Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Giáo hội Indonesia đề cao một nữ tu người Đức
Ngoại trưởng Tòa Thánh quan tâm về tình hình Thánh địa
Ngoại trưởng Tòa Thánh, Đức Tổng giám mục Paul Gallagher bày tỏ quan tâm vì tình hình biển chuyển tại Thánh địa.
Trong cuộc phỏng vấn dài dành cho tạp chí America ở Mỹ, phổ biến phần thứ hai, hôm 19 tháng Bảy vừa qua, Đức Tổng giám mục Ngoại trưởng nhìn nhận rằng “tình hình tại Thánh địa rất tế nhị: bạo lực ngày càng trở thành một vấn đề. Có những nhược điểm về cơ chế từ cả hai phía, Israel và Palestine, như chúng ta thấy chính phủ của thủ tướng Bennett-Lapid sụp đổ. Cũng có nhiều vấn đề còn tồn đọng từ phía người Palestine. Hiển nhiên là có sự gia tăng thất vọng nơi những người trẻ ở cả hai phía.”
“Cái chết của nữ ký giả Công giáo Shireen Abu Akleh gây sốc cho mọi người. Nhưng đó chỉ là một ví dụ về các vấn đề tại Thánh địa. Tôi thiết nghĩ chúng ta cần tái quyết tâm tìm kiếm hòa bình và đối thoại, cũng như cố gắng thăng tiến quyết tâm của Tòa Thánh đối với giải pháp hai quốc gia, một qui chế quốc tế cho thành Jerusalem, điều mà người ta có xu hướng loại bỏ trong những năm gần đây.”
Đức Tổng giám mục Gallagher cũng nhận xét rằng “chính phủ của Tổng thống Mỹ đã đưa ra một số đề nghị nhưng không được thăng tiến. Tôi nghĩ có một ước muốn từ phía Mỹ tái tập trung vào Trung Đông. Nhưng rất tiếc là trên thế giới và trong các phương tiện truyền thông, chúng ta có xu hướng chú tâm vào một vấn đề trong lúc này, và cuộc chiến tại Ucraina đang tiêu hao mọi sự. Nhưng cũng còn những tình trạng khác đòi chúng ta phải chú ý: như Siria, Liban, cuộc xung đột Israel và Palestine. Cũng có những tình trạng khác đáng được cộng đồng thế giới chú ý”.
Tòa Thánh và Trung Quốc
Trong cuộc phỏng vấn, Đức Tổng giám mục Ngoại trưởng Tòa Thánh cũng trả lời những câu hỏi về hiệp định tạm thời giữa Tòa Thánh và Trung Quốc liên quan tới việc bổ nhiệm các giám mục.
Ngài cho biết trong bốn năm qua, từ sau khi ký hiệp định hồi tháng tám năm 2018, đã có sáu giám mục được bổ nhiệm, vì thế không thể nói là không có kết quả. Và có một số bổ nhiệm đang chờ theo sau. “Tôi muốn được thấy có thêm kết quả, và có nhiều điều phải làm. Nhưng hiệp định chỉ có mức độ nào đó. Lẽ ra hiệp định có thể mang lại nhiều hơn, nhưng chúng ta gặp đại dịch Covid-19 và các phái đoàn không thể gặp nhau trong những năm gần đây. Vì thế chúng tôi đang làm việc bây giờ, và cố gắng tiến bước, làm cho hiệp định hoạt động và hoạt động tốt hơn”.
Đức Tổng giám mục giải thích rằng hai bên Tòa Thánh và Trung Quốc quyết định không nhóm họp hoặc thương thảo dưới dạng trực tuyến trong thời đại dịch. “Dầu sao chúng tôi hy vọng có cuộc gặp gỡ nhau trong tương lai gần đây. Chúng ta còn phải chờ xem, họp ở Roma hay Bắc Kinh.”
Theo Đức Tổng giám mục Ngoại trưởng, không có tiến bộ nào về những vấn đề không được đề ra trong hiệp định: hai phái đoàn chỉ thảo luận về những gì được nói đến trong hiệp định. “Tôi nghĩ hiệp định có chức năng là một biện pháp kiến tạo sự tin tưởng, tín nhiệm nhau. Nếu chúng tôi có thể làm việc thành công với chính quyền Trung Quốc về việc bổ nhiệm các giám mục, thì hiển nhiên điều này cũng giúp cả hai bên bắt đầu cứu xét các vấn đề khác nữa”.
Được hỏi: tại sao Tòa Thánh và Trung Quốc không công bố văn bản hiệp định tạm thời đã ký kết? Nhiều hồng y và giám mục Á châu phê bình về điều này. Đức Tổng giám mục Gallagher đáp:
“Văn bản hiệp định này đã được soạn ra trước khi tôi nhận nhiệm vụ ngoại trưởng, [tức là cách đây bảy năm rưỡi], và hiệp định không thay đổi gì đáng kể từ đó đến nay. Tôi tin rằng ngay từ đầu, hai bên đã cùng đồng ý không công bố văn bản hiệp định, ít nhất là cho đến khi được hai bên ký chung kết. Ngoài ra, có một cố gắng cải tiến văn bản hiệp định. Khi chúng tôi thấy một số điều không diễn tiễn tốt, thì có thể đó là lúc cần thay đổi và cải tiến văn bản.”
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Ngoại trưởng Tòa Thánh kêu gọi bảo tồn hy vọng thương thuyết hòa bình Ucraina
Ngoại trưởng Tòa Thánh, Đức Tổng giám mục Paul Gallagher, tuyên bố rằng tuy chưa có viễn tượng hòa bình tại Ucraina, nhưng cần tiếp tục giữ cho hy vọng thương thuyết được sinh động.
Đức Tổng giám mục bày tỏ lập trường trên đây, trong cuộc phỏng vấn dành cho tạp chí America ở Mỹ, xuất bản tuần này. Ngài nói: Chiến tranh tại Ucraina hiện nay là “một cuộc chiến hao mòn”, và cộng đồng quốc tế có nhiệm vụ duy trì sinh động niềm hy vọng về một cuộc đối thoại, thương thuyết”. Theo Đức Tổng giám mục, “tuy không phải là không biết đến bạo lực và xung đột, nhưng vai trò của Tòa Thánh là khuyến khích thương thuyết và tái lập hòa bình.
Ngoại trưởng Tòa Thánh xác nhận rằng từ phía Nga, không có lời mời minh thị nào yêu cầu Tòa Thánh làm trung gian, tuy nhiên vẫn có những tiếp xúc giữa Nga và Tòa Thánh, qua đại sứ quán Nga ở Roma, cạnh Tòa Thánh, và Tòa Sứ thần Tòa Thánh ở thủ đô Mascơva. Lập trường của Tòa Thánh được đánh giá cao, nhưng không có gì hơn, không có lời đích thị từ phía chính phủ Nga mời Đức Giáo hoàng đến Mascơva.
Trong cuộc phỏng vấn, Đức Tổng giám mục Gallagher tái khẳng định lập trường của Tòa Thánh bênh vực chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của Ucraina, và việc thương thuyết với các nước khác, đặc biệt là với Nga, là điều tùy thuộc Ucraina. Từ nguyên tắc trên đây, Tòa Thánh sẽ không công nhận tuyên ngôn đơn phương nào về nền độc lập, ví dụ về miền Donetsk và Luhansk ở miền đông Ucraina, giáp giới với Nga.
Về ước muốn của Đức Thánh cha Phanxicô viếng thăm Ucraina, Đức Tổng giám mục Ngoại trưởng cho biết Đức Thánh cha đã đạt những tiến bộ lớn trong việc chữa trị bệnh đau đầu gối, nhưng hiện thời ngài chuẩn bị cho chuyến viếng thăm Canada, từ ngày 24 đến 30 tháng Bảy này, vì thế vấn đề viếng thăm Ucraina sẽ được cứu xét nghiêm túc trong tháng Tám tới đây. Dầu sao, Đức Thánh cha “muốn và cảm thấy phải đi Ucraina”, mặc dù không có lời mời nào từ phía Mascơva, hai cuộc viếng thăm không gắn liền với nhau, tuy rằng nếu có gắn liền thì có thể là điều tốt. Đức Tổng giám mục nói: “Tôi tin rằng ưu tiên chính của Đức Giáo hoàng trong lúc này là đến Ucraina và gặp gỡ chính quyền, dân chúng và Giáo hội Công giáo ở địa phương”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVANguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Lễ hội giới trẻ quốc tế tại Mễ Du
Lễ Hội giới trẻ quốc tế lần thứ 32 tại Đền thánh Đức Mẹ Mễ Du thuộc Cộng hòa Bosnia Herzegovina sẽ tiến hành từ ngày 01 đến 06 tháng Tám tới đây, và ban tổ chức dự kiến sẽ có khoảng 50.000 bạn trẻ từ 80 quốc gia đến tham dự.
Đề tài được chọn cho Lễ hội là “Hãy học cùng Thầy, các con sẽ tìm được an bình”, một câu lấy ý từ lời Chúa Giêsu trong Tin mừng theo thánh Matthêu, đoạn 11 (28-30), một chủ đề được chọn trong bối cảnh chiến tranh hiện nay.
Trong cuộc họp báo hôm 19 tháng Bảy để giới thiệu, cha sở Mễ Du Marinko Sakota, dòng Phanxicô, cho biết trong số các vị khách tại Lễ hội lần đầu tiên, có Đức cha Petar Palic, Giám mục giáo phận Mostar-Duvno sở tại, và cha Massimo Fusarelli, Bề trên Tổng quyền dòng Phanxicô.
Cha Sakoto cho biết chương trình những ngày Lễ hội; ban sáng có kinh Ngợi khen, rồi các bài huấn giáo, chứng từ đức tin. Ban chiều cũng có phần chứng từ, kinh Mân côi và thánh lễ. Ban tối có các cuộc rước kiệu, suy niệm Đàng thánh giá, chầu Mình Thánh Chúa và một phần diễn nguyện.
Sẽ có một thánh lễ lớn tại Núi Đức Mẹ hiện ra, và Đàng thánh giá trên núi Kricevac vào sáng sớm để tránh trời quá nóng.
Các sinh hoạt và buổi lễ sẽ được thông dịch đồng thời bằng 18 ngôn ngữ. Ngoài những ngôn ngữ chính tại tây phương, còn có tiếng Hàn, Arập, Quan thoại, và Quảng Đông. Nhiều phần chương trình được trực tiếp truyền thanh qua đài Radio Maria Áo.
Trong hai năm qua, các cuộc hành hương bị hạn chế nhiều vì đại dịch. Trong những ngày 24 và 25 tháng Sáu năm nay, kỷ niệm các biến cố Đức Mẹ bắt đầu hiện ra hồi năm 1981, có tới 95.000 Mình Thánh Chúa được trao ban cho các tín hữu rước lễ.
Năm nay, đặc biệt có sự tham dự lần đầu tiên của Đức Tổng giám mục Aldo Cavalli, người Ý, nguyên Sứ thần Tòa Thánh tại Hòa Lan, và hiện là vị Đặc ủy của Đức Thánh cha đặc trách Trung tâm hành hương Mễ Du.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Tổ chức Trợ giúp Giáo hội đau khổ cứu trợ Sri Lanka
Tổ chức bác ái “Trợ giúp các Giáo hội đau khổ” thông báo đặc biệt cứu trợ các linh mục và tu sĩ tại Sri Lanka đang chịu đau khổ vì khủng hoảng kinh tế tại nước này.
Thông cáo phổ biến trên mạng của Phân bộ Hoa Kỳ thuộc tổ chức “Trợ giúp các Giáo hội đau khổ” cho biết ngân khoản trợ giúp trị giá 470.000 Mỹ kim được dành cho chương trình cứu trợ này.
Đức cha Valence Mendis, Giám mục giáo phận Kandy, kiêm Giám quản Tông tòa giáo phận Chilaw ở Sri Lanka, cho biết “tình trạng kinh tế tại đất nước này rất trầm trọng. Nhiều người thiếu thuốc men và lương thực. Dân chúng phải xếp hàng dài cả cây số để mua xăng, dầu, sữa bột, đường, gạo, và thuốc men. Nhiều người chết trong khi chờ đợi mua các nhu yếu phẩm ấy. Trẻ em chết vì thiếu an ninh tại gia, vì cha mẹ các em phải vắng mặt quá lâu”.
Trong một thông cáo, tổ chức “Trợ giúp các Giáo hội đau khổ” cho biết Giáo hội tại Sri Lanka hiện nay không thể đáp ứng các nhu cầu tối thiểu của mình, và không thể cứu giúp tất cả những người tìm đến xin Giáo hội giúp đỡ.
Đức giám mục giáo phận Kandy cũng nói rằng: “Nhiều người đã mất công ăn việc làm, giá cả tăng vọt, dân chúng chẳng kiếm được gì. Các linh mục và tu sĩ cũng bị thương tổn nặng nề vị cuộc khủng hoảng. Chúng tôi rất biết ơn nếu nhận được các ý lễ cho các linh mục, và tài trợ nào đó cho các dòng tu trong thời kỳ khủng hoảng trầm trọng này”.
Tổ chức “Trợ giúp các Giáo hội đau khổ” đáp ứng ngay thỉnh cầu của Giáo hội Sri Lanka và sẽ tài trợ tổng cộng 19 dự án cứu trợ, trong đó có cả dự án cung cấp các ý lễ do các linh mục, và nâng đỡ các dòng tu cũng như các giáo lý viên”.Trong buổi đọc kinh Truyền tin, trưa Chúa nhật 17 tháng Bảy vừa qua, Đức Thánh cha đã kêu gọi cho Sri Lanka tiếp tục ở trong tình trạng khủng hoảng về chính trị, kinh tế và xã hội. Ngài nói: “Anh chị em thân mến, tôi hiệp ý cầu nguyện với anh chị em, và khuyên tất cả mọi phe hãy tìm kiếm một giải pháp ôn hòa cho cuộc khủng hoảng hiện nay, đặc biệt cho những người nghèo nhất, tôn trọng các quyền con người. Tôi hiệp với các vị lãnh đạo tôn giáo kêu gọi mọi người tránh mọi hình thức bạo lực và khởi sự tiến trình đối thoại cho công ích”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Giáo hội Công giáo tại Canada trước ngưỡng cửa chuyến viếng thăm của ĐTC
Đây là chuyến viếng thăm thứ 37 của Đức Thánh Cha tại nước ngoài kể từ khi ngài kế vị Đức nguyên Giáo hoàng Biển Đức XVI vào tháng 3/2013. Khẩu hiệu của chuyến viếng thăm Canada là "Bước đi cùng nhau".
Giáo hội Canada
Tại quốc gia có diện tích gần 10 triệu km2, rộng thứ hai trên thế giới, sau nước Nga, với dân số hơn 38 triệu người, Giáo hội Canada hiện có 71 giáo phận và các cơ cấu tương đương, với 3.881 giáo xứ, 557 trung tâm mục vụ, 134 giám mục, 6.222 linh mục, trong đó có 4.117 linh mục triều và 2.105 linh mục dòng, 1.217 phó tế vĩnh viễn, 1.032 nam tu sĩ, 9.620 nữ tu và 313 thành viên các tu hội đời. Bên cạnh đó Giáo hội có 99 thừa sai giáo dân, hơn 18 ngàn giáo lý viên, 352 đại chủng sinh. Giáo hội điều hành 2.675 trung tâm giáo dục, với hơn 820 ngàn học sinh, và 435 trung tâm bác ái và xã hội.
Đức tin Công giáo được truyền đến Canada sau khi người châu Âu khám phá ra những vùng lãnh thổ này vào thế kỷ 16. Vào ngày 7 tháng 7 năm 1534, một linh mục người Pháp đi cùng với nhà thám hiểm Jacques Cartier đã cử hành Thánh lễ đầu tiên trên các bãi biển của bán đảo Gaspé, thuộc nước Pháp lúc bấy giờ. Quá trình thực dân hóa bắt đầu với việc thành lập thành phố Québec vào năm 1608 và Ville Marie, nay là Montréal, vào năm 1642. Nhiều dòng tu Pháp đã gửi các tu sĩ nam nữ đến những nơi này, bắt đầu công việc truyền giáo giữa các dân tộc bản địa.
Cuộc chinh phục Canada của người Anh vào giữa thế kỷ thứ 18 đánh dấu một giai đoạn khó khăn đối với Giáo hội Công giáo. Tuy nhiên, sau những khó khăn ban đầu, con đường hướng tới sự chung sống dân sự diễn ra nhanh chóng và khi các quyền của người Công giáo được công nhận ở Anh, vào nửa đầu thế kỷ 19, Công giáo đã có thể tự do truyền bá trong các vùng lãnh thổ nói tiếng Anh. Năm 1841, Đạo luật Liên minh đã công nhận đầy đủ về mặt pháp lý cho Giáo hội ở Canada.
Các Giáo hội Nghi lễ Đông phương cũng đã đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của Giáo hội Công giáo ở Canada, đặc biệt là ở phía tây của đất nước, nơi đã có nhiều cuộc di cư từ Đông Âu, đặc biệt là từ Ucraina. Ngày nay Giáo hội Ucraina là Giáo hội Đông phương lớn nhất ở Canada. Các cộng đồng nghi lễ Đông phương khác là Slovak, Armenia, Hy Lạp-Melkite, Maronite, Can-đê và Syro-Malabar và Syro-Malankara.
Những thách đố và những vấn đề
Nằm trong bối cảnh đa tôn giáo và đa sắc tộc, Giáo hội Công giáo Canada là tôn giáo lớn nhất tại nước này. Tín hữu Công giáo chiếm 44% dân số, kế đến là Tin lành thuộc các hệ phái khác nhau (gần 1/3 dân số). Ngoài ra còn có nhiều tôn giáo thiểu số khác nhau, bao gồm Hồi giáo (3%), Do Thái giáo (1%), Phật giáo (1%) và Ấn giáo (1%).
Thách đố của việc tục hoá
Trên thực tế, từ những năm 1960, các tín hữu đã dần dần xa rời Giáo hội, và có sự suy giảm các ơn gọi, đặc biệt là ở Ontario và trong cái nôi của Công giáo Canada: Québec. Giáo hội ở tỉnh này ngày nay đã mất vai trò của một trung tâm ảnh hưởng tôn giáo và văn hóa mà nó từng có cho đến vài thập kỷ trước. Một dấu hiệu cho thấy điều này là sự phát triển của hệ thống trường học, hệ thống ngày càng mang tính cách thế tục và các lựa chọn chính trị khác trái ngược với học thuyết Công giáo.
Trên thực tế, Canada ngày nay có lẽ là nước 'cấp tiến' nhất trong số các xã hội phương Tây trong việc thử nghiệm các hình thức xã hội, văn hóa và luật pháp mới: Hỗ trợ sinh sản, nhân bản con người, tình trạng của gia đình và hôn nhân, an tử và trợ tử. Giáo hội đã lên tiếng nhiều lần và mạnh mẽ, đặc biệt thông qua Tổ chức vì gia đình và sự sống (Ocvf), về những vấn đề là trung tâm của cuộc tranh luận chính trị trong hai thập kỷ qua ở đất nước. Sự dấn thân của Giáo hội trên bình diện bảo vệ sự sống, từ khi thụ thai cho đến khi chết tự nhiên, được liên kết với việc ủng hộ gia đình tự nhiên được thiết lập trên sự kết hợp giữa người nam và người nữ. Giáo hội cũng phản đối hôn nhân đồng tính.
Dấn thân vì hòa bình, môi trường và nhân quyền
Giáo hội ở Canada cũng luôn hiện diện trong các vấn đề quan trọng khác như hòa bình thế giới, giải trừ quân bị, phát triển bền vững, môi trường, công bằng xã hội, bảo vệ quyền của người dân bản địa Canada, người nhập cư và người tị nạn và tất cả những người bị loại trừ khỏi xã hội phúc lợi. Sự dấn thân này được thực hiện thông qua Ủy ban Công lý và Hòa bình của Hội đồng Giám mục cùng với Ủy ban Thường trực về Phát triển và Hòa bình.
Kể từ năm 2010, cơ quan thứ hai này đã hoạt động như một giao diện giữa Hội đồng Giám mục Canada và tổ chức Công giáo Canada, với mục tiêu kép là cung cấp viện trợ cho sự phát triển của miền nam bán cầu, cho những người tị nạn và nạn nhân của chiến tranh và thiên tai, cũng như để nâng cao nhận thức của những người Công giáo Canada về những vấn đề này. Giáo hội cũng dấn thân không kém kiên quyết trong việc bảo vệ nhân quyền: các giám mục đã rất nhiều lần than phiền cũng như đưa ra vô số lời kêu gọi để Canada nghe tiếng nói của các Kitô hữu bị bách hại và của tất cả các nạn nhân của cuộc đàn áp, chiến tranh và bạo lực trên thế giới.
Giáo hội Canada cũng chia sẻ mối quan tâm ngày càng tăng của xã hội dân sự đối với môi trường. Để giúp các tín hữu suy tư và góp phần xây dựng một nền văn hóa môi trường mới, vào năm 2013, Ủy ban Công lý và Hòa bình đã cung cấp cho các giáo phận và giáo xứ một bản tóm tắt nhỏ gồm tám chủ đề chính được đề cập trong giáo huấn gần đây nhất của Giáo hội về môi trường: sự sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa; trật tự nội tại của sự sáng tạo; mối quan hệ giữa “sinh thái nhân văn” và “sinh thái môi trường”; trách nhiệm của con người đối với thụ tạo; vài trò đạo đức của môi trường; tinh thần liên đới; Đấng Sáng tạo và linh đạo và những phản ứng cần thiết cho các vấn đề môi trường ngày nay.
Được công bố trước thông điệp Laudato si' của Đức Thánh Cha Phanxicô, về việc chăm sóc ngôi nhà chung, tài liệu này có kèm theo một số trích dẫn quan trọng trích từ các thông điệp, bài phát biểu, bài giảng và thông điệp của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II và Đức nguyên Giáo hoàng Biển Đức XVI. Vẫn trong bối cảnh bảo vệ môi trường và nhân quyền, các giám mục Canada đã nhiều lần can thiệp vào vấn đề khai thác mỏ tại các nước ở miền nam bán cầu (trong đó nhiều công ty Canada cũng tham gia), tố cáo những thiệt hại và bất công đối với môi trường và khẳng định rằng hoạt động kinh tế phải luôn được thực hiện với sự tôn trọng quyền con người và môi trường.
Mối quan tâm đối với các Dân tộc đầu tiên
Về mặt đối nội, Giáo hội Canada trong nhiều năm đã giải quyết mối quan tâm mục vụ đặc biệt đối với các dân tộc bản địa (các Dân tộc Đầu tiên, Inuit và Métis), những người vẫn đang phải trả giá cho hậu quả của sự thực dân của châu Âu ngày nay. Nếu trong lịch sử truyền giáo của những dân tộc này, có rất nhiều ví dụ về các nhà truyền giáo và giám mục dấn thân bảo vệ quyền của người Mỹ gốc bản địa, thì một phần của Giáo hội chịu trách nhiệm về những đau khổ do những thực dân châu Âu gây ra. Các trách nhiệm được các giám mục thừa nhận; các ngài đã ký Tuyên bố Liên Hiệp quốc năm 2007 về quyền của người bản xứ, đặc biệt có tham chiếu đến quyền tự do tôn giáo.
Đặc biệt đau đớn là bi kịch của các trường nội trú dành cho người bản địa; trong một thế kỷ, những nơi này đã tiếp nhận hơn 150.000 trẻ em bản địa bị buộc rời khỏi gia đình để được giáo dục theo văn hóa châu Âu, như một phần của chính sách đồng hóa do chính phủ Canada thực hiện. Sau sự phản đối kịch liệt vào mùa hè năm 2021, xuất phát từ việc phát hiện hài cốt của một số trẻ em bản địa trong khuôn viên của một số trường nội trú Công giáo trước đây, Hội đồng Giám mục chính thức cầu xin sự tha thứ cho tội ác đã gây ra và cam kết cộng tác với các nhà lãnh đạo của Các Dân tộc đầu tiên để xác định sự thật, cũng như tài trợ cho các con đường hàn gắn và hòa giải. Trong bối cảnh này, một phái đoàn gồm các nạn nhân, các giám mục và các nhà lãnh đạo bản xứ được dự kiến thăm Vatican vào tháng 12 năm 2021 để gặp Đức Thánh Cha, nhưng sau đó bị hoãn lại do Covid. Đến đầu năm 2022 họ đã được Đức Thánh Cha gặp tại Vatican.
Giáo hội Công giáo Canada từ lâu đã tích cực ủng hộ các Dân tộc Đầu tiên trong việc công nhận các quyền của họ (bắt đầu từ quyền của họ đối với đất đai và tiếp cận các nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước) thông qua một hoạt động mạnh mẽ là tố cáo, giáo dục và gây nhận thức của dư luận. Thêm vào tất cả những điều này, là nhiều chương trình được xúc tiến với sự phối hợp với Hội đồng các Dân tộc Đầu tiên (ANP) để cải thiện điều kiện của người dân bản địa.
Đối thoại với các Giáo hội và các hệ phái tôn giáo khác
Trong lĩnh vực này cũng như trong các lĩnh vực khác, Giáo hội Công giáo cộng tác chặt chẽ với các cộng đồng Kitô giáo khác, thông qua Hội đồng các Giáo hội Canada, tổ chức mà Giáo hội Canada đã trở thành thành viên thường trực vào năm 1997, và cả với các hệ phái tôn giáo khác có mặt ở Canada. Sự hợp tác và liên đới với các cộng đồng tôn giáo khác là một trong những thành quả rõ ràng nhất của cam kết thúc đẩy đối thoại đại kết và liên tôn của Giáo hội Canada, được khởi xướng trong thời gian Công đồng Vatican II, với sự tham gia vào đối thoại thần học Chính thống-Công giáo Bắc Mỹ vào năm 1965, và tiếp tục với sự ra đời của một Ủy ban Anh giáo-Công giáo vào năm 1971, với cuộc đối thoại với Giáo hội Thống nhất vào năm 1974, cho đến cuộc đối thoại với các giám mục Chính thống Canada vào năm 2001, cũng như với Nhóm Làm việc Do Thái-Kitô giáo đã hoạt động từ năm 1977.
Hồng Thủy - Vatican News
Tòa Thánh ban hành Chính sách Đầu tư mới phù hợp với Học thuyết Xã hội của Giáo hội
Tài liệu đã được thảo luận trong Hội đồng Kinh tế và với các chuyên gia trong lĩnh vực này và được gửi tới những người đứng đầu các Bộ trong Giáo triều và những người đứng đầu các cơ sở và tổ chức có liên hệ với Tòa Thánh.
Thông cáo của Bộ Kinh tế nói rằng “Chính sách Đầu tư mới muốn đảm bảo rằng các khoản đầu tư nhằm đóng góp vào một thế giới công bằng và bền vững hơn; bảo tồn giá trị thực của tài sản ròng của Tòa thánh, và tạo ra lợi tức đủ để đóng góp một cách bền vững vào việc tài trợ cho các hoạt động của Tòa thánh; phù hợp với Giáo huấn của Giáo hội Công giáo, với việc loại trừ cụ thể các khoản đầu tư tài chính đi ngược lại với các nguyên tắc cơ bản của Giáo hội, chẳng hạn như sự thánh thiện của sự sống hoặc phẩm giá của con người hoặc công ích."
Vì lý do này, thông cáo nói tiếp, điều quan trọng là các khoản đầu tư này "nhằm vào các hoạt động tài chính có bản chất sản xuất, loại trừ bất kỳ hoạt động nào mang tính đầu cơ."
Chính sách đã được phê duyệt thử nghiệm trong 5 năm và sẽ có hiệu lực vào ngày 1/9/2022.
Thông cáo cũng giải thích cách triển khai Chính sách Đầu tư mới. "Các cơ quan của Giáo triều sẽ phải ủy thác các khoản đầu tư tài chính của họ cho APSA, chuyển tài sản lưu động của họ để đầu tư - hoặc chứng khoán của họ được gửi tại các ngân hàng ở nước ngoài hoặc tại chính ngân hàng Vatican - vào tài khoản APSA được thiết lập tại ngân hàng Vatican cho mục đích này."
"APSA, với tư cách là tổ chức quản lý tài sản của Tòa thánh, sẽ thành lập một quỹ duy nhất cho Tòa thánh, và các khoản đầu tư vào các công cụ tài chính khác nhau sẽ hợp nhất vào đó, và sẽ có một tài khoản cho mỗi tổ chức, xử lý báo cáo và trả lợi nhuận."
Cuối cùng, thông cáo báo chí cho biết Ủy ban Đầu tư mới, được thành lập theo Tông hiến Praedicate evangelium, "sẽ thực hiện - thông qua APSA - các cuộc tham vấn thích hợp nhằm thực hiện chiến lược đầu tư và sẽ đánh giá mức độ đầy đủ của các lựa chọn, đặc biệt chú ý đến việc tuân thủ các khoản đầu tư được thực hiện với các nguyên tắc của Học thuyết Xã hội của Giáo hội, cũng như các thông số lợi nhuận và rủi ro theo Chính sách đầu tư."
Ngày 19/7/2022, Bộ Kinh tế Toà Thánh cũng đã công bố Quy chế của Ủy ban Đầu tư, cơ quan chịu trách nhiệm xác định các chiến lược đầu tư và đảm bảo việc thực hiện các chiến lược này một cách hiệu quả. (CSR_3009_2022)
Vatican News
ĐTC kêu gọi biến các giấc mơ của châu Phi thành hiện thực
Mở đầu, Đức Thánh Cha nhận định rằng " Đó là một dấu hiệu hy vọng khi các nhà thần học, giáo dân, linh mục, tu sĩ nam nữ, giám mục đã có sáng kiến bước đi cùng nhau," khi hơn 80 giáo dân, tu sĩ, linh mục, giám mục từ năm châu tham dự Đại hội tại Đại học Công Giáo Đông Phi ở thủ đô Nairobi của Kenya.
Một Giáo hội Châu Phi đi ra khỏi chính mình
Đức Thánh Cha khẳng định: "Việc bước đi với nhau để phân định điều Chúa đang nói với chúng ta ngày nay, không chỉ để đáp ứng những nhu cầu thách đố với sự chắc chắn, mà còn để biến những giấc mơ Châu Phi thành hiện thực (những giấc mơ về xã hội, văn hóa, sinh thái và giáo hội), những điều đã là dấu hiệu của một Giáo hội Châu Phi đi ra khỏi chính mình." Và ngài khuyến khích: "Anh chị em hãy tiếp tục nỗ lực của mình."
"Bởi vì châu Phi là một bài thơ"
Đức Thánh Cha chia sẻ rằng ngài bị ấn tượng bởi đức tin và sức chịu đựng của các dân tộc châu Phi. Ngài nhắc lại lời ngài nói với Cộng hoà Trung Phi trong chuyến viếng thăm vào năm 2015: "Châu Phi luôn làm chúng tôi ngạc nhiên", và mời gọi các tham dự viên của đại hội nỗ lực để nó là một ngạc nhiên và để nảy sinh sự sáng tạo của châu Phi, điều làm cho tất cả mọi người ngạc nhiên. "Bởi vì châu Phi là một bài thơ."
Đồng hành với nhau, giúp đỡ nhau và cùng nhau lớn mạnh
Cuối cùng, Đức Thánh Cha khuyến khích tiếp tục đồng hành với nhau, giúp đỡ nhau và lớn mạnh cùng nhau. Và ngài cầu chúc rằng "Xin cho một nền thần học khôn ngoan, như anh chị em đề xuất, là tin mừng của lòng thương xót đối với người nghèo và nuôi dưỡng con người và cộng đồng trong cuộc đấu tranh giành sự sống, hòa bình và hy vọng của họ."
Những con đường mà Giáo hội cần
Và ngài xin Chúa Thánh Thần soi dẫn để từ đại hội này xuất hiện những con đường mà Giáo hội cần: những con đường truyền giáo, hoán cải sinh thái, hòa bình, hòa giải và biến đổi toàn thế giới." (CSR_2992_2022)
Hồng Thủy - Vatican News
Đức Thánh Cha trả lời thư cho bé gái 7 tuổi ở Brazil
Maria ở Piaúi thuộc Campo Maior, cách Teresina 85 km. Trước đó, vào tháng 5, qua Đức cha Francisco de Assis, Giám mục của Campo Maior, em đã gửi thư cho Đức Thánh Cha nhân dịp Đức cha đến Vatican.
Bà Jerusa Santos, mẹ của Gabriela cho biết, trong một Thánh lễ Chúa nhật hồi tháng Tư, Đức cha Francisco thông báo rằng ngài sẽ đi Vatican và nếu ai muốn viết thư cho Đức Thánh Cha, đích thân ngài sẽ trao thư cho Đức Thánh Cha.
Khi hay tin này, bé Maria nói với mẹ rằng em muốn viết thư. Trong thư, Maria Gabriela nói em rất yêu quý Đức Thánh Cha và xin ngài bảo vệ và chúc lành cho tất cả trẻ em trên thế giới.
Đức cha Francisco de Assis thuật lại rằng khi nhận được lá thư của bé Maria Gabriela, Đức Thánh Cha rất vui và mỉm cười nói: “Tôi sẽ trả lời”.
Trong thư gửi cho bé Maria, Đức Thánh viết rằng ngài cầu nguyện với Chúa Giêsu, bạn của trẻ em, để Maria Gabriela luôn là một bé gái ngoan và hạnh phúc. Đức Thánh Cha cũng cầu nguyện xin Chúa Giêsu bảo vệ và nâng đỡ em bằng ân sủng của Chúa. Ngài cầu nguyện để em luôn làm Chúa Giêsu vui, trao ban niềm vui cho những ai đang ở bên cạnh em, nhất là những ai cần được giúp đỡ hoặc nghèo đói.
Đây không phải là lần đầu tiên Đức Thánh Cha trả lời cho những người viết thư riêng cho ngài. Năm 2016, Đức Thánh Cha đã viết thư trả lời cho Paolina, một bé gái người Ý bị ung thư. Trước đó, mẹ của Paolina đã viết thư xin Đức Thánh Cha chúc lành và cầu nguyện cho em. Đức Thánh Cha viết thư trả lời và cho em một vé đặc biệt để được tiếp kiến riêng với ngài vào thứ Tư 26/10/2016. Nhưng vì quá yếu nên em không thể đến được, và đã qua đời. Trong Thánh lễ an táng, thư của Đức Thánh Cha gửi cho em đã được linh mục chủ tế đọc. Trong thư Đức Thánh Cha khẳng định là ngài nắm tay em và với những ai cầu nguyện cho em. Bởi vì theo Đức Thánh Cha, “bằng cách này chúng ta sẽ làm thành một chuỗi xích dài, và cha chắc chắn nó sẽ chạm đến thiên đàng”. Ngài cũng nhắc Paolina nhớ rằng “mắt xích đầu tiên trong liên kết chính là con, bởi vì con có Chúa Giêsu trong tâm hồn. Con hãy ghi nhớ điều đó”. Ngài còn nói với Paolina hãy thưa với Chúa Giêsu không chỉ về bản thân em nhưng về cha mẹ em nữa, họ là “những người đang rất cần sự nâng đỡ và an ủi trước những bước khó khăn mà họ đang phải đối diện”.
Cuối thư, Đức Thánh Cha nói: “Cha gửi đến con một cái ôm thật chặt, và cha chúc lành cho con bằng tất cả trái tim của cha, cũng như cho cha mẹ con và những người thân yêu của con”.
Ngọc Yến - Vatican News
Bệnh viện Nhi đồng Chúa Hài Đồng Giêsu của Tòa Thánh chữa trị 1.150 em bệnh nhân Ucraina
Từ đầu chiến tranh tại Ucraina đến nay, Bệnh viện Nhi đồng Gesù Bambino của Tòa Thánh ở Roma, đang đón nhận và chữa trị 1.150 em bệnh nhân người Ucraina.
Nhiều em đã bị bệnh trước cuộc tấn công của Nga và phần lớn bị bệnh ung thư máu và các loại ung thư khác. Trước đó, các em đã được chữa trị tại các nhà thương trong nước. Nhưng khi Nga tấn công Ucraina, cha mẹ các em quyết định tìm kiếm sự giúp đỡ ở nước ngoài.
Nhiều em bệnh nhân và gia đình ngỡ ngàng vì chiến tranh xảy tới và tìm cách chạy trốn ban đêm dưới bom đạn. Sự kiện phần lớn cha của các em phải ở lại Ucraina để chiến đấu bảo vệ đất nước là một chấn thương lớn đối với các em. Nhờ các tổ chức nhân đạo, các xe bus và xe cứu thương đã chở các em bệnh nhân và mẹ tiến về miền tây Ucraina và qua ngả Ba Lan, họ sang Ý. Bác sĩ Lucia Celesti, tại nhà thương Gesù Bambino, Chúa Hài Đồng Giêsu, giải thích rằng “Ký ức về cuộc trốn chạy giữa bom đạn có thể còn nặng nề hơn chính căn bệnh. Các em rất khó vượt thắng những chấn thương tâm lý ấy, tuy có thể chịu đựng những phương pháp trị liệu ngặt nghèo. Vì thế, chúng tôi tìm cách không những săn sóc thể lý nhưng cả tâm lý của các em.”
Bà bác sĩ kể: “Hiện thời có hơn 1.150 em bệnh nhân đang được nhà thương săn sóc, và nếu tính cả thân nhân của các em, chúng tôi có một ngôi làng nhỏ tại đây. Vấn đề cơ bản không phải là tất cả các thứ bệnh ấy, nhưng là nhiều gia đình bị ảnh hưởng rất nặng nề vì cuộc chiến tranh này. Nhiều người nói với chúng tôi rằng họ hoàn toàn không thể ngờ trước cuộc chiến và kinh ngạc vì rocket và bom rơi xuống, nhiều khi trong lúc gia đình tụ họp vui vẻ. Nhiều gia đình phải ẩn nấp trong các hầm trú, phải chạy trốn giữa đêm khuya, vội vã chỉ mang theo quần áo đang mặc, và nhiều trường hợp người thân bị chết trong lúc di tản. Tôi kể những điều này vì sau những kinh nghiệm kinh khủng như thế, giúp đỡ những nạn nhân, bệnh nhân là điều không thể nếu không có sự can dự của một nhà tâm lý...”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu