Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đôi nét về phép lành Urbi et Orbi
Đức giáo hoàng Phanxicô đọc Sứ điệp Phục sinh và ban phép lành Urbi et orbi từ ban công chính quảng trường Thánh Phêrô tại Vatican ngày 17. 4. 2022.
WHĐ (19.12.2022) - Theo truyền thống Giáo hội, hằng năm, Đức Thánh Cha ban phép lành Urbi et Orbi trong dịp Lễ Giáng Sinh và Lễ Phục Sinh.
Sau đây là đôi nét về phép lành Urbi et Orbi.
Ý nghĩa của phép lành Urbi et Orbi
Urbi et orbi, một thuật ngữ quay trở lại thời Đế chế La Mã, trong tiếng Latinh có nghĩa là thành phố (urbi) và thế giới (orbi). Ngày nay, Urbi et orbi diễn tả phép lành long trọng do Đức Thánh Cha dành cho thành Roma và toàn thế giới, ngay sau khi Ngài được bầu chọn, và hàng năm, khi Ngài kết thúc sứ điệp Phục sinh và Giáng sinh. Những tín hữu Công giáo sốt sắng nhận phép lành đặc biệt này, bất kể họ ở đâu, đều có cơ hội nhận được ơn toàn xá.
Bối cảnh của phép lành Urbi et Orbi
Người Roma cổ đại tin rằng họ là đế quốc hùng mạnh và có ảnh hưởng nhất trên thế giới. Các Hoàng đế Roma thường bắt đầu các sắc lệnh của mình bằng những từ urbi et orbi để củng cố sự thống trị trên toàn thế giới của Đế chế Roma, kéo dài từ năm 27 trước Công nguyên cho đến năm 476 sau Công nguyên.
Trong cuốn “A Companion to Early Modern Rome, 1492-1642” tác giả Pamela M. Jones viết rằng:
“Urbi et orbi”- cho thành phố Roma và thế giới- câu mở đầu chuẩn mực của các tuyên ngôn của người Roma cổ đại, đã trở thành và vẫn là phép lành chính thức của Đức giáo hoàng được ban trong những dịp quan trọng. Trong đó có thể kể đến: lần xuất hiện đầu tiên trước công chúng của Đức tân giáo hoàng; sau khi tuyên đọc Sứ điệp Phục sinh và Giáng sinh hằng năm với việc ban các ơn toàn xá. Phép lành Urbi et orbi không chỉ thể hiện thẩm quyền của Đức giáo hoàng với tư cách là Giám mục của Roma và là người đứng đầu Giáo hội Công giáo, mà còn là địa vị độc nhất của Roma như là thủ đô của một tôn giáo hoàn vũ.
Theo tài liệu lịch sử, thuật ngữ urbi et orbi đã được dùng trong Giáo hội Công giáo bắt đầu từ thế kỷ XIII. Khi Chân phước Giáo hoàng Grêgôriô (r. 1271-76) mặc phẩm phục giáo hoàng sau cuộc bầu cử mật nghị, Đức hồng y niên trưởng công bố: “Tôi trao cho ngài chức vụ giáo hoàng Roma với tư cách là vị lãnh đạo của thành phố và thế giới”.
Các vị giáo hoàng kế vị sau đó đã ban phép lành Urbi et orbi vào thời điểm bầu cử và vào những dịp khác như: Lễ Phục sinh, Thứ Năm Tuần Thánh, lễ Thánh Phêrô và Phaolô; dịp Lễ đăng quang Giáo hoàng (từ Vương cung Thánh đường thánh Phêrô), Lễ Thăng thiên (từ Vương cung thánh đường thánh Gioan Laterano), và Lễ Đức Mẹ Mông Triệu (từ Vương cung thánh đường Đức Bà Cả). Phép lành Urbi et orbi vào những ngày lễ đặc biệt tiếp tục cho đến năm 1870.
Vào giữa những năm 1800, khi chính phủ Ý cố gắng hợp nhất một quốc gia nằm trong số những quốc gia và vùng lãnh thổ được kết nối lỏng lẻo của Ý. Các lãnh thổ của Giáo hoàng cắt ngang nước Ý, và Đức Giáo hoàng Pio IX (r. 1846-78) từ chối giao các lãnh thổ đó cho chính phủ Ý. Quân đội Ý bắt đầu chiếm các vùng đất của Giáo hoàng bằng vũ lực, đến ngày 20. 9. 1870, Đức Piô IX rút vào Vatican như là nơi duy nhất mà ngài vẫn còn cai trị. Sau đó, ngài từ chối đi ra ngoài, tự biến mình thành tù nhân của Vatican và do đó đã ban phép lành Urbi et orbi từ bên trong Vương cung thánh đường Thánh Phêrô. Duy trì hành động mang tính phản kháng này, Đức Piô IX và các Đức giáo hoàng kế vị trong 52 năm tiếp theo đều từ chối rời Vatican và tiếp tục ban phép lành Urbi et orbi bên trong Vương cung thánh đường Thánh Phêrô.
Vào ngày 06. 02. 1922, Đức tân Giáo hoàng Piô XI (r. 1922-39) thực hiện việc ban phép lành Urbi et orbi từ ban công bên ngoài Vương cung thánh đường Thánh Phêrô. Nhiều người kết luận rằng đây là dấu chỉ cho thấy Đức Piô XI sẵn sàng chấm dứt tình trạng tù nhân tự áp đặt, và bắt đầu công khai giải quyết các vấn đề với chính phủ Ý, hay còn gọi là Vấn nạn Roma (Roman Question).
Trong những năm gần đây, phép lành Urbi et orbi tiếp tục được ban vào dịp bầu chọn Tân giáo hoàng, và hằng năm vào Lễ Phục Sinh và lễ Giáng Sinh.
Công thức ban phép lành Urbi et orbi
Đức Thánh Cha đọc lời kinh xá giải và công thức ban phép lành toàn xá Urbi et Orbi cho thành Roma và toàn thế giới.
- Xin các thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, mà chúng ta tin tưởng vào quyền bính và uy tín của các Ngài, cầu thay cho chúng ta trước mặt Chúa. Amen.
- Nhờ lời cầu nguyện và công nghiệp của Đức Trinh Nữ Maria, tổng lãnh thiên thần Micae, Thánh Gioan Tiền Hô, các thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, và tất cả các Thánh, xin Thiên Chúa toàn năng thương xót và tha thứ mọi tội lỗi cho anh chị em, và xin Chúa Giêsu Kitô dẫn đưa anh chị em đến sự sống muôn đời. Amen.
- Xin Thiên Chúa toàn năng và nhân hậu ban cho anh chị em ơn toàn xá, tha tội và xóa bỏ mọi tội lỗi của anh chị em, ban cho anh chị em một mùa sám hối chân thực và hiệu quả, một lòng trong sạch, sửa đổi đời sống, ân sủng và sự an ủi của Chúa Thánh Thần và sự kiên tâm làm việc thiện cho tới cùng. Amen.
- Và xin phúc lành của Thiên Chúa toàn năng, là Cha và Con và Thánh Thần, ngự xuống trên anh chị em và ở lại cùng anh chị em luôn mãi. Amen.
Phép lành Urbi et orbi của Đức tân giáo hoàng
Sau khi được bầu chọn, vị Tân giáo hoàng được dẫn tới ban công chính Đền thờ Thánh Phêrô, và được giới thiệu với các tín hữu đang tập trung tại Quảng trường Thánh Phêrô. Ngài có thể chia sẻ một vài cảm nghĩ và sau đó, ban phép lành Urbi et orbi đặc biệt cho thành Rôma và thế giới.
Tông hiến Universi Dominici Gregis cung cấp những hướng dẫn cho việc bầu chọn giáo hoàng Rôma, giải thích:
Khi các thủ tục khác được quy định trong Mật nghị (Ordo Rituum Conclavis) đã được thực hiện, các Hồng y cử tri tiến lên trước mặt vị tân Giáo hoàng theo cách thức quy định, để thực hiện một hành động tôn kính và vâng phục. Sau đó là nghi thức tạ ơn Thiên Chúa, tiếp đến, vị niên trưởng Hồng Y đẳng Phó Tế thông báo với mọi người đang chờ đợi rằng cuộc bầu cử đã diễn ra và tuyên bố danh hiệu của vị tân Giáo Hoàng. Đức Tân Giáo Hoàng xuất hiện tại ban công của Vương cung thánh đường, ban huấn từ và phép lành Urbi et Orbi cho thành Roma và Thế Giới.” (Số 89).
Những hành động này kết thúc tiến trình bầu chọn giáo hoàng.
Các Đức giáo hoàng cho đến Đức Phaolô VI (r. 1963-78) đều đã có lễ đăng quang, được cử hành long trọng ít ngày sau cuộc bầu cử, trong đó có nghi thức trao vương miện giáo hoàng. Đây là một nghi thức mang tính biểu tượng, vì Đức tân giáo hoàng nhận được thẩm quyền của mình khi đồng ý chấp nhận cuộc bỏ phiếu mật nghị bầu Giáo hoàng. Sau lễ đăng quang, Đức tân giáo hoàng đi tới hành lang chính Vương cung thánh đường Thánh Phêrô và ban phép lành Urbi et orbi trước sự hiện diện của đông đảo dân chúng tại quảng trường.
Tới thời Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II, vào năm 1978 lễ đăng quang của ngài được thay thế bằng lễ nhậm chức và không có nghi thức trao vương miện.
Đức giáo hoàng Phanxicô ban phép lành Urbi et orbi ngay sau khi được bầu chọn 3. 2013
Phép lành Urbi et orbi theo dòng thời gian
Được bắt đầu cách đây khoảng 750 năm, các Đức giáo hoàng tiếp tục truyền thống ban phép lành Urbi et orbi. Thông thường, sau khi ra trước ban công chính của Đền thờ thánh Phêrô, Đức Thánh Cha sẽ có một bài huấn dụ trước khi ban phép lành toàn xá Urbi et orbi. Như luật định, điều kiện để lãnh nhận ơn toàn xá là xưng tội, rước lễ, cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng, và từ bỏ mọi quyến luyến đối với tội lỗi. Theo lệ thường, hiệu quả của ơn toàn xá là được xoá các hình phạt tạm thời do tội lỗi bản thân. Ngoài ra, theo thời gian, Toà thánh cũng từng bước xác định việc tín hữu tại khắp nơi trên thế giới có thể lãnh nhận phép lành Urbi et orbi qua các phương tiện truyền thông.
- Đức Giáo hoàng Piô XII (r. 1939-58) quyết định rằng những người Công giáo quỳ trước chương trình phát thanh trong nghi thức ban phép lành Urbi et orbi có thể nhận được ơn toàn xá giống như những người hiện diện trực tiếp tại Quảng trường Thánh Phêrô.
- Phép lành Urbi et orbi đầu tiên được truyền hình là vào năm 1958 dưới triều Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII (r. 1958-63).
- Năm 1985, Toà thánh qui định tín hữu có thể lãnh nhận Phép lành toàn xá Urbi et orbi trực tiếp tại quảng trường thánh Phêrô hoặc gián tiếp qua việc nghe truyền thanh, xem truyền hình, hoặc theo dõi qua thiết bị máy tính.
- Trong thời gian gần đây, trước khi Đức Thánh Cha ban phép lành Urbi et orbi, Đức hồng y đẳng phó tế tuyên bố: “Đức Thánh Cha N. ban ơn toàn xá theo hình thức do Giáo hội quy định cho tất cả các tín hữu hiện diện và cho những ai nhận phép lành của ngài qua đài phát thanh, truyền hình và phương tiện truyền thông mới”.
- Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II (r. 1978-2005) khi trong giai đoạn hồi phục sau ca phẫu thuật mở khí quản vào Lễ Phục sinh năm 2005, dù không nói thành tiếng, ngài vẫn hiện diện để ban phép lành Urbi et orbi, do một vị hồng y tuyên đọc.
- Đức Thánh Cha Phanxicô, vào ngày 27. 3. 2020, đã chủ sự khoảnh khắc cầu nguyện nhằm khơi lên niềm hy vọng, kêu gọi nhân loại hướng về Thiên Chúa, và cầu xin chấm dứt đại dịch COVID-19. Buổi cầu nguyện kết thúc với việc chầu Thánh Thể và phép lành Urbi et orbi ngoại thường. Đức Thánh Cha đứng một mình trên các bậc thang của Quảng trường Thánh Phêrô, nâng cao Mặt nhật đựng Mình Thánh Chúa và ban phép lành cho thành phố Roma và thế giới.
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Chuyển ngữ từ: thepriest.com (15. 11. 2022)
Ơn gọi linh mục của cựu thủ môn Andres Gimenes
Andres Gimenes sinh năm 1992, là con út trong gia đình Công giáo có 5 người con. Theo như thầy Andres mô tả, gia đình thầy là một gia đình Công giáo truyền thống, mọi người rất yêu thương nhau, nhưng rồi vì một lý do nào đó mà thầy không biết cha mẹ chia tay nhau, hai người chị theo mẹ, thầy và hai anh ở với ông bà ngoại. Gia đình hoàn toàn tan nát.
Khi lên 10 tuổi, Andres bắt đầu cảm nhận sự cô đơn mặc dù được ông bà chăm sóc tận tình. Lên 16 tuổi, Andres bắt đầu đặt ra những câu hỏi hiện sinh: “Tại sao phải sống thế này thế kia nếu cuối cùng người ta phải chết? Tôi không thực sự tìm được ý nghĩa cho cuộc sống”.
Một ngày kia, Andres được mời tham dự một giải bóng đá. Tại đó mọi người phát hiện tài năng của Andres và quyết định gửi Andres đến các nước khác để học hỏi. Nhưng điều kiện để được đi là phải có phép của người cha. Đi tìm người cha đã 11 năm không gặp là điều khó với Andres mặc dù dành cả một tháng cho việc này. Sự kiện này đã làm cho Andres nổi loạn và hận cha mình bởi vì chính lúc cần ông thì ông lại không có mặt.
Sau đó Andres chơi cho một câu lạc bộ. Với bóng đá, những trận đấu, người hâm mộ làm cho Andres vui hơn. Nhưng rồi niềm vui cũng không kéo dài, Andres lại bắt đầu đặt câu hỏi về sự hiện hữu.
Khi thấy người anh hạnh phúc vui tươi tham gia vào một nhóm giới trẻ trong giáo xứ, Andres cũng muốn tham gia để có được niềm vui. Một chút tình cờ, Andres bước vào phong trào Con đường Tân Dự tòng nhưng gặp trở ngại. Andres nói: “Tôi đã nghe các bài giáo lý. Có điều gì đó nói với tôi, nhưng tôi không hiểu. Bởi vì tôi thiếu những điều này trong gia đình như tình thương của cha mẹ, đối với tôi tình yêu Chúa không tồn tại hoặc không thể chạm đến với tôi. Và nếu một số người yêu thương tôi, đó là chỉ vì họ thấy nơi tôi một người đẹp trai, một cầu thủ bóng đá. Chính nhờ những gì tôi làm được mà tôi mua được tình thương. Về phần mình tôi cũng cảm thấy tôi không thể yêu thương người khác”.
Sau đó, một cặp vợ chồng của Con đường Tân Dự tòng đã hết mình giúp đỡ mỗi khi Andres gặp vấn đề. Andres đặt câu hỏi: “Tại sao một người có thể giúp đỡ tận tình một người xa lạ, không phải con của mình? Điều này có nghĩa là tình yêu hiện hiện trong cuộc sống”. Từng bước, cũng như những người khác trong cộng đoàn, Andres tái khám phá phép rửa đã lãnh nhận.
Cùng thời gian đó Andres ngày càng thành công trong lĩnh vực bóng đá, được chọn ở những vị trí quan trọng. Đúng lúc đó, một giáo lý viên hỏi Andres: “Bạn muốn trở thành cầu thủ, nhưng bạn có đặt câu hỏi Chúa muốn gì cho tôi chưa?”. Andres nói: “Như thế là đã rõ, nếu Chúa ban cho tôi tài năng này, đó là vì Người muốn tôi làm chứng cho Người trong sự thành công này. Hiểu như thế nhưng tôi vẫn cho rằng đây không phải là điều Chúa sắp đặt cho tôi”.
Trung thành tham gia vào các hoạt động của Con đường Tân Dự tòng, Andres đã được biến đổi. Và hai năm sau, trong một lần mời gọi định hướng ơn gọi, Andres đã xác nhận về cuộc đời mình với những lời xác tín: “Tôi không thể giải thích điều này như thế nào. Khi ngồi lắng nghe giáo lý, và tôi đã đứng dậy lúc nào không biết khi linh mục mời gọi những ai sẵn sàng cho ứng viên linh mục, tôi đã đứng dậy. Và giờ đây tôi đã là chủng sinh của Chúa”.
Đối với thầy Andres, cảm nghiệm tình yêu Chúa, trước hết là nhận ra những sai lầm của mình. Cha nói: “Nếu Chúa ban Con Một của Người cho tôi, đó là vì Người yêu thương tôi. Làm thế nào tôi trở thành linh mục, nếu tôi không có khả năng yêu thương? Để chấp nhận Thiên Chúa như người Cha, tôi phải tha thứ cho cha tôi. Tôi không thể bước vào chủng viện nếu không có sự đồng ý của cha tôi, người mà tôi đã chối từ. Tôi không biết ông đang sống ở đâu, nhưng chưa hết một ngày tôi đã tìm được cha tôi. Chúng tôi như những người xa lạ, nhưng có thể tha thứ và làm cho ông không cảm thấy bị xét xử đã giúp tôi rất nhiều trong hành trình ơn gọi”.
Đối với thầy Andres ở bênh giường bệnh của người mẹ khi bà hấp hối cũng là một khoảnh khắc rất có ý nghĩa: “Tôi sẽ không bao giờ quên ánh mắt của bà dành cho tôi. Lần đầu tiên trong đời tôi cảm thấy được yêu thương một cách nhưng không. Ngay cả khi ngôi mộ của bà đã được đóng lại, cái nhìn này vẫn còn in sâu trong tâm trí tôi. Ánh mắt này làm cho tôi hiểu rằng cuộc sống là vĩnh cửu và cái chết không phải là hết. Và nhờ cái chết tôi có thể trải nghiệm cuộc sống và thấy được ý nghĩa của nó”.
Thầy giải thích về ơn gọi linh mục của mình: “Khi đáp lời ‘xin vâng’ với ơn gọi linh mục, tôi biết rằng tôi không đơn độc. Tôi biết ơn gọi của tôi không thuộc về tôi. Ơn gọi này đến từ Chúa qua Giáo hội và được cộng đoàn hỗ trợ”.
Ngọc Yến - Vatican News
Một gia đình Ba Lan sẽ được phong chân phước vì giúp đỡ người Do Thái
Đầu tiên là một gia đình Ulma người Ba Lan, với cha mẹ là Józef và Wiktoria cùng sáu người con. Gia đình này đã bị Đức quốc xã giết vào năm 1944 vì che chở cho tám người Do Thái.
Sau khi Hitler quyết định thực hiện “giải pháp cuối cùng” dã man, mặc dù biết nguy hiểm và đang gặp khó khăn về tài chính nhưng được đánh động trước giới răn yêu thương và mẫu gương của Người Samari nhân hậu, gia đình Ulma đã tìm cách giấu một gia đình Do Thái trong một năm rưỡi thì bị phát hiện. Sau khi giết những người Do Thái, các đặc vụ của chế độ Đức Quốc xã đã hành quyết gia đình Ba Lan này như một lời cảnh báo cho những người khác. Cùng được phúc tử đạo với cha mẹ là những người con, cả người con bà Wiktoria đang mang trong lòng.
Đức Thánh Cha cũng nhìn nhận nhân đức anh hùng của cha Matteo Ricci Dòng Tên và tuyên phong ngài là Đấng Đáng Kính. Cha Ricci được biết đến là một trong những nhà truyền giáo vĩ đại của Giáo hội và vị tông đồ của Trung Quốc.
Cha được yêu mến đặc biệt ở châu Á, còn trên thế giới tiếng tăm về phép lạ của cha lan rộng khắp nơi. Cha Ricci truyền bá đức tin qua đời sống thánh thiện và bác ái đối với mọi người hơn là qua lời nói.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhiều lần nhắc đến hình ảnh của cha Ricci: “Cha vĩ đại không chỉ vì những gì ngài viết, nhưng còn vì ngài là một con người của những cuộc gặp gỡ, một con người của văn hóa gặp gỡ; một người đã vượt lên tư cách là một người ngoại quốc và trở thành một công dân của thế giới. Cha Matteo Ricci là một trong những người đầu tiên thiết lập nhịp cầu tình bạn giữa Trung Quốc và phương Tây, thực hiện một mô hình hội nhập văn hóa vẫn còn hiệu lực của thông điệp Kitô giáo vào thế giới Trung Quốc.”
Bên cạnh đó, trong sắc lệnh, Đức Thánh Cha cũng phê chuẩn phong chân phước cho vị tôi tớ Chúa Franz de Castro Holzwarth, giáo dân người Brazil, sống vào thế kỷ trước. Franz de Castro đã sống chứng tá đức tin qua việc chấp nhận làm con tin trong một cuộc nổi dậy ở nhà tù giữa cảnh sát và tù nhân, nơi Franz de Castro đã từng hỗ trợ tinh thần và vật chất cho các tù nhân. Cảnh sát không tuân thủ các thoả thuận đã nổ súng vào các tù nhân và Franz de Castro.
Ngoài ra, Đức Thánh Cha còn ủy quyền cho Bộ Phong thánh ban hành các Sắc lệnh liên quan đến tiến trình trở thành Đấng Đáng Kính của 13 Tôi tớ Chúa và một tân chân phước. (CSR_5371_2022)
Ngọc Yến - Vatican News
Đức Thánh Cha: Vì chiến tranh, Giáng Sinh năm nay buồn
Trước hết về tình hình chiến sự thế giới, Đức Thánh Cha rất lo ngại đến sự dửng dưng của con người thời nay. Điều tồi tệ nhất có thể xảy ra đó là nhìn đi nơi khác. Ngài mời gọi giảm chi tiêu Giáng Sinh, và nhận xét rằng vì chiến tranh Giáng Sinh năm nay là một Giáng Sinh buồn. Đức Thánh Cha nói: “Hãy có một con tim quảng đại, đừng mua sắm như thể không có chuyện gì xảy ra. Sự dửng dưng là một trong những điều chúng ta phải nỗ lực đấu tranh và các nhà báo có sứ vụ đánh thức những con tim để dân chúng không bị rơi vào văn hoá dửng dưng. Phải ý thức về thời điểm lịch sử này, về sự nghèo đói. Vấn đề này thuộc về tất cả mọi người. Chúng ta mừng Giáng Sinh bởi vì đó là một điều đẹp. Chúng ta ăn mừng, nhưng với chừng mực”.
Về vai trò của những người cầm quyền trong việc giải quyết đói nghèo và sự tham nhũng vừa xảy ra trong tuần qua ở châu Âu, Đức Thánh Cha khẳng định đây là một điều gây tai tiếng. Theo ngài, vì yếu đuối ai cũng có tội. Nhưng tham nhũng thì không. Bởi vì tham nhũng còn nặng hơn nữa, vì nó làm cho tâm hồn bị thối rữa.
Đối với thể thao, đặc biệt trận chung kết World Cup, phóng viên hỏi Đức Thánh Cha có lời chúc nào cho các nhà vô định không, ngài trả lời: “Đối với những người chiến thắng tôi cầu chúc họ chiến thắng với lòng khiêm tốn. Và những người chưa thắng, tôi cầu chúc họ sống điều này với niềm vui vì giá trị lớn không phải chiến thắng nhưng là một lối chơi đẹp. Cả hai bên đều có thể bắt tay nhau khi trận đấu kết thúc.”
Đức Thánh Cha còn nhấn mạnh rằng một điều xấu nhất trong thể thao đó là “bán độ”. Ngài nói: “Bán độ không phải là thể thao. Thể thao làm cho người ta trở nên cao quý. Chúng ta phải làm cho tinh thần thể thao phát triển và tôi hy vọng giải vô địch thế giới này sẽ giúp khôi phục tinh thần thể thao, điều làm cho bạn trở nên cao quý.”
Đối với sứ vụ kế vị thánh Phêrô, mà trong vài tháng nữa sẽ tròn 10 năm, Đức Thánh Cha bày tỏ sự hài lòng về điều mà ngài cho là không quan trọng nhất nhưng lại thấy rõ nhất đó là kinh tế. Hiện nay, tổ chức này đã “sạch” hơn, mạnh mẽ hơn, tránh được những điều tệ hại. Đức Thánh Cha giải thích kết quả có được là nhờ sự giúp đỡ của nhiều người.
Còn điều quan trọng nhất mà Đức Thánh Cha cảm thấy hài lòng trong gần 10 năm qua đó là tinh thần truyền giáo, loan báo Tin Mừng. Ngài nói: “Loan báo Tin Mừng rất quan trọng. Chúng ta có thể có một giáo triều rất trật tự, một giáo xứ, giáo phận có tổ chức, nhưng lại có thể không có tinh thần truyền giáo. Cần phải cầu nguyện. Không cầu nguyện sẽ không có tinh thần này. Cầu nguyện rất quan trọng.”
Về đời sống cá nhân, cách riêng đời sống thiêng liêng, Đức Thánh Cha trả lời: “Tôi cảm thấy hạnh phúc. Chúa đồng hành với tôi, tôi cảm thấy mình là mục tử, tôi đang sống ơn gọi của mình, tôi là một tội nhân. Cứ 15 ngày một cha dòng Phanxicô thánh thiện đến giải tội cho tôi, nhưng tôi vui vì thấy Chúa giúp tôi tiến bước.” (CSR_5384_2022)
Ngọc Yến - Vatican News
“Đôi khi ngài không nói gì trong mười phút”
Đức Phanxicô cầu nguyện cùng với những người dự thánh lễ tại Nhà nguyện Marta
la-croix.com, Loup Besmond de Senneville, Rôma, 2022-12-17
Trong cuộc gặp riêng của ngài, đôi khi Đức Phanxicô thinh lặng lâu để cầu nguyện. Thứ bảy hàng tuần, đặc phái viên thường trực của báo La Croix tại Vatican sẽ đưa quý độc giả vào hậu trường của quốc gia nhỏ nhất thế giới này.
Từ này xuất phát từ một trong những người thường xuyên ở bên cạnh ngài ở Nhà Thánh Marta, nơi ở dành cho các tu sĩ khi họ có công việc về Vatican, ở trung tâm của quốc gia nhỏ nhất thế giới. Đây là nơi Đức Phanxicô ở từ khi được bầu chọn năm 2013, ngài không ở Dinh Tông tòa. Do đó, chính tại nơi đây ngài sống và làm việc, có văn phòng để ngài viết và đọc, nhưng cũng là nơi ngài tiếp những người ngài muốn đặt câu hỏi về một hồ sơ nào đó.
Các cuộc hẹn không bao giờ có trong chương trình nghị sự của ngài, không giống như các cuộc gặp chính thức với các giám mục, nguyên thủ quốc gia và sứ thần diễn ra mỗi buổi sáng ở Dinh Tông tòa.
Tại Nhà Thánh Marta, Đức Phanxicô nghe nhiều hơn nói, và chính trong những cuộc trò chuyện riêng tư này, đôi khi ngài im lặng. Một trong những người thân tín của ngài cho biết “Đôi khi ngài không nói gì trong mười phút. Ngài dừng lại và cầu nguyện trước mặt khách, trong im lặng. Sau đó ngài nói với khách những gì ngài cảm nhận được nơi Chúa.”
Trên thực tế, những khoảng khắc im lặng này là một phần trong phương thức ra quyết định của ngài. Khi được hỏi lý do cho những hành động hoặc lời nói của mình, ngài thường trả lời theo cách bình tâm: “Tôi cảm thấy như vậy.” Là tu sĩ Dòng Tên, là tổng giám mục Buenos Aires, ngài luôn đi theo cùng con đường để quyết định: lắng nghe, cầu nguyện và đưa ra quyết định. Sự im lặng, ngay cả trong trọng tâm của các cuộc họp với những người gần gũi nhất, là dấu hiệu của điều này.
Marta An Nguyễn dịch
Nguồn: phanxico.vn
Đức Thánh cha tiếp Tổng liên đoàn lao công Ý
Trong buổi tiếp kiến sáng hôm 19 tháng Mười Hai, dành cho hơn 1.000 thành viên Tổng liên đoàn Lao công Ý, gồm giới lãnh đạo và các đại biểu, Đức Thánh cha Phanxicô kêu gọi tăng cường an ninh cho các công nhân và chống lại nạn bóc lột người.
Tổng liên đoàn Lao công Ý, gọi tắt là CGIL, là công đoàn lớn nhất tại nước này với hơn 5 triệu đoàn viên. Đây là lần đầu tiên Đức Thánh cha tiếp kiến công đoàn này.
Lên tiếng trong buổi gặp gỡ tại Đại thính đường Phaolô VI ở nội thành Vatican, Đức Thánh cha bày tỏ đặc biệt quan tâm đến tình trạng an ninh của các công nhân. Ngài nói: “Vẫn còn có quá nhiều người chết, bị tàn phế và bị thương tại những nơi làm việc! Cái chết như thế là một thất bại cho toàn thể xã hội. Thay vì đếm số người chết mỗi năm khi làm việc, chúng ta phải nhắc nhớ tên của họ, vì họ là những con người chứ không phải những con số. Chúng ta đừng để cho lợi lộc và con người được đặt ngang với nhau! Sự tôn thờ tiền bạc có xu hướng chà đạp mọi sự và mọi người và không duy trì sự khác biệt”.
Quan tâm thứ hai của Đức Thánh cha là “nạn bóc lột người. Có những hình thức bạo lực, như nạn tuyển dụng bất hợp pháp các công nhân và đòi những người làm thợ trong ngành nông nghiệp làm việc như nô lệ hoặc trong các công trường xây cất, hay những nơi lao động khác, bó buộc phải làm theo những ca cơ cực, sự ép buộc trong các hợp đồng làm việc, coi nhẹ việc có thai và sinh con của các nữ công nhân, tạo nên sự xung khắc giữa công việc và đời sống gia đình”.
Đức Thánh cha cũng tố giác hiện tượng trong những năm gần đây, có sự gia tăng những người gọi là “công nhân nghèo”, những người tuy có việc làm nhưng không nuôi sống nổi gia đình và mang lại hy vọng cho tương lai. Công đoàn được kêu gọi lên tiếng thay cho những người không có tiếng nói.” Ngài nói: “Đặc biệt tôi nhắc nhở anh chị em chú ý đến nhưng người trẻ, thường bị bó buộc ký những hợp đồng bấp bênh, không thích hợp, làm việc như nô lệ”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Cuộc phỏng vấn Đức Thánh cha dành cho báo ABC Tây Ban Nha
Trong cuộc phỏng vấn dành cho nhật báo ABC, xuất bản tại Tây Ban Nha, hôm 18 tháng Mười Hai vừa qua, Đức Thánh cha Phanxicô cho biết hồi năm 2013, ngài đã viết một thư để tuyên bố từ nhiệm trong trường hợp bị bệnh nặng và bị cản trở trường kỳ vì lý do sức khỏe, không thể thi hành sứ vụ.
Thư này được ngài trao cho Đức Hồng y Tarcisio Bertone, bấy giờ là Quốc vụ khanh Tòa Thánh, và yêu cầu trao lại cho vị Quốc vụ khanh kế nhiệm.
Đức Thánh cha cũng nhắc lại rằng cả Đức Giáo hoàng Phaolô VI cũng đã để lại thư từ nhiệm như thế trong trường hợp bị cản trở vì lý do sức khỏe. Vì thế, Đức Thánh cha cho biết ngài sẽ không thiết lập quy chế về các vị Giáo hoàng từ nhiệm và nói rằng: “tôi có cảm tưởng chính Chúa Thánh Linh không muốn tôi bận tâm về những chuyện này”.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho Giám đốc báo ABC, ông Julián Quirós, và phái viên của báo này tại Vatican là ông Javier Martínez-Brocal, Đức Thánh cha còn đề cập đến một số vấn đề khác.
Ví dụ, những gì đang xảy ra tại Ucraina, Đức Thánh cha nói “đó thực là điều kinh khủng. Có sự tàn ác khiếp đảm”, và ngài cho biết là chưa thấy những dấu hiệu nào báo trước chiến tranh này sẽ chấm dứt trong thời gian ngắn. Ngài nhắc lại rằng chiến tranh Ucraina là một thứ “thế chiến”, có nhiều bàn tay can dự vào chiến tranh, và nói: “Tôi tin rằng một cuộc chiến tranh sẽ xảy ra khi một đế quốc thấy mình bắt đầu suy yếu và khi người ta có những võ khí phải sử dụng, cần bán đi hoặc thử nghiệm. Tôi thấy dường như có nhiều lợi lộc trong vụ này”. Đức Thánh cha cho biết đã lên tiếng hơn 100 lần về chiến tranh Ucraina. Ngài nói: “tôi làm điều tôi có thể, nhưng họ không lắng nghe”. Ngài cũng tiết lộ rằng “lần thứ ba, Tổng thống Volodymyr Zelensky của Ucraina đã gửi một trong những cố vấn tôn giáo của ông đến gặp tôi. Tôi vẫn giữ tiếp xúc, tiếp đón, trợ giúp”.
Trả lời một câu hỏi về vai trò của phụ nữ trong Giáo triều Roma, Đức Thánh cha cho biết ngài có ý định bổ nhiệm một phụ nữ làm Bộ trưởng trong vòng hai năm tới đây, khi bộ này trống vị bộ trưởng. Đức Thánh cha nói: “Không có cản trở gì khi một phụ nữ làm bộ trưởng một bộ mà giáo dân có thể đảm trách. Nếu đó là một bộ thuộc bản chất bí tích, thì phải do một linh mục hoặc giám mục làm bộ trưởng”.
Trả lời câu hỏi về tương quan với vị Giáo hoàng tiền nhiệm, Đức Thánh cha Phanxicô gọi Đức Biển Đức XVI là một “thánh nhân” và “là người có đời sống tâm linh cao độ”. Ngài thường viếng thăm và luôn cảm thấy được khích lệ nhờ cái nhìn trong sáng của Người. “Đức nguyên Giáo hoàng có một tinh thần hài hước, minh mẫn, rất sinh động, nói nhỏ nhưng theo dõi cuộc nói chuyện. Tôi ngưỡng mộ sự sáng suốt của người. Thật là một con người vĩ đại”.
Về Giáo hội Công giáo tại Đức đang bận tâm với tiến trình công nghị, tạo nên nhiều phản ứng, cả những phản ứng tiêu cực, Đức Thánh cha Phanxicô nhắc lại lá thư “rất rõ ràng” ngài viết hồi tháng Sáu năm 2019: “tôi đã viết một mình, tôi mất một tháng để viết thư đó. Đó là một thư để nói: “Anh em, hãy suy nghĩ lại”.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Đức Hồng y Krajewski chở đồ cứu trợ sang Ucraina
Hôm 17 tháng Mười Hai vừa qua, Đức Hồng y Konrad Krajewski, người Ba Lan, Bộ trưởng Bộ Bác ái của Tòa Thánh, đã lên đường chở đồ cứu trợ sang Ucraina để giúp đỡ dân chúng đang chịu cảnh giá lạnh trong cuộc chiến hiện nay.
Đây là lần thứ 5 Đức Hồng y được Đức Thánh cha gửi sang Ucraina để biểu lộ quan tâm và sự gần gũi của ngài đối với dân chúng, nạn nhân chiến tranh. Lần này, Đức Hồng y Krajewski chở các đồ đã quyên được, nhất là các quần áo giữ ấm, các máy phát điện, quyên góp được trong những tuần qua, với sự đóng góp của những hãng xưởng và những người hảo tâm.
Các đồ cứu trợ được Đức Hồng y cho chở tới thành phố Lvov ở miền tây Ucraina, và từ đó được phân phát tại các trung tâm ở các nơi trước lễ Giáng sinh.
Trong những ngày qua, quân Nga gia tăng các cuộc bắn tên lửa vào các thành phố ở Ucraina đã phá hủy các cơ cấu hạ tầng, các trung tâm điện lực, kéo dài tình trạng không có điện và năng lượng tại nước này.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Tĩnh tâm Mùa Vọng 2022 cùng Giáo triều Rôma - Bài thứ 3: Cửa Đức Mến
Lúc 9 giờ sáng thứ Sáu 16 tháng 12, Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa đã trình bày bài thuyết giảng tĩnh tâm thứ ba và cũng là bài cuối cùng cho Mùa Vọng 2022 trước Đức Thánh Cha Phanxicô và Giáo triều Rôma.
Sáu các bài thuyết giảng về “Cửa Đức Tin” và “Cửa Đức Cậy”, bài cuối cùng này có chủ đề: “Cửa Đức Mến”,
Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
cao lên nữa, hỡi cửa đền cổ kính,
để Đức Vua vinh hiển ngự vào (Tv 24:7)
Trong ý định của chúng ta là mở các cánh cửa cho Chúa Kitô, Đấng đang ngự đến, chúng ta đã đến được cánh cửa trong cùng của “lâu đài bên trong”, là cánh cửa của nhân đức bác ái thần học, hay gọi tắt là đức mến.
Nhưng mở cánh cửa đức mến cho Chúa Kitô có nghĩa là gì? Phải chăng điều đó có nghĩa là chúng ta chủ động yêu mến Thiên Chúa? Đó là cách các triết gia ngoại giáo trả lời, dựa trên ý tưởng họ có về tình yêu của Chúa. “Aristotle nói Thượng đế tác động đến thế giới chừng nào Ngài được yêu thương”. Thiên Chúa được yêu là điều quan trọng hơn Ngài yêu chúng ta! Quan điểm triết học này đã hoàn toàn bị đảo ngược trong Tân Ước:
Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng là chính Người đã yêu thương chúng ta và sai Con của Người đến đền tội cho chúng ta… Chúng ta yêu mến vì Người đã yêu thương chúng ta trước (1Ga 4:12.19).
Henri de Lubac đã viết: “Thế giới phải biết rằng sự mặc khải về Tình yêu Thiên Chúa làm đảo lộn mọi thứ mà người ta đã quan niệm về thần thánh”. Cho đến ngày nay, chúng ta vẫn chưa hoàn thành, và sẽ không bao giờ hoàn thành, việc rút ra tất cả những hậu quả từ cuộc cách mạng truyền giáo về Thiên Chúa là tình yêu. Thánh Irênê dạy chúng ta rằng Chúa Thánh Thần liên tục làm tươi mới kho tàng mạc khải, cùng với chiếc bình chứa đựng kho tàng đó, là truyền thống của Giáo hội. Với sự giúp đỡ của Ngài, chúng ta hãy cố gắng hiểu đâu là hệ quả cần được khám phá và nhất là phải sống nhân đức bác ái thần học.
Có nhiều luận thuyết về bổn phận và mức độ tình yêu dành cho Thiên Chúa, nói cách khác, về “Thiên Chúa để chúng ta yêu” (De diligendo Deo); Tôi không biết luận thuyết nào đề cập đến “Thiên Chúa yêu thương chúng ta”! Bản thân Kinh thánh là một chuyên luận về Thiên Chúa, Đấng yêu thương chúng ta; nhưng, bất chấp điều này, hầu như luôn luôn, khi chúng ta nói về “tình yêu Thiên Chúa”, Chúa là đối tượng chứ không phải là chủ ngữ của câu.
Đúng là Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi, là “điều răn đầu tiên và lớn nhất”. Đây chắc chắn là điều đầu tiên trong thứ tự của các điều răn; nhưng thứ tự của các điều răn không phải là thứ tự đầu tiên, thứ tự trên hết mọi thứ! Trước trật tự của các điều răn, có trật tự của ân sủng, nghĩa là tình yêu nhưng không của Thiên Chúa. Bản thân các điều răn được thành lập trên ân sủng; bổn phận yêu mến Thiên Chúa dựa trên việc được Thiên Chúa yêu thương: “Chúng ta yêu vì Người đã yêu chúng ta trước”, thánh sử Gioan vừa nhắc nhở chúng ta. Đây là nét mới lạ của đức tin Kitô giáo đối với bất kỳ nền đạo đức nào dựa trên “bổn phận” hoặc “mệnh lệnh tuyệt đối”. Chúng ta đừng bao giờ đánh mất điều này.
Chúng ta đã tin vào tình yêu của Thiên Chúa
Do đó, mở cánh cửa tình yêu cho Chúa Kitô có một ý nghĩa rất cụ thể: đó là đón nhận tình yêu của Thiên Chúa, và tin tưởng vào tình yêu đó. “Chúng ta đã biết và tin vào tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta”, Thánh Gioan viết trong cùng một bối cảnh (1 Ga 4:16). Giáng Sinh là biểu hiện - theo nghĩa đen của sự hiển linh – của lòng tốt và tình yêu Thiên Chúa dành cho thế giới. Thánh Phaolô viết “Ân sủng của Thiên Chúa đã xuất hiện (epephane), cứu rỗi tất cả mọi người”; và trong thư gởi Timôthêô, ngài nhắc lại một lần nữa: “lòng nhân hậu và tình yêu quảng đại của Thiên Chúa, vị cứu tinh của chúng ta đã xuất hiện” (Tit 2, 11; 3, 4).
Điều quan trọng nhất cần làm trong Lễ Giáng Sinh là đón nhận, đầy ngạc nhiên, hồng ân vô biên của tình yêu Thiên Chúa. Khi bạn nhận được một món quà, thật không tế nhị chút nào khi ngay lập tức đáp lại bằng một tay khác món quà hồi đáp của bạn, có lẽ đã được chuẩn bị trước. Người ta chắc chắn sẽ có ấn tượng bạn muốn trả cho xong, cho hết nợ ngay lập tức. Đầu tiên, cần phải tôn vinh món quà nhận được và người tặng nó, với sự ngạc nhiên và lòng biết ơn. Sau đó - gần như xấu hổ và khiêm tốn - người ta có thể mở món quà của mình, như thể nó chẳng là gì so với những gì mình đã nhận được. Món quà của chúng ta dành cho Chúa, trên thực tế, chẳng khác gì là hư không! “Hành động yêu thương” truyền thống, ít nhất là trong lời nguyện riêng tư và cá nhân, không nên bắt đầu bằng những từ như: “Chúa ơi, con hết lòng yêu mến Chúa”, nhưng phải là “Chúa ơi, con hết lòng tin rằng Chúa quá yêu con”.
Điều chúng ta phải làm trước hết trong lễ Giáng Sinh là tin vào tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Chuyện này xem ra là một điều dễ dàng. Nhưng trái lại, đó là một trong những điều khó khăn nhất trên trần đời. Con người có xu hướng chủ động hơn là thụ động, làm hơn là để ai đó làm thay. Trong vô thức, chúng ta không muốn trở thành con nợ, mà là chủ nợ. Vâng, chúng ta muốn tình yêu của Thiên Chúa, nhưng như một phần thưởng, hơn là một món quà. Tuy nhiên, theo cách này, một sự thay đổi và đảo ngược được thực hiện một cách vô lý: trước hết, trên hết mọi thứ, thay cho món quà là bổn phận, thay cho ân sủng là lề luật, thay cho đức tin là việc làm.
“Chúng ta đã tin vào tình yêu!”: Đây là tiếng kêu mà chúng ta phải dồn hết sức lực để gào lên. Tôi gọi đó là “niềm tin hoài nghi”: đó là niềm tin không thể hiểu tại sao điều này lại có thể là sự thật, mặc dù chúng ta tin vào điều đó. Thiên Chúa – Đấng Vĩnh Cửu, Đấng Hiện Hữu, Đấng Tất Cả – yêu thương tôi và quan tâm đến tôi, trong khi tôi chỉ là một chút hư không lạc loài trong sự bao la của vũ trụ và của lịch sử! Tất cả những gì chúng ta có thể làm là nói cùng với nhà thơ: “Và thật ngọt ngào khi đắm tàu trong một vùng biển như vậy”.
Bạn phải trở thành một đứa trẻ để tin vào tình yêu. Trẻ em tin vào tình yêu, nhưng không dựa trên lý trí, nhưng theo bản năng, theo bản tính tự nhiên. Chúng được sinh ra tràn đầy niềm tin vào tình yêu thương của cha mẹ. Chúng xin cha mẹ những thứ chúng cần, thậm chí có thể bằng cách giậm chân khóc lóc, nhưng giả định không nói ra ở đây là chúng không phải là người đã làm ra hay có được những thứ ấy; nhưng đúng hơn chúng là những đứa trẻ và một ngày nào đó chúng sẽ là người thừa kế mọi thứ. Trên hết, chính vì lý do này mà Chúa Giêsu thường khuyên chúng ta nên trở nên như trẻ nhỏ để vào Nước Trời.
Thật không dễ dàng để trở thành một đứa trẻ một lần nữa. Sự từng trải, những cay đắng, những thất vọng của cuộc đời khiến chúng ta thận trọng, cảnh giác, đôi khi yếm thế. Tất cả chúng ta đều hơi giống Nicôđêmô. Chúng ta nghĩ “Làm thế nào một người có thể được tái sinh khi đã già?” (Ga 3: 4). Làm sao chúng ta có thể tái sinh, có thể phấn khởi, bỡ ngỡ trong ngày lễ Giáng Sinh như trẻ thơ? Nhưng Chúa Giêsu đã trả lời như thế nào cho Nicôđêmô? Thưa: Ngài phán “Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3:5).
Được tái sinh không phải là kết quả của nỗ lực và tham vọng, hay sự phấn chấn của tâm hồn con người; đó là công việc của Chúa Thánh Thần. Ở đây Chúa Giêsu không chỉ nói về phép rửa; ít nhất không chỉ là phép rửa bằng nước. Đó là vấn đề tái sinh và phép rửa “trong Thần Khí”, hay “từ trên cao” (Ga 3:3), có thể được lặp lại nhiều lần trong suốt cuộc đời của một người. Đây là điều mà các tông đồ và môn đệ đã trải nghiệm trong Lễ Hiện Xuống và chúng ta cũng nên ước ao để biết được ở một mức độ nào đó về “Lễ Hiện Xuống mới” mà Thánh Giáo Hoàng Gioan 23 đã xin Chúa cho toàn thể Giáo Hội khi công bố Công Đồng.
Điều cốt yếu của Lễ Hiện Xuống được hàm chứa trong những lời này ở câu 4 của chương thứ hai sách Tông Đồ Công Vụ “Mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần”. Câu ngắn gọn mà chúng ta đã nghe hàng ngàn lần này có nghĩa là gì? “Tất cả đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần”: được thôi: nhưng Chúa Thánh Thần là gì? Thần học nói đó là tình yêu mà Chúa Cha yêu Chúa Con và Chúa Con yêu Chúa Cha. Chúng ta nói một cách thoải mái hơn: đó là sự sống, sự ngọt ngào, lửa, niềm hạnh phúc tuôn chảy trong Ba Ngôi, bởi vì tình yêu là tất cả những điều này cùng nhau và ở một mức độ vô hạn.
Vì vậy, nói rằng “mọi người đều tràn đầy Chúa Thánh Thần”, cũng giống như nói rằng tất cả mọi người đều tràn đầy tình yêu của Thiên Chúa. Họ đã có một kinh nghiệm tuyệt vời về việc được Thiên Chúa yêu thương. Qua cái chết, Đức Kitô đã phá đổ bức tường ngăn cách tội lỗi và giờ đây tình yêu của Thiên Chúa cuối cùng có thể tuôn đổ trên các tông đồ và các môn đệ, nhận chìm họ trong đại dương bình an và hạnh phúc. Khi nói rằng “tình yêu của Thiên Chúa đã tuôn đổ vào lòng chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng đã được ban cho chúng ta” (Rm 5:5), Thánh Phaolô chỉ mô tả – dưới hình thức tổng hợp hơn là tường thuật – biến cố Lễ Ngũ Tuần, được hiện thực hóa, cho mỗi người, trong lễ rửa tội.
Tình yêu của Thiên Chúa có một khía cạnh khách quan mà chúng ta gọi là ân sủng thánh hóa, hay đức ái được thấm nhuần, nhưng nó cũng bao hàm một yếu tố chủ quan, một tác động hiện sinh, bởi vì nó ở chính bản chất của tình yêu. Chúng ta có khuynh hướng nghĩ tình yêu Chúa Thiên Chúa là một cái gì đó thuần túy khách quan, hay bản thể học, mà người có liên quan không nhận thức được. Không phải như thế. Món quà “trái tim mới” không xảy ra dưới sự gây mê hoàn toàn, giống như những ca cấy ghép tim bình thường! Chúng ta thấy điều đó từ sự thay đổi đột ngột xảy ra nơi các Tông đồ. Không còn sợ hãi, ganh đua, e dè; những người đàn ông mới, sẵn sàng vươn tới và hiến mạng sống của các ngài cho Chúa Kitô.
“Đức mến gây dựng”
Cuộc thảo luận về nhân đức đối thần là đức mến chắc chắn không kết thúc ở điểm này. Đó sẽ là một bài phát biểu dở dang, giống như một protosis, tức là một mệnh đề điều kiện, không được tiếp nối bởi một apodosis, hay một mệnh đề hệ quả. Mệnh đề điều kiện là: “Nếu Chúa yêu chúng ta nhiều lắm…”; thì apodosis, hay mệnh đề hệ quả, phải là: “chúng ta cũng phải yêu mến Ngài và yêu thương nhau”. Nhưng chúng ta có quá nhiều cơ hội để nói về việc thi hành bác ái đến nỗi chúng ta có thể bỏ qua một bên “nghĩa vụ” để chỉ đề cập đến vấn đề “quà tặng”. Do đó, tôi sẽ chỉ giới hạn bản thân mình trong một vài nhận xét ngắn gọn về những tác động xã hội và giáo hội của nhân đức bác ái thần học.
Người ta nói đức ái gây dựng: “Kiến thức thì kiêu căng, nhưng đức mến thì gây dựng” (1 Cr 8:1). Trước hết, nó xây dựng tòa nhà của Thiên Chúa là Giáo hội. “Sống theo sự thật và trong tình bác ái, chúng ta sẽ lớn lên về mọi phương diện, vươn tới Đức Kitô vì Người là Đầu. Chính Người làm cho các bộ phận ăn khớp với nhau và toàn thân được kết cấu chặt chẽ, nhờ mọi thứ gân mạch nuôi dưỡng và mỗi chi thể hoạt động theo chức năng của mình. Như thế Người làm cho toàn thân lớn lên và được xây dựng trong tình bác ái.” (Eph 4:15-16).
Bác ái là điều tạo nên thực tại vô hình của Giáo hội, societas sanctorum, hay sự hiệp thông của các thánh, như cách gọi của Thánh Augustinô. Đó là thực tại của bí tích (res Sacramenti), là ý nghĩa của dấu chỉ Giáo hội hữu hình. Thánh Phaolô nói: “Đức ái vẫn còn” (1Cr 13,13). Nó là cái duy nhất còn sót lại. Một khi Kinh thánh, đức tin, hy vọng, các đoàn sủng, các thừa tác vụ và mọi thứ khác chấm dứt, thì đức ái vẫn còn. Mọi thứ sẽ biến mất, như khi giàn giáo được sử dụng để xây dựng được tháo dỡ và tòa nhà xuất hiện trong tất cả vẻ huy hoàng của nó.
Trong một thời gian nhất định, vào thời cổ đại, toàn bộ thực tại của Giáo hội được chỉ định bằng thuật ngữ bác ái đơn giản, agape. Điều này lập tức gợi nhớ đến câu nói nổi tiếng của Thánh Inhaxiô thành Antiôkia: “Giáo hội Rôma là giáo hội chủ tọa đức bác ái (agape)”. Câu này thường được sử dụng khi đề cập đến chức năng ưu việt của Rôma và Đức Giáo Hoàng. Nhưng nó khẳng định không chỉ thực tế về tính ưu việt trong chữ “chủ tọa”, mà còn cả bản chất của nó, hoặc cách thức thực hiện nó “trong tình bác ái”. Đây là điều Giáo hội Rôma đã làm trong những thời điểm tốt đẹp nhất của mình và chắc chắn có ý định làm ngày nay, khi chọn – như trong hiến chế mới Praedicate Evangelium – đối thoại huynh đệ, tính đồng nghị và phục vụ như một phương pháp cai quản.
Tuy nhiên, bác ái không chỉ xây dựng xã hội thiêng liêng là Giáo hội, mà còn cả xã hội dân sự. Trong tác phẩm Thành phố của Chúa, Thánh Augustinô giải thích rằng có hai thành phố cùng tồn tại trong lịch sử: đó là thành phố của Satan, tượng trưng bởi Babylon, và thành phố của Chúa, tượng trưng bởi Giêrusalem. Điều phân biệt hai thực tại là tình yêu khác nhau mà chúng bị lay động. Động cơ thứ nhất là tình yêu vị kỷ dành cho bản thân bị đẩy đến mức khinh thường Thiên Chúa (amor sui usque ad contemptum Dei), động cơ thứ hai là tình yêu Thiên Chúa bị đẩy đến mức khinh miệt chính mình (amor Dei usque ad contemptum sui).
Sự đối lập, trong trường hợp này, là giữa tình yêu Thiên Chúa và tình yêu chính mình. Tuy nhiên, trong một tác phẩm khác, Thánh Augustinô đã sửa chữa một phần sự tương phản này, hoặc ít nhất là cân bằng nó. Sự tương phản thực sự đặc trưng cho hai thành phố không phải là giữa tình yêu Chúa và tình yêu chính mình. Hai tình yêu này, nếu được hiểu một cách chính xác, có thể – và thực sự, phải – tồn tại cùng nhau. Sự tương phản thực sự là giữa nội tại của lòng yêu mến bản thân và tình yêu thiện ích chung hay tình yêu xã hội, mà ngài gọi là amor socialis. Thánh nhân phân biệt lòng yêu mến bản thân với tình yêu duy ngã chỉ nghĩ đến riêng mình, mà ngài gọi là amor privatus. Chính tình yêu riêng mình – tức là tính ích kỷ – đã tạo nên thành phố của Satan, là Babylon, và chính tình yêu xã hội đã tạo nên thành phố của Thiên Chúa, nơi sự hài hòa và hòa bình ngự trị.
Bác ái xã hội được sinh ra trên mảnh đất được Tin Mừng vun tưới, và thật kỳ lạ là trong thời hiện đại, cuộc chinh phục này đã được sử dụng như một lý lẽ để ném vào mặt Kitô giáo. Trong những thế kỷ đầu và trong suốt thời Trung cổ, bố thí là phương tiện tuyệt vời nhất để hành động trong lĩnh vực xã hội và giúp đỡ người nghèo. Đó là một giá trị Kinh thánh và luôn giữ được sự liên quan của nó. Tuy nhiên, nó không còn có thể được đề xuất như một cách thông thường để thực hành tình yêu xã hội, hay tình yêu thiện ích chung, bởi vì nó không bảo vệ phẩm giá của người nghèo và giữ họ trong tình trạng lệ thuộc.
Các chính trị gia và các nhà kinh tế phải khởi xướng các quá trình cấu trúc nhằm giảm bớt khoảng cách tai tiếng giữa một thiểu số người rất giàu và vô số người bị tước quyền thừa kế trên trái đất. Phương tiện thông thường đối với Kitô hữu là tạo ra những điều kiện trong lòng con người để điều này xảy ra. Đối với những người tham gia vào lĩnh vực xã hội, vấn đề là thúc đẩy điều được gọi là “học thuyết xã hội của Giáo hội”. Chẳng hạn, đối với các doanh nhân Kitô giáo, điều đó có nghĩa là tạo ra công ăn việc làm, như Đức Thánh Cha đã nhắc lại trong cuộc gặp gỡ ở Assisi vào tháng 9 năm ngoái, dành cho các nhà kinh tế trẻ, những người được truyền cảm hứng từ giáo huấn xã hội của ngài.
Chỉ có tình yêu mới có thể cứu chúng ta
Trước khi kết thúc, tôi muốn đề cập đến một tác dụng ích lợi khác của nhân đức bác ái đối với xã hội mà chúng ta đang sống. Một tiên đề thần học nổi tiếng nói rằng ân sủng giả định trước bản tính con người, ân sủng không phá hủy bản tính con người, nhưng hoàn thiện nó. Áp dụng cho nhân đức đối thần thứ ba, điều này có nghĩa là bác ái giả thiết khả năng và khuynh hướng tự nhiên của con người là yêu và được yêu. Khả năng này có thể cứu chúng ta ngày nay khỏi một xu hướng đang diễn ra, nếu không được sửa chữa, sẽ dẫn đến một “sự phi nhân hóa” thực sự.
Tôi đã tham gia một cuộc tranh luận công khai ở London cách đây vài năm. Người điều hành đặt ra một loạt câu hỏi cho một số nhà thần học, trong đó có một giáo sư thần học từ Đại học Yale của Mỹ, một giám mục và nhà thần học Anh giáo và tôi. Câu hỏi quan trọng là như sau. Sau khi thay thế khả năng hoạt động của con người bằng robot, kỹ thuật này hiện đang trên đà thay thế khả năng trí tuệ của con người bằng trí tuệ nhân tạo. Như thế, con người còn lại cái gì là của riêng mình và cái gì chỉ dành riêng cho mình? Liệu có còn lý do để xem xét người máy một cách riêng biệt trong vũ trụ? Phải chăng người máy vẫn không thể thiếu, hay không hoàn toàn có hại cho tự nhiên?
Khi đến lượt tôi trả lời, với vốn tiếng Anh kém và hỏng của mình, tôi đã thêm một phản xạ đơn giản. Tôi nói, chúng ta đang làm việc trên một chiếc máy tính biết suy nghĩ: nhưng liệu chúng ta có thể tưởng tượng một chiếc máy tính biết yêu thương, xúc động trước nỗi đau của chúng ta và hân hoan trước niềm vui của chúng ta không? Chúng ta có thể quan niệm về một trí tuệ nhân tạo: nhưng liệu chúng ta có thể quan niệm về một tình yêu nhân tạo không? Có lẽ chính ở đây chúng ta phải đặt để cái cụ thể của con người và thuộc tính bất khả tương nhượng của con người. Đối với một người tin vào Kinh Thánh, có một lý do giải thích sự kiện này: đó là chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, và “Thiên Chúa là tình yêu”! (1 Ga 4, 8).
Bất chấp tất cả những sai lầm và hành vi sai trái của chúng ta, con người chúng ta không – và sẽ không bao giờ – là một điều phiền toái đối với trái đất! Khi kết thúc những suy tư triết học của mình về sự nguy hiểm của công nghệ đối với con người hiện đại, Martin Heidegger, gần như đầu hàng, đã thốt lên: “Chỉ có Chúa mới cứu được chúng ta!” Chúng ta có thể diễn giải rằng: chỉ có tình yêu mới cứu được chúng ta! Tuy nhiên, đó chắc chắn là tình yêu của Chúa chứ không phải tình yêu của chúng ta.
“Một Hài Nhi được sinh ra cho chúng ta”
Bây giờ chúng ta hãy hướng suy nghĩ của mình đến Lễ Giáng Sinh sắp đến với chúng ta. Với sự xuất hiện của Chúa Kitô, dòng sông vĩ đại của lịch sử đã đến chỗ tận cùng và bắt đầu lại ở cấp độ cao hơn. “Cái cũ qua đi, cái mới sinh ra” (2Cr 5,17). “Khoảng trống” lớn ngăn cách Thiên Chúa với con người, Đấng Tạo Hóa với tạo vật đã được lấp đầy. Không phải vô ích mà từ đó trở đi, lịch sử nhân loại được chia thành “trước Chúa Kitô” và “sau Chúa Kitô”.
Có những hình ảnh Giáng Sinh ngây ngô nhưng lại mang ý nghĩa sâu sắc. Trong đó, chúng ta thấy Chúa Giêsu Hài Đồng, đi chân trần, tuyết phủ quanh chân và cầm chiếc đèn lồng trên tay, vào ban đêm, sau khi gõ cửa, Ngài đang đợi trước một cánh cửa. Những người ngoại đạo tưởng tượng tình yêu như một đứa trẻ mà họ đặt tên là Eros. Đó là một đại diện mang tính biểu tượng, một thần tượng. Chúng ta biết rằng tình yêu đã thực sự trở thành một đứa trẻ; rằng bây giờ tình yêu là một thực tế, một sự kiện, thực sự là một con người. “Tình yêu của Chúa Cha đã hóa thành nhục thể”, vì thế một tác giả ở thế kỷ thứ hai đã diễn giải câu của Phúc Âm Thánh Gioan 1:14. Tình yêu thực sự trở thành một hài nhi: hài nhi Giêsu.
“Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3:21). Chúng ta hãy mở cửa trái tim cho Hài Nhi đang gõ cửa. Tôi nghĩ rằng, điều đẹp đẽ nhất mà chúng ta có thể làm vào Lễ Giáng Sinh không phải là dâng một cái gì đó cho Thiên Chúa, nhưng là đón nhận với sự kinh ngạc ân sủng là Con Ngài mà Thiên Chúa Cha ban cho thế giới.
Truyền thuyết kể rằng trong số những mục đồng đến gặp Chúa Hài Đồng vào đêm Giáng Sinh, có một cậu bé chăn cừu nghèo đến nỗi không có gì để dâng Đức Mẹ, cậu xấu hổ đứng sang một bên. Mọi người tranh nhau tặng Đức Maria món quà của họ. Đức Mẹ không thể đón nhận tất cả, vì phải bồng Chúa Hài Đồng trên tay. Nhìn thấy cậu bé chăn cừu bên cạnh với hai bàn tay trắng, cô liền ẵm Hài Nhi và đặt Hài nhi vào vòng tay cậu bé chăn cừu nghèo. Không có gì trong tay lại đem đến may mắn cho anh ấy. Hãy biến may mắn này thành của chúng ta nữa nhé!
Chúng ta hãy cùng hòa vào sự ngạc nhiên và hân hoan của phụng vụ được lặp lại vào Lễ Giáng Sinh – như một sự kiện đã hoàn thành và những lời của ngôn sứ Isaia (9:5) không còn là một lời tiên tri đơn thuần:
Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta,
một người con đã được ban tặng cho ta.
Người gánh vác quyền bính trên vai,
danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh,
người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình
Chúc mừng Giáng Sinh đến Đức Thánh Cha và tất cả anh chị em!
1. Aristotle, Siêu hình học, XII, 7, 1072b
2. Henri de Lubac, Histoire et Esprit, Aubier, Paris 1950, tr. v.v.
3. Giacomo Leopardi, The Infinite (Bản dịch của Henry Reed).
4. Ignace of Antioch, Thư gửi tín hữu Rôma.
5. Augustinô, De civitate Dei, 14,28.
6. Augustinô, De Genesi ad litamam, 11, 15, 20 (PL 32, 582).
7.Cf. Tommaso d'Aquino, S.Th. Chỉ số thông minh. 2. một. 2 ad 1 (gratia [praesupponit] naturam”); Chỉ số thông minh. 1, một. 8, ad 2 (gratia non tollit naturam, sed perficit).
8.Martin Heidegger, Antwort. Martin Heidegger im Gespräch, Gesamtausgabe, tập. 16, Frankfurt 1975.
9. Evangelium Veritatis, 23.
Nguồn: Vietcatholic News
Source:Cantalamessa
Các Giáo hội Kitô châu Âu gửi sứ điệp Giáng Sinh
Sứ điệp bắt đầu với lời Kinh Thánh “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2, 14), nhận định về việc trong những ngày này các Kitô hữu trên khắp thế giới đang chuẩn bị Giáng Sinh, lễ của sự chờ mong, tình yêu, hy vọng và bình an. Giáng Sinh là một ngày lễ có nghĩa với tất cả mọi người dù có đức tin Kitô hay không. Nhưng đối với nhiều người, thời gian này lại là lúc khó khăn hơn cả, như trường hợp của người dân Ucraina.
Hai vị Chủ tịch viết: “Đối với dân Chúa đang gặp thử thách, cũng như đối với chúng ta hôm nay, có một lời hứa hy vọng: ‘Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng’ (Mt 4, 16), ‘Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta, và tên Người là Hoàng Tử Bình An’ (Is 9, 6)”.
Đại diện các vị lãnh đạo các Giáo hội Kitô mời gọi tất cả mọi người cầu nguyện đặc biệt cho hoà bình ở Ucraina. Cầu nguyện cho tiếng súng yên lặng, niềm an ủi dành cho các bà mẹ đang khóc thương con mình, sự đoàn tụ của các gia đình và các cộng đoàn bị chia cắt bởi bởi hận thù và bạo lực, sự chào đón những người tị nạn, những người xâm lược ngừng hành động thù địch, hướng tới một cuộc đối thoại và đàm phán nghiêm túc.
Cùng với sứ điệp gửi đến các Kitô hữu là lời cầu nguyện cho hoà bình ở Ucraina và châu Âu trong Mùa Giáng Sinh:
Lạy Thiên Chúa bình an,
Chúng con cầu nguyện cho dân tộc Ucraina, cho tất cả những ai đang bị cuốn vào bạo lực chiến tranh, cho những người đau khổ và sợ hãi, xin Chúa bảo vệ và ban cho họ sức mạnh.
Chúng con cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo thế giới, xin Chúa hướng dẫn họ đi theo con đường công lý và hoà giải bằng sự khôn ngoan, chính trực và lòng trắc ẩn.
Chúng con cầu nguyện cho các vị lãnh đạo các Giáo hội, xin Chúa ban cho các vị sự phân định, cương quyết và can đảm, để họ có thể nói sự thật và chính đáng.
Chúng con cầu nguyện cho dân tộc Nga, cho tất cả những ai kêu gọi chấm dứt bạo lực và xung đột, những người bị bách hại vì lên tiếng chống lại cuộc xâm lược. Xin Chúa an ủi, nâng đỡ và bảo vệ họ.
Xin Chúa ban niềm an ủi cho những ai đang than khóc, hy vọng cho những ai đang tuyệt vọng, tha thứ cho những ai gây ra bạo lực, và lòng thương xót cho những ai đang đau khổ.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Hoàng Tử Hoà Bình của chúng con. Amen.
Ngọc Yến - Vatican News