Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thượng phụ Chính thống Nga bị Covid
Đức Thượng phụ Kirill, Giáo chủ Chính thống Nga, bị nhiễm Coronavirus nhẹ, nên phải giảm bớt hoạt động.
Ví dụ, ngài không thể viếng thăm và cử hành phụng vụ tại Đan viện Chúa Ba Ngôi Lavra thánh Sergio và Đan viện Donskoy, dự kiến vào ngày 08 và 09 tháng Mười vừa qua.
Ông Vladimir Legoyda, Quyền giám đốc Phòng báo chí Tòa Thượng phụ Chính thống Nga cho biết như trên hôm mùng 06 tháng Mười vừa qua, và nói rằng Đức Thượng phụ tiếp tục làm việc nhẹ và được chữa trị tại gia. Trước đó, ngày 30 tháng Chín, Tòa Thượng phụ cho biết Đức Kirill bị nhiễm Covid-19.
Với khoảng 90 triệu tín hữu, Chính thống Nga là Giáo hội lớn nhất trong số 16 Giáo hội Chính thống trên thế giới.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Đức Hồng y Tổng giám mục Kinshasa: Đức Thánh cha sẽ thăm Congo vào đầu năm tới
Đức Hồng y Fridolin Ambongo, Tổng giám mục giáo phận Kinshasa, thủ đô Cộng hòa dân chủ Congo, tuyên bố rằng Đức Thánh cha Phanxicô sẽ viếng thăm nước này vào đầu năm tới, 2023.
Đức Hồng y Ambongo cũng là thành viên Hội đồng Hồng y Cố vấn của Đức Thánh cha. Trong bài giảng hôm thứ Bảy, mùng 08 tháng Mười vừa qua, tại giáo xứ thánh Giuse ở Kinshasa, nhân dịp khai mạc năm mục vụ mới, Đức Hồng y nói: “Đức Giáo hoàng Phanxicô không hủy bỏ hoặc quên cuộc viếng thăm của ngài tại Congo. Ngài sẽ đến, nhưng không phải trong năm nay, nhưng vào đầu năm tới”.
Đức Hồng y Ambongo không nói ngày nào, nhưng nhắc thêm rằng cần phải nhận là các vấn đề sức khỏe của Đức Giáo hoàng vẫn còn. “Cần phải cầu nguyện cho ngài”.
Lẽ ra, Đức Thánh cha Phanxicô viếng thăm Cộng hòa dân chủ Congo từ ngày 02 đến ngày 05 tháng Bảy năm nay, sau đó sẽ đến thăm Nam Sudan bên Phi châu, nhưng chuyến tông du bị hoãn lại vì ngài bị đau đầu gối. Ngài rất tiếc vì quyết định này và ngài nói rằng đây là chuyến viếng thăm mà ngài rất quan tâm. Tuy rằng ngài đã thực hiện được chuyến đi Canada một tuần lễ vào cuối tháng Bảy.
Cách đây ba tuần, trong cuộc họp báo trên máy bay chiều ngày 15 tháng Chín, khi từ Kazakhstan trở về Roma, Đức Thánh cha kể rằng: “Hôm nọ, tôi đã nói chuyện với Đức Tổng giám mục Welby [Giáo chủ Anh giáo] và chúng tôi thấy có thể thực hiện chuyến đi Nam Sudan vào tháng Ba năm tới. Và nếu tôi đi Nam Sudan, thì tôi cũng sẽ đi Congo. Chúng tôi đang cố gắng. Chúng tôi sẽ đi cả ba người, đó là vị thủ lãnh Giáo hội Ecosse, Đức Tổng giám mục Welby và tôi. Hôm nọ, chúng tôi đã nói chuyện trực tuyến với nhau về vấn đề này.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
“Người áo trắng ở đó”: khi giáo hoàng ra dấu
Đức Phanxicô cầu nguyện ở Quảng trường Thánh Phêrô ngày thứ sáu 27 tháng 3-2020
lavie.fr, Marie-Lucile Kubacki, Rôma, 2022-10-07
Tin tức Vatican dưới con mắt của phóng viên chúng tôi tại Rôma. Khi các tình huống khủng hoảng kích động nhu cầu cần ra dấu, giáo hoàng vẫn là một ngọn hải đăng, qua sự hiện diện, qua hành vi có lẽ còn hơn cả những bài phát biểu của ngài.
Hiện nay các rạp chiếu phim ở Ý đang chiếu một viên ngọc điện ảnh nhỏ mang tên Siccità (Hạn hán) của đạo diễn Paolo Virzi. Câu chuyện xảy ra ở một Rôma đối diện với làn sóng hạn hán chưa từng có, làm khô cạn sông Tiber, buộc người dân phải nghiêm ngặt hạn chế dùng nước và có một cơn dịch kỳ lạ về giấc ngủ. Bộ phim với những điểm nhấn mạnh đến sách khải huyền đáp ứng tiếng vang đặc biệt nơi người dân Ý bị đợt nóng mùa hè kéo dài vài tuần nay giáng xuống, giống như nhiều thành phố khác của lưu vực Địa Trung Hải, ai cũng như thấy có một cơn ác mộng trước mắt.
Như trong bất kỳ cuộc khủng hoảng nào, một dạng khoảnh khắc của sự thật xảy đến cho tất cả mọi người. Người nghiện mạng xã hội rất vui khi thấy lời khuyên về cuộc sống của mình được hàng ngàn người theo dõi, nhưng lại không thấy sự khó chịu của vợ con khi thấy anh thích khoa môi múa mép trực tuyến với người theo dõi mình, trong khi chính vợ con mới là người đối thoại duy nhất ở nhà. Người thất nghiệp cháy túi nổi giận khi thấy nhà báo chỉ để ý đến tình trạng của ông mà không màng đến thân phận của người di cư trẻ châu Phi. Một nhà khoa học buồn tẻ thành con cưng của giới truyền thông và được một ngôi sao điện ảnh o bế. Và, giữa những chuyện điên cuồng đủ loại này, giáo hoàng đi vào Quảng trường Thánh Phêrô.
Lời nhắc nhở về cuộc khủng hoảng sức khỏe
Cảnh người đàn ông mặc áo trắng, rất thành công về mặt thẩm mỹ, lặp lại những hình ảnh rất thực của Đức Phanxicô trong thời kỳ khủng hoảng sức khỏe. Giáo hoàng, người hành hương duy nhất trên con đường huyết mạch thương mại hoang vắng của Rôma, khấn xin Đức Trinh Nữ Maria, như ngày xưa Đức Piô XII cầu xin trong các vụ bỏ bom của Thế chiến thứ hai, và Chúa Kitô, dưới chân thánh giá nổi tiếng “nhiệm mầu” ở San Marcellino năm thế kỷ trước trên các đường phố của thủ đô để xin kết thúc bệnh dịch kinh hoàng năm 1522.
Trong cuộc khủng hoảng sức khỏe, khi các cuộc tụ tập bị cấm ở những nơi thờ phượng, giáo hoàng là nhà lãnh đạo thế giới duy nhất đã “ra dấu” bằng cơ thể của mình, cô độc nhưng đứng vững trên đường phố (trong khi cả thế giới bị cách ly), cúi xuống dưới chân Thánh Giá ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, dưới cơn mưa tầm tã, mang ký ức của các vị tiền nhiệm theo mình.
“Lá Thư”: khi quan tâm của giáo hoàng về môi trường thành bộ phim ăn khách
Với hai hệ quả. Nếu cơ thể và cử chỉ của giáo hoàng vẫn còn ra dấu, thì đó là toàn thể Giáo hội với ngài, có thể một lần nữa trở thành cột mốc và là nơi ẩn náu trong cơn bão. Nhưng còn các cơ quan trung gian thì sao? Đó là câu hỏi được nhà sử học Andrea Riccardi đặt ra trong quyển sách Giáo hội cháy, L’Église brûle do nhà xuất bản Le Cerf phát hành gần đây, đặc biệt ông nêu lên lời kêu gọi các giáo hội tại gia tái sinh, qua lời cầu nguyện của gia đình, đã quên những người ở một mình ( 44,6% dân số Rôma, 51% dân số Paris). Và nhiều giám mục đã thấy mình không có tiếng nói trước các tiêu chuẩn sức khỏe, dù đã cố gắng thảo luận với các cơ quan công quyền.
Trong bối cảnh này, người sáng lập cộng đồng Sant’Egidio viết, giáo hoàng không chỉ đóng vai trò là “người cầu xin vĩ đại” mà ngài còn đổi mới cách diễn giải về các thảm họa, chuyển từ nội dung mà ngày xưa bị cho là do “thần thánh trừng phạt” sang thái độ biểu lộ sự gần gũi của Chúa trong thử thách. Tác giả Ricardi viết: “Chúa không gởi sự dữ đến; ngược lại Chúa gần gũi và giúp chúng ta sống với sự dữ và vượt qua sự dữ.”
Trong những lúc khắc nghiệt, đôi khi chính sách ngoại giao của Vatican gặp khó khăn khi đối diện với một hình thức bất lực trước sự leo thang chiến tranh, khi nhiều lời tuyên bố của giáo hoàng để lại cảm giác hơi bất an khi nhìn con thuyền chèo xa hoặc khi có một chút nghịch tai (vì nói, khi điều cốt yếu phải giữ bí mật, luôn là một việc làm nguy hiểm, nhưng cũng có thể lặp lại lời của hồng y ngoại trưởng Pietro Parolin, vì “tiếng nói của giáo hoàng là tiếng kêu trong sa mạc” và đó là điều nhiều người đã nghe khi ngài kêu gọi ngừng bắn vào ngày chúa nhật 2 tháng 10, sự hiện diện của người áo trắng như một mắt xích trong chuỗi liên kết không đứt đoạn, và những cử chỉ thực hiện cách âm thầm vẫn là một dấu hiệu. Trục của đồng hồ vẫn đứng vững dù các kim quay cuồng nhiệt.
Bởi vì sự hiện diện trong màu trắng, trong những thời điểm khủng hoảng hiện thực hóa lời của Chúa Giêsu, “và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”, bằng cách làm cho lời đó đi vào lịch sử loài người. Huống chi con người thời nay sống trong thế giới của hình ảnh.
Marta An Nguyễn dịch
Nguồn: phanxico.vn
Sự tấn công của hàng giám mục Đức ở Vatican
Hồng y Reinhard Marx với các thành viên của Ủy ban Trung ương Công giáo Đức, phó chủ tịch Karin Kortmann và chủ tịch Thomas Sternberg. [Ảnh của Julia Steinbrecht, KNA]
la-croix.com, Loup Besmond de Senneville, 2022-10-08
Tuần vừa qua, một cuộc tấn công kín đáo nhưng rất hiện thực đã xảy ra ở Vatican. Vài tuần trước chuyến đi ad limina của tất cả các giám mục Đức, trong những ngày gần đây, các nhà lãnh đạo công giáo Đức đã có nhiều cuộc gặp với các hồng y Giáo triều, và với chính Đức Phanxicô. Thách thức: để giảm căng thẳng, sôi nổi, giữa Giáo triều và các giám mục Đức, đang dấn thân vào con đường đồng nghị mà nhiều người ở Vatican đồng hóa với khởi đầu của một cuộc ly giáo.
Chúng tôi thấy ba giám chức cao nhất của Giáo hội công giáo Đức, giám mục Georg Bätzing, chủ tịch Hội đồng Giám mục, giám mục phó chủ tịch Franz-Josef Bode và bà Beate Gilles, tổng thư ký Tòa Giám mục Đức đi ở Quảng trường Thánh Phêrô và các khu vực xung quanh, cũng như thấy họ đi từ bộ này đến bộ kia ở Giáo triều.
Cuộc gặp của họ với hồng y Kurt Koch là cuộc gặp duy nhất dẫn đến một tuyên bố có tiếng vang, vì những lời xin lỗi trong đó. Trước đó vài ngày, hồng y Thụy Sĩ Koch đã phác thảo có một song song giữa phương pháp suy tư của con đường thượng hội đồng Giáo hội Đức và lý thuyết của một nhóm Tin lành Đức Quốc xã. Các giám mục Đức đã rất đau lòng về việc này.
“Con đường thượng hội đồng Đức”: bị mắc kẹt…
Nhưng những ngày này cũng có hai buổi gặp với giáo hoàng. Cuối buổi tiếp kiến thứ tư hàng tuần ngày 5 tháng 10, Đức Phanxicô đã gặp hồng y Rainer Maria Woelki, tổng giám mục Cologne và ngày hôm sau ngài tiếp hồng y Reinhard Marx, người đứng đầu giáo phận Munich và là điều phối viên của Hội đồng kinh tế.
Cuối cùng, ngày thứ ba, đại sứ quán Đức tại Tòa thánh đã mời bà Charlotte Kreuter-Kirchhof, phó điều phối viên của Hội đồng Kinh tế Vatican, đặc biệt bà là thành viên tích cực của con đường thượng hội đồng Đức, để giải thích cho các linh mục và nhà ngoại giao có mặt biết người công giáo của đất nước bà chắc chắn không có ý định tách khỏi Rôma.
Vì thế nhiều cuộc họp là dấu hiệu quyết tâm của Giáo hội công giáo Đức muốn thuyết phục Tòa thánh về lợi ích của cách tiếp cận của họ. Thêm nữa họ cố gắng xoa dịu những bất đồng và ấn tượng ngày càng tăng ở Rôma, rằng Vatican và Giáo hội Đức là hai đại lục đang không ngừng xa nhau.
Marta An Nguyễn dịch
Nguồn: phanxico.vn
Đức Thánh cha tiếp kiến các tín hữu dự lễ phong thánh Scalabrini
Đức Thánh cha Phanxicô mời gọi các tín hữu noi gương thánh giám mục Scalabrini, có cái nhìn cảm thương đối với những người dân, đón tiếp, giúp đỡ và gặp gỡ họ trong tinh thần huynh đệ.
Ngài đưa ra lời nhắn nhủ trên đây, trong buổi tiếp kiến sáng ngày 10 tháng Mười vừa qua, dành cho hàng ngàn các tín hữu từ nhiều nơi về Roma tham dự lễ phong thánh cho Đức giám mục Gioan Baotixita Scalabrini, hôm Chúa nhật vừa qua. Hiện diện tại buổi tiếp kiến, ngoài các tín hữu và giáo quyền nguyên quán của vị thánh mới là giáo phận Como và Piacenza, còn có các tu sĩ nam nữ thuộc hai dòng tu nam nữ thừa sai thánh Carlo Borromeo do thánh nhân sáng lập, và nữ tu hội đời thừa sai Scalabrini. Hàng chục tu sĩ người Việt cũng tham dự buổi tiếp kiến. Trước khi gặp Đức Thánh cha, các tín hữu đã tham dự thánh lễ tạ ơn sau lễ phong thánh.
Trong bài huấn dụ tại buổi tiếp kiến, Đức Thánh cha nhắc đến lòng yêu mến của thánh Scalabrini đối với những người di dân, và có cái nhìn về họ như Chúa Giêsu: “Khi thấy những đám đông, Chúa cảm thương họ vì họ mệt mỏi và kiệt lực như những chiên không người chăm sóc” (Mt 9,36). “Với lòng bác ái bao la, và sự khôn khéo mục vụ, Đức cha Scalabrini lo lắng đảm bảo cho những người di dân được trợ giúp thích đáng về vật chất và tinh thần.”
Đức Thánh cha nhấn mạnh rằng: “Cả ngày nay, những cuộc di cư là một thách đố quan trọng và cho thấy rõ nhu cầu cấp thiết cần đặt tình huynh đệ lên trên sự từ khước, tình liên đới lên trên sự dửng dưng lãnh đạm. Ngày nay, mỗi tín hữu Kitô được kêu gọi suy tư về cái nhìn của Thiên Chúa đối với những anh chị em di dân; để cho cái nhìn của Chúa mở rộng cái nhìn của chúng ta, nhờ cuộc gặp gỡ với nhân loại đang lữ hành, qua sự gần gũi cụ thể, theo gương Đức giám mục Scalabrini. Chúng ta được kêu gọi sống và phổ biến nền văn hóa gặp gỡ, một cuộc gặp gỡ ngang hàng giữa người di dân và những người tại những nước tiếp cư. Đây là một kinh nghiệm làm cho ta được phong phú, vì biểu lộ vẻ đẹp của sự khác biệt. Nó cũng phong phú vì niềm tin, cậy và mến của những người di cư có thể nêu gương và thúc đẩy những người muốn dấn thân xây dựng một thế giới an bình và sung túc cho mọi người.”
Đức Thánh cha nhận định rằng: “Để làm tăng trưởng tình huynh đệ và tình bạn xã hội, tất cả chúng ta được kêu gọi có tinh thần sáng tạo, suy nghĩ vượt ra ngoài những khuôn khổ. Chúng ta được kêu gọi mở ra những không gian mới, trong đó nghệ thuật, âm nhạc và sự sống chung với nhau trở thành những phương thế sinh động, liên văn hóa trong đó ta có thể nếm hưởng sự phong phú do cuộc gặp gỡ giữa những khác biệt”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Đức Thánh cha tiếp kiến Gia đình dòng Don Bosco
Trong buổi tiếp kiến đại Gia đình dòng Salésien Don Bosco, sáng ngày 08 tháng Mười vừa qua, Đức Thánh cha Phanxicô đặc biệt đề cao tầm quan trọng của ơn gọi tu huynh và mời gọi noi gương bác ái của tu huynh Artemide Zatti, được tôn phong hiển thánh sáng Chúa nhật mùng 09 tháng Mười này.
Hiện diện tại buổi tiếp kiến ở Đại thính đường Phaolô VI, có cha Bề trên Tổng quyền cùng với ban Tổng cố vấn, ba hồng y và mười giám mục Don Bosco, hàng ngàn tu sĩ nam nữ các nước, trong đó có hơn 30 tu huynh người Việt về Roma tham dự lễ phong thánh cho chân phước tu huynh Zatti.
Trong bài huấn dụ, Đức Thánh cha gợi lại những nét nổi bật trong cuộc sống và hoạt động của thánh tu huynh Zatti, như một di dân từ Ý sang Argentina lập nghiệp, rồi quen biết các cha dòng Don Bosco, bị bệnh và được lành nhờ sự chuyển cầu của Đức Mẹ Phù Hộ các tín hữu, xin nhập dòng Don Bosco như một tu huynh, phục vụ các bệnh nhân và những người nghèo, tận tụy xả thân phụng sự Thiên Chúa và tha nhân.
Đức Thánh cha đặc biệt nhấn mạnh điểm này: thánh Zatti là người chuyển cầu cho ơn gọi. “Tôi có một kinh nghiệm bản thân về điều này. Khi còn là Giám tỉnh dòng Tên ở Argentina, tôi đã biết tiểu sử Artemide Zatti, tôi đã đọc tiểu sử thánh nhân và phó thác cho người lời nguyện xin Chúa ban cho dòng Tên những ơn gọi thánh thiện trong đời thánh hiến tu huynh. Từ khi chúng tôi bắt đầu cầu xin thánh nhân cứu giúp, thì con số các tu huynh trẻ gia tăng đáng kể; và họ là những người kiên trì, rất dấn thân. Tôi làm chứng về ơn mà chúng tôi đã nhận được.”
“Về vấn đề này, tôi muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của ơn gọi tu huynh. Tôi đã thấy điều đó trong dòng Tên và tôi biết là cũng có thể nói như vậy về dòng Salesien. Các tu huynh có một đoàn sủng đặc biệt được nuôi dưỡng trong kinh nguyện và công việc làm. Các thầy mưu ích tốt đẹp cho toàn dòng. Các thầy là những người đạo đức, vui tươi, chăm chỉ làm việc. Nơi các thầy, người ta không thấy mặc cảm tự ti vì mình không phải là linh mục, và không ao ước trở thành phó tế. Các thầy ý thức về ơn gọi của mình và muốn như vậy”.
Và Đức Thánh cha nhắn nhủ rằng: “Các tu huynh trợ sĩ thân mến, cả các thầy cũng có thể luôn luôn biết ơn vì hồng ân ơn gọi này, làm chứng tá đặc thù về đời sống thánh hiến và đề nghị ơn gọi ấy với những người trẻ như một hình thức của đời sống theo Tin mừng, phục vụ những người nghèo hèn và bé nhỏ”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Đức Thánh cha tiếp Tổ chức Năm Thứ 100 hỗ trợ Đức Giáo hoàng
Đức Thánh cha Phanxicô kêu gọi có một cái nhìn mới về nền kinh tế: nhìn xem tha nhân như một người anh em, trước khi là một khách hàng.
Ngài bày tỏ lập trường trên đây, trong buổi tiếp kiến sáng ngày 08 tháng Mười vừa qua, dành cho các tham dự viên Hội nghị do Tổ chức “Centesimus Annus”, Năm Thứ 100, đề xướng và tiến hành trong những ngày qua về đề tài: “Phát triển bao gồm để loại trừ nạn nghèo và thăng tiến phát triển lâu bền cho hòa bình”.
“Năm Thứ 100” là tên Thông điệp do thánh Gioan Phaolô II ban hành năm 1991, nhân dịp kỷ niệm 100 năm thông điệp xã hội đầu tiên của Đức Giáo hoàng Lêô XII, Rerum Novarum, Tân Sự.
Lên tiếng trong buổi tiếp kiến tại Đại thính đường Phaolô VI, Đức Thánh cha nhấn mạnh đến sự tăng trưởng bao gồm, một sự phát triển không chỉ giới hạn vào sự tăng trưởng kinh tế, nhưng có tính cách toàn diện: phát triển tất cả mọi người và con người toàn diện. Ngài nói: “Đó cũng là công tác của chúng ta, đặc biệt của anh chị em trong tư cách là giáo dân: làm dậy men thực tại kinh tế theo nghĩa luân lý đạo đức, tăng trưởng theo nghĩa phát triển và anh chị em thực hành điều đó trong nhãn giới Tin mừng. Vì tất cả nảy sinh từ cách thức chúng ta nhìn thực tại... Cái nhìn của Chúa Giêsu biết nhìn thấy nơi người nghèo bỏ hai đồng tiền nhỏ trong thùng dâng cúng ở Đền thờ như một cử chỉ tận hiến (Xc Mc 12,41-44). Cái nhìn của Chúa Giêsu đi từ lòng thương xót và cảm thương đối với những người nghèo và những người bị loại trừ”.
Tuy nhiên, Đức Thánh cha cảnh giác rằng: “Chúng ta không bài trừ nạn nghèo bằng chủ trương duy trợ giúp. Như tôi đã nói trong thông điệp Laudato sì, “giúp đỡ người nghèo bằng tiền bạc luôn luôn phải là một phương dược tạm thời để đối phó với tình trạng cấp thiết. Đối tượng thích hợp phải là làm sao để người nghèo có được một đời sống xứng đáng qua công việc làm” (n.128).
Đức Thánh cha nói thêm rằng: “Tổ chức Centesimus Annus có thể mang lại những suy tư quan trọng trong những ngày này, qua sự hoán cải cái nhìn của mỗi người. Cái nhìn khiêm tốn của người nhìn thấy nơi mỗi người nam nữ mình gặp như một người anh chị em cần phải tôn trọng trong phẩm giá, trước khi có thể là một khách hàng. Chỉ với cái nhìn đó chúng ta mới có thể chiến đấu chống những tai ương của nạn đầu cơ hiện nay do những luồng gió chiến tranh nuôi dưỡng. Không bao giờ nhìn tha nhân từ trên nhìn xuống, chỉ như thế mới là lối hành động của mỗi người xây dựng hòa bình”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Đức Thánh cha tôn phong hai hiển thánh mới
Xem Video : https://youtu.be/GBU0mv-eb9c
Lúc gần 10 giờ sáng, Chúa nhật mùng 09 tháng Mười năm 2022, Đức Thánh cha Phanxicô đã chủ sự thánh lễ trọng thể tại Quảng trường thánh Phêrô, với nghi thức tôn phong hai vị chân phước lên bậc hiển thánh. Đây là lễ phong thánh thứ hai và lễ cuối cùng ngài cử hành trong năm nay. Lần đầu là lễ phong mười vị hiển thánh Chúa nhật, ngày 15 tháng Năm.
Trên mặt tiền Đền thờ, có treo hình hai vị thánh mới trên hai tấm thảm hình lớn.
Hiện diện trong buổi lễ có hơn 30.000 tín hữu thập phương. Đồng tế với Đức Thánh cha có 20 hồng y và 50 giám mục, và gần 400 linh mục, trong đó có nhiều vị thuộc dòng thánh Scalabrini và Don Bosco. 180 linh mục và phó tế đảm nhận việc trao Mình Thánh Chúa cho các tín hữu rước lễ. Trong số các tín hữu hiện diện cũng có nhiều tu sĩ nam nữ người Việt thuộc hai dòng liên hệ.
Nghi thức phong thánh
Nghi thức phong thánh diễn ra vào đầu thánh lễ. Sau lời chào phụng vụ của Đức Thánh cha, mọi người hát kinh cầu xin Chúa Thánh Thần ngự đến, rồi Đức Hồng y Marcello Semeraro, Tổng trưởng Bộ Phong thánh, tiến lên trước Đức Thánh cha, cùng với hai linh mục thỉnh nguyện viên của các án phong, và thưa rằng: “Hội Thánh xin Đức Thánh cha ghi tên vào sổ bộ các thánh hai vị chân phước và để mọi Kitô hữu kêu cầu các ngài như những vị thánh.”
Sau khi xướng danh các vị, Đức Hồng y Semeraro lần lượt tóm tắt tiểu sử của hai vị:
Gioan Baotixita Scalabrini sinh ngày 08 tháng Bảy năm 1839 tại tỉnh Como, bắc Ý, con thứ ba trong gia đình tám người con, năm trai ba gái. Năm 1857, khi được 18 tuổi, Gioan gia nhập chủng viện và thụ phong linh mục năm 1863, khi được 24 tuổi. Cha muốn đi làm thừa sai nhưng Đức giám mục bản quyền không cho phép và bổ nhiệm tân linh mục làm giáo sư tiểu chủng viện Como, đồng thời làm giám thị và phó giám đốc tại đây.
Năm 1870, cha Scalabrini được bổ nhiệm làm cha sở giáo xứ thánh Bartolomeo, ở ngoại ô thành Como. Quan tâm đầu tiên của cha là tổ chức lại các trường giáo lý để huấn luyện các giáo lý viên chu đáo hơn, và cha soạn thủ bản cho họ. Cha cũng thường viếng thăm các bệnh nhân và người già, lập một hội để giúp đỡ họ, đồng thời cũng lập một nhà trẻ và một hội sinh hoạt cho các nam thiếu niên. Và đứng trước tình trạng khó khăn của các nông dân và thợ thuyền, cha gợi ý thành lập một hội tương trợ và dấn thân tìm công ăn việc làm cho những người mất việc. Cha chạy đến cả những nhà công nghệ xin giúp đỡ trong lãnh vực này.
Mới làm cha sở được 5 năm, cha Scalabrini được Tòa Thánh bổ nhiệm làm giám mục giáo phận Piacenza ngày 30 tháng Giêng năm 1876, lúc mới 36 tuổi. Đức cha ở lại nhiệm sở này gần 30 năm trời cho đến khi qua đời.
Trong thời gian dài làm chủ chăn tại Piacenza, Đức cha Scalabrini đã viết nhiều bài báo về bao nhiêu vấn đề thời đó, phản ánh thực trạng tôn giáo, xã hội và chính trị tại Ý thời đó.
Vốn là người tinh tế quan sát và giải thích thực tại con người đồng thời, Đức cha Scalabrini thành lập một viện câm điếc, một tổ chức trợ giúp các nữ công nhân nông nghiệp, một hội tương trợ và quỹ nông thôn.
Tuy nhiên, ký ức về Đức cha Scalabrini đặc biệt gắn liền với những giải pháp mục vụ sáng suốt cho người di dân. Đức cha đặc biệt quan tâm giúp đỡ những người Ý di cư. Ngài thành lập một tu hội linh mục hoàn toàn lo việc săn sóc tinh thần cho đông đảo người Ý di cư tại Mỹ. Đó là dòng thừa sai thánh Carlo. Về sau ngài thành lập thêm tu hội nữ thừa sai thánh Carlo.
Đức cha Scalabrini được phong chân phước ngày 09 tháng Mười Một năm 1997. Gia sản của Đức cha Scalabrini ngày nay vẫn là các thừa sai nam nữ thánh Carlo: khoảng 650 năm tu sĩ đang hoạt động tại 34 quốc gia năm châu. Tiếp đến là khoảng 550 nữ thừa sai thánh Carlo. Từ lâu các tu sĩ của hai dòng này không giới hạn hoạt động vào những người Ý di cư, nhưng giúp đỡ những người di cư thuộc đủ mọi quốc tịch trên thế giới.
Tu huynh Artemide Zatti sinh năm 1880 trong một gia đình nông dân nghèo ở Boreto, bắc Ý. Năm 1897, khi được 17 tuổi, Artemide theo gia đình di cư tới miền Bahía Bianca bên Argentina.
Năm 20 tuổi, anh muốn gia nhập dòng ở Bernal, gần thủ đô Buenos Aires. Tại đó, có một tu sĩ Don Bosco trẻ tuổi bị bệnh lao phổi, và Artemide tình nguyện săn sóc, nhưng tu sĩ ấy đã bị bệnh quá nặng nên qua đời sau đó. Artemide cũng bị lây bệnh lao phổi và được gửi đi dưỡng bệnh tại Viedma, nơi dòng Don Bosco có một bệnh xá và một tiệm thuốc tây. Artemide giúp cha Evasio Garrone tại nhiệm sở này.
Một hôm, cha Evasio Garrone gợi ý với Armetide hãy cầu xin Đức Mẹ Phù Hộ các tín hữu cứu giúp và nói: “Nếu Đức Mẹ chữa con lành bệnh, con hãy hiến trọn cuộc đời cho các bệnh nhân này”. Thầy Armetide Zatti hăng hái hứa như vậy và được khỏi bệnh một cách lạ lùng và thầy giữ lời hứa. Năm 1908, khi được 28 tuổi, thầy tuyên khấn lần đầu, và ba năm sau đó khấn trọn đời.
Năm 1913, cha Garrone qua đời, và thầy Zatti đảm trách tiệm thuốc thánh Phanxicô và bệnh xá thánh Giuse. Thầy tận tụy và vui tươi giúp đỡ người nghèo và các bệnh nhân. Việc phục vụ của thầy không giới hạn tại nhà thương, nhưng mở rộng ra cả thành phố. Trong những trường hợp cần thiết, thầy di chuyển ngày cũng như đêm, tới bất kỳ khu xóm tồi tàn ở ngoại ô thành Viedma, và giúp đỡ các bệnh nhân miễn phí. Tiếng tăm của thầy y tá thánh thiện lang rộng cả miền nam Argentina và từ miền Patagonia, cực nam của Argentina, cũng có các bệnh nhân tới xin thầy giúp đỡ. Thầy yêu mến các bệnh nhân một cách đặc biệt, nhìn thấy Chúa Giêsu nơi họ. Thầy chu toàn các công tác này với tinh thần hy sinh cao độ, không biết mệt mỏi.
Thầy Zatti là một người rất dễ tiếp xúc, đầy thiện cảm và vui mừng vì có thể giao tiếp với những người dân khiêm hạ. Nhưng đặc biệt thầy là một người của Chúa. Một bác sĩ ở nhà thương, không có đức tin mạnh, nói rằng: “Khi tôi thấy thầy Zatti, thì sự cứng lòng tin của tôi bị lay chuyển”. Một người khác nói: “Tôi tin nơi Thiên Chúa từ khi tôi được quen biết thầy Zatti”.
Năm 1950, thầy Zatti đột nhiên cảm thấy mình già nua và bệnh tật. Thầy đau nhói ở hông bên trái và kéo dài như vậy. Thầy biết rõ đó là bệnh ung thư tụy tạng và trấn an mọi người: “Xin anh chị em đừng vất vả làm chi, vì không có thuốc chữa đâu”. Thầy còn tiếp tục nhiệm vụ thêm một năm nữa.
Thầy Artemide Zatti qua đời ngày 15 tháng Ba năm 1951, trong sự tỉnh táo hoàn toàn, giữa sự quí mến và biết ơn của dân chúng. Thầy hưởng thọ 71 tuổi. Thầy được Đức Thánh cha Gioan Phaolô II tôn phong chân phước ngày 14 tháng Tư năm 2002.
Bài giảng của Đức Thánh cha
Trong bài giảng sau các bài đọc của phần phụng vụ Lời Chúa, Đức Thánh cha đã quảng diễn bài Tin mừng theo thánh Luca (17), thuật lại sự tích 10 người phong cùi kêu xin Chúa Giêsu cứu giúp. Tất cả đều được chữa lành, nhưng chỉ có một người trở lại lớn tiếng cảm tạ Thiên Chúa, và đó lại là một người Samaritano, một người “lạc đạo” (Lc 17,15).
Đức Thánh cha nhận xét rằng: Mười người phong cùi tiến bước chung với nhau, không phân biệt giữa người Samaritano với chín người khác. Bệnh phong cùi không phải chỉ là bệnh thể lý, nhưng cũng là một thứ bệnh xã hội, vì thời đó họ phải ở ngoài cộng đoàn, không được vào những khu dân cư. Cả người Samaritano vốn bị coi là “rối đạo” cũng ở chung với những người khác. “Bệnh tật và tình trạng mong manh chung làm đổ những hàng rào và vượt lên trên mọi sự loại trừ”.
Đồng hành với người khác
Đức Thánh cha nói: “Đây là một hình ảnh đẹp đối với cả chúng ta: nếu thành thực với chính mình, chúng ta nhớ rằng tất cả chúng ta đều là những người bị bệnh trong tâm hồn, tất cả đều là những người tội lỗi, cần lòng thương xót của Chúa Cha. Và chúng ta ngưng chia rẽ nhau dựa trên công trạng, vai trò chúng ta đảm trách; những bức tường nội tâm, những thành kiến sẽ sụp đổ, và như thế, sau cùng chúng ta khám phá mình là anh chị em với nhau”.
“Chúng ta hãy nhớ điều này: đức tin Kitô luôn đòi chúng ta đồng hành với những người khác, không bao giờ là những người tiến bước đơn độc; đức tin luôn đòi chúng ta ra khỏi bản thân để tiến về Thiên Chúa và về anh chị em, không bao giờ chia rẽ chúng ta với nhau, luôn đòi chúng ta nhìn nhận mình là những người cần được chữa lành và tha thứ, và vì cùng chia sẻ sự giòn mỏng của người ở cạnh chúng ta, không cảm thấy mình cao trọng hơn nhau”.
Áp dụng vào cuộc sống thường nhật
Và Đức Thánh cha nhắc nhở rằng: “Anh chị em, chúng ta hãy kiểm chứng xem trong đời sống chúng ta, trong gia đình, tại những nơi làm việc và gặp gỡ nhau mỗi ngày, chúng ta có khả năng đồng hành với những người khác, lắng nghe, vượt thắng cám dỗ tự đóng khung mình trong thái độ tự tham chiếu và chỉ nghĩ đến những nhu cầu của chúng ta hay không.”
Cộng đoàn cởi mở không loại trừ ai
“Nhưng đồng hành với nhau cũng là ơn gọi của Giáo hội. Chúng ta hãy tự hỏi xem chúng ta có thực sự là những cộng đoàn cởi mở và bao gồm đối với tất cả mọi người hay không; chúng ta có làm việc chung được với nhau, linh mục và giáo dân, để phục vụ Tin mừng hay không; chúng ta có một thái độ đón tiếp không những bằng lời nói nhưng bằng những cử chỉ cụ thể, đối với người ở xa và với tất cả mọi người đến gần chúng ta hay không... Chúng ta có làm cho họ cảm thấy là thành phần của cộng đoàn hay là chúng ta loại trừ họ?”
Đức Thánh cha nói thêm rằng: “Tôi sợ khi thấy những cộng đoàn Kitô phân chia thế giới thành những người tốt và những người xấu, thánh thiện và tội lỗi: như thế rốt cuộc ta cảm thấy mình tốt hơn những người khác và đẩy ra ngoài bao nhiêu người mà Thiên Chúa muốn ôm lấy họ. Xin anh chị em hãy luôn bao gồm trong Giáo hội cũng như trong xã hội, đang còn nhiều chênh lệch và tình trạng gạt ra ngoài lề”.
Lòng biết ơn
Đức Thánh cha cũng nhắc đến thái độ biết ơn của người Samaritano sau khi được lành bệnh và nhận xét rằng: “Đó cũng là một bài học lớn cho chúng ta, là những người hằng ngày được hưởng các ơn của Thiên Chúa, nhưng thường thường chúng ta đi đường của mình mà quên vun trồng một tương quan sinh động với Chúa. Đó là một thứ bệnh tinh thần xấu xa: coi mọi sự là điều dĩ nhiên, cả đức tin và tương quan của chúng ta với Thiên Chúa, đến độ trở thành những Kitô hữu không còn biết ngạc nhiên nữa, không biết nói “cám ơn”, không còn biết nhận ra những kỳ công của Thiên Chúa nữa.
Gương hai vị hiển thánh
Đề cập đến hai vị hiển thánh được tôn phong, Đức Thánh cha nói rằng: “Hai vị nhắc nhớ chúng ta về điều quan trọng là đồng hành với nhau và biết cám ơn.
Đức giám mục Scalabrini, - đã thành lập dòng chăm sóc những người xuất cư -, đã khẳng định rằng khi đồng hành với những người xuất cư, không cần chỉ nhìn những vấn đề nhưng cần nhìn cả những ý định của Chúa Quan Phòng. Thánh nhân nói: “Chính nhờ những cuộc di cư do những bách hại, Giáo hội đã vượt lên trên các ranh giới Jerusalem và Israel để trở thành “công giáo”; nhờ những cuộc di cư ngày nay, Giáo hội sẽ là dụng cụ hòa bình và hiệp thông giữa các dân tộc” (L’emigrazione degli operai italiani, Ferrara 1899). Đức cha Scalabrini đã nhìn xa, nhìn về đằng trước, về một thế giới và một Giáo hội không biên giới, không có người ngoại quốc.
Về phần Tu huynh Salesien Artemide Zatti, người là một tấm gương sinh động về lòng biết ơn: sau khi được khỏi bệnh lao phổi, đã hiến trọn cuộc đời để làm ơn cho những người khác, chữa lành các bệnh nhân với lòng yêu thương và dịu dàng. Người ta kể là đã thấy thầy vác thi thể của một người bệnh nhân trên vai. Đầy lòng biết ơn vì những gì đã lãnh nhận, thầy muốn nói lời “cám ơn” khi đảm nhận các vết thương của người khác”.
“Chúng ta hãy cầu nguyện để những người anh thánh thiện này giúp chúng ta cùng bước đi với nhau, không có những bức tường chia rẽ; hãy vun trồng tâm tình cao thượng rất đẹp lòng Chúa là tâm tình biết ơn”.
Lời cuối lễ
Cuối thánh lễ, khoảng 11 giờ 45, Đức Thánh cha đã chủ sự kinh Truyền tin với cộng đoàn. Số người tại quảng trường lúc này lên tới 60.000 người.
Trước khi đọc kinh, Đức Thánh cha chào thăm tất cả các hồng y, giám mục, linh mục, các tu sĩ nam nữ, đặc biệt là các nam nữ thừa sai thánh Carlo Borromeo và các tu huynh Salesien Don Bosco. Ngài không quên chào thăm các phái đoàn chính thức.
Và ngài nói thêm rằng: “Hôm nay tại Fabriano, có lễ phong chân phước cho nữ tu Maria Costanza Panas, đan sĩ dòng thánh Clara Capuxin, sống tại Đan viện Fabriano, từ năm 1917 đến năm 1963 khi về trời. Chị đón tiếp những người đến gõ cửa Đan viện, chiếu tỏa nơi mọi người sự thanh thản và tín thác. Trong những năm cuối đời, khi bị bệnh nặng, chị dâng những đau khổ để cầu nguyện cho Công đồng chung Vatican II, mà ngày 11 tháng Mười này, chúng ta kỷ niệm 60 năm khai mạc. Xin chân phước Maria Costanza giúp chúng ta luôn tín thác nơi Thiên Chúa và đón tiếp tha nhân.
Học bài học của quá khứ
Đức Thánh cha cũng nói rằng: “Về việc khai mạc Công đồng chung Vatican II cách đây 60 năm, chúng ta không thể quên nguy cơ chiến tranh hạt nhân bấy giờ cũng đang đe dọa thế giới. Tại sao không học bài học lịch sử? Hồi đó cũng có những xung đột và căng thẳng lớn, nhưng rồi người ta đã chọn con đường hòa bình.”
Trong Kinh thánh có ghi rằng: “Chúa phán: “Các ngươi hãy dừng lại trên đường và hãy nhìn, hãy tìm hiểu những con đường quá khứ, để xem đâu là con đường đúng cần theo, như thế các ngươi sẽ tìm được hòa bình cho cuộc sống của các ngươi” (Ger 6,16).
Cầu cho dân Thái Lan
Rồi Đức Thánh cha nói: “Tôi cầu nguyện cho các nạn nhân của hành động bạo lực điên rồ xảy ra cách đây ba ngày, 06 tháng Mười, tại Thái Lan. Tôi xúc động phó thác cho Cha của sự sống, đặc biệt các em bé và gia đình các em”.
Giờ đây, chúng ta hãy hướng về Đức Trinh Nữ Maria, xin Mẹ giúp chúng ta trở thành những chứng nhân Tin Mừng, noi gương các thánh”.
Rồi Đức Thánh cha xướng kinh Truyền tin và ban phép lành cuối lễ cho mọi người.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Đức Hồng y Quốc vụ khanh: Tòa Thánh sẵn sàng giúp thương thuyết
Đức Hồng y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, tỏ ra lo âu về nguy cơ chiến tranh hạt nhân và tái bày tỏ sự sẵn sàng của Tòa Thánh giúp làm trung gian thương thuyết.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho phái viên báo Il Messaggero, Người Sứ giả, xuất bản ở Roma hôm 07 tháng Mười vừa qua, Đức Hồng y Parolin trả lời câu hỏi: “Vatican có nghĩ thực sự có nguy cơ chiến tranh hạt nhân hay không?”
Ngài đáp: “Thật là khó nói. Theo những gì chúng ta đọc thấy, thì không có gì là mới so với điều chúng ta đã biết và từ những gì Tổng thống Putin vẫn nói”.
Đức Hồng y Parolin mới từ Liên Hiệp Quốc ở New York trở về Vatican, và trong tuần trước đây đã gặp Ngoại trưởng Nga, ông Sergej Lavrov. Đức Hồng y cho biết: “Ngoại trưởng Nga đã bày tỏ với tôi lập trường đã được nêu rõ trước Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc. Đại khái ông trách Tây phương không làm gì khi mà tại miền Donbass đã diễn ra một cuộc xung đột ở cấp độ nhỏ. Nghĩa là Tây phương không lên án thái độ của Ucraina và không tôn trọng các quyền của những người nói tiếng Nga thiểu số tại miền này. Trong thực tế, Ngoại trưởng Lavrov đã trình bày một phân tích dài về thái độ của tây phương đã không lên án tình trạng như tôi vừa nói”.
Đức Hồng y Quốc vụ khanh cũng nói rằng chính ngài đã yêu cầu gặp Ngoại trưởng Lavrov để bày tỏ mối quan tâm của Tòa Thánh và tái khẳng định điều Đức Thánh cha đã bày tỏ là sẵn sàng giúp tạo điều kiện cho cuộc đối thoại giữa hai bên trong cuộc xung đột”. Báo “Người Sứ Giả” nhắc lại rằng Nga hiện có kho võ khí hạt nhân lớn nhất thế giới và trong những ngày trước đây, Tổng thống Vladimir Putin tái khẳng định là “có tất cả những quyền bính và phương tiện để bảo vệ nước Nga”, đồng thời nhắc lại rằng chính Mỹ đã tạo nên “một tiền lệ” về võ khí hạt nhân, khi thả hai quả bom nguyên tử trên hai thành phố Hiroshima và Nagasaki của Nhật Bản năm 1945.
Nga hiện có 5.977 đầu đạn nguyên tử, trong khi Mỹ có 5.428, theo con số của Liên đoàn các nhà khoa học Mỹ. Tuy Mỹ và Nga đã tháo gỡ hàng ngàn đầu đạn, nhưng hai nước vẫn còn 90% số võ khí hạt nhân trên thế giới.
Thêm vào đó, Nga có 1.459 đầu đạn chiến lược đã được bố trí, nghĩa là sẵn sàng sử dụng, trong khi Mỹ có 1.389 đầu đạn bố trí như vậy, theo những dữ liệu tuyên bố công khai. Nga có số võ khí hạt nhân chiến thuật nhiều gấp 10 lần so với Mỹ. Khoảng một nửa trong số 200 võ khí hạt nhân chiến thuật của Mỹ được đặt rải rác tại nhiều nơi ở Âu châu.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Nhà thờ Đức Bà Paris sẽ được mở lại năm 2024 như dự định
Công trình tái thiết nhà thờ Chính tòa Đức Bà Paris được tiến hành theo chương trình và sẽ được mở lại vào năm 2024, theo phúc trình của tòa kiểm toán ở Paris, công bố hôm ngày 06 tháng Mười vừa qua.
Phúc trình xác nhận có đủ ngân khoản để hoàn tất công trình tái thiết và cho đến nay số tiền quyên góp được nhiều hơn số chi và phí tổn dự trù.
Nhà thờ chính tòa Paris bị hỏa hoạn trầm trọng hồi tháng Tư năm 2019. Phí tổn giữ cho thánh đường này khỏi sụp là 151 triệu Euro. Việc canh tân thánh đường để có thể hoàn thành và mở cửa lại nhà thờ trong vòng hai năm tới đây có phí tổn là 552 triệu Euro. Tính đến cuối năm ngoái, ngân khoản quyên góp được để tu bổ thánh đường là hơn 841 triệu Euro.
Tòa kiểm toán ở Paris đề nghị rằng ngân sách thặng dư có thể được sử dụng, sau khi tham khảo ý kiến các đại ân nhân, để sửa chữa những thiệt hại khác do hỏa hoạn gây ra. Thực tế, trước khi xảy ra hỏa hoạn, nhà thờ chính tòa Đức Bà đã ở trong tình trạng nguy kịch. Người ta dự đoán sau khi được mở lại vào năm 2024, số khách viếng thăm sẽ gia tăng thêm hai triệu người và có thể lên tới 14 triệu người mỗi năm. Vì thế, tòa kiểm toán đề nghị cứu xét vấn đề làm sao đáp ứng số khách viếng thăm đông đảo như vậy.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu