Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Diễn đàn Công giáo vì Hòa bình trên Bán đảo Triều Tiên năm 2022
Được tài trợ bởi Bộ Văn hóa Hàn Quốc và Viện Công giáo vì Hòa bình Đông Bắc Á (viện ở giáo phận Uijeonbu của Hàn Quốc, nằm ở biên giới giữa Hàn Quốc và Triều Tiên), Diễn đàn là kết quả của sự hợp tác giữa các Giám mục Công giáo Hàn Quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản, và được tổ chức hàng năm lần lượt bởi ba quốc gia: năm 2022 tổ chức tại Hoa Kỳ, năm 2023 tổ chức tại Nhật Bản.
Theo Fides, Diễn đàn tập trung vào chủ đề “Giải quyết khó khăn vì hòa bình ở bán đảo Triều Tiên. Các học giả, các quan chức chính phủ đã cố gắng phân tích các vấn đề chính và các vấn đề liên quan đến hòa bình ở bán đảo Triều Tiên, xem xét bối cảnh lịch sử và địa chính trị của cuộc xung đột và xem xét vai trò của Giáo hội Công giáo trong việc thúc đẩy hòa bình.
Kitô hữu: Phá bỏ các bức tường; chữa lành các vết thương
Các tham dự viên tin rằng “hòa bình không thể đạt được thông qua chiến tranh và bạo lực” và họ cũng chia sẻ sự cấp thiết của việc “xác định các biện pháp hỗ trợ nhân đạo sáng tạo giúp người dân Triều Tiên.” Các giám mục nhắc lại những lời Đức Thánh Cha kêu gọi hòa giải trên bán đảo và lưu ý rằng “là những Kitô hữu, chúng ta phải phá bỏ các bức tường, nếu có, và chữa lành vết thương bằng tình yêu thương.”
Các giám mục Hoa Kỳ tuyên bố rằng “họ sẽ cùng cầu nguyện với những người anh em Hàn Quốc và Nhật Bản, cầu xin sự can đảm và kiên trì trên con đường đi đến hòa bình trên bán đảo Triều Tiên”.
Đức cha Joo-Young Kim, Giám mục Chuncheon, chủ tịch “Ủy ban Hòa giải Quốc gia” của các Giám mục Hàn Quốc, nhấn mạnh rằng “vết thương của cuộc xung đột vẫn còn, nhưng hòa bình sẽ có thể đạt được thông qua sự tha thứ và hòa giải”, và “Giáo hội không thể đi chệch con đường hòa bình, cho dù đó là một chặng đường dài và khó khăn.” Ngài bày tỏ lòng biết ơn "đối với những người cam kết vì hòa bình trên bán đảo Triều Tiên" và sau đó cầu nguyện bằng lời của Thánh Phanxicô: "Lạy Chúa, xin biến chúng con thành công cụ hòa bình của Ngài".
Theo giáo sư Baek Jang-hyeon, thuộc Viện Công giáo vì Hòa bình ở Đông Bắc Á, vai trò của Giáo hội Công giáo trong nỗ lực xây dựng một thế giới không có vũ khí hạt nhân có thể rất quan trọng trong quá trình phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên.
Con đường tương lai
Các giáo sư và đại diện của chính phủ Seoul và Hoa Kỳ nhất trí về con đường phải đi: tìm một giải pháp ngoại giao và hòa bình trong quan hệ với Triều Tiên, khẳng định phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên là mục tiêu chung, nhờ hợp tác với cộng đồng quốc tế.
Đề cập đến các nguyên tắc học thuyết xã hội của Giáo hội, những người tham dự nhắc lại rằng cần phải có những nỗ lực lớn hơn khi tình hình xấu đi, và “bây giờ là lúc để tiến thêm một bước trong việc xây dựng hòa bình”. (Fides 10/10/2022)
Hồng Thủy - Vatican News
Toà Thánh: cần giải pháp toàn cầu để trợ giúp người di dân tị nạn
Tiến sĩ Di Giovanni, Thứ trưởng phụ trách Lĩnh vực Đa phương của Phân bộ Quan hệ với các Quốc gia, và các Tổ chức Quốc tế và Trưởng Phái đoàn của Tòa Thánh tại Geneva, lưu ý rằng cuộc họp diễn ra vào thời điểm “khi bạo lực, bắt bớ và xung đột phá vỡ ý thức về tình huynh đệ và sự liên đới của gia đình nhân loại của chúng ta”; “Trong bối cảnh chiến tranh như hiện nay, quá nhiều người di cư không thể hoà nhập cũng do các chính sách không ủng hộ việc tiếp nhận.”
Đại diện Toà Thánh đã nhắc lại “tầm quan trọng của việc xác định các tuyến đường thay thế cho các giải pháp kịp thời và lâu dài để giúp những người buộc phải di cư để tìm kiếm một nơi tị nạn mới.” Những lời của vị đại diện vang vọng lời Đức Thánh Cha kêu gọi chấm dứt chiến sự ở Đông Âu.
Cảm ơn những người đã làm việc để mang đến cho người di cư một vùng đất mới, tiến sĩ Di Giovanni lưu ý rằng “Xung đột và tình trạng tị nạn kéo dài không thể trở thành điều ‘bình thường mới’”. Những người tị nạn và di dời là con người và do đó là đối tượng của các quyền và nghĩa vụ, không phải đối tượng của sự hỗ trợ.
Tiến sĩ Di Giovanni nhắc lại khẳng định của Đức Thánh Cha Phanxicô rằng “xây dựng tương lai với những người di cư và tị nạn cũng có nghĩa là công nhận và đánh giá cao những đóng góp của họ, phát triển trong nhân loại chung của chúng ta và cùng nhau xây dựng ý thức đoàn kết ngày càng lớn hơn.”
Về vấn đề này, Tòa Thánh công nhận rằng sự đoàn kết được thể hiện bởi một số Quốc gia. Tuy nhiên, “sự đoàn kết hay sự quảng đại đều không phải là nguồn lực vô tận và chúng ta không thể để sự gần gũi về địa lý là yếu tố duy nhất để xác định trách nhiệm chung của chúng ta đối với việc bảo vệ hoặc mức độ hỗ trợ nhân đạo.” Đại diện Toà Thánh nhắc lại mối quan ngại rằng một số quốc gia đã “gia tăng gánh nặng cho các cộng đồng chủ nhà thông qua một chiến lược đối ngoại không bền vững, tránh chịu trách nhiệm trực tiếp đối với các dòng di cư đông đảo, thông qua các thỏa thuận ngăn họ ở những điểm chiến lược trên hành trình của họ.”
Hồng Thủy - Vatican News
Thánh Lễ kỷ niệm 60 năm khai mạc Công Đồng Vatican II
Bài đọc Tin Mừng được đọc trong Thánh Lễ được trích từ Tin Mừng theo thánh Gioan 21,15-17, về việc Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ trên biển hồ Tiberia sau khi Chúa sống lại, và hỏi ông Phêrô đến ba lần: “Con có yêu mến Thầy không?”.
Bài giảng của Đức Thánh Cha
“Con có yêu mến Thầy không?” Đây là câu đầu tiên Chúa Giêsu hỏi Phêrô trong đoạn Tin Mừng mà chúng ta đã nghe (Ga 21,15). Tuy nhiên, câu cuối là: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy” (câu 17). Vào ngày kỷ niệm khai mạc Công Đồng Vatican II, chúng ta cũng nghe thấy những lời này của Chúa nói với chúng ta, với chúng ta là Giáo Hội: Con có yêu mến Thầy không? Hãy chăn dắt chiên của Thầy.
Con có yêu mến Thầy không?
1. Trước hết, con có yêu mến Thầy không? Đây là một câu hỏi, bởi vì phong cách của Chúa Giê-su không phải là đưa ra câu trả lời, mà là đặt ra những câu hỏi, những câu hỏi khơi nên sự sống. Và Chúa, Đấng “trong tình yêu vĩ đại của mình, nói chuyện với con người như với bạn hữu và vui thích với con người” (Dei Verbum, 2), tiếp tục hỏi, vẫn luôn hỏi Giáo Hội, Hiền Thê của Người: “Con có yêu mến Thầy không?”. Công đồng Vaticanô II là một câu trả lời tuyệt vời cho câu hỏi này: để làm sống lại tình yêu của mình mà lần đầu tiên trong lịch sử, Giáo hội đã dành một Công đồng để tự hỏi chính mình, để suy ngẫm về bản chất và sứ mạng của chính mình; và tái khám phá mầu nhiệm ân sủng được sinh ra bởi tình yêu: đó là Dân Thiên Chúa, Nhiệm Thể Chúa Kitô, đền thờ sống động của Chúa Thánh Thần!
Đây là cái nhìn đầu tiên về Giáo hội, cái nhìn từ trên cao. Đúng vậy, trước hết, Giáo hội phải được nhìn từ trên cao, với đôi mắt yêu thương của Thiên Chúa. Chúng ta tự hỏi xem trong Giáo hội, chúng ta có khởi đi từ Thiên Chúa, từ cái nhìn yêu thương của Người trên chúng ta không? Luôn luôn có cám dỗ bắt đầu từ cái tôi hơn là từ Thiên Chúa, đặt các chương trình nghị sự của chúng ta trước Tin Mừng, để mình bị cuốn theo gió của thế gian, để chạy theo hoặc chối bỏ thời gian Chúa Quan Phòng ban cho chúng ta, mà quay lùi lại. Nhưng chúng ta hãy cẩn thận: cả chủ nghĩa cấp tiến nương theo thế gian và chủ nghĩa truyền thống hay chủ nghĩa quay lùi tiếc nuối một thế giới đã qua đều không phải là diễn tả của tình yêu, mà là sự bất tín. Chúng là những kiểu ích kỷ Pelagiô, đặt sở thích và kế hoạch của mình lên trên tình yêu đẹp lòng Thiên Chúa, tình yêu đơn sơ, khiêm tốn và trung tín mà Chúa Giê-su yêu cầu ở Phêrô.
Con có yêu mến Thầy không? Chúng ta hãy tái khám phá Công đồng để trả lại vị trí ưu tiên cho Thiên Chúa, cho điều cốt yếu: cho một Giáo hội nhiệt tâm đối với tình yêu dành cho Chúa của mình và cho tất cả con người, luôn được Người yêu mến; trả lại vị trí ưu tiên cho một Giáo hội giàu về Chúa Giêsu và nghèo về phương tiện; cho một Giáo hội tự do và giải thoát. Công đồng chỉ ra cho Giáo hội con đường này: là làm cho Giáo hội trở về Galilê, giống như thánh Phêrô trong Tin Mừng, trở về Galilê, về nguồn cội của tình yêu ban đầu của mình, để khám phá lại sự thánh thiện của Thiên Chúa trong sự nghèo khó của mình (xem Lumen gentium, 8c; chương V). Mỗi người chúng ta đều có Galilê của riêng mình, Galilê của tình yêu đầu tiên, và mỗi người chúng ta cũng được mời gọi trở lại Galilê để lắng nghe tiếng Chúa nói: “Hãy theo Thầy”. Và đến đó để tìm lại, nơi cái nhìn của Chúa Giêsu chịu đóng đinh và phục sinh, niềm vui đã mất, để chú tâm vào Chúa Giê-su. Hãy tìm lại niềm vui: một Giáo hội mất đi niềm vui là một Giáo hội đánh mất tình yêu. Vào những ngày cuối đời, ĐGH Gioan đã viết: “Cuộc đời bước sang chiều tà này của tôi không thể có gì hơn là chú tâm mọi sự vào Chúa Giêsu, con của Mẹ Maria... sự thân mật liên lỉ và lớn lao với Chúa Giêsu, được chiêm ngắm nơi hình ảnh hài nhi, bị đóng đinh, được tôn thờ trong Bí tích” (Giornale dell'anima, 977-978). Đây chính là cái nhìn trên cao của chúng ta, nguồn sống mãi mãi của chúng ta!
Anh chị em thân mến, chúng ta hãy trở về với nguồn tình yêu tinh tuyền của Công đồng. Chúng ta hãy tái khám phá niềm say mê của Công đồng và canh tân niềm say mê đối với Công đồng! Dìm mình trong mầu nhiệm của Giáo hội, là Mẹ và là Hiền thê, chúng ta cũng nói, cùng với Thánh Gioan XXIII. Giáo hội là nơi cư ngụ của niềm vui. Nếu Giáo hội không vui mừng, thì Giáo hội đã phủ nhận chính mình, bởi vì quên đi tình yêu đã tạo nên mình. Tuy nhiên, có bao nhiêu người trong chúng ta không thể sống đức tin một cách vui tươi, không xì xào và không chỉ trích? Một Hội Thánh yêu mến Chúa Giê-su không có thời gian cho những cuộc đụng độ, độc đoán và tranh cãi. Thiên Chúa giải thoát chúng ta khỏi sự chỉ trích và bất khoan dung, khắc nghiệt và tức giận. Đó không chỉ là vấn đề về phong cách, mà là về tình yêu thương, bởi vì như tông đồ Phao-lô dạy, những ai yêu thương thì làm mọi việc mà không phải kêu ca lẩm bẩm (xem Phi-líp 2:14). Lạy Chúa, xin dạy chúng con cái nhìn cao cả của Chúa, để nhìn Giáo hội như Chúa nhìn. Và khi chúng ta chỉ trích và bất mãn, thì hãy tự nhắc mình rằng Giáo Hội là chứng nhân vẻ đẹp của tình yêu của Ngài, và đang sống để đáp lại câu hỏi của Ngài: Con có yêu mến Thầy không?
Hãy chăn dắt chiên của Thầy
2. Con có yêu mến Thầy không? Hãy chăn dắt chiên của thầy! Lời thứ hai: Hãy chăn dắt: bằng lời này, Chúa Giê-su diễn tả tình yêu mà ngài mong muốn từ Phêrô. Chúng ta hãy nghĩ đến Phê-rô: ông là người đánh cá và Chúa Giê-su đã làm cho ông thành người thu phục người ta (x. Lc 5,10). Giờ đây Người giao cho ông một công việc mới, là một người chăn dắt, công việc mà ông chưa bao giờ thực hành. Đó là một bước ngoặt, bởi vì trong khi người đánh cá đánh bắt cho mình, kéo về phía mình, thì người chăn dắt chăm sóc người khác, chăm lo cho người khác. Hơn nữa, người mục tử sống với đàn chiên, nuôi dưỡng đàn chiên và trở nên gắn bó với chúng. Anh ta không ở trên, như người đánh cá, nhưng ở giữa. Người mục tử đi trước dân để chỉ đường, ở giữa dân như một người trong họ, và đi sau dân để gần gũi những người chậm ở sau. Người mục tử không ở trên, như người đánh cá, nhưng ở giữa. Đây là cái nhìn thứ hai mà Công Đồng dạy chúng ta, cái nhìn từ ở chính giữa: ở trong thế giới với người khác và không bao giờ cảm thấy mình ở trên người khác, như tôi tớ của một Nước Thiên Chúa vĩ đại hơn (x. Lumen gentium, 5); để đưa việc loan báo Tin Mừng vào đời sống và ngôn ngữ của con người (xem Sacrosanctum Concilium, 36), chia sẻ niềm vui và hy vọng của họ (xem Gaudium et spes, 1). Công đồng hết sức hợp thời: Công đồng giúp chúng ta từ chối cám dỗ khép mình trong hàng rào an ủi và xác tín của mình, để noi gương phong cách của Thiên Chúa, mà tiên tri Ê-zê-ki-en đã mô tả cho chúng ta hôm nay: “đi tìm con chiên bị mất và đem về nhà con chiên bị lạc, băng bó vết thương và chữa lành bệnh tật” (x. Ez 34:16).
Hãy chăn dắt: Giáo hội không mừng Công đồng để tự chiêm ngưỡng mình, nhưng để trao ban chính mình. Thật vậy, Mẹ phẩm trật thánh thiện của chúng ta, xuất phát từ trái tim của Thiên Chúa Ba Ngôi, tồn tại để yêu thương. Đó là một dân tộc tư tế (xem Lumen gentium, 10 ff.): không phải để giương mắt lên trước thế giới, nhưng để phục vụ thế giới. Chúng ta đừng quên: Dân Thiên Chúa được sinh ra để hướng ra ngoài và làm cho mình trở nên trẻ trung, vì Dân Thiên Chúa là bí tích của tình yêu, là “dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại” (Lumen gentium, 1).
Anh chị em thân mến, chúng ta hãy trở lại với Công đồng, nơi đã tái khám phá dòng sông sống động của Truyền thống mà không bị tắt nghẽn lại ở những truyền thống; Công đồng đã tái khám phá cội nguồn của tình yêu không phải để ở lại thượng nguồn, nhưng để cho Giáo hội có thể đi xuống hạ nguồn và là một kênh của lòng thương xót cho tất cả mọi người. Chúng ta trở lại với Công đồng để thoát ra khỏi chính mình và vượt qua cám dỗ của việc tự quy chiếu về mình. Hãy chăn dắt, Chúa lặp lại điều này với Giáo hội của Người; và khi chăn dắt, Giáo hội vượt qua nỗi hồi tưởng về quá khứ, sự nuối tiếc nuối về tầm cao, sự ràng buộc với quyền lực, bởi vì Dân Thánh của Thiên Chúa là một dân mục vụ: Dân Thánh không tồn tại để chăn dắt chính mình, nhưng cho người khác, tất cả những người khác, với tình yêu. Và, nếu đúng cần có sự quan tâm đặc biệt, thì đó là dành cho những người được Thiên Chúa yêu mến: cho những người nghèo, những người bị từ chối (xem Lumen gentium, 8c; Gaudium et spes, 1); như ĐGH Gioan đã nói, trở nên “Giáo hội của tất cả mọi người, và đặc biệt là Giáo hội của người nghèo” (Sứ điệp phát thanh gửi các tín hữu trên khắp thế giới một tháng trước Công đồng chung Vaticanô II, ngày 11/9/1962).
Tất cả cùng nhau, cùng thuộc về Chúa Giêsu
3. Con có yêu mến Thầy không? Hãy chăn dắt chiên của Thầy. Người không có ý nói đến một số ít, nhưng là tất cả, vì Người yêu tất cả mọi người, Người âu yếm gọi tất cả là “của Thầy”. Vị Mục Tử Nhân Lành nhìn thấy và muốn đàn chiên của mình được hiệp nhất, dưới sự hướng dẫn của các Mục Tử mà Người đã ban cho. Người muốn - cái nhìn thứ ba - cái nhìn cùng nhau: tất cả, tất cả cùng nhau. Công đồng nhắc nhở chúng ta rằng Giáo hội, theo hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi, là sự hiệp thông (x. Lumen gentium, 4,13). Ngược lại, ma quỷ muốn gieo mầm chia rẽ. Chúng ta không được khuất phục trước sự phỉnh gạt của nó, chúng ta không khuất phục trước cám dỗ của sự phân cực. Đã bao nhiêu lần, sau Công Đồng, các Kitô hữu đã muốn chọn một phần trong Giáo Hội, mà không nhận ra rằng họ đang xé rách trái tim Mẹ của họ! Đã bao lần người ta thích trở thành “những người ủng hộ cho nhóm của mình” hơn là tôi tớ của tất cả mọi người, những người cấp tiến và bảo thủ hơn là anh chị em, thuộc về “cánh tả” hay “cánh hữu” hơn là thuộc về Chúa Giê-su; nổi lên như “người bảo vệ sự thật” hoặc “nhà độc tấu của sự mới lạ”, thay vì nhận mình là những người con khiêm nhường và biết ơn của Giáo hội Mẹ thánh thiện. Chúa không muốn chúng ta như thế: chúng ta là chiên của Người, là đoàn chiên của Người, và chúng ta với nhau, hiệp nhất cùng nhau. Chúng ta hãy vượt qua những phân cực và giữ lấy sự hiệp thông, chúng ta hãy ngày càng trở nên “một”, như Chúa Giêsu đã cầu xin trước khi hiến mạng sống cho chúng ta (x. Ga 17,21). Xin Mẹ Maria, Mẹ của Giáo hội, giúp chúng ta về điều này. Ước gì chúng ta gia tăng lòng khao khát hiệp nhất, ước muốn dấn thân vì sự hiệp thông trọn vẹn giữa tất cả các tín hữu trong Chúa Kitô. Thật vui là hôm nay, cũng như trong Công đồng, các đại diện của các cộng đoàn Kitô khác đang hiện diện với chúng ta. Cảm ơn về sự hiện diện này!
Chúng con cảm tạ Chúa về món quà của Công đồng. Chúa yêu mến chúng con, xin giải thoát chúng con khỏi sự tự quy chiếu về mình và tinh thần chỉ trích kiểu thế gian. Xin giải phóng chúng con khỏi sự tự loại trừ khỏi sự hiệp nhất. Lạy Chúa, Đấng nuôi dưỡng chúng con bằng sự dịu dàng, xin dẫn chúng con ra khỏi tường rào của sự tự quy chiếu về mình. Lạy Chúa, Đấng muốn chúng con là đàn chiên hiệp nhất, xin giải phóng chúng con khỏi mánh khoé hiểm ác của những phân cực. Và chúng con, Giáo hội của Ngài, cùng với thánh Phêrô và như thánh Phêrô, chúng con thưa với Ngài: “Lạy Chúa, Chúa biết mọi sự; Chúa biết chúng con yêu mến Chúa” (x. Ga 21:17).
Văn Yên, SJ - Vatican News
“Công đồng Vatican II xóa sổ các nhà thờ”: sáu thành kiến sai lầm về công đồng
Một loạt các thành kiến, truyền tải mà không có độ lùi cũng như không có cái nhìn khách quan về các quyết định của các nghị phụ công đồng. Nhà thờ hoang vắng? Phụng vụ lỏng lẻo? Chủ nghĩa tương đối với tôn giáo? Tuần phục theo hiện đại? Nó không đơn giản như vậy…
lavie.fr, Sixtine Chartier, 2022-10-06
Ngày 11 tháng 10 năm 1962, lễ khai mạc Công đồng Vatican II tại Đền thờ Thánh Phêrô ở Rôma. KEYSTONE-PHÁP
Một sự kiện lớn, Công đồng Vatican II nhanh chóng trở thành điểm tham chiếu để phân tích những biến đổi trong đạo công giáo đương đại. Tác dụng thực sự của công đồng là gì? Giữa các văn bản công đồng và sự tiếp nhận chúng trên địa bàn, báo La Vie cố gắng tách cái thật ra khỏi cái giả – thoát khỏi truyền thuyết, dù đen hay lóng lánh, để khôi phục lại sự thật lịch sử, 60 năm sau ngày khai mạc, vào thời đó được gọi là “công đồng của kỷ nguyên không gian”.
1. Các nhà thờ trống vắng
Ý tưởng đã có từ rất lâu trong tâm trí mọi người. Thum thủm với đa số người công giáo, điều này được những người theo chủ nghĩa truyền thống dựng lên: Công đồng đã dọn sạch các nhà thờ. Những người ủng hộ thuyết này, từ lâu họ đã từ chối toàn bộ, không buồn bỏ thì giờ để phân tích.
Năm 2018, sử gia Guillaume Cuchet đặt vấn đề bằng cách đặt câu hỏi. Trong quyển sách Làm thế nào tất cả chúng ta không còn là thế giới kitô nữa. Giải phẫu về một sự sụp đổ (Comment notre monde a cessé d’être chrétien. Anatomie d’un effondrement, nxb. Seuil), ông dựa trên các cuộc điều tra thống kê của nhà giáo luật và nhà xã hội học Fernand Boulard (trong giai đoạn 1945-1965) rằng một “sự sụp đổ” tôn giáo (trên hết được minh họa là sự sụp đổ tàn bạo trong việc giữ đạo) đã xảy ra vào giữa những năm 1960, “ủng hộ Công đồng Vatican II”. Ngay trước tháng 5 năm 1968 và thông điệp Sự sống Con người Humanæ vitæ, lên án việc sử dụng thuốc tránh thai, đã khuếch đại thêm làn sóng này.
Khi Đức Gioan-Phaolô I bảo vệ viên thuốc ngừa thai…
Nếu không phải là nguyên nhân của cuộc khủng hoảng thì Công đồng kích hoạt – một khác biệt tinh tế mượn khái niệm của các kinh tế gia. Sử gia Guillaume Cuchet giải thích với báo La Vie: “Công đồng được cho là phải hiện đại hóa Giáo hội để phù hợp với “thế giới hiện đại” và phục hưng Giáo hội về mặt mục vụ. Điều tối thiểu có thể nói là công đồng đã không ảnh hưởng đến lợi ích của hoạt động về số lượng.” Theo sử gia, phân tích định tính thường khó nắm bắt, luôn là giả định.
“Sự trớ trêu lịch sử” này đã được nhận thức khá sớm, kể cả ở Vatican, như câu nói của Đức Phaolô VI năm 1972, được tác giả Andrea Riccardi trích dẫn trong quyển sách Giáo hội cháy. Khủng hoảng và tương lai của kitô giáo (L’Église brûle. Crise et avenir du christianisme, nxb. Cerf): “Người ta nghĩ rằng sau Công đồng sẽ có một ngày nắng đẹp trong lịch sử Giáo hội. Nhưng thay vào đó là một ngày đầy mây, bão tố, bóng tối, tìm kiếm và bất định.”
Sự trùng hợp đáng tiếc hay hệ quả trực tiếp của Công đồng Vatican II? Khó để nói. Sử gia Guillaume Cuchet cho biết: “Các cuộc tranh cãi diễn ra tốt đẹp trong Giáo hội để cố gắng hiểu những gì làm trục trặc. Chúng ta có nên hiện đại hóa không? Có phải chúng ta đã làm sai? quá nhiều? Hay chưa làm đủ? Nói một cách nhanh chóng, cuộc khủng hoảng xuất phát từ sự trùng hợp (không thể lường trước được) giữa một cuộc cải cách tôn giáo sâu đậm (Công đồng và các phương pháp áp dụng của Pháp) và một đột biến xã hội không kém quan trọng (vấn đề di cư ở nông thôn, xã hội tiêu thụ, truyền hình, những thay đổi trong điều kiện sống của phụ nữ, trình độ học vấn nâng cao, v.v.), bắt đầu tạo ra tất cả các hiệu ứng văn hóa của nó cùng một lúc – sự kiện tháng 5 năm 68 đến đúng lúc).”
Trên những điểm chính, nhà sử học nghiêng về “lối thoát khỏi việc giữ đạo bắt buộc, bị cho phạm tội trọng dưới thời công giáo cổ đại, như một sự kiện lớn đã nới lỏng toàn bộ hệ thống cùng một lúc” và do đó là việc giữ đạo bị sụp đổ, chứ không phải vì bất an của giáo dân trước cải cách phụng vụ, chắc chắn là có rủi ro cao, nhưng “đúng hơn là nên hoan nghênh”.
Bà Agnès Desmazières, sử gia làm việc tại Trung tâm Sèvres về kỷ luật của giáo sĩ trong thế kỷ 20, tin rằng chúng ta cũng phải đo lường bước ngoặt mà Thế chiến thứ hai đã tác động lên xã hội. Bà phân tích: “Đặc biệt ở Pháp, cuộc Kháng chiến đã tập hợp những người tin và những người không tin trong một số môi trường trí thức nào đó, và nó đặt vấn đề lương tâm. Những thay đổi xã hội quan trọng này cũng ảnh hưởng đến các linh mục và tu sĩ, tạo sự rời bỏ hàng ngũ của họ, điều này đã làm cho nhà chức trách giáo hội báo động ngay cả trước Công đồng Vatican II.” Hạt giống của một sự thay đổi xã hội sâu sắc sẽ tạo hiệu ứng ngay sau Công đồng.
2. Mọi thứ đều được phép trong phụng vụ
Cải cách phụng vụ là một trong những dấu hiệu ngoạn mục nhất của những thay đổi hoạt động do Công đồng Vatican II tạo ra trong Giáo hội công giáo, đến mức đôi khi nó được xem là alpha và omega của Công đồng. Và thường được tóm tắt trong hai khái niệm rõ rệt nhất: việc từ bỏ tiếng la-tinh để chuyển sang ngôn ngữ địa phương, và sự lật ngược tình thế của linh mục.
Trên thực tế, hai yếu tố này là phần nổi của tảng băng chìm, của một cải cách muốn tạo thêm chỗ cho “giáo dân”. Từ khóa của nó? “Sự tham gia tích cực” của giáo dân để họ “không dự mầu nhiệm đức tin này như người khán giả câm lặng, người đứng bên ngoài”.
Nếu chúng ta theo sát kỹ các thư của Công đồng, thì Hiến chế về Phụng vụ Thánh – văn bản đầu tiên do các Nghị phụ Công đồng ban hành năm 1963 – trên thực tế được cân nhắc nhiều hơn về những gì chúng ta hình dung về sự sáng tạo đã được thể hiện ở một số giáo xứ Pháp. Bà Agnès Desmazières cho biết: “Trên thực tế, văn bản này là một thỏa hiệp, duy trì ngôn ngữ la-tinh, nhưng cuộc cải cách, đã được bắt đầu ở Công đồng Vatican II, khuyến khích chúng tôi đi xa hơn trong việc dùng ngôn ngữ địa phương.”
Đức Phanxicô cảnh báo chống lại việc đi lui trong phụng vụ
Sẽ là sai lầm nếu tưởng tượng rằng nguyên tắc này đã được áp dụng trong phương thức của cuộc cách mạng Copernicus; một số thay đổi đã diễn ra trước đây. Linh mục David Gilbert của cộng đồng Thánh Máctinô và là giáo sư sử học tại Học viện Công giáo Paris cho biết: “Cải cách phụng vụ đã được đưa ra vào những năm 1950. Ở một số giáo xứ, thánh lễ đã được cử hành bằng tiếng Pháp, linh mục hướng về phía giáo dân. Điều này có thể giải thích vì sao đây là một trong những văn bản đầu tiên được bình chọn: ý tưởng của các nghị phụ đã khá rõ ràng.”
Tuy nhiên, khoảng thời gian chờ đợi giữa các quyết định của Công đồng, nhanh chóng được dịch ra dưới dạng các tập sách nhỏ tạm thời (từ năm 1964), và việc xuất bản chính thức sách lễ mới ở dạng chính thức (năm 1974) là hỗn loạn. Nhà sử học Florian Michel, chuyên gia về vấn đề này cho biết: “Đó là một cuộc chạy đua với thời gian để tránh quá nhiều sáng tạo hoặc áp dụng một cách vô trật tự với cải cách”. Vô ích: các tập sách không chính thức các lời nguyện Thánh Thể lưu hành và quảng bá “sự sáng tạo” nổi tiếng này mà một số người lên án là “quá đáng”. Tuy nhiên, rất khó để đo lường mức độ thực sự của một chuyển động.
3. Kỷ nguyên của thuyết tương đối tôn giáo
Việc công nhận nguyên tắc tự do tôn giáo qua Tuyên Ngôn Về Tự Do Tôn Giáo Dignitatis humanæ, ở cuối Công đồng, là một trong những phát triển giáo lý rộng lớn được Công đồng Vatican II cho phép. Việc canh tân liên tục, được các nghị phụ trình bày như một phát triển học thuyết của các giáo hoàng gần đây nhất: “Trong các vấn đề tôn giáo, không ai (bị) buộc phải làm trái với lương tâm của mình, cũng như, trong giới hạn vừa phải, không được ngăn cản hành động theo lương tâm của mình.”
Điều này bây giờ có ý nghĩa, nhưng sự phá vỡ là rất quan trọng: nó dường như đặt người tin và người không tin ngang hàng nhau, và trong tâm trí của người xưa thì đó là giữa sự thật và sai lầm. Người công giáo theo trào lưu chính thống dưới ngọn cờ của Marcel Lefebvre kêu lên: “Đó là thuyết tương đối!” Trên thực tế, chủ yếu là số phận của các Giáo hội bị đàn áp dưới chế độ Cộng sản – “Giáo hội im lặng” đã làm cho các nghị phụ công đồng, đặc biệt là Đức Phaolô VI bận tâm.
Mặt khác, với Hiến chế mục vụ về Hội Thánh Gaudium et Spes (văn bản về Giáo hội trong thế giới ngày nay), văn bản dành một mối quan hệ mới với con người, trong cuộc đối thoại với thế giới. Trong bối cảnh suy đồi văn hóa kitô giáo bắt đầu, Giáo hội hành động dựa trên việc khám phá ra phẩm giá của người không tin, người không còn buộc họ phải chọn không tin, nhưng là người nhận một giáo dục kitô giáo.”
Theo nghĩa này, sẽ sai nếu nói rằng Công đồng Vatican II từ bỏ ý tưởng truyền giáo. Ngược lại, các cuộc thảo luận ở Rôma và trên báo chí cho thấy mối quan tâm về một “Giáo hội truyền giáo” hướng về tất cả mọi người mà không phân biệt mức độ tín ngưỡng của họ – ít nhất đó là ý định.
Trên thực tế, việc cấy ghép với thế giới đã thực sự không xảy ra. Sử gia Guillaume Cuchet gợi ý: “Tự do tôn giáo đã tồn tại ở Pháp từ thế kỷ 19. Việc Công đồng ít nhiều tập hợp lại quan niệm mà những người “hiện đại” có về nó là một sự kiện trong học thuyết, nhưng không trong thực tế. Mọi thứ xảy ra như thể, để tạo ra một tác động tương xứng với tầm quan trọng lý thuyết của nó, văn bản đã được áp dụng ở nơi nó không được mong đợi, không phải bổ sung phần bên ngoài trong quan hệ với Nhà nước, nhưng phần bên trong, trong mối quan hệ của người tín hữu với bổn phận tôn giáo học thuyết đức tin của mình. Chúng ta đột nhiên cảm thấy ít nhiều mình được phép lọc loại, được “lắp ráp” một tôn giáo cho cá nhân mình…”
4. Sự từ bỏ cho những mục đích cuối cùng
Công đồng có làm cho “địa ngục thành trống rỗng” không? Sử gia Guillaume Cruchet nêu lên: “Công đồng Vatican II hầu như không nói về địa ngục, một cách chung chung, cũng như các cùng đích cuối cùng (cái chết, sự phán xét cụ thể, địa ngục, thiên đàng). Sự im lặng này, đến từ xa, tự áp đặt lên Công đồng. Năm 1966, các giám mục Pháp ghi nhận điều này trong thư trả lời cho hồng y Alfredo Ottaviani (thư ký của Văn phòng Tòa thánh trước đây) về những “sai sót” lan rộng trong Giáo hội kể từ Công đồng. Đó là một sự cắt đứt lớn trong nội dung được giảng dạy và đời sống đức tin, nhưng lời rao giảng về những mục đích cuối cùng này có lẽ đã phai mờ vì nó đã bị hủy hoại nghiêm trọng từ bên trong trước khi bị giáng lên ngọn đòn cuối cùng”.
Bà Agnès Desmazières nói: “Công đồng Vatican II chuyển Giáo hội từ khía cạnh cứu rỗi cá nhân sang chiều kích tập thể hơn. Tóm lại, ơn cứu độ không chỉ được xây dựng bằng cách đi dự Thánh lễ, nhưng bằng làm việc bác ái.”
5. Giáo hội hiện đại hóa
Trong một bài phát biểu làm mọi người ngạc nhiên ngày 25 tháng 1 năm 1959, Đức Gioan XXIII cho rằng, hơn cả “hiện đại hóa”, đó là khái niệm “cập nhật hóa” (aggiornamento), ngài dùng để xác định mục tiêu của Công đồng. Sử gia Guillaume Cuchet đề nghị: “Ngài có lợi thế để tránh nói về ‘cải cách’, điều này gợi nhớ đến Luther hay ‘hiện đại hóa’ nghe có vẻ quá thế tục. Chúng tôi cũng thấy các thuật ngữ ‘phát triển’ và ‘nguồn lực’ được dùng rất nhiều, trong bối cảnh liên tục với nguồn gốc, thân thiết với đạo công giáo.”
Nhưng tóm tắt, khi Công đồng thành một môi trường mênh mông hòa giải của Giáo hội với hiện đại sẽ là một bức tranh biếm họa. Sử gia Guillaume Cuchet gia giảm: “Trên thực tế, vào thế kỷ 19, Giáo hội đã đi qua thời gian của mình, đi từ những thỏa hiệp với hiện đại mà trong bất kỳ trường hợp nào, Giáo hội cũng không có ơn gọi ban phước một cách có hệ thống, cũng như không làm cho phần còn lại chán ngấy. Cần phải nghiên cứu vấn đề theo từng hồ sơ một”.
Ông giải thích: “Ở thế kỷ 19, Giáo hội chúc lành cho tiến bộ kỹ thuật nói chung, nhưng Giáo hội phải vất vả để phù hợp với nguyên tắc tự do lương tâm, nhưng không nhất thiết phải phù với thực tế của nó.” Tuy nhiên ông công nhận “Công đồng Vatican II thích ứng vào thời điểm, hiếm có trong lịch sử Giáo hội, khi công đồng cố gắng suy nghĩ một cách toàn cầu về sự hiện đại hóa của mình, và công đồng đã làm như vậy trong tinh thần cởi mở trái ngược với thái độ trước đây của Giáo hội.”
6. Chỗ đứng của giáo dân được định giá lại
Công đồng Vatican II dành hai bản văn chính cho giáo dân, có nghĩa là không dành cho linh mục hoặc nói rộng ra là các tu sĩ: Sắc lệnh Tông đồ giáo dân Apostolicam actuositatem, khuyến khích tạo các hội đồng mục vụ trong giáo xứ và giáo phận và Hiến chế mục vụ về Hội Thánh Gaudium et Spes. Sau này là một trong những bản văn tiêu biểu nhất của “tinh thần Công đồng” nổi tiếng, khởi đầu một mối quan hệ mới giữa Giáo hội và thế giới.
Đức Giám mục Erwin Kräutler: “Thượng hội đồng phải quyết định phong chức phó tế cho phụ nữ”
Bà Agnès Desmazières cho biết: “Đó là văn bản mà giáo dân tham gia nhiều nhất, vì nó phải diễn đạt ngôn ngữ của thế giới. Một điểm lớn đầu tiên trong lịch sử các công đồng.” Mặt khác là việc thành lập phó tế vĩnh viễn cho nam giới, đã có những tác động tương phản. Nhà sử học lưu ý: “Dù chức phó tế chủ yếu dành cho các quốc gia truyền giáo cần các linh mục, nhưng lại ít được dùng trong các trường hợp này và được đánh giá quá cao ở châu Âu, với xu hướng ưu tiên hóa các ông đã lập gia đình”.
Còn về vai trò của phụ nữ, bà Agnès Desmazières ghi nhận: “Các nữ giáo dân được bổ nhiệm làm thành viên dự thính ở Công đồng đã có vai trò đáng kể trong việc soạn thảo các văn bản. Sự đóng góp của họ không may bị giảm sau thượng hội đồng giám mục năm 1971, vì dành quyền lực cho các nữ tu.”
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Đức Hồng y Thụy Điển tái bày tỏ lo âu về Con đường Công nghị tại Đức
Đức Hồng y Anders Arborelius, Giám mục giáo phận Stockholm, Thụy Điển, tái bày tỏ lo âu về Con đường Công nghị tại Đức.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho hãng tin Công giáo tại vùng Thụy Sĩ Đức, truyền đi hôm mùng 09 tháng Mười vừa qua, Đức Hồng y Arborelius, dòng Cát Minh Nhặt Phép, cho biết ngài chia sẻ nhiều nguyện vọng của Con đường Công nghị, nhưng các cuộc thảo luận được tiến hành một cách quá tranh luận. Ngài nói: “Đối với tôi, sự đồng hành có nghĩa là nghiêm túc lắng nghe nhau và đến với nhau. Điều này có nghĩa là không chấp nhận những quan điểm cực đoan. Chẳng vậy sẽ có một thái cực hóa mạnh mẽ”.
Theo Đức Hồng y Giám mục giáo phận Stockholm, điều quan trọng đối với Đức Giáo hoàng Phanxicô là sự tham gia. Tại Thụy Điển này, Giáo hội đang tiến hành theo chiều hướng đó. “Nếu không có sự tham gia thì đời sống cộng đoàn của chúng tôi đã sụp đổ từ lâu. Tại nước này, chúng tôi có khoảng 600 giáo lý viên nam nữ, họ dấn thân thiện nguyện”. Đức Hồng y cũng nhận xét rằng tiến trình công nghị đồng hành trên thế giới do Đức Giáo hoàng đề xướng bắt đầu bằng mức độ nhỏ bé, rất khiêm tốn. Và điều đáng nói là những nhóm tín hữu di dân từ nơi ngoài có những mong đợi nơi Giáo hội không phải là những thánh lễ theo nghi thức cũ. Những người di dân nam nữ ít hiểu về những cải tổ cực đoan”.
Tại Thụy Điển hiện nay có khoảng 120.000 tín hữu Công giáo bản xứ và người nhập cư. Hội đồng Giám mục Bắc Âu cùng làm một bản trả lời duy nhất về những tham khảo và góp ý để gửi về Văn phòng Tổng thư ký Thượng Hội đồng Giám mục ở Roma.
Hồi mùa xuân năm nay, trong cuộc họp của các giám mục Bắc Âu, có công bố một thư ngỏ về Con đường Công nghị ở Đức, qua đó các vị bày tỏ lo âu về hướng đi, phương pháp và nội dung của Con đường này. Đặc biệt về chủ trương của nhiều người trong Con đường Công nghị, theo đuổi những điều trái ngược với đạo lý truyền thống của Giáo hội, như luân lý tính dục, quyền bính trong Giáo hội, linh mục phụ nữ hoặc bãi bỏ độc thân linh mục.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVANguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Hơn 13.000 tín hữu tham dự hành hương Mân côi tại Lộ Đức
Hơn 13.000 tín hữu đã tham dự cuộc hành hương tại Trung Tâm Thánh Mẫu Lộ Đức, bên Pháp từ ngày 05 đến ngày 08 tháng Mười vừa qua, nhân dịp lễ Đức Mẹ Mân côi.
Cuộc hành hương truyền thống này do các cha dòng Đa Minh tại Pháp tổ chức từ 114 năm nay. Sau hai năm bị hạn chế vì đại dịch, sinh hoạt nay đã trở lại bình thường. Các tín hữu đến từ nhiều nơi ở Pháp và các lãnh thổ hải ngoại. Phần lớn họ thuộc các nhóm đọc kinh Mân côi trong năm tại các giáo xứ liên hệ. Tổng cộng tại Pháp có tới 60.000 thành viên các Hội Mân côi.
Trong bốn ngày, có các thánh lễ trọng thể, thường do các giám mục chủ sự, và đông đảo các linh mục đồng tế, các cuộc kiệu Mình Thánh Chúa và rước đuốc, các buổi thuyết trình, học hỏi về các đề tài tôn giáo và Thánh Mẫu, những thách đố đối với đời sống đạo ngày nay, cũng như một loạt cuộc trao đổi, hội luận trong các nhóm nhỏ.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Ban Tổng Thư ký Thượng HĐGM gửi sứ điệp kỷ niệm Công đồng Vaticanô II
Trong sứ điệp, Ban Tổng Thư ký của Thượng Hội đồng lưu ý rằng bản thân Thượng hội đồng là một “thành quả” của Công đồng, “và thực sự là ‘một trong những di sản quý giá nhất’” (trích lời ĐTC Phanxicô ).
Sứ điệp của Ban Tổng Thư ký nhắc lại rằng mục đích của Thượng Hội đồng là “nối dài, trong đời sống và sứ mạng của Giáo hội, tinh thần của Công đồng Vaticanô II” và “thúc đẩy trong Dân Chúa việc sống tương hợp với giáo huấn của Giáo hội.”
Tiến trình hiệp hành đang diễn ra cũng theo bước Công đồng và bắt nguồn từ thần học của Công đồng Vaticanô II về Dân Chúa. Mặc dù từ “hiệp hành” không xuất hiện trong các văn kiện Công đồng, nhưng khái niệm này đã hiện diện xuyên suốt Công đồng, trong khi ba từ “hiệp thông, tham gia và sứ mạng… là những từ đồng nhất cách đặc biệt với những từ của Công đồng.”
Cuối cùng, sứ điệp nhấn mạnh tầm quan trọng của sự hiệp hành đối với Giáo hội trong tương lai, nhắc lại rằng cả Đức Biển Đức XVI và Đức Thánh Cha Phanxicô đã mô tả sự hiệp hành như một “chiều kích cấu thành” của Giáo hội. Hơn nữa, Đức Thánh Cha Phanxicô tuyên bố rằng con đường hiệp hành “là con đường mà Thiên Chúa mong đợi nơi Giáo hội của Thiên niên kỷ Thứ ba ”.
Văn Yên, SJ - Vatican News
ĐTC chúc lành cho người dân Brazil nhân dịp lễ tôn vinh Đức Mẹ Narareth
Lễ hội Círio de Nazaré ở Belém tôn vinh Đức Mẹ Nazareth, Bổn mạng của giáo phận Belém do Pará, Brazil. Đây là lần thứ 230 lễ hội này được giáo phận tổ chức.
Vào Chúa Nhật thứ hai của tháng 10, một cuộc rước kiệu tượng Đức Mẹ bằng gỗ từ Nhà thờ Chính toà Sé đến Quảng trường Đền thánh. Rất nhiều người đến từ khắp Brazil để tham dự lễ hội. Đây là một trong những cuộc rước kiệu lớn nhất thế giới.
Chúc lành của Đức Thánh Cha
Trong sứ điệp nhân danh Đức Thánh Cha gửi đến Đức Tổng Giám mục Alberto Taveira Corrêa của Belém do Pará, Brazil, nhân kỷ niệm lần thứ 230 lễ hội được cử hành, Đức Hồng y Pietro Parolin cho biết Đức Thánh Cha “mong muốn hiệp với tình con thảo của các tín hữu, những người chạy đến cầu xin Đức Mẹ Nazareth và đặt dưới áo choàng yêu thương và sự che chở từ mẫu của Mẹ, những ý nguyện mà họ mang trong lòng.”
Với ánh mắt hướng về Đấng Bảo trợ của Tổng giáo phận Belém do Pará và Nữ Vương của miền Amazon, Đức Thánh Cha nhắc nhở mọi người rằng “Đức Maria ghi nhớ mọi sự và suy niệm trong lòng”. Đồng thời ngài cầu xin Mẹ Maria, là Mẹ và là Thầy, “giúp chúng ta quý trọng và suy gẫm mọi sự, không sợ thử thách, trong niềm hân hoan xác tín rằng Chúa là Đấng thành tín và biết cách biến các thập giá thành sự sống lại.”
Cuối cùng, Đức Thánh Cha “khẩn cầu Đức Trinh Nữ, Mẹ của Tình Yêu, cầu bầu cùng Con của Mẹ để những ân sủng dồi dào có thể tuôn đổ trên người dân Pará và Brazil, để giúp mỗi người và mọi người sống Tin Mừng.”
Như một lời cam kết cho những ước nguyện này, Đức Thánh Cha vui lòng ban Phép lành cho các tín hữu Brazil và yêu cầu họ tiếp tục cầu nguyện cho ngài. (CSR_4620_2022)
Hồng Thủy - Vatican News
ĐTC Phanxicô tiếp đoàn hành hương đến lễ phong thánh Scalabrini
Đức Thánh Cha nhắc đến việc tông đồ của Đức cha Scalabrini là hỗ trợ những người di cư Ý. Vào thời đó, hàng ngàn người đã đến châu Mỹ. Đức cha Scalabrini đã nhìn họ với cái nhìn của Chúa Kitô, như thánh Matthêu viết: “Thấy đám đông, Người chạnh lòng thương, vì họ mệt mỏi và kiệt sức như đàn chiên không người chăn dắt” (9,36). Đức cha Scalabrini đã quan tâm đến việc phục vụ bác ái và mục vụ tri thức, để đảm bảo họ được giúp đỡ đầy đủ cả về vật chất cũng như tinh thần.
Ngày nay, di cư tạo nên một thách thức hết sức quan trọng. Đức Thánh Cha nhấn mạnh: “những người di cư đặt ra một nhu cầu cấp thiết, đặt tình huynh đệ lên trên sự từ chối, tình liên đới lên trên sự thờ ơ. Ngày nay, mỗi người đã được rửa tội được mời gọi phản chiếu cái nhìn của Thiên Chúa đối với những anh chị em di cư và tị nạn; để cho cái nhìn của Người mở rộng tầm nhìn của chúng ta, nhờ cuộc gặp gỡ với nhân loại lữ hành, qua sự gần gũi cụ thể, theo gương của Đức cha Scalabrini.”
Đức Thánh Cha nhắc những người sống linh đạo Scalabrini hai điều: trước hết là “sống và phổ biến văn hóa gặp gỡ”, một cuộc gặp gỡ bình đẳng giữa những người di cư và những người dân của đất nước chào đón họ. Kế đến là “thúc đẩy tình huynh đệ và tình bạn xã hội”. Ngài nói: “Chúng ta được mời gọi mở ra những không gian mới, nơi nghệ thuật, âm nhạc và sự đồng hành cùng nhau trở thành những khí cụ của các năng động đa văn hóa, nơi đó mọi người có thể thưởng nếm vẻ phong phú của sự gặp gỡ đa dạng.”
Cuối cùng, Đức Thánh Cha cầu chúc cho sự thánh thiện của thánh Giovanni Battista Scalabrini “lây nhiễm” đến những người sống linh đạo của ngài trong ước muốn trở nên thánh, như kế hoạch nguyên thuỷ của Thiên Chúa dành cho mỗi người. (CSR_4274_2022)
Văn Yên, SJ - Vatican News
ĐTC tiếp những người trẻ Bỉ hành hương Roma
Đức Thánh Cha diễn tả sự quý mến và ngưỡng mộ đức tin, sự dấn thân và chứng tá Kitô giáo của các bạn trẻ trong một xã hội ngày càng tục hoá. Ngài nói: “Thật đẹp khi thấy những người trẻ ở độ tuổi của các con sẵn sàng dấn thân cho các dự án loan báo Tin Mừng và sống sứ điệp của Đức Kitô giữa những công việc hàng ngày. Các con không chỉ là tương lai của Giáo hội, mà trên hết là hiện tại của Giáo hội. Giáo hội cần các con, cần sự quảng đại, niềm vui, ý chí của các con để xây dựng một thế giới khác, thấm nhuần các giá trị của tình huynh đệ, hòa bình và hòa giải.”
Đức Thánh Cha ghi nhận: “Các con kinh nghiệm được niềm vui và lòng nhiệt thành, nhưng đôi khi cũng sợ hãi, khó khăn và cả những vết thương, đối diện với giới hạn của bản thân và khủng hoảng. Vì lý do này, mối tương quan của các con với Đức Kitô phải vững chắc. Ngài là người bạn trung tín không bao giờ làm thất vọng… Các con không cần phải trở thành siêu nhân, nhưng là những người chân thành, chân thực và tự do.”
Các bạn trẻ gặp Đức Thánh Cha hôm nay là đại sứ của giới trẻ Bỉ cho Ngày Giới trẻ Thế giới 2023 tại Bồ Đào Nha. Vì vậy Đức Thánh Cha khuyến khích họ vun đắp sự gần gũi với tất cả những người trẻ, đặc biệt là những người sống trong hoàn cảnh bấp bênh, những người trẻ di cư và tị nạn, những người trẻ trên đường phố, những người trải qua một cuộc sống cô đơn và buồn bã.
Đức Thánh Cha gợi lên cho các bạn trẻ 2 câu hỏi, ngài nói: các con khao khát một Giáo hội đích thực, vậy “tôi, với tư cách cá nhân, đóng góp điều gì để tiến gần hơn đến mục tiêu này?” Và câu hỏi thứ hai: “Tôi có thể làm gì để tạo nên một cộng đoàn Kitô vui tươi?”
Cuối cùng, Đức Thánh Cha khuyến khích các bạn trẻ “để cho chính mình được soi sáng bởi những lời khuyên và chứng tá của những người lớn tuổi.” Ngài trích lại câu nói trong bài giáo lý về người già hồi tháng 8 vừa qua: “Nơi nào người trẻ nói chuyện với người già thì ở đó có tương lai; ngược lại, nếu không có sự đối thoại giữa người già và người trẻ, thì tương lai không rõ ràng ”(Bài giáo lý 17/8/2022). “Chính bằng cách đối thoại với người lớn tuổi, chúng ta có thể hình thành một nhân cách vững chắc cho những cuộc đấu tranh hàng ngày, và hơn nữa, họ truyền cho chúng ta đức tin và niềm tin tôn giáo của họ. Một trong những cuộc đấu tranh này là vì hòa bình.” Đức Thánh Cha mời gọi các bạn trẻ trở thành những nghệ nhân của hòa bình; trở thành đại sứ của hòa bình, để thế giới khám phá lại vẻ đẹp của tình yêu, của sự chung sống, của tình huynh đệ và liên đới.
Để làm được điều này, Đức Thánh Cha khuyến khích các bạn trẻ: “Đừng sợ! Hãy trở nên những người sáng tạo và giàu trí tưởng tượng…. Được tràn đầy ân sủng của Chúa và với quyền năng của Chúa Thánh Thần, các con đừng đợi đến ngày mai để cộng tác vào việc biến đổi thế giới bằng nghị lực, sự táo bạo và sự sáng tạo của mình”. (CSR_4273_2022)
Văn Yên, SJ - Vatican News