt giữa hai ngọn lửa: lửa Thánh Thần và lửa của cơn giận không tắt. Bởi vì Đấng Mêsia sẽ là Thẩm Phán (x. cc. 17-18).
- đang khi Đức Giêsu cầu nguyện (21): Đối với tác giả Luca, việc cầu nguyện lấp đầy cuộc đời Đức Giêsu (5,16; 6,12; 9,18.28-29; 11,1; 22,32-41.44), nên vào lúc đặc biệt này, Người cầu nguyện là việc tự nhiên. Nhưng tác giả TM ghi nhận như thế còn là để nói về mục tiêu của việc cầu nguyện (Lời cầu nguyện của người Kitô hữu chủ yếu hệ tại việc cầu xin Thiên Chúa ban Thánh Thần [x. 11,13]), và nói về liên hệ giữa cầu nguyện trong cộng đoàn và ơn Thánh Thần (x. Cv 4,31).
- trời mở ra (21): Người ta chờ đợi vào thời cuối cùng, trời mở ra, vì lâu nay vẫn đóng lại (Is 64,1). Đức Giêsu là nơi Thiên Chúa hiện diện trên mặt đất, là Bết-Ên ("Nhà Chúa") của giao ước mới (Ga 1,51; x. St 28,17).
- Thánh Thần ngự xuống (22): Đức Giêsu có Thần Khí bởi vì Người đã được cưu mang bởi Thần Khí (1,35) Người sẽ nhận Thần Khí tứ Chúa Cha khi đã được nâng lên bên hữu Cha (Cv 2,33), và bây giờ Người đang nhận Thần Khí. Không phải là Thần Khí chỉ được ban cho Đức Giêsu theo mức độ tiệm tiến, nhưng vào những giờ phút quan trọng trong cuộc đời Người, ta lại thấy Người có Thần Khí một cách mới. Chính Thiên Chúa quyết định về sự biểu lộ này.
Dựa vào truyền thống của cộng đoàn tiên khởi, tác giả Luca coi biến cố Thánh Thần đến trên Đức Giêsu vào dịp Người nhận phép rửa như là việc "xức dầu", việc Người được tấn phong làm "Đấng được xức dầu" (Cv 10,37-38; Lc 4,18; x. Is 61,1). Lời nói từ trời xác minh điều này, khi trích Tv 2 mà áp dụng cho Đức Giêsu.
- Con là Con của Cha; ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con (22): Đây là c. 7 của Tv 2. Bài này là một Thánh vịnh vương giả được khoa chú giải Do Thái giải thích như là một Thánh vịnh về Đấng Mêsia. Khi áp dụng c. 7 vào phép rửa của Đức Giêsu, đặc điểm vương giả bị mờ nhạt đi; nhưng đây đúng là một lễ tấn phong (ký thác và thừa nhận vào một nhiệm vụ cao cả do Thiên Chúa ủy nhiệm) và là một lễ tấn phong thiên sai (theo một nghĩa khá tổng quát: sứ mạng cứu thế).
4.-Ý nghĩa của bản văn
* Lời chứng của ông Gioan Tẩy Giả về Đức Giêsu (15-16)
Theo lời chứng của vị Tẩy Giả, Đức Giêsu không những là "Đấng đang đến", mà còn là "Đấng mạnh hơn"; Người như là một nhà cải cách đầy lửa, tương tự ngôn sứ Êlia. Gioan đã so sánh phẩm giá hai nhân vật mà dân chúng có thể lầm: bản thân ông và Đức Giêsu. Ông còn bất xứng hơn một tên nô lệ trong việc phục vụ chủ. Giữa phép rửa ông thực hiện và phép rửa của Đức Giêsu cũng thế: phép rửa của ông chỉ là một phép rửa trong nước, là một nghi thức tượng trưng để giúp diễn tả các tâm tình thống hối; còn phép rửa của Đấng Mêsia là một cuộc tuôn đổ Thánh Thần, có khi chẳng cần rửa bằng nước; và ngay khi nghi thức bên ngoài là một việc rửa bằng nước (phép rửa Kitô giáo), thì cũng vẫn là bên trong tâm hồn mà Thánh Thần đi sâu vào như lửa.
* Đức Giêsu chịu phép rửa và cuộc thần hiển (21-22)
Tác giả Lc không nói ai đã ban phép rửa cho Đức Giêsu. Đứng về phương diện văn chương, ngài có thói quen kể xong một truyện rồi mới sang truyện khác: ở cc. 19-20, ngài kết thúc truyện về Gioan Tẩy Giả bằng thông tin là ông này đã bị tiểu vương Hêrôđê bỏ tù. Do đó, khi nói đến phép rửa của Đức Giêsu, tác giả đành im lặng về người ban phép rửa (Không lẽ Gioan ra khỏi nhà tù để ban phép rửa rồi vào tù lại?!). Tuy nhiên, chính bản văn cũng cho thấy là ngài không quan tâm nhiều đến điểm này: ở c. 21, ngài chỉ nhắc đến phép rửa của Đức Giêsu trong một mệnh đề chỉ thời gian mà thôi, có vẻ như đồng hóa sự kiện Đức Giêsu chịu phép rửa vào sự kiện toàn dân chịu phép rửa. Dù sao, Đức Giêsu đã chịu phép rửa: vậy sứ mạng của vị Tiền Hô đã kết thúc. Chắc chắn tác giả ý thức về tình liên đới của Đức Giêsu đối với những người tội lỗi hoán cải; nhưng ngài không triển khai ý tưởng này. Ngài hoàn toàn chú ý đến ân ban Thánh Thần, và đặt biến cố này ở trung tâm bài tường thuật. Ngài không mô tả phép rửa, nhưng mô tả cuộc thần hiển. Ngài nhấn mạnh trên tính hiện thực bên ngoài của việc Thần Khí ngự đến: thay vì nói "Thánh Thần, như chim bồ câu", ngài nhấn mạnh: "Thánh Thần, dưới hình dáng như chim bồ câu". Quả thật, ngài giữ lại nhiều chi tiết thuộc truyền thống: trời mở ra, Thánh Thần ngự xuống, tiếng nói từ trời. Nhưng chỉ một mình ngài ghi rằng sự can thiệp của Chúa Cha là để trả lời cho lời cầu nguyện của Đức Giêsu.
"Con là Con của Cha; ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con". Lời tuyên bố này đi trước một quãng thời gian quan trọng trong hoạt động, sứ vụ tại Galilê, của Đức Giêsu, như được trình bày trong TM Lc. Và lời tuyên bố ở 9,35 đi trước bài tường thuật về cuộc hành trình lên Giêrusalem. Trong cả hai cảnh, lời xác nhận từ trời nêu bật quan hệ của Đức Giêsu với Cha Người, mỗi khi bắt đầu một giai đoạn trong hoạt động trần thế của Người.
+ Kết luận
Được đầy sức mạnh Thánh Thần, được chuẩn nhận trong ý thức về Người là Con yêu dấu của Thiên Chúa, luôn hiệp thông đặc biệt Cha, Đức Giêsu vĩnh viễn lãnh nhận sứ mạng bắt tay vào công trình cứu độ, đùng theo chương trình của Thiên Chúa đã được phác ra trong Kinh Thánh.
Được tác giả Lc kể lại ngay tại ngưỡng cửa của sứ vụ công khai của Đấng Cứu Thế, bài tường thuật này cho thấy kể từ nay, phải hiểu cuộc sống công khai của Đức Kitô dưới ánh sáng này. Với biến cố Thánh Thần được ban xuống, Con Thiên Chúa bước vào cuộc đời nhân loại, ta thấy thời đại cánh chung đã bắt đầu, Nước Trời đã được khai mạc.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Một ngày nào đó, Đức Giêsu "sẽ ban phép rửa trong Thánh Thần và lửa". Nhưng trong khi chờ đời, Người phải hạ mình xuống nhận phép rửa bằng nước của ông Gioan Tẩy Giả. Mọi cuộc sống Kitô hữu cũng phải đi qua mầu nhiệm Vượt Qua. Mọi cuộc sống Kitô hữu cũng là hạ mình và tôn vinh. Hạ mình qua việc vui tươi yêu thương chấp nhận phục vụ kẻ khác. Hạ mình trong tình trạng vô danh và nhàm chán của cuộc sống thường nhật theo gương Đức Giêsu sống tại Nadarét. Hạ mình trong cuộc chiến đấu bền bỉ chống lại tính ích kỷ tự nhiên, những khuynh hướng muốn thống trị anh chị em, ước muốn tiện nghi và xa hoa để sống lười biếng và huênh hoang.
2. Nếu chúng ta sống trung thành nếp sống con cái, ngày nào đó chúng ta sẽ được nghe Chúa Cha tuyên bố: "Con là con của Cha". Rồi Ngài sẽ đưa chúng ta vào trong cuộc sống vinh quang thâm sâu của Ngài; còn trong lúc này, Ngài sẽ ban niềm an ủi, ánh sáng, đủ mọi thứ ân huệ cho chúng ta.
3. Vào lúc Đức Giêsu chịu phép rửa, trời đã mở ra: giữa con người và Thiên Chúa, lại có thể có quan hệ thân tình. Cái hàng rào giữa Thiên Chúa và chúng ta, đã được dựng lên do tọi lỗi của loài người, này được vĩnh viễn hủy bỏ, bởi vì bây giờ có một người đang thường xuyên diện đối diện với Thiên Chúa. Trời đã đóng lại vì tội lỗi, nay lại mở ra để Thần Khí đi xuống trên một con người có khả năng đón nhận Ngài trọn vẹn. Kể từ nay, qua con người tên là Giêsu này, mọi người lại đi tới được với Chúa Cha.
4. Chính là trong khi cầu nguyện mà Đức Giêsu nhận được lời chứng của Chúa Cha và sự tỏ hiện của Thánh Thần. Đối với chúng ta cũng vậy, cầu nguyện là khoảnh khắc ưu tuyển để gặp được Chúa Cha và nhận được dồi dào hơn nữa các ân huệ của Thánh Thần.
9. Luôn sống hiếu thảo để làm vui lòng Chúa Cha-- Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Bài Tin mừng hôm nay được chia làm hai phần: Trong phần đầu: dân chúng thắc mắc và nghĩ Gio-an có lẽ là Đấng Mê-si-a. Nhưng ông đã khiêm tốn phủ nhận điều này và còn giúp họ phân biệt giữa phép rửa bằng nước sông do ông làm khác với phép rửa trong Thánh Thần và Lửa do Đấng Thiên Sai sẽ thực hiện. Trong phần hai: Khi Đức Giê-su vừa chịu phép rửa do Gio-an thực hiện thì một cuộc Thần hiện đã xảy ra: Chúa Cha giới thiệu Đức Giê-su chính là Người Con độc nhất được sinh ra trước mọi thời gian và được Chúa Cha rất mực yêu quý..
CHÚ THÍCH:
- C 15-16: +Đấng Mê-si-a: Mê-si-a trong tiếng Do thái có nghĩa là Đấng Thiên Sai. Từ Mê-si-a này mang nặng ý nghĩa về mặt chính trị ái quốc cực đoan. Mê-si-a đồng nghĩa với Chris-tos trong tiếng Hy lạp hay Ki-tô tiếng La tinh, nghĩa là “Người được Chúa xức dầu” (x. Lc 22,67; 23.3). Về sau tại An-ti-o-ki-a, lần đầu tiên các tín hữu đã được gọi là Ki-tô hữu, nghĩa là người thuộc về Đức Ki-tô (x Cv 11,26). +Cởi quai dép: Là hành vi của các nô lệ người ngọai quốc. +Làm phép Rửa trong Thánh Thần: Ở đây và trong sách Công vụ (1,5;11,16), Lu-ca phân biệt giữa phép rửa bằng nước do Gio-an thực hiện với phép rửa thanh tẩy bằng quyền năng Thánh Thần. Phép rửa mới này sẽ được khai diễn vào lễ Ngũ Tuần khi Thánh Thần lấy hình ngọn lửa hiện xuống trên đầu mỗi tông đồ hay môn đệ của Đức Giê-su. +Lửa: “Lửa” tượng trưng tác động của Chúa Thánh Thần thanh luyện tâm hồn các tín hữu, đang khi “nước” chỉ có tác dụng để tẩy rửa bên ngoài thân xác mà thôi (x. 1 Pr 1,7). Câu này tiên báo việc Chúa Thánh Thần sẽ tác động trên các tông đồ vào lễ Ngũ Tuần, tức ngày thứ mười sau khi Chúa lên trời (x. Cv 2,3-4).
- C 21-22: +Đức Giê-su cũng chịu phép rửa: Người khiêm tốn hòa nhập vào đoàn người sám hối đang xếp hàng lần lượt xuống sông Gio-đan để được Gio-an làm phép Rửa thanh tẩy cho +Đang khi Người cầu nguyện: Lu-ca thường ghi nhận những lần Đức Giê-su cầu nguyện trước các biến cố quan trọng (5,16; 6,12; 9,18.28-29). +Trời mở ra: Tin mừng Mác-cô viết: “Các tầng trời xé ra” (Mc 1,10). Còn ở đây Lu-ca viết: “Trời mở ra” có vẻ nhẹ nhàng hơn. Đức Giê-su chấm dứt thời kỳ Cựu ước của Do thái giáo và bắt đầu một kỷ nguyên mới là thời kỳ Tân ước. Từ đây trời đất đã giao hòa. Cửa Trời không còn đóng lại, nhưng đã được mở ra (x. Cv 7,56). +Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng như chim bồ câu: Chim bồ câu là hình dáng mà Thánh Thần mượn khi muốn cho người phàm xem thấy. Đây cũng là hình ảnh nhắc lại cuộc tạo dựng vào lúc khởi nguyên, báo hiệu một cuộc tạo thành mới (x. St 1,2). Trong biến cố đại hồng thủy thời No-e, chim bồ câu cũng báo trước về một thế giới mới (x. St 8,8). Cuối cùng, chim bồ câu ở đây còn bao hàm một ý nghĩa nữa là: Thần Khí đã xức dầu thiêng liêng cho Đức Giê-su (x. Cv 10,38), để tấn phong Người là Đấng Mê-si-a (x. Mt 12,18). +“Con là Con của Cha. Ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”: Đây là Lời Chúa trích trong Thánh kinh (x Tv 2,7 ; Cv 13,33 ; Dt 1,5). Qua lời này, Đức Giê-su được Chúa Cha tấn phong làm Đấng Mê-si-a và bắt đầu sứ mệnh cứu độ dân Chúa. Cũng qua câu này, Thiên Chúa mặc khải mầu nhiệm quan trọng: “Đức Giê-su là Con Một Thiên Chúa” (x. Lc 1,35).
CÂU HỎI: 1-Ý nghĩa của từ Ki-tô và Ki-tô hữu là gì? Các tín hữu của Chúa Giê-su lần đầu tiên được gọi là Ki-tô hữu tại đâu? 2-Phân biệt phép rửa của Gio-an và phép rửa tội của Đức Giê-su giống và khác nhau thế nào? 3-“Lửa” trong câu Lc 3,16 có ý nghĩa ra sao và tiên báo về điều gì? 4-Tại sao Đức Giê-su là Đấng vô tội mà lại đứng xếp hàng chung với các tội nhân để xin Gio-an làm phép rửa? 5-Câu nào cho thấy Đức Giê-su đã được Chúa Cha tấn phong làm Đấng Mê-si-a?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: “Con là Con Cha. Cha hài lòng về Con” (Lc 1,35)
2. CÂU CHUYỆN: Sức mạnh của gương sáng
Tại một bệnh viện, một bé gái được đưa vào phòng giải phẫu. Bác sĩ nói: “Cháu ạ, trước khi giải phẫu, ta phải làm cho cháu ngủ đã!” Cô bé, vốn được bà mẹ đạo đức huấn luyện từ nhỏ về thói quen cầu nguyện trước khi đi ngủ, liền đáp: “Ồ, nếu bác sĩ làm cho cháu ngủ, thì xin hãy để cho cháu được cầu nguyện trước đã”. Rồi em ngồi dậy sốt sắng cầu nguyện. Sau một phút, em nói: “Bây giờ thì bác sĩ có thể cho cháu bắt đầu ngủ được rồi đấy!” Sau đó, chính bác sĩ giải phẫu cũng âm thầm cầu nguyện khi sắp bắt tay vào việc chuyên môn gây mê và giải phẫu khối u cho em nhỏ. Đây là lần cầu nguyện đầu tiên của ông sau 30 năm xa Chúa. Không biết sức mạnh nào ở nơi cô bé yếu đuối kia đã làm khơi dậy niềm tin nơi vị bác sĩ đáng bậc cha chú của em!
3. THẢO LUẬN: Khi chịu phép rửa tội, chúng ta đã được công nhận là con yêu dấu của Chúa Cha như Đức Giê-su xưa. Người cũng truyền cho các môn đệ phải làm chứng cho Người (Cv 1,8). Vậy ngày nay các tín hữu cần làm chứng cho Đức Giê-su bằng cách nào?
4. SUY NIỆM:
1) Phân biệt hai loại phép rửa:
- Gioan Tẩy Giả đã phân biệt hai loại phép rửa với dân chúng Do Thái như sau: “Tôi rửa anh chị em trong nước, nhưng có Đấng cao trọng hơn tôi đang đến sau tôi …Nhưng Người có trước tôi, và tôi không xứng đáng cởi giây giày cho Người. Người sẽ rửa anh chị em trong Thánh Thần và Lửa”. Gioan cũng làm chứng về Ngôi vị Con Thiên Chúa của Đức Giêsu như sau: “Tôi không biết Người, nhưng Đấng sai tôi làm phép rửa trong nước phán bảo tôi: Ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, thì đó chính là Đấng làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần. Tôi đã thấy và tôi làm chứng Người Chính là Con Thiên Chúa…”
- Như vậy ta thấy có hai loại phép Rửa: Phép rửa sám hối bằng nước sông của Gioan Tẩy Giả, và phép rửa trong Thánh Thần và lửa hay bí tích rửa tội của Đức Giêsu như sau:
+ Phép rửa sám hối bằng nước sông: Đức Giêsu đã đến xếp hàng xin Gioan làm phép rửa bằng nước sông Gio-đan để được Thiên Chúa xác nhận là Đấng Thiên Sai, như Gioan Tẩy Giả đã nói: “Để Ngài được tỏ mình ra với dân Israel, nên tôi mới đến làm phép rửa trong nước”. Người chịu phép Rửa bằng nước được Gio-an dìm mình xuống dưới mặt nước bày tỏ lòng “sám hối để được ơn tha tội” (x. Mc 1,4), và được gia nhập vào đoàn ngũ những người sẽ đón nhận ơn cứu độ của Đấng Thiên Sai sắp đến ban cho.
+ Phép rửa tái sinh trong Chúa Thánh Thần: Đây là phép Rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi do Chúa Giêsu thiết lập. Trước khi lên trời, Chúa Giêsu Phục Sinh đã truyền cho các môn đệ cử hành phép rửa tội như sau: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần…” (Mt 28,18-19). Phép rửa của Chúa Giêsu ám chỉ toàn bộ công trình cứu độ bằng sự chết và phục sinh của Người như Người đã nói trước cuộc khổ nạn: “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất” (Lc 12,50). Những ai chịu phép rửa do Đức Giê-su thiết lập sẽ nhận được Thần Khí tẩy sạch mọi vết nhơ tội lỗi, sẽ được Chúa ban tặng một quả tim mới bằng thịt biết yêu thương, thay cho quả tim đã hóa ra chai đá (x. Is 44,3).
2) Phép Rửa Tội giúp loại trừ các thói hư thuộc xác thịt:
- Hôm nay Hội thánh cũng muốn nhắc lại những cam kết trong ngày chịu phép rửa tội. Qua nghi lễ thanh tẩy bằng nước, diễn tả mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh của Đức Giê-su, Hội thánh nhắc nhở các tín hữu phải chết đi cho những gì thuộc về ma quỉ, thế gian cùng các đam mê tội lỗi bất chính để cùng Người sống lại một cuộc sống mới làm con Thiên Chúa trong Chúa Thánh Thần.
- Chết đi cho các thói hư chính là lọai trừ óc bè phái cục bộ, gây chia rẽ nội bộ, thói tự cao tự đại cho mình là nhất và hay phê phán kẻ khác, thói tự ái cao không chấp nhận những góp ý phê bình của tha nhân đối với các sai sót khuyết điểm của mình. Chết đi cho những việc làm xấu xa như: tham ô hối lộ, ăn cắp của công, bóc lột người nghèo, giết người cướp của, chè chén say sưa, cờ gian bạc lận, gian tham tục tĩu, loại bỏ những ý nghĩ đen tối, những lời nói hành, “gắp lửa bỏ bàn tay người”, lên án bất công cho những kẻ mình không ưa, nói sai sự thật, thói ưa tọc mạch soi mói vào đời tư kẻ khác…
3) Phép Rửa Tội tái sinh ta làm con Thiên Chúa:
- Ngày lễ hôm nay nhắc nhở chúng ta ý thức và sống ơn gọi khi chịu phép rửa tội: Được biến hóa nên con của Thiên Chúa giống Đức Giê-su như Tin Mừng đã ghi nhận: “Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con của Cha. Ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (Lc 3,22). Như vậy, phép rửa tội không những là một lễ nghi để được ghi tên gia nhập đạo, mà còn là khởi đầu của một cuộc sống mới làm con Thiên Chúa và sẽ kéo dài trong suốt cuộc đời mỗi người tín hữu. Chúng ta phải sống thế nào để Thiên Chúa có thể xác nhận chúng ta là con thảo như đã từng xác nhận khi Đức Giêsu sau khi chịu phép Rửa của Gioan: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17).
- Vậy thế nào là một “người con yêu dấu luôn làm Chúa Cha hài lòng?:
+ Hiểu biết ý muốn của cha mình: Đức Giêsu luôn cầu nguyện kết hiệp với Chúa Cha và hiểu biết thánh ý của Chúa Cha và luôn theo ý Chúa cha. Người cũng cho các môn đệ biết: ”Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4,34). Trước cuộc khổ nạn, sau bữa Tiệc Ly, Người đã đến vườn Cây Dầu và cầu nguyện với Chúa Cha: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39).
+ Chiếu ánh sáng đức tin bằng các việc lành: chúng ta phải chiếu ánh sáng của Chúa bằng việc thăm viếng để chia sẻ và phục vụ cụ thể như lời Chúa Giêsu phán: ”Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16). Cần năng cầu nguyện với Chúa Cha với tâm tình con thơ phó thác như lời kinh Chúa dạy: ”Chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời…”
Cuộc sống của chúng ta phải biểu lộ cho người khác biết chúng ta là con Thiên Chúa như ông vua Bo-les-las nước Ba lan luôn đeo mẫu ảnh vua cha trước ngực, và luôn cầu nguyện với Chúa Cha: ”Con quyết tâm không làm điều gì bất xứng với chức vụ làm con thảo của Chúa cha”.
4) Phép Rửa giúp ta chu toàn sứ vụ làm chứng cho Chúa: Sau khi chịu phép Rửa Tội và Thêm Sức, chúng ta sẽ được thánh hóa nhờ Thần Khí của Chúa Kitô Phục Sinh. Từ đây chúng ta có bổn phận làm chứng cho Chúa Giêsu bằng các việc như sau:
+ Làm chứng bằng một cuộc sống hiếu thảo luôn làm hài lòng Thiên Chúa như Đức Giê-su (x Mt 3,17): Mỗi tín hữu cần năng kết hiệp bằng sự đọc kinh cầu nguyện sớm tối; Dành ra thời gian để đọc một đoạn Lời Chúa rối suy niệm để tìm hiểu ý Chúa muốn cho mình phải làm gì và cầu xin Chúa giúp thực hành theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giêsu (x Dt 10,9; Mt 26,39); Cần ý thức phải tích cực góp phần xây dựng xã hội mình đang sống trở nên “Trời Mới Đất Mới” (Kh 21,1-4), nghĩa là ngày một an tòan sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn…
+ Làm chứng cho Đức Giê-su là không phải lúc nào cũng nói về Chúa, nhưng là luôn sống đức tin bằng việc thực hành đức cậy và chiếu sáng đức ái qua cách ứng xử với tha nhân: Câu chuyện bé gái sắp bị mổ đã yêu cầu được một phút cầu nguyện với Chúa, đã có sức lay động đức tin chai đá nguội lạnh của viên bác sĩ giải phẫu đã bỏ cầu nguyện trong nhiều năm.
+ Làm chứng bằng việc quyết tâm loại bỏ con người cũ xác thịt bằng cách xin ơn Thánh Thần luôn làm theo gương mẫu và lời dạy của Đức Giêsu như thánh Phao-lô đã viết: "Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa" (Cl 3, 1-2).
+ Làm chứng bằng việc chu tòan sứ vụ loan báo Tin Mừng, nghĩa là làm cho “danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” (Mt 6,9-10), bằng lời nói việc làm chia sẻ quảng đại và khiêm tốn phục vụ những kẻ bệnh tật hoặc bị bỏ rơi… Nhờ đó anh em lương dân sẽ dễ dàng nhận biết tin yêu Chúa như Đức Giêsu đã dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho chúng con học tập nơi Chúa nhân đức hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Xin cho chúng con luôn biết nhận ra những thiếu sót và lầm lỗi của mình để tu sửa đời sống. Xin cho chúng con tránh cố ý nổi trội hơn anh em nhưng luôn chọn những gì nhỏ hơn tha nhân về quyền lợi địa vị, nhưng nhiều hơn anh em về trách nhiệm phục vụ. Xin cho chúng con luôn ăn nói khiêm tốn nhỏ nhẹ, tránh la mắng to tiếng với người dưới, cho chúng con biết nói ít làm nhiều như Gioan đã nói: “Người cần phải lớn lên còn tôi phải nhỏ bé đi”... Nhờ đó, “hữu xạ tự nhiên hương”: qua chúng con, anh em lương dân sẽ nhận biết yêu mến Chúa để cùng được chia sẻ niềm vui ơn cứu độ trong gia đình Hội Thánh với chúng con.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
10. Lễ Chúa Chịu Phép Rửa – ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Vũ Khắc Nghiêm
Ba bài đọc lời Chúa hôm nay diễn tả rất phong phú về Đức Giêsu chịu phép rửa. Đức Giêsu không chỉ chịu phép rửa của Gioan, mà còn chịc phép rửa của Thánh thần, phép rửa của Chúa Cha.
1/ Đức Giêsu chịu phép rửa của Gioan: Người chịu phép rửa của Gioan để biểu lộ mầu nhiệm nhập thể, một phép rửa tự hạ mình xuống, tự hủy mình đi. Người là Ngôi Hai Thiên Chúa đã hạ mình xuống làm thân phận loài người, hòa mình với toàn dân, sống trong kiếp người, mang lấy ách đau khổ và tội lỗi của toàn dân, cùng chịu phép rửa với toàn dân không phân biệt già trẻ, nam nữ, Hy lạp hay Do thái, nô lệ hay tự do, người cùng sống với họ rất từ tốn, không kêu to lớn tiếng, chẳng ai nghe thấy người lên tiếng giữa đường phố. Cây sậy bị dập Người không đành bẻ gẫy; tim đèn leo lét, Người chẳng nỡ tắt. Đức Giêsu chịu phép rửa của Gioan là để hoàn toàn hội nhập vào hàng ngũ loài người.
2/ Đức Giêsu chịu phép rửa của Thánh Thần: Một phép rửa trong tình yêu. Tình yêu của Thánh thần đã thúc đẩy Đức Kitô cảm thông được sức ép kinh khủng của tội lỗi, của đau khổ đè nặng trên loài người, khiến Người thốt lên những lời cầu nguyện tha thiết với Thiên Chúa, có sức làm cho trời mở ra và Thánh thần ngự xuống trên Người để Người trở nên tôi trung được Thiên Chúa nâng đỡ, thành người được Thiên Chúa tuyển chọn, và Thiên Chúa hết lòng quý mến, tấn phong ban sức mạnh phi thường cho Người. Nhờ sức mạnh Thánh thần tình yêu, Đức Giêsu đi đến đâu thi ân giáng phúc tới đó, chữa lành mọi kẻ bị quỷ ám, bị tội lỗi kiềm chế, mở mắt cho kẻ mù lòa, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ, khỏi ngục những kẻ ngồi trong tối tăm và làm phép rửa cho anh em bằng Thánh thần và bằng lửa.
3/ Đức Giêsu chịu phép rửa của Chúa Cha: Sức mạnh lời cầu nguyện của Đức Giêsu đã vang dội tới trời khiến từ trời phán ra: “Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”. Ngày hôm nay Đức Giêsu đã chịu một phép rửa cực kỳ quan trọng mà sau này trên đường hành trình lên Giêrusalem Người đã tỏ ra cho các môn đệ biết: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất và Thầy đã ước mong cho lửa ấy đã cháy bùng lên! Thầy còn một phép rửa phải chịu và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất” (Lc. 12, 49-50). Ngày hôm nay Đức Giêsu được Chúa sinh ra làm Đấng Cứu thế, Đấng Mêssia muôn dân mong đợi, Người bắt đầu lãnh trách nhiệm cứu độ muôn dân để thi hành sứ mệnh cao cả đó, Người phải chịu một phép rửa bằng máu trên Thánh giá, bằng hy sinh chịu đau khổ, dìm mình trong sự chết, để chỗi dậy trong sự sống vinh quang của Thiên Chúa, làm Con chí ái đời đời ngự bên hữu Chúa Cha.
Toàn diện cuộc đời Đấng Cứu thế là một phép rửa từ khi nhập thể, ẩn dật, giảng đạo đến tắt hơi thở trên thập giá. Phép rửa này được Thánh Phaolô đã suy niệm và viết lại cho giáo đoàn Philipphê và chúng ta chiêm ngắm: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết phải duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế, Người còn lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người trổi vượt trên mọi danh hiệu, như vậy khi vừa nghe Danh thánh Giêsu cả trên trời, dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Phip. 2, 6-11).
Lạy Chúa, mỗi người chúng con được rửa trong nước và Thánh thần, nhưng đời sống của chúng con chưa thực hiện được ơn phép rửa mà chúng con đã lãnh nhận. Xin cho chúng con biết tự hạ mình xuống sống khiêm tốn để thanh tẩy tính kiêu ngạo tự phụ, biết sống yêu thương để chia sẻ vui buồn với mọi người, nhất là những người đau khổ, biết sống hy sinh vác thập giá mình để tham dự phép rửa bằng máu của Đức Giêsu đem lại ơn cứu độ cho những anh em chưa tin Chúa.
11. Tình yêu cứu thế – Thiên Phúc--‘Như Thầy Đã Yêu’
Một vị quan lớn mở tiệc mời nhiều người đến dự. Tất cả các người được mời đều ăn mặc sang trọng và dùng xe đi đến. Trong số ấy có một người khách già. Rủi thay, vì già yếu nên ông cụ này khi xuống xe đã trượt chân té vào vũng bùn. Khách đến dự tiệc thấy vậy phá lên cười.
Xấu hổ và cảm thấy mình không xứng đáng, ông quyết định quay về. Gia nhân nài nỉ cách mấy ông cũng không chịu ở lại dự tiệc. Khi đó vị quan chủ tiệc bước ra sân, đi tới chỗ vũng nước đó, rồi cũng cố tình té ngã vào vũng nước. Thế là áo quần của ông quan cũng dơ dáy y như cụ già kia. Mọi người chung quanh chẳng ai dám cười nhạo nữa. Sau đó, vị quan lớn cầm tay ông cụ đưa vào phòng tiệc. Ông cụ chẳng còn lý do nào để chối từ.
Chỉ có hành động cố tình té ngã của vị quan lớn kia, mới có thể đưa ông cụ vào bàn tiệc.
Con Thiên Chúa trên tầng trời cao thẳm, lại hạ mình xuống làm kiếp phàm nhân.
Đấng thánh thiện vô cùng, lại khiêm nhu đứng xếp hàng bên những tội nhân.
Đấng xóa tội trần gian, lại hòa mình trong đoàn người tội lỗi.
Đấng thanh sạch vô biên, lại chịu dìm mình trong dòng sông sám hối.
Đấng sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần, lại xin chịu phép rửa của Gioan.
Chính hành vi rất mực khiêm hạ của Đấng Cứu Thế đã cho thấy tình yêu sâu nặng của Thiên Chúa dành cho con người.
Chính thái độ tự hủy tột cùng của Đấng Cứu Thế đã cho thấy tình yêu dấn thân của Thiên Chúa đối với con người cát bụi chúng ta.
Vâng, chính Thiên Chúa đã có sáng kiến tuyệt vời là tình nguyện hóa thân làm kiếp phàm nhân:
Để chia sẻ thân phận đói nghèo, khổ đau, bệnh hoạn của con người.
Để nếm cảm nỗi ray rứt khắc khoải của tội nhân.
Để thấu hiểu niềm khao khát đổi mới trong lòng người tội lỗi.
Vâng, chính Con Thiên Chúa đã thực hiện những phép lạ thật ngoạn mục ngay trước mắt con người,
Người đã muốn nên anh em với chúng ta để chia sẻ những gì Người đã nhận từ Cha: “Mọi sự của Cha là của Con”.
Người đã muốn chung phận con người để chia sẻ phận Con Thiên Chúa: “Phàm là con cái thì chung huyết nhục, nên Người cũng chung phần huyết nhục với chúng ta”.
Người đã muốn chung phần khổ đau, để có thể cứu giúp những ai đau khổ: “Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách”.
Chiêm ngắm Đấng Cứu Thế cúi mình chịu phép rửa, chúng ta hiểu được thế nào là tình yêu: Một tình yêu vui lòng tự hủy để cùng đồng hành với anh em cho đến cùng, một tình yêu sẵn sàng chia sẻ trọn vẹn cho anh em, một tình yêu chấp nhận cúi xuống để nâng anh em trỗi dậy cùng bước về nhà Cha.
Chiêm ngắm Đấng Cứu Thế là cầu nguyện với Cha nơi dòng sông Giocđan, chúng ta hiểu được thế nào là hiệp thông: Chính trong giây phút hiệp thông sâu đậm này mà Người cảm nhận được đầy tràn Thánh Thần và nghe được tiếng Cha âu yếm: “Con là Con của Cha. Hôm nay, Cha đã sinh ra Con”.
Ngày nay, chúng ta đã chịu phép rửa của Đức Kitô trong Thánh Thần, chúng ta được mời gọi hiệp thông thân mật với Ba Ngôi chí thánh, chúng ta cũng được mời gọi lên đường phục vụ anh em, nhất là những anh em đang cần một tình yêu chia sẻ, đỡ nâng và trao ban trọn vẹn: Tinh yêu cứu thế!
Lạy Chúa, trong con mắt Chúa chúng con là tất cả. Xin cho chúng con luôn nhìn anh em bằng cái nhìn của Chúa, và yêu thương anh em chúng con bằng tình yêu trọn vẹn của Người. Amen.
12. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Chúa Giêsu bắt đầu cuộc sống công khai bằng biến cố chịu phép rửa bởi thánh Gioan Tẩy Giả. Phép rửa thánh Gioan và của Chúa Giêsu có gì giống nhau và khác nhau không? Tại sao Chúa Giêsu lại chịu phép rửa bởi Thánh Gioan?
Từ lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa gợi nhớ về nhiệm vụ của chúng ta khi lãnh nhận bí tích Rửa tội. Đó là mấy điểm tôi muốn gợi ý suy niệm trong bài chia sẻ hôm nay.
1. Phép Rửa của Thánh Gioan và của Chúa Giêsu giống và khác nhau thế nào?
Cả hai phép rửa đều có sự giống nhau vì: cả hai đều dùng nước để nói lên ý nghĩa của sự thanh tẩy tội lỗi. Cả hai đều đòi buộc người lãnh nhận phải thực tâm sám hối tội lỗi và sống công chính.
Nhưng phép rửa của Gioan không phải là bí tích, mà chỉ là cử chỉ tỏ lòng thống hối. Cho nên, phép rửa của Gioan không tất yếu phát sinh hiệu quả tha tội. Còn phép rửa của Chúa Giêsu là một bí tích: tha tội tổ tông truyền và các tội riêng cho người lãnh nhận.
2. Tại sao Chúa Giêsu chịu phép rửa bởi Thánh Gioan?
Chúa Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng vô tội. Ngài không cần phải sám hối. Nhưng tại sao Ngài vẫn theo dòng người đến dòng sông Giođan để xin Gioan làm phép rửa?
Lý do thứ nhất, Chúa Giêsu muốn sống tinh thần khiêm hạ. Hành động khom người xuống để chịu phép rửa của Gioan là cử chỉ hạ mình xuống thấp như những người tội lỗi khác. Ngài vô tội nhưng đã hoà mình vào những người có tội. Hành động này chỉ có thể hiểu được khi chúng nhìn dưới góc độ của tình yêu: yêu cho nên hạ mình, yêu cho nên “hy sinh cho người mình yêu”. Thánh Phaolô đã nói: “Đức Giê-su Ki-tô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2,6-7).
Lý do thứ hai, Ngài làm thế là để thống hối thay cho tội lỗi nhân loại. Trong thực tế cuộc sống, chúng ta thấy Cha mẹ có thể xin lỗi hay đền tội thay cho con cái. Giáo hội có thể xin lỗi hay đền tội thay cho các tín hữu. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã công khai xin lỗi thế giới hơn 100 lần về những tội lỗi của Giáo hội, của các kitô hữu gây nên. Mặc dầu Cha mẹ hay Đức Giáo Hoàng không mang những thứ tội đó, nhưng các ngài đã xin lỗi, sám hối thay cho con cái của mình.
Cũng vậy, mặc dầu vô tội, nhưng Chúa Giêsu đã chấp nhận chịu nạn chịu chết trên thập giá để nhằm mục đích cứu độ loài người tội lỗi. Noi gương Chúa Giêsu, Thánh Marxilianô Kolbê cũng đã chết thay cho người tử tù vì tình yêu. Và rất nhiều người khác chết thay cho kẻ thuộc về mình: Cha mẹ chết thay cho con cái: Vợ chồng chết thay cho nhau. Các ngài làm thế không phải mình mang tội nhưng là gánh tội của người khác.
Lý do thứ ba, Ngài muốn giống như chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi. Công đồng Vatican II viết rằng: Ngài “đã làm việc với đôi tay con người, đã suy nghĩ bằng trí óc con người, đã hành động với ý chí con người, đã yêu thương bằng quả tim con người. Sinh bởi Trinh Nữ Maria, Người đã thực sự trở nên một người giữa chúng ta, giống như chúng ta trong mọi sự, ngoại trừ tội lỗi” (Gaudium et Spes, 22). Cho nên, khi dòng người đương thời nghe lời Gioan Tẩy Giả để lãnh nhận phép rửa sám hối, thì chính Ngài không muốn mình ở ngoài cuộc. Ngài muốn đồng hành với con người trong mọi biến cố vui buồn, ngoại trừ tội lỗi.
Lý do thứ tư, Ngài muốn làm theo ý Chúa Cha. Cha mẹ nào cũng cảm thấy vui khi con cái làm theo ý của mình. Chúa Giêsu lãnh nhận phép rửa của Gioan, là làm theo ý Chúa Cha. Ngài đã làm vui lòng Chúa Cha. Bằng chứng là khi Chúa Giêsu vừa chịu phép rửa tội xong thì cửa trời rộng mở, tiếng Chúa Cha phán: “Này là con ta yêu dấu, đẹp lòng ta mọi đàng”(Lc 3,22).
3. Nhiệm vụ của chúng ta khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội
Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa gợi nhớ về Bí tích Rửa Tội của chúng ta. Vì tình thương, Chúa Giêsu đã lập nên Bí tích Rửa Tội để tha tội cho chúng ta. Đây là Bí tích cần nhất. Bởi vì, chỉ có người đã lãnh nhận Bí tích này mới có thể lãnh nhận các Bí tích khác. Vì vậy, Giáo lý Hội Thánh Công Giáo gọi Bí tích Rửa tội là “lối dẫn vào các bí tích khác”(x. số 1213). Thật vậy, nhờ bí tích Rửa Tội, chúng ta mới có thể lãnh nhận Bí tích Giao Hoà, Bí tích Thánh Thể, Bí tích Xức dầu…
Nhờ Bí tích Rửa Tội chúng ta không những được tha tội nguyên tổ và tất cả các tội lỗi của bản thân, mà còn được sinh ra trong sự sống mới, nhờ đó chúng ta trở thành nghĩa tử của Chúa Cha, là chi thể của Chúa Kitô, là đền thờ Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, người lãnh nhận Bí tích Rửa Tội được nhập vào Giáo Hội, Thân Thể Chúa Kitô, và được tham dự vào chức tư tế của Chúa Kitô(x. GLHTCG số 1279). Vì vậy, Thánh Grêgôriô Naz gọi “Bí tích Rửa Tội là hồng ân đẹp nhất và tuyệt nhất trong các hồng ân của Thiên Chúa”.
Nhưng quyền lợi đi đôi với bổn phận. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, Giáo Hội mời gọi chúng ta: Từ bỏ tà thần, tuyên xưng Đức Tin. Từ bỏ tà thần tức là từ bỏ tội lỗi, từ bỏ những quyến rũ bất chính và từ bỏ ma quỷ. Chúng ta thường gọi là: ma quỷ, thế gian và xác thịt. Giáo Hội cũng mời gọi chúng ta tuyên xưng đức tin, đó là những điều chúng ta đã tuyên xưng trong Kinh Tin Kính. Nhưng Đức Tin không chỉ tuyên xưng ngoài môi miệng mà còn phải thể hiện bằng những hành động cụ thể, vì như Thánh Giacôbê nói “Đức Tin không việc làm là Đức Tin chết”(Gc 2,17).
Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, Giáo Hội còn trao cho chúng ta chiếc áo trắng và ngọn nến sáng: chiếc áo trắng là tượng trưng cho sự trong sạch tâm hồn; ngọn nến sáng là tượng trưng cho Đức Kitô, Đấng là nguồn mạch ánh sáng. Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy gìn giữ tâm hồn trong sạch, hãy gìn giữ ngọn lửa Đức Tin luôn luôn chiếu sáng cho tới khi ra trước toà Chúa Kitô để chúng ta được sống muôn đời.
Vậy, chúng ta hãy kiểm điểm xem: chiếc áo vị linh mục trao cho chúng ta trong ngày rửa tội, nay có còn trong trắng nữa không? Ngọn lửa Đức Tin có còn cháy sáng nữa không? “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17). Đó là lời xác nhận của Chúa Cha về Chúa Giêsu. Ước gì Chúa Cha cũng xác nhận về chúng ta như vậy.
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con làm con Chúa qua Bí tích Rửa Tội. Xin cho mỗi người chúng con biết trung thành với những lời thề hứa trong ngày lãnh nhận Bí Tích này và cố gắng gìn giữ sự trong trắng của chiếc áo chúng con đã lãnh nhận và gìn giữ ngọn đèn Đức Tin luôn luôn cháy sáng để chúng con được hưởng hạnh phúc muôn đời với Chúa trên Thiên đàng. Amen.
13. Chúa chịu phép rửa
Đoạn Tin Mừng vừa nghe cho chúng ta thấy Chúa Giêsu xuất hiện như là vị cứu tinh của thời đại mới. Gioan lúc này đang làm phép rửa thống hối. Dân chúng đã từng thắc mắc về ông và tự hỏi: Ông có thể là vị cứu tinh của dân tộc, là Đấng Messia từng được mong đợi hay không? Nhưng chính Gion đã trả lời thắc mắc của dân chúng bằng cách giới thiệu Chúa Giêsu trong chính sứ vụ của Người. Đang khi ông chỉ là người làm phép rửa trong nước, thì Chúa Giêsu lại là người làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần và trong lửa. Lời giới thiệu của Gioan cho chúng ta thấy là thời đại cũ, thời chuẩn bị, thời tìm đường đã chấm dứt và thời mới, thời chính yếu đang đến.
Ở đây Chúa Giêsu đã không chỉ được giới thiệu bởi Gioan mà còn bởi chính Thiên Chúa Cha qua sự kiện siêu phàm: Trời mở ra, Chúa Thánh Thần ngự xuống và tiếng phán từ trời. Người ta quan niệm rằng sau khi con người phạm tội thì trời và đất như đóng kín lại với nhau. Thiên Chúa Chúa không còn đi lại gần gũi với dân của Ngài như ngày xưa nữa. Nay với Chúa Giêsu, thì trời không còn khép kín, nhưng đã được mở ra như một điều kiện dọn đường cho Thánh Thần ngự xuống. Hình ảnh gợi lên cho chúng ta lòng mơ ước của dân Chúa vào thời cứu chuộc, thời Thiên Chúa sẽ xé trời mà xuống.
Trong bối cảnh này trời mở ra, tức là giờ khai mạc thời đã được loan báo xưa kia, bây giờ đã đến, một giao ước mới bắt đầu dưới quyền lực của Thánh Thần. Trời không còn đóng kín nữa. Thời của những kỳ công cho dân Chúa lại xuất hiện, mở ra do ý muốn của Thiên Chúa, mà bí ẩn siêu việt của Ngài để thiết lập quan hệ Cha-con với dân của Ngài, điều dân Chúa mong đợi nay đã đến với Chúa Giêsu.
Thánh Luca đã ý nhị đặt Chúa Giêsu ở giữa dân của Người, để Người ở đâu thì có dân của Người ở đó. Chúa Giêsu vô tội nhưng lại ở giữa những kẻ xưng thú tội lỗi mình. Hình ảnh Chúa Giêsu là tôi tớ Giavê, Đấng gánh tội trần gian thật là rõ nét ở đây.
Sau cùng với sự kiện Chúa Thánh Thần hiện xuống và tiếng nói xuất phát từ trời: Này là Con Ta yêu dấu. Tất cả đã nói lên một sự tấn phong, công nhận Người là Con Thiên Chúa, cũng như là Đấng cứu thế muôn dân mong đợi, và rồi từ đó, khởi đầu cho sự nghiệp và công trình của Người.
Là Kitô hữu, cùng với bí tích Rửa tội và bí tích Thêm Sức, chúng ta đã thực sự dấn thân để xây dựng một thời đại mới, một trật tự mới, để khuôn mặt Giáo Hội luôn tươi trẻ và công cuộc cứu chuộc của Đức Kitô được luôn tiếp diễn hay không?
14. Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa
Tham dự phụng vụ hôm nay, Thánh sử Luca mời gọi chúng ta hướng nhìn về Chúa Giêsu, để chúng ta sống giống như Chúa Con, "đẹp Lòng Chúa Cha". Đầu tiên, chúng ta thấy Chúa Giêsu sống khiêm nhường, sống giống mọi người. Trước khi dìm mình trong nước để nhận lãnh phép rửa từ tay thánh Gioan Tẩy Giả, Chúa Giêsu đã nhập đoàn dân chúng giống y như mọi người, khiêm tốn và chia sẻ với mọi người nhu cầu sám hối và thanh tẩy. Con đường của Chúa Giêsu đi cũng là con đường của tất cả mọi người chúng ta. Chúa Giêsu trở thành người và sống như mọi người, sống giữa mọi người.
Kế đến, Chúa Giêsu cho thấy việc thanh tẩy là hình bóng của bí tích rửa tội mà chúng ta lãnh nhận. Tuy nhiên, nghi lễ thanh tẩy của Gioan chỉ là việc tỏ lòng sám hối. Lời Gioan Tẩy Giả cho thấy bản chất của bí tích Rửa tội mà Chúa Giêsu trao ban cho con người gồm hết mọi lễ nghi thanh tẩy của Cựu Ước, bởi vì Chúa Giêsu sẽ thanh tẩy con người với Chúa Thánh Thần và lửa. Bí tích Rửa tội mà Chúa Giêsu hiện thực là lửa đốt cháy sự dữ. Nó như lửa luyện lọc và thanh tẩy lòng con người như lời tiên tri đã báo trước. Nó như nước tẩy rửa mọi vết nhơ trong tâm hồn con người, trao ban phong phú và sự sống. Và điểm đặc thù nổi bật nhất trong bí tích Rửa tội Kitô giáo, là sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, nguyên lý trao ban sự sống của Thiên Chúa cho con người.
Bên cạnh đó, Phúc Âm Luca cho thấy Chúa Giêsu là con người cầu nguyện (Lc 3, 210. Ngài cầu nguyện liên lỉ không những trước mọi biến cố quan trọng trong cuộc đời, mà trong mọi lúc cho đến chết. Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ cầu nguyện, đó cũng là cách thế Chúa Giêsu sống mối dây liên hệ yêu thương hiệp thông với Thiên Chúa Cha và với Chúa Thánh Thần.
Và sau cùng là biến cố Chúa Giêsu được thánh hiến trong sứ mệnh cứu độ ấy. Nó được diễn tả bằng lược đồ giải thích thị kiến, thường được các soạn giả Kinh Thánh dùng đến để trình bày một chủ ý thần học hay một kinh nghiệm thiêng liêng nội tâm. Thị kiến như tường thuật trong Phúc Âm là một lời giải thích biến cố Chúa Giêsu lãnh phép rửa thanh tẩy. Biến cố này minh chứng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Ngài là hiện thân toàn vẹn của Thiên Chúa. Chính trong khi Chúa Giêsu cầu nguyện, nghĩa là đối thoại thân tình với Thiên Chúa Cha mà Ngài nhận được tràn đầy Chúa Thánh Thần, Đấng đã hoạt động trong sứ mệnh cứu độ. Sau này, khi các tông đồ tiếp tục sứ mệnh ấy của Chúa Giêsu, các ông cũng sẽ được tràn đầy Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là ơn đầu tiên mà Chúa Giêsu Phục sinh trao ban cho các môn đệ và cho mọi tín hữu sau này qua bí tích Rửa tội.
Trong thư gởi cho Titô (Tt 2, 11-14; 3, 4-7) thánh Phaolô nhắc cho chúng ta biết ơn tái sinh mà Chúa Giêsu Kitô đã trao ban cho chúng ta. Ơn thánh Chúa ban giúp chúng ta tái sinh, nghĩa là có được cuộc sống mới và giúp chúng ta tiếp tục canh tân cuộc sống mỗi ngày bằng cách từ bỏ gian tà, từ bỏ các đam mê xác thịt thế gian, nghĩa là từ bỏ tất cả những gì khiến cho chúng ta xa Chúa và đánh mất đi cuộc sống mới mà Chúa Kitô đã trao ban cho chúng ta qua bí tích Rửa tội.
Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Con yêu quý của Ngài, thì chúng ta hôm nay là những người con của Chúa Giêsu, chúng ta cũng phải sống theo gương của Chúa Giêsu, để một ngày nào đó, Chúa Cha cũng xác nhận chúng ta là những người con yêu quí giống như Chúa Giêsu vậy. Trong mỗi người chúng ta, ai cũng phải làm con, rồi mới làm cha làm mẹ. Vậy thì như con cái phải làm vui lòng cha mẹ thế nào, thì chúng ta cũng phải làm vui lòng Chúa như vậy. Rồi các bậc cha mẹ ai cũng ước mong cho con cái mình sống tốt thế nào, thì chính các cha mẹ cũng phải sống tốt như vậy. Nghĩa là phải sống đức tin, sống đạo thật tốt, trung thành với các bổn phận đạo đức, trung thành với bổn phận làm người, sống yêu thương, giúp đỡ tha nhân, làm lành lánh dữ. Và như thế, là chúng ta được sống trong tình Cha con với Thiên Chúa, và Thiên Chúa sẽ nhận chúng ta là những người con yêu quí của Ngài.
Như thế, phép rửa của Chúa Giêsu nhắc nhở cho chúng ta ý thức được ơn gọi cao trọng làm con cái Chúa của mình, ơn gọi mà chúng ta đã lãnh nhận ngày chịu phép Rửa tội. Ơn gọi đó đồng thời cũng bao gồm sứ mệnh làm chứng cho Chúa giữa lòng thế giới này. Và chúng ta chỉ có thể hiện thực được nó khi biết cố gắng sống theo mẫu gương của Chúa Giêsu sống đẹp lòng Chúa Cha mà thôi.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết sống đẹp lòng Chúa Cha, chu toàn bổn phận vì tình yêu mến Chúa và luôn sống thể hiện đức ái cho mọi người, để chúng con trở nên những đứa con ngoan của Chúa. Amen.
15. Trời mở ra --Lm. Trầm Phúc
Chúa Giêsu chịu Phép Rửa chính là thánh lễ tấn phong của Chúa Giêsu. Người được Chúa Cha tấn phong là “Con yêu dấu của Chúa Cha” và được Chúa Thánh Thần xức dầu làm Đấng Mêsia, nghĩa là Đấng Cứu Thế.
Chúa Giêsu vẫn là Con Hằng Hữu của Chúa Cha, là Thiên Chúa, nhưng hôm nay, Ngài đã mặc lấy xác phàm, mặc lấy kiếp người của chúng ta, “sống như con người”, hoàn toàn là người và là Chúa. Vì thế, hôm nay Chúa Cha muốn cho mọi người biết Ngài là ai qua những dấu hiệu hữu hình.
Chính Chúa Cha đã sai Ngài đến với chúng ta, chỉ vì thương chúng ta: “Chúa Cha đã thương trần gian đến nỗi ban Con Một cho trần gian” (Thánh Gioan đã tuyên bố như thế). Ngài đến thực hiện lời đã hứa với tổ tiên chúng ta là sẽ ban một Đấng Cứu Thế. Dân Do Thái đã nóng lòng trông đợi từ bao thế kỷ, hôm nay lời hứa được thực hiện.
Chúa Cha đã từ trời xác nhận: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. Trong Thánh vịnh, chúng ta cũng đã từng đọc những lời tương tự như thế: “Con là Con của Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con”.
Trong lễ tấn phong này, chúng ta thấy trời mở ra. Đây chỉ là một cách nói để chúng ta hiểu rằng, từ nay mối liên hệ giữa trời và đất đã đổi mới. Ađam đã đóng cửa trời vì sự phản bội của mình, Chúa Giêsu mở ra bằng sự vâng phục khiêm nhu. Từ nay sẽ không còn sự sợ hãi mà là tự do.
Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu dưới hình thức chim bồ câu.
Hình ảnh chim bồ câu này được hiểu theo nhiều quan điểm nhưng không ai có thể giải thích chính xác được biểu tượng này. Chúng ta chỉ nghĩ rằng, Chúa Thánh Thần muốn gợi lên cho chúng ta rằng Ngài là nguồn mạch trong sáng của mọi sự và của mọi tâm hồn. Ngài đến trên Chúa Giêsu để chỉ rằng Ngài luôn hoạt động trong Chúa Giêsu với nét trong sáng êm đềm ngây thơ trong trắng. Chính Chúa Giêsu sẽ đem đến cho trần gian nét trong sáng của thuở ban đầu tạo dựng, khi Ađam và Evà còn trong trắng thơ ngây. Chúa Giêsu sẽ rửa chúng ta trong Thánh Thần, trả lại cho chúng ta nét trong sáng đó để chúng ta xứng đáng trở nên con Thiên Chúa. Ngài được Gioan Tẩy giả giới thiệu là “Con Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh lấy tội trần gian” đã mang tất cả tội lỗi chúng ta, dìm nó xuống dòng sông thanh tẩy, để khi bước lên khỏi dòng sông đó, chúng ta được trở nên “một tạo vật mới, được tái tạo theo hình ảnh Chúa Kitô”.
Thánh Thần bay là trên mặt nước ngày thế gian được tạo thành, hôm nay Người ngự xuống trên Chúa Giêsu để tấn phong Ngài như Đấng Cứu Độ, để bắt đầu một cuộc tạo thành mới. Từ nay chúng ta không còn sống trong tăm tối mà trong ánh sáng. Thế giới của tội lỗi sẽ bị xóa mờ và một triều đại mới xuất hiện, thời đại của ân sủng. Chúng ta nhớ những lời Chúa Giêsu đọc trong Hội đường Nadaret: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, công bố năm hồng ân”… Và chính Chúa Giêsu xác nhận: “Hôm nay, những lời các ngươi vừa nghe đã được ứng nghiệm”. Ngài tràn đầy Thánh Thần và ân sủng. Chính Thánh Thần đó và ân sủng đó cũng được ban cho chúng ta qua Chúa Giêsu.
Sứ mệnh của Chúa Giêsu là mang ơn cứu độ cho mọi người. Ngài đã được xức dầu Thánh Thần, như Thánh Kinh thường nói. Ngài sẽ đưa chúng ta từ chốn tối tăm tới ánh sáng diệu huyền.
Chúa Giêsu được rửa trong nước sông Giođan nhưng Ngài sẽ rửa mọi người trong Thánh Thần. Phép rửa tội đã được báo trước ngay khi Chúa Giêsu chịu phép rửa của Gioan.
Người tín hữu, khi chịu phép rửa tội sẽ nhận lấy cũng chính Thánh Thần đó để trở nên con Thiên Chúa. Họ được tái sinh trong ơn tha thứ, họ trở thành “một tạo vật mới trong Chúa Kitô”. Họ bước vào thế giới đầy ánh sáng Thánh Thần và sẽ bước đi trong ánh sáng đó cho đến khi đạt đến sự viên mãn cuối cùng trong Nước Thiên Chúa. Họ được Chúa Cha đón nhận như con của Người: “Hôm nay Cha đã sinh ra Con. Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con”. (Mc 1,11)
Được tấn phong làm con Thiên Chúa khi chịu phép rửa tội, người tín hữu phải sống trong trần gian với tư cách là con Thiên Chúa. Đó là điều chúng ta đều biết, nhưng hiểu thì chắc không mấy người. Vì chúng ta không hiểu được tầm quan trọng của thiên chức làm con Chúa, chúng ta không sống xứng với hồng ân đã lãnh nhận.
Khi chịu phép rửa tội, người tín hữu được thần hóa, vì đã được tháp nhập vào Chúa Kitô, trở nên một với Ngài vì Ngài là cây nho, chúng ta là cành. Cành nho chỉ sống nhờ vào gốc nho: “Cành nào không gắn liền với cây nho sẽ không sinh hoa trái… Cha Thầy sẽ cắt nó đi…” Chúng ta chỉ sống thực khi chúng ta ở trong Chúa Kitô, sống bằng chính sự sống của Ngài: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái…” Thánh Irênê đã nói một câu bất hủ: “Thiên Chúa làm người để con người làm Thiên Chúa”. Và sự thật là thế. Chúng ta hoàn toàn được thánh hóa, được nâng cao lên đến một địa vị cao cả đến nỗi chúng ta không thể hiểu được. Nhưng ai luôn tìm kiếm, Chúa sẽ cho chúng ta hiểu được phần nào, và nhờ đó chúng ta mới tin tưởng bước tới trong ơn thánh.
Chúng ta được Chúa Giêsu yêu thương: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu thương anh em như vậy. Hãy ở lại trong tình thương của Thầy”.
“Tất cả là hồng ân” và hồng ân cao cả nhất là được làm con Thiên Chúa. Hãy luôn sống trong tâm tình tạ ơn. Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu luôn cảm thấy tình thương của Chúa tràn ngập tâm hồn mình và luôn tin cậy vào tình thương đó. Nguồn gốc của linh đạo “trở nên trẻ thơ” của thánh nữ bắt nguồn từ đó.
Sống làm con Chúa không dễ, chúng ta không tự mình làm được. Nhưng chúng ta có một Đấng Trợ Lực rất quyền thế là Chúa Thánh Thần. Chúng ta được rửa không phải trong nước mà là trong Thánh Thần. Chính Thánh Thần đó đã hoạt động nơi Chúa Giêsu thế nào, Ngài cũng hoạt động trong các tín hữu như vậy, chỉ cần chúng ta biết lắng nghe Ngài, vâng theo những thôi thúc của Ngài.
Công đồng Vatican II luôn đề cập đến thiên chức làm con Chúa của các tín hữu. Rải rác trong các văn kiện, Công Đồng luôn nhắc nhở chúng ta sống làm con Chúa trong một thế giới vô thần và đố kỵ với Thiên Chúa. Sống trong khiêm tốn, nhẫn nại như Chúa Giêsu, Đấng có thể làm được mọi sự nhưng luôn phục vụ khiêm tốn để mời gọi mọi người đến với chân lý (Tuyên ngôn Tự do tôn giáo số 11). Trong Hiến chế tín lý về Giáo hội, Công Đồng nhắc cho chúng ta nhớ, chúng ta là dân Thiên Chúa. “Dân có thủ lãnh là Đức Kitô… Phận vị của dân này là phẩm giá và tự do của con cái Thiên Chúa, và Thánh Thần ngự trong tâm hồn họ như trong đền thờ. Luật của họ là giới răn mới: yêu thương như chính Đức Kitô đã yêu thương chúng ta”. ( Giáo Hội số 9).
Con Chúa, chúng ta được nuôi dưỡng bằng bánh bởi trời. Chúa Giêsu đã dự trù cho chúng ta một thứ của ăn thích hợp và bổ dưỡng là Mình Thánh Ngài. Ăn lấy Ngài, chúng ta sống bằng chính sự sống của Ngài và của Thiên Chúa: “Ta đến trong trần gian là để mọi người được sống và được sống dồi dào”.“Thầy là cây nho, anh em là cành… Ai ở trong Thầy, người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái.” Chúng ta được mời gọi, không phải chỉ sống ở trần gian này mà thôi, nhưng còn sống cho mai sau, trong hạnh phúc với Đấng đã yêu thương chúng ta và đã liều mạng sống cho ta”.
Chúng ta hãy sống như Đức Kitô là làm con Chúa Cha, như người con mà Chúa Cha lấy làm hãnh diện và sống dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần.
16. Ơn gọi làm con--Lm. GB. Trần Văn Hào
Biến cố Chúa chịu phép rửa được cả ba sách Tin mừng nhất lãm kể lại. Sự kiện này đánh dấu việc khởi đầu sứ vụ rao giảng công khai của Đức Giêsu. Trình thuật cũng tiên báo về bí tích rửa tội mà Chúa Giêsu sẽ thiết lập qua cái chết và sự Phục sinh của Ngài.
Một cuộc lễ phong vương trong khiêm hạ.
Ngày xưa, khi một người sắp được tấn phong làm vua, người ta tiến hành nghi thức gồm 3 giai đoạn: Tắm rửa sạch sẽ, xức dầu thơm và nghi lễ phong vương long trọng. Bài Tin mừng hôm nay cũng phác vẽ tiến trình ấy. Đức Giêsu được dìm xuống để tẩy rửa trong dòng sông Giorđan. Ngài được Thánh Thần xức dầu và đậu xuống trên Ngài. Sau cùng Ngài được chính Chúa Cha tấn phong qua lời tuyên bố ‘Đây là Con ta yêu dấu, đẹp lòng ta mọi đàng’. Tuy nhiên cuộc phong vương mà phụng vụ hôm nay gợi nhắc chỉ là hình bóng. Đức Giêsu sẽ thực sự được tấn phong làm Vua khi Ngài được tắm rửa bằng máu đổ ra trên Thập giá, được xức dầu tẩn liệm trong huyệt đá và được Chúa Cha cho Phục sinh để khai mở một triều đại mới, một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên ơn cứu độ.
Các chi tiết mà thánh Luca mô tả trong Tin mừng hôm nay đều mang chở những nội dung rất sâu xa. Trước hết, sự kiện trời mở ra diễn bày sự giao hòa giữa trời và đất. Theo quan niệm Do thái cổ xưa, Thiên Chúa ở tít trên cao và con người ở sâu tận trong vực thẳm dưới đất thấp. Có cả một khoảng cách mênh mông con người không thể vươn tới. Cửa trời mãi khép lại, và con người luôn bị ngập chìm trong bóng tối của tội lỗi và sự chết. Vì vậy trong Cựu ước, chúng ta nghe những lời rên xiết ai oán của dân Chúa vọng lên cao: “Lạy Chúa xin xé trời mà ngự đến với chúng con”. Khi Đức Giêsu thụ tẩy trong dòng sông Hòa giang, bầu trời đã mở toang ra, và đất trời được giao hòa. Đây là hình tượng tiên báo bí tích Thánh tẩy của Tân ước. Một khi được dìm trong máu Đức Giêsu, chúng ta cũng được tẩy sạch mọi tội lỗi và được nâng lên địa vị làm con cái Chúa. Con người từ đất thấp được vươn lên tới trời cao.
Thứ đến, Thánh Luca thuật lại việc Chúa Thánh Thần đậu xuống trên Đức Giêsu dưới hình chim bồ câu. Tác giả sách Sáng Thế mô tả Thần Khí như là nguyên lý tác sinh vũ trụ: “ Thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1, 2). Khi Đức Giêsu sống lại, Ngài cũng hiện ra với các Tông đồ và ‘thổi hơi ban Thánh Thần’ (Ga 20, 22). Như vậy sự hiện diện của Thần khí chứng thực một cuộc tạo dựng mới, đem đến cho con người luồng sinh khí mới để chúng ta được sống sung mãn trong nguồn ân sủng. Chúa Giêsu lãnh phép rửa để khai mở ơn cứu độ. Ngài bắt đầu đi rao giảng Tin mừng, và đây là Tin mừng giải phóng, phục hồi nơi ta sự sống thần linh. Đó chính là sự tái tạo mà Đức Giêsu sẽ thực hiện qua cái chết và sự phục sinh vinh thắng của Ngài.
Cuối cùng, chúng ta nghe câu tuyên bố của Chúa Cha. Lời Thánh vịnh này cũng được lập lại trong đêm Giáng sinh: “Này là Con Ta yêu dấu, ngày hôm nay Ta đã sinh ra Con”. Qua Đức Giêsu, Thiên Chúa cũng thực hiện một cuộc đản sinh mới nơi loài người. Phụng vụ hôm nay là cao điểm và kết thúc mùa Giáng sinh, mùa chúng ta mừng kính việc Thiên Chúa tỏ lộ vinh quang của Ngài nơi Đức Giêsu. Hài nhi Giêsu đến trần gian để thực hiện thánh ý Chúa Cha, diễn bày sự giao hòa trời đất, và dẫn đưa chúng ta đi vào một tạo dựng mới, phục hồi cho chúng ta phẩm giá được làm con cái Chúa.
Văn hóa xếp hàng.
Ngày nay, xã hội nói nhiều về loại hình văn hóa này. Sự chen lấn xô đẩy, dành giật nhau là những gì chúng ta thấy xảy ra nhan nhản hằng ngày. Người văn minh rất khó chịu khi nhìn vào những cảnh tượng ấy. Nhiều người vẫn còn nhớ thời bao cấp, chúng ta phải xếp hàng rồng rắn có khi cả ngày mới mua được vé xe đò hay mua được vài ba ký lương thực theo chế độ tem phiếu. Nhưng không phải chỉ chúng ta mà hơn 2000 năm trước đây, Đức Giêsu đã từng đứng xếp hàng bên dòng sông Giorđan. Có điều khá lạ lùng, là Ngài đứng chung với những người tội lỗi để xin thụ tẩy theo lời mời gọi của Thánh Gioan tiền hô. Gioan đã từng tuyên bố cho dân chúng: “ Đây là Chiên Thiên Chúa, đấng gánh tội trần gian”. Thế thì tại sao Con Chiên vô tội ấy lại lặng lẽ đứng xếp hàng, chung với các tội nhân. Đây là một nghịch lý khó hiểu, không phải chỉ đối với Gioan, nhưng còn đối với tâm thức con người thuộc mọi thời đại.
Bài học ở đây không phải chỉ là bài học về ‘văn hóa xếp hàng’, nhưng Đức Giêsu muốn diễn bày một linh đạo sâu xa khi đứng chung với những con người tội lỗi. Ngài tự mang lấy muôn tội của loài người cho dù Ngài hoàn toàn vô tội. Ngài xin được thanh tẩy trong dòng sông, nhưng chính con sông Giorđan ấy mới cần được thanh tẩy. Nơi con người Đức Giêsu, chúng ta khám phá ra hết nghịch lý này đến nghịch lý khác. Những nghịch lý đó nhằm diễn bày chân trời yêu thương rộng mở mà Đức Giêsu đã khai sáng. “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính Con một, để ai tin Người Con ấy sẽ được cứu độ” (Ga 3, 16). ‘Văn hóa xếp hàng’ mà Đức Giêsu đi bước trước, hàm chứa bài học sâu xa về sự khiêm hạ sâu thẳm.
Ơn gọi làm con.
Nhà văn Flannery O’Connor trong tác phẩm “Dòng sông” có viết một câu chuyện hư cấu với nội dung gần giống với câu chuyện chúng ta nghe trong Tin mừng hôm nay. Một giáo sỹ đang giảng đạo cho dân chúng bên cạnh một con sông nhỏ và mời gọi dân chúng sám hối để thụ tẩy. Một dãy người đông đảo đứng xếp hàng nối đuôi nhau để xin ông làm phép rửa. Chú bé Bavel cũng đứng trong dãy người chờ đến lượt mình. Vị giáo sỹ dìm đứa bé xuống nước và làm nghi thức, sau đó xách cổ đứa bé lôi lên khỏi mặt nước và nói: “Này chú bé, lúc nãy chú mày chẳng là cái thớ gì, nhưng bây giờ chú em có giá rồi đấy”. Mọi Kitô hữu chúng ta cũng trở nên có giá vì đã được dìm trong máu cứu độ nơi giếng rửa tội. Chúng ta mang nơi mình giá trị vô song vì được biến đổi hoàn toàn, được lãnh nhận thiên chức trở nên con cái Thiên Chúa. Phẩm giá ưu việt chúng ta có được nhờ vào sự thanh tẩy mà chúng ta đã lãnh nhận qua Bí tích Rửa tội.
Một vị Cha già đã chua chát nhận xét: “Nhiều vị linh mục ngày nay khi được mọi người gọi mình bằng cha, bỗng quên mất đi ơn gọi làm con của mình”. Đây là ơn gọi căn bản và cao quý nhất mà tất cả chúng ta, các Kitô hữu đều được chia sẻ. Cách đây vài thập niên ở Âu Châu, có một phong trào rộ lên đòi tự do một cách vô lối. Nhiều bạn trẻ Công giáo đặt vấn đề tại sao bố mẹ đem tôi đến nhà thờ để rửa tội mà không hỏi ý kiến trước. Họ phải đợi chúng tôi lớn lên, đủ trưởng thành để chúng tôi quyết định về sự tự do chọn lựa của mình. Khi Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đi thăm viếng mục vụ nước Pháp vào những năm thập niên 80, nhiều người đồng loạt ký tên xin ra khỏi Giáo hội vì não trạng và thái độ mang tính ngụy biện giống như vậy.
Không cần nói đâu xa, ngay tại Việt Nam, không ít Kitô hữu vẫn có tên trong giáo xứ, nhưng cuộc sống của họ cũng giống như những con người vô thần, xa rời hẳn mẹ Hội Thánh. Ở bên Pháp người ta vẫn gọi họ là ‘le croyant mais non-practiquant’, chỉ tin trên lý thuyết còn thực hành thì không. Còn chúng ta là những Kitô hữu, chúng ta đã sống ơn gọi Bí tích rửa tội như thế nào?
Kết luận
Phụng vụ hôm nay gợi nhắc về ơn gọi cao quý chúng ta đã lãnh nhận nơi giếng rửa tội. Chúng ta nhìn vào gương mẫu Đức Giêsu, một Con Chiên vô tội đã tự hạ, xếp mình ngang hàng với những tội nhân hèn mọn. Về phần chúng ta, chúng ta có đủ khiêm tốn nhận ra những bất toàn nơi con người mình để cố gắng sống thật sung mãn ơn gọi của Bí tích rửa tội hay không? Bí tích thánh thiêng ấy đã ghi ấn tích vĩnh viễn nơi tâm hồn chúng ta, một ấn tích không thể xóa nhòa. Còn lại, chúng ta có bổn phận phải phát huy và sống thật trọn vẹn ơn gọi cao quý này.
17. Tái tạo thế giới--Lm. Mark Link
"Chúng ta phải hoàn tất sự tái tạo thế giới mà Chúa Cha đã khởi sự kể từ lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa"
Người xưa có một quan niệm về vũ trụ rất ngộ nghĩnh. Họ chia nó thành 3 tầng thế giới chồng lên nhau giống như 3 tầng bánh "ga tô". Tầng trên cùng là nơi Chúa ngự được gọi là Trời hay Thiên đường. Tầng giữa nơi có loài người sinh sống được gọi là thế giới sinh vật, còn tầng chót là nơi con người sẽ đến sau khi chết, được gọi là âm phủ hay thế giới người chết.
Từ khi Adam, Eva phạm tội, tầng giữa tức thế giới sinh vật càng ngày càng trở nên tồi tệ. Vì thế, các thánh nhân đã cầu xin Chúa từ Trời ngự đến cứu giúp trần thế hỗn loạn của họ. Chẳng hạn, Tiên tri Isaia đã nài xin Chúa: "Sao Ngài không xé bầu trời xuống với chúng con?" (Is 64,1); và tác giả Thánh vịnh cũng kêu cầu: "Lay Chúa, xin hãy xé bầu trời ra và xuống với chúng con" (Tv 144,5).
Chúng ta phải đọc Bài Phúc Âm lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa trong bối cảnh này. Bài Phúc Âm mô tả 3 biến cố xảy ra ngay sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa. Trước hết là bầu trời mở ra trên Chúa Giêsu; tiếp đến là một con chim bồ câu từ trời xuống bay lượn trên Chúa Giêsu và trên nước; và cuối cùng là tiếng nói từ trời thốt ra: "Con là Con Ta rất yêu dấu". Bây giờ chúng ta hãy xét kỹ hơn từng biến cố một.
Trước hết là biến cố bầu trời mở ra trên Chúa Giêsu. Theo những điều đã nói ở phần trên, chúng ta có thể hiểu rõ ý nghĩ của biến cố này. Lời cầu xin của các thánh nhân đang được đáp trả. Chúa đã xé bầu trời đến trần gian để chỉnh đốn sự hỗn loạn nơi đây. Nói cách khác, việc Chúa Giêsu xuất hiện và chịu phép rửa nơi sông Giođan đánh dấu bình minh của một kỷ nguyên mới trong lịch sử nhân loại.
Từ đó, chúng ta bước sang xem xét biến cố kế tiếp cũng xảy ra ngay sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa. Thần Khí Chúa dưới hình một con chim bồ câu từ tầng trời mở toang bay xuống lượn vòng trên Chúa Giêsu và trên mặt nước. Sự kiện này nhắc ta nhớ lại lúc bắt đầu tạo dựng thế giới Thần Khí cũng bay là là trên nước giống như vậy. Sách Sáng Thế đã mô tả giây phút oai nghi ấy như sau: “Từ nguyên thuỷ… Thần lực Chúa chuyển động trên mặt nước. Đoạn Chúa truyền lệnh: 'Hãy có ánh sáng, lập tức ánh sáng liền xuất hiện.'” (St 1,1-3) Như thế, sách Sáng Thế là nền tảng giúp ta hiểu ý nghĩa biến cố thứ hai này. Chim bồ câu bay lượn trên Chúa Giêsu và trên nước là hình ảnh muốn báo cho chúng ta biết sắp có một cuộc tạo dựng mới xảy ra. Chúa sắp sửa tái tạo và canh tân thế giới chúng ta. Ngài sắp sửa thực hiện lời hứa qua môi miệng Tiên tri Isaia: "Ta sắp tạo dựng một trái đất mới, những sự việc đã qua sẽ không còn được nhắc nhở nữa… Trên trái đất mới này chỉ toàn là sự vui mừng và hạnh phúc." (Is 65,17-16)
Chúng ta hãy tiếp tục xét đến biến cố thứ ba cũng là biến cố sau cùng xảy ra ngay sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa. Bầu trời vừa mở ra thì có chim bồ câu lượn là là trên mặt nước và có tiếng nói từ trơi vọng xuống: "Con là Con Ta yêu dấu". Ý nghĩa của biến cố thứ ba này thật rõ ràng: Chúa Giêsu được xác nhận là Con Thiên Chúa, là "Adam mới", là trưởng tử của công cuộc tạo dựng mới. Khi bình luận về vai trò của Chúa Giêsu được ví như Adam mới trong cuộc tân tạo, Thánh Phaolô đã viết cho các tín hữu Côrintô: "Người thứ nhất - tức Adam - từ đất mà ra và thuộc về đất, người thứ hai - tức Đức Giêsu - từ trời mà đến… Chúng ta đã mang trong mình hình ảnh con người bởi đất - tức Adam cũ - thế nào, thì chúng ta cũng mang hình ảnh con người bởi trời - tức Adam mới - như thế." (1 Cr 15,47-49)
Tóm lại, 3 biến cố xảy ra ngay khi Chúa Giêsu chịu phép rửa mặc khải cho ta biết 3 điều:
* Trước hết, bầu trời mở ra nói lên việc Chúa từ trời ngự xuống cõi trần chúng ta.
* Thứ đến, hình chim bồ câu bay lượn trên nước và trên Chúa Giêsu diễn tả việc Chúa đang bắt đầu một cuộc tạo dựng mới.
* Và cuối cùng, tiếng nói vọng ra từ trời nhằm mục đích xác nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là "Adam mới" trong cuộc tái tạo này.
Từ đó, chúng ta rút ra kết luận thực tiễn sau đây: Chúng ta là công dân của hai thế giới, nghĩa là chúng ta mang trong mình hình ảnh của Adam thứ nhất lẫn Adam thứ hai, nên chúng ta chia sẻ sự sống với cả hai vị này. Chúng ta từng cảm nghiệm được sức lôi cuốn về mặt xác thịt của Adam thứ nhất và sự thôi thúc tinh thần của Adam thứ hai. Điều này cắt nghĩa được lý do chúng ta thường bị xâu xé về mặt tâm linh; vì chúng ta vừa bị lôi cuốn làm điều tốt, đồng thời bị lôi cuốn làm điều xấu. Trong thư gởi tín hữu Rôma, chính Thánh Phaolô đã nhắc lại sự xâu xé tâm linh này: "Tôi không làm điều tôi muốn, mà lại làm điều tôi ghét." (Rm 7,15)
Và như thế, bài Phúc Âm hôm nay làm nổi bật 2 sự kiện. Sự kiện thứ nhất cách đây hơn 2.000 năm, Thiên Chúa đã xuống trần gian, nơi con người Chúa Giêsu, để bắt đầu công cuộc tái tạo. Sự kiện thứ hai mà bài Phúc Âm cho biết là mỗi người chúng ta là một phần trong cuộc tái tạo này. Chúa tái tạo chúng ta khi chúng ta chịu phép rửa tội bằng cách tháp nhập chúng ta vào thân thể Đức Giêsu, Con Ngài. Tuy nhiên, Chúa giao cho chúng ta trách nhiệm hoàn tất việc tái tạo của riêng chúng ta bằng cách chúng ta cầu nguyện và nhận lãnh các bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể. Và cuối cùng, chúng ta nên nhớ rằng, chỉ khi nào chúng ta kết hiệp với Chúa Giêsu, chúng ta mới có thể gọi Chúa là Cha, và đồng thời chỉ khi nào Thiên Chúa là Cha thực sự của chúng ta, thì chúng ta mới được chia sẻ sự sống vĩnh cửu với Ngài.
Để kết thúc, chúng ta hãy đọc lại lời Thánh Phalô nhắn gởi chúng ta trong Bài đọc 2:
"Bất kỳ ai trong bất cứ dân tộc nào, ai kính sợ Thiên Chúa và thực thi công chính đều được Ngài đón nhận. Thiên Chúa đã sai Lời Ngài đến cùng con cái Israel loan tin bình an qua con người Đức Giêsu là Chúa cả muôn loài."
18. Chúa Giêsu chịu phép rửa--Lm. Phêrô Bùi Trọng Khẩn
Việc đầu tiên của Chúa Giêsu trước khi thi hành chức năng rao giảng là đến xin ông Gioan tẩy giả làm phép rửa cho mình.
Khi thấy Chúa Giêsu đến, Gioan ngạc nhiên quá sức và can ngăn Chúa "Chính tôi mới cần đựơc Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi". Bây giờ cứ thế đã, vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính" (Mt 3,14-15). Cả hai nhân vật trong tin mừng là Chúa Giêsu và Gioan tẩy giả đều khiêm nhường.
Gioan biết mình không đáng xách dép cho Chúa, chỉ là người giới thiệu, minh chứng về Chúa. Xong nhiệm vụ của mình ông phải rút lui vào bóng tối để cho Chúa phải lớn lên. Nhưng đồng thời phép rửa của ông cũng chỉ là một nghi thức giục lòng ăn năn sám hối chứ không có sức để tha tội. Đức Giêsu là Thiên Chúa vô tội, Thiên Chúa quyền năng nhưng lại dám hạ mình xếp hàng đứng bên cạnh những người có tội bên dòng sông Giođan chờ đến lượt theo thứ tự để được chịu phép rửa. Đức Giêsu hoà mình bình thường đến nỗi không ai nhận ra Ngài đang đứng bên cạnh mình. Có ai ngờ một đấng thánh thiện vô tội, cao cả lại đang đứng bên cạnh mình?
Sứ mệnh của Chúa Giêsu đến trần gian: cứu con người khỏi đau khổ, khỏi tội lỗi, khỏi chết đời đời. Không ai có thể làm được điều này. Để làm công việc này, Chúa Giêsu đã phải từ bỏ ngai vàng vinh quang là Thiên Chúa, bỏ trời cao, quên địa vị cao sang sống địa vị thấp hèn nhất trong xã hội loài người qua biến cố giáng sinh. Rồi Ngài lại tiếp tục hành trình qua từng giai đoạn, từng bước trong cuộc đời: cũng giữ mọi luật lệ, tập tục đạo đời, chịu chi phối bởi mọi định luật tự nhiên. Đặc biệt hôm nay, Chúa Giêsu đã bước xuống dòng sông Giođan. Theo tiếng Do thái, 'Jarad' nghĩa là đi xuống, vì đường dài dòng sông không ngừng đi xuống. Dòng sông bắt nguồn từ độ cao trên núi 520m đến chỗ sâu nhất dưới mực nước biển là 394m. Có thể nói đây là điểm thấp nhất của địa cầu. Chúa Giêsu chịu phép rửa ở chỗ này. Ngài đã xuống thấp nhất không chỉ về chiều sâu theo không gian địa lý mà còn về chiều sâu tâm lý xã hội. Ngài bước xuống tận chiều sâu của thân phận tội lỗi loài người để cảm nghiệm được sức nặng nề, đau đớn của tội nhân. Vì thế, chính nơi đây, Gioan đã giới thiệu về Đức Giêsu rằng 'đây là Chiên Thiên Chúa, đây là đấng xoá bỏ tội trần gian' (Ga 1,29). Nhưng cũng chính nơi đây, sau những lời giới thiệu của Gioan thì Đức Giêsu không cần người khác, nhân vật khác làm chứng hướng dẫn nữa mà chính Thiên Chúa Cha giới thiệu 'đây là Con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về Người'. Đồng thời Chúa Thánh Thần xuất hiện giống hình chim bồ câu xác nhận điều đó.
Sự xuất hiện một lúc ba ngôi Thiên Chúa lần đầu tiên cho thấy địa vị, vai trò đặc biệt của Đức Giêsu hơn hẳn Gioan tiền hô, hơn hẳn các nhà lãnh đạo chính trị và tôn giáo khác trên trần gian.
Với lễ Đức Giêsu chịu phép rửa chấm dứt mùa giáng sinh, bắt đầu mùa thường niên. Chấm dứt gian đoạn 30 năm sống âm thầm ở quê nhà Nagiarét; Đức Giêsu chính thức hoạt động công khai để cứu độ con người với danh hiệu là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật và là người thật.
Sự tỏ mình của Đức Giêsu ngày càng rõ bao nhiêu thì đức tính khiêm nhường của Chúa càng nổi rõ hơn bấy nhiêu. Đó chính là bản chất của Thiên Chúa 'nên giống anh em mình mọi đàng ngoại trừ tội lỗi'.
Tất cả những gì xưa nay các ngôn sứ thời Cựu ước loan báo về Đức Giêsu nay được ứng nghiệm dần dần. Quả thật Đức Giê su đến không phải để bãi bỏ lề luật, bãi bỏ những cái cũ, nhưng là để kiện toàn, làm cho nó mới mẻ hơn. Chính Đức Giê su đã xác nhận điều đó. Vì thế Ngài không huỷ bỏ phép rửa của Gioan là nghi thức của thời cựu ước, ngược lại Ngài đón nhận lại còn mặc cho nó một ý nghĩa mới trong phép rửa tội mà Ngài sẽ lập sau. Hơn nữa, Chúa còn mặc khải cho các môn đệ biết phép rửa là cái chết của Chúa khi Ngài nói: 'Thầy còn phải chịu một phép rửa và thầy những bồn chồn chờ đến lúc hoàn tất"(Lc 12,50). Người còn hỏi hai ông Gioan và Giacôbê khi họ đến xin được ngồi bên tả bên hữu trong Nước Chúa rằng: "các ngươi có thể uống chén Ta uống và chịu phép thánh tẩy Ta phải chịu không?" (Mc10,38). Phép rửa đó chính là cái chết của Chúa, là đỉnh cao cuả sự hạ mình tột cùng của Chúa Giêsu.
Như vậy ý nghĩa trọn vẹn của phép rửa và sự khiêm nhường của Đức Giêsu được gặp thấy nơi cái chết của Ngài trên thập giá.
Mỗi người kitô hữu đã được chịu phép rửa tội là có một mối liên hệ hiệp thông sâu xa với Chúa Kitô và giao hội. Nghĩa là đều có chung một cảm nghĩ, lời nói và cách cư xử như Chúa. Xa hơn là cùng sống thân phận con người phải chết do hậu quả cuả tội nguyên tổ. Bởi vậy chúng ta không đứng ngoài sự liên đới với người khác mà phải đồng hành cùng với nhân loại trong dòng chảy của những tập tục, truyền thống, lễ nghi, văn hoá,...để thánh hoá, biến đổi, thăng hoa và làm hoàn hảo những giá trị này theo tinh thần của Chúa.
Chúng ta không được đứng ngoài trật tự của đời sống cộng đoàn mà phải hoà nhập trong tinh thần khiêm tốn, lịch sự để nâng đỡ nhau trong tinh thần của người con cái Chúa. Chúng ta không được phép gạt bỏ một cộng đoàn, giáo hội chỉ vì một chút truyền thống, nề nếp cũ kỹ; không được phép loại trừ một con người chỉ vì một chút khuyết điểm, ngược lại phải đón nhận để sửa chữa, đổi mới, canh tân theo cách hành xử của Chúa.
Người kitô hữu lãnh nhận bí tích rửa tội cũng là cuộc vượt qua từ sự chết đến sự sống. Chết với Chúa Kitô và sống lại với Người. Thánh Phaolô nhấn mạnh: "anh em không biết rằng khi ta được dìm vào nươc thánh tẩy để thuộc về Đức Giêsu Kitô là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Bởi thế cũng như Người đã sống lại từ cõi chết thì chúng ta cũng sống một đời sống mới"(Rm 6,4-5).
Nơi Đức Giêsu phép rửa không còn là một nghi thức mà đã trở thành cuộc sống. Tội lỗi bị đánh bại không phải bằng nước mà là bằng máu của sự sống. Bí tích rửa tội của người kitô hữu không phải lãnh nhận một lần rồi thôi mà chính là cả cuộc sống phải tích cực đẩy lui tội lỗi mỗi ngày. Người kitô hữu phải có trách nhiệm làm sao để tiếng từ trời cao cũng lặp lại với mỗi người chúng ta: "Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về con"(Mc 1,11). Đặc biệt trong năm đức tin, các bậc làm cha mẹ phải ý thức sâu xa hơn về vai trò của mình là giáo dục con cái mình sống trọn vẹn ơn đã lãnh nhận qua bí tích rửa tội và đào tạo con cái thành những người con đẹp lòng Chúa Cha.
19. Phép Rửa trong Thánh Thần--Dã Quỳ
Hôm nay, chúng ta mừng Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa. Đây là một biến cố quan trọng bắt đầu đời sống công khai rao giảng Tin Mừng và hành trình cứu độ nhân loại của Chúa Giêsu.
Cuộc đời công khai của Người được đóng khung bằng hai Phép Rửa: Phép rửa ở trong dòng nước Gio-đan và phép rửa trong cái chết trên thập giá. Thời gian ngắn trước khi đi chịu chết, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ của Người "Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất."(Lc 12,50) Tất cả sứ vụ của Chúa Giêsu được diễn tiến dưới dấu chỉ của phép rửa và đẹp hơn nữa là trong dấu hiệu của sự phục sinh đã được tượng trưng bằng phép rửa của Người.
Thánh Luca xác định rằng Chúa Giêsu cũng chịu phép rửa "như toàn dân". Người không hề phạm tội nhưng đã muốn liên đới với tất cả những người đến thú nhận tội lỗi và chịu phép rửa. Đấng vô tội đã hòa mình vào dòng người tội lỗi để lãnh nhận phép rửa. Đấng là Suối nguồn sự sống của thành đô Thiên Chúa nay đến chịu thanh tẩy trong dòng nước Gio-đan nhỏ bé. Đấng đến để xóa tội trần gian lại bước xuống xin rửa tội từ con người. Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần đến xin chịu phép rửa bằng nước của Gioan.
Chúa Giêsu chịu phép rửa không phải để được thánh hóa nhờ nước, nhưng chính Người thánh hóa dòng nước và để thanh tẩy những dòng nước mà Người chạm đến nhờ sự trong sạch tuyệt đối của Người.
Khi Đấng Cứu Độ chịu phép rửa chính là để thánh hóa cách trọn vẹn trước dòng nước cho phép rửa của Kitô hữu trong tương lai. Nhờ đó, ân sủng của phép rửa được ban tặng cho chúng ta cách tràn đầy và xóa bỏ mọi tội lỗi của chúng ta.
Chúa Kitô đã đón nhận phép rửa trước để rồi tất cả Kitô hữu tiếp tục lãnh nhận với lòng tin. Qua phép rửa bằng nước, Chúa Kitô chuẩn bị cho dân Người đón nhận phép rửa trong Thánh Thần do chính Người ban, như lời Gioan làm chứng "Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần."( Lc 3,16b)
Phép Rửa trong Thánh Thần được Gioan chứng nghiệm: Tầng trời đã mở ra, sự thông truyền được thiết lập giữa Thiên Chúa và dân của Người. Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu dưới hình chim bồ câu để chứng thực bản tính Thiên Chúa của Người. Chúa Giêsu đón nhận Thánh Thần không phải cho chính Người nhưng là cho tất cả chúng ta đang ở trong Người.Vì nhờ Chúa Kitô và trong Chúa Thánh Thần là Đấng Thánh Hóa mọi sự, chúng ta đạt đến sự thánh thiện và mọi điều tốt lành.
Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha. Người giữ mối tương quan đặc biệt với Chúa Cha. Qua tiếng từ trời phán "Con là Con của Cha,ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con"(Lc 3,22b), Chúa Cha đã đón nhận tất cả chúng ta làm con của Người. Bởi vì tất cả nhân loại được ở trong Chúa Kitô với tư cách Người là con người. Trong ý nghĩa này, chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha và chúng ta cũng là con yêu dấu của Người. Vậy tầng trời đã mở ra cho Con Một và tương lai cũng sẽ mở ra cho chúng ta. Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên Chúa Giê su, cũng sẽ ngự vào trong tâm hồn chúng ta và chắc chắn cả Ba Ngôi Thiên Chúa sẽ ở cùng mỗi người Kitô hữu khi lãnh nhận phép rửa trong Chúa Thánh Thần.
Mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, mỗi Kitô hữu chúng ta cũng cần suy gẫm lại ân huệ nhưng không và lòng thương xót vô bờ của Chúa trong Phép Thánh Tẩy mà ta đã lãnh nhận: "Đấng Cứu Độ chúng ta đã biểu lộ lòng nhân hậu và lòng thương yêu của Người đối với nhân loại... vì Người thương xót, nên Người đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần..." (Tt 3, 4-5). Nhờ Phép rửa, ta được tái sinh trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta và được lãnh nhận sự sống mới trong Chúa Kitô chịu đóng đinh như lời thánh Phaolô nhắc "Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Ki- tô."(Gl 3,27) Những ân sủng nhờ phép rửa trong Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta thật vô biên: Chúng ta được làm con của Thiên Chúa, là chi thể của Chúa Kitô, là con của Giáo Hội, là anh em với các thánh, được hưởng dạt dào ân huệ và vinh quang của Chúa Giêsu Kitô, được thứ tha mọi tội lỗi và được đổi mới. Vì thế, một khi đã được thanh tẩy và trở nên con cái Chúa, chúng ta cũng phải chết đi cho tội lỗi để được sống lại với Chúa. Đừng ngần ngại từ bỏ lối sống cũ và bước vào đời sống mới trong Chúa Kitô để được thừa hưởng sự sống đời đời. Đồng thời ta hãy sống ân sủng và sứ mệnh của Phép Rửa trong chính cuộc sống của ta, và hãy làm chứng cho Chúa Kitô bằng đời sống và trong môi trường của mình.
Lạy Thiên Chúa là Cha nhân hậu, xin tuôn đổ tràn đầy ơn Thánh Thần xuống trên chúng con, nhờ Đức Giê su Kitô-Đấng Cứu Độ chúng con. Xin giúp chúng con biết lắng nghe, thực thi Lời Chúa và biết sống xứng đáng để được nhận là con yêu dấu của Cha. Amen.
20. Sống tước vị làm con--Lm. Nguyễn Nguyên
Sống ở đời, ai cũng mang trong mình một tâm lý thường tình là muốn mình được trọng vọng, được đề cao, được vượt trội hơn người khác.
Tất cả những điều đó phản ảnh khuynh hướng kiêu căng trong lòng mỗi người. Mà kiêu căng là mối tội thứ nhất trong bảy mối tội đầu. Gọi là mối tội đầu vì nó là căn nguyên đưa tới nhiều thứ tội lỗi khác. Thật vậy, sự kiêu căng chính là đầu mối dẫn tới rất nhiều điều tệ hại trong cuộc sống của con người: Chiến tranh bởi đâu nếu không phải bởi nước này muốn thống trị nước nọ? Ghen tương bởi đâu nếu không phải bởi người này muốn trổi vượt hơn người khác? Hận thù bởi đâu nếu không phải bởi người ta muốn đạp người khác xuống để chiếm lấy vị trí của họ? Nói hành, nói xấu, vu khống, gièm pha bởi đâu nếu không phải bởi người ta muốn tự quảng cáo mình tốt hơn, giỏi hơn người khác, cho người khác là không biết gì?...
Luxiphe vì kiêu căng không muốn phục tùng Thiên Chúa nên đã tự loại mình ra khỏi hàng ngũ các Thiên thần. Ông bà nguyên tổ loài người vì kiêu căng muốn bằng Thiên Chúa nên đã bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, và cửa trời đóng lại. Sự kiêu căng đã tạo nên hố ngăn cách giữa Thiên Chúa và con người. Sự kiêu căng đã dựng nên một hàng rào không cho con người đến với nhau…
Hôm nay, chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa. Quang cảnh trong biến cố Ngài chịu phép rửa mà chúng ta vừa nghe trong Tin Mừng có lẽ làm chúng ta thấy mình hổ thẹn biết bao khi để cho tính kiêu căng thống trị và hướng dẫn đời sống mình. Thật vậy, Chúa Giêsu là Thiên Chúa cao cả vô cùng, nhưng Ngài đã mặc lấy những tâm tình và cung cách sống khiêm tốn thẳm sâu. Là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không đòi phải được sinh ra trong một đất nước văn minh, trong một thành phố hoa lệ và trong cung ngọc điện ngà. Trái lại, Ngài đã chấp nhận sinh ra trong một hoàn cảnh bi đát nhất của thân phận làm người.
Ngài đã không chọn cho mình một người cha, một người mẹ danh giá và giàu sang. Trái lại, Ngài chấp nhận làm con của một anh thợ mộc vô danh tiểu tốt và một cô thiếu nữ nhà quê khổ nghèo.
Và hôm nay, khi bước xuống dòng sông để lãnh nhận phép rửa của Gioan, chúng ta mới thấy hết sự khiêm nhường của Thiên Chúa chúng ta. Là Thiên Chúa thánh thiện tuyệt đối, nhưng Ngài lại hạ mình đến xin ông Gioan làm phép rửa như một người dân tầm thường và tội lỗi. Ngài khiêm hạ đến độ làm cho mình trở thành một kẻ vô danh bên cạnh một ông Gioan Tẩy Giả đang được mọi người ngưỡng mộ và kính phục để chia sẻ kiếp người với chúng ta, để nâng loài người chúng ta lên.
Ngài mặc lấy xác phàm để chia sẻ thân phận đói nghèo, đau khổ, bệnh hoạn của con người. Ngài hoá kiếp phàm nhân để nếm trải nỗi ray rứt khắc khoải của tội nhân. Ngài đang cùng nhịp đập con tim với mọi người để cảm thông và yêu thương tất cả, một sự liên đới của tình yêu. Chính trong sự khiêm nhường và tự hạ như thế, Đức Giêsu đã được Thiên Chúa Cha xác nhận “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha”.
Ngày xưa, do sự kiêu căng của nguyên tổ loài người, cửa trời đã đóng lại. Ngày nay, do sự khiêm hạ của Con Thiên Chúa mà cửa trời lại được mở ra. Trời mở ra nghĩa là mọi ngăn cách giữa Thiên Chúa và con người đã bị xoá bỏ. Con người phản bội nay đã được tha thứ, được phục hồi tước vị làm con Thiên Chúa và được đồng thừa tự gia tài Nước Trời cùng với Chúa Giêsu. Trời được mở ra cho hết mọi người có thể đi vào. Nhưng nếu chúng ta tiếp tục bước vào vết chân kiêu căng của ông bà nguyên tổ, thì cánh Cửa Trời ấy sẽ mãi mãi đóng lại trước mắt chúng ta.
Vậy chớ gì khi mừng kính Chúa Giêsu chịu phép rửa, mỗi người chúng ta cảm nhận rằng, Ngài đang ở gần chúng ta hơn chúng ta tưởng. Ngài đang ở gần chúng ta khi chúng ta mạnh mẽ, lúc chúng ta yếu đuối; buổi thành công cũng như hồi thất bại; phút sa ngã cũng như thời đứng lên; những ngày nắng ấm, những chiều giông bão… đã luôn luôn có Ngài bên cạnh, để rồi mỗi người khiêm tốn và quyết tâm ra khỏi chính mình, ra khỏi những ích kỷ, dứt bỏ những khuynh hướng xấu, đoạn tuyệt với tội lỗi… hầu cất bước tìm về với Ngài. Ngài sẽ băng bó, Ngài sẽ chữa lành, sẽ vác trên vai, sẽ rửa gội thương tích và đem chúng ta về lại trong tình yêu thương của Chúa Cha. Nhất là để chúng ta nghe được những lời yêu thương mà Thiên Chúa đã nói với Chúa Giêsu ngày xưa bên dòng sông Giođan: “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha.” Amen.
21. Hòa nhập với đời--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Ngày nay ai cũng công nhận rằng Đức Thánh Cha Phanxicô là con người bình dị. Bình dị trong cách sống đến mức độ có thể cúi xuống hôn người cùi hủi, cúi xuống hôn đôi chân bụi đời của những trẻ em phạm pháp . . . Ngài đã đi vào lòng người không phải bằng những giáo thuyết cao sâu mà bằng một lối sống giản dị nhưng đầy lòng cảm thông, chia sẻ với mọi phận người cùng khốn.
Có thể nói lối sống bình dị thân mật là cách tiếp cận người khác tốt nhất. Đôi khi chỉ cần một cái bắt tay, một ánh mắt nhìn, một lời hỏi thăm có thể khiến hai người xa lạ xích lại gần nhau. Trước một người luôn trầm tư, nghiêm nghị, ta cảm thấy ngại ngùng, nhưng trước một con người luôn sẵn sàng chia sẻ niềm vui với mọi người, luôn chan hòa tình người sẽ tạo ra bầu không khí chan hoà vui tươi.
Cuộc đời sẽ đẹp biết bao khi chúng ta phá bỏ đi những vỏ bọc của thành kiến, của cái tôi cao ngạo để sống hòa hợp với mọi người. Cuộc sống sẽ không còn cô đơn buồn tủi khi mỗi người biết cúi xuống để quan tâm chia sẻ với nhau.
Đây là cách bước vào đời mà Chúa Giê-su đã làm gương cho chúng ta. Ngài đến trần gian trong khiêm tốn nơi hang đá bò lừa Belem. Ngài sinh ra trong một gia đình thợ nghèo miền Nagiaret. Ngài còn hòa nhập vào đám đông tội nhân để cúi mình lãnh nhận phép rửa tại sông Giordan. Chính sự khiêm tốn, giản dị hòa nhập ấy mà từ trời cao đã vọng lên tiếng Chúa Cha: “Đây là Con Ta yêu dấu”.
Trong suốt 3 năm rao giảng Tin mừng Ngài luôn chan hòa tình yêu với những mảnh đời bất hạnh khổ đau. Mọi phận người khổ đau đều được Ngài xoa dịu chữa lành. Ngài đã phục hồi cho người mù được thấy, người điếc được nghe, người câm nói được và người què được nhảy nhót như nai. Nhờ sự gần gũi ân cần mà Ngài đã cảm hóa được biết bao người tội lỗi được ăn năn trở lại như Lê-Vi, như Madalena . . .
Năm nay với chủ đề Loan Báo Lòng Thương Xót, Giáo hội như mời gọi chúng ta tin tưởng phó thác nơi Lòng Thương Xót Chúa. Hãy để ân sủng Chúa bao trùm trên cuộc đời chúng ta. Hãy để Lòng thương xót Chúa chữa lành hồn xác chúng ta. Hãy tín thác vào lòng thương xót Chúa. Chúa Giê-su vẫn đang đi vào lòng người không phải để kết án mà để phủ lấp tình thương và ân sủng Chúa trên cuộc đời chúng ta. Chính Chúa đã bước xuống dòng sông Giordan để thanh tẩy dòng nước, và hôm nay Ngài cũng đang bước xuống dòng đời này để thánh hóa chúng ta bằng ân sủng của lòng Thương Xót Chúa.
Xin cho chúng ta biết tin tưởng vào lòng Thương Xót Chúa mà chạy đến với Ngài trong những khó khăn cuộc đời. Ước gì chúng ta luôn tìm được sức mạnh của sự đỡ nâng từ Lòng Thương Xót Chúa để được bình an và hạnh phúc trong cuộc sống. Amen.
22. Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa--Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng
Tin mừng Lc 3:15-16.21-22: Thánh Luca dẫn chúng ta đến với sông Giođan nơi Gioan Tẩy Giả thực thi sứ mạng của ông, loan báo về Đấng Messia sắp đến. Cũng tại đây Đức Giêsu Kitô xuất hiện để lãnh nhận phép rửa.
Đức Giêsu tiến đến với Gioan Tẩy Giả, người họ hàng của mình để chịu phép rửa sám hối. Ngài là Đấng 'Vô Tội', tại sao lại yêu cầu thanh tẩy tội lỗi như những người tọi nhân khác? Điều này chứng tỏ một mạc khải quan trọng về Đức Kitô, Ngài là Con Chí Ái của Thiên Chúa Cha. Ngài là 'Người Tôi tớ vâng phục' mà các Tiên Tri đã loan báo. Sự Vâng phục của Ngài là sự vâng phục của tình yêu cho đến nỗi vui lòng chấp nhận chết trên thập gía để thiết lập phép rửa bằng máu của Ngài hoàn tất và thánh hiến phép rửa bằng nước.
I. Tìm Hiểu Lời Chúa: Lc 3, 15-22
Phép Rửa của Đức Giêsu
Thánh Luca dẫn chúng ta đến với sông Giođan nơi Gioan Tẩy Giả thực thi sứ mạng của ông, loan báo về Đấng Messia sắp đến. Cũng tại đây Đức Giêsu Kitô xuất hiện để lãnh nhận phép rửa.
Bị lôi cuốn bởi lối sống hãm mình, bị kinh ngạc và bị quyến rũ bởi lời nói đầy nhiệt huyết của Gioan, người Do Thái tuôn đến và tự hỏi ông có phải là Đấng Messia không. Ông phủ nhận điều đó.
Đấng Messia đích thực đến nơi con người Đức Giêsu Nagiarét. Phép rửa của Ngài biểu lộ một mạc khải lớn lao về màu nhiệm Ba Ngôi: Đậu xuống trên đầu Ngài một con chim bồ câu, biểu tượng của Chúa Thánh Thần, ngay khi đó tiếng Chúa Cha mạc khải về Ngài: Con Yêu Dấu của Chúa Cha. Đây chính là điểm Luca muốn nhấn mạnh và mỗi người cần suy gẫm. Bước đầu tiên trong đời hoạt động công khai của Đức Giêsu trở thành việc thánh hiến Ngài nên Đấng Thiên Sai một cách long trọng.
Khung cảnh này cho phép tái hiện lại chuyện đã sảy ra với phép rửa riêng của mỗi người chúng ta: Ba Ngôi đã cư ngụ nơi chúng ta, hay đúng hơn, Ba Ngôi đã dẫn đưa chúng ta vào cung lòng của Người; như thế, chúng ta đã hoàn toàn trở nên con cái trong gia đình Thiên Chúa. Thật tuyệt vời biết bao.
II. Gợi Ý Suy Niệm
1. Từ Phép Rửa sám hối của Gioan Tẩy Giả đến Bí Tích Thanh Tẩy: Gioan kêu gọi người ta ăn năn sám hối để chuẩn bị tâm hồn xứng đáng đón nhận Đấng Cứu Thế sắp xuất hiện. Để biểu thị lòng sám hối ăn năn ông đã làm phép rửa cho các hối nhân, đây là điều mà truớc ông không có ai thực hiện và ngay cả trong lề luật phụng tự Do Thái giáo cũng không có nghi thức thanh tẩy có thừa tác viên mà chỉ có nghi thức tự hối nhân thanh tẩy. Tuy thế, nhưng phép rửa của Gioan hoàn toàn không có hiệu năng tha tội mà chỉ là một dấu chỉ của lòng sám hối. Họ sám hối để chuẩn bị lãnh nhân ơn tha thứ của Đức Kitô mang lại. Chính Người sẽ rửa anh em trong Chúa Thánh Thần và trong lửa. Chỉ có phép rửa của Đức Kitô mới có hiệu năng tha tội. Khác với anh em Do Thái ngày xưa, ngày nay chúng ta đã có bí tích Thánh Tẩy của Đức Giêsu Kitô, một bí tích mang lại hiệu năng tha tội. Cao hơn nữa bi tích này còn đưa chúng ta vào trong mối tình hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa: Ngài là Cha còn chúng ta là con cái của Ngài, được đồng thừa tự với Đức Giêsu Kitô, Con Một Chí Ái của Chúa Cha. Như khi xưa Đức Giêsu chịu phép rửa Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đã mạc khải Người là Con Chí Ái, đã xức dầu tấn phong Người là Đấng Thiên Sai, ngày nay qua bí tích Thanh Tẩy trong Đức Giêsu Kitô, mỗi Kitô hữu cũng được Chúa Cha và Chúa Thánh Thần chứng thực trước mặt mọi người là Con Chí Ái của Thiên Chúa. Quả là một ơn trọng đại không thể diễn tả nổi. Từ phép rửa biểu thị lòng sám hối của Gioan Tẩy Giả, con người đã được đưa lên rất cao đến tận cung lòng Thiên Chúa Ba Ngôi nhờ phép rửa của Đức Giêsu Kitô. Sống bí tích Thanh Tẩy đòi hỏi mỗi Kitô hữu không chỉ đơn giản với tâm tình sám hối mà còn phải đi xa hơn nữa sống tâm tình, thái độ của một người con hiếu thảo của Thiên Chúa.
2. Từ hình ảnh Đức Giêsu chịu phép rửa đến việc canh tân đời sống Kitô hữu: Đức Giêsu Kitô là Đấng "Vô Tội" thế mà Người lại chấp nhận tự hạ hòa mình vào dòng người tội lỗi đến lãnh nhận phép rửa sám hối của Gioan. Điều này thật khó tưởng tưởng và khó hiểu cũng như Người là vị Thẩm Phám Tối cao lại chấp nhận hạ mình như một tội nhân chịu để Philatô kết án tử hình thập giá. Những việc này minh chứng rằng con đường mà Chúa Cha vạch sẵn và Đức Giêsu Kitô vui lòng đón nhận vì tình yêu là con đường tự hạ. Tự hạ để nâng con người lên, tự hạ để mang vinh quang sự sống cho con người. Cả cuộc đời dương gian của Đức Giêsu Kitô có thể gồm tóm trong màu nhiệm tự hạ: hạ mình làm người bé mọn nơi Bêlem, tầm thường như bao người trên dòng sông Gioađan, tủi nhục trên thập giá đồi Canvê. Thế nhưng, qua sự tự hạ ấy Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban cho Người danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Đối với mỗi Kitô hữu chúng ta đây là một giáo uấn về chính bản chất của Đức Giêsu Kitô và cũng là bản chất của mỗi người. Kitô hữu nào cũng phải sống màu nhiệm tự hạ. Tự hạ để canh tân đời sống, tự hạ để nên giống Đức Giêsu Kitô và tự hạ để mang lại vinh quanh và hạnh phúc cho tha nhân. Phải chấp nhận một cuộc sống tầm thường hiện nay để biến nó thành đời sống tự hạ theo gương Đức Giêsu để rồi sẽ đạt tơi sự vĩ đại nơi Thiên Chúa.
3. Từ dòng người sám hối bên sông Giođan đến dòng đời hôm nay: Dòng người sám hối bên sông Giođan biểu lộ một khát khao sống tốt lành thánh thiện, biểu lộ một khát khao mong chờ Đâng Cứu Thế. Trong dòng người ấy. Đức Giêsu Kitô đã xuất hiện dồng hành với họ, để rồi khi chìm sâu trong dòng sông, Người đã tẩy rửa mọi tội lỗi nhân loại. Ngày nay vẫn thấy những dòng người hối hả giữa đời thường, vẫn có những dòng đời khát khao tìm kiếm chân lý, tìm kiếm Thiên Chúa; vẫn có những dòng người tuân đổ khao khát vươn lên một đỉnh cao mới của sự hoàn thiện. Và cũng không hiếm những dòng người đổ xô vào sự cuốn hút của đam mê dục vọng tội lỗi, của tệ nạn, của danh lợi trân thế. Giữa những dòng đời ấy chắn chắn cũng có Đức Giêsu Kitô xuất hiện để vực dậy những mảnh đời đau khổ, để cứu vớt những mảnh đời sa ngã và để biểu lộ vinh quang và tình yêu của Thiên Chúa. Người hiện diện qua những anh chị em Kitô hữu ngày nay. Mỗi Kitô hữu sẽ là những hiện thân của Đức Giêsu Kitô giữa dòng đời này. Mỗi người hãy tự hỏi đã sống và hiện diện như thế nào giữa dòng đời hôm nay để mang ánh sáng Tin mừng, tình yêu Thiên Chúa cho mọi người?
III. Lời Cầu Chung
* Lời Mở: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu Kitô đã tự hạ làm người, hòa mình vào dòng người tội lỗi để tha thứ, để nâng con nguời đứng dậy. Trong niềm tôn kinh tạ ơn chúng ta cùng dâng lời nguyện xin lên Thiên Chúa.
1. Giáo Hội được Đức Giêsu thiết lập làm nơi cưu mang và đón nhận các tội nhân và ban ơn tha thứ cho họ. Chúng ta cùng cầu xin Chúa ban cho mọi thành phần trong Giáo Hội nhất là các vị chủ chăn luôn có tấm lòng quảng đại vị tha hết lòng chăm sóc mọi người.
2. Đức Giêsu đã đến làm người hiện diện giữa thế gian để ban ơn cứu độ. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo quốc gia luôn biết đồng hành cùng dân, gần gũi với dân và biết lắng nghe những nguyện vọng, khát khao của dân nước để phục vụ và đưa đất nước mỗi ngày một tiến bộ văn minh và thịnh vượng.
3. Mỗi Kitô hữu qua bí tích Thanh tẩy đều Chúa mời gọi vào sứ vụ Thiên Sai của Đức Kitô. Chúng ta cùng cầu nguyện mỗi người ttrong cộng đoàn chúng ta luôn sống đúng với phẩm giá làm người Con Chúa do bí tích Thánh Tẩy mang lại. Đặc biệt trong năm thánh Giáo Hôi Việt nam, xin cho mọi tín hữu chúng ta luôn biết sống dấn thân, hoà mình, đồng hành cùng với nhịp sống của quê hương đất nước để thắp sáng ánh sáng Tin Mừng cho dân tộc Việt Nam thân yêu.
* Kết Nguyện: Lạy Thiên Chúa là Đấng nhân lành, Chúa đã muốn chúng con trong tình yêu vô biên của Chúa được đi vào gia đình của Chúa, được trở nên Con Chúa, là anh em với Đức Kitô. Xin ban cho chúng con ánh sáng và sức mạnh của Chúa Thánh Thần để mỗi người trong đời sống của mình luôn biết canh tân theo Tin mừng. Chúa là Đấng hiển trị muôn đời.
23. Tạo dựng mới--Lm Jb Nguyễn Minh Phương, C.Ss.R
Thuở tạo dựng, Thiên Chúa dùng Lời quyền năng và Thần Khí của Người mà tác thành muôn loài muôn vật: "Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời. Một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú" (Tv 33, 6).
Cho đến ngày, tại dòng sông Gio-đan, Đức Giê-su chịu phép rửa, đang lúc Người cầu nguyện, trời mở ra, có tiếng Chúa Cha giới thiệu Người là Con yêu dấu của Chúa Cha; cùng lúc ấy, hình ảnh chim câu xuất hiện báo hiệu sự hiện diện của Chúa Thánh Thần.
Thế là, Ba Ngôi cùng hiện diện và mang lại một cuộc tạo dựng mới.
I. CHUẨN BỊ
Vẫn biết lịch sử cứu độ là cả một lịch sử chờ đợi Đấng Cứu Thế. Tuy nhiên để đón nhận sự kiện trọng đại này con người cần phải có những chuẩn bị cần thiết. Chính Thánh Gio-an Tẩy giả đã giúp họ.
Đời sống thánh thiện, lời rao giảng mời gọi mời ăn năn thống hối của thánh Gio-an Tẩy giả đã ảnh hưởng đến lòng khao khát mong đợi của dân đối với Đấng Cứu Thế, đã thúc dục họ đón nhận phép rửa để tỏ lòng ăn năn thống hối, đến độ có người lầm tưởng thánh nhân là Đấng Cứu Thế (x. Lc 3, 15).
Như vậy, việc đón nhận Thiên Chúa sẽ không xảy ra theo cách ngẫu nhiên tình cờ hay gượng ép, mà khởi đi từ ý hướng ngay lành, sự chân thành xin chịu phép rửa tỏ lòng thống hối ăn năn quay về với Thiên Chúa.
Hơn lúc nào hết, muôn dân thiên hạ và đặc biệt những tâm hồn ngay lành luôn cần những ngôn sứ như thánh Gio-an Tẩy giả đơn sơ, khổ hạnh, sáng suốt... gợi hướng cho họ đến với Thiên Chúa, Đấng là con đường là sự thật và là sự sống.
II. ĐÓN NHẬN
Thiên Chúa đã dùng thánh Gio-an Tẩy giả để chuẩn bị lòng người nên thanh sạch mở lối đón chờ Đấng Cứu Thế.
Do lời giới thiệu của thánh Gio-an Tẩy Giả, nhân loại phải hướng đến Đấng Cứu Thế là Đấng quyền năng sẽ thanh tẩy họ trong Chúa Thánh Thần và trong lửa (x. Lc 3, 16). Đấng ấy, tuy vô tội nhưng đang hòa mình trong dòng người tội lỗi, khiêm tốn nhận phép rửa sám hối của thánh Gio-an Tẩy giả, hầu thống hối thay cho kẻ tội lỗi...
Đến đây, sau giai đoạn thánh Gio-an Tẩy giả chuẩn bị lòng người đón nhận Đấng Cứu Thế, thì chính Đấng Cứu Thế sẽ trực tiếp chuẩn bị cho con người đón nhận sự sống mới trong Thiên Chúa
Đấng Cứu Thế đã khởi sự làm gì để ban cho của con người sự sống mới? Người đã cầu nguyện!
Cầu nguyện chính là lúc Đức Giê-su tiếp xúc với Chúa Cha. Khi ấy, trời đã mở ra, có tiếng Chúa Cha giới thiệu công khai Đức Giê-su chính là Con Thiên Chúa; và lúc ấy, Chúa Thánh Thần cùng xuất hiện. Ba Ngôi Thiên Chúa cùng hoạt động để tái tạo con người. Cuộc tạo dựng mới thật kỳ diệu.
Trong cuộc tạo dựng mới, con người đi vào chương trình của Ba Ngôi Thiên Chúa. Họ được đón nhận phép rửa của Đấng Cứu Thế. Nhờ vậy, họ sẽ dìm mình vào trong sự chết và phục sinh của Chúa Con (x. Rm 6, 4-8), được Chúa Thánh Thần thúc đẩy để kêu lên với Chúa Cha " Ap-ba Cha ơi!" (x. Gl 4, 6). Từ đó, họ sẽ có những biến chuyển tích cực trong tâm linh và tâhn xác, thể hiện bằng một đời sống mới.
III. SỰ SỐNG MỚI
Được tái tạo, người tín hữu trở nên thụ tạo mới (2Cr 5, 17), thông phần vào bản tính Thiên Chúa (2Pr 1, 4), trở nên thân thể trong Đức Ki-tô (Rm 12, 15), được gọi là đền thờ của Chúa Thánh Thần (1Cr 6, 19). Nhờ vậy họ sẽ:
- Cảm nhận một sức sống bừng lên mãnh liệt. Sự sống tự nhiên trở nên sống động, tràn đầy niềm vui.
- Từ bỏ lối sống vô luân, những đam mê trần tục, phản Tin Mừng... của con người cũ, nếp sống xưa...
- Chấp nhận sự thanh luyện cần thiết để trở nên người lính giỏi của Thiên Chúa.
- Liên tục hoán cải để kịp thời sửa chữa những thái độ và hành vi tội lỗi, hầu luôn nhận ơn tha thứ và bình an.
- Làm việc lành, hy sinh hãm mình ... hầu khơi lên lòng thống hối cho những người lầm lỗi khuyết điểm...
- Dấn thân sống bác ái yêu thương, hòa điều với cộng đồng nhân loại: vui với người vui, khóc với người khóc.
- Thân thiện với môi trường thiên nhiên là chính công trình tay Chúa sáng tạo.
- Liên lỉ cầu nguyện, tiếp xúc với Thiên Chúa xin Chúa thứ tha cho bản thân và nhất là cho những ai tội lỗi khuyết điểm, chối Chúa, chống Chúa hoặc chưa biết Chúa ...
- Sống công chính, thao thức tìm kiếm thánh ý Chúa trong niềm cậy trông hy vọng và phó thác.
- Tích cực loan báo Tin Mừng cứu độ lan tỏa đến khắp cùng bờ cõi trái đất để thế giới cảm nghiệm về ơn cứu rỗi, về tình yêu Thiên Chúa thể hiện tuyệt vời nơi Chúa Giê-su.
Trở nên thụ tạo mới trong cuộc tạo dựng mới, người tín hữu được mời gọi liên tục biến đổi và không ngừng phát triển sự liên hệ với Thiên Chúa. Cùng muôn loài muôn vật, họ ngóng chờ ngày Thiên Chúa bày tỏ vinh quang (x. Rm 8, 19), ngày được Thiên Chúa cứu độ cả thân xác (x. Rm 8, 23).
***
Trong thân phận con người, Chúa Con khiêm tốn đón nhận phép rửa; trời đã được mở ra, Ba Ngôi Thiên Chúa tỏ hiện ban cho muôn loài muôn vật một cuộc tạo dựng mới.
Được tái tạo, người tín hữu đón nhận chính sự sống được Thiên Chúa phục hồi. Nhờ vậy họ sẽ có những chuyển biến tích cực trong đời sống tự nhiên và siêu nhiên.
Muôn loài muôn vật đã được tái tạo, nhưng không phải ai cũng nhận ra điều này. Người tín hữu mang trọng trách cùng Thiên Chúa tiếp tục tạo dựng, thể hiện qua việc cảm hóa thế giới bằng gương sáng và đời sống tốt lành của mình.
24. Chiên gánh tội--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Con người sinh ra vốn không ai hoàn hảo, và mỗi người chúng ta thường tự chất vấn bản thân mình không biết bao nhiêu lần trong đời về những điểm yếu của bản thân.
Nhưng liệu có bao nhiêu người trong chúng ta dám thẳng thắn thừa nhận điểm yếu của mình, sau đó khắc phục chúng và vươn lên trong cuộc sống?
Có lẽ, biết nhận cái sai và dám sửa sai không một dân tộc nào bằng người của Xứ Sở Hoa Anh Đào. Chúng ta đã không còn xa lạ với hình ảnh các doanh nghiệp, tập thể hay cá nhân người Nhật Bản cúi gập mình xin lỗi khách hàng, cộng đồng mỗi khi có sự vụ nào đó tiêu cực xảy ra.
Đó có thể là ngài cựu thủ tướng Naoto Kan cúi đầu xin lỗi đồng bào vì sự cố nhà máy điện hạt nhân Fukushima hồi tháng 03/2011.
Đó cũng có thể là thủ tướng Shinzo Abe nhiều lần tự mình xin lỗi người dân vì các bê bối mà vợ ông gây ra.
Đó là cả một công ty đường sắt xin lỗi vì tàu cao tốc nối giữa Tokyo và Tsukuba chạy sớm 20 giây. Hay ngân hàng xin lỗi khách hàng vì... chính khách hàng làm hỏng cây ATM.
Chúng ta mỗi lần đọc được những mẩu tin ấy đều thấy khâm phục người Nhật, khâm phục cái đức tính biết xin lỗi và nhận sai của người dân xứ sở Hoa Anh Đào.
Đó cũng là điều để giúp cho dân tộc Nhật Bản được hoàn thiện hơn và sống có trách nhiệm, nhờ đó mà đất nước họ phát triển thật nhanh thế chiến thứ hai đã để lại sự hoang tàn đổ nát, thế mà ngay nay họ đã đứng tốp ten về kinh tế thế giới.
Nhưng đáng tiếc, người Việt chúng ta lại quá đề cao sĩ diện nên không dám nhìn nhận sự thật về bản thân. Chúng ta luôn tô vẽ cho mình những cái đẹp, và phủ lên mình những điều sang quý lên bản thân, cũng nhằm che đi những cái sai, cái xấu của bản thân.. .
Một năm qua với lò củi đốt tham nhũng của chính phủ nhưng điều đáng tiếc là các quan tham không ai nhận tội mà chỉ biết đổ lỗi, có người còn đổ lỗi vì “não quá ngắn” mà chức lại quá to, và chưa thấy ai dám bán tài sản để đền bù thiệt hai, mà chỉ thấy tẩu tán tài sản trước khi ra vành móng ngựa,. . .
Không nhận lỗi, không sửa sai, thì làm sao bản thân thăng tiến, và nếu là những lãnh đạo thì càng làm cho đất nước chậm phát triển bởi sự mù quáng của mình.
Hôm nay lễ kỷ niệm việc Chúa Giê-su chịu phép rửa tại sông Giodan, ta thấy một hình ảnh thật khiêm tốn của Con Thiên Chúa. Chúa Giê-su là Đấng vô tội nhưng Ngài tự nguyện gánh lấy tội trần gian. Ngài là Thiên Chúa, là Đấng thánh thiện vô cùng đã mặc lấy thân xác con người. Ngài tự nhận mình là tội nhân khi hòa mình vào dòng người tới nhận phép rửa của Gioan. Hành vi này như muốn dạy con người chúng ta hãy biết liên đới trách nhiệm với tha nhân. Liên đới để giúp nhau thăng tiến. Liên đới để sống cảm thông chia sẻ với nhau. Tình liên đới sẽ giúp con người chung sống hòa bình với nhau và cùng nhau xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn.
Người ta thường kể về thị trưởng đầu tiên của thành phố New York với giai thoại như sau: một ngày mùa đông lạnh buốt nọ, ông thị trưởng phải chủ tọa một phiên tòa. Người ta điệu đến trước mặt ông một ông lão đói rách bị tố cáo là đã ăn cắp một mẩu bánh mì. Lời tự biện hộ duy nhất mà người đàn ông khốn khổ đưa ra là: "Gia đình tôi 3 đứa con đang chết đói".
Nghe xong lời cáo buộc của cử tọa cũng như lời biện bạch của ông lão, viên thị trưởng đưa ra phán quyết như sau: "Luật pháp không tha thứ cho bất cứ một hành động xấu nào. Tôi thấy cần phải trừng phạt ông, và hình phạt cho tội ăn cắp là ông phải đóng 10 đô la". Vừa công bố bản án, ông thị trưởng rút trong túi của mình ra 10 đô la và trao cho người đàn ông khốn khổ. Quay xuống cử tọa ông nói tiếp: "Ông lão đã bồi thường vì tội ăn cắp của ông. Còn phần quý vị, tôi yêu cầu mỗi người phải đóng 50 xu tiền phạt vì sống dửng dưng đến độ để cho trong thành phố của chúng ta còn có một người nghèo phải đi ăn cắp". Nói xong, ông ra lệnh cho viên biện lý đi thu tiền và trao tất cả cho ông lão.
Khi chiếc mũ đã được truyền một vòng tòa án và trở về tay mình, ông lão đếm được tất cả 47 đô la 50 xu.
Nếu cuộc đời con người biết sống có tình liên đới thì cuộc đời đẹp biết bao! Người ta sẽ “lá lành đùm lá rách”, “chị ngã em nâng”. . .
Nếu cuộc đời ai cũng cảm thấy có trách nhiệm với cả những lỗi lầm của người khác thì xã hội sẽ thăng tiến biết bao. Vì ai cũng nỗ lực sống chu toàn bổn phận của mình, sống gương mẫu và chắc chắn sẽ không làm gì để gây gương mù gương xấu cho tha nhân.
Nếu cuộc đời ai biết nhìn nhận cái sai của mình để sửa, để đền bù thì xã hội mới thăng tiến và xã hội sẽ công bình hơn.
Nếu cuộc đời ai cũng ý thức mình là tội nhân cần được tha thứ thì con người sẽ thăng tiến và cuộc đời mới văn minh hơn.
Ước gì cuộc đời chúng ta cũng được hiến tế cho anh em. Một cuộc hiến tế không bằng máu mà bằng hy sinh từ bỏ thói hư tật xấu, hy sinh hãm dẹp tính xác thịt, hy sinh đễ sống làm gương sáng cho tha nhân. Ước gì tình liên đới của con người luôn là mối dây hiệp nhất yêu thương để tình người mãi gắn kết và cùng nhau xây dựng một xã hội ngày một tốt đẹp hơn. Amen.
25. Chúa gánh lấy tội con--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Con người sống là để yêu. Tình yêu là lẽ sống của con người. Là người ai cũng biết yêu, biết đón nhận tình yêu, biết thi thố tình yêu.
Thế nên, Xuân Diệu đã từng nói rằng:
“Đố ai sống được mà không yêu,
Không nhớ không thương một kẻ nào”
Nhưng tình yêu cũng có trăm ngàn lối thể hiện. Và “con tim luôn có lý lẽ riêng”. Phải chăng khi yêu người ta thường mù quáng? Vâng, khi đã hành động vì yêu người ta không còn những toan tính thiệt hơn. Khi đã vì yêu người ta dám xả thân, bất chấp mọi hiểm nguy miễn sao thể hiện tình yêu. Tình yêu với gia đình, với tổ quốc, với đồng loại luôn làm cho con người nên cao thượng hơn. Vì những tình yêu này mà biết bao người đã can đảm hy sinh để phục vụ cho lợi ích tha nhân.
Có một nhà Truyền giáo, tình cờ thấy một người đàn ông đang chăm sóc một ngôi mộ cũ và trang điểm bằng những bông hoa đẹp. Nghĩ rằng mình có thể an ủi ông ta đôi lời, nên vị Truyền đạo bắt chuyện: “Người quá cố là thế nào với anh vậy?” Sau giây phút im lặng, người đàn ông tâm sự: “Người nằm nơi đây đã chết thế cho tôi. Khi cuộc nội chiến xảy ra, tên tôi có trong danh sách ra trận. Nhưng tôi đã có vợ và bốn đứa con, cả gia đình đều trông cậy vào tôi. Người thanh niên ở cạnh nhà đã tình nguyện đi lính thế cho tôi – điều nầy được cho phép trong luật nội chiến… Anh ta ra trận và đã hy sinh trong một trận đánh. Sau đó, cha anh mất, mẹ anh trở thành góa phụ, chúng tôi đưa bà về sống với gia đình tôi, và phụng dưỡng bà như là mẹ ruột của mình. Anh ta chết thay cho tôi, để tôi được sống.”
Có lẽ, người để lại dấu ấn nơi ta nhất chính là người dám hy sinh cho ta. Họ dám đánh đổi cả sự sống mình để cho chúng ta được sống hạnh phúc. Họ có thể là cha mẹ, là anh em, là bạn bè của chúng ta. Họ chính là ân nhân của chúng ta vì những sự hy sinh mà họ đã làm cho chúng ta. Có lẽ ta sẽ mang ơn họ suốt đời. Ta sẽ nguyện phục vụ họ suốt đời vì tất cả những điều tốt đẹp họ đã làm cho chúng ta.
Có một người đã đền tội thay cho chúng ta. Ngài đã chết để đền tội cho cả nhân loại. Ngài đã đi đến tận cùng của lời yêu thương là “chết cho người mình yêu”. Nhưng có mấy ai đã thề nguyện phục vụ Ngài suốt đời? Có mấy ai đã tự nguyện đền đáp ân tình Ngài?
Thực vậy, Chúa Giêsu tuy là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế.Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. (Pl 2, 6-8). Ngài đã tự nguyện gánh lên vai mình tội lỗi toàn dân. Ngài tự nguyện là Con Chiên chịu sát tế đền thay cho tội lỗi nhân gian.
Hôm nay, Chúa đến dòng sông Giordan. Ngài hoà mình trong đám đông nhân loại tội lỗi. Ngài vô tội mà vẫn cúi mình nhận tội như bao tội nhân. Ngài khiêm cung nhận lấy tội lỗi nhân gian để một ngày kia Ngài sẽ đền thay cho tội cả loài người qua cái chết thập tự giá.
Xin cho chúng ta luôn biết nhận ra hồng ân làm con cái Chúa là nhờ công ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu để hết lòng tạ ơn Chúa.
Xin cho chúng ta luôn nhận ra mình là tội nhân đã được chính Chúa Giêsu vẫn hiến tế mỗi ngày đền thay tội lỗi chúng ta để biết sống sám hối từng ngày.
Xin cho chúng ta cũng biết hiến tế chính cuộc đời mình làm của lễ đẹp lòng Chúa qua những hy sinh, những từ bỏ tội lỗi, những nỗ lực canh tân đời sống hằng ngày nên tốt hơn.
Xin Chúa là Đấng đã chết vì người tội lỗi xin thương cứu chuộc con người thấp hèn của chúng ta. Amen.
26. Để là con Chúa--Lm Phạm Quốc Hưng
Trong những ngày Cha Christopher Lê Huy Bảng, CSsR (1918-2002)-Giám Tập tiên khởi của Phụ Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Hải Ngoại-đau nặng sắp qua đời, có lần ngài được hỏi: “Nếu được nghe Chúa nói với Cha một lời, Cha muốn được Chúa nói lời nào với Cha?” Cha đã trả lời: “Tôi muốn được nghe Chúa nói với tôi: Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha (Lc 3:22).” Chắc hẳn mỗi người chúng ta cũng có cùng ước muốn như Cha Christopher. Đây cũng chính là lời Chúa Cha đã nói với Chúa Giêsu khi Người chịu phép rửa ở sông Giođan để mọi người cùng nghe thấy. Lời này được cả ba thánh sử Mát-thêu, Mác-cô và Luca ghi lại trong sách Tin Mừng của các ngài (Mt 3:17, Mc 1:11, Lc 3:22), và được Hội Thánh cho công bố trong Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa mà chúng ta cùng cử hành hôm nay.
Mùa Giáng Sinh là mùa của yêu thương, nên cũng là mùa của niềm vui, niềm vui của trao ban và lãnh nhận những quà tặng giữa những người thân thương. Quà tặng quý giá nhất mà toàn thể nhân loại nói chung và từng người nói riêng được Thiên Chúa trao tặng trong mùa Giáng Sinh này không gì khác hơn là chính Chúa Giêsu Hài Đồng, Đấng Cứu Chuộc nhân thế đã được sinh ra trong máng cỏ Bêlem. Người là Đấng sẽ sống phận người như chúng ta, rồi chết tức tưởi trên thập giá để rồi sống lại và ban cho chúng ta sự sống đời đời.
Chúng ta được tự do để chấp nhận hay từ khước Chúa Giêsu, món quà yêu thương của Thiên Chúa. Chấp nhận Chúa Giêsu có nghĩa là tin vào Người và chịu Phép Rửa Tội để trở nên chi thể của Nhiệm Thể của Người là Hội Thánh Công Giáo. Đó cũng là chấp nhận ơn trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa như Thánh Gioan đã công bố trong phần nhập đề của Tin Mừng của người: “Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người ban cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là những ai tin vào Danh Người” (Ga 1:12). Hội Thánh cho kết thúc mùa Giáng Sinh với Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa mà chúng ta cùng cử hành hôm nay giúp chúng ta tiếp tục sống niềm tin vào Chúa Giêsu trong suốt năm Phụng Vụ với niềm vui vì đã được ơn được làm con Thiên Chúa qua Phép Rửa Tội.
Làm thế nào để sống trọn ơn làm con Chúa?
Thánh Gioan Tông Đồ trong thư thứ nhất của người đã chỉ ra ba điều kiện để chúng ta sống trọn ơn gọi làm con Chúa, cũng là để chúng ta được bước đi trong ánh sáng Chúa Kitô, ánh sáng dẫn đưa chúng ta đến sự sống đời đời. Đó cũng là ba điều kiện để chúng ta sống đẹp lòng Chúa, để chúng ta có thể được nghe Chúa Cha nói với chúng ta những lời Người đã nói với Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay: “Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha” (Lc 3:22).
Điều kiện thứ nhất là chúng ta phải đoạn tuyệt với tội lỗi. Điều kiện này khởi sự bằng việc chúng ta phải nhờ đức tin mà nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình, thành thật sám hối, quyết tâm ghét bỏ và xa lánh mọi tội lỗi, đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa nhờ công nghiệp Chúa Kitô, luôn sống trong lòng kính sợ Chúa và tâm tình khiêm nhường thống hối để khỏi tái phạm tội. Thánh Gioan tuyên bố dứt khoát: “Phàm ai phạm tội thì cũng chống lại lề luật của Thiên Chúa. Thế mà anh em biết: Đức Giêsu đã xuất hiện để xóa bỏ tội lỗi, và nơi Người không có tội lỗi” (1Ga 3:4-5). Tội đáng chúng ta phải ghê sợ hơn là là tội đánh mất đức tin cũng là đánh mất ý thức về tội lỗi, cũng là khước từ lòng thương xót của Chúa. Thánh Gioan nói: “Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình và sự thật không ở trong chúng ta. Nhưng nếu chúng ta thú nhận tội lỗi, Thiên Chúa là Đấng trung thành và công chính sẽ tha tội cho chúng ta, và sẽ thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính” (1Ga 1:8-9). Đức Cha Fulton J. Sheen cũng thường nói: “Điều xấu nhất không phải là tội lỗi mà là sự chối tội”.
Điều kiện thứ hai là chúng ta phải tuân giữ các giới răn Chúa, nhất là luật mến Chúa yêu người. Vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4:16), nên là con Thiên Chúa chúng ta cũng phải là những người biết yêu thương. Thánh Gioan viết: “Chúng ta biết rằng: chúng ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống vì chúng ta yêu thương anh em. Kẻ không yêu thương thì ở lại trong sự chết. Phàm ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân. Và anh em biết: không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó” (1Ga 4:14-15). Và “Đây là điều răn của Người: chúng ta phải tin vào Danh Đức Giêsu Kitô, Con của Người, và phải yêu thương nhau, theo điều răn Người đã ban cho chúng ta” (1Ga 4:23). Đây cũng chính là đặc nét của các môn đệ Chúa Kitô như chính Người xác định: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13:34-35).
Điều kiện thứ ba là chúng ta phải đề phòng thế gian, các lạc thuyết và các ngôn sứ giả. Đây là điều kiện quan trọng bảo đảm cho chúng ta trung thành thực hiện hai điều kiện trên. Thực vậy, ai trong chúng ta cũng cảm thấy tự đáy lòng mệnh lệnh của Chúa là phải làm lành lánh dữ. Nhưng để có được cái nhìn chính xác về tội phúc, chúng ta cần phải có đức tin ngay chính và lương tâm trong sạch. Chính tinh thần thế gian, các lạc giáo và các ngôn sứ giả khiến chúng ta bị lầm lạc trong việc phân biệt chính tà, tội phúc. Để chúng ta khỏi bị đánh lừa bởi tinh thần thế gian, các lạc giáo và các ngôn sứ giả, chúng ta cần phải có tinh thần cầu nguyện và hy sinh hãm mình hay sự khôn ngoan của thập giá, biết yêu mến vâng phục Đức Thánh Cha là Đại Diện của Chúa Kitô và giáo huấn của Hội Thánh là Mẹ và là Thầy của chúng ta. Chính nhờ vậy, chúng ta sẽ luôn được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần, Thần Khí của Chúa Kitô.
Tất cả các lạc thuyết và các ngôn sứ giả đều giống nhau ở một điểm là chối bỏ tuyệt đối tính của Chúa Kitô; nghĩa là không tin nhận Chúa Kitô là Thiên Chúa làm người để cứu chuộc nhân loại; hoặc chống phá giáo huấn của Hội Thánh, không nhìn nhận sự hiệp nhất giữa Chúa Kitô và Hội Thánh. Đây là điều Thánh Giám Mục Antôn Maria Claret (1807-1870) từng xác quyết: “Lý do duy nhất mà xã hội đang tiêu vong là vì nó từ chối lắng nghe lời của Hội Thánh, lời sự sống, lời Thiên Chúa. Mọi kế đồ của ơn cứu chuộc sẽ vô ích nếu lời (giáo huấn) của Hội Thánh không được phục hồi hoàn toàn.” Vì vậy, việc học hỏi và thực hành giáo lý như được trình bày trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo là một điều cần thiết trong đời sống đức tin.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng con luôn bước đi trong ánh sáng đức tin theo sự hướng dẫn của Hội Thánh, để chúng con luôn có được niềm vui và sống trọn ơn gọi là con Chúa, con Mẹ, con Hội Thánh. Amen.
27. Phép Rửa--Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Trong vòng vài tuần lễ vừa qua, Giáo Hội cử hành nhiều Lễ Mừng. Mùa Vọng mời gọi chúng ta sám hối và chuẩn bị tâm hồn đón Chúa giáng trần. Mùa Giáng Sinh đã qua. Chúa đã tỏ mình ra cho các mục đồng nơi máng cỏ. Rồi các nhà Đạo Sĩ từ phương xa đã đến tôn kính, bái thờ và dâng lễ vật cho Chúa Hài Nhi. Giáo Hội kết thúc Mùa Giáng Sinh với Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa bởi ông Gioan Tẩy Giả tại sông Giôđan. Nguồn gốc lễ này vào những thế kỷ đầu được cử hành đồng thời với Lễ Hiển Linh. Khi Chúa Giêsu bắt đầu công khai ra giảng đạo và chính thức thi hành sứ mệnh cứu độ, Chúa đã nhập hàng với đoàn dân để nhận phép rửa của Gioan. Phép rửa của Gioan không xóa tội lỗi nhưng là một nghi thức sám hối. Phép rửa là dấu chỉ một sự hối lỗi quay đầu. Biết mình là một bước khởi đầu tu thân. Chúa Giêsu hòa nhập giữa đám đông trong tình liên đới thân phận để từ đó dẫn dắt mọi người ra khỏi vòng nô lệ tội lỗi.
Thiên Chúa đã dùng miệng tiên tri Isaia để loan báo cho toàn dân: "Ta là Thiên Chúa, Ta đã gọi ngươi, vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta. Ta đã nắm tay ngươi, đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân, làm ánh sáng chiếu soi muôn nước (Is 42, 6). Isaia truyền đạt một sứ mệnh được ẩn tàng nơi Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người. Ngài là ánh sáng tỏa chiếu trong đêm tối và soi dọi đường nẻo công chính. Isaia đã giới thiệu Ngài cho toàn dân qua Bài ca Thứ Nhất nói về Người Tôi Trung hiền lành và tín trung: Cây lau bị giập, nó không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi. Nó sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý (Is 42, 3). Những lời tiên báo này từ từ được tỏ hiện một cách rõ ràng nơi một con người. Người Tôi Trung chính là Chúa Giêsu Kitô sẽ hoàn tất mọi việc để ứng nghiệm các lời tiên tri công bố về Ngài.
Nhìn lại, Giáng Sinh tại quê nhà Việt Nam rất vui, hầu như mọi người cả Lương lẫn Giáo đều nao nức tham dự ngày Sinh Nhật Chúa. Mọi giáo dân tuôn về các Nhà Thờ hân hoan tham dự Lễ Vọng Giáng Sinh và Lễ Giáng Sinh. Trong khi tại các xứ đạo đa văn hóa ở nước ngoài, Mùa Vọng nhiều người chuẩn bị khá rộn ràng để đón mừng Lễ Chúa Giáng Sinh, nhưng chính ngày Lễ Mừng, số người tham dự xem ra rất khiêm tốn. Nhìn chung thấy rằng người ta dành nhiều thời gian cho các sinh hoạt khác như đi mua sắm, tiệc tùng, thưởng ngắm phố chợ và rong chơi. Một số nhóm dân tộc thuộc truyền thống của Nam Mỹ không chú tâm nhiều vào ngày lễ Giáng Sinh, nhưng tâm tình hướng đến việc cử hành Lễ Hiển Linh. Chúng ta biết Chúa đến ban bình an và niềm vui ơn cứu độ cho nhân loại. Niềm vui được lan tỏa khắp nơi tới mọi tâm hồn. Chúng ta không thể giới hạn niềm hoan lạc trong một khoảng thời khắc hay nơi chốn nào. Mỗi người sẽ nhận lãnh niềm vui an lạc trong những hoàn cảnh khác nhau suốt Mùa Giáng Sinh. Điều quan trọng là mỗi người hãy mở lòng đón nhận ơn cứu độ của Chúa.
Con người sống trong thế giới này có quá nhiều khác biệt về niềm tin, tín ngưỡng, văn hóa, ngôn ngữ, truyền thống dân tộc và ý thức hệ. Chúng ta không cần phải tranh cãi hay biện luận về cách thế Chúa giáng sinh, nhưng hãy sống tinh thần của Đấng đã hóa thân làm người. Hãy ngắm nhìn những tượng Chúa Hài Đồng nằm trong máng cỏ với hai bàn tay giơ lên. Hình ảnh thật đẹp! Chúa muốn mở rộng bàn tay đón nhận các tâm hồn về với Chúa. Một tâm tình khác, Chúa Hài Nhi cũng giống như các trẻ thơ khác là muốn được ẵm bế. Chúa giơ tay muốn được Mẹ ẵm vào lòng. Chúa hạ sinh như một bé thơ để cùng chia sẻ sự yếu ớt, khó nghèo, khiêm hạ và mời gọi yêu thương đáp trả. Chúa muốn chúng ta ẵm Chúa như ôm ấp những kẻ bé mọn, cô đơn, mồ côi, tàn tật, khổ đau, nghèo đói và bất hạnh. Chính Chúa Giêsu đã khuyên dạy: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy."(Mt 25, 45).
Khoảng năm 30 tuổi, ông Gioan xuất hiện công khai kêu gọi mọi người hãy chuẩn bị tâm hồn đón Chúa. Nhiều người chạy đến với Gioan và xin vấn kế: Chúng tôi phải làm gì bây giờ? Gioan đã chỉ dạy họ thay đổi cách sống và thực hành phép rửa sám hối. Bấy giờ chưa có người nào nhận biết Chúa Giêsu là ai? Ông Gioan thi hành sứ vụ của mình là vị tiền hô của Chúa. Ông không tìm vinh quang cho riêng mình, nhưng tập trung chuẩn bị tâm hồn mọi người đón Đấng cứu tinh. Ông Gioan trả lời mọi người rằng: "Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa (Lc 3, 16). Chính Chúa Giêsu đã nhập đoàn với dân người đến với Gioan xin nhận phép rửa.
Thánh Luca giới thiệu về sứ vụ của Chúa Kitô sau phép rửa sám hối. Sự tác động rất quan trọng của Ba Ngôi Thiên Chúa trong biến cố này. Ngôi Cha chứng dám qua Lời từ trời cao, Ngôi Thánh Thần thánh hóa và Ngôi Con thi hành sứ vụ. Thánh sử Luca viết: Khi toàn dân đã chịu phép rửa, Đức Giêsu cũng chịu phép rửa, và đang khi Người cầu nguyện, thì trời mở ra và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con (Lc 3, 21-22). Đấng Cứu Thế đã đến và mang thân phận con người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Sau khi nhận phép rửa bởi ông Gioan, Chúa Giêsu đã bắt đầu sứ mệnh rao giảng về Nước Trời.
Chúa Giêsu đã dùng các dụ ngôn và nhiều cách thế đơn sơ để mặc khải về chân lý Nước Trời. Lời của Chúa là lời hằng sống có uy quyền biến đổi tâm can của con người. Ngài mở cửa đón nhận mọi tâm hồn và không loại trừ một dòng dõi dân tộc nào. Thánh Luca đã diễn tả trong sách Tông Đồ Công Vụ: Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận (Tđcv 10, 35). Cửa Nước Trời đã được mở ra cho những ai có thiện tâm tìm kiếm. Giáo Hội tiếp nhận mọi thành phần đa dạng của tất cả các nền văn hóa, tín ngưỡng và chủng tộc. Qui tụ mọi người chung trong một niềm tin vào Chúa Kitô và một niềm hy vọng ngày sau sẽ được chung hưởng sự sống muôn đời.
Mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa cũng nhắc nhớ đến Phép Rửa Tội của mỗi người chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã rửa sạch tâm hồn chúng ta trong nước và Thánh Thần. Chúng ta được trở nên thụ tạo mới và được trở thành con cái của Thiên Chúa. Hạt giống niềm tin được gieo vào lòng, việc xức dầu thánh đã in ghi dấu ấn trong tâm hồn, áo trắng tinh sạch được phủ trùm và ánh sáng của Chúa Kitô được gởi gắm cho những vị đỡ đầu chăm nom. Chúng ta nên ghi nhớ ngày đã được sinh lại làm con Chúa và con Hội Thánh qua Bí tích Rửa Tội. Chúng ta đã được tháp nhập vào nhiệm thể Chúa Kitô. Ngài là đầu và chúng ta là chi thể của Ngài. Liên kết với Chúa Kitô, mỗi người có bổn phận làm cho hạt giống của sự sống đời đời nẩy sinh hoa trái ngay trong cuộc sống này.
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã bước xuống và cúi đầu nhận phép rửa của thánh Gioan, xin cho chúng con biết khiêm hạ nhận thân phận tội lỗi yếu hèn, để xin ơn sám hối. Sám hối là biết mình. Biết mình là khởi đầu bước tiến tới sự trọn lành.
28. Thời đại ân sủng--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Sự kiện Chúa Giêsu chịu Phép Rửa là gạch nối giữa giai đoạn quan trọng: sống ẩn dật và rao giảng công khai. Sau 30 năm sống âm thầm với gia đình tại Nadarét, Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng.
Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa cũng là gạch nối giữa hai mùa: Giáng sinh và Thường niên. Giáo Hội đã cùng sống với Chúa Giêsu qua các biến cố Giáng Sinh và Hiển Linh. Hôm nay Chúa nhật I thường niên, Giáo Hội sẽ cùng đồng hành với Người qua các biến cố của đời rao giảng.
Chúa chịu Phép Rửa tại sông Giođan mở ra một thời đại ân sủng cho nhân loại.
1. Sông Giođan
Trong các dòng sông nổi tiếng khắp thế giới thì Giođan bé nhỏ là dòng sông quen thuộc nhất đối với người Kitô hữu. Dòng sông ấy gắn liền với những sự kiện quan trọng của Thánh Kinh.
Như một thân thể của xứ Palestine, sông Giođan góp phần quan trọng trong lịch sử Israel ngay từ những ngày đầu Thiên Chúa chọn dân Do thái. Từ Giođan chuyển từ tiếng Do thái là “hayyarden” có nghĩa “chảy xuôi dòng thời gian”. Bắt nguồn từ Syria, do ba phụ lưu hợp thành. Sông dài 300km, rất nhiều chỗ cạn, nhiều chỗ uốn khúc; chảy vào biển hồ Galilê, ở đây lòng hồ sâu 212m dưới mực nước biển; rồi tiếp tục chảy xuống miền Nam, đổ vào Biển Chết, ở đây độ sâu là 394m dưới mức nước biển, có thể nói đây là điểm thấp nhất của địa cầu. Lòng sông rất dốc, thượng lưu ở độ cao 45 mét, đến cửa sông là 390 mét so với mặt nước biển, lưu vực 93 mét khối/s. Mặc dù là con sông rộng nhất của Palestine, nhưng Giođan khác với những con sông của nhiều nước ở chỗ: khúc sông từ Biển Hồ Galilê đến Biển Chết có đến 27 ghềnh thác khó lưu thông, lắm chỗ nước chảy qua tạo thành những thung lũng như đầm lầy, nhiều nơi có thú dữ, cây cối hai bên dòng sông mọc tươi tốt, không có thành phố lớn nào được thành lập dọc theo dòng sông.
Kinh Thánh nói nhiều đến dòng sông này. Khởi đầu là việc liên hệ giữa Abraham và ông Lot ở sông Giođan (St 13,10). Giacob từ Kharan trở về đã vượt qua sông Giođan. Các chi tộc vượt sông Giođan cách kỳ diệu dưới sự hướng dân của Giosuê (Gs 3,14-17). Con sông là ranh giới vì dân du mục vượt qua sông vào Cannaan để cướp bóc. Người Israel tìm nơi nương náu bên kia tản ngạn sông Giođan (Tl 6,33; 2Sm 17,22) và được xem như sự che chở: “Trong bụi rậm sông Giođan...” (Gr 12,5; 49,19; 50,44). Tướng quân Naaman nước Aran nghe lời ngôn sứ Êlisa xuống sông tắm 7 lần nên được khỏi bệnh phong hủi (2V 5,1-19). Ngôn sứ Êdêkiel diễn tả sức sống sung túc của sông Giođan, nước sông chảy đến đâu thì trao ban sự sống đến đó (Ed 47).
2. Chúa Giêsu chịu Phép Rửa
Chính tại dòng sông Giođan bé nhỏ, Chúa Giêsu đã đến khai mạc sứ vụ công khai bằng cách đón nhận phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả.Ngôi Lời Thiên Chúa từng bước xuống dòng nước ấy, chỗ thấp nhất không chỉ về địa lý không gian nhưng còn thấp cả chiều sâu tâm lý và chiều kích tương quan xã hội.
Nếu đem so sánh với sông Cửu Long mênh mang thuyền qua lại thì dòng nước Giođan nơi Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu có thể gọi là con kênh nhỏ. Nếu đặt bên cạnh sông Hồng cuồn cuộn xiết chảy thì dòng Giođan chỉ là con lạch. Nếu đứng kề bên sông Hương thơ mộng lững lờ trôi thì Giođan chỉ là con suối nhỏ. Đứng bên bờ này sông Giođan ném hòn đá qua bờ kia, nó có thể đi xa hơn.
Thế mà Chúa Giêsu đã chọn dòng nước bé nhỏ này, không phải như Môisen hay Giôsua giơ tay cho dòng nước rẽ đôi, nhưng để dìm mình xuống dòng nước nhỏ cùng với đoàn người chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả.
Thiên Chúa, Đấng cho Cửu long giang tuôn chảy tưới mát đồng bằng miền Nam; Đấng cho sông Hồng tuôn nước lũ bồi đắp phù sa cho đồng bằng miền Bắc; Đấng cho Hương giang lững lờ lãng mạn gợi hồn thơ đã chọn dìm mình vào dòng nước Giođan bé nhỏ.
Thật lạ lùng, trong số những người đến “xưng thú tội lỗi” ( Mc 1,5) và chịu “ phép rửa sám hối để đước ơn tha tội” (Mc 1,4) lại có Chúa Giêsu. Người là Đấng Thánh, là Thiên Chúa, siêu việt tuyệt đối, tại sao lại đến xin Gioan làm phép rửa sám hối? Người là Đấng mà Gioan “không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài” lại có thể đứng chung với đám đông người tội lỗi chờ đến lượt mình được chịu thanh tẩy?
Trong đêm Giáng sinh chúng ta đã chứng kiến một Thiên Chúa hạ mình xuống làm người, sinh ra nơi hang đá máng cỏ, làm một người nghèo hèn bé nhỏ, dường như chưa đủ đối với tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa. Hôm nay, Người lại hạ mình xuống thêm một bậc nữa, xuống tận cùng xã hội nhân loại khi đến xin Gioan làm phép rửa cho mình như một người dân tầm thường và tội lỗi. Và đã xuống bậc tận cùng khi Chúa hạ mình thẳm sâu chấp nhận chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại.
Biết nói gì về Người bây giờ nếu không phải là cúi đầu cảm phục và tôn thờ sự khiêm hạ thẳm sâu đó của Ngôi Hai làm người!
3. Thời đại ân sủng
Trước sự hạ mình thẳm sâu của Chúa Giêsu, Chúa Cha đã tôn vinh Người bằng lời tuyên bố: “Đây là con Ta yêu dấu” vàsai phái Thánh Thần hiện xuống dười hình chim bồ câu.
Ba dấu hiệu mà Phúc Âm nêu lên không những tiên báo sự sống lại vinh hiển của Đức Kitô mà còn tiên báo thời đại ân sủng mà Người mang đến cho loài người.
a. Dấu hiệu 1: Trời mở ra.
Sách Sáng Thế viết: Ađam và Evà phạm tội, cửa thiên đàng đóng lại ( St 3,23-24). Qua biết bao thế kỷ, Dân Chúa đã thiết tha cầu nguyện “Ôi ước chi Ngài xé rách các tầng trời và ngự xuống” ( Is 64,1). Nhờ Chúa Kitô, từ nay trời mở ra, một kiểu nói của Thánh Kinh ngụ ý là, con người từ nay được sống thông hiệp với Thiên Chúa.
b. Dấu hiệu 2: Thánh Thần ngự xuống như chim bồ câu.
Sách Sáng Thế viết:Trước khi tạo dựng trời đất, thì “Thánh Thần Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1,2) như để thông truyền sức sống. Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, Chúa Thánh Thần ngự xuống dưới hình chim bồ câu với ngụ ý: Chúa Giêsu là con người mới và trong Người nhân loại sẽ được tạo dựng lại, sẽ được đổi mới. Chính Thánh Phaolô xác định: “ Điều quan trọng chẳng phải là việc cắt bì hay không cắt bì, nhưng là trở thành tạo vật mới” (Gal 6,15).
c. Dấu hiệu 3: Lời của Chúa Cha: “ Con là con yêu dấu của Ta…”.
Qua lời tuyên bố này, chúng ta nhận biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Trong lời giảng dạy, Chúa Giêsu cho biết: những ai tin vào Người và nhận phép rửa nhân danh Người thì cũng được thông phần vào địa vị làm con Thiên Chúa.
Khi Chúa Giêsu chịu Phép rửa, trong giờ phút cảm động ấy, cả Ba Ngôi Thiên Chúa cùng xuất hiện. Phép rửa của Chúa Giêsu là mặc khải đầu tiên về Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây là lần đầu tiên trong Kinh Thánh Ba Ngôi Thiên Chúa đồng hiện diện. Các Giáo Hội Đông Phương cử hành phép rửa của Chúa Giêsu như một ngày Lễ Ba Ngôi; và chính dưới dấu chỉ Ba Ngôi mà phép rửa Kitô giáo được ban“Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
Chúa Thánh Thần như chim bồ câu đáp xuống. Chúa Thánh Thần là tình yêu. Chúa Thánh Thần ngự xuống trên ai là dấu chỉ Thiên Chúa ưu ái người ấy. Chúa Cha công khai xác nhận sự ưu ái với Chúa Con: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Ba Ngôi liên kết trong một tình yêu hiệp thông. Chúa Giêsu hoạt động dưới tác động của Chúa Thánh Thần để thi hành thánh ý Chúa Cha. Có thể nói cả Ba Ngôi đều hoạt động trong Chúa Giêsu Kitô. Cả Ba Ngôi đều tham gia vào công trình cứu độ con người.
Từ xưa trong Cựu ước, Chúa Thánh Thần ngự xuống là để trao ban một sứ mệnh. Hôm nay, Chúa Giêsu cũng nhận lãnh một sứ mệnh, đó là cứu độ nhân loại, là “mở mắt cho người mù”, là “đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ”, là “dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong bóng tối tăm”.
Chúa Giêsu không đến trong thái độ phô trương quyền lực, nhưng đến trong sự hiền lành khiêm nhường. Người đến không phải để lên án nhưng để tha thứ. Người đến không phải để giết chết nhưng để cứu sống như lời tiên tri Isaia: “Cây lau bị dập, Người không bẻ gãy. Tim đèn leo lét, Người chẳng nỡ tắt đi”.
Phép rửa trong nước mà Chúa Giêsu đón nhận bởi thánh Gioan Tẩy Giả trở nên phép rửa trong Chúa Thánh Thần, khuôn mẫu và nguyên mẫu phép rửa Kitô giáo.
Ngày chúng ta được lãnh nhận bí tích Rửa Tội, màn đêm tội lỗi vây phủ bị xé ra, Ba Ngôi Thiên Chúa đến với mỗi người, ban cho chúng ta cuộc sống thần linh, cho chúng ta được vinh dự làm con Thiên Chúa, được kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Ngày chúng ta được lãnh nhận bí tích Rửa tội, Chúa Thánh Thần cũng đã trao cho chúng ta một sứ mệnh, đó là sống xứng đáng một người con hiếu thảo của Thiên Chúa, là tiếp tục công việc của Chúa Giêsu trong công trình cứu độ.
Chúa Giêsu là gương mẫu một người con hiếu thảo. Người luôn sống thân mật với Chúa Cha, luôn kết hiệp với Chúa Cha trong kinh nguyện hằng ngày, luôn thi hành thánh ý Chúa Cha. Người đã vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá.
Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta luôn kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi, luôn thi hành thánh ý Thiên Chúa, luôn sống một cuộc sống tốt đẹp, luôn tích cực góp phần xây dựng xã hội, tạo hạnh phúc cho tha nhân.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin dạy chúng con biết sống ơn Bí tích Rửa Tội để chúng con được xứng đáng được làm con yêu dấu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Amen.
29. Cuộc gặp gỡ lịch sử--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Ở đời, khi người ta dựng vợ gã chồng cho con cái thường chọn nơi môn đăng hộ đối; khi chọn bạn mà chơi thì cũng chọn người hiền. Bình thường ai cũng chọn cái tốt cái hay. Không ai lại chọn cái xấu cái dở bao giờ.Thiên Chúa là Đấng Thánh. Nếu Người vào đời mà liên đới với những bậc Thánh Hiền, với những Người Công Chính thì chẳng ai phản đối. Nhưng không, Chúa Giêsu đã gắn bó thân phận mình với loài người tội lỗi.Trước khi bắt đầu công cuộc rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu đã làm một cử chỉ thật lạ lùng là Người tới bên bờ sông Giođan và xin Gioan làm phép rửa cho mình.
Đây là sự hạ mình sâu thẳm của Đấng Thánh và là một cuộc gặp gỡ lịch sử Cưụ ước - Tân ước. Biến cố không chỉ loan báo trước cuộc khổ nạn của Đức Giêsu mà còn loan báo về sự phục sinh vinh quang của Người.
1. Khiêm hạ thẳm sâu
Nếu đem so sánh với sông Cửu Long mênh mang thuyền qua lại thì dòng nước Giođan nơi Gioan làm phép rửa cho Đức Giêsu có thể gọi là con kênh nhỏ. Nếu đặt bên cạnh sông Hồng cuồn cuộn xiết chảy thì dòng Giođan chỉ là con lạch. Nếu đứng kề bên sông Hương thơ mộng lững lờ trôi thì Giođan chỉ là con suối nhỏ. Đứng bên bờ này sông Giođan ném hòn đá qua bờ kia, nó có thể đi xa hơn.
Thế mà Đức Giêsu đã chọn dòng nước bé nhỏ này, không phải như Môisen hay Giôsua giơ tay cho dòng nước rẽ đôi, nhưng để dìm mình xuống dòng nước nhỏ cùng với đoàn chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả.
Thiên Chúa, Đấng cho Cửu long giang tuôn chảy tưới mát đồng bằng miền Nam; Đấng cho sông Hồng tuôn nước lũ bồi đắp phù sa cho đồng bằng miền Bắc; Đấng cho Hương giang lững lờ lãng mạng gợi hồn thơ đã chọn dìm mình vào dòng nước Giođan bé nhỏ.
Trong các dòng sông nổi tiếng khắp thế giới thì Giođan bé nhỏ là dòng sông quen thuộc nhất đối với người Kitô hữu. Dòng sông ấy gắn liền với những sự kiện quan trọng của Thánh Kinh.
Như một thân thể của xứ Palestine, sông Giođan góp phần quan trọng trong lịch sử Israel ngay từ những ngày đầu Chúa chọn dân Do thái. Từ Giođan chuyển từ tiếng Do thái, hayyarden, có nghĩa “chảy xuôi dòng thời gian”. Bắt nguồn từ Syria, do ba phụ lưu hợp thành. Sông dài 300km, rất nhiều chỗ cạn, nhiều chỗ uốn khúc, chảy qua biển hồ Galilê và cuối cùng đổ vào Biển Chết. Lòng sông rất dốc, thượng lưu ở độ cao 45 mét, đến cửa sông là 390 mét với mặt nước biển, lưu vực 93 mét khối/s. Mặc dù là con sông rộng nhất của Palestin, sông Jordan khác với những con sông của nhiều nước ở chỗ: Khúc sông từ Biển Hồ Galilê đến Biển Chết có đến 27 ghềnh thác khó lưu thông, lắm chỗ nước chảy qua tạo thành những thung lũng như đầm lầy, nhiều nơi có thú dữ, cây cối hai bên dòng sông mọc tươi tốt, không có thành phố lớn nào được thành lập dọc theo dòng sông. Kinh Thánh nói nhiều đến dòng sông này, khởi đầu là việc liên hệ giữa Abraham và ông Lot ở sông Giođan (St 13,10). Giacob từ Kharan trở về đã vượt qua sông Giođan, các chi tộc vượt sông Giođan cách kỳ diệu dưới sự hướng dân của Giosuê (Gs 3,14-17). Con sông là ranh giới vì dân du mục vượt qua sông vào Cannaan để cướp bóc. Người Israel tìm nơi nương náu bên kia tản ngạn sông Jordan (Tl 6,33; 2Sm 17,22) và được xem như sự che chở: “Trong bụi rậm sông Jordan...” (Gr 12:5; 49:19; 50:44) qua Naaman nước Aran nghe lời ngôn sứ Êliđeo xuống sông tắm 7 lần nên được khỏi bệnh phong hủi (2V 5,1-19). Ngôn sứ Êdêkiel (chương 47) diễn tả sức sống sung túc của sông Giođan, nước sông chảy đến đâu thì trao ban sự sống đến đó.
Chính tại dòng sông Giođan bé nhỏ, Đức Giêsu đã đến khai mạc sứ vụ công khai bằng cách đón nhận phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả.
Thật lạ lùng, trong số những người đến “xưng thú tội lỗi” ( Mc1,5) và chịu “ phép rửa sám hối để đước ơn tha tội” (Mc 1,4) lại có Đức Giêsu. Ngài là Đấng Thánh, là Thiên Chúa, siêu việt tuyệt đối, tại sao lại đến xin Gioan làm phép rửa sám hối? Ngài là Đấng mà Gioan “không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Ngài” sao lại có thể đứng chung với đám đông người tội lỗi chờ đến lượt mình để được chịu thanh tẩy?
Trong đêm Giáng sinh chúng ta đã chứng kiến một Thiên Chúa hạ mình xuống làm người, sinh ra nơi hang đá máng cỏ, làm một người nghèo hèn bé nhỏ, dường như chưa đủ đối với tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa. Hôm nay, Người lại hạ mình xuống thêm một bậc nữa, xuống tận cùng xã hội nhân loại khi đến xin Gioan làm phép rửa cho mình như một người dân tầm thường và tội lỗi. Và đã xuống bậc tận cùng khi Chúa hạ mình thẳm sâu chấp nhận chết trên thập giá vì yêu nhân loại.
Biết nói gì về Người bây giờ nếu không phải là cúi đầu cảm phục và tôn thờ sự khiêm hạ thẳm sâu đó của con Thiên Chúa làm người!
2. Cuộc gặp gỡ lịch sử
Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Gioan là lúc Tân - Cựu ước giao duyên, là lễ bàn giao giữa hai niên đại cũ và mới mà Chúa Giêsu và Gioan là đại biểu. Gioan, ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước gặp gỡ trao đổi bàn giao với Đức Kitô,vị ngôn sứ của thời kỳ mới.
Cuộc gặp gỡ này không phải là một cuộc tranh cãi dành ưu thế, nhưng thật thú vị tuyệt vời khi cả hai đại biểu đều khiêm nhường đón nhận nhau trong sứ vụ. Đức Giêsu từ tốn bước xuống dòng nước Giođan và xin Gioan làm phép rửa cho mình.Gioan hân hạnh xin Đức Giêsu rửa cho mình vì ông nhìn thấy đây mới chính là nhân vật ban phép rửa trong Thánh Thần như ông đã loan báo.
Nơi cuộc gặp gỡ lịch sử này,Thiên Chúa đã xuất hiện và chứng nhận. Lúc ấy các tầng trời mơ ra, Thánh Thần đáp xuống như chim bồ câu và có tiếng Chúa Cha tuyên phán: Con là Con Ta yêu dấu. Ba Ngôi Thiên Chúa tỏ hiện vào chính lúc lịch sử của hai niên đại mới và cũ chuyển giao.Từ nay Đức Giêsu sẽ lên đường vào sứ vụ mới với niềm hy vọng mọi sự sẽ tốt đẹp theo thánh ý Chúa Cha.
Cuộc gặp gỡ giữa hai Đấng tại sông Giođan đã làm nên lịch sử và đã được Giáo hội chọn làm khởi điểm cho mùa thường niên là mùa phụng vụ cử hành các mầu nhiệm cuộc đời rao giảng tin mừng của Chúa Giêsu.
Biến cố này không chỉ là cuộc bàn giao cũ mới mà còn là điểm giao duyên giữa trời và đất, giữa Thần khí và nước, giữa Tân ước và Cựu ước.Từ nay nhân loại được tái sinh trong đời sống mới. Qua Bí tích Rửa tội của Chúa Giêsu, chúng ta nhận đước ấn tín của Chúa Thánh Thần, trở nên con cái Thiên Chúa.
3. Hãy nhớ mình đã được Thanh Tẩy
Chúa Giêsu chịu phép rửa của Gioan là một sự hạ mình sâu thẳm, một sự khiêm nhường cao cả đã làm cho cửa trời mở ra, ân sủng tuôn đổ, ơn cứu độ được trao ban và lan truyền. Mỗi người Kitô hữu qua bí tích rửa tội, được thần linh ngự xuống, được nghe tiếng Chúa Cha vang dội: này là con yêu dấu của Ta, Ta đặt trọn vẹn yêu thương trên con. Tâm hồn mỗi người trở nên Đền Thờ Ba Ngôi Thiên Chúa.
Ngày lễ hôm nay mời gọi chúng ta hãy ý thức tới ân huệ cao trọng mà Chúa Giêsu đã đem lại cho chúng ta nhờ Phép rửa của Người. Phép Rửa tội là cửa đưa chúng ta vào sự sống mới, vào Nước trời. Đó là bí tích đầu tiên của luật mới. Đó cũng là bí tích Chúa đã trao lại cho Giáo hội cùng với Tin mừng khi Người truyền cho các Tông đồ: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” ( Mt 28,19). Vì thế, Thánh Tẩy là bí tích của đức tin, làm cho loài người được tham dự vào bản tính Thiên Chúa và được ơn làm nghĩa tử, khởi đầu cuộc sống mới trong Đức Kiô. Do vậy, trong nghi thức tiếp nhận, Giáo hội luôn hỏi người dự tòng: “Con xin gì cùng Hội Thánh?”. “Thưa, con xin đức tin”. “Đức tin mang lại điều gì cho con? ”. “ Thưa, sự sống đời đời”. Và trước khi nhận bí tích Thánh Tẩy, người dự tòng xác nhận công khai từ bỏ tội lỗi và tuyên xưng đức tin trước mặt cộng đoàn.
Người Kitô hữu được thánh hiến cho Thiên Chúa, đi vào đời sống hiệp thông với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần qua bí tích rửa tội. Ý thức ân huệ cao trọng này để mỗi người chúng ta xây dựng đền thờ tâm hồn mình xứng đáng cho Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trị bằng một đời sống công chính, đạo đức, trong sạch.
Ước mong mỗi tín hữu chúng ta luôn nhớ mình đã được xức dầu, được mặc áo trắng tinh tuyền, được trao nến sáng Phục sinh, được thanh tẩy trong nước và Thánh Thần để sống xứng đáng mỗi ngày với ân huệ đã lãnh nhận.
30. Sống mầu nhiệm thanh tẩy--Anmai, CSsR
Bí tích là gì? Nhớ lại những này còn thơ bé, hơi bị vất vả để "gặm nhắm" những trang giáo lý trong quyển "Bổn đồng ấu". Bài học khá gây ấn tượng nhưng cũng hết sức trừu tượng đó chính là loạt bài Bí tích. Bổn đồng ấu dạy rằng: Bí tích là dấu chỉ Chúa Giêsu đã lập để thông ban cho ta ơn bên trong ! dấu chỉ là dấu chỉ như thế nào và ơn bên trong là ơn ra làm sao? Quá khó hiểu cho đầu óc còn thơ dại.
Lớn lên một chút, được các anh các chị hướng dẫn viên chỉ dạy: bí tích là những dấu chỉ hữu hình nhờ đó chúng ta được lãnh nhận ơn sủng của Chúa Kitô nhờ Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội. Đây là những phương tiện cứu rỗi hữu hiệu mà Chúa Kitô đã thiết lập để ban phát ơn cứu độ của Người trong Giáo Hội là thân thể nhiệm mầu của Chúa. (x. SGLGHCG số 774).
Điều kiện quan trọng để lãnh cách hiệu quả bất cứ bí tích nào, là phải có đức tin, tức là tin có hiệu quả thiêng liêng thật sự của bí tích muốn lãnh nhận hợp pháp trong Giáo Hội. Thí dụ, khi lãnh bí tích Thánh Thể, tức là rước Mình Máu Chúa Kitô, thì phải tin rằng có Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong hình bánh và rượu nho; nếu không, việc rước Chúa sẽ là vô ích. Cũng vậy, khi đi xưng tội, nếu hối nhân không tin có Chúa Giêsu hiện diện và tha tội cho mình qua tác vụ của một linh mục, dù là bất xứng dưới mắt người đời, thì việc xưng tội sẽ không mang lại lợi ích nào cho hối nhân.
Chính vì thiếu điều kiện đức tin này, nên có người đã nói: tôi được rửa tội rồi mà có thấy mình được "tái sinh" ở chỗ nào đâu, tôi vẫn thấy tôi nguyên vẹn như cũ ! hoặc "sau mỗi mùa chay và tuần thánh, tôi đâu có thấy mình chết đi và được sống lại với Chúa Kitô Phục Sinh như Giáo Hội nói đâu"!
Chỉ có đức tin mới cho phép ta tin có sự đổi mới trong tâm hồn sau khi nhận lãnh bí tích rửa tội, nhờ đó tội nguyên tổ và mọi tội cá nhân được tẩy sạch và đươc tái sinh trong sự sống mới, tức là "mặc lấy Chúa Ktô" như Thánh Phaolô đã dạy (x. Gl 3, 27).
Với những người không tin thì họ không thể lãnh nhận được các bí tích. Với những người không Nhìn vào phép rửa tội làm sao có thể tin được. Với một chút nước và với lời đọc bỗng dưng người ta lại được trở thành con cái Chúa. Thế mới gọi là mầu nhiệm. Sau khi lãnh nhận mầu nhiệm Thanh Tẩy - mầu nhiệm Phép rửa thì người nhận sẽ được ơn của mầu nhiệm ấy để đủ sức sống mầu nhiệm ấy một cách tốt đẹp như lòng Chúa mong muốn.
Phép rửa là cửa đưa vào sự sống và Nước Trời. Đó là Bí tích đầu tiên của Luật mới mà Chúa Kitô hiến cho mọi người để được sống đời đời. Đó cũng là Bí tích Người đã trao cho Hội Thánh cùng với Tin Mừng khi Người truyền cho các Tông Đồ "đi dạy dỗ muôn dân, rửa tội cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần". Vì thế, phép rửa là bí tích của đức tin: chính đức tin con người được Thánh Thần soi sáng, bày tỏ để đón nhận Tin Mừng của Chúa Kitô. Vì thế, điều mà Hội Thánh tha thiết mời gọi đó chính là lòng tin, thụ nhân cần có một đức tin chân thật và sống động, để theo Chúa Kitô và bắt đầu hoặc xác định lại lời cam kết trong giao ước mới.
Ngày hôm nay, Chúa Giêsu trước khi bắt đầu sứ vụ công khai của mình, Chúa Giêsu đã chịu phép rửa cùng với dân sau khi nghe lời của Gioan rao giảng. Hành động của Chúa Giêsu hôm nay như công nhận và công khai lập phép Thanh Tẩy. Hành động này như làm gương cho những ai muốn trở thành con cái Chúa, trở thành chi thể mầu nhiệm của Hội Thánh.
Sau khi nghe giảng, sau khi đón nhận Tin mừng nếu như thì người nghe tin nhận thì họ sẽ nhận nghi lễ thanh tẩy. Nghi lễ thanh tẩy, vừa tượng trưng cho, vừa xác nhận một sự thay đổi đang xảy ra trong tâm hồn những người nghe (Cv 2, 37-41; 16, 34-39). Việc thanh tẩy này là bằng chứng của việc họ đón nhận sứ điệp họ đã nghe, và bằng chứng của việc họ được hiệp nhất với sự chết và sống lại của Đức Kitô. Nhờ Ngài, họ chết đi đối với tội lỗi và được tái sinh vào trong một cuộc sống mới (Cv 8, 12-13; 16, 32-34). Đối với nhiều người trong họ, đây quả thực là một khởi đầu cho một cuộc sống, và một nếp sống mới. Ơn cứu độ là một cái gì đó rất thật đối với họ: họ được giải thoát khỏi một lối sống họ đã quen, và họ kinh nghiệm được ơn cứu độ cả trong việc thay đổi thái độ và trong việc gia nhập cộng đoàn vừa mới được thành lập.
Nghi lễ bí tích đặc biệt nhất là Bí tích Thanh Tẩy là nghi lễ đặt tay. Sách Công vụ kể lại, ngay sau khi Đức Kitô hiện ra lần cuối, một vài người trong các đồ đệ Ngài đã trải qua một kinh nghiệm tôn giáo hết sức sâu sắc làm thay đổi toàn bộ cuộc sống họ. Đó là dịp lễ Ngũ Tuần của người Do thái, nhưng kể từ ngày ấy, lễ này đã thành một lễ của Kitô giáo, lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, và cũng là "ngày khai sinh ra Hội Thánh Công giáo".
Sách Công Vụ cũng cho thấy rằng lúc ấy các môn đệ đang ở trong phòng, họ nghe thấy những tiếng như thể cuồng phong, và họ thấy những lưỡi lửa xuất hiện trên đầu mỗi người. Bỗng họ thấy có một cái gì đó đang thay đổi từ bên trong họ, và họ được đầy tràn một thần khí mới. Đó cũng là thần khí đã thấm đẫm trên Chúa Giêsu. Họ tin rằng đó là Thần Khí Thiên Chúa.
Con người cũng có khả năng đem cho con người niềm hân hoan, hy vọng và can đảm như thế khi họ được chứng kiến những gì đã xảy ra cho thầy họ, vậy ta phải hiểu thế nào về những gì đã xảy ra cho các tông đồ trong những ngày ấy? Con người có thể làm cho các môn đệ diễn tả những gì đang xảy ra cho họ bằng một thứ ngôn ngữ họ chưa hề được nghe chăng? Như thế sự kiện này chắc chắn phải do chính Thiên Chúa và Thần Khí Ngài (xem Cv 2, 1-4).
Điều ngạc nhiên hơn đối với những người đón nhận Tin Mừng là họ có thể trở nên công cụ đem Thần Khí ấy cho người khác. Họ bắt đầu công bố Tin Mừng về Chúa Giêsu cho tha nhân, và ai đã đón nhận Ngài là Chúa, đều được thánh tẩy trong danh Ngài. Họ sẽ đặt tay trên người ấy và xin cho người ấy được tràn đầy Thánh Thần như họ. Và điều kỳ diệu họ xin đã được chấp nhận. Người ấy sẽ có kinh nghiệm về việc được tràn đầy một Thần Khí mới. Và đôi khi họ còn được ngợi khen Thiên Chúa bằng các thứ tiếng lạ (Cv 19, 4-6). Việc đặt tay này thường xảy ra ngay sau khi Thánh Tẩy, nhưng thỉnh thoảng cũng phải chờ một thời gian (Cv 8, 14-17). Đặt tay chắc chắn là một hành vi bí tích. Vì đó là biểu tượng của một cái gì đó không thể thấy được, của việc Thần Khí đáp xuống trên một con người. Và đó cũng là một biểu tượng phát sinh hiệu quả. Và người ta có thể thấy được hiệu quả ấy trong thái độ của người ấy, và chính đương sự cũng cảm thấy hiệu quả ấy nữa. Vậy ý nghĩa của việc đặt tay chính là việc trao ban Thần Khí, thần khí tình yêu, vui mừng, bình an, nhẫn nại, nhân hậu, tốt lành, trung tín, hiền lành, và tiết độ (Gl 5, 22-23). Đó còn là một khẳng định rằng Thiên Chúa đã đón nhận họ, vì Ngài đã trao ban cho họ cùng một Thần Khí mà Ngài đã ban cho Chúa Giêsu.
Hôm nay, khi nhận bí tích Thanh Tẩy, Chúa Giêsu được Thần Khí ngự xuống trên Ngài và rồi cũng chính Thần Khí ấy đã ở với Ngài trong mọi nẻo đường, trong mọi hành trình của cuộc đời. Với thái độ, với tâm tình hoàn toàn vâng phục Thánh ý của Chúa Cha, Chúa Giêsu hôm nay được Cha xác nhận: Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con. Lời chân nhận của Cha hôm nay sao mà dễ thương quá, sao mà ấm cúng quá ! Cha với con và con với Cha ! Tình cảm giữa Cha và Con không còn khoảng cách nữa. Cha với Con là một. Thiển nghĩ điều mà Thiên Chúa cũng muốn nơi người tin cũng như là điều mà Chúa muốn nơi Chúa Giêsu đó là trở thành con yêu dấu của Ngài.
Nhận bí tích Thanh Tẩy nhưng sống bí tích Thanh Tẩy không phải là chuyện đơn giản. Phải luôn luôn nhờ ơn Chúa Thánh Thần thì ta mới có thể sống mầu nhiệm mà ta lãnh nhận khi chịu phép Thanh Tẩy được. Cũng như Chúa Giêsu, từng giây từng phút trong cuộc đời của Ngài, Ngài luôn kết hợp mật thiết với Chúa Thánh Thần để chu toàn sứ vụ mà Chúa Cha trao phó.
Hôm nay, nhớ lại ngày Chúa Giêsu chịu Thanh Tẩy cũng là dịp chúng ta nhớ ngày chúng ta nhận phép Thanh Tẩy. Mang trong mình phận hèn yếu đuối, dễ chạy theo tà thần, dễ chạy theo những danh vọng trần tục mà đánh mất đi ơn gọi cao quý là trở thành con Chúa cũng như hưởng vinh quang với Ngài. Xin Chúa ban thêm ơn của Thần Khí xuống trên cuộc đời mỗi người chúng ta để chúng ta sống sao cho tròn bổn phận, cho đẹp lòng Thiên Chúa Cha như Chúa Giêsu đã sống.
31. Đức Giêsu cũng chịu phép rửa
(Suy niệm của Phêrô Trần Minh Đức)
Biến cố năm 1975 đã làm thay đổi số phận của biết bao nhiêu người trên mảnh đất thân yêu của chúng ta. Bản thân tôi cũng phải đối diện với một tương lai đen tối: các chủng viện đều bị đóng cửa, chẳng ai biết ngày nào mình sẽ được thụ phong linh mục. Với lòng hăng say nhiệt thành của tuổi trẻ, tôi đã sẵn sàng gác sách vở qua một bên, chấp nhận cảnh giãi nắng giầm mưa, sống những tháng ngày lao động vất vả, cực nhọc để chờ thời,...
Đối với một viên sĩ quan trẻ gần nhà tôi thì đây là một thảm cảnh, có thể nói là "lên voi xuống ngựa". Trước đây không lâu anh ta chẳng gì cũng là một anh hùng trên chiến trận. Ai ai cũng phải nể mặt. Trong nhà có người hầu hạ. Ra đường có kẻ đưa người đón. Bây giờ nhiều lúc phải rơi lệ vì sự bất lực của mình. Anh ta không biết phải làm gì để nuôi sống gia đình trong lúc này. Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi!...
Thật ra cho đến nay nhiều người vẫn còn sống trong bất hạnh vì họ cố níu kéo những gì thuộc về quá khứ. Lẽ dĩ nhiên không ai phủ nhận họ một thời từng là người có danh có phận, từng làm ông nọ bà kia,.. . Nhưng một biến cố xảy ra giống như giông bão bất chợt. Nước mưa làm trôi đi lớp phấn son trên gương mặt, những vẻ hào nhoáng bên ngoài vuột khỏi tầm tay! Họ không dám nhìn vào chính mình, tìm cách trốn chạy vào trong vỏ ốc của mình. Nếu như hôm nay họ đưa mắt nhìn Đức Giêsu sắp hàng trong đám đông, chờ đợi đến lượt mình chịu phép Rửa, chắc chắn cách sống của họ sẽ thay đổi. Một nguồn an ủi lớn lao sẽ tràn ngập trong tâm hồn họ.
Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa đã trở nên giống phàm nhân (Pl 2,7). Ngày lễ Chúa chịu phép Rửa còn làm cho chúng ta hiểu rõ hơn về mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Đức Giêsu đã xuống thế làm người. Hôm nay Người chấp nhận từ giã cuộc sống âm thầm lặng lẽ tại Nadarét, sẵn sàng đón nhận tội lỗi của chúng ta vào nơi mình, trở thành tội nhân. Qua phép Rửa Người biến đổi chúng ta thành tạo vật mới. Chúng ta tự hỏi: Tôi là ai mà được Thiên Chúa ưu ái đoái hoài tới?
Sau khi chịu phép Rửa Đức Giêsu cầu nguyện cùng Chúa Cha. Người luôn kết hợp cùng Chúa Cha trong khi thi hành sứ mạng cứu chuộc con người. Qua đó Người cũng chỉ cho chúng ta làm thế nào để giữ tấm áo trắng ngày chúng ta chịu phép Rửa được luôn luôn tinh tuyền. Mỗi lần chúng ta dùng nước phép để làm dấu Thánh Giá, mỗi lần dâng tiếng hát lời kinh, mỗi lần chúng ta cầu nguyện thì cửa trời sẽ mở ra, chỗ bế tắc trong tâm hồn chúng ta cũng được khai thông. Chúng ta sẽ nghe lời Chúa nhắn nhủ: "Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con".
Phép Rửa nói với chúng ta rằng: Con cái do cha mẹ sinh ra nhưng không hoàn toàn thuộc về cha mẹ, bởi vì chúng ta còn là con cái của Thiên Chúa. Cha ông mình đã nói rất chí lý: "Cha mẹ sinh con, trời sinh tính". Không ai có thể tự nắm giữ vận mệnh của mình. Số phận của mỗi người đã được bàn tay đầy yêu thương quan phòng của Thiên Chúa an bài. Chúng ta tin rằng, con người do Thiên Chúa tạo dựng, mỗi người được Thiên Chúa trao cho một số khả năng và một sứ mạng. Với ơn Chúa giúp con người có thể dùng khả năng của mình để chu toàn sứ mạng đã được giao phó cho mình.
Mỗi biến cố xảy tới là một lời mời gọi chúng ta nhớ đến thân phận của mình sau khi chịu phép Rửa, mời gọi chúng ta nhìn lại con người của mình và canh tân đời sống. Khi ý thức được mình là ai thì chúng ta mới biết sống sao cho phù hơp với ý muốn của Thiên Chúa.
32. Chúa Giêsu lãnh sứ mạng loan báo Tin Mừng
MINH HỌA LỜI CHÚA - Hiếu Nguyễn
1. Mỗi tạo vật đều có một sứ mạng
Năm 1989, tại Armênia xảy ra một trận động đất kinh khủng, gây thiệt hại vật chất to tát cho cả thành phố và nhiều người thiệt mạng!...
Nhiều người có lòng tốt đã đến cứu giúp các nạn nhân. Trong số hàng ngàn nạn nhân bị chôn vùi dưới những đống gạch vụn đổ nát, có một người mẹ với đứa con của bà. Khi người ta đào đưa mẹ con bà ra được, bà đã kiệt sức thoi thóp kể:
- Trong mười tám ngày bị chôn vùi dưới gạch vụn, mỗi ngày tôi hy sinh một phần thân thể để lấy thịt máu nuôi con tôi sống.
*****
Tin mừng hôm nay thuật lại Chúa Giêsu đến nhờ Thánh Gioan Tẩy giả làm phép rửa, để lãnh nhận sứ mạng loan báo Tin Mừng.
Mỗi tạo vật đều được Thiên Chúa trao cho một sứ mạng, từ con người đến sinh vật. Bà mẹ này đã làm tròn sứ mạng với con mình bằng chính mạng sống của bà.
Mặt trời có sứ mạng soi sáng và sưởi ấm các sinh vật trên mặt đất và nó luôn chu toàn sứ mạng của nó.
Cây lúa có sứ mạng nuôi sống con người, và lúc nào nó cũng đơm bông kết hạt.
Chúa Giêsu được Chúa Cha giao sứ mạng cứu rỗi con người, rao giảng kêu gọi mọi người tin thờ Chúa để được sống, và Người đã hoàn thành cách tuyệt hảo, bằng cuộc sống hy sinh phục vụ 33 năm của Người và kết thúc bằng cái chết đau khổ của Người trên thập giá.
Chúa cũng trao cho mỗi người chúng ta một sứ mạng. Mỗi người hãy tự hỏi: “Sứ mạng của tôi là gì? Đối với gia đình? Đối với xã hội? Đối với Giáo hội?
Nếu tôi không làm tròn sứ mạng Chúa phú giao, tôi có đáng sống ở đời chăng? Trong khi Chúa Giêsu đã hoàn thành sứ mạng của Người. Mọi người mọi vật cũng chu toàn như thế. Còn tôi, tại sao không? Như thế là tôi ăn bám ăn hại!...
Chúa Giê su nói: “Nếu muối đã lạt đi thì chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp dưới chân”. (Theo “Tất cả là hồng ân”).
2. Đồ phế thải hay vật quý?
Cô Ann Thomas cùng bạn là cô Betty bước vào gian hàng bán đồ phế thải.
Cô Betty hỏi Ann:
- Có gì quý không?
Ann nhìn lướt qua rồi nói:
- Toàn là đồ cũ xấu xí.
Bỗng Betty nhặt lên một cây thánh giá cũ kỹ và vui mừng nói:
- Tôi đã tìm được vật quý!...
Và Ann liền đem về lau chùi đánh bóng lại thì thấy quả là một vật quý giá. Cậu con trai của Betty là Bobby nhìn thấy cây thánh giá, cũng thích ngắm nhìn một lúc rồi óa lên khóc. Cô Betty thấy vậy hỏi:
- Sao con khóc?
- Con thấy Chúa Giêsu chết treo trên khổ giá. Con cảm động!...
*****
Cùng nhìn cây thánh giá, người thì cho là đồ phế thải, kẻ nhận là vật quý, người lại thấy Chúa Giêsu trên đó.
Tin mừng hôm nay thuật lại Chúa Giêsu cũng chịu phép rửa như mọi người thời đó, cũng được Gioan Tẩy giả nhận xuống nước rồi bước lên bờ. Nhưng bao nhiêu việc lạ đã xảy đến: các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu đậu trên Người. Và chợt có tiếng từ trời phán xuống: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người”.
Và lạ lùng hơn nữa, với sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa, Người khai mạc một giai đoạn mới trong cuộc đời cứu thế của Người, Người kết thúc cuộc sống ẩn dật bước vào cuộc đời công khai loan báo Tin mừng. Đồng thời Người mở ra một kỷ nguyên mới, “Kỷ nguyên tân tạo” những gì Adong cũ đã làm hư hoại như lời thánh Phaolô xác quyết: “Con người đầu tiên được dựng nên thành một sinh vật, còn Adong cuối cùng là Thần Khí ban sự sống. Loài xuất hiện trước không phải là loài có Thần Khí nhưng là loài có sinh khí, loài có Thần khí chỉ xuất hiện sau đó… Như chúng ta mang hình ảnh Người bởi đất mà ra, thì chúng ta cũng sẽ được mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến” (1Cr.15,45-49)
Nhưng điều quan trọng là áp dụng sự kiện lạ lùng đó vào đời sống chúng ta. Thánh Phaolô khuyên chúng ta: “Anh em đã cùng chịu mai táng với Đức Kitô khi chịu phép Rửa, lại cũng được chỗi dậy với Người, vì tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng làm cho Người chỗi dậy từ cõi chết. Trước kia anh em là những người đã chết vì anh em đã sa ngã… nay Thiên Chúa đã cho anh em cùng sống với Đức Kitô” (Cl.2,12-13).
Cùng sống với Đức Kitô là trở nên giống Người, nhiệt thành loan báo Tin mừng với Người, hy sinh cứu rỗi mọi người.
Tin mừng hôm nay thuật lại Chúa Giêsu lãnh phép Rửa của Gioan Tiền Hô để nhận sứ mạng loan báo Tin mừng nơi Chúa Cha. Chúng ta đã lãnh nhận Bí tích Thanh Tẩy, chúng ta có loan báo Tin mừng của Chúa chưa? (Theo Sunday Homilies).
3. Đổi mới
Một ông vua giàu sang nhưng hà khắc keo kiệt, nên thần dân than oán kêu trách.
Một hôm vua ra lệnh cho các quan phải thu thuế trong năm cho đầy đủ để sửa chữa cung điện. Các quan trình vua năm nay mùa màng thất bát, dân chúng đói khổ, không thể thu thuế đầy đủ được. Nhưng nhà vua vẫn cương quyết ra lệnh thu thuế đầy đủ.
Thay vì tiến hành thu thuế như lệnh vua, các quan cho người đi khắp nước loan báo: “Năm nay vua miễn thuế cho mọi người”. Thế là khắp nơi dân chúng tuy nghèo đói nhưng đều mở tiệc ăn mừng. Và các quan báo cáo lên vua cung điện đã được tu sửa, mời vua đi xem. Vừa ra khỏi cung điện, nhà vua đã được dân chúng tung hô vạn tuế inh ỏi. Vua ngạc nhiên hỏi lý do, các quan giải thích:
- Hạ thần thấy rạn nứt trầm trọng nhất không phải là tường thành của cung điện, nhưng là của lòng dân. Trong khi họ chết đói mà vua đòi sưu cao thuế nặng nên họ oán trách vua. Do đó hạ thần mạn phép vua tuyên bố miễn thuế năm nay cho họ, nên họ trở lại mến phục vua.
Nghe thế, nhà vua thức tỉnh nhận ra thái độ keo kiệt hà khắc từ trước đến giờ của mình. Ông vui cười, vẫy tay chào toàn dân.
*****
Ông vua đã đổi mới “từ keo kiệt hà khắc thành người rộng lượng thương dân, kéo theo lòng dân “đổi mới” từ bất mãn oán trách thành mến phục trung thành.
Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu nhờ thánh Gioan Tẩy Giả làm phép rửa để được Chúa Thánh Thần đổi mới, để Ngài bắt đầu cuộc đời mới, cuộc đời công khai loan báo Tin mừng Nước Trời.
Kitô hữu chúng ta đã được Đức Kitô “đổi mới” từ ngày lãnh Bí tích Rửa tội: “Trước kia anh emđã chết vì anh em đã sa ngã… nay Thiên Chúa đã cho anh em cùng sống với Đức Kitô” (Cl.2,13).
Nhìn vào hai cột trụ của Giáo Hội. Một Phêrô chối chúa ba lần đã “đổi mới: và trở thành người thuyền trưởng của con tàu Hội Thánh. Một Phaolô bắt bớ các tín hữu đã “đổi mới” thành vị tông đồ dân ngoại tuyệt hảo.
Còn tôi, tôi đã “đổi mới” chưa? Tôi cần “đổi mới” điều gì? (Theo “Sám hối và Canh tân”).
4. Tái tạo thế gian
Người xưa có quan niệm về vũ trụ như sau. Họ chia nó thành ba tầng thế giới chồng chất lên nhau. Tầng trên hết là Trời, nơi Chúa ngự. Tầng giữa là đất, nơi ở của loài người và sinh vật. Tầng dưới hết là âm phủ, nơi con người đến sau khi chết.
Từ lúc nguyên tổ Adong Eva phạm tội, tầng giữa càng ngày trở nên tồi tệ, nên các thánh cầu xin Thiên Chúa ngự xuống cứu giúp.
Tin mừng hôm nay thuật lại sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa qua ba biến cố: bầu trời mở ra, Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống, Chúa Cha công nhận Chúa Giêsu là Con yêu dấu. Ba biến cố đó mạc khải cho chúng ta.
- Bầu trời mở ra nói lên Chúa từ trời ngự xuống ở với chúng ta.
- Hình chim câu bay lượn trên nước và Chúa Giêsu diễn tả Chúa bắt đầu cuộc tạo dựng mới.
- Tiếng từ trời phán xuống xác nhận Chúa Giêsu là Adong mới, trong cuộc tái tạo thế giới.
*****
Chính Tin mừng hôm nay dạy chúng ta công cuộc tái tạo thế giới đó qua việc Chúa Giêsu chịu phép Rửa ở sông Giođăng, và nhắc ta là những kẻ đã lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy phài tái tạo con người chúng ta.
Qua ý nghĩa các biến cố đó, mỗi người nhớ mình mang hình ảnh của Adong cũ và Adong mới, luôn chia sẻ sự sống của hai vị đó: vừa bị lôi cuốn theo xác thịt của Adong cũ vừa được thôi thúc tinh thần theo Adong mới. Nhưng thường chúng ta làm như thánh Phaolô nói: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm nhưng sự ác tôi không muốn thì tôi lại cứ làm” (Rm.7,19). Do đó chúng ta cần nhờ chúa Giêsu tiếp tục tái tạo chúng ta bằng lời cầu nguyện và lãnh nhận các Bí tích; nhờ Chúa Thánh Thần thánh hóa chúng ta hằng ngày, để sống xứng đáng làm con yêu dấu của Thiên Chúa. (Theo Cha M.Link).
5. Mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi
“Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa xong, vừa dưới nước lên thì kìa các tầng trời mở ra. Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người. Và kìa có tiếng từ trời phán xuống: Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Ngươi: (Mt.3,16-17).
Qua phép rửa sám hối Chúa Giêsu lãnh nhận bởi tay Gioan Tẩy Giả ở sông Giođăng, mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi được mạc khải cho chúng ta.
Chúng ta cũng được lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy, nhân danh Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chúng ta làm dấu Thánh giá tuyên xưng Chúa Ba Ngôi suốt đời: Khi chúng ta bắt đầu và kết thúc buổi đọc kinh cầu nguyện, lúc khởi sự và kết thúc một ngày chúng ta sống, khi chúng ta dùng bữa và dùng xong. Tắt một lời, chúng ta tuyên xưng Một Chúa Ba Ngôi từ lúc vào đới đến lúc lìa đời. Cả cuộc sống chúng ta gắn liền với mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Nhưng điều quan trọng là chúng ta có sống mầu nhiệm này chưa? Hay đây chỉ là một tín điều để tin thôi.
*****
Mầu nhiệm “Một Chúa Ba Ngôi” được diễn tả trong Tin mừng hôm nay là để chúng ta sống hằng ngày trong đời sống chúng ta. Trong ánh sáng của mầu nhiệm này, chúng ta biết con người được hiện hữu là do Thiên Chúa và con người chỉ có thể sống cho ra người khi nào biết sống như Thiên Chúa. Thật thế, con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, mà Thiên Chúa là Tình yêu, nên ơn gọi đích thực của con người là ơn gọi sống Yêu thương. Con người chỉ có thể sống sung mãn, sống xứng đáng làm người trong sự thông hiệp và trao ban. Trái lại, nếu sống ích kỷ sẽ chuộc lấy buồn khổ cho mình. Đó là chân lý nền tảng nhất về con người mà Tin mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta.
Lãnh nhận phép rửa nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần có nghĩa là chúng ta nhập vào tình yêu của Chúa Cha, để rồi noi gương Chúa Giêsu và nhờ sứ mạnh của Chúa Thánh Thần, chúng ta sống cuộc đời chứng tá cho Chúa bằng cách cố gắng chia sẻ tình yêu với tất cả mọi người. (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày, tập III”).
6. Chúa Giêsu cầu nguyện
Đang khi Chúa Giêsu cầu nguyện thì trời mở ra và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán xuống: “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con” (Lc.3,21-22).
Henry Ford mướn một chuyên gia giỏi để đánh giá công ty của ông. “Bản báo cáo cuối cùng của chuyên gia với kết quả khả quan, ngoại trừ vấn đề là: Mỗi lần đi ngang qua văn phòng của nhân viên cuối hành lang, tôi đều thấy anh ta gác chân lên bàn và nhìn đăm đăm ra cửa sổ. Anh ta đang lãng phí thời giờ và tiền bạc của ông đấy”.
Nhưng Henry nói: “Phải, chính vì biết lãng phí như vậy mà một lần anh đã có sáng kiến tiết kiệm cho chúng tôi hàng triệu mỹ kim đấy”.
Hình ảnh của người đàn ông trầm tư mặc tưởng và hình ảnh Chúa Giêsu đắm mình trong nguyện cầu đặt cho tôi câu hỏi: “Liệu tôi có khá hơn nếu tôi tạo được thói quen ngưng công việc hằng ngày để cầu nguyện chăng?”
“Đời sống mỏng giòn, hãy nâng đỡ nó bằng lời cầu nguyện” (E.C McKenzie) (Trích “Viễn tượng 2000”).
7. Ngài lên trời phải không?
Vì thấy vị kinh sư tuần nào cũng vắng mặt hôm trước ngày Sabát, nên cả cộng đoàn thắc mắc cho người theo dõi.
Và người theo dõi đã chứng kiến vị kinh sư hóa trang thành dân quê, đến phục vụ một bà lương dân trong căn lều tồi tàn của bà. Ông quét dọn lều và nấu ăn cho bà trong ngày sabát.
Khi thám tử về, cộng đoàn hỏi:
- Ông kinh sư đi đâu? Ông lên trời phải không?
- Không. Ông còn lên cao hơn nữa.
*****
Ông còn lên cao hơn nữa, vì ông nhiệt thành chu toàn sứ mạng Chúa giao phó cho ông, như trong Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu đã lãnh nhận nơi Thiên Chúa sứ mạng loan báo Tin mừng cho muôn dân, và Người đã tự hạ mình xuống phục vụ con người, đem Tin mừng cứu rỗi đến cho mọi người, và hy sinh chết trên khổ giá để hoàn tất sứ mệnh Người đã lãnh nhận.
Ai ngờ được ông kinh sư hạ mình làm người dân quê đi gặp người đàn bà nghèo hèn? Ai tin được Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa tối cao đã đến xin Gioan làm phép rửa?
Thế nên ông Gioan can Người và nói: “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép Rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi”. Và ông tuyên bố cho dân chúng biết: “Ngài là Đấng quyền thế hơn tôi, đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi dép cho Ngài”.
Khi nhìn ngắm Đức Giêsu xếp hàng với tội nhân, chúng ta mới hiểu thế nào là Thiên Chúa Tình yêu. Chỉ có Tình yêu mới khiến Con Thiên Chúa che khuất sự cao cả thánh thiện của mình để dìm mình trong phép rửa thống hối. Chỉ có tình yêu mới làm cho Đấng cứu độ sống như người cần được cứu độ.
Và đây mới chỉ là bước đầu tình yêu của Con Thiên Chúa. Nó sẽ kết thúc bằng cái chết thê thảm của Người trên khổ giá, khi Người trầm mình trong khổ nhục để đem lại ơn cứu rỗi cho mọi người: “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc đó hoàn tất” (Lc.12,50).
Qua Bí tích Rửa tội, chúng ta cũng được làm con Chúa. Chúng ta cũng được Chúa Thánh Thần tấn phong, chúng ta được gọi đem Tình yêu cứu rỗi đến mọi người, nhất là những người khốn khổ hồn xác xung quanh chúng ta.
(Theo “Như Thầy đã yêu”).
8. Bây giờ cứ thế đã
Nhạc sĩ nổi tiếng Sépastien bị mù. Có người bạn thân cho ông biết gần đó có một thầy thuốc chuyên chữa trị mắt rất kết quả. Nhiều người bệnh mắt đã nhờ ông chữa khỏi. Ông thầy này rất ngưỡng mộ tài nghệ của nhạc sĩ nên rất sẵn sàng giải phẫu giúp nhạc sĩ. Nghe nói thế, nhạc sĩ vui mừng thốt lên:
- Nhân danh chúa, xin hãy cố gắng giúp tôi.
Bốn ngày sau cuộc giải phẫu, khi băng vải được cắt hết, các con của nhạc sĩ hồi hộp trông chờ, bao quanh nhạc sĩ hỏi tới tấp:
- Có thấy gì không? Cha thấy được không?
Ông điềm nhiên trả lời:
- Xin vâng ý Chúa. Cha không thấy gì cả.
Thất vọng, các con ông khóc sướt mướt than trời trách đất inh ỏi làm cho niềm đau của ông tăng thêm. Nhưng ông tỏ ra bĩnh tĩnh khác thường. Ông còn khuyên các con ông: -Các con hãy hát lên bài mà cha ưa thích nhất: “Nguyện cho thánh ý Chúa được thể hiện…”
*****
Trong Tin mừng hôm nay, khi Chúa Giêsu đến xin thánh Gioan Tẩy Giả làm phép Rửa cho Người, thánh nhân từ chối và nói: “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa thế mà Ngài lại đến với tôi. Nhưng Đức Giêsu trả lời: Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính” (Mt.3,15).
Chính nhờ “giữ trọn đức công chính”, đức vâng lời thánh ý Thiên Chúa, mà Chúa Giêsu được Chúa Cha công nhận là “Con yêu dấu”, “được Thần Khí” ngự trên Người, để Người bước sang cuộc đời mới loan báo Tin mừng.
Ngày chịu phép Rửa tội, chúng ta cũng được lãnh nhận sức sống mới. Sức sống mới đó chính là Chúa Thánh Linh, Đấng hiện diện và tác động trong cuộc đời chúng ta. Thánh Phaolô sau khi lãnh nhận phép Rửa và trở nên người mới là tông đồ dân ngoại, Ngài luôn ý thức về sức sống thần linh trào lưu trong tâm hồn Ngài đến nỗi Ngài đã thốt lên: “Tôi sống, nhưng không phải là tôi sống, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi”. Và Thánh nhân nhắn nhủ chúng ta: “Anh em chớ dập tắt Thánh linh. Người hiện diện và tác động trong chúng ta. Người uốn nắn cho chúng ta giống Chúa Kitô, để trong mọi sự chúng ta luôn thưa xin vâng với Thánh ý Thiên Chúa” (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập III).
9. Ba lễ Thanh Tẩy
Trong câu chuyện “Dòng sông”, tác giả Flannery O’Connor thuật lại một cậu bé tên Bevel. Cha mẹ quá bận lo việc xã hội nên giao cậu cho bà vú nuôi. Một hôm bà dẫn cậu ra bờ sông đang lúc có nhà thuyết giáo làm phép Rửa cho dân chúng. Bà cho cậu chịu phép Rửa. Và lúc kéo cậu lên khỏi nước, nhà thuyết giáo nhìn cậu và nói: “Giờ đây cậu có giá rồi. Trước khi lãnh nhận phép rửa, cậu chẳng có giá gì cả…”
Trong Tin mừng hôm nay có ba dạng phép rửa khác nhau:
Phép rửa của Gioan Tẩy Giả là phép Rửa sám hối, giúp người ta ăn năn sám hối tội lỗi. Đó là bước đầu của cuộc hành trình đức tin, như trong lời ông minh chứng: “Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa” (Mt.3,11).
Phép rửa của Chúa Giêsu là phép rửa tái sinh. Nó ban cho người lãnh nhận một đời sống mới hoàn toàn, như thánh Phaolô xác quyết: “Anh em đã cùng được mai táng với Đức Kitô khi chịu phép rửa… nay Thiên Chúa đã cho anh em được cùng sống với Đức Kitô” (Cl.2,12-13).
Như thế phép rửa của Đức Giêsu giúp chúng ta chia sẻ sự sống thần linh của Người. Điều đó dẫn chúng ta đến phép rửa thứ ba là phép rửa Gioan Tẩy Giả làm cho Đức Giêsu mà Tin mừng hôm nay thuật lại, khiến trời mở ra với Thánh Thần và tiếng Chúa Cha. Đó là phép rửa mạc khải, vì nó bày tỏ cho biết Thiên Chúa đã từ trời xuống thế gian, Chúa Thánh Thần bắt đầu cuộc tạo dựng mới, Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Adong mới trong cuộc tái tạo thế giới.
*****
Phép rửa đó nhắc chúng ta là những kẻ đã lãnh nhận phép rửa tái sinh của Đức Giêsu: “Anh em đã được chỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới. Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa, khi Đức Kitô nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người và cùng Người hưởng phúc vinh quang” (Cl.3,1-4)
“Tìm kiếm những gì thuộc thượng giới” là gì? Phải chăng là tìm hạnh phúc Quê Trời bằng đời sống nhiệt thành phụng sự Chúa và thương yêu giúp đỡ mọi người phần hồn phần xác?
(Theo “Sunday Homilies”).
10. Đang khi Người cầu nguyện
Một tập sinhh đến hỏi vị Viện phụ cao niên:
- Thưa cha, xin giúp con thực sự được trở thành Người của Chúa và Mẹ.
- Con hãy vào phòng đóng cửa lại và cầu nguyện. Lời cầu nguyện sẽ dạy con mọi sự, sẽ được Chúa biến đổi cuộc đời con đẹp lòng Chúa.
Tập sinh hỏi tiếp:
- Thưa Cha, đâu là điều kiện giúp con cầu nguyện đích thực?
- Đó là cầu nguyện trong yêu thương. Ai cầu nguyện với lòng tội lỗi oán hận chẳng khác nào thức ăn thịnh soạn đặt trên đĩa nhơ bẩn.
Thầy tập sinh còn thắc mắc, nên hỏi thêm:
- Thưa cha, lời cầu nguyện có quan trọng không? Nó quan trọng hơn hành động không?
- Rất quan trọng. Bằng chứng là ma quỷ hằng tìm đủ mọi các quấy phá, khiến chúng ta chia trí luôn, và cho việc cầu nguyện là nặng nề hoặc chán nản.
*****
Tin mừng hôm nay thuật lại: “Khi toàn dân đã chịu phép rửa, Đức Giêsu cũng chịu phép rửa; sau đó, đang khi người cầu nguyện thì trời mở ra và Thánh Thần ngự xuống trên Người… Lại có tiếng từ trời phán xuống; “Con là Con của cha” (Lc.3,21-22).
Được Thiên Chúa phái đến thế gian trong sứ vụ cứu thế để tái tạo con người và đổi mới bộ mặt thế giới, Chúa Giêsu luôn luôn cầu nguyện để chu toàn sứ mệnh của mình. Đặc biệt hôm nay sau khi đã lãnh phép rửa của Gioan Tiền hô, Người cầu nguyện để nhận lãnh Chúa Thánh Thần và sự xác nhận của Chúa Cha.
Gương cầu nguyện của Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta: Cầu nguyện là điều quan trọng bậc nhất cho sứ mệnh làm người và đặc biệt là làm Kitô hữu. Muốn cải thiện bản thân, muốn hoán cải cuộc đời, muốn biến đổi thế gian, cần phải cầu nguyện và trở thành những con người cầu nguyện: Cầu nguyện liên lỉ, cầu nguyện tin tưởng, cầu nguyện bền đỗ, cầu nguyện khiêm tốn như Chúa Giêsu dạy. (Theo “Góp nhặt”).
11. Tôi thương nó
Ở Hoa Kỳ, ông Bim là chủ một nông trại nuôi bò rất lớn. Ông được mọi người gọi là “Ông Bim quảng đại” vì ông rất thương người, sẵn sàng giúp đỡ mọi người, nhất là những người nghèo khó bệnh tật.
Ông chỉ có đứa con trai duy nhất. Rủi thay trong một chuyến đi nghỉ cuối tuần bị tai nạn xe hơi làm cho vợ và đứa con trai một của ông thiệt mạng!...
Trong mững ngày đau buồn, ông đi lang thang trong nông trại, bỗng ông gặp một đứa trẻ ăn mặc rách rưới bơ vơ. Ông gọi nó đến hỏi thăm gia cảnh của nó, mới biết nó là đứa trẻ mồ côi, tên là Jimi, sống rày đây mai đó nhờ lòng hảo tâm của mọi người. Ông thương đem nó về nuôi và làm chúc thư cho nó:
“Nếu ngày nào tôi chết, tất cả tài sản của tôi sẽ để lại cho Jimi, đứa con nuôi của tôi”. Bạn hữu ông nghe biết thế thì ngạc nhiên hỏi:
- Sao bạn làm thế?
- Vì tôi thương nó. Nó giống con tôi. Tôi nhìn thấy con tôi trong nó.
*****
Trong Tin mừng hôm nay, khi Chúa Giêsu vừa chịu phép rửa ở sông Giođăng bước lên bờ; Chúa Cha đã công nhận Người là Con yêu dấu. Và chúng ta sau khi lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, chúng ta cũng làm con Thiên Chúa.
Câu nói của ông Bim trên đây nhắc chúng ta nhớ: Thiên Chúa yêu thương chúng ta, nhận chúng ta làm nghĩa tử của Người, đồng hưởng gia nghiệp với Con Một người là Đức Kitô ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy. Người nói với chúng ta “Con là con yêu dấu của Ta” như đã nói với Đức Giêsu lúc chịu Gioan Tẩy Giả làm phép rửa ở sông Giođăng.
Nhưng với Đức Giêsu, Thiên Chúa còn bảo “Cha hài lòng về Con”. Nếu nói với chúng ta, Thiên Chúa có thể nói được câu đó, hay Người phải nói ngược lại: “Cha buồn lòng vì con?”
Mỗi người chúng ta hãy tự hỏi: tôi làm hài lòng Chúa hay làm Chúa buồn lòng? Tại sao? (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập III).
12. Lỗi lời thề hứa
Ở núi Phong Khê đất Thục có giống đười ươi, mặt như mặt người, biết cười biết nói. Máu nó dùng để nhuộm màu không bao giờ phai nên người ta đánh lừa bắt nó.
Tính đười ươi thích uống rượu, thích đi guốc. Người ta biết thế nên đem rượu và guốc ra bày la liệt ở quãng đồng không, rồi đi núp một chỗ. Đười uơi ngửi hơi rượu, kéo nhau ra thấy rượu thấy guốc, biết người dụ mình bèn chửi rủa thậm tệ đoạn rủ nhau đi, miệng lẩm bẩm:
- Chớ có mắc mưu loài khốn ấy!
Song đã đi mà còn ngoảnh lại:
- Ta chỉ nếm xem, chắc không hại gì.
Thế là tay bấm miệng mút, bén mùi làm mãi thành say rượu mờ mịt, quên cả lời khôn lẽ thiệt gìn giữ bấy lâu, chếch choáng nghiêng ngã, nói nói cười cười, chân đưa vào guốc thất thểu bước đi.
Người núp bấy giờ đổ ra thì đười ươi lảo đảo chạy, con ngã nghiêng con ngã ngửa, người ta bắt sạch không sót con nào.
*****
Tin mừng hôm nay thuật lại Chúa Giêsu chịu Thánh Gioan Tẩy Giả làm phép rửa ở sông Giođăng, để được Chúa Cha xác nhận là Con yêu dấu Người, được Chúa Thánh Thần sai đi loan báo tin mừng. Từ đó, Chúa Giêsu luôn chu toàn sứ mạng, không bao giờ chểnh mảng trách nhiệm.
Ngày chịu phép Rửa tội, chúng ta đã thề hứa từ bỏ ma quỷ, xa tránh tội lỗi. Nhưng thật ra chúng ta đã vấp phạm biết bao nhiêu lần. Biết tội là xấu nhưng không dễ gì xa lánh. Kinh nghiệm này thánh Phaolô đã từng trải: “Việc thiện tôi muốn làm nhưng lại không làm. Điều dữ tôi muốn lánh nhưng lại làm”. Đó là thân phận con người hèn yếu bất toàn của chúng ta
Mỗi người cần ý thức điều đó để luôn tin tưởng, trông cậy cầu khẩn Chúa nâng đỡ, nhất là không bao giờ ngã lòng thất vọng khi lỡ lầm sa ngã, mà phải nhớ Chúa là Cha nhân từ quãng đại thương giúp ăn năn sám hối.
(Trích “Tất cả là hồng ân”).
33. Con đường yêu thương kỳ diệu--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Để mạc khải tình yêu cho muôn loài, Con Thiên Chúa đã làm người. Để bày tỏ tình yêu đến cùng với con người, Thiên Chúa chọn con đường đồng thân với nhân loại. "Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta" (Ga 1,14). Không chỉ mang lấy kiếp người, Con Thiên Chúa còn mang vào chính bản thân phận tôi đòi, phận tội nhơ của con người. Xếp mình vào đoàn dân đang tự nhận là tội nhân đến với Gioan Tẩy Giả trên bờ sông Giođan là một hành vi thật khó lý giải theo sự luận suy của lý trí. Con tim có lý lẽ của nó. Và chúng ta chỉ có thể hiểu động thái chịu phép rửa của Chúa Giêsu bằng con tim. Tuy nhiên, dưới ánh sáng lời mạc khải qua các bài đọc Thánh lễ Chúa chịu phép rửa, chúng ta có thể nhận ra mục đích của Đấng Cứu Độ khi để cho Gioan làm phép rửa trên bờ sông Giođan.
1. Tự nguyện liên đới với mọi người để yêu thương hết mọi người:
Hai từ liên đới gợi mở cho ta hình ảnh gắn liền đai lưng với nhau. Nói đến chung lưng đấu cật là nói đến những hoàn cảnh khó khăn, gian khổ cần vượt qua. Chính vì thế không ai lại nói liên đới trong những thành công hay chung lưng trong những hoàn cảnh thuận lợi. Hoàn cảnh khó khăn, gian khổ nhất của con người có thể nói là khi gặp phải các sự dữ. Có những sự dữ do khách quan như thiên tai hay địch họa. Có những sự dữ lại do chủ quan là do bản thân tự gây ra cho chính mình. Dưới cái nhìn đức tin thì chỉ có một sự dữ đáng gọi là dữ, đó là tội lỗi. Các sự dữ khác chỉ có thể làm hại sự sống đời này, còn tội lỗi thì có thể làm thiệt hại cả sự sống đời này và cả sự sống mai sau.
Dù là Đấng vô tội, dù là Đấng ngàn trùng chí thánh, Chúa Giêsu vẫn muốn đồng phận với nhân loại chúng ta trong kiếp tội nhân. Khởi đầu bằng việc chung hàng với đoàn người tội lỗi và điều này đã làm đẹp lòng Chúa Cha: "Này là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha" (Mt 3,17; Mc 1,11; Lc 1,22). Trong quá trình rao giảng Tin Mừng Chúa Giêsu không ngại ngần đến với những người tội lỗi và đồng bàn với họ, bất chấp những lời xầm xì của nhiều người nhóm biệt phái và luật sĩ (x. Lc 5,29-32; 15,1-2). Người còn tự nguyện đứng về phía những người nghèo, những người bất hạnh, cô thế, kém phận, dĩ nhiên vẫn không từ chối lời mời của những người quyền quý, lớn vai hay nhiều vế trong xã hội (x. Lc 7,36-50). Tất cả những sự việc ấy nói lên rằng Chúa Cứu Thế muốn bày tỏ tình yêu với hết mọi người.
2. Đi xuống tận cùng đáy sâu thân phận tội lỗi của kiếp người để nâng mọi người lên:
Tự dìm mình dưới dòng sông Giođan để cho thánh Gioan Tẩy giả làm phép thanh tẩy là quyết định khởi đầu của Con Thiên Chúa làm người khi công khai rao giảng Tin Mừng. Và điểm đến của quyết định ấy là cái chết trong phận một phạm nhân trọng tội. Con Chiên tinh tuyền của Thiên Chúa đã cúi mình xuống trước một Giuđa đã rắp tâm phản bội Thầy, trước một Phêrô lát nữa đây sẽ chối bỏ Thầy và trước cả nhóm môn đồ còn lại, vốn tham sinh, úy tử cách ích kỷ, sẵn sàng bỏ Thầy để giữ lấy mạng sống riêng mình. Người cúi xuống là để nâng con người lên.
Thiên Chúa không muốn bất cứ một ai trong nhân loại phải hư mất. Đấng Cứu độ đã đi xuống tận cùng của cảnh kiếp tội nhân. Và giờ đây không một ai, không một tội nhân nào là không có thể được tha thứ và cứu sống. Một tuơng lai tràn trề hy vọng đang mở ra cho từng người, cho toàn thể nhân loại. Nói như Đức cố Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận: " Không một thánh nhân nào là không có một quá khứ (quá khứ lỗi lầm), vì thế, chẳng có một tội nhân nào mà chẳng có một tương lai". Sự khả thể đang mở ra với nhân loại khi Đức Giêsu tự nguyện đồng phận với kiếp tội nhân của con người. Và điều khả thể này đã hiện thực cách rõ ràng với người tử tội bị treo bên phải Chúa Giêsu năm xưa: " Ta bảo thật với anh: Ngay hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với Ta" (Lc 23,43).
Vấn nạn đặt ra cho chúng ta hôm nay và mãi mãi:
- Không được phép ngã lòng về bản thân mình cho dù ta đang trong hoàn cảnh bi đát hay tồi tệ thế nào. Không một ai là ngoài tình thương của Thiên Chúa. Không gì có thể tách lìa chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, trong Đức Giêsu Kitô, Đấng đã tự nguyện liên đới với chúng ta cho đến cùng (x. Rm 8,38-39). Không một ai, không một tình trạng nào vượt quá quyền năng vô biên của Thiên Chúa, Đấng mà không có sự gì là không thể (x.Mt 19,26), chỉ trừ người phạm đến Chúa Thánh Thần, tức là cố tình không đón nhận tình yêu cứu độ. Thiên Chúa có thể làm được mọi sự nhưng Người vẫn tôn trọng tự do của con người, một món quà vô giá mà Người đã ban cho nhân loại. Mọi sự đều là có thể cho người luôn biết hy vọng và nỗ lực vươn lên trong niềm tin vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa.
- Không được phép thất vọng về bất cứ một ai cho dù họ đang bê bối hay đáng chúc dữ dường nào. Biết bao người thời Chúa Giêsu rất đáng và đã bị Người chúc dữ thế mà vẫn được Người xin Chúa Cha tha thứ vì họ lầm chẳng biết (x. Lc 23,34). Con người là hữu thể đang chuyển thành (L'homme c'est l' être en devenir). Chính vì thế, điều mà ta cần loại bỏ, cần xóa đi, đó là những định kiến của ta về tha nhân. Giữ mãi thành kiến không tốt về tha nhân là ta đang đóng đinh anh em mình bằng những chiếc đinh ác tâm, vô tình. Đừng xét đoán để khỏi bị đoán xét (x. Mt 7,1-5). Xin đừng quên chính khi đóng đinh tha nhân bằng định kiến là ta tự đóng đinh số phận của mình. Lời kinh nguyện duy nhất Chúa Giêsu dạy, nhắc nhớ chúng ta về sự liên đới với tha nhân như là một trong những điều kiện tất yếu để đón nhận hồng ân của Cha trên trời: "Lạy Cha chúng con..." (Mt 6,9-15)
Mừng mầu nhiệm Chúa chịu phép rửa là tán dương tình thương của Chúa, một tình thương vô biên và diệu kỳ. Mừng mầu nhiệm Chúa chịu phép rửa là phấn khởi và tích cực dưỡng nuôi niềm hy vọng vào Thiên Chúa giàu lòng xót thương, chậm bất bình và rất mực khoan dung. Thiên Chúa đã nên hữu hình nơi Đức Kitô, Đấng không chỉ "không bẻ gãy cây lau bị giập, không dập tắt tim đèn còn khói", mà còn "mở mắt cho người mù, đưa ra khỏi tù những người bị xiềng xích, đưa ra khỏi ngục những người ngồi trong tối tăm" (Is 42,3; 7), Đấng đầy tràn Thánh Thần và đi đến đâu thì giáng phúc thi ân đến đó (x. Cvtđ 10,38). Mầu nhiệm Chúa chịu phép rửa lại còn thôi thúc chúng ta tích cực đón nhận tha nhân để giúp nhau hoán cải, đổi mới và thăng tiến. Khoanh tay đứng nhìn hay cam chịu thúc thủ trước sự dữ là một thái độ "phỉ báng" hành vi cúi mình chịu phép rửa của chúa Kitô trên dòng sông Giođan. Ước gì được một lần trong đời, ta thầm nghe được lời Chúa phán: "Này là con yêu dấu của Cha, con đẹp lòng Cha", khi ta biết yêu thương nhau bằng con đường đi xuống (như nghĩa của từ Giođan).
34. Cầu Nguyện – Trời Mở Ra--Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
Trong năm phụng vụ, ngoài các mùa làm “thay hoa đổi lá” như mùa Vọng. Giáng sinh, mùa Chay, Phục sinh, còn có một thứ mùa được trải ra, xen kẻ vào các thời kỳ tưởng niệm hai biến cố Thiên Chúa sinh ra và chịu khổ nạn để cứu nhân độ thế. Đó là mùa Thường Niên hay còn gọi là mùa Quanh Năm.
Khởi đầu cho mùa Quanh Năm là Chúa nhật kính nhớ biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa, ghi dấu ngày xuất quân trang trọng của Đức Kitô để đem tin mừng cho nhân loại. Cứ điểm xuất quân là bờ sông Giođan thuộc vùng Giuđa, xứ Palestin.
Giođan là một trong những giòng sông dốc dác nhất thế giới, chạy suốt từ bắc chí nam, băng qua biển hồ Galilê, đổ ra Biển Chết. Dọc bờ sông là những hàng dương liễu rủ bóng chen lẫn với dãy bạch dương rì rào trong gió. Nước sông tuy nhiều, nhưng hai bờ dựng đứng nên không thích hợp cho việc trồng trọt. Chính tại một nhánh sông trong khu vực Bêtania mà Chúa Giêsu đã đón nhận phép thanh tẩy của Gioan Tiền hô.
Lẽ tất nhiên, phép rửa của Gioan không phải là một bí tích. Nó không thể xoá tội tổ tông hay truyền ban ơn thánh. Song đó chỉ là hình bóng của phép rửa mà Đức Kitô sẽ thiết lập sau này.
Đúng ra, Đức Kitô đâu cần phải chịu thanh tẩy. Ngài có tội tình gì. Thế nhưng qua việc Ngài đến với Gioan là để chuẩn y cho việc làm và lời nói của ông: Thứ nhất Chúa Giêsu xác nhận việc Gioan rao giảng và thanh tẩy dân chúng để chuẩn bị đón nhận Tin Mừng Nước Trời là chính đáng và cần thiết. Thứ hai, Gioan nhắc bảo với dân chúng- “Ta thanh tấy các ngươi bằng nước. Sẽ đến Đấng quyền thế hơn ta, ta không đáng cởi quai dép Ngài. Ngài sẽ rửa các ngươi trong Thánh Thần và lửa” (Lc 3:16)- là sự thật và sự thật đó được chính Chúa Giêsu xác nhận sau này trong phúc âm của Thánh Gioan: “Ai không sinh bởi Nước và Thánh Thần thì không thể vào được Nước Trời” (Ga 3:5).
Hơn nữa, việc Đức Giêsu đến hoà mình vào đám đông, lãnh nhận phép rửa của vị Tiền hô, là muốn nêu bật tính cách tự ý liệt mình vào hàng tội nhân. Ngài hạ mình, đến với dân, ở giữa dân, gánh tội dân, và cứu dân.
Có lẽ trong tất cả những lần tỏ mình trước đây, chưa bao giờ Đấng Cứu Thế lại hạ mình sâu thẳm bằng hôm nay. Khi tỏ mình ra với mục đồng và các đạo sĩ, thì vẫn có đó nơi Đức Giêsu hình ảnh của một bé thơ dễ thương. Khi tỏ mình ra cho ông Simêon và bà Anna trong đền thờ, Đức Giêsu cũng còn được chiêm ngắm như là “ánh sáng muôn dân”. Ngay khi tỏ mình ra cho các tư tế, luật sĩ ở đền thờ lúc 12 tuổi, Đức Giêsu vẫn được nhìn nhận như một nhà thông thái uyên bác. Nhưng hôm nay, lần tỏ mình ra lớn lao nhất lại là hiển linh qua hình ảnh một tội nhân giữa đoàn dân tội lỗi. Phải chăng Ngài đang muốn chia sẻ và gánh vác thân phận khốn nạn nhất của con người? Phải chăng Ngài đang làm viên thành lời của bao ngôn sứ, đặc biệt là của Gioan Tẩy Giả, khi vị này chỉ vào Ngài và hô lớn: “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng tẩy xoá tội trần gian” (Ga 1:29).
Ơn thánh hoá đã được ban xuống qua Đức Kitô. Sự sống đang tuôn đến trên nhân loại. Thánh sử Luca đã khéo léo trình bày ý tưởng trên khi viết: “Đức Giêsu chịu thanh tẩy, và đang khi Ngài cầu nguyện, thì trời mở ra” (Lc 3:21).
Cửa trời đã đóng lại sau ngày nhân loại chối từ luật Chúa và chạy theo dục vọng trần gian. Cửa trời đã đóng lại từ lúc con người kiêu căng ngạo mạn muốn lên làm Chúa, để tự định đoạt mọi trật tự của thế giới này. Cửa trời đã đóng lại vì con người không biết ăn năn thống hối, lại còn đổ thừa, sỉ vả, gây khổ cho nhau.
Nhưng hôm nay cửa trời đã mở ra vì có một người không sống theo ý mình nhưng chỉ theo ý Cha, Đấng ngự trên trời.
Hôm nay cửa trời đã mở ra vì có một người đã không “giằng cho được chức vị đồng hàng cùng Thiên Chúa. Nhưng đã hủy mình ra không, lĩnh lấy thân phận tôi đòi, trở thành giống hẳn người ta… Ngài đã hạ mình thấp hèn, trở thành vâng phục cho đến chết, và là cái chết thập giá” (Pl 2:6-8).
Và đặc biệt, hôm nay cửa trời đã mở ra vì có một người biết cầu nguyện cùng Thiên Chúa.
Chắc chắn không phải là Thánh Luca không có ý khi viết “… cầu nguyện thì trời mở ra”. Phải chăng cầu nguyện chính là chiếc chìa khoá thần linh có thể mở tung cánh cửa của ơn phúc và sự sống? Phải chăng cầu nguyện là sức mạnh vô song xé rách được màn trời để ơn cứu độ tuôn trào cho nhân loại?
Thánh Anphongsô đã rất chí lý khi quả quyết: “Cầu nguyện chắc chắn sẽ được ơn cứu độ.” Thế nên trong nhiều tác phẩm hay bài giảng lừng danh, ngài đều hướng người ta về đời sống cầu nguyện. Thánh nhân có nói: nếu trong cuộc đời, chỉ có cơ may một lần giảng, và nếu chỉ được phép giảng một bài duy nhất, ngài sẽ không ngần ngại cất đi tất cả mọi ý tưởng để chỉ giảng về cầu nguyện. Ngài sẽ dạy cho người ta biết thế nào là sống cầu nguyện đúng nghĩa. Vì cầu nguyện đúng nghĩa sẽ là thượng tôn Thiên Chúa, mở lòng với trời cao, và đón nhận ân phúc dồi dào. Cầu nguyện đúng nghĩa không chỉ là cầu xin, nhưng còn biết ca ngợi, cảm tạ, và thống hối.
Người biết cầu nguyện và siêng năng nguyện cầu sẽ tìm thấy niềm vui ơn cứu độ chan chứa, cả đời này và đời sau.
Đôi khi người ta không thấy cửa trời mở ra cho bao ước mơ khát vọng cao đẹp của mình, phải chăng vì họ không cầu nguyện, hay có nhưng còn thiếu hồn, nhạt nhẽo, lấy lệ.
Mong sao khởi đầu mùa phụng vụ Quanh Năm năm nay, mỗi người Kitô hữu sẽ đồng hành với Đức Kitô trong khiêm cung cầu nguyện. Chắc chắn bước đi với thái độ và quyết tâm như thế “trời sẽ mở ra” và ơn Chúa sẽ chan hoà trên ta.
35. Liên đới với dân--Lm. Nguyễn Hữu Thy
Ðến nay tôi hãy còn nhớ hồi còn nhỏ đi học ở giáo lý, và khi bàn đến Phép Rửa của Ðức Giêsu, chúng tôi đã hỏi ông thầy giảng lúc bấy giờ: "Thưa thầy, tại sao Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa mà lại còn phải chịu phép rửa sám hối của thánh Gioan Tẩy Giả"
Trước khi nghe câu trả lời của ông thầy của chúng tôi năm xưa, chúng ta thử nhìn lại con người của Gioan Tẩy Giả: Ðó là một người mặc áo lông lạc đà, có nét mặt khắc khổ và nghiêm nghị, đi khắp đó đây trong vùng ven sông Gio-đan và loan báo sứ điệp đầy phẩn nộ của Thiên Chúa: “Hỡi nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các ngươi cách chạy trốn khỏi cơn thịnh độ của Thiên Chúa sắp giáng xuống trên đầu các ngươi? Cái rìu đã đặt sẵn ở gốc cây rồi. Bất cứ cây nào không sinh hoa quả tốt, đếu bị đốn đi và quăng vào lửa !" (Lc 3,7+9). Thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng sự thịnh nộ của Thiên Chúa nhiều hơn là lòng nhân hậu của Người. Theo thánh nhân, người ta chỉ có thể tránh thoát được án phạt nghiêm minh và nặng nề của Thiên Chúa bằng sự sám hối tội lỗi và quay trở về cùng Thiên Chúa, qua phép rửa của ông tại bờ sông Gio-đan như dấu hiệu của lòng sám hối.
Nhưng điều đó có liên quan gì đến Ðức Giêsu?
Ông thầy giảng ngày xưa của chúng tôi đã trả lời cho câu hỏi đó một cách rất khéo léo, theo ông: Dĩ nhiên, là Con Thiên Chúa, Ðức Giêsu không cần chịu phép rửa sám hối. Phép rửa đó đối với Người chỉ có giá trị như một sự bày tỏ lòng khiêm nhường công khai. Nhưng trọng tâm của biến cố Chúa chịu phép rửa là việc Chúa Cha công khai thừa nhận Ðức Giêsu “Ðây là Con yêu dấu của Ta, Ta rất hài lòng về Người !" (Mt 3,17). Thật ra, điều quan trọng đối với ông thầy giảng xưa kia của chúng tôi là việc chứng minh Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa, còn sứ điệp của Gioan Tẩy Giả và phép rửa sám hối của ông xem ra không đóng vai trò quan trọng đối với cái hình ảnh về Ðức Giêsu.
Và những đứa học trò chúng tôi đã hài lòng với câu trả lời đó trong một thời gian rất lâu.
Một cách thành thật, có lẽ chính các bạn khi nghe thế chắc cũng đồng ý với chúng tôi, và không còn thắc mắc gì nữa về ngày lễ Chúa Chịu Phép Rửa hôm nay.
Nhưng rồi trong suốt thời gian học thần học, khi chúng tôi có dịp tìm hiểu về Ðức Giêsu Na-da-rét hơn; khi chúng tôi tập nghiên cứu và đào sâu ý nghĩa của bản văn có tính cách lịch sử và phê phán nhiều hơn, và khi chúng tôi tìm hiểu nguồn gốc cũng như truyền thống của Kinh Thánh một cách lịch sử hơn, bấy giờ câu trả lời ngày xưa của ông thầy giảng là chưa đủ, tức nếu coi biến cố Chúa Chịu Phép Rửa tại bờ sông Gio-đan chỉ có giá trị như một kiểu bày tỏ công khai sự khiêm tốn và chỉ có được ý nghĩa khi có tiếng từ trời phán ra mà thôi.
Vì thế, hôm nay tôi muốn mời các bạn, chúng ta cùng hướng tầm nhìn của chúng ta về thánh Gioan Tẩy Giả và phép rửa thống hối của ông nhiều hơn.
Trước hết, thánh Gioan Tẩy Giả là ai? Sứ điệp của ngài là gì? Phép rửa của ngài có giá trị thế nào?
Mặc dầu, về mặt lịch sử, chúng ta biết rất ít về nhân thân của Gioan Tẩy Giả, nhưng dựa theo nguồn sử liệu Do-thái và lương dân, chúng ta cũng có thể nêu lên được vài nét về sứ điệp và cách hành xử của thánh nhân.
Chúng ta biết rằng giữa thời gian vào các năm 167 trước công nguyên với cuộc nổi dậy của anh em Ma-ca-bê-ô, và năm 70 sau công nguyên với cuộc cuộc chiến tranh Do-thái và hậu quả là việc tàn phá đền thờ Giê-ru-sa-lem, cho đến năm 135 sau công nguyên với cuộc nổi dây của người Do-thái do Bar Kochbar cầm đầu, thì ở thung lủng Gio-đan đã có rất nhiều phong trào rao giảng sự sám hối kèm theo phép rửa. Mục đích của các phong trào sám hối đó là kêu gọi toàn dân hãy quay trở về với Thiên Chúa Gia-vê. Bởi vì theo các vị rao giảng sự sám hối đó, sở dĩ nền chính trị của dân tộc Do-thái bị rơi vào tình trạng tồi tệ và suy thoái như vậy, tức cả đất nước bị nằm dưới ách đô hộ tàn bạo của đế quốc Roma, là vì dân tộc đã xa lìa Thiên Chúa và không còn tuân giữ các giới răn của Người nữa. Vì thế, nếu toàn dân không sám hối và quay trở lại cùng Thiên Chúa Gia-vê - đó cũng là sứ điệp của các Tiên Tri -, thì sẽ không thể tránh khỏi được án phạt tiêu diệt của Thiên Chúa được.
Giữa các vị giảng thuyết sự ăn năn sám hối đó, Gioan Tẩy Giả là người quan trọng và có ảnh hưởng mạnh nhất. Khiến cho cả những tầng lớp lãnh đạo tôn giáo cũng như chính trị phải kiêng nể. Nhưng việc thánh nhân chỉ trích thẳng thắn và gắt gao bạo vương Hê-rô-đê An-ti-pa về tội loạn luân công khai của y (x. Mc 6,18) đã khiến cho thánh nhân phải trả bằng một giá quá đắt là chính mạng sống mình. Ðối với Gioan Tẩy Giả, dấu hiệu của sự sám hối là việc chịu phép rửa tại sông Gio-đan. Ðể cho Gioan Tẩy Giả - người đã được Thiên Chúa sai đến - rửa tội cho, có nghĩa là để cho chính Thiên Chúa biến đổi mình. Và chỉ những ai chịu phép rửa đó, mới có được cơ may thoát khỏi được án phạt tiêu diệt của Thiên Chúa. Phép rửa sám hối của Gioan Tẩy Giả là điều tối cần duy nhất. Và trong thực tế: Toàn dân đã kéo về bờ sông Gio-đan để được Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho.
Còn việc Ðức Giêsu đã để cho Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho là một biến cố lịch sử, nghĩa là một điều đã thực sự xảy ra. Nhưng tại sao Người lại làm như vậy? - Ðức Giêsu luôn giữ một mối quan hệ chặt chẽ với môi trường sống Do-thái của Người. Vâng, Người có một quê hương và một nơi “chôn nhau cắt rốn" cụ thể. Người luôn gắn bó với dân tộc của Người, luôn gắn bó với lịch sử và với tôn giáo của dân tộc. Ðức Giêsu là một người Do-thái thực sự, nói tiếng nói của dân tộc Do-thái, tinh thông lịch sử dân tộc. Người suy tư và hành động, cảm xúc và hy vọng, v.v... hoàn toàn như tất cả mọi người Do-thái khác, và cũng như họ, Người luôn đặt nặng hạnh phúc dân tộc lên hàng đầu.
Vì thế, đối với Ðức Giêsu, những phong trào sám hối và làm phép rửa của dân tộc Người không phải là điều xa lạ. Và Người không hề coi thường hay dửng dưng trước niềm tin của các đồng bào của Người. Người không sống ngoài lề cộng đồng đức tin. Người đã quan tâm tới phong trào của Gioan Tẩy Giả một cách đặc biệt, vì chắc chắn Người đã nhìn nhận Gioan Tẩy Giả là một con người hoàn toàn đặc biệt và đồng thời cũng rất đánh giá ông. Người đã phải cảm phục trước sứ điệp nghiêm chỉnh và chân chính của Gioan Tẩy Giả và vì thế Người đã để cho ông làm phép rửa cho: Người muốn liên đới với dân !
Bởi vì Ðức Giêsu rất quan tâm tới hạnh phúc của dân tộc Do-thái của Người - và đó cũng là điều dễ hiểu - nên Người đã xếp hàng với đoàn người đông đảo, những người muốn tránh cho dân khỏi án phạt tiêu diệt của Thiên Chúa. Người đã hòa mình vào với đoàn dân chúng, những người hoàn toàn tự nguyện sám hối và quay trở về cùng Thiên Chúa.
Dĩ nhiên, trong Lễ Chúa Chịu Phép Rửa của người Kitô giáo chúng ta, chúng ta còn cần phải có những bước tới gần Ðức Giêsu hơn nữa, chứ không chỉ dừng lại ở biến cố lịch sử, hầu cho việc chấp nhận phép rửa sám hối của Gioan Tẩy Giả nơi Ðức Giêsu không mất đi những giá trị đặc biệt của nó.
Ðối với tôi, một câu viết trong bài Tin Mừng hôm nay có một giá trị rất quan trọng: “Cùng với toàn dân, Ðức Giêsu cũng đã chịu phép rửa" (Lc 3,21). Cùng với toàn dân ! Ðức Giêsu không bao giờ đòi hỏi luật trừ cho mình, nhưng Người cùng hòa mình và hành động liên đới với mọi người. Người không xuất hiện như một người cạnh tranh với Gioan Tẩy Giả, nhưng như một thính giả đầy kính trọng và hứng thú lăng nghe sứ điệp của ông. Và cả về sau nữa, khi Người còn bày tỏ sự liên đới của mình với toàn dân một cách tuyệt căn hơn, qua cái chết trên thập giá. Vâng, qua cái chết đau thương và ô nhục trên thập giá Ðức Giêsu đã bày tỏ sự liên đới tột cùng của Người, chẳng những với dân tôc Do-thái mà còn với toàn thể nhân loại tội lỗi.
Vậy, Phép Rửa của Ðức Giêsu là hành động liên đới với dân tộc của Người ! Ðối với sự liên đới cùng tận của Người với dân tộc tội lỗi, đối với sự liên đới vô cùng sâu thẳm của Người với chúng ta, qua cái chết trên thập giá, giờ đây chúng ta cùng dâng lời cảm tạ ơn Người qua hy lễ Thánh Thể: Hy lễ tạ ơn! Amen.
36. Tắm gội tâm hồn cho trong sạch--Lm Hồng Phúc
Hôm nay là Lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay gợi lên ý tưởng một cuộc lễ phong vương. Ngày xưa khi một vị hoàng vương được tôn phong lên làm vua thì họ phải trải qua một cuộc lễ phong vương gồm ba sự việc: 1) Phải tắm rửa sạch sẽ; 2) Phải được xức dầu; 3) và được tôn xưng làm Vua.
Hôm nay, Chúa Giêsu sắp ra mắt giảng đạo, thiết lập Nước Trời, bắt đầu sứ mạng cứu thế nên, nói được là Ngài cũng trải qua một cuộc phong vương như vậy.
Trước tiên, Ngài chịu phép Rửa của Gioan. Ngài là Con Chiên trong sạch, đến để gánh tội trần gian, nhưng Ngài muốn cúi mình xuống lãnh nhận lấy giòng nước sông Giođan do bàn tay Gioan đổ tràn xuống như một dấu chỉ ăn năn đền tội, để dạy cho chúng ta muốn vào Nước Trời thì phải ăn năn sám hối, cải thiện đời sống, phải tắm gội tâm hồn cho trong sạch.
Việc thứ hai là đồng thời, nói được là Ngài đã được xức dầu phong vương. Trong bài đọc, Thánh Phêrô nói: “Như anh em biết, điều đã xảy ra trong toàn cõi Giuđa… sau khi Gioan đã rao giảng phép Rửa: ấy là Chúa Giêsu thành Nagiaret, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong cho Người.” Ngài được tấn phong để trở nên vị Cứu Thế “đi qua mọi nơi, ban bố mọi ơn lành”.
Việc thứ ba là Ngài đã được tôn xưng là Vua, là Chúa Cứu Thế. Trong bài Phúc Âm, Thánh Marcô kể rằng: “Khi Ngài vừa từ dưới giòng sông bước lên thì Trời mở ra, Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài và có tiếng từ trời phán xuống: Đây là Con Ta yêu dấu và đẹp lòng Ta.” Đó là một lời phong vương, một lời tuyên xưng long trọng Chúa là Vua, là Con Thiên Chúa là Đấng Cứu Chuộc nhân loại.
Đó là ý nghĩa cuộc lễ phong vương mà Giáo hội mừng hôm nay khi nói đến việc Chúa Giêsu chịu phép Rửa.
Việc Chúa Giêsu chịu phép Rửa là hình bóng phép Rửa tội của chúng ta. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi vừa mới được mạc khải lần đầu tiên dưới hình một tiếng trên trời phán xuống, dưới hình chim bồ câu bay liệng trên Con Thiên Chúa đứng đó cũng nhắc cho ta rằng chúng ta cũng được Rửa tội nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chúng ra cũng được phong vương, cũng được trở nên nghĩa tử, con của Thiên Chúa.
Trước mặt chúng ta, có một sự trái ngược kỳ diệu: Con của bác thợ mộc Giuse cúi mình chịu phép rửa như một người có tội, khi ra khỏi nước được tuyên dương là Con Thiên Chúa. Cũng vậy chúng ta trước khi chịu phép Rửa tội, là kẻ tội lỗi như lời Thánh vịnh: “Tội là tà ác khi mới sinh ra, đã là tội khi ở trong dạ mẹ”. Nhưng khi chịu phép Rửa tội rồi, chúng ta trở nên con Thiên Chúa, có quyền thừa hưởng Nước Trời.
Ta có cố sống xứng đáng thiên chức Con Chúa không?
37. Chúa chịu phép rửa, ta hãy xin ơn sống xứng đáng là con cái Chúa--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Tiếp theo lễ Chúa Hiển Linh, kết thúc mùa Giáng sinh, Giáo Hội cử hành lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa. Lễ này được mừng sớm nhất, chỉ sau lễ Phục sinh, vì nó bao hàm lời rao giảng của các Tông Đồ, là điểm khởi hành cho tất cả những việc mà các Tông Đồ phải làm chứng cho (x. Tđcv 1, 21-22; 10, 37-41). Bởi thế, vào những thời kỳ đầu các Giáo phụ đã đặc biệt quan tâm, vì tính cổ thời quan trọng của nó. Thứ đến, đây là lần đầu tiên, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được mạc khải một cách đầy đủ và rõ ràng. Lý do nữa là phép rửa của Chúa Giêsu nơi sông Giordan loan báo trước cho phép rửa bằng Máu của Chúa trên Thập Giá, tượng trưng cho tất cả hoạt động có tính cách bí tích của Ðấng Cứu Thế. Để cứu rỗi nhân loại, dù vô tội, Chúa Giêsu đã đặt mình vào hàng ngũ các tội nhân, mang trên mình tội lỗi của thế nhân. Hành động khiêm nhường và tự hủy này được Chúa Cha chứng dám: " Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha" (Lc 3, 22). Cùng với Đức Giêsu, Chúa Thánh Thần xuất hiện dưới hình chim bồ câu đậu xuống trên Người, để chỉ cho chúng ta tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh mà chúng ta sẽ thấy diễn ra tương tự nơi biến cố Chúa Biến Hình.
Chúa Giêsu là Đấng vô tội sao lại đến xin Gioan làm phép rửa?
Thánh Ghêgôriô, giám mục Nadien cho biết: "Có thể là Chúa muốn thánh hoá kẻ sắp làm phép rửa cho Chúa, nhưng chắc chắn để chôn vùi trọn vẹn con người Ađam cũ trong dòng nước. Thật vậy, trước khi thanh tẩy ta và để thanh tẩy ta, Chúa thánh hoá sông Gio-đan ; vì Người vừa là thần khí vừa là xác phàm, nên Người cũng muốn nhờ Thần Khí và nước để đưa chúng ta vào đạo". Nên dù Gioan làm phép rửa, ông cũng chỉ là đèn đối với Mặt Trời, tiếng nói với Lời, phù rể đối với Chàng Rể, người cao trọng nhất trong số những người sinh bởi đàn bà với Trưởng Tử mọi loài thọ sinh, người nhảy mừng trong dạ mẹ với Đấng được thờ lạy ngay khi còn trong lòng mẹ, người tiền hô hiện tại và tương lai với Đấng vừa xuất hiện và sẽ xuất hiện. Quả thật, Gioan biết rằng mình sẽ được thanh tẩy bằng cuộc tử đạo. (Trích bài giảng của thánh Ghêgôriô, giám mục Nadien). Thánh Phêrô Kim Ngôn giải thích rằng, khi Gioan làm phép rửa cho Chúa Giêsu thì: "Tôi tớ đóng vai chủ, con người đóng vai Thiên Chúa, ông Gio-an đóng vai Đức Ki-tô ; ông đóng vai đó để lãnh ơn thứ tha chứ không phải để ban phát". Nên Gioan giảng: " Phần tôi, tôi đã rửa anh em trong nước, nhưng Đấng cao trọng hơn tôi đang đến, và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người, chính Người sẽ rửa anh em trong Chúa Thánh Thần và trong lửa!" (Lc 3, 16). Đây là phép lạ vĩ đại đã xảy ra sau khi Đấng Cứu Thế chịu phép rửa ; phép lạ này là khúc dạo đầu cho những gì sẽ xảy ra. Đây không phải là Thiên Đàng khi xưa đóng lại vì tội của Ađam nay mở ra, mà chính trời mở ra: "Chính lúc Chúa Giêsu cũng đã chịu phép rửa xong, Người đang cầu nguyện, thì trời mở ra và Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Người dưới hình chim bồ câu " (Lc 3,21).
Tại sao khi Chúa Giêsu chịu phép rửa xong, trời lại mở ra?
Chúa Giêsu vừa chịu phép rửa xong, trời mở ra là Chúa Giêsu nâng thế gian lên cao với Người. Vì khi Ađam phạm tội, ông bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, cửa trời đóng lại và bị lưỡi gươm lửa cấm đoán, không cho mình mà cũng không cho con cháu vào. Nay nhờ Chúa Giêsu mà cửa trời được mở ra.
Trời mở ra, còn mạc khải cho Gioan Tẩy Giả và những người Do Thái biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Theo thánh Gioan Kim Khẩu, điều này muốn dạy chúng ta rằng, một sự tương tự vô hình cũng xảy ra khi chúng ta chịu Phép Rửa Tội: Chúa Thánh Thần cũng ngự vào tâm hồn của chúng ta. Ngài không ngự đến một cách hữu hình, bởi vì chúng ta không cần: đức tin hiện nay là đủ... Thiên Chúa mở cửa trời để kêu gọi chúng ta hướng về trời, vì quê hương chúng ta là quê trời, và mách bảo chúng ta rằng, chúng ta không có gì ở dưới đất.
Tại sao Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Người dưới hình chim bồ câu?
Thưa: Chim bồ câu rất dịu dàng và trong sạch, và Chúa Thánh Thần là thần khí dịu êm và an bình. Chim bồ câu cũng nhắc cho chúng ta nhớ lại trận hồng thủy trong Cựu Ước nhấn chìm trái đất và toàn thể loài người trong nguy cơ hư mất, chim bồ câu ngậm cành ôlui xuất hiện để báo đại hồng thủy đã chấm dứt, tin vui hòa bình cho toàn thế giới. Giờ đây, tất cả những điều này cũng tiên báo về tương lai. Khi tất cả đã hư mất, nay được giải thoát và đổi mới, điều gì đã xảy ra khi nước lũ đến ngày hôm nay như là một lũ lụt của ân sủng và lòng thương xót Chúa... Chim bồ câu, thay vì ngậm một cành ô liu báo cho Noe là người duy nhất bước ra khỏi tầu để đặt chân lên mặt đất. Nay Chim bồ câu báo tin trận hồng thuỷ tràn ngập thế gian đã lui đi, thế gian không còn chìm ngập trong cảnh trầm luân muôn đời nữa, phẩm giá ơn gọi làm con Thiên Chúa của chúng ta được phục hồi, và lôi kéo hết thảy mọi người lên Thiên Đàng.
Lời ngôn sứ nói: "Tiếng Chúa vang rền trên nước… Tiếng Chúa uy linh tung sấm sét" (Tv 28). Tiếng nào vậy? "Này là tôi tớ Ta mà Ta nâng đỡ, là người Ta chọn, Ta hài lòng về người. Ta ban Thần trí Ta trên người" (Is 42, 1). Đây là tiếng từ trời vọng xuống để làm chứng cho Đấng từ trời mà đến. Tiếng đó bày tỏ lòng tôn trọng thân xác dưới hình chim bồ câu, vì thân xác đã được thần hoá, khi Thiên Chúa tự tỏ mình ra trong thân xác:"Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha"(Lc 3, 22).
Vậy, phép rửa của Chúa Giêsu và phép rửa của chúng ta có liên kết chặt chẽ với nhau, trong mối liên hệ ấy với Thiên Chúa, chúng ta được tái sinh và trở nên con cái Thiên Chúa. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta được sống xứng đáng là con cái Chúa. Amen.
38. Con yêu dấu của Cha--AM Trần Bình An
Đức Giám mục Thomas Msusa, thuộc giáo phận Blantyre, miền Nam Malawi. Sinh ra là đạo Hồi giáo, ngài đã trở lại đạo Công giáo. Năm nay ngài 53 tuổi là phó Giám đốc hiệp hội tám nước thành viên Hội đồng Giám mục Phi châu Đông phương. Ngài được thụ phong linh mục ở Dòng Truyền giáo Mẹ Maria, Dòng còn có tên là Dòng Truyền giáo Montfortains. Ngài chia sẻ câu chuyện trở lại đạo Công giáo của mình và của cha mình:
“Tôi làm việc ở địa phận Zomba trong mười năm. Mỗi năm có 100 đến 150 người rửa tội ở nhà thờ chính tòa và còn có nhiều người khác được rửa tội ở các giáo xứ. Tôi hỏi họ vì sao họ trở lại. Họ cho biết nhờ nghe đài phát thanh Radio Maria, một đài rất quan trọng ở đất nước tôi và lúc nào đài cũng có mặt ở những lễ lớn. Trước khi nghe được đài Radio Maria thì họ chỉ nghe toàn tuyên truyền chống đạo Công giáo. Khi biết được sự thật về Giáo hội, họ quyết định theo đạo Công giáo. Đây không phải là vấn đề ở đất nước tôi. Trong làng tôi có đến 99,9 % dân số là người theo Hồi giáo. Cha tôi là một tu sĩ Hồi giáo.
Tôi rời nhà lúc lên 7 vì tôi muốn đi học. Tôi ở lại giáo xứ. Đến năm 12 tuổi, tôi xin được rửa tội. Tôi muốn làm linh mục. Và thế là tôi được gởi vào chủng viện. Khi tôi học xong, gia đình không nhận tôi, tôi ở lại giáo xứ. Tôi được thụ phong linh mục và để tạ ơn Chúa, tôi muốn dâng thánh lễ tại nhà. Tôi xin những người trưởng lão trong Giáo hội và xin bác tôi, người đã trở lại Công Giáo, tổ chức cho tôi một thánh lễ ở ngoài trời. Nhiều người trong gia đình tôi và cha tôi đến dự. Cha tôi nói với tôi: «Hồi đó cha không muốn con vào đạo Công giáo nhưng bây giờ cha tin, nhờ con mà có thể tất cả chúng ta sẽ được lên Thiên Đàng».
Khi đã làm Giám mục, tôi về nhà và mời bà con đến nhà. Lúc đó cha tôi quỳ xuống và nói: «Cha xin được rửa tội». Tôi tươi cười nói với cha tôi: «Cha ơi, bao nhiêu năm qua cha nói con sẽ xuống hỏa ngục. Cha muốn xuống theo với con không?» Tôi nói thêm: «Nếu cha muốn theo đạo, cha phải học giáo lý ba năm». Cha tôi chấp nhận và tôi đã rửa tội cho cha tôi năm 2006. Ngày 29 tháng 10 tôi sẽ về Malawi để mang bình an đến cho gia đình tôi. Cha tôi bây giờ đã lớn tuổi và bị bệnh, cha phải tuyên bố trước mặt tất cả mọi người là cha muốn theo đạo, để tránh tất cả mọi vấn đề khi ông chết. Đó là trách nhiệm của tôi, trách nhiệm của một Kitô hữu là cho cha tôi một mộ phần theo đạo Công giáo.
Một ví dụ khác, hồi mới đầu cha tôi nói với tôi: «Con sẽ xa văn hóa của chúng ta». Bây giờ ngay cả người tộc trưởng cũng cho tôi một ngôi làng và mời tôi làm trưởng làng. Tôi chăm lo cho 62 gia đình. Là Giám mục, tôi còn nhiều trách nhiệm khác, bây giờ chị tôi là trưởng ngôi làng này. Đó là ngôi làng vừa Công giáo lẫn Hồi giáo. Sau Thượng Hội đồng Phi châu năm 2006, tôi đã mời cả người Công giáo và người Hồi giáo. Chúng tôi bắt đầu bằng dâng thánh lễ và sau đó chúng tôi cùng ăn với nhau. Tôi nói với họ: «Anh chị em hãy quên vấn đề của mình, hôm nay là ngày lễ chung vui». Người công giáo nhận Mình Thánh Chúa trước sự hiện diện của người Hồi giáo. Từ đó, ai cũng sốt ruột mong chờ đến ngày này. (Nguyễn Tùng Lâm dịch, Một giám mục Công giáo rửa tội cho người cha theo đạo Hồi giáo của mình, Phanxicovn)
Bí Tích Thanh Tẩy luôn là niềm vui, bình an và hạnh phúc. Tin Mừng Luca hôm nay tường thuật Đức Giêsu chịu Phép Rửa từ tay ông Gioan Tẩy Giả, nêu bật lên tấm gương chói lọi khiêm hạ, cầu nguyện và hiệp nhất của “Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian.”
Khiêm hạ
Trong đời phàm, bản năng con người luôn có xu thế hướng thượng, ước muốn thăng tiến bản thân, mưu tìm vị trí cao hơn thiên hạ để tồn tại và tiến thân, thoả mãn lòng vị kỷ hẹp hòi, tánh kiêu ngạo cố hữu, thói đam mê quyền lực, tật háo danh.
Thế nhưng vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu Ước là ông Gioan Tẩy Giả, lại chân thật lại hạ mình trước muôn dân, đang lũ lượt kéo đến, sám hối, ăn năn, chờ đợi được lãnh nhận Phép Rửa: “"Phần tôi, tôi rửa anh em trong nước, nhưng Đấng cao trọng hơn tôi đang đến, và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người, chính Người sẽ rửa anh em trong Chúa Thánh Thần và trong lửa!" Sự khiêm hạ của Gioan thật đáng cho người Kitô hữu khâm phục và noi theo. Tuy thế, tấm gương tự hạ của Đức Giêsu còn sáng chói hơn thế nữa.
Khi Đức Giêsu cùng hoà mình vào đám đông, đến xin lãnh nhận Phép Rửa, ông Gioan thấy Người, liền từ chối ngay, vì e rằng làm như thế là quá phạm thượng, bất kính. Nhưng Đức Giêsu thuyết phục Gioan chấp hành. Một sự khiêm hạ vô tiền khoáng hậu. Đấng Thánh Chiên Thiên Chúa tự hạ, dìm mình xuống sông Giocđan, để cho thụ tạo là ông Gioan làm nghi thức thanh tẩy. Trong khi, “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế.” ( Pl 2, 6-7 )
Đức Giêsu trong trắng vô ngần, đã tự nguyện hạ mình nhập thể, còn gánh lên vai tất cả tội lỗi nhân loại, trở nên Con Chiên hiến tế hoàn hảo, khấn xin Thiên Chúa Cha thương xót tha thứ.
“Con chỉ hiểu được đức khiêm nhượng, khi suy nghiệm cả cuộc đời Chúa Giêsu, con Thiên Chúa hạ mình, chịu mọi sự ngớ ngẩn, dốt nát, hiểu lầm sâu độc suốt 33 năm, vì yêu chúng ta.” ( Đường Hy Vọng, số 510 )
Cầu nguyện
Để luôn lắng nghe, tâm sự và vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa Cha, Đức Giêsu luôn luôn kết hợp mật thiết với Ngài qua những buổi cầu nguyện liên lỉ.“Lúc Chúa Giêsu cũng đã chịu phép rửa xong, Người đang cầu nguyện, thì trời mở ra..”
Người cầu nguyện sáng tối hằng ngày, trước và sau khi rao giảng, trước khi quyết định tuyển chọn các môn đệ, cũng như trước cuộc thương khó kinh hoàng.
Trước khi chính thức bước vào sứ vụ cao cả, đem Tin Mừng rao giảng đến muôn dân, Đức Giêsu đã vào hoang mạc tĩnh tâm, chay tịnh, cầu nguyện ròng rã suốt 40 ngày đêm. Người cũng luôn mời gọi tín hữu chuyên tâm tỉnh thức và cầu nguyện, hầu xứng đáng lãnh nhận Lòng Thương Xót Chúa. “Hãy tỉnh thức luôn, cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con người." ( Lc 21, 36 )
“Con hãy cầu nguyện luôn luôn bất cứ ở đâu. Chúa Giêsu đã nói: “Hãy cầu nguyện không ngừng..” ( Đường Hy Vọng, số 123 )
Hiệp nhất
Hoà mình vào dòng thác người tỉnh ngộ, ăn năn, sám hối, đến xin ông Gioan Tẩy Giả ban Phép Rửa, Đức Giêsu cùng kề vai, sát cánh, gần gũi, thân thiết đến với những thân phận tội lỗi, mặc dù Người hoàn toàn vô tội. “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta.” ( Ga 1, 14 ) Bởi vì “Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.” ( Lc 19, 10 ), như Người luôn công khai tuyên bố mục đích nhập thể: ”Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.” ( Mc 2, 17 ) Như vậy, Đức Giêsu đã tự nguyện trở nên Con Chiên Hiến Tế, lãnh nhận toàn thể tội lỗi con người, chịu hy sinh đền tội thay cho nhân loại.
Đức Giêsu còn luôn bộc lộ cho mọi người biết Người đến trần gian, để thực thi Thánh Ý Cha, cứu chuộc nhân loại khỏi vòng tội lỗi và sự chết: ”Này con đến để thực thi ý Cha.“ ( Dt 10, 7 ) Như thế qua cầu nguyện, Người luôn kết hợp mật thiết, hiệp nhất cùng Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, luôn làm đẹp lòng Thiên Chúa:“Người đang cầu nguyện, thì trời mở ra và Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Người dưới hình chim bồ câu, và có tiếng từ trời phán: "Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha." Ba Ngôi Thiên Chúa hiệp nhất cùng hiện diện, thật vô cùng kỳ diệu!
Qua mầu nhiệm nhập thể, Đức Giêsu đã kiến tạo nên sự kết hiệp mật thiết, hiệp nhất đất với Trời, Thiên Chúa với nhân loại, con người hài hoà với nhau và con người với mọi loài thụ tạo.“Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một Phép Rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người.” ( Ep 4, 3-6 )
“Tôi tin có Hội Thánh, duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền.” Một niềm tin, một hạnh phúc, một quyết tâm.” ( Đường Hy Vọng, số 250 )
Lạy Chúa Giêsu, qua trình thuật Tin Mừng hôm nay Chúa muốn dạy bảo chúng con biết sống khiêm nhường, cầu nguyện và hiệp nhất với Chúa và tha nhân, để có thể xứng đáng lãnh nhận ơn cứu rỗi, còn được vinh dự làm “con yêu dấu”, nhờ Lòng Thương Xót Chúa vô cùng.
Lạy Mẹ Maria, Nữ Vương Đồng Trinh đã khiêm hạ, chỉ dám tự nhận làm Nữ tỳ Thiên Chúa, luôn vâng phục Thánh Ý Chúa. Mẹ đã được hồng ân hiệp nhất với Con Mẹ trong thân xác lẫn linh hồn. Khấn xin Mẹ chỉ bảo và cầu bầu chúng con biết hạ mình, cầu nguyện noi theo Mẹ và Con Mẹ, để luôn có Chúa ở cùng. Amen.
39. Vì loài người chúng ta
Cha Zundel có một nhận định như sau: "sự khiêm nhường nhất của Thiên Chúa là khi Ngài chấp nhận cho con người dùng ngôn ngữ của mình để nói về Ngài". Bởi lẽ, ngôn ngữ của con người chúng ta không thể làm diễn tả hết sự thật về Thiên Chúa, đôi khi còn làm méo mó khuôn mặt thật của Ngài nữa. Hôm nay, mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa, chắc chắn khi người ta thấy Đức Giêsu đứng sắp hàng cùng với đám tội nhân, thì họ sẽ nghĩ rằng Ngài cũng là một tội nhân. Đây cũng là một sự khiêm nhường của Thiên Chúa. Ngài chấp nhận cho người khác nghĩ sai về Ngài. Nhưng chúng ta thử hỏi: Tại sao Thiên Chúa lại làm như thế? Thưa vì Ngài yêu thương con người và Ngài muốn làm bạn với hết mọi người. Đây chắc hẳn là mầu nhiệm của tình yêu mà chúng ta chưa hiểu thấu hết được.
Có một câu chuyện kể như sau: Có một vị quan lớn mở tiệc mời nhiều người đến dự. Tất cả các người được mời đều ăn mặc sang trọng và dùng xe đi đến. Trong số ấy có một người khách già. Rủi thay, vì già yếu nên ông cụ này khi xuống xe đã trượt chân té vào vũng bùn. Khách đến dự tiệc được mộp phen cười thoả thích. Vị khách già này xấu hổ và cảm thấy mình không xứng đáng vào dự tiệc nữa, ông quyết định quay về nhà của mình. Gia nhân của vị quan nài nỉ cách mấy ông cũng không chịu ở lại dự tiệc. Rồi bất ngờ, vị quan chủ tiệc bước ra sân, đi tới chỗ vũng nước đó, rồi cố tình té ngã vào vũng nước mà ông cụ đã té trước đó. Thế là áo quần của ông quan cũng dơ dáy y như cụ già kia. Mọi người chung quanh chẳng ai dám cười nhạo nữa! Sau đó, vị quan lớn đến cầm lấy tay ông cụ đưa vào phòng tiệc. Ông cụ chẳng còn lý do nào để chối từ. Chỉ có hành động cố tình té ngã của vị quan lớn kia, mới có thể đưa ông cụ vào bàn tiệc.
Hình ảnh và hành động của vị quan lớn trong câu chuyện trên đã minh hoạ cho chúng ta thấy được phần nào về hình ảnh của Chúa Giêsu. Ngài là Đấng cực thánh mà đã tự "té vào" thế gian để dẫn đưa con cháu Ađam bước vào dự tiệc cưới Thiên đàng.
Khi sinh xuống làm người trong hình dáng của một trẻ thơ yếu ớt, nghèo khổ, thiếu thốn mọi bề, Chúa Giêsu đã trở thành trung gian nối kết trời với đất. Ngài đã từ trời cao bước chân xuống đất thấp đến với con người để con người từ đất thấp bước chân lên trời cao. "Đất với trời giao duyên, Thiên Chúa đến ở với con người". Rồi hôm nay, khi sắp hàng trong đám tội nhân, Chúa Giêsu đã cất khỏi mọi rào cản, mọi khoảng cách để con người được tự do đến với Thiên Chúa và được Ngài mở rộng vòng tay ôm lấy tất cả.
Thánh Gioan tông đồ đã định nghĩa: "Thiên Chúa là Tình Yêu", nhưng không ai thấy được tình yêu cả. Người ta chỉ có thể thấy được những bằng chứng của tình yêu mà thôi. Và Chúa Giêsu của chúng ta đã để lại cho chúng ta rất nhiều bằng chứng của tình yêu: Xuống trần vì yêu, sống vì tình yêu, làm mọi việc tốt lành vì tình yêu, chết vì yêu và sống lại cũng vì tình yêu. Làm sao kể hết được những việc Chúa Giêsu đã làm để minh chứng cho tình yêu mà Ngài thực hiện trong suốt cuộc đời dương thế của Ngài. Ngài yêu thương con người bằng chính tình yêu của Thiên Chúa Cha yêu thương Ngài: "Đây là Con Ta rất yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng".
Chúa Giêsu làm đẹp lòng Chúa Cha mọi đàng nhờ biết Ngài biết ý của Cha mình và Ngài luôn chu toàn mọi sự đúng theo ý Chúa Cha dù mình có "tan nát tấm thân" đi chăng nữa. Ngài đã từng nói với các tông đồ rằng: "lương thực nuôi sống Thầy là làm theo ý của Cha Thầy". Và trong lúc cô đơn nhất, đau khổ nhất, Ngài vẫn thân thương với Cha: "Xin đừng theo ý Con, nhưng xin làm theo ý Cha". Đó là tư cách làm Con của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha dù Ngài vẫn là Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha của mình.
Để biết được Thánh ý Chúa Cha trong cuộc đời này, ta phải làm gì? Làm sao biết ta biết được Thánh ý Chúa? Ý Chúa Cha trong cuộc đời chúng ta được thể qua lương tâm ngay lành của chúng ta, qua Lời Chúa trong Kinh Thánh đặc biệt là Giới Luật Yêu thương, qua 10 Giới răn của Chúa cũng như qua những Giáo huấn chính thức của Hội thánh dạy chúng ta. Khi ra sức thực hành những điều ấy, chắc chắn chúng ta sẽ được Chúa Cha nói với chúng ta rằng: "Con là con yêu dấu của Cha".
Hãy trở thành những người con yêu dấu của Cha trên trời. Hãy nhiệt tâm sống niềm tin của mình trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống theo gương của chính Chúa Giêsu để lại cho chúng ta. Hãy để cho "Tình yêu Đức Kitô thúc bách chúng ta" để chúng ta dám ra khỏi con người của mình, sống liên đới trách nhiệm với mọi người hầu ý Chúa Cha được thể hiện trong trần gian này. Khi hoàn tất sứ mạng cao quý này với lòng nhiệt tâm và yêu mến, chúng ta sẽ được theo chân Chúa Giêsu bước vào trời cao hưởng hạnh phúc muôn đời.
40. Con Yêu Dấu--AM Trần Bình An
Anh Sanjay Kumar, một thợ điện 42 tuổi đã gánh cha và mẹ trên vai đi suốt quãng đường 216km, từ Uttar Pradesh đến thủ đô Delhi, Ấn Độ, để giúp hai vị phụ huynh thực hiện ước nguyện, được tắm nước thánh sông Hằng ở Haridwar.
“Rất nhiều bạn trẻ không hiểu được niềm hạnh phúc được phục vụ cha mẹ. Tôi gánh cha mẹ trên vai để thể hiện sự kính trọng và biết ơn vì họ đã cho tôi được sống trên thế giới này. Đối với tôi, họ chính là những vị thần.” Kumar nói. Cha mẹ của Kumar là ông Lala Ram, 95 tuổi và bà vợ, 80 tuổi đã rất cảm động trước hành động của con trai mình.
“Chúng tôi đã cản nó đừng nên làm việc này, nhưng nó không chịu nghe, lại còn quỳ xuống xin phép.” Mẹ anh cho biết. Bất chấp trời mưa to, đường lầy lội, Kumar vẫn gánh cả cha và mẹ cùng lúc trên vai đi một quãng đường khoảng 25-30km mỗi ngày. Họ chỉ dừng lại giữa đường để rửa ráy và ăn uống. Mỗi lần dừng lại, Kumar đều quỳ xuống chân cha mẹ và nhận lời chúc phúc của họ. Câu chuyện này lan đi rất nhanh từ làng này sang làng khác. Hàng ngàn người dân đã đến gặp họ để nhận lời chúc phúc của cha mẹ Kumar. (theo Hindusantimes 3/8/2010)
Bài trích thuật Tin Mừng thánh Luca hôm nay còn giới thiệu một người con hiếu thảo vô cùng hơn nữa. Không ai có thể mường tượng nổi rằng, con một bậc đại vương lại sinh hạ nơi hang bò lừa hôi hám, trong đêm đông giá rét, trong sự ghẻ lạnh của thôn xóm. Không ai có thể tin rằng, người con đó hoàn toàn tự nguyện, rời bỏ chốn cao sang, xuống lám thân phận người nghèo nàn, cùng đinh. Thực tế, Cha Người còn uy danh gấp bội vua chúa thế gian. Thế mà Người đã vâng lời nhập thể, để thi hành sứ mạng cứu nhân độ thế.
Vâng lời nhập thể
Thiên Chúa là Tình Yêu. Ngài đã tác tạo muôn vật, muôn loài, và nhất là dựng nên con người. Nhưng con người sớm vong ân bội nghĩa, phạm tội, chống báng lại Đại Ân Nhân. Nhưng Tình Yêu Chúa không hề suy giảm, đã cho Con Một xuống thế ở giữa loài người, để cứu thoát khỏi ách phạt muôn đời. Người Con vâng phục và khiêm nhường nhập thế trong cảnh cơ hàn. Thái độ này mới có thề xóa nhòa đi tội bất tuân và kiêu ngạo của tổ tông loài người. Nên ngày Chúa Giêsu giáng sinh trở nên ngày hồng phúc cho toàn thể nhân loại.
Con người thì thường trái lại: “Con vua thì được làm vua, con của sãi chùa thì quét lá đa.” Mặc nhiên công nhận cái tôn ti trật tự đó, hầu như đúng đắn và hợp tình hợp lý, dù rất phi nhân bản và bất công. Nhưng Thiên Chúa không chấp nhận thói đời đó. Ngay bản thân mỗi người, cũng khó thoát ra khỏi tháp ngà của cái tôi bền vững và độc đoán. Khó thoát khỏi những đam mê hưởng thụ, để quan tâm, giúp đỡ, an ủi và chia sẻ với tha nhân
Vâng lời gánh tội trần gian
Người Con tinh tuyền, chẳng hề nhuốm tội tình nào, nhưng Người cũng sánh vai với dân chúng tội lỗi, xin ông Gioan Tẩy Giả làm Phép Rửa: “Khi toàn dân chịu phép rửa, Đức Giê su cũng chịu phép rửa.” (Lc 3, 21)
Khi xin ông Gioan làm phép rửa, Người đồng hành cùng dân Người trên đường sám hối. Người khiêm nhường tự hạ, bên cạnh những kẻ gian manh, dâm ô, độc ác. Đồng thời, Người cũng chính thức gánh nhận tội lỗi loài người, để rồi hóa giải bằng chính cuộc Khổ Nạn sau này. Người chính là con chiên hy tế chuộc tội với Chúa Cha.
Con người thì lại chọn thái độ mackeno của quan Philatô: Rửa tay vô trách nhiệm. Dửng dưng, vô cảm với tội ác, với gian manh, với thói xấu và với cả sự đau khổ của đồng loại. Cơn cám dỗ này như chứng bịnh hay lây, đang lan tràn như vũ bão trong xã hội thực dụng, khiến cho lương tâm dần trở nên băng giá với đồng loại. Xa nhau, dần coi nhau như thù địch cần loại bỏ.
Gắn bó mật thiết với Chúa Cha
Người luôn cầu nguyện liên lỷ với Thiên Chúa hằng ngày, tỏ ra mối liên kết gắn bó chặt chẽ với Chúa Cha. Ngay khi đi rao giảng sau này, dù mệt nhọc, dù mải mê chăm lo đoàn dân bơ vơ không người yên ủi, Chúa Giêsu vẫn không hề sao nhãng, dành thì giờ chiều tối, để thiết tha cầu nguyện.
Do vậy, vừa lãnh nhận phép rửa xong, Người liền sốt sáng “cầu nguyện, thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người, dưới hình dáng như chim bồ câu.”(Lc 3, 22) Mặc khải cho toàn dân thấy Người chính là Đấng Messia, chính là Ngôi Hai nhập thể. Đấng mà dân Chúa hằng mong đợi bao lâu.
Con người trái lại thường kiêu ngạo, tự mãn, vô ơn, khg hề nhìn nhận Tất cả đều là hồng ân. Nên không cần cầu nguyện, không cần tạ ơn và ngợi khen Thiên Chúa. Vẫn cậy vào sức mình, cậy vào tài năng và may mắn, con ngưới thường hợm hĩnh hãnh diện về bản thân mình, mà không cần biết ân huệ từ đâu ban cho mình..
Con dấu yêu
Với tấm lòng vâng phục, khiêm nhường và câu nguyện, Chúa Giêsu được nhìn nhận xứng đáng là Người Con dấu yêu. “Lại có tiếng từ trời phán rằng: Con là con yêu dâu của Cha; Cha hài lòng về con.” (Lc 3, 22)
Người con hiếu thảo là luôn biết vâng phục theo ý cha. Chúa Giêsu luôn làm theo Thánh Ý Cha. Như khi mới 12 tuổi, Người ở lại rao giàng trong Đến Thờ. Người đặt mối tương quan với Thiên Chúa, bên trên tương quan huyết thống. Luôn luôn dành ưu tiên cho Chúa.
Người con yêu dấu luôn làm đẹp lòng cha. Chúa Giêsu chấp nhận cuộc sống bần hàn, chấp nhận bị xua đuổi, bị đố kỵ, ganh ghét, thù địch, vì không hề sống theo ý riêng, không theo bản năng con người, vốn ham sống sợ chết, ham hưởng thụ, ăn ngon, mặc đẹp, vinh thân phì gia. Hơn nữa, Người còn chấp nhận cuộc đời sóng gió, kết thúc bằng cái chết khổ nhục, để thực hiện hoàn hảo công cuộc cứu rổi loài người khỏi chết lầm than.
Người con yêu dấu luôn biết phụng dưỡng cha, hầu chuyện, gặp gỡ, thăm hỏi, tâm sự với cha. Bằng những buổi cầu nguyện liên lỷ và sốt sắng, Chúa Giêsu luôn hiện hữu bên cạnh Chúa Cha.
Chúa Cứu Thế đã cách mạng, muôn triệu người hưởng ứng, khẩu hiệu cùa Ngài: “Vâng lời đến chết!” ( Đường Hy Vọng, 395)
Con chỉ hiểu được đức khiêm nhượng, khi suy nghiệm cả cuộc đời Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa hạ mình chịu mọi sự, ngớ ngẩn, dốt nát, hiểu lầm sâu độc, suốt 33 năm vì yêu chúng ta.”(Đường Hy Vọng, 510)
Lạy Chúa Giêsu, Người bắt đầu sứ vụ bằng khiêm tốn nhận phép rửa, xin dạy cho con biết khiêm nhường hối lỗi, để nhận được sự thứ tha của Thiên Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp con biết vâng lời và khiêm nhường như Mẹ, để xứng đáng lãnh nhận ơn Đức Chúa Thánh Thần, hầu con thêm sức mạnh chống trả các cơn cám dỗ, mà trung thành đi theo Chúa mãi. Amen.
41. Chúa Giêsu chịu Phép Rửa--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Tiếp theo lễ Chúa Hiển Linh, Phụng vụ của Giáo Hội mời gọi chúng ta cử hành lễ Đức Giêsu, Chúa chúng ta chịu Phép Rửa, kết thúc mùa Giáng sinh. Lễ Chúa Giêsu chịu Phép Rửa có một tầm quan trọng rất đặc biệt, được các giáo phụ hết sức chú tâm bởi tính cổ thời của nó. Đây là lễ mừng cổ xưa nhất, chỉ sau lễ Phục sinh, vì là nội dung lời rao giảng của các Tông Đồ, làm thành điểm khởi hành của toàn bộ những việc làm và lời nói mà các Tông đồ phải làm chứng cho (x. Tđcv 1, 21-22; 10, 37-41). Thứ đến, đây là lần đầu tiên, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được mạc khải một cách rõ ràng và đầy đủ. Lý do nữa là phép Rửa của Chúa Giêsu nơi sông Giordan loan báo trước cho Phép Rửa bằng Máu của Chúa trên Thập Giá, và là biểu tượng của toàn bộ những hoạt động có tính cách bí tích của Ðấng Cứu Thế, để thực hiện ơn cứu rỗi nhân loại, Ngài đặt mình vào hàng ngũ các tội nhân, mặc dù Ngài là Đấng không bao giờ phạm tội, nhưng Ngài đã mang trên mình tất cả tội lỗi của nhân loại. Hành động khiêm nhường và tự hủy này, đã được Chúa Cha chứng dám: " Ngài là Con chí ái Ta, kẻ Ta đã sủng mộ" (x. Mt 3, 17 - Năm A). Cùng với Đức Giêsu, Chúa Thánh Thần xuất hiện dưới hình chim bồ câu đậu xuống trên Người, để chỉ cho chúng ta tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh mà chúng ta sẽ thấy trường hợp tương tự diễn ra tại biến cố Chúa Biến Hình.
Lời Chúa lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa Năm A
- Is 42, 1-4. 6-7: Này là tôi tớ Ta, Ta hài lòng về người
- Tv 28, 1a và 2. 3ac-4. 3b và 9b-10: Chúa sẽ chúc phúc cho dân Người trong cảnh thái bình
- Cv 10, 34-38: Chúa dùng Thánh Thần mà xức dầu tấn phong cho Người
- Mt 3, 13-17: Khi chịu phép rửa, Chúa Giêsu thấy Thánh Thần Chúa ngự xuống trên mình Người
Lời Chúa lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa Năm B
- Is 55, 1-11: Này đây nước, hãy đến, và các ngươi sẽ sống
- Is 12, 2: Các ngươi sẽ múc nước tận nguồn ơn cứu độ
- 1Ga 5, 1-9: Thánh Thần, nước và máu
- Mc 1, 7-11: Phép rửa của Chúa Giêsu
Lời Chúa lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa Năm C
- Is 40, 1-5; 9-11: Vinh quang Thiên Chúa sẽ bày tỏ ra
- Tv 104, 1: Nước và Thánh Thần làm chứng cho Ngài, vinh danh Chúa
- Tite 2, 11-14; 3, 4-7: Thiên Chúa đã tái sinh chúng ta, nhờ phép rửa
- Luc 3, 15-16; 21-22: Chúa Cha và Chúa Thánh Thần hiển hiện khi Chúa Giêsu chịu phép rửa
"Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu dưới hình chim bồ câu"
Chúng ta coi đây là một phép lạ vĩ đại đã xảy ra sau khi Đấng Cứu Thế chịu Phép Rửa; phép lạ này là một khúc dạo đầu của những gì sẽ xảy ra. Đây không phải là Thiên Đàng khi xưa đóng lại vì tội của Ađam nay mở ra, mà chính trời mở ra: “Chính lúc Chúa Giêsu chịu Phép Rửa xong... thì trời mở ra” (Mt 3:16).
Chúng ta tự hỏi, tại sao trời mở ra sau khi Chúa Kitô đã chịu Phép Rửa xong? Theo thánh Gioan Kim Khẩu, điều này muốn dạy chúng ta rằng, một sự tương tự vô hình cũng xảy ra khi chúng ta chịu Phép Rửa Tội: Thiên Chúa kêu gọi chúng ta hướng về trời, vì quê hương chúng ta là quê trời, và mách bảo chúng ta rằng, chúng ta không có gì ở dưới đất.
Sau khi trời mở ra, thì Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống: điều ấy mạc khải cho Gioan Tẩy Giả và những người Do Thái biết rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Và cũng dạy cho mỗi người chúng ta biết rằng, vào lúc chúng ta chịu Phép Rửa Tội, Chúa Thánh Thần cũng ngự vào tâm hồn của chúng ta. Ngài không ngự đến một cách hữu hình, bởi vì chúng ta không cần: đức tin hiện nay là đủ...
Tại sao Chúa Thánh Thần lại lấy hình một con chim bồ câu mà hiện xuống? Lý do là vì chim bồ câu rất dịu dàng và trong sạch, và Chúa Thánh Thần là thần khí dịu êm và an bình. Chim bồ câu cũng nhắc cho chúng ta nhớ lại một sự kiện chúng ta đọc thấy trong Cựu Ước khi trái đất bị ngập do lũ lụt và toàn thể loài người trong nguy cơ hư mất, chim bồ câu xuất hiện để báo sự chấm dứt của cơn đại hồng thủy, chim bồ câu ngậm một cành ô liu, báo hiệu những tin vui là hòa bình cho toàn thế giới. Bây giờ, tất cả những điều này cũng tiên báo về tương lai. Khi tất cả đã hư mất, nay được giải thoát và đổi, điều gì đã xảy ra khi nước lũ đến ngày hôm nay như là một lũ lụt của ân sủng và lòng thương xót Chúa... Chim bồ câu, thay vì ngậm một cành ô liu báo cho Noe là người duy nhất bước ra khỏi tầu để đặt chân lên mặt đất. Nay Chim bồ câu mang lại cho con người phẩm giá ơn gọi làm con Thiên Chúa, và lôi kéo hết thảy mọi người lên Thiên Đàng.
Như thế, Phép Rửa của Chúa Giêsu và Phép Rửa của chúng ta có liên kết chặt chẽ với nhau. Phụng Vụ của ngày lễ này đã hát lên như sau: "Đức Kitô chịu phép rửa, cả trần gian được thánh hoá, chúng ta được tha thứ tội lỗi, được thanh tẩy nhờ nước và Thánh Thần." (Tiền xướng của Kinh Bênêdictus, của Giờ Kinh Sáng). Nơi sông Giordan, trời đã mở ra (x. Lc 3,21) để chỉ cho ta biết rằng Ðấng Cứu Thế đã mở ra cho chúng ta con đường cứu rỗi và chúng ta có thể đi trên con đường này, nhờ cuộc sinh ra lại "bằng nước và Thánh Thần" (Gn 3,5), một cuộc tái sinh được thực hiện trong Phép Rửa Tội. Trong Phép Rửa, chúng ta được đưa vào trong Nhiệm Thể của Chúa Kitô là Giáo Hội; chúng ta chết và sống lại cùng với Chúa Kitô; chúng ta được mặc lấy Chúa, như thánh Tông Đồ Phaolô đã nhiều lần nhấn mạnh nơi các thư của ngài (x. I Co 12,13; Roma 6,3-5; Gal 3, 27).
Cử hành lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa trong Năm Đức Tin, Công Đồng Vaticanô đã nhắc lại: "Sự thánh thiện là mục tiêu kết thành ơn gọi của tất cả mọi người đã lãnh nhận phép Rửa Tội " [...]. Như thế, chúng ta là những người được sinh từ Phép Rửa Tội, cần phải lắng nghe Chúa Giêsu: nghĩa là Tin vào Chúa và vâng phục theo Chúa qua việc thi hành thánh ý Chúa Giêsu và cũng là thánh ý của Thiên Chúa Cha. Chính như thế mà mỗi người có thể tiến đến sự thánh thiện. Sách GLHTCG dạy: Nhờ Bí tích Rửa tội, người Kitô hữu được đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô... chúng ta cũng phải dấn thân vào mầu nhiệm tự hạ và hoán cải này, bước xuống nước với Đức Giêsu để bước lên với Người (số 537).
42. Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa
"Đức Giêsu cũng chịu phép rửa" (Lc 3,21)
Đức Giêsu chuẩn bị thi hành sứ mạng của mình bằng hai việc quan trọng, thứ nhất là đời sống nội tâm với việc ăn chay và cầu nguyện trong sa mạc suốt 40 ngày đêm, thời gian đủ dài để suy nghĩ, tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa và nền tảng bước vào sứ mạng quan trọng. Thứ hai, Ngài chịu phép rửa sám hối của Gioan như bao nhiêu người dân thường khác.
Biến cố Giáng Sinh, Thiên Chúa đã chấp nhận hoàn toàn sống thân phận con người như chúng ta. Kể từ đây Chúa Giêsu sống như con người chia sẻ và đón nhận kiếp người. Cụ thể là Ngài "cũng chịu phép rửa" như những con ngươi đồng thời với mình chuẩn bị tâm hồn chờ đợi Đấng cứu thế. Nhưng khác biệt ở đây Ngài chính là Đấng cứu thế.
Sự kiện Chúa Giêsu chịu phép rửa là lúc ý định của Chúa Cha muốn giới thiệu Ngài cho nhân loại, Ngài chính là Con Thiên Chúa, là Đấng cứu độ và cũng như Ngài thực sự bắt đầu đời sống công khai rao giảng Tin Mừng cứu độ, Ngài cũng chính là Đấng cứu độ. Ai nghe, tin và sống như Ngài thì được cứu độ.
Dân chúng vẫn còn mơ hồ về Đấng cứu thế, họ lẫn lộn giữa Gioan và Đức Giêsu, lẫn lộn giữa phép rửa của Gioan và Đức Giêsu. Giờ đây Thiên Chúa Cha khẳng định chính thức và công khai giới thiệu cho họ biết Chúa Giêsu mới là Đấng cứu độ. Chỉ nơi Ngài và lãnh nhận phép rửa của Ngài bởi "Thánh Thần và lửa" sẽ mang đến cho chúng ta ơn cứu độ.
Với việc Chúa Giêsu chịu phép rửa và sự giới thiệu của Chúa Cha, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã hành động như bao con người thiện chí, muốn sám hối quay về với Thiên Chúa. Ngài noi gương cho chúng ta trong cuộc sống hằng ngày, sống hoà đồng, chia sẻ, thông cảm và đón nhận giới hạn của nhau. Ngài không phân biệt, khoảng cách hay vạch rõ ranh giới với con ngươi dù Ngài vẫn là Thiên Chúa. Ngài yêu thương và cứu độ chúng ta. Nhìn lên Chúa Giêsu chúng ta hãnh diện vì mình tôn thờ một Đấng đích thực trong đời sống đức tin và hành trình đời người.
Ước gì mỗi ngày chúng ta càng ngày tin mạnh mẽ vào Chúa, luôn tuyên xưng niềm ra bên ngoài cho mọi người xung quanh và làm cho mọi nhận ra rõ ràng rằng Đức Giêsu là Đấng cứu độ, Đấng mang lại bình an và hạnh phúc cho mọi người.
Lạy Chúa, qua bí tích Rửa tội chúng ta được phúc làm con Chúa, xin con luôn biết noi gương Chúa đem ơn cứu độ, bình an và hạnh phúc cho mọi người bằng cách sống giống như Chúa.
43. Con cái Chúa.
Như chúng ta đã biết: Geoge Wasinhton là vị tướng tài ba và là vị tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ. Thế nhưng, rất ít người biết ông còn là một tấm gương sống động về lòng hiếu thảo đối với người mẹ của mình.
Sau những trận chiến cam go nhất, cũng như giữa những công việc bề bộn và nặng nề nhất của một vị nguyên thủ quốc gia, ông vẫn dành thời giờ về thăm hỏi và trò chuyện lâu giờ với người mẹ già. Một hôm mẹ đã hỏi ông như sau: Tại sao con dành nhiều thời giờ thăm nom mẹ như vậy? Ông liền trả lời: Thưa mẹ, ngồi bên mẹ để lắng nghe mẹ nói thực không phải là việc mất giờ. Chính sự bình thản và lòng tốt của mẹ dạy con muốn tiếp tục sống.
Đoạn Tin Mừng hôm nay, cho chúng ta thấy mối liên hệ giữa Đức Kitô với Chúa Cha, cũng như giữa chúng ta với Thiên Chúa. Trước hết là mối liên hệ giữa Đức Kitô và Chúa Cha.
Như chúng ta đã biết Đức Kitô chính là người con duy nhất của Chúa Cha. Vì vâng phục Ngài đã xuống thế làm người để cứu độ chúng ta. Ở mọi nơi và trong mọi lúc, nỗi ưu tư số một của Ngài là chu toàn thánh ý Chúa Cha, đến nỗi thánh Phaolô đã phải viết: Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá.
Chính vì thái độ vâng phục vô điều kiện này, mà hôm nay bên bờ sông Giođan, cũng như mấy năm sau trên đỉnh Taborê, chính Chúa Cha đã tuyên phong Ngài: Này là con Ta yêu dấu. Ta hài lòng về con. Hãy vâng lời Ngài.
Còn mối liên hệ giữa chúng ta và Thiên Chúa thì sao? Như chúng ta đã biết nhờ công nghiệp tử nạn của Đức Kitô qua dòng nước của bí tích Rửa Tội, chúng ta được tẩy xoá khỏi mọi dấu vết tội lỗi, lấy lại được địa vị làm con cái Thiên Chúa. Thế nhưng để xứng đáng làm con cái Ngài, thì chúng ta cần phải vâng phục, cần phải chu toàn thánh ý Ngài trong lòng cuộc đời chúng ta.
Thực vậy, một người con ngoan sẽ không phải là một người con vùng vằng cãi trả mỗi khi cha mẹ sai bảo điều gì. Trái lại phải là một người con mau mắn vui vẻ tuân giữ những điều cha mẹ chỉ dạy. Đối với Thiên Chúa cũng vậy. Để xứng đáng làm con cái Chúa, chúng ta cũng phải vui vẻ và mau mắn thực thi thánh ý Ngài. Thánh ý ấy được biểu lộ qua tiếng nói lương tâm, qua mười điều răn Ngài truyền cho Maisen trên núi Sinai, qua những điều Ngài truyền dạy trong Kinh Thánh, nhất là qua giới luật yêu thương của Phúc Âm. Cũng như qua những điều Giáo Hội, thay quyền Chúa mà chỉ dạy cho chúng ta.
Thế nhưng, nếu như lúc này Ngài nhìn mỗi người chúng ta, liệu Ngài có thể nói lên như xưa Ngài đã nói với Đức Giêsu bên bờ sông Giođan: Này là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng hay không?
44. Chúa chịu phép rửa.
Khi suy niệm về biến cố Chúa Giêsu chịu phép Rửa, tôi thấy có một cái gì gần gũi với ý nghĩa của hình ảnh "hoa sen nở trên bùn lầy".
Thực vậy, Đức Kitô là Đấng thánh thiện tuyệt vời, nơi Ngài không hề vương vấn bất cứ vết nhơ nào của tội lỗi, vậy mà Ngài đã làm một chuyện thật lạ lùng và khó hiểu, đó là xin Gioan làm phép rửa cho mình tại sông Giođan.
Bấy giờ Gioan đang kêu gọi người ta chịu phép rửa để tỏ lòng sám hối ăn năn. Chuyện đó thật bình thường và dễ hiểu đối với con người, bởi vì con người ai mà chẳng có tội. Nhưng Đức Kitô thì có tội lỗi gì mà phải sám hối ăn năn và do đó, Ngài chẳng có lý do để mà chịu phép Rửa.
Thánh Phêrô trong bức thư thứ nhất, có nói một câu thật chí lý: Tội lỗi của chúng ta Ngài đã mang lấy vào thân, hầu đưa lên cây thập giá. Đức Kitô đã không chỉ tha tội và xoá tội cho nhân loại như người ta tha cho một tù nhân, hay như người ta xoá bỏ một món nợ, nhưng Ngài đã gánh vác, đã nhận lấy cho mình mọi hậu quả của tội lỗi.
Sen mọc trên bùn, đã không tránh né cái nhơ bẩn của bùn, trái lại đã thu hút chính cái bùn nhơ đó vào thân mà biến đổi nó thành hoa thơm. Đức Kitô cũng đã mang lấy, cũng đã gánh lấy tội lỗi của loài người, đem nó vào thân thể Ngài, để biến đổi, để gạn lọc, và làm cho nó trở thành hương thơm, trở thành vẻ đẹp. Ngài đã biến đổi trong chính bản thân Ngài tất cả tội lỗi của trần gian, làm cho nó trở thành thánh đức. Đó là ý nghĩa của việc Ngài chịu phép Rửa, bởi vì Ngài đã không chỉ tha tội mà còn thánh hoá nhân loại, không chỉ xoá bỏ tội lỗi con người mà còn làm cho con người tội lỗi trở nên thánh thiện và công chính.
Hay nói khác đi, Con Thiên Chúa làm người không phải chỉ để chuộc tội, tha tội hay đền tội thay cho loài người mà còn mang lấy kiếp người tội lỗi, để biến đổi chúng ta trở thành con Thiên Chúa. Khi Đức Kitô chịu để cho Gioan rửa mình trong nước sông Giođan chính là lúc, hơn bao giờ hết, Ngài ý thức mình đang ngụp lặn, đang chìm sâu dưới dòng nước tội lỗi của nhân loại chồng chất từ thời Adong Eva. Ngài chấp nhận cho tội lỗi ngập đầu ngập cổ mình để rồi biến đổi chính dòng nước tội lỗi ấy thành một dòng sông của tình thương, một nguồn suối của ơn sủng. Ngài quả là một bông sen mọc lên từ chính chỗ bùn lầy, vươn lên từ chính nước ao tù, biến đổi bùn lầy và ao tù ấy trở thành hương sắc.
Nhập thể đối với Đức Kitô không phải chỉ là việc đội lốt người, một cuộc dạo chơi trong xã hội, mà thực sự là một việc hộp nhập, hơn thế nữa, phải nói là một sự dính dấp hoàn toàn đối với thân phận và định mệnh con người, kể cả thân phận tội lỗi và số kiếp tử vong.
Đức Kitô là Đấng thánh thiện, nhưng đã tự ý chấp nhận thân phận tội lỗi của con người với tất cả những hệ luỵ của nó. Bởi đó chấp nhận dìm mình dưới dòng nước Giođan, chính là chấp nhận cái chết. Vì thế, chúng ta mới hiểu được tại sao Đức Kitô lại nói về cái chết của Ngài như một phép rửa. Và hành động chịu phép rửa hôm nay có tính cách quyết định cho cả sứ vụ của Ngài. Đây là một lời tiên tri loan báo ý định dấn thân tới cùng sẽ dẫn đưa Ngài tới cái chết thập giá, thế nhưng cũng chính nhờ đó mà Ngài đã được Chúa Cha tuyên phong: Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.
45. Phép Rửa và Ơn Cứu Chuộc
Ơn cứu chuộc đã được Thiên Chúa hứa ban cho loài người và được các Tiên tri nhắc lại nhiều lần trong thời Cựu ước, đặc biệt là Tiên tri Isaia trong Bài đọc I: Khi Đấng Cứu Thế đến, Người sẽ xét xử các dân cách công bình và đặt công lý trên địa cầu. Muôn dân trông đợi lề luật Người; Người đối xử nhân từ với nhân lọai, mở mắt người mù, giải phóng nhân loại khỏi ách nô lệ của tội lỗi và sự chết.
Lời hứa đó đã được ứng nghiệm rõ ràng nơi Chúa Giêsu. Ngài đã đến trong trần gian. Và việc Ngài chịu phép rửa tại sông Giođan hôm nay tiên báo trước cái chết của Ngài trên thánh giá: Ngài sẽ dùng máu mình mà rửa sạch tội lỗi thế nhân.
Chính đức Giêsu, Con Chiên Vô Tỳ Tích đã đến dòng sông Giođan cùng với những tội nhân. Ngài tự đồng hóa mình với tội nhân và gánh lấy mọi tội lỗi nhân loại đã xúc phạm đến Thiên Chúa quyền uy vô cùng. Ngài là một con người, với tư cách một người đại diện cho nhân loại, đồng thời Ngài cũng là Thiên Chúa đã dâng mình làm của lễ lên Thiên Chúa Cha mà chuộc lại lỗi lầm của nhân loại. Vì thương chúng ta, Ngài đã không quản việc hóa thân làm người, bỏ đi khoảng cách vốn có giữa vị Thiên Chúa là Tạo Hóa với loài thụ tạo thấp hèn là nhân loại tội lỗi. Ngài làm người để đồng cảm với những nỗi khổ của con người, chia sẻ thân phận mỏng dòn của con người, ngay cả cái chết Ngài cũng không từ nan.
Trong bài Phúc âm hôm nay, chúng ta thấy rõ: Ý định cứu chuộc lỗi lầm cho con người của Chúa Giêsu được Chúa Cha ưng nhận. Khi để Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho mình, Chúa Giêsu đã khẳng định vai trò gánh tội thay cho nhân loại và Chúa Cha lúc đó đã phán lời ưu ái với một con người: Đây là Con Yêu Dấu của Ta, Con đẹp lòng Cha. Chúa Giêsu là một con người như chúng ta nhưng luôn làm theo ý Chúa Cha và được Chúa Cha ưu ái đặc biệt. Đến lượt chúng ta, những kẻ tin theo Chúa Giêsu rồi cũng sẽ được Chúa Cha gọi tên vào Nước Trời với lời thân ái: hỡi con yêu dấu của ta, các con đã nghe lời Con Chí Ái của Ta, hãy vào hưởng phúc Thiên Đàng đời đời với Chúng Ta.
Vấn đề là loài người có nhận ra tình thương của Chúa Giêsu hôm nay hay chưa, có nhận biết sự cao trọng và cần thiết của Ơn Cứu Chuộc hay chưa? Ơn Cứu Chuộc cần thiết đến độ Ngôi Hai Thiên Chúa thấy cần phải rời bỏ trời cao đến ở với loài người, trở nên bé nhỏ như loài người để giải thóat con người khỏi sự chết đời đời. Thiên Chúa yêu thương chúng ta, Ngài thấy rõ điều gì cần thiết và ích lợi cho chúng ta nhất. Còn loài người chúng ta có khi lại đáp trả lại tấm lòng ưu ái đó bằng sự thờ ơ, từ chối, phủ nhận sự hiện diện của Ngài bằng nhiều hình thức khác nhau! Nhiều người kitô hữu chỉ giữ đạo hình thức, vì luật buộc thôi, chưa tương xứng gì với tình thương hy sinh của Ngôi Hai cứu chuộc! Ngày hôm nay, trong việc đầu tư buôn bán, người ta hay tính toán so đo sao cho: làm ít, lời nhiều. Trong việc giữ đạo, chúng ta không nên so đo tính tóan với Chúa. Chúng ta giữ đạo, đọc kinh, đi lễ không thể chỉ vì cái lợi vật chất, mong ăn nên làm ra, mau giàu có hoặc để khỏi bệnh hoạn yếu đau nhưng phải nhắm mục tiêu xa hơn, chính đáng hơn là phần rỗi linh hồn và hạnh phúc đời đời. Những mục tiêu như sức khỏe, học hành, làm ăn khá tuy cũng cần nhưng chỉ là thứ yếu so với hạnh phúc đời đời. Vì vậy, tuy chúng ta có thể cầu xin cho mình tất cả những thứ đó, nhưng lời cuối cùng khi cầu nguyện là: con sẵn sàng đánh đổi tất cả để được hạnh phúc đời đời bên Chúa. Vì Chúa Giêsu cũng đã sẵn sàng đánh đổi mạng sống mình trên thập giá cho hạnh phúc của chúng ta. Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, thì chúng ta cũng phải đáp trả lại tương xứng với tình yêu ấy.
Xin Chúa cho chúng con biết nhận ra tầm quan trọng của hạnh phúc đời đời để mọi hoạt động, mọi ước mơ trong cuộc đời này đều nhắm tới gia tài đời sau là hạnh phúc Thiên đàng, nơi Chúa hiển trị.
46. Cuộc gặp gỡ sâu xa với Đức Giêsu Kitô--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
Sự ăn năn sám hối thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng là âm vang của truyền thống Do Thái. Chúng ta trích dẫn đoạn văn tuyệt tác Ezêkiel sẽ đọc trong phụng vụ Phục Sinh (thật vậy, việc Chúa chịu phép Rửa tiên báo mầu nhiệm Vượt Qua): “Trên các ngươi Ta sẽ rảy nước trong sạch và các ngươi sẽ được trong sạch… Ta sẽ ban cho các ngươi một tâm hồn mới, một tinh thần mới”. Sự thanh tẩy bằng nước là một chủ đề dễ hiểu, nhưng dẫu sao nguồn mạch phải trong sạch để cung cấp một thứ nước trong sạch. Nguồn thanh tẩy thiêng liêng là Thiên Chúa. Mà tác động của Người không chỉ ít hay nhiều nhắm vào bề ngoài con người. Sự thanh tẩy không chỉ là một sự dội nước đơn giản, nó thấm sâu tâm hồn và thần trí như lửa vào sâu trong vật bị nung đốt để loại bỏ tất cả những gì là cặn bã dơ bẩn. Phép Rửa của thánh Gioan khuyên giục dân chúng cải thiện nếp sống, chuẩn bị tâm hồn để gặp gỡ Chúa Giêsu. Phép Rửa của Đức Giêsu thấm sâu nội tâm, cho chúng ta một tâm hồn đổi mới nhờ ơn Chúa Thánh Linh. Chúng ta có được hai kết luật:
1) Nhờ dấu chỉ nào để trong thế giới ngày nay, nhận biết ai là tiền hô đích thật? Người ta nói rất nhiều về thế giới đang đột biến, đang chuyển mình, từ mọi phía nổi lên những tiếng nói tiên đoán về ngày mai của Giáo Hội. Trên bình diện đức tin, người ta không lầm khi tự hỏi: những “tiên tri” ấy có hướng dẫn đến với Đức Giêsu Kitô không? Tiếng nói của Gioan Tiền Hô hướng dẫn thính gỉa đến với Đức Giêsu. Những “tiên tri” ngày nay hô hào thay đổi thái độ, thay đổi điều kiện sinh hoạt, thay đổi cơ cấu xã hội, v.v… nhưng không hướng dẫn người ta đến với Đức Kitô, nghĩa là không hô hào thay đổi tâm hồn nhờ tác động Chúa Thánh Linh. Xét về bình diện Giáo Hội, tiếng nói của họ chẳng có giá trị loan báo Tin Mừng. Những tiền hô đích thật thì hướng dẫn đến cuộc gặp gỡ thật sự và thân thiết với Đức Kitô.
2) Con là Con chí ái của Ta, được Ta hết lòng sủng mộ. Chúng ta đồng quan điểm với thánh Luca rằng: Tiếng phán của Thiên Chúa trên con người của Đức Giêsu là một biến cố. Trong bối cảnh chung là sự thanh tẩy dân chúng và bối cảnh riêng là lời cầu nguyện của Đức Giêsu, thánh chép sử đặt lời phán của Thiên Chúa như một đoạn kết thúc. Đây là một biến cố có hai diện. Trước hết là một sự tiên báo rõ ràng về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Tiếng phán từ trời cao vọng xuống chính là tiếng nói của Đức Chúa Cha chỉ định Đức Giêsu là Con và Chúa Thánh Linh ngự xuống người ấy mà sau này đức tin sẽ nhận ra là Người –Chúa. Kế tiếp, biến cố cho thấy Đức Giêsu được hưởng trọn vẹn niềm sủng ái của Thiên Chúa. Điều này có nghĩa chúng ta làm đẹp lòng Thiên Chúa nhiều hay ít tuỳ theo mức độ hiệp thông nhiều hay ít với Người –Chúa là Đấng duy nhất được Thiên Chúa hết lòng sủng ái.
47. Ơn gọi người Kitô hữu--McCarthy
Suy Niệm 1. ƠN GỌI CỦA NGƯỜI KITÔ HỮU
Hiện nay, Giáo Hội rất bận tâm với những ơn gọi. Nhưng ở đây, ơn gọi được hiểu theo một cách rất giới hạn. Một cách cơ bản, chúng ta đang nói về ơn gọi trở thành linh mục. Đây là một ơn gọi quan trọng, nhưng không phải là ơn gọi quan trọng nhất trong Giáo Hội.
Ơn gọi đầu tiên và quan trọng nhất, phổ biến đối với tất cả những người đã được rửa tội, đó là ơn gọi trở thành người Kitô hữu, hoặc ơn gọi làm người môn đệ của Đức Giêsu. Đây là ơn gọi cốt lõi. Tất cả những ơn gọi khác trong Giáo Hội đều phải được coi như liên hệ với ơn gọi của Đức Giêsu “Hãy đến, hãy đi theo Ta”. Nói cách khác, chúng ta tiếp nhận ơn gọi trở nên người môn đệ của Đức Giêsu.
Tuy nhiên, điều đáng buồn là có nhiều người được rửa tội đã sống không khác biệt gì, so với người không được rửa tội. Nếu họ thực hành lòng tin của họ, thì đó lại thường là một lòng tin không trưởng thành, dựa trên cách thực hành thường lệ, không dứt khoát. Điều cần thiết là tin tưởng với sự hiểu biết; và đi theo Đức Kitô bằng lòng tin của cá nhân mình.
Lần kia, Đức Hồng Y Newman đã hỏi cộng đoàn của ngài “Việc trở thành một người Kitô hữu tạo ra sự khác biệt gì trong lối sống hằng ngày của chúng ta?”. Câu kết luận là “Tôi e rằng hầu hết chúng ta cứ tiếp tục làm những gì chúng ta đã làm, nếu chúng ta cho rằng đạo Công giáo không hơn gì một câu chuyện ngụ ngôn”.
Ơn gọi làm người Kitô hữu bao gồm cái gì? Theo những lời trong Tin Mừng, thì ơn gọi làm người Kitô hữu là một tiếng gọi trở nên “muối đất, ánh sáng thế gian”. Đạo Công giáo nói về lối sống như thế nào, chứ không chỉ nói về lòng tin vào điều gì. Không nên có sự phân biệt giữa sinh hoạt tôn giáo và những hoạt động thường ngày. Lòng tin phải được chuyển thành hành động. “Đừng ngại loan báo điều mà bạn tin tưởng, trừ phi bạn hành động một cách phù hợp” (Catherine de Hueck Doberty).
Với tư cách là người Kitô hữu, chúng ta đóng một vai trò rất tích cực trong thế giới. Chúng ta có những thứ để hiến tặng, những thứ mà thế gian cần đến một cách tuyệt vọng, mặc dù không nên e ngại hoặc biện hộ về vai trò của chúng ta. Điều này cần đến một lòng can đảm và sự gan dạ nào đó.
Việc đi theo Đức Kitô nghĩa là gì đối với người bình thường? Điều này có nghĩa là trở nên một người Kitô hữu ngay tại nơi bạn sinh sống, và ngay trong nghề nghiệp mà bạn chọn lựa. Có nhiều cách thức để phục vụ Đức Kitô và Tin Mừng của Người. Lời mời gọi trong trường hợp đầu tiên không phải dành cho vai trò làm Tông đồ, mà là vai trò làm người môn đệ của Chúa.
Chắc hẳn là nếu không bao giờ nghe được tiếng gọi của Đức Giêsu, thì chúng ta sẽ có một cuộc sống dễ dãi hơn. Nhưng liệu chúng ta có được một cuộc sống hạnh phúc hơn và liệu chúng ta có được sống nhiều hơn thế nữa chăng? Đức Giêsu nói “Thầy đến để anh em được sống và sống dồi dào”. Tin Mừng đưa ra cho chúng ta một lối sống chính đáng hơn và sâu xa hơn cho cuộc sống của chúng ta. Và Tin Mừng gieo vào trong tâm hồn chúng ta những hạt giống của sự sống đời đời.
Ơn gọi là người Kitô hữu tạo ra viễn tượng về một cuộc sống cao cả hơn và trong sạch hơn trước mặt chúng ta. Đồng thời, ơn gọi này còn thông truyền cho chúng ta sự hy sinh và phục vụ người khác. Ơn gọi này mở rộng những khả năng yêu thương và can đảm của con người. Đó không phải là công việc chỉ dành cho cá nhân người Kitô hữu, mà còn dành cho toàn thể cộng đoàn Kitô hữu nữa. Khi lãnh nhận phép Rửa tội, chúng ta được đón nhận vào một cộng đoàn những kẻ tin.
Ngày lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa nhắc nhở chúng ta về ngày chúng ta được lãnh nhận phép Rửa tội. Mỗi khi vào nhà thờ, và lấy nước thánh làm dấu, là chúng ta đang tự nhắc nhở mình về phép Rửa tội của chúng ta, và tự cam kết sống trọn vẹn với ơn gọi của phép Rửa tội ấy.
Suy Niệm 2. NGƯỜI KITÔ HỮU TRONG CƠN THỬ THÁCH
Trong một số quốc gia, là một người Công giáo tức là mắc một trọng tội. Ông bà Moran bị kết án là người Công giáo. Thay vì từ chối trách nhiệm, cả hai ông bà đều thừa nhận điều này một cách cởi mở, và họ chuẩn bị đương đầu với những hậu quả. Họ bị đưa ra toà, để bị xét xử trước một bồi thẩm đoàn. Vốn đã bỏ đạo, nên tất cả những người trong họ hàng của hai ông bà đều mong muốn cứu thoát họ khỏi bị tù tội hoặc tệ hơn thế nữa. Vì thế, họ thuê một luật sư, để biện hộ cho hai ông bà khỏi phải chịu trách nhiệm. Lời bào chữa của ông ta ngắn gọn như sau.
“Hai thân chủ của tôi bị cáo buộc là người Công giáo. Mục đích của tôi là muốn chứng tỏ rằng trên thực tế, hai ông bà không phải là như vậy, mặc dù họ có thể cứ khăng khăng tự nhận một cách can đảm rằng mình là người Công giáo. Các sự kiện đều đi ngược lại hai người. Và tôi cần phải nói rằng, trường hợp này sẽ cần phải xét xử dựa trên các sự kiện.
“Tôi xin nói rằng: Hai ông bà Moran đều có lối sống tốt đẹp, chăm chỉ làm việc. Tôi biết chắc chắn rằng cả hai người chưa bao giờ bị lôi cuốn vào bất cứ việc làm nào phi pháp. Họ là những người đáng kính, theo bất cứ tiêu chuẩn nào.
Người ta có thể thán phục nhiều điểm trong cuộc sống của họ. Họ là những con người chân thành. Và người ta có thể thán phục sự trung thành của họ, về việc tuân giữ các lễ nghi bên ngoài trong tôn giáo của họ, như tham dự Thánh Lễ và các phép Bí tích. Trên thực tế, tôi cho rằng họ là những người Công giáo chỉ trên danh nghĩa. Họ tham dự Thánh Lễ vào sáng Chúa Nhật, và là những người rất sốt sắng về mặt này. Nhưng điều này vẫn chưa đủ.
“Ông Giêsu đã nói trong Tin Mừng, và tôi xin trích dẫn “Cứ xem họ sinh quả thế nào, thì biết họ là ai (Mt 7,6). Rõ ràng từ bối cảnh này, ông Giêsu ý muốn nói “hoa quả” là “những hành động tốt đẹp”. Tôi e rằng trong trường hợp của ông bà Moran, hoa quả không đơn giản là điều đó.
“Tôi không tìm được chứng cứ nào trong cuộc sống của họ, hoặc trong thái độ của họ, rằng họ sống theo những lời rao giảng của ông Giêsu một cách nghiêm túc. Chẳng hạn, liệu có bất cứ người nào có thể nghiêm khắc buộc tội hai thân chủ của tôi về bất cứ mối quan tâm đặc biệt nào đối với người nghèo khổ, đau yếu, kém may mắn hoặc bị khinh miệt chăng? Tôi cho rằng không hề có một chút chứng cứ nào xác nhận cho một lời buộc tội như vậy. Họ đã không hề làm điều gì hơn bất cứ một người nào trong chúng ta. Trên thực tế, họ lại còn làm ít hơn, so với một số người nào không bao giờ mơ tưởng đến việc tự nhận mình là người Công giáo.
“Tuy nhiên, đây đúng là mẫu người, mà chính ông Giêsu đã thực hiện theo cách thức của ông ta, để giúp đỡ mọi người, khi ông ta còn tại thế. Và ông ta còn tuyên bố dứt khoát rằng những kẻ đi theo ông ta sẽ bị xét xử, không phải vì số lần họ cầu nguyện, hoặc những hành động thờ phượng mà họ tham dự, nhưng là do cách họ đáp ứng những nhu cầu của những người như vậy.
“Các môn đệ đầu tiên của ông Giêsu đều là những Tông đồ nồng nhiệt, mà ông ta sai đi để biến đổi thế giới. Họ sẽ không thừa nhận rằng hai ông bà Moran thuộc về cùng nhóm của họ đâu”.
(Đến đây, ông Moran nhảy dựng và la lên: “Nhưng chúng tôi đều là người Công giáo”).
“Thưa ông Moran, tôi chưa nói xong. Tôi xin đưa ra để quý toà xem xét rằng hai thân chủ của tôi không phải là người Công giáo theo ý nghĩa thực sự –theo ý nghĩa dành cho những người mà đối với họ, người hàng xóm của họ phải được thương mến như chính bản thân họ vậy. Tất cả lỗi mà họ phạm phải, đó là họ đã tự lừa dối mình, và đó không phải là một tội nặng. Do đó, tôi yêu cầu bãi bỏ lời cáo buộc chống lại hai thân chủ của tôi, bởi vì thiếu chứng cứ rõ rệt”.
Sau đó, thẩm phán tuyên bố “Bồi thẩm đoàn sẽ rút lui, để xem xét lời phán quyết”.
Ngày lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa nhắc nhở chúng ta về ngày chúng ta được lãnh nhận phép Rửa tội. Khi lãnh nhận phép Rửa tội, chúng ta được đón nhận lời mời gọi trở nên những môn đệ của Đức Giêsu. Do đó, câu hỏi mà chúng ta đều có thể hỏi là: Nếu trở thành người Công giáo là một trọng tội, thì liệu đã có đủ chứng cứ trong cuộc sống của tôi, để đảm bảo cho một niềm tin chưa?
48. Chúa Giêsu chịu phép rửa--‘Tin Mừng Chúa Nhật’
Trong lòng của Hội Thánh, từ xưa tới nay, các tín hữu vẫn cố gắng đi tìm câu trả lời cho vấn đề “Tại sao Chúa Giêsu lại đến với Gioan để chịu phép rửa?” Lễ rửa của Gioan là để người ta ăn năn sám hối, và chúng ta tin rằng Chúa Giêsu là Đấng vô tội. Vậy tại sao Ngài tự động đến xin chịu lễ rửa này. Trong Hội Thánh đầu tiên, có người gợi ý đầy tình cảm rằng Ngài làm thế nào để đẹp lòng Mẹ Ngài, là người đã năn nỉ xin khuyên Ngài. Nhưng chúng ta cần một câu trả lời đúng đắn hơn.
Trong cuộc đời mỗi người, có những giai đoạn như trục chốt cho cả đời sống xoay quanh. Trong đời sống Chúa Giêsu cũng vậy, thỉnh thoảng chúng ta phải ngừng lại để cố gắng nhìn xem cả cuộc đời Ngài khi còn tại thế. Trục chốt thứ nhất là cuộc thăm viếng Đền Thờ lúc Ngài mười hai tuổi, khi Ngài khám phá mối liên hệ độc nhất của Ngài với Thiên Chúa. Đến lúc Gioan xuất hiện thì Ngài đã ba mươi tuổi. Như vậy, mười tám năm trôi qua, suốt thời gian đó, hẳn Chúa Giêsu đã suy nghĩ và nhận thức ngày càng rõ rệt về sự đặc biệt duy nhất của chính mình Ngài. Nhưng lúc đó Ngài vẫn còn là một người thợ mộc vô danh ở làng Nadarét. Hẳn Ngài biết có ngày Ngài phải rời bỏ Nadarét và ra đi cho một công tác lớn hơn, Hẳn Ngài vẫn trong chờ một dấu chỉ báo hiệu cho ngày đó xuất hiện.
Bấy giờ Gioan xuất hiện, dân chúng kéo đến nghe ông giảng và chịu phép rửa. Trong cả xứ nổi lên một cuộc phục hưng chưa từng có, một phong trào quay về với Thiên Chúa. Khi thấy điều đó, Chúa Giêsu biết giờ của Ngài đã điểm. Không phải Ngài cảm biết tội lỗi và ăn năn, Ngài biết rằng hiện giờ Ngài phải đồng hoá mình với phong trào quay về với Thiên Chúa này. Đổi với Chúa Giêsu, sự xuất hiện của Gioan là một tiếng kêu gọi của Thiên Chúa và hành động, và hành động thứ nhất của Ngài là đồng hoá mình với dân chúng trong cuộc tìm kiếm Thiên Chúa. Nhưng trong lễ rửa của Chúa Giêsu có một sự kiện xảy ra. Trước khi Ngài có thể quyết định về bước quan trọng này, Ngài phải biết chắc mình làm việc phải lẽ; và trong lúc Ngài chịu phép rửa, Thiên Chúa đã phán với Ngài. Xin đừng lầm sự việc xảy ra tại lễ rửa là một kinh nghiệm riêng tư cho Chúa Giêsu. Tiếng nói của Thiên Chúa đã đến với Ngài và tiếng đó xác định rằng Ngài đã có một quyết định đúng. Nhưng hơn thế nữa, chính tiếng đó chỉ cho Ngài thấy tất cả con đường của Ngài. Thiên Chúa đã phán với Chúa Giêsu: “Đây là Con yêu dấu của Ta.” Câu này gồm hai phần “Con là Con yêu quý của Cha” là câu trích từ Thánh vịnh 2,17 được coi là lời diễn tả về Đấng Cứu Thế hứa ban. Còn câu “Ta hài lòng về con” là một phần của Isaia 42,1, diễn tả người Đầy tớ Đau khổ của Chúa Gia-vê có hình ảnh trọn vẹn trong Isaia 53. Cho nên trong lễ rửa của Chúa Giêsu có rất nhiều ý nghĩa: có ý nghĩa về Nước Trời đã đến vì lúc đó là lúc Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng Nước Trời. Cũng có nghĩa là lúc Đức Giêsu được xức dầu tấn phong bằng Thánh Thần để thi hành một sứ mạng trọng đại. Cũng có nghĩa là Ngài đồng hoá với loài người tội lỗi, dầu “vốn không biết tội lỗi nhưng trở nên tội lỗi vì cớ chúng ta” và hạ mình nhận lấy phép rửa của Gioan.
Tiếng từ trời “Con là con yêu quý của Cha, Cha hài lòng về con “là tiếng nói của ân phúc. Đó là tiếng nói thừa nhận. Còn ân phúc nào lớn hơn là được Thiên Chúa thừa nhận. Aben dâng lễ tế được Thiên Chúa thừa nhận, đó là ân phúc đối với Aben. Ngược lại, sự từ khước tế lễ của Cain là một lời nguyền rủa. Còn ân phúc nào lớn hơn là khi được Thánh Thần đáp đậu và nhận lấy quyền phép từ trên cao.
Chúa Giêsu đã đến với ông Gioan để lãnh nhận phép rửa, nhưng chính ông Gioan đã khẳng định ông chỉ làm phép rửa bằng nước, còn Chúa Giêsu mới là Đấng làm phép rửa bằng Thánh Thần. Chúa Giêsu đã khai mở bí tích Thánh Tẩy cho những kẻ theo Ngài bằng việc đích thân Ngài xin lãnh phép rửa từ Gioan. Chúa Giêsu muốn chúng ta có sự tiếp nối giữa Giao ước cũ và Giao ước mới, tiếp nối giữa lời rao giảng của vị ngôn sứ cuối cùng –cao đẹp hơn tất cả các vị trước– với lời rao giảng của chính Ngài để thiết lập Nước Thiên Chúa. Tuy nhiên, lễ rửa này Ngài đã biến đổi để có thể thực sự khai mào cho bí tích Thánh Tẩy.
Như thánh Luca kể lại cho chúng ta. Ngài kéo dài nghi thức bằng lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện này mang lại hiệu quả là trời mở ra. Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa trời mở ra như sau này trời cũng mở ra mỗi khi bí tích Thánh Tẩy được cử hành, vì bí tích Thánh Tẩy không những chứng tỏ việc được tẩy sạch tội lỗi mà còn cho thấy ơn phúc dư đầy trời tuôn đổ xuống cho. Hơn thế nữa, qua việc cầu nguyện, Chúa Thánh Thần đến với Chúa Giêsu. Chính Thánh Linh này cũng hướng dẫn Chúa Giêsu trong tất cả các hoạt động của Ngài, trong tất cả các công việc giáo huấn và chữa lành bệnh tật… tượng trưng cho ơn cứu độ từ nay được ban cho nhân loại hầu giải thoát khỏi mọi nỗi khổ đau. Việc đến của Chúa Thánh Thần tiên báo ơn Chúa Thánh Thần sẽ được ban xuống cho mỗi thụ nhân để nâng lên hàng nghĩa tử của Thiên Chúa.
Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu trong hình dạng chim bồ câu. Hình ảnh này thật có ý nghĩa khi chúng ta nhớ lại trong Cựu Ước, trong đại nạn Hồng Thuỷ, chim câu được thả ra đã trở về mỏ ngậm lá ô-liu xanh tươi báo hiệu nạn lút đã chấm dứt (St 8,11). Đến trong hình dạng chim bồ câu là đến mang lại bảo đảm sự hoà giải giữa Thiên Chúa và loài người. Đến như vậy là dấu chỉ lòng nhân từ của ơn cứu độ Thiên Chúa ban.
Trong bí tích Thánh Tẩy, lòng nhân từ ấy được thực hiện, Chúa Thánh Thần ngự xuống trong thụ nhân, bằng tác động tế nhị của tình yêu, chiếm hữu toàn diện con người hầu thúc đẩy sự phát triển toàn diện. Chúa Thánh Thần trọng dụng tất cả mọi khát vọng và khuynh hướng chính đáng của mỗi người và với mục đích duy nhất là thúc đẩy mọi điều lành điều tốt hầu đưa đến toàn vẹn. Chúa Thánh Thần đã đánh tan mọi lo âu sợ hãi đè bẹp hoặc khép kín tâm hồn không cho phát triển. Hình ảnh của chim câu đặc biệt được lựa chọn để tránh bỏ mọi phản ứng lo âu sợ sệt này.
Điều kết thúc sự hoàn thành trong lễ rửa của Chúa Giêsu là tiếng phán từ Cha: “Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về con” lời tuyên bố thần tính này mang lại quan trọng chủ yếu cho Chúa Giêsu, mặc khải cho loài người chúng ta về thân vị Chúa Giêsu, mặc khải ấy đòi hỏi chúng ta phải đặt niềm tin nơi Ngài.
Theo như Phúc Âm kể lại thì lời công bố này chỉ liên quan đến Chúa Giêsu. Tuy nhiên lời công bố ấy vẫn được coi như nguồn gốc của ơn nghĩa tử do bí tích Thánh Tẩy đem lại cho mọi tín hữu. Đức Kitô chỉ được mạc khải là con của Chúa Cha với ý hướng thông ban ơn nghĩa tử ấy cho tất cả mọi người đã liên kết với Ngài bởi niềm tin. Bí tích Thánh Tẩy đặc biệt thực hiện ý định này. Những lời “Con là con yêu dấu của Cha” luôn được vang lên khi có phép Rửa tội, dầu huyền âm này có được nghe không. Do phép rửa của mình Đức Giêsu biết rằng mình đã ban cho mọi tín hữu ơn làm con yêu quý của Cha trên trời.
Đối với Chúa Giêsu, và đối với chúng ta ngày nay, phép rửa là một kinh nghiệm về ân phúc, mà ân phúc liên hệ đến trách nhiệm. Sau khi nhận ân phúc từ Thiên Chúa, Chúa Giêsu tiếp tục con đường vâng phúc để làm đẹp lòng Thiên Chúa. Chúa phải liên tục tranh chiến với cám dỗ đi ngược lại ý muốn của Thiên Chúa. Đám đông muốn tôn Chúa làm vua, ngài cự tuyệt. Các môn đệ can ngăn Chúa đi đường thập tự, Ngài khiển trách. Với trách nhiệm được giao cho, Chúa can đảm uống chén đau thương mặc dầu không tránh khỏi trận chiến nội tâm giữa sự vâng phục và khước từ. Nhận lấy ân phúc từ trời là lúc Ngài cam kết vâng phục Thiên Chúa, và thật sự, Ngài đã vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập giá.
Là môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta phải xem Ngài như một mẫu mực. Phép Rửa chúng ta nhận lãnh là dấu hiệu cho thấy qua Chúa Giêsu, chúng ta được Thiên Chúa thừa nhận. Đó là ơn phúc, nhưng không phải để chúng ta an nhiên ngồi hưởng nhưng đi kèm với trách nhiệm. Nói cách khác, phép Thánh Tẩy hay phép Rửa cũng là sự cam kết vâng phục ý muốn của Thiên Chúa và nhận lấy trách nhiệm Ngài trao. Bạn hãy tự vấn lương tâm xem phép Rửa đã ảnh hưởng đến đời sống bạn như thế nào trong hiện tại.
49. Chúa Giêsu chịu phép rửa – R. Veritas--‘Sống Tin Mừng’
Một hiện tượng đáng lo ngại cho Giáo Hội tại Áo bên Âu Châu, đó là sự kiện con số những người tuyên bố rút tên ra khỏi Giáo Hội Công Giáo ngày càng gia tăng. Dĩ nhiên về nghĩa vụ, rút tên ra khỏi Giáo Hội có nghĩa là mỗi năm không còn phải đóng thuế tôn giáo nữa. Về quyền lợi, người tuyên bố rút tên ra khỏi Giáo Hội cũng sẽ tự rút phép thông công, nghĩa là chấm dứt mọi tham gia vào các Bí tích và đời sống của Giáo Hội. Nói cách khác, rút tên ra khỏi Giáo Hội cũng đồng nghĩa với chối bỏ mọi cam kết khi chịu phép rửa tội.
Nhìn chung, thế giới Tây phương vốn được mệnh danh là Kitô giáo, hiện nay đã trở thành một vùng truyền giáo mới. Thật thế, trong những nước có con số người theo Kitô giáo, phép rửa thường chỉ còn là một nghi thức xã hội không hơn không kém. Người ta chỉ có lý khi nói rằng, suốt một đời nhiều người Tây phương chỉ đến nhà thờ có ba lần, lần đầu khi chịu phép rửa để gia nhập vào một xã hội vốn được mệnh danh là Kitô giáo. Lần thứ hai để cử hành hôn phối cho long trọng. Lần thứ ba cũng là để cử hành tang lễ cho long trọng.
Khi Giáo Hội chỉ được mời để có mặt ba lần như thế trong cả một đời người, thì quả thật người ta chỉ mang danh hiệu Kitô nhưng không sống trọn những cam kết của phép rửa. Hôm nay kỷ niệm Chúa Giêsu chịu phép rửa, Giáo Hội muốn mời gọi các Kitô hữu hãy đào sâu và ý thức về những cam kết khi chịu phép rửa tội. Trái với lối sống đạo cả đời đến nhà thờ chỉ có ba lần của người Tây phương, các tín hữu Kitô Việt Nam chúng ta lại tập trung đời sống đạo vào nhà thờ. Trái với những nhà thờ hầu như trống rỗng tại Tây phương, các nhà thờ Việt Nam chúng ta hầu như lúc nào cũng đông nghẹt người. Tuy nhiên, biết đâu những đêm đông chật ních trong các nhà thờ ấy lại không là những con người có lối sống hoàn toàn xa lạ, hay ngược lại với giáo huấn của Giáo Hội và Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Biết đâu đám đông sốt sắng cầu kinh ra rả trong nhà thờ ấy lại chẳng là những con người không hề biết đến thế nào là công bình, là bác ái, là tình liên đới, là quảng đại, sợ chia sẻ lòng cảm thông và sợ tha thứ. Nói tắt một lời, nếu chúng ta chưa sống cho ra người thì sự hiện diện đông đảo trong nhà thờ, những lời cầu kinh ra rả, hay những cuộc biểu dương long trọng chưa hẳn đã là thể hiện đích thực của lòng tin.
Khi đến nhận phép rửa của Gioan tại sông Giođan, nghĩa là khi đến dìm mình trong dòng nước, Chúa Giêsu đã muốn thể hiện trọn vẹn ý nghĩa của mầu nhiệm Nhập Thể, Ngài muốn sống trọn thân phận con người mà thành phần tất yếu là cái chết. Qua cử chỉ này, Chúa Giêsu muốn nói lên sự vâng phục trọn vẹn với Chúa Cha, Ngài đón nhận cái chết như thể hiện tận cùng của tình yêu.
Sống như một con người như Chúa Giêsu đã từng sống, chính là sống yêu thương và yêu thương đến độ sẵng sàng thí ban mạng sống mình. Đức Chúa Cha đã gọi Đức Chúa Giêsu là Người Con chí ái đẹp lòng Ngài mọi đàng, bởi vì Chúa Giêsu đã sống trọn ơn gọi làm người của Ngài. Đây chính là ý nghĩa của phép rửa mà Chúa Giêsu đã thiết lập và ủy thác cho Giáo Hội qua phép rửa ấy. Người Kitô hữu được mời gọi để sống trọn thân phận làm người như chính Chúa Giêsu đã từng sống. Thật thế, chỉ trong Chúa Giêsu, chúng ta mới thấy được thập giá và ơn gọi cao cả của con người. Chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta mới thấy được thế nào là sống cho ra người. Chỉ trong Chúa Giêsu chúng ta mới hiểu thế nào là sống yêu thương.
Anh chị em thân mến,
Thập giá vừa là biểu hiện cái chết của Chúa Giêsu, vừa là dấu chứng tình yêu của Ngài. Với phép rửa chúng ta được ghi dấu Thánh Giá trên người, chúng ta làm dấu Thánh Giá mỗi ngày và biết bao nhiêu lần trong cuộc sống chúng ta. Chúng ta treo Thánh Giá khắp mọi nơi, chúng ta đeo Thánh Giá trên người, và ước gì Thánh Giá ấy không chỉ là thứ trang sức trên ngực, trên cổ hay trên tai của chúng ta, mà phải là một nhắc nhở về tình yêu của Đấng đã yêu thương chúng ta đến độ thí ban mạng sống của Ngài cho chúng ta. Ước gì Thánh Giá luôn là động lực thúc đẩy chúng ta ngày càng sống cho ra người hơn.
Nguyện xin các Thánh Tử Đạo Việt Nam, những người đã thà chết hơn là bước qua Thánh Giá để chối bỏ Chúa Giêsu, nay nguyện giúp cho chúng ta để chúng ta được luôn luôn trung thành với đức tin, thể hiện đức tin ấy bằng cuộc sống chúng ta, đó là giá trị của Tin Mừng.
50. Biết mình để hạ mình
Đến ngày lễ "Chúa Giêsu chịu phép rửa" có rất nhiều thắc mắc được đặt ra. Thắc mắc vì tư tưởng của họ không thể chấp nhận được: Tai sao Chúa Giêsu lại phải chịu phép rửa của Gioan? Chúa là Đấng vô tội là con chiên tinh tuyền, thì lẽ gì cần phải sám hối, cần phải ăn năn. Có rất nhiều ý kiến khác nhau nói về điều này, nhưng hầu như không làm thõa đáng, hoặc chỉ làm hài lòng ở một khía cạnh nào đó thôi. Ở đây không nhằm tìm kiếm xem thế nào? Và vì sao? Nhưng điều quan trọng là chúng ta nhận ra tình yêu Thiên Chúa qua việc Ngài chấp nhận chịu phép rửa và sứ điệp Ngài muốn gởi đến. Qua bài Tin Mừng chúng ta dễ dàng nhận ra hai hành động cho chúng ta noi theo. Hai hành động không "chỏi" nhau mà lại bổ túc cho nhau cách hoàn hảo; một là biết mình nơi Gioan, hai là hành động hạ mình nơi Đức Giêsu.
1. Biết mình
Khi Đức Giêsu bắt đầu rao giảng thì Gioan đã là người rất nổi tiếng, dân chúng lũ lượt kéo đến với Ngài, họ coi ông như Đấng Messia, Nhưng ông "biết mình" nên đã từ chối và nói: "Không phải ta đâu mà là Đấng khác", Ông hướng họ tới Đức Kitô. Ta thử suy nghĩ xem, nếu ngài không biết mình chấp nhận mình thì ngài đã xưng mình là Đấng Messia, vì đây là cơ hội và là dịp thuận tiện để lấy lòng tin nơi dân chúng. Nhưng không ! Bổn phận của ngài là đưa tha nhân về với Chúa. Vì giữa Đấng Messia và ngài có một cách biệt qúa lớn "như người đầy tớ không đáng cởi giày cho Chủ". Hơn nữa, ông còn cho biết: "Phép rửa của ông trong nước, sẽ có Đấng quyền năng hơn tôi, Người sẽ rửa các ông trong thánh Thần và lửa". Phép rửa của Gioan chỉ là bên ngoài, như nước chảy trên thân xác, còn phép rửa của Chúa Giêsu bên trong như lửa thiêu hủy tất cả. Nhờ có Thánh Thần mà sức nóng của Ngài ăn sâu tận đáy lòng và biến đổi tất cả. Gioan nhờ "biết mình" mà ông tự biết "lu mờ" đế Đức Giêsu "Sáng lên". Chính khi biết mình thì ông lại thấy mình nhỏ bé để lại càng sống phó thác hơn. Cũng chính vì biết mình để nhận ra mình yếu đuối chỉ là không trước mặt Chúa thì ông mới biết quên mình để nhiệt tình rao giảng phúc âm. Cũng chính vì "biết mình" mà ông đã trở thành những ngộn sứ vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại, và cũng là mẫu gương cho các ngôn sứ ngày nay. Nếu chúng ta biết mình thì sẽ dễ dàng nhận ra mình nhỏ bé để mà chấp nhận người khác. Hơn nữa, chúng ta sẽ dễ dàng chấp nhận thánh ý Chúa, và để Thiên Chúa lớn lên trong ta mỗi ngày trên con đường phục vụ.
2. Hạ mình
Hầu như rất nhiếu người thắc mắc: Tại sao Đức Giêsu là Chúa mà lại chịu phép rửa của Gioan. Điều này chỉ có thể giài thích được khi biết lý luận dưa trên tình yêu. Chúng ta không thể hạ mình xuống với một người nhỏ hơn, vì chúng ta chưa đủ yêu họ, vì khi yêu thật thì phải "hy sinh cho người mình yêu". Hơn nữa Chúa là Chúa cả trời đất, có nơi nào được coi là xứng đáng, có hành động nào được gọi là công bằng, có hành động là phải được. Vì chúng ta chỉ là những thụ tạo, những "con nợ" có gì mà so sánh với tình yêu Chúa được. Nhưng không như ta nghĩ, Đức Giêsu đã hạ mình xuống như người tội lỗi, và yêu thương họ. Vì thế mà Thánh Phaolô đã thốt lên: "Thiên Chúa giống ta mọi đàng chỉ trừ tội lỗi".
Qua hành động của Đức Giêsu khom người xuống để chịu phép rửa của Gioan, là hành động hạ mình xuống thấp như những người tội lỗi khác. Tuy Ngài vô tội nhưng Ngài đã hòa mình như những người có tội. Ngài không đứng trên họ như người phán xét, mà chấp nhận liên đới để kéo họ lên. Chỉ khi nào mình là người trong cuộc mới hiểu thấu được nỗi thống khổ hoàn cảnh người đó chịu. Chính sự hạ mình đó đã làm cho cả nhân loại thấy được tình yêu cao siêu và vô biên Thiên Chúa đã dành cho con người. Đức Giêsu cũng có thể hoàn toàn đứng hiên ngang như người vô tội, hoặc dùng lời nói hay một quyền phép để cứu ca nhân loại. Nhưng Ngài không làm thế, vì cách đó chỉ như một ân huệ dư thừa ban phát, như một trò chơi chủ tớ. Điều đó hoàn toàn không thể hiện tình yêu mà chỉ khi hành động tự hạ như một người tội lỗi và tột đỉnh là cái chết mới thể hiện được tình yêu vô biên của Ngài dành cho nhân loại, đó mới chính là tình yêu được thể hiện cách sống động và cụ thể. Vì thế, cảm nghiệm được tình yêu Chúa đòi hỏi ta phải biết sống khiêm hạ. Vì mỗi lần khiêm hạ là một lần hy sinh. Mà hy sinh là chấp nhận đau đớn. Vì cuộc thanh tẩy nào cũng có mất mát và đổ máu.
Lạy Chúa xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa để con biết khiêm tôn, biết phó thác, biết chấp nhận hy sinh và cho đi chính con người của mình. Amen.
51. Ơn gọi cao trọng làm con cái Chúa – R. Veritas--‘Suy Niệm Lời Chúa’
Châu Á là vùng thường hay có bão lụt. Các trận bão lụt lớn trong các năm qua tại Philippines và Trung Quốc khiến cho hàng chục ngàn người phải thiệt mạng. Hình ảnh các cuộc tàn phá do nước lụt gây ra khiến cho người ta dễ đồng hóa nước với chết chóc và quên rằng nước cũng là nguyên lý của cuộc sống mới, của sự thanh tẩy và tái sinh, bởi vì nước là nguyên lý của sự sống. Sự thật này được Giáo Hội nhắc nhở chúng ta qua các bài đọc lễ hôm nay.
Phép rửa Chúa Giêsu lãnh nhận trong tình liên đới trọn vẹn với loài người chúng ta là hình ảnh bí tích Rửa Tội trao ban cho chúng ta cuộc sống mới, cuộc sống làm con cái Thiên Chúa. Isaia chương 40 loan báo Thiên Chúa giải phóng dân Israel khỏi cảnh sống lưu đày bên Babylon, sau khi thành Giêrusalem bị vua Babylon đánh chiếm và tàn phá thành bình địa năm 587 trước Tây lịch. Dân Israel bị đày sang Babylon, 50 năm sau đó, vua Cyrus cho họ trở về quê cha đất tổ tái lập quốc gia, xây lại thành thánh và đền thờ. Tin vui của cuộc xuất hành thứ hai trong lịch sử Israel ấy được tiên tri Isaia loan báo qua một vài hình ảnh biểu tượng và kiểu cách đặc thù của ông. Sự kiện Thiên Chúa để ý xót thương dân Ngài được diễn tả qua kiểu nói: Hãy nói với con tim của Thành Giêrusalem". Trong ngôn ngữ của Kinh Thánh "nói với con tim" là kiểu nói diễn tả tình yêu thương và mối liên hệ hôn nhân. Thiên Chúa đối xử với dân Israel dân Ngài như một vị hôn phu âu yếm, to nhỏ với hôn thê của mình. Nếu trong cuộc xuất hành đầu tiên Thiên Chúa đã nghe thấy tiếng than khóc của dân Ngài, thì giờ đây, trong cuộc giải phóng thứ hai này, Ngài nghiêng mình xuống trên dân Israel với tất cả lòng dịu hiền, thương mến. "Nói với con tim của Giêrusalem", như thế có nghĩa là Thiên Chúa Tạo Hóa, giờ đây lại mở rộng bàn tay nhân từ ôm ấp lấy Israel với tất cả lòng thương mến.
Hình ảnh thứ hai, tiên tri Isaia dùng diễn tả tin vui giải phóng khỏi kiếp sống lưu đày là hình ảnh sa mạc. Trong cuộc xuất hành thứ nhất, sa mạc Sinai là nơi Thiên Chúa giáo dục, thanh tẩy và chuẩn bị dân Israel bước vào vùng đất Hứa. Giờ đây sa mạc Syria và sa mạc Giuđa, nóng bỏng ban ngày, giá buốt ban đêm cũng không cản ngăn được đôi bàn tay và con tim thương yêu, trìu mến của Giavê Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ biến chúng trở thành các con đường bằng phẳng, rộng rãi thênh thang, tươi vui chào đón người bị đày trở về quê cũ.
Ngoài các hình ảnh kể trên, tiên tri Isaia II còn dùng thứ ngôn ngữ quân sự và ngôn ngữ du mục diễn tả tình yêu thương bao bọc của Thiên Chúa đối với dân Ngài. Thiên Chúa đến với sức mạnh, các chiến lợi phẩm đi trước Ngài và cánh tay vững mạnh của Ngài nắm giữ quyền thống trị. Thiên Chúa của Israel, không phải chỉ với đôi tay tượng trưng cho sự bênh đỡ và che chở, mà cả với con tim biểu tượng cho tình yêu thương hiền dịu và cả với đôi cánh tay tượng ttrưng cho sức mạnh và quyền uy của Ngài nữa. Và Thiên Chúa dẫn dắt dân Ngài như một mục tử chăn dắt đoàn chiên, luôn yêu thương chăm sóc và hiện diện bênh đỡ, không khi nào rời.
Cuộc xuất hành thứ ba trong lịch sử cứu độ được Chúa Giêsu Kitô hiện thực qua bí tích Rửa Tội, là bí tích trao ban ơn giải phóng và cuộc sống ấy cho người tín hữu. Qua phép rửa của Chúa Giêsu (Luca 3), nêu bật một vài biểu hiện thần học quan trọng.
Trước khi dầm mình trong nước để lãnh nhận phép rửa từ tay thánh Gioan Tẩy Giả, Chúa Giêsu đã trà trộn giữa đám đông dân chúng giống y như mọi người khác, khiêm tốn và chia sẻ với mọi người nhu cầu sám hối và thanh tẩy. Con đường của Chúa Giêsu đi cũng là con đường của tất cả mọi người. Đây là nét đặc thù diễn tả sâu đậm các hệ lụy của biến cố nhập thể, Chúa Giêsu trở thành người và sống như mọi người, giữa mọi người.
Lời thánh Gioan Tẩy Giả xác định bản chất của bí tích Rửa Tội mà Chúa Giêsu trao ban cho con người gồm hết mọi lễ nghi thanh tẩy của Cựu Ước, bởi vì Chúa Giêsu sẽ thanh tẩy con người với Chúa Thánh Thần và với lửa. Bí tích Rửa tội mà Chúa Giêsu hiện thực là lửa đốt cháy sự dữ. Nó như lửa luyện lọc và như thuốc giặt thanh tẩy tâm lòng con người như lời tiên tri đã báo trước trong chương 3. Nó như nước tẩy mọi vết nhơ trong tâm hồn con người, trao ban phong phú và sự sống. Và điểm đặc thù nổi bật nhất trong bí tích Rửa Tội Kitô Giáo, là sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, nguyên lý trao ban sự sống thiêng linh của Thiên Chúa cho con người.
Điểm thần học thứ ba là thái độ cầu nguyện của Chúa Giêsu trong khi lãnh nhận phép rửa thanh tẩy. Phúc Âm thánh Luca cho thấy Chúa Giêsu là con người cầu nguyện. Ngài cầu nguyện liên lỉ không những trước mọi biến cố quan trọng trong cuộc đời, mà trong mọi lúc cho đến chết. Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ cầu nguyện và dạy các ông nhiều điều liên quan tới lời cầu nguyện, là cách thế Chúa Giêsu sống mối dây liên hệ yêu thương hiệp thông với Thiên Chúa Cha và với Chúa Thánh Thần.
Và sau cùng là biến cố Chúa Giêsu được thánh hiến trong sứ mệnh cứu độ ấy. Nó được diễn tả bằng lược đồ giải thích thị kiến, thường được các soạn giả Kinh Thánh dùng đến để trình bày một chủ ý thần học hay một kinh nghiệm thiêng liêng nội tâm. Thị kiến như tường thuật trong Phúc Âm là một lời giải thích biến cố Chúa Giêsu lãnh phép rửa thanh tẩy. Biến cố này minh chứng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Ngài là hiện thân toàn vẹn của Thiên Chúa. Chính trong khi Chúa Giêsu cầu nguyện, nghĩa là đối thoại thân tình với Thiên Chúa Cha mà Ngài nhận được tràn đầy Chúa Thánh Thần, Đấng đã hoạt động trong sứ mệnh cứu độ. Sau này, khi các tông đồ tiếp tục sứ mệnh ấy của Chúa Giêsu, các ông cũng sẽ được tràn đầy Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là ơn đầu tiên mà Chúa Giêsu Phục sinh trao ban cho các môn đệ và cho mọi tín hữu sau này qua bí tích Rửa tội.
Trong thư gởi cho Titô, chương 2,11-14 và chương 3,4-7, thánh Phaolô nhắc lại cho chúng ta biết ơn tái sinh mà Chúa Giêsu Kitô đã trao ban cho chúng ta. Ơn thánh Chúa ban giúp chúng ta tái sinh, nghĩa là có được cuộc sống mới và giúp chúng ta tiếp tục canh tân cuộc sống mỗi ngày. Thánh Phaolô khuyên chúng ta biết sống trọn vẹn ơn gọi Kitô bằng cách từ bỏ gian tà, từ bỏ các đam mê xác thịt thế gian, nghĩa là từ bỏ tất cả những gì khiến cho chúng ta xa Chúa và đánh mất đi cuộc sống mới mà Chúa Kitô đã trao ban cho chúng ta qua bí tích Rửa Tội. Muốn được như thế, cần phải sống thanh đạm và công chính giữa thế giới này và nhất là không bao giờ được quên rằng: Đích điểm cuộc đời chúng ta là được sống bên Chúa Giêsu Kitô và tham dự vào cuộc sống thiêng linh vĩnh cửu rạng ngời với Ngài.
Lời khuyên trên đây của thánh Phaolô rất là tích cực đối với xã hội chúng ta đang sống hiên nay, là một xã hội bị lôi cuốn vào cơn lốc hưởng thụ và tiêu thụ, một xã hội không còn nghĩ đến công lý nữa và không còn biết chừng mực là gì nữa. Tóm lại, phép rửa của Chúa Giêsu nhắc nhở cho chúng ta ý thức được ơn gọi cao trọng làm con cái Chúa của mình, ơn gọi mà chúng ta đã lãnh nhận ngày chịu phép Rửa tội. Ơn gọi đó đồng thời cũng bao gồm sứ mệnh làm chứng cho Chúa giữa lòng thế giới này. Và chúng ta chỉ có thể hiện thực được nó khi biết cố gắng sống theo mẫu gương của Chúa Giêsu mà thôi.
52. Đấng gánh tội trần gian--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Thánh Gioan, vị ngôn sứ cao cả bậc nhất thời cựu ước, đã từng giới thiệu cho các môn đệ của mình biết Chúa Giêsu là "Đấng mạnh thế hơn Gioan", Đấng mà Gioan "không đáng cởi quai dép cho Người" (Mt 3, 16), "là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian, là Đấng đến sau tôi nhưng trổi hơn tôi vì Người có trước tôi." (Ga 1,29-30)
Thánh Gioan còn giới thiệu Chúa Giêsu là Đấng sẽ cử hành một phép rửa vượt xa phép rửa của Gioan: "Phần tôi, tôi rửa anh em trong nước. Còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Chúa Thánh Thần" (Mc 1, 7)
Thế mà Chúa Giêsu lại đến với thánh Gioan như một người tội lỗi, hòa mình với đám đông những người thu thuế, những người đàng điếm, những tên côn đồ đạo tặc và với bao nhiêu người tội lỗi khác, chăm chú nghe Gioan rao giảng và để chờ đến phiên, bước xuống dòng sông Gio-đan, nhờ thánh Gioan làm phép rửa cho mình.
Tại sao Chúa Giêsu lại hạ mình đến thế? Hành động nầy xem ra không xứng hợp với một Đấng thánh được Thiên Chúa sai đến, không xứng hợp với địa vị cao trọng mà ngay cả thánh Gioan cũng thú nhận là mình không xứng đáng cởi quai dép cho Người, không xứng hợp với Đấng sẽ làm phép rửa cho muôn dân trong Chúa Thánh Thần.
Chúa Giêsu hoàn toàn vô tội thì cần gì phải xin Gioan làm phép rửa cho mình? Vì như thế là không chân thực.
Phải hiểu thế nào về hành động hạ mình quá đáng nầy của Chúa Giêsu?
Chắc chắn Chúa Giêsu đến chịu phép rửa không phải vì những tội lỗi do Người gây ra -vì Người vốn vô tội - nhưng vì tội lỗi của nhân loại mà Người đã mang vào thân. Cũng thế, Chúa Giêsu chịu khổ hình thập giá không phải vì tội của Người mà vì tội lỗi của thế gian mà Người đã gánh lấy.
Thánh Gioan đã từng giới thiệu Chúa Giêsu là con "Chiên Thiên Chúa" (Gioan 1, 29) được sai đến trần gian để làm chiên đền tội. Người Do-Thái làm lễ xá tội bằng cách đặt tay lên đầu con bò hay dê, trút hết tội mình cho nó, rồi sát tế nó, để nó chết thay cho người tội lỗi. (Lê-vi 8, 14-15)
Thế nhưng "máu của các con bò, con dê không thể trừ khử được tội lỗi" (Do-thái 10, 4) nên Chúa Giêsu đã hiến mình làm Chiên mới, Con Chiên của Thiên Chúa, đến mang lấy tội lỗi nhân loại vào thân. Chính vì thế mà Người trở thành tội nhân, như lời thánh Phao-lô dạy: "Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người." (2 Cr 5, 21)
Chính vì mang lấy tội lỗi nhân loại vào thân, trở thành "hiện thân của tội lỗi" (2 Cr 5, 21), nên Chúa Giêsu hòa mình với những tội nhân khác, xin Gioan làm phép rửa cho mình và cùng với bao tội nhân khác tỏ lòng ăn năn sám hối.
Chính vì mang lấy tội lỗi nhân loại vào thân, trở thành "hiện thân của tội lỗi" nên Chúa Giêsu đã bị kết án chết thảm thương trên thập giá để cứu chuộc loài người tội lỗi, như lời thánh Phê-rô: "Tội lỗi của chúng ta, Người mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành." (1 Pr 2, 21-24)
Hình ảnh Chúa Giêsu vô cùng tốt lành thánh thiện mà lại chen chúc với các tội nhân bên bờ sông Gio-đan và khiêm tốn bước xuống dòng nước lãnh nhận phép rửa của Gioan là một lời mời gọi mỗi người chúng ta phải xóa bỏ cái tôi kiêu căng tự phụ của mình để biết thành tâm sám hối những tội lỗi mình đã phạm.
Chúa Giêsu đã mang lấy tội lỗi chúng ta, chịu thanh tẩy và chịu chết vì chúng ta. Vậy chúng ta hãy thông phần vào công cuộc cứu độ của Chúa và hợp tác với Chúa trong việc cứu chữa các tội nhân.
53. Suy niệm của R. Gutzwiller.
ĐỨC MESSIA ĐẾN
Dân chúng coi Gioan như Đấng Messia. Nhưng vị tiền hô cũng không phải là Vua; nên Ngài nói: ‘không phải ta đâu, mà là Đấng khác’. Vị tiền hô hướng họ tới Đức Kitô. Đó không phải là người ích kỷ, vì người ích kỷ thì vẫn muốn chiếm đoạt tha nhân, nhưng đây là người của Chúa, một người bất vụ lợi đưa đường tha nhân về với Thiên Chúa. Phải, giữa Đấng Messia và Ngài có một sự cách biệt quá lớn lao như người đầy tớ nghĩ mình không đáng cởi giây giày cho chủ mình.
Cả hai phép rửa cũng khác nhau như vậy. ‘Tôi, tôi rửa anh em trong nước, sẽ có Đấng quyền năng hơn tôi: Ngài sẽ rửa các ông trong Thánh Thần và trong lửa’. Phép rửa của Gioan chỉ là bên ngoài, như nước chảy trên thân xác, còn phép rửa của Chúa Giêsu, bên trong, như lửa thiêu huỷ tất cả, như Thánh Thần mà sức nóng của Ngài ăn sâu vào tận đáy lòng và biến đổi tất cả.
CON THIÊN CHÚA (3, 21-22)
Những gì xảy ra ở bờ sông Giođan khi Thánh Thần hiện ra và Lời Chúa Cha phán mang hai ý nghĩa:
Trước hết đối với chính Chúa Giêsu đây thêm môt kinh nghiệm lớn cho Ngài cũng như nơi đền thờ lúc Ngài mười hai tuổi. Trời mở ra, đó đâu phải là chỉ là chi tiết bên ngoài, mà trước hết là một hiện tượng tôn giáo thâm sâu. Ánh sáng chan hoà từ bản tính Thiên Chúa tràn lan trong bản tính nhân loại của Chúa Giêsu. Tiếng nói của Chúa Cha đến với Ngài và Thánh Thần trở nên hữu hình qua một biểu tượng; có thể nói là Chúa Giêsu đứng ở giữa.
Như vậy, cả Ba Ngôi Thiên Chúa đã được nhắc đến danh xưng ở đây: Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần. Điều mà Chúa Cha gọi rõ ràng là ‘Con yêu dấu của Cha’ thì Chúa Thánh Thần đã để hiện ra tỏ tường bằng cách riêng của Ngài. Chúa Giêsu là một trong Ba Ngôi; Ngài biết, Ngài cảm thấy nơi mình con người được lôi cuốn vào luồng lửa của đời sống Ba Ngôi. Ngài thấy hoàn toàn khác với người thường. Ngài là Con độc nhất, ở trong tình yêu duy nhất và đặc biệt Chúa Cha trong sự phong phú vô song và lạ lùng của Chúa Thánh Thần.
Vì thế, chẳng ngạc nhiên gì khi thấy Người Con độc nhất này ưu thắng như vậy, khi thấy Vị phi thường kéo được tất cả về với mình trong tình trạng xuất thần như vậy, khi thấy Ngài được đưa vào sự dồi dào của tinh thần này như ngoài mình, là sa mạc có lẽ người ta sẽ nói Con Thiên Chúa không thể giữ như vậy lâu hơn giưã nhân loại. Chính Ngài, chỉ mình Ngài, được bao quanh bởi cả một đám đông.
Nhưng Đấng Thiên Chúa, cũng hiện diện ở bờ sông Giođan cho họ. Đó là lý do họ nghe tiếng nói. Tất cả phải biết là Ngài đã được cưu mang và đón nhận bởi Cha trên trời: như vậy tất cả những cái Người Con sẽ nói phải được coi như là Lời của Thiên Chúa Cha, tất cả những cái Ngài làm sẽ đầy Thánh Thần Chúa và được Thánh Thần kích động.
Còn Thần khí biểu lộ dưới hình bồ câu bay xà xà: Thần khí phong phú tràn lan trên nước Khởi nguyên và trên Đức Maria cũng là chính Thần khí xuống trên Chúa Giêsu để, bằng quyền năng sáng tạo của mình, biến đổi những lời giảng và các tác vi nhân tính của Chúa Giêsu bằng một thế giới mới, một đời sống mới, một sự sáng tạo mới: thế giới của siêu nhiên, thế giới thần thiêng giữa lòng nhân loại.
Biến cố hãn hữu này sắp được thực hiện đây khi mà Chúa Giêsu mang một hình thức bình dị, đã chọn con đường thông thường của muôn người khác và giao tiếp với các tội nhân.
Sự nâng cao lên khỏi nhân tính này trong sự thanh khiết thần thiêng, sẽ được hoàn thành vào lúc Ngài tự hạ nhận phép rửa thống hối giữa hạng tội lỗi và cho lớp tội nhân.
Rồi đây cả vũ trụ sẽ thấy rằng Đấng bị hạ xuống, được nâng lên và là Đấng tinh tuyền, thánh thiện, Đấng đó đang bước vào dòng sông chất đâỳ tội lỗi để cho những làn sóng tội lỗi đổ tràn trên mình. Lần xuất hiện đầu tiên của Chúa Giêsu trong cuộc đời công khai được thực hiện, coi bên ngoài thì hoàn toàn là âm thầm, ít giá trị, không lôi kéo được chú ý gì mấy. Tuy nhiên, thực sự là đã để lộ ra những cái khác thường và hấp dẫn mà mọi người từ nay phải lưu tâm. Chính Thiên Chúa đã quyết định chọn việc khởi đầu này và chứng nhận sự kiện đó.
54. Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với Thiên Chúa.
Một người mẹ đã quyết định truyền dẫn lòng tự tin vào những người con của bà sớm bao nhiêu có thể. Sau khi bà được người con đầu lòng, và tên nó là Matthêu, bà hỏi đi hỏi lại nó rằng, "Tại sao mẹ yêu con?" Bà đã dạy cho nó phải trả lời mỗi khi bà hỏi câu đó là, "Bởi vì con là Mátthêu." Sau khi đứa con thứ hai ra đời, nó tên là Lillian, bà cũng dùng một chiêu thức lập đi lập lại câu hỏi, "Tại sao mẹ yêu con?" Lillian không cần suy nghĩ và ngần ngại trả lời ngay, "Bởi vì con là Mátthêu."
Tại sao Thiên Chúa lại yêu tất cả các bạn, nào là Mátthêu, Lillian, Roberts, Mary, Alice...? Bởi vì bạn là bạn! Bạn là con Chúa trong Chúa Giêsu.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Thánh Luca nói cho chúng ta về biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa, "Có tiếng từ trời phán rằng: Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con" (Lc 3:22). Điều này gợi lên một câu hỏi thách đố đó là: Bạn có thể nào vượt qua khỏi những cách thức suy nghĩ quá quen thường nhật của mình để lắng nghe lời Thiên Chúa nói với bạn, "Con là Con yêu dấu của Cha" không? Bạn có thể nào phá đi cái hàng rào "người lớn" của bạn và trở nên như một trẻ nhỏ để tin tưởng tuyệt đối vào lời hứa của Thiên Chúa chăng?
Trong một lớp Thánh Kinh dành cho người lớn, vấn đề được bàn đến vào ngày hôm đó là việc cầu nguyện. "Hãy xin, thì sẽ được", thầy giáo đã trích lời này từ trong bài giảng trên núi của Chúa Kitô. Sau đó, thầy giáo hỏi các học sinh trong lớp rằng các em có cầu nguyện hằng ngày không? Một học sinh đã giơ tay trả lời rằng em cầu nguyện để được khỏe mạnh. Một người đàn bà trả lời, "Tôi cầu nguyện cho được hạnh phúc." Một vài người khác thì cầu nguyện cho được ơn cứu độ ở đời sau. Tuy nhiên, một bà cụ già vẫn cứ lắc đầu lia lịa với những câu trả lời mà bà nghe được. Khi đến phiên của bà, bà đã nói, "Việc cầu nguyện rất đơn giản. Tôi tin Chúa, và tôi cầu nguyện xin Chúa cũng tin tôi."
Tuy nhiên, bạn có thấy không! Vấn đề không phải là chỗ mình cố gắng để thay đổi ý định của Thiên Chúa về bản thân của mình! Ngài đã tin tưởng ở bạn! "Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa" (Ga 1,1). Chính Ngôi Lời đã nhập thể làm người để mặc khải cho chúng ta về tình yêu mãnh liệt của Thiên Chúa đối với con người. Các bạn đã có trong trí của Thiên Chúa ngay từ ban đầu. Các bạn là một trong những thành phần của công cuộc sáng tạo để đem nó đến chỗ viên mãn trong Nước Tình Yêu của Ngài.
Cho dù là bạn có gặp khó khăn gì trong giây phút hiện tại, cho dù là bạn có gặp những nỗi gian truân gì mà bạn không được người khác thông cảm, bạn hãy tin tưởng rằng sự hiện diện của bạn trên trái đất này được Thiên Chúa quan phòng cách đặc biệt.
Bạn đừng tầm thường hóa công trình kiệt tác của Ngài bằng cách là các bạn tự đặt mình vào khuôn đúc của cuộc sống. Đừng hạn chế cuộc sống của mình vào một khuôn khổ nào cả. Bạn hãy biết chấp nhận chính mình! Hãy vui mừng hân hoan vì bạn là bạn.
Một đứa bé đi học về và đến nói với bố mình, "Thầy giáo con nói là tối mai sẽ có một cuộc họp giữa phụ huynh và thầy giáo tại trường học." Ông bố lại hỏi lại, "Bố có cần phải đi không?" "Con nghĩ là họ sẽ mong có sự hiện diện của bố," đứa con trả lời lại, "bố biết không, đây là cuộc họp nhỏ bao gồm thầy giáo, hiệu trưởng, bố và con."
Hôm nay, xin đề nghị các bạn làm một cuộc họp nhỏ, sớm bao nhiêu có thể, giữa Thiên Chúa và chính bạn. Bạn hãy nghe lời Chúa Giêssu nhủ bảo hôm nay và trở thành một em bé. Hãy đàm thoại và tin tưởng vào Thiên Chúa, hãy lắng nghe lời Ngài, "Con ơi, con là con của Cha. Con là con rất yêu dấu của Cha. Con đẹp lòng Cha. Cha tin tưởng ở nơi con." Hãy cảm nghiệm tình yêu của Ngài. Hãy dìm mình vào trong sự hiện diện của Thiên Chúa, và cảm nghiệm được sự vượt qua cái biên giới đóng khung mà nó đã kéo bạn xuống.
Hãy để cho tất cả những lo lắng phiền muộn trôi đi! Hãy tin tưởng vào lời phán quyết của Chúa và đừng sợ hãi gì. Hãy tin tưởng vào Chúa và hãy xây dựng cuộc sống của mình bằng cách này và bạn sẽ cảm nghiệm được một cuộc sống đầy đủ và tràn ra cho những người chung quanh.
Bạn có thể trở thành nhà giảng thuyết hiệu lực nhờ sức mạnh đến từ Thiên Chúa. Để trở thành cha mẹ tốt, người vợ và chồng tốt, người hàng xóm tốt, hãy biết dùng cái nguyên liệu mà Thiên Chúa đã đổ vào lòng bạn. Bạn cần phải tin tưởng vào cái nguyên liệu đó. Nó sẽ ban cho bạn sức mạnh, hy vọng và trang bị cho bạn biết phục vụ người khác trong sứ mệnh Chúa Giêsu đã truyền dạy.
Hãy phó mình cho Thiên Chúa như một em bé. Hãy lắng nghe lời Ngài như một người con ngoan thảo. Nếu bạn tin tưởng vào Chúa thì một sự việc lạ lùng sẽ xảy ra. Đó là bạn sẽ biết kính trọng tất cả mọi người, và bạn sẽ biết phải sống với mọi người ra sao.
55. Con Yêu Dấu.
Theo các nhà chú giải, Chúa Giêsu đã hạ mình xuống, chấp nhận thân phận tội nhân để xin Gioan Tiền hô làm phép rửa. Thế nhưng, cũng chính nhờ đó, Ngài đã thánh hóa nước và ban cho nước một hiệu quả kỳ diệu đó là trao ban ơn sủng. Hay nói cách khác, chính nhờ đó Ngài đã thiết lập bí tích Rửa tội.
Đồng thời trong lúc tự hạ mình xuống như vậy, Ngài đã được Chúa Thánh Thần tấn phong, như lời tiên tri Isaia đã xác quyết: - Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Ngài đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.
Hơn thế nữa, chính trong lúc tự hạ mình xuống như vậy, Ngài đã được Chúa Cha nâng lên qua lời truyền phán: - Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.
Với chúng ta cũng vậy, kể từ khi lãnh nhận dòng nước thanh tẩy, chúng ta cũng đã được Chúa Cha nhận làm con cái Ngài.
Để hiểu được tình trạng của chúng ta, trước và sau khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, cũng như để hiểu được ý nghĩa, mục đích và tầm quan trọng của địa vị làm con cái Chúa mà bí tích Rửa tội đem lại, thiết tưởng chúng ta nên đọc lại câu chuyện về ông Maisen trong Cựu ước.
Thực vậy, lúc bấy giờ Pharaon vua Ai Cập ra lệnh giết hết các trẻ nam của người Do thái, vì sợ rằng họ sẽ sinh sôi nảy nở ra nhiều và trở nên một thế lực chính trị hùng mạnh. Có một phụ nữ Do Thái, sinh được một con trai. Bà lén nuôi đứa bé trong một thời gian, nhưng cảm thấy không ổn. Và thế là bà bèn làm một chiếc thúng, trát nhựa, rồi đặt đứa bé nằm trong đó và thả trôi theo dòng nước.
Rất may có một nàng công chúa xuống tắm, nghe thấy tiếng trẻ khóc trong đám lau sậy, bèn sai nữ tì xuống vớt. Nàng công chúa nhận đứa trẻ làm con nuôi và đặt tên cho là Maisen, nghĩa là được vớt lên khỏi nước.
Trước khi được vớt lên khỏi nước, Maisen sẽ phải chết và nếu có sống thì cũng chỉ là sống một kiếp nô lệ đọa đày. Còn sau khi được vớt lên khỏi nước, Maisen trở thành con của nàng công chúa, có một cuộc sống an nhàn trong hoàng cung…
Với chúng ta cũng thế, trước khi lãnh nhận dòng nước rửa tội, chúng ta là những kẻ phải chết do hậu quả của tội nguyên tổ. Còn sau khi lãnh nhận dòng nước Rửa tội, chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa và được quyền thừa hưởng phần sản nghiệp Nước Trời.
Thế nhưng để xứng đáng với địa vị cao cả này, chúng ta phải làm gì? Tôi xin thưa: - Chúng ta phải làm đẹp lòng Thiên Chúa bằng cách vâng theo thánh ý của Ngài.
Thực vậy, thế nào là một người con ngoan trong gia đình? Một người con ngoan trong gia đình chắc chắn không phải là người con vùng vằng cãi trả mỗi khi cha mẹ sai bảo điều gì. Trái lại, phải là người con mau mắn vui vẻ vâng theo những lời chỉ dạy của chạ mẹ.
Nếu Đức Kitô đã được Chúa Cha tuyên phong: Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng, thì chắc hẵn Ngài luôn chu toàn thánh ý Chúa Cha ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Thực vậy, nhìn vào cuộc đời của Ngài, chúng ta sẽ thấy được sự thật ấy. Trong suốt quãng đời công khai, Ngài hằng băn khoăn để chu toàn thánh ý Chúa Cha. Ngài đã từng nói với các môn đệ: - Của ăn của Ta là làm theo ý Đấng đã sai ta.
Ngay cả trước khi ra đi chịu chết, nỗi băn khoăn ấy vẫn còn được thể hiện: - Lạy Cha, nếu có thể, xin cất chén đắng này cho Con, nhưng không theo ý Con, một theo ý Cha mà thôi.
Thánh Phaolô đã diễn tả về thái độ này như sau: - Đức Kitô đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.
Với chúng ta cũng vậy, để trở thành người con yêu dấu của Chúa, chúng ta cũng phải chu toàn thánh ý Ngài ở mọi nơi và trong mọi lúc. Thánh ý ấy được biểu lộ qua tiếng nói lương tâm, qua mười giới răn, qua Lời Chúa trong Kinh Thánh, nhất là luật yêu thương của Phúc âm, cũng như qua giáo huấn của Hội Thánh.
Có chu toàn thánh ý Chúa giữa lòng cuộc đời, thì trong ngày sau hết, chúng ta mới được Chúa Cha tuyên phong, như ngày xưa Ngài đã từng tuyên phong Đức Kitô bên bờ sông Giócđan:
- Này là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng.
56. Phép rửa.
Trong sinh hoạt của Giáo Hội, lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa vừa là một kết thúc, vừa là một mở đầu. Kết thúc trong Mùa Giáng sinh và bắt đầu Mùa thường niên. Hôm nay với lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, Giáo Hội bắt đầu tuần thứ nhất Mùa thường niên.
Trong cuộc đời của Chúa Giêsu thì biến cố Chúa Giêsu đến lãnh phép rửa của Gioan tẩy giả nơi sông Giócđan cũng là một kết thúc và là một mở đầu. Kết thúc cho quãng đời sống ẩn dật âm thầm và bắt đầu cuộc đời công khai rao giảng Tin Mừng, thực hiện chương trình mà Chúa Cha đã trao phó cho.
Biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa là một biến cố mạc khải quan trọng và ta có thể nói đây là mạc khải đầu tiên công khai không những về thực thể, về sứ mạng của Chúa Giêsu, nhưng còn là một mạc khải về Thiên Chúa Ba Ngôi.
Một người đứng xếp hàng giữa bao tội nhân thống hối đến lãnh phép rửa thống hối của Gioan để chuẩn bị đón nhận ơn cứu rỗi không phải chỉ là một người phàm trần đơn thuần, nhưng lại là Con Thiên Chúa, Con Thiên Chúa nhập thể làm người: “Đây là Con Ta rất yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng”. Đó là lời mạc khải của Thiên Chúa Cha về Chúa Giêsu Kitô, lời mạc khải long trọng và công khai cho nhiều người trong lúc đó nghe được, đồng thời cũng chính lúc đó Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu dưới hình chim bồ câu như bài Tin Mừng tường thuật lại.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được vén mở cho con người, để rồi sau này chính Chúa Giêsu sẽ giảng dạy thêm cho các đồ đệ trong nhiều dịp khác nhau, mà dịp kết thúc cuối cùng cũng liên quan đến phép rửa là phép rửa trọn hảo của Chúa Giêsu, đó là phép rửa trong Chúa Thánh Thần khi Chúa Phục sinh ra lệnh cho các tông đồ: “Chúng con hãy đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật, dạy dỗ họ tuân giữ những gì Thầy đã truyền cho anh em và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
Nơi phép rửa chuẩn bị của Gioan, Chúa Giêsu đã vén mở cho dân chúng nhìn thấy trước phép rửa trong Thánh Thần mà Ngài sẽ thiết lập và truyền cho các môn đệ thi hành. Chúa Giêsu lãnh nhận phép rửa bằng nước nơi sông Giócđan của Gioan tẩy giả, Ngài bước lên và tràn đầy Chúa Thánh Thần, nhưng Chúa Thánh Thần và Thiên Chúa Ba Ngôi được mạc khải trong biến cố khởi đầu này.
Nhìn vào bài tường thuật chúng ta vừa đọc trên, chúng ta có thể lưu ý đến một chi tiết đầy ý nghĩa khác nữa, đó là chi tiết được tác giả Phúc âm diễn tả bằng từ ngữ “Trời mở ra”. Từ ngữ này nhắc nhớ đến hình ảnh Kinh Thánh Cựu ước nơi thánh vịnh, chúng ta đọc thấy lời nguyện cầu tha thiết sau đây: “Lạy Chúa, xin hãy xé trời ra mà ngự xuống trên trần gian này”. Nơi sách tiên tri Isaia, ngài đã cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, tại sao Ngài không xé trời mà ngự xuống với chúng con trên trần gian này. Dân Israel cũng như mọi thành phần trong dân chúng chắc chắn đều biết lời cầu nguyện này của tiên tri Isaia và đã cầu nguyện như vậy, qua đó nói lên tâm hồn khao khát ơn cứu rỗi, khao khát Đấng Thiên sai, Đấng Thiên Chúa Cha sai xuống để cứu rỗi con người.
Lời cầu nguyện trên nói lên nỗi khát vọng của con người muốn gặp được Thiên Chúa, của một con người cảm thấy thân phận mình yếu hèn cần đến sự trợ lực của Thiên Chúa. Người Việt Nam chúng ta trong cơn khốn cùng cũng thường kêu lên: “Trời ơi, hãy xuống mà xem”. Như thế, chi tiết trời mở ra trong biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa là một chi tiết mạc khải quan trọng, đó là đã đến lúc Thiên Chúa nhận lời cầu xin của Con Người: “Đây là Con Ta, đẹp lòng Ta mọi đàng”. Thiên Chúa trọn vẹn Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần đã đáp lại khát vọng của con người, Ngài sai Con Một Ngài xuống trần làm người để thực hiện chương trình cứu rỗi, dẫn đưa nhân loại trở về cùng Ngài, trở về trời.
Biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa nhắc lại cho con người nhớ rằng, con người khao khát cần đến Thiên Chúa, khao khát được cứu rỗi và Thiên Chúa đáp lại khao khát này trong Chúa Giêsu Kitô Con Ngài, nơi một con người không phải là con người tầm thường đã đến nhận phép rửa của Gioan nơi sông Giócđan, mà nơi một con người vừa là Con Thiên Chúa: “Đây là Con Ta yêu dấu, Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con”.
Yếu tố thứ hai của biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa, đó là Chúa Thánh Thần ngự xuống cũng mang một ý nghĩa sâu xa. Khởi đầu sách Sáng Thế khi bắt đầu công cuộc tạo dựng, Thánh Thần Chúa đã bay lượn là là trên mặt nước, và trong biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa, Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Chúa Giêsu dưới hình chim bồ câu. Dĩ nhiên, bay lượn xuống trên Chúa Giêsu, chi tiết này nói lên sự tạo dựng mới mà Chúa Giêsu thực hiện và phép rửa là điểm khởi đầu của công cuộc tái tạo nên mới trong Chúa Thánh Thần.
Mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa ban cho ta được ơn biết lắng nghe Lời Chúa, sống vâng phục với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần.
57. Người thân.
Nếu thánh Gioan tẩy giả sống trong thế giới chúng ta, có lẽ ông sẽ được mời tham gia vào chương trình “tìm người thân”. Người ta sẽ tìm cách bắt ông nói về bản thân ông, về thời thơ ấu, tổ tiên, và những lý do khiến ông rao giảng. Nhưng có lẽ ông sẽ hướng những kẻ nói chuyện với ông về Đấng mà ông đã đến để giới thiệu cho người ta biết, Đấng mà ông “không xứng đáng cởi dây dép”.
Gioan là một trong những người nói năng mạnh mẽ và có sức thu hút. Ông nói thẳng. Ông lay động những thói quen, thức tỉnh những kẻ ngủ mê. Trước “… màn ảnh truyền hình của ông…”, Chúa Giêsu say mê sứ điệp của con người đã gây nên bao nhiêu vấn nạn và bao nhiêu tranh cãi. Gioan có lý: “Hãy hoán cải, hãy quay về với Thiên Chúa. Hãy sinh hoa quả hoán cải. Mọi cây không sinh quả tốt sẽ bị chặt đi. Ai có hai áo thì hãy chia sẻ với kẻ không có”.
Nối gót toàn thể dân chúng, Chúa Giêsu quyết định chịu phép rửa: Ngài sẽ không trở về Nagiarét nữa. Ngài đang đứng trước một tiếng gọi cần phải đáp lại ngay. Ngài đáp lại một lời mời gọi trực tiếp của vị ngôn sứ cuối cùng.
Phép rửa của Gioan là một hành vi công khai. Chấp nhận để ông rửa cho tức là dấu ta chấp nhận lời ông kêu gọi và quyết định thay đổi để tránh cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Khi chịu phép rửa, Chúa Giêsu tham gia công việc hoán cải của dân Ngài. Khi chịu phép rửa, Ngài muốn nói với chúng ta rằng Ngài đã nhận lấy thân phận làm người của chúng ta, rằng Ngài đã nhập thể trong một lịch sử, lịch sử của một dân tộc “cứng đầu cứng cổ”, một dân tộc tội lỗi cần được Thiên Chúa hoán cải, cần quay về với Thiên Chúa.
Chúa Giêsu cũng muốn nói về mình cho dân tộc của Ngài. Ngài đến trà trộn với những kẻ bé mọn, yếu kém, những kẻ nhận mình là tội lỗi. Ngài tự xưng giống những kẻ xung quanh Ngài mọi đàng. Ai có thể ngờ rằng con người giống như mọi con người ấy lại là Đấng Mêsia được mong chờ? Đấng Mêsia mà dân chúng hình dung là người chiến thắng, oai phong, có kẻ hầu người hạ bao quanh và được kính nể bởi quyền uy của mình? “Và dân chúng vẫn chờ mong…”
Khi trở thành một người trong chúng ta, Chúa Giêsu biểu lộ quyền uy của Ngài một cách khác với cách mà người Do thái vẫn tưởng. Chính bằng sự hiền từ, kiên nhẫn, khiêm nhượng, bằng việc phục vụ những kẻ bé nhỏ, những kẻ bị bỏ rơi, mà Ngài thiết lập vương quốc của Ngài.
“Chúa Giêsu cũng lãnh nhận phép rửa, và, đang khi Ngài cầu nguyện”. Hậu quả lời cầu nguyện của Chúa Giêsu là Thánh Thần ngự xuống trên Ngài. Chúa Cha tuyên bố Ngài là Con Thiên Chúa và ủy thác cho Ngài sứ vụ cứu thế. Nếu Chúa Giêsu được nhìn nhận là Con, cả chúng ta nữa, chắc chắn chúng ta cũng được tham dự vào địa vị làm con với Ngài và chúng ta sẽ luôn luôn có thể tin tưởng vào lòng nhân hậu của Chúa Cha để được đón nhận như là con cái thực sự. Chúng ta cũng có thể tự coi mình như em và môn đệ của Chúa Giêsu. Chúng ta sẽ có thể tham dự vào sứ vụ của Ngài là bênh vực kẻ nghèo, loan báo Tin Mừng, chữa lành những con tim bị đời gây thương tích.
Là Kitô hữu đã được rửa tội, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng được mời gọi làm chứng cho Đấng mà Gioan loan báo. Chúng ta phải sẵn sàng nói với những kẻ nghe chúng ta: “Đấng mà các bạn tìm kiếm, Ngài sẽ làm phép rửa cho các bạn trong thần khí, chúng tôi chắc chắn về điều này. Ngài sẽ cho các bạn biết tình yêu của Chúa Cha. Hãy hoàn toàn tin tưởng mà đến với Ngài. Ngài sẽ đem đến cho các bạn những gì các bạn chờ mong. Hãy liên lỉ tìm kiếm Ngài, không phải vì lương thực có thể hư nát nhưng vì lương thực tồn tại cho cuộc sống vĩnh viễn”.
58. Phép rửa
Phép rửa của Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta về phép rửa tội của chính chúng ta. Có nhiều lễ nghi mà người ta có thể giữ trong Giáo Hội. Nhưng tất cả những lễ nghi này đều trở nên mờ nhạt, khi so sánh với ân sủng cơ bản đối với tất cả: Phép Rửa rội. Khi chúng ta đứng trước ngai tòa Thiên Chúa, thì những lễ nghi khác không còn quan trọng nữa. Phẩm giá của chúng ta sẽ chỉ tùy thuộc vào một điều mà thôi – mức độ chúng ta sống ơn phép rửa tội của chúng ta.
Lễ nghi của phép rửa tội là một lễ nghi tuyệt đẹp. Khi lãnh nhận phép rửa tội, chúng ta được chính thức nhận một tên, và được đón tiếp vào gia đình của dân Thiên Chúa. Những lời cầu nguyện thật đáng yêu được đọc lên cho chúng ta. Thân thể chúng ta được ghi dấu thánh giá, dấu hiệu tình yêu của Đức Kitô đối với chúng ta. Nước được đổ xuống trên chúng ta. Nước là biểu tượng của sự tẩy rửa, chúng ta được tẩy rửa khỏi tội lỗi. Nhưng đặc biệt hơn, nước còn là biểu tượng của sự sống. Trong phép rửa tội, chúng ta được chia sẻ sự sống không thể chết được của Thiên Chúa.
Cơ thể chúng ta được xức dầu thánh không chỉ một lần, mà đến hai lần. Giống như cơ thể của các vận động viên được bôi một lớp dầu, để mang lại cho họ sức khỏe trong cuộc tranh tài. Cũng vậy, chúng ta được xức dầu thánh, để ban cho chúng ta sức mạnh, trong cuộc đấu tranh không thể tránh khỏi, nhằm chống lại sự dữ. Và cũng giống như các vị vua, các ngôn sứ, và các linh mục đã được xức dầu, và do đó, đánh dấu rằng họ trở thành những người rao giảng của Thiên Chúa đối với cộng đồng. Cũng vậy, chúng ta được xức dầu, để trở nên những sứ giả của Đức Kitô, trong thế giới này.
Thân thể của chúng ta được phủ lên một chiếc áo trắng tinh, đó là dấu hiệu bên ngoài của nhân phẩm người Kitô hữu. Chúng ta được trao cho một cây nến, được thắp sáng từ ngọn nến Phục sinh, mang ý nghĩa ánh sáng quý giá của đức tin. Thiên Chúa kêu gọi chúng ta ra khỏi bóng tối, để đi vào ánh sáng kỳ diệu nơi Con của Người.
Những gì diễn ra trong lần Đức Giêsu lãnh nhận phép rửa, cũng xảy ra cả cho chúng ta nữa. Thiên Chúa kêu gọi đích danh chúng ta. Người nói với mỗi người chúng ta “Con là con trai yêu dấu của Ta”, hoặc “Con là con gái yêu dấu của Ta”. Và thần khí Chúa đáp xuống trên chúng ta, để giúp chúng ta sống đời sống của một Kitô hữu, và để tham gia vào sứ vụ của Đức Giêsu.
Từ quan điểm thiêng liêng, phép rửa tội là một điều vĩ đại nhất có thể xảy ra cho chúng ta. Được lãnh nhận phép rửa tội là được kitô hóa, nghĩa là được trở nên giống như Đức Kitô. Nhưng điều này không xảy ra một cách tự động, như là kết quả của việc được lãnh nhận phép rửa tội. Người ta phải học hỏi ý nghĩa của việc trở nên một người Kitô hữu là gì, và phải lớn lên trong ý nghĩa này. Đây là công việc của cả một đời người. Đến cuối cuộc đời, người ta hỏi một vị thánh, xem ngài đã là người kitô hữu chưa, thì ngài đáp lại chưa.
Trong Giáo Hội, có nhiều ơn gọi. Nhưng ơn gọi quan trọng nhất vượt lên trên tất cả các ơn gọi, phổ biến đối với tất cả những người đã được chịu phép rửa tội, đó là ơn gọi mà chúng ta đã được đón nhận vào lúc rửa rội – ơn gọi trở thành người môn đệ của Đức Giêsu. Đây là ơn gọi cốt lõi. Tất cả những ơn gọi khác trong Giáo Hội đều phải được coi như liên hệ với ơn gọi này.
Chúng ta tổ chức thật lớn ngày sinh nhật của mình. Cũng vậy, chúng ta nên cử hành ngày lễ rửa tội của chúng ta một cách long trọng, bởi vì đó là ngày mà chúng ta được sinh ra làm con cái Thiên Chúa. Mỗi khi vào nhà thờ, và lấy nước thánh làm dấu, là chúng ta đang tự nhắc nhở mình về phép rửa tội của chúng ta, và tự cam kết sống trọn vẹn với ơn gọi của phép rửa tội. Sống theo ơn gọi của phép rửa tội, là sống tư cách người môn đệ của Đức Giêsu.
59. Chu toàn sứ mạng Chúa Cha trao
Một nhà thần học nọ đã nói: "Mỗi con người khi được sinh ra là người nhưng chưa trở thành người đúng nghĩa. Vì thế, để được trở thành người đúng nghĩa con người ấy cần phải nổ lực tự đào luyện mỗi ngày ".
Với tư tưởng này chúng ta cũng có thể nói khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội người kitô hữu chúng ta được là con Thiên Chúa nhưng chưa trở thành con Thiên Chúa đúng nghĩa. Do đó, chúng ta cần phải mỗi ngày cùng với ơn Chúa giúp tự đào luyện mỗi ngày để xứng đáng với tư cách làm con Thiên Chúa nhiều hơn. Nói cách khác người kitô hữu chúng ta cần chu toàn tốt sứ mạng được Chúa Cha trao phó.
Hôm nay, cùng với Giáo Hội chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa. Ðây là biến cố quan trọng trong cuộc đời của Chúa Giêsu nơi trần gian này. Qua biến cố này Chúa Giêsu chính thức công khai ra đi rao giảng Tin mừng sau 30 năm sống ẩn dật.
Chúng ta còn nhớ đoạn Tin mừng nói về Chúa Giêsu vào Hội đường Nagiaret để đọc đoạn sách tiên tri Isaia: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa " (Lc 4, 18 - 19). Khi đọc xong Người nói thêm: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." (Lc 4, 21). Do đó, Tin mừng mà Chúa Giêsu đem đến cho toàn thể nhân loại là sự giải thoát. Giải thoát cho con người khỏi nô lệ của tội lỗi và của sự chết đời đời. Ðó là sứ mạng Người đã nhận từ nơi Chúa Cha. Sứ mạng ấy đã được Người chu toàn hết sức tốt đẹp. Cho nên, hôm nay Chúa Cha chính thức tuyên bố: "Con là Con yêu dấu của Cha; Cha hài lòng về Con" . (Lc 3, 22b)
Chúng ta thử tưởng tượng một gia đình ở vườn muốn đi ra đường lớn phải nhờ qua đất của gia đình phía trước. Ngày nọ, những người trong gia đình đem xây hàng rào tự cô lập mình. Người chủ của gia đình phía trước mới vô năn nỉ xin những ngưỡi trong gia đình này cho phá hàng rào để gia những người trong gia đình này không còn bị cô lập nữa.
Với tình huống này, chắc chắn chúng ta sẽ cho rằng không thể nào có thể xảy ra được. Thế nhưng, đây là hình ảnh minh họa cho Thiên Chúa của chúng ta. Mặc dầu chúng ta từ chối nguồn sống từ Chúa nhưng Chúa vẫn không bỏ chúng ta. Người tìm mọi cách để cứu chúng ta. Ðó chính là sứ mạng của Chúa Giêsu được Chúa Cha trao cho.
Mỗi người chúng ta dù ở chức phận nào cũng có chung sứ mạng làm sáng danh Chúa trong môi trường sống của mình. Nguyện xin Chúa cho chúng ta biết chu toàn tốt sứ mạng Chúa trao. Nhờ đó, mỗi ngày chúng ta sẽ trở thành người và người kitô hữu đúng nghĩa hơn.
60. Sứ mạng
Hai tiếng sứ mạng nghe có vẻ nghiêm trọng quá. Nhưng thực ra mọi người, mọi sinh vật, mọi thụ tạo – nói chung là mọi hữu thể – đều có sứ mạng:
- Sứ mạng của mặt trời là sưởi ấm các sinh vật trên mặt đất.
- Sứ mạng của cây lúa là nuôi sống con người.
- Thậm chí những con vi sinh nhỏ bé đến nỗi mắt thường không thấy được cũng có sứ mạng làm phân hủy những chất thải.
Chúa Giêsu đã sinh ra trong trần gian với sứ mạng làm Đấng Messia mang ơn cứu độ đến cho mọi người. Ngài đã chu toàn sứ mạng ấy một cách tuyệt hảo.
Mỗi người chúng ta cũng có sứ mạng. Vậy mỗi người hãy tự hỏi “Sứ mạng của tôi là gì đối với gia đình, đối với xã hội, đối với Giáo Hội, đối với anh chị em không cùng tín ngưỡng?”
Tôi được sinh ra trên đời là vì sứ mạng. Nếu tôi không chu toàn sứ mạng, hay tệ hơn nữa, nếu tôi không lưu tâm gì đến sứ mạng, thì sự hiện hữu của tôi là vô ích, chỉ là ăn hại. Chúa Giêsu đã nói “Nếu muối mà nhạt thì chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp dưới chân”.
61. Con Chúa.
Khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, chúng ta được trở nên con cái Chúa. Thế nhưng, chúng ta có cảm thấy hạnh phúc khi được làm con cái Chúa hay không? Chúng ta có lấy Chúa làm chọn lựa căn bản, làm cùng đích của cuộc đời hay không? Nói đến điểm này, tôi nhớ lại câu chuyện giữa chàng thanh niên và thánh Philipphê Nêri như sau:
Ngày kia, chàng thanh niên đến khoe với thánh nhân: mừng quá cha ơi, con vừa mới đậu vào đại học. Thánh nhân bèn hỏi: Rồi sao nữa? Con sẽ tốt nghiệp. Rồi sau nữa? Con sẽ làm thẩm phán, ra ứng cử và biết đâu con sẽ làm tổng thống. Rồi sao nữa? Thì chết, chứ còn làm sao. Nhưng thánh nhân vẫn hỏi tiếp: Rồi sao nữa? Chàng thanh niên không trả lời được.
Chính cách đặt câu hỏi của thánh nhân cho chúng ta thấy cùng đích của cuộc là gì nếu không phải là làm con cái Chúa. Và chọn lựa căn bản trong đời sống làm con Chúa là gì nếu không phải là chọn chính Chúa. Khi nói chọn Chúa thì không có nghĩa là phải đi tu, phải từ bỏ những chọn lụa khác. Ai đang yêu thì cứ yêu cho thật chân thành, nhưng phải làm sao cho tình yêu ấy trở nên thanh cao. Ai học tập vẫn cứ tiếp tục học tập, nhưng phải làm sao cho việc học tập ấy trở nên nghiêm túc. Ai buôn bán vẫn cứ tiếp tục buôn bán, nhưng phải làm sao cho việc buôn bán ấy trở nên công bằng.
Một khi đã chọn Chúa, thì trong mọi việc chúng ta hãy làm trước sự hiện diện của Ngài, như lời thánh Phaolô khuyên nhủ: Dù ăn, dù ngủ, dù làm việc gì, anh em hãy làm vì danh Đức Kitô. Hay nói cách khác, chúng ta hãy thực thi những điều Chúa truyền dạy, chẳng hạn như hiền lành, khiêm nhường, yêu thương anh em, kể cả những kẻ thù địch…
Làm con cái Chúa như thế đòi hỏi rất nhiều cố gắng và hy sinh. Thế nhưng, chúng ta phải đi cho tới cùng, bởi vì chịu phép rửa tội không phải chỉ là chuyện đổ nước xong rồi thôi, nhưng là chấp nhận dìm mình trong sự chết của Đức Kitô để rồi giống như Ngài từ cõi chết sống lại thế nào, chúng ta cũng phải đứng dậy trong sời sống mới như vậy. Một phép rửa như thế, chúng ta không phải chỉ chịu một lần thay cho tất cả, nhưng phải chịu mỗi ngày trong suốt cuộc đời.
Giờ đây, chúng ta cùng nhau thinh lặng trong giây lát để nhớ lại bí tích rửa tội đã lãnh nhận và tự hỏi: Tôi có cảm thấy hãnh diện và hạnh phúc vì được làm con cái Chúa hay không? Tôi có sống xứng đáng địa vị cao cả ấy không?
62. Phép Rửa tái sinh--Lm. John Nguyễn
Như sách Giáo lý Công giáo dạy rằng: “Bí tích Rửa tội là bí tích Chúa Giêsu đã lập cho ta được tha tội nguyên tổ và các tội ta đã phạm; đồng thời, thông ban sự sống siêu nhiên cho ta được làm con cái Thiên Chúa và Hội Thánh".
Và hôm nay, chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa. Từ phép rửa của Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta điều gì? Và chúng ta có liên tưởng gì đến phép rửa chúng ta đã lãnh nhận?
Trước hết, chúng ta hãy tìm lại thuật ngữ phép Thanh tẩy trong nguyên ngữ Hy văn ðơßỉ (baptízô) có nghĩa là "tắm" hoặc "nhúng vào" toàn bộ một nguời hay vật vào trong nước. Theo nghi thức và truyền thống Công giáo, Bí tích Thanh Tẩy còn được gọi là Phép Rửa tội, và Bí tích này được khơi nguồn từ Gioan Tẩy giả được điễn tả trong Tin mừng của thánh Luca:
"Gioan đi khắp các vùng gần kề sông Jordan, rao giảng về phép rửa, kêu gọi dân chúng hãy hối cải để được tha tội... Và toàn thể nhân loại sẽ nhìn thấy sự cứu rỗi của Thiên Chúa". Dân chúng tin vào lời Gioan, họ đến để xin chịu phép rửa của Gioan. Theo truyền thống của người Do thái, Phép Thanh tẩy không chỉ là biểu trưng cho sự chết và phục sinh của Chúa Giêsu, mà còn là sự chuyển hoá siêu nhiên tương tự như kinh nghiệm trong cơn Đại hồng thủy thời Noê và kinh nghiệm dân Do thái vượt qua Biển đỏ thời Môsê khi nước rẽ ra cho dân chúng thoát chết. Cho nên, Phép rửa tội có cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng không chỉ là sự thanh tẩy, mà còn đồng nghĩa với sự chết và sống lại của Chúa Giêsu. Với ý nghĩa đó, chúng ta tin rằng, Bí tích Rửa tội là cần thiết không chỉ để được tẩy sạch tội tổ tông mà còn được làm con cái của Thiên Chúa và gia nhập vào Hội Thánh. Cho nên, nghi thức Thanh Tẩy là lời chứng về đức tin của một cá nhân bày tỏ sự hiệp nhất với Chúa Kitô trong giao ước với Thiên Chúa. Vì vậy, việc cử hành Bí tích Thánh tẩy thường là trẻ sơ sinh. Tuy nhiên, một số giáo phái như Baptist chỉ ban lễ báp-têm cho người đủ hiểu biết vì họ tin rằng, lễ này không cứu rỗi linh hồn, nhưng đúng hơn là nghi thức để tín hữu công khai xưng nhận rằng bởi đức tin người ấy đã được cứu qua sự hiệp nhất với Chúa Kitô trong sự chết và sống lại của Ngài. Martin Luther viết: "Nói cách đơn giản nhất, quyền năng, hiệu quả, lợi ích, kết quả và mục đích của báp-têm là sự cứu rỗi. Không ai nhận lễ báp-têm để trở thành vương hầu, nhưng để được cứu rỗi. Được cứu rỗi, như chúng ta biết, không gì khác hơn là được giải thoát khỏi tội lỗi, sự chết và quyền lực ma quỷ hầu có thể vào vương quốc của Chúa Cơ Đốc và sống với Ngài đời đời."
Kế đến, theo lời Gioan rao giảng, phép rửa là biểu diện sự sám hối, hoán cải và trở về với Thiên Chúa thì vết nhơ của tội lỗi có thể tẩy xoá bằng cách từ bỏ mọi hành vi bất chính và bước đi trong đường lối của Chúa. Ngài nói thêm: "Tôi làm phép Thanh Tẩy cho anh em bằng nước, nhưng có một Đấng quyền bính hơn tôi sẽ đến, tôi không xứng đáng mở dây giày cho Ngài. Ngài sẽ làm phép Thanh Tẩy cho anh em bằng Chúa Thánh Thần và bằng lửa" (Lc 3.16-17). Thế thì, việc Chúa Giêsu đến xin chịu phép rửa của Gioan có ý nghĩa gì? Vì Ngài là Đấng vô tội. Ngài không có tội như chúng ta. Nhưng qua dấu chỉ này, Chúa Giêsu muốn chia sẻ thân phận yếu hèn và cảm thông với tội nhân, Ngài đền tội thay cho con người. Hình ảnh Chúa Giêsu dìm mình xuống dòng sông Gióc-đan còn mang một ý nghĩa phép rửa bằng máu, mà Chúa Giêsu chịu trong cuộc tử nạn, dòng nước và máu tuôn ra từ cạnh sườn của Ngài. Dòng nước và máu ấy mang lại cho nhân loại sự sống mới, như lời thánh Gioan đã loan báo trong Tin mừng hôm nay.
Khi cử hành Thanh Tẩy cho Chúa Giêsu, Gioan chứng thuật rằng: "Tôi đã thấy Thánh Thần như chim bồ câu từ trời xuống đậu trên Ngài. Tôi không biết Ngài, nhưng Đấng sai tôi làm phép rửa bằng nước bảo tôi rằng: Đấng mà ngươi sẽ thấy Thánh Thần ngự xuống và đậu lên trên là Đấng sẽ làm phép rửa bằng Chúa Thánh Thấn. Tôi đã thấy, nên chứng thuật rằng: Ngài là Con Thiên Chúa.". Vào những ngày cuối cùng khi sống trên thế gian, Chúa Giêsu uỷ thác sứ mạng cho các Tông đồ ra đi làm phép rửa cho muôn dân: "Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Thần " (Mt. 28,19), và câu nói này trở nên công thức chung khi cử hành Bí tích Thanh tẩy. Từ đó, việc cử hành phép Thanh Tẩy bằng nước được gắn kết với các môn đồ của Chúa Giêsu, và kêu gọi dân chúng: "Hãy ăn năn, sám hối vì Nước Thiên Chúa đã gần kề."
Qua những gì Lời Chúa đã mạc khải cho chúng ta về Bí tích Thánh tẩy, chúng ta nhận thấy rằng, Bí tích Thanh tẩy cho ta được ơn tái sinh từ con người mang vết tích của tội tổ tông và tội riêng ta đã phạm, nhờ Bí tích này ta được giao hòa và được làm con cái Thiên Chúa nhờ máu và nước của Đức Kitô, chúng ta được trở nên tinh tuyền. Chiếc áo trắng chúng ta mặc trong ngày rửa tội là biểu hiện sự trong trắng tâm hồn. Tuy nhiên, chiếc áo tâm hồn của chúng ta hôm nay vẫn còn đang mang vết nhơ bởi sự dục vọng, ghen tương, ích kỷ kiêu căng và hận thù, vì vậy, chúng ta cần giặt lại trong nước và máu Chúa Ki-tô qua Bí tích Hòa giải. Nếu mỗi ngày chúng ta cần được tắm để cơ thể khỏe mạnh, thì chúng ta cũng cần thanh tẩy đời sống tâm linh bởi những thứ dơ bẩn bởi cái tâm giả. Chúa Giêsu đã khiêm hạ đến nhận phép rửa của Gioan, thì chúng ta cũng chấp nhận để cho anh em sửa chữa những khiếm khuyết của mình. "Nhân bất thập toàn". Không ai là người hoàn hảo. Khi ta biết chấp nhận sự bất toàn là lúc ta sống thật với chính mình và nhận ra được tình yêu Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa yêu thích những ai khiêm nhường. Như lời Mẹ Maria đã thưa: " Này tôi là nữ tỳ của Chúa. Tôi xin vâng theo lời sứ thần truyền". Nếu chúng ta là con cái của Chúa và Mẹ đúng nghĩa, thì chúng ta hãy noi gương Mẹ Maria. Chúng ta có đáng là gì mà tự mãn, tự kiêu trước quyền năng của Thiên Chúa. Sự thành công, chức tước, giàu có đáng là chi. Tất cả chỉ là phù du, và đối với Thiên Chúa thì vô nghĩa. Ngài cần tấm lòng của chúng ta, chứ không phải của lễ. Chẳng phải chúng ta đi tìm Thiên Chúa trong sự khiêm hạ, đơn sơ, nghèo hèn trong mầu nhiệm Giáng sinh sao? Thì hôm nay chúng ta nhận ra Chúa Giêsu nơi dòng sông Gióc-đan để nhận phép rửa của Gioan. Nơi đây, Thiên Chúa mạc khải mầu nhiệm tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa. Như Lời Chúa Cha phán rằng: " Con là Con yêu dấu của Cha; Cha hài lòng về Con".(Lc 3,22).
Lạy Chúa, Ngài đã tự hạ và tự hủy để sống và chết cho chúng con, thì giờ đây xin cho chúng con khi lãnh nhận ơn Bí tích Thanh tẩy, chúng con cũng biết thanh tẩy vết nhơ của tội lỗi nơi tâm hồn của chúng con trong quá khứ cũng như hiện tại, để mỗi ngày chúng con được ơn tái sinh trong nước hằng sống từ nơi Chúa Giêsu qua Bí tích Thánh Thể, nhờ đó, mỗi ngày chúng con được sống trong nguồn mạch ơn sủng của Thiên Chúa yêu thương. Xin cho chúng con học nơi Chúa Giêsu đức khiêm nhường, nhờ đó chúng con biết chấp nhận sự yếu đuối và tội lỗi của mình để đón nhận sửa chữa của anh em. Và xin chúng con biết hát lên lời ca của Đavít khi còn đang mang đầy thương tích của tội lỗi: "Lễ dâng Chúa là tâm hồn sám hối. Một tấm lòng tan nát giày vò, Chúa chẳng khinh chê". (Tv 50). Xin tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa nhậm lời chúng con. Amen.
63. Suy Niệm của Lm Trần Bình Trọng
TẦM QUAN TRỌNG CỦA BÍ TÍCH RỬA TỘI
Đời sống công khai của Chúa Giêsu bắt đầu bằng việc Người chịu phép rửa (Lc 3:21). Mặc dầu phép rửa mà Chúa lãnh nhận không phải là bí tích rửa tội, nghĩa là không để được tha tội vì Người không có tội, phép rửa đó cũng đánh dấu quyết liệt trong đời sống của Người. Phép rửa đánh dấu cái sứ mệnh công khai của Người trong việc rao giảng và chữa lành. Còn đời sống người Ki-tô giáo cũng bắt đầu bằng Phép Rửa tội. Trong nước Rửa tội, ta trở nên người mới với đời sống mới. Bí tích Rửa tội vừa là việc kết thúc vừa là việc khởi đầu. Bí tích Rửa tội kết thúc đời sống trong bóng tối tội lỗi và bắt đầu đời sống mới trong ơn nghĩa với Chúa. Bí tích Rửa tội là việc tham dự vào cái chết và phục sinh của Chúa, nghĩa là nhờ Bí tích Rửa tội, người tín hữu chết đi cho tội lỗi, để được sống lại với Chúa trong ơn thánh. Đó là ý nghĩa của lời Chúa nói với Ni-cô-đê-mô: Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể thấy nước Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra bởi nước và Thánh thần (Ga 3:5). Và rồi Chúa thiết lập bí Tích Rửa tội: Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh thần (Mt 28:19).
Bí tích Rửa tội là một biến cố lớn trong đời sống người tín hữu, bất kể khi rửa tội, người ta đã khôn lớn hoặc còn nhỏ dại. Hoặc là ta được rửa tội khi còn tuổi măng sữa, hay khi đã lớn khôn lớn, ta cần đem ý nghĩa vào việc rửa tội. Nếu được rửa tội khi đã khôn lớn, ta phải có xác tín về đức tin và về đạo. Nếu được rửa tội lúc còn nhỏ dại, ta phải phê chuẩn cái đức tin mà ta đã lãnh nhận khi chịu phép Rửa tội. Ta không thể cậy dựa và tuỳ thuộc vào đức tin của cha mẹ mãi mãi. Ta phải tập đi tập đứng trong đức tin. Nhiều người tưởng được rửa tội là là đã đi tới cuối đường và đã đạt đích. Thực sự không phải thế. Khi mà hạt giống đức tin được vun trồng trong đời sống, ta phải nuôi dưỡng, chăm sóc, nếu muốn cho đức tin được tăng trưởng, và sinh hoa kết quả thiêng liêng. Phép rửa tội mới chỉ gieo vãi hạt giống đức tin. Các bí tích kế tiếp mới làm cho người ta trưởng thành và mang lại kết quả.
Bí tích Rửa tội không phải là cái giấy thông hành để được vào Nước trời. Người ta có thể chứng minh có tất cả các giấy chứng chỉ: chứng chỉ rửa tội, rước lễ lần đầu, thêm sức, cưới hỏi.. Tuy nhiên chưa chắc người ta đã sống đức tin và trưởng thành trong đức tin. Ta có thể chịu Phép rửa tội lâu năm, nhưng đời sống vẫn không có gì thay đổi, vẫn khô khan, nguội lạnh và làm biếng việc lành. Tại sao lại như vậy? Có lẽ tại vì người ta làm việc đạo một cách máy móc cho qua lần chiếu lệ, hay mặc cả với Chúa để được hưởng giá rẻ trong việc giữ đạo.
Cái tiến trình đức tin của ta được đi tuần tự như sau: Người tín hữu chấp nhận đức tin khi chịu phéo Rửa tội. Họ phê chuẩn đức tin khi chịu phép Thêm sức. Họ làm mới lại đức tin khi đến tòa Cáo giải. Họ lặp lại lời cam kết đức tin khi đi dự thánh lễ. Nếu đức tin của ta là cái gì có tính cách chân thật, ta phải giữ lời cam kết khi chịu phép Rửa tội một cách vững chắc bằng việc thực hành. Đó là cái tiến trình của đức tin luôn được đổi mới. Lời cam kết đức tin khi chịu phép Rửa tội không phải là một lần. Mỗi ngày đòi ta phải làm mới lại lời đáp trả đức tin. Và mỗi lời đáp trả không phải là một việc tách biệt riêng rẽ, nhưng là một phần trong toàn bộ cái tiến trình đổi mới đức tin.
64. Ngày hội lớn cho nhân loại--Phaolô Ngô Suốt
Sau ba mươi năm sống ở Nazareth -một nơi không có gì đáng nói cả-, hôm nay thế giới được diễm phúc nhìn thấy Đấng Thiên Sai bắt đầu cuộc đời rao giảng ngắn ngủi của mình. Cũng như tất cả các biến cố trong chương trình cứu độ, hôm nay Thiên Chúa đã chuẩn bị hết sức tinh vi, độc đáo khi Chúa Giêsu chịu phép rửa tại sông Jordan. Hãy cùng tìm hiểu bối cảnh, ý nghĩa và hệ lụy của nó đối với từng người chúng ta.
Theo luật thời bấy giờ: không ai được giảng thuyết trước công chúng nếu chưa đủ ba mươi tuổi. Vài tháng trước, Gioan Tẩy Giả đã xuất hiện kêu gọi mọi người ăn năn thống hối, và phép rửa được xem như là dấu chỉ đầu tiên cho sự thay đổi đời sống luân lý của mỗi người. Hôm nay Chúa Giêsu -sau vài tháng (vì Chúa sinh sau Gioan 6 tháng)- cũng đến để nhận phép rửa từ Gioan, như bao nhiêu người Do Thái tốt lành khác, dù Ngài là con người y như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Ngài không hề có tội nên không cần phải ăn năn thống hối, nhưng Ngài đã thể hiện lòng khiêm tốn, và yêu thương chúng ta tột độ; vì lợi ích cho chúng ta. Bởi thế khi Ngài tự hạ mình để chịu phép rửa, Ngài chấp nhận toàn bộ tội lỗi của nhân loại, Ngài đại diện cho tất cả tội nhân trên thế giới này, để mọi người được trở nên công chính. Ngài là Đấng trung gian để hòa giải giửa nhân loại phạm tội và Thiên Chúa cao cả.
Dù là anh em họ, nhưng Gioan Tẩy Giả không biết Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai (Gioan một lần vui sướng khi còn ở trong bụng mẹ, lúc Bà Maria đến thăm, và Gioan đã được Chúa xoá cho tội nguyên tổ). Mãi cho đến khi được Thánh Linh báo cho biết Gioan mới nhận ra Đấng Cứu Thế. Lạ lùng hơn cả là: bỗng nhiên các tầng trời mở ra, và có Thần Khí như chim bồ câu đậu xuống trên mình Ngài. Có tiếng phán rằng:”Này là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng”. Một quang cảnh sống động chưa từng thấy! Hơn cả quang cảnh ngày một vị đại Hoàng đế đăng quang. Mà còn hơn thế, hôm nay là ngày hội lớn cho toàn nhân loại. Ngày Đấng Cứu Thế chính thức, công khai rao giảng nước Thiên Chúa. Có ba điểm cần nhấn mạnh đến trong biến cố lịch sử trọng đại hôm nay.
Thứ nhất, như Gioan Tẩy Giả tuyên bố:”Tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần”. Như vậy, khi dìm mình xuống nước Ngài đã thánh hóa nước, biến nó trở thành phương tiện, để nhờ đó (qua Bí Tích Thanh Tẩy mà Chúa thiết lập sau này) con người có thể trở về với cội nguồn của mình, vết tì ố của tội tổ tông được xóa bỏ, con người được trở thành một tạo vật mới, được quyền làm con Thiên Chúa và thừa hưởng gia nghiệp vĩnh cữu của Ngài.
Thứ hai, Ngài đến để kiện toàn lề luật, do đo, ngoại trừ những luật lệ Ngài muốn điều chỉnh, còn lại Ngài luôn luôn tôn trọng lề luật, Ngài tuân giữ nghiêm chỉnh như bất kỳ một người Do Thái đạo đức nào -dù Ngài không nhất thiết phải làm như thế-. Điều này đáng làm cho chúng ta lưu ý về những giới luật của Hội Thánh Công Giáo. Thường thì chúng ta chỉ tập chú vào mười điều răn, và nghĩ rằng giữ mười điều răn là tốt rồi. Điều này rất đúng, nhưng chưa đủ. Vì Giáo Hội muốn chúng ta hoàn hảo, nên nhắc nhở những điều hệ trọng cần thiết, nếu Giáo Hội không nhắc nhở, giải thích, không bao giờ chúng ta tự hiểu cho đúng được cả. Vì ngày xưa Chúa ban lề luật (mười điều răn) qua Maisen. Nhưng Chúa Kitô đến để ban ân sủng và chân lý. Do đo, Ngài đã thiết lập những Bí Tích để chuyển thông ơn Thánh; cũng như để giải thích, dạy dỗ chân lý: Ngài dùng Hội Thánh Công Giáo vừa là công cụ, vừa là phương tiện, vừa là phương thế. Bởi vậy chúng ta chớ coi thường những điều răn, những giáo huấn của Hội Thánh. Nếu ngày xưa Chúa Cứu Thế còn phải tôn trọng lề luật, thì hôm nay chúng ta cũng phải tuân giữ giới luật của Giáo Hội một cách đàng hoàng.
Thứ ba, Đấng Cứu Thế tinh tuyền, vô tội đã tự đồng hoá mình với người tội lỗi, để cứu chuộc nhân loại. Còn những con người yếu đuối, tội lỗi như chúng ta? Bản tính nhân loại của Con Thiên Chúa được nối dài xuyên qua yếu tố con người trong các Bí Tích. Do đó chúng ta không cần phải tìm đâu xa xôi, vì chính Thiên Chúa đã hiện diện ngay trong Giáo Hội của Ngài, cụ thể nhất là trong các Bí Tích. Có điều chúng ta có đủ can đảm, khôn ngoan nhận ra mình là người có tội hay không! Có dám ăn năn thống hối để tìm đến với các Bí Tích hay không!
Tóm lại, trong ngày Chúa chịu phép rửa ở sông Jordan hôm nay, đúng là ngày hội lớn cho toàn thể nhân loại, ngày Chúa công khai rao giảng về ơn cứu độ, hé mở cánh cửa Thiên đàng. Ngài muốn nhắc nhở chúng ta một điều: hãy giảm bớt tính vô ơn, bù vào đó bằng sự cảm kích đối với những việc Ngài đã làm cho chúng ta. Ngài muốn chúng ta nhận thức rõ về cuộc đời: chỉ là một khoảnh khắc chuyển tiếp; là một cuộc hành trình ngắn ngủi -như cuộc đời rao giảng ngắn ngủi của Ngài- tiến về tương lai vinh quang mà Ngài đã dành được cho chúng ta. Nếu thật sự nhắm đến đích điểm của sự sống vĩnh cửu đó, chúng ta thấy rằng Chúa đã chịu muôn vàn đau khổ để nhân loại được vui sướng. Từ đó chúng ta sẽ cảm thấy những gian truân ở đời này, những khổ đau mà chúng ta đang gánh chịu, sẽ không nặng nề lắm; nếu so với hạnh phúc chung cuộc -mà Chúa đang chờ đón chúng ta- chỉ là những chuyện tầm thường.
65. Giây phút quyết định sứ mạng của Ngài--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi. DCCT
Ba mươi năm sống tại làng quê Nadarét, Chúa Giêsu đã được cha mẹ yêu thương, nâng đỡ, bao bọc, chở che và nơi gia đình Nadarét, Chúa Giêsu đã học làm người, sống kiếp người ngoại trừ tội lỗi. Rồi, ngày giờ đã tới, một hôm Ngài xếp hàng với các tội nhân, xin Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho Ngài nơi dòng sông Giorđăng. Chúa bắt đầu khai mạc sứ vụ công khai của Ngài theo ý Thiên Chúa Cha.Tin Mừng nhất lãm ghi lại: ” Đây là Con yêu dấu của Ta.Ta hài lòng về Người “. Chúa Giêsu đã làm cử chỉ rất khiêm hạ là cúi mình xuống để cho Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho mình và chính khi khiêm hạ, Ngài được Thiên Chúa Cha tôn vinh.
Chúng ta hiểu rõ phép rửa của Gioan là phép rửa thống hối, xin ơn tha tội. Phép rửa này dành riêng cho các tội nhân. Bởi vì, khi người ta có tội, khi người ta lỡ phạm tội thì mới cần ơn tha thứ, cần sự sám hối ăn năn. Cả ba Tin Mừng của thánh Matthêu, thánh Máccô và thánh Luca đều thuật lại biến cố đáng ghi nhớ và ấn tượng của Chúa Giêsu chịu phép rửa. Câu chuyện về việc Chúa Giêsu đến xin Gioan Tẩy Giả rửa tội cho mình bên dòng sông Giorđăng được cả ba tác giả kể lại chi tiết thật tỉ mỉ, ấn tượng.Thực tế, Chúa Giêsu là Đấng ba lần thánh, nghĩa là đại thánh, tuyệt thánh không cần phép rửa thống hối của Gioan, nhưng Chúa có thái độ, hành động và cử chỉ khiêm nhu như thế là để làm đẹp lòng Đức Chúa Cha đến nỗi Thiên Chúa đã tỏ mình ra khi Chúa Giêsu lãnh nhận phép rửa bởi tay Gioan. Khi Ngài lên khỏi nước,trời mở ra, Thánh Thần ngự xuống trên Ngài dưới hình chim bồ câu. Từ trời, có tiếng Chúa Cha phán: ”Con là Con Ta yêu dấu. Ta hài lòng về Người“ ( Lc 3,22 ).
Thiên Chúa Cha rất hài lòng về Chúa Giêsu bởi vì Ngài hiểu ý của Cha và tuân theo ý của Cha.
Trong biến cố quan trọng và đáng ghi nhớ khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, Chúa Thánh Thần đã xức dầu tấn phong Ngài. Ngài là Đấng Mêsia, là Đấng Cứu Độ nhân loại. Việc tự hạ của Ngài đã được Thiên Chúa tôn vinh. Tiếng Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Con của Ngài. Chúa Giêsu được Chúa Cha sai xuống trần gian, đến thế giới này với sứ mạng cứu rỗi nhân loại, cứu rỗi con người. Ngài đã được chính Chúa Cha giới thiệu với nhân loại Ngài là Con chí ái của Chúa Cha, và được Chúa Thánh Thần xức dầu để Ngài loan báo Tin Mừng cứu độ. Người Kitô hữu thuộc về Chúa Kitô, nên cũng được mời gọi loan báo sứ điệp yêu thương của Chúa Giêsu, vì Đạo của Chúa thiết lập là Đạo yêu thương đúng như bản chất của Chúa là Tình yêu.
Là Chúa, là Đấng đại thánh nhưng Chúa làm gương cho chúng ta qua việc Ngài cúi rạp mình khiêm hạ để Gioan thanh tẩy cho mình. Việc thanh tẩy, xóa tội luôn dành cho các tội nhân. Tuy nhiên, khi Chúa chịu phép rửa Ngài gợi lên cho chúng ta về một phép rửa khác: “ cuộc thống khổ và cái chết của Ngài trên thập giá để cứu độ trần gian “ đang chờ Ngài. Cuộc thanh tẩy không phải bằng nước của dòng sông Giođăng và được chính Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho Ngài, nhưng là bằng lửa và bằng máu của Ngài đổ ra trên thập giá để cứu chuộc muôn người.Phép rửa của Gioan là tiên trưng cho phép rửa mọi người sẽ lãnh nhận và con người sẽ được thanh luyện bằng chính máu của Chúa Giêsu, được cùng Ngài sống lại trong vinh quang và qui tụ thành một như Chúa thưa với Chúa Cha: ”Xin cho mọi người nên một“ (Ga 17, 11).
Là Kitô hữu nghĩa là thuộc về Chúa Kitô. Chúng ta được mời gọi chiêm ngắm Chúa Giêsu tự hạ. Bởi vì khi được rửa tội, chúng ta được nhận Chúa là Cha và mọi người là anh em với chúng ta. Chúng ta được tháp nhập với các Kitô hữu trong Hội Thánh và Khi được Chúa Thánh Thần xức dầu, chúng ta được hiệp nhất với Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúng ta được mời gọi lên đường phục vụ, cảm thông, chia sẻ và quảng đại đối với mọi người.
Vâng, phép rửa của Chúa Giêsu mở ra một kỷ nguyên mới. Chúa Giêsu là Ađam mới. Ađam xưa sa ngã, cùng với Evà kéo sự chết vào trần gian. Với phép rửa, Chúa Giêsu khai mào một kỷ nguyên tạo dựng mới. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Côlôsê đã viết: " Khi anh em chịu phép rửa, anh em được mai táng với Đức Kitô, và trong phép rửa tội ấy, anh em cũng được sống lại với Đức Kitô…Đã có thời anh em bị chết về mặt tinh thần, nhưng giờ đây Thiên Chúa đã mang đến cho anh em cuộc sống mới cùng với Đức Kitô“ (Cl 2, 12-13 ). Và thánh Phaolô nói tiếp: "Anh em đã được phục sinh để sống cùng với Đức Kitô. Vậy anh em hãy hướng tâm hồn anh em về những sự trên trời… Hãy giữ lòng trí luôn nghĩ đến những sự ở trên trời chứ đừng nghĩ đến những việc ở dưới đất này…” và “Sự sống đích thực của anh em là Đức Kitô và khi Ngài hiện ra thì anh em cũng được xuất hiện với Ngài để chia sẻ vinh quang của Ngài“ (Cl 3, 1-4 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con ơn hoán cải, để chúng con hoàn toàn được Chúa chiếm đoạt và hoàn toàn thuộc về Chúa, để chúng con dám ra đi phục vụ anh em, dám chia sẻ, cảm thông và giúp đỡ anh chị em đồng loại. Xin Chúa ban cho chúng con niềm vui, sự phấn khởi hân hoan vì Chúa luôn đồng hành với chúng con.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Phép rửa của Gioan là phép rửa gì?
2. Tại sao Chúa Giêsu lại xin Gioan thanh tẩy cho mình tại dòng sông Giorđăng?
3. Phép rửa của Chúa Giêsu là phép rửa gì?
4. Bạn nghĩ gì khi bạn dự một nghi lễ rửa tội?
66. Sự khiêm nhượng tuyệt đỉnh--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi. DCCT
Không ai hiểu được thánh Gioan Tẩy Giả rửa tội cho Chúa Giêsu bằng cách dìm Ngài xuống nước hay lấy nước đổ trên đầu Ngài? Tuy nhiên, nói gi thì nói nhưng việc Chúa Giêsu chịu phép rửa bởi tay ông Gioan tẩy giả cũng nói lên con người khiêm hạ thẩm sâu của Chúa Giêsu. Đấng sẽ rửa người ta trong Thánh Thần và nước lại cúi rạp mình chịu phép rửa bởi tay Gioan Tẩy Giả. Vấn đề không phải là dìm hay rửa, hay xối nước lên đầu của Chúa mà nói lên ý nghĩa và giá trị của việc ông Gioan Tẩy Giả làm cho Chúa Giêsu. Tin Mừng nhất lãm đều đồng loạt ghi lại:” Đây là con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người”. Thì ra Chúa Giêsu khi khiêm hạ chịu phép rửa sám hối, Ngài được Thiên chúa Cha tôn vinh.
PHÉP RỬA CỦA GIOAN TẨY GIẢ:
Phép rửa của Gioan đang làm trong dòng sông Giođăng là phép rửa thống hối, dành riêng cho các tội nhân. Đọc Tin Mừng nhất lãm chúng ta sẽ hiểu rõ câu chuyện Chúa Giêsu chịu phép rửa. Quả thế, cả ba Tin Mừng Matthêu, Marcô và Luca đều diễn tả chi tiết về việc Chúa xếp hàng cùng với đoàn người xin Gioan làm phép rửa cho mình. Chúa Giêsu là Đấng đại thánh, đáng lẽ không cần phải xin Gioan rửa tội cho mình. Gioan cũng hiểu điều đó. Do đó, Gioan đã nói với Chúa Giêsu:” Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa nhưng Ngài lại đến với tôi “. Chúa Giêsu muốn làm như thế để chứng tỏ lòng tuân phục tuyệt đối ý Chúa Cha. Chúa Giêsu là Đấng công chính. Ngài không cần phải được thanh tẩy vì Ngài hoàn toàn trong sạch, thánh thiêng. Chúa Giêsu hoàn toàn làm theo ý Chúa Cha. Do đó, Thiên Chúa đã long trọng tuyên bố Chúa Giêsu là con yêu dấu của Ngài. Người Cha nào cũng sung sướng và hài lòng khi con làm theo ý của mình. Làm được điều này điều nọ không quan trọng bằng việc làm theo ý của Cha khi người hiểu ý của Cha và tuân theo ý của Cha.
PHÉP RỬA TỘI CỦA CHÚA GIÊSU LÀM TA NHỚ LẠI VIỆC RỬA TỘI CỦA MỖI NGƯỜI CHÚNG TA:
Chúa Giêsu lãnh nhận bí tích rửa tội gợi cho ta nhớ lại phép rửa tội ngày chúng ta được rửa tội. Rửa tội là chúng ta được làm con cái Chúa và con cái của Giáo Hội. Tuy nhiên, chúng ta có trở nên người con dấu yêu và làm hài lòng Thiên Chúa hay không còn tùy thuộc thái độ của con người. Ta có lắng nghe tiếng Chúa, hiểu ý Chúa và làm theo ý Chúa hay không? Đức Giêsu Kitô đã tự hạ, cúi mình thẩm sâu để làm theo ý Chúa Cha. Chiêm ngắm Đức Kitô tự ha là chúng ta hiểu được thế nào là tình yêu:” một tình yêu sâu thẳm, vô biên”. Tình yêu hiến thân để cứu độ mọi người. Chiêm ngắm Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha nơi dòng sông Giođăng, chúng ta hiểu thế nào là tình yêu hiệp thông:” Con là Con của Cha. Hôm Nay, Cha đã sinh ra con”( Lc 3,22 ). Được rửa trong Chúa Thánh Thần, mỗi người chúng ta trở nên hiệp nhất với Thiên Chúa Ba Ngôi. Mỗi người chúng ta được mời gọi lên đường phục vụ, sống yêu thương và chia sẻ với hết mọi người trong Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế.
Đức Giêsu, Đấng thánh tuyệt đối lại chịu hóa thân làm kiếp người. Phép rửa của Chúa Giêsu mời gọi mỗi người lên đường phục vụ và chia sẻ Tin Mừng cứu độ cho mọi người. Được làm con của Chúa, chúng ta liệu có phải là ”con chí ái“ của Chúa hoặc được Chúa hài lòng hay không, tất cả đều tùy thuộc xem chúng ta có tìm hiểu ý Chúa và làm theo ý của Ngài hay không?
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn yêu mến phép rửa chúng con đã lãnh nhận và luôn luôn tìm ý Chúa, đồng thời thực hiện ý của Chúa. Amen.
67. Đây là Người Con Ta sủng ái--Lm. Nguyễn Hưng Lợi
Cái trớ trêu của một con người lên ngôi lãnh đạo người khác lại mở đầu ngai vàng của mình một cách hết sức đơn sơ, im lặng không đèn, không loa, không lọng. Đức Giêsu Kitô đã khai mạc sứ vụ công khai của Ngài bằng câu:"Hãy hối cải vì nước trời đã gần đến" (Mt 4, 17). Chúa mời gọi con người, nhân loại đi vào vương quốc của Ngài bằng sự khiêm nhượng và đơn sơ. Đây là mẫu gương để từng người và mỗi người noi gương bắt chước Ngài.
CHÚA MỞ ĐẦU SỨ VỤ KHÔNG KÈN LOA, LỘNG, TRỐNG:
Nếu trở về bên dòng sông Giorđan khi Chúa Giêsu đến để xin Gioan làm phép rửa con người sẽ hết sức ngạc nhiên và không khỏi khâm phục vì rằng Chúa sắp hàng cùng với lớp lớp tội nhân, chờ lượt mình được Gioan Tẩy Giả dìm vào nước làm phép rửa, cầu xin thống hối. Mở đầu một sứ mạng lớn lao, sứ vụ loan báo nước trời nhưng Chúa Giêsu không đọc diễn văn, chẳng trương cờ xí, không có rạp che, chỉ có nước chảy, ánh nắng, gió thổi và lá cây kêu xào xạc. Chúa đi vào hàng của nhiều người tội lỗi, khiến người bên cạnh không có ơn soi sáng không thể nhận ra đây là vị vua cứu Chúa, vị vua hòa bình. Chúa Giêsu có một thái độ, cung cách rất khiêm nhượng, nên Chúa Cha yêu thương Ngài, vì thế, khi Chúa Giêsu chịu phép rửa bởi tay Gioan Tẩy Giả, Thánh Thần Chúa lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên đầu Ngài và như thế, Chúa Giêsu đã đội vương miện bằng Chúa Thánh Thần.
Trong ngày đăng quang lãnh nhận sứ vụ của Ngài, Chúa Giêsu đã không cần có người xác nhận chức vị của Ngài mà chính Chúa Cha từ trời đã minh chứng rằng: “Chúa Giêsu là người con chí ái đẹp lòng Chúa Cha". Điều này cho nhân loại thấy rằng cung cách và thái độ đơn thành, khiêm cung của Chúa Giêsu đã làm Chúa Cha hài lòng về Ngài.
CHIỀU SÂU CỦA VIỆC CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA:
Với vẻ bề ngoài, Chúa Giêsu giống như mọi người và người ta đã lầm tưởng, ngộ nhận Gioan Tẩy Giả là Đấng mêsia, còn Chúa Giêsu nhân loại vẫn chưa nhận ra Ngài. Cung cách, Chúa Giêsu xếp hành với đám tội nhân chỉ ra rằng Chúa muốn đồng hóa với những con người bị loại trừ, bị người đời cho là tội lỗi vì Ngài hoàn toàn không có tội. Chúa Giêsu muốn đồng hóa với những con người tội lỗi để cứu chuộc họ.Chịu phép rửa trong dòng sông Giorđan, Chúa Giêsu đi vào việc hoán cải của toàn dân. Chịu phép rửa, Chúa Giêsu muốn dậy nhân loại, Ngài đã chấp nhận kiếp làm người, khước từ vinh quang(Philip 2, 7), Ngài đã đi vào lịch sử của dân tộc Do Thái, một dân cứng đầu cứng cổ, cần phải được cải hóa, cần phải trở về với Thiên Chúa. Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, Ngài cũng muốn cho mọi lớp người nhận ra Ngài là Đấng đã tự đồng hóa với những con người nhỏ bé, những con người bị xã hội loại bỏ, những con người mà thiên thần đã hát vang lên trong đêm giáng sinh:"…Bình an dưới thế cho người thiện tâm". Chúa đến, Chúa đăng quang, lãnh đạo không giống con người suy tưởng, mà Ngài đã sống tự hạ, phục vụ những kẻ bé nhỏ, chính khi phục vụ, cảm thông và chia sẻ với những kẻ khó, bần cùng là lúc Ngài thiết lập vương quyền của Ngài.
Hình ảnh phép rửa của Gioan Tẩy Giả bên dòng sông Giorđan là tiên trưng cho bí tích rửa tội mà Chúa Giêsu sẽ thiết lập. Ở đây ta thấy có một sự nghịch lý lớn lao, sự cúi mình của Con Thiên Chúa làm người, xin Gioan làm phép rửa tội trong nước sông Giorđan: có cả Ba Ngôi Thiên Chúa hiện diện cũng muốn nói cho nhân loại rằng mọi Kitô hữu khi được rửa tội, họ cũng được xóa sạch tội khiên và trở nên nghĩa thiết với Thiên Chúa vì mọi Kitô hữu sẽ được mời gọi phải sống khiêm nhu, dịu hiền, bác ái của Thầy mình(Bài đọc I).
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã xin Gioan làm phép rửa trong dòng nước sông Giorđan để làm gương hoán cải cho mọi người chúng con, xin cho chúng con luôn biết sống bí tích rửa tội mà chúng con đã lãnh nhận.
GỢI Ý CHIA SẺ:
1. Tại sao Chúa Giêsu lại xin Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho mình?
2. Phép rửa của Gioan Tẩy Giả khác với phép rửa của Chúa Giêsu như thế nào?
3. Bạn hiểu gì về bí tích rửa tội?
68. Người Kitô hữu--Lm. Trịnh Ngọc Danh
“Hồi đó, dân đang mong đợi và mọi người nghĩ trong lòng về Gioan rằng: “ Có lẽ chính ông là Đức Kitô chăng!” Gioan trả lời cho mọi người rằng: “ Tôi lấy nước mà rửa cho các ngươi, nhưng Đấng quyền năng hơn tôi sẽ đến, tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người: Chính Người sẽ rửa các ngươi trong Chúa Thánh Thần và trong lửa”(Lc. 3: 16-16)
Qua câu nói ngắn gọn của ông Gioan Tẩy giả, nhưng cũng gợi cho chúng ta nhiều vần đề cần suy nghĩ.
Điểm thứ nhất, ông Gioan làm phép rửa cho dân chúng, nhưng ông lại xác nhận phép rửa của ông khác với Bí tich Rửa tội của Chúa Giêsu. Ông Gioan chỉ rửa bằng nước, nhưng Chúa Giêsu rửa chúng ta trong Chúa Thánh Thần và trong lửa.
Phép rửa của ông Gioan bằng nước; đây mới chỉ là một nghi thức nhằm nhắc nhở và kêu gọi người ta ăn năn và sám hối để đón nhận ơn cứu độ của Đấng Mêsia; phép rửa này không có khả năng tẩy xoá tội lỗi, không có năng lực ban ơn thánh; nhưng phép rửa của Chúa Giêsu lại là phép rửa trong Chúa Thánh Thần và trong lửa, là một bí tích thông ban Chúa Thánh Thần, làm biến đổi con người nô lệ tội lỗi thành con cái Thiên Chúa và được thông hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên trời.
Nước trong bí tích rửa tội mà chúng ta đón nhận chỉ là một biểu tượng như là nguồn gốc của sự sống và sự chết: chết cho tội lỗi để sống vĩnh cửu với Thiên Chúa. Trong nghi thức rửa tội, chúng ta được dìm trong nước hay được đổ nước trên đầu là dấu chỉ việc tẩy xóa tội tổ tông và mọi tội riêng, được tái sinh làm con cái Thiên Chúa, được trở thành một con người mới trong Hội thánh, được mang danh là Kitô hữu, được đóng ấn tín nhân danh: Cha và Con và Thánh Thần.
Lãnh nhận Bí tích rửa tội là chúng ta được dìm trong sự chết và sự sống lại của Đức Kitô, để được tái sinh như một thụ tạo mới: “Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới” (2Cor 5:17), được ơn tái sinh và đổi mới do Thánh Thần: “Không phải tự sức mình, chúng ta đã làm nên những việc công chính, nhưng vì Thiên Chúa thương xót, nên Ngài đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới. Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta. Như vậy, một khi nên công chính nhờ ân sủng của Đức Kitô, chúng ta được thừa hưởng sự sống đời đời, như chúng ta vẫn hy vọng”. (Tt 3: 5-7), và được trở nên “con cái sự sáng”.
Điểm thứ hai, ông Gioan loan báo về một Đấng đến sau ông, quyền năng hơn ông, chính ông xác nhận ông không đáng cởi dây giày cho Đấng ấy;
Ngay sau khi Ngôi Hai, người Con yêu dấu của Chúa Cha ra đời, ba vị chiêm tinh từ phương Đông, những người chưa nhận biết Thiên Chúa, đã được Thiên Chúa mặc khải sự hiện diện của Con Thiên Chúa nơi trần gian và đã nhận ra vì sao lạ là vua Dân Do thái, và họ đã đến bái lạy Vị Vua ấy.
Qua việc Chúa Giêsu nhận phép rửa của ông Gioan trên sông Giođan, Thiên Chúa lại mặc khải cho chúng ta về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, về Một Gia đình Thiên Chúa có Ba Ngôi vị: “chính lúc Chúa Giêsu cũng đã chịu phép rửa xong, Người đang cầu nguyện, thì trời mở ra và Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Người dưới hình chim bồ câu và có tiếng từ trời phán: "Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha”. Ba Ngôi vị trong Gia đình Thiên Chúa: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Và ngày nay, khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta cũng được kết nạp vào Gia Đình ấy bằng ấn tín: “nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần”
Điểm thứ ba. Tại sao Chúa Giêsu lại chịu cho Gioan làm phép rửa khi Ngài là Con Thiên Chúa, Đấng không hề vương mắc tội như chúng ta?
“Như anh em biết, điều đã xảy ra trong toàn cõi Giuđa, khởi sự từ Galilêa, sau khi Gioan đã rao giảng và làm phép rửa: ấy là Chúa Giêsu thành Nadarét. Thiên Chúa đã dùng Thánh thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong cho Người. Người đi qua mọi nơi, ban bố ơn lành và chữa mọi người bị qủy ám, bởi vì Thiên Chúa ở với Người”(Cv. 10:37-38)
Việc Chúa Giêsu chịu để cho ông Gioan làm phép rửa không phải để được sám hối, nhưng để làm gương cho những ai muốn được ơn tái sinh, muốn được đổi mới nhờ ơn Chúa Thánh thần, và muốn tham dự vào mầu nhiệm sự chết và sự sống lại của Ngài, thì phải chịu dìm vào trong nước của Bí tích Rửa Tội.
“Bí tích Rửa Tội tha thứ tội nguyên tổ, mọi tội cá nhân và các hình phạt do tội. Bí tích này cho tham dự vào đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi nhờ ơn thánh hóa, nhờ ơn công chính hóa giúp tháp nhập vào Đức Kitô và Hội thánh Người. Bí tích này cho tham dự vào chức tư tế của Đức Kitô và tạo nền tảng cho sự hiệp thông với tất cả các Kitô hữu. Bí tích này trao ban các nhân đức đối thần và các hồng ân của Chúa Thánh Thần. Người lãnh nhận Bí tích Rửa Tội mãi mãi thuộc về Đức Kitô: họ được đóng dấu ấn không thể xóa được của Đức Kitô” (Bản Toát yếu Sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo. Số 263)
Đã lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, đã được ơn tái sinh trở thành con cái của Thiên Chúa, đã trở thành Kitô hữu trong Hội thánh, được kêu gọi làm môn đệ của Chúa Kitô để đem Tin Mừng cứu độ đến cho hết mọi người, mọi nơi, mọi thời đại… thế mà chúng ta lại quên vai trò của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống hằng ngày, quên Đấng đang đồng hành với chúng ta trong mọi noi, mọi lúc của cuộc sống, quên: “Cúi xin Chúa sáng soi, cho chúng con được biết việc phải làm, cùng khi làm, xin Chúa giúp đỡ cho mỗi kinh, mỗi việc chúng con, từ khởi sự cho đến hòan thành đều bởi nhờ ơn Chúa” (Kinh Sáng Soi)
Theo gương Chúa Giêsu, chúng ta cũng phải sống kết hợp với Ba Ngôi Thiên Chúa bằng cầu nguyện: Trước khi bắt đầu cuộc sống công khai, sau khi nhận phép rửa của Gioan, “Chúa Giêsu đang cầu nguyện và thì trời mở ra; và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình chim bồ câu và có tiếng từ trời phán: “Con là Con yêu dấu của Cha. Con đẹp lòng Cha”; về sau, khi tuyển chọn mưới hai tông đồ, trước khi bước vào cuộc tử nạn và trong cuộc sống hằng ngày, Chúa Giêsu luôn tìm nơi vắng vẻ để cầu nguyện, để sống kết hợp với Ba Ngôi Thiên Chúa.
Bí tích Rửa Tội là một trong ba Bí tích khai tâm Kitô Giáo, đó là ba Bí tích đặt nền tảng cho đời sống Kitô hữu. Chúng ta được tái sinh nhờ Bí tích Rửa Tội, được củng cố nhờ Bí tích Thêm Sức và được nuôi dưỡng nhờ Bí tích Thánh Thể.
“Như anh em biết, điều đã xảy ra trong toàn cõi Giuđa, khởi sự từ Galilêa, sau khi Gioan đã rao giảng và làm phép rửa: ấy là Chúa Giêsu thành Nadarét. Thiên Chúa đã dùng Thánh thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong cho Người. Người đi qua mọi nơi, ban bố ơn lành và chữa mọi người bị qủy ám, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv. 10:37-38)
Chúng ta cũng đã nhân Bí tích Rửa Tội, cũng được xức dầu và tấn phong làm con cái Thiên Chúa; cũng như Chúa Giêsu, chúng ta cũng phải thực hiện nhiệm vụ loan báo Tin mừng cứu độ cho hết mọi người, mọi nơi, mọi thời đại.
Chúa Giêsu chịu phép rửa trên sông Giođan, các môn đệ đón nhận Chúa Thánh Thần trong ngày lễ Hiện Xuống, chúng ta được rửa trong Chúa Thánh Thần, được mang danh Kitô hữu, được kêu gọi làm môn đệ, tất cả chúng ta đều có những nhiệm vụ mới, nhiệm vụ mang Tin Mừng đến cho mọi người, vì, như lời Thiên Chúa phán qua miệng tiên tri Isaia: “Ta là Chúa, Ta đã gọi ngươi trong công lý, đã cầm lấy tay ngươi, đã đặt ngươi thành giao ước của dân và nên ánh sáng của chư dân, để ngươi mở mắt cho người mù, đưa ra khỏi tù những người bị xiềng xích, đưa ra khỏi ngục những người ngồi trong tối tăm” (Is.42: 6-7)
Có một cụ già, mãi đến khi 80 tuổi ông mới được lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Bắt đầu từ ngày đó, ông sống một đời sống gương mẫu. Hai năm sau ngày ông chịu Bí tích Rửa Tội, có người gặp cụ, muốn biết cụ bao nhiêu tuổi; cụ dõng dạc trả lời: “Tôi mới có hai tuổi. Tám mươi năm trước là những năm chết. Tôi mới được tái sinh từ hai năm nay”
Thật chí lý! Có mấy ai trong chúng ta biết mình đã sống được bao nhiêu năm và đã chết bao nhiêu năm như cụ già kia!
69. Này là con Ta yêu dấu--Lm. Thu Băng
Ngôi nhà thờ Đức Bà Cả tại một tỉnh nhỏ đã xây xong, chỉ còn cây Thánh Giá trên chóp đỉnh ngọn tháp chưa hoàn tất. Nhưng dàn ráo không cao đủ. Thấy vậy, một người thợ to lớn vạn vỡ tình nguyện kiệu người thợ hàn trên vai để anh cho thể hàn cây Thánh Giá lên ngọn tháp. Mọi người nín thở đứng dưới nhìn và cuối cùng công việc đã hoàn tất tốt đẹp. Người thợ hàn nhảy xuống khỏi vai người kiệu mình. Rồi người thợ ấy cũng trèo xuống một cách chậm chạp. Khi xuống tới mặt đất, anh cởi áo ra và ôi chao hai vai cũng như cánh tay anh bị phỏng đỏ lừ. Tại vị khi gắn cây Thập Giá thì cây thiếc hàn chảy ra và rớt xuống từng giọt trên vai và hai cánh tay anh thợ cõng. Dù bị phỏng đau đớn, anh cũng không nhúc nhích vì khi nhúc nhích có thể làm anh thợ hàn bị té chết. Phải mất hai tuần lễ sau những vết phỏng trên cánh tay anh mới lành lặn hẳn.
Hôm nay chúng ta cũng gặp một người can đảm và hy sinh không kém anh thợ vạm vỡ là thánh Gioan Tiền Hô. Vì Chúa Cứu Thế mà thánh Gioan mặc áo lông cừu, ăn châu chấu rừng, ra trước công chúng và tuyên bố: "Này Con chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian" và đã không ngớt chỉ trích vua Herode đã phá luật công chính. Ngài thẳng thắn phản đối đến bị lụy vào thân và cuối cùng đã bị chặt đầu vì công lý. Sứ mạng của Ngài là loan báo Đấng Thiên Sai, là làm cho Chúa Giêsu được mọi người biết đến, và tôn nhận Ngài là Đấng Cứu Thế muôn dân mong đợi.
Chúng ta cũng được mời gọi làm chứng về Chúa như thế trước một xã hội không sống theo công lý, không sống công bình: Loạn luân, loạn tình loạn ý, giết hại con trẻ, đồng tình luyến ai, giết êm...
Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời công khai. Ngài truyền cho Gioan làm phép rửa cho Ngài. Đây là một phép thống hối giúp ta nhớ đến Phép Rửa tội được Chúa Kitô mời gọi gia nhập Giáo Hội Chúa, mời gọi ta trở thành tông đồ loan truyền Chúa Kitô cho muôn dân nhận biết. Ngài là Đấng Cứu Độ bằng cây Thập Giá, bằng cách sống đạo đức thánh thiện, bằng cách sống đúng tinh thần Chúa, bằng cách chia sẻ tình thân...... Lòng bác ái của chính cuộc sống Chúa cho người khác và cầu nguyện cho chính Chúa được mọi người nhận biết. Đây chính là lúc mà Chúa Giêsu đã chờ đợi cho mọi người nhận biết sự yếu đuối của mình và cần đến sức mạnh của trời cao. Chúa Giêsu không thể đi vào cuộc sống của chúng ta để biến đổi, nhưng cho tới khi chúng tá biết lỗi của mình và cần đến Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu nguyện để có thể nhận biết và chấp nhận Chúa Giêsu. Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp để biến đổi cuộc sống này trở thành một cuộc sống hạnh phúc và bình an
70. Thiên Chúa ở giữa chúng ta--Pt. Trần Văn Luận
Khi nói đến Phép Rửa là chúng ta liên tưởng đến Nước. Nước được sử dụng trong công việc hằng ngày như để tắm, giặt quần áo, nấu ăn, nhất là để uống. Cây cỏ và súc vật cũng cần đến nước để sống. Như vậy Nước là sự sống của vạn vật. Nước được dùng trong bí tích Rửa Tội để diễn tả việc thanh tẩy tội lỗi.
Bí tích Rửa Tội là cửa ngõ dẫn con người vào Giáo Hội. Bí tích Rửa Tội không những tha tội Nguyên Tổ mà còn tha những tội riêng đã phạm khi người trưởng thành lãnh nhận. Điều quan trọng hơn nữa là ta trở nên con Chúa. Bí tích Rửa Tội biến đổi con người tội lỗi trở nên trong trắng thánh thiện, một tạo vật mới.
Thánh Gioan được vinh dự làm Phép Rửa cho Chúa Giêsu, nhưng Ngài đã khiêm nhượng nhận mình không đáng cởi dây giầy cho Đấng đến sau. Gioan đã hạ mình xuống để cho Chúa được nâng lên. Còn chúng ta thì sao? Nếu có dịp được khoe khoang thì chắc chúng ta sẽ vênh vang coi thiên hạ như rác rưởi, và ngay cả Thiên Chúa chúng ta cũng không coi ra gì.
Môi sen bước xuống nước (Biển Đỏ) để dẫn dân Do Thái về đất hứa. Chúa Giêsu bước xuống nước (sông Gio Đan) để công khai rao giảng Tin Mừng dẫn nhân loại về Thiên Đàng. Vì chính Chúa đã nói: "Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống". Nếu chúng ta đi theo đường Chúa đã vạch ra thì không sợ lạc và chắc chắn sẽ tới đích là Thiên Quốc.
Gioan làm Phép Rửa bằng Nước, kêu gọi mọi người ăn năn sám hối để được cứu rỗi. Chúa Giêsu đã dùng Máu của Ngài để tẩy rửa tội lỗi cho nhân loại. Qua bí tích Rửa Tội chúng ta được hiệp thông vào Nhiệm Thể Chúa Kitô, được thanh tẩy bởi Máu Thánh và được nuôi dưỡng bằng Thịt và Máu của Ngài trong bí tích Thánh Thể.
Trong mỗi Thánh Lễ, bánh và rượu biến đổi nên Mình Máu Chúa để rồi được chia ra cho mọi người. Chúng ta có biến đổi nên giống Chúa Kitô hơn mỗi khi nhận Mình Máu Chúa và can đảm phân phát Tin Mừng cho người khác như Thánh Gioan đã can đảm rao giảng nước trời, và can đảm nói lên sự thật để rồi phải chịu chém đầu, hay chúng ta ru rú như con dán ngày không dám ló mặt ra ngoài vì sợ cười chê, và cũng không hề biến đổi mặc dầu mang danh là người có đạo mấy chục năm rồi?
Ta tìm Chúa hay Chúa tìm ta? "Này đây trinh nữ sẽ thụ thai và sinh con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta" (Mt 1, 23). Đó là câu Phúc Âm chúng ta mới nghe trong Lễ Giáng Sinh. "Thiên Chúa ở cùng chúng ta": Emmanuel. Hôm nay Chúa đến với Gioan và ở giữa đám đông quần chúng. Chúa đến thế gian để tìm chúng ta và đưa chúng ta về với Chúa. Chúng ta không phải mất tiền của thì giờ để tìm Chúa, vì Chúa đang ở giữa chúng ta. Hãy mở lòng đón nhận Chúa, hãy từ bỏ những thói hư tật xấu để tập những nhân đức tốt lành. Đừng chần chờ nữa vì Chúa đang dang tay chờ đón, dù có tội lỗi thế nào chăng nữa Máu Chúa cũng tẩy sạch mọi vết nhơ của ta.
Lạy Chúa, qua bí tích Rửa Tội Chúa đã biến đổi con nên một con người mới, xin cho con biết luôn đổi mới để trở nên tốt lành hơn mỗi ngày.
71. Đây con Cha yêu dấu--Lm. Minh Vận
Hồi thế kỷ IV, Ariô, một ông vua đã dám lợi dụng uy thế của ông trong suốt triều đại trên ngôi vị Hoàng Đế, để truyền bá một lạc thuyết độc hại này là: "Đức Giêsu Kitô không phải là Con Thật của Thiên Chúa". Sau khi băng hà, Thái Tử Theodosiô lên ngôi thế vị vua cha, cũng lại nỗ lực cổ võ và thổi phồng cái tà thuyết lầm lạc của Ariô... Thế rồi, vào dịp Hoàng Đế Theodosiô truyền mở cuộc tiếp tân rất long trọng mừng sinh nhật thứ 16 của Thái Tử Acadiô, Hoàng Đế Theodosiô rất cưng Thái Tử của ông, đến nỗi ông đã đặt Thái Tử ngự trị trên ngai vàng, như một vị Tân Vương, đồng trị nước với ông, và coi Thái Tử như một người bạn đồng hàng.
Trong các thượng khách dự tiệc, có một vị Giám Mục rất thời danh, đó là Đức Cha Anphilocô, sau khi dâng đôi lời chúc mừng, ngài sửa soạn ra về; thì lập tức Hoàng Đế Theodosiô bầng bầng nổi cơn lôi đình, giận dữ quát lớn tiếng với Đức Giám Mục: "Người không chú trọng gì đến Thái Tử cưng yêu của trẫm sao? Ngươi không biết rằng, trẫm đã đặt Thái Tử lên, như người bạn ngang hàng đồng trị nước với trẫm sao?"
Đức Giám Mục đã anh dũng đáp lại: "Tâu Hoàng Đế, ngài tỏ ra phẫn nộ về sự thiếu sót bên ngoài của tôi đối với Thái Tử quí yêu của ngài; bởi tôi đã tỏ ra không tôn trọng Thái Tử như tôi đã kính trọng ngài. Vậy thưa ngài, Thiên Chúa Đấng vĩnh cửu và toàn năng sẽ phải có thái độ nào đối với ngài, khi ngài đã dám hạ bệ, dám thóa mạ phẩm giá Đức Giêsu Kitô, là Con Một Yêu Dấu, đồng hằng hữu, đồng quyền năng, đồng cấp bậc với Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa chân thật?"
I. CHÚA CHA TUYÊN DƯƠNG CON MỘT NGƯỜI
Hôm nay, nhân ngày mừng kính Mầu Nhiệm Chúa Kitô chịu Phép Rửa, Giáo Hội trưng lại bài sách tiên tri Isaia, lời Thiên Chúa Cha tuyên xưng Con Một Yêu Dấu của Người: "Này là Tôi Tớ mà Ta nâng đỡ, là Người Ta tuyển chọn, Ta hài lòng về Người. Ta ban thần trí Ta trên Người..." Và sau khi ca ngợi lòng nhân từ dịu hiền và trung thành của Chúa Con, Chúa Cha đã tiếp lời tuyên dương: "Ta đặt Con làm giao ước của dân và nên ánh sáng của muôn dân, để Con mở mắt cho người mù, đưa ra khỏi tù những người bị xiềng xích, đưa ra khỏi ngục những người ngồi trong bóng tối tăm!" (xem Is 42:1-4, 6-7)
Thánh Phaolô cũng đã cao lời tuyên xưng: "Chúa Giêsu thành Nazareth, là Đấng Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng của Ngài mà xức dầu tấn phong cho Người. Người đi qua mọi nơi, ban bố ơn lành và chữa mọi người bị quỉ ám, bởi vì Thiên Chúa hiển ngự nơi Người" (xem Act 10:38).
Mầu Nhiệm Chúa chịu Phép Rửa nêu cho chúng ta thấy tấm gương vô cùng khiêm nhu của Chúa Cứu Thế, Đấng là Ngôi Hai Thiên Chúa cao cả, là Con Một Duy Nhất, Chúa Cha sai đến cứu chuộc trần gian, đã không nệ nhập thể, mặc lấy thân phận tôi đòi, đến chịu Phép Rửa bởi Gioan tại sông Jordan như một tội nhân.
Người càng hạ mình xuống, thì Chúa Cha càng tôn vinh Người, nên khi Người vừa ra khỏi nước, các tầng trời liền mở ra và Thánh Thần như hình Chim Bồ Câu ngự xuống trên Người, tấn phong cho Người và tiếng Chúa Cha từ trời tuyên phán: "Con là Con Yêu Dấu của Cha, Con hằng đẹp lòng Cha" (xem Mc 1:11).
II. SỨ MẠNG CỦA CHÚNG TA LÀ GÌ
Hiện trạng của thế giới hôm nay, một chủ thuyết độc hại và nham hiểm nhất là thuyết vô thần, họ chủ trương chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa, chối bỏ Đức Giêsu là Con Một Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ trần gian và còn biết bao triết thuyết độc hại khác nữa cùng toa rập, trực tiếp hoặc gián tiếp xóa bỏ niềm tin, chối từ tôn giáo; đặt khoa học, đặt tự do và vật chất lên hàng đầu, vượt trên hết tất cả, không khác gì Ariô và Theodosiô, bọn họ đã nỗ lực cổ võ dùng mọi mánh khóe xảo quyệt cách khoa học, để chối bỏ Thiên Chúa, loại bỏ Ngài ra khỏi đời sống con người, tạo nên biết bao đồi phong bại tục như ly dị, phá thai, đồng tính luyến ái, hôn nhân bất hợp pháp; thêm vào đó, còn biết bao sách báo, phim ảnh, màn kịch vô luân, tục hóa tôn giáo: Nào bộ phim the Last Temptation, nhằm xóa nhòa thiên tính Chúa Kitô và kết tội Ngài vô luân, bộ phim Hail Mary nhằm thóa mạ Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, bộ phim Monsignors, nhằm bôi xấu Giáo Hội Công Giáo...
Mừng Lễ Chúa chịu Phép Rửa, chúng ta cùng nhau dâng lời cảm tạ Chúa vì muôn ơn lành Chúa đã ban chúng ta, nhất là đặc ân chúng ta đã được trở nên con cái Chúa do việc lãnh nhận Nhiệm Tích Thánh Tẩy.
Với danh hiệu là Kitô Hữu, là con cái Thiên Chúa, là người mang Chúa Kitô trong bản thân, người thuộc về Chúa Kitô, chúng ta hãy tự hồi tâm kiểm điểm, chúng ta đã sống thế nào để cân xứng với danh hiệu diễm phúc ấy? Tha nhân đã thực sự thấy hình ảnh Chúa Kitô, tinh thần Chúa Kitô, giáo lý Chúa Kitô hiển hiện nơi cuộc sống và cách cư xử của chúng ta, khiến tha nhân sinh lòng cảm phục và noi theo bắt chước chúng ta chưa?
Kết Luận
Gioan khi chu toàn sứ mạng là Tiền Hô của Chúa Cứu Thế, đã khiêm tốn tuyên xưng trước mọi người: "Có Đấng đến sau tôi, nhưng quyền năng hơn tôi, tôi không xứng đáng quì xuống cổi giây giầy cho Người!" (Mt 3:11) Trong mọi dịp, ngài luôn đề cao Đấng đã sai ngài, còn ngài thì, luôn ẩn mình đi, che dấu mình đi, trong một châm ngôn bất hủ: "Người cần phải được trổi lên, còn tôi phải hạ xuống!" (Jn 3:30)
Còn chúng ta, chúng ta đã làm thế nào khi chúng ta thi hành Sứ Mạng Tông Đồ, rao giảng và trao ban Chúa Kitô cho các linh hồn?
72. Quí tử thiên đường--Br. B.M. Thiện Mỹ
Ở Hoa Kỳ, ông Bim là chủ một nông trại nuôi bò rất lớn. Ông được mọi người gọi ông là “Ông Bim quảng đại” vì ông rất thương người, sẵn sàng giúp đỡ mọi người, nhất là những người nghèo khó bệnh tật.
Ông chỉ có đứa con trai duy nhất. Rủi thay trong chuyến đi nghỉ cuối tuần bị tai nạn xe hơi, làm cho vợ và đứa con một của ông thiệt mạng!
Trong những ngày đau buồn, ông đi lang thang trong nông trại, bỗng ông gặp một đứa bé ăn mặc rách rưới bơ vơ. Ông gọi nó đến hỏi thăm gia cảnh của nó, mới biết nó là đứa trẻ mồ côi, tên là Jimi sống nay đây mai đó nhờ lòng hảo tâm của mọi người. Ông thương đem nó về nuôi và làm chúc thư cho nó:
“Nếu ngày nào tôi chết, tất cả tài sản của tôi sẽ để lại cho Jimi, đứa con nuôi của tôi”. Bạn hữu ông nghe biết thế thì ngạc nhiên hỏi:
-Sao bạn làm thế!
-Vì tôi thương nó. Nó giống con tôi. Tôi nhìn thấy con tôi trong nó.
Chúng ta là con cháu Adong Eva, chúng ta bị mất ơn Chúa do tội nguyên tổ và sống tất tưởi như đứa trẻ mồ côi. Nhưng dù sao chúng ta cũng là hình ảnh đẹp đẽ của Thiên Chúa theo chương trình sáng tạo của Ngài. Rồi qua lời hứa Chúa Cứu Thế nhờ phép rửa tội, chúng ta lại được trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa và được làm gia nghiệp khi lãnh nhận muôn vàn ân sủng để rồi chúng ta được sống lại với Đức Kitô trong vinh quang Thiên Quốc. Vì thế vinh dự trọng đại nhất là muôn đời được làm con Thiên Chúa như thứ nhất của Thánh Gioan có chép: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu thương chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa” (1Jn.3,1).
Qua đó, bí tích Thánh Tẩy là căn nguyên cho tất cả đời sống Kitô hữu, của mọi bí tích, mọi ân sủng mà chúng ta sẽ lãnh nhận cho đến khi lìa cõi thế. Trong Tin Mừng hôm nay có ba dạng phép rửa khác nhau:
1. Phép rửa của Gioan Tẩy Giả là phép rửa sám hối, giúp người ta ăn năn tội lỗi. Đó là bước đầu của hành trình Đức Tin, như lời Người chứng minh: “Tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để thúc giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa” (Mt. 3,11).
2. Phép rửa của Chúa Giêsu là phép rửa tái sinh, ban cho người lãnh nhận một đời sống mới hoàn toàn, như Thánh Phaolo xác quyết: “Anh em đã cùng được mai táng với Đức Kitô khi chịu phép rửa… nay Thiên Chúa đã cho anh em được cùng sống với Đức Kitô” (Cl. 2,12).
3. Còn phép rửa Thánh Gioan Tẩy Giả làm cho Chúa Giêsu mà Tin Mừng thuật lại hôm nay là phép rửa mặc khải, vì sự việc bày tỏ cho chúng ta biết: Thiên Chúa đã từ trời xuống thế gian, Chúa Thánh Thần bắt đầu cuộc tạo dựng mới, Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Adong mới trong công cuộc tái tạo thế giới.
Từ xưa tới nay trong Giáo Hội có một số người hay thắc mắc rằng: "Tại sao Chúa Giêsu lại đến với Thánh Gioan để chịu phép rửa? Vì chúng ta tin rằng Chúa Giêsu là Đấng vô tội.” Có phải vì lý do lời kêu mời rao giảng thống hối của Thánh Gioan mà Chúa Giêsu cảm nhận tội lỗi và giục lòng sám hối ăn năn không?
-Thánh Luca nói việc Chúa Giêsu chịu phép rửa thống hối như dân chúng không phải là nói Ngài thống hối cho mình, vì Người hoàn toàn vô tội, nhưng là để Ngài đền bù thay cho nhân loại. Việc Chúa Giêsu chịu phép rửa cũng là báo trước việc Chúa chịu phép rửa cuối cùng của Người trên Thập Giá (Lc. 12,50) để đền tội thay cho nhân loại. Các Đấng Giáo Phụ nói: Có nhiều lẽ khiến Chúa Giêsu làm như thế. Ngài chịu phép rửa để nêu gương khiêm nhượng cho dân chúng và để khuyến khích họ chịu phép rửa của Thánh Gioan, đồng thời để tỏ sự ưng thuận việc Đấng Tiền Hô đã làm. Sau nữa Ngài xuống nước chịu rửa để thông cho nước sức thiêng liêng mà tắm rửa linh hồn người ta trong phép thanh tẩy Ngài sẽ lập sau này. Cho nên không có kết cấu giữa nghi thức tẩy rửa và sự hiển linh của Ngài. Nghi thức tẩy rửa biểu lộ sự liên đới hoàn toàn giữa Chúa Giêsu và dân chúng. Còn sự hiển linh xảy ra đang khi cầu nguyện.
Sau đây chúng ta cùng nhau suy niệm về sự hiển linh của Chúa Giêsu:
1. “Trời mở ra”: Theo truyền thống Do Thái, từ thời các ngôn sứ cuối cùng thì các tầng trời nơi Thiên Chúa đã khép lại rồi. Ngôn sứ không còn nói nữa, nên mối liên lạc giữa Thiên Chúa và loài người cũng bị cắt đứt. Bởi thế hôm nay là một thời đại mới đã bắt đầu mở màn, mối liên lạc giữa Thiên Chúa và loài người được tái lập.
2. “Thánh Thần ngự xuống trên Người”: Trước khi Đức Giêsu đến, Thần Khí như đã bị dập tắt: Người không còn ngự xuống để tác động thêm những ngôn sứ mới. Việc Chúa Giêsu vừa lên khỏi nước sông Giodan liền thấy Thần Khí ngự xuống trên mình, chỉ định người làm vị ngôn sứ của thời đại mới.
3. “Con yêu dấu của Cha”: Thiên Chúa chứng thực cho sứ mạng của Đức Chúa Giêsu: Người không chỉ là một ngôn sứ như bao ngôn sứ khác. Nhưng Thiên Chúa Cha giới thiệu cho nhân loại về Thiên Tính của Chúa Giêsu, con Thiên Chúa, khởi sự sứ mệnh cứu chuộc nhân loại.
Như vậy qua bài Phúc Âm hôm nay chúng ta hiểu rõ được giá trị của bí tích rửa tội, chúng ta phải ý thức sống những điều đã được đoan hứa thay cho mình trong lúc chịu Thanh Tẩy, nghĩa là phải thực thi những thỉnh cầu, những lời thề hứa, những đoan nguyền từ bỏ Satan. Chiếc áo trắng Giáo Hội trao cho, chúng ta hiểu rằng mình phải luôn giữ tâm hồn tinh tuyền cho tới ngày Chúa phán xét. Từ sự quí trọng bí tích rửa tội chúng ta phải biết sống xứng đáng với ơn Chúa, đồng thời tích cực tham gia vào việc rửa tội cho người khác bằng lời cầu nguyện, nhất là học biết rửa tội cần thiết cho các linh hồn trong khi nguy tử.
Xin Mẹ Maria luôn trợ giúp cho tính mỏng giòn yếu đuối của con người và che chở trong tà áo Vô Nhiễm của Mẹ để chúng con luôn được thanh tẩy khỏi tội lỗi và những đam mê tật xấu, hầu xứng đáng là nghĩa tử yêu dấu của Nước Trời.
73. Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển
TRỞ NÊN GIỐNG CHÚA ĐỂ LOAN BÁO TIN MỪNG CỨU ĐỘ
Người ta có kể một câu chuyện đầy cảm động rằng: có một linh mục nọ, được Tòa Thánh bổ nhiệm làm giám mục của một Giáo phận truyền giáo với số giáo dân vỏn vẹn có vài ngàn người. Toàn Giáo phận duy chỉ còn một linh mục già trên dưới 100 tuổi và một nữ tu cũng gần đất xa trời. Giáo lý viên thì không có; các hội đoàn đã tan rã; nhà thờ không còn đáng là bao, hoặc có còn thì cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay, nhưng có lẽ giống như nhà hoang thì đúng hơn, vì không có người chăm nom! Giáo dân gần như không được tham dự thánh lễ vì lý do không có linh mục. Cuộc sống cứ thế trôi đi, khiến số tín hữu thưa thớt này cũng không còn tha thiết với việc đi lễ, nhà thờ hay kinh hạt nữa...!
Đón nhận Giáo phận trong tình trạng xuống cấp trầm trọng như thế, vị Giám mục này đã bắt tay vào việc:
Ưu tiên của ngài trước tiên là đào tạo nhân sự, thiết lập các hội đoàn, khơi gợi lại tinh thần sống đạo. Tuy nhiên, điều mà ngài phải làm ngay, đó là: chính ngài phải kinh qua tất cả những những vai trò như: làm ca trưởng, giáo lý viên, ông từ kéo chuông, mở cửa nhà thờ và cất kinh, làm các chú lễ sinh dọn lễ, người phu quét dọn nhà thờ...
Khi nghe thấy tin mong manh ở đâu có người Công giáo, dù xa xôi hàng trăm kilômét, ngài cũng lặn lội tới thăm cho bằng được, để an ủi, động viên, khích lệ và khơi gợi lên trong họ ngọn lửa của niềm tin...
Chính vì lối sống của ngài như vậy, mà chẳng mấy chốc, giáo dân đến nhà thờ đông lên, đời sống đạo có phần khởi sắc, chương trình giáo lý được gây dựng lại, các hội đoàn được tái lập, nhiều nhà thờ mới mọc lên, có các bạn trẻ xin đi tu... tại vì họ thấy: “Ông này chơi được, vì ông ý giống Đức Giêsu”. Đây là lối nói thể hiện lòng kính trọng, quý mến của người dân địa phương nơi đây.
Nhiều người đặt vấn đề: liệu có cần phải làm như thế trong tư cách là một giám mục không? Câu trả lời là không! Nhưng vì lòng mến Chúa, yêu quý các linh hồn và tha thiết với sứ vụ, nhất là ngài đã lựa chọn con đường tự hủy, khiêm hạ, liên đới và cảm thông với con chiên của mình, nên vì họ, mà ngài đành mất tất cả, chỉ cần được mối lợi tuyệt vời là Đức Kitô và miễn sao Ngài được rao giảng (x. Pl 1,18)
Đời sống của vị giám mục trong câu chuyện trên đã phản ánh phần nào đời sống của Đức Giêsu, nhất là làm sống lại tinh thần của biến cố Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông Giorđan khi xưa.
1. Ý nghĩa của việc Đức Giêsu chịu phép rửa
Thánh sử Luca trình thuật: để đánh dấu đời sống công khai thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng cứu độ, Đức Giêsu đã đến xin ông Gioan Tẩy giả làm phép rửa tại sông Giorđan.
Trước tiên, Ngài xin Gioan làm phép rửa cho mình không phải là Ngài có tội như mọi phàm nhân, nhưng Ngài đến xin Gioan làm phép rửa là nhằm thánh hóa dòng nước để thanh tẩy trong Bí tích Rửa Tội mà Ngài sẽ thiết lập sau này.
Thứ đến, sự kiện này cho thấy: Đức Giêsu tiếp nối giữa Giao ước cũ và Giao ước mới; tiếp nối giữa lời rao giảng của vị tiên tri cuối cùng với lời loan báo của chính Ngài để thiết lập một triều đại mới, triều đại của những người được cứu chuộc bằng chính giá máu của Đấng thiết lập nên mình.
Mặt khác, Đức Giêsu hòa mình trong đoàn người đó để nêu gương khiêm hạ cho mọi người. Vì thế, việc Ngài chịu phép rửa, không phải cho Ngài, mà là cho chúng ta, vì chúng ta. Hình ảnh Ngài sáp nhập cùng dòng người đến xin Gioan ban phép rửa cho thấy: từ nay, Đức Giêsu đứng về phía người tội lỗi không phải để cổ võ họ phạm tội, mà là tìm cách đưa họ ra khỏi con đường tội lỗi, tiến đi trên con đường thánh thiện, công chính để được cứu chuộc.
Hơn nữa, hành vi của việc lãnh nhận phép rửa nơi Đức Giêsu loan báo chính cái chết và sự phục sinh của Ngài: dìm mình xuống nước là biểu hiệu cái chết, trồi lên khỏi nước là loan báo sự sống lại.
Cuối cùng, Thiên Chúa mặc khải cho ta biết một cuộc phong vương của Thiên Chúa Cha cho con Chí Ái của mình, để Ngài ra đi thiết lập một vương quốc mới với thần dân là những người thuộc về Vị Vua hiền lành, khiêm nhường, yêu thương và tha thứ...
2. Sống sứ điệp Lời Chúa
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta ý thức hồng ân lớn lao mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta cách nhưng không, đó là hồng ân của Bí tích Rửa Tội.
Qua Bí tích này, chúng ta được trở nên con Thiên Chúa, được thanh tẩy mọi tội lỗi, từ tội nguyên tổ cho đến những tội riêng của chính mình. Do đó, chúng ta được dìm mình vào trong một khuôn đúc mới, để xuất hiện một hình ảnh mới, hình ảnh của Đức Kitô phục sinh. Kể từ đó, chúng ta được gọi là Kitô hữu, trở nên “một tạo vật mới” (2Cr 5,17), nghĩa tử của Thiên Chúa (x. Gl 4,5-7), được thông phần vào sự sống thần linh (x. 2Pr 1,4), trở nên người thừa kế của Đức Kitô (x. Rm 8,17) và được gọi là đền thờ của Chúa Thánh Thần (x. 1Cr 6,19).
Qua đó, chúng ta được mời gọi trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô cách sống động khi sẵn sàng khước từ những điều không phù hợp với giá trị Tin Mừng như thánh Phaolô khuyên dạy: “Anh em hãy mặc lấy Đức Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng”(Rm 13,14). Mặc lấy Đức Kitô là từ bỏ ý riêng, sống tinh thần tự hủy, chết đi cho tội lỗi, để trở nên chính Ngài: “Tôi sống, nhưng không phải là tôi sống, mà chính Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Vì thế: “Những người tin theo Đức Kitô được mệnh danh là Kitô hữu, nghĩa là thuộc về Đức Kitô, nên họ đã và phải có một tâm tình như Đức Kitô. Họ không sợ chết. Họ không sợ hình khổ. Họ không sợ bách hại. Bởi vì họ đã đi cùng một đường với Chúa” (Tertullianô).
Như vậy, mỗi người Kitô hữu chúng ta khi đã được gia nhập Giáo Hội, trở thành đoàn dân của những người tin Chúa, chúng ta có trách nhiệm phản ánh chân thực bản chất của người Công Giáo là yêu thương, không lấy oán báo ơn; không thù hằn ghen ghét, không phân biệt giai cấp, không coi rẻ người nghèo, không khinh khi người có tội... sống công bằng không tham lam, bóc lột, hối lộ, nêu cao gương bác ái, liên đới, sẻ chia, và nhất là sống và làm chứng cho sự thật, bởi vì chúng ta thuộc về nước của Sự Thật.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con biết mặc lấy sự khiêm nhường, liên đới của Chúa, để chúng con sống xứng đáng là con của Cha trên trời, và là anh chị em với nhau nhờ được liên kết với Chúa là đầu của Giáo Hội. Amen.
74. Đức khiêm nhường--Trầm Thiên Thu
Chúa Giêsu hoàn toàn không hề có tội vì Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài vẫn lãnh nhận Phép Rửa. Ngài để cho ngôn sứ Gioan làm Phép Rửa cho Ngài trong dòng sông Gio-đan vì Ngài muốn nêu gương khiêm nhường cho chúng ta. Khiêm nhường rất cần cho bất cứ ai, vì khiêm nhường là nền tảng của mọi nhân đức.
Can đảm để làm gì?
Thiên Chúa phán: “Hãy an ủi dân Ta. Hãy ngọt ngào khuyên bảo Giêrusalem, và hô lên cho Thành: thời phục dịch của Thành đã mãn, tội của Thành đã đền xong, vì Thành đã bị tay Đức Chúa giáng phạt gấp hai lần tội phạm” (Is 40:1-2). Chúa rất nhân từ, Ngài nói rõ là “an ủi” và “ngọt ngào khuyên bảo” người khác, chứ Ngài không bảo dùng “quyền” mà “hành” người khác, hoặc dùng “mệnh lệnh” mà “trấn áp” người khác. Lời Ngài rất đáng để chúng ta phải tự nghiêm túc xét lại mình.
Có tiếng hô to: “Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta. Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống, nơi lồi lõm sẽ hoá thành đồng bằng, chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu. Bấy giờ vinh quang Đức Chúa sẽ tỏ hiện, và mọi người phàm sẽ cùng được thấy rằng miệng Đức Chúa đã tuyên phán” (Is 40:3-5). Sa mạc là nơi hoang vu, tĩnh mịch, vắng vẻ. Sa-mạc-tâm-hồn cũng rất cần cho chúng ta, đó là những giây phút tịnh tâm, nhất là những buổi tối, hoặc những ngày cấm phòng. Vì khi ở trong “sa mạc”, chúng ta có thể nhận biết mình rõ hơn, và nhờ đó mà có thể mở đường rộng, vạch đường thẳng, san núi đồi, lấp thung lũng, san bằng chỗ gồ ghề,… để đến với Thiên Chúa và tha nhân.
Ngôn sứ Isaia kêu gọi: “Hỡi kẻ loan tin mừng cho Sion, hãy trèo lên núi cao. Hỡi kẻ loan tin mừng cho Giêrusalem, hãy cất tiếng lên cho thật mạnh. Cất tiếng lên, đừng sợ, hãy bảo các thành miền Giuđa rằng: “Kìa Thiên Chúa các ngươi!” (Is 40:9). Lên cao và nói to, sống đúng sự thật thì không gì phải sợ ai. Chính Đức Kitô vẫn thường xuyên động viên: “Đừng sợ!” (Mt 10:26; Mt 10:28; Mt 10:31; Mt 14:27; Mt 17:7; Mt 28:5; Mt 28:10; Mc 5:36; Mc 6:50; Lc 1:13 & 30; Lc 2:0; Lc 5:10; Lc 12:4; Lc 12:7; Lc 12:32; Lc 21:9; Ga 6:20).
Tại sao không sợ? Ngôn sứ Isaia cho biết: “Kìa Đức Chúa quang lâm hùng dũng, tay nắm trọn chủ quyền. Bên cạnh Người, này công lao lập được, trước mặt Người, đây sự nghiệp làm nên. Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40:10-11). Muốn “đừng sợ” thì phải có lòng can đảm, muốn can đảm thì phải tập bằng cách tự động viên mình. Hãy hít sâu, nắm chặt hai bàn tay, và thở mạnh, cảm giác sẽ khác hẳn. Nhưng đừng quên hướng về Đức Kitô.
Hãy tự nhủ như tác giả Thánh vịnh: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi!”, và thân thưa với Chúa: “Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả!” (Tv 104:1a). Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ rất khác biệt, không như bất kỳ thần thánh nào khác: “Áo Ngài mặc: toàn oai phong lẫm liệt, cẩm bào Ngài khoác: muôn vạn ánh hào quang. Tầng trời thẳm, Chúa căng như màn trướng, điện cao vời, dựng trên khối nước cõi thanh không. Chúa ngự giá xe mây, Ngài lướt bay cánh gió” (Tv 104:1b-3).
Đoàn tùy tùng của Ngài cũng hoàn toàn kỳ lạ: “Sứ giả Ngài là làn gió bốn phương, nô bộc Chúa là lửa hồng muôn ngọn” (Tv 104:4). Các việc Ngài làm vô số và không ai khả dĩ hiểu thấu: “Công trình Ngài, lạy Chúa, quả thiên hình vạn trạng! Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan, những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất” (Tv 104:24). Nhận biết Thiên Chúa để chúng ta có thể đủ niềm tin, nhờ đó mà có thể can đảm hơn.
Không sinh vật nào lại không nhờ ân lộc Ngài trao ban: “Này đại dương bát ngát mênh mông, nơi muôn vàn sinh vật to lẫn nhỏ vẫy vùng, hết mọi loài ngửa trông lên Chúa đợi chờ Ngài đến bữa cho ăn” (Tv 104:25). Ngài không chỉ ban cho những điều cần thiết mà còn ban cho những điều vượt ngoài tầm tay của chúng ta, thậm chí Ngài ban cả những điều mà chúng ta chưa biết mở miệng xin: “Ngài ban xuống, chúng lượm về, Ngài mở tay, chúng thoả thuê ơn phước” (Tv 104:28). Thế mà nhân loại vẫn vô ơn, bạc nghĩa. Ngay chính chúng ta – những người vinh hạnh làm con cái Ngài – cũng vẫn thường xuyên bội bạc, làm được điều gì nhỏ nhoi đã tưởng mình tài giỏi mà dám vênh vang tự đắc, coi khinh người khác. Chúng ta chỉ là “số không” mà cứ tưởng mình là “cái rốn của vũ trụ”. Đó là ảo tưởng, là kiêu ngạo!
Can đảm để khiêm nhường
Nhà toán học Pythagore nói rất chí lý: “Đừng thấy bóng mình to mà tưởng mình vĩ đại”. Là một bác học danh tiếng cả thế giới mà ông thấy vẫn chẳng là gì. Hoặc như Thánh Thomas Aquinas, Tiến sĩ Giáo hội, thông minh xuất chúng và viết nhiều sách giá trị, đặc biệt là bộ Tổng luận Thần học (Summa Theologiae), thế mà ngài lại nói: ngài khiêm nhường cho biết: “Những gì tôi đã viết có vẻ như rơm rác”. Còn khi người ta hỏi: “Làm thế nào để được cứu độ?”, Thánh Thomas trả lời ngắn gọn: “Phải khiêm nhường”.
Một hồng ân hiển nhiên mà chúng ta luôn cần thiết là không khí, nhưng chúng ta lại không coi đó là đại ân, hoặc cho đó là điều “dĩ nhiên”, là chuyện tự nhiên. Tác giả Thánh vịnh phân tích cặn kẽ: “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi. Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới, là chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này” (Tv 104:29-30). Thế thì sao lại dám kiêu ngạo chứ?
Thánh Phaolô nói rõ: “Quả thế, ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” (Tt 2:11-12). Tại sao phải như vậy? Thánh Phaolô giải thích: “Vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang. Vì chúng ta, Ngài đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Ngài, một dân hăng say làm việc thiện” (Tt 2:13-14). Như vậy, chắc chắn người-hăng-say-làm-việc-thiện là người-của-Chúa, vì Chúa là Đấng từ bi, nhân hậu, và giàu lòng thương xót.
Thiên Chúa là Đấng cứu độ chúng ta, Ngài đã “biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Ngài đối với nhân loại” (Tt 3:4).
Thánh Phaolô “nói toạc móng heo”, không hề úp mở: “Không phải vì tự sức mình chúng ta đã làm nên những việc công chính, nhưng vì Ngài thương xót, nên Ngài đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới” (Tt 3:5). Rõ ràng chúng ta chẳng có thể viện cớ gì để mà biện hộ cho thói kiêu căng của mình. Tất cả là Hồng ân – Hồng ân nối tiếp Hồng ân: “Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng ta. Như vậy, một khi nên công chính nhờ ân sủng của Đức Kitô, chúng ta được thừa hưởng sự sống đời đời, như chúng ta vẫn hy vọng” (Tt 3:6-7).
Trình thuật Tin Mừng được Thánh sử Luca kể ngắn gọn nhưng súc tích: Hồi đó, dân đang trông ngóng, và trong thâm tâm, ai nấy đều tự hỏi: biết đâu ông Gioan lại chẳng là Đấng Mêsia!
Nghe vậy, ông Gioan trả lời thẳng với mọi người: “Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài. Ngài sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa” (Lc 3:16). Ngôn sứ Gioan Tẩy Giả là con người khiêm nhường với câu nói nổi tiếng: “Tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài”. Không đáng cởi quai dép chứ đừng nói chi “xách dép”.
Là người đời, nhưng F. Engels cũng đã biết nhận xét tinh tế: “Trang bị quý giá của con người là sự khiêm tốn và tính giản dị”.
Thánh Luca cho biết rằng khi toàn dân đã chịu phép rửa, Đức Giêsu cũng chịu phép rửa, và đang khi Ngài cầu nguyện thì trời mở ra, và Thánh Thần ngự xuống trên Người dưới hình dáng chim bồ câu. Lại có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con của Cha, ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (Lc 3:22). Chính Chúa Cha đã công khai xác nhận Đức Giêsu Kitô là Con Yêu Dấu, là Ngôi Hai Thiên Chúa. Quá minh nhiên, không còn gì khả nghi nữa!
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin giúp chúng con luôn biết sống khiêm nhường và yêu thương để có thể đến với Chúa qua tha nhân. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên-Chúa-Làm-Người và Đấng Cứu Độ của chúng con. Amen.
75. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
Cánh cửa chót trong lời rao giảng của vị Tẩy Giả (cc. 15-18) được khai mở bằng một câu hỏi mà mọi người đặt ra: phải chăng Gioan là phẩm phán quan thuộc dòng Đavit sẽ đến thiết lập nền hòa bình và công chính mà dân trông đợi? Rõ ràng khía cạnh cánh chung trong sứ điệp của Gioan kép chú ý thính giả hơn là khía cạnh đạo đức...
Lúc đó vị Tẩy Giả định nghĩa vai trò của mình trong tương quan với Đấng sẽ đến. Việc nhận chìm trong dòng nước khác với phép rửa bằng thần khí và bằng lửa mà Chúa Kitô sẽ ban kể từ ngày Ngũ tuần (Cv 2). Vì vậy, Gioan không xứng đáng với lao dịch chỉ dành cho hàng nô lệ, đó là cởi dép cho Đấng sẽ là người cải cách phong tục một cách quyết liệt khác với kiểu của ông. Cụm từ “Đấng đến sau tôi” (x. Mt, Mc và Ga) xác nhận lúc đầu rằng Chúa Giêsu thuộc nhóm đệ tử của Gioan đã được cẩn thận sửa chữa: Chúa Giêsu chỉ đến sau vị Tẩy Giả theo nghĩa thời gian thôi! Vị sứ giả cuối cùng, theo như Gioan mô tả, trước hết là vị thẩm phán vào thời cuối cùng; Ngài sẽ tẩy sạch dân Ngài khỏi những cáu bẩn để chúng vĩnh viễn biến mất.
MẶC KHẢI THẦN LINH SAU KHI ĐỨC GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA (3,21-22)
Khi toàn dân đều đã chịu phép rửa và khi Chúa Giêsu Kitô đã chịu phép rửa và đang cầu nguyện, thì trời mở ra và Thánh Thần ngự đến… Trong một câu duy nhất của bản văn Hy Lạp, không có kết cấu giữa nghi thức tẩy rửa và hiển linh. Nghi thức tẩy rửa, biểu lộ sự liên đới hoàn toàn giữa Đức Giêsu và dân chúng, được diễn tả bằng thời quá khứ; sự hiển linh xảy ra đang khi Chúa Giêsu cầu nguyện (động từ tính hiện tại). Luca cũng không nói gì về nơi chốn của hoạt cảnh về nhân vật Gioan (đã bị giam ngục!). Như thế, ông xóa bỏ những ràng buộc của mặc khải diễn ra nữa. Thiên Chúa đáp lời Chúa Giêsu đang cầu nguyện, mà không tuỳ thuộc vào phép rửa của vị Tiền hô. Như vậy, trong sách Công vụ, đã được loan báo mối liên hệ chặt chẽ giữa việc cầu nguyện của cộng đoàn Kitô và ân huệ của Thần Khí, Đấng ban sức mạnh để làm chứng.
Việc hiển linh gồm ba yếu tố: trời mở ra để có được sự thông hiệp giữa thế giới thần linh và con người, Chúa Thánh Thần hiện xuống và tiếng từ trời – Luca sẽ lấy lại những yếu tố ấy một cách kín đáo hơn trong trình thuật lễ Ngũ tuần (Cv 2,1-6), đối xứng với cảnh hiện tại. Trong Mc 3,10-11, ba yếu tố trên hợp thành một thị kiến chỉ dành cho Chúa Giêsu. Ngược lại, Luca trình bày hai yếu tố đầu như một biến cố khách quan và còn đi tới chỗ thêm “dưới một hình dáng thể xác”. Những lý do có tính cách minh giáo giống như thế dẫn ông đến việc cũng “nói quá” đi ở 24,11-13 để “chứng minh” cho Thêôphilê và những người khác thấy cái thực tại của những gì vốn không diễn tả được.
Trái với những gì xảy ra với Maccô, Thần Khí tiên tri ngự xuống Chúa Giêsu không phải là lần đầu, bởi vì từ khi sinh ra Ngài đã được Thần Khí thánh hiển để phụng sự Thiên Chúa (1,35). Đúng hơn phải nói đây là một cách cụ thể hoá sức mạnh của Thần Khí; cũng thế, Phêrô và các bạn ông, đã được đầy Thần Khí và ngày lễ Ngũ tuần (Cv 2,4), lại được như vậy một lần nữa trong những lần bị bách hại đầu tiên (Cv 4,31). Ý nghĩa của biểu tượng chim bồ câu ở Luca không giống như ở các tác giả Nhất Lãm; ngược lại, ý nghĩa những lưỡi như lửa ở Cv 2-3 được giải thích dễ dàng trong mối liên hệ với bối cảnh đó. Dù sao chăng nữa, trong hai trường hợp tiếng “như” biểu lộ sự bất tương xứng giữa hình ảnh của con người và thực tại không thể diễn tả nổi. Tiếp theo đó, Luca sẽ giải thích tới hai lần việc Thần Khí ngự xuống Chúa Giêsu như một việc xức dầu tiên tri để hoàn tất lời sấm của Is 61,1: trong bài giảng khai mạc ở Nagiaret (4,18) và trong một bài diễn từ cuả Phêrô (Cv 10,38).
Tiếng từ trời ở câu 22 nói gì? Trong Matthêu và Maccô- được một vài thủ bản của Luca bắt chước – tiếng nói pha trộn Tv 2,7 và Is 42,1: “Chính Con là Con Ta rất yêu dấu, Ta rất vui lòng chọn Con”. Trong Luca, tiếng ấy chỉ trích dẫn Tv 2,7 “Con là Con Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con”, như vậy Chúa Giêsu được phong làm Vua Mêsia. Nói với Người ở Ngôi thứ hai, tiếng ấy không chỉ về những nhân vật khác trong trình thuật. Việc chỉ định Ngài là con thực ra không phải là một mặc khải cho Chúa Giêsu vì ngay từ Lc 2,49 Ngài đã từng nói Thiên Chúa như là Cha của mình; việc Chỉ định này cũng không làm độc giả ngạc nhiên, vì đã học biết về tử hệ của Chúa Giêsu ở Lc 1,32-35. Thiên Chúa sẽ một lần nữa chỉ định Chúa Giêsu là Con của Ngài (Lc 9,35); lúc đó sẽ nhắm tới sứ vụ thứ hai và là sứ vụ chót của Người. Rốt cuộc, những lần tôn phong liên tiếp này, mà sẽ đi đến tột đỉnh trong ngày Phục Sinh (Cv 13,33), chứng tỏ rằng vương quyền của Giêsu, Đấng Mêsia, được thực hiện từng giai đoạn.
76. Chú giải của Noel Quesson.
Tin Mừng theo Thánh Luca kể lại cho ta giai đoạn đầu, đời sống công khai của Đức Giêsu theo trình tự sau đây:
1. Gioan Tẩy Giả rao giảng: Các ngươi hãy hoán cải …Ngài đang đến (Lc 3,1 -18).
2. Gioan Tẩy giả bị cầm tù (Lc 3, 19-20).
3. Đức Giêsu chịu phép rửa (Lc 3,21 -22).
4. Gia phả của Đức Giêsu (Lc 3,23-58).
5. Đức Giêsu chịu cám dỗ trong thời gian 40 ngày chay tịnh tại hoang địa (Lc 4,1-13).
6. Đức Giêsu bắt đầu rao giảng, đặc biệt tại Na-gia- rét (Lc 4,14-30).
Một lần nữa, chúng ta lưu ý rằng, trước hết Luca không tìm cách thông tin cho ta về một chuỗi “sự kiện lịch sử”. Nếu chỉ có Tin Mừng Luca truyền lại, thì ta sẽ không biết “ai” đã làm phép rửa cho Đức Giêsu: vì Luca kể cho chúng ta việc cầm tù Gioan, trước khi cho chúng ta chứng kiến phép rửa của Đức Giêsu, mà trong nghi thức này, Luca cũng không nhác đến vị Tiền hô. Những người thời xưa (cả Luca và mọi kẻ khác) không có quan niệm tân thời như chúng ta về lịch sử. Mục đích của họ không phải là kể ra những sự kiện đơn thuần, nhưng nhằm nói với lương tâm tín hữu.
Đối với họ, ý nghĩa những sự kiện hoàn toàn thuộc về lịch sử. Do đó qua những thể thức văn chương thường được dùng đi dùng lại trong Kinh thánh, thánh sử trình bày phép rửa của Đức Giêsu vừa như một sự kiện lịch sử không thể chối cãi được (do đó có một nền tảng chung với những trình thuật đối chiếu khác), vừa như một “hành động tượng tương” (do dó, có những đặc điểm khác nhau trong mỗi Tin Mừng). Giải thích một sự kiện, không phải là chối bỏ sự kiện đó, mà cho nó là thực và định giá đúng tầm quan trọng của nó. Chẳng hạn, ở đây chúng ta thấy một sự “giải thích" của Luca: “Đức Giêsu khai mở một kỷ nguyên mới”. Giao uỡc cũ đã chấm dứt... Gioan Tẩy giả là một vị đại diện cuối cùng của giao ước cũ. Ong biến mất trước khi Đức Giêsu bắt đầu công trình của Ngài. Sự diễn giải lịch sử như thế là diễn giải đúng theo lãnh vực đức tin, nhưng chúng ta cũng không bị ngăn cản vận dụng trí tuệ để qua các chính sử khác, biết ràng thực ra, sự cầm tù Gioan Tẩy gỉa xảy ra sau đó rất lâu, và thời gian rao giảng của Đức Giêsu đã bị xén bớt rất nhiều (Mc 6,17; Mt 16,3).
Bài đọc phụng vụ Chúa Nhật này đã xếp gần lại những pha cảnh sau đây: 1. Cuộc rao giảng của Gioan (Lc 3, 15-16)... Và 2. Phép rửa của Đức Giêsu (Lc 3, 21 -22) bằng cách bỏ qua các câu trung gian kể lại sự vắng mặt của Gioan. Sự giải thích trên đây đã cho chúng ta hiểu tại sao. Phần chú giải lời rao giảng của Gioan, chúng ta gặp ở Chúa nhật thứ III Mùa Vọng, hôm nay chúng ta bắt đầu bài Tin Mừng dành cho Chúa Nhật này.
Khi toàn dân đã chịu phép rửa.
Kiểu nói phổ quát: "toàn dân" cũng là nét riêng của thánh Luca, mà ông thích dùng (Lc 1,10; 3,4). Luca, vị phát ngôn viên của Thiên Chúa lặp lại ở đây rằng, ơn cứu độ dành cho mọi người và sứ vụ của Đức Giêsu sắp bắt đầu sẽ dành cho tất cả. Kiểu nói này cũng muốn nói lên từ trước đến giờ Đức Giêsu hành động "như mọi người”. Và lúc Người bước ra hoạt động không có gì phân biệt Người với những công dân khác, với "toàn dân". Đó là một người Do Thái tốt lành và tín trung, không cố tách riêng ra khỏi quần chúng Vì mọi người đều xin chịu phép rửa, nên Đức Giêsu cũng xin lãnh phép rửa.
Chúng ta lưu ý rằng, từ "toàn dân" này của Luca đúng thực biết bao: đó là đặc điểm mà ông nhấn mạnh và cũng là nét riêng của ông, so với trình thuật của các thánh sử khác.
Lạy Chúa, con nhận được sự mạc khải này, qua "từ" trên đã được linh hứng.
Tôi ngắm nhìn Đức Giêsu đã hoàn toàn “nhập thể” làm "người" đến độ Ngài làm "như toàn dân". Tôi dùng trí tưởng tượng quan sát Đức Giêsu lẫn trong đám đông một cách vô danh. Ngài đang ở đó trong dãy dài những nam nữ bình thường đang đợi đến lượt mình để nhận phép rửa. Tôi cầu nguyện nhờ suy niệm mạc khải này.
Đang khi Đức Giêsu cầu nguyện.
Cầu nguyện cũng là nét riêng của trình thuật Luca thích minh chứng cho chúng ta thấy Đức Giêsu đang cầu Nguyện (Lc 5,16 - 6,12 - 9,18. 28.29 - 10,21 - 11,1 – 22,23. 40,46 - 23, 34,46). Tôi cũng có thể ngừng lâu ở chi tiết này, để cầu nguyện.
Vậy thì theo Luca "hành vi đầu tiên" đánh dấu đời sống công khai của Đức Giêsu là cầu nguyện. Đây là việc đầu tiên mà chúng ta thấy Ngài làm với tư cách là một người trưởng thành. Lần đầu tiên nói tới Đức Giêsu bước vào tác vụ của Ngài, lại là nói đến việc Ngài: “đang cầu nguyện". Và trong lúc cầu nguyện đó, Ngài sẽ nhận lãnh Chúa Thánh Thần. Và khi kể lại giai đoạn đầu của Giáo hội, đến lượt mình, cũng sẽ nhận lãnh Thánh Thần (Cv 1,4-2,1-11). Do đó cầu nguyện là nhường chỗ cho Thánh Thần. Là dọn chỗ trống cho người ngự đến. Là tạo điều kiện cho người xuất hiện. Trong một đoạn khác của Tin Mừng, Luca sẽ nói với ta rằng, điều cần thiết chung nhất phải xin với Chúa, là xin người ban cho "Thần khí của Người" như thế tất cả những cái khác sẽ đến thêm sau. “Chúa Cha ngự trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người" (Lc 11-13). Tôi có cầu nguyện với ý đó không?
Tôi có xin "phép rửa của Thần Khí” không? Theo lời loan báo của Gioan Tẩy giả: Ngài (Đức Giêsu) sẽ rửa các ngươi (sẽ dìm các người) trong Thánh Thần và lửa (Lc 3,16). Theo gương của Đức Giêsu cầu nguyện, tôi đã dành cho cầu nguyện vị trí nào trong đời sống của tôi? Cầu nguyện để “xin Thánh Thần" mà Chúa Cha sẵn sàng ban cho những kẻ kêu xin, có chỗ đứng như thế nào?
Sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa.
Trước tiên, sự kiện trên hẳn làm ta dễ thắc mắc. Làm sao Đức Giêsu lại nhận "phép rửa tỏ lòng sám hối”? (Lc 3,3). Làm sao, Ngài không có tội lại cần phải chịu phép rửa? Câu trả lời ở phía sau, trong Tin Mừng này. "Đó là một thứ lửa mà Thầy đã đến để ném vào mặt đất. Đó là một phép rửa mà Thầy sẽ bị dìm xuống, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất (Lc 12,49-50). Phép rửa thật sự của Đức Giêsu, đó là cái chết cứu chuộc của Ngài. Khi xin chịu phép rửa "trong hàng ngũ các tội nhân" và trong suốt cuộc đời Ngài đã chấp nhận thái độ của một "hối nhân", Đức Giêsu đã hoàn toàn liên kết với khát vọng của con người muốn cầu xin Thiên Chúa "cứu rỗi" và thanh tẩy mình. Ngài muốn thay thế cho ta là những tội nhân. Đức Giêsu không đến để lên án thế gian tội lỗi, nhưng để cứu chuộc (Ga 3,17).
Đức Giêsu "cũng chịu phép rửa", nên không đứng từ trên cao xét đoán những yếu đuối đáng thương của tôi. Ngài liên đới với những yếu đuối đó. Phép rửa của Đức Giêsu là mô hình cho phép rửa của các Kitô hữu.
Lúc đó trời mở ra và Thánh Thần ngự xuống trên Người.
Máccô nói: Bầu trời "xé ra" (Mc 1,10). Còn Luca lại viết: Trời "mở ra" không có vẻ gì là ác liệt của lối văn khải huyền cả, có thể nói còn mang tính dịu dàng nữa.
Vâng, Đức Giêsu bắt đầu một kỷ nguyên mới. Giao ước cũ đã chấm dứt. Thời Gioan Tẩy giả hăm dọa nhân loại bằng “cơn thịnh nộ" của Thiên Chúa ("nòi rắn độc" Lc 3,7) cũng đã chấm dứt. Một cuộc giao hòa mới được thiết lập giữa trời và đất. Trời không còn đóng kính nữa, mà đã “mở" ra. Và Thần Khí Thiên Chúa - phần của Thiên Chúa mà ta có thể thông hiệp được, đã được ban cho một người, Đức Giêsu trước khi được ban cách dồi dào cho tất cả những ai chịu "phép rửa trong Thánh Thần": Vào ngày lễ Ngũ tuần và mỗi khi cử hành phép rữa. Tôi dành cho phép rửa của tôi một chỗ đứng nào? tôi dành cho phép rửa của các con tôi vị trí nào? Tôi dành cho Chúa Thánh Thần chỗ đứng nào trong cuộc sống thiêng liêng của tôi? Thánh Thần là Đấng không được biết nhiều ở Phương Tây, là Đấng mà Phương Đông đã bắt đầu mang lại cho chúng ta.
Đức Giêsu chính là "Đấng mà Thánh Thần ngự xuống" (Lc 4,1.4, 14.4,18).
Dưới hình dáng như chim bồ câu.
Đã có nhiều cách giải thích về câu chú thích về "dấu chỉ" dễ cảm nhận này. Phải chăng đó là nhắc lại bồ câu của biến cố Đại hồng thủy, nhằm báo trước một thế giới mới? (St 8,8). Phải chăng đó là tượng trưng cho tình yêu của Thiên Chúa trong sách Diễm ca (Lc 2,14-5,2)? Phải chăng đó là nhắc lại cuộc sáng tạo thế gian mà Thần Khí bay là là trên mặt nước? (St 1,1).
Mỗi cách giải thích như thế, có thể trở nên khởi điểm cho một buổi cầu nguyện. Vâng, một tạo vật mới đang phát sinh. Một nhân loại mà Thiên Chúa không muốn trừng phạt nữa, vì người yêu thương nhân loại hết tình.
Lại có tiếng từ trời phán rằng.
Thiên Chúa nói với Đức Giêsu, một cách âu yếm như cha nói với con, đầy yêu thương.
Con là con của Cha.
Ở đây theo Luca, Đức Giêsu được xưng gọi theo Ngôi thứ hai. Trong khi đó, Mát-thêu kể lại cùng cảnh này, lại dùng Ngôi thứ ba: "Đây là con yêu dấu của Ta" (Mt 3,17). Vậy theo lịch sử cách nói nào là đúng thực? Cả Luca lẫn Mátthêu đều không lưu tâm đến việc đặt câu nói như thế của thời chúng ta. Truyền thống Do Thái từ xa xưa vẫn khẳng định rằng, Thiên Chúa "duy nhất" chỉ nói bằng "một cung giọng duy nhất" (bình luận của Rachi về thập giới: Mười điều răn này được tuyên bố bằng cách chỉ phát ra một lời duy nhất, đó là điều con người không thể hiểu được, Thiên Chúa nói "một lời" và loài người nghe "nhiều lời". Họ hiểu theo nhiều cách.
Ngày hôm nay Cha đã sinh ra con.
Hiển nhiên, Luca diễn giải lời duy Nhất của Thiên Chúa bằng cách trích dẫn ngôn sứ Isaia 42,1 và Thánh Vịnh 2,7. Trích dẫn Kinh Thánh này sẽ được dùng nhiều lần để diễn tả tư cách "là con Thiên Chúa" và việc tái sinh của Đức Giêsu phục sinh, dưới cùng ngòi bút của Luca (Cv 13,33) và của một môn đệ khác của Phaolô (Dt 1,5-5,5).
Nhờ cầu nguyện, chúng ta hãy bước sâu vào mầu nhiệm của Đức Giêsu hôm nay, được sinh ra! Ở đây, không đề cập đến noãn sào của Đức Maria vào lúc đầu thai, cũng không bàn đến việc sinh hạ cậu bé còn quấn tã ở Bê-lem, nhưng lại nói về Đức Giêsu trưởng thành, vào lúc 30 tuổi! Đây là thông điệp cấp bách nhất cho nhân loại ngày nay: con người không thể mồ côi, không là kết quả của "ngẫu nhiên và tất yếu". Nơi Đức Giêsu, nhân loại phát sinh từ một Thiên Chúa thương yêu nó. Đó là ý nghĩa phép rửa của tôi. Tôi sinh ra từ Thiên Chúa.
77. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CHÚA GIÊSU CHỊU PHÉP RỬA
1. Câu Lc 3,19 nói đến việc gioan tẩy giả bị tống giam tách biệt đoạn văn liên quan đến Gioan tẩy giả khỏi bản văn liên quan đến Chúa Giêsu và qua đó, nó phân biệt hai thời kỳ cứu độ, như nhận xét ở 16,16 sẽ cho thấy: “Cho đến thời Gioan, thì có lề luật và các tiên tri, từ đó trở đi Nước Thiên Chúa được loan báo...”. Và vì thế từ đó về sau con đường mô tả Chúa Giêsu không còn vướng nữa. Sự kiện hai tài tử chính cùng diễn suất chưa có thể hoàn toàn loại bỏ được, nhưng Luca đã cất khỏi sự kiện này tất cả ý nghĩa hiện thực của nó. Theo 3,21-22, Chúa Giêsu chịu phép rửa như một người dân, như bất cứ người Do thái nào khác. Luca loại bỏ tất cả gì có thể làm cho độc giả tưởng rằng Gioan tẩy giả đóng vai trò quan trọng trong biến cố này. Thực vậy, ông đã không nhắc đến tên của vị tiền hô trong lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa. Điều này rất phù hợp với quan niệm của ông về ý nghĩa cuộc đời vị Tẩy giả. Vẫn theo Luca 16,16, thì Gioan tẩy giả chỉ là một tiên tri thuộc về thời kỳ cổ xưa. Điểm khởi đầu được đánh dấu bằng sứ vụ của Chúa Giêsu, chứ không phải như ở Maccô, bởi sự xuất hiện của Gioan tẩy giả.
2. Vì thế Luca không nói ai đã làm phép rửa cho Chúa Giêsu. Ông chỉ nhắc đến việc Chúa Giêsu chịu phép rửa trong một mệnh đề phụ về thời gian, và đồng hóa phép rửa Chúa Giêsu như phép rửa các người khác (c.21) trong dân chúng. Dân chúng đã được thanh tẩy, sứ mạng của vị tiền hô đã chấm dứt. Vì thế Luca rất ý thức về sự liên đới của Chúa Giêsu với các tội nhân thống hối, nhưng ông không khai triển ý tưởng này. Ông chú tâm vào việc trao ban Thánh Linh, là trung tâm điểm của trình thuật. Đoản văn chúng ta đang nghiên cứu không mô tả phép rửa, nhưng mô tả cuộc thần hiện của phép rửa. (Trong Phúc Âm thứ tư, phép rửa sẽ không được nhắc tới nữa, Gioan không kể lại phép rửa, và thực sự mà nói, cũng không kể lại cuộc thần hiện của phép rửa, nhưng đã tường thuật rất rõ ràng chứng tá của vị Tẩy Giả tiếp liền sau cuộc thần hiện này).
3. Khi mô tả thần hiện, Luca ghi lại điểm khách quan hơn, có tính cách lịch sử hơn: “Xảy ra là.... thì trời mở ra và Thánh Thần xuống...” Khía cạnh “thị kiến” không còn nữa. Với mục đích ấy, tác giả phúc âm nhấn mạnh đến tính hiện thực bên ngoài của việc Thánh Thần ngự xuống: thay vì chỉ nói “Thánh Thần như chim câu”, ông nhấn mạnh: “Thánh Thần lấy hình dáng thể xác như chim câu”. Tuy vậy, ông vẫn giữ lại dấu chỉ của truyền thống: trời mở ra, Thánh Thần ngự xuống, lời Thiên Chúa phán. Nhưng sự can thiệp của Thiên Chúa đáp lại lời cầu nguyện của Chúa Giêsu thì chỉ có Luca ghi lại thôi. Đối với Luca, cuộc đời Đức Kitô (Lc 5,16; 6,12; 9,18-29; 11,1; 22,32.41.44) là một đời cầu nguyện, trong giây phút đặc biệt đó, lời cầu nguyện của Chúa Giêsu cũng không có gì lạ thường: phải chăng đó là việc chuẩn bị ám hợp nhất đồng thời cũng là lời đáp trả thông thường đối với mối tiếp xúc của Thiên Chúa? (Trong truyền thống Khải huyền, có các kinh nghiệm chuẩn bị đón nhận sự mạc khải của Thiên Chúa: Đn 2,18; 9,3tt; 10,2-3; Lc 9,28-29; Cv 9,11; 10,30; 22,17).
Nhưng chỉ ghi nhận lời cầu nguyện của Chúa Giêsu là một đề tài được Luca ưa thích nhất vẫn chưa đủ để giải thích sự có mặt của việc ấy trong biến cố này. Còn có một ý nghĩa sâu xa hơn: theo Luca, lời cầu nguyện của Kitô hữu cốt yếu hệ tại ở việc xin Thiên Chúa ban ơn Thánh Thần. Trong đoạn văn chỉ mình ông ghi lại nơi chương 11,1-13, Luca dạy chúng ta về sự cầu nguyện đích thực và hiệu quả của nó. Phần cuối của đoạn này cho chúng ta hiểu rõ hơn về mối quan tâm của ông về đề tài trên: “Vậy nếu các ngươi, tuy là ác, còn biết lấy của tất lành làm quà cho con cái, phương chi Cha trên trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho ai xin Người” (c.13).
Ta cũng nên chú ý đến mối liên hệ giữa lời cầu nguyện của cộng đoàn với ơn Thánh Thần trong Cv 4,31: “trong khi họ cầu nguyện thì chỗ họ nhóm họp rung chuyển và hết thảy được đầy Thánh Thần”. Điều đó nhắc ta nhớ đến Chúa Thánh Thần hiện xuống trong ngày lễ Ngũ Tuần (Cv 2) tiếp theo sau lời cầu khẩn của nhóm tông đồ (Cv 1,13-14), những kẻ đã từng chuyên tâm cầu nguyện. Chính việc chiếm hữu Chúa Thánh Thần qua lời cầu nguyện làm cho các môn đệ của Chúa Giêsu khác biệt với môn đệ của Gioan (Apollos và Phaolô ở Êpheso, Cv 19,1-6). Dưới cái nhìn của Luca, thì việc thông ban ơn thiên sai và thần linh (Chúa Thánh Thần) khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, mở đầu cho việc tuôn tràn phổ quát đã hứa ban cho thời đại cánh chung. Một cách tương tự như thế, ông sẽ mở đầu sách Công Vụ bằng phép lạ Hiện xuống.
4. Trong tâm thức tôn giáo của cộng đoàn sơ khai, có một trào lưu đặc biệt, mà chỉ Luca ghi nhận, đã xem việc Chúa Thánh Thần hiện xuống trên Chúa Giêsu khi Ngài chịu phép rửa như là việc “xức dầu”, việc hiến thánh Ngài với tư cách “Đấng được xức dầu”. Đó là phương cách mới để diễn tả ý nghĩa phép rủa của Chúa Giêsu như một lễ phong chức của Đấng Thiên sai, họ dựa vào Is 61,1.
“Các ông biết điều đã xảy ra trong toàn cõi Giuđêa, khởi từ Galilêa, sau phép rửa Gioan rao giảng, Thiên Chúa đã xức dầu cho Chúa Giêsu, người Nazaret, bằng Thánh Thần và quyền năng như thế nào” (Cv 10,37-38).
“Thánh Thần ngự trên tôi, bởi Người đã xức dầu thánh hiến tôi, đã sai tôi mang Tin Mừng...” (Lc 4,18).
Những bản văn như thế nói lên đà tiến của suy tư thần học. Thay vì coi việc xức dầu được thực hiện khi Chúa Giêsu Kitô phục sinh như một số văn bản cổ xưa đã làm (Cv 2,36; 4,27), người ta đã xem việc xức dầu đã được thực hiện khi Chúa Giêsu chịu phép rửa: việc xức dầu đó làm Chúa Giêsu thành Đấng “Messia”, “Đấng Kitô”, Đấng được xức dầu (l'Oint).
Lời nói phát xuất từ trời giải thích rõ hơn điểm này. Đó là lời trích Tv 2, Tv Vương đế (psaume royal) được khoa chú giải Do thái coi như có tính cách thiên sai (psaume messianique). Câu thứ bảy của Thánh vịnh này đề ra một công thức được qui định để thu nhận người nào đó làm con mình: ngày Thiên Chúa giao phó cho vua, Đấng Messia, chức vụ đặt làm người đại diện của mình. Thiên Chúa tuyên bố từ nay coi vua như con riêng của Ngài ("Con là Con Ta, hôm nay Cha sinh ra Con") việc đó nói lên lòng ưu ái của Ngài đối với vua, nói lên ảnh hưởng thế lực và sức phù trợ của Ngài trên ông. Khi áp dụng câu Thánh Vịnh này vào phép rửa của Chúa Giêsu, thì mầu sắc vương đế đã mờ nhạt đi; nhưng đây chính là một lễ phong vương (thánh hiến cho chức vụ quan trọng qua việc thừa uỷ của Thiên Chúa) và lễ phong tước cho thiên sai (theo ý nghĩa tổng quát: giao sứ mạng cứu rỗi).
Câu Thánh Vịnh này đặt ra một vấn đề văn bản khó khăn. Tiếng nói phát xuất từ trời được các bản sao ghi lại theo hai cách khác nhau:
1. “Con là Con chí ái Ta, kẻ Ta đã sủng mộ”
2. “Con là Con Ta, hôm nay Ta sinh ra con” (Tv 2,7).
Các thủ sao khá nhất và hầu hết các thủ sao theo câu thứ nhất; nhưng câu thứ hai, được nhóm thủ sao và giáo phụ đông phương chứng nhận (Justin, Clément, Origène, Diognète, Hilaire, Const, Apost, Audustin) thì rất cổ xưa, có thể đã xuất hiện từ giữa thế kỷ II. Người ta đã thử cắt nghĩa: việc câu hai thay thế câu nhất, coi như nguyên văn hơn, là do ý của những người sao chép muốn hòa hợp bản văn Luca với Tv 2,7 (điều đó có thể đối với Justin, là người hay tìm cách hòa hợp với Cựu Ước; biết đâu các thủ sao khác đã chép lại của ông ta). Ngược lại, việc câu nhất thay thế cho câu hai hình như là do một khuynh hướng hòa hợp mạnh hơn, hòa hợp bản văn Luca với Maccô. Cả hai lập trường đều có người ủng hộ. Dù sao, có lẽ những người sao chép đã muốn hòa hợp Luca và Maccô hơn là với Cựu Ước. Do đó, chúng tôi chọn hai câu, nghịch với BJ, nhưng đồng ý với TOB, Revised Standard Version, New English Bible, Zurich Version...
Nếu câu hai là chính trực, điều đó có nghĩa là Luca đã bỏ không muốn ám chỉ đến người tôi tớ Giavê hay Người Con chí ái của Chúa Cha (tức là đến sứ vụ cứu chuộc). Ông tập trung chú ý vào lời sấm phong tước thiên sai và tử hệ thần linh. Ý tưởng tử hệ thần linh được nói qua vế thứ hai của câu thánh vịnh ("Hôm nay Cha sinh ra Con"). Cũng trong ý tưởng đó, sau lời tuyên bố của Thiên Chúa đây, Luca sẽ đem ngay gia phả Chúa Giêsu vào, gia phả đưa Ngài lên thấu Adam “Con Thiên Chúa”.
Trong Cv 13,33, Tv 2,7 được áp dụng vào việc phục sinh của Đức Kitô: “Và chúng tôi loan báo cho anh em Tin mừng: Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa cho cha ông chúng ta bằng cách cho Chúa Giêsu Phục sinh, như lời Thánh Vịnh 2: “Con là Con Ta, hôm nay Cha sinh ra Con”. Lời xác quyết này trước tiên là một tín điều; và sau này, người ta đã áp dụng câu đó không chỉ vào việc Phục sinh của Chúa Kitô, mà còn vào phép rửa của Ngài nữa.
5. Chúng ta đã thấy tước hiệu “Kitô” (được xức dầu) được đề cao khi nói về phép rửa, trước tiên đã áp dụng cho Chúa Giêsu ngày Ngài sống lại: “Thiên Chúa đã đặt làm Kitô Chúa Giêsu mà các ông đã đóng đinh” (Cv 2,36; x.4,27). Sự chuyển dịch từ biến cố Phục sinh lui biến cố phép rửa Chúa Giêsu mà (cùng với sứ vụ của Vị Tiền hô) đã tạo nên “khởi đầu của Tin Mừng” (Mc 1,1; Lc 3,23; Cv 1,22; 10,37) cho ta chứng kiến việc khai sinh của một Kitô học tiên khởi. Thật vậy, vào những ngày đầu của Giáo hội, sự sống lại của Chúa Giêsu là khởi điểm quyết định cho đức tin vào thiên chức cao trọng và siêu việt của Ngài. Rồi rất sớm, người ta đã đào sâu cái trực giác phong phú đó. Dưới ánh sáng của Thánh linh nhắc lại trong lòng tín hữu những giáo huấn của Đấng cứu thế và những biến cố trong đời công khai của Ngài (đối tượng của Tin mừng), người ta suy thấy có những đặc quyền siêu việt hoạt động trong chính cuộc sống của Chúa Giêsu: không phải chỉ khi sống lại, nhưng suốt thời gian hoạt động và ngay lúc khởi đầu công trình cứu rỗi, khi chịu phép rửa, Ngài là Đấng Messia và Con Thiên Chúa. Trong các phúc âm về thời thơ ấu, được soạn thảo về sau và ít “truyền thống” hơn những tước hiệu đó đã được dùng ngay giây phút đầu tiên của đời Chúa Giêsu (nhất là Luca). Như thế, ý nghĩa của việc Thiên Chúa can thiệp vào lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa được xác định rõ hơn, và bài trình thuật biến cố đã mang một hình thức như chúng ta đang có đây, dưới ánh sáng Phục sinh.
Vừa giảm bớt tính cách khải huyền trong cách trình bày, Luca, sử gia và tác giả Phúc Âm chuyên về cầu nguyện, đã mặc cho việc thần hiện trong phép rửa ý nghĩa chính yếu theo truyền thống sơ khai: là thánh hiến để bắt đầu sứ vụ, là phong tước thiên sai - Con Thiên Chúa cho Chúa Giêsu. Hình như ông không muốn nói lên mối liên quan với phép rửa của người Kitô hữu, nhưng ông đã nhấn mạnh hơn các phúc âm khác về thực tại tử hệ thần linh của Đức Kitô.
KẾT LUẬN
Ý nghĩa phép rửa của Chúa Giêsu được tỏ bày qua việc thần hiện xảy ra sau đó. Đấy là điểm chính yếu đã làm Luca chú ý; đây cũng là điểm chúng ta phải suy ngắm.
Bước đầu tiên được đời hoạt động của Chúa Giêsu (nối kết Ngài với vị tiên tri cuối cùng và cao cả nhất được các tiên tri) trở thành việc thánh hiến biến Ngài nên đấng thiên sai một cách long trọng: được mặc lấy quyền năng của Chúa Thánh Thần, vững chắc được tình thân mật đặc biệt và trong tương giao độc nhất với Chúa Cha, từ đây Chúa Giêsu nhận lãnh sứ mạng thực hiện công trình cứu độ, phù hợp với ý định Thiên Chúa đã vạch ra trong Kinh thánh. Ngoài việc mạc khải công việc của Đấng thiên sai, câu chuyện này cũng hé mở cho thấy một mầu nhiệm sâu xa hơn, là mầu nhiệm của chính con người Chúa Giêsu, vị thiên sai - Con Thiên Chúa. Đó chinh là ý nghĩa căn bản được khám phá ra nôi biến cố này từ ban đầu, ý nghĩa đã được làm nổi bật qua cả một mạng lưới đầy hoài niệm Thánh kinh, trong phạm vi bối cảnh Khải huyền (trời mở ra, Thánh Thần xuống, tiếng phán từ trời: đó là khung cảnh am hợp nhất để tỏ cho biết đối tượng của mạc khải trên cao thôi: đối tượng đó là sứ mạng cứu rỗi của Chúa Giêsu, đặt nền tảng trên địa vị Con Thiên Chúa của Ngài).
Được tường thuật vào lúc khai mào sứ vụ Đấng cứu thế, câu chuyện cho thấy là từ nay phải hiểu cả cuộc đời công khai của Chúa Giêsu dưới ánh sáng này (là ánh sáng đi trước vinh quang phục sinh). Và trong ngày đầu tiên ban Thánh Thần, trong ngày Con Thiên Chúa xuất hiện, thời đại cánh chung đã khai trương, thời nước trời hiển trị đã đến.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Một ngày kia, Chúa Giêsu “sẽ thanh tẩy trong Thánh Thần và lửa” khi Ngài sai Thánh Thần xuống trên các tông đồ họp nhau trong nhà hội và qua họ sẽ đổ tràn Thánh Thần xuống trên mọi người. Nhưng trong lúc chờ đợi, Ngài khiêm tốn hạ mình nhận phép rửa của Gioan tẩy giả như một người Do thái tầm thường thời đó. Vinh quang của Ngài phải qua con đường tự hạ. Và chính lì Ngài, Con Một của Chúa Cha, đồng hóa với đám đông không tên tuổi như thế nên Chúa Cha đã làm chứng cho Ngài nơi sông Giodan bằng cách công bố Ngài là Con của Chúa Cha, Đấng Thiên sai được Chúa Cha xức dầu bằng Thánh Thần. Biến cố này được tiên báo mầu nhiệm vượt qua, như tất cả các mầu nhiệm khác của cuộc đời Chúa Giêsu. Vì thế đối với chúng ta, đây là một giáo huấn về chính bản chất cuộc đời Kitô hữu, vì Kitô hữu nào cũng phải sống mầu nhiệm vượt qua. Cuộc sống Kitô hữu nào cũng là tự hạ và vinh quang. Tự hạ bằng cách chấp nhận phục vụ người khác trong vui tươi và yêu mến, qua cuộc sống hàng ngày. Tự hạ trong cuộc sống tầm thường và buồn tẻ như Chúa Giêsu ở Nazaret. Tự hạ của ý riêng bằng cách biết nhìn nhận lãnh vực của Thiên Chúa trong cách cư xử của mình, tự hạ trong trường kỳ kháng chiến chống lại tính ích kỷ tự nhiên, khuynh hướng thống trị anh em mình, khát vọng bẩm sinh muốn tiện nghi, lười biếng, xa hoa, khoe khoang. Với Chúa Giêsu chịu phép rửa, chúng ta phải chấp nhận địa vị tầm thường của chúng ta trong một đám đông tầm thường và biến cuộc sống tầm thường đó trở thành đời sống khiêm hạ theo Chúa Giêsu. Nhưng sự tự hạ đó chỉ kéo dài một thời gian thôi, vì một ngày kia, nếu chúng ta sống cuộc sống tầm thường như con cái Cha trên trời, thì Ngài sẽ nói với chúng ta: Con là Con Ta, hôm nay Cha sinh ra con và sẽ dẫn đưa chúng ta vào trong cuộc sống vinh quang thân tình vĩnh cửu. Và ngay từ bây giờ, nếu chúng ta cố gắng sống trung thành cuộc sống hàng ngày như con cái của Chúa Cha, thì Chúa Cha sẽ kéo chúng ta lại với Ngài và làm cho chúng ta vững tin cuộc sống tình yêu bằng những lời an ủi, bằng ánh sáng và ơn thánh đủ loại của Ngài. Ngay bây giờ cuộc sống theo gương Chúa Kitô làm cho chúng ta có thể nói với thánh Gioan: “Hãy coi lòng mến Chúa Cha ban xuống cho ta lớn lao dường nào để ta được gọi là con cái Thiên Chúa - vì thực sự chúng ta là thế (1Ga 3,1).
2. Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa thì trời mở ra: giữa con người với Thiên Chúa, một tình thân mới có thể thành hình. Giữa Đức Kitô với Thiên Chúa, không có hàng rào ngăn cách. Điều mới lạ là Chúa Giêsu, tuy vẫn còn dính liền với thế gian, hòa lẫn trong đám tội nhân khi đến chịu phép rửa, lữ khách như họ trên đường về trời đang mở ra, chính Đức Kitô đó có thể trò truyện với Thiên Chúa, Cha Ngài mà không gì cản trở mối hiệp thông. Hàng rào mà tội lỗi dựng nên giữa Thiên Chúa và chúng ta bây giờ đã được vĩnh viễn xóa bỏ, vì có một người luôn luôn ở trước mặt Thiên Chúa. Các tầng trời xưa kia đóng lại vì tội lỗi, bây giờ lại mở ra để tuôn trào Thánh Thần xuống trên một con người biết đón nhận Thánh Thần không hạn chế. Và từ nay, qua con người Giêsu đó, mọi người đều có thể đến cùng Chúa Cha.
3. Chính trong lúc cầu nguyện mà Chúa Giêsu nhận được chứng từ của Chúa Cha và sự tỏ hiện của Chúa Thánh Thần. Đối với chúng ta cũng vậy, cầu nguyện là lúc thuận lợi nhất để gặp Chúa Cha và để lãnh nhận dồi dào hồng ân của Chúa Thánh Thần.
08/01 Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại.
- Viết bởi Ga 3, 22-30
Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại.
Thứ Bảy sau lễ Hiển Linh.
"Bạn hữu của tân lang vui mừng vì tiếng nói của tân lang".
LỜI CHÚA: Ga 3, 22-30
Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ Người đến đất Giuđêa. Người ở lại đó với họ và làm phép rửa. Cũng có Gioan làm phép rửa tại Ainon, gần Salim, vì ở đó có nhiều nước, và người ta đến để chịu rửa. Vì chưng, khi ấy Gioan chưa bị tống ngục.
Xảy ra có cuộc tranh luận giữa các môn đệ của Gioan và người Do-thái về việc thanh tẩy. Họ đến cùng Gioan và nói với ông: "Thưa Thầy, người đã ở với Thầy bên kia sông Giođan, mà Thầy đã làm chứng cho, nay cũng làm phép rửa và ai nấy đều đến cùng người!"
Gioan trả lời rằng: "Người ta không tiếp nhận gì mà không phải bởi trời ban cho. Chính các ngươi đã làm chứng cho tôi là tôi đã nói: Tôi không phải là Ðấng Kitô, nhưng tôi được sai đến trước Người. Ai cưới vợ, thì là người chồng, còn bạn hữu của tân lang đứng mà nghe tân lang nói thì vui mừng vì tiếng nói của tân lang. Vậy niềm vui của tôi như thế là đầy đủ. Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Mọi người đều đến với ông
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu tỏ mình
tại một nơi nào đó thuộc vùng đất Giuđê.
Nơi đây Đức Giêsu và các môn đệ ở với nhau, và Ngài đã làm phép rửa.
Tại một nơi khác có tên là Ênôn, gần Salim, có lẽ thuộc vùng Samaria,
Gioan Tây Giả cũng đang làm phép rửa
cho những người đến với ông.
Như thế ở hai nơi khác nhau, có hai phép rửa khác nhau,
được làm bởi hai người khác nhau.
Ta không thấy có gì khác biệt về bản chất giữa hai phép rửa này.
Chỉ có điều là phép rửa của Đức Giêsu thu hút được nhiều người hơn.
Các môn đệ của ông Gioan đã nhận thấy điều đó
và họ đi báo cho Thầy Gioan của mình một tin không vui:
“Mọi người đều đến với ông ấy!” (c. 26).
Họ khó chịu vì Đức Giêsu, người đã từng được Thầy của họ làm chứng,
người đã sống bên Thầy ở bên kia sông Giođan (c. 26),
bây giờ lại nổi tiếng hơn Thầy.
Ông Gioan lại chẳng hề khó chịu chút nào.
Ông chưa bao giờ quên sứ mạng của mình là làm chứng cho Đức Giêsu,
Đấng mà ông đã thấy Thần Khí ngự xuống khi chịu phép rửa. .
Gioan biết sự cao trọng của mình nằm ở đâu:
Ông là người được Thiên Chúa sai đến trước Đức Kitô (c. 28).
Ông không phải là chú rể, ông chỉ là bạn của chú rể,
vì thế ông không có quyền “có cô dâu” (c. 29).
Cựu Ước coi dân Ítraen là cô dâu (Is 62, 4-5; Gr 2, 2; Hs 2, 21).
Tân Ước coi Giáo Hội Kitô là cô dâu (2 Cr 11, 2; Ep5, 25-27. 31-32).
Ông Gioan coi Đức Giêsu là chú rể, và ông đứng đó nghe chàng.
Ông vui mừng hớn hở khi nghe được tiếng nói của chàng.
Khi người ta kéo đến với Đức Giêsu để chịu phép rửa,
thì ông Gioan biết rằng mình đã thành công trong sứ vụ của mình,
sứ vụ làm nhịp cầu cho Dân Chúa và Đức Giêsu Kitô gặp nhau.
Ông như reo lên vì mãn nguyện: “Đó là niềm vui của Thầy,
niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn” (c. 29).
Chúng ta không quên ơn Gioan, không quên sự xóa mình của ông.
Đức Giêsu được hiển linh, được nổi bật, chính vì Gioan đã chịu lu mờ đi.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con thấy Chúa thật lớn lao,
để đối với con, mọi sự khác trở thành bé nhỏ.
Xin cho con thấy Chúa thật bao la,
để cả mặt đất cũng chưa vừa cho con sống.
Xin cho con thấy Chúa thật thẳm sâu,
để con dễ đón nhận nỗi khổ đau sâu thẳm nhất.
Lạy Chúa Giêsu,
xin làm cho con thật mạnh mẽ,
để không nỗi thất vọng nào
còn chạm được tới con.
Xin làm cho con thật đầy ắp,
để ngay cả một ước muốn nhỏ
cũng không còn có chỗ trong con.
Xin làm cho con thật lặng lẽ,
để con chỉ còn loan báo Chúa mà thôi.
Xin Chúa ngự trong con thật sống động,
để không phải là con,
mà là chính Ngài đang sống.
Suy Niệm 2: Chiến thắng ác thần
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đã có tranh luận và tranh chấp. Vì đòi quyền lợi, đòi uy tín. Các môn đệ Gioan muốn kéo Gio-an vào cuộc. Thánh Gioan Tẩy giả đã vượt qua cuộc tranh chấp bằng một chiến thắng bản thân.
Ngài đã chiến thắng vì Ngài đã biết phân định. Đúng như lời thánh Gioan Tông đồ: “Thiên Chúa ban cho chúng ta trí khôn để biết Thiên Chúa thật”. Cuộc phân định của Thánh Gioan Tẩy giả thật minh bạch khi Ngài xác định: “Tôi đây không phải là Đấng Kitô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người… Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn”.
Ngài đã chiến thắng vì Ngài luôn ở trong Thiên Chúa. Nhận biết mọi việc của mình đều bởi Thiên Chúa ban cho, nên Ngài đã khuyến cáo môn đệ: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban”. Biết mọi sự mình có đều là của Chúa. Xác tín mình thuộc về Thiên Chúa chứ không thuộc về trần gian, Ngài đã thoát được thói tranh đua của trần gian. Luôn qui phục Thiên Chúa.
Ngài đã chiến thắng vì Ngài luôn thực hiện chương trình của Thiên Chúa. Ngài có bổn phận làm chứng cho Chúa Giêsu. Ngài tự nguyện chìm vào bóng tối để Chúa Giêsu càng được nhận biết: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi”. Chấp nhận lu mờ đến tự hủy mình chịu chết trong cung điện vua Hê-rô-đê.
Chúa Giêsu đến tiến hành cuộc chiến giữa Nước Trời và thế gian. Thánh Gio-an Tẩy giả xứng đáng là người mở đường khi can đảm tự nguyện hi sinh để Nước Trời có cuộc chiến thắng thế gian ngay trong chính bản thân Ngài. Xin cho con biết noi gương thánh Gioan Tẩy giả luôn biết quên mình để chương trình của Chúa được thực hiện.
Suy Niệm 3: Gioan làm chứng lần cuối
“Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”. Đó là tâm tình của thánh Gioan Tẩy Giả mà Giáo hội muốn gửi đến chúng ta qua bài Tin mừng hôm nay.
Thật vậy, ảnh hưởng của Chúa Giêsu càng lớn, thì vai trò của Gioan càng lu mờ. Ba Phúc âm Nhất lãm đã làm nổi bật sự kiện ấy khi đặt sứ vụ công khai của Chúa Giêsu chấm dứt vai trò của Gioan Tẩy Giả.
Gioan đã diễn tả vai trò tiền hô của mình qua câu nói bất hủ: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”. Thay vì ghen tức, buồn phiền, Gioan đã vui mừng đóng trọn vai phụ của mình. Như một quản trò trong tiệc cưới, Gioan đã khơi dậy niềm vui và hướng mọi người đến với Tan Lang là Đức Kitô.
Ngày nay, người Kitô hữu cũng tiếp tục vai trò của Gioan Tẩy Giả. Phương châm hành động của họ là: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”. Nhỏ lại trong những khuynh hướng xấu lôi kéo chúng ta vào tội lỗi, nhỏ lại trong những đam mê, ích kỷ của chúng ta, để nhờ đó Chúa Kitô đước lớn lên trong chúng ta.
Nguyện cho ánh sáng và sức sống của Đức Kitô tràn ngập tâm hồn và cuộc sống chúng ta, để chúng ta đạt tới tầm mức viên mãn của chính Ngài.
Suy Niệm 4: Lớn lên và nhỏ lại như thế nào?
Đoạn kết Tin Mừng hôm nay được khép lại với câu nói có hậu của Gioan Tiền Hô: “Người phải lớn lên, còn tôi thì phải nhỏ lại”. Nói là kết, nhưng nó lại mở ra cho một tương lai và hy vọng mới.
“Người phải lớn lên, còn tôi thì phải nhỏ lại”, đã trở thành một phương châm sống cho vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế.
Giữa lúc uy tín của Gioan lên như diều, mọi người từ khắp nơi ai ai nghe thấy tên của ông cũng đều nghiêng mình kính cẩn, đến nỗi nhiều người muốn tôn ông là ngôn sứ vĩ đại, là Đấng Mêsia. Tuy nhiên, ông đã đứng đúng vị trí của mình là tiền hô, kẻ dọn đường cho Đấng Cứu Thế, vì vậy, ông đã thẳng thắn tuyên bố: tôi không phải là Đấng Kitô, Đấng ấy đến sau tôi, tôi không đáng cởi giây dép cho Người! Khi Đấng ấy đến, Ngài sẽ rửa anh em trong Thánh Thần. . . và “Người phải lớn lên, còn tôi thì phải nhỏ lại” vì "Tôi là tiếng kêu trong sa mạc, hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối người đi" (x. Mt 3,3).
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy trở thành tiền hô cho Chúa trong xã hội hôm nay. Đồng thời sống đúng tư cách của người tiền hô, để “Người phải lớn lên, còn tôi thì phải nhỏ lại”.
Để cho Chúa lớn lên, ấy là khi chúng ta biết sống quảng đại, mưu cầu hạnh phúc cho người khác. Biết cảm thông, yêu thương và tha thứ, bao dung và nhân hậu. Sẵn sàng sống cho người khác.
Tôi phải nhỏ lại, tức là nhỏ lại cái tôi ích kỷ, kiêu ngạo, tự phụ, khoe khoang. . .
Tuy nhiên, trong xã hội hôm nay, vẫn còn đó những tiền hô không đứng đúng vị trí của mình! Họ đã đứng lên vị trí của Đấng Cứu Thế, còn Đấng Cứu Thế thì lại bị đẩy ra bên lề. Vì vậy, thay vì dọn đường thì lại hưởng lợi, thay vì làm vinh danh Chúa thì họ lại tìm vinh danh mình.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết noi theo gương sáng của Gioan Tiền Hô khi xưa, luôn sống theo tinh thần đến để phục vụ chứ không phải để được người khác phục vụ, để Chúa được lướn lên, còn chúng con thì nhỏ lại. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Chúa phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”. Đó là tâm tình của thánh Gioan Tẩy Giả mà Giáo Hội muốn gởi đến chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã khởi sự sứ mệnh tông đồ bằng việc đến sông Gio-đan xin Thánh Gioan làm phép rửa cho mình như một người môn đệ. Và từ vị thế của một môn đệ, Chúa đã từ từ thu hút một số các môn đệ, và cuối cùng trở thành một bậc thầy hơn cả Thánh Gioan. Ảnh hưởng của Chúa càng lớn thì vai trò của Thánh Gioan Tẩy Giả càng mờ nhạt. Thánh Gioan Tẩy Giả đã không ghen tức và buồn phiền vì Chúa thành công, nhưng ngài đã vui mừng vì đã đóng trọn vai phụ của mình. Đặc biệt thánh Gioan đã khơi dậy niềm vui và quy hướng mọi người về với Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, hôm nay, con cũng cần tiếp tục vai trò của Thánh Gioan Tẩy Giả: Chúa phải lớn lên, còn con phải nhỏ lại: nhỏ lại trong muôn vàn những khuynh hướng xấu đang lôi kéo con vào vòng tội lỗi. Con cần nhỏ lại trong sự tham lam ích kỷ của mình để người khác được lớn lên bằng tấm lòng quảng đại của con. Con cần nhỏ lại trong hận thù, ghen ghét, để tha nhân được lớn lên bằng sự cảm thông và tha thứ. Và khi người khác được lớn lên thì cũng chính là lúc Chúa được lớn lên trong tâm hồn con.
Lạy Chúa Giêsu, xin ánh sáng Lời Chúa soi dẫn để con biết khám phá những nét đẹp nơi người khác. Xin sức sống của Bí tích Thánh Thể nuôi dưỡng tâm hồn con mỗi ngày, để con biết hy sinh chính mình, cho Chúa lớn lên trong anh chị em con. Amen.
Ghi nhớ: “Bạn hữu của tân lang vui mừng vì tiếng nói của tân lang”.
Suy Niệm 6: Lời chứng cuối cùng của Gioan Tẩy giả
(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống. . . )
Lời chứng cuối cùng của Gioan Tiền hô:
- Chúa Giêsu và Gioan cùng làm phép rửa, mỗi người một nơi, mỗi người có quần chúng ngưỡng mộ riêng.
- Việc làm phép rửa ấy gây nên một cuộc tranh luận và khiến các môn đệ Gioan ganh tức. Họ đến mách với Gioan, ngầm xin ông tỏ một thái độ ngăn cản hay chống đối nào đó với Chúa Giêsu.
- Nhưng Gioan chẳng những không chống đối Chúa Giêsu, mà còn làm chứng về Ngài và đề cao Ngài: “Tôi không phải là Đấng Kitô, nhưng tôi được sai đến trước Người. . . , Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”.
B- Suy gẫm (. . . nẩy mầm)
1. Thánh Gioan Tiền hô dạy ta bài học phải biết đóng vai phụ. Ai mà không thích đóng vai chính. Nhưng trong một vở tuồng, vai chính chỉ cần một hai người, còn vai phụ thì rất nhiều. Nhiều khi nhờ các vai phụ đóng khéo mà vai chính được nổi bật lên.
2. “Chúa phải nổi bật lên, còn tôi phải nhỏ đi” còn có nghĩa phải làm cho trong con người tôi phần của Chúa càng ngày càng lớn lên, và phần của xác thịt, của tội lỗi và của khuynh hướng xấu dần dần nhỏ bớt.
3. Trên một chuyến tàu xuyên đại dương, vị giám mục kể cho một giáo sĩ trẻ mới ra trường về cuộc đời gian khổ của mình, rồi xin anh nói về ơn gọi của mình. Anh tự mãn trả lời: “Dễ thôi. Tất cả là Thiên Chúa cần con”.
Vị giám mục nói: “Này bạn trẻ, quả là trùng hợp! Như tôi nhớ, trong Thánh Kinh, chỉ có một lần Thiên Chúa nói Ngài cần một điều gì đó. Trong Lc 19, 34 trên đường vinh thắng vào Giêrusalem, Ngài nói Ngài cần một con lừa” (Góp nhặt).
4. “Ai cưới vợ, thì là người chồng, còn bạn hữu của tân lang đứng mà nghe tân lang nói thì vui mừng vì tiếng nói của tân lang. Vậy niềm vui của tôi như thế là đầy đủ. ” (Ga 3,29)
‘‘Từ các hàng ghế đại biểu, chúng tôi chứng kiến những đôi mắt thấm đẫm niềm vui của hàng trăm thầy cô giáo, ban giám hiệu các trường dõi theo bước chân học trò mình lên nhận thưởng…” Bài báo khiến tôi lâng lâng một cảm giác khó tả. “Phía sau chùm hoa ấy… là dấu chân lặng thầm”. Thật vậy, phía sau những thành công và niềm vui của học trò là những đêm thức trắng, những tháng ngày lo lắng vun đắp của các thầy cô giáo. Quý thầy cô là những người tiên phong dọn đường cho thế hệ trẻ tiến bước, vươn cao và vươn lên mãi.
Ông Gioan Tẩy giả cũng là người đi trước dọn đường cho Chúa đến. Ngài lặng lẽ dâng trọn cuộc đời mình mở đường cho Chúa đến, để mọi người được phúc chiêm ngắm vinh quang Thiên Chúa tỏ hiện nơi Chúa Giêsu Đấng Cứu Thế.
Xin cho con luôn tìm được niềm vui và hạnh phúc khi phục vụ tha nhân, khi dọn đường cho Chúa đến với các tâm hồn. (Epphata)
Suy Niệm 7: Gioan làm chứng về Đức Kitô
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Chúa Giêsu cùng với môn đệ đến Galilê. Người làm phép rửa tại đó. Thánh Gioan cũng làm phép rửa gần bên. Nhưng dân chúng kéo theo Chúa Giêsu đông hơn, nên môn đệ Gioan ghen tức. Họ phàn nàn với ông: “Thưa Thầy, Người Thầy ca tụng đang làm phép rửa bên kia và dân chúng kéo theo ông ta. . . ”. Thánh Gioan liền trấn an họ và nói cho họ biết: Đó chính là Chúa Giêsu, là Đấng Thiên Sai. . . Tôi chỉ là người được sai đi trước để dọn đường cho Người. Một khi tôi đã làm xong sứ mạng đó thì tôi phải rút lui để cho Người được tôn vinh.
Trong lúc Chúa Giêsu và Gioan đang làm phép rửa, mỗi người một nơi và mỗi người có một số quần chúng ngưỡng mộ riêng, thì xảy ra một sự việc là việc Chúa Giêsu cùng làm phép rửa đã đưa đến một cuộc tranh luận và khiến các môn đệ Gioan ganh tức. Họ đến mách với ông Gioan, ngầm xin ông tỏ một thái độ ngăn cản hay chống đối nào đó với Chúa Giêsu.
Nhưng Gioan chẳng những không chống đối Chúa Giêsu, mà còn làm chứng về Ngài và đề cao Ngài: “Tôi đây không phải là Đức Kitô mà chỉ là kẻ được sai đi trước mặt Ngài. . . Ngài phải nổi bật lên, còn Thầy phải lu mờ đi”.
Đúng thế Gioan tự thú trước đây ông chưa biết Đấng Cứu Thế, mặc dầu ông là bà con với Chúa Giêsu. Nói như vậy chỉ có nghĩa là ông không biết hoặc biết không chắc chắn Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai. Ông chỉ được biết điều đó từ trên mạc khai cho, khi Đức Giêsu đến xin ông làm phép rửa cho, và chính Thiên Chúa đã báo cho ông biết qua tiếng nói từ trời: “Ngươi thấy Thần khí xuống và ngự trên ai, thì người ấy chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần”. Khi đã biết đích xác Đức Giêsu là ai, ông bắt đầu làm chứng và khẳng định rằng: “Đức Giêsu chính là Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”.
Gioan biết đóng đúng vai trò của mình: ngài chỉ đóng vai phụ, còn Chúa Giêsu mới đóng vai chính. Khi vai chính xuất hiện thì vai phụ rút lui. Theo kinh nghiệm trên đời ai mà không muốn đóng vai chính. Nhưng trong một vở tuồng, vai chính chỉ cần một hai người, còn vai phụ thì cần rất nhiều. Nếu trong cuộc sống, người nào cũng đòi đóng vai chính thì ai sẽ làm vai phụ. Và kinh nghiệm cho chúng ta thấy trong một vở tuồng nhiều khi nhờ các vai phụ đóng khéo mà vai chính được nổi bật lên. Gioan đã làm như thế trong sứ vụ của mình. Tất cả đều để cho Chúa được lớn lên.
Gương khiêm nhường của thánh Gioan Tẩy giả.
Ông là người khiêm tốn vì khi người ta hiểu lầm nên đã tôn ông lên làm Đấng Cứu Thế, nhưng ông xác nhận mình không phải là Đấng Cứu Thế mà chỉ là người dọn đường cho Ngài, Đấng ấy cao trọng hơn ông đến nỗi ông không đáng cởi dây giày cho Ngài. Ông chỉ là là người đóng vai phụ, còn Đức Giêsu mới đóng vai chính. Bây giờ Đức Giêsu đến thì ngài phải rút đi cho vai trò của Đức Giêsu được tôn vinh. Vì thế Ngài đã nói: “Người phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi”.
Truyện: Một gương khiêm nhường khác
Mục sư tiến sĩ Spencer, nổi tiếng một thời, nhà thờ của ông chật ních những người, nhưng thời gian trôi qua, tín hữu của ông ít dần. Một vị mục sư trẻ đến ngôi nhà thờ bên kia đường, và ông đã thu hút hết đám đông dân chúng của ông mục sư Spencer.
Đêm nọ, trong ngôi nhà thờ của tiến sĩ Spencer chỉ có ít số người họp lại, ông nhìn xuống bầy chiên ít ỏi của mình và hỏi xem những người khác đi đâu hết rồi ?
Mọi người im lặng, ngượng ngùng, rồi một viên chức tế nhị đáp: “Tôi nghĩ rằng họ đã đến ngôi nhà thờ bên kia đường để nghe ông mục sư trẻ bên đó”.
Tiến sĩ Spencer im lặng trong phút chốc rồi mỉm cười nói: “Tốt lắm, vậy tôi nghĩ rằng chúng ta nên đi theo họ”. Rồi ông bước xuống toà giảng, dẫn số tín hữu qua bên kia đường.
Suy Niệm 8: Gioan Tẩy giả biết đóng vai phụ
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Vâng! Một lần nữa chúng ta lại gặp ông Gioan. Ngày mai Chúa Nhật Chúa Giêsu chịu Phép Rửa chúng ta gặp lại ông một lần nữa. Có thể nói mỗi lần ông xuất hiện là mỗi lần ông để lại những dấu ấn rất đậm đà và đẹp đẽ nơi những người đến với ông. Ông quả là người xứng đáng với vai trò Tiền Hô của Chúa Cứu Thế.
Thực vậy, đang lúc mà tiếng tăm của ông lẫy lừng, người ta lũ lượt đến với ông, để xin ông làm Phép Rửa cho họ, rồi lại còn muốn suy tôn ông lên làm Đấng Messia, thì chính lúc đó ông đã không ngần ngại tuyên bố: “Tôi là tiếng kêu trong sa mạc, hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối Người đi” (Mt 3,3tt).
Gioan cũng không quên xác định thật rõ chỗ đứng của mình bên cạnh Đấng Messia: “Có một Đấng đến sau tôi, nhưng Ngài có trước tôi và tôi không đáng cởi dây giày cho Ngài” (Lc 3,16).
Ông làm tất cả những điều ấy với một mục đích duy nhất đó là để cho “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi”. (Ga 3,30)
2. Thánh Gioan Tiền Hô dạy cho chúng ta bài học phải biết đóng vai phụ. Trên đời ai mà không thích đóng vai chính. Nhưng trong một vở tuồng, vai chính chỉ cần một hai người, còn vai phụ thì cần rất nhiều. Nếu trong cuộc sống người nào cũng đòi đóng vai chính thì ai sẽ làm vai phụ. Và kinh nghiệm cho chúng ta thấy trong một vở tuồng nhiều khi nhờ các vai phụ đóng khéo mà vai chính được nổi bật lên. Gioan đã làm như thế trong sứ vụ của mình. Tất cả là để cho Chúa được lớn lên.
Làm được như thế không phải là điều dễ dàng. Phải có một lòng khiêm nhường thẳm sâu mới có thể làm được như thế. Thế nhưng, để có được một tấm lòng khiêm nhường thì đâu phải là ai cũng làm được.
Trên một chuyến tàu xuyên đại dương, vị giám mục kể cho một giáo sĩ trẻ mới ra trường về cuộc đời gian khổ của mình. Sau đó, ngài xin anh nói về ơn gọi của mình cho ngài nghe. Người giáo sĩ trẻ tự mãn trả lời: “Dễ thôi. Tất cả là Thiên Chúa cần con”.
Vị giám mục nói: “Này bạn trẻ, quả là trùng hợp! Hình như tôi nhớ không sai là trong Thánh Kinh, chỉ có một lần Thiên Chúa nói Ngài cần một điều gì đó. À tôi nhớ ra rồi trong Tin Mừng của Luca (Lc 19,34) trên đường vinh thắng vào Jêrusalem, Ngài nói Ngài cần một con lừa” (Góp nhặt).
3. Đoạn Tin Mừng hôm nay là do chính Gioan Tông Đồ ghi lại. Gioan Tông đồ đã từng là môn đệ của Gioan Tẩy Giả, được chính thầy mình giới thiệu nên đã đi theo Chúa Giêsu. Chính vì thế mà khi viết Tin Mừng, ông đã viết với một mục đích rất rõ ràng. Mục đích ấy là nhằm xác định vị trí của Gioan Tẩy Giả như là một người dọn đường cho Chúa Giêsu, chứ không có vị trí cao hơn. Nhiều người muốn tôn xưng Gioan Tẩy Giả là thầy, là Chúa, nhưng tác giả Gioan đã chứng minh Gioan Tẩy Giả mặc dù có một địa vị rất cao, rất trọng nhưng địa vị cao trọng nhất vẫn phải dành cho Chúa Giêsu. Điều này chính Gioan Tẩy Giả cũng khẳng định. Gioan Tẩy Giả khẳng định rằng, địa vị của ông không phải là đứng đầu mà ông chỉ được phái đến như người loan tin, đi trước dọn đường cho một Đấng cao trọng sắp đến. Gioan làm thế bởi vì ông luôn ý thức rằng, dù có làm một công tác thứ yếu cho Chúa thì công tác ấy đối với Chúa cũng hết sức quan trọng. Về vấn đề này thì Browning đã nói rất hay: “Với Thiên Chúa thì mọi công tác đều đồng hạng”. Bất cứ việc gì chúng ta làm cho Thiên Chúa cũng đều nhất thiết quan trọng.
Mục sư tiến sĩ Spencer, nổi tiếng một thời, nhà thờ của ông chật ních những người, nhưng thời gian trôi qua, tín hữu của ông ít dần. Một vị mục sư trẻ đến ngôi nhà thờ bên kia đường thu hút hết đám đông của ông. Đêm nọ, trong ngôi nhà thờ của tiến sĩ Spencer chỉ có số ít người họp lại, ông nhìn xuống bầy chiên ít ỏi của mình và hỏi:
- Những người khác đi đâu hết rồi?
Mọi người im lặng, ngượng ngùng, rồi một viên chức đáp:
- Tôi nghĩ rằng, họ đã đến ngôi nhà thờ bên kia đường để nghe ông mục sư trẻ bên đó.
Tiến sĩ Spencer im lặng trong phút chốc rồi mỉm cười nói:
- Tốt lắm, vậy tôi nghĩ rằng, chúng ta nên đi theo họ.
Rồi ông bước xuống tòa giảng, dẫn số tín hữu của mình qua bên kia đường.
Cuộc sống của chúng ta chắc sẽ thoát được rất nhiều điều xấu như ghen tị, bực tức, đố kỵ, bất mãn, nếu chúng ta nhớ rằng, sự thành công của người ta là do Thiên Chúa ban cho họ. Phần chúng ta, chúng ta hãy biết chấp nhận những giới hạn của mình, biết tôn trọng những cái hay cái đẹp Chúa ban cho người khác và cố gắng sống như lời Thánh Phaolô đã nói: “Ai cũng được miễn là Chúa Giêsu được vinh danh”.
Nếu tất cả mọi người trong chúng ta đều biết sống như thế, tôi tin là Thiên Đàng sẽ xuất hiện giữa chúng ta. Amen.
07/01 Chữa một người phung cùi.
- Viết bởi Lc 5, 12-16
Chữa một người phung cùi.
Thứ Sáu sau lễ Hiển Linh.
"Lập tức người ấy khỏi phong hủi".
LỜI CHÚA: Lc 5, 12-16
Xảy ra khi Chúa Giêsu đang ở trong một thành kia, thì có một người mình đầy phong hủi, thấy Chúa Giêsu, liền sấp mặt xuống đất, van xin Ngài rằng: "Lạy Thầy, nếu Thầy muốn, Thầy có thể cho tôi được sạch".
Người giơ tay chạm đến người ấy và nói: "Ta muốn, hãy nên trơn sạch". Lập tức, người ấy khỏi phong hủi. Người ra lệnh cho người ấy không được nói với ai, nhưng: "Hãy đi trình diện với tư tế, và hãy dâng lễ vật như luật Môsê đã dạy, để làm chứng cho người ta biết ngươi được sạch".
Nhưng tiếng đồn về Người cứ lan rộng, và dân chúng đông đảo kéo nhau đến để nghe Người và được chữa lành bệnh tật. Còn Người, thì lánh vào nơi hoang vắng và cầu nguyện.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Hãy đi trình diện tư tế
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu vừa tỏ mình, vừa giấu mình.
Ngài giấu mình khi Ngài ra lệnh cho người phong không được nói với ai.
Nhưng hẳn anh ấy cũng khó giữ kín chuyện này, khi anh đi gặp các tư tế.
Thế nên cuối cùng tiếng đồn về Ngài đã lan ra,
khiến người ta nô nức, lũ lượt kéo đến với Ngài (c. 15).
Đức Giêsu đã không thể giấu mình trước đám đông dân chúng.
Ngài lôi cuốn họ như một vị giảng thuyết và như một người chữa lành.
Con người mãi mãi cần sức mạnh tinh thần và sức khỏe thân xác.
Đức Giêsu đem đến cả hai điều ấy cho hạnh phúc con người.
Hãy nhìn người phong, mình anh đầy những vết lở loét.
Anh đến với Đức Giêsu, sấp mặt xuống nài xin.
“Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch” (c. 12).
Lời nguyện của người phong là lời cầu xin mẫu mực cho ta.
Dĩ nhiên là anh ấy rất muốn được khỏi căn bệnh nan y này,
căn bệnh đã làm tan nát thân xác anh và cả cuộc đời anh,
Hơn nữa, nó còn bắt anh trở nên kẻ sống ngoài lề xã hội và tôn giáo.
Nhưng anh vẫn không để ước muốn quá đỗi bình thường của mình lấn lướt.
Anh đặt ước muốn ấy dưới ước muốn của Đức Giêsu.
“Nếu Ngài muốn !” nghĩa là Ngài có thể và có quyền không muốn.
Anh để cho Đức Giêsu được tự do muốn điều Ngài muốn.
“Ngài có thể làm tôi được sạch: anh tin vào khả năng của Ngài,
khả năng làm cho những vết lở loét kia biến mất.
Chính khi Đức Giêsu được tự do, được tin cậy và phó thác,
thì dường như Ngài không thể từ chối được nữa.
“Tôi muốn, anh hãy được sạch. ”
Đức Giêsu tẩy sạch anh bằng một ước muốn được nói ra lời,
kết hợp với một cử chỉ đầy yêu thương là đưa bàn tay ra đụng vào anh.
Khi cầu xin, bạn hãy để cho Chúa được tự do giúp bạn,
theo ý muốn của Chúa, theo cách của Chúa, vào lúc của Chúa.
Đừng dạy Chúa phải làm gì, vì Chúa biết điều tốt nhất cho bạn.
Cầu nguyện :
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế Người là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi,
đến với Người trong mọi sự,
và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.
Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì,
nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người
và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi. (R. Tagore)
Suy Niệm 2: Thánh Thần, nước và máu
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giêsu tiếp tục hiển linh với quyền năng tuyệt đối khi chữa lành người bệnh phong. Ngôi vị Thiên Chúa của Người được chứng thực bằng chính lời chứng của Thiên Chúa với ba chứng nhân: Thánh Thần, Nước và Máu. Thánh Thần là lời chứng đến từ Đức Chúa Cha. Nước và Máu là lời chứng của chính Chúa Giêsu. Tất cả làm thành lời chứng của Ba Ngôi Thiên Chúa. Tất cả là lời chứng về quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa.
Thánh Thần là tình yêu kết hiệp Ba Ngôi Thiên Chúa, là sự sống, là sức mạnh, là lò lửa, là nguồn sinh lực vô biên, không bao giờ vơi cạn, nhưng ngày càng sung mãn. Là sự thật, là nguồn mạch sự thật, nên là lời chứng không thể phủ nhận được.
Nước và Máu là tình yêu cụ thể, thể hiện trong xác thịt Con Người, trước mắt mọi người. Là tình yêu bao dung, tẩy sạch mọi tội lỗi vô vàn vô số của nhân loại. Nhưng trên hết là tình yêu cứu độ đưa loài người từ tình trạng bị trừng phạt đến được thứ tha, từ thân phận nô lệ khốn khổ về làm con Thiên Chúa trong tự do, từ vực sâu sự chết đớn đau về vinh quang khôn sánh của con Thiên Chúa. Đó là tình yêu lớn lao cao cả nhất dám hi sinh tính mạng vì bạn hữu. Vì thế cũng là lời chứng chân thực nhất và có sức thuyết phục nhất.
Lời chứng tuyệt đối quan trọng không chỉ vì thế giá của Thiên Chúa, nhưng quan trọng vì quyết định vận mệnh của ta. Bằng chứng ấy chỉ nói lên một điều quan trọng: Thiên Chúa yêu thương ta vô vàn và Thiên Chúa đã làm tất cả chỉ vì muốn ta được sống và được hạnh phúc. Chính vì thế lời chứng ấy đặt ta trước một chọn lựa sinh tử: Tin hay không. Từ đó là quyết định sống hay chết.
Người bệnh phong là người coi như đã chết vì bị loại trừ khỏi cộng đoàn và không có hi vọng được chữa lành. Người bệnh phong là người đã ở bên bờ vực sinh tử, ở lằn ranh giữa cái chết và cái sống. Anh đã tin tưởng tuyệt đối vào Chúa Giêsu. Anh đã lựa chọn đúng nên đã từ cõi chết trở về cõi sống. Anh đã lựa chọn niềm tin vào con Thiên Chúa nên anh có sự sống, không chỉ là sự sống với đầy đủ ý nghĩa nhất của thân xác, nhưng còn là sự sống đời đời của linh hồn bất diệt.
Lạy Thiên Chúa là Tình Yêu. Bằng chứng của Chúa chính là bằng chứng của tình yêu. Động lực của bằng chứng cũng là tình yêu: mong muốn đem đến cho con sự sống đời đời. Xin cho con biết tin nhận và tuyên xưng Thiên Chúa Tình Yêu trong suốt cuộc đời con.
Suy Niệm 3: Chữa một người phung hủi
Bài Tin mừng hôm nay cho thấy cử chỉ ưu ái mà Chúa Giêsu dành cho những người cùng khổ, những kẻ bị xã hội ruồng rẫy.
Với sự nhạy cảm của một lương y, thánh sử Luca ghi lại một chi tiết đáng chú ý, đó là sự kiện Chúa Giêsu giơ tay chạm đến người phung hủi, biểu lộ một tình yêu xoá bỏ mọi ngăn cách, một tình yêu đi đến và dừng lại nơi những đau khổ của con người. Đối với Chúa Giêsu, con người cùi hủi ấy không còn là một phế nhân, môt kẻ bị loại bỏ, mà là một con người đáng cảm thông và thương yêu. Người phung hủi được chữa lành, nhưng nhất là được phục hồi nhân phẩm, được sống như một con người giữa mọi người.
Chung quanh chúng ta có biết bao người bị đẩy ra bên lề xã hội. Họ đang chờ đợi một cánh tay nâng đỡ, một lời an ủi, một nụ cười cảm thông. Bao nhiêu nghĩa cử là bấy nhiêu phép lạ.
Ước gì chúng ta biết sống thế nào để Chúa Giêsu có thể thực hiện phép lạ tình yêu của Ngài đối với tất cả mọi người.
Suy Niệm 4: Cái khổ của người bị bệnh
"Khi còn có thể làm việc được thì người mắc bệnh vẫn còn được chung sống với gia đình. Nhưng đến khi thân tàn ma dại không làm được chi nữa, nhất là khi các vết ung thối bắt đầu phá miệng lở loét ra, máu mủ vấy đầy, khiến những người chung quanh nhờm gớm, kinh tởm không chịu được, thì dân làng đưa họ vào rừng, cất cho họ một túp lều tranh để người cùi ở lại đó một mình sống chết ra sao mặc kệ!
Khi yếu liệt, cô đơn trong túp lều hiu quạnh, người cùi đói khổ mà chết dần chết mòn một cách thảm khốc, ấy là không kể trường hợp có thể bị cọp đói tha đi, vì có lời đồn đại rằng cọp rất hám thịt người cùi.
Nói tóm một điều: người cùi là một bệnh nhân biết rõ mình đang chết và với đôi mắt tỉnh táo còn chứng kiến được rành rành giữa thanh thiên bạch nhật những sình thối rục rã của chốn mồ sâu. . . !"
Câu chuyện trên đây chính là nhận định của Đức Cha Cassaigne, thừa sai sống giữa anh chị em người cùi.
Trong cuộc sống, cái gây nên đau khổ nhất cho con người chính là: bệnh tật và sự cô đơn.
Bệnh tật thì làm cho con người ta thất vọng và nghĩ mình vô dụng; bệnh tật còn làm cho con người đau đớn thể xác. . . Còn sự cô đơn thì làm cho con người trở nên dư thừa, họ bị cô lập không được tiếp xúc với ai và cũng không ai thèm tiếp xúc với họ. Đau khổ nhất chính là bị đẩy ra một nơi xa cộng đồng, không được ở với cha mẹ, anh chị em và bà con xóm làng.
Tất cả những tâm trạng đó, nơi người bị bệnh phong, họ phải hứng chịu tất cả.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết yêu thương ngay cả đến người không đáng yêu, tha thứ kẻ không đáng tha thứ. Đức Giêsu đã làm thế và chúng ta cũng phải làm như vậy, nếu chúng ta là môn đệ đích thực của Chúa.
Mong sao mỗi người chúng ta sẵn sàng chia sẻ và gánh lấy những gánh nặng cho nhau. Thập giá mà mỗi người chúng ta phải vác, sẽ nhẹ đi biết bao, khi chúng ta biết bắt chước Đức Giêsu, giơ tay ra chạm đến người phong cùi.
Xin Chúa Giêsu ban cho chúng ta được trở nên dấu chỉ tình thương của Chúa trong xã hội hôm nay. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Chúa có quyền chữa lành bệnh tật và tội lỗi
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Khi chữa lành người phong hủi, Chúa Giêsu chứng tỏ Ngài có quyền chữa lành mọi bệnh tật và giải thoát người ta khỏi tội lỗi. Ta hãy tin tưởng và kêu cầu Chúa cứu chữa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, đối với chúng con, bệnh tật là một nỗi sợ. Đau đớn nơi thân xác do bệnh tật gây ra kéo theo những khổ đau tâm hồn. Bệnh tật làm cho con thấy sự sống của thân xác mỏng manh biết bao. Cuộc đời này ngắn ngủi qua mau biết bao.
Lạy Chúa, qua việc Chúa chữa lành cho người phong cùi, con hiểu rằng Chúa muốn con sống hạnh phúc, khỏe mạnh. Ngày nay, tuy Chúa không hiện ra để làm phép lạ chữa bệnh, nhưng Chúa vẫn âm thầm hiện diện và giúp cho ngành y khoa tiến bộ. Để qua đó, Chúa chữa lành bệnh tật cho loài người. Con xin tạ ơn Chúa hết lòng.
Chúa ơi, trên thế giới này có bao người mắc phải những thứ bệnh ngặt nghèo, tiền mất mà tật vẫn mang. Cũng có nhiều người quá nghèo, không đủ tiền chữa bệnh. Cuộc sống của họ lây lất khổ đau. Con nguyện xin Chúa cho họ gặp được những người có lòng quảng đại giúp đỡ. Con cũng nguyện xin cho các bác sĩ, y tá là những người trực tiếp phục vụ bệnh nhân, xin cho họ có tinh thần phục vụ vô vị lợi để xoa dịu nỗi đau của nhân loại. Và con nguyện xin Chúa chữa lành những người đau ốm trong gia đình con. Xin cho tất cả chúng con được sống mạnh khỏe an vui.
Lạy Chúa Giêsu là Chúa của con, con xin phó thác trọn vẹn đời con trong tay Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Lập tức người ấy khỏi phong hủi”.
Suy Niệm 6: Chúa Giêsu hoạt động cứu rỗi
(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống. . . )
Chúa Giêsu tiếp tục hoạt động cứu rỗi, Ngài chữa một người bị phong cùi.
- Việc chữa người phong cùi làm ứng nghiệm lời tiên tri Isaia về Đấng Messia, chứng minh Chúa Giêsu chính là Đấng Messia.
- Thái độ của người cùi chứng tỏ người này tin Ngài là Messia: anh “liền sấp mặt xuống đất” kêu xin; anh nói “Lạy Thầy, nếu Thầy muốn, Thầy có thể cho tôi được sạch” (thời đó, phong cùi được coi là chứng nan y vô phương chữa trị).
- Thái độ của Chúa Giêsu biểu lộ một sự ưu ái đặc biệt: “Người giơ tay chạm đến người ấy” (không ai khác dám đụng người cùi, vì sợ lây bệnh và lây sự ô uế).
- Lời Ngài bảo anh đi trình diện tư tế và dâng của lễ chứng tỏ Chúa Giêsu tôn trọng luật lệ đạo Do Thái.
B- Suy gẫm (. . . nẩy mầm)
1. Chúa Giêsu không chỉ chữa bệnh cho người bị phong cùi, mà còn đưa tay đụng anh, chứng tỏ Ngài không ghê tởm anh; Ngài còn dạy anh đi trình diện với tư tế để được công nhận hết bệnh và nhờ đó được hội nhập vào xã hội. Như thế, người phong cùi này vừa được chữa bệnh, vừa được phục hồi nhân phẩm. Nói cách khác, Chúa Giêsu vừa chữa anh khỏi bệnh tật phần xác vừa chữa anh khỏi bệnh tật tâm hồn. Sự quan tâm của ta với những người nghèo khổ có được toàn diện như thế chưa ?
2. Cái nghèo cũng là một thứ “tội đầu”, vì nghèo nên khổ, vì nghèo khổ nên bị coi khinh và xua đuổi.
3. Nạn đói xảy ra trong vùng. Một người ăn xin bên góc đường bước đến bên đại văn hào Nga, Tolstoy, đang đi ngang qua đó. Tolstoy dừng lại, lấy tiền cho nhưng không tìm được đồng nào. Ông nói với sự nuối tiếc: “ Này người anh em, đừng giận tôi. Tôi chẳng đem theo gì”.
Mặt người ăn xin sáng lên và nói: “Ông gọi tôi là anh em, đó đã là món quà rất lớn rồi!” (Góp nhặt).
Việc giúp đỡ người nghèo khổ chưa chắc có giá trị bằng thái độ tôn trọng của ta đối với họ.
4. “Chúa Giêsu giơ tay chạm đến người ấy và nói: ‘Ta muốn, hãy nên trơn sạch’. Lập tức, người ấy khỏi phong hủi” (x. Lc 5,13)
Tôi có người bạn học, sắp theo ngành cảnh sát. Trước khi nhập học, bạn đã hỏi cha mình “Con có nên nhập bọn với nhóm tội phạm, để một ngày nào đó phá tan băng nhóm ấy không ?” Cha bạn trả lời “Áo dơ muốn sạch thì phải chịu khó nhúng tay vào”.
Người mắc bệnh phong, vì muốn được khỏi bệnh nên đã tìm đến với Chúa Giêsu. Chúa cũng muốn anh được chữa lành nên đã chạm đến anh.
Chúa cũng đã chạm đến tôi nhiều lần: khi tôi rước lễ, khi tôi cầu nguyện, đọc sách thánh… nhưng dường như chẳng có gì thay đổi nơi tôi cả! Phải chăng vì tôi chưa thực sự tin tưởng vào Chúa và thực tâm muốn được chữa lành ?
Lạy Chúa, xin cho con khao khát được canh tân và ước muốn được chữa lành, để con luôn bước đến với Chúa và được hoàn toàn đổi mới. (Epphata)
Suy Niệm 7: Chúa chữa người phong cùi
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Chúa Giêsu đang ở trong thành thì có người phong cùi đến sấp mình van xin Người cứu chữa. Người liền giơ tay sờ anh ta, tức thì anh được lành sạch. Người dặn anh đừng cho ai biết, những hãy đi trình diện với tư tế để chứng minh anh đã khỏi bệnh. Nhưng đi tới đâu anh ta cũng thuật lại phép lạ Chúa đã làm cho anh, nên dân chúng khắp nơi kéo nhau theo nghe Chúa giảng và xin Người cứu chữa bệnh tật.
2. Luật Do thái về bệnh phong cùi.
Theo luật Do thái, những ai mắc bệnh cùi không được sống trà trộn trong dân chúng vì bệnh này là bệnh nan y và hay lây. Vì vậy số phận của họ đã khổ vì bệnh hoạn lại còn khốn nạn hơn vì tình trạng cô đơn.
Căn bệnh đáng sợ nhất đối với người Do thái là bệnh cùi. Nó như cơn đại dịch truyền nhiễm gieo rắc biết bao khiếp sợ cho những nạn nhân của nó vì hồi đó không có hy vọng cứu chữa, số phận của người bệnh cùi thực sự rất đáng thương. Ngay khi phát hiện các dấu hiệu của bệnh, người bệnh bị cách ly khỏi mọi đời sống xã hội và buộc phải trốn tránh xa xã hội.
3. Đau đớn thể xác của người cùi.
Có những triệu chứng để xem biết ai đã mắc chứng bệnh này: nó có thể bắt đầu bằng những mụn nhỏ và lở loét, những chỗ ung lở thì có mùi tanh hôi. Ở trên mặt thì lông mày rụng hết, mặt lộ ra, thanh quản bị lở, giọng nói trở nên khàn đặc, hơi thở khò khè. . . Trung bình bệnh này phát triển trong 9 năm, cuối cùng điên loạn, hôn mê và chết. Nhưng cũng có trường hợp bệnh nhân còn sống lâu năm nhưng ở trong tình trạng đau đớn và thất vọng.
4. Đau khổ tinh thần của người cùi.
Đau khổ tinh thần còn lớn hơn đau đớn về thể xác. Theo sách Lêvi, người phong cùi phải sống tách biệt khỏi gia đình và bạn hữu, bị coi như đã chết. Và sách còn cho biết thêm :”Người mắc bệnh phong cùi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên :”Ô uế, ô uế”. Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế, ô uế : nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại. Ngoài ra người phong cùi không được phép đến nơi thờ phượng công cộng vì phong cùi bị coi là nhơ bẩn và bị coi như Chúa phạt”.
5. Đức Giêsu đã chữa người phong cùi.
Theo luật, không ai được phép chào hỏi một người phong cùi ở ngoài đường, không được đến gần 2 mét. Nếu người phung hủi đứng đầu gió thì người ở cuối gió phải cách xa 45 mét. Ngay cả một quả trứng, các rabbi Do thái cũng không ăn nếu bán ở đường phố có người phong cùi đi qua. Thế mà Chúa Giêsu bất chấp những cấm cách ấy, Ngài tỏ lòng thương xót bệnh nhân nên đã giơ tay ra sờ vào bệnh nhân và anh ta được khỏi. Đối với Chúa Giêsu, trong cuộc sống chỉ có một điều bó buộc duy nhất là luật yêu thương.
6. Bệnh phong cùi thiêng liêng.
Ngoài bệnh cùi thể xác ra, còn một loại bệnh cùi thiêng liêng nữa. Các nhà tu đức học và dẫn đàng thiêng liêng thường coi tội lỗi là một thứ bệnh cùi thiêng liêng. Nếu bệnh cùi thể xác khiến người ta bị cô lập hóa về thể lý, nghĩa là phải sống tách biệt khỏi gia đình và xã hội, thì bệnh cùi thiêng liêng khiến người ta bị cô lập hóa về đời sống thiêng liêng. Tội làm sứt mẻ tình bạn với Thiên Chúa và người khác.
7. Thái độ đối với người bệnh cùi.
Đứng trước nạn nhân phong cùi đau khổ này, chúng ta phải có một quyết tâm không bao giờ tự làm cho mình thành người cùi và cũng đừng làm cho những người sống chung quanh mình thành những người cùi. Nghĩa là có những người cư xử như mình bị cùi, khi tự xây cho mình một pháo đài ích kỷ, lập dị. . . Có những người khác lại đối xử với anh em như những người cùi, khi làm cho anh em cô đơn hoàn toàn, do lời nói hay thái độ chia rẽ, phân biệt đối xử. . . chẳng hạn có những người, những tập thể mà chúng ta xa lánh theo kiểu người Do thái xa lánh người phong cùi.
8. Truyện: Léon Tolstoi và người hành khất.
Một hôm Tolstoi, một đại văn hào người Nga, đang ngồi nghỉ mát trên ghế đá trong một công viên gần nhà, thì bỗng có người đàn ông lớn tuổi, áo quần nhếch nhác, đến gần và giơ chiếc mũ cũ rách ra trước mặt nhà văn để xin giúp đỡ. Nhà văn liền thò tay vào túi áo định lấy tiền cho người ăn xin, nhưng tìm hết túi này sang túi khác mà không kiếm thấy đồng nào.
Bấy giờ ông nhìn người ăn xin và nói với sự hối tiếc như sau :
- Này người anh em, xin thứ lỗi cho tôi. Vì hôm nay tồi rất tiếc đã để quên ví tiền ở nhà rồi.
Bấy giờ, người ăn xin thay vì buồn giận, thì đã mỉm cười và nói :
- Tôi thật không biết phải cám ơn ông thế nào cho xứng. Vì hôm nay ông đã cho tôi một món quà quí báu hơn tiền bạc. Đó là ông đã không những không khinh dể tôi, mà còn tôn trọng tôi khi gọi tôi là “Người anh em”.
Suy Niệm 8: Chúa Giêsu quyền năng
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Bài Tin Mừng, tiếp tục khai triển đề tài Chúa tỏ mình ra. Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy, Ngài là một Thiên Chúa quyền năng.
Thánh Luca đã ghi lại việc Chúa tỏ mình ra ở đây qua câu chuyện Chúa chữa một người phong cùi.
Thánh sử ghi: “Người giơ tay chạm đến người ấy và nói: Ta muốn - hãy nên sạch. Lập tức người ấy khỏi phong cùi”. (Lc 5,12)
Rõ ràng là ở đây, Chúa Giêsu đã tỏ ra cho con người thấy quyền năng của Chúa. Bởi chỉ bằng một ý muốn, một lời nói, Ngài đã chữa lành người phong cùi.
2. Chúa Giêsu của chúng ta ngoài việc tỏ mình ra là một Thiên Chúa quyền năng, Chúa còn tỏ ra cho ta thấy, Ngài là một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Lòng thương xót này còn được chứng tỏ qua việc Ngài lấy máu của mình để chuộc tội cho những ai biết tin vào Ngài.
Hơn nữa, Đấng quyền năng ấy, còn là một Thiên Chúa luôn biết cảm thông. Bản chất yêu thương của Chúa đã khiến Ngài muốn cảm thông với thân phận con người.
Họa sĩ tài ba Vincent Van Gogh không phải lúc nào cũng cầm cọ. Ông đã từng đến làm việc tại một mỏ than ở Borinage, Bỉ. Ở đó mọi người rất quý trọng ông. Những khi rảnh rỗi, ông thường được mọi người mời nói chuyện về cuộc sống. Ông nhận ra có một số người thường phản ứng khi nghe ông nói chuyện. Ông hiểu vì cuộc sống họ quá khổ sở, đến nỗi họ thấy khó mà tin được vào lời nói của người khác. Hằng ngày nhìn những người thợ mỏ phải làm việc trong các điều kiện khó khăn triền miên mà chỉ nhận được đồng lương chết đói. Gia đình họ luôn phải chạy ăn từng bữa, ông chợt thấy xót xa khi so sánh với cuộc sống tương đối sung túc của mình.
Vào một buổi tối cuối năm lạnh lẽo, trong đoàn người thợ mỏ mệt mỏi lê từng bước chân về nhà, ông thấy một ông lão chân bước xiêu vẹo băng ngang qua cánh đồng, giấu chặt người sau miếng vải bố để tìm chút hơi ấm. Van Gogh đã lấy quần áo của mình đem cho ông lão và chỉ giữ lại một bộ duy nhất. Ông quyết định sống với khẩu phần lương thực ít ỏi và phân phát tiền lương của mình cho những thợ mỏ khốn khổ ấy.
Có lần, mấy đứa trẻ của một gia đình nọ bị sốt thương hàn, tuy bản thân cũng đang sốt, Van Gogh vẫn nhường giường của mình để bọn trẻ có chỗ nằm.
Một gia đình giàu có trong vùng gợi ý dành riêng cho ông một căn phòng trống để trọ, nhưng Van Gogh từ chối lời để nghị này. Ông nói nếu có thiện chí, gia đình đó nên giúp những người có hoàn cảnh khó khăn hơn.
Những người trước đây thường phản ứng với ông giờ đã hiểu và rất kính trọng ông.
Ông ý thức rất rõ rằng giữa lời nói và hành động có một sự cách biệt khá lớn. Chính cuộc sống và hành động mới là tiếng nói ấn tượng nhất, hơn tất cả mọi lời hoa mỹ. Ông nhận ra dù ở bất cứ nơi đâu, chỉ nên dùng lời nói khi thật cần thiết.
3. Phần chúng ta, là những người được hưởng lòng thương xót một cách nhưng không của Chúa, chúng ta cũng phải biết đem tình thương của mình mà ban phát cho những anh chị em chung quanh chúng ta, bằng cách chia sẻ và gánh lấy những gánh nặng cho nhau.
Ngày kia tại Trung Quốc, một em bé đói rách tiều tụy vì phong cùi, bị dân chúng dùng gậy gộc xua đuổi ra khỏi nơi chôn nhau cắt rốn của em. Trước cảnh tượng đau lòng ấy, một nhà truyền giáo phương Tây đã ẵm em lên để che chở cho em khỏi những gậy gộc vút lên thân mình em và những viên đá phũ phàng ném vào em để xua đuổi em đi. Thấy có người chịu mang em bé đi, dân làng mới thôi, nhưng miệng họ vẫn không ngớt lời kêu la: “Phong hủi, phong hủi, phong hủi, cút đi!”.
Những giọt nước mắt lăn trên gò má em bé, nhưng lần này không phải là những giọt nước mắt đau buồn mà là những giọt nước mắt mừng vui, vì đã có người che chở. Em bé hỏi nhà truyền giáo:
- Tại sao ông lo lắng cho cháu như thế?
Nhà truyền giáo trả lời:
- Vì ông trời đã tạo nên cả hai chúng ta. Em sẽ là em gái của ta và ta sẽ là người anh của em. Từ nay, em sẽ không phải đói khổ và không còn lo không có nơi nương tựa nữa.
Suy nghĩ hồi lâu, em lại hỏi:
- Em phải làm gì?
- Em hãy trao tặng lại cho người khác tình yêu càng nhiều càng tốt - Nhà truyền giáo trả lời:
Kể từ đó đến 03 năm sau, khi em bé tắt hơi thở cuối cùng, em luôn chăm sóc, giúp đỡ, băng bó các vết thương, đút cơm cho các bệnh nhân trong trại cùi mà nhà truyền giáo đã đưa em về đó ở. Khi lìa đời, em mới lên 12 tuổi, và mọi bệnh nhân khác đã kháo láo với nhau:
- Bầu trời bé nhỏ của chúng ta đã về trời!
Vâng! Bầu trời bé nhỏ của chúng ta đã về trời! Ôi đẹp biết chừng nào tình yêu biết chia sẻ cho nhau.
06/01 Quê hương Nazaret.
- Viết bởi Lc 4, 14-22a
Quê hương Nazaret.
Thứ Năm sau lễ Hiển Linh.
"Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh này".
LỜI CHÚA: Lc 4, 14-22a
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về Galilêa trong quyền năng của Thánh Thần và danh tiếng Người đồn khắp miền xung quanh. Người giảng dạy trong các hội đường của họ, và ai nấy đều ca tụng Người.
Người đến Nadarét là nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người, Người vào hội đường ngày Sabbat, và đứng dậy đọc sách. Người ta trao cho Người cuốn sách Tiên tri Isaia.
Người mở sách và gặp chỗ có chép rằng: "Thánh Thần Chúa ở trên tôi, vì Chúa đã xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng tin mừng cho người nghèo khó, chữa lành những người sầu khổ trong tâm hồn, loan tin giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được thấy, giải thoát người bị áp chế, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa". Người xếp sách lại, trao cho viên phụ trách, đoạn ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều đưa mắt chăm chú nhìn Người.
Người bắt đầu nói với họ rằng: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai các ngươi vừa nghe". Và ai nấy đều công nhận lời Người và ngạc nhiên vì những lời hấp dẫn thốt ra từ miệng Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Trả lại tự do
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu tỏ mình.
Ngài không tỏ mình cho một đám đông trong hoang địa,
nhưng tỏ mình cho người dân làng Nadarét, tại hội đường của họ.
Thánh Luca đã muốn chọn Nadarét thay vì Caphácnaum
làm nơi Đức Giêsu bày tỏ con người và chương trình hành động của Ngài.
Nadarét là một ngôi làng nhỏ, chẳng có gì nổi bật (x. Ga 1, 46),
nhưng ở đây, Con Thiên Chúa làm người đã sống hơn chín phần mười đời mình
như một người thợ (Mc 6, 3), con của một ông thợ khác (Mt 13, 55).
Ở đây, Đức Giêsu đã lớn lên từ từ về mọi mặt (Lc 2, 40).
Bé Giêsu, cậu Giêsu, chú Giêsu rồi ông Giêsu.
Ngài sống như một người bình thường, không có hào quang trên đầu,
cũng không làm nhiều phép lạ như các sách ngụy thư đã kể.
Hôm nay, Đức Giêsu trở lại làng xưa, nơi có biết bao kỷ niệm.
Vì là ngày sabát, theo thói tục, Ngài đến hội đường.
Ông trưởng hội đường đã mời Ngài đọc sách thánh và diễn giải.
Hãy ngắm nhìn cử chỉ đĩnh đạc của Đức Giêsu.
Ngài đứng lên, nhận cuộn sách, mở ra;
sau khi đọc, Ngài cuộn sách, trả lại và ngồi xuống.
Đức Giêsu đã cố ý chọn đoạn sách Isaia 61, 1-2
Ngài thấy đoạn sách thánh đó nói về mình, về sứ vụ tương lai:
“Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai quý vị vừa nghe. ”
Như thế chính Ngài nhận mình là Đấng có Thần Khí Chúa ngự trên,
nhận mình là Mêsia, Đấng được xức dầu để thi hành một sứ mạng.
Sứ mạng của Đức Giêsu chủ yếu là loan báo và công bố ( Lc 4, 18-19).
Sứ mạng ấy nhắm đến những người bất hạnh trong xã hội:
người nghèo, người bị giam cầm, người bị mù lòa, bị áp bức.
Đức Giêsu như đến để mở một Năm Thánh đặc biệt, Năm hồng ân.
Ơn nổi bật là ơn trả lại tự do cho tù nhân và cho người bị áp bức (aphesis).
Vẫn luôn có những người tự nhốt mình trong nhà tù của thành kiến, thói quen…
Xin được ơn tự do để thoát khỏi sự chi phối của cái tôi ích kỷ.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
ai trong chúng con cũng thích tự do,
nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ.
Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo ra.
Xin giúp chúng con được tự do thực sự:
tự do trước những đòi hỏi của thân xác,
tự do trước đam mê của trái tim,
tự do trước những thành kiến của trí tuệ.
Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích kỷ,
để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa,
để nhạy cảm trước nhu cầu bé nhỏ của anh em.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho chúng con được tự do như Chúa.
Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp hòi,
khi Chúa đồng bàn với người tội lỗi
và chữa bệnh ngày Sabát.
Chúa tự do trước những thế lực đang ngăm đe,
khi Chúa không ngần ngại nói sự thật.
Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và cái chết,
vì Chúa yêu mến Cha và nhân loại đến cùng.
Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu hiến dâng,
để chúng con được tự do bay cao.
Suy Niệm 2: Thiên Chúa trong đời thường
Trong tuần lễ Hiển linh, Chúa đã tỏ mình ra bằng nhiều cách khác nhau. Hôm nay không còn úp mở, Chúa nói chính thức và công khai: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai quý vị vừa nghe”.
Lời công bố minh nhiên này diễn ra trong làng quê bình lặng, giữa những người dân quê bình thường, trong khung cảnh một ngày thứ bẩy bình thường và trong buổi đọc Sách Thánh, cầu nguyện thường lệ. Thông điệp chỉ đi vào đời thường với những con người tầm thường, thậm chí còn bất hạnh, bị bỏ quên trong xã hội: “Thần Khí Đức chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn”. Quả thật suốt cuộc đời dương thế, Chúa Giêsu đã sống phần lớn thời gian rất bình thường, làm thợ mộc giữa những người nghèo hèn. Nhưng Chúa đã yêu thương những con người bình thường. Chính vì thế Chúa đem hi vọng đến cho đời thường. Người mù hi vọng được nhìn thấy những điều mơ ước. Người câm nói được nỗi lòng mình. Người què đi được đến nơi muốn đến. Người điếc nghe được tiếng gọi muốn nghe. Người nghèo tìm được hạnh phúc.
Đời thường chiếm phần lớn thời gian ta sống ở đời. Chắc chắn đời thường có tầm quan trọng trong cuộc đời chúng ta. Ta phải trân trọng đời thường bằng cách yêu mến công việc hằng ngày và đặc biệt yêu mến những người anh em sống quanh ta và với ta.
Tại sao ta phải yêu thương anh em sống quanh ta và với ta? Thánh Gioan đưa ra 3 giải nghĩa.
Yêu Chúa phải yêu anh em. Vì Chúa vô hình còn anh em ta nhìn thấy hằng ngày. Nếu không yêu người hữu hình thì nói yêu Đấng Vô Hình là nói dối.
Yêu Chúa phải yêu anh em. Yêu nhau yêu cả đường đi. Yêu Chúa phải yêu người Chúa yêu. Anh em được Chúa yêu. Nên ta phải yêu anh em. Chúa sinh ra anh em. Yêu Đấng sinh thành thì phải yêu cả người được sinh thành.
Yêu Chúa phải yêu anh em. Đây không phải công việc của xác thịt thế gian, nhưng là công việc của Thần Khí. Yêu thương những người tầm thường, nghèo nàn. Yêu anh em nghèo hèn là sống theo Thần Khí. Đây là điều khó. Nhưng những ai do Thiên Chúa sinh ra đều có thể chiến thắng xác thịt thế gian.
Suy Niệm 3: Chúa Giêsu viếng Nazaret.
Tuy chỉ diễn ra ở Hội đường Nazaret, nhưng việc Chúa Giêsu xuất hiện lần này nêu bật tư cách và sứ mệnh Mêsia của Ngài. Đồng thời tạo ra một khúc ngoặt trong lịch sự cứu rỗi, vì nó đánh dấu thời điểm mọi lời tiên báo của Cựu ước được thành tựu.
“Hôm nay đã ứng nghiệm lời kinh thánh tai các ngươi vừa nghe”. Biết bao thế hệ Cựu ước đã nôn nao chờ đợi hai tiếng “hôm nay” ấy. Đây là giờ phút vui mừng tột độ đối với những ai thật lòng chờ đó ngày Yavê. Dĩ nhiên, thời cứu rỗi sẽ ngày càng tốt đẹp do những can thiệp sẽ đến của Thiên Chúa, nhưng tất cả đều tuỳ thuộc ở giây phút này, giây phút Chúa Giêsu tỏ mình là Đấng mà tất cả Cựu ước đều hướng về.
Đây thật là một cuộc “hiển linh”, nhưng khác với ngờ tưởng của con người, vì là cuộc tỏ mình một cách êm ả, trong khung cảnh phụng vụ quen thuộc: Ngài đến hội đường ngày hưu lễ, cầu nguyện chung với mọi người, nghe đọc và nghe giải thích lời Chúa. Đấng Mêsia gặp gỡ Thiên Chúa, tìm hiểu, lắng nghe và nhận ra thánh ý Thiên Chúa nơi cơ chế phụng tự quen thuộc và nơi Kinh thánh, và rồi Ngài cũng sẽ thực hiện chương trình cứu rỗi bằng chính đời sống lao nhọc vì tha nhân, bằng chính thái độ tận tình đối với tha nhân, để “kẻ nghèo được nghe Tin mừng, người sầu khổ được chữa lành, kẻ bị giam cầm được giải thoát…”.
Chớ gì mỗi khi họp nhau nghe Lời Chúa chúng ta cũng nhận ra được thánh ý cứu độ của Ngài để rồi cùng với Chúa Kitô chúng ta thực hiện thánh ý ấy trong cuộc sống. Điều đó đòi hỏi nơi chúng ta một tấm lòng rộng mở và biết lắng nghe, một con tim quảng đại biết quên mình để dấn thân phục vụ.
Suy Niệm 4: Tất cả cho người nghèo
Có một câu chuyện thật ấn tượng kể về một linh mục dòng Phanxicô khó khăn như sau: ngày cha mới lãnh tác vụ linh mục, một người giàu có muốn tài trợ cho cha mới tất cả kinh phí trong thánh lễ tạ ơn đầu đời linh mục của ngài. Tuy nhiên, khi được tin như vậy, tân linh mục này đã ngỏ ý muốn xin số tiền ấy không phải để mở tiệc ăn mừng, mà là dùng nó vào việc xây dựng nhà cửa, mua thuốc men. . . cho bà con bị bệnh phong tại Biên Hòa – Đồng Nai mà ngài vô tình khám phá ra họ ở trong rừng sâu và không có nhà cửa cũng như không có ai giúp đỡ. . . Một tấm lòng tuyệt vời, khi không nghĩ cho riêng mình, mà là cho người nghèo, người bệnh, người bị xã hội bỏ rơi!
Hôm nay, bài Tin Mừng trình thuật việc Đức Giêsu trở về quê hương và Ngài vào các hội đường mà giảng dạy. Khi đọc đoạn Kinh Thánh của Isaia, nói về sứ mạng của vị Thiên Sai là đến với người nghèo, để nâng đỡ, an ủi, cứu giúp; xây dựng bình an, giải thoát con người khỏi ách thống trị của sự dữ. . . Đọc xong, Ngài tuyên bố, đoạn sách ấy hôm nay đã ứng nghiệm!
Khi nói như thế, Đức Giêsu công khai đứng về phía người nghèo, bỏ rơi và bị áp bức. Đây là lựa chọn và sứ vụ của Ngài khi đến trần gian mà hôm nay đã ứng nghiệm.
Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội và Thêm Sức, mỗi người được trao cho trách nhiệm trở nên ngôn sứ và chứng nhân cho Tin Mừng.
Tuy nhiên, chúng ta có trở nên chứng nhân của Chúa đích thực khi quan tâm đến người nghèo, người thấp cổ bé họng, người không có tiếng nói, người bị bỏ rơi không. . . ? Hay chúng ta đã phản chứng khi khước từ những người cần đến sự giúp của chúng ta, coi khinh và bỏ rơi những người tội lỗi, đồng thời dồn anh chị em mình vào ngõ cụt đường cùng?
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết sống tình liên đới, cảm thông và chia sẻ, để trở nên sứ giả của Tin Mừng tình thương trong gia đình, lối xóm và cuộc sống của chúng con hôm nay. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Cầu nguyện chung với cộng đoàn
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu vào hội đường như Ngài vẫn quen làm trong ngày Sa-bát. Đối với Kitô hữu, việc cầu nguyện riêng tư với Chúa là điều cần thiết, nhưng cầu nguyện chung với cộng đoàn là điều quan trọng không thể thiếu được.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Chúa thường thờ phượng ở hai nơi công cộng là hội đường, và đền thờ. Mỗi thị trấn đều có hội đường, nên người ta tụ họp vào ngày hưu lễ để nghe, suy gẫm Lời Chúa và cầu nguyện. Người Do thái chỉ có một đền thờ để nhấn mạnh rằng: chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, ở đó người ta tụ họp để dâng lễ vật lên Thiên Chúa. Đó là nơi dâng hy tế trong tinh thần cầu nguyện.
Lạy Chúa Giêsu, phụng vụ Lời Chúa như chúng con tuân giữ hôm nay phản ánh công việc tại hội đường: tức là mỗi người cùng lắng nghe Lời Chúa, cùng suy gẫm và cầu nguyện. Còn phụng vụ Thánh Thể thì phản ánh công việc tại đền thờ: nghĩa là mỗi người cùng biểu lộ niềm tin vào một Thiên Chúa duy nhất, cùng dâng hy tế trong tinh thần cầu nguyện.
Xin Chúa giúp con ý thức rằng: đời sống đức tin của con cần được nuôi dưỡng và phát triển trong đời sống đức tin của cộng đoàn. Bởi vì cũng như một cục than sẽ luôn cháy hồng rực sáng nếu nằm cạnh những cục than khác, nhưng nó sẽ bị lụi tàn nếu đứng riêng lẻ một mình. Cũng thế, con cần tham dự những buổi cầu nguyện chung với anh em một cách tin tưởng để thờ phượng như Chúa đã làm và dạy con thực hiện. Chúa là mối dây liên kết con với người khác. Amen.
Ghi nhớ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh này”.
Suy Niệm 6: Chúa Giêsu công bố chương trình hoạt động
(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống. . . )
Sau một thời gian hoạt động, Chúa Giêsu trở về rao giảng tại chính quê hương mình là Nadarét miền Galilê. Tại đây, trong một bối cảnh trang nghiêm và chính thức (ngày Sabbat, trong hội đường), Chúa Giêsu công bố chương trình hoạt động của Ngài: Với tư cách là Messia vừa được tấn phong, Ngài được sai đi truyền bá Phúc Âm cho những người nghèo hèn, khốn khổ. Như thế là Ngài thực hiện điều mà Thiên Chúa đã hứa từ xưa qua lời ngôn sứ Isaia.
B. Suy gẫm (. . . nẩy mầm)
1. “Thánh Thần Chúa ở trên tôi. . . sai tôi đi rao giảng tin mừng cho người nghèo khó”. Thời Chúa Giêsu và thời các tông đồ, những kẻ nghèo khó quả thực đã được nghe Phúc Âm. Nhưng những kẻ nghèo khó thời nay có được như thế chưa ?
2. Chuyện xảy ra trong một đêm trình diễn văn nghệ Giáng Sinh: một thanh niên hoá trang thành một người ăn mày để diễn nhạc cảnh Chúa đến với người nghèo. Nhưng thanh niên này không thể nào bước lên sân khấu được, vì khi anh tới gần đó thì bị những người trong ban trật tự đuổi đi. Họ tưởng anh là một tên ăn mày thật, và họ sợ anh phá rối buổi trình diễn. Xét về mặt hoá trang thì ban tổ chức văn nghệ đã thành công. Tuy nhiên xét về tinh thần thì họ đã tự mâu thuẫn: họ muốn nói cho khán giả biết Chúa đến với người nghèo, nhưng khi gặp người nghèo, dù chỉ là một người giả nghèo, thì họ đã xua đuổi. Phúc Âm đã không thấm nhập vào lòng những kẻ trình diễn Phúc Âm.
3. “Thánh Thần Chúa ở trên tôi, vì Chúa đã xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng tin mừng cho người nghèo khó,” (Lc 4,18)
Một người bạn kể lại: “… Trong lớp tôi dạy, có một em tên Bi bị khuyết tật bẩm sinh: sứt môi và điếc một tai trái. Bị các bạn chế diễu, em luôn cảm thấy bị bỏ rơi, thua thiệt. Em trở nên khép kín và xa lánh mọi người. Một hôm, tôi cho các em được tự do đi lại trong lớp và có thể nói nhỏ vào tai bất kỳ một người bạn nào những gì mình thích. Bi ngồi đó, không tham gia, cũng không chờ đợi. Và chính lúc đó, tôi đã đến nói nhỏ vào tai em “Ước gì Bi là đứa em nhỏ của cô!” Bi ngước mắt ngạc nhiên như dò hỏi “Có thật không cô ?” Và tôi đã ôm chầm lấy em. ”
Kỳ diệu thay luồng gió của Thánh Thần! Ngài vẫn tác động trên tâm hồn con người, ngay trên người bạn của tôi, để luôn biết cảm thông và trao tặng… Hành vi ấy đang tiếp nối những hành vi của Chúa Giêsu, Đấng đã được Thánh Thần thúc đẩy để đem Phúc Âm cho người nghèo khó.
Lạy Chúa, khi con đói, xin gởi đến con người cần của ăn. Khi con cô đơn, xin gởi đến con người cần được thông cảm. (Epphata)
Suy Niệm 7: Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Sau một thời gian hoạt động, Chúa Giêsu trở về rao giảng tại chính quê hương mình là Nazareth miền Galilê. Tại đây, trong một bối cảnh trang nghiêm và chính thức (ngày sabat, trong hội đường), Chúa Giêsu công bố chương trình hoạt động của Ngài: Với tư cách là Messia vừa được tấn phong, Ngài được sai đi loan báo Tin mừng cho những người nghèo hèn, khốn khổ. Như thế là Ngài thực hiện điều mà Thiên Chúa đã hứa từ xưa qua lời tiên tri Isaia.
Trong khi những khát vọng và bao nỗ lực của con người qua những cuộc cách mạng trong dòng lịch sử đã không đem lại sự tự do - công bằng hoàn toàn cho con người. Có một người đã vượt lên tất cả, vượt trên mọi cuộc cách mạng, vượt lên trên không gian và thời gian để đem lại sự tự do và bình đẳng cho mọi người, ở mọi nơi và qua mọi thời đại.
Chính Ngài giải phóng con người khỏi đau khổ, tù đày, áp bức và dẫn đưa con người đến một xã hội công bình, bác ái viên mãn. Đức Giêsu với tước hiệu Kitô luôn là niềm hy vọng vĩnh cửu của nhân loại mà thánh Luca đã trình bày với lời tiên tri Isaia như sau:
“Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm, cho biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19).
Đức Giêsu đã khẳng định: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,21). Từ ngữ “hôm nay” diễn tả hành động trong hiện tại về sứ mạng giải phóng của Đức Kitô, không chỉ là trong quá khứ mà luôn được thể hiện trong lòng nhân loại qua muôn thế hệ. Tác động giải thoát không phải trong bạo lực như cuộc cách mạng của con người đã sử dụng mà là trong tác động của Thánh Thần.
Nếu chúng ta biết để cho Ngài hành động trong niềm tin và sự phó thác, thì những lo âu, những khốn khó của chúng ta sẽ được Ngài chia sẻ gánh vác. Như thế chúng ta đã được giải thoát ngay trong chính niềm tin của chúng ta vào Ngài.
Với lời tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh thánh tai các ngươi vừa nghe”, Chúa Giêsu muốn nói rằng: Ngài chính là Đấng Thiên Sai. Lời quả quyết này đã trở thành một tiếng sét đánh bên tai những người nghe Ngài lúc đó. Vâng Ngài đã đến để bắt đầu một thời kỳ mới, thời kỳ cứu rỗi. Chúa Giêsu là Đấng được Thiên Chúa Cha sai đến để cứu độ nhân loại. Thế nhưng hiểu được Chúa Giêsu không phải là dễ dàng.
Truyện: Vẽ chân dung Đấng Thiên Sai
Một tu sĩ muốn vẽ chân dung Chúa Giêsu. Ông rảo khắp mọi nơi tìm người mẫu thích hợp. Nhưng càng tìm kiếm ông càng khám phá ra rằng, chẳng có người nào trên trần gian này hoàn toàn giống Chúa, và ông đi tới kết luận: khuôn mặt Chúa Giêsu phải là tổng hợp mọi nét của con người.
Bởi đó, thay vì chọn người mẫu, ông đã thu góp tất cả những nét đẹp của mọi khuôn mặt mà ông bắt gặp. Gặp trẻ em, ông góp được nét đơn sơ. Từ bé gái ca hát nô đùa, ông gặp nét vui tươi trong cuộc sống. Nơi một người đàn ông lực lưỡng đang gồng gánh, ông tìm ra được nét sức mạnh của con người. Nhưng chân dung Chúa Giêsu không chỉ có nét hùng, nét đẹp, mà còn phải có một nét gì khác nữa.
Nghĩ như thế, tu sĩ lại tiếp tục tìm kiếm. Gặp một cô gái lang bạc, ông nhìn thấy nét u buồn trong ánh mắt. Gặp một người hành khất, ông tìm thấy nét thành khẩn van xin. Trong đôi mắt nhà tu hành ông tìm ra sự nghiêm nghị. Và cuối cùng, trên gương mặt người mẹ đi chôn xác đứa con, ông hiểu được thế nào là đau khổ.
Mỗi người một vẻ, nhà hoạ sĩ cố gắng đưa hết vào chân dung Chúa Giêsu. Nhưng ông vẫn chưa hài lòng. Vì ông thấy trên khuôn mặt Chúa vẫn còn một nét nào đó mà ông chưa xác định được.
Ngày kia, vào một khu rừng ông chợt thấy một người che mặt bỏ chạy. Ông chạy theo và khám phá ra đấy là một người phong cùi. Ánh sáng bỗng loé lên trong ông. Thì ra điều còn thiếu trên khuôn mặt Chúa Giêsu, đó là MẦU NHIỆM! Với ý nghĩ ấy, ông lấy cọ vẽ lên khung vải trắng khuôn mặt Chúa Giêsu.
Khi tác phẩm được hoàn thành, tất cả những ai đã cung cấp cho hoạ sĩ nét riêng của mình đều hớn hở đến, để nhìn ngắm nét ấy trên gương mặt Chúa Giêsu. Thế nhưng, họ chỉ nhìn thấy một tấm vải trắng che phủ khuôn mặt.
Trước sự ngạc nhiên và thắc mắc của mọi người, hoạ sĩ điềm nhiên giải thích:
- Mãi mãi Chúa Giêsu vẫn là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm ấy luôn mời gọi con người tuyên xưng bằng tất cả niềm tin và cuộc sống của mình.
Vâng cho đến hôm nay sau hơn 20 thế kỷ rồi mà chúng ta vẫn chưa thực sự hiểu hết được con người của Chúa Giêsu. Chúa vẫn còn là một mầu nhiệm, mầu nhiệm được giấu kín từ muôn thuở. Tuy đã được bày tỏ cho con người qua thân phận của một con người, nhưng chúng ta cũng vẫn phải đón nhận mầu nhiệm ấy nhờ đức tin. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta đón nhận rồi cất giấu kỹ ở trong lòng mình nhưng là để làm cho mầu nhiệm ấy được tỏ bày ra cho mọi người qua cách ăn nết ở và mọi sinh hoạt trong cuộc sống của chúng ta.
Suy Niệm 8: Chúa Giêsu tỏ mình là Đấng Thiên Sai
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Trong bầu khí của lễ Hiển Linh, phụng vụ Lời Chúa trong tuần lễ sau lễ Hiển Linh lần lượt cho chúng ta thấy những lần Chúa Giêsu tỏ mình ra.
Thực vậy, trong ngày thứ hai, qua bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã cho thấy chính con người của Ngài. Ngài là hiện thân cho Nước Trời. Bởi đó, khi rao giảng Ngài đã tuyên bố: “Hãy ăn năn thống hối vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3,2).
Bước qua ngày thứ ba, Chúa Giêsu tỏ mình ra là người mục tử nhân lành. Người mục tử nhân lành này đã quan tâm đến đời sống của đoàn chiên. Bởi đó, Ngài đã dạy dỗ họ nhiều điều và làm phép lạ bánh hoá nhiều để nuôi đoàn chiên.
Rồi qua ngày thứ tư, với bài Tin Mừng, Thánh sử Marcô đã tỏ cho chúng ta thấy, lối sống của Chúa Giêsu, một lối sống hoàn toàn quên mình. Chả thế mà, suốt ngày đã bận rộn với việc giảng dạy, thậm chí có những ngày không có thời giờ để ăn uống, nghỉ ngơi, vậy mà chiều đến, Chúa Giêsu vẫn tìm những nơi vắng vẻ để được kết hợp với Thiên Chúa Cha bằng sự cầu nguyện.
Và đến ngày thứ năm hôm nay, Chúa Giêsu đã tỏ mình ra là Đấng Thiên Sai. Thánh sử Luca thuật lại việc tỏ mình này ở hội đường Nazareth, nhằm ngày Sabat. Lần này, sau khi đọc một đoạn sách trích từ sách tiên tri Isaia, Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe” (Lc 4,21). Nhưng lời Kinh Thánh đó nói gì?
Lời đó nói rằng: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, chữa lành những ai sầu khổ trong tâm hồn, loan tin giải thoát cho những ai bị giam cầm, cho người mù được thấy, giải thoát những ai bị áp chế, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4,18).
2. Với lời tuyên bố: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai các ngươi vừa nghe”, Chúa Giêsu muốn nói rằng, Ngài chính là Đấng Thiên Sai. Lời quả quyết này đã trở thành một tiếng sét đánh bên tai những người nghe Ngài lúc đó. Vâng, Ngài đã đến để bắt đầu một thời kỳ mới, thời kỳ cứu rỗi.
Chúa Giêsu là Đấng được Thiên Chúa Cha sai đến để cứu độ nhân loại. Thế nhưng, hiểu được Chúa Giêsu không phải là dễ dàng.
Một tu sĩ muốn vẽ chân dung Chúa Giêsu. Ông rảo khắp mọi nơi tìm người mẫu thích hợp. Nhưng càng tìm kiếm ông càng khám phá ra rằng, chẳng có người nào trên trần gian này hoàn toàn giống Chúa, và ông đi tới kết luận: khuôn mặt Chúa Giêsu phải là tổng hợp mọi nét của con người.
Bởi đó, thay vì chọn người mẫu, ông đã thu góp tất cả những nét đẹp của mọi khuôn mặt mà ông bắt gặp. Gặp trẻ em, ông góp được nét đơn sơ. Từ bé gái ca hát nô đùa, ông gặp nét vui tươi trong cuộc sống. Nơi một người đàn ông lực lưỡng đang gồng gánh, ông tìm ra được nét sức mạnh của con người. Nhưng chân dung Chúa Giêsu không chỉ có nét hùng, nét đẹp, mà còn phải có một nét gì khác nữa.
Nghĩ như thế, tu sĩ lại tiếp tục tìm kiếm. Gặp một cô gái lang bạt, ông nhìn thấy nét u buồn trong ánh mắt. Gặp một người hành khất, ông tìm thấy nét thành khẩn van xin. Trong đôi mắt nhà tu hành ông tìm ra sự nghiêm nghị. Và cuối cùng, trên gương mặt người mẹ đi chôn xác đứa con, ông hiểu được thế nào là đau khổ.
Mỗi người một vẻ, nhà họa sĩ cố gắng đưa hết vào chân dung Chúa Giêsu. Nhưng ông vẫn chưa hài lòng. Vì ông thấy trên khuôn mặt Chúa vẫn còn một nét nào đó mà ông chưa xác định được.
Ngày kia, vào một khu rừng ông chợt thấy một người che mặt bỏ chạy. Ông chạy theo và khám phá ra đấy là một người phong cùi. Ánh sáng bỗng lóe lên trong ông. Thì ra điều còn thiếu trên khuôn mặt Chúa Giêsu, đó là MẦU NHIỆM! Với ý nghĩ ấy, ông lấy cọ vẽ lên khung vải trắng khuôn mặt Chúa Giêsu.
Khi tác phẩm được hoàn thành, tất cả những ai đã cung cấp cho họa sĩ nét riêng của mình đều hớn hở đến để nhìn ngắm nét ấy trên gương mặt Chúa Giêsu. Thế nhưng, họ chỉ nhìn thấy một tấm vải trắng che phủ khuôn mặt.
Trước sự ngạc nhiên và thắc mắc của mọi người, họa sĩ điềm nhiên giải thích:
- Mãi mãi Chúa Giêsu vẫn là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm ấy luôn mời gọi con người tuyên xưng bằng tất cả niềm tin và cuộc sống của mình.
Vâng, cho đến hôm nay sau hơn 20 thế kỷ rồi mà chúng ta vẫn chưa thực sự hiểu hết được con người của Chúa Giêsu. Chúa vẫn còn là một mầu nhiệm, mầu nhiệm được giấu kín từ muôn thuở. Tuy đã được bày tỏ cho con người qua thân phận của một con người, nhưng chúng ta cũng vẫn phải đón nhận mầu nhiệm ấy nhờ đức tin. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta đón nhận rồi cất giấu kỹ ở trong lòng mình nhưng là để làm cho mầu nhiệm ấy được tỏ bày ra cho mọi người qua cách ăn nết ở và mọi sinh hoạt trong cuộc sống của chúng ta.
05/01 Chúa Giêsu đi trên mặt biển.
- Viết bởi Mc 6, 45-52
Chúa Giêsu đi trên mặt biển.
Thứ Tư sau lễ Hiển Linh.
"Họ thấy Người đi trên mặt biển".
LỜI CHÚA: Mc 6, 45-52
(Khi năm ngàn người đã được ăn no), Chúa Giêsu liền giục các môn đệ xuống thuyền, qua bờ bên kia trước mà đến Bếtsai-đa, đang khi Người giải tán dân chúng.
Giải tán họ xong, Người lên núi cầu nguyện.
Chiều đến, thuyền đã ra giữa biển, còn Người thì một mình ở trên đất.
Khoảng canh tư đêm tối, Người thấy họ khó nhọc chèo chống vì ngược gió, Người đi trên mặt biển mà đến với họ, và Người muốn vượt qua trước họ. Họ thấy Người đi trên mặt biển, thì tưởng là ma, nên la hoảng lên. Vì ai nấy đều thấy Người và hoảng hốt, nên Người liền lên tiếng bảo họ rằng: "Hãy yên trí, chính Thầy đây, đừng sợ". Rồi Người lên thuyền họ, và gió im lặng. Tâm hồn họ lại càng sửng sốt hơn, vì họ chưa hiểu gì về vấn đề bánh: lòng họ còn mù tối.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Đến với các ông
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Bài Tin Mừng hôm qua cho thấy Đức Giêsu tỏ mình cho dân chúng
như một người mục tử lo cho nhu cầu vật chất và tinh thần của đoàn chiên.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu tỏ mình cho riêng các môn đệ.
Ngài xuất hiện như người có uy quyền trên biển cả và cuồng phong.
Sau phép lạ bánh hóa nhiều, Đức Giêsu trả lại sự lặng lẽ cho vùng hoang địa.
Ngài bắt buộc các môn đệ lên thuyền sang bờ bên kia trước,
Còn Ngài thì đi giải tán đám đông cuồng nhiệt muốn tôn Ngài làm vua.
Hãy lắng nghe sự tĩnh lặng của nơi hoang vu này, của núi và đất.
Chỉ còn lại một mình Đức Giêsu, sẵn sàng bước vào cuộc trò chuyện với Cha.
Hãy cảm được sự lắng xuống của tâm hồn Ngài, sau một thành công vang dội.
Đức Giêsu chìm sâu trong cầu nguyện với Cha,
nhưng Ngài vẫn biết điều gì đang xảy ra cho môn đệ.
Ngài đang ở trên mặt đất vững vàng,
còn họ phải lênh đênh giữa biển, vất vả chèo chống vì gió ngược.
Hãy chiêm ngắm cách tỏ mình đặc biệt của Đức Giêsu cho các môn đệ.
Ngài “đến với các ông” vào lúc trời gần sáng, lúc chưa thấy rõ mặt người.
Ngài đến khi các môn đệ đã qua một đêm mệt mỏi, vắng Thầy.
Ngài đến một cách khác thường bằng cách đi trên mặt nước biển
Ngài đến khiến các ông nhìn thấy tưởng là ma, hoảng hốt la lên.
Ngài đến đem lại bình an: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ !”
Ngài bước vào con thuyền của các ông, và trời lặng gió.
Chúng ta cần làm quen với những kiểu tỏ mình khác thường của Chúa.
Ngài đến với ta vào lúc không ngờ, dưới những dáng dấp kỳ lạ.
Chúng ta phải có khả năng nhận ra khuôn mặt Ngài trong bóng tối lờ mờ,
giữa những thất bại, nhọc nhằn, giữa những cô đơn, sợ hãi.
Ngài đến đem bình an mà ta tưởng là yêu ma.
Biết bao lần ta gặp gió ngược trong đời,
nỗ lực nhiều nhưng tiến tới chẳng bao nhiêu.
Nhưng kinh nghiệm một mình với gió ngược mà không có Thầy ở bên
cũng là một kinh nghiệm đáng quý.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con nhìn thấy sự hiện diện của Chúa
ở bên con dưới muôn ngàn dáng vẻ.
Chúa hiện diện lặng lẽ
như tấm bánh nơi nhà Tạm,
nhưng Chúa cũng ở nơi những ai nghèo khổ,
những người sống không ra người.
Chúa hiện diện sống động nơi vị linh mục,
nhưng Chúa cũng có mặt ở nơi hai, ba người
gặp gỡ nhau để chia sẻ Lời Chúa.
Chúa hiện diện nơi Giáo Hội
gồm những con người yếu đuối, bất toàn,
và Chúa cũng ở rất sâu
trong lòng từng Kitô hữu.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con thấy Chúa
đang tạo dựng cả vũ trụ
và đang đưa dòng lịch sử này về với Chúa.
Xin cho con gặp Chúa nơi bất cứ ai là người
vì họ có cùng khuôn mặt với Chúa.
Xin cho con khám phá ra
Chúa đang hẹn gặp con
nơi mọi biến cố buồn vui của đời thường.
Ước gì con thấy Chúa ở khắp nơi,
thấy đâu đâu cũng là nhà của Chúa.
Và ước gì con đừng bỏ lỡ bao cơ hội gặp Chúa
trên bước đường đời của con. Amen.
Suy Niệm 2: Quyền năng và tình yêu
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giêsu làm liền một mạch 3 phép lạ: hóa bánh ra nhiều, đi trên mặt biển và truyền cho biển yên sóng lặng. Như thuở ban sơ, Lời Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ. Hôm nay Lời Chúa biến đổi vật chất. Cho thấy Chúa hoàn toàn làm chủ vũ trụ. Và đặc biệt chế ngự được biển khơi vốn bị coi là một lực lượng sự dữ hung hãn sẵn sàng nuốt chửng con người.
Thế nhưng các tông đồ sợ hãi, bàng hoàng sửng sốt vì tâm hồn các ông còn chai đá. Tại sao? Vì các ông không hiểu. Thực sự ai đối diện với quyền năng mà không sợ hãi. Vì mọi quyền năng thường đè bẹp, nghiền nát chúng ta. Nhưng Thiên Chúa thì khác. Chúa dùng quyền năng để quan tâm, yêu thương và chăm sóc. Chúa hóa bánh ra nhiều vì cảm thương dân chúng đói khát. Chúa dẹp yên sóng gió vì lo cho các tông đồ vất vả. Thánh Marcô thuật lại: “Người thấy các ông vất vả chèo chống, nên Người đi trên mặt biển mà đến với các ông”. Tất cả chỉ vì yêu thương. Nhưng lòng các tông đồ chai đá chưa hiểu và đón nhận yêu thương. Nên các ông sợ hãi.
Thánh Gioan trong thư thứ nhất cho biết Thiên Chúa là Tình Yêu. Nhưng tình yêu phải có hai chiều: cho đi và nhận lãnh. Vì thế tình yêu chỉ hoàn hảo ở hai dấu chỉ. Ta yêu thương nhau và không còn sợ hãi. Ta yêu thương nhau đó là dấu chỉ ta đón nhận tình yêu và phát triển tình yêu. Đón nhận từ Chúa và cho đi sang anh em. Ta không còn sợ hãi đó là dấu chỉ ta ở trong tình yêu của Chúa. Giống như đứa trẻ nằm trong tay mẹ hiền. Chẳng còn sợ hãi gì. Dù giông tố bão táp. Dù phán xét.
Thế giới hôm nay tràn đầy sợ hãi vì thừa quyền lực mà thiếu tình yêu. Quyền lực chính trị để trấn áp. Quyền lực kinh tế để bóc lột. Quyền lực khoa học để khai thác. Vì thế người nghèo nơm nớp lo sợ. Đặc biệt trong những chế độ độc tài toàn trị, nỗi sợ hãi tràn lan và kéo dài. Không chỉ người nghèo mà ngay cả người giầu cũng lo sợ. Người có quyền lực càng lo sợ hơn. Vì thế giới cạnh tranh.
Thiên Chúa tỏ mình ra là quyền năng yêu thương. Đó là niềm hi vọng cho một thế giới mới. Đó chính là ánh sáng Hiển Linh. Chúng ta hãy cộng tác với Chúa xây dựng thế giới mới. Chiếu ánh sáng Hiển Linh khắp chân trời góc biển. Bằng dùng quyền lực để phục vụ. Dùng quyền năng để quan tâm. Dùng quyền thế để yêu thương. Dùng quyền lợi để chia sẻ.
Khi ta thực hành yêu thương, Thiên Chúa ở với chúng ta. Chúng ta không còn sợ hãi. Thế giới trở nên vui tươi, hạnh phúc.
Suy Niệm 3: Chúa Giêsu đi trên mặt nước.
Ivan, một văn sĩ Nga sống vào thế kỷ 19 đã kể lại giấc mơ của mình như sau:
Tôi mơ thấy là một cậu bé đứng trước cung thánh của ngôi nhà thờ bằng gỗ. Ánh nến lung linh toả chiếu khi mờ khi tỏ bên nhà tạm. Thình lình có một người đứng cạnh tôi, tôi có cảm giác đó là Chúa Kitô. Cảm xúc tò mò xâm chiếm tâm hồn tôi, tôi nhìn sang và nhận thấy một khuôn mặt giống như mọi khuôn mặt.
Giấc mơ của Ivan trên đây mang nhiều ý nghĩa: Đức Kitô đến với chúng ta trong dáng vẻ của một con người, và tâm hồn chúng ta sẽ được bình an khi biết đón nhận Ngài trong cuộc sống, nhất là nhận ra Ngài trong mỗi người anh em.
Bài Tin mừng hôm nay ghi lại kinh nghiệm của các môn đệ về Chúa Giêsu. Qua việc đi trên mặt nước, Chúa muốn chứng tỏ rằng Ngài có đủ quyền năng để chiến thắng sức mạnh của tối tăm, đồng thời mời gọi các môn đệ tuyên xưng thần tính của Ngài, tuyên xưng thần tính của Chúa Giêsu không chỉ là gặp gỡ Ngài qua các Bí tích, mà còn là nhận ra Ngài nơi mỗi người mà chúng ta gặp gỡ hằng ngày.
“Cứ an tâm, Thầy đây đừng sợ”. Ước gì lời Chúa trở thành một bảo đảm bình an cho tâm hồn chúng ta trong từng giây phút cuộc sống, nhất là trong mối tương quan với tha nhân.
Suy Niệm 4: Có Chúa là có bình an
Nếu ai đã từng đi biển hay sống trên những hòn đảo giữa khơi thì thấy rõ sự nguy hiểm mỗi khi cuồng phong nổi lên! Thật kinh hoàng khi chập trùng giữa đại dương mà sóng cồn gào thét như muốn vùi dập con tàu của thuyền nhân! Những lúc như thế, hẳn ai ai cũng hoảng sợ, họ chỉ còn biết cậy dựa vào ơn lạ tình thương của Thượng Đế mà thôi, bởi lẽ, sức tự nhiên kể như là cát bụi, không xá gì với những tai ương mà con người đang phải đối chọi.
Hôm nay, sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi dân chúng, họ đã muốn tôn Đức Giêsu lên làm vua, nhưng điều này đã đi ngược lại với sứ vụ của Đấng Thiên Sai, nên Ngài đã truyền lệnh cho các môn đệ phải đi sang bờ bên kia, trong lúc ấy, Đức Giêsu đi cầu nguyện để gặp gỡ Thiên Chúa Cha.
Nhưng trong đêm tối, thuyền các ông đã xa bờ và gặp phải cơn cuồng phong dữ dội, khiến các ông vất vả, loay hoay chống chọi vì ngược gió. Canh tư đêm tối, Đức Giêsu đã hiện đến đi trước họ, khiến họ hốt hoảng và la hét vì ngỡ là ma! Đức Giêsu đã trấn an các ông khi nói: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ”, rồi sau đó, Ngài đã vào thuyền cùng các ông, lập tức sóng yên biển lặng, khiến các tông đồ không khỏi ngạc nhiên!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta bài học:
Thứ nhất, hình ảnh con thuyền gặp sóng to gió lớn là hình ảnh con thuyền của Giáo Hội trên đại dương mênh mông của cuộc đời. Con thuyền ấy đang bị kẻ thù tấn công tứ phía. Nhưng dù có khó khăn, thử thách, dù kẻ thù có tìm cách tấn công tư bề, thì con thuyền ấy nếu có Chúa, chắc chắn mọi sự hiểm nguy phải lắng xuống và nhường chỗ cho sự bình an ngự trị.
Thứ hai, nhắc cho chúng ta rằng: cuộc đời tâm linh của chúng ta nhiều khi cũng gặp phải thử thách, cám dỗ của Ma Quỷ, nhưng những lúc đau khổ, thất bại và chơi vơi nhất, nếu chúng ta biết cậy dựa vào Chúa, thì Ngài luôn có mặt để nâng đỡ, giải thoát chúng ta khỏi mọi nỗi hiểm nguy.
Lạy Chúa Giêsu, biển đời của chúng con luôn gặp phải những thử thách, hiểm nguy tư bề, xin Chúa ban cho chúng con biết cậy dựa vào quyền năng của Chúa và luôn bám vào tình thương của Ngài. Xin cho chúng con được bình an và vững tin. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Thầy đây, đừng sợ
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Giữa biển đời sóng gió, Chúa Giêsu vẫn hiện diện bên ta dù ta không thấy. Sự hoài nghi làm ta sợ hãi và chìm xuống biển sâu. Còn lòng tin sẽ giúp ta nhận ra Chúa và bước đi trong bình an.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, chẳng bao giờ Chúa bỏ các tông đồ một mình trong sóng gió. Chúa luôn có mặt chính lúc các ngài đang gặp thử thách. Chúa đến củng cố niềm tin các ngài: “Cứ yên tâm, Thầy đây, đừng sợ”.
Lạy Chúa, hôm nay con nhớ đến Giáo hội đang gặp những cơn sóng gió, những khủng hoảng, đang phải đương đầu với nhiều thế lực, những quyền bính, những phong trào: tất cả như những đợt sóng vùng lên đòi nhận chìm chân lý.
Con cũng nhớ đến những khủng hoảng của loài người trong xã hội hôm nay: khủng hoảng của gia đình và của chính bản thân con. Con đang bị vật nhào giữa biển đời đầy bất công, hận thù, con đang quay cuồng trong dòng sông gian nan vất vả, và linh hồn con đang thoi thóp giữa cơn sóng gào tội lỗi.
Con cầu nguyện cho những người đang gặp khủng hoảng về niềm tin. Xin Chúa giúp họ vượt thoát được những ngày đen tối của cuộc đời. Đặc biệt, đối với những kẻ đang chao đảo vì cuộc sống hôm nay, xin Chúa đoái thương giúp họ luôn vững tin vào Chúa và gặp được sự bình an trong tâm hồn.
Lạy Chúa, con vẫn tin tưởng Chúa không bao giờ bỏ rơi con. Xin Chúa đến nâng đỡ để con đi trọn hành trình trần gian trong bình an của Chúa. Xin an ủi và giúp con vượt qua những đau khổ. Xin cho con nhận ra Chúa vẫn ở bên con và cho con biết tin tưởng vào tình Chúa yêu thương. Lạy Chúa, niềm tin vào Chúa sẽ là sức mạnh và bình an cho con luôn mãi. Amen.
Ghi nhớ: “Họ thấy Người đi trên mặt biển”.
Suy Niệm 6: Chúa Giêsu là Môsê mới
(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống ...)
- Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, Chúa Giêsu “liền giục các môn đệ xuống thuyền” đi nơi khác. Chi tiết này có nhiều ý nghĩa:
a/ Còn phải truyền bá Phúc Âm cho nhiều nơi khác nữa;
b/ Việc các môn đệ ở lại nơi đã xảy ra phép lạ hóa bánh ra nhiều có thể là một nguy hiểm, vì nó trói buộc các ông trong sự quyến luyến những lời khen ngợi và tình cảm biết ơn của những người đã được ăn bánh.
- Phần Chúa Giêsu thì “Ngài lên núi cầu nguyện”: sau một giai đoạn hoạt động ồn ào và mệt mỏi, Chúa thấy cần phải cầu nguyện để múc thêm sức mạnh siêu nhiên.
- Phần tiếp theo là câu chuyện Chúa Giêsu đi trên mặt nước. Đây cũng là một phép lạ nữa mà ý nghĩa có liên hệ tới ý nghĩa phép lạ hóa bánh ra nhiều (x. Mc 6,52 - cho thấy sự liên hệ đó: các môn đệ bàng hoàng trước việc Chúa Giêsu đi trên mặt biển “vì họ chưa hiểu gì về vấn đề bánh”). Ý nghĩa của việc này là: Chúa Giêsu là Môsê mới. Ngày xưa Môsê đã cho dân Do Thái ăn manna, Chúa Giêsu cũng vừa làm như vậy; ngày xưa Môsê đưa dân Do Thái qua Biển mà vẫn khô chân, bây giờ Chúa Giêsu đi trên mặt biển một cách an toàn.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Sứ mạng của các môn đệ là truyền bá Phúc Âm khắp nơi. Bởi đó mặc dù sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân chúng quyến luyến mến phục các môn đệ, Chúa cũng “bắt” họ “lập tức” rời nơi đó để đi đến các nơi khác. Nếu tình cảm nhân loại tự nhiên mà cản trở sứ mạng của chúng ta, thì dù nó có chính đáng đi nữa, ta cũng không nên quá quyến luyến để nó trở thành bận vướng.
2. Cuộc hành trình của các môn đệ (và của chúng ta) đôi khi khó khăn nguy hiểm như đang đi trong bão táp. Cảm giác tự nhiên là hoảng sợ như đang gặp ma. Nhưng nếu biết có Chúa đang đồng hành thì ta sẽ yên tâm: “Chính Thầy đây, đừng sợ”.
3. Bão táp diễn ra khi các môn đệ đi thuyền qua “bờ bên kia”, tức là qua vùng đất của dân ngoại. Cơn bão này tượng trưng cho những khó khăn nguy hiểm trong việc truyền bá Phúc Âm cho dân ngoại. Nỗi sợ của các môn đệ cũng là nỗi e ngại sợ sệt của các nhà truyền giáo khi đứng trước vùng đất lạ của lương dân. Lời Chúa Giêsu trấn an các môn đệ xưa cũng là Lời Ngài trấn an chúng ta ngày nay: “Chính Thầy đây, đừng sợ”.
4. Một người hành hương gặp bệnh dịch đang vào Baghdad. Anh hỏi bệnh dịch: “Mi định làm gì ở đó ?”
- Tôi sẽ giết 5000 người.
Người hành hương rùng mình và thay đổi dự định. Tuy nhiên, ít lâu sau anh gặp một người từ trong thành phố bị nạn dịch đó và được biết không phải 5.000 nhưng là 50.000 người chết.
Liền sau đó anh lại gặp bệnh dịch đang đi tới một thành phố khác. Ông buộc tội: “Anh nói láo. Anh nói sẽ chỉ giết 5.000 người thôi mà”.
Bệnh dịch giải thích cách vui vẻ: “Tôi chỉ giết có 5.000 người. Số còn lại chết vì hoảng sợ” (Góp nhặt).
Nỗi sợ gây thiệt hại nhiều hơn những hiểm nguy có thực.
5. “Hãy yên trí, chính Thầy đây, đừng sợ. ” (x. Mc 6,50)
Tôi thường tan học và trở về nhà vào khoảng 9 giờ tối. Tối nay trời mưa gió. Bất chợt tôi nghe có tiếng một người đàn ông bên cạnh: “Đi chậm lại. Ướt hết rồi!”. Tôi sợ hãi và càng đạp xe nhanh hơn. Về đến nhà tôi mới biết người ấy chính là đứa em trai của tôi. Tôi rất cảm động trước sự quan tâm của nó.
Các tông đồ cũng đã trải qua một phen bàng hoàng sửng sốt trước khi nhận ra Chúa đã đến cứu giúp mình khi hoạn nạn. Những lúc thất bại hay khổ đau, dường như tôi không thấy Chúa đâu cả. Nhưng thực sự Ngài vẫn ở bên tôi, và khi cần, Ngài sẵn sàng ra tay trợ giúp.
Lạy Chúa, xin cho con luôn nhận ra sự hiện diện của Ngài trong cuộc sống. Và khi gặp thử thách gian truân, xin cho con nghe được tiếng Chúa khích lệ “Hãy yên trí, chính Thầy đây, đừng sợ!”. (Epphata)
Suy Niệm 7: Đức Giêsu đi trên biển
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1 Với phép lạ hóa bánh ra nhiều, 5000 người đã ăn no nê. Thấy vậy họ muốn tôn Chúa làm vua, nên Chúa bảo các môn đệ xuống thuyền lánh đi trước, còn Người ở lại giải tán dân chúng và lên núi cầu nguyện.
Đang khi Người cầu nguyện, thuyền các môn đệ bị sóng gió đánh tạt ra giữa biển... Mãi đến canh tư (3 giờ sáng), Người nhìn thấy các môn đệ chèo chống vất vả nên đi trên mặt nước đến với các ông. Các ông thấy bóng Người thì tưởng là ma nên kêu la inh ỏi. Người liền lên tiếng bảo :”Thầy đây, đừng sợ” ! Rồi Người lên thuyền, sóng gió liền yên lặng. Còn các môn đệ vẫn kinh khiếp sợ hãi vì các ông chưa tin Người là Thiên Chúa.
2. Trong cuộc sống ai cũng muốn cho mình có một đời sống an toàn, được bảo đảm, không gặp những thử thách, những trở ngại làm cho mình phải lo sợ. Đấy là ước vọng chúng của mọi người. Nhưng trong thực tế, không ai có cuộc đời tươi đẹp như thế, bao lâu còn ở trên trần thế này. Cuộc đời không thiếu gì chông gai, không thiếu gì những gian nan thử thách làm cho nhiều người có thể vươn lên và có thể làm cho nhiều người tụt xuống.
Cuộc đời giống như con thuyền trên biển cả. Cuồng phong chỉ muốn nhấn chìm, chỉ muốn tiêu diệt tất cả trong lòng biển, cho nên cuồng phong là biểu tượng cho tất cả những gì ngăn cản con người tiến bước trong hành trình đức tin. Các môn đệ phải nỗ lực để băng qua biển, chống chọi lại cuồng phong là biểu tượng của mỗi người chúng ta đương đầu với mọi thế lực muốn tiêu diệt chúng ta.
3. Nhưng sau cơn mưa thì trời lại sáng, hành trình vượt biển đầy sóng gió kết thúc trong yên tĩnh vì “gió lặng” sau khi “chiếc thuyền bị sóng đánh vì gió ngược”. Chiếc thuyền cũng là hình ảnh một Hội thánh nói chung đang bập bềnh trên sóng nước của trần gian và của mọi người chúng ta trước những gian nan khốn khó của cuộc đời làm ta yếu tin, nghi ngờ.
Vị Thầy của các ông không có mặt ở trong thuyền, các ông chờ đợi Ngài sẽ xuất hiện vào lúc đêm tàn. Người đã trấn an các ông :”Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ”. Cảnh thanh bình tràn ngập trong sự hiện diện của Đức Giêsu Kitô “Thiên Chúa ở với chúng ta trong thuyền, thực sự hiện diện trong cộng đoàn đức tin khi làm cho con thuyền Giáo hội vượt qua cơn bão tố” (NIB vol. VIII:30).
4. Trong cơn gian nan thử thách ta hay thất bại, nản lòng vì chỉ tin vào sức mình hay vào người khác. Để vượt qua những khó khăn ấy, Chúa đòi chúng ta phải có lòng tin vào Chúa.
Nhìn lại những thăng trầm của cuộc đời, mỗi khi chúng ta được sống trong bầu khí an vui, được hài lòng với mọi sở nguyện, chúng ta sẽ dễ dàng xác tín và cảm nhận mạnh mẽ sự quan phòng của Chúa. Thế nhưng khi gặp phải những gian nan thử thách, những điều bất ưng, những nghịch cảnh – như các môn đệ xưa ở giữa sóng gíó – chúng ta dễ dàng hoang mang lo sợ và không nhận ra Ngài. Bởi lẽ chúng ta đã quá lo lắng về cuộc sống và chỉ biết tự lo liệu lấy một mình. Nhưng “Phúc thay ai bước đi không phải nhờ cái nhìn, mà nhờ sự phó thác của niềm tin” (Sư huynh Roger). Quả thật, lòng tin của chúng ta đã nhiều lúc yêu ớt, mong manh – một khi chúng ta không biết tin thác vào Chúa Kitô để có sự bình an, không còn chia sẻ con đường thập giá như một phương tiện để hưởng nhờ vinh quang với Ngài (Mai Chi, Cg và DT, số Giáng sinh 95, tr 228).
5. Có một sự kiện đơn giản ở đời, một sự kiện đã được vô số người thuộc mọi thế hệ cảm nghiệm, ấy là khi có mặt Chúa Giêsu, thì bão tố trở thành yên lặng, náo loạn trỏ thành bình an, việc bất khả trở thành khả hữu, việc không tài nào chịu đựng nổi biến thành có thể chịu đựng được, và người ta vượt điều đáng lẽ phải ngã quỵ mà không bị ngã xuống, có Chúa Giêsu cùng đi với chúng ta, điều đó cũng có nghĩa là chúng ta sẽ chinh phục được cả bão tố.
Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tĩnh trước mọi thử thách. Một bà khác ở xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hy vọng học được bí quyết đẻ sống bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi :
- Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao ?
- Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin nhỏ bé đặt vào một Thiên Chúa lớn lao.
6. Truyện : Hãy nhìn lên.
Vào lúc mới có thuyền buồm, một cậu bé nọ xin đi biển để học làm thủy thủ. Một hôm biển có bão, người ta bảo cậu leo lên trên cột buồm. Leo được nửa phần đầu thì dễ dàng vì cậu cứ đưa mắt gắn chặt vào bầu trời. Nhưng đến lưng chừng chóng mặt và sắp sửa ngã xuống.
Thấy thế, một thủy thủ già la to lên với cậu :”Này nhóc, ngước nhìn lên lại bầu trời đi ! Nhìn lên lại bầu trời đi”! Cậu bé nghe theo lời chỉ dẫn và cuối cùng đã leo lên được an toàn.
Lỗi lầm của cậu bé là đã rời mắt khỏi đích nhắm của mình và đã nhìn xuống mặt biển, không biết nhìn lên. Cũng thế, trong đời sống thiêng liêng nếu ta chưa cảm nghiệm được sự bình an thì chắc hẳn là vì chúng ta rời khỏi mắt đi xa Chúa Giêsu.
Suy Niệm 8: Đừng sợ!
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Sứ mạng của các môn đệ là loan Tin Mừng khắp nơi. Bởi đó sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, mặc dù dân chúng có quyến luyến, mến phục các môn đệ, Chúa cũng “bắt” họ “lập tức” phải rời nơi đó để đi đến các nơi khác. Vâng! Nếu tình cảm nhân loại tự nhiên mà cản trở sứ mạng của chúng ta, thì dù nó có chính đáng đi nữa, ta cũng không nên quá quyến luyến để nó trở thành bận vướng.
Cuộc hành trình của các môn đệ (và cả của chúng ta) đôi khi cũng có những khó khăn nguy hiểm như đang đi trong bão táp. Cảm giác tự nhiên là chúng ta hoảng sợ. Sợ hãi như vậy không phải là một điều khó hiểu. Khi con người cảm thấy mình bất lực trước một biến cố hay một thách đố nào đó mà tự mình khó có thể đương đầu nổi hay khó có thể vượt qua thì tự nhiên là họ cảm thấy sợ. Nếu chỉ là một sự sợ hãi chóng qua thì chẳng có điều gì phải nói. Nhưng nếu cứ phải sống mãi trong sự sợ hãi triền miên, hay sự sợ hãi lên đến mức quá độ, thì chắc chắn cuộc sống con người sẽ bị ảnh hưởng.
Trong kho tàng những câu chuyện dạy đời, người ta đọc được câu chuyện này:
Một người hành hương đang định vào Baghdad thì gặp bệnh dịch ở dọc đường. Bệnh dịch cũng đang trên đường đi vào đó. Thấy thế người khách hành hương hỏi bệnh dịch:
- Mi định làm gì ở đó?
- Tôi sẽ giết 5.000 người.
Người hành hương rùng mình và ngay lập tức anh thay đổi dự định và đi về hướng khác. Tuy nhiên, ít lâu sau anh gặp một người từ trong thành phố bị nạn dịch đó đi ra và được biết không phải 5.000 nhưng là 50.000 người đã chết.
Liền sau đó anh lại gặp bệnh dịch đang đi tới một thành phố khác. Bằng một giọng thật nghiêm khắc anh buộc tội bệnh dịch:
- Mi nói láo. Mi nói chỉ giết 5.000 người, vậy mà thực tế lại quá khác!
Bệnh dịch giải thích cách vui vẻ:
- Tôi chỉ giết có 5.000 người. Số còn lại chết vì hoảng sợ” (Góp nhặt).
Vâng! Có những nỗi sợ gây thiệt hại nhiều hơn cả những hiểm nguy có thực.
2. Chúa nói với các môn đệ của Ngài: “Cứ bình tĩnh. Thầy đây! Đừng sợ!” (Mc 6,50) Trong toàn bộ Kinh Thánh người ta đếm được tới 365 lần Chúa nói: “Đừng sợ” như thế. 365 lần tương đương với 365 ngày trong một năm.
Khi chú giải về đoạn Tin Mừng này thánh Augustinô đã viết: “Ngài đạp sóng tiến đến và như thế Ngài đã giày đạp dưới chân mình mọi xô bồ náo loạn của đời này. Vậy hỡi Kitô hữu, tại sao các bạn vẫn còn sợ hãi?”.
Xin gửi đến anh chị em một câu chuyện có thực được kể ở trong cuốn “Bưng biền của Thiên Chúa” của Cha George.
Trong một tu viện đang bị quân đội Xô Viết chiếm đóng, một hôm viên sĩ quan Xô Viết vào tận căn phòng mà họ giam cha tu viện trưởng ở trong đó và nói:
- Hiện giờ chỉ có hai chúng ta, không một ai chứng kiến, vậy ông hãy nói sự thật, đừng sợ gì cả! Hãy nói cho tôi biết là ông không còn tin vào tất cả những chuyện Chúa bà, tôn giáo mà trước đây ông tuyên xưng!
Vị Tu viện trưởng trả lời:
- Không! Tôi vẫn tin chứ!
Viên sĩ quan liền rút súng lục ra, dí thẳng vào thái dương cha và nói:
- Nếu ông không nói là ông chẳng tin gì nữa... thì tôi sẽ bắn!
Và một lần nữa cha tu viện trưởng lập lại lời tuyên xưng của mình. Và ngay sau đó khẩu súng được từ từ hạ xuống rồi viên sĩ quan ôm lấy cha tu viện trưởng vừa rưng rưng nước mắt vừa vui sướng kêu lên: “Đây là điều mà tôi trông đợi từ lâu. Đây chính là người mà tôi tìm kiếm. Tôi cũng vậy, bây giờ tôi tin vào Chúa Kitô”.
Vâng! Có một sự kiện đơn giản ở đời, một sự kiện đã được vô số người thuộc mọi thế hệ cảm nghiệm, ấy là khi có mặt Chúa Giêsu, thì bão tố trở thành yên lặng, náo loạn trở nên bình an, việc bất khả trở thành khả hữu, việc không tài nào chịu đựng nổi biến thành có thể chịu đựng được, và người ta vượt được điều đáng lẽ phải ngã quỵ mà không bị ngã xuống, có Chúa Cứu Thế Giêsu cùng đi với chúng ta, điều đó cũng có nghĩa là chúng ta sẽ chinh phục được cả bão tố.
Lạy Chúa phục sinh,
vì Chúa đã phục sinh
nên con thấy mình chẳng còn gì phải sợ.
Vì Chúa đã phục sinh
nên con được tự do bay cao,
không bị nỗi sợ hãi của phận người chi phối,
sợ thất bại, sợ khổ đau,
sợ nhục nhã và cái chết lúc tuổi đời dang dở.
Vì Chúa đã phục sinh
nên con hiểu cái liều của người Kitô hữu
là cái liều chín chắn và có cơ sở.
Cái liều của những nữ tu phục vụ ở trại phong.
Cái liều của cha Kolbê chết thay cho người khác.
Cái liều của bậc cha ông đã hiến mình vì Ðạo.
Xin sự Phục Sinh của Chúa
giúp con dám sống tận tình hơn
với Chúa và với mọi người.
Và con hiểu mình chẳng mất gì,
nhưng lại được tất cả. Amen.
04/01 Phép lạ Bánh hóa nhiều.
- Viết bởi Mc 6, 34-44
Phép lạ Bánh hóa nhiều.
Thứ Ba sau lễ Hiển Linh.
"Hoá bánh ra nhiều, Chúa Giêsu tỏ ra Mình là Ðấng Tiên tri".
LỜI CHÚA: Mc 6, 34-44
Khi ấy, Chúa Giêsu xem thấy dân chúng đông đảo thì động lòng thương xót họ, vì họ như chiên không người chăn giữ, và Người bắt đầu giảng dạy họ nhiều điều.
Và khi giờ đã muộn, các môn đệ đến thưa Người rằng: "Chỗ này hoang vắng, mà giờ đã muộn, xin Thầy giải tán họ, để họ đi tới các làng các xóm gần đây mà mua gì ăn".
Chúa Giêsu trả lời họ rằng: "Các con hãy cho họ ăn đi". Họ thưa Người: "Chúng con phải đi mua đến hai trăm đồng bạc bánh để phát cho họ ăn".
Người nói với họ: "Các con có mấy cái bánh? Hãy đi xem". Khi biết được rồi, họ thưa: "Có năm cái bánh và hai con cá".
Người ra lệnh cho họ bảo mọi người ngồi xuống làm thành từng nhóm trên cỏ xanh. Họ ngồi xuống từng nhóm, chỗ một trăm, chỗ năm mươi. Người cầm năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời mà chúc tụng, rồi bẻ bánh ra và trao cho các môn đệ, để họ phân phát cho người ta; còn hai con cá, Người cũng chia cho mọi người. Và tất cả đều ăn no.
Mụn bánh và cá còn dư lại, người ta lượm được mười hai thúng đầy. Mà số người ăn là năm ngàn người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Ai nấy được no nê
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Trên thế giới hiện nay có gần một tỷ người đói ăn,
Và nhiều nơi ở châu Phi vẫn có bao trẻ thơ chết đói.
Có người coi tôn giáo là duy tâm, sống lơ lửng với những ý tưởng đẹp,
và loay hoay với chuyện cứu rỗi linh hồn.
Nhưng Thiên Chúa ta gặp trong Kinh Thánh
lại là một Thiên Chúa để ý đến cái đói của thân xác con người.
Thiên Chúa ấy đã cung ứng manna, thịt chim cút và nước uống
cho dân Người trong cuộc hành trình tiến về Đất hứa,
mà Đất hứa này là vùng phì nhiêu, nơi chảy sữa và mật.
Thiên Chúa ấy được coi là người mục tử
dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi, đến suối nước trong lành.
Đức Giêsu cũng chẳng làm khác với Cha của Ngài.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài tỏ mình ra như người mục tử.
Khi thấy đoàn dân bơ vơ như bầy chiên không người chăn dắt,
Ngài qui tụ họ lại bằng cách dạy dỗ họ nhiều điều.
Nhưng khi chiều xuống, Ngài cũng biết họ cần ăn.
Lo cho chiên được no là nhiệm vụ của người mục tử.
Đức Giêsu đã muốn các môn đệ cộng tác trong việc nuôi ăn này:
“Chính anh em hãy cho họ ăn !”
Với tất cả những gì môn đệ có, vỏn vẹn năm chiếc bánh và hai con cá,
năm ngàn người đã được ăn no và còn dư mười hai thúng đầy.
Chiều hôm đó, cỏ như xanh hơn vì lòng người vui rộn rã.
Qua phép lạ lớn này, Đức Giêsu tỏ mình ra cho đám đông dân chúng.
Đây là phép lạ của sự bẻ ra và được nhân lên.
Chẳng phải Thầy Giêsu mới là người bẻ ra và trao đi cho các môn đệ.
Chính các môn đệ cũng đã làm như thế cho đoàn dân.
Bẻ ra và trao đi là điều kiện để giải quyết nạn đói của thế giới hôm nay.
Chỉ có thể xóa nạn đói nghèo bằng sẻ chia và liên đới.
Đừng sợ nếu bạn chỉ có ít cá và bánh, ít thời giờ, tiền bạc, khả năng.
Hãy trao vào tay Chúa tất cả những gì bạn có và để Người định liệu.
Cầu nguyện :
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng
tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,
chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,
tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,
có bao điều con lãng phí
bên cạnh những Ladarô túng quẫn,
có bao điều con hưởng lợi
dựa trên nỗi đau của người khác,
có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.
Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công
chẳng ở đâu xa.
Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.
Con phải chịu trách nhiệm
về cảnh nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân,
vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó
là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.
Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,
vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.
Thế giới còn nhiều người đói nghèo
là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.
Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,
nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.
Suy Niệm 2: Thiên Chúa là tình yêu
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thiên Chúa là Tình Yêu hi vọng. Ta còn gì hi vọng ở những công thức, tính toán, những phán xét khô khan, khắc nghiệt, những tổ chức quá hợp lý đến lạnh lùng? Thiên Chúa là ơn cứu độ đem lại cho thế giới niềm hi vọng được sống vui tươi, bình an và hạnh phúc.
Thiên Chúa là Tình Yêu chứng nghiệm. Chẳng phải là định nghĩa lý thuyết nhưng đã được chứng nghiệm. Vì yêu nên đã đi bước trước. Tạo dựng nên con người. Và còn yêu thương hơn nữa, cứu chuộc con người hư hỏng, phản bội.
Thiên Chúa là Tình Yêu trao ban. Ban chính Con Một của Ngài. Ban cho ta chính bản thân Ngài. Chẳng còn tình yêu nào lớn lao cao quí hơn nữa. Đó là ban hết những gì có thể, chẳng còn có thể ban cho ta gì khác nữa.
Thiên Chúa là Tình Yêu cảm thương. Chẳng phải một trái tim sắt đá vô cảm, nhưng một trái tim biết cảm thương. Chúa Giêsu đã ‘chạnh lòng thương” khi nhìn thấy đoàn lũ dân chúng tất tưởi bơ vơ.
Thiên Chúa là Tình Yêu cụ thể. Bằng những thể hiện. Trước hết là dậy dỗ. Yêu thương nên quan tâm nói những lời an ủi, khai sáng tâm trí, mặc khải chân lý. Chỉ có trái tim yêu thương mới dành thời giờ trò chuyện, quan tâm dậy dỗ như thế.
Thiên Chúa là Tình Yêu hành động. Chẳng phải chỉ nói suông mà còn hành động. Lo cho người đói ăn, dù số lượng vượt sức khả năng hạn hẹp của các tông đồ và hoàn cảnh giữa nơi hoang địa. Lập tức đi tìm. Không chỉ sai bảo, chính Chúa Giêsu trực tiếp vào cuộc, cầm lấy bánh và cá, làm phép, bẻ ra, trao cho môn đệ.
Thiên Chúa là Tình Yêu. Chỉ những ai yêu thương mới hiểu được Thiên Chúa. Không phải yêu bằng bất cứ cách nào, nhưng phải yêu như Chúa yêu. Thiên Chúa là Tình Yêu. Chỉ có ai yêu thương mới ở trong Thiên Chúa, mới sống trong Thiên Chúa và mới làm cho Thiên Chúa sống trong thế giới, trong anh em.
Thiên Chúa là Tình Yêu. Người xuống trần mở ra một thời kỳ mới. Thời kỷ yêu thương và tha thứ. Ta hãy cùng Người tiến hành thời kỳ Tân Phúc-âm-hóa trong yêu thương, tha thứ, quan tâm, sửa chữa, nâng đỡ lẫn nhau. Đó là xây dựng một thế giới mới
Suy Niệm 3: Bánh hóa nhiều lần thứ nhất.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Chúa Giêsu đã tỏ lộ chính cõi lòng của Ngài, cõi lòng của một mục tử: khi thấy dân chúng đông đảo, Chúa động lòng thương xót, vì họ như chiên không có người chăn.
Việc Chúa tỏ mình bao giờ cũng nhằm làm cho con người được sống và sống hạnh phúc. Chúa đến với con người không phải để đè bẹp hay để làm con người phải sợ hãi, nhưng Ngài đến để yêu thương, để cứu độ con người. Thật vậy, khi Chúa tỏ lộ tấm lòng mục tử của Ngài, thì cảnh bơ vơ lạc lõng của người ta không còn nữa. Tấm lòng mục tử của Ngài không dửng dưng trước nỗi bi đát của con người. Tấm lòng ấy đã làm mọi sự vì con người và cho con người. Và qua tấm lòng ấy, người ta còn nhìn ra chính tấm lòng của Thiên Chúa: Chúa Giêsu chính là ân huệ bằng xương bằng thịt mà Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại.
Đứng trước sự tỏ lộ đầy yêu thương ấy, chúng ta hãy có thái độ biết ơn và vui mừng, cố gắng trở nên những con chiên ngoan hiền bên vị Mục tử nhân hậu và cùng với Ngài tỏ lòng cảm thương những con chiên bơ vơ lạc lõng.
Suy Niệm 4: Yêu thương thật lòng
“Cái mà giáo xứ cần nhất lúc này, đó là người ta nhận biết một Thiên Chúa không phải chỉ trong lí thuyết!”. Đây chính là câu nói của triết gia Thomas Carlyle khi ông được một vị linh mục trong xứ đến hỏi về điều cần làm cho giáo xứ của ngài lúc này.
Thật vậy, con người ngày nay, ai ai cũng biết là có Thiên Chúa, nhưng tin trên lý thuyết đã chiếm đa số, kể cả những người Công Giáo, còn tin trong sự cảm nghiệm thì không biết được bao nhiêu %, có lẽ không đáng kể!
Hôm nay, Tin Mừng thuật lại một hình ảnh đẹp của chính nhà giảng thuyết lẫn thính giả:
Nếu Đức Giêsu chạnh lòng thương và dạy dỗ họ nhiều điều, thì một đám đông say mê nghe lời giảng của Đức Giêsu đến quên cả ăn.
Nếu Đức Giêsu chạnh lòng thương khi thấy đám đông “như bầy chiên không người chăn dắt”, thì đám đông vui mừng vì gặp được chủ chiên của họ cách đích thực, không phải trên lý thuyết!
Thật vậy, thấy đám đông dân chúng, phản ứng đầu tiên của Ngài chính là chạnh lòng thương!
Vì chạnh lòng thương, Đức Giêsu đã trao ban lương thực cả phần hồn lẫn phần xác cho dân chúng.
Phần hồn, Ngài dạy dỗ họ nhiều điều; phần xác, Ngài đã hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng.
Trong xã hội hôm nay, điều làm cho chúng ta không khỏi suy nghĩ, đó là của cải trên thế giới lại nằm trong tay một số hay một vài nhóm người, khi họ nắm tài nguyên của thế giới! Trong khi đó, nhiều nước vẫn trong tình trạng báo động về nghèo đói, nhiều người vẫn đang quằn quại đối chọi với cái đói, cái khát, rồi nạn thất nghiệp, chiến tranh, khủng bố ngày càng lan rộng.
Nguyên nhân dẫn đến vấn nạn trên, chúng ta thấy mấu chốt của vấn đề: đó chính là thiếu lòng bao dung, tình thương.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết cảm thông, liên đới và trách nhiệm với anh chị em mình. Hãy biết chạnh lòng thương như Thiên Chúa đã thương yêu ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết quên mình để lo cho anh chị em xung quanh như Chúa. Xin cũng ban cho chúng con luôn biết tìm đến Chúa để được hạnh phúc đời đời. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Thiên Chúa cần con người cộng tác
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Những công việc của con người tự nó không có giá trị siêu nhiên, nhưng khi cộng tác với Thiên Chúa, nó sẽ trở thành hành động cứu độ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trước sự kiện Chúa làm phép lạ bánh hóa nhiều, con đã tự hỏi: Chúa chỉ cần phán một lời là có thể làm phép lạ. Nhưng tại sao Chúa không làm thế, mà Chúa lại cần đến năm chiếc bánh và hai con cá ?
Lạy Chúa, Chúa không làm như con nghĩ. Chúa cần con cộng tác. Chúa cần con người góp công chung sức để mưu ích cho nhau. Sự đóng góp của các môn đệ, chẳng thấm vào đâu, nhưng từ đó, Chúa đã thực hiện một bữa ăn no nê cho dân chúng.
Thánh Âu-tinh đã nói: để tạo dựng con người, Thiên Chúa không cần con người. Nhưng để cứu độ con người, Thiên Chúa cần con người cộng tác.
Lạy Chúa, nhìn vào thế giới hôm nay, con tin chắc chắn rằng: Chúa cũng đang chạnh lòng thương xót nhân loại đang đau khổ vì đói khát, vì bệnh tật, vì dốt nát, vì chiến tranh. Chúa cũng có thể làm mọi sự để cứu độ loài người. Nhưng Chúa cần con cộng tác, tuy dù nhỏ bé và âm thầm.
Xin Chúa giúp con luôn biết mở rộng trái tim trước nhu cầu của anh chị em. Xin dạy con biết mở rộng bàn tay dâng hiến cho Chúa và cho tha nhân. Dù sự đóng góp của con chẳng đáng kể là gì so với nhu cầu của thế giới, nhưng con tin Chúa đang chờ đợi đón nhận và nhân lên gấp bội. Xin Chúa dạy con biết nghĩ đến người khác, biết chia sẻ cho nhau, để nhân loại khỏi bị diệt vong vì ích kỷ, nhưng luôn phát triển phong phú khi biết quảng đại sẻ chia. Amen.
Ghi nhớ: “Hóa bánh ra nhiều, Chúa Giêsu tỏ ra Mình là Ðấng Tiên tri”.
Suy Niệm 6: Hoạt động cứu rỗi của Chúa Giêsu
(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống ...)
Phúc Âm thánh Marcô trình bày tiếp hoạt động cứu rỗi của Chúa Giêsu. Những hoạt động của Chúa Giêsu đã thu hút dân chúng đi theo Ngài rất đông. Họ say mê Ngài đến nỗi quên ăn quên uống.
- Trông thấy họ, “Chúa động lòng thương xót” (x. Mc 6,34). Ngài động lòng vì thấy họ thiếu thốn: thiếu vật chất và nhất là thiếu tinh thần.
- Do động lòng thương xót dân chúng, Chúa Giêsu muốn làm một việc gì đó để giúp họ. Việc đầu tiên Ngài làm là ...“Ngài bắt đầu giảng dạy họ nhiều điều” (x. Mc 6,34): theo suy nghĩ của Chúa Giêsu, sự đói khát tinh thần cấp bách hơn sự đói khát của ăn, cho nên việc đầu tiên Ngài làm là giảng dạy họ.
- Tiếp đó Ngài mới làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho họ ăn. Mà phép lạ này cũng là hình bóng tiên báo Bí Tích Thánh Thể và sự phục vụ của Giáo Hội.
B- Suy gẫm ( ... nẩy mầm)
1. “Khi ấy, Chúa Giêsu xem thấy dân chúng đông đảo thì động lòng thương xót họ” (x. Mc 6,34): phản ứng đầu tiên của Chúa Giêsu là yêu thương. Khi thấy những kẻ Ngài yêu thương “như chiên không người chăn giữ” thì Ngài thương đến nỗi “động lòng”. Con người của Chúa Giêsu thật tuyệt vời, tấm lòng của Ngài cũng thật tuyệt vời. Xin cho con cũng được giống Chúa.
2. Khi động lòng thương xót dân chúng, việc đầu tiên Chúa làm là “giảng dạy họ nhiều điều” (x. Mc 6,34). Được biết Chúa là điều quan trọng nhất và là nguồn mọi hạnh phúc.
3. Một chiều đông lạnh lẽo, triết gia Thomas Carlyle đang ngồi trước lò sưởi trong phòng khách. Cửa mở, cha xứ mới của giáo xứ bước vào. Sau mấy câu xã giao, cha xứ hỏi: “Theo ngài, lúc này giáo xứ mình cần cái gì nhất ?” Không chút ngập ngừng, triết gia đáp ngay: “Cái mà giáo xứ cần nhất lúc này, đó là người ta nhận biết một Thiên Chúa không phải chỉ trong lí thuyết. ” (Góp nhặt).
4. “Chúa Giêsu chính là ân huệ bằng xương bằng thịt mà Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).
5. “Chúa Giêsu xem thấy dân chúng đông đảo thì động lòng thương xót họ, vì họ như chiên không người chăn giữ” (x. Mc 6,34)
Bởi động lòng thương xót nên Ngài đã hóa bánh ra nhiều từ 5 chiếc bánh và 2 con cá. Ngài không chỉ quan tâm đến cái đói thể xác nhưng còn muốn ban phát tình thương, của ăn mà nhân loại đang thiếu. Thực vậy, một trong những nghịch lý của thế giới hôm nay là thiểu số người giàu chia nhau đa phần tài nguyên thế giới, là sản lượng của các nước phát triển không ngừng gia tăng; bên cạnh hàng loạt các nước thuộc thế giới thứ ba vẫn mãi nghèo đói. Nạn đói lan tràn, chiến tranh tiếp diễn, thất nghiệp gia tăng… cứ như điệp khúc của bản tin thời sự mỗi ngày. Cái thiếu thốn của thế giới hôm nay chính là tình thương, lòng nhân ái.
Bản thân tôi cũng lãnh nhận nhiều hơn là cho đi, nhưng vẫn luôn thoái thác như các tông đồ xưa: “Làm sao thỏa mãn những nhu cầu của kẻ khác, một khi sức mình có hạn ?”
Xin cho con hiểu rằng chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. (Epphata)
Suy Niệm 7: Phép lạ hóa bánh ra nhiều
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Thấy dân chúng kéo theo đông đảo, Chúa Giêsu rất cảm động. Người thương họ vì thấy không ai lo lắng dạy bảo họ. Và mãi đến chiều tối mà họ vẫn ở lại nghe Chúa giảng dạy. Thấy vậy, các môn đệ xin Chúa cho họ đi mua thức ăn. Chúa bảo các ông lo cho họ ăn, nhưng các ông thưa không thể lo nổi vì các ông chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá. Người bảo các ông cho họ ngồi từng nhóm rồi cầm lấy năm chiếc bánh với hai con cá ngước mắt lên cầu nguyện với Chúa Cha, rồi trao cho các môn đệ phân phát cho dân chúng ăn. Mọi người đều ăn no nê mà còn dư được mười hai thúng đầy.
Chúa thoả mãn nhu cầu vật chất của con người.
Dân chúng say mê nghe Chúa giảng, quên ăn quên uống, nhưng dù sao dạ dày của họ cũng phải nổi loạn, khi không được cung cấp thức ăn thức uống cho nó. Bóng chiều đang xuống dần mà dân còn ở trong nơi hoang vắng xa làng mạc thành thị, họ ra về, đường còn xa sợ có người đói lả dọc đường. Chúa Giêsu muốn các môn đệ cho họ ăn. Nhưng trong hoang địa này lấy đâu ra lương thực cho ngần ấy người ăn. Ở đây chỉ có thằng nhỏ có 5 chiếc bánh và hai con cá. Bằng ấy thực phẩm nhằm nhò gì với một biển người như vậy! Nhưng Chúa cứ bảo cho họ ngồi xuống thảm cỏ cho Người làm việc. Thánh Mátthêu kể: “Người cầm lấy 5 chiếc bánh và 2 con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông. Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người thu lại được 12 giỏ đầy”.
Chúa thoả mãn nhu cầu tinh thần con người.
Lời giảng của Chúa đã làm cho dân chúng say mê. Lời Chúa là thức ăn nuôi dưỡng và bồi bổ cho linh hồn. Tuy thế, Chúa không quên thoả mãn nhu cầu vật chất cho họ, vì họ là con người có hồn có xác, phải được nuôi dưỡng đầy đủ. Như vậy Chúa thực hiện lời khuyên: “Tiên vàn hãy tìm Nước Thiên Chúa, còn mọi sự khác Ngài sẽ thêm cho”.
Ngoài thức ăn vật chất, Chúa Giêsu còn muốn hướng con người đến một thức ăn khác nữa, quý trọng hơn. Bởi đó, sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, người ta tiếp tục tuốn đến với Chúa mong Người tái diễn phép lạ ấy, nhưng Người đã lánh họ mà đi. Theo tường thuật của thánh Gioan, Người còn nói với họ: “Các ngươi tìm Ta chỉ vì đã được ăn no nê. Hãy nỗ lực tìm kiếm thứ lương thực nuôi dưỡng sự sống muôn đời”. Thứ lương thực ấy chính là bản thân của Chúa Giêsu, được ban cho chúng ta qua bí tích Thánh Thể.
Chúa muốn chúng ta cộng tác với Người.
Các Tông đồ chỉ kiếm cho Chúa được có 5 cái bánh và 2 con cá. Thật là một đóng góp quá nhỏ nhoi, nhưng thực ra, chỉ cần bằng ấy đã quá đủ đối với Chúa. Chúa không muốn làm phép lạ tự không mà có bánh cho họ ăn, nhưng Chúa muốn cho con người đóng góp một chút để cộng tác với Chúa. Như vậy, phép lạ hóa bánh ra nhiều là kết quả của sự kết hợp giữa quyền năng vô biên của Chúa với sự cộng tác nhỏ bé của con người.
Khi cộng tác với Chúa, Chúa không đòi hỏi chúng ta những tài năng, tiền của và những phẩm tính mà chúng ta không có. Ngài bảo chúng ta: “Hãy đến với Ta bằng con người thật của ngươi, dù nó nghèo nàn, hãy mang đến Ta điều gì ngươi có, dù ít ỏi, và Ta sẽ sử dụng nó một cách lớn lao trong công việc của Ta”.
Thi sĩ Amado Nervo, một đại thi sĩ và cũng là một nhà huyền bí, người Mễ Tây Cơ tóm tắt sứ điệp và tinh thần bài Tin mừng hôm nay trong bài thơ:
“Con chỉ là một tia lửa,
Xin biến con thành ngọn lửa.
Con chỉ là một sợi dây,
Xin biến con thành chiếc đàn.
Con chỉ là ngọn đồi cỏn con
Xin biến con thành ngọn núi.
Con chỉ là một giọt nước,
Xin biến con thành một dòng suối.
Con chỉ là một cọng lông,
Xin biến con thành chiếc cánh.
Con chỉ là gã ăn mày,
Xin biến con thành một ông vua.
Truyện: Người chạnh lòng thương
Mẹ Têrêsa Calcutta thuật lại một câu chuyện như sau: Một hôm, có một cặp vợ chồng trẻ đến thăm tu viện và trao tặng cho chúng tôi một khoản tiền lớn, bảo là để đóng góp vào chi phí mua thức ăn cho những người nghèo.
Ở Calcutta mỗi ngày dòng nữ tu Bác ái Truyền giáo chúng tôi phải cung cấp lương thực cho 9000 người. Bởi đó, không lạ gì hai bạn trẻ này muốn dùng khoản tiền họ tặng vào mục tiêu trên.
Thấy họ còn quá trẻ, tôi tò mò hỏi:
- Hai con có thể cho mẹ biết tiền đâu mà hai con có nhiều thế ?
Họ trả lời:
- Chúng con vừa cưới nhau được hai ngày. Chúng con quyết định không may đồ cưới, cũng không tổ chức linh đình, để dùng tiền đó giúp những người kém may mắn hơn chúng con.
Mẹ Têrêsa hỏi tiếp:
- Ở Ấn Độ, không có quần áo cưới và tiệc cưới là điều nhục nhã. Tại sao các con lại quyết định táo bạo như thế, làm phật lòng cha mẹ và họ hàng ?
Họ thưa:
- Chúng con yêu nhau và muốn tặng nhau món quà cưới đặc biệt. Chúng con muốn khởi đầu cuộc chung sống bằng một hy sinh mà cả hai cùng đóng góp vào.
Suy Niệm 8: Chúa Giêsu chạnh lòng thương xót
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Mở đầu bài tưởng thuật hôm nay, thánh Marcô viết: “Chúa Giêsu xem thấy dân chúng đông đảo thì chạnh lòng thương xót họ, vì họ bơ vơ như chiên không có người chăn giữ” (Mc 6,34)
Vâng, chính vì lòng thương xót đối với những đàn chiên không có người chăn giữ này, mà Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành, đã dấn thân phục vụ. Tin Mừng cho biết “Ngài đã giảng dạy họ nhiều điều”. (Mc 6,34)
Chúa Giêsu giảng dạy. Đây là công việc chính yếu trong cuộc đời công khai của Chúa.
Một chiều đông lạnh lẽo, triết gia Thomas Carlyle đang ngồi trước lò sưởi trong phòng khách. Cửa mở, cha xứ mới của giáo xứ bước vào. Sau mấy câu xã giao, cha xứ hỏi: “Theo ngài, lúc này giáo xứ mình cần cái gì nhất?” Không chút ngập ngừng, triết gia đáp ngay: “Cái mà giáo xứ cần nhất lúc này, đó là người ta nhận biết một Thiên Chúa không phải chỉ trong lý thuyết”. (Góp nhặt).
“Cái mà giáo xứ cần nhất lúc này, đó là người ta nhận biết một Thiên Chúa không phải chỉ trong lý thuyết”. Cần phải làm cho mọi người thấy được Thiên Chúa là Đấng không phải ở mãi đâu xa mà ở ngay trong cuộc sống của mình.
Vào dịp thánh Phanxicô sang Tòa Thánh để xin Đức Thánh cha phê chuẩn luật dòng Anh Em hèn mọn của mình, Đức Thánh cha đã thân mật hỏi thánh Phanxicô:
- Con có bao giờ thấy Chúa chưa?
- Có, con vừa thấy đêm qua.
- Người có nói gì với con không?
- Người và con ở bên nhau suốt đêm không nói gì. Tuy nhiên, cứ mỗi lúc con nói “Cha” với Người thì Người lại trả lời lại với con “Con Ta”. Cứ thế chẳng có gì hơn cho đến lúc trời sáng.
Vâng! Nói về một Thiên Chúa gần gũi với con người đó là nhiệm vụ hàng đầu của những người rao giảng Tin Mừng.
2. Thế nhưng, giảng dạy mới chỉ là thoả mãn được một mặt của những nhu cầu mà những con chiên không người chăn giữ đang khao khát. Ngoài nhu cầu tinh thần đó ra, những chiên này còn cần đến cả những nhu cầu vật chất nữa. Vì thế, để tỏ ra là một mục tử nhân lành, Chúa Giêsu đã làm phép lạ bánh hóa nhiều để nuôi những người đã đi theo Chúa và nghe Ngài giảng dạy.
Lòng thương xót của vị mục tử nhân lành ở đây là lòng thương xót phát xuất tự bản chất của Thiên Chúa, mà Thiên Chúa, theo như lời của Thánh Gioan trong đoạn thư thứ I, được trích đọc hôm nay cho biết: chính là “TÌNH YÊU”.
Vâng! Thiên Chúa là Tình yêu. Tình yêu ấy được thể hiện qua sự quan tâm, chăm sóc, quan phòng và xếp đặt cho mọi sự trở nên tốt đẹp cho mọi người. Hãy mở rộng lòng để đón nhận tình yêu đó, chúng ta sẽ cảm nhận được sự kỳ diệu của Tình yêu Chúa dành cho chúng ta.
Moses Mendelssohn là tổ phụ của nhà soạn nhạc nổi tiếng người Đức Felix Mendelssohn. Bề ngoài của ông rất bình thường, ngoại trừ tướng ngũ đoản (mình và tứ chi đều ngắn), ông còn là một người có cái lưng gù kì quái rất buồn cười.
Một ngày nọ, Moses Mendelssohn đến Hamburg để viếng thăm một thương nhân. Thương nhân này có một cô con gái rượu tên là Fossey. Moses yêu cô ấy một cách cuồng nhiệt, nhưng vì chê vẻ bề ngoài của ông nên cô ta từ chối tình cảm của Moses.
Đến lúc phải rời xa nơi đó, Moses lấy hết dũng khí có được, ông đi lên phòng của Fossey, bắt lấy cơ hội cuối cùng này để bày tỏ với cô ấy. Đối diện trước vẻ mặt thánh thiện của cô, ông trở nên rụt rè, Fossey đã thẳng thừng cự tuyệt ông.
Qua nhiều lần thử tìm cách để bày tỏ cùng cô ấy, nhưng không thành, cuối cùng ông xấu hổ nói: “Nàng có tin vào duyên trời định không?”
Cô nhìn thẳng vào ông và nói: “Tôi tin”. Sau đó cô hỏi lại ông: “Còn ông, ông có tin vào điều đó không?”
Ông đáp: “Tôi nghe nói, mỗi người con trai trước khi được sinh ra thì Thượng Đế gọi đến và hỏi anh ta muốn một người vợ tương lai như thế nào? Khi tôi sinh ra, tôi chưa được lựa chọn người vợ tương lai cho mình mà chỉ được Thượng Đế nói cho biết người vợ tương lai của tôi là một cô gái gù”.
Khi đó tôi mới van xin thượng đế rằng: “Thưa Thượng đế, một người phụ nữ mà lại mang trên mình cái lưng gù thì quả là bi kịch, xin người hãy chuyển cái lưng gù ấy sang cho con, hãy để cho người vợ của con là một người phụ nữ xinh đẹp”.
Lúc đấy Fossey nhìn thẳng vào đôi mắt của Moses, quên đi hết những suy nghĩ lúc trước về anh trong sâu thẳm trái tim mình. Cô ấy đưa đôi tay về phía anh, sau đó, cô trở thành người vợ chân thành nhất của ông.
Lev Tolstoy đã nói: “Ở đâu có tình yêu, ở đó có sự sống”.
Tình yêu là tất cả mọi điều. Đó là chìa khoá cuộc đời và ảnh hưởng của tình yêu làm lay động cả thế giới.
Lạy Chúa,
Xin hãy dẫn dắt con
đi từ cõi chết đến sự sống,
từ lầm lạc đến chân lý.
Xin hãy dẫn dắt con
đi từ ghen ghét đến yêu thương,
từ chiến tranh đến hòa bình. Amen. (Mẹ Têrêsa).
03/01 Hãy hối cải, vì nước trời đã gần đến.
- Viết bởi Mt 4, 12-17. 23-25
Hãy hối cải, vì nước trời đã gần đến.
Thứ Hai sau lễ Hiển Linh.
"Nước trời đã đến gần".
LỜI CHÚA: Mt 4, 12-17. 23-25
Khi ấy, nghe tin Gioan bị nộp, Chúa Giêsu lui về Galilêa. Người rời bỏ Nadarét, đến ở miền duyên hải thành Capharnaum, giáp ranh đất Giabulon và Nephtali, để ứng nghiệm lời đã phán bởi miệng tiên tri Isaia rằng: "Hỡi đất Giabulon và đất Nephtali, đường dọc theo biển, bên kia sông Giođan, Galilêa của ngoại bang! Dân ngồi trong tối tăm, đã thấy ánh sáng huy hoàng, ánh sáng đã xuất hiện cho người ngồi trong bóng sự chết".
Từ bấy giờ, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng và nói: "Hãy hối cải, vì nước trời đã gần đến".
Và Chúa Giêsu đi rảo quanh khắp xứ Galilêa, dạy dỗ trong các hội đường của họ, rao giảng tin mừng nước trời, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân.
Tiếng tăm Người đồn ra khắp xứ Syria. Người ta đã đem đến cho Người đủ thứ bệnh nhân, những người mắc phải tật nguyền đau đớn, quỷ ám, kinh phong, bất toại. Người đã chữa họ lành. Dân chúng đông đảo theo Người, họ đến từ xứ Galilêa, miền Thập Tỉnh, Giêsrusalem, Giuđêa và vùng bên kia sông Giođan.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Ánh sáng và sự sống
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Từ sau lễ Hiển Linh đến lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa,
Giáo Hội cho chúng ta đọc các bài Tin Mừng về việc Chúa tỏ mình.
Mỗi bài là một dịp Chúa tỏ mình cho Dân của Người.
Bài đọc hôm nay cho thấy Đức Giêsu tỏ mình lần đầu tiên
tại Galilê, vùng đất có nhiều người ngoại giáo sinh sống.
Ngài tỏ mình tại Caphácnaum, một tỉnh lớn chuyên đánh cá gần hồ Galilê,
tỉnh này nằm trong địa giới của chi tộc Naptali ngày xưa.
Thánh Mátthêu thấy việc tỏ mình này làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia:
“Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng,
những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần
nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9,1).
Như thế Đức Giêsu chính là ánh sáng rực rỡ xua tan bóng tối,
Người nâng dậy những ai đang ngồi trong cảnh chết chóc, tối tăm.
Phần sau của bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy điều đó (Mt 4, 23-25).
Đức Giêsu đã đi khắp vùng Galilê để làm ba việc:
dạy dỗ trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng và chữa lành bệnh nhân.
Thật ra việc dạy dỗ và việc rao giảng có thể coi là một,
nếu thế chương trình hành động của Đức Giêsu sẽ gồm giảng dạy và chữa bệnh.
Dù giảng dạy hay chữa bệnh, Đức Giêsu chỉ muốn một điều
đó là làm vơi nhẹ gánh nặng của những người đang đau khổ.
Đức Giêsu loan báo Nước Trời đã đến gần (Mt 4, 17),
và Người chứng tỏ cho thấy Nước ấy đã đến thật rồi
qua việc chữa lành moi bệnh hoạn tật nguyền của dân.
Cách đây hai ngàn năm, đã có những người bị quỷ ám, kinh phong, bại liệt.
Ngày nay, dù khoa học tiến bộ, nhưng bệnh tật vẫn không tha con người.
Y khoa vẫn phải đối mặt với những chứng bệnh mới, chưa có thuốc chữa.
Con người không bị ám bởi quỷ, nhưng bởi những sản phẩm do mình làm ra.
Làm thầy dạy và làm lương y là hai nghề đặc biệt
tiếp nối công việc ngày xưa của Thầy Giêsu,
để loan báo cho thế giới hôm nay về sự sống, ánh sáng và hy vọng.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu,
vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con,
xin cho những người nghèo khổ được no đủ.
Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu,
xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện
với những khó khăn gay gắt của cuộc sống.
Vì Chúa bị kết án bất công,
xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật.
Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng,
xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng.
Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề,
xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng.
Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh,
xin cho sự hiền hòa thắng được bạo lực.
Vì Chúa dang tay chết trên thập giá,
xin cho đất nối lại với trời,
con người nối lại mối dây liên đới với nhau.
Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui òa vỡ,
xin cho chúng con biết đón lấy đời thường
với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.
Suy Niệm 2: Ánh sáng soi đêm tối
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giêsu đến chiếu soi luồng ánh sáng mới vào nơi tối tăm. Nơi tối tăm nhất là miền Galilea vì đó là miền dân ngoại, là dân còn ngồi trong bóng tối sự chết.
Ánh sáng mới của Chúa Giêsu là ánh sáng đổi mới cuộc đời. Lời kêu gọi “Anh em hãy sám hối” chiếu một làn ánh sáng mới vào đời sống chúng ta. Dưới làn ánh sáng này, ta không còn có thể ngồi yên trong bóng tối sự chết, nhưng phải đứng lên mà bước đi. Dưới làn ánh sáng này, ta không thể ngủ yên trong cuộc đời xưa cũ, nhưng phải sám hối, phải dứt lìa tình trạng tội lỗi xưa, phải giã từ con người cũ kỹ ươn lười tội lỗi, phải tỉnh thức trong một cuộc đời tươi mới, thánh thiện, hăng say nhiệt thành.
Ánh sáng mới của Chúa Giêsu là ánh sáng ban sự sống. Sự sống con người bị tổn thương, bị hao mòn vì bệnh tật, bị kìm kẹp trong vòng vây của ma quỉ. Con người bị bệnh hoạn tật nguyền không thể sống trọn vẹn cuộc sống tự do, không thể phát huy đến mức tối đa năng lực Chúa ban. Chúa Giêsu đến chưa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Nhưng sâu xa bên trong, Chúa giải thoát con người khỏi trói buộc của ma quỉ, đem lại cho con người sự tự do của con cái Chúa, giúp họ sống trọn vẹn cuộc sống, giải phóng năng lực tiềm ẩn để con người có thể phát triển đến mức thập toàn.
Ánh sáng mới của Chúa Giêsu là ánh sáng soi thấu lương tâm giúp ta phân định trong cuộc sống. Cuộc sống có nhiều giả trá. Những giả len lỏi vào tận thâm tâm khiến con người bị lầm lẫn ngay trong lượng giá, chọn lựa nền tảng. Thánh Gioan cho biết không chỉ có thần lành mà còn có thần dữ chi phối chọn lựa của ta. Ánh sáng của Chúa soi chiếu tâm hồn, giúp ta phân định, giúp ta lựa chọn và giúp ta đi trên con đường ánh sáng, con đường của Chúa, con đường dẫn đến Sự Thật và Sự Sống.
Ánh sáng mới của Chúa Giêsu là ánh sáng thực hành. Không lý luận phức tạp, không vòng vèo quanh co, ánh sáng của Chúa chiếu lên ánh sáng đơn sơ và thực tế để ai đi trong ánh sáng sẽ có chọn lựa và sống đời sống đơn sơ thực tế, đó là tuân giữ điều răn của Chúa. Và “ai tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy”. Người ấy ở trong ánh sáng. Người ấy chan hòa ánh sáng.
Suy Niệm 3: Hãy sám hối.
Có một vị ẩn sĩ nổi tiếng là thánh thiện, và được nhiều người đến xin ông cầu nguyện cho. Điều đó làm cho ông rất hãnh diện.
Một buổi sáng nọ, trên đường đến thăm một ngôi nhà thờ, ông thấy một người ngồi nức nở bên đường. Đến gần, ông nhận ra đó là tên cướp mà mọi người trong vùng đều run sợ. Vị ẩn sĩ định bỏ đi, nhưng anh ta tiến đến quỳ gối trước mặt ông và xưng thú tội lỗi. Nghe xong, vị ẩn sĩ tự nhiên nổi giận, và nói lớn tiếng: “Một tên trộm cướp như ngươi mà hy vọng được Chúa tha thứ sao? Ta nói thật với ngươi: cây gậy mà ta đang cầm trên tay trổ bông còn dễ hơn việc Thiên Chúa tha thứ cho ngươi”. Nói như thế rồi, vị ẩn sĩ tiếp tục cất bước, bỏ mặc tội nhân trong thất vọng.
Nhưng chưa đi quá mười bước, cây gậy ông đang cầm trên tay bỗng bị cắm sâu xuống đất, ông dùng tất cả sức lực để rút lên, nhưng cây vẫn không nhúc nhích. Lạ hơn nữa, từ thân cây gậy, cành lá và hoa từ từ mọc ra. Rồi ông nghe có tiếng nói: “Sự tha thứ của Thiên Chúa dành cho một tội nhân sám hối còn dễ hơn một cây gậy trổ bông, một người tỗi lỗi biết hối cải được tha thứ dễ dàng hơn một hơn một kẻ kiêu hãnh”.
“Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần bên”. Đó là trọng tâm của bài Tin Mừng hôm nay. Ơn cứu rỗi mà Chúa Giêsu loan báo chính là giải phóng con người khỏi tội lỗi và những hệ lụy của nó, như yếu đau tật nguyền…
“Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần bên”. Sám hối là điều kiện tiên quyết để được ơn cứu độ. Sám hối không phải là tiếng khóc của thất vọng, mà là một sức lực mới giúp con người vươn lên.
“Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần bên”. Nước Trời chính là động lực của sám hối. Và do đó, sám hối đích thực cũng chính là một quyết tâm hướng về những biểu hiện của Nước Trời như sống yêu thương, quảng đại, tha thứ.
“Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần bên” hay nói đúng hơn hãy sám hối để cho Nước Trời được đến giữa mọi người.
Suy Niệm 4: “Hãy sám hối”
Có một người đàn ông trong vùng nổi tiếng về chuyện nhiều vợ, ông lại là người chuyên uống rượu và hay la lối mọi người. Tuy nhiên, một hôm, ông ta quyết tâm từ bỏ con đường tội lỗi, ăn năn trở về với Chúa qua việc xưng tội và rước lễ. Thấy vậy, nhiều người sầm xì, bàn tán. . . trong nhóm có một bà được cho là đạo đức, đã nói lớn tiếng để mọi người nghe thấy, bà nói: “Người tội lỗi như thế thì làm sao được Chúa tha? Xưng tội và rước lễ như vậy, chẳng qua là hình thức, qua mắt thiên hạ!!!”
Ôi thật xót xa thay! Bà này đâu có hiểu được rằng: người tội lỗi luôn là trọng tâm sứ vụ của Đức Giêsu và họ là đối tượng số một của Tin Mừng! Bởi vì, một người tội lỗi biết hối cải thì được tha thứ dễ dàng hơn một kẻ tự cho mình đạo đức nhưng sống trong kiêu hãnh!; hay một người tội lỗi trở lại thì cả triều thần thiên quốc vui mừng!
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: "Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần bên".
Sám hối theo nghĩa thông thường là ý thức mình tội lỗi, hối hận, cần phải quay trở về đường ngay nẻo chính sau khi đã quyết tâm chừa bỏ con đường cũ. Tuy nhiên, sám hối theo Kitô giáo còn mang chiều kích siêu nhiên, đó là trở về cùng Thiên Chúa, để nhận ra tình yêu thương vô biên của Ngài. Mặt khác, sám hối còn là để biết yêu thương, cảm thông, chia sẻ, quảng đại và tha thứ.
Không chỉ dừng lại ở đó, điều quan trọng nữa là: khi sám hối, chúng ta biết khiêm tốn để soi chiếu cuộc đời của mình với tình thương, lòng nhân hậu của Thiên Chúa, rồi định hướng cho mọi hành vi, lựa chọn của mình trong tương lai để được ơn cứu độ.
Xin Chúa Giêsu ban cho chúng ta ơn sám hối trong cuộc sống thường ngày, bởi vì, đã là con người thì không ai có quyền nói mình vô tội. Vì thế, chúng ta hãy biết chạy đến với Thiên Chúa trong sự sám hối để được ơn tha thứ. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 5: Sám hối, điều kiện tiên quyết để đón Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu đã kêu gọi hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần. Sám hối là điều kiện tiên quyết để được đón nhận Chúa. Chúng ta cần sám hối không phải một lần hoặc vài lần, nhưng cần sám hối mỗi ngày và trong từng phút giây của cuộc sống.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, lời mời gọi của Chúa nhắc lại lời mời gọi sám hối của thánh Gioan Tẩy Giả: “Hãy ăn năn sám hối”. Chúa đã nhập thể làm người và đã đích thân rảo qua các nẻo đường để rao giảng Tin Mừng. Là ánh sáng, Chúa không thể giấu mình được, Chúa cần chia sẻ chính mình. Chúa đã đến không như một ánh lửa leo lét, nhưng như ánh sáng huy hoàng để soi lối cho những ai đang ngồi trong bóng tối tử thần biết tìm về ơn cứu độ.
Lạy Chúa, để nhận ra ánh sáng đó, con cần có lòng khao khát ước mong. Ánh sáng của Chúa cũng vô ích nếu con không muốn thấy bởi vì đối với người mù, ngay cả mặt trời chính ngọ cũng chẳng khác gì đêm tối. Ánh sáng chỉ thuận lợi cho con nếu con muốn và có thể sử dụng. Chúa luôn tôn trọng sự tự do của con. Chúa đến để giải thoát con khỏi đêm tối tội lỗi.
Xin ánh sáng của Chúa chiếu soi vào tâm hồn con, để con nhận biết thân phận yếu đuối tội lỗi của mình. Bởi vì nhận biết mình tội lỗi là bước đầu của lòng sám hối. Lòng sám hối đích thực của con là quyết tâm sống tốt hơn với những việc làm cụ thể theo Lời Chúa dạy. Xin Chúa giúp con luôn biết sám hối trong suốt cuộc đời.
Xin cho Lời Chúa hôm nay hoán cải tâm hồn con, để ánh sáng của Chúa lan tỏa trong con, phá tan mọi ảnh hưởng tội lỗi, làm cho nẻo đường con đi luôn trong sáng, thánh hóa đời sống con nên thánh thiện. Amen.
Ghi nhớ: “Nước trời đã đến gần”.
Suy Niệm 6: Chúa Giêsu bắt đầu thi hành sứ mạng
(Lm Carôlô Hồ Bắc Xái)
A. Phân tích (Hạt giống … )
Chúa Giêsu bắt đầu thi hành sứ mạng:
- Địa bàn hoạt động được Ngài chọn là miền Galilê, một miền được coi là lãnh địa của dân ngoại. Từ thời Cựu Ước, ngôn sứ Isaia đã nói “Galilê, miền đất của dân ngoại”. Nhưng Isaia đã tiên báo rằng dân ở đó sẽ “thấy một ánh sáng huy hoàng”.
- Hoạt động của Ngài gồm giảng dạy và chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền.
- Sứ điệp của Ngài là “Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”.
B. Suy gẫm (… nẩy mầm)
1. Khi nào cần tóm lược một cách vừa gọn nhất mà cũng vừa đầy đủ nhất lời rao giảng của Gioan Tiền hô và của Chúa Giêsu, Phúc Âm dùng câu “Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần” (x. Mt 3,2). Sám hối là điều kiện tiên quyết để được cứu rỗi, bởi vì sám hối là ý thức mình đang đi lệch đường và quyết tâm quay về đường chính. Có quay về như thế thì mới được vào Nước Trời. Cũng vì ý thức sự cần thiết của sám hối nên Giáo Hội luôn kêu gọi sám hối trước mỗi Thánh lễ.
2. “Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”. Câu này cũng có nghĩa vì Nước Trời đã đến gần nên con người phải sám hối; nó cũng có nghĩa hãy sám hối để mình có thể vào Nước Trời; và cũng có nghĩa hãy sám hối để Nước Trời có thể đến giữa mọi người.
3. Người Hồi giáo có câu chuyện sau đây: Ngày kia Đức Ala truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem có điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời. Sứ thần đáp xuống ngay một chiến trường nơi máu của các vị anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít máu mang về cho Đức Ala. Nhưng xem ra Đức Ala không hài lòng mấy. Ngài bảo: “Máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một điều quý giá nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian. ”
Sứ thần đành phải giáng thế một lần nữa. Lần này ngài gặp đám tang của một người giàu có nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo sau quan tài, vừa đi vừa khóc vừa xông hương để tỏ lòng biết ơn đối với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm nang về trời. Lần này Đức Ala mỉm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng, Ngài nói: “Dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những điều hiếm có và tốt đẹp nơi trần gian. Nhưng Ta nghĩ rằng còn có một cái gì tốt đẹp hơn.”
Lại một lần nữa sứ thần đành phải vâng lệnh. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp 4 phương, một buổi chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường, Ngài bỗng thấy một người đang khóc sướt mướt. Trước những câu hỏi đầy ngạc nhiên của sứ thần, người ấy giải thích: “Tôi đã chìu theo cơn cám dỗ mà phạm tội. Giờ đây nước mắt là lương thực hằng ngày của tôi”. Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng cánh bay về trời. Đức Ala chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười nói: “Thế là ngươi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quả thật dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối, bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp của tình yêu. (Trích "Món quà giáng sinh")
4. Có một vị ẩn sĩ nổi tiếng là thánh thiện và được nhiều người đến xin ông cầu nguyện cho. Điều đó làm cho ông rất hãnh diện. Một buổi sáng nọ, trên đường đến thăm một ngôi nhà thờ, ông thấy một người ngồi nức nở bên đường. Đến gần, ông nhận ra đó là tên cướp mà mọi người trong vùng đều run sợ. Vị ẩn sĩ định bỏ đi, nhưng anh ta tiến đến quỳ trước mặt ông và xưng thú tội lỗi. Nghe xong, vị ẩn sĩ tự nhiên nổi giận và nói lớn tiếng: “Một tên trộm cướp như ngươi mà hy vọng được Chúa tha thứ sao ? Ta nói thật với ngươi: cây gậy ta đang cầm trên tay trổ bông còn dễ hơn việc Thiên Chúa tha thứ cho ngươi”. Nói như thế rồi, vị ẩn sĩ tiếp tục cất bước, bỏ mặc tội nhân trong thất vọng. Nhưng chưa đi quá mười bước, cây gậy ông đang cầm trên tay bỗng bị cắm sâu xuống đất. Ông dùng tất cả sức lực để rút lên nhưng cây gậy vẫn không nhúc nhích. Lạ hơn nữa, từ thân cây gậy, cành lá và hoa từ từ mọc ra. Rồi ông nghe có tiếng nói “Sự tha thứ của Thiên Chúa dành cho một tội nhân sám hối còn dễ hơn một cây gậy trổ bông. Một người tội lỗi biết hối cải được tha thứ dễ dàng hơn một kẻ kiêu hãnh” ("Mỗi ngày một tin vui")
Suy Niệm 7: Chúa Giêsu rao giảng ở Galilê
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Nghe tin Gioan bị bắt, Chúa Giêsu lánh về Galilê để tránh sự thù hằn của nhóm biệt phái và luật sĩ, đúng như lời tiên tri Isaia đã nói: dân ngồi trong bóng tối sự chết đã nhìn thấy ánh sáng của Chúa, Vì ở đó, Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng Tin mừng, kêu gọi mọi người sám hối và chữa lành các bệnh tật. Tiếng tăm người đồn ra khắp xứ Syria, nên dân chúng từ khắp nơi tuốn đến theo Người.
Capharnaum, trung tâm truyền giáo
Khi Gioan bị bắt cầm tù, nhiệm vụ của ông đã xong, vai phụ phải lui vào hậu trường để nhân vật chính xuất hiện. Đức Giêsu đã rời Nazareth đến Galilê và chọn Capharnaum làm trung tâm truyền giáo. Vùng Galilê này bị người ta khinh dể bởi vì đối với thủ đô, Galilê chỉ là tỉnh lẻ; đối với người mộ đạo sùng tín, miền này thật đáng nghi ngờ. Đó là miền hầu như thuộc ngoại bang, nơi hội tụ dân ngoại. Một dân cư phức tạp, nông dân và ngư dân có giọng nói nặng chịch vốn là đề tài phong phú cho các câu chuyện diễu cợt hằng ngày.
Thế mà tại sao Đức Giêsu lại tới cư ngụ tại Capharnaum, bên bờ hồ ? Thưa Ngài chọn Capharnaum làm trung tâm truyền giáo vì ba lý do:
- Thứ nhất để thực hiện lời tiên tri Isaia đã loan báo từ 732 năm trước cho các chi họ sống chung đụng với các dân ngoại.
- Thứ hai Capharnaum là quê hương của bốn môn đệ đầu tiên mà có lẽ nhà ông Phêrô là nơi thuận tiện cho việc truyền giáo.
- Thứ ba đây là lý do quan trọng nhất: để cho muôn dân được thấy “một ánh sáng huy hoàng”.
Nội dung việc rao giảng của Chúa Giêsu.
Có thể nói thánh Matthêu đã tóm gọn nội dung việc rao giảng của Chúa Giêsu trong một câu: “Hãy sám hối, vì Nước trời đã gần đến”. Thực ra, nội dung việc giảng dạy này đã được Gioan Tẩy giả rao giảng và sau này các tông đồ cũng tiếp tục thực hiện.
“Sám hối” là bước dứt khoát đầu tiên vào Nước trời, là sức mạnh nhạy bén biến đổi đời người nên mới. Nền tảng sự hối cải là khiêm tốn, nhìn nhận sự lỗi lầm và tội lỗi của mình trước Thiên Chúa. Đề tài sám hối rất thích hợp với tâm hồn của dân Galilê. Họ thờ Thiên Chúa nhưng lòng họ bị ô nhiễm quá nhiều bóng tối sự chết, bóng tối của tà thần, của tệ đoan xã hội, của lòng tham do các dân ngoại cư ngụ, buôn bán ở Capharnaum.
Sám hối là nền tảng niềm tin của Kitô giáo. Một trong những nghịch lý lớn nhất của Kitô giáo là càng nhận ra sự nhỏ bé bất toàn của mình, con người càng lớn lên trong ân sủng của Chúa. Chính khi Gioan Tẩy giả nhận mình nhỏ bé, Chúa lại cho Ngài được lớn lên, chính lúc ý thức mình thấp kém, Chúa lại tôn vinh Ngài như người cao trọng nhất trong Nước trời.
“Hãy sám hối vì Nước trời đã gần đến (Mt 4,17)
Lời đầu tiên Đức Giêsu dạy khi rao giảng Tin mừng là “Hãy sám hối”. Theo nguyên nghĩa của nó là trở lại (metanoia). Tại sao chúng ta phải quay trở lại ? Vì đã đi lạc đường. Đời sống con người là một hành trình đi về quê trời. Cuộc hành trình nào cũng phải có đích đến và cuộc hành trình chỉ kết thúc khi tới đích. Trong cuộc hành trình có những người đi lạc hướng, mà nếu đã lạc hướng thì không bao giờ tới đích. Ai đã lạc hướng mà càng chạy nhanh thì càng xa đích đến. Thánh Augustinô khen họ là những người “bene currit, sed extra viam” chạy nhanh đấy nhưng lạc hướng.
Điều kiện sám hối là phải “biết mình”, xem mình đang ở trong tình trạng nào và phải chỉnh hướng cuộc đời làm sao cho đúng. Cổ nhân thường nói: “Khôn chết, dại chết, biết là sống”. Chính vì thế ông Socrate đã mở đầu triết thuyết của ông bằng câu châm ngôn nổi tiếng: “Anh hãy tự biết mình”.
Truyện: Tướng cướp biết sám hối
Trong một khu rừng già núi Hắc Sơn ở nước Đức, một bọn cướp đang chia nhau chiến lợi phẩm mà chúng lấy được hồi đêm. Bọn cướp này có thói quen bán đấu giá với nhau của cải chúng cướp được, rồi sau đó chúng mới bán lại cho người khác.
Hôm ấy, món cuối cùng chúng đem ra đấu giá là một cuốn Thánh kinh. Tên cướp đóng vai hộ giá viên giới thiệu món hàng này, bằng những lời diễu cợt phạm thượng khiến cả bọn cười ồ lên. Một tên khác mở đại một trang như kiểu bói toán. Hắn chỉ vào một câu và đọc to lên, rồi thêm những lời trào phúng làm cho cả bọn cười ngặt nghẽo.
Nhưng tên cầm đầu trong bọn bỗng dưng trở nên nghiêm nghị, hai tay ôm đầu rồi gục xuống tỏ vẻ suy nghĩ. Ba mươi năm về trước, chính vào buổi sáng ngày hắn quyết định bỏ nhà ra đi, hắn đã nghe ông bố hắn đọc những lời Thánh kinh này trong giờ kinh sáng của gia đình. Lúc này đây hắn không thể ngờ được rằng hắn lại nghe vang lên những lời ấy.
Tên cướp còn đang chúi đầu về dĩ vãng thì một đồng bọn vỗ vai hắn và bảo: “Này, sao đàn anh có vẻ mơ mộng thế ? Đàn anh muốn mua nó không ? Đàn anh cần cuốn Thánh kinh hơn đàn em đó, vì điểm mặt anh hùng phạm pháp trên thế giới thì đàn anh phải là vô địch mà”.
Trước lời diễu cợt bạo gan đó, hắn chỉ chậm rải trả lời: “Mày nói đúng! Tao chính là thằng phạm tội nặng nhất. Cứ để cuốn sách cho tao, bao nhiêu cũng được”.
Bọn cướp chia tay để đem các món hàng đi bán. Riêng tên tướng cướp thì cầm cuốn Thánh kinh, đi tìm một chỗ vắng trong rừng ở lại đó đọc Lời Chúa và ăn năn sám hối về cuộc đời tội lỗi của mình (Mỗi ngày một tin vui).
Suy Niệm 8: Thiên Chúa yêu thích sự sám hối
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Chúa Giêsu bắt đầu thi hành sứ mạng:
1. Chúa Giêsu bắt đầu sứ mạng của Ngài lúc Gioan chấm dứt sứ mạng của ông. Chúa Giêsu đã chọn Galilê làm cứ điểm đầu tiên hoạt động truyền giáo. Chúa Giêsu đã không chọn Jêrusalem là thành thánh, là Đền thờ, là nơi các tiên tri lui tới, là nơi Đavid cũng đã dựng ngai tòa ở đây (1Sm 5,9), và cũng ở chính nơi đây tay Hêrôđê đã tái thiết lập đền thánh này. Chúa Giêsu chỉ trở lại Jêrusalem sau khi đụng đầu với Galilê từ chối không tin Ngài (Mc 6,1-6. 9-30). Và Chúa lên Jêrusalem để hoàn tất hy tế Thập Giá tại đó (Mc 10,32t) như lời Thánh Kinh (Mc 11,1-11).
Tại Galilê này, Chúa Giêsu đã chọn cứ điểm truyền giáo đầu tiên là Capharnaum. Capharnaum là một thành phố miền duyên hải gần biển hồ Tiberia. Capharnaum cách Nazareth, quê mẹ Chúa, chừng 30 cây số đường dài. Capharnaum là trung tâm hoạt động của Chúa. Chúa đến đây không phải là để câu cá mà là để kêu gọi sự thống hối. Nơi đây Chúa đã làm rất nhiều phép lạ: trừ quỉ ám (Mc 1,23-28), chữa bệnh sốt rét cho bà nhạc của Phêrô (Mc 1,29-31), cho con ông Giairô sống lại (Mc 5,21-43). Marcô còn ghi chú thêm là Chúa làm phép lạ chữa đủ mọi thứ bệnh: quỉ ám, kinh phong, bất toại đều được lành.
Cũng ở thành phố này, Chúa Giêsu đã kêu gọi sự thống hối "Hãy hối cải vì Nước Trời đã gần đến" (c. 17) Ngài tuyên bố mình đến để "kêu gọi kẻ tội lỗi" (Mc 2,17) Chính Chúa đến với Capharnaum để kêu gọi sự thống hối. Sự thống hối hoán cải luôn luôn là một ân sủng phát xuất từ Thiên Chúa trước tiên. Chính ở nơi đây chúng ta gặp hình bóng của Chúa đi tìm chiên lạc (Lc 15,4t), hình ảnh của góa phụ đi tìm đồng tiền bị mất (Lc 18,8), hình ảnh của Chúa đến với Giakêu để ban cho ông ơn tha thứ (Lc 19,5-9).
2. Chúa nói "Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần" (Mt 3,2). Sám hối là điều kiện tiên quyết, cần thiết để được cứu độ, bởi vì sám hối là ý thức mình đang đi lệch đường và quyết tâm quay về đường chính. Lý do phải sám hối là vì Nước Trời đã đến gần; sám hối là để mình có thể vào Nước Trời; và sám hối để Nước Trời có thể đến giữa mọi người. Nếu đọc lại cả Tin Mừng thì chúng ta thấy tất cả những ai thành tâm sám hối đều được Chúa thứ tha. Nói thế để chúng ta thấy Thiên Chúa yêu thích sự sám hối dường nào.
Người Hồi giáo thích kể cho nhau nghe câu chuyện này: Ngày kia Đức Ala truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem có điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời. Sứ thần đáp xuống ngay một chiến trường nơi máu của các vị anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít máu mang về cho Đức Ala. Nhưng xem ra Đức Ala không hài lòng mấy. Ngài bảo: "Máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một điều quý giá nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian. "
Sứ thần đành phải giáng thế một lần nữa. Lần này ngài gặp đám tang của một người giàu có nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo sau quan tài, vừa đi vừa khóc vừa xông hương để tỏ lòng biết ơn đối với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm mang về trời. Lần này Đức Ala mỉm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng, Ngài nói: "Dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những điều hiếm có và tốt đẹp nơi trần gian. Nhưng Ta nghĩ rằng, còn có một cái gì tốt đẹp hơn. "
Lại một lần nữa sứ thần đành phải vâng lệnh. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp 4 phương, một buổi chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường, Ngài bỗng thấy một người đang khóc sướt mướt. Trước những câu hỏi đầy ngạc nhiên của sứ thần, người ấy giải thích:
- Tôi đã chiều theo cơn cám dỗ mà phạm tội. Giờ đây nước mắt là lương thực hằng ngày của tôi.
Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng cánh bay về trời. Đức Ala chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười nói:
- Thế là ngươi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quả thật dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối, bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu,
sám hối không phải là điều dễ dàng,
bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn
để nhận mình lầm lỗi.
Chúng con ngỡ ngàng
khi thấy Chúa là Ðấng vô tội
mà lại đứng chung với các tội nhân,
chờ Gioan ban phép Rửa.
Chúa đã muốn nên bạn đồng hành
với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con.
Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh
lối nghĩ và lối sống của mình,
tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng,
thành thật để khỏi tự dối mình.
Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải,
dám đi đến những hành động cụ thể,
và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.
Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con
niềm vui của Giakêu,
hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến. Amen.