Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
07/06 Muối và Ánh Sáng
- Viết bởi Mt 5, 13-16
Muối và Ánh Sáng.
Thứ Ba tuần 10 thường niên.
"Các con là sự sáng thế gian".
Lời Chúa: Mt 5, 13-16
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con là muối đất. Nếu muối đã lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn lại? Muối đó không còn xử dụng vào việc chi nữa, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó.
Các con là sự sáng thế gian. Một thành phố xây dựng trên núi, không thể che giấu được. Và người ta cũng không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn, hầu soi sáng cho mọi người trong nhà. Sự sáng của các con cũng phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Muối cho trái đất
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Người ta thường định nghĩa Kitô hữu là người tin vào Đức Kitô,
là người sống mầu nhiệm Vượt Qua với Đức Kitô, Con Một Thiên Chúa,
hay đơn giản là người bạn của Ngài.
Chẳng thể nào nói đến Kitô hữu mà không nói đến mối dây với Đức Kitô.
Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay, khi nói chuyện với các môn đệ,
những người vừa được nghe các Mối Phúc,
Đức Giêsu lại đưa ra một định nghĩa khác về họ.
“Các con là muối cho trái đất” (c. 13).
“Các con là ánh sáng cho thế giới” (c. 14).
Thế giới này, trái đất này, nằm trong định nghĩa về người Kitô hữu.
Không có Kitô hữu sống lơ lửng giữa trời và đất.
Họ thuộc về trời và thuộc về đất, về thế giới hiện tại và thế giới mai sau.
Họ được sai vào thế giới này để phục vụ bằng cách biến đổi.
Muối có nhiều công dụng.
Muối dùng để bảo quản cho khỏi hư, để nêm nếm cho đậm đà, để bón phân.
Muối cần cho sự sống thường ngày con người.
Đức Giêsu dùng hình ảnh muối để áp dụng cho các môn đệ.
Họ cần cho trái đất này,
Như muối thấm vào đồ ăn, họ phải có ảnh hưởng tích cực trên trái đất.
Điều làm cho muối là muối, đó là vị mặn.
Muối trở nên nhạt thì đánh mất chính mình rồi, chẳng đáng gọi là muối nữa.
Đức Giêsu tự nhận mình là Ánh sáng cho thế giới (Ga 8, 12; 9,5; 12, 46).
Bây giờ Ngài mạnh dạn gọi các môn đệ là ánh sáng cho thế giới.
Thế giới hôm nay đã được điện khí hóa khắp nơi.
Nhưng bóng tối và bóng mờ thì chỗ nào cũng có.
Cả bên ngoài lẫn bên trong tim con người.
Bóng tối thật là một quyền lực đáng sợ mà con người phải đối diện.
Chỉ khi môn đệ mang Ánh sáng của Đức Giêsu, và trở nên ánh sáng,
khi ấy họ mới có thể giúp thế giới này bừng sáng.
Thành thánh Giêrusalem ở trên núi, không sao giấu được.
Ngọn đèn được thắp lên cũng không để lấy thùng che lại.
Căn tính của người Kitô hữu cũng vậy.
Tự nó bừng sáng, tự nó quyến rũ, tự nó hồn nhiên tỏa hương.
Đừng sợ để người khác thấy điều tốt nơi mình,
nếu điều đó đưa người ta đến chỗ nhận biết và tôn vinh Thiên Chúa.
Một phần ba thế giới là Kitô hữu,
bẩy phần trăm người Việt Nam là Công Giáo.
Chúng ta có thể làm được nhiều điều cho thế giới hôm nay.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa Giêsu, Vua vũ trụ,
nếu Chúa là vua của hơn bốn trăm ngàn linh mục,
nếu Chúa là vua của hơn tám trăm ngàn nữ tu,
nếu Chúa là vua của một tỉ người công giáo,
thì thế giới này sẽ đổi khác,
Hội Thánh sẽ đổi khác.
Chúng con không phải là một lượng men quá nhỏ.
Nếu khối bột chẳng được dậy lên,
thì là vì men đã mất phẩm chất.
Chúng con phải chịu trách nhiệm
về sự dữ trên địa cầu :
có nhiều sự dữ do chính chúng con gây ra.
Chúng con chỉ kêu cầu cho Nước Chúa mau đến,
nhưng lại không chịu xây dựng Nước ấy trên trần gian.
Lạy Chúa Giêsu Vua vũ trụ,
chúng con thường cố ý thu hẹp vũ trụ của Chúa,
giữ chặt Chúa ở trong nhà thờ,
nên nhiều nơi vẫn vắng bóng Chúa,
dù Chúa đã đến trái đất này từ 2000 năm.
Chúng con sợ Chúa đến làm phiền chúng con,
và không cho chúng con được yên ổn.
Ước gì một tỉ người công giáo
chịu để Chúa chi phối đời mình
và đưa Chúa đi vào những nơi Chúa chưa hề đến.
Như thế vũ trụ này
trở thành vũ trụ của Thiên Chúa. Amen.
Suy Niệm 2: Muối và Ánh Sáng
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Sau khi giảng bài Tám Mối Phúc, Chúa Giê-su nói các môn đệ phải là muối và ánh sáng. Hiển nhiên là muối mang vị mặn thiên đàng. Và ánh sáng Nước Trời. Quả thật thế gian đang hư hỏng vì thói cạnh tranh. Tìm tiền của. Mạnh hiếp yếu. Tìm hưởng thụ vui chơi. Tàn nhẫn. Lương tâm hoen ố. Áp bức. Người tông đồ của Chúa cần có vị muối mặn và ánh sáng của Tám Mối Phúc. Không coi trọng tiền của. Tránh xa quyền lực. Giữ tâm hồn trong sạch. Biết cảm thương. Hiền lành khiêm nhường. Để ướp mặn thế gian. Để soi sáng thế gian. Thế gian sẽ không bị hư hỏng. Thế gian sẽ biết đi trong ánh sáng. Đến hạnh phúc.
Phao-lô là muối mặn của Chúa. Là ngọn đèn sáng của Chúa. Nơi ngài rạng ngời hương vị Tin Mừng. Giữa thế giới điên đảo gian dối hỗn độn, ngài làm chứng về một Thiên Chúa chân thật, trường cửu. Không lập lờ vừa “có” lại vừa “không”. Nơi Người chỉ là “có”. Là thực tại. Là sự thật. Là trường cửu. Chúa đã hứa ban hạnh phúc Nước Trời là đúng thật. Lời hứa còn được củng cố bằng việc Chúa xức dầu và ban Thần Khí cho ta: “Quả thật, mọi lời hứa của Thiên Chúa đều là “có” nơi Người. vì thế, cũng nhờ Người mà chúng ta hô lên “Amen” để tôn vinh Thiên Chúa. Đấng củng cố chúng tôi cùng với anh em trong Đức Ki-tô và đã xức dầu cho chúng ta, Đấng ấy là Thiên Chúa. Chính Người cũng đã đóng ấn tín trên chúng ta và đổ Thần Khí vào lòng chúng ta làm bảo chứng” (năm lẻ).
Ê-li-a cũng là muối và là ánh sáng của Chúa. Giữa một dân tộc hư hỏng vì chạy theo vua A-kháp và hoàng hậu Giê-sa-ben, ông vẫn giữ lòng trung tín với Chúa. Muối đó ướp mặn bà goá Xa-rép-ta. Khiến cho bà tin tưởng vào Chúa. Không tìm chạy theo lợi lộc vật chất. Nhưng đã hi sinh phục vụ vị tiên tri. Tiên tri chiếu lên ánh sáng của Chúa. Ánh sáng sự thật. Nên lời hứa của tiên tri được thực hiện. “Ông Ê-li-a nói với bà: “Bà đừng sợ, cứ về làm như bà vừa nói….Vì Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en phán thế này: “Hũ bột sẽ không vơi, vò dầu sẽ chẳng cạn cho đến ngày Đức Chúa đổ mưa xuống trên mặt đất”. Bà ấy đi và làm như ông Ê-li-a nói; thế là bà ấy cùng với ông Ê-li-a và con bà có đủ ăn lâu ngày. Hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Đức Chúa đã dùng ông Ê-li-a mà phán” (năm chẵn).
Chúng ta hãy dám sống sự thật của Tám Mối Phúc. Chắc chắn Chúa sẽ thực hiện lời hứa. Ban phúc cho ta. Và ban phúc cho những người nghe và tin vào Lời Chúa. Bấy giờ ta trở nên muối và ánh sáng cho thế gian.
Suy Niệm 3: Muối và Ánh Sáng
Muối là để làm gia vị, đèn là để soi sáng. Với hai hình ảnh này, Chúa Giêsu muốn nói lên sứ mệnh của Giáo Hội trong trần thế. Ngay từ đầu lịch sử của mình, Giáo Hội đã ý thức về sứ mệnh ấy. Giáo Hội là muối và ánh sáng của thế giới, bởi vì là Thân Thể của Ðấng là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống. Giáo Hội luôn xác tín rằng tất cả chân lý về Thiên Chúa và về con người đã được Chúa Giêsu mạc khải và ủy thác cho Giáo Hội. Qua cuộc sống của mình, Giáo Hội bày tỏ cho nhân loại biết con người là ai? Con người bởi đâu mà đến? Con người sẽ đi về đâu? Qua cuộc sống của mình, Giáo Hội chứng tỏ cho con người cùng đích của cuộc sống, đó là sống với Thiên Chúa.
Các tín hữu tiên khởi đã xác tín về điều đó, cuộc sống bác ái yêu thương của họ đã là muối và ánh sáng cho nhiều người. Những tiến bộ về khoa học, văn hóa, kinh tế và ngay cả chính trị tại Âu Châu thời Trung Cổ quả là thể hiện vai trò muối và ánh sáng của Giáo Hội. Không ai có thể vai trò hạt nhân về phát triển của các Tu viện Công giáo. Văn minh Tây phương, dù muốn hay không, vẫn là văn minh Kitô giáo. Những giá trị tinh thần mà nhân loại đạt được ngày nay, như tự do, dân chủ, nhân quyền, đều là những giá trị xuất phát từ Kitô giáo. Qua những giá trị tinh thần ấy, chúng ta có thể nói rằng muối của Giáo Hội đã ướp được phần lớn trái đất, ánh sáng của Giáo Hội đã chiếu soi vào những góc tối tăm của tâm hồn.
Tuy nhiên, hình ảnh muối và ánh sáng vẫn luôn gợi lên cho chúng ta cái tư thế nhỏ bé của Giáo Hội. Người ta chỉ cần một lượng nhỏ muối để ướp một lượng lớn thực phẩm, một cái đèn nhỏ cũng đủ để chiếu dọi một khoảng không gian lớn. Phải chăng với hình ảnh của muối và ánh sáng, Chúa Giêsu không muốn ám chỉ tới cái vị thế đàn chiên nhỏ bé là Giáo Hội? Ðã qua hơn 2,000 năm lịch sử, các môn đệ Chúa Giêsu đã đi khắp thế giới để rao giảng cho mọi dân tộc. Nếu xét về con số, thì thực tế không thể chối cãi là hơn 2/3 nhân loại vẫn chưa trở thành môn đệ Chúa Giêsu, và càng ngày xem chừng những người mang danh hiệu Kitô càng nhỏ lại, nếu so với những người ngoài Kitô giáo.
Muối và đèn soi vốn là những hình ảnh gợi lên cho chúng ta cái tư thế thiểu số của Giáo Hội trong trần thế, nhưng lại mời gọi chúng ta xác tín về sứ mệnh vô cùng to tát của Giáo Hội. Bằng mọi giá, Giáo Hội phải ướp mặn thế giới, phải chiếu soi trần gian bằng chính chân lý cao cả mà Chúa Giêsu đã mạc khải và ủy thác cho mình. Cả vận mệnh nhân loại tùy thuộc sứ mệnh của Giáo Hội, do đó không có lý do nào cho phép Giáo Hội xao lãng sứ mệnh ấy. Thánh Phaolô đã nói lên sự khẩn thiết của sứ mệnh ấy như sau: "Gặp thời thuận tiện hay không thuận tiện, cũng phải luôn luôn rao giảng Tin Mừng của Chúa".
Ðã có một lúc Giáo Hội gặp nhiều dễ dàng và thuận tiện trong việc thực thi sứ mệnh: cả một quốc gia, cả một lục địa đón nhận sứ điệp Tin Mừng. Thế nhưng, cũng có biết bao thời kỳ Giáo Hội bị khước từ, bị bách hại, đây chính là lúc không thuận tiện mà thánh Phaolô nói đến và cũng là lúc Giáo Hội càng phải rao giảng mạnh mẽ và kiên quyết hơn. Chính vì là thiểu số, và là một thiểu số bị loại trừ và bách hại, Giáo Hội lại càng phải ý thức hơn về vai trò là muối và ánh sáng của mình.
Một trong những nguy cơ lớn nhất đối với Giáo Hội chính là thỏa hiệp: thỏa hiệp để được một chút dễ dãi, thỏa hiệp để được một chút đặc quyền đặc lợi. Thực ra, đã là thỏa hiệp tức là đánh mất một phần căn tính của mình: thay vì muối để ướp cho mặn, thì muối lại đánh mất chất mặn của mình đi; đã là đèn dùng để soi sáng thì đèn lại bị đặt dưới đáy thùng; thay vì rao giảng lời chân lý, Giáo Hội thỏa hiệp để chỉ còn rao giảng lời của những sức mạnh đang khống chế mình. Xét cho cùng, sứ mệnh của muối và ánh sáng cũng chính là sứ mệnh của tiên tri. Số phận của tiên tri là số phận của thiểu số, nhưng là thiểu số dám lên tiếng rao giảng chân lý, sẵn sàng tố cáo bất công, và dĩ nhiên sẵn sàng hy sinh, ngay cả mạng sống mình.
Giáo Hội là muối và ánh sáng thế gian. Mỗi Kitô hữu tự bản chất cũng là muối và ánh sáng của thế gian. Họ sẽ đánh mất bản chất mặn của muối và tia sáng của ánh sáng, nếu chỉ vì một chút lợi lộc vật chất, một chút dễ dãi, mà họ thỏa hiệp với những gì đi ngược chân lý của Chúa Giêsu. Một cách cụ thể, người Kitô hữu sẽ không còn là muối và ánh sáng, nếu theo dòng chảy của xã hội, họ cũng lọc lừa, móc ngoặc, dối trá.
Nguyện xin Chúa ban thêm sức mạnh, để dù chỉ là một thiểu số, chúng ta vẫn luôn là muối có sức ướp mặn xã hội, là đèn có sức chiếu soi xã hội.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Muối và Ánh Sáng
Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà đã nhạt đi, thì lấy gì muối cho nó mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi.
Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. (Mt. 5, 13-14)
Thế giới chẳng đẹp gì
Thế giới chẳng đẹp đẽ cho lắm. Nào là chiến tranh, bất công, bạo lực và hận thù tràn lan. Bạn cứ đọc báo là thấy ngay! Chỗ này chỗ kia, người ta đâm chém nhau, ăn cắp của nhau, đánh lộn nhau, sâu xé nhau. Đâu đâu người ta cũng thấy phô ra cái chẳng đẹp, chẳng tốt, chẳng sạch. Xa xa thì ở nơi nhà hàng xóm, mà cần gì phải đâu xa ngay tại nhà mình cũng có nữa.
Người ta không yêu nhau nhiều. Chắc chắn là không đủ. Có nhiều những người bất hạnh hơn là phải có. Có quá nhiều phụ nữ bị bỏ rơi đang khóc. Quá nhiều trẻ em bị hành hạ. Quá nhiều người nghèo khổ chẳng ai thèm chú ý tới. Có quá nhiều mảnh đời đủ mọi hạng tuổi mà thật ra chẳng được bao nhiêu thú vui để sống.
Lãnh đạm đủ rồi!
Trước những thảm cảnh đó, ta phải làm gì? Có thể làm gì? Có người lên tiếng! Thì đã có chính phủ để mắt tới! Thì đã có những nghiệp đoàn họ lo! Thì đã có những cơ quan cứu trợ xã hội để họ làm tốt công việc của họ!” Chỉ có giải pháp đó thôi sao?”
Chúa Giêsu có những lời mà người nghe phải hiểu rằng có một giải pháp khác. Chúa nói với chúng ta: “Anh em là muối đất. Anh em là ánh sáng trần gian”. Người còn phán: “Chính anh em phải làm cái gì đó. Chính anh em phải động đậy lên, phải nhúng tay vào. Chính anh em phải thay đổi thế giới một chút. Chính anh em phải giúp đỡ người ta được hạnh phúc hơn một chút, được tốt hơn một chút, được có tình huynh đệ hơn nữa”.
Chúng ta có là muối mặn không? Là ánh sáng chiếu soi không? Nếu chúng ta là những kẻ chẳng soi sáng cho ai, chẳng khích lệ ai, chẳng nâng dỡ ủi an ai, chẳng đem đến cho ai nụ cười; nếu chúng ta là những người lãnh đạm ơ hờ. Chà!…Một phần nào đó chính là vì chúng ta mà thế giới không khá hơn đó.
Suy Niệm 5: Muối phải là muối
Xem lại CN 5 TN A.
Khi nói đến muối, người ta nghĩ ngay đến vai trò quan trọng của chúng trên sức khỏe của con người, bởi vì: muối có thể làm dung hòa, điều chỉnh độ chứa nước của cơ thể (cân bằng lỏng). Các hoạt động của cơ thể sẽ bị xáo trộn nếu thiếu muối, triệu chứng rối loạn điện giải, co bắp thịt, đau cơ, uể oải, buồn nôn, hoa mắt, chóng mặt, phù thũng... là do thiếu muối. Muối còn có tác dụng xát trùng cao, bảo quản thức ăn cho khỏi hư thối... Tục ngữ ca dao Việt Nam có câu: "Cá không ăn muối cá ươn”.
Hôm nay, Đức Giêsu phán cùng các môn đệ: "Chính anh em là muối cho đời”. Nhưng liền sau đó, như một sự cảnh báo trước: “Nếu muối đã lạt, người ta biết lấy gì mà ướp cho mặn lại? Muối đó không còn xử dụng vào việc chi nữa, chỉ còn ném ra ngoài cho người ta chà đạp lên nó?".
Thật vậy, đời môn đệ chỉ có giá trị khi trong mình có vị mặn của tình yêu Giêsu, để làm toát lên hương vị của khiên nhường, yêu thương, tự hủy, vâng phục, xóa mình ra không để sống và sống cho người khác. Nếu không có vị mặn này, phải chăng đời môn đệ của chúng ta trở nên nhạt nhẽo, bèo bọt và vô tác dụng. Khi ấy, sự hiện diện của chúng ta trở nên dị hợm... thay vì ướp cho đời thì lại làm cho đời trở nên hư thối vì bị lây nhiễm bởi những lề thói xấu xa tục tĩu của chúng ta.
Muốn được như thế, như những hạt muối, chúng phải chịu hòa tan trong nước thì mới có giá trị, người Kitô hữu muốn trở nên chứng nhân, thì cũng phải tan hòa cuộc đời như những hạt muối, chấp nhận từ bỏ cái tôi ích kỷ để trở thành hữu dụng cho tha nhân.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con vẫn mãi là muối mang vị mặn của Chúa, để chính Chúa ướp chúng con và cũng để chúng con cùng Chúa ướp cho đời khỏi bị hư thối bởi những trào lưu tục hóa trong thế gian này. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 6: Sự sáng thế gian
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Người môn đệ Chúa Giêsu phải là muối, là ánh sáng cho trần gian. Đời sống thánh thiện theo Tin Mừng sẽ gìn giữ xã hội khỏi suy thoái và giúp xã hội thăng tiến.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, hàng ngày con nhìn thấy biết bao tội ác diễn ra quanh con. Đời sống luân lý ngày càng suy thoái. Những trào lưu xấu và những lý thuyết lầm lạc, đang lôi kéo và làm hư hỏng nhiều tâm hồn. Đứng trước thực trạng bi đát ấy, người ta đã báo động, la ó. Nhiều người thiện chí đã cố gắng ngăn chặn điều xấu và làm một cái gì đó tích cực để lôi kéo xã hội thăng tiến. Nhưng trái lại, rất nhiều người vẫn thờ ơ, thậm chí còn gieo rắc tội ác để đẩy xã hội xuống vực thẳm.
Lạy Chúa, con là môn đệ của Chúa. Chúa muốn con hơn ai hết phải tích cực tiêu diệt sự xấu, sự dữ, sự lầm lạc và gieo rắc điều tốt, điều lành, điều đúng. Chúa trao cho con sứ mạng trở thành muối và ánh sáng cho đời. Thế mà nhiều lúc đời sống Kitô hữu nơi con đã xuống cấp. Muối thánh thiện nơi con đã trở nên nhạt nhẽo, ánh sáng nơi con đã lu mờ và đem úp dưới thùng. Thậm chí lắm lúc con đã lôi kéo anh chị em vào con đường tội ác, sai trái.
Lạy Chúa, xin tha thứ cho con. Xin ướp mặn lại đời con bằng ân sủng và sự thánh thiện của Chúa. Xin Chúa giúp con đừng bao giờ hợp tác với điều xấu, trái lại, xin cho con can đảm tiêu diệt điều xấu bằng cách làm điều tốt, dù có bị thiệt thòi hay bị cười chê. Xin Chúa thúc đẩy con dám nói chân lý, dám sống theo phúc âm, dám lôi kéo người khác đi trên đường ngay nẻo chính. Amen.
Ghi nhớ : “Các con là sự sáng thế gian”.
Suy Niệm 7: Muối ướp đời
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Mahatma Gandhi (1869 - 1948), nhà ái quốc và được tôn vinh là vị cha già dân tộc Ấn Độ, cũng là vị thánh của những người Ấn giáo, đã đấu tranh giành lại độc lập và tự do cho Ấn Độ bằng đường lối ôn hòa bất bạo động.
Một hôm người ta hỏi ông rằng: “Trước thảm họa nguyên tử, ngài sẽ làm gì?”
Ganhdi trả lời: “Tôi sẽ cầu nguyện”.
Gandhi là người rất yêu mến giáo huấn của Chúa Kitô, nhưng khi được hỏi thêm: “Vì sao ngài không theo đạo Công giáo?”
Ông trả lời: “Phúc Âm của Chúa thì rất tốt lành, nhưng người công giáo đã không sống Phúc Âm, nên không hơn gì chúng tôi”.
Sau đó ông còn nói thêm: “Nếu tôi đã hân hạnh gặp được một người nào là Kitô hữu chân thực, có lẽ tôi đã trở nên một người Kitô hữu ngay lập tức”.
Chính vì không sống đúng tư cách người môn đệ Chúa Kitô, người tín hữu đã làm che mờ Chúa Kitô nên Gandhi đã không đến với Đạo Kitô. Câu trả lời của Gandhi làm cho chúng ta cảnh tỉnh nhớ lại Lời Chúa nói trong Tin Mừng Mt 5,13-16: “Các con là muối ướp đời, là ánh sáng cho trần gian”.
Suy niệm
Người môn đệ trở nên như muối, là muối thì luôn có vị, muối không được lạt đi! Tác giả Cl. Tassin chú giải: “Các môn đệ đem hương vị cho đời và bảo đảm sự sống còn của thế gian trước mặt Thiên Chúa. Nhưng nếu họ không đảm đương được công việc này và đánh mất tinh thần các mối phúc, họ sẽ chẳng còn giá trị gì và Thiên Chúa sẽ từ bỏ họ” (Theo Tin Mừng thánh Mátthêu, Centurion, 1991, tr.62). Không chỉ trở nên vị mặn và hữu dụng như tính chất của muối, người môn đồ phải trở nên ánh sáng của nhân loại (x.Pl 2,15; so sánh với Ep 5,8-14), là tham dự vào sự sáng của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu tuyên bố: “Tôi là ánh sáng của thế gian” (Lc 2,32; Ga 8,12; 12,35). Nguồn ánh sáng cứu độ như Thánh Vịnh đã tuyên xưng: “Đức Chúa là ánh sáng và là sự cứu chuộc của tôi” (Tv 27,1).
Ánh sáng cũng được sử dụng như là một biểu tượng trong Kinh Thánh, thường chỉ sự mặc khải cứu độ của Thiên Chúa. Ngôn sứ Isaia đã loan báo, người Tôi tớ Giavê được công bố là “ánh sáng muôn dân” (Is 49,6); và Israel cũng phải là ánh sáng cho dân ngoại (x. Is 42,6).
Giáo lý Công giáo số 1216 xác định: Trong phép Rửa tội, người được rửa tội nhận lấy Ngôi Lời là “ánh sáng đích thực soi sáng mọi người”, và “sau khi được soi sáng như thế”, họ trở nên “con của sự sáng” và chính bản thân họ là “ánh sáng”. Cho nên, thánh Phaolô mời gọi mỗi chúng ta: “Anh em phải chiếu sáng, như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2,15). Chúng ta đều được mời gọi nên như muối và ánh sáng:
Phaolô cũng đồng hóa “muối” với “sự khôn ngoan”và ngài mời gọi chúng ta trong từng lời ăn tiếng nói phải mang vị mặn mà của muối: “Anh em hãy ăn ở khôn ngoan. Lời nói của anh em phải luôn luôn mặn mà dễ thương” (Cl 4,5-6).
Trong ý nghĩa đó, mỗi hành động của chúng ta cũng phải mang hương vị mặn mà của tình yêu đậm đà sẵn sàng chia sẻ với anh chị em mình. Mỗi khi dấn thân, tham gia gánh vác công việc trong xã hội, Giáo hội cũng phải chan chứa vị mặn muối của trách nhiệm công vụ vì anh chị em.
Khi mang lời mặn mà dễ thương, hành động thắm nồng tình yêu, tinh thần trách nhiệm, người Kitô hữu đã trở nên ánh sáng như Công đồng Vaticanô II đã chỉ rõ: “…Chính chứng tá của đời sống Kitô và những việc lành được làm với tinh thần siêu nhiên có sức lôi kéo người ta đến đức tin và đến với Thiên Chúa”, vì Chúa phán: “Sự sáng của các con phải soi trước mắt người ta, như vậy để họ xem thấy việc lành các con mà ngợi khen Cha các con ở trên trời” (Mt 5,16).
Tuy nhiên, khi chúng ta đi vào sống ở giữa và trong thế gian, dưới sự ảnh hưởng của các thế lực bóng tối, hương vị của muối trong chúng ta có thể trở nên nhạt, đèn của chúng ta có thể bị hết dầu nên lụi tàn ánh sáng. Để tìm lại được hương vị mặn và dầu cho đèn sáng, cần được ướp lại bằng vị mặn của Đức Giêsu, ngọn đèn cần được nuôi bằng dầu tình yêu của Ngài qua các bí tích đặc biệt là bí tích Hòa Giải: Được tha thứ, chữa lành và thêm sức mạnh và bí tích Thánh Thể để được kết hiệp với Chúa Giêsu bằng sức sống thánh và tình yêu dâng hiến.
Từng bước đi và sống trong dương gian xin cho chúng con luôn tâm niệm như Chúa mời gọi là muối là ánh sáng.
Ý lực sống:
Chọn con là đèn
soi giữa thế trần.
Làm muối mặn mà
ướp đời dương gian…
Suy Niệm 8: Muối đất và ánh sáng (Mt 5,13-16)
(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
Sau khi Chúa Giêsu cho biết phải có 8 đức tính như bài Tin mừng hôm trước để có thể làm công dân Nước trời, Ngài bảo các môn đệ phải làm chứng cho Ngài: phải trở nên muối ướp mọi người cho khỏi hư hỏng; phải trở nên ánh sáng soi cho mọi người nhìn biết Chúa. Nếu các môn đệ là muối, là ánh sáng mà đã lạt, đã bị che khuất đi, nghĩa là không lo làm gương sáng gương lành, thì sẽ không giúp ích được gì cho ai, mà sẽ ra vô dụng bất lợi nữa.
Thân phận và hoàn cảnh của mỗi Kitô hữu khác nhau: có người âm thầm hèn mọn như muối, có người rực rỡ huy hoàng như ánh sáng. Nhưng mọi người đều có sứ mạng tác động tốt lên môi trường mình sống. Không tác động tốt thì không còn là Kitô hữu nữa.
Là muối đất, là ánh sáng thế gian, hơn ai hết, Kitô hữu chúng ta cần phải thắp sáng lên niềm hy vọng bằng cuộc sống toả lan tình người. Dù chỉ là ngọn đèn mù mờ giữa biển khơi, chứng từ của người Kitô hữu vẫn luôn cần thiết cho sự sống (Carôlô).
“Chính anh em là muối cho đời”
Khi nói đến muối, người ta nghĩ ngay đến vai trò quan trọng của chúng trên sức khoẻ của con người, bởi vì: muối có thể làm dung hòa, điều chỉnh độ chứa nước của cơ thể (cân bằng lỏng). Các hoạt động của cơ thể sẽ bị xáo trộn nếu thiếu muối, triệu chứng rối loạn điện giải, co bắp thịt, đau cơ, uể oải, hoa mắt, chóng mặt, phù thũng... là do thiếu muối. Muối còn có tác dụng sát trùng cao, bảo quản thức ăn cho khỏi hư thối... Tục ngữ ca dao Việt Nam có câu: “Cá không ăn muối cá ươn”.
Thật vậy, đời môn đệ chỉ có giá trị khi trong mình có vị mặn của tình yêu Giêsu, để làm toát lên hương vị của khiêm nhường, yêu thương, tự huỷ, vâng phục, xóa mình ra không để sống và sống cho người khác. Nếu không có vị mặn này, phải chăng đời môn đệ của chúng ta trở nên nhạt nhẽo, bèo bọt và vô tác dụng. Khi ấy, sự hiện diện của chúng ta trở nên dị hợm... thay vì ướp cho đời thì lại làm cho đời trở nên hư thối, vì bị lây nhiễm bởi những lề thói xấu xa tục tĩu của chúng ta (Ngọc Biển).
“Chính anh em là ánh sáng cho thế gian”
“Thiên Chúa là ánh sáng” (1Ga 1,5), và chỉ có Chúa Giêsu mới dám nhận mình là ánh sáng. Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu cũng muốn các môn đệ là Kitô hữu chúng ta trở thành ánh sáng cho thế gian. Vì thế, muốn trở thành ánh sáng như Chúa Giêsu, chúng ta phải ở gần Người và kết hợp với Người, bởi “gần đèn thì ta được tỏa sáng”. Chúng ta trở thành ánh sáng cho thế gian khi phản chiếu vinh quang Chúa bằng đời sống chứng nhân:
Người Kitô hữu là con cái sự sáng, phải dùng đời sống gương mẫu và chứng tá của mình để soi dẫn cho người chung quanh biết đường về cùng Chúa.
Ánh sáng Tin mừng của Chúa phải được minh chứng qua lối sống của người Kitô hữu.
Chính đời sống của người Kitô hữu phải là bài giảng Tin mừng cho thế gian: hoạt động của người Kitô hữu phải là dịp cho người ta ca tụng Thiên Chúa; vai trò của người Kitô hữu trong thế gian phải như ánh đèn chiếu sáng chân lý của Chúa, Tin mừng của Chúa cho mọi người.
Trở nên muối đất và ánh sáng thế gian bằng cách nào?
Bằng chứng tá cuộc sống của mình, bằng lời nói ăn khớp với việc làm, không phải vừa có vừa không như thánh tông đồ Phaolô nói trong thư gửi tín hữu thành Côrintô, mà phải luôn rõ ràng, dứt khoát, hoặc có hoặc không, bởi vì Thiên Chúa là Đấng trung tín và chân thật, một khi hiểu được sứ mệnh của mình thì đời sống người Kitô hữu không thể nào là tầm thường hoặc vô ý nghĩa được.
Tất cả mọi công việc dù nhỏ nhặt và tầm thường đến mấy đi nữa cũng không bị mất mát hoặc vô dụng, nhưng sẽ nên như một tia sáng lóe lên xóa tan tăm tối, sẽ như một cây cỏ làm cho mảnh vườn thêm xinh tươi, sẽ như một bông hoa nhỏ làm cho cảnh vườn thêm màu sắc, sẽ như một viên gạch xây dựng toà nhà xã hội và như những giọt nước tụ hợp lại để trở thành biển cả mênh mông.
Truyện: Ảnh hưởng của gương sáng
Có những lời nói và việc làm rất vô tình nhưng gây một ảnh hưởng rất lớn. Đức Hồng y Fulton Sheen kể lại hai câu chuyện như sau:
Tại Nam Tư, trong một lần giúp lễ, một cậu bé đã vô tình đánh vỡ lọ nước. Vị linh mục tức giận tát cậu bé và thốt lên: “Cút đi, đừng bao giờ trở lại đây nữa”. Cậu bé đó đã không bao giờ trở lại nhà thờ nữa, bởi vì sau này cậu đã trở thành nhà lãnh đạo nước Nam Tư xã hội chủ nghĩa. Cậu bé ấy là Titô.
Tôi còn nhớ tôi cũng là một cậu bé giúp lễ tại nhà thờ chính toà, lúc đó tôi lên 7 tuổi. Trong một phiên giúp lễ, tôi cũng đánh rơi cái lọ. Tôi sợ tưởng chết được, vì mấy cậu bé giúp lễ chúng tôi cứ nghĩ là Đức cha rất nghiêm khắc. Thế nhưng sau Thánh lễ, Ngài gọi tôi lại và hỏi: “Lớn lên con sẽ học ở trường nào? Con có bao giờ nghe nói tới Louvain không?” Tôi đáp: “Thưa Đức cha, chưa”. Ngài nói: “Vậy thì con về nói với mẹ con rằng khi lớn lên con sẽ vào học tại trường Đại học Louvain”. Tôi không ngờ rằng hai năm sau khi chịu chức linh mục, tôi đã ngồi trên chuyến xe lửa trực chỉ Louvain.
Cũng một biến cố, nhưng tôi đã đi về hướng này, còn Titô thì đi về hướng ngược lại (Chờ đợi Chúa).
Suy Niệm 9: Ảnh hưởng tốt như muối và ánh sáng
(Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái)
A- Phân tích (Hạt giống...)
Sau khi Chúa Giêsu cho biết cần phải có 8 đức tính để được vào làm công dân Nước trời, Ngài khuyến khích các môn đệ cố gắng sống 8 đức tính ấy: người nào sống 8 đức tính ấy thì cuộc sống của người đó sẽ có ảnh hưởng tốt như muối và ánh sáng vậy. Hai hình ảnh xem ra khác nhau nhưng đều giống ở sức tác động tốt: Muối thì thấp hèn, âm thầm và khiêm tốn. Nhưng muối giữ cho môi trường xung quanh nó khỏi hư, lại mặn mà.
Ánh sáng thì rực rỡ huy hoàng. Ánh sáng soi cho người ta thấy rõ đường đi, nhận rõ các đồ vật.
Cả hai đều phải chịu hao mòn hy sinh mới gây tác động: muối tan dần đi, ngọn đèn ngày càng lụi xuống.
Lý do để tồn tại của cả hai là để gây tác động tốt: nếu muối không mặn và đèn không sáng thì không có ích gì nữa và phải vất đi.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Thân phận và hoàn cảnh của mỗi Kitô hữu tuy có khác nhau: có người ân thầm hèn mọn như muối, có người rực rỡ huy hoàng như ánh sáng. Nhưng mọi người đều có sứ mạng tác động tốt lên môi trường mình sống. Không tác động tốt thì không còn là Kitô hữu nữa.
Là muối đất, là ánh sánh thế gian, hơn ai hết, Kitô hữu chúng ta cần phải thắp sáng lên niềm hy vọng bằng cuộc sống tỏa lan tình người. Dù chỉ là một ngọn đèn lu mờ giữa biển khơi, chứng từ của Kitô hữu vẫn luôn cần thiết cho cuộc sống.
2. Muốn tác động tốt thì phải chấp nhận hy sinh, hao mòn.
3. Muối làm thức ăn thêm ngon. Là muối của cuộc đời, Kitô hữu phải sống sao cho người ta thấy được “khẩu vị” của cuộc sống, thấy sống mà vui, sống mà đáng.
Ánh sáng làm cho khung cảnh thêm huy hoàng rực rỡ. Là ánh sáng thế gian, Kitô hữu sống ở đâu thì nơi đó phải thêm hạnh phúc, tươi vui lạc quan hơn.
4. Có những lời nói và việc làm rất vô tình nhưng gây ảnh hưởng rất lớn. Đức Cha Fulton Sheen kể lại hai câu chuyện như sau:
Tại Nam Tư, trong một lần giúp lễ, một cậu bé đã vô tình đánh rơi lọ nước. Vị Linh mục tức giận tát cậu bé và thét lên: “Cút đi và đừng bao giờ trở lại đây nữa”. Câu bé đó đã không bao giờ trở lại nhà thờ nữa, bởi vì sau này cậu đã trở thành nhà lãnh đạo nước Nam Tư xã hội chủ nghĩa. Cậu bé ấy tên là Titô.
Tôi còn nhớ tôi cũng là một cậu bé giúp lễ tại nhà thờ chính tòa, lúc đó tôi lên bảy tuổi. Trong một phiên giúp lễ tôi cũng đánh rơi lọ rượu. Tôi sợ tưởng đến chết được, vì mấy cậu bé giúp lễ chúng tôi cứ nghĩ Đức Cha là người rất nghiêm khắc. Thế nhưng sau Thánh lễ, Ngài gọi tôi lại và hỏi: “Lớn lên con sẽ vào học ở trường nào ? Con có bao giờ nghe nói Louvain không ?” Tôi đáp: “Thưa Đức Cha chưa”. Ngài nói: “Vậy thì con về nói với mẹ rằng khi lớn lên con sẽ vào học tại trường đại học Louvain”. Tôi không ngờ rằng hai năm sau khi chịu chức Linh mục, tôi đã ngồi trên chuyến xe lửa trực chỉ Louvain.
Cũng một biến cố, nhưng tôi đã đi về một hướng này, còn Titô đi về hướng ngược lại. (Trích “Chờ đợi Chúa”)
5. “Chính anh em là muối cho đời”. (Mt 5,13)
Lúc trước tôi có dịp ra Huế. Khi lên đèo hải vân, tôi thấy mấy người công nhân đang đập đá, mặt nhễ nhãi mồ hôi, chiếc áo bạc màu bám chặt lấy thân gầy. Và tôi tự hỏi: “Nếu không có những giọt mồ hôi đó, không có những tấm lưng cong oằn, cháy nắng ấy thì đèo hải vân liệu có rộng hơn, đẹp hơn và an toàn hơn cho khách đi đường trong đó có tôi không ?
Có biết bao người trong xã hội đã và đang “ướp mặn” cho cuộc sống. Phần tôi, xấu hổ vì cảm thấy mình chưa phải là muối, là men cho môi trường mình đang sống.
Lạy Chúa, xin cho con được trở thành muối cho đời qua công việc yêu thương và phục vụ hằng ngày. (Hosanna)
Suy Niệm 10: Muối và ánh sáng
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Chúa Giêsu lấy hai hình ảnh muối và ánh sáng để nói lên vai trò của các môn đệ ở trần gian, phải có ảnh hưởng trên kẻ khác.
1. Muối cho đời.
Khi bảo Kitô hữu là muối của đời, Chúa muốn nói gì ? Tại sao Chúa lại bảo chúng ta là muối ? Ngày nay muối là thứ gia vị rẻ tiền hơn hết, nhưng cũng thiết yếu hơn hết. Chúa không có ý coi thường hay hạ giá chúng ta qua ẩn dụ này. Có lẽ nhiều người trong chúng ta muốn Chúa ví mình như vàng như ngọc. Nhiều bà mẹ thương quí con mình thường nựng con mình như vậy. Còn ở đây Chúa lại ví ta là muối của đất. Khi nói thế, Chúa muốn trân trọng nói đến phẩm chất của cuộc sống qua tính chất của muối. Giá trị của vàng, của ngọc là giá trị tương đối vì đó là những giá trị trao đổi: Kinh nghiệm cho chúng ta thấy trong những cơn đói kém hay như trong sa mạc, đã có nhiều người chết trên đống vàng, chết đói chết khát trong lúc còn rất nhiều của cải. Trong khi đó, giá trị của muối là giá trị tự tại nằm trong vị mặn của nó. Chúa muốn những người tin Ngài phải có tính chất của muối.
Muối có nhiều công dụng trong sinh hoạt của cuộc sống con người. Tuy nhiên, tất cả những công dụng đó đều hàm chứa trong vị mặn của muối. Chính vì vậy, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh nếu muối mất mặn thì sẽ chẳng lấy gì làm cho nó mặn lại được. Muối đó không còn dùng được nữa, phải bỏ đi.
Vậy thì vị mặn của muối nơi chúng ta là gì ? Thưa là những đức tính tốt trong ta gây được ảnh hưởng tốt cho những người chung quanh: trong gia đình, giữa bạn hữu, nơi làm việc, trong trường học.
Mẹ Têrêsa nói: “Thầy Vinod, người điều hành Gandhiji Prem Nivas, trung tâm người cùi ở Titagarh, Calcutta, hiểu tại sao chúng tôi cố không giảng đạo, nhưng chỉ tỏ cho thấy đức tin của chúng tôi qua hành động và sự phục vụ.
- Mẹ có chứng kiến những người được Mẹ giúp đỡ cải đạo sang Công giáo không ?
- Có, một vài người đã cải đạo, nhưng chúng tôi không hề cố khuyến khích họ một cách trực tiếp. Bằng việc rèn luyện đức ái của người Thiên Chúa giáo, chúng tôi đến gần Chúa hơn và chúng tôi cũng cố giúp những người khác đến gần Ngài hơn mà không đặt bất cứ áp lực tôn giáo nào lên họ. Khi họ đón nhận tình yêu tức là họ đón nhận Thiên Chúa và ngược lại.
Một câu hỏi đặt ra cho người Kitô hữu hôm nay: sống giữa người khác, chúng ta đã đóng vai trò muối ướp mặn đến đâu rồi ? Hay họ chỉ là muối đã lạt đi rồi ? Nếu thế thì họ trở thành vô dụng và chỉ còn việc vất ra ngoài đường cho người ta chà đạp lên thôi.
2. Anh em là ánh sáng thế gian:
Ánh sáng là để cho người ta thấy. Đốt đèn rồi che lại, lấy thùng đậy lại thì ngọn đèn trở nên vô dụng. Ánh sáng cũng có nghĩa là làm chứng. Đèn phải để trên đế cao để cho thiên hạ thấy việc tốt của anh em làm mà ngợi khen Cha anh em ở trên trời.
Một trong những nhà truyền thuyết giáo xuất chúng nhất của thế kỷ 19 là Đức Hồng Y Mermillotd, Giám mục giáo phận Lausanne (Thụy sĩ). Ngài qua đời năm 1892. Có một lần, sau khi giảng về phép Mình Thánh Chúa trong nhà thờ chính tòa, giáo dân ra về. Còn ngài theo thói quen ở lại chầu Mình Thánh Chúa nửa giờ. Khi ngài vừa đứng dậy để đi ra, ngài nghe có tiếng của một bà gọi ngài. Ngài rất ngạc nhiên, vì ngài tưởng không còn ai trong nhà thờ nữa. Người phụ nữ trình bày:
“Kính thưa Đức Cha, con đã nghe Đức Cha giảng. Bài giảng rất thuyết phục. Nhưng những lời Đức Cha nói suông chưa làm con xác tín về phép Thánh Thể. Con biết Đức Cha giống như một luật gia bảo vệ cho đức tin của Giáo hội công giáo. Con còn muốn điều gì hơn thế nữa. Vậy là con nấp và con quan sát. Khi con thấy Đức Cha quỳ gối cầu nguyện hồi lâu và sốt sắng, dù Đức Cha biết trong nhà thờ không có ai, gương sáng ấy đã đánh động con. Con không muốn theo đạo Tin lành nữa. Con muốn trở lại đạo công giáo”.
Mẹ Têrêsa nói: “Chúa Giêsu đã đến như là ánh sáng của thế gian, và những ai theo Ngài, đều được mời gọi phổ biến ánh sáng này, ánh sáng ban sự sống cho con người”.
Gẫm lại Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta cảm thấy không mấy yên tâm trong vai trò truyền giáo của chúng ta. Do phép rửa tội, chúng ta trở thành môn đệ của Chúa Giêsu để được sai đi. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em đi (Ga 20,21). Sống trong gia đình, xóm giềng, giữa mọi người, mỗi người Kitô hữu đều được Chúa sai đến với những người chung quanh mình. Tuy nhiên, cho đến bây giờ chúng ta chưa ý thức được vai trò môn đệ được sai đi của chúng ta.
Lạy Cha từ ái,
Cha muốn chúng con là muối, là ánh sáng cho trần gian.
Xin cho chúng con biết hòa nhập để biến đổi môi trường chúng con sống. Amen.
06/06 Này là Mẹ con
- Viết bởi Ga 19, 25-27
Này là Mẹ con.
Thứ Hai tuần 10 thường niên, sau lễ Hiện Xuống.
Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Này là Con Bà. Này là Mẹ con."
Lời Chúa: Ga 19, 25-27
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Gioan
Khi ấy, đứng gần thập giá Chúa Giêsu, có mẹ Người, cùng với chị mẹ Người là bà Maria, vợ ông Clêôpas và Maria Mađalêna.
Khi thấy mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu nói với mẹ rằng: “Thưa Bà, này là Con Bà”. Rồi Người nói với môn đệ: “Này là Mẹ con”. Và từ giờ đó môn đệ đã đón bà về nhà mình.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
1. Đứng gần thập giá -- Ga 19,25-34--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Khi Đức Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá,
các Tin Mừng Nhất Lãm đều nhắc đến các phụ nữ Galilê.
Họ chỉ đứng nhìn Thầy từ xa (Mt 27,55; Mc 15,40; Lc 23,49).
Còn Tin Mừng Gioan lại mô tả nhóm phụ nữ đứng gần thập giá.
Người phụ nữ đầu tiên được kể tên là thân mẫu Đức Giêsu.
Mẹ đã theo Con đến tận núi Sọ,
dám chứng kiến và cảm nghiệm mọi nỗi đau của Con.
Mẹ can đảm nhận mình là mẹ của người tử tội,
đang ở trong giây phút cuối đời, đang đối diện với cái chết.
Người gần chết thường hay trối trăng một điều quan trọng,
một điều cần phải làm sau khi họ nhắm mắt.
Đức Giêsu trên thập giá cũng muốn để lại một lời trối.
Từ trên cao, Ngài nhìn thấy thân mẫu của mình
và người môn đệ mình yêu dấu đứng kề bên,
Ngài muốn tạo một tương quan thân thiết giữa họ.
Ngài nói với Mẹ: “Thưa Bà, đây là con của Bà.”
Rồi nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh.” (Ga 19,26-27).
Hai người không ruột thịt máu mủ, bây giờ thành mẹ con.
Có người nghĩ chuyện Đức Giêsu làm ở đây cũng thường thôi.
Vì biết mình sắp chết, nên Ngài giao phó Mẹ cho môn đệ,
để anh này thay mình chăm sóc Mẹ cho tròn chữ hiếu.
Thật ra lời trăng trối của Đức Giêsu mang tầm vóc lớn hơn nhiều.
Chúng ta không rõ khi Ngài lên đường đi sứ vụ, ai đã lo cho Mẹ.
Ngài để lại Mẹ ở nhà, và Ngài đòi các môn đệ cũng làm như thế.
Không rõ lúc cuối đời, Ngài có thấy cần người chăm sóc Mẹ không?
Dù sao trước khi Ngài nói với anh môn đệ: “Đây là mẹ của anh”
thì Ngài đã giới thiệu anh với Mẹ: “Đây là con của bà.”
Ngài xin Mẹ nhận anh này làm con và chăm sóc anh.
Sau đó Ngài mới giới thiệu Mẹ với anh: “Đây là Mẹ của anh.”
Người môn đệ đã nhận bà làm mẹ, và đã đón bà về nhà mình.
Đức Giêsu đã làm xong chuyện cuối cùng mà Ngài phải làm,
đó là tạo lập một tương quan mẫu tử giữa Mẹ và anh môn đệ.
Với sự bình an thanh thản của người đã hoàn thành sứ mạng,
Ngài nói: “Thế là đã hoàn tất !” (Ga 19,28.30).
Có người nghĩ rằng Thầy Giêsu trên thập giá
chỉ muốn nối kết Mẹ Ngài và người môn đệ Ngài mến thương.
Đó là chuyện thuần túy riêng tư giữa hai người.
Anh môn đệ này không đại diện cho các kitô hữu,
nên cũng chẳng có tương quan nào giữa Mẹ Maria và chúng ta.
Truyền thống Công giáo nghĩ không nghĩ như thế,
nhưng coi cử chỉ trăng trối cuối cùng này của Đức Giêsu
đã kết nên mối dây giữa Mẹ Ngài với mọi kitô hữu.
Đức Giêsu đã chia sẻ tương quan làm con của Mẹ cho chúng ta.
để chúng ta cũng có thể coi Mẹ Maria là Mẹ của mình.
Đây là món quà quý giá Ngài ban cho ta lúc gần kề cái chết.
Chẳng thấy Mẹ hay anh môn đệ nói gì sau lời của Đức Giêsu,
nhưng chúng ta biết cả hai đã sống tương quan mới sau đó.
Đức Maria đã trở nên mẹ của từng kitô hữu.
Mẹ đã là môn đệ trung tín theo Con mình đến tận thập giá.
Người môn đệ Chúa yêu đứng gần cũng theo Thầy đến cùng.
Cả hai làm nên một gia đình thiêng liêng.
Khi vào một nhà thờ Công giáo, chúng ta thấy lòng ấm lại,
vì có sự hiện diện cảm thông của một Người Mẹ,
Người đã ở với Đức Giêsu hơn ba mươi năm,
đã sinh dưỡng, dạy dỗ, chở che, và làm cho Ngài lớn lên.
Đức Maria là thành viên và là Mẹ của Hội Thánh,
là người đứng dưới chân thập giá với nhóm phụ nữ ở Galilê,
nhưng cũng là người có phúc hơn mọi phụ nữ,
là người cầu nguyện với các môn đệ chờ Thánh Thần đến,
nhưng cũng là người được Thánh Thần ngự từ lúc truyền tin.
Chúng ta mong Chúa Giêsu cứ nói với Mẹ: “Đây là các con của Bà.”
Và nói với chúng ta: “Đây là Mẹ của anh chị em.”
Và chúng ta cũng mong Mẹ nhắc nhở chúng ta nhiều lần:
“Hãy làm những gì Người bảo!”
Cầu nguyện:
Lạy Mẹ Maria,
Chúng con tạ ơn Chúa Giêsu
đã ban cho chúng con một người mẹ
như quà tặng vô giá lúc Người sắp lìa đời.
Mẹ được chọn làm thân mẫu của Chúa
và được ban đầy ân sủng siêu phàm,
khiến muôn thế hệ phải ngợi khen chúc tụng.
Nhưng Mẹ cũng là tỳ nữ mọn hèn
luôn mau mắn thi hành ý định của Thiên Chúa,
dù Mẹ chẳng hiểu hết được mầu nhiệm cao sâu.
Chúng con tưởng Mẹ sẽ đi trên con đường đầy hoa,
nhưng thật ra Mẹ đã đi con đường của Chúa,
con đường gập ghềnh và trắc trở,
với lưỡi gươm sắc đâm thấu tâm hồn.
Trong đời Mẹ có bao tiếng xin vâng trên môi,
từ tiếng xin vâng đầu tiên đến tiếng xin vâng trên núi Sọ.
Những tiếng xin vâng này hợp với tiếng xin vâng của Con Mẹ
để Người đem ơn cứu độ cho chúng con.
Lạy Mẹ Maria,
là Mẹ Chúa Giêsu và là Mẹ chúng con.
Mẹ đã sống trọn phận người như chúng con,
và đã chiến thắng sau khi kết thúc cuộc đời trần thế.
Mẹ hiểu chúng con cần lời cầu bàu của Mẹ biết bao
đang khi phải chiến đấu giữa trần gian đầy sóng gió.
Ước gì chúng con cũng có phúc vì đã tin như Mẹ,
có phúc vì đã làm cho Con của Mẹ được sinh ra,
và được lớn lên trong thế giới hôm nay. Amen.
2. Vai trò Mẹ thiêng liêng của Đức Maria--Ngọc Yến, Vatican news
“Đứng gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôpát, cùng với bà Maria Mácđala. Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giêsu nói với thân mẫu rằng: “Thưa Bà, đây là con của Bà.” Rồi Người nói với môn đệ : “Đây là mẹ của anh.” Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình. (Ga 19, 25-27).
Chính đoạn Tin Mừng này chỉ cho thấy tước hiệu Đức Maria, Mẹ Hội Thánh. Ở đây, Chúa Giêsu ủy thác thánh Gioan cho Đức Mẹ như người con được tái sinh vào đời sống thiêng liêng mà chỉ có Mẹ mới làm được. Như thế đây không phải đơn giản là lòng sùng kính Mẹ, cầu nguyện với Đức Trinh Nữ với tước hiệu này, nhưng là tuân theo ý muốn của Chúa Giêsu, vì điều này được truyền lại cho chúng ta từ Kinh thánh: Chúa Giêsu, với những lời tuyên bố ngay lúc cận kề cái chết, xin Đức Maria chăm sóc mỗi người. Nhưng Chúa Giêsu cũng đòi hỏi mỗi người phải cảm thấy được ở trong mối tương quan tình con thảo với Mẹ.
Đức Maria trung tâm giáo lý về ơn Cứu độ
Lòng sùng kính đối với Đức Maria - giống như tôn kính Thánh giá và Bí tích Thánh Thể - luôn luôn là một trụ cột cơ bản của đức tin, nhưng với lễ nhớ Đức Maria, Mẹ Hội Thánh được thiết lập vào năm 2108, Đức Thánh Cha Phanxicô muốn làm nhiều hơn nữa. Trước hết, ĐTC muốn làm thế nào để lòng sùng kính này có thể là điều tốt cho Giáo hội và có thể làm gia tăng ý nghĩa vai trò làm Mẹ trong Hội Thánh của Đức Maria, nhưng trên tất cả là đặt Đức Maria ở trung tâm giáo lý về ơn cứu độ. Thực tế, trong mối tương quan với Chúa Kitô, lòng đạo đức đối với Đức Maria xuất phát trực tiếp từ đức tin vào Chúa Ba Ngôi. Bởi vì Chúa muốn Mẹ, một người phụ nữ, là Mẹ của Con Thiên Chúa, qua mẹ, con người có thể đạt tới lòng thương xót của Thiên Chúa. Vai trò làm mẹ của Đức Maria bắt đầu bằng việc Truyền tin: Với lời xin vâng, Đức Mẹ ưng thuận để Chúa đi vào lịch sử. Và vì thánh ý Thiên Chúa, việc làm mẹ của Đức Maria không kết thúc dưới chân Thánh giá, mà trở nên vĩnh cửu. Hơn nữa, trong ngày Lễ Ngũ Tuần Mẹ còn hiện diện cùng với các tông đồ - các tín hữu đầu tiên chờ đợi Chúa Thánh Thần: đây là mối liên kết giữa việc kính nhớ Mẹ Hội Thánh với Lễ Chúa Thánh Thần mà Đức Giáo hoàng Phanxicô muốn nhấn mạnh.
Lòng sùng kính Đức Trinh Nữ trong giáo huấn của các Giáo hoàng
Tước hiệu Đức Maria Mẹ Hội Thánh có nguồn gốc xa xưa và đã hiện diện trong Giáo Hội thời của Thánh Augustinô và Thánh Leo Cả. Trong nhiều thế kỷ, lòng sùng kính Đức Mẹ với nhiều tước hiệu, nhưng với tước hiệu Mẹ Hội Thánh xuất hiện trong một số văn bản của các tác giả thiêng liêng và trong giáo huấn của ĐTC Benedict XIV và Leo XIII. Tuy nhiên, phải đợi đến ĐTC Phaolô VI mới có bước ngoặt; đó là ngày 21 tháng 11 năm 1964, khi kết thúc phiên thứ ba của Công đồng Vatican II, Đức Giáo hoàng tuyên bố Đức Trinh Nữ Maria “Mẹ Hội Thánh”, nghĩa là của mọi Kitô hữu". Với quyết định này, ĐTC Phaolô VI lấy nội dung chủ yếu trong Tín điều của Công đồng Nicea năm 325 và trên hết là các quyết định của các giáo phụ Công đồng Êphêsô (430), xác định Đức Maria là "Mẹ Thiên Chúa". Trong Năm Thánh (1975), có Thánh lễ tạ ơn sùng kính Đức Maria, Mẹ Hội Thánh, sau đó lễ này được đưa vào Sách lễ Rôma, nhưng chưa phải là lễ nhớ bắt buộc trong lịch phụng vụ. Tuy nhiên, ở một số quốc gia - ví dụ Ba Lan và Argentina - và trong một số hội dòng, lễ Đức Maria, Mẹ Hội Thánh được đưa vào lịch riêng. Vào năm 1980 ĐTC Gioan Phaolô II đưa lòng sùng kính Đức Maria, Mẹ Hội Thánh vào trong kinh nguyện. Và đến ngày 11 tháng 02 năm 2018, kỷ niệm 160 năm lần đầu tiên Đức Trinh Nữ hiện ra tại Lộ Đức. Nhân dịp này, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã ấn định lễ nhớ Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Giáo hội, được ghi vào Lịch Rôma và được cử hành hàng năm, vào thứ hai sau Chúa Thánh Thần hiện xuống.
3. Hội Thánh Cùng Mẹ Tiến Bước--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Với Sắc lệnh của Bộ Phụng Tự và Kỷ luật các Bí tích ký ngày 11 tháng 2 năm 2018, ngày kính nhớ Đức Mẹ Lộ Đức truyền dạy chúng ta cử hành lễ kính nhớ Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh. Thứ Hai, sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Hội Thánh cử hành với niềm vui khôn tả, khởi đi từ: “Khi đón nhận Lời Chúa với tâm hồn trong trắng, Mẹ đã cưu mang Ngôi Lời trong cung lòng khiết trinh, và khi hạ sinh Đấng thiết lập Hội Thánh, Mẹ đã cộng tác trong việc khai sinh Hội Thánh. Khi đứng bên thập giá, Mẹ đón nhận lời trối đầy yêu thương của Con Chúa, và đã nhận tất cả mọi người làm con, những người được tái sinh vào đời sống siêu nhiên nhờ cái chết của Đức Kitô” (Kinh Tiền tụng: Đức Maria là khuôn mẫu và là Mẹ của Hội Thánh).
Trong ngày này Hội Thánh dâng lời ngợi khen tung hô Chúa, đồng thời tôn vinh Mẹ là Ðấng Tuyệt Ðẹp “Tota Pulchra”, vì Mẹ đã được Thiên Chúa Cha yêu thương và tuyển chọn làm Mẹ Chúa Con. Mẹ được gìn giữ khỏi mắc tội nguyên tổ, là Ðấng đầu tiên đã được Con Mẹ cứu chuộc. Nét đẹp cao cả của Mẹ phản chiếu nét đẹp của Chúa Kitô, là bằng chứng cho tất cả mọi tín hữu về chiến thắng của tình thương Thiên Chúa trên tội lỗi và sự chết, khi đạp nát đầu con rắn đã cám dỗ Adong và Evà phạm tội.
Thiên Chúa là Cha nhân từ
Thiên Chúa khôn ngoan và nhân từ, nên mọi việc Ngài làm đều tốt đẹp. Ngài đã sáng tạo con người theo hình ảnh Ngài, cho họ sống tình thân với Chúa. Vậy Sự Dữ do đâu mà có ? Đâu là nguyên nhân khiến cho tình thân nghĩa thiết giữa con người với Thiên Chúa và con người với nhau bị phá vỡ?
Sách Sáng Thế (x. St 1-3) cho ta câu trả lời. Thiên Chúa không tạo nên sự chết, nhưng sự chết đã đi vào thế giới vì sự ghen tương của ma quỉ (x. Kn 1,13-14; 2,23-24). Khi nổi loạn chống lại Thiên Chúa, ma quỉ đã lường gạt và lôi kéo con người theo chúng. Thiên Chúa hỏi Ađam: “Ai đã chỉ cho ngươi biết rằng ngươi trần truồng, há chẳng phải tại ngươi đã ăn trái cây mà Ta cấm ngươi không được ăn ư?” Thiên Chúa hỏi Evà: “Tại sao ngươi đã làm điều đó? ” Evà trả lời: “Con rắn đã cám dỗ tôi” (x. St 3, 11-13).
Là thụ tạo tinh thần, con người chỉ có thể sống tình thân ấy khi tự do tùng phục Thiên Chúa. Ðiều đó được diễn tả trong lệnh cấm con người ăn trái cây biết lành, biết dữ “vì ngày ngươi ăn nó, ngươi sẽ chết” (St 2, l7). Bị ma quỉ cám dỗ, con người đánh mất lòng tín thác vào Ðấng Sáng Tạo, lạm dụng tự do, bất tuân lệnh của Thiên Chúa. Ðó là tội đầu tiên của con người (x. Rm 5, l9). Hậu quả là Adong và Evà đánh mất sự thánh thiện nguyên thủy (x. Rm 3, 23). Sự hài hòa với vạn vật bị phá vỡ: thế giới hữu hình trở nên xa lạ và thù nghịch với con người (x. St 3, l7-l9). Sự kết hợp nam nữ trở nên căng thẳng (x. St 3, ll-l3); tình huynh đệ tương tàn (x. St 4, 3-15); tiếp đến là sự sa đọa của cả loài người. Cuối cùng, vì bất tuân: “Con người là tro bụi sẽ trở về bụi tro” (St 3, l9).
Sau khi sa ngã, Thiên Chúa không lỡ bỏ rơi con người. Trái lại, vì tình thương, Thiên Chúa nâng con người lên. Chúa bảo con rắn: “Bởi mi đã làm điều đó, mi sẽ vô phúc ở giữa mọi sinh vật và mọi muông thú địa cầu; mi sẽ bò đi bằng bụng, và mi sẽ ăn bùn đất mọi ngày trong đời mi”. (St 3, 9-15. 20). Đó là thảm kịch tự do mà Thiên Chúa chấp nhận đến cùng vì yêu thương, nhưng Ngài hứa: “ Ta sẽ đặt mối thù nghịch giữa mi và người phụ nữ, giữa miêu duệ mi và miêu duệ người đó, người miêu duệ đó sẽ đạp nát đầu mi, còn mi thì sẽ rình cắn gót chân người” (St 3,15).
Ðoạn sách Sáng Thế trên được gọi là "Tiền Tin Mừng" vì đó là lời loan báo đầu tiên về Ðấng Cứu Thế, về cuộc chiến đấu giữa con rắn với người nữ và chiến thắng cuối cùng của một hậu duệ người nữ này. Tình mẫu tử của Đức Maria đối với nhân loại được biểu lộ “Ađam đặt tên cho vợ mình là Evà, vì bà là mẹ của chúng sinh” (St 3, 20).
Mẹ Hội Thánh
Đức Maria đã được Thiên Chúa tiền định từ muôn thủa trong yêu thương và chọn Mẹ làm Đấng cưu mang, sinh hạ, nuôi dưỡng và đồng hành cùng Chúa Giêsu Con Mẹ trong công trình cứu chuộc loài người, Mẹ đã cộng tác trong việc khai sinh Hội Thánh. Trong tình thương, Ngài đã tiền định cho chúng ta được làm dưỡng tử đối với Ngài, qua Đức Giêsu Kitô (x. Ep 1 4-5). Do đó, Đức Maria là Mẹ chúng ta.
Thật hiển nhiên: “Lúc bị treo trên thập giá, Chúa Giêsu nói với môn đệ Người yêu: Này là Mẹ con” (Ga 19, 26-27). Bên chân thập giá (x. Ga 19,25), Mẹ đã đón nhận lời trối đầy yêu thương của Chúa Giêsu Con Mẹ, và nơi người môn đệ được Chúa sủng ái, Mẹ đã tiếp nhận mọi người như những người con phải được tái sinh vào đời sống thần linh, và như thế, Mẹ đã trở nên người mẹ từ ái của Hội Thánh đã được tác sinh trên Thánh giá khi Chúa Kitô trao ban Thần Khí. Trong khi đó, cũng nơi người môn đệ yêu dấu, Chúa Kitô muốn tất cả các môn đệ thay mặt Người thể hiện tình yêu thương đối với Đức Maria, Người trao gửi để họ đón nhận Mẹ trong tâm tình thảo hiếu kính yêu” (Sắc Lệnh về việc cử hành lễ kính nhớ Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh). Vì thế, Mẹ là Mẹ Hội Thánh.
Hội Thánh cùng với Mẹ tiến bước
Trong diễn từ của Đức Giáo hoàng Phaolô VI ngày bế mạc kỳ họp thứ ba của Công đồng Vatican II – 21.11.1964 viết: “Thiên chức Thánh Mẫu đã làm cho Mẹ có những mối liên hệ đặc biệt với Chúa Kitô và hiện diện trong công trình cứu rỗi nhân loại do Chúa Giêsu Kitô thực hiện, cũng chính thiên chức đó tạo nên mối tương quan giữa Đức Maria và Hội Thánh; vì Đức Maria là Mẹ của Chúa Kitô, Đấng đã nhận lấy bản tính nhân loại trong cung lòng khiết trinh của Mẹ, Đấng là Đầu của Nhiệm thể là Hội Thánh. Vì thế Đức Maria, Mẹ của Chúa Kitô, cũng là Mẹ của tất cả các tín hữu và mục tử, nghĩa là của Hội Thánh”.
Vì là Mẹ của Hội Thánh, nên suốt cuộc đời Mẹ luôn là máng thông ơn Thiên Chúa xuống cho Hội Thánh. Để sống tốt hành trình dương thế, chúng ta hãy chạy đến với Mẹ, cầu xin Mẹ, để có thể khám phá ra niềm vui về sự dịu dàng của Thiên Chúa. Không ai đã bước vào mầu nhiệm sâu xa của việc nhập thể như Mẹ Maria. Toàn bộ cuộc sống Mẹ được hun đúc theo Chúa Giêsu Con Mẹ. Mẹ minh chứng rằng tình yêu của Con Mẹ là vô cùng vô tận và mở rộng cho tất cả mọi người, không một ngoại lệ nào. Chúng ta hãy tiếp bước theo Mẹ.
Lạy Đức Mẹ Hội Thánh, xin cầu cho chúng con. Amen.
4. Đức Maria, Mẹ Hội Thánh, cầu cho chúng con-- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
(St 3, 9-15.20; Ga 19, 25-27)
Thứ Hai, sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, Giáo Hội truyền dạy chúng ta cử hành lễ kính nhớ Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Hội Thánh với niềm vui khôn tả.
Thiên Chúa nhân hậu và khôn ngoan khi muốn thực hiện công việc cứu chuộc thế giới vào thời cuối cùng, “đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà” (Gl 4,4), và Người Con đó “đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria” (Kinh Tin Kính).
Đức Mẹ Chúa Kitô
Không có gì lạ, khi có người đặt câu hỏi: chúng ta có nên gọi Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa không?Chẳng lẽ Đức Maria, Đấng đã hạ sinh Chúa Giêsu lại không phải là Mẹ Chúa Kitô?
Ngôi Lời Thiên Chúa đã làm người, có hồn có xác. Thánh Công đồng Nicêa dạy, chính Con duy nhất của Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha, đồng bản thể với Chúa Cha, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành, và tất cả tồn tại trong Người, vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế, nhập thể, làm người, chịu chết, đã sống lại, và Người sẽ lại đến trong vinh quang để phán xét; Công đồng tuyên phán: chỉ có Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Lời Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha, giống Chúa Cha. Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi sánh sáng, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha… Nên Đức Maria được gọi là Mẹ Chúa Kitô.
Đức Maria đã được các giáo phụ ca ngợi, đặc biệt là thánh Ambrôsiô thành Milan (thế kỷ IV) khi nói: “Đức Maria là Đền Thờ của Thiên Chúa chứ không phải Thiên Chúa của Đền Thờ”. Thánh Ignatiô thành Antiokia (+ 110) là người đầu tiên nêu tên Đức Maria sau các sách Tin Mừng: “Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã được Đức Maria cưu mang trong lòng theo nhiệm cục cứu độ” và “Đức Giêsu cũng được sinh ra bởi Đức Maria và bởi Thiên Chúa”.
Tại Đông phương, kể từ năm 350, người ta đã tuyên dương Mẹ là “Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể ”. Như thánh Grégoire de Nazianze (330 – 390) đã viết: “Đức Kitô sinh bởi một Trinh Nữ, người nữ ấy là Mẹ Chúa Kitô”.
Đức Mẹ Hội Thánh
Hiến chế tín lý Lumen Gentium, số 53 của Công Đồng Vatican ô II viết: Vì đã cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Chúa Giêsu, đã dâng Con lên Chúa Cha trong đền thánh, và cũng đau khổ với Con mình chết trên thập giá, Ðức Maria đã cộng tác cách rất đặc biệt vào công trình của Ðấng Cứu Thế, nhờ lòng vâng phục, nhờ đức tin, đức cậy và đức ái nồng nhiệt, để tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh hồn. Bởi vậy, trên bình diện ân sủng. Ngài thật là Mẹ chúng ta” (LG 61).
“Thật vậy, Đức Trinh Nữ Ma-ri-a… được nhận biết và tôn kính với tư cách là Mẹ thật của Thiên Chúa là Đấng Cứu Chuộc… Mẹ cũng ‘thật là Mẹ các chi thể của Đức Ki-tô’… bởi vì đã cộng tác bằng đức mến để các tín hữu được sinh ra trong Hội Thánh, được làm chi thể của Đức Kitô là Đầu của Hội Thánh.” 525 “Đức Ma-ri-a,… Mẹ Đức Ki-tô, cũng là Mẹ… Hội Thánh” (x.GLHTCG số 963).
Công việc cứu chuộc vẫn tiếp tục trong Hội Thánh, là thân thể Chúa Kitô. Trong thân thể này, Ðức Maria có mặt như một chi thể trổi vượt, liên kết mật thiết với Ðầu, và hằng yêu thương, bảo vệ hướng dẫn các chi thể khác là các tín hữu, với lòng của người Mẹ hiền.
Sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống Giáo Hội lễ kính Mẹ
Việc sùng kính Mẹ vào thứ Hai sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống nhắc nhớ chúng ta rằng, sau khi Ðức Giêsu lên trời, Ðức Maria đã ở giữa các Tông đồ, như người Mẹ “giữa một đàn em đông đúc” của Ðức Giêsu (Rm 8,29), Con của Mẹ. Đức Mẹ cùng cầu nguyện với Hội Thánh sơ khai: “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Ðức Giêsu, và với anh em của Ðức Giêsu” (Cv 1,14). Hơn nữa: “Ðức Maria cũng tha thiết cầu xin Thiên Chúa ban Thánh Thần, là Ðấng đã bao phủ lấy Người trong ngày Truyền Tin” (LG 59), và “ai nấy được tràn đầy ơn Thánh Thần” (Cv 2-4) trong ngày lễ Ngũ Tuần. Sau cuộc đời trần thế, Ðức Maria đã được đưa lên trời cả hồn lẫn xác để hưởng vinh quang thiên quốc. Mẹ là người đầu tiên được tham dự vào cuộc Phục Sinh của Con Mẹ, và như vậy Mẹ là dấu chỉ báo trước và bảo đảm cho các Kitô hữu được sống lại với Chúa Kitô. Mẹ ở trên trên vẫn tiếp tục thiên chức làm mẹ bằng việc chuyển cầu cho tới khi Hội Thánh đạt tới quê trời (LG 62).
Hội Thánh luôn dành cho Ðức Maria lòng yêu mến và tôn kính rất đặc biệt, vượt trên các thiên thần và các thánh. Mẹ là mẫu mực của Hội Thánh trên bình diện đức tin, đức ái và hiệp nhất hoàn hảo với Chúa Kitô” (GH 63). Là hình ảnh của Hội Thánh tại thế “Hội Thánh vì ôm ấp những kẻ có tội trong lòng” (GH 8) hướng nhìn lên Ðức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, một phần tử ưu tú của mình, đã chiến thắng tội lỗi, nhờ hồng ân Chúa Kitô. Vì thế, Hội Thánh luôn luôn kiên trì và tin tưởng trong hành trình đức tin trên trần gian. “Ngày nay, trên trời Mẹ Ðức Giêsu đã được vinh hiển cả hồn và xác, là hình ảnh và khởi thủy của Hội Thánh phải hoàn thành đời sau; đồng thời, dưới đất này, cho tới ngày Chúa đến (2Pr. 3,10).
Lạy Mẹ Hội Thánh, trong hoàn cảnh bi đát hiện nay, đầy đau khổ và lo lắng đang bao trùm cả thế giới vì đại dịch, chúng con cầu xin Mẹ, chúng con tìm nương ẩn dưới sự che chở của Mẹ. Xin chớ chê chớ bỏ lời chúng con nguyện trong cơn gian nan khốn khó, xin giải thoát chúng con khỏi mọi hiểm nguy.
Đức Mẹ Hội Thánh, cầu cho chúng con. Amen.
5. Mẹ Hội Thánh
(https://ctqn.org)
Sau lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, mừng long trọng vào Chúa nhật sau lễ Thăng Thiên, Giáo Hội mừng lễ Mẹ Hội Thánh. Việc phụng vụ Hội Thánh mừng lễ này liền kề với lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống cho thấy Hội Thánh nhận thức được vai trò của Đức Maria trong Giáo Hội.
Từ sau Công đồng Vatican II, hạn từ Mẹ Hội Thánh được sử dụng rộng rãi, không chỉ vì đây là gợi ý của Đức Phaolô VI, mà còn là một kinh nghiệm đức tin được soi dẫn qua dòng lịch sử Hội Thánh. Điều này cũng mặc nhiên nói cho các tín hữu về một viễn kiến đầy hy vọng mà sách Khải huyền đã nêu lên, trong một cuộc chiến không khoan nhượng giữa con rồng và người nữ. Người nữ ấy chính là hình ảnh Đức Maria, tượng trưng cho Hội Thánh.
Cơ sở cho kinh nghiệm đức tin này là đoạn Thánh Kinh mà chúng ta đọc và hôm nay. Hội Thánh đã được Chúa Giêsu thiết lập. Đã được khai sinh từ cạnh sườn bị đâm thủng, từ đó máu và nước chảy ra. Nhiều nhà thần học đã cho đây là hình ảnh tượng trưng cho giây phút Hội Thánh được sinh ra giống như trẻ sơ sinh được sinh ra từ cung lòng người mẹ. Máu và nước tượng trưng cho sự sống. Đó cũng là hình ảnh mang tính Thánh Thể của mầu nhiệm Hội Thánh, mà từ Thánh Thể, Hội Thánh được nuôi sống do chính Mình và Máu Chúa. Hội Thánh lại tiếp tục mọi ngày làm cho hình ảnh của hy tế Chúa Kitô được sống động qua việc hiện tại hóa mầu nhiệm yêu thương này trong mỗi thánh lễ cử hành.
Thế nên, một Hội Thánh non trẻ được Chúa Giêsu sinh ra và cưu mang, rồi trong giây phút Người chết trên thập giá đến việc trao phó thánh Gioan làm con Đức Mẹ, gợi lên cho chúng ta đầy hình ảnh mang tính biểu trưng về Hội Thánh. “Này là con Bà” và “Đây là mẹ con”, hai câu nói này hàm chứa một nội hàm sâu xa. Rằng Hội Thánh thực sự là con của Mẹ Maria. Chúa Giêsu chuyển giao Hội Thánh non trẻ và nhỏ bé ấy cho Đức Mẹ trông nom. Và “Đây là mẹ con”, đây thực sự là lời căn dặn, Hội Thánh chính là mẹ của chúng ta, Hội Thánh đó bao hàm tất cả mọi người chúng ta, những kẻ tin và cử hành mầu nhiệm cứu độ của Chúa Kitô Con Mẹ.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là Mẹ Hội Thánh và Mẹ của mỗi chúng con. Xin ban ơn nâng đỡ Hội Thánh Chúa trong mọi cơn nguy khó, và cũng xin nâng đỡ đức tin cho mỗi người chúng con. Amen.
6. Đức Maria – Mẹ Giáo Hội
(https://tinmungmoingay.com)
Bài Tin Mừng hôm nay xác nhận vai trò làm mẹ trong bình diện cứu độ của ân sủng đạt tới đỉnh cao, đó là lúc hy tế thập giá của Đức Kitô, cũng là mầu nhiệm vượt qua của Người, được hoàn tất.
Đọc kỹ đoạn tường thuật, thoạt đầu chỉ thấy đó là một sự lo lắng của Đức Giêsu dành cho mẹ mình, người mẹ mà Người để lại trong một nỗi đau khổ tận cùng. Thế nhưng, ý nghĩa bản tường thuật này có thể đi xa hơn vì hai lý do:
Thứ nhất “môn đệ thương mến” ở đây còn là một ẩn số, không chắc chắn là Gioan, theo các nhà Thánh Mẫu Học thì có thể là một biểu trưng (symbol): người được Chúa Giêsu yêu là nghe và tuân giữ Lời (x. Ga 14,21). Mặt khác, nếu trên thập giá, Đức Giêsu chỉ coi Gioan là một cá nhân, thì Đức Giêsu không phải lo, vì Gioan vẫn còn đầy đủ cha mẹ là ông bà Dê-bê-đê. Chính vì vậy, có thể hiểu hình ảnh “người môn đệ được Chúa yêu” là đại diện cho loài người nhận Đức Maria làm mẹ.
Thứ hai, trong thứ tự của lời trối, rõ ràng mang ý nghĩa Đức Giêsu chính thức đặt Đức Maria làm mẹ nhân loại hơn là một sự nhờ cậy “người môn đệ thương mến” nhận chăm sóc Đức Maria. Đức Giêsu nói với Đức Maria trước rồi nói với môn đệ sau. Theo lẽ thường nếu muốn gởi gắm Đức Maria cho “môn đệ thương mến” thì Đức Giêsu phải nói với “môn đệ thương mến” trước xem môn đệ có đồng ý không. Như vậy, nghĩa là Đức Giêsu trao cho Đức Maria một sứ mệnh là làm mẹ “môn đệ thương mến” đại diện cho các tín hữu, nghĩa là Đức Maria sẽ là Mẹ của chúng ta.
“Vai trò làm mẹ thật mới mẻ này” của Đức Maria, được thiết lập trong đức tin, là hoa trái của tình yêu “mới mẻ”, một tình yêu thấm sâu vào Mẹ dưới chân thập giá, qua việc Mẹ chia sẻ vào tình yêu cứu độ của Đức Kitô.
1. Giờ hiến tế: đặc trưng của sự hy sinh.
Việc Đức Giêsu ngỏ lời với Đức Maria dưới chân thập giá, đặt trong một hoàn cảnh hết sức rất long trọng được lồng trong cái chết của Đức Giêsu vào giờ Người được tôn vinh. Hôm nay, giờ Đức Giêsu đã đến, đó là “giờ” Người được tôn vinh vì Người đã vâng ý Cha mà chịu hiến tế hy sinh. Đức Maria được liên kết với giờ hiến tế này và trái tim Mẹ cũng chịu hiến tế như lời tiên báo của Simêon là “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Mẹ” (x. Lc 2,35). Điều này cũng cho thấy Đức Maria là “thiếu nữ Sion” nên cuộc đời của Mẹ sẽ mang dấu ấn của số phận dân Người. Vì là Mẹ Đấng Messia, Đức Maria nằm trong cuộc chiến, chia sẻ mọi đau khổ với con mình. “Lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà” gợi lên lưỡi gươm trong sách ngôn sứ Ezechiel 14,17, cắt đứt Israel, chỉ còn để lại một “số sót”. Lưỡi gươm nói lên sự đau khổ nội tâm của người mẹ, đau khổ ở đây là đau khổ của người mẹ nhìn người ta ruồng bỏ con mình. Lưỡi gươm trong Ezechiel vừa cắt đứt Israel vừa sinh ra số sót; ngay dưới chân thập giá, Đức Maria là “Mater dolorosa” đau xót vì sự phủ nhận của nhân loại đối với Đức Giêsu, nhìn Con chết tức tưởi, sự cắt đứt này cũng làm cho Mẹ buốt xót, sinh ra “số sót” cho nhân loại, đó là những kẻ tin vào Đức Kitô. Lưỡi gươm đâm thấu lòng Mẹ để Mẹ luôn chia sẻ khổ đau với Con, vừa đứng về phía những kẻ tin vào Đức Giêsu, ôm lấy tất cả vì Đức Giêsu đã gửi gắm tất cả cho Mẹ: “Này là Con của Mẹ”. Giờ phút hiến tế dưới chân thập giá là đỉnh điểm của lời “xin vâng”, và cả cuộc đời xin vâng của Đức Maria hướng về giờ phút hy sinh này. Cùng với Chúa Giêsu, Đức Maria đã chịu sát tế tâm hồn và làm cho lời “xin vâng” viên mãn khi Đức Giêsu kêu lên: “mọi sự đã hoàn tất”.
2. Đặc trưng hiện diện và hiệp thông cứu chuộc.
Đức Maria rõ ràng đã đóng vai trò trổi vượt trên bất cứ phàm nhân nào trong sự hiệp thông với Đức Giêsu cứu chuộc. “Hiệp thông cứu chuộc” không phải “tự thân cứu chuộc” mà là cộng tác hoặc tháp nhập vào sự cứu chuộc đó. Chỉ có một mình Đức Giêsu là Đấng Cứu Chuộc duy nhất, nhưng khi sinh hạ Hội Thánh trên thập giá, Đức Giêsu không chỉ có một mình, mà Người còn có Đức Maria đứng dưới chân thập giá, để cùng chia sẻ sự đau khổ và giúp Người chấp nhận hiến dâng. Và sau hết là “hiệp thông cứu chuộc” vì Đức Maria đã tham gia vào công trình sinh hạ Hội Thánh.
Thánh Alberto Cả viết: “Đức Maria đã tham dự vào cuộc khổ nạn để cứu nhân loại. Khi mà những Tông Đồ và môn đệ bỏ trốn, thì Người ở lại đứng dưới chân thập giá và chịu trong lòng những vết thương Chúa Giêsu phải chịu ngoài thân; chẳng phải lúc đó lưỡi gươm đã đâm thấu qua tâm hồn Mẹ sao?”
Chính sự liên kết những đau khổ và ý chí Mẹ với những đau khổ và ý chí của Đức Giêsu, và cũng chính nhờ sự từ bỏ những quyền lợi của một người mẹ mà Đức Maria đã cùng với Đức Giêsu cứu chuộc nhân loại: Sự liên kết những đau khổ của Đức Maria với những đau khổ của Đức Giêsu đã làm cho người nên Mẹ đau thương cũng như Đức Giêsu đau khổ. Có thể nói, Đức Giêsu phải chịu những đau khổ nào trong thân xác và linh hồn thì Đức Maria cũng phải chịu những đau đớn ấy trong lòng người. Và cũng như Đức Giêsu đã muốn gánh chịu những đau khổ thể xác và tinh thần tới tột độ khả năng chịu đựng của Người, thì cũng như Người, Mẹ Người cũng phải chịu trong lòng tất cả những đau khổ mà trái tim vô nhiễm người có thể chịu được. Mặt khác, ý chí của Đức Maria vốn kết hiệp với ý chí của Con, tức là ý chí của người luôn kết hiệp với ý chí Thiên Chúa. Đức Giêsu nhập thể là để hồi phục vinh quang Thiên Chúa và cứu chuộc thế gian bằng cuộc khổ nạn – chết – phục sinh của Người. Và Đức Maria cũng muốn cho vinh quang Thiên Chúa và phần rỗi của nhân loại nhờ cùng cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giêsu. Đó là một sự tuân phục tuyệt đối… Ngoài ra, khi dâng hiến người Con thì cũng đồng nghĩa với việc “từ bỏ” quyền lợi của một người mẹ của người, vì con là lẽ sống của mẹ, lấy mạng sống của con thì chẳng khác nào huỷ lẽ sống của mẹ. Đó là sự dâng hiến cao cả trong việc hiệp thông cứu độ.
Sau cùng, trên thập giá, lúc Đức Giêsu tưởng chừng như đã bị bỏ rơi hoàn toàn, thậm chí Chúa Cha dường như vắng bóng, thì còn đó Mẹ Người đứng dưới chân thập giá như là một động lực cuối cùng nâng đỡ Người – Thiên Chúa Cha giờ này đang ở trong sự hiện diện của Đức Maria và Thánh Thần vẫn phủ bóng trên Đức Maria để trợ lực Người trong giờ hiến tế…
Lạy Mẹ Maria là Mẹ chúng con, xin cho chúng con biết “xin vâng” như Mẹ trong mọi biến cố của cuộc đời, để cộng tác với Chúa trong việc sinh thêm nhiều con cái cho Giáo hội bằng đời sống chứng nhân truyền giáo của mình. Amen.
7. ĐGH Phanxicô thiết lập lễ nhớ Đức Maria là Mẹ Giáo Hội--G. Trần Đức Anh OP
ĐTC Phanxicô đã quyết định thiết lập lễ kính Đức Maria là Mẹ Giáo Hội và cử hành hằng năm vào ngày thứ hai sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, theo lịch chung của Giáo Hội.
Trong sắc lệnh công bố hôm 3-3-2018, DHY Robert Sarah, Tổng trưởng Bộ Phụng Tự và kỷ luật bí tích cho biết ĐTC đưa ra quyết định trên đây xét vì việc thăng tiến lòng sùng kính này có thể giúp gia tăng cảm thức của các vị mục tử, các tu sĩ và tín hữu về Mẹ Giáo Hội, cũng như lòng kính mến chân thành đối với Đức Mẹ.
Chính Đức Giáo Hoàng Phaolô 6, ngày 21-11 năm 1964, khi bế mạc khóa III của Công đồng chung Vatican 2 đã tuyên bố Đức Trinh Nữ Maria là ”Mẹ Giáo Hội, nghĩa là của toàn thể dân Kitô giáo, các tín hữu cũng như các vị Chủ Chăn, họ gọi Đức Maria là Mẹ rất quí mến” và Ngài thiết định rằng ”toàn thể dân Kitô giáo ngày càng gia tăng lòng tôn kính Mẹ Thiên Chúa dưới danh hiệu rất dịu dàng này”.
Sắc lệnh của Bộ Phụng tự khẳng định: Lễ kính Đức Maria là Mẹ Giáo Hội, do ĐGH Phanxicô ấn định, ”sẽ giúp chúng ta nhớ rằng đời sống Kitô, để tăng trưởng, cần phải ăn rễ sâu nơi mầu nhiệm Thánh Giá, nơi hy tế của Chúa Kitô trong Tiệc Thánh Thể, nơi Đức Trinh Nữ hiến dâng, Mẹ Đấng Cứu Chuộc và Mẹ của những người được cứu chuộc”.
Vì thế, lễ này cần được ghi trong tất cả các lịch và sách phụng vụ để cử hành thánh lễ và phụng vụ các giờ kinh. Các văn bản phụng vụ liên hệ được đính kèm, sắc lệnh này và các bản dịch, được các HĐGM chấp thuận, sẽ được công bố sau khi Bộ Phụng Tự và kỷ luật bí tích phê chuẩn. Tại những nơi nào lễ kính Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Giáo Hội đã được cử hành theo luật riêng được phê chuẩn, vào một ngày khác, với bậc phụng vụ cao hơn, thì trong tương lai vẫn được cử hành theo cùng thể thức ấy”.
Theo quyết định trên đây, thứ hai 21-5-2018 sẽ là lễ kính Đức Maria là Mẹ Giáo Hội. (Rei 3-3-2018)
8. Đức Maria – Mẹ Giáo hội
(Michael R. Heinlein //Văn Việt chuyển ngữ từ simplycatholic.com// https://hdgmvietnam.com/)
WHĐ (31-05-2020) – Vào ngày 11 tháng 2 năm 2018, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã quyết định thêm vào lịch chung Rôma một lễ mới về Đức Mẹ, lễ Đức Maria - Mẹ Giáo hội. Trước đây lễ này đã được cử hành ở cấp độ địa phương tại một số giáo phận và dòng tu. Bây giờ lễ này được cử hành trong toàn thể Giáo hội hoàn vũ, và được ghi trong Nghi thức Sách Lễ Rôma. Lễ mới này không có ngày cố định trong năm Dương lịch, vì nó phụ thuộc vào chu kỳ lễ Phục sinh. Lễ được cử hành vào ngày thứ Hai sau Chúa Nhật lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Người ta có thể tự hỏi danh hiệu mới này của Đức Maria có nghĩa gì? Và tại sao chúng ta mừng lễ này? Như câu thành ngữ cổ: “de Maria numquam satis” (về Đức Maria, thì nói không bao giờ đủ). Lý do theo nhà Thánh Mẫu học, Linh mục Hugh Rahner, SJ, giải thích là vì “bất cứ điều gì được nói về sự khôn ngoan vĩnh cửu của Thiên Chúa, đều có thể được áp dụng theo nghĩa rộng đối với Giáo hội, theo nghĩa hẹp hơn đối với Đức Maria, và theo một cách cụ thể đối với mọi tâm hồn tín hữu.”
Có nhiều ý nghĩa thần học từ việc thiết lập lễ nhớ này. Những ý nghĩa đó bắt nguồn từ việc nhận biết Giáo hội là Thân thể của Chúa Kitô và vai trò của Đức Maria trong đời sống các tín hữu.
Vai trò của Đức Maria
Đức Thánh Cha Phaolô VI đã chính thức dành cho Đức Maria danh hiệu “Mẹ Giáo hội” khi bế mạc kỳ họp thứ III của Công Đồng Vatican II, vào năm 1964. Truy nguyên về nguồn gốc từ thế kỷ thứ IV với Thánh Ambrôsiô, thì tước hiệu “Mẹ Giáo Hội” gợi lên mẫu tính thiêng liêng của Đức Mẹ, một đặc tính gắn liền với bản tính của Giáo hội.
Phần lớn quan điểm Giáo hội học của Công Đồng Vatican II, đặc biệt trong Hiến chế về Giáo hội (Lumen Gentium), được phát triển nhờ sự nhận biết cách phong phú về quan điểm thần học của Thánh Phaolô. Trong đó, các tín hữu nhận biết sự liên kết giữa họ với Đức Kitô như là chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Ngài. Thánh Phaolô đã nói rõ ràng và hùng hồn về chân lý này, và đây cũng là chân lý mà Thánh Phaolô nhận biết trước tiên sau khi trở lại. Khi bị ngã xuống đất và bị mù lòa, Phaolô - Kẻ bắt bớ Kitô giáo lúc đó – nghe thấy một giọng nói hỏi mình: “Saul, Saul, tại sao ngươi lại bắt bớ Ta? (Cv 9: 4). Qua câu nói này, rõ ràng Đức Kitô đã xác định mối hiệp nhất nên một giữa Ngài với những người theo Ngài. Cả hai cùng tạo thành một khối, một thể thống nhất – đó là những gì mà Thánh Augustinô sau này mô tả là “Chúa Kitô toàn thể” (totus Christus) – vì Đức Kitô và người được rửa tội là một thân thể.
Thánh Augustinô đã áp dụng chân lý này vào bối cảnh Thánh Mẫu học một cách rất thích hợp: Đức Maria là “mẹ của những chi thể thuộc về Đức Kitô... những ai tin vào Ðức Kitô, vì được kết hợp chặt chẽ với Người, nhất là trong Bí tích Thánh Thể, thì cũng kết hợp với nhau nhờ đức ái, tạo thành một thân thể duy nhất là Giáo hội, có Đức Kitô là đầu... Đức Maria đã sinh ra Người Con Một, và Giáo hội sinh ra những người mà nhờ Người Con Một mà nên một”.
Vì Đức Maria là mẹ của Đức Kitô, và chúng ta là chi thể của thân thể Đức Kitô – tức Giáo hội – nên chúng ta cũng là con của Đức Maria. Lễ nhớ mừng mẫu tính của Đức Maria đối với Giáo hội được cử hành hàng năm là dịp để suy ngẫm về chân lý rất ý nghĩa này và những hệ lụy từ đó. Và cũng vì tầm quan trọng của mối liên hệ mẫu tính của Đức Maria đối với Giáo hội mà những nghị phụ của Công Đồng Vatican II đã quyết định để phần suy tư dài về Đức Maria ở trong Hiến chế về Giáo hội (Lumen Gentium), chớ không tách ra để viết thành một tài liệu riêng về Đức Mẹ.
Mẫu gương và sự trợ giúp cho Giáo hội
Sự liên kết của Đức Maria với Con mình là không thể tách rời. Lễ nhớ mới này cũng thúc đẩy lòng sùng kính Đức Mẹ, bởi vì lễ này giúp chúng ta hướng về Đức Mẹ là mẫu gương cho cả nhân loại, đặc biệt là các tín hữu. Mẹ là chi thể “ưu tú nhất... và nguyên tuyền nhất của Giáo hội” (LG, số 53).
Thiên chức làm mẹ của Đức Maria được tìm thấy trong sự vâng lời, đức tin, đức cậy và đức ái của Mẹ. Những đặc điểm này là mảnh đất màu mỡ, ở đó Lời Chúa được gieo vào và trổ sinh sự sống dồi dào. Sự sống siêu nhiên đã đến với thế giới qua tiếng thưa “xin vâng” của Mẹ. Đó là tiếng thưa đem lại sự sống mới cho thế giới. Do đó, Đức Maria là Evà mới. Như sự chết đã đến thế giới qua Evà củ thế nào, thì sự sống đã đến thế giới qua Evà mới như vậy.
Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tuyên bố rằng, “với mẫu tính trong Chúa Thánh Thần, Đức Maria ôm lấy từng người trong Giáo hội, và ôm lấy từng người qua Giáo hội. Theo nghĩa này, Đức Maria – Mẹ Giáo hội cũng là gương mẫu của Giáo hội” (Redemptoris Mater, số 47).
“Ðức Maria đã cộng tác cách rất đặc biệt vào công trình của Ðấng Cứu Thế, nhờ lòng vâng phục, nhờ đức tin, đức cậy và đức ái nồng nhiệt, để tái lập sự sống siêu nhiên cho các linh hồn.” (LG, số 61). Vì toàn bộ cuộc đời của Đức Maria là một niềm ước mong của các tín hữu, nên Đức Mẹ lôi cuốn chúng ta đến với ơn cứu rỗi. Đồng thời, qua tấm gương và sự chuyển cầu từ thiên đàng, Đức Mẹ giúp chúng ta vượt qua tội lỗi và biết làm điều tốt. Mẹ không mong muốn gì khác hơn, ngoài ước mong dẫn chúng ta đến với Con của Mẹ.
Sự mẫu mực trong đức vâng phục, đức tin, đức cậy và đức ái được tỏ bày nơi Đức Maria cũng cần được tỏ bày nơi các Kitô hữu. Hay nói một cách đơn giản như Chúa Giêsu: “Đúng hơn phải nói: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa” (Lc 11:28).
Nhờ sự vâng lời của Đức Maria, Giáo hội có một gương mẫu để sống theo ý muốn của Chúa Cha. Nhờ đức tin của Mẹ, Giáo hội học được cách đưa Đức Kitô đến với thế giới. Nhờ đức cậy của Mẹ, Giáo hội học được cách trông cậy vào Chúa (xem Tv 130: 5). Và nhờ đức ái của Mẹ, Giáo hội học được con đường cứu rỗi.
Các Kitô hữu đã hướng về Đức Maria vì những ân sủng đặc biệt và sự chuyển cầu từ thiên đàng của Mẹ trong suốt nhiều thế kỷ, “đã được Giáo hội kêu cầu với nhiều danh hiệu như Trạng Sư, vị Bảo Trợ, Ðấng Phù Hộ và Ðấng Trung Gian” (LG, số 62). Việc thiết lập lễ Đức Maria – Mẹ Giáo hội mang đến một cơ hội nữa cho các chi thể trong thân thể Con của Mẹ, hân hoan kêu cầu trong tình yêu mẹ hiền của Mẹ - Đấng là gương mẫu và sự trợ giúp của chúng ta.
9. Đức Maria Là Mẹ Giáo Hội
Mẹ Giáo Hội (tiếng La-tinh: Mater Ecclesiae) là một trong nhiều tước hiệu của Đức Maria. Với tước hiệu này, Mẹ Thiên Chúa được tôn kính với tư cách là Mẹ của Giáo Hội, thân mình mầu nhiệm của Chúa Ki-tô. Ngay từ hồi thế kỷ thứ IV, tước hiệu này đã được Giáo Phụ Am-brô-xi-ô nhắc tới. Ngài đã liên kết hình ảnh Mẹ Giáo Hội với Đức Maria như là nguyên mẫu „có tính hiện thân“ của Giáo hội. Vào giữa thời Trung Cổ, tước hiệu trên của Đức Maria đã được phổ biến khá rộng rãi trong Giáo hội.
Vào ngày 11 tháng 02 năm 2018, nhân ngày Lễ Kính Đức Mẹ Lộ Đức, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã bổ sung ngày Lễ Kính Đức Mẹ là Mẹ Giáo hội vào trong lịch chung của Giáo hội Rô-ma. Và Ngài ấn định rằng, ngày Lễ này sẽ được cử hành trên toàn Giáo hội vào ngày thứ Hai ngay sau Đại Lễ kính Đức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, như Tòa Thánh Vatican đã công bố vào ngày 03 tháng 03 năm 2018. Theo đó, thứ Hai ngày 21 tháng 05 năm 2018 sẽ là ngày đầu tiên Lễ Kính Đức Maria là Mẹ Giáo Hội được cử hành trên toàn Giáo hội với bậc Lễ nhớ buộc, tức Lễ bậc III.
Từ trước tới nay, ngày Lễ Kính Đức Maria là Mẹ Giáo hội chỉ được cử hành riêng lẻ trong một số Giáo phận và một số cộng đoàn Dòng Tu, và được cử hành vào những ngày khác nhau!
Hiến Chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium của Công Đồng Vatican II đã mô tả Đức Maria chính là thành phần của Giáo hội và là „Mẹ đáng mến“ của Giáo hội.
Tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo Hội đã luôn luôn được sử dụng bởi nhiều Đức Giáo Hoàng, trong đó có cả Đức Bê-nê-đíc-tô XIV (1748), Đức Lê-ô XIII (1885), Đức Gio-an XXIII, Đức Phao-lô VI và Đức Gio-an Phao-lô II. Vào năm 1944, Hugo Rahner mới khám phá ra rằng, ngay từ thế kỷ thứ IV, Thánh Am-brô-xi-ô cũng đã sử dụng tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo hội rồi. Khoa Thánh Mẫu học của Hugo Rahner được đặt nền tảng trên Thánh Am-brô-xi-ô cũng như trên các Giáo Phụ khác, và khoa Thánh Mẫu học của ông đã có một ảnh hưởng rất lớn trên Đức Phao-lô VI và Công Đồng Vatican II. Vào ngày 21 tháng 11 năm 1964, tức Lễ Kính Đức Trinh Nữ thành Giê-ru-sa-lem, trong diễn văn bế mạc phiên họp thứ III của Công Đồng trên, Đức Phao-lô VI đã chính thức công bố tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo Hội. Vào năm 1980, tước hiệu này đã được bổ sung vào trong Kinh Cầu Đức Bà, cụ thể là vào vị trí thứ hai sau tước hiệu Đức Bà là Mẹ Chúa Ki-tô.
Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo đã diễn giải tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo hội như sau: Đức Maria không chỉ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng cũng còn là Mẹ của tất cả các tín hữu nữa, như Thánh Augustinô đã trình bày trong tác phẩm De sancta virginitate: „Mẹ đồng cộng tác trong Đức Mến để các tín hữu được sinh ra trong Giáo hội, mà các tín hữu ấy chính là chi thể của Đầu“, tức Chúa Ki-tô.
Theo cách trình bày của Thánh Gio-an Phao-lô II Giáo Hoàng, thì nhờ vào việc Mẹ được tôn kính với tư cách là Mẹ ơn Cứu Độ, Mẹ Sự Sống, Mẹ ân sủng, Mẹ của những kẻ được cứu chuộc và Mẹ của những kẻ sống, Đức Maria thực sự là Mẹ của toàn Giáo hội.
Đức Bê-nê-đíc-tô XVI lưu ý rằng, ngay từ đầu, Công Đồng Vatican II đã hiểu về Thánh Mẫu Học như là một phần của Giáo Hội Học, và vì thế, trong thực tế, một trong những đặc tính có tính nội tại nhất của Giáo hội, đó là sự đồng nhất hóa với Đức Maria, đã được diễn tả tại Công Đồng này.
10. Mẹ đau khổ--Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ
Câu chuyện
Vào ngày thứ sáu tuần thánh tại các nước châu Mỹ La Tinh được cử hành với một truyền thống rất đặc biệt, ở đó người ta sống lại sự hiện diện của Mẹ Maria dưới chân thập giá Chúa Giêsu: Các phụ nữ tập trung lại dưới chân thập giá, họ đi lại từng bước những khổ nạn của Chúa Giêsu trong tiếng hát, trong những lời cầu nguyện và cả trong tiếng khóc nữa.
Các tín hữu còn giữ một truyền thống khác gọi là “chia buồn”. Truyền thống này được cử hành sau nghi thức phụng vụ của Giáo hội vào chiều thứ sáu tuần thánh: Mọi người trở vào nhà thờ để an ủi Đức Mẹ Sầu Bi, như thể được ở bên Mẹ khi Mẹ đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu, dân chúng chia sẻ nỗi đau của Ngài, vừa nói lên chính nỗi đau của họ. Trong nghi thức truyền thống chia sẻ nỗi đau buồn này là bức tượng của người phụ nữ mặc áo đen đứng dưới chân thập giá, khi xác Chúa Giêsu được tháo gỡ khỏi thập giá, thì bức tượng của người phụ nữ được đặt ở đầu chiếc quan tài.
Người phụ nữ mặc áo đen ấy dĩ nhiên tượng trưng cho Mẹ Maria, là Mẹ của Người Con bị hành quyết, là người đàn bà luôn phấn đấu để tin vào sứ điệp của Con. Mẹ đã phải dằn lại cơn giận dữ trước thái độ phản bội của dân chúng, và của những người môn đệ thân tín của Chúa Giêsu. Mẹ đã phải tha thứ cho tất cả mọi người… (Theo R. Veritas).
Suy niệm
Cuộc đời Đức Maria là cuộc đời của Bà Mẹ sống trong trăm nghìn đau khổ nối tiếp. Chính trong đau khổ Mẹ sống đức tin thông phần mầu nhiệm cứu độ của Con Mẹ.
Mẹ sầu khổ khi bạn đời Giuse cùng thề hứa trinh khiết chưa hiểu Mẹ khi Mẹ mang thai Chúa Giêsu bởi phép Chúa Thánh Thần (x. Lc 1,27-38) theo ý Thiên Chúa. Khi Mẹ và thánh Giuse dâng hiến Chúa vào đền thánh theo Luật của Môisê, Maria lo âu khi cụ già Simêon nói tiên tri về Chúa Giêsu Con Mẹ, còn Mẹ: “Một lưỡi gươm sẽ xuyên thấu hồn bà, nhờ vậy mà ý nghĩ trong những tâm hồn khác được phơi bày” (x. Lc 2,33-35).
Mẹ sợ hãi, lo lắng, khổ đau khi cùng thánh Giuse đem Chúa Giêsu trốn qua Ai Cập tránh sự truy bức của Hêrôđê (x. Mt 2,13-14). Mẹ càng đau khi Con Mẹ ở lại Giêrusalem, khi hai bậc phụ huynh Giuse và Maria cứ tưởng con mình đã bị lạc mất vất vả tìm kiếm đến ba ngày (x. Lc 2,41-50). Mẹ ngạc nhiên đau khổ tột bậc khi nhìn Con Mẹ vác thập giá tiến lên núi Sọ trong cuộc hành trình cứu độ nhân loại. Nhất là còn gì đau đớn hơn khi Mẹ đứng dưới chân thập giá, nhìn Giêsu, Con Mẹ chết tả tơi, trần trụi trong tư cách tên tử tội (x. Ga 19,25-28). Khi hạ xác Con xuống khỏi cây thập giá, lòng Mẹ tan nát vì Mẹ chỉ còn ôm một cái xác lạnh ngắt, mình mẩy đầy vết thương bầm tím mà các bức tượng Pièta trong lịch sử đã diễn tả lại.
Khi Con Mẹ được các đồ đệ an táng trong huyệt đá, nấm mồ tuyệt vọng mang khoảng cách trời, đất (x. Ga 19,38-42) làm Mẹ cảm thấy mất tất cả…
Dưới chân thập giá Chúa Giêsu và trong mọi sầu khổ, Mẹ Maria ôm lấy tất cả mọi con cái nhân loại, tất cả đều được ủy thác cho Mẹ như Chúa đã uỷ thác Mẹ cho thánh Gioan (x. Ga 19,25-27). Mẹ đang đứng bên cạnh tất cả những ai đang đau khổ. Mẹ âm thầm chia sẻ và chịu đựng nỗi khổ đau của từng người như thể của riêng Mẹ với tình liên đới và cảm thông trong đau khổ.
Mẹ đau khổ, nhắc nhở chúng ta: Ðời của người Kitô hữu gắn liền với thập giá của Chúa Giêsu: “Hạt giống có mục nát đi mới sinh nhiều hoa quả” (Ga 12,24). Cùng với Mẹ, chúng ta tin tưởng như thánh Phaolô xác quyết: “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai mến yêu Người” (Rm 8,28).
Ý lực sống :
‘‘Bà mẹ hiền nhìn xem nỗi khổ hình của người con chí thánh mà đau lòng thổn thức tâm can” (Trích Ca Tiếp Liên Stabat Mater).
11. Mẹ khả ái của Giáo Hội--P.K.M,CMC
Đức Maria luôn là Mẹ khả ái của Giáo Hội, là Mẹ đích thực của mỗi người chúng ta:
Dù ta đi suốt cuộc đời,
Cũng không đi hết những lời mẹ ru.
Dù ta đi trọn kiếp người,
Cũng không đi hết những lời mẹ khuyên.
Mẹ hằng cầu xin tuôn đổ tràn đầy ân sủng Chúa Thánh Thần và hướng dẫn nhắn nhủ các môn đệ và dân Chúa tới gần Chúa Giêsu hơn.
Công Đồng Vaticanô II trong hiến Chế Lumen Gentium sau khi tuyên bố Đức Maria là “thành viên trổi vượt” là “kiểu mẫu” và ‘gương sáng” của Giáo Hội, Công Đồng dạy tiếp: “Giáo Hội Công Giáo, được Chúa Thánh Thần chỉ dạy, dâng lên Người tình con thảo, như đối với một người Mẹ rất dấu yêu (LG 53).
Khi mô tả những tình cảm con thảo của mình, Giáo Hội nhìn nhận Đức Maria là người Mẹ yêu quý nhất của mình, gián tiếp tuyên bố người là Mẹ Giáo Hội, vì những lý do sau:
- Mẹ làm Mẹ Giáo Hội khi nhận làm Mẹ Chúa Giêsu: “Đức Maria, với tư cách là Mẹ Đức Kitô cũng là Mẹ của tất cả mọi tín hữu và các chủ chăn, nghĩa là Mẹ Giáo Hội” (Đức Phaolô VI).
- Mẹ làm Mẹ Giáo Hội khi đứng dưới chân Thánh Giá Chúa Kitô: “Đây là con Bà… Đây là mẹ con” (Ga 19,26-27).
- Mẹ là Mẹ Giáo Hội khi ở nhà Tiệc Ly, ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Một ngày kia, thánh Gioan Bosco rao giảng về vinh quang của Mẹ Maria tại nhà thờ chính toà Torino. Giữa lúc đang thao thao bất tuyệt, ngài bỗng dừng lại thinh lặng một hồi lâu rồi đặt câu hỏi với cử toạ như sau: "Ai trong anh chị em có thể nói cho tôi biết Đức Mẹ là ai?" Thánh nhân phải lập lại câu hỏi đó đến ba lần mới nghe được một tiếng trả lời yếu ớt từ phía cuối nhà thờ như sau: "Thưa Cha, Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa".
Thánh Gioan Bosco gật đầu nói tiếp: "Đúng thế, Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng nói thế vẫn chưa đủ. Tôi muốn anh chị em kể hết những tước hiệu của Mẹ Maria". Liền sau đó, cử toạ liền kể ra tất cả những tước hiệu của Mẹ: Mẹ là cửa Thiên Đàng, Mẹ là Đấng an ủi những kẻ có tội, Mẹ là Đấng phù trợ các tín hữu, Mẹ là Đấng cứu chữa kẻ bệnh tật v.v...
Sau khi nghe kể hết những tước hiệu mà người ta gán cho Đức Maria, thánh Gioan Bosco mỉm cười nối tiếp: "Đức Maria là tất cả những gì anh chị em vừa kể ra, nhưng vẫn chưa hết. Tôi muốn nói thêm về Đức Maria...". Chờ mãi vẫn không thấy có câu trả lời nào, thánh nhân mới nói: "Tôi xin được nói với anh chị em Đức Maria là ai: Ngài là Mẹ chúng ta. Phải, Mẹ chúng ta. Đó là điều đáng nói nhất về Mẹ Maria. Trên trần gian này, không ai có thể gần gũi thiết thân với chúng ta cho bằng Mẹ chúng ta, không ai yêu thương chúng ta hơn Mẹ chúng ta. Cũng thế trên Thiên Đàng không có vị thánh nào yêu thương chúng ta và sẵn sàng lắng nghe chúng ta cho bằng Mẹ Maria...".
Tước hiệu nói lên tương quan mẫu tử của Đức Maria với Giáo Hội.
Tước hiệu này ít được sử dụng trong quá khứ, nhưng mới đây trở nên phổ biến hơn trong những công bố của huấn quyền Giáo Hội và trong sự sùng kính của dân Kitô hữu. Đầu tiên, người tín hữu kêu cầu Đức Maria với tước hiệu “Mẹ Thiên Chúa”, “Mẹ tín hữu” hay là “Mẹ chúng con” để nhấn mạnh tới tương quan với từng đứa con của mình.
Về sau, do sự chú ý nhiều hơn tới mầu nhiệm Giáo Hội và mối tương quan của Đức Maria với Giáo Hội, nên Đức Trinh Nữ Rất Thánh bắt đầu được kêu cầu thường hơn là “Mẹ Giáo Hội”.
Trước Công Đồng Vat. II, kiểu nói này được huấn quyền Đức Lêo XIII sử dụng, quả quyết rằng Đức Maria “đúng thật là Mẹ Giáo Hội” (Acta Leonis XIII, 15, 302). Tước hiệu này về sau được sử dụng nhiều lần trong các bài giảng của Đức Gioan XXIII và Đức Phaolô VI.
Cho dù tước hiệu “Mẹ Giáo Hội” được gán cho Đức Maria mới đây thôi, nhưng tước hiệu ấy lại diễn tả tương quan mẫu tử giữa Đức Trinh Nữ Rất Thánh và Giáo Hội như nhiều bản văn Tân ước đã chứng minh.
Khởi từ ngày Truyền Tin, Đức Maria đã được kêu mời thuận ý khai mở Vương quốc cứu thế mà sau này sẽ xuất hiện với sự hình thành của Giáo Hội (Lc 2, 26-35).
Tại Cana (Jn 2, 2-11), khi xin Con mình thi hành quyền năng cứu thế của Người, Đức Maria đã góp phần cơ bản vào việc ghi dấu đức tin trong cộng đoàn các môn đệ đầu tiên và hợp tác trong việc khai mở Nước Chúa, một nước đặt “mầm giống” và “khởi điểm” nơi Giáo Hội (LG 5).
Trên Núi Sọ (Jn19, 27-27), Đức Maria kết hợp với hy lễ của Con và đã góp phần hợp tác mẫu tính của mình vào công trình cứu chuộc dưới hình thức của cơn đau đẻ, sinh ra nhân loại mới.
Khi nói lời: “Thưa Bà, nầy là con Bà” Đấng chịu đóng đinh tuyên bố Người là Mẹ không những đối với tông đồ Gioan mà còn với tất cả các môn đệ. Chính tác giả Tin mừng, khi nói Chúa Giêsu chết “để qui tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối” (Ga 11, 52), đã chỉ rõ sự sinh ra Giáo Hội như là hoa quả của hy lễ cứu chuộc mà Đức Maria đã kết hợp với mẫu tính.
Về điểm này chúng ta cùng nhau chiêm ngắm sâu hơn về mẫu tính của Mẹ dưới chân Thập giá.
Chính lúc Đức Maria đứng câm lặng dưới chân thập giá, mà Chúa Giêsu đã long trọng trối phó Ngài cho thánh Gioan và đồng thời cũng trao phó thánh Gioan cho Mẹ. Sự sinh nở nào cũng diễn ra trong đớn đau. Chính trong niềm đau tột cùng của những giây phút đứng kề bên thập giá Chúa Giêsu mà Đức Maria mới sinh hạ chúng ta, đã trở thành Mẹ của chúng ta. Thánh Gioan cũng tiếp nhận Mẹ trong niềm hiệp thông sâu xa vào thập giá của Chúa Giêsu.
Thập giá là nguồn ơn cứu rỗi, nhưng mãi mãi vẫn là biểu trưng của tội ác. Sự độc ác tột cùng mà người Do Thái và La Mã ngày xưa đã trút xuống trên Chúa Giêsu qua thập hình, ngày nay vẫn còn được con người tiếp diễn dưới muôn hình thức khác. Tựu trung khi con người chối bỏ chính mình, khi con người chà đạp người khác, thì đó là lúc con người dựng thêm những thập giá mới.
Thập giá vẫn luôn có mặt trong cuộc sống con người như một nhắc nhở về tội ác của mình. Kết hiệp với Chúa Giêsu trong cuộc tử nạn của Ngài chính là cố gắng chiến đấu chống lại tội lỗi.
Sứ điệp của Đức Maria trong tất cả những lần hiện ra đều có chung một nội dung: đó là kêu gọi loài người ăn năn sám hối, cải thiện cuộc sống. Cũng như ngày xưa, đứng dưới chân thập giá Chúa Giêsu, Mẹ đã câm lặng nuốt từng nỗi đớn đau, ngày nay khi nhìn thảm cảnh của những người con cái đang chối bỏ lẫn nhau, đang chém giết nhau, đang đóng đinh nhau, Mẹ cũng bày tỏ một niềm đau.
Thánh sử Luca nhắc tới sự hiện diện của Mẹ Chúa Giêsu trong cộng đoàn đầu tiên ở Giêrusalem (Cv 1, 14; 2, 3-4). Như vậy Thánh sử nhấn mạnh vai trò người mẹ của Đức Maria trong Giáo Hội mới sinh; bằng cách so sánh vai trò đó với vai trò của Người khi sinh ra Đấng Cứu Thế. Chiều kích Mẹ như thế trờ thành một yếu tố cơ bản trong tương quan của Đức Maria với Dân mới được cứu chuộc.
Căn cứ theo Kinh Thánh, giáo huấn của các giáo phụ nhìn nhận chức làm Mẹ của Đức Maria trong công trình Chúa Kitô và do đó, trong công trình của Giáo Hội.
Theo thánh Irênê, Đức Maria “trở nên nguyên nhân cứu rỗi cho toàn dòng giống loài người” (PG 7, 959), và lòng thanh sạch của Đức Trinh Nữ “tái sinh người ta trong Thiên Chúa” (PG 7, 1080). Điều đó được thánh Ambrôsiô lặp lại: “Một Trinh Nữ đã sinh ra Đấng cứu rỗi cho thế gian, một Trinh Nữ đã mang đến sự sống cho mọi sự” (PL 16,1198), và nhiều giáo phụ khác cũng lập lại khi gọi Đức Maria “Mẹ của sự cứu rỗi”.
Thời trung cổ, thánh Anselmô thưa với Đức Maria thế này: “Mẹ là Mẹ của sự công chính hoá và cả những kẻ được công chính hoá, là Mẹ sự hoà giải và cả những kẻ được hoà giải, là Mẹ sự cứu rỗi và cả những kẻ được cứu rỗi” (PL 158, 957), còn nhiều tác giả khác lại gán cho Người tước hiệu “Mẹ ân sủng” và “Mẹ sự sống”.
Đức Maria là “Mẹ Giáo Hội”
Như thế tước hiệu “Mẹ Giáo Hội” phản chiếu niềm xác tín sâu xa của người tín hữu Kitô, họ nhìn thấy nơi Đức Maria không những là người Mẹ của con người Chúa Kitô, mà còn của người tín hữu. Người được nhìn nhận là Mẹ sự cứu thế, Mẹ sự sống và Mẹ ân sủng, Mẹ những người được cứu chuộc và Mẹ kẻ sống, thì thật chính đáng khi tuyên bố Người là Mẹ Giáo Hội. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã muốn Công Đồng Vaticanô II tuyên bố “Đức Maria là Mẹ Giáo Hội, nghĩa là của toàn thể Dân Chúa, của người tín hữu và các mục tử của họ”. Chính Đức Giáo Hoàng thực hiện điều đó khi đọc bài diễn văn bế mạc khoá thứ 3 Công Đồng (21.11.1964), Người cũng bảo: “từ nay toàn thể dân Kitô hữu hãy tôn kính và kêu cầu Đức Trinh Nữ Rất Thánh với tước hiệu này”.
Tâm tình con thảo
Trong cuốn sách tựa đề “Đồng Hành” có thuật lại câu chuyện về cuộc đời của một nhà thừa sai Canada, Giám mục Emile Crôa, Ngài thú nhận: Ngay từ thuở nhỏ, tôi là một đứa trẻ nghịch ngợm, phá phách và cứng đầu, lười biếng. Có một lần thầy giáo đã phải giận dữ thốt lên rằng: “Chưa bao giờ tao thấy một học sinh nào quá quắt như mày”. Ngày nọ, thay vì đến trường, tôi lại trốn học ra đồng. Cha tôi biết được, ông giận dữ và thay vì đưa tôi về nhà, ông lại dẫn tôi vào một nhà nguyện. Ông xô tôi đến trước bàn thờ Đức Mẹ đang mỉm cười và quát: “Thằng khốn nạn, qùy xuống”. Và rồi ông ngước nhìn lên tượng Đức Mẹ và nói: “Xin Mẹ nhận lại thằng nhỏ này, vì quả thực con không còn biết phải làm gì với nó nữa. Xin Mẹ lo lắng cho nó để một ngày kia, nó khỏi trở thành một tướng cướp, bị treo cổ trên dây”.
Nhưng lời nói của cha tôi như một làn roi quất mạnh vào tôi. Tôi cảm thấy đau hơn tất cả các trận đòn từng bị đánh trước đây. Và nhìn lên Đức Mẹ đang mỉm cười tôi tự nhủ: “Nếu cha tôi đã phó thác tôi cho Đức Mẹ thì tôi phải minh chứng được Đức Mẹ đã làm điều gì đó tốt đẹp cho tôi’. Với sự trợ giúp của Đức Mẹ, Emile đã thay đổi, đi tu, thụ phong Linh mục, Giám mục và truyền giáo ở vùng thổ dân ngoại giáo ở Canada.
Kể lại câu chuyện này, đức cha không chỉ muốn dạy cho chúng ta cách thức hay nhất để chúng ta có thể dạy dỗ, uốn nắn sửa sai con cái, nhất là những đứa ngỗ nghịch, khó dạy hay bướng bỉnh quậy phá như Emile. Điều mà Chúa muốn xác tín với chúng ta cũng như với tất cả các gia đình Công giáo: “Mẹ Maria rất gần gũi, gắn bó và quan tâm đến những nhu cầu, khó khăn và cay cực của các gia đình”.
KẾT LUẬN
Đức Maria là “Mẹ Giáo Hội” phản chiếu niềm xác tín sâu xa của cộng đoàn Dân Chúa, họ nhìn thấy nơi Đức Maria không những là người Mẹ của con người Chúa Kitô, mà còn của người tín hữu. Người được nhìn nhận là Mẹ sự cứu thế, Mẹ sự sống và Mẹ ân sủng, Mẹ những người được cứu chuộc và Mẹ kẻ sống… và là Mẹ đích thực của mỗi người chúng ta.
P.K.M,CMC (Nguồn: timung.net)
12. Đức Maria Là Mẹ Giáo Hội
Mẹ Giáo Hội (tiếng La-tinh: Mater Ecclesiae) là một trong nhiều tước hiệu của Đức Maria. Với tước hiệu này, Mẹ Thiên Chúa được tôn kính với tư cách là Mẹ của Giáo Hội, thân mình mầu nhiệm của Chúa Ki-tô. Ngay từ hồi thế kỷ thứ IV, tước hiệu này đã được Giáo Phụ Am-brô-xi-ô nhắc tới. Ngài đã liên kết hình ảnh Mẹ Giáo Hội với Đức Maria như là nguyên mẫu „có tính hiện thân“ của Giáo hội. Vào giữa thời Trung Cổ, tước hiệu trên của Đức Maria đã được phổ biến khá rộng rãi trong Giáo hội.
Vào ngày 11 tháng 02 năm 2018, nhân ngày Lễ Kính Đức Mẹ Lộ Đức, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã bổ sung ngày Lễ Kính Đức Mẹ là Mẹ Giáo hội vào trong lịch chung của Giáo hội Rô-ma. Và Ngài ấn định rằng, ngày Lễ này sẽ được cử hành trên toàn Giáo hội vào ngày thứ Hai ngay sau Đại Lễ kính Đức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, như Tòa Thánh Vatican đã công bố vào ngày 03 tháng 03 năm 2018. Theo đó, thứ Hai ngày 21 tháng 05 năm 2018 sẽ là ngày đầu tiên Lễ Kính Đức Maria là Mẹ Giáo Hội được cử hành trên toàn Giáo hội với bậc Lễ nhớ buộc, tức Lễ bậc III.
Từ trước tới nay, ngày Lễ Kính Đức Maria là Mẹ Giáo hội chỉ được cử hành riêng lẻ trong một số Giáo phận và một số cộng đoàn Dòng Tu, và được cử hành vào những ngày khác nhau!
Hiến Chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium của Công Đồng Vatican II đã mô tả Đức Maria chính là thành phần của Giáo hội và là „Mẹ đáng mến“ của Giáo hội.
Tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo Hội đã luôn luôn được sử dụng bởi nhiều Đức Giáo Hoàng, trong đó có cả Đức Bê-nê-đíc-tô XIV (1748), Đức Lê-ô XIII (1885), Đức Gio-an XXIII, Đức Phao-lô VI và Đức Gio-an Phao-lô II. Vào năm 1944, Hugo Rahner mới khám phá ra rằng, ngay từ thế kỷ thứ IV, Thánh Am-brô-xi-ô cũng đã sử dụng tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo hội rồi. Khoa Thánh Mẫu học của Hugo Rahner được đặt nền tảng trên Thánh Am-brô-xi-ô cũng như trên các Giáo Phụ khác, và khoa Thánh Mẫu học của ông đã có một ảnh hưởng rất lớn trên Đức Phao-lô VI và Công Đồng Vatican II. Vào ngày 21 tháng 11 năm 1964, tức Lễ Kính Đức Trinh Nữ thành Giê-ru-sa-lem, trong diễn văn bế mạc phiên họp thứ III của Công Đồng trên, Đức Phao-lô VI đã chính thức công bố tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo Hội. Vào năm 1980, tước hiệu này đã được bổ sung vào trong Kinh Cầu Đức Bà, cụ thể là vào vị trí thứ hai sau tước hiệu Đức Bà là Mẹ Chúa Ki-tô.
Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo đã diễn giải tước hiệu Đức Maria là Mẹ Giáo hội như sau: Đức Maria không chỉ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng cũng còn là Mẹ của tất cả các tín hữu nữa, như Thánh Augustinô đã trình bày trong tác phẩm De sancta virginitate: „Mẹ đồng cộng tác trong Đức Mến để các tín hữu được sinh ra trong Giáo hội, mà các tín hữu ấy chính là chi thể của Đầu“, tức Chúa Ki-tô.
Theo cách trình bày của Thánh Gio-an Phao-lô II Giáo Hoàng, thì nhờ vào việc Mẹ được tôn kính với tư cách là Mẹ ơn Cứu Độ, Mẹ Sự Sống, Mẹ ân sủng, Mẹ của những kẻ được cứu chuộc và Mẹ của những kẻ sống, Đức Maria thực sự là Mẹ của toàn Giáo hội.
Đức Bê-nê-đíc-tô XVI lưu ý rằng, ngay từ đầu, Công Đồng Vatican II đã hiểu về Thánh Mẫu Học như là một phần của Giáo Hội Học, và vì thế, trong thực tế, một trong những đặc tính có tính nội tại nhất của Giáo hội, đó là sự đồng nhất hóa với Đức Maria, đã được diễn tả tại Công Đồng này.
Thần học gia Hugo Rahner cho biết rằng, cách hiểu về Đức Maria với tước hiệu là Mẹ Giáo Hội như được trình bày ở trên bởi các Đức Thánh Cha, cũng đã có ngay từ thời các Giáo Phụ rồi.
Việc kêu cầu Đức Maria là Mẹ Giáo hội đứng trong mối liên hệ khắng khít với đặc tính nguyên thủy của chính Giáo hội với tư cách là Mẹ (Mater Ecclesia).
Lm Đa-minh Thiệu O.Cist – (biên soạn, biên dịch và tổng hợp)
13. Đức Maria, Mẹ Hội Thánh
(Trích đoạn từ sách: “Theo Mẹ Maria đến với Chúa Giêsu: Đức Mẹ là Mẹ, là thầy và là người biện hộ” của Cha Andrew Apostoli, CFR // Chuyển ngữ: Giới trẻ thừa sai Chúa Cứu Thế Miền Nam)
Đức Maria chính là Evà mới để đem sự sống của Chúa Giêsu cho chúng ta, Mẹ là Mẹ Hội Thánh và là Mẹ Chúng ta.
Một Evà mới
Như là một “người nữ” ở trung tâm của kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, Đức Maria là “Evà mới”. Từ rất sớm, danh hiệu này được gán cho Đức Maria trong các tác phẩm của các Giáo phụ. Bản thân thánh Phaolô đã giới thiệu Chúa Giêsu như là một “Ađam mới” (Rm 5,14; 1 Cr 15,45). Đó là logic khi nhìn về Đức Maria như là “Evà mới” bởi vì vai trò của Mẹ là mang lại sự sống cho tất cả những đứa con trong tinh thần của Mẹ. Chúng ta cũng đề cập đến Hội Thánh như một “Evà mới”, bởi vì Hội Thánh chính là tân nương, là hiền thê của Chúa Giêsu, như Evà là hiền thê của Ađam.
Cái tên Evà có nghĩa là “Mẹ của sự sống” (x. St 3,20). Nhưng bởi vì Evà đã phạm tội cùng Ađam, tội lỗi của bà đã truyền lại, không phải sự sống mà là cái chết cho những người con của bà. Cái chết này là cả về thể chất và tâm linh. Cái chết về thể xác có nghĩa là cái chết của cơ thể. Trước khi phạm tội tổ tông truyền, tổ tiên của chúng ta đã được tận hưởng món quà của sự bất tử. Tuy nhiên, cái chết là một hình phạt cho tội lỗi của họ đã được truyền lại cho tất cả con cháu. Linh hồn sẽ lìa khỏi thân xác. Ngay cả sau cái chết của thể xác, linh hồn vẫn giữ hy vọng được tái hợp với thể xác trong Ngày Quang Lâm của Chúa Giêsu. Cái chết linh hồn có nghĩa là chúng ta, với tư cách là con cháu của Evà, được sinh ra mà không có ân sủng của Thiên Chúa. Chúng ta không thể tự chuộc lại ân sủng mà chúng ta đã đánh mất bởi vì cái giá cứu chuộc quá lớn so với chúng ta. Lối vào Thiên Đàng sẽ đóng kín mãi mãi trừ khi có một điều gì đó xảy ra!
Nhưng đối với Đức Maria, Evà mới, mọi thứ đã đảo ngược hoàn toàn, bởi vì Mẹ đã thông phần vào công cuộc cứu độ của Con Thiên Chúa, chính là Ađam mới. Chúa Giêsu đã đến để mang đến cho chúng ta sự sống trọn vẹn: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Nhờ sự cứu chuộc của mình, Chúa Giêsu đã phục hồi cho chúng ta cuộc sống ân sủng đã mất thông qua Bí tích Rửa tội. Đồng thời, qua sự phục sinh thân xác của mình, Chúa Giêsu hứa rằng Ngài sẽ cho thân xác chúng ta sống lại khi trở lại trong vinh quang vào ngày sau hết. Bởi Đức Mẹ đã tham gia mật thiết vào chương trình cứu độ của Con Thiên Chúa, Mẹ đã mang lại sự sống thần linh cho những đứa con của mình.
Mẹ Hội Thánh
Là Evà mới, thực sự là Mẹ của sự sống, Đức Maria cũng là Mẹ của Hội Thánh. Thánh Phaolô đã nhắc nhở chúng ta rằng, Hội Thánh là thân mình mầu nhiệm của Đức Kitô. Chúa Giêsu là đầu, trong khi chúng ta là những người đã được rửa tội, trở nên chi thể (x. Ep 5,23). Đầu và các chi thể tạo nên thân thể toàn vẹn của thân mình mầu nhiệm Chúa Giêsu. Ở Bêlem, Đức Maria đã hạ sinh Chúa Giêsu, đầu của chúng ta.
Trên đồi Canvê, Đức Maria trở thành mẹ một lần nữa. Chúa Giêsu đã chỉ ra cho ta biết khi Người nói với Mẹ: “Thưa Bà, đây là con của Bà.” (Ga 19,26). Để có thể hiểu được mầu nhiệm này, chúng ta hãy xem xét cách mà Gioan mô tả cuộc khổ hình của Chúa Giêsu. Lúc chạng vạng tối, những tên lính Rôma đã đánh giập ống chân của hai tên trộm bị đóng đinh cùng với Chúa Giêsu. Cách duy nhất để thở được trên thập giá là dùng chân để nâng cơ thể lên, nên việc đánh giập ống chân phạm nhân là để họ chết nhanh hơn. Khi đến gần Đức Giêsu và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. Nhưng để chắc chắn người đã chết, một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Thánh Gioan lúc này cho chúng ta thấy, máu và nước chảy ra từ cạnh sườn Người (Ga 19,31-34).
Từ rất sớm, các Giáo phụ đã nhìn máu và nước như là biểu tượng của việc khai sinh Hội Thánh. Đức Giêsu là Adam mới. Đức Maria, trong tư cách cá nhân là Evà mới, mẹ của các chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Chúa Giêsu. Hội Thánh cũng là một Evà mới, là hiền thê của Chúa Giêsu. Giống như cách mà tổ tiên Evà được tạo ra từ cạnh sườn Ađam trong vườn địa đàng thì Hội Thánh cũng được sinh ra từ cạnh sườn của Đức Giêsu trên cây thập giá tại đồi Canvê. Sách Sáng thế nói rằng, Chúa đã đưa Ađam vào một giấc ngủ sâu, lấy ra một trong những xương sườn và tạo thành Evà (x. St 2,21-22). Các Giáo phụ đã đối chiếu đến sách Sáng thế trong Kinh Thánh về cái chết của Đức Kitô. Theo quan điểm đó, Đức Giêsu (Ađam mới) đang trong giấc ngủ của tử thần trên thập giá, thì ngọn giáo của người lính đã làm cho máu và nước tuôn trào từ cạnh sườn Đức Giêsu và trở thành biểu tượng (việc khai sinh) Hội Thánh. Nước tượng trưng cho Bí tích Rửa Tội, cho chúng ta bắt đầu cuộc sống mới trong Chúa Kitô; Máu tượng trưng cho Bí tích Thánh Thể, tặng ban cho chúng ta chính mình Người, tác giả cuộc sống mới của chúng ta. Và đây cũng là hai bí tích lớn nhất, Bí tích Rửa tội và Bí tích Thánh Thể diễn tả chính Hội Thánh.
Đức Tổng Giám mục Fulton Sheen đã nói, Hội Thánh được sinh ra một cách mầu nhiệm từ cạnh sườn Chúa Kitô, đã có một cuộc hạ sinh thì phải có một người mẹ. Đức Maria đã ở dưới chân thập giá và nhận được từ Con một vai trò mới là mẹ sự sống: “Thưa Bà, đây là con của Bà.” (Ga 19,26). Thưa Bà – Chúa Giêsu một lần nữa sử dụng danh hiệu đó để nói với mẹ mình, như cách Người đã làm ở tiệc cưới Cana. Có một lý do sâu xa cho việc Người sử dụng từ “Bà – người phụ nữ” mà chúng ta thấy khi đọc sách Sáng thế. Trong vườn địa đàng, Thiên chúa đã phán với con rắn rằng bởi nó mà Ađam (đầu tiên) và Evà (đầu tiên) đã phạm tội,
“Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó.” (St 3,15).
Lúc ở tiệc cưới Cana cũng như ở đồi Canvê, Chúa Giêsu đã gọi Mẹ mình là “thưa Bà”, chúng ta có thể kết luận rằng, Người đã xác nhận Đức Maria sẽ trở nên thù địch với tội lỗi (ma quỷ) và hậu duệ của Mẹ sẽ đối đầu với hậu duệ của tội lỗi (ma quỷ).
Trong cơn hấp hối, khi Đức Giêsu nói với Mẹ của mình rằng, “Thưa Bà, đây là con của Bà”, Ngài cũng đồng thời khẳng định rằng Đức Maria cũng là Mẹ của chúng ta. Khi sinh ra Chúa Kitô, Đấng là đầu của chúng ta, Mẹ Maria cũng ban cho chúng ta sự sống, vì cùng một sự sống trong Chúa Giêsu cũng hiện diện trong chúng ta, những người là chi thể của thân mình mầu nhiệm.
Mẹ chúng ta
Thánh Aelred thành Rievaulx, một tu sĩ dòng Xitô và là người cùng thời với Thánh Bernard thành Clairaux, đã chỉ ra cho chúng ta thấy vai trò thần linh của Đức Maria:
Chúng ta nợ Mẹ Maria sự tôn kính, vì Mẹ là Mẹ của Chúa chúng ta. Ai không tôn kính Người Mẹ thì làm mất lòng Người Con. Ngoài ra, Kinh thánh nói: Hãy tôn vinh cha và mẹ của bạn. . . Như chúng ta đã biết và tin tưởng, khi tất cả chúng ta chết đi trong tội lỗi, bóng tối và đau khổ. Trong cái chết, vì chúng ta đã mất Thiên Chúa; trong tội lỗi, vì sự tham lam của chúng ta; trong bóng tối, vì chúng ta không có ánh sáng của sự khôn ngoan, và do đó đã bị diệt vong hoàn toàn. Nhưng sau đó chúng tôi được sinh ra, tốt đẹp hơn nhiều so với Evà, nhờ Đức Maria, vì Chúa Kitô được Mẹ sinh ra. Chúng ta được phục hồi cuộc sống mới thay cho tội lỗi, sự bất tử thay cho sự chết, ánh sáng thay cho bóng tối. Mẹ là mẹ của chúng ta, mẹ của Nguồn Sống [Chúa Giêsu], mẹ của sự cứu chuộc [Chúa Giêsu], mẹ của ánh sáng [Chúa Giêsu]. Thánh Phaolô tông đồ nói về Chúa của chúng ta: “Người đã trở nên vì chúng ta, nhờ quyền năng của Chúa Cha, sự khôn ngoan và công chính, sự thánh thiện và sự cứu chuộc cho chúng ta. [Mẹ Maria] sau đó, với tư cách là mẹ của Chúa Kitô, là mẹ của sự khôn ngoan và công chính của chúng ta, về sự thánh thiện và cứu chuộc của chúng ta. Mẹ là Mẹ của chúng ta nhiều hơn mẹ của chúng ta. Được sinh ra từ Mẹ là tốt đẹp hơn, vì từ Mẹ sinh ra là sự thánh thiện, sự khôn ngoan, công chính, sự thánh hóa, sự cứu chuộc của chúng ta.
Tất cả chúng ta đã nhận được sự sống mới trong Chúa Kitô và Mẹ Maria đã thụ thai và sinh ra Người. Chính vì thế, ta có thể nói với Thánh Aelred rằng, cũng chính Đức Maria đã cho ta cuộc sống này, ngay từ lúc ta được chia sẻ sự sống với Đức Kitô từ Mẹ. Trong thân thể người, sự sống của Chúa Giêsu, đầu của chúng ta chảy vào chúng ta là chi thể của Người. Điều này làm cho Mẹ Maria đóng vai trò là một người mẹ của sự sống. Mẹ truyền sự sống cho chúng ta thông qua và trong Chúa Kitô, người sống trong chúng ta.
05/06 Hãy nhận lấy Thánh Thần
- Viết bởi Ga 20, 19-23
Hãy nhận lấy Thánh Thần.
CHÚA NHẬT CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG. Lễ Trọng. Lễ HỌ.
"Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con: Các con hãy nhận lấy Thánh Thần".
Lời Chúa: Ga 20, 19-23
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con!" Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa.
Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con! Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con".
Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm LỄ HIỆN XUỐNG – Năm C
Lời Chúa: Cv 2,1-11; 1Cr 12,3b-7.12-13; Ga 20,19-23
1. Người thổi hơi vào các ông--‘Manna’
Suy Niệm
Những vết chân trên cát cho ta biết có người đã đi qua.
Nhìn hàng cây xa lay động, ta biết có gió.
Đức Giêsu đã ví Thánh Thần như cơn gió:
"Gió muốn thổi đâu thì thổi...
Chẳng ai biết gió từ đâu đến và sẽ đi đâu" (Ga 3,8).
Chúng ta chỉ thấy những dấu vết hoạt động của Thánh Thần,
nhưng không thấy được chính Ngài,
cũng không nắm được đường đi nước bước của Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay đã mô tả
Thánh Thần như hơi thở của Chúa Phục Sinh.
Hơi thở là dấu hiệu của Sự Sống.
Thiên Chúa đã thở hơi vào Ađam và cho ông sống.
Đức Giêsu Phục Sinh đã thở hơi trên các môn đệ,
để họ nhận một sự sống mới hoàn toàn.
Đời sống Kitô hữu là đời sống trong Thánh Thần.
Ngay từ giây phút đầu tiên trong lòng mẹ,
Đức Giêsu đã được đầy tràn Thánh Thần.
Khi lãnh nhận phép rửa của Gioan,
Ngài đã được Thánh Thần ngự xuống và lưu lại.
Cũng chính Thánh Thần đưa Ngài vào sa mạc
để cầu nguyện, ăn chay và định hướng cuộc đời.
Tại Galilê, Đức Giêsu đã bắt đầu sứ mạng
trong quyền năng của Thánh Thần (Lc 4,14).
Ngài đã nhờ Thánh Thần mà đuổi quỷ (Mt 12,28),
và khi được hân hoan trong Thánh Thần,
Ngài đã thốt lên lời ca ngợi Cha (Lc 10,21).
Quả thật Đức Giêsu là con người sống trong Thánh Thần,
Đấng mà Ngài đã nhận được một cách vô hạn (Ga 3,34).
Đôi khi chúng ta cảm thấy xa lạ với Ngôi Ba,
dù thực sự Ngài là người Bạn, người Thầy
quá ư gần gũi và cần như hơi thở.
Tôi gọi Thiên Chúa là Cha, cũng nhờ Ngài (Rm 8,15).
Nhờ Ngài tôi biết cầu nguyện,
và nếm được sự ngọt ngào của Lời Chúa.
Nhờ Ngài Hội Thánh vẫn được canh tân liên tục
bằng những luồng gió bất ngờ,
những lôi cuốn mạnh mẽ không sao cưỡng lại.
Xin cho tôi can đảm để cho ngọn gió của Ngài
thổi tung mọi sợ hãi, rụt rè, khép kín.
Xin cho tôi lưỡi lửa để tôi ra đi
loan báo Tin Mừng với trái tim bừng cháy.
Xin cho tôi hơi thở của Ngài
để tôi biết sống và yêu nồng nàn.
Gợi Ý Chia Sẻ
Mọi sáng kiến canh tân đều có thể là do Thánh Thần thúc đẩy. Trong giáo xứ, gia đình, cộng đoàn hay nhóm của bạn, bạn có gặp thấy những người biết thao thức và dám đưa ra sáng kiến canh tân không?
Thánh Thần vẫn lên tiếng qua những người có trách nhiệm, qua bạn bè, qua hoàn cảnh mới cần thích nghi. Có lần nào bạn nghe được lời mời của Thánh Thần không? Bạn đáp lại ra sao?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Thánh Thần,
xin ban sức sống cho chúng con.
Xin cho cuộc đời Kitô hữu chúng con
đừng rơi vào sự đơn điệu nghèo nàn, vào những lối mòn quen thuộc,
nhưng xin canh tân và tái tạo chúng con mỗi ngày.
Xin nuôi chúng con bằng những thức ăn mới,
cho chúng con khám phá ra những chiều sâu khôn dò của Đức Kitô,
và ý nghĩa thâm thúy của Tin Mừng.
Lạy Chúa Thánh Thần là Đấng Ban Sự Sống,
thế giới hôm nay luôn bị đe dọa
bởi bạo lực, khủng bố, chiến tranh;
mạng sống con người bị coi rẻ.
Xin cho chúng con biết say mê sự sống,
và gieo vãi sự sống khắp nơi.
Ước gì Chúa ban cho nhân loại một lễ Hiện Xuống mới,
để con người có thể hiểu nhau hơn
và đón nhận nhau trong yêu thương.
2. Hãy nhận lấy Thánh Thần--'Manna'
Suy Niệm
Lúc đến Êphêsô, Phaolô hỏi một số môn đệ ở đó:
"Khi vào đạo, các ông đã nhận lãnh Thánh Thần chưa?".
Họ trả lời: "Ngay cả việc có Thánh Thần,
chúng tôi cũng chưa hề được nghe nói tới" (Cv 19,1-2).
Chúng ta đã được nghe nói và đã lãnh nhận Thánh Thần,
nhưng có thể Ngài vẫn là Đấng xa lạ với ta.
Bí tích Thêm sức chỉ còn là một kỷ niệm đẹp,
nhưng nó không làm ta ý thức về sự hiện diện của Thánh Thần,
Đấng đang ở trong ta và sai ta đi làm chứng.
Khi Đức Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ,
Ngài đã làm một việc quan trọng,
đó là mời họ tiếp tục sứ mạng mà Ngài đã bắt đầu.
"Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ" (Mt 28,19).
"Hãy đi loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo" (Mc 16,15).
Trong Tin Mừng hôm nay, Đấng phục sinh nói với các môn đệ:
"Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em" (Ga 20,21)
Đức Giêsu cho các môn đệ được tham dự vào sứ mạng của mình.
Chỉ có một sứ mạng duy nhất
là sứ mạng Chúa Giêsu nhận được từ Chúa Cha.
Sứ mạng của các môn đệ nối dài sứ mạng duy nhất ấy.
Ai sẽ giúp các ông thực hiện sứ mạng này?
Ai sẽ cho các ông sức sống để dám mở toang cánh cửa
mà lên đường loan báo Tin Mừng phục sinh?
Sức sống ở nơi hơi thở.
Đức Giêsu phục sinh đã trao hơi thở của mình,
hơi thở của sức sống thần linh cho các môn đệ.
Khi được trao ban Thánh Thần,
họ trở thành con người mới, sẵn sàng lên đường.
Thánh Thần chẳng ở xa mỗi người chúng ta.
Ngài có mặt khi ta rung động trước một đoạn Lời Chúa,
và muốn sống Lời Chúa trong đời thường.
Ngài có mặt khi ta gọi tên Chúa Giêsu trên môi (1Cr 12,3),
và gọi Thiên Chúa là Cha đầy lòng từ ái (Rm 8,15).
Ngài có mặt khi ta muốn tiến một bước mới
trong đời sống cầu nguyện, trong đời sống thiêng liêng.
Thánh Thần chẳng ở xa Giáo Hội.
Ngài làm cho Giáo Hội được hiệp nhất
bằng cách ban những đặc sủng khác nhau cho nhiều người
để họ phục vụ lợi ích chung.
Ngài hiện diện nơi các vị lãnh đạo Giáo Hội,
nhưng Ngài cũng có mặt nơi các nhóm giáo dân.
Ngài hiện diện trong các bí tích, trong mỗi thánh lễ.
Ngài thánh hóa bánh rượu
để chúng trở nên Mình và Máu Đức Kitô.
Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội;
không có Ngài, Giáo Hội chỉ là một cơ cấu đáng ngờ.
Nếu chúng ta mềm mại hơn để cho Ngài dẫn dắt,
nếu chúng ta bớt cứng cỏi để cho Ngài canh tân,
nếu chúng ta đừng dập tắt tiếng của Ngài,
thì chúng ta sẽ thấy những biến đổi kỳ diệu.
Gợi Ý Chia Sẻ
1. Bạn có thấy Chúa Thánh Thần soi sáng và nâng đỡ bạn trong cuộc sống hàng ngày không? Ngài có hoạt động trong nhóm của bạn không?
2. Trong thế giới hôm nay, thế giới gồm cỏ lùng và luau, bạn có thấy hoạt động âm thầm nhưng hiệu quả của Chúa Thánh Thần không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Thánh Thần,
Xin Ngài hãy đến như cơn gió mát thổi vào đời con,
thổi vào Giáo Hội, thổi vào thế giới,
để đem lại cho chúng con sự tươi mới nhẹ nhàng, sự tự do thanh thoát.
Xin Ngài hãy đến như dòng nước trong chảy vào đời con,
chảy vào Giáo Hội, chảy vào thế giới,
để cuốn trôi đi mọi nhơ nhớp, khô cằn, cứng cỏi,
và làm bật dậy những mầm xanh sự sống nơi chúng con.
Xin Ngài hãy đến như ngọn lửa hồng
chiếu sáng đời con chiếu sáng Giáo Hội, chiếu sáng thế giới,
để chúng con không còn đồng lõa với tối tăm,
nhưng mang trong tim một ước mơ nóng bỏng,
đó là làm cho vũ trụ này rực sáng Tình yêu.
3. Nói được các thứ tiếng--‘Manna’
Suy Niệm
Lễ Ngũ Tuần là một lễ lớn của người Do Thái.
Nhiều người Do Thái sùng đạo từ nước ngoài về Giêrusalem dự lễ.
Còn Nhóm Mười Hai và mấy phụ nữ, trong đó có Đức Maria,
thì cầu nguyện tại lầu trên một căn nhà trong thành.
Chính trong bầu khí của một cộng đoàn cầu nguyện
mà Thánh Thần, Đấng Cha hứa ban, đến với họ.
Thánh Thần chẳng có một khuôn mặt để ta ngắm nhìn
nhưng ta vẫn nhận ra Ngài nhờ những dấu chỉ khả giác:
một tiếng từ trời như tiếng gió thổi dữ dội,
những lưỡi lửa tản ra và đậu xuống từng người.
Bổng chốc Thánh Thần đầy tràn mọi người hiện diện.
Có cái gì đó được mở tung, để tự do bay bổng.
Có ngọn gió ùa đầy nhà làm căng buồng phổi.
Có ngọn lửa ấm lan tỏa trong trái tim.
Có cái gì thôi thúc người ta mở cửa, đi ra và cất tiếng.
Phải kêu to cho mọi người, chẳng có gì phải sợ,
về những kỳ công Thiên Chúa đã làm cho Thầy Giêsu.
Trước mặt mười hai ông đánh cá quê mùa ít học,
người từ khắp nơi trên thế giới đổ về.
Họ là những người Do Thái sinh sống ở nước ngoài,
nên họ đã kinh ngạc, sửng sốt, thán phục,
khi họ nghe các ông nói được tiếng của vùng đất họ sống.
Ơn nói được nhiều thứ tiếng là ơn của Thánh Thần,
nhằm giúp cho việc loan báo Tin Mừng nơi mọi dân tộc.
Tin Mừng bằng tiếng mẹ đẻ giúp người nghe cảm thấy gần gũi.
Rồi Tin Mừng ấy lại trở thành gạch nối liên kết mọi người,
thuộc mọi ngôn ngữ, màu da, xã hội, văn hoá khác biệt.
Như thế Thánh Thần làm con người hiểu nhau, gần nhau,
và giúp Hội Thánh trở thành Hội Thánh của mọi dân tộc.
Thánh Thần làm vết thương của tháp Babel được lành.
Đã có lúc những người nói cùng một thứ tiếng
mà vẫn không hiểu nhau.
Lễ Hiện Xuống là lễ khai sinh một Hội Thánh truyền giáo.
Đức Giêsu đã chào đời tại Châu Á từ 2.000 năm.
Làm sao để người Châu Á hiểu được Tin Mừng:
đó là vấn đề mà tất cả chúng ta hết sức quan tâm.
Hiểu được là bước đầu để đón nhận và tin theo.
"Chúng ta đều nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta
mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa" (c.11).
Làm sao chúng ta sử dụng nhuần nhuyễn các ngôn ngữ Á Châu
để trình bày mặc khải của Đức Giêsu Con Thiên Chúa?
Phong tục, văn hoá, tín ngưỡng, luân lý, truyền thống của họ
cũng là những thứ ngôn ngữ mà ta cần trân trọng tìm hiểu.
Xin Thánh Thần giúp ta học được ngôn ngữ Việt Nam hôm nay,
để nói cho người Việt hiểu và hiểu được điều họ nói.
Xin cho Hội Thánh biết khiêm tốn và can đảm
học lại ngôn ngữ của những người mà Chúa sai ta đến.
Kinh Thánh đã được dịch ra 2,197 ngôn ngữ.
Chúng ta còn cần dịch ra một thứ ngôn ngữ ai cũng hiểu,
đó là ngôn ngữ của phục vụ và yêu thương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Nhờ sức mạnh Thánh Thần, những ông đánh cá đã mạnh dạn đứng lên loan báo Tin Mừng. Bạn đã nhận Thánh Thần khi được rửa tội và thêm sức; có khi nào bạn dám can đảm nói lên niềm tin của bạn không?
Gia đình, cuộc sống, nghề nghiệp của bạn cũng là những thứ ngôn ngữ. Bạn có thấy mình nói về Chúa qua những ngôn ngữ ấy không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa là Thần Khí Sự Sống và Tình Yêu,
xin ban cho con một thời để yêu và một thời để sống;
để con sống vì tình yêu Thiên Chúa,
để con yêu vì cuộc sống muôn loài.
Xin dạy con biết yêu những điều tốt đẹp, cao quý
và biết ghét những điều đê tiện, xấu xa.
Xin dạy con luôn sống vì những điều mình yêu,
và dám chết vì những điều mình ghét.
Xin cho con biết đưa tình yêu vào cuộc sống
để mỗi giây phút sống con đều cảm nhận được
niềm hạnh phúc yêu thương.
Xin cho con biết đưa cuộc sống vào tình yêu
để từng giây phút yêu, con đều làm cho cuộc sống thêm giá trị.
Cuối cùng, xin cho con biết hoà nhập cả hai nên một:
để sống là yêu và yêu là sống,
vì hiểu được rằng Thiên Chúa Hằng Sống
cũng chính là Thiên Chúa Tình Yêu. Amen.
4. Veni Creator, Spiritus--Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI
Xin Chúa Thánh Thần, Đấng sáng tạo ngự đến
(Bài giảng lễ Vọng đón Đức Chúa Thánh Thần, Roma 2006)
Hằng năm Giáo Hội mừng lễ kính Đức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống trọng thể. Trong đời sống, người Công giáo chúng ta vào lứa tuổi thanh thiếu niên, đều đã nhận lãnh Bí tích Thêm sức, đón nhận ân đức Đức Chúa Thánh Thần củng cố đức tin ngày chịu phép bí tích Rửa tội năm xưa.
Rồi mỗi khi làm dấu Thánh Gía, đều nhắc đến đức Chúa Thánh Thần: “...và Thánh Thần. Amen". Nhất là người Công giáo Việtnam thường đọc lời kinh: "Chúng con lạy ơn đức Chúa Thánh Thần thiêng liêng sáng sáng vô cùng. Chúng con xin đức Chúa Thánh Thần xuống đầy lòng chúng con..." mỗi khi đọc kinh lần hạt mân côi hay trước khi dâng thánh lễ.
Một tập tục thói quen đạo đức tốt lành ăn rễ sâu thấm nhuần trong cung cách sống đức tin! Nhưng càng ngày, nhiều người thắc mắc: Đức Chúa Thánh Thần là ai hay là gì? Làm thế nào chúng ta có thể nhận ra Ngài?
1. Dominum et vivicantem - Là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống.
Mỗi khi đọc kinh tin kính, chúng ta tuyên xưng Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống. Sự sống phát xuất từ Ngài và Ngài là sự sống. Trong chương khởi đầu sách Sáng Thế (1, 1-2, 4a) thuật lại công trình sáng tạo trời đất, Kinh Thánh diễn tả Thần linh Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước trong cảnh u minh hỗn mang. Thiên Chúa sau khi đã tạo dựng con người từ bụi đất hà hơi vào họ và họ liền có sự sống. Thần linh Thiên Chúa là hơi thở phát sinh ra sự sống.
1.1. Sự sống do đâu?
Nhiều cái, nhiều sự trong đời sống chúng ta có thể hay phải làm ra. Nhưng sự sống con người ngay từ khởi đầu là do được tiếp nhận, chứ không do làm hay chế tạo ra. Người mẹ không chế hay làm ra đứa con. Nhưng người mẹ đón nhận sự sống đứa con của mình. Người ta đã hay sẽ còn khảo nghiệm để khám phá ra mầm sự sống trong quá trình thụ thai sinh con nơi bà mẹ. Nhưng cho tới bây giờ cũng chỉ biết được những khía cạnh ngoại vi bên lề giữa tình yêu và sự sống, giữa sự sống và tình yêu, giữa sự hoà nhập của yếu tố sinh lý, yếu tố hoá học... còn chính sự sống trước sau vẫn là điều mầu nhiệm chưa khám phá ra. Sự sống không do tự phát xuất ra và cũng không do chúng ta làm ra. Sự sống là ân đức, là quà tặng đến với và cho chúng ta. Chúng ta được quyền đón nhận sự sống và là người đón nhận sự sống.
1.2. Kinh nghiệm trong đời sống.
Không ai làm ra sự sống, nhưng chúng ta có kinh nghiệm nhiều ít, thành công hay thất bại, buồn hay vui, sung sướng hay đau khổ trong đời sống. Kinh nghiệm chúng ta thu lượm được trong đời sống. Chúng ta cũng không thể chế ra kinh nghiệm được. Và mỗi người có kinh nghiệm về đời sống khác nhau, dù cùng cảnh ngộ, cùng điều kiện vật lý... Kinh nghiệm chúng ta trải qua trong đời sống cũng là ân đức từ trời ban cho. Một người kể cho tôi nghe ngày sinh nhật thứ hai trong đời ông (không phải sinh nhật lúc hai tuổi!). Tôi ngạc nhiên hỏi lại: tại sao lại có tới hai ngày sinh nhật? Ông hân hoan thuật lại biến cố đó. Số là cách đây hai năm, đang trong bữa tiệc mừng con trai út người bạn mới thi đậu ra trường, bỗng dưng ông ngã lăn đùng ra giữa nhà nằm bất tỉnh...
Người ta đưa ông vào nhà thương cấp cứu. Sau hai ngày ông sống tỉnh dậy và sống khoẻ mạnh trở lại. Ông cho là đã được tái sinh lại lần thứ hai. Vì thế ông có hai ngày sinh nhật: ngày mở mắt chào đời khi xưa cách đây hơn năm mươi lăm năm, và ngày sống trở lại sau hai ngày trong hôn mê bất tỉnh, như được tái sinh! Còn nỗi vui mừng nào lớn hơn niềm vui được sống trở lại khỏe mạnh với mọi người! Ông không chế ra sự sống ngày tái sinh này. Nhưng ông đã đón nhận nó như món quà tặng, như ân đức từ trời cao. Nhà nghệ thuật, nhà nghiên cứu sau năm tháng miệt mài suy nghĩ, bỗng dưng trong tâm trí bừng lên ý tưởng mới. Thế là họ cặm cụi ghi chép lại và phát triển ra những bức họa, những bản nhạc hoà tấu, những cuốn sách, những công trình phát minh sáng chế nổi tiếng để đời cho hậu thế.
Ý tưởng mới bừng lên trong tâm trí cũng không do họ tự chế tạo ra, nhưng do được gợi hứng ban cho.
1.3. Sự sống cho con người, nhưng...
Chúng ta đón nhận sự sống, thu lượm kinh nghiệm trong đời sống, hoạch định cách sống hôm nay và ngày mai. Nhưng chúng ta không thể thu ngắn, kéo dài hay bằng cách nào đó biến đổi sự sống theo ý muốn mình được. Chúng ta không là chủ sự sống và không thể nắm giữ sự sống lại được. Quá trình sinh lão bệnh tử nói cho chúng ta điều đó. Và nào đã có ai là con người thoát khỏi quá trình này đâu? Sự sống được ban cho và sự sống có ngày được thu hồi về bởi Đấng là chủ là nguồn sự sống. Đó đây ngườ ta thường nói: Đời sống mỗi ngày mỗi khó khăn. Cuộc sống không còn đơn giản như xưa nữa. Điều kiện sống càng ngày càng phức tạp và tạo ra nhiều vấn đề...!
Con người chúng ta đón nhận sự sống và có bổn phận duy trì, xây dựng phát triển sự sống cho mình, cho gia đình, cho xã hội đất nước. Đó là điều quan trọng, nhưng đó chưa phải là tất cả. Qua việc làm, qua hoạch định hay qua những công trình đã xây dựng, chúng ta mới chỉ đạt được điều kiện, cách thế khắc phục những khó khăn trở ngại trong đời sống, cách xây dựng sự sống. Còn chính sự sống chúng ta không thể làm chế ra được. Sự sống là ân đức, là quà tặng và có giá trị cao qúi tuyệt đối hơn mọi công trình việc làm của con người. Vì sự sống được ban cho, chứ không do chế tạo làm ra. Con người có bổn phận kính trọng, gìn giữ bảo vệ sự sống. Thần Linh Thiên Chúa là sự sống và là Đấng ban sự sống.
2. Creator, Spiritus - Thần linh sáng tạo
Ngày nay khắp mọi người ta nói đến bảo vệ thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái. Các quốc gia kỹ nghệ tân tiến đưa ra những chương trình bảo vệ rừng núi, bảo vệ nguồn nước dưới lòng đất, bảo vệ đất đai mặt bằng, bảo vệ không khí trong lành, bảo vệ khí trời không bị nóng làm cho khi hậu đảo lộn, bảo vệ súc vật côn trùng... vì con người càng ngày càng nhận ra mức quan trọng của thiên nhiên cho sự sống còn của họ. Đó là nguồn tài nguyên, tài sản cho mọi thời đại mọi thế hệ. Thắc mắc đặt ra: Thiên nhiên cho con người hay con người cho thiên nhiên?
Cả hai vế đều đúng, đều quan trọng như nhau. Không có thiên nhiên làm sao con người có thể sinh sống được. Và nếu con người không nhận ra giá trị của thiên nhiên, không bảo vệ thiên nhiên, thì cuộc sống của những thế hệ kế tiếp sẽ ra sao? Con người có thể sống trong một môi trường thiên nhiên khô chồi, trơ trụi bị ô nhiễm khí độc hại hay bị khói cháy rừng bao phủ ngày đêm khắp bầu trời được không? Sức khoẻ thể xác và tinh thần của họ sẽ như thế nào nếu nguồn nước dưới lòng đất hay ngoài sông ngòi là một vũng ao tù xình lầy chứa đầy rác rưởi, phân tro hay đầy chất hoá học độc hại?
Thiên nhiên cho con người và con người cũng phải cho thiên nhiên! Nhưng nếu chỉ nghĩ đến việc bảo vệ, gìn giữ thiên nhiên đã đủ chưa? Phải chăng thiên nhiên chỉ nguyên là môi trường sinh thái cho mọi loài? Phải chăng khi đưa ra chương trình cứu nguy bảo vệ môi trường sinh thái là đã cứu nguy được thiên nhiên, công trình sáng tạo rồi? Thiên nhiên đâu phải chỉ bao gồm dưới dạng tài nguyên không khí để thở, đất đai rừng núi nguồn nước cây cối, côn trùng sinh vật. Thiên nhiên hay thế giới chúng ta đang sống còn có chiều kích thánh thiêng tôn giáo nữa: Thiên nhiên, vũ trụ do Thiên Chúa tạo dựng cho con người (Sách Sáng thế 1, 1-2a).
Sự sống trong thiên nhiên là do Thần Linh Thiên Chúa tác dụng vào. Chính với sức sống này, con người tìm thấy ý nghĩa của đời sống. Nhận ra chỗ đứng của mình trong vũ trụ. Và vì thế con người sống trong đó, đâu phải chỉ nguyên có trách nhiệm với thiên nhiên không thôi đâu. Họ còn có bổn phận với Đấng là nguyên ủy của thiên nhiên. Môi trường sinh thái được trao vào tay con người. Họ được quyền xử dụng vào việc xây dựng cho phù hợp với hoàn cảnh sống; và môi trường sinh sống cũng có thể bị lợi dụng hay sử dụng vô trách nhiệm, khiến gây nên tình trạng phá huỷ ô nhiẽm môi sinh. Còn thiên nhiên là do Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá dựng nên ban cho như quê hương xứ sở, nơi sự sống Thần Linh của ngài tác dụng và đổi mới. Như thế con người không thể dùng thiên nhiên theo ý nghĩa xử dụng được.
Con người có bổn phận kính trọng thiên nhiên và họ luôn luôn khám phá ra những công trình sáng tạo mới trong đó. Những công trình này gây ngạc nhiên, mang lai hạnh phúc niềm vui, mang nguồn cảm hứng cho con người. Và vì thế phải biết cúi mình tạ ơn Đấng là chủ thiên nhiên, là chủ nguồn sự sống trong thiên nhiên. Thiên Chúa răn bảo con người: “Con không được phép giết hại!" (Sách xuất hành 20, 13; Đệ nhị luật 5,17). Ngài có ý nhắn nhủ con người:
Con chỉ là người quản lý thiên nhiên Cha trao cho. Nhưng không là chủ thiên nhiên.
Con phải kính trọng sự sống do Cha tạo dựng.
Con không được phá huỷ môi trường sinh thái của cây cối cùng súc vật trong đó.
Con không được coi trái đất này là sở hữu của riêng con.
Con không được vì quyền lợi riêng mình gây đau khổ cho các công trình sáng tạo của Cha trong thiên nhiên.
Khi kính trọng hay ngạc nhiên bỡ ngỡ những kỳ công, sự sống trong thiên nhiên, là nhận ra dâu vết Đấng là chủ, là nguồn sự sống, nguồn tình yêu của thiên nhiên: Đức Chúa Thánh thần. Bài thánh ca ngày lễ mừng kính Đức Chúa Thánh Thần mở đầu bằng câu: "Veni Creator, Spiritus – Xin Chúa Thánh Thần, Đấng sáng tạo, ngự xuống..." nói đến những hình ảnh về sáng tạo vũ trụ đã diễn tả trong Kinh thánh, nơi sách Sáng Thế ký.
Bài tường thuật về sự sáng tạo vũ trụ đã diễn tả, Thánh Thần Thiên Chúa bay lượn trên khoảng không hỗn độn đen tối, trên biển nước bao la. Thế giới vũ trụ, nơi chúng ta sinh sống, là công trình của Thần linh sáng tạo. Lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống không chỉ là nguồn gốc khai sinh khởi đầu của Giáo Hội Chúa, nhưng còn là lễ của sự sáng tạo.
Thế giới vũ trụ không phải tự mình mà có. Nó có nguồn gốc khởi thủy từ Thánh Thần Thiên Chúa, do từ Lời sáng tạo của Thiên Chúa. Và như vậy, nó phản chiếu sự khôn ngoan của Ngài. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa, theo chiều trải rộng ra xa và bao gồm lý luận của những luật lệ, gợi hướng về Thần linh sáng tạo của Thiên Chúa. Nó nhắc nhở tới sự kính trọng, cho người tín hữu Chúa Giêsu Kitô tin vào Thần Linh sáng tạo. Nó nhắc nhớ họ nhận biết thế giới vũ trụ này, và những vật thể trong đó không phải là những vật dụng đơn giản của con người cùng ý muốn được phép sử dụng hay được phép lạm dụng. Chúng ta con người, không được phép nhìn công trình sáng tạo trong vũ trụ như một của riêng đã được ban cho để hủy hoại. Nhưng đó là khu vườn của Thiên Chúa cùng là khu vườn cho con người.
5. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống--ĐHY Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, có thể nói đây là ngày khai nguyên Giáo Hội, ngày mà cộng đồng các tín hữu đầu tiên được thành lập và ra mắt thế giới. Trong bài này, tôi sẽ nói về vai trò của Chúa Thánh Thần trong cộng đồng các tín hữu Chúa Ki-tô.
Trong đời sống cộng đồng các tín hữu, Chúa Thánh Thần có một vai trò rất quan trọng và cần thiết, tương tự như vai trò của linh hồn đối với các phần mình trong thân xác con người. Thân xác chúng ta có nhiều bộ phận, nhiều thành phần khác nhau: có đầu, mình, chân tay, mắt mũi, miệng. Các thành phần đó hòa hợp, thông cảm với nhau là nhờ có linh hồn bên trong. Khi linh hồn ra khỏi xác thì các phần thân xác tuy vẫn còn, nhưng không thông cảm với nhau nữa. Khi còn linh hồn bên trong nếu chân ta giẵm phải cái gai thì cả thân thể đều thông cảm và hiệp lực để giúp đỡ: mắt nhìn xem gai ở đâu, mình cúi xuống, tay rút gai ra, rửa vết thương và rịt lại cho cầm màu. Khi linh hồn lìa xác nếu ta có chặt cái chân đi thì cái tay cũng bất động và thân thể cũng không cảm thấy đau. Thế rồi, trong ít lâu, các tế bào tan rữa, thit xương trở nên tro bụi, tại sao thế? – Tại vì thiếu hồn sống bên trong, có hồn sống bên trong thì các phần thân thể mới hợp nhất và thông cảm với nhau. Không có hồn sống thì các phần thân thể sẽ bị phân hủy và tách lìa nhau. Vai trò của Chúa Thánh Thần trong cộng đồng các tín hữu cũng tương tự như vậy. Nghĩa là Chúa Thánh Thần là linh hồn sống bên trong làm cho các tín hữu thông cảm và hợp nhất với nhau thành Thân thể Mầu nhiệm của Chúa Ki-tô.
Theo sách Tông Đồ Công Vụ thuật lại thì ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần hiện xuống, có rất đông người thuộc nhiều dân tộc khác nhau, nhưng đều hiểu tiếng nói của Các Tông đồ như tiếng mẹ đẻ của mình. Thánh Phê-rô thay mặt các Tông đồ giảng về Đức Giê-su chính là Đấng Cứu thế đã chết và sống lại. Khi ấy họ hết sức cảm động, hỏi ông Phê-rô rằng: "Chúng tôi phải làm gì?" – Ông Phê-rô đáp: "Anh chị em hãy thồng hối và chịu phép Rửa tội nhân danh Chúa Ki-tô cho được khỏi tội sau đó anh chị em sẽ được lĩnh ơn Chúa Thánh Thần...". Những người tin lời ông Phê-rô đã xin chịu phép Rửa tội, ngày đó có độ 3000 người xin theo Đạo. Các người này chăm chỉ nghe các Tông đồ giảng dạy, siêng năng cùng nhau dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện. Các tín hữu sống hiệp nhất và để mọi của cải làm của chung. Họ bán ruộng đất, gia sản lấy tiền phân chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu (Tđcv 2,37-44).
Đấy, vai trò của Chúa Thánh Thần trong cộng đồng các tín hữu cần thiết và quan trọng như vậy. Nếu không có Chúa Thánh Thần thì chúng ta không thể hiểu nhau, không thể tin nhau và không thể đoàn kết với nhau thực sự và lâu bền được, tại sao thế? – Tại vì mỗi người đều mang trong mình tính ích kỷ và lòng tự ái. Tính ích kỷ là chứng bệnh di truyền, nằm trong mình con người từ lúc sinh ra và nó còn lớn lên với tuổi đời. Một em bé con chưa làm ích gì cho ai đã biết ích kỷ rồi: khi cha mẹ chia quà cho các con, đứa nào cũng tranh phần hơn, khi cha mẹ chia công việc, đứa nào cũng muốn chọn việc nhẹ, đấy là ích kỷ. Lòng tự ái cũng là con sâu mọt đục khoét sự hợp nhất. Kinh nghiệm cho thấy có những người rất nhiệt tình trước công việc chung, nhưng chỉ nhiệt tình khi nào ý kiến của họ được nghe theo, bản thân họ cũng được đề cao, còn khi người khác phê bình hay bác bỏ ý kiến của họ thì họ bất mãn, phá ngang và bỏ dở công việc, tại đâu? – Thưa: Tại lòng tự ái. Ích kỷ là chứng bệnh di truyền, tự ái là con mọt phá hoại sự cảm thông và tình đoàn kết. Cũng một câu nói, một từ ngữ mà người hiểu thế này, người hiểu thế khác, như vậy thì đoàn kết thế nào được? Sống chung với nhau mà hiểu lầm nhau, chia rẽ nhau, thật là bất lợi và nguy hiểm. Không nói gì những đoàn thể lớn như quốc gia quốc tế, ngay một đoàn thể nhỏ như gia đình, vợ chồng mỗi người một ý kiến, mỗi người một tính tình, đời sống chung rất khó chiu, nói ra thì cãi nhau, không nói thì nặng nề, ai cũng thấy khổ nhưng không làm cách nào giải quyết. Nhưng nếu có Chúa Thánh Thần thì người ta sẽ tránh được bao nhiêu chuyện phức tạp gây chia rẽ và người ta sẽ cảm thông đoàn kết với nhau một cách dễ dàng.
Sau đây, ta rút ra mấy bài học thực hành:
1) Ta hãy năng cầu xin Chúa Thánh Thần đem lửa tình thương từ trời xuống, làm bùng cháy lên trong nhân loại, để phá tan những căm thù chia rẽ đang làm xáo trộn khắp nơi trên thế giới.
2) Khi có sự bất bình chia rẽ xẩy ra trong gia đình ta hoặc trong mối quan hệ giữa ta với người khác, ta đừng kêu ca phàn nàn, cũng đừng đổ lỗi cho ai, như vậy chẳng giải quyết được gì, mà càng đào sâu hố ngăn cách. Tốt hơn hết là ta hãy ngửa mặt cầu xin Chúa Thánh Thần, là Thần Hợp Nhất, ngự xuống trong tâm hồn mỗi người để phá tan sự hiểu lầm, hàn gắn mọi chia rẽ đang đe dọa đời sống cộng đồng của chúng ta.
Như vậy sẽ kết quả hơn bất cứ một giải pháp nào. Bởi vì nếu Chúa không xây nhà thì thợ xây cũng vô ích, nếu Chúa không canh thành thì lính canh cũng luống công. Kinh Thánh dạy như vậy.
Để kết luận, tôi kể lại đây câu chuyện biến ngôn của một nhà văn Thụy Điển đại ý như sau: Một hôm, vào một buổi sáng mùa hè, trời quang mây tạnh, các sinh vật, thực vật trong một khu rừng tranh luận với nhau về ý nghĩa đời sống. Một con họa mi mở đầu, lên tiếng nói: Đối với tôi, cuộc sống chỉ là ca hát, có thế thôi. Nói rồi nó ngẩng cao cổ, tung lên bầu trời một giọng hát trong trẻo tuyệt diệu.
Nghe thế, con chuột chũi liền lẩm bẩm: Cuộc sống không phải là ca hát, không, hoàn toàn không, nhưng cuộc sống là liên tục đấu tranh trong hầm tối.
Một chị bướm ngắt lời: Như vậy thì thật vô lý. Nhưng cuộc sống phải là thỏa thích vui chơi bay lượn.
Đến lượt con ong lên tiếng: Chị bướm ơi, chị lầm rồi. Đời sống không phải là vui chơi bay lượn, nhưng là chăm chỉ làm việc.
Một chú kiến vênh râu, tỏ ý tán thành quan điểm của con ong.
Bỗng một con phượng hoàng từ trời nói vọng xuống: Tất cả các chú không ai nói đúng cả. Theo ý tôi thì cuộc sống có ý nghĩa nhất là tự do bay bổng trên mây xanh.
Tới đây, các cây trong rừng cũng nhao nhao lên lên tiếng tham gia vào cuộc tranh luận: Một cây thông cao vút, cành lá reo vui trong gió, dưới ánh bình minh, lên tiếng khen ý kiến của con phượng hoàng là đúng: Đời sống là vươn mình lên không trung, coi thường những cái nhỏ nhen sà sà mặt đất. Cây bìm leo liền phản đối và đồng tình với chị kiến, chú ong: Đời sống là cần lao phấn đấu.
Cây hồng thắm và cây huệ trắng thì về phe với cô bướm, đồng thanh nói: Đời sống chỉ là vui chơi bay lượn.
Lúc ấy, một đám mây bay qua, buông rơi mấy hạt mưa xuống đám sinh vật, thực vật, đồng thời phát biểu: Đời sống chỉ là giọt lệ cay đắng và nước mắt.
Một dòng suối chảy ngang qua đó cũng xen vào một câu: Đời sống chỉ là mau qua biến chuyển không ngừng.
Trong lúc mà cuộc tranh luận về ý nghĩa đời sống giữa các sinh vật, thực vật và cả mây trời suối nước lên tới cao điểm, nhưng không đi tới kết thúc, thì chuông nhà thờ lên tiếng ngân vang báo hiệu mừng lễ Hiện Xuống làm cho cuộc tranh luận đang sôi nổi bỗng im bặt. Tất cả đều nhất trí rằng câu trả lời đúng nhất về ý nghĩa đời sống là sự bình an, vui mừng, sức mạnh và hòa hợp trong Chúa Thánh Thần.
Thưa anh chị em thân mến,
Trên đây chỉ là một câu chuyện biến ngôn, không có thực, nhưng nói lên sự thực này là Chúa Thánh Thần có một vai trò rất quan trọng, vai trò chính yếu trong việc điều hòa vũ trụ vạn vật nói chung và loài người nói riêng. Không có Chúa Thánh Thần thì mọi sự sẽ hỗn độn, mọi loài sẽ bất đồng, loài người sẽ chia rẽ nhau. Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến tác tạo mọi sự và làm cho mặt đất này được đổi mới. Amen.
6. Đấng ban sự sống--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN, ĐẤNG BAN SỰ SỐNG
(Ga 20,19-21)
Hơi thở tượng trưng cho sự sống. Còn thở là còn sống. Hết thở là hết sống. Hôm nay, Đức Giêsu thổi hơi ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Thổi hơi để chỉ rằng Đức Chúa Thánh Thần là hơi thở. Thở hơi để truyền sự sống. Ta vẫn thường tuyên xưng trong kinh Tin Kính: Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Đấng Ban Sự Sống.
Đức Chúa Thánh Thần là Đấng ban Sự Sống. Điều này được diễn tả trong sách Sáng Thế. Thuở tạo thiên lập địa, cả vũ trụ chưa nên hình nên dạng, chưa có sự sống. Trời đất là một khối hỗn mang. Thánh Thần Chúa bay là là trên mặt nước (cf. St 1,1). Thánh Thần Chúa bay lượn trên mặt nước để vũ trụ được định hình. Thánh Thần Chúa ban cho trời đất một diện mạo. Và trên hết Thánh Thần Chúa ban sự sống cho muôn loài.
Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống lại. Ngôn sứ Êdêkien đã được thấy trong một thị kiến như sau: “Tay Đức Chúa đặt trên tôi. Đức Chúa dùng Thần Khí đem tôi ra, đặt tôi giữa thung lũng; thung lũng đầy xương cốt. Người đưa tôi đi ngang, đi dọc giữa chúng. Những xương ấy nằm la liệt trên mặt thung lũng và đã khô đét. Người bảo tôi: “Hỡi con người, liệu các xương này có hồi sinh được không?”. Tôi thưa: “Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, chính Ngài mới biết điều đó”. Bấy giờ Người bảo tôi: “Ngươi hãy tuyên sấm trên các xương ấy; ngươi hãy bảo chúng: Các xương khô kia ơi, hãy nghe lời Đức Chúa. Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Đây Ta sắp cho Thần Khí nhập vào các ngươi và các ngươi sẽ được sống… Ngươi hãy nói với Thần Khí: Từ bốn phương trời, hỡi Thần Khí, hãy đến thổi vào những người đã chết này cho chúng được hồi sinh. Thần Khí liền nhập vào những người đã chết; chúng được hồi sinh và đứng thẳng lên”” (Ed 37,1-10). Thánh Phaolô quả quyết: Đức Chúa Thánh Thần đã làm cho Đức Giêsu sống lại cũng sẽ làm cho chúng ta sống lại trong ngày sau hết.
Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống mới. Sách Công vụ Tông đồ thuật lại: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được đầy tràn Chúa Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2,1-4).
Từ khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các tông đồ trở nên khác hẳn. Trước kia các ngài nhút nhát sợ hãi, nay các ngài mạnh dạn hăng hái. Trước kia các ngài chỉ là những ngư phủ thất học, không am hiểu giáo lý, nay các ngài cất tiếng rao giảng Tin Mừng cho mọi người thuộc đủ mọi tầng lớp, mọi chủng tộc. Trước kia các ngài còn nghĩ đến bản thân, tranh giành nhau chỗ cao chỗ thấp, nay các ngài chỉ nghĩ đến Nước Chúa, sẵn sàng hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa. Ơn Chúa Thánh Thần đã đổi mới tâm hồn các ngài. Các ngài đã nhận được sự sống mới, sự sống của Chúa, để sống vì Chúa và sống cho Chúa.
Ngày chịu phép rửa tội, ta đã nhận được sự sống của Chúa. Tuy nhiên có nhiều chỗ trong linh hồn ta không có sự sống vì tội đã ngăn cản ơn thánh và làm chết đi nhiều phần trong linh hồn. Những dục vọng, đam mê, tham vọng, tinh thần thế tục giống như vi trùng len lỏi vào linh hồn làm cho sự sống của Chúa bị tổn thương. Linh hồn suy nhược không còn tha thiết làm việc lành. Hôm nay ta hãy xin Đức Chúa Thánh Thần xuống Phục Sinh những thành phần chết chóc trong tâm hồn ta. Và nhất là xin Người ban sự sống mới cho tâm hồn ta. Giúp ta biết tẩy bỏ lối sống, lối suy nghĩ, lối cư xử xưa cũ theo tinh thần thế tục, để sống một đời sống mới, sống nhiệt thành, sống bác ái, sống quên mình, sống dấn thân phục vụ Thiên Chúa và tha nhân hơn.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống lại và ban sự sống mới. Bạn có thấy linh hồn bạn cần những sự sống này không?
2. Sau khi nhận ơn Đức Chúa Thánh Thần, các Tông đồ đã thay đổi đời sống. Bạn cũng đã nhận ơn Chúa Thánh Thần, đời sống bạn có thay đổi gì không?
3. Đức Chúa Thánh Thần luôn sai đi. Hôm nay bạn cảm thấy Chúa Thánh Thần sai bạn đi làm gì?
7. Lửa Thánh Thần--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã nhiều lần hứa sẽ gửi Thánh Thần đến an ủi các môn đệ. Quả thật, các ngài không phải chờ đợi lâu. Vào ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần xuống đầy tràn trên các ngài. Ơn Chúa Thánh Thần thật mãnh liệt. Chúa Thánh Thần đã đụng chạm đến các ngài. Chúa Thánh Thần như nguồn nhựa sống thấm tẩm vào từng chân tơ kẽ tóc làm cho các ngài thay đổi da thịt, trở thành con người mới. Các ngài đã cảm nghiệm được sự tác động ấy. Đó là cảm nghiệm về một ngọn lửa.
Chúa Thánh Thần là ngọn lửa thanh luyện.
Giống như ngọn lửa thanh luyện vàng và kim loại khỏi các tạp chất, ngọn lửa Thánh Thần tẩy sạch con người cũ của các tông đồ. Trước kia các tông đồ là những người nhỏ nhen ích kỉ, ham hố danh vọng, thường tranh nhau chỗ cao chỗ thấp. Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các Ngài trở nên quảng đại, hy sinh quên mình, chỉ nghĩ đến phục vụ Nước Chúa. Trước kia các Tông đồ là những người nhút nhát, dễ thay đổi. Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các Ngài đã trở nên cam đảm, trung thành làm cho Chúa đến nỗi dám hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa. Hơi ấm của Chúa Thánh Thần băng bó những vết thương làm cho tâm hồn các Ngài liền da liền thịt, sạch hết mặc cảm, trở nên những con người hoàn toàn mới.
Chúa Thánh Thần là ngọn lửa soi sáng.
Ai đã có lần đi trong hang động tối tăm mới hiểu được nỗi khổ của người mò mẫm lần từng bước dò đường đi. Những tảng đá lởm chởm, những thú vật độc ác, những vực sâu hiểm nghèo đang rình chờ cướp mạng sống của người mạo hiểm. Hạnh phúc biết bao khi có ánh sáng tới. Đường đi xuất hiện rõ ràng. Khách bộ hành an tâm mạnh dạn tiến bước.
Trước kia, các Tông đồ giống như người đi trong đêm tối, không biết đường biết hướng về đâu. Lửa Chúa Thánh Thần đến soi sáng trí khôn biến những bác ngư phủ quê mùa trở nên sáng suốt thông minh, hiểu biết Lời Chúa. Lửa Chúa Thánh Thần soi sáng đường đi, biến những môn đệ mất Thầy như bầy ong vỡ tổ trở nên những người lãnh đạo dẫn đường cho một đoàn dân mới tiến về Quê Trời.
Chúa Thánh Thần là ngọn lửa sự sống.
Sau ngày Chúa Giêsu chịu chết, các Tông đồ sợ hãi tản lạc tứ phía. Các ngài phải trốn chạy. Các ngài phải ẩn nấp, Các ngài sống trong sợ sệt lo âu. Các ngài phải đóng kín cửa nhà vì sợ người Do thái. Các ngài sống như tựa như đã chết. Các ngài giống như cái xác không hồn. Nhưng sau khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các ngài nhận được nguồn sống. Các ngài bừng tỉnh như sau một giấc ngủ. Các ngài mạnh mẽ như người hồi phục sau cơn trọng bệnh. Sự sống mãnh liệt trào tuôn khiến các ngài không còn có thể bó gối ngồi một chỗ, nhưng mạnh mẽ mở cửa ra đi rao giảng Lời Chúa. Sự sống mãnh liệt trào tuôn khiến các cộng đoàn phát triển mau chóng. Ngọn lửa Chúa Thánh Thần đã đem lại sự sống, sự sống lại và là sự sống mới cho các Tông đồ, cho các tín hữu.
Ngày nay chúng ta cảm ơn Chúa Thánh Thần hơn bao giờ hết. Trong bản thân cũng như trong cộng đoàn chúng ta có nhiều tì tích hoen ố. Chỉ có ngọn lửa của Chúa Thánh Thần mới có thể thanh luyện tâm hồn chúng ta. Thế giới hôm nay đầy những bóng tối. Chỉ có ngọn lửa Chúa Thánh Thần mới có thể soi sáng cho chúng ta biết đường lối mà đi. Thế giới hôm nay chứa đầy văn minh sự chết, đưa con người tới huỷ diệt. Chỉ có ngọn lửa Chúa Thánh Thần mới hồi phục, đưa ta vào sự sống mới trong Đức Kitô.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Ngọn lửa Thánh Thần có tác dụng gì trên các Tông đồ, làm cho các ngài thay đổi mãnh liệt?
2) Bạn có cảm nhận được Chúa Thánh Thần trong đời bạn không?
3) Để mình bị biến đổi, để mình bị thúc đẩy trên đường dấn thân làm việc phục vụ, dễ hay khó?
8. Ra đi - tha thứ--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Khi nói về Chúa Thánh Thần, ta thường nghĩ đến bảy ơn Người ban qua bí tích Thêm Sức. Ta như người lãnh nhận một cách thụ động. Và những ơn Người ban chẳng ảnh hưởng gì đến đời sống ta. Đó thực là một quan niệm sai lầm tai hại. Thực ra, Đức Chúa Thánh Thần là nguồn sự sống mãnh liệt, là sự trẻ trung của Giáo Hội, là năng lực đổi mới thế giới. Hãy đọc lại bài đọc I, ta sẽ thấy sức mạnh đổi mới của Người mãnh liệt như thế nào. Người như luồng gió cường tráng. Người như ngọn lửa bừng bừng. Luồng gió và ngọn lửa ấy đã khơi dậy nguồn năng lực tiềm ẩn nơi những bác thuyền chài thất học, biến họ thành những con người thay đổi thế giới. Nhận lãnh ơn Đức Chúa Thánh Thần là nhận lãnh sứ mạng hành động. Hôm nay, Chúa Giêsu tóm tắt sứ mạng hành động đó qua 2 nhiệm vụ: Ra đi và Tha thứ.
Nhiệm vụ thứ nhất mà Đức Giêsu trao cho các môn đệ khi ban Thánh Thần cho các ông, đó là RA ĐI: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nhận lãnh Chúa Thánh Thần là được sai đi. Chúa Thánh Thần là sức mạnh hành động. Người không thể bị giam hãm trong những căn phòng đóng kín cửa. Người không ưa thích những tâm hồn khép kín trong ủ rũ điêu tàn. Người đến đâu là mở tung cửa nhà ra đến đấy. Mở ra để đón lấy những luồn gió mới tươi mát. Mở ra để đón nhận mọi người đến với mình. Và nhất là mở ra để mình đến với mọi người. Một cuộc sống không giao tiếp sẽ trở nên nghèo nàn, tàn lụi. Một tâm hồn chỉ quy hướng về bản thân sẽ chẳng khác một vũng ao tù, ô nhiễm. Ra đi sẽ giúp ta nên phong phú, mạnh mẽ. Ra đi không phải là lang thang không mục đích, nhưng là đi đến những địa chỉ Thánh Thần muốn gửi ta đến. Những địa chỉ Thánh Thần muốn ta đến đó là "loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa" (Lc 4,18-19). Chúa Thánh Thần sẽ mở tung cánh cửa ích kỷ. Người sẽ phá tan cánh cửa hẹp hòi. Người sẽ củng cố những tâm hồn nhút nhát. Người sẽ quét sạch mọi lớp bụi bặm rêu phong. Người sẽ đổ tràn vào hồn ta nguồn nhựa sống mới giúp ta hăng hái lên đường.
Nhiệm vụ thứ hai mà Đức Giêsu trao cho các môn đệ khi ban Thánh Thần cho các ông, đó là THA THỨ: "Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha". Tha thứ, hoà giải luôn là một vấn đề lớn của thế giới. Trên thế giới, những cuộc chiến tranh, chia rẽ, xung khắc xảy ra hầu như hằng ngày. Con người là bất toàn, nên sống chung là có bất đồng, xung khắc. Nếu cứ mỗi lần có xung khắc, ta loại trừ đi một người bạn, thì có lẽ cuối cùng ta sẽ chẳng còn người bạn nào. Người ta không thể sống một mình. Mỗi người đều cần đến người khác. Sống chung với nhau là một nhu cầu. Vì thế, việc tha thứ, hoà giải là vô cùng cần thiết. Hoà giải hệ tại ở hai động tác: xin lỗi và tha lỗi. Hai việc đều khó làm. Vì con người đầy tự ái. Dù biết mình lỡ lầm, nhưng ít có ai đủ can đảm nhận lỗi và xin lỗi. Xin lỗi đã khó, tha lỗi còn khó hơn. Chính vì thế, việc hoà giải cần rất nhiều ơn Chúa Thánh Thần, ở đây, ta phải nhìn vào Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô như tấm gương sáng chói. Người là tấm gương sáng về sự ra đi. Cuộc đời Người là một cuộc ra đi không biết mệt mỏi. Dù tuổi cao sức yếu, nhưng Người vẫn lên đường đi đến với mọi dân tộc, mọi đất nước. Người tiếp xúc với tất cả mọi người không phân biệt tôn giáo, chính kiến, mầu da, chủng tộc, ngôn ngữ. Người đi đến với cả những kẻ chống đối, bất hoà và thù nghịch với Người. Để chuẩn bị đón mừng Năm Thánh, Người đã làm một cử chỉ ngoạn mục chưa từng có trong lịch sử Giáo Hội. Đó là Người công khai nhìn nhận những lỗi lầm của Giáo Hội để xin mọi người tha thứ. Đây quả là một hoạt động của Chúa Thánh Thần để thanh tẩy Giáo Hội. Đức Thánh Cha đã được ơn Chúa Thánh Thần nên đã ra đi làm hoà với mọi người. Chính cử chỉ khiêm nhường ấy đã giúp đổi mới Giáo Hội, đem đến cho Giáo Hội một khuôn mặt mới trẻ trung hơn, một sức sống mới dồi dào hơn, một phong cách hiện diện mới dễ thương dễ mến hơn.
Ta hãy biết noi gương Đức Thánh Cha. Hãy biết ra đi, không chỉ là đi hành hương viếng nhà thờ để lãnh ơn toàn xá, nhưng còn là ra đi đến với những người bé nhỏ, nghèo hèn, những người bị bỏ rơi, những người kém may mắn ở đời, những người ta không ưa thích, những người chống đối ta, cả những người làm hại ta nữa. Nhất là hãy gieo rắc sự tha thứ. Tha thứ cho anh em để anh em cũng tha thứ cho ta, để chúng ta xứng đáng trở thành con Thiên Chúa. Đức Chúa Thánh Thần muốn đổi mới Giáo Hội. Nhưng việc đổi mới phải bắt đầu từ mỗi tâm hồn. Đức Chúa Thánh Thần sẽ canh tân bộ mặt thế giới, nhưng việc canh tân phải khởi đi từ mỗi con người. Ta hãy mở rộng tâm hồn đón nhân ơn Chúa Thánh Thần và hăng hái cộng tác với chương trình của Người.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đổi mới tâm hồn con.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Đức Chúa Thánh Thần mời gọi bạn ra đi đến với người khác. Bạn có thường đi thăm viếng những người nghèo hèn, nhất là những người bạn không có cảm tình không?
2- Bạn có muốn tha thứ, làm hoà với người khác không? Bạn đã có cố gắng nào để làm hoà trong Năm Thánh?
3- Bạn nghĩ gì về việc Đức Thánh Cha xin lỗi?
4- Bạn có sẵn sàng để Đức Chúa Thánh Thần biến đổi bạn không?
9. Đấng đổi mới--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
ĐỨC CHÚA THÁNH THẦN, ĐẤNG ĐỔI MỚI
(Cv 2,1-11)
Qua bài trích sách Công Vụ Tông Đồ, ta thấy Đức Chúa Thánh Thần là Đấng đổi mới.
Ngài đã đổi mới trí khôn các Tông đồ. Các Tông đồ là những người làm nghề chài lưới, ít học. Suốt 3 năm ở bên cạnh Chúa Giêsu, các ngài đã được Chúa dạy dỗ nhiều điều. Nhưng các ngài không hiểu. Nhưng sau khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, trí khôn các ngài như được mở ra. Không những các ngài hiểu biết về Chúa, hiểu biết giáo lý của Chúa, mà còn có thể đi giảng dạy cho người khác nữa. Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Ngài đã biến những con người thất học nên hiểu biết. Ngài đã đổi những tâm trí u mê thành sáng suốt.
Ngài đã đổi mới ý chí các Tông đồ. Từ khi Chúa Giêsu bị bắt và bị kết án, các Tông đồ sống trong sợ hãi. Các ngài đã trốn chạy. Các ngài đã chối Chúa. Các ngài đã ẩn nấp trong nhà đóng kín cửa. Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, con người các ngài hoàn toàn thay đổi. Các ngài mở tung cửa ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người. Bị đe doạ, các ngài vẫn không sợ. Bị đánh đòn, các ngài vẫn kiên cường. Không gì có thể ngăn cản các ngài rao giảng, làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh. Sau cùng tất cả các ngài đã chịu đổ máu, hiến mạng sống mình để làm chứng cho Chúa, ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Ngài đã biến những con người yếu đuối nên vững mạnh. Ngài đã biến những con người nhút nhát nên can đảm.
Ngài đã đổi mới trái tim các Tông đồ. Trước kia các ngài còn mang nặng những ước mơ trần tục. Theo Chúa để mong được chức trọng quyền cao. Mong được ngồi bên tả bên hữu Chúa. Tranh dành nhau chỗ cao chỗ thấp. Có thể nói, trước kia các ngài theo Chúa vì bản thân, vì chính các ngài. Các ngài chưa yêu mến Chúa bằng yêu mến bản thân. Nhưng từ khi được ơn Chúa Thánh Thần, trái tim của các ngài đã hoàn toàn thay đổi. Từ nay các ngài dành trọn trái tim cho Chúa, yêu mến đến sẵn sàng chịu mọi đau khổ, và nhất là sẵn sàng chết vì Chúa. Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Đã biến đổi những trái tim chai đá thành những tái tim bằng thịt. Đã biến đổi những trái tim ích kỷ thành trái tim yêu thương.
Đời sống ta có quá nhiều yếu đuối. Trí khôn ta u mê không hiểu Lời Chúa, không nhận biết thánh ý Chúa. Ý chí ta bạc nhược không đủ sức làm việc lành, hèn nhát không dám làm chứng cho Chúa. Trái tim ta nhơ uế vì những ích kỷ nhỏ nhen, vì những ham muốn trần tục. Hôm nay ta hãy tha thiết xin ơn Chúa Thánh Thần đến đổi mới con người xưa cũ của ta. Để ta thấu hiểu Lời Chúa, thấu hiểu thánh ý Chúa muốn trong đời. Để ta mạnh mẽ can đảm làm chứng cho Chúa trong đời sống và để trái tim ta được thanh luyện luôn quảng đại cho đi, dâng hiến.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Đức Chúa Thánh Thần đã đổi mới các thánh Tông đồ như thế nào?
2. Trong tôi còn những gì xưa cũ cần đổi mới?
3. Ai cũng có nhu cầu đổi mới nhà cửa, đời sống vật chất. Bạn có thấy nhu cầu đổi mới tâm hồn không?
10. Chúa Thánh Thần--Sự Sống mới--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Trong Kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng: Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Đấng Ban Sự Sống. Tin Mừng hôm nay thuật lại: Chúa Giêsu thổi hơi vào các môn đệ và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Cử chỉ này nhắc ta nhớ lại việc Thiên Chúa tạo dựng con người. Sách Sáng thế 2,7 tường thuật: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật”. Hơi thở là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là sự sống. Không phải là một sự sống bình thường như sự sống của các sinh vật khác. Đây là sự sống của Thiên Chúa với tất cả những chiều kích cao sâu phong phú của nó. Trong khuôn khổ Lời Chúa hôm nay ta có thể thấy sự phong phú của sự sống Chúa Thánh Thần.
Đó là sự sống thiêng liêng. Sự sống là tất cả. Nên sự sống là món quà quí nhất Thiên Chúa tặng ban cho con người. Không có sự sống là không có gì hết. Còn hơn thế nữa. Chúa ban cho ta sự sống của chính Thiên Chúa. Cho ta giống hình ảnh cao đẹp của Chúa. Cho ta được chung hưởng sự sống hạnh phúc với Chúa.
Đó là cuộc sống trong bình an. Tổ chức Y tế Thế giới đã đưa ra một định nghĩa mới về sức khoẻ. Khoẻ mạnh không phải chỉ là không có bệnh tật gì mà còn phải là cuộc sống bình an. Chúa Thánh Thần là sự sống bình an. Nên các môn đệ đang lo âu sợ hãi bỗng trở nên mạnh mẽ, can đảm. Dù cuộc sống còn nhiều khó khăn. Nhưng các ngài vẫn vui tươi và bình an.
Đó là cuộc sống hiệp thông. Con người không sống đơn độc, nhưng sống với người khác. Cuộc sống xã hội làm con người nên phong phú. Nhưng cuộc sống xã hội chỉ phát triển trong sự hiệp thông. Đó chính là ơn Chúa Thánh Thần. Ngày Lễ Ngũ Tuần, thế giới tràn ngập ơn hiệp thông. Nên người muôn dân muôn nước, dù khác biệt màu da, chủng tộc, ngôn ngữ vẫn hiểu biết và sống chan hoà. Sách Công vụ Tông đồ đề cập đến người thuộc 17 địa phương khác nhau. Ta nghĩ đến 70 lần 7. Con số vô vàn vô số chủng tộc có thể sống với nhau trong tình hiệp thông chan hoà.
Đó là cuộc sống yêu thương. Chúa Thánh Thần là tình yêu muôn đời giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Là tình yêu nguyên thuỷ. Là tình yêu của mọi tình yêu. Giáo hội sơ khai được ơn Chúa Thánh Thần nên sống với nhau trong tình yêu thương. Mọi người đối xử với nhau như anh em ruột thịt. Bỏ của cải làm của chung. Nên không ai bị thiếu thốn.
Đó là cuộc sống hài hoà. Thánh Phaolô diễn tả cuộc sống theo ơn Chúa Thánh Thần khiến xã hội trở nên hài hòa như trong một thân thể. Mỗi người làm việc riêng theo chức năng của mình. Nhưng hài hoà với mọi người, như các chi thể trong một thân thể. Mỗi chi thể làm việc riêng nhưng đều hướng về lợi ích của toàn thân. Ta hãy xem một cầu thủ đá bóng. Khi thấy bóng, mắt phải quan sát. Trí óc phải phán đoán. Chân tay phải chuyển động. Và cả mắt nhìn, cả trí phán đoán, cả chân tay chuyển động là làm sao đưa bóng đến mục đích. Như thế mọi thành phần trong cơ thể đều kết hợp hài hoà để đạt được ích lợi chung.
Nhìn vào tình hình thế giới hôm nay, ta thấy cuộc sống do Thiên Chúa tạo dựng đang bị phá vỡ. Lực lượng sự dữ tàn phá hình ảnh Thiên Chúa nơi con người; xúi giục con người sống theo thú tính; khiến khuôn mặt con người trở nên méo mó; đánh mất vẻ đẹp của hình ảnh Thiên Chúa; tàn phá lương tâm khiến con người không còn phân biệt thiện ác; tàn phá thiên nhiên khiến thế giới trở nên khó sống. Thiên nhiên nổi giận. Khí hậu biến đổi đang tác hại đến sự sống của con người. Tệ hại hơn nữa, lực lượng sự dữ tàn phá chính sự sống. Và tồi tệ nhất là con người huỷ diệt chính sự sống khi giết hại thai nhi là chính con người, chính con cái của mình. Sự xấu làm cho cuộc sống mất bình an. Con người phải sống trong lo sợ. Sợ bị mất mạng. Sợ bị mất tiền của. Sợ bị mất danh dự. Sợ bị mất tự do. Sợ hãi làm cho con người sống mà như đang chết đi. Sự xấu làm mất tình hiệp thông. Người trong một nước nói cùng ngôn ngữ mà không hiểu nhau. Người trong một gia đình trở nên xa lạ vì mỗi người đều nghĩ đến quyền lợi riêng. Cuộc sống thiếu tình yêu thương. Đang có những tình anh em kiểu Cain và Abel. Rủ nhau ra đồng để giết hại nhau. Tình đồng chí kiểu môi hở răng lạnh. Nhưng răng cắn môi đau. Và cuộc sống thiếu sự hài hoà; khiến cho các tập thể trở nên rời rạc. Vì mỗi người không nhìn đến lợi ích chung của toàn thân. Chỉ biết vun quén cho riêng mình.
Chính trong tình hình này, ta cần ơn Chúa Thánh Thần hơn bao giờ hết. Chỉ có Chúa Thánh Thần Đấng Ban Sự Sống mới có thể thay đổi, phục hồi và phát triển sự sống cho thế giới. Vì thế, ta phải tha thiết kêu van xin Chúa Thánh Thần ngự đến.
Lạy Đấng Ban Sự Sống xin hãy đến. Xin hãy thổi hơi thần linh để con người được có lại sự sống của Thiên Chúa.
Lạy Đấng Bảo Trợ xin hãy đến. Chúa là nguồn mạch bình an. Xin hãy ban bình an cho chúng con.
Lạy Nguồn Ơn Hiệp Thông xin hãy đến. Ngài là sự hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Xin hãy ban ơn hiệp thông để thế giới ngày càng gần gũi hiểu biết nhau hơn chí người trong cùng một nhà mà cũng như xa lạ, không thể hiểu nhau.
Lạy Thánh Thần Tình Yêu xin hãy đến. Ngài là tình yêu của mọi tình yêu. Là tình yêu nguyên thủy giữa Chúa Cha và Chúa Con. Xin cho chúng con sống với nhau trong tình bác ái huynh đệ chân thực.
Lạy Thánh Thần Hài Hoà xin hãy đến. Ngài làm cho tất cả “dầu là Dothái hay Hylạp, nô lệ hay tự do, nếu đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí đều trở nên một thân thể”. Và mọi chi thể trong thân thể đều kết hợp hài hoà nhịp nhàng ăn khớp để hoạt động vì cùng một mục đích là ích lợi cho toàn thân.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến và đổi mới mặt đất này. Nhưng mặt đất này do con người tàn phá. Nên xin hãy đổi mới tâm hồn con người. Xin đổi mới mọi sự trong ngoài chúng con. Để chúng con nên con người mới, xây dựng một thế giới mới chan hoà sự sống, chan hoà bình an, chan hoà tình yêu thương.
Lạy Mẹ Maria, xưa kia Mẹ đã cùng với các Tông đồ trong nhà Tiệc Ly cầu nguyện xin Chúa Thánh thần ngự đến; nay xin Mẹ cũng tiếp tục cầu nguyện để chúng con được đón nhận Chúa Thánh Thần.
11. "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần..."--GM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Trong những năm gần đây phong trào canh tân đoàn sủng phát triển mạnh trong Giáo Hội Tin Lành và trong giáo Hội Công Giáo, có người gọi đó là mùa xuân của Giáo Hội đang là sức sống mới. Nhưng cũng có ngừơi đang nhìn phong trào này với thái độ cảnh giác. Họ sợ rằng nó sẽ đi xa đường lối của Giáo Hội. Tôi không có ý phân tích phê phán, nhưng theo tôi phong trào có một điểm mà chúng ta có thể ghi nhận. Phong trào giúp cho ta ý thức hơn về vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời Kitô Hữu. Một vai trò mà nhiều khi chúng ta lãng quên. Có lẽ phần nào nó cũng giống như một nhà khoa học ở trong phòng thí nghiệm. Ông ra sức nghiên cứu về không khí như là một vật thể và mô tả không khí bằng những công thức khoa học có vẻ phức tạp mà ông quên rằng từng giây từng phút mình đang được ngủ lặng trong không khí mà đôi khi mình quên hít thở. Cho nên sự sống thân xác của mình mỗi lúc mỗi tàn tạ.
Tôi xin lấy một hình tượng quen thuộc trong Kinh Thánh để diễn tả về Chúa Thánh Thần. Thánh Luca mô tả: Vào ngày lễ ngũ tuần các môn đệ tề tựu cầu nguyện. Khi ấy có những lưỡi như lưỡi lửa rải rác đậu xuống trên mỗi người. Lửa là hình tượng Kinh Thánh dùng để diễn tả về Chúa Thánh Thần trong chúng ta.
Hôm nay tôi xin nhắc lại và đào sâu hơn hình tượng Thánh Gioan Thánh Giá sử dụng. Ngài là người có kinh nghiệm thần bí sâu sắc đồng thời là một nhà thơ cho nên ngài đã vận dụng ngôn ngữ thi ca để diễn tả kinh nghiệm thần bí đó. Đó là hình ảnh của lửa, của củi.
Chúng ta thử tưởng tượng cảnh mùa đông băng giá ở Châu Âu, ngoài vườn có một khúc củi nằm cô đơn giữa tiết trời băng giá. Cái lạnh làm cho làn da của nó xần xùi, xấu xí. Thế rồi nó được ông chủ nhà đem vào quăng vào lò sưởi. Hơi nóng làm khúc củi cảm thấy ấm áp, hạnh phúc. Nó cảm nhận được đầy sự an ủi không tả được.
Nhưng tiếc rằng sự sung sướng kéo dài chẳng được bao lâu. Trong khỏanh khắc ngọn lửa ôm chặt lấy nó. Sức nóng của lửa nung nấu khiến cho nhựa cây rỉ ra bên ngoài làm thành một lớp da sần sùi như da cóc. Nó tỏa ra một mùi thật khó chịu. Khúc củi quằn quại trong than hồng một thời gian. Cuối cùng nó trở nên một với lửa. Nó không còn là củi mà chỉ là lửa. Lửa đem ánh sáng, lửa đem hơi ấm cho những người trong phòng.
Gioan Thánh Giá dùng hình ảnh tuyệt vời ấy để diễn tả về tác động của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta. Hình ảnh ấy giúp chúng ta thấy được đâu là cùng đích của đời sống trong Thánh Thần. Cái cùng đích ấy là Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta được nên một với Thiên Chúa. Như Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu nói: "Ta trở thành một giọt nước hoà trong đại dương". Sự nên một ấy chỉ trở thành trong đời sống vĩnh cữu cho những người mà Chúa ban cho kinh nghiệm thần bí, những người cảm nghiệm được sự nên một hồng phúc với Thiên Chúa.
Chúng ta chưa có được kinh nghiệm huyền bí đó. Nhưng tôi nghĩ: Nếu chúng ta thực hiện đúng những bí tích mà Giáo Hội cử hành là chúng ta đã đi đúng mục đích của Giáo Hội, dẫn ta đến chỗ nên một với Thiên Chúa. Khi ta rước mình Thánh Chúa và để Máu Thánh Chúa hoà vào máu thịt ta để ta nên một với Ngài.
Sự nên một xét trên một bình diện mà người ta gọi là hữu thể học đó hoàn toàn có thật nhưng không ai thấy được. Sự nên một ấy phải diễn tả qua cuộc sống bên ngoài theo kiểu nói của thánh Phaolô. "Anh em hãy mang trong anh em những tâm tư như đã có trong Chúa Giêu Kitô". Cho nên khi nào chúng ta nên một với Chúa thật thì ta sẽ suy nghĩ như Chúa Giêsu, phản ứng như Chúa Giêsu, cảm xúc, yêu thương như Chúa Giêsu. Đấy là dấu chỉ cụ thể. Đấy là cùng đích.
Nhưng để đạt được tới cùng đích nên một trong Thiên Chúa ấy thì chúng ta phải trải qua một hành trình thanh tẩy của Thánh Thần. Hành trình này khởi đầu bằng một niềm an ủi ngọt ngào. Có một số kinh nghiệm nói lên điều ấy. Có anh chị em dự tòng nói với tôi: "Thưa Cha, con xin gì Đức Mẹ cũng cho con hết". Những tu sinh hoặc những nữ tu mới chập chững bước vào đời sống tận hiến: "Thưa Cha, con cảm thấy hạnh phúc vô cùng.". Những lúc ấy ai cũng ca ngợi Chúa, cảm thấy rất ư là dễ thương. Chúa yêu ta vô cùng.
Thưa anh chị em. Đấy chỉ là giai đoạn đầu. Sớm hay muộn gì chúng ta cũng được Chúa Thánh Thần dẫn vào giai đoạn thanh tẩy, giai đoạn đau đớn, giai đoạn này sẽ giúp chúng ta trưởng thành hơn. Vì nó đau đớn cho nên ta không muốn bước vào, không dễ chấp nhận.
Tôi nghĩ có hai lý do chính và cũng là hai giai đoạn chính.
Lý do thứ nhất: Thánh Thần giúp chúng ta chấp nhận con người thật của mình. Có lẽ nhiều người sẽ ngỡ ngàng khi nghe thế. Chúa Giêsu nói: "Hãy yêu tha nhân như chính mình." Nếu tôi không yêu chính mình thì tôi không thể yêu người khác được. Yêu chính mình là chấp nhận con người thật của mình. Chấp nhận hình hài mà Chúa đã ban cho mình. Anh chị em thử kiểm nghiệm lại đời sống của mình xem. Đã biết bao lần ta mơ ước những điều mà chúng ta không có. Ví dụ: Phải chi Chúa ban cho mình sóng mũi cao hơn tí nữa thì đẹp biết bao. Hay phải chi da mình được trắng như bạn mình nhỉ... Những mơ ước ấy biều lộ điều chúng ta không chấp nhận chính mình.
Những suy nghĩ ấy làm cho ta tự mình dằn vặt mình. Tự mình hành hạ mình, tự gây đau khổ cho mình bằng những tự ti mặc cảm. Phải đau đớn lắm, phải tự đấu tranh mới chấp nhận chính con người thật của mình. Chúng ta hãy kêu xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta thực hiện để chúng ta tự nhủ rằng: Dù tôi thế nào đi nữa Chúa vẫn yêu tôi. Chúa tạo dựng tôi cho Chúa. Cảm nhận được như thế sẽ làm cho ta thấy bình an hạnh phúc hơn.
Lý do thứ hai: Chấp nhận được chính mình rồi thì đến giai đoạn hai của sự thanh tẩy. Đi từ chỗ "tôi đang là" đến chỗ "tôi được mời gọi để trở thành..." Ở đây đòi hỏi sự bỏ mình. Cuộc sống Thánh Augustinô là một điển hình. Lúc trẻ ông xa vào con đường ăn chơi, mê đắm trên con đường tình dục, biết là sai nhưng ông vẫn biện minh cho mình, không nhìn nhận sự thật của chính mình, ông bảo: "Sở dĩ tôi bê bối thế vì ông thần ác ở trong hoành hành". Nhờ tác động của Chúa Thánh Thần Thánh Augutinô mới đủ can đảm nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi. Từ đấy ông đã bước vào giai đoạn hai. Ông trở thành một người sống như Chúa Giêsu, yêu thương, phục vụ, suy nghĩ như Giêsu. Một con người trong Chúa Thánh Thần.
Chúng ta phải trở thành cái mà Chúa mời gọi chúng ta. Đó là gì? Thưa là mỗi ngày tôi trở thành người hơn. Cho dù tôi sống bậc gia đình hay tu sĩ, cho dù tôi hành động gì nhưng vẫn hàm ẩn tất cả bên trong là cái tính người, là tính Kitô Hữu. Và hành trình đó đòi chúng ta phải tự bỏ mình mỗi ngày. Công việc ấy rất khó, một mình ta không thể làm được mà phải có tác động của Chúa Thánh Thần. Hãy cầu nguyện với Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần sống như không khí tràn ngập vũ trụ, vấn đề là tôi có hít thở không? Chúa Thánh Thần như dòng suối tràn lan mọi nơi. Vấn đề là tôi có múc mà uống không? Chúa Thánh Thần là ngọn lửa hừng hực, vấn đề là tôi có nhóm lên hay không? Cho nên cầu nguyện là tự tạo cho mình một nội tâm thích hợp. Mở lòng ra cho gió ùa vào, làm rỗng chính mình cho dòng nước chảy vào, và nhóm ngọn lửa lên cho đời mình.
Nếu chúng ta chấp nhận trở về với chính mình trong thinh lặng, nhìn lại đời mình, ta có thể khám phá ra những gì mà Lời Chúa hướng dẫn chúng ta hôm nay.
Tôi xin kết thúc suy niệm này bằng tâm tình của Thánh Augustinô. "Lạy Chúa là vẻ đẹp ngàn đời, vẻ đẹp cổ xưa nhưng vẫn luôn luôn mới mẻ. Con đã chạy tìm những cái đẹp bên ngoài vốn chỉ là phản ánh èo uột của vẻ đẹp vĩnh hằng. Chúa là vẻ đẹp vĩnh hằng ở trong con thì con lại không kiếm tìm. Vì thế, xin Chúa cho con biết trở về với chính lòng mình mỗi ngày, để ở đó con gặp được Chúa, hít thở Chúa. Con đón nhận dòng nước ân sủng và lòng con được đốt cháy ngọn lửa Thánh Thần. Amen.
12. Thánh Thần tình yêu--Lm Giuse Phạm Thanh Liêm
Mùa Phục sinh kết thúc với Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Chúa Nhật sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là lễ Chúa Ba Ngôi, và Chúa Nhật sau lễ Chúa Ba Ngôi là lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu.
Các con hãy nhận lấy Thánh Thần
Buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu Phục Sinh đã hiện ra cho các tông đồ. Ngài thổi hơi trên các ông và bảo: “các con hãy nhận lãnh Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì người ấy được tha”.
Trong ca tiếp liên: “Nếu không có Chúa trợ phù, trong con người chẳng còn chi thanh khiết, không còn chi vô tội. Xin Chúa rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, và chữa lành nơi thương tích”. Trong lời tha tội của bí tích xá giải, linh mục đọc: “Thiên Chúa là Cha nhân từ hay thương xót, Chúa đã dùng cái chết và sống lại của Con Chúa để giao hoà thế gian với Chúa, và đã ban Thánh Thần để tha tội…”
Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hoá, Đấng làm cho con người được giao hoà với Thiên Chúa, Đấng tha tội cho con người, Đấng làm cho con người trở thành con Thiên Chúa.
Thánh Thần - Đấng trợ phù
“Không ai có thể nói ‘Đức Giêsu là Chúa’ mà không nhờ bởi Thánh Thần”. Thánh Thần giúp con người tin vào Đức Giêsu. Không có ơn của Chúa Thánh Thần, không ai có thể tin vào Đức Giêsu được.
Có nhiều ân sủng, có nhiều đặc sủng, nhưng chỉ do một Thánh Thần. Thánh Thần ban cho người này ơn tiên tri, ban cho người kia ơn thông hiểu, ban cho người khác ơn lãnh đạo,… Có nhiều chức vụ, nhiều đặc sủng, nhưng tất cả đều do bởi một Thánh Thần. Cũng chính Thánh Thần liên kết chúng ta nên một, dù chúng ta thuộc thành phần nào, dân tộc nào, chúng ta vẫn làm nên một thân thể trong Đức Giêsu, cũng nhờ chỉ một Thánh Thần. Thánh Thần làm cho con người hiểu nhau, thông cảm lẫn nhau, thương yêu nhau, giúp đỡ lẫn nhau.
Thánh Thần giúp chúng ta cầu nguyện, giúp chúng ta sống đẹp lòng Chúa, làm chúng ta trở nên con người mới. Thánh Thần là Đấng làm mới tất cả.
Thánh Thần là Thiên Chúa
Nhờ Đức Giêsu phục sinh, và các tông đồ nhớ lại những gì Đức Giêsu đã nói với các ngài khi Đức Giêsu còn sống đời dương thế, các tông đồ “với ơn của Thánh Thần” đã nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa, và sau đó Thánh Thần là Thiên Chúa.
Thánh Thần có cùng nguồn gốc nơi Thiên Chúa, Ngài ở nơi Thiên Chúa “Khi Đấng bảo trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha” (Ga.15, 26), được Cha và Đức Giêsu sai gởi “Nhưng Đấng bảo trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga.14, 26).
Sứ mạng của Thánh Thần là ở với con người: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em Đấng bảo trợ khác, đến ở với anh em luôn mãi” (Ga.14, 16), dạy con người mọi sự (Ga.14, 26), làm chứng cho Đức Giêsu (Ga.15, 26), dẫn con người tới sự thật trọn vẹn (Ga.16, 13).
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Bạn có cảm nghiệm Thánh Thần luôn ở với bạn, và gần gũi với bạn không?
2. Thánh Thần có thể làm bạn trở thành “con người mới”. Bạn hiểu “con người mới”, là người như thế nào?
3. Lời kinh nào về Chúa Thánh Thần mà bạn thích nhất?
13. Thánh Thần Thiên Chúa--Lm Giuse Phạm Thanh Liêm SJ.
Đức Giêsu đã thổi hơi ban Thánh Thần cho các môn đệ khi Ngài từ cõi chết phục sinh: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga.20, 22-23). Khi Đức Giêsu còn ở dương thế, Ngài đã xin Thiên Chúa Cha để Cha ban Thánh Thần cho các môn đệ (Ga.14, 16); và khi Ngài sống lại từ cõi chết, Ngài đã ban Thánh Thần như Ngài đã hứa trước (Ga.15, 26). Khi tại dương thế, Ngài sống thân phận con người, nên Ngài tùy thuộc tất cả nơi Thiên Chúa. Trong mọi chuyện, Ngài phải xin Thiên Chúa. Ngài tùy thuộc ý Thiên Chúa như con người cần của ăn: “của ăn của thầy là làm theo ý Đấng đã sai thầy” (Ga.4, 34).
Đức Giêsu tùy thuộc Thiên Chúa trong mọi chuyện, đến độ “tất cả những gì con có đều là của Cha, tất cả những gì Cha có đều là của con” (Ga.17, 10). “Ta và Cha là một” (Ga.10, 30). Đức Giêsu đã đồng nhất với Thiên Chúa trong tất cả, nhưng Ngài vẫn là Ngài, khác với Cha. Ngài vẫn cầu nguyện (Mc.1, 35), vẫn luôn tìm ý Thiên Chúa Cha trong mọi lúc, đặc biệt nơi vườn dầu (Lc.22, 42), có lúc Ngài cũng có cảm tưởng Thiên Chúa bỏ rơi Ngài (Mc.15, 34) nhưng Ngài vẫn hoàn toàn phó thác tất cả cho Thiên Chúa (Lc.23, 46). Ngài tùy thuộc Thiên Chúa đến độ Ngài không còn là Ngài nữa, mà là Thiên Chúa hiện diện nơi Ngài (Ga.14, 10-11). Ngài tùy thuộc Thiên Chúa đến độ có thể nói Ngài là Thiên Chúa: “Ông là người mà dám cho mình là Thiên Chúa” (Ga.10, 33).
Thánh Thần cũng tùy thuộc Thiên Chúa Cha, và là Đấng được sai bởi Thiên Chúa Cha (Ga.14, 16). Thánh Thần cũng được chính Đức Giêsu Phục Sinh ban tặng cho các tông đồ (Ga.20, 22). Thánh Thần sẽ nhận lấy những gì của Đức Giêsu mà loan báo cho các tông đồ, vì tất cả những gì Đức Giêsu có đều là của Cha (Ga.16, 13-15). Nơi Thánh Thần cùng Đức Giêsu Phục Sinh và Thiên Chúa Cha, tất cả đều là chung; tuy nhiên vẫn phân biệt Cha, Đức Giêsu Phục Sinh, và Thánh Thần. Đức Giêsu nói với Philíp: “anh không tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy sao?” (Ga.14, 9-10). Đức Giêsu và Thiên Chúa Cha tuy là một nhưng vẫn là hai, là Thiên Chúa Cha và là Đức Giêsu. Thiên Chúa Cha, Đức Giêsu Phục Sinh, và Thánh Thần tuy là ba nhưng vẫn là một trong mọi sự. Thánh Thần tùy thuộc Thiên Chúa Cha và Đức Giêsu Phục Sinh, đến độ có thể nói Thánh Thần là Thiên Chúa.
Khi dùng cụm từ “đến độ có thể nói,” có thể làm cho người ta hiểu rằng Đức Giêsu Phục Sinh và Thánh Thần khác và kém Thiên Chúa Cha, nhưng thực ra không muốn nói như vậy. Cả ba là một trong tất cả, nên không có vấn đề hơn kém nhau ở đây. Thiên Chúa chỉ là một; không có Con thì không có Cha; có Con có Cha thì có Thánh Thần Tình Yêu.
Thánh Thần đã được ban cho con người, để ở mãi với con người (Ga.14, 16). Thánh Thần sẽ dạy con người những gì cần thiết (Ga.14, 26), Ngài sẽ giúp các môn đệ làm chứng cho Đức Giêsu, và chính Ngài cũng làm chứng cho Đức Giêsu Phục Sinh qua những con người (Ga.15, 26). Thánh Thần dẫn con người vào sự thật trọn vẹn (Ga.16, 13). Không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, mà không nhờ bởi Thánh Thần (1Cor.12, 3). Mười tông đồ và các chị phụ nữ loan báo tin mừng phục sinh cho một tông đồ Thomas trong suốt cả một tuần nhưng vẫn không thành công (Ga.20, 24-25) nhưng với ơn của Thánh Thần, các tông đồ đã được biến đổi, các tông đồ đã làm được những điều kỳ diệu.
Thánh Thần biến đổi con người. Là những người ít học, nhát đảm sợ sệt nhưng khi Thánh Thần tỏ hiện quyền năng trong ngày lễ Ngũ Tuần, các tông đồ đã can đảm đứng ra rao giảng làm chứng cho Đức Giêsu Phục Sinh. Chính Thánh Thần đã quy tụ dân chúng lại để cho các tông đồ rao giảng (Cv.2, 5-6), cũng chính Thánh Thần làm cho những người nghe được hiểu và tin nhận lời rao giảng của các tông đồ, giúp họ tin vào Đức Giêsu, và cho họ chịu phép rửa (Cv.2, 37.41). Điều con người không làm được, thì Thánh Thần đã làm một cách tuyệt vời (Ga.14, 12).
Trong suốt dòng lịch sử, Thánh Thần vẫn đã và đang tiếp tục làm những điều kỳ diệu. Bao nhiêu người đã tin vào lời rao giảng của các tông đồ và của những người tin vào Đức Giêsu Phục Sinh. Bị bách hại, các tông đồ và các Kitô hữu tiên khởi đã không hề sợ hãi, sẵn sàng bỏ nhà cửa tài sản để sống niềm tin vào Chúa Phục Sinh. Chính đời sống tự do, hân hoan, và tràn đầy niềm tin sức sống của họ đã trở thành lời rao giảng và là bằng chứng của Chúa Phục Sinh và Thánh Thần của Người, đã làm nhiều người tin vào Đức Giêsu Phục Sinh. Chính Thánh Thần đã làm tất cả những điều này trong dòng lịch sử.
Trong dòng lịch sử, bao nhiêu giáo đoàn của những nơi xa lạ đã được các nhà truyền giáo tới rao giảng. Những nhà truyền giáo là những người của Thánh Thần. Họ sẵn sàng bỏ tất cả để sống theo tác động của Thánh Thần. Họ bỏ cha mẹ, anh chị em họ hàng, bao nhiêu ước vọng của tuổi trẻ, để trở thành tình yêu của Thiên Chúa nơi đất khách quê người, nơi những dân tộc xa lạ. Chính Thánh Thần vẫn tiếp tục làm lời rao giảng của họ được tiếp nhận cho dù họ rao giảng với những giới hạn của ngôn ngữ nơi địa phương xa lạ. Và rồi với những bách hại do hiểu lầm, do những thế lực ác, Thánh Thần vẫn làm các nhà truyền giáo trung kiên sống giữa môi trường nguy hiểm đó, vẫn làm các ngài coi nhẹ cái chết để loan báo Tin Mừng, vẫn làm những tín hữu tiên khởi dám hy sinh mạng sống để trung thành với Thiên Chúa, giữ vững đức tin.
Ngày nay, Thánh Thần vẫn đang hoạt động trong lòng mỗi người, nơi những người sống đời dâng hiến cũng như những người đang sống trong những môi trường khác nhau. Để trở thành những người con ngoan của Thiên Chúa, con người vẫn cần Chúa Thánh Thần một cách đặc biệt, để sống trung thành và yêu mến, cả trong môi trường tu viện và trong môi trường đời. Thánh Thần vẫn đang hiện diện nơi những môi trường bị sự dữ thống trị, để đánh động, để nâng đỡ những người khốn khổ đang quằn quại dưới ách sự ác, để làm bao người tội lỗi ăn năn sám hối trở lại với Thiên Chúa, sống theo đường ngay nẻo chính. Thánh Thần quả là Đấng tuyệt vời, đang ở gần gũi mỗi người, để dạy dỗ, hướng dẫn, thêm sức, và giúp con người tự do hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có kinh nghiệm “bất lực” và cần Thiên Chúa giúp bạn làm điều tốt không?
2. Bạn có ý thức và cầu nguyện với Chúa Thánh Thần không? Theo kinh nghiệm của bạn, Thánh Thần là ai? Ngài có chỗ trong đời bạn không? Xin chia sẻ kinh nghiệm.
14. Chúa Thánh Thần là nguyên lý hợp nhất--Lm Carôlô Hồ Bặc Xái
I. Dẫn vào Thánh lễ
Lễ Hiện xuống hôm nay kết thúc mùa Phục sinh. Chúng ta hãy nhìn lại những bước mà Phụng vụ đã dẫn chúng ta đi qua: Ðức Giêsu đã nhập thế sống với loài người, Ngài đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng, rồi Ngài chịu nạn chịu chết, nhưng Ngài đã sống lại và lên trời. Hôm nay Ngài sai Chúa Thánh Thần đến để thánh hóa loài người. Như thế, Chúa Thánh Thần là Ðấng hoàn tất chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Dâng Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa tuôn đổ đầy tràn Thánh Thần xuống trên chúng ta, để chúng ta hoàn thành sứ mạng cứu độ bản thân chúng ta và mọi người.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta có lỗi vì ít nghĩ đến Chúa Thánh Thần là Ðấng Thiên Chúa đã ban để hỗ trợ chúng ta.
Chúng ta thường làm việc theo suy nghĩ riêng chứ không theo sự soi sáng hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần muốn mọi người hiệp nhất với nhau, nhưng chúng ta thường chia rẽ.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I: Cv 2,1-11
Tường thuật việc Chúa Thánh Thần hiện xuống hôm lễ Ngũ Tuần.
Vâng theo lời căn dặn của Ðức Giêsu phục sinh, các tông đồ tụ họp trong nhà Tiệc Ly để chờ đón nhận điều Ngài đã hứa.
Sáng ngày lễ Ngũ tuần, Ðức Giêsu thực hiện lời hứa ấy: Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa. Lưỡi tượng trưng cho lời nói. Lửa tượng trưng tình yêu và lòng nhiệt thành. Nhờ Chúa Thánh Thần, các tông đồ đã nhiệt thành rao giảng Tin Mừng, làm chứng cho Ðức Giêsu.
2. Ðáp ca: Tv 103
Tv này ca tụng những việc kỳ diệu mà Thiên Chúa đã làm do "sinh khí" của Ngài, tức là do Chúa Thánh Thần.
3. Bài đọc II: 1 Cr 12,3b-7.12-13
Thánh Phaolô kêu gọi tín hữu đoàn kết hiệp nhất nhau trong Chúa Thánh Thần:
Trong Giáo Hội sơ khai, Chúa Thánh Thần ban nhiều đặc sủng khác nhau cho các tín hữu. Nhưng mọi đặc sủng đều nhằm phục vụ lợi ích chung của cộng đoàn.
Vì thế, một mặt các tín hữu phải tránh chia rẽ nhau, mặt khác phải tận dụng mọi ơn ban của Chúa Thánh Thần để xây dựng thân thể Giáo Hội.
4. Tin Mừng: Ga 20,19-23
Buổi chiều chính hôm lễ phục sinh, Ðức Giêsu đã ban Thánh Thần cho các môn đệ (Theo quan điểm của Luca thì Thánh Thần được ban hôm lễ Ngũ tuần).
Chúa Thánh Thần được ban đồng thời với lời chúc bình an, quyền tha tội và lời sai các ông ra đi. Từ đó, ta có thể thấy được những ý nghĩa sau:
Ơn ban cao trọng nhất của Chúa Thánh Thần là Bình an, đặc trưng của thời Messia.
Ơn cao trọng thứ hai của Chúa Thánh Thần là Tha tội: chính nhờ được tha tội mà con người được bình an thật.
Ơn ban Thánh Thần nhằm giúp Giáo Hội ra đi loan Tin Mừng cứu độ.
IV. Gợi ý giảng
1. Lưỡi lửa
Bài tường thuật của Sách Công vụ hôm nay là đối trọng của bài tường thuật tháp Babel thời Cựu Ước.
Ngày xưa, ở Babel, con cháu ông Nôe đang nói cùng một thứ tiếng, nghĩa là đang hiểu nhau và đoàn kết với nhau, bỗng dưng để cho tính kiêu ngạo xúi dục muốn xây một cái tháp cao hơn trời để tỏ ra mình cao hơn Thiên Chúa, nên đã bị phạt khiến họ nói nhiều thứ tiếng, người này không còn hiểu người kia nữa, và chia rẽ nhau. Chuyện tháp Babel ngụ ý rằng khi con người không quy tụ quanh Thiên Chúa thì sẽ chia rẽ nhau, không hiểu nhau và không thông cảm cho nhau.
Hôm lễ Ngũ tuần, Chúa Thánh Thần sửa lại sự hư hại đó: tất cả mọi người dù thuộc những dân tộc và những ngôn ngữ khác nhau nhưng đã hiểu nhau. Nhờ đâu? Nhờ chính Chúa Thánh Thần, nguyên lý đoàn kết và hiệp nhất.
2. Lưỡi lửa mà con người hôm nay cần
Nói là một sinh hoạt cần thiết trong cuộc sống chung: hằng ngày khi gặp người khác, chúng ta chào nhau, hỏi thăm nhau, trao đổi ý kiến với nhau, thảo luận, tranh luận v.v. Chính vì để phục vụ cho sinh hoạt cần thiết này mà khoa học kỹ thuật ngày nay đã phát minh ra máy khuếch âm, máy ghi âm, điện thoại v.v.
Nhưng nói với nhau là một chuyện, còn hiểu nhau là một chuyện khác. Hai chuyện này chưa hẳn luôn đi đôi với nhau. Nói với nhau thì nhiều nhưng hiểu nhau chắc không được bao nhiêu. Dịch một ngoại ngữ thì dễ hơn là hiểu được ý thật, lòng thật của người đang ở sát bên cạnh mình.
Có đặt mình trong bối cảnh như thế, chúng ta mới thấy được "lưỡi lửa" mà bài sách Cv hôm nay mô tả là cần thiết thế nào cho con người hôm nay. Ngày xưa, những người có mặt hôm lễ Ngũ tuần tuy nói nhiều ngôn ngữ khác nhau nhưng đều hiểu nhau. Ðó là hiệu quả bởi "lưỡi lửa" của Chúa Thánh Thần. Lưỡi hình lửa là tiếng nói của tình yêu. Tiếng nói chân thật nhất là tiếng xuất phát từ cõi lòng. Tiếng nói dễ hiểu nhất là tiếng của tình yêu.
Xin "lưỡi lửa" hiện xuống tràn đầy trong mỗi người chúng ta và trong cộng đoàn chúng ta.
3. Thổi hơi
Bài tường thuật tạo dựng loài người trong sách Sáng thế kể rằng sau khi Thiên Chúa đã lấy bùn đất nắn thành hình người, Ngài đã thổi hơi vào đó, và thế là con người đầu tiên xuất hiện. "Hơi thở" của Thiên Chúa chính là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là nguyên lý tạo dựng.
Nhưng con người đã phạm tội, bị đuổi khỏi vườn Ðịa đàng, hạnh phúc ban đầu đã bị đánh mất.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Giêsu lại thổi hơi trên các tông đồ. Phải chăng đây cũng là một đối ảnh của câu chuyện trong sách Sáng thế? Và nếu đúng là thế, thì hôm nay Thiên Chúa tái tạo lại con người, cũng bằng "hơi thở" là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần cũng là nguyên lý của sự tái tạo.
4. Hiệp nhất trong đa dạng
Giáo Hội ngày nay là một Giáo Hội đa dạng: đủ thứ linh đạo, đủ loại dòng tu, đủ cách làm tông đồ, quá nhiều hội nhóm, quá nhiều khuynh hướng, quá nhiều ý kiến... Có những kẻ bi quan đã cho rằng Giáo Hội đang trong thời kỳ khủng hoảng. Nhưng thực ra, sự đa dạng này thể hiện một sức sống phong phú.
Nhưng miễn là đa dạng đừng dẫn tới chia rẽ và chống đối phá hại nhau. Miễn sao đa dạng mà vẫn hiệp nhất.
Muốn được như vậy, chúng ta phải lưu ý tới những giáo huấn rất sâu sắc của Thánh Phaolô trong bài đọc II hôm nay:
Mỗi người, mỗi nhóm hãy ý thức rằng "đặc sủng" của mình là ơn ban của Chúa Thánh Thần, chứ không phải là tài sản hay tài năng riêng của mình.
Ðừng khó chịu, trái lại hãy vui mừng khi thấy những người khác, nhóm khác cũng được ban cho những đặc sủng khác. Ðó là dấu Chúa Thánh Thần yêu thương Giáo Hội.
Tận dụng "đặc sủng" Chúa Thánh Thần ban để góp phần mình vào việc xây dựng Giáo Hội, đồng thời ý thức rằng đó chỉ là một phần nhỏ mình góp cho Giáo Hội nên vẫn tôn trọng phần góp của người khác và hy vọng Giáo Hội được nhiều người khác góp phần xây dựng hơn nữa.
5. Chúa Thánh Thần, Ðấng bị quên lãng
Chúa Thánh Thần là Ðấng bị quên lãng. Ðúng vậy, Thiên Chúa có 3 Ngôi là Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Thế nhưng thường chúng ta chỉ nhớ tới Chúa Giêsu và Chúa Cha thôi, ít khi nhớ tới Chúa Thánh Thần
Thế nhưng Chúa Thánh Thần lại là Ðấng rất kỳ diệu, Ngài mà hoạt động nơi ai thì làm phát sinh biết bao điều kỳ diệu nơi người đó. Ngài mà hoạt động nơi nào thì cũng làm phát sinh biết bao điều kỳ diệu ở nơi đó. Xin đan cử 2 bằng chứng.
- Bằng chứng thứ nhất là đoạn sách CvTđ mà chúng ta vừa nghe: Chúa Thánh Thần hoạt động nơi các tông đồ. Trước đó các tông đồ đã từng theo Chúa Giêsu 3 năm, đã từng nghe biết bao lời dạy dỗ của Chúa Giêsu, đã từng thấy biết bao phép lạ của Chúa Giêsu. Nhưng con người của các ông hầu như chẳng chịu ảnh hưởng tốt nào cả: vẫn lo tranh dành quyền lợi, vẫn sợ chết nên trốn kín trong nhà. Thế rồi Chúa Thánh Thần ngự đến trên các công và sau đó các ông được biến đổi hẳn: nhiệt thành với Tin Mừng, can đảm rao giảng Tin Mừng. Có ai ngờ một người như Phêrô đã từng run sợ chối Chúa bây bẩy trước những tên đầy tớ của vụ Thượng tế mà bây giờ lại đứng ra trước một đám đông rao giảng hùng hồn khiến cho liền ngay sa đó có 3 ngàn người xin theo đạo.
- Bằng chứng thứ hai là một bức thư rất đặc biệt. Bức thư này là của một cô gái nước ngoài gởi cho một LM LM này trước đó có biên thư cho cô gái để trình bày những khó khăn trong bổn phận của mình. Cô gái biên thư khuyên vị LM ấy hãy can đảm, hãy cầu nguyện và mỗi ngày hãy dâng lễ sốt sắng. Cô gái còn cho biết nếp sống hằng ngày của cô: ngoài những giờ làm ăn, cô tranh thủ thời giờ đi dạy giáo lý cho 2 lớp tại một trường học, buổi tối cô tham gia cầu nguyện với một nhóm giáo dân từ 8 đến 10 giờ. Một cô gái giáo dân mới hơn 20 tuổi mà nhiệt thành làm việc tông đồ như vậy và còn nhiệt thành đến nỗi dám đưa ra những lời khuyên dạy đối với một LM! Do đâu mà cô nhiệt thành sốt sắng như vậy? Thưa vì cô đang sinh hoạt trong một nhóm giáo dân giúp nhau sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Nghe những bằng chứng trên, chắc chúng ta cũng mong muốn Chúa Thánh Thần hoạt động nơi chúng ta để làm những điều kỳ diệu nơi chúng ta. Nhưng làm sao để được như vậy? Xin đề nghị 2 điều:
- Một là chúng ta hãy cầu nguyện cùng với Chúa Thánh Thần. Chúng ta đã cầu nguyện rất nhiều. Nhưng khi cầu nguyện chúng ta chỉ nói cho Chúa biết mình đang sống như thế nào, mình đang cần những ơn gì và xin Chúa ban ơn đó cho ta. Cầu nguyện như vậy là sai lầm, vì đâu phải nhở chúng ta nói mà Chúa mới biết chúng ta cần gì. Chúa là Ðấng biết tất cả mọi sự kia mà. Ðiều quan trọng nhất không phải là ta nói cho Chúa biết ta muốn gì, mà là xin Chúa cho ta biết Chúa đang muốn gì nơi ta. Do đó ta phải cầu nguyện cùng với Chúa Thánh Thần, để Chúa Thánh Thần soi sáng cho ta biết ý Chúa và giúp ta sau đó làm theo ý Chúa. Có cầu nguyện như vậy thì sau đó cuộc đời ta mới biến đổi.
- Ðiều thứ hai có liên quan tới việc Xưng tội. Trong bài Tin mừng chúng ta vừa nghe, có một điểm hơi lạ. Ðó là Chúa Giêsu vừa ban Chúa Thánh Thần vừa ban quyền tha tội cho các tông đồ: "Chúng con hãy nhận lãnh Thánh Thần, chúng con tha tội cho ai... " Tại sao Chúa Giêsu ban Chúa Thánh Thần và ban ơn tha tội chung nhau? Thưa vì 2 điều đó liên hệ chặt chẽ với nhau. Nói cách khác, nếu chúng ta muốn lãnh Bí Tích Giải Tội cho có hiệu quả tốt thì chúng ta phải Xưng tội cùng với Chúa Thánh Thộn. Ta hãy nhìn lại cách xưng tội bấy lâu nay của chúng ta. Mỗi khi xưng tội chúng ta làm 5 việc: một là xét mình xem mình có những tội gì; 2 là sau đó đọc một kinh ăn năn tội; 3 là vào toà xưng tội, kể cho kỹ hết mọi tội đừng sót tội nào; 4 là nghe cho rõ Cha giải tội dạy đọc bao nhiêu kinh; 5 là trở ra đọc cho hết bấy nhiêu kinh đó. Rồi trở về. Kết quả như thế nào? Chúng ta thấy an tâm hơn đôi chút. Nhưng cũng sống bình thường như trước, cũng phạm lại bấy nhiêu tội ấy, lần sau đi xưng tội cũng xưng bấy nhiêu tội ấy. Nghĩa là hầu như không có gì thay đổi. Xưng tội cùng với Chúa Thánh Thần nghĩa là trong phần xét mình trước khi vào toà xưng tội, chúng ta hãy xét mình cùng với Chúa Thánh Thần, xin Ngài soi sáng cho ta chẳng những thấy được mình đã phạm những tội gì mà còn tại sao mình phạm những tội đó; xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho ta thấy những tội mà mình không thấy, Td nhiều người đâu có nghĩ rằng việc mình đang tính kế hại người là có tội, nhiều người đâu có nghĩ việc mình sống ích kỷ với nhà hàng xóm là có tội. Xưng tội cùng với Chúa Thánh Thần nghĩa là sau khi xưng tội chúng ta xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho ta biết từ nay mình phải sửa đổi như thế nào. Có như vậy mỗi lần chúng ta đi xưng tội xong, cuộc sống của mình mới thay đổi tốt đẹp hơn.
6. Chúa Thánh Thần, Ðấng biến đổi
Bài trích sách Tông đồ Công vụ thuật lại biến cố ngày Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các tông đồ có nhiều điều rất phi thường: gió thổi ào ào như giông tố, những cục lửa có hình như cái lưỡi đậu trên đầu mỗi vị, sau đó các tông đồ nói tiếng lạ nghĩa là chỉ cần nói một thứ tiếng mà đủ mọi sắc dân khác nhau đều có thể hiểu. Những điều phi thường đó khiến cho đám đông dân chúng bở ngỡ kinh hoàng... Rồi hàng ngàn người đã xin lãnh phép Rửa Tội...
Nhưng điều quan trọng không phải là những biến cố phi thường ngoạn mục đó, mà chính là một cuộc biến đổi bên trong các tông đồ, rất âm thầm nhưng lại rất toàn diện: các ông là những người đã từng sát cánh ngày đêm với Chúa Giêsu, cùng ăn,, cùng đi, cùng làm với Chúa Giêsu suốt 3 năm trời, được Chúa Giêsu dạy dỗ rất nhiều, được chứng kiến biết bao việc làm của Chúa Giêsu... Nhưng vốn tầm thường các ông cũng vẫn còn là những kẻ tầm thường. Tầm thường đến nỗi Thầy vừa bị bắt là tất cả bỏ chạy tan hoang, trốn chui trốn nhủi trong phòng đóng kín cửa không ai dám ló đầu ra ngoài. Tại sao thế? Vì bấy lâu nay các ông đi theo Chúa với tính toán vụ lợi, các ông hiểu giáo lý của Chúa một cách phàm tục: Ði theo Chúa như đi theo một chính trị gia đang lên hương với hy vọng sau này tới ngày thành công sẽ được chia chác địa vị quyền lợi; Chúa dạy giáo lý về nước Trời mà các ông thỉ chỉ hiểu về một nước thế tục. Cái chết của Chúa Giêsu đã làn tiêu tan mọi tham vọng chính trị, những quyền lợi các ông mong chờ cũng thành mây khói luôn, và cả sự an toàn của bản thân các ông cũng đang bị đe doạ nữa. Vì thế các ông sợ sệt, ẩn trốn.
Khi người ta theo Chúa với đầu óc vụ lợi, thì người ta tầm thường
Chúa Thánh Thần đến làm một cuộc thay đổi toàn diện: thay đổi lối nghĩ, lối nhìn, lối hiểu, lối tính toán của các ông: Hiểu giáo lý của Chúa cách siêu nhiên hơn chứ không phàm tục như trước nữa; từ đó các ông quyết định vẫn theo Chúa nhưng không phải vì tính toán vụ lợi mà vì tình yêu hy sinh xả thân hoàn toàn. Cuộc thay đổi ấy đã giúp các ông hết tầm thường, biến các ông trở nên những kẻ trung thành, những cột trụ của Giáo Hội, đến nỗi dù đe doạ, dù tù đày, dù tra tấn, dù gươm giáo, các ông cũng vẫn can đảm và hăng say loan truyền niềm tin vào Chúa.
Ngày nay chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, điều chính yếu chúng ta mong ước cũng không phải là có những hiện tượng lạ gió thổi ào ào, lưỡi lửa trên đầu và nói tiếng lạ.... mà chúng ta mong chờ chính sự biến đổi sâu xa và toàn diện ấy trong tâm hồn chúng ta.
Ðó cũng chính là ý tưởng của ÐGH Phaolô VI trong bài huấn dụ của ngài hôm 29.11.1972. Ngài mô tả trong Giáo Hội có nhiều người theo đạo chỉ vì óc vụ lợi và hiểu giáo lý một cách phàm tục. Chính vì thế mà theo ngài, Giáo hội ngày nay cần có một lễ Hiện Xuống mới, để xin trích dẫn nguyên văn lời ngài "làm cho Giáo Hội được sống động, như có một luồng gió thiêng liêng làm căng buồm con thuyền Giáo Hội, là nguồn suối bên trong ban tràn đầy ánh sáng và sức mạnh cho Giáo Hội..."
Chắc chúng ta cũng ở trong tình trạng của các tông đồ trước ngày được Chúa Thánh Thần Hiện xuống. Chúng ta cũng đã từng theo đạo mười mấy, hai ba chục năm trời, đã từng Rửa tội, đã bao nhiêu lần xưng tội rước lễ, đã từng lãnh bí tích thêm sức, đã bao nhiêu lần nghe giảng dạy đủ mọi điều giáo lý, Tin mừng.. nhưng con người của chúng ta vẫn cứ mãi tầm thường. Ðầu óc chúng ta còn đầy tính toán vụ lợi và tinh thần phàm tục: chúng ta theo đạo để xin Chúa ban ơn cho mình, được làm ăn thành công, được khỏi nỗi buồn khổ này, được đạt đến niềm mơ ước kia. Rồi khi nào cầu xin không được hay cứ gặp khốn khó thì ta chán muốn bỏ đạo, khi gặp nguy hiểm thì ta trốn chui trốn nhủi, không dám đến nhà thờ như các tông đồ xưa trốn kín trong phòng không dám ló đầu ra. Chúng ta cũng cắt nghĩa giáo lý theo kiểu cách phàm tục, không muốn tin những điều siêu nhiên, mầu nhiệm về Thiên Chúa, về linh hồn, về thiên đường hoả ngục, về bí tích; chúng ta đòi hỏi Giáo Hội có những giải pháp dễ dãi cho cuộc sống và chống đối những chỉ dẫn của Giáo Hội mà ta cho là khắt khe, chẳng hạn về việc vợ chồng ly dị, về các phương pháp ngừa thai v.v....Tóm lại, giữ đạo một cách vụ lợi và phàm tục như thế nên cuộc sống đạo của chúng ta nó thờ ơ, thụ động, dật dờ làm sao ấy. Ta sống đạo nhưng sống như một cái xác không hồn, không hứng khởi.
Muốn cho các xác lờ đờ này thực sự có sức sống sinh động, nghĩa là muốn cho cuộc sống đạo của chúng ta được hăng hái, tích cực, phấn khởi, thì cần phải có Chúa Thánh Thần hiện xuống trên chúng ta. Chúa Thánh Thần sẽ biến đổi chúng ta toàn diện như các tông đồ ngày xưa: làm cho chúng ta hiểu giáo lý Chúa một cách siêu nhiên hơn chứ không phàm tục như trước làm cho chúng ta theo Chúa không phải vì vụ lợi muốn được điều này điều nọ mà chi vì chúng ta thực sự tin Chúa, yêu Chúa và sẵn sàng hy sinh tất cả vì niềm tin yêu đó.
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Thể theo lời Ðức Giêsu cầu xin, Chúa Cha đã ban Thánh Thần để quy tụ chúng ta thành Giáo Hội. Chúng ta cùng dâng lời cảm tạ và cầu xin.
1. Lễ Hiện xuống là ngày khai sinh Hội Thánh / Chúng ta hiệp lời cầu xin / Chúa Cha ban Thánh Thần để soi sáng / hướng dẫn / và nâng đỡ các vị mục tử / trong việc điều khiển con thuyền Hội Thánh / vượt qua mọi phong ba bão táp ở trần gian.
2. Nhiều nơi trên thế giới ngày nay vẫn còn đang sống trong cảnh chiến tranh loạn lạc / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Cha cử Thánh Thần đến / đem yêu thương vào nơi oán thù / đem niềm vui cho người đau khổ / đem hòa bình cho những vùng còn khói lửa chiến tranh.
3. Ngày hôm nay / bạo lực và hận thù vẫn còn đang làm cho biết bao gia đình phải tan nát / biết bao người phải lâm vào cảnh khốn khổ / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Cha ban Thánh Thần là nguồn tình yêu / để đổi mới lòng trí con người trên khắp địa cầu.
4. Ðường lối Thiên Chúa thì nhiệm mầu / Lời Người thì cao siêu / nhiều khi chúng ta không thể hiểu tường tận được / Vì thế chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Cha / ban Thánh Thần cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / để Người chỉ bảo và nhắc nhở chúng ta / những điều Chúa Giêsu đã dạy lúc còn ở với các môn đệ.
CT: Lạy Chúa Cha nhân hậu, không bao giờ chúng con có thể khám phá được hết những kỳ diệu của tình yêu Chúa dành cho chúng con trong cuộc sống. Ước gì Thánh Thần Chúa thâm nhập lòng trí chúng con, và biến đổi cuộc đời chúng con nên một lời ca tụng tình thương của Chúa. Chúng con cầu xin nhờ...
VI. Trong Thánh Lễ
Trước kinh Lạy Cha: Chúa Thánh Thần ngự trong chúng ta và cầu nguyện thay cho chúng ta bằng những tiếng than van khôn tả. Vậy chúng ta hãy cùng Chúa Thánh Thần dâng lên Chúa Cha lời kinh Lạy Cha sau đây.
Sau kinh Lạy Cha: "Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, cách riêng là sự chia rẻ nhau. Xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an, và được hiệp nhất với nhau trong Chúa Thánh Thần. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp..."
Trước lúc rước lễ: Chúng ta sắp được ăn cùng một tấm bánh là chính Ðức Giêsu. Xin Chúa giúp chúng ta hiệp nhất với nhau. "Ðây Chiên Thiên Chúa..."
VII. Giải tán
Anh chị em đã được soi sáng bởi Chúa Thánh Thần và được thêm sức bởi hơi thở tình yêu của Ngài. Giờ đây anh chị em hãy ra về như những sứ giả của Tin Mừng và Bình an đối với mọi người anh chị em sẽ gặp gỡ.
15. Vai trò của Chúa Thánh Thần-- Lm Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Tông đồ. Theo Tin mừng của Gioan, Đức Giêsu đã ban Thánh Thần cho các Tông đồ ngay chiều ngày Phục sinh: “Các con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần”(Ga 20,22). Tuy nhiên chúng ta nên tránh xa cảm tưởng có sự xẩy ra hai lần việc Thánh Thần được ban cho long trọng lúc ban đầu. Luca và Gioan nói về cùng một việc: Chúa sống lại ban ơn Chúa Thánh Thần và khai mạc sứ mạng của Giáo hội. Sự khác nhau của hai ông về thời điểm là do quan điểm thần học của mỗi ông. Hay nói khác đi, lễ Hiện xuống là ngày Đức Giêsu đặc biệt giới thiệu Giáo hội cho muôn dân muôn nước.
Trước khi về trời, Đức Giêsu đã căn dặn các môn đệ hãy ở lại trong thành chờ đợi Chúa Thánh Thần. Vâng lệnh Chúa, 120 môn đệ cùng với Đức Maria tụ họp nhau cầu nguyện trong nhà, có lẽ nhà Tiệc ly. Chúa Thánh Thần đã hiện xuống trên các ông với tiếng gió thổi ào ào và những hình lưỡi lửa đậu trên đầu các ông. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, các ông nói được nhiều thứ tiếng lạ, ai cũng có thể hiểu được và sau đó các ông can đảm đi rao giảng Đức Kitô Phục sinh cho mọi người.
Ngày nay, lễ Hiện xuống vẫn còn tiếp diễn trong Giáo hội. Chúa Thánh Thần vẫn còn hoạt động trong Giáo hội vì Ngài là Đấng soi sáng, đổi mới, ban bình an và niềm vui cho mọi người. Ngài là hồn sống của Giáo hội. Nếu không có Ngài thì mọi hoạt động trở nên trống rỗng. Ngài cũng vẫn hoạt động trong mỗi người chúng ta với Bảy ơn cả của Ngài để soi sáng, hướng dẫn và giúp chúng ta nên thánh.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Cv 2,1-11.
Trước khi về trời, Đức Giêsu đã hứa ban Thánh Thần cho các môn đệ. Vâng theo lời căn dặn của Chúa Phục sinh, ngày lễ Ngũ tuần, các môn đệ tụ họp tại nhà Tiệc Ly để chờ đón nhận điều Ngài đã hứa.
Sáng hôm đó, đang khi các môn đệ cầu nguyện cùng Đức Maria, Chúa Thánh Thần đã hiện xuống trên các ông. Mọi người nhận thấy Chúa Thánh Thần hiện xuống với hình lưỡi lửa đậu trên đầu các ông. Và sau đó các ông nói được những thứ tiếng lạ, mọi khách hành hương đều thấy họ nói được tiếng bản xứ của mình một cách thành thạo.
Lưỡi tượng trưng cho lời nói. Lửa tượng trưng cho tình yêu và lòng nhiệt thành. Nhờ Chúa Thánh Thần, các môn đệ đã nhiệt thành rao giảng Tin mừng, làm chứng cho Đức Kitô khắp mọi nơi.
+ Bài đọc 2: 1Cr 12,3b-7.12-13.
- Thánh Phaolô nhắc nhở cho tín hữu Côrintô một số điều:
- Nguồn gốc mọi đặc sủng là Chúa Thánh Thần. Ngài ban các đặc sủng ấy cho từng người tùy nhu cầu, không ai giống ai.
- Tuy nhiên các đặc sủng ấy không phải để phục vụ cho các nhân, nhưng tất cả đều nhằm phục vụ lợi ích chung của cộng đoàn.
- Hội thánh được coi như một thân thể, cần phải có sự hợp nhất các chi thể. Vì thế, mọi tín hữu phải tránh sự chia rẽ để cùng hợp lực xây dựng thân thể Hội thánh.
+ Bài Tin mừng: Ga 20,19-23.
Theo Gioan làm chứng, việc trao ban sứ mạng và ban Thánh Thần đã xẩy ra ngay lần đầu tiên Đấng Phục Sinh hiện ra với các môn đệ vào chiều ngày Phục sinh. Như vậy, căn bản mầu nhiệm Chúa Thánh Thần hiện xuống đã được biểu lộ trọn vẹn.
Tuy nhiên, theo quan điểm của Luca thì Thánh Thần được ban hôm lễ Ngũ tuần. Theo bài Tin mừng, Chúa Thánh Thần đã ban cho các Tông đồ những ơn:
- Ơn Bình an, đặc trưng của thời Messia.
- Ơn Tha tội, nhờ đó con người được hưởng niềm vui và bình an.
- Ơn Trợ giúp, nhờ đó Giáo hội ra đi để loan báo Tin mừng cứu độ.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Thánh Thần biến đổi các môn đệ.
I. BỐI CẢNH NGÀY LỄ HIỆN XUỐNG.
1. Ý nghĩa bài Tin mừng hôm nay.
Phụng vụ chọn lựa bài Tin mừng này trong ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống cho cả ba năm A,B,C là vì trong bài này thánh sử Gioan đã kể lại việc Đức Giêsu ban Thánh Thần cho các Tông đồ “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Việc ban Thánh Thần biểu lộ ý nghĩa: Chúa Thánh Thần là căn nguyên sự sống và hoạt động của các Tông đồ. Vì thế qua việc mừng lễ này Giáo hội muốn cho chúng ta xác tin hơn về vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời sống Giáo hội và đời sống của mỗi người chúng ta, để chúng ta tha thiết hơn trong việc cảm tạ và cầu nguyện với Chúa Thánh Thần trong đời sống hằng ngày.
2. Tại nhà Tiệc Ly.
Ngày lễ Phục sinh Đức Giêsu đã ban Thánh Thần cho các Tông đồ (Ga 20,21-23). Nhưng ngày lễ Hiện xuống Chúa Thánh Thần đến một cách long trọng và là ngày khai sinh Giáo hội hay ngày giới thiệu Giáo hội cho muôn dân (Cv 2,1-13). Cũng như qua bí tích Rửa tội, chúng ta nhận Chúa Thánh Thần rồi, nhưng qua bí tích Thêm sức, chúng ta lãnh nhận Chúa Thánh Thần cách long trọng và dồi dào để trở thành chiến sĩ Chúa Kitô.
Lễ Ngũ Tuần là một trong ba đại lễ của người Do thái. Lễ này được mừng 50 ngày sau lễ Vượt qua, là để tạ ơn Chúa vì mùa thu hoạch lúa mì vừa kết thúc và cũng là để kỷ niệm Thiên Chúa ban Lề luật trên núi Sinai.
Trước khi về trời Đức Giêsu đã ra lệnh cho môn đệ đi rảo giảng Tin mừng, rồi Ngài thêm: “Nhưng hãy đợi trong thành cho đến khi các con được mặc lấy quyền năng bởi trời”, và 120 người ấy đã hoàn toàn vâng theo. Dầu phần lớn trong số họ không có nhà cửa gì tại thủ đô, nhưng vẫn trung thành họp nhau cầu nguyện để trông chờ ứng nghiệm điều Đức Giêsu đã hứa.
Trong số 120 người tụ họp tại nhà Tiệc Ly, có Đức Maria, các tông đồ và một số người khác. Theo như thánh Phaolô đã kể lại trong thư thứ nhất Côrintô 15,6 thì 500 người đã cùng được gặp Chúa khi Ngài hiện đến sau Phục sinh, chúng ta không hiểu tại sao họ lại không hiện diện trong dịp họp mặt này. Sách Công vụ Tông đồ cũng ghi đặc điểm của cuộc hội họp này là "Tất cả đều kiên tâm nhất trí cầu nguyện liên tục cùng với Đức Maria”.
Sách Công vụ Tông đồ còn ghi: “Mọi người đang tề tựu tại một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác lạ, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho”(Cv 2, 1-4).
Trong Kinh Thánh lửa cũng được dùng để chỉ về chức vụ của Chúa Thánh Thần. Như gió thổi và làm cho loài người tươi mát thế nào, thì lửa lại tiêu sạch rơm rác hôi thối chung quanh nhà chúng ta khiến xóm giềng dễ chịu. Chúa Thánh Thần sẽ tác động để đời sống tốt lành của chúng ta tỏa hương, gây ảnh hưởng tốt, và Chúa đưa tới vinh quang đời sống tốt đẹp của chúng ta.
Tiếng gió động ào ào tượng trưng sức sống thần khí, khi Thiên Chúa dựng nên con người, Thiên Chúa đã thổi hơi vào thẳng người được dựng nên bằng bùn đất. Hơi thở thần khí đã biến bùn đất thành Adong sống động. Từ đó Adong trở thành người đầy sức sống tốt lành và tràn đầy sinh lực hạnh phúc. Luồng gió mới của thần khí nay cũng thổi vào khắp các cơ thể xác thịt của Tông đồ biến đổi các ông thành chi thể mới của Đức Kitô chứa đầy những đặc sủng để các ông phục vụ nhiều việc khác nhau vì ích chung nhờ Thánh Thần đang hoạt động nơi các ông (Vũ khắc Nghiêm).
Qua càc bài đọc trong Thánh lễ hôm nay chúng ta có thể gọi lễ Hiện xuống là ngày khai sinh Giáo hội, hay ngày Đức Giêsu giới thiệu Giáo hội cho muôn dân, nhưng đồng thời Chúa cũng cho biết lễ Hiện xuống vẫn còn tiếp diễn, nghĩa là Chúa Thánh Thần vẫn còn hoạt động mạnh mẽ bên trong Giáo hội, ví dụ: Công đồng Vatican II là một lễ Hiện xuống mới. Công đồng đã quyết định một cách bất ngờ và đã canh tân Giáo hội cho phù hợp với bước tiến của thế giới ngày nay.
II. NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA CHÚA THÁNH THẦN.
1. Chúa Thánh Thần, Đấng soi sáng.
Tuy đã ở với Đức Giêsu gần 3 năm trời, các môn đệ cũng chưa hiểu thấu được những lời Ngài dạy, những việc Ngài làm. Chẳng hạn một ngày nọ Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Con người sẹ phải bị nộp vào tay người ta, họ sẽ giết Ngài nhưng ba ngày sau khi chết Ngài sẽ sống lại”. Thánh Marcô liền chú thích thêm: “Nhưng các môn đệ chẳng hiểu điều Ngài muốn nói và họ sợ hãi không dám hỏi Ngài” (Mc 9,31-32).
Tương tự như thế, sau khi mô tả Đức Giêsu cỡi lừa tiến vào thành Giêrusalem vào Chúa nhật lễ lá, thánh Gioan nói rằng: “Thoạt tiên các môn đệ Ngài không hiểu được điều này, nhưng sau khi Đức Giêsu được vinh hiển thì họ nhớ lại những điều này đã được viết về Ngài”(Ga 12,16). Hoặc dịp khác, có lần Đức Giêsu bảo các nhà cầm quyền ở Giêrusalem: “Hãy tiêu hủy đền thờ này đi, và trong ba ngày Ta sẽ dựng lại”. Đoạn thánh Gioan chú thích thêm: “Tuy nhiên Đức Giêsu có ý nói về đền thờ thân xác Ngài. Do đó, khi Ngài từ cõi chết sống lại, các môn đệ nhớ lại Ngài đã nói điều này, và nhờ đó họ tin vào Kinh Thánh và những lời Đức Giêsu đã nói ra”(Ga 2,20-22).
Điều gì đã xẩy ra cho các môn đệ Đức Giêsu giúp họ thấu hiểu được những điều này? Đó chính là điều Đức Giêsu đã từng nói: “Chúa Thánh Thần mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, sẽ dạy cho các con mọi sự và sẽ nhắc nhở cho các con mọi điều Thầy đã nói với các con”(Ga 14,26).
Nói cách khác, điều làm cho các Phúc âm có giá trị dường ấy là vì chúng đã được viết dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần, Đấng ngự đến vào dịp lễ Hiện xuống. Chúa Thánh Thần đã ban cho các môn đệ Đức Giêsu sự thấu hiểu mới mẻ về các lời dạy của Đức Giêsu. Chính sự thấu hiểu này đã được các Phúc âm ghi lại.
2. Chúa Thánh Thần, Đấng đổi mới.
Khi được lãnh nhận sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các Tông đồ đã được đổi mới hoàn toàn. Được sức lay động và đầy lửa Thánh Thần, các Tông đồ cùng lên tiếng cao rao những kỳ công của Thiên Chúa. Thánh Phêrô, lòng đầy Thánh Thần, đã hùng hồn thuyết giảng về Đức Giêsu chịu Thương khó và Phục sinh. Có 3000 người xin được rửa tội. Giáo hội được khai sinh từ đó vào ngày lễ Ngũ tuần. Thánh Thần đến, Giáo hội khai sinh.
Tác động của Chúa Thánh Thần trên Giáo hội thật mãnh liệt. Chỉ một nhóm Tông đồ nhỏ, sợ hãi, co cụm, hoang mang, lúc nào cũng cửa đóng then cài. Thế mà giờ đây khi được tràn đầy Thánh Thần họ đã trở nên mạnh mẽ phi thường, hiên ngang, can trường làm chứng và loan báo Tin mừng Phục sinh. Các ngài được trang bị bằng quyền năng Chúa Thánh Thần để bẻ gẫy sức mạnh của sự dữ, tội lỗi.
Dù bị đe dọa đòn vọt, dù gông cùm tù tội, các ngài vẫn trung kiên một lòng tin vào Chúa. Các ngài đã lấy máu đào minh chứng cho lời rao giảng. Dù bị đàn áp, bách hại, Giáo hội vẫn lớn mạnh không ngừng. Hai mươi thế kỷ qua, con thuyền Giáo hội do người dân chài Galilê cầm lái vẫn lướt qua mọi thăng trầm của lịch sử với muôn vàn thử thách giông tố để luôn đi tới.
Vậy bí quyết ẩn tàng trong đó và lý do tồn tại của Giáo hội là gì nếu không phải chính là sức mạnh, là quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Truyện: Các nữ tu tại Vendée.
Các chị dòng tại tu viện Vendée nước Pháp không quên rằng Chúa Thánh Thần là quan trọng. Trong thời kỳ cách mạng Pháp, nhiều linh mục và nữ tu bị giết. Toàn thể các chị ở tu viện Vendée bị kết án lên máy chém. Chị nào cũng hiểu lên máy chém ghê sợ chừng nào, nhưng không một chị nào tỏ ra sợ sệt chút gì hết. Trái lại, đứng sát bên nhau, các chị cất tiếng hát bài thực du dương. Đứng trước cái chết, các chị vẫn ca hát, và bài hát các chị hát là bài thánh ca “Xin Chúa Thánh Thần ngự đến” (Diamond, Đồng cỏ non, tr 93).
3. Chúa Thánh Thần, Đấng ban bình an.
Khi Đức Giêsu đi vào cuộc Khổ nạn, các môn đệ buồn sầu lo lắng, tâm trạng hoang mang không biết tương lai sẽ ra sao, nhưng khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các ông được bình an và niềm vui, không còn sợ sệt gì nữa, nhưng lòng rất thanh thản. Đức Giêsu đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho các con”. Còn một niềm vui nữa là đem bình an và tha thứ cho những người khác: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần. Các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha”.
Nhiều khi chúng ta rơi vào tâm trạng sợ sệt, bất an, mặc cảm tội lỗi. Khi đó chúng ta co cụm lại, rút lui vào nỗi cô đơn của mình và không muốn gặp ai cả. Tình trạng này thật là buồn chán. Phải sống trong tình trạng này thì chẳng khác nào như đã chết. Do đó cần phải có ai đó giúp chúng ta thoát khỏi tâm trạng bất thường ấy. Người ấy là ai? Thưa chính là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là Đấùng tái tạo những gì suy sụp và hư mất.
Truyện: Nhà biên kịch Henri Ghéon.
Henri Ghéon là một nhà biên kịch nổi tiếng của Pháp, cũng là một người tội lỗi trong đệ nhị thế chiến, ông ở trong một tâm trạng bất an, đã quay trở lại với Chúa. Ôâng đến xin lãnh bí tích Giải tội và ông đã kể lại tâm trạng của mình lúc xưng tội như sau: “Hai tay tôi ôm đầu, miệng bập bẹ run run, tôi đổ dòng tội tuôn ra như thác…. Tôi cảm thấy một thứ cặn đắng, từng ngụm, từng ngụm trào ra khỏi các thớ thịt con tim tôi với tất cả khối nặng đó, với tất cả chất độc đó đã đè nén tôi suốt hai mươi năm nay. Tôi cố cựa quậy đổ dốc nó ra cho linh mục giải tội. Và Thiên Chúa đã nghe lời tôi: “Hãy về Bình an. Thánh Thần đã ngự trong con”! Tôi trẻ lại hai mươi tuổi; hai mươi năm tôi lỗi. Một niềm vui sướng mới lạ tràn ngập tâm hồn tôi. Tôi chạy, tôi nhảy, tôi bay, tôi không còn cảm thấy xác thịt nặng nề của tôi nữa”…
III. CHÚA THÁNH THẦN HOẠT ĐỘNG TRONG GIÁO HỘI.
1. Phải hiểu biết về Chúa Thánh Thần.
Chúng ta có thể nói khi Đức Giêsu lên trời là chấm dứt thời kỳ của Ngài ở trần gian và nhường chỗ cho thời kỳ của Chúa Thánh Thần. Đức Giêsu đã thực hiện và hoàn tất chương trình cứu độ nhưng Chúa Thánh Thần mới là Đấng ban phát công nghiệp ấy cho chúng ta qua bí tích.
Chúa Thánh Thần vẫn còn tiếp tục những công việc của Đức Giêsu trong Giáo hội, không những Ngài hoạt động một cách chung chung, mà Ngài còn hoạt động trong từng người, soi sáng, thúc đẩy mỗi khi chúng ta cầu nguyện, khi chúng ta hành động.
Khi học giáo lý chúng ta học và biết nhiều về Chúa Cha cũng như về Chúa Con. Thế nhưng nếu có ai hỏi chúng ta về Chúa Thánh Thần, về những việc Ngài đã làm cũng như về vai trò của Ngài trong cuộc sống, thì rất có thể chúng ta sẽ trả lời không hơn gì những tín hữu Eâphêsô thưở trước. Thực vậy, thánh Phaolô đã hỏi họ: “Các ngươi đã nhận Chúa Thánh Thần chưa”? Và họ đã trả lời: “Chúng tôi chưa hề hay biết có một Chúa Thánh Thần”. Phải, Thánh Thần là Thiên đã bị quên lãng trong đời sống.
Sách giáo lý đã cho biết: Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra, cùng một bản tính, cùng một quyền năng như hai Ngôi cực trọng ấy. Làm sao chúng ta biết được Thiên Chúa có Ba Ngôi và Ngôi thứ Ba lại là Chúa Thánh Thần? Sở dĩ chúng ta biết được là vì Đức Giêsu đã mạc khải cho chúng ta.
Thực vậy, khi Đức Giêsu chịu phép rửa ở sống Giorđan, thì Tin mừng đã ghi nhận: Bấy giờ trời mở ra, Thánh Thần lấy hình chim bồ câu mà ngự xuống, rồi từ trời có tiếng phán: “Này là Con Ta yêu dấu đẹp lòng Ta mọi đàng”. Hoặc trước khi về trời, Đức Giêsu đã truyền cho các môn đệ: “Các con hãy đi giảng cho muôn dân, rửa tội cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.
Rất may công đồng Vatican II đã dành cho Chúa Thánh Thần một chỗ quan trọng khiến chúng ta tìm hiểu vai trò quan trọng của Ngài trong đời sống Giáo hội và trong từng người.
Trong mạch sống Giáo hội, tác động của Chúa Thánh Thần thật vô cùng quan trọng cho Giáo hội cũng như mỗi người chúng ta. Không những cần cho những thừa tác viên của Giáo hội để chu toàn phận sự mà còn cần cho mọi người để sống đức tin và bác ái. Mọi cố gắng của Giáo hội và của mỗi người đều cần có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, nếu không sẽ trở nên lố bịch và vô vọng, như Đức Thượng phụ Athenagoras, Giáo chủ Constantinople đã nói: “Nếu cuộc sống thiếu vắng Chúa Thánh Thần thì Thiên Chúa sẽ nghìn trùng xa cách. Đức Kitô chỉ là một nhân vật quá khứ. Tin mừng chỉ là một mớ chữ không hồn. Giáo hội khác nào một cơ cấu cứng nhắc, biến quyền bính thành thống trị điêu ngoa, và giảng dạy chỉ là tuyên truyền láo khoét, việc thờ phượng chỉ là phù phép, và luân lý sẽ thành xiềng xích vong nô”(Phạm văn Phượng).
2. Những ân ban của Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần hoạt động trong chúng ta bằøng những ân ban của Ngài mà chúng ta gọi là Bảy ơn cả của Chúa Thánh Thần với mục đích soi sáng, hướng dẫn và giúp ta nên thánh.Thiết tưởng chúng ta cần tìm hiểu từng ơn của Ngài.
Ơn Khôn ngoan là ơn giúp chúng ta nâng cao tâm hồn lên trên mọi sự vật mau qua trên mặt đất, để hướng về những sự không mau qua, những sự vĩnh cửu.
Ơn thông hiểu; như một đèn pha thần thánh, chiếu tỏa sáng làn chân lý Chúa tỏ ra cho chúng ta, giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa các chân lý ấy.
Ơn lo liệu: như một địa bàn ơn thần thánh, trong những khó khăn, bối rối trong đời sống. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta biết phải làm gì để vinh danh Chúa và cứu vớt linh hồn chúng ta cũng như anh em chúng ta.
Ơn sức mạnh: nghĩa là can đảm. Chúa Thánh Thần cho chúng ta sự can đảm thiêng liêng cần thiết để giữ luật Chúa và luật của Giáo hội. Tử đạo là điển hình cao nhất của ơn sức mạnh.
Ơn hiểu biết: là giúp ta phán đoán đúng đắn các tạo vật, giúp biết sử dụng kiến thức đúng đắn. Ơn hiểu biết không phải chỉ để thâu thập các sự kiện về thế gian, nhưng là đặt chúng ta trong liên quan và trật tự.
Ơn đạo đức: là tình yêu và lòng nhiệt thành của con người đối với Cha mình, là ước muốn của người con mong làm đẹp ý Cha mình. Như một ân huệ của Chúa Thánh Thần, ơn đạo đức giúp ta tôn kính và yêu mến Chúa là Cha chúng ta. Nó giúp ta thi hành những gì đẹp lòng Chúa, yêu giúp đỡ anh em, yêu cầu nguyện và yêu Lời Chúa.
Ơn kính sợ Chúa: là ơn giúp ta sợ làm mất lòng Chúa. Không phải sợ hãi như nô lệ sợ chủ, nhưng sợ làm phiền lòng Đấng yêu thương chúng ta. Đấng chúng ta yêu mến. Như Kinh Thánh nói: “Kính sợ Chúa là khởi đầu sự khôn ngoan” (Arthur Tonne).
Đây là mầu nhiệm của lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống: Chúa Thánh Thần soi sáng tâm trí con người, và qua việc soi sáng cho họ biết về Chúa Kitô chịu đóng đinh chết và đã sống lại. Chúa Thánh Thần chỉ cho biết con đường để trở nên giống Chúa hơn, nghĩa là trở nên “sự biểu lộ và phương thế” của tình yêu, một tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa (x. TĐ Deus caritas est, số 33). Được qui tụ lại với Mẹ Maria lúc Giáo hội mới được khai sinh, giờ đây Giáo hội cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến! Xin hãy đổ tràn xuống tâm hồn các tín hữu, và đốt lên trong họ ngọn lửa Tình Yêu Chúa”. Amen.
16. Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến--Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
SUY NIỆM THÁNH LỄ VỌNG (Ga 7,37-39)
Thánh lễ vọng chiều nay đưa chúng ta về với Chúa Giêsu và chiêm ngắm Người vào ngày cuối cùng và trọng đại của dịp lễ, nghe Chúa giảng: "Ai khát hãy đến cùng Ta và uống; ai tin nơi Ta, thì như lời Thánh Kinh dạy: từ lòng họ nước hằng sống sẽ chảy ra như dòng sông" (Ga 7, 37-38). Người muốn nói điều ấy về Chúa Thánh Thần.
Chúa Thánh Thần là nguyên lý sự hiệp nhất
Nếu như tại Babel, sự ngạo mạn kiêu căng của con người nổi lên chống lại Thiên Chúa tự sức riêng của mình muốn "xây một thành với một cây tháp mà ngọn nó chạm tới trời" (x. St 11,4). Hậu quả của hành động đó là Thiên Chúa làm cho họ phân tán, bất đồng ngôn ngữ với nhau, khiến họ không thể hiểu nhau làm gì nữa. Thì Lễ Hiện Xuống, điều ngược lại đã xảy ra: nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ nói được ngôn ngữ mà tất cả mọi người thuộc các nền văn hóa nghe đều hiểu như tiếng thổ âm của mình (x. Cv 2,6). Mọi chia rẽ bất đồng được vượt thắng, không còn kiêu căng chống lại Thiên Chúa nữa, cũng không còn có sự khép kín đối với nhau, họ mở rộng lòng mình ra cho Thiên Chúa và tha nhân, giao thiệp với nhau bằng một ngôn ngữ mới, ngôn ngữ của tình yêu thương mà Thiên Chúa đã đổ vào lòng họ nhờ Chúa Thánh Thần (x. Rm 5,5). Chúa Thánh Thần thúc đẩy họ làm điều thiện, an ủi họ trong cảnh sầu khổ, hoán cải nội tâm và trao ban sức mạnh và khả năng mới, dẫn đưa họ tới chân lý vẹn toàn, yêu thương và hiệp nhất.
Chúa Thánh Thần là Đấng sáng tạo
Câu đầu tiên trong Thánh Thi Kinh Chiều của ngày lễ Ngũ Tuần có viết: "Xin hãy đến, Lạy Chúa Thánh Thần, Ðấng sáng tạo..." làm cho chúng ta nhớ lại công cuộc tạo dựng vũ trụ thủa ban đầu, Thánh Thần Chúa bay lượn trên mặt nước trong cảnh hỗn mang (x. St 1,2).
Phải khẳng định rằng, thế giới chúng ta đang sống là cộng cuộc của Chúa Thánh Thần, Ðấng sáng tạo. Nên Lễ Ngũ Tuần không chỉ là nguồn gốc của Giáo hội, là lễ của Giáo hội. Nhưng Lễ Ngũ Tuần còn là lễ của tạo vật. Thế giới không tự mình hiện hữu; nhưng đến từ Thánh Thần sáng tạo của Thiên Chúa, đến từ Lời có sức sáng tạo của Thiên Chúa. Và vì vậy, thế giới phản chiếu sự khôn ngoan của Thiên Chúa: "Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự việc tay Ngài làm" (Tv 19,2). Đức nguyên Giáo hoàng Benedicto nói: "Sự khôn ngoan này hé mở cho chúng ta thấy được điều gì đó về Thánh Thần sáng tạo của Thiên Chúa. Chúng ta phải nhìn tạo vật như là hồng ân được trao ban cho chúng ta, không phải để bị hủy diệt, nhưng để trở thành ngôi vườn của Thiên Chúa" (Trích bài giáo lý về Chúa Thánh Thần).
Ðứng trước những hình thức khác nhau của việc lạm dụng trái đất, "mọi tạo vật đang rên siết trong cơn đau đớn như lúc sinh nở. Nhưng không phải chỉ tạo vật mà thôi đâu, mà cả chúng ta nữa, tức là những kẻ đã được hưởng của đầu mùa của Thánh Thần, chúng ta cũng rên rỉ trong mình chúng ta khi mong Thánh Thần nhận làm nghĩa tử, và cứu chuộc thân xác chúng ta". (Rm 8,22-24)
Chúng ta tự hỏi: Chúa Thánh Thần là ai hay là gì? Làm sao chúng ta có thể nhận ra Ngài? Bằng cách nào, chúng ta đến với Ngài và Ngài đến với chúng ta? Ngài tác động điều chi? Câu trả lời cho câu hỏi Chúa Thánh Thần là gì, Ngài làm điều chi và làm sao chúng ta có thể nhận biết Ngài. Chúa Thánh Thần là Ðấng Sáng Tạo, đến trợ giúp chúng ta. Ngài đã buớc vào trong lịch sử, và như thế, Ngài nói với chúng ta trong cách thức mới. Ngài đến gặp chúng ta qua tạo vật. Ngài là Tình Yêu, là sự hiệp nhất. Ngài mang đến cho chúng ta sự sống và sự tự do. Tất cả mọi tạo vật đều khao khát Chúa Thánh Thần.
Từ lòng họ nước hằng sống sẽ chảy ra
Ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là một cuộc thần hiện trong đó gió và lửa nhắc nhở chúng ta về tính siêu việt của Thiên Chúa. Sau khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần, các môn đệ nói mà không sợ hãi. Chúa Thánh Thần được Chúa Giêsu xin Chúa Cha ban xuống cho Giáo hội như là "nước hằng sống chảy ra như giòng sông" (Ga 7,38) vì nước ấy ở trong cung lòng của Thiên Chúa, cùng một lúc, chúng ta khám phá ra rằng, cũng trong Giáo hội, Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống thật. Thường chúng ta đề cập đến vai trò của Chúa Thánh Thần trong phương diện cá nhân, tuy nhiên, Lời Chúa hôm nay hiển nhiên cho thấy tác động Chúa Thánh Thần trong cộng đoàn Kitô hữu: "Thánh Thần mà những kẻ tin Người sẽ lãnh lấy" (Ga 7,39). Thánh Thần duy nhất biến cộng đoàn thành một thân thể duy nhất, thân thể Chúa Kitô. Hơn nữa, Ngài là suối bẩy nguồn đa dạng về các ơn: ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết và ơn thông minh, ơn lo liệu, ơn sức mạnh, ơn đạo đức và ơn kính sợ Chúa và tài năng như: tông đồ, làm tiên tri, nói tiếng mới lạ… làm cho mỗi người chúng ta trở nên phong phú và đa dạng.
Sự duy nhất là dấu chỉ rõ ràng về sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong cộng đoàn tín hữu. Điều quan trọng nhất của Giáo hội chính là sự hiện diện của Chúa Thánh Thần Đấng ban sự sống. Với con mắt loài người nhìn vào Giáo hội, chúng ta không thể nhận ra sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Trong lời nguyện mở đầu của Thánh lễ vọng chiều nay, chúng ta cầu xin Chúa tuôn đổ Thánh Thần để "các dân tộc chia tuy ngôn ngữ bất đồng, được hiệp nhất cùng nhau mà tuyên xưng danh Chúa." (Lời nguyện nhập lễ)
"Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến! Xin hãy đổ tràn xuống tâm hồn các tín hữu, và đốt lên trong họ ngọn lửa Tình Yêu Chúa!" Amen.
17. Những người rao giảng Tin Mừng đầy Thánh Thần--Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
Bốn mươi ngày sau Đại lễ Phục Sinh, Giáo hội long trọng cử hành mầu nhiệm cao cả Chúa về Trời, tiếp đến là cầu nguyện thiết tha: "Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến".
Lời cầu nguyện trên được Giáo hội tha thiết dâng lên Thiên Chúa Cha cùng với Chúa Giêsu để Người đoái thương đổ tràn Thánh Thần xuống trên Giáo hội và trên mỗi người chúng ta.
Đúng 10 ngày sau khi Chúa về Trời, chúng ta cử hành lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống với niềm vui khôn tả, Ngài là Đấng mà Đức Giêsu đã hứa với chúng ta (x. Ga 16, 7). Ngài "hiện diện" trong lịch sử Giáo hội, và hành động không biết mệt mỏi.
Hồi tưởng lại thời điểm "sau khi Chúa Giêsu lên trời, Các Tông đồ xuống khỏi núi … trở về Giêrusalem… các ông lên lầu gác… Mọi người đều đồng tâm kiên trì cầu nguyện, cùng với mấy người phụ nữ, và Bà Maria mẹ Chúa Giêsu, kiên trì cầu nguyện” (x. Cv 1, 12-14). Chuyện gì đã xãy ra khi họ đang cầu nguyện với nhau vậy? Chính lúc "tất cả các môn đệ đều tề tựu một nơi, bỗng từ trời phát ra tiếng động như tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào đầy nhà nơi họ đang sum họp. Lại có những lưỡi như thể bằng lửa xuất hiện và rải rác đậu trên từng người. Hết thảy mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng khác nhau tùy theo Thánh Thần ban cho họ nói" (Cv 2, 4).
Ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đã ngự xuống cách uy phong trên các Tông đồ; sứ mạng của Giáo Hội được khai sinh từ đó. Chính Chúa Giêsu đã truyền cho các Tông đồ ở lại chung với nhau trong kinh nguyện cùng với Mẹ Maria trong Phòng Tiệc Ly, để chuẩn bị lãnh nhận hồng ân Chúa Thánh Thần (x. CV 1,14). Họ đã làm như Chúa Giêsu truyền, và hết thảy được đầy Chúa Thánh Thần (x. Cv 2, 4).
Gioan Taulê (1300-1361), tu sĩ dòng Daminh ở Strasbour nói: "Nơi" mà sách Tông đồ Công vụ nói ở đây tượng trưng trước hết cho Hội Thánh, nơi Thiên Chúa ngự, nhưng cũng là biểu tượng của mỗi người chúng ta là đền thờ Chúa Thánh Thần ngự trị. Một ngôi nhà có nhiều tầng, nhiều phòng, nhiều công dụng, cũng như nơi con người có những khả năng, giác quan và nghị lực khác nhau, Chúa Thánh Thần viếng thăm tất cả cách đặc biệt. Khi Chúa Thánh Thần đến, Ngài nhào nặn, cổ vũ và gợi ý nơi con người một số khuynh hướng tốt, Ngài tác động và soi sáng họ. Cuộc viếng thăm và tác động nội tâm này, hết thảy mọi người đều được ơn không ai giống ai. Mặc dù Chúa Thánh Thần là Đấng duy nhất hoạt động nơi con người. (Trích bài giảng số 26, 2 ngày lễ Ngũ Tuần)
Phải khẳng định rằng "Chúa Thánh Thần đến vì chúng ta. Ngài không chỉ đến "để ở với Giáo hội luôn mãi" (Ga 14, 16). Như lời Chúa Giêsu hứa: "Để Người ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế".
Ngày hiện xuống, Chúa Thánh Thần còn đổ tràn đầy ân sủng và ơn đoàn sủng xuống trên Giáo hội thật phong phú dồi dào! Ðức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI nói: Đây là mầu nhiệm của Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống: Chúa Thánh Thần soi sáng tâm trí con người, và qua việc soi sáng cho họ biết về Chúa Kitô chịu đóng đinh, chết và đã sống lại, Chúa Thánh Thần chỉ cho biết con đường để trở nên giống Chúa hơn, nghĩa là trở nên "sự biểu lộ và phương thế" của tình yêu, một tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa (x. Deus Caritas Est, số 33).
Khi nói đến tác động của Chúa Thánh Thần trên người rao giảng Tin Mừng, Đức Phanxicô viết: "Những người rao giảng Tin Mừng đầy Thánh Thần có nghĩa là những nhà truyền giáo mở lòng ra với tác động của Chúa Thánh Thần mà không sợ hãi. Trong Ngày Lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần đã làm cho các Tông Ðồ ra khỏi chính mình và biến các ngài thành những người loan báo những việc cao cả của Thiên Chúa, mà mỗi thính giả bắt đầu hiểu theo ngôn ngữ riêng của mình. Chúa Thánh Thần cũng đổ vào chúng ta sức mạnh để loan báo sự mới mẻ của Tin Mừng với sự mạnh bạo lớn tiếng, ở mọi nơi và mọi lúc, ngay cả những lúc phải lội ngược dòng. Chúng ta hãy cầu khẩn Ngài hôm nay, để được thiết lập một cách vững chắc trên cầu nguyện, vì nếu không có cầu nguyện thì mọi hoạt động có nguy cơ trở thành trống rỗng và rốt cuộc lời rao giảng cũng trở nên không có hồn. Chúa Giêsu muốn chúng ta trở thành những nhà truyền giáo loan báo Tin Mừng không chỉ bằng lời nói, nhưng trên hết, bằng một cuộc sống được sự hiện diện của Thiên Chúa biến đổi". (Trích Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, số 259)
Đức Phanxicô còn nhấn mạnh: Chúa Thánh Thần là linh hồn của việc truyền giáo " Khi chúng ta nói rằng một điều gì có một "tinh thần", thì thường ám chỉ một số động lực bên trong tạo ra một sự thúc đẩy, động cơ, khích lệ cùng làm cho các hành động cá nhân và cộng đồng có ý nghĩa. Một việc truyền giáo đầy Thánh Thần khác xa với một mớ những công tác bị coi như những nhiệm vụ nặng nề mà chúng ta chỉ đơn thuần phải làm, hoặc việc gì bị coi như mâu thuẫn với những xu hướng và ước muốn của chúng ta. Tôi rất ước ao tìm được những lời để cổ võ một mùa rao giảng Tin Mừng nhiệt thành, vui mừng, quảng đại, táo bạo, tràn đầy tình yêu cho đến cùng và một đời sống truyền cảm! Nhưng tôi biết rằng không có động lực nào có thể đủ nếu không có ngọn lửa của Chúa Thánh Thần đốt cháy trong lòng chúng ta. Cuối cùng, truyền giáo với tinh thần là truyền giáo với Chúa Thánh Thần, vì Ngài là linh hồn của việc truyền giáo của Hội Thánh". (Trích Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, số 261)
Cùng với Mẹ Maria và toàn thể các thánh trên Trời, chúng ta cùng cầu nguyện như sau: "Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến! Xin Ngài đến canh tân, lay động và thúc đẩy Hội Thánh mạnh dạn ra khỏi chính mình để rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc. Xin Ngài đến đổ tràn xuống tâm hồn các tín hữu, và đốt lên trong họ ngọn lửa Tình Yêu Chúa trong lòng họ!" Amen.
18. Chúa Thánh Thần, Đấng Tác Sinh--Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
Năm mươi ngày ngày sau Đại lễ Phục Sinh, giờ đây Phụng vụ Giáo hội mời gọi chúng ta cử hành lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống với niềm vui khôn tả, Chúa Thánh Thần chính là Đấng mà Đức Giêsu đã hứa với chúng ta (x: Ga 16, 7). Ngài "xuất hiện" trong lịch sử của Giáo hội, và hành động không biết mệt mỏi. Đến muôn đời, Giáo hội sẽ tiếp tục nói các thứ tiếng, vì Giáo hội không chỉ giao tiếp với một quốc gia nhưng với hết mọi dân tộc trên toàn thế giới. Khắp mọi nơi, người ta sẽ nghe thấy Giáo hội diễn tả cùng một Đức tin trong ngôn ngữ của chính dân tộc ấy, và vì thế, phép lạ ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần sẽ luôn đồng hành với Giáo hội để Ngài tiếp tục làm nhiệm vụ đổi mới và canh tân. Thần Chân Lý đã "nhập thể" trong Hội Thánh. Lời ca nhập lễ: Thánh Thần Chúa tràn ngâp địa cầu, liên kết hết mọi người, thông thạo mọi ngôn ngữ. Hallêluia.
* Bài đọc Phụng vụ
- Tđcv 2, 1-11: Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông Đồ
- Tv 104, 1: Lạy Chúa, xin sai Thánh Thần Chúa đến, để Ngài đổi mới mặt đất này!
- 1 Cr 12, 3-7; 12-13 hoặc Gal 5, 16-25: Thần Khí Đức Kitô làm cho hiệp nhất hoặc Hãy để Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta
- Ga 20, 19-23 hoặc Ga 15, 26-27; 16, 12-15: Đức Giêsu Phục Sinh trao ban Chúa Thánh Thần cho các Tông Đồ hoặc Thần Chân Lý sẽ hướng dẫn anh em
Sách Tông Đồ Công Vụ thuật lại: "Hết thảy mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng khác nhau tuỳ theo Thánh Thần ban cho họ nói." (Tđcv 2,4.11)
Đây là một kỷ niệm tuyệt đẹp về ngày Chúa Thánh Thần được sai phái xuống trên các Tông Đồ và tất cả những người qui tụ chung quanh họ, ngày mà chúng có lại được hồng ân vô giá mà mưu chước Quân Thù và sự yếu đuối của nhân loại đánh mất là phúc Thiên Đàng...
"Bỗng từ trời phát ra tiếng động như tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào đầy nhà nơi họ đang sum họp". (Tđcv 2,2)
Gioan Taulê (1300-1361), tu sĩ dòng Daminh ở Strasbour nói: Ngôi nhà Sách Tông Đồ Công Vụ nói ở đây tượng trưng trước hết cho Hội Thánh, nơi Thiên Chúa ngự, nhưng cũng là biểu tượng của mỗi người chúng ta là đền thờ Chúa Thánh Thần ngự trị. Một ngôi nhà có nhiều tầng, nhiều phòng, nhiều công dụng, cũng vậy nơi con người có những khả năng, giác quan và nghị lực khác nhau: Chúa Thánh Thần viếng thăm tất cả, cách đặc biệt. Khi Chúa Thánh Thần đến, Ngài nhào nặn, cổ vũ và gợi ý nơi con người một số khuynh hướng tốt, Ngài tác động và soi sáng họ. Cuộc viếng thăm và tác động nội tâm này, hết thảy mọi người đều được ơn không ai giống ai. Mặc dù Chúa Thánh Thần là Đấng duy nhất hoạt động nơi con người. (Trích bài giảng số 26, 2 ngày lễ Ngũ Tuần)
Chúa Thánh Thần ở nơi những con người có lòng ngay thật, cũng như bất cứ ai muốn trở nên dễ uốn nắn bởi Chúa Thánh Thần... trong hòa bình và trật tự... người nào càng nhiệt tâm đón nhận, người ấy càng hiểu biết hơn về sự thể hiện nội tâm này và ngày càng gia tăng ơn của Chúa Thánh Thần, Đấng đã được ban cho con người ngay từ ban đầu.
Những "Hoa quả của Thần khí là: mến yêu, vui mừng, bình an, rộng rãi, tốt lành, lương thiện, tín trực," (Gal 5, 22)
Phải khẳng định rằng "Chúa Thánh Thần đến vì chúng ta. Ngài không chỉ đến "để ở với Giáo hội luôn mãi" (Ga 14, 16). Như lời Chúa Giêsu hứa: "Để Người ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế". Ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống, Ngài còn đổ tràn đầy ân sủng và ơn đoàn sủng xuống trên Giáo hội thật phong phú dồi dào! Chúng ta đọc thấy trong sách Tông Đồ Công Vụ (...) Chúa Thánh Thần hiện xuống một cách hữu hình trên những người chịu phép rửa tội và làm cho họ ngập tràn niềm vui. Ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần hiện xuống một cách hữu hình trên các Tông Đồ; kể từ ngày hôm đó, Giáo hội lan rộng khắp địa cầu, Giáo hội là Vương Quốc của Đức Giêsu, chính Chúa Thánh Thần cùng với Chúa Cha và Chúa Con điều khiển Giáo hội. Bằng sự thánh thiện, Ngài kiện toàn nơi tâm hồn con người ngay từ lúc khởi đầu Ơn Cứu Chuộc. Ngài ở trong Giáo hội, Ngài là linh hồn của thân thể nhiệm mầu là Giáo hội (...) Chúa Thánh Thần ngự trong Giáo hội cách thường ngày và vĩnh viễn, Ngài không ngừng trao ban sự sống và thánh hóa Giáo hội như lời Thánh Phaolô Tông Đồ nói: " Vì Ngài lưu lại nơi các ngươi và ở trong các ngươi." (Ga 14, 17). Vì là Thần khí Sự Thật, Đức Giêsu nói: khi nào Ngài đến, "Ngài sẽ hướng dẫn trong Chân Lý" (Ga 16, 13) Ngài sẽ đưa tất cả vào sự thật. Chính Ngài làm bừng lên trong Giáo hội sự phong phú siêu nhiêu: Ngài làm nảy sinh và triển nở những nhân đức anh hùng nơi tâm hồn cách thánh trinh nữ; các thánh tử đạo, các thánh hiển tu, ẩn tu, đó là một trong những dấu chỉ sự thánh thiện. Tóm lại, Chúa Thánh Thần hoạt động trong tâm hồn nhân thế; nhờ linh hứng trong Hội Thánh, nhờ máu châu báu của Đức Giêsu Kitô đổ ra, "tinh tuyền, không vết nhơ, không tì ố" (Ep 5, 27), ngõ hầu tất chúng ta xứng đáng trình diện trước tòa Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu trong ngày thẩm phán".
Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI nói: Đây là mầu nhiệm của Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống: Chúa Thánh Thần soi sáng tâm trí con người, và qua việc soi sáng cho họ biết về Chúa Kitô chịu đóng đinh chết và đã sống lại, Chúa Thánh Thần chỉ cho biết con đường để trở nên giống Chúa hơn, nghĩa là trở nên "sự biểu lộ và phương thế" của tình yêu, một tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa (x. Deus Caritas Est, số 33).
Cùng với Mẹ Maria và toàn thể các thánh trên Trời, chúng ta cùng cầu nguyện như sau: "Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến! Xin hãy đổ tràn xuống tâm hồn các tín hữu, và đốt lên trong họ ngọn lửa Tình Yêu Chúa trong lòng họ!" Amen.
19. Tất cả được tràn đầy Thánh Thần--Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
Trong suốt tuần chín ngày, chúng ta đã cầu xin tha thiết: Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến; lạy Đấng an ủi tuyệt vời, xin ngự đến.
Giáo hội xin Chúa Thánh Thần đến để làm gì? Thưa, Chúa Thánh Thần đến để rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, và chữa cho lành nơi thương tích. Uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng, chỉnh đốn lại chỗ trật đường… (Ca tiếp liên).
Hôm nay ngày lễ Ngũ Tuần, ngày mà lời Chúa Giêsu hứa với các tông đồ được hoàn tất. "Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Dothái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông… thổi hơi trên các ông và nói: "Các con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần" (Ga 20,22). Chúa Thánh Thần đã xuống trên các ông và ban đầy đủ các ơn cùng với các sự kiện bên ngoài.
Vì thế, chúng ta cử hành lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống với niềm vui khôn tả. Vui, vì có Chúa Thánh Thần, Giáo hội không bị mồ côi, có Chúa Thánh Thần, Giáo hội sẽ lĩnh hội được tất cả những gì Chúa Giêsu muốn, Chúa Thánh Thần là sức mạnh vô biên, là suối bẩy nguồn.
Giáo hội được Chúa Giêsu sai đến với mọi dân mọi nước và sẽ tiếp tục nói các thứ tiếng cho đến muôn đời, giao tiếp với hết mọi dân tộc trên toàn thế giới, và con người ở mọi nơi mọi thời sẽ còn tiếp tục sửng sốt và bỡ ngỡ, (x. Cv 2, 6), vì những người rao giảng Tin Mừng luôn đầy Thánh Thần. Khắp mọi nơi, người ta sẽ nghe thấy Giáo hội diễn tả cùng một Đức tin trong ngôn ngữ của chính dân tộc ấy (x. Cv 2, 6). Thế nên, phép lạ ngày lễ Ngũ Tuần, chứng tỏ Chúa Thánh Thần luôn đồng hành với Giáo hội để tiếp tục làm nhiệm vụ canh tân mặt đấy đổi mới lòng trí con người và đổi mới lòng trí con người hôm nay. "Thánh Thần Chúa tràn ngâp địa cầu, liên kết hết mọi người, thông thạo mọi ngôn ngữ. Hallêluia." Lời ca nhập lễ chứng tỏ Chúa Thánh Thần đã "nhập thể" trong Hội Thánh.
Điều gì đã xảy ra trong ngày xa xưa ấy, lúc các Tông Ðồ đang tụ họp với nhau ở tầng trên của phòng Tiệc Ly vậy?
Thưa: dấu hiệu đầu tiên là " Tiếng động từ trời phát ra tựa như gió mạnh thổi đến, lùa vào đầy nhà nơi họ đang sum họp" (x. Cv 2,1). Tiếng động bất thình lình phát ra và các lưỡi lửa chia ra đậu trên đầu từng Tông Ðồ là các dấu chỉ cụ thể đụng chạm tới các Tông Ðồ, không chỉ bề ngoài, nhưng cả trong nội tâm; trong tâm trí nữa. Kết quả là "tất cả đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần, và bắt đầu nói tiếng khác nhau tuỳ theo Thánh Thần ban cho họ nói" (Cv 2, 4).
Ngọn lửa đó là ngọn lửa tình thương đốt cháy mọi cứng cỏi; ngôn ngữ đó là thứ ngôn ngữ mới, ngôn ngữ đại đồng của tình thương mà Chúa Thánh Thần đổ vào lòng các tín hữu (x. Rm 5,5); một ngôn ngữ mà tất cả mọi người đều hiểu, và khi tiếp nhận có thể được diễn tả ra trong mọi cuộc sống và mọi nền văn hóa. Ngôn ngữ ấy là thứ ngôn ngữ của Tin Mừng vượt qua mọi ranh giới do con người đặt ra và đánh động tâm hồn nhiều người, không phân biệt ngôn ngữ, chủng tộc, màu da, tiếng nói hay quốc tịch.
Trong một Thánh Thần, tất cả được chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thẻ. Vì khi Chúa Thánh Thần đến, Ngài nhào nặn, cổ vũ và khơi dậy nơi con người một số khuynh hướng tốt, Ngài tác động và soi sáng họ. Cuộc viếng thăm và tác động nội tâm này, hết thảy mọi người đều được ơn tùy theo lợi ích không ai giống ai. Có một Thánh Thần duy nhất hoạt động trong Hội Thánh, nên có nhiều chức vụ, công việc, những chỉ có một Thánh Thần điều khiển và hướng dẫn thể (x. 1 Cr 12, 3-7. 12-13).
Chúa Thánh Thần ở nơi những con người có lòng ngay thật, cũng như bất cứ ai muốn trở nên dễ uốn nắn bởi Chúa Thánh Thần trong hòa bình và trật tự. Người nào càng nhiệt tâm đón nhận, người ấy càng hiểu biết hơn về sự thể hiện nội tâm này và ngày càng gia tăng ơn của Chúa Thánh Thần, Đấng đã được ban cho con người ngay từ ban đầu.
Chúa Thánh Thần là Thần Chân Lý và tình thương nhắc nhớ chúng ta về tất cả những gì Chúa Kitô đã nói. Ngài dạy dỗ chúng ta và làm cho chúng ta nói với Thiên Chúa, gọi Chúa là Cha, là Abba (Xc Rm 8,15; Gl 4,4); đồng thời làm cho chúng ta đối thoại với nhau trong tình huynh đệ và ngôn sứ.
Chúa Thánh Thần là sức mạnh vô biên đã biển đổi các môn đệ từ những con người nhát đảm sợ sệt trở nên những nhà truyền giáo can đảm phi thường không sợ tù đày, tra tấn và cái chết, vì sức mạnh của Chúa Thánh Thần ở cùng họ. Có Chúa Thánh Thần, sự khép kín nhường chỗ cho sự loan báo và mọi nghi ngờ bị xua tan bằng niềm tin đầy tình thương mến. Bằng chứng là ngày lễ Ngũ Tuần, thánh Phêrô được tràn đầy Thánh Thần, đứng lên "cùng với mười một tông đồ... lớn tiếng" (Cv 2,14) và "thẳng thắn" (Cv 2, 29) loan báo tin vui của Chúa Giêsu, là Ðấng đã hiến mạng sống mình để cứu độ chúng ta và Thiên Chúa đã cho sống lại từ các kẻ chết.
Ngài là suối bẩy nguồn.Với vẻ bề ngoài, xem ra Chúa Thánh Thần tạo ra sự mất trật tự trong Giáo hội, bởi vì Ngài mang đến sự khác biệt các đặc sủng, các ơn; nhưng dưới hoạt động của Chúa Thánh Thần là Thần Khí của hiệp nhất đã dẫn đưa tất cả tới sự hài hòa. Vì Chúa Thánh Thần "chính là sự hài hòa".
Không có sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần, Giáo hội sẽ không thể sống và thực hiện nhiệm vụ mà Chúa Giêsu phục sinh đã giao phó, là ra đi và làm cho tất cả mọi dân tộc trở thành môn đệ.
Chúng ta hãy xin cùng Chúa Cha, nhờ qua Chúa Giêsu Kitô, trong ân sủng của Chúa Thánh Thần, ngõ hầu việc cử hành Lễ Trọng Kính Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, được trở nên như ngọn lửa sốt mến và như luồng gió mạnh cho đời sống kitô hữu và cho sứ mạng của toàn thể Giáo Hội. Amen.
20. Xin đổi mới – ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Một người tội lỗi (Henri Ghéron) trong thế chiến thứ hai, đã kể lại lúc xưng tội của ông như sau: “Hai tay tôi ôm đầu, miệng bập bẹ run run, tôi đổ dòng tội tuôn ra như thác… Tôi cảm thấy một thứ cặn đắng, từng ngụm, từng ngụm trào ra khỏi các thớ thịt con tim tôi với tất cả khối nặng đó, với tất cả chất độc đó đã đè nén tôi suốt hai mươi năm nay. Tôi cố cựa quậy đổ dốc nó ra cho Linh mục giải tội. Và Thiên Chúa đã nghe lời tôi: “Hãy về bình an, Thánh Thần đã ngự trong con!”. Tôi trẻ lại hai mươi tuổi; hai mươi năm tội lỗi. Một niềm vui sướng mới lạ tràn ngập tâm hồn tôi: Tôi chạy, tôi nhảy, tôi bay, tôi không còn cảm thấy xác thịt nặng nề của tôi nữa”. Bởi đâu người xưng tội này được chan chứa niềm vui như vậy?
Thưa, bởi Đức Giêsu đã ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ để tha tội cho ai xưng tội, như Người nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần anh em tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha”. Lần khác, trong một đêm gió mát trăng thanh, ông Nicôđêmô, một thủ lãnh Do Thái, đến gặp Đức Giêsu. Người cũng tỏ cho ông biết thế này: “Thật, tôi bảo thật ông: Không có ai có thể vào nước Thiên Chúa nếu không sinh bởi nước và Thánh Thần. Cái gì bởi xác thịt mà sinh ra, thì là xác thịt; cái gì mà bởi Thánh Thần mà sinh ra, thì là linh thánh” (Ga. 3, 5-6).
Xác thịt sinh ra những cái gì? Thánh Phaolô cho giáo đoàn Galata biết: “Những việc do xác thịt gây ra thì ai cũng rõ: Đó là dâm bôn, ô uế, phóng đãng, phù phép, thờ quấy, hận thù, bất hoà, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tị, say sưa, chè chén và những điều khác giống như vậy” (Galata 5, 19-21) Đó là những thứ làm cho con người ra ô uế, hư hỏng, hư thối.
Thánh Thần sinh ra những gì? Là “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Galata 5, 22-23) Đó là những hoa quả của Thần khí làm cho con người sống tươi mới, xinh đẹp, thanh khiết thánh thiện.
So sánh hai lối sống, ta thấy khác nhau như cũ với mới, như chết với sống: “Những ai sống theo xác thịt thì hướng về xác thịt. Những ai sống theo thần khí thì thuộc về thần khí. Hướng về xác thịt là sự chết, hướng về thần khí là sự sống và bình an” (Rm. 8, 5-6)
Các môn đệ từ trước đến giờ vẫn sống theo hướng xác thịt. Thánh Luca đã chứng tỏ cho ta thấy rõ điều đó: Sau khi Chúa sống lại: “Trong bốn mươi ngày, Người hiện ra nói chuyện với các ông về nước Thiên Chúa” và lúc Người sắp sửa lên trời, “bấy giờ những người đang tụ họp ở đó mới hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, Phải chăng đã đến lúc Thầy khôi phục vương quốc Israel?”. Người phải cực lòng trả lời: “Anh em không cần phải biết thời giờ và kỳ hẹn Chúa đã toàn quyền sắp đặt” (Cv. 1, 6-7). Lối sống hướng về xác thịt của các ông chỉ mong muốn được Thầy cai trị nước Israel, cai trị nước thế gian để các ông được làm Thủ tướng, bộ trưởng, đầy giầu sang, danh vọng, quyền quý.
Phải chờ đến Chúa Thánh Thần hiện xuống thổi một luồng gió mới vào tận tâm hồn các ông, biến đổi các ông nên mới, đốt một ngọn lửa mới soi sáng tâm trí các ông hướng về thần khí mà từ bỏ hướng xác thịt. Lúc đó: “Hết thảy các ông được tràn đầy ơn Thánh Thần và bắt đầu nói nhiều tiếng nước ngoài, tùy theo Thánh Thần ban cho”.
Ơn Thánh Thần ban xuống trên các tông đồ qua các tác động mạnh mẽ như: Tiếng gió ào ào, lưỡi lửa, và nhiều thứ tiếng nói.
1- Tác động của gió ào ào: Đây là sức sống thần khí, khi Thiên Chúa dựng nên con người, Thiên Chúa đã thổi hơi vào thằng người được nặn bằng bùn đất. Hơi thở thần khí đã biến bùn đất thành Adam sống động. Từ đó Adam trở thành người đầy sức sống tốt lành và tràn đầy sinh lực hạnh phúc. Luồng gió mới của thần khí nay cũng thổi vào khắp các cơ thể xác thịt của tông đồ biến đổi các ông thành chi thể mới của Đức Kitô chứa đầy những đặc sủng để các ông phục vụ nhiều việc khác nhau vì ích chung nhờ Thánh Thần đang hoạt động trong các ông.
2- Tác động của lưỡi lửa: Đấy là ánh sáng vinh quang của Thiên Chúa làm thành hào quang trên đầu Môsê, để Môsê lãnh nhận mười điều răn trên núi Sinai, để ông soi sáng dậy dỗ dân Chúa sống trong đường lối công chính và thánh thiện của Ngài. Nay các môn đệ được hào quang đó, để đi rao giảng lời Chúa chiếu sáng khắp muôn dân từ Giêrusalem đến tận cùng thế giới. Các ông đã thực hiện lời Thầy dậy: “Các con là ánh sáng thế gian” mà “Thầy đã đem ánh sáng đó đến thế gian. Thầy mong muốn cho nó cháy sáng lên soi mọi người”.
3- Tác động của các thứ tiếng nói: Đây là đặc sủng riêng của các tông đồ, Thánh Thần ban cho các ông, từ trước tới nay chưa hề có, để các ông qui tụ muôn dân. Muôn dân đã bị chia rẽ, phân tán khi tổ tiên họ kiêu ngạo đòi xây cây tháp Babel chọc trời và đã bị Thiên Chúa phạt: mỗi người nói một thứ tiếng. Họ không còn hiểu nhau, mỗi người một phách, họ đoạn tuyệt với nhau và trở nên hận thù đàn áp xâm chiếm lẫn nhau. Nay Thánh Thần hiện xuống tái lập sự hợp nhất: Ban cho các tông đồ nói một thứ tiếng lạ cho muôn dân hiểu biết Thiên Chúa, hiểu biết nhau, đoàn kết nên một dân mới, tuyên xưng một đức tin, một phép rửa, một Thiên Chúa là Cha nhân ái và mọi người đều là anh em trong một thân thể của Đức Giêsu Kitô.
“Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến đổi mới chúng con, cho tâm hồn chúng con, dùlà Do Thái hay chư dân, tự do hay nô lệ, đều được nhuần thấm sức sống mạnh mẽ của Thánh Thần và cháy lửa yêu mến Ngài”.
21. Hãy nhận lấy Thánh Thần--Lm Đan Vinh
1. LỜI CHÚA: "Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ tội ai, thì người ấy bị cầm giữ" (Ga 20,22-23).
2. CÂU CHUYỆN: Thánh Thần tác động.
Trên một toa tàu chợ phát xuất từ thành phố Can-quýt-ta Ấn Độ, giữa đám hành khách nghèo khổ đang ngồi la liệt trên sàn tàu, có một phụ nữ tay cầm tràng hạt, mắt nhắm lại và miệng đang lẩm bẩm đọc kinh. Người phụ nữ đó không ai khác hơn là bà Tê-rê-sa. Về sau người đời đã gọi bà bằng một cái tên thân thương: "Mẹ Tê-rê-sa thành Can-quýt-ta". Bà là người đã sáng lập dòng Thừa sai Bác ái, với sứ mệnh chuyên lo tìm kiếm những bệnh nhân nghèo khổ đang bị bỏ rơi và bị hấp hối trên các hè phố tại thành phố Can-quýt-ta. Họ thuộc giai cấp cùng đinh trong xã hội nước Ấn. Sứ vụ của chị em nữ tu này là mang những người đó về tu viện chăm sóc và giúp họ chết trong bình an. Về sau mẹ Tê-rê-sa đã kể lại ơn gọi ấy như sau: "Khi nhìn thấy đám người nghèo khổ kia đang nằm ngồi ngổn ngang trên sàn tàu, đột nhiên có một sức mạnh đã đổ ập xuống trên tôi, làm cho tôi tự nhiên cảm thấy họ chính là những Chúa Giê-su đang bị bỏ rơi. Tôi sẽ phải làm gì để giúp đỡ họ đây?". Sau đó bà đã quyết định lập một dòng nữ với sứ vụ chuyên lo phục vụ những người nghèo khổ này. Rồi bà bắt tay vào công việc đầu tiên là đi tìm mướn nhà để có nơi phục vụ họ, đang khi trong túi chỉ còn đúng ba đồng bạc Ấn! Nhưng nhờ ơn Chúa giúp mà ngày nay dòng Thừa sai Bác ái của Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta đã lan đi khắp thế giới. Quả thực, Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và họat động nơi mọi thành phần dân Chúa trong Hội thánh.
3. SUY NIỆM:
1) Thánh Thần tác động thế nào trong cuộc đời Đức Giêsu?:
Về việc đầu thai của Đức Giê-su, Hội thánh đã tuyên xưng đức tin như sau: "Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Ma-ri-a đồng trinh" (x. Lc 1,35). Nghĩa là chính nhờ quyền năng Thánh Thần, Đức Ma-ri-a đã thụ thai Hài Nhi Giê-su mà vẫn còn trinh khiết vẹn toàn. Rồi khi Đức Giê-su bắt đầu sứ vụ rao giảng Tin mừng, Người đã đến xin Gio-an làm phép rửa bằng nước tại sông Gio-đan. Vừa chịu phép Rửa xong, Thánh Thần như chim bồ câu từ trời ngự xuống và lưu lại trên Người (x. Mt 3,16b). Sau đó, Thánh Thần đã hướng dẫn Người vào sa mạc ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày và chịu ma quỉ thử thách cám dỗ. Chính nhờ sức mạnh của Thánh Thần mà Đức Giê-su đã chiến thắng ba cơn cám dỗ của ma quỷ (x. Mt 4,1-10). Rồi trong quyền năng của Thánh Thần, Người đi rao giảng Tin mừng Nước Trời bắt đầu từ Ga-li-lê (x. Lc 4,14-15). Cũng nhờ Thánh Thần mà Người đã xua trừ ma quỷ (x. Mt 12,28) và chữa lành các bệnh họan tật nguyền trong dân (x. Mt 4,23). Khi được Thánh Thần tác động, Ngừơi đã hớn hở vui mừng thốt lên lời ngợi khen Chúa Cha (x. Lc 10,21). Rồi sau khi phục sinh và được đầy Thánh Thần, Người đã hiện ra chúc bình an (x. Ga 20,19), rồi sai các ông đi rao giảng Tin mừng (x. Ga 20,21), tiếp tục sứ vụ của Ngừơi (x. Mt 28,19-20). Người thổi hơi ban Thánh Thần để giúp các ông chu toàn sứ vụ ấy (x. Ga 20,22). Cuối cùng, Người còn ban cho các ông quyền tha tội hay cầm buộc tội người ta nữa (x. Ga 20,23).
2) Thánh Thần tác động thế nào trong Hội Thánh?: Thời Hội thánh sơ khai, Thánh Thần đã tác động biến đổi các Tông đồ (x. 1 Cr 12,4-11): Từ tình trạng nhút nhát sợ hãi trở nên can đảm công khai làm chứng cho Chúa Giê-su trước mặt đám đông (x. Cv 2,14-36); Từ tình trạng kém hiểu biết Lời Chúa, trở nên khôn ngoan, hiểu thấu mọi điều Chúa đã dạy trước đó (x. Ga 16,12-13); Từ tình trạng buồn chán thất vọng muốn thối lui, trở nên nhiệt thành yêu mến Chúa, tràn đầy niềm vui và hy vọng (x. Lc 24,32-35). Nhờ Thánh Thần mà các Tông đồ đã thâu nạp được nhiều người có lòng sám hối đến xin chịu phép Rửa nhân danh Đức Giê-su (x. Cv 2,41). Cũng nhờ ơn Thánh Thần mà cộng đoàn tín hữu đầu tiên luôn sống hiệp thông, siêng năng tham dự lễ Bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng. Nhờ đó số tín hữu gia nhập Hội thánh ngày một gia tăng (x. Cv 2,42-47). Ngày nay Chúa Thánh Thần tiếp tục giúp Hội thánh chu toàn sứ vụ cứu độ của Chúa Giê-su. Đặc biệt Thánh thần soi sáng cho các vị chủ chăn để có khả năng chu toàn ba sứ vụ do Đức Giê-su trao: Một là sứ vụ Ngôn sứ để công bố Tin mừng Nước Trời. Hai là sứ vụ Tư tế để thánh hóa các tín hữu bằng các phép bí tích do Chúa Giê-su thiết lập. Ba là sứ vụ Vương đế để chăn dắt và phục vụ đòan chiên Hội thánh. Do đó, khi Đức Giáo hòang triệu tập Công Đồng mà công bố điều gì về đức tin và luân lý thì được ơn bất khả ngộ không thể sai lầm, vì luôn được Chúa Thánh Thần soi sáng, như Công đồng Giê-ru-sa-lem vào năm 49 đã ra quyết nghị với câu mở đầu khẳng định như sau: "Thánh Thần và chúng tôi quyết định" (Cv 15,28).
3) Thánh Thần tác động thế nào nơi các tín hữu hôm nay:
Khi lãnh nhận phép Rửa Tội, và nhất là khi chịu phép Thêm Sức, Chúa Thánh Thần sẽ tác động nơi các tín hữu như sau.
+ Thánh Thần ban 7 ơn để soi sáng, hướng dẫn và giúp các tín hữu nên tốt lành thánh thiện giống như Chúa Giê-su. Thánh Phao-lô đã kể ra bảy ơn Thánh Thần ban như sau: khôn ngoan, hiểu biết, thông minh, biết lo liệu, sức mạnh, đạo đức và kính sợ Thiên Chúa (x. 1 Cr 12,8-11).
+ Thánh Thần sẽ ban sự sống của Thiên Chúa, biến các tín hữu nên trưởng thành về đức tin, thể hiện qua việc kết hiệp mật thiết với Chúa Giê-su và can đảm làm chứng cho Người (x Ga 6,63). Thực vậy, nhờ ơn Thánh Thần, các tín hữu chúng ta sẽ có thể hiểu biết đầy đủ về đức tin và thực hành theo lời Chúa Giê-su day, như Người đã hứa với các môn đệ: "Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em" (Ga 14,25).
+ Thánh Thần sẽ cho các tín hữu chúng ta tham phần vào ba sứ vụ cứu độ của Chúa Giê-su là ngôn sứ, tư tế và vương đế để rao giảng Tin Mừng, thánh hóa và phục vụ dân Chúa. Chúng ta sẽ được tham phần vào sứ vụ làm chứng cho Chúa Ki-tô bằng lời nói việc làm và bằng lối sống bác ái quên mình, quảng đại chia sẻ cụ thể và khiêm nhường phục vụ tha nhân vô vụ lợi... nhờ những việc lành đó, anh em lương dân sẽ dễ dàng nhận biết, tin thờ Thiên Chúa như lời Đức Giê-su đã dạy: "Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời" (Mt 5,16).
4) Cần cộng tác với ơn Thánh Thần:
Sở dĩ nhiều tín hữu tuy đã chịu phép rửa tội và thêm sức, nhưng vẫn sống theo tính xác thịt là do mới chịu phép rửa bằng nước mà chưa được tái sinh bời Thánh Thần. Điều chúng ta cần phải làm là tránh xúc phạn đến Thánh Thần và mở lòng để Ngài tác động thánh hóa:
+ Tránh tội xúc phạm đến Thánh Thần: Cần tránh kiêu ngạo cứng lòng tin như các kinh sư Do thái xưa (x Mc 3,30). Đây cũng là tội của ma quỷ chống lại ơn cứu độ của Thiên Chúa như Đức Giê-su đã nặng lời quở trách dân Do thái qua miệng ngôn sứ I-sai-a như sau: "Các ngươi lắng tai nghe mà chẳng hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì. Vì lòng dân này đã ra chai đá, họ đã bịt tai nhắm mắt lại, kẻo mắt thấy được, tai nghe được, và lòng chúng hiểu được mà hối cải, và Ta lại chữa chúng cho lành" (Mt 13,14-15; Is 6,9-10). Do cố tình từ chối ơn cứu độ của Thiên Chúa do Chúa Giê-su ban nên tội này cũng xúc phạm đến Thánh Thần và sẽ không bao giờ được tha (x Mc 3,29).
+ Cần mở lòng đón nhận ơn Thánh Thần thánh hóa: không ai có thể nắm bắt được Thần Khí, cũng không ai có thể mua chuộc được Thánh Thần. Tin Mừng Gioan viết "Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu tới và thổi đi đâu" (Ga 3,8). Muốn nhận được ơn Thánh Thần, các tín hữu cần noi gương các Tông đồ như sau: "Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su" (Cv 1,14). Mỗi ngày chúng ta hãy năng cầu xin Chúa Thánh Thần ngự đến thánh hóa bản thân bằng lời cầu xin: "Lạy Chúa Thánh Thần xin hãy ngự đến canh tân lòng trí con".
Hoặc năng nhẩm bài hát sau:
ĐK: Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến canh tân đổi mới, đời sống chúng con. Tăng sức linh hồn bồi thêm lửa mến, soi sáng trí khôn, hiệp nhất muôn lòng.
1- Chúa hỡi, khấn xin ngự đến đổ tuôn muôn ơn, phù giúp chúng con. Xin thương soi dẫn nhân tâm nương theo Thần Khí bước trong bình an.
2- Hãy đến Thánh Linh từ ái suối ơn mát trong là Đấng ủi an. Xin thương nâng đở ủi an con chiên lạc hướng khổ đau lầm than.
4. THẢO LUẬN:
1) Phân biệt Thánh Thần và thiên thần giống và khác nhau thế nào?
2) Ngày nay các tín hữu nhận được ơn Thánh Thần khi nào?
3) Mỗi tín hữu chúng ta phải làm gì để được ơn Thánh Thần tác động noi gương các Tông đồ trong lễ Ngũ Tuần?
5. NGUYỆN CẦU:
- Lạy Chúa Giêsu. Nhiều khi chúng con cảm thấy Thánh Thần xa lạ, đang khi Ngài thật là Bạn, là Thầy của chúng con. Ngài luôn ở bên và ở trong chúng con. Ngài cần cho đức tin của chúng con, giống như hơi thở cần cho sự sống. Chúng con chỉ có thể gọi Thiên Chúa: "Áp-ba! Ba ơi!" nhờ Thánh Thần, Đấng làm cho chúng con trở nên nghĩa tử (x. Rm 8,15). Chúng con chỉ có thể gọi Đức Giê-su là "Chúa" khi chúng con ở trong Thánh Thần (x. 1 Cr 12,3). Chính nhờ có Thánh Thần hướng dẫn, chúng con mới dám cầu nguyện và mới cảm nghiệm được sự ngọt ngào của Lời Chúa. Cũng chính nhờ Thánh Thần mà Hội thánh không ngừng canh tân đổi mới.
- Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin ban Thánh Thần như cơn gió mạnh, thổi đi mọi nỗi lo âu sợ hãi cùng những rụt rè khép kín trong tâm hồn chúng con. Xin thắp sáng ngọn lửa tin yêu của Thánh Thần trong lòng chúng con, để chúng con có thể chu toàn sứ vụ được sai đi, với một trái tim bừng cháy lửa mến yêu. Xin ban cho chúng con sự sống của Thánh Thần để chúng con luôn mến Chúa và yêu tha nhân. Nhờ đó, chúng con hy vọng sẽ trở thành khí cụ bình an của Chúa và tích cực góp phần vào sứ vụ loan báo Tin mừng cứu độ của Hội Thánh.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
22. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống--Lm Giuse Nguyễn Văn Tuyên
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy ngự đến!
Trong kho tàng văn chương Ấn giáo có ghi lại câu chuyện như sau: Có một đệ tử đến thưa với vị linh đạo của mình: "Thưa thầy, con muốn gặp Chúa". Vị linh đạo chỉ đáp trả bằng một cái mỉm cười thinh lặng.
Ngày hôm sau, người môn sinh trở lại và bày tỏ cũng một ước muốn. Vị linh đạo vẫn mỉm cười tiếp tục giữ sự im lặng cố hữu của ông.
Một ngày đẹp trời nọ, ông đưa người thanh niên đến một dòng sông. Thầy trò cùng trầm mình xuống nước. Chờ cho người đệ tử cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong dòng nước mát, bất thần, vị linh đạo túm lấy anh và dìm xuống nước hồi lâu. Người thanh niên cố gắng vùng vẫy đế trồi lên mặt nước. Lúc bấy giờ vị linh đạo mới hỏi anh: "Khi bị dìm xuống nước như thế, con cảm thấy cần điều gì nhất?". Không một chút suy nghĩ, người đệ tử đáp: "Thưa thầy, con cần có không khí để thở"".
Lúc bấy giờ vị linh đạo mới dẫn giải: "Con cảm thấy cần gặp Chúa như con cần khí thở không? Nếu con cảm thấy cần như thế, con sẽ gặp được Ngài tức khắc. Ngược lại, nếu con không hề cảm thấy cần như thế thì cho dù con có vận dụng tất cả tài trí và cố gắng, con cũng sẽ không bao giờ gặp được Ngài".
***
Chúa Thánh Thần là Đấng nào?
Cùng với toàn thể Hội Thánh, hôm nay, chúng ta long trọng mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Khi nói đến Chúa Thánh Thần, có lẽ, chúng ta chỉ biết Ngài là Ngôi Ba Thiên Chúa mà thôi. Đối với không ít người Công Giáo, Chúa Thánh Thần như một Đấng xa lạ, thậm chí, Ngài chẳng có ảnh hưởng gì mấy tới đời sống của chúng ta. Nhưng thực ra, Chúa Thánh Thần có vai trò vô cùng quan trọng không chỉ trong đời sống của Giáo Hội, mà còn trong cả đời sống của mỗi người chúng ta nữa.
Vai trò của Chúa Thánh Thần trong hoạt động của Hội Thánh
Ngay từ những trang đầu của Thánh Kinh, chúng ta đã nhận thấy sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong công cuộc tạo dựng qua hình ảnh: "Thần Khí Chúa bay là là trên mặt nước", làm tác sinh muôn loài muôn vật. Thần Khí Chúa được ban cho các ngôn sứ, các vua cũng như các vị thủ lãnh, để các ngài thi hành và chu toàn bổn phận của mình trước mặt Thiên Chúa.
Bước sang thời Tân Ước, Chúa Thánh Thần không ngừng hướng dẫn các hoạt động trong cuộc đời Chúa Giêsu, kể từ lúc Ngài thành hình trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria (Vì Chúa Giêsu thụ thai bởi phép Đức Chúa Thánh Thần) cho tới tận đỉnh đồi Golgotha. Sau cùng, Thiên Chúa Cha đã dùng quyền năng Chúa Thánh Thần làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết.
Kể từ sau khi Đức Giêsu về trời cho đến hôm nay, Chúa Thánh Thần hằng hoạt động để hướng dẫn Hội Thánh. Ngài làm cho Giáo Hội được hiệp nhất bằng cách ban những đặc sủng khác nhau cho nhiều người để họ phục vụ lợi ích chung. Ngài hiện diện nơi các vị lãnh đạo Giáo Hội, Ngài cũng có mặt nơi các nhóm giáo dân. Ngài hiện diện trong các Bí Tích, trong mỗi thánh lễ. Ngài thánh hóa bánh rượu để trở nên Mình và Máu Đức Kitô. Thế nên, có thể nói rằng: Chúa Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội; không có Ngài, Giáo Hội chỉ là một cơ cấu giống như bất cứ một cơ cấu tổ chức xã hội nào khác.
Vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta
Kể từ khi lãnh Bí tích Rửa tội, Chúa Thánh Thần hằng hướng dẫn cuộc đời mỗi người chúng ta. Đặc biệt, qua Bí Tích Thêm Sức, chúng ta nhận được một cách dồi dào bảy ơn Chúa Thánh Thần, giúp chúng ta trở nên "chiến sĩ Chúa Kitô", can đảm làm chứng cho Chúa giữa cuộc đời. Chúa Thánh Thần còn có mặt khi ta rung động trước một đoạn Lời Chúa. Ngài có mặt khi ta muốn tiến một bước mới trong đời sống cầu nguyện, trong đời sống thiêng liêng...
Không những thế, Chúa Thánh Thần là nguyên lý của sự hiệp nhất các Kitô hữu. Câu chuyện tháp Baben xưa, loài người vì kiêu ngạo, muốn bằng Thiên Chúa nên đã bị chia rẽ và phân tán, thì nay, nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các tông đồ có thể nói mà nhiều người thuộc các ngôn ngữ khác nhau đều hiểu được; mọi người ở các quốc gia khác nhau cùng tuyên xưng một niềm tin vào Chúa.
***
Trong khi hiện ra với các môn đệ, cùng với việc thở hơi để trao ban Thần Khí, Chúa Giêsu còn ban bình an cho các môn đệ, đang khi các ông lo lắng, phiền muộn. Như vậy, Chúa Thánh Thần còn là nguồn bình an mà Chúa Giêsu trao tặng cho mỗi người chúng ta. Khi lãnh nhận món quà đó, chúng ta cũng được mời gọi trở nên bình an cho những người chúng ta gặp gỡ, nhất là những người đang sống trong cảnh khốn cùng; để chớ gì, bất cứ nơi đâu có dấu chân của chúng ta bước tới, nơi đó có sự bình an.
Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là một cơ hội nhắc nhở mọi người chúng ta suy nghĩ lại về vai trò của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta. Chúa Thánh Thần, dù được cầu khấn mỗi khi chúng ta bắt đầu một công việc, nhưng dường như sự kêu cầu này đã trở nên máy móc, và chúng ta không còn ý thức đến sự hiện diện của Ngài trong đời sống của người Kitô hữu chúng ta. Chúng ta chưa lắng nghe và vâng theo sự chỉ dạy và hướng dẫn của Ngài. Làm sao để Chúa Thánh Thần có một chỗ đứng quan trọng trong cuộc đời chúng ta?
Thánh Phaolô tông đồ nói: "Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí" (1Cr 12,4). Như vậy, mỗi thành phần trong Giáo hội đều có những vai trò khác nhau, nhưng cùng một mục tiêu chung là xây dựng thân thể Hội Thánh. Mỗi người chúng ta hãy duyệt xét lại bản thân mình xem, tôi đã sử dụng những ơn huệ Chúa ban như thế nào? Tôi đã dùng để phục vụ và xây dựng Hội Thánh Chúa, hay sử dụng vào mục đích khác?
Chúa Thánh Thần đã, đang và vẫn còn hoạt động trong Hội Thánh, thế nhưng, đôi lúc, chúng ta chưa nhận ra Ngài là vì như câu chuyện kể trên, chúng ta chưa khao khát Ngài cho đủ, chưa mong muốn Ngài thực sự. Dâng thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Đức Mẹ hướng dẫn chúng ta, như xưa, Mẹ đã hướng dẫn các môn đệ trong nhà Tiệc Ly, để chúng ta có thể mở lòng ra, đón nhận một cách dồi dào những nguồn ơn phúc vô biên của Chúa Thánh Thần. Amen.
23. Vị Thiên Chúa bị quên lãng
Sách Tông đồ Công vụ kể lại rằng, khi đến Êphêsô, thánh Phaolô đã gặp gỡ một số tín hữu tiên khởi, ngài hỏi họ về Chúa Thánh Thần, thì họ trả lời: Chúng tôi không hề nghe biết có Chúa Thánh Thần. Còn khi đến Athènes, ngài thấy ở một góc phố, có một bàn thờ với hàng chữ: kính thần vô danh.
Với chúng ta cũng vậy, Chúa Thánh Thần là vị Thiên Chúa vô danh, là vị Thiên Chúa thường bị chúng ta quên lãng hơn cả. Chúng ta nói và hiểu biết nhiều điều về Chúa Cha cũng như Chúa Con, nhưng về Chúa Thánh Thần thì chúng ta lại chẳng hiểu biết chi cả. Thế nhưng Chúa Thánh Thần lại nắm giữ một vai trò quan trọng, đặc biệt trong ngày hôm nay, ngày Ngài hiện xuống, khai mở một giai đoạn mới, giai đoạn của Giáo Hội.
Từ thuở ban đầu, khi tạo dựng vũ trụ thì Thánh Thần Chúa đã bay lượn trên nước. Tiếp đến, Ngài luôn hiện diện và hướng dẫn lịch sử nhân loại. Ngài đã thâm nhập vào các tổ phụ, các tiên tri, các vua chúa, các nhà lãnh đạo để xây dựng dân Chúa, mà cao điểm tuyệt vời nhất chính là Đức Kitô.
Thực vậy, Đức Kitô đã được cưu mang bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, trong cung lòng Trinh Nữ Maria, được Chúa Thánh Thần ngự xuống nơi bờ sông Giócđan. Và hơn thế nữa, luôn được Chúa Thánh Thần cùng bước đi trong mọi giai đoạn của cuộc đời cho đến ngày tử nạn khổ đau và phục sinh vinh quang. Lịch sử cứu rỗi đó còn được tiếp tục qua lịch sử nhân loại, và hôm nay là ngày khai mở một giai đoạn mới, giai đoạn của Giáo Hội, khi Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các tông đồ để khai sinh ra Giáo Hội. Chúa Thánh Thần đã thánh hoá các ông bằng lửa, bằng gió và bằng lời.
Thực vậy lửa để soi sáng, gió để thúc đẩy và lời để cảm hoá và chinh phục. Trải qua dòng thời gian, nhìn vào lịch sử Giáo Hội, chúng ta sẽ nhìn thấy tác động của Chúa Thánh Thần. Chẳng hạn như khi Ngài soi sáng cho Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII quyết định khai mở Công đồng Vatican II, vào một thời điểm mà chính Đức Thánh Cha cũng không nghĩ tới. Và theo Đức Thánh Cha diễn tả, thì đó chính là một lễ Hiện Xuống mới.
Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần không phải chỉ tác động trên các nhà lãnh đạo Giáo Hội, mà hơn thế nữa, Ngài còn tác động tên mỗi người chúng ta, trên các phần tử của Giáo Hội.
Chuyến tàu khởi hành từ Calcutta bắt đầu lăn bánh trong đêm tối. Giữa đám hành khách đang lắc lư ngủ gật, có một người đàn bà âm thầm lần hạt, đó là Mẹ. Têrêsa. Mẹ kể lại rằng: như có một sức mạnh xâm nhập vào mẹ và thế là mẹ quyết định lập một dòng tu, hiến thân để phục vụ người nghèo. Mẹ khởi công với ba đồng bạc Ấn Độ, thế nhưng hôm nay, dòng Thừa sai bác ái của mẹ đã tràn lan khắp thế giới. Và như vậy Chúa Thánh Thần luôn hoạt động trong mọi thành phần của Giáo Hội.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đổi mới mọi sự trong ngoài chúng con.
24. Ý nghĩa cuộc sống
Chúa Thánh Thần đem lại gì cho chúng ta. Đó là câu hỏi chúng ta cùng nhau tìm hiểu. Và ơn huệ đầu tiên Ngài đem lại đó là đức tin. Chính đức tin sẽ tạo nên nơi chúng ta một cái nhìn mới.
Kể từ nay, chúng ta không còn cúi mặt nhìn xuống đất, mà còn có thể ngước mắt nhìn lên trời. Và qua những thực tại trần gian, chúng ta sẽ tìm thấy những giá trị siêu nhiên. Chúa Thánh Thần sẽ mở ra một chân trời mới, sẽ hướng dẫn chúng ta bước vào cõi sống đời đời. Hẳn rằng đã hơn một lần chúng ta băn khoăn và tự hỏi: Hỡi người, người là ai? Tại sao người lại sống trên mặt đất này. Rồi người sẽ đi về đâu? Mục đích cuộc sống của người là gì? Ý nghĩa cuộc sống của người là gì?
Có một nhà hiền triết nọ cũng đã suy tư như thế. Hôm đó, ông đi lang thang trong rừng, miệng không ngừng lặp lại câu hỏi: Đâu là ý nghĩa của cuộc sống? Bỗng một con họa mi bay đến và nói: Ý nghĩa cuộc sống ư? Chỉ là tiếng hót véo von. Rồi nó bay đi nhưng vẫn còn vương lại những âm thanh dễ mến. Nghe vậy, chú chuột chù phản đối: Đời là một cuộc chiến đấu không ngừng với bóng tối.
Thế nhưng chị bướm lại lắc đầu không chịu: Cuộc sống chỉ là hưởng thụ và vui thú. Bấy giờ bác ong mật phát biểu: Cuộc sống không chỉ là vui thú, mà còn là lao động, lao động nhiều hơn vui chơi. Cô phượng hoàng thì vỗ cánh và nói: Chẳng ai có lý hết, đời sống chính là tự do, được tung bay trên khắp khoảng trời xanh. Cụ tùng bách thì lắc đầu và bảo: Đời sống là một cố gắng để vươn cao. Nhưng cô hồng nhung lại quả quyết: Cuộc đời chỉ là những tháng ngày trau chuốt cho vẻ đẹp được thêm duyên dáng. Còn chàng mây lang thang lại thở dài: Đời sống chỉ là những lần chia ly, khổ đau, cay đắng và nước mắt. Còn bà sóng thần thì bảo: Đời là một sự đổi thay không ngừng.
Nhà hiền triết hốt hoảng và chạy trốn khỏi khu rừng để không còn nghe tiếng nói của muôn loài trước một vấn nạn chưa được giải quyết.
Còn chúng ta thì sao? Rất có thể chúng ta cũng đã băn khoăn như nhà hiền triết, để rồi cảm thấy như bế tắc, không tìm ra đáp số cho bài toán.
Thế nhưng với biến cố Hiện xuống, các môn đệ đã nhìn rõ vấn đề, đã thấu suốt được những chân lý mà Chúa Giêsu đã truyền dạy. Với ơn Chúa Thánh Thần chúng ta cũng sẽ nếm thử được niềm an bình và nỗi mừng vui, bởi vì chúng ta xác tín rằng: quê hương chúng ta không phải ở mặt đất này, nhưng là ở chốn trời cao. Cuộc sống tạm bợ phù du này sẽ kết thúc để rồi mở ra một chân trời hạnh phúc, kéo dài tới vĩnh cửu. Nhờ đức tin lãnh nhận, chúng ta có được cái nhìn mới và biết đánh giá đúng mức những thực tại trần gian, biết xử dụng chúng để xây dựng cuộc sống siêu nhiên.
Thánh Cyrillo đã so sánh: Chúa Thánh Thần tác động trong chúng ta như ánh sáng mặt trời tác động trên con mắt. Nếu đi từ bóng tối ra ánh sáng, chúng ta sẽ nhìn thấy nhiều vật trước kia chúng ta không nhìn thấy. Cũng vậy, với Chúa Thánh Thần chúng ta sẽ nhìn xem tất cả bằng cặp mắt siêu nhiên, chúng ta sẽ khám phá ra những giá trị thiêng liêng cho cuộc sống tạm gửi này, để rồi chúng ta sẽ không dừng lại, sẽ không đầu tư cho những vui thú chóng qua, nhưng sẽ tìm kiếm và đầu tư cho hạnh phúc vĩnh cửu.
Ngày xưa Chúa Thánh Thần bay lượn trên nước và đã biến cái đám hỗn mang thành một vũ trụ có trật tự thế nào, thì bây giờ Ngài cũng bay lượn, cũng hiện diện trong tâm hồn để biến con người tội lỗi, vô trật tự của chúng ta thành một Kytô hữu đích thực, Ngài sẽ cởi bỏ con người cũ của chúng ta, biến chúng ta trở nên một tạo vật mới, một con người mới. Vậy con người mới ấy là như thế nào? Chắc hẳn bề ngoài chúng ta vẫn như trước vẫn giống với mọi người, có đầu, có mắt, có trái tim, nhưng cách thức chúng ta nhìn ngắm, cách thức chúng ta suy nghĩ, cách thức chúng ta yêu mến thì lại hoàn toàn thay đổi, như lời tiên tri Êgiêkiel đã diễn tả: Ta sẽ rảy nước tinh tuyền trên các ngươi và các ngươi sẽ được trong sạch. Ta sẽ cất khỏi các ngươi trái tim bằng đá, nhưng sẽ ban cho các ngươi một trái tim bằng thịt. Ta sẽ ban cho các ngươi một trái tim mới và một thần khí mới.
Với Chúa Thánh Thần ngự trong tâm hồn, chúng ta sẽ nhìn cuộc sống, nhìn những người anh em, nhìn thế giới, nhìn dòng lịch sử một cách khác. Chúng ta sẽ nhìn những khổ đau, những thử thách và những đắng cay một cách khác. Chúng ta sẽ tìm thấy được những giá trị siêu nhiên của chúng.
Bởi đó, hãy mở cửa đón nhận Chúa Thánh Thần, hãy lắng nghe tiếng nói của Ngài, hãy bước đi dưới sự soi dẫn của Ngài, hãy sống theo những gì Ngài chỉ bảo. Đừng dập tắt ngọn lửa của Ngài, để nhờ đó, Ngài sẽ hun đúc đức tin, để nhờ đó chúng ta biết đánh giá đúng mức những thực tại trần gian.
25. Suy Niệm của Lm Anthony Trung Thành
Thiên Chúa có Ba Ngôi: Ngôi Nhất là Cha, Ngôi Hai là Con, Ngôi Ba là Thánh Thần. Trong thực tế, chúng ta thường hay nói về Chúa Con, ít nói tới Chúa Cha, và rất hiếm khi nói về Chúa Thánh Thần.
Hôm nay, ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là dịp thuận tiện để chúng ta nói về Chúa Thánh Thần: Ngài là ai? Hoạt động của Ngài như thế nào? Bổn phận của mỗi người Kitô hữu chúng ta đối với Ngài?
1. Chúa Thánh Thần là ai?
Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa Ngôi Ba, bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra. Ngài là Thiên Chúa thật, cùng một bản tính và một quyền năng như Chúa Cha và Chúa Con. Ngài còn được gọi là “Đấng ban Sự Sống” (Ga 6, 63), “Đấng Bảo Trợ” (Ga 15,26 ) và “Thần Chân Lý” (Ga 16,13).
Kinh Thánh thường dùng những hình ảnh sau đây để chỉ về Chúa Thánh Thần: Nước, Lửa, Xức dầu, Áng mây và Ánh sáng, Dấu ấn, Bàn tay, Ngón tay và Chim bồ câu.
Mỗi hình ảnh đều mang một ý nghĩa biểu tượng: Nước: Tượng trưng cho sự tái sinh; Lửa: Tượng trưng cho năng lực biến đổi của các hành vi Chúa Thánh Thần; Xức dầu: Đồng nghĩa với danh xưng Chúa Thánh Thần; Áng mây và Ánh sáng: Vừa mạc khải Thiên Chúa vừa che khuất vinh quang siêu việt của Người; Dấu ấn: Đóng ấn ơn Chúa Thánh Thần vào người lãnh nhận bí tích Rửa tội, Thêm sức và Truyền chức thánh; Bàn tay: Tượng trưng cho sự chữa lành; Ngón tay: Tượng trưng cho quyền năng tác động; Chim bồ câu: Tượng trưng cho bình an, hoà bình.
2. Hoạt động của Chúa Thánh Thần
Thời Cựu Ước, Chúa Thánh Thần hiện diện trong mọi hoạt động quan trọng như: Khi Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, khi Thiên Chúa hứa ban Đấng Cứu Độ, trong các cuộc thần hiện và trong niềm mong đợi Đấng Cứu Thế.
Sang Tân Ước, Chúa Thánh Thần hằng hướng dẫn đời sống và hoạt động của Chúa Kitô từ khi nhập thể cho đến phục sinh: Đức Trinh Nữ Maria mang thai bởi phép Chúa Thánh Thần (x. Lc 1, 35); Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu đậu trên đầu Chúa Giêsu khi Ngài chịu phép rửa tại sông Giođan(x. Lc 3,22); Chúa Thánh Thần dẫn Chúa Giêsu vào sa mạc để chịu ma quỷ cám dỗ (Lc 4,1; Mt 4,1; Mc 1,12); Quyền năng của Chúa Thánh Thần đã toả ra trong các hành vi của Chúa Giêsu để chữa lành các bệnh tật và ban ơn cứu độ (x. Lc 6,19; 8,46); Chúa Thánh Thần cũng làm cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết (x. Rm 1,4).
Chúa Thánh Thần hoạt động cách mạnh mẽ nơi các môn đệ trong ngày lễ Ngũ Tuần (x. Ga 20, 22-23). Ngày lễ Ngũ Tuần cũng là ngày khai sinh của Giáo Hội. Chính trong ngày này, các môn đệ được biến đổi, nói được các thứ tiếng lạ, can đảm loan báo Tin mừng và sẵn sàng làm chứng cho Chúa Kitô. Trong việc xây dựng Hội Thánh và loan báo Tin Mừng, các Tông Đồ đều khẳng đinh rằng: "Thánh Thần và chúng tôi làm chứng" (Cv 5, 32).
Chúa Thánh Thần không những khai sinh nên Giáo Hội mà còn xây dựng và làm cho Giáo Hội được hình thành. Ngài cư ngụ trong Giáo Hội và trang bị cho Giáo Hội bằng Lời Chúa. Nhờ đó, Giáo Hội tin Lời Chúa, thực hành Lời Chúa và dùng Lời Chúa để giáo huấn. Thánh Thần còn trang bị cho Giáo hội bằng các Đặc Sủng, Ngài ban ơn cho các chi thể tuỳ theo ý muốn của Ngài. Thánh Syrilô nói: “Thánh Thần dùng miệng người này để giảng sự khôn ngoan, lấy lời ngôn sứ mà soi trí lòng người kia, ban cho kẻ này quyền xua trừ ma quỷ, cho kẻ kia ơn giải thích Thánh Kinh, thêm sức cho kẻ này sống tiết độ, dạy cho kẻ kia biết thương người, cho người này biết ăn chay và tập sống đời khổ hạnh, cho người kia biết khinh chê những thú vui thể xác, cho kẻ khác nữa ơn chuẩn bị tử đạo. Khác nơi những kẻ khác, còn Người không bao giờ khác với chính mình như có lời chép: Thánh Thần tỏ mình ra cho mỗi người một cách, là vì ích chung”.
Nơi các Kitô hữu, Chúa Thánh Thần là Thần khí Tái Sinh, Thánh Hoá và làm cho họ được Vinh Hiển.
Chúa Thánh Thần là Thần khí Tái Sinh: Vì Ađam, con người trở thành nô lệ tội lỗi, trở nên kẻ thù của Thiên Chúa, bất tuân Thiên Chúa dẫn đến sự hư mất đời đời. Tự con người không thể thay đổi được tình trạng đó. Thánh Thần Thiên Chúa đã can thiệp để thay đổi con người. Trước hết, bằng việc tái sinh qua Bí tích Rửa tội (x. Ga 3, 5-6). Sau đó, bằng việc tái sinh qua bí tích Giao Hoà. Nghĩa là, Chúa Thánh Thần soi sáng để người kitô hữu nhận ra mình là kẻ có tội, cần được thanh tẩy để hưởng ơn cứu độ. Chúa Thánh Thần còn giúp các kitô hữu biết hoán cải để lãnh nhận Bí tích Giao Hoà.
Chúa Thánh Thần là Thần Khí Thánh Hoá: Chúa Thánh Thần giúp chúng ta chiến thắng con người cũ, giết chết việc làm của xác thịt (Rm 8,13) để chúng ta xứng đáng là đền thờ của Ngài. Thánh Phaolô kê khai các việc của xác thịt như: “Dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy” (x. Gl 5, 19-21). Chúng ta không thể chiến thắng được, nếu không nhờ Thần Khí. Khi chúng ta nhờ Thần Khí mà chiến thắng các việc của xác thịt trên, thì chúng ta sẽ thu lượm được những hoa quả dồi dào của Thần Khí, đó là: “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (x. Gl 5,11-23). Chúa Thánh Thần còn cho chúng ta biết sự thật, dạy chúng ta biết cầu nguyện, thúc đẩy chúng ta sống mến Chúa yêu người và làm chứng cho Chúa Kitô.
Chúa Thánh Thần đã làm cho Đức Kitô được phục sinh vinh hiển, thì Ngài cũng sẽ làm cho chúng ta được sống lại vinh quang. Con người và thân xác của chúng ta không còn nô lệ sự hư nát, nhưng sẽ sáng láng vinh hiển, thông phần sự sống bất diệt của Thiên Chúa Ba Ngôi (1Cr 15,42-45).
3. Bổn phận của chúng ta đối với Chúa Thánh Thần
Người Kitô hữu chúng ta cần xa tránh các tội phạm đến Chúa Thánh Thần, có bốn tội phạm đến Chúa Thánh Thần:
Thứ nhất, lộng ngôn chống lại Thánh Thần (Mt 12, 31-32). Đó là tội “Cứng tin”, không chấp nhận hoạt động của Chúa Thánh Thần trong công trình cứu độ của Đức Giêsu Kitô.
Thứ hai, dập tắt Thần Khí (1Tx 5,19-22) thường được giải thích theo nghĩa “không biết tôn trọng các đặc sủng” mà Thánh Thần ban cho để xây dựng Hội Thánh.
Thứ ba, đối đầu với Thần Khí. Đó là chiều theo xác thịt, để các khuynh hướng xấu đưa tới hành vi xấu, nghĩa là phạm tội thực sự. Mỗi lần để cho xác thịt làm động lực chi phối hay làm chủ cuộc sống là một lần đối đầu với Thánh Thần.
Thứ tư, làm phiền lòng Thánh Thần. Khi mọi hành vi và các cư xử không phù hợp với cương vị của người Kitô hữu đều làm mất lòng Thiên Chúa làm phiền lòng Thánh Thần (Ep 4,30).
Tóm lại, Thánh Thần là hồng ân vô giá mà Thiên Chúa ban cho những kẻ tin vào Đức Kitô. Mỗi người Kitô hữu chúng ta đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần trong ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội, đặc biệt là khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Thêm Sức. Vì vậy, chúng ta không những cần phải xa tránh các tội phạm đến Chúa Thánh Thần, mà còn cần phải tin kính, thờ phượng, năng cầu xin Chúa Thánh Thần soi sáng để chúng ta biết sống theo lương tâm ngay thẳng, cùng tôn trọng hồn xác ta là đền thờ của Người (x. 1Cr 6,19).
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến, xin tiếp tục đồng hành với chúng con trong bổn phận xây dựng Giáo Hội và loan báo Tin Mừng. Xin giúp chúng con biết xa tránh tội lỗi tôn trọng thân xác là đền thờ của Người. Amen.
---------------------
Tài liệu tham khảo:
1. Khái Quát về Chúa Thánh Thần trong Kinh Thánh, ĐGM Phaolô Bùi Văn Đọc
2. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo số 683-747
26. Suy niệm của Lm John Nguyễn Tươi
VAI TRÒ CHÚA THÁNH THẦN TRONG ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI
Trong sách giáo lý Công Giáo có ghi: "Chúa Cha là Đấng sáng tạo; Chúa Con là Đấng cứu chuộc; và Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa chúng ta." Chúng ta không thể sống nếu không có hoạt động của Chúa Thánh Thần. Vì Chúa Thánh Thần là Thấn Khí ban sự sống cho chúng ta. Ngài có vai trò rất quan trọng trong thế giới này và trong mỗi con người chúng ta. Hôm nay, chúng ta cùng nhau khám phá ra vai trò của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống của chúng ta. Ngay cả Chúa Giêsu,Ngài đã đón nhận ơn Chúa Thánh Thần khi chịu phép rửa tại sông Giođan. Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta về mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần ban cho các tông sức mạnh và ơn can đảm để đi rao giảng Tin Mừng, và Giáo Hội được khai sinh. Tuy nhiên, để hiểu được vai trò hoạt động của Chúa Thánh Thần trong thế giới này, chúng ta có thể thấy ba biểu tượng nổi bậc nói về Chúa Thánh Thần, đó là: Lửa, Nước và Khí.
Trước tiên là Lửa. Lửa mang lại cho chúng ta hơi ấm. Vào mùa đông người ta cần có lửa để sưởi ấm. Nếu mùa đông giá buốt mà không có lửa, thì chúng ta sẽ bị chết lạnh. Lửa rất cần thiết trong đời sống con người. Lửa dùng để nuôi sống con người. Mặc khác, Lửa không chỉ mang lại sự sống và giá trị vật chất mà là còn mang ý nghĩa giá trị tinh thần cho con người. Đó là ngọn lửa của Chúa Thánh Thần cho các tông đồ thuật lại trong tin Mừng hôm nay. Khi Chúa Giêsu chết, các tông đồ sợ hãi không dám ra ngoài, vì người Do-thái. Trong lúc hoang mang sợ hãi đó, Chúa Thánh Thần mang ngọn trên đầu các tông đồ, ngọn lửa Chúa Thánh Thần biến đổi các ông thành những con người mới. Sách Công vụ Tông Đồ thuật lại rằng: "Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào căn nhà nơi mọi người đang tụ họp. Họ thấy xuất hiện những hình lưỡi lửa tản ra đậu trên từng người. Ai nấy lòng tràn ngập ơn Chúa Thánh Thần, họ bắt đầu nói nhiều thứ tiếng lạ khác nhau và trên đầu các ông có hình lưỡi lửa." Đó chính là Chúa Thánh Thần, Ngài đã ban cho các tông đồ ngọn lửa đức tin, ngọn lửa của niềm vui, và ngọn lửa bình an và hoan lạc để các ngài can đảm ra đi rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng khắp nơi trên thế giới.
Kế đến là Nước. Nước mang lại sự sống cho các sinh vật trên trái đất này. Nếu không có nước, con người và sinh vật không thể sống được trên trái đất này. Chúng ta có thể nhịn đói, nhưng không thể nhịn khát được. Cũng vậy trong đời sống thiêng liêng, chúng ta múc lấy nguồn nước ân thiêng từ nơi Chúa Thánh Thần khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Thêm sức. Chính Gioan Tẩy giả dìm Chúa Giê-su xuống dòng sông Gio-dan. Ngài kêu gọi dân chúng rằng: " Ai chịu phép rửa sẽ được ơn cứu độ." Nếu nước là tượng của sư sống, thì tái sinh bắt nguồn từ nơi Đức Kitô. Tại giếng Gia-cóp, Chúa Giê-su nói với người phụ nữ: " Nước tôi cho chị uống thì sẽ không bao giờ khác", đó là Máu và Nước của Ngài chính là nguồn ơn cứu độ cho chúng ta. Thánh Phao-lô đã xác quyết rằng: "Chúng ta đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể." Phép rửa là để thanh tẩy tội lỗi con người, và tái sinh làm con cái Chúa là nhờ lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần. Thánh Gioan nói: “ Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em, anh em hãy lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần."
Sau cùng là Khí. Mỗi ngày chúng ta sống được là nhờ hít thở không khí, mà Thánh Thần là Thần Khí ban sự sống cho chúng ta. Trong Kinh Thánh đã diễn tả. Khi Thiên Chúa tạo dựng con người, thì Ngài lấy đất nắn thành hình người, rồi Ngài hà hơi vào lỗ mũi và ban cho con người sự sống. Chúng ta sống được là nhờ hít thở không khí. Chúa Thánh Thần là thần khí dưỡng nuôi chúng ta. Do đó, chúng ta mới nói rằng sự sống hay chết là do Chúa.Một biểu tượng khác, chúng ta có thể cảm nhận được hoạt đông của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống, đó là gió. Con mắt thường chúng ta không nhìn thấy gió, nhưng chúng ta có thể cảm nhận được gió qua sự rung chuyển của cây, hoặc qua cảm giác mát lạnh của gió. Một bài hát chúng ta thường hát nói về Thần Khí Chúa Thánh Thần như sau:
"Thần khí Chúa đã sai tôi đi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng.
Thần khí Chúa đã thánh hiến tôi, sai tôi đi Ngài sai tôi đi.
Sai tôi đến với người nghèo khó, sai tôi đến với người lao tù, mang Tin Mừng giải thoát. Thiên Chúa đã cứu tôi"
Tóm lại, ba biểu tượng: Lửa, Nước và Khí, chúng ta có thể hiểu được vai trò hoạt động của Chúa Thánh Thần là rất quan trọng trong thế giới này và trong mỗi con người chúng ta. Ba biểu tượng này đã được khắc họa trong Kinh Thánh từ công cuộc tạo dựng vũ trụ. Sách Giáo lý Công Giáo đã dạy: Chúa Cha là Đấng tạo dựng, Chúa Con là Đấng cứu chuộc, và Chúa Thánh Thần là Đấng thánh hóa. Khi hiểu như thế thì chúng ta thấy rằng, Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta sự sống, thánh hóa và biến đổi chúng ta trong tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa. Như lời thánh Gioan viết, Giêsu đã thổi hơi và thần khí cho các tông đồ và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ."
Như lời thánh Phaolô dạy: hoa quả của Chúa Thần Khí là bác ái, hoan lạc,bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ. Đó là cách ta sống theo Thần Khí. Còn tính xác thịt gây ra, đó là: dâm ô, phóng đãng, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén và những thứ khác giống như vậy.
Lời Nguyện:
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương.
Xin ban cho chúng con ngọn lửa Thánh Thần, để chúng con xóa tan bóng tối của hận thù, chia rẻ và bất công.
Xin ban cho chúng con nguồn nước Thánh Thần, để chúng con cho những ai đang khát về chân lý và tưới gội những tâm hồn khô khan.
Và xin cho chúng con Thần Khí, để chúng con mạnh dạn ra đi rao giảng Tin Mừng cho những ai đang thất vọng, họ sẽ tìm thấy niềm vui và hạnh phúc trong Chúa. Amen.
27. Cuộc sáng tạo mới--Lm Ignatiô Trần Ngà
Sau khi tạo dựng vũ trụ càn khôn cùng muôn vật diệu kỳ trong hoàn vũ, Thiên Chúa vẫn chưa hài lòng với tác phẩm của mình. Người muốn sáng tạo thêm một kiệt tác trổi vượt tất cả những gì Người đã dựng nên.
Thế là Ba Ngôi Thiên Chúa quyết định tạo dựng con người: "Chúng ta hãy sáng tạo con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để chúng làm chủ cá biển chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất" (St 1, 26).
Thiên Chúa lấy bùn đất, nắn thành hình một con người, nhưng hình tượng nầy vẫn còn trơ trơ bất động, vô cảm, vô tri...
Thế rồi Thiên Chúa thổi hơi vào lỗ mũi của hình tượng nầy và điều kỳ diệu đã xảy ra: khối đất vô hồn mang hình dạng con người đang nằm im lìm bất động bỗng cựa mình đứng lên trở thành người sống: có tư duy, có tình cảm, có tự do, có óc sáng tạo... mang đậm dấu ấn và bản sắc của Thiên Chúa. Thế là Thiên Chúa đã hoàn thành kiệt tác Ađam là nguyên tổ của loài người.
* * *
Con người cũ bị băng hoại vì tội lỗi.
Nhưng tiếc thay, tội lỗi đã thấm nhập vào thế gian làm băng hoại con người. Kiệt tác của Thiên Chúa đã bị biến chất thảm hại nên Thiên Chúa phải theo đuổi một kế hoạch tạo dựng mới.
Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người khởi đầu công cuộc nầy. Người quy tụ những môn đệ đầu tiên, và dùng những vị nầy làm nhân tố phát sinh một dân mới.
Nhưng sau khi Chúa Giêsu sống lại và lên trời, các môn đệ cảm thấy lạc lõng bơ vơ như đoàn chiên không chủ, như rắn mất đầu. Các ngài sống âm thầm, im hơi lặng tiếng, co cụm trong phòng đóng kín vì sợ người Do-Thái, tựa như Ađam lúc chưa được hơi thở của Thiên Chúa thổi vào.
Con người mới được tác sinh
Thế rồi "vào chiều ngày hôm ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái, Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em!"
Và như thuở ban đầu Thiên Chúa thổi hơi vào mũi A-đam để ban cho ông sự sống, thì nay Chúa Giêsu "thổi hơi vào các môn đệ và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần"(Ga 20,19. 22)
Theo ngôn ngữ Kinh Thánh (bằng tiếng Hebrew), Chúa Thánh Thần được gọi là Ruah, nghĩa là Hơi Thở hay Thần Khí.
Thổi hơi vào các môn đệ có nghĩa là Chúa Giêsu truyền ban Thần Khí (= Chúa Thánh Thần) cho các ông.
Như hôm xưa Ađam vươn vai chỗi dậy sau khi đón nhận hơi thở của Thiên Chúa, các môn đệ một khi đã lãnh nhận Hơi Thở ban Thần Khí của Chúa Giêsu cũng được tái sinh, cựa mình chỗi dậy, thoát ra khỏi căn phòng đóng kín như mộ địa giam nhốt mình để đi đến với muôn dân, loan truyền Tin Mừng cứu độ cho toàn thế giới, sẵn sàng hy sinh cả mạng sống vì Nước Trời...
Thế là nhân loại mới đã được tác sinh từ biến cố trọng đại nầy, khởi từ ngày hôm ấy.
* * *
Lạy Chúa Giêsu,
Nếu không có làn hơi của Thiên Chúa thổi vào, A-đam chỉ là một khối đất vô tri bất động và không hề có sự sống.
Nếu không được Chúa Giêsu thổi hơi ban Thần Khí, các tông đồ xưa cũng chỉ là một nhóm người bạc nhược, ươn hèn.
Và hôm nay, nếu không được đón nhận Thần Khí Chúa ban, chúng con cũng chỉ là những kitô hữu nguội lạnh, thiếu nhiệt thành và luôn đứng bên lề Hội Thánh.
Nguyện xin Chúa thổi hơi ban Thần Khí cho chúng con như đã ban cho các môn đệ năm xưa, để chúng con được đón nhận Sự Sống Mới và kiên quyết lên đường thi hành sứ mạng loan Tin Mừng cho muôn dân.
28. Đấng ban bình an
1. Nếu như được một điều ước duy nhất, có lẽ nhiều người sẽ phải đắn đo suy nghĩ, nhưng cũng không ít người sẽ nhanh chóng ước ngay rằng làm sao có được một cuộc sống bình an. Điều này cũng dễ hiểu, bởi lẽ trong cuộc sống, nhất là hiện thời, có nhiều lý do khiến cho ta có quá nhiều bất an. Các môn đệ của Đức Giêsu sau cuộc tử nạn của Thầy mình, đang trong tình trạng khép kín, bối rối... Trong lúc bất an như vậy; một luồng sinh khí mới đến với các ông, Đức Giêsu Phục Sinh hiện đến để ban Chúa Thánh Thần và những ơn của Người cho các ông, đặc biệt đó là ơn bình an.
2. Chúng ta dễ nhận ra qua các bài Kinh Thánh hôm nay có 2 tường thuật về việc trao ban Chúa Thánh Thần:
- Theo Thánh Gioan, ngay buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần (chính hôm lễ Phục Sinh), Đức Giêsu đã ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ.
- Trong khi đó theo Luca, qua sách Tông Đồ Công Vụ (Bài đọc I) cho ta thấy Đức Giêsu ban tặng Chúa Thánh Thần hôm lễ Ngũ Tuần, tức 50 ngày sau khi Chúa sống lại (Cv 2,1 tt), và được tường thuật với nhiều chi tiết hơn.
Sự khác biệt này được giải thích như thế nào? Thưa Thánh Gioan gom góp vào một ngày những sự kiện mà Thánh Luca đã phân chia rải rác trong thời gian 50 ngày: Đức Giêsu sống lại (Ga 20,1tt; Lc 25,1tt), lên trời (Ga 20,17; Cv 1,9) và ban tặng Thánh Thần (Ga 20,22; Cv 2,1tt).
Thực ra, Chúa Thánh Thần đã hoạt động ngay từ thời sáng thế: "Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng... và Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước"(St 1,1-2); Chúa Thánh Thần đã hướng dẫn các tổ phụ các tiên tri mà chúng ta vẫn thường tuyên xưng trong kinh Tin Kính. Thời Tân Ước, Ngài vẫn luôn hoạt động: nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần mà Ngôi Hai nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ Maria, và chính Chúa Thánh Thần hướng dẫn hoạt động của Đức Giêsu nơi trần thế...
3. Giờ đây chính Đức Kitô Phục Sinh lại trao ban Chúa Thánh Thần cho các tông đồ, môn đệ như trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, việc trao ban Chúa Thánh Thần như được hoà quyện với lời chúc bình an, quyền tha tội và lời sai đi rao giảng. Cho nên có thể nói đây là những ơn đặc biệt mà các tông đồ, môn đệ Đức Giêsu có được khi nhận lấy Chúa Thánh Thần của Đức Kitô Phục Sinh.
- Trong một cuộc gặp gỡ ngắn mà hai lần Đức Kitô nhắc tới "bình an", cho nên có thể nói "bình an" là ơn cao trọng nhất của Chúa Thánh Thần, rất cần thiết cho con người. Khi nói tới bình an thường được hiểu là bình an bên ngoài (như không có chiến tranh, không có hận thù giết chóc, bắt bớ...), nhưng có một thứ bình an cần thiết hơn, quan trọng hơn đó là bình an sâu thẳm trong tâm hồn. Nhờ việc nhận Thánh Thần, các tông đồ, môn đệ của Đức Giêsu đã có thứ bình an đó. Thật vậy, chúng ta thấy rõ dường như các ngài không có được sự bình an bên ngoài: bị tra tấn đánh đập vì Đức Giêsu, vì Tin Mừng, ngay cả phải thiệt thân... Nhưng nhờ có ơn bình an của Chúa Thánh Thần, thì những đau khổ vì danh Đức Kitô lại trở thành niềm vui, danh dự... như Phaolô đã nói: khốn cho thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng Đức Kitô (x. 1 Cr 9,16).
Ơn bình an của Chúa Thánh Thần vẫn luôn được trao ban trong Hội Thánh, điều này càng thấy rõ vào những thời, những nơi Giáo Hội gặp khó khăn: đã có hơn 70 triệu anh hùng trung kiên với Đức Kitô, qua 20 thế kỷ, các vị này không cho rằng việc đầu rơi máu chảy là bất hạnh, mà đó là niềm vui, tự hào... bởi các ngài có được sự bình an sâu thẳm.
- Khi h iểu rằng bình an thực là như thế, chúng ta mới có thể cảm nhận được một ý nghĩa khác của việc Đức Giêsu trao ban Thánh Thần: đó là bình an qua việc được tha thứ. Chắc hẳn nhiều người trong chúng ta có được cảm nghiệm bình an trong tâm hồn khi đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa qua bí tích Giải Tội, nhất là khi ta lỗi phạm càng nặng. Vì thế Đức Giêsu muốn bình an của Chúa Thánh Thần được lan toả từ các tông đồ và những người kế vị các ngài trong chức linh mục, qua việc tha tội: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha..." (Ga 20,23). Không chỉ qua Bí Tích Giao Hoà, mà việc tha thứ cho nhau rất cần thiết trong đời sống của Kitô hữu, khi chúng ta tha thứ cho nhau là dấu hiệu Chúa Thánh Thần đang hoạt động nơi ta.
- Những ai được diễm phúc đón nhận sự bình an của Chúa Thánh Thần không phải để thụ hưởng mà phải ra đi, phải chia sẻ: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con ". Đức Giêsu đã hoàn thành nhiệm vụ của mình, giờ đây đến nhiệm vụ của Giáo hội, của mọi người chúng ta. Sách Tông Đồ Công Vụ ghi lại rằng sau khi nhận ơn Chúa Thánh Thần, các môn đệ nói được nhiều ngôn ngữ khác lạ của người nghe, tức Hội Thánh phải biết nói ngôn ngữ của mọi thời, mọi nơi; nói cách khác Hội Thánh, tức chính chúng ta, phải rao giảng Tin Mừng mọi thời, mọi nơi. Có như vậy mới có thể đem bình an của Chúa đến cho mọi người, bởi nếu không có ai rao giảng thì làm sao tha nhân có thể nghe danh Chúa và tin vào Ngài được (x. Rm 10,14)?
4. Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là dịp tốt để mỗi chúng ta nhìn lại, như các tông đồ, môn đệ xưa đã lãnh nhận dồi dào ơn Chúa Thánh Thần, cũng thế qua bí tích Rửa Tội, nhất là qua bí tích Thêm Sức, Đức Kitô Phục Sinh đã đổ tràn Chúa Thánh Thần trên mỗi Kitô hữu, nhưng chúng ta đã cộng tác và làm cho ơn này phát triển như thế nào. Vì thế, mỗi người chúng ta hãy tự hỏi:
- Tôi có được sự bình an trong tâm hồn, một niềm vui sâu xa trong tâm tình phó thác nơi Thiên Chúa dù có những nghịch cảnh trong cuộc sống hay không?
- Tôi có là khí cụ bình an của Đức Kitô qua đời sống yêu thương, tha thứ đối với nhau hay không?
- Tôi có cảm nhận được niềm vui khi giới thiệu Đức Kitô cho người khác bằng lời rao giảng và nhất là bằng đời sống chứng nhân như: bác ái, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm... hay không (x. Gl 5,22-24)?
Nếu chúng ta có được những điều đó, hãy cảm tạ Thiên Chúa, đó là dấu chỉ có sự hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi ta, một cuộc Hiện Xuống mới đang tái diễn; nhờ đó đem lại cho chúng ta sự bình an thật đời này và sự sống đời đời: "Hướng đi của tính xác thịt là sự chết, còn hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình an"(Rm 8,6).
29. Ngọn lửa Thánh Linh soi chiếu--Lm Ignatiô Trần Ngà
Vào năm 1976, ngay xóm tôi ở có em gái nghèo chừng mười lăm tuổi đi giúp việc nhà cho một gia đình giàu có. Gia đình nầy vừa mới tậu một bức tranh thêu rất đẹp nên bức hoành phi sơn son thếp vàng cũ kỹ có mấy chữ mạ vàng khá lớn, lâu nay được treo ở gian giữa ngôi nhà, giờ đây bị tháo xuống để nhường chỗ cho bức tranh thêu quý giá. Trong thâm tâm bà chủ nghĩ rằng bức hoành phi nầy có chữ mạ bằng thứ giấy vàng rẻ tiền nên giá trị chẳng là bao.
Bà chủ giao bức hoành cho cô gái giúp việc đem về nhà tuỳ nghi sử dụng. Cô gái đem về cho em chơi. Chơi chán rồi chúng xé vụn phần bằng giấy ra, xé luôn cả những chữ vàng, xả rác đầy nhà, khiến người mẹ phải mất công quét dọn và đổ ra hố rác.
Khi đốt rác vào lúc trời tối, bọn trẻ phát hiện những dòng chữ vàng trên bức hoành phi không bị thiêu rụi mà lại sáng ngời lên trong lửa và kết tụ lại thành những vụn nhỏ ngời sáng ánh vàng. Hoá ra những dòng chữ trên bức hoành là thứ chữ mạ bằng vàng thật chứ không phải là giấy mạ vàng!
Thế là người nhà hăm hở xăm xoi đào bới, sàng sảy đống tro tàn để tìm kiếm và cuối cùng thu lại được năm sáu chỉ vàng!
Cả gia đình vui mừng quá đỗi, vì vào thời đó, kiếm được chừng ấy vàng chẳng khác gì trúng lô độc đắc.
Như thế, nếu không nhờ ngọn lửa, những chữ vàng quý giá kia đã bị xé vụn, quẳng vào đống rác và hoá thành bụi tro. Nhưng may sao nhờ lửa cháy lên, người ta mới nhận ra những dòng chữ bằng vàng rất quý báu!
Hôm nay mỗi người chúng ta cũng được Chúa Giêsu trao tận tay một cuốn sách đáng giá ngàn vàng. Đó là một kho báu không hề vơi cạn, chứa đựng những điều khôn ngoan ngàn đời của Thiên Chúa được Chúa Giêsu từ trời mang xuống ban tặng cho thế gian, một cuốn sách chứa đựng những bí quyết đem lại bình an hạnh phúc cho muôn người, một kiệt tác được kết tinh bằng tình yêu, bằng trí tuệ, bằng tim óc của Chúa Giêsu và được hình thành trong suốt 33 năm dương thế của Ngài.
Nhưng tiếc thay, khi nhận được Tin Mừng trên tay, chúng ta xem đó là thứ quà rẻ mạt, như một cuốn sách tầm thường, như một mớ chữ không hồn. Thế nên số phận cuốn Tin Mừng cứu độ của Chúa Giêsu cũng hẩm hiu không kém!
Sở dĩ Kho Tàng Tin Mừng của Chúa Giêsu không được xem là quan trọng và quý giá vì những dòng chữ nầy chưa được ngọn lửa của Chúa Thánh Linh soi chiếu.
Thượng Phụ Athénagoras nhận định rằng: "Nếu Hội Thánh vắng bóng Thánh Linh, thì Thiên Chúa trở nên nghìn trùng xa cách, Đức Giêsu trở thành một huyền thoại và Phúc Âm của Người trở thành một mớ chữ không hồn."
Quả vậy, nếu không có lửa của Chúa Thánh Thần soi sáng thì lời dạy của Chúa Giêsu như: "những gì các ngươi làm cho các anh em bé mọn của Ta đây là làm cho chính Ta" (Mt 25,40) trở thành những dòng chữ chết, không thể lay động lòng người, nhưng đối với mẹ Tê-rê-xa Calcutta, nhờ ánh sáng Thánh Linh tác động, lời đó trở thành châm ngôn vàng ngọc thúc đẩy mẹ hiến cả đời mình yêu mến và phung sự Chúa Giêsu nơi những con người bất hạnh và đau thương.
Nếu không có lửa của Thánh Linh soi chiếu thì những lời nhắc nhở như: "được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì chẳng được ích gì" (Mt 16,26) là những lời vô nghĩa, nhưng đối với thánh Phanxicô Xavie, nhờ ngọn lửa của Thánh Linh soi sáng, lời đó trở thành sức mạnh vạn năng giúp ngài từ bỏ công danh địa vị để dấn thân vào những miền đất xa lạ, đem ơn cứu độ đến cho các dân tộc Á châu.
Không có Chúa Thánh Thần, không ai có thể nhận biết và yêu mến Chúa Giêsu.
Không có Chúa Thánh Thần, những trang Tin Mừng chỉ là những dòng chữ chết.
Không có Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa trở thành Đấng nghìn trùng xa cách.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban Thánh Thần Chúa cho chúng con, để nhờ ánh sáng Thánh Linh soi dẫn, chúng con nhận biết, yêu mến Chúa và tìm được nơi kho tàng Tin Mừng những lời thần thiêng đem lại cho chúng con sức sống mới.
30. Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống--Lm Inhaxiô Hồ Thông
Sau triều đại của Chúa Cha trên dân Thiên Chúa mà Mùa Vọng nhắc nhớ, sau sự việc Chúa Con đến trần gian mà chúng ta tưởng niệm từ Mầu Nhiệm Nhập Thể đến lễ Thăng Thiên, Phụng Vụ hôm nay cử hành Chúa Thánh Thần, Đấng tỏ mình ra vào lễ Ngũ Tuần, chính Ngài làm cho Giáo Hội được tăng trưởng và Ơn Cứu Độ được sinh hoa kết trái.
Cv 2: 1-11
Trong sách Công Vụ Tông Đồ, thánh Lu-ca tường thuật Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Tông Đồ, Đức Trinh Nữ, vài người phụ nữ và vài anh em của Đức Giêsu, khi họ cùng nhau tề tựu trong phòng Tiệc Ly. Biến cố này rất gần với biến cố Xi-nai mà lễ Ngũ Tuần Do thái tưởng niệm vào đúng ngày này.
1Cr 12: 3b-7, 12-13
Trong thư gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng những đặc sủng khác nhau làm chứng sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần. Những ai đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, những người ấy đón nhận những ân ban Thánh Thần, vì chỉ có một Thánh Thần để hình thành nên một thân thể.
Ga 20: 19-23
Tin Mừng Gioan tường thuật việc Đức Giê-su trao ban Thánh Thần cho các môn đệ ngay khi Ngài sống lại. Vào buổi chiều Phục Sinh, Đức Giê-su hiện ra ở giữa các môn đệ của Ngài, thổi hơi trên họ và nói: “Anh em hãy lãnh nhận Thánh Thần”. Chắc chắn những ân ban Thánh Thần chỉ bày tỏ sau nầy; tuy nhiên, thánh Gioan nhấn mạnh rằng biến cố Vượt Qua là biến cố từ đó Giáo Hội được khai sinh. Thánh Thần ở với Giáo Hội ngay từ ngày đầu tiên của biến cố Phục Sinh.
BÀI ĐỌC I (Cv 2: 1-11):
Sau khi đã chứng kiến Chúa Giê-su về trời, các Tông Đồ quay trở về Giê-ru-sa-lem tuân theo lời dặn của Đức Giê-su trước khi Ngài từ giả các ông: “Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24: 49).
Nơi họ tụ họp là “lầu trên” (Cv 1: 13). Đây là phòng Tiệc Ly, nơi Đức Giê-su đã tham dự Tiệc Ly với các ông, trong đó Ngài đã thiết lập bí tích Thánh Thể; đó cũng là nơi dù cửa đóng then cài, Đức Giê-su đã hiện ra với các ông vào buổi chiều Phục Sinh; và đó cũng là nơi Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên các ông. Như vậy, một cách nào đó, có một mối liên kết mật thiết giữa bàn tiệc Thánh Thể với biến cố Phục Sinh và biến cố Hiện Xuống.
1. Mọi người đang tề tựu một nơi:
Không nên hiểu “mọi người đang tề tựu” như “buổi họp mặt của một trăm hai mươi người” vài ngày trước đây để chọn ông Mát-thi-a làm Tông Đồ thay thế ông Giu-đa (Cv 1:15). Đúng hơn là một nhóm người hạn định hơn mà thánh Lu-ca mô tả ở 1: 13-14: các Tông Đồ, vài người phụ nữ, Đức Ma-ri-a thân mẫu của Đức Giê-su và anh em họ của Đức Giê-su.
Họ tề tựu một nơi mà cầu nguyện trong khi chờ đợi biến cố mà Đức Giê-su đã hứa: Chúa Thánh Thần ngự xuống. Ấy vậy, một sự trùng hợp đáng ngạc nhiên. Để tỏ mình ra, Chúa Thánh Thần chọn ngày đại lễ Do thái được gọi là “Lễ Ngũ Tuần”, ngày lễ dân Do thái tưởng niệm việc ký kết Giao Ước trên núi Xi-nai giữa Thiên Chúa và dân Ngài trong trận cuồng phong và dưới dấu chỉ của lửa. Biến cố Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông Đồ được bày tỏ kín đáo hơn, nhưng theo cùng một cảnh tượng tương tự: “Bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một”.
2. Lễ Ngũ Tuần:
Lễ Ngũ Tuần được xác định vào ngày thứ năm mươi sau bảy tuần khởi đi từ lễ Vượt Qua, vì bảy tuần (7 x 7) là dấu chỉ của sự viên mãn. Vì thế, chữ “Tuần” được sử dụng ở đây không là một tuần lễ có bảy ngày mà là một tuần trăng có mười ngày gồm có thượng tuần, trung tuần và hạ tuần. Lễ Ngũ Tuần Do thái tự nguồn gốc là lễ Mùa, lễ kết thúc thời kỳ thu hoạch mùa màng được khai mạc qua việc dâng tiến bó lúa đầu tiên (Đnl 16: 9-10). Tuy nhiên, các lễ hội của dân Ít-ra-en đều đã trải qua một tiến trình tinh thần hóa: từ bình diện tự nhiên sang bình diện Lịch Sử Thánh, bởi vì Lịch Sử đối với dân Thiên Chúa cốt thiết là hành động của Thiên Chúa. Lễ Vượt Qua trở thành lễ tưởng niệm cuộc giải thoát khỏi Ai-cập, lễ Lều (lễ thu hoạch nho) ghi nhớ cuộc hành trình trong hoang địa; sau cùng, lễ Ngũ Tuần, dù tương đối muộn thời, được nối kết với những biến cố Xuất Hành. Khi Giao Ước được ký kết trên núi Xi-nai, năm mươi ngày sau cuộc giải phóng khỏi Ai-cập, lễ Ngũ Tuần cử hành sinh nhật của cuộc giải phóng nầy. Vào thời kỳ tiếp cận với kỷ nguyên Kitô giáo, lễ Ngũ Tuần, còn hơn ngày lễ tưởng niệm, là dấu chỉ hằng năm làm mới lại Giao Ước. Vào ngày lễ này, Dân Chúa lập lại lời thề hứa trung thành với Đức Chúa.
3. Núi thánh Xi-nai và nhà Tiệc Ly:
Trên núi Xi-nai, lời hứa trung thành với Giao Ước và ân ban Lề Luật đã được cử hành đặc biệt long trọng, mà thánh ký miêu tả theo bút pháp gần với lối hành văn ngoa dụ. Những biểu tượng được mượn phần lớn trong các tôn giáo như cuồng phong kèm theo những cuộc thần hiển. Trong Do Thái giáo, có một ghi nhận đặc thù: Đức Chúa, Thiên Chúa duy nhất và siêu việt từ chối tất cả mọi hình ảnh về Ngài, chỉ chấp nhận sự hiện diện của Ngài dưới dấu chỉ lửa (hay ánh sáng, đám mây rực sáng) và gió (cuồng phong hay cơn gió thoảng) gần với hơi thở, đồng nghĩa với “thần khí”. Đây là những hình ảnh phi vật chất nhất.
Việc Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông Đồ được mô tả theo những cuộc thần hiển Cựu Ước. Hơn nữa, những hình ảnh truyền thống nầy trở nên phong phú nhờ những đóng góp của văn chương khải huyền. Trận cuồng phong loan báo cuộc tụ họp muôn dân vào ngày Chung Thẩm. Những lưỡi lửa thuộc vào cũng một hình tượng của thời chung cuộc nầy. Cuối cùng, truyền thống kinh sư suy niệm biến cố Xi-nai đã khai triển những ẩn ý hàm chứa nơi biến cố nầy, như tiếng nói của ông Mô-sê được phân chia thành bảy mươi ngôn ngữ ngỏ hầu tất cả mọi dân tộc đều có thể nghe hiểu. Ngoài ra, làm thế nào không gợi ra lời nguyện ước của ông Mô-sê: “Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ!” (Ds 11: 29). Thánh Lu-ca nối kết trực tiếp những hình ảnh này vào ân ban ngôn ngữ mà các Tông Đồ đón nhận. Rõ ràng kỷ nguyên Kitô giáo được loan báo bởi cùng những dấu chỉ với kỷ nguyên cánh chung.
Như vậy, có một sự liên tục từ Cựu Ước đến Tân Ước. Tân Ước đáp trả cho niềm mong chờ của Cựu Ước. Mười hai Tông Đồ có mặt ở phòng Tiệc Ly để tiếp tục sự nghiệp của Đức Kitô. Nhưng chúng ta cũng dễ dàng nhận ra có những khác biệt sâu xa giữa lễ Ngũ Tuần Do thái và lễ Ngũ Tuần Ki-tô giáo.
4. Phép rửa trong Thánh Thần:
Thánh Gioan Tẩy Giả đã loan báo trước: “Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước… Còn Đấng đến sau tôi… Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3: 11). Tất cả các Tông Đồ đã không đón nhận phép rửa trong nước, nhưng đều lãnh nhận phép rửa trong Thánh Thần và lửa: “Và ai nấy đều được đầy ơn Thánh Thần”. Giáo Hội khởi đi từ ngày lễ Ngũ Tuần Kitô giáo. “Lửa” gợi lên biết bao ý nghĩa: thanh tẩy, thanh luyện, hun đúc lòng nhiệt thành… như câu thành ngữ: “Lửa thử vàng, gian nan thử đức”.
Biến cố Xi-nai thiết lập triều đại Lề Luật trong khi những biến cố Hiện Xuống khai mạc kỷ nguyên Thánh Thần. Xưa kia một dân duy nhất làm đối tượng của việc Thiên Chúa tuyển chọn. Từ nay, mọi dân tộc đều được mời gọi dự phần vào cùng một ơn cứu độ. Vì thế, ân ban Thánh Thần đầu tiên là ân ban ngôn ngữ, ân ban cho phép các Tông Đồ ngỏ lời với đám đông thính giả dù sinh trưởng ở đâu cũng đều nghe các Tông Đồ dùng tiếng nói của họ mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa: “Chúng ta đã nghe họ dùng tiếng nói của chúng ta mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!” (Cv 2: 11). Khi liệt kê một danh sách dài về nguồn gốc khác nhau của họ, thánh Lu-ca nhấn mạnh chiều kích phổ quát của sứ điệp Tin Mừng. Như vậy, lễ Ngũ Tuần Ki-tô giáo đối lập với chuyện tích Tháp Ba-ben (St 11), theo đó việc bất đồng ngôn ngữ và việc muôn dân bị phân tán khắp nơi xem ra là một án phạt. Giờ đây, Giáo Hội của Đức Kitô dưới sự hiện diện và hoạt động của Chúa Thánh Thần dâng hiến cho nhân loại khả năng hiệp nhất.
Một ân ban Thánh Thần khác, có thể hiểu biết ngay tức khắc, đó là ân ban Sức Mạnh. Ngay khi được tràn đầy Thánh Thần, các Tông Đồ mở tung mọi cánh cửa của căn phòng đóng kín vì sợ, họ bước ra gặp gỡ mọi người, mạnh dạn phục hồi danh dự của Đấng chịu đóng đinh và công bố quyền tối thượng của Đấng Phục Sinh: “Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, đẻ Người đổ xuống: đó là điều anh em đang thấy và đang nghe” (Cv 2: 33).
5. Sự hiện diện của Đức Ma-ri-a:
Như chúng ta đã ghi nhận trước đây, cách nói “mọi người đang tề tựu một nơi” bao gồm Đức Ma-ri-a và vài phụ nữ. Sự kiện Đức Ma-ri-a có mặt vào ngày Chúa Thánh Thần khai sinh Giáo Hội thật có ý nghĩa biết bao. Trước đây, trong biến cố Truyền Tin, qua việc Thánh Thần ngự xuống trên Mẹ trong căn phòng Na-da-rét thầm lặng kín đáo, Con Thiên Chúa lặng lẽ đến ở giữa nhân loại trong cung lòng của Mẹ. Giờ đây, trong biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống, Đức Ma-ri-a đảm nhận tình mẫu tử khác, tình mẫu tử thân thể mầu nhiệm của Con Mẹ, tức Giáo Hội.
Vài phụ nữ khác, chắc hẳn có bà Ma-ri-a Mác-đa-la, cũng đón nhận Thánh Thần. Những người phụ nữ nầy sẽ không phải dãi dầu sương gió rong ruổi dặm trường để làm chứng cho Đức Giê-su Phục Sinh. Họ sẽ không chịu cảnh bắt bớ tù đày như các Tông Đồ, nhưng họ làm chứng theo cách khác. Họ hoạt động nhiều đến nổi truyền thống gọi bà Ma-ri-a Mác-đa-la là “Tông Đồ của các Tông Đồ”, nghĩa là Tông Đồ tuyệt hảo.
BÀI ĐỌC II (1Cr 12: 3b-7, 12-13)
Thánh Phao-lô viết từ Ê-phê-xô, có lẽ vào mùa xuân 55, gởi cộng đoàn Ki-tô hữu Cô-rin-tô, mà thánh nhân đã thiết lập vài năm trước đây, vào khoảng 50-52.
1. Cộng đoàn Ki-tô hữu Cô-rin-tô:
Đây là một cộng đoàn năng động và nhiệt thành, nhưng cũng gặp phải nhiều bất đồng nội bộ đã khiến cho thánh nhân bận lòng không ít. Đó là đối tượng của thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô nầy. Cộng đoàn Ki-tô hữu này sống giữa thế giới ngoại giáo và trong một thành phố rộng mở cho những ảnh hưởng bên ngoài, nhất là những thần bí Đông Phương vào lúc đó đang sôi động. Những trào lưu nầy không phải không gây nên vài nguy hiểm đối với đời sống đạo của các Kitô hữu.
Ngoài ra, và đây là nét chung chứ không riêng gì cho cộng đoàn Cô-rin-tô, trong những năm đầu đời, các cộng đoàn tín hữu thiếu cơ cấu, chưa có định chế, khuôn mẫu thì yếu và chưa đủ. Lòng đạo của các tín hữu thường ngẫu hứng tùy tiện. Ân ban Thánh Thần được bổ sung vào những kiếm khuyết ban đầu này. Quả thật, ơn đặc sủng thì nhiều, sau đó càng lúc càng hiếm. Các tín hữu Cô-rin-tô xem ra đã được ban cho muôn vàn đặc sủng, thường gây xôn xao dư luận hay phô trương. Vì thế, thánh nhân đòi hỏi họ trước tiên phải hiểu căn nguyên của những đặc sủng nầy.
2. Căn nguyên duy nhất của các đặc sủng: Thiên Chúa Ba Ngôi.
Phải lưu ý rằng thánh Phao-lô đặt những đặc sủng và hoạt động Kitô hữu dưới dấu chỉ Thiên Chúa Ba Ngôi, khởi đầu là Chúa Thánh Thần:
-Những đặc sủng thì đa dạng, nhưng luôn luôn chỉ có một Thánh Thần.
-Nhiều thừa tác khác nhau trong Giáo Hội, nhưng luôn luôn chỉ có một Chúa (Đức Kitô).
-Nhiều họat động khác nhau, nhưng luôn luôn có một Thiên Chúa (Chúa Cha), Đấng hoạt động trong mọi người.
3. Mục đích duy nhất của các đặc sủng: vì lợi ích chung.
Thánh nhân đưa ra “luật vàng”: tiêu chuẩn của các đặc sủng phải là vì lợi ích của cộng đoàn. Nghĩa là, nếu không vì ích lợi của cộng đoàn thì những đặc sủng chỉ là giả hiệu. Tiếp theo, thánh nhân đưa ra một sự so sánh nổi tiếng về một thân thể duy nhất với nhiều bộ phận: một Đức Kitô, một Giáo Hội, bất chấp nhiều bộ phận khác nhau. Nguyên tắc của sự duy nhất chính là Thánh Thần, Đấng duy nhất và từ Ngài mà mọi đặc sủng được ban cho tất cả mọi tín hữu. Sự sống Thánh Thần trào dâng trong chúng ta như nguồn nước hằng sống: “Tất cả chúng ta đầy tràn một Thánh Thần duy nhất”.
TIN MỪNG (Ga 20: 19-23)
Phụng Vụ đề nghị cho chúng ta bản văn Ga 20: 19-23 trong viễn cảnh lễ Ngũ Tuần. Quả thật, đoạn văn nầy thường được gọi “lễ Ngũ Tuần theo Tin Mừng Gioan”: Đức Giê-su “thổi hơi trên các ông và bảo: ‘Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần’”. Chúng ta sẽ thấy biến cố được tường thuật trong Tin Mừng Gioan này không mâu thuẫn với biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống được tường thuật trong sách Công Vụ, nhưng là phần bổ túc thần học: “Giáo Hội được khai sinh kể từ biến cố Phục Sinh” ngay cả nếu những ân ban Thánh Thần sẽ được bày tỏ sau nầy. Vài nét đặc trưng của đoạn Tin Mừng hôm nay đáng được nhấn mạnh hay nhắc nhớ.
1. Giáo Hội được khai sinh dưới dấu hiệu Thiên Chúa Ba Ngôi:
Vào ngày này, cộng đoàn nhỏ bé nầy hình thành Giáo Hội của Đức Giê-su. Ngài ủy thác cho họ sứ mạng là tiếp tục sự nghiệp của Ngài: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”, và Ngài thổi hơi trên các ông: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Giáo Hội được khai sinh dưới dấu hiệu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Đây là một trong những lời dạy cốt yếu của bản văn nầy.
2. Cuộc sáng tạo mới:
Đức Giê-su thổi hơi trên họ, lập lại cử chỉ của Đấng Sáng Tạo, Đấng làm sinh động con người bằng cách thổi hơi sự sống của chính mình vào con người. Động từ được thánh Gioan sử dụng dù chúng ta không gặp thấy ở bất cứ nơi nào khác trong Tân Ước, nhưng đích thật động từ của sách Sáng Thế để chỉ cử chỉ của Đấng Sáng Tạo trong việc tạo dựng con người đầu tiên (St 2: 7).
Đây cũng là động từ mô tả những bộ xương khô được hồi sinh trong một thị kiến nổi tiếng của ngôn sứ Ê-dê-ki-en: “Ngươi hãy nói với thần khí: Hỡi thần khí, hãy đến thổi vào những vong nhân nầy cho chúng được hồi sinh.” (Ed 37: 9). Vì thế, động từ này cốt yếu là đánh dấu “một cuộc sáng tạo mới”, một thế giới mới được khai sinh. Đức Giê-su làm cho các môn đệ của Ngài trở thành nhân tố của nhân loại được tái sinh. Để làm như vậy, Ngài tái tạo họ và tăng cường họ bằng cách thổi Thần Khí của Ngài trên họ, Ngài ban cho họ quyền tha thứ tội lỗi anh em của mình… Ngài đã hứa với họ: máu của Ngài đổ ra để tha thứ tội lỗi. Đó là sự phong nhiêu của cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài.
3. Biến cố Ngũ Tuần và biến cố Phục Sinh:
Thánh Gioan luôn luôn nhắm đến việc tuôn đổ Thánh Thần như nối kết với biến cố Phục Sinh. Thánh ký đã diễn tả tư tưởng nầy ở nơi lời công bố của Đức Giê-su khi Ngài nói về chính mình là “dòng nước hằng sống” vào lễ Lều: “Đức Giê-su muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Thật thế, bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh.” (Ga 7: 39).
Lễ Ngũ Tuần kín đáo và thân tình nầy mà Tin Mừng Gioan giữ lại, chỉ là khúc dạo đầu của Lễ Ngũ Tuần ngoạn mục, ở đó tác động Thần Khí sẽ biến đổi ngay tức khắc các môn đệ. Tuy nhiên, khi đặt biến cố Vượt Qua và biến cố Ngũ Tuần một cách nào đó bên cạnh nhau, thánh Gioan nhấn mạnh sự duy nhất sâu xa của hai biến cố nầy. Hai ngày đại lễ được nối kết rồi trong Do thái giáo. Đến phiên mình, thánh Gioan khẳng định sự bền vững của chúng trong viễn cảnh mới.
31. Đâu là sức mạnh làm thay đổi?--Lm Jos Đinh Công Phúc
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Một cách nào đó, chúng ta cũng mừng sinh nhật của Giáo hội. Bởi lẽ, chính biến cố hiện xuống đã đánh dấu chính thức sự hiện diện của Kitô giáo. Biến cố này không chỉ biến đổi các thánh tông đồ thành những nhân chứng kiên dũng của Đức tin Kitô giáo, nó cũng biến đổi thái độ và niềm tin của những ai gặp gỡ họ. Nhờ thế, cộng đồng Kitô giáo đã xuất hiện và phát triển. Chính từ biến cố này, sứ điệp của Tin mừng đã từng bước thẩm thấu và làm thay đổi nền văn minh của nhân loại. Bộ mặt của thế giới đã dần dần được biến đổi (x. Cv 2: 4- 11). Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống thiết nghĩ chúng ta nên nhìn lại đâu là nguồn sức mạnh thực sự đã và đang làm thay đổi bộ mặt của nhân loại và bộ mặt của thế giới này? Làm sao chúng ta có thể sử dụng nguồn sức mạnh này để được thay đổi cũng như để thay đổi lối sống và hoàn cảnh của chúng ta hôm nay?
Đức thượng phụ Ignatius of Laodicea đã nói rằng: không có Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa thật xa lạ, Đức Giêsu chỉ đơn giản là nhân vật độc đáo của lịch sử, Tin mừng chỉ là một cuốn sách cổ, Giáo hội cũng chỉ là một tổ chức như bao tổ chức khác, quyền lực là để thống trị, truyền giáo chỉ là tuyên truyền, phụng vụ chỉ là một hoài cổ, công việc của người kitô hữu chỉ là nô lệ; nhưng với Chúa Thánh Thần, Đức Kitô đã phục sinh và đang hiện diện, Tin mừng là nguồn mạch của sự sống, Giáo hội là sự hiệp nhất trong đời sống của Chúa Ba Ngôi, quyền lực là để phục vụ và giúp con người đạt được sự tự do toàn vẹn nơi Thiên Chúa, sứ mạng truyền giáo được khơi nguồn sức sống nơi chính Chúa Thánh Thần, phụng vụ là tưởng nhớ và nếm thử đời sống sung mãn của ân sủng nơi Thiên Chúa, công việc của người kitô hữu thì được thánh hóa.
Như vậy, chính Chúa Thánh Thần đã thay đổi bộ mặt của nhân loại và bộ mặt của thế giới này. Nếu không có Ngài, công việc của chúng ta trở nên vô ích và chỉ phục vụ cho những mục đích thấp hèn của con người. Tôi nhớ lại cách đây mấy năm, khi mà chúng tôi đang cắp sách tới trường thần học. Khi đề cập đến Chúa Thánh Thần và đời sống của Giáo hội. Thật bất ngờ khi mà một cha bạn của tôi xin đặt một câu hỏi cho cha giáo sư: thưa cha, thế Chúa Thánh Thần đã ở đâu và đang ở đâu, khi mà có biết bao công việc đã đi ngược lại với những đòi hỏi của Tin mừng. Một câu hỏi trời giáng đã làm yên lặng cả lớp học. Mọi người cứ ngỡ rằng Cha sẽ bị đuổi ra khỏi lớp học. Thế nhưng, cha giáo đã trả lời: đây là một vấn đề mà tất cả chúng ta cần tìm hiểu trong hoàn cảnh hiện tại của chúng ta. Chỉ sau khoảng hai tháng chính ngài đã có một bài "đi tìm một câu trả lời cho câu hỏi: Chúa Thánh Thần ở đâu trong thời đại của chúng ta?" Có lẽ hôm nay chúng ta cũng cần một câu trả lời cho chính chúng ta.
Chúng ta không phủ nhận dù chúng ta có nhìn thấy những tia sáng của hy vọng, nhưng tối tăm, khó khăn và những thách thức của cuộc sống luôn bủa vây cuộc đời của chúng ta. Trong hoàn cảnh này, có lẽ biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống sẽ là bài học cần thiết cho chúng ta. Các tông đồ xưa cũng đã từng phải đối mặt với những khó khăn của chết chóc, hiểu lầm, hiểu khác, hiểu sai, hiểu ngược. Và rồi bách hại, chán nản, bỏ cuộc, etc. Thế nhưng, phải nói rằng họ có một niềm tin sâu sắc đủ vào lời hứa của Đức Kitô. Họ đã kiên trì cầu nguyện. Họ đã lãnh nhận chính Chúa Thánh Thần (x. Ga 20: 21- 22). Họ đã được biến đổi và họ đã làm thay đổi thế giới (x. Cv 2: 1- 11). Phải chăng chúng ta đang cần học lại kinh nghiệm này của các thánh tông đồ?
Chúng ta tin tưởng rằng Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và đồng hành với Hội thánh. Ngài hướng dẫn và thánh hóa Giáo hội. Chính vì thế mà Chúa Giêsu dám mạnh mẽ khẳng định rằng: không có quyền lực nào có thể phá đổ Hội thánh. Sẽ luôn luôn có những con người được tuôn đổ đầy tràn ơn Chúa Thánh Thần, để Giáo hội phát triển trong mọi mặt. Những chứng nhân nổi bật trong Giáo hội đã gây ảnh hưởng lớn trên toàn thế giới trong những năm gần đây chúng ta có thể kể đến mẹ Teresa Calcuta và Đức giáo hoàng John Paul II. Có thể chúng ta chưa phát hiện ra còn nhiều những con người đang âm thầm góp sức biến đổi những tiêu cực trong xã hội của chúng ta. Rất có thể một số là chính anh em của chúng ta đây? Chúng ta có thể tin tưởng chắc chắn rằng, Giáo hội sẽ luôn đứng vững, phát triển và trao ban ơn cứu độ cho muôn dân.
Tôi nhớ một câu chuyện khá thú vị. Một ngày kia Napoleon Bonaparte, với đầy uy quyền, nói với một Đức hồng y rằng: Tôi có thể tiêu diệt Giáo hội nếu như các ngài không theo mệnh lệnh của tôi. Vị hồng y khiêm tốn trả lời: Xin chúc mừng ngài, ngài thật uy quyền! Chính chúng tôi, nhiều linh mục của Giáo hội đã cố gắng thực hiện điều đó qua nhiều thế kỷ. Thật đáng tiếc, họ đã thất bại. Giáo hội vẫn tồn tại đầy sức sống. Nhưng Napoleon Bonaparte đã thất bại, bị khổ sai, và chết trong sự nhục nhã! Chúa Thánh Thần có thể biến đổi mọi sự nên tốt đẹp, kể cả tội lỗi của chúng ta.
Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, tôi có vài câu hỏi muốn được đặt ra cho chúng ta. Đã bao nhiêu lễ hiện xuống tôi đã tham dự? Chúa Thánh Thần đã thực hiện những gì trong cuộc đời tôi? Làm sao để lễ Hiện xuống năm nay có những thay đổi thực sự trong cuộc đời tôi?
Chúng ta đã chìm sâu trong lời cầu nguyện xin ơn Chúa Thánh Thần từ lễ Chúa lên trời. Tôi nghĩ rằng Thiên Chúa không ngừng tuôn đổ ơn Chúa Thánh Thần trên chúng ta. Câu trả lời rất có thể không phải là Chúa Thánh Thần ở một nơi nào đó và Ngài không hoạt động. Ngài luôn hiện diện và thực thi công việc của Ngài trong thế giới này. Vấn đề là ở chính chúng ta! Liệu tôi có nghe tiếng Ngài? Tôi có tìm kiếm Ngài không? Tôi có đón tiếp Ngài không? Tôi có sẵn sàng để Ngài thực hiện công việc thánh hóa của Ngài qua tôi không? Chúa Thánh Thần sẽ không thể thực hiện điều gì, nếu như chúng ta từ chối Ngài! Câu trả lời sẽ là của mỗi người chúng ta.
Để nhận ra Chúa Thánh Thần và để Ngài hoạt động trong cuộc đời chúng ta - chắc chắn chúng ta không thể hơn các thánh tông đồ xưa - chúng ta cần cầu nguyện. Chúng ta không cần nói dài, nhưng đối thoại thường xuyên hơn với Ngài. Chúng ta cũng không cần nói nhiều, nhưng hãy mở lòng ra để đón nhận. Max Handel chia sẻ: cầu nguyện giống như chúng ta bật công tắc điện lên. Chúng ta không là nguồn điện năng. Nhưng chúng ta mở đường cho nguồn điện tuôn chảy qua và trong chúng ta. Đây có phải là cách mà chúng ta thường cầu nguyện? Nếu ngược lại, ai đang hoạt động trong chúng ta?
Có Chúa Thánh Thần, không có gì là không có thể. Nếu chỉ cậy vào tài năng của chúng ta, rất nhiều chuyện sẽ không có thể. Như vậy, nếu chúng ta nghĩ rằng chuyện gì đó không thể, thì rất tiếc rằng chúng ta đang bắt Chúa Thánh Thần phục vụ cho chúng ta. Hãy tin tưởng vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần, như Đức Kitô đã và đang tin tưởng nơi chúng ta. Đây là kinh nghiệm của những người "liều" đã hiến dâng cuộc đời cho sứ điệp của Tin mừng. Chính họ đã làm thay đổi biết bao con người. Chính họ đã làm thay đổi bộ mặt của thế giới. Thật đơn giản, họ tin tưởng nơi Chúa. Họ biết Chúa có thể thực hiện những điều phi thường qua con người mỏng dòn của họ. Chính những con người đơn sơ, thậm chí không may mắn được cắp sách tới trường như hầu hết các môn đệ của Giêsu - mà một bài giảng có thể hoán cải từ 3 đến 5 ngàn người! Đâu là phép lạ? Đâu mới thực sự là sức mạnh? Khi họ chấp nhận để Chúa Thánh Thần hiện diện nơi mình. Khi họ chấp nhận để Chúa Thánh Thần nói qua con người và miệng lưỡi mình. Khi họ chấp nhận để cho "ngôn ngữ" của Chúa Thánh Thần được nói lên. Với "ngôn ngữ" của Chúa Thánh Thần, mọi sự có thể được biến đổi, lòng người có thể thay đổi, tội lỗi sẽ được tha. Chúng ta học được gì qua những kinh nghiệm này?
Có lẽ điều lo lắng lúc này không phải làm sao tôi có thể thay đổi chồng tôi, vợ tôi, bạn tôi, con tôi, kẻ thù tôi, người tội lỗi, etc? Làm sao tôi có thể dạy họ? Làm sao tôi có thể thuyết phục họ? Câu hỏi nào đang trong đầu ban? Không cần quan tâm bao nhiêu câu hỏi. Có một điều đơn giản hơn, chúng ta nên quan tâm - câu khẳng định của Đức Giêsu: Bình an cho anh em...Anh em hãy lấy Thánh Thần (Ga 20: 21- 22). Nếu chúng ta chấp nhân điều này - chính Thánh Thần sẽ là người thực hiện. Không ai trong chúng ta có thể làm phép lạ. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể thực hiện. Đâu là sức mạnh có thể làm thay đổi? Hy vọng đây sẽ là thánh lễ Hiện xuống đặc biệt trong đời chúng ta.
32. Quà tặng Thần Khí – Peter Feldmeier--Lm GB. Văn Hào chuyển ngữ
“Và họ được đầy Thánh Thần” (Cv 2,4)
Lễ Hiện xuống mang một ý nghĩa sâu xa đặc biệt đối với từng người chúng ta, cũng như đối với các tông đồ năm xưa. Chúng ta khởi đầu với lễ Hiện xuống nơi các tông đồ, rồi đến chúng ta ngày hôm nay. Các tông đồ quy tụ lại mừng lễ ngũ tuần của người Do Thái, tưởng nhớ việc Chúa ban bố lề luật cho dân trên núi Sinai. Biến cố gợi nhắc đến việc Thiên Chúa quyền năng đã đưa dân ra khỏi Ai Cập, dùng cột lửa soi sáng ban đêm trong hành trình sa mạc và đã tỏ lộ uy quyền của Ngài trên đỉnh núi Sinai. Lễ ngũ tuần ngày xưa là dịp tưởng niệm việc Thiên Chúa tặng ban lề luật, là quà tặng đặc thù Thiên Chúa gửi trao cho dân. “Chúa bày tỏ Lời Người cho nhà Gia cóp, chiếu chỉ luật điều cho Israel. Chúa không đối xử với dân nào như vậy, không cho họ biết những luật điều của Người” (Tv 147,19-20).
Chúng ta cũng gợi nhắc việc Gioan tẩy giả công bố phép rửa “Bằng lửa và Thần khí” (Lc 3,16). Trong lễ Hiện xuống đầu tiên, Thiên Chúa cũng thực hiện lời tiên báo của Thánh Gioan. Ngài cũng đem Thần khí và lửa từ trời xuống trên các tông đồ. Bài đọc trong sách Tông đồ công vụ của phụng vụ hôm nay đã mô tả: “Bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho (Cv 2,1.4). Sự việc đó diễn ra, khiến mọi người hiện diện, kể cả các du khách đến từ mọi nơi, thuộc các nền văn hóa và các ngôn ngữ khác nhau, có thể nghe và hiểu những gì các tông đồ nói theo ngôn ngữ riêng của mình. Sự kiện đó biểu thị hành động uy quyền của Thiên Chúa. Chúng ta đừng nên nghĩ rằng các tông đồ lúc ấy đang cầu nguyện bằng tiếng lạ giống như một ơn xuất thần mà Thánh Phaolô đã nhắc tới trong thơ gửi giáo đoàn Côrinthô (1 Cor 14). Nhưng, lễ Hiện xuống đầu tiên là thời điểm Tin mừng được quảng bá rộng khắp cho mọi dân mọi nước. Qùa tặng Thần Khí là động thái cuối cùng của Mầu nhiệm Vượt qua. Cũng như Đức Kitô biến đổi tình trạng tội lỗi nơi Adam, Thần Khí cũng biến đổi tình trạng hủy diệt nơi sự kiện tháp Babel ngày xưa. Khi xây tháp Babel, con người đã tỏ ra kiêu ngạo và cố chấp, nên Thiên Chúa đã phân rẽ họ ra thành nhiều nhóm ngôn ngữ để họ không thể thông tri được với nhau. Ngược lại, khi Thần Khí được ban xuống, Ngài nối kết muôn người thuộc mọi sắc tộc và ngôn ngữ. Điều này cũng biểu thị sứ mạng của Hội thánh, đó là công bố Tin Mừng cho mọi dân mọi nước. Bởi lẽ, tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa được ban tặng cho tất cả mọi người.
Động thái cuối cùng của Mầu nhiệm Vượt qua, mà ngày hôm nay chúng ta mừng kính, là tột đỉnh và tóm kết lễ Phục Sinh. Thiên Chúa thực hiện việc chuẩn miễn thần thiêng sâu xa nhất: Đó là ban Thánh Thần để Thần khí giờ đây thuộc về chúng ta. Đây là điểm nhấn mà Thánh Phaolô nói tới trong bài đọc thứ hai của phụng vụ hôm nay. Thánh Phaolô đã khuyến cáo tín hữu Galat hãy đón nhận tự do thực sự trong Đức Kitô, chứ không phải tự do qua việc tuân thủ luật Moise. Luật lệ cựu ước rất thánh thiêng. Nó giúp tôi luyện và rèn dũa con người đi vào khuôn phép. Nhưng khi Đức Kitô đến, thời đó đã qua (Gal 3,24). Bây giờ là thời của Thần Khí, thời mà chúng ta được thông dự vào chính sự sống của Đức Kitô trong Thánh Thần.
Với suy nghĩ như thế, Thánh Phaolô đưa ra sự đối kháng giữa hoa trái của Thần khí và những công việc của xác thịt. Từ ngữ “xác thịt” (sarx) ở đây không phải chỉ nói về thân xác (soma), nhưng nói về cả tổng thể con người khi sống dưới sự khống chế của những đam mê tội lỗi. Thánh Phaolô liệt kê một loạt những đam mê thuộc về “xác thịt”, từ việc dâm dật đến những hành vi tôn thờ ngẫu tượng đang xảy ra giữa dân. Cụ thể như tội dâm bôn, sự ô uế, phong đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tị, say sưa chè chén... Đối nghịch với những tội lỗi theo xác thịt là hoa trái của Thần khí: Tình yêu, niềm vui, bình an, kiên nhẫn, nhân hậu, quảng đại, trung tín, hiền lành, tiết độ (Gal 5,20-23). Đây là hai phạm trù tương phản và đối kháng nhau mà Thánh Phaolô nhấn mạnh. Thánh Phaolô không nhằm đến việc nêu ra những nhân đức để chúng ta thực thi hầu hoàn thiện chính mình. Ngài muốn nói rằng, nơi một tâm hồn có những phẩm tính cao đẹp này, chính là dấu chỉ có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần bên trong. Chúng là dấu chứng cụ thể biểu tỏ sự hiện lộ của Thần Khí.
Thánh Phaolô muốn nói cho chúng ta phương cách nhận ra sự hiện diện năng động của Thánh Thần nơi các tâm hồn. Mọi người đều biết rằng, một con người bề ngoài xem ra có vẻ nghiêm túc về mặt luân lý, nhưng đôi khi đầu óc lại rất u tối, đồng thời trái tim của họ lại quá chật hẹp và sơ cứng. Tôi sợ rằng khi đến trước cổng Thiên đàng, họ sẽ nghe tiếng Chúa nói: “Ta không biết các người là ai, hãy đi cho khuất mắt Ta” (Mt 7,23). Thánh Phaolô nhắc nhở: “Khi anh em được Thần khí hướng dẫn, anh em không còn sống dưới lề luật”. Luật bắt chúng ta phải tuân phục, còn Thần khí thì mời gọi đi vào tình yêu và sự hiệp thông. Những ai sống tràn ngập yêu thương trong Thần khí, đương nhiên sẽ hiển thị hoa trái của sự hiệp thông sâu xa này.
Mỗi lần chúng ta hát thánh thi Veni Sancte Spiritus, chúng ta khẩn nài xin Chúa Thánh Thần đến, nhưng thực sự Ngài đã đến và đã hiện hữu sẵn nơi ta. Tuy nhiên chúng ta cần phải làm hiện lộ sung mãn hoa trái của Ngài. Tất nhiên với tự do, con người có thể cản che hoặc làm suy yếu hoạt động của Thánh Thần nơi họ, nhưng chúng ta không thể chối từ một sự thật, đó là Thần khí đã được ban cho chúng ta và thuộc về chúng ta. Đó là món quà cao quý nhất mà Thiên Chúa đã hiến tặng. Thánh Thần chính là quà tặng được ân ban cách nhưng không, còn chúng ta, chúng ta phải khai mở món quà đó ra và để Thánh thần tác động. Ngay bây giờ và ngay tại nơi đây, chúng ta cần phải thực hiện công việc này.
33. Chúa Thánh Thần - Tôn sư nội tâm--Dã Quỳ
Trong chương trình tình yêu kỳ diệu của Thiên Chúa dành cho nhân loại, Chúa Cha đã yêu thương đến nỗi ban chính Con Một là Chúa Giêsu đến ở cùng và cứu độ chúng ta. Sứ vụ của Chúa Giêsu kết thúc nhưng Người yêu thương các môn đệ và Giáo hội đến cùng. Thế nên Ngôi Ba là Chúa Thánh Thần được sai đến để tiếp nối sứ vụ huấn luyện các môn đệ. Người sẽ dạy dỗ, hướng dẫn, làm cho các môn đệ và tất cả chúng ta nhớ, hiểu, làm những gì Chúa Giêsu đã nói.
Sau biến cố Tử Nạn của Chúa Giêsu, các môn đệ quá sợ hãi! Sợ nên mới đóng kín cửa. Cái sợ tột cùng nhất là sợ mất mạng sống. Biết rõ tâm trạng của môn đệ, sau khi sống lại Chúa đã đến với họ. Chúa không chỉ trấn an mà còn ban cho họ chính bình an của Chúa. Tâm hồn có bình an thì sợ hãi sẽ rời xa. Khi các môn đệ đã tin, nhận ra Chúa thực sự sống lại và được bình an; Chúa tiếp tục trao ban Thánh Thần của Chúa cho môn sinh và sai các ông ra đi tiếp nối sứ mạng của Người nơi trần gian.
Chính Chúa Giêsu đã sai Chúa Thánh Thần đến với các môn đệ "nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em." (Ga 16,7c) Thánh Gioan mô tả Chúa thổi hơi vào các môn đệ và nói: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần." (Ga 20, 22) Vậy từ nay, Chúa Thánh Thần có một sứ vụ đặc biệt trong Giáo Hội, trong mỗi tâm hồn người môn đệ và Kitô hữu.
+ Chúa Thánh Thần là Đấng gợi hứng và hành động. Người hướng dẫn chúng ta cách rõ ràng, mạc khải cho chúng ta biết ý muốn của Thiên Chúa và tất cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa, vì Người là Thần Trí của Thiên Chúa và phát xuất từ Chúa Cha (x. Ga 15,26)
Chính vì thế, khi nói về Thiên Chúa hay Lời của Người, chúng ta không dùng lời lẽ từ trí khôn của mình nhưng là lời do Thánh Thần Chúa soi sáng linh hứng và là những gì ta đã học được từ Chúa.( x. 1Cr 2, 10-16) Thế nên, Thánh Phaolô đã nhắc nhở tín hữu hãy nhớ "Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Chúa ngự trong anh em sao?"( 1Cr 3,16-17). Một khi xác tín chúng ta là Đền Thờ và Chúa Thánh Thần luôn ngự trị, là tôn sư hướng dẫn, chúng ta sẽ tín thác vào Chúa và lắng nghe Người chỉ dạy.
Ma quỉ làm chúng ta bối rối, lo lắng và đưa ta đến thất vọng. Còn Chúa Thánh Thần, Người sẽ hướng dẫn ta cách thực hiện thánh ý Thiên Chúa, biết hy sinh. Người khiển trách ta cách nghiêm nghị nhưng luôn nâng đỡ ta trong dịu êm như người cha, như thầy thuốc. Những tư tưởng tốt lành trong ta đều đến từ Chúa Thánh Thần. Người gợi hứng, chỉ dạy chúng ta mọi điều như lời Chúa Giêsu dặn "Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều."( Ga 14,26)
Khi ta biết bàn hỏi với Chúa Thánh Thần trong những công việc, những quyết định, ta sẽ nhận được ơn bình an và tinh thần sáng suốt. Chính vì thế, Thánh Phaolô đã dặn dò mỗi Kitô hữu chúng ta hãy sống theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và khi ấy ta sẽ được tràn đầy hoa trái của Người là: "Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ." (Gl 5,22) Vậy ta hãy năng trò chuyện với Chúa Thánh Thần và lắng nghe Người.
+ Chúa Thánh Thần là Đấng dạy chúng ta yêu và cầu nguyện. Chúa Thánh Thần luôn ở giữa chúng ta và ở trong chúng ta. (x. Ga 14,17) Người dạy chúng ta biết yêu mến Thiên Chúa, yêu thương nhau và chúng ta yêu bằng tình yêu của chính Người ở trong tim ta. Người biến đổi con tim của chúng ta. Mọi sự thánh thiện, mọi nhân đức và mọi hành động tốt lành của ta đều do Người hình thành và hoàn thiện vì Người là Thánh Thần thánh hóa.
Người còn dạy chúng ta biết cầu nguyện, tôn vinh chúc tung Thiên Chúa thế nào cho phải vì lời lẽ của ta không xứng hợp và chính Người cầu thay nguyện giúp cho ta. (x. Rm 8,26-27) Hơn thế nữa, người biển đổi chúng ta thành con của Thiên Chúa, chứng thực chúng ta có quyền gọi Thiên Chúa là Cha và được quyền đồng thừa kế với Chúa Kitô. (x. Rm 8,15-17)
+ Chúa Thánh Thần là Đấng đào luyện. Người huấn luyện, làm cho chúng ta trở nên những Kitô hữu và là chứng nhân của Chúa Kitô "Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em. Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần." (Ga 20, 21-22) Khi có Chúa Thánh Thần, chúng ta trở nên con người mới và tràn đầy ân sủng.
Chính Chúa Thánh Thần đã biến đổi các môn đệ từ những con người nhút nhát nay dám mở toang cửa ra, vững tin và can đảm hăng say ra đi loan báo Tin Mừng. Chúa Thánh Thần là tác nhân chính trong Giáo Hội, là Đấng không ngừng hướng dẫn đoàn dân Chúa. Người luôn hiện diện và soi dẫn trong từng lời môn đệ rao giảng "Chúng tôi xin làm chứng cùng với Thánh Thần." (Cv 5,32) hay trong những quyết định "Thánh Thần và chúng tôi quyết định."(Cv 15,28) Hơn nữa, Người là Đấng luôn kiện toàn và hiệp nhất Giáo Hội, hiệp nhất chúng ta.
Hôm nay, Chúa Thánh Thần vẫn luôn đào luyện mỗi chúng ta trở nên Kitô hữu thực sự và là sứ giả Tin Mừng giữa lòng đời. Người giúp chúng ta biết nhìn thực tại thế giới này trong ánh sáng của Chúa và Người dạy ta biết phân định, nhận ra những dấu chỉ thời đại. Chúa Thánh Thần cũng không ngừng canh tân chúng ta và ban sức mạnh giúp ta vượt thắng được những khó khăn trong cuộc sống ơn gọi Kitô hữu. Nhưng quan trọng chúng ta cần kết hợp với Người và cộng tác với Người, cách cụ thể là cầu nguyện và thân thưa với Người. Hãy đặt mình dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và chúng ta sẽ biết phải làm gì, sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa.
Ngày Lễ Chúa Thánh Thần được gọi là ngày khai sinh Giáo Hội. Nguyện xin Chúa Thánh Thần ngự đến trong mỗi người chúng ta, trong Giáo Hội và trên toàn Thế giới, như một ngọn gió mới tái tạo trái đất và Giáo Hội Chúa. Để rồi nhờ Chúa Thánh Thần, chúng ta biết sống hiệp nhất, yêu thương và trở nên một thân thể duy nhất trong Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa đã yêu thương chúng con vô bờ bến nên đã gởi Chúa Thánh Thần đến. Xin Chúa Thánh Thần luôn là Tôn Sư ở trong chúng con, dạy dỗ và biến đổi chúng con mỗi ngày thành Kitô hữu đích thực và thành chứng nhân của Chúa Kitô. Amen.
34. Ý nghĩa mỗi ơn trong bảy ơn Chúa Thánh Thần--Lm Anphong Nguyễn Công Minh, ofm
“Xin ban cho họ thần trí khôn ngoan và thông hiểu, thần trí lo liệu và sức mạnh, thần trí suy biết và đạo đức – xin ban cho những người này đầy ơn kính sợ Chúa.” (Nghi thức Thêm Sức, lúc đặt tay)
Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa mỗi ơn trong 7 ơn Chúa Thánh Thần.
Xin thú thật mãi cho tới những năm gần đây vẫn không sao phân biệt nổi những ơn này khác nhau làm sao. Nhất là mấy ơn đầu: 1) Khôn ngoan, 2) Hiểu biết 3) Thông minh. Ba ơn này chẳng là một hay sao, tuy mức độ có chênh nhau hơn kém…. Như khi người ta khen con cái mình rằng là nó nhỏ nhưng nó khôn lắm, nó thông minh lắm, nó hiểu nhanh lắm, ta thấy ba cái khen đó, nó “xêm xêm”: chẳng khác gì đầu đề một quyển sách châm biếm của nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ Azit Nêxin: “Con chúng ta giỏi thật!”
Sách “Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo” năm 1992 có nhắc tới 7 ơn này hai lần, một trong phần Nghi thức bí tích Thêm sức (số 1299) và một trong phần Hiệu quả bí tích (số 1303), nhưng chỉ liệt kê chứ không có một dòng giải thích.
Vậy muốn hiểu rõ 7 ơn Chúa Thánh Thần, ta phải coi lại bản gốc của nó: Isaia 11,2. Các nhà chuyên môn đã làm giúp ta, ta chỉ việc thu lấy kết quả của họ. Vì quả thật nếu dịch các ơn đó từ tiếng Hipri rồi Hy lạp qua Latinh, rồi mới từ Latinh chuyển qua tiếng Việt chúng ta đọc, thì thật khó lòng hiểu nổi các ơn đó muốn nói gì. Cần phải dịch lại mới sáng tỏ nội dung. Chúng ta sẽ không khởi đầu từ ơn khôn ngoan mà đi từ ơn thứ bảy, ơn dễ hiểu nhất để ngược lên tới ơn trên cùng là ơn khôn ngoan.
7- Ơn thứ bảy là ơn kính sợ Đức Chúa Trời. Đây là ơn mà đọc lên chúng ta hiểu ngay muốn nói gì. Kính sợ là úy kính, một tâm tình mà ở trần thế này con người cần có thì mới mong tránh loạn tặc. Khi một người nào đó ngang tàng, coi trời bằng vung, không biết sợ trời là gì, thì người ấy có thể làm mọi sự và thường là những điều tệ hại nhất.
6- Nhưng một ơn khác của Chúa Thánh Thần làm cho ơn kính sợ này trở nên tình yêu, đó là ơn đạo đức. Sáu là ơn đạo đức: nghe “đạo đức”, ta nghĩ ngay đạo đức là năng đi nhà thờ, năng đọc kinh lần hạt. Nhưng đó mới là những diễn tả. Đạo đức chính là Đạo làm con. Một người con năng đến với cha là người con có hiếu. Và nếu cần dịch lại thì sẽ là ơn sùng hiếu (pietas). Ơn thứ 7 cho ta kính sợ Chúa, nhưng không phải kính sợ Chúa như một ông vua đầy uy quyền sát khí, một lời nói là đầu rơi, một chau mày là người chết. Nhưng ơn kính sợ Chúa cộng với ơn sùng hiếu này khiến ta kính sợ Chúa như người Cha của chúng ta. Đây phải là một ơn riêng của Chúa Thánh Thần khiến ta mới có thể dám xem Chúa là Cha của mình (x. Ga 4,6; Rm 8,15).
5- Năm là ơn mạnh bạo hoặc ơn mạnh sức. Đây không phải là sức khoẻ phần xác thôi, nhưng là sự dũng cảm của một người con Chúa can trường và vui vẻ thực hiện ý của Cha mình. Do đó có thể dịch ơn mạnh bạo là ơn dũng cảm.
Thực vậy để thực hiện chứ không phải chỉ biết thôi –ý của Chúa- nhiều khi chẳng dễ nuốt ngon ăn. Phải dũng cảm lắm mới được. Chúa Giêsu đã nói: Từ ngày Gioan Tẩy Giả đến giờ, Nước Trời ở dưới sức cường bạo, và chỉ những ai mạnh bạo mới được vào Nước Trời (Mt 11,12). Một chỗ khác, Chúa Giêsu nói: Không phải cứ kêu ‘Lạy Chúa, lạy Chúa’ mà được vào Nước Trời, nhưng là thi hành ý của Cha Ta (Mt 7, 21). Móc nối 2 câu này ta thấy phải dũng cảm lắm mới thực thi được ý Chúa để có thể chiếm Nước Trời.
4- Bốn là ơn lo liệu. Ơn thứ năm mạnh bạo cho ta sự dũng cảm để làm theo ý Chúa, nhưng chính ơn lo liệu này, dịch rõ hơn phải là ơn chỉ giáo cho ta biết đâu là ý Chúa trong từng trường hợp cụ thể. Trong Tam Quốc Chí, Khổng Minh Gia Cát Lượng trao cho Triệu Tử Long trên đường sang Đông Ngô 3 túi gấm trong đó có sẵn những chỉ dẫn. Khi cần thì cứ mở cẩm nang (túi gấm) để biết phải làm gì, làm gì, làm gì. Tới bờ sông, mở túi gấm 1, gặp quả núi mở túi gấm 2…
Vì thế ơn lo liệu tức là ơn cẩm nang, ơn túi gấm, ơn chỉ giáo: (conseil) là ơn hiểu biết ý Chúa trong từng trường hợp cụ thể để ơn dũng cảm cho ta sức mạnh thi hành.
Ba ơn còn lại liên hệ đến chữ BIẾT. Nhưng mỗi ơn cho ta biết Chúa mỗi cách.
3- Ba là ơn thông minh. Dịch như trong lời nguyện của Bí tích Thêm sức sẽ dễ hiểu hơn: ơn suy biết. Là ơn mình suy từ thiên nhiên vạn vật mà biết có Chúa là Đấng Tạo Hoá. Cách biết Chúa bằng lối này Chúa Thánh Thần ban cho rất nhiều người. Nhìn chiếc đồng hồ có các bánh xe ăn khớp nhau, ta suy biết có người làm ra đồng hồ. Thì nhìn trời đất muôn vật với trật tự lạ lùng, ta suy ra có ông Trời là Tạo Hoá. Đây là cách biết Chúa sơ đẳng nhất: biết Chúa qua thiên nhiên, biết Tạo Hoá qua mọi thọ tạo. Trước đây dịch là ơn thông minh. Dịch là ơn suy biết thì có lẽ thông minh hơn!
2- Ơn suy biết là biết Chúa qua thọ tạo (Science). Cách biết Chúa cao hơn là biết Chúa qua mạc khải. Đây chính là ơn thứ hai: hai là ơn hiểu biết, hay dịch đúng hơn: ơn thấu hiểu, ơn thông hiểu. Không phải là hiểu biết thường qua thọ tạo, nhưng là hiểu biết thấu đến chính Tạo Hoá đó đã tỏ mình ra với con người. Tiếng chuyên môn gọi là mặc khải. Nói rõ hơn, ơn này đòi hỏi ta phải tin nữa. Tin Thiên Chúa là Lời – Lời nói với con người – cụ thể là tin Kinh Thánh là Lời ngỏ của Chúa cho nhân loại. Ơn này cũng còn có nghĩa là hiểu lời ngỏ của Chúa nữa: nói nôm na là hiểu và giải thích Kinh Thánh. Các nhà chú giải Thánh Kinh có lẽ nhận được ơn này nhiều. Tất cả thuộc phạm vi của ơn thấu hiểu.
1- Và cuối cùng là ơn khôn ngoan: một là ơn khôn ngoan. Chữ “khôn ngoan” chưa nói được gì cả về ơn thứ nhất trong 7 ơn Chúa Thánh Thần này. Phải móc nối với một câu trong sách Khôn Ngoan ta mới khôn ra được, mới sáng trí hơn: Xin rộng ban cho tôi, Đức Khôn Ngoan hằng ở bên toà Chúa (Kn 9,4). Hoặc trong sách Huấn ca: Khôn ngoan đều xuất phát bởi Chúa, và khôn ngoan ở với Người muôn đời (Hc 1, 1). Vậy ơn khôn ngoan dịch cách khôn ngoan hơn phải là ơn thượng trí, tức là ơn “biết” Chúa thật sự, biết theo nghĩa Kinh Thánh—có thể nói như thế: Adong biết Eva, sinh ra Cain. Ơn thượng trí cho ta biết Chúa thật sự bằng cách bay vút lên trời (thượng trí mà!) để sống thân mật, sống kết hợp, sống kề cận ở ngay bên Chúa, nếm được Chúa, cảm được Ngài: Đức khôn ngoan hằng ở bên toà Chúa.
Chúa Thánh Thần cũng ban ơn thượng trí này cho một số vị tuy còn trong thân xác trần gian, nhưng ngất trí, được đưa thấu tận trời xanh để cảm, để nếm Chúa, để -nói theo lối nói của kẻ đã được đưa lên tầng trời thứ ba: có trong thân xác hay ngoài thân xác, người ấy không biết- đưa lên để nghe những lời khôn tả mà loài người không được phép nói lại. “Về một người như thế, tôi sẽ tự hào.” Phaolo thuật như vậy trong 2Cr 12, 1-6.
Nhiều vị thánh khác, nhất là thánh nữ, được ơn thượng trí kết hợp với Chúa trong khi cầu nguyện. Toma Celano thì nói về Phanxicô Assisi như sau, “khi cầu nguyện, không phải là thánh nhân cầu nguyện mà Phanxicô là hiện thân của sự cầu nguyện” -một kiểu nói khác của sự kết hợp chiêm niệm, của ơn thượng trí. (Nếu các thánh khó khăn lắm mới được ơn này, thì hình như ta dễ dàng được ơn thượng trí, ngất trí này hơn, nhất là trong tuần phòng gặp những bài giảng khô và lâu, tức gặp những chuyên viên gây mê giỏi!). Thôi ta hãy khoan vội xin ơn thượng trí này, mà ta hãy cứ thấy Chúa bằng ơn suy biết khi đi dạo vườn hoa cây cối nơi TGM này. Xin Chúa Thánh Thần cho ta biết hô lên Eureka như Archimede ngày xưa khi ta khám phá được ý nghĩa hay ho của Lời Chúa qua ơn thấu hiểu. Ta hãy xin cho ta biết ý Chúa muốn ta làm gì hôm nay, chốn này, qua ơn chỉ giáo. Lại xin ơn dũng cảm để ta thực thi điều Chúa chỉ giáo. Và như thế ta là người con thật của Chúa là Cha qua ơn sùng hiếu và ơn kính sợ.
[Còn nếu ta xin thẳng ơn thượng trí để “biết” Chúa, kết hợp với Chúa ngay từ đầu tuần phòng, thì chẳng cần mấy bài giảng của đức cha, chẳng cần lân la đến nhà thờ lễ lạy, vì ta đã đắm chìm trong Ngài rồi, thì quả là “khôn ngoan,” mà dịch là ơn khôn ngoan cũng chẳng sai vậy!]
[Ghi chú: ta thấy các ơn đi từng cặp:
- ơn sùng hiếu làm cho ta kính sợ Chúa như con kính sợ Cha
- ơn dũng cảm làm cho ta dám thực hiện ý Chúa trong giây phút hiện tại mà ơn chỉ giáo cho ta biết đâu là ý của Ngài lúc này.
- ơn suy biết cho ta biết Chúa qua thọ tạo thiên nhiên để rồi nhờ ơn thấu hiểu giúp ta biết Ngài ngỏ lời với con người.
- cuối cùng, khi biết Chúa thì yêu Ngài (vô tri bất mộ): lúc đó biết theo nghĩa thông thường trở thành “biết” theo nghĩa Kinh thánh, tức là yêu, là kết hợp với Chúa qua ơn thượng trí.]
Bảy Ơn:
1. ơn Khôn ngoan (dịch lại là ơn Thượng trí, ơn kết hợp thân thiết với Chúa)
2. ơn Hiểu biết (dịch lại là ơn Thấu hiểu, hiểu biết Chúa qua mạc khải)
3. ơn Thông minh (dịch lại là ơn Suy biết, biết Chúa qua suy ra từ vạn vật)
4. ơn Lo liệu (dịch lại là ơn Chỉ giáo, chỉ cho ta biết đâu là ý Chúa trong từng trường hợp cụ thể)
5. ơn Mạnh bạo (dịch lại là ơn Dũng cảm, dám can đảm thực thi ý Chúa mà ơn Chỉ giáo cho biết)
6. ơn Đạo đức (dịch lại là ơn Sùng hiếu, ơn kính sợ Chúa trong tư cách là con của Cha, chứ không phải bề tôi của vua)
7. ơn Kính sợ (không cần dịch lại)
35. Vô hình vô dạng--Lm Vũ Đình Tường
Nó vung tay chụp trước, chụp sau, phải trái xoè bàn tay ra vẫn không có gì. Có người thắc mắc hỏi bắt gì vậy. Nó đáp tỉnh bơ: Bắt gió. Vô hình vô dạng hay thiên hình vạn dạng chính là thực tế của gió. Gió hình thù ra sao không xác định được, không có câu trả lời. Nhìn hàng cây uốn cong rạp ta biết có gió to. Thấy bông hoa lay động ta biết gió thoảng. Nghe tiếng thổi ào ào qua tai ta biết gió lớn. Sóng biển dâng cao ta biết gió lộng. Thấy mát quanh người ta biết có gió. Tất cả những hình ảnh đó không phải là gió mà là ảnh hưởng của gió. Không nhìn thấy, không sờ mó được, không hoạ được nhưng không thể chối cãi gió không có thật. Gió có thật và rất cần cho đời sống, ở bên ta, quanh ta, cảm được nhưng không sờ bắt được.
Lửa Cháy
Nó vẽ ngọn lửa nhưng lửa cháy bập bùng, liên tục hình này nhô lên ngọn kia phụp xuống. Cố vẽ trên hình vẽ thành một biển lửa, vẫn chưa xong còn nhiều hình mới để vẽ. Các hoạ sĩ diễn tả tượng trưng một lưỡi lửa cháy bập bùng thoáng nhìn qua biết là hình của lửa. Nhận biết vì được học như thế, thực tế lửa không mang hình nhất định. Cứ quan sát ngọn đèn cháy trước gió chúng ta thấy hình lửa cháy thay đổi liên tục từng chớp mắt. Mỗi một giây, một tích tắc lửa thay hình đổi dạng nhiều lần. Không lần nào giống lần nào như thế thì hình lưỡi lửa cháy bập bùng chỉ là hình tượng trưng được mọi người công nhận hình của lửa. Thực tế hình lửa cháy thay đổi liên tục, không ngớt cho đến khi tàn mới thôi. Lửa còn có một thực tế vô hình khác đó là khói. Khói thay đổi liên tục, cứ lan ra mãi, lan mãi cho đến khi chìm vào thinh không. Hình ảnh khói bay cũng vậy càng lan rộng càng thay đổi hình và không thể vẽ cho hết được. Có lẽ ngay cả khí nóng do lửa phát ra cũng liên tục thay đổi.
Mây
Nằm ngoài sân ngó lên trời xanh thẳm thấy đám mây hình con gấu, chớp mắt vài lần thấy hình con gấu biến mất. Thay hình đổi dạng liên tục là thực thể của mây. Mây không cánh mây vẫn bay. Mây trời dầy đặc nhưng cũng nhẹ nhàng treo gềnh núi. Mây dầy đặc lại dễ tan. Mỗi đám mây có mầu riêng. Mây thuộc dạng vô hình hay muôn hình vạn sắc.
Thần Khí
Gió, lửa và mây là ba hình ảnh tượng trưng cho ngày lễ chúng ta long trọng mừng kính trong ngày Chúa Nhật Chúa Thánh Thần. Ba hình đó là hình lưỡi lửa, gió thổi và cột mây.
Cả ba thực thể đều gần con người.
Cả ba thực thể đều vô hình hay muôn hình.
Cả ba thực thể đều cần thiết.
Cả ba thực thể đều không thể sờ mó, cầm bắt được.
Cả ba thực thể đều có thể cảm nghiệm.
Tinh thần mới
Sống tinh thần mới chính là cảm nhận Lời Chúa Jesu. Sau ngày Chúa về trời Kitô hữu không nhìn thấy Chúa, không nghe tiếng Chúa nhưng cảm nghiệm bằng mắt đức tin, lòng tin. Cảm thấy Chúa hiện diện, đồng hành, cùng sống, cùng hoạt động trong các sinh hoạt thường nhật. Sống dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần chính là những cảm nghiệm ấm áp, gần gũi đó. Cảm nghiệm đến từ trong, từ trong nội tâm và hành động vì lòng mến. Sống và thực hành Lời Chúa trong tâm tình mới, tâm tình yêu thương, phó thác.
Biết Thánh Thần qua Chúa Giêsu
Trước khi về trời Chúa Jêsu hứa ban Thánh Thần. Thánh Thần Chúa đến không mang điều mới mẻ nhưng làm mới lại những điều Chính Chúa Kitô đã giảng dậy, làm sống lại những điều Chúa Kitô đã rao giảng. Giúp các Kitô hữu thấu hiểu sự thật được Chúa giảng dậy, giúp các Kitô hữu nhớ lại điều Chúa đã dậy và sống Phúc Âm theo tinh thần mới trong hoàn cảnh mới.
Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy cho anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em' (Gn 14,26)
Nếu anh em yêu mến Thầy anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy và Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí Sự Thật. (Gn 14,15)
Thần Khí sự thật sẽ dẫn anh em đến sự thật toàn vẹn, Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe Người sẽ nói lại và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến (Gn 16,13)
Thánh Thần
Trong các thực thể kể trên, gió, lửa và mây chúng ta đi vào chi tiết một thực thể là để nhận biết công việc của Thánh Thần.
Lửa, khói và nhiệt đều được liệt kê vào thực thể vô hình vô dạng hay thiên hình vạn dạng. Lửa biến ải khôn lường, sức nóng phát ra khủng khiếp, khói toả lan mọi góc kẽ và ánh sáng lửa đánh tan mọi tối tăm. Hình ảnh Thánh Thần Chúa hứa ban có sức mạnh hơn biển lửa. Sưởi ấm và ban sức mạnh cho mọi tâm hồn, liên kết mọi dân tộc, hiệp nhất người thiện tâm. Ban sức mạnh, sai rao giảng Tin Mừng, giúp thấu hiểu các mầu nhiệm, hướng dẫn đến chân lí, ban sự sống. Bài ca tiếp liên ghi Thánh Thần đổi mới mặt đất, cha kẻ cơ hàn, đấng an ủi tuyệt diệu, thượng khách của tâm hồn, là gió mát, là hào quang, rửa sạch mọi vết nhơ, tưới gội nơi khô cạn, chữa lành mọi vết thương, uốn thẳng lòng cứng cỏi, sưởi ấm chốn lạnh lùng, sửa sang cho ngay thẳng, ban niềm vui muôn thuở trong giờ phút lâm chung.
36. Ơn làm nghĩa tử--Lm Vũ Đình Tường
Hàng năm vài ba tháng trước Giáng Sinh và Phục Sinh, giới thương mại trưng bày hàng hoá, kêu gọi, cổ võ và đếm giật lùi từng ngày cho đến đại lễ. Mục đích nhắc nhở, thúc dục chi tiêu, mua bán để họ thu lợi. Tuy nhiên giới thương mại dường như không biết nhiều về Đại lễ Chúa Thánh Thần. Có lẽ một là không thu được mấy lợi lộc. Hai là không có ngày nghỉ kèm theo dịp lễ trọng này. Đối với Kitô hữu, lễ Chúa Thánh Thần ban muôn ân như lời Đức Kitô hướng dẫn các môn đệ.
Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần, Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em 14,26
Ngài là Đấng bào chữa, trợ giúp, bênh vực, chỉ đường.
Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người Gn 14,16
Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật 15,26
Nghĩa tử
Dường như hai đại lễ Giáng Sinh và Phục Sinh là những lễ lớn chung cho toàn thế giới vui mừng chào đón. Riêng đại lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống dành ưu tiên, trước tiên cho các Tông Đồ và cho các Kitô hữu, những người tin vào Đức Kitô qua lời rao giảng của các Kitô hữu khác. Đây là ơn Chúa ban riêng giúp ta trở nên nghĩa tử Đức Kitô.
Chúng ta nhớ lại lời loan báo của sứ thần Thiên Chúa trong đại lễ Giáng Sinh cho các mục đồng.
Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân. Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em. Lc 2,10
Trước khi tự hiến, nộp mình, vâng lời Chúa Cha, chết trên thập giá, Đức Kitô loan báo Người sẽ chết cho toàn dân được ơn cứu độ.
Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi Gn 12,32
Khi nói về Thánh Thần Đức Kitô dường như nói món quà quí trọng này dành riêng cho những ai thuộc về Ngài.
Những kẻ Cha đã ban họ cho con, con đã cho họ biết danh Cha, Cha đã ban họ cho con, và họ đã tuân giữ lời Cha Gn 17,6
Con cầu nguyện cho họ, con không cầu nguyện cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho con, bởi vì họ thuộc về Cha. 17,10
Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần Gn 17,15
Kinh tiền tụng lễ Chúa Thánh Thần ca tụng Thiên Chúa đã ban Thánh Thần xuống trên con cái Chúa.
Để hoàn thành mầu nhiệm Vượt qua, hôm nay Cha rộng ban Chúa Thánh Thần cho những người đã được Cha nhận làm nghĩa tử, nhờ kết hợp với Con Một Cha.
Điều kiện cần thiết để nhận ơn Chúa Thánh Thần là nhận biết Đức Kitô Con Một Thiên Chúa. Kitô hữu nhận ơn Thánh Thần qua lời cầu xin của chính Đức Kitô. Nhờ lời Ngài cầu xin mà Chúa Cha ban Thánh Thần cho những ai tin vào Ngài, trở thành nghĩa tử. Chỉ những ai trở thành nghĩa tử mới được nhận ơn khôn ngoan của Thánh Thần Thiên Chúa. Nghĩa tử được Đức Kitô cầu cho trước mặt Chúa Cha. Nghĩa tử được kết hợp mật thiết với Ba Ngôi Thiên Chúa.
Biểu tượng
Đại lễ Chúa ThánhThần mừng kính 50 ngày sau khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết và 10 ngày sau khi Đức Kitô về cùng Chúa Cha. Trong ngày lễ Chúa Thánh Thần. Hình lưỡi lửa xuống trên đầu các thánh tông đồ. Các ngài bắt đầu rao giảng, làm chứng về Đức Kitô. Hôm nay cũng được coi là ngày Giáo Hội chính thức khai sinh. Cuộc rao giảng về Đức Kitô bắt đầu, trước khi về trời Ngài chính thức trao sứ mạng rao giảng lại cho các môn đệ.
Qua giòng lịch sử Giáo Hội, Lễ Chúa Thánh Thần mang nhiều biểu tượng, nói lên ý nghĩa linh hoạt khác nhau của Thánh Thần Chúa.
Trước hết là hình lưỡi lửa được sách Công Vụ Tông Đồ ghi nhận. Màu đỏ còn tượng trưng cho màu máu các thánh tử đạo đổ ra làm chứng cho đức tin, do sức mạnh của Thánh Thần thôi thúc.
Màu Trắng hay còn gọi là Chúa Nhật thanh tẩy tượng trưng cho áo màu trắng các tân tòng mang trên mình trong ngày gia nhập Giáo Hội. Màu trắng tượng trưng cho ơn khôn ngoan do Thánh Thần ban, hướng dẫn giúp các tân tòng nhận biết Thiên Chúa.
Thánh Thần Đấng làm thay đổi bộ mặt trái đất, sưởi ấm tâm hồn nguội lạnh, làm sống lại những con tim chai đá và làm cho đời sống Giáo Hội sinh mầm, nảy lộc. Trong ý nghĩa đó cành lá xanh tươi mang dấu chỉ của sự sống mới, tốt lành. Lịch sử Giáo Hội có thời người Kitô hữu thường trang hoàng các cành, lá non, xanh trong thánh đường và tư gia nhắc hở nhau canh tân cuộc sống.
Cầu chúc Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy tâm hồn các tín hữu.
37. Chung hình ảnh--Lm Vũ Đình Tường
Tương tự nhau không hẳn là giống nhau mà chỉ giống phần nào thôi. Cùng chung hình ảnh nói rõ điều muốn diễn tả. Hình ảnh gợi lên điểm giống nhau. Chúng ta hay nghe ví von hai người giống nhau như hai giọt nước. Ví von như thế diễn tả hình dáng bề ngoài nhiều hơn là nhấn mạnh đến phẩm chất bên trong của nước. Khi diễn tả con người được dựng nên theo hình ảnh Chúa dẫn chúng ta đến việc nhận biết chúng ta bề ngoài tuy nhìn khác nhau nhưng trong nội tâm cùng chung hình ảnh Thiên Chúa. Sách Sáng Thế Kí chương Sáng Tạo nói Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Người. Sau khi tạo dựng Thiên Chúa ban cho con người Thần Khí và con người có sự sống. Nhân loại được khai sinh trong trường hợp đó- mang hình ảnh của Thiên Chúa. Giáo Hội Chúa quy tụ những người tin vào Thiên Chúa vì thế Giáo Hội Chúa cũng mang hình ảnh Thiên Chúa. Hình ảnh này trở nên sống động trong ngày các tông đồ nhận lãnh Chúa Thánh Thần. Đây chính là ngày khai sinh của Giáo Hội.
Giáo Hội và Kitô hữu cùng mang hình ảnh Chúa, nhận chung một Thánh Thần nên có chung một nguồn gốc và chung một sứ mạng rao giảng. Vì thế rao giảng, mang Tin Mừng đến cho muôn dân là sứ mạng chung của Giáo Hội và là sứ mạng riêng của mỗi Kitô hữu. Chúng ta có chung sứ vụ rao giảng, cùng làm chứng cho Tin Mừng nhưng không phải tất cả các Kitô hữu đều tích cực trong việc rao giảng. Kitô hữu nào trung thành trong việc vác thập giá hàng ngày bước theo Đức Kitô mới thực sự là môn đệ trung tín của Đức Kitô. Trong ngày lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy chúng ta được ghi dấu ấn tín đức tin. Ấn chứng đức tin này giúp chúng ta trở thành người mang Đức Kitô trong mình, mang tình yêu Chúa đến cho tha nhân, cho thế giới.
Hãy cảm tạ Chúa vì Ngài đặt tin tưởng nơi ta, trao phó việc rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Rao giảng là sứ mạng của mọi Kitô hữu. Đây không phải là sứ mạng mới mà là sứ mạng chính Đức Kitô làm và chúng ta được mời gọi nối tiếp công việc Đức Kitô bắt đầu. Vì thế chúng ta không rao giảng một mình hay bơ vơ nhưng có Đức Kitô cùng đồng hành trong việc rao giảng. Ngoài ra Ngài còn ban cho Đấng bảo trợ là Thánh Thần Thiên Chúa hướng dẫn chúng ta trong việc rao giảng và làm chứng nhân cho Ngài.
Thiên Chúa yêu thương thế gian nên ban Con một Ngài là Đức Kitô cho chúng ta. Đức Kitô yêu thương chúng ta nên hy sinh trên thập giá ban ơn cứu độ và ban Thánh Thần Chúa. Thánh Thần Chúa yêu thương nên đến ở cùng chúng ta, để trở nên tim óc, hướng dẫn chúng ta trong việc rao giảng và làm chứng về Tin Mừng. Thánh Thần là tình yêu nhưng mắt thường không thể nhìn thấy tình yêu mà chỉ nhìn thấy kết quả hay sản phẩm của tình yêu. Sản phẩm tình yêu thường không mang tâm tình của người tạo dựng nên nó. Chúng ta không phải là sản phẩm của tình yêu bởi trong chúng ta có ấn tínThánh Thần Thiên, có sự liên hệ thân thương giữa ta và Đấng tạo dựng vì thế Kitô hữu trở thành dân riêng của Thiên Chúa vì vừa mang hình ảnh Chúa vừa là nơi Chúa ngự, đền thờ Thánh Thần Chúa.
Như thế hình ảnh sau cùng là gì? Bắt đầu bằng hình ảnh tạo dựng con người tiến đến hình ảnh cứu chuộc con người và hình ảnh cuối cùng chính là hình ảnh trở nên giống hình ảnh lúc tạo dựng con người nguyên thuỷ, trong sáng và tràn đầy hạnh phúc. Tội lỗi làm cho hình ảnh chúng ta ra lu mờ. Thánh Thần Chúa đến đánh bóng giúp chúng ta lấy lại hình ảnh trong sáng của ngày sáng tạo vì thế chúng ta là tạo vật mới sinh ra trong tình yêu của Thánh Thần.
38. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống--Lm Trầm Phúc
Biến cố Thánh Thần hiện xuống là biến cố cực kỳ quan trọng đối với Giáo hội, xem như biến cố khai sinh Giáo hội.
Thánh Luca đặt biến cố này vào ngày lễ Ngũ Tuần của người Do Thái, đang lúc thánh Gioan xem việc trao ban Thánh Thần nằm ngày sau khi Chúa Giêsu sống lại.
Thánh Gioan muốn liên kết ơn Thánh Thần với sự phục sinh của Chúa chứ không là một biến cố riêng biệt. Trên thánh giá, lúc Chúa sắp tắt thở, các thánh sử khác chỉ nói Ngài trút linh hồn hay tắt thở, nhưng Gioan thì nói: “Ngài trao Thần Khí”, cố ý nói rằng Chúa Thánh Thần tiếp nối ngay công trình cứu chuộc của Ngài. Thời của Thánh Thần bắt đầu ngay khi Chúa Giêsu chết và tiếp tục cho đến tận thế. Chúng ta đang sống trong thời đại của Thánh Thần. Đối với Gioan, việc trao ban Thánh Thần không liên hệ với một biến cố nào mà chỉ tùy thuộc vào Chúa Giêsu mà thôi. Chính Ngài đã nói: “Nếu Thầy không ra đi thì Thánh Thần sẽ không đến”.
Đối với Luca, việc trao ban Thánh Thần là biến cố khởi đầu cho sứ vụ tông đồ của Giáo hội. Dù có sự khác biệt về quan điểm, hai thánh sử vẫn xem biến cố Thánh Thần hiện xuống là biến cố quyết định đối với Giáo hội.
Chính Chúa Giêsu đã căn dặn các tông đồ phải ở lại trong thành cho đến khi nhận lãnh “quyền năng từ trời ban xuống”.
Trong Kinh Thánh, Chúa Thánh Thần được nói đến từ trang đầu tiên đến trang cuối. Thánh Thần sáng tạo bay là trên cảnh hỗn man đầu tiên. Trong đoạn cuối của sách Khải Huyền, Thánh Thần và Tân Nương nói: “Xin Ngài ngự đến”. Điều này chứng tỏ rằng Ngài là đầu của cuộc sáng tạo vũ trụ và con người, Ngài cũng là cuối của mọi sự, và mọi sự sẽ kết thúc trong Ngài.
Chúng ta không thể nhìn thấy Ngài, nhưng Ngài luôn hoạt động trong mọi biến cố, trong lịch sử và trong mọi người. Tất cả những gì là thiện hảo, là chân thật và yêu thương đều phát xuất từ Ngài, ngay cả trong những người chưa bao giờ biết Ngài. Trong Cựu Ước, Ngài hoạt động rõ rệt nhất trong các tiên tri, những sứ giả của Ngài. Ngòi bút của các tác giả Kinh Thánh đã viết cho Ngài. Ngài thấm nhuần từng lời Kinh Thánh.
Ngài xuất hiện rõ rệt hơn trong mọi giai đoạn của đời sống Chúa Giêsu, từ ngày truyền tin cho đến kết cuộc là phục sinh. Ngài tiếp tục hoạt động trong Giáo hội như Đấng Bảo Trợ Thần Linh cho đến tận thế.
Thánh Thần đã được ban cho các Tông đồ, cho Giáo hội và cho mỗi người chúng ta để kiện toàn công cuộc cứu chuộc của Chúa Cha.
Nói đến Thánh Thần, nhiều người tưởng Ngài là một Đấng cao vời thánh thiện, cách biệt muôn trùng. Không, Ngài rất gần, Ngài tràn ngập mọi sự.
Cha Antôn de Mello bảo chúng ta phải hít thở Thánh Thần vì Ngài đang tràn ngập trong không khí. Ngài vô hình, nhưng chúng ta có thể khám phá ra Ngài khắp nơi, trong tâm hồn, trong cách ăn nói, hành động của chúng ta. Tất cả những gì phát xuất từ tình yêu chân thật đều mang một ánh sáng của Ngài. Ngài xuất hiện trong một lời tha thứ, trong một cử chỉ thân tình, trong ánh mắt cảm thông, trong một sự im lặng chịu đựng, trong một nụ cười thân thiện… Mỗi người chúng ta đều tràn ngập Thánh Thần nếu chúng ta không bị vẩn đục vì kiêu căng hay tội lỗi…
Thánh Thần được Chúa Giêsu trao ban như hơi thở của Ngài. Hơi thở là sự sống. Chúng ta có thể hiểu là Ngài gìn giữ sự sống thần linh trong chúng ta, sự sống mà chúng ta đã lãnh nhận trong phép Rửa Tội và Thêm Sức.
Thánh Thần cũng được ban cho Giáo hội để mang lại ơn tha thứ: “Anh em tha tội ai, người ấy được tha”.
Ngày lễ Ngũ Tuần, ngọn bão thần linh đã thổi vào các Tông đồ khiến các ngài như bị cuốn trôi theo chiều gió của Ngài. Các Tông đồ đã trở nên những con người mới, sáng suốt và can đảm.
Thánh Thần xuất hiện như một ngọn lửa, đã tinh luyện miệng lưỡi của tiên tri Isaia, hôm nay đã đốt cháy những gì là con người tự nhiên, biến các ngài thành những con người “thần thiêng” như thánh Phaolô đã nói. Con người vật chất đã được biến đổi. Họ không còn e ngại sợ sệt, đóng cửa mà hiên ngang làm chứng.
Miệng lưỡi của các ngài đã được thanh tẩy trong ngọn lửa Thánh Thần, và mọi người đều nghe các ngài nói trong chính tiếng bản xứ của mình.
Ngày nay, các phương tiện truyền thông càng ngày càng tinh vi, có thể thống nhất thế giới bằng làn sóng điện. Mọi sự trên thế giới thu gọn trong một chiếc máy nhỏ cầm tay. Nhưng buồn thay! Thay vì thống nhất, con người càng bị chia rẽ. Hố sâu giữa các dân tộc càng ngày càng sâu hơn. Thay vì truyền thông sự lành thì sự dữ càng thống trị nặng nề hơn. Trong một thế giới bị phân tán, chúng ta cảm thấy lạc lõng hơn, bềnh bồng theo triều sóng thông tin. Chúng ta cần lắng nghe tiếng nói của Thánh Thần trong khối thông tin khổng lồ và ô hợp kia để tìm thấy những dấu hiệu thời đại, nỗ lực tìm những mối dây liên kết trong sự lành, biến đổi mọi sự thành cảm thông và yêu thương.
Sứ mệnh của chúng ta là “không rập theo thói thế gian”, không phải để thế gian chi phối mà gom góp những mãnh vụn tình yêu đang trôi giạt theo làn sóng hận thù, kết lại để phục vụ mọi người.
Trong Thánh Thần, chúng ta sẽ làm được nhiều việc mà chúng ta tưởng như không thể. Chỉ cần nỗ lực và tin tưởng. Thánh Thần luôn hỗ trợ những cố gắng của chúng ta.
Khí giới của chúng ta không phải là những hỏa tiển hạt nhân, tàu ngầm hay oanh tạc cơ mà là niềm tin đơn thành và mãnh liệt. Chúng ta sẽ không tan vỡ trong làn sóng hận thù, gian ác mà qua cơn sóng, chúng ta vẫn bền tâm tiến bước… Thế giới càng u tối, Thánh Thần sẽ giúp chúng ta thắp lên những ngọn lửa tin yêu nhỏ bé nhưng vẫn bền tâm tỏa sáng.
Sống yêu thương không mỏi mệt. Đó là sứ mệnh Chúa Giêsu trao cho chúng ta. Thế gian đang cần chúng ta, cần những con người dám sống cho sự thật và tình yêu.
Vũ trụ có qua đi, tình yêu vẫn tồn tại: “Anh em đừng sợ, Thầy đã thắng thế gian”. Thắng bằng tình yêu. Chúng ta đang đi vào cuộc chiến thắng cuối cùng đó, trong tin yêu. Hy vọng của chúng ta vẫn cháy sáng miễn là chúng ta không “dập tắt Thánh Thần” trong ta.
Thánh Thần đã được ban để hỗ trợ sự yếu hèn của chúng ta, cầu nguyện trong chúng ta, nhưng chúng ta có cùng Ngài cầu nguyện không? Chúng ta đủ dung tích để chứa đựng kho tàng Thánh Thần không? Hãy tẩy sạch mọi chướng ngại để Thánh Thần Chúa thênh thang hoạt động trong chúng ta. Chúng ta nhỏ bé nhưng chính Thánh Thần chọn những gì là yếu kém, là không có gì, để thắng những gì là mạnh mẽ của thế gian. Tin tưởng là một ngọn lửa nhỏ, nhưng không biển cả nào dập tắt được, vì nó phát xuất từ Thánh Thần Tình Yêu.
Chúng ta có thể nói như Chúa Giêsu: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi rao giảng cho người nghèo khó…” Chúng ta hãy căng buồm lên để Chúa Thánh Thần thổi gió của Ngài vào cánh buồm của chúng ta. Chúng ta dám ra khơi mà không sợ bị chìm.
Chúa Giêsu đang ngủ trong thuyền của chúng ta. Ngài đã đến trong chúng ta nhờ của ăn thần linh Ngài trao ban hằng ngày. Chúng ta còn e ngại gì mà không dám ra khơi, không dám sống cho tình yêu? không dám phục vụ hết mình? không dám làm chứng cho Thiên Chúa Tình Yêu? Thời nay là thời của nhân chứng. Thế giới vẫn đang chờ đợi Tin Mừng Cứu Độ. Hãy cùng với Thánh Thần xông pha vào cuộc sống để làm men trong bột, làm muối cho đời.
39. Ngũ Tuần--Lm Giuse Trần Việt Hùng
Hơi thở là nguồn sự sống. Thiên Chúa ban sự sống cho tất cả mọi loài thụ tạo. Riêng con người, Thiên Chúa trực tiếp thổi sinh khí ban cho sự sống: Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật (St 2,7). Bao lâu còn hơi thở, bấy lâu chúng ta còn đang sống. Tắt thở là chết. Mọi loài sinh vật cùng chung một nguyên lý sự sống. Tạo Hoá đã an bài một không gian bầu khí vô tận để mọi sinh vật cùng được hưởng nguồn sự sống. Chúa Thánh Thần chính là nguồn ban sự sống. Sách Tông đồ Công vụ diễn tả về ngày Lễ Ngũ Tuần của người Do thái: Khi đến ngày Lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp (Cv 2,1-2). Hôm nay, Giáo Hội mừng Lễ Đức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, sự hiện diện của Thần Linh qua làn gió mạnh bao phủ tất cả khoảng không gian mang lại nguồn sinh lực dồi dào cho các Tông đồ.
Chúng ta tuyên xưng: Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần. Sách Giáo lý Đạo Công giáo dạy rằng: Tin vào Chúa Thánh Thần là tuyên xưng Ngài là Ngôi Thứ Ba của Ba Ngôi Cực Thánh. Ngài xuất phát từ Chúa Cha và Chúa Con. Ngài được phụng thờ và tôn vinh cùng với Chúa Cha và Chúa Con. Trong Ba Ngôi, không thể phân chia. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần phân biệt với nhau, nhưng không tách rời. Chúa Thánh Thần là Đấng Vô Hình, nhưng chúng ta nhận ra Ngài qua tác động của Ngài. Ngài mạc khải Ngôi Lời cho chúng ta và Ngài hoạt động trong Hội Thánh. Chúa Thánh Thần xây dựng, linh hoạt và thánh hoá Hội Thánh. Là Thánh Thần tình yêu, Ngài làm cho những người đã lãnh nhận Bí tích Rửa Tội nhận lại được ơn giống hình ảnh Thiên Chúa đã bị đánh mất vì tội lỗi. Nhờ các Bí tích, Chúa Kitô thông truyền Thánh Thần của Người và ân sủng của Thiên Chúa cho các chi thể trong thân thể Người. Ân sủng này mang lại hoa trái cho đời sống mới theo Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần là Thầy dạy cầu nguyện.
Chúng ta phải rất cẩn thận trong vấn đề tín lý và sống đức tin. Bảy nguồn ơn sủng của Chúa Thánh Thần, đặc biệt là các ơn Khôn Ngoan và ơn Hiểu Biết giúp chúng ta nhận ra chân lý. Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa. Chúng ta không nên cụ thể hóa tác động ân sủng của Chúa Thánh Thần. Đôi khi chúng ta bị chìm đắm mải mê tin tưởng qua một số hành động và nghi thức bên ngoài do con người tạo nên. Chúng ta nguyện xin Chúa Thánh Thần phải đến và phải hành động theo cách thế và ước muốn của chúng ta. Một số hiện tượng xảy ra hàng loạt đã được gắn kết cho tác động của Chúa Thánh Thần. Nhớ rằng trong Sách Giáo lý dạy: Đức Chúa Thánh Thần đã hiện ra trong hai dịp quan trọng: Một là khi Đức Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan và hai là trong ngày Lễ Ngũ Tuần, khi các thánh Tông đồ đang họp nhau cầu nguyện cùng với Đức Mẹ Maria.
Trong ngày Lễ Ngũ Tuần, các Tông đồ lãnh nhận ơn sủng của Chúa Thánh Thần tràn đổ xuống tâm hồn qua hình lưỡi lửa: Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một (Cv 2,3). Ân sủng của Chúa Thánh Thần tác động sâu thẳm và đổi mới tâm hồn một cách toàn diện: Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho (Cv 2,4). Ơn Chúa Thánh Thần là một ân sủng cao siêu tuyệt vời thấu tận tâm can. Chính Chúa Giêsu thổi hơi ban Thánh Thần cho các tông đồ cùng với sứ mệnh: Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và nói: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần (Ga 20,22). Chúa ban ân sủng và quyền năng cho các tông đồ làm hành trang sứ vụ trong cuộc lữ hành của Giáo Hội trên trần thế: Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ (Ga 20,23).
Trong Giáo Hội hiện nay, có nhiều khuynh hướng hay phong trào muốn lôi kéo thị hiếu của người nhẹ tin vào những hiện tượng cảm tính và xúc động tâm linh như những cảnh người té ngã nằm đó ca hát, nói các thứ tiếng lạ, múa nhảy và ngủ lịm được nhiều người ưa thích. Chúng ta không dừng lại nơi những cảm tính nhất thời đó. Ân sủng của Chúa giúp chúng ta đổi đời, canh tân và sống đạo thực sự. Chúa mời gọi chúng ta ra đi làm nhân chứng cho sự thật. Sau khi Chúa Giêsu về trời, Đức Chúa Thánh Thần đã ban ơn soi sáng trí khôn, thêm sức mạnh và thánh hoá các Tông đồ để các ngài đi rao giảng Phúc Âm và làm chứng về Chúa Kitô. Dấu chỉ hoa trái của Chúa Thánh Thần chính là sự đổi đời, canh tân cuộc sống và làm nhân chứng cho tình yêu Chúa Kitô. Các Tông đồ trở thành những con người mới đầy lòng can đảm, thấu triệt lẽ khôn ngoan và anh dũng làm nhân chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh và chịu hiến thân đổ máu đào minh chứng niềm tin.
Niềm tin của tất cả các Kitô hữu đều quy về một mối là Chúa Giêsu Kitô. Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa đã chịu đóng đinh, chịu chết và sống lại. Ngài là trung tâm điểm của mọi lời rao giảng. Chúa Kitô Phục Sinh là cốt lõi của mọi niềm tin và niềm hy vọng. Tuy khác biệt về các mối tương quan và cách thế duy trì niềm tin, các tín hữu đều chung kết trong một Chúa Thánh Thần: Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung (1 Cr 12,7). Mọi Kitô hữu cùng quay về một hướng và cùng chung một đích điểm. Thánh Thần ban cho mỗi người một đặc sủng riêng. Tuy các ân sủng khác nhau nhưng cùng phục vụ trong một thân thể. Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa (1 Cr 12,5-6).
Chúng ta thấy có nhiều tổ chức xã hội, đảng phái chính trị hay kinh tế thương mại luôn trong tư thế tranh đua và lập thành tích. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy rằng nếu nhiều người quy họp lại trong cùng một băng nhóm hay một đoàn thể chính trị mà xoay lưng lại với nhau để mỗi người nhìn về một hướng thì dễ bề phân rẽ. Khi sự liên đới ràng buộc không còn, thì mỗi người sẽ bung ra chạy theo những khuynh hướng khác nhau. Những chính sách, luật lệ và nguyên tắc của mỗi chế độ chính trị và tổ chức xã hội có thể thay đổi theo tâm thức và thị hiếu của con người từng thời đại. Nhưng đối với các Kitô hữu, xưa cũng như nay, niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh không thay đổi. Chúng ta có thể thay đổi cách thế thực hành đạo, các phương tiện và cơ cấu tổ chức. Chúa Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi luôn hiện hữu.
Mỗi cộng đoàn giáo xứ bao gồm nhiều thành viên. Mỗi thành viên có những ân điển đặc thù về nhiều khía cạnh trong cuộc sống. Mỗi người khác nhau từ dòng dõi, gia cảnh, trình độ học vấn, kiến thức, sự hiểu biết và nơi môi trường văn hoá riêng biệt. Mỗi người có cá tính và bản sắc riêng nhưng chúng ta cùng chung một niềm tin vào Chúa Kitô: Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy (1 Cr 12,12). Chúng ta cùng sống chung trong một cộng đoàn giáo xứ. Cuộc sống đạo của mỗi thành viên cần được thấm nhuần vào các sinh hoạt chung. Nhưng điều quan trọng là mỗi người phải tự đứng trên đôi chân của mình. Đời sống đạo đức và nhân cách phải tự rèn luyện và vun xới. Chúng ta không thể vay mượn hành động sống đạo và hành đạo.
Khi Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra với các tông đồ, Chúa nói: Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em (Ga 20,21). Lạy Chúa, xin ban sự bình an đích thực cho tâm hồn chúng con, để chúng con sẵn sàng ra đi làm nhân chứng cho Chúa trên mọi nẻo đường.
40. Chúa Thánh Thần.
Có một phóng viên đã đặt câu hỏi với một chuyên viên Kinh Thánh như sau: Nếu nhờ khoa học tiến bộ, người ta sáng chế ra được một máy quay phim ngược thời gian. Máy này có thể thu lại tất cả hình ảnh và lời giảng dạy của Chúa Giêsu cách đây hơn 2000 năm. Vậy bộ phim ấy có khả năng thay thế được bốn sách Tin Mừng hay không? Nhà chuyên viên trả lời: Không thể được, bởi vì đức tin không phải do mắt thấy tai nghe, nhưng là do ơn Chúa Thánh Thần tác động.
Thực vậy bọn biệt phái ngày xưa đã từng nhìn thấy Chúa, nghe lời Chúa giảng, chứng kiến những việc Chúa làm thế mà họ không những không tin mà còn thù ghét và cuối cùng đã đóng đinh Chúa vào thập giá. Còn các tông đồ mặc dù đã theo Chúa, nhưng cũng chỉ thực sự có đức tin và dám sống chết cho Ngài sau biến cố tử nạn và phục sinh nhờ ơn Chúa Thánh Thần tác động trong ngày lễ Ngũ Tuần. Vậy Chúa Thánh Thần đã đổi mới các tông đồ, Giáo Hội và người tín hữu như thế nào?
Trước hết Chúa Thánh Thần đổi mới các tông đồ. Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Giêsu phục sinh hiện ra, thổi hơi trên các tông đồ và phán: Các con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần. Qua cử chỉ này, Chúa Giêsu nhắc lại công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa được diễn tả bằng hình ảnh: sau khi nắn đất sét thành người, Ngài đã thở hơi ban sự sống để nó trở thành người sống. Qua việc thở hơi trên các tông đồ, Chúa Giêsu muốn làm một cuộc sáng tạo mới. Ngài ban Chúa Thánh Thần để biến đổi các ông nên những con người mới, có đủ khả năng chu toàn sứ mệnh loan báo Tin Mừng. Sách Tông đồ công vụ cho hay trong ngày lễ Ngũ Tuần, người ta thấy một cơn gió lốc ùa vào nhà các tông đồ đang ở và có cái gì giống hình lưỡi của lửa xuất hiện trên đầu mọi người và lập tức các ông được đổi mới. Trước kia các ông u mê dốt nát thì nay các ông được thống suốt giáo lý của Chúa. Trước kia các ông nhát đảm sợ hãi thì nay các ông được can đảm, sẵn sàng rao giảng Tin Mừng, tuyên xưng đức tin và chấp nhận chịu khổ cực và chịu chết vì danh Đức Kitô.
Tiếp đến Chúa Thánh Thần đổi mới Giáo Hội. Thực vậy, Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và không ngừng tác động để canh tân Giáo Hội tuỳ theo nhu cầu thời đại, chẳng hạn như Augustinô, Đôminicô, Phanxicô, Ignatio, Têrêsa... nhờ các ngài Giáo Hội vượt qua được những giờ phút khủng hoảng và đen tối nhất. Và gần đây hơn, Công đồng Vatican II cũng được coi là một lễ Hiện Xuống mới vì Công đồng này mà Giáo Hội có dịp nhìn lại mình để lau sạch những tì vết và bụi bặm do lịch sử để lại, đồng thời đổi mới Giáo Hội về nhiều phương diện để nhờ đó đi sát với Tin Mừng mà vẫn thích nghi với một thế giới không ngừng biến động và tiến bộ hơn.
Sau cùng Chúa Thánh Thần đổi mới mỗi người chúng ta. Thực vậy ngày hôm nay Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục tác động nơi các tín hữu, tuy âm thầm, nhưng không kém phần hậu quả. Vậy chúng ta phải làm gì?
Việc thứ nhất là hãy tạo cho mình một bầu khí thinh lặng nội tâm, tránh đi những lo toan thái quá về vật chất đời thường như cơm áo gạo tiền. Hãy lo tìm Nước Thiên Chúa trước còn những sự khác, Ngài sẽ ban cho chúng ta sau. Việc thứ hai là phải chăm chỉ lắng nghe lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa và tham dự nghi thức bẻ bánh, như hai môn đệ làng Emmaus ngày xưa. Việc thứ ba là phải đồng tâm nhất trí, chuyên tâm cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ trong đó có Đức Mẹ Chúa Giêsu và với những anh em của Ngài. Nhờ đó, mà cuộc đời và bản thân chúng ta mỗi ngày một đổi mới.
41. Thần Linh nối kết trời đất--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Có ai đó nói rằng: “Nếu cuộc đời vắng bóng Thánh Linh, thì Thiên Chúa sẽ nghìn trùng xa cách”.
Nhưng nhờ Thánh Linh, Thiên Chúa đã ngỏ lời với con người. Ngài hiện diện giữa con người. Ngài trở nên gần gũi với con người. Nhờ Thánh Linh mà con người có thể tiếp xúc với Thiên Chúa một cách thân tình, gần gũi trong tình cha con.
Lần giở lại những trang đầu của Kinh Thánh, nhờ thần khí Chúa mà thế gian hết u minh. Bóng tối bị đẩy lùi. Thiên Chúa đã viếng thăm trái đất và ở lại cùng trái đất. Thần Linh Chúa đã làm nên sức sống cho địa cầu. Thần Linh Chúa bay lượn trong cõi u minh và nhờ đó mà mọi loài được đi vào trật tự, vào quy trình của sự sống, và Thiên Chúa đã và đang hoạt động trên mọi loài Ngài đã dựng nên nhờ Thần Linh là Ngôi Ba Thiên Chúa.
Qua Tân ước, cũng nhờ quyền năng của Thánh Linh mà Ngôi Hai Thiên Chúa đã hiện diện trong cung lòng Đức Trinh Nữ Maria. Từ nay, Thiên Chúa trở nên con người giống như con người. Thiên Chúa lưu lại nơi con người qua thân xác con người. Thiên Chúa trở thành Emanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Thiên Chúa trở nên mọi sự cho mọi người, khi Ngài dấn thân phục vụ mọi người, khi Ngài ban phát ơn lành đến cho mọi người. Nhờ Thánh Linh mà con người nhận lãnh được biết bao ơn huệ của Thiên Chúa ban xuống cho con người. Cũng chính nhờ Thánh Linh đã phục sinh Đức Ky-tô từ cõi chết sống lại. Nhờ Thánh Linh mà Đức Ky-tô đã vinh thăng khải hoàn về trời.
Ở thời đại này, người ta tin ở tài năng của con người, ở kỹ thuật của con người, ở tiền vàng đô la hơn là tin ở quyền năng vô biên của Chúa Thánh Linh. Thế nhưng, Giáo hội vẫn tin rằng: sự hình thành và phát triển của mình là nhờ quyền năng của Chúa Thánh Linh. Thử hỏi, sau khi Đức Kitô về trời, Hội Thánh tiên khởi vỏn vẹn chỉ có 12 tông đồ, với hai bàn tay trắng và một số vốn kiến thức không đáng gì, nhưng các ông đã ra đi trong lòng tin vào Chúa Thánh Linh. Thế mà chưa đầy ba mươi năm sau, Tin Mừng đã đi đến tận cùng trái đất khởi đầu từ Giê-ru-sa-lem – dọc Địa Trung hải – lan tỏa khắp Châu Âu... Dù rằng nhân sự không được đào tạo như hôm nay, để trở thành một linh mục cũng mất hơn mười năm, Thế nhưng, ngày đó: “Trong mỗi Hội Thánh các ông chỉ định cho họ những kỳ mục, và sau khi ăn chay cầu nguyện, các ông phó thác những người đó cho Chúa, Đấng họ đã tin” (Cv 14,23), vì các tông đồ tin rằng chính Thiên Chúa đã mở cửa đức tin cho dân ngoại chứ không phải các ngài. Chính Chúa Thánh Linh đào tạo con người tông đồ và sai đi.
Là người ky-tô hữu chúng ta phải tin vào sự hiện diện của Thánh Linh đã làm nên Hội Thánh. Một Hội Thánh kiên vững giữa thế gian đầy gian ác luôn muốn loại trừ Hội Thánh. Một Hội thánh tinh tuyền dù rằng sống giữa thế gian đầy bóng tối của dâm ô, sa đọa. Chúa Thánh Linh đã được ban xuống cho các tông đồ qua Đức Giê-su. Chính Đức Giêsu Phục Sinh đã “thổi hơi trên các Tông Đồ, ban Thánh Thần và bình an”. Và nhờ Thánh Thần liên kết họ lại với nhau trong một Giáo hội Công giáo - Duy nhất - Thánh thiện và Tông truyền. Nhờ Chúa Thánh linh mà Giáo hội đã quy tụ muôn dân gồm đủ mọi sắc tộc, màu da thành một cộng đoàn những người tin theo Chúa Ky-tô và cùng nhau tôn vinh Thiên Chúa.
Như thế, sứ mạng của Chúa Thánh linh là nối kết con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Nhờ Thánh linh mà con người được dìm mình trong lòng thương xót của Chúa. Nhờ Thánh Linh mà con người được sống sung mãn trong nguồn ân thánh của Thiên Chúa. Cũng nhờ Thánh Linh mà con người trở nên một gia đình của Thiên Chúa, là anh chị em với nhau và cùng tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi. Bên cạnh đó, hoa trái của Thần Khí chính là: “yêu mến, vui mừng, bình an, quảng đại, tốt lành, lương thiện, tín trực…” Kitô hữu nào đón nhận Thánh Thần Chúa Kitô, thì có khả năng thông ban sự vui mừng, bình an của ơn cứu độ sang người khác. Vì thế, nơi nào có Thần Khí Chúa Kitô Phục Sinh, thì nơi đó có yêu mến, vui mừng và bình an. Nơi nào không có Thần Khí Đức Kitô, thì nơi đó chỉ có xôn xao, gay gắt, ganh tỵ, dè chừng lẫn nhau và mất bình an vô tận.
Thế nên, là người ky-tô hữu chúng ta phải được lãnh nhận Chúa Thánh Linh. Nhờ Thánh Linh mà ta có thể đón nhận Đức Ky-tô và trở nên sứ giả hòa bình của Đức Ky-tô. Ước gì chúng ta biết nhận ra hồng ân của Chúa Thánh Linh để luôn dâng lời tạ ơn Chúa, đồng thời biết sống theo sự dẫn dắt của Thánh Linh mà bước theo chân lý vẹn tuyền để trở thành một sứ giả của bình an, hoan lạc cho thế gian.
Nguyện xin Chúa Thánh Linh ngự đến tràn đầy trong tâm hồn chúng con. Xin ban cho chúng con thần trí của Chúa để chúng con luôn biết khôn ngoan chọn lựa những giá trị vĩnh cửu hơn là những vinh hoa phú quý trần gian mau qua. Xin cho chúng con luôn tràn đầy Chúa Thánh Linh để chúng con hân hoan ra đi gieo rắc niềm vui và bình an đến cho muôn người. Amen.
42. Lễ Hiện Xuống
Ngày nay, hơn bao giờ hết nhân loại đang mong muốn hoà bình. Nền hoà bình mang lại cho con người sự tự do đích thật, bình an đích thật. Có hoà bình, người ta an tâm học hành, làm việc và phát triển các chiều kích vật chất, tinh thần và tâm linh. Như thế, hoà bình hay bình an đích thật chính là nỗi khát mong tự bao đời của con người.
Hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống là ngày lời hứa của Chúa Giêsu được thự hiện: "Thầy sẽ xin Cha và Cha sẽ ban cho chúng con một Đấng an ủi khác đến ở với các con mãi mãi". Đấng ấy sẽ ban cho chúng ta sự bình an đích thật trong tâm hồn. Đấng ấy sẽ giúp cho chúng ta tìm kiếm và thi hành sự bình an đích thật.
Trong Tin Mừng, sự bình an, đặc biệt sự bình an trong tâm hồn, được coi là một giá trị hết sức quan trọng. Khi Đức Giê-su sinh ra, muôn vàn thiên thần đã hát mừng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương" (Lc 2,14). Khi sai các môn đệ, Đức Giêsu khuyên: "Vào nhà nào, anh em hãy chào chúc bình an cho nhà ấy" (Mt 10,12; x. Lc 10,5). Rồi sau khi chữa lành bệnh, Đức Giêsu cũng chúc bình an cho người ấy (x. Mc 5,34; Lc 8,48). Đặc biệt, sau phục sinh, khi hiện ra cho các môn đệ, Đức Giêsu luôn nói: "Bình an cho các con!" (Lc 24, 36; Ga 20, 19; 20, 26).
Còn chính trong cuộc sống đời thường của mình, chúng ta thấy bình an là một điều kiện quan trọng để sống vui tươi hạnh phúc và để phát triển. Hơn hết, trong đời sống thiêng liêng, con người cần sự bình an biết mấy. Bởi vì sự bình an trong tâm hồn là điều kiện quan trọng để đời sống tâm linh được phát triển. Vì thế mà Đức Giêsu đã nói: "Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian" (Ga 14,27). Thật vậy, trong ngày Lễ Ngũ Tuần, mà hôm nay chúng ta nghe Thánh Gioan thuật lại Đức Giêsu Đức Giêsu thổi hơi và ban Thánh Thần cho các tông đồ, Ngài đã nói "Bình an cho anh em!". Như vậy, phải chăng để nhận lãnh Thánh Thần, thì điều kiện quan trọng là phải có tâm hồn bình an? Và đồng thời bình an cũng lại là kết quả của một tâm hồn tràn đầy Thánh Thần (x. Gl 5, 22).
Trong sách Tông đồ Công vụ, thánh Luca đã mô tả quang cảnh ngay lễ Hiện xuống: "Tất cả các tông đồ đều tề tựu một nơi, bỗng từ trời phát ra tiếng động như tiếng gió mạnh thổi đến lùa vào đầy nhà, nơi họ đang tu hợp lại, với những lưỡi như thể hình lửa xuất hiện và đậu trên từng người". Chúa Thánh Thần như Lửa của tình yêu Thiên Chúa nung đốt chúng ta. Trong tình yêu của Chúa, tất cả chúng ta không còn khác biệt nhau nữa mà trở thành con của Chúa, sống trong tình yêu duy nhất của Người.
Do đó, có thể nói để nhận được ơn bình an, ơn Thánh Thần thì chúng ta phải có tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Nhờ sống trong ân nghĩa với Thiên Chúa, ta sẽ có sự bình an trong tâm hồn
"Như Cha sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em". Mỗi người chúng ta đã được lãnh nhận những ơn lành của Chúa một cách nhưng không thì cũng hãy biết cho đi nhưng không. Hãy biết chia sẻ và mang bình an đến cho những người chúng ta gặp gỡ. Chúng ta hãy tự vấn lòng mình, để xem chúng ta có thật sự là "khí cụ bình an của Chúa" để đem đến cho những người mà chúng ta gặp gỡ chưa?
Ngày nay, hơn bao giờ hết, có lẽ con người thật sự cần thiết có được sự bình an. Chúng ta có thể sản xuất để cung ứng cho mình mọi thứ theo ý muốn. Nhưng nếu chúng ta không có bình an, chúng ta sẽ không có gì hết. Để tìm thấy được bình an đích thực, Thánh Phaolô chỉ cho ta: "Đức Giêsu Kitô, Ngài là bình an thật của chúng ta" (Ep 2, 14).
Do đó, để tìm thấy được sự bình an đích thực, chúng ta hãy tránh xa những dịp tội, đừng để mình kéo dài tình trạng sống trong tội, chúng ta hãy mau quay trở về với Chúa, sống trong ân nghĩa với Thiên Chúa. Khi chúng ta có được sự bình an, thì chúng ta cũng hãy biết mang bình an đó lại cho những người mà chúng ta gặp gỡ.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con bình an, sự bình an đích thật chính là Chúa Thánh Thần. Có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, chúng con sẽ được bình an, phát triển đời sống vật chất, tinh thần và thiêng liêng. Có Chúa Thánh Thần, chúng con sẽ dễ dàng lắng nghe và thi hành điều ngay, lẽ phải, dám sống và làm chứng cho tình yêu Chúa và can đảm đem bình an, tình yêu và niềm hạnh phúc cho tha nhân. Amen.
43. Sống hiệp thông với Chúa Thánh Thần--Lm Jos Nguyễn Minh Chánh
Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, là Nguồn Trợ Lực. Đời sống của chúng ta không thể thiếu bóng dáng Ngài. Vì thế, nhìn vào đời sống Đức Giêsu trong mối tương quan với Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu sẽ giúp ta hiểu rõ sự cần thiết của Chúa Thánh Thần trong đời sống chúng ta.
Đức Giêsu Kitô là Đấng tràn đầy Chúa Thánh Thần từ lúc ban đầu đến sau khi phục sinh và mãi mãi.
Thực vậy ngay từ lúc Đức Giêsu thụ thai trong cung lòng Mẹ Maria, chúng ta đã khám phá rất rõ về mối hiệp thông giữa Ngôi Lời nhập thể và Chúa Thánh Thần. Biến cố truyền tin đã dạy chúng ta rằng: Đức Maria cưu mang Đức Giêsu trong lòng là do Chúa Thánh Thần, Chúa Thánh Thần đã đến và bao phủ quyền năng của Ngài nơi bào thai của Đức Maria, nơi sự sống của Ngôi Hai Thiên Chúa là Đức Giêsu sẽ hình thành trong cung lòng của một con người.
Chúa Thánh Thần còn đến với Đức Giêsu khi Ngài chuẩn bị thi hành sứ mạng Messia. Vì sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa của Gioan Tẩy Giả tại sông Giođan trước khi rao giảng Tin mừng, khi " vừa lên khỏi nước, Người thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người" (Mt 3, 16)
Chúa Thánh Thần còn đến với Đức Giêsu trong những giờ phút sống thân tình với Chúa Cha. Chúa Thánh Thần đã tác động nơi Đức Giêsu để Đức Giêsu được hưởng những thời gian chìm đắm trong lời cầu nguyện với Chúa Cha. Tin mừng thánh Mátthêu thuật lại khi Đức Giêsu vào hoang địa ăn chay và cầu nguyện ròng rã bốn mươi đêm ngày, thì đó cũng là do tác đông của Chúa Thánh Thần, Chúa Thánh Thần đã dẫn Đức Giêsu vào tình yêu sâu thẳm với Chúa Cha trong thời gian này (x.Mt 4,12).
Chúa Thánh Thần còn đến với Đức Giêsu trong khi rao giảng tin mừng yêu thương và phục vụ cho mọi ngườ. Phúc âm thánh Luca thuật lai khi bắt đầu rao giảng thì Chúa Giêsu "được quyền năng Thần Khí thúc đẩy" (Lc 4,14). Sự tác động của Chúa Thánh Thần nơi Đức Giêsu như là sức mạnh, nhờ đó Đức Giêsu có thể hoàn thành sứ mạng mà Chúa Cha đã trao phó cho Ngài.
Chúa Thánh Thần còn đến với Đức Giêsu trong những lúc khó khăn nhất của cuộc đời Ngài. Khi Đức Giêsu hấp hối trong vườn cây dầu, mọi sự đối với Đức Giêsu trong lúc này hình như bị bế tắc, bị thất bại, bị tuyệt vọng. Một lần nữa, Chúa Thánh Thần là "Ngón Tay Thiên Chúa" là Sức Mạnh đã đến với Đức Giêsu, đã nâng đỡ bổ sức cho Đức Giêsu trong lúc Đức Giêsu đang bị cô đơn vì sự bỏ rơi của nhiều người, đang phải sắp hứng chịu với cái đau đớn của roi đòn trên thân xác. Thậy vậy, nhờ sức mạnh Chúa Thánh Thần nâng đỡ mà Chúa Giêsu đã chiến thắng được cám dỗ từ bỏ chương trình cứu độ của Thiên Chúa, Ngài đã can đảm từ bỏ ý riêng để xin vâng theo ý Chúa Cha. Chúa Giêsu xin vâng ý Cha khi đau khổ và còn xin vâng cho đến khi trút hơi thở cuối cùng trên thập giá.
Vai trò của Chúa Thánh Thần rất quan trọng trong đời sống và sứ vụ của Đức Giêsu. Chúa Thánh Thần luôn đồng hành với Đức Giêsu trên mọi nẻo đường rao giảng Tin mừng. Ngài luôn tác động nơi Đức Giêsu trong mọi hoàn cảnh, nhờ vậy mà chương trình của Đức Giêsu luôn được hoàn thành tốt đẹp.
Từ kinh nghiệm sống hiệp thông với Chúa Thánh Thần, nên Đức Giêsu xem việc trao ban Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ phải là cần thiết. Vì việc ban Chúa Thánh Thần chính là điều kiện để các Tông đồ có khả năng hành động trong khi rao giảng tin mừng như Đức Giêsu. Vì vậy trước khi rời khỏi thế gian để về cùng Chúa Cha, Chúa Giêsu đã từng hứa ban Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ. Rồi sau khi sống lại, Đức Giêsu đã hiện ra cũng trao ban Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ, như trong trang Tin mừng hôm nay chúng ta vừa nghe. Đặc biêt sau khi Chúa Giêsu về trời, trong ngày lễ Ngũ tuần thì Chúa Thánh Thần đã được trao ban trên các Tông đồ trong bầu khí thật uy phong trong khi các Ngài đang cầu nguyện. Hình ảnh này chúng ta đã vừa cảm nhận trong bài đọc một hôm nay.
Khi khám phá mối hiệp thông giữa Đức Giêsu và Chúa Thánh Thần, cũng như hình ảnh Chúa Thánh Thần đã được ban cho các Tông đồ trong ngày lễ Ngũ tuần thì đó cũng là bài học Chúa dạy chúng ta: Nếu cuộc sống con người vắng bóng Chúa Thánh Thần, thì cuộc sống đó sức sống tự nhiên và siêu nhiên sẽ không tăng trưởng, sẽ chết dần trong năm tháng, vì Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống. Và nếu cuộc sống con người vắng bóng Chúa Thánh Thần, thì đời sống ấy sẽ không biết yêu thương, vì Chúa Thánh Thần là Tình Yêu để nối kết con người với Thiên Chúa, và nối kết giữa con người với nhau. Hay khi cuộc sống con người vắng bóng Chúa Thánh Thần, thì đời sống ấy sẽ lạc lối, sẽ đi ngược lại với ý định của Thiên Chúa, vì Chúa Thánh Thần là sức mạnh để giúp con người can đảm từ bỏ ý riêng để khiêm tốn luôn thi hành thánh ý Thiên Chúa. Nói chung nếu cuộc sống con người không có Chúa Thánh Thần thì cuộc sống ấy sẽ không giống Đức Giêsu.
Từ những cảm nghiệm trên, chúng ta hãy noi gương Mẹ Maria và các Tông đồ trong bài đọc một hôm nay. Hãy thường xuyên ở lại chung với nhau để cầu nguyện với Đức Giêsu Kitô, là Đấng sinh bởi Thánh Thần, là Đấng đầy tràn Thánh Thần. Xin Chúa Giêsu Kitô ban Chúa Thánh Thần là Hồng Ân của Ngài cho chúng ta, nhờ đó trong mọi hành động chúng ta sẽ trở nên giống Chúa hơn.
Lạy Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, xin ban đầy tràn Chúa Thánh Thần xuống tâm hồn chúng con. Amen.
44. Chúa Thánh Thần mở tung mọi cánh cửa khép kín--Lm Nguyễn Hữu Thy
Không phải tất cả những gì Jean Paul Sartre (1905-1980), một trong những triết gia hiện sinh, viết đếu có thể chấp nhận được đối với những tín hữu đạo đức. Nhưng những gì nhà triết học người Pháp này tưởng tượng về hỏa ngục, rất đáng cho chúng ta lưu ý. Trong vở kịch «Phía sau những cánh cửa khép kín»của ông. Jean Paul Sartre đã nêu lên vấn nạn: Ðiều gì sẽ xảy ra, nếu con người sống hay chết đều gắn bó ràng buộc với nhau, và đều ý thức được rằng họ sẽ không bao giờ tách rời nhau được nữa? Ðiều gì sẽ xảy đến, nếu họ không được phép hay không muốn tiếp xúc với thế giới bên ngoài? Nếu họ không tùy thuộc vào bất cứ điều gì khác ngoài quá khứ, ngoài tội lỗi, ngoài sự cao ngạo, ngoài sự cố chấp, ngoài những điều nhảm nhí và ngoài những trách móc phàn nàn lẫn nhau của họ? Theo Sartre: Ðó chính là hỏa ngục!
Dĩ nhiên, các nhà thần học còn có thể nói cho chúng ta nhiều hơn nữa về những gì mà Thánh Kinh gọi là «hỏa ngục». Nhưng có một điều chắc chắn - và đó cũng là điều Jean Paul Sarte muốn nói tới - đó là: Ngay ở đời này, con người chúng ta đã có thể làm cho cuộc sống của nhau trở thành hỏa ngục.
Cũng thế, người ta có thể tưởng tượng được tình trạng của các môn đệ Ðức Giêsu sau ngày Thứ Sáu Chịu Nạn một cách tương tự như thế! Theo sự tường thuật của Thánh Kinh: Vì sợ người Do-thái, nên họ đã lẩn trốn sau những cánh cửa khép kín. Ðức Giêsu đã chết. Phải chăng họ đã chẳng đặt hết hy vọng vào Người, đã hy sinh tất cả cho Người, đã gắn bó hoàn toàn với Người?
Nhưng giờ đây Người đã chết: Bị đóng đinh nhục nhã vào thập giá, đã tắt thở và đã được an táng! Và Người đã để họ lại trong cảnh bơ vơ, thất vọng và chán nãn, lo âu sợ hãi và hoảng hốt. Họ trở nên bất đồng ý kiến với nhau và bị rơi vào một hoàn cảnh bất ổn, khiến họ không còn đủ khả năng để ngồi lại nói với nhau về sợi dây đầy tình nghĩa từng ràng buộc họ lại với nhau trong ba năm qua. Họ không còn đủ bình tỉnh để có thể tìm ra được câu giải đáp cho những vấn nạn quan trọng: Ðức Giêsu Na-da-rét thực sự là ai? Và chúng ta là ai, khi cùng với Người hay khi không có Người? Những gì thực sự còn nối kết chúng ta lại với nhau? Và trước hết, tình trạng cộng đoàn các Tông đồ xem ra rất bi quan và đang trên bờ của sự tan rã. Các bạn hãy nghĩ đến trường hợp hai môn đệ Em-mau hay trường hợp Thoma cứng lòng: Mỗi người đi mỗi ngã, ai nấy đều trở nên nghi ngờ, tất cả họ đều mất hết mọi hy vọng và tin tưởng!
Các bạn hãy tự xét đoán lấy, hãy tự chất vấn chính những kinh nghiệm sống của mình: Phải chăng tất cả những điều đó đã không quả quyết rằng, một đoàn thể khi phải đứng trước một tình trạng đen tối và tuyệt vọng như thế lại không bị tan rã hay sao?
Tuy nhiên, mọi chuyện lại đã xảy ra hoàn toàn khác hẳn. Các nhà tâm lý và phân tâm học sẽ phải bóp trán nghĩ ngợi nát óc, là: Làm thế nào hoàn cảnh các Tông đồ lại có thể xảy ra ngược lại như vậy được! Thánh Kinh đã trả lời cho vấn nạn đó: Chính Chúa Thánh Thần là Ðấng đã liên kết các Tông đồ lại với nhau, ngược lại với sự hợp lý và sự suy luận nhân loại. Vâng, Chúa Thánh Thần hiện diện giữa các Tông đồ như sợi dây nối kết họ lại với nhau và như động lực giúp cho họ có đủ khả năng để lại cùng nhau nói về chính mình và nói về Sư Phụ. Chính Chúa Thánh Thần là Ðấng ban cho họ có được sự xác tín rằng: Ðức Giêsu vẫn sống! Từ những câu chuyện đó, từ sự tưởng nhớ lại Ðức Giêsu như thế đã làm phát xuất ra điều mà ngày nay chúng ta gọi là Giáo Hội: Cộng đoàn của những người tin vào Ðức Giêsu! Thần Khí Thiên Chúa dẫn đưa và qui tụ họ lại từ bốn phương trời.
Vâng, Thần Khí Thiên Chúa, Thần Khí Ðức Giêsu, đã tác động, để một nhân loại đang trong cảnh chia rẽ và phân hóa lại trở về đoàn tụ với nhau. Và trước hết, điều đó đã được chứng mình nơi chính các Tông đồ: Các ngài đã tìm về với nhau, các ngài lại thông cảm nhau và các ngài lại hiểu được những gì đã xảy ra cho Ðức Giêsu. Nhất là bây giờ các ngài có thể làm cho người khác hiểu được Ðức Giêsu là ai và Người muốn gì nơi họ. Nhân loại thuộc mọi quốc gia, mọi ngôn ngữ, mọi màu da và mọi giai cấp trong xã hội đã tìm về với nhau và qui tụ thành một cộng đồng huynh đệ mới. Và đó là điều chúng ta cùng tưởng niệm lại trong ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống hôm nay.
Thần Khí Thiên Chúa mở tung mọi cánh cửa của sự sợ hãi, của sự nhát đảm và của sự co rúm lại trong thế giới bản thân, một chỗ các Tông đồ dùng làm nơi ẩn trốn! Giờ đây, họ không còn sợ hãi lẩn trốn nữa, nhưng lòng đầy can đảm và phấn khởi đi đến với mọi người và loan báo cho họ biết rằng, cuộc đời Ðức Giêsu Na-da-rét tuy trước mắt người đời xem ra như đã thất bại và đổ vỡ, nhưng trong thực tế lại chính là một cuộc sống đầy hạnh phúc trong vinh thắng. Nó đã được Thiên Chúa chấp nhận và chúc phúc. Bởi vì cuộc sống Ðức Giêsu là một cuộc sống không còn bị ràng buộc bởi sự ích kỷ, nhưng đã được hoàn toàn hiến dâng cho Thiên Chúa và và cho hạnh phúc chân thật của nhân loại. Ðức Giêsu đã mở tung nhiều cánh cửa từng bị khóa kín.
Tuy nhiên, vẫn còn có nhiều cánh cửa đang bị niêm phong khép kín trong cuộc sống xã hội. Qua kinh nghiệm trong cuộc sống cụ thể, nhiều khi chúng ta đã phải ngỡ ngàng và thất vọng đứng trước những cánh cửa bị đồng loại khóa kín để cản đường chúng ta. Nhưng chính chúng ta cũng không ít khi đã đóng chặt bao cánh cửa trong các tư duy và trong cuộc sống mình, tự cô lập mình khỏi đồng loại.
Vâng, còn có bao nhiêu người vẫn chưa có đủ can đảm để tìm cho hoàn cảnh của mình một lối thoát? Còn có biết bao nhiêu cặp vợ chồng đang sống một cuộc sống chồng vợ bất đắc dĩ? Còn có biết bao nhiêu gia đình đang phải sống trong cảnh bất hòa và mỗi người là một tiểu vũ trụ, chứ không ai muốn nói chuyện với ai nữa? Và trong một cộng đoàn giáo xứ cũng còn có bao cánh cửa đang bị khóa kỹ: Giữa các cá nhân với nhau, cũng như giữa gia đình này với gia đình khác? Vâng, đó là những cánh cửa chúng ta đã tự khép kín và khóa chặt đối với nhau: Những cánh cửa dẫn đưa người khác đến với chúng ta, nhưng đã bị chúng ta khóa chặn lại. Hoặc là những cánh cửa đã làm cho chúng ta không thể tự do tiếp xúc với thế giới bên ngoài.
Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống đã chứng minh cho thấy rằng người ta rất có thể mở tung mọi cánh cửa vốn bị đóng kín. Ðiển hình nhất là nơi các Tông đồ: Các ngài đã học được điều đó nơi chính bản thân mình. Các ngài đã có được kinh nghiệm là: Khi bản thân hay gia đình mình rơi vào cảnh khó khăn thử thách, thì tốt nhất là không nên vội đầu hàng bỏ cuộc. Các ngài đã học được là không một ai được phép nghi ngờ người khác, cả khi xem ra có người này kẻ nọ trong họ tỏ ra hoang mang và muốn bỏ cuộc. Các Tông đồ cũng đã cảm nhận được rằng:
Thái độ lẩn trốn và dấu mình sau các cánh cửa đóng kín càng làm tăng sự sợ hãi hoang mang.
Sự nghi ngờ nhau, sự đố kỵ mù quáng đối với thế giới bên ngoài, thường cũng chính là cái hố sâu ngăn cách con người với Thiên Chúa.
Các Tông đồ đã học được là chính Thần Khí Ðức Giêsu đã thúc bách và động viên họ:
Phải mở rộng các cánh cửa.
Phải loại bỏ sự bất động và bám bíu vào các thói quen cũ.
Phải can đảm đi đến với những người xa lạ chưa quen biết, hầu có thể: a) Hiểu biết và thông cảm với họ; b) Tin tưởng và chia sẻ với họ định mệnh khắt khe của họ; c) Giúp họ mở rộng mọi cánh cửa, nhất là cánh cửa dẫn họ tới nguồn hạnh phúc chân thật và vĩnh cửu: Ðức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi!
Phải chăng đó không phài là điều kiện cho tình yêu to lớn đã được mặc khải trong cuộc đời Ðức Giêsu Na-da-rét?
Tôi luôn xác tín rằng: Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống không chỉ là một kỷ niệm biến cố trọng đại đã xảy ra trong buổi khai nguyên Giáo Hội, nhưng là một thực tại luôn sinh động! Bởi vì, Thần Khí Ðức Giêsu không hề chết. Người vẫn sống và vẫn tác động không ngừng trong Giáo Hội, trong vũ trụ và trong cuộc sống mỗi người. Chúng ta có thể mở rộng tâm hồn mình cho Người. Bên ngoài, những người đã từ xa gần đến và đang chờ đợi trước cửa nhà chúng ta. Họ chờ đợi Thần Khí Ðức Giêsu. Họ chờ đợi những người đã biết mở rộng tâm hồn cho Thần Khí đó! Amen.
45. Sứ mạng truyền giáo--Lm Minh Vận, CRM
Báo "Le Figaro" đã đăng câu trả lời phỏng vấn của Tổng Thống Nga Putin, trong đó có mấy sâu đối đáp sau đây:
- Trong một cuộc phỏng vấn báo chí tại Nga, ông cho biết là ông đã đến cầu nguyện tại Mồ Thánh Chúa ở Jeruselem, trong tay cầm Thánh Giá. Nhưng ông lại là một cựu sĩ quan của tình báo KGB. Ông nghĩ thế nào về sự trái ngược đó?
- Cuộc sống được tạo nên bằng những điều trái ngược nhau. Khi không còn những điều trái ngược thì đó là cái chết. Nước Nga không phải là một quốc gia giả tạo mà nó đã có một lịch sử từ lâu đời. Thời kỳ còn là Liên Xô, đã có nhiều ý đồ làm thay đổi truyền thống, nhưng vẫn không sao tách nước Nga khỏi những giá trị văn hóa của dân tộc. Nền văn hóa đó, cũng giống như những cây cỏ mọc trên các đại lộ của thành phố, xuyên thủng nhựa đường để tự tồn tại.
Mẹ tôi là một phụ nữ theo Đạo Chúa, mặc dù đi tham dự Thánh Lễ tại Nhà Thờ không phải là không gặp nguy hiểm trong thời Liên Xô trước đây. Mẹ tôi đã bí mật làm nghi lễ Thánh tẩy cho tôi tại Nhà Thờ. Vậy tại sao các ông lai có vẻ ngạc nhiên khi tôi cầm Thánh Giá đến cầu nguyện tại Mồ Thánh Chúa Giêsu?
Tổng Thống Putin quả là một chứng nhân anh dũng. Ông đã công khai tuyên xưng Niềm Tin, xưng mình là người theo Đạo Chúa, sống Đạo Chúa. Ông đã tuyên bố trước báo chí: "Tôi tự hào là Tín Hữu... Niềm Tin của tôi làm cho tôi thêm tinh thần và sự bình an trong tâm hồn!"
I. CẦN PHẢI CANH TÂN TRÁI ĐẤT
Hôm nay, chúng ta cùng với Giáo Hội hoàn vũ, long trọng mừng Lễ Chúa Thánh Linh hiện xuống, chúng ta thành tâm dâng lên Chúa lời nguyện cầu tha thiết: "Lậy Chúa, xin sai Thánh Thần Chúa đến và xin canh tân bộ mặt thế giới!"
Thế giới chúng ta đang sống, hiện nay có biết bao tệ đoan xuất hiện khắp đó đây làm lũng đoạn đời sống tâm linh, đầu độc trí lòng con người, khiến con người không còn phân biệt được đâu là phải đâu là trái, đâu là tội đâu là phúc, đâu là chân thật đây là giả trá! Các kẻ thù của Chúa đang vận dụng mọi cách để phá hoại những giá trị luân lý đạo đức, chối bỏ những thực tại của đời sống siêu nhiên, đời sống Đức Tin và hạnh phúc vĩnh cửu của đời sống mai hậu. Họ chủ trương chỉ có những thực tại của đời sống vật chất ở đời này. Vì thế, cần phải tận hưởng tất cả các tiện nghi, những phát minh của khoa học tân tiến, những tiền của giầu sang, để được thoải mái tối đa kẻo uổng phí. Tóm lại, họ mong gạt bỏ Thiên Chúa và Tôn giáo ra ngoài đời sống con người, để đời sống thoải mái dễ chịu, khỏi phải gò bó theo luật lệ. Do đó, họ sống buông thả theo thú tính, khiến con người thời đại mất dần ý thức tội lỗi!
II. SỨ MẠNG TUÂN GIỮ VÀ TRUYỀN BÁ TIN MỪNG
Là con cái Chúa, chúng ta có nghĩa vụ phải nỗ lực chống lại những tấn công của kẻ thù, duy trì những giá trị luân lý, những thuần phong mỹ tục, những nền văn minh Kitô Giáo, những truyền thống lành mạnh phù hợp với giáo huấn của Chúa và Giáo hội. Tuyệt đối trung thành với Đức Tin và tinh thần của Chúa Kitô theo sự hướng dẫn của Đức Thánh Cha, đấng đại diện tối cao của Chúa nơi trần gian. Chính Chúa đã truyền dạy chúng ta: "Nếu các con yêu mến Thầy, hãy vâng giữ lời Thầy truyền dạy. Thầy sẽ nài xin Chúa Cha ban Đấng An Ủi khác đến ở cùng các con muôn đời, tức là Thần Chân Lý mà thế gian không thể nhận được, vì họ không thấy cũng chẳng biết Ngài, còn các con, các con sẽ nhận biết Ngài, vì Ngài sẽ ở cùng các con, lại ngự trong tâm hồn các con nữa" (Jn 14:15-17).
Hơn nữa, ngày lãnh Bí Tích Thánh Tẩy, trở nên con cái Chúa, mỗi người chúng ta đã lãnh sứ mạng truyền bá Đức Tin, rao giảng danh Chúa và Ơn Cứu Độ của Chúa đến cho mọi người. Trước khi Chúa về trời, lệnh Chúa truyền cho các Tông Đồ và các Tín Hữu thời Giáo Hội sơ khai, cũng là lệnh Chúa cho mỗi người chúng ta qua các thời đại là: "Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu Phép Rửa sẽ được cứu độ, ai không tin sẽ bị luận phạt" (Mc 16:15). Thánh Mathêu còn ghi lại minh bạch hơn nữa lệnh truyền đó: "Thầy được toàn quyền trên trời dưới đất: Vậy, các con hãy đi giảng dạy muôn dân, thanh tẩy họ nhân danh Cha và Con, và Thánh Thần. Hãy dạy họ vâng giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con; và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế!" (Mt 28:19-20).
III. THỰC THI SỨ MẠNG TÔNG ĐỒ BẰNG CÁCH NÀO
Công Đồng Vaticanô II nhấn mạnh đến nghĩa vụ của tất cả chúng ta, là phải trở nên chứng nhân cho Chúa giữa trần gian khi truyền dạy: "Tất cả con cái Giáo Hội phải tích cực ý thức trách nhiệm của mình đối với thế giới, phải hun nóng cho mình thực sự có tinh thần Công Giáo, và phải hy sinh góp sức vào công cuộc rao giảng Tin Mừng. Tuy nhiên, mỗi người phải biết rằng bổn phận đầu tiên và quan trọng nhất đối với việc truyền bá Đức Tin là sống sâu xa đời sống Kitô Hữu" (Ad Gentes # 36). Để đời sống chúng ta thực sự trở nên ánh sáng chiếu soi cho mọi người, để mọi người thấy các việc thiện chúng ta làm mà ngợi khen Chúa là Cha chúng ta ngự trên trời, và chúng ta là môn đệ đích thực của Người như Chúa đã truyền dạy.
Đó là lời rao giảng Tin Mừng cách hùng hồn và hữu hiệu nhất. Chúng ta có thể quả quyết chắc chắn rằng: Không có lời rao giảng nào có hiệu lực hơn bằng chính cuộc sống thánh thiện của người tông đồ, là sống trước chính lời mình rao giảng, như lời tiền nhân thường răn dạy: "Lời nói như gió lung lay, gương bày như tay lôi cuốn".
Tuy nhiên, Công Đồng còn nhấn mạnh hơn nữa đến căn tính của sứ mạng cao cả này khi quả quyết với chúng ta: "Người Giáo Dân có bổn phận và quyền lợi làm tông đồ do chính việc kết hợp với Chúa Kitô là Đầu. Họ được Chúa chỉ định làm việc tông đồ, vì Phép Rửa tháp nhập họ vào Nhiệm Thể Chúa Kitô, Phép Thêm Sức làm cho họ thêm mạnh mẽ nhờ quyền năng Chúa Thánh Linh. Họ được thánh hiến vào chức vụ Tư Tế Vương Giả và Dân Thánh Chúa, hầu trong mọi việc họ dâng những lễ vật thiêng liêng và làm chứng cho Chúa Kitô ở mọi nơi trên hoàn cầu" (Apostilicam Actuositatem # 3).
Người ta kể rằng: Một hôm, có một bác nông dân chở gạo lên thành phố Sài gòn bán. Tới giờ ăn trưa, ông vào tiệm gọi một tô phở. Sau khi cô chiêu đãi viên bưng ra cho ông một tô phở thơm phức, ông nghiêm trang làm dấu Thánh Giá trên mình và cúi đầu, miệng lâm râm cầu nguyện. Một tên cán bộ ngồi bàn bên cạnh, trông thấy cử chỉ đạo đức đó lấy làm bực rọc khó chịu, bèn lên tiếng khà khịa với ông: "Thời buổi xã hội chủ nghĩa này mà còn kinh với kệ, lỗi thời lắm rồi lão già kia ơi!" Ông già nghe thấy lời hỗn xược và xúc phạm đó khiến ông không thể nhịn được, nên đã mạnh dạn lên tiếng: "Chỉ có loài chó loài heo mới không biết cầu nguyện cám ơn Chúa trước khi ăn!"
Ngày nay, chúng ta thấy không thiếu những người không dám xưng mình là Kitô Hữu, không dám hãnh diện biểu lộ niềm tin của mình trước mặt tha nhân, không dám dấu Thánh Giá trước bữa ăn tại tiệm, sợ bạn bè chê cười đàm tiếu. Người ta còn kể: Có những tiệc cưới người Công Giáo được tổ chức rất trọng thể tại tiệm ăn, thế mà cũng không dám mời Linh Mục chủ sự lên trước công chúng, để cầu nguyện xin Chúa chúc lành cho các thực khách và thực phẩm trước khi khai mạc bữa tiệc!
Kết luận
Tổng Thống nước Nga Putin và ông nông dân trong hai mẩu truyện trên đây đã có những hành động tuyên xưng niềm tin của mình thật đáng chúng ta khâm phục và noi theo bắt chước. Khi chế độ Cộng Sản Liên Xô mới sụp đổ, theo sự khôn ngoan, hẳn ông cần phải khéo léo uyển chuyển để khỏi mích lòng những phe đối lập, thế nhưng ông đã can đảm tỏ mình là Kitô Hữu theo Đạo Chúa cách hãnh diện khi tuyên bố trước mặt mọi người: "Tôi tự hào là người Tín Hữu... Niềm Tin của tôi cho tôi thêm tinh thần và sự bình an trong tâm hồn!"
Còn ông nông dân của chúng ta cũng thật đáng mọi người phải cảm phục, mặc dầu lời ông nói có thể xảy đến cho ông những nguy hiểm bởi những kẻ có quyền thế, nhưng ông vốn can đảm nói lên sự thật, chứng tỏ Niềm Tin sâu xa của ông. Đó là một tấm gương sáng đáng chúng ta noi theo bắt chước.
Xin Mẹ Maria là Mẹ của Niềm Tin, ban cho chúng ta được can đảm sống Niềm Tin của chúng ta trong đời sống hằng ngày; nhờ việc tuyên xưng và sống Niềm Tin đó, sẽ thánh hóa chúng ta và giúp chúng ta chu toàn sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa trước mặt mọi người như Chúa đã truyền dạy.
46. Ngày sinh nhật của Giáo Hội--Lm Đaminh Nguyễn Ngọc Long
Ai là con người cũng có ngày mở mắt chào đời, ngày sinh nhật. Ngày đó được ghi lại trên tấm giấy khai sinh.
Hội đoàn tổ chức đời đạo nào trong xã hội cũng có ngày khai sinh thành lập. Ngày đó được ghi chép trên giấy tờ tài liệu lưu giữ của Hội đoàn tổ chức như bằng chứng.
Người Mẹ Giáo Hội Công giáo cũng có ngày sinh nhật, ngày khai sinh thành lập. Nhưng ngày này của Giáo Hội Công giáo lại không có ghi lại trên giấy tờ khai sinh hay chứng từ sổ sách ghi lại bằng chữ viết, bằng con số.
Như thế, làm sao có thể nói đến ngày sinh nhật của Giáo Hội công giáo được?
1. Tờ giấy khai sinh
Khi một em bé lọt lòng mẹ mở mắt chào đời, bệnh viện nơi em sinh ra ghi lại trên giấy tờ ngày giờ năm tháng, nơi chốn em sinh ra. Căn cứ vào chứng thư đó, sở hộ tịch làm giấy khai sinh trong sổ bộ đời sống xã hội cho em bé.
Không phải tờ giấy đó làm ra em. Nhưng sống trong cộng đồng xã hộị, em cần tờ giấy khai sinh đó. Tờ giấy khai sinh này gắn liền với đời sống em. Nó là tờ giấy căn bản hộ thân cho em, để sau này làm những giấy tờ cần thiết khác trong suốt đời sống.
Không chỉ khi làm những giấy tờ cần thiết khác ở ngoài công sở xã hội, mới cần đến giấy khai sinh. Nhưng cả khi cha mẹ em bé xin cho con mình nhận lãnh Bí tích Rửa tội gia nhập Giáo Hội Chúa Giêsu, ít là bên Giáo Hội nước Đức, cũng phải cần có kèm theo giấy khai sinh của em bé.
Tên em, ngày tháng năm sinh, nơi chốn quê quán em sinh ra là những dữ kiện quan trọng liên quan đến bản thân đời sống. Tờ giấy khai sinh giúp em giữ lại những dữ kiện đó, giữ lại chút kỉ niệm đầu đời ngày em bắt đầu đời sống trên trần gian.
Còn trong niềm tin đạo giáo có giấy tờ khai sinh không?
2. Dấu ấn giấy khai sinh
Dấu ấn Bí tích phép Rửa tội ghi khắc trong tâm hồn người được rửa tội là tờ khai sinh gia nhập đạo Công giáo. Nhưng để lưu trữ ghi nhớ sau này khi cần tra cứu, nơi nhà xứ nào cũng có sổ Rửa tội. Trong cuốn sổ đó, lần nữa ngày tháng năm sinh, nơi sinh cùng tên cha mẹ của em bé, ngày tháng năm rửa tội được ghi lại.
Nhiều người vì hoàn cảnh di chuyển, di cư nơi này sang nơi khác, mất hết giấy tờ, không còn nhớ dữ kiện ngày tháng bản thân của mình nữa. Lần tìm về nơi ngày xưa đã sinh ra, đã được Rửa tội, họ tìm lại thấy những dữ kiện đó.
Trong đạo Công giáo, khi xin cử hành bí tích hôn phối lập gia đình, người ta truy tìm lại sổ rửa tội, để biết xem có đúng là người Công giáo đã được rửa tội chưa, đã có chịu Bí tích hôn phối lập gia đình lần nào chưa. Vì sau hôn phối, có báo lại ghi thêm vào sổ đó: Đã chịu Bí tích Hôn phối.
Những người được chịu chức Thánh trong Giáo Hội, những ai khấn Dòng, những vị thẩm quyền trong Giáo Hội cũng lần dở tìm lại sổ Rửa tội để truy tìm nguồn gốc. Và sau khi người đó lãnh Chức Thánh hay Khấn Dòng báo ghi thêm vào sổ đó: đã chịu chức Thánh hay đã khấn Dòng.
Cuốn sổ Rửa tội trong Giáo Hội là giấy chứng minh để có thể tiếp tục tiếp nhận lãnh những Bí tích khác. Như thế sổ Rửa tội có khác gì giấy khai sinh đâu.
Sổ Rửa tội, một lọai giấy khai sinh trong đạo Công giáo, không chỉ cho nhu cầu đó. Nó còn là một chứng tích lịch sử nữa.
Một ai đó được Giáo Hội phong lên làm bậc Thánh, người ta truy tìm đền cuốn sổ Rửa tội nơi ngày xưa vị đó đã được Rửa tội. Lúc đó cuốn sổ Rửa tội nơi đó có tên vị đó trở nên thời danh, một chứng tích lịch sử.
Cuốn sổ Rửa tội ghi tên cùng ngày tháng Rửa tội của Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI. Joseph Ratzinger ở nhà xứ Marktl am Inn trở nên thời danh như một chứng tích lịch sử cho việc tra cứu.
Giáo Hội Công giáo của Chúa có gì giấy tờ gì chứng nhận như giấy khai sinh không?
3. Ngày sinh nhật của Giáo Hội
Giáo Hội Công giáo có ngày khai sinh khởi đầu. Nhưng ngày khởi đầu, ngày sinh nhật đó không có giấy tờ khai sinh cùng sổ sách ghi lưu lại.
Không có giấy khai sinh. Không có cuốn sổ Rửa tội. Nhưng Giáo Hội có sách Kinh Thánh ghi chép lại ngày giờ khai sinh của mình. Thánh sử Luca đã thuật lại ghi lại trong Sách Tông đồ công vụ chương hai, từ câu 1-11.
Căn cứ vào Thánh Kinh, đức Giáo Hoàng Benedicto XVI. đã diễn tả về ngày sinh nhật của Giáo Hội Chúa Giêsu:
Thánh sử Luca, người đã soạn viết công trình Kinh Thánh với những suy tư rất thận trọng. Ông trình bày quy dẫn hướng trở lại về sự nhập thể làm người của Chúa Giês. Khi Chúa Thánh Thần ngự xuống trên địa cầu mọi người cũng đón nhận Chúa Giêsu nữa. Thánh Thần Thiên Chúa ngự xuống đổi mới, và Giáo Hội "thân thể của Chúa Giêsu" khai sinh chào đời trong dòng thời gian lịch sử.
Điều này xảy đến qua những dấu hiệu làn gío thổi đến và ngọn lửa bùng sáng lên, nhất là qua dấu hiệu của sự lạ lùng phép lạ ngôn ngữ. Trong điều kiện đó, Giáo Hội đã loan truyền và được loan truyền đi khắp nơi, cùng được chấp nhận bằng những ngôn ngữ khác nhau. Điều này trái ngược với lịch sử xây tháp Babel ngày xưa.
Điều khác nữa, một cộng đoàn xã hội mới nảy sinh, mà Thiên Chúa qua sức mạnh của Chúa Thánh Thần, qua ngọn lửa của Thiên Chúa, đã xây dựng nên từ trong tận trái tim tâm hồn con người.
... Nếu Thánh Thần Thiên Chúa được trình bày vẽ như hình một cái lưỡi, như ngọn lửa, điều này nói lên Ngài ngự xuống trên mỗi người cách cá nhân riêng biệt. Đây là những hình ảnh căn bản diễn tả cho chúng ta hiểu, sự cư ngụ ở lại, điều mầu nhiệm bí ẩn của Thánh Thần Thiên Chúa, sự khai sinh chào đời của Giáo Hội. Và cùng với sự lạ lùng phép lạ ngôn ngữ cũng nói lên tích cách công giáo phổ quát của Giáo Hội. (Papst Benedickt, Gott und die Welt, ein Gespräch mit Peter Seewald, Von der Kirche, Knaur Verlag, April 2005, S. 376.)
Như thế, Giáo Hội Công giáo của Chúa không phải là sản phẩm của một ai, hay của một trào lưu xu hướng thời đại nào, cùng không giới hạn trong một quãng thời gian nào. Nhưng do chính Chúa qua ân đức sức mạnh Chúa Thánh Thần thiết lập nên, cùng luôn đổi mới trong dòng lịch sử thời gian trên từ hơn hai nghìn năm qua, và còn kéo dài trong tương lai tiếp nữa.
Nếu hiểu Giáo Hội của Chúa như một “Bí tích” của sự hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con trong tình yêu của Chúa Thánh Thần, thì cơ cấu của Giáo Hội không chỉ là mặt tiền bên ngoài và như hàng thứ yếu. Nhưng là dấu chỉ ẩn chứa trình bày một nội dung thần học về hiệp thông trong đức tin, cùng về sự hợp nhất nên một.
"Những lời sỉ nhục bỉ báng đấng thay mặt Chúa cùng các đấng làm thầy", như lời kinh đọc trong kinh đền tạ trái tim cực Thánh Đức Chúa Giêsu, là lời xét mình, ăn năn tạ lỗi, cùng nhắc nhở hãy có lòng yêu mến kính trọng Giáo Hội của Chúa. Đừng lạm dụng ngôn ngữ, nhân danh tự do mà coi khinh thường vô phép với Giáo Hội của Chúa, công trình của Chúa Thánh Thần.
Hàng giáo phẩm trong Giáo Hội của Chúa như Bí tích ở trần gian, là những người được Chúa tuyển chọn trao ban cho trách nhiệm gìn giữ cai quản Giáo Hội của Người. Phải, họ là những con người với những giới hạn yếu hèn, do Chúa dựng nên. Họ không phải, hay chưa là thánh. Nhưng họ có bổn phận cùng với mọi người trong Giáo Hội sống trở nên thánh thiện tốt lành như ý Chúa muốn.
Chúa Thánh Thần, Đấng khai sinh cùng nuôi dưỡng Giáo hội Chúa, hằng luôn đổi mới làm tươi trẻ trong dòng lịch sử thời gian công trình Ngài đã lập sáng tạo nên bằng bảy ân đức căn bản cho đời sống: Khôn ngoan, lo liệu, sức mạnh, thông hiểu, suy biết, đạo đức và kính sợ Chúa.
47. Chúa Nhật Lễ Hiện Xuống
Trong phụng vụ của Giáo hội và trong các việc đạo đức hàng ngày, chúng ta thường nghe nhắc tới Chúa Thánh Thần rất nhiều. Khi làm dấu thánh giá, khi bắt đầu một việc đạo đức, khi cử hành các bí tích, chúng ta thường cầu xin Chúa Thánh Thần. Đặc biệt khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Thêm sức là chúng ta lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Vậy Chúa Thánh Thần có vai trò thế nào trong đời sống Giáo hội và trong cuộc đời của mỗi người chúng ta?
Khi học giáo lý chúng ta biết được Chúa Thánh Thần là Ngôi thứ Ba bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, cùng một bản tính và một quyền năng như Hai Ngôi cực trọng ấy. Điều này chứng tỏ Chúa Thánh Thần đã có từ thuở đời đời. Ngay từ đầu lịch sử nhân loại, Chúa Thánh Thần đã có mặt trong công trình sáng tạo. Sách sáng thế nói "Lúc khởi đầu Thiên Chúa đã sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và Thần Khí của Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước" (St 1,1-2). Như vậy ngay từ giây phút đầu tiên Thánh Thần Thiên Chúa đã có mặt để thực hiện việc sáng tạo nên vũ trụ và con người.
Rồi trong thời Tân ước, cũng chính Thánh Thần đó đã có mặt ngay từ lúc Ngôi Hai nhập thể làm người cho đến ngày Giáo hội được khai sinh. Và Ngài tiếp tục hoạt động trong Giáo hội và trong tâm hồn của mỗi người chúng ta cho đến tận thế.
Nhờ sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, các môn đệ mới hiểu được phần nào về con người và sứ mạng của Chúa Giêsu. Mặc dù đã theo Thầy bao năm, nhưng nhiều lần Phúc Âm ghi lại, các tông đồ đã không hiểu những lời nói và việc làm của Thầy. Chẳng hạn, trước khi bước bước vào cuộc Thương khó, Chúa Giêsu đã 3 lần tiên báo "Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta, họ sẽ giết chết Người nhưng ngày thứ 3 Người sẽ sống lại nhưng các ông không hiểu điều Người muốn nói". Cho nên Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ, tự sức các ông sẽ không thể hiểu nổi nhưng phải đợi "Chúa Thánh Thần mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, sẽ dạy cho các con mọi sự và nhắc nhở cho các con mọi điều Thầy đã nói cho các con" (Ga 14,26).
Trong ngày Lễ Hiện Xuống, các tông đồ đã lãnh nhận sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Sức mạnh ấy đã làm biến đổi toàn bộ cuộc sống các ông. Từ những con người nhát đảm, sợ sệt giờ đây các ông công khai rao giảng về một Đức Giêsu đã bị giết chết và đã sống lại. Từ những con người ít học, không biết ăn nói giờ đây lại nói năng đầy thuyết phục và khôn ngoan. Phêrô, một người ngư phủ, học hành không bao nhiêu vậy mà sau bài giảng đầu tiên của ông lại có hơn 3000 người xin chịu phép rửa. Người ta nghĩ rằng những con người tầm thường đó sẽ không làm nên trò trống gì, vậy mà các ông đã làm thay đổi thế giới. Rồi xuyên suốt hơn 2000 năm qua, Giáo hội Chúa đã trải qua biết bao chống đối bách hại thế nhưng con thuyền Giáo hội vẫn đứng vững. Tất cả đều do và nhờ Chúa Thánh Thần.
Ngày hôm nay Chúa Thánh Thần vẫn đang hoạt động mạnh mẽ trong lòng Giáo hội và trong tâm hồn của mỗi người chúng ta. Sở dĩ chúng ta có thể tin Chúa, yêu mến Chúa là nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Thánh Phaolô nói "không ai có thể gọi Đức Giêsu là Chúa mà không do tác động của Thánh Thần". Khi chúng ta phạm tội, Chúa Thánh Thần thúc giục lương tâm để chúng ta hoán cải để trở về với Chúa qua bí tích giải tội. Chính sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, biết bao người đã quảng đại hy sinh cuộc đời mình để phục vụ những người nghèo, những kẻ cô thế cô thân, các bậc cha mẹ chu toàn bổn phận săn sóc và làm gương cho con cái, các bạn trẻ can đảm chống lại những cám dỗ trong cuộc sống. Và nhờ Chúa Thánh Thần chúng ta mới có thể yêu thương và tha thứ cho những người xúc phạm đến mình. Bởi vì hoa trái của Thánh Thần đó là yêu thương, bình an, hiền hoà, quảng đại.
Cuộc sống hôm nay có quá nhiều tác động bởi những bon chen, tranh giành bởi hơn thua, còn mất. Những tác động đó có thể làm cho chúng ta không còn nghe được tiếng Chúa, trở nên vô cảm trước những đau khổ của đồng loại mình. Chúng ta hãy để Chúa Thánh Thần hướng dẫn cuộc đời chúng ta. Bởi Ngài sẽ dạy chúng ta cầu nguyện, Ngài sẽ dạy chúng ta biết sống thế nào cho đẹp lòng Chúa. Và Ngài sẽ phù trợ để chúng ta kiên nhẫn trong lúc đau khổ và vui mừng trong các việc lành phúc đức.
Dâng thánh lễ hôm nay, xin Chúa Thánh Thần đổi mới tâm hồn của mỗi người chúng ta, để chúng ta luôn biết sống theo sự hướng dẫn của Thánh Thần. Biết kêu cầu Chúa Thánh Thần trong mọi công việc, nhờ đó chúng ta can đảm làm chứng cho Chúa phục sinh bằng một cuộc sống đầy hy vọng, yêu thương và phục vụ anh chị em mình.
48. Đức Chúa Thánh Thần, nguồn suối nước sự sống--Lm Đaminh Nguyễn Ngọc Long
Tin kính Đức Chúa Thánh Thần trong tâm hồn và tuyên xưng ra ngoài môi miệng. Nhưng không ai đã nhìn thấy Đức Chúa Thánh Thần như thế nào.
Đức Chúa Thánh Thần, vì thế, được diễn tả vẽ trình bày theo nhiều hình ảnh khía cạnh khác nhau. Một trong những hình ảnh đó là dòng nước.
1. Nước trong đời sống con người
Nước chảy thành dòng, và không thể nắm giữ lại được như một vật rắn chắc. Nếu muốn giữ nước lại, phải có ly tách, hay chậu... mới có thể quy tụ giữ nước lại được.
Nhà hiền triết Aristoteles người Hylạp, đã suy nghĩ theo lý luận triết học đi đến kết luận có bốn yếu tố quan trọng nền tảng trong thiên nhiên: đất, nước, lửa và khí. Nước là một trong bốn yếu tố nền tảng đó.
Cũng theo nhà hiền triết người Hylạp, Thales, nước là yều tố duy nhất làm nên thân thể.
Hai phần ba trái đất được bao phủ bằng nước. Không có nước, không có sự sống. Vì tất cả mọi con đường sự sống đều tùy thuộc cần đến nước.
Nước là thành phần chính yếu quan trọng của các cơ quan thân xác con người. Từ 55-60% nước chiếm trọng lượng trong thân thể con người.
Nước là viên gạch xây dựng các tế bào trong thân thể.
Nước đóng vai trò là dung dịch làm tan biến tiêu hóa những chất nặng đặc trong các cơ quan thân thể.
Nước cũng đóng vai trò vận chuyển những chất dinh dưỡng cho các cơ quan trong thân thể.
Nước điều hòa nhiệt độ nóng ấm trong thân thể con người.
Vì thế, nước là thành phần chính yếu cùng quan trọng cho cơ thể con người. Và cũng vì thế con người cần phải uống nước hằng ngày, để cho các cơ quan làm việc giúp cho sự sống phát triển và sức khoẻ được điều hòa.
2. Nước trong niềm tin các tôn giáo
Trong niềm tin các tôn giáo, nước là điều thánh thiêng cùng quan trọng.
Theo niềm tin Hồi giáo, nước là dấu hiệu khởi nguyên của sự sống, và là mối dây tương quan nối liền với Thần Thánh.
Theo Phật giáo, nước quan trọng. Vì nước là một trong bốn yếu tố trong vũ trụ. Dòng nước chảy trong sông là hình ảnh giáo lý Phật giáo, con đường chiêm niệm đời sống con người cho tới khi đạt được cứu độ nơi Niết Bàn.
Theo Ấn Độ giáo, nước là sức mạnh tẩy rửa thân thể cùng tinh thần con người.
Theo Kyto giáo, nước là khởi nguyên của mọi sự sống. Trong bài tường thuật về sáng tạo vũ trụ, Thần Linh Thiên Chúa bay là là trên nước, và Thiên Chúa sáng tạo trước tiên vũ trụ trái đất từ nước. Từ đó phát sinh nẩy nở sức sống mọi loài trong vũ trụ.
3. Nước, hình ảnh Chúa Thánh Thần
Thánh Gioan dùng hình ảnh làn nước sự sống diễn tả về Đức Chúa Thánh Thần (Ga 7,37-39).
Ai chúng ta cũng đều đã có kinh nghiệm cùng cảm nghiệm về sự phấn khởi tươi mát mang đến năng lực cho đời sống. Lúc khát nước hay khi gặp trời nóng nực mà nhận được ly nước uống vào, ngay tức thì cơn khát được hạ dịu bớt, sức sống phấn khởi bừng lên trong thân thể nơi làn da thớ thịt, cùng nơi tâm trí. Lúc đó ly nước mát quan trọng qúy gía biết chừng nào!
Vào mọi thời đại và ở nơi nơi, nước luôn là yếu tố căn bản cho phát triển về ruộng vườn, cây cối ngoài thiên nhiên; cho nhu cầu ăn uống,vệ sinh sạch sẽ của con người cùng thú động vật.
Dòng nước chảy trong dòng suối, khe lạch, nơi sông ngòi đến đâu mang chất phân bón phù sa cho cây cỏ, ruộng vườn được phát triển tươi tốt. Và dòng nước là vùng, là ngôi nhà chỗ ẩn thân sinh sống cho mọi loài cá tôm. Trong dòng nước chúng sinh sản lớn lên phát triển làm thức ăn dinh dưỡng nuôi sống con người từ ngàn xưa.
Đức Chúa Thánh Thần là sức mạnh của Thiên Chúa, tựa như làn nước làm cho sức sống sự xanh tươi chảy thông cuồn cuộn bừng lên.
Chúng ta nhìn thấy dòng nước. Nhưng Thiên Chúa, Đấng dựng nên nước, ký thác sự bí ẩn mầu nhiệm sức sống trong đó, khiến mắt ta không nhìn thấy sức mạnh ẩn dấu trong nước.
Bằng đôi mắt thường chúng ta quan sát dòng nước chảy. Nhưng tâm trí ta, dù có thể dùng phương pháp khoa học thực nghiệm phân tích chất chứa trong nước, cũng không hiểu được mầu nhiệm bí ẩn sức sống của nước do Trời cao tạo dựng nên. Sức sống ẩn chứa trong dòng nước mang lại không chỉ sự tươi mát cho da thịt, mà còn sức mạnh cho tâm hồn lẫn gân cốt bắp thịt, sự phấn khởi tỉnh táo cho tâm trí suy nghĩ biểu hiện qua nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt, trên ánh mắt con người.
Giống như mầu nhiệm sức sống ẩn chứa trong dòng nước, Đức Chúa Thánh Thần, Đấng là sức mạnh cho sự sống đức tin vào Chúa thể hiện theo nhiều phương cách, mà tâm trí ta không sao nhìn thấu cùng thông hiểu nổi, hay không như ta chờ đợi mong muốn.
Đức Chúa Thánh Thần, mà Chúa Giêsu hứa ban gửi đến cho Giáo Hội luôn hằng có mặt trong Giáo Hội. Ngài là Đấng vô hình, nhưng không phải là một „bóng ma thánh“.
Ngài là dòng nước mang sức sống đến cho đời sống thiên nhiên của Giáo Hội.
Dòng nước chảy mang đến sức sống cùng sự đổi mới. Dòng nước sức sống Đức Chúa Thánh Thần tác động âm thầm tiệm tiến trên sự đổi mới trong lòng sự sống Giáo Hội.
Chúng ta chỉ có thể tìm cách cắt nghĩa diễn tả Đức Chúa Thánh Thần bằng hình ảnh, như Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh dòng nước là nguồn sức sống nói về Thần linh Thiên Chúa, Đấng là mầu nhiệm ẩn dấu với tâm trí con người.
Đức Thánh Cha Phanxico trong bài giáo lý ngày 08.05. 2013 đã nói về đức Chúa Thánh Thần
* Con người của mọi thời đại và mọi nơi đều muốn có một cuộc sống sung mãn và tốt đẹp, công bằng và tốt lành, một cuộc sống không bị đe dọa bởi cái chết, nhưng có thể trưởng thành và phát triển một cách trọn vẹn.
Con người như một khách lữ hành, đang băng qua hoang địa cuộc đời, khát một nước hằng sống, vọt lên và tươi mát, có khả năng làm thỏa mãn ước vọng sâu thẳm tận đáy lòng về ánh sáng, tình yêu, vẻ đẹp và bình an của người ấy. Tất cả chúng ta đều cảm thấy ước vọng ấy!
Và Chúa Giêsu ban cho chúng ta nước hằng sống này: đó là Chúa Thánh Thần, Đấng phát sinh từ Chúa Cha, và là Đấng mà Chúa Giêsu đổ vào lòng chúng ta. Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Ta đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10:10).
49. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
Qua bài Tin mừng chúng ta vừa nghe, thánh Gioan tông đồ tường thuật lại việc Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ và sai các ông đi loan báo Tin Mừng Phục sinh cho muôn dân. Để các ông đủ khả năng để thi hành sứ vụ, thì liền sau đó, Chúa Giêsu đã trao ban Chúa Thánh Thần cho các tông đồ.
Hôm nay là lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, với Lời Chúa chúng ta vừa nghe, nói cho chúng ta biết hai bài học quan trọng về Chúa Thánh Thần: Bài học thứ nhất: Làm cách nào để có được Chúa Thánh Thần hiện diện trong cuộc đời của mình? Bài học thứ hai: Khi đã có Chúa Thánh Thần hiện diện trong đời mình, chúng ta phải làm gì?
1. Bài học thứ nhất: Phải làm gì để được Chúa Thánh Thần hiện diện trong cuộc đời của mình?
Chúng ta vừa nghe bài Phúc âm. Xin được hỏi, trong khi các môn đệ họp với nhau ở phòng tiệc ly, với tâm trạng sợ hãi, thì bất ngờ điều già xảy ra? (Chúa Giêsu hiện ra) Khi Chúa Giêsu hiện đến, Ngài ban bình an cho các môn đệ, ngài sai các ông đi rao giảng, và Ngài còn làm một điều quan trọng nữa là gì? (Ban Chúa Thánh Thần cho các ông). Như vậy, đến đây chúng ta hiểu rằng để có được Chúa Thánh Thần thì cuộc đời chúng ta phải có Chúa Giêsu, Chúa Giêsu là Đấng giới thiệu Chúa Thánh Thần cho chúng ta. Vậy để có Chúa Thánh Thần trong cuộc đời, chúng ta phải năng rước Chúa Giêsu vào lòng. Những ai chưa rước lễ hoặc những người gặp khó khăn trong đời sống đạo không thể rước Chúa được thì năng cầu nguyện với Chúa Giêsu mỗi ngày. Ngoài ra, để có Chúa Thánh Thần trong đời, chúng ta hãy tập thói quen sau khi ngủ một đêm, vừa thức dậy là đọc kinh sáng, dâng một ngày sống cho Chúa Thánh Thần. Bên cạnh đó, bất kỳ làm một điều gì đó cũng đều cầu nguyện với Chúa Thánh Thần để Ngài hướng dẫn. (Tóm lại cách để có Chúa Thánh Thần trong cuộc đời mình: 3 việc)
2. Bài học thứ hai: Khi đã có Chúa Thánh Thần hiện diện trong đời mình, các em phải làm gì?
Chúng ta hãy nhớ lại xem, khi thiên thần đến truyền tin cho Đức Mẹ thì nói rằng: Thánh Thần sẽ rọp bóng trên bà. Đức Mẹ được tràn đầy Chúa Thánh Thần sau khi nhận lời Thiên thần truyền tin. Sau đó, mẹ làm một việc bác ái được ghi trong Phúc âm là đi viếng thăm giúp đỡ bà chị họ là bà Isave. Còn Chúa Giêsu, khi chịu phép rửa, Chúa Thánh Thần với hình chim Bồ câu đậu xuống trên người. Được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, Chúa Giêsu làm nhiều việc bác ái cho mọi người: chữa bệnh, tha tội, cho người chết sống lại, và cao điểm là chết trên Thánh giá chuộc tội nhân loại. Trong bài Tin Mừng hôm nay, các tông đồ được sai đi rao giảng Tin Mừng, rao giảng tình thương cứu chuộc của Chúa cho mọi người. Liền sau đó, Chúa Giêsu trao ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ để đi thực hiện sứ vụ tình thương. Đến đây, chúng ta hiểu rõ rằng, có Chúa Thánh Thần hiện diện trong đời, thì điều Ngài hướng dẫn chúng ta là yêu thương người khác. Việc yêu thương đối với chúng ta không phải là gặp người đi xin ngoài đường cho họ vài trăm ngàn. Mà đối với các em, bác ái là là hiếu thảo, vâng lời cha mẹ, giúp đỡ cha mẹ những công việc nhỏ nhặt trong nhà như quét nhà, rửa chén, nấu cơm, lau bà; bác ái là biết nhường nhịn, không dành ăn, không dành chơi với em út mình; bác ái là vô lớp giáo lý không chơi để cho các bạn khác học; bác ái là ra đường gặp người lớn, gặp thầy cô biết chào hỏi;... bác ái là biết quan tâm giúp đỡ bạn bè cùng trường, cùng lớp với mình.
Chúng ta biết, giới răn trọng nhất của người Kitô hữu là sống yêu thương mà Chúa Thánh Thần là Đấng xuất phát từ tình yêu Chúa Cha và Chúa con mà ra. Do vậy, sống giới luật yêu thương trong đời sống đạo thì không thể thiếu Chúa Thánh Thần. Từ nay, xin mọi người hãy cố gắng cầu nguyện nhiều với Chúa Thánh Thần để luôn có Ngài hiện diện trong cuộc đời mình. Ngài sẽ giúp chúng ta hoàn thành tốt bổn phận yêu thương trong đời sống đạo để mai này được về Thiên đàng hưởng phúc với Thiên Chúa Ba Ngôi.
50. Ngọn gió
Bấy giờ các môn đệ họp lại ở một nơi. Bỗng dưng có tiếng từ trời đến, ào ào như gió thổi khắp nhà các đấng đang ngồi. Lại thấy có hình lưỡi lửa tỏa ra, đổ trên đầu từng người một và tất cả đều được tràn đầy Thánh Linh. Qua vài dòng tường thuật ngắn ngủi trên, chúng ta cùng nhau chia sẻ về hình ảnh ngọn gió.
Hậu quả đầu tiên mà gió đem lại, đó là quét sạch bụi bặm và rác rưởi. Chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu nói với ông Nicôđêmô: Gió muốn thổi đâu thì thổi, ngươi nghe tiếng gió, nhưng lại không biết gió từ đâu mà đến và sẽ đi về đâu, những kẻ sinh bởi Thần Khí cũng thế. Thực vậy, gió thổi chỗ này, gió thổi chỗ khác. Không ai có thể vạch đường cho gió. Gió thổi theo những luật lệ riêng của gió. Cũng vậy, tình yêu chân thực sẽ vượt qua mọi thúc ép bên ngoài. Và khi tình yêu cao cả nhất là Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các tông đồ, thì đó cũng là lúc những thái độ bên ngoài, những nghi lễ của Môisen, những quan niệm hẹp hòi của bọn biệt phái bị sụp đổ. Tin Mừng tràn lan như một ngọn gió. Và Tin Mừng ấy thổi đến đâu, thì sẽ lật đổ mọi tượng thần nhảm nhí, làm cho trong sạch và dịu mát bầu khí luân lý và đạo đức vốn đã bị ô nhiễm. Cùng với ngọn gió của ngày lễ Hiện Xuống, một con người mới được sinh ra với một lý tưởng mới và những khát vọng mới. Một thế giới được khởi đầu đó là thế giới Kitô giáo. Thế giới cũ không thể nào chống lại sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Như một bức tường xiêu vẹo và đổ nát, không thể nào cản được sức mạnh của cơn gió xoáy.
Giáo hội khởi đầu chỉ là một nhóm nhỏ gồm mười hai tông đồ. Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần đã hoạt động trong các ông, thôi thúc các ông ra khơi và thả lưới, lên đường và chinh phục thế giới về cho Đức Kitô. Ý tưởng này làm cho chúng ta thêm phấn khởi và cảm thấy được an ủi. Dù hoàn cảnh có đen tối, dù số phận có thê thảm, dù giông tố có nổi lên, dù bắt bớ có xảy ra, nhưng có Chúa Thánh Thần hoạt động trong cộng đoàn tín hữu, thì không có một thế lực nào, không một gian nguy thử thách nào có thể chiến thắng nổi chúng ta. Mọi sự sẽ qua đi, nhưng Chúa Thánh Thần sẽ chẳng qua đi bao giờ.
Trong thời gian khó khăn tại Liên Xô, chỉ có một chủng viện nhưng phải sinh hoạt âm thầm và lén lút. Ngày kia một ký giả may mắn gặp được một thanh niên hơn hai mươi bốn tuổi, với khuôn mặt sáng sủa và thân hình gầy còm vì đói. Anh cho biết mình là một đại chủng sinh, đang chuẩn bị lãnh nhận chức phó tế. Ban ngày anh phải đi làm như một người thợ, một công nhân. Ban đêm mới học. Học không sách vở, học không ánh sáng. Họ sống và cầu nguyện chung với nhau, nhưng luôn phải canh chừng. Phải chăng Kitô giáo đã tàn lụi trên đất nước Liên Xô? Không phải thế. Dù chỉ còn một nhóm nhỏ thì Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động. Để rồi cuối cùng, mọi sự sẽ qua đi, nhưng Chúa Thánh Thần sẽ chẳng qua đi bao giờ.
Biết bao lần chúng ta thất vọng khi nhìn thấy tội ác thắng thế và cất cao tiếng cười ngạo nghễ. Biết bao lần chúng ta hoài nghi vì thiện chí của chúng ta bị coi thường và xuyên tạc. Thế nhưng, nếu thực sự có Chúa Thánh Thần ngự trị, chúng ta sẽ không bao giờ ngờ vực, sẽ không bao giờ thất vọng. Vậy chúng ta phải có thái độ nào? Chúng ta hãy lắng nghe lời thánh Phaolô khuyên nhủ: Đừng làm buồn lòng Chúa Thánh Thần và đừng dập tắt ngọn lửa của Ngài. Nhưng thế nào là làm buồn lòng Chúa Thánh Thần, thế nào là dập tắt ngọn lửa của Ngài? Chúng ta sẽ làm buồn lòng Chúa Thánh Thần nếu chúng ta chống lại những hành động hướng dẫn, giáo huấn và thánh hóa của Ngài. Chúng ta hãy để cho Ngài thúc đẩy, để chúng ta chỉ suy nghĩ những tư tưởng của Chúa, chỉ lắng nghe những lời Chúa nói. Chúa Thánh Thần là người nghệ sĩ, còn tâm hồn chúng ta là cây đàn. Nếu chúng ta để cho Ngài gẩy, thì tâm hồn chúng ta sẽ vang lên những khúc nhạc tuyệt vời. Chúng ta có thể nói cuộc đời của người có Chúa Thánh Thần ngự trị sẽ là như một con đường ngập ánh nắng mặt trời, dù họ phải đi qua bóng tối của gian nan và thử thách. Hơn nữa, cuộc đời của người có Chúa Thánh Thần ngự trị sẽ là một khúc hoan ca, dù họ gặp phải những cay đắng chua xót. Ngoài ra, cuộc đời của người có Chúa Thánh Thần ngự trị sẽ là một ngày hội lớn, một ngày khải hoàn chiến thắng, dù họ phải luôn chiến đấu không ngừng.
Ngọn gió của Chúa Thánh Thần có thể thổi đến với tôi bất kỳ lúc nào và bất kỳ ở đâu: trong giờ kinh nguyện, trên đường phố, bên giường bệnh nhân, trong cơn cám dỗ…sức mạnh của Chúa Thánh Thần sẽ truyền sang cho tôi. Và thật là diễm phúc, nếu tôi biết lắng nghe và tuân theo sự thôi thúc của Chúa Thánh Thần, bởi vì tôi sẽ được Ngài hướng dẫn và ủi an.
51. Chúa Thánh Thần--Nguồn Bình An
Chúng ta đang sống trong một thế giới phát triển nhanh chóng về mọi mặt. Nhiều phương tiện hiện đại được phát minh hầu phục vụ cho sự sống con người. Nhiều căn bệnh hiểm nghèo ngày nay đã được chữa khỏi so với thời gian trước đây phải đành chịu. Cũng thế, ngày nay con người ngày càng ý thức hơn về quyền và phẩm giá của nhau.
Dầu vậy, con người ta dường như vẫn chưa thật sự cảm thấy bình an. Bởi lẽ, sự sống của con người vẫn còn là một cái gì đó hẩm hiu. Ngay cả nhiều người hầu như có tất cả những gì của thế gian này nhưng vẫn cảm thấy bất an. Phải chăng lòng họ chưa được Chúa Thánh Thần ngự trị.
Ðoạn Tin mừng được suy niệm lễ hôm nay nằm trong bối cảnh sau khi Chúa Giêsu sống lại. Người đã hiện ra cùng các Tông đồ đang khi các ông trốn trong căn phòng đóng kín cửa vì sợ người Do thái. Hiểu được tâm trạng lo sợ của các ông nên Chúa Giêsu Phục Sinh đã ban cho các ông chính Chúa Thánh Thần với quyền được tha tội cho người khác: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ." (Ga 20, 22b - 23)
Từ khi được đón nhận Chúa Thánh Thần, các Tông đồ đã được biến đổi cách lạ thường. Những con người nhút nhát bấy giờ không còn nữa. Thay vào đó là những con người can đảm và gan dạ lạ thường.
Các Tông đồ đã biết tin và làm theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần nên dù gặp khó khăn thử thách nhưng các ông luôn luôn cảm thấy bình an. Người kitô hữu chúng ta cũng đã được lãnh nhận Chúa Thánh Thần ngày chịu phép Rửa tội và cách đặc biệt hơn ngày lãnh nhận Bí tích Thêm sức. Nhân ngày lễ hôm nay chúng ta hãy nhìn lại xem chúng ta có luôn cảm thấy được bình an thật sự không.
Tiếng nói của Chúa Thánh Thần chắc chắn đã và đang vang lên trong tâm hồn của chúng ta giúp chúng ta biết đâu là điều cần phải làm, đâu là điều cần phải giữ và đâu là điều cần phải tránh. Những điều ấy chúng ta soi sáng để giúp chúng ta sống trọn ơn gọi làm người và làm con Chúa ở trần gian này. Khi chúng ta biết lắng nghe và làm theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần chắc chắn chúng ta sẽ có được sự bình an đích thật trong tâm hồn.
52. “Thánh Thần khấn xin ngự đến…”--Lm Anphong Trần Đức Phương
Theo Sách Tông Đồ Công Vụ (cuốn sách ghi lại các hoạt động truyền giáo của các Thánh Tông Đồ vào thuở ban đầu của Giáo Hội), Chúa Giêsu sau khi sống lại, đã hiện ra với các Thánh Tông Đồ nhiều lần trong vòng “40 ngày” (Cv 1:3) Trong những lần hiện ra đó, Chúa Giêsu Phục Sinh đã “nói chuyện với các Ông về Nước Trời”, củng cố đức tin cho các Ông về việc Chúa thực sự đã sống lại, chuẩn bị tâm hồn các Ông để “đón nhận Chúa Thánh Thần” và trao cho các Ông nhiệm vụ truyền giáo “cho đến tận cùng trái đất”. Sau đó Chúa Giêsu đã “lên Trời trước mặt các Ông” (Cv 1:1-9).
“Chúa Giêsu Lên Trời” chỉ có nghĩa là Ngài không còn hiện ra với các Tông Đồ nữa; tuy nhiên, Chúa Giêsu vẫn ở cùng các Thánh Tông Đồ và Giáo Hội Chúa, như lời Chúa đã hứa “Thầy vẫn còn ở với chúng con mỗi ngày cho đến tận thế…” (Mat 28:20). Chúa Giêsu vẫn họat động truyền giáo với các Thánh Tông đồ: “Các Tông đồ ra đi rao giảng các nơi, có Chúa cùng họat động với các Ông…" (Matcô 16,20…). Chúa Giêsu vẫn là vị Chủ Chăn Chính của Giáo Hội. Các Đức Giáo Hòang chỉ là vị “Đại Diện” (Vicar) của Chúa Giêsu nơi trần gian; nhưng không “kế vị” Chúa Giêsu. Qua họat động của Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu vẫn rao giãng, ban ơn Thánh hóa chúng ta qua các phép Bí Tích, ban ơn tha tội, Tế lễ trên Bàn Thờ, nuôi dưỡng chúng ta bằng Mình và Máu Thánh Chúa trong Bí Tích Thánh Thể…
Trước khi “Lên Trời”, Chúa Giêsu đã hứa với các Thánh Tông Đồ là Chúa Thánh Thần sẽ đến (Cv 1:8); (Gn 16:7…). Chúa Thánh Thần là “Đấng Bảo Trợ” (The Advocate), là “Đấng an ủi” (the “Paraclete”, “Comforter”).
Đúng như lời Chúa Giêsu đã hứa, Chúa Thánh Thần đã hiện xuống dưới “hình lửa” trên từng Tông Đồ và các Tông Đồ “được tràn ngập ơn Chúa Thánh Thần” (Cv 2: 1-4). Ngày đó trùng vào ngày Lễ Ngũ Tuần. Lễ Ngũ Tuần là Đại Lễ của Do Thái Giáo, vào đúng vào ngày thứ 50 sau ngày Chúa Giêsu sống lại (‘Pentecost’ ‘ngày thứ 50); vì thế chúng ta mừng Lễ Chúa Thánh Thần vào ngày thứ 10 sau Lễ Chúa lên Trời. Lễ Chúa Giêsu Lên Trời được mừng vào ngày Thứ Năm sau Chúa Nhật VI mùa Phục Sinh (đúng 40 ngày sau Chúa Nhật Phục Sinh), nhưng thường được chuyển vào Chúa Nhật VII mùa Phục Sinh. Như vậy Lễ Chúa Thánh Thần được mừng vào Chúa Nhật sau Chúa Nhật VII mùa Phục Sinh; sau đó chúng ta bước sang Mùa Thường Niên, chu kỳ II.
Ngày Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là ngày khởi đầu của Giáo Hội, ngày “Sinh Nhật” của Giáo Hội, cũng là ngày khởi đầu công cuộc truyền giáo của Giáo Hội. Ơn Chúa Thánh Thần đã biến cải các Tông đồ trở nên những người can đảm, những người thông hiểu Kinh Thánh và nhớ lại các điều Chúa Giêsu đã giảng dạy. Các Ngài không còn “đóng kín cửa vì sợ người Do Thái” (Ga 20:19); nhưng bắt đầu rao giảng cho dân chúng đang tụ họp chung quanh nơi các Ngài ở (Cv 2:14…) và đã có nhiều người ăn năn sám hối và xin chịu Phép Rửa để gia nhập Giáo Hội Chúa (Cv 2:41).
Từ ngày đó, nhờ ơn Chúa Thánh Thần, công cuộc truyền giáo của Giáo hội tiếp tục phát triển qua thời gian cho đến ngày nay, và Giáo hội được mở rộng đến các dân tộc (Luca 24:47) để đem Tin Mừng tình thương và ơn cứu rỗi đến cho mọi người, để “ai tin thì sẽ được cứu rỗi...” (Matcô 16:15…). Qua các thời gian, Chúa Thánh Thần vẫn che chở Giáo hội Chúa qua “mọi cơn gian nan khốn khó!”; qua bao cuộc “bách hại” khủng khiếp.
Ngay từ thuở ban đầu, Giáo hội đã bị “bách hại” mà vị tử đạo đầu tiên là Thánh Têphanô. Các Giáo hữu đầu tiên đã phải tản mát đi khắp nơi để bảo vệ đức tin và đi đến đâu lại rao truyền Đạo Thánh Chúa cho mọi người họ gặp gở hàng ngày; nhờ thế càng thêm nhiều người được rao giảng Tin Mừng và gia nhập Giáo Hội Chúa. Đó là phong trào “Diaspora” của người Kytô hữu thuở Giáo hội lúc ban đầu.
Khi Giáo hội tràn lan đi khắp nơi, tới Thủ đô Rôma thì cuộc bách hại trở nên dử dội hơn với Néron và nhiều Hòang Đế Rôma khác, suốt hai ba thế kỷ cho đến năm 313. Trong những cuộc bách hại đó, từ các vị Giáo Hòang (mà đầu tiên là Thánh Phêrô), các Giám Mục, và mọi Kytô hữu đều bị lùng bắt và bị hành hạ dã man cho đến chết, có người bị thiêu sống, có người bị ném cho thú dử ăn thịt nơi các hý trường tại Rôma. Thánh Phaolô và các Tông Đồ đều bị tử đạo. Thánh Gioan bị đày ra đảo Patmos. Lúc đó chẳng có một tổ chức “Nhân quyền” nào, hoặc một tổ chức nào có thể lên tiếng để bênh vực. Các vua chúa có toàn quyền bách đạo. Các Tin hữu không còn đường nào trốn chạy, phải vào các Nghĩa trang để đào các hầm mộ mà trú ẩn trong những điều kiện thật khổ sở; đó là các “Catacombes” đào sâu xuống đất và dài hằng cây số. Các “Hầm Mộ” hiện còn ở Rôma, mà khách hành hương có thể đến thăm viếng để thấy đức tin của các tín hữu lúc ban đầu mạnh mẽ như thế nào. Tất cả đều nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Cũng nhờ ơn Chúa Thánh Thần họat động trong Giáo hội mà dù bách hại tàn bạo như vậy, nhưng Giáo hội tại Rôma lúc đó không bị tiêu diệt, trái lại vẫn triển nở, vẫn lan tràn đi khắp nơi cho đến ngày nay. Trái lại các Hòang Đế Rôma cũng như đế quốc Rôma hùng vĩ như vậy đã tan biến đi, nay chỉ còn là “vang bóng một thời”.
Ngay tại quê hương Viêt Nam, Giáo hội lúc ban đầu cũng bị các vua chúa triều Nguyễn bách hại thật tàn bạo và bằng nhiều cách khôn khéo, như chủ trương “Gia Tô phân sáp…” Tất cả đều nhằm tiêu diệt Đạo Chúa, dù mới được chớm nở tại quê hương chúng ta. Dầu vậy Giáo Hội tại Việt Nam cũng đã không bị tiêu diệt, mà vẫn triển nở; còn các triều đại Nhà Nguyễn đều đã đi vào dỉ vãng.
Nếu không có Chúa Thánh Thần nâng đở che chở làm sao Giáo hội mới chớm nở ở Rôma, ở Việt Nam, và nhiều nơi khác trên thế giới không bị tiêu diệt dù bị đàn áp tàn bạo như vậy. Những người Cộng Sản vô thần cũng đã tìm đủ mọi cách để tiêu diệt đức tin của các tín hữu nơi các nước họ đã chiếm được. Với những tính tóan rất kỹ lưỡng họ đã tin tưởng mạnh mẻ là Giáo hội sẽ bị họ tiêu diệt mau chóng ở khắp nơi họ tràn đến; nhưng chế độ Công Sản đã bị sụp đổ ở hầu hết các nơi; nhưng Giáo hội ở các nơi đó vẫn không bị tiêu diệt mà vẫn phát triển nhờ Chúa Thánh Thần che chở, giữ gìn.
Đạo Thánh Chúa không phải chỉ bị bách hại ở một nơi nào đó, vào một thời kỳ nào đó; nhưng luôn bị bách hại ở mọi nơi và dưới thật nhiều hình thức khác nhau do mưu mô của “ma quỷ thế gian” bày đặt ra; vì “bóng tối thì luôn ghét ánh sáng...” Chúng ta hãy luôn cầu xin Chúa Thánh Thần ngự đến để canh tân thế giới chúng ta, để bảo vệ nhân quyền và tự do Tôn giáo, “hiệp nhất chúng ta nên một” trong cùng một gia dinh nhân loại và ban hòa bình cho các tâm hồn, các gia đình và thế giới chúng ta.
Xin Chúa Thánh thần ngự đến giúp chúng ta là các tín hữu của Chúa, luôn biết sống làm sao để “làm chứng cho Chúa” bằng chính đời sống lương thiện, công chính, và hòa hợp, yêu thương đối với mọi ngừơi. Xin Chúa Thánh thần ngự đến để giúp chúng ta biết đem Tin Mừng tình thương của Chúa đến cho mọi người chung sống với chúng ta trong cuộc sống hàng ngày: trong gia đình, trong khu xóm, nơi sở làm, trừơng học… Xin Chúa Thánh thần ngự đến để gìn giữ Gíao Hội qua mọi cuộc bách hại, và gìn giữ chúng ta luôn nắm vững Đức Tin tinh tuyền giữa bao chủ trương sai lạc của thế giới hôm nay.
53. Thánh Thần đổi mới--Lm Hồng Phúc
Hôm nay Giáo hội long trọng mừng lễ Đức Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Trước khi chiệu chết, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Thầy nói thật với các con, Thầy đi thì Thầy sẽ gởi Đấng hay an ủi đến và Ngài sẽ dạy cho chúng con hết mọi sự” (Ga 16, 7-13)
Họ vẫn nhớ những lời ấy, nhưng hôm nay Thầy đi rồi các ông run sợ, sách Công vụ Tông đồ viết: “Các ông lên một phòng cao, cửa đóng then cài vì sợ người Do-thái”. Họ vẫn nhớ lời thầy đã nói: “Ta đến đem lửa xuống trần gian” (Lc 12, 49). Hôm nay Thầy đem lửa thật, họ thấy những lưỡi lửa đổ xuống trên họ và trước đây họ không hiểu thì nay họ hiểu tất cả. Trước đây họ run sợ, đóng cửa then cài thì nay họ không còn sợ và mở toang cửa ra.
Họ lâng lâng như người say rượu, nhưng họ không say rượu mà họ say Chúa, họ tràn đầy Chúa Thánh Thần. Qua các bài đọc hôm nay, chúng ta có thể ghi nhận hai nhận định:
Thứ nhất, ngày Lễ Hiện Xuống là ngày khai sinh Giáo hội.
Giáo hội là gì? Giáo hội là tập đoàn dân Chúa gồm những vị chủ chiên và đoàn chiên, thì hôm nay Chúa Thánh Thần đã thánh hóa tất cả. Ngài thánh hóa chủ chiên bằng sức mạnh tương trùng, bằng lửa, bằng gió, bằng Lời. Lửa để soi sáng, để nung nấu; Gió để đẩy mạnh; Lời để cải hóa, để chinh phục. Và thật, Chúa Thánh Thần đã đến đổi mới các Tông đồ một cách lạ nhiệm. Từ những người mê muội trở nên những người rất thông minh, từ những người sợ sệt trở nên những vị anh hùng. Tất cả các ông đều chết vì đạo, khởi đầu là Phêrô và sau Phêrô, 39 vị Giáo hoàng tiên khởi đều chết vì đạo. Rồi như trong bài Phúc Âm, Chúa ban cho họ một quyền năng kinh khủng, quyền năng đóng mở cửa Nước Trời: “Các con tha tội cho ai thì kẻ ấy được tha, các con cầm buộc ai người ấy bị cầm buộc”. Nhưng Giáo hội không phải chỉ có chủ chăn mà còn có đoàn chiên, không phải chỉ có giáo sĩ, mà còn có giáo dân thì ngày Hiện Xuống là ngày khai sinh. Phêrô đầy Chúa Thánh Thần đứng ra giảng bài đầu tiên và 3 ngàn người đã trở lại chịu phép Rửa tội. Từ nhóm mười hai, nay 800 triệu, Giáo hội đã khai sinh bởi sức mạnh Thánh Thần.
Ý tưởng thứ hai, lễ Hiện Xuống không những là ngày khai sinh của Giáo hội mà lễ Hiện Xuống vẫn còn tiếp diễn, nghĩa là Chúa Thánh Thần vẫn còn hoạt động mạnh bên trong Giáo hội. Ví dụ Công đồng Vaticanô II là một lễ Hiện Xuống mới, Công đồng đã quyết định một cách bất ngờ và đã canh tân Giáo hội cho phù hợp bước tiến của thế giới ngày nay. Không có Chúa Thánh Thần hoạt động bên trong Giáo hội, chúng ta không khỏi theo định luật thời gian để chia ly, phân tán, tàn tạ từ lâu rồi. Không những Chúa Thánh Thần hoạt động một cách chung, mà Ngài còn hoạt động trong từng người, soi sáng, thúc đẩy mỗi người khi chúng ta cầu nguyện, khi chúng ta hành động.
Mỗi người chúng ta có một trái tim, trái tim là cơ quan đầu não, là một kỳ công bé nhỏ bằng nắm tay, nó có sức điều động cả con người, Tim còn đập chúng ta còn sống, tim hết đập chúng ta chết.
54. Chúa Thánh Thần - Hơi thở của Thiên Chúa--Lm Giuse Đỗ Văn Thụy
Tin Mừng Ga 20: 19-23: Nhận lấy Thánh Thần là nhận lấy sự sống của Thiên Chúa. Nhận lấy Thánh Thần là nhận lấy tinh thần của Thiên Chúa, vì Thánh Thần là Thần Khí, là Hơi Thở của Thiên Chúa.
Trong kho tàng văn chương Ấn Giáo ghi lại câu chuyện như sau: có một đệ tử kia đến thưa với sư phụ của mình: “thưa thầy, con muốn gặp Chúa”. Sư phụ chỉ đáp lại bằng một cái mỉm cười thinh lặng.
Ngày hôm sau, người môn sinh trở lại và bày tỏ cũng một ước muốn như hôm trước. Sư phụ vẫn mỉm cười tiếp tục giữ sự im lặng cố hữu của ông. Rồi một ngày đẹp trời nọ, ông đưa người thanh niên đến một dòng sông. Thầy trò cùng trầm mình xuống nước. Chờ cho người đệ tử cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong dòng nước mát, bất thần ông túm lấy anh và dìm xuống nước một hồi lâu. Người thanh niên cố gắng vùng vẫy để trồi lên mặt nước.
Lúc bấy giờ sư phụ mới hỏi anh: “khi bị dìm xuống nước như thế, con cảm thấy cần điều gì nhất?”.
Không một chút suy nghĩ, người đệ tử đáp: “thưa thầy, con cần có không khí để thở”.
Lúc bấy giờ sư phụ mới dẫn giải: “con cảm thấy cần gặp Chúa như con cần khí thở không? Nếu con cảm thấy cần như thế, con sẽ gặp được Ngài tức khắc. Ngược lại, nếu con không hề cảm thấy cần như thế thì cho dù con có vận dụng tất cả tài trí và cố gắng, con cũng sẽ không bao giờ gặp được Ngài”.
Anh chị em thân mến,
Sự sống của chúng ta là do Thiên Chúa ban tặng. Chính nhờ tham dự vào sự sống của Ngài mà chúng ta được sống. Bao lâu còn hơi thở là còn sống. Tắt thở là chết. Trong buổi đầu công trình tạo dựng. Thiên Chúa đã thổi hơi vào Ađam, con người đầu tiên, để Ađam có sự sống, để Ađam trở nên bạn hữu của Thiên Chúa. Chúa Giêsu Phục Sinh cũng đã lặp lại hành động ấy khi Ngài xuất hiện giữa các môn đệ là thổi hơi vào các ông và nói: “anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22).
Nhận lấy Thánh Thần là nhận lấy sự sống của Thiên Chúa. Nhận lấy Thánh Thần là nhận lấy tinh thần của Thiên Chúa, vì Thánh Thần là Thần Khí, là Hơi Thở của Thiên Chúa.
Ađam đã nhận được hơi thở của Thiên Chúa để sống vai trò nguyên tổ của loài người.
Các môn đệ đã nhận được hơi thở của Thiên Chúa để làm chứng về Chúa Giêsu Kitô.
Mỗi người chúng ta, cũng đã nhận được hơi thở của Thiên Chúa khi chúng ta được dìm trong Nước Thánh Tẩy và được xức dầu trong bí tích Thêm Sức. Hơi thở, sức sống, tinh thần của Thiên Chúa được “hà hơi” vào trong ta. Vấn đề là chúng ta có biết sống bằng hơi thở Thần Linh ấy không.
Trong đời sống tự nhiên, chúng ta bắt đầu hít vào thở ra qua mũi. Chúng ta lưu tâm đến từng tác động hít vào và thở ra theo nhịp thở - hết thảy đi vào và hết thảy đi ra. Hít vào qua mũi, rồi để hơi thở đi ra. Cứ làm vậy mãi. Hít vào, thở ra. Hít vào thở ra; cho và nhận; sự sống và cái chết.
Một chu kỳ xoay chuyển không dứt giống như những đợt sóng ngoài biển. Chúng ta tập dứt bỏ qua thở ra nhiều lần, và qua cảm giác giải phóng và thư giãn theo từng nhịp thở ra.
Mỗi nhịp thở ra là chết đi một chút, buông lơi một chút. Thật là nhẹ nhõm.
Cứ thử đi rồi chúng ta sẽ cảm nhạn được điều thú vị đó. Hít sâu qua mũi, rồi thở ra. Hướng hơi thở đi ra, đi ra, đi ra, hòa vào không khí. Khi hơi thở hòa vào không gian mở rộng, các khái niệm và ràng buộc đều đi vào không gian vô tận.
Trút bỏ các ràng buộc theo từng nhịp thở ra. Tập dứt bỏ thêm một chút theo từng nhịp thở ra. Trút bỏ căng thẳng tinh thần và thể chất theo từng hơi thở. Bằng cách này, lèo lái các đợt sóng biển ào vào qua bạn và gột sạch mọi ưu tư phiền muộn.
Bắt đầu lại theo từng nhịp thở và cứ thế. Mỗi khoảnh khắc là một khoảnh khắc mới, giống như bình minh của sáng tạo. Khoảnh khắc này là khoảnh khắc duy nhất. Mỗi nhịp thở là một nhịp thở mới. Dứt bỏ cái cũ. Mở đường khởi đầu cho cái mới và chúng ta sẽ đổi mới không ngừng.
Chúa Thánh Thần là Thần Khí, là Hơi Thở của Thiên Chúa. Chính Ngài đem lại sự sống cho chúng ta. Trong đời sống tự nhiên, không còn thở có nghĩa là chết, thì trong đời sống thiêng liêng cũng vậy, chính Chúa Thánh Thần là Hơi Thở, Hơi Thở mang lại sự sống thần linh cho chúng ta. Ngài đến với chúng ta, làm cho chúng ta sống, làm cho chúng ta lớn mạnh và mỗi ngày đổi mới chúng ta. Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến với chúng con. Amen.
55. Chúa Thánh Thần Hiện Xuống – R. Veritas--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’
Các bài đọc thánh lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống xoay quanh hai chủ đề chính tường thuật biến cố lịch sử Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ như lời Chúa Giêsu đã hứa, biến đổi con người yếu đuối của các ngài thành những kẻ hiểu biết và phân biệt mầu nhiệm Thiên Chúa. Và ý nghĩa thứ hai là ý nghĩa thiêng liêng đi liền biến cố lịch sử của biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống. Chúa Thánh Thần là linh hồn của đời sống Kitô của mỗi tín hữu trong nhiệm thể duy nhất của Chúa. Biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống trong ngày lễ Ngũ tuần của người Do Thái năm mươi ngày sau lễ vượt qua. Người Do Thái mừng lễ Giao Ước, nhắc nhở Giao Ước của Thiên Chúa đã ký kết với dân của Thiên Chúa đã chọn. Và mỗi thành phần của dân Chúa chọn cam kết sống trung thành với Giao Ước này, Chúa Giêsu đến để thiết lập Giao Ước mới bằng chính máu của Ngài trên cây thập giá, và qua việc chọn ngày lễ Ngũ tuần để thực hiện biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ. Chúa Giêsu muốn cho các ngài hiểu rằng từ nay, đây là ngày lễ của Giao Ước mới, từ Giao Ước mới này, Giáo Hội được khai sinh, và từ Giao Ước mới này, mỗi tín hữu được mời gọi sống đời sống mới, một cuộc sống làm chứng cho Chúa Kitô.
Mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống mỗi người chúng ta được mời gọi nhớ lại và dấn thân thực hành Giao Ước mới đã được Chúa Giêsu Kitô thực hiện cho mỗi người chúng ta. Chúa Thánh Thần hiện diện trong Giáo Hội, hướng dẫn Giáo Hội và qua các thời đại, vẫn phát triển, vẫn trung thành, mặc dù, đôi khi có những sa ngã, những sai lầm, những tội lỗi làm cho một số người xa lìa Giao Ước mới.
Biến cố lịch sử Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ không những chỉ có chiều kích thiêng liêng canh tân cá nhân mà thôi, nhưng còn có chiều kích Giáo Hội nữa, liên kết mọi kẻ tin Chúa và lãnh nhận Thánh Thần trong cùng một cộng đoàn, một thân thể sống liên đới với nhau, như bài đọc thứ hai nhắc lại cho chúng ta. Nhưng đồng thời cũng là một cộng đoàn có tổ chức, có một lãnh đạo chịu trách nhiệm thừa hành quyền lãnh nhận từ Chúa, như được nhấn mạnh nơi bài Phúc Âm, Chúa Giêsu đến ban bình an, đổi mới các tông đồ rồi trao quyền cho họ: “Các con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần. Các con tha tội cho ai thì người đó được tha. Các con cầm buộc ai thì người đó bị cầm buộc”. Các tông đồ lãnh nhận Chúa Thánh Thần vừa đồng thời chia sẻ quyền thần linh tha tội của Chúa, sống bên cạnh Chúa nhiều năm trước đã nhìn thấy Chúa thực hiện những phép lạ, để chứng minh quyền tha tội của các ngài, nên khi nghe lời Chúa phán, các tông đồ hiểu rõ hơn ai hết. Những lời này có nghĩa gì. Các ngài được biến đổi để trở thành người tiếp tục sứ mạng của Chúa: “Hãy ra đi rao giảng cho mọi dân nước những gì Thầy đã truyền cho các con, dạy họ tuân giữ những gì Thầy đã truyền và rửa tội cho họ”.
Mỗi thành phần trong Giáo Hội đều đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần nhưng trong những cấp bậc khác nhau, qua bí tích rửa tội và thêm sức qua bí tích chức thánh, trở thành tác viên thánh của Chúa. Mỗi người chúng ta đều đã được canh tân, được biến đổi để chu toàn những tác vụ khác nhau, nhưng cùng một Thánh Thần.
Ước cho ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống mời gọi mỗi người chúng ta trở về với ơn gọi nguyên thủy của mình, trở về với sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, canh tân đời sống cá nhân và chu toàn sứ mạng trong sự hiệp nhất và hiệp thông của cùng một nhiệm thể Chúa Kitô. Xin Chúa Thánh Thần luôn hiện diện và hướng dẫn cuộc đời chúng ta thực hiện thánh ý Chúa.
56. Bình an cho các con – R. Veritas--‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’
Hôm nay chúng ta tưởng niệm và sống lại biến cố đã xảy ra cách đây hơn 2.000 năm. Nhân ngày lễ Ngũ Tuần của người Do Thái, Chúa Thánh Thần đã hiện xuống trên các tông đồ, từ những con người nhát đảm, dốt nát, quê mùa, Thánh Thần đã biến đổi các ngài trở thành những con người can đảm và hiểu biết để loan báo Tin Mừng của Chúa cho mọi người và Thánh Thần đó đã thành linh hồn của Giáo Hội.
Anh chị em thân mến!
Lịch sử của nhân loại hẳn phải là lịch sử của tìm kiếm và xây dựng sự thống nhất. Khát vọng thống nhất thể hiện qua sự phát sinh và bành trướng của không biết bao nhiêu đế quốc.
Thời xa xưa, chỉ có đế quốc Trung Hoa, đế quốc Babylon, đế quốc La Mã, đế quốc Pháp... Nhưng hợp rồi tan. Có thịnh vượng đến đâu, bành trướng đến đâu thì những đế quốc đó cũng đi đến sự sụp đổ vì họ đã cố gắng xây dựng sự thống nhất không phù hợp với lòng người. Bao lâu con người còn chối bỏ lẫn nhau, bao lâu con người còn khước từ Thiên Chúa thì bấy lâu những cố gắng thực hiện sự thống nhất ấy chỉ mang lại những thảm họa mà thôi.
Ngay từ những trang đầu tiên Kinh Thánh đã nói đến những thảm họa ấy qua câu chuyện xây tháp Babel sau nạn hồng thủy, con cái loài người muốn đoàn kết với nhau để chống lại Thiên Chúa bằng cách xây một ngọn tháp cao tận trời mây, thế nhưng công trình phải bỏ dở bởi vì con người không còn nói với nhau bằng một thứ ngôn ngữ chung nữa. Thống nhất, đoàn kết để khước từ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống thì con người cũng tự chia rẽ nhau, đó là chân lý mà Kinh Thánh muốn phơi bày qua câu chuyện xây tháp Babel.
Anh chị em thân mến!
Qua dòng lịch sử của nhân loại, đã có không biết bao nhiêu tháp Babel được dựng lên để rồi cũng tự ngã đổ. Nhân loại không thể tự mình đạt được sự thống nhất nếu sự thống nhất đó chỉ xây dựng để khước từ Thiên Chúa và chối bỏ lẫn nhau. Chỉ có Thiên Chúa mới mang lại sự thống nhất đích thực cho con người.
Sự thống nhất đích thực ấy đã được khai sinh trong ngày lễ Ngũ Tuần của người Do Thái, khi Thánh Thần ngự xuống trên các môn đệ của Chúa Kitô, Một trong những dấu chỉ của sự thống nhất ấy là sự kiện con người có thể hiểu nhau vượt lên trên những cá biệt của mình. Các môn đệ của Chúa Giêsu có lẽ đã không nói các tiếng lạ. Đúng hơn, những người ngoại quốc tại Giêrusalem trong ngày hôm đó hiểu được các ngài ngay trong những tiếng nói bản xứ của họ.
Quả thực, Thánh Thần đang thực hiện một sự thống nhất mới cho nhân loại, hay nói đúng hơn một nhân loại mới trong đó người người có thể hiểu nhau, cảm thông với nhau đang được khai sinh, một nhân loại mới trong đó mọi người đã có thể hiểu nhau và cảm thông vơi nhau trong cùng một ngôn ngữ mà chính Thiên Chúa đã ban cho con người và ngôn ngữ mới ấy chính là Chúa Giêsu Kitô, Lời của Thiên Chúa ngỏ với con người. Chính nhờ Thánh Thần mà Thiên Chúa đã ngỏ với con người, đã trở thành con người.
Thánh Gioan tông đồ đã tóm gọn tất cả chân lý ấy trong một câu rất ngắn gọn: "Lời đã hóa thành nhục thể". Lời của Thiên Chúa đã ngỏ cho con người và như thế không còn là một âm thanh xa lạ nhưng đã trở thành xương, thành thịt trong con người và đã hy sinh cho nhân loại bằng một cái chết đau thương nhục nhã nhất. Lời của Thiên Chúa ngỏ với con người do đó cũng là Tình Yêu. Từ nay chỉ có một thứ ngôn ngữ duy nhất để cho con người xích lại gần nhau, nói chung với nhau, cảm thông với nhau. Ngôn ngữ ấy chính là Chúa Giêsu Kitô, là tình yêu của Thiên Chúa hóa thân làm người. Đó là ngôn ngữ mà Thánh Thần đã thông ban cho các môn đệ và đám đông dân chúng tại Giêrusalem trong ngày lễ Ngũ Tuần cách đây 2.000 năm. Nhờ Thánh Thần, Lời ấy lại tiếp tục trở thành ngôn ngữ tình yêu để nhờ đó con người có thể xích lại gần nhau, đối thoại với nhau, cảm thông với nhau.
Anh chị em thân mến!
Ngôn ngữ của tình yêu ấy qua Phép Rửa, Chúa Thánh Thần cũng thông ban cho mỗi người Kitô hữu chúng ta. Sự thể đã diễn ra trong ngày lễ Ngũ Tuần cách đây 2.000 năm, cũng đang tái diễn trong từng giây phút trên khắp thế giới. Thật thế, cái khát vọng cao cả nhất trong lòng người, đó là khát vọng hòa bình, ai ai cũng muốn được xích lại gần nhau, nói chuyện cảm thông với nhau và khát vọng ấy chỉ có thể được thỏa mãn khi con người biết nói với nhau bằng một thứ ngôn ngữ duy nhất, đó là ngôn ngữ của Tình Yêu mà thôi.
Bởi phép Chúa Thánh Thần, Lời của Thiên Chúa đã hóa thành nhục thể. Ước gì các tín hữu Kitô cũng biết để cho Chúa Thánh Thần tràn ngập tâm hồn mình, để nhờ Lời của tình yêu Thiên Chúa cũng trở thành xương thịt nơi họ và cuộc sống của họ cũng trở thành ngôn ngữ của cảm thông, của yêu thương, của gặp gỡ và của hiệp nhất nên một vơí nhau trong tư tưởng và trong hành động.
57. Chúa Thánh Thần là Đấng bảo trợ Giáo Hội--‘Cùng Nhau Suy Niệm’--Lm Tạ Duy Tuyền
Nhìn lại lịch sử với những thăng trầm, với những sóng gió, với những bóng tối của Giáo hội, đôi lúc người ta tưởng Giáo Hội đã tàn lụi. Người ta tưởng thế gian đã chiến thắng. Giáo hội của Chúa sẽ tan rã thê lương. Có những lúc kẻ cường quyền đã đè bẹp Giáo hội bằng những sắc chỉ cấm đạo, bằng những án tử hình ghê rợn, nhưng bạo chúa nào rồi cũng qua đi. Giáo hội vẫn tồn tại. Có những lúc Giáo hội đi vào những khúc quanh đen tối của dòng lịch sử khi mà thế quyền điều khiển Giáo hội, Giáo hội chỉ là con cờ trong tay chính quyền sai khiến, thế nhưng triều đại nào rồi cũng qua đi, bàn tay Thiên Chúa vẫn dẫn dắt Giáo hội đi theo thánh ý Chúa. Có những lúc Giáo hội tưởng như đã đổ xập xuống khi mà người điều hành Giáo hội lại sống thiếu bổn phận, thiếu trong sạch và đạo đức, nhưng Thiên Chúa vẫn giúp Giáo hội vượt qua những khủng hoảng, những mây mù đen tối để có thể tiếp tục bay cao, bay xa và đi đến tận cùng trái đất.
Giáo hội vẫn trường tồn qua mọi thời đại dầu có phải đương đầu với bao khó khăn, bất trắc và hiểm nguy vì linh hồn của Giáo hội chính là Thiên Chúa. Thiên Chúa mãi hằng sống. Thiên Chúa vẫn hiện hữu giữa lòng Giáo hội. Chúa Giêsu Ngài đã chiến thắng thế gian. Ngài hứa ở cùng Giáo hội mọi ngày cho đến tận thế. Ngài là sức mạnh của Giáo hội đến nỗi cửa hoả ngục cũng không thắng được. Ngài là thành luỹ chở che Giáo hội giữa những phong ba bão tố cuộc đời. Ngài còn ban cho Giáo hội Ngôi Ba Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần hằng hoạt động trong lòng Giáo Hội. Chính Chúa Thánh Thần sẽ bù đắp lại chỗ khiếm khuyết của Giáo Hội. Chính quyền năng Chúa Thánh Thần sẽ hiển trị nơi sự yếu hèn của những phần tử trong Giáo Hội. Chính Chúa Thánh Thần sẽ uốn nắn những tư tưởng, những đường lối lệch lạc, sai lầm của con người phải thuận theo thánh ý Thiên Chúa. Lịch sử cứu độ đã từng chứng minh cho thấy: con người từng toa rập với ma quỷ để phá đổ chương trình của Chúa, nhưng Thiên Chúa đã sửa sai và làm cho tốt hơn. Điển hình là tội của Adam đã phá vỡ những điều tốt đẹp trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa đã biến thành Tội Hồng Phúc để ban Đấng Cứu Thế cho nhân trần. Giuse đã từng bị các anh bán qua Ai Cập, nhưng đó lại là cơ hội để cứu giúp cho cả dòng tộc Giacop... Và còn, còn rất nhiều những lần Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử để đưa lịch sử trở về với chương trình của Thiên Chúa.
Hôm nay lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống là dịp nhắc nhở mỗi người chúng ta hãy tin vào quyền năng Chúa Thánh Thần. Hãy hân hoan bước đi trong lòng Giáo hội vì vẫn có bóng Thánh Thần che phủ trên hành trình Giáo hội. Giáo hội không thuộc về con người, nên cường quyền, thế quyền và thế lực của ma quỷ không thể làm cho Giáo hội biến chất hay hư hoại. Thế gian luôn thù ghét Giáo hội. Thế gian luôn tìm cách phân chia Giáo hội. Vì Giáo hội thuộc về Thiên Chúa nên thế gian tìm cách loại trừ. Chúa Giêsu Ngài đã biết trước những khó khăn sẽ tới với Giáo hội, Ngài đã ban Chúa Thánh Thần là Đấng bảo trợ đến để gìn giữ, canh tân Giáo hội. Chúa Thánh Thần là Thầy dạy chân lý sẽ bảo vệ đức tin và hướng dẫn Giáo hội đi trong chân lý vẹn tuyền. Sự hiên diện của Chúa Thánh Thần trong lòng Giáo hội như muốn nói với chúng ta: Giáo hội không tồn tại bởi những con người cụ thể. Giáo hội càng không phát triển dựa vào tài trí một con người nào đó. Giáo hội luôn được lớn mạnh vì có sức sống thần linh của Ngôi Ba Thiên Chúa hoạt động trong Giáo hội.
Thực vậy, có ai nghĩ rằng chỉ vỏn vẹn 12 tông đồ yếu kém về trình độ học thức, về nghị lực lại có thể mang tin mừng Chúa trải rộng khắp Năm Châu? Có ai nghĩ rằng Phêrô vụng về năm nào lại có thể mang về cho Nước Chúa biết bao mẻ cá kỳ diệu là các tín hữu ky-tô? Có ai nghĩ rằng Giáo hội phát triển không nhờ tài trí con người, không nhờ những thoả hiệp với thế gian, những bổng lộc của vua quan mà Giáo hội phát triển, vươn lên mạnh mẽ qua những gian truân, những nước mắt và máu đổ, như lời Tertuniano đã từng nói: "Máu các thánh tử đạo sẽ làm trổ sinh các tín hữu"? Ở thế kỷ 20, có ai ngờ rằng biểu tượng sáng giá cho đời sống chứng nhân tin mừng lại nằm trong một con người nữ tu nhỏ bé thành Calcutta là Mẹ Têrêsa? Tất cả những điều kỳ diệu đó đều là hồng ân của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần có thể biến các tông đồ nhút nhát thành can trường. Chúa Thánh Thần có thể ban ơn khôn ngoan cho những con người yếu hèn để họ có thể làm việc của Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần cũng có thể biến đổi kẻ từng bách hại đạo thành Chúa thành một tông đồ nhiệt thành ra đi mở mang Nước Chúa.
Vì thế, là người ky-tô hữu thiết tưởng chúng ta đừng nhìn Giáo hội với con mắt trần thế, chúng ta sẽ không thấy tương lai. Vì Giáo hội vẫn còn bất cập, vẫn còn những lập trường cá nhân hàm hồ, vẫn còn những khiếm khuyết nên có thể chúng ta sẽ thất vọng về những gì đang diễn ra trong Giáo hội. Hãy nhìn Giáo hội với con mắt của đức tin để dầu trong hoàn cảnh nào chúng ta vẫn trung thành với Giáo hội. Chúa sẽ có cách để gìn giữ Giáo Hội. Chương trình của Chúa chắc chắn sẽ cao hơn những gì chúng ta thấy, chúng ta nghĩ. Tư tưởng của Chúa luôn là sự kinh ngạc đến lạ thường mà con người mãi mãi không thể hiểu được! Hãy tín thác vào Chúa để dầu trong hoàn cảnh nào chúng ta vẫn đứng về phía Giáo hội để cầu nguyện, để bảo vệ, để giúp Giáo hội vượt qua những khó khăn trước mắt. Đừng ngồi đó để nguyền rửa nhau hay giận dỗi nhau, nhưng hãy cùng nắm tay nhau đi chung một con đường có tên Giêsu. Con đường của Giêsu là con đường âm thầm, mục nát để đem lại sự sống cho đời. Con đường của Giêsu đến để phục vụ chứ không tìm vinh quang cho mình. Con đường đó Chúa muốn mỗi người chúng ta hãy trở nên như muối men giữa đời làm cho đời tốt hơn chứ không đảo lộn thế gian. Đừng bắt ai theo quan điểm của mình. Đừng lôi kéo ai theo phe nhóm mình. Hãy tìm lối sống hoà hợp giữa thế gian. Không hoà tan nhưng vẫn giữ được giá trị của phúc âm từ chính đời sống hiệp nhất yêu thương trong lòng Giáo hội.
Ngày 28 tháng 10 năm 1958, Đức hồng y Angelo Giuseppe Rollcali lên ngôi giáo hoàng lấy tước hiệu Gioan 23. Một ông lão không tiếng tăm lên lãnh đạo Giáo hội, nhiều người nghĩ rằng sẽ chẳng có gì mới với một ông lão gần đất xa trời. Thế nhưng, ông lão này đã làm nên một kỳ diệu được coi là lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống lần thứ hai khi Ngài triệu tập công đồng Vaticano II để canh tân Giáo Hội. Thiên Chúa vẫn tiếp tục làm những việc kỳ diệu cho dân Người. Chúng ta hãy hân hoan bước đi trong niềm tín thác vào Chúa. Và với lòng cậy trông chúng ta cùng thưa lên cùng Chúa Thánh Thần: "Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến thánh hoá chúng con trong chân lý và tình thương". Amen.
58. Chân lý đòi hỏi rất nhiều--Achille Degeest
Chúa phán bảo các môn đệ: Hãy chịu lấy Thánh Thần. Chúng ta lưu ý mấy nét đặc biệt về Chúa Thánh Thần, nhất là cung cách thánh Gioan nói đến Chúa Ngôi Ba.
1) Người là Thần Khí sự thật.
Ta sẽ xin Cha và Cha sẽ ban cho các ngươi một Đấng Bầu Chữa khác để Người ở với các ngươi luôn mãi, là Thần Khí sự thật, thế gian không thể lĩnh nhận vì không thấy cũng không biết Người, còn các ngươi biết Người vì Người lưu lại với các ngươi và ở trong các ngươi (Ga 14,16-17). Đấng Bàu Chữa mà từ nơi Cha, Ta sẽ sai đến với các ngươi, Thần Khí sự thật từ Cha mà ra, chính Người sẽ làm chứng về Ta. Chúng ta nhớ lại, Đức Giêsu tuyên bố chính Người là Sự Thật. Tác động Chúa Thánh Thần là dẫn đưa chúng ta đến hiệp nhất với Đức Kitô. Ngôi Ba Thiên Chúa tác động trong chúng ta cách thích hợp, khiến chúng ta cảm ứng đối với Đức Kitô, với ngôi vị của người, với giáo huấn của Người. Bất cứ học thuyết, chủ thuyết, tư tưởng nào từ ngoài đến, nếu không phù hợp với sự cảm hoá tâm hồn đối với Đức Giêsu Kitô, chúng ta phải đặt nghi vấn. Chúa Thánh Thần làm chứng cho Đức Kitô trong chúng ta. Chúng ta phải làm chứng về Đức Kitô trong môi trường sinh hoạt của mình. Nếu chúng ta thật sự biết nghe lời Thần Khí sự thật, lời chứng của chúng ta sẽ phát xuất từ nguồn mạch thông thái thiêng liêng duy nhất của chúng ta là Đức Kitô. Sau này thánh Phaolô sẽ nói: Tôi chỉ muốn nơi anh em về Đức Kitô mà thôi. Có lẽ chúng ta nên cầu xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta bảo tồn ý nghĩa chân truyền của Phúc Âm, đặc biệt trong thời buổi có nhan nhản những sự mập mờ đáng nghi trong việc sử dụng Phúc Âm.
2) Người là Thần Khí thánh thiện.
Sự thánh thiện của người Kitô hữu không có nghĩa là làm được những điều phi thường, mà phải khởi sự từ đức tin. Trong đức tin, người Kitô hữu cố gắng cách ngay thẳng nhất ở trong tình bằng hữu với Thiên Chúa. Muốn được thế, phải từ trong thâm tâm thiết tha gắn bó với sự thật – không chỉ có đức tính tri thức là thành thật ngay thẳng, đó là điều tối thiểu phải có, mà phải đón nhận cách mật thiết tác động của Chúa Thánh Thần. Như chúng ta biết, bất cứ sự thật nào cũng đòi hỏi phải tích cực, Thần Khí sự thật đòi hỏi rất nhiều nơi người Kitô hữu. Philatô bỏ chạy khi nghe Chúa đáp: Kẻ nào thuộc về sự thật thì nghe sự thật. Người ta có thể trốn tránh sự thật vì lẽ sự thật đòi hỏi rất nhiều. Trái lại, tâm trí kẻ nghe Lời Chúa Thánh Thần giống một bầu trời gió thổi càng mạnh càng vén sạch mây mù, nền trời càng trở nên quang sáng. Ở đây là một sự vâng lời thực tiễn, là thái độ không một giây phút chậm trễ sống những điều trí khôn hiểu được về chân lý. Thái độ ấy mệnh danh là cư xử theo chân lý, là “đi trong sự thật”. Thánh Gioan nhắn nhủ các tín hữu: tôi vui mừng quá đỗi vì đã gặp trong hàng con cái Bà có những kẻ đi trong sự thật (thư thứ 2,4). Được như vậy, trong con người Kitô hữu, lời nguyện của Đức Giêsu sẽ thực hiện: Xin Cha hãy thánh hoá chúng trong sự thật… (Ga 17,17).
59. Hơi thở của Thiên Chúa--'Niềm Vui Chia Sẻ'
Trong kho tàng văn chương Ấn giáo có ghi lại câu chuyện như sau: Có một đệ tử đến thưa với vị linh đạo của mình: "Thưa thầy, con muốn gặp Chúa". Vị linh đạo chỉ đáp trả bằng một cái mỉm cười thinh lặng.
Ngày hôm sau, người môn sinh trở lại và bày tỏ cũng một ước muốn. Vị linh đạo vẫn mỉm cười tiếp tục giữ sự im lặng cố hữu của ông. Một ngày đẹp trời nọ, ông đưa người thanh niên đến một dòng sông. Thầy trò cùng trầm mình xuống nước. Chờ cho người đệ tử cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong dòng nước mát, bất thần vị linh đạo túm lấy anh và dìm xuống nước hồi lâu. Người thanh niên cố gắng vùng vẫy đế trồi lên mặt nước. Lúc bấy giờ vị linh đạo mới hỏi anh: "Khi bị dìm xuống nước như thế, con cảm thấy cần điều gì nhất?". Không một chút suy nghĩ, người đệ tử đáp: "Thưa thầy, con cần có không khí để thở"".
Lúc bấy giờ vị linh đạo mới dẫn giải: "Con cảm thấy cần gặp Chúa như con cần khí thở không? Nếu con cảm thấy cần như thế, con sẽ gặp được Ngài tức khắc. Ngược lại, nếu con không hề cảm thấy cần như thế thì cho dù con có vận dụng tất cả tài trí và cố gắng, con cũng sẽ không bao giờ gặp được Ngài".
Anh chị em thân mến,
Sự sống của chúng ta là do Thiên Chúa ban tặng. Chính nhờ tham dự vào sự sống của Ngài mà chúng ta được sống. Bao lâu còn hơi thở là còn sống. Tắt thở là chết. Trong buổi đầu công trình tạo dựng. Thiên Chúa đã thổi hơi vào Ađam, con người đầu tiên, để Ađam có sự sống, để Ađam trở nên bạn hữu của Thiên Chúa. Chúa Giêsu Phục Sinh cũng đã lặp lại hành động ấy khi Ngài xuất hiện giữa các môn đệ và thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần" (Ga 20,22). Nhận lấy Thánh Thần là nhận lấy sự sống của Thiên Chúa, là nhận lấy tinh thần của Thiên Chúa. vì Thánh Thần là Thần Khí, là Hơi Thở của Thiên Chúa.
Ađam đã nhận được hơi thở của Thiên Chúa để sống vai trò nguyên tổ của loài người. Các môn đệ cộng đoàn Phục Sinh đã nhận được hơi thở của Thiên Chúa để làm chứng về Chúa Giêsu Kitô. Mỗi người chúng ta, cũng đã nhận được hơi thở của Thiên Chúa khi chúng ta được dìm trong Nước Thánh Tẩy và được xức dầu trong bí tích Thêm Sức. Hơi thở, sức sống, tinh thần của Thiên Chúa được "hà hơi" vào trong ta. Vấn đề là chúng ta có biết sống bằng hơi thở Thần Linh ấy không. Thánh Phaolô khi nói về các ơn sủng Thiên Chúa ban cho mọi chi thể thuộc thân thể Đức Kitô đã đề cao Đức Ái như một đặc ân của Thánh Thần.
"Đức Ái thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức Ái tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả" (1Cr 13,4-7).
Sống đức Ái, sống yêu thương là sống bằng hơi thở của Thiên Chúa, là kết hợp với Thiên Chúa Tình Yêu, là sống trong Thánh Thần. Chỉ có yêu thương mới làm cho con người sống và phát triển thực sự. Chỉ có yêu thương mới làm cho con người thay đổi, canh tân, hoán cải. Ai yêu thương nhiều là người ấy thay đổi nhiều, vì tình yêu sẽ dẫn đưa chúng ta đến chốn vô cùng, vô tận của cuộc sống. Ai yêu thương nhiều và yêu thương thực tình sẽ không còn là mình nữa, mà là dụng cụ của Tình Yêu Thiên Chúa, sẽ nên giống như Thiên Chúa.
Thưa anh chị em,
Một cộng đoàn thiếu yêu thương thì không bao giờ có hợp nhất, không bao giờ có sức thuyết phục được những người chung quanh. Vì chỉ có yêu thương mới san bằng được những khoảng cách, mới lấp đầy những cách biệt, mới giúp bổ túc cho nhau giữa những cái chênh lệch, khác biệt nhau. Các tín hữu tiên khởi đã bán hết của cải ruộng đất để làm của chung, để sống giới răn yêu thương của Thầy. Đó phải là hình ảnh gợi ý cho những sáng kiến yêu thương của chúng ta. Chỉ khi nào mỗi thành viên của Hội Thánh đem hết tài năng, đặc sủng của mình đã nhận lãnh làm thành của chung của cộng đoàn, thì lúc ấy mới có sự hợp nhất thực sự của một thân thể nhiều chi thể là Hội Thánh Chúa Kitô.
Nhưng chúng ta chỉ biết sống yêu thương nếu như chúng ta biết đặt mình dưới sức tác động của Thánh Thần: Chẳng những Ngài là Đấng An Ủi, soi sáng mà Ngài còn là Đấng Thanh Tẩy chốn nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, chữa lành thương tích, uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng... (Ca tiếp liên). Chỉ có Thánh Thần mới làm cho các tổ chức của con người có sức sống, có tinh thần Tin Mừng... Đổi mới tư duy, đổi mới đời sống, đổi mới cơ chế xã hội đều cần đến sức mạnh và ân sủng của Thánh Thần Thiên Chúa, vì Ngài là hơi thở của Thiên Chúa, hơi thở không ngừng làm sống mọi tạo vật.
Anh chị em thân mến,
Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận những luồng gió mới mà Thánh Thần Chúa đang thổi trong lòng các dân tộc, trong lòng con người trước ngưỡng cửa Thiên Niên Kỷ Thứ Ba. Chớ gì Thánh Thần Thiên Chúa cũng thổi vào lòng chúng ta, vào cộng đoàn chúng ta một luồng gió đổi mới cũng mạnh liệt như thời các Tông đồ, để Hội Thánh luôn tươi trẻ và tràn đầy sức sống.
Xin hãy đến, lạy Chúa Thánh Thần và xin canh tân bộ mặt trái đất của chúng con.
60. Thần Khí đổi mới--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Tại một giáo xứ ở miền Sicilia, thuộc miền Nam nước Ý, có một tập tục khá ngộ nghĩnh và lý thú. Mỗi năm vào dịp lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, sau bài Tin Mừng, cha xứ ra lệnh thả ra trong nhà thờ một con chim bồ câu tượng trưng cho Chúa Thánh Thần. Khi con chim câu nầy đậu xuống trên vai hay đầu ai thì người ấy không được tránh né hoặc đuổi đi, nhưng phải quyết tâm thực hiện một công tác cụ thể, to hoặc nhỏ tùy theo khả năng của mình, để chứng tỏ rằng mình làm công việc ấy là do sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.
Lịch sử giáo xứ ấy có ghi lại một số sự kiện điển hình như sau:
- Một lần chim câu đã đậu xuống trên vai ông hiệu trưởng. Kết quả là ông đã quyết tâm thực hiện một cuốn sách giáo khoa rất có giá trị.
- Lần khác, chim câu đáp xuống trên đầu một công tước vùng ấy, khiến ông ta phải ra tay nghĩa hiệp, bỏ tiền xây một hệ thống dẫn nước được đặt tên là “hệ thống dẫn nước Chúa Thánh Thần”.
- Có một linh mục trẻ được chỉ định đến thay thế cho cha xứ già đã đến tuổi hưu. Dù không tán thành nhưng cũng chưa dứt khoát bỏ đi tập tục đã thành truyền thống kia. Vào dịp lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống đầu tiên của ngài ở xứ mới, vị linh mục trẻ vẫn cho giữ thông lệ thả chim câu, nhưng ra lệnh mở hết tất cả các cửa chính và cửa sổ với hy vọng là chú chim câu sẽ bay ra ngoài để tung cánh trong bầu trời cao rộng. Trớ trêu thay, sau khi bay lượn vài vòng từ đầu này đến đầu kia của nhà thờ, chim câu đã đáp xuống vai phải của cha xứ mới trong tiếng vỗ tay vang dội của giáo dân. Phải hứa làm gì cụ thể bây giờ đây? Cha xứ mới chỉ tuyên bố là ngài sẽ đầu tư mọi khả năng và thời giờ để phục vụ tốt cộng đoàn giáo xứ. Và ngài đã giữ lời hứa.
Thưa anh chị em,
Với mỗi người chúng ta hôm nay, Chúa Thánh Thần vẫn là Đấng thiêng liêng. Chúng ta không thể giới hạn cách thức tỏ hiện của Ngài trong hình thức của trận cuồng phong, lưỡi lửa, của chim bồ câu hay bất cứ một hình thức nào khác. Quả thực, Ngài không ngừng hiện diện và tác động nơi chúng ta cách tự do và rộng khắp. Ơn của Ngài nhằm thôi thúc chúng ta phải làm gì cụ thể trong việc đổi mới đời sống con cái đối với Thiên Chúa, góp phần phục vụ tha nhân, phục vụ cộng đoàn.
Bài sách Công vụ Tông đồ hôm nay kể lại cho chúng ta những sự lạ đã xảy ra bên trong và bên ngoài ngôi nhà nơi các môn đệ đang hội họp, có Đức Maria ở giữa. Bên trong có tiếng gió mạnh thổi đến, lùa vào nhà. Có những lưỡi lửa xuất hiện trên mỗi người. Họ tràn đầy Thánh Thần. Bên ngoài dân chúng bỡ ngỡ kéo đến bao vây. Sự gì đã xảy ra? Phêrô, con người nhát đảm ấy, hôm nay mở tung cửa và bước ra, theo sau là các môn môn đệ khác. Họ lâng lâng như người say rượu, khiến dân chúng bàn tán, nhưng họ không say rượu mà say Chúa! Vì hôm nay, ứng nghiệm lời tiên tri Gioel đã tiên báo: “Ta sẽ đổ Thánh Thần xuống và chúng sẽ nói tiên tri”. Phêrô giảng bài đầu tiên làm cho 3.000 người trở lại. Các Tông đồ khác cũng bắt đầu sứ mạng rao giảng, với đặc ân Thánh Thần ban cho là nói được tiếng bản xứ của mỗi thính giả từ các nơi đổ về.
Giáo Hội sinh từ ngày Thánh Thần hiện xuống. Ngày nay Giáo Hội đã có một trang sử dài gần 20 thế kỷ. Giáo Hội cũng cần một luống gió mạnh thổi đến, lùa vào hầu có thể đổi mới mọi sự. Xưa Phêrô đã mở tung cửa đón nhận Thần Khí Thiên Chúa thì ngày nay các vị đại diện Phêrô cũng đã khai mở Công Đồng “như một lễ Hiện Xuống mới”, đem lại cho Giáo Hội một bộ mặt mới, một luồng gió mới.
Mỗi lễ Hiện Xuống là một ngày khai sinh mới của Giáo Hội, Thánh Thần là ai? – Thánh Phaolô, trong bài đọc II đã giải thích gồm tóm trong ý tưởng rằng, Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội. Thánh Thần ban cho mọi tín hữu nhận lãnh Phép Rửa một niềm tin duy nhất, là “Chúa Giêsu là Thiên Chúa đã sống lại”. Chúng ta phải tin, phải sống và phải loan báo. Tuy rằng đưcq tin là một, nhưng Thánh Thần sẽ ban cho mỗi người, mỗi thời đại, những đặc sủng riêng tư, thích hợp cho từng dịch vụ, từng sinh hoạt, từng nơi chốn. Thánh Thần như linh hồn của Giáo Hội, hằng huy động, hướng dẫn, thống nhất để xây dựng Giáo Hội.
Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII là một điển hình. Khi mới được bầu làm Giáo Hoàng, Ngài là một cụ già đã 77 tuổi, cục mịch như một cha xứ nhà quê, ai cũng cho là “một Giáo Hoàng giao thời”. Nhưng ai ngờ con người ấy, trong triều đại chỉ 5 năm, trở thành dụng cụ của Chúa Thánh Thần để đổi mới, để thực hiện chính sách mà Ngài gọi là “ cập nhật hóa” (aggiomento), mở cửa để Giáo Hội bắt gặp đà tiến triển của thời đại văn minh. Ngày nay, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong Tông thư “Tiến tới Thiên niên kỷ thứ ba” chuẩn bị cho toàn thể Giáo Hội mừng Đại Năm Thánh 2000 đã kêu gọi “trân trong đặc biệt tất caw những gì Chúa Thánh Thần đã nói với Giáo Hội và với Giáo Hội (Kh 2,7) cũng như những gì Thánh Thần nói với các cá nhân qua các đoàn sủng phục vụ cộng đoàn”. Đức Thánh Cha nói tiếp: “Tôi muốn nhấn mạnh những gì mà Chúa Thánh Thần gợi ý cho các cộng đoàn khác nhau, từ những cộng đoàn nhỏ nhất- như gia đình, đến những cộng đoàn lớn hơn – như các quốc gia, các tổ chức quốc tế, kể cả những nền văn hóa, văn minh và những truyền thống lành mạnh” (TMA. Số 23).
Nhiều người tín hữu ngày nay vẫn còn có thái độ như nhóm nhỏ Tông đồ ngày xưa. Họ sợ sệt, cửa đóng then cái, e rằng Thầy ra đi là đi mãi, tương lai mù mịt. Nhưng Thánh Gioan cho biết, ngay chiều Phục sinh, Chúa Giêsu đã hiện đến trấn an các ông: “Bình an cho các con”. Rồi Ngài thổi hơi trên các ông: “các con hãy nhận lấy Thánh Thần”. Ai lại không liên tưởng đến “ làn hơi Thiên Chúa” thổi đến trên mặt nước “trong ngày khai thiên lập địa” (St 1,2) đến làn sinh khí mà Thiên Chúa thổi vào con người trong ngày tạo dựng Ađam (St 2,7). Ngày nay, làn hơi ấy chính là Chúa Thánh Thần, là làn hơi ban sự sống (Ga 3, 5-6) và là sức mạnh tầy xóa mọi tội lỗi: “các con tha tội cho ai, thì tội người ấy được tha, các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại” (Ga 20,23). Qua làn hơi thở của Chúa, qua sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các Tông đồ cũng như chúng ta ngày nay phải trở nên những chứng nhân của Chúa cho đến tận cùng trái đất.
Anh chị em thân mến,
Ngày lễ Chúa Thánh Thần ngày khai sinh của Giáo Hội, là ngày nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội mở rộng vòng tay ôm cả thê1 giới. Chúa Thánh Thần thôi thúc bên trong để chúng ta hành động cụ thể, tỏ lộ ơn Ngài ra bên ngoài và chúng ta sẽ chỉ có thể vững tin rằng mình đang sống dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần, khi mọi nỗ lực của chúng ta luôn theo sát với giáo huấn của Chúa Kitô và đều hướng đến việc kiến tạo tình yêu thương cảm thông nhau hơn. Chớ chi từ nay, chúng ta luôn biết mở mắt tâm hồn của mình để nhận diện ra bao cuộc hiện xuống của Chúa Thánh Thần trong đời mình và mở rộng tâm hồn sống theo ơn Ngài thôi thúc, hầu cuộc sống của chúng ta có thể đổi mới không ngừng trong tình yêu thương xây dựng.
61. Vai trò của Thần Khí--McCarthy
‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)
Suy Niệm 1. ƠN CỦA THẦN KHÍ
Chúng ta muốn bám chặt vào một người mà chúng ta yêu mến và phụ thuộc. Chúng ta không thể chịu nổi ý tưởng người ấy rời bỏ chúng ta. Khi Đức Giêsu nói với các Tông đồ rằng Người sắp rời bỏ họ, họ rơi vào sự u sầu. Nhưng Người nói với họ: “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em”.
Các Tông đồ khó mà hiểu được bằng cách nào Đức Giêsu ra đi thì có lợi cho họ. Những minh hoạ sau đây sẽ chiếu soi một số ánh sáng trên đề tài ấy.
Bạn hãy tưởng tượng bạn đang ngắm mặt trời lặn xuống. Và khi nó lặn, có vẻ như nó đem cả thế giới này theo nó.
Đồng thời, mặt trăng lên cao trong bầu trời. Nhưng mặt trăng mờ nhạt đến nỗi bạn phải nhìn kỹ mới thấy. Dường như mặt trăng không đóng góp điều gì cho trái đất.
Rồi bạn nhận thấy một điều đẹp đẽ và kỳ lạ. Mặt trời càng xuống thấp trong bầu trời, mặt trăng càng trở nên sáng hơn. Sau cùng, mặt trời rồi cũng biến mất khỏi quang cảnh, mặt trăng được biến đổi hoàn toàn. Và giờ đây, mặt trăng đương nhiên là vật sáng nhất trong bầu trời. Và khi bạn nhìn chung quanh, bạn ngạc nhiên và thích thú nhận thấy rằng thế giới cũ kỹ này không những đã được phục hồi hoàn toàn đối với bạn, nhưng còn được làm cho mới mẻ, sáng tươi và quyến rũ. Chỉ khi mặt trời rút lui, bạn mới có thể thấy sự đóng góp của mặt trăng.
Yêu thương đôi khi lúc có nghĩa phải sống xa cách người mình yêu. Điều này có nghĩa là người ta được tự do phát triển theo đường lối của riêng mình. Người được yêu thương cảm thấy mình đã góp phần xây dựng nên tình cảm đó và được tự do tiếp nhận từ một người khác.
Tuy nhiên, chúng ta thường bám chặt ánh đèn sân khấu. Chúng ta muốn lúc nào cũng có mặt ở đó. Chúng ta không biết nên rút lui khi nào hoặc bằng cách nào. Vì thế, bằng một thái độ vô tâm và vị kỷ, chúng ta làm chủ những người khác. Chúng ta bóp nghẹt sự phát triển của họ. Chúng ta đặt họ vào vị trí phụ thuộc, và kết quả là họ ở mãi trong tình trạng kém phát triển.
Điều này đem lại cho chúng ta một sự hiểu biết sâu sắc điều Đức Giêsu muốn nói khi Người cho rằng Người ra đi thì có lợi cho các Tông đồ, nếu không có Thần Khí sẽ không đến. Nếu Người cứ duy trì sự hiện diện thể chất với họ thì chính họ sẽ không bao giờ trưởng thành nổi.
“Tôi không có gì cho người khác; nhưng tôi có bổn phận hướng người ấy về với chính cuộc đời người ấy và chấp nhận người ấy là chính người ấy” (Michel Quoist).
Không bao giờ có người nào tỏ ra tín nhiệm và tôn trọng con người như Đức Giêsu. Người đã không thống trị họ. Người đã cho họ một cơ hội để toả sáng. Người chuyển giao toàn bộ công trình của Người cho họ. Người biết rằng họ vẫn cần được giúp đỡ. Đó là lý do Người sai Thần Khí đến với họ.
Điều mà Thần Khí đã làm là biểu lộ ra bên ngoài những sự việc đã có bên trong họ. Tình yêu của Thần Khí đánh thức những năng lực có bên trong họ mà họ không biết đã có đó, vì thế họ có thể làm được những việc mà họ không nghĩ rằng họ có khả năng làm. Sau ngày Hiện Xuống, tâm hồn họ như lửa đốt và có gió thổi mạnh vào sau lưng.
Chúng ta cũng cần có Chúa Thánh Thần. Chúng ta cần Người giúp đỡ chúng ta thực hiện quyền bính và những ơn đã có trong chúng ta. Chúng ta cần Người khai thác quyền bính ấy và phát huy những ơn Người ban ngõ hầu chúng ta cũng có thể trở thành nhân chứng không sợ hãi cho Đức Kitô.
Suy Niệm 2. PHÉP LẠ CỦA SỰ ĐỔI THAY
Trước khi Chúa Thánh Thần đến, các Tông đồ gần như sống trốn tránh trong một phòng trên lầu. Đức Giêsu đã giao phó cho họ một nhiệm vụ cao cả. Tuy nhiên họ đã không có cả sức mạnh lẫn ý chí để bắt tay vào việc. Nhưng sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, họ là những người đã thay đổi.
Vậy Chúa Thánh Thần đã làm gì cho họ và phép lạ làm thay đổi chính xác như thế nào? Mặc dù chúng ta không biết một tí gì về điều đó.
Chúng ta phải nhận thức rằng các Tông đồ là những người bị tổn thương. Họ bị tổn thương bởi nghi ngờ và đau buồn, bởi sợ hãi và thất bại, và trên tất cả bởi ý thức về sự bất toàn.
Jean Vanier là một người biết rất nhiều về điều gì giúp đỡ những người bị tổn thương thay đổi. Ông đã thiết lập những cộng đoàn nhỏ khắp thế giới cho những người thiểu năng (tâm thần). Khi người thiểu năng bị nhốt trong những cơ chế, người ta đã gây ra cho tâm trí họ sự thiệt hại khủng khiếp. Một thân thể bị tổn thương sẽ lành lại một cách tự nhiên, nhưng một tâm hồn bị tổn thương thì không như thế. Một tâm hồn tổn thương sẽ chai cứng; chỉ để sống còn và vì thế đầy ắp sự tức giận và cay đắng.
Nhưng khi người thiểu năng được đưa ra khỏi những cơ chế ở đó họ cảm thấy chán ghét, và được đặt vào những cộng đoàn ở đó họ được yêu thương. Vanier đã nhiều lần chứng kiến phép lạ làm họ thay đổi.
Điều này giúp chúng ta hiểu được điều gì xảy ra cho các Tông đồ. Khi nói rằng các Tông đồ bị tổn thương, người ta không có ý nói họ bị tổn thương ở mức độ như những người thiểu năng. Nhưng dù sao họ cũng bị tổn thương. Tuy nhiên sau khi Chúa Thánh Thần đến, họ là những con người đã thay đổi. Họ rời bỏ nơi họ trốn tránh và bắt đầu rao giảng Tin Mừng.
Chúng ta không nên nghĩ rằng sự thay đổi chỉ thực hiện trong trong một lúc. Nó phải là một việc có cấp bậc và một quá trình phát triển. Sự phát triển có thể chậm chạp đau đớn. Chúng ta không dễ dàng gạt bỏ những tập quán và thái độ cũ.
Con người thay đổi khi có người mang lại cho họ niềm hy vọng; khi có người tin tưởng họ và cho họ một nhiệm vụ để hoàn thành. Nhất là, họ thay đổi khi họ được yêu thương. Họ bước ra khỏi vỏ ốc của mình và những năng lực giấu kín của họ được giải phóng từ bên trong họ. Phép lạ làm con người thay đổi là một phép lạ chân thật.
Mọi người chúng ta đều có khả năng làm điều tốt. Chúng ta có tay để có thể chăm sóc, có mắt để có thể nhìn, có tai để có thể nghe, có lưỡi để có thể nói, có chân để có thể đi và trên hết có một tấm lòng để có thể yêu thương.
Nhưng mỗi người chúng ta đều có một khuyết tật kềm hãm không cho chúng ta giải phóng bản thân chân thật và tràn đầy. Chúng ta cần có một ai đó đánh thức những gì ở bên trong chúng ta. Một ai đó kêu gọi chúng ra sống và giúp đỡ chúng ta trưởng thành.
Đối với chúng ta, những môn đệ của Đức Kitô, một ai đó chính là Chúa Thánh Thần. Quyền lực đã biến đổi các Tông đồ, quyền lực hiền hoà của Chúa Thánh Thần cũng có giá trị và hiệu lực đối với chúng ta. Thần Khí ấy đánh thức những năng lực trong chúng ta, kêu gọi chúng ta sống, giúp đỡ chúng ta trưởng thành. Nhà thơ Pablo Neruda đã nói: “Tôi muốn làm cho bạn điều mà mùa xuân làm cho cây anh đào”. Đó là điều mà Thần Khí đang thực hiện.
62. Suy niệm của J.B Lê Đình Nam
SỐNG CHỨNG NHÂN TIN MỪNG TRONG THÁNH THẦN TÌNH YÊU
Khi nhắc đến Chúa Thánh Thần, chúng ta thường nghĩ đến Bí tích Thêm sức. Vậy khi lãnh nhận Bí tích Thêm Sức chúng ta được những ơn nghĩa nào? Hay nói cách khác, sau khi lãnh nhận ấn tín Chúa Thánh Thần, chúng ta được mời gọi sống như thế nào?
Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo dạy rằng: “… Việc tuôn tràn Thánh Thần giúp chúng ta tiến sâu hơn vào ơn làm con cái Thiên Chúa, kết hợp chúng ta chặt chẽ hơn với Ðức Kitô và với Hội thánh của Người. Bí tích này củng cố trong tâm hồn chúng ta các hồng ân của Chúa Thánh Thần và trao ban cho chúng ta một sức mạnh đặc biệt để làm chứng cho đức tin Kitô giáo."
Tin Mừng Chúa nhật Hiện xuống hôm nay thuật lại: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20, 21-22).
Sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các môn đệ được đầy bình an, lòng tràn ngập hân hoan, các ông không còn run sợ, nhút nhát. Với sức mạnh của Thánh Thần, các ông mạnh dạn tung cửa ra ngoài, hiên ngang rao giảng về Đức Giêsu. Các ông đã tuyên xưng về Đức Kitô - Đấng đã bị người đời đóng đinh, giết chết nhưng đã sống lại.
Nhìn lại hành trình Đức tin của mỗi người, từ lúc lãnh nhận Bí tích Thêm sức, khi mà Thánh Thần ngự xuống mỗi chúng ta trong giây phút linh thiêng đó, chúng ta đã sống phẩm giá người Kitô hữu, đã làm chứng cho Đức Kitô như thế nào?
Chúng ta có dám tuyên xưng Đức tin của mình trước những người anh em? Và chúng ta có sống Đức tin đó một thật sự giữa đời thường để làm chứng cho Đức Kitô?
Lễ Hiện xuống một lần nữa nhắc nhở mỗi người tín hữu về một Thánh Thần Tình Yêu - Đấng đã và đang hoạt động trong mỗi chúng ta và trong Hội Thánh. Nhớ lại Bí tích Thêm sức mà chúng ta lãnh nhận, để ý thức lại thân phận Kitô hữu của mình trong hành trình Đức tin giữa dòng đời lắm thăng trầm hôm nay.
Thật không dễ để có thể trở thành những chứng nhân Tin Mừng giữa một cuộc sống đầy thử thách. Sẽ khó thực thi Lời Chúa cách triệt để giữa một xã hội đang đi ngược lại những giá trị đạo đức và luân lý. Sẽ gian nan để chiến đấu chống lại những đam mê giữa một thế giới luôn bị nhiều cám dỗ rình rập và mời mọc.
Tuy nhiên, với sức mạnh của Thần Khí, chúng ta vẫn có thể làm chứng cho Đức tin của mình bằng những bổn phận nhỏ bé nơi cuộc sống thường ngày.
Chúng ta hãy mở tâm hồn mình để Ngọn lửa Thánh Thần được ngự trị. Với sức mạnh đó ta không còn nhát sợ nhưng can đảm chiến đấu với thử thách, khổ đau của dòng đời. Luôn biết trông cậy vào Chúa và vượt thắng những khó khăn. Luôn biết tôn trọng và gìn giữ những giá trị luân lý, đạo đức của con người trong mọi hoàn cảnh.
Chúng ta hãy từ bỏ cái tôi ích kỷ và thờ ơ của mình để Thần Khí dẫn dắt chúng ta đến với người nghèo khổ, bất hạnh, những mảnh đời bị bỏ rơi, để tận tình yêu thương, giúp đỡ và kính trọng họ cho xứng với phẩm giá con người.
Chúng ta hãy trải lòng mình ra để nguồn ơn Thánh Thần thanh tẩy và biến đổi chúng ta trở thành những con người mới, thúc đẩy chúng ta sống môt đời sống yêu thương, hy sinh và phục vụ. Ngang qua đó mọi người nhìn nhận được Đức Kitô đang hiện hữu nơi mỗi người chúng ta.
Nếu mỗi chúng ta biết đón nhận Ngọn lửa Thánh Thần để canh tân, nếu mỗi chúng ta biết lắng đọng tâm hồn để vâng theo sự dìu dắt của Thần Khí, thì mỗi người sẽ trở nên những chứng nhân Tin Mừng đích thực và ánh sáng của Đức Kitô sẽ được lan tỏa đến những góc tối tăm của thế giới.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài hãy đến như ngọn gió mát, thổi vào cuộc đời chúng con luồng sinh khí mới, đốt nóng lên ngọn nến Đức tin để cả địa cầu này được “thay da đổi thịt” trong cùng một Thánh Thần Tình Yêu.
63. Tác động của Chúa Thánh Thần
Chúa Thánh Thần làm gì cho chúng ta? Đó là vấn đề chúng ta cùng nhau tìm hiểu và chia sẻ trong một vài phút ngắn ngủi này.
Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy các môn đệ, mặc dù đã bước theo Chúa, mặc dù đã được lắng nghe những lời khôn ngoan Chúa dạy, mặc dù đã được nhìn thấy những việc lạ lùng Chúa làm, thế nhưng các ông cũng chẳng lĩnh hội được bao nhiêu và đức tin cũng chưa bén thể rễ sâu trong cõi lòng các ông.
Sở dĩ như vậy vì đầu óc các ông còn u mê dốt nát và mang nặng tinh thần thế gian.
Thực vậy, cũng như phần đông những người Do Thái khác, các ông đang trông chờ, mong đợi một đấng cứu thế trong lãnh vực chính trị và xã hội.
Đấng ấy phải hùng mạnh như Đavít với kỵ binh và cbiến mã rợp trời. Đấng ấy phải khôn ngoan như Salômon, khiến cho muôn dân nước phải nể phục. Đấng ấy sẽ đến để giải thoát họ khỏi ách nô lệ của đế quốc La Mã, dẫn đưa dân tộc họ bước vào một thời đại hoàng kim.
Và lúc bấy giờ các ông sẽ được làm lớn và giữ những chức vụ quan trọng trong vương quốc của Ngài, cùng với một cuộc sống nhiều đặc ân và bổng lộc, giàu sang và quyền thế, theo kiểu “vinh thân phì gia”.
Chính vì thế, các ông thường tranh cãi xem ai là người cao trọng nhất, đồng thời các ông không thể nào chấp nhận được những khổ đau và cái chết tủi nhục trên thập giá mà Chúa Giêsu đã tiên báo.
Thế nhưng, sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, các ông đã đổi đời, đã thoát xác, đã trở nên những con người mới, am hiều và thông suốt về giáo lý của Chúa Giêsu, nhất là về màu nhiệm thập giá, để rồi hôm nay, ngày lễ Ngũ tuần, Phêrô thay mặt cho nhóm mười hai đã lên tiếng rao giảng về chính những điều trước đây ông đã không hiểu cũng như không muốn hiểu.
Ngoài ra, Chúa Thánh Thần còn làm gì nữa?
Nhìn vào các tông đồ, chúng ta thấy các ông không phải chỉ là những kẻ u mê và dốt nát, mà còn là nhưng kẻ hèn nhát và sợ sệt. Phúc âm đã ghi lại như sau:
Khi thấy sóng gió nổi lên, các ông đã hoảng sợ đến cuống cuồng, khiến Chúa Giêsu phải lên tiếng trách:
- Hời những kẻ hèn tin, tạo sao các con sợ hãi.
Sự sợ hãi này còn được biểu lộ một cách rõ rệt hơn nữa trong cuộc thương khó. Giuđa đã bán Chúa với giá ba mươi đồng bạc, giá bán một tên nô lệ, và chỉ bằng một phần mười giá bán một chai thuốc thơm, Mađalêna đã dùng để xức vào chân Chúa Giêsu. Phêrô đã chối Chúa ba lần trong sân nhà thầy cả thượng phẩm chỉ vì một câu hỏi vu vơ. Còn các môn đệ khác đều đã bỏ Chúa mà chạy trốn, ngoại trừ Gioan là đã theo Chúa đến cùng và đã có mặt dưới chân cây thập giá. Ngay cả sau khi Chúa đã sống lại, các ông tụ họp với nhau trong phòng, mà cửa thì đóng kín vì sợ người Do Thái.
Thế nhưng, dưới tác động của Chúa Thánh Thần, các ông đã hoàn toàn đổi mới: từ những kẻ hèn nhất và sợ sệt, các ông đã trở nên những con người can đảm và hăng say rao giảng Tin mừng.
Hơn thế nữa, các ông còn sẵn sàng chấp nhận cái chết, cũng như đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng để làm chứng cho tình yêu của Đức Kitô.
Thực vậy, trong số mười hai tông đồ, thì đã có tới mười một ông hy sinh mạng sống cho Tin mừng, chỉ trừ một mình Gioan là đã chết già tại cộng đoàn Êphêsô mà thôi.
Còn chúng ta thì sao?
Rất có thể lúc này chúng ta cũng đang là những kẻ mê muội và dốt nát, chẳng hiểu biết được bao nhiều về giáo lý của Chúa.
Rất có thể lúc này chúng ta cũng đang là những kẻ hèn nhát và sợ sệt, chúng ta sẵn sàng bán Chúa và chối bỏ Ngài bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào và bất cứ vì lý do gì.
Chính vì thế, chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trong tâm hồn, để biến đổi chúng ta trở thành những con người mới luôn hiểu và sống Tin mừng, cũng như luôn hăng say phục vụ Chúa nơi những người anh em bất hạnh và khổ đau.
64. Hãy mở cửa ra!--Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Cùng Hội Thánh, chúng ta kính thờ mầu nhiệm Đức Chúa Trời Ngôi thứ Ba là Chúa Thánh Thần. Đã từng được nghe giảng dạy về vai trò quan trọng của Chúa Thánh Thần sau khi Chúa Kitô về trời, chúng ta cũng đã được học hỏi về Chúa Thánh Thần là Ngôi thứ Ba, bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, Người là Thiên Chúa thật, cùng một bản tính và quyền năng như hai Ngôi cực trọng ấy. Chúng ta còn biết các hình ảnh chỉ về Người như là gió, mây, nước, lữa, chim bồ câu…, rồi Người có các danh xưng là “Đấng ban sự sống”, là “Thần Chân lý”, “Đấng bào chữa”…(x. GLCG chung số 683- 701). Có vị lại ví Chúa Thánh Thần như Đấng dấu mặt. Người ta chỉ thấy hiệu quả tác động của Người chứ nào đâu thấy Người như Đức Kitô vì đã nhập thể làm người.
Nói đến hoa quả của Chúa Thánh Thần thì thật khôn xiết. Người là Thần Chân lý nên Người dẫn chúng ta đến sự thật toàn vẹn. Người là nguồn tình yêu nên Người đưa chúng ta vào biển cả bác ái bao la. Người là nguyên lý của sự hiệp nhất nên Người làm cho chúng ta nên một trong Chúa Kitô. Người là ngọn lửa nên Người đổi mới chúng ta từ trong ra ngoài. Người là nguồn bình an nên Người đưa chúng ta vào sự an bình đích thức, một sự bình an không như thế gian ban tặng…
Chúa Thánh Thần đã được trao ban. Người đã được trao ban cho nhân loại từ Trái Tim cực thánh bị đâm thâu của Chúa Giêsu trên thập giá (x.Ga 19,31-37). Người được trao ban cho các Tông đồ, các môn đệ khi Chúa Kitô phục sinh hiện ra: “Các con hãy lãnh nhận Thánh Thần” (Ga 20,22). Người đã hiện xuống trên các Tông đồ và nhiểu người ngày Lễ Ngũ tuần dưới hình lưỡi lửa (Cv 2,1-11). Chúa Thánh Thần đã được trao ban, nhưng vấn đề đặt ra là chúng ta có nhận được Người chưa? Và bằng cách thế nào để ta đón nhận Chúa Thánh Thần?
Chúng ta đã nhận được hồng ân Thánh Thần chưa? Câu trả lời xem ra không dễ. Cứ xem quả thì biết cây. Mặc dù trong đức tin, chúng ta tin nhận khi ta chịu Bí tích Thánh tẩy là ta đã nhận được hồng ân Thánh Thần. Khi ta chịu Bí tích Thêm Sức, khi ta lãnh nhận các bí tích khác như Truyền Chức Thánh, Hôn phối…, là ta đã lãnh nhận hồn ân Thánh Thần. Thế nhưng hoa trái của Thánh Thần như Thánh Phaolô nói trong thư gửi tín hữu Galata 5,22-23 là “bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” đã thực sự có nơi đời sống chúng ta thế nào thì thật khó trả lời. Cũng thật khó trả lời rằng ta đã đến cùng chân lý vẹn toàn, đã hiệp nhất nên một, đã đổi mới từ trong ra ngoài…
Một sự thật không riêng gì ở các xứ mà tôi đang phụ trách, đó là nhiều em thiếu niên trước khi chịu Bí tích Thêm Sức thì rất chuyên chăm học giáo lý, tham dự Thánh Lễ, làm các việc tông đồ mà các anh chị giáo lý viên đề ra. Thế nhưng sau khi lãnh nhận Bí tích Thêm Sức, một Bí tích mà qua đó các em lãnh nhận hồng ân Thánh Thần cách đặc biệt, thì dường như có phần đi xuống, nếu xét hình thức bên ngoài. Cũng có thể giải thích rằng do tâm lý tuổi mới lớn có nhiều cung cách hành xử không như ý những người có trách nhiệm. Tuy nhiên dưới con mắt nhân loại, để nhận ra những thay đổi nơi các em theo hướng tích cực thì quả là khó thấy và nhiều khi lại có phần theo hướng ngược lại. Dù vậy không ai dám to gan nói rằng các em là chưa nhận lãnh hồng ân Thánh Thần!
Chúa Thánh Thần đã được trao ban cho nhân loại. Xưa, thánh Phêrô đã từng kinh ngạc khi Thánh Thần cũng đã đổ xuống trên những người chưa chịu Bí Tích Thánh Tẩy. “Những người này đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ?” (Cv 10,47). Vấn đề quan trọng là làm sao để có thể nhận lãnh hồng ân Thánh Thần. Xin được đề nghị một trong những cách thế để ta có thể đón nhận hồng ân Thánh Thần đó làhãy mở cửa ra.
Ngày Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra với các Tông đồ, Người đã trao ban Thánh Thần cho các ngài thế mà dường như các ngài vẫn chưa nhận được. Có thể có nhiều lý do nhưng ta có thể chân nhận một trong những lý do, đó là “cửa vẫn đóng kín”. Cánh cửa vật chất của căn nhà là hình ảnh của cách cửa tâm hồn các ngài. Tâm hồn các tông đồ vẫn còn vương vẫn chuyện Thầy sẽ khôi phục nước Israel (x.Cv 1,6). Tâm hồn các ngài còn lo âu sợ hãi trước các thế lực bên ngoài. Đến ngày Lễ Ngũ tuần, gió đã ùa vào đầy cả căn nhà chứng tỏ các cánh cửa đã rộng mở (x. Cv 2,1-2). Cánh cửa tâm hồn các tông đồ và những người có mặt hôm ấy cũng đã mở rộng.
Người ta nhìn nhận Công đồng Vatican II như là một cuộc Hiện xuống lần thứ hai cho Hội Thánh Chúa. Khi được hỏi Công Đồng là gì? Đức cố Giáo Hoàng Gioan XXIII đã mở cách cửa sổ căn phòng của Ngài và nói: Công Đồng là thế đó. Mở cửa để đón nhận hồng ân Thánh Thần. Hãy mở cửa ra! Một đòi hỏi dường như mang tính tất yếu để có thể đón nhận hồn ân Thánh Thần.
Mở cửa ra để tha nhân, để thế giới nhận rõ, biết rõ con người ta, tập thể ta, Hội thánh ta. Mở cửa ra là một thái độ thẳng thắn chân thành trong sự khiêm hạ. Người có thể thấy được những mặt tốt và cả những mặt xấu xa tồi tệ của mình. Người ta có thể biết được sự thánh thiện và cả tôi lỗi của ta. Mở cửa ra là một động thái can đảm sống trong sự thật. Dù rằng không một ai có thể che dấu Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn tâm can, nhưng chúng ta lại có thể che mắt thiên hạ những gì chúng ta muốn che dấu bằng cách này bằng cách khác, với lý do này với lý do khác, có khi là rất hữu lý và hợp tình theo nghĩ suy nhân trần. Thế nhưng, đã không can đảm sống trong sự thật thì e rằng khó mà nhận được Đấng là Thần Chân Lý.
Mở cửa ra để hiệp thông với tha nhân, với nhân loại trên thế gian này, một thế gian mà Thiên Chúa đã yêu thương đến nỗi đa hiến ban chính Con Một (x. Ga 3,16), một thế gian mà Đức Kitô đã tự hiến dâng chính xác thịt mình để cho nó được sống (x.Ga 6,51). Có sự hiệp thông thì sẽ có sự liên đới, tương ái tương thân. Sự hiệp thông thúc giục ta sống liên đới với nhau, với thế gian này cả trong công nghiệp lẫn trong tội lỗi. Đức bác ái đang chớm nở. Và chúng ta sẽ nhận được Thánh Thần là nguồn tình yêu, nguồn hiệp nhất.
Mở cửa ra để đón nhận tha nhân, đón nhận thế giới cho dù là bất đồng chính kiến hay quan niệm, bất đồng về niềm tin hay cung cách hành xử. Thánh Thần đã được trao ban với Trái Tim mở ra của Chúa Giêsu. Trái Tim cực thánh của Người mở ra đón nhận Mẹ dấu yêu, người môn đệ yêu dấu… và cả những người lý hình đang sỉ nhục Người. Đón nhận không phải là chấp nhận tất cả bất kể tốt xấu, nhưng là để thánh hóa và thăng hoa. Thành quả của Công đồng Vatican II là một minh chứng cho sự mở cửa đón nhận này. Chính những vị trước đây đã bị loại trừ cách này cách khác như Yve Congar, Chenu..., đã được đón nhận cách chân thành. Và hoa trái Thánh Thần đã tỏ hiện.
Hãy mở cửa ra là hãy mở tâm hồn ra, mở vòng tay ra. Sống trong sự khiêm tốn chân thành, sẵn sàng đối diện với sự thật, sống trong sự hiệp thông liên đới với mọi người, sống trong tình thân ái, bao dung đón nhận nhau, chính là cách thế để đón nhận hồng ân Thánh Thần cách hữu hiệu. Tác giả sách Khải Huyền viết: Thánh Thần và Tân nương là Hội Thánh cầu xin: “Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến” (Kh 22,20). Có lẽ ta đừng xin: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến!”, nhưng hãy xin: “Xin cho con, cho chúng con, cho Hội Thánh biết mở cửa ra!”.
65. Bình an
Nhà sản xuất bộ phim có tựa đề là: “Tìm lửa” đã cố ý dựng nên một câu chuyện để ca tụng phát minh vĩ đại của con người cách đây 80.000 năm để nhân loại không bị họa diệt vong. Và theo nhà xuất bản bộ phim này, phát minh vĩ đại đó để con người khỏi họa diệt vong, đó là phát minh ra lửa. Từ đó, lửa đã chiếm một chỗ quan trọng trong đời sống con người, nhưng thử hỏi có ai trong chúng ta ý thức về một biến cố quan trọng khác, quan trọng nhất, vĩ đại nhất, đó là biến cố Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài, không phải cách đây 80.000 năm mà ngay từ khởi đầu vũ trụ. Chúng ta không biết là bao nhiêu ngàn hay bao nhiêu triệu năm, nhưng vào ngay khởi đầu vũ trụ, Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ này và tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài. Và từ đó Ngài đã luôn gìn giữ con người khỏi họa diệt vong, mặc cho con người trong dòng thời gian đã không ngừng phản bội lại tình yêu thương, không sống tình yêu thương như Chúa muốn mà đã phạm biết bao tội ác.
Nhìn vào thế kỷ XX mà chúng ta đã kết thúc, chúng ta cũng đã nhận ra biết bao tội ác con người giết hại lẫn nhau và hiện tại trong giây phút này, khởi đầu của thế kỷ XXI chúng ta cũng biết được nhiều tin tức về những bạo lực, chiến tranh, chém giết, những hận thù vẫn còn xảy ra trên thế giới này. Nhưng Thiên Chúa, Ngài không bao giờ để cho con người bị họa diệt vong. Ngài đã thực hiện nhiều sáng kiến trong lịch sử và cách đây hơn 2000 năm, một sáng kiến vĩ đại khác Thiên Chúa đã thực hiện, đó là sáng kiến cho Con Một Ngài xuống thế làm người để cứu rỗi con người, để mang đến cho con người ơn tha thứ tội lỗi và dẫn con người trở về nhà Cha.
Vào lúc kết thúc cuộc đời của Con Thiên Chúa trên trần gian, Thiên Chúa thực hiện một biến cố vĩ đại khác là trao ban Chúa Thánh Thần, sức sống mới từ Thiên Chúa cho con người.
Trong bài Phúc âm hôm nay chúng ta vừa đọc lại, tác giả thánh Gioan đã dùng một từ ngữ để diễn tả biến cố Chúa Giêsu trao ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ, cho tất cả mọi đồ đệ của Ngài trong thời gian. Từ ngữ đó là “thổi hơi” và việc thổi hơi này nhắc lại một hành động mà Thiên Chúa đã thực hiện vào khởi đầu của lịch sử vũ trụ cũng như lịch sử của con người, đó là trong việc sáng tạo con người.
Thiên Chúa khi tạo dựng con người, Ngài đã thổi hơi sự sống vào con người đầu tiên là Ađam, cho con người đó được sống như hình ảnh của Thiên Chúa, và giờ đây Chúa Giêsu thổi hơi và ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Việc này nhắc lại cho mỗi người chúng ta một công cuộc tạo dựng mới, ban cho mỗi người chúng ta được trở nên tạo vật mới. Trong Chúa Thánh Thần, Ngài mời gọi chúng ta sống cuộc sống mới, đây là một phát minh vĩ đại khác để con người chúng ta, để nhân loại không phải bị họa diệt vong. Mỗi người chúng ta được mời gọi cộng tác vào công việc tái tạo này mỗi ngày, qua những hành động yêu thương như Chúa đã yêu thương và cho hình ảnh Thiên Chúa của tình thương được thực hiện nơi mỗi người chúng ta.
Chúa nhật 27/05/2001, khi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên Đàng cùng với các tín hữu tại quảng trường thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhắc trước về biến cố Chúa Thánh Thần Hiện xuống được mừng trong Chúa nhật hôm nay như sau: “Thầy sẽ sai xuống trên chúng con Đấng mà Cha Thầy đã hứa”. Chúa Giêsu nói đây về Chúa Thánh Thần và cả chúng ta nữa cũng như những môn đệ ngày xưa, chúng ta chuẩn bị sẵn sàng đón nhận hồng ân này trong ngày lễ Hiện xuống. Chỉ có sức tác động huyền nhiệm của Chúa Thánh Thần mới có thể làm chúng ta trở thành những tạo vật mới, và chỉ có quyền năng mầu nhiệm của Ngài mới làm chúng ta có khả năng rao giảng những kỳ công của Thiên Chúa.
Vì thế, chúng ta đừng sợ, chúng ta đừng sống đóng kín nơi chính mình, nhưng tốt hơn chúng ta hãy sẵn sàng, hãy cộng tác với Chúa, ngõ hầu ơn cứu rỗi được Thiên Chúa cống hiến cho mỗi người chúng ta trong Chúa Kitô có thể hướng dẫn toàn thể nhân loại đến cùng Thiên Chúa Cha.
Chúng ta hãy chờ đợi Chúa Thánh Thần ngự xuống như các môn đệ xưa trong nhà Tiệc ly cùng với Mẹ Maria. Và hôm nay chúng ta cử hành lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống, chúng ta hãy hiệp với Mẹ Maria và xin Mẹ Maria hiện diện với chúng ta, cầu nguyện với chúng ta. Xin Chúa ban cho chúng ta được tràn đầy Chúa Thánh Thần, cho mỗi người chúng ta trở thành một tạo vật mới. Qua đó chúng ta biết cộng tác với Chúa để tái tạo vũ trụ này, tái tạo cuộc sống con người, cho chúng ta được trở thành những môn đệ xứng đáng của Chúa.
Xin Mẹ cầu cùng Chúa cho chúng ta được trở nên những chứng nhân can đảm cho Con Mẹ trên trần gian này, và xin Mẹ làm cho tất cả mọi tín hữu trên trần gian một khi đã chia sẻ sự sống mới, thông hiệp vào ơn ban Chúa Thánh Thần, được trở nên một gia đình hiệp nhất trong tình yêu thương và hòa bình.
Đó là những lời Đức Thánh Cha nhắn nhủ cho tất cả mọi người tín hữu trên thế giới sống ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống. Chúa nhật hôm nay chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trong đời sống mỗi người chúng ta, để làm cho chúng ta được trở thành tạo vật mới, thực hiện tình yêu thương, làm cho hình ảnh của Thiên Chúa được sáng chiếu trong chính chúng ta và trong đời sống của anh chị em. Xin Chúa gìn giữ mỗi người chúng ta trong đức tin mà chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh tin kính.
66. Lãng quên
Sách thánh kể rằng: khi thánh Phaolô đặt chân tới kinh thành Nhã Điển, thủ đô nước Hy Lạp, ngài đã rảo qua một vòng phố xá, ngài nhận thấy dân Nhã Điển thật sùng mộ các thần minh. Đường phố nào cũng có những bàn thờ, những chùa miếu. Nhưng ngài để ý thấy một bàn thờ, trên đó khắc ghi hàng chữ “Kính thần vô danh”. Và ngài bắt đầu bài giảng về Đức Kitô như thế này: “Vị thần vô danh mà quí vị thờ kính nhưng lại không biết đến, thì giờ đây tôi xin loan báo để quí vị được rõ: vị thần vô danh ấy chính là Đức Kitô”. Điều thánh Phaolô nói về Đức Kitô với người Nhã Điển, thì bây giờ chúng ta cũng có thể nói như vậy về Chúa Thánh Thần.
Phải, là người Kitô hữu, chúng ta biết rất nhiều về Chúa Cha cũng như về Chúa Con. Thế nhưng nếu có ai hỏi chúng ta về Chúa Thánh Thần, về những việc Ngài đã làm cũng như về vai trò của Ngài trong cuộc sống, thì rất có thể chúng ta sẽ trả lời không hơn gì những tín hữu Ephêsô thuở trước. Thực vậy, thánh Phaolô đã hỏi họ: “Các ngươi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần chưa?”. Và họ đã trả lời: “Chúng tôi chưa hề hay biết có một Chúa Thánh Thần”. Phải, Chúa Thánh Thần chính là vị Thiên Chúa vô danh, vị Thiên Chúa bị quên lãng nhiều nhất trong cuộc sống. Vậy Ngài là ai? Ngài có phải là vị Thiên Chúa chúng ta tôn thờ hay không?
Sách giáo lý đã cho biết: Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa Ngôi Thứ Ba, bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra, cùng một bản tính, một quyền năng như hai Ngôi cực trọng ấy. Làm sao chúng ta biết được Thiên Chúa có ba ngôi và ngôi thứ ba lại là Chúa Thánh Thần? Sở dĩ chúng ta biết được là vì Chúa Giêsu đã tỏ lộ, đã dạy bảo.
Thực vậy, khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giorđan, thì Tin Mừng đã ghi nhận: bấy giờ trời mở ra, Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu mà ngự xuống, rồi từ trời có tiếng phán: “Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng”.
Trước khi về trời, Chúa Giêsu cũng đã truyền cho các môn đệ: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, rửa tội cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Nếu không có Chúa Thánh Thần thì ba ngôi Thiên Chúa sẽ không hoàn toàn và niềm tin của chúng ta sẽ bị thiếu sót. Thực vậy, Chúa Giêsu đã thực hiện chương trình cứu độ, nhưng Chúa Thánh Thần mới là Đấng áp dụng công phúc cứu độ ấy cho chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã hứa ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ: “Thầy sẽ xin với Chúa Cha và Ngài sẽ ban cho các con một Đấng phù trợ mới. Ngài là chính chân lý sẽ luôn ở với các con. Các con hãy ở trong thành cho đến khi được mặc lấy sức mạnh từ trời cao”. Tất cả những điều này đã được thực hiện trong ngày hôm nay, ngày lễ Hiện xuống, ngày các môn đệ được đầy tràn Chúa Thánh Thần.
Các tín hữu sơ khai cũng đã xác tín Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa. Thực vậy, thánh Phaolô đã nhắn nhủ: “Tất cả những ai được Thánh Thần Thiên Chúa hướng dẫn sẽ là con Thiên Chúa. Ngài đã ban Thánh Thần xuống trong tâm hồn chúng ta.
Thánh Luca trong sách Công vụ Tông đồ kể lại câu chuyện hai vợ chồng Anania và Saphira bán ruộng, đã đồng tình xén bớt một phần tiền rồi mới đem nộp cho thánh Phêrô. Và thánh Phêrô đã nói với họ: “Hỡi Anania sao ma quỉ đã cám dỗ lòng ngươi dối trá Chúa Thánh Thần mà giữ lại một phần tiền. Làm như thế, ngươi không chỉ lừa gạt người ta mà còn lừa gạt cả Thiên Chúa nữa”. Còn thánh Gioan thì xác quyết: “Trên trời có Ba Đấng làm chứng, đó là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Bấy nhiêu mà thôi cũng đã đủ để chúng ta xác tín và tuyên xưng: “Chúa Thánh Thần chính là Thiên Chúa Ngôi thứ Ba, Đấng chúng ta phải tôn thờ.
Trong mạch sống Giáo Hội, tác động của Chúa Thánh Thần thật vô cùng quan trọng cho Giáo hội cũng như cho mỗi người chúng ta. Không những cần cho các thừa tác viên của Giáo hội để chu toàn phận sự mà còn cần cho mọi người để sống đức tin và bác ái. Mọi cố gắng của Giáo hội và của mỗi người đều cần có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, nếu không sẽ trở nên lố bịch và vô vọng, như Đức Thượng phụ Athênagôrat, Giáo chủ Contantinốp đã nói: “Nếu cuộc sống thiếu vắng Chúa Thánh Thần thì Thiên Chúa sẽ nghìn trùng xa cách. Đức Kitô chỉ là một nhân vật quá khứ. Tin Mừng chỉ là một mớ chữ không hồn. Giáo hội khác nào một cơ cấu cứng nhắc, biến quyền bính thành thống trị điêu ngoa, và giảng dạy chỉ là tuyên truyền láo khoét, việc thờ phượng chỉ là phù phép, và luân lý sẽ thành xiềng xích vong nô”.
Chúa Thánh Thần vô cùng quan trọng như vậy, thế mà chúng ta thật vô tâm, vô ý thức đến thờ ơ cũng như không biết có Chúa Thánh Thần ở trong lòng mình ngày đêm. Thử hỏi nếu ai có 10 lượng vàng trong túi, có lẽ nào họ thờ ơ đến nỗi để mất số vàng đó khi nào mà họ không hay biết không? Trái lại, phải chăng bất kỳ đi đâu hay làm gì họ cũng sờ tay vô túi coi vàng còn hay không? Và nếu mất rồi, tâm hồn họ bãi hoải, tâm trí rối loạn, buồn phiền, chán nản biết bao! Vậy sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong tâm hồn không có giá trị bằng 10 lượng vàng sao? Thế mà ngày này qua ngày khác chúng ta hầu như chẳng để ý đến một lần. Ý thức sự vô tâm và thiếu sót đó, cũng như hiểu biết được sự quan trọng và cần thiết của Chúa Thánh Thần trong đời sống, từ nay chúng ta hãy năng nhớ đến Chúa Thánh Thần hơn, bằng cách cầu xin Ngài hằng ngày, xin Ngài soi sáng, hướng dẫn và trợ giúp để chúng ta luôn sống tốt đẹp và làm mọi việc đúng thánh ý Chúa.
Lạy Chúa, giờ đây một lần nữa con muốn tuyên xưng tự đáy lòng con: Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống. Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra. Người cùng được phụng thờ và tôn vinh với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy.
67. Anh em biết Người, vì Người luôn ở trong anh em--Lm Gioan Nguyễn Văn Ty
Trước khi về với Chúa Cha, và trong quyền năng của Đấng Phục Sinh, Đức Giêsu đã trao cho các môn đệ Thần Khí của Người, ‘Người thổi hơi vào các ông và bảo: “anh em hãy nhận lấy Thánh Thần!”; vậy thì Thánh Thần là ai mới được?
Phúc âm ghi lại hai từ vựng Đức Giêsu dùng để chỉ nhân vật này: ‘Thần Khí’ (Divine Spirit) có nguồn gốc Cựu Ước, và ‘Đấng Bảo Trợ’ (Paraclet) một danh xưng hoàn toàn mới.
Trong Cựu Ước thần khí Chúa có nghĩa là ‘sức mạnh của Đức Chúa’, tức đơn thuần là một thuộc tính của Thiên Chúa. Trong ngôn ngữ Tân Ước của Đức Giêsu, Thần Khí là một nhân vật biệt lập: Thánh Thần (Holy Spirit) xuất phát từ Chúa Cha và Chúa Con. Và còn hơn thế nữa, khi chuyển từ Cựu Ước qua Tân ước, chính nội dung của thuộc tính ‘sức mạnh’ cũng đã bị thay đổi hầu như hoàn toàn: từ sức mạnh của quyền uy biến thành sức mạnh của lòng thương xót, từ sức mạnh của phán quyết xét xử trở thành sức mạnh của cứu độ thứ tha. Chính vì lẽ đó mà một danh xưng mới cần được chế tác để biểu thị nhân vật này đó là: ‘Đấng Bảo Trợ’.
Đương nhiên là hiểu được nội dung của từ vựng mới này (nguyên ngữ Hy Lạp là parakletos) không phải chuyện đơn giản; đây đã từng là điều gây tranh cãi giữa các nhà chú giải và dịch thuật Thánh Kinh. Tác giả Gio-an đã sử dụng từ vựng này cả trong cuốn Phúc âm thứ tư lẫn trong lá thư thứ nhất của ngài (xem Ga 14:16.26, 15:26,16:7, 18:36; và 1 Ga 2:1). Danh xưng này được áp dụng cho chính Đức Giêsu trước hết, và cho nhân vật sẽ được Người phái đến sau này: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một ‘Parakletos’ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14:16). Parakletos có thể hiểu là người bênh vực, là trạng sư, là cố vấn, là người an ủi đỡ nâng, là người đứng về phe kẻ tin trước tòa án tối cáo để khỏi bị kết án… Trong 1 Ga 2:1 chính Đức Giêsu được gọi bằng danh xứng Parakletos: “Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha; đó là đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính”. Do đó, Thánh Thần chỉ là ‘Đấng Bảo Trợ khác’ (Allon Parakleton) được phái đến sau khi Đức Giêsu trở về nhà Cha.
Thánh Thần chính là: ‘khí lực cứu độ và thứ tha của Đức Kitô Giêsu’. Hiểu biết Thánh Thần trong nội dung đó quả là điều tối quan trọng. Toàn bộ cuộc đời Đức Giêsu, suốt cuộc sống và nhất là qua cái chết thập giá của Người, chỉ là biệu hiện và thực thi lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa là Cha; do đó chỉ trong Thần Khí, Kitô hữu mới thật sự thấu hiểu được một Thiên Chúa từ nhân, như Đức Giêsu muốn mạc khải cho biết: “Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều” (Ga 14:26). Sau ngày Đức Giêsu về trời, điều kiện tối cần để trở thành môn đệ chính là nhận lãnh Đấng Bảo Trợ này, “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”; về điều này Đức Giêsu khảng định cách thẳng thắn: “Thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” (Ga 14:17). Như vậy, Thánh Thần không phải là một nhân vật xa lạ gì đối với các tín hữu: Người hòa nhập vào niềm tin của mỗi Kitô hữu đặt nơi Đức Giêsu - Parakletos. Thánh Phao-lô đã hiểu và diễn tả Thánh Thần như thế trong tất cả các thư của ngài (đặc biệt xem Rm 8:15 và Gl 4:6).
Đức Giêsu trước khi ra đi để về với Cha, đã hứa ban Đấng Bảo Trợ của Người cho các môn đệ; sau khi sống lại từ cõi chết Người đã thổi hơi Thánh Thần trên môn đệ; trong ngày lễ Ngũ Tuần, Parakletos - Thánh Thần đã bốc cháy dữ dội trên các tông đồ và mọi kẻ tin (với tâm điểm hiện diện là Đức Maria); và thế là niềm tin vào Giêsu - Paracletos bắt đầu bùng lên trên khắp mặt đất. Kể từ ngày đó, Hội thánh trở thành một tập thể những người được Thánh Thần tác động, để có thể tuyên xưng và loan truyền cho mọi người, mọi thế hệ biết: “Giêsu Kitô là Cứu Chúa”, là Thiên Chúa - Đấng từ nhân.
Rồi cũng trong tác động của cùng một Thánh Thần này, mà Đức Maria - đệ nhất tín hữu đã được các thế hệ Kitô hữu sau này cầu khẩn dưới danh xưng ‘trạng sư’ (advocata nostra); tước hiệu này quả xác đáng lắm thay! Nhưng không chỉ Đức Maria, mà toàn thể Hội Thánh và mỗi Kitô hữu chúng ta, đặc biệt các linh mục của Đức Kitô trong Thần Khí, cũng phải trở thành người bảo trợ - trạng sư (parakletos - advocatus) cho những người nghèo khổ và tội lỗi nhất, để minh chứng cách cụ thể rằng Thánh Thần Chúa vẫn còn tiếp tục hiện diện cách sinh động giữa lòng nhân thế. Don Bosco đã từng là như thế đối với các thanh thiếu niên nghèo và bị bỏ rơi; do đó ngài đòi các tu sĩ Sa-lê-diêng của mình chính xác điều này: ‘trở thành dấu chỉ và người mang tình yêu của Thiên Chúa đến cho các thanh thiếu niên’. Cũng vậy, rất nhiều vị thánh khác như cha sở họ Ars - thánh Jean Marie Vianney, hay Mẹ Tê-rê-xa Kơn-ka-ta đã đối sử với các tội nhân đớn hèn và những kẻ cùng khổ, thông qua việc trao ban bí tích giải tội và các việc bác ái phục vụ. Chính qua việc thể hiện mình là ‘parakletos’ mà chúng ta có thể đo lường được đức tin của mình và sức sống Thánh Thần trong ta!
Lạy Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ, xin hãy ở lại trong con bằng sức mạnh yêu thương mà chính Người đã nhận được từ Đức Kitô Giêsu; xin Người nối kết con với Đức Giêsu Thập Giá, để con có thể đón nhận cách trọn vẹn sự bảo trợ thần linh của Người. Trong và nhờ sự dẫn dắt của Mẹ Maria, xin hãy biến đổi con, và mọi phẩm trật trong Hội Thánh Chúa, được trở thành các tác nhân mang lại niềm hy vọng và cậy trông cho hết thảy mọi người, đặc biệt những ai tội lỗi, yếu đuối và nghèo hèn nhất… trong tác động mãnh liệt của Người là Thánh Thần bảo trợ và là Đấng ủi an. Amen.
68. Đổi mới
Cách đây 50 ngày, chúng ta đã mừng lễ Chúa Giêsu Phục sinh và Chúa nhật trước, lễ Chúa Giêsu lên trời. Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống và cũng là lễ kết thúc mùa Phục sinh.
Chính hôm nay Chúa Thánh Thần Hiện xuống. Hôm nay Chúa Giêsu Phục sinh thực hiện lời hứa và ban Thánh Thần cho chúng ta. Việc Thánh Thần đến vào ngày lễ Ngũ tuần là dấu chỉ Đức Kitô được tôn vinh, Ngài được ngồi bên hữu Chúa Cha, được đặt làm “Chúa”. Chúa Thánh Thần đã được hứa ban, Người tới, Người hiện diện đó và Người hoạt động để thực hiện một cuộc đổi mới, tạo dựng một nhân loại mới. Trong thánh lễ hôm nay, chúng ta cùng khám phá lại hoạt động của Chúa Thánh Thần nơi các tông đồ, về sự hiện diện và hoạt động của Ngài nơi mỗi người chúng ta để rồi chúng ta biết sống theo sự hướng dẫn của Ngài.
Thời Cựu ước ngôn sứ Edêkien đã tiên báo là Thần khí sẽ đến và ban cho con người một tâm hồn mới, một trái tim mới.
Thật vậy, trong bữa tiệc ly Chúa Giêsu cũng đã nhắc lại lời hứa đó và báo trước là Chúa Thánh Thần sẽ đến trong lòng các tín hữu để soi sáng họ, nhắc nhở họ những lời của Thiên Chúa, và thanh tẩy họ bằng cách tha thứ các tội lỗi.
Bài trích sách Công vụ Tông đồ thuật lại. Vào ngày lễ Ngũ tuần đang khi các tông đồ họp nhau cầu nguyện thì Thánh Thần đến như một cơn gió, bất ngờ và không thể cưỡng lại. Thánh Thần phủ trên cả nhóm tông đồ đang tụ họp nhưng cũng được ban phát cho từng người dưới hình lưỡi lửa.
Thánh Thần đã thực hiện một cuộc biến đổi ngoạn mục nơi các tông đồ: từ những người nhút nhát, sợ sệt, chậm hiểu họ đã được biến đổi thành những người can đảm, xác tín và dấn thân vào công cuộc rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại: Vào chiều ngày Phục sinh Đức Giêsu đã hiện ra, thổi hơi trên các tông đồ và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Hình ảnh “thổi hơi” gợi lại tác động của Giavê Thiên Chúa, lúc tạo dựng đã thổi hơi trên Ađam để ban sự sống. Nhận lấy Thánh Thần là nhận lấy sự sống của Thiên Chúa. Vì Thánh Thần là Thần khí, là hơi thở của Thiên Chúa.
Sự sống mới mà hôm nay Đức Giêsu trao ban cho các tông đồ cũng là sự sống bởi Thánh Thần. Nhưng đây là Thánh Thần của Đấng Phục sinh, Thánh Thần của Đấng đã chiến thắng tử thần, và vì thế, sự sống đó chính là sự sống đời đời. Chính Thánh Thần của Đức Giêsu Phục sinh đang thực hiện một cuộc tạo dựng mới, tạo dựng một nhân loại mới.
Sau khi đã được giải thoát khỏi vòng nô lệ của tội lỗi và sự chết, nhân loại mới này đã đón nhận được sự sống mới, sự sống đời đời.
Sự sống mới này, ngày nay cũng được tiếp tục trao ban cho các Kitô hữu là những người tin vào Chúa Kitô.
Chúa Thánh Thần là hơi thở của Chúa Giêsu Phục sinh, hơi thở ấy Chúa Giêsu Phục sinh chuyển thông cho Giáo hội để Giáo hội sống chính đời sống của Người, đời sống làm con cái Thiên Chúa. Qua Bí tích Rửa tội các Kitô hữu nhận lãnh Chúa Thánh Thần, được tái sinh trong đời sống mới.
Chúa Thánh Thần tẩy rửa mỗi tâm hồn khỏi tội lỗi và làm cho trở nên chi thể của Chúa Kitô và là con cái của Chúa Cha, thánh Gioan nhấn mạnh tới vai trò của Chúa Thánh Thần trong mỗi tâm hồn. Sau khi ban Thánh Thần rồi Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Các con tha tội cho ai, tội người ấy được tha”. Ơn tha tội phát xuất từ sự hiện diện của Chúa Thánh Thần mà Giáo hội thông ban qua Bí tích Rửa tội và Hòa giải. Chính qua hai bí tích ấy mà mỗi người được giao hòa với Thiên Chúa được trở thành một tạo vật mới để sống một đời sống mới.
Chúng ta còn có thể thấy rõ tác động của Chúa Thánh Thần nơi các Kitô hữu là sự hiệp nhất. Ngày xưa, tại tháp Babel tội lỗi chia rẽ loài người làm cho mỗi người nói một thứ tiếng. Nay Chúa Thánh Thần thiết lập lại sự hiệp nhất, Thánh Thần mà các Kitô hữu lãnh nhận qua Bí tích Rửa tội là Thánh Thần đem lại bình an: bình an của ơn tha thứ và hòa giải. Thật vậy, hiệu quả đầu tiên của Chúa Thánh Thần chính là làm cho mọi người tuy khác biệt về màu da chủng tộc, ngôn ngữ mà vẫn có thể hiểu nhau và hiệp nhất thành một cộng đoàn.
Lễ Hiện xuống mà chúng ta cử hành hàng năm không phải là một kỷ niệm trống rỗng: đây là một ngày lễ đổi mới chúng ta trong quyền năng và hoạt động của Thánh Thần, nếu chúng ta đón nhận Ngài. Những gì Chúa Thánh Thần đã làm nơi các tông đồ xưa kia, bây giờ Ngài cũng thực hiện nơi chúng ta.
Hôm nay khi tưởng niệm lại việc Đức Kitô Phục sinh đã ban Thánh Thần cho các tông đồ, chúng ta hãy ý thức là chúng ta cũng đã được lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần nhờ Bí tích Thanh tẩy và Thêm sức. Nhờ ơn Thánh Thần, chúng ta chẳng những có sự sống tự nhiên, mà nhất là sự sống siêu nhiên tức là địa vị làm con cái Thiên Chúa như Đức Kitô vậy. Chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài đã ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta. Cũng như lý trí soi dẫn cuộc đời bình thường của con người thế nào, thì chúng ta cũng xin Chúa Thánh Thần, là khôn ngoan, là sức mạnh và là tình yêu của Thiên Chúa soi sáng, sưởi ấm và củng cố tâm hồn chúng ta.
Rồi trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta cố gắng sống cho đẹp lòng Chúa Thánh Thần. Và vì Chúa Thánh Thần là Thần chân lý, là Thần tình yêu, nên sự cố chấp, sự gian dối, sự chia rẽ là những điều trực tiếp phản nghịch với Chúa Thánh Thần. Trái lại, nếu chúng ta cố gắng sống khiêm nhường, chân thành và bác ái thì Chúa Thánh Thần sẽ không ngừng ở với ta. Người sẽ soi sáng chúng ta, dẫn dắt chúng ta dần dần tiến sâu vào vương quốc của Thiên Chúa, là vương quốc của tình thương và bình an, bởi vì hoa trái của Chúa Thánh Thần là bác ái, hoan lạc, bình an. Nói cách khác, Nước Thiên Chúa là đời sống trong Chúa Thánh Thần với những hậu quả cụ thể là sự công chính, bình an và hoan lạc trong mỗi tâm hồn tín hữu cũng như trong các tương quan với nhau.
Một trong những dấu hiệu cụ thể và rõ ràng nhất về sự hiện diện và tác động của Chúa Thánh Thần là tinh thần bác ái và phục vụ cộng đoàn. Trong bài đọc thứ hai thánh Phaolô đã ví Giáo hội như là thân mình của Đức Kitô trong đó các chi thể yêu mến nhau và phục vụ lẫn nhau. Nếu chúng ta cố gắng thể hiện ra trong đời sống tinh thần yêu thương, tinh thần phục vụ, thì chúng ta có thể tin chắc là chúng ta đang để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta. Đó là dấu hiệu chúng ta là con cái của Thiên Chúa.
69. Hiện diện
Trước khi về trời, nhiều lần Chúa Giêsu đã nói và đã hứa với các môn đệ: Ngài sẽ ban Chúa Thánh Thần xuống. Lời hứa đó đã được hoàn tất trong ngày lễ Ngũ Tuần, tức là lễ ngày thứ 50 tính từ lễ Vượt Qua của người Do Thái, và từ khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, lễ này được gọi là lễ Hiện Xuống. Chúa Thánh Thần đã hiện xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa và biến đổi các ông thành những con người mới. Như vậy, Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá là điều kiện để ban Chúa Thánh Thần cho Giáo Hội. Và khi được vinh quang bên hữu Chúa Cha. Chúa Giêsu đã sai Chúa Thánh Thần xuống và ban Chúa Thánh Thần cho Giáo Hội như linh hồn của Giáo Hội.
Đối với Giáo Hội nói riêng và đối với toàn thể nhân loại nói chung, ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống thật là quan trọng, vì đánh dấu một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần, kỷ nguyên áp dụng ơn cứu độ, thời kỳ cuối cùng, thời kỳ cánh chung, trước khi Chúa Kitô trở lại để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Nhưng tại sao chúng ta có thể nói hay dám nói Chúa Thánh Thần được ví như linh hồn của Giáo Hội? Bởi vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, cũng như linh hồn quan trọng đối với thân xác thế nào thì Chúa Thánh Thần cũng quan trọng đối với Giáo Hội như vậy. Bởi vì Giáo Hội được ví như một thân thể nhiệm mầu, mà Chúa Kitô là đầu và tất cả chúng ta là thân mình. Vậy nếu đã là một nhiệm thể thì cần phải có một linh hồn, linh hồn của Giáo Hội là Chúa Thánh Thần.
Thứ hai, cũng như linh hồn ở khắp thân thể và ở trong từng phần thân thể, thì Chúa Thánh Thần cũng ở trong toàn thể Giáo Hội và trong từng người. Linh hồn là nguyên lý, là căn bản của sự sống tự nhiên của thân thể, không có linh hồn thì chúng ta không sống được, không có linh hồn thì thân thể chúng ta là cái xác chết. Chúa Thánh Thần cũng là nguyên lý căn bản siêu nhiên nơi đầu là Chúa Kitô và nơi các chi thể là chúng ta, Ngài trực tiếp ban ơn thánh cho từng thành phần để sinh hoa quả là những việc lành.
Thứ ba, cũng như nơi con người, linh hồn hoạt động qua trí khôn, ý chí, tình cảm. Cũng vậy, Chúa Thánh Thần hoạt động qua những khả năng siêu nhiên là bảy ơn Chúa Thánh Thần, qua ba nhân đức đối thần là tin, cậy, mến. Chúa Thánh Thần gìn giữ, thánh hóa, biến đổi từng tâm hồn. Chẳng hạn: 12 tông đồ trước kia nhút nhát, sợ hãi, Chúa Thánh Thần đã làm cho họ mạnh bạo, can đảm. Rồi suốt hai mươi thế kỷ qua, biết bao gương anh dũng của các thánh đồng trinh, hiển tu, tử đạo... và hôm nay cả tỷ con cái Chúa đang được Chúa Thánh Thần thôi thúc bước mau về trời, Ngài hướng dẫn, trợ giúp chúng ta trên đường về trời.
Thứ tư, cũng như một linh hồn hiện diện nơi mỗi người làm cho người đó thành một người riêng biệt, khác với những người khác, thì Chúa Thánh Thần cũng hiện diện nơi mỗi tín hữu, để làm thành những tín hữu khác nhau: Chúa Giêsu, Đức Maria, các thánh, kẻ lành... và ơn Chúa Thánh Thần khác nhau, nên có những loại thánh khác nhau, rồi lại có những ơn sủng khác nhau, tùy theo chức bậc: người truyền giáo, người làm cha mẹ, người đi tu v.v...
Ngoài ra, ngày lễ Hiện xuống, Chúa Thánh Thần đã hiện xuống dưới hình lưỡi lửa. Hình ảnh này thật đầy ý nghĩa: Giáo Hội của Chúa được ví như một đống củi, được lửa của Chúa Thánh Thần đốt cháy lên và sưởi ấm trần gian lạnh lẽo. Không có Chúa Thánh Thần, Giáo Hội chỉ là một tổ chức trần gian như bao hội khác trên đời này, nhưng suốt hai mươi thế kỷ qua, Chúa Thánh Thần luôn ở giữa Giáo Hội, hướng dẫn mọi hoạt động của Giáo Hội và Ngài vẫn tiếp tục hoạt động mãi cho đến tận thế.
Mỗi người chúng ta đều đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần ngày chúng ta chịu phép Rửa tội, và nhất là khi lãnh nhận phép Thêm sức, Ngài luôn ở cùng chúng ta, hướng dẫn và trợ giúp chúng ta. Vậy chúng ta chớ dập tắt Chúa Thánh Thần. Nếu dập tắt Chúa Thánh Thần thì chẳng khác gì chiếc tàu bỏ bánh lái, đoàn xe lửa bỏ đầu tàu, con người bỏ trái tim. Chúng ta có thể dập tắt Chúa Thánh Thần thế nào? Nhiều cách lắm, chẳng hạn: chúng ta không sử dụng tối đa những ân huệ Ngài ban, những khả năng, những tiền bạc Chúa ban để chúng ta làm lợi ích cho linh hồn, cho gia đình, chúng ta sử dụng vào những việc có hại cho mình và cho người khác. Chẳng hạn: Chúa cho chúng ta cơ hội để phục vụ Chúa và Giáo Hội, nhưng chúng ta không lợi dụng những cơ hội đó, bỏ dịp tốt qua đi đó là dập tắt Chúa Thánh Thần.
Đàng khác, Chúa Thánh Thần là Đấng Phù Trợ. Phù trợ chứ không phải là làm thay chúng ta. Chúng ta phải làm hết sức mình, hết khả năng mình, phải học hỏi, phải nghiên cứu, phải thực hiện hết sức của mình, Chúa Thánh Thần sẽ phù trợ thiện chí của chúng ta. Ngài không bao cấp làm thay chúng ta. Nếu chúng ta không cố gắng đổi mới chính mình, đổi mới môi trường của mình, nếu chỉ cậy trông suông, khoán trắng cho Chúa Thánh Thần, thì Chúa Thánh Thần sẽ không làm thay. Bởi vì trách nhiệm ấy thuộc về chúng ta, những người Chúa đã trao cho những khả năng để có thể làm được, không nhiều thì ít, không việc lớn thì việc nhỏ, ai cũng có khả năng làm việc tốt.
Xin Chúa Thánh Thần khơi dậy trong chúng ta những nguồn sinh lực mới, để chúng ta biết quyết tâm đổi mới chính mình, biết quyết tâm góp phần xây dựng thời đại chúng ta. Sự quyết tâm này chúng ta sẽ gửi gắm nơi Chúa Thánh Thần. Ngài sẽ ban phép lành cho chúng ta, Ngài sẽ phù trợ cho chúng ta thực hiện. Mặc dầu hôm nay chúng ta không thấy kết quả nhưng hãy kiên trì nhẫn nại như những người gieo giống, mùa màng không thấy ngay, nhưng mùa màng nếu làm đúng, làm với cố gắng, với ơn phù trợ của Chúa Thánh Thần, chắc chắn sẽ thành công và hiệu quả sẽ phong phú.
70. Hiệp nhất
Ai ai cũng thấy đoàn kết hiệp nhất là cần thiết, quan trọng và hữu ích:
- Ca dao có câu “Một cây làm chẳng nên non...”
- Và còn một câu khác: “Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”.
- Còn sách Công Vụ thì kể rằng sở dĩ thuở ban đầu Giáo hội phát triển rộng là nhờ các tín hữu rất đoàn kết yêu thương nhau, người lương thấy cuộc sống hiệp nhất yêu thương ấy qúa tốt đẹp và đầm ấm nên thích và xin gia nhập Giáo hội.
Nhưng làm sao để có đoàn kết và hiệp nhất?
- Theo thiển ý, muốn có đoàn kết hiệp nhất thì trước hết phải biết tôn trọng sự dị biệt. Nhiều khi những người sống chung trong tập thể cứ hục hặc nhau hay buồn phiền nhau chỉ vì người này khó chịu vì người kia có tính tình khác mình, có cách suy nghĩ khác mình, có sở thích khác mình... Thấy người ta khác mình là mình bực bội, mình phê phán, mình ghét bỏ. Thực ra “bá nhân bá tánh”. Và khi Thiên Chúa dựng nên người ta, Người cũng dựng nên mỗi người có nét riêng của người đó. Nói theo từ ngữ triết học thì mỗi người là một hữu thể độc đáo. Ta phải tôn trọng sự dị biệt nơi người khác. Đừng ai bắt ai phải có cùng một cá tính, một cách suy nghĩ, một cách làm việc, một sở thích giống y như mình. Thấy người ta khác mình nhưng mình vẫn tôn trọng người ta, đó là cơ sở thứ nhất tạo sự đoàn kết hiệp nhất.
- Điều kiện thứ hai, khi ta đã tôn trọng sự dị biệt nơi người khác thì ta phải biết tương nhượng, nghĩa là nhường nhịn nhau. Vì bá nhân bá tánh nên có nhiều lúc trong cuộc sống chung, ý của người này và người kia khác nhau. Nếu hai bên cứ khăng khăng đòi người kia phải theo ý mình thì đương nhiên sẽ dẫn tới cãi cọ hoặc bất mãn không hợp tác. Cho nên mỗi bên phải nhường một chút. Quyết định chung là kết quả của sự dung hòa ý kiến của hai bên.
- Điều kiện thứ ba, nhưng là điều kiện quan trọng nhất, đó là mọi người đều ý thức rằng mình có chung một nguồn gốc, một tinh thần. Cũng như anh chị em trong gia đình dễ tương nhượng nhau, dễ tha thứ nhau, dễ đoàn kết hiệp nhất với nhau và nhờ mọi người ý thức mình là con của cùng một cha mẹ sống chung trong một mái nhà. Thì cũng thế chhúng ta ý thức rằng ai ai dù thế nào đi nữa thì cũng là con người, cũng là đồng bào với nhau thì sẽ dễ đoàn kết nhau hơn. Đối với chúng ta những người Kitô hữu, nếu chúng ta ý thức thêm rằng chúng ta là môn đệ Chúa Giêsu là con Thiên Chúa thì chúng ta cũng dễ yêu thương nhường nhịn và đoàn kết với nhau hơn. Nhưng ai sẽ nhắc chúng ta ý thức điều đó và ai sẽ giúp chúng ta thực hiện đoàn kết hiệp nhất theo ý thức đó? Thưa Chúa Thánh Thần.
Hôm nay lễ Chúa Thánh Thần, chúng ta hãy tha thiết cầu xin Ngài giúp chúng ta.
- Trước hết là biết tôn trọng sự dị biệt nơi những người sống chung với ta.
- Thứ hai xin Ngài giúp mỗi người chúng ta thêm khiêm tốn để có thể tương nhượng người khác khi có bất đồng.
- Và nhất là xin cho mọi người ý thức mình đều là con Chúa, đều là môn đệ Chúa cho nên đều phải yêu thương nhau.
71. Tái tạo
Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện các môn đệ Chúa Giêsu tự nhốt mình trong một căn phòng đóng kín các cửa, lòng đầy sợ sệt. Nhưng sau đó Chúa Giêsu đến với họ và sai họ ra đi, khi đó lòng họ vui mừng và bình an..
Chuyện xảy ra với các môn đệ ngày xưa cũng là chuyện thường xuyên xảy ra cho chúng ta ngày nay. Vậy chúng ta hãy xem lại từng bước câu chuyện này.
Bước thứ nhất: các môn đệ nhốt mình trong phòng kín. Đây là tâm lý co cụm, khép kín. Một tâm lý thường xảy ra. Chắc nhiều người đã biết chuyện Lan và Điệp. Hai người yêu nhau tha thiết. Nhưng Điệp bị gài bẫy nên bị bó buộc phải cưới một người khác. Lan buồn quá. Rồi Lan làm gì? Lan co cụm lại bằng cách đi vào trốn trong chùa. Lan không muốn gặp gỡ ai cả nên trong chùa có một chiếc chuông để khi ai muốn gặp người nào trong chùa thì kéo chuông. Lan cắt đứt luôn sợi dây chuông ấy, nghĩa là cắt đứt hẳn mọi liên hệ với mọi người khác.
Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta vì nhiều lý do nên cũng rơi vào tâm lý co cụm khép kín như thế. Lý do của Lan là thất tình. Có người khác co cụm vì thất vọng. Có người khác nữa vì mặc cảm tội lỗi. Còn lý do của các tông đồ trong tường thuật này là sợ: các ông coi ai cũng là kẻ thù có thể hại mình bất cứ lúc nào nên co rút vào trong phòng và đóng kín các cửa lại. Nhưng ta nên biết con người là một hữu thể mang tính xã hội. Làm người là phải sống với những người khác. Càng sống với chừng nào thì càng đúng là người chừng nấy. Khi ai đó co cụm lại, rút vào vỏ sò thì kể như người ấy không còn là người nữa, người ấy như đã chết.
Ta hãy trở lại câu chuyện Lan và Điệp. Vì Lan đã cắt đứt dây chuông nên Điệp không đến với Lan được. Hai người không bao giờ gặp nhau nữa và dần dần chết héo chết mòn. Chuyện tình của họ đi vào ngõ cụt không lối thoát. Còn câu chuyện trong bài Tin Mừng này thì khác hẳn. Các tông đồ đóng kín cửa không muốn gặp ai, nhưng Chúa Giêsu thì chủ động tìm gặp họ. Họ không có khả năng đến với Chúa thì Chúa chủ động đến với họ. Như thế là Ngài phá vỡ một chiều hướng của sự co cụm. Nói cách khác, Chúa Giêsu mở cho họ một cánh cửa, cánh cửa mở ra phía Chúa. Ngài còn mở cho họ cánh cửa thứ hai hướng về phía tha nhân bằng cách sai họ đi, đi ra khỏi thế co cụm của mình để đến với người khác. Con người là một hữu thể có tính xã hội, làm người là phải sống với người khác. Khi con người cắt đứt mọi liên hệ thì người đó kể như chết. Nay Chúa Giêsu đến với các tông đồ và còn sai họ đến với người khác tức là Ngài nối lại những mối dây liên hệ, tức là Ngài làm cho họ sống lại. Nói đúng hơn, Chúa Giêsu đã tác tạo các môn đệ.
Nhờ đâu mà Chúa Giêsu tái tạo được các môn đệ như thế. Thưa nhờ Chúa Thánh Thần. Bài Tin Mừng này có một chi tiết hàm chứa ý nghĩa rất sâu. Đó là Chúa Giêsu thổi hơi trên các môn đệ. Cũng như ngày xưa Ađam ban đầu chỉ là một tượng bằng bùn đất, nhưng ngay khi Thiên Chúa thổi hơi vào thì tượng bùn đất ấy trở thành người. Thì ngày nay cũng thế, Chúa Giêsu thổi hơi vào các tông đồ. Làn hơi ấy chính là Chúa Thánh Thần, nhờ Chúa Thánh Thần mà các môn đệ đã được tái tạo lại thành những con người mới.
Những con người mới này có những gì đặc biệt: thưa cái đặc biệt thứ nhất là niềm vui. Bài Tin Mừng nói “các tông đồ vui mừng vì thấy Chúa”; cái đặc biệt thứ hai là bình an: không còn sợ gì nữa cả nhưng lòng rất thanh thản. Bài Tin Mừng viết “Chúa Giêsu đứng giữa các ông và nói: bình an cho chúng con”; và cái đặc biệt thứ ba là mang ơn tha thứ đến cho những người khác, bài Tin Mừng nói “Chúng con hãy nhận lấy Thánh Thần. Chúng con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha”.
Nhiều khi chúng ta rơi vào tâm trạng sợ sệt, bất an, mặc cảm tội lỗi. Khi đó chúng ta co cụm lại, rút lui vào nỗi cô đơn của mình và không muốn gặp ai cả. Tình trạng này thật là buồn chán. Phải sống trong tình trạng này thì chẳng khác nào như đã chết. Do đó cần phải có ai đó giúp chúng ta thoát khỏi tâm trạng bất thường ấy. Người ấy là ai? Thưa chính là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là Đấng tái tạo những gì suy sụp và hư mất. Hôm nay cùng với Giáo hội chúng ta mừng kính Chúa Thánh Thần. Nếu có gì đang khiến chúng ta buồn sầu co cụm khép kín, chúng ta hãy bày tỏ với Ngài và xin Ngài giải thoát chúng ta, tái tạo chúng ta thành con người mới, an bình, vui tươi, vui sống với mọi người.
72. Chúa Thánh Thần, quà tặng của lòng thương xót--Jos. Vinc. Ngọc Biển
Thánh Gioan Tông đồ đã nói: “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4, 16). Thật vậy, từ lòng dạ thương xót của Thiên Chúa, Người yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Người cho nhân loại. Đến lượt Đức Giêsu, qua việc nhập thể và nhập thế, cũng như những lời rao giảng và hành động của Ngài, Ngài đã mặc khải và diễn tả xuất sắc lòng thương xót của Thiên Chúa cho con người. Đường thương xót đó không dừng lại cũng như kết thúc qua việc Đức Giêsu về trời, mà còn tiếp diễn và tồn tại muôn đời. Bởi lẽ, Đức Giêsu đã chuyển trao lòng thương xót ấy nơi Chúa Thánh Thần.
Vì thế, Chúa Thánh Thần chính là quà tặng của lòng thương xót mà Thiên Chúa trao ban cho con người. Nên từ ngày Người hiện xuống, lòng thương thương xót của Thiên Chúa như dòng sông không ngừng chảy đến với mọi người qua các chứng nhân dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
1. Chúa Thánh Thần công khai hóa Giáo Hội bằng lòng xót thương
Khi lần dở các trang Tin Mừng, chúng ta thấy trong suốt hành trình tại thế của Đức Giêsu, Ngài đã ấp ủ, cưu mang công cuộc thiết lập Giáo Hội qua việc dạy dỗ, hướng dẫn các Tông đồ cũng như dân chúng đi trong đường lối thương xót của Thiên Chúa để được cứu độ. Tuy nhiên, con đường đó đã trở nên xa lạ đối với các ông và dân chúng khi họ không hiểu được tâm tư của Thầy Giêsu, bởi vì mục đích của họ không nằm trong chương trình và kế hoạch của Thiên Chúa, mà luôn bám vào những suy tính của trần gian.
Nhưng, đến ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần chính thức công khai hóa Giáo Hội qua ơn ban bình an và lửa mến tràn ngập nơi tâm hồn các Tông đồ, qua đó, các ông đã được biến đổi từ một con người ích kỷ, vụ lợi, kiêu ngạo, sợ hãi, nhát đảm, ham sống sợ chết..., trở nên chứng nhân của lòng thương xót.
Điều này đã được các Tông đồ chứng minh bằng thái độ can đảm, hân hoan, sẵn sàng mở tung cánh cửa đã đóng kín, để ra đi loan báo về lòng thương xót của Thiên Chúa ngang qua Đấng chịu đóng đinh cho mọi người, bất chấp mọi khó nguy, liên lụy và ngay cả cái chết.
Khi nói về mục đích của cuộc đời, thánh Phaolô đã diễn tả: “Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô” (Pl 3,8); “Vì đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi” (Pl 1,21)”; nên “Không có gì tách chúng tôi ra khỏi tình yêu của Đức Kitô”; và thánh Phêrô cũng biểu lộ tâm tình hân hoan khi: “được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5, 41).
Vì thế, các Tông đồ luôn coi việc loan báo Tin Mừng là một điều cấp thiết đến độ không thể không thi hành: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”.
2. Hoa trái lòng thương xót của Chúa Thánh Thần được triển nở trong đời sống Giáo Hội
Như vậy, kể từ ngày Giáo Hội công khai hóa, các Tông đồ đã cảm thấu và đón nhận lòng xót thương của Thiên Chúa thật dồi dào, nên tâm hồn các ông tràn đầy bình an và lửa sốt mến, khiến các ông đã không giữ lại cho riêng mình, nhưng đã chuyển trao cho mọi người, nhất là những người nghèo khó, bất hạnh, bị áp bức, bất công...
Cũng thế, trải qua dòng thời gian hơn 2.000 năm qua, Chúa Thánh Thần vẫn không ngừng hiện diện và hoạt động cũng như làm cho kho tàng lòng thương xót của Thiên Chúa luôn được tỏa sáng như ngọn hải đăng trên con thuyền của Giáo Hội.
Những dấu ấn ghi đậm sự can thiệp của Chúa Thánh Thần như: Giáo Hội luôn gặp nhiều giông tố, bão bùng, nguy khốn; biết bao kẻ đe dọa, chống phá và muốn hủy diệt Giáo Hội ngay trong trứng nước, từ thời sơ khai và cho đến tận hôm nay! Nhưng Giáo Hội Chúa vẫn hiên ngang, đứng vững, lớn mạnh không ngừng và tồn tại muôn đời.
Sự can thiệp của Chúa Thánh Thần còn được thể hiện cụ thể qua việc biến đổi tâm hồn con người. Vì thế, biết bao người nguội lạnh, khô khan, cố chấp... Nhưng qua một biến cố hay sự kiện nào đó, họ được khai trí mở lòng, nên đã ngoan ngùy dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, nhất là cảm nghiệm được lòng thương xót của Thiên Chúa trên cuộc đời, lập tức họ đã trở nên những người yêu mến Giáo Hội hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn.
Hay có những người “dốt đặc cán mai”; “chân lấm tay bùn”; hoặc thuộc hạng “cùng đinh” trong xã hội, nhưng sau khi được Chúa Thánh Thần đổ đầy lòng xót thương trên cuộc đời họ, họ đã trở thành những người lỗi lạc, hàn lâm, uyên bác đến lạ thường khi nói và làm chứng về Chúa cho anh chị em...!
Lại có những kẻ trước đây thuộc về thế giới ma quỷ. Sẵn sàng làm đồ đệ cho chúng và ra tay tàn ác với anh chị em đồng loại, thậm chí ngược đãi, chống phá Giáo Hội... Nhưng sau khi được Chúa Thánh Thần thánh hóa và xót thương, nay lại trở thành những chứng nhân Tin Mừng ngay giữa lòng xã hội...
Đây chính là hoa trái lòng thương xót của Chúa Thánh Thần.
3. Hãy làm cho hoa trái xót thương của Chúa Thánh Thần triển nở
Ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Thêm Sức, mỗi người được đón nhận Chúa Thánh Thần cách dồi dào và phong phú. Tuy nhiên, ơn thánh của Chúa Thánh Thần không chỉ dừng lại trên cá nhân, mà phải sinh hoa kết trái đến với người khác, để mọi người đều được chung chia niềm vui và hạnh phúc như chúng ta.
Vì thế, mừng lễ Chúa Thánh Thần hôm nay, mỗi người hãy suy nghĩ và tự cật vấn bản thân xem: đã bao lần ta thờ ơ, khước từ ơn Chúa đến với mình; biết bao lần ta đã đóng chặt ơn Chúa cho riêng bản thân và đã vô cảm trước tiếng kêu gào thống thiết của người nghèo khổ, đói khát cơ bần nơi xó chợ, bãi rác, ngoài công viên, nơi bến xe, gầm cầu...?
Biết bao lần ta đã lựa chọn sự hời hợt, hình thức, tham lam, ích kỷ, vụ lợi, ghen tương, vu khống, kiêu ngạo, thù hận, thiếu niềm tin, lòng trông cậy và yêu mến Chúa trong đời sống đạo? Biết bao lần ta đã phớt lờ tiếng nói của Lương Tâm, để lựa chọn những hành vi tội lỗi không phù hợp với bản chất Công Giáo và giá trị Tin Mừng?
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người hãy tha thiết xin Chúa Thánh Thần ban ơn bình an và lòng thương xót của Người cho chúng ta. Khi có được sự an bình thư thái và ngụp lặn trong tình thương của Thiên Chúa, mỗi người sẽ làm cho hoa trái của Chúa Thánh Thần được triển nở trong tâm hồn và đời sống của chúng ta ngang qua những lựa chọn đầy chất Kitô của mình.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy ngự đến để biến đối tâm hồn chúng con cho phù hợp với tư cách người môn đệ của Chúa trong lòng xã hội hôm nay. Amen.
73. Chúa Thánh Thần, tiếp nối con đường thương xót--Jos. Vinc. Ngọc Biển
Tin Mừng Ga 20: 19-23: Chúa Thánh Thần sẽ tiếp nối con đường xót thương ấy qua việc bào chữa, an ủi và trong vai trò khai trí mở lòng.
Trình thuật Tin Mừng hôm nay tiếp nối tuần trước trong bối cảnh bữa Tiệc Ly và nó nằm trong diễn từ ly biệt giữa Đức Giêsu và các môn đệ.
Trong diễn từ này, Đức Giêsu loan báo cuộc ra đi của Ngài bằng con đường thương xót theo ý Chúa Cha qua cái chết trên thập giá cho các môn đệ. Tuy nhiên, lời loan báo này đã làm cho các ông xao xuyến, hoang mang vì mất đi điểm tựa.
Nhưng, Đức Giêsu, nhân cơ hội này, đã giúp cho các ông hiểu rõ hơn về một cuộc hiện diện khác, cuộc hiện diện thần linh, nhiệm mầu.
Để cho sự hiện diện này được khăng khít, người môn đệ phải đi trên con đường của Thầy đã đi. Phải chung nhịp đập xót thương với Thầy. Chìa khóa để đi vào sự hiệp thông trọn vẹn ấy chính là yêu mến và tuân giữ Lời của Ngài.
Đây là con đường tình yêu của Thầy và trò. Đây cũng là đường thương xót để đến với tha nhân. Chúa Thánh Thần sẽ tiếp nối con đường xót thương ấy qua việc bào chữa, an ủi và trong vai trò khai trí mở lòng, nhằm giúp các ông hiểu tường tận những Lời Đức Giêsu đã dạy, để họ cũng thi hành cùng một hành vi xót thương đến với tha nhân như chính bản thân đã cảm nghiệm.
1. Tuân giữ Lời và thi hành là yêu mến cách trọn vẹn
Tin Mừng hôm nay, thánh sử Gioan đã khéo léo trình bày tâm trạng hỗn độn, hoang mang, sợ hãi của các môn đệ khi nghe tin Thầy của họ sắp sửa ra đi để chịu chết. Họ lo sợ bởi tính háo thắng, ham danh, muốn được ưu đãi, trọng thị, mong được hưởng những đặc quyền, đặc lợi theo kiểu trần gian.... những lý tưởng đó sắp bị tan thành mây khói.
Đến đây, chúng ta hiểu thêm một điều nữa, đó là: vì những lựa chọn rất tầm thường đó chỉ đạo tâm tưởng của các môn đệ, nên những điều Thầy của họ giảng cũng như những việc Ngài làm... đã không ăn nhập gì với mục đích cũng như chẳng giúp các ông nhận ra sứ vụ Thiên Sai, đầy thương xót của Đấng Cứu Thế!
Thấu hiểu tâm trạng và diễn biến tâm lý nơi các học trò, nhất là nỗi hãi vì sự liên lụy đến cái chết của mình, nên Đức Giêsu đã trấn an: “Đừng xao xuyến và buồn sầu” (Ga 14,27). Ngay sau đó, Ngài đưa ra một chỉ dẫn để giữa các ông và Ngài có một mối thông hiệp cách chặt chẽ: “Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy tuân giữ các giới răn của Thầy” (Ga 14,5). Việc tuân giữ và thi hành Lời của Thầy, ấy là thước đo chính xác và cụ thể nhất lòng yêu mến của các ông đối với Ngài. Đồng thời, khi tuân giữ Lời của Thầy, các ông sẽ hướng đích cuộc đời mình dưới cái nhìn sứ vụ. Như thế, giữa trăm chiều thử thách trông gai, và ngay cả cái chết, các ông vẫn vui mừng và sẵn sàng thốt lên: “Không có gì tách chúng tôi ra khỏi tình yêu của Đức Kitô”; và: “Đối với tôi sống là sống cho Đức Kitô và chết là một mối lợi”. Hơn nữa, khi yêu mến và giữ lời của Thầy, họ sẽ được hưởng trọn vẹn lòng thương xót, đến độ không còn gì có thể so sánh bằng, bởi nơi tình yêu ấy, có sự hiện diện và xót thương của cả Ba Ngôi Thiên Chúa: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, Chúng Ta sẽ đến và ở lại với người ấy”(Ga 14,23).
2. Chúa Thánh Thần tiếp nối con đường thương xót
Để cuộc đời và sứ vụ của các môn đệ sang một trang mới, nên ngoài việc Đức Giêsu chỉ cho các ông tuân giữ Lời của Ngài, thì việc loan báo về Chúa Thánh Thần trong vai trò là Đấng An Ủi, Bào Chữa... là điều hết sức quan trọng.
Vì thế, Đức Giêsu đã nói với các ông: “Thầy ra đi thì có lợi cho các con. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với các con; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với các con”(Ga 16,7).
Khi Chúa Thánh Thần đến, Người sẽ làm cho sự hiện diện của Thầy trò trong trạng thái “cách mặt, nhưng gần lòng”, bởi vì: “Đấng Bào Chữa là Thánh Thần sẽ dạy các con mọi điều và sẽ làm cho các con nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với các con” (Ga 14,26).
Thật vậy, như đã nói: nhiệm vụ của Chúa Thánh Thần là tiếp nối đường thương xót của Đức Giêsu trong vai trò dạy dỗ và nhắc lại những điều Đức Giêsu đã loan báo lúc tại thế. Khi nhắc cho các ông điều Đức Giêsu đã nói không phải chỉ là ôn lại, nhưng theo cách hiểu của Thánh Kinh là: khám phá ra ý nghĩa lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu dưới ánh sáng của biến cố phục sinh. Qua việc tiên báo này, Đức Giêsu sẽ hiện diện trong Lời của Ngài cách cụ thể qua vai trò Trung Gian của Chúa Thánh Thần. Vì thế, mặc dù ra đi, nhưng lòng lại gần lòng hơn bao giờ hết, và các môn đệ không bao giờ bị cảnh mồ côi đơn chiếc, vì: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (x. Ga 14,18).
Để đảm bảo lời hứa, nhất là giúp cho các môn đệ được can đảm, trung thành đi đến cùng con đường thương xót mà Đức Giêsu muốn các ông tiếp bước trong lòng mến, nên Đức Giêsu hứa ban cho các ông sự bình an riêng của Ngài. Đây là sự bình an đặc biệt, bình an nội tâm, một sự bình an tuyệt hảo mà chỉ Thiên Chúa mới có và mới ban tặng cho chúng ta: “Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban cho các con bình an của Thầy, Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng”(Ga 14,27).
Lời dạy và những ân ban của Đức Giêsu cho các môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay, cũng là lời mời gọi và nhắc nhớ mỗi người chúng ta trong tư cách là người môn đệ của Đức Giêsu trong Giáo Hội của Ngài.
3. Sứ điệp Lời Chúa
Sống trong một xã hội đang bị đe dọa đủ thứ, nhất là sự xáo trộn về giá trị đạo đức trong mọi lãnh vực...! Ơn bình an đích thực dường như vắng bóng trong xã hội. Có lẽ con người không còn đủ niềm tin vào thực tại cuộc sống, bởi lẽ, sự “tử tế” gần như là một cái gì đó xa xỉ nếu không muốn nói là người ta không thích nhắc đến, bởi khi nhắc đến, họ sợ cái “bụng” bị đói!
Trong một môi trường “ô nhiễm” do nạn thượng tôn “ông chủ bụng” mà trà đạp lên sự “tử tế” như vậy, nhiều người muốn sống đàng hoàng cũng khó, bởi vì: “Thật thà, thẳng thắn thì thường thua thiệt”; “Gian tham lọc lừa lại lên lương”. Người ta coi: “Chân Lý và chân giò bằng nhau”; “Lương Tâm, lương thực và lương tháng cùng giá trị”!
Từ thực trạng trên, người nghèo trở thành đối tượng nhắm đến cho những nhu cầu bất chính nơi một số “Chủ nhân ông”. Từ đó gây nên sự bất an trong xã hội.
Nguyên nhân chính yếu đó là: họ đã không có lòng thương xót, đã tách Lời Chúa ra khỏi cuộc sống. Quan điểm: “Kính nhi viễn tri”; hay: “Mũ ni che tai” đối với Lời Chúa là điều mà nhiều người trong chúng ta chọn lựa.
Vì thế, họ sợ phải sống theo Lời Chúa dạy. Không dám đối diện với sự thật và lòng xót thương. Khước từ cũng như trối bỏ chân lý, nên không dám sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy ngoan ngùy dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Luôn trung thành tuân giữ và yêu mến Lời Chúa. Đem Lời Chúa vào cuộc sống. Để Lời Chúa trở thành “khuôn vàng thước ngọc”; là “kim chỉ nam”, đem lại sự hợp nhất, yêu thương, tha thứ, biến đổi, nhất là sự bình an. Đây cũng là dấu chỉ của người đang đi trong đường lối thương xót của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến và làm cho tâm hồn chúng con nóng lên ngọn lửa yêu mến Chúa. Amen.
74. Chúa Thánh Thần là Thần Chân Lý--Jos. Vinc. Ngọc Biển
Trong lịch sử cứu độ của Dân Chúa, Chúa Thánh Thần đóng vai trò rất quan trọng trong nhiệm cục cứu độ từ khi sáng tạo cho đến ngày tận cùng của nhân loại. Chúa Thánh Thần chính là linh hồn của Giáo Hội. Người chính là Sinh Khí trong thân xác. Sự sống thiêng liêng của con người không thể sống nếu thiếu Sinh Khí là Chúa Thánh Thần.
Khi xuống trần gian, Chúa Giêsu đã mặc khải cách tiệm tiến về Chúa Thánh Thần. Cuối cùng, Ngài đã trao ban Chúa Thánh Thần cho nhân loại thông qua việc thổi hơi trên các Tông đồ. Khi Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên các ông, Người đã biến đổi các ông. Ngài ban cho các ông sức mạnh, lòng cam đảm và sự trung thành để làm chứng cho Chân Lý là chính Đức Kitô.
1. Chúa Giêsu trao ban Chúa Thánh Thần để biến đổi các Tông đồ
Khi các Tông đồ phải đối diện với cái chết của Chúa Giêsu, các ông hoang mang, sợ hãi và tìm mọi cách để chạy trốn thoát thân. Hình ảnh Phêrô, một Phêrô chối Chúa, cho chúng ta thấy sự yếu đuối của con người đứng trước những thử thách. Rồi sau khi Chúa Giêsu chết, tất cả các ông đều sợ hãi, vì thế, họ đã đóng kín cửa. Các ông sợ vì Thầy mình mà họ ghét mình; họ đã giết Thầy thì họ cũng sẽ tìm cách giết môn đệ của Thầy để dẹp luôn những tư tưởng của Thầy đã gieo vào trong lòng của các ông. Nhưng điều quan trọng là các ông có thể cũng đang hoang mang về chính ơn cứu độ mà Chúa Giêsu đã rao giảng. Các ông cũng như những người đương thời, họ cho rằng Chúa Giêsu chết là hết. Thất vọng, chán trường và sợ hãi là tâm trạng của người thất bại. Đang lúc đó, Chúa Giêsu hiện đến, thổi hơi vào các ông và phán: "Bình an cho các con! Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần". Chúa biết rõ các ông đang trong tình trạng tâm lý xáo trộn và bất ổn... Chúa trao ban bình an tức là trao ban chính Chúa. Những ngày các ông sống với Chúa lúc Ngài chưa chịu chết, các ông cảm thấy hạnh phúc như thế nào thì giờ đây, cũng chính Chúa Giêsu đó đem lại cho các ông sự bình an sau những ngày trốn chạy. Ngài trấn an các ông bằng chính sự hiện diện cụ thể của Ngài, qua đó, Ngài xoá đi mọi nỗi sợ sệt nơi các ông. Rồi ngay sau đó, Ngài đã trao phó sứ mạng loan báo Tin Mừng cho các ông: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo". Hãy đi rao giảng, thì cũng sẽ chết như Thầy. Chết như Thầy thì mới được Phục sinh như Thầy. Qua đó, Ngài dạy cho các ông một quy luật tất yếu là: muốn vào vinh quang thì phải qua đau khổ, phải chịu chết thì mới có sự sống viên mãn. Nhưng để làm được điều đó quả thật không dễ chút nào. Chính vì vậy, Ngài đã ban Chúa Thánh Thần đến trên các ông, để Người đổi mới tinh thần, trái tim và ở cùng các ông cũng như những người đón nhận lời rao giảng của các ông mọi ngày cho đến tận thế. Người chính là Đấng làm cho các ông nhớ lại những lời Chúa Giêsu đã rao giảng và giúp các ông can đảm làm chứng về những điều mắt thấy tai nghe.
2. Chúa Giêsu trao ban cho các Tông đồ Thần Chân Lý
Chúa Thánh Thần, Người chính là Thần Chân Lý: "Thầy sẽ xin Chúa Cha, và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi: đó là Thần Khí sự thật". Chúa Thánh Thần là Thần Chân Lý, Ngài sẽ giúp cho các môn đệ hiểu được những lời Chúa Giêsu đã rao giảng. Ngài sẽ bào chữa cho các ông khi phải ra trước mặt quan toà để làm chứng cho sự thật: "Khi người ta đưa anh em ra trước hội đường, trước mặt những người lãnh đạo và những người cầm quyền, thì anh em đừng lo phải bào chữa làm sao, hoặc phải nói gì, vì ngay trong giờ đó, Thánh Thần sẽ dạy cho anh em biết những điều phải nói" (Lc 12,11-12). Thật thế, nếu xét trên bình diện con người, các ông làm sao có thể thi hành một sứ mệnh cao cả và quan trọng đến như vậy. Bởi vì các môn đệ là những người rất bình thường trong những người bình thường nhất. Họ là những người quanh năm suốt tháng chỉ biết sống với nghề chài lưới, vật lộn với sóng nước biển khơi, học vấn thì kém cỏi, khả năng diễn thuyết trước công chúng thì quá xa vời đối với các ông. Thế nhưng, sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các ông đã hân hoan lên đường để làm chứng cho Chúa Giêsu, một Chúa Giêsu đã chết và sống lại. Quả thật, ngay sau Lễ Ngũ Tuần, Phêrô đã có bài giảng đầu tiên và ngay ngày hôm ấy, đã có khoảng 3.000 người tin theo (x. Cv 2,41). Như vậy, Chúa Thánh Thần chính là Đấng Bào Chữa, Đấng ban sức mạnh để các Tông đồ ra đi làm chứng cho sự thật. Một sự thật mang tính siêu việt để cứu độ qua cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu.
3. Chúa Thánh Thần và đời sống chứng nhân của người Kitô hữu
Ngày xưa, khi các Tông đồ chưa nhận được ơn Chúa Thánh Thần thì họ lo lắng, sợ hãi, thiếu tự tin... Nhưng khi các ông đã nhận được Chúa Thánh Thần, các ông đã hân hoan lên đường để trao truyền chân lý. Các ngài đã coi đó như là mối lợi tuyết đối mà Chúa dành cho mình. Còn chúng ta ngày nay thì sao?
Trước tiên, cần phải xác định thật rõ: rao giảng chân lý là rao giảng về một chân lý tuyệt đối, bởi vì không có chuyện nước đôi hay nửa vời. Đã tôn thờ Thiên Chúa thì chỉ tôn thờ mình Ngài mà thôi. "Phải tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất, ngoài Người ra, không được có thần nào khác" (x. Đnl 6,4-7). Là người Công giáo, được lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, Thêm Sức, là chúng ta lãnh nhận Chúa Thánh Thần cách dồi dào. Chúng ta có trách nhiệm loan truyền Chúa Kitô và làm chứng về Ngài trong gia đình, làng xóm, xứ đạo và thế giới hôm nay bằng đời sống tôn thờ Thiên Chúa duy nhất và sống những giá trị Tin Mừng đòi hỏi.
Thế nhưng, thực tế thì khác nhiều lắm! Nếu được hỏi: "Ông bà, cô bác... có tin Chúa không?", ngay lập tức ta sẽ nhận được câu trả lời là "có", thậm chí còn bị mắng vốn là "hỏi thế mà cũng hỏi"; "hỏi ấm ớ...". Nhưng thực tế, thử hỏi trong đời sống đức tin, chúng ta sống đạo hay chỉ giữ đạo? Hẳn nhiều người cũng đã chứng kiến những cảnh cãi vã nhau gay cấn ngay khi vừa ra khỏi nhà thờ sau thánh lễ và không nhân nhượng khi tuyên bố: "Tao mà không Rước lễ trong lễ vừa rồi thì hôm nay tao sẽ xé xác mày"; rồi những lần đi lễ "ôm", những cảnh "đạo gốc" (đi lễ nhưng ngồi ở những gốc cây quanh nhà thờ). Khi buôn bán: 1kg ăn 800gr; bơm nhồi hoá chất độc hại vào những rau, củ, quả... mà mình sẽ bán, và còn biết bao nhiêu cách làm lợi bất chính khác nữa... Như vậy, trên lý thuyết: tin thì vẫn cứ tin, ít ai có khái niệm bỏ đạo, nhưng cách sống thì cứ bon chen quỷ quyệt... vẫn cứ ung dung hàng hai ta đi, không thiếu gì những khối "ung nhọt" nằm trong thân xác tráng kiện bên ngoài với cái mác hai chữ Công giáo. Lại nữa, chúng ta cũng thấy không ít người Công giáo sống đạo theo kiểu "lâm thời". Khi gian nan thử thách đến là sẵn sàng khấn "ông nọ" vái "bà kia" thay Chúa ngay lập tức. Đây phải chăng là những căn bệnh trầm kha trong cách sống đạo của nhiều người Công giáo hiện nay.
Như vậy, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã trao ban Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ, đồng thời Ngài cũng trao phó sứ vụ loan báo Tin Mừng đến tận cùng trái đất cho những người kế vị các ông. Chúa Thánh Thần chính là Thần Chân Lý, Ngài được trao ban cho các Tông đồ để các ông nhớ lại những điều Chúa Giêsu loan báo. Ngài còn là Đấng Bào Chữa, Đấng An Ủi. Ngài đến để tăng sức mạnh cho các ông, khiến các ông sẵn sàng ra đi làm chứng cho Đức Kitô, làm chứng cho chân lý. Rồi đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải lên đường, bởi vì là người Công giáo, sứ mạng loan báo Tin Mừng thuộc về chúng ta. Chúng ta phải đảm nhận trách nhiệm đó như là cứu cánh của mình. Có nhiều cách loan báo Tin Mừng như: rao giảng; gương sáng; thật thà; vui tươi... Dẫu có gặp phải gian nan thử thách, ngay cả tù tội và chết chóc, chúng ta vẫn cứ lên đường vì biết rằng: sau cơn mưa trời lại sáng. Mây đen không thể che mãi được mặt trời, sự giả dối hay tội lỗi không thể nào phủ lấp được chân lý.
Chỉ có chân lý mới giải thoát chúng ta cách toàn diện (x. Ga 8,32). Chỉ có chân lý mới dẫn đưa ta đến sự sống đời đời, bởi vì cuộc đời con người không chỉ có ở đời này mà còn cuộc sống mai hậu nữa.
Mừng Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, chúng ta cũng cầu xin Chúa cho các chứng nhân đang xả thân trên cánh đồng truyền giáo, luôn được ơn Chúa phù trợ, để kiên định trong đức tin, bền lòng trong đức cậy và nhiệt thành trong đức mến, để không ai và không có gì tách các ngài ra khỏi tình yêu Đức Kitô.
Để kết thúc, xin mượn lời của Thánh Amrôsiô khi nói về sứ mạng của người Kitô hữu khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần như sau: "Hãy nhớ, bạn đã lãnh nhận ấn tín thiêng liêng của Chúa Thánh Thần là Thần Trí khôn ngoan và thông hiểu, Thần Trí lo liệu và sức mạnh, Thần Trí suy biết và đạo đức, Thần Trí dạy cho biết kính sợ Thiên Chúa. Hãy gìn giữ những gì bạn đã lãnh nhận. Chúa Cha đã ghi ấn tín của Người nơi bạn. Chúa Kitô đã tăng sức cho bạn và đặt trong bạn bảo chứng của Chúa Thánh Thần".
Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến để Người đổi mới mặt địa cầu; để Người dẫn chúng con đến sự thật toàn vẹn và xin ban sức mạnh; lòng cam đảm để chúng con sẵn sàng ra đi làm chứng cho sự thật là chính Đức Kitô và luôn sống những giá trị Tin Mừng trong cuộc sống hằng ngày. Amen.
75. Ngôn ngữ
Ngôn ngữ là phương cách thông tin, biểu lộ tâm tình cho nhau và dùng để liên lạc với nhau trong cuộc sống. Bất cứ dân tộc nào trên mặt đất cũng đều có ngôn ngữ cho mình. Trong niềm tin đạo giáo chúng ta dùng ngôn ngữ gì để bày tỏ tâm tư của mình với Chúa? Và Chúa dùng ngôn ngữ gì để thông tin nói với ta?
Nói với Chúa chúng ta dùng ngôn ngữ của ta, vì Ngài hiểu được hết. Còn khi Chúa nói với chúng ta. Ngài cũng dùng ngôn ngữ của chúng ta. Nhưng khi nói loan truyền lời Chúa cho các dân tộc khác nhau về ngôn ngữ, ngôn ngữ gì được sử dụng để mọi người có thể nghe hiểu được?
Kinh thánh thuật lại phép lạ ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống như sau: Gió thổi đến và lửa chiếu dọi ánh sáng cùng mang hơi nóng trên các tông đồ. Đó là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, Người từ nay thay Chúa Giêsu cùng đồng hành với họ và trong Hội thánh Công giáo. Khi Chúa Thánh Thần xuống trên các tông đồ, Ngài mang đến cho các ông luồng gió mới. Luồng gió mới này làm các ông phấn khởi tung cửa đứng ra trước công chúng nói về Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đã sinh ra, đi khắp nơi rao giảng tin mừng nước Thiên Chúa, chữa lành bệnh tật cho người đau ốm, mang niềm an ủi cho người bị bỏ rơi, bị đau khổ, sau cùng đã chết và đã sống lại. Các ông được ơn lạ nói những thứ ngôn ngữ của tất cả những người hôm đó hiện diện nghe các ông. Chúa Thánh Thần ban cho các tông đồ ân đức nói thứ ngôn ngữ mà tất cả mọi người cùng hiểu được, bất kể họ đến từ xứ sở nào...
Phép lạ này nói lên quyền năng của Thiên Chúa thực hiện nơi con người. Ngày xưa, con người cũng đã có lần toan tính xây cất tháp Babel chạm tới tầng trời, nhưng Thiên Chúa đã phá hủy toan tính kiêu ngạo của họ bằng các ngôn ngữ khác nhau. Vì ngôn ngữ bất đồng, họ không thể thông hiểu nhau, nên công trình đó đã tan hoang.
Máy vi tính ngày nay là phát minh mới lạ của con người. Máy cũng có một thứ ngôn ngữ riêng. Ngôn ngữ của máy vi tính xây dựng trên cơ sở lý luận toán học và sự chính xác. Ngôn ngữ máy vi tính giúp con người rất nhiều trong việc thông tin và trao đổi liên lạc với nhau nhanh chóng.
Trong đời sống, con người chúng ta dùng ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ như Anh, Pháp, Việt Nam... cho nhu cầu thông tin liên lạc với nhau. Nhưng có một thứ ngôn ngữ ngay từ thuở sơ sinh ai chúng ta cũng có, cũng biết: ngôn ngữ tình yêu, ngôn ngữ vỗ về âu yếm, ngôn ngữ sưởi ấm tâm hồn. Khi ngôn ngữ này được nói ra bằng âm thanh hay biểu lộ qua nét mặt nụ cười của ông bà cha mẹ, anh chị em, tất cả mọi người đều hiểu được cả.
Ngôn ngữ tình yêu này phát xuất từ trái tim tâm hồn, nên gọn nhẹ trong sáng và truyền đi tín hiệu nhanh chóng nhậy cảm ngay từ những giây phút đầu tiên của sự sống một con người. Qua ngôn ngữ này mối liên lạc tình người được xây dựng từ cha mẹ tới con cái còn thơ bé, con người với nhau trong đời sống. Thiên Chúa với công trình sáng tạo của Ngài trong hoàn vũ và con người với Thiên Chúa.
Ngôn ngữ này không viết bằng mẫu tự A B C hay hình vẽ biểu tượng như chữ nho, chữ Thái lan, chữ Ả rập... cũng không bằng những dấu hiệu chương trình lý luận toán học như ngôn ngữ của máy vi tính. Nhưng ngôn ngữ này từ bẩm sinh nằm ẩn sâu trong trái tim tâm hồn mỗi người. Mỗi người đều có chương trình ngôn ngữ này và đều có thể sử dụng được chương trình này.
Dù là tiếng mẹ đẻ, ta cũng cần phải học, phải mài giũa, phải sửa đổi mới hoàn chỉnh trong sáng văn phạm cùng câu cú. Dù là ngôn ngữ đã được hệ thống và cài sẵn chương trình chạy trong máy vi tính, người sử dụng máy cũng vẫn phải học cách sử dụng điều khiển sao cho đúng không bị sai lầm.
Những sai lầm trong tiếng mẹ đẻ và trong ngôn ngữ máy vi tính là do con người sử dụng gây ra. Và chúng ta phải điều chỉnh lại cách sử dụng cho đúng. Trong ngôn ngữ tình yêu cũng thế, khi chương trình ngôn ngữ này chạy không đúng là do con người gây ra. Thiên Chúa ghi trong tâm hồn mỗi người chương trình ngôn ngữ này, nhưng khi sử dụng hoặc là con người không dùng đúng chương trình này hoặc là muốn sử dụng chương trình sai riêng của mình. Vì thế sinh ra sai lầm và không còn truyền đi tín hiệu thông tin, hiểu nhau được nữa.
Những sai lầm này là thiếu tình liên đới với nhau, khi chỉ chú ý đem quyền lợi riêng tư của mình. Ngôn ngữ tình yêu kêu gọi sự hiểu biết thông cảm với nhau, niềm vui, niềm hy vọng, sự tha thứ làm hòa và tình liên đới trong cuộc sống.
Ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống năm xưa, các thánh tông đồ đã tìm ra được ngôn ngữ chung cho hết mọi người. Ngôn ngữ này do Chúa mang đến và ghi khắc trong tâm hồn con người. Qua ngôn ngữ này ai cũng hiểu được tin mừng ơn cứu độ của Chúa và cùng nhau tìm về với Chúa, với nhau là anh em con một Chúa: ngôn ngữ tình yêu.
Chúa Thánh Thần mang từ trời cao đến cho con người ngôn ngữ của Chúa Cha, ngôn ngữ này khác gì là “tiếng mẹ đẻ” của con người: ngôn ngữ tình yêu – ngôn ngữ của toàn cầu.
76. Quyền năng
Trong một lần giáo huấn, Chúa Giêsu đã quả quyết với các tông đồ: “Sự gì các con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc. Sự gì các con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở”. Và hôm nay, sau ngày Phục sinh, trong một lần hiện ra với họ, Chúa Giêsu đã phán: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai thì tội người ấy bị cầm lại”. Khi nói lên lời đó, Ngài chính thức thiết lập Bí tích Giải tội, ủy thác cho Hội thánh quyền năng tha thứ và cầm buộc. Quyền năng này không chỉ được trao ban cho các tông đồ nhưng còn thông chuyển đến các đấng kế vị là các giám mục và những linh mục hiệp thông với các ngài. Qua lời tuyên bố thiết lập Bí tích Giao hòa Chúa Giêsu muốn nói với các vị thừa tác viên đầu tiên và những người kế nghiệp rằng: một khi dưới đất họ đọc lên lời tha tội “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” thì lập tức trên trời Ngài sẽ chuẩn y, và dù tội con người có thẫm như máu đào cũng sẽ được biến đổi tinh trắng như bông.
Trong Tông thư Reconciliation and Penance, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã khẳng định: “Khơi dậy lòng sám hối và thay đổi tâm hồn nhân thế cùng trao ban cho con người tặng phẩm giao hòa chính là sứ mạng đặc thù của Hội thánh khi tiếp nối công trình cứu độ của Đấng sáng lập”. Có người đặt vấn đề: Tại sao lại phải đi xưng tội với một linh mục? Tới thẳng với Chúa không được sao? Lẽ dĩ nhiên Chúa Giêsu có trăm muôn ngàn cách tha thứ tội lỗi con người, nhưng phương cách Ngài “làm người” để cứu thế và “chọn con người” để thi hành quyền ý định của Thiên Chúa cũng có đó một số lý do khiến cho việc xưng tội với một linh mục trở nên cần thiết.
Catholicism and Life có chỉ ra những lý do như sau:
Thứ nhất, vì “có những tội được tha và có những tội bị cầm” nên hối nhân phải xưng tội mình ra thì linh mục mới có thể xác định được tội nào được tha và tội nào bị cầm.
Thứ hai, việc xưng tội với một linh mục sẽ giúp cho con người trở nên khiêm tốn. Người ta dễ chừa tội hơn khi biết rằng nếu mình phạm, mình sẽ phải xưng.
Thứ ba, chắc chắn hối nhân sẽ đón nhận được ơn thánh hóa từ Bí tích Hòa giải. Nhưng trước đó, họ sẽ nhận được những lời khuyên hữu ích từ vị linh mục, giúp họ thăng tiến hơn trên đường thiêng liêng. Thêm vào đó, có không ít khuynh hướng nhiệm nhặt hay buông thả khiến cho có người quá khắt khe, thấy điều chi cũng tội, hay có người quá lỏng lẻo đến nỗi bao tội tày trời cũng cho là chẳng có gì ghê gớm. Thậm chí có khi còn biện minh để lương tâm thấy tội nhẹ đi hay không còn tội lỗi gì nữa. Vì vậy, nếu không có sự trợ giúp của vị linh mục làm sao người ta có thể quân bình với chính mình và chân thành với Thiên Chúa được. Cuối cùng, khi ban ơn tha tội, vị linh mục thay mặt Chúa sẽ bảo đảm ơn tha thứ cho hối nhân. Đối với người đi “xưng thẳng” với Chúa, ai sẽ đoan quyết cho điều đó? Chắc chắn không ai hết.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã cảnh cáo những người cho mình không cần Bí tích Giải tội như sau: “Thật là điên rồ và kiêu căng đối với những ai tự ý coi thường phương thế trao ban ơn sủng và cứu thoát mà chính Chúa Giêsu thiết lập, nhất là đối với những kẻ cho rằng không cần đến Bí tích Giải tội để được tha tội”.
Có nhiều người vì ý thức lệch lạc nên coi thường xưng tội, nhưng cũng có không ít người vì đánh mất cảm thức về tội nên không còn thấy cần đi xưng tội nữa. Thậm chí có người xấu hổ ngại ngùng khi phải thú nhận tội mình với kẻ khác. G. K. Chesterton, một nhà văn trở lại Công giáo đã viết: “Không việc gì phải xấu hổ về những dại dột của mình... Đã là con người không ai không có lỗi lầm, nhưng lỗi lầm kinh khủng nhất của con người là cho mình không có lỗi”. Thánh Gioan tông đồ viết thẳng thừng hơn: “Nếu ta nói: ta không có tội là ta tự lừa dối mình, và sự thật không có trong ta”. Trái lại, “Nếu ta xưng thú tội lỗi mình thì người trung tín và công chính đủ để tha thứ tội lỗi cho ta, và tẩy ta khỏi mọi bất chính”.
Một điều luôn gắn liền với Bí tích Giải tội là “ấn tòa” mà tất cả mọi linh mục phải tuân giữ. Không một điều gì nghe trong tòa mà cha giải tội lại được phép nói ra cho người thứ ba, dù tính mạng của mình bị đe dọa hay an ninh quốc gia được bảo toàn.
Lịch sử Giáo hội ghi nhận biết bao hình ảnh hào hùng của những con người dám lấy máu đào bảo vệ đức tin, trong đó cũng có hình ảnh của những linh mục dám lấy mạng sống bảo vệ “ấn tòa giải tội”.
Cha Gioan Nepomucene là mẫu gương tiêu biểu trong thế kỷ 14. Ngài là cha giải tội của hoàng hậu Jane, nước Bohemia. Vua Wenceslaus là người đa nghi và ghen tuông. Vì muốn biết hoàng hậu đã làm điều chi thầm lén nên vua yêu cầu cha Gioan thuật lại những gì nàng xưng ra với ngài.
Tưởng rằng quyền lực và uy thế của mình có thể khui được ít nhiều bí mật nơi miệng cha Gioan, nhưng vua đã lầm. Vị linh mục của Chúa nhất quyết không hé lộ bất cứ điều gì. Kết quả, ngài bị nhốt vào hầm tối, và một đêm kia, bị nhận nước cho đến chết.
Ba trăm năm sau, khi khai quật lăng mộ cha Gioan, những người hữu trách ngỡ ngàng chứng kiến thân thể ngài mục hoàn toàn, ngoại trừ chiếc lưỡi vẫn nguyên vẹn như lúc còn sống. Ngày nay, trên chỗ ngài bị giết người ta dựng lên một tượng đài, phía dưới chân có khắc dòng chữ: “Nơi đây vị chứng nhân của ấn tòa giải tội đã nằm xuống”.
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao ban cho các tông đồ món quà vô giá là Chúa Thánh Thần và quyền năng tha tội. Sứ mạng của các ngài và những người kế vị sẽ là việc làm nảy sinh hoa trái cho toàn nhân loại. Biết khiêm tốn mở lòng đón nhận ơn tha thứ, con người sẽ tìm thấy bình an và sự sống đích thực, dù thần chết có đang hăm he rình chờ. Biết tìm đến cùng tòa cáo giải, tâm hồn sẽ được chữa lành và ngập tràn hân hoan.
77. Thần Khí của Đấng Phục Sinh.
(Phục sinh, 40 ngày sau Lên Trời, 10 ngày sau (Ngũ Tuần) Hiện xuống.) Là lịch của Lc Ga.20, 22: Ngưòi thổi hơi vào các ông...
Thiên Chúa hành động bằng Lời + hơi thở- Thần khí - luôn luôn như vậy. Lời là ý định của Thiên Chúa đựoc công bố ra bên ngoài (ad extra). Nói và thở đi liền nhau. Nín thở không nói được. Thần khí đi liền theo lời để lời được thực hiện hay chính thần khí thực hiện lời nói làm cho lời là lời quyền năng của Thiên Chúa. Không có thần khí kèm theo thì lời không có quyền năng, không thực hiện đựoc ý định của Thiên Chúa.
Thiên Chúa là một và ba:
Chỉ một Thiên Chúa duy nhất(1)được biết qua hành động bằng lời (2) và khi nói lời thì Thiên Chúa cũng thở(3) Không có Chúa nào khác. Lời nói và hơi thở phát xuất từ một Thiên Chúa duy nhất và là của một mà thôi. Lời không là một Chúa khác, hơi thở cũng không là một Chúa khác.
Thiên Chúa thở hơi vào mủi của Adam không ban cho Adam một Chúa Thánh Thần (có lẽ Adam lầm tưởng vậy). Hơi thở là biểu tượng của sự sống, ý nói Thiên Chúa ban cho Adam một chút sự sống của mình (một chút thôi).
Từ ngữ làm khó người Việt Nam khi nói Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần (rỏ ràng là ba Chúa). Trong khi tiếng la tinh: Pater et Filius et Spiritus Sanctus. Tiếng Pháp: Le Père et le Fils et l'Esprit Saint. Rồi văn hoá Hy lạp và la tinh ưa thần thoại, thần vị hoá như thần chết,thần dử....
Vì Thiên Chúa thở hơi. Phải từ Thiên Chúa hơi thở mới phát xuất dược nên Chúa Giêsu phải về với Cha mới gởi (xin Cha, Cha đã hứa) hơi thở đến thế gian được. Lời và hơi thở phát xuất từ Thiên Chúa như từ một nguồn gốc chung. Nên không nói Cha, Con và Thánh Thần mà nói Cha và Con và Thánh Thần.
Ngày Phục Sinh Chúa Giêsu thở hơi và nói 'hãy nhận lảnh thần khí' nhưng chẳng thấy rụt rịt gì, êm ru.Nhưng không có nghĩa là không có gì mà là bắt đầu từ từ, tiệm tiến. Lc nói rỏ: Người ở lại 40 ngày, dạy dổ cho đủ điều rồi mới Thăng Thiên và 10 ngày sau- lễ Ngủ Tuần Thánh Thần mới xuống như làn gió mạnh'ào ào', như lưởi lữa đốt đầu các tông đồ các ông không thể chịu nổi phải bùng nổ, phá cửa chạy ra, la lớn ai ai cũng nghe thấy. Thở hơi là dấu chỉ một bắt đầu mới, một tạo dựng mới. Hiện Xuống là thực hiện mới. Thở hơi lần thứ nhất không kết quả. Lần thứ hai là tái tạo, là cứu độ: kết quả ấn tượng.
Thời gian 40 ngày ở lại dạy dổ cho đủ điều và 50 ngày lễ Ngủ Tuần thời gian coi là đủ để sự hiện diện và tác động của Đấng Phục Sinh bằng thần khí thấm nhập và kết quả qua sự cảm nghiệm và tin chắc của các phần tử đựơc tuyển chọn. Hiện Xuống là đánh dấu sự biến đổi và bùng nổ không còn kềm chế được.
Thánh Thần là thần khí quyền năng của Thiên Chúa nhưng hành động cách vô hình như Đấng Bảo Trợ, nhiệm vụ là nhắc nhớ, giúp hiểu và biết áp dụng vào những thực tế khác nhau của cuộc sống. Cần có vai chính hành động là con ngưòi. Không có sự cộng tác của con người Thánh thần dù là chính quyền năng của Thiên Chúa đành cũng bó tay. Tội không tha được là tội chóng lại Thánh Thần. Dụng cụ càng tốt kết quả càng cao. Như chuyện người đốn cây mướn. Rất nhiệt tình. Làm không dám nghĩ tay để mài búa. Ngày đầu đốn được 50 cây, hôm sau còn 40, hôm sau còn 30, hôm sau còn 15. Ông chủ gọi lại bảo: anh lấy tiền rồi thôi khỏi đốn cây nữa. Anh lấy làm lạ nói: Tôi làm tận tình, không lúc nào ngơi tay, sao ông đuổi việc tôi? Tại vì anh không có búa bén. Có búa bén mới đốn được nhiều cây. Ông chủ cho anh cơ hội nhưng anh không biết làm tốt.
Hãy cộng tác với Thánh Thần.Hãy là công cụ tốt cho Thánh Thần xử dụng. Lưu ý đến những cách hiểu không đúng về Thánh Thần: Chỉ cầu xin, để Thánh Thần làm hết, ngoan ngoản vâng theo Thánh Thần mà không làm, không có sáng kiến...... hoặc cứ làm rồi đổ cho Thánh Thần, trói tay Thánh Thần, cầm tù Thánh Thần......Thánh Thần bó tay.
78. Ơn Chúa huấn luyện và thêm sức cho ta--Lm Fx. Nguyễn Hùng Oánh
Chúa Kitô ban ơn Thánh Thần cho các Tông đồ không phải ban một lần, nhưng ban nhiều lần.
Sống lại, Chúa hiện ra với các Tông đồ chiều hôm đó, Chúa chúc bình an, cho các Tông đồ thấy vết đinh để chứng tỏ Chúa là con người thực sống lại, chứ không phải là bóng ma hiện về, rồi Chúa chúc bình an và thổi hơi ban Thánh Thần với tất cả quyền bính do Thánh Thần tác động được diễn tả theo ngôn ngữ “cầm buộc hoặc tháo gỡ” (Ga 20,19-23)
Lúc về trời, Chúa căn dặn các Tông đồ, môn đệ chờ đợi Thánh Thần xuống. Thánh sử Luca diễn tả Chúa Thánh Thần hiện xuống dưới sức gió mạnh và hình lưỡi lửa trong ngày lễ Ngũ Tuần tức là 50 ngày sau khi Chúa sống lại. Như vậy, các Tông đồ lãnh nhận Chúa Thánh Thần nhiều lần.
Điều đó đúng với tâm lý con người, vì con người phải được nuôi dưỡng dần dần mới lớn lên; về mặt tâm linh, nhận ơn Chúa dần dần, nhiều lần mới trưởng thành. Đàng khác, Thánh Thần hoạt động luôn luôn và tự do, ban ơn cho ta có lúc mạnh, lúc nhẹ để làm sao không cưỡng ép ta, trái lại để cho ta được tự do lãnh nhận và cộng tác với ơn Chúa trong tự do và trưởng thành.
Điều quan trọng phải suy nghĩ hôm nay là Chúa Thánh Thần chỉ được ban phát do mầu nhiệm Vuơt qua của Chúa Kitô (chết, sống lại, lên trời vinh hiển). Thánh Thần là ơn huệ phục sinh của Chúa Kitô ban cho chúng ta. Thứ tự hành động của Chúa Kitô cho biết điều đó (hiện ra chúc bình an, chỉ vết đinh, thổi hơn ban Thánh Thần) và đời sống cứu chuộc nhân loại của Chúa Kitô cũng nói rằng hoa quả của ơn cứu độ là Thánh Thần.
Chúa ban Thánh Thần cho Hội Thánh thi hành sứ mệnh của Chúa Kitô trao phó, chứ không phải thụ hưởng, nhận lãnh Thánh Thần để làm việc theo ý Chúa chứ không phải để nhìn ngắm, nên Chúa Kitô thở hơi trao ban Thánh Thần với quyền bính “cầm buộc, thứ tha”, để Hội Thánh tiếp tục sứ mệnh của Chúa là cứu độ mọi người. Sách Tông đồ Công vụ cho biết sau khi lãnh nhận Thánh Thần diễn tả bằng sức mạnh của gió, sức nóng và sáng của lửa ngôn ngữ của hình lưỡi, các Tông đồ mở toang cửa ra, rao giảng Chúa Kitô cho mọi người. Ta thấy rõ vai trò cần thiết của Chúa Thánh Thần.
Hội Thánh hoạt động được là nhờ Chúa Thánh Thần. Thánh Phaolô nói ta tuyên xưng Chúa Kitô là Thiên Chúa là do Thánh Thần. Điều nầy dễ hiểu vì công nhận Chúa Kitô là Thiên Chúa hết sức khó đối với người Israen (từ trước tới nay chỉ nhận có Đức Giavê là Thiên Chúa duy nhất mà thôi), nhưng cũng khó khăn đối với chúng ta nên cần Thánh Thần trợ giúp. Ngay cả việc xem ra dễ dàng nhất: kêu Thiên Chúa là Cha cũng cần Thánh Thần giúp, cần giúp vì nhận ra Thiên Chúa là Cha, ta là con cái Thiên Chúa là một mạc khải thâm sâu trong mầu nhiệm Ngôi Hai làm người là Con Một Chúa Cha.
Ta có thể nói Thánh Thần là linh hồn của Hội Thánh, Thánh Thần là ông chủ của chúng ta ở trong ta, ta là đền thờ của Thánh Thần.
Tuy Thánh Thần mạnh mẽ như vậy, nhưng nếu ta không đón tiếp Ngài, không cộng tác với ơn của Ngài thì Ngài trở thành bất lực trong ta. Ngài có thể là chủ tâm hồn ta hay chỉ là một người đứng ngoài, gõ cửa nói vào mà ta làm ngơ, ơn Ngài là sức mạnh giúp ta làm việc lành, đạt tới thành công hay ơn Ngài rơi rụng nơi ta, không sinh hoa kết quả gi. Tất cả do sự đáp ứng của ta vì Thiên Chúa luôn luôn tôn trọng tự do của ta.
Mỗi tín hữu chúng ta đã nhận Chúa Thánh Thần khi chịu bí tích Rửa tội và Thêm sức, khi cầu nguyện và Chúa Thánh Thần luôn luôn trợ giúp chúng ta. Cám ơn,cởi mở cộng tác với ơn Chúa, nhớ mình là đền thờ Chúa Thánh Thần là điều luôn luôn phải ý thức.
(Phụ chú theo bản dịch ca Cha Nguyễn thế Thuấn: cửa đã đóng cài chặt chẽ vì sợ người Do-thái (tỏ ra thân xác không còn lệ thuộc không gian thời gian nữa) thì Giêsu đã đến (chứng tỏ Chúa Giêsu đã về với Chúa Cha rồi, bây giờ Người đến), bằng an cho anh em (lời cho chuẩn bị cho một sứ mệnh) nói thề rồi Ngài thổi hơi trên họ: “Hãy chịu lấy Thánh Thần” (sứ mệnh nầy bắt nguồn từ Phục sinh) những ai được các ngươi tha tội, thì tội họ được tha, nhũng ai các ngưoi cầm giữ lại, thì tội họ bị cầm giữ (ban ơn sủng một cách đặc biệt có sức thánh hóa trong bí tích rửa tội và giải tội}
--------------------
Luôn thể xin kể câu chuyện mở đầu bài giảng: Cha Thông (hưu) kể chuyện một cha sở muốn mở đầu bài giảng trong lễ Chúa Thanh Thần hiện xuống cách sống động, Ngài dặn ông trùm giúp việc nhốt một chim bồ câu trong lồng để trên trần nhà thờ, khi ngài mở đầu bải giảng: Lạy Chúa Thánh Thần xin ngự xuống thì thả chim bồ câu cho chim bay xuống cung thánh. Cha lên tỏa giảng (thời xưa có tòa giảng ở gần cung thánh): Lạy Chúa Thánh Thần xin ngự xuống. Không thấy gì, ngài nói to hơn: Lạy Chúa Thánh Thần xin ngự xuống. Ông trùm hét to trả lời: Cha Thánh Thần mèo ăn rồi. Đức Tổng Giám mục Phaolo Nguyễn Văn Bình nghe vừa xong, đúng dậy nói: Đức Chúa Thánh Thần mèo chụp hụt rồi. Các linh mục ồ lên, vỗ tay quá sức …
79. Khai sinh Giáo Hội truyền giáo – Thiên Phúc--‘Như Thầy Đã Yêu’
Giải Nobel Hòa bình năm 2000 đã được trao cho Tổng Thống Hàn Quốc Kim Dae-Jung, một con người đã từ 30 năm nay đấu tranh không mệt mỏi cho công bằng, dân chủ và hòa hợp.
Tổng Thống Kim là một người Công giáo, được Đức cố TGM Seoul rửa tội vào năm 1956. Trong một đất nước chỉ có 10% dân số là Công giáo thì sự kiện này cũng đang nhắc nhở về sự dấn thân của Giáo Hội Công Giáo tại lục địa Á Châu này.
Phần thưởng này đã được các vị lả đạo và chức sắc tôn giáo ở Hàn Quốc hân hoan chúc mừng. Một vị Hòa thượng lãnh đạo một Tông phái Phật giáo lớn nhất ở Hàn Quốc nhận định như sau: “Tổng thống Kim Dae-Jung sẽ được ghi nhớ như một vị lãnh đạo nổi bật của thế giới”.
***
Lễ Hiện xuống là lễ khai sinh một Giáo hội truyền giáo. Và nỗ lực đấu tranh cho công bằng, dân chủ và hòa bình với danh nghĩa là người Công giáo như Tổng thống Kim Dae-Jung chính là một công cuộc truyền giáo.
“Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. Rồi Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20, 21-22). Các Tông đồ đã nhận lãnh Thánh Thần để ra đi truyền giáo. Chính Thánh Thần đã làm cho các ngài hoàn toàn đổi mới.
Từ chỗ không hiểu gì cả, thì nay các ngài đã hiểu rõ tất cả.
Từ sự nhát đảm run sợ, cửa đóng then cài, thì nay các ngài mạnh dạn can đảm mở toang cửa ra.
Từ những dân chài ít họ, thì nay các ngài nói được nhiều thứ tiếng khác nhau.
Bằng chứng là Pherô, trước đây run sợ trước câu hỏi của một cô đầy tớ, thế mà nay dám đứng lên rao giảng giữa những người đã giết chết Thầy mình, khiến cho 3000 người gia nhập Giáo hội với chỉ một bài giảng duy nhất.
Không những các ngài can đảm rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh, mà còn dám hy sinh cả tính mạng vì danh thánh ấy. Tất cả các ngài đều đã chịu tử vì đạo. Và sau Pherô, 39 vị Giáo hoàng tiên khởi đều anh dũng chết vì đạo thánh.
Người ta tưởng các ngài say rượu, nhưng thật sự thì các ngài đang say Chúa.
Ngưồi ta nghĩ các ngài điên dại, nhưng quả thật thì các ngài đang đầy tràn Thánh Thần.
Lễ Hiện xuống không chỉ là ngày khia sinh Giáo hội, mà Lễ Hiện Xuống vẫn còn tiếp diễn, nghĩa là Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động trong Giáo Hội. Người ta gọi Công đồng Vatican II là một Lễ Hiện Xuống mới, một luồng gió mới đã thổi vào Giáo Hội để canh tân cho thích hợp với độ chóng mặt của thế giới ngày nay. (năm nay 1963-2013 kỉ niệm 50 Công đồng Vatican II, năm Đức Tin của Giáo Hội Công giáo do Đức Thánh Cha Bênedictô XVI công bố)
Công đồng đã long trọng khẳng định: “Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo” (TG 2). Đức Gioan Phaolô II nhận định: “Đã đến lúc phải dốc toàn lực trong Giáo Hội vào một cuộc loan báo Tin Mừng mới và vào sứ vụ đến với muôn dân. Không một ai trong những người tin vào Đức Kitô, không một tổ chức nào trong Giáo Hội được miễn khỏi trách vụ cao cả này: Đó là loan báo Đức Kitô cho mọi dân tộc” (Sứ vụ Đấng Cứu Độ, 3).
Đức Cha Phêrô Trần Đình Tứ sau khi tham dự Hội nghị toàn thể lần thứ bảy liên Hội đồng Giám mục Á Châu đã có cảm nhận rất sâu sắc này: “Giáo Hội tại Châu Á phải là một giáo hội truyền giáo”. Ngài giải thích: “Vì Chúa Giêsu là người châu Á, Giáo Hội Thiên Chúa đã được phát sinh tại châu Á, và ý định của Thiên Chúa là cứu độ hết mọi người, thế mà hôm nay lại rất ít người châu Á biết Chúa và tin theo Chúa” (CGDT số 1250). Quả thật, tại châu Á, đông dân nhất năm châu mà chỉ có 3% dân số tin theo Chúa. Đó là nỗi ray rứt của mỗi người chúng ta, mà cũng là thách thức từng ngày của mỗi tín hữu Kitô.
***
Lạy Chúa, xin hãy thôi thúc nơi chúng con khát vọng truyền giáo, khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc, văn minh và an bình cho tha nhân, nhất là khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới; nhưng trước hết, là cho những người bên cạnh chúng con bằng đời sống phục vụ và yêu thương. Amen. Amen.
80. Thánh Thần trong đời sống
Ngày lễ ngũ tuần có nguồn gốc sâu xa, được cử hành hàng năm của người Do Thái xưa họ mừng 50 ngày sau lễ Vượt Qua, còn gọi là ngày lễ Ngũ Tuần. Lễ này, người ta ăn mừng mùa gặt mới, đồng thời nhớ lại biến cố Thiên Chúa ban hành lề luật qua Môsê trên núi Sinai. Y nghĩa này nói lên tuyển dân là dân giao ước, Thiên Chúa đã chọn và gọi giữa các dân tộc và trong thử thách sa mạc Sin.
Dĩ nhiên trên đây không phải là lịch sử chi tiết của ngày lễ, nhưng để chúng ta có chút khái niệm về nguồn gốc và ngộ ra nội dung súc tích của lễ này đối với tín hữu tiên khởi. Như vậy lễ Năm Nươi có liên hệ trực tiếp với lễ Vượt Qua, kỷ niệm khổ nạn, cái chết, phục sinh và lên trời của Chúa Giêsu. Nó cũng mừng mùa gặt mới. Bởi lẽ các môn đệ tụ họp nhau ở gian phòng trên lầu, nơi Chúa Giêsu ăn bữa tiệc ly cùng các môn đệ, để lãnh nhận "Thánh Thần", nghĩa là mùa gặt mà Chúa Giêsu đã gieo trồng bằng cuộc đời, khổ nạn, cái chết, phục sinh và lên trời của Ngài. Chắc chắn mùa gặt này đầy nước mắt và đau khổ. Trong Công Vụ Tông Đồ có điễn tả những điềm lạ khi Chúa Thánh Thần xuất hiện "Khi đến ngày lễ ngũ tuần... Bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào nhà... Và ai nấy đều được tràn đầy Thánh Thần, họ bắt đầu nói thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho...". Và kết quả là: mọi người từ các nơi quy tụ về Gierusalem: Từ Pacthia, Mêđia, Pontô, Elam... để nghe các tông đồ rao giảng và chứng kiến các điềm thiêng dấu lạ. Nhưng để được điều này cac ong cần phải
1. Để Thánh Thần hướng dẫn.
Chúa Thánh Linh là dấu hiệu của sự hợp nhất Công Vụ khởi đầu bằng việc Chúa Thánh Thần hiện xuống trên Hội Thánh non trẻ, chẳng mấy chốc sẽ "hành động" một cách rất tích cực, nhờ Thánh Linh, mà loan truyền danh Đức Kitô cho đến tận cùng hành tinh, bất chấp vất vả, khó khăn, bách hại và cái chết. Nhưng ngày nay, những nhà truyền giáo trong nhung lụa, tiện nghi, biện minh rằng để "tiện lợi" cho việc tông đồ. Người ta quen đặt tên cho Công vụ là Phúc Âm của Thánh Linh. Điều đó không hề sai, nếu chúng ta nghiền ngẫm hoạt động của Ngài trong Hội Thánh tiên khởi. Ngày xưa các tông đồ rao giảng bằng sự soi sáng của Thánh Thần. Còn chúng ta ngày nay rao giảng bằng ngôn ngữ gì? Có lẽ tiền bạc, chức quyền, khoái lạc, hứa hẹn? Toàn là mị dân, thảo nào, chẳng ai hiểu được! Vậy thì lễn Năm Mươi vẫn chính xác là lễ "mùa gặt mới". Chúng ta góp công thế nào vào mùa gặt thiêng liêng này?
Chúa Kitô đã gởi Chúa Thánh Thần xuống và chúng ta đã lãnh nhận. Hãy bắt trước các tông đồ, ra đi khắp thế gian rao giảng Đấng phục sinh cho muôn dân, dạy dỗ họ hy vọng lớn lao: thân xác dầu phải chết, cũng sẽ sống lại. Còn sứ vụ nào cao quý và chân thật hơn? Đấu tranh giai cấp, thần học giải phóng, hiện sinh, tiến hoá, Freud, Jung, Karl không thể so sánh bằng. Đốt cháy cả bản thân bằng lửa nhiệt thành truyền giáo vẫn chẳng nhằm nhò gì! Quý vị có cảm nhận như vậy chưa? An hưởng sung sướng, tiện nghi không mang ích lợi cho sứ vụ Chúa trao trong thời gian "đợi chờ" này. Chúng ta là một cộng đồng "chờ đợi" với các môn đệ tiên khởi của Chúa Giêsu, hoặc xa hơn nữa với các tổ phụ Do Thái trong đức tin chân chính.
2. Để Thánh Thần biến đổi
Vì thế giới này chưa phải là thiên đàng để vui hưởng khoái lạc. Một cái nhìn nhang chóng vào tình hình địa cầu ắt sẽ hiểu rõ ràng như vậy: Nghèo khó, chiến tranh, chém giết, biết bai trận khủng bố. Chưa hết, còn trong những đoàn thể Công Giáo, xem ra như đoàn kết với những phương châm lý tưởng, nhưng cũng không ít chia rẽ giáo xứ, tu viện, đoàn thể, ly khai khỏi Giáo Hội hoàn vũ vẫn là vấn đề nhức nhối triền miên của các môn đệ Chúa Kitô. Đáng lý, những sự kiện này phải là nhắc nhớ sống động cho chúng ta, chứ không phải nhởn nhơ như chuyện của thiên hạ, ngày ngày chỉ lo thư giãn, dã ngoại, đình đám, kỷ niệm. Vì thế, điều trước mắt là chúng ta hãy đem ngọn lửa Thánh Thần đến những nơi này và cầu xin cho các đau khổ của thế giới chấm dứt, cho đổ vỡ của Giáo Hội được hàn gắn, cho gia đình và thiên nhiên khỏi bị phá hoại, cho ước mong của Chúa Giêsu mau trở thành hiện thực.
Vậy lễ Hiện Xuống phải nên như biến cố nhắc nhở môn đệ thực sự của Chúa Kitô: Thiên Chúa không hề bỏ rơi Hội Thánh. Chúa Giêsu tuy không còn hiện diện hữu hình nữa, nhưng như Ngài đã hứa không để tín hữu mồ côi, Ngài sẽ sai Thánh Linh xuống dạy dỗ, an ủi, thánh hoá họ. Hôm nay, lời hứa đó đã được thực hiện và Giáo Hội đã ra đời, một cuộc khai sinh đầy hứa hẹn. Các môn đệ quy tụ ở phòng tiệc ly đã trở nên một cộng đồng, có đầy đủ thân xác và linh hồn. Thân hình này khởi sự một sức sống mới, thở hơi thở của Thần khí vĩnh cửu và toàn năng. Ngoài ra, người ta rao giảng nhiều về hiệp nhất và tình yêu, nhưng chỉ là mông lung tưởng tượng chứ thực chất không hiểu chi về ý nghĩa của lưỡi lửa. Nó cụ thể, hữu hình và đốt cháy. Các môn đệ tiên khởi đã cảm nghiệm đúng thực tại ấy, các kẻ theo Chúa ngày nay thì sao? Nếu như họ được lưỡi lửa thiêu đốt thực thì không còn như hiện trạng, nguội lạnh và ươn lười. Thiên Chúa luôn sẵn sàng gửi Thánh Linh của Ngài xuống, để giúp đỡ họ giao lưu thân thiện với Đức Kitô, bất chấp những sự ác hiện tại: chiến tranh khốc liệt, nghèo đói cùng cực, khai thác tài nguyên cạn kiệt, bạo lực không phân biệt.
Lạy Chúa, xin cho con biết mở rộng lòng đón nhận tất cả dưới "lưỡi lửa" của tình yêu. Không còn chia rẽ, phân tán, thất vọng, bất đồng ý kiến, thương yêu giả hiệu, lừa dối trục lợi. Nhưng hiệp nhất trong mối dây tình yêu chân thành. Amen.
81. Nhờ Chúa Thánh Thần
"Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần".
Có rất nhiều cách gọi về Chúa Thánh Thần và những tên gọi đó nói lên những công việc mà Chúa Thánh Thần chuyên làm. Ví dụ như Đấng Bảo Trợ, Thần Chân Lý, Đấng An Ủi, Thần Khí Lời Hứa, Thần Khí Đức Chúa, Thần Khí Vinh Hiển. Và chính nhờ những khả năng "bẩm sinh" đó mà Chúa Thánh Thần đã nâng đỡ cho con người trên mọi nẻo đường của cuộc sống cũng như giúp cho con người gắn kết với Thiên Chúa nhiều hơn.
Chính nhờ bàn tay đa tài của Chúa Thánh Thần mà chúng ta được tái sinh và được nhận biết Cha làm con Chúa qua phép rửa bởi Thánh Thần. Ta hãy nghe lời của Thánh Irênê: "Bí Tích Thánh Tẩy ban cho chúng ta ơn tái sinh trong Thiên Chúa Cha, nhờ Chúa Con trong Chúa Thánh Thần. Vì những ai mang trong lòng Thánh thần của Thiên Chúa, họ được dẫn đến Ngôi Lời, nghĩa là Ngôi Cha. Chúa Con dâng họ cho Chúa Cha và Chúa Cha ban cho họ sự sống bất diệt. Vậy không có Thánh Thần thì không thể thấy Thiên Chúa Cha, không có Chúa Con không ai đến gần Chúa Cha, vì chỉ có Chúa Con mới nhận biết Chúa Cha, và nhận biết Chúa Cha là nhờ Chúa Thánh Thần". Vậy chính Thánh Thần là Đấng khởi sự niềm tin và khơi nguồn sự sống cho chúng ta. Nhờ Thánh Thần mà ta nhận biết Chúa Cha và Đấng Cha đã cử đến là Đức Giêsu Kitô (x. Ga 17,3). Thánh Phaolô đã nhấn mạnh lại điều này: "Nếu không được Thánh Thần giúp sức cho không ai có thể nói rằng: Giêsu là Đức Chúa" (1 Cr 12,3). Rồi cũng phải nói thêm rằng, nếu không có Thánh Thần chúng ta không thể giữ được niềm tin ấy. Đức Giêsu đã hứa cho chúng ta nghị lực của Thánh Thần để bên vực giúp ta "bước đi vững vàng theo thánh chỉ và thi hành những ước muốn của Người", giúp chúng ta đối mặt với kẻ thù. "Anh em đừng sợ phải nói gì vì Thánh Thần sẽ nói trong anh em". Đó là một lời hứa đã có từ trong Cựu Ước - thời mà Thánh Thần còn mù mờ trong con mắt của con người. "Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên hết thảy người phàm" (Ge 3,1). Lời ấy được thực hiện trong ngày lễ Ngũ Tuần. Các tông đồ đầy tràn Thánh Thần, bắt đầu lên đường loan tin mừng Chúa phục sinh mà không sợ hãi bất cứ một thế lực nào. Nếu các ngài không có "lửa" của Thánh Thần thì các ngài không thể làm được việc gì. Như lời Phaolô khẳng định: "Thần Khí mà chúng ta lãnh nhận không phải là Thần Khí nhát sợ".
Thánh Thần còn làm cho cuộc sống chúng ta nên mật thiết với Thiên Chúa hơn. "Nhờ Thánh Thần mà chúng ta sống chứ xác thịt nào có ích gì" (Ga 6, 63). Nhờ thánh Thần mà trong tâm tình nghĩa tử chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha và trờ nên đồng thừa tự. "Cha của Thầy cũng là Cha của Anh em". "Vì đã chịu phép rửa trong cùng một Thánh Thần nên chúng ta đầy tràn một Thánh Thần duy nhất" (1 Cr 12,13). "Chính thánh Thần là nước trường sinh chảy ra từ cạnh sườn Đức Kitô chịu đóng đinh thập giá và chảy thành sự sống đời đời cho chúng ta" (GLHTCG 694). Và trong tư cách là Đấng Bảo Trợ, Thánh Thần sẽ giúp đỡ cho chúng ta là những kẻ yếu hèn. "Chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp bằng những tiếng rên siết khôn tả" (Rm 8, 26). Cũng do Thánh Thần biết rõ chúng ta cần gì và điều gì thì đẹp ý Chúa hơn nên khi Thánh Thần cầu xin thì chúng ta được Chúa dễ dàng được nhậm lời.
Chúa Thánh Thần quan trọng trong cuộc đời chúng ta. Chính Đức Kitô đã phải chết để cho chúng ta nhận lãnh dồi dào Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên, gần như chúng ta ít khi nghĩ về Chúa Thánh Thần và cầu xin cùng Ngài, nghe theo sự hướng dẫn của Ngài. Ngài chính là nội lực dẫn dắt chúng ta về với sự thật và tình yêu. Không nhờ Thánh Thần chúng ta không sinh được hoa trái nào tốt đẹp. Mất Chúa Thánh Thần đời chúng ta như cây không còn nước: khô khan, mệt mõi, lạnh lẽo và sẽ chết dần chết mòn. Vậy chúng ta hãy sám hối để được tha tội và anh em sẽ được ân huệ Thánh Thần (x. Cv 2, 38).
"Lạy Chúa Thánh Thần, xin sự thánh thiện của Người hoạt động trong con, để con có thể nghĩ về Thiên Chúa; đánh động con, để con có thể hành động cho Thiên Chúa; khích lệ con để con có thể yêu mến Người; tăng sức cho con, để con có thể trung tín với Người; xin giữ con để con không bao giờ lìa bỏ Người" (Thánh Augustinô. Trích từ bài giảng số 17 của Thánh Gioan Maria Vianney).
82. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Hiện Xuống, chúng ta kỷ niệm việc Chúa Thánh Thần Hiện Xuống trên các Thánh Tông Đồ. Mừng lễ hôm nay, chúng ta vui mừng và xác tín vì chúng ta có một chuyên viên toàn năng, thông biết mọi sự, sẵn sàng và có thể hướng dẫn chúng ta trong những nỗi khó khăn.
Bài Phúc Âm hôm nay (Ga 20, 19-23) diễn tả niềm vui và cảm nghiệm quí báu nhất của các Tông Đồ khi xem thấy Chúa, Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín. Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình anh cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con" Rồi Người thổi hơi trên họ và nói: "Hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần" (Ga 20,19-22). Các ông vui mừng vì mình được ơn Chúa Thánh Thần, họ cảm nghiệm được sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa Giêsu ở với họ. Một cảm nghiệm về tình yêu sâu xa của Chúa dành cho họ qua sự chết, và sống lại của Người. Nhờ Chúa Thánh Thần, họ gắn bó trọn vẹn cuộc đời của họ với Chúa Giêsu và trở nên những môn đệ trung thành dấn thân phục vụ Ngài trong việc rao giảng Tin mừng.
Là người Kitô hữu, trong bậc sống là cha mẹ trong gia đình, nếu chúng ta muốn con cái lớn lên trong tình yêu và sự tin tưởng nơi Thiên Chúa, nếu chúng ta muốn chúng yêu thương và tin tưởng nơi chúng ta, nếu chúng ta muốn chúng cũng yêu thương và tự tin nơi chính bản thân mình, điều trước hết là chúng ta phải làm là, thể hiện tình yêu thương thật sự, vì qua tình yêu, nó giúp con cái tự nhận ra được những cảm nghiệm yêu thương sống động này trong cuộc đời của chúng (2 Tx 3, 7). Chẳng hạn, khi cha mẹ dạy dỗ con cái, hãy nói với con cái rằng cha mẹ yêu thương con. Cha Mẹ yêu thương con không phải vì con được điểm cao, học giỏi hay tài năng, cũng không phải vì con đã làm tốt, nhưng yêu thương con chỉ vì con là con của Cha mẹ. Nên nhớ rằng, mặc dù điều này rất đơn giản, nhưng nó có một hiệu quả tốt hơn là những đòi hỏi phải vâng lời dựa trên sự sợ hãi và đe dọa. Con cái trẻ sẽ cảm nghiệm tuyệt vời rằng: "Mình được yêu bởi vì mình là mình" đây là tình cảm có tính cách chữa lành đối với con cái. Một cảm nghiệm về sự hiện diện yêu thương của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống của chúng.
Bằng tình yêu thương tha thiết, Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ, trong thân xác sống lại của Ngài, thân xác Vinh Quang của Thánh Thần để các môn đệ cảm ghiệm được niềm vui và sự an bình mới lạ trong đời sống của họ (Lc 24, 39). Điều quan trọng nhất trong công việc mục vụ của một Kitô hữu là trở nên "khí cụ bình an của Chúa" (Mt 10,12; Rm 12, 18), là cảm nghiệm được tình yêu thương của Thiên Chúa đang ở với chúng ta và chia sẻ tình yêu đó ra cho mọi người xung quanh (1Tx 2, 8; Pl 1, 8; ĐGH Phaolô VI - Evangelii Nuntiandi đoạn 79). Thiên Chúa cũng muốn chúng ta khám phá ra rằng chính chúng ta phải là những nhân chứng đã cảm nghiệmđược sự hiện diện của Đức Kitô qua ThánhThần để mang lại nguồn vui và sự bình an cho mọi người (1Ga 3,16-18). Chúa Giêsu cũng hứa ban Chúa Thánh Thần khi Ngài sai chúng ta đi vào thế giới đang cần đến chúng ta. Chúa Thánh Thần làm cho cuộc sống của chúng ta dường như trống rỗng được biến đổi trở nên đời sống mới trong Chúa Giêsu Kitô (2 Cr 4, 7). Ngài làm cho chúng ta vui tươi và bình an như Tin mừng công bố: "Bình an cho các con" (Ga 20,19) cuộc sống vẫn luôn luôn đẹp vì có Chúa Thánh Thần là món quà vô giá của Thiên Chúa ban cho chúng ta (1 Cr 1, 4-9). Thế giới vẫn luôn được Thánh Thần hướng dẫn và mang chúng ta đến để hoàn thành công trình sáng tạo và cứu rỗi của Người (Ep 1, 3-14; Gl 5, 22-23; Gaudium et Spes đoạn 11). Trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Thánh Thần là Đấng phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con. Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta cảm nghịêm được sự ngọt ngào của tình yêu Thiên Chúa (Ga 14, 16; Cv 7, 55; 1, 8;Ep 1, 14; 1Pr 1, 12).
Trong cuộc sống, đôi khi chúng ta đứng trước sự lựa chọn: chọn một nghề để sống, chọn một người bạn đời, chọn một cách thức đối xử với nhau. Chúng ta có nhiều lựa chọn. Lựa chọn nào tốt nhất? Chúa Thánh Thần sẽ chỉ cho chúng ta, nếu chúng ta hướng về Ngài và xin Ngài chỉ dẫn. Có lúc chúng ta không có ý tưởng gì về điều chúng ta có thể làm: tình cảnh xem ra vô vọng, vô phương như trước cái chết của một người thân, trước sự thất bại của công việc chúng ta không biết phải làm gì. Hãy xin Chúa Thánh Thần. Ngài sẽ chỉ dẫn cho bạn. Rẩt may mắn nếu tôi có một người bạn làm luật sư, một bác sỹ, một tâm lý gia, một cố vấn hôn nân, một chuyên viên về mọi lãnh vực, một người bạn biết mọi vấn đề, một người bạn rất thân thiết mà tôi có thể lui tới bất cứ lúc nào, ngày cũng như đêm và giả thiết người ấy sống trong nhà tôi. Đó là Chúa Thánh Thần, Ngài đang sống trong tôi. Ngoài việc chỉ cho chúng ta điều chúng ta phải làm, Chúa Thánh Thần còn giúp chúng ta thực hiện nữa vì Ngài là Thiên Chúa, là Đấng Toàn Năng cũng như thông biết mọi sự. Chúng ta kêu cầu người trong Ca tiếp liên trong thánh lễ hôm nay; " Xin hãy đến, Lạy ánh sáng của tâm hồn'. Nhiều lần trong kinh nguyện Thánh Thể chúng ta cầu xin với Ngôi Ba Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã hứa "Người sẽ dạy chúng con tất cả sự thật"
Lạy Chúa Thánh Thần, xin xuống tràn ngập tâm hồn các tín hữu, và xin nhóm lửa tình yêu Chúa trong lòng chúng con. Amen.
83. Chúa Nhật Chúa Thánh Thần Hiện Xuống
Anh chị em thân mến.
Trong cuộc sống đời thường, có những người giàu và người nghèo. Có những người nhờ cha mẹ ông bà tạo cho họ hoàn cảnh sống mà họ trở nên giàu có. Cũng có những người nhờ dịp may nào đó, họ biết tận dụng nên đời sống được cải thiện tốt hơn.
Cũng có những người biết tận dụng những gì mình có, như tài năng sức lực và trí thông minh để vương lên. Những người biết tận dụng hoàn cảnh sống để vương lên như thế, đời sống của họ không đến nỗi tệ. Nhưng cũng có những người được cha mẹ lo lắng, để lại của cải,sau một thời gian họ vẫn không vương lên được, đôi khi còn rơi vào cảnh bần hàn. Có những người có dịp may đến với mình, như trúng số, hay được người nào đó ủng hộ, bảo bọc, thế mà họ vẫn không vương lên được. Cũng có những người có đầy đủ sức khỏe, trí óc thông minh, nhưng họ vẫn đành chịu cảnh bần hàn, cơ cực. Đó là vì họ không biết xử dụng những hoàn cảnh, dịp may mà mình đã có, hay họ xử dụng không đúng cách để những gì mình có bị tiêu hao đi một cách vô lý.
Hoàn cảnh sống vẫn đầy đủ cho mọi người. Dịp may mỗi người cũng không phải thiếu. Nhưng điều quan trọng là mỗi người có biết xử dụng cho đúng những gì mình có để vương lên, hay phung phí nó một cách vô ý thức.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Biến cố mà chúng ta vừa nghe, vừa chứng kiến Chúa Giêsu đã thực hiện cho các môn đệ của Ngài. Các môn đệ được ban bình an, hơi thở của sức sống mới, sức sống của Đấng Phục Sinh. Ngài đã ban sức sống mới và trao trách nhiệm cho những môn đệ thân yêu. Ngài đã làm thay đỗi hoàn toàn cuộc sống của các ông, vì các ông biết nhận lãnh những gì Ngài ban, biết gìn giữ và biết xử dụng những gì mình đang có.
Từ một con người không có gì hết, các ông đã có tất cả. Từ một người nhát đảm sợ sệt, các ông đã trở thành can đảm lạ thường, ngay cả cái chết cũng không sợ. Từ một người ù lì dốt nát, các ông đã trở nên thông minh lanh lợi, khiến cho bao nhiêu người phải tức giận vì không thể tranh luận nỗi với các ông. Đó là vì các ông đã nhận lãnh Chúa Thánh Thần, và các ông không để cho những gì mình có trở nên vô ích. Các ông đã biết xử dụng ơn Chúa một cách tốt đẹp, nên Ơn Chúa sinh ích lợi cho các ông và cho những người nhờ các ông mà cũng nhận lãnh Ơn Chúa như các ông.
Ơn Chúa Thánh Thần cũng đã đến với từng người trong chúng ta, ngày lãnh bí tích rửa tội, thêm sức, và trong suốt những ngày sống trên trần gian, Ơn Chúa Thánh Thần luôn đầy tràn bao bọc lấy mỗi người. Ơn Chúa vẫn tràn đầy, nhưng con người thì một số đông vẫn còn thiếu, vì không biết xử dụng Ơn Chúa. Một số sống dường như không cần đến Ơn Chúa, họ chỉ sống theo ý riêng tư, thỏa mản dục vọng, đi tìm những thú vui trần thế, tìm những lợi lộc cho bản thân mà không cần biết đến người chung quanh.
Họ chỉ biết có bản thân mình, nên để tự ái lên quá cao, đường như chỉ có con người của họ là trên hết. Còn một số dường như phung phí Ơn Chúa, họ lạm dụng những gì Thiên Chúa ban để mưu tìm lợi ích riêng tư, dùng danh nghĩa Thiên Chúa để làm lợi cho bản thân mình bằng cách này hay cách khác. Cũng có những người lãnh nhận Ơn Chúa rồi để cho Ơn Chúa bị chết ngạt đi, vì tính lười biếng, nên Ơn Chúa không sinh lợi gì cho họ cũng như cho những người chung quanh. May mắn thay, Ơn Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động vững mạnh nơi những người trung thành như các môn đệ khi xưa. Trong bất cứ thời đại nào cũng có những người biết xử dụng Ơn Chúa, biết làm cho sinh lợi cho mình và cả cho những người chung quanh. Họ sinh lợi bằng đời sống tốt đẹp, bằng những hành động bác ái, những cử chỉ yêu thương. Họ biết làm giàu đời sống mình bằng những Ơn Thánh đã nhận được.
Chúng ta, những người ngồi trong nhà thờ này, đang là những người giàu hay người nghèo Ơn Chúa Thánh Thần. Mỗi người cứ nhìn vào đời sống chính mình, nhìn vào những việc làm đã qua, nhìn vào những gì mình đã được và mất, chúng ta sẽ biết mình như thế nào.
Xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho mỗi người chúng ta biết xử dụng Ơn Chúa cho chính đáng.
84. Những lời trịnh trọng sau hết
Vào một buổi sáng tinh sương, các khách hàng đang ngồi ăn và xì xèo với nhau trong một tiệm ăn sáng, thì đột nhiên một người chạy vào tiệm ăn và hét lớn, "Mọi người hãy bỏ chạy nhanh lên, Big Jake đang vô đây!" Khi mọi người đang quính quít lên bỏ chạy thì một gã đàn ông to lớn đạp cửa đi vào và nói với người chủ quán, "Cho tôi một gallon cà phê." Người chủ quán liền cấp tốc pha một gallon cà phê cho Big Jake. Sau khi uống xong, người chủ quán hỏi tiếp, "Thưa ông, ông có muốn uống thêm 1 gallon nữa không?" "Không cần đâu," Big Jake trả lời, "Tôi cần phải đi bởi vì tôi nghe nói rằng Big Mike đang đến."
Bài Phúc Âm hôm nay tả lại cái cảnh buổi tối ngày Chúa Nhật Phục Sinh thứ nhất. Các tông đồ đang sợ hãi trốn tránh sau cánh cửa đóng kín và khóa chặt. Họ sợ bị bắt và sẽ bị giết như chính Thầy của họ. Họ sợ rằng họ sẽ là những người kế tiếp sẽ bị đóng đinh. Tuy thế, sự sợ hãi của họ đã làm cho họ lầm lạc. Chúa Giêsu đã phục sinh và đang đến với họ.
Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín vì các ông sợ người Do thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em!... Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em... hãy đón nhận lấy Thánh Thần" (Gn 20:19-22).
Vào ngày Lễ Hiện Xuống hôm nay, Chúa Giêsu đến với chúng ta. Ngài đang hiện diện ở đây và nói với mỗi người chúng ta rằng, "Bình an cho các con... như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con..." Hy vọng rằng chúng ta sẽ được giải thoát khỏi những mối bận tâm và lo lắng và chiếm đoạt được sự bình an trong tâm hồn.
Chúa Giêsu đến với con người và chứng tỏ quyền năng cao cả của Đấng Phục Sinh. Ngài đã phục sinh để qua đó chúng ta được ơn bình an trong tâm hồn, để đem đến cho chúng ta sự sung mãn, và làm cho chúng ta có thể chiếm được sự sống hoàn hảo và hoàn toàn mãi mãi.
Tất cả mọi người chúng ta đều đã cảm nghiệm được "Những Ánh Nắng của Thiên Chúa" ở ngoài bờ biển, trên núi cao, hoặc là những nơi khác. Điều đáng buồn đó là chúng ta cần những cái gì mà nó đập thẳng vào mắt của chúng ta. Cũng như thế, sự Phục Sinh của Chúa Kitô hiện diện ở khắp mọi nơi ở tạo vật, ở mọi người mà chúng ta gặp ở ngoài đường phố. Tất cả mọi sự chung quanh chúng ta đều được trang trí bằng sự hiện diện của sự thần linh của Thiên Chúa. Đó là điều mà Tân Uớc vẫn nói với chúng ta. Tuy nhiên đó chỉ là một sự bắt đầu.
Chuyện đã xảy ra cho các Kitô hữu thời sơ khai đó là Thiên Chúa đã đến và ngự giữa họ, và họ cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa bằng một cách mới mẻ, mạnh mẽ, trào tràn, và đầy đủ, mà họ không thể nào giữ nổi trong mình. Họ phải đi để chia sẻ về Tin Mừng này.
Điều mà họ nhận thức được từ trong nội tâm của họ đó là sự yêu thương của Chúa Cha hiện diện ở trong Người Con của Ngài, Người Con đã đang hiện diện ở giữa họ như là một mẫu gương tuyệt hảo cho sự sống của mọi người.
Rất nhiều người nhìn thấy Chúa Giêsu, nhưng có bao nhiêu người nhận ra Ngài? Rất nhiều người nhìn thấy bóng của Ngài, dân của Ngài, và lời giáo huấn của Ngài, thế nhưng đếm ngón tay có được bao nhiêu người nhận ra Ngài? Chỉ có một số rất ít người đã nhìn thẳng vào Ngài và nói với Ngài, "Con tin rằng Ngài là Con Thiên Chúa... Ngài là nguyên nhân của sự vui mừng... Con vui mừng khi có sự hiện diện của Ngài ở giữa con."
Trong cuốn sách trích lại những lời quí hóa cuối cùng của các vĩ nhân có ghi lại những lời của những người sau đây.
Tổng Thống Franklin D. Roosevelt đã trối, "Tôi thấy nhức đầu quá."
Tác giả của tờ báo Washington Irving đã nói, "Thôi, tôi phải xếp gối để chuẩn bị cho một buổi tối mệt mỏi! Khi nào thì việc này mới kết thúc!"
Nhạc sĩ Beethoven đã nói, "Các bạn hãy vỗ tay, màn kịch đã chấm dứt!"
Thánh Gioan Tông Đồ đã ghi lại lời cuối cùng của Chúa Giêsu, "Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em."
Trong khi chúng ta ra đi như lời Chúa Giêsu đã truyền dạy, chúng ta đừng ngại làm với bàn tay lấm lét. Nếu những người láng giềng hoặc cộng đoàn cần đến sự giúp đỡ, chúng ta hãy mau mắn đáp lại. Đừng để cho sự ích kỷ trà trộn vào trong tâm hồn chúng ta. Nếu một người nào đó đang cần sự tha thứ, chúng ta đừng để cho lòng thù hận che đậy sự công chính của mình. Nếu một anh chị em đang cần giảm đi sự cô đơn, chúng ta đừng để cho mình bị bám chặt vào cái tính thờ ơ lãnh đạm.
Thế giới của chúng ta đang sống tràn đầy những đau khổ. Nhiệm vụ của chúng ta đó là làm những gì mình có thể để giảm bớt đi những khổ đau đó. Nhiệm vụ của chúng ta là làm cho người khác được hạnh phúc để chúng ta cũng sẽ được hưởng sự hạnh phúc. Thiên Chúa sẽ rất hài lòng với chúng ta bởi vì chúng ta làm theo lệnh Ngài truyền.
85. Thánh Thần sức mạnh tình yêu
Niềm tin vào Chúa Giêsu Phục sinh không phải là điều dễ dàng với sức riêng con người. Hơn nữa, niềm tin ấy là cốt lõi của đạo chúng ta. Niềm tin ấy sẽ hướng dẫn cả cuộc đời của người tín hữu. Vì thế, chúng ta phải cần nhờ đến một sức mạnh thiêng liêng. Sức mạnh ấy do chính Thiên Chúa Cha ban cho. Đó là sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Chúng ta nhớ lại khi Chúa Giêsu bị bắt, thì các Tông đồ đã trở nên những người hoang mang. Các ông chỉ còn biết vào phòng đóng kín cửa. Thế rồi, tâm trạng sợ hãi của các ông không còn nữa khi Chúa Giêsu Phục sinh hiện đến. Bởi vì khi đến cùng các ông, Chúa Giêsu đã trao ban bình an và Chúa Thánh Thần cho họ. Từ những người nhút nhát, bấy giờ các ông đã được biến đổi thành những người can đảm và mạnh dạn lạ thường.
Nhìn vào Giáo hội, chúng ta cũng sẽ thấy gần 2000 năm qua Giáo hội đã trải qua biết bao sóng gió. Có lúc tưởng chừng mất hết hy vọng, hết phương cứu chữa. Thế nhưng nhờ có sức mạnh của Chúa Thánh Thần nên Giáo hội vẫn còn đứng vững và lớn mạnh cho đến ngày nay.
Chúa Thánh Thần cũng đã ở với Chúa Giêsu từ giây phút được thụ thai cho đến dưới chân thập giá. Chúng ta đã được Giáo hội dạy tuyên xưng rằng: "Bởi phép Chúa Thánh Thần mà Chúa Giêsu đã chịu thai trong lòng Đức Mẹ". Đặc biệt, trong vườn Câu Dầu nếu không có sức mạnh của Chúa Thánh Thần thì có thể nói Người đã không thể hoàn thành được sứ mạng Chúa Cha trao phó.
Vậy Chúa Thánh Thần là Đấng nào?
Qua Giáo lý, Giáo hội dạy ta biết: "Chúa Thánh Thần là Ngôi thứ Ba, bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra, cùng một bản tính và một quyền năng như hai Ngôi cực trọng ấy". Nói cách khác, Chúa Thánh Thần chính là sức mạnh tình yêu xuất phát từ Chúa Cha và Chúa Con.
Chúa Thánh Thần được biểu tượng bằng gió, nước, lửa, khí,... Vì thế, Chúa Thánh Thần thật là cân thiết trong đời sống của mỗi người chúng ta.
Mỗi người chúng ta được Thiên Chúa qua Giáo hội trao ban Chúa Thánh Thần khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Cách đặc biệt, khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Thêm sức. Nhờ có Chúa Thánh Thần mà chúng ta được soi sáng để biết cần phải làm gì mà đẹp lòng Thiên Chúa Cha. Hơn nữa, cũng chính Người sẽ dạy ta biết cầu nguyện.
Bằng cách nào ta có thể biết Chúa Thánh Thần còn ở trong ta. Thánh Phaolô chỉ cho trong thư gởi tín hữu Galata như sau: "Hoa quả của Thánh Thần là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ" (Gl 5, 22-23a). Như vậy, khi ta sống ghen ghét, đố kỵ, ganh tỵ, hận thù, chia rẽ... là lúc ta không còn để cho sức mạnh tình yêu của Chúa Thánh Thần ngự trị trong tâm hồn ta. Những lúc ấy chúng ta hãy mau quay về xin Chúa Thánh Thần chữa lành và đổi mới cách sống của mình.
Nguyện xin Chúa Thánh Thần là sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa ban cho chúng con biết để cho Người hướng dẫn đời con. Bởi vì tự sức mình, con không thể sống đẹp lòng Thiên Chúa Cha được.
86. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Ngày nay, tại sao Giáo Hội lại kém phát triển về số lượng, chưa nói tới chất lượng? Có phải vì cách loan báo Tin Mừng của chúng ta không phù hợp với thời đại? Người thời đại mong mỏi Giáo Hội làm gì cho xã hội, thế giới?
2. Con người thời đại, nhất là người nghèo, người bị áp bức, cần chúng ta thể hiện tình thương đối với họ qua sự chăm sóc, giúp đỡ, nâng họ lên, hay họ cần chúng ta rao giảng Đức Kitô cho họ? Họ cần chân lý hay tình thương?
Suy tư gợi ý:
1. Thánh Thần tạo biến đổi lạ lùng nơi các tông đồ
So sánh tâm lý của các tông đồ trong bài Tin Mừng và trong bài đọc I hôm nay, ta thấy có sự biến đổi hết sức lạ lùng trong một thời gian hết sức ngắn: chỉ hơn một tháng. Sau khi Thầy mình bị giết, các ông sợ hãi người Do Thái đến độ phải ở chung với nhau cho đỡ sợ, và phải đóng kín cửa. Thế mà ngay sau khi Thánh Thần hiện xuống, các ông trở nên hết sức dạn dĩ: dám công khai biểu lộ và làm chứng niềm tin của mình vào Đức Giêsu Kitô và sự sống lại của Ngài, bất chấp bị bắt bớ, tù đày và cả cái chết lúc nào cũng sẵn sàng đến với các ông. Bị tù nhiều lần, nhưng lần nào cũng như lần nấy, vừa ở tù ra là các ông lại tiếp tục rao giảng Đức Kitô một cách công khai, không lén lút. Chính vì thế, hầu hết các tông đồ đã bị giết một cách thê thảm vì danh Đức Giêsu.
Tâm lý con người ai cũng ham sống sợ chết, ham sướng sợ khổ, ham giàu sợ nghèo, ham vinh sợ nhục. Nhưng tình yêu đối với Thiên Chúa và nhân loại, cùng với ơn biến đổi của Thánh Thần, đã làm các tông đồ và rất nhiều Kitô hữu vượt lên những nỗi sợ đó, để dám làm những gì lý tưởng và lương tâm mình đòi buộc: «Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm» (Cv 5,29).
2. Thánh Thần biến đổi là để thi hành sứ mạng
Bài Tin Mừng cho ta thấy lời chúc bình an, lời sai đi, và việc lãnh nhận Thánh Thần đi chung với nhau. Đức Giêsu nói: «Chúc anh em được bình an! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em». Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: «Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần». Như vậy, việc lãnh nhận Thánh Thần là để thực hiện sứ mạng mà Đức Giêsu sai chúng ta làm, với tâm hồn bình an, không sợ sệt lo lắng. Thánh Thần làm cho tâm hồn các tông đồ bình an, và có bình an trong tâm hồn, các ông mới đủ can đảm để công khai làm chứng cho Đức Giêsu. Do đó, để lãnh nhận Thánh Thần và ơn bình an, chúng ta phải có lý tưởng là sẵn sàng làm chứng cho Đức Giêsu Kitô, cho Thiên Chúa, cho chân lý, cho công lý, cho hòa bình giữa mọi người. Thánh Thần không ban ơn của Ngài cho những người không có lý tưởng, không có tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Vì giả như có được ơn Thánh Thần, họ cũng chẳng ích lợi gì cho ai, mà thậm chí gây hại, vì khi không có tình yêu và lý tưởng, họ sẽ lạm dụng những ơn ấy.
3. Sứ mạng của người Kitô hữu
Ngày nay, tỷ lệ Kitô hữu tại châu Âu bị suy giảm trầm trọng, và có vẻ như không tăng lên tại châu Á. Điều ấy khiến mọi Kitô hữu phải suy nghĩ và đặt lại vấn đề cách thức loan báo Tin Mừng của mình, có thể nó không hợp với nhu cầu hay đòi hỏi của thời đại. Con người thời đại này đã thay đổi rất nhiều so với cách đây 50 năm. Hoàn cảnh (văn hóa, kinh tế, chính trị, xã hội, trình độ khoa học kỹ thuật, nhu cầu con người, v.v…) đã thay đổi, khiến não trạng, cách nhìn, cách suy nghĩ, lối sống của con người không còn như xưa. Vì thế, nếu chúng ta vẫn giữ cách thức loan báo Tin Mừng như thời tổ tiên ta, e rằng việc loan báo không còn hợp thời và hữu hiệu nữa.
Người thời nay chịu ảnh hưởng não trạng khoa học thực nghiệm rất nhiều. Họ không thể tin vào lời nói xuông như cha ông họ cách đây 50 hay 100 năm. Họ cần thực chứng, vì đầu óc của họ thực tế hơn xưa rất nhiều. Ngày nay, người ta không thể tin được một Kitô hữu miệng thì luôn luôn nói về tình thương, mà cách sống thì tỏ ra chẳng tình nghĩa với ai. Giới trẻ thời nay đã chán ngấy cái cảnh cha mẹ mình hằng ngày đi lễ, rước lễ, xin Chúa xót thương ban cho mình đủ thứ ơn lành, nhưng lại luôn luôn tỏ ra ích kỷ, bảo thủ quyền lợi, và lãnh đạm trước sự đau khổ hay nhu cầu cấp bách của người chung quanh. Não trạng thực tế khiến người thời đại nhìn thấy rất rõ sự tương phản giữa lời rao giảng và cách sống của những người chuyên loan báo Tin Mừng. Lời rao giảng dù có hay, hùng hồn, hấp dẫn, nhưng không được minh chứng bằng đời sống thực tế của người rao giảng, thì chẳng lôi cuốn được ai!
Ngày nay, khắp nơi trên thế giới, chỗ nào cũng có những bất công, đàn áp, người nghèo bị khinh miệt và càng ngày càng nghèo hơn, người bị gạt ra ngoài lề xã hội ngày càng nhiều, sự bóc lột giữa người với người ngày càng tinh vi, sự chênh lệch giữa người giầu và người nghèo, giữa nước giầu với nước nghèo ngày càng lớn, và biết bao thảm trạng khác. Nhưng thử hỏi: mỗi người Kitô hữu chúng ta đã làm gì trước tình trạng xấu ác đó? Biết bao Kitô hữu không hề quan tâm, đến nỗi không ý thức gì về tình trạng ấy! Biết bao Kitô hữu biết nhưng mặc kệ, ai ra sao thì ra, miễn đời sống mình bình an đầy đủ là được rồi! Biết bao Kitô hữu đã im lặng vì muốn an thân, không muốn bị liên lụy, cho dù sự lên tiếng của mình có thể cải thiện được tình trạng không nhiều thì ít! Biết bao Kitô hữu chẳng những không lên tiếng, mà còn thỏa hiệp hay hùa theo sự ác, chỉ vì quyền lợi của mình! Bất chấp và mặc kệ cho sự ác, sự khổ, bất công, nghèo đói hoành hoành, nhiều Kitô hữu vẫn an tâm rao giảng thứ Tin Mừng giải phóng, là «Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, cho kẻ bị giam cầm được tha, cho người mù được sáng mắt, cho kẻ bị áp bức được tự do, v.v…» (Mt 4,18). Làm sao người thời nay với não trạng khoa học thực nghiệm có thể tin vào lời của những ngôn sứ không hề có những hành động nào đích thực là ngôn sứ? Những người nghèo khổ, những người bị áp bức, những người bị bất công đang chờ đợi hay mong mỏi chúng ta làm gì? Họ mong chúng ta cứu họ thoát khổ, lên tiếng chống lại áp bức bất công, hay họ mong chúng ta rao giảng Đức Giêsu Kitô cho họ, hoặc cho họ biết rằng Ngài là Cứu Độ duy nhất? Họ cần chúng ta cụ thể hóa tình thương của ta đối với họ, hay họ cần chúng ta rao giảng chân lý? Chúng ta đã làm gì?
Đã từ lâu, chúng ta quá hăng say rao giảng chân lý, mà quên mất hoặc không để ý đến những nhu cầu cụ thể và thực tế của dân chúng. Họ cần tình thương, nhưng chúng ta chỉ cho họ chân lý! nói đúng hơn là cho họ một mớ lý thuyết về chân lý! Đạo của chúng ta mà như thế thì còn hấp dẫn được ai? Vì thế, đừng lấy làm lạ tự hỏi tại sao Kitô giáo lại bị giảm sút tại châu Âu và không phát triển được tại châu Á. Người Kitô hữu hãy yêu nhau và yêu tất cả mọi người trước đã, đừng quan tâm tới việc rao giảng vội! Chính đời sống yêu thương của người Kitô hữu mới là lời giảng hùng hồn và hữu hiệu nhất cho thời đại khoa học thực nghiệm hiện nay. Người Kitô hữu cứ sống yêu thương và thực hiện hay làm chứng cho công lý trước đã, toàn thế giới sẽ tự động trở nên Kitô hữu sau. Còn hăng say rao giảng mà không yêu thương, mà coi nhẹ công lý, thì mọi lời rao giảng đều «chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng» (1 Cr 13,1), hoàn toàn vô ích!
4. Cần có sự biến đổi
Giáo Hội hiện nay cần Thánh Thần biến đổi hơn bao giờ hết. Biến đổi trước hết là não trạng loan báo Tin Mừng. Chúng ta chỉ thích loan báo bằng lời nói, chứ không phải bằng đời sống, bằng việc làm cụ thể. Cần phải thay đổi não trạng đó nếu muốn Giáo Hội tồn tại và phát triển. Sứ mạng của Giáo Hội là sống và thực hành yêu thương hơn là rao giảng chân lý. Tôi không có ý coi nhẹ việc rao giảng chân lý, nhưng phải coi việc sống yêu thương là quan trọng hơn, và quan trọng hơn rất nhiều. Và chỉ có tình thương đích thực mới làm chúng ta mạnh dạn, can đảm như các tông đồ, dám coi thường tất cả (bắt bớ, tù đày, chết chóc) để nói lên tiếng nói ngôn sứ của mình. Cũng như chỉ có tình thương đối với con mình mới có thể thúc đẩy người cha hay người mẹ xông vào hiểm nguy để cứu lấy con mình. Ơn Thánh Thần mà Giáo Hội và mọi Kitô hữu rất cần hiện nay là tình yêu thương.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Thánh Thần, xin đổ ơn của Ngài xuống trên từng người chúng con, đặc biệt ơn biết yêu thương, biết hy sinh vì người khác, để chúng con loan báo Tin Mừng một cách hữu hiệu bằng chính đời sống yêu thương được biểu hiện bằng những hành động cụ thể như Đức Giêsu đã dạy, chứ không chỉ loan báo bằng lời nói xuông. Amen.
87. Chúa Thánh Thần, Đấng thông ban mọi sự
Chúa Giêsu khi chịu chết trên Thập Giá, Ngài đã bị tên lính lấy lưỡi đòng đâm thấu cạnh nương long để máu cùng nước chảy ra từ đó sinh ra nguồn sự sống cho nhân loại, khai sinh Giáo hội Chúa Kitô. Nhưng để Giáo hội ấy được giới thiệu với thế giới thì phải đợi đến 50 ngày sau tức vào ngày Lễ Ngũ Tuần, phải đợi Chúa Thánh Thần hiện xuống thì dân Do Thái hay nói rộng hơn là thế giới mới nhận ra khuôn mặt của Giáo hội Chúa Kitô. Như thế, Chúa Thánh Thần đã làm một cuộc đổi mới nơi Giáo hội, đã hoàn tất những gì mà Chúa Giêsu đã thực hiện nơi đời sống dương thế của Ngài. Hôm nay mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống ta hãy suy niệm để thấy được vai trò của Chúa Thánh Thần trong Giáo hội cũng như trong chính cuộc sống chúng ta.
Trước hết, Chúa Thánh Thần là Đấng hiệp nhất trong Giáo hội. Giáo hội được Chúa Kitô thiết lập mà các tông đồ là những tín hữu đầu tiên. Ngay trong cuộc thương khó của Chúa Kitô, các tông đồ, các môn đệ đã bỏ chạy tán loạn. Sau khi Chúa Phục sinh mặc dù các tông đồ có hội họp lại với nhau nhưng sự hiệp nhất này là vì sợ hơn là vì tin vào Chúa phục sinh, bằng chứng là Tôma đã có lần không cùng hiệp nhất với các môn đệ khác. Nhưng trong ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống các ông đã có mặt đông đủ và như trong bài đọc Tông Đồ Công Vụ 2,1-11 thuật lại rằng "Mọi người kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của họ". Chính Chúa Thánh Thần đã biến đổi những con người tầm thường thành những con người truyền giáo, từ những người phường chài ít học trở nên người nói lời Thiên Chúa cách lưu loát và đặc biệt Chúa Thánh Thần biến đổi mọi người để họ cùng nghe và cùng hiểu Tin Mừng của Thiên Chúa được loan báo cho mọi dân tộc.
Nhìn vào Giáo hội ngày nay Chúa Thánh Thần đóng vai trò hiệp nhất trong Giáo hội cách đặc biệt. Ngài hiệp nhất muôn dân tộc, muôn người... để cùng tuyên xưng vào một Thiên Chúa duy nhất. Trong Chúa Thánh Thần không có khoảng cách, không có ranh giới. Dù có sự khác nhau về địa lý, và bản sắc văn hoá nhưng tất cả đều nên một trong Chúa Kitô.
Chúa Thánh Thần là nguồn động lực và phát kiến cho mọi hoạt động tông đồ. Trong cuộc thương khó của Chúa Giêsu và ngay cả khi Chúa Giêsu Phục Sinh thì các tông đồ luôn sống trong sợ hãi, luôn sống trong hoang mang bí lối... Nhưng với sự kiện Chúa Thánh Thần hiện xuống thì các ông đã biến đổi một cách rõ rệt. Một Phêrô nhút nhát chối Thầy nay mạnh dạn tuyên xưng: vị chịu chết trên Thập Giá là Thầy mình, là Thiên Chúa, và cùng với Gioan ông đã mạnh dạn tuyên bố "Nghe lời các ông hơn là nghe lời Thiên Chúa điều ấy có phải lẽ không?" (Cv 4,19). Với sức mạnh của Chúa Thánh Thần mà các tông đồ hăng say đi rao giảng Tin Mừng Chúa Kitô Phục Sinh và với những con người tham sống sợ chết mà nay lại dám lấy mạng sống mình để minh chứng Đấng chịu chết trên Thập Giá là Thiên Chúa. Sự lớn mạnh của Giáo hội thời sơ khai chính là bằng chứng cho thấy rõ sự hoạt động của Chúa Thánh Thần như: Các tông đồ mạnh dạn đi loan báo Tin Mừng, thiết lập các phó tế, thành lập các giáo đoàn, Rửa tội cho dân ngoại.. Như thế chính Chúa Thánh Thần là nguồn động lực và phát kiến mọi hoạt động tông đồ.
Chúa Thánh Thần vẫn hằng hoạt động trong Giáo hội chúng ta ngày nay đơn cử như Giáo hội Việt Nam chúng ta. Năm 1553 Tin Mừng được loan báo đến nước Việt Nam chúng ta nhưng phải trải qua nhiều gian lao khó khăn. Và hàng vạn người đã lấy mạng sống mình để tuyên xưng niềm tin. Nhìn với khía cạnh con người đây qủa là một thất bại vì sự mất mát quá lớn. Nhưng dưới tác động của Chúa Thánh Thần thì những khó khăn, tù đày, nhục hình... được mặc cho một ý nghĩa lớn lao hơn, nó như là hạt giống ươm mầm cho ngày nay nước Việt Nam có hàng triệu con người Việt Nam tin vào Thiên Chúa. Và hiện nay Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động âm thầm qua những biến cố, những cảnh huống của cuộc sống để đưa dẫn mọi người vững bước trên con đường đi theo Chúa.
Còn nhiều, còn nhiều những tác động của Chúa Thánh Thần trong đời sống của Giáo hội nói chung và trong mỗi con người chúng ta nói riêng. Như thế chúng ta phải sống như thế nào để cộng tác với Chúa Thánh Thần Đấng vẫn hằng hoạt động trong chúng ta.
Chúa Thánh Thần là Đấng thiêng liêng, vô hình. Chẳng phải Chúa Thánh Thần chỉ được ví như là lửa, gió, nước... Nhưng phải nhớ rằng Ngài là Đấng thiêng liêng và hoạt động của Ngài là vô tận nên ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần để Ngài ban cho ta nhận được đâu là thánh ý Thiên Chúa muốn chúng ta hoàn thành trong đời sống của mình. Mặt khác, chúng ta đừng bó buộc Chúa Thánh Thần phải là như thế này như thế kia, nhưng Ngài là tất cả nên chúng ta phải suy ngắm để khám phá được Ngài.
Chúa Thánh Thần là Đấng hiệp nhất và Ngài muốn chúng ta là dụng cụ để Ngài thực hiện sự hiệp nhất đó trong gia đình, trong lối xóm, trong xã hội... Nên khi trong chúng ta có sự bất hoà là khi chúng ta đi ngược lại với sự tác động của Thần Khí.
Chúa Thánh Thần là nguồn và phát kiến mọi hoạt động tông đồ. Hãy để Chúa Thánh Thần hành động trong chúng ta. Hãy hoạt động hết khả năng của mình trong sự suy ngắm và cầu nguyện để rồi Chúa hoàn tất những gì Ngài muốn thực hiện.
Hôm nay mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần đổi mới mọi sự trong ngoài chúng ta để chúng ta được trở nên mềm mại trong lòng bàn tay Thiên Chúa từ đó Ngài sẽ làm nên những tác phẩm đẹp ý Ngài.
88. Mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần--Suy niệm của Lm Lâm Thái Sơn
Đối với một vài quốc gia thuộc Châu Âu, lễ «Chúa Thánh Thần Hiện Xuống» là lễ trọng, do đó ngày nghĩ lễ cũng được kéo dài, có nhiều xưởng hãng cho phép «nghỉ bác cầu» từ chiều thứ năm đến sáng thứ ba tuần sau. Và ta thấy từng đoàn xe nhôn nhao rời khỏi làng hoặc thành phố nơi mình trú ngụ để đi đây đi đó, lên núi hoặc xuống miền biển nắng ấm. Nếu những ngày đó có mặt trời và ta được dịp đi biển, hẳn nhiên ta sẽ chứng kiến những cánh buồm nho nhỏ hoặc ra khơi hoặc đùa giỡn với những làn sóng biển nhờ những luồng gió thổi mạnh. Con người chỉ cần lèo lái và ung dung đùa giỡn trên mặt biển, nhưng điều cần thiết là phải có gió.
Vậy thì bài đọc thứ nhất hôm nay cũng cho chúng ta nhận thấy tầm quan trọng của Gió, vì gió và lửa biểu tượng sự hiện diện của Thần Linh Thiên Chúa: «khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra tiếng động như tiếng gió thổi mạnh, lại có những lưỡi như thể bằng lửa xuất hiện, và mọi người đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần» (Cv 2,1-11).
Khi đề cập đến «gió, lửa, mây mù, sấm chớp» như dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa, ta cần nhớ lại một vài đoạn Kinh Thánh: Lúc khởi đầu sáng tạo trời đất, thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước (St 1,1-2); lúc giải thoát dân It-ra-en ra khỏi đất Aicập vượt qua Biển Đỏ: Thiên Chúa cho một cơn gió đông thổi mạnh dồn biển lui, nước rẽ ra và con cái It-ra-en đi vào giữa lòng biển khô cạn (Xh 14,15-31); lúc ban mười điều luật: Cả núi Xi-nai nghi ngút khói, vì Thiên Chúa ngự trong đám lửa mà xuống và cả núi rung chuyển mạnh (Xh 19,16-24).
Gió không những biểu tượng sự hiện diện của Thiên Chúa, mà còn tượng trưng Thần Linh Thiên Chúa, vì Thần Khí là sự sống. Với lời văn bóng bẩy, tác giả sách Sáng Thế viết: Lúc tạo dựng, Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật (St 2,7); Trong sách Gióp, ông Êlihu nói: Sinh khí Thiên Chúa đã làm ra tôi, hơi thở của Đấng Toàn Năng đã cho tôi được sống (G 33,4). Lời văn tuy giản dị nhưng rất gợi hình và đầy ý nghĩa. Phải chăng khi đề cập đến người chết, ta cũng đã từng nói rằng (ông/bà) đó đã trút hơi thở cuối cùng. Vì hơi thở là sự sống, là Thần Khí, do đó sau khi Đức Giêsu Phục Sinh: Nơi các môn đệ ở, Ngài đến giữa các ông và nói «bình an cho anh em», đoạn Ngài thổi hơi cho các ông và bảo «anh em hãy nhận lấy Thánh Thần» (Ga 20,19-23). Từ lúc đó, các môn đệ lãnh nhận sức mạnh của Chúa Thánh Linh.
Và Giáo Hội cũng được khai sinh vào lúc Thần Linh Thiên Chúa ngự trên các môn đệ với những dấu chỉ gió và lưỡi lửa trong ngày lễ Ngũ Tuần. Lễ mừng kỷ niệm ngày khai sinh của dân Hy-bá tại núi Xi-nai đã trở thành ngày khai sinh của một Dân tộc mới, và từ nay Thần Khí đến thay thế Lề Luật. Ở núi Xi-nai, Lề Luật được ghi khắc bất động vào đá như một bảo chứng về lâu dài. Ngược lại, lửa và sinh khí của Thần Linh Thiên Chúa không bị chế ngự và giam kín, mà luôn soi sáng sứ điệp Tin Mừng cũng như thúc giục con người biết sống tự do không bị ràng buộc bởi tội lỗi, biết yêu thương như chính Thiên Chúa yêu thương.
Do đó, lễ Hiện Xuống được xem như biến cố phá tan những ranh giới văn hoá, sắc tộc, địa dư và tôn giáo tại Ít-ra-en. Từ nay nhân loại hoàn vũ với những khác biệt ngôn ngữ, văn hoá, não trạng và truyền thống được mời gọi làm công dân Nước Thiên Chúa, chứ không chỉ riêng một dân tộc Ít-ra-en nhỏ bé khép kín với những đặc ân thuở xưa; hơn nữa, dấu chỉ thuộc dân riêng không cần được ghi khắc vào da thịt (nghi thức cắt bì) mà khắc ghi vào tim trong hoán cải canh tân.
Sự đa dạng của các dân tộc được xem như điều phong phú cho nhân loại, tuy nhiên tính cách đó, trong bóng tối tội lỗi, có cơ nguy gây chia rẽ và thù hận giữa con người với nhau, thí dụ điển hình cho sự bất hạnh nhân loại đó là «tháp Ba-ben»: dự án xây dựng một thành phố với tháp có đỉnh cao chọc trời, một dự án ngạo mạn loại bỏ Thiên Chúa, tức nhiên chối từ tình yêu đưa đến sự xáo trộn tiếng nói và từ đó nhân loại bị phân tán khắp nơi trên mặt đất (St 11,1-9).
Vậy thì lễ Hiện Xuống được xem như một sự đối chọi vang lừng với tháp Ba-ben: Lúc đó, tại Giêrusalem vào lễ Ngũ Tuần, mọi người kinh ngạc vì ai nấy đều nghe các Tông Đồ nói tiếng bản xứ của mình. Họ sửng sốt, thán phục... (Cv 2, 1-11), bởi vì vượt trên các thổ ngữ, có một thế giới ngữ đó là tiếng nói của tình yêu và cũng chính là ngôn từ của Thiên Chúa.
Để đánh dấu điều mới mẻ căn bản của triều đại Thần Khí và các phẩm hạnh của vương quốc cần xây dựng tại trần thế, thánh Phaolô có viết trong bài đọc hai: Nếu anh em để cho Thần Khí hướng dẫn, thì anh em không còn lệ thuộc Lề Luật nữa... Quả vậy, phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa... Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: «Áp-ba! Cha ơi!» (Rm 8,8-17).
Tóm lại, nếu không có Thần Linh Thiên Chúa thì cũng không có Giáo Hội và chúng ta cũng không trở thành anh em. Nếu chúng ta được tràn đầy Thánh Thần, chúng ta sẽ nói những thứ tiếng hoàn toàn khác với những ngôn ngữ của thế giới ngày nay đang truyền đạt sự sùng bái các thần tượng, bao gồm những đam mê danh vọng, hận thù tranh chấp, ganh tị và chia rẽ. Nếu được tràn đầy Thánh Thần, mỗi người chúng ta sẽ phát biểu tuỳ theo ơn Chúa ban cho; lúc đó chúng ta sẽ là chứng tá của Đức Kitô, là sứ giả của Tin Mừng và Thần Khí chứng thực cho chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa.
89. Nguồn sống
"Chúa thổi hơi trên các ông và bảo: anh em hãy lãnh nhận Thánh Thần". Ga 14,22.
Sự sống con người có hai điều rất cần thiết và rất gần gũi: đó là hơi thở và nhịp đập của trái tim. Dĩ nhiên còn nhiều cái khác cũng rất cần thiết, ở đây ta chỉ bàn về hai điều này thôi. Trước hết, hơi thở: đó là thứ vô cùng cần thiết. Không có nó không thể có sự sống và nó đồng nghĩa với cái chết. Để diễn tả sự chết, người ta nói: nó hết thở rồi (nghĩa là đã chết). Hơi thở quan trọng như thế, vậy mà bình thường không ai để ý nó, cũng không mấy người quan tâm gìn giữ nó cẩn thận. Đợi tới khi gần chết, thiếu hơi thở, lúc đó ta mới thấy nó cần thiết vô cùng...Rồi nói tới nhịp đập của con tim: hơi thở nhiều lúc ta còn chủ động, còn dễ thấy, nhưng nhịp đập của trái tim lại là một hoạt động tự phát của cơ thể; nhiều lúc ta không thấy cần nó, nhưng nó lại là thứ không thể thiếu cho sự sống.... Hơi thở, nhịp đập con tim cần cho sự sống thể xác thế nào, thì Chúa Thánh Thần cũng cần thiết cho sự sống linh hồn ta y như vậy. Đó chính là đề tài ta sẽ suy niệm ngày lễ Chúa Thánh Thần hôm nay.
a. Một vài danh từ chúng ta cần tìm hiểu ý nghĩa:
* thổi hơi: đây là một cử chỉ chúc phúc. Chúa Giêsu thổi hơi trên các môn đệ người là để chúc phúc cho họ, cũng để trao ban Thánh Thần và ơn sủng Người cho các ông.
* hãy nhận lấy Thánh Thần (Gn 20, 22): tiếng Hêbrơ dịch là: Ruah; Hi lạp dịch là: Pneuma; la tinh dịch là: spiritus: có nghĩa gió, hơi thở - khi dùng từ gió và hơi thở để chỉ về Chúa Thánh Thần, điều đó muốn nói: Chúa Thánh Thần là Đấng có năng lực kỳ diệu như gió, như hơi thở, Đấng trao ban sự sống. Dù Ngài thật thần thiêng, nhưng lại hoạt động mãnh liệt trong nội tâm mọi người cùng với chính Thiên Chúa.
b. Hoạt động của Chúa Thánh Thần trong vũ trụ và trong Hội Thánh:
Ngay từ chương đầu của sách Sáng thế ký,đã có nói về Chúa Thánh Thần. Chính Thánh Thần Thiên Chúa đã hoạt động và sáng tạo vũ trụ, sáng tạo con người cách tốt đẹp và lạ lùng... Đến khi Con Thiên Chúa, Đức Giêsu xuống trần gian, ta cũng thấy mọi công việc và hoạt động của Người đều có sự hướng dẫn và thúc đẩy của Chúa Thánh Thần...Rồi chính Hội thánh Chúa Giêsu đã lập ở trần gian, trước khi Chúa về trời, Người đã giao lại cho các tông đồ, chính Hội thánh đó đã đầy ơn sủng của Chúa Thánh Thần; nhất là từ ngày lễ Ngũ tuần, Chúa Thánh Thần đã hiện diện sống động trong hội thánh trong các tông đồ từ hôm đó. Chính Người là nguyên lý, là động lực, là sức mạnh tác động trên các tông đồ, trong Hội thánh.
Người không tin Chúa Thánh Thần, họ nói: làm sao để chứng minh Chúa Thánh Thần đang hiện diện trong hội thánh? Cùng lắm Hội Thánh ở trần gian là một tổ chức hữu hình, có cơ cấu khéo léo hơn các tôn giáo khác!...Ta tin vào Chúa Thánh Thần không phải là không có căn cứ: 1. vì chính Chúa Giêsu trước khi về trời đã hứa ban Chúa Thánh Thần. 2. các tông đồ trước ngày lễ Ngũ tuần, rất nhút nhát, ít học; vậy mà sau khi được ơn Chúa Thánh Thần, họ sẵn sàng làm mọi chuyện, ngay cả hi sinh chính mạng sống mình. 3. Hội thánh qua 20 tk gặp biết bao sóng gió, tưởng có lúc tan tành rồi; vậy mà đến hôm nay vẫn đứng vững. Thực ra, nếu không có Thánh Thần, Hội thánh tự mình đứng vững được chăng?
c. Gợi ý sống và chia sẻ:
* Hoạt động của Chúa Thánh Thần, dù không thầy rõ như hai cộng hai là bốn, nhưng rõ ràng có nhiều biến cố trong Hội thánh không thể cắt nghĩa được nếu không nói đến ơn sủng của Chúa Thánh Thần. là người kitô hữu, ta có tin không?
* Chúa Thánh Thần là sức sống, ngồn mạch mọi ơn sủng, là hơi thở, là nhịp đập của con tim, không thể thiếu cho mọi kitô hữu. Ta có tin, có năng chạy tới và cầu nguyện với Chúa Thánh Thần không? Bằng mọi cách, ta có cố gắng sống theo sự chỉ dẫn của Người không?
90. Thánh Thần hiệp nhất yêu thương--Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn
Đúng năm mươi ngày sau Lễ Chúa Giêsu Phục Sinh, Giáo hội long trọng mừng Lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống, Đấng đã đến để đốt lên lửa mến yêu và truyền ban lòng can đảm loan báo Tin Mừng cho các môn đệ.
Không hiểu sao tuy đã được chứng kiến tận mắt Chúa Phục Sinh, được đàm đạo và ăn uống với Ngài, được nghe tận tai lời sai bảo làm nhân chứng cho Nước trời, ấy thế mà các người theo Chúa vẫn lo sợ. Chỉ biết cửa đóng then cài. Mãi cho đến một hôm, đang lúc họ hội nhau đông đủ trên phòng kín, thì bỗng từ trời có cơn gió mạnh. Tiếng rào rào như thể cuồng phong. Và lập tức, một quang cảnh kỳ lạ diễn ra: những lưỡi lửa xuất hiện, đậu trên từng người. Kết quả là ai nấy đều được tràn đầy Chúa Thánh Thần.
Hiện tượng gió thổi trong ngày lễ Hiện xuống nhắc lại sự việc "khí thần bay là trên mặt nước" trong sách Sáng Thế Ký; bên cạnh đó, hình ảnh các tông đồ đầy tràn thần khí cũng gợi lên hình ảnh con người đầu tiên được thổi vào mình đầy hơi sự sống. Như thế, biến cố Hiện xuống đã trở nên một cuộc tạo thành mới, với Thánh Thần Thiên Chúa được thổi vào thế giới để khai sinh một nhiệm thể sống động là Giáo hội của Đức Kitô.
Bằng việc loan báo Tin Mừng, khởi đi từ các thánh tông đồ, một thời đại mới đã khởi đầu. Đó là thời đại mà Giáo hội được hướng dẫn và thánh hoá dưới tác động của Ngôi Ba Thiên Chúa.
Đặc sủng loan báo Tin Mừng được Chúa Thánh Thần ban xuống qua hình lưỡi lửa đậu trên đầu các tông đồ. Hình lửa này tượng trưng cho sự hiện diện đầy quyền năng của Thiên Chúa, như xưa kia Moisen đã tiếp cận sự hiện diện thần linh qua ngọn lửa cháy nơi bụi gai (Xh 3).
Ngay sau khi tiếp nhận ơn Chúa Thánh Thần, như lời tường thuật của Luca trong sách Tông Đồ Công Vụ, các môn đệ đã thay đổi thái độ sống. Họ mở tung cánh cửa của rụt rè nhát đảm. Họ mạnh bạo cất tiếng nói. Tiếng nói đã phát ra từ miệng lưỡi của những con người đánh cá quê mùa, thất học. Nhưng tiếng nói ấy đã được dân chúng từ 13 vùng đất--đại diện cho các dân tộc từ bắc chí nam, từ đông sang tây--nghe và hiểu. Tất cả đều là nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần.
Ngày xưa, khi lòng dạ con người kiêu căng ngạo mạn với trời, đ¨°i xây tháp Baben để lên đương đầu với Thiên Chúa, tiếng nói của họ, tuy là anh em một nhà, đã trở nên bất đồng. Mầm mống rối loạn, mơ hồ, kình địch, và phân ly đã nảy sinh. Người ta không còn hiểu nhau. Kết quả là phân tán. Ngày nay, Thần Khí đã xuống để qui tụ con cái từ muôn nước về cùng một mối, giúp họ hiểu nhau trong cùng một thứ ngôn ngữ là tình yêu và vinh quang của Thiên Chúa.
Theo niềm tin Kitô giáo, Thánh Thần là sức mạnh của yêu thương mà qua đó Chúa Cha đã trao ban trọn vẹn chính mình cho Chúa Con. Chúa Con đón nhận trọn vẹn sự sống từ nơi Cha, và rồi trong tình yêu của Thánh Thần, Ngài đã dâng lại trọn vẹn cho Cha. Như thế, Chúa Thánh Thần chính là Tình Yêu Hiệp Thông trong Thiên Chúa Ba Ngôi. Ngài cũng chính là nguồn ơn thông hiệp mọi tâm hồn trong cùng một niềm tin vào Đức Giêsu.
Như lời Thánh Phaolô khẳng định: "Trong Thần Khí độc nhất, hết thảy chúng ta nhờ thanh tẩy mà được nhập vào Thân Mình độc nhất..., và hết thảy đều đã được cùng uống một Thần Khí độc nhất" (1 Cor 12:13). Như thế, những hành vi, thái độ hay lời nói gây nên phân rẽ, rối loạn trong lòng Giáo hội đều tương phản với đường lối của Thánh Thần.
Thần Khí độc nhất liên kết mọi thành phần Kitô hữu chính là Thần khí thương yêu. Vì chỉ có yêu thương mới có nên một. Có yêu thương mới có the đạt đến việc cùng nhau thông hiệp trọn vẹn trong Thiên Chúa. Thánh Gioan đã nhấn mạnh: "Nếu ta yêu mến nhau, thì Thiên Chúa mới lưu lại trong ta. Nơi điều này mà ta biết là mình lưu lại trong Người và Người ở trong ta, đó là Thánh Thần mà Người đã ban cho ta" (1 Ga 4:13-14).
Thánh Phaolô cũng cùng một niềm xác tín: "Lòng mến của Thiên Chúa đã được đổ xuống lòng ta nhờ bởi Thánh Thần Người đã ban cho ta" (Rm 5:5).
Như thế, nhờ Thánh Thần mà ta có thể cất bước trên lối đường thương yêu, đi vào sự nên một với tha nhân trong Đức Kitô. Lắm khi người ta hay than trách: "không thể nào yêu nổi con người ấy." Có phải vì họ đã tận tâm tận lực nhưng không thành, hay vì chưa có Thần Khí Yêu Thương tác động và đỡ nâng?
Chỉ cần một luồng gió của ngày lễ Ngũ Tuần thổi qua, con người sẽ có dư can đảm mở tung cánh cửa tâm hồn để đến với anh chị em. Chỉ cần một đốm lửa của ơn Thánh Thần, bạn và tôi sẽ có đủ sức mạnh để công bố Tin Mừng Yêu Thương cho mọi người chung quanh.
Nhưng vấn đề là người ta có biết cùng nhau tề tựu để cầu nguyện như các tông đồ ngày xưa hay không. Thế nên để kiến tạo hiệp nhất và xây đắp tình yêu, con người cần phải cùng nhau ngồi xuống cầu nguyện.
91. Suy niệm của Lm Cao Tấn Tĩnh
Theo Phụng Niên của Giáo Hội, Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống hôm nay đây là thời điểm mở màn cho Mùa Thường Niên Hậu Phục Sinh, cũng như Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa mở màn cho Mùa Thường Niên Hậu Giáng Sinh vậy. Riêng Phụng Vụ Lời Chúa cho Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống hôm nay, nếu để ý chúng ta thấy có một một chi tiết hết sức kỳ lạ, giữa bài đọc thứ nhất theo Sách Tông Vụ của Thánh Luca, và bài Phúc Âm theo Thánh Gioan hôm nay, đó là, Chúa Thánh Thần được Chúa Kitô Phục Sinh thở hơi trên các tông đồ trong bài Phúc Âm, và Thánh Thần Hiện Xuống trên các tông đồ trong Ngày Lễ Ngũ Tuần theo Sách Tông Vụ, có khác nhau chăng? Nếu khác thì khác ở chỗ nào? Nếu chỉ là một Thánh Thần thì tại sao các tông đồ lại nhận được hai lần?
Trước hết, theo tôi, Thánh Thần được Chúa Kitô Phục Sinh thở hơi trên các tông đồ và Thánh Thần Hiện Xuống trong ngày Lễ Ngũ Tuần chỉ là một Thánh Thần duy nhất. Thế nhưng, nếu là một Thánh Thần duy nhất tại sao các tông đồ lại lãnh nhận hai lần, theo tôi, lý do của sự kiện này có thể được căn cứ vào thời điểm các vị lãnh nhận cũng như vào cứ điểm xuất phát của Đấng các vị lãnh nhận. Thật vậy, các tông đồ lãnh nhận cùng một Thánh Thần hai lần, lần thứ nhất vào thời điểm các vị đang sợ hãi ẩn nấp vì Thày của các vị đã chết, và lần thứ hai vào thời điểm các vị đang hân hoan thao thức chờ đợi Ngài đến; đó là về thời điểm các tông đồ lãnh nhận Thánh Thần, còn về cứ điểm xuất phát của Đấng các vị lãnh nhận, thì lần thứ nhất các vị đã lãnh nhận Thánh Thần qua thân xác phục sinh của Chúa Kitô, và lần thứ hai các vị đã lãnh nhận Thánh Thần từ trời hay từ Cha. Căn cứ vào hai yếu tố thời điểm các vị tông đồ lãnh nhận Thánh Thần và cứ điểm xuất phát của Đấng các vị lãnh nhận, như vừa nhận định và phân tách, theo tôi, các vị tông đồ lãnh nhận Thánh Thần lần thứ nhất là để Chúa Kitô Phục Sinh có thể sống trong các vị, và lần thứ hai là để các vị có thể làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh.
Đúng thế, các vị tông đồ đã lãnh nhận Thánh Thần lần thứ nhất “vào buổi tối Ngày Thứ Nhất trong tuần”, khi “cửa nhà của các vị còn đang đóng kín vì sợ người Do Thái” (Jn 20:19), qua hơi thở từ thân xác của Chúa Kitô Phục Sinh, là để Chúa Kitô Phục Sinh có thể sống trong các vị, đúng như lời Người tiên báo cho các vị trong Bữa Tiệc Ly, ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 14 câu 18 và 19: “Thày sẽ không để các con mồ côi đâu; Thày sẽ trở lại với các con. Chỉ còn một ít lâu nữa thôi thế gian không còn trông thấy Thày nữa, nhưng các con thì thấy, vì Thày sống và các con cũng sẽ sống. Vào ngày ấy các con sẽ biết rằng Thày ở trong Cha Thày, và các con ở trong Thày cũng như Thày ở trong các con”. Các tông đồ còn lãnh nhận Thánh Thần lần thứ hai nữa, là để các vị có thể làm chứng về Chúa Kitô Phục Sinh, như lời Người cũng đã nói cho các vị biết, sau khi các vị đã nhận lãnh Thánh Thần qua hơi thở từ thân xác của Người, tức sau khi các vị nhờ Thánh Thần lãnh nhận lần thứ nhất này để nhận ra Thày mình đã thực sự sống lại. Lời Chúa Kitô Phục Sinh tiên báo cho các tông đồ biết về việc các vị sẽ lãnh nhận Thánh Thần lần thứ hai này đã được ghi nhận trong Phúc Âm Thánh Luca đoạn 24 câu 45-49 như sau: “Bấy giờ Người mở tâm trí họ ra để họ hiểu các lời Thánh Kinh. Người nói cùng các vị: ‘Như đã ghi chép, Đấng Thiên Sai phải chịu khổ nạn và sống lại từ trong cõi chết vào ngày thứ ba. Phải nhân danh Người mà rao giảng cho tất cả mọi dân nước về lòng thông hối để họ được ơn tha tội, bắt đầu từ Giêrusalem. Các con là những nhân chứng ve điều này. Thày sai đến với các con lời Cha hứa ban. Các con hãy ở đây trong thành này cho đến khi các con được mặc lấy quyền lực từ trên cao’”. Thánh Ký Luca còn lập lại lời Chúa Kitô Phục Sinh này một lần nữa trong Sách Tông Vụ đoạn 1 câu 8 như sau: “Các con sẽ nhận được quyền năng khi Thánh Thần xuống trên các con; đoạn các con phải là những nhân chứng của Thày, chẳng những ở Giêrusalem, khắp Giuđêa và Samaria, mà cho đến tận cùng thế giới nữa”.
Nếu vậy thì hình như có một tiến trình phát triển Thánh Thần nơi các vị tông đồ giữa hai lần các vị lãnh nhận Ngài thì phải, như thể Chúa Kitô Phục Sinh dần dần lớn lên trong các vị, từ lúc các vị nhận biết Thày đã sống lại, cho tới khi Thánh Thần Hiện Xuống trên các vị, làm cho các vị thực sự trưởng thành và có đầy đủ sức mạnh để làm chứng cho Chúa Kitô?
Đúng thế, một trong những dấu chứng tỏ tường cho thấy các tông đồ đang trưởng thành và thực sự trưởng thành cho tới tầm mức trọn vẹn giữa hai lần các vị lãnh nhận cùng một Thánh Thần, điển hình nhất là nỗi lòng của các vị tỏ ra sau khi Vị Tôn Sư vô cùng dấu ái của các vị hoàn toàn bỏ các vị mà về cùng Cha. Thánh Ký Luca đã ghi nhận rõ dấu hiệu trưởng thành này ở 4 câu kết Phúc Âm của mình trong đoạn 24, từ câu 50 đến câu 54, như sau: “Bấy giờ Người dẫn các vị đi đến gần Bêtania, rồi giơ tay lên chúc phúc cho các vị. Đang khi ban phép lành, Người rời các vị mà lên trời. Các vị phục xuống tôn kính Người, đoạn vui mừng hớn hở trở về Giêrusalem. Ở đó người ta thấy các vị liên lỉ ở trong đền thờ chúc tụng Thiên Chúa”. Sở dĩ các tông đồ không còn buồn thương và chán chường như thời gian Chúa Kitô bỏ các vị mà đi tử nạn nữa, trái lại, các vị còn “vui mừng hớn hở” và “chúc tụng Thiên Chúa” sau khi vĩnh viễn không còn được thấy Vị Thày vô cùng khả kính khả ái của mình trên trần gian này nữa, là nhờ có Thánh Thần các vị đã lãnh nhận lần nhất qua hơi thở của thân xác phục sinh của Thày. Ở vào thời điểm Chúa Kitô Phục Sinh Thăng Thiên về trời này, đời sống của các vị tông đồ trong Thánh Thần các vị lãnh nhận lần thứ nhất, có thể nói, đã đạt tới chỗ các vị trở thành “những kẻ thực sự tôn thờ Thiên Chúa”, thành phần, như Chúa Kitô nói cho người đàn bà Samaritanô biết ở bờ giếng Giacóp, được Phúc Âm Thánh Gioan ghi lại nơi đoạn 4 câu 23, đó là: “Những ai thực lòng tôn thờ Thiên Chúa sẽ tôn thờ Cha trong Thần Linh và chân lý. Thật vậy, Cha tìm kiếm những người tôn thờ chân chính này”.
Phải, các tông đồ sẽ không thể nào làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh, nếu trước hết các vị không trở thành “những kẻ thực sự tôn thờ Thiên Chúa”. Bởi vì, thành phần “tôn thờ chân chính mà Cha tìm kiếm này” là thành phần “tôn thờ Cha trong Thần Linh và chân lý”, tức là những người thực sự tin vào Thiên Chúa, Đấng thực sự hiện thân nơi Đấng Thiên Sai của Ngài, hay nói cách khác, họ là những người “tin rằng chính Cha là Đấng đã sai Con” (Jn 17:8, 25), và những người “tin rằng Thày ở trong Cha và Cha ở trong Thày” (Jn 14:11, 20) như thế chính là những người có “sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Đức Giêsu Kitô” (Jn 17:3). Thế nhưng, để nhận biết Thiên Chúa nơi Đấng Thiên Sai của Ngài là Đức Giêsu Kitô, tự mình các tông đồ không thể làm được, mà phải có Thánh Thần. Đó là lý do Thánh Phaolô khẳng định trong bài đọc hai hôm nay: “Không ai có thể nói: ‘Đức Giêsu là Chúa’ nếu không có Thánh Thần”. Như thế, Thánh Thần các tông đồ lãnh nhận lần thứ nhất qua hơi thở của thân xác Chúa Kitô Phục Sinh là để các vị nhận biết Thiên Chúa và Đấng Ngài sai, nhờ đó, sửa soạn các vị “được rửa trong Thánh Thần”, như bài đọc 1 hôm nay nói tới, tức sửa soạn cho các vị lãnh nhận Thánh Thần lần hai, “Vị Thánh Thần”, như Thánh Phêrô khẳng định trước Hội Đồng Do Thái trong Sách Tông Vụ đoạn 5 câu 32: “Thiên Chúa ban cho những ai thuận phục Ngài“.
Thật vậy, nếu Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, con người duy nhất được đầy Thánh Thần từ giây phút đầu thai trong lòng mẹ, sau khi thưa lời “xin vâng” với sứ thần Gabiên, đã được “Thánh Thần ngự xuống và quyền phép Đấng Tối Cao bao phủ” (Lk 1:35), để Mẹ có thể “thụ thai và hạ sinh… Con Đấng Tối Cao” (Lk 1:31, 32) thế nào, các tông đồ cũng vậy, vì đã “tin vào Thiên Chúa và tin vào Thày” (Jn 14:1), được thể hiện bằng việc “ở lại trong thành” như Thày dăn dò, mà các vị đã thực sự “mặc lấy quyền lực từ trên cao”, để có thể thụ thai và hạ sinh Chúa Kitô Phục Sinh trong lòng của 3 ngàn người lắng nghe chứng từ của các vị, qua bài giảng tiên khởi vị trưởng tông đồ Phêrô sau biến cố được Sách Tông Vụ trình thuật trong bài đọc thứ nhất hôm nay là: “Bỗng từ trời phát ra tiếng động như tiếng gió thổi mạnh, lùa vào đầy nơi các vị đang tụ họp nhau. Cũng có lưỡi như lửa xuất hiện đậu trên từng vị. Hết thẩy mọi người đều được tràn đầy Thánh Thần và bắt đầu nói tiếng khác nhau tùy theo Thánh Thần khiến họ nói”.
Khía cạnh tu đức này được phản ảnh nơi khía cạnh phụng vụ. Thật vậy, nếu các tông đồ lãnh nhận cùng một Thánh Thần hai lần, lần đầu là để nhận biết Chúa Kitô Phục Sinh và lần hai là để có khả năng làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh, thì thành phần Kitô hữu tân tòng cũng thế, sở dĩ họ trở lại với Chúa Kitô là nhờ Thánh Thần soi động họ vào một lúc nào đó trong đời họ, để rồi, khi họ tuyên xưng đức tin qua việc lãnh nhận phép rửa, họ lại được lãnh nhận Thánh Thần nơi Bí Tích Thêm Sức ngay sau khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội để có thể làm chứng cho Chúa Kitô. Thế nhưng, vấn đề ở đây là, đã được lãnh nhận Thánh Thần qua Phép Rửa, Kitô hữu chúng ta đã tin Chúa Kitô ra sao, và được lãnh nhận Thánh Thần nơi Phép Thêm Sức rồi, chúng ta đã hiên ngang làm chứng cho Chúa Kitô chưa...?
92. Ân huệ Chúa Thánh Thần--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Khi hai người quý mến nhau, hay thương yêu nhau, để biểu lộ tình yêu họ sẽ tặng cho nhau những món quà quý giá: một cánh hoa, một tấm thiệp, một món quà... Một tặng phẩm hay một ân huệ mà một người đem tặng cho người khác là do lòng quảng đại và nhân hậu. Quảng đại vì người tặng hoàn toàn tự nguyện. Nhân hậu vì tình thương được thể hiện qua tặng phẩm.
Sự sống, sức khoẻ, tài năng, bình an, của cải, con cái... là những ân ban của Thiên Chúa cho con người. Ân huệ lớn nhất, ơn trọng đại nhất mà Thiên Chúa ban cho nhân loại là Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần Hiện Xuống là Ân Ban lớn lao cho Giáo Hội và cho Đức Maria.
1. Ân huệ Chúa Thánh Thần cho Giáo Hội
Đức Kitô là người đầu tiên đã quan niệm tình yêu một cách vị tha chưa ai từng nghe thấy: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hy sinh tính mạng mình vì bận hữu” (Ga 15, 13). Vì yêu thương con người, Ngài đã chịu khổ nạn, đã phục sinh và trao ban sự sống mới cho nhân loại. Đó là sự sống thần linh, là Chúa Thánh Thần.
Hôm nay đây trong ngày Lễ Ngũ Tuần, các Tông Đồ đang họp nhau cầu nguyện trong nhà Tiêc Ly cùng với Đức Maria. Chúa Thánh Thần đã Hiện Xuống dưới hình lưỡi lửa đậu trên đầu mỗi người, ban tràn đầy sức sống mới. Quyền năng Chúa Thánh Thần đến trên Giáo hội với sức lay động và chuyển thông.
Sức lay động vì Chúa Thánh Thần đã đến như thể cuồng phong thổi vang dậy đầy nhà. Ghế bàn không bay bổng, tường - mái nhà vẫn nằm yên, nhưng lòng người đã được lay động. Quyền năng Chúa Thánh Thần như gió mạnh đã làm bật tung các ổ khoá, các cửa to cửa nhỏ của ngôi nhà các Tông Đồ đang ẩn náu. Quyền năng Thánh Thần tung họ ra khỏi pháo đài để với hai bàn tay không và một trái tim đầy nhiệt huyết họ đi vào thế giới rao giàng Tin Mừng Đức Giê-su Phục Sinh.
Được sức lay động và đầy lửa Thánh Thần, các Tông Đồ cùng lên tiếng cao rao những kỳ công của Thiên Chúa. Thánh Phê-rô, lòng đầy Thánh Thần, đã hùng hồn thuyết giảng vể Chúa Giê-su Thương Khó và Phục Sinh. Có 3,000 người xin được Rửa Tội. Giáo Hội được khai sinh từ đó vào ngày Lễ Ngũ Tuần. Thánh Thần đến, Giáo Hội khai sinh.
Tác động của Chúa Thánh Thần trên Giáo Hội thật mãnh liệt. Chỉ một nhóm Tông Đồ nhỏ bé, sợ hãi, co cụm, hoang mang, lúc nào cũng cửa đóng then cài. Thế mà giờ đây khi được tràn đầy Thánh Thần họ đã trở nên mạnh mẽ phi thường, hiên ngang, can trường làm chứng và loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Các Ngài được trang bị bằng quyền năng Thánh Thần để bẻ gãy sức mạnh của sự dữ, tội lỗi.
Dù bị đe dọa đòn vọt, dù gông cùm tù tội, các ngài vẫn trung kiên một niềm tin vào Chúa. Các Ngài đã lấy máu đào minh chứng cho lời rao giảng. Dù bị đàn áp bách hại, Giáo Hội vẫn lớn mạnh không ngừng. Hai mươi thế kỷ qua, con thuyền Giáo Hội do người dân chài Ga-li-lê cầm lái vẫn lướt qua mọi thăng trầm của lịch sử với muôn vàn thử thách giông tố để luôn đi tới.
Vậy thì bí quyết ẩn tàng trong đó và lý do tồn tại vĩnh cửu của Giáo Hội là gì nếu không phải chính là sức mạnh là quyền năng Chúa Thánh Thần.
Ngày nay, Giáo Hội vẫn chỉ có một sức mạnh đặc biệt, đó là quyền năng Chúa Thánh Thần. Với quyền năng này Giáo Hội không bao giờ chịu đóng chặt cửa để an hưởng hay cố thủ. Nhưng luôn ra khỏi tháp ngà để rao truyền Tin Mừng, dấn thân vào cuộc sống muôn mặt của thời đại, đồng hành và thích ứng với nhân loại trong thế giới ngày nay.
Công Đồng Vatican II là một Lễ Hiện Xuống Mới của Giáo Hội. Chúa Thánh Thần vẫn luôn thổi sinh khí mới và ban cho Giáo Hội những ân huệ lớn lao. Mẹ Têrêxa Calcutta, Cha Thánh Piô, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI là những gương mặt vĩ đại đã và đang làm bừng lên sức sống tình thương, hoà bình của Chúa Thánh Thần trong thế giới sục sôi vì chiến tranh và hận thù này.
2. Ân huệ Thánh Thần cho Đức Ma-ri-a
Ngày Lễ Ngũ Tuần, Đức Ma-ri-a cũng tràn đầy Thánh Thần. Khi các Tông Đồ ra đi rao giảng tin mừng thì Đức Mẹ lại rút vào nơi thanh vắng, thinh lặng sống ẩn dấu với Đức Kitô trong Thiên Chúa (Col 3,3). Chính Đức Mẹ đã khai sáng trong Giáo Hội ơn gọi sống đời ẩn dật và cầu nguyện bên cạnh đời sống tông đồ hoạt động.
Điều đó cho chúng ta thấy, trong Giáo Hội hoạt động cho dù vì NướcTrời chưa phải là tất cả. Giáo hội còn cần đến những tâm hồn cầu nguyện để lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần trước khi dấn thân vào sứ vụ. Thư Mục Vụ năm 1999 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã xác định: “Người loan báo Tin mừng phải là một nhà chiêm niệm trong hoạt động” (Số 14). Giáo Hội cần lời cầu nguyện cũng như cần hoạt động cho công cuộc Truyền Giáo. Đức Mẹ là nguyên mẫu cho đời sống cầu nguyện này. Thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su suốt đời sống trong Dòng Kín, thế mà Giáo Hội đã đặt Ngài làm Bổn Mạng các xứ Truyền Giáo.
Lễ Ngũ Tuần kết thúc chu kỳ Phụng Vụ mùa Phục sinh với Ân Huệ Chúa Thánh Thần ban cho Giáo Hội cầu nguyện và hoạt động. Mỗi người tín hữu được mời gọi sống hai chiều kích ấy mỗi ngày để hoa trái Thánh Thần là bác ái, hoan lạc, bình an, hiền hoà, tiết độ... được trổ sinh trong tâm hồn và cuộc sống của mình (Gl 5, 23-23).
93. Chúa Thánh Thần hiện xuống khai mở "những kênh truyền thông" mới--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa Nhật tuần trước Lễ Thăng Thiên cũng là Ngày Thế giới Truyền thông Xã hội. Giáo Hội khuyến khích người Công Giáo ở các quốc gia trên toàn cầu sử dụng tốt hơn các phương tiện truyền thông và các hình thức thông tin khác để chia sẻ Tin Mừng cho tất cả mọi người nam nữ.
Sứ điệp Truyền thông năm nay nêu bật tầm quan trọng của các trang mạng xã hội như là "cổng thông tin của sự thật và đức tin", và là "không gian mới cho việc loan báo Tin Mừng".
Cuối năm ngoái, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã mở tài khoản Twitter Giáo hoàng đầu tiên. Ngài mời gọi mọi người công nhận tiềm năng của các mạng truyền thông xã hội và thúc giục các tín hữu trong Năm Đức Tin cân nhắc xem làm thế nào để sự hiện diện của mình trên các mạng có thể giúp truyền bá thông điệp Tin Mừng của tình yêu Thiên Chúa cho tất cả mọi người.
Kể từ bản tweet đầu tiên do Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI gởi vào ngày 12/12/2012, hơn 6 triệu người đã theo dõi.
Đức Thánh Cha Phanxicô tiếp tục sáng kiến đó, sử dụng các mạng lưới xã hội. Hiện nay tài khoản @Pontifex đăng các bản tweet bằng tiếng Anh, Tây Ban Nha, Ý, Bồ Đào Nha, Pháp, Đức, La Tinh, Ba Lan và Ả Rập. Con số bản tweet do Đức Giáo Hoàng Phanxicô gởi đi gia tăng rất nhanh.
Đức Hồng Y Carlo Martini từng nói: "Kinh nghiệm của Lễ Hiện Xuống (Cv 2,3-13) chính là Tin Mừng truyền thông".
Truyền thông là làm cho con người có khả năng để nghe để hiểu, có khả năng để loan báo và có khả năng để chuyển thông một sứ điệp. Trong ngày Lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Thần đã khai thông mọi tương giao, phá vỡ bức tường đã bị đóng kín từ sự kiện tháp Babel. Truyền thông Tin Mừng chính là mang tin vui đến cho mọi người.
Năm Thánh 2000, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận giảng tuần tĩnh tâm cho Giáo Triều Rôma, trong bài giảng "Hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần", ngài kể về tác động của Chúa Thánh Thần như một ân ban chuyển thông ánh sáng và niềm tin cho anh chị em người Hmong.
"Chúa Thánh Thần sống và hoạt động trong trái tim những kẻ nghèo nàn và khiêm hạ, trong tâm hồn đạo đức bình dân, trong tình liên đới, trong đau khổ. Ngài ở đó như trạng sư và thông dịch các ứớc muốn và lời cầu xin của chúng ta.
Tôi còn nhớ câu chuyện này.
Một ngày nọ, một cha sở miền Bắc Việt Nam thấy có một nhóm người dân tộc thiểu số Hmong muốn đến gặp ngài. Cha hỏi họ:
- Anh chị em từ đâu đến?
- Chúng con từ Lai Châu, (nơi quân đội Pháp đã thua trận Điện Biên Phủ năm 1954). Chúng con đã vượt núi rừng đi bộ suốt 6 ngày nay.
- Lạy Chúa tôi! Để làm gì vậy?
- Chúng con muốn được rửa tội ngay bây giờ.
- Không thể được! Không có một linh mục hay giáo lý viên nào cả trong vùng của anh chị em, anh chị em không biết gì về đạo hay kinh nguyện, thì làm sao chịu phép Rửa tội được.
- Chúng con đã học tất cả từ một đài phát thanh phát đi từ Phi luật tân.
- Mà đài phát thanh nào? Đâu có đài phát thanh Công giáo nào có chương trình bằng thổ ngữ của anh chị em đâu!"
- Đó là đài phát thanh "Chân Lý".
- Một đài phát thanh GH công Giáo, và bây giờ anh chị em lặn lội đến đây để xin trở thành Công giáo. Thật là điều lạ!
- Vị linh mục thật cảm kích bỗng thốt lên: Đây là một lễ Hiện Xuống mới. Đây chính là tác động của Chúa Thánh Thần! Chúa Thánh Thần!
Rồi cha lại hỏi nhóm người Hmong: Anh chị em có thể ở lại đây lâu hơn không?
- Thưa cha, không thể được. Chúng con chỉ đem theo 14 ngày cơm: 12 ngày đi đường và 2 ngày học hỏi và đọc kinh cầu nguyện.
Cả nhóm đã được rửa tội và chịu phép Thêm sức, rồi được dự Thánh lễ đầu tiên trong đời và được rước Mình Thánh Chúa.
- Anh chị em sẽ không có Thánh Lễ nào nữa, anh chị em không có nhà thờ. Anh chị em sẽ làm thế nào?
- Ban chiều tối, chúng con tụ họp nhau từng hai ba gia đình để nghe đài phát thanh và cầu nguyện chung và cùng nhau học hỏi về đạo. Ngày Chúa Nhật chúng con ra ruộng cày cấy, nhưng đúng 9 giờ 30, chúng con ngưng làm việc, thả trâu tự do ăn cỏ và chúng con dự Thánh Lễ qua đài phát thanh Chân Lý phát từ Manila. Một Lễ Hiện Xuống mới của thế kỷ XX." (Chứng Nhân Hy Vọng, trang 235-237).
Hiến chế Tín lý về Mạc khải của CĐ Vaticanô II có nói: "Mạc Khải là việc Thiên Chúa 'Truyền Thông Chính Mình' cho nhân loại" (DV 6). Với biến cố Hiện Xuống, việc truyền thông của Thiên Chúa được hoàn tất nơi Đức Kitô và tiếp tục được nối dài trong Giáo Hội nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần. Lễ Hiện Xuống khai mở những "kênh truyền thông" mới. Vì thế, "Giáo Hội Công Giáo nhận thấy mình có bổn phận dùng các phương tiện truyền thông xã hội để loan báo ơn cứu độ và dạy con người biết sử dụng chúng cho đúng đắn" (Inter Mirifica, số 3). Chúa Thánh Thần là linh hồn Giáo Hội. Ngài tác động và canh tân Giáo Hội thực thi sứ vụ loan Tin Mừng: "Giáo Hội canh tân và thanh tẩy chính mình không bao giờ ngừng dưới hoạt động của Chúa Thánh Thần" (Vui mừng và Hy vọng, 21). Sách Công Vụ Tông Đồ đã minh chứng hùng hồn về điều ấy.
Suốt mùa Phục Sinh, các bài đọc 1 được trích trong sách Công Vụ Tông Đồ.
Một nhà chú giải Thánh Kinh đã gợi hứng đổi Công Vụ Tông Đồ thành Công Vụ của Chúa Thánh Thần. Bốn sách Tin Mừng là Phúc Âm của Chúa Giêsu, còn Công Vụ Tông Đồ chính là Phúc Âm của Chúa Thánh Thần.
Sách Công Vụ Tông Đồ là một trong những tài liệu lịch sử quý giá nhất của Thánh Kinh. Đó là lịch sử hiện hữu duy nhất của Kitô giáo được viết ra trước thế kỷ thứ III. Nhờ đó chúng ta biết rõ sự lớn dậy của Kitô giáo ở Palestina hay về công cuộc Truyền Giáo tại Syria, Tiểu Á, Hylạp và Rôma. Bình minh của một kỷ nguyên mới bắt đầu ló dạng.
Giáo Hội đã sống tuổi thanh xuân của mình giữa lòng Đế quốc Rôma. Giáo Hội đối diện với ba thách đố lớn là Do thái giáo, chính trị Rôma và triết học Hy lạp. Giáo Hội phải bung ra khỏi Do thái giáo, hội nhập vào triết học Hy lạp để lan rộng trên toàn đế quốc Rôma. Chỉ với những người dân chài Galilê ít học, chỉ với một Phaolô nhiệt thành, thế mà Giáo Hội lớn mạnh không ngừng trước bao thử thách thời đại.
Chính Chúa Thánh Thần đã không ngừng dẫn dắt Giáo Hội. Đúng như lời Thánh Irênê đã nói: "Ở đâu có Thánh Linh của Đức Kitô ở đó có Hội Thánh. Ở đâu có Hội Thánh ở đó có Thánh linh và ân sủng".
Sách Công Vụ Tông Đồ trình bày lịch sử dưới ánh sáng đức tin. Sau khi Phó tế Stêphanô bị ném đá thì khởi đầu cuộc bắt bớ rộng lớn chống Giáo Hội ở Giêrusalem. Cộng đoàn Kitô hữu ở đây bị phân tán, nhiều tín hữu thoát khỏi đô thị đi tìm nơi ẩn náu. Họ đi tới đâu là rao giảng Tin Mừng tại đó. Chính đây là lúc câu nói thời danh của văn hào Tertuliano được ứng nghiệm "Máu các Thánh Tử Đạo là hạt giống làm nảy sinh các Kitô hữu".
Các cộng đoàn Diaspora được thành lập. Họ hội nhập vào văn hoá địa phương để rao giảng Tin Mừng.
Kinh nghiệm sống đức tin của cộng đoàn tín hữu sơ khai là bài học quý giá cho chúng ta. Họ bị nhận chìm trong gian truân thử thách, nhưng chính lúc ấy họ cảm nhận sự hiện diện và hoạt động mãnh liệt của Chúa Thánh Thần. Như ngọn gió cuốn bay những hạt giống để rồi hạt giống lại gieo mầm sống mới ở nơi khác, ngọn gió Chúa Thánh Thần qua những cơn bách hại cũng mang lại những hiệu qủa lạ lùng. Càng bị bách hại Giáo Hội càng lớn mạnh không ngừng.
Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam; sau sắc dụ cấm đạo của vua Cảnh Thịnh, các cuộc bắt đạo gay gắt khiến cho những người tín hữu ở các vùng Quảng Trị, Cổ Vưu, Thạch Hãn, Hạnh Hoa chạy vào rừng núi La Vang để trốn tránh. Đức Mẹ đã hiện ra an ủi, trợ giúp. La Vang đã trở thành trung tâm hành hương của Giáo Hội Việt Nam. Các chỉ dụ cấm đạo dưới thời vua Minh Mạng, Tự Đức đã phân tán các cộng đoàn Kitô hữu. Họ xuôi vào Nam trốn tránh, đến vùng đất mới, rừng thiêng nước độc. Họ khai khẩn điền địa và lập nên những cộng đoàn mới. Nhờ đó, khi các vị Thừa Sai đến Truyền Giáo, hạt giống Đức Tin được nảy mầm và phát triển nhanh chóng.
Như hạt giống gieo xuống đất và chờ đợi, những cơn mưa đầu mùa tuôn đổ, hạt giống âm thầm đón nhận sức sống, nảy mầm, bén rễ, lớn nhanh. Những cộng đoàn tín hữu đang sống đức tin thầm lặng đã gặp được các chủ chăn nên lớn mạnh và nhiều giáo xứ đã được thành lập. Chỉ trong nhãn giới đức tin, chúng ta mới nhận ra sức tác động mãnh liệt Chúa Thánh Thần. Trong mọi thử thách, Giáo Hội luôn có Chúa Thánh Thần nâng đỡ. Trong mọi biến cố đau thương, Giáo Hội luôn có Chúa Thánh Thần an ủi dẫn dắt. Mỗi biến cố xảy đến trong cuộc đời đều là lời mời gọi, lời nhắn nhũ, lời cảnh báo. Đi tìm Thánh Ý Chúa, con người cần biết giải mã các biến cố ấy trong ánh sáng đức tin.
Ngày nay, có lẽ không còn những cơn bắt bớ và bách hại như xưa. Thế nhưng, những gian nan, những thử thách vẫn không thiếu trong đời sống đức tin. Thời đại hôm nay là thời đại xẻ núi lấp sông, vượt trùng dương, chinh phục không gian, xa lộ thông tin, kỹ thuật số, toàn cầu hoá... Nhưng xã hội hôm nay đang bị tục hoá với muôn ngàn cám dỗ ngọt ngào tinh vi của ma quỹ. Xã hội đang đánh mất chiều kích siêu hình, không còn cảm thức về tội lỗi. Giáo Hội phải đối diện với một xã hội mà như triết gia hiện sinh Jean Paul Sartre đã nói: "Thiên Chúa phải chết để cho con người được tự do".
Người ta đang xây dựng một xã hội không có Thiên Chúa, tôn giáo bị tách ra khỏi xã hội. Con người mãi mê chạy theo lối sống hưởng thụ thực dụng, cá nhân chủ nghĩa.
Như thế người Kitô hữu phải sống và diễn tả niềm tin của mình như thế nào đây?
Lời Chúa chiếu ánh sáng soi đường. Chúa Giêsu đã loan báo: "Đấng Phù Trợ là Thánh Thần, mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều, và sẽ nhắc nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con" (Ga 14, 26).
Khi được Chúa Thánh Thần đổ tràn ơn thiêng trong đời, chúng ta sẽ yêu mến Chúa, được Chúa Cha và Chúa Giêsu ngự đến trong tâm hồn (Ga 14,21), được Chúa ban sự bình an tuyệt vời, bình an không như thế gian ban tặng (Ga 14,27). Chúa Thánh Thần chính là chìa khoá mở ra cuộc sống mới trong Đức Kitô. Dưới tác động của Chúa Thánh Thần, chúng ta làm được mọi sự trong ân sủng Đức Kitô. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta sống Tin Mừng, vượt qua các thách đố thời đại như cộng đoàn tín hữu sơ khai đã vượt qua mọi trở ngại để loan báo và mở rộng Nước Chúa.
Chúa Thánh Thần luôn bảo đảm cho sự nguyên vẹn của mạc khải. Ngài dẫn dắt Giáo Hội ngay giữa những kênh truyền thông mới mẻ của thế giới kỹ thuật số hôm nay. Môi trường này mang nơi mình ngôn ngữ thời đại, vì một thông điệp được phát đi từ nơi đây thường kèm theo hình ảnh và âm thanh. Điều này rất thuận lợi cho truyền thống của Kitô giáo, vốn mang rất nhiều yếu tố biểu tượng từ trong phụng vụ, kiến trúc nghệ thuật nơi các thánh đường, ảnh tượng thờ kính...Hơn nữa, Kitô giáo còn đi tiên phong trong các lãnh vực nghệ thuật, âm nhạc với mục đích diễn tả chân lý đức tin.
Kitô hữu phải là con người biết lắng nghe, lắng nghe Thiên Chúa và lắng nghe con người để qua sự hỗ trợ của các phương tiện truyền thông, sứ điệp Tin mừng được lan xa. Các phương tiện truyền thông xã hội như sách báo, phim ảnh, thi ca, nghệ thuật, sân khấu, tuồng kịch, thánh nhạc, kiến trúc, hội họa, truyền thanh, truyền hình, internet...đều có tầm ảnh hưởng lớn đối với công cuộc truyền thông Tin Mừng trong thời đại hôm nay.
Giáo Hội luôn thao thức những vấn đề của thời đại mình đang sống. Chúa Thánh Thần là ngọn gió thổi các cánh buồm của Giáo Hội hướng đến đại dương của "nền văn hóa mới" này. Có Chúa Thánh Thần đồng hành và hướng dẫn, chúng ta trở nên những chứng nhân của Chúa Giêsu đem Tin Mừng đến khắp muôn nước muôn dân.
Ở đâu có Thần Khí, ở đó bừng lên niềm vui. Mùa xuân làm cho vạn vật bừng dậy màu xanh sự sống. Thần Khí làm cho mọi tâm hồn tràn đầy sức sống mới. Gioan Tẩy Giả "nhảy mừng trong lòng mẹ". Đức Maria hát lên bài ca Magnificat. Các Mục đồng hớn hở đi Bêlem. CácTông Đồ trở nên những con người mới. Các Thánh Tử Đạo hiên ngang tiến ra pháp trường. Và chúng ta cũng được trở nên con cái Thiên Chúa, sống chứng nhân cho tình yêu, can đảm loan báo Tin Mừng Phục Sinh trên mọi nẻo đường phục vụ.
94. Thống hối để nhận ơn Chúa Thánh thần--Lm Trần Bình Trọng
Trong bữa tiệc ly Chúa Giêsu phán với các môn đệ: Thày ra đi, thì có ích lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thày không đi, thì Đấng Phù Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thày đi, Thày sẽ sai Đấng ấy đến với anh em (Ga 16:7). Ta có thể tưởng tượng ra cái tâm trạng của các tông đồ sau khi Chúa về trời. Các ông phải cảm thấy cô dơn và lo sợ. Vì thế họ tụ họp nhau lại trong phòng đóng cửa kín mít, vì sợ người Do thái truy nã tố cáo. Và Mẹ Maria ở giữa họ và cầu nguyện với họ để xin Chúa Thánh thần hiện xuống.
Đọc Thánh kinh, ta thấy có một sự khác biệt nơi các tông đồ trước và sau ngày lễ Chúa Thánh thần hiện xuống. Trước lễ Chúa Thánh thần hiện xuống, người ta thấy cái tình trạng: một môn đệ bán thày, môn đệ khác chối Thày, số còn lại bỏ chạy trốn. Trong ngày lễ Chúa Thánh thần hiện xuống, các tông đồ đổi mới hẳn. Các ông hăng say rao giảng tin mừng cứu độ, làm chứng cho viêc Chúa sống lại, mà không còn sợ hãi. Ta tự hỏi có cái động lực nào đã khiến có sự thay đổi đó? Sách Tông đồ Công vụ ghi lại: Ai nấy đều được tràn đày ơn Thánh thần. Họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác lạ, tuỳ theo khả năng Thánh thần ban cho (Cv 2:4). Không những Chúa Thánh thần biến đổi đời sống các tông đồ mà còn biến đổi đời sống của những người nghe lời giảng dạy của họ.
Nếu có ai hỏi Chúa Thánh thần lài ai? Đa số ta sẽ được nghe câu trả lời là Ngôi Ba Thiên Chúa với hình chim bồ câu hoặc ngọn lửa. Ngưòi công giáo thường sao lãng việc tôn sùng Chúa Thánh thần. Ta có khuynh hướng lãng quên Ngôi Ba Thiên Chúa vì ta không ý thức được về quyền năng và hoạt động của Chúa Thánh thần. Các tông đồ đã nhận lấy ơn Chúa Thánh thần khi Chúa Giêsu hiện ra với các ông sau khi Người sống lại từ cõi chế. Còn trong ngày lễ Chúa Thánh thần hiện xuống các ông nhận lấy ơn Chúa Thánh thần cách đặc biệt hơn. Cũng một cách tương tự như vậy, người giáo hữu nhận lấy ơn Chúa Thánh thần trong khi chịu Phép rửa tội, nhưng trong ngày lễ Thêm sức, người giáo hữu nhận lấy ơn Chúa Thánh thần cách đặc biệt hơn. Sau khi chịu phép Thêm sức, nếu ta không biết khuấy động hoạt động của Chúa Thánh thần, ta sẽ không có kinh nghiệm về quyền năng của Người.
Có nhiều cách thế để làm cho ơn Chúa Thánh thần tác động trong đời sống. Đây là một cách để khơi động hoạt động của Chúa Thánh thần trong đời sống: đó là tâm tình ăn năn sám hối. Tâm tình ăn năn sám hối là điều kiện tiên quyết để mở lối cho ơn Chúa Thánh thần đến trong tâm hồn. Quan sát sơ, ta cũng thấy trong ly cà phê hay ly nước trái cây sinh tố, cái chất bổ béo thường đọng lại dưới đáy ly. Để có thể uống được chất bổ béo, ta phải khuấy lên. Trong đời sống thiêng liêng cũng vậy. Sự hiện diện của Chúa Thánh thần được tiềm ẩn trong đáy lòng người tín hữu. Dùng tiếng bình dân ta có thể coi là Chúa Thánh thần ‘ngủ quên’ trong đời sống. Vì thế ta phải đánh thức Chúa Thánh thần dạy, nghĩa là phải khuấy động hoạt động của Chúa Thánh thần.
Trong ngày lễ Chúa Thánh thần hiện xuống, dân chúng hỏi các tông đồ: Chúng tôi phải làm gì? (Cv 2:37). Phêrô trả lời: Anh em hãy sám hối, và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh thần (Cv 2:38). Có những người đến bàn chuyện thiêng liêng với linh mục. Lúc đầu họ không coi những việc họ đã làm trong quá khứ là có tội. Khi họ nhận ra đó là tội, họ ăn năn khóc lóc thảm thiết với những giọt lệ sám hối. Sau khi họ nhận được ơn ăn năn hối cải, không ai bảo họ phải đi lễ thờ phượng, không ai phải thúc đẩy họ đọc kinh cầu nguyện, không ai bảo họ phải đọc Thánh kinh, không ai bảo họ phải làm việc từ thiện bác ái. Họ tự ý làm những việc ấy. Ước muốn của họ bây giời là muốn sống đời sống mới trong thánh thần với việc đ¨¢nh giá trị mới cho những giá trị trong đời sống, với việc họ khát khao cho nhu cầu thiêng liêng được toại nguyện, với việc họ xác tín về đức tin, với việc họ ước muốn phục vụ người khác. Cái bậc thang giá trị của họ trước kia là: giá trị vật chất, thứ đến là giá trị tinh thần rồi đến giá trị thiêng liêng. Bây giờ họ đổi ngược lại cái bậc thang giá trị. Họ đặt giá trị thiêng liêng lên hàng đầu, rồi đến giá trị tinh thần, và sau là giá trị vật chất.
95. Đón nhận sức mạnh của Thánh Thần--Lm Jude Siciliano, OP
(Anh Em HV Đaminh chuyển ngữ)
Tôi thực sự thắc mắc không hiểu nổi lần đầu tiên các môn đệ lãnh nhận Thánh Thần thì như thế nào? Và những bài đọc Sách thánh hôm nay dường như cũng không thể giải quyết cho thắc mắc này của tôi. Không biết có giống như thánh Luca mô tả trong sách Công vụ Tông đồ, khi các môn đệ "tề tựu ở một nơi" thì có tiếng động như tiếng gió mạnh ùa vào trong nhà và có hình giống như lưỡi lửa đậu xuống trên mỗi người? Hay việc đó xảy ra như thánh Gioan mô tả, đức Giêsu vào trong nhà dù các cửa đều đóng kín, và nói với các ông: "Bình an cho anh em," nói rồi Người thổi hơi ban Thánh Thần cho các ông? Tại sao một biến cố quan trọng như việc trao ban sự sống, ân huệ đức tin nền tảng của Thánh Thần lại được mô tả khác nhau vậy?
Việc Thánh Thần ngự xuống thì chẳng gây ngạc nhiên gì cho những ai đã quen với văn phong Kinh thánh. Từ "thần khí" trong tiếng Hippri là "ruah," nghĩa là gió, hơi thở hay sự chuyển động của không khí, xuất hiện hơn 90 lần trong bản văn Kinh thánh bằng tiếng Hippri. Đó là nguyên lý của sự sống và sức mạnh và qua Thánh Thần, Thiên Chúa biểu lộ sức mạnh và ý chí của Ngài. Ngay phần đầu của sách Sáng thế, nhờ "Thần Khí của Chúa," bao phủ trên cái hỗn mang và trên mặt nước, mà Thiên Chúa bắt đầu công cuộc sáng tạo.
Trong bản văn bằng tiếng Hippri, Thần Khí chỉ được ban cho trong một giai đoạn (Kn 15,16). Những ai được ban cho Thần Khí thì cũng được phú cho một ân huệ đặc biệt để hoàn thành những mục đích của Thiên Chúa. Chẳng hạn như, Salomôn được ban cho Thần Khí đức khôn ngoan (Kn7,7). Những nhà lãnh đạo Israen được Thần Khí của Thiên Chúa làm cho nên mạnh mẽ, và các ngôn sứ, được tràn đầy Thần Khí để nói nhân danh Thiên Chúa (Is 61,1 và Lc 4,18)
Tân Ước chỉ ra một sự liên tục của một Thần Khí đã hiển lộ trước đây. Từ Hylạp để chỉ Thần Khí là "pneuma" và có cùng nghĩa với từ "ruah" trong tiếng Hippri. Tin mừng Luca và Sách Công vụ Tông đồ chú trọng đến công việc của Thần Khí. Thần Khí là sợi chỉ dệt nên hai công trình của Ngài. Ở cuối Tin mừng, Đức Giêsu ra lệnh cho các Tông đồ và họ phải ở lại Giêrusalem cho đến khi nhận được "điều Cha đã hứa" (Lc 24,49).
Thánh Luca xác định rõ Lễ Hiện Xuống là ngày Thánh Thần được ban. Lúc ban đầu, đó là ngày lễ tạ ơn, rồi sau đó nó được liên hệ tới việc ban tặng lề luật tại núi Sinai (Đnl 16,9-21). Vào ngày Lễ Hiện Xuống, cộng đoàn sa mạc ở Qumran đón nhận thêm những thành viên mới, những người tuyên xưng lòng khao khát được trở thành một dân trong giao ước với Thiên Chúa. Thánh Luca đặt ân huệ của Thánh Thần vào ngày lễ tạ ơn truyền thống, hình thức luân lý, một sự dấn thân và hiến dâng mới mẻ.
Thánh Thần của Thiên Chúa đã ở với dân Israen khi họ vượt qua sa mạc và chiến đấu chống lại dân ngoại để tiến về đất hứa. Khởi đầu với phép rửa của Người, Thánh Thần đã ban sức mạnh và gìn giữ đức Giêsu qua cơn cám dỗ trong hoang địa, trong sứ vụ, sự khổ nạn, chết và phục sinh. Cũng chính Thánh Thần đó giờ đây được ban cho cộng đoàn. Hôm nay, chúng ta chứng kiến hoa trái đầu tiên của Thánh Thần khi các môn đệ bước ra khỏi nơi ẩn trốn để rao giảng cho đám đông với các thứ tiếng khác nhau. Sách Tông đồ Công Vụ sẽ cho thấy làm thế nào mà Giáo hội tiên khởi đã chuyển từ một cộng đoàn nhỏ những môn đệ người Do Thái đi theo Đức Giêsu trở thành một cộng đoàn Kitô hữu diễn tả tình yêu, bình an, tha thứ và chữa lành của Người cho thế giới.
Vì thế, nếu như tôi dẹp những khuynh hướng của mình qua một bên để sắp xếp và dành thời gian cho lễ Hiện Xuống này, lắng nghe những gì thánh Luca dạy bảo, thì tôi lắng nghe và học được những điều sau. Đức tin của chúng ta không giống như những kho tàng đem cất giấu và xem như một vật gia truyền dễ vỡ. Ngược lại, chúng ta có cuộc sống sinh động, tràn trề phấn khởi và bùng cháy của Thiên Chúa khi chúng ta họp nhau cầu nguyện và ý thức làm thế nào chúng ta là giáo hội trong thế giới này.
Chúng ta đối điện với một thế giới không niềm tin, yếm thế, mộng tưởng, và suy yếu đạo đức. Chúng ta vẫn bình thản và "giữ đức tin", hoặc chúng ta có thể làm như những gì thánh Luca mô tả trong cộng đoàn tiên khởi: tự tin bước ra thế giới bên ngoài và nói với đám đông đang hoang mang mà chúng ta bắt gặp. Chúng ta biết những hạn chế của mình và có thể đoán xem, như chúng ta nghĩ, làm sao mà chúng ta có thế thất bại trong việc làm chứng cho niềm tin mà Thánh Thần mời gọi chúng ta. Chúng ta không biết chắc mình sẽ được sai đến nơi đâu, nhưng kết quả gặt hái này cho chúng ta xác tín rằng có sự sáng tạo và ân sủng tuôn trào của Thiên Chúa ở với chúng ta. Thánh Luca mô tả đó như là cơn gió mạnh và như ngọn lửa. Nếu chúng ta có thể tin tưởng thánh Luca, thì điều đó khiến chúng ta can đảm khi chúng ta bị chất vấn về niềm tin của mình, hay khi chúng ta được mời gọi để diễn tả lòng tin ra bên ngoài bằng hành động cụ thể.
Nếu chúng ta không thể gim chặt hay đóng hộp Thánh Thần được, thì làm sao chúng ta có thể mong có được sự mô tả ngắn gọn và thích hợp về ơn Thánh Thần mà đức Giêsu dành cho các môn đệ của Người. Giờ đây chúng ta nói đến sự biểu tỏ liên tục của ân sủng Chúa Thánh Thần.
Tin mừng Gioan bắt đầu với mạc khải cho Gioan Tẩy Giả về một đấng, "trên người ấy ngươi sẽ thấy Thánh Thần ngự xuống và ở lại..." (1,33). Đến cuối Tin mừng, vào đêm Phục Sinh, thánh Gioan nói cho chúng ta làm thế nào Đức Kitô phục sinh thổi hơi trên các môn đệ và ban cho họ Thần Khí. Những câu chuyện liên quan trong Tin mừng Gioan cũng hàm chứa rất nhiều ý nghĩa về Thánh Thần. Ví dụ, trong câu chuyện Đức Giêsu gặp gỡ người đàn bà Samaria, đức Giêsu mô tả Thánh Thần như "nước hằng sống" làm vọt lên trong mỗi người ân sủng của đời sống vĩnh cửu. Sau đó, trong suốt bữa Tiệc Ly, đức Giêsu hứa ban Thần Khí đến 4 lần. Người dùng từ Hylạp "parakletos" để mô tả Thần Khí, từ này mang nghĩa là an ủi và bào chữa.
Thánh Gioan nối kết sự đau khổ, cái chết và sự phục sinh của đức Giêsu trong một khoảnh khắc mà ngài gọi là "Giờ." Vì thế, khi đức Giêsu thổi Thần Khí sáng tạo của Người trên các môn đệ vào chiều ngày Phục Sinh và chỉ thị họ đi giải tội cho tội nhân, biến cố này không bị tách khỏi "giờ"; vinh quang đi liền với đau khổ. Thông điệp tha thứ mãi mãi của cộng đoàn, được Thần Khí của chúa Giêsu hỗ trợ không phải là mất giá trong cộng đoàn - hy sinh cá nhân chỉ có thể đến vì một sự đối nghịch của một thế giới không thứ tha.
Khi ngừng thở là chúng ta chết. Thần Khí của đức Giêsu ở với cộng đoàn cùa Người như hơi thở của cộng đoàn. Người sẽ không hủy bỏ quà tặng của hơi thở trao ban sự sống của Người. Giống như Thiên Chúa đã thổi hơi vào Ađam để làm cho ông "sinh động", vào Lễ Hiện Xuống cũng chính Thần Khí đó sinh ra một cộng đoàn sinh động và tha thứ. Giờ đây, nguồn mạch sự sống mới của Thần Khí giúp chúng ta tiếp tục sứ vụ yêu thương và tha thứ của đức Giêsu.
Nhiều năm sau khi Tin mừng này được viết, Giáo hội sử dụng bản văn này như một nguồn liệu nói về Bí tích Hòa giải. Nhưng những Kitô hữu tiên khởi có lẽ đã dùng đoạn văn này cho Bí tích Rửa tội: những người dự tòng chấp nhận thì được rửa tội. Những ai không đón nhận Tin mừng thì không được nhận phép Rửa tội.
Như chúng ta trân trọng đặc quyền của thánh Luca tường thuật biến cố Hiện Xuống trong Tin mừng của ngài và thông điệp mà ngài muốn chuyển cho giáo hội của ngài, chúng ta cũng để cho thánh Gioan kể lại câu chuyện này với cách của riêng ngài cho những nhu cầu cụ thể của cộng đoàn của ngài. Đức Giêsu không còn hiện diện thể lý với chúng ta, nhưng Người cũng không rút lên một ngọn núi xa xôi nào đó trong vũ trụ này để chờ ngày trở lại với chúng ta. Cả hai trình thuật nói với chúng ta rằng hôm nay đức Giêsu vẫn hiện diện với chúng ta cách tròn đầy vì Thần Khí của Người đang ở giữa chúng ta - như những cá nhân hay cộng đoàn Hội thánh.
Trong suốt những lần khủng hoảng trầm trọng đối với Giáo hội của chúng ta, chúng ta tin tưởng và hy vọng Thánh Thần sẽ hướng dẫn chúng ta trong sự thật và dạy chúng ta ý nghĩa của Giáo hội Chúa Kitô. Hôm nay, chúng ta xin Thánh Thần ban cho chúng ta ơn sủng của lòng tha thứ - không phải cho những người khác nhưng là cho chúng ta, cho Giáo hội và những nhà lãnh đạo của chúng ta.
Lễ Hiện Xuống này, chúng ta xin đức Giêsu thổi Thánh Thần của sự tha thứ trên chúng ta. Chúng ta nài xin Thánh Thần chữa lành cho những người vô tội đã bị xúc phạm. Chúng ta nài xin Thiên Chúa thực hiện những gì Ngài đã làm thuở ban đầu - tạo nên chúng ta từ đất sét dễ vỡ thành con người mới và sống động, hội thánh của Chúa Giêsu Kitô, thở bằng sức mạnh của Thần Khí của Người và, bằng chính hành động tha thứ của chúng ta, trao ban cũng một Thần Khí tha thứ đó trên những ai cần.
Chúng ta phải tin tưởng rằng trong ngày Lễ Ngũ Tuần đức Giêsu sẽ thổi trên chúng ta một sự đổi mới, vì những ngày này chúng ta giống như những vận động viên chạy đường dài đang thở hổn hển. Ai biết được chúng ta còn phải chạy bao xa nữa? Chúng ta cần Thần Khí để hoàn tất hành trình của mình.
96. Tác động của Thần Khí--Fr Jude Siciliano
Thưa quý vị,
Nếu không có Thần Khí hiện diện thì chẳng hiểu trái đất này sẽ ra sao? Câu trả lời là: không có Giáo Hội, không còn ký ức về Chúa Giêsu cứu thế, chẳng có ơn thánh cho các linh hồn, chẳng có truyền giáo, hậu quả của tội lỗi vẫn đè nặng trên số phận của nhân loại, tương lai không có hy vọng. Thật là khủng khiếp! Cho nên vai trò Chúa Thánh Linh không thể thiếu vắng. Trong các Phúc Âm, Đức Giêsu hứa ban Thánh Thần khi Ngài về trời. Lời hứa thật quan trọng và hôm nay Ngài thực hiện lời hứa đó. Nơi Hội Thánh luôn có một lòng khát khao Chúa Thánh Linh. Chúng ta thường hát cầu nguyện xin Ngài ngự đến. Veni, Creator Spiritus. Mentes tuorum visita…” (Lạy Chúa Thánh Linh, xin ngự đến, xin thăm viếng trí lòng các tín hữu của Ngài). Có lẽ trong các thánh đường đạo đức người ta vẫn còn thói quen hát bài này bằng tiếng Latinh. Một vị giám mục kể chuyện Ngài đã dạy nó cho một cán bộ cộng sản. Bởi vì anh thích nó nhất trong các bài Latinh Ngài hát cho anh nghe. Nói cách khác, tâm hồn người ta luôn cảm thấy thiếu thốn sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Chẳng riêng gì cá nhân, toàn thể cộng đồng Giáo Hội đều khát khao như vậy và từng cộng đoàn riêng lẻ cũng không ngoài thông lệ. Đúng như ý kiến của thánh Tôma: “Chúa Ngôi Ba là linh hồn của Giáo Hội”. Mặc dù chúng ta tin Thiên Chúa hằng ở với chúng ta nhưng nội dung bài hát nói lên nhu cầu của các tâm hồn về Chúa Thánh Thần. Danh sách những nhu cầu ấy thì thật là dài. Chúng ta chưa được hoàn toàn chữa lành, đổi mới và có nghị lực để làm chứng nhân như bí tích rửa tội đòi hỏi. Lạy Chúa Thánh Linh xin ngự đến, hoàn tất công trình cứu độ trong các tín hữu, ban cho chúng con sức sống mới, tác tạo chúng con thành cộng đoàn của Đức Kitô và canh tân bộ mặt của thế giới.
Đi nơi đâu cũng gặp thấy dấu chỉ cần thiết Chúa Thánh Linh. Trong bản thân mỗi người, trong cộng đoàn và thế giới tự nhiên chung quanh chúng ta. Mọi tạo vật đều rên siết, thở than chờ đợi Chúa Thánh Linh can thiệp. Được Thiên Chúa dựng nên và chỉ định làm quản lý vũ trụ này nhưng chúng ta thường tỏ ra vô trách nhiệm trong bổn phận, phá hoại chương trình tạo dựng của Thiên Chúa, làm cho nó băng hoại và kém hiệu quả. Cho nên cuộc đời này rất cần sự hiện diện của Chúa Thánh Thần để đổi mới mọi sự. Ngài sẽ tụ họp mọi dân tộc, quốc gia, mọi trí lòng để cùng nhau thăng tiến cuộc sống. Hoà bình chỉ có thể thực hiện nhờ Thánh Linh qua công lý và tình thương. Do đó, chúng ta đừng thu hẹp hoạt động của Chúa Thánh Thần vào khuôn khổ Hội Thánh, mà hãy để Ngài trải rộng khắp cõi địa cầu và trên toàn thể nhân loại.
Loài người luôn cần ơn Chúa Thánh Thần để khơi dậy các cố gắng thiết lập triều đại Thiên Chúa, nhất là giữa các dân tộc bị áp bức, những quốc gia nghèo đói, những người chưa biết chúc tụng thánh danh Thiên Chúa. Bài đọc 2 tuần trước là lời kết thúc sách Khải Huyền: “Đấng làm chứng về những điều đó phán rằng: Phải, chẳng bao lâu nữa Ta sẽ đến” (Kh 22,20). Giáo Hội non trẻ bị bách hại nặng nề đã được Thiên Chúa mời gọi uống nước trường sinh mà không phải trả đồng nào và Chúa Giêsu hứa chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ viếng thăm. Nhưng thử hỏi: Cho đến bao giờ? Không có câu trả lời. Tuy nhiên để chúng ta vững bụng, xua đuổi mọi nghi ngờ, cám dỗ, thoả hiệp với thế gian, thì hôm nay Thần Khí Chúa được gởi đến. Đức tin các tín hữu nhờ đó mà bền vững, trẻ trung và nhiệt thành.
Ngài luôn ngự giữa chúng ta mỗi khi chúng ta làm việc thiện, xây dựng cộng đoàn, thi hành bác ái yêu thương, không phải bằng đầu môi chóp lưỡi, nhưng bằng nếp sống khó nghèo, thanh sạch và thánh thiện. Mọi người sẽ nhìn thấy hoa quả của Ngài, nơi những quyết định khôn ngoan, công bình và nhân ái, nơi những tiếng nói ngôn sứ, nghệ sĩ, nhạc gia, ca sĩ, văn nhân, những người bảo vệ hoà bình, rao giảng sự thật, những nhà lãnh đạo lương thiện. Chúng ta cũng nhìn thấy Chúa Thánh Thần hoạt động trong những cộng đoàn chiêm niệm, hăng say cầu nguyện, những cộng đoàn giáo dục, săn sóc bệnh nhân, người già cả, những cộng đoàn chia sẻ lao động, nhọc nhằn với công nhân, nông dân, những cộng đoàn sống vì người khác, không ích kỷ, nhưng cởi mở đón tiếp khách thập phương. Ngoài ra Chúa Thánh Thần còn hoạt động khi chúng ta cử hành thánh lễ sốt sắng, những giờ kinh phụng vụ nghiêm trang, những buổi giáo lý bổ ích, mở lòng khai trí cho người còn u mê tăm tối. Nói gọn lại, Thần Khí đã tác tạo Chúa Giêsu cho thế giới thì cũng làm cho Ngài luôn hiện diện nơi chúng ta với đầy đủ ơn phúc. Đúng như lời thánh Phaolô trong bài đọc 2 hôm nay: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí, có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì lợi ích chung”. Qua Thần Khí, Chúa Giêsu liên tục ở với chúng ta như Ngài đã hứa trước khi về trời: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Không có Thần Khí hoạt động trong Hội Thánh thì lời hứa này không thể thực hiện và nếp sống Kitô hữu chẳng tồn tại trên trái đất. Tuy nhiên chúng ta đã quen thuộc sự có mặt của Chúa Thánh Thần như sách Công Vụ tường thuật. Chúng ta gọi ngày Ngài ngự đến là sinh nhật của Giáo Hội. Cho nên lễ Ngũ Tuần nhắc nhớ chúng ta là ai trong kiến trúc Hội Thánh và đặc ân Thiên Chúa thương ban để nhân loại trở thành Giáo Hội Chúa Kitô. Lễ Ngũ Tuần đã có một lịch sử lâu đời trước khi là ngày lễ của đức tin công giáo.
Nó bắt nguồn từ truyền thống Do Thái và là một lễ hội mang nhiều sắc thái. Tên Ngũ Tuần lấy từ việc thu hoạch mùa Xuân. Sách Lêvi chỉ định phải mừng lễ năm mươi ngày sau tuần Vượt Qua. Đây là những ngày người Do Thái gặt hái mùa màng. Để cử hành lễ, các nông dân mang lúa thóc đầu mùa, hoa quả dâng vào đền thánh (2Sbn 8,13), những người nghèo khổ và khách ngoại kiều cũng được mừng lễ bằng cách tham gia vào bữa ăn chung. Sau này, lễ hội còn được nối kết với một tập tục khác. Đó là mừng Thiên Chúa ban lề luật trên núi Sinai. Lề luật cũng được coi như quà tặng Thiên Chúa ban cho dân Do Thái như hoa màu ruộng đất vậy. Tục truyền rằng Môsê đã làm cuộc hành trình với tuyển dân bảy tuần từ Ai Cập đến núi Sinai. Trên đường đi, Thiên Chúa đã thiết lập họ thành dân riêng qua những giáo huấn của Môsê. Cuối cùng ở Sinai Thiên Chúa ban lề luật cho họ. Như thế lễ Ngũ Tuần còn là dịp để Israel bày tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa và chấp nhận lề luật Ngài như con đường tinh thần phải theo.
Trong trình thuật Công Vụ, có ba hình thức thể hiện của Thần Khí. Ba thể hiện đều mang đặc trưng Kinh Thánh Cựu Ước: Tiếng gió mạnh, lửa và ơn ngôn ngữ. Tất cả đều không thể đóng khung hoặc giới hạn. Gió không phải hiu hiu nhưng ào ào thổi mạnh. Một quyền năng không chi ngăn cản nổi. Trong sách Sáng thế ký, Chúa thổi hơi vào bùn đất để tạo thành Ađam, nhưng ở đây không phải hơi thở mà là gió mạnh như trong sách tiên tri Êzêkiel (37,5). Gió ban sự sống, mạnh như bảo táp, đủ để đẩy các tông đồ ra khỏi căn phòng chật hẹp, bung đi khắp thế gian đang cần đến lời rao giảng của các ông. Hình ảnh thứ hai là lửa, trong Kinh Thánh Cựu ước, lửa tượng trưng cho sự phán xét: Thiên Chúa phán xét thế gian bằng lửa và trừng trị tội lỗi cũng bằng lửa. Lửa bởi trời thiêu đốt Sôđôma và Gômôra vì lối sống thác loạn của dân chúng hai thành đó. Nhưng cũng là lửa bốc lên từ núi Sinai làm dấu hiệu Thiên Chúa đang hiện diện ban lề luật. Tức giây phút Thiên Chúa ký kết giao ước với dân Ngài và lửa soi đường thực hiện giao ước đó. Hình ảnh thứ ba là ơn ngôn ngữ. Nó không phải là món quà đặc biệt dành riêng cho một số ít, còn các người khác không hiểu chi hết. Trái lại, qua ơn này các tông đồ chia sẻ với mọi dân tộc dưới gầm trời những kỳ công của Thiên Chúa. Ngài muốn cho Hội Thánh vươn ra khỏi biên giới của mình mà đi tới những nền văn hoá khác nhau, những màu da, ngôn ngữ để Nước Ngài được mở rộng. Ơn cứu độ ban cho hết mọi người. Ngày nay nếu chúng ta nhìn vào bản đồ thế giới thì quả thật Hội Thánh đúng là cộng đoàn của ngày lễ Ngũ Tuần và ơn ngôn ngữ cùng gió mạnh đã làm những điều kỳ diệu. Khác với tháp Babel, nó tập hợp hầu hết mọi dân tộc, nói cùng một thứ tiếng đức tin và cử hành cùng một phụng vụ mà ngợi khen Đức Chúa Trời.
Bảy tuần lễ vừa qua chúng ta đã được dạy dỗ về sự phục sinh của Chúa Giêsu và những hệ quả của nó trên đời sống các tín hữu. Chúng ta được mời gọi kết hiệp nên cộng đoàn dân Chúa, trung thành và thánh thiện. Hôm nay Thiên Chúa ban Thánh Thần của Ngài ngự xuống trên cộng đoàn đó. Chúa Thánh Thần sẽ dạy dỗ và thiết lập chúng ta thành dân riêng, để chúng ta mang lại những mùa màng tốt đẹp, tức công việc từ bi bác ái cho nhân loại. Giáo Hội không có tính loại trừ, tất cả đều được mời gọi đến bàn tiệc Thánh Thể và chia sẻ bánh hằng sống Thiên Chúa tặng ban. Cho nên đối với người tín hữu, hôm nay là ngày hội đoàn kết, ngày gặt hái mới, chúng ta lãnh nhận Chúa Thánh Thần và được sai đi khắp thế gian làm chứng nhân cho Đức Kitô. Giống như dân Do Thái xưa ở núi Sinai, chúng ta lập giao ước mới với Thiên Chúa, sống đời thiện hảo và thi hành hết mọi cam kết của bí tích Rửa tội và Thêm sức.
Trong Phúc Âm thánh Luca, Chúa Thánh Thần ngự đến trên Đức Maria và bà đã hạ sinh Chúa Giêsu cho thế giới. Vào ngày lễ Ngũ Tuần, Thần Khí Chúa cũng xuất hiện trên các tông đồ đang tụ họp trong phòng Tiệc Ly và Chúa Giêsu hiện diện trên các tông đồ bằng thể thức mới. Được đầy quyền năng Thánh Linh, chúng ta tiếp tục sứ vụ Chúa Giêsu: Rao giảng Tin Mừng, chữa lành bệnh nhân và hoà giải loài người với Thiên Chúa. Chính Thần Khí Chúa đã thúc đẩy Giáo Hội thực hiện công tác này; đó là lý do chúng ta gọi hôm nay là ngày khai sinh của Hội Thánh. Ước chi mọi tín hữu ý thức được vị trí của mình trong thánh lễ này ngõ hầu làm chứng tá cho Chúa Giêsu, trong một thế giới luôn thiếu vắng hoà bình và yêu thương. Amen.
*******************
* Ý đẹp: Làm môn đệ Chúa Giêsu có nghĩa là bước đi theo vết chân Ngài, và trong quyền năng Thánh Thần tiếp tục sứ mệnh của Ngài ở hoàn cảnh và thời đại mới mà chúng ta đang sống. Cùng nhau như một cộng đồng Giáo Hội, các môn đồ của Chúa Giêsu được kêu gọi đặc biệt để làm khí cụ rao giảng Nước Trời trong lịch sử nhân loại. Và bởi vì hoà bình và công lý là hai dấu chỉ rõ nét nhất của Nước Thiên Chúa hiện diện giữa thế gian như lời thánh Phaolô: “Nước Trời không phải là chuyện ăn chuyện uống nhưng là công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17). Cho nên nhiệm vụ căn bản của Giáo Hội là làm cho những dấu chỉ này rõ nét trong một thế giới loạn lạc, áp bức, bất công và đe doạ huỷ diệt toàn bộ. Theo Chúa Giêsu trong sứ vụ đó có thể phải trả giá bằng tính mạng, vì tôi tớ chẳng thể trọng hơn Thầy. Nhưng cộng đoàn môn đệ Chúa Giêsu bắt buộc phải thi hành để nên chứng tá cho Ngài trong suốt dòng lịch sử đầy xáo trộn. Ký ức về Chúa Giêsu nâng đỡ Hội Thánh và Thần Khí của Ngài luôn hiện diện để trợ giúp. Hy vọng chiến thắng cuối cùng thuộc về Nước Thiên Chúa.
NB: Bài này là bài thứ tư của linh mục Siciliano suy niệm về lễ Hiện Xuống. Xin coi lại các bài trước để có ý tưởng trọn vẹn.
97. Hãy để cho Thánh Thần biến đổi--Lm Jude Siciliano OP
(Chuyển ngữ: Anh em HV Đaminh Vò Vấp)
Với lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, chúng ta đã kết thúc 50 ngày mùa Phục sinh. Từ giây phút này trở đi, chúng ta sẽ làm chứng, như trong các bản văn Tân Ước, về đời sống mà Chúa Thánh Thần mang lại cho Giáo hội. Chúng ta gọi hôm nay là "sinh nhật của Giáo hội". Rõ ràng từ chính thái độ mâu thuẫn của các tông đồ trong suốt hành trình sứ vụ của Đức Giêsu và sự phân tán khi Người bị bắt và bị giết chết, cho thấy rằng nếu không có sự can thiệp của Thiên Chúa, thì đã không có một Giáo hội đi loan báo Tin mừng của Đức Giêsu Kitô - đó là tầm quan trọng và sự cần thiết của Lễ Hiện Xuống.
Sau khi Đức Giêsu phục sinh và hiện ra nhiều lần với các tông đồ, Người biết rằng họ cần một sự biến đổi tinh thần để có thể trở thành nhân chứng cho Người. Vì thế, cuối Tin mừng Luca (24,47) và đầu sách Công vụ tông đồ (Cv 1,8), Đức Giêsu chỉ thị cho các tông đồ phải chờ đợi sức mạnh từ trên ban xuống cho các ông qua việc Thánh Thần hiện xuống.
Thánh Luca gắn khởi đầu của Giáo hội với Đại lễ Ngũ Tuần của người Dothái và cho biến cố này xảy ra ở Giêrusalem. Đó là năm mươi ngày (tiếng Hylạp - Pentecoste) sau biến cố Xuất hành và là cuối mùa thu hoạch lúa mì. Một số người cử hành lễ này như là thời gian nhớ lại việc Chúa ban Lề Luật trên núi Sinai. Vì thế, lễ này được xem như thời khắc để hoàn thành và cũng để khởi đầu một sự canh tân trong lịch sử Israel.
Với chuyện xảy ra vào Lễ Ngũ Tuần tại Giêrusalem, thánh Luca cho thấy sự liên tục của lịch sử cứu độ mà Thiên Chúa đã khởi sự từ dân Dothái. Isaia (Is 2,2-4) đã hứa rằng tất cả các dân nước sẽ đến Giêrusalem nơi Đức Chúa sẽ thiết lập vương triều của Người trên trần gian. Vì thế, danh sách các dân nước được liệt kê trong bài đọc hôm nay (Cv 2,9-11). Giống như trong văn chương Kinh thánh, danh sách này mang ý nghĩa biểu tượng nói đến dân từ Đông sang Tây và khắp cả Rôma. Vào lễ Ngũ tuần tại Giêrusalem, là thời điểm và nơi chốn thích hợp để Thiên Chúa khởi sự một triều đại mới trải dài đến "tận cùng trái đất" - mà Rôma là biểu trưng. Như ngôn sứ đã hứa, triều đại này khởi sự với việc ban tặng Thánh Thần.
Lễ Hiện Xuống diễn ra hằng năm vào thời điểm này và tại một số giáo xứ, lễ được tổ chức với việc đọc sách thánh và hát thánh ca bằng những thứ ngôn ngữ khác nhau. Một vài giáo xứ thậm chí còn tổ chức lễ hội ẩm thực của dân bản địa, nhất là đối với những người mới nhập cư vào xứ này. Đây là những cử hành tuyệt vời về sự đa dạng của Giáo hội và cũng là sự nhắc nhở cụ thể về điều mà những người được nghe các Tông đồ tràn đầy Thánh Thần đang nói với họ: "Những người đang nói đó không phải là người Galilê cả ư? Thế sao mỗi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta?"
Chúng ta mới được nhắc nhở về một Giáo hội đa dạng thì mạnh mẽ thế nào. Trong những ngày tĩnh tâm giáo xứ gần đây, một người mới được rửa tội cho tôi biết về lý do mà anh cảm thấy mình được mời gọi gia nhập vào Giáo hội. Anh đã thăm giáo xứ vào một Thánh lễ Chúa Nhật. Một người Mỹ gốc Phi ngồi bên phải và một người di dân Việt Nam ngồi bên trái anh. Anh cho biết: "tôi quyết định gia nhập Giáo hội vì tôi đã thấy sự đa dạng của các thành phần trong Giáo hội, và cảm thấy Giáo hội cũng mở ra cho tôi một cơ hội nữa. Vì thế, tôi đã ghi danh vào lớp Khai Tâm Kitô giáo và đã được lãnh nhận Phép rửa cách đây hai năm".
Trong một số môi trường như ở sở làm, trường học, chính trường, những khác biệt như thế có thể dựng nên những bức tường ngăn cách, chia rẽ người ta, đặc biệt là nhóm thiểu số. Nói thực lòng, những chia rẽ và định kiến như thế cũng đang tồn tại ngay trong các giáo xứ của chúng ta: những người cũ thường nắm khư khư thói quen, lịch trình và chống lại tất cả những gì mà những người tới sau đóng góp dựa trên quan điểm và lối thực hành niềm tin của họ. Chúng ta được nhắc nhở rằng lễ Hiện Xuống không chỉ là một sự bùng nổ của âm thanh và quang cảnh cách đây rất lâu; nhưng là không ngừng đòi chúng ta phải nhìn lại chính mình như Giáo hội và cách mà chúng ta cùng nhau thực hành niềm tin ấy.
Trong khi những cử hành lễ Hiện Xuống của giáo xứ đang cố gắng diễn tả sự đa dạng tuyệt vời mà Thánh Thần mang lại cho cộng đoàn, thì chính những kiểu cử hành ấy có thể cũng đã bị biến thành yếu tố địa phương và nhàm chán. Để rồi ai đó sẽ ngán ngẩm thốt lên "Lễ Hiện Xuống nào mà chẳng cử hành như thế". Nhưng ngược lại, Thánh Thần không mang lại những gì đã định sẵn và thành ra thường lệ, nhưng Người đến trong hình lưỡi lửa và cơn gió. Nhiều người không muốn đối diện với những gì bất ngờ và hoang mang trong đời sống đức tin của mình. Họ phản kháng: "đời tôi đã quá đủ những báp bênh rồi. Tôi muốn đời sống đạo của mình nhẹ nhàng và dễ chịu - xin đừng có thêm lửa hay gió máy gì nữa!" Các cơ quan tổ chức thì có xu hướng chống lại những thay đổi và sự thích nghi. Thế giới thấy khó chịu với những người mộng mị hay những kẻ hoang tưởng. Chúng ta dễ xua đuổi họ hoặc kê toa thuốc để họ "bình tĩnh lại".
Lễ Hiện Xuống nhắc nhở rằng không bao giờ ta có thể biết Thánh Thần sẽ hoạt động ra sao và nơi người nào. Đại Lễ nhắc ta phải mở to đôi mắt mở rộng đôi tai, nếu không chúng ta có thể đánh mất sức sống mới mà Thánh Thần thổi vào cuộc đời ta. Có thể Thánh Thần có điều muốn nói với ta qua: một thành viên hội đồng giáo xứ có ý kiến ngược với đa số; một người vô gia cư phàn nàn về cách anh bị đối xử trong nhà ăn giáo xứ; một bạn trẻ phàn nàn về thánh lễ Chúa Nhật dành cho giới trẻ thì chán ngắt; linh mục về hưu, tham dự ngày Chúa Nhật và không ngừng nhắc nhở "tinh thần của Vatican II"; một ca trưởng thúc giục ca đoàn phải chia bè ra mà hát; một mục sư Tin Lành mời chúng ta cùng nhau cộng tác trong việc tạo thêm chỗ ở cho những người không nhà; nhóm bảo vệ quyền sống muốn thúc đẩy để ngăn chặn nạn phá thai hay án tử...
Thánh Thần không chỉ đến với những người có quyền lực hay sức mạnh vì, "mọi người đang tề tựu ở một nơi". Thánh Thần là một sự cân bằng, vì đó mà lối cân đong cũ nay không còn giá trị nữa; quý vị không thể biết được ai là người đang mang Thánh Thần hay nói thay Thánh Thần. Chúng ta thường cho rằng những người có học nhất sẽ đưa ra lời quyết định, vì dù sao họ cũng là "những người thông thái". Mặc dù hôm nay chúng ta có thể đang cử hành lễ trọng này trong giáo xứ, để chứng tỏ sự phong phú của hội thánh, song Lễ Hiện Xuống vẫn đánh động chúng ta. Đó là việc chúng ta để cho làn gió phi thường tràn ngập con thuyền tâm linh của mình và để cho ngọn lửa thiêu rụi những chống đối dai dẳng trong ta.
Khi đi xem một trận bóng chày và đám đông xung quanh đang hò reo cổ vũ cho đội nhà, thì niềm phấn khởi đó có tính lây lan và chúng ta sẽ thấy mình chẳng mấy chốc đã tham gia vào đám đông đó. Đó là lý do tại sao chúng ta vui mừng cử hành lễ Hiện Xuống. Thánh Thần của Thiên Chúa được biểu lộ qua lòng thành kính và nhiệt tâm của những người xung quanh ta, có thể cũng lây lan. Thiên Chúa không ngừng thổi chính mình vào trong cộng đoàn đang quy tụ, truyền hứng khởi cho chúng ta, như Phêrô và các đồng bạn của ông khi họ nhận được Thánh Thần lần đầu tiên tại Giêrusalem.
Các ông không say rượu, như đám đông ngày ấy nghĩ về họ, nhưng các ông say ngất Thánh Thần. Chẳng lẽ không có gì ngạc nhiên khi một niềm tin mãnh liệt như thế đã lây lan ra toàn Giêrusalem và lôi kéo nhiều người vào trong cộng đoàn được Thánh Thần hình thành hay sao?
98. Thời kỳ ân điển của Thần Khí--Lm G.B. Trần Văn Hào
Khi tổng thống Washington lên cầm quyền, vào thời điểm nước Mỹ mới được thành lập, ông và 55 nhà ái quốc đã nhóm họp tại Philadelphia để soạn thảo bản hiến pháp đầu tiên cho quốc gia này. Sau bốn tuần làm việc cật lực, họ vẫn không đạt được kết qủa nào vì có qúa nhiều ý kiến bất đồng, thậm chí đối kháng lẫn nhau. Mọi người toan tính bỏ cuộc. Một nghị viên tên là Benjamin Franklin đứng lên phát biểu: “Thưa Ngài Tổng thống và thưa toàn thể hội nghị, sức lực và trí tuệ của con người rất giới hạn và mong manh, cụ thể sau một tháng làm việc chúng ta vẫn chưa gặt hái được thành quả nào vì đầu óc chúng ta quá tăm tối. Vậy tôi đề nghị, chúng ta phải xin ơn trên soi sáng để có thể tiếp tục công việc”. Ý kiến trên được mọi người chấp nhận. Từ ngày hôm ấy trước mỗi phiên họp, các nghị viên đều đứng lên cung kính cầu nguyện để xin Chúa Thánh Thần soi dẫn. Chẳng bao lâu sau, nước Mỹ đã có được một bản hiến pháp lịch sử mà các sử gia vẫn xem đó là công trình vĩ đại nhất của nứớc Mỹ, được hoàn thành bởi ơn trên cùng với sự cộng tác của con người. Bản hiến pháp ấy đã trở thành quy chuẩn để nhiều quốc gia khác trên thế giới soi chiếu và noi theo. Người ta cho in hàng chữ ‘Chúng tôi tín thác vào Thiên Chúa’ (In God we trust) trên tờ Đôla Mỹ để ghi nhớ biến cố này. Qủa thật, nếu không mở lòng cho Thánh Thần tác động, chúng ta sẽ không làm được bất cứ công việc gì.
Chúa Thánh Thần là ai?
Trong kinh Tin kính chúng ta vẫn tuyên xưng: “Tôi tin Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa và là Đấng ban sự sống. Người bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra. Người được phụng thờ và tôn vinh cùng với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Người đã dùng các tiên tri mà phán dạy”. Đó là 4 tín điều căn bản của giáo lý Công giáo về Chúa Thánh Thần mà phụng vụ hôm nay gợi nhắc.
Tuy nhiên, khi chúng ta đặt câu hỏi Chúa Thánh Thần là ai, chúng ta dễ rơi vào tâm trạng giống như dân Ephêsô ngày xưa khi họ trả lời thánh Phaolô: “Thưa ông, ngay cả việc có Chúa Thánh Thần hay không, chúng tôi còn chưa biết đến”(Cv 19,2). Kinh thánh nói khá nhiều về Thần khí của Thiên Chúa với nhiều biểu tuợng, nhưng chúng ta không thể hình dung Chúa Thánh Thần qua một hình ảnh hay qua một danh xưng. Nhà thần học Simeon vẫn hướng về Chúa Thánh Thần với lời cầu nguyện: “Xin hãy đến, lạy Đấng mà chúng con không hiểu được, cũng không biết được”. Đấng mà chúng ta không hiểu, không biết, nhưng với cảm thức đức tin, chúng ta vẫn có thể trải nghiệm được sự hiện diện và tác động của Ngài tận thâm sâu trong cõi lòng mỗi người.
Vì thế, nói về Chúa Thánh Thần không phải là một điều giản đơn hay chúng ta có thể tự nghĩ ra. Chúa Giêsu đã từng nói với Nicôđêmô: “Gió muốn thổi đâu thì thổi. Ông nghe tiếng gió nhưng không biết gió từ đâu đến và đi đâu (Ga 3,8)”. Thánh Thần là Đấng mà chúng ta không thể nhốt kín trong một phạm trù cứng ngắc, hoặc trình bày Ngài như một khái niệm xơ cứng. Chúng ta cảm nhận sự hiện diện của Ngài bằng đức tin, đồng thời chúng ta suy tư về Chúa Thánh Thần dựa trên Kinh thánh và những giáo huấn của Giáo hội. Tóm lại, để trả lời câu hỏi Chúa Thánh Thần là ai, chúng ta có thể trích mượn tư tưởng của thần học gia Jacques Guillet: “Người ta không thể thông hiểu về Chúa Thánh Thần như hiểu biết về Chúa Cha và Chúa con. Thánh Thần không có dung mạo cũng chẳng có danh xưng. Chúng ta không thể đặt mình trước Chúa Thánh Thần để cầu nguyện hay chiêm ngắm Ngài, theo dõi các hành động của Ngài. Nhưng chúng ta vẫn có thể cảm thấu sự hiện diện của Chúa Thánh Thần như Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ năm xưa: “Anh em sẽ nhận biết Ngài vì Ngài ở trong anh em” (Ga 14,17).
Những biểu tượng về Chúa Thánh Thần.
Biểu tượng mà Kinh thánh sử dụng nhiều nhất để nói về Thần Khí, là gió hay hơi thở, diễn tả qua hạn từ ‘Spiritus Sanctus’ trong tiếng Latinh, ‘Holy Spirit’ trong tiếng Anh, ‘Pneuma’ trong tiếng Hy Lạp, và tiếng Do Thái gọi là ‘Ruah’. Chính Chúa Giêsu cũng đã dùng biểu tượng này khi nói với Nicôđêmô: “Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió và không biết gió từ đâu đến”. Trong sách Tông đồ công vụ, lễ Hiện xuống (Pentecost) được khởi đầu với một làn gió mạnh thổi vào căn nhà nơi các Tông Đồ đang tụ họp. Khi sống lại, Chúa Giêsu cũng thổi hơi trên các môn đệ, trao ban bình an và tuôn đổ Thần Khí trên các ông (Ga 20,22). Ngay từ đầu sách khởi nguyên, tác giả cũng đã trình thuật về công trình tạo dựng qua đó Đức Chúa Giavê thổi hơi ban sinh khí vào ‘nắm đất’ để dựng nên con người (St 2,7). Đó là những đặc nét và biểu tượng nói về Thần Khí, Đấng tác sinh và ban sự sống.
Biểu tượng thứ 2 nói về Chúa Thánhh Thần là mạch nước. Trong thị kiến của tiên tri Ezekiel, dòng nước chảy từ bên phải đền thờ phát sinh sự sống tiên báo về thời kỳ ân điển của Thần Khí (Ez 47). Cũng vậy, trong Tin mừng Gioan, Chúa nói với người phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacóp về nguồn nước sự sống phát nguyên từ nơi Ngài, là chính Thần Khí của đấng Phục sinh, đem lại cho con người ơn cứu rỗi (Ga 4,13). Rõ nét nhất, Tin mừng Gioan thuật lại cho chúng ta: “Vào cuối cuộc lễ, Đức Giêsu đứng dậy và hô lớn tiếng: “Ai khát hãy đến với tôi, ai tin vào Tôi hãy đến mà uống... Đức Giêsu muốn nói về Thần khí mà những kẻ tin vào Ngài sẽ lãnh nhận. (Ga 7,37-38).
Kế đến là biểu tượng ngọn lửa. Sách Tông đồ Công vụ thuật lại bối cảnh lễ Hiện xuống đầu tiên với hình lưỡi lửa đậu xuống trên các tông đồ (Cv 2,3). Lửa có sức đốt cháy những vẩn đục và rác rưởi của tội lỗi để biến đổi tâm can con người. Chúa Giêsu cũng đã từng tuyên bố: “Thầy đem lửa từ trời đến thế gian, và Thầy ước mong cho ngọn lửa ấy bùng lên”. Thánh Phaolô cũng khuyến mời giáo đoàn Thesalonica: “Anh em đừng dập tắt Thánh Thần (1Th 5,14). Hai môn đệ trên đường về làng quê Emmaus khi nghe Chúa Giêsu cắt nghĩa Kinh thánh, đã cảm thấy như một ngọn lửa đang bừng cháy nơi tâm hồn mình (Lc 24,32). Đó là dấu chứng về sự tác động của Thần Khí.
Ngoài 3 biểu tượng nói trên, chúng ta còn thấy khá nhiều biểu tượng khác trong Kinh thánh ám chỉ về Chúa Thánh Thần, như chim bồ câu hoặc như việc xức dầu thánh hiến. Kinh thánh dùng những biểu tượng trên để nói về Ngôi Ba Thiên Chúa, là ngôi vị không có hình thể, không có danh xưng nhưng chắc chắn chúng ta có thể cảm nghiệm sự tác động nhiệm mầu của Ngài trong đời sống đức tin của chúng ta.
Kết luận
Tuần trước chúng ta mừng kính việc Chúa về trời, vừa hữu hình vừa vô hình. Tin mừng Gioan liên kết các sự kiện thành một mầu nhiệm duy nhất: Chúa sống lại đi vào trong vinh quang với Chúa Cha, và trao ban Thánh thần để Ngài tiếp tục hiện diện giữa Hội thánh. Cũng vậy, tuần này chúng ta cũng mừng kính việc Chúa Thánh Thần hiện xuống, vừa hữu hình vừa vô hình, là cao điểm của mầu nhiệm Phục sinh. Thánh Phaolô trong thơ gửi giáo đoàn Rôma đã viết: “Hướng đi của Thánh Thần là bình an và hoan lạc (Rm 8,6)”. Khi chúng ta có bình an và niềm vui thực sự trong tâm hồn, chúng ta thực sự đang sở đắc Chúa Thánh Thần. Ngài chính là nguyên lý của bình an và hạnh phúc. Chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần đến trong tâm hồn chúng ta mỗi ngày.
99. Chúa Thánh Thần trong Hội Thánh--Lm Đỗ Xuân Quế
Hội thánh được thành lập vào ngày lễ Ngũ Tuần, ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống. Từ đây với một nhóm người nhỏ bé, dần dần Hội thánh trở nên lớn mạnh và lan rộng khắp nơi. Có thể nói hồn sống và động lực của Hội thánh là Chúa Thánh Thần, đúng như lời Chúa Giêsu đã hứa với các Tông đồ: “Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn.”(Ga 16,13) Chính vì tin tưởng vào lời hứa ấy mà trải qua bao thăng trầm và biến động suốt mấy ngàn năm lịch sử, Hội thánh vẫn không tỏ ra nao núng. Nếu không có Chúa Thánh Thần và không được Người bảo trợ, Hội thánh đã biến mất từ lâu rồi. Về điểm này, một tác giả đã viết: “Không có Thánh Thần thì Thiên Chúa vẫn còn ở xa, Chúa Kitô vẫn thuộc về dĩ vãng, Tin Mừng là những hàng chữ chết, Hội thánh là một tổ chức đơn thuần, truyền giáo là tuyên truyền, thờ phượng là hồi tưởng, hành động Kitô giáo là một thứ luân lý nô lệ.”1
Nhưng may thay đã có Chúa Thánh Thần và Người vẫn đang hoạt động từ xưa cho đến nay. Thiết tưởng chúng ta nên đọc lại một vài đoạn về Người trong sách Công vụ Tông đồ để thấy được vị trí và ảnh hưởng của Người trong Hội thánh. Sở dĩ nói đến Công vụ Tông đồ vì đó là một cuốn sách trong các sách Tân Ước nói về Chúa Thánh Thần nhiều hơn cả.
Trong mấy câu trích dẫn trên đây, phần trước là lời ngôn sứ loan báo từ ngàn xưa (Ge 3,1-3), phần sau là điều đã được thực hiện thời các Tông đồ (Cv 2). Quả vậy ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống cũng là ngày ứng nghiệm lời loan báo của các ngôn sứ, đặc biệt là ngôn sứ Gio-en (3,1-2). Ơn Chúa Thánh Thần được ban cho mọi người, dù có lúc thánh Phê-rô và các thánh Tông đồ khác chiếm một vị trí riêng và đóng một vai trò nổi bật. Khi giải thích cho quần chúng sự việc đang xảy ra trước mắt họ, thánh Phê-rô loan báo Chúa đã sống lại và cho biết thành quả của cuộc thọ hình là tuôn đổ Thần Khí. Các Tông đồ đã được tràn đầy Thần Khí: “Họ cầu nguyện xong thì nơi họ họp nhau rung chuyển; ai nấy đều được tràn đầy Thánh Thần và bắt đầu mạnh dạn nói lời Thiên Chúa.” (Cv 4,31)
Thần Khí được tuôn đổ xuống trên các Tông đồ ngày lễ Ngũ Tuần. Từ ngày ấy về sau, Thần Khí vẫn không rời khỏi các ông, nhưng mức độ cao thấp, mạnh yếu thì có thay đổi lên xuống tùy lúc tùy thời. Điều ấy giải thích được tại sao có phong trào Thánh Linh hiện nay. Tất cả những người đã chịu phép Rửa và phép Thêm sức đều đã nhận được ơn Chúa Thánh Thần, nhưng ơn ấy có thể hoạt động bất cứ lúc nào ở những mức độ khác nhau, theo như gió muốn thổi đâu thì thổi (Ga 3,8) nghĩa là theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.
2. Công vụ 5,3
3"Ông Phê-rô mới nói: “Anh Kha-na-ni-a, sao anh lại để Xa-tan xâm chiếm lòng anh, khiến anh lừa dối Thánh Thần mà giữ một phần giá thửa đất.”
Trên đây là một câu nói về trường hợp ông Kha-na-ni-a bán đất đem nộp tiền cho các Tông đồ. Nhưng ông không nộp hết, còn giữ lại một phần. Hành động này bị coi như một lời nói dối. Nói dối người đại diện Hội thánh cũng là nói dối Chúa Thánh Thần. Hội thánh và Chúa Thánh Thần đồng hóa với nhau. Sự đồng hóa này cho thấy mối dây ràng buộc Hội thánh với Chúa Thánh Thần chặt chẽ như thế nào, khiến thánh I-rê-nê phải viết: “Ở đâu có Hội thánh, ở đấy có Thần Khí của Thiên Chúa. Ở đâu có Thần Khí của Thiên Chúa, ở đấy có Hội thánh và tất cả nguồn ân sủng của Người. Và Thần Khí chính là chân lý, là sự thật.”2 Nói dối ai là nói dối một người nào đó, ở đây nói dối Chúa Thánh Thần cũng là nói dối một người. Người đó là một Ngôi Vị, Ngôi Ba trong Ba Ngôi Thiên Chúa.
3. Công vụ 5,32 và 15,28
32 “Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng giữ Lời Người.”
28 “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này.”
Thánh Thần được trưng dẫn như người làm chứng và quyết định cùng với các Tông đồ. Như thế có nghĩa là Chúa Thánh Thần đóng một vai trò trọng yếu trong việc điều khiển Hội thánh và các Tông đồ là những người làm việc dưới quyền điều động và sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Vai trò và ảnh hưởng của Người thật lớn lao.
4. Cv 8,29.39; 10,19; 13,2-4
29 “Thần Khí nói với ông Phi-líp-phê: “Tiến lên, đuổi kịp xe đó.” 39 Khi hai ông lên khỏi nước, Thần Khí Chúa đem ông Phi-líp-phê đi mất, và viên thái giám không còn thấy ông nữa. Nhưng ông tiếp tục cuộc hành trình, lòng đầy hoan hỉ.”
19 “Ông Phê-rô vẫn còn phân vân về thị kiến thì Thần Khí bảo ông: “Kìa có ba người đang tìm ngươi.”
2 “Một hôm, đang khi họ làm việc thờ phượng Chúa và ăn chay thì Thánh Thần phán bảo: “Hãy dành riêng Ba-na-ba và Sao-lô cho Ta,để lo công việc Ta đã kêu gọi hai người ấy làm. 3 Bấy giờ họ ăn chay cầu nguyện, rồi đặt tay trên hai ông và tiễn đi. Vậy, được Thánh Thần sai đi, hai ông xuống Xê-lêu-ki-a, rồi từ đó đáp tàu đi đảo Sýp.”
Đọc những dòng trên đây, chúng ta thấy gì?
Trước hết là thấy Thánh Thần sai đi. Người sai ông
Phi-líp-phê đi gặp viên thái giám để làm phép Rửa cho ông ấy. Thứ đến là Người sai ông Phê-rô tới gặp đại đội trưởng Co-nê-li-ô, giảng dạy rồi làm phép Rửa cho ông này và cả gia đình ông. Cuối cùng, Người chọn riêng ông
Phao-lô sai đi giảng dạy các người ngoại giáo.
Như vậy đã rõ là ở đây Chúa Thánh Thần đóng vai trò kêu gọi và sai phái. Người kêu gọi và sai đi làm việc tông đồ. Đó là nhiệm vụ của Hội thánh trong buổi sơ khai và mãi mãi sau này. Nếu không có Chúa Thánh Thần khơi động và thúc đẩy, chắc chắn công việc không thể tiến triển như chúng ta thấy. Vì thế phải nói là Chúa Thánh Thần đóng một vai trò rất quan trọng trong mọi sinh hạot của Hội thánh, nhất là trong công cuộc truyền giáo lúc ban đầu.
5. Công vụ 9,31
3 “Hồi ấy trong khắp miền Giu-dê, Ga-li-lê và Sa-ma-ri, Hội thánh được bình an, được xây dựng vững chắc và sống trong niềm kính sợ Chúa, và ngày một thêm đông nhờ Thánh Thần nâng đỡ.”
Đây là một thời kỳ rất tốt đẹp: “Hội thánh được bình an và xây dựng vững chắc. Không còn hồ nghi gì nữa: cảnh tưởng đó là một ơn huệ lớn lao của Chúa Thánh Thần. Phải có bàn tay của Chúa Thánh Thần, Hội thánh mới được như vậy.
Còn nếu không được như thế thì sao? Đó cũng là do ý của Chúa Thánh Thần. Người muốn như thế để thanh luyện và làm cho Hội thánh ý thức rằng mình không có thành trì nào vững chắc ở trần gian. Có điều, dù vậy, Hội thánh vẫn không bị tan vỡ vì luôn luôn có Chúa Thánh Thần giữ gìn che chở. Người ta bảo rằng ít có khi nào Hội thánh được bằng yên năm mươi năm liền: được bằng yên ở chỗ này thì gặp rắc rối ở chỗ kia. Âu đó cũng là số phận thông thường của Hội thánh, và có như vậy Hội thánh mới tin vào sự nâng đỡ và sức hoạt động của Chúa Thánh Thần mà kiên trì tiến bước. Thông thường người ta dễ ru ngủ mình bằng những thành công và do đấy có thể bị sa lầy lúc nào chẳng hay. Có lẽ vì muốn cho Hội thánh phải luôn luôn cảnh giác mà Chúa Thánh Thần để cho Hội thánh sống trong tình trạng bấp bênh và an ninh tạm thời trong từng gian đoạn, để Hội thánh nhớ rằng mình vẫn phải cậy dựa vào Chúa Thánh Thần. Vả lại, Chúa Giêsu cũng đã nói: “Giả như anh em thuộc về thế gian thì thế gian yêu thương cái gì thuộc về nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em ra khỏi thế gian,nên thế gian ghét anh em.” (Ga 15,19)
Nếu từ trước đến nay, phần đông chúng ta quen nghĩ rằng Thánh Thần xa xôi và trừu tượng lắm, thì bây giờ qua mấy đoạn văn tiêu biểu trích dẫn trong sách Công vụ Tông đồ, chúng ta nên thay đổi lối nhìn và cách nghĩ về Người. Người ở trong chúng ta và giữa lòng Hội thánh. Người đã chỉ huy, điều khiển sinh hoạt của Hội thánh lúc ban đầu và luôn canh chừng Hội thánh trong suốt dòng lịch sử. Gần đây, Qua Công đồng Va-ti-ca-nô II, Người vẫn chứng tỏ sự hiện diện và gần gũi của Người bên cạnh Hội thánh. Nếu hiện nay, có những người thích cầu nguyện chung hay riêng một cách sâu sắc, thích trở về với sự chiêm niệm như xưa và nhấn mạnh đến việc ngợi khen Chúa, ước ao hiến mình trọn vẹn cho Chúa Kitô, luôn sẵn sàng đáp lại tiếng gọi của Thánh Thần, siêng năng đọc Kinh thánh nhiều hơn, tận tâm giúp đỡ anh em và sẵn sàng phục vụ Hội thánh thì chúng ta có thể coi đó là hoạt động kín đáo và mầu nhiệm của Thánh Thần, hồn sống của Hội thánh.3
Cuối cùng, nếu cố gắng mang Thánh Thần ở trong mình, chúng ta sẽ giống như những đồ vật sạch trong, khi được ánh mặt trời chiếu vào, sẽ trở nên rực rỡ và và phát ra một thứ ánh sáng mới. Những ai mang Thần Khí, được Thần Khí soi dẫn thì cũng thành những con người thiêng liêng chiếu giãi ân sủng lên những người khác như vậy.4
100. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour
CHÚA HIỆN ĐẾN (20,19-20)
Cảnh tượng diễn ra có chiều ngày hôm ấy. Các tiểu đoạn trước xem chừng không thay đổi cách hành xử của các môn đệ (ta có thể nghĩ rằng các môn đệ ở đây ám chỉ nhóm Mười Một, dù rằng Lc 24,33 thêm “các bạn hữu” vào nhóm Mười Một này). Các ông sống trong lo âu sợ hãi và trốn tránh. Chính trong nơi cửa đóng then cài này mà Chúa Giêsu ngự đến. Sự hiện diện của Người không còn lệ thuộc vào luật lệ thể xác và những điều bó buộc tự nhiên như những sự bó buộc của con người với thể xác mình. Không thấy nói Chúa đi xuyên qua tường: đơn giản Người có thể hiện diện cách khác hơn loài người.
Chúa đến, như thuở sinh thời, là nguồn bình an. Người nói “Chúc anh em được bình an”, điều này không chỉ là một lời chúc xã giao, mà còn có nghĩa là món quà hữu hiệu của ơn cứu độ, của niềm vui và của sự bình an. Các dấu vết đóng đinh trên tay và cạnh sườn của Chúa Giêsu chứng tỏ rằng, bất chấp các tình huống kỳ lạ về sự xuất hiện của Chúa Giêsu, thánh sử không muốn rằng độc giả xem Chúa như một bóng ma, nghĩa là ai đó khác với Đấng chịu đóng đinh. Hẳn thật sự hiện diện thể lý bình thường của Chúa Giêsu đã chấm dứt, tuy nhiên con người đang đứng ở giữa họ là Chúa Giêsu, nghĩa là cũng một con người như Đấng họ đã biết và y trong, nhưng mà từ nay sự Phục Sinh đã làm biến đổi. Sự lo âu sợ hãi tiêu tan, các môn đệ hân hoan vui mừng.
SỨ VỤ (20,21-23)
Những lần hiện ra tự nó không nhằm mục đích riêng. Chúng mở màn cho một sứ vụ. “Như”: đây không chỉ là một sự so sánh, đây là căn nguyên và nền móng. Các môn đệ được sai đi (theo từng chữ “làm Tông đồ”) để kéo dài hoạt động của Chúa Giêsu. Đây là lần đầu tiên trong Tin Mừng của mình, Gioan gán tước hiệu Tông đồ cho nhóm Mười Một. Chủ đề sai đi này đã được trình bày sâu rộng trong diễn từ tư tế (17,17-19). Như Thiên Chúa đã thổi sinh khí trên Ađam (St 2,7), như Thần Khí đã ngự xuống trên Chúa Giêsu (1,33-34), Chúa Giêsu mà Thiên Chúa đã tôn làm Chúa, thổi (cũng động từ Hy Lạp ở đây như trong St 2,7) quyền năng của Thần Khí trên các môn đệ (x. 14,26). Người là Đấng đến để có kinh nghiệm về cái chết, tự tỏ mình ở đây như là Chúa Tể sự sống. Còn các môn đệ, cho đến lúc ấy còn sợ hãi, bây giờ mặc lấy sức mạnh của Thiên Chúa. Như Thiên Chúa, rồi Đấng được sai đến là Chúa Giêsu, họ có thể tha tội, nghĩa là thanh tẩy tội lỗi trong quyền năng cái chết cảu Chúa Giêsu. Thần Khí kết buộc họ với Thiên Chúa chặt chẽ đến nỗi, khi họ được tha cho ai hoặc cầm giữ tội của ai, thì chính Thiên Chúa qua họ mà tha cũng như cầm giữ tội lỗi. Chúng ta có ở đây một dạng văn phạm gọi là “thì thụ động thần linh” nhằm tránh tên gọi Thiên Chúa qua thì thụ động. Ta có thể dịch như thế này: “Bất cứ người nào anh em tha… Thiên Chúa sẽ tha tội cho họ… Bất cứ người nào… Thiên Chúa sẽ cầm giữ tội họ”.
Chúa đến lần này, cũng như lần tiếp theo, đều diễn ra vào “ngày của Chúa’, nghĩa là vào lúc các Kitô hữu tiên khởi hội họp cử hành phụng vụ, thời điểm đặc biệt để Thiên Chúa hiện diện với cộng đoàn của Người và mỗi khi họ tập hợp để bẻ bánh cũng là mỗi lần hiện thực hóa một lần nữa việc sai họ đi khắp thế gian.
101. Chú giải của Noel Quesson
Chiều ngày thứ nhất trong tuần...
Trong Tin Mừng theo thánh Gioan, Thánh Thần được trao cho các tông đồ, ngay chiều Phục sinh, trong bước đầu của cuộc sống lại, và Giáo hội được khai sinh nhờ khí thế của Đức Giêsu. Trong trình thuật trên, so sánh với bản văn của Luca trong Công vụ Tông đồ, Đức Giêsu xem ra giữ ưu thế hơn Thánh Thần. Thánh Gioan giúp chúng ta quen nhận ra trong Tin Mừng của ông, một nội dung thần học phong phú, nhờ các biểu tượng Kinh Thánh.
“Ngày thứ nhất trong tuần”. Một thế giới mới khởi sự một cuộc tạo dựng mới. Đó là một Sáng Thế mới. Thiên Chúa lại cầm “con người" trong bàn tay, và nhào nắn nó lại trong một thứ "đất sét" hoàn toàn mới.
Và từ hôm đó, các Kitô hữu không ngừng tụ họp lại từ “ngày thứ nhất trong tuần" này đến ngày thứ nhất trong tuần khác.... từ Chúa nhật này đến Chúa nhật khác. Giáo hội phát sinh từ cuộc tập họp nhịp nhàng như thế, trong suốt dòng thời gian, ngày nay vẫn còn tiếp diễn. Cần phải tổ chức những Chúa nhật, để giúp mọi Kitô hữu dần dần... sống nhịp theo những lần "hiện đến" của Đức Giêsu. Chúng ta không thích "nghĩa vụ dự lễ Chúa nhật" một cách nhạt nhẽo, với vẻ bề ngoài quá vụ luật. Vì đó là một nhu cầu sống! "Cần phải thở hít mà"? Do đó, không phải một năm chỉ dự lễ một lần.
Nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái.
Sợ hãi! Thế giới của chúng ta luôn được xây dựng trên sợ hãi. Ngăn ngừa nguyên tử, là vì nó "gây khiếp sợ".
Trước khi đi sâu hơn vào cầu nguyện, tôi cần phải nhìn thẳng thắn vào đời sống riêng tư của mình, xem những nỗi sợ hãi của tôi là gì? Nơi "xảy ra biến cố Phục sinh", là nơi mà các môn đệ đóng cửa, tự đề phòng, là nơi họ đang sợ sệt.
“Nơi" mà Thần Khí Thiên Chúa có thể xuất hiện trong tâm hồn tôi, đó là điểm gây thương tích nội tâm, là nơi dễ bị tổn thương, rủi ro, đau khổ.
Đối với tôi tình huống nào làm tôi dễ "đóng cửa then cài”?
Trường hợp, tội lỗi, băn khoăn nào thường đồng kín tôi? Thánh Phao lô đã ý thức về thực tại này, như một kiểu chết chóc: "Sự chết hoạt động nơi chúng tôi... Nhưng, chúng tôi không chán nản, bởi vì, dù con người bên ngoài của chúng tôi có tiêu tan đi, thì con người bên trong của chúng tôi ngày càng đổi mới... Thật vậy, một chút gian truân tạm thời: trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng tôi cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời" (2 Cr 4, 12. 16. 17).
Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông
Không phải ngẫu nhiên mà Gioan liên kết biến cố Phục sinh của Đức Giêsu với việc trao ban Thần Khí. Trong Kinh Tin Kính, chúng ta quả quyết rằng, Thánh Thần là "Thiên Chúa, là Đấng ban sự sống". Việc trao ban sự sống này, trước hết chính Đức Giêsu đã đón nhận: khi lôi kéo Đức Giêsu ra khỏi quyền lực của tử thần, Thần Khí của Thiên Chúa đã đạt thành tích của bậc thầy!
Trong con người thụ tạo của ta, vì không phải là thần linh, nên mang tính hữu hạn, thì "tinh thần" và "thân xác" liên kết với nhau trong mọi tình huống. Nhưng dù mạnh đến đâu, tinh thần trong ta cũng nhận ra một suy sụp cuối cùng, không cho phép nó cầm giữ lại thân xác của mình: “con người" cũng có nghĩa là phải chết! Nhưng trước vũ trụ thụ tạo hay chết đó, Đức Ki tô không những được trang bị những năng lực hữu hạn của tinh thần con người, nhưng Người còn nhận được những năng lực vô biên dành riêng cho Thiên Chúa. Đức Kitô mang trong mình một Thần Khí hoàn toàn khác với tinh thần của con người, nên không sử dụng Thánh Thần, là Đức Chúa và là Đấng ban sự sống? Đức Giêsu phá bỏ mọi thứ rào cản sự kiện Ngài đột nhiên xuất hiện giữa các môn đệ đang bị nhốt kín, chứng tỏ rằng Người không để cho bất cứ một chướng ngại vật nào có khả năng cầm giữ được Người đến "đứng giữa các người thuộc về mình. Sáng nay, Người đã nhận một luồng sinh khí đặc biệt mới mẻ, biến Người trở thành một "thân thể thiêng liêng", một thân thể được sống sự sống của Thánh Thần tác động (1 Cr 15, 44). Trước khi trực tiếp trao ban Thần Khí cho các bạn hữu của mình, Đức Giêsu
Phục sinh đã được Thiên Chúa Cha Người, ra tay uy quyền nâng lên cao và trao cho Người Thánh Thần đã hứa" (Cv 2,33). Chính Thánh Phêrô đã công bố mạc khải kỳ diệu trên, vào ngày Lễ Hiện Xuống.
Vâng, sự Phục sinh là một công trình, của Thánh Thần.
Người cho các ông xem tay và cạnh sườn
Bạn muốn tìm nơi xuất hiện biến cố Phục sinh: Bạn sẽ thấy khó phát hiện ra sự hiện diện của Thần Khí?
Do đó, hôm nay, bạn hãy cố khám phá ra những vết sẹo những thương tích đang ở đâu trong trái tim, trong đời sống bạn, cũng như trong thế giới hay trong Giáo hội.
Chúc anh em được bình an! Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.
Từ sợ hãi đến vui mừng, nhờ lời chúc bình an.
Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.
Họ đang bị "nhốt kín", giờ lại được "sai đi".
Việc sai đi thi hành sứ vụ, không hẳn được nhìn theo quan điểm một tổ chức nào đó: không phải là một thứ "xí nghiệp" quảng cáo được trang bị đầy đủ đồ hàng. Và Đức Giêsu không thực dụng giúp Giáo hội bước vào con đường “thừa sai" Theo Người, chỉ có một điều quan trọng: đó là nguồn gốc phát sinh công cuộc thừa sai: “mối dây thân mật liên kết Đức Giêsu với Chúa Cha". Thực vậy, chỉ có một sứ vụ: sứ vụ của Chúa Cha, cũng là sứ vụ của Đức Giêsu, và trở thành sứ vụ của Giáo hội.
Nói xong, Người thổi hơi vào các ông
Ở đây Gioan sử dụng một thứ ngôn ngữ Kinh Thánh, đặc biệt ám chỉ tới hai bản văn sáng giá sau đây:
Cuộc tạo dựng đầu tiên: "Thiên Chúa thổi vào mũi con người một sinh khí" (St 2,7).
Cuộc sáng tạo cuối cùng: "Hãy thổi vào các bộ xương chết khô này, để chúng được sống” (Ed 37,9).
Có một cuộc sáng tạo trong, quá khứ đó là sự phát sinh sức sống đầu tiên lúc khởi sự thời gian. Cũng sẽ có một cuộc sáng tạo trong tương lai, đó là sự sống lại sau cùng, vào ngày tận thế. Nhưng luôn có một cuộc sáng tạo hiện hành: đó là "Hơi thở" của Thiên Chúa đang hoạt động. Tôi tin Thánh Thần là Thiên Chúa, và là Đấng ban sự sống!
Đó là hơi thở mang sức sống! Tự nhiên bạn lại không thấy mình có khả năng để diễn tả sự hiện diện của Thiên Chúa và hoạt động của Người trong thế giới, nhờ vào sự kiện thông thường nhất nhưng cũng cốt thiết nhất: đó là hít thở hay sao? Mọi sinh vật, từ vi sinh vật cho đến những ác thú lớn lao, đều hít thở cùng một thứ ô-xy, được cống hiến cho tất cả chung quanh hành tinh chúng ta. Thế nên, chính tôi cũng hô hấp hơi thở của mọi sinh vật. Đó là hình ảnh cảm kích về Thiên Chúa duy nhất, Đấng làm cho tất cả chúng ta sống động! Khi đàm đạo với ông Nicôđêmô, Đức Giêsu đã dùng chính hình ảnh đơn sơ về gió trên đây: "Gió muốn thổi đâu thì thổi. Gió làm cho sống động" (Ga 3,6-8).
Anh em hãy nhận lấy
Tôi cầu nguyện theo lời mời gọi trên. Tâm trạng của người thời nay không thích "nhận": người ta từ chối việc lệ thuộc kẻ khác. Đó là thứ tội nguy hiểm nhất: tự phụ mình "như thần thánh". Nhưng điều đó đâu có thuộc quyền năng của con người. Dù muốn hay không, con người vẫn là một sinh vật phải lệ thuộc, hoàn toàn phải phụ thuộc: Con người cần đón nhận sự sống để sống. Tôi nhận lãnh sự sống từ cha mẹ. Tôi nhận lấy sự sống của mặt trời, giúp tôi có lương thực. Tôi tùy thuộc vào từng ngàn sự việc, từng ngàn con người, và rất nhiều điều kiện.
"Hãy nhận lấy mà ăn. Này là Mình Thầy". Cần phải "nhận "lãnh" "Thân Thể". Nên cũng cần phải "nhận lãnh" Thần Khí đó!
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết tiếp nhận, biết đồng ý nhận lấy ân huệ mà Chúa trao ban.
Thánh Thần
Nhân loại cần đón nhận cộng đồng Thần Khí hiện hữu giữa Chúa Cha và Chúa Con. Dù nhiều, nhưng chỉ là một! Như thế, chúng ta cũng khám phá ra rằng, trong sứ vụ của Giáo hội, không chỉ có Chúa Cha và Chúa Con mà Người sai gửi đến, nhưng là mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa.
Giáo hội, như Công đồng Vatican II nói, là sự mở rộng tới mọi người, cộng đồng yêu thương luôn liên kết Ba Ngôi Thiên Chúa.
Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.
Vai trò và sứ vụ của Giáo Hội là loan báo ơn tha thư và hồng phúc cứu độ! Diễn tiến của trang Tin Mừng theo thánh Gioan trên đây thật sống động:
Một cộng đồng những con người đã trải qua kinh nghiệm với Chúa Phục sinh.
- Việc sai gửi đi thi hành sứ vụ của cộng đồng này phát sinh từ kinh nghiệm ai đó.
- Việc thông ban Thánh Thần làm cho cộng đồng có khả năng thi hành sứ vụ.
Sứ vụ đó chính là thông truyền ơn cứu độ, sự tha thứ, sự Thánh thiện.
Như thế, vai trò của Giáo hội là giải phóng! Là cống hiến tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Kiểu nói đối chiếu, có tinh tiêu cực trên đây, hiển nhiên không có nghĩa là: Giáo hội có thể hành xử một thứ quyền phán quyết độc đoán. Đừng bao giờ nên hỏi: "Liệu Thiên Chúa có tha thứ cho tôi không? Thập giá của Đức Giêsu đã trả lời cho câu hỏi này. Nhưng quan trọng, vẫn là câu hỏi: Liệu tôi có "lãnh nhận" ơn tha thứ đó không?
102. Chú giải của Fiches Dominicales
NGÀY ĐẦU TIÊN CỦA TẠO THÀNH MỚI ĐỨC GIÊSU PHỤC SINH THỔI HƠI VÀO CÁC MÔN ĐỆ VÀ BẢO ANH EM HÃY NHẬN LẤY THÁNH THẦN
1/ Đấng Phục sinh chủ động đến.
Các môn đệ tụ họp trong một căn phòng đóng kín cửa. Họ sợ người Do Thái, đúng hơn, sợ các vị chức sắc trong giáo quyền Giêrusalem. Với chi tiết này, có lẽ tác giả muốn các độc giả Tin Mừng của mình liên tưởng đến các cuộc bách hại mà tới lúc này đã lan rộng. Bị trục xuất khỏi hội đường vì dám tin nhận Chúa Giêsu là Đức Kitô (người mù bẩm sinh bị đuổi khỏi hội đường: Ga 9,34). Họ như dần dần được chỉ dẫn đức tụ họp ở một nói riêng tránh sự dòm ngó của những kẻ bách hại họ.
Họ tụ tập. Đức Giêsu đến trước mặt họ. Lời đầu tiên Người nói là lời cầu chúc bình an: Bình an cho anh em (Shalom). Không chỉ là lời chào xã giao, nhưng là một xác nhận ân huệ phát sinh: vui mừng, bình an.
2/ Nhận ra Đức Giêsu đang sống sau khi biết rõ người đã chết.
Đức Giêsu chỉ cho họ thấy tay và cạnh sườn Ngươi (liên tưởng tới lưỡi giáo đâm: Ga 19,34). Alain Marchadour chú giải rằng: Dù thuật lại những lần hiện ra lạ lùng của Đức Giêsu, thì những vết đinh đóng và cạnh sườn bị đâm thủng chứng tỏ rằng thánh sử không muốn độc giả lầm tưởng đó là bóng ma, nghĩa là, một ai khác chứ không phải Đấng chịu đóng đinh. Đúng ra, sự hiện diện thể lý thông thường đã chấm dứt, nhưng Đấng đã hiện diện trước mặt họ đây, chính là Đức Giêsu họ biết là yêu mến, từ nay đã thăng hoa bởi sự phục sinh. Không sợ hãi nữa, các tông đồ trở nên vui mừng" ("L'evangile de Jean, Centurion". trg 246).
3/ Tiếp nhận sứ mệnh Đấng Phục sinh trao.
Đấng Phục sinh hiện đến, không phải chỉ là một chuyến ngao du, nhưng còn để trao một sứ mệnh. Sai họ đi với sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Để đem Tin Mừng ơn Tha Thứ của Thiên Chúa đến cho mọi người.
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Một hơi thở nhẹ như làn gió thoảng.
Làm thế nào mà một hơi thở từ cửa miệng lại có thể trở thành cơn bão trong lịch sử? Người ta sẽ không bao giờ nói cho hết được về làn gió thoảng đổi mới vũ trụ này. Từ buổi bình minh của vũ trụ, nó đã lên tiếng ngợi ca làm bừng lên dòng nhựa sống đầu tiên. Ngôn sứ Êdêkiel đã trông thấy nó làm sống lại cả một cánh đồng đầy xương khô: đó là hình ảnh dân tộc bị lưu đày biệt xứ và bị hạ nhục vào thế kỷ thứ VI trước Công nguyên. Và giờ đây, Đức Giêsu đang mấp máy môi, dường như để ban cho các bạn hữu của Người đang hoảng sợ một linh hồn khác: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Chính Thần Khí này đã bay lượn trên làn nước nguyên sơ, đã vực các ngôn sứ đứng lên, đã đánh thức cả một dân tộc đang mê ngủ. Trong ngôn ngữ Hípri. từ Thần Khí thuộc giống cái. Dường như hơi thở của Thiên Chúa có chức năng từ mẫu là sinh sản một nhân loại tương lai, tương lai mà Người muốn cho họ được hưởng.
Hiệu quả của nó thật là khôn lường và ấm áp. Còn đâu nữa cánh cửa cài then vì sợ hãi. Nhưng bình an đang tỏa lan trên những khuôn mặt. Bình an vì không còn chinh chiến. Bình an của tâm hồn. Họ ra đi người này đến với người kia như những người được Thiên Chúa sai đi, giống như chàng thợ mộc thành Nadarét xưa đã chứng tỏ tình thương của Chúa Cha bằng những việc làm đầy tình thương xót. Họ sẽ mạnh hơn cả tội lỗi vốn làm méo mó, ti tiện và xuyên tạc hình ảnh con Người. Vì Thiên Chúa đã ban cho họ năng lực biến đổi của Người là ơn tha thứ, một sức mạnh lạ lùng nhất của vũ trụ, có thể biến đổi những con người lúc này và mãi mãi muôn đời.
Họ sẽ không quên những thương tích của Đấng Công chính bị tử hình vì dòng họ đi đôi khi sẽ là gian khổ. Họ sẽ không quên lời Người nói vì như lời Người, men của họ sẽ làm dậy các tâm hồn. Họ sẽ không quên các việc Người làm, vì nhờ đó, họ sẽ lay chuyển và luôn thúc đẩy mọi người, mọi nhóm, mọi xã hội lại cất bước lên đường. Không hoàn cảnh thực tế nào sẽ làm cho những hạt giống này chết đi và làm tiêu ma sự bảo đảm của Thiên Chúa. "Các môn đệ lòng đầy hân hoan”.
Liệu chúng ta có biết lắng nghe và cảm nhận luồng hơi thở nhẹ như gió thoảng kia là sự sống của Thiên Chúa chăng?
2. Người Canh tân bộ mặt địa cầu:
Thần Khí luôn luôn đi đôi với những gì là đổi mới, là tái tạo là cởi mở và giải thoát, là sai đi và qui tụ. Người là tác nhân không mệt mỏi luôn canh tân và hiện tại hóa mọi sự. Từ một đám đông gồm nhiều thành phần khác nhau, Người làm nẩy sinh và khơi dậy sự hiệp nhất và cả tình hiệp thông.
Là nguồn sự sống không bao giờ cạn kiệt, Thần Khí không ra khỏi thế giới sau hành động ban đầu còn ghi trong sách Sáng thế. Và cũng vậy, sự can thiệp "ồn ào" của Người nơi các môn đệ hoảng sợ đến tê liệt, không phải là lễ Hiện Xuống duy nhất và cuối cùng, chỉ gợi cho lòng ta luyến tiếc mỗi khi nhớ lại mà thôi Thiên Chúa không ngừng gởi hơi thở của Người đến và ta vẫn còn có thể nghe biết Người, tuy không biết hơi thở từ đâu đến và sẽ đi đâu. Thế nhưng, người ta có thể cảm nhận rõ sự hiện diện và hoạt động của Người đem lại hiệu quả thực sự. Thần Khí mở toang mọi cánh. Người làm cho người ta phải bung ra khỏi những bức tường khép kín và giã từ những tổ ấm được coi là an toàn, vững chắc và đạo đức phô trương.
Thần Khí đánh thức, chỉ trích và uốn nắn. Người dứt ta ra khỏi niềm luyến tiếc về quá khứ, khỏi nỗi nhớ nhung tìm lại "thiên đường đã đánh mất" để hòa nhập với hiện tại luôn biến chuyển như bãi phù sa, cho lòng ta tràn đầy hy vọng để chuẩn bị cho ngày mai. Thần Khí làm trẻ lại những con người trì trệ, khiến người bại liệt đứng dậy và chạy nhảy. Người ban cho những ai bị suy sụp tinh thần vì thứ tôn giáo sợ sệt, vì thứ lề luật cứng ngắc và mù quáng và vì những mớ giáo lý khô khan, tìm lại được can đảm, mạnh bạo về niềm vui. Thần Khí dẫn ta vào cốt lõi của Thiên Chúa, và của con người: tức là chân, thiện, mỹ, nghĩa là mối quan hệ hoàn hảo, sự truyền thông thành công, sự hiệp thông. Thần Khí không phải là Thiên Chúa tự hiến mình đó sao? Và hoa quả đầu tiên mà người đem đến cho kẻ tiếp nhận Người, không phải là đức ái đó sao?
Cũng phải kể là dấu chỉ của Thần Khí, khi tính đồng nhất nhường chỗ cho sự hiệp nhất, khi tính đa dạng được canh tân nhờ những ân huệ và đặc sủng, nhờ những chức năng và hoạt động, đẩy lui được những cám dỗ muốn thống trị và độc quyền, tính cạnh tranh là ghen tuông, tính tự tôn và những phán quyết không thể thay đổi. Thần Khí là sự dịu hiền và là sức mạnh, là nước và ánh sáng, là quyền năng và êm ái. Người là tiếng thì thầm và là gió bão, là lửa cháy. Người canh tân bộ mặt trái đất.
3. Chúa Thánh Thần hiện tại hóa sự hiện diện của Đấng Phục sinh trong đời sống Kitô hữu.
Đức Giêsu hứa sẽ gởi Chúa Thánh Thần đến cho các môn đệ, khi Người “vượt qua” trần thế để về cùng Cha, như vậy chắc hẳn ân huệ của Thánh Linh liên hệ rõ rệt với mầu nhiệm vượt qua. Tiếp nối sự hiện diện hữu hình của Đức Giêsu, giờ đây là một quan hệ khác với người, quan hệ trong Thánh Thần, Đấng được mô tả như là:
- "Paraclet", Đấng bảo trợ, bênh vực nơi tòa án trong vụ kiện chống các nhân chứng, giống như Đức Giêsu.
- "Thầy chân lý", giống như Đức Giêsu, chứng nhân của chân lý (18,37). Người được Chúa Cha ban "để ở với anh em luôn mãi" và ở với mọi người được sai đi. Thánh Linh như chính Đức Giêsu, hiện diện bên các môn đệ suốt thời kỳ của Hội Thánh.
Hoạt động của Người nơi các tín hữu được mô tả là:
- Người là tác nhân tạo nên sự trung thành với Lời của Đức Giêsu và Tình yêu của Người.
- Người là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện: "Chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy".
- Người dần dần dẫn dắt họ tới sự hiểu biết đầy đủ sứ điệp của Đức Giêsu: "Người sẽ giúp anh em nhớ lại mọi điều”. Với tư cách Đấng Bảo Trợ, là Hiện diện, là Ký ức, Thần Khí hiện tại hóa sự có mặt của Đấng Phục sinh trong cuộc sống người Kitô hữu.
103. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
THẦN KHÍ CỦA ĐẤNG PHỤC SINH
1. Vào chiều phục sinh, Chúa Giêsu đã hai lần chúc cho các tông đồ đang hội họp (có lẽ tại nhà Tiệc ly): “Bình an cho các con”, và giữa hai lần chúc này, Ngài tỏ cho họ thấy dấu đinh nơi chân tay và vết đâm cạnh sườn Ngài. Lời cầu chúc trước và sau khi nhắc lại cuộc tử nạn xem ra rất phù hợp với một ý hướng đặc biệt của Chúa Giêsu. Thật vậy, việc lặp lại lời chúc này cho thấy đây không phải là một công thức chào hỏi thông thường, như là thứ bình an hòa lẫn với các dấu vết cuộc tử nạn, và như thế vượt quá bình an thông thường. Nỗi đau khổ biệt ly không thể biến thành một niềm vui chóng qua làm ta quên mất cuộc tử nạn. Nỗi khổ đau ấy phải trở nên một niềm vui hằng cửu, được chín mùi trong đau khổ; đó là niềm vui của Chúa Giêsu cũng như của các môn đệ, thứ niềm vui không ai có thể cướp mất được (16,20-22). Niềm vui này là niềm vui của mùa gặt, kết quả của sức cần lao và khổ cực của cuộc tử nạn (4,38; 17,13).
2. Nếu phải có thần khí trợ giúp, các môn đệ mới hiểu được “chân lý” huống hồ để làm cho người khác hiểu chân lý, các ông phải cần đến thần khí dường nào nữa. Cũng như Thiên Chúa đã thổi hơi sự sống cho con người đầu tiên (St 2,7; Kng 15,11). Cũng vậy, Chúa Giêsu hôm nay thổi Thánh thần, hơi thở Thần linh cho các môn đệ (ruah trong tiếng Hy bá, và pneuma trong tiếng Hy lạp đều có nghĩa: hơi thở, gió). Giờ đây, họ được tái tạo để thi hành sứ mệnh. Việc trao ban thần khí ở đây không chủ yếu nói lên việc tái sinh các môn đệ trong nước trời và trong sự sống siêu nhiên (3,3-8), nhưng nhằm đến sứ mệnh được trao cho họ: sứ mệnh thôi thúc kẻ khác đến cùng chính sự sống ấy.
3. Tại sao Thần khí đã được trao ban cho các môn đệ ngay từ ngày Chúa phục sinh, trong lúc đó Giáo hội sơ khai cho rằng Thần khí được tuôn tràn trong dịp lễ Ngũ tuần (Cv 2,1-4). Lc chỉ nói đến một lời hứa sẽ được thực hiện vào lễ ngũ tuần (Lc 24,49), nhưng ông đưa về tác phẩm thứ hai của ông là sách Cv, còn Gioan thì không. Như vậy thần khí phải chăng là một sản phẩm có điều kiện? hoặc thần khí được trao ban cách “nhỏ giọt”?
Đã có nhiều câu giải đáp. Sau đây là hai cách giải đáp khá hấp dẫn:
a. Theo một vài tác giả, thật là sai lầm khi muốn dung hòa Gioan và Cv, bằng cách giả thiết Gioan nói đến việc trao ban Thần khí lần thứ nhất, còn Lc nói đến việc trao ban Thần khí lần thứ nhì. Không có một dấu chỉ nào cho thấy hai tác giả của hai tác phẩm này biết tới hoặc để ý tới vấn đề mà tác giả kia bàn đến. Và như tế người ta có thể nói mỗi tác giả đều mô tả cùng một biến cố: chỉ có một thần khí được Đấng phục sinh và lên trời trao ban cho các môn đệ. Nhưng hai tác giả phúc âm đã diễn tả cách khác nhau tùy khuynh hướng, thần học riêng của mỗi người. Chúng ta không thấy hiện tượng các tác giả trình bày khác nhau cùng một biến cố thuộc sứ vụ Chúa Giêsu đó sao? Đặc biệt Gioan và Cv chỉ định hai thời gian khác nhau cho việc trao ban cùng chính một thần khí không phải là một chướng ngại bất khả vượt. Như nhiều kẻ đã lưu ý, ngày giờ mà Chúa Giêsu hiện ra lần đầu tiên cho các môn đệ, theo Gioan ghi chép, chỉ có tính cách giả tạo, vì hình như Galilê mới là nơi được hẹn để hiện ra lần đầu tiên hơn là Giêrusalem (x. Mc 16,7 và Mt 28,7), và nếu vậy thì đương nhiên loại bỏ việc xem ngày chúa nhật Phục sinh như là ngày Chúa hiện ra lần đầu tiên. Còn sách Cv lại mang nhiều yếu tố biểu tượng trong việc chọn ngày lễ Ngũ tuần, vì Lc dùng (như là hậu cảnh) chủ đề giao ước Sinai, chủ đề mà ông sẽ nối kết với lễ ngũ tuần khi diễn tả việc thần khí đến. Dù sao, có thể Lc đã giữ lại một kỷ niệm xác thực về việc Thần khí lần đầu tiên đã hiện xuống trên cộng đoàn tiên khởi vào một ngày lễ ngũ tuần nào đó. Điểm đáng chú ý là hai tác giả đều đặt việc trao ban thần khí sau khi Chúa Giêsu đã về với Chúa Cha, dù hai ông đã quan niệm việc về cùng Cha cách khác nhau. Vì thế, với một ít lý do xác đáng, ta có thể nói Ga 20,22 trình bày “lễ hiện xuống” theo nhãn quan Gioan (Pêntêcôte johannique).
b. Cách giải đáp thứ hai theo một đường khác, có tính cách thần học hơn là chú giải. Một số tác giả quan niệm việc trao ban thần khí được thực hiện cách tiệm tiến. Thần khí không phải là một chân lý tĩnh, để trong túi như một đồ vật quí giá. Đối với tín hữu, Thần khí là sự sống tuyệt hảo. Ngài được trao ban không ngừng không những vào dịp lễ ngũ tuần, mà sau đó nữa. Việc tuôn tràn thần khí dịp phục sinh, Hiện xuống và các dịp sau đó đều là những dấu chỉ của cùng một thực tại đã biến đổi thế giới (3,3-8), từ khi Chúa Giêsu được tôn vinh (7,37-39). Việc phân biệt hai lần trao ban thần khí và lễ phục sinh và lễ ngũ tuần chỉ là phụ tùy, nhất là đối với Gioan, vì theo ông, hai biến cố này phát xuất từ cùng một “giờ”. mọi cuộc tuôn đổ thần khí chỉ là một. Ngày phục sinh, các môn đệ nhận thần khí để thi hành sứ mệnh; Thần khí trở lại trên họ khi dân mới của Thiên Chúa được thiết lập (Cv 2,1-4) và sau đó Thần khí tiếp tục phù trợ họ.
Thật khó mà biết phải chọn lối giải thích nào. Dù sao đây là vấn đề phụ thuộc, vì những thế hệ Kitô hữu đầu tiên không mấy lưu tâm đến vấn đề, bởi lẽ họ thâu nhận vào trong kinh điển các sách linh ứng cả hai cách trình bày việc trao ban Thần khí.
4. Quyền tha tội và cầm tội trao ban ở đây cho các tông đồ và những người kế vị trong Giáo hội Đức Kitô, được diễn tả rõ ràng qua chính những lời của Chúa; mà truyền thống Kitô giáo luôn công nhận, chính những lời của Chúa; mà truyền thống Kitô giáo luôn luôn công nhận như là lời thiết lập bí tích cáo giải. Đó là điều đã được công đồng Tridentinô định tín (Ds 1670,1703) chống lại phái Luthêrô; những người này chỉ cho đó là quyền rao giảng sự tha tội cho các tín hữu hối cải ăn năn.
KẾT LUẬN
Cũng như đã được Cha sai, Chúa Giêsu sai các môn đệ vào trong thế gian để tiếp tục công việc của Ngài. Những lời nói của Ngài đây cũng chính là những lời Ngài đã dùng trong lời nguyện hiến tế ở chương 17 (c.8). Lần này nói cho các tông đồ, các lời ấy củng cố họ trong ơn gọi họ. Từ đây các ngài ra mắt với thế gian nhân danh Đức Kitô Phục sinh và trong quyền năng của thần khí.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Khi thông ban thần khí Ngài cho các tông đồ, Chúa Giêsu đã thổi hơi trên họ và phán: “Hãy lãnh nhận Thánh Thần”. Cử chỉ của Chúa Giêsu tiếp nối một trong những đề tài được ưa chuộng nhất trong Thánh Kinh: Thánh Thần, hơi thở của Thiên Chúa. Và có lẽ đây là hình ảnh minh bạch nhất để nói về Thần Khí: Ngài giống như luồng gió thổi.
Người ta không thấy gió, không biết nó đi từ đâu và ngừng lại chỗ nào. Dĩ nhiên, nhà khí tượng học có thể đưa ra cho chúng ta nhiều lý thuyết về việc phát sinh và tàn lụi của các trận bão. Nhưng người đang bị gió bão cuốn đi thì chỉ có một ấn tượng mình bị bao bọc bởi một cái gì huyền bí và mãnh liệt. Thật vậy, gió rít gào và gầm thét. Gió bẻ gãy, uốn cong và bứt tung. Chính gió chở mây, mang bụi. Chính gió tàn phá và làm cho đất được hoa màu. Đó là chủ tể của sự sống. Khi thì tưới mát, lúc thì đốt thiêu. Chúng ta không thấy được gió, chỉ nhận ra nó qua bao hiệu quả muôn vàn.
Hơi thở của thần Thiên Chúa cũng vậy, Ngài hung hăng len lỏi khắp nơi. Ngài bẻ gãy, bứt tung, tàn phá những gì trong chúng ta đang chống lại tình yêu (dĩ nhiên với điều kiện chúng ta chiều theo hoạt động của Ngài, vì Ngài bất lực trước tự do của con người từ khước) và Ngài cũng làm tươi mát, biến đổi nên phì nhiêu những tâm hồn phó thác cho hoạt động của Ngài. Hơi thở của Thiên Chúa không ngừng thổi trong tâm hồn chúng ta: ngọn gió của Thiên Chúa sẽ đưa chúng ta đến nhà Cha hay không là tùy chúng ta.
2. “Các môn đô mừng rỡ": nỗi vui mừng này là do việc thấy lại Chúa sau khi quá chán nản thất vọng. Họ đã hy vọng vào Chúa Giêsu, nhưng thập giá đã làm cho họ nản lòng, và này đây Ngài lại hiện ra sống động, niềm hy vọng lại được đảm bảo và củng cố. Nỗi vui mừng ngập tràn. Điều này nhắc lại cho chúng ta nhớ rằng Thánh Thần Chúa Giêsu ban là thần khí của niềm vui.
Tin mừng mở ra với một mầu nhiệm vui: Thánh Thần, ngay từ đầu cuộc hiện hữu nhân loại cùa Chúa Giêsu, đã tạo nên hai niềm vui lớn: Elizabet chị họ Đức Maria, nhảy mừng vì được Mẹ Đấng cứu thế viếng thăm; và Maria, dưới sự thúc đẩy của Thánh Thần hát lên niềm vui của mình trong kinh Magnificat. Ít lâu sau đó, các thiên thần loan báo cho các mục đồng một cuộc đản sinh gây bao phấn khởi vui mừng cho cả toàn dân. Thánh Gioan cũng nói “Abraham cũng hân hoan khi nghĩ đến ngày xuất hiện hoa quả của thánh thần, ông đã được thấy và đã reo mừng (Ga 8,56). Chúng ta có vui được niềm vui của kinh Magnificat vì thánh Thần làm phát sinh trong ta niềm tin vào Đức Kitô không? Ngược lại hãy thử tưởng tượng: nếu không có đức tin vào Đức Kitô, đức tin do Chúa Thánh Thần phát sinh trong ta, thì chúng ta sẽ buồn bã biết chừng nào.
3. Chúa Giêsu nói cùng các môn đệ: “Hãy lãnh nhận Thánh Thần”. Có nên giới hạn ý nghĩa lời Đức Kitô đây trong câu chuyện ghi lại các lần hiện ra không? Không! Chúa luôn nghĩ đến sự hiện diện thường xuyên của Ngài trong Giáo hội nhờ hoạt động của Chúa Thánh Thần. Thời gian của Giáo hội là thời gian Thánh Thần hiện diện trong thế giới. Chúng ta có vui mừng khi nghĩ rằng Thánh Thần làm cho Chúa Giêsu hiện diện trong đời sống chúng ta không?
4. Thiên Chúa ban cho chúng ta không những chỉ các hồng ân thụ tạo và đầy giới hạn của Ngài, nhưng còn ban chính mình Ngài, với tự do của tình yêu Ngài, với vinh phúc của cuộc sống Ba Ngôi. Ân huệ cao vời này, chúng ta gọi là Thánh Thần. Ngài thuộc về chúng ta. Ngài hiện diện trong mỗi tâm hồn kêu cầu Ngài với lòng khiêm nhường và tin cậy Ngài thuộc về chúng ta đến nỗi người ta không thể nói con người là gì mà không thêm yếu tố này là Thiên Chúa cũng đã là một thành phần trong sự hiện hữu của con người. Thiên Chúa đã trở thành Thiên Chúa của chúng ta. Đó là tất cả sứ điệp của lễ Thánh Thần hiện xuống.
104. Chúa Kitô sai phái--William Barclay
Có lẽ các môn đệ vẫn tiếp tục họp tại phòng cao, nơi đã tổ chức Bữa Tiệc Ly. Nhưng họ đã họp mặt trong bầu khí đầy sợ hãi. Họ kinh hoàng vì đã biết sự cay cú độc ác của dân Do Thái vừa giết Chúa, và các môn đệ sợ rằng tiếp theo sẽ tới phiên họ. Họ đã họp lại trong sợ hãi, sợ từng tiếng chân đi ngoài hành lang, từng tiếng gõ cửa, e có tay sai của Tòa Công Luận đến bắt họ. Đang lúc đó, thình lình Chúa Giêsu hiện ra giữa họ, Ngài chào họ bằng lời chào thông thường của người Phương Đông: “Chúc anh em được bình an”. Câu ấy mang ý nghĩa nhiều hơn là: “Cầu mong cho anh em khỏi lo lắng bối rối”. Nó có nghĩa: “Nguyện Thiên Chúa ban cho anh em mọi điều tốt lành”. Sau đó Chúa Giêsu ban cho môn đệ một mệnh lệnh, sự sai phái mà Hội Thánh chẳng bao giờ được quên.
1. Ngài phán rằng Chúa Cha đã sai Ngài thế nào, Ngài cũng sai phái họ y như vậy. Đây là điều mà Westcott đã gọi: “hiến chương của Hội Thánh”. Nó có ba nghĩa.
a. Chúa Giêsu cần Hội Thánh. Đúng như thánh Phaolô muốn nói khi ông gọi Hội Thánh là “thân thể của Chúa Kitô” (Ep 1,23; 1Cr 12,12). Chúa Giêsu đã đến với một sứ điệp cho mọi người, bây giờ Ngài trở về cùng Chúa Cha. Sứ điệp ấy sẽ chẳng bao giờ đến được với mọi người nếu Hội Thánh không loan truyền. Hội Thánh phải là cái miệng nói thay cho Chúa, là đôi chân đi những nơi Ngài cần đến, là đôi tay để làm công việc của Ngài. Sứ điệp của Chúa Kitô được đặt vào tay Hội Thánh. Vậy ý nghĩa nhất trong câu chuyện này là Chúa Giêsu tùy thuộc vào Hội Thánh.
b. Hội Thánh cần Chúa Giêsu. Một sứ giả cần có người phái mình đi, cần có sứ điệp để mang đi, cần một thế lực, một thẩm quyền để hậu thuẫn cho sứ điệp mình mang đi, người ấy cần có người để nhờ cậy khi nghi ngờ và gặp khó khăn. Vì thế, Hội Thánh cần Chúa Giêsu. Nếu không có Ngài, Hội Thánh sẽ không có sứ điệp, không có năng lực, không có ai để nương cậy khi bị chống đối, không có gì để soi sáng cho tâm trí, thêm sức cho đôi tay, khích lệ cho tâm hồn. Vậy, câu này có nghĩa là Hội Thánh lệ thuộc vào Chúa Giêsu.
c. Nhưng ở đây vẫn còn một điểm khác nữa. Việc Hội Thánh được Chúa Giêsu sai phái song song với việc Ngài được Chúa Cha sai phái. Không ai đọc tường thuật của sách Gioan mà không thấy tương quan giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha luôn luôn dựa trên sự vâng phục trọn vẹn và tình yêu trọn vẹn của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu làm sứ giả của Chúa Cha, chỉ vì Ngài vâng phục và yêu mến Chúa Cha cách trọn vẹn. Do đó Hội Thánh cũng chỉ làm sứ giả, công cụ cho Chúa Giêsu khi Hội Thánh yêu mến và vâng phục lời Ngài thật sự trọn vẹn. Hội Thánh không thể ra đi với các chính sách nhân tạo của mình mà phải theo ý của Chúa Giêsu. Bất cứ lúc nào cố ý dựa vào sự khôn ngoan và năng lực riêng để giải quyết vấn đề mà không tìm ý muốn và hướng dẫn từ nơi Chúa Giêsu, Hội Thánh sẽ thất bại.
2. Chúa Giêsu hà hơi trên các môn đệ để ban Thánh Thần. Khi nói như vậy chắc chắn Gioan đang nhớ lại câu chuyện sáng tạo con người. Tác giả xưa đã viết: “Thiên Chúa bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sinh khí vào lỗ mũi, thì con người trở nên một loài sinh linh” (St 2,7). Đó cũng chính là bức tranh mà Êdêkiên đã thấy trong thung lũng đầy hài cốt khô, ông nghe Chúa phán với gió: “Hỡi hơi thở, hãy đến từ gió bốn phương, thở trên những người bị giết, để cho chúng được sống” (37,9). Khi Thánh Thần đến, có sáng tạo mới, như đánh thức sự sống từ trong cái chết. Khi Thánh Thần xuống trên Hội Thánh, Hội Thánh được đánh thức và tái tạo để thi hành nhiệm vụ của mình.
105. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống--Lm Augustine, SJ
Một thiếu nữ mới từ thành phố Paris của nước Pháp trở về. Cả thân xác và tinh thần của Ma-đa-len đã bị hao mòn tột độ. Cha mẹ cô lấy làm ghê sợ trước những lời nói phạm thượng và thô tục thường xuyên phát ra từ miệng lưỡi của đứa con hư hỏng.
Một người thuộc làng bên cạnh chỉ quen biết với gia đình Ma-đa-len sơ qua mà thôi, đó là chị Mônica. Mônica cảm thấy không thể dửng dưng trước hiện tượng nói trên. Một hôm, Mônica đến gần căn nhà bi thảm ấy, thì nghe thấy Mađalen đang gào théo một bản nhạc thô tục và chán đời với những điệp khúc gợi cảm nhớp nhúa và khiêu khích. Chị Mônica tự nhiên muốn rút lui nhưng bất ngờ nghe thấy chính tiếng của người mẹ của Mađalen gào thét:
Mày là đồ gái điếm trơ trẽn
- Mày là đồ gái điếm trơ trẽn... có im cái mồm mày đi không?
Mađalen càng giận dữ hét lên:
Bà đừng la lối làm chi mất công! Tôi sẽ tự tử ngay bây giờ đây. Như thế cho tiện. Chẳng phiền hà gì đến ai, cả bà lẫn tôi.
Chị Mônica đứng sững sờ. Nghe những tiếng la hét loại đó, chị không thể không rợn tóc gáy. Chị cảm thấy có bổn phận phải can thiệp. Trước khi gõ cửa, chị hắng giọng để báo trước. Rồi chị bước qua cánh cửa đã bị mọt ăn một cách thê thảm.
Khi ấy Mađalen đang ngồi gần lò sưởi với vẻ giận dữ ghê gớm. Cô đang lồng lộn sẵn sàng tuôn ra những lời thô tục. Nhưng ánh sáng từ cặp mắt của người mới bước vào bao trùm và ngăn cản Mađalen. Mônica tiến lại bên Mađalen với tất cả sự trìu mến như chưa bao giờ người thiếu nữ này đã nhận được từ nơi gia đình mình. Mônica nhẹ nhàng lên tiếng:
- Chị đi ngang qua đây... Em có thể cho chị xin một ly nước được không?
Mađalen đứng dậy lấy nước cho khách. Khách lặng lẽ uống thứ nước táo rữa ấy rồi nói:
- Em vui lòng đan cho chị mấy búp len này. Việc này, bình thường chắc chẳng thích thú gì đối với em. Nhưng chị rất lấy làm quí được có tương quan với em.
Chị Mônica vừa nói vừa tiến lại ngồi trên chiếc ghế thấp bên cạnh Mađalen. Đột nhiên chị ấp ủ đôi bàn tay của Mađalen trong bàn tay của chị và nói:
- Mađalen ơi, em đã đau khổ quá nhiều. Nếu em muốn, em có thể coi chị như một người bạn.
Một sức mạnh tinh thần tỏa ra từ Mônica. Mađalen nghiệm thấy sức mạnh đó nên chấp nhận để yên đôi bàn tay đã trở nên ngoan ngoãn của cô trong bàn tay chị Mônica. Mađalen muốn trả lời nhưng cô nghẹn ngào chỉ còn biết khóc. Những giọt nước mắt lặng lẽ nhỏ dài trên đôi má cằn cỗi của cô. Cô bắt đầu thổn thức:
- Đã ba năm nay, em không thể khóc được!
Đứa con bà giờ đây có thể được cứu
Bà mẹ của Mađalen cũng nức nở. Bà biết rằng đứa con của bà giờ đây có thể được cứu thoát.
Nhân vật Mônica trong câu chuyện nói trên thực tỏ ra là một con người có sức thu hút phi thường. Chỉ xuất hiện trong chốc lát, con người ấy đã hoàn toàn làm chủ được tình hình.
Từ đâu phát sinh ra một ơn biến đổi lạ lùng đến như vậy, cả nơi người con, lẫn người mẹ? Phải chăng đó chính là biến cố của Chúa Thánh Thần Hiện Xuống vẫn còn nối dài trong lịch sử? Chính lúc tội giết chết là lúc Thiên Chúa biểu dương quyền lực để mang lại sự sống cho kẻ tuyệt vọng.
Họ đau đớn hỏi: Chúng tôi phải làm gì?
Xưa tông đồ Phêrô đã đặt người Do Thái vào đúng bối cảnh của tội ác là họ đã giết chết Đấng Kitô của Thiên Chúa nên họ đã đau đớn trong lòng và hỏi ông Phêrô và các tông đồ rằng: "Thưa các anh, vậy chúng tôi phải làm gì?" Rồi Phêrô đã cho họ biết rằng họ phải sám hối và mỗi người phải chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô để được ơn tha tội. Và hôm đó đã có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo (Cv 2,36-41). Nay trong giây phút cực kỳ giận dữ với người mẹ, Mađalen chỉ còn thấy tự sát là con đường duy nhất ở trước mặt. Đó là lúc chị Mônica cảm thấy có sức mạnh nội tâm đòi chị phải can thiệp để cứu sống một linh hồn. Chị là hiện thân của tình yêu và lòng quí chuộng đối với những giá trị cao quí nhất còn thức tỉnh nơi cõi lòng Mađalen. Cuối cùng Mađalen đã chọn tình yêu và sự sống thay vì chọn hận thù và sự chết. Mađalen đã ngoan ngoãn để bàn tay mình ở yên trong lòng bàn tay chị Mônica. Và Mađalen đã khóc trong khi mẹ cô cũng nức nở với hai hàng lệ sám hối. Quả thật, đúng như lời thánh tông đồ Phaolô nói là: "Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội" (Rom 5,20). Tất cả biến cố Chúa Thánh Thần Hiện Xuống đều được tóm gọn trong câu nói đó.
Riêng bài Tin Mừng hôm nay về Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ gồm hai phần. Trước hết Đức Giêsu cho các môn đệ thấy tay và cạnh sườn Người để các ông thâm tín rằng đó là chính Thầy các ông: Đấng đã chịu khổ hình thập giá nhưng nay đã sống lại (cc.19-20). Kế đến Đức Giêsu ban cho các ông Thánh Thần và sai các ông đi với sứ mạng tháo gỡ tội khỏi loài người để họ được tự do (cc.21-23).
Đấng Toàn năng và Toàn mến
cc.19-20 cho thấy một Đức Giêsu không những là Đấng toàn năng mà còn là Đấng toàn mến. Hãy đặt mình vào bối cảnh các môn đệ còn trong tình trạng lo âu sợ hãi. Nguồn gốc của lo âu ấy chính là Thầy các ông: Nếu Thầy các ông mà bị người ta đấu tố, bị lên án và bị giết trên khổ hình thập giá, thì số phận riêng của các ông thật là chao đảo. Nhưng toàn bộ nỗi lo âu sợ hãi đó đã được tháo gỡ nơi Đức Giêsu toàn năng, Đấng đã toàn thắng mọi gian nan thử thách và tử thần! Tùy ở mức độ các môn đệ tin vào quyền năng của Thầy các ông mà các ông được tự do và bình an. Nhưng Thầy các ông nay sống lại còn là Đấng toàn mến. Hãy coi các dấu đinh trên tay, nhất là hãy coi cạnh sườn Thầy bị đâm thâu qua: Tất cả đều cho thấy Thầy các ông là Đấng toàn mến. Không có dấu vết nào nơi hiện hữu của Thầy mà lại không phải là để ban tặng cho các môn đệ: "Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế, bởi phép Đức Chúa Thánh Thần Người đã chịu thai trong lòng Đức Trinh Nữ Maria và đã làm người. Người đã chịu chết thời Phongxiô Philatô..." Đó là lời tuyên tín về Đấng toàn mến như các tông đồ đã để lại.
c. 21 Không chỉ cho các môn đệ thấy Đức Giêsu phục sinh sai phái các ông, mà còn cho thấy việc sai phái đó tiếp nối chính việc Chúa Cha sai phái Chúa Giêsu. Các ông được sai đi để tham dự vào chính công trình cứu nhân độ thế do Chúa phục sinh thực hiện.
Một cuộc tạo dựng mới
c. 22 Chúa Giêsu phục sinh "thổi hơi vào các môn đệ." Ở đây điều được hiểu về một cuộc tạo dựng mới vượt trên cuộc tạo dưng về sự sống tự nhiên (St 2,7; Kn 15,11). Chúa Giêsu ban cho các môn đệ Thánh Thần là nguyên ủy của sự sống mới. Hồng ân Thánh Linh gắn liền với việc các ông được sai phái. Vì lời Đức Giêsu nói là thần khí và là sự sống mới (Ga 3,34; 6,63).
Các môn đệ được sai đi là để rao giảng Lời Đức Giêsu hầu làm cho người nghe trở nên Con Thiên Chúa (x. Ga 13,20).
c. 23 Đức Giêsu đã được ông Gioan Tẩy Giả giới thiệu là Chiên Thiên Chúa Đấng xoá tội trần gian (Ga 1,29). Các môn đệ của Đức Giêsu sẽ tiếp tục sứ mạng của Đức Giêsu là ban ơn tha tội. Quyền năng được ban cho các ông để tha tội gắn liền với Chúa Thánh Linh là Đấng thanh luyện và ban sự sống cho loài người (Ed 36, 25-27; 37, 3-6).
Như vậy việc cô Mađalen ra mềm lòng đã là một ơn lạ lùng. Nhưng ơn đó cần được tiếp nối bằng quá trình gặp gỡ Chúa Giêsu là Đấng toàn năng và toàn mến. Người mới có những lời mang lại sự sống đời đời (Ga 6,68). Chính do Người mà ơn tha tội được ban ngang qua những thừa tác viên được Người sai phái.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Điều gì nơi cách hành xử của chị Mônica đã khiến cô Mađalen ra mềm lòng: Cái nhìn trìu mến đầu tiên? Một số hành vi nhờ cậy trong tầm tay của Mađalen như xin một ly nước, yêu cầu đan mấy búp len? Lời đề nghị đáp ứng đúng nhu cầu nơi Mađalen là "Em đã đau khổ quá nhiều. Nếu em muốn, em có thể coi chị như một người bạn"? Hay bạn nghĩ tới những điều khác?
2. Theo tinh thần của bài Tin Mừng hôm nay điều gì cần được tiếp nối cuộc biến đổi đầu tiên nơi Mađalen? Gặp gỡ Đức Kitô trong cầu nguyện hàng ngày? Trở nên người môn đệ của Chúa Giêsu qua việc hấp thụ lời Người giảng dạy? Chịu phép rửa tội? Lãnh nhận bí tích hoà giải? v.v...
106. Chúa Thánh Thần tuôn tràn trên mọi người--Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Khi mừng lễ Ngũ Tuần, chắc chắn mỗi Kitô hữu đều có những cảm nghiệm khác nhau về Chúa Thánh Thần.Thực tế, Chúa Thánh Thần là Ngôi Ba Thiên Chúa, nhưng nhiều khi Ngài bị lãng quên.Dù rằng, chính Ngài đã được Thiên Chúa Cha sai đến trần gian sau khi Chúa phục sinh về Trời. Bởi vì theo Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “ Mùa Phục Sinh mà chúng ta đang sống với niềm vui, được hướng dẫn bởi phụng vụ của Hội Thánh, là thời gian tuyệt vời của Chúa Thánh Thần mà Chúa Giêsu, chịu đóng đinh và phục sinh, ban cho chúng ta" một cách vô hạn " (Ga 3, 34).Thời gian ân sủng này được kết thúc bằng lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, khi Hội Thánh sống lại sự tuôn đổ Thánh Thần trên Đức Mẹ Maria và các Tông Đồ đang tụ họp trong cầu nguyện nơi nhà Tiệc Ly.
Chúa Phục Sinh đã ở với các Tông Đồ bốn mươi ngày, bốn mươi đêm để củng có niềm tin cho các Ngài. Chúa sống lại đã dặn dò, nhắn nhủ, động viên, khích lệ các Tông Đồ. Tuy nhiên, các Ngài vẫn không hiểu gì về lời của Thầy mình. Nói một cách khác, các Tông Đồ chưa được ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần. Do đó, các Ngài còn u tối chưa nhận ra những điều Chúa Giêsu đã nói và những việc sắp xẩy ra.Tuy nhiên, chỉ sau đó mười ngày khi Chúa về Trời, Chúa Thánh Thần đã đến khi Mẹ Maria và các Tông Đồ đang cầu nguyện trong nhà Tiệc Ly để đón chờ Chúa Thánh Thần như lời Chúa Phục Sinh đã hứa. Chúa Thánh Thần đã xuống. Và lời Chúa Phục Sinh đã thành hiện thực. "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em". Chúa sống lại đã thổi hơi vào các Tông Đồ và nói: “ Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần" (Ga 20, 21-22). Các Tông Đồ đã nhận lấy Chúa Thánh Thần. Các Ngài đã hoàn toàn được thay đổi. Đây là cuộc đổi đời hoàn toàn.Các Ngài đang là những con người nhát đảm, ham sống, sợ chết thì hôm nay các Ngài đã trở thành những người hiên ngang. Trước kia, các Ngài ở trong phòng đóng kín cửa vì sợ người Do Thái, nay các Ngài mở toang cửa không sợ sệt bất cứ ai. Xưa kia, các Ngài chỉ biết nói tiếng mẹ đẻ, nay các Ngài biết nói rất nhiều thứ tiếng, ai nghe các Ngài nói cũng hiểu được ngôn ngữ của mình.Thánh Phêrô trước đây, sợ đến nỗi chối Thầy khi đứa tớ gái nhận ra Ngài, nay Phêrô đã can đảm đứng giảng trước mặt những người đã giết Thầy mình và đã thu hút hơn 3.000 người trở lại theo Chúa, lãnh nhận phép rửa.
Tất cả các Tông Đồ đều hiên ngang, không sợ bất cứ thế lực nào, các Ngài đã dám hy sinh cả mạng sống để làm chứng cho Chúa Phục Sinh. Chúa Thánh Thần xuống đã hoàn toàn đổi mới các Tông Đồ. Người ta tưởng các Ngài say rượu, thực tế các Ngài đang say Chúa. Người ta tưởng các Ngài điên rồ, lãng trí, thực ra các Ngài đang đầy tràn Chúa Thánh Thần. Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “ Chúa Giêsu đã hứa với người phụ nữ Samaria rằng Người sẽ luôn luôn ban một " nước hằng sống" cách dồi dào cho tất cả những ai nhìn nhận Người là Chúa Con được Chúa Cha sai đến để cứu chúng ta (Ga 4, 5-26; 3, 17).Chúa Giêsu đến để ban cho chúng ta " nước hằng sống" này là Chúa Thánh Thần, để cuộc sống của chúng ta được hướng dẫn bởi Thiên Chúa, được sinh động hóa bởi Thiên Chúa và được nuôi dưỡng bởi Thiên Chúa.Đó là điều chúng ta muốn nói khi nói rằng một Kitô hữu là một con người tinh thần: một Kitô hữu là một người suy nghĩ và hành động theo Thiên Chúa, trong Chúa Thánh Thần. Nhưng tôi xin đưa ra một câu hỏi: còn chúng ta, chúng ta có nghĩ theo Thiên Chúa không? Chúng ta hành động theo Thiên Chúa không? Hoặc chúng ta để cho mình bị hướng dẫn bởi rất nhiều những điều khác mà không thực sự là Thiên Chúa? Mỗi người chúng ta phải trả lời câu hỏi này trong tận đáy lòng mình".
Vâng, Chúa Thánh Thần đến không chỉ là ngày khai sinh Giáo Hội, nhưng lễ Hiện Xuống vẫn còn tiếp diễn, nghĩa là Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động trong Giáo Hội. Chẳng hạn, Công Đồng Vaticanô II do Chân Phước Gioan XXIII triệu tập là ngày lễ Ngũ Tuần mới. Công Đồng Vaticanô II vẫn đang tiếp tục thổi một luồng gió mới trong Giáo Hội. Và thực tế, Giáo Hội đang tiếp tục sứ mạng truyền giáo của Đức Giêsu Kitô Phục Sinh.Chúa Thánh Thần luôn là tác nhân chính yếu trong công cuộc truyền giáo. Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “ Chúa Thánh Thần dạy chúng ta nhìn bằng đôi mắt của Đức Kitô, sống cuộc sống của mình như Đức Kitô đã sống cuộc sống của Người, hiểu cuộc đời như Đức Kitô đã hiểu ".
Cách đây 2013 năm, Thánh Thần của Chúa Phục Sinh đã ngự vào tâm hồn các Tông Đồ một cách đầy quyền năng. Ngày nay, chúng ta đang mừng lễ Hiện Xuống như thời các Tông Đồ. Xin được mượn lời của Đức Giáo Hoàng Phanxicô để kết luận bài chia sẻ này: "...Hãy để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta, hãy để cho Ngài nói với tâm hồn chúng ta và cho chúng ta biết điều này: Thiên Chúa là tình yêu, Thiên Chúa đang chờ đợi chúng ta, Thiên Chúa là Cha. Ngài yêu thương chúng ta như một người Cha thật, Ngài thật sự yêu thương chúng ta và chỉ một mình Chúa Thánh Thần nói điều này với tâm hồn chúng ta. Chúng ta hãy nghe Chúa Thánh Thần, chúng ta hãy lắng nghe Chúa Thánh Thần, và chúng ta tiến bước trên con đường này của tình yêu, lòng thương xót và tha thứ ".
107. Thánh Thần đổi mới lòng ta--Huệ Minh
Cao điểm kết thúc cho mùa mừng lễ Vượt Qua là ngày lễ tạ ơn vì Thiên Chúa đã cho mùa màng tốt tươi. Mừng ngày này cũng để kỷ hiệm ngày Chúa công bố lề luật qua Môsê trên đỉnh núi Sinai. Trở về với Cựu Ước, ta thấy Lễ hiện xuống chính là ngày lễ 50 của Cựu Ước.
Hôm nay, cử hành Lễ Hiện Xuống là ta cũng cử hành cao điểm kết thúc cho mầu nhiệm Phục sinh. Hẳn ta còn nhớ ngày Lễ Hiển Linh đối với ngày Giáng Sinh thế nào thì ngày lễ Hiện Xuống cũng vậy đối với lễ Phục Sinh như vậy.
Trở về với Cựu Ước, ta thấy vài hình ảnh thật mù mờ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Khi Đức Kitô, người Con duy nhất của Thiên Chúa đến và mạc khải, chúng ta mới thấy được cái đặc tính cốt yếu của Thiên Chúa đó là một Thiên Chúa của tình yêu.
Chúa Thánh Thần mà ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính là Ngôi Ba Thiên Chúa cũng là Đấng ban sự sống. Chúa Thánh Thần là kết quả của tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con. Ngài cũng được phụng thờ và tôn vinh với Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con, Ngài đã dùng các tiên tri mà phán dạy.
Thiên Chúa Cha đã tỏ lộ tình yêu của Ngài cho chúng qua chính người con duy nhất của Ngài là Chúa Con. Thánh Gioan đã xác quyết: Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để những ai tin nơi Con Một Ngài thì sẽ có sự sống vĩnh cửu. Ngay từ thuở đời đời, Chúa Cha đã sinh ra Chúa Con và sợi dây liên kệ thắm thiết và đầy yêu thương ấy chính là Chúa Thánh Thần.
Qua thật, Chúa Thánh Thần chính là sợi dây yêu thương nối kết Chúa Cha và Chúa Con, chi phối nhịp điệu của đời sống Ba Ngôi Thiên Chúa, cũng như toả lan cho tất cả chúng ta. Như thế, qua Chúa Thánh Thần chúng ta hiểu được bản chất tình yêu của Thiên Chúa. Đồng thời Chúa Thánh Thần cũng đã trực tiếp cộng tác vào công trình cứu độ, một công trình của tình thương yêu mà Thiên Chúa đã ươm mơ từ muôn thuở trước.
Đức Kitô vâng theo thánh ý của Chúa Cha và với sự cộng tác của Chúa Thánh Thần đã chết đi để đem lại sự sống cho trần gian. Kể từ khi được diễm phúc làm con cái Thiên Chúa, chúng ta đã được Ngài yêu thương như lời thánh Phaolô đã xác quyết: Nhờ Chúa Thánh Thần mà tình yêu Thiên Chúa được toả lan trong tâm hồn chúng ta. Chính vì lẽ đó, tất cả những tình yêu trong lành nhất của chúng ta đều là một tia sáng, một phản ánh trung thực cho tình yêu của Thiên Chúa. Bởi vì Thiên Chúa là tình yêu và chúng ta chỉ có thể yêu thương một cách đúng nghĩa khi liên kết với Ngài.
Qua bài trích sách Công Vụ Tông Đồ, ta lại thấy Đức Chúa Thánh Thần là Đấng đổi mới.
Ngài đã đổi mới lòng trí các Tông đồ. Các Tông đồ là những người làm nghề chài lưới, ít học hay còn nữa là quê mùa.
Ròng rã 3 năm dài ở bên cạnh Chúa Giêsu, các ngài đã được Chúa dạy rất nhiều điều nhưng rồi các ngài không hiểu. Thế nhưng, có điều lạ là sau khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, trí hiểu của các ngài như được mở ra. Không những các ngài hiểu biết về Chúa, hiểu biết giáo lý của Chúa, mà còn có thể đi giảng dạy cho người khác nữa. Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Ngài đã biến những con người thất học nên hiểu biết. Ngài đã đổi những tâm trí u mê thành sáng suốt.
Thánh Thần là Đấng tiếp tục công trình của Đức Giêsu trong thế giới và Giáo Hội. Ngài luôn luôn thúc đẩy sự đổi mới trong Giáo Hội, để Giáo Hội ảnh hưởng tốt đến thế giới. Nhưng để được làm điều ấy, Thánh Thần luôn luôn phải hoạt động trong mỗi cá nhân. Cá nhân có thay đổi thì Giáo Hội mới thay đổi, cá nhân có nên thánh thì Giáo Hội mới thánh thiện. Tất cả mọi đều bắt đầu từ những cá nhân, và lan truyền từ cá nhân này sang cá nhân khác.
Kế hoạch của Thiên Chúa để xây dựng Nước Trời là chiến lược “men trong bột” (Mt 13, 33), “muối ướp đời” (Mt 5, 13) hay “đèn sáng cho trần gian” (Mt 5, 14).
Men là một chất có hoạt tính, có khả năng biến đổi chất bột tiếp xúc với mình trở nên giống như mình. Mất hoạt tính này, men không còn là men nữa, nó trở thành một thứ bột vô dụng. Muối hay đèn cũng có hoạt tính tương tự. Một hình ảnh khác là lửa, nhưng lửa có tác dụng lan truyền mạnh mẽ và nhanh chóng. Chính vì thế, Thánh Thần khi hiện xuống trên các tông đồ đã lấy hình lưỡi lửa làm biểu trưng cho mình.
Ngài đã đổi mới tâm trí các Tông đồ. Các Tông đồ sống trong sợ hãi từ khi Chúa Giêsu bị bắt và bị kết án. Các ngài đã trốn chạy và có ngài còn chối Chúa. Các ngài đã ẩn nấp trong nhà đóng kín cửa vì sợ người Do Thái. Thế nhưng từ khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, con người các ngài hoàn toàn thay đổi. Các ngài mở tung cửa ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người.
Dẫu rằng mạng sống bị đe doạ nhưng các ngài vẫn không sợ. Bị đánh đòn, các ngài vẫn kiên cường. Không gì có thể ngăn cản các ngài rao giảng, làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh. Sau cùng tất cả các ngài đã chịu đổ máu, hiến mạng sống mình để làm chứng cho Chúa, ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Ngài đã biến những con người yếu đuối nên vững mạnh. Ngài đã biến những con người nhút nhát nên can đảm.
Chúa Thánh Thần đã đổi mới con tim các Tông đồ. Trước kia các ngài còn mang nặng những ước mơ trần tục. Theo Chúa để mong được chức trọng quyền cao. Mong được ngồi bên tả bên hữu Chúa. Tranh dành nhau chỗ cao chỗ thấp. Có thể nói, trước kia các ngài theo Chúa vì bản thân, vì chính các ngài. Các ngài chưa yêu mến Chúa bằng yêu mến bản thân. Nhưng từ khi được ơn Chúa Thánh Thần, trái tim của các ngài đã hoàn toàn thay đổi. Từ nay các ngài dành trọn trái tim cho Chúa, yêu mến đến sẵn sàng chịu mọi đau khổ, và nhất là sẵn sàng chết vì Chúa. Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Đã biến đổi những trái tim chai đá thành những tái tim bằng thịt. Đã biến đổi những trái tim ích kỷ thành trái tim yêu thương.
Khi nói về Chúa Thánh Thần, ta thường nghĩ đến bảy ơn Người ban qua bí tích Thêm Sức. Ta như người lãnh nhận một cách thụ động. Và những ơn Người ban chẳng ảnh hưởng gì đến đời sống ta. Đó thực là một quan niệm sai lầm tai hại. Thực ra, Đức Chúa Thánh Thần là nguồn sự sống mãnh liệt, là sự trẻ trung của Giáo Hội, là năng lực đổi mới thế giới. Hãy đọc lại bài đọc I, ta sẽ thấy sức mạnh đổi mới của Người mãnh liệt như thế nào. Người như luồng gió cường tráng. Người như ngọn lửa bừng bừng. Luồng gió và ngọn lửa ấy đã khơi dậy nguồn năng lực tiềm ẩn nơi những bác thuyền chài thất học, biến họ thành những con người thay đổi thế giới. Nhận lãnh ơn Đức Chúa Thánh Thần là nhận lãnh sứ mạng hành động.
Trong ngày lễ Hiện Xuống, Giáo Hội mừng kính Chúa Thánh Thần, Giáo Hội mừng kính tình yêu của Thiên Chúa, được tượng trưng qua hình lưỡi lửa trên đầu các tông đồ. Giáo Hội cũng muốn chúng ta thành khẩn kêu xin: Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến, xin hãy ngập tràn tâm hồn các tín hữu Chúa và xin thắp lên trong chúng con ngọn lửa tình yêu Chúa. Ngài không phải là một vị Thiên Chúa vô danh và bị quên lãng. Trái lại Ngài luôn ở giữa chúng ta và hoạt động.
Hàng năm, Giáo Hội cử hành Lễ Hiện xuống không phải là để nhớ một ký ức, nhớ một kỷ niệm trống rỗng nhưng để nhắc nhớ ta rằng đây là một ngày lễ đổi mới chúng ta trong quyền năng và hoạt động của Thánh Thần. Và rồi, lòng ta có mở ra để đón nhận Ngài hay không? Những gì Chúa Thánh Thần đã làm nơi các tông đồ xưa kia, bây giờ Ngài cũng thực hiện nơi chúng ta.
Chúa Thánh Thần đem lại đức tin và tình yêu. Chính đức tin và tình yêu sẽ tạo nên nơi chúng ta một cái nhìn mới.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy cộng tác với Ngài bằng cách thắp lên một ngọn lửa yêu thương, bởi vì chỉ có tình yêu mới có thể làm tiêu tan thù hận, thất vọng và tăm tối.
04/06 Làm chứng cho Chúa
- Viết bởi Ga 21, 20-25
Làm chứng cho Chúa.
Thứ Bảy tuần 7 Phục Sinh.
"Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đã viết ra".
Lời Chúa: Ga 21, 20-25
Khi ấy, Phêrô quay lại, thấy môn đệ Chúa Giêsu yêu mến theo sau, cũng là người nằm sát ngực Chúa trong bữa ăn tối và hỏi "Thưa Thầy, ai là người sẽ nộp Thầy?" Vậy khi thấy môn đệ đó, Phêrô hỏi Chúa Giêsu rằng: "Còn người này thì sao?" Chúa Giêsu đáp: "Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến con? Phần con, cứ theo Thầy". Vì thế, có tiếng đồn trong anh em là môn đệ này sẽ không chết. Nhưng Chúa Giêsu không nói với Phêrô: "Nó sẽ không chết", mà Người chỉ nói: "Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến con".
Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đã viết ra, và chúng tôi biết lời chứng của người ấy xác thật. Còn nhiều việc khác Chúa Giêsu đã làm, nếu chép lại từng việc một thì tôi thiết tưởng cả thế giới cũng không thể chứa hết các sách viết ra.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Lời chứng xác thực
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Trong bài Tin Mừng hôm nay, ngoài Đức Giêsu và Phêrô,
còn có người môn đệ được Đức Giêsu thương mến.
Anh đã có mặt trong bữa Tiệc Ly cùng với Phêrô, đã nằm gần Thầy,
và được Phêrô nhờ hỏi Thầy xem ai là kẻ phản bội (13,23-25).
Anh đã đưa Phêrô vào dinh thượng tế khi Đức Giêsu bị bắt (18,15-16).
Anh đã cùng với Phêrô chạy ra ngôi mộ trống lúc ban mai,
nhưng anh chạy nhanh hơn, và tin trước Phêrô (20,3-10).
Khi Phêrô chối Thầy ba lần và không lộ diện nữa (18,17-18.25-27),
thì anh là môn đệ duy nhất đứng gần thập giá Đức Giêsu,
và được Ngài trao Thân Mẫu của mình để làm Mẹ của anh (19:25-27).
Trong lần Đức Giêsu tỏ mình bên bờ hồ Galilê, sau mẻ cá lạ (21,4-7),
anh là người đầu tiên nhận ra Thầy, và nói với Phêrô: “Chúa đó!”
Có vẻ hình ảnh người môn đệ được Chúa thương nổi trội hơn Phêrô.
Dù sao Simon Phêrô đã ba lần tuyên xưng tình yêu trước Thầy,
và ba lần Thầy giao cho anh chăm sóc đoàn chiên như người mục tử.
Thầy còn tiên báo cái chết tử đạo của anh,
và mời anh một lần nữa: “Hãy theo Thầy” (21,19; x. 13,36-37).
Đó là đường đời của Phêrô, một môn đệ và một mục tử.
Nhưng đâu là con đường tương lai của người môn đệ kia?
Phêrô đi theo Đức Giêsu, quay lại, thấy anh này cũng đang đi theo.
“Thưa Thầy, còn anh này thì sao?” (c. 21).
Đức Giêsu đã không bảo là anh này sẽ không chết,
hay anh còn sống mãi cho đến ngày Ngài quang lâm (c. 23).
Khi cuốn Tin Mừng Thứ Tư được viết xong vào cuối thế kỷ thứ nhất,
thì người môn đệ kia đã qua đời, nhưng không được phúc tử đạo.
Như thế tiếng đồn về câu nói của Đức Giêsu là sai sự thật (c. 22).
Những gì anh để lại cho thế giới là cuốn Tin Mừng Thứ Tư.
“Chính môn đệ này làm chứng về những điều đó và đã viết ra.
Chúng tôi biết rằng lời chứng của người ấy là xác thực” (c. 24).
Người môn đệ này cho chúng ta một lời chứng đáng tin,
vì anh là người đã sống bên Thầy Giêsu, thật gần gũi.
Anh đã mắt thấy tai nghe, và có kinh nghiệm thân thiết với Thầy.
Không hẳn anh đích thân cầm bút viết cuốn Tin Mừng này,
nhưng anh lại chính là tác giả của mọi điều được viết trong đó.
Tất cả là kinh nghiệm riêng tư anh đã trải qua với Thầy Giêsu,
và những Suy niệm lâu dài dưới ánh sáng Phục sinh và Thánh Thần.
Người môn đệ này còn là người sáng lập một cộng đoàn tín hữu.
Cộng đoàn ấy được ám chỉ qua đại từ “chúng tôi” (c. 24; x. 1,14.16).
Một người trong cộng đoàn đã viết chương cuối này (c. 25: “tôi”).
Ai là người môn đệ được Đức Giêsu thương mến?
Nhiều người nghĩ anh là Gioan, nhiều người lại nghĩ khác.
Dù sao anh thật là một môn đệ lý tưởng cho chúng ta.
Điều anh để lại cho đời trong cuốn Tin Mừng là điều anh xác tín.
Anh là nhân chứng đáng tin cậy của Đức Kitô, Con Thiên Chúa.
Đúng anh là người được Thầy yêu và là người đã hết lòng yêu Thầy.
Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa của đời con,
chỉ trong tình yêu con mới tìm thấy Chúa.
Trong tình yêu, các cánh cửa hồn con mở tung,
để con được thở không khí tự do tươi mới
và quên đi cái tôi nhỏ mọn của mình.
Trong tình yêu, toàn bộ con người con vươn ra khỏi
những ranh giới cứng nhắc của óc hẹp hòi
và của thái độ tự khẳng định đầy bất an
khiến con bị giam mình trong sự nghèo nàn và trống rỗng.
Trong tình yêu, mọi sức mạnh của hồn con tuôn chảy về Chúa,
chẳng bao giờ còn muốn quay trở lại,
nhưng chỉ muốn mất mình trọn vẹn trong Chúa,
vì qua tình yêu, Chúa là trung tâm sâu nhất của lòng con,
Chúa gần con hơn cả chính con gần con.
Nhưng khi con yêu Chúa,
khi con tìm cách phá vỡ vòng vây chật hẹp của cái tôi, và vứt bỏ sau lưng
nỗi khắc khoải không nguôi về những câu hỏi còn bỏ ngỏ,
khi đôi mắt mù lòa của con không còn chỉ nhìn từ xa và từ bên ngoài
ánh rạng ngời không thể lại gần được của Chúa,
và hơn nữa, lạy Chúa là Đấng vô phương thấu hiểu,
khi qua tình yêu, Chúa trở nên trung tâm sâu nhất của đời con,
khi ấy con mới có thể chôn mình hoàn toàn trong Chúa,
lạy Thiên Chúa nhiệm màu,
và chôn mọi câu hỏi của con cùng với con. Amen. (Karl Rahner, S.J.)
Suy niệm 2: Lời ban sự sống
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Câu kết thúc Phúc Âm thánh Gio-an khiến ta ngạc nhiên: “Còn có nhiều điều khác Chúa Giê-su đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra”.
Chúa Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa. Ngôi Lời Thiên Chúa vốn toàn năng toàn tri toàn thiện và phổ quát. Nhưng Ngôi Lời Nhập Thể tự nhận những giới hạn của con người. Lời Thiên Chúa thì vô hạn. Ngôn ngữ con người thì hữu hạn. Lời hữu thanh chẳng diễn tả hết ý vô thanh. Thánh Gioan đã tựa đầu vào ngực Chúa. Đã nghe được nhịp đập của trái tim Chúa. Đã nghe được lời vô thanh của Thiên Chúa. Đã hiểu được lời vô hạn của Thiên Chúa. Đã ôm ấp Lời Thiên Chúa cao sâu muôn trùng, mênh mông vô biên, trời đất chứa chẳng nổi.
Thánh Phao-lô cũng là người nghe được lời vô hạn, vô thanh, vô ngôn của Thiên Chúa. Ngài đã được đưa lên tầng trời thứ ba. Đã được Thiên Chúa trực tiếp dậy dỗ. Và đã hình thành một Tin Mừng riêng biệt của mình. Tin Mừng đầy ắp trong tâm hồn khiến ngài bị thúc bách nói ra: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”(1Cr 9,16). Vì thế ngài rao giảng không ngừng. Chờ thụ án tử hình vẫn rao giảng. Rao giảng cho đến hơi thở cuối cùng.
Như thế Phúc Âm không phải là một quyển sách nhưng là một cuộc gặp gỡ. Có bao nhiêu cuộc gặp gỡ với Chúa Giê-su là có bấy nhiêu Phúc Âm.
Theo lời truyền khi thánh Gioan về già, không thể nói nhiều. Mỗi lần tín hữu tụ tập lại, người ta khiêng ngài ra. Ngài chỉ giảng một câu: “Anh em hãy yêu thương nhau”. Ngài giảng mãi câu ấy không biết chán. Giáo dân nghe câu ấy suốt đời không biết mệt. Vì lời hữu hạn của con người đã gặp Chúa, có sức chuyên chở nội dung sức sống vô biên của Lời Thiên Chúa.
Ở đây nữa ta thấy sự sâu xa của Lời Thiên Chúa vô hạn đối nghịch với lời hữu hạn của con người. Chỉ một Lời Thiên Chúa ngắn ngủi lại tràn đầy sức sống, tràn đầy ý nghĩa và làm say đắm lòng người hơn nhiều bài giảng dài dòng, huyên thiên, vô nghĩa trong lời hữu hạn của con người.
Suy niệm 3: Làm chứng cho Chúa.
Trong kỳ nội chiến, Tổng thống Hoa kỳ là Abraham Lincoln có một sĩ quan trẻ làm thư ký. Viên sĩ quan này nổi tiếng là gan dạ, do đó công việc bàn giấy xem ra không thích hợp với anh. Anh chỉ mơ ước trở lại mặt trận và nếu cần sẵn sàng chết cho tổ quốc hơn là làm công việc đơn điệu nhàm chán trên bàn giấy. Một ngày nọ, sau khi nghe anh than phiền, Tổng thống Lincoln nhìn thẳng mắt anh và nói: “Hỡi anh bạn trẻ, như tôi nhận thấy thì quả thực anh luôn muốn xả thân chết cho tổ quốc, nhưng có lẽ anh không muốn sống cho tổ quốc”.
Tử đạo theo nguyên ngữ là “làm chứng cho đức tin”. Có người dùng cái chết để làm chứng, có người dùng cả cuộc sống. Tuy nhiên, chết đau thương nhục nhã hoặc chết âm thầm từng ngày, cả hai đều có giá trị như nhau. Phêrô, vị Giáo hoàng tiên khởi được mời gọi bước theo Chúa Giêsu, nghĩa là chấp nhận những thử thách bách hại và cái chết trên thập giá để làm chứng cho Chúa. Còn Gioan, vị tông đồ được Chúa Giêsu yêu mến lại làm chứng cho Chúa bằng chính cuộc sống của mình. Gioan tuy không được phúc tử đạo như các Tông đồ khác, nhưng đã sống một thời gian rất dài, để củng cố niềm tin của các tín hữu tiên khởi nhất là để Suy niệm và viết cuốn Tin mừng thứ tư và ba lá thư. Tất cả đều là những cách thức làm chứng cho Đấng đã chết và sống lại là Chúa Giêsu Kitô.
Lịch sử Giáo Hội từ đầu cho đến nay là cả một cuốn sách về những chứng từ khác nhau: bằng lời nói, bằng đau khổ, bằng hy sinh, bằng công việc từ thiện… mỗi người một cách, mỗi thời đại một cách tuỳ ở Chúa Thánh Thần soi sáng, nhưng tất cả là để giới thiệu tình yêu Chúa cho mọi người để mọi người hưởng nhờ ơn cứu độ.
Chắc chắn, không phải tất cả chúng ta có thể làm chứng cho Chúa bằng cái chết vì đạo, nhưng chúng ta có thể làm chứng bằng chính cuộc sống của chúng ta. Ước gì chúng ta luôn ý thức phần đóng góp của chúng ta cho kho tàng phong phú của Giáo Hội qua những hy sinh âm thầm từng ngày, để làm cho mọi người nhận biết tình yêu Chúa và trở về cùng Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Về thánh Gioan
Thánh Gio-an lúc bảy mươi tuổi bắt đầu viết Tin mừng làm chứng về Đức Giêsu. Hôm nay, Ngài ký vào lời chứng này.
Ngôn từ cuốn Tin mừng này đôi khi khó hiểu, bí ẩn, sâu kín, mang lại kinh nghiệm dày dạn sâu lắng của đời sống Kitô giáo, đời sống phục sinh. Ngài truyền lại cho chúng ta kiến thức về Đức Kitô sau khi đã cầu nguyện, Suy niệm lâu dài mãi tới già.
Mấy tuần mùa phục sinh Ngài loan báo cho chúng ta Tin mừng về: sự tái sinh bởi Thánh Thần, chia sẻ bánh hằng sống, niềm hy vọng phục sinh, tiếp nhận mục tử tốt lành, ban Thánh Thần, thánh Gio-an giới thiệu chúng ta vào hiệp thông với Chúa Cha. Hơn nữa, ngài còn xác định về những đòi hỏi phải theo Đức Kitô: Sự cần thiết phải tin, nhận lãnh những dấu chỉ, đức tin vào lời chứng về Đức Kitô, trông cậy vào Đấng Thiên Chúa sai đến.
Đến lượt, chúng ta cần cảm nghiệm sâu sắc về đời sống của Đức Kitô. Nhờ thế, chúng ta là nhân chứng về những sự kiện cao cả của Thiên Chúa trong lịch sử lúc này. Lời chứng của chúng ta rất cần cho thế gian. Mỗi người trong chúng ta, tùy theo cách thức và đặc sủng của mình, phải loan báo Tin mừng đã sống thực trong đáy lòng con tim chúng ta.
Mỗi người chúng ta phải lớn tiếng rao giảng lời chứng của mình về Đức Kitô hàng ngày. Lời rao giảng Tin mừng trong phụng vụ được các tông đồ truyền lại cho chúng ta, giúp chúng ta làm sống lại lời Tin mừng đến tận các bàn giấy, các nhà máy, và các gia đình.
Chúng ta không nên đợi những người khác bắt đầu sống theo Đức Kitô, rồi chúng ta mới bắt đầu thi hành ý Người. Hãy nhờ chính lời của Người nói với Phê-rô: “Dù Thầy muốn cho người ấy cái gì, dù Thầy định cho những người khác thế nào, thì việc gì đến anh? Phần anh, anh hãy theo Tôi”.
CG.
Suy niệm 5: Làm chứng tá cho tình yêu
Hôm nay chúng ta lắng nghe phần đoạn kết trong sách Phúc Âm của thánh Gioan tông đồ, chỉ có ba nhân vật được kể đến trong phần cuối của Phúc Âm này là Chúa Giêsu, Phêrô và Gioan.
Qua những lời đối thoại với Phêrô, Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu rằng Ngài đã chọn mười hai vị tông đồ và trao phó cho mỗi người một sứ mạng khác nhau. Phêrô và Gioan vì thế cũng có sứ mạng khác biệt nhau. Nếu như Phêrô được chọn để chăn dắt đàn chiên của Chúa và trung thành với các sứ vụ bằng cái chết tử đạo, thì vai trò của Gioan là làm chứng tá cho Chúa Giêsu bằng Phúc Âm.
Gioan được ơn sống lâu để chiêm niệm một cách sâu xa hơn về mầu nhiệm nhập thể làm người và phục sinh của Chúa Giêsu, Con Một Thiên Chúa. Vì thế mà Gioan kết thúc Phúc Âm của mình bằng sự xác quyết: "Còn có nhiều điều khác Chúa Giêsu đã làm, nếu viết lại từng điều một thì tôi thiết nghĩ cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra". Qua lời kết thúc này Gioan cho thế gian hiểu rằng quyền năng của Chúa Giêsu không bao giờ cạn, hồng ân của Ngài thì vô cùng, sự khôn ngoan của Ngài thì không ai có thể đối chọi lại được, và tình yêu của Ngài thì vô biên.
Trong lịch sử Giáo Hội suốt hai mươi thế kỷ nay, Thiên Chúa cũng vẫn liên tục kêu gọi nhiều người và ban cho họ những ân sủng đặc biệt để tiếp tục sống mãn đời trên trần thế. Họ là các thánh nam nữ đã được Thiên Chúa lựa chọn và trao cho các sứ mệnh đặc biệt ở những thời kỳ và hoàn cảnh khác biệt nhau. Có vị được gọi để trở thành các giáo phụ và tiến sĩ Hội Thánh. Các ngài dùng ngòi bút và trí thông minh để rao giảng Phúc Âm và đem ánh sáng Lời Chúa đến cho mọi người. Những vị khác thì được ơn gọi sáng lập các dòng tu với tinh thần tông đồ và hoạt động truyền giáo trong nhiều lãnh vực khác biệt nhau. Các sứ vụ tuy có khác biệt nhưng đều mang ý nghĩa và tầm mức quan trọng như nhau. Tất cả đều qui tụ vào cùng một mục đích duy nhất là làm chứng tá cho chân lý và tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con sức mạnh của đức tin và ngọn lửa của tình yêu, để chúng con can đảm và hăng say làm chứng tá cho tình yêu và chân lý của Chúa giữa thế gian. Xin Chúa cũng luôn hiện diện để giúp chúng con trung thành với ơn gọi và sứ mạng do Chúa giao phó, nhất là trong những lúc đứng trước các cơn bão táp của cuộc sống.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 6: Cảm nghiệm và làm chứng
Trên các trang báo điện tử thời gian gần đây đăng tin:
Một nữ tu “cháy hết mình” trên sân khấu The Voice của Ý.
Nữ tu đó chính là Cristina Scuccia, 25 tuổi, thành viên của Dòng các chị em Ursuline Thánh Gia. Chị đã xuất hiện trên sân khấu của chương trình The Voice tại Ý. Khi sơ xuất hiện, các giám khảo và mọi người thật sự ngỡ ngàng khi thấy trang phục của thí sinh đặc biệt này.
Khi các giám khảo quay lại nhìn sơ Cristina, họ đã không tin vào mắt mình khi thấy một nữ tu trẻ đang hát “No One”, bài hát ruột của Alicia Keys.
Sau khi nghe sơ Cristina hát, Carra là một trong 4 vị giám khảo đã hỏi sơ có thật là một nữ tu không và tại sao sơ chọn tham gia cuộc thi này?
“Vâng, tôi đích thực là một nữ tu,” sơ Cristina trả lời.
“Tôi đến đây bởi vì tôi có một món quà và tôi muốn chia sẻ món quà đó. Tôi đến đây để loan báo Tin Mừng”.
Thánh Gioan hôm nay hiện lên trên trang Tin Mừng như một người chứng về tất cả những gì ngài đã viết trong Tin Mừng của mình về Đức Giêsu. Ngài đã trở nên chứng nhân cho tất cả những gì đã viết là bởi vì ngài đã được ở với Đức Giêsu, được nghe lời dạy, và cảm nghiệm được tình yêu đặc biệt mà Thầy đã dành cho mình. Như vậy, muốn hiểu phải yêu, và khi đã yêu thì phải làm chứng và lời chứng của người đó mới thật.
Như vậy, phụng vụ hôm nay muốn mời gọi chúng ta rằng: hãy yêu mến Chúa tha thiết, lắng nghe lời Ngài và hãy trở nên chứng nhân cho Đức Giêsu đến tận cùng trái đất.
Tuy nhiên, không có một mẫu số chung nào cho mọi người, vì thế, mỗi người mỗi cách, miễn sao cho Tin Mừng được loan báo và hợp với tinh thần của Giáo Hội.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết yêu Chúa hết lòng, để từ đó cũng sẵn sàng trở nên những chứng nhân cho Tin Mừng cách sống động trong cuộc sống hiện tại của chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Ơn gọi theo Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Đời mỗi người Kitô hữu là một ơn gọi theo Chúa. Ta hãy đáp lại ơn gọi yêu thương đó tùy theo bậc sống trong hoàn cảnh riêng của mình, với niềm phó thác cậy trông vào Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, tất cả mọi người được kêu gọi để theo Chúa. Có những bậc sống khác nhau. Trong mỗi bậc sống đó lại có từng hoàn cảnh khác nhau. Mỗi người là mỗi phận. Chúa như đang cầm tay từng phận người mà dắt đi theo Chúa. Chúa đang nói với mỗi người chúng con: “Phần con hãy cứ theo Thầy”. Chúa đang dẫn con đi theo Chúa bằng lối đi Chúa dành riêng cho con.
Khi Thánh Phêrô hỏi Chúa về số phận của Thánh Gioan, Chúa đã nói với Thánh Phêrô: “Việc đó liên quan gì đến con, phần con hãy cứ theo Thầy”. Chúa không bảo con đừng quan tâm đến anh chị em quanh con. Khi thấy anh em cần nâng đỡ đức tin, Chúa muốn con chạy tới đóng vai bàn tay của Chúa để đỡ nâng họ. Con sẽ đỡ nâng bằng gương sáng, bằng một lời động viên, bằng một lời nhắc nhở, và nhất là bằng những lời cầu nguyện. Rồi khi con gặp thử thách, con tin Chúa sẽ lại dùng anh chị em quanh con thay mặt Chúa mà ủi an, động viên con.
Tuy nhiên, Chúa muốn nói với riêng con: “Phần con hãy cứ theo Thầy”. Chúa dạy con đừng phân bì ghen tỵ. Xin Chúa đừng để con so sánh phận mình với phận người mà chùn bước chân theo Chúa. Con biết mỗi đời người là một mầu nhiệm trong tình yêu quan phòng của Chúa. Mỗi đời người là một cuộc tình riêng với Chúa. Mỗi đời người đều có đủ thánh giá để vác theo Chúa. Đồng thời mỗi đời người đều được Chúa ban đủ niềm vui và ân sủng để theo Chúa cho nên: “Ơn Ta đủ cho con”.
Xin cho con vui với phận mình và tin tưởng bước theo Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đã viết ra”.
Suy niệm 8: Được mời gọi trở nên chứng nhân
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Ngày kia, Voltaire nói với một người bạn: “Để lập Kitô giáo, chỉ cần mười hai tên ngư phủ quê mùa, dốt nát. Tôi sẽ cho thế giới thấy rằng chỉ cần một người Pháp cũng đủ tiêu diệt tôn giáo đó”.
Với ý đồ đó, ông phản bác cả Isaac Newton. Newton dựa vào sách Daniel 12,4 và Nahum 2,4 tiên đoán rằng: Một mai, con người có thể di chuyển với tốc độ kỳ diệu là 40 dặm trong một giờ. Voltaire bảo: “Hãy xem Kitô giáo điên rồ đã đầu độc một người thông thái như Newton đến cỡ nào! Ông không biết rằng một người chạy 40 dặm 1 giờ sẽ nghẹt thở, vỡ tim mà chết hay sao?”.
25 năm sau khi Voltaire qua đời, căn nhà của ông được bán cho Hội Thánh Kinh Geneva và trở thành kho lưu trữ Thánh Kinh. Còn chiếc máy in của ông cũng được dùng để in Thánh Kinh!
Suy niệm
Tông đồ Gioan là “môn đệ Chúa Giêsu thương mến” (Ga 13,23; 19,26; 20,2; 21,7), người đã ngả đầu vào ngực Chúa trong bữa Tiệc ly (x. Ga 13,23.25) như là biểu tượng của tình yêu gắn bó với Thầy.
Được gắn bó sâu sắc với Thầy, Gioan có được đức tin mạnh mẽ cho con đường đặc biệt mà Thầy chuẩn bị và muốn ông đi: Không đổ máu làm chứng cho Chúa dù đã kề cận bên cái chết tử đạo: Người bị cầm tù ở Rôma, còn bị ném vào trong một vạc dầu sôi, nhưng Thiên Chúa gìn giữ ông được bình an vô sự. Sau đó, Gioan bị kết án đi làm hầm mỏ tại trại tù ở đảo Patmos. Tại đây, Ngài đã viết cuốn sách Khải huyền chứa đầy những lời tiên tri.
Theo ý muốn của Chúa Giêsu, Gioan đã đi trên con đường khác với các anh em tông đồ: rao giảng Tin Mừng ở các giáo đoàn bên Tiểu Á, tận dụng hết mọi khả năng, mọi điều kiện Chúa cho để đào sâu Lời Chúa. Khi đã 99 tuổi, thánh Gioan mới viết sách Tin Mừng thứ tư với đức tin thật vững chắc được chuẩn bị và nuôi dưỡng bằng tình yêu. Gioan đã loan báo Tin Mừng cả tâm hồn đầy xác tín, như ông đã nói: “Điều chúng tôi đã được tai nghe, điều chúng tôi đã nhìn tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời hằng sống” (1Ga 1,1) như ông đã xác định cuộc đời của mình: “Chính môn đệ này làm chứng về những việc đó và đã viết ra, và chúng tôi biết lời chứng của người ấy xác thật…” (Ga 21,24-25).
Ngoài Tin Mừng thứ tư và sách Khải huyền, Gioan còn là tác giả của ba thư. Tư tưởng của ông trình bày cho chúng ta thấy Thiên Chúa chính là tình yêu và chúng ta chỉ thực sự trở nên Kitô hữu nếu chúng ta biết thương yêu nhau. Tông đồ Gioan đã trao cho nhân loại bài học lớn lao về tình yêu, nhờ đó chúng ta cảm thấy được Chúa Kitô yêu thương “cho đến cùng” (Ga 13,1) và sống cuộc đời vì Người.
Trong mỗi thời đại, ở mỗi xã hội khác nhau luôn cần có những chứng nhân, trách nhiệm khác nhau. Thiên Chúa luôn cần đôi tay, trái tim, khả năng của chúng ta để tiếp tục sự hiện diện và hành động của Ngài. Có người làm chứng bằng máu, có người bằng sự dấn thân đổ mồ hôi, có người chứng nhân bằng nghĩa cử hy sinh phục vụ, có những chứng nhân trong âm thầm cầu nguyện…
Mỗi chúng ta được mời gọi trở nên một trong số chứng nhân đó. Chúa đang cần sự đóng góp của chúng ta.
Ý lực sống:
“Vì vui riêng, Người đã làm tôi bất tận.
Thân này thuyền nhỏ mong manh đã bao lần người tát cạn
rồi lại đổ đầy cuộc sống mát tươi mãi mãi” (Tagore, Lời Dâng #1).
Suy niệm 9: Gioan sẽ là chứng tá trong Hội thánh
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Kết thúc mùa Phục sinh, Phụng vụ cho chúng ta thấy Phêrô đã nhận chức vụ Mục Tử thay thế Chúa Kitô, Gioan là chứng tá thường trực trong Hội thánh.
Bài Tin Mừng hôm nay là bài kết thúc Tin Mừng thánh Gioan, trình bầy về Gioan sẽ là chứng tá thường trực trong Hội thánh Chúa cho đến tận thế qua sách Tin Mừng của ông.
2. “Thưa Thầy, còn anh này thì sao”?
Phải chăng khi Phêrô thắc mắc về Gioan như vậy là ông ngầm nói với Thầy mình rằng anh Gioan cũng mến Thầy và được Thầy yêu cách riêng, thì sao? Nghĩa là Thầy sẽ trao cho anh ta nhiệm vụ gì? Hay tại sao Thầy lại không trao trách nhiệm chăn dắt Hội thánh cho anh ta có phải hơn không? Đó cũng là thắc mắc của nhiều người khi đọc Tin Mừng Gioan, bởi vì xem ra Gioan xứng đáng hơn Phêrô, vì ông đã không chối Chúa.
Chúng ta thấy Chúa Giêsu không trả lời thẳng vào thắc mắc của Phêrô mà lại nói khó hiểu hơn đối với Phêrô cũng như các môn đệ khác: “Giả như Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến thì việc gì đến anh”, rồi Chúa nói ngay: “Phần anh, hãy theo Thầy”.
3. “Nếu Thầy muốn anh ấy còn ở lại cho đến khi Thầy đến...”.
Câu này là câu vừa trả lời vừa là câu hỏi rất khó hiểu. Thực ra, ý Chúa Giêsu không nói là Gioan sẽ sống mãi không chết, nhưng Chúa muốn Gioan “ở lại”. Phải hiểu chữ “ở lại” này theo nghĩa của Tin Mừng thứ tư: ở lại là tồn tại mãi trong tình yêu mến, trong sự thân thiết. Dù sau này Gioan sẽ chết đi nhưng Chúa Giêsu muốn hình mẫu của Gioan như một môn đệ trung thành đi theo Thầy, như một môn đệ thường suy gẫm về Thầy tiếp tục tôn tại mãi trong Giáo hội (Lm Carôlô).
4. “Chính người môn đệ này làm chứng về những điều đó”.
Nghĩa là vì Chúa muốn hình mẫu của Gioan còn tồn tại mãi trong Giáo hội như một cách làm chứng, cho nên Gioan đã làm chứng bằng cách viết lại những cảm nghiệm, những suy gẫm của mình về Chúa Giêsu. Và Gioan còn cho biết: “Tôi thiết nghĩ cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các điều được viết ra”. Có lẽ không phải thế giới không đủ chỗ chứa những sách mà Gioan nếu muốn viết ra. Không đủ chỗ chứa là đối với những cảm nghiệm và những suy gẫm rất sâu sắc của Gioan về mầu nhiệm Chúa Giêsu và về những điều Chúa Giêsu dạy (Carôlô).
5. Trong lịch sử Giáo hội suốt hai mươi thế kỷ nay, Thiên Chúa vẫn tiếp tục kêu gọi nhiều người và ban cho họ những ân sủng đặc biệt để sống mãn đời trên trần thế. Họ là các thánh nam nữ đã được Thiên Chúa lựa chọn và trao cho các sứ mệnh đặc biệt ở những thời kỳ và hoàn cảnh khác biệt nhau. Có vị được gọi để trở thành các giáo phụ và tiến sĩ Hội thánh. Các ngài dùng ngòi bút và trí thông minh để rao giảng Phúc âm và đem ánh sáng lời Chúa đến cho mọi người. Những vị khác thì được ơn gọi sáng lập các dòng tu với tinh thần tông đồ và hoạt động truyền giáo trong nhiều lãnh vực khác biệt nhau. Các sứ vụ tuy có khác biệt nhưng đều mang ý nghĩa và tầm mức quan trọng như nhau. Tất cả đều qui tụ vào cùng một mục đích duy nhất là làm chứng tá cho chân lý và tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại.
6. Như vậy, trong mỗi thời đại, ở mỗi xã hội khác nhau luôn cần có những chứng nhân, trách nhiệm khác nhau. Thiên Chúa luôn cần đôi tay, trái tim, khả năng của chúng ta để tiếp tục sự hiện diện và hành động của Ngài. Có người làm chứng bằng máu, có người bằng sự dấn thân đổ mồ hôi, có người làm chứng bằng nghĩa cử hy sinh phục vụ, có những chứng nhân trong âm thầm cầu nguyện.
Mỗi người chúng ta được mời gọi trở nên một trong số chứng nhân đó. Chúa đang cần sự đóng góp của chúng ta.
7. Truyện: Làm chứng cho Chúa.
Trong kỳ nội chiến, Tổng thống Hoa kỳ là Abraham Lincoln có một sĩ quan trẻ làm thư ký. Viên sĩ quan này nổi tiếng là gan dạ, do đó công việc bàn giấy xem ra không thích hợp với anh. Anh chỉ mơ ước trở lại mặt trận và nếu cần sẵn sàng chết cho tổ quốc hơn là làm công việc đơn điệu nhàm chán trên bàn giấy. Một ngày nọ, sau khi nghe anh than phiền, Tổng thống Lincoln nhìn thẳng mắt anh và nói: “Hỡi anh bạn trẻ, như tôi nhận thấy thì quả thực anh muốn xả thân chết cho tổ quốc, nhưng có lẽ anh không muốn sống cho tổ quốc”.
Tử đạo theo nguyên ngữ là “làm chứng cho đức tin”. Có người dùng cái chết để làm chứng, có người dùng cả cuộc sống. Tuy nhiên, chết đau thương nhục nhã hoặc chết âm thầm từng ngày, cả hai đều có giá trị như nhau. Phêrô, vị Giáo hoàng tiên khởi được mời gọi bước theo Chúa Giêsu, nghĩa là chấp nhận những thử thách bách hại và cái chết trên thập giá để làm chứng cho Chúa. Còn Gioan, vị Tông đồ được Chúa Giêsu yêu mến lại làm chứng cho Chúa bằng chính cuộc sống của mình. Gioan tuy không được phúc tử đạo như các Tông đồ khác, nhưng đã sống một thời gian rất dài, để củng cố niềm tin của các tín hữu tiên khởi, nhất là để Suy niệm và viết cuốn Tin Mừng thứ tư và ba lá thư... Tất cả đều là những cách thức làm chứng cho Đấng đã chết và sống lại là Chúa Giêsu Kitô (Mỗi ngày một tin vui).
Suy niệm 10: Thánh Gioan tông đồ
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Phân tích
Tiếp bài nói chuyện bên bờ hồ về thân phận của Thánh Gioan “Người môn đệ mà Chúa Giêsu yêu mến… cũng là người nằm sát ngực Chúa… Nếu Thầy muốn nó cứ ở lại mãi cho tới khi Thầy đến… chính môn đệ này đã làm chứng…”
B. Suy gẫm
1. Thánh Gioan tông đồ có nhiều nét đáng nêu gương cho chúng ta:
“Khi ấy Phêrô quay lại nhìn thấy người môn đệ mà Chúa Giêsu yếu mến đi theo sau.” Trong ngôn ngữ Tin Mừng “đi theo” có nghĩa là làm môn đệ. Ngay từ đầu Gioan đã đi theo Chúa Giêsu. Gioan còn tiếp tục đi theo Chúa Giêsu trên tất cả mọi nẻo đường Ngài đi, kể cả đường Thập Giá. Rồi khi Chúa Giêsu đã đặt Phêrô thay thế mình. Gioan lại tiếp tục đi theo Phêrô. Thánh Gioan chính là hình mẫu của Môn đệ trung thành.
2. “Ông là người đã nghiêng mình vào ngực Chúa Giêsu trong bữa ăn tối và hỏi.” Gioan chẳng những là người trung thành đi theo, mà còn là người hiểu biết Chúa Giêsu nhiều nhất và sâu nhất, vì Gioan “nghiêng mình vào ngực Chúa,” vì Gioan “hỏi” nghĩa là thường suy gẫm về Chúa.
3. “Nếu Thầy muốn, anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến…” Ý Chúa Giêsu không nói là Gioan sẽ sống mãi không chết, nhưng Chúa muốn nói Gioan “ở lại.” Phải hiểu chữ “ở lại” này theo ý nghĩa của Tin Mừng Thứ Tư: Ở lại là tồn tại mãi trong tình yêu mến, trong sự thân thiết. Dù sau này Gioan sẽ chết đi nhưng Chúa Giêsu muốn hình mẫu của Gioan như một môn đệ trung thành đi theo Thầy, như một môn đệ suy gẫm về Thầy tiếp tục tồn tại mãi trong Giáo Hội.
4. “Chính người môn đệ này làm chứng về những điều đó.” Nghĩa là vì Chúa muốn hình mẫu của Gioan còn tồn tại mãi trong Giáo Hội như một cách làm chứng, cho nên Gioan đã làm chứng bằng cách viết lại những cảm nghiệm, những suy gẫm của mình về Chúa Giêsu. Và Gioan còn cho biết “Tôi thiết nghĩ cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các điều được viết ra.” Có lẽ không phải cả thế giới không đủ chỗ chứa những sách mà Gioan nếu muốn sẽ viết ra. Không đủ chỗ chứa là đối với những cảm nghiệm và những suy gẫm sâu sắc của Gioan về mầu nhiệm Chúa Giêsu và về những điều Chúa Giêsu dạy.
Chúng ta hãy nói gương thánh Gioan trung thành “đi theo” Chúa Giêsu, biết “nghiêng mình vào ngực Chúa Giêsu,” biết “hỏi” Chúa Giêsu, để có như thế chúng ta mới có thể “làm chứng” về Ngài.
Suy niệm 11: Ơn gọi của Gioan
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Tin Mừng hôm nay đề cập đến ơn gọi của Gioan.
1. Khi Chúa nói với Phêrô “Phần ngươi hãy cứ theo ta” (Ga 21,22)… rõ ràng Chúa đã muốn cho Phêrô có một ơn gọi riêng. Ơn gọi của Phêrô không giống những người khác. Mỗi người đều được Chúa dành cho một ơn gọi. Nhìn lại Lịch sử ơn cứu độ, chúng ta thường thấy Chúa làm như vậy. Ơn gọi của các Tổ phụ khác với ơn gọi của các tông đồ.
Với Abraham, Chúa gọi ông vào lúc tuổi đời ông đã già nua. Ông đã từ bỏ quê cha đất tổ, để theo Chúa (St 12,1-4). Abraham đã hoàn thành ơn gọi của mình.
Còn đối với Môisen, Chúa lại có cách hành xử khác. Chúa đã gọi ông từ giữa lòng sông Nil, rồi sau khi đã tôi luyện ông thành gang thép, Chúa đã trao cho ông một trọng trách phải thực hiện và Môisen đã hoàn thành sứ mạng đó.
Bây giờ, đến trường hợp của Phêrô. Phêrô đang sống yên hàn trong nghề chài lưới ở Capharnaum (Ga 1,44). Và Chúa gọi ông. Ông đã từ bỏ tất cả nghề nghiệp, gia đình chỉ vì tiếng gọi: “Hãy theo Ta” (Ga 11,35). Và Phêrô đã hoàn tất sứ mạng đó trên đỉnh đồi Vaticanô bằng một cái chết cũng đau đớn không kém gì Thầy mình. Và chính vì thế mà ông đã trở thành cột trụ của Giáo Hội.
2. Bây giờ đến lượt Gioan. Gioan cũng được gọi nhưng Chúa muốn Gioan sống ơn gọi của mình bằng con đường khác.
Trong nhóm 12, Gioan là một trong những người gần gũi Chúa nhất. Gioan đã đi theo Chúa trên tất cả mọi nẻo đường Ngài đi. Gioan là người đã nghiêng đầu mình vào ngực Chúa trong bữa ăn tối cuối cùng, điều đó chứng tỏ Gioan chẳng những là người trung thành đi theo, mà còn là người hiểu biết Chúa nhiều nhất và sâu xa nhất.
Khi Chúa nói “Nếu Thầy muốn, anh ấy còn ở lại cho tới khi Thầy đến…” (Ga 21,22) thì không có nghĩa Gioan sẽ sống mãi, nhưng Chúa muốn nói về cuộc sống của Gioan sau đó. Chúa muốn giữ Gioan ở lại lâu hơn các tông đồ khác để Gioan làm chứng. Đó là ơn gọi của Gioan. Gioan đã làm chứng không những bằng cuộc sống của mình mà còn bằng cả ngòi bút của mình nữa. Tin Mừng của Gioan đã giúp người ta hiểu về Chúa rõ hơn. Khi Gioan viết “Tôi thiết nghĩ cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các điều được viết ra” (Ga 21,25), điều đó không có nghĩa là cả thế giới không đủ chỗ chứa những sách mà Gioan nếu muốn sẽ viết ra, nhưng là không đủ chỗ cho những cảm nghiệm và những suy gẫm sâu sắc của Gioan về mầu nhiệm Chúa Giêsu và về những điều Chúa Giêsu dạy.
3. Phần chúng ta, chúng ta hãy noi gương Gioan trung thành “đi theo” Chúa, biết “nghiêng mình vào ngực Chúa”, biết “hỏi” Chúa, có thật nhiều cảm nghiệm về Chúa, để rồi có thể “làm chứng” về Chúa như Gioan đã làm thuở xưa.
Trong kỳ nội chiến, Tổng thống Hoa Kỳ Abraham Lincoln có một sĩ quan trẻ làm thư ký. Viên sĩ quan này nổi tiếng là gan dạ, do đó công việc bàn giấy xem ra không thích hợp với anh. Anh chỉ mơ ước được trở ra mặt trận và nếu cần sẵn sàng chết cho tổ quốc hơn là làm công việc đơn điệu, nhàm chán nơi bàn giấy. Một ngày kia, sau khi nghe anh than phiền, tổng thống Lincoln nhìn thẳng mắt anh và nói: “Hỡi anh bạn trẻ, như tôi nhận thấy thì quả thực anh luôn muốn xả thân chết cho tổ quốc, nhưng có lẽ anh không muốn sống cho tổ quốc”.
Tử đạo theo nguyên ngữ là “làm chứng cho đức tin”. Có người dùng cái chết để làm chứng, có người dùng cả cuộc sống. Chết đau thương nhục nhã hay chết âm thầm từng ngày, cả hai đều có giá trị như nhau. Các Tông đồ đều được phúc tử đạo, ngay cả Gioan - vị Tông đồ sống lâu nhất, tuy không trực tiếp chết như vị tử đạo, nhưng cũng đã bị cho vào vạc dầu sôi. Tất cả những cái chết ấy đều là lời chứng hùng hồn cho đức tin.
Lịch sử Giáo Hội sau thời các Tông đồ là những cuốn sách về những chứng từ như thế. Mỗi người một cách, người viết bằng máu, người bằng cuộc sống từ bỏ quên mình, người bằng những nghĩa cử hy sinh phục vụ, người bằng cuộc sống âm thầm trong đau khổ. Nói tóm lại, có hàng trăm nghìn những ngôn ngữ, trăm nghìn những thứ bút mực, đã được dùng để viết nên những chứng từ, nhiều đến nỗi, như lời tiên đoán của Gioan: “Tôi thiết tưởng cả thế giới cũng không thể chứa hết các sách được viết ra” (Ga 21,25).
Còn hôm nay thì sao? Chúa Giêsu cũng vẫn cần những chứng nhân khác. Ngài cần đôi tay, bàn chân, môi miệng, trái tim chúng ta để tiếp tục hiện diện và hành động. Dòng thác Nirgara dù đổ xuống từng khối nếu không được ngăn lại sẽ không bao giờ biến thành nguồn thủy điện. Cả khối dầu hỏa Trung đông cũng không quay nổi một động cơ nếu không được con người khai thác sử dụng. Chúa Giêsu đang cần một chút đóng góp của chúng ta để sức nóng và ánh sáng Ngài được đạt tới mọi người.
03/06 Cơ hội thứ hai
- Viết bởi Ga 21, 15-19
Cơ hội thứ hai.Thứ Sáu tuần 7 Phục Sinh. – Thánh Carôlô Loan-ga và các bạn, tử đạo. Lễ nhớ.
“Con hãy chăn dắt các chiên mẹ và chiên con của Thầy”
* Cùng với hai mươi hai vị tử đạo U-găng-đa này, trang sử về các Chứng Nhân Tử Đạo những thế kỷ đầu lại tái diễn. Rất nhiều vị trong số đó chỉ mới là Kitô hữu được ít lâu. Bốn vị trong số đó được cha Carôlô Loan-ga thanh tẩy ngay trước lúc hành hình. Phần lớn các vị bị thiêu sống ở Nu-mun-gun-gô (1886) thuộc lớp tuổi từ mười sáu đến hai mươi bốn. Vị trẻ nhất tên là Ki-di-tô mới có mười ba tuổi.
Lời Chúa: Ga 21, 15-19
Khi Chúa Giêsu đã tỏ mình ra cho các môn đệ, Người dùng bữa với các ông, và hỏi Simon Phêrô rằng: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?” Ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy”.
Người lại hỏi: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy”.
Người hỏi ông lần thứ ba: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Phêrô buồn phiền, vì thấy Thầy hỏi lần thứ ba “Con có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy” Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên mẹ của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến”. Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa. Phán những lời ấy đoạn, Người bảo ông: “Con hãy theo Thầy”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Hãy theo Thầy
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Câu chuyện của bài Tin Mừng hôm nay diễn ra bên bờ hồ,
một cái hồ mang nhiều tên gọi: hồ Galilê, hồ Ghennêxarét, hồ Tibêriát.
Cái hồ quen thuộc đầy ắp kỷ niệm giữa Thầy và trò.
Nơi đây tiếng gọi đầu tiên của Thầy Giêsu đã vang lên: Hãy theo Thầy.
Tiếng ấy đã khiến họ từ bỏ nghề sông nước
để lên bờ, đi theo ông thợ mộc làng Nazareth.
Bao lần Thầy trò đi qua cái hồ rộng như biển này.
Sóng gió họ cũng đã gặp, vui buồn họ cũng đã từng.
Sáng sớm hôm nay, trên hồ này họ đánh được mẻ cá lớn,
nhờ một người lạ đứng trên bờ mà họ từ từ nhận ra là Thầy của mình.
Bữa ăn sáng do Thầy chuẩn bị thật chu đáo.
Có bánh và cá, có cả đống than hồng hong ấm tình Thầy trò.
Ngọn lửa này gợi nhớ đến đống than hồng ở dinh Thượng tế,
nơi Phêrô đã đứng sưởi và đã chối Thầy (Ga 18, 18. 25).
Bây giờ, cũng bên đống than hồng,
Thầy Giêsu cho Phêrô có cơ hội công khai bày tỏ tình yêu của mình.
“Anh có yêu mến Thầy không?”: ba lần Thầy Giêsu hỏi Phêrô như thế.
“Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy”: ba lần Phêrô trả lời như thế.
Ba lần chối Thầy như được xóa đi bởi ba lần tuyên xưng tình yêu.
Nhưng bây giờ Phêrô khiêm tốn, biết tình yêu của mình mong manh, dễ vỡ.
“Hãy chăn dắt chiên của Thầy”: ba lần Thầy Giêsu đã nói như thế.
Tình yêu dẫn đến sứ mạng chăn dắt đoàn chiên mà Thầy quý chuộng.
Phải yêu Thầy thì mới yêu chiên của Thầy.
Yêu Thầy là điều kiện để được Thầy trao sứ mạng mục tử.
Làm mục tử là tiếp nối công việc của Thầy Giêsu, Mục tử nhân hậu,
nên cũng phải sẵn sàng chấp nhận cái chết như Thầy (cc. 18-19),
chết cho đoàn chiên, chết để tôn vinh Thiên Chúa (c. 19).
“Hãy theo Thầy”, lời mời năm xưa cũng là lời mời được lặp lại bây giờ.
“Hãy theo Thầy”, sau những vấp ngã, yếu đuối và chối Thầy.
“Hãy theo Thầy”, sau khi những giấc mơ trần tục bị tan vỡ bởi biến cố Núi Sọ.
“Hãy theo Thầy”, sau những hăng hái nồng nhiệt thuở ban đầu.
“Hãy theo Thầy” để giang tay ra và đến nơi mình không muốn đến.
“Hãy theo Thầy” để củng cố anh em và chăn dắt chiên của Thầy (Lc 22, 31-32).
Hôm nay Chúa Giêsu Phục sinh cũng hỏi từng Kitô hữu:
Con có mến Thầy không?
Và Ngài chờ một câu trả lời trước khi trao sứ mạng,
vì ai trong chúng ta cũng có sứ mạng chăm sóc một nhóm người nào đó.
Xin ơn yêu Giêsu bằng tình yêu thiết thân riêng tư.
Xin ơn theo Ngài vì nghe thấy lời mời gọi vang lên mỗi ngày: Hãy theo Thầy.
Và xin ơn dám sống hết mình cho những người được Chúa trao phó.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xưa Chúa đã sai các môn đệ ra khơi thả lưới,
nay Chúa cũng sai chúng con đi vào cuộc đời.
Chúng con phải đối diện
với bao thách đố của cuộc sống,
của công ăn việc làm, của gánh nặng gia đình,
của nghề nghiệp chuyên môn.
Xin đừng để chúng con sa vào cạm bẫy
của vật chất và quyền lực,
nhưng cho chúng con
giữ nguyên lý tưởng thuở ban đầu,
lý tưởng phục vụ quê hương và Hội Thánh.
Lạy Chúa Giêsu,
xin dạy chúng con sống thực tế,
nhưng không thực dụng;
biết xoay xở nhưng không mưu mô;
lo cho tương lai cá nhân,
nhưng không quên
bao người bất hạnh cần nâng đỡ.
Giữa cơn lốc của trách nhiệm và công việc,
giữa những xâu xé trước bao lựa chọn,
xin cho chúng con
biết tìm những phút giây trầm lắng,
để múc lấy ánh sáng và sức mạnh,
để mình được thật là mình trước mặt Chúa.
Nhờ lời Đức Trinh Nữ Maria chuyển cầu,
xin cho chúng con thật sự trở nên chứng nhân,
làm tất cả để Thiên Chúa được tôn vinh,
và phẩm giá con người được tôn trọng. Amen.
Suy niệm 2: Yêu mến hơn
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Hai người tiền phong. Phê-rô và Phao-lô. Đá Tảng và Trụ Đồng nâng đỡ Giáo hội. Hai tông đồ trưởng. Hai tâm hồn ưu tuyển. Với chỉ một điều kiện: Yêu Mến Hơn.
Chúa Giê-su hỏi Phê-rô: “Này anh Si-mon, con ông Gio-an, anh có mến Thầy hơn các anh em này không”? Đây là lời mời gọi thứ hai. Cách lời mời gọi đầu khoảng 3 năm. Lời mời gọi đầu khi Chúa Giê-su khởi sự đời công khai. Khi Phê-rô còn bồng bột hăng say. Chúa mời gọi ông hãy đi chinh phục: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ lưới người như lưới cá”. Và Phê-rô hăng say đáp trả: “Dù mọi người bỏ Thầy, con quyết không bỏ Thầy”.
Hôm nay lời mời gọi đi vào chiều sâu: Con có yêu mến Thầy hơn những anh em này không? Chúa cần tình yêu. Tình yêu là đủ. Và Chúa trao nhiệm vụ mới. Không phải đi chinh phục. Nhưng quan tâm chăm sóc đoàn chiên: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy”. Phê-rô thưa lại. Tuy không bồng bột hăng say. Nhưng đầy quyết tâm và sâu lắng: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy”. Sau tất cả những gì đã trải qua, lời đáp trả thật sự sâu lắng, vững chắc, nhưng cũng đầy khiêm tốn. Chúa cũng không úp mở hứa hẹn. Thẳng thắn báo trước cái chết. Nhưng Phê-rô vẫn cương quyết bước theo. Đó chính là tình yêu đã lớn manh. Đã yêu mến hơn.
Thánh Phao-lô cũng đi trên con đường yêu mến hơn. Từ khi được biết Chúa, ngài yêu mến. Đến nỗi cùng chịu đóng đinh với Chúa. Để từ nay không còn sống cho chính mình nữa. Chỉ sống cho Chúa. Để Chúa sống trong ngài. “Tình yêu Chúa Ki-tô thúc bách” ngài. Khiến ngài ra đi không ngừng nghỉ. Rao giảng trở thành lẽ sống. “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. Biết chắc “xiềng xích và Thánh Thần đang chờ đợi”, nhưng ngài luôn hiên ngang tiến bước. Chỉ ước mong được hi sinh cho Chúa và cho anh em: “Tôi hoàn thành nơi thân xác tôi những cực hình còn thiếu sót nơi cuộc khổ nạn của Chúa. Hầu sinh ơn ích cho Giáo hội”.
Hôm nay Chúa đang cần những tâm hồn yêu mến hơn. Chúng ta có quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa không? Hôm nay Chúa cũng muốn hỏi tôi: “Con có yêu mến Thầy hơn những anh em này không”? Tôi đáp lại thế nào?
Suy niệm 3: Cơ hội thứ hai.
Trong một cuộc phỏng vấn, khi những người trung niên và lớn tuổi được hỏi về những năm tháng đã qua của cuộc đời mình, họ có hối tiếc gì không, và nếu có cơ hội thứ hai, họ sẽ quyết định như thế nào. Một số người cho biết, họ vẫn làm những gì họ đã chọn lựa. Ngược lại, một số đông cho biết họ đã chọn lựa sai ở một số thời điểm quyết định sự thành bại, và nếu bây giờ có cơ hội thứ hai, họ sẽ chọn lựa khác hẳn.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta chứng kiến việc Chúa Giêsu trao ban cho Phêrô cơ hội thứ hai. Thật thế, trong Bữa Tiệc ly trước khi chịu khổ hình, Chúa Giêsu đã tuyên bố với các môn đệ: “Tất cả các con sẽ bị vấp ngã vì Ta trong đêm nay”. Nghe thế, Phêrô phản đối và quả quyết: “Cho dù tất cả vấp ngã vì Thày, con sẽ không vấp ngã bao giờ”, nhưng rồi chỉ vài giờ sau đó ông đã nhát đảm chối Thày đến ba lần. Giờ đây, sau khi Phục sinh. Chúa Giêsu đã gặp riêng Phêrô và cho ông cơ hội thứ hai. Chúa hỏi: “Simon, con của Giona, con có mến Ta hơn những người này không?. Phêrô không khỏi ngạc nhiên tự hỏi: những giọt lệ thống hối chân thành sau khi chối Thày đã không đủ để minh chứng mình yêu mến Thày sao? Nhưng Phêrô đã học được bài học của quá khứ, nhất là bài học khiêm nhường cần thiết để lãnh nhận ơn cứu rỗi mà nhóm Biệt phái không thể lãnh nhận được vì tự cao tự đại. Phêrô đã thưa: “Lạy Thày, Thày biết rõ mọi sự, Thày biết con yêu mến Thày”. Ba lần hỏi dẫn đến ba câu trả lời cùng một nội dung, nhưng không phải là để bù đắp cho ba lần chối Thày trước đây, mà là một đòi hỏi tiên quyết là tuyên xưng lòng yêu mến. Sau đó, Chúa đã trao cho Phêrô nhiệm vụ chăn dắt Giáo Hội, Phêrô đã sống đến tận cùng cơ hội thứ hai và đã sẵn lòng chết vì niềm tin của mình.
Thiên Chúa luôn sẵn sàng cho chúng ta cơ hội thứ hai, không phải một lần mà là nhiều lần. Điều quan trọng là chúng ta phải thành tâm nhìn nhận tội lỗi, xin ơn tha thứ và bắt đầu lại. Do đó mối hiểm nguy là do chúng ta tự định giới hạn cho lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa, mà không xin Ngài một cơ hội khác. Đó là sự khác biệt giữa Giuđa và Phêrô: Cả hai đã phản bội Thày trong cùng một ngày, nhưng Giuđa không xin cơ hội thứ hai nên đã thất bại, còn Phêrô đã tận dụng cơ hội được ban cho và đã toàn thắng.
Ước gì lời Chúa hôm nay giúp chúng ta khám phá ra lòng nhân từ vô biên của Chúa, để chúng ta luôn khiêm nhường chỗi dậy sau mỗi lần sa ngã, và xin Chúa ban cho chúng ta trung thành với ơn Chúa cho đến cùng.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Lãnh trọng trách
Mùa phục sinh sắp hoàn tất. Suốt mùa, chúng ta được Đức Kitô giáo huấn. Lời Người rao giảng cho chúng ta mỗi ngày giúp chúng ta gắn bó hơn với Người trong cuộc đời Kitô hữu đã rửa tội và được sống lại.
Sau phần giáo huấn của Đức Kitô, có lẽ chúng ta sẵn sàng gắn bó sâu hơn với Người. Nhận biết như Chúa là luôn luôn tiến sâu nữa. Hôm nay, chúng ta sẵn sàng trả lời những câu hỏi của Đức Giêsu như thánh Phê-rô đã đáp lời Người: “Si-mon, con ông Gio-na, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?”. Anh đã học biết Thầy, Thầy đã giới thiệu anh với Cha Thầy, bây giờ anh biết kế hoạch cứu độ loài người, Thầy yêu anh, Thầy đã tha thứ cho anh: vậy “Anh có mến Thầy không?”
“Thưa Thầy, Thầy biết con mến Thầy”, ba lần Phê-rô đã quyết hứa lòng mộ mến Thầy. Tuy nhiên, Đức Giêsu không dừng lại đây, Người nhấn mạnh Phê-rô phải lãnh trọng trách đối với những người khác: “Để chứng tỏ anh mến Thầy là anh phải yêu mến anh em”. Thánh Gio-an đã quả quyết: “Ai quả quyết mến Chúa mà không yêu anh em là kẻ nói dối?”.
Lãnh trọng trách còn đi xa hơn nữa: mỗi lần gắn bó với ai, luôn luôn hy sinh sức khỏe, tự ái, tự do của mình cho người ấy: “Anh sẽ phải giang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn đến”.
Tình yêu Đức Giêsu luôn luôn kêu gọi ta từ bỏ, hy sinh đến chết. Yêu người khác đến độ trở nên tôi tớ để làm theo ý muốn của họ, đáp lại mọi ước ao của họ. Tình yêu phải chịu lệ thuộc.
Chúng ta đã được Đức Giêsu giáo huấn, được Ngài dẫn vào hiệp thông với Chúa Cha. Chúng ta đã học yêu mến Chúa. Bây giờ chúng ta hãy chọn: chúng ta có biết tự giữ lấy mọi lời đó cho mình không? Tình yêu mến Chúa của chúng ta chỉ là một thứ tình cảm chóng qua hay là một sức mạnh thúc đẩy chúng ta phục vụ.
CG.
Suy niệm 5: Yêu thương vô điều kiện
Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ như một người bình thường trên Biển Hồ Tiberia. Ngài giúp cho các môn đệ bắt được nhiều cá và sau khi ăn sáng xong với các môn đệ, Chúa Giêsu liền hỏi ông Phêrô: “Này anh Phêrô, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?” Chúa hỏi ông Phêrô đến ba lần, điều này khiến ông đau lòng vì nhắc ông nhớ tới việc đã công khai chối Thầy đến ba lần. Và trước mặt Chúa, Phêrô đã khẳng định với Ngài rằng ông yêu mến Ngài hơn các môn đệ khác. Chỉ trong lúc đó Phêrô mới hiểu rằng tình yêu của Thầy đổ tràn lên ông hơn là tình yêu của ông đối với Thầy. Trước đây, Phêrô đã từng hùng hồn tuyên xưng trước các môn đệ khác rằng: “Dẫu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã”. Nhưng sau kinh nghiệm cay đắng vì sự phản bội của mình, Phêrô ý thức về sự yếu đuối của mình để hiểu rằng ông phải hoàn toàn trông cậy vào Thiên Chúa chứ không ở khả năng của mình, vì thế mà Phêrô đã thưa với Chúa: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”.
Chúa Giêsu, trước khi giao phó Giáo Hội của Ngài cho Phêrô chỉ đòi hỏi ở ông duy nhất một điều kiện, đó là tuyệt đối yêu mến Ngài. Chúa không đòi hỏi người môn đệ khả năng xuất chúng để lèo lái Giáo Hội, cũng như trí thông minh phi thường để đối phó với các thử thách mà Ngài chỉ đơn giản hỏi ông: “Anh có mến Thầy hơn các anh em này không?” Thánh Gioan cho chúng ta hiểu rằng Chúa Giêsu đã chọn ông Phêrô làm người đứng đầu Hội Thánh không phải vì ông yêu mến Chúa hơn các môn đệ khác, nhưng vì Chúa Giêsu đã đặt ông đứng đầu Hội Thánh nên ông phải yêu Chúa và yêu các môn đệ nhiều hơn cũng như cần phải trung thành nhiều hơn nữa.
Phêrô hiểu rằng cội nguồn của tình yêu không tới từ ông mà đến từ Chúa khi Ngài hỏi ông: “Anh có mến Thầy không?” Chúa Giêsu chính là cội nguồn của lòng nhân ái và Ngài muốn trao ban tình yêu đó cho Phêrô. Chúa Giêsu không chỉ hỏi ông Phêrô câu hỏi này, nhưng Ngài còn hỏi tất cả chúng ta và Ngài muốn trao ban cho chúng ta món quà quí giá đó. Chúng ta mang trong trái tim ước mơ yêu thương Thiên Chúa nhưng nhiều lúc tình yêu đó hời hợt vì bản chất chúng ta yếu đuối và bất trung, và đôi khi chúng ta lại còn nghi ngờ Ngài. Nhưng chính Chúa đã cho Phêrô và cả chúng ta cơ hội để trả lời Ngài: Lạy Chúa, Chúa biết chúng con yêu Chúa không phải vì chúng con hoàn hảo, mà vì Chúa đã yêu thương chúng con một cách nhưng không. Chúng con là những kẻ bất trung, còn Chúa thì luôn trung thành với lời hứa của Ngài. Khi Chúa Giêsu nói với Phêrô: “Hãy theo Thầy”, Ngài loan báo cái chết tử đạo của ông vì đi theo Chúa tức là vác thập giá để theo Ngài, có nghĩa là từ bỏ hoàn toàn chính mình và hy sinh cả mạng sống mình vì Nước Trời. Chúa Giêsu là người yêu chúng ta trước nhất, Ngài yêu chúng ta một cách vô điều kiện. Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu đã cho các môn đệ hồng ân là được theo Ngài và chịu chết tử đạo để làm vinh danh Ngài như thánh Gioan đã viết trong bài Phúc Âm hôm nay: “Người nói vậy có ý ám chỉ ông Phêrô sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa”. Ngài đã cho Phêrô hiểu thế nào là một tình yêu hoàn hảo, đó là dâng hiến chính mạng sống của mình cho Thiên Chúa và tha nhân, và biết hướng về tình yêu của Thiên Chúa bằng với tất cả lòng tin cậy. Ðiều đó cũng nhắc nhở với chúng ta là các hoạt động tông đồ trước hết phải đặt nền tảng trên tình yêu gắn bó với Chúa, để sau đó loan truyền tình yêu của Ngài cho những người khác.
Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu rằng tình yêu của chúng con đối với Chúa phải được thể hiện qua việc yêu mến tha nhân, và xin giúp cho chúng con yêu họ một cách cụ thể bằng việc quan tâm đến những niềm vui cũng như nỗi đau khổ của họ, đồng thời sẵn sàng hy sinh để giúp họ hạnh phúc hơn.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 6: Có yêu thì mới chu toàn
Khi nói về tình yêu, nhạc sĩ Nguyễn Duy đã có một bài hát mang tên: “Xin định nghĩa tình yêu”, trong đó có đoạn:
“Yêu là chết đi, là đóng đinh, là biết hy sinh cho người mình yêu [...]. Yêu: xin đừng dối gian, xin đừng trái ngang, dù lắm lo toan, xin đừng ly tan. Hãy yêu như Giêsu, chết đi cho dương gian, đóng đinh cho người mình yêu mến. Hãy yêu trong an vui, thủy chung trong đau thương, sống trong cuộc đời đầy mến yêu”.
Lời bài hát trên mang đậm chữ “yêu”. Thật vậy, con người nếu không có tình yêu, hỏi rằng chúng ta có thể sống có ý nghĩa được chăng? Thưa không! Chỉ có tình yêu, con người mới làm cho cuộc đời này chan chứa niềm vui, dẫu vẫn còn đó khổ đau, bất hạnh, hiểu lầm...
Trước khi về trời, Đức Giêsu đã trao phó quyền chủ chăn cho Phêrô. Biết được vai trò, sứ mạng và những khó khăn mà ông sẽ đón nhận từ mình, nên Đức Giêsu đã cật vấn ông tới ba lần: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người này không?". Có lẽ Đức Giêsu hỏi ông như thế là vì muốn ông từ nay phải trở nên người trưởng thành thực sự chứ không phải như những lần trước, vừa mới thề sống chết với Thầy, rồi sau đó lại chối Thầy vì sợ liên lụy. Ý thức được điều đó, nên ông đã tỏ ra buồn rầu và xấu hổ.
Tuy nhiên, sứ vụ mà ông sắp đón nhận là một cuộc hành trình đầy cam go, cần phải có tình yêu đủ lớn thì mới có thể chung chia sứ vụ với Thầy được.
Thật vậy, Phêrô đã ý thức điều đó, và ông đã tuyên xưng mạnh mẽ với đầy tràn tình yêu và Thần Khí Thiên Chúa trong mình: "Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy".
Ngày nay, Chúa cũng trao sứ vụ chăn dắt đoàn chiên của Ngài cho các mục tử trong Giáo Hội, chúng ta hãy cầu nguyện cho các ngài trở nên những mục tử “như lòng Chúa mong ước”. Trở nên những mục tử không chỉ “biết” mà còn “ngửi thấy mùi chiên”.
Bên cạnh đó, trong chức tư tế phổ quát, mỗi người chúng ta cũng đều là mục tử khi được tham dự vào chức tư tế độc nhất của Đức Giêsu qua Bí tích Rửa Tội, vì thế, chúng ta cũng không ngừng vươn tới mẫu gương của Đức Giêsu là mục tử nhân lành để noi theo và sống ơn gọi bằng cách chu toàn bổn phận của mình trong lòng mến.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho hết mọi thành phần dân Chúa, dù trong vai trò gì, cũng luôn biết lấy tình yêu làm lẽ sống, để qua đó, mỗi người sẽ được sống trong một tình yêu lớn hơn, đó là tình yêu của Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Phêrô -- sứ mệnh mục tử
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Cũng như Thánh Phêrô được Chúa Giêsu trao cho sứ mệnh mục tử để chăn dắt đoàn chiên Chúa, mỗi người Kitô hữu cũng được Chúa trao sứ mệnh mục tử trong phạm vi và khả năng của mình. Nhưng trước hết, Chúa đòi phải có lòng yêu mến và sự hy sinh.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trước khi về trời, Chúa đã trao cho Thánh Phêrô sứ mệnh mục tử, thay mặt Chúa chăn dắt đoàn chiên, dù trước đó Ngài đã ba lần chối Chúa. Chúa đã cho biết rõ Ngài yếu đuối nhưng Chúa hoàn toàn tin tưởng vào Ngài. Chúa chỉ đòi hỏi Ngài lòng yêu mến Chúa, một lòng yêu mến đặc biệt, yêu mến Chúa hơn mọi người, yêu mến đến độ dám hy sinh cả mạng sống.
Ngày nay, Chúa vẫn yêu thương và tin tưởng chúng con. Chúa trao cho mỗi người trách nhiệm chăn dắt đoàn chiên Chúa: là cha xứ đối với giáo xứ, là cha mẹ đối với con cái, là anh chị đối với đàn em, là người trên đối với người dưới, là người giàu đối với người nghèo, là người khoẻ mạnh đối với người yếu đau… Mỗi người chúng con đều có sứ mệnh của người mục tử. Chúa tin tưởng và trao phó sứ mệnh mục tử cho chúng con, dù Chúa biết rõ chúng con đã từng phạm tội, chỉ là kẻ tài hèn sức mọn.
Lạy Chúa, chỉ có lòng yêu mến Chúa thật mới giúp con có đủ khả năng để thay mặt Chúa chăm sóc anh chị em. Xin Chúa đốt lên trong con ngọn lửa yêu mến Chúa nồng nàn để trong mọi hoàn cảnh, con luôn hết lòng chu toàn sứ mệnh ấy. Xin ban thêm lòng yêu mến Chúa cho con, để dù trong lúc khó khăn, con luôn biết hy sinh sức lực, khả năng, thời giờ và ngay cả mạng sống, để phục vụ những người mà Chúa đã tin tưởng trao phó cho con. Amen.
Ghi nhớ: “Con hãy chăn dắt các chiên mẹ và chiên con của Thầy”
Suy niệm 8: Chăn dắt các chiên của Thầy
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Trong thánh lễ an táng Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Đức Hồng y Joseph Ratzinger, tức là Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI sau này, giảng lễ gợi hứng từ Tin Mừng Ga 21,15-19, và tập trung vào lời Chúa Giêsu nói với Phêrô: “Hãy theo Thầy” (Ga 21,19).
Đức Hồng y Joseph Ratzinger, suy tư và khai triển tiếng gọi của Chúa Giêsu cho Phêrô “Hãy theo Thầy”, tiếng gọi này nhưng cũng xuyên suốt cuộc đời Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II, đấng kế vị Phêrô, từ khi lãnh tác vụ linh mục giữa thời chiến tranh, tiếp đến sứ vụ Giám mục trong thời kỳ bức màn sắt, cho đến khi lên ngôi Giáo hoàng như lời Chúa uỷ thác: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy”.
Suy niệm
Câu hỏi của Thầy Giêsu hỏi Phêrô ba lần liên tiếp: “Con có yêu mến Thầy….?”, sự đáp trả với lòng xác tín của ông cũng ba lần: “Thầy biết con yêu mến Thầy” và trách nhiệm cũng được trao ba lần qua mệnh lệnh: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy” (x. Ga 21,15-17). Như một sự tín nhiệm của Thầy dành cho Phêrô dù ông là môn đệ đã từng chối Thầy. Sự việc và cuộc đàm đạo của Thầy trò làm nổi bật mối tương quan giữa tình yêu và trách nhiệm qua lời tuyên tín của Phêrô “con yêu mến Thầy” và mệnh lệnh Chúa Giêsu trao phó “chăn dắt các chiên con của Thầy”. Trong ánh sáng Phục sinh, tình yêu làm gia tăng sự trách nhiệm và từ trong tinh thần trách nhiệm, tình yêu đổi mới, thăng tiến nhân loại theo hướng tích cực như lời nguyện ước: “Xin tình yêu làm thay đổi thế giới”. Sự giao thoa và liên hệ giữa lời cầu nguyện với hình ảnh đáp trả tình yêu của Phêrô làm tôi hiểu thêm về lời cầu nguyện và càng hiểu sâu xa hơn ý nghĩa tuyên xưng tình yêu của Phêrô với trách nhiệm được giao.
Khi trao cho Phêrô đảm đương trách nhiệm Giáo hội, lòng ước ao của Thầy nơi ông có một tình yêu mãnh liệt với Thầy thể hiện qua sự tận tụy với anh em mà Phêrô có trách nhiệm chăm sóc. Tình yêu với Thầy qua sứ mạng mà ông gánh vác. Ông đã đảm đương nhiệm vụ cách quảng đại và anh hùng, điều này đã được chứng minh bằng chính cuộc đời của vị thủ lãnh mà Chúa Giêsu đã tuyển chọn và tiên báo: “Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến. Chúa nói thế có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa” (Ga 21,18-19). Phêrô đã yêu và vinh danh Thầy qua cái chết trên thập giá nơi đồi Vatican vì tình yêu mà ông đã tuyên xưng.
Trách nhiệm của Phêrô được giao không chỉ là kết quả của lời đáp trả ngắn gọn “con yêu mến Thầy”. Lời tuyên tín và trách nhiệm của Phêrô đã được chuẩn bị suốt hành trình rao giảng của Đức Kitô. Với Tin Mừng Gioan 21,15-19, trách nhiệm được đặt dấu ấn của niềm tin Phục sinh làm sống dậy tình yêu, lòng nhiệt thành và trách nhiệm trong mọi khoảnh khắc của thời gian, có giá trị vĩnh cửu vì được sự chết và phục sinh của Đức Kitô thánh hóa. Thầy Giêsu đã chuẩn bị trước cho Phêrô nhiệm vụ “chăm sóc đoàn chiên” ngay vào giây phút đầu tiên ông gặp gỡ và theo Chúa qua sự giới thiệu của người em là Anrê, chính Chúa đã gieo vào tâm hồn ông ý niệm trách nhiệm: “Anh sẽ được gọi là Phêrô” (Ga 1,42) và “trở nên kẻ chài lưới người” (Lc 5,10). Trách nhiệm “chài lưới người” cũng được Chúa đào tạo cho ông cách tiệm tiến xuyên qua nhân cách của ông: quảng đại nhiệt thành tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Chân thành ý thức bản thân khi thưa với Chúa: “Lạy Chúa, xin tránh xa con vì con là kẻ tội lỗi” (Lc 5,8); Ông yếu đuối chối Thầy ba lần khi Đức Giêsu bị bắt (x. Ga 18,17-27).
Phêrô đã tuyên tín tình yêu và lãnh nhận trách nhiệm…
Thế giới hôm nay ở bất cứ chân trời nào cũng đều có nhu cầu của trách nhiệm trong tình yêu: yêu nghề nghiệp vì đó là sứ mệnh được Thầy Giêsu giao; yêu anh em đồng loại làm cho người đảm đương công việc trong trách nhiệm hơn. Tất cả quy tụ về Đức Kitô, Đấng đã truyền cho chúng ta trách nhiệm dấn thân như Người đã nói với Phêrô: “Con hãy theo Thầy” (Ga 21,19), theo Thầy trên mọi nẻo đường của cuộc sống, theo Thầy khi gánh vác trách nhiệm trong công việc mà tôi và bạn đang đảm đương.
Ý lực sống:
“Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21,15.17).
Suy niệm 9: Chúa trao quyền chăn dắt cho Phêrô
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Sau khi Phục sinh, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ, lần này Chúa hiện ra với các môn đệ tại bờ hồ Tibêriat và trong lần này Chúa trao cho Phêrô được quyền tuyệt đối trong Hội thánh và nói tiên tri về đời sống của ông.
2. Trước khi trao quyền trông coi Giáo hội cho Phêrô, Chúa Giêsu hỏi ông ba lần: “Anh có yêu mến Thầy không”? Câu hỏi được lặp đi lặp lại để Phêrô phải suy nghĩ, lựa chọn và xác định tầm quan trọng của vấn đề. Để thi hành sứ vụ, Phêrô cũng như các môn đệ, phải có lòng yêu mến thiết tha, vì có yêu Thầy tha thiết, thì mới chăm sóc được đoàn chiên của Thầy.
Mỗi người chúng ta được sống trong những môi trường khác nhau, với sứ vụ khác nhau trong công cuộc xây dựng Nước Trời tại thế, chúng ta cũng phải có một tình thương! Vì tình thương xóa bỏ hận thù, là mối dây liên kết mọi điều thiện hảo.
3. Tại sao Chúa Giêsu lại hỏi Phêrô tới ba lần như vậy? Có nhiều nhà giải thích Thánh kinh nói rằng: Chúa Giêsu hỏi Phêrô ba lần như vậy là để tỏ ra tầm quan trọng của nhiệm vụ mà Chúa sắp trao phó cho ông.
Có những tác giả khác cho rằng: Chúa hỏi đi hỏi lại như vậy là muốn cho mọi người biết rõ rệt Chúa trao quyền Tông đồ trưởng cho Phêrô, và quyền ấy phải đi đôi với tình yêu của ông đối với Chúa, quyền lợi đi đôi với tình yêu, tình yêu bao trùm mọi trách nhiệm.
Một số người khác lại cho rằng: Ba câu trao sứ mạng, lần lượt nói “chiên con” ở hai lần đầu và “chiên mẹ”ở lần sau cùng, là Chúa có ý đề cập đến quyền lãnh đạo của Phêrô trên cả giáo dân và các chủ chăn khác,
Có người lại cho rằng Chúa hỏi Phêrô ba lần như vậy là có ý gợi lại ba lần ông đã chối Chúa.
Có người lại cho rằng ba lần hỏi, ba lần trao nhiệm vụ như thế, cũng hiểu là Chúa trao ba quyền cho Phêrô: giảng dạy, tế lễ và cai trị, tức là ba chức vụ: giảng dạy, thánh hóa và lãnh đạo (Lm Phạm văn Phượng).
4. Khi thiết lập người đứng đầu Giáo hội, Chúa Giêsu lại đặt một vị đã từng ba lần chối Chúa. Nếu xét theo cái nhìn của chúng ta thì có lẽ Phêrô không xứng đáng và không đủ tiêu chuẩn làm mục tử. Nhưng dưới cái nhìn của Chúa Giêsu, Người không nhìn Phêrô của ngày hôm qua mà là bắt đầu từ lúc này và hướng về tương lai. Phêrô lầm lỡ và khiêm tốn ăn năn để đứng lên, nên cũng chính Phêrô cảm thông được với những con chiên mà Chúa Giêsu trao phó cho Ngài. Thiên Chúa đi tìm chiên lạc thay vì ở nhà với 99 con chiên không lạc. Thiên Chúa cũng chọn một vị mục tử đã từng lầm lỗi, nhưng quan trọng là: “Này Phêrô, một khi anh đã trở lại, anh hãy làm cho anh em vững tin”.
5. “Người nói vậy... Hãy theo Thầy”.
Câu này giải thích ý nghĩa lời của Chúa Giêsu trong câu 18: đó là cuộc tử đạo của Phêrô. Kiểu nói “anh sẽ phải giang tay ra”: có thể ám chỉ đến khổ hình thập giá mà Phêrô sắp phải chịu vào cuối đời
Và Chúa thêm: “Hãy theo Thầy”: Hẳn là Chúa muốn nhắc lại lời trước đây: Khi người bảo Phêrô: “Nơi Thầy đi, nay con không theo được, nhưng sau này con sẽ theo” (Ga 13,16), thì từ nay, Phêrô theo thật, nghĩa là Phêrô cùng chịu chết trên thập giá.
Truyện: Nhà hiền triết Socrate gặp chàng trai trẻ Xenophon lần đầu. Thoạt tiên, ông hỏi chàng có biết ở đâu bán cái này, cái nọ, và ở đâu người ta chế ra vật này, vật kia, Xenophon chỉ cho Socrate những thông tin cần thiết. Rồi Socrate hỏi:
- Anh có biết người ta chế tạo điều lành và nhân đức ở đâu không?
- Không.
- Vậy anh hãy theo ta.
Đó cũng là câu Chúa Giêsu nói với ông Phêrô: “Hãy theo Thầy” (Góp nhặt).
6. Đoạn Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết Chúa Giêsu đã trực tiếp ban quyền tối thượng cho Phêrô, Chúa chính thức trao cho ông quyền thủ lãnh trên Tông đồ đoàn và trên cả Giáo hội của Ngài. Chúng ta là những tín hữu trong Giáo hội, chúng ta cũng phải khiêm tốn nhìn nhận vai trò Chúa ban cho mỗi vị Chủ chăn, và trong đức tin, chúng ta nhìn nhận rằng: Chúa đang lãnh đạo Giáo hội qua những vị đó. Cho nên, chúng ta hãy lấy tình con thảo mà yêu mến, chia sẻ niềm vui nỗi buồn và sẵn sàng cộng tác, giúp đỡ, nhất là cầu nguyện cho các vị chủ chăn của chúng ta.
7. Truyện: “Quo vadis”: Ngài đi đâu đó.
Câu chuyện truyền kỳ về những ngày chót của cuộc đời ông chắc chắn cũng chứa đựng ít nhiều sự thật. Ông đến Rôma trong thời kỳ bắt đạo. Lúc cơn bắt đạo dâng cao, ông đã sợ hãi và muốn lẩn trốn nhưng vừa ra khỏi thành thì ông gặp một người vai mang Thập giá đang đi hướng về phía thành.
Ông hỏi: “Quo vadis”: Ngài đi đâu đó?
Người ấy trả lời: “Ta đi vào Rôma để cho người ta đóng đinh một lần nữa”.
Phêrô quay đầu trở lại. Ông vào Rôma và chịu tử đạo tại đó. Truyền thống kể rằng ông cảm thấy không xứng đáng được đóng đinh như Thầy nên ông xin được chết trên Thập giá trong tư thế đầu lộn ngược xuống đất.
Ông thực hiện đúng lời của Chúa: “Khi về già ngươi sẽ giang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho và lôi ngươi đi đến nơi ngươi không muốn” (Ga 21,18-19).
Suy niệm 10: Thân phận Phêrô là yêu mến
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
Phân tích
Bài giáo lý về cuộc nói chuyện giữa Chúa Giêsu và các môn đệ bên bờ hồ Tibêria.
Về thân phận Phêrô: “Con có yêu mến Thầy không?…Hãy chăn dắt các chiên của Thầy.”
Suy gẫm
1. “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy.”
Alexander đại đế, khi còn nhỏ là một cậy bé thông minh. Một hôm cha cậu mua phải một con ngựa khó tính, không ai dạy nổi. Thế mà Alerxander thuần phục con ngựa ấy một cách dễ dàng. Có người hỏi cậu bí quyết khắc phục con ngựa ấy, cậu trả lời: “Chẳng có gì lạ. Tôi xét kỹ thấy con ngựa này rất sợ cái bóng của nó. Vì thế chỉ cần quay nó hướng về mặt trời để nó không còn thấy cái bóng của nó nữa.”
Ông Phêrô rất sợ cái bóng của mình, nhưng khi ông hướng về Chúa, Đấng giàu lòng thương xót, sợ hãi như tan biến đi, nhường chỗ cho tín thác xâm chiếm cả tâm hồn ông.
Lạy Chúa, Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con, Chúa biết con hơn con biết con và Chúa yêu con hơn con yêu con. Con tín thác đời con cho Chúa.
2. Người hỏi lần thứ ba: “Này anh Simon, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?… Hãy chăm sóc chiên của Thầy.”
Ngày ấy trong Vườn Cây Dầu, Phêrô đã rút gươm để bênh vực Chúa Giêsu, nhưng sau đó ông đã tỏ ra hèn nhát và đã phản bội Thầy mình. Lúc ấy, Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô, một cái nhìn trìu mến, cảm thông cho nỗi yếu nhược của ông, làm òa vỡ trong ông niềm xót xa, ân hận. Ông đã hiểu trọn nghĩa hai chữ yêu thương.
Và hôm nay, một lần nữa trong ánh sáng Phục sinh. Chúa Giêsu lại hỏi Phêrô, hỏi các môn đệ và hỏi chính tôi về một điều, một điều Người đã định nghĩa bằng trọn cuộc sống, đó là Tình Yêu.
Lạy Chúa, xin dạy con biết yêu, yêu Chúa và yêu mọi người, yêu như Chúa yêu vì Ngài chính là tình yêu.
3. Socrate gặp chàng trai trẻ Xenophon lần đầu. Thoạt tiên, ông hỏi chàng có biết ở đâu bán cái này, cái nọ, và ở đâu người ta chế ra cái vật này, vật kia. Xenophon chỉ cho Socrate những thông tin cần thiết. Rồi Socrate hỏi:
- Anh có biết người ta chế tạo điều lành và nhân đức ở đâu không?
- Không!
- Vậy anh hãy theo ta.
Đó cũng là câu của Chúa Giêsu: “Hãy theo Ta.”
Suy niệm 10: Lòng mến và nhiệm vụ
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Chúng ta vừa nghe một câu chuyện có liên quan đến Phêrô:
1. Chúa Giêsu hỏi Phêrô: “Con có yêu mến Thầy không?” (Ga 21,15)
Sau mỗi lần Phêrô tuyên xưng lòng mến, Chúa Giêsu trao cho Phêrô một nhiệm vụ. Chung qui lại là: “Hãy chăn dắt các chiên của Thầy” (Ga 21,16).
Có một câu chuyện tưởng tượng như sau: Khi Chúa Giêsu về trời giữa muôn vàn tiếng tung hô của các thiên thần, tổng lãnh thiên thần Gabriel đã phỏng vấn Ngài:
- Lạy Chúa, có phải bây giờ cả trần gian đã nhận biết tình yêu Thiên Chúa dành cho họ rồi chăng?
- Không! Chỉ có một nhóm nhỏ đếm được trên đầu ngón tay.
Thiên sứ Gabriel giật mình sửng sốt:
- Lạy Chúa, nếu nhóm nhỏ này gặp chống đối khiến họ thất vọng mà bỏ Chúa. Trong trường hợp này, Chúa có dự định quay trở lại trần gian không?
Chúa đáp:
- Không,Ta hy vọng nơi họ và tin chắc họ sẽ không bỏ rơi Ta.
Vâng, đúng là Chúa tín nhiệm những môn đệ của Ngài. Ngài tín nhiệm họ bởi vì Ngài biết họ.
Câu chuyện thật cảm động bên bờ biển Galilê hôm nay đã cho chúng ta thấy thật rõ điều đó.
“Thưa Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy”.
Phêrô nói lên điều này với tất cả kinh nghiệm đau xót nơi chính bản thân mình. Làm sao ông quên được những điều Thầy đã báo trước với ông, về việc chính ông sẽ chối Thầy mình trước khi gà chưa kịp gáy lần thứ ba, chối tới ba lần, làm sao ông có thể quên được.
Chúa biết...Biết tất cả mọi sự (Ga 21,17).
Phêrô hơi buồn vì Chúa hỏi ông đến lần thứ ba.
Tại sao Chúa phải làm thế?
Chẳng phải là Chúa không biết lòng mến của ông đối với Ngài. Và có lẽ cũng chẳng phải là để đền bù lại ba lần ông đã chối Chúa. Chẳng lẽ Chúa mà lại hẹp hòi đến như vậy sao? Ngài chẳng cần phải như vậy. Nhưng sở dĩ Ngài làm thế là vì Ngài muốn ông xác tín một cách dứt khoát về giá trị con đường yêu thương mà Chúa đã đi, để rồi khi lãnh trách nhiệm chăn dắt đoàn chiên của Chúa, ông cũng phải dẫn dắt họ đi trên con đường đó. Dứt khoát là không có con đường nào khác ngoài con đường đó. Đừng đi tìm bất cứ một con đường nào khác con đường đó.
2. Chúa nói với Phêrô “Hãy theo Thầy” (Ga 21,19).
Theo Chúa không phải chỉ là đi trên những con đường cát bụi mà có lần Chúa đã đi qua, nhưng là phải sống chính cuộc sống mà Chúa đã sống.
Câu chuyện truyền kỳ về những ngày chót của cuộc đời ông chắc chắn cũng chứa đựng ít nhiều sự thật. Ông đến Rôma trong thời kỳ bắt đạo. Lúc cơn bách đạo dâng cao, ông đã sợ hãi và muốn lẩn trốn nhưng vừa ra khỏi thành thì ông gặp một người vai mang Thập Giá đang đi hướng về phía thành.
Ông hỏi: “Quo vadis: Người đi đâu đó?”
Người ấy trả lời: “Ta đi vào Rôma để cho người ta đóng đinh một lần nữa”.
Phêrô đã hiểu ngay. Lần này thì Chúa không cần phải cắt nghĩa dài dòng nữa. Phêrô quay đầu trở lại. Ông vào Rôma và tự nộp mình để rồi chịu tử đạo tại đó. Truyền thống kể rằng, ông cảm thấy không xứng đáng được đóng đinh cùng một cách thức như Thầy, nên ông xin được chết trên Thập Giá trong tư thế đầu lộn ngược xuống đất.
Với tư thế đó, ông sẽ phải chịu đau đớn nhiều hơn. Nhưng Phêrô đã muốn như thế để nói lên tấm lòng của ông đối với Thầy chí thánh.
Rõ ràng ông thực hiện trọn vẹn lời của Chúa: “Khi về già, ngươi sẽ dang tay ra, người khác sẽ thắt lưng cho và lôi ngươi đi đến nơi ngươi không muốn” (Ga 21,18-19).
Phêrô nằm trên Thánh Giá. Giống như Chúa Giêsu, như con chiên hiền lành, không một tiếng than, không một lời trách. Ông nằm trên đó như một lễ tế dâng lên Thầy chí thánh với tất cả lòng yêu thương: Yêu thương thì sẵn sàng hy sinh. Yêu thương thì sẵn sàng quên mình.
Phêrô đã chết nhưng cái chết của ông không vô ích. Ông đã chết không như một thất bại nhưng như một anh hùng chiến thắng. Sự can đảm của ông chẳng khác gì một ngọn lửa hồng rực sáng, sáng lên thật nhanh, thật mạnh nơi tâm hồn những tín hữu đầu tiên để họ cùng ông viết lên những trang sử hào hùng cho tòa nhà Giáo Hội, mà chính Phêrô là nền móng.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta cũng được sống can đảm như thế, để chúng ta xứng đáng với sự cứu chuộc của Chúa Giêsu, Chúa chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu,
khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng
chúng con ít khi nghĩ đến những hạt giống
đã âm thầm chịu nát tan
để trao cho đời cây lúa trĩu hạt.
Có bao điều tốt đẹp
chúng con được hưởng hôm nay
là do sự hy sinh quên mình của người đi trước,
của các nhà nghiên cứu, các người rao giảng,
của ông bà, cha mẹ, thầy cô,
của những người đã nằm xuống
cho quê hương dân tộc.
Ðã có những con người sống như hạt lúa,
để từ cái chết của họ
vọt lên sự sống cho tha nhân.
Xin cho chúng con
đừng tự khép mình trong lớp vỏ
nhưng dám đi ra
để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ. Amen.
02/06 Sức mạnh của hiệp nhất
- Viết bởi Ga 17, 20-26
Sức mạnh của hiệp nhất.
Thứ Năm tuần 7 Phục Sinh.
“Xin cho chúng nên một”.
Lời Chúa: Ga 17, 20-26
Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: “Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ, nhờ lời chúng mà tin vào Con, để mọi người nên một, cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng cũng nên một trong Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con.
Con đã ban cho chúng vinh hiển mà Cha đã ban cho Con, để chúng nên một như Chúng Ta là một. Con ở trong chúng, và Cha ở trong Con, để chúng được hoàn toàn nên một và để thế gian biết rằng Cha đã sai Con, và Con đã yêu mến chúng như Cha đã yêu mến Con.
Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Để họ được nên một
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Bài Tin Mừng hôm nay là phần cuối của Lời Nguyện sau Tiệc Ly.
Đức Giêsu cầu nguyện, không phải cho các môn đệ đang hiện diện,
nhưng cho các môn đệ tương lai, là chính chúng ta,
những người tin nhờ nghe lời giảng của các môn đệ đi trước (c.20).
Hôm nay Đức Giêsu là Thượng Tế trên trời, là Đấng Trung Gian duy nhất,
vẫn dâng lên Chúa Cha lời nguyện tương tự.
Ngài nhìn thấy một phần ba dân số thế giới là Kitô hữu, hơn hai tỷ người.
Ngài nhìn thấy những người theo Công Giáo gồm hơn một tỷ,
theo Chính Thống giáo, Tin Lành, Anh giáo và bao giáo phái khác.
Ngài xin Cha cho họ nên một, như Cha và Con là một (c. 22).
Đức Giêsu đã xin cho các môn đệ đang hiện diện bên Ngài
được nên một “như chúng ta” (Ga 17, 11b).
Bây giờ Ngài xin cho các môn đệ tương lai cũng được nên một.
Sự hiệp nhất nên một giữa Cha và Con
vừa là khuôn mẫu, vừa là nguồn mạch cho sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu.
“Để tất cả nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” (c. 21).
Cha và Con ở trong nhau, đó là mẫu mực cho sự hiệp nhất.
Chúng ta được mời gọi ở trong nhau khắng khít như Cha và Con.
Điều này không thể thực hiện được, nếu chúng ta không được đưa vào
trong mối tương quan thân thiết giữa Cha và Con:
“để họ cũng ở trong Chúng Ta” (c. 21).
Các Kitô hữu chỉ hiệp nhất khi họ được sống trong nguồn hiệp nhất
là sự ở trong nhau giữa Cha và Con.
Trong Lời Nguyện của Đức Giêsu, ta thấy có một tương quan ba chiều
giữa Cha, Con và các môn đệ.
“Con ở trong họ và Cha ở trong Con…
Cha đã yêu thương họ như đã yêu thương Con” (c. 23).
“Tình Cha đã yêu thương Con ở trong họ, và Con cũng ở trong họ nữa” (c.26).
Tương quan này sâu lắng đến mức có sự ở lại trong nhau thật sự
giữa Cha, Con và các môn đệ là chính chúng ta.
Tuy vậy ít khi chúng ta dám nghĩ mình có tương quan gần gũi đến thế
với thế giới siêu việt của Cha và Con.
Nhưng Đức Giêsu còn nói đến tương quan giữa các môn đệ với thế gian.
Chỉ khi có sự hiệp nhất giữa các môn đệ, lúc đó mới hy vọng
“Thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai Con” (c. 21),
“Thế gian sẽ nhận biết rằng Cha đã sai Con (c. 23).
Chúng ta cầu cho sự hiệp nhất yêu thương giữa các Kitô hữu trên thế giới.
Nếu một phần ba dân số thế giới sống nên một trong yêu thương,
hai phần ba còn lại sẽ sống trong hạnh phúc bình an.
Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng con tôn thờ,
xin giúp con quên mình hoàn toàn
để ở lại trong Chúa.
lặng lẽ và an bình
như thể hồn con đã sống trong vĩnh cửu.
Lạy Đấng thường hằng bất biến,
mong sao không gì có thể khuấy động
sự bình an của con,
hay làm cho con ra khỏi Chúa;
nhưng ước chi mỗi phút lại đưa con
tiến xa hơn vào chiều sâu của mầu nhiệm Chúa!
Xin làm cho hồn con bình an thanh thản,
xin biến hồn con thành chốn trời cao,
thành nơi cư ngụ dấu yêu của Chúa,
nơi Chúa nghỉ ngơi.
Ước chi
con không bao giờ để Chúa ở đó một mình
nhưng con luôn có mặt, với trọn cả con người,
với thái độ nhạy bén trong đức tin,
cung kính tôn thờ
và phó mình cho Chúa sáng tạo. Amen.
(Lời nguyện của chân phước Elisabeth de Trinité)
Suy niệm 2: Tình yêu và sự sống
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Hợp nhất là sự sống trong tình yêu. Chúa Ba Ngôi chính là nguồn mạch tình yêu và sự sống trong sự hợp nhất trọn vẹn. “Cha ở trong Con và Con ở trong Cha”. “Cha và Con là Một”. “Ai thấy Thầy là thấy Cha”. Kết hợp sâu xa trong một tình yêu hoàn hảo được biểu lộ trong chuyển động dâng hiến trọn vẹn: “Mọi sự của Cha là của Con. Và mọi sự của Con là của Cha”. Sự dâng hiến làm nên sự sống. “Lương thực của Thầy là làm theo ý Đấng sai Thầy”. “Thầy sống nhờ Cha”. Cuộc trao đổi dâng hiến làm cho tình yêu không bao giờ vơi cạn. Và sự sống ngày càng sung mãn.
Tình yêu và sự sống đó lan tràn đến nhân loại. Nhưng để lãnh nhận con người phải hòa mình vào đời sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Hình ảnh rất đẹp mà Chúa Giê-su đã dùng là cây nho: “Thầy là cây nho. Anh em là nhành nho”. Như cành cây phải gắn liền với thân cây. Muốn nhận lãnh sự sống từ Thiên Chúa ta phải gắn liền vào Thiên Chúa. Muốn gắn liền vào Thiên Chúa ta phải có tình yêu. Tình yêu làm cho ta ở trong Chúa và Chúa ở trong ta. Khi ta ở trong Chúa Giêsu thì Chúa Cha ở trong ta: “Con ở trong chúng và Cha ở trong Con”. Tình yêu đó phất sinh sự sống trong ta. Một sự sống dồi dào sung mãn.
Khi hợp nhất với Thiên Chúa, người ta tự nhiên hợp nhát với nhau. Đó chính là hình ảnh của cộng đoàn tín hữu sơ khai. Yêu mến Thiên Chúa nên bỏ của cải làm của chung. Vì thế cộng đoàn có một sức sống mãnh liệt. Và đó là một cộng đoàn chứng nhân. Thế gian thấy họ mà tin vào Chúa: “Con ở trong họ và Cha ở trong Con, để họ được hoàn toàn nên một; như vậy thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con”.
Thế gian tin và muốn gia nhập cộng đoàn tín hữu sơ khai. Vì từ thâm tâm ai cũng hướng về tình yêu và sự sống. Trong hợp nhất tình yêu và sự sống được biểu lộ. Trở thành sức hấp dẫn với mọi người.
Phao-lô có sức hấp dẫn vì ông luôn kết hợp với Chúa: “Tôi sống nhưng không còn là tôi, nhưng là chính Đức Kitô sống trong tôi”. Chúa hài lòng về điều đó nên mời gọi ông: “Con hãy tiếp tục làm chứng cho ta tại Rô-ma nữa”
Suy niệm 3: Sức mạnh của hiệp nhất.
Có một câu truyện cổ như sau:
Trong một buổi hội họp của tất cả các muông thú rừng xanh, dòng giống nhà cọp đã dành được ngôi vị Chúa sơn lâm nhờ vào sức mạnh và bản tính hung dữ của chúng. Ngày kia, cọp gặp người thợ săn. Trước khi phóng mũi tên, bác thợ săn nói với cọp:
- Hỡi Chúa sơn lâm, hãy đón nhận điều mà con người gửi đến các muông thú.
Và mũi tên đã cắm phập vào lưng cọp. Quá đau đớn, cọp đã chạy trốn vào rừng rậm. Thấy cọp bỏ chạy, một con sói già hỏi: tại sao? Cọp lắc đầu đáp:
- Chỉ một lời con người muốn nói với ta, mà đã làm ta đau đớn thế này, thì làm sao chúng ta có thể chống lại bọn họ.
Sói già an ủi cọp:
- Điều suy nghĩ của Chúa sơn lâm thực tế, tuy nhiên, Chúa sơn lâm lại quên một điều là nếu tất cả muông thú rừng xanh đoàn kết lại, chúng ta có thể chống lại con người. Như nhà sói chúng tôi đây tuy sức mạnh không bằng Chúa sơn lâm, nhưng cả một bày sói, với sức mạnh tổng hợp, chúng tôi có thể làm thịt người thợ săn.
Ý kiến ấy thật hay, nhưng thú rừng vẫn bị tiêu diệt, vì chẳng bao giờ chúng học được hai chữ hiệp nhất.
Trước khi từ giã các môn đệ để về cùng Cha, Chúa Giêsu biết rằng những kẻ theo Ngài sẽ bị thế gian ghét bỏ và bị quyền lực sự dữ tấn công, nếu đơn độc chiến đấu, chắc chắn họ sẽ thất bại như Nguyên tổ của họ ngày xưa. Bởi thế, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho họ được hiệp nhất nên một “như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha”. Ngài không cầu xin cho họ có sức mạnh, vì sức mạnh thường đưa con người đến nguy cơ ỷ lại vào mình; Ngài cũng không cầu xin cho họ có quyền lực, vì quyền lực dễ đưa con người lọt vào hố sâu của tham vọng.
Khi cầu nguyện cho cộng đoàn những kẻ nhờ lời các Tông đồ mà tin, Chúa Giêsu đã không xin cho Giáo Hội được phát triển bằng sức mạnh và quyền lực, mà chỉ xin cho tất cả được hiệp nhất trong Ngài và hiệp nhất với nhau, để Ngài ở đâu, họ cũng ở đó, và để họ được chiêm ngưỡng vinh quang của Thiên Chúa.
Người kitô hữu chúng ta hôm nay cũng được mời gọi phản chiếu hình ảnh trung thực của Chúa Giêsu bằng cách sống yêu thương hiệp nhất. Chắc chắn không ai trong chúng ta có thể đứng vững một mình nhưng phải liên kết với nhau để thông truyền sức sống. Muốn liên kết với nhau, chúng ta cần phải ra khỏi con người ích kỷ của mình, phải từ bỏ nhiều tật xấu cố hữu của mình, nhờ đó chúng ta sẽ nên một trong Chúa và được chiêm ngưỡng quyền năng vinh quang Chúa hoạt động nơi chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Sự hợp nhất toàn hảo
Hiện nay, chúng ta thấy trong xã hội có nhiều thứ biến đổi tiến tới đỉnh hợp nhất như quy tụ thành những thị xã, đô thị, thành phố, những hiệp hội, liên hiệp. Ít lâu nay, chúng ta đã trở nên những thành viên không chỉ của một làng xã, một trường học, nhưng còn của một cộng đoàn, một khu vực bao gồm nhiều quốc gia.
Cơ cấu xã hội đang chuyển đổi thành nhóm như: hiệp hội công dân, cộng đồng căn bản, khối kinh tế, liên minh phòng thủ … Một triết gia đã quả quyết thế giới đang thành một làng xã nhờ những phương tiện giao thông tân tiến thần tốc.
Vũ trụ tiến tới hợp nhất dần dần như đáp lại lời kêu gọi của Đức Kitô: “Xin cho tất cả nên một trong chúng ta để thế gian tin rằng Cha đã sai Con”.
Nhưng hợp nhất nên một không hẳn là mặc khải và là bằng chứng của Đức Kitô. Chúng ta có thể thành một nhóm duy nhất, một cộng đoàn tôn giáo tập trung vào chính mình mà không vào Thiên Chúa, thành những nhóm bất khả xâm phạm đối với người ngoài, bất khả chia cơm sẻ áo. Chúng ta có thể sống dưới một mái nhà mà không tạo nên một gia đình.
Hiện thời, chúng ta thấy nhiều sức mạnh dẫn lối chỉ đường đưa loài người đến hợp nhất. Mặc khải của Đức Kitô có mặt ở đó, như đang cưu mang nó, nhưng sự hiệp nhất toàn hảo chỉ thực hiện được trong Thiên Chúa: “Xin cho tất cả nên một trong Chúng Ta”.
Những cộng đoàn Kitô hữu ngày nay có thể là dấu chỉ của sự hợp nhất toàn hảo này khi họ sống biết chia sẻ thực sự về đức tin, đức ái và hành động. Đó là một trong những vai trò của Giáo hội trong xã hội để giúp con người đạt tới vô cùng nhờ cố gắng tập trung vào Thiên Chúa.
CG.
Suy niệm 5: Sống trong hiệp nhất
Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly cũng là lời cầu nguyện cho sự hiệp nhất giữa các môn đệ và giữa tất cả những người tin nhận Chúa Giêsu từ Thiên Chúa. Chúa Giêsu cầu nguyện cách đặc biệt cho tất cả chúng ta được trở nên một như các thành phần chi thể trong một thân mình duy nhất của Ngài, đó là Hội Thánh. Cũng như Ngài và Chúa Cha đã kết hợp nên một. Sự hiệp nhất giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha là sự hiệp nhất trong tình yêu thương và sự vâng phục, và đó là sự hiệp nhất mật thiết nhất. Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta trước nhất và Ngài kết hợp với chúng ta trong bí tích thánh tẩy, qua đó chúng ta được kêu gọi để sống trong sự hiệp nhất tình yêu.
Lời cầu nguyện của Chúa trước lúc khổ nạn cho chúng ta thấy tình yêu cao cả và sự tín cẩn mà Thiên Chúa đã trao cho các môn đệ của Ngài, vì thế Ngài vẫn trao cho các ông một sứ mạng vô cùng lớn lao là rao giảng tên Ngài khắp nơi trên thế gian và cho đến tận cùng thời gian. Chúa Giêsu chết đi và sống lại để tất cả mọi người trở nên một như Ngài ở trong Cha và Cha ở trong Ngài. Chúa Giêsu nói: “Con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con để họ được là một như chúng ta là một”.
Lời Chúa trong bài Phúc Âm hôm nay nói tới sự vinh quang mà Ngài ban cho các môn đệ và Ngài cũng mời gọi tất cả chúng ta hãy mở rộng vòng tay để đón nhận sự vinh quang đến từ tình yêu của Chúa Cha, để tất cả được trở nên một. Tuy nhiên, đây là sự vinh quang khác biệt với sự vinh quang phát sinh từ lòng kiêu ngạo của con người, vì loại vinh quang này chỉ đem tới sự chia rẽ. Sự vinh quang của Chúa Giêsu là sự vinh quang của Ðấng đã tự hạ mình xuống ngang hàng với nhân loại để yêu thương và phục vụ như Ngài đã rửa chân cho các môn đệ. Ðó là sự vinh quang của Ðấng đã không màng tới sự vinh quang của cá nhân, vì thế mà Chúa Cha đã vinh danh Ngài. Thánh Phaolô tông đồ trong thư gởi các tín hữu Philipphê đã nói rằng Chúa Giêsu trong lúc còn sống tại trần thế đã lãnh nhận vinh quang của Thiên Chúa. Vì Ngài tuy là Thiên Chúa nhưng đã trút bỏ vinh quang và mặc lấy thân nô lệ và sống nên người phàm nhân. Ngài lại còn tự hạ mình xuống và vâng lời Cha để chết trên thập giá cho sự cứu rỗi của nhân loại. Chính vì thế mà Cha Ngài đã suy tôn Ngài và ban cho Ngài một danh hiệu vượt trổi hơn các danh hiệu khác. Chính Chúa Cha đã dành cho Con Ngài sự vinh quang vượt lên trên các vinh quang của trần thế. Chúa Giêsu đã có được sự vinh quang đó không phải vì Ngài ưa thích tìm kiếm mà vì Chúa Cha đã ban cho Ngài. Thiên Chúa đã chỉ cho chúng ta phương cách để trở nên một đó là đón nhận sự vinh quang mà Ngài đã ban cho chúng ta, sự vinh quang giúp chúng ta biết phục vụ cho những người khác và mở rộng trái tim đến tất cả mọi người. Sự vinh quang giúp chúng ta biết hạ mình sống gần gũi với tầng lớp của những người anh em khốn khó của mình.
Lạy Chúa, xin hãy thương xót nhân loại và chữa lành các vết thương chia rẽ của chúng con. Xin cho tất cả các tín hữu Kitô sống trong sự hiệp nhất như Ngài đã cầu xin Cha. Xin hãy đổi mới chúng con bằng sức mạnh của Thần Khí để chúng con trở thành dấu chỉ của sự hiệp nhất và làm tăng thêm trong chúng con tình yêu đối với anh chị em khác trong Chúa Kitô.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 6: Hiệp nhất để yêu thương
Trong thời gian qua, lòng con dân Nước Việt luôn thể hiện lòng yêu mến quê hương đất nước và mong sao cho quê hương được thanh bình, không có chiến tranh. Lòng yêu mến đó được chứng minh qua sự can đảm, bất chấp mọi khó khăn... sẵn sàng đứng lên để đấu tranh cho sự thật, công lý và hòa bình trên Biển Đông. Qua những gì vừa xảy ra, hẳn ai cũng hiểu được rằng: chỉ có hiệp nhất, chung lòng thì mới có thể chiến thắng được ngoại xâm.
"Xin cho chúng nên một". Đây là lời nguyện khẩn thiết của Đức Giêsu dâng lên Chúa Cha cho các môn đệ của mình. Đức Giêsu cũng nêu lên mẫu gương hiệp nhất giữa Chúa Cha và Ngài. Và như thế, Đức Giêsu cũng mời gọi các môn đệ cũng hiệp nhất với nhau như Chúa Cha và Chúa Con là một. Qua đó, mọi người sẽ nhận ra chúng ta là môn đệ của Thầy, đó là chúng ta yêu thương nhau.
Ngày nay, người Kitô hữu chúng ta sống sự hiệp nhất ấy qua lời cầu nguyện, bằng hành vi đức tin và sự liên đới. Sự hiệp nhất chỉ có thể có khi chúng ta chấp nhận “hiệp nhất trong đa dạng”. Biết lắng nghe, thông cảm và tôn trọng mọi người.
Lời cầu nguyện và mong muốn của Đức Giêsu khi xưa cho các môn đệ được hiệp nhất, cũng chính là lời cầu nguyện và mời gọi của Ngài dành cho chúng ta hôm nay.
Lạy Cha, ơn cứu độ Cha ban cho chúng con không chỉ dành riêng cho người Kitô hữu, nhưng là cho toàn thể nhân loại. Xin cho chúng con biết loan báo lời của Con Cha cho mọi người không phân biệt, và biết làm chứng cho Cha trong sự hiệp nhất của chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Hiệp nhất với Chúa và với nhau
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho mọi người được hiệp nhất trong Thiên Chúa. Muốn trở nên thành phần trong gia đình của Chúa, chúng ta cần biểu lộ tinh thần hiệp nhất: hiệp nhất với Chúa và hiệp nhất với nhau.
Cầu nguyện: Lạy Chúa là Cha đầy lòng yêu thương, chúng con muốn tiếp nối lời Chúa Giêsu Con Cha, để dâng lên Cha lời cầu nguyện cho thế giới, cho Giáo Hội, cho gia đình con và cho tất cả chúng con được hiệp nhất.
Cha đã tác tạo chúng con trong tình yêu. Mãi mãi Cha vẫn hằng yêu thương chúng con và mong muốn chúng con sống yêu thương nhau, hiệp nhất trong tình yêu của Cha. Nhưng vì tội lỗi, chúng con đã xa cách Cha và xa cách nhau. Dù vậy, Cha vẫn không bỏ chúng con, vẫn kêu gọi chúng con trở về với tình yêu của Cha. Qua dòng lịch sử, từng bước từng bước một, Cha đã hàn gắn sự đổ vỡ và kêu gọi chúng con sống tinh thần hiệp nhất. Sau cùng, chính Chúa Giêsu Con Cha đã xuống thế gian để trở thành mối dây liên kết chúng con với Cha và với nhau. Và hôm nay, Giáo Hội vẫn đang nỗ lực duy trì và phát triển sự hiệp nhất ấy.
Nhưng lạy Cha, công việc của Giáo Hội còn bề bộn lắm. Trong lòng Giáo Hội còn nhiều khó khăn làm cản trở sự hiệp nhất. Là những người sống trong Giáo Hội, chúng con đã cảm nhận được điều ấy. Chính trong giáo xứ, trong gia đình chúng con, vẫn còn nhiều nỗi bất hòa. Xin cho mỗi người chúng con biết nỗ lực thông cảm với nhau, tha thứ cho nhau, biết gạt bỏ ra bên ngoài những ý riêng để đi tới hiệp nhất. Xin Cha giúp mỗi người chúng con biết quên mình, biết hãm dẹp tự ái và kiêu ngạo, để cùng nhau sống hiệp nhất trong tình yêu Cha. Và qua dấu chỉ đó, chúng con làm chứng cho tình yêu của Cha. Amen.
Ghi nhớ: “Xin cho chúng nên một”.
Suy niệm 8: Nên một trong tình yêu Chúa
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một người kia có ba người con trai, trước khi qua đời ông muốn dạy các con bài học hiệp nhất: “Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”, ông gọi các con đến và nói: Vàng bạc thì cha không có, cha có một gia tài quý giá hơn cả vàng và muốn để lại cho các con. Nói xong, ông lấy ra ba chiếc đũa tre trao cho ba người con mỗi người một chiếc và bảo: “Các con hãy bẻ gãy chiếc đũa cho cha xem”. Ba người con vâng lời cha bẻ gãy chiếc đũa dễ dàng.
Sau đó, người cha trao cho ba người con mỗi người một bó đũa và nói: “Các con hãy bẻ gãy bó đũa này cho cha xem”. Lúc này ba người con dùng hết sức vẫn không sao bẻ gãy được. Bấy giờ, người cha mới nói: “Nếu các con biết đoàn kết yêu thương nhau thì các con giống như bó đũa kia sẽ không có sức mạnh nào làm gãy được các con. Ngược lại, nếu các con không đoàn kết yêu thương nhau mỗi người một nơi thì các con sẽ như chiếc đũa kia bị bẻ gãy một cách dễ dàng, hiệp nhất: “Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”.
Nói xong, người cha ra đi trong vòng tay yêu thương của các con.
Suy niệm
Chúa Giêsu cầu nguyện cho các môn đệ và những ai đã cùng chia sẻ với Ngài trong bữa tiệc ly trước khi bước vào cuộc thương khó. Tin Mừng Gioan17,20-26 là những tâm tình cuối cùng trong lời cầu nguyện hướng về Chúa Cha trước khi Ngài bị bắt và kết án trên thập tự. Đó là thời điểm khó khăn khủng hoảng nhất và là thời điểm ly biệt. Chúa Giêsu sống trong thế giới, với kinh nghiệm nhân loại mà Ngài mang lấy, Ngài đã thấy trước được những gì khó khăn liên quan đến đời sống đức tin, Ngài hiểu được sự khó khăn của các tông đồ khi chứng kiến và bước vào cuộc thương khó. Trái tim của Thầy luôn nghĩ đến các môn sinh và những người đã đón tiếp Lời Ngài qua các tông đồ nên Ngài tha thiết cầu nguyện với Cha: “Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ, nhờ lời chúng mà tin vào Con” (Ga 17,20).
Lời cầu với một lòng tha thiết với Chúa Cha cho chúng ta, những người tin vào Ngài, đang sống đức tin ấy giữa lòng thế giới, luôn trung thành với Lời Ngài và hiệp nhất trong tình yêu. Mặc dù chính Ngài còn mang trong mình những lo âu của cuộc thương khó nhưng Ngài vẫn dành trọn lời cầu tha thiết của Ngài cho sự hiện diện của thân phận con người.
Ngài đã nhìn thấy trước những khó khăn của việc giữ đức tin và của sự hiệp nhất với những tương quan của thực tế thế giới trong mọi thời đại. Đó là sự chia rẽ: Chia rẽ giữa các quốc gia, giữa các chủng tộc, giữa các tôn giáo…. Chính sự chia rẽ đào sâu trong lòng con người một vực thẳm của sự ngăn cách và với thời gian, nó sinh ra hận thù, chiến tranh… như chúng ta thấy ở châu Phi và Trung Đông. Sự chia rẽ còn xuất hiện giữa những người cùng chung một niềm tin Kitô. Sự chia rẽ trong Giáo hội đã không biểu lộ được tình yêu Thiên Chúa hiện diện giữa con người trong thế giới mà Đức Kitô mong muốn và đã loan báo cho trần gian. Không chỉ trên bình diện quốc tế, sự chia rẽ còn xảy ra nơi phạm vi nhỏ hơn như trong cộng đoàn, trong công sở và ngay cả trong gia đình. Nó bào mòn hạnh phúc và gây nên sự đổ vỡ trong các mối quan hệ gia đình và xã hội... Trong thế giới hôm nay, sự chia rẽ xảy ra từng ngày, nối tiếp từng năm và kéo dài từ thế kỷ này qua thế thế kỷ kia. Chính vì thế, trái tim của Chúa vẫn tiếp tục rỉ máu và lời cầu nguyện của Ngài vẫn vang vọng và thắm thiết bên Chúa Cha: “Để mọi người nên một, cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng cũng nên một trong Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con” (Ga 17,21).
Chúa Giêsu cầu nguyện vì sự hiệp nhất trước hết là quà tặng ân sủng từ Thiên Chúa, ân ban này sẽ được tìm thấy gốc rễ nơi trái tim của Ba Ngôi mà Chúa Giêsu đã chia sẻ với chúng ta qua vinh quang của Ngài trong tư cách là Con Thiên Chúa. Với ân sủng này, chúng ta cùng Ngài đi vào sự hiệp nhất với Chúa Cha trong Thánh Thần: “Con đã ban cho chúng vinh hiển mà Cha đã ban cho Con, để chúng nên một như Chúng Ta là một. Con ở trong chúng, và Cha ở trong Con, để chúng được hoàn toàn nên một và để thế gian biết rằng Cha đã sai Con, và Con đã yêu mến chúng như Cha đã yêu mến Con” (Ga 17,22-23).
Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay đặt chúng ta, những người đón tiếp và tin vào Lời, trong trái tim và lời cầu nguyện của Chúa Giêsu. Ngài còn tiếp tục cầu nguyện cho chúng ta ở bên Cha để hiệp nhất giữa những chi thể thánh được hoàn thiện. Hiệp nhất nơi gia đình, cộng đoàn, trong Giáo hội với tình yêu chính là hình ảnh của Ngài hiệp nhất với Cha trong Thánh Thần. Chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn để chúng ta khiêm tốn luôn sống trung thành với ân sủng mà Ngài ân ban. Trong tình huynh đệ, hãy đón nhận sự khác biệt của anh em để tìm về một mối hiệp nhất trong tình yêu.
Ý lực sống:
“Xin hiệp nhất chúng con nên một trong tình yêu Chúa…”.
Suy niệm 9: Chúa cầu cho Hội thánh hiệp nhất
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu không những cầu xin Cha cho các môn đệ Ngài, mà còn cho tất cả những người nghe và tin vào lời các môn đệ giảng. Để lời Chúa được mang đến khắp cùng bờ cõi, đến với mọi người, mỗi Kitô hữu chúng ta phải chuyên chăm học hỏi, thấm nhuần Lời Chúa và luôn chia sẻ cho những người mình gặp gỡ.
2. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong bữa tiệc ly cũng là lời cầu nguyện cho sự hiệp nhất giữa các môn đệ và giữa tất cả những người tin nhận Chúa Giêsu từ Thiên Chúa. Chúa Giêsu cầu nguyện cách đặc biệt cho tất cả chúng ta được trở nên một như các thành phần chi thể trong một thân mình duy nhất của Ngài, đó là Hội thánh. Cũng như Ngài và Chúa Cha đã kết hợp nên một. Sự hiệp nhất giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha là sự hiệp nhất trong tình yêu thương và sự vâng phục, và đó là sự hiệp nhất mật thiết nhất. Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta trước nhất và Ngài kết hợp với chúng ta trong bí tích Thánh Tẩy, qua đó chúng ta được kêu gọi để sống trong sự hiệp nhất và tình yêu (Mỗi ngày một tin vui).
3. “Để cả chúng cũng nên một trong Ta”.
Chúa Giêsu cầu nguyện cho Giáo hội ngày mai, tức là cho mọi tín hữu trong tương lai, như vậy có tất cả chúng ta nữa. Ngài cầu xin cho chúng ta được hiệp nhất với nhau trong Giáo hội Ngài thiết lập, để cùng nhau hiệp nhất với Ngài.
“Nên một” là một điều hết sức quan trọng, nên khi cầu nguyện cho bất cứ thành phần nào trong Giáo hội, Chúa Giêsu cũng cầu xin cho họ được điều ấy.
Lạy Cha, xin gìn giữ chúng trong tình hiệp nhất.
Không phải thứ hiệp nhất rẻ tiền: cố nhịn nói, cố tránh va chạm để người ngoài nhìn vào không biết chúng con đang chia rẽ.
Mà là sự hiệp nhất dám chấp nhận những dị biệt và những lời góp ý thẳng thắn.
Một sự hiệp nhất được thúc đẩy bởi ước muốn duy nhất trong lòng mọi người là sống theo chân lý của Cha.
4. Chúa Giêsu cầu nguyện vì sự hiệp nhất trước hết là quà tặng ân sủng từ Thiên Chúa, ân ban này sẽ được tìm thấy gốc rễ nơi trái tim của Ba Ngôi mà Chúa Giêsu đã chia sẻ cho chúng ta qua vinh quang của Ngài trong tư cách là Con Thiên Chúa. Với ân sủng này, chúng ta cùng Ngài đi vào sự hiệp nhất với Chúa Cha trong Thánh Thần: “Con đã ban cho chúng vinh hiển mà Cha đã ban cho Con, để chúng nên một như Chúng Ta là một. Con ở trong chúng, và Cha ở trong Con, để chúng được hoàn toàn nên một và để thế gian biết rằng Cha đã sai Con, và con đã yêu mến chúng như Cha đã yêu mến Con” (Ga 17,22-23).
5. Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã diễn tả rất sâu sắc về giá trị tông đồ của sự hiệp nhất, ngài đã nói như sau: “Lời di chúc thiêng liêng của Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu rằng sự hiệp nhất giữa các môn đệ không những là bằng chứng chúng ta là môn đệ của Ngài, nhưng còn là bằng chứng Ngài được Chúa Cha sai đến và đó cũng là trắc nghiệm về sự đáng tin của các Kitô hữu và của chính Đức Kitô”.
Có hiệp nhất với nhau, các kẻ tin mới tỏ ra mình không phải là những con người bị chia rẽ bởi những tranh chấp, nhưng là những con người trưởng thành trong đức tin, trưởng thành trong lòng mến và có khả năng gặp gỡ nhau nhờ việc cùng tìm kiếm chân lý cách chân thành và vô vị lợi.
Như thế, sự hiệp nhất chứng tỏ chúng ta là môn đệ của Chúa Giêsu, chứng tỏ chúng ta là những người trưởng thành trong đức tin cậy mến, và đó là lý do thu hút người ngoài để họ dễ tin vào lời chứng của chúng ta.
6. Bài Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay đặt chúng ta – những người đón tiếp và tin vào Lời, trong trái tim và lời cầu nguyện của Chúa Giêsu. Ngài còn tiếp tục cầu nguyện cho chúng ta ở bên Cha để hiệp nhất giữa những chi thể thánh được hoàn thiện. Hiệp nhất nơi gia đình, cộng đoàn, trong Giáo hội với tình yêu chính là hình ảnh của Ngài hiệp nhất với Cha trong Thánh Thần. Chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn để chúng ta khiêm tốn luôn sống trung thành với ân sủng mà Ngài ân ban. Trong tình huynh đệ, hãy đón nhận sự khác biệt của anh em để tìm về một mối hiệp nhất trong tình yêu.
7. Truyện: Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết.
Một người kia có ba người con trai, trước khi qua đời, ông muốn dạy các con bài học hiệp nhất: “Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”, ông gọi các con đến và nói: “ Vàng bạc thì cha không có, cha có một gia tài quí giá hơn cả vàng và muốn để lại cho các con”. Nói xong ông lấy ra ba chiếc đũa tre trao cho ba người con mỗi người một chiếc và bảo: “Các con hãy bẻ gẫy chiếc đũa cho cha coi”. Ba người con vâng lời cha bẻ gẫy chiếc đũa dễ dàng.
Sau đó người cha trao cho ba người con mỗi người một bó đũa và nói: “Các con hãy bẻ gẫy bó đũa này cho cha xem”. Lúc này ba người con dùng hết sức vẫn không sao bẻ gẫy được. Bấy giờ người cha mới nói: “Nếu các con biết đoàn kết thương yêu nhau thì các con giống như bó đũa kia sẽ không có sức mạnh nào làm gẫy được các con. Ngược lại nếu các con không đoàn kết thương yêu nhau mỗi người một nơi thì các con sẽ như chiếc đũa kia bị bẻ gẫy một cách dễ dàng, hiệp nhất: “Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết”.
Nói xong, người cha ra đi trong vòng tay yêu thương của các con.
Suy niệm 10: Hiệp nhất để sống theo chân lý.
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
Phân tích
Chúa Giêsu cầu cho các tín hữu đã nghe lời giảng của các môn đệ mà tin vào Ngài:
“Con không chỉ cầu xin cho chúng mà thôi, mà cho tất cả những kẻ nhờ lời chúng mà tin vào Con.”
“Để cả chúng cũng nên một trong Ta.”
“Con muốn rằng, Con ở đâu thì chúng cũng ở đó với Con.”
“Để tình yêu Cha yêu Con ở trong chúng và Con cũng ở trong chúng nữa.”
Suy gẫm
1. “Để cả chúng cũng nên một trong Ta”: “Nên một” là một điều hết sức quan trọng, nên khi cầu nguyện cho bất cứ thành phần nào trong Giáo Hội, Chúa Giêsu cũng cầu xin cho họ được điều ấy.
Lạy Cha, xin giữ chúng con trong tình hiệp nhất. Không phải thứ hiệp nhất rẻ tiền: cố nhịn nói, cố nhịn tránh va chạm để người ngoài nhìn vào không biết chúng con đang chia rẽ.
Mà sự hiệp nhất dám chấp nhận những dị biệt và những lời góp ý thẳng thắn.
Một sự hiệp nhất được thúc đẩy bởi một ước muốn duy nhất trong lòng mọi người là sống theo chân lý của Cha.
2. Nhạc trưởng Michael Costa đang diễn tập với dàn hợp xướng gồm cả trăm nhạc cụ và nhạc công. Bỗng có tiếng sáo ré lên. Chắc người thổi sáo sợ rằng nhạc trưởng không nghe thấy tiếng sáo của mình. Nhạc trưởng cáu kỉnh quát: “Tiếng sáo nào kì vậy?” Và phải tập lại từ đầu.
3. “Con muốn rằng Con ở đâu thì chúng cũng ở đó với Con.” Chúa Giêsu ở đâu? Ở trong tình yêu Chúa Cha; ở trong sự thật; ở trong Thánh Ý Chúa Cha; Ở trên Thập Giá và ở trên thiên đàng.
4. Chính Cha đã sai Con và yêu thương họ như đã yêu thương Con.”
Mỗi lần nói đến cuộc đời Chúa Giêsu, tôi rất dễ dâng lời cảm tạ, ngợi khen, tri ân trước những hy sinh lớn lao của Ngài. Và tôi thường lý luận nông cạn rằng vì Chúa Giêsu được Chúa Cha yêu thương cách đặc biệt nên Người có thể làm mọi sự.
Nhưng hôm nay, trước khi về trời, Chúa Giêsu lại khẳng định với tôi rằng Chúa Cha đã yêu thương tôi như đã yêu thương Chúa Giêsu.
Như vậy, Chúa Giêsu Nadarét ngày nào cũng như tôi hôm nay, và cũng được Chúa Cha yêu thương bằng một tình Cha thật gần gũi. Nhưng khác một điều Ngài đã nhận ra tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình, dù trong những lúc đau thương nhất của cuộc sống. Còn tôi, tôi cũng tin vào tình yêu của Thiên Chúa, nhưng không mấy xác tín rằng Chúa Cha đã yêu thương tôi như đã yêu thương Chúa Giêsu.
Cha ơi, xin cho con cảm nghiệm được Cha yêu con và học biết nơi Đức Kitô cách đáp lại trọn vẹn tình Cha.
Suy niệm 11: Nên một với Chúa
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Chúa Giêsu cầu cho các tín hữu đã nghe lời giảng của các môn đệ mà tin vào Ngài.
1. Chúa cầu nguyện để Chúa ở đâu chúng ta cũng được ở đó với Ngài: “Con muốn rằng, con ở đâu thì chúng cũng ở đó với Con” (Ga 17,24).
Hoàng đế Fransois Joseph là vua nước Hung gia lợi từ 1848-1916, một triều đại dài nhất trong lịch sử và cũng là một triều đại tiến bộ nhất. Hoàng đế là con người rất nghiêm khắc, nhưng lại trị vì đất nước rất khoan dung.
Khởi đầu triều đại của ông, bệnh dịch tả lan tràn khắp Châu Âu. Triều thần đề nghị với vua Fransois Joseph bỏ kinh đô Vienne nước Áo để sang Salzburg nước Hung Gia Lợi, cho tới khi tai họa qua đi. Vua Fransois Joseph liền hỏi:
- Ở Salzburg có đủ phòng nghỉ cho con cái ta không?
Quan đại thần thưa:
- Tâu đức vua, ở Salzburg chắc chắn có đủ phòng nghỉ cho tất cả hoàng gia.
Vua Fransois Joseph hỏi lại hai lần nữa:
- Có thực sự có phòng đủ cho con cái ta chớ?
Rồi giơ tay chỉ vào dân chúng đông đúc đang đứng ngoài sân mà nói với quan đại thần:
- Quan hãy nhìn đám dân chúng đông đúc kia. Họ là con cái của ta cả. Có người cha nào đang tâm bỏ con cái trong nguy hiểm sao? Không! Những người tại thủ đô Vienne này đã chia sẻ vui buồn với ta. Ta sẽ không bỏ họ trong giờ lo âu. Ta phải quan tâm đến họ, như là lo cho chính ta vậy.
Một ông vua trần thế mà còn biết thương và lo cho dân như thế, huống chi là Chúa Giêsu, Chúa của chúng ta. Làm sao Chúa co thể vui khi con cái của Ngài không được chung hưởng hạnh phúc Thiên đàng với Ngài.
Chính vì thế mà trong khi chờ đợi chúng ta phải biết luôn tin tưởng vào tình thương của Chúa. Có như thế chúng ta mới cảm nghiệm được cuộc đời có Chúa là cuộc đời hạnh phúc như thế nào.
Hồi còn làm tổng thống Hoa Kỳ, ông Roosevelt đã có lần sang mãi tận Phi châu để nghỉ hè. Ông thích săn những con hươu cao cổ tại đó. Sau những ngày nghỉ hè thú vị, tổng thống lên đường trở về. Trong chuyến tàu đem tổng thống trở về, người ta cũng thấy có một nhà truyền giáo sau hơn bốn mươi năm phục vụ những người dân Phi châu cùng có mặt trên con tàu.
Khi tàu sắp cập bến, nhà truyền giáo thấy cảnh dân chúng đứng trên bờ cùng với nhiều nhân vật cấp cao trong chính phủ hân hoan chào đón tổng thống Roosevelt đi săn trở về bình an. Ông cảm thấy tủi thân vì hình như chẳng có ai để ý đến mình. Một thân một phận lủi thủi lên bờ. Tự thâm tâm ông như muốn trách Chúa:
- Đấy, Chúa thấy không, tổng thống đi nghỉ hè về thì được nhiều người ra đón rước như vậy. Còn con, con đã hy sinh chịu cực vì Chúa, phục vụ anh chị em nghèo khổ tại Phi Châu trong suốt bốn mươi năm qua. Thế mà bây giờ trở về đây, không ai thèm nghĩ đến con, thật là bất công và tủi cho thân phận con quá.
Nhưng ngay lúc đó, dường như có tiếng Chúa trả lời cho nhà truyền giáo:
- Này con, đừng vội thất vọng, con chưa trở về quê hương thật của con mà!
2. Chúa còn cầu nguyện chúng ta nên một với Ngài: “Để cả chúng cũng nên một trong Ta” (Ga 17,21).
Trong một buổi thuyết trình về đạo được tổ chức trên boong một du thuyền lớn, tiến sĩ A. Simpson giải thích với cử tọa về vấn đề này như sau: Ông lấy một cái chai quẳng vào lòng biển. Cái chai rơi vào đại dương và đang ở trong đại dương.
Nước biển chui vào chiếm hữu cái chai, nước biển càng vào, cái chai càng từ từ chìm sâu vào lòng đại dương. Ông kết luận:
- Cái chai ở trong đại đương và đại dương ở trong cái chai. Đó là hình ảnh xác thực nhất để chỉ mối tương giao giữa Chúa Giêsu và chúng ta là những môn đệ của Người.
Thánh Gioan Thánh Giá, linh mục, trong bài ca thiêng liêng của ngài, ngài đã diễn tả về vấn đề này thật hay như sau: “Chúa Cha đã thực hiện điều Chúa Con cầu xin khi thông ban cho họ chính tình yêu thương Người hằng thông ban cho Chúa Con. Tuy vậy, Người không thông ban cho họ theo bản tính như khi Người thông ban cho Chúa Con, nhưng đã thông ban cho họ bằng cách lấy tình thương mà kết hợp họ với Người và thần hóa họ. Cũng thế, không nên hiểu rằng Chúa Con xin Chúa Cha cho họ nên một theo yếu tính và bản thể như Chúa Cha với Chúa Con là một, nhưng Người chỉ muốn xin cho họ nên một nhờ kết hợp với nhau trong tình thương, như Chúa Cha và Chúa Con vẫn là một trong Tình Thương duy nhất. Do đó, các linh hồn được thông phần với Thiên Chúa những điều tốt đẹp mà Chúa Cha và Chúa Con vẫn có theo bản tính. Vì vậy, nhờ được thông phần với Thiên Chúa, các linh hồn thực sự là những vị thần. Họ nên giống Thiên Chúa và được chung phần với Người.
Lạy Chúa, xin cho chúng con được nên một với Chúa. Amen.
01/06 Xin Cha gìn giữ họ
- Viết bởi Ga 17, 11b-19
Xin Cha gìn giữ họ.
Thứ Tư tuần 7 Phục Sinh. – Thánh Giúttinô, tử đạo. Lễ nhớ.
“Để chúng được nên một như Ta”.
* Thánh nhân là một triết gia và là anh hùng tử đạo. Người sinh tại Phơ-la-vi-a Nê-a-pô-li, ở Samari, trong một gia đình ngoại giáo, đầu thế kỷ thứ 2. Sau khi tin Chúa Kitô, người đã viết nhiều tác phẩm bênh vực Kitô giáo. Trong số đó, còn lại hai tác phẩm “Minh giáo” gửi cho hoàng đế Antôniô và “Đối thoại với ông Triphông”, tranh luận với người Do thái.
Người cũng mở một trường dạy triết lý ở Rôma. Bị một đồng nghiệp tố cáo, người một lòng son sắt tuyên xưng đức tin trước mặt quan toà và đã được phúc tử đạo cùng với sáu Kitô hữu khác, quãng năm 165, thời hoàng đế Máccô Aurêliô.
Lời Chúa: Ga 17, 11b-19
Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: “Lạy Cha chí thánh, xin hãy gìn giữ trong danh Cha những kẻ Cha đã ban cho Con, để chúng được nên một như Ta. Khi Con còn ở với chúng, Con đã gìn giữ chúng trong Cha. Con đã gìn giữ những kẻ Cha đã giao phó cho Con, không một ai trong chúng bị mất, trừ ra con người hư vong, để lời Kinh Thánh được nên trọn. Bây giờ Con về cùng Cha, và Con nói những điều này khi Con còn dưới thế, để chúng được đầy sự vui mừng của Con trong lòng.
“Con đã ban lời Cha cho chúng, và thế gian đã ghét chúng, vì chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. Con không xin Cha đem chúng ra khỏi thế gian, nhưng xin gìn giữ chúng cho khỏi sự dữ. Chúng không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. Xin hãy thánh hoá chúng trong chân lý: lời Cha là chân lý. Cũng như Cha đã sai Con vào thế gian, thì Con cũng sai chúng vào thế gian. Và vì chúng, Con đã tự thánh hoá, để cả chúng cũng được thánh hoá trong chân lý”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Xin Cha gìn giữ họ
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Chúng ta đang sống trong một thế giới tự nhận là khoa học kỹ thuật,
trong đó dường như Thiên Chúa vắng mặt,
và Quỷ dữ, Ác thần, Satan cũng không có chỗ.
Thật ra, cả Thiên Chúa lẫn Satan đều có mặt trong thế giới này.
Con người sống trong thế giới là chịu sự lôi kéo của cả hai.
Khi dâng lời cầu nguyện lúc sắp trở về với Cha,
Đức Giêsu ý thức hơn khi nào hết quyền lực có thật của quỷ dữ
đang tác động trên các môn đệ còn sống ở trần gian.
Chính vì thế Ngài khẩn khoản xin Cha gìn giữ họ khỏi Ác thần (c. 15).
“Khi còn ở với họ, Con đã gìn giữ họ… Con đã canh giữ họ…” (c. 12).
Gìn giữ các môn đệ là việc Đức Giêsu đã làm trong suốt sứ vụ,
và Ngài đã không để ai trong họ phải hư mất, trừ Giuđa.
Những sói dữ bao giờ vẫn có, chúng khuấy phá đàn chiên.
Mục tử Giêsu đã không để ai cướp được chiên khỏi tay mình,
và trong cuộc chiến đấu này, Ngài đã dám hy sinh mạng sống (Ga 10, 11).
Bây giờ Ngài xin Cha tiếp tục gìn giữ các môn đệ (c. 11b),
là đoàn chiên của Cha mà Cha đã ban cho Ngài chăm sóc.
Vì Thiên Chúa là Cha chí thánh đối với Đức Giêsu (c. 11b),
nên Cha có khả năng làm cho các môn đệ nên thánh.
Thánh thiện là thuộc tính của Thiên Chúa Cha,
nhưng Đức Giêsu cũng được gọi là Đấng Thánh của Thiên Chúa (Ga 6, 69),
và Đấng Phù Trợ được gọi là Thánh Thần (Ga 14, 26).
Thánh thiện là nét chung của Ba Ngôi, tách biệt Ba Ngôi khỏi thế giới,
dù thế giới vẫn là đối tượng để Ba Ngôi luôn cùng nhau hướng về.
Ba Ngôi vẫn muốn chia sẻ sự thánh thiện của mình cho thế giới.
“Các ngươi phải nên thánh vì Ta là Đấng Thánh” (Lv 11, 44).
Đức Giêsu xin Cha thánh hóa các môn đệ (c. 17),
nhờ Thánh Thần mà Cha sắp ban xuống trên họ.
Làm cho các môn đệ nên thánh chính là tách biệt họ ra khỏi thế gian,
với lối suy nghĩ và hành động, với những giá trị riêng của nó.
Thánh hóa môn đệ chính là làm cho họ không thuộc về thế gian nữa,
để như Đức Giêsu, họ thuộc về Cha trọn vẹn (c. 16).
Nhưng tách biệt khỏi thế gian lại không có nghĩa là cất họ khỏi đó (c. 15),
và giữ họ an toàn trong tháp ngà bảo đảm.
Đời người Kitô hữu chẳng an toàn, vì họ được sai vào thế gian (c.18).
Thế gian đầy bóng tối, dối trá, hận thù, chính là nơi họ phải đến,
phải đằm mình vào, để biến đổi nó thành ánh sáng, sự thật, tình yêu.
“Các con là muối của trái đất, là ánh sáng của thế gian” (Mt 5, 13).
Được thánh hóa, được tách khỏi thế gian, chính là để được sai vào đó.
Nếu không được thánh hóa, không thuộc về Chúa, thì khi được sai vào,
ta sẽ chẳng biến đổi được thế gian, và sẽ bị nó nuốt chửng.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng
vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu
mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế,
ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn,
bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã hội,
dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ
và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết,
xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân chúng con.
Suy niệm 2: Niềm vui trọn ven
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giêsu yêu mến Chúa Cha. Tình yêu luôn khát khao kết hợp. Kết hợp tạo nên hạnh phúc. Hạnh phúc đem đến niềm vui. Nay Chúa hết thời hạn ở trần gian để trở về cùng Chúa Cha. Nên Chúa tràn đầy niềm vui, Đó là niềm vui trọn vẹn.
Vì yêu thương, Chúa muốn các môn đệ được tham dự vào tình yêu đó. Được hòa nhập trong tình yêu hiệp thông của Ba Ngôi. Được hưởng niềm vui trọn vẹn.
Tuy nhiên còn có khó khăn vì các môn đệ còn ở trần gian. Vì thế phải sống tất cả những mâu thuẫn của ơn gọi. Phải sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Phải thuộc về Thiên Chúa nhưng còn phải chịu xa cách Người. Phải làm chứng về Nước Trời cho trần gian. Phải sống đời siêu nhiên trong tự nhiên. Phải yêu mến nhưng lại phải dứt bỏ trần gian. Đó là những nghịch lý. Hóa giải và vượt qua những nghịch lý đó là nhiệm vụ của người môn đệ.
Chính Chúa Giêsu đã trải qua những khó khăn đó với tất cả những cám dỗ, những thử thách, những đau khổ. Chúa đã phải chiến đấu với chính mình đến toát mồ hôi máu ra. Nên Chúa cầu nguyện xin Chúa Cha gìn giữ môn đệ để tuy sống giữa thế gian nhưng họ không bị nô lệ cho ác thần.
Và Chúa xin Chúa Cha thánh hóa môn đệ bằng Lời Chân Lý. Lời Chân Lý vạch ra những giả trá của thế gian. Lời Chân Lý dẫn đưa đến sự thật và sự sống. Chính Chúa Giêsu đã dùng Lời Chân Lý mà chống lại lời giả trá của ma quỉ trong ba cuộc cám dỗ. Và Chúa làm gương cho các môn đệ khi tự hiến thân mình khi hoàn toàn dứt khoát từ chối trần gian. Chỉ sống theo thánh ý Chúa Cha.
Thánh Phao-lô là một môn đệ gương mẫu đã thực hành lời Chúa dạy. Ngài cảnh báo các kỳ mục Ê-phê-sô về sự giả trá và chia rẽ xuất phát từ chính nội bộ. Đó chính là thế gian với những lời lẽ giả trá. Phao-lô thuộc về Chúa nên từ chối thế gian. Không ham mê của cải danh vọng chức quyền thế gian. Trái lại ngài làm chứng cho Nước Trời bằng cuộc sống siêu thoát và cho đi. Và ngài hiến dâng đoàn chiên cho Thiên Chúa, cho lời ân sủng của Thiên Chúa. Phao-lô làm gương tự hiến mình để mọi người thấy chỉ có Chúa là sự sống, là sự thật và là hạnh phúc. Chỉ nơi Chúa niềm vui mới trọn vẹn.
Suy niệm 3: Xin Cha gìn giữ họ.
Có một câu truyện tưởng tượng như sau:
Khi Chúa Giêsu về Trời giữa muôn vàn tiếng tung hô của các thiên thần. Tổng lãnh thiên thần Gabriel đã phỏng vấn Ngài:
- Lạy Chúa, có phải bây giờ cả trần gian đã nhận biết tình yêu Thiên Chúa dành cho họ chăng?
Chúa Giêsu trả lời:
- Không, chỉ có một nhóm nhỏ đếm được trên đầu ngón tay.
Thiên sứ Gabriel giật mình sửng sốt:
- Lạy Chúa, nếu nhóm nhỏ này gặp chống đối khiến họ thất vọng từ bỏ Chúa trong trường hợp này, Chúa có dự định quay trở lại trần gian không?
Chúa Giêsu đáp:
- Không. Ta hy vọng nơi họ và tin chắc họ không bỏ rơi Ta.
Điều gì đã khiến Chúa Giêsu tin tưởng vào sự trung tín của các môn đệ, dù gặp gian truân thử thách? Chúng ta có thể tìm được câu giải đáp trong bài Tin mừng hôm nay.
Thật thế, dù chỉ là một nhóm nhỏ, các môn đệ đã là đối tượng được Chúa Giêsu đặc biệt quan tâm. Suốt thời gian chung sống, Chúa Giêsu đã gìn giữ họ để không một ai trong bọn họ hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng nghiệm Lời Kinh thánh. Giờ đây, sắp lìa bỏ họ để về cùng Cha, Ngài không che dấu nỗi lo sợ của Ngài. Ngài đã xin Cha gìn giữ các môn đệ trong Danh Cha, nghĩa là được hiệp thông vào sự sống của Thiên Chúa, nhờ đó các môn đệ có đủ sức mạnh để thắng vượt mọi khó khăn trở ngại.
Chúa Giêsu sắp về cùng Cha, nhưng các môn đệ vẫn còn ở lại thế gian và phải đương đầu với thế gian, vì họ đã bước theo Chúa và đã đón nhận lời Ngài. Nhưng nếu vì lời mà họ đã bị thế gian ghét bỏ, thì lời cũng giúp họ được thánh hoá trong chân lý, điều đó cho phép họ lãnh nhận sức sống của Thiên Chúa và xứng đáng được sai đi. Chúa Giêsu sai các môn đệ vào thế gian, cũng như Chúa Cha đã sai Ngài. Và để có thể chu toàn sứ mệnh đó, Ngài đã chuẩn bị cho họ đầy đủ. Trong cuộc hành trình này, họ không đơn độc một mình, vì có Chúa luôn ở với họ và cùng chiến đấu với họ.
Ước gì lời Chúa hôm nay củng cố chúng ta trong niềm tin tưởng vào sự hiện diện và quan tâm săn sóc của Chúa, để ngay giữa những khó khăn thử thách của cuộc sống, chúng ta được luôn kiên vững trong tình yêu và trung thành làm chứng cho Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Đức Kitô và Kitô hữu.
Chúng ta cùng tên: Kitô hữu và Kitô, chúng ta đã được xức dầu bởi Thiên Chúa, nghĩa là được chọn trao cho một sứ mệnh. Hôm nay, lời Đức Giêsu soi sáng cho ta hiểu rõ hơn về sự đồng căn tính và đồng sứ mệnh giữa Người và chúng ta.
Đây: Đức Giêsu đã liên kết chúng ta với Người, với công trình của Người: “Để họ nên một như chúng ta là một”, “Họ không thuộc về thế gian cũng như Con đây không thuộc về thế gian”, “Như Cha đã sai Con đến thế gian, thì Con cũng sai họ đến thế gian”, “Con thánh hiến chính mình Con cho họ, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến”. Chỗ khác chúng ta cũng thấy những câu tương đồng như thế: Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy đã thương yêu anh em”, “Người ta đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em”, “Họ đã giữ lời Thầy, họ cũng giữ lời anh em”.
Những điều quả quyết này của Đức Giêsu ném chúng ta vào trung tâm sức sống và sứ mệnh của Người. Chúng ta cần nghiêm chỉnh đón nhận lời của thánh Phao-lô: “Anh em là thân thể của Đức Kitô”. Đức Kitô là đầu, anh em là chi thể của thân thể Người.
Như thế, chúng ta cùng một đường đi như đầu tiếp với thân thể, cùng một hướng đích và một chỉ huy. Chúng ta còn phải cùng sống vâng phục và sẵn sàng như Chúa Con đối với Chúa Cha. Hơn nữa chúng ta còn chia sẻ mọi gần gũi của Đức Kitô với Thiên Chúa. Chúng ta là thân thể của Đức Kitô, nói cách khác, thân thể của Đức Kitô trong thế giới ngày nay. Chúng ta cùng tên, cùng gốc, chúng ta cần chia sẻ cùng đà tiến triển.
Khi ý thức được đồng căn tính, đồng sứ mệnh rồi, lúc đó một đòi hỏi khẩn thiết xuất hiện thúc đẩy chúng ta phải hiến con người mình, thể diện mình cho Đức Kitô. Chúng ta phải có trách nhiệm đáp lại cho những ai hát câu: “Tôi đi tìm dung nhan Chúa …”. Một câu hỏi đang đè nặng trên chúng ta: “Anh em là thân thể của Đức Kitô, anh em là máu huyết của Đức Kitô, anh em là sự vui mừng, tình yêu và hòa bình của Đức Kitô: vậy anh em đã làm gì để nên giống Người?
LP.
Suy niệm 5: Thánh hiến
Mục đích sứ mạng của Chúa Giêsu là mạc khải chương trình cứu độ của Chúa Cha và nhất là để làm vinh danh Cha, vì thế, tất cả những gì Ngài làm đều nhằm vào mục đích làm sáng danh Chúa Cha. Trước giờ phút chịu khổ nạn trên thập giá và trước sự hiện diện của các môn đệ, Chúa Giêsu đã hướng về Chúa Cha cầu nguyện: “Lạy Cha chí thánh, xin giữ gìn các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con để họ nên một như chúng ta”. Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho sự hiệp nhất giữa các môn đệ, lời cầu nguyện của Ngài cho nhân loại luôn được hiệp nhất với Chúa Cha trong Chúa Con và cùng với Chúa Thánh Linh và kết hợp với tất cả những ai là thành phần chi thể của mình Chúa. Chúa Giêsu đã tuân phục thánh ý Chúa Cha mặc dù đứng trước cám dỗ từ chối vác lấy thập giá. Ngài múc lấy sức mạnh từ Chúa Cha và lấy sự vâng phục Chúa Cha làm sự vinh hiển của mình.
Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta hãy luôn ở trong tư thế sẵn sàng vác lấy thập giá mà theo Ngài bất cứ lúc nào Ngài mời gọi chúng ta. Ngài ban cho chúng ta sức mạnh và quyền năng của Chúa Thánh Linh để sống như các môn đệ của Ngài. Chúa Giêsu cũng cầu xin Chúa Cha thánh hóa và thánh hiến các môn đệ trong sự thật và trong sự thánh thiện của Chúa Cha. Chân lý của Thiên Chúa giải thoát chúng ta ra khỏi sự tối tăm của trí óc và sự thống trị của tội lỗi, nó mang đến cho chúng ta sự tốt lành, tình yêu và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Chúa Thánh Linh là cội nguồn và là Ðấng ban tất cả sự thánh thiện, nếu chúng ta mở rộng cánh cửa tâm hồn để Chúa Thánh Linh bước vào cuộc đời ta và để Ngài tác động, soi sáng và lèo lái chúng ta, thì Ngài sẽ biến đổi chúng ta bằng ngọn lửa thanh tẩy để chúng ta trở nên giống như Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nói: “Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật họ cũng được thánh hiến”. Chúa Giêsu đã tự thánh hiến Ngài như của hy lễ hoàn tất sứ mạng đã được Chúa Cha giao phó và Ngài cũng giao phó sứ mạng đó cho các môn đệ.
Sự thánh hiến của Chúa Giêsu chính là sự khổ nạn của Ngài trên thập giá để qua đó đem tất cả nhân tính của Ngài vào trong sự thánh thiện của Chúa Cha. Sự thánh hiến là sự đổi mới trong Chúa Thánh Linh, bởi vì khi chúng ta mở rộng trái tim để đón nhận sự thánh thiện của Ngài, có nghĩa là chúng ta mở rộng tâm hồn cho Chúa Thánh Linh tác động lên trên cuộc đời của chúng ta. Chúa Giêsu trong lời cầu nguyện đã hướng về Chúa Thánh Linh để qua Ngài mà Chúa tự dâng hiến mình như của hy lễ toàn thiêu. Qua sự thánh hiến của Chúa Giêsu, Chúa Cha cũng thánh hiến toàn thể nhân loại cũng cùng một thể thức, để chúng ta cũng biết đặt mình dưới sức tác động của Chúa Thánh Linh, để Ngài giúp chúng ta bảo tồn đức tin và trung thành với ơn gọi và sứ mạng của mình.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết sống hiệp nhất và biết yêu thương lẫn nhau. Xin hãy thánh hóa chúng con trong chân lý và hướng dẫn chúng con qua Chúa Thánh Linh để chúng con luôn trung thành theo chân Chúa đến bất cứ nơi nào mà Chúa muốn.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 6: Được thánh hiến để trở nên chứng nhân
Câu chuyện ảo tưởng, tham vọng của Ađam và Evà khi nghe theo lời dụ dỗ và lừa phỉnh của Ma Quỷ trong Vườn Địa Đàng khi xưa vẫn được lập lại nơi nhiều người trong xã hội hôm nay, nhất là giới trẻ.
Thật vậy, ngày nay, nhiều người không thể, không biết hoặc đôi khi không nhận ra, nhưng vẫn vui vẻ lựa chọn những chân lý nửa vời, để rồi tin, sống và đi theo. Họ luôn có khái niệm “tạm” cho nhiều tình huống.
Hôm nay, Đức Giêsu cầu xin cho các môn đệ của mình được thánh hiến, tức là được “tách ra” để thuộc trọn về Chúa Cha như Đức Giêsu đã thuộc về Người. Thuộc về Chúa Cha, tức là thuộc về Chân Lý. Thuộc về Chúa Cha cũng là phó thác, tin tưởng vào tình thương của Người. Thuộc về Chúa Cha cũng là vâng nghe lời Đức Giêsu dạy dỗ.
Như vậy người môn đệ được hiện hữu giữa thế gian, nhưng không thuộc về thế gian. Giữa sự ác, lọc lừa, nhưng không thuộc về chúng, mà ngược lại, các ông phải làm chứng cho chân lý Tin Mừng.
Quả thật, các môn đệ đã sẵn sàng làm chứng cho chân lý Tin Mừng như lời Đức Giêsu đã phán: “Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16, 26).
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay muốn nhắc cho mỗi chúng ta hãy nhớ đến Bí tích Thánh Tẩy ta đã lãnh nhận. Khi thuộc về Chúa qua Bí tích này, chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa và trở nên môn đệ của Người. Trở nên môn đệ cũng có nghĩa là trở nên chứng nhân. Vì thế, chúng ta không thể không làm chứng cho Chúa trong cuộc sống thường ngày. Làm chứng cho Chúa, tức là từ bỏ Ma Quỷ và mọi việc, mọi sự sang trọng của chúng. Làm chứng cho Chúa cũng có nghĩa là đi ngược với những điều bất chính mà con người ngày nay bày ra.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã xin Chúa Cha thánh hóa các môn đệ bằng sự thật, bằng Lời của Người, thì xin cũng thánh hóa chúng con để chúng con được thuộc trọn về Cha để chúng con trở nên giống Cha dù vẫn sống giữa thế gian tội lỗi. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Ơn gọi của con là sống giữa đời
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Trước khi về cùng Chúa Cha, Chúa Giêsu cầu xin Chúa Cha gìn giữ các môn đệ còn ở lại trong thế gian. Chỉ cần ta trung thành với Chúa Giêsu, còn ngoài ra, ta cứ an tâm phó thác.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Lời Chúa hôm nay qủa thực có một sức khích lệ an ủi con rất nhiều. Khó có một trang phúc âm nào cho con dễ cảm nếm được mối tình nồng thắm của Chúa bằng Lời Chúa hôm nay. Chúa về với Chúa Cha, nhưng Chúa không bỏ mặc chúng con. Chúa không quên chúng con, trái lại, Chúa còn lo cho tương lai của các tông đồ và lo cho số phận của chúng con còn ở lại trần gian.
Thân phận của người môn đệ Chúa ở giữa thế gian quả là một nghịch lý. Con ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian, sống ở giữa đời nhưng không được sống hoàn toàn như người đời. Không giống thế gian nên con bị thế gian ghét bỏ. Không về hùa với thế gian nên con bị thế gian bách hại. Không để bị lây nhiễm tinh thần thế gian nên con phải can đảm chiến đấu chống lại cám dỗ chạy theo thế gian. Nhưng lạy Chúa, dù gian nan đau khổ, con vẫn tin tưởng phó thác nơi Chúa và trung thành bước theo Chúa. Trái tim con đã thuộc về Chúa, con tin rằng tình yêu và ơn thánh của Chúa sẽ gìn giữ con và giúp con chiến thắng.
Chính vì thế mà con không chạy trốn thế gian. Chúa đã muốn để con ở lại thế gian và sai con vào thế gian. Ơn gọi của con là sống giữa đời, thấm nhập vào thế gian, để phục vụ nhân loại và làm chứng cho Chúa. Xin Chúa giúp con đưa tinh thần Phúc âm vào mọi sinh hoạt của cuộc sống. Xin Chúa gìn giữ con trong chân lý của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Ðể chúng được nên một như Ta”.
Suy niệm 8: Hiệp nhất giữa các môn đệ của Chúa Kitô
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Tháng Giêng năm 2003, tôi đến Rôma kinh thành muôn thuở để họp tại trụ sở Trung ương Dòng, dành những thời gian rảnh, chúng tôi viếng các Đền thờ Mẹ… Tại đền thánh Phêrô, chúng tôi kính viếng lăng mộ của ngài cùng với các Đấng kế vị. Bất ngờ dịp đó chúng tôi được chiêm ngưỡng xác Đức Giáo hoàng Gioan XXIII, vị mục tử được gọi là Giáo hoàng nhân lành. Đức Gioan XXIII, được phong Chân phước ngày 3/09/2000. Xác được đặt ngay phía dưới một bàn thờ trong đền thờ Thánh Phêrô cho dân chúng kính viếng và cầu nguyện nhân dịp kỷ niệm 30 năm khai mạc Công đồng Vaticanô II, Công đồng chung do Ngài loan báo triệu tập. Thi hài ngài được đặt trong hòm kính, với khuôn mặt nguyên vẹn hồng hào như đang ngủ. Công đồng Vaticanô II được gọi là Công đồng Đại Kết vì hướng hiệp nhất của Giáo hội. Tôi nhớ về lời phát biểu của ngài về Đại kết: “Các anh em tín hữu Kitô khác đều là anh em với chúng ta họ chỉ hết là anh em khi họ hết học kinh Lạy Cha…”. Đức Gioan XXIII, vị Giáo hoàng có những nỗ lực phi thường để đối thoại với các tín hữu Kitô để tìm con đường hiệp nhất. Tôi còn nhớ đọc một câu chuyện về Ngài khi trên giường bệnh và giờ hấp hối miệng ngài luôn khẩn nguyện: “Xin cho họ hiệp nhất”.
Suy niệm
Trước khi rời bỏ thế gian, Chúa Giêsu đã thấy trước những tương lai sắp đến với các môn đệ và những người theo Ngài: Những thử thách, có cả những người môn đệ rời bỏ Ngài, sự chia rẽ của các đồ đệ, của các người tin vào Ngài… có cả người rời bỏ niềm tin. Ngài cất lời cầu nguyện khẩn thiết đến Chúa Cha, cho môn đệ, cho thế giới hiệp nhất: “Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng ta” (Ga 17,11b). Lời cầu nguyện chung cho thế gian mà Chúa Kitô trong tư cách là linh mục, Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và con người, nhưng lời cầu nguyện này dành đặc biệt riêng cho các môn đệ mà thánh Clément d’Alexandrie Suy niệm: “Tất cả chúng ta tham dự vào chung một tấm bánh thánh và tất cả chúng ta nhận cùng một dấu thánh được Thánh Thần thánh hiến. Chính vì thế những môn đệ phải trở nên một thân thể và tham dự vào chỉ một và cùng Thần Khí cho một tinh thần hiệp nhất được thực hiện viên mãn, hoàn thành... Chúa Giêsu muốn rằng các môn đệ Ngài thực hiện cùng một sự đồng tâm không thể bị phá hủy, trong một hòa hợp tuyệt vời” (Commentaire de l'évangile selon saint Gioan, XI 9). Hiệp nhất giữa các môn đệ của Chúa Kitô luôn là dấu chỉ và là sứ giả xây dựng sự hiệp nhất và bình an cho thế giới mà Chúa Giêsu ước muốn khi khẩn cầu Chúa Cha.
Không chỉ sự chia rẽ nơi thế giới, người tin vào Chúa Kitô sẽ gặp và đứng trước những khó khăn sống niềm tin. Những người đón nhận Tin Mừng sống theo Tin Mừng gột rửa trong tình yêu của Chúa Kitô, họ sống trong Thần Khí và thực thi yêu thương bác ái, công lý (x. 1Ga 3,13-19). Chính vì thế người tin coi cuộc sống của họ khác với sự chọn lựa của thế gian: Quyền lực, tiền tài, danh vọng. Quyền lực của bóng tối, của thế gian muốn thổi tắt những ngọn đèn đang đốt sáng xua bóng tối. Chúa Giêsu cầu nguyện cho các môn đệ và các người tin vào Ngài luôn kiên cường đứng vững với niềm tin. Luôn là chứng nhân công lý của tình yêu giữa thử thách trăm bề. Sự kiên vững sống niềm tin của người môn đệ Chúa Kitô như những ngọn hải đăng giữa đêm đen của thế gian đầy hận thù, của chia rẽ.
Chúa Giêsu cầu nguyện cho các môn đệ cho những người tin vào Ngài luôn được Chúa Cha đoái thương: “Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật” (Ga17,17). Sự thật là trong cung lòng của Thiên Chúa, tình yêu luôn tuôn trào cho con người và cho thế giới luôn được thực hiện: Thiên Chúa yêu thương nhân loại và Ngài luôn thúc đẩy nhân loại được hòa giải với nội tâm chia rẽ do tội lỗi. Lời hứa bình an và hiệp nhất được chính Con Một Ngài thực hiện qua mầu nhiệm của sự chết: Chết cho tội và phục sinh sống với sức sống mới.
Lời cầu nguyện được xuất phát từ trái tim Đức Kitô, một trái tim dâng hiến yêu thương nhân loại khi cho họ chính sự sống khi trên thập giá, đổ ra giọt máu cuối cùng (x. Ga 19,34) mà Bossuet đã suy ngẫm: “Tư thế của trái tim Ngài và những lời kêu cầu mà Ngài đã cầu xin với Chúa Cha, theo Ngài trong cuộc khổ nạn cho đến khi Ngài chết, đó là linh hồn, của lễ dâng hiến toàn thiêu” (La Cène; II° partie, 33° jour).
Lời cầu nguyện linh mục của Chúa Giêsu luôn dành cho chúng ta với những thực tế mà chúng ta đang sống. Với Chúa Kitô, chúng ta tiếp tục cầu nguyện cho sự hiệp nhất của thế giới, của Giáo hội, của chính chúng ta.
Ý lực sống:
“Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay,
Anh em được sống vui vầy bên nhau”. (Tv 133,1).
Suy niệm 9: Chúa Giêsu cầu cho các môn đệ
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Trong Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cầu cho các môn đệ của Ngài. Phải hiểu chữ “môn đệ” ở đây theo nghĩa hẹp, nghĩa là không phải tất cả những kẻ tin Ngài, mà là một nhóm cán bộ nồng cốt của Ngài, tức nhóm 12 và nhóm 72. Môn đệ Chúa Giêsu hôm nay là các Giám mục, Linh mục và tu sĩ. Chúa cầu nguyện với ba ý chính:
- Gìn giữ các môn đệ trong đức tin.
- Che chở các ông khỏi thế gian hư đốn.
- Tác thánh các ông theo sự thật.
Thánh hiến các ông qua bí tích Truyền Chức.
2. “Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ...”
Trong lời mở đầu bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã cất lời cầu xin cùng Cha Ngài hãy gìn giữ các môn đệ mà Cha đã trao cho Ngài. Vì thế trước khi rời bỏ thế gian, Chúa Giêsu đã thấy trước những tương lai sắp đến với các môn đệ và những người theo Ngài: những thử thách, có cả những môn đệ rời bỏ Ngài, sự chia rẽ của các đồ đệ, của các người tin Ngài... có cả người rời bỏ niềm tin. Ngài cất lời cầu xin khẩn thiết đến Chúa Cha, cho môn đệ, cho thế giới hiệp nhất: “Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng ta”. Chúa Giêsu luôn tin tưởng các môn đệ sẽ trung thành thi hành sứ mạng của các ông.
Có một câu truyện tưởng tượng như sau: Khi Chúa Giêsu về trời giữa muôn vàn tiếng tung hô của các thiên thần. Tổng lãnh Thiên thần Gabriel đã phỏng vấn Ngài:
- Lạy Chúa, có phải bây giờ cả trần gian đã biết tình yêu Thiên Chúa dành cho họ chăng?
Chúa Giêsu trả lời:
- Không, chỉ có một nhóm nhỏ đếm được trên đầu ngón tay.
Thiên thần Gabriel giật mình sửng sốt:
- Lạy Chúa, nếu nhóm nhỏ này gặp chống đối khiến họ thất vọng từ bỏ Chúa trong trường hợp này, Chúa có dự định quay trở lại trần gian không?
Chúa Giêsu đáp:
- Không. Ta hy vọng nơi họ và tin chắc họ không bỏ rơi Ta.
3. Trong lời cầu nguyện cho các môn đệ, chúng ta thấy, Chúa Giêsu không cầu xin Chúa Cha miễn cho các môn đệ khỏi những đau khổ gian truân khi họ thi hành sứ mạng tông đồ. Bởi vì Ngài biết thế nào họ cũng sẽ gặp căm thù, ghen ghét, hành hạ, thử thách, cực khổ. Nhưng Ngài chỉ xin Chúa Cha gìn giữ họ khỏi bị nhiễm lây tội lỗi và sống trong sự thật của lời Ngài. Nói rõ hơn, Chúa Giêsu xin Chúa Cha thánh hóa các môn đệ của Ngài, để trong lúc sống giữa đời, họ vẫn giữ được sự thánh thiện nguyên tuyền.
4. Chúa Giêsu sắp về cùng Cha, nhưng các môn đệ vẫn còn ở thế gian và phải đương đầu với thế gian, vì họ đã bước theo Chúa và đã đón nhận lời Ngài. Nhưng nếu vì lời mà họ đã bị thế gian ghét bỏ, thì lời cũng giúp họ được thánh hóa trong chân lý, điều đó cho phép họ lãnh nhận sức sống của Thiên Chúa và xứng đáng được sai đi. Chúa Giêsu sai các môn đệ vào thế gian, cũng như Chúa Cha đã sai Ngài. Và để có thề chu toàn sứ mạng đó, Ngài đã chuẩn bị cho họ đầy đủ. Trong cuộc hành trình này, họ không đơn độc một mình, vì có Chúa luôn ở với họ và cùng chiến đấu với họ. Ngài đặt nhiều tin tưởng vào họ trong mọi gian nan thử thách.
5. Ước gì lời Chúa hôm nay củng cố chúng ta trong niềm tin tưởng vào sự hiện diện và sự quan tâm săn sóc của Chúa, để giữa những khó khăn thử thách của cuộc sống, chúng ta được luôn kiên vững trong tình yêu và trung thành làm chứng cho Chúa.
Về phía chúng ta, chúng ta hãy sống thánh giữa đời, nghĩa là chúng ta phải sống như sen giữa bùn lầy, ở giữa thế gian, nhưng không thuộc về thế gian. Chúng ta phải sống như men trong bột, như muối ướp cá, như những chiếc đèn trên cao soi sáng cho mọi người.
6. Truyện: Ảnh hưởng của gương sáng.
Nhà giáo dục vĩ đại Booker T. Washington có viết như sau trong cuốn tự thuật mang tựa đề: “Từ ách nô lệ đi lên” của ông: “Càng lớn tôi càng tin chắc rằng, không một sự giáo dục nào có thể gặt hái được từ sách vở hay từ những dụng cụ đắt tiền có thể sánh ví được với những gì ta có thể gặt hái được do tiếp xúc với các bậc vĩ nhân”.
Cách đây ít lâu một phụ nữ Ấn độ giáo đã trở lại Công giáo, sau một thời gian nghe rao giảng Lời Chúa. Bà chịu nhiều dèm pha, đay nghiến từ người chồng do việc bà trở lại đạo. Có lần cha xứ hỏi bà: “Khi chồng con nổi giận và hành hạ con, thì con làm gì”? Bà đáp: “Thưa Cha, con cố gắng nấu ăn ngon hơn, khi ông than trách, con lau chùi nhà sạch hơn; khi ông ăn nói cộc cằn, con trả lời ôn tồn nhỏ nhẹ. Con cố gắng được chứng tỏ cho ông thấy khi con trở lại đạo, con phải là người vợ và người mẹ tốt hơn”.
Một thời gian sau, ông xin trở lại đạo Công giáo, không phải vì lời giảng của cha xứ nhưng chính nhờ gương sáng sống đạo của bà vợ đạo đức của ông.
Suy niệm 10: Chúa Giêsu cầu nguyện cho môn đệ
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
Phân tích
Chúa Giêsu tiếp tục cầu nguyện cho các môn đệ của mình.
Đây là phần thứ hai của kinh nguyện Tư tế. Trong phần thứ nhất mà chúng ta đọc ngày hôm qua (Ga 17,1-11a) Chúa Giêsu cầu nguyện cho chính bản thân Ngài, xin Chúa Cha tôn vinh Ngài. Sang phần hai, phần của hôm nay, Chúa Giêsu cầu nguyện cho các môn đệ của Ngài. Phải hiểu chữ “Môn đệ” ở đây theo nghĩa hẹp, nghĩa là không phải tất cả những kẻ tin Ngài, mà là một nhóm các cán bộ nòng cốt của Ngài, tức nhóm 12 và nhóm 72. Môn đệ của Chúa Giêsu hôm nay là Giám mục, Linh mục, Tu sĩ.
Lời cầu nguyện cho những người này:
- “Xin hãy gìn giữ trong Danh Cha những kẻ Cha ban cho con, để chúng được nên một.”
- “Để chúng được đầy sự vui mừng của Con trong lòng.”
- “Xin gìn giữ chúng khỏi sự dữ.”
- “Xin hãy thánh hóa chúng trong sự thật.”
Suy gẫm
1. Chúa Giêsu biết các môn đệ của mình ở trong một hoàn cảnh hết sứ đặc biệt và tế nhị:
Họ phải sống giữa thế gian. Mà thế gian là một thế gian thù nghịch đối với Chúa Giêsu và các môn đệ của Chúa Giêsu. Thế gian này đã ghét Chúa Giêsu nên cũng ghét các môn đệ của Ngài, thế gian này còn rất xảo quyệt, luôn tìm cách quyến rũ để các môn đệ đi lệch khỏi đường của Chúa Giêsu mà ngả sang phía thế gian.
Ở trong một thế gian như thế, người môn đệ luôn phải đứng trước hai cám dỗ: Một là cám dỗ trốn tránh, xa lánh thế gian; hai là cám dỗ thỏa hiệp với thế gian. Nhưng xa lánh thì làm sao cho chu toàn sứ mạng thánh hoá thế gian, còn thoả hiệp với thế gian thì đánh mất căn tính của mình và cũng đánh mất sứ mạng của mình.
Trong bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu đã cầu xin cho các môn đệ mình hai điều: một là sự hiệp nhất, hai là sự thánh hiến. Đây chính là 2 điều quan trọng để chúng ta tuy sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian.
Điều thứ nhất là hiệp nhất: Kinh nghiệm cho thấy Linh mục hay Tu sĩ nào không thân thiết với anh chị em cùng lý tưởng của mình, không gắn bó với Giáo Hội và với cộng đoàn của mình, thì Linh mục, Tu sĩ ấy dễ sa ngã hơn.
Điều thứ hai là thánh hiến: Chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng Thánh. Thánh hiến ai là làm cho người đó hoàn toàn thuộc về Chúa. Chúa Giêsu cầu xin Chúa Cha lấy Lời Chúa mà làm cho các môn đệ thuộc về Chúa một cách trọn vẹn. Ai đã trọn vẹn thuộc về Chúa thì cho dù người đó có sống trong bao nguy hiểm quyến rũ của thế gian thì cũng không hề hấn gì. Người ấy như sen trong bùn, như ánh sáng chiếu trong đêm tối, như men vùi trong thúng bột. Người ấy vừa luôn trung thành với Chúa của mình, vừa chu toàn sứ mạng thánh hoá thế gian.
3. “Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần.”
Khi đọc câu Lời Chúa này, tôi nhớ lại kinh nghiệm của một anh trong nhóm. Vì không thể từ chối, anh đành phải đi đến một nhà hàng không được “trong ánh sáng” cho lắm. Mỗi người vào bàn, và mỗi người đều có một cô “phục vụ” bên cạnh. Thoạt đầu, anh muốn tránh né, vì nghĩ rằng thái độ có thể làm cô ấy tủi, nên anh cố gắng làm một điều gì đó tốt hơn. Sau khi hỏi thăm về gia cảnh của cô, anh mới hỏi: “Tại sao cô phải là nghề này?” Cô gái thinh lặng một lát rồi bật khóc. Mọi người nhìn anh khiến anh lúng túng… Trước khi anh ra về, cô nói nhỏ: “Có lẽ em sẽ không tiếp tục sống bằng nghề này được.”
Lắm khi tôi xa lánh người xấu, những cái phàm tục, trong khi Chúa Giêsu đã không xin Chúa Cha cất tôi khỏi thế gian. Lắm khi tôi lại mải mê tìm kiếm “danh, lợi, thú.” Và vì sợ mất, tôi đã không dám sống như lời Chúa Giêsu đòi hỏi.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con sống thanh thản. Để nhờ được tự do trong Chúa, xin giúp chúng con tích cực xây dựng cuộc sống trần gian theo như Chúa muốn.
Suy niệm 11: Tự thánh hóa chính mình
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Chúa Giêsu tiếp tục cầu nguyện cho các môn đệ của mình. Chúa không quên nói lên phương pháp giúp các môn đệ chu toàn được sứ mạng rao giảng Tin Mừng Chúa trao phó.
1. Phương pháp đó là gì thì ta hãy nghe lời của Chúa: “Vì họ con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật họ cũng được thánh hiến” (Ga 17,19).
Chúa Giêsu không dạy chúng ta làm điều gì mà chính Ngài đã không làm trước. Mỗi người chúng ta trong cương vị của một người lãnh đạo, lãnh đạo một giáo xứ, lãnh đạo một gia đình, lãnh đạo một đoàn thể, lãnh đạo một tập thể nào đó cũng phải nói như Chúa: “Tôi phải tự thánh hóa chính mình để những người tôi lãnh đạo được thánh hóa”
Người Rôma có một câu châm ngôn rất hay: “Không ai có thể cho cái mình không có”
Nhà giáo dục vĩ đại Booker T. Washington có viết như sau trong cuốn tự thuật mang tựa đề “Từ ách nô lệ đi lên” của ông: “Càng lớn tôi càng tin chắc rằng, không một sự giáo dục nào có thể gặt hái được từ sách vở hay từ những dụng cụ đắt tiền có thể sánh ví được với những gì ta có thể gặt hái được do tiếp xúc với các bậc vĩ nhân”.
Chúng ta có thể sửa đổi lại lời của ông để áp dụng cho các bậc cha mẹ: “Càng lớn lên, tôi càng tin chắc rằng, không một sự giáo dục nào có thể gặt hái được từ sách vở hay từ những dụng cụ đắt tiền có thể sánh ví được với những gì ta gặt hái được do được sống với các bậc cha mẹ vĩ đại của mình”.
Nếu chúng ta muốn tìm một phương cách để giúp con cái mình quí chuộng sự cầu nguyện, thì không gì hay hơn là chính chúng ta hãy biết sốt sắng cầu nguyện trước.
Nếu chúng ta muốn tìm một phương cách để hướng dẫn con cái mình biết tham dự Thánh Lễ cách tích cực và sốt sắng thì không gì hay hơn là chính chúng ta hãy tham dự Thánh Lễ một cách tích cực và sốt sắng trước.
Và nếu chúng ta đang tìm phương cách để thúc giục con cái chúng ta biết yêu thương tha nhân hơn thì không gì tốt hơn là chúng ta hãy làm gương về lòng yêu thương trước.
Vì theo các nhà giáo dục thì:
Thầy giáo đầu tiên và quan trọng nhất đối với con cái chính là cha mẹ chúng. Không điều gì có thể thay thế ảnh hưởng của cha mẹ đối với con cái.
- Dù là chương trình giáo dục có nổi tiếng nhất trên thế giới
- Dù là giáo xứ có tốt nhất trên thế giới.
- Dù là trường học có tốt nhất trên thế giới
- Dù là bạn bè có tốt nhất trên thế giới, tất cả những cái đó tuy có góp phần vào việc giáo dục con trẻ, nhưng chúng cũng chỉ đóng vai trò ảnh hưởng thứ yếu.
Thầy giáo đầu tiên và quan trọng nhất đối với con cái chính là cha mẹ chúng. Không điều gì có thể thay thế ảnh hưởng của họ.
2. Còn cầu nguyện thì Chúa cầu nguyện điều gì? Dĩ nhiên đó phải là những điều làm Chúa bận tâm hơn cả. Đây là những bận tâm của Chúa đối với các tông đồ lúc đó và chúng ta sau này:
Cầu xin cho họ ơn hiệp nhất trong yêu thương.
Cầu cho họ khỏi bị bách hại.
Cầu cho họ được thánh hiến trong sự thật.
Thứ nhất: Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho các Tông đồ được luôn hiệp nhất trong yêu thương. Chính sự hiệp nhất trong yêu thương như một dấu chỉ cụ thể làm cho người ta nhận ra các tông đồ là những môn đệ đích thực của Chúa. (Ga 13,35)
Thứ đến: Chúa Giêsu cầu nguyện để các Tông đồ lúc đó và sau này được gìn giữ cho khỏi bị ác hại bởi thần dữ. Lý do vì “thế gian ghét anh em, vì Thầy đã chọn anh em và tách anh em ra khỏi thế gian, vì thế mà thế gian ghét anh em” (Ga 15,18).
Sau cùng, Người cầu cho họ luôn được ơn thánh hiến trong sự thật:
Thánh hiến nhờ Sự thật và trong Sự thật là gì?
Về phía Thiên Chúa thì sự thật đó là: Thiên Chúa là Cha nhân từ đầy yêu thương, Người muốn cho con hết thảy con cái mình được cứu rỗi.
Về phía loài người chúng ta thì sự thật là: Loài người chúng ta rất yếu đuối vì bị ảnh hưởng của tội lỗi, nhưng nếu chúng ta thật lòng nhìn nhận và tôn thờ Thiên Chúa thì chúng ta sẽ lãnh nhận được ơn Chúa cứu chuộc.
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con,
xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.
Mỗi lần con thấy Chúa,
xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con rước Chúa,
xin biến đổi môi miệng con.
Mỗi lần con nghe Lời Chúa,
xin biến đổi tai con.
Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn
sau mỗi lần con được gặp Chúa.
Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa
trong nụ cười của con,
thấy sự dịu dàng của Chúa
trong lời nói của con.
Thế giới hôm nay không cần những Kitô hữu
có bộ mặt chán nản và thất vọng.
Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm
cùng đi với Chúa và với tha nhân
trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.
31/05 Nhận ra dấu chỉ của Chúa
- Viết bởi Lc 1, 39-56
Nhận ra dấu chỉ của Chúa.
Thứ Ba tuần 7 Phục Sinh – ĐỨC MARIA THĂM VIẾNG BÀ Ê-LI-SA-BÉT. Lễ kính.
"Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi?"
Lời Chúa: Lc 1, 39-56
Trong những ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Giacaria và chào bà Elisabeth. Và khi bà Elisabeth nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Elisabeth được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng:
"Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này tai tôi vừa nghe lời Bà chào, thì hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện".
Và Maria nói: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa. Này từ nay muôn thế hệ sẽ khen rằng tôi có phước, vì Đấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại và Danh Ngài là thánh. Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những người kính sợ Chúa.
"Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai thần trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không. Chúa đã săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi người đến muôn đời".
Maria ở lại với bà Elisabeth độ ba tháng, đoạn Người trở về nhà mình.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
1. Maria ở lại độ ba tháng--Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Từ Nadarét, Chị Maria đã phải đi 160 cây số
để đến nhà ông bà Dacaria.
Ngày nay, người ta cho rằng nhà của ông bà tư tế này là ở En Kerem,
một ngôi làng nằm trên đồi, vây bọc bởi những cây ô liu và vườn nho,
cách Giêrusalem 6 cây số về hướng tây.
Cuộc hành trình vất vả, dài như cuộc hành hương lên Đền Thánh.
Chị Maria không đi một mình,
chắc Chị đi với một người bà con.
Hơn nữa, chị đi với Giêsu đang lớn lên trong lòng Chị.
Khi nghe sứ thần nói bà chị họ Êlisabeth già nua đang mang thai,
Maria thấy mình có bổn phận phải vội vã lên đường.
Chị muốn đem đến cho bà Êlisabeth sự hiện diện của Chị.
Một sự hiện diện khiêm tốn và lịch sự.
Chị đã mở lời chào khi vừa bước vào nhà ông bà tư tế Dacaria.
Chúng ta không rõ Maria đã chào như thế nào,
nhưng lời chào của Chị đã làm bật dậy nơi bà Êlisabeth
một chuỗi những âm vang mạnh mẽ và bất ngờ.
Tai vừa nghe lời chào của cô em Maria,
Êlisabeth thấy thai nhi trong lòng mình nhảy lên vì vui sướng (cc. 41, 44).
Lập tức bà được đầy tràn Thánh Thần.
Thánh Thần đã khiến bà nhận ra những mầu nhiệm lớn lao
đang diễn ra trong cuộc hạnh ngộ ở đây, vào giây phút này.
Êlisabeth lớn tiếng ca ngợi Maria là người phụ nữ diễm phúc nhất.
Maria có phúc vì được chọn làm Mẹ sinh ra Đấng Cứu độ (c. 42),
và vì đã tin Chúa sẽ thực hiện những gì Người nói với mình (c. 45).
Ngỡ ngàng và ngây ngất trong hạnh phúc, Êlisabeth kêu lên:
“Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa của tôi đến với tôi thế này?” (c. 43).
Như thế mầu nhiệm ẩn kín nơi Chị Maria, bà Êlisabeth đã biết.
Ngược lại, khi thấy bà chị họ của mình mang thai,
Maria xác tín hơn vào những lời sứ thần đã nói với mình.
Một sự hiện diện mang tính phục vụ.
Maria đã ở với bà Êlisabeth độ ba tháng để giúp bà trong lúc sinh nở.
Tất cả những việc trong nhà, hẳn chị Maria đã tận tâm chu tất.
Khi Chị nhận mình là nữ tỳ của Chúa (Lc 1, 38),
khi bà Êlisabeth gọi Chị là Mẹ của Chúa tôi (c. 43),
thì Chị lại trở nên nữ tỳ phục vụ bà chị họ cao niên.
Sự hiện diện của Chị đem lại cho cả nhà niềm vui và hạnh phúc.
Giêsu vẫn lớn lên từng ngày trong Chị, và Chị cảm nhận điều đó.
Lời ca Magnificat chẳng phải chỉ được cất lên một lần.
Lời ngợi khen ấy thấm nhuần cuộc sống của Chị.
Mãi mãi Chị là nữ tỳ hèn mọn được Thiên Chúa cúi xuống (c. 48).
Và Chị biết mình cũng phải cúi xuống để phục vụ tha nhân.
Mọi cuộc gặp gỡ của chúng ta hằng ngày đều có tính linh thánh.
Trong niềm vui của Thánh Thần, ta vừa cho đi, vừa nhận lãnh,
vừa ngợi khen Chúa, vừa phục vụ con người.
Ước gì chúng ta thấy mình lớn lên nhờ dám mở ra để gặp gỡ.
Cầu nguyện:
Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm,
lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu.
Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi
âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,
từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con
đừng sợ lên đường mỗi ngày,
đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa
dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu
để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ
đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa. Amen.
2. Thân mẫu Chúa đến với tôi--‘Manna’
Trong Chúa Nhật cuối cùng của mùa Vọng,
Hội Thánh mời gọi chúng ta suy niệm về cuộc gặp gỡ
giữa hai người mẹ: Chị Maria và bà Êlisabét,
giữa hai thai nhi: Đức Giêsu và Gioan Tẩy Giả.
Một cuộc gặp gỡ chan chứa niềm vui.
Niềm vui của chị Maria với bước chân vội vã
băng qua những vùng đồi núi trập trùng xứ Giuđê.
Chị không đi một mình trên đường xa,
vì chị tin có một mầm sống đang lớn lên trong chị.
Chị chỉ mong cho mau đến nhà bà Êlisabét
để phục vụ bà trong những ngày gần sinh nở.
Niềm vui bất ngờ của bà chị họ sau lời chào của Maria.
Bà ngây ngất trước hồng ân mà cô em mình đã nhận được.
Bà tràn ngập hạnh phúc vì được Thân Mẫu Chúa đến thăm.
Êlisabét cảm thấy đứa con trong dạ cũng nhảy mừng.
Dường như bà quên cả niềm vui riêng tư,
để chỉ còn nhớ đến niềm vui cứu độ cho cả dân tộc.
Cuộc gặp gỡ diễn ra trong bầu khí của Thánh Thần.
Thánh Thần vẫn tác động trên chị Maria.
Thánh Thần tràn đầy bà Êlisabét.
Thánh Thần đã hoạt động nơi thai nhi Gioan (Lc 1,15).
Chị Maria đem đến niềm vui cho nhà ông Dacaria
vì chị mang lại Đấng ban Tin Mừng cứu độ.
Chị đem đến sự phục vụ khiêm hạ
và chị cưu mang Đấng đến để phục vụ.
Khi được trở nên nữ tỳ của Thiên Chúa,
chị Maria đã sống như nữ tỳ của con người.
Chị có phúc vì chị được chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế,
chị còn có phúc vì chị đã tin rằng
Chúa sẽ thực hiện những gì Người nói với chị.
Chúng ta chiêm ngắm Đức Giêsu đang lớn dần trong lòng mẹ.
Ngài tăng trưởng như mọi người.
Những nhịp đập đầu tiên của trái tim nhỏ bé,
những nét riêng tư đầu tiên của khuôn mặt.
Con Thiên Chúa đã mang quả tim và khuôn mặt người phàm.
Từ khi Ngôi Lời được cưu mang trong dạ mẹ,
không ai có quyền khinh rẻ một thai nhi,
vì mỗi thai nhi đều mang khuôn mặt của Con Thiên Chúa;
không ai được coi thường người phụ nữ,
vì Thiên Chúa đã muốn Con mình được một trinh nữ sinh ra.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đức Maria đi phục vụ bà Êlisabét, theo ý bạn, đâu là những đặc tính của một người phục vụ tốt?
Nhiều quốc gia chấp nhận cho phá thai. Bạn nghĩ gì về sự kiện đó?
Cầu Nguyện
Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa,
xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ
tinh tuyền và trong ngần như dòng suối.
Xin ban cho con quả tim đơn sơ,
mau quên những nỗi buồn phiền.
Một quả tim hào hiệp dám hiến thân, dịu dàng để cảm thông.
Một quả tim trung thành và quảng đại,
không quên ơn, không báo oán.
Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn,
yêu mà không mong được yêu lại,
hân hoan xóa mình đi
để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác.
Một quả tim vĩ đại và bất khuất,
không khép lại trước những vô ơn,
không chán nản trước người lạnh nhạt.
Một quả tim khắc khoải lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô,
quả tim mang vết thương vì yêu Ngài,
vết thương chỉ lành khi được sống với Ngài trên trời. Amen.
3. Đức Mẹ Thăm Viếng--GM GB. Bùi Tuần
1. Mấy ngày nay tôi đau nhiều. Đêm rồi, những cơn đau làm tôi không sao ngủ được. Tôi nghĩ tới lễ Đức Mẹ đi thăm Bà Elisabét (31.5.2014). Tôi lần chuỗi mân côi, và nói với Đức Mẹ: “Mẹ ơi, con đau lắm, đứng lên không được. Xin Mẹ thương con. Mẹ có thể đến thăm con, được không?”. Tôi nói như thế nhiều lần. Rồi lại lần chuỗi.
2. Một lát sau, tôi cảm thấy có một sự gì lạ xảy ra trong tôi. Tôi dần dần như được trầm mình vào một dòng nước thiêng liêng. Dòng nước thiêng liêng ấy rửa tôi khỏi tình trạng lo âu. Tôi cảm thấy tâm hồn được bình an nhẹ nhàng. Tôi thấy mình thực bé nhỏ, hèn mọn, yếu đuối. Đột nhiên, tôi nhớ lời Chúa Giêsu phán xưa: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất, mà không thối đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24). Với lời đó, Chúa dạy tôi và các môn đệ Chúa hãy là hạt lúa gieo vào lòng đất, để chịu chết đi, thì mới được cùng với Chúa cứu các linh hồn.
3. Khi đề cập đến việc cứu các linh hồn, tự nhiên tôi được một ánh sáng thiêng liêng cho thấy: Hiện nay rất nhiều người đang bị quỷ Satan khống chế, xiềng xích, lôi kéo từ tội nọ sang tội kia. Để sau cùng phải sa xuống hoả ngục. Cứu được chỉ một người ra khỏi quyền lực Satan đã là chuyện không dễ chút nào, phương chi cứu nhiều người. Ngay để cứu chính mình cũng là việc không tự mình làm được. Dứt khoát phải nhờ vào Chúa. Mà, để được Chúa cứu, thì hãy khiêm nhường. Hết sức khiêm nhường.
4. Tôi như thiếp đi. Rồi tỉnh lại. Tôi nhận ra là Đức Mẹ đã đến thăm tôi. Tôi không nhìn thấy Đức Mẹ. Nhưng chính ở sự Đức Mẹ đến một cách kín đáo tế nhị, mà tôi càng mến phục sự khiêm nhường của Đức Mẹ.
Tôi cảm được sự khiêm nhường của Mẹ là một vẻ đẹp và là một hương thơm, dấu chỉ tình yêu cứu độ của Mẹ.
5. Việc Đức Mẹ thăm tôi đã qua rồi. Tôi hết lòng cảm tạ Mẹ. Có hai điều Mẹ để lại trong tôi một cách đặc biệt.
Điều thứ nhất là cảnh nhiều người thời nay bị Satan khống chế.
Chính tôi đã thấy và đang thấy cảnh đó. Thực là ghê gớm. Phúc Âm kể lại một người bị quỷ ám xin Chúa cứu. Chúa hỏi quỷ tên là gì? Nó thưa: Tên tôi là đạo binh.Chúa bắt quỷ phải ra khỏi người đó. Chúng nhập vào đàn heo gần đấy. Đàn heo rất đông từ sườn đồi lao mình xuống vực thẳm (x. Lc 8,26-33). Tôi dám nói là hiện nay các đạo binh quỷ nhập vào một người, một gia đình hay một cộng đoàn cũng đang xảy ra, tuy dưới hình thức nhẹ hơn. Chúng vẫn còn đó. Những người bị ác thần nhập nhiều khi cảm thấy rất khổ, muốn thoát, nhưng không tự mình thoát được. Đức Mẹ dạy tôi là các con của Mẹ hãy sống như hạt lúa gieo vào lòng đất, làm của lễ hy sinh, để cùng với Chúa Giêsu mà cứu họ.
6. Điều thứ hai là sự nhiều môn đệ Chúa thời nay đang dần dần coi thường đức khiêm nhường.
Đúng lý ra, người môn đệ của Chúa phải luôn coi mình làkẻ được Chúa sai đi, vì thế phải quan tâm làm tốt những gì Chúa muốn mình làm vì lợi ích các linh hồn. Sống như thế đòi phải rất khiêm nhường. Nhưng thực tế đang xảy ra khác. Nhiều người môn đệ Chúa lại tự đánh giá mình theo những gì mình biết làm, theo khả năng của mình, như mọi người trong xã hội mình sống, chứ không như Chúa muốn. Do đó, họ coi cạnh tranh uy tín, địa vị là bình thường, coi đấu tranh giành thắng lợi cả trong lãnh vực tôn giáo cũng là chuyện hãnh diện, coi tìm vinh quang cho cá nhân mình cũng là làm cho Chúa.
7. Những điều trên đây được Mẹ nhắc nhủ cho tôi. Tôi nhận biết là đạo đức đang xuống dốc ở ngoài đời cũng như ở trong đạo. Tôi quyết sửa ngay nơi bản thân tôi. Nhưng thú thưc tôi chưa làm đủ, làm đúng như Chúa muốn. Tôi sám hối và cầu xin Mẹ thương thêm sức cho tôi. Đức Mẹ thôi thúc tôi hãy tận dụng thời gian còn lại để cùng với Chúa cứu các linh hồn. Nếu chần chừ, tưởng chừng mọi sự sẽ êm xuôi cả, chẳng có gì xấu sẽ xảy ra đâu, thì ai biết được những bất ngờ có thể xảy ra!
8. Khi tôi đang ngồi viết gần xong bài này, thì tôi nghe còi xe cứu hoả rú. Từ xa rồi gần lại. Tôi mở cửa đi ra, thì thấy xe cứu hoả đang ở sân Toà Giám Mục. Tôi hoảng sợ. Hỏi ra, thì biết dân xung quanh thấy khói đen bốc ra từ một căn phòng khu nhà góc Toà Giám Mục. Họ gọi xe cứu hoả. Đúng là đang có cháy do chập điện. May mà kịp cứu. Tôi nghĩ tới những bất ngờ.
9. Thực sự tôi đang thấy những bất ngờ đau đớn đang xảy ra đó đây trên thế giới, trong khu vực, trên Quê Hương và ngay tại địa phương bé nhỏ này. Bất ngờ này kéo theo bất ngờ khác. Tôi hỏi Đức Mẹ, thì Mẹ cho tôi nhớ lại tất cả những gì Đức Mẹ đã cảnh báo ở Fatima. Sẽ có những cơn đau đớn bất ngờ khủng khiếp xảy ra, nếu người ta không sám hối và khiêm nhường tỉnh thức.
Tôi cầu xin Mẹ thương đến viếng thăm Đất Nước Việt Nam yêu dấu của tôi. Xin Mẹ ban cho tất cả đồng bào tôi được yêu thương nhau, biết bảo vệ và phát triển những giá trị đạo đức thiêng liêng cao quý.
Lạy Mẹ, xin đến cứu con khỏi mọi tội lỗi.
4. Đức Mẹ Đi Thăm Viếng--GM GB. Bùi Tuần
Phụng vụ Hội Thánh định ngày 31 tháng 5, để kính nhớ biến cố Đức Mẹ Maria đi thăm viếng bà thánh Isave.
Hằng năm, đến lễ này, tôi thường làm ba việc sau đây:
1/ Cảm tạ Mẹ đã đi thăm bà thân mẫu của Gioan Baotixita. Nhờ cuộc viếng thăm này, Gioan Baotixita được thánh hoá, sau này trở thành người dọn đường cho Đấng Cứu thế.
2/ Cảm tạ Mẹ đã đi thăm bà mẹ già Isave. Nhờ đó Mẹ làm gương cho muôn đời: về sự người trẻ, dù chức cao quyền trọng, nên biết cộng tác với người già, trong chương trình cứu độ.
3/ Nguyện cầu Mẹ vẫn tiếp tục đi thăm các con cái Mẹ, nhất là thăm những đứa con nghèo túng, bệnh tật, lầm lạc, thiếu mọi phương tiện để hành hương đến những nơi Mẹ hiện ra..
Tôi xin phép triển khai đôi chút ba việc kể trên.
Thánh hoá Gioan Baotixita.
Phúc Âm thánh Luca thuật lại: “Hồi ấy, bà Maria lên đường vội vã, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Bà vào nhà ông Giacaria, và chào bà Isave. Bà Isave vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng bà Isave như nhảy lên và bà được tràn đầy Thánh Thần. Bà liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này. Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng chị nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,39-45).
Rõ ràng, bà Isave đã được Chúa soi sáng cho biết người em họ còn rất trẻ của mình mới nhận một vai trò hết sức quan trọng trong kế hoạch cứu độ của Chúa. Chúa soi sáng cho bà qua một dấu chỉ. Dấu chỉ đó là bào thai bà đang mang bỗng nhảy mừng, khi Đức Mẹ vừa cất tiếng chào.
Tôi thấy các dấu chỉ trên đây đều xảy ra một cách rất âm thầm. Sự hiểu được ý nghĩa các dấu chỉ này cũng rất âm thầm. Tất cả diễn ra trong bầu khí thanh vắng của nội tâm. Nếu nội tâm không có sự thanh vắng, chắc chắn những ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần sẽ không thể được nội tâm đón nhận.
Xin cảm tạ Chúa đã cho Đức Mẹ và bà thánh Isave một thanh vắng êm đềm trong nội tâm sâu thẳm và nhạy bén.
Xin cảm tạ Chúa vẫn ban cho thời này những nội tâm như thế theo gương Đức Mẹ và bà thánh Isave.
Những việc thánh hoá như thánh hoá Gioan Baotixita vẫn được Chúa làm trong thời nay, cũng vẫn một cách âm thầm lặng lẽ như xưa.
Thế nhưng, thời nay, tại nhiều nơi, việc thánh hoá, thánh hiến, đang có vẻ đóng khung vào những cơ chế mang nặng hình thức, như lễ nghi rườm rà, y phục nhất định, kinh sách dài dòng, hát xướng huyên náo. Thêm vào đó là những tổ chức đón tiếp, trình diễn, mừng chúc, tiệc tùng, tặng quà, trong bầu khí náo động nhộn nhịp, ồn ào. Những khung cảnh như vậy có thể tốt với nhiều điều kiện. Nhưng xem ra đang có chiều hướng phát triển theo tinh thần thế tục. Nếu cứ vậy, thì sẽ không còn sự thanh vắng nội tâm cần thiết. Thay vào đó sẽ là một “sự thánh hoá, thánh hiến” ồn ào, hội nhập vào sự ồn ào của một thế giới hướng ngoại rất xa lạ với sự thánh hoá thực chất của Phúc Âm.
Cộng tác giữa trẻ với già.
Kinh Thánh tả việc Đức Mẹ đi viếng bà Isave là một cuộc “lên đường vội vã” (Lc 1,39). Người vội vã lên đường chính là một người phụ nữ rất trẻ, mới mang thai Chúa Cứu thế bởi phép Chúa Thánh Thần.
Với niềm tin như thế, Đức Mẹ có thể tự hào, tự đắc, tự tin. Nhưng không. Đức Mẹ đã vội vã lên đường. Hướng đi là tìm đến người chị họ Isave. Bà Isave là người đàn bà mà chính thiên sứ Gabriel gọi là “đã già rồi” (Lc 1,36), nhưng mới được thụ thai con trai nhờ ơn Chúa thương ban.
Khi nhìn những bước đi thầm lặng, vất vả, vội vã của người phụ nữ trẻ Maria, Mẹ Đấng Cứu thế, tôi rất xúc động. Mẹ băng qua bao nhiêu dặm đường, để lên vùng núi, tìm thăm người chị họ đã già. Những bước đi vội vã đó đáng trân trọng hơn muôn vàn quà tặng.
Nhưng khi thấy trong giây phút vừa gặp nhau, người chị họ già lại là người chúc khen người em họ còn trẻ, tôi bàng hoàng bỡ ngỡ. Thánh Isave đã mở lòng Maria, để từ đó trào ra những lời tạ ơn Chúa.
Hình ảnh cuộc gặp gỡ thân thiết giữa một bà mẹ trẻ và một bà mẹ già là một gợi ý. Đối với tôi, đó là một gợi ý về sự cộng tác giữa trẻ và già. Hai bên cùng tự do cộng tác, không do áp lực nào. Nhưng cả hai cùng được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần. Hai bên nói đây không phải chỉ hiểu về hai cá nhân. Nhưng cũng được hiểu về cả một thế hệ đi sau và thế hệ đi trước.
Sự cộng tác này hiện nay trở nên cần thiết, khi nhiều tổ chức xem ra đang có nguy cơ phá sản về kỷ cương, và các giá trị đạo đức truyền thống.
Mẹ tiếp tục đi thăm.
Để cứu nguy, nhiều nơi đang phát động việc hành hương đến những nơi Đức Mẹ hiện ra. Người ta vẫn tin những nơi đó linh thiêng. Vì những nơi đó được Đức Mẹ viếng thăm. Tôi rất hoan nghênh những cuộc hành hương đó.
Nhưng, khi suy gẫm về biến cố Đức Mẹ đi thăm viếng bà thánh Isave, tôi vẫn nghĩ rằng: Đức Mẹ có tấm lòng muốn chia sẻ Tin Mừng, muốn hướng về những người khác, muốn lên đường, ra đi cứu độ. Vì thế, tôi thường cầu xin Đức Mẹ thương đến thăm tôi, khi tôi không thể đi hành hương đến những nơi Mẹ hiện ra. Tôi cũng xin điều đó cho mọi người, không phân biệt họ là ai.
Tôi rất xác tín sự Đức Mẹ có lòng thương xót đặc biệt đối với những người nghèo khổ, bệnh tật, bị trói buộc vào những hoàn cảnh éo le không sao gỡ được. Tôi xin Mẹ đoái thương đến thăm họ.
Hiện nay, nhiều người không công giáo và công giáo, hoặc công giáo bê bối, vẫn thích mang giữ ảnh tượng Mẹ trong nhà và trong mình. Hiện tượng đó cho phép tôi nghĩ rằng: Đức Mẹ đang tìm cách đến thăm từng gia đình và từng người. Thăm một cách lặng lẽ, nhưng thân mật. Từ đó, nhiều người nhận thức dần dần về một thế giới thiêng liêng. Đồng thời họ khát mong gặp được một Đấng thiêng liêng, để đời mình khỏi mất hướng.
Tôi hy vọng những con cái Mẹ cảm nhận được điều đó, để biết bước theo Mẹ và thay Mẹ đến thăm cứu giúp những người đang chìm dần xuống cảnh khổ nguy.
Để kết, tôi xin phép kể một câu chuyện nhỏ:
Một bà mẹ đi chợ, một tay xách giỏ, một tay ẵm đứa con nhỏ . Ở một góc chợ, có một bà lão ăn mày, hai tay giơ lên, miệng nài khẩn kẻ qua người lại. Bà mẹ bồng con đứng lại, rút ở giỏ ra chiếc bánh và ít tiền. Bà không đưa trực tiếp cho bà ăn mày. Nhưng trao cho đứa con đang bồng trên tay. Bà ngồi xuống, bảo con đưa bánh và tiền cho bà lão ăn mày. Đứa bé vâng lời thực hiện từng chi tiết mẹ dạy. Làm xong, đứa bé tỏ vẻ vui mừng hớn hở. Nó làm thay cho mẹ nó.
Bà mẹ đó đã nói với tôi: Bé của con làm thay cho con. Nhưng con cũng làm thay cho Đức Mẹ. Lời đơn sơ đó đủ nói cho tôi sứ mạng mà Mẹ Maria đang trao cho con cái Mẹ trong cuộc sống hôm nay. “Hãy thay Mẹ đi thăm viếng những người khốn khó”. Việc thăm viếng này có thể thực hiện được bằng nhiều cách. Yếu tố quan trọng nhất của mọi cách thăm viếng theo gương Mẹ là tấm lòng tế nhị, nhạy bén và thương cảm trong Chúa Giêsu.
5. Thăm viếng bác ái và truyền giáo--TGM Giuse Nguyễn Năng
Sứ điệp: Việc Đức Maria thăm viếng gia đình ông Gia-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét vừa có tính cách bác ái vừa là truyền giáo. Truyền giáo là cùng với Chúa Giêsu đến chia sẻ niềm vui nỗi buồn của kẻ khác và phục vụ họ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, Mẹ Maria đã đem Chúa đến gia đình ông Gia-ca-ri-a. Cuộc thăm viếng này không những đem lại niềm vui, mà còn đem ân sủng của Chúa xuống trên gia đình người chị họ neo đơn, nhờ đó mà Thánh Gioan Tiền Hô được tẩy sạch tội lỗi, nhảy mừng trong lòng bà Ê-li-sa-bét.
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng con rất thường gặp gỡ, thăm hỏi nhau. Bạn bè tri kỷ thỉnh thoảng tâm sự với nhau, bên ly cà phê nóng, bên ly rượu lai rai..., rồi những dịp ma chay cưới hỏi trong xóm trong làng. Thế nhưng con tự hỏi: những khi gặp gỡ kẻ khác, không biết con đã thực sự đem lại niềm vui và ơn thánh của Chúa cho kẻ khác chưa. Con chỉ có thể đem Chúa đến cho kẻ khác khi con có Chúa ở trong mình theo cung cách của Đức Mẹ. Chúa ở trong cung lòng của Đức Mẹ vừa là Thiên Chúa quyền năng, vừa là người con rất thân thiết. Lạy Chúa, khi rước Chúa mỗi ngày, con có Chúa ở trong tâm hồn con. Xin Chúa cho con đón nhận Chúa với tất cả tấm lòng. Đối với con, không những Chúa là Thiên Chúa của con mà còn là Đấng thân yêu nhất, là Đấng mà con có thể hiến dâng cả cuộc sống, có thể hy sinh từ bỏ tất cả những gì ngăn cản con sống với Chúa. Xin Chúa sống trong con như Đấng con quý mến nhất, yêu thương nhất.
Con tin rằng khi đó con có thể đem Chúa đến với người mà con gặp gỡ, để chính họ cũng đón nhận được chính Chúa. Xin Chúa dạy con đem Chúa đến với kẻ khác bằng thái độ yêu thương, phục vụ, chân thành và khiêm hạ giúp đỡ tha nhân. Amen.
Ghi nhớ: “Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm tôi?”
6. Đức Mẹ đi thăm viếng Bà Êlisabeth--GM Phaolô Nguyễn Thanh Hoan
Anh chị em thân mến,
Chúng ta đang đứng trước một cuộc thăm viếng vừa là chuyện của cuộc đời thường, mà cũng là một mầu nhiệm, Chúa Giêsu vừa đầu thai trong lòng mẹ đã đi thăm vị Tiền Hô tương lai của mình. Cả hai còn trong lòng mẹ mà đã biết nhau. Đức Giêsu đem Thánh Linh đến, Gioan Tẩy Giả trong lòng đã nhảy mừng chào đón Người.
Nhưng hôm nay nhân ngày lễ hành hương kính Mẹ, tôi muốn anh chị em ngắm nhìn dung mạo và tâm hồn Mẹ, người tín hữu đệ nhất của Tân Ước trước mầu nhiệm đi viếng này, và đây là bài học quý giá cho cuộc đời tín hữu của chúng ta. Bài Tin Mừng hôm nay làm nổi bật những thái độ tâm hồn của Đức Mẹ như sau:
Mẹ là người có một Đức tin sâu thẳm.
Mẹ là người có tâm hồn nghèo khó tuyệt vời.
Mẹ là người có con tim tràn đầy tình chia sẻ.
1. Đức tin sâu thẳm của Đức Mẹ.
Trong lời chào mừng được Thánh Linh soi sáng của bà Êlisabeth, ta thấy một lời tán dương thật bất ngờ: “Phúc cho em là người đã tin rằng, Chúa đã thực hiện những gì người đã nói với em” (Lc 1,45).
Chúa đã nói gì với Đức Mẹ? Đó là lời sứ thần chuyển đến cho Mẹ trong giờ truyền tin: “Thánh Thần Chúa ngự xuống trên bà, và quyển năng Đấng Tối Cao sẽ toả bóng trên bà, vì thế Đấng Thánh mà bà sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa”. Đây là cuộc thụ thai nhiệm mầu, người trần không ai hiểu được. Tiếng xin vâng của Đức Mẹ lúc đó là cả một niềm tin sâu thẳm vào quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Mẹ ôm ấp thánh ý Chúa vào lòng và nguyện cầu cho thánh ý đó trọn vẹn nơi mình. Tiếng “Xin Vâng” của Mẹ là một quyết định vào đời trong Đức Tin, là tiếng nói “có”, không do dự với Thiên Chúa trước một tương lai đang mờ mịt. Con thuyền đời của Mẹ ra khơi mà không nghĩ gì đến sóng gió ba đào, có thể chờ đợi mình. Tiếng Xin Vâng của Mẹ là cả một niềm tin yêu, phó thác cả tương lai mình cho Thiên Chúa. Là sẵn sàng cho gươm đâm thâu trái tim, là chứng kiến và hiệp thông với sự hy sinh của người con yêu trên thập giá.
Tại nhà bà Êlisabeth, Mẹ nhận được một lời tán dương: “Em có phúc”, không phải vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, mà là Mẹ đã tin, đã sẵn sàng để cho Thiên Chúa dẫn dắt mình qua những nẻo đường mới lạ.
Cuộc sống của người tín hữu đúng nghĩa là sống trong thánh ý Thiên Chúa, là bước đi trong Ánh sáng của Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô, mà nhiều lúc ta thấy không giống với lý luận của người đời, nhiều lúc phải dám nói như thánh Phaolô: “Sự khôn ngoan của người đời là sự dại dột trước mặt Thiên Chúa”. Cuộc đời đầy gian nan, đầy thập giá, người đời coi đó là vô phúc, là thiếu khôn ngoan, thì người tín hữu phải đánh giá đó là của lễ Tình yêu theo Tin Mừng, Chúa mời gọi ta dâng hiến.
Để đạt tới hạnh phúc như vậy, ta cần phải học cho được tâm hồn nghèo khó của Đức Mẹ.
2. Tâm hồn nghèo khó của Mẹ.
Tâm hồn nghèo khó là bài học đầu tiên Chúa dạy các môn đệ Ngài: “Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”.
Tại nhà bà Êlisabeth, Mẹ đã thể hiện tâm hồn nghèo khó đó như thế nào. Tinh thần hay tâm hồn nghèo khó thì khác với sự thiếu thốn về vật chất mà ta thường coi là bất hạnh. Cùng với tâm hồn nghèo khó là tâm hồn khiêm tốn, nhận ra mình là tạo vật do Chúa dựng nên từ chút vật liệu tầm thường là bùn đất, tro bụi. Nếu chúng ta có trở nên người may mắn, thông minh, tài giỏi, giàu sang hay quyền thế, tất cả đều do Chúa ban cho. Đừng tự mãn như là tự mình tạo nên được. Philatô nói với Chúa: “Ông không biết rằng tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao?”, Chúa đáp lại: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài”.
A đam - Evà đã lầm, khi thấy mình được tự do nói “không” hay nói “có” với Thiên Chúa, bèn quên đi hồng ân đầy tình thương đó, không chịu nghe lời chỉ bảo của Ngài, để theo Satan ăn trái cấm mong được quyền hành như Ngài. Cứ ăn bừa trái cấm, ăn rồi mới thấy mình trần truồng, nghĩ là không còn chi nữa. Mất Chúa là tai hoạ lớn nhất,khủng khiếp nhất cho con người.
Trong bài ca tạ ơn tại nhà bà Êlisabet, Mẹ dâng lời tạ ơn Thiên Chúa, khi bà Êlisabet ngợi khen Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, lập tức Mẹ lại xưng mình là nữ tỳ hèn mọn của Chúa. Mẹ đang nhìn thấy Chúa dẹp tan người lòng trí kiêu căng, hạ bệ người quyền thế, bắt người giàu có trở thành tay không. Đó là những kẻ cứ tưởng mình là chúa của mình.
Bài học khiêm nhường của tâm hồn nghèo khó là bài học cứu độ cho con người, và khi Chúa Kitô muốn dâng một của lễ xoá tội trần gian, Ngài đã hạ mình vâng lời Chúa Cha, vâng lời cho đến chết trên thập tự.
Muốn làm con Chúa, muốn có hạnh phúc Nước Trời, ta cần suy gẫm và cầu xin Đức Mẹ dạy bảo cho chúng ta biết bài học của Chúa Kitô: Sống hiên lành và khiêm nhường trong lòng. “Hãy học cùng Ta,vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” đó là hạnh phúc thật.
3. Con tim tràn đầy chia sẻ của Đức Mẹ.
Đọc bài Tin Mừng hôm nay chúng ta không bỏ qua được tâm hồn nghèo khó đi đôi với con tim tràn đầy tình chia sẻ của Đức Mẹ. Làm người ai mà không cần đến tình thương. Tham lam, ích kỷ đang làm hao mòn tình thương trên mặt đất nầy.
Từ Nazaret đến Ain Karim, Mẹ đã lên đường mang theo Chúa Giêsu cùng đi với Mẹ. Trước hết thì Mẹ với tư cách là bà con, Mẹ muốn chia vui khi nghe Tin Mừng thiên thần báo thụ thai cách lạ lùng, trước đó 6 tháng. Mẹ cũng hiểu ý Chúa quyền năng muốn mời gọi Mẹ mang theo sứ mệnh mừng vui và bình an cho chị họ mình, khi Mẹ lên đường có Chúa đi theo. Một hoạt động mang tính nhiệm mầu và bác ái.
Cuộc gặp gỡ người ta quen nói là mẹ gặp mẹ, con gặp con và Thánh Linh thì hoạt động. Bà Êlisabet được đầy Thánh Thần và chào mừng Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Gioan thì nhảy mừng trong dạ mẹ, còn Đức Mẹ không ngớt lời ngợi khen Thiên Chúa.
Thiên Chúa tình yêu đang ở giữa lòng Mẹ. Tình yêu đó đang đốt nóng cõi lòng Mẹ, và mọi cử chỉ, hành động của Mẹ đều chan chứa tình yêu.
Mầu nhiệm này cũng là biến cố có liên hệ đến cuộc sống của chúng ta hôm nay. Mỗi người tín hữu vẫn cưu mang Chúa trong cuộc đời đức tin của mình. Sống ở đâu chúng ta cần biết biểu lộ tình yêu để làm chứng cho Chúa ở trong chúng ta và chúng ta là môn đệ Chúa, mọi sự bắt nguồn từ tình yêu.
Gia đình Kitô giáo nào cũng phải là mẫu mực của sự thuận hoà, đầm ấm vì có Chúa tình yêu luôn hiện diện trong gia đình của mình. Và đàng khác nhiệm vụ khẩn trương mà mỗi Kitô hữu không thể quên là phải biết giới thiệu Thiên Chúa Tình Yêu cho biết bao người thành tâm thiện chí muốn biết Chúa.
Chúng ta đến Tàpao xin nhiều ân huệ của Mẹ, xin đừng quên điều Chúa nhăn nhủ: Hãy loan báo Tin Mừng Tình Yêu cho người nghèo khó. Xin Mẹ ban cho chúng ta ân huệ đó.
7. Người phụ nữ diễm phúc--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
A- Phân tích (Hạt giống...)
Đức Mẹ Maria được bà Êlisabét gọi là người có phúc nhất trong tất cả các phụ nữ. Qua đoạn Phúc Âm này, ta có thể thấy được một số lý do khiến Đức Mẹ diễm phúc như thế:
- Vì Mẹ có đức tin vững mạnh: “Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói với em”.
- Vì Mẹ luôn có Chúa Giêsu trong mình
- Vì Mẹ biết quan tâm mang hạnh phúc đến cho người khác
- Vì Mẹ biết sống như một “người nghèo của Thiên Chúa”: “Kẻ đói nghèo Ngài ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng”.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Nhà vua bị bệnh nặng. Quan ngự y lo lắng, nhưng đành bó tay. Một nhà chiêm tinh đến bảo vua chỉ khỏi bệnh khi nào được mặc chiếc áo của một người hạnh phúc nhất.
Quan quân đổ xô đi khắp nước để tìm người hạnh phúc nhất. Cuối cùng thì họ cũng tìm được một người hạnh phúc thực sự. Nhưng khổ thay, người ấy quá nghèo, chẳng có lấy một chiếc áo! (Góp nhặt)
2. “Bà Maria lên đường, vội vã đến miền núi, vào một thành thuộc chi tội Giuđa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét.” (Lc 1,39-40)
Mẹ Maria ơi! Ngày xưa Mẹ thật đơn sơ và dễ thương khi hăng hái lên đường giúp bà Êlisabét. Những bước chân nhẹ nhàng, đầy niềm vui phục vụ. Rồi ngày Mẹ lo lắng sợ hãi đem trẻ Giêsu trốn sang Ai cập. Những bước chân nặng nề, cuống cuồng vì tai họa trần gian… Và con không cảm nhận hết tâm trạng của Mẹ khi theo sau Chúa Giêsu trên đường lên núi Sọ. Nhìn những giọt máu của con mình cùng cái chết dành cho loại tử tội xấu xa, những bước chân nhục nhã, đau khổ… Thánh giá Mẹ vác quá nặng mà Mẹ vẫn vượt qua và bước tới.
Con cũng biết “Tin” là “Bước đi”. Nhưng nhiều khi con chới với, con ngã lòng, con chưa có sức bước trong sự dẫn dắt tuyệt vời của Thiên Chúa. Con chưa tin đủ.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp con xác tín rằng những bước chân vui buồn khấp khểnh ở đời này, từng bước đường sướng khổ gập ghềnh hôm nay sẽ làm nên lối nhỏ dẫn lên Trời nếu con bước với lòng phó thác, tin yêu. (Hosanna)
8. Đức Maria thăm viếng bà Elisabeth--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Vừa mang thai Đức Giêsu, Đức Maria đã vội vã đi thăm bà Elizabeth. Đức Mẹ vừa vào nhà thì việc lạ đã xảy ra: hài nhi Gioan đã nhảy mừng trong lòng bà Elizabeth! Được Chúa Thánh Thần soi sáng bà đã cất tiếng ngợi khen Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa.
Lãnh sứ mạng sinh Chúa Cứu Thế, Đức Maria đã nghĩ ngay đến người khác. Mẹ đem Chúa đến cho thân nhân, Mẹ thực thi bác ái trọn hảo. Và theo lời bà Elizabeth, Mẹ nêu gương lòng tin tuyệt vời vào Lời Chúa phán hứa. Chính nhờ niềm tin vững mạnh đó mà Mẹ đã được Thiên Chúa chọn sinh Đấng Cứu Thế.
Phải có tinh thần biết chia sẻ cho người khác
Sau khi đón nhận tin cưu mang Đấng Cứu thế, Đức Maria đã vội vàng đi thăm gia đình Giacaria để chia sẻ niềm vui trong gia tộc. Mẹ ra đi loan truyền niềm vui cho bà chị họ và đem Đấng Cứu Thế đến cho Gioan Tẩy giả. Vì thế, thai nhi nhảy mừng trong lòng mẹ như là lời đáp trả được đón nhận niềm vui cứu độ mà Tin mừng đã trình bày. Maria đã đem lại niềm vui cho gia đình bà chị họ và cũng tạo thêm cho chính Mẹ niềm vui, niềm vui chờ đón Con Mẹ khi dấn thân phục vụ mà Mẹ đã biểu lộ qua lời ca Magnificat.
Con người không những cần được cung cấp của ăn thức uống cho thân thể, nhưng còn phải được chia sẻ tâm tình trong cuộc sống. Đúng là: “Có đi có lại mới toại lòng nhau”. Chúng ta cũng phải theo gương Đức Mẹ mà biết chia sẻ cho người khác vì như người ta nói: “Niềm vui mà được chia sẻ thì tăng lên gấp bội, còn nỗi buồn mà được chia sẻ thì được giảm đi một nửa”.
Ảnh hưởng hỗ tương của việc thăm viếng
Khi chúng ta thăm viếng một người nào, chúng ta tự nhận thấy là mình đang làm một việc tốt đẹp cho người đó. Đó là sự thật. Nhưng chúng ta cũng được lợi cho mình nữa.
Khi thăm viếng, Maria đem đến cho ông bà Giacaria và Elizabeth niềm vui và sự phục vụ, đồng thời chính Ngài lại đón nhận được sự nâng đỡ về tinh thần: Ngài thêm xác tín về lời sứ thần khi thấy bà chị họ hiếm muộn mà bây giờ đã có thai. Ngài ngỡ ngàng khi thấy mầu nhiệm được làm Mẹ Đấng Thiên Sai, nay đã được Thánh Thần tỏ bày cho bà chị họ biết. Niềm hứng khởi và những lời chúc mừng của bà Elizabeth đã động viên Ngài cất lên lời ngợi khen cảm tạ hồng ân Thiên Chúa trong kinh ngợi khen Magnificat.
Đức Maria, mẫu gương của bác ái
“Đức Maria đã vội vã ra đi lên miền núi”: điều đó nói lên sự nhiệt tình của Đức Maria trong việc đi thăm viếng, chia sẻ vui buồn, giúp đỡ gia đình bà chị đang bối rối vì mang nặng đẻ đau. Dù phải đi bộ đến ba, bốn ngày đường xa xôi hiểm trở cũng không ngăn cản nổi gót liễu yếu đào tơ đầy lòng thương mến của Ngài.
Dầu Đức Maria có nhiều lý do để không ra đi, không tiến hành cuộc hành trình: nào là từ nay phải giữ gìn sức khỏe nhằm lợi ích cho thai nhi. Nào là đường đi xa xôi, nguy hiểm, lại phải mất ba bốn ngày mới tới nơi. Lộ trình này có nhiều rủi ro nguy hiểm, nhất là cho thân gái dặm trường. Trước những trở ngại này và thêm vào đó không có một chỉ thị nào về phía Chúa bảo phải đi, để Maria có lý do từ chối.
Những lý do trở ngại ấy không cản bước được Đức Maria. Người ta dễ dàng né tránh lời mời gọi của bác ái, nại đến những lý do ít nhiều chính đáng. Nhưng lòng quảng đại của Đức Maria phá tan mọi chần chừ, lưỡng lự để vội vã lên đường. Đúng là tình yêu mạnh hơn sự chết.
Truyện: Lòng bác ái của bác sĩ Longet
Bác sĩ Longet là một người Pháp, đã từng phục vụ ở Việt Nam cách đây mấy mươi năm và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tom Dooley, người Mỹ đã phục vụ ở Đông Nam Á. Ông tận tụy săn sóc các bệnh nhân bất kể giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, ngày lẫn đêm.
Được hỏi tại sao ông quý mến bệnh nhân như thế?
Bác sĩ Longet đáp:
- Vì tôi thấy Chúa Giêsu trong mỗi bệnh nhân.
Chính vì thế, mỗi sáng khi đi dự thánh lễ; bệnh nhân lương hay giáo, ai muốn đi ông đều chở trên xe; mỗi chiều Chúa nhật, ông lại chở các bệnh nhân đi chơi, tham quan nơi này nơi nọ. Và mỗi tối ông lần hạt chung với người Công giáo. Ít lâu sau, ông Longet trở về nước Pháp, vào chủng viện dâng mình làm linh mục và tình nguyện sang phục vụ những người nghèo ở Giáo phận Cần Thơ. Nhưng tiếc thay, sau khi chịu chức xong, ông lâm trọng bệnh và qua đời trước khi tới nơi hằng mong ước.
9. Cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ--Lm Giuse Đinh Tất Quý
A. Thánh Luca thuật lại một cuộc gặp gỡ giữa hai người mẹ: người mẹ già và người mẹ trẻ.
- Người mẹ trẻ là người đến thăm. Người đó chính là Đức Maria, người đang mang Chúa Giêsu trong lòng, người được gọi là người “có phúc hơn mọi người nữ”, và là người có một niềm tin tuyệt vời.
- Người mẹ già là người được thăm: Đó là bà Êlizabeth. Bà cũng đang cưu mang. Người con bà cưu mang là người con của ân sủng. Người mẹ già và cả con người con của mình đều cảm thấy được diễm phúc trước sự xuất hiện của người mẹ trẻ “Bởi đâu tôi được diễm phúc là Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi như vậy! Vì này tai chị vừa nghe lời em chào thì hài nhi liền nhảy mừng trong lòng chị”.
+ Cuộc viếng thăm mà thánh Luca thuật lại là cuộc viếng thăm tuyệt đẹp: dẹp trong ý nghĩa và đẹp trong thành quả.
Đẹp trong ý nghĩa bởi vì đây là cuộc viếng thăm của hai người mẹ đang cưu mang trong mình những con người thánh.
Và đẹp trong thành quả vì cuộc viếng thăm này đã đem lại những kết quả tuyệt vời: Gioan Tẩy giả được thánh hóa ngay từ trong lòng mẹ và Mẹ Maria đã để lại cho hậu thế một bài ca, một bài ca thánh, có một không hai trong Lịch sử ơn Cứu độ, để nói lên tâm tình tạ ơn và ca tụng lòng nhân từ của Thiên Chúa
+ Chúng ta cầu xin cho cuộc viếng thăm này trờ thành mẩu mực cho các cuộc viếng thăm nhau của chúng ta.
B. Quả vậy khi nhìn vào cuộc sống xô bồ ngày nay, chúng ta thấy chuyện đi thăm viếng nhau ngày càng ít dần, nhất là những người sống nơi thành thị. Có khi hai người ở sát nhà nhau mà không gặp nhau suốt cả tháng trời. “Tình nghĩa láng giềng” ngày càng lợt lạt, thay vào đó là “đèn nhà ai nhà nấy sáng”, và “sống chết mặc bây”. Linh mục Azevedo nhận xét: ngay cả những tu sĩ ở cùng một cộng đoàn mà nhiều khi chỉ “sống bên cạnh nhau” chứ không phải “sống với nhau”. Câu chuyện Đức Mẹ lặn lội đường xa đến thăm và giúp đỡ bà Êlisabeth là một lời nhắc nhở những người sống cạnh nhau hãy nhớ đến nhau.
Hơn nữa khi chúng ta thăm nhau, thử hỏi chúng ta đã đem lại được gì tốt đẹp cho những người chúng ta viếng thăm hay chỉ là những chuyện cà kê dê ngỗng với nhau hoặc là ngồi lê đôi mách. Việc thăm viếng nhau như thế chẳng những không giúp ích gì cho nhau mà còn làm dịp tội cho nhau và là dịp để nói xấu người khác.
Có lẽ chúng ta cũng phải thành thực kiểm tra lại những cuộc thăm viếng của chúng ta xem: Tôi có mang Chúa đến cho người tôi thăm viếng hay không? Những điều tôi nói có phải là Tin Mừng khiến người được tôi thăm cảm thấy được bình an và hạnh phúc hơn không?
Mẹ Têrêsa thành Calcutta đã thuật lại một câu chuyện sau nhân dịp một đài truyền hình phỏng vấn Mẹ.
Mẹ nói: Một lần khi khi còn ở Úc tôi có đến thăm một người thuộc thổ dân Aborigine. Ông cụ sống trong cảnh cô độc thật thảm thương. Ông sống trong một túp lều xiêu vẹo với tuổi đã già nua của mình. Khởi đầu câu chuyện cho lần gặp đầu tiên, tôi đã đề nghị:
- Để tôi dọn dẹp nhà và sửa soạn giường ngủ cho ông.
Ông ta trả lời hững hờ:
- Tôi đã quen sống như vậy rồi.
- Nhưng ông sẽ cảm thấy dễ chịu hơn với căn nhà sạch sẽ và ngăn nắp.
Sau cùng ông ta bằng lòng để tôi dọn dẹp lại nhà cửa cho ông. Trong khi quét dọn tôi thấy một cái đèn cũ đẹp nhưng phủ đầy bụi bặm và bồ hóng. Tôi hỏi ông:
- Có bao giờ ông thắp đèn này chưa?
Ông la trả lời cộc lốc:
- Nhưng thắp đèn để cho ai? Có ai bước chân vào nhà này bao giờ đâu? Tôi sống ở đây đã từ lâu không hề trông thấy mặt người nào cả.
Tôi hỏi ông:
- Nếu như có người tình nguyện đến thăm ông thường xuyên, ông có vui lòng thắp đèn lên không?
- Dĩ nhiên.
Từ ngày đó, các nữ tu quyết định mỗi chiều sẽ ghé qua nhà ông. Ông ta bắt đầu thắp đèn và dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ hơn. Ông còn sống thêm hai năm nữa. Trước khi qua đời ông nhờ các nữ tu ghé thăm nhắn tin giúp ông:
- Xin nhắn với mẹ Têrêsa, bạn tôi, rằng ngọn đèn mà mẹ thắp lên trong đời tôi vẫn còn chiếu sáng.
Đó chỉ là một việc nhó mọn, nhưng trong bóng tối cô đơn của đời tôi, một tia sáng đã thắp lên và vẫn còn tiếp tục chiếu sáng mãi.
Vâng! Đúng là một cuộc viếng thăm thật tuyệt vời.
Ngọn đèn cũ không được thắp sẽ trở nên vô dụng và quên lãng nơi một xó xỉnh nào đấy, nhưng khi được châm vào một chút dầu tình yêu và sự bao dung thì nó đem đến sự sáng và sưởi ấm lòng người. Giờ đây, con người dù phải sống cô độc nhưng không còn cô đơn nữa vì bóng tối đã bị đẩy lui và nhường bước cho tình yêu và lòng bao dung của những đốm sáng nhỏ nơi con người, nơi nhân loại.
10. Đức Maria vội vã lên đường--Lm. Giuse Nguyễn Văn Tuyên
George Washington, một trong những nhà anh hùng của nền độc lập Hoa Kỳ, thường được đề cao như một người con chí hiếu đối với mẹ mình.
Sau những trận chiến cam go nhất, giữa những công việc nặng nề của một nguyên thủ quốc gia, ông thường về nhà thăm viếng và trò chuyện lâu giờ với người mẹ già.
Một hôm, ngạc nhiên về sự gắn bó của ông đối với mình, mẹ đã đặt câu hỏi như sau: "Tại sao con lại chịu khó mất hằng giờ như vậy để ngồi bên cạnh mẹ?".
Vị tổng thống của nước Mỹ đã trả lời như sau: "Thưa mẹ, ngồi bên cạnh mẹ để lắng nghe mẹ nói, không phải là một việc mất giờ. Bởi vì, sự thanh thản và lòng tốt của mẹ dạy con còn muốn tiếp tục sống".
Hôm nay, Giáo Hội mừng lễ Mẹ đi viếng bà thánh Isave. Giáo Hội đặt lễ này vào cuối tháng năm như cao điểm của tháng hoa.
Sự vội vã lên đường của Mẹ Maria để đi thăm người chị họ cưu mang trong lúc tuổi già là biến cố khai mạc sứ mệnh của Mẹ: đó là sứ mệnh của một người Mẹ luôn có mặt để phù trợ con người. Sự hiện diện ấy đã củng cố niềm tin của bà Isave. Sự hiện diện ấy đã đem lại niềm an ủi vô bờ cho Gioan Tẩy giả.
Bên cạnh Chúa Giêsu, từ việc cưới Cana cho đến dưới chân thập giá, và những ngày đầu của Giáo Hội, Mẹ luôn có mặt để nâng đỡ, để ủi an, để củng cố niềm tin của mọi người.
Một cách âm thầm nhưng vô cùng gần gũi, ngày nay lúc nào Mẹ cũng có mặt trong Giáo Hội và trong từng phút giây của cuộc sống chúng ta.
Tưởng niệm biến cố Mẹ lên đường đến viếng thăm bà Isave trong ngày cuối tháng hoa này, mỗi người Kitô chúng ta được mời gọi để tin tưởng hơn bao giờ hết sự hiện diện đầy ưu ái của Mẹ có sức mang lại cho chúng ta niềm vui, sự can đảm để tiếp tục dấn bước trong cuộc lữ hành trần gian này.
Những lúc mệt mỏi trong cuộc sống, những lúc tối tăm bao trùm cuộc sống, những lúc hụt hẫng đến độ không còn biết nương tựa vào ai, chúng ta hãy chạy đến với Mẹ. Một vài Kinh Kính Mừng mà chúng ta có thể chỉ đọc một cách máy móc, đó chính là những giây phút chúng ta đến ngồi bên Mẹ. Ðó không là những phút giây vô ích, trái lại sự thanh thản của Mẹ, lòng quảng đại của Mẹ sẽ là nguồn nâng đỡ chúng ta.
(Trích trong ‘Lẽ Sống’)
11. Cuộc viếng thăm tình yêu-- Linh mục Giuse Nguyễn Hữu An
Tin mừng ngày Lễ Thăm viếng cho chúng ta chân dung của hai người mẹ diễm phúc nhất trần gian: Đức Maria, Mẹ Đấng Cứu Thế và Isave, mẹ Gioan Tiền Hô.
Một cuộc gặp gỡ chan chứa niềm vui, diễn ra trong bầu khí của Thánh Thần. Thánh Thần tác động trên Maria. Thánh Thần tràn đầy bà Isave. Thánh Thần đã hoạt động nơi thai nhi Gioan (Lc 1,15). Đó là một Lễ Ngũ Tuần đầu tiên mà bà Isave nói dưới tác động của ThánhThần. Đức Maria đã tiếp đón một cách đơn sơ sự hiện diện của Thiên Chúa trong chính cung lòng Mẹ. Cuộc gặp gỡ ngoại hạng này cũng như sáng ngày Phục Sinh, bí mật nầy của Thiên Chúa được giao phó cho phụ nữ trong niềm hân hoan vui sướng chỉ có thể đến từ Chúa Thánh Thần.
Thánh Luca thích nói rằng Thánh Thần sẽ “được đổ tràn đầy trên mọi xác thịt”, khi trích dẫn những lời của tiên tri Gioel. Bà Isave trở thành nữ tiên tri. Bà kêu lên, bằng giọng của lời tung hô phụng vụ : “Maria, em thật có phúc giữa tất cả phụ nữ và hoa trái lòng em được chúc phúc”.
Suy niệm về cuộc gặp gỡ kỳ diệu của hai bà mẹ cho chúng ta những bài học bổ ích.
Đức Maria đã đi thăm người chị họ Isave. Dù đường sá xa xôi, vất vả, qua miền đồi núi, Đức Maria vẫn lên đường viếng thăm vì yêu thương. Chính tình thương đã thúc đẩy bước chân Mẹ. “Đẹp thay trên đồi núi, bước chân người loan báo Tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ” (Is 52,7). Như thế, hình ảnh Đức Maria đang cưu mang Đấng Cứu Thế, băng ngàn để loan báo tin vui cũng chính là hình ảnh Isaia đã loan báo.
Cuộc viếng thăm là sự gặp gỡ giữa hai người mẹ, hai người con đang được cưu mang và giữa hai giao ước cũ và mới.
- Giữa hai người mẹ: Đức Maria thăm viếng là đem niềm vui có Chúa cho gia đình người chị họ. Ơ lại phục vụ người chị trong thời gian mang thai sinh con. Isave được ơn Thánh Thần đã xưng tụng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa và đã ca tụng đức tin của Đức Mẹ.
- Giữa hai người con: Nghe lời chào của người mẹ cưu mang Đấng Cứu Thế, thì con trẻ Gioan trong lòng mẹ Isave nhảy mừng vui sướng.
- Giữa hai giao ước: Cuộc viếng thăm của Đức Mẹ là cuộc gặp gỡ giữa hai giao ước. Thời đại mới mở ra giao ước mới. Con Thiên Chúa làm người khai mở giao ước của thời đại ân sủng và tình yêu.
Cuộc viếng thăm của Đức Maria là cuộc viếng thăm của tình yêu.
Tình yêu đòi hỏi phải biểu lộ ra, chứ không giữ kín bên trong. Một tình yêu giữ kín, không được biểu lộ thành hành động, không phải là một tình yêu đích thực. Tình yêu phải được biểu lộ ra thành sự quan tâm, chăm sóc, năng tìm cách gặp gỡ, giúp đỡ, hy sinh cho người thân, làm cho người thân trở nên tốt đẹp, hạnh phúc hơn.
Tình yêu đích thực đòi hỏi phải năng gặp nhau, nhất là những lúc người mình yêu có chuyện vui buồn. Đức Phật nói: “Yêu nhau mà không được ở gần nhau, mà phải xa cách nhau thì sẽ đau khổ”. Ngài gọi cái khổ ấy là “ái biệt ly khổ”. Tục ngữ có câu: “Nhất nhật bất kiến như tam thu hề!” (một ngày không gặp nhau thì dài như ba năm). Do đó, đi thăm viếng nhau là đòi hỏi của tình yêu đích thực, là biểu lộ sự quan tâm đến nhau.
Đức Mẹ là mẫu gương tuyệt vời. Năng thăm viếng những người chúng ta yêu mến. Những người bệnh tật, già cả, những người nghèo hèn, đau khổ, những người khô khan thờ ơ, những gia đình rối rắm bất hoà… Họ rất cần đựơc thăm viếng. Đến thăm nhau là một phương cách tuyệt vời để biểu lộ tình huynh đệ, tình yêu thương của đạo Chúa.
Khi đến thăm bà Isave, Mẹ đem Chúa đến cho người thân của mình. Nhờ Mẹ mang Chúa đến, nên không chỉ bà Isave vui mừng, mà hài nhi trong lòng bà cũng vui theo mà “nhảy lên” hân hoan. Nhảy mừng diễn tả niềm vui. Đây là niềm vui ơn cứu độ. Sự hiện diện của Đức Maria mang đến niềm vui và còn có sự biến đổi khiến hai mẹ con bà Isave, được tràn đầy Thánh Thần, và nhờ đó nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Mẹ. Gia đình Bà Isave là gia đình đầu tiên được Chúa Cứu Thế viếng thăm. Đây là gia đình diễm phúc đón nhận niềm vui ơn cứu độ.
Đến thăm nhau không chỉ là một phương cách biểu lộ tình yêu, nói lên sự quan tâm, mà còn là một dịp thuận lợi để đem Chúa đến cho người mình thăm viếng. Nhờ ta đem Chúa đến, mà niềm vui của người được thăm tăng lên gấp bội, và họ nhận lãnh được Thánh Thần nhờ sự hiện diện của Chúa do ta mang đến. Chính Thánh Thần của Chúa trong ta sẽ thánh hóa, biến đổi họ nên tốt lành, thánh thiện hơn.
Đem Chúa đến cho người mình thăm viếng, không có nghĩa là mình nói thật nhiều thật hay về Chúa cho họ nghe. Đức Maria có nói gì về Chúa với Bà Isave đâu! Chúa là tình thương, ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân, khi chính ta thật sự yêu thương họ bằng một tình yêu chân thực. Đến với nhau bằng tình thương, bằng niềm vui là sự gặp gỡ có Chúa hiện diện rồi. Khi người ta mang hận thù oán ghét, ý nghĩ đen tối đến với nhau thì nảy sinh bất hoà chiến tranh và đau khổ. Ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân khi ta đến với ý muốn làm hiện thân của Chúa đối với họ, và coi họ cũng là hiện thân của Chúa đối với mình.
Thiên Chúa yêu thương nhân loại nên đã ban tặng Con yêu dấu là Đức Giêsu. Người đến với con người trong lịch sử, cách đây hơn 2000 năm. Người đem ơn cứu độ và đem hạnh phúc đến cho mọi người, cho từng người. Khi còn tại thế, Đức Giêsu đã đến thăm nhiều người, nhiều gia đình. Người quan tâm chăm sóc chữa lành những bệnh nhân. Người giảng dạy và ân cần với những người nghèo. Ngưòi cải hóa nhiều tội nhân. Người biểu lộ tình yêu thương cho mọi người.Đức Giêsu muốn chúng ta tiếp nối công việc của Người.
Một trong những vấn đề mục vụ hàng đầu của linh mục là thăm viếng giáo dân. Khi đến một giáo xứ mới, công việc đầu tiên của linh mục là đi thăm tất cả các gia đình trong giáo xứ. Như mục tử với đoàn chiên, linh mục biết tình hình chung, biết hoàn cảnh mọi gia đình trong xứ. Từ đó có kế hoạch mục vụ để mang lại hiệu quả thiết thực cho cộng đoàn.
Có đôi bạn trẻ yêu nhau đã nhiều năm nhưng hai gia đình không chấp nhận vì vấn đề tôn giáo. Cô gái là con của gia đình đạo đức. Chàng trai là con gia đình theo đạo ông bà. Nhà gái muốn con rễ theo đạo mới gã con gái. Nhà trai không chấp nhận vì họ quan niệm, con trai theo đạo là bỏ tổ tiên ông bà. Khi đến thăm gia đình chàng trai, qua vài câu chuyện mở đầu, tôi thắp mấy nén nhang trước bàn thờ tổ tiên với lòng thành kính. Hai ông bà quá đổi nhạc nhiên: Cha xứ Nhà thờ mà thắp nhang trước bàn thờ ông bà mình ư? Tôi giải thích cho họ về đạo hiếu về việc thắp nhang của người kitô hữu. Họ nhận ra là lâu nay họ hiểu lầm về đạo Công giáo nên không cho con theo đạo. Hai ông bà vui mừng và sẵn sàng cho con trai gia nhập đạo. Hạnh phúc đến với đôi bạn trẻ ấy. Niềm vui bừng lên khi mọi khúc mắc được giải toả.
Các tu sĩ, các hội đoàn trong giáo xứ có những thời giờ thăm viếng mục vụ. Đến với các bệnh nhân, người già cả, người nghèo, gia đình rối, gia đình bất hoà luôn được coi là việc tông đồ. Đem Chúa đến với anh chị em của mình là niềm vui và là sứ mạng của người tín hữu.
Những tuần lễ Mùa Vọng, mỗi người trong xứ đạo tiết kiệm chi tiêu để làm việc bác ái. Những phần quà ân tình chia sẽ cho các gia đình nghèo trong Đêm Giáng Sinh thật ý nghĩa, diễn tả tình yêu và sự quan tâm đến người khác.
Đức Maria viếng thăm, phục vụ và đem Chúa đến với gia đình bà Isave. Đó là hình ảnh tuyệt đẹp và là mẫu gương cho mọi tín hữu noi theo Mẹ. Dành thời giờ quý báu để thăm nhau. Chia sẽ tình thương và đem niềm vui có Chúa cho tha nhân luôn là sứ vụ của con cái Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết quan tâm đến niềm vui, nỗi khổ, và nhu cầu của từng người sống chung quanh chúng con. Xin giúp chúng con biết hy sinh thì giờ cho dù rất quí báu để năng đến gặp gỡ, thăm viếng nhau, hầu nhờ đó thông cảm được những nỗi vui buồn và nhu cầu của anh chị em. Xin giúp chúng con biết sẵn sàng chia vui sẻ buồn và tìm mọi cách để giúp đỡ những nhu cầu chính đáng của họ. Amen.
12. Một cuộc gặp gỡ tuyệt vời--Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Nói và viết về Mẹ còn gì hạnh phúc bằng? Ngôn từ của thế gian vẫn chỉ có giới hạn không thể diễn tả nổi những điều con người muốn nói về Mẹ, đặc biệt người Mẹ ấy lại cao trọng hoàn toàn hơn bất cứ người Mẹ nào ở trần gian. Mẹ có tên là Maria, người nữ tỳ của Thiên Chúa. Tên Maria bao hàm tất cả những gì đẹp nhất, cao quý nhất mà từ ngữ của con người xem ra không đủ để diễn tả toàn vẹn về Mẹ.
“Hồi ấy, bà Ma-ri-a vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét” (Lc 1, 39-40). Nói lời xin vâng cùng Thiên Chúa, Mẹ Ma-ri-a đã rất tế nhị, vội vàng lên đường, vượt đồi, qua núi, đến xứ Giu-đê-a, để chia vui với bà chị họ của Mẹ là bà Ê-li-sa-bét cũng đang mang thai con trong lúc tuổi già.Cái thai đã được 6 tháng: “…Bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1, 36-38). Mẹ Maria lòng hân hoan, dạ đơn thành, đã quên hết sự mệt nhọc vì đường xa, khó khăn để tới với bà chị họ yêu quí, để chia sẻ hồng ân vô biên Thiên Chúa đã ban cho Mẹ và bà Ê-li-sa-bét: “Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1, 40-45).
Mẹ được ân phúc như lời chào của bà Ê-li-sa-bét không chỉ có nghĩa là Mẹ làm Mẹ của Chúa Giêsu về mặt thể lý, nhưng qua cung lòng trinh khiết, không vương tì ố, Mẹ trở nên đền thờ Thiên Chúa, Mẹ thông ban Thần khí là chính Thần khí của Chúa Giêsu. Ma-ri-a trước khi cất cao lời ca ngợi hồng ân vô biên của Thiên Chúa đã đoái thương Mẹ và bà chị họ Ê-li-sa-bét, Chúa Thánh Thần đã tỏ lộ cho bà Ê-li-sa-bét hiểu rõ rằng người phụ nữ đang ở trước mặt mình không chỉ là người em họ của mình nhưng đó chính là Mẹ của Thiên Chúa: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1, 43). Phần Mẹ Ma-ri-a, Mẹ cũng nhận ra rằng đứa con đang trong lòng dạ của bà chị họ Ê-li-sa-bét, không phải là một đứa con bình thường, nhưng là một quà tặng quí giá, vị tiền hô Thiên Chúa ban tặng để Gioan Tẩy Giả dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Điều này đã xẩy ra sau đó 30 năm bên bờ sông Giođan, khi Gioan chỉ cho nhân lọai thấy Đấng Cứu Thế: “Đây Chiên thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian”. Mẹ cất tiếng ca tạ ơn Thiên Chúa qua kinh “Magnificat “. Đây mãi mãi nói lên tâm tình sâu kín của tâm hồn cầu nguyện của Mẹ. Mẹ đã ca ngơi hồng ân của Thiên Chúa. Một hồng ân vô giá của Thiên Chúa trao ban nhưng không cho Mẹ và cho nhân lọai. Tất cả đều là ân sủng. Thiên Chúa đi tìm những gì nghèo hèn và yếu kém để nâng dậy và bù đắp. Mãi mãi Mẹ và nhân lọai ca tụng, tạ ơn Thiên Chúa vì ơn cứu độ chứa chan nơi Chúa Giêsu.
Cuộc gặp gỡ hết sức quan trọng của Mẹ Ma-ri-a và bà chị họ Ê-li-sa-bét có tính cách hết sức lịch sử trong cuộc hành trình đức tin để nhận lãnh ơn cứu độ. Sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cung lòng khiết trinh của Mẹ đã thúc đẩy Mẹ đem niềm vui tới cho bà chị họ và nhân lọai qua thánh Gioan Tiền Hô đang được bà Ê-li-sa-bét cưu mang. Đây là sự chia sẻ, sự quan hệ giữa người với người. Đi thăm viếng là ra khỏi nhà mình, nhưng ý nghĩa quan trọng là ra khỏi chính bản thân của mình, quên mình, quảng đại chia sẻ tình thương và đến với con người. Đây cũng là ý lực giúp chúng ta ra khỏi cái vỏ an toàn, sự ích kỷ, để co cụm lại trong con người của mình, để vượt qua mọi trở ngại, mọi thử thách, đến với mọi người để cảm thông, phục vụ, hy sinh loan báo Tin Vui, giới thiệu Đức Kitô cho nhân lọai, cho con người. Và như thế, cuộc gặp gỡ của Mẹ và bà Ê-li-sa-bét mang ý nghĩa thật cao cả, tuyệt vời.
Lạy Mẹ Ma-ri-a, Mẹ đã mau mắn ra khỏi nhà, ra khỏi chính mình để quảng đại đến và ở lại phục vụ bà chị họ Ê-li-sa-bét, để cùng với bà chị họ, ca ngợi, tạ ơn hồng ân tuyệt vời Thiên Chúa đã làm cho Mẹ, cũng như cho bà chị họ. Amen.
13. Đức Maria đi thăm viếng Bà Elizabeth--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Nghe các bài đọc Lời Chúa trong Thánh lễ kính Đức Maria đi thăm viếng Bà Elizabeth hôm nay, chúng ta như nghe được tiếng reo vui và những nụ cười hân hoan mừng rỡ, niềm hân hoan và tiếng reo mừng này là tiếng reo mừng của Dân Chúa sau hàng ngàn năm mong đợi lời Chúa hứa nay đã được thực hiện.
Trước hết là niềm hân hoan sung sướng của hai bà mẹ: Bà Maria và Bà Elizabeth, Tin mừng cho thấy: Trong những ngày ấy, Maria vội vã lên đường ra đi lên miền núi, đến một thành xứ Giudea và vào nhà ông Zacaria – Elizabeth. Cụm từ trong những ngày ấy, nói lên sư sốt sắng hân hoan của mẹ ngay sau biến cố truyền tin thưa tiếng xin vâng, biến cố ấy đem lại cho mẹ niềm hân hoan hạnh phúc vì mẹ biết rằng đã đến thời Thiên Chúa viếng thăn Dân Người, và lời của các tổ phụ, các ngôn sứ nay đang được thực hiện nơi cung lòng của mẹ, vì mẹ vừa cảm nhận một mầm sống mới nảy sinh trong lòng mẹ chính là Con Thiên Chúa. Niềm vui ngâp tràn trong lòng mẹ, đây không chỉ là niềm vui riêng của mẹ, mà còn là niềm vui của cả dân tộc và của cả nhân loại, vui vì Đấng Cứu Độ đã đến, Mẹ vui mừng hân hoan vì Thiên Chúa không còn ở xa, nay Ngài đã đến và ở trong tâm hồn Mẹ, Mẹ vui vì mẹ có Chúa trong tâm hồn.
Một khi có Chúa trong tâm hồn, thì người ta không thể ngồi im và giữ riêng cho mình, cũng vậy, khi có Chúa, Mẹ Maria đã muốn đem Chúa đến cho người khác, qua thái độ vội vã của mẹ, chúng ta nhận ra điều đó. Đồng thời, với một tâm hồn nhạy bén, Mẹ biết rằng người chị em của mình cũng đang tràn ngập niềm vui mừng vì: Chúa đã cất đi nỗi tủi nhục cho bà, cho bà Elizabet được mang thai khi tuổi đã cao. Chính vì thế, niềm vui của cả hai người phụ nữ như đã đan quyện vào nhau ngay khi họ vừa gặp nhau, vừa cất lời chào nhau, Bà Elizabet cũng đã được Thánh Thần soi sáng và nhận ra ân lộc đầy tràn mà Chúa ban cho cô em gái mình là Maria, bà đã cất lời ca tụng mẹ: Em thật có phúc hơn mọi người nữ và người con em cưu mang cũng được chúc phúc, còn Mẹ Maria thì cất lên lời ngợi khen: Linh Hồn tôi ngợi khen Đức Chúa.
Cũng nhờ Ơn Thánh Thần soi sáng, mà lần đầu tiên, Bà Elizabét đã gọi em của mình là Mẹ Thiên Chúa: Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi? Đây là một chức vị vô cùng cao trọng mà Chúa ban cho Đức Maria, nay được bà Elizabet xưng tụng. Bà Elizabet cũng cho thấy niềm vui sướng ấy còn lan tỏa đến Gioan, lúc đó còn đang là một thai nhi ở trong lòng bà cũng đã nhảy lên vì vui sướng. Theo các thánh giáo phụ, thì cuộc gặp gỡ này là cuộc gặp gỡ của hai bà mẹ, song cũng là cuộc gặp gỡ của hai người con và là cuộc gặp gỡ giữa Thiên chúa và Dân Người, cuộc gặp gỡ đem lại ơn cứu độ. Cùng với lời xưng tụng Đức Maria là mẹ Thiên Chúa, Bà Elizabeth còn ca tụng mẹ Maria: Phúc cho em là kẻ đã tin rằng Lời Chúa phán cùng em sẽ được thực hiện. Tất cả những lời ca tụng của bà Elizabeth dành cho Mẹ cũng là lời tuyên xung ca tụng của toàn thể giáo Hội và nhân loại tôn vinh mẹ.
Lời reo vui của hai người phụ nữ này đã được tiên tri Sophonia tiên báo: Reo vui lên hởi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào nhà Israel hỡi vì Đức Chúa đã rút lại án phạt, đã đẩy lui quân thù, Đức Vua của Israel đang ngự giữa ngươi chính là Đức Chúa. Vị Tiên tri đã nhìn thấy trước ngày này, ngày Thiên Chúa thực hiện lời hứa, ngày Ngài viêng thăm để đem ơn cưu độ cho dân Người đem lại an vui và hạnh phúc cho xứ sở.
Cùng những lời ca ngợi và tâm tình dạt dào niềm vui của Elizabeth, Đức Maria đã diễn tả niềm vui sâu thẳm của Mẹ qua lời kinh Ngợi khen. Mẹ nhìn nhận tất cả những những sự lạ lùng đang diễn ra trong cuộc đời Mẹ là bởi quyền năng Thiên Chúa và tình thương của Ngài đang bao phủ cuộc đời Mẹ: Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, và thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa Đấng Cứu độ tôi. Mặc dù được bà Elizabet goi mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng Đức Maria chỉ dám khiêm nhường nhận mình là thân phận nữ tỳ hèn mọn, không dám mơ tưởng ước muốn điều gì, tất cả những gì đang xảy ra là vì Chúa đã ghé mắt đến Mẹ, Mẹ ý thức rất rõ rằng, chính vì được Chúa nhìn tới, được Chúa yêu thương nên Mẹ trở nên đáng yêu trước mặt Chúa, và được mọi người khen ngợi.
Mừng lể Đức Maria đi thăm bà elizabeth hôm nay, chúng ta được mời gọi nhìn vào tấm gương của Mẹ, Mẹ Maria đã nêu gương cho chúng ta trong việc đem Chúa đến cho tha nhân, một khi đã gặp Chúa, một khi có Chúa trong tâm hồn, chúng ta cũng được mời gọi, hay nói đúng hơn được thúc đẩy để ra đi, để lên đường trở thành người đem Chúa đem niềm vui đến cho người khác. Chúng ta được mời gọi sống làm sao để mọi người gặp gỡ tiếp xúc với chúng ta sẽ nhận ra Chúa đang ở trong tâm hồn chúng ta, trở thành người đem niềm vui và hạnh phúc đến cho người khác. Chúng ta sẽ không thể đem niềm vui đến cho người khác khi chúng ta không thực sự vui, cũng vậy chúng ta không để đem hạnh phúc và bình an đến cho người khác khi tâm hồn và cuộc sống chúng ta không hạnh phúc không bình an.
Để có sự bình an và hạnh phúc trong tâm hồn, thì điều cần thiết trước tiên đó phải là một tâm hồn sạch tội, một tâm hồn ngay thẳng trong lời nói và hành động; kế đến, đó phải là một tâm hồn có Chúa: Chúa chỉ cư ngụ trong tâm hồn của những người khiêm nhường thực sự, dám mở rộng cánh cửa tâm hồn để cho Chúa đi vào, dám nuôi dưỡng để cho Ngài lớn lên trong tâm hồn của mình. Chúa đang chờ đợi để được bước vào tâm hồn mỗi người, qua việc rước lễ mỗi ngày, qua việc lắng nghe và gẫm suy Lời Chúa, Chúa sẽ đến ở với chúng ta và biến cuộc đời chúng ta, làm cho chúng ta ngập tràn niềm vui hạnh phúc và bình an, và thúc đẩy chúng ta đem niềm vui và bình an đến cho anh chị em mình.
Ngày nay do bận rộn với công việc, hầu như con người đánh mất thói quen thăm viếng nhau, giúp đỡ nhau, mừng lễ Mẹ đi thăm viếng bà Elizabet, là dịp để chúng ta nhìn lại các mối tương quan họ hàng bạn bè, để biết dành cho nhau những phút giây thân tình, hãy đến với nhau bằng sự chân thành và quảng đại, hãy dành cho nhau những tình cảm thân thiện, để góp phần làm cho bầu khí gia đình, lối xóm, xứ đạo mỗi ngày thêm ấm cúng thân tình hơn.
Xin Đức Mẹ giúp chúng ta cũng có được cái nhìn nhạy bén của trái tim, nhận ra những nhu cầu của anh chị em, và quảng đại giúp đỡ chia sẻ. Amen.
14. Thăm viếng yêu thương phục vụ--Lm. Anmai, C.Ss.R
Thăm viếng! Một nhu cầu hết sức tự nhiên, hết sức bình thường của con người và chuyện bình thường như thế thì có gì đâu để mà nhớ, để mà mừng. Mỗi một cuộc thăm viếng mang ý nghĩa, mang niềm vui, mang ý nghĩa khác nhau nhưng cuộc thăm viếng của Đức Trinh Nữ Maria hết sức đặc biệt để rồi ngày hôm nay Giáo Hội mừng kính cuộc thăm viếng của Mẹ. Cuộc thăm viếng của Mẹ được trọn vẹn niềm vui bởi vì Mẹ đã lên đường một cách vô vị lợi và Mẹ đã mang Chúa đến cho người khác.
Thánh Sử Luca ghi lại rất ngắn gọn: “Khi ấy, bà Maria lên đường, vội vã đi đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa” (Lc 1, 39). Đơn giản thế thôi: đi đến miền núi. Ngày hôm nay đi lên miền núi cũng là một điều khó khăn huống hồ gì thời của Đức Mẹ. Nếu như tính toán về phương tiện đi lại, điều kiện vật chất thì chẳng ai dại gì mà đi đến cái vùng núi xa xôi hẻo lánh như vậy. Vượt trên cách trở của địa lý và vượt trên sự tính toán thường tình của con người, Mẹ Maria đã ra đi và ra đi một cách “vội vã”. Thánh Sử thêm chữ “vội vã” như muốn nói về lòng hăng say, nhiệt tình của Mẹ dù là lên núi khó khăn cách trở. Nếu lên núi với cái bộ mặt ũ rũ, với cái thái độ lề mề chậm chạp chắc có lẽ là chán lắm, đàng này Đức Mẹ đã “vội vã”!
Một cách diễn tả đơn sơ, vài ba hàng ngắn gọn, chúng ta nhận ra Đức Maria đã đi thăm bà chị họ mình với một tâm tình hết sức là dễ thương, nhiệt tình, chịu thương, chịu khó …
Đặc biệt hơn các cuộc thăm viếng khác ở chỗ là vừa vào nhà, bà Êlisabét nghe tiếng Bà Maria chào thì bỗng dưng đứa con trong bụng nhảy lên. Không chỉ đứa con trong bụng nhảy lên mà mẹ nó được “đầy Thánh Thần”. Đến đây thì quá rõ, chẳng còn gì phải bàn cãi nữa, cuộc thăm viếng của Đức Mẹ quả thật là hết sức đặc biệt và đầy ý nghĩa.
Cuộc thăm viếng của Mẹ vốn đã có ý nghĩa nhưng với xã hội ngày hôm nay, ý nghĩa ấy lại càng được nhân lên gấp bội vì lẽ ngày hôm nay, người ta tính toán với nhau nhiều quá, người ta đã khép lòng lại với anh chị em đồng loại nhiều quá! Và có đi thăm đi chăng nữa cũng chỉ với cái hình thức của con người, của cuộc đời là “có qua có lại mới toại lòng nhau” chứ không còn mang ý nghĩa vô vị lợi như Mẹ nữa. Hơn nữa, khi Mẹ thăm viếng, Mẹ đã không chỉ tung hô Chúa, giới thiệu Chúa mà còn mang Chúa lại cho người khác. Và trong cuộc đời, nếu nhìn kỹ một chút, nếu chìm lắng một chút: có Chúa là có tất cả.
Và thử dừng lại một chút để nhìn lại cuộc đời của Mẹ. Đâu phải bỗng dưng hay vô tình mà Mẹ có Chúa và Mẹ mang Chúa cho người khác. Nếu như Mẹ không có Chúa thì làm gì Mẹ có thể mang Chúa cho người khác, Mẹ chia sẻ niềm vui có Chúa trong đời Mẹ cho người khác được.
Điểm này trong cuộc thăm viếng của Mẹ hết sức quan trọng: muốn mang Chúa, muốn giới thiệu Chúa cho người khác thì trong mình, trước tiên phải có Chúa. Và muốn có Chúa như Mẹ, cần và cần lắm đời sống chiêm niệm, đời sống đơn sơ hoàn toàn tín thác cho Chúa.
Nếu như Đức Maria ồn ào náo động như nhiều người Do Thái cùng thời với Mẹ thì làm sao mà Mẹ có Chúa được? Nếu như Đức Maria trông chờ vào Đấng Mêsia như nhiều người Do Thái thời ấy trông chờ thì làm sao mà Mẹ cưu mang Đấng Cứu Độ trần gian thật được? Và nếu như Đức Maria là người sống bề ngoài, sống cái bề nổi của cuộc đời thì làm sao mà Mẹ khiêm tốn sống trong sự quan phòng của Chúa được.
Nơi Mẹ Maria, có một dấu ấn hết sức đặc biệt đó là Mẹ hết sức quảng đại. Chúng ta, ngày hôm nay, nhiều khi cứ vun vén cho bản thân mình với lối sống đậm chất của ích kỷ, của vun vén nên hình ảnh quảng đại của Mẹ ngày hôm nay cũng là một bài học hết sức to lớn của mỗi người chúng ta. Khi Mẹ cho đi niềm vui thì niềm vui của Mẹ không chỉ nhân hai, nhân bốn mà nhân đến vô cùng.
Thế nên, cuộc thăm viếng của Mẹ hôm nay không chỉ mang niềm vui cho gia đình Êlisabét mà còn mang lại niềm vui cho những ai tự xưng mình là con của Chúa, là con của Mẹ.
Nếu là con của Mẹ thật thì mỗi một cuộc thăm viếng của ta cũng phải giống như Mẹ, nghĩa là cuộc thăm viếng ấy hoàn toàn vô vị lợi và cuộc thăm viếng ấy mang Chúa cho người khác. Có quá đáng chăng khi nói rằng thăm viếng vô vị lợi và có Chúa thì cuộc thăm viếng ấy mới có ý nghĩa và mang niềm vui trọn vẹn. Nếu thăm viếng mà ẩn ý dưới một nguồn lợi nào đó hay là cuộc thăm viếng ấy mình chỉ đi tìm mình thì cũng vui lắm nhưng nó chưa tròn vẹn và chưa mang ý nghĩa cao đẹp như Mẹ.
Thi thoảng có dịp nhìn lại cuộc thăm viếng của Mẹ để ta soi chiếu những cuộc thăm viếng của ta. Xin Mẹ nâng những cuộc thăm viếng của chúng ta thêm tầm cao lên một chút, thêm ý nghĩa lên một chút. Xin Mẹ soi sáng, giúp đỡ chúng ta có những cuộc thăm viếng tròn vẹn ý nghĩa như cuộc thăm viếng của Mẹ với gia đình Êlisabét xưa vậy.
15. Ðức Maria thăm viếng bà Êlisabeth
Thánh Luca chỉ tường thuật biến cố xảy ra bên ngoài thôi, nhưng ta cần phải chiêm ngắm đức bác ái của thiếu nữ Maria 16 tuổi đã hăng hái lên đường đến chào mừng và giúp đỡ bà chị già 60 tuổi mới được làm mẹ. Suốt dọc đường ba ngày trên lưng lừa từ Nadaret đến Aim-Karen, Maria con người giản dị duyên dáng cất tiếng hát bài ca Manhiphicat (Magnificat) của bà Anna, mẹ ngôn sứ Samuel, làm bài ca của mình, qua tiếng hát ngợi khen Thiên Chúa đã để lại một mầu nhiệm nói lên hành động của Thiên Chúa gắn liền với đức tin của chúng ta, dẫn chúng ta vào ơn cứu độ. Cần thiết chúng ta phải đặt mình vào địa vị của bà Êlisabét để Đức Maria đến thăm hỏi chúng ta. Điều đó khó khăn lắm không? Ngài tốt đến độ đến thăm ai chẳng sợ lặp lại câu: “Cầu cho chúng con là kẻ có tội!”
Nơi nhiều người chỉ thấy thoáng qua, thấy rung động chút ít trước sự kiện siêu nhiên; không được thường xuyên trong sáng; đôi khi bác ái, thương cảm. Nhưng chưa đủ. Một tâm hồn chân thành với mình và với người khác phải được mở ra trước ơn Thiên Chúa, ta thấy rõ điều đó nơi Thánh Phaolô. Khi còn là kẻ bách hại, ông đã hoạt động chân thành đến điên cuồng. Khi trở lại, ông càng thầm tín mạnh mẽ hơn nữa để hoạt động cho Chúa và cho dân được tuyển chọn, ông đã dương cao chính nghĩa của người Nadaret. Trước một tâm hồn chân thành, dù là thứ chân thành xấu, Thiên Chúa không thể từ bỏ. Thiên Chúa bắt đầu cảm hóa họ. Đức Maria cũng tham gia can thiệp. Mẹ đến đóng ấn trên những công trình Thiên Chúa và giúp những công trinh đó phát triển. Điều đó rất cần... Chúng ta cần suy nghĩ để thấy rằng tất cả chúng ta một phần nào giống như bà già Êlisabét, đầy thiện chí, đầy ham muốn tốt, nhưng lại cằn cõi và lo sợ...
Ước chi Đức Maria đến can thiệp cho, ước chi cuộc thăm viếng của Mẹ tăng cường cho những cố gắng của chúng ta, biết chạy đến xin mẹ cứu giúp! Người ta nói Mẹ là tình yêu tuyệt diệu. Con tim con sẽ luôn luôn kêu khấn Maria như mẹ của mọi thiện chí...
Vậy chúng ta với tất cả niềm tin mời Mẹ đến vì hy vọng rằng Mẹ làm cho đời sống đức tin của chúng ta sinh hoa trái. Chúng ta tuyên xưng Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, không phải là một Thiên Chúa xa xôi, bắt chúng ta mang gánh nặng giơí răn, nhưng là Thiên Chúa rất nhỏ bé đang chờ đợi giúp làm cho đức thành tín lớn lên trong chúng ta. Đức Maria cũng mang đến cho chúng ta một kho tàng là nhận biết Đức Giê-su là Chúa. Mong chúng ta mở lòng ra đón nhận và đừng bao giờ từ chối cuộc thăm viếng của Mẹ Maria. Đừng bao giờ!.
L.P
16. Đức Maria thăm viếng.
Ngày lễ này đã được Đức Urban VI thiết lập vào năm 1389, vào khoảng thời gian giữa lễ Truyền Tin và lễ sinh nhật thánh Gioan Tẩy Giả, phù hợp với những chi tiết Phúc Âm. Ngày lễ hôm nay ghi nhớ việc Đức Mẹ đi thăm bà chị họ Elizabeth, lúc ấy đã cao niên và đang có thai. Mẹ đến để chia sẻ niềm vui về những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện nơi hai chị em. Ngày lễ này - nhằm ngày kết thúc tháng Năm kính Mẹ – cho chúng ta thấy tinh thần chiêm niệm, sự phục vụ, và đức khiêm nhượng thẳm sâu của Mẹ, dạy chúng ta biết mỗi khi đi đâu, chúng ta cũng phải theo gương Mẹ Maria, trở nên một nguồn vui cho toàn thể nhân loại.
Phục vụ vui tươi.
Hãy đến mà nghe, hỡi tất cả các bạn là những người kính sợ Chúa, tôi sẽ kể cho các bạn những điều Người đã làm cho tôi.1 Đó là những lời trong Ca Nhập Lễ hôm nay.
Ngay sau ngày Truyền Tin, Đức Maria lập tức đi thăm bà Elizabeth tại miền đồi núi xứ Giuđêa, cách Nazareth chừng bốn năm ngày đàng. Thánh Luca viết: “Trong những ngày ấy, Maria vội vã ra đi lên miền đồi núi, đến một thành xứ Giuđêa”. Sau khi được sứ thần cho biết về việc bà Elizabeth có thai, Đức Trinh Nữ đã vội vàng ra đi để phụ giúp những công việc cho bà chị họ. Không ai buộc Mẹ phải đi: Thiên Chúa, qua sứ thần, cũng không đòi Mẹ phải làm như thế, và cả bà Elizabeth. Đức Maria có thể ở nhà để bắt đầu chuẩn bị cho Con Mẹ, Đấng Cứu Độ, sắp chào đời; nhưng Mẹ đã hân hoan, vội vã lên đường để đến giúp đỡ bà Elizabeth.
Chúng ta đồng hành với Đức Maria trong lời cầu nguyện, và thân thưa với Mẹ bằng những lời trong bài đọc Một hôm nay: Reo vui lên! Nữ Tử Sion! Hãy hò la, hỡi Israel! Hãy vui mừng, hãy hoan hỉ hết lòng, nữ tử Jerusalem!… Có ở giữa ngươi, Giavê Thiên Chúa của ngươi. Anh hùng vạn thắng! Vì ngươi, Người hân hoan vui sướng. Với ngươi, Người làm mới lại Tình Yêu của Người. Vì ngươi, Người nhảy mừng trong tiếng reo vui.
Thật dễ dàng tưởng tượng ra niềm vui chan chứa và những ước vọng vĩ đại nơi tâm hồn Đức Maria. Thiên thần đã cho Mẹ biết, Này đây chị họ bà là Elizabeth đã cao niên và đã có thai. Đó là cuộc mang thai kỳ diệu và liên quan đến biến cố Đấng Cứu Thế sẽ đến. Sau lộ trình dài, Đức Maria đã đến nhà ông Giacaria và chào bà chị họ. Và khi bà Elizabeth vừa nghe lời chào của Đức Maria, hài nhi liền nhảy mừng; và Elizabeth được tràn đầy Chúa Thánh Thần. Cả gia đình được biến đổi vì sự hiện diện của Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Lời chào của Mẹ thật hiệu quả: làm cho bà Elizabeth được tràn đầy Chúa Thánh Thần. Qua lời tiên tri trên môi miệng của Mẹ, Mẹ đã làm tuôn trào một dòng ân thánh cho người chị họ như từ một nguồn suối… Thực vậy, nơi đâu Đấng ‘Đầy Ơn Phúc’ đặt chân đến, mọi sự đều được chan chứa niềm hân hoan.6 Ảnh hưởng tuyệt vời này Chúa Giêsu đã thực hiện qua Đức Maria, Đấng ngay từ đầu đã liên kết với công trình cứu độ và niềm vui được Chúa Kitô đem đến cho trần thế.
Ngày lễ Đức Mẹ Thăm Viếng hôm nay cho chúng ta nhìn thấy một khía cạnh trong đời sống nội tâm của Đức Maria, đó là tinh thần khiêm nhượng phục vụ và tình yêu vô vị kỷ dành cho những ai cần đến sự trợ giúp của Mẹ. Biến cố trong mầu nhiệm thứ hai Mùa Vui của chuỗi Mân Côi mời gọi chúng ta hãy hiến thân mau mắn, vui tươi, và chân thành cho người chung quanh. Nhiều khi sự phục vụ tốt nhất chúng ta có thể thực hiện là chia sẻ với họ niềm hạnh phúc trào dâng trong tâm hồn chúng ta. Nhưng chúng ta chỉ có thể thực hiện được điều này khi chúng ta sống thân mật với Chúa, qua việc trung thành giữ trọn những giờ cầu nguyện trong ngày sống. Việc kết hợp với Thiên Chúa và thực hành các nhân đức siêu nhiên luôn luôn kéo theo niềm hứng thú thực hành các nhân đức nhân bản: Đức Maria đem niềm vui đến cho gia đình bà chị họ, bởi vì Mẹ ‘mang’ Chúa Kitô.8 Chúng ta ‘mang’ Chúa Kitô trong lòng, và với Người là niềm vui chứa chan, đến bất cứ nơi nào chúng ta đến, dù khi làm việc, hoặc khi viếng thăm bè bạn hoặc những ai đang yếu đau hay không? Sự hiện diện của chúng ta có làm cho người khác vui tươi hay không?
Tìm Chúa Giêsu qua Mẹ Maria.
Khi Đức Maria đến, bà Elizabeth được tràn đầy Thánh Thần và đã reo lên: Em được chúc phúc hơn mọi người nữ, và Con trong lòng em đang cưu mang cũng đầy phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe lời em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng.
Bà Elizabeth không những chúc tụng mà còn giải thích vì sao Đức Maria lại là người diễm phúc: đó là vì Hoa Trái trong lòng Mẹ, Người Con của Mẹ muôn đời được chúc phúc. Thử nghĩ về những lần chúng ta lặp lại lời ấy khi lần chuỗi: Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu, Con lòng Bà gồm phúc lạ! Chúng ta có đọc những lời ấy vui tươi như bà Elizabeth hay không? Những lời ấy như một soi động liên kết chúng ta với Mẹ trên trời, khi chúng ta làm việc, đi lại, hoặc nhìn lên ảnh tượng Mẹ.
Đức Maria và Chúa Giêsu luôn luôn cận kề bên nhau. Những việc kỳ diệu nhất Chúa Giêsu đã thực hiện, ngày xưa cũng như hiện nay, luôn luôn trong sự hợp nhất thân mật với Mẹ Người, Đấng Trung Gian Mọi Ơn. Công đồng Vatican II đã nói, Sự liên kết giữa Mẹ và Con trong công cuộc cứu rỗi được tỏ rõ từ khi Đức Maria thụ thai Chúa Kitô cách trinh khiết cho đến lúc Chúa Kitô tử nạn.
Hôm nay, một lần nữa chúng ta lại ý thức rằng mỗi lần gặp Mẹ Maria là chúng ta lại hiểu biết thêm về Chúa Giêsu. Nếu tìm kiếm Mẹ Maria, bạn sẽ gặp được Chúa Giêsu. Và bạn sẽ biết hơn về những gì trong trái tim của một Thiên Chúa tự hạ, Đấng đã sẵn sàng cho chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống thường ngày. Tặng ân lớn lao nhất Thiên Chúa ban cho nhân loại - để chúng ta được hiểu biết và yêu mến Người - đã khởi đầu từ đức tin của Mẹ Maria, và hôm nay điều ấy đã được bà Elizabeth minh chứng. Sự tràn đầy ân sủng mà sứ thần loan báo là Quà-Tặng-chính-Thiên-Chúa. Đức tin của Mẹ Maria, được bà Elizabeth chúc tụng trong ngày Thăm Viếng, đã nói lên Đức Trinh Nữ Nazareth đã đáp lại ân huệ này như thế nào. Đức Trinh Nữ Maria, người thưa lời fiat trọn vẹn và vô điều kiện, đã xuất hiện tại ngưỡng cửa nhà ông Giacaria với tư cách Mẹ Thiên Chúa. Đây là khám phá của bà Elizabeth, cũng là của chúng ta; và đó là điều chúng ta cảm thấy luôn luôn lạ lùng.
Bài ca Magnificat.
Đặc trưng của mầu nhiệm Mân Côi này là bầu khí mừng vui lan tỏa: mầu nhiệm Thăm Viếng là mầu nhiệm của niềm vui. Gioan Tẩy Giả nhẩy mừng trong lòng mẹ; bà Elizabeth, mừng vì được làm mẹ, đã cất lời chúc tụng Thiên Chúa; và trước những lời ca ngợi của bà chị họ, Đức Maria đã nâng tâm hồn lên Thiên Chúa trong bài ca Magnificat, một bài ca chan chứa niềm vui ơn cứu độ. Mái nhà ông Giacaria và bà Elizabeth toát lên tinh thần Cựu Ước với vẻ thánh thiện, trong khi Đức Maria mang trong lòng mình Mầu Nhiệm khởi đầu Tân Ước. Magnificat là bài ca của thời đại Đấng Cứu Thế, gồm chứa cả niềm phấn khởi của Israel xưa và nay… Lời kinh Magnificat của Đức Maria thực sự đã trở thành lời nguyện của Giáo Hội qua mọi thời gian.
Đây là bối cảnh giúp chúng ta nhận thức ý nghĩa đầy đủ về điều kín nhiệm Mẹ Maria đang ấp ủ trong tâm hồn. Mầu nhiệm lớn lao được sứ thần tỏ cho Mẹ đã được thể hiện qua bài ca Magnificat. Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và tâm trí tôi nhảy mừng trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi. Những lời ấy tràn đầy sự cao quí và nói lên sự kết hợp mật thiết với Đấng Cứu Độ, đó là tấm gương phản chiếu linh hồn Đức Maria.
Cùng với bài ca hân hoan và khiêm nhượng này, Đức Trinh Nữ Maria còn để lại cho chúng ta một lời tiên tri. Mẹ nói, Từ nay muôn thế hệ sẽ khen tôi là người diễm phúc. Thực vậy, từ những thời rất xa xưa, Đức Nữ Trinh đã được tôn kính dưới tước hiệu ‘Mẹ Thiên Chúa,’ và các tín hữu đã khẩn cầu cùng ẩn náu dưới sự che chở của Mẹ trong mọi cơn gian nan khốn khó. Nhất là từ khi công đồng Êphêsô, Dân Thiên Chúa đã gia tăng lòng tôn kính Đức Maria cách lạ lùng: họ sùng kính mến yêu, cầu khẩn và noi gương đúng như lời Mẹ đã tiên báo: ‘Muôn thế hệ sẽ khen tôi là người diễm phúc, vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những việc trọng đại.’
Trong cuộc đời mình, Đức Maria không nổi bật về những việc kỳ vĩ: Phúc Âm không đề cập đến bất cứ một phép lạ nào Mẹ đã thực hiện khi còn tại thế, và chỉ ghi lại vắn tắt về những lời Mẹ đã nói ra. Đời sống bên ngoài của Mẹ giống như mọi bà mẹ khác trong các gia đình. Tuy nhiên, lời tiên tri phi thường của Mẹ đã được ứng nghiệm từng chữ. Ai có thể kể được tất cả những lời ca tụng, những lời kêu cầu Mẹ, những đền thánh, những bia tạ ơn, những việc sùng kính đối với Mẹ? Suốt hai mươi thế kỷ, Mẹ đã được mọi người xưng tụng ‘diễm phúc’: các nhà trí thức, những người mù chữ, các bậc vua chúa, những quân nhân, các nhà kinh doanh, nam và nữ, trẻ em và người cao niên… Chúng ta cũng đang làm ứng nghiệm lời tiên tri của Mẹ ngay lúc này, khi từ thâm tâm, chúng ta thưa cùng Mẹ: Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ.
Chúng ta đã kêu cầu Mẹ một cách đặc biệt trong tháng Năm, nhưng tháng Năm không thể chấm dứt. Nó phải tiếp tục mãi trong cuộc đời chúng ta. Lòng sùng kính và yêu mến của chúng ta đối với Mẹ không thể nhạt nhòa nơi tâm hồn chúng ta. Đúng hơn, nó phải tăng tiến và biểu hiện qua đời sống chứng nhân, theo gương Mẹ Maria, ‘tên của một loài hoa tuyệt đẹp mà tôi vẫn reo lên mỗi sáng và mỗi chiều tối’ – như thi sĩ Dante đã nói lên (Paradiso, 23, 88). Khi tìm ra Mẹ Maria, chúng ta cũng tìm thấy Chúa Giêsu.
Magnificat anima mea Dominum! – Linh hồn tôi ngợi khen Chúa – tâm hồn Mẹ đã tôn vinh Thiên Chúa khi cưu mang Người trong lòng, và bước đi với Người.
Ôi lạy Mẹ! Ước chi chúng con cũng được như Mẹ: vui mừng trong Chúa và chiếm hữu được Người.
17. Đức Mẹ thăm viếng Thánh Elizabeth
I. LỊCH SỬ PHỤNG VỤ
Từ thế kỷ VI, bên Giáo hội Đông phương, thánh truyện Đức Mẹ thăm viếng Thánh Elizabeth theo Thánh sử Luca (1:39-56) được đọc ngày thứ Sáu sau Chúa nhật III mùa Vọng nhưng chưa phải là lễ, đến sau thì mừng lễ vào ngày 2 tháng 7.
Bên Tây phương, năm 1263, Dòng Phanxicô khởi xướng mừng lễ này. Năm 1386, Công đồng Prague nước Áo công nhận lễ này do mỹ ý của Đức Cha Gioan Jenstein, Tổng Giám mục thành Prague mừng lễ vào ngày 28 tháng 4 với hai lý do:
1. Xin ơn hiệp nhất Giáo hội trong thời kỳ có sự tranh chấp giữa Giáo hoàng giả Clementê III tại Avignon (Pháp) với Đức Urbanô VI tại Rôma.
2. Mừng lễ này ngoài mùa Chay, và trong mùa Phục sinh sau lễ Truyền tin ngày 25 tháng 3.
Năm 1389, Đức Urbanô VI chuẩn bị thành lập lễ này trong khắp Giáo hội để công bố Năm Thánh 1390. Nhưng chưa kịp thi hành thi ngài băng hà ngay năm đó. Đức Bônifaciô IX lên nối quyền liền thi hành quyết định của vị tiền nhiệm, năm 1401 ngài thành lập lễ này vào ngày mùng 2 tháng 7 hàng năm trong khắp Giáo hội. Năm 1441, Công đồng Basel (Thụy Sĩ) xác nhận lễ này. Đức Sixtô IV soạn kinh Nhật tụng đặc biệt. Đức Thánh Piô V đưa lễ này vào sách kinh Phụng vụ. Năm 1608 Đức Clêmentê VIII đặt kinh Phụng vụ và lễ như ngày nay. Năm 1969, Đức Phaolô VI đổi sang ngày 31 tháng 5 sau ngày lễ Truyền tin ngày 25 tháng 3, và trước lễ sinh nhật Thánh Gioan Tẩy giả ngày 24 tháng 6.
II. Ý NGHĨA PHỤNG VỤ
Lễ Đức Mẹ thăm viếng Thánh Elizabeth liên quan tới lễ Thiên sứ Gabrie truyền tin cho Đức Mẹ chịu thai Chúa Giêsu, vì sau khi chịu thai Chúa, Đức Mẹ từ Nazareth miền Bắc, hối hả đi thăm viếng Thánh Elizabeth ở Ain Karim, một thành nhỏ bé miền Nam, cách Giêrusalem chừng 5 miles về phía tây. Trong biến cố này có ba nhân vật tỏ ra thái độ rõ rệt:
1. Thánh Elizabeth được ơn Thánh Linh soi sáng nhận biết chức phẩm cao sang của Đức Mẹ, đã khiêm hạ nói: "Bởi đâu tôi được thế này là Mẹ Chúa tôi đến với tôi?" (Lc 1:43).
2. Thánh Gioan Tẩy giả còn là thai nhi cũng nhận biết Chúa Giêsu trong lòng Đức Mẹ nên đã nhảy mừng (Lc 1:44).
3. Đức Mẹ nhận thấy Chúa Giêsu trong cung lòng Mẹ đã sớm làm những việc lạ lùng và, Mẹ được đặc ân cao cả nên Mẹ đã khiêm hạ cất tiếng cao rao chúc tụng Chúa (Lc 1:46-55). Chỉ có Chúa Giêsu âm thầm trong cung lòng Đức Mẹ, không tỏ ra dấu hiệu nào. Coi như Chúa thụ động nhưng lại rất chủ động trong biến cố Thăm viếng này. Chúa thường giấu ẩn uy quyền của Người để tỏ cho chúng ta biết quyền lực của Người vô hình, chuyển động mọi sự, điều khiển mọi sự cách kín đáo. Thế nhưng ảnh hưởng quyền lực của Người rất sống động và sâu rộng. Người làm cho thai nhi Gioan được khỏi tội Nguyên tổ trong lòng Thánh Elizabeth. Đó là phép lạ đầu tiên trong ơn thánh mà Chúa âm thầm làm ngay khi còn trong cung lòng Mẹ Maria.
Một trong những mầu nhiệm cao siêu của Kitô giáo là việc hợp nhất Chúa làm trong chúng ta và cách bí nhiệm Người thăm viếng chúng ta:
a) Bề trong do Chúa Thánh Linh và ơn thánh của Người;
b) Bề ngoài do các Nhiệm tích, nhất là Nhiệm tích Thánh Thể. Chúng ta hãy niềm nở mật thiết tiếp rước Chúa mỗi khi Người thăm viếng linh hồn chúng ta, nhất là khi chúng ta rước lễ.
III. Ý NGHĨA LỜI CHÚA TRONG THÁNH LỄ
Bài đọc I: Sôphônia 3:14-18.
Dưới thời vua Josia (640-609), nước Giuđêa lâm cảnh hỗn loạn về tôn giáo và xã hội, nhưng tiên tri loan báo án phạt sẽ chấm dứt và Giuđêa sẽ được hưởng cảnh thanh bình: "Hãy vui lên! Hãy hoan hỉ trong lòng, hỡi nữ tử Sion, vì vua ngươi ở giữa ngươi. Người là anh hùng vạn thắng. Vì ngươi, Người nhảy mừng trong tiếng reo vui".
Sự vui mừng ngày Đức Mẹ viếng thăm bà Elizabeth cũng như sự vui mừng cảnh thanh bình nước Giuđa thời tiên tri Sôphônia (Zephania), vì Mẹ Maria cưu mang thai nhi Giêsu trong cung lòng Mẹ như Hòm bia Tân ước có Thiên Chúa ở giữa dân Người. Thai nhi Gioan Tẩy giả nhảy mừng trong lòng bà Elizabeth (Lc 1:41) như vua David nhảy mừng trước hòm bia (2 Sm 6:12). Bà Elizabeth ca tụng Mẹ Maria (Lc 1:41) như vua David ca tụng Obed-Edom (2 Sm 6:12). Mẹ Maria ở lại nhà bà Elizabeth ba tháng (Lc 1:56) như hòm bia lưu lại ba tháng tại nhà Obed-Edom (2 Sm 6:11).
Bài đọc II: Rôma 12:9-16.
"Hãy yêu mến nhau tha thiết. Hãy làm tôi Chúa với lòng nhiệt thành và tâm thần sốt sắng. Hãy chia sẻ cho người túng thiếu. Hãy ân cần cho khách đỗ nhà. Hãy vui với người vui". Đó là những nét đặc sắc của tình bác ái nổi bật trong truyện Đức Mẹ thăm viếng, và là những đặc tính tươi đẹp của các môn đệ của Chúa Kitô.
Phúc âm: Luca 1:39-56.
Mẹ Maria vội vã đi thăm bà Elizabeth để chia sẻ niềm vui cả hai được mang thai cách lạ và để giúp đỡ bà chị họ trong tuổi già. Thánh sử Luca không nói tên địa danh mà bà Elizabeth ở là thành Ain-Karim miền phụ cận Giêrusalem, mà chỉ nói: "Một thành xứ Giuđa miền sơn cước". Những bước gót sen của Mẹ Maria trong dịp này đã được tiên tri Isaia diễn tả: "Đẹp thay trên các núi non, chân người sứ giả, kẻ loan báo bình an, kẻ loan tin mừng, kẻ loan báo ơn cứu độ và nói với Sion: Thiên Chúa của ngươi là Vua" (Is 52:7).
Mang thai nhi Giêsu, Mẹ Maria là một dụng cụ ban phúc lành cho bà Elizabeth và thai nhi của bà. Qua lời chào của Mẹ Maria, lời tiên tri của thiên thần được thực hiện: "Từ trong lòng mẹ, nó sẽ được đầy tràn Thánh Thần" (Lc 1:15). Nhận biết Chúa Giêsu trong cung lòng Mẹ Maria, bà Elizabeth lên tiếng ca khen Mẹ và Con lòng Mẹ, rồi bà tỏ ra vinh dự được Mẹ Chúa đến viếng thăm. Lời ca khen của bà Elizabeth vọng vang lời thượng tế ca ngợi bà Giuđitha: "Phúc cho con nơi Đấng tối cao, hơn mọi người nữ" (Gđt 13:18). Bà Giuđitha, chém đầu tướng Holoferne để giải cứu dân của bà, là hình ảnh Mẹ Maria trong nhiệm cuộc giải thoát nhân loại (Lc 24:21).
Bà Elizabeth xác nhận hiệu quả lời chào của Mẹ Maria: "Thai nhi trong lòng bà nhảy mừng". Hai lời bà chúc tụng Mẹ Maria:
Lời 1: Về điều Thiên Chúa đã làm cho Mẹ (Lc 1:42). Lời này giống như là một phụ nữ ca ngợi Mẹ (Lc 11:27).
Lời 2: Mẹ diễm phúc vì Mẹ tin (Lc 1:45). Lời này giống như lời Chúa khen tặng Mẹ vì Mẹ nghe và giữ lời Chúa (Lc 1:28).
Mẹ Maria nhận biết điều lạ lùng đã xảy ra nơi Mẹ, nên Mẹ cất tiếng ngợi khen Chúa: "Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những sự trọng đại. Danh Người là Thánh" (Lc 1:49). Mẹ Maria trở về nhà, sau khi bà Elizabeth hạ sinh Gioan Tẩy giả, vì khi Mẹ đi thăm bà thì bà đã có thai được sáu tháng (Lc 1:36) và Mẹ ở lại nhà bà ba tháng (Lc 1:56).
IV. LỜI CÁC THÁNH
- Thánh Ambrosiô: Mẹ lên đường không phải vì không tin lời sứ thần báo cho Mẹ, mà vì hối hả ước ao làm ơn cho gia đình bà chị. Sung sướng vì được làm cho người khác sung sướng, và tận lực thi hành đức ái.
- Thánh Augustinô: Qua Mẹ, tình thương đổ xuống người cơ khổ, ân sủng đổ xuống những kẻ vô ơn, và ơn tha thứ được ban phát cho những người tội lỗi.
- Thánh Phêrô Kim Ngôn: Mẹ Thiên Chúa đã khám phá ra ân sủng, để cung cấp ơn cứu độ cho nhân loại. Mẹ phát sinh ơn sủng. Đó là một ân sủng dư dật để độ phúc cho mỗi người chúng ta, để trào đổ dạt dào sóng dư ân sủng đó xuống mọi thụ tạo.
- Thánh Ilđêphong: Lạy Mẹ, trong hết mọi ân sủng Chúa đã định ban cho loài người, không có ơn nào mà Chúa không muốn đổ xuống qua tay Mẹ, vì Chúa đã ký thác cho Mẹ hết báu tàng, hết mọi phú quí về ơn sủng Người ban.
- Thánh Germanô: Ôi Maria, không ai được cứu độ nếu không nhờ Mẹ; không ai được hưởng ơn trời nào nếu không có Mẹ.
- Thánh Đamascenô: Mẹ là Thánh đô rộng mở đón tiếp hết những ai cầu xin Mẹ. Hỡi các con Mẹ hãy đến mà lãnh nhận tràn đầy ơn sủng vượt trên mọi khát vọng của các con.
- Lạy Mẹ Chí Thánh Thiên Chúa, xin mở tình thương cho chúng con, vì Mẹ là ơn độ phúc của cả nhân loại.
- Thánh Đamianô: Mẹ là kho báu chứa gồm hết mọi thánh ân. Lạy Mẹ là hy vọng của chúng con, chúng con biết hết mọi báu tàng tình thương của Chúa đều ở trong tay Mẹ.
- Thánh Bênađô: Chúa đã tàng trữ nơi Mẹ Maria toàn thể mọi ơn sung mãn, nên chúng ta có được hy vọng nào, ân sủng nào, ơn cứu độ nào là đều lãnh nhận từ tay Mẹ.
- Chúng ta hãy đi tìm ân sủng, và hãy nhờ Mẹ mà tìm. Cứ xin điều gì là Mẹ được điều ấy. Không bao giờ Mẹ có thể bị từ chối.
- Mẹ Maria được tặng ban cho thế giới di chuyển tình thương để qua Mẹ các ân sủng được liên tiếp trao ban từ trời cao xuống cho nhân loại.
- Thánh Albertô: Mẹ là Đấng quản thủ kho báu của Chúa Giêsu.
- Thánh Bonaventura: Mẹ gồm chứa báu tàng của Thiên Chúa là Chúa Giêsu và cùng với Chúa gồm chứa nguyên ủy và nguồn mạch hết mọi ân sủng.
- Lý do nào đã thúc đẩy Mẹ hối hả đi thăm nhà Gioan Tẩy giả nếu không phải là đức ái thiêu đốt tâm hồn Mẹ.
- Lời của Mẹ có mãnh lực lớn lao biết bao, vì Mẹ vừa mới nói, Chúa Thánh Thần liền xuống đầy lòng bà Elizabeth.
- Thánh Bênađinô: Khi Đức Trinh Nữ chào bà Elizabeth, lời chào vào tai bà rồi xuống thai nhi, và vì thế, thai nhi nhận được Chúa Thánh Thần.
- Từ lúc trở nên Mẹ Chúa Cứu Thế, Đức Nữ Trinh uy linh đã được quyền tài phán đối với hết các cuộc nhiệm sinh của Chúa Thánh Thần, đến nỗi không ai được Chúa ban một ơn nào mà không qua trung gian nhân từ hiền ái của Mẹ.
- Thánh Laurensô Brinđisi: Được đầy Thánh Thần bà Elizabeth do Chúa thúc đẩy đã thấy và nói những việc đã qua hiện tại và tương lai. Bà biết phẩm chức vô biên, vinh quang hiện tại và tương lai của Đức Trinh Nữ Maria rất thánh đức và khiêm hạ.
- Thánh Anphong: Vừa đặt chân vào nhà Gioan Tẩy giả Mẹ Maria đã rộng ban cho gia đình ông nào là ân trạch trời cao, nào là hồng ân thiên quốc. Do đó, ngày Lễ Mẹ Thăm Viếng thường được gọi là Lễ Mẹ ban ân sủng.
V. GIÁO HUẤN CỦA GIÁO HỘI
- Đức Phaolô VI: Lễ Thăm viếng nhắc nhớ việc Rất Thánh Trinh Nữ Maria đang cưu mang Con Mẹ đi viếng thăm, giúp đỡ bà Elizabeth, và công bố lòng xót thương của Thiên Chúa cứu chuộc.
- Đức Gioan Phaolô II
1. Mẹ Maria hiện diện một cách linh thiêng giữa chúng ta. Chúng ta chiêm ngưỡng Mẹ với cùng một cặp mắt mà bà Elizabeth đã nhìn xem Mẹ khi Mẹ vội vã tới viếng thăm bà, và nghe lời Mẹ chào bà thì bà nói: "Ngay lúc tiếng em chào vừa đến tai chị, thì hài nhi trong dạ chị liền nhảy mừng" (Lc 1:44). Niềm vui bà Elizabeth cảm thấy nêu bật ân huệ có thể ẩn chứa trong lời chào mừng, khi lời chào đó do một tấm lòng tràn đầy Thiên Chúa. Những bóng tối của tình trạng cô độc đè nén một tâm hồn, thường có thể bị tia sáng một nụ cười và một lời nói âu yếm phá tan.
2. Đáp lại lời chào mừng của Đức Trinh Nữ, bà Elizabeth nói: "Phúc cho em là người đã tin mọi điều Chúa phán truyền cho em sẽ được ứng nghiệm" (Lc 1:45). Những lời này được nói ra do Chúa Thánh Linh và đề cao nhân đức cốt yếu của Mẹ Maria là "đức tin". Các Giáo phụ của Giáo hội đã nhiều ý nghĩa của nhân đức này trong cuộc sống của Đức Trinh Nữ. Các ngài không ngần ngại diễn tả những bình luận có thể làm chúng ta ngạc nhiên. Như Thánh Augustinô nói: "Tính cách người mẹ của Đức Trinh Nữ không ích chi cho Người, nếu Người không cưu mang Chúa Kitô trong tâm lòng hơn là trong cung dạ".
- Nhờ đức tin của Mẹ, Mẹ Maria có thể không sợ hãi tới gần vực thẳm chủ định cứu độ khôn dò của Thiên Chúa: Không dễ gì tin rằng Thiên Chúa muốn "mặc xác phàm và đến ở giữa chúng ta" (Ga 1:14). Người muốn ẩn mình trong đời sống thường ngày vô nghĩa của chúng ta, và mặc lấy nhân tính yếu hèn phải chịu nhiều điều kiện mất thể diện. Mẹ Maria đã dám tin dự án "bất khả hữu = impossible" này. Mẹ tin cậy vào Đấng toàn năng và trở thành người cộng tác vào sáng kiến lạ lùng của Thiên Chúa đã mở ra niềm hy vọng cho lịch sử chúng ta.
Người tín hữu cũng được mời gọi vào thái độ đức tin giống như thế. Đức tin lôi kéo họ can trường nhìn qua bên kia những khả năng và giới hạn những biến cố hoàn toàn nhân loại.
- Công đồng Vatican II
Sự liên kết giữa Mẹ và Con trong công cuộc Cứu rỗi được tỏ rõ khi Đức Maria thụ thai Chúa Kitô cách trinh khiết cho đến lúc Chúa Kitô chết. Thực vậy, trước hết, Đức Maria đã vội vã đến thăm bà Elizabeth, và được bà ấy chào mừng là người có phúc, vì đã tin vào sự Cứu rỗi Chúa đã hứa, và vị Tiền hô nhảy mừng trong lòng mẹ.
Lm. Phêrô, CMC
18. Không khiêm nhường, không biết tạ ơn!
Ngày 04-10-2006, giáo dân của Giáo Phận Bắc Ninh tập trung rất đông đủ tại nhà thờ Chính tòa Giáo Phận để cử hành thánh lễ An táng cho Đức Cha Giuse Nguyễn Quang Tuyến. Trong phần tiễn biệt, người ta rất ấn tượng với những dòng di chúc của Đức Cha. Nói đúng hơn, đây là lá thư mục tử cuối cùng của cuộc đời ngài trên dương thế. Tâm thư này được viết trước khi lên bàn mổ để các bác sĩ thực hiện ca phẫu thuật mà ngài đã được báo cho biết là 95% sẽ chết, chỉ có 5% là sống sót.
Trong bức tâm thư đó, ngài viết cho mọi thành phần trong gia đình Giáo Phận. Tuy nhiên, người ta chú tâm hơn với phần viết cho các nữ tu của Tu hội Con Đức Mẹ Hiệp Nhất. Nội dung đại khái như sau: “Các con yêu quý, khi ở trong Giáo Phận, cha thấy các con thua kém chị em của các hội dòng khác. Bởi vì họ trổi trang hơn chúng con về nhiều mặt, nào là: kiến thức, khả năng mục vụ, giáo tiếp, nhan sắc… Tuy nhiên, cha nhận thấy nơi chúng con tấm lòng đơn sơ, chân thành. Đây chính là nét đẹp nơi tâm hồn chúng con. Cha thiết nghĩ có khi lớ ngớ như chúng con lại dễ vớ Thiên Đàng nhanh hơn cha”.
Khi viết cho các nữ tu như vậy, có lẽ Đức Cha muốn nói lên một điều, đó là Chúa thương những người hiền lành, đơn sơ, chân thành, nhất là khiêm nhường.
Tại sao vậy? Thưa, bởi vì người khiêm nhường là người thuộc về Thiên Chúa, nên dễ dàng đi vào mối tương quan mật thiết với Người.
Ngược lại, người kiêu ngạo là người không thuộc về Thiên Chúa, và đương nhiên, không thể hiệp thông được với Người. Nói cách khác, khiêm nhường là con đẻ của Thiên Chúa. Kiêu ngạo là con đẻ của ma quỷ. Chính vì vậy mà Thiên Chúa bênh đỡ và bảo vệ người khiêm nhường, còn kẻ kiêu ngạo thì sẽ bị Người tiêu diệt như lời thánh Phêrô đã nói: “Thiên Chúa chống lại kiêu kiêu ngạo” (1 Pr 5,5).
1. Mẹ Maria, Người Nữ Tỳ khiêm hạ
Phụng vụ Lời Chúa trong thánh lễ Đức Maria viếng thăm bà Êlisabeth hôm nay làm toát lên vẻ đẹp của sự chia sẻ và khiêm nhường nơi Mẹ Maria.
Trang Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe, thánh sử Luca giới thiệu cho chúng ta một người phụ nữ tuyệt vời: ngài là người tràn đầy ân sủng; là người có phúc hơn hết mọi người phụ nữ và nơi cung lòng của ngài sẽ xuất hiện Đấng Cứu Chuộc mà muôn dân mong đợi.
Tuy nhiên, với những ơn cao trọng lớn lao như vậy, tác giả lại cho thấy được xảy ra nơi một Nữ Tỳ hèn mọn và rất đỗi khiêm nhường, người đó chính là Mẹ Maria.
Thật vậy, chắc chắn Mẹ là người biết rõ Người Con mà mình đang cưu mang là ai? Người Con ấy quyền thế cao sang biết chừng nào? Hơn nữa, lời ca tụng của bà chị họ là Êlisabeth lại càng làm nên sự uy nghi, tự hào, bà nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ […] Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi” (x. Lc 1, 42-43)
Tuy nhiên, Mẹ Maria đã không tự kiêu để nhận những vinh dự đó về cho mình, ngược lại, Mẹ đã dâng nó lại cho Thiên Chúa trong tâm tình khiêm nhường của một người nữ tỳ hèn mọn.
Quả thật, nếu không khiêm nhường, thì khi Mẹ được những ơn cao trọng có một không hai trong lịch sử nhân loại như vậy, Mẹ phải hãnh diện đến tự kiêu. Nếu không khiêm nhường, thì khi Mẹ biết mình có phúc hơn mọi người phụ nữ trên trần gian, ắt Mẹ sẽ vỗ ngực xưng tên để huênh hoang, tự đắc với đời. Và như một hệ quả, nếu không khiêm nhường tuyệt đối, Mẹ sẽ phá hoại chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa trong sự kiêu ngạo.
Vì thế, nơi Mẹ Maria, Mẹ đã đón nhận hồng ân của Thiên Chúa trong tâm thế của một người môn đệ, một nữ tỳ khiêm nhu. Điều này đã được chứng minh khi Mẹ cất lên lời kinh Magnificat để ca ngợi Thiên Chúa vì những điều kỳ diệu mà Người đã làm trên phận nữ tỳ hèn mọn của mình.
Cất lên lời kinh Magnificat, ấy là Mẹ lội ngược dòng lịch sử cứu độ để nhận thấy bàn tay uy quyền và thương xót của Thiên Chúa đã cứu và giải thoát dân khỏi biết bao nguy biến.
Cất lên lời kinh Magnificat, ấy là Mẹ Maria đã gia nhập vào dòng người thánh thiện để ca ngợi sự khôn ngoan thượng trí của Thiên Chúa, khi Người đưa cánh tay mạnh mẽ để hạ gục kẻ kiêu căng, truất bỏ những người quyền thế, để người giàu có trở về tay không, còn người nghèo khổ, thấp hèn lại được đầy dư.
Cuối cùng, cất lên lời kinh Magnificat, Mẹ Maria đã cùng với muôn người ngóng trông ơn cứu độ để cất lên lời tạ ơn Thiên Chúa, bởi vì Người đã thực hiện lời hứa với các Tổ phụ và Tiên tri khi trao ban Con Một của Người xuống trần gian cứu chuộc con người.
2. Sứ điệp Lời Chúa
Dưới ánh sáng Lời Chúa, chúng ta cũng cùng nhau lội ngược dòng để đọc lại lịch sử cuộc đời của mình dưới tâm thức của người thụ ơn, để thấy được những điều kỳ diệu mà Chúa đã làm trên cuộc đời chúng ta.
Những ơn đó là: ơn được sinh ra làm người trong một gia đình. Được trở nên con cái Thiên Chúa. Được lớn lên với biết bao ân cần, lo lắng của mọi người mà Chúa gửi đến để chăm sóc cho ta. Ngài cũng cứu chúng ta biết bao lần qua những cơn bạo bệnh. Ngài che chở ta và giải thoát ta khỏi biết bao nguy biến, tai ương… nhất là ơn được sống tới ngày hôm nay. Rồi sức khỏe, trí thông minh, và rất nhiều khả năng khác mà Thiên Chúa không ngừng ban cho chúng ta…
Tuy nhiên, khác với Mẹ Maria, nhiều khi chúng ta chưa đủ nhạy bén hay vô tình mà quên đi nghĩa vụ của người thụ ơn với Thiên Chúa. Hoặc cũng có lúc chúng ta có thái độ giảm nhẹ mầu nhiệm để thay vào đó là khái niệm tự nhiên có, nên việc biết ơn có vẻ cũng vì đó mà bị giảm nhẹ theo!
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên có thể do sự kiêu ngạo, lạnh nhạt, khô khan, nên chưa khiêm nhường đủ để nhận ra ân sủng của Thiên Chúa trên cuộc đời mình.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta khi đứng trước hồng ân lớn lao như vậy, hãy có tâm tình của Mẹ Maria để cất cao lời ngợi khen Thiên Chúa vì những điều kỳ diệu Người đã làm trên và trong cuộc đời chúng ta. Đồng thời, noi gương Mẹ, mỗi người cũng hãy chia sẻ niềm vui với những anh chị em xung quanh, nhất là sẵn sàng giúp đỡ những ai cần đến chúng ta, để vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người hôm nay cũng là những mối ưu tư và lo lắng của chúng ta.
Mặt khác, luôn sống tâm tình khiêm nhường và tín thác nơi Thiên Chúa, biết nhạy bén như Mẹ Maria để không chỉ bản thân mình cần cám ơn, chúc tụng Thiên Chúa, nhưng chúng ta còn làm những bổn phận đó trong tư cách là dân Thiên Chúa khi cảm tạ và chúc tụng thay cho người khác.
Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng, đường lối khiêm nhường là cách thức Thiên Chúa thể hiện quyền năng. Xin Chúa ban cho chúng con biết noi gương khiên nhường của Đức Trinh Nữ Maria để sống sao cho đẹp lòng Thiên Chúa và để thánh ý của Thiên Chúa được thực hiện nơi chúng con.
Xin cũng cho chúng con biết quan tâm, lo lắng cho mọi người, nhất là những người khổ đau, nghèo đói đang cần đến chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
19. Mẹ Maria gặp gỡ chị họ Elisabeth--Đaminh Trần văn Chính
Vào một buổi chiều hôm đó trong nhà thờ, đầy nghẹt những người cùi hủi. Đức cha Maigret đứng bên bàn thờ quay xuống hỏi họ:
Các con thân mến, các con hằng mong ước có một linh mục đến ở cùng và phục vụ các con. Thì đây tôi xin giới thiệu: cha Đamien (Joseph Damien de Veuster 1840-1889 người Bỉ. Ngài đã đến và sẽ ở lại để chăm sóc, phục vụ và chia sẻ với các con từ nay cho đến chết. Các con có vui mừng không?
Cả nhà thờ xôn xao, thì thầm to nhỏ. Cha Đamien đứng bên cạnh Đức giám mục mà chẳng hiểu tí gì! Rồi họ từ từ tiến lên cung thánh, họ đến bên cha, sờ vào mặt, vào tay và vào áo cha…Cha hỏi Đức giám mục: Họ làm gì vậy?. Đức cha giải thích: Họ nói họ không thể tưởng tượng được một người từ nơi phương xa, chẳng có bà con huyết thống gì với họ, còn trẻ và lại đẹp trai nữa, không bệnh tật gì mà tự nguyện đến phục vụ họ trên mảnh đất khốn cùng này. Họ không tin vào mắt mình nên họ mới xúm lại sờ mó vào người cha xem thử cha có thực sự bị bệnh phong cùi như họ không? Rồi họ nói với nhau rằng: “Không, cha không bệnh tật gì và cha đẹp trai quá!”.
Vào năm 1873, cha Đamien đã tự tình nguyện ra đảo Molokai, nơi mà chính quyền Hawaii thời đó “thu gom” những người bất hạnh bị bệnh cùi hủi ra sống ở đảo nhằm cách ly, tránh sự lây lan cho xã hội. Vì thế họ bị bỏ mặc, sống lạc loài và cô đơn trên đảo, không nhận được bất cứ một sự chăm sóc nào về thể xác cũng như tâm linh!
Cha Đamien đã đến và biến đổi một trại cùi hiu quạnh bị cô lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài thành một trung tâm sinh hoạt yên vui như một gia đình lớn.
Và rồi sau mười sáu năm tận tình phục vụ những anh chị em cùi, cha đã bị lây bệnh và qua đời vào năm 1889. Vì thế cha được mệnh danh là “Tông Đồ người cùi”.
(Ngài được phong chân phước ngày 04/06/1995 và được phong hiển thánh ngày 11/10/2009).
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Đức Mẹ đi thăm viếng gia đình bà Elisabet. Chúng ta thấy theo tường thuật của Phúc Âm, thì ngay sau khi nói lời “xin vâng” để chương trình cứu thế của Thiên Chúa được bắt đâu thực hiện thì Đức Mẹ đã “vội vã” lên đường đên thăm gia đình người chị họ. Đây không phải là một cuộc thăm viếng bình thường, mà là chuyến đi mang niềm vui của ơn cứu độ đến cho tha nhân. Niềm vui này thật quan trọng và lớn lao đến nỗi bà chủ nhà Elisabet, khi thấy Đức Maria đến đã phải thốt lên rằng: “Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến thăm viếng tôi”. Và Gioan tuy chỉ là một thai nhi cũng đã vui mừng mà nhảy lên trong dạ mẹ. Như vậy chúng ta thấy, khi nhận được niềm vui của Tin Mừng cứu độ, Mẹ đã không giữ lại cho riêng mình mà đã vội vã lên đường đi chia sẻ niềm vui ấy cho mọi người.
Với tư cách là Mẹ Đấng Cứu Thế, thì lẽ ra người phải đến chăm nom, phục vụ và ngợi khen Đức Mẹ phải là bà Elisabet. Nhưng vì lòng khiêm nhường, Đức Mẹ đã không quản ngại đường xá xa xôi vất vả, và không phải là không có những mối nguy hiểm trên đường! Nhưng Mẹ vẫn đến để thăm viếng phục người chị em này.
Noi gương Đức Mẹ, chúng ta là những người được mệnh danh là “người có Chúa” tức những Ki-tô hữu thì cũng phải có bổn phận đem Chúa đến giới thiệu cho tha nhân. Nhưng trước hết hãy học nơi Mẹ nhân đức khiêm nhường và yêu thương. Bởi chỉ có thực sự khiêm tốn và yêu thương chân thành chúng ta mới có thể đem Tin Mừng cứu độ cho tha nhân được.
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta biết thể hiện những hành động yêu thương quí mến mọi người mà chúng ta gặp gỡ, trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Chúng ta có thể trao cho họ những nụ cười tươi thắm, những lời nói nhỏ nhẹ chân thành, những ánh mắt thiện cảm nhân từ… Như thế là chúng ta đã mang niềm vui, an bình đến cho mọi người, và nhất là chúng ta đã thể hiện được là người có Chúa Ky-tô đang ngự trị nơi tâm hồn của chúng ta.
3. Cầu Nguyện:
Lạy Chúa, còn biết bao người chưa nhận biết Chúa. Xin ban Thánh Thần thức tỉnh tâm hồn họ để nhờ đó họ nhận ra chỉ có Chúa là Đấng Cứu Độ trần gian mà họ phải tôn thở, kính mến để cuộc sống dương gian này mang lại ý nghĩa thực sự cho họ, và cũng xin ban cho mỗi người chúng con luôn biết bổn phận mình là Ky-tô hữu, thì phải đem Chúa đến cho mọi người và đem mọi người về cho Chúa, bằng đời sống yêu thương, bác ái, hy sinh và phục vụ của mình. Amen.
4. Sống Lời Chúa:
Mỗi ngày cố gắng hy sinh làm việc thiện, có ý cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo.
20. Cuộc gặp gỡ lịch sử--JM. Lam Thy DVD
Đúng vào ngày kết thúc Tháng Hoa kính Đức Mẹ (31/5), Giáo Hội cử hành lễ Đức Maria Thăm Viếng Bà Ê-li-sa-bét. Vì sao có cuộc thăm viếng này? Vì khi truyền tin cho Đức Maria là Ngôi Lời sẽ Nhập Thể trong cung lòng của Đức Mẹ, sứ thần có báo cho Mẹ một tin vui: “Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng.” (Lc 1 38). Bà Ê-li-sa-bét là chị họ của Đức Maria, vì thế Đức Mẹ “vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa” (Lc 1, 39) để viếng thăm và ở lại với người chị họ 3 tháng.
Xét theo sự giao tế của con người, khi thấy chị em có tin vui thì đến chia vui là chuyện bình thương. Tuy nhiên, nếu để ý một chút sẽ thấy bà Ê-li-sa-bet với Đức Maria chỉ là chị em họ, mà con đường từ nơi Đức Maria tới nơi bà Ê-li-sa-bét phải vượt qua một chặng đường đồi núi chập chùng rất dài (đi bộ phải mất 2 – 3 ngày đường), đầy khó khăn nguy hiểm, đó sẽ là trở ngại lớn khiến khó lòng thực hiện được ý định viếng thăm nhau. Vậy mà Đức Mẹ vẫn “vội vã” tới thăm, điều này cho thấy phải có một động lực rất mạnh thúc đẩy Mẹ lên đường. Không những thế, Mẹ còn ở lại chăm sóc người chị họ cho tới khi bà mãn nguyệt khai hoa. Như vậy thì cuộc thăm viếng lịch sử này đã hàm chứa 2 chiều kích nền tảng của Ki-tô Giáo: Chia sẻ và Phục vụ trong Yêu thương.
1- Chia sẻ: Trước khi có cuộc thăm viếng của Đức Maria, thì đã có cuộc viếng thăm của Thiên Chúa đến trao ban Con Một của Người cho nhân loại trong cung lòng của Đức Mẹ. Chính Chúa Giê-su là Đấng cứu độ và giải thoát con người khỏi ách nô lệ của tội lỗi và sự chết đời đời. Người mang lại nguồn ánh sáng vinh quang của Thiên Chúa cho những ai tin tưởng và đón nhận tình yêu của Người. Khi Đức Mẹ “xin vâng” thì cũng là lúc Mẹ được tràn đầy Thánh Thần, và chính đó là động lực thúc đẩy Mẹ thể hiện việc đem Tình Yêu chia sẻ cho tha nhân. Nói cách khác là ngay từ lúc này, Đức Mẹ đã thi hành sứ vụ “đi khắp tứ phương loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16, 15) như về sau Đức Giê-su Thiên Chúa hằng giảng dạy và sai phái các môn đệ của Người.
Đức Maria viếng thăm là đem Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, cũng là Con của Mẹ đến với gia đình bà Ê-li-sa-bet. Và vì thế, nên bà E-li-sa-bét mới nói: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.” (Lc 1, 43-45). Vì yêu thương, nên dù đường sá xa xôi, vất vả, qua miền đồi núi đầy cam go, nguy hiểm, Đức Maria vẫn lên đường viếng thăm người chị họ. Chính tình yêu đã thúc đẩy bước chân Mẹ. Quả thật hình ảnh cao đẹp này cũng đã được tiền định từ trước, nên ngôn sứ Xô-phô-ni-a mới viết “Thánh vịnh mời gọi Si-on vui mừng” (xc bài đọc 1 hôm nay: Xp 3, 14-18a) và ngôn sứ I-sai-a hết lời ca tụng: “Đẹp thay trên đồi núi, bước chân người loan báo Tin Mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ.” (Is 52, 7).
Đến như Bài ca Ngợi Khen (Magnificat) tuy là lời Đức Mẹ chúc tụng, tôn vinh Thiên Chúa, nhưng đó lại là Tin Mừng đem đến cho mọi người, nếu biết tin yêu và vâng phục thánh ý của Thiên Chúa (như Đức Mẹ) và hân hoan vui mừng đón nhận (như hai mẹ con bà Ê-li-sa-bét và thai nhi Gio-an Bao-ti-xi-ta). Thật thế, “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng. Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời.”
2- Phục vụ: Nếu chỉ tới thăm rồi về ngay thì chưa đủ, mà Đức Mẹ còn “ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.” Khi Đức Mẹ tới viếng thăm thì bà chị họ đã có thai được 6 tháng, bây giờ Mẹ ở lại thêm 3 tháng nữa, tức là ở lại với người chị họ tới ngày bà sinh con. Rõ ràng Đức Mẹ ở lại chỉ với mục đích duy nhất là để giúp đỡ, chăm sóc thai phụ trong những ngày cuối thai kỳ. Người phụ nữ có thai rất cần có người ở liền bên phục vụ, mà người đó phải là phụ nữ, bởi có những việc người chồng không thể làm được. Hành động phục vụ của Đức Mẹ chính là vâng phục tuyệt đối thánh ý của Thiên Chúa (“những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ Lời Chúa truyền lại cho chúng ta.” – Lc 1, 2), mà khi Người Con của Mẹ trưởng thành đã giảng dạy và thực hiện (“Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em… Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.” – Mt 20, 26).
Trong cuộc sống xô bồ ngày nay, chuyện đi thăm viếng nhau ngày càng ít dần, nhất là những người sống ở thành thị. Có khi sống liền vách với nhau mà cũng không hề có được tình nghĩa “tối lửa tắt đèn có nhau, bán anh em xa mua láng giềng gần”! Tình nghĩa láng giềng ngày càng lợt lạt, thay vào đó là “đèn nhà ai nhà nấy sáng, sống chết mặc bay”. Ngược lại, có những người thăm viếng nhau hàng ngày, mỗi ngày bỏ rất nhiều thời giờ để nói chuyện cà kê dê ngỗng với nhau hoặc ngồi lê đôi mách, nói hành nói xấu, đơm điều đặt chuyện. Việc họ thăm viếng chẳng những không giúp ích gì cho nhau mà còn làm cớ cho nhau phạm tội (dèm pha, nói xấu, thậm chí còn xúc xiểm gây thù chuốc oán người khác). Ấy mới chỉ là nói về việc thăm viếng nhau đã khan hiếm như thế, thì không hiểu việc yêu thương phục vụ sẽ còn khó kiếm đến như thế nào!
Như vậy thì cuộc viếng thăm lịch sử của Đức Mẹ dành cho gia đình ông Da-ca-ri-a là khởi đầu cho Giao Ước Mới đem Tin Mừng đến cho nhân loại. Đức Maria thăm viếng vừa để chia sẻ Tin Mừng vừa để phục vụ anh em, đã thể hiện cụ thể và sinh động nhất tình cảm “yêu Chúa hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình” (Mc 12, 30-31). Đó là hình ảnh tuyệt đẹp và là mẫu gương tuyệt vời cho mọi tín hữu noi theo. Dành thời giờ quý báu để thăm viếng nhau, chia sẻ tình thương và đem niềm vui có Chúa đến phục vụ cho tha nhân luôn luôn và mãi mãi phải là sứ vụ của con cái Chúa, không thể khác hơn.
“Lạy Cha là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, ngay khi còn cưu mang Thánh Tử Giê-su, Thánh Mẫu Maria đã được Cha soi sáng và người đã đi thăm bà Ê-li-sa-bét. Xin cho chúng con hằng mau mắn nghe theo Chúa Thánh Thần hướng dẫn, để được cùng Ðức Maria ngợi khen Cha muôn đời. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giê-su Ki-tô Con Cha là Thiên Chúa và là Chúa chúng con, Người hằng sống và hiển trị cùng Cha hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Đức Maria thăm viếng bà Ê-li-sa-bét).
21. Niềm vui thăm viếng--Huệ Minh
Sau khi sứ thần Gabrien cho biết Đức Mẹ được chúc phúc và cưu mang con Thiên Chúa, Đức Mẹ vui mừng khi người chị họ của mình là bà Êlisabét cũng được chúc phúc. Đức Mẹ đã vội vã lên đường đến thăm chị họ của mình.
Động lực thúc đẩy Đức Mẹ lên đường là do lòng yêu mến và tình người của Đức Mẹ. Khi đã có lòng yêu thương thì có gian nan, xa xôi thì cũng điều vượt qua. Đức Mẹ biết chị họ đã già, lại có thai lần đầu tiên và được sáu tháng nên rất cần người giúp đỡ. Đức Mẹ đã đến ở và giúp người chị của mình. Học nơi mẹ, chúng ta đừng có thái độ làm ngơ hờ hững với anh em họ hàng của mình. Chúng ta hãy yêu thương, quan tâm giúp đỡ khi họ cần vào lúc thuận tiện có thể. Nhờ đó, chúng ta được thêm niềm vui và anh em mình cũng được hạnh phúc như Đức Mẹ vậy.
Chuyến viếng thăm của Đức Mẹ có bao nhiêu mục đích, song mục đích chính yếu vẫn là chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho gia đình Dacaria. Gioan vui mừng nhảy lên trong lòng mẹ nhờ gặp gỡ được Đấng Cứu Thế trong lòng Đức Mẹ. Bà Êlizabeth kêu lớn tiếng và nói: Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em cưu mang cũng được chúc phúc... Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em, sau lời chào của Đức Mẹ.
Đức Mẹ không những đem niềm vui cứu độ đến cho gia đình Dacaria mà còn ở lại với bà Êlizabeth độ 3 tháng để giúp đỡ, sẻ chia, an ủi, bởi hơn bao giờ hết, những ngày tháng sắp sinh nở, và sau khi sinh nở, cần thiết biết bao sự giúp đỡ của người khác. Đức Mẹ đã làm như thế để Êlizabeth hoàn toàn có thể yên tâm trong việc cộng tác phần mình vào trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Đáp lại lời chào mừng của Đức Trinh Nữ, bà Elizabeth nói: "Phúc cho em là người đã tin mọi điều Chúa phán truyền cho em sẽ được ứng nghiệm" (Lc 1, 45). Những lời này được nói ra do Chúa Thánh Linh và đề cao nhân đức cốt yếu của Mẹ Maria là "đức tin". Các Giáo phụ của Giáo hội đã nhiều ý nghĩa của nhân đức này trong cuộc sống của Đức Trinh Nữ. Các ngài không ngần ngại diễn tả những bình luận có thể làm chúng ta ngạc nhiên. Như Thánh Augustinô nói: "Tính cách người mẹ của Đức Trinh Nữ không ích chi cho Người, nếu Người không cưu mang Chúa Kitô trong tâm lòng hơn là trong cung dạ".
Nhờ đức tin của Mẹ, Mẹ Maria có thể không sợ hãi tới gần vực thẳm chủ định cứu độ khôn dò của Thiên Chúa: Không dễ gì tin rằng Thiên Chúa muốn "mặc xác phàm và đến ở giữa chúng ta" (Ga 1, 14). Người muốn ẩn mình trong đời sống thường ngày vô nghĩa của chúng ta, và mặc lấy nhân tính yếu hèn phải chịu nhiều điều kiện mất thể diện. Mẹ Maria đã dám tin dự án "bất khả hữu" này. Mẹ tin cậy vào Đấng toàn năng và trở thành người cộng tác vào sáng kiến lạ lùng của Thiên Chúa đã mở ra niềm hy vọng cho lịch sử chúng ta.
Người tín hữu cũng được mời gọi vào thái độ đức tin giống như thế. Đức tin lôi kéo họ can trường nhìn qua bên kia những khả năng và giới hạn những biến cố hoàn toàn nhân loại.
Đức Mẹ đi thăm chị họ của mình cũng có thể nói là Mẹ ra đi truyền giáo. Theo Tin Mừng viết thì Đức Mẹ đi một mình. Nhưng với niềm tin của chúng ta, Đức Mẹ đi cùng với Thiên Chúa vì Mẹ đã được Thiên Chúa chúc phúc, được tuyển chọn, là người của Chúa, thuộc về Chúa và cũng đang cứu mang Con Một Thiên Chúa. Như vậy trên đường đến thăm chị họ, Đức Mẹ luôn có Chúa đi cùng. Đức Mẹ đi trong niềm vui và mang niềm vui đến cho mọi người. Niềm vui ấy được thể hiện nơi thai nhi của bà Êlisa bét: “Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng”(x Lc 1,44). Chúng ta hãy bắt chước Mẹ lên đường trong niềm tin rằng chúng ta không bao giờ đi một mình, chúng ta luôn có Chúa thân hành và hiện diện.
Hình ảnh vui tươi phục vụ và nhất là niềm vui mang Chúa đến cho mọi người nơi Mẹ gợi cho chúng ta một cung cách sống quảng đại, yêu thương và dấn thân phục vụ. Noi gương Đức Mẹ, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi ra đi mang Chúa đến cho mọi người, như lời của Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói: Đức Maria, trên con đường đi thăm viếng bà Elizabeth, đã trở nên ngôi nhà tạm sống động, vì Mẹ đang cưu mang trong cung lòng mình Con Thiên Chúa”. Để có thể thực hiện được điều này, mỗi người chúng ta cần phải có Chúa trong mình, cần phải sống kết hiệp với Chúa, trở nên những ngôi nhà tạm sống động của Chúa. Đồng thời, mỗi người chúng ta cũng cần phải biết siêng năng lắng nghe và suy gẫm lời Chúa, để có thể lắng nghe và nhận ra được thánh ý Chúa trên cuộc đời mình, từ đó hăng say cất bước ra đi mang niềm vui đến cho mọi người.
Qua cuộc viếng thăm ấy, Đức Mẹ cảm thấy vô cùng hạnh phúc không gì diễn tả nổi. Đức Mẹ đã cất cao bài “Magnificat”. Một bài ca vang mãi muôn đời. Bài hát mà Giáo Hội đã làm lời kinh trong phụng vụ. Cùng với Giáo Hội chúng ta hãy hát lên và sống bài ca ấy. Bài ca của niềm vui trọn vẹn và đích thực. Niềm vui vì nhìn thấy được công trình cứu chuộc của Thiên Chúa; vui vì tìm được nguồn chân lý, công bằng và sự thật và vui vì con đường đến với Thiên Chúa còn có rất nhiều người cùng đi.
Thăm viếng người khác một cách chân thành với mục đích đem yêu thương, an vui, hạnh phúc đến cho họ là một trong sứ điệp quan trọng của lời Chúa hôm nay. Muốn có thể đem yêu thương, an vui hạnh phúc cho người khác, đòi các tín hữu phải là người có niềm vui cứu độ. Xin Chúa cho các tín hữu luôn biết mở lòng ra cho Chúa đến để khi tâm hôn có Chúa chúng ta có thể bắt chước Đức Mẹ đem niềm vui cứu độ đến với tha nhân.
22. Cuộc viếng thăm đầy ân sủng--Giuse Vinhsơn Ngọc Biển SSP
Trong cuộc sống, nơi các mối tương quan, hẳn sự cảm thông, liên đới là điều quan trọng. Có sự cảm thông, chúng ta dễ dàng tôn trọng, hiểu biết, và đón nhận nhau hơn. Có sự liên đới, chúng ta dễ dàng chia vui, sẻ buồn với nhau để giúp nhau thăng tiến…
Hôm nay, bài Tin Mừng cũng trình thuật cho chúng ta về cuộc gặp gỡ giữa Mẹ Maria và bà Êlisabét. Cuộc gặp gỡ này không chỉ dừng lại ở chỗ thăm hỏi xã giao, nhưng nó còn đi xa hơn để cho thấy rằng đây là một cuộc gặp gỡ trong tình yêu và ân sủng.
Đức Maria vội vã lên đường thăm bà chị họ Êlisabét không phải do Mẹ không tin lời Sứ Thần báo bà Êlisabét đã có thai được sáu tháng, vì thế, phải lên đường để tận mắt phục kích xem điều đó có thật không! Không phải vậy, nhưng Mẹ lên đường là để thể hiện sự vui mừng, mau mắn, sẵn sàng tín thác nơi Chúa và đem Tin Mừng ấy đến với người chị họ và cũng là người chị trong ân sủng, để cả hai cùng chung lời tạ ơn. Vì thế, khi vừa thấy Mẹ, bà Êlisabét đã cất tiếng tung hô: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1,4243). Cùng lúc, Gioan trong bụng đã nhảy lên vui sướng vì mình được Thiên Chúa viếng thăm.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy, vai trò của Chúa Thánh Thần là trọng tâm của mọi biến cố cũng như nhân vật từ Đức Giêsu, Mẹ Maria, thánh Gioan, ông Dacaria và bà Êlisabét… Tất cả những nhân vật này đã trung thành với lời hứa, mặc dù đôi lúc cũng còn chút nghi ngờ như ông Dacaria.
Từ đó, chúng ta được mời gọi mau mắn vâng nghe tiếng nói của Chúa Thánh Thần trong Lương Tâm của mình để thi hành. Sẵn sàng tin tưởng tuyệt đối vào Lời Chúa hứa. Yêu thương, tôn trọng và liên đới với tha nhân để giúp nhau nên thánh.
Qua mỗi ngày sống, mong sao mọi người đều cảm nhận được niềm vui, hạnh phúc vì có Chúa ở cùng như mẹ Maria, bà Êlisabét và thánh Gioan Tẩy Giả khi xưa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết yêu thương nhau để cùng nhau làm chứng cho niềm vui Tin Mừng trong cuộc sống thường ngày. Amen.
23. Niềm vui có Chúa--Nữ đan sĩ Maria Maximiliano Kolbe
Xp 3,14-18a; Rm 12,9-16b; Lc 1,39-56
(http://hoidongxitothanhgia.com/)
Khát vọng niềm vui ẩn chứa nơi tâm hồn con người. Ai ai cũng mong có được niềm vui hoàn hảo, trọn vẹn và bền vững. Nhưng niềm vui ở đâu nếu không phải ở nơi những con người có Chúa trong lòng, những người gặp Chúa trong cuộc đời? Niềm vui đó được thể hiện rõ nét nhất nơi Đức Maria trong ngày Đức Maria đi thăm người chị họ Ê-li-sa-bét mà bài Tin Mừng hôm nay thuật lại.
1. Niềm vui có Chúa
Đức Maria đã được sứ thần mời gọi “Mừng vui lên”. Hôm ấy, Mẹ càng vui vì có Chúa trong lòng mình. Mẹ vui vì cảm nhận được tình yêu thương của Chúa trên cuộc đời Mẹ cũng như trên dân tộc của Mẹ. Mẹ vui vì Chúa đã làm cho Mẹ bao điều cao cả, đến nỗi hết mọi đời sẽ khen Mẹ có phúc (Lc 1,48-49).
Niềm vui được manh nha từ trong Cựu ước. Bài đọc thứ I ghi lại lời mời gọi, qua đó loan báo niềm vui: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào, nhà Ít-ra-en hỡi! Hỡi thếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy nức lòng phấn khởi… Đức vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi, chính là Đức Chúa” (Xp 3,14-15). Niềm vui được loan báo này đã thành hiện thực qua Đức Maria. “Đức vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi” ấy chính là Đức Giêsu đang ngự trong lòng Đức Maria.
Đứng trước ân huệ lớn lao là được cưu mang và sinh hạ Con Thiên Chúa, Mẹ chỉ biết dâng lời chúc tụng Chúa bằng bài ca “Ngợi khen” (Magnificat), mà chúng ta hát trong giờ Kinh Chiều. Ngày xưa, dân Ít-ra-en vui mừng ca tụng Chúa qua những thánh vịnh, thánh thi vì họ thấy Chúa hiện diện giữa họ, yêu thương họ (Tv 33; 149 …).
2. Niềm vui chia sẻ Niềm vui
Khi có Chúa trong mình, có niềm vui trong mình, Đức Maria vội vã lên đường để chia sẻ niềm vui đang trào tràn với người chị họ Ê-li-sa-bét (Lc 1,39). Mẹ đã không quản ngại, dù đường xa cách trở, dù núi non cheo leo. Mẹ chia sẻ niềm vui vì mình được cưu mang Chúa, là Chúa Tể muôn loài, lại là Đấng cứu chuộc mọi sinh linh. Mẹ chia sẻ niềm vui với người chị họ cao niên. Chị là người hiếm muộn mà Chúa đã cho chị mang thai và sắp được làm mẹ, sắp rửa được tủi nhục không con theo quan niệm thời ấy giờ.
Mẹ đã cảm nghiệm được niềm vui yêu thương nên Mẹ sống quảng đại. Mẹ đến để phục vụ, chăm sóc người chị trong những ngày sắp mãn nguyệt khai hoa. Tình bác ái này được thánh Phao-lô nói đến trong bài đọc II, trích từ thư Rôma chương 12: chúng ta phải yêu thương nhau, chia sẻ niềm vui nỗi buồn với nhau, cầu nguyện cho nhau, sốt sắng phục vụ Chúa, ngay cả người bắt bớ mình, mình cũng phải chúc lành. Chân phước Tê-rê-sa Calcutta qua kinh nghiệm phục vụ, trao ban của ngài, cũng đã nói: “Ai trao ban cách vui vẻ là trao ban nhiều hơn thế”.
3. Niềm vui đón nhận
Bà Ê-li-sa-bét vui vì bà biết đón nhận niềm vui từ người em họ, bà vui vì được người em họ của bà đến viếng thăm, vui vì em đến chăm sóc mình trong lúc thai nghén. Niềm vui to lớn nhất là được Đức Maria đem Chúa đến cho gia đình mình, vui vì Chúa đến cư ngụ trong nhà của mình. Niềm vui của bà được lan truyền qua người con trong bụng, khiến người con ấy tuy chưa chào đời mà đã nhảy mừng. Niềm vui bà Ê-li-sa-bét có được, bà nhận ra được Chúa đến nhà bà là nhờ Chúa Thánh Thần ban cho bà (Lc 1,41), vì như chân phước Phao-lô VI đã viết: “Nơi chính Thiên Chúa, tất cả đều là niềm vui bởi tất cả đều là ân ban (Tông huấn Gaudete in Domino 9/5/1975).
Là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi sống niềm vui và trao ban niềm vui. Vì Kitô hữu là người có Chúa Kitô. Chúng ta vui vì có Chúa trong mình, Chúa luôn đồng hành với chúng ta trong cuộc hành trình dương thế. Chúng ta vui vì có những anh chị em Kitô hữu khác cùng sống với chúng ta trong cuộc đời, có người bạn đường chia sẻ niềm vui nỗi buồn của kiếp người với chúng ta. Đó cũng là dịp để chúng ta thực tập, thi thố, trao ban niềm vui cho những người chúng ta gặp gỡ. Đồng thời chúng ta cũng biết ơn đón nhận tình thương, niềm vui từ anh chị em trao ban cho chúng ta.
24. Chia Sẻ Niềm Vui--Radio Veritas Asia--‘Suy Niệm Lời Chúa’
Trong bầu khí mừng lễ Chúa Giáng sinh, phụng vụ hôm nay trình bày cho chúng ta sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người qua sự gặp gỡ hữu hình giữa Chúa Giêsu trong lòng Đức Trinh Nữ Maria và Gioan Tẩy Giả trong lòng bà Elizabeth.
Nơi bài đọc thứ nhất, tiên tri Mikêa cho thấy lời Chúa hứa là Người sẽ gặp dân Người và điểm quan trọng là tiên tri gọi đích danh thành Bêlem và cho biết từ đó sẽ xuất hiện Đấng thống trị Israel. Với lời hứa đó, con người sống trong hy vọng và từ nay Thiên Chúa không còn gặp gỡ con người trong tiếng sấm kinh hồn, trong chớp lòa khủng khiếp, mà trong một Đấng xuất thân từ một địa điểm rõ rệt trên mặt đất này. Và chính Đấng đó sẽ chăn dắt Israel trong sức mạnh của Chúa, trong thánh danh cao cả của Thiên Chúa.
Như thế từ 700 năm trước Chúa Giêsu giáng sinh, tiên tri Mikêa đã chỉ rõ nơi Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra và ở cùng con cái loài người. Đó là một điểm khuyến khích niềm hy vọng, sự mong chờ trong Cựu Ước. Thiên Chúa đến gặp gỡ con người, ở với con người và hướng dẫn con người trên con đường về Nước Thiên Chúa.
Bài đọc thứ hai trích từ thư gởi tín hữu Do Thái của thánh Phaolô, diễn tả một cách chính xác hơn, cụ thể hơn Đấng đến gặp con người mà tiên tri Mikêa chỉ diễn tả cách lờ mờ trong hy vọng. Đấng đó đến với một thể xác để thi hành thánh ý Chúa trong thân xác của mình thay thế cho bao nhiêu của lễ toàn thiêu, của lễ đền tội. Đấng đó chính là Chúa Giêsu, Ngài đã đến và đã là điểm gặp gỡ hữu hình giữa Thiên Chúa và con người. Ngài là trung gian giữa trời và đất. Nơi Ngài, con người nhìn thấy Thiên Chúa hữu hình để qua Ngài, con người đem lòng yêu mến những sự vô hình, và Thiên Chúa chí tôn chí thánh yêu mến con người yếu đuối, tội lỗi khi nhìn thấy nhân loại nơi Chúa Giêsu và trong Chúa Giêsu, vì Chúa yêu thương con người qua những gì Chúa quí mến nơi Con Một Chúa Nhập thể làm người. Đó là một sự gặp gỡ nhiệm mầu mà chỉ có Thiên Chúa mới bắc cầu qua được vực thẳm xa cách giữa Thiên Chúa và con người đó. Chính nhờ Chúa Kitô, cùng với Chúa Kitô và trong Chúa Kitô mà chúng ta được nên thánh và được vui mừng tiến về thiên quốc, qua vực thẳm đã được Thiên Chúa bắc cầu gặp gỡ.
Tiếp đến chúng ta thấy người cộng tác trực tiếp và tích cực cho cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người này, chính là Đức Maria. Người đã mang thai Đức Giêsu bởi phép Chúa Thánh Thần, để cung cấp cho Ngôi thứ hai một thân xác theo ý định Thiên Chúa, như thánh Phaolô đã nói trong bài đọc thứ hai: "Chúa đã không muốn của hy tế và của lễ hiến dâng nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác".
Với hình ảnh Maria đi viếng bà Elisabeth nơi Phúc Âm hôm nay, các thánh trong Giáo Hội hay suy niệm đó là hình ảnh người đem Chúa đến cho nhân loại. Khi nói đến sự gặp gỡ đầu tiên trong thân xác với thân xác, giữa Thiên Chúa và con người này, thánh Luca đã diễn tả một quang cảnh tràn ngập niềm vui.
Trước tiên niềm vui của bà Elisabeth, bà đang có mang lần đầu tiên trong lúc tuổi già và bà biết nhờ thiên thần đã nói với Giacaria chồng bà rằng: "Người con trai của bà sẽ được tràn đầy Chúa Thánh Thần từ trong lòng mẹ và người con đó sẽ đi trước Chúa để dọn đường cho Chúa". Niềm vui đó tràn trề khi Maria chào bà, làm bà phải kêu lên trong hân hoan ngây ngất: "Bởi đâu mà tôi được diễm phúc là Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi!"
Đến lượt Maria, người cũng vui mừng và từ đáy lòng thốt lên kinh Magnificat: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa". Lời kinh tuyệt vời cô đọng từ trong Kinh Thánh mà Giáo Hội hằng ngày dùng để ca tụng Chúa trong giờ Kinh Chiều của mình.
Tiếp đến là Gioan, dầu còn trong lòng mẹ cũng cảm thấy được niềm vui gặp Đấng cứu độ. Chính Elisabeth đã âu yếm để ý đến con mình và nói lên cho mọi người biết: "Này, tai tôi vừa nghe lời bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi". Truyền thống Công Giáo cho rằng: khi Gioan nhảy mừng trong lòng mẹ, chính là lúc Gioan được tha tội tổ tông và được thánh hóa nhờ ơn cứu chuộc của Đấng Cứu Thế.
Tất cả mọi người đều vui mừng trong Phúc Âm Chúa nhật hôm nay, mà nguyên nhân của sự vui mừng đó chính là sự hiện diện của Chúa Giêsu, dầu Người mới tượng thai vài tuần trong lòng Mẹ Maria. Chúng ta có thể mở ngoặc một chút ở đây, để nhìn thấy sự kiện trong Phúc Âm hôm nay là một bằng chứng hùng hồn để tôn trọng đời sống con người bắt đầu từ lúc thụ thai. Mới có vài tuần trong lòng Mẹ, Chúa Giêsu đã là Thiên Chúa thật, đã mang niềm vui đến cho mọi người nhất là đem ơn thánh hóa đến cho Gioan cũng còn trong lòng mẹ. Nhưng ở đây, Chúa nhật này, chúng ta đặt trọng tâm suy niệm vào niềm vui được ơn cứu độ, niềm vui gặp được Chúa. Cùng với Elisabeth và Gioan ước gì chúng ta cảm thấy được niềm vui Chúa đến với chúng ta, và cùng với Mẹ Maria ước gì chúng ta biết đem niềm vui đến cho mọi người.
Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi sẽ cố gắng dàn xếp tất cả những gì đã làm tôi phiền muộn bực bội khó chịu để có tâm hồn vui tươi, an bình mừng lễ Chúa Giáng sinh. Và tôi sẽ cố gắng là niềm vui của tất cả mọi người nhất là niềm vui sâu xa nơi tâm hồn. Và vì lễ Giáng sinh là lễ để chia sẻ niềm vui, cho nên tôi cố gắng chia sẻ thời giờ, sức lực với người khác, nhất là phục vụ người khác. Cố gắng chia sẻ nụ cười với người khác và cố gắng ủi an, nâng đỡ người khác.
25. Chúa muốn chúng ta thăm và giúp đỡ tha nhân--JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Ta học được những gì trong việc Đức Maria thăm viếng bà Êlisabét? Thăm viếng có phải là một việc mà tình yêu đòi buộc phải có không?
2. Thăm viếng cũng là dịp đem Chúa đến cho người khác. Nhưng đem Chúa đến cho người mình thăm viếng bằng cách nào?
3. Giữa những hành động cụ thể biểu lộ yêu thương đích thực, và những lễ tế, kinh kệ làm theo thói quen, Thiên Chúa ưa chuộng cái nào?
Suy tư gợi ý:
1. Viếng thăm là một hành động biểu lộ tình thương
Vừa nghe sứ thần truyền tin cho biết bà Êlisabét có thai được sáu tháng, Maria liền vội vã lên đường đến thăm bà. Bà Êlisabét sống ở miền núi, chắc chắn cuộc hành trình của Maria lên miền núi để thăm người bà con không tránh được mệt nhọc, vất vả. Chắc chắn việc Đức Maria đến thăm bà Êlisabét là do sự thúc đẩy của yêu thương. Ngài không đến thăm thì bà Êlisabét chẳng trách Ngài được, lý do là bà ấy đâu biết rằng Ngài biết bà mang thai. Vả lại chính Ngài cũng đang mang thai, mà đường xá lại xa xôi. Chính tình thương đã thúc đẩy Ngài đi, vì Ngài rất giàu tình thương. Và cũng chính vì giàu tình thương mà Ngài xứng đáng làm Mẹ của Đức Giêsu, là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa.
Tình yêu đòi hỏi phải biểu lộ ra, chứ không giữ kín bên trong. Một tình yêu giữ kín, không được biểu lộ thành hành động, không phải là một tình yêu đích thực. Tương tự như lời thánh Giacôbê: «Đức tin không có việc làm là đức tin chết» (Gc 2, 26). Cũng vậy, tình yêu không việc làm, không được biểu lộ là tình yêu chết. Tình yêu phải được biểu lộ ra thành sự quan tâm, chăm sóc, năng tìm cách gặp gỡ, giúp đỡ, hy sinh cho người thân, làm cho người thân trở nên tốt đẹp, hạnh phúc hơn. Câu tục ngữ «Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, cửu thập đèo cũng qua» có nghĩa như thế!
Tình yêu đích thực đòi hỏi phải năng gặp nhau, nhất là những lúc người mình yêu có chuyện vui hoặc buồn. Đức Phật nói: «Yêu nhau mà không được ở gần nhau, mà phải xa cách nhau thì sẽ đau khổ», ngài gọi cái khổ ấy là «ái biệt ly khổ». Tục ngữ có câu: «Nhất nhật bất kiến như tam thu hề!» (một ngày không gặp nhau thì dài như ba năm). Do đó, đi thăm viếng nhau là đòi hỏi của tình yêu đích thực, là biểu lộ sự quan tâm đến nhau. Vì thế, chúng ta hãy năng thăm viếng những người chúng ta yêu mến. Mà đã là người Kitô hữu, tất nhiên chúng ta có rất nhiều người mình phải yêu mến, nhất là những người lâm cảnh đau khổ, túng thiếu, những người lâm vào thế kẹt, những người cần chúng ta tới thăm viếng hơn cả. Đến thăm nhau là một cách tuyệt vời để biểu lộ tình huynh đệ, tình yêu thương của Kitô giáo.
2. Đến thăm để đem Chúa đến cho người mình thương
Khi Đức Maria đến thăm bà Êlisabét, Ngài cũng đem Chúa đến cho bà ấy. Nhờ Đức Maria mang Chúa đến, nên không chỉ bà Êlisabét vui mừng, mà hài nhi trong bụng bà cũng vui theo mà «nhảy lên» trong bụng mẹ. Và chắc chắn cũng chính vì Đức Maria mang Chúa đến, mà niềm vui của bà Êlisabét và hài nhi mới tăng lên một cách lạ thường như thế. Sự hiện diện của Đức Maria cùng với bào thai Giêsu chẳng những mang niềm vui, mà còn biến đổi hai mẹ con bà Êlisabét, khiến hai người được tràn đầy Thánh Thần, và nhờ đó nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đức Maria, đồng thời tin vào Thiên Chúa vững mạnh hơn.
Như thế, đến thăm không chỉ là một phương cách biểu lộ tình yêu, nói lên sự quan tâm, mà còn là một dịp thuận lợi để đem Chúa đến cho người mình thăm viếng. Nhờ ta đem Chúa đến, mà niềm vui của người được thăm tăng lên gấp bội, và họ nhận lãnh được Thánh Thần nhờ sự hiện diện của Chúa do ta mang đến. Chính Thánh Thần của Chúa trong ta sẽ thánh hóa, biến đổi họ nên tốt lành, thánh thiện, chứ không phải ta.
Đem Chúa đến cho người mình thăm viếng, không có nghĩa là mình nói thật nhiều thật hay về Chúa cho họ nghe. Có những người nói về Chúa rất nhiều và rất hay, nhưng họ không thật sự có Chúa trong bản thân họ. Chúa là tình thương, ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân, khi chính ta thật sự yêu thương họ bằng một tình yêu chân thực. Đức Maria có nói gì về Chúa với bà Êlisabét đâu! Ta chỉ mang Chúa đến cho tha nhân khi ta đến họ với ý muốn làm hiện thân của Chúa đối với họ, và coi họ cũng là hiện thân của Chúa đối với mình.
3. Hãy là hiện thân của Chúa khi đi thăm viếng
Thiên Chúa vì yêu thương nhân loại vô cùng, nên Ngài đã đến với con người trong lịch sử, cách đây 2000 năm, để cứu độ và đem hạnh phúc đến cho mọi người, cho từng người. Khi còn tại thế, Ngài đã đến thăm nhiều người, săn sóc nhiều người, cải hóa nhiều người, biểu lộ tình yêu thương cho nhiều người. Nhưng vì nhập thể làm người, Ngài bị giới hạn trong không gian và thời gian, Ngài chỉ sống tại thế có 33 năm, chỉ quanh quẩn trong đất nước Do Thái, và chỉ có thể tiếp xúc được với một số rất ít người. Do tình yêu vô biên phổ quát của Ngài, Ngài muốn tiếp xúc với tất cả mọi người trên trần gian, để phục vụ, săn sóc họ, từng người một. Nhưng hiện nay Ngài không thể làm điều đó bằng chính thân xác của Ngài. Vì thế, Ngài muốn nhờ chính chúng ta làm điều ấy. Ngài muốn trở thành chính bản thân chúng ta để làm những công việc ấy, và chúng ta có thể giúp Ngài được toại nguyện ý đó.
Ngài muốn dùng chính bản thân chúng ta để thăm viếng những người chúng ta quen biết, yêu thương. Ngài muốn an ủi, vỗ về, khuyến khích, khuyên lơn, cảnh tỉnh họ bằng miệng lưỡi của ta. Ngài muốn săn sóc, làm việc phục vụ họ bằng chính bàn tay của ta. Ngài muốn yêu thương họ bằng chính trái tim của ta. Ngài muốn quan tâm tới họ bằng chính tâm trí của ta. Qua ta, Ngài muốn biểu lộ tình thương vô biên của Ngài cho họ. Muốn thế, Ngài mong muốn ta trở thành hiện thân của yêu thương, thứ yêu thương bằng hành động chứ không phải chỉ bằng lời nói. Ta có là hiện thân của tình thương, thì ta mới trở nên hiện thân của Ngài. Và chính lúc ấy, ý muốn của Ngài là yêu thương phục vụ họ mới được thỏa mãn hoàn toàn.
Vấn đề là ta có muốn trở nên hiện thân của Ngài hay không. Ngài không bao giờ muốn ép buộc ta, thúc bách ta, nhưng luôn luôn mời gọi ta. Ta có nghe thấy tiếng Ngài mời gọi không? Nếu có, hãy đáp lại lời mời ấy một cách quảng đại. Đó là cách chứng tỏ cụ thể nhất rằng ta yêu mến Ngài. Yêu mến Ngài thì phải yêu thương giống như Ngài, chứ không phải yêu Ngài bằng cách dâng lên Ngài thật nhiều thánh lễ, đọc thật nhiều kinh kệ, và quỳ hàng giờ trước nhà tạm. Nếu ta yêu Ngài thật sự, thì hãy yêu Ngài, phục vụ Ngài trong những người anh chị em gần gũi ta. Khi ta đến với họ, Ngài cũng muốn ta coi họ như hiện thân của Ngài, nghĩa là như chính bản thân Ngài.
Ngài đã chẳng từng nói: «Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi!» (Mt 7,21). Mà ý muốn của Thiên Chúa là: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,34). Về việc dâng quá nhiều lễ tế, đọc kinh kệ quá nhiều mà thiếu lòng yêu thương nhau, Thiên Chúa đã dùng miệng ngôn sứ Isaia để nói lên sự chán ngấy của Ngài: «Ngần ấy hy lễ của các ngươi, đối với Ta nào nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bò mập, Ta đã ngấy (…) Thôi đừng đem những lễ vật vô ích ấy đến nữa. Ta ghê tởm khói hương, ta chịu không nổi những ngày đầu tháng, những ngày sabát, ngày đại lễ, không chịu nổi những người cứ phạm tội ác rồi lại cứ lễ lạc linh đình (…) Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn, vì tay các ngươi đầy những máu…» (Is 1,11-15; xem bài đọc 2 được nêu ở trên). Chỉ có tình yêu đích thực mới làm Chúa hài lòng!
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa, xin giúp con trở thành hiện thân của Chúa để giúp Chúa phục vụ mọi người qua chính bản thân của con. Xin cho con biết quan tâm đến niềm vui, nỗi khổ, và nhu cầu của từng người sống chung quanh con. Xin giúp con biết hy sinh thì giờ cho dù rất quí báu của con để năng đến gặp gỡ họ, thăm viếng họ, hầu nhờ đó thông cảm được những nỗi vui buồn và nhu cầu của họ. Xin giúp con biết sẵn sàng chia vui sẻ buồn và tìm mọi cách để thỏa mãn những nhu cầu chính đáng của họ. Amen.
26. Thương thì Thăm—Trầm Thiên Thu
Lễ Đức Mẹ Thăm Viếng, năm A
Người ta thăm viếng nhau vì quý mến, vì thương yêu, vì tình cảm, chứ chẳng ai ghét nhau mà lại đến thăm nhau. Thăm viếng nhau còn có mục đích là an ủi nhau và giúp đỡ nhau, đặc biệt là đối với các bệnh nhân, người già yếu, người khuyết tật, người gặp hoạn nạn, các thai phụ,... Nói chung, quá trình đó được bắt đầu từ đức ái: Thương thì Thăm.
Để có thể thăm viếng nhau như vậy, người ta phải có lòng khiêm nhường, như mầu nhiệm thứ hai trong Mùa Vui của Kinh Mân Côi, chúng ta cầu xin: “Đức Mẹ thăm viếng Thánh Isave, xin cho con được lòng khiêm nhường”. Quả thật, đức khiêm nhường rất quan trọng vì đó là nên tảng của mọi nhân đức.
Đức Maria là thôn nữ nghèo, nhưng nhu mì và dễ thương vì luôn sống khiêm nhường, và là thụ tạo đặc biệt được Thiên Chúa tuyển chọn để làm Mẹ Thiên Chúa.
Sứ thần Gáprien truyền tin vui nhưng Nàng Maria lại bối rối. Sứ thần liền trấn an: “Thưa Cô Maria, xin đừng sợ, vì Cô đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc 1:30). Nghe sứ thần nói mình sẽ làm mẹ, Đức Maria “hoảng hồn”, nhưng sứ thần giải thích: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Cô, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Cô, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1:35), đồng thời chứng minh một thai phụ mang tiếng là son sẻ mà lại đang mang thai là người chị họ Êlidabét, vì “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1:37). Thở phào nhẹ nhõm, Đức Mẹ Ô-kê ngay lập tức (Lc 1:38) mà không chút đắn đo. Phúc chồng lên phúc!
Thuở xưa, Thiên Chúa cũng đã động viên các cô gái: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào, nhà Ítraen hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi” (Xp 3:14). Tại sao? Lý do còn hơn cả sự tuyệt vời: “Này Sion, đừng sợ, chớ kinh hãi rụng rời! Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là Vị cứu tinh, là Đấng anh hùng. Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội” (Xp 3:16-18a). Cả Cựu Ước và Tân Ước, mệnh lệnh cách “đừng sợ” được nhắc tới nhiều lần để động viên mọi người. Khi chúng ta “không sợ” là bắt đầu có sự can đảm, có can đảm là có sức mạnh, có sức mạnh là có Chúa Thánh Thần. Kỳ diệu quá chừng! Chúa Thánh Thần hoạt động rất tinh vi.
Khi “không sợ” thì người ta có thể làm được nhiều thứ. Một trong các vấn đề nòng cốt là thực hiện đức ái, nhân đức quan trọng trong Kitô giáo. Nhưng Thánh Phaolô cảnh báo: “Lòng bác ái không được giả hình giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành; thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình; nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa” (Rm 12:9-11). Bác ái có nhiều dạng và nhiều mức độ, cần phải can đảm thực sự mới có thể thực hiện. Không dễ đâu!
Thánh Phaolô giải thích thêm về đức ái: “Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện. Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn, và ân cần tiếp đãi khách đến nhà. Hãy chúc lành cho những người bắt bớ anh em, chúc lành chứ đừng nguyền rủa: vui với người vui, khóc với người khóc. Hãy đồng tâm nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn. Anh em đừng cho mình là khôn ngoan, đừng lấy ác báo ác, hãy chú tâm vào những điều mọi người cho là tốt” (Rm 12:12-17). Nghe có vẻ “dài dòng” một chút, nhưng phải vậy thôi, và đọc kỹ từng chữ, chúng ta sẽ thấy “nhức đầu” đấy, chứ không đơn giản như chúng ta thường nghĩ.
Thánh sử Luca cho biết rằng, sau khi được sứ thần truyền tin, Đức Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa, vào nhà Anh Dacaria và chào hỏi Chị Êlisabét. Chị Êlisabét vừa nghe tiếng Dì Maria chào, đứa con trong bụng nhảy lên, và Chị được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1:42-45). Cái PHÚC không đâu xa, mà do mình, nếu thực sự TIN. Tuy nhiên, tin mình được Chúa thương thì không là kiêu ngạo, nhưng tưởng mình được Chúa thương thì lại là kiêu ngạo!
Lúc đó, Đức Maria chúc tụng Thiên Chúa bằng “Bài Ca Ngợi Khen” (Magnificat, Lc 1:45-55) độc đáo:
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!
Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.
Thánh Luca cho biết rằng “Dì Maria ở lại với Bác Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà” (Lc 1:56).
Khi Đức Maria thụ thai, Chị Êlisabét đã có thai được sáu tháng. Đức Maria ở lại với chị Êlisabét khoảng ba tháng, vị chi là Chị Êlisabét đã đến lúc khai hoa nở nhụy. Trong những ngày cuối thai kỳ, phụ nữ rất cực khổ và mệt mỏi, rất cần sự giúp đỡ của người khác. Lúc này, Đức Maria đã đến tháng thứ ba của thai kỳ, chắc hẳn cũng mệt mỏi, nhưng Đức Maria vẫn giúp đỡ người chị của mình với lòng khiêm nhường và yêu thương chân thành. Đó là bài học vô giá mà Đức Mẹ muốn truyền thụ cho chúng ta về hai chữ T quan trọng trong cuộc sống: Thăm (viếng) và Thương (yêu).
Lạy Thiên Chúa từ ái, chúng con cảm tạ Ngài đã ban cho chúng con một Người Mẹ tuyệt vời, xin giúp chúng con biết noi gương và yêu mến Mẹ luôn luôn. Xin biến đổi chúng con để mỗi chúng con sớm trở nên khí cụ bình an của Ngài.
Lạy Mẹ nhân lành, chúng con xin tận hiến cuộc đời cho Mẹ, xin thương hướng dẫn và che chở chúng con trong mọi hoàn cảnh, và xin dẫn đưa chúng con về với Chúa. Xin Mẹ đoái thương nước Việt Nam bé nhỏ của chúng con, nhất là trong hoàn cảnh có nguy cơ chiến tranh Biển Đông hiện nay. Xin Mẹ ngăn tay kẻ thù và biến đổi tà tâm thành thiện tâm, xin cho Nước Việt và thế giới được hưởng tự do, công lý và hòa bình đích thực của Thiên Chúa.
Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
27. Tình khúc ngợi khen—Trầm Thiên Thu
TRINH NỮ XIN VÂNG VÌ MẾN CHÚA
MẸ HIỀN PHỤC VỤ BỞI YÊU NGƯỜI
Cuộc đời Đức Mẹ là một Tình Khúc Ngợi Khen không ngừng du dương tán tụng hồng ân Thiên Chúa. Vừa được trở thành Mẹ Thiên Chúa và biết tin người chị họ cũng đã được diễm phúc làm mẹ được nửa năm, Đức Maria liền vội vã lên đường đi thăm chị và cùng chia sẻ niềm vui lớn lao trong tâm tình chị em.
Thánh Bênađinô nói: “Khi Đức Trinh Nữ chào bà Elizabeth, lời chào vào tai bà rồi xuống thai nhi, và vì thế, thai nhi nhận được Chúa Thánh Thần. Từ lúc trở nên Mẹ Chúa Cứu Thế, Đức Nữ Trinh uy linh đã được quyền tài phán đối với hết các cuộc nhiệm sinh của Chúa Thánh Thần, đến nỗi không ai được Chúa ban một ơn nào mà không qua trung gian nhân từ hiền ái của Mẹ”. Còn Thánh Laurensô Brinđisi cho biết: “Được đầy Thánh Thần bà Elizabeth do Chúa thúc đẩy đã thấy và nói những việc đã qua hiện tại và tương lai. Bà biết phẩm chức vô biên, vinh quang hiện tại và tương lai của Đức Trinh Nữ Maria rất thánh đức và khiêm hạ”.
Đặc biệt hơn, Thánh Anphong Ligôri cho biết: “Vừa đặt chân vào nhà Gioan Tẩy Giả, Mẹ Maria đã rộng ban cho gia đình nào là ân trạch trời cao, nào là hồng ân thiên quốc. Do đó, lễ Đức Mẹ Thăm Viếng thường được gọi là lễ Đức Mẹ Ban Ân Sủng”. Ôi, thật kỳ diệu và thú vị biết bao!
Với kinh nghiệm cuộc sống, ai cũng biết rằng thăm viếng là một cách giao tiếp phổ biến trong xã hội đời thường. Chắc chắn không ai lại không một lần thăm viếng người khác, có thể chỉ là hỏi thăm bình thường hoặc chuyện vãn khi nhàn rỗi, đặc biệt là những cuộc thăm viếng dành cho người già, bệnh nhân, trẻ mồ côi, người nghèo, tù nhân, nạn nhân,...
Có thể khác nhau về mức độ khi thăm viếng nhau, nhưng điều cốt lõi cần thiết vẫn phải là vì đức ái, như Thánh Phaolô khuyên: “Hãy làm mọi sự vì đức ái” (1 Cr 16:16). Chỉ vì đức ái mà hành động thì chuyện nhỏ cũng trở nên giá trị trước mặt Thiên Chúa, không vì đức ái mà chỉ vì “lấy lòng” hoặc “che mắt thế gian” thì chuyện lớn cũng không có giá trị gì đối với Thiên Chúa. Có thể nói rằng, ở cấp quốc gia và về lĩnh vực chính trị, có thể có gì đó gọi là “giả hình” khi người ta có những cuộc viếng thăm với danh nghĩa là “chính thức”, bởi vì đó là những cuộc thăm viếng nhau theo lời mời chứ không tự ý. Tất nhiên ở đây phải được hiểu với nghĩa tương đối.
Tương tự, trong cuộc sống đời thường và bình dân, người ta chỉ thăm viếng nhau vì quý mến nhau, thương yêu nhau, thân thiện với nhau, chứ chẳng có ai ghét nhau mà lại đến thăm nhau. Khi thăm viếng nhau còn có mục đích là an ủi nhau và giúp đỡ nhau, đặc biệt là đối với các bệnh nhân, người già yếu, người khuyết tật, người gặp hoạn nạn, các thai phụ,... Nói chung, quá trình đó cần phải được bắt đầu từ đức ái: thấy thương thì thăm (4T) và thân tình thì thăm (4T), và hai điều đó đúc kết thành 4T: Tình Thương Thành Thật.
Một loạt mẫu tự “tê”, có thể là “tê” bình thường mà cũng có thể là “tê” thật, bởi vì thực hành được 4T đó không hề đơn giản. Để có thể thăm viếng nhau chân tình, người ta phải có lòng khiêm nhường thực sự, đúng như mầu nhiệm thứ hai trong Mùa Vui của Kinh Mân Côi: “Đức Mẹ thăm viếng Thánh Isave, xin cho con được LÒNG KHIÊM NHƯỜNG”. Điều cầu xin đó thực sự cần thiết, bởi vì đức khiêm nhường rất quan trọng và là nên tảng của mọi nhân đức, là viên đá góc của tòa nhà nhân đức. Đức khiêm nhường là “ông vua” đối nghịch với “quỷ vương” là thói kiêu ngạo.
Là tín nhân Công giáo, ai cũng biết rằng Đức Maria là một thôn nữ nghèo, nhưng sống nhu mì và dễ thương, bởi vì thục nữ Maria luôn sống khiêm nhường, đồng thời còn là một thụ tạo đặc biệt được Thiên Chúa tuyển chọn để làm Thân Mẫu của Đấng Cứu Thế. Đức Mẹ là một con người vô cùng đặc biệt, Thiên Chúa đã tuyển chọn Mẹ để làm gương sáng cho chúng ta soi vào hằng ngày.
Nàng Maria vô cùng bối rối khi được Sứ thần Gáprien truyền Tin Vui. Biết thế nên Sứ thần liền trấn an: “Thưa bà Maria, XIN ĐỪNG SỢ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc 1:30). Đức Mẹ còn rất trẻ nhưng được tôn xưng là “bà”, chứng tỏ Đức Maria rất đáng kính trọng: “Đức Nữ rất đáng kính chuộng, Đức Bà là Đấng trọng thiêng, Đức Bà là Đấng đáng tôn trọng” (Kinh Cầu Đức Bà). Vừa nghe sứ thần nói mình sẽ làm mẹ, Đức Maria “giật thót mình”, thế nhưng sứ thần giải thích: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1:35), đồng thời sứ thần còn dẫn chứng cụ thể về một thai phụ mang tiếng là son sẻ mà lại đang mang thai là bà Êlidabét (Isave), người chị họ của Đức Maria. Sứ thần xác định rằng “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1:37). Thế thì không có gì lo lắng nữa, cũng chẳng đắn đo chi cả, Đức Mẹ chấp nhận ngay (Lc 1:38). Nhân đức chồng lên nhân đức, ân phước chồng lên ân phước. Quả thật, Trinh Nữ Maria vượt trên cả sự tuyệt vời!
Từ thuở xa xưa, chính Thiên Chúa cũng đã từng động viên các cô gái trẻ: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Sion, hò vang dậy đi nào, nhà Ítraen hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi” (Xp 3:14). Tại sao? Lý do còn hơn cả sự tuyệt vời: “Này Sion, ĐỪNG SỢ, chớ kinh hãi rụng rời! Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi đang ngự giữa ngươi, Người là Vị cứu tinh, là Đấng anh hùng. Vì ngươi, Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của Người mà đổi mới ngươi. Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội” (Xp 3:16-18a). Cả Cựu Ước và Tân Ước, mệnh lệnh cách “đừng sợ” được nhắc tới nhiều lần để động viên mọi người. Khi chúng ta “không sợ” là lúc chúng ta bắt đầu có sự can đảm, có can đảm thì có sức mạnh, có sức mạnh là có Chúa Thánh Thần. Thật kỳ diệu quá chừng! Chúa Thánh Thần hoạt động rất tinh vi, liên lỉ tác động để hướng chúng ta về Thiên Chúa.
Lòng can đảm rất cần thiết. Khi có lòng can đảm, người ta có thể làm được nhiều thứ, như Thánh Augustinô đã nói: “Cứ yêu đi, rồi làm gì cũng được”. Một trong các vấn đề nòng cốt là thực thi đức ái, nhân đức quan trọng trong Kitô giáo – và cả trong đời thường, bởi vì ai cũng muốn yêu và được yêu. Thế nhưng phải luôn cảnh giác, bởi vì Thánh Phaolô đã cảnh báo: “Lòng bác ái không được giả hình giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành; thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình; nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa” (Rm 12:9-11). Bác ái đa dạng và có nhiều mức độ, phải thực sự can đảm mới có thể thực hiện. Không dễ chút nào cả, coi bộ “căng” dữ nghen!
Không chỉ có vậy, Thánh Phaolô còn giải thích thêm về đức ái: “Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện. Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn, và ân cần tiếp đãi khách đến nhà. Hãy chúc lành cho những người bắt bớ anh em, chúc lành chứ đừng nguyền rủa: vui với người vui, khóc với người khóc. Hãy đồng tâm nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn. Anh em đừng cho mình là khôn ngoan, đừng lấy ác báo ác, hãy chú tâm vào những điều mọi người cho là tốt” (Rm 12:12-17). Xem ra có vẻ “dài dòng”, nhưng phải vậy thôi, và nếu để ý mà “nuốt lấy” từng chữ, từng ý, có thể chúng ta sẽ cảm thấy “nhức đầu” chứ chẳng đơn giản như chúng ta tưởng đâu!
Trình thuật Lc 1:39-56 kể lại cuộc thăm viếng của Đức Maria dành cho Bà Chị Êlidabét, Giáo Hội gọi đó là lễ Đức Mẹ Thăm Viếng (Visitatio Mariæ). Có điều đặc biệt: Lễ này không chỉ được mừng kính trong Công giáo Rôma, mà cả trong Chính Thống, trong một phần Anh giáo và Tin Lành.
Thánh sử Luca cho biết rằng, sau khi được sứ thần truyền tin, Đức Maria VỘI VÃ lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa, vào nhà Anh Dacaria và chào hỏi Chị Êlisabét. Chị Êlisabét vừa nghe tiếng Dì Maria chào, đứa con trong bụng nhảy lên, và Chị được ĐẦY TRÀN THÁNH THẦN, liền kêu lớn tiếng và nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật CÓ PHÚC vì đã TIN rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1:42-45).
Thật lạ lùng, cái PHÚC chẳng ở đâu xa xôi mà ở rất gần, ngay trong mỗi con người, tức là do chính mình – nếu thành tâm TIN thực sự. Tuy nhiên, có điều cần lưu ý lời của Thánh TS Teresa Avila: “Tin mình được Chúa thương thì không là kiêu ngạo, nhưng tưởng mình được Chúa thương thì lại là kiêu ngạo”. Kể ra cũng nhiêu khê, một khoảng rất mong manh giữa TIN và TƯỞNG, rất dễ lầm tưởng đấy!
Hai chị em cùng hân hoan hàn huyên tâm sự. Sau khi nghe Chị Isave bày tỏ niềm hạnh phúc vì “được Mẹ Thiên Chúa đến thăm”, Đức Maria vang lời chúc tụng Thiên Chúa bằng “Bài Ca Ngợi Khen” (Magnificat, Lc 1:45-55), một bài Thánh Ca độc đáo, bất hủ, không tín nhân nào lại không biết.
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!
Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.
Trong bài Thánh Ca này, Lòng Chúa Thương Xót đã được Đức Mẹ đề cập chứ không phải ngày nay mới được nói tới – từ khi Thánh GH Gioan Phaolô II tuyên thánh Nữ tu Faustina và thiết lập lễ Lòng Chúa Thương Xót (CN II PS). Và Thánh sử Luca cho biết rõ ràng: “Dì Maria ở lại với Bác Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà” (Lc 1:56).
Qua Kinh Thánh, chúng ta biết rằng khi Đức Maria thụ thai, bà chị Êlisabét cũng đã có thai được sáu tháng. Đức Maria ở lại với chị Êlisabét khoảng ba tháng, vậy là bà chị Êlisabét sắp đến ngày khai hoa nở nhụy. Trong những ngày cuối thai kỳ, phụ nữ rất cực khổ và mệt mỏi, thế nên rất cần sự giúp đỡ của người thân. Lúc này, Đức Maria đã đến tháng thứ ba của thai kỳ, chắc hẳn cũng mệt mỏi, nhưng Đức Maria vẫn giúp đỡ người chị của mình với lòng khiêm nhường và yêu thương chân thành. Đó là bài học vô giá mà Đức Mẹ muốn truyền thụ cho chúng ta về điều kỳ diệu trong cuộc sống: Tình Yêu Thương. Vâng, đức ái (đức mến, tình mến, lòng mến) vô cùng quan trọng – quan trọng cả đời này và đời sau (x. 1 Cr 13:13). Tình Yêu Thương bất tử, còn mãi mãi…
Cùng với Đức Mẹ, ước gì cuộc đời của mỗi chúng ta luôn là bản Tình Khúc Ngợi Khen kính dâng Thiên Chúa Ba Ngôi chí thánh.
Lạy Thiên Chúa là tình yêu vĩnh hằng, thật diễm phúc khi chúng con được Ngài trao ban một Người Mẹ tinh tuyền là Đức Trinh Nữ Maria. Xin giúp chúng con biết noi gương và yêu mến Đức Mẹ, biết nhìn mọi người bằng ánh mắt nhân ái. Xin Chúa biến chúng con thành khí cụ bình an trong Đại Gia Đình Đa Đồng Đường của Ngài.
Lạy Thánh Mẫu Thiên Chúa, chúng con xin chúc tụng Mẹ và tận hiến cuộc đời cho Mẹ. Xin Mẹ đồng hành, hướng dẫn và che chở chúng con suốt đời, xin dẫn chúng con về gặp Con Yêu của Mẹ. Xin Mẹ thương Nước Việt bé nhỏ của chúng con và những đất nước gặp hoạn nạn – tinh thần và thể lý. Xin Mẹ biến đổi tà tâm thành thiện tâm để cả thế giới cùng tận hưởng nền tự do đích thực, vui sống trong công lý và hòa bình viên mãn của Thiên Chúa. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
28. Mẹ Maria đón Chúa Cứu Thế--Lm. Hồng Phúc
Chỉ còn mấy hôm nữa là đến Lễ Giáng sinh. Chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn và thể xác để đón mừng Chúa. Chúa chỉ đi vào lịch sử có một lần, nhưng Chúa còn đến trong tâm hồn chúng ta nhất là trong những kỷ niệm này.
Thánh Phaolô nói: Ngài đến sinh ra bởi một người Nữ (Gal. 4, 4). Nhân vật nêu gương cho chúng ta hơn cả trong việc chuẩn bị đón ngày Chúa đến là Đức Mẹ, người Nữ diễm phúc được tuyển chọn làm Mẹ Thiên Chúa. Loài người không lên được với Thiên Chúa thì Thiên Chúa đã xuống với nhân loại. Trời và đất đã gặp nhau trong cung lòng Trinh nữ. Mẹ đã trở nên Hòm bia thánh mang ơn cứu độ cho nhà Israen. Luca viết: “Maria chổi dậy, vội vả ra đi tiến lên miền núi” đến thăm bà chị họ Isave. Mẹ đến mang tình bác ái, giúp đỡ một người đang cần sự giúp đỡ. Mẹ đến mang ơn cứu độ cho Gioan mà cuộc đời sẽ mật thiết liên hệ với con Mẹ.
Gioan đã nhảy mừng trong lòng mẹ như cảm động nhận ra Đấng đến với mình. Thiên thần đã loan báo: “Từ trong lòng mẹ, trẻ ấy sẽ được đầy Thánh Thần” (Lc. 1, 15). Con hân hoan thì Mẹ cũng vui mừng vì được “Mẹ Thiên Chúa” đến viếng thăm. Hai chị em ôm chầm lấy nhau, như “song lộc triều nguyên” dâng lời cảm tạ.
Và Maria nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi” – Magnificat (Lc. 1, 46-56).
Tất cả sự cao trọng của Mẹ, như lời Bà Chị nói, là “đã tin rằng lời Chúa phán sẽ được thực hiện”. Mẹ sống nội tâm, luôn luôn đón nhận Lời Chúa, mau mắn thi hành trong tinh thần đức Tin và phó thác. Đó là bài học cho chúng ta khi suy niệm đoạn Phúc âm “Thăm viếng” này.
Đức Mẹ và Thánh Giuse đang ở Nagiaret, một làng bé nhỏ miền Bắc Do-thái. Mẹ mong chờ ngày con sinh ra như các bà mẹ mong chờ con, nhưng Mẹ càng mong chờ và Mẹ biết rằng con đến là ơn cứu độ đến với nhân loại. Mẹ sống hoàn toàn phó thác và trông cậy vì Mẹ biết rằng 800 năm về trước, nhà tiên tri Michê (trong bài đọc I) đã tiên báo Đấng Cứu Thế sẽ sinh hạ ở Bêlem, một thị trấn miền Nam cách đó đến 4, 5 ngày đàng. Nhưng, việc Chúa thì Chúa lo. Và Chúa đã dùng một ông vua chọc trời khuấy nước, ra một sắc lệnh kiểm kê dân số, một sắc lệnh có tính cách phô trương nhưng ngầm thực hiện ý nhiệm của Thiên Chúa.
Giuse và Đức Mẹ thuộc chi họ Đavit quê ở Bêlem nên phải về đó khai sổ bộ. Thế là hai ông bà lên đường. Có lẽ Giuse kiếm được con lừa và ngồi trên lưng lừa do Giuse hướng dẫn, Mẹ ra đi, cà tật cà tang, hướng về Giêrusalem. Đường dài 150 cây số.
Mỗi khi có dịp về xứ Giuđêa, mọi người Do-thái đạo đức đều ghé qua Giêrusalem kính viếng Đền thờ. Hai ông bà hẳn cũng đã làm như vậy, rồi trực chỉ Bêlem cách thủ đô 8 cây số về phía Nam.
Trời đã về chiều. Luca viết: “không có chổ cho hai ông bà trong quán trọ” (2, 7). Quán trọ ở đây theo tập tục Do-thái, là một khu vườn có giếng nước trong có căn nhà lộ thiên cho du khách nghèo ngủ qua đêm. Giuse thấy không tiện để Đức Mẹ trong quán công cộng vào một lúc quan trọng nhất của đời người đàn bà, nên đã tìm về những hang đá tự nhiên ở ngoại ô, nơi có các mục đồng hay lùa chiên vào nghỉ đêm.
“Trong lúc đang ở đó thì Maria sinh hạ con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ” (2, 6). Mẹ làm lấy mọi tác động, vì Mẹ cưu mang con nhiệm lạ thì cũng sinh con mà không tổn thương sự khiết trinh, cũng như ngày kia, Con Mẹ sẽ ra khỏi mồ đóng ấn niêm phong. Rồi Mẹ đặt con nằm trong máng cỏ gối quì thờ lạy, làm cái việc xa xưa nay chưa ai từng làm là thờ lạy Con. Vì “Mẹ sinh ra Con nhưng Con là Cứu Chúa của Mẹ”. (Thánh Ephrem).
Lạy Chúa, xin đến lại trong tâm hồn con, để con được đón Chúa bằng bàn tay dịu hiền, bằng trái tim nồng cháy của Mẹ.
29. Đức Maria Viếng Thăm Bà Êlisabét--Lm Fx Vũ Phan Long Ofm
1.- Ngữ cảnh
Trong phần tường thuật về thời thơ ấu, tác giả Lc bố trí ba giai thoại: loan báo Gioan chào đời (Lc 1,5-25), loan báo Đức Giêsu chào đời (1,26-38) và Đức Maria đi thăm bà Êlisabét (1,39-56). Truyện thứ ba này giả thiết có hai truyện đầu và bổ sung cho hai truyện đó. Truyện thứ ba này đóng vai trò nối kết hai truyện trước, đặc biệt liên kết cc. 24-25 với cc. 36-37. Đã soạn thảo bài tường thuật về loan báo Gioan chào đời, sau đó, mô phỏng theo bài ấy mà soạn ra bài nói về loan báo Đức Giêsu chào đời, nay tác giả Lc dùng giai thoại Đức Maria đi thăm viếng bà Êlisabét để liên kết truyện hai lời loan báo cách chặt chẽ hơn. Câu truyện ở 1,5-24a được tiếp nối với 1,57-66.
Trong giai thoại trước, sứ thần cho biết: “Quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng [episkiasei] trên bà” (1,35). Tác giả đã mượn lại hình ảnh Đám mây sáng che phủ Nhà Tạm (Xh 40,35: “Ông Môsê không thể vào Lều Hội Ngộ vì đám mây đậu/rợp bóng [epeskiazen] trên đó, và vinh quang Đức Chúa đầy tràn Nhà Tạm”) tượng trưng cho sự hiện diện vinh quang của Yhwh (Đức Chúa) với Israel để nói về Đức Maria lúc này: người được coi như là Hòm Bia Giao ước.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Đức Maria gặp bà Êlisabét (1,39-41);
2) Bà Êlisabét ca ngợi Đức Maria (1,42-45):
3.- Vài điểm chú giải
- Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ (42): Trong Cựu Ước, có hai người phụ nữ được chào như thế: bà Giaên (Tl 5,24) và bà Giuđitha (Gdt 13,18).
- đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng … Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? (41.42.43): Tác giả Lc đã dựa vào 2 Sm 6 (vua Đavít chuyển Hòm Bia về Giêrusalem), 1–2 Sb và sách Giuđitha để viết 1,39-56: Đức Maria là “Hòm Bia giao ước” mới cũng đang di chuyển về phía nam (Giuđa).
2 Sm 6
Lc 1,39-56
Trong xứ Giuđa (2)
Trong xứ Giuđa
Dân vui
Êlisabét và con vui
Đavít nhảy mừng
Gioan nhảy mừng (44)
Dân reo
Êlisabét reo, anephônêsen (42)
Vào nhà Ôvết Êđôm (10)
Vào nhà Dacaria (40)
Hòm Bia: nguồn phúc (11-12)
Maria:nguồn phúc (41.44)
Bởi đâu tôi được Hòm Bia Đức Chúa đến nhà tôi? (9)
Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với tôi? (43)
Ở nhà Ôvết Êđôm ba tháng (11)
Ở với bà Êlisabét độ ba tháng (56)
- Kêu lớn tiếng (42): Động từ anephônêsen (“reo”) chỉ được dùng để chỉ những tiếng tung hô trong phụng vụ (1 Sb 16,45.42) và đặc biệt trong cuộc di chuyển Hòm Bia (1 Sb 15,28 và 2 Sb 5,13).
- Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc (42): Ở đây tác giả đặt song đối Đức Maria với Gđt 13,18-19, như thế ám chỉ Đức Giêsu là Thiên Chúa:
Gđt 13,18-19
Lc 1,42
Bà được chúc phúc…
Em được chúc phúc…
giữa tất cả các phụ nữ
hơn mọi người phụ nữ
Và Đức Chúa là Thiên Chúa
Và quả lòng dạ em cưu mang
được chúc phúc (eulogêmenos)
được chúc phúc (eulogêmenos)
- Lc 1,5–2,22 là một chuỗi các thời điểm tác giả Lc nêu ra để chứng tỏ các lời ngôn sứ đã ứng nghiệm: Tác giả đã muốn nối kết biến cố sứ thần Gabrien hiện ra ở Đền Thờ với việc Đức Giêsu tỏ mình ra cũng tại đấy bằng một con số huyền bí (70 tuần 7 ngày):
- 6 tháng (Lc 1,26.36) kể từ khi Dacaria được báo tin tới khi Maria được báo tin:
30 ngày x 6 = 180 ngày
- 9 tháng kể từ khi Đức Maria được truyền tin đến khi Đức Giêsu chào đời:
30 ngày x 9 = 270 ngày
- 40 ngày kể từ khi Đức Giêsu chào đời cho đến khi được tiến dâng:
= 40 ngày
Tổng cộng: = 490 ngày
= 70 tuần 7 ngày.
Thế mà theo lời sấm Đn 9,21-24, sau 70 tuần, Israel sẽ được thanh tẩy khỏi các tội và Đền Thờ Giêrusalem sẽ được tái cung hiến (thời vua Antiôkhô IV Êpiphanê / Giuđa Macabê). Lc muốn cho thấy rằng việc Đức Giêsu được tiến dâng trong Đền Thờ đã khởi sự việc “Vinh quang” của Thiên Chúa (x. cụ Simêôn gọi Đức Giêsu là “vinh quang của Ít-ra-en”) đến cư ngụ vào thời cánh chung để thanh tẩy Đền Thờ và Israel. Việc này cũng làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Malakhi (3,1).
- Em thật có phúc, vì đã tin (45): Nhận định khiến độc giả nghĩ ngay đến Abraham, vị tổ phụ đã mở đầu lịch sử cứu độ bằng hành vi đức tin (x. St 12,1-5).
4.- Ý nghĩa bản văn
Trong cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và bà Êlisabét, tác giả Lc cho thấy kinh nghiệm của một người phàm lần đầu tiên hiểu ra điều gì đã xảy ra cho Đức Maria và phản ứng khi hiểu được điều ấy. Ở tại trung tâm, có Thiên Chúa và hoạt động của Người đối với Đức Maria, nơi Mẹ mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa đã được thực hiện.
* Đức Maria gặp bà Êlisabét (39-41)
Khi đã được biết rằng người chị họ của mình đã mang thai trong tuổi già, Đức Maria đã vội vã đi lên miền núi. Chuyến đi không dễ dàng, nhưng người vẫn vội vã. Có thể nói, với cuộc Nhập Thể của Con Thiên Chúa, chuyến đi dài được tác giả của tác phẩm hai tập là Lc và Cv trình bày dọc theo tác phẩm, đã bắt đầu. Con Thiên Chúa từ trời đã xuống trần gian, rồi Người đi từ Nadarét lên Giêrusalem, còn các môn đệ của Người sẽ đi từ Giêrusalem, qua Samaria, và đến tận cùng trái đất, tất cả các đấng đều vội vã, dù gặp biết bao khó khăn.
Là Hòm Bia của giao ước mới, Đức Maria mang trong lòng mình “Con Đấng Tối Cao” (1,32), là Đấng mạc khải, là nguồn ơn phúc, là nguyên do đưa lại niềm vui. Đức Maria vội vã đưa Đức Kitô đến với những người khác. Đức Maria đi trong tư cách là người tin vào lời Thiên Chúa qua trung gian sứ thần Gabriel.
* Bà Êlisabét ca ngợi Đức Maria (42-45)
Cuộc gặp gỡ với giữa Đức Maria với bà Êlisabét nhắc lại cuộc gặp gỡ giữa người với sứ thần Gabriel: cả hai vị đều nhận định người đầy ơn phúc. Thiên Chúa đã chúc phúc cho người; phúc lành của Thiên Chúa tiếp tục ở trên người. Thiên Chúa đã chúc phúc cho người cùng với hoa quả lòng người. Phúc lành của Thiên Chúa là quyền lực và sức mạnh làm cho có thể có sự sống và bảo tồn sự sống. Đức Maria là người “được chúc phúc” theo cách đặc biệt: quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa đã làm cho người có khả năng chuyển thông sự sống nhân loại cho Đức Giêsu: Người là Con Thiên Chúa, cũng là
Chúa tể sự sống, sẽ chiến thắng cái chết và ban sự sống vĩnh cửu. Tiếng kêu lớn của bà Êlisabét là một lời ca tụng hành động của Thiên Chúa, nhưng cũng diễn tả một nỗi kinh ngạc chan chứa niềm vui đối với Maria, người đã được Thiên Chúa làm cho những việc cao cả như thế.
Bà Êlisabét diễn tả nhận định của bà về cách xử sự của Đức Maria: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”. TrongCựu Ước, có hai người phụ nữ được chào bằng những lời này, đó là bà Giaên (Tl 5,24) và bà Giuđitha (Gdt 13,18). Các bà đã đánh bại các đoàn quân áp bức dân các bà. Kinh Thánh không tường thuật những gì các bà đã làm hầu chuẩn nhận cho chiến tranh, nhưng để cho thấy Thiên Chúa có thể làm những việc kỳ diệu bằng cách dùng những con người không phù hợp về phương diện loài người, những con người không có uy lực. Khi ghi nhận bà Êlisabét chào Đức Maria như vậy, tác giả Lcbảo chúng ta rằng Đức Maria thuộc về một hạng người, tuy bị coi là không phù hợp, lại được Thiên Chúa dùng mà đưa lại ơn cứu độ cho chúng ta. Qua Đức Maria, Thiên Chúa đã làm một việc phi thường nhất trong lịch sử: Ngài ban cho chúng ta Con của Ngài.
Nếu Đức Maria được như thế, thì chỉ do cốt yếu và trước tiên Mẹ là người đã tin. Cách đối xử của Thiên Chúa đối với Đức Maria được diễn tả bằng ân sủng và phúc lành; cách đối xử của Đức Maria đối với Thiên Chúa được diễn tả bằng lòng tin. Đức Maria đã tin vào Thiên Chúa, vào giá trị của lời Người, quyền năng của Người. Đức Maria đã diễn tả niềm tin đó qua tiếng “xin vâng” với sứ điệp của sứ thần. Lịch sử dân Israel mở ra với hành vi đức tin của Abraham; lịch sử cứu độ thế giới mở ra với hành vi đức tin của Đức Maria.
Bà Êlisabét nói tiếp: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (c. 43). Lời này cũng được lấy từ Cựu Ước. Đavít dùng những lời này khi Hòm Bia Giao ước được di chuyển về Giêrusalem. Ông đã reo lên: “Hòm Bia Đức Chúa đến với tôi thế nào được?” (2 Sm 6,9). Có những chi tiết khác liên kết cuộc viếng thăm của Đức Maria với Hòm Bia Giao ước. Cả Đức Maria và Hòm Bia ở lại “ba tháng” trong miền Giuđê; Hòm Bia được đón tiếp trong niềm vui và lễ mừng, và đưa phúc lành đến gia đình đã nhận lấy Hòm Bia (2 Sm 6,10-11); khi Đức Maria vào nhà Dacaria, trẻ Gioan (đại diện cho dân Cựu Ước đang trông chờ Đấng Mêsia) đã nhảy lên vui sướng.
Phần Đức Maria, người vẫn tiếp tục sống thân phận nữ tỳ: không chỉ đến thăm bà Êlisabét, nhưng còn ở lại ba tháng, để phục vụ.
+ Kết luận
Bà Êlisabét gặp Đức Maria. Cuộc gặp gỡ đầu tiên của một con người với mẹ của Đức Chúa như tác giả Lc mô tả, hoàn toàn đơn giản và thanh thoát. Cuộc gặp gỡ này chan hòa niềm tâm tình phấn khởi và niềm vui tươi hân hoan. Bà Êlisabét tự giới thiệu cho chúng ta như là người đã tôn kính Đức Maria trước tiên. Bằng những lời “em được chúc phúc”, “Thân Mẫu Chúa tôi”, “em thật có phúc”, bà phác họa những đường nét chính của dung mạo Đức Maria: công trình của Thiên Chúa nơi người, tương quan của người với Chúa Giêsu Kitô, thái độ của người đối với Thiên Chúa. Tất cả những điều này, bà Êlisabét hiểu được nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng. Cuộc gặp gỡ này đã là cơ hội cho phép bà có một kinh nghiệm hết sức mạnh mẽ và một niềm vui thật chan hòa.
Một điều quan trọng hơn nữa, đó là khi giới thiệu tư cách đặc biệt của Đức Maria, bà Êlisabét không ngờ đang đưa chúng ta đến chỗ đối diện với Đấng mà Đức Maria đang cưu mang trong lòng: Người không những là Đấng Mêsia thuộc dòng tộc Đavít, là Con Đấng Tối Cao, mà cũng là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa.
Đàng khác, tác giả Lc muốn chúng ta thấy Đức Maria như là Hòm Bia Giao ước. Thiên Chúa đã chọn không ở trong một tòa nhà, nhưng ở trong lòng dạ một người phụ nữ.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Phần thứ nhất của Kinh Kính Mừng hoàn toàn lấy từ Tân Ước, liên kết các lời nói đầu tiên của thiên thần (“Kinh mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà”) với những lời nói đầu tiên của bà Êlisabét (“Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu con lòng bà gồm phúc lạ”). Sứ thần đã gọi Đức Maria là “đầy ơn phúc”; bà Êlisabét đã gọi người là “có phúc lạ” (= được chúc phúc). Cả hai vị đều diễn tả trước hết quan hệ Thiên Chúa tạo ra với Đức Maria, cách thức Người ngỏ lời với Đức Maria. Tất cả những gì người ta có thể nói về Đức Maria tùy thuộc tương quan này. Đức Maria vui sướng được sống trong tương quan này. Chúng ta có sống với lòng biết ơn trong sự lệ thuộc vào Thiên Chúa chăng?
2. Đức Maria được bảo là “có phúc” vì người đã tin rằng lời Chúa hứa với người sẽ được hoàn tất (c. 45). Thiên Chúa đã hứa biết bao điều qua các ngôn sứ? Khi thấy rằng các lời hứa của Thiên Chúa chậm được thể hiện, dân nghi ngờ Thiên Chúa. Họ đã đặt niềm tin tưởng vào chính họ, nên đã kết thúc trong thất bại. Đức Maria “có phúc” vì đã tin tưởng vào Thiên Chúa. Mẹ biết rằng cho dù bề ngoài thế nào, Lời Chúa sẽ được thực hiện.
3. Đức Maria đã cưu mang Con Đấng Tối Cao (1,32), Con Thiên Chúa (1,35) và sẽ sinh hạ Người ra. Do đó, Mẹ là “Thân Mẫu Đức Chúa”. Như bà Êlisabét đã trải nghiệm thân phận bất xứng, chúng ta cũng diễn tả kinh nghiệm này qua lời cầu xin: “Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Chúng ta xin Mẹ Đức Chúa, Mẹ Thiên Chúa, chuyển cầu cho chúng ta. Chúng ta nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi. Bà Êlisabét chan hòa niềm vui vì Thân Mẫu Đức Chúa đến nhà bà; đồng thời bà biết rằng bà không ở ngang tầm với Thân Mẫu Đức Chúa, nhưng không hề tị hiềm. Bà bày tỏ sự kính trọng đối với Đức Maria. Trong khi đó, Đức Maria, Mẹ Đức Chúa, lại ở lại nhà bà Êlisabét. Sự kính trọng các khác biệt không chống lại sự hiệp thông thân tình và vui tươi.
4. “Do mầu nhiệm Truyền Tin và Thăm Viếng, Đức Maria chính là điển hình của kiểu sống mà chúng ta phải theo. Trước tiên, người đã đón tiếp Đức Giêsu vào cuộc sống của người; sau đó, những gì người đã lãnh nhận, người đã chia sẻ. Mỗi lần chúng ta rước lễ, Đức Giêsu là Ngôi Lời trở thành thịt trong cuộc đời chúng ta. Vậy đấy đã là Lễ Tế Tạ Ơn đầu tiên: phần dâng lễ chính là Đức Maria dâng Con của người nơi mình, còn bàn thờ người đã thiết lập là tấm lòng của người. Là người duy nhất có thể khẳng định với một niềm tin tưởng tuyệt đối: “Này là Mình tôi”, kể từ lúc đó, Đức Maria đã dâng chính thân người, sức mạnh của người, toàn thân người, để tạo nên Thân Thể Đức Kitô” (CP. Têrêsa Calcutta).
5. Có Chúa trong mình không chỉ là đặc ân dành riêng cho Đức Maria. Mỗi cộng đoàn và mỗi người trong chúng ta phải trở thành như Đức Maria, một “Hòm Bia Giao ước”. Nhiệm vụ của chúng ta là mang Chúa đến cho người khác. Một điều có thể bảo cho biết là chúng ta đang là một “Hòm Bia Giao ước”, đó là niềm vui. Bất cứ đi đâu, Đức Maria đều tuôn đổ niềm vui (x. Lc 1,41.42.45-48). Sự hiện diện của chúng ta có đưa niềm vui đến cho người khác không?
30. Phục vụ trong yêu thương và khiêm tốn--‘Tin Mừng Chúa Nhật’
Vừa bắt đầu chúng ta đã thấy ngay đây là cách hành văn của Luca. Vừa gợi lên cuộc lên đường vội vã liền sau đó đã cho thấy lý do. Nếu Đức Maria vội vã lên đường, thì không phải là để tìm xem, lời thiên thần có đúng không, nhưng là để “vui với người vui” và đưa tới ơn phúc Mẹ giúp đỡ. Mẹ Thiên Chúa đã trở nên đấng trung gian các ơn phúc. Miền núi, cuộc hành trình hướng về đây là dãy núi miền cao nguyên Giuđa, kéo dài từ vùng Samari. Ngày nay không ai biết rõ đích xác thành phố mà Maria nhằm tới, một truyền thống đã có trước thời thập tự quân cho là đất làng Ain-Karim ngày nay. Làng này cách thủ đô Giêrusalem khoảng bảy cây số về phía tây. Khách hành hương nay tới kính viếng một nhà nguyện mang tên Thăm viếng. Từ Nadaret, phải bốn ngày đường mới tới nơi.
Lời chào thăm biểu lộ sự hiện diện của Thiên Chúa hướng về người được nhận lời chào, vì vừa nghe lời chào thai nhi trong bụng Elizabeth liền nhảy mừng và bà được tràn đầy Thánh Thần. Sự nhảy mừng này có một cái gì khác hẳn với sự cựa quậy của một thai nhi vào những tháng cuối cùng khi bà mẹ có một xúc động bất ngờ. Vì sự xúc động của Elizabeth không phải là nguyên nhân mà là kết quả của sự nhảy mừng của thai nhi Gioan. Thai nhi nhảy mừng vì tác động của ơn Chúa, là điều mà thiên sứ đã báo trước: “Con trẻ sẽ được đầy dẫy Thánh Thần ngay từ khi còn trong lòng mẹ” (Lc 1,15), mà được thánh hoá nhờ sự hiện diện của Ngôi Lời nhập thể. Sau thai nhi, bà mẹ Elizabeth cũng được đầy tràn Thánh Thần, và lập tức bày tỏ niềm cảm xúc chẳng những bằng những lời được linh hừng mà còn bằng cả giọng nói xúc động. Vì bà nói lớn với Maria: “Em là người hạnh phúc nhất trong giới phụ nữ, và thai nhi trong lòng em là phước hạnh lớn lao”. Như thế bà đã diễn tả hai lời chúc phúc song song mà thiên sứ Gáprien đã nói với Đức Maria trước đó. Bà ca tụng cô em, đặt cô cao trọng hơn tất cả trong giới phụ nữ. Bà cũng cho thấy, ngay cả khi cô em chưa nói gì, bà đã biết Maria là Mẹ Đấng Cứu Thế. Bà kính tặng cho thai nhi chưa được sinh ra danh hiệu “Chúa”, danh hiệu mà Thánh Vịnh áp dụng cho Đấng Mêsia trông đợi. Thật vậy, và đã thêm: “Thật vinh hạnh cho tôi được Mẹ Chúa đến viếng thăm”. Bà không chút nghi ngờ gì về điều đã xảy ra trong lòng cô em Maria và bà đã thấy rõ dấu chỉ: “Vì vừa nghe lời em chào, thai nhi trong bụng tôi đã nhảy mừng”. Như thế bà cho biết có mối liên hệ lệ thuộc giữa thai nhi Gioan nhảy mừng với chức làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, bà bày tỏ đây là “hãy nhảy mừng”, và còn hơn cả cảnh núi đồi nhảy mừng mà Thánh Vịnh đã diễn tả trước sự hiện diện của Đấng Toàn Năng, vì đây là một thai nhi nhảy mừng vì được tràn đầy Chúa Thánh Thần.
Thế nào những lời ca tụng vừa đưa ra, bằng một kiểu kết điểm Elizabeth chúc phúc: “Thiên Chúa ban phúc cho em, vì em tin lời Ngài hứa sẽ thành sự thật”.
Qua đoạn Lời Chúa này, chúng ta học được gương yêu thương của Đức Maria:
Vừa mới thưa với Chúa: “Tôi là tôi tớ của Chúa” Đức Maria đã hành động như thể là tôi tớ của loài người. Ngay sau khi được loan báo được chọn là Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria lên đường là vì muốn giúp đỡ và chia vui với người chị già. Qua lời loan báo, sứ thần cho thấy bà Elizabeth đang cần được giúp đỡ, vì bà sắp sinh con. Trong sứ điệp, sứ thần không bảo phải đi, chỉ gợi cho thấy. Thế là Maria thu xếp sẵn sàng ra đi, không để chậm trễ.
Dầu Maria có nhiều lý do để không ra đi, không tiến hành cuộc hành trình: nào là từ nay phải giữ gìn sức khoẻ nhằm lợi ích cho thai nhi. Nào là đường đi xa xôi, phải ít nhất bốn ngày dòng dã mới tới nơi. Lộ trình này có nhiều rủi ro nguy hiểm nhất là cho thân gái. Trước những trở ngại này và thêm vào đó không có một chỉ thị nào về phía Chúa bảo phải đi, để Maria có lý do để mà từ chối.
Những lý do trở ngại ấy không cản được Maria. Người ta dễ dàng né tránh lời mời gọi của đức ái, nại đến những lý do ít nhiều chính đáng. Nhưng lòng quảng đại của Maria quét sạch mọi chần chừ và lưỡng lự đó. Từ xưa, Đức Maria đã quen quan tâm đến người khác hơn nghĩ đến chính mình, thì lúc này, Mẹ cũng không phải đo lường cân nhắc sự bất tiện của chuyến đi xa, Mẹ chỉ nghĩ đến việc cần giúp đỡ bà chị già, và cứ như thế, Đức Maria lên đường.
Đó là gương mẫu về lòng mau mắn giúp đỡ, nghĩ tới người khác hơn nghĩ tới chính mình. Yêu thương luôn luôn đòi hỏi từ bỏ, đòi hỏi phải hao mòn chính bản thân mình. Khi xảy ra một việc cần giúp đỡ, có biết bao lý do nãi ra để từ chối! Nếu có được lòng yêu thương như Đức Maria, chúng ta sẽ sung sướng quên mình để nghĩ đến hạnh phúc của người khác.
Lại còn phải tránh cho ta những tính toán ích kỷ, những điểm tựa để khỏi phải giúp đỡ tha nhân, thay vì sáng kiến để tránh khỏi, hãy tìm cách làm nhẹ gánh nặng cho tha nhân, để giúp đỡ họ.
Thay vì phải ép lòng giúp đỡ vì không thể tránh được, hãy biểu lộ thái độ mau mắn thực sự. Mong ước sao ta luôn ở tư thế sẵn sàng giúp đỡ, phục vụ.
Nhưng phục vụ trong yêu thương và khiêm tốn.
Chúa Giêsu rất yêu thương các môn đệ ở trần gian, Chúa Giêsu biết rõ Chúa Cha đã trao mọi quyền hành cho Ngài… Vì thế, Chúa đứng dậy, ra khỏi bàn ăn, cởi áo ngoài, lấy khăn quấn ngang lưng, Chúa đổ nước vào chậu, lần lượt rửa chân cho các môn đệ (Ga 13,1.3). Giờ đây chúng ta thấy Mẹ Chúa, người vừa được thiên sứ báo tin được chọn là Mẹ Đấng Cứu Thế, người tự tình đi làm đầy tớ bà Elizabeth. Qua lời thiên sứ Người biết Thiên Chúa đã ban cho Người địa vị cao cả hơn người chị họ nhiều, ý thức mình được chọn trong tất cả các phụ nữ Israel, một địa vị mà không một người phụ nữ nào có thể sánh ví. Với ý thức đó, Mẹ tự nguyện trong vòng ba tháng đi làm công tác của một người hầu hạ cho một người đàn bà trong lúc sinh nở nàng đảm đang luôn công việc của một gia nhân.
Đức Maria không thuộc loại người, bắt người khác phải nhận ra địa vị cao sang của mình, và đòi phải cúi đầu kính cẩn. Mẹ không muốn tỏ ra nhân vật quan trọng, dầu Mẹ quan trọng nhất trong các tạo vật. Không một ai có thể nhận ra trong những ngày phục vụ tại nhà Elizabeth một người thiếu nữ đã được Thiên Chúa ban cho một địa vị cao cả nhất. Người ta chỉ thấy nơi nhà ông bà già này một gia nhân ân cần tự trọng, làm hết mọi công việc tầm thường nhất, và làm cách tự nhiên như đó là phận sự của nàng. Mẹ làm những công việc đó cho bà chị già như là làm cho Chúa. Mẹ luôn tỏ ra nhỏ bé để dường như Elizabeth không lấy làm ngại ngùng khi nhờ Mẹ làm bất cứ việc hèn hạ nào. và Mẹ không đặt một giới hạn nào cho tình yêu Chúa, Mẹ cũng không có một hàng rào cho tình yêu tha nhân. Không bao giờ Mẹ thấy một việc nào là quá thấp, là quá thường, quá hèn hạ. Mẹ đã làm với tất cả sự vui vẻ dường như không có ai nhận ra sự vất vả và đôi khi ghê tởm mà Mẹ đã phải âm thầm khắc phục. Với nụ cười của niềm vui buổi gặp gỡ đầu tiên, Mẹ đã duy trì gìn giữ bên trong nhà người thân này.
Thái độ mau mắn sẵn sàng giúp đỡ đó, chẳng phải chỉ giới hạn nơi nhà bà Elizabeth, tất cả những ai cần được giúp đỡ, Mẹ rất sẵn sàng, trong điều kiện và thời giờ cho phép. Ngay từ đó Đức Maria đã biết từng hoàn cảnh mà “làm tôi thiên hạ”. Thái độ đó đối với chúng ta, cũng như hẳn xưa kia đối với bà Elizabeth, luôn là đối tượng của lòng ngưỡng mộ kính yêu. Ngày nay chữ tôi tớ đã mang một ý nghĩa hèn kém hạ giá, không dám dùng, và nhất là thực hiện ý nghĩa của từ ấy. Ước chi chúng ta cũng lấy làm hân hạnh được phục vụ tha nhân.
Chúng ta phải khó khăn lắm mới thực hiện được giáo huấn của Đức Kitô: Ai lớn nhất hãy làm như người nhỏ nhất, ai làm đầu phải hầu thiên hạ. Gương Đức Maria còn đó để khích lệ: ai là đầu, ai có phúc hơn mọi người nữ, thế mà Mẹ trở nên bé nhỏ, trở nên rốt hết. Ai dám thống trị kẻ khác khi thấy gương Mẹ tự tình phục vụ như thế?
Mẹ cũng dậy nghệ thuật phục vụ trong những công việc tầm thường, tự chọn lấy cho mình những công việc nhọc nhằn, tởm gớm, tự tình thi hành với nét mặt vui tươi. Đã từng có một người tớ nữ không hề than trách công việc đè nặng trên vai, không bao giờ càu nhàu trong công tác phục vụ, đó là gương mẫu cho chúng ta!
Ngày nay trong vinh quang thiên quốc, Mẹ vẫn ân cần giúp đỡ tất cả mọi người, chúng con vẫn tiếp tục nhận được sự trợ giúp của Mẹ, và Mẹ kêu gọi chúng ta cộng tác với Mẹ trong việc giúp đỡ mọi người.
31. Lên đường vì yêu--Lc 1,39-56
Hôm nay, Giáo hội kỷ niệm cuộc thăm viếng của Đức Maria đến với bà chị họ E-li-za-beth. Ngay khi nhận được lời truyền tin của Sứ thần, Đức Maria trở thành Mẹ Đấng Cứu thế, và người chị họ của Mẹ cũng đang cưu mang một người con trai do quyền năng và tình thương của Chúa ban cho, Mẹ đã vội vã lên đường đi thăm bà chị ho của mình, một cuộc thăm viếng thánh thiện và mang nhiều ý nghĩa cao quý.
Vấn đề được đặt ra là tại sao Đức Maria lại vội vã lên đường trong cuộc thăm viếng này như thế? Có phải Đức Maria muốn ra đi để xác minh lời Sứ thần nói về bà E-li-za-beth có đúng sự thật hay không? Câu trả lời chắc là không, vì Đức Maria đã tin ngay từ đầu rồi. Bởi thế mà bà E-li-za-beth mới nói với Đức Maria rằng: “Em thật có phúc vì đã tin rằng sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1, 45). Mẹ không bao giờ nghi ngờ bất cứ điều gì Chúa đã nói với Mẹ qua miệng của Sứ thần cả. Vậy thì có phải Đức Maria muốn gặp bà chị họ để khoe niềm vinh dự là mình được chọn là Mẹ Đấng Cứu thế không? Cân trả lời cũng là không phải thế. Vì Mẹ là một người rất khiêm hạ, tự xưng mình mình là “nữ tỳ của Chúa” (Lc 1,38). Cho nên, đối với Mẹ chắc không hề có chuyện đi khoe khoang hay kiếm tìm vinh dự cho mình. Ta thấy rõ là khi Đức Maria được bà E-li-za-beth ngợi khen “em thật có phúc” và “bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa tôi đến viếng thăm”, thì Đức Maria đã quy những lời tán dương, ca ngợi ấy về Thiên Chúa ngay lập tức: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa”. Cuộc gặp gỡ giữa Đức Maria và bà E-li-za-beth trở thành một dịp cho hai bà mẹ diễm phúc ca tụng Thiên Chúa hết lòng. Ai cũng nhận ra được rằng, mình đã được Thiên Chúa yêu thương cách lạ lùng, vượt sức tưởng tượng hay ước muốn: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả” (Lc 1, 49). Hai bà mẹ cảm nghiệm niềm hạnh phúc đã ngập tràn trong tâm hồn và không còn dám ước mơ gì hơn, bởi lẽ Thiên Chúa đã đong đầy tâm hồn của các ngài những niềm vui thánh thiện.
Cuộc ra đi vội vã của Đức Maria đến nhà bà E-li-za-beth chỉ đơn thuần là một cuộc thăm viếng như bao cuộc thăm viếng khác mà thôi. Đức Maria ý thức rằng, người chị họ E-li-za-beth đang rất cần sự trợ giúp vì bà E-li-za-beth mang thai trong lúc tuổi già và sắp sinh con. Đức Maria vội vã đến với bà E-li-za-beth chỉ vì muốn giúp người chị họ của mình một tay trong lúc sinh con mà thôi. Cuộc thăm viếng của Đức Maria mang đầy tình tương thân tương ái trong đó. Đó cũng là bài học cho chúng ta hôm nay. Chúng ta có ý thức sự bối rối, neo đơn của người khác để sẵn sàng và vội vã đến với họ không? Hay trong xã hội náo nhiệt này, chúng ta chỉ biết sống cho mình: “đèn nhà ai nấy sáng” hay “sống chết mặc bây”.
Cuộc thăm viếng của Đức Maria còn là việc mang Chúa đến cho gia đình bà E-li-za-beth nữa. Như xưa, Hòm Bia Thiên Chúa lưu lại 3 tháng tại nhà ông Ôveđ Êđom và Chúa đã ban cho gia đình ông rất nhiều phúc lộc, thì việc lưu lại 3 tháng của Đức Maria với Chúa Giêsu trong lòng cũng mang lại bình an và niềm vui cho gia đình ông Dacaria rất nhiều. “Bởi đâu tôi được Thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào , thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng” (Lc 1, 43-44). Chúa Giêsu đã thi hành sứ mạng cứu thế của Ngài trước khi sinh ra: Ngài đã thánh hoá Gio-an Tẩy giả ngay lúc còn trong bụng mẹ. Và Gio-an cũng đã thi hành sứ vụ tiền hô của mình là nhảy mừng khi Đấng Cứu Thế đến.
Cuộc thăm viếng của Đức Maria đến với bà E-li-za-beth là lời mời gọi chúng ta hãy nhìn lại chính mình: Chúng ta có biết mang Chúa, mang bình an và niềm vui đến cho những người chúng ta gặp gỡ không? Mục đích những cuộc thăm viếng của tôi đến với người khác là gì? Có cần thiết cho tôi và cho họ không…?
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dạy cho chúng con biết quan tâm đến người khác và không ngừng khao khát mang Chúa đến cho người khác với tâm hồn thanh khiết như Mẹ. Xin Mẹ dạy chúng biết trở thành những sứ giả mang bình an, niềm vui và hạnh phúc đến cho những người chúng con gặp gỡ. Amen
32. Đức Mẹ Thăm Viếng--Trầm Thiên Thu(từ CatholicCulture.org)
Lễ Đức Mẹ Thăm Viếng nhắc nhở chúng ta về các sự thật và sự kiện này: Cuộc thăm viếng của Đức Mẹ dành cho người chị họ Êlidabet ngay sau khi được Sứ thần truyền tin; Thánh Gioan Tẩy giả khỏi tội Nguyên tổ khi còn trong lòng mẹ, lúc Đức Mẹ cất tiếng chào; Elizabeth's proclaiming of Mary – theo linh hứng của Chúa Thánh Thần – là Mẹ thiên chúa và “được chúc phúc giữa các phụ nữ”; Thánh ca siêu phàm Magnificat (Linh hồn tôi ngợi khen Chúa) trở thành một phần trong lời cầu nguyện chính thức của Giáo hội. Sự Thăm Viếng thường được mô tả trong nghệ thuật và là mầu nhiệm trung tâm trong các sự sùng kính của Thánh Phanxicô Salê.
LỊCH SỬ
Lễ này kính chào Đức Mẹ đã mang trong lòng chính Vua Trời Đất, Đấng Tạo Tác thế gian, Con Thiên Chúa, Mặt Trời Công Chính. Đức Maria được diễm phúc làm “Mẹ Thiên Chúa” và nhận biết hồng ân xuống trên Thai nhi Gioan, Đức Mẹ đã thốt lên lời ca tụng Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!” (Lc 1:46-49).
Lễ này có nguồn gốc từ Thời Trung Cổ, được Dòng Phanxicô duy trì từ trước năm 1263, và mau chóng lan truyền khắp Giáo hội hoàn vũ. Trước đây, lễ này kính vào ngày 2 tháng Bảy. Nay được cử hành vào khoảng giữa lễ Truyền Tin và lễ Sinh nhật Thánh Gioan Tẩy giả, phù hợp với trình thuật Phúc Âm. Một số nơi mừng lễ này theo thực tế và thánh hóa các thai nhi. Phụng vụ sử dụng màu Trắng.
Theo Sách lễ năm 1962 thời Chân phước GH Gioan XXIII, hôm nay là lễ Đức Maria Trinh Vương và Thánh nữ Aurelia Petronilla. Ngày nay, lễ Đức Maria Trinh Vương được cử hành vào ngày 22 tháng Tám. Thánh Aurelia Petronilla được Thánh Phêrô, giáo hoàng tiên khởi, hướng dẫn vào đức tin. Bà qua đời sau ba ngày từ chối kết hôn với Flaccus, một nhà quý tộc ngoại giáo. Không có chứng cớ lịch sử về việc bà tử đạo, nhưng một bức bích họa (fresco) thời sơ khai cho thấy bà chịu tử đạo. Ngày nay, lễ Thánh Aurelia Petronilla không còn trong lịch phụng vụ.
THĂM VIẾNG
Cuộc thăm viếng bắt đầu: “Đức Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa” (Lc 1:39). Như một bài thơ trữ tình mở đầu cách diễn tả của Thánh sử Luca về cuộc thăm viếng. Chúng ta có thể cảm thấy ấm lòng và thánh thiện, lòng yêu thương gấp rút đã thúc đẩy Thục Nữ Maria băng qua núi đồi để đến với người chị họ. Trái tim Đức Mẹ đã đập nhịp đập của Đức Kitô.
Nhiều phụ nữ, nếu đang mang thai, sẽ từ chối đi trên con đường gập ghềnh để có thể bày tỏ lòng tử tế với người khác. Họ sẽ nói rằng họ có trách nhiệm với chính mình và thai nhi trước khi làm điều gì hoặc đến với người khác, sợ “động thai”. Nhưng Mẹ Thiên Chúa không đắn đo những điều như vậy. Thánh Êlidabet cũng sẽ sinh con, và dù Con Trẻ trong lòng Đức Mẹ là Thiên Chúa, Đức Mẹ vẫn không thể làm ngơ nhu cầu cảu Thánh Êlidabet – hầu như không thể tin được đối với chúng ta, nhưng đó là tính cách của Đức Mẹ.
Đức Mẹ chào Chị Êlidabet, và vừa nghe lời chào, con trẻ Gioan đã nhảy mừng trong lòng mẹ. Chúa Giêsu đã xác định: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10:10). Ngay cả trước khi sinh ra, sự hiện diện của Ngài đã đem lại Sự Sống.
Làm sao Thánh Êlidabet biết điều gì đã xảy ra với Đức Mẹ? Điều gì làm Thánh Êlidabet nhận biết Cô em họ cũng đang mang thai như mình, là Mẹ Thiên Chúa? Thánh Êlidabet biết điều đó nhờ con trẻ trong lòng mình, khi con trẻ nhảy mừng trong lòng. Nếu chúng ta thực hành việc suy niệm này, chúng ta sẽ có kinh nghiệm như Thánh Êlidabet.
Nếu Đức Kitô lớn lên trong chúng ta, nếu chúng ta bình an, hồi tưởng, vì chúng ta cho rằng điều đó quan trọng, Ngài sẽ lớn mạnh trong chúng ta; nếu chúng ta nhiệt thành, “vội vã” đến nơi nào đó theo sự thúc giục trong lòng, vì chúng ta tin Chúa Giêsu muốn chúng ta có mặt ở nơi đó, chúng ta sẽ thấy rằng chúng ta được thúc đẩy càng ngày càng nhiều để mà hành động theo sự thúc đẩy theo xung động tình yêu của Đức Kitô. Chúng ta sẽ có câu trả lời theo các xung động này, chúng ta sẽ được đánh động và vui mừng.
Thánh Êlidabet là bổn mạng các thai phụ. Biểu tượng: Thánh Êlidabet chào mừng Cô em Maria, một phụ nữ luống tuổi đang mang thai Thánh Gioan Tẩy giả, Thánh Êlidabet đồng hành với Thánh Dacaria.
Những việc cần làm:
– Đọc Lc 1:39-47, câu chuyện về Cuộc Thăm Viếng. Suy niệm những lời trong kinh Magnificat và kinh Kính Mừng, hai lời cầu nguyện của lễ này. Với những người có con cái, tùy theo tuổi tác, hãy tổ chức một buổi cầu nguyện chung, và rồi cùng thảo luận về ý nghĩa hai lời cầu nguyện này như một gia đình.
– Lễ này nhắc chúng ta sống bác ái với những người hàng xóm và với mọi người. Hãy giúp đỡ mẹ (dù đang mang thai hay không), hãy giúp đỡ người già và các bệnh nhân, nếu có thể thì hãy mời một người nghèo đến cùng dùng bữa với gia đình,...
33. Lễ Đức Mẹ Thăm Viếng-- Lm. Anthony Trung Thành
Lịch sử cứu độ là lịch sử của những cuộc viếng thăm. Đó là những cuộc viếng thăm giữa Thiên Chúa và dân Người. Thật vậy, sau khi hoàn tất công trình tạo dựng, Thiên Chúa không bỏ rơi con người nhưng luôn viếng thăm để ban ơn và có khi để khiển trách, trừng phạt con người. Khi Adong Evà phạm tội, Ngài viếng thăm để ra hình phạt đồng thời để hứa ban Đấng Cứu Độ (x. St 3,1-24). Rồi, Ngài viếng thăm dân Ngài qua các ngôn sứ và các vị lãnh đạo dân Do Thái: Ngài viếng thăm và thi ân giáng phúc cho ông Ab-ra-ham và hứa sẽ làm cho dòng dõi ông nên đông đúc như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển (x. St 22,17); Ngài viếng thăm Mô-sê qua bụi gai bốc cháy để truyền lệnh cho ông giải thoát dân Is-ra-el ra khỏi đất Ai-cập (x. Xh 3, 1-12); Ngài ở với ngôn sứ Giê-rê-mi-a để cứu sống và giải thoát (x. Gr 15,20) và Ngài luôn đồng hành với các ngôn sứ để truyền cho họ nói Lời của Ngài cho dân chúng; Cuối cùng, chính Ngài đã viếng thăm nhân loại qua chính Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô.
Qua đoạn Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy Đức Giêsu đã viếng thăm gia đình ông Gia-ca-ri-a qua trung gian Đức Maria. Cuộc viếng thăm này có hai chiều kích đặc biệt: chiều kích thứ nhất là chiều kích chia sẻ. Mẹ Maria mang Chúa đến để chia sẻ với bà chị họ. Nhờ đó, Thánh Gioan Tẩy Giả được khỏi Tội Nguyên Tổ ngay từ trong lòng Bà Ê-li-sa-bét. Chính bà Ê-li-sa-bét đã vui mừng thốt lên rằng: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1, 43-45). Chiều kích thứ hai là chiếu kích phục vụ. Tin mừng cho biết, Mẹ Maria“ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà” (Lc 1,56). Khi Mẹ đến thăm thì bà Ê-li-sa-bét thì bà đã cưu mang Gioan được sáu tháng. Mẹ ở lại đó ba tháng, tức là những tháng cuối cùng trước khi bà Ê-li-sa-bét hạ sinh. Đây là những ngày tháng khó nhọc vất vả nhất của người phụ nữ mang thai. Mẹ biết được như vậy, nên Mẹ đã tự nguyện ở lại đó để chăm sóc, phục vụ, giúp đỡ bà chị họ. Điều đó thể hiện tinh thần thăm viếng mang chiều kích phục vụ của Mẹ.
Về phần Đức Giêsu, sau thời gian sống ẩn dật tại làng quê Na-za-rét, Ngài bắt đầu hành trình truyền giáo là bắt đầu những cuộc viếng thăm: Ngài đi khắp mọi nơi và gặp gỡ mọi người để biến đổi và chữa lành họ; Ngài viếng thăm ông Gia-kêu khi ông đang ngồi trên cây sung; Ngài viếng thăm ông Lê-vi tại bàn thu thuế; Ngài viếng thăm gia đình La-za-rô và cho ông đã chết Bốn ngày được sống lại; Ngài viếng thăm và chữa lành cho mẹ vợ của ông Phê-rô…Đi tới đâu là Ngài thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma qủi kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người (x. Cv 10, 36-38). Tin mừng còn cho biết: Nhờ Ngài mà kẻ què đi được, kẻ điếc được nghe, kẻ mù được xem thấy, kẻ câm nói được, kẻ chết sống lại, kẻ nghèo khó được nghe Tin mừng. Chắc chắn Mẹ Maria cũng đồng hành với Chúa Giêsu trên mọi nẻo đường truyền giáo để thăm viếng, an ủi tất cả mọi hạng người trong xã hội. Đặc biệt, Mẹ có mặt tại tiệc cưới Cana để khẩn cầu Đức Giêsu làm phép lạ hóa nước thành rượu ngon giúp cho gia chủ trong lúc bế tắc. Mẹ hiện diện dưới chân Thánh giá để lãnh nhận sứ mạng làm Mẹ loài người. Sau khi về trời, Mẹ còn thăm viếng loài người bằng những lần hiện ra nơi này nơi khác như ở Lộc Đức, ở Fatima, ở Lavang…Còn Đức Giêsu, sau khi Phục Sinh, Ngài còn hiện ra nhiều lần nhiều nơi để viếng thăm và cũng cố đức tin cho các Tông đồ và các Kitô hữu đầu tiên. Có thể nói, những cuộc viếng thăm của Thiên Chúa, của Đức Giêsu và của Đức Maria là mẫu mực cho các cuộc viếng thăm giữa con người với nhau qua mọi thời đại. Đó là những cuộc viếng thăm đem lại niềm vui, tình thương và ơn cứu độ.
Các Tông đồ lãnh nhận sứ mạng Đức Giêsu trao phó, tiếp tục ra đi đến với muôn dân. Sách Công vụ Tông đồ kể lại các sinh hoạt của Giáo hội sơ khai cho chúng ta thấy điều đó. Các Ngài ra đi khắp mọi nơi để thăm viếng, rao giảng và làm chứng cho Đức Giêsu đã chết và sống lại. Riêng Thánh Phaolô, sau khi trở lại, Ngài đã thực hiện nhiều cuộc hành trình truyền giáo đến với dân ngoại. Nhờ đó, nhiều cộng đoàn Kitô hữu được thiết lập. Từ đó tới nay, Giáo hội không ngừng ra đi để thăm viếng muôn dân: Đó chính là sự “ra đi” của các nhà truyền giáo, các giám mục, linh mục, tu sỹ và giáo dân. Đặc biệt, từ thời Đức Giáo Hoàng Phaolô VI cho tới nay, các Đức Giáo Hoàng thường thực hiện những cuộc thăm viếng mang tính quốc tế: Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, đã có 129 cuộc viếng thăm ngoài thành Rôma. Ngài là vị Giáo hoàng đầu tiên đến viếng thăm một ngôi đền Hồi giáo ở Syria; viếng thăm vùng Thánh Địa Giêrusalem... Các cuộc viếng thăm của Ngài ảnh hưởng đến việc hòa giải các dân tộc và tôn giáo. Đức Giáo hoàng Benedictô XVI và Đức Giáo hoàng Phanxicô tiếp tục ra đi. Đức Giáo Hoàng Phanxicô thường quan tâm đặc biệt đến các vùng ngoại vi. Ngài đã đến với những người tị nạn tại đảo Lampedusa, trại tù Casal del Marmo…Ngài mời gọi mỗi người chúng ta hãy “ra đi” để đem Tin mừng đến với với những người bần cùng nhất, những người sầu khổ, những người còn trong bóng tối tội lỗi. Chính vì thế, các cuộc viếng thăm của Ngài không những đem lại sự hòa hợp các dân tộc mà còn đem lại niềm vui và sự an ủi cho những người thấp cổ bé miệng trong xã hội.
Viếng thăm cũng là bổn phận của mỗi người chúng ta hôm nay: Viếng thăm để thực hiện bổn phận truyền giáo; Viếng thăm để thực hiện bổn phận liên đới giữa chúng ta với các mối tương quan như ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn hữu. Chúng ta hãy bắt chước gương viếng thăm của Thiên Chúa, của Đức Giêsu và Đức Maria. Hãy có những cuộc viếng thăm tha nhân một cách vô vị lợi. Hãy viếng thăm tha nhân khi vui cũng như lúc buồn như lời Thánh Phaolô nhắc nhở: “Hãy vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15). Hãy viếng thăm tha nhân trong sự thành thật không giả hình, viếng thăm trong tình yêu thương huynh đệ: “Đức ái không được giả hình: Hãy chê ghét điều ác và trìu mến điều lành. Hãy thương yêu nhau trong tình bác ái huynh đệ. Hãy nhân nhượng tôn kính nhau” (Rm 12, 9-11); “Hãy giúp đỡ các thánh khi họ thiếu thốn, và ân cần tiếp khách đỗ nhà” (Rm 12, 13). Đặc biệt, chúng ta hãy siêng năng viếng thăm những người nghèo đói, bệnh tật, cô thế cô thân, những kè tù đày... để đem niềm vui và hạnh phúc đến cho họ. Vì khi chúng ta thăm viếng họ là chúng ta đang thăm viếng Chúa. Tin mừng theo Thánh Mathêu, chương 25, Đức Giêsu đã đồng hóa Ngài với những kẻ bé mọn: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.” Ngài nói thêm: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.”
Ước mong rằng, ngày lễ Mẹ Thăm Viếng hôm nay nhắc nhở mỗi người chúng ta luôn biết ra khỏi chính mình để đến với tha nhân, đem niềm vui có Chúa và tinh thần phục vụ cho họ như gương mẫu của Đức Maria. Amen.
34. Đức Maria Thăm Viếng Bà Êlisabét
Nghe tin bà Êlisabét mang thai trong lúc tuổi già, Mẹ Maria đã vội vã lên đường thăm viếng chị mình. Lý do để mẹ thăm viếng có lẽ rất đơn giản như cách người ta vẫn làm: vừa là để chia vui với chị, vừa để giúp đỡ người chị của mình. Con đường Mẹ phải đi khá dài, khoảng 160 cây số, từ miền quê Nadarét phía Bắc lên miền núi Giuđê phía nam. Người ta ước chừng nếu đi bộ thì khoảng 5-6 ngày. Đó quả là một hành trình nhiều gian khó đối với một người phụ nữ mang thai và thời gian đi với Mẹ chắc cũng sẽ kéo dài hơn.
Chúng ta có thể dễ dàng mường tượng niềm vui diễn ra như thế nào khi hai bà mẹ cùng mang thai này gặp gỡ nhau. Nhưng ở đây, tác giả Tin Mừng còn cho chúng ta thấy một niềm vui sâu xa hơn: “Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên và bà được đầy Thánh Thần.” Ta tự hỏi khi gặp bà Êlisabét, Mẹ đã chào hỏi thế nào? Tin Mừng không nói rõ, nhưng có lẽ Đức Maria cũng chỉ chào hỏi thông thường như người Do Thái vẫn làm khi gặp gỡ nhau: “Shalom!”, có nghĩa là cầu chúc“bình an” Nhưng ở đây lời chào của Mẹ không đơn giản là cầu mong bình an, lời chào ấy còn làm cho bà Êlisabét tràn đầy Thánh Thần và đứa con trong bụng nhảy lên vui mừng. Do đâu lời chào của Mẹ làm sao lại có sức mạnh của ân sủng lớn lao đến như vậy?
Khi nói lời “xin vâng”, Mẹ đã đón nhận sứ mạng cưu mang và sinh hạ Con Thiên Chúa. Một khi Mẹ để cho Ngôi Lời chiếm ngự tâm hồn và chính máu thịt Mẹ lại đang nuôi dưỡng Đấng Cứu Thế, thì mọi lời nói, mọi hành động của Mẹ, dù đơn sơ nhỏ bé nhất, cũng đã trở thành quà tặng mang lại điều kỳ diệu. Một khi tâm hồn trong tình trạng ân sủng, chứa chan ơn cứu độ, thì trong mọi tương quan, bất kỳ lời nói và hành động nào của Mẹ cũng đều mang hoa trái của ân phúc cho những người Mẹ gặp gỡ.
Như thế việc Mẹ Maria thăm viếng bà Êlisabét không chỉ đơn giản là một bài học nhân bản về lòng quảng đại, sẵn sàng giúp đỡ khác. Qua cuộc thăm viếng này, Mẹ Maria đã chỉ ra cho chúng ta con đường để trở nên môn đệ đích thực của Đức Kitô: đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa và lên đường chia sẻ niềm vui cứu độ với tha nhân.
Hai bà mẹ trong Tin Mừng hôm nay, Đức Maria và bà Êlizabét, hớn hở mừng vui, không phải vì được những thứ vật chất để đổi đời, nhưng vì nhận được ân phúc của Chúa, tức là được chính Chúa ngự trong tâm hồn. Những người có Chúa ở cùng, thì biết cách trao tặng chính mình và sống hướng về người khác. Mẹ Maria và bà Êlizabét “hớn hở mừng vui”, nhưng cả hai lại không nói về ơn phúc của chính mình, mà nói về ơn phúc của người khác, vui với niềm vui của người khác. Bà Êlizabét nói về ơn phúc của em mình và ca tụng Đức Maria: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.” Còn Đức Maria, sau những lời ngợi khen của bà Êlizabét, Mẹ đã cất tiếng ca tụng Thiên Chúa thay cho cả nhân loại, cho những ai đang khiêm tốn đợi trông ơn cứu độ:
“Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.”
Lạy Ngôi Lời nhập thể,
xin hãy đến ở cùng chúng con,
để cuộc đời chúng con đầy tràn niềm vui của ơn cứu độ;
xin biến đổi chúng con thành con người mới trong Chúa,
nhờ đó chúng con có khả năng trao tặng chính mình,
và công bố Tin Mừng cứu độ cho mọi người. Amen.
35. Thăm viếng với niềm vui
“Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả.” (Lc 1,49)
Suy niệm: “Các cuộc thăm viếng luôn để lại niềm vui, nếu không phải lúc đến, thì cũng lúc ra về” (Ngạn ngữ Bồ Đào Nha). Chắc chắn cuộc thăm viếng của Đức Ma-ri-a ở Ain-Karim đem lại niềm vui lớn lao cho bà Ê-li-sa-bét khi mới đến, cũng như trong suốt thời gian ba tháng sau đó. Khi mới gặp Đức Ma-ri-a, Bà Ê-li-sa-bét đã kêu lớn tiếng, cảm thấy vinh dự được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm mình. Niềm vui ấy đạt đến đỉnh điểm khi thai nhi Gio-an nhảy mừng trong lòng mẹ, được “giáp mặt” thai nhi Giê-su, được ơn khỏi tội nguyên tổ từ giây phút đặc biệt này. Niềm vui ấy tiếp tục lan tỏa trong mái nhà ông bà Gia-ca-ri-a và Ê-li-sa-bét ba tháng ròng rã khi Đức Ma-ri-a mang danh phận là Mẹ Thiên Chúa, nhưng sống phận nữ tì phục vụ bà mẹ Ê-li-sa-bét trong những ngày chuẩn bị sinh nở người con đầu lòng của mình.
Mời Bạn: Có lẽ thời gian bên gia đình, điện thoại, máy vi tính, thư giãn, tán gẫu… chiếm khá nhiều quỹ thời gian của bạn. Bạn cũng hãy sắp xếp để quan tâm hơn đến bao người đang cần sự viếng thăm thân tình của bạn: người cao tuổi, bệnh nhân, người nghèo… trong giáo xứ.
Sống Lời Chúa: Mỗi tuần tôi dành một giờ đi thăm viếng những người “bé nhỏ” (người nghèo, người đau ốm, neo đơn…) đang cần sự thăm viếng, nâng đỡ, khích lệ của tôi để sống niềm tin.
Cầu nguyện: Lạy Mẹ Ma-ri-a, Mẹ nêu gương cho con khi danh là Mẹ Thiên Chúa, nhưng lại sống phận nữ tì của Ngài qua việc thăm viếng phục vụ bà Ê-li-sa-bét. Xin cho con nhạy bén trước nhu cầu của những người chung quanh, để con vui vẻ, sẵn lòng dành thời gian thăm viếng họ. Amen.
36. “Mẹ sống để phục vụ, Mẹ đi để trao Chúa Giêsu”
Con Thiên Chúa, từ ngày truyền tin, lại còn là con Đức Maria. Hồng ân ấy, Đức Maria không giữ cho riêng mình, Người đã vội vã lên đường, đi thăm người bà con để chia sẻ cho nhau.
Biến cố gặp gỡ giữa Maria và Elisabeth đã làm nổi bật lên hai đặc trưng: Đức tin và sự trao ban – phục vụ.
1. Đặc trưng niềm tin
Với khoảng cách giữa Nazareth và Ain Carem (khoảng 100km) với liên lạc thời đó, tin tức về một phụ nữ mang thai ở cách xa nhau như thế, Maria chỉ biết được nhờ tin vào Lời Chúa qua miệng thiên sứ Gabriel mà thôi. Niềm tin của Đức Maria được khẳng định khi Mẹ thưa “xin vâng” một cách dứt khoát và điều này được chính bà Elisabeth đã thốt lên lời ca ngợi “phúc cho bà là kẻ đã tin…” (Lc 1,45).
Từng câu từng chữ trong lời ca tụng của bà Elisabeth đều mang đầy ý nghĩa, nhưng điều bà nói cuối cùng mới thực quan trọng: “Em thật có phúc, vì đã tin…” (Lc 1,49). Câu nói này có thể đặt cận kề với tước hiệu “đầy ơn phúc” trong lời chào của thần sứ.
Qua lời chào của thiên sứ Gabriel và lời tán dương của bà Elisabeth dành cho Đức Maria, cho thấy chân lý về Đức Maria hiện diện trong mầu nhiệm Chúa Kitô, chỉ vì Mẹ đã tin. Công đồng Vaticano II dạy: “Phải bày tỏ sự vâng phục của đức tin (Rm 16,26; 2Cr 10,5-6) đối với Thiên Chúa mạc khải, nhờ đó con người hoàn toàn tự nguyện phó thác vào Thiên Chúa”. Cách diễn tả đức tin này đã được Đức Maria thực hiện nơi bản thân mình cách trọn vẹn. Giây phút quyết định là lúc truyền tin, và các lời của bà Elisabeth: “Em thật có phúc vì đã tin” được áp dụng vào giây phút chính xác đó . Với cả lý trí và ý chí, Đức Maria đã đáp lại tiếng Chúa bằng cả con người trọn vẹn đầy nhân tính và nữ tính, và lời đáp trả của đức tin này bao hàm một sự cộng tác hoàn hảo với hồng ân trợ lực của Thiên Chúa và một sự sẵn sàng trọn vẹn cho hoạt động của Chúa Thánh Thần, Đấng không ngừng dùng hồng ân của mình làm cho đức tin luôn hoàn hảo.
2. Đặc trưng đức ái (trao ban và phục vụ)
Việc Đức Maria vội vã ra đi đến Ain Carem khi vừa được báo tin là người chị họ trong lúc tuổi già đã mang thai được sáu tháng, được thôi thúc bởi ba động lực là để chia sẻ niềm vui, trao ban “ân sủng” và tinh thần đức ái: Đức Maria đến chia sẻ niềm vui kép đôi vì vừa được cưu mang Chúa Giêsu, vừa vui mừng cho bà Elisabeth được Thiên Chúa cất đi nỗi nhục son sẻ của bà; Đức Maria đến để đem Chúa Giêsu đến cho Gioan được nhảy mừng và bà Elisabeth được tràn đầy Chúa Thánh Thần; và Đức Maria đến để giúp đỡ bà Elisabeth trong thời kỳ thai nghén. Tất cả được gói gọn trong một động lực duy nhất là đức ái tuyệt hảo của Mẹ Con Thiên Chúa.
Niềm vui trước hết và trên hết mà Đức Maria muốn chia sẻ chính là niềm vui được Thiên Chúa cứu độ. Được cứu độ là niềm vui lớn nhất mà bao thế hệ đợi chờ, chính vì thế mà Đức Maria, người được cứu độ đầu tiên, tràn ngập niềm vui, vừa cất tiếng chào thì Gioan trong dạ bà Elisabeth cũng nhảy lên vui sướng vì ơn cứu độ đã đến. Đức Maria mang đến cho gia đình bà Elisabeth ân sủng của Thiên Chúa, vì Mẹ tràn ngập ân sủng, nên ân sủng đó trào tràn trên bà Elisabeth làm cho bà cất lớn tiếng và ca ngợi Mẹ Thiên Chúa.
Đức Maria mang trong mình Đấng là ân sủng và được bao quanh bằng ân sủng của Thánh Thần, Mẹ hiểu rõ bản chất của ân sủng không cho phép tích trữ và giữ lấy như của riêng, mà cần phải trao ban, ân sủng không dừng lại nơi Mẹ mà được tặng ban cho con cái loài người. Thật vậy, nếu ân sủng là để phân phát, thì người làm đầu chỉ có thể là để phục vụ (x. Mt 23, 11), và thế giới ân sủng còn là thế giới của tình thương.
Tình thương bao la và cao thượng vốn được xây dựng trên hy sinh và dâng hiến. Nơi đó, không chờ đợi để nhận lãnh hay để được phục vụ, mà là luôn tìm cách trao ban, chia sẻ và hiến tặng.
Tóm lại, qua biến cố Đức Maria thăm viếng bà Êlizabeth, Chúa muốn dạy chúng ta sống tinh thần của Mẹ Maria là sống trong ơn nghĩa của một tâm hồn đầy Chúa, cưu mang Chúa trong trái tim mình, để rồi mau mắn đem Chúa đến cho tha nhân. Đặc biệt cụ thể hoá việc làm chứng cho Chúa qua chính đời sống phục vụ.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con niềm tin phó thác, để chúng con biết xin vâng như Mẹ Maria; xin cũng tăng thêm cho chúng con đức ái, để chúng con biết sống trao ban và phục vụ như Mẹ Maria. Nhờ đó, cùng với Mẹ Maria, chúng con xứng đáng là những người con thảo của Cha trên trời. Amen.
30/05 Cùng hiệp thông với Chúa
- Viết bởi Ga 16, 29-33
Cùng hiệp thông với Chúa.
Thứ Hai tuần 7 Phục Sinh.
“Hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian”.
Lời Chúa: Ga 16, 29-33
Khi ấy, các môn đệ thưa Chúa Giêsu rằng: “Đúng thế, bây giờ Thầy nói rõ ràng, và không dùng dụ ngôn nữa. Bây giờ chúng con biết rằng Thầy biết mọi sự, không cần có ai hỏi Thầy nữa. Bởi đó chúng con tin Thầy bởi Thiên Chúa mà ra”.
Chúa Giêsu đáp lại các ông: “Bây giờ các con mới tin ư? Này đến giờ, và đã đến rồi, các con sẽ tản mát mỗi người một ngả, bỏ mặc Thầy một mình. Nhưng Thầy không ở một mình đâu, vì có Cha hằng ở với Thầy. Thầy nói với các con những điều đó để các con được bình an trong Thầy. Giữa thế gian, các con sẽ phải đau khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Thầy không một mình
(Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Cô đơn trên đời là điều ai cũng sợ.
Phải chăng vì người ta không được dựng nên để sống một mình?
Chẳng phải chỉ người trẻ mới sợ cô đơn và tìm cách tránh né.
Người già cũng sợ không kém.
Người ta sợ đi về thế giới bên kia một mình.
Trong thân phận làm người, Đức Giêsu cũng phải đối diện với nỗi cô đơn.
Ngài không lập gia đình, không có một người bạn đời để chia sẻ.
Bù lại, Ngài có những người thân yêu ở làng Nadarét.
Nhưng ngay cả cha mẹ Ngài cũng không hiểu hết được Ngài (Lc 2, 50).
Khi đi rao giảng Tin Mừng, Ngài có những người bạn mới là các môn đệ.
Tiếc thay, họ không phải là những người luôn luôn hiểu Ngài.
Ngài muốn chia sẻ cho họ tất cả cái riêng tư giữa Ngài với Cha.
Nhưng họ chưa đủ sức kham nổi.
Đức Giêsu không phải là người thích cô đơn, khép kín.
Ngài dễ đến với dân chúng, với mọi hạng người.
Ngài gặp gỡ họ, loan Tin Vui, và cho họ được tâm thân an lạc.
Các bệnh nhân, tội nhân, trẻ em, phụ nữ,
cũng không ngại đến với Ngài để trò chuyện hay chia sẻ một bữa ăn.
Dù vậy tìm được một sự đồng cảm trọn vẹn nơi con người
vẫn là điều khó đối với Đức Giêsu,
bởi lẽ Ngài còn thuộc về một thế giới khác trên cao.
Ngài mãi mãi là một màu nhiệm đối với trí khôn hạn hẹp của con người.
Chỉ khi trở về với nguồn cội đời mình,
Đức Giêsu mới ra khỏi được nỗi cô đơn trống trải ấy.
“Tôi không (xét đoán) một mình, nhưng có tôi và Đấng đã sai tôi” (Ga 8, 16).
Chính vì Đức Giêsu luôn nói và làm mọi sự theo ý Cha,
nên Ngài chẳng bao giờ cô đơn.
“Đấng đã sai tôi vẫn ở với tôi; Người không để tôi một mình,
vì tôi luôn làm những điều đẹp ý Người” (Ga 8, 29).
Vào giây phút chia ly này, khi Đức Giêsu biết điều sắp xảy đến:
“anh em sẽ bị phân tán mỗi người mỗi ngả, và để Thầy một mình.
Nhưng Thầy không một mình đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy” (c. 32).
Đức Giêsu không cô đơn trong cuộc sống,
mà ngay cả khi Ngài kêu lớn tiếng trên thập giá:
“Lạy Thiên Chúa tôi, tại sao Chúa bỏ tôi?” (Mc 15, 34),
lúc đó lại là lúc Đức Giêsu gần Cha hơn cả, kết hợp với Cha hơn cả.
Đức Giêsu thực sự chẳng bao giờ cô đơn tuyệt đối,
vì Cha thực sự chẳng bao giờ bỏ Ngài,
và Ngài cũng chẳng bao giờ bỏ Cha.
Chúng ta xin được ơn dám chịu cô đơn trước thế gian tội lỗi,
để được một mình với Chúa.
Cầu nguyện:
Giữa những ồn ào của đám đông,
Giữa những sôi nổi của thành công
Và ê chề của thất bại,
Xin dành một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa những đam mê quay cuồng,
Giữa những khát khao thèm muốn
Và những trói buộc của sợ hãi, âu lo,
Xin giữ một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa lúc bị cuộc đời từ khước,
Giữa lúc bơ vơ đi trong đêm mênh mông,
Chẳng có ai để cậy dựa,
Xin trở về với cõi riêng bên Giêsu,
Để một mình ở đó, trầm lắng và bình an.
Suy niệm 2: Thầy đã thắng thế gian
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
“Thầy đã thắng thế gian”. Lời nói đầy khích lệ đối với các môn đệ trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Thế gian là một trận chiến khốc liệt. Vì là trận chiến toàn diện. Thế gian có tất cả, bao trùm tất cả. Vì là trận chiến cô đơn. Ta chỉ có một mình chống lại tất cả. Vì thế gian bàng bạc khắp nơi. Ngấm cả vào máu thịt. Nên chống lại thế gian là phải chống lại chính mình.
Chống lại thế gian là một trận chiến cô đơn vì không ai có thể giúp ta. Ta phải tự mình chiến đấu.Nhưng chính trong cô đơn ta gặp được Thiên Chúa. Khi đã dám dứt bỏ tất cả, ta gặp được Thiên Chúa. Ở sâu trong nỗi cô đơn, Thiên Chúa chờ đợi ta như một phần thưởng, như một người bạn thân thiết nhất chỉ xuất hiện khi những bạn bè giả dối ra đi. Như kho tàng chôn giấu trong ruộng. Như viên ngọc nằm trong đá chỉ xuất hiện sau khi loại bỏ những lớp bùn đất bao phủ bên ngoài.
Chiến đấu trong cô đơn đòi hỏi sự trung tín. Khi dám dứt bỏ tất cả, kể cả từ bỏ chính mình, tâm hồn minh chứng một sự trung tín sâu xa với Thiên Chúa. Chính trong sự trung tín, Thiên Chúa hiện diện vì Thiên Chúa là Đấng vô cùng trung tín.
Chúa Giêsu đã trải qua cuộc chiến khốc liệt và đã chiến thắng. Mọi người đã bỏ Chúa. Chúa đã cảm thấy cô đơn tột cùng. Nhưng rồi Chúa vượt lên trên tất cả và lên cùng Đức Chúa Cha. Các môn đệ chẳng thể đi con đường nào khác ngoài con đường của Thầy. Các môn đệ chẳng thể vượt trội hơn Thầy thoát khỏi nỗi cô đơn. Chúa không hứa giải thoát các ông khỏi cuộc chiến đấu. Chúa loan báo trước cuộc gian nan khốn khó của các môn đệ: “Trong thế gian anh em sẽ phải gian nan khốn khó”. Nhưng chỉ cho các ngài cách thế chiến thắng đó là “Trong Thầy anh em được bình an”. Chỉ đi theo con đường của Chúa, chiến đấu trung tín cho đến cùng, chỉ khi đã vượt thoát hết những ràng buộc của trần gian, người môn đệ mới đạt đến Chúa, mới ở trong Chúa và mới được hưởng sự bình an. Cuộc chiến sẽ rất khốc liệt. Thế gian như miệng sư tử gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé. Nhưng “Hãy can đảm lên vì Thầy đã thắng thế gian”.
Can đảm là ơn Chúa Thánh Thần. Sức mạnh phát xuất từ Chúa Thánh Thần. Vì thế, như các tín hữu sơ khai, ta hãy tha thiết xin Chúa Thánh Thần ngự đến và giúp ta trong cuộc chiến đấu với thế gian này. Có ơn Chúa Thánh Thần ta mới hi vọng đạt đến chiến thắng. Vượt lên khỏi thế gian và những ràng buộc của nó, ta mới đạt đến sự bình an là hoa trái của Chúa Thánh Thần.
Suy niệm 3: Cùng hiệp thông với Chúa
Chúa Giêsu làm thế nào để thuyết phục các môn đệ tin Ngài là Con Thiên Chúa? Xin thưa, vì Ngài có thể đọc được những ý nghĩ thầm kín nhất trong tận đáy lòng của họ như một quyển sách mở rộng ra trước mắt. Ngài trả lời những câu hỏi của các ông trước khi họ mở miệng thưa với Ngài, và qua đó mạc khải cho họ thấy sự vinh hiển của Thiên Chúa.
Ðối với người Kitô, tin vào Thiên Chúa có nghĩa là tin vào Ðấng do Ngài sai đến, đó là Người Con yêu quí của Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta tin nhận Chúa Giêsu vì chính Ngài là Thiên Chúa, là Ngôi Lời nhập thể làm người, vì Chúa Giêsu thấy Chúa Cha và Ngài là Ðấng duy nhất biết và làm chứng về Chúa Cha. Do đó, lòng tin của chúng ta có một nền tảng vững chắc vì dựa trên lời mạc khải của Thiên Chúa, và đó chính là sự khởi đầu cho đời sống trường cửu. Chúa Giêsu cũng cảnh giác các môn đệ rằng lòng tin của họ sẽ gặp những thử thách và các ngài có thể sẽ bị vấp ngã. Ngài cũng đã báo trước về sự phản bội của một dân tộc cũng như sự chiến thắng vẻ vang của Ngài trên thập giá. Mặc dù biết trước rằng các môn đệ sẽ bỏ rơi mình trong giờ phút khổ nạn nhưng Chúa đã đối diện với những cay đắng đó bằng với một tình yêu cao thượng và một thái độ kính cẩn nơi các môn đệ của mình. Chúa yêu thương các ông cho đến tận cùng ngay cả khi họ bỏ rơi Ngài chết cô độc trên thập giá. Vì Ngài biết rằng thập giá sẽ không đem đến sự thất bại nhưng là sự chiến thắng vẻ vang trên tội lỗi và sự chết.
Nếu ngày xưa Chúa Giêsu đã yêu thương các môn đệ một cách vô điều kiện thì ngày nay Ngài cũng sẽ nói với chúng ta rằng Ngài cũng yêu thương tất cả nhân loại một cách vô điều kiện và không bỏ rơi bất cứ ai. Khi chúng ta không tránh khỏi những đau khổ của cuộc sống trần thế, thì Chúa Giêsu luôn hiện diện ở giữa chúng ta một cách vô hình và Ngài bảo đảm với chúng ta rằng Ngài sẽ dẫn dắt chúng ta vượt qua khỏi những thử thách cam go của cuộc sống. Ngài cũng kêu gọi chúng ta hãy can đảm và tin tưởng vì Ngài đã chiến thắng thế gian. Chúa Thánh Linh được sai đến để ban cho chúng ta nguồn hy vọng và lòng xác tín vào sự chiến thắng của Chúa Phục Sinh. Và không gì có thể đè bẹp được lòng tin và sự hy vọng này. Chúa Thánh Linh ban cho chúng ta sức mạnh và lòng can đảm để chúng ta vượt qua các trở ngại để giữ vững đức tin của mình.
Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy các môn đệ rất cần đến sự soi sáng của Chúa Thánh Linh để các ngài hiểu lời Thầy dạy, vì lời Thầy vượt lên trên sự hiểu biết của họ. Các môn đệ tin rằng đã hiểu được những điều Chúa nói nhưng thực ra tâm trí các ông vẫn còn hạn hẹp và lòng tin vẫn còn yếu đuối đến nỗi có thể bỏ rơi Thầy mình sau đó. Chúa cho các ông hiểu rằng việc Ngài trở về với Chúa Cha phải trải qua sự khổ nạn và sự trở lại đó mang một mầu nhiệm sâu xa làm biến đổi tính chất nhân bản của chúng ta, khiến chúng ta thành thụ vật mới dưới tác động của Chúa Thánh Linh, là Ðấng mà Chúa Giêsu sai đến để soi sáng và ban sức mạnh đức tin cho các môn đệ. Chỉ khi Chúa Giêsu chiến thắng sự chết, các môn đệ mới thực sự tin vào Ngài. Cũng như các môn đệ của Chúa ngày xưa, có nhiều lúc chúng ta không hiểu được thánh ý của Ngài. Do thế, chúng ta cầu xin Chúa soi sáng và hướng dẫn chúng ta bằng với hồng ân của Ngài để chúng ta được trở nên là những thụ vật mới trong Thần Khí của Ngài, và để chúng ta luôn thực hiện thánh ý của Ngài với một lòng tin sâu xa, đó là cùng hiệp thông với Chúa trong mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Ngài.
Lạy Chúa, xin giúp cho chúng con luôn biết tín thác vào quyền năng cứu rỗi của Chúa, nhất là trong giờ phút thử thách và thất vọng. Xin ban cho chúng con sự bình an và lòng tin mỗi khi lòng chúng con tràn ngập những nghi ngờ, để chúng con tìm thấy sự hy vọng qua sự chiến thắng của Ngài trên tội lỗi và sự chết.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Sức nuôi sống
Kết thúc bài diễn từ trong bữa tiệc ly, các môn đệ đã tuyên xưng niềm tin: “Chúng con tin Thầy từ Thiên Chúa mà đến” và Đức Kitô đã bảo đảm với các ông: “Hãy tin, Thầy đã thắng thế gian”. Xin cho chúng ta cũng biết tuyên xưng niềm tin của chúng ta như thế.
Nhưng cuộc thương khó đã làm cho lời tuyên xưng của các ông như giả dối: Các tông đồ bỏ Thầy một mình mặc cho sức mạnh của thế gian xổ lồng chống lại Đức Giêsu. Dầu thế, chân lý đã chế ngự toàn diện tấn bi kịch đó. Chính Đức Giêsu ra lệnh cho các kẻ thuộc về mình để kệ Người nộp mình chịu đau khổ trong tay quân thù. Người không tự bảo vệ. Những kẻ nghịch sẽ luôn luôn có. Nhưng sau cùng, tình yêu Thiên Chúa sẽ chiến thắng tất cả. Chúa Cha không bỏ rơi Con mình. Ngài yêu mến Con và mọi kẻ Con đã chọn để ở với mình.
Như thế, niềm trông cậy Kitô hữu đang treo mắc vào trời, không như một bằng khen làm ru ngủ mọi lo âu, sầu khổ, nhưng như một sức nuôi sống tình yêu của chúng ta mạnh mẽ tiến bước. Từ nay mãi mãi chúng ta là người của vĩnh cửu ban một trọng trách ở lại và biến đổi một thế giới hoang dại không Thiên Chúa. Là những người chứa chan niềm vui Thiên Chúa, mang trách nhiệm rao giảng nước trời để cho nhân loại được sống lại trong nước Chúa. Chúng ta sẽ không bao giờ ngừng tiến theo chân Người để phục vụ anh em chúng ta vì Người.
Nếu chúng ta để tâm suy nghĩ bài diễn từ của Chúa, chúng ta thấy được Đức Giêsu đã nói liên tiếp từ Chúa Cha, Thánh Thần và đến Người là Chúa Con: Chúa Cha chỉ nói qua Con, Con không làm gì cho ta mà không có Thánh Thần. Thánh Thần thuần thục hóa ta sống làm con Thiên Chúa. Vòng luân lưu mầu nhiệm này không bao giờ ngừng tăng trưởng trong ta và chung quanh ta. Ước chi chúng ta biết đón nhận mầu nhiệm này để không sống hời hợt như cánh bèo trôi dạt mà sống sâu thẳm như gốc rễ luôn luôn tiếp nhận nhựa sống mới. Sống đức tin không đơn giản nhờ trí thức, nhưng nhờ cam kết gắn bó chính bản thân đã quyết tâm xác tín một lần cho tất cả. Cần tiếp xúc lâu dài đi sâu vào cầu nguyện mới giúp ta cảm nghiệm được tiếng nói thiêng liêng sâu thẳm trong mình: “Hãy can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian”.
LP.
Suy niệm 5: Nương tựa vào Chúa.
Cuộc trao đổi giữa Chúa Giêsu và các môn đệ như được ghi lại trong Tin mừng hôm nay, đã được thực hiện trong khung cảnh Bữa Tiệc ly, trước giờ Chúa Giêsu vượt qua khỏi đời này để về cùng Cha. Trong những giờ phút đó, Chúa Giêsu cảm thấy được an ủi khi nghe lời tuyên xưng từ miệng các môn đệ Ngài: “Giờ đây chúng con nhận ra là Thày biết hết mọi sự… Vì thế chúng con tin Thày từ Thiên Chúa mà đến”. Có thể gọi đó là lời tuyên xưng niềm tin của các môn đệ; nó không phải là những lời bộc phát, nhưng được kết tinh sau ba năm theo Chúa, nghe Chúa giảng dạy và chứng kiến các phép lạ Ngài làm.
Đáp lại lời tuyên xưng ấy, Chúa Giêsu cảnh tỉnh các môn đệ về sự yếu đuối mỏng dòn của niềm tin nơi con người, đồng thời cho các ông thấy đâu là nơi nương tựa vững chắc nhất. Như Phêrô vừa tuyên xưng “Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa” thì liền sau đó lại ngăn cản Thày đi vào con đường khổ nạn dẫn tới vinh quang; vừa khẳng quyết theo Thày đến tận cùng, nhưng rồi lại lớn tiếng chối bỏ Thày. Các môn đệ giờ đây tin nhận “Thày từ Thiên Chúa mà đến” nhưng khi giờ đến, các ông sẽ tản mác mỗi người một nơi, bỏ mặc Thày một mình. Nhưng dù có bị các môn đệ bỏ rơi, Chúa Giêsu cũng không đơn độc một mình, bởi vì có Chúa Cha hằng ở với Ngài.
Những kẻ theo Chúa ngày hôm nay cũng có những lúc cảm thấy bị bỏ rơi và không biết tìm nương tựa nơi đâu? Họ chỉ có một nơi nương tựa duy nhất đó là Thiên Chúa, Đấng hằng quan tâm săn sóc con người và ban ơn trợ lực để giúp họ thắng vượt mọi thử thách. Chúa Giêsu đã báo trước các yếu đuối của các môn đệ cũng như những gian truân các ông sẽ phải chịu, nhưng không để làm các ông lo sợ, trái lại để các ông thêm tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa.
Nguyện xin Chúa gia tăng nơi chúng ta niềm cậy trông phó thác, để giữa những đêm tối của cuộc đời, chúng ta luôn được bình an, tin tưởng, vì biết rằng có Chúa hằng ở cùng chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 6: Can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian
Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, chúng ta thấy suốt 300 năm đầu, cha ông ta lớn lên trong thử thách. Một cuộc thử thách triền miên và kéo dài! Còn ngày nay, tuy rất ít hình khổ như gông cùm, đòn roi và cái chết được trưng ra để tra tấn các Kitô hữu. Tuy nhiên, người Kitô hữu hôm nay phải đối diện với một thử thách mới, một cuộc thử thách mang tính vĩ mô và sâu xa đánh vào tận lương tâm của con người. Phải chăng đây là những thử thách tinh vi và người Kitô hữu khi sống đúng những giá trị của Tin Mừng thì cũng không khác gì một cuộc tử đạo liên lỉ, dai dẳng và kéo dài!
Hôm nay, Đức Giêsu tiên báo cho các môn đệ biết rằng: các ông là những người đi theo Chúa, không có lý do gì các ông không bị bách hại như chính Ngài. Nhưng liền sau đó, Ngài khích lệ các ông: “Giữa thế gian, các con sẽ phải đau khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian" (Ga 16, 33).
Vững tin vào Lời Chúa phán cùng với sứ mạng đã đón nhận là hãy đi loan báo Tin Mừng khắp thế gian, nhất là sự xác tín vào niềm vui Nước Trời sau cuộc sống trần gian, các môn đệ đã không sợ gì nguy khốn, các ngài đã băng rừng, vượt suối và chấp nhận mọi sự đau khổ, ngay cả cái chết để loan báo về Tin Mừng tình thương, chân lý và sự sống cho mọi người, để ai tin và đón nhận thì cũng được hưởng niềm vui, hạnh phúc như mình.
Trong cuộc sống của người Kitô hữu ngày nay, hẳn mỗi người cũng đều cảm thấy khó khăn trong việc sống đạo! Thật thế, hơn bao giờ hết, chúng ta đang phải đối diện với những trào lưu tục hóa trên diện rộng, mọi nơi và mọi lúc. Trào lưu đó có thể là một hệ tư tưởng; có thể vì giá trị đạo đức bị đảo lộn; cũng có thể vì miếng cơm manh áo... mà người ta bắt chúng ta phải tin và hành động theo...
Những lúc như thế, Lương Tâm lên tiếng và chúng ta được mời gọi sống những giá trị Tin Mừng ngay trong những thực tại đó. Vẫn biết đây là khó, nhưng hãy cam đảm lên, vì Chúa đã thắng.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, chúng con là những người môn đệ của Chúa còn đang loay hoay giữa biển đời. Theo Chúa lên đường để về nơi phúc thật là hành trình xa xôi và vất vả. Xin giúp chúng con biết chạy đến cùng Ngài để đón nhận sự bình an và can đảm mỗi khi mỏi mệt đơn côi. Xin giúp chúng con chiến thắng con người yếu đuối, nặng nề của mình, để chúng con lên đường trong thanh thản và an vui. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Can đảm lên, Ta đã thắng thế gian
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: “Trong thế gian, các ngươi sẽ phải khốn khó. Nhưng hãy can đảm lên, Ta đã thắng thế gian”. Đó là lời Chúa Giêsu tiên báo và là niềm an ủi cho mỗi người chúng ta.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, khác với mọi nhà chính trị, trước khi Chúa về cùng Chúa Cha, Chúa đã tiên báo cho những kẻ theo Chúa toàn là những sự khốn khó, nào là bắt bớ, ưu phiền, nào là chống đối, tan rã… Quả thật, hai ngàn năm qua là một bằng chứng cho thấy đã ứng nghiệm cái sự thật đáng sợ đó. Giáo Hội luôn bị bách hại. Tuy nhiên Chúa đã an ủi khích lệ Giáo Hội can đảm lên. Tất cả mọi gian khổ thử thách, dù đáng sợ đến đâu, vẫn không thể ngăn cản Giáo Hội tiến đến chiến thắng cuối cùng mà Chúa dành cho Giáo Hội.
Lạy Chúa, sống giữa thế gian đầy sức mạnh tấn công, đầy gương xấu và mọi thứ lý thuyết đi ngược lại đường lối của Chúa, xin Chúa cho con luôn can đảm, cho con nhớ rằng Chúa đã không báo trước cho con những điều thuận lợi, may lành, mà là báo trước những sự đau khổ, bất lợi và thiệt thòi gắn liền với lý tưởng phụng sự Chúa. Vì thế, khi gặp những nghịch cảnh, con không ngỡ ngàng nhưng biết đón nhận với lòng yêu mến Chúa. Với tình yêu, con sẽ vượt qua tất cả. Khi con thông phần vào thập giá Chúa thì con cũng được chia sẻ phần vinh quang phục sinh.
Lạy Chúa, Chúa là cùng đích của đời con, xin cho con luôn vững tin vào Chúa, hy vọng nơi Chúa. xin cho con trung thành theo Chúa trên con đường thánh giá, để con dự phần vào chiến thắng của Chúa. Chúa đã chiến thắng thế gian, xin giúp con nhìn lên Chúa mà an tâm tiến bước. Amen.
Ghi nhớ: “Hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian”.
Suy niệm 8: Dũng cảm và tự tin vào Chúa
(Lm Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Henri Shepler là một tân binh. Viên hạ sĩ sai anh xuống làm việc tại nhà ăn. Anh không đi. Viên hạ sĩ cho là anh bướng và dọa sẽ báo cáo lên cấp trên.
- Được, hạ sĩ cứ việc báo cáo. Tôi đăng ký đi lính chứ không phải đi làm bồi bàn.
Buổi chiều, Shepler bị gọi lên bộ chỉ huy. Đôi chân run run, nhưng lòng anh bình thản, vì anh biết mình hành động đúng. Vị sĩ quan hỏi:
- Có phải sáng nay anh không tuân lệnh cấp trên?
- Đúng vậy, thưa ngài.
- Tại sao anh làm vậy?
- Đơn giản là vì tôi cho rằng công việc trao cho tôi là không đúng. Tôi đăng ký làm người lính chứ không phải làm bồi bàn.
Vị sĩ quan bật dậy, đến bắt tay anh và nói: “Shepler, anh đúng là hạng người chúng tôi cần. Tôi vui mừng khi thấy anh là con người dũng cảm và tự tin ở mình”.
Suy niệm
Chúa Giêsu nói về sự thương khó của Ngài: Sẽ phải đối diện với sự sợ hãi, đau khổ, nghi ngờ, phản bội khi người bán Thầy như Giuđa, kẻ chối Chúa như Phêrô, và cuối cùng Ngài phải trực diện với cái chết. Nhưng Ngài vẫn phải tiến bước với lòng can đảm, sẵn sàng bước vào một cuộc chiến…
Ðức Giêsu cũng loan báo cho những môn đệ của Ngài qua hình ảnh các môn đệ đến chúng ta, những Kitô hữu mọi thời sẽ phải lao đao khốn quẫn vì bóng đêm tội lỗi, vì thiếu vắng niềm tin. Chúng ta nhiều lúc bế tắc trong cuộc sống. Sự ác lộng hành, sự dữ nhiều khi đè bẹp chúng ta. Tội lỗi tràn ngập thân xác, tâm hồn khiến ta không còn trỗi dậy được nữa. Quyền lực của thế gian lại bách hại người tin...
Chúa Giêsu đi trước chúng ta, Ngài đã vượt qua sức mạnh của sự chết và bóng đêm của tội lỗi. Ngài dạy chúng ta đừng sợ vì Ngài đã chiến thắng thế gian, và hãy vững lòng và can đảm bước đi giữa thế gian… Niềm tin vào Chúa Phục sinh: “Thầy đã thắng thế gian” cho chúng ta sức mạnh vượt những khó khăn trong đời, đối diện và đi lên từ những thất bại, vượt qua những tranh đấu nội tâm và thể xác, những xung đột trong đời sống hàng ngày, thay vì để nó gặm nhấm trái tim hay tiêu cực trốn chạy. Chúng ta hãy can đảm đứng lên xua tan đêm đen, xua tan bóng tối của tội lỗi, phá tan gông cùm xiềng xích của sự hủy diệt. Nhờ sức mạnh của Đấng Phục Sinh.
Khi hiện ra với các môn đệ sau khi Phục sinh khải hoàn, Chúa Kitô đã giúp các môn đệ nhìn tổng thể cuộc đời trong tinh thần Phục sinh mà chính Ngài là một điển hình: Tất cả là để ứng nghiệm Thiên ý. Các Tông đồ được soi chiếu bằng ánh sáng Phục sinh của Thầy, nên hiểu được ý nghĩa hoàn thành cuộc đời. Các ông được mời gọi tiến bước trong cuộc sống loan báo niềm tin Phục sinh và để niềm tin Phục sinh chiếu rọi cho cuộc đời dù phải đối diện bóng đêm của thế gian và sức mạnh của sự dữ...
Trong Chúa Kitô Phục sinh, từng bước đi giữa thế gian, chúng ta mang tâm tình của thánh Phaolô đã xác quyết: “Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Ðấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8,37).
Ý lực sống:
“Hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33).
Suy niệm 9: Hãy vững tin vào Chúa
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Tại sao Phụng vụ lại còn chọn cho chúng ta đọc đoạn Tin Mừng này nữa vì nó lấy lại chủ đề bàn về sự thương khó và chịu nạn của Chúa Kitô? Thưa vì đoạn Tin Mừng này trình bầy cho chúng ta về thân phận của Hội thánh đang dong duổi ở trần gian, vì thế Hội thánh cần phải tin tưởng vào Chúa Kitô Phục sinh để can đảm sống và sống dồi dào trong ơn nghĩa Chúa.
Vì thế, Bài Tin Mừng hôm nay trình bầy cho chúng ta về niềm tin của Hội thánh vào sự chiến thắng của Chúa Giêsu Kitô Phục sinh để thúc đẩy mọi Kitô hữu, con cái của Hội thánh, biết can đảm giữ vững và trung thành với ơn nghĩa Chúa.
2. Mở đầu bài Tin Mừng hôm nay là lời của các môn đệ thưa với Chúa Giêsu, rằng các ngài đã tin Người là Đấng từ Thiên Chúa mà đến. Chúa Giêsu ghi nhận niềm tin đơn sơ đó, nhưng cũng hiểu rõ các môn đệ chưa thực sự hiểu đúng về sứ mạng Thiên sai của Người. Bởi cho đến lúc này, các môn đệ tin Chúa Giêsu được sai đến và chỉ chờ cho Người giải phóng dân Do thái khỏi ách thống trị của Rôma và lên ngôi hiển trị, lúc đó các môn đệ sẽ được chia sẻ danh vọng và quyền lực với Thầy. Chính vì thế mà Chúa Giêsu phải nói rõ là sắp đến “giờ của Người”, giờ ở đây không phải là chiêu tập binh mã để giải phóng theo kiểu trần thế, mà là “giờ đi vào cuộc khổ nạn”, giờ môn đệ sẽ tán loạn bỏ lại Người một mình.
3. Từ trước tới nay, Chúa Giêsu thường dùng dụ ngôn để dạy các ông về Ngài, về Thiên Chúa và về Nước Trời, nhưng giờ đây lúc Thầy trò sắp chia ly, Ngài không dùng dụ ngôn nữa và dạy bảo những lời rõ ràng. Thấy vậy, các Tông đồ tỏ ra hồ hởi, phấn khởi, đắc chí và tự hào vì thấy Chúa tuyên bố rõ ràng về Ngài và biết rõ Ngài bởi Thiên Chúa mà đến.
Nhưng Chúa đã kéo các ông ra khỏi sự mộng tưởng, đưa các ông trở lại hoàn cảnh cụ thể của mình. Chúa nói: “Anh em biết Thầy ư? Anh em tin Thầy ư? Thầy báo trước cho anh em biết khi giờ quyết liệt đến anh em sẽ bỏ Thầy mà trốn chạy hết. Nhưng không sao, Thầy thông cảm sự yếu đuối của anh em. Thầy nói vậy để anh em được yên chí về Thầy, Thầy không buồn, không giận anh em đâu...”.
4. Hôm nay Đức Giêsu tiên báo cho các môn đệ rằng: các ông là những người đi theo Chúa, không có lý do gì các ông không bị bách hại như chính Ngài. Nhưng liền sau đó, Ngài khích lệ các ông: “Giữa thế gian, các con sẽ phải đau khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33).
Vững tin vào lời Chúa phán với sứ mạng đã đón nhận là hãy đi loan báo Tin Mừng khắp thế gian, nhất là sự xác tín vào niềm vui Nước Trời sau cuộc sống trần gian, các môn đệ đã không sợ gì nguy hiểm, các Ngài đã băng rừng, vượt suối và chấp nhận mọi sự đau khổ, ngay cả cái chết để loan báo Tin Mừng tình thương, chân lý và sự sống cho mọi người, để ai tin và đón nhận thì cũng được hưởng niềm vui, hạnh phúc như mình.
5. Trong bài giảng lễ Các Thánh Nam nữ, Đức Giào hoàng Phanxicô chia sẻ: “Lời Chúa chỉ cho mỗi người con đường dẫn về Thiên quốc. Đây là hành trình gian nan vất vả, vì là một cuộc hành trình lội ngược dòng”.
Đức Giêsu mời gọi các môn đệ chia sẻ sứ vụ của Người nơi trần gian. Đó là loan truyền ngọn lửa tình yêu Người đã thắp lên cho cả nhân loại. Tuy nhiên, sống giữa một xã hội bất công và hận thù, việc làm đó của các môn đệ là một hành vi đi “ngược dòng”; và do đó, họ sẽ bị người đời chống báng bởi “thế gian thù ghét những gì không thuộc về nó”. Thế nhưng, trên bước đường loan truyền sứ điệp yêu thương, người môn đệ luôn mang trong mình niềm tin tưởng: Thầy đã chiến thắng khải hoàn, và nhờ sự trợ giúp của Thầy, đến lượt môn sinh cũng được nối bước khải hoàn.
6. Vậy bài học Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta là gì? Nhiều người chúng ta trong cuộc sống theo Chúa cũng giống như các Tông đồ, khi được ơn trên thúc giục thì phấn khởi, nói thánh nói tướng: “Chúng con biết Chúa, chúng con tin Chúa”, hay như Phêrô: “Con sẵn sàng chết với Chúa”. Nhưng khi gặp thử thách thì bỏ trốn, và có lẽ người nói mạnh nhất là người chạy nhanh nhất và sa ngã nặng nề hơn: Phêrô chối Chúa ba lần, các Tông đồ bỏ trốn hết, Gioan được coi là thân thiết nhất, cũng chỉ âm thầm đau xót. Tuy nhiên, nếu chúng ta có thể giống các Tông đồ lúc đầu thì chúng ta cũng hãy giống các ngài lúc cuối: Phêrô đã ăn năn khóc lóc, các Tông đồ khác hối hận lần lượt trở lại với Chúa.
7.Truyện: Can đảm tuyên xưng Chúa.
Trong thời kỳ cách mạng Pháp, có 16 nữ tu dòng Carmel bị kết án tử hình vì tội cuồng tín. Khi tòa tuyên án, một trong số 16 nữ tu rụt rè hỏi: “Thưa quan tòa, tội cuồng tín là gì”?
Vị thẩm phán đáp: “Là tội dại dột và cố chấp tin vào một tên tử tội đã bị kết án đóng đinh ở trên thập giá cách đây cả hơn nghìn năm”. Nghe thế, vị nữ tu chắp tay ngước mắt lên trời và nói: “Ôi! Thật tuyệt diệu khi được chết vì Chúa Kitô”.
Đến ngày xử án, 16 nữ tu được mang ra pháp trường trên chiếc xe ngựa chuyên dùng chở các tử tội, ai thấy xe ấy cũng sợ, ngoại trừ 16 nữ tu đơn sơ yếu đuối sắp bị hành quyết. Họ cất tiếng thánh thót hát lên những bài thánh ca quen thuộc, trước khi bị đem lên máy chém, từng người một quì trước mặt Mẹ Bề Trên để lặp lại lời khấn vâng lời, sau đó họ cất tiếng hát kinh “Veni Creator: Lạy Chúa Thánh Thần xin hãy đến”.
Với một chiếc đầu rơi, cường độ của âm thanh nhỏ dần, cuối cùng đến phiên Mẹ Bề Trên tên là Têrêsa Augustina, trước khi bị lưỡi dao rơi xuống kết thúc cuộc đới, người môn đệ của Augustinô ấy đã lặp lại lời của thánh nhân: “Tình yêu sẽ luôn chiến thắng, vì tình yêu có sức mạnh vô song”.
Suy niệm 10: Thầy đã thắng thế gian
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
Phân tích
Đề tài giáo lý về cuộc sống của người môn đệ giữa thế gian.
Chúa Giêsu báo trước rằng khi Ngài bị nạn thì các môn đệ sẽ bỏ Ngài: “Nay đã đến giờ, và đến giờ rồi, các con sẽ mỗi người một ngả, bỏ mặc Thầy một mình.”
Chúa Giêsu còn tiên báo xa hơn về cuộc sống của các môn đệ sau khi Ngài ra đi: “Giữa thế gian, các con sẽ đau khổ. Nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian.”
Suy gẫm
1. “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng hãy can đảm lên Thầy đã thắng thế gian.”
Lúc ấy, mặt trời đã lên cao, ánh mắt của nó chiếu qua tấm che trần màu đỏ tía, khiến cho nhà hát ngập màu máu. Cát nhuộm màu lửa đỏ, và trong thứ ánh sáng ấy, nét kinh hoàng hiện lên khuôn mặt khán giả cũng như bãi đấu trường mà lát nữa đây sẽ tràn ngập nỗi đau đớn của những con người bị hành hình và nỗi điên cuồng của những dã thú. Cửa hầm mở, đoàn người gói trong những tấm da thú bị đẩy ra. Toàn nhà hát vang lên những tiếng rì rầm “Bọn Thiên Chúa giáo!…Bọn Thiên Chúa giáo!…” Giờ đây cảnh tượng hành hình những Kitô hữu tiên khởi thời Néron năm 64.
Lịch sử Giáo Hội mở ra với những cuộc bách hại. Và trải qua 2000 năm, bị nghi ngờ, bị thù ghét và bách hại luôn là số phận của người Kitô hữu. Tại sao? Lời Chúa Giêsu hôm nay là câu trả lời quý giá cho tôi.
Lạy Chúa, xin cho con hiểu rằng là Kitô hữu nghĩa là tham dự vào mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh của Chúa. Xin cho con luôn biết can đảm đối diện với thập giá.
2. Nếu chỉ có tin vào phần đầu của Lời Chúa thì chúng ta sẽ lo sợ lắm. Chúng ta phải tin luôn phần sau của Lời Chúa nữa “Thầy đã chiến thắng thế gian.” Chắc chắn như thế, Chúa Giêsu đã bị biết bao gian nan khốn khó cùng một lúc đổ dồn lại tấn công Ngài, bao nhiêu kẻ thù liên minh lại để làm hại Ngài, đến nỗi Ngài phải chịu chết, chết rất đau đớn và rất nhục nhã. Có thể nói, khi Ngài chết là Ngài đã gánh chịu biết bao gian nan khốn khó. Bởi vậy khi Ngài sống lại thì không phải Ngài chỉ chiến thắng một sự gian nan khốn khó nhưng là tất cả mọi gian nan khốn khó. Chiến thắng ấy không phải chỉ riêng Ngài mà còn đảm bảo cho chiến thắng của tất cả những ai theo Ngài.
3. Nhưng để có thể đón nhận những gian nan khốn khó sẽ đến và để có thể vững tin vào chiến thắng, chúng ta phải “can đảm lên.” Xin Chúa ban cho con thêm can đảm.
Suy niệm 11: Môn đệ sống giữa thế gian
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Về cuộc sống của người môn đệ giữa thế gian.
1. Chúa Giêsu báo trước và báo xa hơn về cuộc sống của người môn đệ sau khi Ngài ra đi: “Giữa thế gian, các con sẽ đau khổ. Nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33).
Lịch sử Giáo Hội đã được khởi đầu với những cuộc bách hại. Và trải qua hơn 2000 năm số phận của người Kitô hữu cũng vẫn luôn là số phận bị nghi ngờ, bị thù ghét và có thể bị bách hại nữa. Tại sao? Lời Chúa Giêsu hôm nay là câu trả lời quý giá cho chúng ta.
Chúng ta hãy nghe một đoạn văn nói về một cuộc hành hình các Kitô hữu đầu tiên dưới thời bạo Chúa Néro năm 64 tại Rôma: “Lúc ấy, mặt trời đã lên cao, ánh mắt của nó chiếu qua tấm che trần màu đỏ tía, khiến cho nhà hát ngập màu máu. Cát nhuộm màu lửa đỏ, và trong thứ ánh sáng ấy, nét kinh hoàng hiện lên khuôn mặt của khán giả cũng như bãi đấu trường mà lát nữa đây sẽ tràn ngập nỗi đau đớn của những con người bị hành hình và nỗi điên cuồng của những dã thú. Cửa hầm mở, đoàn người bị gói trong những tấm da thú được đẩy ra. Toàn nhà hát vang lên những tiếng rì rầm “Bọn Thiên Chúa giáo!… Bọn Thiên Chúa giáo!…”
Nhìn lại lịch sử Giáo Hội VN chúng ta: cũng không có luật trừ. Suốt ba thế kỷ liền, kể từ năm 1553, cùng với Tin Mừng của Chúa đến Việt Nam thì Thánh Giá cũng đến theo. Biết bao tín hữu đã bị lưu đày, bị chiếm đoạt tài sản, phải lén lút sống trong rừng sâu nước độc, cam chịu mọi đau khổ… để trung thành với Đức tin. 300 năm Giáo Hội VN đã phải chịu rất nhiều khổ đau: Tính đến cuối thế kỷ 19, người ta đã có thể thống kê được trên 130.000 đấng thuộc mọi thành phần được diễm phúc tử đạo. Trong số này có 118 vị đã được các Đức Giáo Hoàng Lêô XIII, Piô X và Piô XII phong lên bậc chân phước rồi được Đức Gioan Phaolô II tôn lên bậc hiển thánh gần đây.
Quả thực Giáo Hội Việt Nam của chúng ta nghèo nàn, không so sánh được với các Giáo Hội Âu Mỹ, nhưng chúng ta có quyền hãnh diện về lòng trung thành sắt son với đạo Chúa của tổ tiên ta: ba thế kỷ bắt bớ tù đày và trên 130.000 đấng Tử đạo.
2. Nếu chỉ nghe có phần đầu của Lời Chúa hôm nay thì chúng ta sẽ lo sợ nhưng nếu nghe luôn cả phần sau thì chúng ta sẽ thấy thật phấn khởi: “Thầy đã chiến thắng thế gian” (Ga 16,33).
Chúng ta hãy nhìn lại một chút lịch sử của Giáo Hội Chúa từ khi Chúa thành lập đến nay:
- Mới vừa giảng đạo được ba năm, chính Chúa Giêsu, Đấng sáng lập Hội Thánh, đã bị kết án và chết một cách nhục nhã trên cây Thánh Giá.
* Hội Thánh mới thành hình chưa được bao lâu thì lại phải trải qua 300 năm bách hại. Sự bách hại lúc này không còn hạn chế trong đất nước Do Thái mà bao trùm cả đế quốc Rôma, mãi cho đến năm 313, sắc chỉ Milan về tự do tín ngưỡng mới được ban hành. Giáo Hội được hưởng một thời gian an bình. Nhìn lại cuộc sống của Giáo Hội cả thời kỳ này, sử gia Tertulianô đã nói: “Hạt máu của các vị Tử Đạo là hạt giống nảy sinh người Kitô hữu khác”.
* Thế kỷ VI, VII làn sóng các dân man di lại tràn gập đế quốc Rôma, gây không biết bao nhiêu điều điêu đứng khó khăn cho Hội Thánh. Nhưng rồi với sự kiên trì dạy dỗ, Hội Thánh đã cảm hóa được họ, lôi kéo họ trở về.
* Đền thời Cách mạng Pháp (1789-1799) không biết bao nhiêu linh mục tu sĩ phải lưu đày, xử giảo hoặc bị nhận chìm xuống lòng biển. Napoléon 1 lên ngôi, ông sang Ý bắt luôn cả Đức giáo hoàng Piô VII đem về cầm tù tại Fontainebleau vì Ngài đã phản đối việc ông ly dị với bà Josephine để cưới Marie Louis làm vợ. Một hôm, vì quá tức giận, Napoléon đã nói thẳng với Hồng Y Consalvi, quốc vụ khanh Tòa Thánh lúc đó:
- Ông không biết sao: tôi có thể tiêu diệt cả Hội Thánh.
Hồng Y Consalvi hóm hỉnh trả lời:
- Thưa Ngài, chính chúng tôi đây là những kẻ ở bên trong Hội Thánh. Dù với bao nhiêu gương xấu, tội lỗi, chia rẽ, khuyết điểm vẫn không phá nổi Hội Thánh suốt 19 thế kỷ qua, thì làm sao mà Ngài có thể phá tan Hội Thánh được.
Về sau Napoléon đã phải tuyên bố:
- Các dân nước qua đi, các ngai vàng sụp đổ, Hội Thánh vẫn tồn tại.
Tóm lại, con thuyền Phêrô đã bị sóng gió bão táp xô đẩy suốt 20 thế kỷ nay vẫn không bị chìm. Nhà thi hào Henrich Heine người Đức (1797-1856) sau khi nhìn lại những thất bại của mình trong công việc chống phá Giáo Hội đã phải thú nhận: “Đã lâu rồi, tôi không còn công kích Hội Thánh Công giáo nữa. Tôi đã đo sức trí khôn ngoan của loài người và nhận thấy rằng: Các đợt tấn công vào tảng đá khổng lồ và kiên cố đó không thể làm cho tảng đá sứt mẻ hoặc nhúc nhích được”.
Lời Chúa hãy còn đó: “Hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33).
29/05 Chúa Giêsu lên trời
- Viết bởi Lc 24, 46-53
Chúa Giêsu lên trời.
CHÚA NHẬT 7 PHỤC SINH Năm C. – CHÚA THĂNG THIÊN.
"Ðang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời".
Lời Chúa: Lc 24, 46-53
Bài kết Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Như đã ghi chép là Ðức Kitô phải chịu khổ hình và ngày thứ ba từ cõi chết sống lại; và nhân danh Người mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân, bắt đầu từ Giêrusalem. Các con là nhân chứng những sự việc ấy. Thầy sẽ sai đến với các con Ðấng Cha Thầy đã hứa; vậy các con hãy ở lại trong thành cho đến khi mặc lấy quyền lực từ trên cao ban xuống".
Rồi Người dẫn các ông ra ngoài, đến làng Bêtania, và giơ tay chúc phúc cho các ông.
Sự việc xảy ra là đang khi Người chúc phúc cho các ông, Người rời khỏi các ông mà lên trời. Các ông thờ lạy Người, và trở về Giêrusalem lòng đầy vui mừng.
Các ông luôn luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa. Amen.
CHÚA NHẬT 7 PHỤC SINH Năm C
PHÚC ÂM: Ga 17, 20-26
"Ðể chúng được hoàn toàn nên một".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: "Lạy Cha chí thánh, Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ nhờ lời chúng mà tin vào Con, để mọi người nên một, cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng cũng nên một trong Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con. Con đã ban cho chúng vinh hiển mà Cha đã ban cho Con, để chúng nên một như Chúng Ta là một. Con ở trong chúng, và Cha ở trong Con, để chúng được hoàn toàn nên một, và để thế gian biết rằng Cha đã sai Con, và Con đã yêu mến chúng như Cha đã yêu mến Con."
"Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng: Con ở đâu chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm LỄ THĂNG THIÊN và CN 7 PS năm C – Năm C
* Lễ TT: Cv. 1, 1-11; Dt. 9, 24-28; 10, 19-23; Lc. 24, 46-53
* CN7 PS năm C: Cv 7,55-60; Kh 22,12-14,16-17.20; Ga 17, 20-26
NGÀY QUỐC TẾ TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI
* LỄ THĂNG THIÊN
1. Sức mạnh từ trời cao--‘Manna’
Đức Giêsu được đưa về trời khiến cả nhân loại hoan hỷ.
Con Thiên Chúa làm người, long đong với phận người,
nếm cái nghèo đói, nhọc nhằn, nếm nỗi khổ đau, cay đắng.
Cuộc đời Ngài tưởng như là một thất bại ê chề.
Nhưng rồi Ngài đã được phục sinh, đã hiện ra,
và được khải hoàn đưa vào thế giới của Thiên Chúa.
Ngài từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.
Sứ mạng Cha giao, tuy khó khăn, nhưng Ngài đã hoàn tất.
Ta cần chiêm ngắm giây phút Ngài được siêu thăng.
Ngài giơ tay chúc lành cho các môn đệ như vị thượng tế.
Ngài về trời trong tư thế đang chúc lành.
Chúc lành cho trái đất mà Ngài đã sống.
Chúc lành cho mọi người là người như Ngài.
Hôm nay chúng ta vui vì biết mình có người Anh trưởng
đã được nâng lên đến tột đỉnh vinh quang thần linh.
Con người đầu tiên với tất cả nhân tính như ta
đã được siêu tôn trên trời, dưới đất và nơi âm phủ.
Sự thành công của Đức Giêsu là niềm hy vọng cho ta.
Cùng đi với Ngài trên con đường cheo leo ấy,
chúng ta tin mình sẽ đến nơi mà Ngài đã đến.
Đức Giêsu về trời sau khi hoàn thành sứ vụ dưới đất.
Ngài muốn ta trưởng thành và gánh lấy trách nhiệm.
Bước chân Ngài mới chỉ đi hết xứ Palestina bé nhỏ.
Còn cả một thế giới mênh mông ngút ngàn.
Còn bao dân tộc xa gần chưa hề nghe rao giảng.
Ngài muốn ta làm chứng nhân của Ngài đến tận thế.
Thiên thần bảo chúng ta không được khoanh tay nhìn trời,
vì còn quá nhiều việc phải làm trước mắt.
Chúng ta phải nhiệt tình xây dựng quê hương này
huynh đệ hơn, công bằng hơn, bác ái hơn, văn minh hơn,
để nó xứng đáng đón ngày Ngài trở lại.
Chúng ta không được khoanh tay nhìn trời,
nhưng lòng chúng ta lại phải thường xuyên hướng lên trời.
Xây dựng trái đất mà không hướng lòng về trời,
thì sẽ không tìm được câu trả lời tối ưu.
Chúng ta cần sức mạnh từ trên cao của Thánh Thần
để giải quyết những vấn đề chằng chịt của trái đất:
ma túy, trụy lạc, tham nhũng, ô nhiễm, nghèo đói
và nhất là vấn đề xây dựng con người.
Khoa học kỹ thuật tiến bộ làm cuộc sống nhẹ nhàng
nhưng cũng thường làm con người thêm nặng nề.
Con người như bị dính vào những sản phẩm mình tạo ra,
bị nô lệ cho những nhu cầu không có thực.
Trái đất này vẫn có sức thu hút ghê gớm
khiến ta muốn chọn nó làm quê hương vĩnh hằng,
và quên rằng quê thật của ta ở trên trời cao (Pl 3,20).
‘‘Hãy tìm kiếm những điều trên cao” (Cl 3,1).
Đừng dập tắt nỗi khát khao những điều cao cả.
Ước gì Chúa Giêsu, Đấng được đưa lên cao,
kéo ta lên khỏi cái tầm thường ô trọc mỗi ngày.
Gợi Ý Chia Sẻ
Tiền bạc, tiếng tăm, khoái lạc làm người ta nặng nề. Còn bạn, bạn thấy mình nặng nề vì điều gì? Có cách nào thoát được không?
Đời sống là một nỗ lực “bay lên cao” khỏi sức kéo xuống của vật chất và của cái tôi trì trệ. Có khi nào bạn được nhẹ nhàng mà bay lên khỏi sức kéo đó không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu trái đất này,
và đã sống trọn phận người ở đó.
Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh phúc,
sự bi đát và cao cả của phận người.
Xin dạy chúng con biết đường lên trời,
nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.
Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu,
chúng con thấy mình được thêm sức mạnh
để xây dựng trái đất này, và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa,
xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời
không làm chúng con quên trời cao;
và những vẻ đẹp của trần gian
không ngăn bước chân chúng con tiến về bên Chúa.
Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con,
mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.
2. Niềm hy vọng Nước Trời--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Có nhiều người nghĩ thế giới chỉ bó gọn trong trái đất và con người chỉ thuộc về mặt đất. Nhưng không phải thế. Hôm nay, Chúa Giêsu lên trời là một bằng chứng cho niềm hy vọng của ta.
Việc Chúa Giêsu lên trời bảo cho ta biết rằng ngoài trái đất còn có trời. Ngoài cõi nhân sinh nhỏ hẹp còn có cõi thần linh bao la. Ngoài cuộc sống trần gian mau qua còn có cuộc sống thiên đàng vĩnh cửu.
Chúa Giêsu về trời là niềm hy vọng cho ta. Mai sau ta cũng sẽ được về trời với Người. Vì chính Người đã hứa: “Thầy đi để dọn chỗ cho anh em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó với Thầy”.
Chúa Giêsu đã liên kết ta thành một thân thể với Người. Người là đầu. Chúng ta là chi thể. Đầu tiến đến đâu thì chi thể cũng sẽ tiến đến đấy.
Chúa Giêsu dạy ta biết rằng ta là con của Thiên Chúa Cha, Đấng ngự trên trời. Con sẽ được ở trong nhà cha mẹ. Chúng ta sẽ được ở nhà Cha trên trời là tự nhiên.
Tuy nhiên Chúa Giêsu chỉ về trời sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ Đức Chúa Cha trao phó cho Người ở trần gian. Nhiệm vụ đó là loan báo cho mọi người biết Chúa là Cha yêu thương mọi người. Nhiệm vụ đó là làm chứng về tình yêu thương của Cha đối với mọi người.
Hôm nay, trước khi về trời, Chúa Giêsu uỷ thác nhiệm vụ đó lại cho ta. Ta phải tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu loan báo Tin Mừng yêu thương cho mọi người. Đem niềm hy vọng đến cho kiếp người.
Với niềm hy vọng đó, người Kitô hữu chân đạp đất nhưng lòng vẫn hướng về trời cao. Niềm hy vọng đó giải thoát ta khỏi nô lệ vào mặt đất nhờ đã biết rõ vật chất chỉ là phương tiện sẽ mau chóng qua đi. Niềm hy vọng đó nâng cuộc sống con người lên vì từ nay ta hiểu rằng định mệnh loài người không phải như loài súc vật, nhưng ngang hàng với thần linh. Niềm hy vọng đó đó làm cho cuộc sống của ta có ý nghĩa, vì Chúa tạo dựng nên con người không phải để con người tàn lụi đi theo quy luật của vật chất mà để con người phát triển, tồn tại đến vô biên, không phải bị kết án vào những đau khổ vất vả trần gian, nhưng đã được tiền định hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng. Niềm hy vọng đó cho ta thêm động lực phục vụ tha nhân tận tâm hơn vì đó chính là sứ mang Chúa trao phó. Niềm hy vọng đó khuyến khích ta tích cực xây dựng xã hội tốt đẹp hơn, vì đó chính là điều kiện cho ta được vào Nước Trời.
Lạy Chúa, xin giúp con chu toàn nhiệm vụ ở trần gian để sau này con được về trời với Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Ham hố tiền bạc, danh vọng, chức quyền, khoái lạc làm đời sống ta nặng nề, không vươn lên cõi tâm linh được. Bạn thấy mình bị nặng nề về ham mê nào?
2. Đời sống là một nỗ lực bay lên cao. Có khi nào bạn cảm thấy mình thoát khỏi những ràng buộc tầm thường để nhẹ nhàng bay lên không?
3. Đời sống là một bổn phạn phải chu toàn. Bạn nghĩ gì về điều này?
3. Chuyển sang một giai đoạn mới--Lm Carôlô Hồ Bặc Xái
"Hãy nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân"
(Lc 24,47)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Việc Chúa Giêsu thăng thiên đánh dấu một bước ngoặc trong việc loan báo Tin Mừng. Trước đây, loan báo Tin Mừng chủ yếu là việc của Chúa Giêsu. Nhưng từ đây, việc này chủ yếu là của Giáo Hội, với sự hỗ trợ đắc lực của Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần. Bởi đó, khi từ biệt các môn đệ, Chúa Giêsu đã trao sứ mạng "Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần".
Hôm nay, sứ mạng này được trao cho thế hệ chúng ta. Vậy chúng ta hãy cầu xin Chúa hỗ trợ để chúng ta chu toàn sứ mạng Chúa trao.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta có lỗi vì hay quên rằng Chúa Giêsu là Đấng đang sống và đã được Chúa Cha trao cho toàn quyền. Do lỗi này nên chúng ta dễ chán nản và không cậy dựa vào Ngài.
Chúng ta có lỗi vì chỉ hướng về trời mà quên trách nhiệm xây dựng thế giới của mình.
Chúng ta có lỗi vì ít quan tâm loan báo Tin Mừng.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I: Cv 1,1-11
Những lời dạy cuối cùng của Chúa Giêsu trước khi thăng thiên:
Chúa Giêsu dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các môn đệ biết rằng sau khi đã chịu nạn chịu chết, Ngài vẫn đang sống.
Ngài căn dặn họ chờ điều Thiên Chúa hứa ban, tức là ban Chúa Thánh Thần.
Trao cho họ sứ mạng làm chứng cho Ngài trên khắp thế giới.
2. Đáp ca: Tv 46
Thánh vịnh này ca tụng vương quyền của Giavê Thiên Chúa. Phụng vụ hôm nay áp dụng Thánh vịnh này cho Chúa Giêsu, Đấng được Thiên Chúa tôn lên làm vua và trao cho mọi quyền hành trên trời dưới đất.
3. Bài đọc II: Êp 1,17-23
Thánh Phaolô chúc cho các tín hữu được ơn khôn ngoan để lòng trí mở ra mà hiểu rõ đâu là niềm hy vọng mà họ đã nhận được.
4. Bài Tin Mừng: Lc 24,46-53
Bài Tin Mừng này có hai phần:
1. Những lời căn dặn cuối cùng của Chúa Giêsu (cc 46-49):
Sự cần thiết của Thập giá: đã có chép từ lâu trong Sách Thánh rằng Đấng cứu thế phải qua chịu nạn rồi mới tới phục sinh.
Môn đệ Chúa phải rao giảng và làm chứng về việc Ngài chết và sống lại.
Chúa Giêsu sẽ ban Thánh Linh cho môn đệ.
2. Chúa Giêsu lên trời (cc 50-53): Luca đã dùng cách viết của loài người để tạm diễn tả việc Chúa Giêsu siêu thăng. Ngài siêu thăng không có nghĩa là Ngài rời bỏ một nơi (trái đất) để đến một nơi khác (trời), mà là
Ngài thay đổi tình trạng: không còn ở tình trạng loài người hèn hạ nữa, mà trở về tình trạng vinh quang của một vị Thiên Chúa.
Ngài cũng thay đổi cách hiện diện: từ nay Ngài không thường xuyên hiện diện giữa chúng ta bằng thân xác hữu hình của Ngài nữa, nhưng vẫn hiện diện một cách vô hình dù chúng ta không thấy.
IV. Gợi ý giảng
1. Thời kỳ sứ mạng của Giáo Hội
Thánh Lễ hôm nay có 2 bài đọc của cùng một tác giả là Thánh Luca: Bài đọc 3 trích phần cuối của quyển Tin Mừng Luca, và bài đọc 2 trích phần đầu của sách Công vụ. Mà chúng ta biết thánh Luca viết một tác phẩm gồm 2 tập: tập I là sách Tin Mừng viết về sứ mạng của Chúa Giêsu bắt đầu từ Galilê đến Giêrusalem, tập II là sách Công vụ viết về sứ mạng của Giáo Hội bắt đầu từ Giêrusalem đến toàn thế giới. Vậy nếu đặt 2 bài đọc của Thánh lễ này vào toàn bộ tác phẩm của thánh Luca thì chúng ta sẽ hiểu rằng tác giả muốn nói: việc Chúa Giêsu thăng thiên là cái bản lề giữa hai sứ mạng đó, hay nói cách khác, lúc Chúa Giêsu thăng thiên là lúc Chúa Giêsu bàn giao sứ mạng lại cho Giáo Hội. Bây giờ chúng ta hãy dựa vào một số chi tiết trong hai bài đọc ấy để tìm hiểu sứ mạng của Giáo Hội và cũng là của chúng ta.
Trước hết, sứ mạng ấy là gì? Thưa là sứ mạng "làm chứng", như lời Chúa Giêsu nói "Chúng con sẽ là chứng nhân của Thầy". Chứng nhân, hay người làm chứng, là kẻ nghe gì nói y lại như vậy, thấy sao thuật y lại như vậy, rất đúng, rất trung thực.
Chúng ta làm chứng cho ai? Thưa cho Chúa Giêsu. Mà theo cách mô tả của thánh Luca, Chúa Giêsu nay đã lên trời, có một đám mây che khuất Ngài. Không biết có thực ngày xưa đã có một đám mây từ trời đáp xuống như một chiếc dĩa bay, rồi hai thiên thần mời Chúa Giêsu bước lên đứng trên chiếc dĩa bay đó, rồi sau đó chiếc dĩa bay bằng mây từ từ cất lên cao hay không. Điều này không chắc, vì 3 thánh sử kia, tức Matthêu, Máccô và Gioan đều không hề nói về đám mây đó. Thực ra, qua hình ảnh đám mây che khuất, thánh Luca muốn nói rằng Chúa Giêsu không còn hiện diện hữu hình nữa, mắt người phàm không còn trông thấy được Ngài nữa. Nhưng những kẻ làm chứng cho Ngài phải làm chứng thế nào để người ta như là thấy được Ngài thực sự.
Chúng ta làm chứng thế nào? Sách Công vụ có ghi một chi tiết: Đang lúc các tông đồ cứ dõi mắt đăm đăm nhìn theo bóng dáng Thầy thì hai thiên thần nói với họ: "Hỡi người Galilê, sao còn mãi đứng nhìn trời". Câu nói bỏ lửng nhưng có nhiều ngụ ý. Chúng ta có thể đoán ra được những ngụ ý sau:
Đừng luyến tiếc nữa cái thời các ông có Chúa Giêsu ở bên cạnh một cách hữu hình và mọi sự đều do Chúa Giêsu làm hết. Bây giờ đã tới phiên các ông hoạt động, hãy tự mình hoạt động, dĩ nhiên là cũng có sự trợ giúp của Chúa Giêsu vẫn còn hiện diện cách vô hình bên cạnh các ông, nhưng chính các ông phải hoạt động.
Ngụ ý thứ hai là đừng chỉ mãi mê mơ tới ngày được lên hưởng thiên đàng với Chúa Giêsu, điều quan trọng trước mắt là phải quay về với thế giới hiện tại. Hạnh phúc thiên đàng phải được xây dựng ngay từ trần thế này.
Và chúng ta sẽ làm chứng cho Chúa Giêsu ở đâu? Chúa Giêsu đã nói rõ: "Chúng con sẽ làm chứng cho Thầy tại Giêrusalem, Giuđê, Samari và cho đến tận cùng thế giới". Giêrusalem là nơi lúc ấy các tông đồ đang ở, Giuđê xa hơn một chút nhưng cũng quen thuộc vì có nhiều người đã tin Chúa, Samari tuy gần mà xa vì dân miền đó tuy biết Chúa Giêsu nhưng không có cảm tình với Ngài, đến tận cùng thế giới là mục tiêu xa nhất và bao quát nhất. Khi vẽ một bản đồ hành trình làm chứng như thế, ý Chúa Giêsu là hãy bắt đầu làm chứng cho Ngài ngay từ trong nội bộ của mình, rồi từ từ mới lan dần ra. Chúng ta thấy các tông đồ đã thực hiện đúng như thế: nhờ cộng đoàn Giêrusalem sống đoàn kết hiệp nhất, tương thân tương trợ mà người ngoài nhìn vào đã mến phục và xin gia nhập Giáo Hội, thế rồi từ Giêrusalem Giáo Hội lan sang Giuđê, lan sang Samari, lan sang Antiôkia và dần dần tỏa ra khắp thế giới.
Các chi tiết trong hai bài đọc Tin Mừng và sách Công vụ giúp chúng ta thấy được sứ điệp Lời Chúa muốn gởi đến chúng ta hôm nay:
Chúng ta đã quen dự Thánh Lễ, đọc kinh cầu nguyện và làm một số việc đạo đức khác. Tuy nhiên chúng ta đừng chỉ mãi mê lo xây dựng hạnh phúc thiên đàng cho riêng mình, mà hãy biết lo xây dựng hạnh phúc thiên đàng cho người khác nữa.
Nói là xây dựng hạnh phúc thiên đàng, nhưng không phải bằng cách chỉ lo đến những việc đời sau, hạnh phúc thiên đàng phải được xây dựng ngay tại cuộc sống trần thế này.
Và ở trần thế này, nơi chúng ta phải ưu tiên xây dựng hạnh phúc là chính trong nội bộ của mình. Cộng đoàn chúng ta có hạnh phúc thì mới là một hình ảnh đẹp khuyến khích người ngoài đến chia xẻ niềm tin, chia xẻ cuộc sống và chia xẻ hạnh phúc của chúng ta.
Đó chính là cách chúng ta làm chứng cho Chúa, làm cho người ta tuy bị một áng mây chia cách giữa hữu hình với vô hình nhưng cảm thấy như thực sự nhìn thấy Chúa. Thấy Chúa ở trong chúng ta, ở trong cộng đoàn chúng ta và Giáo Hội chúng ta.
2. Hiện diện và vắng mặt
Kể từ khi Chúa Giêsu Thăng thiên, Ngài không còn hiện diện cách hữu hình giữa các môn đệ nữa. Nhưng sự vắng mặt thể lý không có nghĩa là không còn hiện diện nữa.
Thực ra nhiều khi sự hiện diện thế lý chẳng là gì cả. Hai người sống chung một nhà, ăn chung một bàn, và thậm chí ngủ chung một giường nhưng vẫn cảm thấy xa nhau vạn dậm, bởi vì lòng và trí họ quá xa nhau. Như người ta nói "đồng sàng, dị mộng" (chung giường nhưng giấc mộng khác nhau).
Trái lại dù thể xác xa cách nhau vạn dậm nhưng người ta vẫn có thể cảm thấy rất gần nhau, miễn là người ta thương nhau và hiểu nhau. Có khi nhờ xa nhau một thời gian mà người ta lại thương nhau hơn và hiểu nhau hơn.
Hơn nữa, trong thời gian ta hiện diện bên cạnh một người thân, nếu đó là một sự hiện diện trọn vẹn thì khi xa nhau, chính sự vắng mặt ấy lại sinh nhiều hoa trái, bởi vì những kỷ niệm lúc gần nhau và tình nghĩa thắm thiết lúc sống bên nhau sẽ còn tiếp tục nuôi dưỡng người thân ấy. Như thế, đối với những người thân nhau thì cả sự hiện diện lẫn sự vắng mặt đều là những món quà.
Từ khi thăng thiên, sự hiện diện của Chúa Giêsu không còn bị hạn chế về không gian và thời gian nữa, nhưng nhờ đó mà Ngài có thể hiện diện ở khắp nơi và trong mọi lúc.
Các kitô hữu đầu tiên đã hiểu rất rõ điều này. Họ biết Chúa Giêsu vẫn ở bên họ, tuy không cùng một cách như trước nữa. Họ tin rằng Ngài đang chia xẻ cuộc sống của họ; họ còn tin rằng cái chết sẽ giúp họ được hợp nhất mãi mãi với Ngài trong vinh quang.
Có lẽ nhiều người cho rằng các tông đồ ngày xưa hạnh phúc hơn mình bây giờ, bởi vì các vị ấy đã được nhìn thấy Chúa Giêsu. Nhưng các sách Tin Mừng viết rằng dù mắt họ nhìn thấy Chúa Giêsu nhưng họ vẫn chưa hiểu Ngài là ai. Họ chỉ hiểu được Ngài khi đọc sách Thánh và khi dự lễ bẻ bánh.
Đọc sách Thánh và dự lễ Bẻ bánh, đó là những phương tiện giúp nhận ra Chúa Giêsu. Mà những phương tiện này chúng ta ngày nay cũng có. Cho nên, xét về vấn đề nhận ra Chúa Giêsu bằng đức tin thì chúng ta ngày nay cũng chẳng thua thiệt gì hơn so với các tông đồ ngày xưa.
Ngày xưa Chúa Giêsu đã trông cậy vào các tông đồ để Tin Mừng được rao giảng khắp nơi và được mọi người sống theo Tin Mừng ấy. Ngày nay Chúa Giêsu cũng trông cậy nơi chúng ta như thế. Chúng ta phải làm chứng về Ngài cho mọi người trong thế giới hôm nay. (FM)
3. Loan Tin Mừng và học Tin Mừng
Thông thường, những lời cuối cùng của một người trước khi người ấy từ giã cõi đời, là những điều hết sức quan trọng mà người ấy muốn những người thân yêu ở lại thực hiện. Và những người ở lại thường coi những lời người sắp từ giã thế gian trăn trối như một điều linh thiêng cần thực hiện cho bằng được.
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã căn dặc các tông đồ: "Phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem..." Như vậy, sứ điệp quan trọng nhất mà Đức Kitô muốn trao gửi lại cho các môn đệ, và cho mọi Kitô hữu là: hãy tiếp tục sứ mạng loan báo và làm chứng cho Tin Mừng của Ngài trước mọi người, mọi dân tộc trên thế giới.
Thế nhưng thế nào là loan Tin Mừng?
Nhiều người nghĩ rằng loan báo Tin Mừng là tỏ cho người khác biết mình là Kitô hữu, là làm dấu thánh giá nơi quán ăn, là can đảm xưng mình là người Thiên Chúa giáo trong các tờ lý lịch bất chấp những bất lợi sẽ xảy ra. Kẻ khác nghĩ rằng loan báo Tin Mừng là cố gắng sống cho thật đạo đức, năng đi lễ, năng chịu các bí tích, với mục đích làm gương sáng cho người chung quanh, đồng thời khuyên mọi người làm như vậy. Người khác nữa thì gặp những người ngoại đạo mình quen biết, liền tìm cách gạ gẫm, thuyết phục họ vào đạo, bằng cách nói cho họ biết vào đạo thì được Chúa ban ơn này ơn kia, v.v...
Kết quả của những việc đó có thể là chúng ta lôi kéo được một số người vào đạo, hoặc làm cho nhiều người khô khan năng đi lễ, năng đến nhà thờ, năng chịu các bí tích hơn, hoặc làm cho đời sống gia đình của họ trở nên đầm ấm hơn, hạnh phúc hơn, v.v
Tất cả những điều đó là những điều nên làm, cần làm, nhưng chưa phải là loan báo Tin Mừng đúng nghĩa. Muốn loan báo Tin Mừng cho đúng nghĩa, chính người loan báo phải biết Tin Mừng là gì, phải cảm thấy Tin mình loan báo là điều đã làm mình hạnh phúc, vui tươi, làm cho đời sống mình trở nên có ý nghĩa. Nếu không như thế, thì mình chỉ làm công việc “mù mà lại dắt mù», và kết quả là “cả hai sẽ lăn cù xuống hố» (Mt 15,14; Lc 6,39).
Thật vậy, nếu chính mình chưa cảm thấy Tin Mừng đã ảnh hưởng tốt đẹp trên đời sống mình, chưa thật sự thay đổi đời sống mình, mà mình lại đi rao giảng Tin Mừng, muốn Tin Mừng ảnh hưởng tốt đẹp trên đời sống người khác, thì có khác gì “cho đi cái mình chẳng có»? Như thế thì người nhận sẽ nhận được gì?
Vì thế, chúng ta cần phải năng học hỏi về Tin Mừng, nhất là suy gẫm Tin Mừng, để Tin Mừng thấm sâu vào tư tưởng, lời nói, việc làm và đời sống của ta. Có như thế, việc loan báo Tin Mừng của ta mới có sức thuyết phục.
4. Cuộc sống chứng nhân (Lc 24,46-53)
Báo "Le Figaro" mới đăng trả lời phỏng vấn của Tổng thống Nga Putin. Trong đó có câu hỏi như sau:
Hỏi - Trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo chí Nga, ông cho biết là đã đến cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu ở Giêrusalem, trong tay cầm thánh giá. Nhưng Ông lại là cựu sĩ quan của tình báo KGB. Ông nghĩ thế nào về sự trái ngược đó?
Trả lời - Cuộc sống được tạo nên bằng những điều trái ngược. Khi không còn những điều trái ngược thì đó là cái chết. Nước Nga không phải là một quốc gia giả tạo mà nó có một lịch sử lâu đời. Thời kỳ còn là nước Liên Xô, đã có nhiều ý đồ làm thay đổi truyền thống, nhưng vẫn không sao tách nước Nga khỏi những giá trị văn hóa của dân tộc. Nền văn hóa đó, cũng giống như cây cỏ mọc trên các đại lộ của thành phố, xuyên thủng nhựa đường để tồn tại.
Mẹ tôi là một phụ nữ theo đạo, mặc dù đi lễ nhà thờ không phải là không nguy hiểm thời Liên xô trước đây. Mẹ tôi đã bí mật làm lễ rửa tội cho tôi tại nhà thờ. Vậy tại sao các ông lại có vẻ ngạc nhiên khi tôi cầm thánh giá cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu?
***
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các Tông đồ sứ mạng cao cả: "Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân" (Lc 24,47). Người muốn chúng ta làm chứng nhân cho Người đến tận cùng trái đất, rao giảng danh Người cho đến tận thế.
Tổng thống Nga Putin quả tà một chứng nhân anh dũng. Ông đã công khai tuyên xưng mình có đạo, tin đạo và sống đạo. Ông đã công bố trước báo chí: "Tôi tự hào là một người tín hữu... Niềm tin của tôi cho tôi thêm tinh thần và sự bình an trong tâm hồn".
Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải ra đi. Các ngài đi tuyên xưng niềm tin, tin vào Đấng đă chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Người từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.
Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải xuống núi. Đi xây dựng một thế giới đầy tình yêu thương, huynh đệ, công bằng, văn minh; xứng với trời mới đất mới mà Chúa Con đã cứu chuộc để hiến dâng lên Cha.
Thật là vinh dự cho chúng ta được tiếp nối các Tông đồ đi rao giảng Lời Chúa, và làm chứng nhân cho Người. Nhưng đó cũng là một thách đố nặng nề, vì còn 80% cư dân trên hành tinh này chưa đón nhận Tin Mừng.
Đã qua 2000 năm, nhưng dường như sứ điệp Phục Sinh còn quá nhiều người chưa biết tới! Phải chăng chúng ta quên rằng Chúa về trời nhưng Người vẫn hiện diện rất sống động giữa chúng ta. Muốn rao giảng Đức Kitô cho thế giới, trước hết chúng ta phải đưa Người vào chính cuộc sống của mình; sau đó, lời rao giảng về Người mới có sức chinh phục các tâm hồn. Albert Peyriguere đã viết: "Có nhiều tông đồ nói về Đức Kitô, nhưng Người lại muốn có những tông đồ quyết sống vì Người!"
Con người thời nay thích nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, cũng như họ xác tín vào điều đã trông thấy tận mắt hơn là chỉ được đọc lướt qua. Họ không thích chúng ta chỉ làm chứng bằng lời nói, nhưng là bằng chính cuộc sống xả thân, phục vụ và yêu thương. Babin đã nói một câu đầy sắc bén: "Người ta chỉ có thể tin vào Đức Kitô, khi họ tin vào tình yêu của những kẻ loan báo Người".
***
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu Chúa. Amen. (Thiên Phúc, năm C)
5. Sứ mạng Chúa trao cho Giáo Hội
Đức Kitô phục sinh đã ở lại với các môn đệ của Ngài 40 ngày sau khi Ngài từ cõi chết sống lại. Việc Chúa phục sinh sống với các môn đệ 40 ngày là để Ngài có thời gian dậy bảo, động viên, an ủi và chỉ vẽ thêm cho các môn đệ trước khi Ngài ra đi về cùng Cha của Ngài (Cv 1, 3).Lần cuối cùng trước khi rời các ông, Chúa Giêsu đang lúc đồng bàn với các ông, đã truyền cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi Chúa Thánh Thần trước khi chia tay nhau đi khắp nơi giảng Tin Mừng cứu độ (Cv 1, 8).
Rồi hôm nay, Chúa phục sinh dẫn các môn đệ lên núi cây Dầu, trao sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho các ông và một cách nào đó cho toàn thể Giáo Hội (Mt 28, 16-20). Để ban ủi an, khích lệ các ông, Chúa phục sinh giơ tay chúc lành tức đổ ơn huệ xuống trên các ông, và Chúa cất mình lên trời trước mặt các ông (Cv 1, 9-12).
1. Tại sao các ngươi cứ đứng đó mà nhìn lên trời:
Sự kiện Chúa về trời làm cho các môn đệ bỡ ngỡ, các Ngài không khỏi bàng hoàng dù rằng Chúa đã nói trước với các ông, đã căn dặn các ông, Ngài về với Chúa Cha, Ngài ra đi thì ích lợi hơn cho các ông.: “...Thầy ra đi thì Đấng bầu chữa mới đến với các con" (Ga 16, 6-7).Vì sứ mệnh của Chúa Thánh Thần là dậy dỗ, an ủi các tông đồ, soi sáng và thêm sức mạnh cho các ông để các ông có sức mạnh, lòng đại độ, sự quả cảm mà ra đi rao giảng Tin Mừng (Ga 14, 26; 15, 26-27).
Nhưng trước khi chia tay đi rao giảng, Chúa phục sinh đã căn dặn các tông đồ hết sức cẩn thận: "Đừng rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy ở tại đó cùng với Mẹ Maria để đón nhận Chúa Thánh Thần ".
Việc Chúa Lên trời hay nói một cách cụ thể hơn là Ngài ra đi, trở về, kết hiệp với Chúa Cha để thực hiện lời hứa ban Đấng phù trợ tới cho các môn đệ và cho toàn Giáo Hội là một mầu nhiệm của lòng tin vì hôm nay chấm dứt một giai đoạn Chúa phục sinh hiện diện, chứng minh cho các môn đệ thấy rằng mình vẫn sống giữa các ông (Cv 1, 3).
Thời gian 40 ngày là giai đoạn Chúa minh chứng cho các tông đồ, Ngài đang sống cách hữu hình, đang làm những việc cụ thể, cùng trao đổi, bàn bạc, cùng ăn, cùng sinh hoạt với các môn đệ. Giờ đây, Chúa về trời là để ban Thánh Thần cho các môn đệ, cho nhân loại và cho Giáo Hội. Đây không phải là lúc các môn đệ tiếc nuối cái mơ ước ám ảnh, Chúa của các ông sẽ khôi phục lại vương quốc Israen, để các ông ăn trên ngồi trước các người khác (Cv 1,6).
Cái thực tế mà các môn đệ phải thuộc nằm làu là "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ. Ai tin, anh em hãy làm phép rửa cho Họ nhân danh Chúa cha, Chúa Con và Chúa thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ những Điều Thầy đã truyền cho anh em" (Mt 28, 16-20). Chúa về trời, các môn đệ vẫn còn bỡ ngỡ cùng với mọi người ở Galilêa. Nhưng, Chúa về trời là một mối phúc cho các Môn đệ, cho nhân loại và cho Giáo Hội vì Chúa có về trời Thánh Thần mới được ban xuống. Chúa về trời, nhưng dứt khoát các môn đệ sẽ không bơ vơ vì Chúa hứa sẽ ở cùng các ông mọi ngày cho tới tận thế
2. Chúa về trời là một mối phúc lớn lao:
Thật ra, Chúa về trời mang lại cho nhân loại, cho Giáo Hội và cho các tông đồ một mối Phúc lớn lao vì nếu Chúa không ra đi thì Đấng bàu chữa không đến. Chúa về trời, Ngài đã làm tròn lời hứa ban Thánh Thần và trao quyền năng cho các tông đồ, cho Giáo Hội: “ Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dậy muôn dân...Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế " (Mt 28, 17-20).
Lệnh truyền của Chúa phục sinh đã được thể hiện ngay nơi con người của Chúa, Chúa đã ban quyền năng cho các tông đồ, qua đó các Ngài có đủ mọi uy quyền thiêng liêng phục vụ mọi người. Chúa ban Thánh Thần để giúp các môn đệ kiên cường làm chứng cho Chúa phục sinh và loan báo Tin Mừng. Chúa ban Thánh Thần để Giáo Hội luôn bền vững, trung kiên làm tròn sứ mạng truyền giáo.
Dầu con người không thể nhìn thấy Chúa bằng xương bằng thịt, nhìn thấy Chúa cách hữu hình, nhưng Chúa vẫn có mặt với Giáo Hội ở khắp mọi nơi cho tới ngày cùng tận. Lời hứa của Chúa ở cùng môn đệ và nhân loại cho đến ngày tận thế là lời bảo đảm vững chắc nhất về sự hiện diện của Chúa trong Giáo Hội muôn muôn đời. Chúa Giêsu Phục sinh luôn đồng hành với Giáo Hội, với nhân loại, với các tông đồ trên vạn nẻo đường truyền giáo. Sứ mạng truyền giáo, loan báo Tin Mừng và giới thiệu Chúa Kitô Phục sinh cho nhân loại là lệnh truyền khẩn thiết nhất và quyết liệt nhất Chúa trao cho các môn đệ và cho Giáo Hội. Chúa đang trao, Chúa đang chuyền một cây gậy, một ngọn lửa đức tin để các tông đồ và Giáo Hội thay nhau liên tục chuyền gậy và đốt lên ngọn lửa tình yêu cho mọi người để mọi người nhận ra bộ mặt đầy yêu thương của Chúa cứu thế.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con cảm nghiệm sâu xa lời Chúa: “ Các con là muối ướp cho mọi người...Các con là ánh sáng cho toàn nhân loại, là thành phố xây trên ngọn đồi không thể giấu được... ánh sáng các con phải sáng lên trước mặt thiên hạ để họ nhìn xem những việc thiện các con làm mà ngợi khen cha các con ở trên trời " (Mt 5,13-16)
Lạy Chúa Giêsu, công việc cứu thế của Chúa được tượng trưng như một chiếc gậy, Chúa đã chuyền cho các môn đệ cách đây 2002 năm để các môn đệ tiếp tục chuyền đi. Và cứ như thế, chiếc gậy được chuyền đi cho tới ngày tận thế. (Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT, Vietcatholic)
6. Sứ mệnh của người Kitô hữu
Tháng 7 năm 1972 sau những tháng dài bị tra tấn trong trại lính, nơi ngài thi hành nghĩa vụ linh mục, cha Vania đã ngã gục dưới làn mưa đạn. Trong lá thư cuối cùng ngài viết cho cha mẹ già có những dòng sau đây:
"Cha mẹ yêu dấu! Thiên Chúa đã chỉ cho con một con đường phải theo. Con không chắc có thể còn sống được để trở về với cha mẹ nữa hay không, bởi vì những cuộc tra tấn lúc này dã man hơn trước kia rất nhiều. Thế nhưng con không lo sợ, vì có Chúa ở cùng con. Xin cha mẹ cứ an tâm, đừng lo lắng cũng đừng buồn phiền về số phận của con nữa. Lúc này con yếu và kiệt sức lắm rồi. Con xin chào thăm cha mẹ trong tình yêu Chúa Kitô và trong sự bình an của Thiên Chúa Cha. Người ta cấm cản con không được rao giảng về Chúa Kitô nữa, và con phải trải qua nhiều thử thách. Thế nhưng, con tuyên bố với họ là con sẽ không sợ rao giảng Tin Mừng và tình yêu của Chúa Kitô. Đây là một sứ mệnh cao cả và con hãnh diện được tiến bước theo mệnh lệnh của Chúa. Con không xấu hổ rao giảng về Chúa Kitô. Các phép lạ Chúa Kitô làm đều minh chứng rằng có Thiên Chúa, do đó con sẽ mạnh dạn tiếp tục gieo vãi hạt giống Tin Mừng, vì đó là điều Chúa Thánh Thần phán bảo con."
Rao giảng Tin Mừng là sứ vụ Chúa Giêsu đã trăn trối lại cho các môn đệ Ngài, cho Giáo hội nói chung và cho mỗi người chúng ta nói riêng. Trước khi Ngài xa cách con cái Ngài, Ngài đã để lại cho mỗi người chúng ta lời di chúc qua các tông đồ: Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, dậy bảo họ luôn giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.
Qua các thời đại, Giáo hội đã, đang và luôn mãi hăng hái, trung kiên thi hành sứ mệnh đó. Mặc dù Giáo hội luôn phải trải qua những giai đoạn khó khăn, bách hại, cấm cách; nhưng dân Chúa vẫn hiên ngang rao giảng và sẵn sàng hy sinh mạng sống vì Tin Mừng, vì Nước Trời. Lòng can đảm, chí trung thành đó đã cho chúng ta nhận ra rằng chúng ta không phải đơn phương chiến đấu, nhưng Chúa luôn đồng hành với mỗi người như lời Ngài đã phán: Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho tới tận thế. Chính tên Ngài cũng đã minh chứng điều đó, Em-ma-nu-en = Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Lạy Chúa, Lời Chúa đã nhắc nhở cho mỗi người chúng con ý thức về sứ mệnh Kitô hữu của mình. Xin cho chúng con biết hăng say thi hành mệnh lệnh đó trong cuộc sống hằng ngày để ánh sáng Tin Mừng được chiếu tỏa khắp nơi. (Sr Margareta Maria Hiền, Vietcatholic)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu Kitô đã phải trải qua con đường thập giá rồi mới bước vào vinh quang phục sinh. Với ước mong sống trọn vẹn vai trò chứng nhân cho Đức Kitô Phục sinh, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện:
1. Chúa Giêsu hứa ban Thánh thần cho các tông đồ / để các ngài làm chứng cho Chúa đến tận cùng trái đất / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa cũng ban Thánh thần / giúp chúng ta trở nên những chứng nhân can trường cho Thiên Chúa là tình yêu.
2. Rao giảng Chúa Giêsu Kitô cho hết thảy mọi nước mọi dân / đặc biệt cho các dân tộc tại lục địa châu Á mênh mông / là một việc khẩn cấp trong thiên niên kỷ thứ ba này / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho có nhiều người / dám xả thân cho công cuộc rao giảng Tin mừng cứu độ.
3. Đức tin Kitô giáo hội nhập vào văn hóa Châu Á / là một việc làm hết sức quan trọng trong việc giới thiệu Đức Kitô cho một châu Á đa chủng tộc / đa tôn giáo và đa văn hóa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các nhà truyền giáo / luôn quan tâm đặc biệt đến công việc hệ trọng này.
4. Học hỏi Tông huấn Giáo hội tại Châu Á là bổn phận quan trọng của người Kitô hữu Á Châu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết tận dụng mọi cơ hội thuận tiện để học hỏi sâu rộng Tông huấn này / nhờ đó có thể tham gia tích cực vào công cuộc rao giảng Tin mừng.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, trước khi được rước lên trời, Chúa đã dạy chúng con phải rao giảng Tin mừng cho mọi loài thọ tạo. Xin Chúa ban ơn giúp sức để chúng con có thể thực hiện đến nơi đến chốn lệnh truyền quan trọng này. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Chúa Giêsu phục sinh đang ở bên cạnh Chúa Cha để làm trung gian cho chúng ta. Chúng ta hãy nhờ Ngài và với Ngài dâng lên Chúa Cha lời kinh Lạy Cha.
VII. Giải tán
Hôm nay Chúa Giêsu lặp lại với anh chị em lời Ngài đã bảo các môn đệ ngày xưa: "Anh em hãy đi đến với muôn dân", "Anh em hãy làm chứng cho Thầy". Chúc anh chị em bình an.
4. Đức Giêsu Phục Sinh lên trời—Lm Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.
Bốn mươi ngày sau khi Đức Giêsu sống lại, Giáo Hội mừng lễ Đức Giêsu lên trời. Sách công vụ tông đồ (Cv.1, 9), tin mừng theo thánh Luca (Lc.24, 51), tin mừng theo thánh Máccô (Mc.16, 19) nói đức Giêsu lên trời. Sách công vụ tông đồ cho thấy Đức Giêsu dẫn các môn đệ ra núi cây dầu, rồi Ngài lên trời trước mắt các ông, và có đám mây che Ngài khiến các ông không còn thấy được Ngài nữa.
Tin mừng theo thánh Matthêu (Mt.28, 20) không nói Đức Giêsu lên trời, nhưng nói Ngài ở cùng con người cho đến tận thế. Liệu có mâu thuẫn không, khi một tin mừng nói Ngài lên trời, còn tin mừng khác nói Ngài ở lại? Lên trời, là một từ ngữ khá hàm hồ và rất là chủ quan. Trời chỉ khoảng không phía trên đầu tôi, nhưng nếu một người ở bên kia trái cầu, nghĩa là người đó ở cách tôi 12 tiếng đồng hồ, thì trời của họ lại là phía dưới chân tôi. Như vậy, lên trời là lên phía trên đầu một người hay xuống phía chân của người đó? Khi nhìn vấn đề như vậy, dường như người ta thấy không được hiểu “lên trời” theo nghĩa đen của từ ngữ.
Lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, là một cụm từ dùng để chỉ việc Đức Giêsu được siêu tôn ngang bằng Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng, đâu có tay phải tay trái như con người. Lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, là cách diễn tả nhân hình về thực tại siêu hình. Đức Giêsu là Thiên Chúa. Ngài và Cha là một. Chỉ khi người ta nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa, người ta mới thấy tình yêu của Thiên Chúa đối với con người như thế nào! Khi nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, các Kitô hữu mới kinh ngạc và thán phục trước tình yêu vô cùng của Thiên Chúa đối với con người khi biết Đức Giêsu đã được sinh hạ trong chuồng chiên cừu ở Bêlem và đã phải chết ô nhục trên thập giá.
Giữa hai cụm từ “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” và “Đức Giêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa,” người ta thấy cụm từ “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” được hiểu theo nghĩa thông thường hơn. Nếu Đức Giêsu Phục Sinh luôn ở với con người, vậy trong khoảng thời gian ông Thomas không tin Ngài phục sinh, thì Đức Giêsu Phục Sinh ở đâu? Đức Giêsu Phục Sinh vẫn ở đó với các tông đồ, vẫn ở đó với ông Thomas nhưng Ngài không cho ông Thomas thấy Ngài thôi. Cũng tương tự vậy, Đức Giêsu Phục Sinh vẫn đang ở với chúng ta dù chúng ta không thấy Ngài.
Khi chúng ta mừng lễ Chúa Phục Sinh lên trời, thì đúng ra chúng ta phải ý thức và mừng Đức Giêsu Phục Sinh đang hiện diện với chúng ta. “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời thầy, Cha thầy sẽ yêu thương người ấy, Cha thầy và Thầy sẽ đến và ở với người ấy” (Ga.14, 23). Thiên Chúa ở với con người, đây là tin vui tin mừng, vì đó cũng là dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương con người. Vì những người yêu thương nhau thì muốn ở gần nhau, Thiên Chúa muốn ở với con người, nghĩa là, Ngài yêu thương con người. Thiên Chúa hạnh phúc khi ở với con người.
“Thầy đi thì ích lợi hơn cho anh em, vì nếu Thầy không đi, thì Đấng an ủi sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Ngài đến với anh em” (Ga.16, 7). Thánh Thần sẽ được Thiên Chúa Cha sai đến (Ga.14, 16) và cũng được Đức Giêsu sai đến (Ga.15, 26; 16, 7) với con người. Thánh Thần sẽ trợ giúp con người trong mọi chuyện, mọi nơi và mọi lúc. Thánh Thần sẽ dạy chúng ta biết sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa. Cũng chính Thánh Thần sẽ ban ơn trợ sức cho con người, để họ vượt thắng được ma quỷ, thế gian và xác thịt. Thánh Thần là lửa mến thiêu đốt mọi dơ bẩn, đốt nóng tâm hồn nguội lạnh; Thánh Thần là nước mát làm dịu các đam mê, tẩy sạch tâm hồn dơ bẩn. Thánh Thần đưa dẫn người ta tới gặp gỡ Thiên Chúa, làm người ta cảm nghiệm hạnh phúc khi sống với Ngài.
Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa. Đức Giêsu luôn hướng về Cha cho dù Ngài sống giữa trần gian. Đức Giêsu luôn tùy thuộc Thiên Chúa, đến độ “của ăn của Thầy là làm theo ý Đấng đã sai Thầy” (Ga.4, 34). Đức Giêsu và Thiên Chúa Cha luôn là một với nhau trong mọi sự (Ga.10, 30; 16, 15; 17, 10.22). Con người là một trong Thiên Chúa, nhưng khác với Đức Giêsu và Cha là một; cũng tương tự mỗi người chúng ta là con Thiên Chúa, nhưng khác với Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đến cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (Ga.14, 28).
Chúa Cha cao trọng hơn Đức Giêsu, vì Thiên Chúa đã nhập thể, Ngài đang trong tình trạng tự hủy, Ngài nên giống con người mọi đàng trừ tội, chính vì vậy “Cha cao trọng hơn Thầy.” Còn tự nguyên thủy, Cha và Con đều là một. Cha chỉ là Cha nếu có Con, và không có Con thì cũng chẳng có Cha. Có Cha có Con thì có Thánh Thần. Cả ba đều là một trong Thiên Chúa, cả ba đều là một Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng duy nhất từ ngàn xưa cho đến bây giờ.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Lên trời, nghĩa là sao?
2. Theo bạn, có gì mâu thuẫn không khi trong sách Công Vụ Tông Đồ (Cv.1, 9), tin mừng theo thánh Luca (Lc.24, 51), và Maccô (Mc.16, 19) nói Chúa lên trời, còn tin mừng theo thánh Matthêu (Mt.28, 20) nói Đức Giêsu ở lại với con người cho đến tận thế?
3. Bạn hiểu “Đức Giêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa” (Mc.16, 19) như thế nào?
5. Chúa lên trời--Lm Giuse Phạm Thanh Liêm
Đức Giêsu lên trời, nhưng Ngài vẫn ở với con người cho đến tận thế. Xin cho ki-tô hữu được nên giống Đức Giêsu mỗi ngày một hơn.
Đức Giêsu lên trời
Sách Công Vụ Tông Đồ cho thấy Đức Giêsu đã hiện ra với các tông đồ suốt bốn mươi ngày sau khi Ngài sống lại. Trong thời gian này Người đã ăn uống với các ngài, dạy dỗ các ngài nhiều điều; rồi đến thời đã định, Người đã lên trời trước mắt các ông.
Phải hiểu điều này như thế nào, khi người thời nay biết trái đất tròn; như vậy, trời phía trên đầu của người ở Việt Nam, lại là hướng dưới chân của người ở Mỹ, và ngược lại. Một phi hành gia bay lên vũ trụ, trời là khoảng không đối với họ! Tin Mừng Đức Giêsu theo thánh Matthêu cho thấy Đức Giêsu không lên trời, nhưng ở lại với con người cho đến ngày tận thế: “Này đây Thầy ở cùng anh em cho đến ngày tận thế” (Mt.28, 20). Làm sao trả lời cho con người ngày nay về việc hai trình thuật dường như trái ngược nhau?
“Lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa”, là một cách nói dùng để chỉ Đức Giêsu được siêu tôn ngang bằng Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng vô hình, làm gì có tay phải tay trái như con người. Đây là cách nói nhân hình, nghĩa là, nói về Thiên Chúa theo kiểu con người. Để hiểu đúng, không được hiểu theo nghĩa đen. Đức Giêsu lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa, nghĩa là, Đức Giêsu là Thiên Chúa.
Các ngươi là chứng nhân về những điều này
Không phải tất cả mọi người đều được thấy Đức Giêsu Phục Sinh. Chỉ có một số người được chọn, mới được diễm phúc này, và họ trở thành chứng nhân của Chúa Phục Sinh. Các tông đồ là những người được thấy Chúa, và các Ngài đã là những chứng nhân anh dũng của Đấng Phục Sinh qua việc dùng chính mạng sống mình để làm chứng. “Ngu gì” để chết cho điều không thật hoặc không quan trọng! Sẵn sàng chết để làm chứng Đức Giêsu đã phục sinh, làm cho điều các tông đồ rao giảng “đáng tin”.
Các tông đồ đã chết. Các ki-tô hữu là những môn đệ của Đức Giêsu, đến lượt mình, các ki-tô hữu được mời gọi trở thành chứng nhân của Chúa Phục Sinh cho con người thời đại hôm nay.
Các tông đồ đã chết để làm chứng cho Chúa Phục Sinh. Ki-tô hữu hôm nay được mời gọi để sống yêu thương, như dấu chứng Thiên Chúa đang hiện diện và hành động nơi ki-tô hữu trong thế giới này. Yêu, đòi phải hy sinh, và cũng là một cách “chết” cho người yêu.
Nên giống Đức Giêsu
Đức Giêsu là thượng tế, là của lễ và bàn thờ. Lời Thiên Chúa nhập thể vì yêu con người, Ngài đã chết để đền tội con người, để con người không phải chết vì tội mình nữa nhưng được sống, vì có người đã chết thế cho mình.
Đức Giêsu dùng chính máu Ngài để thanh tẩy tội lỗi con người. Ngài thương cảm con người với những yếu đuối và giới hạn của họ. Ngài đã trải qua tất cả những gian nan thử thách, để con người có can đảm tới với Ngài.
Là người, anh chị em với nhau. Mỗi người phải trở nên một “Giêsu khác” để thông cảm và nâng đỡ anh chị em mình. Mỗi người được mời trở nên giống Đức Giêsu, bằng “yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em”.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Theo bạn, Đức Giêsu Phục Sinh bây giờ đang ở đâu? Xin giải thích.
2. Trong đời tu hoặc đời sống ki-tô hữu, người ta thường nói tới “cái chết không đổ máu”, bạn hiểu điều này như thế nào? Cho thí dụ.
3. Người nên giống Đức Giêsu nhất, là người có những đức tính nào?
6. Quê hương chúng ta là quê trời--Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
Hôm nay, Chúa chúng ta lên Trời, chúng ta không làm trái đất rung động, nhưng hướng tâm hồn lên Đức Kitô và trông đợi Ngài đến như lời Ngài đã hứa trước khi về Trời, để Ngài ở đâu chúng ta cũng ở đó. Vì thế, chúng ta hãy nuôi dưỡng lòng ái mộ những sự trên Trời, để cũng được cả xác lẫn hồn về trời với Chúa. Tuy nhiên, cần phải biết rõ rằng lòng tự cao, tự đại, hà tiện, dâm ô là những thói hư tật xấu, tội lỗi lôi kéo, giam hãm chúng ta trong tội lỗi... Hãy hướng về Trời, hướng lòng lên thật cao, kết hợp với Chúa. Sự Phục sinh của Chúa là chính niềm hy vọng của chúng ta, sự kiện Chúa lên Trời là vinh quang của chúng ta. Vậy nếu chúng ta cử hành lễ Chúa về Trời với lòng trung thành và sùng kính, thánh thiện và đạo đức, chúng ta về Trời với Chúa và vươn tâm hồn lên tới Chúa.
* Phụng vụ Lời Chúa
- Tđcv 1, 1-11: Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta lên Trời
- Tv 47, 2: Thiên Chúa ngự lên giữa tiếng tưng bừng
- Êph 1, 17-23: Đức Kitô thống trị địa cầu
Hoặc - Êph 4, 1-13: (trừ Năm B)
Hoặc – Dt 9, 24-28 ou 10, 19-23: (trừ Năm C)
- NĂM A - Mt 28, 16-20: Hãy đi giảng dạy muôn dân
- NĂM B - Mc 16, 15-20: Chúa Giêsu ban những lời cuối cùng cho các Tông Đồ
- NĂM C - Lc 24, 46-53: Những lời sau hết và sự lên Trời của Đức Giêsu
"Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời? Allelui! Đức Giêsu, Đấng vừa lìa các ông mà lên trời, sẽ đến cùng một thể thức như các ông đã thấy Người lên trời", Alleluia! Alleluia! Alleluia! "(Ca nhập Lễ trong ngày)
Hôm nay, Đức Kitô Phục sinh vinh quang và yêu dấu, Đấng sống lại từ trong cõi chết bởi quyền năng Thiên Chúa, sau khi đã được an táng trong mồ, tức là Đền thờ người Do thái phá hủy, kết thúc bốn mươi ngày thánh và trước sự kinh ngạc của các Tông Đồ, "đã được cất nhắc lên cao trước mắt các ông và một đám mây che khuất Ngài khỏi tầm nhìn các Tông Đồ" (Tđcv 1,9).
Hành động cuối cùng này của Chúa Giêsu có hai ý nghĩa. Trước hết, khi lên trời, Ngài mạc khải cách rõ ràng thần tính của Ngài: sau khi đã chu toàn sứ mạng của mình trên trần gian, nay Chúa trở về nơi mà từ đó Ngài đã đến trong thế gian, nơi đó là cung lòng Thiên Chúa Cha. Hơn nữa, Đức Giêsu về Trời cùng với nhân tính mà Ngài đã lãnh nhận và đã làm cho sống lại từ cỏi chết. Nhân tính đó là nhân tính của chúng ta, được thanh luyện, thần thiêng hoá, và được trở nên đời đời. Chúa về Trời mạc khải "ơn gọi cao cả nhất" của mỗi người: con người được gọi đến hưởng sự sống đời đời trong Nước Chúa, nước của tình thương, của ánh sáng và hòa bình.
Đức Kitô Phục sinh, với thời gian, bằng sự hiện diện của mình và các chứng từ cần thiết đã gia tăng niềm tin nơi con người vào Đấng sống lại. Cái chết của Chúa Kitô, trong thực tế, đã làm cho lòng trí các môn đệ rối bời. Tâm trí các ông nặng trĩu với nỗi buồn da diết khi chứng kiến Thầy bị đóng đinh, thở ngắn thờ dài và sau cùng là trút hơi thở cuối cùng, thân xác bất tỉnh, chết và mai táng trong mồ. Một sự thẫn thờ sinh ra từ sự thiếu lòng tin đã gieo vào tâm trí các các môn đệ. Cái chết đau thương trên thập giá đã làm các thánh Tông Đồ, các môn đệ Chúa và nhiều người khác run sợ khi tin vào Chúa phục sinh. Đức Kitô Phục sinh lên trời cao là chân lý hiển nhiên đã củng cổ niềm tin của các ông do nỗi buồn sâu thẳm và làm cho tâm hồn các ông tràn ngập niềm vui.
Thật tuyệt vời và khôn tả được nguyên nhân niềm vui của họ! Đức Giêsu về Trời ngự bên hữu Chúa Cha trong vinh quang, báo trước quê hương chúng ta đích thực là quê Trời. Chúng ta là chi thể của Ngài, Đầu đã về Trời, đây là niềm hy vọng lớn lao cho cả thân xác. Khi lên trời, Đức Giêsu đã mở ra lại con đường dẫn về quê hương thật của chúng ta, là thiên đàng. Giờ đây, với sức mạnh Thánh Thần của Ngài, Ngài nâng đỡ chúng ta trong cuộc lữ hành hằng ngày trên trần gian.
Tất cả chúng ta cùng vui mừng với niềm vui thánh thiện và tạ ơn Ngài. Hôm nay, chúng ta không chỉ vững tin và nắm chắc thiêng đàng, mà còn cùng với Chúa Kitô tiến vào chốn Trời cao nhờ ơn khôn tả của Chúa Kitô, chúng ta có được hơn là chúng ta mất do sự thù ghét của ma quỷ.
Sau khi Chúa đã được cất nhắc lên Trời, các đồ đệ quy tụ lại với nhau trong lời cầu nguyện, ở phòng Tiệc Ly, cùng với Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu. (x. Tđcv 1,14), vừa cùng nhau khẩn xin Chúa Thánh Thần, Đấng có thể ban cho họ quyền năng để làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh (x. Lc 24,49; Tđcv 1,8). Ngày này, chúng ta hướng về Mẹ Maria là "Nữ Vương Thiên Đàng", xin Mẹ bảo vệ gìn giữ Hội Thánh, cách riêng mỗi người chúng ta là con cái Mẹ, biết sống và thực hành lời Chúa truyền ban, để một ngày kia chúng ta cũng được về Trời với Đức Giêsu và với Mẹ vui hưởng tôn nhan Chúa muôn đời. Amen.
7. Chúa lên Trời, ta hãy mến yêu những sự trên Trời--Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
Hôm nay mừng Chúa lên Trời, vâng, toàn bộ ý nghĩa Chúa về Trời được các bài đọc Thánh Kinh diễn tả và nội dung gồm tóm trong những lời sau: "Chúa Giêsu đã bắt đầu làm và giảng dạy, Người căn dặn các Tông đồ xong... ". Và sau đó " Người lên Trời " (x. Cvtđ 1, 1- 11).
Các Tông đồ tận mắt chứng kiến cảnh Chúa lên Trời, lòng các ông ngây ngất dõi theo đến nỗi cần phải "có hai người mặt áo trắng đứng gần" (Cvtđ 1, 10) và nhắc nhở: "Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời?" (Cvtđ 1, 11). Sự kiện ấy cũng lôi kéo tâm hồn chúng ta lên với Chúa, làm chúng ta nhớ lại lời Chúa hứa trước khi về Trời, để Người ở đâu chúng ta cũng ở đó. Vì thế, chúng ta nuôi dưỡng lòng ái mộ những sự trên Trời và mong cả xác lẫn hồn về trời với Chúa. Đây là niềm vui lớn lao và tràn đầy hy vọng khi chúng ta hướng về tương lai trên hành trình dương thế.
"Đã đến giờ Chúa Giêsu rời bỏ thế gian mà về cùng Đức Chúa Cha". Lời này được lặp đi lặp lại mỗi đoạn Tin Mừng trước lễ Chúa về Trời. Theo sự quan phòng trong kế hoạch đời đời của Thiên Chúa, Chúa Giêsu từ giã Đức Maria Mẹ Người và nhất là tâm sự với các môn đệ nhiều điều. Hôm nay Người bảo các ông: "Các con sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất" (Cvtđ 1, 8 ). Từ đây nhiệm vụ được ủy thác, đến lượt mình các Tông đồ phải thi hành cách trung thành.
Đang lúc chờ đợi Chúa Thánh Thần, Món Quà do Chúa Cha tặng ban, Ngài là sức mạnh của các Tông đồ. Chính Ngài hướng dẫn Giáo hội đi trên đường chân lý, Tin Mừng phải được rao truyền bởi quyền năng của Thiên Chúa chứ không phải do sức mạnh hay khôn ngoan của người đời. Trước khi về Trời, Chúa Giêsu " đã ra lệnh cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa " (Cvtđ 1, 4). Người nói với các ông: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi tạo vật " (Mc 16, 15). Dựa trên lời Thầy, các Tông đồ có trách nhiệm phải loan báo Tin Mừng cho thế giới, làm phép cho họ, nói cho họ biết về Thiên Chúa để họ tin mà được cứu độ, nhất là phải làm chứng về Chúa Kitô "cho đến tận cùng trái đất" (Cvtđ 1, 8). Giáo Hội sơ khai thấu hiểu huấn lệnh Chúa truyền, nên đã khai mở thời kỳ truyền giáo, dẫu biết rằng thời kỳ này chỉ kết thúc vào ngày Chúa lên Trời, và trở lại.
Những lời Chúa Giêsu để lại cho Giáo hội là kho tàng vô giá. Giáo hội không những phải gìn giữ, loan báo, suy niệm mà còn sống nữa. Chúa Thánh Thần sẽ làm bén rễ sâu trong lòng Giáo hội ơn đặc sủng được sai đi. Vì thế, Giáo hội nhận ra sự cần thiết phải trung thành với kho tàng đức tin và những lời Chúa truyền dạy, đồng thời thông truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác, tới chúng ta ngày hôm nay. Lời Chúa và chỉ có Lời Chúa là nền tảng cho mọi sứ vụ, cũng như tất cả các hoạt động mục vụ của Giáo hội. Thẩm quyền của Lời Chúa là nền tảng mà Công Đồng Vatican II và Thánh Gioan XXIII đã nhấn mạnh trong bài phát biểu khai mạc: "Mối quan tâm chính của Công đồng Đại kết, là kho tàng thiêng liêng Kitô giáo phải luôn được giữ gìn và giảng dạy" (Bài phát biểu của ngày 11 tháng 10 1962). Thách thức lớn nhất của chúng ta là trung thành với giáo huấn của Chúa Giêsu.
Suy tư thứ hai về ý nghĩa Chúa Giêsu lên trời dựa trên cụm từ: "Chúa Giêsu lên Trời và ngự bên hữu Thiên Chúa" (Mc 16, 19).
Sau khi hạ mình xuống trong cuộc thương khó, Chúa Giêsu lên Trời ngự bên hữu Thiên Chúa đến muốn đời. Theo lời thánh Lêo Cả, khi Vị Thủ Lãnh của chúng ta bước vào thiên đàng và ở trên đó, "vinh quang của Đầu" đã trở thành "niềm hy vọng cho thân xác" (x. Sermo Ascensione Domini). Chúa Giêsu đã vĩnh viễn bước vào thiên đàng, " Người là Đầu và là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc" (Rm 8, 29). Vì bản tính của chúng ta là ở trong Thiên Chúa và ở trong Đức Giêsu Kitô. Nên vì loài người chúng ta (thân xác), Chúa Giêsu là (Đầu) hằng sống đến muôn thủa muôn đời hằng cầu thay nguyện giúp cho chúng ta trước mặt Chúa Cha ( x. Dt 7, 25). Từ trên cao vinh hiển, Người gửi cho Giáo hội một sứ điệp hy vọng và mời gọi hướng đến sự thánh thiện trên Trời nơi Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa.
Nhờ công nghiệp và lời cầu bầu của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha, chúng ta có hy vọng đạt tới sự công chính và sống thánh thiện nơi Người. Giáo hội có thể gặp phải những khó khăn, việc loan báo Tin Mừng có thể bị thất bại, nhưng vì Chúa Giêsu ngự bên hữu Thiên Chúa, Giáo hội sẽ không bao giờ bị đánh bại. Sức mạnh của Chúa Kitô vinh hiển, Con yêu dấu của Chúa Cha hằng gìn giữ chúng ta, giúp chúng ta tận tụy và trung thành với Nước Thiên Chúa một cách quảng đại. Sự kiện lên Trời của Chúa Kitô ảnh hưởng cụ thể đến đời sống hàng ngày của chúng ta. Vì mầu nhiệm này, toàn thể Giáo hội có ơn gọi đợi chờ trong niềm hân hoan hy vọng ngày Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta ngự đến.
Chúa Giêsu vị Thủ Lãnh của chúng ta đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, hiển vinh về Trời, đó là niềm hy vọng của chúng ta. Người sẽ trở lại đón chúng ta đi với Người. Để được về Trời với Chúa, chúng ta hãy gia tăng lòng mộ mến những sự trên trời và tích cực làm việc vì Nước Trời.
Hướng về Mẹ Maria "Nữ Vương Thiên Ðàng", chúng ta xin Mẹ bảo vệ gìn giữ chúng ta là con cái Mẹ, biết sống và thực hành lời Chúa truyền dạy, để một ngày kia chúng ta cũng được về Trời với Chúa Giêsu, Đức Mẹ và các thánh vui hưởng tôn nhan Chúa Ba Ngôi đến muôn thủa muôn đời. Amen.
8. Nhìn theo hướng Người đi--ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Thánh Luca tường thuật cuộc Thăng thiên của Đức Giêsu trong hai quyển sách: Quyển thứ nhất là Tin Mừng, quyển thứ hai là Công Vụ Tông Đồ.
Trong Tin Mừng, Ngài kể biến cố Thăng thiên như xẩy ra ngay trong ngày Đức Giêsu sống lại. Sau khi Đức Giêsu hiện ra với hai môn đệ trên đường về Em-mau, rồi với các tông đồ ở Giêrusalem, Người dậy bảo và sai các ông đi rao giảng cho muôn dân. Nói xong, Người chúc lành cho các ông và Người lên trời ngay trước mắt các ông.
Trong công vụ, Thánh Luca thêm một số chi tiết khi Chúa lên trời: Về thời gian là sau 40 ngày (Cv. 1, 3; 13,31), về không gian là núi Ôliu (núi cây Dầu) (Cv. 1,12), và có đám mây rước Người lên (Cv.1, 9). Những chi tiết này vừa nói lên tính chất lịch sử vừa tôn vinh Đức Giêsu là Thiên Chúa.
Bốn mươi ngày là thời gian Đức Giêsu còn ở dưới thế, hiện ra dậy dỗ các tông đồ, ăn uống, an ủi, chúc phúc cho các ông và các ông đã thấy Người bằng tai, mắt, đụng chạm, gần gũi Người. Những việc đó nói lên tính cách cụ thể về lịch sử. Bốn mươi ngày còn tượng trưng cho thời gian được đặc ân mặc khải của Thiên Chúa, như ông Môsê ở trên núi Sinai bốn mươi ngày đêm đã được Thiên Chúa mặc khải cho mười điều răn (Xh. 24,18; 34, 28).
Đám mây vừc có tính chất vật lý cụ thể, vừa nói lên vinh quang của Thiên Chúa, nơi Thiên Chúa hiện ra, như Thiên Chúa đã giao ước với ông Noe bằng đặt cầu vòng trên đám mây là dấu chỉ “nước sẽ không dâng lên thành đại hồng thủy để tiêu diệt loài người nữa” (St. 9, 13-15). Đám mây cũng là nơi Đức Giêsu ngự giá để chứng tỏ Người là Thiên Chúa như khi Người biến hình trên núi có “đám mây đến bao phủ các ông tông đồ và từ đám mây có tiếng phán rằng: Đây là con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người” (Mc. 9, 7). Đặc biệt trong ngày quang lâm: “Các ông sẽ thấy Người ngự bên hữu Đấng toàn năng và ngự trên mây trời mà đến” (Mc. 14, 62; Mt. 26,64).
Núi Ôliu: (Núi cây Dầu) ở phía đông thành Giêrusalem. Đi từ núi vào thành phải vượt qua thung lũng Kê-rôn (Cedron) mênh mông, nơi có những vườn cây xanh tươi, vườn Giêtsêmani cũng nằm ở đây. Betania cũng nằm ở phía đông sườn núi, nơi Đức Giêsu đã cho Lazarô chết bốn ngày sống lại (Mc. 11, 18), cũng ở phía đông núi Ôliu có ngọn núi Beth-pha-giê, nơi khởi điểm cuộc rước Đức Giêsu long trọng vào thành Giêrusalem trong ngày lễ lá. Chính trên ngọn núi này, Người đã tiên báo thành Giêrusalem sẽ bị tàn phá không còn hòn đá nào trên hòn đá nào và ngày tận thế của loài người (Mc. 11,1 và 13,3). Trong những ngày tuần thánh, trước khi bị bắt, Đức Giêsu thường xuyên đến miền núi này để cầu nguyện trong những đêm thanh vắng. Thánh Luca kể Đức Giêsu lên trời ở núi Ôliu, vừa nhắc lại những biến cố lịch sử, vừa tôn vinh Đức Giêsu là Thiên Chúa vì “tất cả cánh đồng thây ma, tro tàn, tất cả các nương rẫy cho đến khe suối Kê drôn … hết thảy đều là của thánh dâng kính Thiên Chúa” (Gr. 31, 40), trong thị kiến của ngôn sứ Êgiêkiel đã thấy: “Vinh quang Thiên Chúa từ giữa thành đi lên và dừng lại trên núi phía đông của thành”. Nơi đây đã thành nơi tôn thờ Thiên Chúa. Đức Giêsu lên trời ở đấy và “Các ông sụp lạy Người… Lòng đầy hoan hỷ mà chúc tụng Thiên Chúa”, bây giờ các ông hoàn toàn nhận ra Người là Thiên Chúa, sụp lạy và chúc tụng Người với tâm tình thờ lạy Thiên Chúa, và lòng các ông đầy hoan hỷ.
Lòng đầy hoan hỷ bởi vì Thầy mình thật là Thiên Chúa hằng sống, không còn phải chết nữa.
Các ông hoan hỷ vì Thầy đầy quyền năng Thánh Thần để dậy các ông hiểu lời Kinh thánh, và Thầy về trời ngự bên hữu Thiên Chúa để ban sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các ông.
Các ông hoan hỷ vì Thầy đã tín nhiệm trao cho các ông tiếp tục công cuộc rao giảng công cuộc cứu độ của Thầy và làm chứng về Thầy đã chịu khổ hình, và ngày thứ ba Ngài đã sống lại từ cõi chết. Bây giờ Người ngự trên trời, nhưng vẫn ở lại với các ông mọi ngày cho đến tận thế. Với lòng đầy hoan hỷ ấy, các ông hăng hái trở lại Giêrusalem, vào đền thờ cầu nguyện và chúc tụng Thiên Chúa, chờ đợi ngày Thánh Thần hiện xuống để cùng các ông làm chứng về Thầy tại Giêrusalem, khắp xứ Giuda, Samaria và cho đến tận cùng trái đất.
Đầu đội trời, chân đạp đất: “Các ông đăm đăm nhìn trời hướng Người đi” (Cv, 1,10).
Nhìn theo hướng Thầy đi: Thầy đã từ trời xuống đất, Thầy đã dốc hết tâm sức ra phụng sự Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em. Thầy đã không ngại phục vụ cho đến cùng, hiến toàn thân chịu chết và chết trên thập giá, để xây dựng một vương quốc bao la hoà giải, hòa thuận, hòa bình, một vương quốc công bình, hiệp thông và bác ái.
Các ông đăm đăm nhìn theo hướng Người đi: Thầy từ trời xuống, rồi về trời. Các ông cũng phải nhận sức mạnh Thánh Thần từ trời xuống để các ông đi khắp mặt đất rao giảng Tin Mừng của Thầy từ Giêrusalem cho đến tận cùng trái đất để xây dựng vương quốc của Thầy đã thiết lập, rồi các ông mới được về trời hưởng vinh quang của Thầy.
Đến lượt mỗi người chúng ta cũng phải đăm đăm nhìn trời “Cầu xin Chúa Cha vinh hiển, là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho chúng ta thần khí khôn ngoan, để mặc khải cho chúng ta nhận biết Người. Xin Người soi lòng mở trí cho chúng ta thấy rõ: Đâu là niềm hy vọng chúng ta đã được” (Bài đọc II) đâu là con đường hy sinh phục vụ quên mình, hết mình và bỏ mình của Đức Giêsu Kitô, để chúng ta đi theo con đường đó mà xây dựng một thế giới mới. Lúc đó, chúng ta mới được đi theo Người về trời hưởng gia nghiệp vinh quang phong phú của Người. Amen.
9. Chúa Nhật Chúa Lên Trời
Hôm nay chúng ta long trọng mừng Chúa về Trời. Trời là nơi Thiên Chúa ngự trị, là nơi chúng ta sẽ về nên Trời còn là quê hương vĩnh cửu của chúng ta. Lễ Chúa Giêsu lên trời hôm nay một lần nữa cho thấy rõ hơn, Chúa lên trời là vì chúng ta, cũng như tất cả những việc người làm là vì loài người chúng ta, như lời kinh tin kính chúng ta đọc: "vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, người đã từ trời xuống thế..." rồi Chúa lên trời là vì loài người chúng ta như lời Chúa nói: "Con muốn Con ở đâu thì họ cũng ở đó với Con". Cũng từ đó mà chúng ta nhận ra được một sự thật căn bản là quê hương chúng ta ở trên Trời. Mà nếu quê hương chúng ta ở trên trời thì hiện giờ chúng ta đang trên đường đi về quê hương đó. Đường về trời còn dài và lắm khó khăn vậy mà chúng ta lại mang quá nhiều hành lý. Những hành lý nào không nhãn hiệu đời đời, sẽ làm cho bước chân chúng ta chùn lại, khó đi. Biết bao nhiêu thứ hành lý chúng ta không thể mang vào Nước Trời được vậy mà chúng ta cứ cố tranh dành với người này, người nọ. Thật uổng công.
Nhiều người cho rằng chết là hết. Nhưng với người kitô hữu thì khác, cái chết chỉ là một khởi điểm cho một cuộc sống mới tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn. Cái chết chính là khung cửa hẹp dẫn chúng ta vào quê hương nước trời. Tin vào Nước Trời là một thách đố lớn đối với chúng ta. Bởi vì ở nơi đó, chúng ta chưa từng có kinh nghiệm, chưa từng sống. Vì thế, Thánh Phaolô nói về Nước Trời như sau: "Tai chưa hề nghe, mắt chưa hề thấy và trái tim chưa một lần cảm nhận được những gì Thiên Chúa dành cho những kẻ yêu mến Ngài. Tất cả những khổ đau trong cuộc sống hiện tại sẽ chẳng là gì cả, nếu đem so với hạnh phúc nước trời. Đó là nơi vinh quang, đó là nơi ánh sáng, đó là nơi ân thưởng cho những người đã trung thành phụng sự Chúa." Muốn vào Nước Trời, chúng ta phải cố gắng, phải chiến đấu thì mới đạt tới. Niềm tin của người Kiô hữu được Chúa Giêsu mời gọi và hứa ban Chúa Thánh Thần cho các tông đồ và khi chúc lành thì người rời khỏi các ông. Chỉ có Chúa Thánh Thần mới giúp các tông đồ hiểu được lời Chúa và làm cho các ông dám sống chứng nhân.
Chúa về trời còn cho chúng ta biết Chúa hoàn thành sứ mạng của mình và giờ đây, Người trao lại sứ mệnh đó cho chúng ta. Liệu chúng ta có ý thức được điều đó không? Chúng ta có làm cho người quanh ta hiểu rằng: Chúa Giêsu phải chịu đau khổ, chịu chết rồi mới được tôn vinh. Vậy, vai trò của chúng ta giờ dây là sống chứng nhân cho Chúa Giêsu. Trong Tông Huấn Evangelii Nuntiadi đoạn 41, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói lên vai trò của chứng nhân trong cuộc sống như sau: "Do đó, chính với phẩm cách và đời sống mình, mà Giáo Hội sẽ Phúc Âm hoá thế giới, nói cách khác, bằng sự chứng tá sống động về lòng trung thành của mình với Chúa Giêsu - chứng tá về sự khó nghèo và siêu thoát, vể sự tự do khi đối đầu với các quyền lực trần gian - nói tóm lại, là chứng tá của sự thánh thiện.
Chúng ta hãy làm cho người quanh ta hiểu rằng quê thật của con người là Trời chứ không phải trần gian. Thiên Chúa trên trời, Ngài muốn chúng ta yêu thương giúp đỡ nhau tiến về quê Trời. Đó là chúng ta đã làm chứng cho Chúa Giêsu.
Xin Chúa chúng con ý thức rằng: Chúa về trời nhưng vẫn hiện diện vô hình với chúng con. Chúa về Trời để dọn chỗ cho chúng con, xin cho chúng con biết quý trọng những sự cao siêu trên Trời, là quê hương đích thật của chúng con mong tới, để từ nay chúng con chỉ sống cho Chúa mà thôi. Amen.
10. Sự hiện diện của Chúa
Trong phần chia sẻ sáng hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu đâu là ý nghĩa của biến cố Chúa về trời.
Biến cố Chúa về trời không có nghĩa là Chúa di chuyển hộ khẩu, Chúa thay đổi nơi cư trú, từ mặt đất này tới một nơi nào đó, nhưng có nghĩa như là một sự tôn vinh, như lời thánh Phaolô đã viết: Đức Kitô đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá, cho nên Thiên Chúa đã tôn vinh Người. Các tín hữu tiên khởi đã tin rằng: Đức Kitô được tôn vinh tiếp tục hiện diện giữa trần gian. Người hiện diện không phải chỉ ở Giuđêa, mà còn khắp cùng bờ cõi trái đất. Ngài hiện diện trong chính sự rao giảng của Giáo Hội. Phần cuối của đoạn Tin Mừng cho thấy ngay cả sau khi Ngài đã lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa, các tông đồ vẫn tin tưởng rằng có Chúa cùng hoạt động với các ông khi các ông rao giảng và Ngài củng cố lời giảng của các ông bằng những phép lạ kèm theo. Thực vậy, thánh Matthêu đã lặp lại lời Chúa: Này Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Còn thánh Luca thì đã ghi nhận: Sau khi Chúa lên trời, các tông đồ trở lại Giê rusalem, lòng tràn ngập niềm vui. Tại sao lại như thế? Chẳng lẽ các ông vui mừng vì Người đã rời xa họ hay sao? Phải chăng đây là một thoáng mặc khải, hé mở cho chúng ta thấy sự vắng mặt của Người đã trở thành một sự hiện diện thất gắn bó và mật thiết. Người tuy xa mà lại gần, tuy vắng mặt mà vẫn luôn hiện diện.
Thực vậy, phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy việc Giáo Hội nối tiếp sứ mạng rao giảng Tin Mừng cứu độ của Đức Kitô, nối tiếp những công việc Người đã làm, kể cả những công viêc lạ lùng như trừ quỷ, chữa lành các bệnh nhân. Giáo Hội thể hiện sự hiện diện của Đức Kitô giữa trần gian. Sự hiện diện này không còn bị đóng khung trong thời gian và không gian. Nhưng đã được mở ra để có thể đến với mọi người.
Mừng lễ Chúa lên trời, chúng ta không phải chỉ biết ngước mắt nhìn lên cao, mà điều quan trọng đó chính là chu toàn sứ mạng rao giảng Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Rao giảng không chỉ bằng lời nói, mà bằng cả việc làm và đời sống, nhất là bằng sự dấn thân, để thực hiện một sự lựa chọn rõ rệt. Con Thiên Chúa khi làm người và ở giữa chúng ta, đã thể hiện một sự lựa chọn rõ rệt, Ngài không hiện diện một cách chung chung, và vô thưởng vô phạt, nhưng đã hiện diện như một Tin Mừng cứu độ cho nhiều người, đồng thời như một hòn đá vấp ngã đối với một số người khác.
Và khi Chúa Giêsu trao cho Giáo Hội sứ mạng tiếp nối sự hiện diện của Người, Người cũng đòi chúng ta phải có một sự chọn lựa dứt khoá như Người. Chính vì thế, rất có thể đã xảy ra là tại một nơi nào đó, có sự hiện diện của người Kitô hữu, của Giáo Hội, nhưng lại không có sự hiện diện đích thực của Đức Kitô. Sở dĩ như vậy là vì sự chọn lựa của chúng ta đã đi ngược lại với sự chọn lựa của Chúa Giêsu. Chẳng hạn như khi chúng ta có những hành động bất công, bóc lột kẻ khác, thì chính bản thân chúng ta đã bôi nhọ và xoá bỏ sự hiện diện của Đức Kitô.
Chính vì thế mà mỗi người chúng ta hãy kiểm điểm lại đời sống xem lời nói và việc làm của chúng ta, có là một chứng tá trung thực cho sự hiện diện của Chúa Giêsu giữa trần gian này hay không.
11. Cùng ở lại trong thành--Alphonse Marie Trần Bình An
Khi ngôn sứ Êlia sắp được về trời, thì môn đệ Êlisa không muốn xa thầy. Ông Êlia nói với ông Êlisa: “Xin anh ở lại đây, vì Đức Chúa sai thầy đến Bết Ên.” Nhưng ông Êlisa thưa: “Có Đức Chúa hằng sống và có thầy đang sống đây, con xin thề sẽ không bỏ thầy.” Rồi các ông đi xuống Bết Ên. Các anh em ngôn sứ ở Bết Ên ra gặp ông Êlisa và nói: “Ông có biết không, hôm nay Đức Chúa sẽ đem thầy của ông lên cao ngay trên đầu ông?” Ông nói: “Tôi cũng biết chứ, im đi!”
Hành trình của hai ông Êlia và Êlisa tiếp tục đến Giêricô, rồi Giôđan, sự kiện lập lại y như ở Bêt Ên. Ông Êlia bảo ông Êlisa ở lại, nhưng môn đệ Êlisa vẫn không chấp nhận, kể cả các anh em ngôn sứ sở tại cũng khuyên nhủ ông Êlisa hãy thuận theo.
Sau khi dẫn ông Êlisa qua sông Giođan, ông Êlia nói với ông Êlisa: “Anh cứ xin đi: thầy có thể làm gì cho anh, trước khi thầy được đem đi, rời xa anh?” Ông Êlisa nói: ”Xin cho con được hai phần thần khí của thầy!” Ông Êlia đáp: “Anh xin một điều khó đấy! Nếu anh thấy thầy khi thầy được đem đi, rời xa anh, thì sẽ được như thế; bằng không, thì không được.” Các ông còn đang vừa đi vừa nói, thì này một cỗ xe đỏ như lửa và những con ngựa đỏ như lửa tách hai ông ra. Và ông Êlia lên trời trong cơn gió lốc. Thấy thế, ông Êlisa kêu lên: “Cha ơi! Cha ơi! Hỡi chiến xa và chiến mã của Israel!” Rồi ông không thấy thầy mình nữa. Ông túm lấy áo mình và xé ra làm hai mảnh. Ông lượm lấy áo choàng của ông Êlia rơi xuống. Ông trở về và đứng bên bờ sông Giôđan. (2V 2, 1-13)
Sách Công Vụ Tông Đồ thuật lại Chúa Giêsu thăng thiên. “Chúa Giêsu được cất lên trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa.” (Cv 1, 9)
Còn trong trình thuật Tin Mừng thánh Luca, Chúa Giêsu lên trời trước mặt các môn đệ một cách đơn sơ. Không cầu kỳ và bi thảm chia ly như ngôn sứ Êlia với đệ tử Êlisa. Tuy nhiên, cả hai cuộc về trời đều có nhiều điểm tương đồng và dị biệt đầy ý nghĩa.
Sau đó, Người dẫn các ông đến gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời các ông và được đem lên trời. Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa. (Lc 24, 50-53)
Chứng nhân & Đi gieo
Không âu sầu, đau đớn như ngôn sứ Êlisa tiễn biệt tiên tri Êlia, các tông đồ đã canh tân, lột xác thật sự, không còn u buồn, sầu não trước cảnh biệt ly, mà thật sự bình an, khi chiêm ngưỡng Chúa Giêsu thăng thiên.
Không hoành tráng cỗ xe đỏ như lửa và những con ngựa đỏ như lửa đón ngôn sứ Êlia, mà chỉ có một đám mây mỏng manh, tựa như làn hương thơm quyện lấy Chúa Giêsu, cất Người lên trước mặt các tông đồ.
Ngày xưa, khi ra đi, Ngôn sứ Êlia thả lại tấm áo choàng, mà trước kia Êlia đã ném lên người Êlisa, để trao ơn gọi và sứ vụ, (1V 19, 19), thì nay Êlia muốn trao lại Êlisa sức mạnh và quyền năng của ngôn sứ.
Bây giờ, Chúa Giêsu chính thức ngỏ lời trao sứ vụ cụ thể cho các tông đồ, cũng như tín hữu Kitô hai nhiệm vụ chính yếu: Chứng nhân và Đi gieo Tin Mừng. Để trở thành chứng nhân đích thực phải dứt khoát canh tân, lột xác, thay đổi, chuyển hóa, để có thể sống đúng theo Lời Chúa, phản ảnh chính xác chân dung Người, hầu không làm méo mó, sai lệch hình ảnh của Người.
Trong Thư gửi tín hữu Êphêxô, Thánh Phaolô nhắc nhủ canh tân bản thân: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, để thật sự sống công chính và thánh thiện.” (Ep 4, 22-24)
Khi Kitô hữu đổi mới, trở về nguyên bản được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, sống công chính và thánh thiện, thì mới xứng đáng trở nên chứng nhân Đức Kitô, mới có thể nhân danh Người, đi rao giảng cho muôn dân. Nếu bản thân không canh tân, đổi mới, thì chẳng có thể thuyết phục được ai để kêu gọi sám hối, hầu được ơn tha tội. Như thế canh tân là điều kiện tiên quyết và thiết yếu của sứ vụ Đi gieo Tin Mừng.
Do vậy, tín hữu Kitô không chỉ canh tân bản thân để được hưởng ơn Cứu Độ, mà còn có bổn phận và nghĩa vụ với tha nhân, quen biết, xa lạ, hay thù địch, cùng đưa họ về với Lòng Thương Xót của Chúa. Đó chính là mệnh lệnh của Thiên Chúa Tình Yêu.
Bình an & Vui mừng
Thay vì lo lắng trốn tránh sự khó, thử thách gian nan, các tông đồ can đảm và vui vẻ trở vào Giêrusalem, nơi mới diễn ra cuộc khổ nạn thảm khốc của Chúa Giêsu, vị Thầy chí ái. Các đấng không còn mãi đứng nhìn trời, mà nhìn vào, tìm đến với đàn chiên đang bơ vơ lạc lõng, thiếu người chăn dắt.
Nhờ vào Thần Khí Chúa Thánh Thần, các tông đồ bình tâm, lòng đầy hoan hỷ, chuyên cần giảng dạy dân chúng ngay trong thành Giêrusalem, không hề sợ sệt đối đầu với hiểm nguy, với những kẻ mới cuổng nộ kết án và đóng đinh Chúa Giêsu.
Khi các tông đồ hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa, đã kết hợp nhuần nhuyễn việc cầu nguyện với hoạt động rao giảng, như trước đây Chúa Giêsu luôn nhắc nhở và làm gương sáng. Các ngài đã tuân thủ theo Thánh Ý nhiệm mầu, nên niềm vui và sự bình an tràn đầy trong lòng các ngài.
Ngày hôm nay, tôi và những người Công Giáo Ngày Chúa Nhật, như nhận xét xót xa của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, làm sao vinh danh Thiên Chúa cả sáng, Nước Chúa trị đến, khi không dám can đảm đứng lên làm chứng nhân cho Chúa Giêsu,, ngay trong môi trường xã hội nhiễu nhương, phức tạp, phản Kitô, không dám canh tân từ tâm tư, lời nói và hành động như các thánh tông đồ nhiệt thành theo Chúa.
Làm sao tôi có được ơn bình an và niềm vui trọn vẹn, khi không đồng hành với Chúa Giêsu, không tuân giữ Lời Chúa, không nghe theo những di ngôn cuối cùng của Người?
Con phải trở nên “chính con” theo ý Chúa, bằng cách giải tỏa hình ảnh Chúa khỏi những bụi bậm bao phủ, che đậy nhơ bẩn. Như điêu khắc gia đục dũa tảng đá, để nét mặt kính ái của Chúa tỏ hiện dần dần. (Đường Hy Vọng, số 607)
Con phải hiện diện trên đường hy vọng để dâng hiến và mời gọi kẻ khác dâng hiến. Đó là cách con phục vụ tốt đẹp hơn cả; con giúp họ nên giống hình ảnh Thiên Chúa trong Đức Kitô. (Đường Hy Vọng, số 611)
Lạy Chúa Giêsu, xin nhắc nhủ con luôn đâu là quê thật, để con canh tân, thánh hóa cuộc sống, xứng đáng trở nên chứng nhân của Chúa, và đem Tin Mừng đến cho mọi người.
Lạy Mẹ Maria đầy nhơn đức, xin giúp con sống theo Thánh Ý mọi lúc mọi nơi, mọi hoàn cảnh khó khăn, để con được bình an và hạnh phúc. Amen.
12. Ấn tín-- Lm Vũ Đình Tường
Sản phẩm hàng hoá thường ghi chi tiết nơi sản xuất đồng thời đóng dấu hiệu cầu chứng. Thí dụ như ghi sản xuất tại Việtnam, hay Nhật Bản. Có những loại hàng sản xuất một nơi, đóng thùng một nẻo nên ghi thêm chi tiết hàng được công ti A nhập cảng và công ti B đóng thùng. Mục đích việc làm này mong giúp giới tiêu thụ không rơi vào trường hợp con buôn vì ham lợi đánh lận con đen, mua hàng giả dán nhãn thiệt thu lợi nhiều.
Kitô hữu cũng có nhãn hiệu không phải nhãn hiệu cầu chứng mà là ấn tín chứng thực. Mỗi người trong chúng ta là sản phẩm của Thiên Chúa, được Thiên Chúa sáng tạo, đóng ấn tín cho từng người. Đây không phải là điều bịa đặt mà là một thực tại có từ thời sáng tạo vũ trụ. Sách Sáng Thế Kí chương đầu 1, câu 27 trong phần lịch sử sáng tạo ghi rõ. Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh Người. Như thế chúng ta vào đời là thành quả yêu quí của Thiên Chúa yêu thương.
Trước khi cho ngươi thành hình người trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi. Trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi. Jer 1,4
Hãy xem Ta đã ghi khắc ngươi trong lòng bàn tay Ta Is 49,6
Dấu Ấn
Sản phẩm thường mang dấu hiệu cầu chứng thương mại, ghi rõ mã số cầu chứng. Kitô hữu không mang dấu hiệu cầu chứng thương mại mà là ấn tín đức tin. Ấn tín đức tin đó được ghi nhận trong ngày lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy với dấu thánh giá trên trán con người và được xức dầu thánh hiến để trở thành hàng thật, Kitô hữu thật trong Đức Kitô. Ấn tín thập giá là nhãn hiệu của mỗi Kitô hữu dưới danh hiệu chúng ta là con cái Thiên Chúa. Kitô hữu sống làm vinh danh thập giá là Kitô hữu chính hiệu. Đó là tiếp tục sứ mạng Đức Kitô đã bắt đầu như lời tiên báo của tiên tri Is 61,1-2
Thần Khí Chúa ngự trên tôi và đã xức dầu sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó tấm lòng tan nát, công bố ân xá cho kẻ giam cầm, phóng thích tù nhân và công bố năm hồng ân của Thiên Chúa.
Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Roma 8,17 còn cho biết là con cái Thiên Chúa nên được trở thành kẻ thừa tự, thừa hưởng tình yêu viên mãn và cuộc sống đời đời của Thiên Chúa.
Nhập cảng và đóng dấu
Chúng ta chính thức gia nhập Giáo Hội trong ngày lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy nơi xứ tạo ta đang cư trú. Xứ đạo địa phương là nơi chúng ta được đóng gói, được đúc khuôn để trở thành người Kitô hữu tương lai. Xứ đạo địa phương dẫn dắt chúng ta trên con đường học đạo và hành đạo. Xứ đạo địa phương là nơi chúng ta cùng hội họp, cầu nguyện, lãnh nhận bí tích, cùng chia sẻ và nhận những đóng góp, hỗ trợ trong tinh thần Kitô hữu. Xứ đạo địa phương là nơi chúng ta kết hợp trong Chúa qua các buổi cùng cầu nguyện, cùng sinh hoạt. Vì thế có thể coi xứ đạo địa phương đóng góp rất lớn vào việc giúp thành hình và phát triển đức tin. Điều này ít nhiều gây hiểu lầm trong việc hành đạo. Kitô hữu quá cứng ngắc gắn bó với xứ đạo, nhà thờ, trung tâm gây nên chia rẽ trong cộng đoàn giáo xứ. Lí do chính là sống trong sợ hãi. Sợ hãi làm tâm hồn mất tự do. Có thể họ là người đạo đức, siêng năng, cần mẫn nhưng căn bản là đức tin chưa trưởng thành. Địa điểm thờ phượng là phương tiện cho chúng ta gặp gỡ, cầu nguyện. Viện ra đủ lí lẽ tranh đấu biến địa điểm thờ phượng thành nơi đấu lí có khác chi mượn chính đạo làm việc tà đạo. Tình trạng ngấm ngầm cạnh tranh về mọi phương diện giữa họ lẻ với giáo xứ không thể biện minh là làm việc đạo đức.
Đức Kitô về trời cho xác tín một điều quê hương chúng ta ở trên trời. Là công dân nước trời cần có tinh thần, coi trọng việc hướng về thiên quốc, luôn nhớ mọi sự trần gian đều qua đi. Vật thể cần cho cuộc sống, cần cho việc giữ đạo, Kitô hữu khôn ngoan dứt khoát từ bỏ bất cứ điều gì khi chúng trở thành vật cản bước tiến về thiên quốc, chắn tầm nhìn nước trời.
13. Khai mở một trang sử mới--Keith Witfield--Lm GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ
Khai mở trang sử mới của Giáo hội
“Các tông đồ ra đi rao giảng khắp nơi” (Mc 16,20)
Theo Thánh Luca, biến cố Chúa về trời mang chở một ý nghĩa sâu xa, nhằm biến đổi các tông đồ và khởi sự sứ vụ rao giảng Tin mừng của toàn thể Hội Thánh. Thánh Luca thuật lại biến cố này để kết thúc Tin mừng và cũng để khởi đầu sách Tông đồ Công vụ.
Việc Chúa Thăng Thiên mang lại một âm hưởng sâu xa nơi các môn đệ. Đối diện trước biến cố này, các ông ngỡ ngàng, mắt vẫn còn đăm đăm ngước lên trời cao (Cv 1,10), và chưa thể hình dung sự việc xảy ra như thế nào. Nhưng sau đó, các ông đã hiểu. Chính xác hơn, là các tông đồ đã dần dần hiểu ra và tiến sâu vào thế giới của huyền nhiệm khi nhớ lại những lời Đức Giêsu đã căn dặn. Cuối cùng, “Các ông bái lạy Người. Các ông trở về Giêrusalem lòng đầy hân hoan và họ ở trong đền thờ, ngày đêm chúc tụng Chúa. (Lc 24,52-53).
Thoạt đầu, phản ứng của các tông đồ khiến chúng ta dễ đặt nghi vấn. Đức Giêsu vừa “rời bỏ” các ông. Sự ra đi nào cũng để lại biết bao sầu thương và nỗi nhớ. Các ông buồn, nhưng sau đó các ông lại “ngập tràn niềm vui”. Tại sao các tông đồ lại có phản ứng trái chiều mau lẹ đến thế? Chúng ta nhớ lại trong diễn từ ly biệt, ở phần cuối chương 13 của Tin mừng Gioan, Đức Giêsu báo trước là Ngài sẽ bỏ lại các ông, và tâm hồn các ông sẽ xao xuyến. Nhưng sau đó Ngài trấn an và nói về Thánh Thần, là nguyên lý chữa trị những sầu buồn và tuyệt vọng (Ga 14-17). Ngài nói với các học trò của mình đừng lo lắng, các ông sẽ không mất Ngài, những Ngài vẫn ở với các ông mọi ngày cho đến tận thế qua một dạng thức khác, nhờ Thánh Thần.
Việc Chúa về trời khơi dậy niềm vui. Các tông đồ sớm nhận ra rằng khi Đức Giêsu trở về với Chúa Cha, họ sẽ lãnh nhận được nhiều đặc phúc. Trước hết, đó là quà tặng Thánh Thần. Lời hứa về Chúa Thánh Thần sẽ được thực hiện tròn đầy. Các tông đồ nhìn xem Chúa lên trời, nhưng lòng đầy vui mừng bởi vì các ông nhớ lại lời hứa của Chúa về “ Đấng sẽ đến”. Những nghi ngại và sợ hãi dần tan biến. Các tông đồ thâm tín rằng Ngài đã trỗi dậy từ cõi chết và vẫn đang sống. Qua sự phục sinh của Đức Kitô, các tông đồ trải nghiệm niềm vui và hy vọng về sự chiến thắng trước mãnh lực tử thần. Họ tín thác vào Chúa. Vì thế, sự ra đi của Đức Giêsu để trở về với Chúa Cha đem lại cho họ niềm vui. Niềm vui đó được cắt nghĩa với những lý do sau:
1. Đức Giêsu lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha. Chính Chúa Cha đã sai Ngài đến trần gian. Ngài đã tiến nhận cái chết một cách bi thương và đã được quyền năng Chúa Cha làm cho sống lại. Cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu là bằng chứng chắc chắn về ơn cứu độ và sự tha thứ tội lỗi (Do Thái 10,22-24). Đây là căn nguyên niềm vui nơi các môn đệ cũng như nơi chúng ta.
2. Khi Chúa Giêsu về trời, Ngài đảm nhận vai trò trung gian giữa con người với Chúa Cha. Nhờ Ngài và với Ngài, chúng ta được thông dự vào thế giới thần linh cùng Chúa Cha (1Ga 2,1).
3. Khi Chúa lên trời, vương quốc vĩnh cửu của Ngài bắt đầu khai mở. Đó là vương quốc đánh bại kẻ thù là Satan và ác thần. Thánh Phêrô đã viết: “ Đấng đang ngự bên hữu Thiên Chúa sau khi đã lên trời, đã bắt các thiên sứ và toàn thể thần minh phải phục quyền (1P 3,22).
4. Cuối cùng, Khi Đức Giêsu lên trời, Hội thánh được phú ban năng quyền để thực thi sứ mệnh Chúa trao phó. Khi nói về việc Đức Giêsu sống lại và lên trời, Thánh Phaolô trong thơ gửi giáo đoàn Êphêsô đã khẳng quyết: “ Thiên Chúa đã đặt tất cả mọi sự dưới chân Đức Giêsu và đặt Người làm đầu toàn thể hội Thánh, mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn (Eph 1,22-23).
Đức Giêsu được đưa về trời, khai mở vương quốc bất diệt. Ngài là Vua, là Chúa tể hoàn vũ và Satan không thể làm được gì đối với vương quốc ấy. Satan cám dỗ con người để chúng ta quên đi Đức Kitô là Vua vũ trụ. Ma quỷ làm mọi cách để cắt đứt sự liên lạc giữa chúng ta với Ngài. Sách Tông đồ Công vụ thuật lại, trước khi bị ném đá đến chết, Thánh Stêphanô đã ngước mắt lên trời và thấy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Chúa Cha. Các sách tân ước đều khải thị cho chúng ta hình ảnh Đức Giêsu Đấng Cứu thế, là Vua hoàn vũ, là Vua chiến thắng, để gọi mời chúng ta tin vào Ngài.
Trước sự kiện Chúa lên trời, tâm hồn các tông đồ ngập tràn niềm vui, chứa chan niềm hy vọng và sẵn lòng rộng mở để thực thi sứ mạng mà Đức Giêsu đã chuyển giao. Đây là ba nét căn bản đã làm đổi thay các tông đồ một cách toàn diện: Niềm vui, niềm hy vọng, và việc thực thi sứ mạng rao giảng.
Chớ gì mỗi người chúng ta hôm nay, cũng như các tông đồ năm xưa, có thể trải nghiệm niềm vui và niềm hy vọng. Đồng thời, tiếp nối dấu chân của các tông đồ, chúng ta hân hoan lên đường thực thi sứ mạng cứu thế mà Chúa Giêsu đã chuyển giao cho chúng ta trước khi Ngài trở về với Chúa Cha.
14. Hạnh phúc lớn lao--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Phi hành gia Yuri Gagarine của Liên Xô sau khi đã bay nhiều vòng trong vũ tru,ï khi trở về trái đất đã tuyên bố: “Tôi chẳng thấy Thiên Chúa đâu cả!” Thế nhưng, nhà bác học Isaac Newton khi quan sát vũ trụ bằng kính viễn vọng thì lại thốt lên: “Tôi đã nhìn thấy Thiên Chúa qua kính viễn vọng của tôi”.
Chúng ta là những người tin Chúa Giê-su Phục Sinh và lên Trời cả hồn lẫn xác. Vậy chúng ta trả lời cho vấn nạn đó như thế nào? Chúa Giê-su lên Trời nghĩa là gì? Nay người ở đâu? Việc Chúa Giê-su lên trời có liên hệ gì tới cuộc sống hiện tại của chúng ta hay không?
Theo quan niệm của người Do-thái cách đây hơn 2000 năm, vũ trụ này chia ra làm ba phần. Phần dưới mặt đất là âm phủ dành cho người chết; phần trên mặt đất dành cho loài người đang sống và trời là thế giới của Thiên Chúa và các Thánh. Để thích ứng với quan niệm bình dân ấy, các Giáo Lý Viên ngày xưa đã trình bày mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Giê-su làm hai. Giai đoạn đầu, sống lại, Đức Giê-su đi từ âm phủ lên mặt đất. Giai đoạn kế đó, lên Trời, Đức Giê-su bay từ mặt đất lên thế giới của Thiên Chúa.
Trình bày như vậy thì dễ hiểu nhưng không hoàn toàn đúng với thực tế. Hậu quả tai hại là người ta dễ hiểu lầm rằng: khi lên trời như thế Chúa Giê-su sẽ đi xa trái đất và cuộc sống của loài người, vì trời thì ở trên cao xa tắp, đâu có liên hệ gì tới trái đất! Những chữ “lên Trời” bị chi phối bởi cách suy nghĩ có giới hạn của chúng ta. Theo cách suy nghĩ đó, các biến cố xảy ra luôn luôn được gắn liền với các vị trí trong không gian. Thực ra trời đây không phải là một nơi và lên không có nghĩa là nơi đó ở trên cao. Lên Trời ở đây không hiểu theo nghĩa địa lý vì Trời hay Thiên Đàng là một trạng thái hơn là một nơi chốn. Chúng ta đang sống trong không gian và thời gian nên định vị trí mọi sự theo hai trục đó. Điều cốt yếu mà Thánh Kinh muốn dạy về mầu nhiệm Thăng Thiên là Đức Ki-tô đã ra khỏi thế giới trần thế bị tội lỗi làm nhiễm độc và một ngày kia sẽ tiêu tan để tiến vào một thế giới mới, trong đó Thiên Chúa ngự trị tuyệt đối và vật chất đã biến đổi, đã thấm nhuần tinh thần.
Thực ra khi Chúa Giê-su sống lại, Người đã lên Trời rồi theo kiểu nói của Kinh Thánh, nghĩa là Ngươì đã bước vào cõi vinh quang của Thiên Chúa Cha, Người ngự bên hữu Chúa Cha, mặc lấy vinh quang và quyền năng của Chúa Cha. Trong 40 ngày sau sống lại, Chúa Giê-su hiện ra nhiều lần để dạy dỗ và củng cố Đức Tin của các Tông Đồ. Giáo Hội đã được thiết lập nay được củng cố để được sai đi.
Như vậy sự kiện lên Trời mà Phụng Vụ Giáo Hội kính nhớ hôm nay có ý nghĩa sâu xa. Nó chấm dứt thời gian Chúa hiện diện giữa nhân loại bằng thân xác, chấm dứt thời gian huấn luyện các Tông Đồ. Một thời điểm có tính cách quyết định của Lịch Sử Cứu Độ là Đức Ki-tô ban những giáo huấn cuối cùng, trao những chức vụ phải thi hành trong Giáo Hội, chuẩn bị cho các Tông Đồ thi hành sứ mạng chứng nhân của Đấng Phục Sinh trong thế giới. Từ nay trở đi, Người sẽ hiện diện với chúng ta một cách vô hình, với quyền năng của Chúa Thánh Thần, thân xác Đức Giê-su đã được Thần Khí Hóa và đi vào cõi vĩnh hằng của Chúa Cha. Sự hiện diện này thâm sâu hơn và hiệu năng hơn. Khi còn ở trong thân xác, Chúa Giê-su chỉ ở bên cạnh chúng ta thôi, bên cạnh một số người thôi. Từ nay, với quyền năng Chúa Thánh Thần, Đức Giê-su sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người.
Khi hai người yêu nhau thì luôn muốn sống bên nhau, nhưng tới một giây phút nào đó họ cảm thấy sống bên nhau vẫn chưa đủ. Xuân Diệu đã diễn tả chân lý ấy cách sâu sắc: “Hai người tình ngồi sát bên nhau, ôm lấy nhau mà vẫn còn thấy rất xa xôi”. Nnững người yêu nhau muốn sống trong nhau, nhưng điều đó không thể xảy ra giữa loài người được vì dẫu sao thân xác của mỗi người vẫn tạo ra một ngăn cách. Điều con người không thể làm được thì Thiên Chúa đã làm. Đức Giê-su một khi ngự bên hữu Chúa Cha đã hoàn toàn mặc lấy quyền năng Chúa Thánh Thần, Người đến ngự trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Chính Người đã nói: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến nó và chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14, 23).
Để chúng ta hiểu hơn về sự hiện diện này Chúa đã dùng dụ ngôn cây nho và cành nho: “Thầy là cây nho các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được” (Ga 15, 5). Thiền sư Suzuki rất tâm đắc với huyền nhiệm này khi viết: “Thiên Chúa ở trong con người và con người ở trong Thiên Chúa. Chúa là người và người là Chúa mà Chúa vẫn là Chúa và người vẫn là người. Quả thật, đó là điều kỳ bí nhất của Tôn Giáo, một nghịch lý thâm u nhất của triết học”.
Chúa Giêsu lên trời. Điều đó dạy ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác. Trời là nơi hạnh phúc không còn khổ đau. Trời là nơi cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Trời là nơi tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt đối. Trời là nơi con người trở thành thần thánh, sống chung với thần thánh. Như thế trời là niềm hy vọng của con người. Con người không còn bị trói chặt vào trần gian. Định mệnh của con người không phải chỉ là đớn đau sầu khổ. Số phận con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi. Trời cho con người một lối thoát. Trời mở ra cho con người một chân trời hạnh phúc. Trời cho con người cơ hội triển nở đến vô biên. Chúa về Trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào.
Bài Tin Mừng hôm nay kết thúc Phúc Âm Luca nhưng thực ra là một sự khởi đầu, một sự khai mở, đó là khai trương công cuộc Truyền Giáo toàn cầu. Hình thức của việc Truyền Giáo được chỉ định rõ ràng: “Làm cho muôn dân trở thành Môn Đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em” (Mt 28,19). Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các Tông Đồ, qua các Tông Đồ rồi đến các Môn Đệ, Đức Giê-su trở thành người sống đương thời với chúng ta: “Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
Chúa đã dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc Cứu Rỗi của Người. Sứ mệnh của Chúa là sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Giáo Hội thực thi sứ mệnh đó trong khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo hội mà Chúa Giê-su tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống, dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu. Mỗi Ki-tô hữu là chi thể của Giáo Hội, thân mình mầu nhiệm Chúa Ki-tô. Mỗi Ki-tô hữu cũng là những cánh tay mở rộng của Chúa Ki-tô, nhờ đó Người không ngừng trao ban tình thương, ơn cứu độ và hạnh phúc cho mọi người.
15. Suy niệm của Lm Anthony Trung Thành
Con người qua mọi thời đại vẫn có những người không tin có đời sau, không tin có Thiên Đàng. Nhưng với chúng ta là những người Kitô hữu, chúng ta tin có sự sống đời sau, tin có Thiên Đàng. Chúng ta tuyên xưng niềm tin đó qua Kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy”. Vậy, Thiên Đàng là gì? Ai nói với chúng ta về Thiên Đàng? Làm thế nào để được lên Thiên Đàng?
1. Thiên Đàng là gì?
Những ai chết trong ân sủng và ân nghĩa của Thiên Chúa, và đã hoàn toàn được thanh tẩy, sẽ sống muôn đời với Chúa Kitô. Họ sẽ mãi mãi giống như Thiên Chúa, vì họ thấy Ngài “Đúng như Ngài là” (1Ga 3,2), “Mặt giáp mặt”, không qua trung gian của một tạo vật nào hết. Sự sống hoàn hảo như thế với Ba Ngôi cực thánh, sự hiệp thông về sự sống và tình yêu với Chúa Ba Ngôi, với Trinh Nữ Maria, các Thiên thần và tất cả các Thánh, được gọi là “Thiên Đàng”. Như vậy, Thiên Đàng là cùng đích tối hậu và là sự thực hiện những khát vọng sâu xa nhất của con người, đó là tình trạng hạnh phúc cao nhất và vĩnh viễn (x. GLHTCG số 1023-1024).
2. Ai nói với chúng ta về Thiên Đàng?
“Kinh Thánh nói về Thiên Đàng qua những hình ảnh: sự sống, ánh sáng, bình an, bữa tiệc cưới, rượu của Nước Trời, nhà Cha, thành Giêrusalem trên trời, Thiên Đàng: Mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe thấy, lòng trí con người chưa từng nghĩ tới, đó là tất cả những gì Thiên Chúa đã dành sẵn cho những ai yêu mến Ngài” (x. GLHTCG số 1027). Trong ba năm sống công khai, Chúa Giêsu bằng cách này hay cách khác đã nói với nhân loại về Thiên Đàng. Xin được đơn cử một số dẫn chứng sau đây: Ngài khẳng định: "Tôi tự trời mà xuống" (Ga 6,38); Ngài còn nói với người Do-Thái rằng: "Các ông bởi hạ giới; còn Tôi, Tôi bởi thượng giới. Các ông thuộc về thế gian này; còn Tôi, Tôi không thuộc về thế gian này" (Ga 8,23); Khi đưa các Tông đồ lên núi Taborê, Ngài đã hé mở vinh quang Thiên Đàng cho các Tông đồ thấy; Ngài kể dụ ngôn người phú hộ và ông Lazarô để nói lên số phận khác biệt giữa hai người là Thiên Đàng và Hoả Ngục (x. Lc 16, 19-31); Ngài còn nói: “Nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở”(Ga 14,2); Đặc biệt, trên Thánh giá, Ngài nói với kẻ trộm lành rằng: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng" (Lc 23,43)…
Thánh Phaolô thì khẳng định: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta, nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,20-21). Sách Khải Huyền cũng diễn tả về hạnh phúc Thiên Đàng như sau: “Bấy giờ Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ, sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,4). Chính bài đọc I và bài Tin mừng hôm nay, cũng cho chúng ta thấy việc Chúa Giêsu rời các Tông đồ mà lên trời (x. Cv 1,11; Lc 24, 51). Như vậy, chính những lời của Chúa Giêsu và các Tông đồ làm chứng cho chúng ta có Thiên Đàng.
3. Làm thế nào để được lên Thiên Đàng?
Có nhiều cách để lên Thiên Đàng, xin được gợi ý một số cách thế sau đây:
Thứ nhất, xa tránh tội lỗi. Có những vị thánh sống trên đời này không hề phạm bất cứ một tội trọng nào, chẳng hạn: Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu; Thánh Louis Gonzaga, Đức Mẹ, Thánh Cả Giuse…Đúng như thánh vịnh 15 diễn tả: Đó là những “Kẻ sống vẹn toàn, luôn làm điều ngay thẳng, bụng nghĩ sao nói vậy, miệng lưỡi chẳng vu oan, không làm hại người nào, chẳng làm ai nhục nhã. Coi khinh phường gian ác, trọng ai kính CHÚA TRỜI, lỡ thề mà bị thiệt, thì cũng chẳng rút lời, cho vay không đặt lãi, chẳng nhận quà hối lộ mà hại đến người ngay. Phàm ai làm những điều này không hề nao núng chuyển lay bao giờ” (Tv 15, 2-5).
Thứ hai, thống hối ăn năn tội. Bản chất của con người là yếu đuối, hay nghiêng chiều về sự dữ, nên con người thường sa ngã phạm tội. Vì thế, tội lỗi như là rào cản lớn nhất làm cho con người không đến được với Thiên Chúa. Đó cũng là rào cản không cho phép con người lên Thiên Đàng. Chính vì vậy, để đến với Chúa, để được lên Thiên Đàng, con người cần phải cố gắng xa tránh tội lỗi. Thánh Gioan khuyên dạy chúng ta “Đừng phạm tội nữa"(x. 1Ga 2,1). Bởi vì: "Ai phạm tội thì là người của ma quỷ, vì ma quỷ phạm tội từ lúc khởi đầu. Sỡ dĩ Con Thiên Chúa xuất hiện, là để phá công việc của ma quỷ"(1 Ga 3,8). Nhưng Ngài vẫn biết, con người không dễ gì mà làm được điều đó, vì bản tính con người yếu đuối dễ sa ngã phạm tội, nên Ngài khuyên chúng ta hãy đến với Bí tích Giao hoà để được khỏi tội: "Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng bảo trợ trước mặt Chúa Cha, đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng công chính. Chính Đức Kitô là của lễ đền tội cho chúng ta, không những vì tội lỗi chúng ta, mà còn vì tội lỗi cả thế gian nữa"( 1 Ga 2,1).
Thực tế cho chúng thấy có rất nhiều tội nhân, nhờ thống hối ăn năn trở về với Thiên Chúa nên đã được lên Thiên Đàng, các Ngài trở thành thánh, nghĩa là trở nên gương mẫu cho mọi người chúng ta noi theo, ví dụ: Kẻ trộm lành, Thánh Maria Mađalêna, Thánh Augustinô, thánh Phêrô...
Thứ ba, yêu thương anh em. Yêu thương là chu toàn lề luật. Yêu thương nhau là thực hiện lệnh truyền của Chúa Giêsu. Trong ngày phán xét chung, Chúa Giêsu, vị thẩm phán chí công sẽ dựa vào điều này như là tiêu chuẩn, là giấy thông hành để nhận hay không nhận chúng ta vào Thiên Đàng (x. Mt 25, 31- 46).
Bởi vì: Ai yêu thương thì đi trong ánh sáng (x. 1Ga 2,9), đi trong ánh sáng thì chắc chắn sẽ đến cùng Thiên Chúa là nguồn gốc của ánh sáng. Ánh sáng đó chính là Thiên Đàng. Còn ai ghét anh em mình thì ở trong bóng tối và đi trong bóng tối (x. 1Ga 2,9-10), đi trong bóng tối là đi theo đường lối của ma quỷ và chắc chắn sẽ không thể tìm thấy ánh sáng vĩnh cửu trên Thiên Đàng.
Yêu thương là dấu chỉ của sự sống thiêng liêng. "Chúng ta biết rằng: Chúng ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương nhau" (1 Ga 3,14).
Yêu thương là dấu chỉ của người môn đệ Chúa, chính Chúa Giêsu đã khẳng định điều đó, Ngài nói: "Cứ dấu này mà mọi người nhận ra anh em là môn đệ của Thầy là anh em yêu thương nhau" (Ga 13,35).
Như vậy, ở đâu có tình yêu thì ở đó có Thiên Chúa, và ở đâu có Thiên Chúa thì ở đó có Thiên Đàng. Trên Thiên Đàng người ta sống bằng Tình Yêu.
Khi nói về sự khác nhau ở Thiên Đàng và Hoả Ngục, người ta tưởng tượng câu chuyện sau đây: Cả Thiên Đàng và Hỏa Ngục đều dùng bữa với thức ăn như nhau trong một khung cảnh giống hệt nhau, trong đó mỗi người phải dùng một đôi đũa dài cả thước để ăn. Trên Thiên Đàng mọi người không tự gắp thức ăn cho mình, mà lại gắp thức ăn cho người khác. Vì thế, ai cũng ăn được no. Còn những người trong hỏa ngục thì chỉ biết nghĩ đến mình, chỉ biết gắp thức ăn đút vào miệng mình, mà đũa thì dài nên chẳng ai có thể đút được thứ gì vào miệng mình. Thế nên ai cũng đói, đến khi hết giờ ăn mà họ vẫn cứ đói, vì thế nên họ chỉ biết gây gỗ và căm thù nhau.
Thứ tư, chu toàn bổn phận loan báo Tin mừng. Chúa Giêsu đã lên trời sau khi chu toàn bổn phận Chúa Cha trao phó. Mỗi người kitô hữu chúng ta muốn được lên Thiên Đàng cũng phải chu toàn bổn phận Chúa Giêsu trao phó. Đó chính là bổn phận loan báo Tin mừng. Trước khi về trời Chúa Giêsu nói với các Tông đồ rằng: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16,17). Như vậy, loan báo Tin Mừng là lệnh truyền. Lệnh truyền thì bắt buộc người thừa lệnh phải tuân giữ. Công đồng Vatican II khẳng định: “Loan báo Tin mừng là bản chất của Giáo hội Chúa Kitô” (x. Sắc lệnh Ad Gentes, số 4;16) và đó cũng là bản chất của mỗi người kitô hữu chúng ta. Chúng ta hãy chu toàn bổn phận đó trong gia đình và nơi mọi môi trường chúng ta sống: Vợ chồng loan báo Tin mừng bằng cách hãy Phúc Âm hoá đời sống gia đình bằng cách chu toàn bổn phận yêu thương, chung thuỷ, sinh sản và giáo dục con cái. Giáo viên, học sinh, sinh viên loan báo Tin mừng bằng cách hãy Phúc Âm hoá trường học. Công nhân viên chức, bác sỹ, y tá loan báo Tin mừng bằng cách hãy Phúc Âm hoá công sở, bệnh viện…Tóm lại, dù ở đâu, trong cương vị nào chúng ta hãy trở thành những cuốn Tin Mừng sống để qua chúng ta mọi người nhận biết Chúa và được lãnh nhận ơn cứu độ. Bởi vì, Thiên Chúa “muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1 Tm 2,4).
Chúa Giêsu đã từng nói: “Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh, ai mạnh sức thì chiếm được” (Mt 11,12). Đó chính là sức mạnh của sự gìn giữ mình vô tội. Đó là sức mạnh của sự hy sinh từ bỏ tính mê nết xấu tội lỗi. Đó là sức mạnh của yêu thương tha thứ. Đó là sức mạnh của việc chu toàn bổn phận loan báo Tin mừng. Xin cho mỗi người chúng ta biết cố gắng gìn giữ mình khỏi mắc tội, nhưng nếu sa ngã phạm tội thì hãy cố gắng thống hối ăn năn, đồng thời biết sống yêu thương tha thứ và chu toàn bổn phận loan báo Tin mừng để ngày sau được lên Thiên Đàng. Amen.
16. Có những trang mạng mở lối vào đức tin--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Vào đời Vua Hùng Vương Thứ Sáu có nạn giặc Ân bên Tàu. Chúng cậy thế mạnh nên hay sang quấy nhiễu nước ta. Vua truyền hịch đi khắp nơi để tìm người tài giỏi giúp nước diệt giặc.
Bấy giờ ở làng Phù Đổng có một cậu bé đã 3 tuổi mà chỉ nằm ngửa không nói được một lời nào. Nghe sứ giả nhà vua rao hịch tìm người tài diệt giặc, cậu liền nhờ sứ giả xin với Vua, đúc cho cậu một cây roi sắt và cấp cho cậu một con ngựa bằng sắt, để cậu đi đánh đuổi ngoại xâm. Nghe lời người hiền tài nhắn gởi, Vua thuận ý. Cậu bé liền vươn vai thành người to lớn, khỏe mạnh. Cậu đứng dậy, cầm roi sắt, nhảy lên yên ngựa, oai phong đi đánh giặc Ân. Dẹp xong giặc, cậu phóng ngựa lên núi Sóc Sơn rồi về trời. Vua nghĩ là thiên thần của trời cao xuống trần cứu giúp nên liền xây một đền thờ gọi là đền Phù Đổng Thiên Vương để tạ ơn và tưởng nhớ.
Câu chuyện huyền sử nói lên khát vọng của một dân tộc nhỏ bé luôn bị ngoại bang quấy nhiễu. Một tiểu quốc hiền hòa trước một đại hán bá quyền bành trướng. Vì thế mà ước mơ có được sứ thần từ trời cao đến cứu giúp. Một khát vọng ngàn đời, được tự do và độc lập, được công lý và dân chủ.
Con người mọi thời đại luôn khát khao bay lên trời. Đi dưới đất, ngược xuôi trên biển trên sông, con người luôn ước vọng, phải làm sao lên được trời cao. Vì thế, ngày 04 tháng 06 năm 1783, lần đầu tiên, hai anh em Mongolfiers, bay lên trời bằng khí cầu được 500 mét trước hàng ngàn người chứng kiến. Ngày 12 tháng 04 năm 1961, Gagarine, phi hành gia đầu tiên bay ra khỏi tầng khí quyển của trái đất trong phi thuyền Vostok I của Liên Xô. Đến ngày 16 tháng 07 năm 1969 hai phi hành gia người Mỹ là Armstrong và Aldrin bay lên tới mặt trăng.
Cả thế giới đã hồi hộp theo dõi những phi hành gia bay vào vũ trụ. Và chuyến bay nào rồi cũng phải trở về trái đất.
Hôm nay, Giáo hội mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Người trở về nhà Cha, sau khi đã hoàn tất sứ vụ Chúa Cha trao phó. Sau thời gian 33 năm xa nhà, Người hồi hương trong vinh quang phục sinh và “được đưa về trời ngự bên hữu Thiên Chúa” (Mc 16,19).
Chúa Giêsu lên trời, một cảnh tượng thật huyền diệu. Thân xác Người nhẹ bay lên cao. Tay Người ban phúc lành cho các tín hữu. Dáng Người nhỏ dần và hòa biến vào không gian vô tận.
Trên trời cao, các thiên thần và triều thần thiên quốc đang tụ họp tổ chức nghi lễ đón tiếp Đấng Cứu Thế khải hoàn. Tác giả Thánh vịnh 23 đã chiêm ngưỡng và mô tả cuộc nghinh đón đó bằng ca khúc bất hủ: “Hỡi các khải hoàn môn và các vệ binh thiên quốc, hãy cất cao đầu lên. Hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu, hãy mở rộng ra, để Vua vinh hiển và đoàn tùy tùng tiến vào. Vua vinh hiển là ai? Thưa là Đức Giêsu uy hùng lẫm liệt, là Chúa oai phong chiến thắng. Hỡi các khải hoàn môn, hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu hãy cất cao đầu lên, để Vua vinh hiển tiến vào, Vua vinh hiển là ai? Chính là Thiên Chúa hùng dũng uy linh”.
Đoàn tùy tùng theo Chúa về trời đông vô kể, các thánh thời Cựu Ước, các tổ phụ, các tiên tri, các người công chính…đang hoan hỉ vui mừng đi theo Chúa. Đặc biệt có thánh cả Giuse, thánh Gioan Tiền hô, Tổ phụ Abraham, Giacop, Môisê, thánh Giop, vua Đavid, các tiên tri, hân hoan cung nghinh Đấng Phục Sinh khải hoàn về thiên quốc.
Trên núi Cây Dầu cả cộng đoàn môn đệ đang ngây ngất chiêm ngưỡng, tâm trí như mất hút vào không gian vô tận, lòng rộn rã hân hoan: “Hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thiên Chúa. Hãy trổi cao kèn sáo, đàn ca lên dâng Người khúc ca tuyệt mỹ, Chúa là Vua khắp muôn dân, ngự trên tòa uy linh cao cả” (Tv 47, 2-3, 6-9).
Chúa về trời vì chính Người đã từ trời xuống thế: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng đã từ trời xuống” (Ga 3,13). Người đến nhân gian để nói với nhân loại về Nước Trời, mặc khải cho con người biết Thiên Chúa. Người giúp họ thay đổi quan niệm về Thiên Chúa cũng như quan niệm về con người.
Chúa về trời, một cuộc tạm biệt chứ không ly biệt. Chia tay để rồi sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới.Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi đau khổ, bệnh tật, chiến tranh, khủng bố không còn nữa. Ở đó chỉ có thanh bình, công bằng, và hạnh phúc viên mãn, nhân phẩm và nhân vị con người hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô.
Từ nay trở đi, Chúa Kitô Phục Sinh sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người.
Khi hai người yêu nhau thì luôn muốn sống bên nhau, nhưng tới một giây phút nào đó họ cảm thấy sống bên nhau vẫn chưa đủ. Xuân Diệu đã diễn tả chân lý ấy cách sâu sắc: Hai người tình ngồi sát bên nhau, ôm lấy nhau mà vẫn còn thấy rất xa xôi. Những người yêu nhau muốn sống trong nhau, nhưng điều đó không thể xảy ra giữa loài người được vì dẫu sao thân xác của mỗi người vẫn tạo ra một ngăn cách. Điều con người không thể làm được thì Thiên Chúa đã làm. Chúa Giêsu một khi ngự bên hữu Chúa Cha đã hoàn toàn mặc lấy quyền năng Chúa Thánh Thần, Người đến ngự trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Chính Người đã nói “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến nó và chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23). Để chúng ta hiểu hơn về sự hiện diện này Chúa đã dùng dụ ngôn cây nho và cành nho “Thầy là cây nho các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5). Thiền sư Suzuki rất tâm đắc với huyền nhiệm này khi viết: Thiên Chúa ở trong con người và con người ở trong Thiên Chúa. Chúa là người và người là Chúa mà Chúa vẫn là Chúa và người vẫn là người. Quả thật,đó là điều kỳ bí nhất của Tôn Giáo, một nghịch lý thâm u nhất của triết học.
Chúa về trời mở ra sứ vụ mới cho các Tông đồ. Đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu với lệnh truyền của Chúa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo”. Nội dung của việc truyền giáo được chỉ định rõ ràng: “Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em”. Bảo chứng cho sứ vụ truyền giáo là: “Có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”. Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các Tông đồ, qua các Tông đồ rồi đến các môn đệ, Chúa Giêsu trở thành người sống đương thời với chúng ta “và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Chúa đã dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Người. Sứ mệnh của Chúa là sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Giáo Hội thực thi sứ mệnh đó trong khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo Hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống,dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.
Giáo Hội Thánh chọn lễ Thăng Thiên làm Ngày Thế giới Truyền thông. Ngày lễ Thăng Thiên gắn liền với mệnh lệnh: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19). Vì thế, Ngày Thế Giới Truyền Thông gắn liền với sứ mệnh loan báo Tin Mừng. Trong thế giới kỹ thuật số, Giáo Hội khuyến khích con cái mình vận dụng những phương tiện truyền thông hiện đại nhất để thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng.
Trong Sứ điệp truyền thông 2012, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI khuyến khích những ai làm công tác truyền thông hãy xây dựng những trang web và mạng xã hội: “Có thể giúp con người ngày nay tìm được thời giờ suy tư và tìm hiểu những vấn đề thiết yếu, cũng như tạo khoảng trống cho thinh lặng và cơ hội cầu nguyện, suy niệm, chia sẻ Lời Chúa”. Giáo Hội tìm cách hội nhập sứ điệp Tin Mừng vào trong “nền văn hoá mới này” do những những phương tiện truyền thông xã hội tạo nên với những ngôn ngữ mới, những kỹ thuật mới và với những cách cư xử mới.
Tiếp nối định hướng đó, Ngày Thế giới Truyền thông lần thứ 47 năm nay, ĐGH Bênêđictô viết sứ điệp truyền thông với chủ đề “Mạng lưới xã hội: Chân lý và Đức Tin; không gian mới cho việc Truyền bá Tin Mừng”. Lời mở đầu, ngài viết: “Tôi muốn xem xét việc phát triển các mạng xã hội kỹ thuật số đang góp phần rõ ràng tạo nên một “agora” (quảng trường) mới, một không gian công cộng mở, nơi đó con người chia sẻ các ý tưởng, thông tin, ý kiến, và cũng là nơi phát sinh những mối tương quan và hình thái cộng đồng mới”. Đức Thánh Cha nhận định tính tích cực của các trang mạng xã hội: “Các mạng xã hội, ngoài việc là một phương tiện loan báo Tin Mừng, còn có thể là một yếu tố phát triển con người. Chẳng hạn, trong một số bối cảnh địa lý và văn hóa mà các Kitô hữu cảm thấy bị cô lập, các mạng xã hội có thể giúp họ cảm thấy vẫn hiệp nhất thực sự với cộng đoàn Kitô hữu khắp thế giới. Những trang mạng tạo thuận lợi cho việc chia sẻ các nguồn tài liệu đạo đức và phụng vụ, giúp con người có thể cầu nguyện với cảm giác thấy mình gần gũi với những người cùng một niềm Tin”.
Có nhiều trang mạng dẫn lối vào Đức Tin: “Trong thế giới kỹ thuật số, có những trang mạng xã hội mang lại cho con người ngày nay những dịp để cầu nguyện, suy niệm và chia sẻ Lời Chúa. Những trang mạng này cũng có thể mở những cánh cửa dẫn vào những chiều kích khác của đức Tin. Quả thật, nhờ gặp gỡ trước trên mạng, nhiều người đã khám phá tầm quan trọng của việc gặp gỡ trực tiếp, những kinh nghiệm của cộng đoàn, và cả việc hành hương, là những yếu tố luôn luôn quan trọng trong hành trình đức Tin. Bằng cách cố gắng đưa Phúc âm hiện diện trong thế giới kỹ thuật số, chúng ta có thể mời gọi mọi người cùng cầu nguyện hoặc cử hành phụng vụ tại những nơi chốn cụ thể như nhà thờ, nhà nguyện. Trong bất cứ hiện thực nào của cuộc sống mà chúng ta được mời gọi tham dự, dù đó là không gian vật lý hữu hình hay trong thế giới kỹ thuật số, không được thiếu đi sự gắn bó và hiệp nhất khi diễn tả đức Tin và làm chứng cho Tin Mừng. Khi gặp gỡ tha nhân, chúng ta đều được kêu gọi bằng mọi cách phải làm cho tình yêu Thiên Chúa được nhận biết đến tận cùng trái đất”.
Đứng trước một lục địa mênh mông như Châu Á, làm sao có đủ nhân lực và phương tiện để đưa Tin Mừng đến từng nhà? Đây là câu trả lời đích xác: “Giáo Hội cần khám phá những cách thế để tận dụng mọi phương tiện truyền thông đại chúng vào kế hoạch mục vụ và hoạt động mục vụ, nhờ biết sử dụng cách hữu hiệu mà sức mạnh của Tin Mừng có thể đến và tiếp xúc một cách rộng rãi với từng cá nhân cũng như với toàn cả các dân tộc, đưa các giá trị của Nước Trời thâm nhập vào các nền văn hóa của Châu Á”. (x.Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á, số 48).
Cho dù phương tiện truyền thông hiện đại tới mấy, nhân lực vẫn là yếu tố quan trọng. Sức mạnh của truyền thông cũng phải phát xuất từ đức tin, chứ không từ những kỹ thuật. Đức tin mạnh mẽ là nhờ chiêm niệm: “Trong thinh lặng, tư tưởng phát sinh và có được chiều sâu. Trong thinh lặng, chúng ta hiểu rõ hơn điều mình muốn nói và muốn người khác đón nhận. Trong thinh lặng, chúng ta tìm cách diễn tả chính mình tốt hơn”. (Sứ điệp Truyền Thông 2012).Giữa những ồn ào của truyền thông hôm nay, lời rao giảng Tin Mừng qua phương tiện truyền thanh, truyền hình, internet muốn đạt mục đích và kết quả như mong muốn cần có tĩnh lặng: “Trong thinh lặng của chiêm niệm, Lời hằng hữu hiện diện cách mạnh mẽ hơn bao giờ hết, và chúng ta khám phá ra kế hoạch cứu độ mà Thiên Chúa thực hiện trong suốt lịch sử bằng lời nói cũng như hành động” (Sứ điệp Truyền Thông 2012). Mỗi người Kitô hữu, nhờ thinh lặng, lắng nghe được tiếng Chúa và đi vào cuộc giao tiếp với Chúa, chúng ta mới có thể truyền thông Lời Chúa cho người khác. Chỉ có những người tin thực sự và mãnh liệt mới có thể làm cho Tin Mừng đến với mọi người.
Mỗi Kitô hữu là chi thể của Giáo Hội,thân mình mầu nhiệm Chúa Kitô. Mỗi người chúng ta cũng là những cánh tay mở rộng của Chúa Kitô, nhờ đó Người không ngừng trao ban tình thương, ơn cứu độ và hạnh phúc cho mọi người. Chúa về trời, chúng ta vào đời làm chứng nhân của Tin mừng cứu độ và loan báo tin vui, mai này chúng ta cũng sẽ về nhà Cha trên trời.
17. Bàn tay Chúa.
Người ta kể rằng: sau thế chiến thứ hai, một toán lính đồng minh đi giúp các người dân xây dựng lại cuộc sống trên đống gạch hoang tàn đổ nát. Họ làm lại nhà cửa, sửa chữa ngôi nhà thờ trong làng. Nhưng đến khi dựng tượng Chúa, thì toán lính không tìm đâu ra hai bàn tay của pho tượng đã bị bọm đạn cắt cụt. Tìm kiếm suốt ngày trong đám xà bần mà cũng chẳng thấy. Toán lính bèn chịu thua. Viên sĩ quan viết vào pho tượng câu này: Dân làng sẽ thay Chúa làm những công việc mà đáng lẽ hai bàn tay Chúa sẽ làm.
Một người khốn khổ nằm chờ chết bên vệ đường. Chúa xót thương người ấy, nhưng Chúa lại không thể gởi chén cơm manh áo cho người ấy. Nhưng may quá, tôi không phải là Chúa, tôi có thể đem cho người ấy một ly nước, một chén cơm. Đó là chỗ duy nhất tôi hơn Chúa.
Trong Phúc Âm chính Chúa cũng đã phán: Ta đói, các ngươi đã cho ăn, Ta khát, các ngươi đã cho uống, Ta mình trần các ngươi đã cho mặc, Ta bị đau yếu và bị cầm tù, các ngươi đã viếng thăm. Chúa có thể làm nên cơm gạo cho người nghèo nhưng Chúa lại không thể đưa cơm gạo ấy cho họ được. Ngài phải nhờ đến đôi bàn tay của chúng ta.
Đó là những suy tư tôi đọc thấy trong một cuốn sách. Nghe qua thì rất táo bạo, nhưng đã nói lên một sự thật rất sâu xa, đó là Chúa dùng bàn tay chúng ta để ban phát những quà tặng, để xoa dịu những nỗi khổ đau cũng như để nâng đỡ và khích lệ cho những người chung quanh.
Trong chương trình cứu độ của Chúa, phần đóng góp của con người cũng thật là quan trọng như lời thánh Augustinô đã nói: Chúa sẽ không thế nào cứu chuộc được chúng ta nếu như chính bản thân chúng ta lại không muốn. Chúa đã chịu chết một lần trên cây thập giá và đã làm nên kho tàng ơn cứu độ. Thế nhưng Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài, để phân phát nguồn ơn sủng ấy cho anh em đồng loại. Hay nói một cách khác cuộc sống của người Kitô hữu, phải là một sự nối tiếp công trình cứu độ của Đức Kitô. Bản thân chúng ta phải kéo dài sự hiện diện của Chúa cho đến tận cùng thời gian.
Cũng chính vì thế, trước khi về trời, Chúa đã truyền cho các môn đệ: Đức Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê rusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này. Và như vậy, Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài đễ đem Tin Mừng cứu độ đến cho mọi người. Bởi đó, chúng ta phải sống thế nào để người khác khi nhìn vào chúng ta sẽ nhận ra sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa.
18. Chúa lên trời
Chiều thứ năm tuần thánh, sau khi rời phòng tiệc ly, Chúa Giêsu đã dẫn các môn đệ theo con đường Bêtania để lên núi Cây Dầu. Và tại đây, Ngài đã phải trải qua một cơn hấp hối đầy cay đắng, đến nỗi mồ hôi máu chảy xuống…
Rồi ngày hôm nay, Ngài đã đi lại con đường ấy, cũng để tiến đến núi Cây Dầu. Và tại đây, Ngài đã gặp gỡ, đã vĩnh biệt các môn đệ, trước khi Ngài được đưa lên trời dưới mắt các ông.
Từ đó, chúng ta nhận thấy: Cùng một địa điểm, nhưng có những khác biệt và tương phản. Thực vậy, lần trước Ngài đến để thực hiện thánh ý Chúa Cha, đó là chịu chết trên thập giá để cứu chuộc nhân loại. Lần sau Ngài đến trong vinh quang như một Đấng đã chiến thắng.
Tôi nghĩ rằng đó chính là hình ảnh, là con đường, mà mỗi cá nhân chúng ta cũng như toàn thể Giáo Hội, sẽ phải dấn thân vào trong thời điểm hiện nay.
Đúng thế, có những lúc Giáo Hội phải lên núi Cây Dầu để làm quen với thập giá, nếu muốn được chiêm ngưỡng vinh quang phục sinh. Đọc lại Phúc Âm chúng ta sẽ thấy rõ được điều ấy.
Thực vậy, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ điều gì trước khi vĩnh biệt họ? Tôi xin thưa: Ngài đã nhắc tới cái chết và sự sống lại của Ngài nhằm tha thứ tội lỗi. Rồi Ngài phán: Từ nay họ sẽ là chứng nhân của mầu nhiệm vượt qua, bằng các loan báo Tin mừng hoán cải ở mọi nơi, trong mọi lúc và trên mọi nẻo đường trần gian. Và một điều quan trọng khác nữa, đó là họ sẽ phải sống mầu nhiệm thập giá để làm chứng cho Đức Kitô.
Vì thế, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy thiên thần đã nhắc khéo các môn đệ:
- Này các bạn xứ Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời làm chi.
Hay nói cách khác:
- Các bạn hãy về đi. Về với sứ mạng vừa mới được trao phó.
Đúng thế, con người chúng ta tiến bước, đôi mắt ngước nhìn trời, nhưng bàn chân thì lại đạp đất. Đó là một hình ảnh trung thực nhất về Giáo Hội nói chung và về mỗi người chúng ta nói riêng. Tuy nhiên, nhiều lúc chúng ta lại có khuynh hướng ly khai, tách biệt hai yếu tố căn bản ấy và chúng ta đã tạo nên một nếp sống chông chênh, không vui lòng Chúa, mà cũng chẳng đem lại lợi ích gì cụ thể cho bản thân mình.
Nếu ngày xưa Đức Kitô đã phải vác thập giá để tiến tới Phục sinh, thì hôm nay cá nhân chúng ta cũng như toàn thể Giáo Hội cũng phải bước đi trên con đường ấy, bởi vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đương về vinh quan và thập giá là đương dẫn tới phục sinh.
Vì thế, hãy chập nhận thập giá đời thường là những hy sinh gian khổ chúng ta gặp phải trong cuộc sống, để rồi trong ngày sau hết, chúng ta cũng sẽ được Chúa đưa lên quê hương Nước trời, chia sẻ niềm hạnh phúc vinh quang với Ngài.
19. Lễ Chúa Thăng Thiên
Cùng với Giáo Hội, hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Việc Chúa Giêsu về trời đem lại cho chúng ta niềm hy vọng lớn lao, đó là chúng ta sẽ được về trời với Chúa sau khi hoàn tất cuộc đời trần gian này. Đồng thời Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy biết chuẩn bị cho cuộc sống mai sau trong giây phút hiện tại hôm nay.
Có một sự thật mà con người thường không muốn nhắc tới hay không muốn bàn luận nhiều về nó. Tuy nhiên, cho dù con người muốn trốn tránh nhưng nó vẫn xảy ra đó là cái chết. Rất nhiều người muốn biết chết rồi sẽ đi đâu, sau cái chết sẽ như thế nào? Và không ai có thể trả lời được câu hỏi này ngoài một mình Chúa Giêsu, Đấng đã sống lại từ cõi chết. Trước sự bất lực của cái chết, và để cứu con người khỏi hư mất vì tội lỗi, Chúa Giêsu đã xuống thế làm người, Ngài sống trọn kiếp người như chúng ta. Ngài cũng đã trải qua mọi vui buồn, đau khổ như chúng ta. Ngài cũng đã trải qua cái chết nhưng Ngài đã sống lại.
Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã nhiều lần hiện ra với các môn đệ, để dạy dỗ, an ủi, và chuẩn bị cho các ông tiếp tục công việc của Ngài là làm cho mọi người nhận biết rằng: ngoài cuộc sống ở trần gian này họ còn có một quê hương vĩnh cữu trên trời. Biến cố Chúa Giêsu lên trời, giúp cho chúng ta phần nào hiểu được chết không phải là hết nhưng là sẽ bước vào cuộc sống bất diệt với Chúa, vì Chúa Giêsu đã sống lại và lên trời. Ngài đi để chuẩn bị chỗ cho chúng ta, và chúng ta sẽ được hưởng hạnh phúc với Ngài sau khi cuộc đời trần thế chấm dứt.
Trong bài đọc 1, Sách Tông Đồ Công Vụ cho thấy, khi Chúa Giêsu lên trời các môn đệ cứ mãi mê ngắm nhìn vinh quang của Thầy, cho nên thiên thần đã nhắc nhở các ông "Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời?". Hãy xuống núi và trở về với cuộc sống hiện tại. Hãy ra đi làm chứng cho những gì các ông vừa nhìn thấy. Chúa về trời không có nghĩa là Ngài bỏ con người mồ côi nhưng Ngài sẽ hiện diện với con người bằng cách khác. Ngài hiện diện qua các bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể, Ngài hiện diện qua lời dạy bảo của Hội Thánh và Ngài hiện diện qua cuộc sống của mỗi người chúng ta. Giờ đây Ngài không còn bị giới hạn bởi không gian và thời gian cho nên Ngài có thể hiện diện với chúng ta mọi nơi mọi lúc.
Việc Chúa Giêsu lên trời chứng tỏ công trình cứu chuộc nhân loại đã hoàn tất. Từ nay Giáo Hội hay nói cách khác là mỗi người chúng ta phải tiếp tục công việc của Chúa đó là "hãy nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân". Có nhiều cách thế để chúng ta làm chứng cho Chúa, nhưng cách làm chứng hữu hiệu nhất là cách sống tốt đẹp của chúng ta. Làm chứng cho Chúa bằng một cuộc sống biết yêu thương, giúp đỡ, phục vụ người khác ngay trong chính gia đình, xóm làng của chúng ta. Cuộc sống của chúng ta cũng phải lo làm ăn, sinh sống. Chúng ta cũng gặp đau khổ, thử thách như bao người. Tuy nhiên, điều đó không làm chúng ta mất đi niềm vui và hy vọng. Vì chúng ta biết được cùng đích của đời mình là hạnh phúc quê trời.
Người công giáo tuy sống dưới đất nhưng có bổn phận làm chứng cho những sự trên trời. Chúng ta cũng sống, cũng làm ăn, cũng vui chơi như bao người nhưng trong khi người khác họ sống, làm tất cả như chỉ có đời nay thôi thì chúng ta lại tận dụng đời này để hướng về đời sau. Cuộc sống đời này là quãng đường để đi vào đời sau. Chúng ta không thể về trời với Chúa khi vẫn mang trong mình những hận thù, đố kỵ, ghen ghét, chia rẽ. Hành trang bước vào đời sau không phải là tiền của, tài sản, mà đó là sự phục vụ, yêu thương, tha thứ mà chúng ta đã làm cho anh chị em mình.
Mừng lễ Chúa Giêsu lên trời hôm nay, mỗi người chúng ta hãy luôn nhớ rằng chúng ta có một quê hương vĩnh cửu trên trời. Nơi đó sẽ không còn đau khổ và sự chết. Nơi đó chúng ta sẽ được hưởng hạnh phúc muôn đời với Chúa. Nhưng để đạt được điều đó ngay từ hôm nay, chúng ta phải ra sức làm cho cuộc sống hiện tại thấm đượm yêu thương. Cuộc sống cho dù có gặp khó khăn thử thách cũng không làm chúng ta thất vọng. Vì chúng ta tin rằng Chúa luôn hiện diện và đồng hành với chúng ta.
20. Đường lên Trời--Dã Quỳ
Xuyên suốt bài đọc Tin Mừng hôm nay, chúng ta cảm nhận một tình yêu chan chứa của Chúa Giêsu dành cho môn sinh. Những lời nhắn nhủ như càng tha thiết hơn! Chúa mong muốn môn đệ hiểu và xác tín thâm sâu trong trái tim những Lời Kinh Thánh nói về Thầy mình,về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh mà Người đã trải qua. Và giờ đây, sắp đến lúc Chúa rời các ông. Mong ước cuối cùng của Chúa trước khi về trời là các môn đệ trở thành chứng nhân cho Chúa. Con đường làm nhân chứng cũng là con đường dẫn về trời cao của môn đệ và của mỗi Kitô hữu.
- Chúa Giêsu lên trời, đánh dấu cuộc ra đi và vắng mặt của Chúa. Từ nay, môn đệ không còn thấy Chúa cách cụ thể, không đụng chạm, không nghe và cũng không đồng hành bên cạnh như trước đây Người đã sống cùng. Chúa ra đi và vắng mặt, nhưng Người sẽ hiện diện với môn đệ, với Giáo Hội và với mỗi người chúng ta bằng cách thế mới. Người không còn bị giới hạn trong không gian và thời gian nữa.
- Chúa Giêsu lên trời, kết thúc sứ mạng của Người nơi trần gian. Nhưng lại là lúc khởi đầu sứ mạng của môn đệ, sứ mạng loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Chúa.
Chúa cho các môn đệ hiểu vinh quang của Chúa đòi phải hy sinh. Muốn có phục sinh, phải chết. Hy sinh là biểu hiện của tình yêu, như hạt lúa gieo vào lòng đất phải thối và chết đi mới sinh bông hạt (x. Ga 12,24). Với Mầu nhiệm Vượt qua của Chúa, chết là một bước trong quá trình biến đổi để đi tới Phục sinh. Chính vì thế, Chúa muốn môn đệ xác tín vững vàng để rồi: "Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân."(Lc 24,47), lời rao giảng Nhân Danh Người không ngoài lời rao giảng về Cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa. Các Tông đồ và môn đệ sau này đã nằm lòng mỗi khi rao giảng cho dân chúng vì các ông là chứng nhân những gì các ông giảng. (x.CVTĐ 2, 22-24)
Trọng tâm của sứ vụ rao giảng là tác động của Chúa Thánh Thần. Người ban quyền năng và cho môn đệ hiểu tất cả Lời của Chúa Giêsu, sẽ hướng dẫn môn đệ biết phải làm gì, nên "Hãy ở lại trong thành cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống."(Lc 24,49) Vì thế, để ra đi thi hành sứ mạng, người môn đệ cần phải lắng nghe Lời Chúa để có thể hợp nhất trọn vẹn trong từng lời nói, hành động của ta với Chúa Cha và Chúa Giêsu, như chính Chúa Giêsu đã sống hiệp nhất với Cha "Lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra..."(Ga 14,10). Vậy sứ mạng chứng nhân luôn được Ba Ngôi Thiên Chúa đồng hành và trợ giúp, vì đó là công việc của Thiên Chúa sai chúng ta làm. Chúng ta là khí cụ trong bàn tay Chúa nên hãy can đảm và tin tưởng ra đi vì có Chúa luôn gìn giữ vững bước chân của ta.
- Đường lên trời của người Kitô hữu chúng ta đó là con đường làm chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh bằng chính đời sống phục vụ, yêu thương, tha thứ, vui tươi.... Tiếp nối sứ mạng của các môn đệ, mỗi Kitô hữu cũng được Chúa sai vào trong thế gian. Dù sống giữa trần gian, nhưng chúng ta không thuộc về trần gian này. Chính Chúa Giêsu đã đến trần gian và sống trọn phận người, Chúa thấu hiểu những khổ đau, bi đát hay niềm vui, hạnh phúc của cuộc đời.
Có những khi chúng ta phải đối diện với bao nặng nề, gian khó của cuộc sống vì miếng cơm manh áo, đôi lúc làm chúng ta mệt mỏi, chán chường. Nhưng Lời Chúa và sức mạnh của Chúa đã giúp chúng ta tin tưởng nhận ra thánh ý Chúa và ơn gọi của mình giữa cuộc đời.
Sống sứ mạng chứng nhân của Kitô hữu, nhiều lúc chúng ta gặp phải bao sự chống đối, thù nghịch, chê bai... cũng làm chúng ta ngại ngùng, sợ hãi. Thế nhưng bàn tay quan phòng yêu thương của Chúa luôn che chở, phù giúp chúng ta vượt thắng vững vàng.
Giữa thế gian luôn đầy dẫy những cám dỗ về quyền lực, tiền của, danh vọng...Có nhiều lần chúng ta cũng đã xao xuyến, lo âu, xem nhẹ hạnh phúc Nước Trời. Như các môn đệ xưa, chỉ nghĩ theo kiểu con người, mong có một vương quốc chính trị và chức vụ cao sang (x. CVTĐ 1,6) Nhưng rồi quyền năng và lòng thương xót Chúa đã dẫn chúng ta về với Người, để ta nhớ lại và ghi tâm "Quê hương chúng ta ở trên trời" và ta biết ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu để được thêm sức mạnh nâng đỡ.
Dẫu cuộc sống có vất vả nhọc nhằn nhưng không làm chúng ta quên trời cao, và vinh hoa của thế gian quyễn rũ không làm chân ta lạc lối về Quê Trời. Nhưng ta luôn biết tìm kiếm những gì thuộc thượng giới là bác ái, chia sẻ; là yêu thương, khiêm nhường; là công lý và hòa bình,...là sống tinh thần Nước Trời ngay tại thế... tất cả là thực thi Lời Chúa và Giới răn của Người, đó mới là những gì tồn tại và vĩnh cửu đưa chúng ta vào hưởng vinh quang bên Chúa.
- Đường lên trời là hành trình xa xôi, vất vả. Theo Chúa và làm chứng cho Chúa là sứ mạng khó khăn không đơn giản. Chúng ta còn đang loay hoay giữa biển đời. Nhưng niềm tin tưởng của ta đặt nơi chính Chúa. Chúa đã lên trời, Chúa là đầu, chúng ta là thân thể của Người (x.1Cr 12,27). Chỉ một mình Chúa đã từ trời xuống thế vì lòng thương xót nhân loại, nay Chúa lên trời thì chắc chắn khi chúng ta sống hợp nhất với Chúa và hoàn thành sứ mạng Chúa trao, chúng ta cũng sẽ có ngày đoàn tụ bên Chúa bởi Người đã hứa "Thầy đi dọn chỗ cho các con." (x. Ga 14,2-3) vì trong nhà Cha có nhiều chỗ ở và đầu ở đâu thì thân thể cũng sẽ ở đó.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết đường lên trời và trung thành thực thi sứ mạng chứng nhân cho Chúa tại trần gian này. Nguyện Thánh Thần Chúa cùng đồng hành để chúng con có thể lên đường trong tin tưởng và an vui. Amen.
21. Rao giảng với Chúa Thánh Thần
Có lẽ trong thời đại hôm nay, khi nói đến Nước Trời, đến kẻ chết sống lại thì người ta đã cho là chuyện phù phiếm hay hoang đường. Vậy làm sao người ta có thể chấp nhận khi nói đến hai chữ Thăng Thiên, Chúa về trời họ lại càng cho đó là chuyện phù phiếm giả tạo, khó tin. Nguyên do chính là con người thời nay có khuynh hướng tục hóa, quan niệm về thế giới tự nó có thể giải thích được, mà không cần tới Thiên Chúa. Vì thế Thiên Chúa đã trở nên thừa thải và choán chỗ vô ích. Quan niệm đó đưa con người tới chỗ bỏ qua Thiên Chúa, không đếm xỉa gì đến Thiên Chúa thậm chí còn chối bỏ Thiên Chúa, để nhìn nhận khả năng của con người. Đối với nhiều người thời này không phải là sự lựa chọn giữa Thiên Chúa và Satan, mà là giữa Thiên Chúa và cái không, rồi người ta đã chọn lấy cái không đó. Điều đáng nói là cái không đối lại với Thiên Chúa không phải là cái không trống rỗng, mà nó chứa tất cả các nguồn lợi phong phú của Thế giới vật chất, tiến bộ, phát triển và hưởng thụ. Vì thế, hơn hai ngàn năn trước, khi về trời Đức Giêsu đã trao cho các môn đệ công việc "Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội, chính anh em là chứng nhân về những điều này". Thật ra sứ điệp Kitô giáo không phải là một ý tưởng sáng tạo, một sáng kiến độc đáo chi phối những khám phá mới, cũng không phải là việc tìm kiếm các chân lý, nhưng chính là xác quyết sự kiện: Đức Kitô đã chết, vá đã sống lại. Kitô giáo trước hết là một biến cố rồi biến cố ấy thành lịch sử, rồi lịch sử ấy không tường thuật lại những hoạt động của loài người nhưng tường thuật lại những hoạt động của Thiên Chúa, nhất là sự hy sinh của một vi Thiên Chúa nhập thể, đem ơn cứu chuộc đến cho mọi dân tộc. Loan truyền sứ điệp ấy chính là chứng thực biến cố ấy, vững lập trường về biến cố ấy. Đó là làm chứng về lời nói, bằng đời sống, và có khi phải bằng máu nữa. Chính điều đó đã chỉ cho họ thấy chính Đức Giêsu Phục Sinh đã từ Thiên chúa mà đến bây giờ lại về với Thiên Chúa. Chúng ta không còn mặt gặp mặt nữa. Biến cố thăng thiên cũng nhằm ý nghĩa chỉ rõ đích điểm của đời người là sinh ra trong Thiên Chúa, và chúng ta cũng sẽ được trở về với Người.
Hơn nữa, để việc loan báo nên sống động và có kết quả tốt đẹp, con người phải biết đón nhận sức mạnh của Thánh Thần chúa "Phần Thầy, Thầy sẽ gởi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa", chính Chúa Thánh Linh là chứng ta đích thực. Ngài sẽ làm chứng trong các tâm hồn bằng đức tin bên trong, còn con người làm chứng bên ngoài bằng việc rao giảng. Trước khi loan báo Tin Mừng cho người khác chúng ta phải để cho Chúa Thánh Thần uốn nắn từ bên trong con người của mình, để mỗi ngày mình càng trở nên giống Chúa Kitô hơn. Vì chúng ta không thể rao giảng và làm chứng về Đức Kitô nếu bản thân mình không phản ánh trung thực hình ảnh của Đức Kitô, gương mặt của Đức Kitô chỉ có thể trở nên sống động trong ta nhờ ân sủng và hoạt động của Chúa Thánh Thần.
Đức Phaolô VI đã nhấn mạnh đến vai trò của Chúa Thánh Thần trong công cuộc loan báo Tin Mừng: "sẽ không bao giờ có phúc âm hóa được, nếu không có tác động của Thánh Thần"(LBTM số 75). Thật vậy chính Thánh Thần đã khiến Phêrô Phaolô và các tông đồ của Đức Giêsu mạnh dan rao giảng Tin Mừng Phục Sinh, cũng chính Ngài biến đổi và soi sáng cho các Kitô hữu hiểu được ý nghĩa thâm sâu của lời Đức Giêsu giảng dạy và hiểu được mầu nhiệm con người Đức Giêsu. Điều quan trọng là mỗi người chúng ta có chịu đón nhận và để cho Ngài hoạt động trong mình không? Cho dù ngày nay với những phương tiện hiện đại người ta cũng đã biết tận dụng và đưa vào việc truyền giáo những kỹ thuật rất hữu ích. Tuy nhiên những kỹ thuật dù hoàn hảo đến đâu, cũng không thể thay thế được tác động âm thầm nhưng vô cùng hữu hiệu của Thần Khí, vì không có Ngài chúng ta không thể làm gì được.
Lạy Chúa, xưa cũng như nay, công việc truyền giáo luôn gặp nhiều trở ngại, nhiều khó khăn, nhiều phức tạp. Xin cho con biết chấp nhận những khó khăn đó cùng với Chúa Thánh Thần để công việc loan báo ngày càng tốt đẹp hơn. Amen.
22. Chúa lên trời
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã căn dặn những lời cuối cùng như một di chúc để lại cho các môn đệ thân thương, Người muốn các môn đệ của mình xác tín một điều: muốn được thông phần vinh quang với Người, họ phải chấp nhận đi vào con đường hẹp, con đường của từ bỏ, của thập giá. Chính Người đã đi trên con đường ấy trước và mời gọi họ bước theo: "Đức Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại"(Lc 24, 46). Thập giá là nơi duy nhất cho chúng ta thấy tình yêu vĩnh cữu của Thiên Chúa. Qua thập giá, Chúa Giêsu mở ra một con đường hạnh phúc thật, hạnh phúc bất diệt cho chúng ta. Và Người muốn những ai theo Người cũng được hưởng niềm hạnh phúc ấy.
"Chính anh em là chứng nhân về những điều này" (Lc 24, 49). Các tông đồ phải là chứng nhân về tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Là nhân chứng, các tông đồ không thể ngồi yên một chỗ mà phải ra đi, phải thắng vượt tính nhút nhát, phải hy sinh và can đảm hoàn thành sứ mạng làm chứng của mình, phải tuyên xưng niềm tin vào Đấng đã chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Các ông thi hành sứ mạng chứng nhân cho Đấng phục sinh là xây dựng thế giới yêu thương, công bằng xứng với trời mới đất mới mà Chúa Giêsu đã cứu chuộc. Các ông làm chứng về Người bằng một đời sống yêu thương phục vụ, vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá như Người đã làm.
Như thế, Chúa Giêsu muốn các ông là cánh tay nối dài sứ mạng cứu độ của Người trong thế giới. Về trời không phải là Người không còn hiện diện nhưng Người vẫn hiện diện qua các tông đồ, qua Giáo Hội. Và sứ điệp ngày xưa Người trao cho các tông đồ thì ngày nay vẫn đang được thực hiện qua mỗi người chúng ta. Về trời nhưng chương trình cứu độ của Người vẫn phải được tiếp tục nơi thế gian này, qua Hội thánh, và qua mỗi người chúng ta. Sứ mạng cứu độ này cần phải được thực hiện bằng lời nói và bằng những hành động cụ thể bên ngoài.
Chúa Giêsu vẫn đang hiện diện sống động giữa chúng ta. Bổn phận của chúng ta là phải làm sao cho mọi người sống chung quanh chúng ta và thế giới này nhận ra được sự hiện diện đó. Do đó, đối với chúng ta, sứ mạng rao giảng về Chúa Giêsu mang một ý nghĩa căn bản trong cuộc sống Kitô hữu. Đó chính là làm chứng cho Người bằng đời sống Kitô hữu của mình. Để rao giảng Chúa Giêsu cho thế giới, chúng ta phải bắt đầu bằng "cái có" của bản thân mình. Chúng ta phải có Người trong cuộc sống của mình, có kinh nghiệm và cảm nghiệm thực tế về Người trong đời sống mình, có đi lễ có đọc kinh, có rước lễ và nói chuyện thân tình với Chúa Giêsu Thánh Thể, có kinh nghiệm suy niệm Lời Chúa và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống. Hơn nữa, chúng ta phải có tình yêu Chúa trong cuộc sống được thể hiện qua những cử chỉ yêu thương, giúp đỡ, quan tâm đến tha nhân, chúng ta có kinh nghiệm về sự tha thứ, kinh nghiệm về bí tích hoà giải, kinh nghiệm cần lòng thương xót của Chúa,...Khi có Chúa trong lòng, khi chúng ta đã cảm nghiệm về Chúa, chúng ta dễ dàng đem Chúa đến cho thế giới, chia sẻ kinh nghiệm về cuộc gặp gỡ thân mật và chân tình với Người cho thế giới, cho anh chị em chung quanh chúng ta. Đồng thời, chúng ta là muối, là men, là ánh sáng cho đời (Mt 5,13-16) nghĩa là cuộc sống Kitô hữu phải tốt, phải ướp mặn chất Tin Mừng, phải phản chiếu khuôn mặt Chúa Giêsu. Mỗi người chúng ta phải là một tấm gương phản chiếu được tình thương của Thiên Chúa đến với mọi người xung quanh. Mỗi người chúng ta phải là một dấu chỉ cho người khác. Chúng ta dù bé nhỏ nhưng sức mạnh đức tin của chúng ta là Chúa Thánh Thần sẽ bù lại cho tình trạnh mong manh của chúng ta. Được như thế, chúng ta đang làm chứng cho Chúa Kitô phục sinh.
Sống mầu nhiệm Chúa lên trời hôm nay, chúng ta không phải chỉ đăm đăm ngước mắt nhìn về trời để nuối tiếc, để tìm kiếm, nhưng là ra đi vào thế giới, vào môi trường mình đang sống để làm chứng cho Chúa, để giới thiệu Chúa Kitô cho anh chị em chung quang mình. Sống chứng nhân là xây dựng nước trời ngay trong cuộc sống này, trong gia đình, trong họ đạo của chúng ta. Chúa Kitô đặt hết niềm tin tưởng nơi chúng ta, để rồi một khi chu toàn bổn phận của mình nơi trần gian, chúng ta cũng sẽ trở về trời với Chúa của mình.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con dám bước theo Chúa, can đảm sống đức tin, chấp nhận hy sinh, dám sống yêu thương để làm chứng cho Chúa giữa mọi người để mai sau chúng con cũng được vào Nước Trời hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa. Amen.
23. Cuộc sống chứng nhân – Thiên Phúc—‘Như Thầy Đã Yêu’
Báo ‘Le Figaro’ đăng trả lời phỏng vấn của tổng thống Nga Putin. Trong đó có câu hỏi như sau:
Hỏi: Trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo chí Nga, ông cho biết là đã đến cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu ở Giêrusalem, trong tay cầm thánh giá. Nhưng ông lại là cựu sĩ quan của tình báo KGB. Ông nghĩ thế nào về sự trái ngược đó?
Trả lời: Cuộc sống được tạo nên bằng những điều trái ngược. Khi không còn những điều trái ngược thì đó là cái chết. Nước Nga không phải là một quốc gia giả tạo mà nó có một lịch sử lâu đời. Thời kỳ còn là nước Liên Xô, đã có nhiều ý đồ làm thay đổi truyền thống, nhưng vẫn không sao tách nước Nga khỏi những giá trị văn hóa của dân tộc. Nền văn hóa đó, cũng giống như cây cỏ mọc trên các đại lộ của thành phố, xuyên thủng nhựa đường để tồn tại.
Mẹ tôi là một phụ nữ theo đạo, mặc dù đi lễ nhà thờ không phải là không nguy hiểm thời Liên Xô trước đây. Mẹ tôi đã bí mật làm lễ rửa tội cho tôi tại nhà thờ. Vậy tại sao các ông lại có vẻ ngạc nhiên khi tôi cầm thánh giá cầu nguyện tại mộ Chúa Giêsu?
***
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các tông đồ sứ mạng cao cả: “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân”. Người muốn chúng ta làm chứng nhân cho Người đến tận cùng trái đất, rao giảng danh Người cho đến tận thế.
Tổng thống Nga Putin quả là một chứng nhân anh dũng. Ông đã công khai tuyên xưng mình có đạo, tin đạo, sống đạo. Ông đã công bố trước báo chí: “Tôi tự hào là một người tín hữu… Niềm tin của tôi cho tôi thêm tinh thần và sự bình an trong tâm hồn”.
Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các tông đồ phải ra đi. Các ngài đi tuyên xưng niềm tin, tin vào Đấng đã chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Người từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.
Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các tông đồ phải xuống núi. Đi xây dựng một thế giới đầy tình yêu thương, huynh đệ, công bằng, văn minh; xứng với trời mới đất mới mà Chúa Con đã cứu chuộc để hiến dâng lên Cha.
Thật là vinh dự cho chúng ta được tiếp nối các tông đồ đi rao giảng Lời Chúa, và làm chứng nhân cho Người. Nhưng đó cũng là một thách đố nặng nề, vì còn 80% cư dân trên hành tinh này chưa đón nhận Tin Mừng.
Đã qua hơn 2000 năm, nhưng dường như sứ điệp Phục Sinh còn quá nhiều người chưa biết tới! Phải chăng chúng ta quên rằng Chúa về trời nhưng Người vẫn hiện diện rất sống động giữa chúng ta. Muốn rao giảng Chúa Kitô cho thế giới, trước hết chúng ta phải đưa Người vào chính cuộc sống của mình; sau đó, lời rao giảng về Người mới có sức chinh phục các tâm hồn. Albert Peyriguere đã viết: “Có nhiều tông đồ nói về Đức Kitô, nhưng Người lại muốn có những tông đồ quyết sống vì Người”.
Con người thời nay thích nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, cũng như họ xác tín vào điều đã trông thấy tận mắt hơn là chỉ được đọc lướt qua. Họ không thích chúng ta chỉ làm chứng bằng lời nói, nhưng là bằng chính cuộc sống xả thân, phục vụ và yêu thương. Babin đã nói một câu đầy sắc bén: “Người ta chỉ có thể tin vào Đức Kitô, khi họ tin vào tình yêu của những kẻ loan báo Người”.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu Chúa. Amen.
24. Chứng nhân--Lm Giuse Trần Việt Hùng
Truyện kể: Thấy một thổ dân Phi Châu đang đọc sách. Một nhà buôn Âu Châu đi ngang qua, hỏi xem anh đọc gì? Anh đáp: Đọc Kinh Thánh. Nhà buôn cười cười nói: Thứ đó, ở xứ tôi đã lỗi thời rồi! Người Phi Châu đáp: Nếu ở đây mà Kinh Thánh lỗi thời, thì ông đã bị ăn thịt từ lâu rồi.
Kinh Thánh là lời mạc khải của Thiên Chúa ban cho con người. Đọc Kinh Thánh giúp cho chúng ta nhận biết về chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Dân tộc Do-thái được Thiên Chúa chọn lựa, cưu mang và phát triển là để đón nhận Đấng Cứu Thế. Sự hình thành của Kinh Thánh Cựu Ước kéo dài cả mấy ngàn năm đón chờ. Tuy dù dân tộc Do-thái được chuẩn bị cách rất cẩn thận qua Kinh Thánh mạc khải, qua các dấu chỉ và qua các lời tiên tri loan báo, nhưng nhiều người đã bỏ lỡ cơ hội gặp gỡ Đấng mà cha ông bao năm mong chờ. Bởi lẽ các vị lãnh đạo tôn giáo như các Thượng tế, Thầy cả, Tư tế, Luật sĩ, Biệt phái, Nhóm Sađucêô và các Đầu mục, Kỳ lão đã dẫn dân đi lạc vào ngõ khác. Chúa Giêsu đã đến hoàn tất mọi lời Kinh Thánh loan báo về Ngài. Chúa đến không phải để hủy phá lề luật, nhưng làm cho nên trọn. Chúa Giêsu là phiến đá mà thợ xây loại bỏ, đã trở thành đá góc tường. Ngài chính là cột trụ trung tâm duy nhất của mọi niềm tin.
Cuộc lữ hành trần thế của dân Do-thái tiến bước dần đến ơn cứu độ. Suy tư và não trạng chung của nhiều người vẫn còn bám víu vào những truyền thống và tục lệ cha ông. Vì thế, họ không dễ dàng mở cửa đón nhận những làn gió mới. Đạo Do-thái với những sinh hoạt tôn giáo, những hệ thống thần học, những luật lệ và những thực hành sống đạo đã ăn rễ sâu trong niềm tin. Một hệ thống tôn giáo quá nặng về phần tổ chức, sống vị luật và chú tâm hình thức. Tâm hồn họ dần rời xa cốt lõi của niềm tin là đời sống nội tâm. Nhiều người chỉ còn tôn thờ Thiên Chúa ngoài môi miệng nhưng lòng họ lại rời xa. Chúa Giêsu xuất hiện như cai gai trước mắt nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo đương thời. Chúa công khai giảng dạy tại trung tâm tôn giáo ở Giêrusalem. Chúa đã gặp gỡ mọi thành phần trong dân và đối diện với các nhóm lãnh đạo chuyên biệt. Chúa Giêsu tìm đưa dẫn họ về với căn cốt của đạo. Tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý. Sống đạo nội tâm. Sống đạo trong yêu thương, bác ái và vâng phục.
Chúa Giêsu đến để rao giảng tin mừng cứu độ. Chúa mời gọi mọi người sám hối vì Nước Trời đã gần kề. Thời gian đã viên mãn. Chúa thực hiện một cuộc vượt qua mới trong tinh thần mới. Chiếc xe thời gian đã đến, ai không bước lên, sẽ bị tụt lại sau. Mặc dầu có nhiều sự chống đối và chối từ, Chúa Giêsu đã hoàn thành sứ mệnh hy sinh cứu độ. Chúa hiến thân chịu chết và đã sống lại. Chúa Phục Sinh đã trở thành niềm hy vọng tuyệt đối cho nhiều người. Có rất nhiều người cùng đồng hành chia sẻ với cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa. Chúa không dấu diếm hay lừa dối những người tin theo Chúa, nhưng Chúa đã báo trước những sự khó khăn, sự bách hại, xua đuổi và chịu hy sinh đau khổ. Qua thánh giá khổ đau mới có thể bước vào vinh quang sự sống. Stêphanô là hoa qủa đầu mùa của niềm tin vào Chúa Kitô phục sinh đã lãnh nhận triều thiên tử đạo.
Người ta thù ghét cả những người tin vào Chúa Kitô sống lại. Các nhà lãnh đạo tôn giáo là những người đầu tiên lên tiếng phủ nhận, phản đối và bách hại. Tác giả sách Tông Đồ công Vụ kể rằng trước khi bị ném đá cho chết, Stêphanô được đầy ơn Chúa Thánh Thần: Ông nói: "Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa."(Tđcv 7, 56). Stêphanô đã tuyên xưng đức tin một cách can đảm, dầu phải đối diện với sự đau khổ và sự chết kề bên. Ông đã tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô Phục Sinh. Stêphano hiểu ý nghĩa lời dạy: Phúc cho ai bị bách hại vì lẽ công chính vì Nước trời là của họ. Nhưng những người đồng hương không thể chấp nhận một giáo lý mới của một người đã bị kết án tử hình: Họ liền kêu lớn tiếng, bịt tai lại và nhất tề xông vào ông rồi lôi ra ngoài thành mà ném đá. Các nhân chứng để áo mình dưới chân một thanh niên tên là Sao-lô (Tđcv 7, 57-58).
Stêphanô thấm nhuần Tin Mừng của Chúa: Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: "Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này." Nói thế rồi, ông an nghỉ (Tđcv 7, 60). Chúng ta biết máu của các vị thánh tử đạo là hạt giống ươm mầm đức tin. Thật vậy, sau cái chết của Stêphanô, ông Saolô đã được ơn trở lại. Saolô cùng đồng cảnh, đồng thuyền với nhóm đồng hương nhân danh đạo giáo để kết án ném đá Stêphanô. Chúa Giêsu phục sinh đã mở đường đưa dẫn ông Saulô trở về làm nhân chứng cho Ngài. Ông Saulô đã đổi đời và đổi tên thành tông đồ Phaolô. Phaolô trở thành một nhân chứng nhiệt thành. Không sợ gian nan, đau khổ và bách hại, ông đã sống chết cho niềm tin. Cả cuộc đời còn lại Phaolô đã không ngừng rao giảng Chúa Kitô phục sinh cho nhiều người. Ngài cũng đã chịu tử vì đạo và lấy máu đào chứng minh cho niềm tin sắt son.
Chúa Giêsu là kiên thuẫn, là đá tảng và là nơi nương náu cho những tâm hồn tìm kiếm Chúa. Chúa mời gọi mọi người lắng nghe và thực hành lời Chúa, họ sẽ được chia phần vinh quang hạnh phúc: Phần con, con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như chúng ta là một (Ga 17, 22). Chúa Giêsu yêu mến những người Chúa đã chọn và tất cả những ai thuộc về Chúa. Ngài muốn ấp ủ chúng ta như gà mẹ ấp ủ con dưới cánh. Chúa đã tha thiết cầu nguyện cùng Chúa Cha: Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành (Ga 17, 24).
Qua bí tích Rửa Tội, chúng ta được tẩy sách tội xưa và cùng được tham dự vào Nhiệm Thể của Chúa Kitô, Chúa Kitô là đầu và tất cả chúng ta là chỉ thể. Chúng ta được kết hợp mật thiết với Chúa trong một đoàn chiên theo một Chúa Chiên. Chúa cầu nguyện để mọi người nên một trong Chúa. Trở nên một trong ý nghĩa phổ quát. Không phải nên một với người này, người kia hay nhóm này, nhóm nọ. Chúng ta nên một với Chúa Kitô để cùng tôn thờ Thiên Chúa Cha. Chúng ta cùng chia sẻ một niềm cậy trông và một niềm hy vọng vào sự sống vĩnh cửu ngày sau. Chúng ta tuyên xưng chỉ có một Chúa, một đức tin và một phép rửa. Chúng ta tin nhận Chúa Kitô: Là An-pha và Ômêga, là Đầu và Cuối, là Khởi Nguyên và Tận Cùng (Kh 22, 13).
Trong cuộc sống, chúng ta nhận biết rằng có rất nhiều tổ chức các tôn giáo khác nhau. Tuy các tôn giáo có khác nhau về cơ cấu, tổ chức và thực hành sống đạo nhưng cùng quy hướng về sự tôn thờ một Thiên Chúa và hy vọng cuộc sống vĩnh cửu ngày sau. Chúa Kitô là trung gian giữa Thiên Chúa và loài người. Con đường dẫn lối vào Nước Trời tuy hẹp nhưng Chúa Giêsu đã đi trước và mở lối đưa đường. Chúa Giêsu phán: Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy (Ga 14, 6). Chúa Kitô là trung tâm điểm qui tụ mọi niềm tin về một mối để tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi.
Lạy Chúa, chúng con đã lãnh nhận hạt giống đức tin qua Bí tích Rửa Tội, xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con. Xin cho chúng con biết can đảm sống niềm tin và hăng say làm nhân chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh. Amen.
25. Chúa Giêsu lên trời – R. Veritas--‘Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’
Một thi sĩ người Đức có viết vần thơ sau đây: "Bên trên thế giới này là mây trời, mây trời thuộc về thế giới. Bên trên trời là hư vô". Vần thơ này được hàng triệu người trên thế giới chứng thực mỗi ngày khi ngồi trong các máy bay khổng lồ, mà mỗi chuyến bay chở được mấy trăm hành khách. Các loại máy bay này thường bay trên độ cao hơn 10,000 mét, nghĩa là trên các tầng mây. Và quả thật, trên độ cao ấy, du khách chỉ thấy bên dưới là mây, trước mắt và chung quanh là chân trời xanh dài vô tận và bên trên chỉ là khí, không có gì khác.
Tuy nhiên, qua khẳng định trên đây, thi sĩ người Đức ám chỉ một sự kiện khoa học, ông muốn diễn tả xác tín vô thần của ông là không tin có Thiên Chúa, không tin có quê trời, không tin có thiên đàng và cuộc sống mai sau. Cuộc đời con người kết thúc với cái chết và bên kia cái chết chỉ là hư vô. Nghĩa là thi sĩ gián tiếp khẳng định rằng, cuộc đời con người vô nghĩa, do đó cũng không cần phải sống tốt với tha nhân hoặc ăn ngay ở lành hay sống đạo đức luân lý làm gì, cứ việc tham ô, gian ác, bóc lột người khác, cũng không cần phải cầu nguyện làm gì, bởi vì nó chỉ là đối thoại với hư vô, và thế giới này chỉ là hư vô bởi vì không có tương lai.
Nhưng xác tín như vậy là thi sĩ đã rơi vào sự lầm lẫn lớn nhất. Bởi vì trong ngày lễ Thăng Thiên, Chúa Giêsu khẳng định với chúng ta rằng sau cái chết cuộc sống mới thực sự bắt đầu và bên trên tầng mây là tất cả.
So sánh trình thuật biến cố Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh lên trời trong các bản văn Tin Mừng, chúng ta hiểu ra ngay một sự khác biệt trong Phúc Âm thánh Gioan: cuộc đời Chúa Giêsu tập trung vào ngày sau thứ bảy là ngày lễ Vượt Qua, ngày Chúa Giêsu sống lại, lên trời và trao ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Đối với thánh Gioan, Thiên Chúa tự tỏ lộ mình cho nhân loại trong con người và trong mầu nhiệm của Chúa Giêsu, và Giáo Hội hay cộng đoàn các môn đệ là hoa trái của sự mạc khải ấy.
Phúc Âm thánh Matthêu trái lại, là Emmanuel: "Thiên Chúa ở cùng chúng ta", nghĩa là theo thánh nhân, Chúa Giêsu luôn luôn sống hiện diện và hoạt động sâu thẳm giữa cộng đoàn Giáo Hội. Ngài tự đồng hóa mình với mọi người. Do đó, mỗi việc làm cho một trong các thành phần của cộng đoàn Giáo Hội là làm cho chính Chúa Giêsu. Nói cách khác, theo thánh Matthêu, Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh luôn hiện diện trong cộng đoàn thân mình mầu nhiệm của Ngài, cho dù cộng đoàn đó có bé nhỏ và có sống tại nơi hẻo lánh xa xôi ở tận chân trời góc biển nào trên thế giới này đi chăng nữa thì vẫn có Chúa hiện diện luôn luôn: "Ở đâu có hai, ba người tụ họp lại nhân danh Thầy thì Thầy ngự giữa họ". Chủ đích thần học này giải thích tại sao thánh Matthêu đã không kết thúc Phúc Âm với trình thuật Chúa Giêsu rời bỏ cộng đoàn môn đệ về trời như hai thánh sử Marcô và Luca. Phúc Âm thánh Matthêu kết thúc Phúc Âm với lời Chúa Giêsu trang trọng khẳng định với các môn đệ rằng: "Ngài sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế".
Thánh sử Luca thì có một quan niệm thần học khác, đối với thánh nhân thì thời gian sau khi Chúa Giêsu về trời là thời gian của Giáo Hội. Thánh Luca coi việc cộng đoàn Giáo Hội tiếp nối sự loan truyền Tin Mừng của Chúa Giêsu như giai đoạn cuối cùng trong lịch sử cứu độ.
Nếu Kinh Thánh Cựu Ước đã tập trung lịch sử cứu độ vào dân Israel và vào lời hứa của Thiên Chúa, thì Kinh Thánh Tân Ước tập trung lịch sử cứu độ vào Chúa Giêsu và vào ngày hôm nay của Chúa Giêsu như thời điểm thành toàn lời Thiên Chúa đã hứa với dân Israel xưa kia. Lời Thiên Chúa thực hiện trong cộng đoàn Giáo Hội giờ đây phải được tiếp tục thành toàn và ơn cứu độ phải được mọi thành phần Giáo Hội tiếp tục loan truyền cho mọi dân tộc khác. Đó là nội dung của sách Tông Đồ Công Vụ, trong đó thánh Luca tường thuật công tác truyền giảng mà Chúa Giêsu là trung tâm điểm và là người khởi xướng và giờ đây cộng đoàn Giáo Hội tiếp tục đẩy mạnh dưới sự thúc đẩy, dẫn dắt của Chúa Thánh Thần.
Trong một nghĩa nào đó, biến cố Chúa Giêsu lên trời cần thiết cho việc khai mạc sứ mệnh của Giáo Hội. Chúa Giêsu Phục Sinh lên trời nhưng giờ đây là thời gian Ngài hoạt động qua và trong cộng đoàn Giáo Hội. Sự kiện Chúa Giêsu lên trời không có nghĩa là Ngài không hiện diện trong thế giới này, nhưng Ngài sẽ trở lại trần gian. Nhưng trong thời gian giữa hai khoảng cách đó, Ngài sống ngoài lịch sử, nhưng hiện diện trong lịch sử qua cộng đoàn Giáo Hội. Nước Thiên Chúa thực tại cuộc sống siêu việt vĩnh cửu, vẹn toàn mai sau tỏ hiện dần trong Giáo Hội. Trong nỗ lực, Giáo Hội làm chứng cho Chúa Giêsu và rao truyền Tin Mừng của Chúa.
Thánh sử Luca đã thật khéo léo khi nối liền thời gian hoạt động của Giáo Hội với ngày hôm nay của Chúa Giêsu và giải thích nó như là thời gian của ơn thánh cứu độ. Biến cố Chúa Giêsu lên trời như ghi trong sách Tông Đồ Công Vụ và sách Phúc Âm phải được hiểu dưới ánh sáng của lịch sử cứu độ: mầu nhiệm lên trời giải thích tại sao lại có Giáo Hội. Giáo Hội hiện diện giữa lòng xã hội và loan báo Tin Mừng cứu độ cho mọi người.
Nói cách khác, qua sách Tông Đồ Công Vụ và sách Phúc Âm, thánh sử Luca muốn chứng minh cho chúng ta thấy chương trình Thiên Chúa đối với loài người và thế giới đã được Chúa Giêsu thực hiện và thành toàn, và giờ đây được tỏ hiện từng bước và kéo dài trong cuộc sống của Giáo Hội.
Trong trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên trời, thánh sử Luca là người duy nhất có can đảm dùng động từ ám chỉ sự chia lìa khi biết Chúa Giêsu Kitô tách rời khỏi đoàn môn đệ, và chương 24 mở đầu trình thuật một ngày sống của Chúa Giêsu cũng như của cộng đoàn các môn đệ bằng cách ghi nhận sự vắng mặt của Chúa Giêsu. Nhưng tiếp sau đó Chúa Giêsu lại hiện diện giữa cộng đoàn, Ngài đồng hành, đàm đạo và dùng bữa tối với hai môn đệ trên đường Emmau, và giờ đây trình thuật kết thúc với Chúa Giêsu lại tự tỏ hiện ra.
Tuy nhiên, sự chia tay này tại Bethania không khiến cho các môn đệ buồn sầu hay chán nản. Trái lại họ cùng nhau trở về Giêrusalem lòng tràn đầy vui sướng. Thánh sử Luca không giải thích tại sao đoàn môn đệ giờ đây phải xa Thầy mình mà lại sướng vui như vậy, nhưng chắc chắn các môn đệ đã khám phá ra hay ít nhất đã trực giác được chuyện gì đó, nghĩa là các vị đã hiểu rằng, Chúa Giêsu tuy đã tách rời khỏi họ, nhưng vẫn luôn hiện diện bên họ.
Trong trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên trời còn có một điểm đặc biệt khác nữa, đó là các môn đệ đang phủ phục xuống thờ lạy Ngài thì Chúa Giêsu đã rời khỏi họ lên trời, đồng thời Ngài giơ tay ban phép lành cho họ. Cử chỉ này của Chúa Giêsu cho thấy, Ngài hành động như là Thầy của các môn đệ. Chúa của các tông đồ là thủ lãnh của cộng đoàn dân riêng mới của Thiên Chúa, giã từ cộng đoàn nhưng đồng thời Ngài mời gọi mọi người ra đi chu toàn sứ mệnh mà họ đã được ủy thác. Phép lành của Chúa Giêsu bảo đảm cho cộng đoàn Giáo Hội mọi ơn cần thiết trong cuộc sống và sự tăng trưởng của mình trong sứ mệnh loan truyền lịch sử cứu độ.
Đặc điểm thứ ba trong trình thuật biến cố Chúa Giêsu lên trời đó là thay vì ra đi khắp nơi loan truyền Tin Mừng thì đoàn môn đệ vào đền thờ Giêrusalem cầu nguyện và chúc tụng Thiên Chúa. Phúc Âm thánh Luca mở đầu với cảnh Thầy Zacharia dâng hương cho Chúa trong đền thờ, giờ đây kết thúc với lời chúc tụng của đoàn tông đồ. Giêrusalem là trung tâm điểm của lịch sử cứu độ, là nơi lịch sử cứu độ thành toàn, đồng thời là nơi phát xuất sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội.
Hình ảnh Giáo Hội truyền giáo quanh quẩn trong đền thờ, trong lời cầu nguyện và chúc tụng Thiên Chúa xem ra hơi lạ, nhưng thật ra sứ mệnh truyền giáo của Giáo Hội sẽ đem lại nhiều hoa trái khi cộng đoàn biết bám chặt vào Chúa, dán mắt nhìn lên Chúa, thân tình thưa chuyện với Chúa để kín múc mọi ơn thánh và nghị lực cần thiết cho sứ mệnh loan báo lời Ngài để kéo đổi phúc lành của Thiên Chúa xuống trên mọi tâm hồn và phản ảnh gương mặt cũng như giáo huấn của Chúa một cách tinh tuyền, trung thực và sâu thẳm hơn.
Bởi vì nếu không có phúc lành và ơn thánh Chúa trợ lực sẽ không có sự sống, sẽ không có ơn hoán cải và biến đổi con tim và công tác truyền giáo của Giáo Hội không sinh hoa trái phong phú. Càng hoạt động nhiều, Giáo Hội càng phải sống chiều kích chiêm niệm và đối thoại thân tình với Chúa nhiều hơn.
Đây cũng là lý do giải thích tại sao trước khi về trời, Chúa Giêsu đã dạy dỗ các môn đệ nhiều điều để giúp họ được sứ mệnh loan báo Tin Mừng, và từ nay họ phải đảm trách thay Ngài. Lời các thiên thần nhắc nhớ có các ông biết sứ mệnh rao truyền Lời Chúa không cho phép các vị đứng nhìn trời, nhìn đất mơ mộng nuối tiếc hay chỉ lo lắng cho các dịch vụ phụng tự quanh quẩn trong bốn bức tường nhà thờ hoặc đáp ứng nhu cầu của linh hồn mà thôi, mà phải xuống núi, nhập thể, đem Chúa vào đời loan truyền ơn cứu độ và hoạt động thăng tiến con gnười toàn diện như Chúa Giêsu đã làm xưa kia.
26. Ra khơi – R. Veritas--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’
Dịp Lễ Thăng Thiên năm 2001 Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chia sẻ:
"Chúng ta được qui tụ quanh bàn thờ Chúa để cử hành việc Chúa lên trời. Chúng ta đã nghe được Lời Chúa: "Các con sẽ nhận lấy sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ ngự xuống trên các con và các con sẽ là những chứng nhân của Thầy cho đến tận cùng trái đất".
Từ hai ngàn năm qua, những lời này của Chúa Phục Sinh thôi thúc Giáo Hội tiến ra khơi, tiến vào trong lịch sử của con người. Những lời này làm cho Giáo Hội trở nên một người luôn đồng hành với tất cả mọi thế hệ, làm cho Giáo Hội trở nên như men, làm dậy nên những hạt văn hoá trên thế giới. Hôm nay, chúng ta nghe lại những lời trên để với sức mạnh được canh tân, chúng ta đón nhận mệnh lệnh của Chúa "Hãy ra khơi", mệnh lệnh mà Chúa đã nói với thánh Phêrô. Đây là một mệnh lệnh và tôi đã muốn làm vang dội lại trong Giáo Hội qua bức tông thư khởi đầu Ngàn Năm Mới. Và đây là mệnh lệnh mặc lấy một ý nghĩa sâu xa hơn theo ánh sáng của ngày lễ trọng Chúa Thăng Thiên. "Hãy ra khơi" ra nơi mà Giáo Hội cần tiến đến, không phải chỉ là một sự dấn thân truyền giáo mạnh mẽ nhưng nhất là và còn là một sự dấn thân mạnh mẽ sống chiêm niệm. Như những tông đồ, những kẻ đã được chứng kiến biến cố Chúa lên trời, chúng ta cũng được mời gọi hãy hướng cái nhìn lên dung mạo của Chúa Kitô được hiển vinh trong vinh quang Thiên Chúa Cha. Chắc chắn rằng nhìn ngắm trời cao không có nghĩa là quên đi trần gian này. Và nếu rủi gặp phải cám dỗ, chúng ta chỉ cần lắng nghe lại lời hai người mặc áo trắng của đoạn Phúc Âm hôm nay nói rằng: "Tại sao các ông còn nhìn trời?"
Việc cầu nguyện chiêm niệm Kitô không làm cho chúng ta tránh khỏi việc dấn thân vào trong lịch sử. "Trời", nơi Chúa Giêsu tiến vào không phải là một sự xa vắng nhưng như là một màn che khuất và là nơi lưu giữ một sự hiện diện. Đó là sự hiện diện của Chúa, một sự hiện diện không bao giờ bỏ rơi chúng ta cho đến khi Chúa trở lại trong vinh quang. Trong khi đó, thời giờ chúng ta sinh sống đây là thời giờ rất đòi hỏi. Đòi hỏi chúng ta phải làm chứng bởi vì nhân danh Chúa Kitô, sự ăn năn hối cải và sự tha thứ tội lỗi phải được rao giảng cho tất cả mọi dân nước. Và chính để làm sống lại ý thức này mà tôi đã muốn triệu tập hội nghị Hồng Y đặc biệt được bế mạc hôm nay (thứ Năm 24/05/2001). Các vị Hồng Y, từ các nơi trên thế giới mà tôi xin kính chào với lòng mộ mến huynh đệ. Các ngài trong những ngày qua đã hội họp với tôi để bàn về một vài đề tài trong số những đề tài nổi bật nhất của công việc rao giảng Phúc Âm và làm chứng Kitô trong thế giới hôm nay, vào khởi đầu Ngàn Năm Mới. Đây, đối với chúng tôi, là giây phút sống hiệp thông, trong đó chúng tôi cảm nghiệm được một phần nào của niềm vui đã tràn ngập tâm hồn các tông đồ ngày xưa, sau khi Chúa Phục Sinh chúc lành cho các ngài và tách rời ra khỏi các ngài để lên trời. Thật vậy, thánh Luca đã ghi lại rằng: "Sau khi bái lạy tôn thờ Chúa, các tông đồ trở lại Giêrusalem với niềm vui lớn lao và các ngài luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa."
Và tiếp sau trong bài giảng, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã khai triển thêm bản chất cũng như sinh hoạt truyền giáo của Giáo Hội, và cuộc hội Hồng Y cũng được Đức cố Giáo Hoàng đặt trong viễn tượng này: "Thực hiện sự hiệp thông và hiệp nhất trong Giáo Hội, để Giáo Hội có thể rao giảng Phúc Âm Chúa một cách đáng tin hơn cho mọi anh chị em."
Trong thánh lễ Chúa Thăng Thiên và trong giây phút này, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã cho chúng ta biết ý nghĩa của biến cố quan trọng này: Không phải Chúa lên trời để bỏ chúng ta, mà Ngài bước sang một sự hiện diện mới với chúng ta trong Chúa Thánh Thần. Ngài luôn ở cùng chúng ta luôn mãi cho đến tận cùng. Và Ngài muốn mỗi người chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận hồng ân Thánh Thần của Ngài để làm chứng cho Ngài trong môi trường chúng ta sinh sống.
Từ Chúa Nhật này cho tới Chúa Nhật Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng ta hãy dành thời giờ để nhìn lại cuộc sống của mình, mở rộng tâm hồn đón nhận Chúa Thánh Thần và sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần để làm chứng cho Chúa đến mức độ nào rồi. "Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận cùng và các con sẽ làm chứng cho Thầy khắp nơi trên mặt đất này".
Xin Chúa gìn giữ chúng ta vững mạnh trong đức tin để chúng ta có thể làm chứng cho Chúa mọi nơi mọi lúc.
27. Không giải thích được - Achille Degeest--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’
Đức Giêsu đã thuyết phục các tông đồ tin rằng Người đã sống lại. Chúa mở tâm trí cho các ông hiểu ý nghĩa Kinh Thánh và thấy mình đang đi vào kế hoạch liên tục của Thiên Chúa. Các ông sắp làm chứng cho Đấng được loan báo trong Kinh Thánh, Người đã thật sự sống với các ông cuộc đời dưới thế của Người và sắp tiếp tục công cuộc cứu độ qua Giáo Hội, đem lợi ích cho khắp thế giới. Các ông sẽ lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần đến hoàn tất sự hiểu biết của mình, như Đức Giêsu đã hứa. Lúc đó sẽ thấu hiểu ý nghĩa khổ nạn và Phục Sinh, hơn nữa sẽ khám phá Phúc Âm được dùng vào một công cuộc có tầm mức bao la đến chừng nào. Các ông sẽ không choáng váng tê liệt, sẽ thật sự trở nên tông đồ vì mặc lấy sức mạnh từ Trên ban cho. Chúng ta không ngạc nhiên đọc câu: Họ trở lại Giêrusalem, lòng mừng khôn xiết. Như vậy, chứng kiến Chúa lên trời, các môn đệ tuyệt nhiên không kinh ngạc, trái lại vui mừng vô hạn. Tại sao? Ví các ông chắc hẳn bắt đầu hiểu rõ bí nhiệm về sự hiện diện vô hình của Thày. Chúng ta dừng lại để suy niệm về việc Chúa chúc lành và niềm hân hoan không giải thích được của các môn đệ.
1) Giơ tay, Chúa chúc lành cho họ.
Các môn đệ lãnh nhận chúc lành của Thày, coi đó là cử chỉ của Thiên Chúa kết thúc một sự hoàn tất và mở màn cho một sự bắt đầu. Hoàn tất, vì thời gian Chúa sống giữa thế gian đã chấm dứt. Chúa vào vinh quang của Chúa Cha. Tác động của Đức Giêsu hiện diện hữu hình không còn nữa, sắp chuyển sang một thể thức tác động khác, đồng thời các môn đệ bắt đầu một cuộc trông đợi. Chúc lành của Chúa làm dậy lên trong các môn đệ một nghị lực sắp lớn mạnh nảy nở. Cử chỉ Chúa giơ tay ban phép lành biểu hiện sức mạnh của sự sống, của lòng bác ái và một nghị lực tràn ngập tâm hồn các ông, sắp biến đổi và hướng dẫn các ông thành toàn bản ngã và sứ mạng. Một ví dụ thực tế: Chúng ta nhắc lại rằng chúc lành nhân danh Đức Kitô của linh mục chủ tế lúc Thánh Lễ hoàn tất, biểu hiện sự hoàn tất và sự phái đi. Chúng ta có nhiệm vụ hoàn tất trong đời sống thực tế ơn lành nhận được trong Thánh Lễ, và chúng ta được phái đi vào thế giới làm chứng cho Đức Kitô.
2) Các môn đệ vui mừng mặc dầu Đức Giêsu vừa biến đi trước mắt các ông.
Chúng ta chúng ta nghĩ rằng các ông được sinh ra trong tình yêu đích thật của Thày, các ông không hề nghĩ về thân phận mình theo tính ích kỷ thường tình, trái lại được vui mừng nhìn Thày đi vào vinh quang của Chúa Cha. Tuy nhiên cho dầu tình yêu đầy vị tha tới đâu thì cũng phải có sự hiện diện của Thày. Có thể các môn đệ làm một cuộc thí nghiệm mới về sự hiện diện vô hình của Thày. Chúa về trời trở nên gần gụi các ông hơn trước. Chúa biểu lộ sự hiện diện trong quyền năng thần thánh của Người, Chúa đem Thần Khí vào tâm hồn các ông. Tới đây chúng ta thấy vai trò đức tin là cần thiết. Điều tốt là các môn đệ nay trở thành chứng nhân cho Chúa phải tham dự vào kinh nghiệm đức tin mà tất cả chúng ta đều phải có, một niềm tin trong hân hoan không giải thích được, trải qua mọi gian nan thử thách. Niềm tin ấy sinh ra một niềm trông cậy hân hoan hơn nữa, vì lẽ ngày Chúa lên trời sẽ đưa tới ngày chúng ta sẽ vô cùng hân hoan, Chúa ở đâu, chúng ta cũng sẽ ở đó.
28. Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Thể Hiện
Chúa Thăng Thiên: Mầu Nhiệm và Sự Kiện
Hôm nay chúng ta đọc hai trình thuật của Thánh Luca diễn tả cùng một thực tại: Chúa Giêsu Thăng Thiên.
Tuy nhiên, hai trình thuật này lại có nhiều điểm xem ra không dễ dung hòa với nhau, nhất là về phương diện lịch sử. Trong Tin Mừng (Lc 24,50-51), tác giả Luca giới thiệu biến cố Thăng Thiên ngay buổi chiều ngày Phục Sinh. Nhưng trong Công Vụ Tông Đồ, ông lại xác định biến cố Thăng Thiên vào thời điểm kết thúc “40 ngày” (Cv 1,3). Tại sao lại có sự khác biệt đó?
Trong Tin Mừng Lc, biến cố Thăng Thiên là biến cố kết thúc sách Tin Mừng. Tác giả không cung cấp những yếu tố thời gian rõ ràng, nên nhiều người hiểu rằng ông kể lại biến cố đó như thể đã xảy ra ngay chiều ngày Phục Sinh và diễn ra trong một cách thức long trọng: Chúa Giêsu giơ tay chúc lành cho các đồ đệ, “và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời” (Lc 24,51).
Trong Cv, điều Thánh Luca bận tâm và cố ý nhấn mạnh là công trình của Hội Thánh không được khởi sự chỉ với các đồ đệ của Chúa, mà là với chính Chúa Giêsu Phục Sinh. Chính Người hiện ra với họ, đồng hành với họ, thăm viếng họ suốt 40 ngày. Do đó, công trình loan báo Tin Mừng của Hội Thánh không phải là công trình của nhân loại, mà là công trình do chính Chúa Phục Sinh ấn định, khởi xướng, dẫn dắt. Vì thế, biến cố Thăng Thiên được đặt ở lúc kết thúc “40 ngày”.
Trình thuật trong sách Cv dài hơn và có nhiều chi tiết hơn trình thuật trong Lc: “Trong bốn mươi ngày, Đức Giêsu đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa. Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Đồ, Người truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần. Bấy giờ những người đang tụ họp ở đó hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Israel không? " Người đáp: "Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất." Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa. Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh và nói: "Hỡi những người Galilê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1,3b-11).
Điểm đặc biệt đáng chú ý nhất trong trình thuật này là tác giả đã không sử dụng bất cứ một chi tiết ly kỳ nào để miêu tả chính biến cố Thăng Thiên, cũng không nói gì về tâm tình hay cảm xúc của những người chứng kiến. Trình thuật chỉ kể đơn giản rằng: “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa” (Cv 1,9). Đám mây quyên lấy Người, khiến cho không ai có thể kể lại là Người đã đi vào cõi Trời như thế nào. Rõ ràng tác giả cố tránh những chi tiết ly kỳ.
Điều này làm cho trình thuật khác hẳn tất cả những câu chuyện truyền kỳ và hoang đường đương thời. Tác giả không mô tả chính việc Đức Giêsu lên trời, cho bằng trách cứ thái độ của các đồ đệ cứ đăm đăm nhìn lên trời, phía Đức Giêsu đã đi. Đó là thái độ đặc trưng của những người mong cuộc tận thế sẽ mau xảy đến. Thánh Luca là một người công bố Tin Mừng. Điều ông quan tâm là giúp các tín hữu thời đại ông sống sứ mạng của họ theo thánh ý Thiên Chúa. Ông không bận tâm đến thái độ và phản ứng của các đồ đệ chứng kiến cuộc Thăng Thiên, mà chú ý đến việc Hội Thánh phải lấy lập trường đức tin như thế nào đối với mầu nhiệm Thăng Thiên và mầu nhiệm Cánh Chung. Điều chính yếu là lập trường căn bản mà Hội Thánh phải có đối với mầu nhiệm Cánh Chung. Vì thế, ông nhấn mạnh rằng Hội Thánh phải từ bỏ những sự tính toán ngày tháng (Cv 1,7), và phải tin rằng chính Đức Chúa, trong hiện tại của Hội Thánh, đang điều khiển lịch sử của thế giới và công trình loan báo Tin Mừng của Hội Thánh.
Liên quan đến mầu nhiệm Thăng Thiên mà chúng ta cử hành hôm nay, cứ theo những gì Kinh Thánh trình bày, chúng ta có thể nói: đây là một thực tại có hai khía cạnh. Một bên là mầu nhiệm Đức Giêsu Phục Sinh vào trong cõi của Thiên Chúa một cách vô hình, còn bên kia là biến cố Người từ giã thế gian này một cách hữu hình. Khía cạnh thứ nhất trình bày cuộc tôn vinh Chúa Phục Sinh trên cõi trời, mang đậm chiều kích thần học, vượt quá giác quan và chỉ có thể chấp nhận nhờ lòng tin và nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Khía cạnh thứ hai là một sự kiện xảy ra trong lịch sử, thuộc phạm vi của những thực tại có thể kinh nghiệm được.
Khía cạnh thứ nhất, khía cạnh mầu nhiệm, là điều chính yếu và thuộc về nội dung căn bản của lòng tin. Còn việc Đức Giêsu chia tay các đồ đệ sau 40 ngày là một biến cố xảy đến như một ân huệ Thiên Chúa thương ban cho chúng ta vì bản tính yếu đuối của con người có giác quan. Vậy sự kiện xảy ra vào lúc kết thúc “40 ngày” không thể diễn tả trọn vẹn, đầy đủ và tương xứng chính mầu nhiệm đức tin thâm sâu vượt quá giác quan con người.
Chính vì thế, khi mô tả biến cố Thăng Thiên, cả trong Tin Mừng lẫn trong Cv, ta thấy Thánh Luca luôn cố ý giữ gìn một tâm tình kính cẩn trước mầu nhiệm. Ngài tránh mọi chi tiết mang tính huyền thoại, chỉ giữ lại ở mức tối thiểu những hình ảnh văn chương không thể không dùng để diễn tả mầu nhiệm. Để trình bày ý tưởng Đức Chúa Phục Sinh đã siêu vượt thế giới hư nát này và đi vào vinh quang Thiên Chúa, Kinh Thánh buộc phải dùng lối nói “lên trời”. Đó là hình ảnh có giá trị tượng trưng mà chúng ta buộc phải chấp nhận để diễn tả mầu nhiệm.
Vậy khi chúng ta nói Đức Giêsu lên trời, điểm cốt yếu phải tin là Chúa Kitô đã sống lại và siêu vượt khỏi cái thế giới tù túng, tội lụy, hay thay đổi và đầy đau thương này. Với thân xác phục sinh, Người đã đi vào một thế giới mới, thế giới của Thiên Chúa. Thế giới đó là thế giới xác thực, thiêng liêng, mới mẻ và siêu việt. Chỉ trong thế giới đó mới có sự sống đích thực. Thế giới đó siêu việt (chứ không xa cách) thế giới chúng ta đang sống. Đó là một thế giới khác biệt hẳn về phương diện thực hữu, chứ không phải về phương diện không gian xa gần hay rộng hẹp. Chúng ta có thể “sờ đụng” vào thế giới đó trong lòng tin và nơi các bí tích cứu độ. Đó là một sự “tiếp cận” một thực tại mầu nhiệm nhưng đồng thời rất thật, rất gần, thật và gần hơn cả cái thế giới phàm tục mà ta đang sống đây.
Vì thế, nói theo một nghĩa nào đó, mầu nhiệm Thăng Thiên cũng chính là mầu nhiệm mà Hội Thánh đang mời gọi chúng ta sống hằng ngày, ngay trong cái hôm nay của cuộc đời chúng ta.
29. Hướng lòng về thượng giới--Lm Ignatio Trần Ngà--‘Cùng Đọc Tin Mừng’
Khi con người chỉ biết nhìn xuống...
Người đàn bà có biệt danh là "bà lom khom" đã trở thành hình ảnh quá quen thuộc đối với những ai hay lui tới những công viên của thành phố nầy. Đã lâu lắm rồi, từ sáng tới chiều, ngày nầy qua ngày khác, người ta thấy bà lầm lũi cúi mặt xuống đất để tìm nhặt những đồng tiền xu mà khách nhàn du đánh rơi đâu đó trong các công viên. Người dân trong khu vực gọi bà là "bà-lom-khom" vì hình như mắt bà rất kém, phải khom gập người xuống mới có thể thấy được những đồng tiền rơi rớt đâu đó trong công viên. Hình như nghề nầy đem lại cho bà nguồn thu nhập khá lớn, nên ngày nào bà cũng khom người đi nhặt như con kiến cần cù, như con ong kiên nhẫn nhất.
Vì lúc nào bà cũng cúi gằm xuống đất, đôi mắt lúc nào cũng đăm đăm nhìn xuống để tìm những đồng xu lẻ, dần hồi cần cổ của bà cụp xuống, lưng còng hẳn đi đến nỗi bà không còn ngửng lên nhìn trời được nữa.
Thế là mặc dù kiếm được khá tiền, nhưng bà đã đánh mất cuộc sống. Bà chỉ biết có mặt đất mà không biết có bầu trời. Bà chỉ biết ky cóp những đồng tiền xu mà chẳng biết gì đến thế giới chung quanh!
* * *
Hình ảnh người đàn bà còng lưng trên đây là biểu tượng cho những người chỉ biết có thế giới vật chất mà đánh mất thế giới thiêng liêng.
Với tầm nhìn hạn chế, con người chỉ thấy gần mà không thể thấy xa, chỉ biết chú mục vào cuộc sống đời nầy mà lãng quên cuộc sống đời sau, chỉ biết vun quén của cải vật chất mà không lo làm giàu của cải thiêng liêng; chỉ biết kiếm tìm lạc thú trần gian mà lãng quên hạnh phúc đời đời... Họ chối bỏ Trời, quay lưng lại với Thiên Chúa, khước từ thế giới thiêng liêng!
Họ xem mặt đất nầy là quê hương duy nhất, họ xem nấm mồ như điểm đến cuối cùng của kiếp người. Cuộc đời của họ được thi hào Nguyễn Du diễn tả cách bi thương:
"Trăm năm còn có gì đâu
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì".
Như thế, đối với người không tin thì sống là hành trình tiến về ngôi mộ; còn đối với chúng ta, sống là hành trình tiến về thiên quốc.
Viễn tượng mới
Sự kiện Chúa Giêsu lên trời mở ra cho loài người một viễn tượng mới: Thế giới loài người không chỉ bó hẹp trong khuôn khổ vật chất nhưng còn mở vào cõi vô biên. Cuộc đời con người không chấm dứt trong nấm mồ hoang nhưng vượt qua đó để tiến vào vĩnh cửu.
Như con ve chui lên khỏi đất, lột bỏ chiếc vỏ chật hẹp để đón chào thế giới mới, cất cao tiếng hát dưới ánh nắng mặt trời, con người cũng được mời gọi hãy vượt lên trên thế giới vật chất, đập bỏ lớp vỏ vật chất bó chặt đời mình để vươn vai trở thành tạo vật mới, sống đời sống mới.
Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta hướng về đích xa:
"Quê hương chúng ta ở trên trời" (Philip 3, 20)
Thế nên: "Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới" (Col 3, 1-4)
Vậy chúng ta đừng chỉ lo phần xác mà quên mất phần hồn. Phải dành ưu tiên cho linh hồn chúng ta, phải dành ưu tiên cho Thiên Chúa. Chỉ dán mặt xuống đất mà không biết ngẩng lên nhìn trời thì vô cùng tai hại.
30. Chúa Nhật Thăng Thiên
Hôm nay, Giáo hội mừng cách trọng thể lễ Thăng Thiên. Chúa Giêsu về trời vinh quang sau khi chịu khổ hình đau đớn theo ý Chúa Cha. Còn phần chúng ta, trước những khó khăn hiện tại trong bổn phận của mình, chúng ta phải làm gì để mai này về trời hưởng vinh quang với Chúa?
Trong đoạn Phúc Âm mà chúng ta vừa nghe, thánh sử Lc kể lại một lần hiện ra của Chúa Giêsu sau khi Người từ cỏi chết sống lại. Lần này, Chúa Giêsu ăn uống trước mặt các môn đệ và giải thích Kinh Thánh cho các ông hiểu. Đoạn Kinh Thánh Chúa Giêsu đang giải thích nhắc lại mệnh lệnh loan truyền Tin Mừng Chúa Phục Sinh. Trong mệnh lệnh này, chúng ta thấy có một điểm rất đặc biệt, đó là những đòi hỏi về phương cách rao giảng: không những chỉ bằng lời mà chính các tông đồ phải là chứng nhân về những điều rao giảng. Nghĩa là đời sống của các tông đồ phải giống như Chúa Giêsu: biết chấp nhận những khó khăn trong hành trình tông đồ trong sự gắn bó với Thiên Chúa. Những mong muốn của Chúa Giêsu đối với các tông đồ xưa cũng là lời dạy dành cho chúng ta hôm nay: muốn được về trời hưởng phúc thiên đàng với Chúa thì trong đời sống đạo của mình, chúng ta phải chấp nhận những khó khăn trong bổn phận hằng ngày với niềm tin tưởng gắn bó vào Thiên Chúa.
Có những khó khăn, đau khổ xảy đến người ta không chấp nhận nổi: Năm 2004, lúc đó, con còn đang ở thành phố học, ở trọ nhà chị bà con xa. Chị sinh được hai con. Con gái lớn tên là Trang. Cả gia đình chị lên thành phố gần được chục năm, lúc đó, Trang mới học lớp 5. Bây giờ, Trang đã hai mươi tuổi. Nó đẹp gái lắm, quen và lấy một anh tài xế đã có vợ rồi nhưng ly dị. Anh này tướng tá cũng lịch sự. Không hiểu vì lý do gì, vợ chồng lục đục, rồi chia tay. Hiện tại, Trang bắt đầu kiếm công việc làm, đi làm, quen nhiều bạn, anh kia ghen. Một đêm nọ, trên đường đi làm về, anh chồng cũ chờ sẵn, tạt một ca axít loãng lên người Trang. Người ta đưa em đi chợ rẫy. Kết quả thẩm định của bác sĩ, mù hai mắt, mặt mày trở nên dị dạng khác thường. Cha mẹ Trang ngày đêm túc trực trong bệnh viện, thay phiên nhau về nhà nghĩ ngơi. Lúc chị về với vẻ mặt buồn bẻ, bơ phờ, Con hỏi thăm, chị mới tâm sự: bây giờ, chị khổ quá em ơi, chị không còn biết cầu nguyện thế nào nữa, chị muốn buông xuôi tất cả.
Đau khổ như chị trong câu chuyện chắc ít người gặp qua nhưng khó khăn trong đời sống gia đình, thì chúng ta đã từng cảm nếm. Đối với mấy ông, khó khăn hệ tại ở việc tìm chén cơm cho gia đình, thời buổi này làm ăn đâu phải dễ, phải buôn ba vất vả, phải tính toán chi li, phải đổ mồ hôi, chịu nắng noi cả ngày. Lại thêm khó khăn đến từ phía gia đình, có ông than sau cái số mình hẩm hiu, đi làm quần quật cả ngày mệt thở không ra hơi, vậy mà về nhà cơm nước đâu hỏng thấy, nhà cửa thì dơ bẩn, con cái thì hôi hám, hỏng biết ở nhà bả làm cái gì? Mới quen, bả cũng ít nói, trông vẻ thuỳ mị lắm vậy mà bây giờ lúc đọc báo, bả cũng cằn nhằn, lúc coi ty vy, xem đá bóng, bả cũng nói, nói toàn những chuyện nhậu nhẹt, lương bổng của mình, nghe nhức đầu quá. Thêm vào đó, con cái không hiểu nổi khổ tâm lao nhọc của cha, chỉ có cái chuyện học mà cũng chẳng nên thân, tháng nào kết quả học tập cũng kém. Trong khi đó, các bà thì lại than các ông, lúc mới quen, ổng hiền lành, còn bây giờ, mới nói có mấy câu là nổi nóng, lớn tiếng. Vợ chồng mà la mắng như con ở làm sao chịu nổi. Hồi xưa mới yêu nhau, ho một tiếng là ảnh lấy dầu cho xức, mua thuốc cho uống còn bây giờ ho muốn bể phổi luôn mà ảnh cứ tỉnh bơ đọc báo. Nhà cửa, con cái, ăn uống, bao nhiêu việc phải chi tiêu, vậy mà đưa lương tuần nào cũng thiếu, làm sao xoay sở, như vậy mà sao không cằn nhằn được. Có chị khác thì bảo: ảnh cũng đi làm, tôi cũng đi làm, vậy thì việc cơm nước, con cái phải cưa đôi, để một mình tôi gánh, sức nào chịu nổi, vô tâm vô tình với tôi rồi có ngày sẽ phải hối hận đó nhe. Chưa kể những gánh nặng chất lên vai chị lúc con bệnh, con đau, khi gặp phải anh chồng không biết lo, tối ngày cứ rượu chè, cờ bạc, gặp phải bà mẹ chồng không biết cảm thông, suốt ngày cứ tìm những chuyện nhỏ để bắt lỗi, chì chiết làm khổ con dâu của mình.
Trong những khổ đau của cuộc khổ nạn, CG chấp nhận theo ý Chúa Cha, luôn gắn kết với Chúa Cha qua cầu nguyện. Thiên Chúa muốn chúng ta trong những khó khăn của cuộc sống cơm áo gạo tiền, khó khăn trong bổn phận làm chồng, làm vợ, hãy biết chấp nhận và giữ vững đức tin, đừng bỏ Chúa giữa đường. Càng đau khổ, anh chị hãy càng đến với Chúa nhiều hơn. Chồng là chỗ dựa đức tin của gia đình, khi bản thân anh gặp khó gia đình gặp chuyện buồn phiền, thì chính anh phải là người đầu tiên chạy đến với Chúa. Chạy đến với Chúa để nâng đỡ đức tin của vợ và làm gương sáng dạy con sống đạo. Còn các bà, Chúa cho sở trường nói gì thì chồng nghe nấy: khi khó khăn, đêm về, ở bên chồng, chị hãy thủ thỉ vào tai chồng, dù gia đình mình gặp khó khăn thế nào cũng đừng bỏ Chúa nhe anh! Trực giác người phụ nữ rất nhạy, khi thấy chồng buồn phiền do công việc, hoặc đang buồn chị, chị hãy chạy đến với Chúa để cầu nguyện cho chồng. Người phụ nữ được ví là trái tim, là hơi ấm của gia đình. Chị chỉ có thể là trái tim, là hơi ấm cho gia đình nếu đời chị biết gắn kết mật thiết với trái tim tình yêu của Thiên Chúa trong cầu nguyện, với trái tim dịu dàng của người nữ nơi chuỗi mân côi. Khi lấy nhau, anh chị nên nhớ mình không chỉ có trách nhiệm dắt dìu nhau trong cuộc sống trần thế mà quan trọng hơn, vợ chồng phải có trách nhiệm dắt dìu nhau tiến về quê trời vĩnh cửu.
Thay cho lời kết, cầu chúc cho mỗi người chúng ta trước những khó khăn của cuộc sống gia đình, biết giúp nhau vững tin vào Chúa, để dìu nhau về đến quê trời bình an. Amen.
31. Chúa tin tưởng chúng ta--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Có một truyền thuyết xưa kia kể lại rằng: Khi Đức Giêsu hoàn thành sứ mạng dưới thế, Ngài trở về trời và được Thiên thần Gabriel đón tiếp. Gặp Chúa, thiên thần lên tiếng hỏi ngay:
- Xin Chúa cho biết công trình của Chúa sẽ được tiếp tục như thế nào ở dưới thế?
Chúa Giêsu trả lời:
- Ta đã chọn 12 Tông đồ, một nhòm môn đệ và một vài phụ nữ. Ta đã giao cho họ sứ mạng rao giảng Tin Mừng đến tận cùng trái đất.
Nghe Chúa trả lời như thế, thiên thần Gabriel hình như chưa hoàn toàn thỏa mãn nên hỏi tiếp:
- Nhưng số môn đệ ít ỏi đó thất bại thì Chúa có dự trù nào khác không?
- Chúa Giêsu mỉm cười và dường như muốn biểu đồng tình là thiên thần Gabriel đã có lý khi nghi ngờ, tuy nhiên Ngài vẫn quả quyết:
- Đó là kế hoạch duy nhất Ta chọn. Ta không dự trù một kế hoạch nào khác cả. Ta tin tưởng vào họ.
Vâng, thưa anh chị em, mãi đến 20 thế kỷ sau, Chúa Giêsu vẫn không thay đổi kế hoạch Ngài đã chọn. Các Tông đồ đã không làm Ngài thất vọng và cả đám dân được họ rao giảng Tin Mừng cũng đã không phụ lòng Ngài. Và hiện giờ Ngài đang tin tưởng vào chúng ta.
Thật vậy, trước khi từ giã các môn đệ ngài để trở về trời, Chúa Giêsu đã trao cho các ông trọng trách rao giảng Tin Mừng của Ngài và đã hứa ban cho các ông được lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thân: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ làm chứng cho Thầy tại Giêrusalem, trong khắp miền Giuđê, Samaria và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).
Vì thế, các môn đệ đã trở về, lòng tràn ngập hân hoan. Đây chính là lúc phải bắt tay vào việc. Chính nhờ vào niềm tin và nỗi vui mừng nầy, các môn đệ đã hăng hái ra đi rao giảng Tin Mừng sau khi được lãnh nhận Thánh Thần. Các ông không còn sợ hãi của những ngày Chúa chịu chết, nhưng đầy sức mạnh để dám đương đầu với tất cả những khổ đau, những thương tích mà chính các ông không thể trốn tránh được. Quả thật, các môn đệ của Chúa Giêsu đã không phụ lòng Ngài.
Cha Mark Link, S.J đã sánh ví ngày lễ Thăng Thiên như một cuộc chuyền cây gậy từ vận động viên nầy sang vận động viên khác trong một cuộc chạy tiếp sức. Cách đây hơn 2000 năm, vào ngày hôm nay, Chúa Giêsu đã chuyền cây gậy sứ mạng của Ngài cho Phêrô, Giacôbê và Gioan… đến lượt họ, họ đã chuyền cho những người tiếp theo sau, rồi những người nầy lại chuyền cây gậy ấy đến chúng ta. Và giờ đây đến lượt chúng ta lại phải chuyền gậy cho những người kế tiếp.
Thực tế mà nói, điều nấy có nghĩa gì? Sứ mạng ra đi rao giảng Tin Mừng về Chúa Giêsu như các Tông đồ đã làm mang ý nghĩa gì? Đối với chúng ta, sứ mạng rao giảng về Chúa Giêsu mang một ý nghĩa căn bản trong cuộc sống Kitô hữu. Đó chính là làm chứng cho Chúa Giêsu bằng đời sống Kitô hữu của mình. Đó chính là sống Lời Chúa Giêsu truyền dạy trong chính cuộc sống riêng của mỗi người. Để rao giảng Chúa Giêsu cho thế giới, chúng ta phải bắt đầu bằng cách tự rao giảng Ngài vào chính cuộc sống chúng ta trước, sau đó lời rao giảng về Ngài mới tỏa lan khắp thế giới. Nếu có đủ số người Kitô hữu biết đưa Chúa Giêsu vào cuộc đời mình thì họ sẽ thay đổi được bộ mặt trái đất nầy thành tuyệt vời đến mức chúng ta chưa bao giờ dám mơ ước.
Anh chị em thân mến, Sứ điệp của ngày lễ Thăng Thiên hôm nay đưa ra cho chúng ta sự thách thức trước trước niềm tin tưởng mà Chúa Giêsu đã đặt nơi mỗi người chúng ta:
“Anh em là muối đất… anh em là anh sáng trần gian…” (Mt 5, 13 -16). Là men, là muối, là ánh sáng cho đời, cuộc sống Kitô hữu phải tốt, phải ướp mặn chất Tin Mừng, phải phản chiếu khuôn mặt Chúa Giêsu. Được như thế, chắc chắn chúng ta sẽ không làm cho Chúa Giêsu phải thất vọng.
Mừng lễ Chúa lên trời hôm nay, chúng ta không phải chỉ đăm đăm ngước mắt nhìn về trời để nuối tiếc, để tìm kiếm, nhưng là ra đi vào thế giới, vào môi trường mình đang sống, để làm chứng cho Chúa, để làm chứng cho Chúa, để giới thiệu Chúa Kitô cho anh chị em chung quanh mình. Chúa Kitô đặt hết niềm tin tưởng nơi chúng ta, để rồi một khi chu toàn bổn phận của mình nơi trần gian, chúng ta cũng sẽ trở về Trời với Chúa của mình.
32. Hãy mang Chúa đến cho nhân trần--‘Cùng Nhau Suy Niệm’--Lm Jos. Tạ Duy Tuyền
Hôm nay Chúa về trời đó là niềm vui và là niềm hy vọng cho hành trình cuộc đời chúng ta. Một hành trình không vô định nhưng có điểm tới là quê Cha trên trời. Chính Chúa Kitô đã soi lối mở đường cho chúng ta. Chính Ngài đã đi trước để dọn chỗ cho những ai tin theo Người. Từ nay u sầu sẽ gặp niềm vui. Từ nay những đau khổ đời này không còn làm cho con người thất vọng, nhưng ánh vinh quang phục sinh của Chúa đã mang lại niềm hy vọng và lạc quan cho cuộc đời chúng ta.
Người ta kể rằng: có một bác nông dân đã tình cờ nhặt được một tượng chịu nạn đã bị sứt mẻ đang nằm chơ vơ vì không có thập giá. Bác cầm tượng chịu nạn lên và đi vào trong làng. Bác đến từng nhà. Bác hỏi han từng người. Từ người già đến người trẻ. Bác nghĩ thầm rằng: "Không chừng ở đâu đây! Có ai đó đang có thập giá trơ trụi mà không có Đức Kitô nằm trên. Đức Kitô của bác không có nơi ngơi nghỉ, còn thập giá của ai đó không có Đức Kitô. Bác muốn trao Đức Kitô cho ai đó đang phải vác thập giá một mình, để nhờ Đức Kitô họ vượt qua những gian nguy của dòng đời. Bởi vì, một thập giá không có Đức Kitô là tra tấn, là hoả ngục, là thất vọng. Nhưng, nếu là thập giá có Đức Kitô sẽ là một hiến tế thánh thiện, một của lễ hy sinh mang lại ơn ích cho chính mình và cho tha nhân. Thế nên, bác đã cố gắng tìm đến những ai đang thất vọng vì gánh nặng hai vai, đang u sầu vì lầm than cơ cực. Bác trao gởi cho họ Đức Kitô để họ nhận ra họ đang được thông phần đau khổ với Đức Kitô. Hy vọng rằng cuộc đời họ sẽ vui hơn vì họ đang làm việc, đang đón nhận đau khổ vì Đức Kitô, nhờ đó họ cũng được chung phần vinh phúc với Chúa trên trời.
Vâng, cuộc đời chúng ta sẽ ngụp lặn trong đau khổ cùng cực nếu không có Đức Kitô hiện diện. Nếu cuộc đời không có Đức Kitô thì những hy sinh, những đau khổ, những gánh nặng trong cuộc đời này sẽ là một mất mát, một nỗi đau của kiếp người. Đây cũng là tin mừng mà Đức Kitô đang trao phó cho Giáo hội, cho mỗi người chúng ta: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo". Hãy loan tin vui đến cho những ai đang gặp u sầu, đang thất vọng, đang trải qua những ngày tháng bất hạnh, khổ đau. Hãy nói cho họ biết sau đêm dài là ánh bình minh. Cuộc đời này là một hành trình đi về thiên quốc. Một con đường có thập giá. Thập giá trong bổn phận. Thập giá trong hy sinh từ bỏ những tham sân si của dòng đời. Thập giá trong những dâng hiến cuộc đời để phục vụ cho lợi ích tha nhân. Đó chính là thập giá mà chúng ta đón nhận vì Đức Kitô sẽ biến thành thánh giá của hồng ân cứu độ. Thập giá làm chúng ta không vui. Thập giá làm chúng ta đau khổ. Nhưng chính nhờ những thập giá trong cuộc đời sẽ là nhịp cầu đưa tới tới bề bờ hạnh phúc vô biên.
Người nông dân đang cố gắng mang Chúa đến cho những mảnh đời bất hạnh, là sứ vụ mà Chúa đã trao cho Giáo hội và cho mỗi người chúng ta. Chúng ta hãy cùng nhau mang Đức Kitô đến muôn nẻo đường đời. Hãy mang Đức Kitô đến cho những ai đang thất vọng u sầu, đang nặng trĩu những buồn đau. Hãy nói cho họ biết đón nhận mọi biến cố đang diễn ra trong cuộc đời mình vì Đức Kitô và trong Đức Kitô.
Hôm nay, Chúa về trời. Chúa vẫn mang theo những dấu vết của thương tích trong cuộc khổ nạn. Không có vết thương nào đắt giá cho bằng sự chết. Như thể, Chúa về trời với những chứng tích đau thương, với những chống đối mà Ngài phải gánh chịu trong cuộc sống, với cơn hấp hối nơi vườn cây dầu, với những đau đớn của roi đòn, lỗ đinh. Ngài đã mang theo tất cả những giai đoạn đau thương đẫm máu như dấu tích cho lời xin vâng trọn vẹn vâng theo thánh ý Chúa. Và hôm nay, Chúa Giêsu muốn các môn đệ cũng như những ai muốn đi theo Ngài phải đi con đường này để lên trời. "Anh em hãy làm chứng cho Thầy. Khởi từ Giê-rusalem cho đến tận cùng thế giới". Làm chứng không chỉ bằng lời nói mà bằng cả cuộc sống theo gương Chúa Giêsu. Một cuộc sống luôn tìm kiếm ý Chúa và thực thi trong cuộc sống hằng ngày. Một cuộc sống phục vụ tha nhân để qua đó muôn dân sẽ ngợi ca Thiên Chúa. Một cuộc sống làm chứng không nhất thiết phải đổ máu, nhưng quan yếu là phải thể hiện tình yêu bằng những nghĩa cử cụ thể trong lời nói, trong việc làm: luôn bao dung, kính trọng lẫn nhau, luôn bác ái và sống công bình với nhau. Một cuộc đời làm chứng không nhất thiết phải có một bản án để người đời khinh chê, ghét bỏ, nhưng chỉ cần biết hy sinh từ bỏ ý riêng của mình trong từng giây, từng phút để thánh ý Chúa luôn được thi hành trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.
Hôm nay nhìn Chúa về trời. Các tông đồ cảm thấy lòng trào dâng niềm vui. Xa xăm nơi cuối chân trời chỉ còn vang vọng lời Thầy chí Thánh Giêsu: "Anh em hãy làm chứng nhân cho Thầy. Khởi từ Giê-rusalem cho đến tận cùng thế giới". Xin cho mỗi người chúng ta đang khi hướng lòng về trời cao cũng biết chu toàn sứ vụ trần thế trong niềm hân hoan, ngõ hầu "Ra đi tay ôm bó lúa đi gieo - Ngày trở về miệng reo vang câu hát mừng. Amen.
33. Lễ Thăng Thiên--Lm Nguyễn Đức Trung
Con người ngày nay dù đã có thể dùng phi thuyền để bay vào không gian, có thể đi bộ ra ngoài vũ trụ bằng những trang thiết bị cao, nhưng bầu trời vẫn là huyền bí, giới hạn vẫn còn đó cho nên đã biết bao lần bay lên rồi lại phải vội vàng bay về, trời cao vẫn là sự xa xôi, khó hiểu, không như ở dưới đất.
Trong cuộc sống của quảng đại quần chúng, thì khái niệm về trời đất khá thân thiện, gần gũi và dễ thương, vưa coi Ông như người nhà vừa là Đấng phải tôn thờ, thể hiện qua các sinh hoạt. Ở các vùng quê nhà nào mà chẳng có bàn Thiên để cúng với Trời đất; đi xa đi gần, làm ăn ruộng rẫy ai mà chả cầu Trời; Trời rất gần vì Ông Trời biết đến con người và vạn vật: "Trời cao có mắt” “Lạy trời mưa xuống”. Bình thường con người cảm thấy Ông trời rất là dễ thương, chẳng hạn như trai gái yêu nhau họ nói duyên trời se định, may mắn điều gì đó thì nói trời cho, ý trời, và khi hoạn nạn gian truân thì chẳng biết đổ đâu thôi đổ vạ cho trời, khi mưa gió lụt lội gọi là thiên tai, lâu lâu buồn thì cũng trách trời chút ít. Nói chung khái niệm về ông trời nơi chúng ta rất bộc bạch, chân chất, mang tính yên ủi và pha lẫn sự sợ sệt.
Chúa Giêsu khi đến trong thế gian, luôn luôn chỉ vẽ cho con người con đường về Trời, đó là con đường nhận ra Thiên Chúa là Cha, và mọi người là anh em. Hôm nay khi hoàn tất sứ vụ ở trần gian Ngài giã biệt mọi người để về Trời là nơi Ngài đã từ đó mà đến với chúng ta. Giáo lý mà Dức Giêsu dạy dỗ không mông lung khó hiểu, cõi trời không xa xăm, nước Trời ở trong lòng các ngươi. Chúa cũng chả dạy chúng ta phải đi bằng phương tiện khoa học như: Phi thuyền, hay một lực đẩy mạnh nào đó để đưa chúng ta ra khỏi trái đất này, cũng không cỡi cá chép như ông táo để về trời, mà bằng sự nhận ra Chúa và thi hành mệnh lệnh Chúa. Hôm nay trước lúc chia tay Chúa lại xác định thêm một lần nữa với nhóm tông đồ: “Hãy nhân danh Thầy mà rao giảng việc sám hối và ơn tha tội trong mọi dân…” Thì ra Đấng từ trời cao đến không muốn gì khác hơn là làm cho mọi người dưới thế này có cơ hội để về nơi mà chính họ đã được hứa ban, Ngài chết cho họ là nhằm xoá bỏ những trắc trở trên đường đi. Ngài đã đổ máu cứu chuộc duy nhất một lần và có giá trị vĩnh hằng. Tuy nhiên bước đường này sẽ được các tông đồ và chúng ta tiếp nối, kéo dài cho đến khi Ngài quang lâm, cho nên Chúa đi nơi xa xét theo phương diện con người cảm thấy nhưng Chúa luôn mãi ở gần “Này Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Cái quan trọng của chúng ta hôm nay là đừng sao nhãng lời nhắn nhủ của Chúa, bởi vì con đường đi lên trời của Chúa vẽ cho chúng ta không phải là một đường thẳng băng, chính Chúa Giêsu là Thiên Chúa cũng đã phải cố gắng mới hoàn tất, huống chi chúng ta là con người đầy trì trệ, nhiều khi chúng ta cũng cố gắng chấp cánh bay nhưng tội lỗi lại lôi chúng ta xuống, có khi đã chạm đến trời cao nhưng vì kiêu căng lại té xuống.
Cuộc chia tay Thầy trò không phải đã chấm dứt bằng sự kiện người về trời cao, người ở lại dưới thế, mà này đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Rõ ràng cõi trời mà Chúa trình bày chẳng xa xôi mà rất gần gũi, gần gũi đến độ thân tình tin tưởng nên Chúa mời gọi cộng tác qua việc làm cho nhiều người biết Chúa, hãy đi rao giảng cho muôn dân luôn là mệnh lệnh lên đường cho các môn đệ và cũng là mệnh lệnh cho chúng ta hôm nay. Và hơn thế nữa trong một xã hội tục hoá và kém tin, mệnh lệnh này vẫn mang tính thời sự. Ngày nay người ta ngại lên đường khi mà các phương tiện, tiện ích không đáp ứng nhu cầu, và người ta cũng ngại đối diện với sự thực, đó chẳng qua là sự ru ngủ và yên nghỉ với những cái đã đạt được và cũng là sự ươn lười, cái sức ỳ đó sẽ không là lực đẩy để chúng ta vươn lên cõi trời cao đâu.
Lúc còn nhỏ khi nhìn lên bầu trời quả là một cõi xa vời và thi vị và ước vọng đi lên cõi trời luôn là những khát khao rất trẻ con là để được thấy tất cả mọi người phía dưới. Ước vọng vươn đến trời cao cũng là ước mơ của nhân loại vì cõi trần quá phức tạp và đã bị xấu đi, người ta mơ tưởng đến một cõi khác có sự công bằng hơn. Nhưng cõi trời vẫn là cái gì đó xa xôi huyền bí, nhân loại chưa thể khám phá và chẳng biết gì hơn. Sự kiện Thăng Thiên của Chúa không phải là cú ngoạn mục để lòe các môn đệ, mà là chân lý của tình yêu: Thầy đi có lợi cho anh em. Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Thầy đi để Đấng an ủi sẽ đến. Chúa về trời là nhằm thiết lập vĩnh viễn cho chúng ta một đường đi lên.
34. Sống Mầu Nhiệm Lên Trời--Lm Thiện Duy
Kinh Nghĩa Đức Tin mà chúng ta đọc mỗi ngày Chúa Nhật, là tóm kết tất cả những điều chúng ta phải tin và những việc chúng ta phải làm để thể hiện đức tin của chúng ta. Trong niềm tin đó có việc Chúa Giêsu chịu chết, sống lại, khỏi 40 ngày lên trời. Còn trong Kinh Tin Kính cũng có đoạn nói về sự việc này là Chúa Giêsu sống lại, lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Trong những tuần vừa qua, nếu có đi lễ ngày thường chúng ta sẽ được nghe diễn từ giã biệt của Chúa Giêsu, có nghĩa là những lời từ biệt của Chúa Giêsu với các môn đệ của Ngài. Ngài cho các môn đệ biết là Ngài sẽ trở về với Chúa Cha. Cụ thể trong những bài đọc hôm nay cũng có nhắc đến việc Chúa Giêsu lên trời: “Nói xong Người được cất lên ngay trước mắt các ông”. Còn Tin Mừng Maccô trong Chúa Nhật năm B thì sẽ có tường thuật giống như sách Tông Đồ Công Vụ: “Nói xong, Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa”. Vì thế việc Chúa Giêsu “lên trời” là một sự thật. Tuy nhiên Chúa Giêsu lên trời có phải là Ngài không còn ở với chúng ta nữa hay không? Chúng ta phải hiểu “lên trời” nghĩa là gì? Việc “lên trời” của Chúa Giêsu có ý nghĩa gì trong cuộc sống chúng ta? Và cuối cùng là chúng ta phải làm gì khi nghe những lời sau cùng của Chúa Giêsu trước khi lên trời?
I/ BIẾN CỐ LÊN TRỜI CỦA CHÚA GIÊSU
1/ Lên trời nghĩa là gì?
Đức Kitô Phục Sinh đã vào trong vinh quang, đó là một tín điều. Nhưng đó còn là một mầu nhiệm vượt quá kinh nghiệm giác quan, và có lẽ không chỉ hạn hẹp nơi ngọn núi ở Galilê mà Chúa Giêsu hẹn gặp các môn đệ hôm nay. Lên trời là giải thích theo ngôn ngữ của con người cho dễ hiểu. Theo quan niệm phổ biến của Thánh Kinh, trời là chỗ ở của thần minh, do đó cũng được dùng một cách tượng trưng để chỉ Thiên Chúa. Còn đất là nơi loài người cư ngụ. Tình trạng tốt đẹp, khá hơn thì gọi là “lên” (gặp một người làm ăn khá giả mình nói: “lúc này lên hương rồi hé!”). Tình trạng lùi lại, xấu hơn thì gọi là “xuống” (Lâu ngày gặp lại một người bạn ốm nhom, hốc hác, mình nói: “sao lúc này xuống dữ vậy!”). Ngày xưa khi Ngài nhập thế thì gọi là “xuống trần”. Hôm nay Ngài trở lại với tình trạng vinh quang thì gọi là “lên trời”. Vì vậy “lên trời” đối với Chúa Giêsu không phải là một hành động bay đến một nơi, nhưng đó là tình trạng Ngài đã lấy lại vinh quang. Ngài vẫn còn ở bên cạnh chúng ta, vì Ngài đã nói: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Hiểu như vậy để chúng ta đừng nghĩ rằng Chúa Giêsu lên trời là Ngài rời bỏ chúng ta, không còn ở với chúng ta. Nhưng mừng lễ Chúa Giêsu lên trời là chúng ta mừng vinh quang của Chúa, mừng Chúa đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Tuy nhiên Ngài không còn hiện diện một cách hữu hình với con người nữa, hay nói cách khác: xác phàm của con người không thể thấy được vinh quang của Đức Kitô Phục Sinh.
2/ Biến cố “lên trời” trong đời sống kitô hữu
Khi lần chuỗi với mầu nhiệm năm sự mừng, chúng ta đọc: “Thứ hai ĐGS lên trời. Ta hãy xin cho được lòng ái mộ những sự trên trời”. Thánh Phêrô thì khuyên các tín hữu của mình: “Nếu anh em sống lại làm một với Đức Kitô, thì anh em cũng phải tìm kiếm những thực tại cao siêu ở trên trời”. Còn trong Hiến Chế về Giáo Hội của Công Đồng Vatican II thì xác quyết: “Giáo Hội trần thế là một cuộc lữ hành về quê hương trên trời”. Vì thế, tuy sống ở đời này, nhưng chúng ta phải lo vun đắp cho hạnh phúc mai sau. Thánh tử đạo Phaolô Lê Bảo Tịnh đã nói trước khi bị hành hình: “Thân xác tôi đây các ông muốn làm gì thì làm đi, nó sẽ chết nhưng mai này sẽ sống lại vinh quang”. Không cần ở đâu xa, ngay tại họ đạo Tắc Sậy của Giáo Phận Cần Thơ cũng có một con người biết qu#ý trọng thực tại cao siêu ở trên trời nên đã sẵn sàng từ bỏ những thứ chóng qua ở đời này để đổi lấy hạnh phúc đời sau. Người đó không ai khác hơn là cha Px. Trương Bửu Diệp.
3/ Lệnh truyền của Chúa Giêsu
Điểm thứ 3 mà chúng ta cần lưu ý qua biến cố Chúa Giêsu lên trời là lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Đây là mệnh lệnh truyền giáo của Chúa Giêsu. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu không chọn Giêrusalem vừa là thủ đô, vừa là cái nôi của Kitô giáo để gặp gỡ các môn đệ, nhưng Ngài chọn Galilê là vùng đất bị người Dothái loại trừ, là biểu tượng của dân ngoại. Ngài không chọn vùng đồng bằng để tâm sự với các ông, nhưng lại chọn ngọn núi cao vốn là nơi mặc khải của Thiên Chúa, để từ nơi cao đó các ông sau khi gặp gỡ Đấng Phục Sinh phải tỏa rạng vinh quang của Thiên Chúa. Vì vậy những lời sau cùng của Chúa Giêsu, cách thức gặp gỡ của Ngài muốn nhắc nhở các môn đệ sứ mạng truyền giáo, bằng cuộc sống tỏa sáng cho mọi người noi theo.
II/ CUỘC SỐNG NGƯỜI KITÔ HỮU
Mừng lễ Chúa Giêsu lên trời với 3 sự thật về ý nghĩa của việc lên trời, về việc Chúa lên trời trong đời sống của người kitô hữu và mệnh lệnh truyền giáo của Chúa, chúng ta phải sống những điều đó như thế nào đây?
1/ Chúa lên trời nhưng vẫn ở với con người
Trước hết chúng ta đã biết lên trời là tình trạng vinh quang của Chúa Giêsu. Vì vậy nhờ vinh quang mà Ngài càng có thể ở cạnh con người, càng giúp đỡ con người một cách đắc lực hơn. Cho nên chúng ta hãy nhớ rằng Chúa sẽ ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế, để chúng ta sống là sống cho Chúa, sống trong Chúa và sống với Chúa. Mọi sự bất toàn nơi con người chúng ta là do không y thức sự hiện diện của Chúa. Nếu chúng ta biết và nhớ rằng Chúa luôn ở bên cạnh tôi thì làm sao chúng ta có thể làm những điều xấu được. Vì vậy làm sao để chúng ta ý thưc sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời chúng ta đây? Chúng ta hãy dựa vào những phương thế siêu nhiên mà Chúa và Giáo Hội đã dạy chúng ta. Đó là năng đọc và suy niệm lời Chúa; lãnh nhận các bí tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể và Bí Tích Giải Tội; siêng năng lần chuỗi mân côi; đọc lời nguyện tắt, có nghĩa là chọn một câu nào đó mình thích để lặp đi lặp lại suốt ngày trong đời sống chúng ta. Ví dụ: “Lạy Chúa Giêsu xin thương xót con”, hay: “Lạy Chúa Giêsu con yêu mến Chúa”. Chúng ta hãy nhớ rằng tự sức chúng ta và những phương thế tự nhiên không thể nào thắng được ba thù: thế gian, ma quỷ và xác thịt đâu; chỉ có ơn Chúa và phương thế siêu nhiên mới có thể giúp sức cho chúng ta mà thôi.
2/ Hướng lòng lên trời
Từ việc Chúa lên trời cho chúng ta một niềm tin chắc chắn rằng một ngày nào đó chúng ta cũng sẽ được về trời với Chúa. Vì vậy ngay từ bây giờ chúng ta phải chuẩn bị cho cuộc sống mai sau. Chuẩn bị cho cuộc sống mai sau có nghĩa là chúng ta phải biết rằng cuộc sống này chỉ là tạm bợ, chóng qua, để chúng ta không bám víu vào mà chỉ lo tìm kiếm những thứ thuộc về đời này, những thứ mà Chúa Giêsu gọi là thuộc về thế gian. Đồng thời chúng ta phải sống thực tại Nước Trời ngay tại trần gian này. Mà thực tại Nước Trời là gì nếu không phải là tình yêu thương. Do đó dấu hiệu để chúng ta biết mình sống ở đời này mà có lo vun đắp cho hạnh phúc mai sau hay không chính là việc chúng ta có thể hiện tình yêu thương trong cuộc sống hay không.
3/ Thực hiện lệnh truyền giáo
Cuối cùng, chúng ta phải thực hiện di chúc của Chúa Giêsu, đó là “anh em hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ”. Đó cũng là ước nguyện cuối cùng của Chúa Giêsu, muốn cho mọi người được vào Nước Trời với Chúa. Vì vậy bổn phận của chúng ta là phải đem Chúa đến cho những người chưa biết Chúa, hay còn gọi là truyền giáo. Truyền giáo là làm sao? Chúng ta khoan hãy nghĩ đến chuyện lôi kéo nhiều người vô đạo, làm sao cho càng có nhiều người được rửa tội càng tốt… đó là cách thức của việc truyền giáo. Nhưng trước hết chúng ta hãy nghĩ đến nội dung truyền giáo, có nghĩa là Tin Mừng mà chúng ta muốn truyền đạt là như thế nào; có hấp dẫn người ta mới theo, có đáng tin người ta mới vào. Điều đó đòi hỏi bản thân chúng ta trước hết phải cảm nhận được điều mình muốn truyền đạt. Mình phải cảm thấy niềm vui, hạnh phúc trong đời sống đạo thì mình nói người ta mới tin. Khi đã có nội dung của Tin Mừng rồi thì phần còn lại là cách chúng ta trình bày cho người khác bằng lời rao giảng, bằng cách sống đạo, bằng lời cầu nguyện… Lúc đó người ta tin chúng ta không phải vì lời rao giảng, không phải vì những việc chúng ta làm, nhưng vì hạnh phúc chúng ta đang cảm nhận, niềm vui chúng ta đang có, và hy vọng chúng ta đang mong chờ.
Tóm lại, Phụng Vụ Lời Chúa trong lễ Chúa Giêsu lên trời hôm nay cho chúng ta biết rằng việc lên trời của Ngài là trở lại tình trạng vinh quang thuở ban đầu, nên Ngài vẫn hiện diện và càng ở bên cạnh để ban ơn giúp sức cho chúng ta. Nhờ Chúa Giêsu lên trời mà chúng ta tuy sống ở đời này nhưng vẫn hướng lòng về trời cao để sống giá trị của Nước Trời ngay tại thế này để hy vọng một ngày nào đó cũng được về trời với Chúa. Cuối cùng vì niềm tin vào việc chúng ta cũng sẽ được về trời với Chúa nên chúng ta có bổn phận làm cho người khác cũng được vào Nước Trời, bằng cách phải cảm nhận được niềm vui, hạnh phúc vì tôi là người kitô hữu, từ đó lời rao giảng của chúng ta mới có sức mạnh lôi kéo người khác. Lạy Chúa, xin cho con lòng ái mộ những sự cao siêu ở trên trời.
35. Chúa Thăng Thiên
Ngày 12.8.1985, tai nạn máy bay Boeing 747 của hãng hàng không Nhật làm cho 520 người thiệt mạng. Thật là một tai nạn khủng khiếp!... Lúc máy bay sắp rớt, mọi người trên đó đều biết chắc mình phải chết, nên vội vàng ghi lại lời trối cuối cùng của mình, để từ biệt mọi người thân yêu.
Ông Kawaguchi viết cho vợ:
- Vĩnh biệt em! Nhớ chăm sóc các con!
Với ba đứa con, ông trối:
- Các con hãy sống thương yêu hoà thuận nhau. Cố gắng làm việc và giúp đỡ mẹ. (Theo "Chuyện hay ý đẹp").
Người sắp chết bao giờ cũng trối trăn lại với những người thân yêu, căn dặn họ mọi điều, nhất là uỷ thác cho họ những việc làm còn dang dở... để họ ở lại thực hiện cho hoàn tất.
Khi Đức Giêsu chấm dứt giai đoạn hiện diện hữu hình nơi trần gian, chương trình cứu độ chưa hoàn thành, thế giới còn rất nhiều người chưa biết Chúa, chưa biết ơn cứu độ. Chúa Giêsu biết rõ là loài người rất cần ơn cứu độ, cần được hạnh phúc nên Ngài đã uỷ thác sứ mạng cứu thế này cho các môn đệ của mình: "anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em..." (x. Mt 28, 18; Lc 24,46)
Tuy nhiên, bản chất con người là yếu đuối, không thể tự mình đảm đương được công việc lớn lao như vậy. Vì thế, Chúa Giêsu đã ban Chúa Thánh Thần cho Hội Thánh để Ngài dẫn dắt, an ủi và đồng hành với các môn đệ trong việc rao giảng và làm chứng cho Sự Thật, cho Tin mừng Chúa Phục sinh.
Bổn phận của chúng ta, những người môn đệ Chúa là làm chứng cho Chúa bằng cả cuộc sống của mình. Như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta và sẵn sàng thí mạng để cứu chúng ta, thì đến lượt chúng ta cũng sẵn sàng làm chứng cho Chúa. Tất cả mọi lời nói, công việc chúng ta làm thì hãy làm vì yêu mến Chúa, vì muốn đáp trả tình thương của Chúa, muốn làm đẹp lòng Chúa. Muốn vậy, chúng ta phải theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Chúng ta không thể tách lìa việc sống đạo với cuộc sống hàng ngày. Có nhiều người chỉ giữ đạo trong nhà thờ, chỉ theo Chúa trong nhà thờ, còn những lúc khác thì họ không nhớ tới Chúa! Có người nói rằng: những lúc khác họ chạy theo tiền bạc, danh, tước.
Vì vậy, Chúa Giêsu có lần nhắc bảo các môn đệ: "Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được."(Lc 16, 13). Nếu chúng ta là môn đệ của Chúa thì chỉ tôn thờ Chúa mà thôi. Còn tiền, chức, danh chỉ là phương tiện. Nếu chúng ta sử dụng phương tiện đúng mục đích thì có công, còn sử dụng sai thì có lỗi với Chúa. Chúa ban cho các phương tiện để chúng ta làm chứng cho chân lý, cho sự thật về hạnh phúc đời sau. Chúng ta sử dụng các phương tiện đó để làm tròn bổn phận của mình được giao phó, nhưng chúng ta không quá lo tìm kiếm chúng mà xao lãng bổn phận với Chúa và tha nhân.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết hướng lòng về Chúa trong khi chu toàn các bổn phận nơi trần gian để mai sau được triều thiên vinh quang bất diệt trên quê Trời.
36. Chuyến đi về trời--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Có lẽ ai trong chúng ta cũng từng nghe đến tác phẩm "Hồn Trương Ba da hàng thịt". Đây là vở kịch được Lưu Quang Vũ viết năm 1981, công diễn lần đầu tiên năm 1984.
Trong tác phẩm, Trương Ba là một ông lão gần 60, thích trồng vườn, yêu cái đẹp, tâm hồn thanh nhã, giỏi đánh cờ. Chỉ vì sự tắc trách của Nam Tào gạch nhầm tên mà Trương Ba chết oan.
Để sửa sai, Nam Tào đã cho hồn Trương Ba được tiếp tục sống trong thân xác của anh hàng thịt mới chết gần nhà. Nhưng điều đó lại đưa Trương Ba vào một nghịch cảnh khi linh hồn mình phải trú nhờ thân xác người khác, nhưng đáng tiếc, lại là một anh hàng thịt bặm trợn nên dần dần Trương Ba cũng mất đi bản chất trong sạch, ngay thẳng của mình. Trương Ba đã đau xót thốt lên:
"Không. Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng, thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát."
Đôi khi chúng ta cũng từng có những trăn trở và giằng xé như Trương Ba, con người ta thực sự nằm ở đâu? Ý nghĩa cuộc sống của ta là gì? Ta là ai, một tâm hồn nho nhã của ông lão Trương Ba hay một ông Trương Ba thô lỗ ở hàng thịt?
Thực ra, cuộc sống là một hành trình. Một hành trình phải đi tới. Một hành trình đòi hỏi con người mình phải lột xác mỗi ngày nên hoàn thiện hơn. Có ai đó từng nói: "Khi con sâu bướm đến tuổi, nó bắt buộc phải lột xác, hình thành kén và hóa bướm, nếu không nó sẽ chết. Khi đại bàng 40 tuổi, nó bắt buộc phải chịu những đau đớn tột cùng của việc nhổ lông, cạy mỏ để bước sang tuổi mới, nếu không nó sẽ chết."
Cuộc sống con người cũng phải luôn thay đổi, luôn thích nghi để mình nên hoàn thiện hơn. Con người luôn phải đấu tranh với cái thiện, cái ác để bảo vệ chân thiện mỹ trong cuộc đời của mình. Không ai sinh ra là đã hoàn thiện, mà phải nỗ lực vượt qua mọi cám dỗ, mọi thử thách để hoàn thiện chính mình.
Thay đổi là điều không thể tránh được trong đời - có khi đó là một việc bình thường nhưng cũng có lúc là sự mất mát. Có những thay đổi là chuyện tự nhiên, như sinh - lão - bệnh - tử của con người, nhưng cũng có những đổi thay gây ra nhiều thảm kịch như bệnh tật, tai nạn hay phá sản... Nhưng cũng giống như sự thay đổi suốt quá trình chuyển hoá diệu kỳ của loài sâu buớm trong lớp vỏ kén để trở thành một cánh bướm rực rỡ sắc màu, sự thay đổi chính là cơ hội để ta thoát khỏi giới hạn của kiếp người để hướng tới một đời sống siêu nhiên cao quý hơn.
Điều này đã xảy ra nơi Chúa Giêsu. Ngài sinh ra trong thân phận con người. Ngài cũng nỗ lực vượt lên trên mọi khó khăn, mọi gian khổ, kể cả cái chết để hoàn thành đời mình. Ngài đã hoàn thành kiếp người trong vâng phục thánh ý Chúa Cha để ngày nay Ngài được đổi mới hoàn toàn qua sự phục sinh vinh quang. Ngài đã chấp nhận đi qua cái đau của con kén để trở thành cánh bướm rạng rỡ trong vinh quang. Sự phục sinh của Ngài là phần thưởng cho những đau khổ thập giá mà Ngài trải qua.
Lễ Chúa về trời còn là lời khẳng định cho chúng ta về chuyến đi cuộc đời của Ngài. Ngài đã đi qua kiếp người. Ngài đã đi qua những bể dâu của cuộc đời để tiến vào quê trời, là nơi không còn khóc lóc, than van và đau khổ. Cuộc đời của Ngài là một cuộc đời không ngừng chọn theo thánh ý Chúa để từ khước những lời mời mọc của ma quỷ thật ngọt ngào, thật quyến rũ về danh lợi thú trần gian. Cuộc đời của Ngài là một cuộc đời dâng hiến để phục vụ tha nhân và phục vụ tin mừng Nước Trời. Ngài đã sống một cuộc đời như hạt lúa gieo vào lòng đất, chịu mục nát để trổ sinh bông lúa vàng. Ngài đã đi đến cùng của việc xin vâng theo thánh ý Chúa, cho dẫu lời xin vâng cần phải thể hiện bằng chén đắng cuộc đời. Thế nên, Ngài đã được Chúa Cha ân thưởng và siêu thăng lên cõi trời. Ngài đã hoàn thành sứ mạng của mình tốt đẹp và nay về trời chung hưởng vinh quang với Thiên Chúa Cha.
Đó cũng là con đường mà Chúa luôn mời gọi chúng ta bước theo. Đường thập giá tới vinh quang. Đường hẹp đưa ta vào cõi sống trường sinh. Đường tử bỏ những tham sân si để sống cao thượng và thanh thoát hơn. Đừng đam mê xác thịt. Đừng nuông chiều xác thịt. Hãy sống tiết độ. Hãy vác thập giá của bổn phận, của hy sinh phục vụ anh em để nhờ đó mà ta được đổi mới nên tốt hơn, nhất là được lột bỏ con người cũ để sống sự sống con người mới, con người của con cái sự sáng, ngõ hầu mai sau cũng được phục sinh với Chúa.
Cuộc đời là một hành trình. Hành trình tiến về Thiên quốc. Hành trình này không thể đạt được bằng sự dễ dãi, nuông chiều xác thịt. Hành trình này đòi phải hy sinh, phải phấn đấu mới mong đạt được. Xin Chúa giúp chúng ta luôn nhìn lên trời cao là đích điểm của mình để can đảm từ bỏ những đam mê tội lỗi trần gian. Xin Chúa giúp chúng ta biết lột bỏ con người cũ cùng những tính hư nết xấu của mình để hoàn thiện mình mỗi ngày nên giống Chúa hơn, ngõ hầu mai sau cũng được về quê trời hưởng phúc vinh quang với Chúa. Amen.
37. Hãy là chứng nhân của Thầy--Giuse Vinc. Ngọc Biển
Toàn Giáo Hội hân hoan mừng lễ Chúa Thăng Thiên, tức là lên trời. Việc Chúa lên trời, Ngài đã chấm dứt cuộc đời trần thế theo ý muốn của Chúa Cha.
Vậy, đâu là ý nghĩa của việc Chúa lên trời? Ngài lên trời có chấm dứt sự hiện diện trong Giáo Hội hay không? Trước khi lên trời, Chúa đã để lại cho Giáo Hội sứ mạng gì? Và, mỗi người Kitô hữu chúng ta sống niềm hy vọng Thiên Quốc ra sao?
1. Ý nghĩa của việc Chúa lên trời
Sự kiện Chúa Giêsu về trời cho chúng ta thấy: Ngài đã hoàn toàn vâng phục Chúa Cha. Đã chu toàn sứ mạng cứu độ con người qua cái chết trên thập giá. Ngài đã sống lại để làm chứng những lời Ngài đã loan báo. Và, hôm nay, Ngài lên trời để đem lại cho chúng ta niềm hy vọng mai ngày cũng được về trời với Ngài như lời Ngài đã nói: "Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó" (Ga 12,26).
Việc Chúa Giêsu lên trời cũng là lúc kết thúc những cuộc gặp gỡ bằng xương bằng thịt và mở ra một cuộc gặp gỡ thiêng liêng, vượt lên trên không gian và thời gian. Sự kiện này không chấm dứt mọi hoạt động của Ngài trên trần gian. Nhưng qua đó, Chúa Giêsu hiện diện cách phổ quát: "Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,20). Ngài hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, qua Giáo Hội, trong con người của các chứng nhân. Vì thế, Chúa Giêsu trở về với Chúa Cha, nhưng Ngài lại khai mở ra cho các Tông đồ và Giáo hội một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của việc loan báo và làm chứng về Đấng Phục Sinh.
2. Sứ mạng của các Tông đồ sau khi Chúa Giêsu lên trời
Chúa Giêsu về trời, Ngài trao ban sứ mạng truyền giáo cho Giáo hội, khởi đi từ các Tông đồ. Lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo" (Mc 16,15), để "muôn dân trở thành môn đệ"(Mt 28,19) phải là lời mời gọi, một lệnh truyền cấp thiết hơn bao giờ hết.
Trước khi Chúa Giêsu về trời, về với Đấng là Cha đã sai mình đến trần gian, Ngài đã truyền lệnh cho các tông đồ: "Như Cha đã sai Thầy vào thế gian, Thầy cũng sai anh em vào thế gian" (Ga 17,18; x. 20,21). Anh em hãy ra đi và loan báo về: "Đức Mêsia phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba sẽ từ cõi chết chỗi dậy. Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân bắt đầu từ Giêrusalem" (Lc 24,46-47).
Khi Chúa đã lên trời, thì cũng là lúc các Tông đồ phải xuống núi, phải ra đi để đến với muôn dân như lời Ngài đã truyền. Các ông ra đi để tuyên xưng niềm tin của mình vào Đấng đã chết và đã phục sinh. Vào Đấng là đường, là sự thật và là sự sống. Vào Đấng đã yêu thương con người, đã chết và đã sống lại vì hạnh phúc và phần rỗi của con người. Đấng ấy đã lên trời để đem lại niềm hy vọng cho những ai tin vào Ngài cũng được lên trời như các ông đã thấy Ngài lên trời.
Chính trong giây phút này, các ông nhận lãnh sứ mạng xây dựng Giáo Hội, một Giáo Hội có Thiên Chúa là Chủ và có nhau là anh em. Một Giáo Hội yêu thương, hiệp nhất. Một Giáo Hội công bằng văn minh.
Khi Ngài lên trời, Ngài đã giơ tay chúc lành cho các Tông đồ. Hành vi giơ tay được hiểu như là cử chỉ của sự trao ban bình an và đồng thời cũng là biểu hiện sự tin tưởng và trao phó sứ mạng loan báo Tin Mừng cho các Tông đồ.
Sứ mạng mà các ông lãnh nhận và tiếp nối nơi Thầy của mình không phải là một công việc dễ dàng. Chính Chúa Giêsu đã cảnh báo: "Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói" (Lc 10,3). Vì thế, "anh em hãy ở khôn như rắn và đơn sơ như chim bồ câu" (Mc 10,16b).
Khó khăn! Đúng vậy. Chẳng bao lâu, các ông đã bị vua Chúa, quan quyền truy nã vì loan báo về danh Chúa Giêsu... Vì thế, các Tông đồ phải chạy trốn hết thành này sang thành nọ. Hơn bao giờ hết, các ông thấm thía chân lý của hạt lúa gieo vào lòng đất. Chân lý ấy đã được Thầy của mình sống cách triệt để và mời gọi mình bước theo: "Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất không chết đi thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi, thì nó sinh nhiều bông hạt" (Ga 12,24). Hiểu được điều đó, các ông đã không sợ bất cứ ai hay một thế lực nào làm cản trở công cuộc loan báo Tin Mừng. Quả thế, Thánh Phaolô đã nói: "Về bất cứ điều gì, đừng sợ những kẻ chống đối anh em: đó là dấu chỉ cho thấy họ sẽ bị hư vong, còn đối với anh em, thì lại là dấu chỉ ơn cứu độ. Điều ấy là ân huệ Thiên Chúa ban. Quả thế, nhờ Đức Kitô, anh em đã được phúc chẳng những là tin vào Người, mà còn được chịu đau khổ vì Người. Nhờ vậy, anh em được tham dự cùng một cuộc chiến mà anh em đã thấy tôi phải đương đầu trước kia, và nay anh em nghe biết là tôi vẫn còn tiếp tục" (Pl 1,28-30). Cuối cùng, các ông đã không thể ngồi yên khi biết bao con người chưa nhận biết Chúa, nên lại một lần nữa, Phaolô diễn tả tâm trạng đó như sau: "Khốn thân tôi, nếu tôi không loan báo Tin Mừng" (1 Cr 9,16).
3. Sứ mạng loan báo Tin Mừng của mỗi chúng ta
Tiếp nối các Tông đồ, có biết bao nhiêu người đã lên đường, đến những nơi heo hút treo leo. Đã biết bao vị thừa sai bỏ lại mạng sống nơi rừng thiêng nước độc. Miễn sao Tin mừng được loan báo. Quả thật: việc truyền giáo hay loan báo Tin mừng là bản chất của Giáo hội Chúa Kitô (x. Công đồng Vatican II, Sắc lệnh Ad Gentes, số 4;16). Sứ mạng ấy bắt nguồn từ việc Chúa Cha đã trao cho Con của Ngài là Chúa Giêsu, và chính Ngài cũng trao phó cho các Tông đồ và cho mỗi chúng ta: "Như Cha đã sai Thầy vào thế gian, Thầy cũng sai anh em vào thế gian" (Ga 17,18; x. 20,21).
Ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta thuộc về Chúa Kitô và nhận lãnh sứ mạng ngôn sứ từ nơi Ngài. Vì thế, mỗi người chúng ta hãy ra khỏi sự ổn định, an toàn của bản thân và hãy lên đường loan báo Tin Mừng, dẫu biết rằng, công cuộc ấy chẳng mấy tốt đẹp theo kiểu con người suy nghĩ. Vì thế, Chúa Giêsu đã tiên báo: "Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét" (Lc 21,17). Và "hãy nhớ lời Thầy đã nói với anh em: tôi tớ không hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em" (Ga 15,29). Nhưng hãy học nơi các Tông đồ: càng bị sỉ nhục, bắt bớ và tù đày, các ông lại càng "hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu" (Cv 5,41). Bởi xác tín rằng "... trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian" (Ga 16, 33; x. Rm 8,35-37).
Lời loan báo của chúng ta vào Đức Giêsu phục sinh quả là một hành trình, đòi hỏi chúng ta phải là những người đã cảm nghiệm được về Đấng mà chúng ta loan báo: "Chính anh em là chứng nhân về những điều này" (Lc 24,48). Không ai lại đi loan báo về một người mà chúng ta không biết và không tin; hay loan báo vào những thời điểm hay một nhóm người nhất định trong một không gian cụ thể, mà là: "Anh em hãy là nhân chứng cho Thầy đến tận cùng trái đất" (x. Cv 1,8). Trong hành trình loan báo đó, dù gặp phải muôn vàn khó khăn, nhưng chúng ta tin tưởng vào sự bảo trở của Đấng mà Chúa Giêsu đã ban xuống trên các Tông đồ khi xưa: "Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem và khắp cùng thế giới" (x. Cv 1,8).
Chúng ta mừng lễ Chúa lên trời, cũng là lúc một lần nữa chúng ta xác định về vai trò ngôn sứ và chứng nhân của mỗi chúng ta. Mong thay lời bài hát "Đẹp Thay" của Linh mục Nhạc sĩ Mi Trầm lại một lần nữa được vang lên trên môi miệng những ngôn sứ của Lời trong xã hội hôm nay: Đẹp thay những bước chân gieo mầm cứu rỗi. Đẹp thay những bước chân rảo khắp nẻo đường. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong vui sướng. Ai gieo trong nước mắt, sẽ về trong tiếng cười. Ôi đẹp thay những bước chân tiến vào giữa lòng thế giới, loan tình thương Chúa Trời, loan niềm vuii cứu đời, cho mọi người và mọi nơi.
Để kết thúc, xin cũng mượn lời của Đức cố Hồng y Phanxicô X. Nguyễn Văn Thuận trong tác phẩm Đường Hy Vọng của ngài, khi nói về những khó khăn mà người môn đệ của Chúa Giêsu sẽ phải chịu trên con đường loan báo Tin Mừng; đồng thời cũng xác tín mạnh mẽ những ân ban cho những ai trung thành đến cùng trong sứ mạng loan báo Tin Mừng. Ngài nói: "Con run sợ: vấp ngã, khó khăn, hiểu lầm, công kích, sỉ nhục, tử hình... Con quên Phúc Âm sao? Chúa Giêsu đã chịu tất cả. Cứ theo Ngài con sẽ Phục Sinh" (ĐHV số 44).
Lạy Chúa, hôm nay Chúa về trời, Chúa đã chúc lành cho các Tông đồ và cũng cho tất cả mỗi người chúng con là những người tin Chúa; đồng thời Chúa cũng trao phó cho các ngài và Giáo Hội phải loan báo Tin Mừng đến tận cùng trái đất. Xin Chúa cho mỗi chúng con ý thức được điều đó và sẵn sàng ra đi làm chứng cho Chúa trong lòng xã hội hôm nay dầu có phải chịu đau khổ, thử thách. Amen.
38. Thời kỳ của Giáo Hội-– Flor McCarthy--‘Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’
Suy Niệm 1. HIỆN DIỆN VÀ VẮNG MẶT
Vào ngày Lễ Thăng Thiên, Đức Giêsu đã rút lại sự hiện diện thể lý của Người đối với các môn đệ. Nhưng sự vắng mặt thể lý ấy không có nghĩa là chấm dứt sự hiện diện. Sự thăng thiên của Đức Giêsu là sự giải phóng của Người khỏi mọi giới hạn của thời gian và không gian. Nó không thể hiện vận động của Người trên mặt đất, nhưng sự hiện diện thường xuyên của Người ở mọi nơi trên trái đất.
Sự hiện diện thể chất không phải là tất cả. Thật vậy, một đôi khi, sự hiện diện có thể đạt được bằng con đường hiệp thông mật thiết. Trong đời sống chúng ta gặp nhiều nỗi thất vọng bởi sự kiện, sự gặp gỡ và tiếp xúc không phải lúc nào cũng tạo ra sự thân mật, gần gũi mà chúng ta tìm kiếm. Hai người có gần gũi nhau về mặt thể chất thế nhưng cuộc sống vẫn xa cách, cô đơn. Bởi lẽ không có sự gặp gỡ trong trí óc và tâm hồn. Họ giống như những vỏ sò trên bãi biển.
Mặt khác, người ta có thể rất gần nhau dù xa cách nhau hàng ngàn dặm. Đối với những người cùng nhau lớn lên, trưởng thành phải có những thời kỳ vắng mặt và hiện diện. Khi vắng mặt, chúng ta nhìn nhau bằng một phương thế mới mẻ. Chúng ta bớt bực bội nhau vì những cung cách bên ngoài, và có thể thừa nhận giá trị thật của nhau tốt hơn.
Nếu chúng ta có thể hiện diện trọn vẹn với bạn hữu khi chúng ta ở với họ thì sự vắng mặt của chúng ta cũng sẽ mang lại kết quả. Khi hồi tưởng sự hiện diện nồng nàn ấy hơi ấm của nó sẽ tiếp tục nuôi dưỡng người kia. Vì thế, không chỉ sự hiện diện của chúng ta mà cả sự vắng mặt của chúng ta cũng đem lại nhiều ơn ích.
Khi chúng ta nghĩ đến nhau trong sự yêu thương, một dây liên kết tinh thần hình thành ở giữa chúng ta và chúng ta bước vào một sự thân mật mới. Đối với những người yêu thương nhau, không có chỗ dành cho sự “xa cách”.
Đức Giêsu lên trời không phải là một cuộc hành trình ra ngoài không gian, nhưng là một cuộc hành trình về nhà, chúng ta không nên nghĩ rằng trước đó Người sống trên mặt đất, còn giờ đây Người lại trở lại nơi thật sự thuộc về Người. Nếu như thế thì Kitô giáo không hơn một tôn giáo của sự hoài niệm, hồi tưởng. Đức Giêsu đã về với Chúa Cha. Trong suốt sứ vụ ở trần gian, Người chỉ có thể ở một nơi và trong một thời gian. Nhưng giờ đây, Người đã hiệp nhất với Thiên Chúa, Người hiện diện bất cứ nơi nào Thiên Chúa hiện diện, có nghĩa là ở khắp mọi nơi.
Các Kitô hữu tiên khởi đã hiểu điều ấy rất rõ. Họ biết rằng Đức Giêsu vẫn ở với họ, cho dù không cùng một cách thức như trước đây. Họ tin rằng Người vẫn chia sẻ đời sống với họ, và cái chết có nghĩa là được hiệp nhất với Người trong vinh quang mãi mãi.
Tuy nhiên khi nhìn lại, chúng ta cũng thèm muốn được như những người có may mắn nhìn thấy Chúa Phục Sinh bằng chính mắt mình. Nhưng Tin Mừng cho biết những người ở trong tình huống đáng ao ước ấy đã không thật sự nhận ra Đức Giêsu cho tới lúc Người dẫn giải Kinh Thánh và bẻ bánh.
Là những Kitô hữu hôm nay, chúng ta cũng có những phương tiện như thế để nhận ra Chúa: Kinh Thánh và việc bẻ bánh. Về vấn đề gặp gỡ Đức Giêsu bằng đức tin, thế hệ đã qua không có nhiều đặc quyền hơn thế hệ hiện tại.
Đức Giêsu đã tín nhiệm các Tông đồ (và giờ đây tín nhiệm chúng ta) để Tin Mừng bảo đảm được rao giảng và được sống. Người cần chúng ta làm chứng cho sự hiện diện của Người trong thế gian.
Suy Niệm 2. NHÂN CHỨNG CHO ĐỨC KITÔ
Trước khi rời xa các tông đồ, Đức Giêsu đã uỷ thác cho họ việc rao giảng Tin Mừng cho toàn thế giới. Để giúp họ thi hành sứ vụ ấy. Người hứa sẽ gởi Chúa Thánh Thần đến cùng họ. Trong ngày Lễ Hiện Xuống, Người đã hoàn thành lời hứa ấy.
Nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng cho thế giới hiện nay tuỳ thuộc vào chúng ta. Chúng ta là những nhân chứng của Đức Kitô. Đó là một đặc ân to lớn nhưng là một nhiệm vụ luôn làm người ta chán nản. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể cậy đến sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần. Nhưng chúng ta phải làm chứng như thế nào?
Có sự làm chứng bằng lời nói. Chúng ta làm chứng bằng việc tuyên xưng đức tin của chúng ta. Điều này có thể bao gồm việc giải thích đức tin và bảo vệ đức tin.
Có sự làm chứng bằng việc làm. Một cây táo không bao giờ cho trái táo sẽ là một chứng tá nghèo nàn đối với vườn cây ăn trái. Dù chỉ trái táo ngon cũng nói lên được một điều gì đó. “Chớ vao giờ khuyên bảo một điều gì mà bạn không thể làm gương về điều đó” (Thoreau).
Rồi có sự làm chứng bằng đời sống của mình. Cây cối làm chứng cho sự sống bằng chính sự hiện hữu của nó. Cao, thẳng, bất độn, chúng là những chứng tá im lặng nhưng hùng hồn của đời sống. Bông hoa làm chứng về cái đẹp đơn giản bởi vẻ đẹp phong phú của chúng. Và những Kitô hữu làm chứng bằng đời sống của họ. Bài giảng thuyết hùng hồn nhất là bài giảng thuyết thinh lặng bằng gương sáng. Ngày nay, người ta không còn muốn nghe những bài giảng về đức tin. Họ muốn nhìn thấy Tin Mừng trong hành động.
Sự làm chứng bằng đời sống của một Kitô hữu còn mạnh mẽ hơn bất cứ lý luận nào. Có những người mà đời sống của họ toả sáng chứng cứ về quyền năng biến đổi của đức tin. Trong đời sống của họ, đức tin là một ngọn lửa sáng, giữa đời sống của những người khác, đức tin là một ánh sáng lờ mờ hoặc một tia lửa bất chợt. Dù có mọi giới hạn và khuyết điểm của con người, nếu một người sống đơn sơ, lấy Đức Kitô làm mẫu mực thì người ấy là dấu chỉ về Thiên Chúa và về những thực tại siêu việt.
Chứng tá của Tin Mừng mà thế giới cho rằng có thể kêu gọi người ta nhiều nhất là sự quan tâm đến con người, là việc làm bác ái hướng về người nghèo, người yếu đuối và người chịu đau khổ. Sự quảng đại được nhấn mạnh trong thái độ và các hành động đó nổi lên sự tương phản với tình vị kỷ của con người. Nó đưa ra những vấn đề chính xác dẫn đưa người ta đến với Thiên Chúa và đến với Tin Mừng. Một cam kết với hoà bình, công lý, nhân quyền là một sự làm chứng cho Tin Mừng.
Có một cấp độ thứ tư của việc làm chứng, đó là làm chứng với cái chết của mình. Nhưng điều này không đòi hỏi mọi người hoặc ban cho mọi người. Đây không phải là con đường êm ái và dễ dàng, nhưng là một con đường đòi hỏi một tính kiên trì, sức mạnh và lòng can đảm đặc biệt.
Thế giới ngày nay có một sự khao khát mãnh liệt Đức Kitô của Tin Mừng. Đức Giêsu nói với các Tông đồ: “Anh em hãy ở lại thành đô, cho đến lúc mặc lấy quyền năng từ trên cao”. Quyền năng nói ở đây là quyền năng của Chúa Thánh Thần. Chúng ta cần có chính quyền năng này, nếu chúng ta làm chứng cho Đức Giêsu. Và ai làm chứng sẽ chia sẻ vinh quang của Người.
CÂU CHUYỆN KHÁC.
Ngày xưa, có một người cha có mười hai người con. Dù ông đều yêu thương các con, ông vẫn có một tình thương dịu dàng với đứa con áp út tên Giuse. Những người con khác ganh tỵ với Giuse và quyết định giết anh. Tuy nhiên, vào giây phút cuối cùng, họ đổi ý. Thay vì giết em, họ bán em cho những thương gia đi ngang qua đó, họ nói với cha họ rằng người em đã bị thú giết chết.
Giuse bị xích lại và đưa sang Ai Cập, ở đó ông được bán như một người nô lệ. Ông có một đời sống cùng cực, hèn kém. Dsư5 việc còn tệ hơn, khi ông bị vu khống và bị giam vào ngục tối. Dù xung quanh là những tội phạm cứng lòng, ông vẫn tiếp tục tín nhiệm vào Thiên Chúa và sống một đời sống tốt. Ông cũng làm bạn với các tội phạm. Cuối cùng ông làm rạng danh ông và được tha.
Lúc đó, như thấy trước nạn đói khủng khiếp sẽ đến, ông đã cảnh báo nhà vua phải truyền lệnh cho dân tiết kiệm ngũ cốc. Nhà vua không chỉ theo lời khuyên của ông mà còn đặt ông làm quản lý công việc. Giuse đã hoàn thành công việc một cách xuất sắc.
Nạn đói đã xảy ra như dự kiến và dân chúng có thể lấy lúa gạo tích trữ ra dùng. Nhưng trong các nước láng giềng, tình trạng trở nên tồi tệ. Dân chúng các nước kéo nhau về Ai Cập để tìm mua ngũ cốc. Và nhà vua nói với họ: “Hãy đến gặp Giuse”.
Một ngày kia, anh em của Giuse đã đến Ai Cập để mua ngũ cốc. Khi họ nhận ra ông họ run sợ. Nhưng thay vì trả thù, Giuse đã tiếp đãi tử tế, và cho họ đầy đủ ngũ cốc mà họ cần. Ông nói với họ hãy trở về nhà và đưa cha họ đi theo họ trở lại Ai Cập cho ông gặp.
Người cha già rất đỗi vui mừng khi nghe nói rằng đứa con trai thân yêu của ông vẫn còn sống. Các anh của Giuse đã phạm phải một hành động ác độc chống lại ông. Nhưng qua đó, điều tốt lành đã đến với ông. Ông có thể cứu các anh mình khỏi nạn đói và làm cho cho cả nhà được đoàn tụ.
Câu chuyện của Giuse là một trong những câu chuyện cao cả nhất của Kinh Thánh. Ông Giuse là hình ảnh của Đức Giêsu, Chúa Con yêu dấu của Chúa Cha, đã bị anh em Người bán đi, bị giết chết, nhưng giờ đây đã được Chúa Cha cho sống lại và đặt Người ở bên hữu Chúa Cha trong vinh quang. Từ vị trí cao trọng ấy, Người cứu chuộc chúng ta, anh chị em của Người khỏi tội lỗi và cái chết đời đời. Và Người tìm kiếm để quy tụ mọi thành phần còn tản lạc của gia đình Thiên Chúa.
Ngày hôm nay chúng ta cử hành sự thăng thiên của Đức Giêsu. Người lên trờ ngự bên hữu Chúa Cha. Đây là một ngày vui vẻ. Nhưng Người đã cho chúng ta một nhiệm vụ phải hoàn thành. Không phải là phân phát ngũ cốc, nhưng là rao giảng Tin Mừng cho toàn thế giới.
39. Chuyển giao sứ mạng
Trong điền kinh có môn chạy tiếp sức. Người thứ nhất cầm gậy chạy một đoạn quy định, chạy đến người đồng đội của mình trao cây gậy đó cho đồng đội của mình để chạy tiếp và cứ như thế cho đến hết số người quy định.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Chúa Thăng Thiên. Chúa Thăng Thiên là làm sao? Có phải Chúa bay về vùng trời cao xa, Chúa bay về thiên quốc... Không phải như thế đâu. Chúa Thăng Thiên tức là Chúa chấm dứt sự hiện diện hữu hình tại thế của Người. Chúa Thăng Thiên nhưng Chúa không bỏ mặc các môn đệ mồ côi nhưng Ngài hứa "Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế". Đoạn Tin Mừng theo thánh Luca mà chúng ta được đọc hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu hiện ra và minh chứng chính Ngài là chứng mà Kinh Thánh đã tiên báo và kêu gọi các môn đệ hãy làm chứng về những điều đó. Muốn làm chứng điều đòi hỏi đầu tiên là người đó phải là người chứng kiến, phải cảm nhận tức là họ phải tin chắc chắn đó là thật thì mới dám làm chứng. Nhưng ở đây làm chứng cho Chúa Phục Sinh còn đòi hỏi một yếu tố quan trọng hơn đó chính là sức mạnh, quyền năng từ trời cao ban xuống.
Sau khi Chúa Giêsu sống lại nhiều lần Chúa đã hiện ra với các môn đệ để minh chứng rằng chính Ngài là Đấng đã chịu đau khổ, đã chịu chết, và nay đã sống lại. Các môn đệ đã tận mắt chứng kiến và hôm nay các ông được mời gọi làm chứng cho điều đó. Chúa Giêsu đã làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại và hôm nay trọng trách đó, "cây gậy tình yêu" đó được chuyển giao lại cho các môn đệ để các ông làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa cho con người được thể hiện qua tình yêu tự hiến, qua cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu.
Chúa Thăng Thiên, Chúa Giêsu đã hoàn thành sứ mạng của Ngài và Ngài chuyển giao sứ mạng đó cho mỗi người chúng ta. Đối với chúng ta niềm vui Chúa Phục Sinh của Chúa Giêsu có là một niềm vui trọng đại nào không? Sự phục sinh của Chúa Giêsu có mang lại cho chúng ta chút ý nghĩa nào không? Sự phục sinh của Chúa Giêsu là một niềm vui lớn lao cho cả nhân loại, không riêng gì chúng ta. Chúa phục sinh tức Chúa đã chiến thắng cái chết với thân xác phải chết của chúng ta qua sự vâng phục trọn vẹn thánh ý Chúa Cha. Qua cái chết của Chúa Giêsu còn thể hiện một tình yêu bao la mà Thiên Chúa dành cho chúng ta, ngay Con Một mà Chúa cũng chẳng từ mà ban cho chúng ta thì thử hỏi Chúa còn tiếc gì đối với chúng ta nữa, thánh Phaolô đã nói "Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là những tội nhân", chúng ta không đáng yêu chút nào nhưng tình yêu của Thiên Chúa bao trùm lấy chúng ta. Qua cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu, Chúa đã biểu lộ tình yêu của Chúa cho chúng ta bây giờ chỉ còn việc ta sẽ đáp lại tình yêu đó như thế nào, và sẽ loan báo tin vui đó ra sao. Nếu chúng ta tin rằng Chúa đã chết và sống lại vì chúng ta thì sao chúng ta chưa biết tạ ơn Chúa, chúng ta chưa cảm tạ Chúa trong từng ngày sống của chúng ta, chúng ta chưa phó thác mọi sự cho Chúa. Phó thác không phải là buông xuôi nhưng là thực hiện hết khả năng của mình trong sự tin tưởng vào Thiên Chúa. Chúa Giêsu chiến thắng khi Ngài hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha, vậy chúng ta hãy vâng nghe lời Chúa để cũng được chiến thắng như Chúa Giêsu. Nghe tiếng Chúa qua việc siêng năng cầu nguyện, qua việc học hỏi thánh Kinh, qua việc tham dự Thánh Lễ, lãnh nhận các bí tích nhất là Bí Tích Thánh Thể... nghe tiếng Chúa để thi hành ý Chúa.
Chúa Thăng Thiên nhưng các môn đệ không buồn sầu thảm não như hôm Thầy bị bắt nhưng lòng các ông đầy hân hoan vì các ông biết rằng từ nay không được thấy Thầy mình hiện diện khả giác nữa nhưng các ông cảm nhận được sự hiện diện ấy bằng niềm tin. Trong niềm tin các ông cùng nhau hiệp nhất, cầu nguyện, chính trong niềm tin Chúa Phục sinh mà các ông gắn bó hơn với Chúa và gắn bó hơn với nhau. Mọi người Kitô hữu chúng ta cũng hãy biết gắn bó với nhau, hiệp nhất nhau trong lời cầu nguyện, hiệp nhất nhau trong Thánh Lễ, và chắc chắn khi đó sẽ cảm nhận được sự hiện diện đích thực của Chúa Kitô.
Hôm nay Chúa Thăng Thiên mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của Giáo hội, kỷ nguyên của chính chúng ta. Chúng ta hãy làm chứng cho tình yêu thương của Thiên Chúa đã cho chúng ta tất cả kể cả Con yêu Dấu của Ngài bằng một đời sống vui tươi, cảm tạ, một mối tương quan bác ái, huynh đệ đối với mọi người chung quanh để làm sao thể hiện một con người được cứu độ, được Thiên Chúa yêu thương và loan báo tình yêu thương đó cho mọi người.
Người ta nói khi yêu không thể giấu được: một anh chàng hay một cô nàng đột nhiên ca hát, hớn hở, rất linh hoạt, rất cởi mở, vui tươi, yêu đời... thì người ta có thể đoán anh chàng hay cô nàng đó đang yêu.
Ước gì mỗi người Kitô hữu chúng ta sẽ tiếp tục sứ mạng của Chúa Giêsu trao phó là loan báo tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta bằng một đời sống như thế.
40. Suy niệm của R. Gutzwiller
Ý nghĩa Phục sinh
“Đức Kitô phải chịu khổ nạn và ngày thứ ba sống lại từ cõi chết, rồi phải nhân danh Ngài rao giảng cho mọi dân tộc việc hối cải để được tha thứ tội lỗi –khởi từ Giêrusalem’. Đấng chịu đóng đinh và Phục sinh sẽ là Đấng mà lề luật, các tiên tri và thánh vịnh đã hứa. Biến cố daỳ vò các tông đồ không phải là cái gì khác hơn là sự thực hiện chương trình vĩ đại về việc cứu độ của Thiên Chúa. Được phác hoạ trong Cựu ước và hoàn thành trong Tân ước. Đường dây nối mọi sách thánh lại là Đấng Messia đến, hành động, hy sinh. Và kết quả riêng tức ý nghĩa sâu xa nhất là sự thứ tha tội lỗi cho mọi dân moị nước. Phổ quát tính của ơn cứu độ, ý nghĩa bao quát của hy sinh thập giá được diễn tả qua những lời đó. Hy sinh thập giá là hy tế đem lại ơn cứu chuộc. Và Đấng Thiên Sai khi hoàn tất hy tế ấy đã trở nên ơn cứu độ cho Israel cũng như cho cả nhân loại.
Loan báo Phục sinh
‘Các anh em là những chứng nhân về điều đó’. Sứ điệp Kitô giáo không phải là một ý tưởng sáng tạo một sáng kiến độc đáo chi phối những khám phá mới, cũng không phải là việc tìm kiếm các chân lý, nhưng chính là xác quyết sự kiện: Đức Kitô đã chết và đã sống lại. Kitô giáo trước hết là một biến cố, rồi từ biến cố ấy thành lịch sử. Và lịch sử đó không tường thuật lại những hoạt động của loài người nhưng là những hoạt động của Thiên Chúa, nhất là sự hy sinh, của một vị Thiên Chúa nhập thể, đem ơn cứu chuộc đến cho mọi dân tộc. Loan truyền sứ điệp ấy có nghĩa là chứng thực biến cố ấy, vững lập trường về sự kiện ấy. Đó là làm chứng bằng lời nói, bằng đời sống và có khi phải bằng máu nữa. Đã làm chứng được như vậy, con người phải đón nhận sức mạnh Thánh Thần Thiên Chúa ‘Ta sắp sai đến trên anh em, điều Cha Ta đã hứa’. Chính Chúa Thánh Linh là chứng tá đích thực. Ngài sẽ làm chứng trong các tâm hồn bằng đức tin bên trong, còn con người làm chứng bên ngoài bằng việc rao giảng. Bởi thế, sự Phục sinh của Chúa Kitô là nội dung chính cốt của sứ điệp Kitô giáo qua các lời giảng dạy của các tông đồ cũng như qua sách công vụ và các thơ, đứng trước biến cố trọng đại ấy, tất cả đều phai nhoà đi hết. Việc rao giảng Kitô giáo không phải là trình bày các qui luật luân lý, giảng giải các chân lý giáo điều hoặc trình bày cuộc đời Chúa Giêsu, nhưng sự rao giảng ấy trước hết là một khẳng định rõ về cái chết và sự Phục sinh của Chúa, vì đó là những yếu tố trung tâm của lịch sử ơn cứu độ.
TỪ BIỆT
Đây là lần cuối cùng Chúa Giêsu ở giữa các tông đồ. Ngài ở giữa họ để nói lên lời từ biệt. Sự việc xảy ra gần Bêtania ở cửa thành thánh. Thánh Luca trình bày sự kiện này hết sức ngắn gọn, nhưng Ngài sẽ trở lại vấn đề trong chương Tin mừng sách Công Vụ với nhiều chi tiết hơn là ở đây, khi nói đến việc Chúa về Trời. Theo Tin mừng ta thâý việc kết thúc sứ vụ loan báo Tin mừng
1. Đức Kitô
Chúng ta được biết Đức Kitô từ biệt các tông đồ đang khi các Ngài chúc lành cho họ. Ngài không còn giảng dạy và ra lệnh gì nữa. Mọi cái mờ ám đều biến dạng. Cho dầu cuộc khổ nạn, việc Phêrô chối Chúa, sự nghi ngờ Chúa sống lại và sự phập phồng sau lần hiện ra cuối cùng. Mọi sự đều được sáng tỏ. Tất cả đều kết thúc tốt đẹp bằng phúc lành của Chúa, Đấng sẽ ban cho họ sinh lực để sống dù Ngài không còn hiện diện trước mắt nữa, và để họ hành động và tiếp tục sự nghiệp, họ sẽ giữ kỷ niệm sống động, việc Thày chúc lành.
Chúa lên trời chẳng qua là sự Người trở về cùng Chúa Cha và được biến hình cả thể xác lẫn tình thần, việc Chúa lên trời đó đối với các môn đệ cũng là một dấu chỉ tối cao về việc Ngài trở lại và nhờ đó, các ông cũng được lên trời. Từ giờ đó, họ biết rằng đời họ là một cuộc hành trình tiến về ánh sáng và bất chấp mọi trở ngại của cuộc sống trần gian cũng như quân thù bách hại, mọi chuyện sẽ hoàn tất trong ánh sáng của sự biến hình.
2. Các tông đồ
Họ quì gối xuống và thờ lạy. Họ không còn u tối, sợ sệt, phập phồng, hồ nghi gì nữa. Vì thế họ tin kính thờ lạy. Việc Ngài Phục sinh và lên trời chứng minh rõ ràng cho họ biết nguồn gốc cũng như bản tính Thiên Chúa của Ngài và Ngài được cất nhắc lên ngự bên hữu Chúa Cha. Thờ lạy, thán phục chỉ là cách thức nói lên sự hân hoan của họ. ‘Rồi họ trở lại Giêrusalem, vui mừng khôn xiết, và hằng ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa’. Tin mừng kết thúc trong niềm hoan lạc, việc Chúa trở lại ‘uy nghi’ cho các tông đồ có cơ hội tôn vinh Ngài. Khi nhìn lại, khi nhớ đến lời truyền tin cho Giacaria và Đức Maria, khi nhớ lại các sứ điệp các thiên thần gởi cho các mục tử, nhớ đến việc dâng Chúa trong Đền thờ, rồi ơn kêu gọi riêng họ, việc họ thông dự vào quyền giảng dạy và làm các phép lạ của Chúa, từ đây họ hiểu rằng mọi sức đối kháng của thù địch đều không làm gì được và qua cuộc khổ nạn và thập giá Chúa, sự đối kháng ấy cũng góp phần vào việc đặt nền cho hoạt động cứu thế đúng nghĩa, cho hy tế cứu chuộc để cứu rỗi thế giới, sau cùng họ thấy rằng Chúa biến hình, từ đây không còn khổ đau nữa, thì họ chỉ còn biết tạ ơn Thiên Chúa với lòng thành tín khôn tả. Kế hoạch Ngài đã thực hiện, sự nghiệp Ngài đã hoàn thành, vinh quang Ngài đã tỏ hiện cho loài người. chính Thánh Luca đã kết thúc Tin mừng của ông bằng thánh thi ngợi khen vậy.
41. Mở đường
"Đang khi Chúa chúc lành cho các ông, Người được rước về trời" (Lc 24, 51)
Tập truyện Tây Du ký rất hấp dẫn, không những cho người Tàu, người Việt chúng ta, mà còn cho một số người ngoại quốc nữa. Người ta nói rằng: nhiều người mê chuyện Tây Du ký không phải vì chuyện đánh đấm, vì quyền phép của Tề Thiên mà thôi; cái chính là ở chỗ chuyện Tây Du ký đem lại sự kích thích tính tò mò hiếu kỳ của con người. Đó là chuyện trên trời, chuyện của thần tiên. Nhân loại vì tò mò, vì không ai biết trên trời ra sao, có gì trên đó, và cõi trời ở đâu, vì chưa có ai lên đó kể lại.... Thật ra, tính tò mò đó không phải là điều không chính đáng. Hôm nay mừng lễ Chúa lên trời, Hội thánh không phải để thỏa mãn tính tò mò của con người; cái chính Hội thánh muốn nói: đây là một sự thật chính Chúa từ trên trời xuống nói cho ta biết về trời, nhất là hôm nay, người về trời đi trước dọn chỗ cho ta, để mai sau ta cùng được lên đó với Chúa.
a. Thiên đàng là gì, ở đâu và ra sao? Có phải thiên đang là giấc mơ của tuổi thơ? Hay thiên đàng là thế giới đại đồng của người CS như Max hay Engels nói? Hay thiên đàng là cõi trời của Tây Du Ký?
Chúng ta thử nhìn lại: Cõi trời hay thiên đàng của Tây Du Ký, thực ra không khác gì ở trần gian, vì nơi đó còn đầy gian tham, hối lộ, còn đầy cái ác trên đó...Thực ra cõi trời của Tây Du Ký, theo Ngô Thừa Ân, đó chỉ là hiện thân của cõi lòng con người còn đầy lục dục, thất tình, và cõi lòng đó có khao khát muốn thóat ra cái không tốt đó. Tóm lại cõi trời đó chính là cái tâm của con người không hơn không kém.
Bây giờ ta lại nói đến cõi trời hay thiên đàng của trẻ thơ: thiên đàng của trẻ thơ thực ra chỉ là giấc mơ, nghĩa là không có thật; vì khi lớn lên ta mới hiểu, giấc mơ đó đẹp lắm, nhưng vì là giấc mơ, nên nó không phải là thực tại, không phải là sự thật. Ngày nay người thanh niên gọi thiên đàng của tuổi thơ: đó là thế giới mộng, hoặc thế giới ảo....
Theo triết lý của Max Engels mơ ước thiết lập cho người một thiên đàng thật lý tưởng, một thế giới đại đồng ở đó không có cảnh người bóc lột người, ở đó mọi của cải là của chung, và người ta sử dụng công bằng theo nhu cầu của mình. Thế giới đại đồng này đẹp quá, lý tưởng quá, đẹp và lý tưởng hơn cả thiên đàng của người Công giáo nữa; nhưng chừng nào thì ta đi tới đó?
Sau cùng, cũng phải nói đến thiên đàng của Chúa Giêsu; dĩ nhiên đây là sự thật chính Chúa nói cho ta biết, cũng vì chính Chúa đã từ trời mà xuống, nói lại cho nhân loại hiểu. Cũng chính Chúa Giêsu đã sẵn sàng chết để minh chứng cho lời nói của Chúa là sự thật. Sau này, qua lịch sử của Hội thánh, các thánh hàng hàng lớp lớp đã đứng lên làm chứng cho ta về sự thật này... Có người sẽ nói vì là người Công giáo, nên mình bênh vực cho Chúa, cho các thánh, đó là điều dĩ nhiên... Nói thế cũng không phải sai, nhưng có một điều này, nếu bênh vực một điều không đúng, không phải là sự thật, tại sao qua hai mươi thế kỷ, hàng tỉ con người luôn nghe theo, và sẵn sàng dám sống chết cho Chúa, cho hội thánh? Chẳng lẻ họ là những người dốt nát cả sao? Chính lý lẽ này phải làm cho ta suy nghĩ....
b. Gợi ý sống và chia sẻ:
Thật ra Hội thánh, mẹ chúng ta chẳng cần phải làm chứng cho chúng ta về sự thật này, về hạnh phúc thiên đàng, vì có Chúa Thánh Thần luôn làm chứng cho Hội thánh. Dù vậy Chúa Kitô đã chết để trở thành chứng nhân sống động cho ta tin nơi thiên đàng. Phần ta, ta có sẵn sàng tin vào Chúa và vào Hội thánh của Chúa không?
42. Chúa lên trời
Cách đây mấy ngàn năm, khi khoa học về vũ trụ chưa được phát triển, dân Do Thái cũng như những dân tộc vùng cận đông thường có một cái nhìn đơn sơ về vũ trụ. Họ coi trái đất là như một chiếc mâm, chung quanh đất là biển, dưới lòng đất là âm phủ, nơi ở của những người đã khuất. Còn bầu trời là như cái lồng bàn úp lên trên đất và biển. Trên chiếc lồng bàn này có nhiều thứ kho: kho nước, kho mây, kho gió, kho tuyết, kho sương mù. Mỗi khi Thiên Chúa mở cửa những kho này là chúng ta lập tức sẽ có những hiện tượng thiên nhiên tương ứng.
Vòm trời cũng là nơi Ngài treo các vì tinh tú để soi sáng cho mặt đất. Thiên Chúa ngự trên chốn trời cao cùng với các thiên thần. Vậy khi nói Chúa Giêsu được đưa lên trời, thì có nghiã là Ngài được đưa vào thế giới của Thiên Chúa. Ngài được tôn vinh bên Chúa Cha, sau khi đã hoàn tất công trình cứu độ nhân loại.
Đối với chúng ta thì hơi khác một chút. Điều cốt lõi của biến cố Chúa về trời không phải là chuyện Chúa đã bay lên, thoát khỏi sức hút của trái đất, mà là mầu nhiệm Ngài được Chúa Cha nâng dậy từ cõi chết và đưa vào chung hưởng vinh quang bên Chúa Cha. Nơi ở của Thiên Chúa là thiên đàng. Nhưng thiên đàng ở đây, chúng ta không được rõ. Toan tính đi tìm thiên đàng bằng một con tàu vũ trụ điều đó chỉ đưa đến thất vọng và chứng tỏ một thái độ ấu trĩ, vì thiên đàng nằm ngoài khả năng cảm nhận của giác quan, như lời thánh Phaolô: Tai chưa hề nghe, mũi chưa hề ngửi và trái tim chưa một lần cảm nghiệm được những điều Thiên Chúa dành cho những người trung thành phụng sự Ngài. Chúng ta không thấy thiên đàng nhưng thiên đàng còn có thực hơn cả vũ trụ hữu hình này, bởi vì thế giới của con người sống nhờ vào thế giới của Thiên Chúa.
Mặc dù Chúa đã về trời nhưng Ngài vẫn còn ở lại với chúng ta luôn mãi; bởi vì lên trời không phải là đi vào một thế giới xa lạ với thế giới loài người và cắt đứt mọi liên hệ với trần thế… Tuy chúng ta không còn thấy Ngài một cách hữu hình nhưng Ngài vẫn tiếp tục hiện diện giữa chúng ta dưới những hình thức khác.
Chúng ta có thể gặp Ngài qua những kỳ công trong vũ trụ. Chúng ta có thể gặp Ngài qua những lời giảng dạy. Chúng ta có thể gặp Ngài qua Bí tích Thánh Thể. Chúng ta có thể gặp Ngài qua Giáo Hội. Chúng ta có thể gặp Ngài nơi những người anh em, nhất là những kẻ khổ đau và bất hạnh. Như thế Ngài được tôn vinh lên trời không phải là làm một cuộc đi xa, nhưng trái lại là một cuộc đến gần. Phục sinh và Lên Trời là để làm tròn sứ vụ giữa lòng thế giới. Chính vì thế mà Ngài đã truyền cho các môn đệ cũng như cho chúng ta phải tiếp tay với Ngài: Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Bởi đó, hãy chu toàn bổn phận của chúng ta, bằng cách sống đức tin và đem đức tin đến cho những người chung quanh, để rồi trong ngày sau hết, chúng ta sẽ được chia sẻ niềm hạnh phúc thiên đàng với Ngài.
43. Chúa Nhật Chúa Thăng Thiên
Anh chị em thân mến.
Chúng ta thường nghe câu nói: Chiến đấu có gian nan thì chiến thắng mới vinh quang.
Nước Việt Nam chúng ta đã trải qua 4000 năm văn hiến. Cha ông đã khổ công gây dựng nên. Biết bao người đã hy sinh. Đọc lại những trang sử hào hùng của dân tộc, chúng ta nhìn thấy sự thăng trầm của đất nước, nhìn thấy những nỗi khổ nhọc của tiền nhân. Giờ đây tất cả mọi điều đã qua đi, chúng ta chỉ còn truyền lại cho nhau nghe qua những phương tiện của thời đại. Những người đang sống, đang tận hưởng những gì mà người xưa đã để lại, họ có bổn phận gìn giữ, bảo vệ và cũng làm cho đất nước mỗi ngày tốt đẹp hơn, vì họ đang tận hưởng sự bình an, hạnh phúc của người xưa.
Nếu họ không biết cách bảo vệ, nếu họ làm cho đất nước bị suy đồi thì họ sẽ mang tội với người xưa và cả với thế hệ mai sau. Họ đã sống không xứng đáng là một chứng nhân sống động của thời đại, không xứng đáng là người VN. Nếu họ biết gìn giữ, đóng góp tích cực cho đất nước mỗi ngày được tốt đẹp. Đó là những chứng nhân xứng đáng, những người biết tận hưởng hạnh phúc và cũng biết để hạnh phúc cho người khác. Đó là những người sống không hổ thẹn với lịch sử.
Chúa Giêsu kêu gọi các Tông đồ làm chứng nhân, kêu gọi các ông rao giảng. Không phải rao giảng cho một dân tộc, một đất nước nhỏ bé trên trần gian. Cũng không phải rao giảng cho những con người không còn hiện hữu, cũng không phải rao giảng cho một hành động của quá khứ, một việc làm mà giờ đây không còn tồn tại nữa. Nhưng rao giảng và làm chứng cho Nước Trời, cho Dân Thiên Chúa. Rao giảng và làm chứng cho một việc làm của quá khứ, nhưng vẫn còn hiện diện hữu hiệu trong hiện tại,cho từng con người.
Rao giảng và làm chứng cho Thiên Chúa, cho Tình yêu bao la mà Ngài đã hành động cho con người. Các Tông đồ ngày xưa đã làm tròn bổn phận của một công dân nước trời. Các ông đã tận hưởng được sự bình an, hạnh phúc, nên các ông biết làm chứng cho hạnh phúc đó và truyền lại cho thế hệ mai sau. Chính vì các ông biết vâng lời và cũng vì các ông cảm nhận được một điều quang trọng là: Chúa Giêsu rời xa các ông qua thể xác, qua những gì là của trần gian tạm bợ nầy, nhưng Ngài vẫn ở bên cạnh các ông, vì các ông là công dân nước trời. Nhờ đó chúng ta cũng làcông dân nước trời, chúng ta cũng có bổn phận rao giảng, làm chứng và bảo vệ những gì mình đã tận hưởng.
Trong thánh lễ hôm nay, nhắc cho mỗi người nhớ lại mình đã là công dân nước trời. Mỗi người cũng đã nhận được lệnh truyền như các Tông Đồ khi xưa là rao giảng và làm chứng. Với những gì mình đang có trong hiện tại, với những việc làm đã qua trong cuộc sống, mỗi người trong chúng ta đã để lại những trang sử đời mình như thế nào cho thế hệ mai sau? Nếu trung thực mà viết lại tất cả những gì chúng ta đã làm, những gì đã suy tư toan tính, những điều ngoài ánh sáng cũng như những gì trong bóng tối không ai nhìn thấy, chúng ta có dám để lại những trang sử đó cho thế hệ mai sau học hỏi hay không? Nếu không dám để lại thì một cách nào đó, chúng ta đã làm ô danh nước trời, ô danh quê hương của chúng ta. Vậy thì Nước Trời sẽ đối xử với những người con đó như thế nào?
Còn nếu chúng ta dám để lại những trang sử tốt đẹp của đời mình cho thế hệ mai sau, mà không hổ thẹn. Đó là chúng ta đã biết nghe lời Chúa Giêsu: biết rao giảng, biết làm chứng bằng cuộc sống của mình. Đó là chúng ta biết mình đang tận hưởng sự bình an, biết đem bình an, hạnh phúc đến cho mọi người.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết sống tốt đẹp, để dùng đời sống của mình rao giảng nước Thiên Chúa, và xứng đáng là Công Dân Nước Trời.
44. Chứng nhân
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Trước khi từ từ lên cao, Ngài đã ban huấn lệnh: “Các con sẽ là chứng nhân cho Ta tại Giêrusalem, trong toàn cõi Giuđêa, Samaria, và cho đến tận cùng cõi đất”.
Các môn đệ đã chứng kiến cuộc khải hoàn vinh hiển của Chúa, họ không thể nào im tiếng được. Họ đã mạnh mẽ xác quyết: “Thiên Chúa đã phục sinh Chúa Kitô mà anh em đã giết rồi treo lên cây gỗ… và tôn Ngài làm thủ lãnh và Đấng cứu độ để đem lại cho Israel ơn tha thứ và hoán cải. Về những sự việc đó chúng tôi đây là những chứng nhân cùng với Thánh Thần mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng phục Người”, “Chúng tôi rao giảng Chúa Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta và đã sống lại để chúng ta được nên công chính”…
Tất cả các môn đệ đều bị bách hại đến đổ máu ra vì chứng cớ đức tin và lời rao giảng của mình. Và sau họ, từng lớp lớp người cũng đã ngã gục chỉ vì tin vào Đấng Phục Sinh.
Đối với chúng ta là những kẻ đã tin, đến lượt chúng ta cũng phải làm chứng về Ngài, không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng chính đời sống chúng ta nữa. Chúng ta hãy chứng tỏ cho thế giới biết rằng cuộc sống thường ngày là những bước tiến lên với Chúa Kitô, và những thử thách, hy sinh là cần thiết để thanh luyện và làm sáng tỏ đức tin của chúng ta.
Chúng ta tiến lên trời với Chúa Kitô bằng kiên nhẫn, hy sinh… hầu biểu lộ đức ái, bởi vì đức ái là khát vọng Thiên Chúa và làm điều lành cho tha nhân. Điều đó có nghĩa là chúng ta chờ đợi thời giờ của Thiên Chúa và giúp mọi người phương tiện tiến lên với Thiên Chúa. Đức ái là thái độ phản ánh trung thực nhất niềm khát vọng nội tâm của chúng ta.
Đời sống tu trì là một minh chứng cho niềm khát vọng lên trời trong chờ đợi nhẫn nại và hy sinh. Quả vậy, vì tin ở lời hứa của Chúa sẽ ban gấp trăm ở đời này và đời sau được sống muôn đời mà chúng ta đã từ bỏ tất cả để theo Ngài. Điều Chúa Kitô hứa, Ngài đã đang và sẽ còn thực hiện. Hạnh phúc mà Ngài ban cho những ai theo Ngài chính là niềm hoan lạc trong tâm hồn, hoan lạc của những ai có Chúa làm tất cả. Niềm hoan lạc đó là hiệu quả tất nhiên của sự bình an, bình an của những kẻ ẩn náu trong tình thương Chúa. Và những gì do tình thương Chúa gửi đến đều tốt lành. Ngay cả cái chết cũng là dịp để chúng ta vui mừng, vì chết là cánh cửa cuối cùng được mở ra cho chúng ta gặp Chúa Kitô Phục Sinh - Thăng Thiên mà chúng ta yêu mến kiếm tìm.
Hỡi những ai tìm Chúa, tâm lòng hãy vui sống và chúc tụng Thiên Chúa là Cha Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã tái sinh chúng ta cho hy vọng sống động, nhờ sự phục sinh - thăng thiên của Ngài.
45. Chúa lên trời
Khi còn ở với các môn đệ, đã nhiều lần Chúa Giêsu nói trước là Ngài sẽ về trời, giờ đây là lúc Ngài thực hiện điều đó. Việc Chúa Giêsu lên trời mãi mãi là một huyền nhiệm. Dùng ngôn ngữ loài người để tả một huyền nhiệm của Trời thì thật khó biết bao. Nhưng điều quan trọng là biến cố đã xảy ra. Thật khó mà tưởng tượng rằng sự xuất hiện của Chúa Giêsu cứ thưa dần, thưa dần cho tới khi tắt hẳn. Nếu thế đức tin con người sẽ tàn lụi. Nếu như Chúa Giêsu biến thành Đấng Kitô của cõi trời và không còn liên hệ gì với cõi trần này, lúc đó chúng ta sẽ rơi vào khủng hoảng.
Đối với các Kitô hữu, sự thăng thiên của Chúa Giêsu có ba ý nghĩa:
1) Đó là sự kết thúc. Một giai đoạn đã qua và một giai đoạn khác bắt đầu.
Ý nghĩa trọng đại của việc Chúa thăng thiên là sự cứu chuộc mà Ngài đã thực hiện cho loài người qua cái chết đền tội và sống lại của Ngài đã hoàn thành và viên mãn cho tới đời đời. Tác giả thư Do thái viết: “Ngài là phản ảnh của vinh quang, là ấn tượng của bản lĩnh Người, và cầm giữ vạn vật bằng lời quyền năng của Ngài; sau khi đã thi hành việc thanh tẩy tội lỗi. Ngài đã lên ngự bên hữu Đấng oai nghi chốn cửu trùng” (Dt 1,3). “Không phải nhờ máu dê hay máu bê, nhưng là nhờ chính Máu của Ngài, Ngài đã vào thánh điện -- duy chỉ một lần -- sau khi đã thành đạt việc cứu chuộc muôn đời” (Dt 9,12). Chúa Giêsu đã làm xong công tác cứu chuộc, đã hoàn thành sứ mạng Cha Ngài đã trao phó là cứu chuộc nhân loại tội lỗi, bằng chính cái chết đền tội trên thập giá và đã sống lại để ban cho những ai đặt niềm tin nơi Ngài được sự sống đời đời. Sự cứu chuộc ấy đã hoàn toàn đầy đủ cho đến muôn đời. Và như vậy đã chấm dứt thời kỳ mà niềm tin của các môn đệ đặt vào một vị Thầy bằng xương bằng thịt, vào sự hiện diện của thân thể Thầy. Từ nay các môn đệ sẽ liên kết với một Đấng đời đời vượt khỏi thời gian và không gian.
2) Và như vậy đây là một khởi đầu
Các môn đệ ra về trong sự vui mừng chứ không phải với tấm lòng sầu muộn, vì họ biết rằng từ nay không gì có thể ngăn cách mình với Thầy của mình. Thánh Phaolô đã phát biểu: “Ai sẽ tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Đức Kitô?” (Rm 8,35) và ông khẳng định: “Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay thiên phủ, dù là hiện tại hay tương lai, hay quyền năng, dù là chiều cao hay chiều sâu, hay bất cứ tạo vật nào khác, không gì sẽ có thể tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa trong Đức Kitô Giêsu Chúa chúng ta!” (Rm 8,38-39)
3) Hơn thế nữa, sự thăng thiên của Chúa quyết chắc với các môn đệ rằng họ chẳng những có một người Thầy ở thế gian mà còn có một người Thầy ở trên trời nữa.
Thánh Phaolô thách thức: “Ai sẽ cáo tội những kẻ Thiên Chúa đã chọn -- Thiên Chúa đã giải án tuyên công, ai sẽ là người lên án? -- Phải chăng là Đức Kitô Giêsu, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại và đang ngự bên hữu Thiên Chúa, và là Đấng đang chuyển cầu cho ta” (Rm 8,33-34)
Chẳng hề có ai, vì Chúa đã chết đền tội chúng ta, đã sống lại làm Cứu Chúa của chúng ta và hiện đang ngồi bên hữu cầu thay cho chúng ta như một trạng sư. Bên hữu Cha là chỗ có thế lực, có uy quyền nên sự cầu thay của Chúa Giêsu rất linh nghiệm.
Còn một điều quan trọng hơn nữa, sự thăng thiên của Chúa Giêsu là điều kiện để Ngài sai Chúa Thánh Thần xuống, mà chúng ta sẽ mừng mầu nhiệm này vào Chúa nhật tới.
Nếu chúng ta biết Chúa Giêsu của chúng ta đang ở trên trời thì lòng chúng ta phải hướng về đó. Không có nơi nào đáng yêu bằng nơi đó. Đó là nơi mà các thánh đã yêu mến, đã yêu mến một quê hương tốt hơn -quê hương trần gian- mà các ngài gọi là quê hương trên trời. Thánh Phaolô khuyên chúng ta là những người cùng chết, cùng sống lại với Chúa Giêsu cũng sẽ được cùng cất lên trời để gặp Ngài: “Vậy đã cùng sống lại với Đức Kitô, anh em hãy tìm kiếm những điều trên cao, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Lòng trí hãy hướng về những điều trên cao, đừng (hướng) về những điều dưới đất. (Cl 3,1-2)
Chúng ta phải cẩn thận về điều thánh Phaolô muốn nói ở đây, chắc chắn Ngài không hề biện hộ cho việc mơ tưởng tới một thế giới khác khiến những người tin Chúa tự rút mình ra khỏi các công tác, các hoạt động thuộc về đời này, chẳng làm gì ngoài việc chiêm ngưỡng cõi đời đời mà thôi. Vì ngay sau đó, thánh Phaolô tiếp tục quy định một loạt các nguyên tắc đạo đức vạch rõ rằng người Kitô hữu cứ tiếp tục công việc ở đời này và duy trì mọi mối liên hệ bình thường với thế gian này. Nhưng phải có chỗ khác biệt là từ nay trở đi, Kitô hữu phải nhìn mọi sự trong ánh sáng, trong bối cảnh là cõi đời đời. Người ấy sẽ không sống dường như đời này là tất cả những gì mình phải quan tâm đến, nhưng phải đặt thế gian này trong bối cảnh của cõi đời đời. Rõ ràng điều ấy sẽ đem đến cho người Kitô hữu một loạt các giá trị mới. Kitô hữu sẽ không còn bận tâm đến những điều mà người thế gian xem là quan trọng nữa. Các tham vọng đang ngự trị thế gian sẽ bất lực và không thể làm cho người ấy vướng bận nữa. Người ấy sẽ tiếp tục sử dụng những điều thuộc về thế gian này nhưng trong một cách thức mới. Người ấy sẽ đặt việc ‘cho đi’ lên trên việc ‘thu góp’, phục vụ trên cai trị, tha thứ ở trên báo thù. Tiêu chuẩn về giá trị của người ấy sẽ là tiên chuẩn của cõi trời chứ không phải cõi đời.
Khi người thanh niên giàu có đến xin Chúa Giêsu chỉ cho anh phương cách để được sống vĩnh cửu. Chúa bảo anh về đem tài sản phân phát cho kẻ nghèo để được của cải trên trời. Điều gì đã làm vì tình yêu sẽ bền vững muôn đời.
Thật an ủi khi biết rằng Đấng chờ đợi ta ở trên trời cũng là Đấng đã, đang bao bọc ta ở dưới đất.
46. Lên trời
Qua Phúc Âm, chúng ta biết: sau khi sống lại, Chúa Giêsu còn ở trần gian bốn mươi ngày. Trong suốt quãng thời gian này, Ngài đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ. Các ông có diễm phúc được nhìn thấy Ngài, được ăn uống với Ngài. Tất cả những sự việc ấy đã tạo nên cho các ông một niềm xác tín: Ngài đã phục sinh.
Cũng trong thời gian ấy, Chúa Giêsu đã chuẩn bị cho cuộc ra đi của mình. Ngài nói với các ông:
- Ta sẽ trở về với Cha Ta, cũng là Cha của các con, về với Thiên Chúa của Ta, cũng là Thiên Chúa của các con.
Thế nhưng, các ông đã không hiểu được lời nói mầu nhiệm này. Sau cùng, Ngài đã gặp các ông trong phòng tiệc ly, tâm sự với các ông và khi bữa ăn kết thúc, theo thông lệ, Ngài dẫn các ông lên núi Cây Dầu.
Các ông đi qua đường phố Giêrusalem, xuống thung lũng Cêdron, theo con đường Ngài đã bước đi trong cuộc tử nạn. Chắc hẳn khi đi lại con đường ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ đã nói chuyện, đã hàn huyên với nhau rất nhiều.
Khi tới núi Cây Dầu, Chúa Giêsu và các môn đệ đã đưa mắt nhìn chung quanh và đã thấy được toàn cảnh thành phố Giêrulem với miền đất hứa. Chúng ta hãy cùng các tông đồ đứng trên đỉnh núi Cây Dầu và đưa mắt nhìn: Gần đấy là Bêtania, nơi ba chị em Martha, Maria và Lagiarô sinh sống. Họ là những người được Chúa yêu và cũng là những người yêu Chúa.
Về phía bên trái là Bêlem, nơi Ngài mở mắt chào đời. Rồi sau đó là những vệt trắng. Đó là những con đường từ Giêrusalem đi tới những thôn làng, những thị trấn của xứ Giuđêa. Hẳn rằng các tông đồ đã nhớ tới biết bao nhiêu kỷ niệm trên những nẻo đường quen thuộc này: nào là những việc kỳ diệu Chúa đã làm, nào là những lời lẽ khôn ngoan Chúa đã dạy. Xa hơn một chút là dòng sông Giócđan, nơi các tông đồ sống lại những kỷ niệm đầu tiên, khi gặp Chúa và được Ngài kêu gọi.
Còn về phía bên phải: xa xa là biển cả. Những con tàu nhổ nheo đi về Rôma, cũng như đi về những miền khác nhau của dân ngoại. Có lẽ chính trong bối cảnh này mà Chúa Giêsu đã truyền cho các tông đồ:
- Các con hãy đi giảng dạy muôn dân và rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Trong thâm tâm, Ngài muốn bảo các ông rằng:
- Hy lễ của Ta đã hoàn tất. Công việc của Ta đã kết thúc. Bây giờ đến lượt các con. Vậy các con hãy đi loan truyền Tin mừng cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Có lẽ các tông đồ đã trả lời:
- Vì tình yêu và vinh quang của Chúa, chúng con sẽ làm tất cả.
Sau đó, Chúa Giêsu đã lên trời. Còn các tông đồ thì ngạc nhiên nhìn theo cho đến khi thiên thần hiện ra và bảo:
- Các ngươi đứng nhìn làm chi. Đức Kitô đã về trời thế nào thì Ngài cũng sẽ trở lại như vậy.
Hẳn chúng ta đã biết: Ngài sẽ trở lại vào ngày tận thế. Rồi sau đó lại sẽ về trời. Nhưng về trời lần này, thì cùng với Ngài còn có tất cả những người đã tin theo và yêu mến Ngài.
Chính vì thế, các tông đồ không hề buồn phiền, vì các ông biết rằng đây chỉ là một cuộc tạm biết, chứ không phải là một cuộc ly biệt, vĩnh viễn chia cắt đôi ngả. Ngài sẽ trở lại và các ông sẽ lại được xem thấy Ngài. Trong lúc chờ đợi, các ông ra sức chu toàn sứ mạng Ngài đã trao phó, đó là rao giảng Tin mừng, làm chứng về Ngài.
Với chúng ta cũng vậy. Mổi khi tham dự thánh lễ, chúng ta có diễm phúc được ở gần Chúa, được lắng nghe lời Ngài. Thế nhưng, trước khi thánh lễ kết thúc, qua môi miệng của vị linh mục, Chúa cũng nói với chúng ta:
- Lễ xong, chúc anh chị em ra về bình an.
Điều đó có nghĩa là: hãy ra về để chu toàn sứ mạng Chúa trao phó. Hãy ra về để rao giảng Tin mừng. Hãy ra về để làm chứng cho Chúa giữa lòng cuộc đời.
47. Hạnh phúc đích thực
Đã là người chắc hẳn ai trong chúng ta cũng có nhiều khao khát tự trong cõi lòng. Khao khát có được ngôi nhà đầy đủ tiện nghi, khao khát có được vợ đẹp con ngoan, khao khát được yêu thương... Nhưng có một khao khát lớn hơn, nó bao trùm tất cả. Đó là khao khát được sống hạnh phúc. Quả thật, khao khát ấy hết sức chính đáng. Cách riêng với niềm tin kitô giáo, hạnh phúc đích thực là khi con người có được sự liên hệ thân thiết với Thiên Chúa. Từ thuở ban đầu, con người đã được Thiên Chúa ban cho điều ấy. Tiếc thay, do sự bất tuân mà tổ tông ta đã đánh mất. Dù vậy, do tình thương nên Thiên Chúa đã tìm nhiều cách để cho chúng ta tìm lại được tình trạng ấy.
Hôm nay, toàn thể Giáo hội Công giáo mừng lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên. Đây là ngày Chúa Giêsu được trở về ngự bên hữu Thiên Chúa Cha. Đấy là hạnh phúc tuyệt vời và cao đẹp. Đoạn Tin Mừng mà Giáo hội cho chúng ta suy niệm hôm nay cho thấy khi Chúa Giêsu chia tay các Tông đồ để về trời thì các ông: "Trở lại Giê-ru-sa-lem, lòng đầy hoan hỉ, và hằng ở trong Đền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa" (Lc 24, 52b - 53).
Có thể, chúng ta sẽ lấy làm lạ vì thông thường khi chia tay người ta hay khóc lóc, buồn bã. Còn ở đây các ông lại vui mừng. Không vui sao được vì các ông tin rằng: "Thầy đi dọn chỗ cho anh em" (Ga 14, 1), "Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28, 20), "Thầy sẽ không để anh em mồ côi" (Ga 14, 18) và "Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi" (Ga 14, 16)... Như vậy, qua lời Chúa Giêsu hứa các ông tin rằng Người vẫn luôn hiện diện bên họ. Mặc dù với cặp mắt bình thường các ông không thấy được. Vì thân xác Người lúc bấy giờ đã trở nên vinh hiển và không còn bị lệ thuộc vào không gian và thời gian.
Do đâu mà Chúa Giêsu đã được Chúa Cha ban cho hạnh phúc đích thực như thế? Về bản tính Thiên Chúa thì Chúa Giêsu đương nhiên phải được. Còn về bản tính con người thì Chúa Giêsu đã đi con đường mà Chúa Cha đã vạch sẵn cho Người. Đó là con đường thập giá. Và Người đã đi trọn vẹn con đường ấy trong vâng phục và yêu mến. Chúa Giêsu cũng đã mời gọi chúng ta hãy đi theo Người bằng con đường ấy (Mt 16, 24). Khi chúng ta biết chấp nhận đi con đường thập giá, chắc chắn Người sẽ cùng đồng hành với chúng ta. Người đồng hành với chúng ta qua Giáo hội. Người đồng hành và ban sức cho qua Lời cũng như Mình Máu Người...
Đường thập giá không giống với những suy nghĩ và cách sống ích kỷ của con người. Những suy nghĩ và cách sống ấy chắc chắn không phải là điều Thiên Chúa muốn. Ngày nay, chúng ta đang sống trong một thế giới mà người người chạy theo những hạnh phúc ảo mà họ chẳng hay biết. Hạnh phúc ảo ấy là tiền bạc, danh vọng, quyền lực, địa vị, danh vọng, thỏa mãn xác thịt... Càng lún sâu vào những hạnh phúc ảo ấy, nó sẽ đưa con người chúng ta tới sự mất bình an và tâm hồn trống rỗng, mất phương hướng.
Mừng lễ Chúa Giêsu Thăng Thiên hôm nay, mỗi người chúng ta hãy xin Chúa Giêsu Phục sinh cho ta biết cùng đi như Người để có được hạnh phúc đích thực.
48. Nhân danh Thầy mà rao giảng
1. Đức Giêsu có thể thực hiện bất cứ điều gì nếu Người muốn, thế nhưng Người vẫn luôn tôn trọng quy luật tự nhiên do Thiên Chúa thiết lập. Khi còn ở trần gian Người đã vất vả rao giảng Tin Mừng. Sau khi hoàn thành sứ vụ, Người trở về cùng Thiên Chúa Cha, việc loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Đức Giêsu Phục Sinh được trao bancho các môn đệ, cũng là trao ban cho mỗi người chúng ta. Chúng ta đã làm gì để góp phần mở rộng Nước Chúa, làm chứng cho Đức Giêsu?
2. Trước hết, chúng ta nên hiểu như thế nào về việc Chúa lên trời? Trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, thánh Luca ghi rằng sau khi hiện ra với các môn đệ, Người có những lời dạy bảo sau cùng, sau đó đang khi chúc lành cho các ông, thì Người được đem lên trời.
- Ở đây thánh sử Luca đã dùng cách thông thường của loài người để diễn tả việc Chúa Giêsu siêu thăng. Người "lên trời", chúng ta thường hiểu là Người bỏ một nơi trên trái đất nầy để đến một nơi khác là "trời", mà nên hiểu là:
- Người thay đổi tình trạng, không còn ở tình trạng mang thân phận loài người hèn hạ nữa, mà trở về tình trạng vinh quang của một vị Thiên Chúa cùng Thiên Chúa Cha trước khi Người nhập thế.
- Người cũng thay đổi cách hiện diện, từ nay Người không hiện diện giữa chúng ta bằng thân xác hữu hình nữa, nhưng vẫn hiện diện bằng thiên tính của Người cho dù mắt chúng ta không thấy. Người hiện diện khi Lời Người được công bố, các bí tích được cử hành... Hay Người xin Chúa Cha ban Chúa Thánh Thần đến để dạy dỗ chúng ta, đó cũng là một cánh hiện diện.
- Và khi nói về việc Chúa lên trời, các sách Tin Mừng chỉ ghi lại rất vắn tắt 'Chúa lên trời' vậy thôi, chứ không nói rõ Người lên trời sau khi sống lại bao lâu. Nhưng theo sách Công Vụ Tông Đồ, mà Luca ghi lại, Đức Giêsu 'lên trời' sau khi sống lại được 40 ngày. Vậy Chúa 'lên trời' chính xác là thời gian nào?
Có thể trả lời tóm gọn là Chúa 'lên trời' ngay khi Người phục sinh. Nhưng sau đó Chúa còn hiện ra với các tông đồ, môn đệ nhiều lần để củng cố lòng tin của họ, trong một khoảng thời gian mà sách Công Vụ Tông Đồ cho rằng là 40 ngày. Sau cùng, Người chấm dứt việc hiện ra, bằng cách công khai về cùng Chúa Cha trước mặt các ông như trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe.
Đức Giêsu về trời đó là một điều chắc chắn, đó cũng là niềm phấn khởi cho chúng ta, vì chính Người nói Người đi để dọn chỗ cho chúng ta, nếu chúng ta trung thành tin giữ những điều Người dạy, chúng ta cũng sẽ được hưởng vinh quang trong nhà Cha Người.
3. Kế đến, làm sao loài người có thế biết Thiên Chúa, tin vào Đức Giêsu đã phục sinh? Chính vì ưu tư này, mà trước khi về trời, Đức Giêsu đã ra chỉ thị cho các môn đệ: “ Phải nhân danh Thầy mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội..." (Lc 24,47).
"Phải nhân danh Thầy mà rao giảng": Thực hiện lệnh truyền của Thầy Chí Thánh, các thế hệ Kitô hữu kế tiếp nhau không ngừng rao giảng Tin Mừng, làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh. Giáo hội như đôi tay nối dài của Chúa để đem ơn cứu rỗi con người.
Nhìn lại toàn cầu, sau 2000 năm Tin Mừng được rao giảng, hơn 2 tỉ người tin vào Đức Giêsu, trong đó có hơn 1 tỉ người Công giáo, con số này làm cho chúng ta vui mừng, nhưng còn hơn 4 tỉ người chưa biết Chúa, thì sao? Tại Việt Nam, sau hơn 470 năm hạt giống Tin Mừng được gieo vãi, Giáo Hội Việt Nam khá vững mạnh. Thế nhưng 470 năm trước, cánh đồng truyền giáo thật bao la, 470 năm sau, thời chúng ta đang sống đây, cánh đồng truyền giáo cũng còn rộng khắp! Rồi nhiều người, ngay cả chúng ta nữa mang danh là Kitô hữu mà đời sống còn nhiều bất xứng, cho nên không những truyền giáo mà còn phải tái truyền giáo nữa. Thật là điều đáng làm cho chúng ta suy nghĩ và cấp bách thực hiện.
Rao giảng Tin Mừng muốn có hiệu quả phải đi đôi với việc làm cụ thể, quả đúng như thánh Giacôbê đã viết: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết"(Gc 2,17). Đức Phaolô VI, cũng như Đức Gioan Phaolô II thường dạy với ý tưởng rằng: Thời nay người ta tin chứng nhân hơn thầy dạy, nếu người ta có tin ở thầy dạy bởi chính người đó là chứng nhân. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong thư mục vụ 2006 cũng chỉ rõ: “Đời sống đạo vừa cần gắn bó với Thiên Chúa, vừa phải đi đến với anh em, như Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể và nhập thế đã nêu gương cho chúng ta" (TMV 2006,1). Trong phần hướng dẫn, các ngài cũng đã nêu những việc làm cụ thể như: Quan tâm giúp đỡ người thiếu thốn, bệnh tật, nạn nhân bão lụt; tôn trọng luật giao thông, giữ môi trường sạch đẹp; nhịn nhục, tha thứ, không báo thù, không gian tham, trộm cắp lỗi đức công bằng... Vậy mọi Kitô hữu hãy nhìn lại chúng ta đã là chứng nhân cho Đức Kitô Phục Sinh như thế nào? Hay là những phản chứng khi đời sống ta còn quá lôi thôi thiếu sót!
4. Như một cuộc chạy tiếp sức, Đức Giêsu đã hoàn thành phận vụ của mình và trở về cùng Cha hưởng vinh quang thiên quốc, như kết thúc vai trò của Người ở trần gian. Giờ đây đến vai trò của Giáo Hội, của mỗi người chúng ta tiếp tục làm chứng cho sự hiện diện, tình yêu của Thiên Chúa. Sứ mệnh nầy mang tính cấp bách, liên lỉ và đòi hỏi chúng ta phải thật nhiều cố gắng để cộng tác với Thần Khí của Đức Kitô Phục Sinh mà Thiên Chúa Cha trao ban. Chắc chắn phần thưởng Nước Trời cách xứng hợp cho những ai không quản ngại nhân danh Đức Giêsu Kitô mà rao giảng.
49. Làm chứng
Chúng ta mừng lễ Chúa Giêsu Lên Trời kết thúc một cách chính thức cuộc đời nhập thể của Chúa Giêsu trên trần gian, kể từ giây phút thụ thai, tức là khi Thiên Thần Truyền tin cho Đức Maria cho đến giây phút Chúa Giêsu từ giã các Tông đồ sau khi phục sinh và về trời để trở về cùng Thiên Chúa Cha.
Cuộc đời của Chúa Giêsu và những lời giảng dạy của Ngài Luôn thách thức, luôn mời gọi con người phải có một trong hai thái độ tin yêu chấp nhận hay kiêu ngạo chối từ. Xưa cũng như nay và qua mọi thời đại, con người phải chọn lựa một trong hai thái độ này. Đối với những ai kiêu ngạo chối từ Thiên Chúa và Chúa Kiô thì việc Chúa Lên Trời đối với họ có thể được so sánh như là việc Chúa rút lui, biến mất khỏi cuộc sống con người, không còn ý nghĩa gì nữa.
Con người được tự do quyết định về cuộc sống của mình theo những tiêu chuẩn riêng và thuận hoặc nghịch lại Lời Chúa. Họ không còn màng chi đến sự thật đã được Chúa mạc khải. Nếu không lên án kết tội Chúa thì họ cũng quên hẳn mất Chúa. Nhưng đối với những ai tin yêu chấp nhận Chúa, chẳng hạn như các Tông đồ và những đồ đệ của Chúa lúc đó và ngày hôm nay thì biến cố Chúa Giêsu Lên Trời khai mào cho một thời kỳ mới, thời kỳ trách nhiệm của các ngài là làm chứng cho Chúa, chia sẻ với anh chị em xung quanh về tình thương và sự thật của Chúa. Đây cũng chính là thời kỳ dấn thân cho sứ mạng làm chứng cho Chúa Kitô. Mặt khác, Chúa biết rõ sự yếu đuối của những đồ đệ thân yêu của Ngài, nên trước khi từ biệt các Tông đồ Chúa hứa ban một Đấng soi sáng đến an ủi là Chúa Thánh Thần để các ngài đủ sức mạnh cho toàn sứ mệnh đã lãnh nhận.
Mỗi người Kitô hữu chúng ta hôm nay hãy xét lại thái độ sống của mình như thế nào? tốt hoặc xấu, hay tệ hơn chúng ta đã chối bỏ Chúa, sống nghịch lại với những lời dạy của Chúa, làm cớ cho anh chị em xung quanh xa lìa Chúa, hoặc là chúng ta đang cố gắng hết sức mình cộng tác với ơn Chúa Thánh Thần để làm chứng cho Ngài.
Trong suốt tuần lễ tới này, chúng ta hãy luôn cầu nguyện để xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trong tâm hồn chúng ta, giúp chúng ta sống dấn thân cho Chúa và làm chứng cho Chúa ở mọi nơi, mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời.
50. Chứng nhân
Dù chỉ là một nữ tu sáng lập đơn côi ban đầu, mẹ Têrêsa đã làm nên phép lạ cho dòng Thừa Sai Bác Ai của mẹ lên đến 4000 nữ tu, 450 sư huynh và hàng ngàn người ngoại giáo ngày đêm xuôi ngược tiếp tục công việc nhân ái của mẹ, với 600 cơ sở và 126 quốc gia trên thế giới. Từ ngày thành lập từ năm 1950 đến nay mỗi năm nhà dòng của mẹ đã giúp nuôi 50.000 gia đình nghèo, dạy dỗ cho 20.000 trẻ em và săn sóc cho 90.000 người mắc bệnh phong cùi trong các bệnh viện riêng ở 10 quốc gia. Các trẻ em mồ côi mà mẹ đã nuôi dạy từ hơn nửa thế kỷ nay nhiều không kể xiết.
Ngày mẹ qua đời, tổng thống pháp Jacques Chirac đã gởi một bức điện với lời lẽ đau buồn như sau: “Buổi tối hôm nay đã có ít Tình yêu hơn, ít lòng trắc ẩn hơn và ít ánh sáng hơn trên thế giới này”.
Mẹ Têrêsa quả là một chứng nhân anh dũng. Mẹ không chỉ tin đạo mà còn sống đạo để làm chứng nhân của tình yêu Thiên Chúa cho thời đại hôm nay.
Bài tin Mừng hôm nay kết thúc Tin Mừng thánh Luca, kể lại việc Chúa Giêsu dạy dỗ các tông đồ lần cuối cùng, sai các ông đi rao giảng và làm chứng cho Ngài rồi Ngài lên Trời.
Sách Công vụ tông đồ trình bày cho chúng ta biết biến cố lên trời là một sự hoàn tất gắn với một khởi đầu. Chúa Giêsu hoàn tất sứ mạng cứu độ trần gian và khởi đầu cho sứ mạng làm chứng nhân của Giáo Hội.
Điều mà bài tin Mừng hôm nay muốn nhấn mạnh, không phải là việc Chúa Giêsu được đem lên trời cách kỳ diệu mà là việc các tông đồ được sai đi để loan báo một Tin Mừng mới lạ, một Tin Mừng cho muôn dân. Đó là Tin Mừng về việc cứu độ.
Các Tông đồ đón nhận lời mời của Chúa Giêsu trong niềm tin tưởng và hân hoan. Tin vào Chúa Giêsu đã phục sinh và lên trời. Tin Ngài sẽ ban Thánh Thần để giúp các ông thi hành sứ mạng mới. Hân hoan vì mỗi người đều được Chúa Giêsu tin tưởng và sai đi.
Với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các tông đồ, những chứng nhân tích cực sẽ không ngừng làm chứng cho các giá trị Tin Mừng, cho đến tận thôn cùng xóm vắng.
Đức Giêsu đã lên trời, nhưng bằng ngày vẫn có muôn vàn chứng nhân tiếp bước Ngài, đón nhận, sáng tạo và đi xây dựng cho thế giới ngày một tốt đẹp hơn.
Họ cũng là những người gây phiền nhiễu như Chúa Giêsu. Họ không chấp nhận một trật tự bất công, một thế giới thiếu vắng tình thương trong đó một số người giàu có dư dật trong khi hàng vạn người phải lang thang đói rách. Họ là những kẻ gây phiền nhiễu như Chúa Giêsu, vì họ làm hết cách để người ta tin rằng, nhân loại có thể ngày một tiến gần hơn đến công bình, tha thứ và tình thương.
Để làm những việc ấy chính các Tông đồ và những chứng nhân tiếp nối các Tông đồ trong Giáo hội chấp nhận sự hiểu lầm, chống đối, đau khổ, tù đày và cả cái chết. Bởi họ luôn có sức mạnh của Chúa Thánh Thần và xác tín vào niềm tin Chúa Giêsu phục sinh.
Chính anh em là chứng nhân.
Hôm nay cũng như bao lần khác, chúng ta cùng nhau mừng lễ Chúa Giêsu lên trời và cũng đã nghe nhiều lần lời mời gọi của Chúa Giêsu “phải rao giảng cho muôn dân… chính anh em là chứng nhân”. nhưng chúng ta có đáp lại lời mời gọi đó với niềm tin tưởng và hân hoan không? hay chúng ta nghĩ đó là công việc của các linh mục, của tu sĩ nam nữ.
Hơn bao giờ hết cuộc sống của hôm nay đã có không ít những khó khăn đang đặt ra cho mỗi gia đình và cho mỗi người chúng ta. Những khó khăn đó đã làm cho chúng ta quên đi đời sống chứng nhân của mình. Tuy nhiên cũng có những người trong chúng ta sống dửng dưng, không quan tâm đến ai khác ngoài cái tôi của mình ngoài tiền bạc và tham vọng cá nhân.
Lễ Chúa Giêsu lên trời hôm nay một lần nữa Chúa mời gọi mỗi người chúng ta hãy là chứng nhân cho Ngài. Ngài không đòi hỏi chúng ta phải lập nhà dòng hay xây dựng những cơ sở để làm việc từ thiện như Mẹ Têrêsa, điều Ngài chờ đợi nơi mỗi người chúng ta là hãy bỏ đi tính ích kỷ xâm chiếm cuộc sống của chúng ta để mở tâm hồn mở con tim mở miệng ra để sống cho Ngài và cho tha nhân.
Mở tâm hồn để lắng nghe, suy niệm và chiêm ngắm Chúa trong Thánh Kinh đó là cách thức để Lời Chúa trở thành ánh sáng và sức mạnh cho những lựa chọn và quyết định trong cuộc sống hằng ngày.
Mở con tim ra với tha nhân giúp nhau phát huy những tương đồng, chấp nhận dị đồng, vượt qua những bất đồng. Đặc biệt là biết người đau khổ… để mỗi người có thể nhận ra chúng ta là môn đệ Chúa Giêsu và là người xây dựng hòa bình.
Cuối cùng chúng ta hãy biết nói về Chúa Giêsu cho người khác khi có điều kiện.
Con người thời nay thường nghe các chứng nhân hơn là các bậc thầy, cũng như họ đã xác tín vào điều đã trông thấy tận mắt hơn là chỉ thích chúng ta làm chứng bằng lời nói, nhưng là bằng chính cuộc sống xả thân, phục vụ và yêu thương.
51. Bài giảng của Lm GB. Hiếu
NHẬP LỄ
Chúa Giêsu về trời không có nghĩa là Chúa định vị vào một nơi nào trên không trung, lệ thuộc thời gian như con người chúng ta thường nghĩ, nhưng đúng hơn là chấm dứt một giai đoạn hiện diện hữu hình, để khởi đầu hoạt động của Chúa Thánh Thần trong Hội Thánh và để các tín hữu Chúa nhiệt thành nên chứng tá cho Chúa trong cuộc sống này. Xin cho mỗi người chúng ta nên chứng nhân tích cực hoạt động cho Chúa hằng sống.
- Lạy Chúa, lòng Chúa yêu thương chẳng khi nào lìa bỏ chúng con. Xin Chúa thương xót chúng con.
- Lạy Chúa Kitô, Chúa là Đầu của toàn thể Hội Thánh, là niềm hy vọng của chúng con. Xin Chúa Kitô thương xót …
- Lạy Chúa, Chúa muốn chúng con nên chứng tá cho Chúa, kêu gọi mọi người sám hối để được ơn tha tội. Xin Chúa …
GIẢNG
Cũng như biến cố Chúa Giêsu phục sinh là sự kiện quan trọng cho nền tảng đức tin của Kitô giáo, lẽ ra phải được thuật lại hoặc tuyên truyền cách nào thật long trọng, rầm rộ để mọi người nhận ra, thế nhưng trong Thánh Ý Thiên Chúa, chúng ta thấy Chúa Giêsu phục sinh rất âm thầm, không ai biết; tác giả các sách Phúc Âm chỉ thuật lại những sự kiện hậu phục sinh rất bình thường: các bà đạo đức ra phần mộ Chúa, thấy ngôi mộ trống, người chạy về báo tin, kẻ chạy ra kiểm chứng, cùng lắm là toán binh lính lo âu về thông tin cho các thượng tế Do-thái giáo để nhận được những đồng tiền hối lộ với lời chứng gian: “Ban đêm đang lúc chúng tôi ngủ, các môn đệ của hắn đã đến lấy trộm xác” (Mt 28,13).
Sự kiện Chúa thăng thiên cũng vậy, rất đơn giản: Sau khi căn dặn các Tông Đồ trong Nhóm Mười Một (Mc 16,14) cần đi rao giảng Phúc Âm đem ơn cứu độ đến cho mọi người, Thánh Máccô nhẹ nhàng tuyên cáo: “Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa” (c.19).
Ý Chúa muốn gì qua những sự kiện đơn giản mà lẽ ra phải được tổ chức long trọng cho những biến cố quan trọng trong nền tảng niềm tin Kitô giáo như thế? Phải chăng Chúa muốn:
+ Niềm tin mang tính chất tự do, cần được đón nhận bằng cả tấm lòng yêu mến của mình, không mang tính chất bó buộc thúc ép? Tuy nhiên, vì yêu mến đón nhận sự kiện ngoài tầm hiểu biết, thì niềm tin đó sẽ đưa dẫn chúng ta vào nơi hạnh phúc của Thiên Chúa, bởi như Chúa Giêsu đã nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13), thì người đón nhận tin Chúa, không phải là đã liều mất mạng sống vì Lời Chúa hay sao?
+ Phục sinh chỉ là bước ngoặt cho một đoạn đường mới trong hành trình đi theo Chúa, để cuộc sống trong niềm tin Chúa mãi mãi là sức sống cho người tín hữu, thì việc Chúa thăng thiên cũng không phải là cắt đứt liên hệ với cuộc sống con người tại trần gian này; trái lại, về trời nhưng Chúa vẫn tiếp tục hiện diện cùng các môn đệ như Chúa đã hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20b). Chính vì thế Chúa ban huấn lệnh cho các môn đệ “phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân… kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” và mời gọi các ngài làm “chứng nhân” cho những việc Chúa thực hiện này (x.Lc 24,47-48), không phải chỉ đứng đó “nhìn trời” (Cv 1,11).
Chúa về trời để khởi đầu một giai đoạn mới cho Hội Thánh, từ nay chính các tín hữu Chúa sẽ hoạt động, có Chúa hỗ trợ qua tác động của Chúa Thánh Thần: “Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa” (Lc 24,49). Chúa không hiện diện hữu hình, nhưng hằng “ở cùng” chúng ta “mọi ngày cho đến tận thế”.
Tin tưởng vào tình yêu quan phòng của Chúa, chúng ta cần sống làm chứng cho Chúa, để những người nhìn vào nếp sống của chúng ta, có thể nhận ra Chúa đang hiện diện trong cuộc sống nhân loại, chờ đợi con người đón nhận Chúa để được hưởng hạnh phúc với Chúa. Chúng ta có mạnh mẽ tuyên xưng niềm tin là con cái Chúa, quyết tâm sống theo Lời Chúa, cho dẫu có bị người đời thù ghét hay làm thiệt hại vật chất hoặc tinh thần chăng?
Xin Chúa Giêsu Phục Sinh hằng ở cùng chúng ta và giúp chúng ta chiến thắng mọi thử thách, để ngày kia cùng được chia sẻ hạnh phúc trên trời với Chúa. Amen.
52. Nước trời
Nhìn vào thực tế, chúng ta phải nhìn nhận rằng: chúng ta đã quá bén rễ sâu vào cuộc sống trần gian, đã quá quyến luyến những thực tại chóng qua. Chúng ta đã chọn trái đất này làm quê hương vĩnh cửu và sẵn sàng bán rẻ linh hồn mình lấy một nắm tro bụi. Dân Do thái ngày xưa đã thờ lạy con bò vàng thế nào thì hôm nay con người cũng đang đi vào con đường ấy. Họ tôn thờ những thần tượng nhảm nhí thay cho Thiên Chúa, như một lời phát biểu đầy châm biếm: hiện giờ tôn giáo lớn nhất trên hoàn cầu là tôn giáo … bóng đá.
Bởi đó ngày hôm nay, sau khi hoàn tất sứ mạng ở trần gian, Chúa Giêsu đã về trời để nói với chúng ta rằng: cuộc sống trần gian chỉ là như một chiếc thang dẫn chúng ta tới quê trời. Hay nói cách khác, trần gian là quán trọ, nước trời mới chính là quê hương đích thực của chúng ta. Khốn cho tôi nếu tôi quên đi chân lý ấy. Khốn cho tôi nếu tôi ra sức biến đổi trái đất thành một thiên đàng vĩnh cửu. Khốn cho tôi nếu tôi không biết dùng cuộc sống này để chuẩn bị những hành trang cần thiết cho tương lai mai hậu… Nhưng dựa vào đâu chúng ta xác quyết rằng: còn một cuộc sống khác, một thế giới khác?
Chúng ta không chụp được hình, cũng không bắt được làn sóng của thế giới ấy, không một ai đã nhìn thấy hay có kinh nghiệm, nhưng sở dĩ chúng ta tin là bởi vì Thiên Chúa đã mạc khải, đã tỏ lộ cho chúng ta. Thực vậy, chúng ta không thể biết nếu Đức Kitô đã không nói đến nước trời bằng những từ ngữ khác nhau. Chúng ta không thể biết nếu thánh Phaolô đã không viết: “Mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe và trái tim chưa một lần cảm nghiệm được những gì Thiên Chúa dành cho kẻ yêu mến Ngài”. Chúng ta không thể biết nếu thánh Gioan đã không mô tả: “Ở đó sẽ không còn thời gian và không gian, buổi sáng và buổi chiều, tội lỗi và sự chết. Ở đó, Thiên Chúa sẽ lau khô những giọt nước mắt của chúng ta”. Chúng ta không thể biết nếu hôm nay Đức Kitô đã không về trời để củng cố niềm tin của mọi tín hữu suốt dòng thời gian, giúp họ hăng say rao giảng Tin Mừng, chấp nhận mọi khổ đau, chịu đựng mọi thử thách. Thế giới ấy sẽ to lớn gấp ngàn vạn lần thế giới chúng ta đang sống. Vậy thế giới ấy ở đâu? Có phải là lơ lửng giữa các vì sao, trên không trung bao la? Có phải là ở dưới lòng đại dương thăm thẳm? Không, tất cả đều không đúng. Vậy thế giới ấy ở đâu?
Thưa: ở bất kỳ nơi nào chúng ta được nhìn ngắm Thiên Chúa, ở bất kỳ nơi nào có Ngài thì đó là nước trời, thì đó là hạnh phúc vĩnh cửu. Trái lại, bất kỳ nơi nào không có Thiên Chúa, bất kỳ nơi nào chúng ta không được nhìn ngắm Ngài, thì đó là hỏa ngục, thì đó là chốn đọa đầy. Xưa kia thánh Tôma tông đồ nói: “Nào chúng ta cùng đi để được chết với Ngài”. Còn hôm nay, chúng ta có thể đổi lại câu nói ấy: “Nào chúng ta cùng đi để được sống với Ngài”. Phải, sống với Ngài trong một cuộc sống vĩnh cửu. Niềm tin ấy đã thiêu đốt biết bao nhiêu con tim suốt 20 thế kỷ. Chúng ta cần đến khoa học và kỹ thuật, nhưng chúng ta phải luôn nhớ: khoa học và kỹ thuật không thể giúp chúng ta tránh khỏi cái chết. Và sau cái chết sẽ còn lại một cuộc sống khác, trải dài đến muôn ngàn đời. Nếu có ai hỏi: điều ấy có chắc chắn như ngày mai sẽ là thứ hai không? Tôi sẽ trả lời: còn hơn thế nữa. nếu có ai hỏi: điều ấy có chắc chắn như mặt trời mọc vào ban sáng và lặn vào ban chiều hay không? Tôi sẽ trả lời: còn hơn thế nữa. Nếu có ai hỏi: điều ấy có chắc chắn như mùa xuân sẽ trở lại khi mùa đông qua đi hay không? Tôi sẽ trả lời: còn hơn thế nữa. Phải, vì có thể có một ngày Chúa nhật mà sau đó không còn ngày thứ hai; có thể có mặt trời mọc vào ban sáng mà không còn ban chiều để lặn; có thể có một mùa đông mà sau đó mùa xuân sẽ không bao giờ trở lại. Nhưng sẽ không bao giờ xảy ra rằng lời Chúa sẽ chẳng được thực hiện: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta sẽ không phải chết, nhưng sẽ được sống đời đời”.
53. Những chứng nhân mới--Lm Trần Thanh Sơn
Khởi từ cuộc Phục Sinh của mình, Đức Giêsu đã đổi mới mọi sự. Ngài đã vượt qua sự chết để khai mở sự sống. Từ đây, lịch sử nhân loại bước sang một giai đoạn mới. Các thế lực sự dữ như: đau khổ, gian nan, vất vả, và nhất là cái chết vẫn còn đó, nhưng không còn được sức mạnh. Tất cả đã bị Đấng Phục Sinh khuất phục. Nhờ sự Phục Sinh của Đức Giêsu thế giới cũ đã qua đi và một thế giới mới đã bắt đầu xuất hiện (x.Kh 21, 1-5).
Ngay trong Chúa Nhật Phục Sinh, ngang qua hình ảnh ngôi mộ trống, phụng vụ lời Chúa cho thấy bởi sự sống lại của mình, Đức Giêsu đã tạo dựng nên một thế giới mới. Và rồi không chỉ lập nên một thế giới mới, Đấng Phục Sinh còn lập nên một dân mới khi Ngài thổi hơi ban Thánh Thần để biến đổi các tông đồ từ những kẻ nhát đảm ở trong những căn phòng đóng kín cửa, thành những con người can đảm dám mở bung cửa, ra đi loan báo Tin mừng cho muôn dân. Từ đây, bước đi giữa biển đời tăm tối, dân mới do Đấng Phục Sinh thiết lập không còn bơ vơ, nhưng họ có Lời Chúa làm kim chỉ nam, định hướng cho cả cuộc đời của họ. Họ chỉ cần để tâm lắng nghe và khiêm tốn thực hành lời dạy của Đấng Phục Sinh, chắc chắn họ sẽ thu được kết quả, như mẻ cá lạ mà các tông đồ đã kéo được trên bờ biển Tibêria năm xưa. Hơn thế nữa, dân mới là Giáo Hội do Đấng Phục Sinh thiết lập còn được chính Ngài làm Thủ Lãnh. Ngài chính là vị Mục Tử Nhân Lành biết rõ từng người trong dân mới. Ngài hằng chăm sóc và ban cho họ được sống và sống dồi dào. Đồng thời, trong tư cách là vị Mục Tử nhân lành, Đấng Phục Sinh cũng mời gọi mỗi người chúng ta là thành phần trong dân mới hãy sống yêu thương nhau như Ngài đã hằng yêu thương chúng ta. Mặt khác, đối với Đấng Phục Sinh, việc chúng ta tuân giữ lời dạy yêu thương không những là một dấu chỉ để mọi người nhận ra chúng ta là môn đệ của Ngài, nhưng còn là một biểu hiệu cụ thể chứng tỏ lòng yêu mến của chúng ta đối với Ngài, như lời Ngài tuyên bố: “Ai yêu mến Thầy sẽ giữ lời Thầy” (Ga 14, 23).
Và hôm nay, trước khi chấm dứt sự hiện diện hữu hình của mình giữa nhân loại, Đấng Phục Sinh đã mời gọi các tông đồ và cả từng người chúng ta lên đường ra đi loan báo cho muôn dân biết về Tin Mừng Phục Sinh mà chúng ta đã lãnh nhận. Chính vì thế, theo truyền thống của Giáo Hội, Chúa Nhật lễ Thăng Thiên hôm nay đã được chọn làm ngày “Thế giới truyền thông”.
1. GIÁ TRỊ CỦA ĐAU KHỔ:
Trở lại với bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy sứ điệp đầu tiên mà mỗi người chúng ta cần loan báo cho mọi người đó là cuộc khổ nạn của Đức Kitô, như lời Ngài phán với các môn đệ trước lúc về trời: “Như đã ghi chép là Đức Kitô phải chịu khổ hình”. Khi nhắn gởi với các tông đồ sứ điệp này, một lần nữa, Đức Giêsu khẳng định với chúng ta rằng: không thể có cuộc Phục Sinh và Thăng Thiên vinh hiển hôm nay, nếu trước đó, Ngài đã không đi đến tận cùng con đường thập giá. Hay nói cách khác, Kitô giáo không hứa hẹn một con đường dễ dãi, hấp dẫn, nhưng để đạt đến một đời sống vĩnh cửu, mỗi người cần phải đi theo con đường Đức Giêsu đã đi, con đường thập giá, con đường của đau khổ. Kitô giáo không tôn sùng đau khổ và cũng không chạy trốn đau khổ, nhưng mời gọi chúng ta sẵn sàng đối diện và đón nhận mọi biến cố vui buồn trong cuộc sống hàng ngày, và biến chúng trở thành phương thế dẫn đưa chúng ta đến với cuộc sống vĩnh cửu.
Nói đến việc đón nhận đau khổ, trái ý… vào giờ này, ở nơi đây, trong ngôi Thánh Đường này thì dễ, nhưng để đón nhận những đau khổ và thử thách ngay trong cuộc sống thực tế hàng ngày, thì quả thật không dễ chút nào. Đối mặt với đau khổ, khuynh hướng tự nhiên của chúng ta là tìm cách trốn chạy đau khổ. Thế nhưng, có một thực tế mà nhiều khi chúng ta không muốn nhận, đó là tự sức mình, chúng ta không thể nào loại trừ hết mọi đau khổ. Đau khổ vẫn còn đó vì trong từng người chúng ta vẫn còn dục vọng, vẫn còn “Tham, Sân, Si”. Càng chạy trốn, càng vùng vẫy đau khổ như càng thắt chặt cuộc đời của chúng ta. Chính vì chỉ cậy vào sức mình như thế, nên cuối cùng có nhiều người đã đi vào con đường tuyệt vọng.
Biết rõ sự yếu đuối và giới hạn của con người chúng ta, nên trước khi về Trời, Đức Giêsu đã hứa với các tông đồ và với từng người chúng ta: “Thầy sẽ sai đến với các con Đấng Cha Thầy đã hứa”. Chính vì ý thức được sự mỏng dòn của mình, và trong tâm tình tin tưởng vào lời hứa của Đấng Phục Sinh, thánh Phaolô đã lên tiếng cầu xin cho chúng ta: “Xin Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Cha vinh hiển, ban cho anh em thần trí khôn ngoan và mạc khải, dể nhận biết Người, xin cho mắt tâm hồn anh em được sáng suốt, để anh em biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi”. Thánh nhân, xin Thiên Chúa ban Thần trí của Ngài cho chúng ta, để nhờ ánh sáng của Ngài soi dẫn, chúng ta biết vững lòng trông cậy vào ơn Chúa. Nhờ đó, chúng ta đủ can đảm đón nhận những gì Chúa gởi đến trong cuộc sống mỗi ngày.
2. TIN MỪNG PHỤC SINH:
Tuy nhiên, chúng ta đón nhận đau khổ không phải vì đau khổ, nhưng chúng ta đón nhận nó như một phương tiện để giúp chúng ta đến với cuộc sống vĩnh cửu. Đau khổ, chỉ là một bước thanh luyện cần thiết để giúp chúng ta đạt đến vinh quang Phục Sinh. Chính Đức Giêsu, mặc dù đã đi con đường thập giá, nhưng Ngài không dừng lại ở cái chết khổ nhục trên thập giá. Đàng sau cái chết, đó là cuộc Phục Sinh vinh hiển. Chính sự sống lại của Đức Giêsu đã làm cho con đường thập giá trở nên có giá trị. Sau này trong thư gởi tín hữu Corinhtô, thánh Phaolô đã tuyên bố: “Nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1 Cr 15, 14). Ý thức điều đó, sau những lời nói về cuộc thương khó của Đức Giêsu, thánh sử Luca liền cho chúng ta biết về sự Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta: “Sau cuộc thương khó, Người đã tỏ cho các ông thấy Người vẫn sống, với nhiều bằng chứng; Người đã hiện ra với các ông trong khoảng bốn mươi ngày”. Tin Mừng Phục Sinh phải là điều mà mỗi người chúng ta cần xác tín và là mục tiêu cuối cùng của cuộc sống mỗi người chúng ta.
Như thế, vững lòng đón nhận mọi biến cố vui buồn sướng khổ trong cuộc sống hiện tại, và luôn hướng lòng về đời sống vĩnh cửu là hai mặt gắn liền không thể tách rời của mỗi người kitô hữu. Đồng thời, đó cũng là sứ điệp mà mỗi người chúng ta cần loan truyền cho mọi người trong thế giới hôm nay. Chúng ta phải dùng chính đời sống của mình để loan báo cho mọi người về giá trị của con đường thập giá và niềm vui Phục Sinh, như lời dặn của Đấng Phục Sinh: “Các con sẽ nên chứng nhân cho Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa, và Samaria, và cho đến tận cùng trái đất”. Hơn nữa, rao giảng bằng cuộc sống, cũng chính là cách thức truyền giáo thích hợp nhất trong thế giới hôm nay.
Chớ gì nhờ sức mạnh của Đấng Phục Sinh nâng đỡ, mỗi người chúng ta không tuyệt vọng khi gặp thử thách gian nan, nhưng luôn bình an trong mọi sự. Nhờ đó, chúng ta trở nên những chứng nhân mới cho Đấng Phục Sinh trong thời đại hôm nay. Amen.
54. Suy niệm của Giuse Trần Xuân Chiêu
Sau khi sống lại 40 ngày, và sau những lần gặp gỡ với các môn đệ, Đức Giêsu đã thực hiện lời Người đã nói trước, người đã từ biệt các ông và lên Trời.
Nhưng tại sao Đức Giêsu dạy các môn đệ làm phép Rửa đã, sau đó mới giảng dạy cho họ? Tại sao không nói Chúa về Thiên đàng mà lại lên Trời, dễ làm người ta hiểu lầm ở một điểm nào trên không gian? Tại sao cho đến lúc này vẫn có những môn đệ còn hoài nghi? Theo Matthêu thì Đức Giêsu lên Trời tại Galilêa, vậy tại sao thánh Luca (Lc 24,50-53) lại nói Chúa lên Trời ở Bêtania?
1. Galilêa
Matthêu không có ý nhấn mạnh tới địa danh nơi Chúa lên Trời, nhưng tác giả muốn nhấn những sự kiện có liên quan tới công trình cứu thế của Đức Giêsu tại Galilêa:
Galilêa là một địa danh rộng lớn thuộc phía bắc It-ra-en, nơi có đủ các thứ dân sinh sống. Đây là khu vực mà người It-ra-en ở Giê-ru-sa-lem coi khinh, cho là vùng đất của dân ngoại. Nơi đây được coi như trung tâm của các giao tiếp, sắc tộc, ngôn ngữ, thương mại, hoà trộn tín ngưỡng và vô tín ngưỡng.
Galilêa được coi là điểm hẹn lí tưởng giữa Thiên Chúa và con người: Trên núi Sinai, nơi Môi-sen đã ở trên đó 40 ngày đêm và được Thiên Chúa mạc khải cho 10 điều răn. Ngôn sứ Isaia và sau này là thánh Matthêu nhắc tới địa danh Galilêa như một điểm sáng: “Hỡi Galilêa miền đất của dân ngoại, những dân đang ngồi trong bóng tối tử thần được nhìn thấy ánh sáng” (Is.9,1).
Galilêa gắn liền với sứ vụ của Đức Giêsu: Na-da-ret nằm trong vùng đất Galilêa, nơi gia đình Đức Giêsu sinh sống, lớn lên và làm việc. Trên núi Ô-liu, nằm phía đông Giê-ru-sa-lem, là nơi Đức Giêsu thường xuyên đến để cầu nguyện. Tại đây còn có vườn Giêt-si-ma-ni, có làng Bêtania, nơi Người đã cho La-da-rô chết bốn ngày sống lại, có ngọn núi Bet-pha-giê nơi khởi điểm cuộc rước Đức Giêsu long trọng vào thành Giê-ru-sa-lem và tiên báo thành này bị tàn phá không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào.
Galilêa còn là dấu chỉ hẹn cuối cùng của Đức Giêsu với các môn đệ: Cũng có mây mù che phủ, như đã từng che phủ Môi-sen trên núi Si-nai, cũng như Đức Giêsu với ba môn đệ yêu dấu ở Ta-bo-rê; cũng con số 40 kì diệu: 40 ngày trên núi Si-nai của Môi-sen hay 40 ngày chay tịnh của Chúa; 40 ngày sau khi Đức Giêsu sống lại, Người đã gặp gỡ lần cuối với các môn đệ như đã chỉ định trước: “Các bà hãy mau về nói với các môn đệ rằng người đi Galilêa trước các ông” (Mt.28,7).
Như vậy Galilêa là nơi Chúa Giêsu đã sống gương mẫu, rao giảng chân lí, thành lập Giáo Hội và tuyển môn đệ. Đức Giêsu đã làm xong nhiệm vụ và đi trước để dọn chỗ cho những ai tiếp tục sứ mệnh Người giao phó.
2. Cõi Trời
Chúa Giêsu về Trời, là về nơi Người phát xuất: Ngài đã hoàn thành nhiệm vụ của Người ở trần gian, Người cần được hưởng vinh quang với Ba Ngôi Thiên Chúa. Mười một Tông đồ đã đến điểm hẹn, có một số còn hoài nghi. Thực ra tất cả các môn đệ đều khởi đầu từ chỗ hoài nghi rồi đến tin tưởng, và dám đổ máu mình ra để chứng tỏ niềm tin đó. Các ngài vẫn còn những hạn chế của con người, như Phê-rô, Tô-ma, hay hai môn đệ Emmau; các ngài còn phải được học hỏi các màu nhiệm mặc khải, các ngài phải được thử thách đủ, trước khi làm nhiệm vụ. Các Tông đồ còn được chứng kiến Thầy mình về Trời để các ông hi vọng. Chỉ có sự thật mới thuyết phục được các ngài theo Chúa; tất cả nói lên rằng, Đức tin là một hành động hoàn toàn tự do dành cho con người.
Chúa lên Trời là đi từ chỗ hữu hình vào nơi vô hình: Nói Chúa lên Trời, là nói theo kiểu thế gian. Người ta thường quan niệm trời là tất cả không gian ngoài trái đất, trời là nơi Đấng Tạo Hoá ngự trị và điều khiển muôn loài. Tuy nhiên, Trời đây không phải là một điểm nào, không phụ thuộc chiều cao của không gian vật lý, không phụ thuộc vào quy luật của vũ trụ, thời gian, có thể cân đong đo đếm. Chúa lên Trời không phải là lánh xa trái đất, đến ngự trị trong một vì tinh tú hào quang, Chúa lên Trời là thay đổi từ trạng thái tự nhiên sang trạng thái siêu nhiên. Trời hay Thiên đàng là một, Người hiện diện khắp mọi nơi.
Đức Giêsu về Trời để nhận nhiệm vụ mới: Người duy trì sự hiện diện của Người nơi nhân loại: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế"(Mt 28,20). Đức Giêsu được trao toàn quyền trên trời, dưới đất, vũ trụ hữu hình và vô hình. Người đánh bại cái chết, Người làm Vua vũ trụ, Đấng sáng tạo và bảo tồn vũ trụ, không có gì nằm ngoài quyền của Người.
3. Thế gian
Đức Giêsu đã về Trời và trao lại nhiệm vụ cho Giáo Hội. Người đã lệnh cho mọi người trên trái đất phải thi hành chỉ thị của Người:
Vậy anh em hãy đi giảng dạy cho muôn dân và làm cho họ trở thành môn đệ Thầy. Môn đệ đây được hiểu là các Kitô hữu. Đức Giêsu gọi các môn đệ và muốn họ nhân rộng ra, tăng mạnh lên. Chúa tạo dựng con người và muốn cho họ hưởng hạnh phúc. Các Tông đồ được coi là người kế nghiệp Chúa Ki-tô, là những thợ gặt lành nghề. Họ phải biết đưa mọi người vào Nước Chúa. Chúa từ chối Sa-tan với tất cả vinh hoa của nó, Người muốn các Tông đồ tiếp tục chinh phục toàn thể vũ trụ để đưa mọi người vào Nước Trời hạnh phúc mà Người đi trước dọn chỗ, để mọi người có thể tận hưởng muôn đời.
Hãy làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Đức Giêsu muốn thâu nạp nhiều môn đệ qua phép Thanh Tẩy. Người đã thánh hoá nước, để nước có sức thánh hoá nhờ Thánh Linh. Người muốn họ nối kết với nhau trong một tập thể, mà Ba ngôi Thiên Chúa là mối dây, là tình yêu liên đới, là sức sống sung mãn dồi dào trong toàn thể, cũng như từng cá nhân. Không thể nhân danh cá nhân nào, không nhân danh thụ tạo nào, thần thánh nào, mà là nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa, để họ được gia nhập vào gia đình thánh thiện của Chúa.
Hãy dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Việc Đức Giêsu đặt nhiệm vụ này cuối cùng, không phải là Người dạy họ phải làm theo thứ tự như vậy, đó chỉ là câu nói nhằm mục đích kêu gọi môn đồ. Người muốn họ phải hiểu biết đầy đủ, để chia sẻ Lời dạy của Chúa, phải biết được giá trị của việc làm, để thực thi nhiệm vụ của một môn đệ.
Nhiệm vụ Chúa giao phó cho các Tông đồ cũng là nhiệm vụ của chúng ta. Chúa không muốn riêng ai quản lí màu nhiệm Mạc khải, Chúa ra lệnh mỗi người phải mạnh dạn ra đi rao giảng và làm chứng về Người, hầu được hưởng phúc Nước Trời với Thiên Chúa Ba Ngôi.
***
Lạy Chúa, xin Chúa cho chúng con tin bằng trái tim, tuyên xưng bằng miệng và bày tỏ bằng việc làm, rằng Chúa ngự trong chúng con ngõ hầu nhân loại thấy rõ những việc lành chúng con làm mà tôn vinh chúc tụng Cha chúng con trên trời. Vì Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con, Đấng muôn đời vinh hiển. Amen! (Origênê)
55. Bàn tay giơ ra để chúc lành--Lm Giuse Phạm Ngọc Ngôn
Hôm nay, toàn thể Giáo hội long trọng mừng lễ Chúa Kytô vinh hiển về trời. Có thể nói biến cố Thăng Thiên là một biến cố đặc biệt, vì đó không chỉ là một mạc khải biểu lộ vinh quang khải hoàn của Chúa Kytô nhằm đóng dấu ấn kết thúc cuộc đời cũng như sự kiện Phục sinh của Người; Đó cũng không chỉ là biến cố cuối cùng của lịch sử cứu độ mà đây chính là thời kỳ khai mở cho một biến cố mới: Chúa Thánh Thần sẽ đến hướng dẫn và dạy dỗ các môn đệ như Chúa Giêsu đã hứa.
Khi đối chiếu hai bản văn Tin mừng thứ ba và sách Công vụ Tông đồ của cùng một tác giả là thánh sử Luca, chúng ta không khỏi ngạc nhiên vì cùng một biến cố Thăng Thiên nhưng lại có sự mâu thuẫn rõ ràng về mặt thời gian: một đàng là biến cố Thăng Thiên xảy ra ngay sau khi Chúa Phục sinh, chỉ trong một ngày và một đàng là 40 ngày sau (x. Lc 24; Cv 1, 3). Lý giải sao về điều này?
Chúng ta có thể thấy dụng ý thần học của Luca trong đoạn Tin mừng trên, vì sự thực thì Phục sinh và Thăng Thiên là một thực thể thống nhất không thể tách rời nhằm biểu lộ vinh quang của Đấng Phục sinh và quyền thống trị của Người. Như thế, ngay sau khi Phục sinh, Chúa Kytô đã đi vào vinh quang thiên quốc chứ không phải chờ đợi gì nữa. Tuy thế, thỉnh thoảng Chúa Kytô xuất hiện cách hữu hình với các môn đệ nhằm củng cố đức tin và dạy dỗ các ông. Có thể thấy 40 ngày là quãng thời gian tượng trưng đầy đủ và sung mãn để các ông tiếp nhận những giáo huấn và hiểu rõ hơn sứ mệnh của Người. Thật vậy, đây chính là quãng thời gian mà Chúa Kytô tỏ mình cho các môn đệ nhận biết Người (Lc 24, 39). Người mở tâm hồn cho các ông hiểu rõ ý nghĩa của biến cố Phục sinh (24, 44). Để rồi những gì các ông vừa trải nghiệm với Người, tất cả sẽ trở thành những chủ đề cho lời rao giảng cốt yếu sau này- những gì đã được Kinh thánh loan báo đều được thực hiện trọn vẹn trong mầu nhiệm Vượt qua. Chính các ông sẽ là những chứng nhân cho những gì các ông từng trải nghiệm mà Công vụ Tông đồ đã ghi. Sau quãng thời gian này, Chúa Kytô không còn hiện diện cách hữu hình, cách thể lý bằng xương bằng thịt nữa và tác giả Công vụ Tông đồ nói rằng Chúa Kytô lên trời.
Thánh sử Luca ghi lại sự kiện Chúa lên trời thật giản dị: “Người dẫn các ông tới gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được đem lên trời” (24, 50). Hình ảnh cuối cùng của Chúa Kytô ở trần gian chính là bàn tay giơ ra để chúc lành. Đây chính là hình ảnh tuyệt vời bởi nó không chỉ là dấu chỉ từ biệt và chúc lành mà chúng ta thường thấy nơi các thánh tổ phụ chúc lành cho các con, cho những người thừa kế vào lúc lìa cõi thế, mà còn là dấu chỉ nhằm cho thấy Chúa Giêsu mãi mãi sẽ ở cùng và ban ơn cho các môn đệ của Người ở trần gian này. Cuộc chia ly này không giống cuộc chia ly trong vườn Ôliu, các môn đệ lòng đây hoan hỷ và không ngớt tụng ca Thiên Chúa: cuộc chia ly trở nên dấu chỉ cho sự hiện diện của Chúa Kytô bên cạnh các môn đệ.
Biến cố Thăng Thiên không chỉ cho thấy công trình cứu chuộc như lời Kinh thánh loan báo đã hoàn thành mà còn là thời điểm làm cho tất cả mọi người nhận ra những lầm lỗi của mình, ăn năn sám hối để hưởng nhờ ơn tha thứ của Thiên Chúa; biến cố Thăng Thiên không chỉ là lúc Chúa Kytô Phục sinh trao trách nhiệm rao giảng cho các môn đệ mà còn là thời điểm đ¨¢nh dấu những hoạt động truyền giáo cho muôn dân của các ông sau này; biến cố Thăng Thiên không chỉ là một lời hứa, một lời chúc phúc nhưng còn là một sự hiện diện, một sức mạnh của Chúa Kytô làm cho các môn đệ hoan hỷ, không ngớt lời tụng ca Thiên Chúa và giúp các ông trở nên can đảm và nhiệt huyết hơn trong sứ vụ chứng nhân Tin mừng.
Ước gì tâm tình của ngày lễ Thăng Thiên giúp mỗi người chúng ta thêm lòng tin tưởng vào sự hiện diện cách vô hình của Đấng Phục sinh để rồi như các môn đệ xưa, cuộc sống của chúng ta là những chuỗi ngày đầy ắp niềm vui trong Chúa, lời cầu nguyện và tạ ơn của chúng ta sẽ hoà nhập với lời cầu nguyện và tạ ơn của các môn đệ để rồi theo chân các ngài, chúng ta ra đi dấn thân cho công cuộc truyền giáo như lòng Chúa hằng ước mong.
56. Chứng nhân Nước Trời--Lm Bùi Quang Tuấn
Có rất nhiều người lầm tưởng thiên đàng là một khoảng không gian nào đó trên cao kia. Sự lầm tưởng này đã làm phát sinh nhiều hậu quả không hay: người có đạo thì bị lung lay bối rối khi có một vài khoa học gia nói rằng: Chẳng thấy Chúa đâu trên kia cả; người không có đạo thì nghĩ: Có lẽ nước trời là một thế giới nằm đâu đó trong không gian, với những sinh hoạt na ná giống như trần gian này. Thế nên đã có câu chuyện khôi hài do một cha thừa sai kể lại: Sau một tuần giảng đại phúc thật sốt sắng tại một vùng đất nọ, các cha khuyên nhủ được một ông cụ ngoại đạo gia nhập đoàn chiên Chúa. Thấy cụ bà chưa có dấu hiệu nào khả quan, nên các cha tích cực khuyên bảo: “Ông đã theo đạo rồi, bà cũng nên theo đi thôi, để sau khi chết còn lên thiên đàng gặp lại nhau nữa chứ.” Nghe thế cụ bà hốt hoảng trả lời, “Không được đâu, suốt đời ổng đã hành hạ tui đủ thứ. Mai mốt trên thiên đàng còn phải gặp lại mặt ổng nữa thì tui chết mất.”
Thiên đàng sẽ chỉ là một con số “không”, chẳng có chút gì hấp dẫn nếu như nơi đó không có hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc chính là hoa trái của yêu thương, mà yêu thương thì phát xuất từ con tim, nghĩa là từ bên trong. Bên trong chứ không phải bên ngoài hay bên trên kia.
Nước trời không ở bên ngoài hay bên trên, cũng không phải là một nơi nào đó trong không gian. Nước trời phải được hiểu như là một thực tại phía trong: trong lòng tôi, trong nơi tôi đang cư ngụ hay làm việc, và trong tầm với của gia đình.
Cho nên nói Chúa Giêsu lên trời cũng chính là nói Chúa Giêsu đi vào trong đời ta, nhà ta, lòng ta, gia đình ta. Có như thế thì lời “Ta sẽ ở cùng các ngươi mọi ngày cho đến tận thế” mới đong đầy ý nghĩa của nó. Chứ nếu như Ngài lên trời cao xanh hay Ngài ở nơi thế giới ngoài kia thì làm sao hiểu là Ngài đang ở cùng chúng ta được. Và vì Chúa Giêsu đã đi sâu vào đời ta, nhà ta, nên Ngài đã truyền cho chúng ta phải làm chứng cho sự hiện diện của Ngài: “Các ngươi phải là nhân chứng của Ta.”
Chứng tá cho Đức Giêsu là làm sao vẽ được dung mạo của Ngài ngay trên cuộc sống của mình, làm sao cho người khác cảm nhận được sự hiện diện của Ngài ngay trong môi trường mình đang sinh hoạt, diễn tả được hình ảnh của Nước Trời đang ở giữa và ở trong chúng ta.
Có nhà hoạ sĩ kia cứ mãi mơ ước trong đời mình sẽ vẽ được một bức tranh đẹp nhất thế giới. Nhưng anh ta không biết phải vẽ thứ gì để bức tranh sẽ có được hình ảnh, màu sắc, và nội dung sâu đậm đáng trở thành bức tranh tuyệt vời nhất trần gian.
Chàng đã tìm hỏi với một linh mục về điều gì đẹp và ý nghĩa nhất. Vị linh mục trả lời ngay: “Niềm tin. Niềm tin là số một, niềm tin sẽ nâng cao giá trị con người. Niềm tin sẽ chữa lành và biến đổi mọi sự nên tuyệt vời.”
Chàng hoạ sĩ cũng đặt câu hỏi tương tự với một cô gái đang bước lên xe hoa về nhà chồng. Cô gái trả lời: “Trên thế gian này không có gì đẹp bằng tình yêu. Tình yêu là hơi thở, là sức sống, là hạnh phúc, là tất cả. Tình yêu biến cay đắng thành ngọt ngào, đưa tiếng cười vào nơi than khóc, đổi nghèo hèn tầm thường thành phú quí cao sang. Tình yêu thật tuyệt vời.”
Cuối cùng người hoạ sĩ gặp một anh thương binh vừa trở về từ tiền phương. Anh lính đã trả lời: “Hoà bình là điều đẹp nhất trần gian. Ở đâu có chiến tranh, ở đó có đổ nát, bất hạnh, khổ đau. Ở đâu có hoà bình, ở đó có cái đẹp.”
Ba câu nói của ba con người-- vị linh mục, cô gái sắp lấy chồng và anh thương binh trẻ-- đã làm cho người hoạ sĩ phân vân: không biết phải làm thế nào để trên bức tranh của mình có thể diễn tả cùng một lúc niềm tin, tình yêu, và hoà bình.
Đang suy nghĩ anh về đến nhà lúc nào không hay. Mấy đứa con anh ùa ra đón bố. Anh nhận thấy niềm tin trong ánh mắt của các con. Anh cũng cảm được tình yêu trong chiếc hôn chân thành của người vợ. Niềm tin của con cái và tình yêu của người vợ làm cho tâm hồn anh ta ấm áp và an bình lạ thường. Thế rồi một ý tưởng chợt loé lên trong đầu. Anh vội ngồi xuống khởi công vẽ tranh, và sau khi hoàn thành tác phẩm đẹp nhất thế gian, anh đã đặt tên cho nó: “Mái Ấm Gia Đình.”
Mái ấm gia đình chính là hình ảnh xinh đẹp và sống động nhất mà người ta có thể vẽ được về Nước Trời hay Thiên đàng ngay trên thế gian này. Mái ấm gia đình cũng sẽ là lời chứng tá hùng hồn nhất cho sự hiện diện của Đức Giêsu giữa dương gian.
Bạn chưa cần phải đi đâu xa để làm chứng tá về niềm tin; bạn cũng chưa thể đi đến mút cùng trái đất để giảng về tình yêu và an bình của trời cao. Nhưng bạn có thể làm chứng tá cho Đức Giêsu ngay trong gia đình của mình.
Trước mỗi hành động, lời nói, giao tế, cư xử, hãy tự hỏi: tôi có làm mất niềm tin nơi người bạn đời hay nơi con cái của tôi không? Tôi đang xây dựng tình thương và an bình hay đang sống phản chứng trước mặt con cái và bạn đời? Tôi có đang cố gắng vẽ lên chân dung của Thiên Chúa qua việc hy sinh để kiến tạo một mái ấm gia đình không?
Những dòng chữ sau đây rất đáng cho bạn và tôi tâm niệm để ý thức hơn khi vẽ lên cho đời những “mái ấm”:
“Mái ấm là môi trường và là thánh đường đầu tiên cho tuổi thơ học thế nào là điều ngay, thế nào là điều thiện, thế nào là lòng tử tế.
Đó là nơi tuổi thơ tìm về để được an ủi vỗ về mỗi khi đau khổ, bệnh tật.
Đó là nơi chia sẻ niềm vui và xoa dịu buồn phiền.
Đó là nơi cha mẹ được kính trọng và yêu thương...
Đó là nơi mà những món ăn đơn sơ cũng trở thành cao lương mỹ vị, bởi vì là giá của mồ hôi nước mắt.
Đó là nơi mà tiền bạc không quí bằng tình yêu.
Và đó là nơi mà ngay cả nước sôi cũng reo lên niềm hạnh phúc.
Mái ấm gia đình. Đó là nơi được Thiên Chúa chúc phúc.”
Ước gì Lễ Chúa Giêsu Lên Trời nhắc chúng ta về một Nước Trời tại thế--mái ấm gia đình--để sau Lễ Lên Trời này, bạn và tôi cũng sẽ theo bước chân của các môn đệ, lên đường làm chứng tá cho Đức Kitô, chứng tá ngay trong gia đình, chứng tá bằng việc xây dựng một mái ấm. Dù rằng cuộc đời của chứng nhân nào cũng không tránh khỏi đổ mồ hôi hay đổ máu, không tránh khỏi những hiểm nguy như chiên đi giữa sói rừng, không tránh khỏi khốn khổ như một người tôi tớ, nhưng đó là giá cần trả để có được một bức tranh tuyệt đẹp của niềm tin, yêu thương, và an bình hạnh phúc.
57. Ra khơi
Tại Rôma, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II luôn luôn cử hành lễ Chúa Thăng thiên vào đúng ngày, tức là vào ngày thứ Năm, trong khi đó thì tại các Giáo Hội địa phương, như tại Việt Nam, Giáo hội cử hành vào ngày Chúa Nhật tiếp sau. Như thế, hôm nay chúng ta được dịp may để nghe lại đây một vài đoạn trích từ chính bài giảng của Đức Thánh Cha trong Thánh Lễ Kính Chúa Thăng Thiên. Đức Thánh Cha đã chia sẽ như sau: Chúng ta được qui tụ quanh bàn thờ Chúa để cử hành việc Chúa Lên Trời, chúng ta đã nghe được Lời Chúa: “chúng con sẽ nhận lấy sức mạnh Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ ngự xuống trên chúng con và chúng con sẽ là những chứng nhân của Thầy cho đến tận cùng trái đất.”
Từ hơn 2000 năm qua, những lời này của Chúa Phục Sinh thôi thúc Giáo hội tiến ra khơi, tiến vào trong lịch sử con người. Những lời này làm cho Giáo hội trở nên một người luôn đồng hành với tất cả mọi thế hệ, làm cho Giáo hội trở nên như men làm dậy lên mọi nền văn hóa trên thế giới.
Hôm nay trong lễ kính Chúa Thăng Thiên, chúng ta muốn nghe lại những lời trên để với sức mạnh đã được canh tân, chúng ta đón nhận mệnh lệnh của Chúa: “Hãy ra khơi”, mệnh lệnh và Chúa Giêsu đã nói với Phêrô. Đây là một mệnh lệnh mà tôi muốn làm vang dội lại trong Giáo Hội qua bức Tông Thư “Khởi Đầu Ngàn Năm Mới”, và đây là mệnh lệnh với một ý nghĩa sâu xa hơn theo ánh sáng ngày lễ Chúa Thăng Thiên.
“Hãy ra khơi”. Ra nơi mà Giáo hội cần tiến đến không phải là một sự dấn thân truyền giáo mạnh mẽ, nhưng còn là một sự dấn thân mạnh mẽ sống chiêm niệm như những tông đồ, như những kẻ đã được chứng kiến biến cố Chúa Lên Trời. Chúng ta cũng được mời gọi hãy hướng cái nhìn lên dung mạo của Chúa Kitô được hiển vinh trong vinh quang của Thiên Chúa Cha. Chắc chắn nhìn ngắm trời cao không có nghĩa là quên đi trần gian này, và nếu rủi gặp phải cám dỗ, chúng ta chỉ cần lắng nghe lại lời hai người mặc áo trắng của đoạn Phúc Am hôm nay nói rằng: “Tại sao các ông còn nhìn trời?”.
Việc cầu nguyện và chiêm niệm Kitô không làm cho chúng ta tránh khỏi dấn thân vào trong lịch sử. Trời nơi Chúa Giêsu tiến vào không phải là một sự xa vắng, nhưng như là một màn che khuất và là nơi lưu giữ một sự hiện diện, đó là sự hiện diện của Chúa, một sự hiện diện không bao giờ bỏ rơi chúng ta cho đến khi Chúa trở lại trong vinh quang.
Trong khi đó, thời giờ chúng ta sinh sống đây là thời giờ rất đòi hỏi, đỏi hỏi chúng ta phải làm chứng. Bởi vì nhân danh Chúa Kitô, sự ăn năn hối cải và sự tha thứ tội lỗi phải được rao giảng cho tất cả mọi dân nước, và chính để làm sống lại ý thức này mà tôi đã muốn triệu tập đại hội Hồng Y đặc biệt bế mạc hôm nay.
Các vị Hồng Y từ khắp nơi trên thế giới và tôi xin kính chào với lòng mộ mến huynh đệ. Các ngài trong những ngày qua đã hội họp với tôi để bàn về công việc rao giảng Phúc Am và làm chứng Kitô trong thế giới ngày nay vào “Khởi Đầu Ngàn Năm Mới”. Đây, đối với chúng tôi là giây phút sống hiệp thông, trong đó chúng tôi cảm nghiệm được một phần nào của niềm vui giống như của các tâm hồn các tông đồ ngày xưa, sau khi Chúa Phục Sinh chúc lành cho các ngài và tách rời ra khỏi các ngài để lên trời.
Thật vậy, Thánh Luca đã ghi lại rằng, sau khi bái lạy tôn thờ Chúa, các tông đồ trở lại Giêrusalem với niềm vui lớn lao và các ngài luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa. Và tiếp sau trong bài giảng, Đức Thánh Cha đã khai triển thêm bản chất cũng như sinh hoạt truyền giáo của Giáo hội, và cuộc Hội Hồng Y cũng được Đức Thánh Cha đặt nằm trong viễn tượng này. Thực hiện sự hiệp thông và hiệp nhất trong Giáo hội đễ Giáo hội có thể rao giảng Phúc Am Chúa một cách đáng tin hơn cho mọi anh chị em.
Trong Thánh Lễ hôm nay và trong giây phút này, chúng ta được Đức Thánh Cha nhắc lại một ý nghĩa quan trọng của biến cố Chúa Lên Trời, không phải Chúa lên trời để bỏ chúng ta, nhưng Ngài còn bước sang một sự hiện diện mới với chúng ta trong Chúa Thánh Thần. Ngài ở cùng chúng ta luôn mãi cho đến tận cùng và Ngài muốn mỗi người chúng ta mở rộng tâm hồn đón nhận hồng ân Thánh Thần của Ngài để làm chứng cho Ngài trong môi trường chúng ta sinh sống.
Từ Chúa Nhật hôm nay đến tuần tới lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, chúng ta hãy dành thời giờ để nhìn lại cuộc sống của mình xem chúng ta đã mở rộng tâm hồn mình đón nhận Chúa Thánh Thần và sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần để làm chứng cho Chúa đến mức độ nào rồi: “Thầy ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế, và chúng con sẽ làm chứng cho Thầy khắp nơi trên mặt đất này”.
58. Chúa lên trời--Fr Thomas Tuý
Một tín hữu đi ngang qua một quán rượu, anh nghe trong quán có tiếng cười nói ầm ĩ. Anh dừng lại lắng nghe, thì ra nhóm đàn ông vừa uống rượu vừa chế giễu tôn giáo và những kẻ có đạo. Anh nói với họ rằng: “Đúng đó, tôi chẳng hiểu các màu nhiệm trong đạo, nhất là kẻ chết có thể sống lại. Nhưng tôi biết rõ một điều ở trong thành phố này, Thiên Chúa đã cúi xuống một nắm đất sét hôi hám, bẩn thỉu vô cùng, Ngài thổi hơi vào nó. Nó liền biến đổi từ gã đâm thuê, chém mướn, sike, trộm cướp, cờ bạc, rượu chè, thành một thanh niên kiến tạo hòa bình, thương yêu giúp đỡ láng giềng. Người đó chính là tôi, đang đứng trước qúi vị đây”. Cả đám đông ồ lên một tiếng. Thì ra họ đã nghe đồn về “anh trưởng” của một mái ấm thành phố mà báo chí thường nhắc đến.
Nếu suy nghĩ một chút, quí vị ngộ ra lời người thanh niên còn đi xa hơn sự thật về anh rất nhiều. Thiên Chúa đã thổi Thần Khí vào nắm đất trong vườn Eđen và nhân lọai thành hình. Ngài lại rợp bóng trên nhân lọai và nhân lọai ấy trở thành Con của Ngài trong lòng trinh nữ Maria. Nhân lọai mới này chịu khổ nạn trên thập giá để đền bù tội lỗi, nhưng ngày thứ ba sống lại. Hôm nay được đón về trời ngồi tòa vinh hiển, có các thiên thần hầu cận.
Lên trời có ý nghĩa thế nào đối với đức Kitô, thì cũng vậy đối với mỗi tín hữu, thí dụ người thanh niên hư hỏng vừa nói ở trên. Vậy lên trời đối với Chúa Giêsu ra sao? Và chúng ta thế nào? Có được quyền lên trời không? Phải sống ra sao để theo Chúa? Trước hết, lên trời đối với Chúa Giêsu là sự nghiệp và đau khổ của một con người đã chấm dứt. Ngài lên cùng Thiên Chúa Cha với thân xác và linh hồn mà Ngài đảm nhận ở dương gian. Ngài và Thiên Chúa Cha kết hợp mật thiết trong tình yêu chân thật là Chúa Thánh Thần. Đấng sẽ đổ ơn lành xuống cho nhân lọai, khởi sự từ biến cố lễ 50. như vậy sự hiện diện của Thiên Chúa trên Giáo Hội không khi nào chấm dứt, đúng như lời Chúa Giêsu tuyên bố: “Thày sẽ ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28,20). Điều Thiên Chúa bắt đầu ở vườn Eden, nay hòan tất nơi đức Kitô, bất chấp tội lỗi. Chương trình của Thiên Chúa không bao giờ thất bại. Chúa Giêsu là con của lòai người, nay là con của Thiên Chúa xét theo nhân tính. Ngài là tạo vật mới vượt qua không gian, thời gian, đau khổ và cái chết. Như vậy nhân tính đã được dự phần vào thiên tính thực thụ và có chứng cớ rõ ràng. Đúng là hy vọng lớn lao cho lòai người? Chúng ta không được phép thất vọng vì bất cứ lý do nào. Đức Giêsu đã tòan thắng sự dữ và tội lỗi, chúng ta cũng có hy vọng tương tự.
Con đường lên thiên đàng đã được họach định cho nhân lọai. Nhân tính Đức Giêsu vui hưởng hạnh phúc, mà tai chưa hề được nghe, mắt chưa hề được xem, trí tuệ chưa hề tưởng tượng. Ngài uống tận nguồn nước vĩnh cửu của đời sống Ba Ngôi Ngài cử hành muôn thuở chiến thắng thế gian, satan, xác thịt cùng với Đức Mẹ, các thánh và các thiên thần trong vinh quanh. Nhưng xin nhớ trên dương gian Ngài không hề ích kỷ, trên thiên đàng càng xả kỷ hơn nữa. Trên dương gian Ngài chữa lành bệnh tật, cho kẻ què đi được, kẻ điếc được nghe, câm nói được, chết sống lại thì bây giờ chẳng lẽ Ngài không làm được nữa sao? Ngài đã thí mạng sống vì chúng ta, chẳng lẽ Ngài thôi thực hiện? Vì thế thơ Do Thái viết: “Ngài hằng đứng trước tòa Thiên Chúa để cầu bầu cho nhân lọai”. Nếu bà thánh Thérésa Hài Đồng Giêsu trước khi qua đời hứa mưa hoa hồng ân phúc xuống chị em trong dòng, chẳng lẽ Đức Giêsu không làm được cho chúng ta?
Cho nên chúng ta phải tin rằng Ngài đang hiện diện trong Hội thánh, tưới gội ơn cứu rỗi cho nhân lọai. Các bí tích là một bảo đảm. Ngài ở với lòai người trong bí tích Thánh Thể y như ở trên trời vinh hiển, yêu thương, quyền năng. Xin đừng đùa cợt với các bí tích đó là công việc Thiên Chúa tiếp tục nơi dương gian. Ngài hòan tòan là con người mới với thân thể thiêng liêng, không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Ngài hiện diện cho những ai có đôi mắt đức tin, như các tông đồ xưa, nhất là nơi nhà tạm với ngọn đèn leo lét.
Chúng ta phải làm chi lúc này? Đừng đứng đó mà ngó lên trời, như hai thiên thần cảnh cáo các môn đệ? Sự thật một số tín hữu tiên khởi đã lầm tưởng Chúa sắp xuất hiện, nên cứ ngồi đó mà chờ đợi, đến nỗi Thánh Phaolô phải nói thẳng thừng: “Ai không chịu làm thì đừng ăn.” Tín hữu không phải là kẻ mộng du, nhưng là người thức tỉnh, chia sẻ cuộc sống của Ngài, chúng ta phải lao động và làm việc như Chúa. Các người làng Nazareth ngày xưa đã ngạc nhiên: “Anh ta không phải là bác thợ mộc, con bà Maria sao?” Câu nói này chẳng là trò đùa, mà là sự thật. Suy ra, Chúa lao động với đôi tay và khối óc suốt 30 năm. Còn ngài đi đây đó rao giảng sứ mệnh thì quá hiển nhiên. Bốn phúc âm đều thuật lại, không cần biện minh. Vậy mà, hỡi ôi, các tu sĩ linh mục ngày nay cư sử ra sao trong cuộc sống? Họ dùng thời gian, tài sức ra sao cũng hiển nhiên không kém! Chia sẻ cuộc sống với Chúa là điều kiện cần thiết để nên giống Ngài và đọat giải cứu rỗi. Các môn đệ tiên khởi đã nêu gương cho chúng ta hôm nay! Bao lâu nữa Ngài sẽ trở lại? Chẳng ai được biết. Nhưng mọi người đều biết rằng, trừ thân xác, còn linh hồn mỗi người trở về cùng Thiên Chúa thì không phải đợi. Cho nên lao động để nâng đỡ gia đình, con cái, xã hội là cần thiết và như vậy chúng ta tích cực chuẩn bị cho ngày Ngài trở lại.
Hiện thời trên dương gian Tin mừng của Chúa Kitô là Tin mừng thánh giá. Qua tin mừng ấy, nhất là qua những thương tích, Ngài tưới gội sức sống và ơn thánh xuống cho thế giới. Màu nhiệm cứu độ của Ngài còn tiếp tục qua con đường đó, chứ không phải an nhàn, thư thái. Ngài mời gọi chúng ta cộng tác: “Ai muốn theo Tôi, hãy để kẻ ấy vác thập giá mình hằng ngày mà theo.” Vậy mà một tu sĩ trẻ vừa nói với tôi: “Đi tu chỉ mong được có thế!” Ý ông là được ăn sung, mặc sướng, tận hưởng các tiện nghi thế gian. Chẳng hiểu thần khí nào thúc đẩy ông như vậy. Chắc chắn không phải Thần Khí Đức Kitô. Vì hôm nay Ngài về trời để lại cho chúng ta con đường thập giá để noi theo mà tiến bước về trời. Chẳng còn con đường nào khác. Amen. Alleluia.
59. Những giáo huấn cuối cùng và lên trời--Lm PX. Vũ Phan Long
“Khi đi về trời, Đức Giêsu cũng chỉ cho chúng ta biết mục tiêu của đời sống chúng ta.”
1.- Ngữ cảnh
Chương 24 của TM Lc được xây dựng thành 3 đoạn và một kết luận (xem bài trước). Bản văn đọc trong Phụng vụ hôm nay lấy một vài câu của phần ba và đoạn kết luận.
Khi hiện ra với các môn đệ, Đức Giêsu cho thấy Người chính là Đức Kitô đã chịu đóng đinh, Người cũng không được gìn giữ khỏi đau khổ và thiếu thốn, khỏi bị từ khước và thù ghét, khỏi những đau đớn và cái chết. Nhưng cũng chính Đấng chịu đóng đinh là Đấng Phục Sinh. Người đã bị điệu đi đến cái chết trong tình trạng thê thảm và tàn bạo, nay Người đang đứng trước mặt các ông như là Đấng đang sống đã thắng vượt cái chết và không thể chết nữa. Rồi Người cho các môn đệ hiểu rằng các ông chẳng những không phải sợ là bị hủy diệt hoàn toàn, mà còn có thể và phải đi làm chứng về biến cố trọng đại này. Đức Giêsu đã dựa vào Kinh Thánh để trình bày cuộc Thương Khó – Phục Sinh, rồi xác định sứ mạng của các môn đệ.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia thành hai phần:
1) Đức Giêsu Phục Sinh ban sứ điệp (24,46-49);
2) Đức Giêsu lên trời (24,50-53).
3.- Vài điểm chú giải
- bắt đầu từ Giêrusalem (47): Câu này là câu chuyển tiếp đưa sang tập thứ hai của tác phẩm Lc (= Sách Cv).
- Chứng nhân (48): Tại đây, tác giả Lc đã nói trước điều ngài sẽ triển khai trong sách Cv, bắt đầu ở Cv 1,21-22. Ngoài TM IV, sách Cv là quyển sách thuộc Tân Ước trong đó từ này và các từ phái sinh (làm chứng, chứng tá, chứng từ) được sử dụng nhiều nhất: 29 lần. Lý do là vì quyển sách này là sách về chuyên việc làm chứng. Như thế, từ martys, “chứng nhân”, cũng có một tầm quan trọng đặc biệt. Đặc biệt không được lẫn lộn từ này với tư cách “mục chứng”: Hy ngữ cổ điển, và chính Lc (Lc 1,2) dùng từ autopês, “người chứng mắt thấy”. Vai trò của một autopçs khá thụ động, và tư cách này thực ra chỉ là một tình trạng thực tế: autopês là người có cơ hội chứng kiến một biến cố nào đó; do đó, nếu cần phải làm chứng hoặc toà án buộc làm chứng, người ấy có thể trình bày những gì mình đã thấy, như mình đã thấy. Còn chứng nhân (martys) có một vai trò tích cực hơn nhiều, có một sứ mạng phải hoàn tất: đó là không những công khai công bố những gì mình đã chứng kiến, mà còn xác định ý nghĩa, tầm mức của biến cố ấy nữa. Là người đi qua biến cố, “chứng nhân” trở thành người tuyên cáo (trong bối cảnh tôn giáo, thần học) sứ điệp đã được hàm chứa trong biến cố ấy. Câu truyện tuyển chọn ông Mátthia thay thế cho Giuđa minh hoạ điểm phân biệt này (Cv 1,15-26). Bởi vì trong thực tế, ta khó mà hiểu được vì sao lại phải đi tới một tuyển chọn, thậm chí một sự chuẩn nhận để cắt đặt một chứng nhân nếu người này chỉ cần có một điều kiện là hiện diện thể lý trong một biến cố thuộc quá khứ. Trái lại, ta hiểu là cần có một cuộc tuyển chọn (rút thăm) nếu vai trò người được chọn vượt quá khung cảnh chật hẹp này, nếu cùng với việc công bố biến cố, người ấy còn phải biết minh giải đúng đắn biến cố ấy. Vậy các chứng nhân mà Cv sẽ nói tới trong cả sách, là những nhà thần học về các hoạt động cứu độ của Chúa.
Muốn làm chứng về sự sống lại của Đức Chúa (Cv 4,33), thì phải công bố chân tính và toàn thể sứ vụ của Đức Giêsu. Công viẹc làm chứng này của các tông đồ được mô tỏ rõ ràng trong các bài diễn từ (Cv 2,22-36; 3,12-16; 4,8-12; 5,29-32; 10,34-43; 13,26-41; 17,30-31).
- điều Cha Thầy đã hứa (49): dịch sát là “lời hứa của Cha Thầy”, là Thánh Thần, như Cv1,4b.5b sẽ diễn tả rõ. Thánh Thần sẽ là nguồn của “quyền năng” trong câu tiếp theo.
- giơ tay (50): Đây là cách chúc lành của tư tế (xem Aharon trong Lv 9,22), hoặc của vị thượng tế (xem Simôn II trong Hc 50,20-21). Điều mà Dacaria (Lc 1,21-22) đã không thể làm được, thì Đức Giêsu đang làm cho người đang đi theo Người. Mặc dù tác giả Lc mô tả Đức Giêsu thực hiện một hành vi tư tế, nền thần học của ngài không hề đề cập đến Đức Giêsu như là tư tế.
- được đem lên trời (50): Đây là thái bị động thay tên Thiên Chúa (x. Cv 1,9.11.22). Các câu 50-53 dường như mâu thuẫn với Cv 1,3-11. Theo Cv, Đức Giêsu “còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa” (Cv 1,3). Trong khi đó, bản văn TM dường như lại bảo rằng tất cả những gì tác giả Lc kể trong ch. 24 đã xảy ra trong ngày Phục Sinh, rằng di chúc của Đức Chúa đang rời xa thế gian này (cc. 41-49) và cuộc Lên trời của Người (cc. 50-53) theo liền ngay sau cuộc hiện ra vào chiều ngày Phục Sinh.
Dường như Lc đã có những ý hướng Phụng vụ khi trình bày các biến cố: mỗi ngày chúa nhật của cộng đoàn Kitô hữu là một lễ Phục Sinh, một ngày Phục Sinh.
- các ông bái lạy Người (52): Các môn đệ làm một cử chỉ nhận biết Đức Kitô. Họ thinh lặng bái lạy để thờ phượng Người, như người Do-thái đã làm trước mặt thượng tế Simôn (Hc50,22) để nhận phúc lành của ông.
- trở lại Giêrusalem (52): Như vậy, TM Lc kết thúc tại nơi nó đã bắt đầu (1,5). Giêrusalem đã là mục tiêu của hoạt động truyền giáo của Đức Giêsu (23,5); bây giờ Giêrusalem lại được nêu ra như điểm nhắm. Nhưng rồi, điểm nhắm lại trở thành khởi điểm khi “lời” lan tỏa đến tận cùng trái đất (Cv 1,8).
- lòng đầy hoan hỷ (52): dịch sát là “với niềm vui lớn lao”. Đây là niềm vui của những người không những đã được thấy Đấng Phục Sinh, mà còn đã đặt sự Phục Sinh của Người liên hệ với cuộc ra đi của Người và đặt cuộc ra đi này liên hệ với lời hứa Thánh Thần. Lời nhắc đến “niềm vui lớn lao” khiến ta hiểu rằng biến cố Lên Trời chấm dứt thời gian Đức Giêsu ở tại trần thế, mà cũng là hoàn tất cuộc Phục Sinh của Người, là khởi đầu của thời gian Giáo Hội. Niềm vui này của những người chứng kiến cuộc Lên Trời là tiếng vọng và sự hoàn tất của niềm vui mà sứ thần hứa cho tư tế Dacaria và cho một số đông vào ngày Gioan Tẩy Giả chào đời (Lc 1,14). Nhưng nhất là niềm vui này thể hiện trọn vẹn niềm vui lớn lao mà sứ thần hứa cho các mục đồng, “một niềm vui cho toàn dân” (2,10). Ở đây cũng vậy, khởi đầu và kết thúc gặp nhau.
- hằng ở trong Đền Thờ (53): Như vậy, tác giả Lc bắt đầu mô tả đời sống cộng đoàn của Hội Thánh phôi thai (x. Cv 2,46; 3,1; 5,42). Ở đây lại nổi bật tầm quan trọng của Đền Thờ theo hướng nhìn của Lc.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu Phục Sinh ban sứ điệp (46-49)
Trong tư cách Đấng Phục sinh, Đức Giêsu giải thích cho các môn đệ hiểu rằng toàn thể định mệnh của Người đã được Thiên Chúa muốn như thế, và Người giúp các ông hiểu ý nghĩa của Kinh Thánh, như Người đã làm cho hai môn đệ Emmau. Cái chết của Người trên thập giá và cuộc Phục Sinh của Người cũng đã làm trọn nội dung sau này phải được loan báo cho mọi dân tộc. Nhân danh Đức Giêsu, nghĩa là trong chứng từ về Người, khởi đi từ tất cả những gì đã được biểu lộ xuyên qua công trình và toàn thể cuộc tiến bước của Người cho đến thập giá và sự sống lại, muôn dân sẽ được loan báo sự hoán cải và sự tha thứ tội lỗi. Mọi người phải quay trở lại với Thiên Chúa, Đấng đã nhờ cuộc sống, cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu mà chứng tỏ tình yêu và quyền lực của Người. Rồi Đấng Phục Sinh biến các môn đệ trở thành chứng nhân của Người. Họ sẽ phải làm chứng về các biến cố trong cuộc đời của Người cũng như cuộc gặp gỡ với Người đây và việc Người trở về trời (x.Cv 1,21t). Mỗi lời loan báo đều phải phát xuất từ các chứng nhân này, nghĩa là không dựa trên những suy diễn, những ý tưởng hoặc ý kiến cá nhân, nhưng trên các biến cố lịch sử và trên những giáo huấn do Đức Giêsu ban cho. Do đó, lời loan báo chỉ có thể phát xuất từ những người đã tháp tùng và lắng nghe Đức Giêsu, đã hiểu ý nghĩa của cuộc đời Người nhờ được Người giải thích.
Các môn đệ không thể hiểu nhiệm vụ bao la này bằng sức riêng. Do đó, Đức Giêsu báo cho các ông là Người sẽ gửi cho các ông điều Chúa Cha đã hứa, tức là Thánh Thần. Chính Thánh Thần, là quyền lực của Thiên Chúa, sẽ giúp cho các ông có khả năng loan báo với xác tín và can đảm công trình và sự Phục Sinh của Đức Giêsu (x. Cv 2,22-36).
* Đức Giêsu lên trời (50-53)
Sau khi đã dùng nhiều cách để làm cho các môn đệ tin chắc vào sự sống lại của Người và sau khi đã chuẩn bị các ông đi vào nhiệm vụ, Đức Giêsu từ biệt các ông. Người sẽ không hiện diện bên các ông theo kiểu hữu hình nữa. Nhưng Người sẽ cùng đi với các ông trên mọi nẻo đường. Người giơ tay lên để từ biệt các ông. Trong khi Người đi xa dần khỏi mắt các ông, Người chúc lành cho các ông. Người gửi đến cho các ông sức mạnh của hành vi chúc lành của Người, để sức mạnh này ở lại với các ông và nâng đỡ các ông suốt đời trong mọi hoạt động.
Chỉ đến lúc này, tác giả mới nhắc đến niềm vui của các môn đệ và việc các ông chúc tụng Thiên Chúa. Dacaria (Lc 1,64.68-79) và ông Simêôn (2,28-32) đã chúc tụng Thiên Chúa. Lời chúc tụng Thiên Chúa liên tục vang lên khi dân chúng chứng kiến những hành vi quyền lực của Đức Giêsu (7,16; 13,13; 17,15; 18,43). Sau khi đã trải nghiệm qua Đấng Phục Sinh hành vi quyền lực lớn lao nhất của Thiên Chúa, nghĩa là sự Phục Sinh của Đức Giêsu, các môn đệ chỉ có một câu trả lời đúng đắn: ca ngợi trong niềm hoan hỷ và chan hòa tâm tình biết ơn đối với Thiên Chúa.
+ Kết luận
Tác giả Lc đã bắt đầu tác phẩm với việc Dacaria dâng hương và dân chúng cầu nguyện trong Đền Thờ (Lc 1,8-10), để xin Thiên Chúa nhớ lại dân Ngài và tỏ lòng nhân ái. Bây giờ tác giả kết thúc Tin Mừng với việc các môn đệ của Đức Giêsu chúc tụng Thiên Chúa trong Đền Thờ. Các ông đã cùng đi với Đức Giêsu cho đến khi Người lên trời, các ông đã biết hơn bất cứ ai rằng Thiên Chúa đã nhớ đến dân Ngài thế nào. Và tất cả những ai nhờ chứng tá của các môn đệ và qua tác phẩm Lc mà trải nghiệm lòng từ bi cao cả của Thiên Chúa, thì không thể làm gì hơn là tham gia vào việc ca ngợi chúc tụng Thiên Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Hôm nay là Chua Giêsu lên trời. Khi mừng đại lễ này, chúng ta tưởng niệm lần cuối cùng Đức Giêsu tỏ mình ra hữu hình với các môn đệ. Người chọn một cách thức hiện diện khác để hỗ trợ các môn đệ trong hoạt động truyền giáo. Từ nay, Người sẽ đồng hành với họ, sẽ hiệp thông với họ khi chia sẻ bữa ăn, sẽ sống động khi họ giải thích Sách Thánh và khi họ ý thức rằng họ đang được đón nhận sự sống viên mãn của Người. Người bỏ cách hiện diện trước đây bằng thân xác, để từ nay hiện diện mãi mãi với mỗi môn đệ.
2. Khi đi về trời, Đức Giêsu cũng chỉ cho chúng ta biết mục tiêu của đời sống chúng ta. Nếu chúng ta xác tín rằng chúng ta thuộc về “trên cao”, thì chúng ta sẽ phải quy hướng trọn cuộc sống chúng ta về đó. Chúng ta vẫn sống giữa các thực tại trần gian, chúng ta vẫn phải sử dụng các yếu tố trần gian, nhưng không bám víu vào các phương tiện ấy, trái lại, biết dùng chúng cách tích cực mà chuẩn bị cho mình và người khác đi vào cuộc sống vĩnh cửu. Trước ngày đi chịu chết, Đức Giêsu đã cầu nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm nhưỡng vinh quang của con” (Ga 17,24).
3. Thánh Thần, là quyền năng của Chúa Cha và của Đức Giêsu, luôn ở với Hội Thánh để hỗ trợ Hội Thánh trong sứ mạng đã nhận từ Đức Giêsu. Đọc sách Cv, chúng ta nhận ra được sức năng động của Thánh Thần.
4. Nếu các tín hữu gắn bó mật thiết với Đức Giêsu, họ nhận ra quyền lực vô song của Thiên Chúa trong viẹc cho Đức Giêsu sống lại. Khi đó, họ chỉ có thể cảm thấy tưng bừng hoan hỷ và lời chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa sẽ hồn nhiên từ đáy lòng trào dâng lên môi miệng họ. Và trọn cuộc sống của họ là một chứng từ về quyền lực cứu độ của Thiên Chúa mà họ đã trải nghiệm.
60. Chú giải của Noel Quesson
Cũng như đối với trình thuật về cuộc Thương khó và Phục sinh, ta nên suy niệm những trình thuật khác nhau về biến cố Thăng Thiên được ghi lại cho ta: suy niệm tận nguồn gốc đặc biệt của chúng, để khỏi lẫn lộn Người với một thứ hình tượng -người máy.
Năm nay, chúng ta có may mắn được nghe hai trình thuật diễn tả cùng một biến cố do cùng một tác giả thuật lại đó là Luca. Thật rõ ràng, nếu Luca không nỗ lực dung hòa toàn diện hai đoạn văn mô tả của ông, là vì theo ông, chính những khác biệt đó có một ý nghĩa... vượt qua tính lịch sử được hiểu theo nghĩa hẹp.
Trong Tin Mừng, Luca giới thiệu biến cố Thăng Thiên ngay chiều hôm Phục sinh, và chác chắn ngay trong đêm tiếp theo ngày thứ nhất trong tuần (Lc 24, 1. 24, 13. 24, 36. 24, 50), nếu ta nhớ lại khi các môn đệ làng Em-mau vào bàn ăn, thì “trời đã muộn“ (Lc 24, 29), và các ông phải đi bộ khoảng 12 cây số trong “hai tiếng đồng hồ“ (Lc 24, 13) để trở lại Giêsusalem. Còn Đức Giêsu đã mất giờ giải thích Lề luật, các ngôn sứ và Thánh Vịnh liên hệ đến Người, với các môn đệ (Lc 24, 44) ngay chiều Phục sinh...
Trước khi dẫn họ đến Bê-tha-ni-a, ở đó Người được đem về trời (Lc 24, 50). Trái lại, trong Công vụ Tông đồ, cũng chính Luca xác định biến cố Thăng Thiên vào lúc kết thúc “bốn mươi ngày” (Cv 1,3). Ngoài những tưởng tượng có tính cách ấu trĩ mà ta cần phải từ bỏ, hiển nhiên là giữa những lần “hiện ra” khác nhau của Người, Đức Giêsu không lánh ẩn trong một khu phố tại Giêrusalem, trong một nơi bí mật, để chờ đợi “ên” trời về cùng Chúa Cha! Thực sự, Phục sinh, Thăng Thiên và Hiện xuống, là ba khuôn mặt của cùng một “mầu nhiệm” duy nhất: bởi vì vừa sống lại, thì Đức Giêsu đã bước vào vinh quang của Chúa Cha và ngự bên hữu Người “theo kiểu nói của khải huyền. Đặc biệt, Luca nhấn mạnh đến sự kiện Đức Giêsu “rời bỏ“ những kẻ mà Ngài đã cho họ được gặp mặt... Người biến mất trước cái nhìn của họ (Lc 24, 31 - 24, 51).
Như thế, Thăng thiên vào chiều tối Phục sinh xảy ra để gắn liền cuộc sống nhân loại của Đức Giêsu với việc tôn vinh quyền năng Thiên Chúa của Người…và đó là trang cuối cùng của Tin Mùng!
Trong khi biến cố Thăng Thiên vào “ngày thứ bốn mươi” để bắt đầu cuộc sống mới của Đức Giêsu vượt qua không gian và thời gian... thì cũng là lúc khởi sự trang đầu tiên của Công vụ Tông đồ! Kết thúc thời gian của Đức Giêsu Nadarét...là bắt đầu thời kỳ của Giáo hội.
Rồi Người bảo: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, các sách Ngôn sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm”. Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và bảo: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội”.
Đức Giêsu nói: “Khi Thầy còn ở với anh em”. Điều đó chứng tỏ rằng Người không còn ở trái đất như trước nữa. Thăng thiên sắp tới chỉ lặp lại những gì đã diễn ra do biến cố Phục sinh: từ đây trở đi, sự hiện diện của Chúa Phục sinh, dù có thực sự đi nữa, thì cùng ở trong một trạng thái khác... Người đã bước vào thế giới của Thiên Chúa rồi.
“Việc ứng nghiệm... và hiểu biết Kinh Thánh!”. Đức tin là phương thế duy nhất để đạt được “thế giới của 'Thiên Chúa” mà Đức Giêsu đang hiện diện, vì giờ đây Người “không còn ở với chúng ta theo cùng một cách thức như trước nữa”. Ngay trên bước đường đi đến Em-mau, Đức Giêsu đã khiển trách hai người đồng hành với Người là những kẻ tối dạ, những lòng chậm tin” (Lc 24, 25).
“Như sách Luật Môsê, các sách Ngôn sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy”. Chỉ khi sống lại, Người mới giải thích Kinh thánh: thực vậy, cần phải “chết đi sống lại”, để khi người ta đọc lại Kinh Thánh, mới có thể nhận ra điều đó đã được loan báo. Do đó, trong đời sống của chúng ta, có một số những biến cố đột nhiên xảy đến, soi sáng trở lại những sự việc, những lời nói mà trước đó chúng ta chưa hiểu được cách sâu xa.
“Các Thánh Vịnh”: Đức Giêsu đã thuộc lòng và hằng ngày dùng Thánh vịnh để cầu nguyện. Còn tôi thì sao? Liệu tôi có đủ độ nhớ chỉ một Thánh Vịnh để cầu nguyện, nhất là một trong những Thánh Vịnh nói về Đức Giêsu không?
Có lời Kinh Thánh chép rằng: “Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân của những điều này”.
Luca nhấn mạnh đến sự kiện: chỉ nhờ biến cố Phục sinh, các môn đệ mới hiểu được “những lời Kinh Thánh chép”. Như thế, đời sống của riêng ta, đời sống của mọi người, đời sống của những kẻ mà ta vẫn tưởng rằng mình có tương quan thân mật nhất... chỉ sáng tỏ trong ngày của Chúa. Đúng vậy, những biến cố liên hệ đến cuộc đời của Đức Giêsu, trước ngày đó, vẫn làm cho các môn đệ hoang mang, khó hiểu! “Đau khổ” của Đức Giêsu trên thập giá, có vẻ như một sự ngẫu nhiên, một tai nạn, một thất bại. Nhưng giờ đây họ mới khám phá ra, đó là sự ứng nghiệm chương trình mầu nhiệm của Chúa Cha: “Cần phải ứng nghiệm không gì đã được Kinh Thánh báo trước... “. Đó không phải là một định mệnh, cũng không phải là một số mệnh nghiệt ngã và khắt khe... mà là một chương trình yêu thương! Nhưng cho tới ngày đó, họ chưa nhận ra. Giờ đây, họ sắp trở nên chứng nhân cho những điều đó. “Ngày Phục sinh ngày dài nhất của thời gian... “Ngày thứ nhất” đó sẽ kéo dài, tới vô tận! Không có ngày nào khác như thế nửa. Ta hiểu ra rằng, Luca đã muốn gom cách tiêu biểu để cả trong ngày duy nhất đó, và ngày này sẽ được kéo dài qua đời sống chứng tá của Giáo hội suốt dòng lịch sử. Hiện nay, chúng ta có luôn là “nhân chứng” cho tình yêu cứu độ của Thiên Chúa không? Đức Giêsu, trước thái độ kịch liệt công phẫn của những người được coi là “sạch” đã nghiêng về phứa những người Samari ngoại giáo... những kẻ lạc đường, đĩ điếm, ngoại tình... những kẻ dốt nát, bị nhóm Pharisêu và thông giỏi khinh bỉ... những kẻ thông đồng với dân ngoại, những người thu thuế cộng tác với đế quốc Rôma... mọi người nghèo khổ bị xã hội ruồng bỏ, những kẻ thấp kém, bệnh tật, phong cùi. Thay vì ra hình phạt của Thiên Chúa mà lề luật đòi buộc, Đức Giêsu lại loan báo “ơn tha thứ” không giới hạn, không loại trừ một người nào khỏi ơn cứu độ phổ quát được cống hiến cho mọi người, bắt đầu từ Giêrusalem”. Đúng vậy, Thiên Chúa là Cha những người tội lỗi. Người tha thứ cho mọi người. Và noi gương Thiên Chúa, ta cũng phải tha thứ cho mọi người, ngay cả những kẻ thù của mình! Vì đã rao giảng những điều như thế nên Đức Giêsu đã bị kết án và bị đóng đinh như kẻ “phạm thượng”. Nhưng rõ ràng việc sống lại minh chứng rằng, Ngài đã có lý. Những người đại diện cho lề luật bị lên án. Đấng chịu đóng đinh luôn sống động. Mọi điều Đức Giêsu đã giảng dạy và hành động... sẽ tiếp tục và được chính Thiên Chúa minh chính hóa.. “Anh ern sẽ là chứng nhân!”.
Lạy Chúa, Chúa đòi chúng con phải thay đổi trở về thế nào đây? Thực sự, chúng con chưa làm chứng đầy đủ cho tình yêu cứu độ phổ quát!
Và đây chính Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống.
Họ rất cần điều đó. Chúng ta cũng rất cần điều đó, cần “quyền năng” không do ta, chứng từ trời cao ban xuống! Bởi vì các môn đệ sắp phải sống và rao giảng trong một thế giới, bề ngoài chưa có gì thay đổi cả: sự dữ bạo lực, hận thù, chết chóc... độc ác, tà thuyết, sai lầm, dốt nát, áp lực đủ thứ... vẫn còn tiếp diễn.
Đấng sẽ trao ban quyền năng đó... ở đây không nêu tên... bởi vì, cũng như Chúa Cha “không ai trông thấy bao giờ.. và khác với Đức Giêsu, Đấng là khuôn mặt hữu hình của Thiên Chúa... Thần Khí không có dạng hình. Hay, đúng hơn Ngài mang bộ mặt của ta, theo cách nói của Thánh Phaolô: “Anh em là thân thể của Đức Kitô. Khi cây nến Phục sinh được tắt đi vào Lễ Thăng Thiên, thì độ là lúc các ngọn lửa được thắp sáng:để xâm chiếm mỗi người môn đệ vào Lễ Hiện Xuống.
Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bê-ta-ni-a, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được lên trời.
Đó là sự “rời khỏi”. Chỉ mình Luca sử dụng từ ngữ đây ý nghĩa đó.
So sánh với cùng một trình thuật trong Công vụ Tông chúng ta nhận thấy có nét giản dị hơn. Ở đây, không có yếu tố mô tả nào, không có “đám mây” cũng không có hai Người mặt áo trắng”. Không phải là Luca không hay biết tới ngôn ngữ khải huyền. Trong một trình thuật khác, ông sẽ sử dụng thứ ngôn ngữ này. Nhưng trong đoạn văn trên, ông muốn tương đối hóa, đơn giản hóa nó.
Tất cả đều rất bí mật, và chúng ta thử dõi theo Đức Giêsu xem sao: “Người dẫn các ông...”, “Người giơ tay chúc lành cho các ông”. “Người rời khỏi các ông để trở về với Chúa Cha trên trời”.
Chưa bao giờ Đức Giêsu đã “chúc lành” cho các tông đồ. Nhưng đây là một cảnh từ biệt. Luca có ý nối kết lại một truyền thống Kinh Thánh phong phú. Các nhân vật quan trọng trong Kinh Thánh thường kết thúc đời mình bằng một cử chỉ chúc lành cho những kẻ tiếp sau: Giacóp (St 49), Môsê (Đnl 33), Đavit (1Sb 28-29). “Phép lành” của Đức Giêsu là cử chỉ cuối cùng của Người. Một cử chỉ mà Người sẽ không ngừng thể hiện, nhờ mỗi linh mục, đại diện của Người, làm lại trên chúng ta vào lúc chào tạm biệt trong Thánh lễ, bằng cách “giơ tay lên” để chúc lành cho chúng ta nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa.
Bấy giờ các ông bái lạy Người, rồi trở lại Giênlsalem, lòng đầy hoan hỉ, và hằng ở trong Đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.
Thật là nghịch lý! Đức Giêsu rời khỏi họ, thế mà họ không buồn, lại vui tươi. Cộng đoàn các môn đệ của Đức Giêsu đã trở thành nhóm người “tôn thờ” Đức Giêsu và cùng nhau “ca tụng Thiên Chúa”. Đức Giêsu ở “trên trời”. Các môn đệ của Người ở “trong Đền Thánh'. Đó chỉ là một biểu tượng... một sự đối xứng. Một phụng tự mới.
61. Các con là chứng nhân-- Lm Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Hôm nay lễ Chúa Giêsu lên trời kết thúc cuộc đời ở trần gian theo như những gì Kinh Thánh đã tiên báo. Theo cái nhìn của Luca, thì “Thời kỳ Israel” đã nhường chỗ cho “Thời kỳ Đức Kitô”. Giờ đây, “Thời kỳ của Đức Kitô”â lại nhưỡng chỗ cho “Thời kỳ của Giáo hội”.
Bài đọc Tin mừng trích trong tác phẩm cuối của Tin mừng Luca, chứa đựng trình thuật đầu tiên của Luca về biến cố lên trời. Ở đây Thăng thiên được trình bầy như được xẩy ra vào Chúa nhật Phục sinh. Đức Chúa Phục sinh cho các Tông đồ thấy Kinh thánh đã tiên báo về Đức Kitô phải chịu đau khổ và sống lại như thế nào (Lc 24,48).
Khi hiện ra với các Tông đồ, Đức Giêsu đã trao cho các ông sứ vụ rao giảng Tin mừng bắt đầu từ Giêrusalem cho đến tận cùng trái đất (Lc 24,47) và phải làm chứng cho Ngài nơi muôn dân nước (Lc 24,48). Đồng thời Ngài cũng hứa sẽ ban Chúa Thánh Thần đến cùng họ (Lc 24,49). Sau khi đã căn dặn các môn đệ nhiều điều, Đức Giêsu lên trời trước mặt các ông. Họ vui mừng trở về Giêrusalem để chờ đợi Chúa Thánh Thần.
Lễ Thăng thiên được xem như đỉnh điểm của đời sống Đức Giêsu và là khởi điểm sứ vụ của Giáo hội. Do đó, mọi thành viên trong Giáo hội phải tích cực thi hành sứ vụ này bằng đời sống chứng nhân trước mặt mọi người.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Cv 1,1-11
Khởi đầu sách Công vụ Tông đồ cho chúng ta biết: sau khi sống lại Đức Giêsu tiếp tục hiện ra với các môn đệ trong 40 ngày và trước khi về trời, Ngài còn ban các ông những lời dạy cuối cùng
- Đức Giêsu dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các môn đệ biết rằng sau khi đã chịu nạn chịu chết, Ngài vẫn còn sống.
- Ngài khuyên các ông hãy chờ đợi Chúa Thánh Thần, Đấng mà Thiên Chúa đã hứa ban.
- Ngài còn trao cho các ông sứ mạng rao giảng Tin mừng để làm chứng cho Ngài trên khắp cùng thế giới.
+ Bài đọc 2: Ep 1,17-23
Trong thư gửi cho tín hữu Eâphêsô, thánh Phaolô chúc cho các tín hữu được ơn khôn ngoan để lòng trí mở ra mà hiểu rõ đâu là niềm hy vọng mà họ đã nhận được.
Ngài còn cho biết: Chính Chúa Cha đã cho Đức Giêsu sống lại; chính Chúa Cha đã tôn vinh Đức Giêsu; cũng vẫn Chúa Cha đã đặt Đức Giêsu làm Chúa tể muôn loài, làm đầu Hội thánh. Chúng ta có thể đặt trọn niềm tin cậy ở Ngài.
+ Bài Tin mừng: Lc 24,46-53
Trong sách Công vụ Tông đồ, thánh Phaolô đã nói và trong Tin mừng hôm nay còn nói lại:
- Những lời căn dặn cuối cùng: theo Sách Thánh, Đức Kitô phải qua chịu nạn rồi mới tới Phục sinh. Các môn đệ phải rao giảng và làm chứng cho Đức Giêsu dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần mà Ngài sẽ ban cho.
- Đức Giêsu về trời: Luca đã dùng cách viết của loài người để tạm diễn tả việc Đức Giêsu thăng thiên. Ngài về trời có nghĩa là Ngài rời bỏ tình trạng hèn hạ của loài người mà trở về tình trạng vinh quang của một vị Thiên Chúa, nghĩa là Ngài chỉ thay đổi cách hiện diện.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Chứng nhân của Đức Kitô
I. ĐỨC GIÊSU VỀ CÕI TRỜI.
1. Theo sách Tin mừng và Công vụ Tông đồ.
Thánh Luca là tác giả sách Tin mừng và Công vụ Tông đồ. Theo sách Công vụ Tông đồ, chúng ta đọc thấy biến cố lên trời xẩy ra vào ngày thứ 40 sau Phục sinh. Trái lại, trong sách Tin mừng, Luca lại đặt biến cố này vào ngay chiều ngày Phục sinh. Thực ra, sách Tin mừng có ý viết về sứ mạng của Đức Giêsu bắt đầu từ Galilê đến Giêrusalem, và sách Công vụ Tông đồ viết về sứ mạng của Giáo hội bắt đầu từ Giêrusalem đến toàn thế giới. Việc Đức Giêsu lên trời là cái bản lề giữa hai sứ mạng đó; hay nói cách khác, lúc Đức Giêsu lên trời là lúc Đức Giêsu bàn giao sứ mạng lại cho Giáo hội để tiếp tục công trình của Ngài.
2.Ý nghĩa việc lên trời.
Việc lên trời của Đức Giêsu có hai ý nghĩa, đó là giai đoạn rao giảng của Đức Giêsu đã qua, đã chấm dứt và mở ra một kỷ nguyên mới cho Giáo hội.
a) Một giai đoạn đã qua.
Ý nghĩa trọng đại của việc Đức Giêsu lên trời là sự cứu chuộc mà Ngài đã thực hiện cho loài người qua cái chết đền tội và sống lại của Ngài đã hoàn thành và viên mãn cho đến đời đời.
Đức Giêsu đã làm xong công việc cứu chuộc, đã hoàn thành sứ mạng Cha Ngài đã trao phó là cứu chuộc nhân loại tội lỗi, bằng chính cái chết đền tội trên thập giá và đã sống lại để cho những ai đặt niềm tin nơi Ngài được sự sống đời đời. Sự cứu chuộc ấy đã hoàn toàn đầy đủ cho đến muôn đời. Và như vậy, đã chấm dứt thời kỳ mà niềm tin của các môn đệ đặt vào một Thầy bằng xương bằng thịt, vào sự hiện diện của thân thể Thầy. Từ nay, các môn đệ sẽ liên kết với một Đấng Thầy đời đời vượt thời gian và không gian.
b) Khởi đầu một kỷ nguyên mới.
Kế hoạch của Thiên Chúa được ghi trong Sách Thánh không chấm hết cùng với cái chết, phục sinh và lên trời vinh hiển của Đức Giêsu, mà còn tiếp tục trong Hội thánh. Sứ điệp Tin mừng được hoạch định “cho muôn dân”, được rao giảng bắt đầu từ Giêrusalem.
Một giai đoạn lịch sử cứu độ được hoàn tất. Mới kỷ nguyên mới được chuẩn bị, kỷ nguyên đi gieo rắc Tin mừng bắt đầu từ Giêrusalem cho đến tận cùng trái đất.
Thật là nghịch lý! Đức Giêsu rời khỏi họ, thế mà họ không buồn phiền. Các môn đệ ra về trong sự vui mừng chứ không phải tấm lòng sầu muộn vì họ biết rằng từ nay không có gì có thể ngăn cách mình với người Thầy của mình. Thánh Phaolô đã phát biểu: “Ai có thể phân cách chúng ta với tình yêu thương của Chúa Cứu thế”? Và Ngài khẳng định: “Tôi biết chắc chắn rằng bất kỳ sự sống, sự chết… chẳng có thể phân rẽ chúng ta ra khỏi sự yêu thương mà Thiên Chúa đã thể hiện nơi Đức Giêsu, Chúa chúng ta”(Rm 8,35-38).
II. TRAO SỨ MẠNG RAO GIẢNG TIN MỪNG.
1.Sứ vụ rao giảng Tin mừng.
Đức Giêsu về trời vẫn giao sứ mạng cho các môn đệ và Giáo hội phải rao giang Tin mừng: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đức Messia phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba sẽ từ cõi chết chỗi dậy. Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân bắt đầu từ Giêrusalem”(Lc 24,46-47).
Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải ra đi. Các ngài đi tuyên xưng niềm tin, tin vào Đấng đã chết nhưng nay đã phục sinh, đã chiến thắng tử thần và nay đang được tôn vinh. Người từ Cha mà đến và lại trở về với Cha.
Khi Chúa về trời thì cũng là lúc các Tông đồ phải xuống núi. Đi xây dựng một thế giới đầy tình yêu thương, huynh đệ, công bằng, văn minh; xứng với trời mới dất mới mà Chúa Con đã cứu chuộc để hiến dâng lên Cha.
Thật là vinh dự cho chúng ta được tiếp nối các Tông đồ đi rao giảng Lời Chúa, và làm chứng nhân cho Ngài. Nhưng đó cũng là một thách đố nặng nề, vì còn 80% cư dân trên hành tinh này chưa đón nhận Tin mừng.
Truyện: Hoàn thành tác phẩm
Nhạc sư sáng tác người Ý, Giacomo Puccini, để lại cho đời một số những tác phẩm ca nhạc kịch – opera – rất nổi tiếng, chẳng hạn như La Bohême và Madame Butterly. Năm 1922, lúc 64 tuổi, ông bị ung thư ác tính. Mặc dù cơn bệnh hành hạ thân thể, Puccini vẫn nhất định phải hoàn tất vở ca kịch Turandot mà bây giờ nhiều người đánh giá là vở ca kịch hay nhất của ông.
Ông làm việc ngày đêm. Nhiều người khuyên can ông phải nghỉ ngơi vì nghĩ rằng ông không thể nào hoàn tất vở ca kịch này được. Khi con bệnh trở nên trầm trọng, Puccini đã viết cho học trò của mình: “Nếu thầy không hoàn tất vở ca kịch Turandot được, thầy muốn các con tiếp tục công việc ấy cho thầy”.
Năm 1924, ngày số phận đã tới, khi Puccini sang Bỉ giải phẫu, ông qua đời hai ngày sau đó. Trở về Ý, các học trò của ông qui tụ nhau lại, mỗi người một tài năng khác nhau tiếp tục sáng tác vở ca kịch Turandot của thầy để lại. Sau khi nghiên cứu và làm việc với tất cả tâm hồn, họ đã hoàn tất vở ca kịch này.
Năm 1926, lần đầu tiên trên thế giới, vở ca kịch đã được trình diễn tại nhà hát ca kịch La Scala ở Milan. Vở này đã được điều khiển bởi người nhạc trưởng môn sinh rất được Puccini ưa thích, Arturo Toscanini. Tất cả mọi sự diễn tiến tốt đẹp cho đến khi dàn hòa tấu trình diễn tới khúc nhạc mà Puccini đã sáng tác dang dở. Những giọt nước mắt đã rơi xuống trên khuôn mặt của người điều khiển. Ông ngưng dàn nhạc lại, buông cây đũa điều khiển xuốâng, quay ra khán giả và nói lớn: “Nhạc sư đã viết đến đây, rồi ông qua đời”. Cả nhà hát im lặng một hồi lâu. Không ai nhúc nhích! Không một tiếng động! Hoàn toàn thinh lặng!
Sau vài phút, người nhạc trưởng cầm cây đũa điều khiển lên, quay ra khán giả, mỉm cười qua những giọt lệ rơi và nói lớn: “Nhưng các môn sinh của ông đã hoàn tất tác phẩm này”. Khi vở ca kịch Turandot kết thúc, cả nhà hát bùng lên tràng pháo tay như sấm nổ vang trời. Trong rạp hát không còn một con mắt nào khô ráo. Ai cũng rơi lệ và không ai có thể quên được giây phút ấy (Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa giữa dòng đời, tr 190).
Rao giảng Tin mừng là sứ vụ Đức Giêsu đã trăn trối lại cho các môn đệ Ngài, cho Giáo hội nói chung và cho mỗi người chúng ta nói riêng. Trước khi xa cách con cái, Ngài đã để lại cho mỗi người chúng ta lời di chúc qua các Tông đồ: “Vậy các con hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con”.
Qua các thời đại, Giáo hội đã, đang và luôn mãi hăng hái, trung kiên thi hành sứ mạng đó. Mặc dầu Giáo hội luôn phải trải qua những giai đoạn khó khăn, bách hại, cấm cách, nhưng dân Chúa vẫn hiên ngang rao giảng và sẵn sàng hy sinh mạng sống vì Tin mừng. Lòng can đảm, chí trung kiên đó đã cho chúng ta nhận ra rằng chúng ta không phải đơn phương chiến đấu, nhưng Chúa luôn đồng hành với mọi người như lời Ngài đã phán: “Thầy ở cùng các con mọi ngày đến tận thế”.
2. Rao giảng bằng cuộc sống.
Có nhiều cách rao giảng Tin mừng, có người phải từ bỏ gia đình đi đến những miền xa, phải trèo non lặn suối, có khi phải liều mạng để rao giảng Tin mừng. Đây là những người có ơn kêu gọi đặc biệt, còn phần đông chúng ta chỉ có thể rao giảng trong môi trường cụ thể của mình, đó là rao giảng bằng đời sống. Đó chính là sống Lời Chúa Giêsu truyền dạy trong chính cuộc sống riêng của mỗi ngưởi, Để rao giảng Đức Giêsu cho thế gian, chúng ta phải bắt đầu bằng cách tự rao giảng Ngài cho chính chúng ta trước. Có câu ngạn ngữ Trung hoa như sau:
“Tiên chánh kỳ tâm hậu tu kỳ thân,
Tiên tu kỳ thân hậu tề kỳ gia,
Tiên tề kỳ gia hậu trị kỳ quốc
Tiên trị kỳ quốc hậu bình thiên hạ”.
Tâm hồn có chân chính thì bản thân mới tốt đẹp,
Bản thân có tốt đẹp thì gia đình mới thuận hòa,
Gia đình có thuận hòa thì quốc gia mới thịnh trị,
Quốc gia có thịnh trị thì thế giới mới hòa bình.
Cũng thế, muốn rao giảng Đức Giêsu cho thế gian, chúng ta phải đưa Ngài vào chính cuộc sống chúng ta trước, sau đó lời rao giảng về Ngài mới tỏa lan khắp cùng thế giới. Nếu có đủ số người Kitô hữu biết đưa Đức Giêsu vào cuộc đời mình thì gợn sóng ấy sẽ biến thành cơn sóng thủy triềâu, rồi cơn thủy triều sẽ thay đổi bộ mặt trái đất thành tuyệt vời đến mức chúng ta chưa bao giờ dám mơ ước.
III. SỨ MẠNG LÀM CHỨNG CHO CHÚA.
Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Các con làm chứng về những điều ấy”(Lc 24,48) tức là làm chứng cho chính Thầy.
Vậy làm chứng là gì? Làm chứng là nhận thức một sự kiện mà chính mình đã kinh nghiệm. Nói rõ hơn, làm chứng là chứng nhận bằng lời nói hay bằng hành động một sự việc đã xẩy ra, một sự kiện có thật mà mình đã thấy, đã trải qua.
Còn chứng nhân hay người làm chứng, là kẻ nghe gì thì nói lại y như vậy, thấy sao thì thuật lại như vậy, rất đúng, rất trung thực. Ngược lại thì người ta gọi là phản chứng. Ở tòa án, chứng nhân hay nhân chứng là người nói sự thật những điều tai nghe mắt thấy. Trong đời sống hằng ngày, chứng nhân là người sinh sống và hành động như mình biết, tin tưởng và xác tín.
Triết học dạy rằng: “Nhất chứng phi chứng, nhị chứng chứng quả”.
Tất cả những điều kể trên đã có quá hai người làm chứng, cách riêng là mười một môn đệ, cách chung là toàn dân đồng thời với Chúa, sau đó là chúng ta qua các môn đệ Ngài.
Hiểu như vậy, các Tông đồ là những chứng nhân đầu tiên về cuộc đời của Đức Giêsu, bởi vì các ngài đã đi theo Chúa, sống với Chúa gần ba năm trời, nhất là các ngài là những nhân chứng thấy tận mắt và sờ tận tay cái chết đau thương và sự phục sinh tỏ tường của Chúa.
Vì thế, Chúa muốn các ngài làm chứng cho Chúa. Bởi vì tất cả mọi mầu nhiệm, mọi tín lý, mọi chứng cớ về Đức Giêsu đếu bắt đầu và kết thúc ở mầu nhiệm Phục sinh: phục sinh của Chúa Kitô và phục sinh của nhân loại. Hai việc phục sinh ấy liên kết chặt chẽ với nhau. Bởi vì có Phục sinh tức là có sự tồn tại của con người và sự sống vĩnh cửu. Tất cả những điều đó chỉ có thực khi việc phục sinh của Chúa có thực. Do đó, làm chứng về sự sống lại của Chúa có nghĩa là làm chứng cho sự chiến thắng và vinh quang của Chúa. Cũng thế, làm chứng về sự sống lại của loài người có nghĩa là làm chứng về ơn cứu độ, sự sống vĩnh cửu và hạnh phúc trường sinh của loài người.
Đến lượt chúng ta hôm nay, mỗi người chúng ta cũng phải là một chứng nhân. Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã nói: “Mỗi ngưởi giáo dân, trong bản chất, là một chứng nhân”. Bởi vì khi chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội, nhất là phép Thêm sức, là chúng ta đã được Chúa Kitô trao sứ mệnh làm chứng cho Ngài. Và tất cả chúng ta đã biết: cách thức làm chứng tốt nhất là đời sống tốt đẹp của chúng ta.
Truyện: Những gì tôi biết về Chúa Kitô.
Sau đây là một cuộc đối thoại độc đáo giữa một người tân tòng Công giáo và một người vô thần:
- Anh đã theo đạo Công giáo rồi sao?
- Vâng, nói đúng và rõ hơn, tôi đã xin theo Đức Kitô.
- Thế thì chắc anh biết rất nhiều về ông ta, vậy anh hãy nói cho tôi biết ông ta sinh ra trong quốc gia nào?
- Rất tiếc là tôi đã có học những chi tiết này trong một khóa giáo lý, nhưng tôi lại quên mất.
- Thế khi chết, ông ta được bao nhiêu tuổi?
- Tôi không nhớ rõ lắm nên cũng không dám nói.
- Vậy anh có biết ông ta đã thuyết giảng bao nhiêu bài, có bao nhiêu tác phẩm ông ta để lại, nói chung, về cuộc đời sự nghiệp của ông ta?
- Như vậy, anh biết quá ít, quá mơ hồ để có thể quả quyết là anh đã thực sự đi theo ông Kitô.
- Anh nói đúng một phần. Tôi rất hổ thẹn vì mình đã biết qúa ít về Đức Kitô. Thế nhưng, điều mà tôi biết rất rõ là thế này: ba năm trước, tôi là một tên nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, nợ lút đầu lút cổ. Gia đình tôi xuống dốc một cách kinh khủng. Mỗi tối khi trở về nhà, vợ và các con tôi đều tức giận và buồn tủi. Thế mà, bây giờ thì tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ nần, gia đình tôi đã tìm lại được hạnh phúc, các con tôi ngong ngóng chờ đợi tôi về nhà mỗi tối sau giờ làm ca. Tất cả những điều này, không ai khác hơn, chính Đức Kitô đã làm cho tôi. Và đó là tất cả những gì tôi biết về Ngài… (Theo Parole de vie).
Trong tông huấn Evangelii nuntiandi, Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã nói lên vai trò của chứng nhân trong cuộc sống như sau: “Do đó, chính với phẩm cách và đời sống mình, mà Giáo hội sẽ phúc âm hóa thế giới; nói cách khác, bằng sự “chứng tá” sống động về lòng trung thành của mình với Chúa Giêsu – chứng tá về sự khó nghèo và siêu thoát, về sự tự do khi đối đầu với các quyền lực trần gian – nói tóm lại, là chứng tá của sự thánh thiện” (Evangelii nuntiandi, đoạn 41),
IV. HÃY THEO CHÚA VỀ TRỜI.
1. Quê hương chúng ta ở trên trời.
Trước khi ra đi vào cuộc khổ nạn, Đức Giêsu đã khích lệ các Tông đồ: “Lòng các con đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với các con rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho các con. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho các con, thì Thầy lại đến, và đem các con về với Thầy, để Thầy ở đâu, các con cũng ở đó”(Ga 14, 1-3).
Tin tưởng như thế, thánh Phaolô cũng nói rằng: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trờ đến cứu chúng ta”(Pl 320).
Nếu chúng ta biết Đức Giêsu của chúng ta đang ở trên trời thì lòng chúng ta phải hướng về đó. Không có nơi nào đáng yêu bằng nơi đó. Đó là nơi mà các bậc thánh đã yêu mến một quê hương tốt hơn – quê hương ở trần gian – mà các ngài gọi là quê hương trên trời.
Nhưng nhìn vào thực tế, chúng ta phải nhìn nhận rằng: chúng ta đã quá bén rễ sâu vào cuộc sống trần gian, đã quá quyến luyến những thực tại chóng qua. Chúng ta đã chọn trái đất này làm quê hương vĩnh cửu và sẵn sàng bán rẻ linh hồn mình lấy một nắm tro bụi. Dân Do thái ngày xưa đã thờ lạy con bò vang thế nào thì hôm nay con người cũng đang đi vào con đường ấy.
2. Điều kiện để về trời.
Đức Giêsu phán: “Không phải những ai cứ kêu Lạy Chúa! Lạy Chúa! mà được vào Nước Trời, mà chỉ những ai làm theo thánh ý của Cha Ta”(Mt 7,21-23; Lc 6,46; 13,26-27).
Nước Trời hay thiên đàng là phần thưởng cho những ai đã cố gắng thi hành theo thánh ý Chúa. Như thế, Chúa không cho phép chúng ta tự rút mình ra khỏi các công tác, các hoạt động thuộc về đời này, chẳng làm gì ngoài việc chiêm ngắm cõi đời mà thôi!
Thánh Phaolô đã vạch ra một loạt các nguyên tắc để giúp người Kitô hữu tiếp tục công việc ở đời này và duy trì một mối liên hệ bình thường với thế gian này. Nhưng phải có chỗ khác biệt là từ nay trở đi, Kitô hữu phải nhìn nhận mọi sự trong ánh sáng, trong bối cảnh là cõi đời đời. Nghĩa là người ấy sẽ không sống dường như đời này là tất cả những gì mình quan tâm, nhưng phải đặt thế gian này trong bối cảnh của cõi sống đời đời.
Vậy những ai xác tín rằng quê hương đích thực của đời mình là ở trên trời cao thì trước hết và trên hết hãy qui hướng tất cả mọi sự trong cuộc sống, vận dụng mọi hoàn cảnh về nơi đó để cố gắng chiếm đoạt cho bằng được dù phải trả bất cứ giá nào. Dĩ nhiên, điều này không có nghĩa là phải chạy trốn khỏi cuộc sống khốn khổ này, trái lại phải vui tươi, can đảm chu toàn mọi trách nhiệm, bổn phận mà Chúa đã giao phó cho mỗi ngưởi với điều kiện đừng để cho bản thân, gia đình, của cải, danh lợi làm chủ, điều khiển đến độ quên hết đời sau.
Chúng ta hãy bắt chước các Tông đồ khi chia ly với Thầy mình thay vì buồn sầu, chán nản, các ngài hớn hở vào đời làm nhiệm vụ được giao phó vì các ngài thâm tín rằng phải sống ở trần gian một ít lâu, nhưng hy vọng chắc chắn đợi ngày tái ngộ với Thầy mình trên quê trời.
62. Hướng về trời--TGM Giuse Vũ Văn Thiên
Từ nhiều năm trở lại đây, để thuận lợi cho giáo dân tham dự lễ trọng, đa số các Giáo phận chuyển dịch ngày lễ Thăng Thiên vào Chúa nhật thứ VII Phục Sinh. Tổng Giáo phận Hà Nội vẫn cử hành long trọng lễ Thăng Thiên vào thứ Năm sau Chúa nhật VI Phục sinh, vì theo truyền thống của Giáo Tỉnh miền Bắc, lễ này thuộc “Tứ Quý”: lễ Giáng Sinh, lễ Chúa Thăng Thiên, lễ Đức Mẹ Lên Trời và lễ các Thánh Nam Nữ. Trong bốn ngày lễ này, người tín hữu phải kiêng việc xác và tham dự thánh lễ.
Dù mừng lễ Thăng Thiên vào ngày nào, thì Phụng vụ vẫn nhắc người tín hữu hướng về Quê Trời, đồng thời cố gắng chu toàn bổn phận dưới đất. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa nhập thể. Người về trời sau khi đã hoàn tất chương trình cứu độ. Người về với Chúa Cha, vì Người đã từ Chúa Cha mà đến. Dưới ánh sáng phục sinh, một nhãn quan mới về nhân sinh Kitô giáo đã mở ra: con người không đơn giản chỉ là “đầu đội trời, chân đạp đất”, mà họ đã thuộc về trời ngay khi họ đang sống nơi trần gian. Nói cách khác, Kitô hữu luôn hướng về trời, và đối với những người đạo đức thánh thiện, họ được nếm trước vinh quang Nước Trời ngay ở đời này. Khi suy niệm Kinh Mân côi, ở mầu nhiệm thứ hai Mùa Mừng, chúng ta xin cho được yêu mến (ái mộ) những sự trên trời, để dầu còn sống trên trần gian, một cách nào đó, chúng ta đã hưởng hạnh phúc như các thánh trên trời.
Hướng về trời không phải là một ảo tưởng hão huyền hay là một thứ “thuốc phiện mê dân”, nhưng là niềm hy vọng và niềm xác tín của Kitô hữu. Chúng ta dựa vào lời cầu nguyện của Chúa Giêsu với Chúa Cha trong Tin Mừng Thánh Gioan chương 17. Qua lời cầu nguyện này, Chúa Giêsu vừa thân thưa với Chúa Cha, vừa thể hiện tâm tình thương mến đặc biệt đối với các môn đệ. Người xin Chúa Cha cho các môn đệ được ở với Người, vì các môn đệ – và những người kế tiếp các ngài là chính chúng ta hôm nay – là những quà tặng mà Chúa Cha ban cho Chúa Giêsu. Như thế, những ai tin vào Chúa Giêsu, sẽ được ở với Người và cùng Người chiêm ngưỡng vinh quang vĩnh cửu. Vinh quang này đến từ nơi Chúa Cha. Chính Chúa Giêsu cũng được đón nhận vinh quang ấy, rồi Người lại chia sẻ cho chúng ta.
Hướng về trời mở ra cho người tín hữu một chân trời hy vọng. Hy vọng là chờ đợi những điều tốt đẹp ở phía trước. Người tin Chúa biết rõ tương lai hậu vận đời mình, đó là được sống với Chúa, được chia sẻ vinh quang hạnh phúc với Ngài. Nhờ có niềm hy vọng, chúng ta vững tin ngay cả khi gặp những gian nan thử thách, với xác tín rằng, người yêu mến Chúa sẽ vượt thắng tất cả. Trong lời cầu nguyện vừa nêu ở trên, Chúa Giêsu khẳng định những ai tin vào Người sẽ được Chúa Cha yêu thương. Ở một nơi khác trong Tin Mừng Thánh Gioan, Chúa Giêsu nói đến sự hiện diện của Chúa Cha và Chúa Con trong tâm hồn những ai yêu mến và thực thi giáo huấn của Chúa Con “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23). Đây là hạnh phúc kỳ diệu. Chúa Ba Ngôi sẽ ở trong tâm hồn người công chính.
Hướng về trời cũng giúp cho người tín hữu có được những nghị lực siêu nhiên. Thế gian là bãi chiến trường, là thung lũng nước mắt, là bể khổ. Đức tin khẳng định với chúng ta: Thiên Chúa hiện diện giữa bãi chiến trường ấy, vì Ngài là Cha giàu lòng thương xót. Ngài luôn nâng đỡ trợ lực chúng ta trên mọi nẻo đường đời. Tác giả sách Công vụ Tông đồ đã kể lại chứng từ của thánh Stêphanô, vị tử đạo đầu tiên của Kitô giáo: trong lúc sắp tắt thở vì bị ném đá, ông đã nói: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người ngự bên hữu Thiên Chúa”. Đức tin vào đời sống vĩnh cửu đã ban cho vị tử đạo của chúng ta sức mạnh và niềm xác tín phi thường, với niềm xác tín: chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.
“Hỡi những người Galilêa, sao còn đứng nhìn trời? Đức Giêsu, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1,11). Lời của hai sứ thần mặc áo trắng nói với các môn đệ năm xưa lúc thày trò chia tay, cũng là lời ngỏ với chúng ta hôm nay. Mừng Chúa lên trời hướng chúng ta về quê hương vĩnh cửu, đồng thời nhắc chúng ta về bổn phận đối với quê hương trần thế. Kitô hữu không phải là người bị “bứng” khỏi cuộc sống đời này, nhưng là những người dấn thân trong mọi môi trường cuộc sống, để làm chứng cho niềm vui của Đức tin, nhất là làm chứng cho Chúa Giêsu trong khi mong đợi Người lại đến.
“Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến! Đời sống Kitô hữu là sự chờ đợi liên lỉ, với tâm tình cầu nguyện và phó thác cậy trông. Đấng Phục sinh đang hiện diện giữa chúng ta. Người sẽ đến trong vinh quang vào ngày tận thế. Chúa đã hứa với chúng ta như vậy.
63. Một Cuộc Đời Luôn Hướng Về Trời--Lm. Giuse Lê Danh Tường
Ngày thứ 40 sau Đại Lễ Phục Sinh, Giáo hội long trọng mừng lễ Chúa Giêsu lên Trời. Lên trời là lên đâu? Phải chăng là bầu trời cao xanh mà chúng ta nhìn thấy mỗi sớm mai thức dậy? Người ta bảo rằng, khi nhà du hành vũ trụ đầu tiên người Nga tên là Gagarin từ ngoài không gian vũ trụ trở lại trái đất, ông đã phát biểu: Tôi đã nhìn và tìm kiếm nhưng chẳng thấy Chúa Trời đâu cả. Một phi hành gia khác người Mỹ tên là Aldrin đã cùng Armstrong đặt chân xuống mặt trăng đầu tiên. Trước vũ trụ bao la, Aldrin đã đọc to: “Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi mà Chúa cần nhớ đến”.
Trời, nơi gặp gỡ Thiên Chúa
Nếu Trời mà Chúa Giêsu đi lên là bầu trời trong không gian vũ trụ thì thật buồn cười và phi nghĩa. Nhưng Trời mà Chúa Giêsu đi lên là Ông Trời, là Đức Chúa Trời, là Nước Trời, là Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ. Nơi ấy vượt ra ngoài không gian và thời gian của vũ trụ này. Nơi bình an và hạnh phúc tràn đầy và hoàn hảo trong tình yêu của Thiên Chúa.
Nhân loại, đặc biệt là Á Đông, cũng cố gắng hình dung ra nước trời. Quang cảnh của thiên đình được mô tả có ngọc hoàng, có các vị thần tiên. Nhưng đó là cái nhìn phóng chiếu từ cuộc sống của con người. Chính Đức Giêsu đã khẳng định “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3,13). Đấng từ Trời mà đến nên chỉ có Ngài biết rõ Trời là thế nào.
Đức Giêsu luôn hướng về Trời
Đức Giêsu trong thân phận là người, Ngài đã luôn luôn hướng về Trời. Và sau khi chiến thắng tử thần, Ngài đã sống lại từ cõi chết và trở về Trời, trở về với Chúa Cha.
Trong những năm tháng Đức Giêsu đi rao giảng, Ngài luôn luôn cầu nguyện trước mỗi công việc. Ngài cầu nguyện một mình nơi hoang vắng. Đó là giờ phút Ngài gặp gỡ Thiên Chúa, tìm thánh ý Chúa. Ngài luôn thi hành công việc của mình theo ý Trời chứ không theo ý riêng của mình. Chỉ có một tâm hồn luôn hướng về Trời mới có tâm tình như Ngài đã nói: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34).
Mọi lời rao giảng của Đức Giêsu là rao giảng về Trời. Lời rao giảng đầu tiên của Ngài là: “Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần đến bên; Hãy hối cải vào tin mừng” (Mc 1,14). Chỉ có Ngài là Đấng từ Trời mà đến nên mới có thể nói một cách chính xác Nước Thiên Chúa ấy là thế nào. Nhưng bởi trí khôn loài người có hạn nên Ngài luôn phải dùng những biểu tượng có tính tượng trưng để nói về Nước Trời: giống như hạt cải (Mt 13, 31-32), như nắm men (Mt 13,33)….
Ngài chữa lành các bệnh tật cho nhiều người. Nhưng sau khi chữa lành Ngài mời gọi họ hãy đi tạ ơn, hãy đi dâng lễ tế, hãy đi theo Ngài. Ngài mời gọi họ bước ra khỏi cuộc sống tầm thường này, Ngài đẩy họ đến với Trời.
Cả cuộc đời của Ngài luôn hướng về Trời cao. Ngay cả đến những giờ phút quyết liệt trước cuộc thương khó hay trên thập giá Ngài vẫn hướng về Trời mà thốt lên: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này” (Ga 12,27); “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34).
Không chỉ thế mà Ngài còn mong muốn kéo chúng ta lên Trời với Ngài: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12, 32). Trước khi về Trời, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ hãy ra đi rao giảng và làm cho mọi người trở thành môn đệ của Ngài. Trở thành môn đệ của Ngài là đi theo Ngài. Đi theo Ngài để về Trời. Cuộc đời của người môn đệ, của những người đi theo Đức Giêsu có đời sống luôn thuận theo Ý Trời, luôn hướng về Trời cao, luôn ước ao được trở về với Trời.
Theo Đức Giêsu, chúng ta hướng về Trời
Tôi có thể là người đang điền viên với tuổi già, có thể là nhà khoa học trong những lãnh vực khác nhau, là sinh viên hay học sinh, là công nhân hay là nông dân, là người thành thị hay thôn quê. Nhưng dù là ai thì cùng đích đời tôi phải hướng về Trời. Công việc mà mỗi người đang đảm nhiệm chỉ là công cụ để giúp mình tiến về Trời. Mỗi nghề, mỗi lãnh vực đều có luật riêng của nó. Người bước theo Giêsu không hướng về những của cải vật chất mau qua, không hướng về quyền lực hay danh vọng, nhưng luôn sống trọn vẹn trong cương vị của mình với tâm hồn luôn hướng về Trời. Trời là đích điểm, là mục tiêu cuối cùng mà ta nhắm tới.
Trên hành trình tiến về Trời, ta không cô đơn. Chúa Giêsu đã hứa với nhân loại: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Chúa Giêsu luôn đồng hành với ta trên mọi nẻo đường của cuộc sống. Lời Chúa Giêsu hứa ban Nước Trời cho những ai theo Ngài là bảo đảm chắc chắn. Bởi chính Ngài đã vượt qua cuộc sống khó khăn này và đã về Trời.
Đức Maria là người môn đệ đầu tiên bước theo Giêsu. Cả cuộc đời Mẹ đã luôn hướng về Trời. Những lúc khó hiểu, Mẹ vẫn tâm niệm một niềm tìm thánh ý Trời cao. Và Mẹ là người đã được về Trời cả hồn lẫn xác.
Có tình yêu của Chúa Giêsu ở với ta. Có Mẹ Maria đồng hành, ủi an, nâng đỡ ta. Trong niềm tin vào Chúa Giêsu và lòng yêu mến Mẹ Maria, chắc chắn ta đi đến được cùng đích của đời mình, sẽ được về Trời cùng với Giêsu.
Lạy Chúa, xin kéo tâm hồn con luôn hướng về Ngài. Xin Ngài đừng để con lạc hướng giữa dòng đời xô đẩy. Chỉ nơi Ngài con mới được an vui.
64. Lễ Chúa lên trời, lễ của niềm hy vọng--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Chúa Giêsu sau khi đã từ cung lòng Chúa Cha, từ Trời thân hành xuống thế nhập thể làm người, đi vào lịch sử loài người, sống kiếp phận con người, bước vào trong bóng sự chết, đã phục sinh và trở về Trời trong vinh quang mà từ thuở đời đời Người đã có với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Toàn bộ ý nghĩa Chúa về Trời được các bài đọc Thánh Kinh mô tả và nội dung gồm tóm trong những lời sau: “Chúa Giêsu đã bắt đầu làm và giảng dạy, Người căn dặn các Tông đồ xong…”. Và sau đó “Người lên Trời” (x. Cvtđ 1, 1- 11).
Chúa Giêsu vị Thủ Lãnh của chúng ta đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, vinh hiển về Trời, đó là niềm hy vọng của chúng ta. Người sẽ trở lại đón chúng ta đi với Người. Để được về Trời với Chúa, chúng ta hãy gia tăng lòng mộ mến những sự trên trời và tích cực làm việc vì Nước Trời, như thế chúng ta hy vọng sẽ được về Trời với Chúa. Theo lời thánh Lêo Cả, Chúa Giêsu Kitô, Vị Thủ Lãnh của chúng ta vinh hiển bước vào thiên đàng ngự bên hữu Đức Chúa và ở trên đó, “vinh quang của Đầu” đã trở thành “niềm hy vọng cho thân xác” (x. LEO CẢ, Bài giảng lễ Chúa lên Trời). “Người là Đầu và là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc” (Rm 8, 29). Vì bản tính của chúng ta là ở trong Thiên Chúa và ở trong Đức Giêsu Kitô. Nên vì loài người chúng ta (thân xác), Chúa Giêsu là (Đầu) hằng sống đến muôn thủa muôn đời hằng cầu thay nguyện giúp cho chúng ta trước mặt Chúa Cha (x. Dt 7, 25). Từ trên cao vinh hiển, Người gửi cho Giáo hội một sứ điệp hy vọng và mời gọi hướng đến sự thánh thiện trên Trời nơi Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa.
Lễ Chúa Giêsu lên Trời là lễ của niềm hy vọng, vì lễ này báo trước cảnh ngọt ngào của Thiên Đàng. Chúa Giêsu là Đầu, chúng ta là chi thể, Người đi trước để chúng ta được tiếp bước theo sau vào Thiên Đàng. Vẫn theo lời Thánh Leo Cả: “Trong Đức Kitô chịu đóng đinh mà chúng ta chết cho tội, và trong Đức Kitô phục sinh chúng ta sống lại với Người trong đời sống mới đầy ân sủng, chúng ta cũng đạt tới Trời nhờ sự lên Trời của Người. Việc tham dự vào mầu nhiệm của Đức Kitô với tư cách là thành viên của Người, hoàn toàn phụ thuộc vào Người và gắn bó mật thiết với vận mệnh của Người” (x. LEO CẢ, Bài giảng lễ Chúa lên Trời).
Quả thật, nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng ta đã được tháp nhập vào sự sống của Chúa Kitô, nghĩa là chúng ta hy vọng phục sinh và được chia sẻ vinh quang của Người. Chúng ta cũng sẽ theo Người đến cùng Chúa Cha khi kết thúc cuộc sống trần gian này. Lễ Chúa lên Trời là sự kiện phản ánh rõ nhất về niềm hy vọng của chúng ta về cuộc sống vĩnh cửu.
Là những người sống niềm tin và hy vọng vào Chúa Kitô, chúng ta được mời gọi không ngừng tin vào Chúa Kitô và sống khác với những người chưa biết đến Chúa Kitô. Chúa Giêsu Kitô ở cùng chúng ta và Người đang dẫn chúng ta đến cuộc sống đời đời. Người chỉ cho chúng ta đường lên Trời của Người, bởi chính Người là Đường. Chúng ta phải tránh những cám dỗ, sợ hãi, hoảng loạn và tuyệt vọng. Thánh Phaolô nói: “Thưa anh em, về những ai đã an giấc ngàn thu, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng”(1 Tx 4,13). Ở đây chúng ta cũng thấy một dấu hiệu riêng biệt của các Kitô hữu là họ có tương lai. Đức nguyên Giáo hoàng Bênêdicto XVI viết: “Không phải là họ biết chi tiết về những gì đang chờ đợi họ, nhưng họ biết một cách chung chung rằng cuộc sống của họ sẽ KHÔNG KẾT THÚC trong sự trống rỗng. Chỉ khi tương lai chắc chắn là một thực tế tích cực thì mới có thể sống tốt trong hiện tại” (x. BENEDICTO XVI, Spe Salvi, số 2).
Chính khi tin vào Chúa Kitô mà chúng ta có thể sống trong an bình và hy vọng trong mọi hoàn cảnh, vì sự chết không có tiếng nói cuối cùng. Ngay cả khi cái chết đến với chúng ta, chúng ta vẫn thanh thản trong niềm hy vọng cuối cùng là được lên Trời sống đời đời với Chúa. Đó là ý nghĩa của cuộc sống người tín hữu chúng ta.
Là Kitô hữu, chúng ta biết rằng chúng ta sẽ không thoát khỏi đau khổ trong cuộc sống này. Cái chết đã bị đánh bại nhờ sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô và con đường dẫn đến sự sống đời mở ra cho chúng ta qua sự lên Trời của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Đức Benedict XVI nói: “Đối với tương lai, cửa thời gian tối tăm đã bị mở tung. Người hy vọng sống khác người đã được ban tặng sự sống mới”. Chúng ta đã được ban sự sống mới trong Chúa Kitô và đó là niềm hy vọng cuối cùng của chúng ta trong tất cả các cơn bão đang hoành hành xung quanh chúng ta.
Các Tông đồ tận mắt chứng kiến cảnh Chúa lên Trời, lòng các ông ngây ngất dõi theo đến nỗi cần phải “có hai người mặt áo trắng đứng gần” (Cvtđ 1, 10) và nhắc nhở: “Hỡi người Galilê, sao các ông còn đứng nhìn lên trời?” (Cv 1, 11). Hãy ngước mắt lên trời và chăm chú nhìn vào Chúa Kitô, Đấng đã về trời với Chúa Cha, để chuẩn bị chỗ vĩnh cư cho mỗi người chúng ta.
65. Dặn dò cuối cùng cho môn đệ – Về trời--Học viện Giáo Hoàng Piô X Đà Lạt
1. Đầu bản văn này, Lc cẩn thận xác định: việc rao giảng Tin Mừng phải “khởi từ Giêrusalem”. Điều đó làm cho ta gặp lại một viễn ảnh vĩ đại và mỹ quan và thần học của ông mà nhiều lần ta đã nhắc tới (x. những bài chú giải về Lc trong tập này). Là một nghệ sĩ, Lc biết truyền vào toàn bộ tác phẩm của mình một chuyển động đánh vào mắt chúng ta. Trong phúc âm của ông, phần lớn đời sống công khai của Chúa Giêsu được trình bày dưới hình thức một cuộc đăng trình chậm rãi nhưng vĩ đại tiến về Giêrusalem. Chính tại nơi đây mà Chúa Giêsu phải đến để được “siêu thăng” (9,51). Ngay cả sau khi phục sinh, Chúa Giêsu tự thấy mình bị bắt buộc không được rời khỏi Giêrusalem, nếu có thể nói được như vậy. Ngài chỉ hiện ra trong thành hay trong các vùng phụ cận. Và để duy nhất hơn nữa các cuộc hiện ra của Ngài đều xảy ra trong cùng ngày Phục sinh. Đến các tông đồ cũng không được bỏ Gierusalem trước khi lãnh nhận thánh thần (24,49). Chỉ lúc bấy giờ mới bắt đầu rao giảng tin mừng và bành trướng Giáo hội “khởi từ Gierusalem” ra toàn cõi Giuđê, Samari, cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8), như Cv đã ghi lại. Chắc hẳn viễn tượng này phần nào có tính cách văn chương, nhưng phải nhận là Lc nhờ đó đã khéo léo trình bày ơn cứu rỗi đã xuất phát thế nào từ công cuộc duy nhất mà Thiên Chúa đã thực hiện trong Đức Kitô tử nạn và vinh hiển.
2. Như vậy, chính tại Giêrusalem mà Chúa Giêsu đã hoàn thành công trình cứu rỗi của Ngài, cũng như tại đó mà các tông đồ đã được mặc lấy “mãnh lực từ trên ban xuống” để phổ biến ơn cứu độ cho hết mọi người. “Mãnh lực từ trên ban xuống” đó là Thánh Thần. Quả vậy, sức mạnh và Thánh Thần luôn luôn đi đôi với nhau. Sau khi thắng cám dỗ của satan, Chúa Giêsu đã trở về Galilê trong quyền năng của Thánh Thần để khởi sự công việc loan báo “năm hồng ân của Chúa” (4,14). Quyền năng của Thánh Thần lại được trao ban cho các môn đệ sau khi Chúa Giêsu một lần nữa toàn thắng Tên Cám Dỗ trong cuộc tử nạn và sau khi Ngài đã được cất về trời. Họ tiếp tục công việc của Chúa Giêsu giữa mọi dân tộc trong quyền năng của Chúa Thánh Thần “Với một quyền năng lớn lao, các tông đồ làm chứng về sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô (Cv 4,33). Không phải nhờ quyền năng riêng mình mà họ làm được những phép lạ (Cv 3,16) song là nhờ quyền năng và danh Chúa Giêsu Kitô (Cv 4,7.10). Thời gian của Chúa Giêsu khai mạc với việc “Thái dương từ cao xanh khấn đến viếng thăm” (1,78). Thời gian của Giáo hội bắt đầu với “quyền năng từ trên ban xuống”. Các tông đồ được mặc lấy mãnh lực ấy cũng như Chúa Giêsu đã được xức dầu nhờ Thánh thần và quyền năng (Cv 10,38) “Khả năng nghề nghiệp” (tenue professionnelle) của các tông đồ, chính là mãnh lực trên ban này. Sức mạnh ấy cho các Ngài được mọi quyền năng thần linh như Chúa Giêsu đã được. “Các tông đồ ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động và củng cố lời bằng phép lạ kèm theo” (Mc 16,20). Vào đầu thời gian của Đức Kitô, đã vang lên sứ điệp hồng ân cứu rỗi này: “Thánh Thần sẽ đến trên bà và quyền năng Đấng tối cao sẽ trên bà rợp bóng” (1,35). Vào đầu thời gian Giáo hội đã hoàn thành lời hứa của Chúa Giêsu Kitô, lời hứa sai đến trên các tông đồ và mọi tín hữu quanh họ điều Chúa Cha đã hứa: mãnh lực từ trên cao. Chính Thánh Thần làm dấy lên trong cung lòng Đức Maria Đấng Thánh tuyệt vời Con Thiên Chúa (1,35); chính Thánh Thần, qua Giáo hội, tạo ra “các thánh”, các “con cái của Thiên Chúa” (tên gọi dành riêng cho các Kitô hữu đầu tiên). Sức sinh nở của Giáo hội cũng như của Đức Maria là do mãnh lực từ trên tác động. Đức Maria là tiền ảnh của Giáo hội vậy.
3. Các câu 50 đến 53, nơi Lc kể lại việc Chúa lên trời, xem ra mâu thuẫn với Cv 1,3-11. Theo bản văn Cv: “Sau cuộc tử nạn, Chúa Giêsu đã cho thấy mình vẫn sống với nhiều tang chứng rành rành. Suốt 40 ngày, Ngài đã hiện ra cho họ…” (Cv 1,3). Bản văn phúc âm hình như cho thấy tất cả những gì Lc thuật lại trong chương 24 đã xảy ra trong ngày phục sinh” lời chối trăn của Chúa trước khi từ giã cõi trần (cc.41-49) và tiếp ngay sau khi hiện ra chiều ngày phục sinh.
Xem ra Lc đã theo những ý hướng phụng vụ trong việc trình bày các biến cố trên: ông muốn nói mỗi chúa nhật của cộng đoàn kitô hữu là một lễ Phục sinh, một ngày vượt qua. Chính theo những quan niệm vừa có tính cách văn chương vừa có tính cách thần học mà Lc đã đặt trỉnh thuật tử đạo của Gioan tẩy giả trước thời gian vị tiền hô thực sự đi vào chuỗi lịch sử các biến cố được tường thuật. Cũng trong viễn tượng này mà Lc nói Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng tại Nazareth (4,14-30)(như thể theo một chương trình toàn bộ nào đó) mặc dầu đáng lý ra ông phải đặt về sau thì mới đúng lịch sử hơn. Có nhiều dấu hiện trong phúc âm thứ ba mà công vụ cho thấy Lc đã hình thành một quan niệm về sách Cv khi ông bắt đầu viết phúc âm (x.H.J.Cadbury, The Making of Luke-Acts) Cho nên giả thiết rằng một cách nào đó, ông đã muốn dùng Cv “sửa sai” phúc âm thì không đúng lắm. Chỉ cần biết rằng ông không theo những ý hướng thuần túy lịch sử.
4. Trước khi từ giã các môn đệ, Chúa Giêsu “giơ tay” chúc lành cho họ (c.50). Đấng chưa bao giờ chúc lành cho môn đệ của mình, giờ đây chúc lành cách trọng thể. Việc giơ hai tay để chúc lành là một chỉ không gặp thấy chỗ nào khác trong phúc âm Lc cũng như trong Tân ước. Cử chỉ này muốn nói Chúa Giêsu như là vị tư tế đang chúc lành. Quang cảnh này nhắc nhở cho độc giả một cảnh tương tự trong sách Huấn đạo. Trong đoạn cuối sách này nói về thày cả thượng phẩm Simon như sau: “Bấy giờ người bước xuống và giơ tay lên trên cộng đoàn Israel đang tụ họp. Người thốt lên lời chúc lành của Chúa và hãnh diện nói ra thánh danh Giavê. Và họ phục lạy một lần nữa để lãnh nhận phúc lành của Người” (Hđ 50,20-21).
Đối với Lc, Đức Kitô qua việc chúc lành, mạc khải ra phúc lành mà Thiên Chúa đã ban trong chính con người của Ngài và đã hứa từ xưa cho Abraham: “Mọi thế hệ trên mặt đất sẽ được chúc phúc trong giòng giống của ngươi” (Cv 3,25-26). Có lẽ chúng ta được phép coi Lc đã có ý hướng đó trong việc ông mở đầu phúc âm với câu chuyện một vị tư tế, sau khi dâng của lễ, đã không thể chúc lành cho dân vì sự cứng tin của mình (Lc 1,22). Thừa tác vụ của Giacaria là một phụng vụ chưa hoàn tất. Nhưng vào cuối phúc âm, người ta thấy một tư tế đã kết thúc hy lễ của mình bằng một phúc lành đích thực. Ở đây phụng vụ đã đi đến chỗ hoàn thành.
5. Chúng ta nhận thấy Lc đã khách quan, vắn gọn và kín đáo, thuật lại các công việc của cộng đoàn tông đồ sau khi Chúa Giêsu về trời. Họ trở lại Giêrusalem theo mệnh lệnh của Chúa phục sinh (c.49). Nhưng bản văn nói tiếp: “Họ trở lại…trong niềm hân hoan”. Người theo sát mặt chữ sẽ tự hỏi như nhiều nhà chú giải: Chúa Giêsu từ giã họ mà lại vui được sao? Thật ra Lc muốn nhấn mạnh rằng cộng đoàn tông đồ đã xem biến cố này không phải là một cuộc ra đi cho bằng là việc Chúa Giêsu khuất mắt họ để ở gần họ hơn. Lc nơi đây đã tỏ ra giống Gioan một cách kín đáo.
Niềm vui bây giờ là niềm vui của những người không những đã được thấy Đấng sống lại mà còn thấy sự phục sinh của Ngài liên hệ với sự ra đi, và sự ra đi liên hệ với lời hứa ban Thánh Thần của Ngài. “Niềm vui vĩ đại” này chứng tỏ việc Thăng thiên để chấm dứt cuộc đời trần gian của Chúa Giêsu là một sự hoàn thành việc phục sinh, là khởi điểm cho thời gian thánh của Giáo hội. Niềm vui vĩ đại này là dấu hiệu đầu tiên của “thời buổi thanh nhàn Chúa gởi tới” trong đó “mọi sự đã được thực hiện” và Thiên Chúa “sẽ sai Đấng Messia Người đã tiền định” (Cv 3,20-21). “Nỗi vui lớn lao” của các nhân chứng Thăng thiên là việc đi vào “niềm hân hoan”, niềm hân hoan từ nay không hề chấm dứt, mà còn bùng vỡ ra nơi nào có Kitô hữu, “và ông hân hoan với cả nhà vì đã được tin vào Thiên Chúa” (Cv 16,34); niềm vui ấy tái diễn mỗi lần cộng đoàn Kitô hữu tụ họp bẻ bánh: “Họ cùng nhau dùng bữa, lòng hân hoan, dạ đơn thành” (Cv 2,46). Và có lẽ nơi đây Lc cũng có một chủ ý rõ rệt: “Niềm vui vĩ đại” của các nhân chứng Thăng thiên là âm vang và kết thúc của niềm vui mà thiên sứ hứa cho thày cả Giacaria và cho một số người sau khi Gioan tẩy giả sinh ra: “Ngươi sẽ mừng vui hoan hỉ; và lắm người sẽ được vui mừng vì việc nó sinh ra” (Lc 1,14). Nhưng đặc biệt đó là sự thể hiện trọn vẹn niềm vui mà thiên sứ hứa ban cho các mục đồng, “một niềm vui vĩ đại cho cả toàn dân” (Lc 2,10). Ở đây, khởi đầu và kết thúc của Phúc âm Lc đã liên kết với nhau.
6. Ý nghĩa, trong chương trình cứu rỗi, của việc Đấng phục sinh từ giã môn đệ và thế gian còn được kín đáo diễn tả trong câu sau cùng của Phúc âm Lc. Sau khi các môn đệ trở lại Giêrusalem “họ hằng ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa”. Đối với Lc, Đền thờ là mục đích thực sự của Chúa Giêsu, là nơi sau cùng Ngài cư trú và giảng dạy (Lc 19,45tt; 21,37-38; 22,53). Bây giờ đền thờ trở thành nơi cư trú của cộng đoàn chứng nhân thăng thiên, và còn là nơi tập trung sau này cho cộng đoàn chứng nhân hiện xuống (Cv 2,46; 3,1tt; 5,12.20-21; 5,42…) Trong đền thờ, từ nay sẽ vang lên lời ngợi khen Thiên Chúa do Giáo hội của các chứng nhân thăng thiên, sẽ vang lên lời chúc tụng (c.53: eulogein) phát xuất từ lời chúc lành (c.50: êulôgêsein) của Đấng đã lên trời. Ở đây cũng như trong Cựu ước, eulogein ám chỉ lời cảm tạ và chúc tụng Thiên Chúa qua kinh nguyện và thánh ca. Và một lần nữa, có lẽ trong ý của tác giả phúc âm, khởi điểm và cùng điểm đã liên kết chặt chẽ với nhau. Vì ngay từ Lc 1 và 2, Đền thờ đã đóng một vai trò quan trọng, đặc biệt là như chỗ của những người “ngóng đợi phúc cứu chuộc của Israel” (Lc 2,38; 1,8tt; 2,27.37.46). Khi Gioan tẩy giả sinh ra, Giacaria đã cất lời khen ngợi: “Chúc tụng Chúa, Thiên Chúa của Israel” (1,64.68). Simêon cũng ẵm lấy con trẻ Giêsu trên tay mà ca ngợi rằng: “Mắt tôi đã thấy ơn cứu độ Người đã dọn sẵn trước mặt muôn dân” (2,28.30). Và hôm nay bắt đầu thực hiện những gì đã được đoan hứa và diễn tả ra trong lời ngợi khen chúc tụng ấy. Ơn cứu độ đã dọn sẵn và đã được ban tặng cho muôn dân trong lời chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa, một phụng vụ chẳng bao giờ cùng.
KẾT LUẬN
Trình thuật Thăng thiên được trình bày như sự khai mào cho cảnh hiện xuống vĩ đại và cho lịch sử của một Giáo hội từ nay vắng bóng Đức Giêsu. Cuối phúc âm, có lẽ chúng ta có một dấu hiệu tiên báo sự bành trướng của Giáo hội trong việc Chúa Giêsu đem các môn đệ ra ngoài thành Giêrusalem; nhưng đó chưa phải là điều cốt yếu. Trong đoạn kết phúc âm này, Chúa Giêsu vẫn còn là mục tiêu. Và chủ ý của Lc ở đây còn lộ rõ hơn nữa khi ông cố ý tìm cho cử chỉ cuối cùng của Đấng hiển vinh một hình ảnh vĩ đại trong Cựu ước: hình ảnh vị thượng tế giơ tay chúc lành cho dân chúng đang phủ phục dưới chân mình.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Hôm nay chúng ta mừng lễ Thăng thiên, mừng ngày Chúa Giêsu trở về với Cha Ngài và lãnh nhận vinh quang đã hứa ban cho Con Người. Thực ra, mầu nhiệm thăng thiên còn phong phú hơn thế. Chúa Giêsu đã trở về với Chúa Cha từ lâu; ngay từ ngày phục sinh, Ngài đã được tôn vinh rồi, như nhiều đoạn trong kinh thánh đã minh chứng. Hôm nay đúng ra chúng ta mừng việc Ngài tỏ mình một cách khả giác sau cùng cho các môn đệ trước khi trở lại vào ngày cánh chung. Các bài đọc cho chúng ta thấy việc thăng thiên thực ra là việc biến đổi cách thức hiện diện của Chúa Kitô trên trần gian này. Thật vậy, nếu Chúa Giêsu trở về với Chúa Cha luôn mãi, điều đó không có nghĩa là Ngài từ bỏ loài người, nhưng chỉ muốn đổi cách thức hiện diện với họ. Vì nếu phúc âm phải được rao giảng cho mọi người ở mọi thời và ở mọi nơi, thì Chúa Giêsu phải hiện diện cho họ một cách thích ứng. Để được như vậy, Ngài đã chọn nhiều cách hiện diện khác nhau: qua những chứng nhân được Chúa Thánh Thần tác động, qua bí tích Thánh thể, qua tiếng nói của Giáo hội trong tâm hồn người tín hữu. Bằng những cách thức khác nhau đó, Chúa Giêsu có thể hiện diện trong mỗi người chúng ta và trong mọi thế hệ nhân loại. Nhưng nếu Chúa Giêsu tiếp tục mang một thể xác trên trần gian này, sự hiện diện của Ngài sẽ bị giới hạn vào một nơi, một thời. Với việc Thăng thiên, Chúa Giêsu đã bỏ cách hiện diện hạn hẹp bằng thể xác, để từ nay hiện diện luôn mãi cho mỗi người chúng ta.
2. Cuộc khải hoàn của Chúa Giêsu cũng là cuộc khải hoàn của các tín hữu. Như việc tử nạn, Ngài lên trời là vì chúng ta. Cả hai biến cố đều nhằm cứu rỗi chúng ta. Ngài đã nói cùng các môn đệ: “Ta đi dọn chỗ cho các con”. Khi từ giã họ, Ngài đã dâng lên Thiên Chúa một lời cầu nguyện mà cũng là một lời hứa: “Lạy Cha, những kẻ Cha đã ban cho con, con muốn là con ở đâu họ cũng được ở đó để họ chiêm ngắm vinh quang của Con” (Ga 17,24) Chúa Giêsu lên trời để lãnh lấy vinh quang cho các tín hữu kết hợp với Ngài.
3. Khi về trời dưới mắt các môn đệ, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta một cách hết sức cụ thể đây là mục đích của đời sống. “Đô thành chúng ta là ở trên trời” (Ph 3,20), kinh thánh đã nói. Chỗ khác kinh thánh cũng rút từ việc thăng thiên một kết luận áp dụng cho các môn đệ: “Anh em hãy tìm kiếm những điều trên cao, nơi Đức Kitô đang ngự” (Col 3,1). Vậy nếu chúng ta xác tín rằng mình phải ở “trên cao”, thì trước hết hãy qui hướng đời sống chúng ta về đó để bảo đảm hạnh phúc vĩnh cửu cho mình. Dĩ nhiên điều đó không có nghĩa là phải xuất thế, xa lánh trần gian. Trái lại, phải nỗ lực làm việc để chu toàn phận sự Thiên Chúa giao phó cho mỗi người trong hoàn cảnh Ngài đã đặt định. Nhưng đừng để mình bị nô lệ bởi những vật trần gian này: của cải, gia đình, việc làm, thành công đến độ bỏ quên thiên đàng. Hạnh phúc cho ai trải qua cuộc đời trong việc tuân theo “Đấng đã lên ngự bên hữu ngai uy nghi trên các tầng trời” (Dt 8,1). Chúa Giêsu cũng đã nói với Thánh Gioan trong một thị kiến: “Ai thắng, ta sẽ cho ngự với Ta trên ngai của ta” (Kh 3,21)
66. Sứ điệp ngày lễ Chúa Giêsu lên trời-- Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long
Chúa Giêsu trở về trời, nơi là quê hương nguồn gốc của Ngài, sau 33 năm sống trên trần gian.
Nhưng không vì thế mà Ngài bỏ rơi trần gian. Trái lại, Ngài đoan hứa hằng cùng đồng hành với trần gian trong mọi ngày.
Chúa Giêsu trở về với Thiên Chúa Cha của Ngài sau khi đã hoàn thành thánh ý của Thiên Chúa trên trần gian: dấn thân hy sinh mang ơn đức cứu độ cho con người.
Nhưng không vì thế mà sứ mạng của Ngài đến đó là hết. Trái lại, Ngài thành lập Giáo Hội để tiếp tục công việc Ngài đã thực hiện trên trần gian.
Chúa Giêsu trở về nơi là nguồn mạch của đời sống, sau khi Ngài đã rao truyền cho trần gian giá trị sự sống bắt nguồn từ nơi Thiên Chúa.
Nhưng không vì thế mà trần gian bị cắt đứt xa lìa nguồn mạch sự sống. Trái lại, qua Giáo Hội Ngài để lại nguồn mạch ơn đức sự sống của Thiên Chúa nơi các Bí tích.
Những gì ta xem thấy hay đọc được qua biến cố Chúa Giêsu trở về trời?
1. Vầng mây bao phủ
Theo khía cạnh kỹ thuật chuyên chở ngày nay nay, biến cố Chúa Giêsu trở về trời được thuật lại trong Kinh Thánh: “Người được cất lên trước mắt các ông, và một đám mây bao phủ Người khuất mắt các ông” (Cv 1,9).
Đọc những lời ngắn gọn này, ta có thể tưởng tượng như một chiếc máy bay cất cánh bay lao thẳng vào không trung xuyên lớp tầng mây.
Lẽ dĩ nhiên Chúa Giêsu không dùng máy bay như bây giờ di chuyển từ nơi này đi sang khác. Nhưng vầng mây diễn tả điều gì huyền bí nhiệm mầu, nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa, của Thần Thánh.
Thiên Chúa hiện ra thiết lập giao ước với ông Noe sau trận lụt đại hồng thủy trong vầng mây (St 9, 12-13).
Trên đường trở về quê hương đất hứa, Thiên Chúa hiện ra dẫn đường cho dân Israel trong cột mây dẫn đầu chỉ đường đi (Xh 13, 21-22).
Trên đỉnh núi Sinai, Thiên Chúa hiện ra với Thánh Tiên tri Môsê trong vầng mây trao cho ông 10 điều răn của Chúa (Xh 24, 12-18).
Vầng mây bao phủ nói lều nhà tạm lên sự hiện diện vinh quang của Thiên Chúa ( Xh 40, 34-38).
Trên đỉnh núi Tabor, khi Chúa Giêsu biến hình, từ trong vầng mây có tiếng của Thiên Chúa Cha phán vọng ra (Mt 17,5).
Trong vầng mây bao phủ Chúa Giêsu trở về trời cao ( CV 1,9).
Thánh Gioan trong sách Khải huyền thuật lại thấy Chúa Giêsu hiện ra trong vầng mây (Kh 1,7; 14, 14-16).
Như thế, có thể nói vầng mây là dấu hiệu sự thánh thiện huyền bí về hiện diện của Thiên Chúa, và cũng sát gần gũi với con người.
Chúa Giêsu trở về trời quyện trong vầng mây cao trên nền trời, nhưng Ngài không rời xa trần thế con người. Người muốn Giáo Hội tiếp tục rao giảng làm chứng cho Ngài giữa trần gian.
2. Anh em là nhân chứng của Thầy
Khi người cha hay người mẹ đi xa vắng nhà. họ thường nói với các con mình: cha mẹ không quên, không bỏ các con một mình đâu. Cha mẹ luôn hằng nhớ đến các con. Các con nhớ giữ những lời cha mẹ đã dạy bảo căn dặn mà sống yêu thương đùm bọc nhau!
Cũng vậy, trở về trời Chúa Giêsu không bỏ rơi các học trò Tông đồ, những người tin theo Chúa. Người căn dặn họ: Anh em tiếp tục sống như Thầy đã dạy nhắn nhủ. Hãy tiếp tục rao truyền cùng làm nhân chứng cho Thầy, cho những lời giáo lý của Thầy giữa lòng xã hội trần gian (Mt 28,20).
Trung thành với lời Chúa Giêsu truyền lại cho, từ ngày đó hơn hai ngàn năm nay Giáo Hội không ngừng thi hành sứ vụ truyền giáo cho mọi người trải qua mọi thời đại, trong mọi hòan cảnh đời sống xã hội.
Và Giáo Hội đã trải qua thời kỳ hưng thịnh phát triển về nhiều mặt rất khả quan tốt đẹp. Nhưng cũng có những thời kỳ Giáo Hội gặp khó khăn bị nghi kỵ, bị theo dõi bắt bớ, bị cấm cách, gặp khủng hoảng từ trong lòng nội bộ.
Nhưng nhiệm vụ rao giảng làm chứng của Giáo Hội luôn trên căn bản làm sao những giá trị theo tinh thần Phúc âm của Chúa được loan truyền thể hiện trong đời sống xã hội về sự sống, về công bình bác ái, về tình liên đới giữa con người với nhau.
Trong dòng thời gian Giáo Hội đã luôn cố gắng rao giảng làm chứng cho Chúa:
– Xuyên suốt trải qua mọi thời gian ngày tháng, năm, thế kỷ.
– Tới cùng mọi biên giới hình thể địa lý trái đất.
– Nơi mọi con người trong các giai tầng hoàn cảnh thân phận đời sống về thể lý cũng như về tâm lý. Mang niềm vui cũng như sự an ủi giúp đỡ cảm thông đến cho con người.
– Gìn giữ bảo vệ ngôi nhà thiên nhiên là vũ trụ mà Thiên Chúa đã tạo dựng cho con người. Và cùng với con người phát triển văn hóa, văn minh cho đời sống
– Củng cố các gía trị đạo đức tinh thần trong lòng đời sống xã hội của con người, nhất là cho mọi người biết Chúa, Đấng là nguồn tình yêu, nguồn hy vọng và ơn tha thứ cho con người.
**************
Vầng mây trên trời đã bao phủ đưa Chúa Giêsu trở về trời. Nhưng vầng mây cũng là dấu hiệu sự hiện diện, sự gần gũi của Chúa nơi con người.
Trở về trời Chúa Giêsu trao cho Giáo Hội qua các Tông đồ nhiệm vụ rao giảng làm chứng cho Chúa giữa trần gian. Sự hiện diện sát gần của Chúa giúp Giáo Hội vững tâm làm nhiệm vụ này, cùng giúp lòng con người sống niếm hy vọng. Vì có Chúa hằng cùng đồng hành bên cạnh trong mọi hoàn cảnh.
67. Ái mộ những sự trên trời--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Thủ lãnh của một bộ tộc nằm hấp hối trên giường. Ông cho gọi ba người thân cận đến và nói:Ta phải chọn một người kế tục.Các ngươi hãy leo lên đỉnh núi thiêng liêng của chúng ta và mang về đây cho bộ tộc một món quà quý giá nhất.
Người thứ nhất mang về một thỏi vàng lớn. Người thứ hai mang về một viên ngọc quý. Người thứ ba trở về tay không.
Ngạc nhiên, vị tù trưởng hỏi: món quà quý giá của ngươi đâu?
Anh điềm tỉnh trả lời: khi tôi lên tới đỉnh núi, tôi thấy ở phía bên kia một vùng đất phì nhiêu màu mỡ, tại đó dân chúng có thể có một cuộc sống sung túc tốt đẹp.
Thủ lãnh nói: Ngươi sẽ nối nghiệp ta vì ngươi đã mang về món quà quý gía nhất là một viễn tượng tương lai tốt đẹp.
Chúa Giêsu về trời mở ra một viễn tượng tương lai tốt đẹp là hạnh phúc thiên đàng. Người đi trước mở đường và dẫn chúng ta lên theo Người.
Tin Mừng thuật lại hai sự kiện song hành: Chúa Giêsu lên trời và lệnh truyền rao giảng Tin Mừng. Sự kiện Chúa Giêsu lên trời, Tin Mừng thánh Marcô ghi lại rất vắn tắt: Chúa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Tin mừng Matthêu nói đến lệnh truyền: Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Còn theo sách Công vụ Tông đồ, Chúa Giêsu lên trời sau khi sống lại được 40 ngày, và nơi lên trời là núi Cây Dầu. Thực ra sau khi Chúa Giêsu sống lại, Người đã lên trời rồi theo kiểu nói của Kinh Thánh, nghĩa là Người bước vào cõi vinh quang của Chúa Cha, Người ngự bên hữu Chúa Cha, mặc lấy vinh quang và quyền năng của Chúa Cha. Trong 40 ngày sau sống lại, Chúa Giêsu hiện ra nhiều lần để dạy dỗ và cũng cố đức tin của các Tông Đồ. Giáo hội đã được thiết lập nay được cũng cố để được sai đi. Như vậy sự kiện lên trời mà phụng vụ Giáo Hội kính nhớ hôm nay có ý nghĩa sâu xa. Nó chấm dứt thời gian Chúa hiện diện giữa nhân loại bằng thân xác, chấm dứt thời gian huấn luyện các Tông Đồ. Một thời điểm có tính cách quyết định của lịch sử cứu độ là Chúa Giêsu ban những giáo huấn cuối cùng,trao những chức vụ phải thi hành trong Giáo hội, chuẩn bị cho các Tông đồ thi hành sứ mạng chứng nhân của Đấng phục sinh trong thế giới.
Chúa Giêsu lên trời. Những chữ lên trời bị chi phối bơi cách suy nghĩ có giới hạn của chúng ta. Theo cách suy nghĩ đó,các biến cố xảy ra luôn luôn được gắn liền với các vị trí trong không gian. Thực ra trời đây không phải là một nơi và lên không có nghĩa là nơi đó ở trên cao. Lên trời ở đây không hiểu theo nghĩa địa lý vì trời hay thiên đàng là một trạng thái hơn là một nơi chốn. Chúng ta đang sống trong không gian và thời gian nên định vị trí mọi sự theo hai trục đó. Điều cốt yếu mà Thánh kinh muốn dạy về mầu nhiệm Thăng Thiên là Đức Kitô đã ra khỏi thế giới trần thế bị tội lỗi làm nhiễm độc và một ngày kia sẽ tiêu tan để tiến vào một thế giới mới,trong đó Thiên Chúa ngự trị tuyệt đối và vật chất đã biến đổi,đã thấm nhuần tinh thần.
Từ nay trở đi, Người sẽ hiện diện với chúng ta một cách vô hình. Với quyền năng của Chúa Thánh Thần, thân xác Chúa Giêsu đã được thần khí hoá và đi vào cõi vĩnh hằng của Chúa Cha. Sự hiện diện này thâm sâu hơn và hiệu năng hơn. Khi còn ở trong thân xác, Chúa Giêsu chỉ ở bên cạnh một số người thôi. Từ nay, với quyền năng Thánh Thần, Người sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người. Chúa Giêsu lên trời. Điều đó dạy ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác. Trời là nơi hạnh phúc không còn khổ đau. Trời là nơi cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Trời là nơi tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt đối. Trời là nơi con người trở thành thần thánh, sống chung với thần thánh. Như thế trời là niềm hy vọng của con người. Con người không còn bị trói chặt vào trần gian. Định mệnh của con người không phải chỉ là đớn đau sầu khổ. Số phận con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi. Trời cho con người một lối thoát. Trời mở ra cho con người một chân trời hạnh phúc. Trời cho con người cơ hội triển nở đến vô biên.Trời nâng cao địa vị con người. Có trời, con người không còn bị xếp ngang hàng với loài vật. Loài vật sinh ra để tàn lụi. Con người sinh ra để triển nở, để vượt qua số phận, để đạt tới địa vị con Thiên Chúa. Có trời, con người sẽ được nâng lên ngang hàng thần thánh.
Tuy nhiên, trời không phải xây dựng trong mây trong gió, nhưng được xây dựng trong cuộc sống trần gian. Trời không phải là cõi mơ mộng viển vông, nhưng đã bắt đầu ngay trong thực tế cuộc đời hiện tại. Chính vì thế mà hai thiên thần áo trắng đã bảo các môn đệ đừng đứng nhìn trời mãi làm chi, nhưng phải trở về mà lo chu toàn nhiệm vụ. Chính vì thế mà trước khi lên trời, Chúa căn dặn các môn đệ hãy đi làm việc cho Nước Chúa. Sống và làm việc ở trần gian, đó là một nhiệm vụ phải chu toàn. Hoàn thành nhiệm vụ ở trần gian, đó là điều kiện để đạt tới hạnh phúc nước trời. Chính Chúa Giêsu cũng đã chu toàn nhiệm vụ ở trần gian rồi mới lên trời. Nhiệm vụ đó là đi gieo Tin Mừng khắp nơi. Đi đến đâu là thi ân giáng phúc đến đó. Đi đến đâu là làm cho hạt yêu thương nảy mầm lên màu xanh sự sống đến đó.
Người môn đệ của Chúa sống giữa trần gian, yêu mến trần gian, xây dựng trần gian. Vì trần gian là nơi Chúa sai ta đến làm việc.Tuy nhiên ta làm việc ở trần gian mà lòng vẫn hướng lên quê trời. Yêu mến trần gian vì nước trời. Yêu mến trần gian để biến trần gian thành nước trời. Sống giữa thế gian, chúng ta “ái mộ những sự trên trời” như lời kinh hạt: “Thứ năm thì ngắm, Ðức Chúa Giêsu lên trời. Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời”. Nhưng vẻ đẹp trên trời là vẻ đẹp của tâm hồn, tình yêu Thiên Chúa và tha nhân, vẻ đẹp nghèo khó Phúc Âm, khiêm nhường, đơn sơ, thanh tịnh. Đây là vẻ đẹp và sự quyến rũ của nhân đức, một vẻ đẹp hoàn toàn khác với những vẻ đẹp và sự quyến rũ thuộc trái đất. Nhiều người đã bỏ ra hằng trăm, hàng ngàn, hàng vạn Mỹ kim để làm đẹp, để khoa trương sự giàu có và để được người khác ca tụng. Nhiều người không sợ trải qua những cuộc giải phẫu nguy hiểm, đau đớn cốt sao để thấy mình đẹp hơn, để thấy mình hơn người khác. Nhiều người đã sẵn sàng chấp nhận những thách đố lớn lao để chạy đua vào những chiếc ghế quyền lực. Nhưng ít ai bỏ ra một giờ, một ngày, một tuần, một tháng, hoặc một năm để lo tu sửa và chỉnh trang lại vẻ đẹp của tâm hồn.
Trên thực tế, tình yêu Thiên Chúa, tình yêu tha nhân, đức nghèo khó, đức đơn sơ, và đức trong sạch là những đòi hỏi rất cần thiết để đem lại hạnh phúc cho mỗi người, mỗi cộng đoàn, mỗi dân nước. Ðó là những gì cụ thể có thể giúp con người chiếm hữu được vĩnh hằng. Rất tiếc, đó cũng là những gì mà nhiều người từ khước, bởi vì chúng không phù hợp với nhãn quan và suy tư của con người.
Giáo Hội đã thôi thúc và khuyến khích mỗi Kitô hữu hãy tìm kiếm và yêu mến những sự trên trời. Cầu xin cho được ơn ái mộ là cầu xin Thánh Linh khai mở tâm hồn và trí tuệ để chúng ta có thể nhìn, và có thể hiểu được vẻ cao quí của những giá trị tinh thần ấy. Nhận thức về thế giới tâm linh là một nhận thức ngoài tầm hiểu biết của trí tuệ tự nhiên con người. Những gì thuộc về thần linh là thần linh. Con người cần được soi dọi và khai mở bởi sức mạnh huyền nhiệm của Thánh Thần. Chỉ khi nào trí óc ta, trái tim ta được Ngài khai mở, lúc ấy ta mới nhận ra, mới hiểu thấu thế nào là sự cao xa, dài rộng của vẻ đẹp tinh thần, của những giá trị đạo đức.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa về trời, không chỉ để dọn chỗ mà còn là mở ra một viễn tượng hạnh phúc của trời cao.
“Xin cho chúng con ái mộ những sự trên trời”, để chúng con không bị chôn bám vào thế gian chóng qua và phù du này. Và để chúng con biết tìm kiếm những giá trị cao quí của tinh thần, và để chúng con yêu mến và sống với cuộc sống ấy. Vì đó là những gì mà chúng con có thể tìm kiếm, mua sắm và đem vào được nơi vĩnh hằng. Nơi mà chúng con sẽ gặp được Chúa là nguồn mạch sự sống, hoan lạc, và hạnh phúc viên mãn của chúng con. Amen
* CHÚA NHẬT 7 PHỤC SINH
68. Để họ được nên một--Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu
Bài Tin Mừng hôm nay là phần cuối của Lời Nguyện sau Tiệc Ly.
Đức Giêsu cầu nguyện, không phải cho các môn đệ đang hiện diện, nhưng cho các môn đệ tương lai, là chính chúng ta, những người tin nhờ nghe lời giảng của các môn đệ đi trước (c.20).
Hôm nay Đức Giêsu là Thượng Tế trên trời, là Đấng Trung Gian duy nhất, vẫn dâng lên Chúa Cha lời nguyện tương tự.
Ngài nhìn thấy một phần ba dân số thế giới là Kitô hữu, hơn hai tỷ người. Ngài nhìn thấy những người theo Công Giáo gồm hơn một tỷ, theo Chính Thống giáo, Tin Lành, Anh giáo và bao giáo phái khác. Ngài xin Cha cho họ nên một, như Cha và Con là một (c. 22).
Đức Giêsu đã xin cho các môn đệ đang hiện diện bên Ngài được nên một “như chúng ta” (Ga 17, 11b).
Bây giờ Ngài xin cho các môn đệ tương lai cũng được nên một.
Sự hiệp nhất nên một giữa Cha và Con vừa là khuôn mẫu, vừa là nguồn mạch cho sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu. “Để tất cả nên một, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” (c. 21). Cha và Con ở trong nhau, đó là mẫu mực cho sự hiệp nhất.
Chúng ta được mời gọi ở trong nhau khắng khít như Cha và Con.
Điều này không thể thực hiện được, nếu chúng ta không được đưa vào trong mối tương quan thân thiết giữa Cha và Con: “để họ cũng ở trong Chúng Ta” (c. 21).
Các Kitô hữu chỉ hiệp nhất khi họ được sống trong nguồn hiệp nhất là sự ở trong nhau giữa Cha và Con.
Trong Lời Nguyện của Đức Giêsu, ta thấy có một tương quan ba chiều giữa Cha, Con và các môn đệ.
“Con ở trong họ và Cha ở trong Con…
Cha đã yêu thương họ như đã yêu thương Con” (c. 23).
“Tình Cha đã yêu thương Con ở trong họ, và Con cũng ở trong họ nữa” (c.26).
Tương quan này sâu lắng đến mức có sự ở lại trong nhau thật sự giữa Cha, Con và các môn đệ là chính chúng ta.
Tuy vậy ít khi chúng ta dám nghĩ mình có tương quan gần gũi đến thế với thế giới siêu việt của Cha và Con.
Nhưng Đức Giêsu còn nói đến tương quan giữa các môn đệ với thế gian.
Chỉ khi có sự hiệp nhất giữa các môn đệ, lúc đó mới hy vọng “Thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai Con” (c. 21), “Thế gian sẽ nhận biết rằng Cha đã sai Con (c. 23).
Chúng ta cầu cho sự hiệp nhất yêu thương giữa các Kitô hữu trên thế giới.
Nếu một phần ba dân số thế giới sống nên một trong yêu thương, hai phần ba còn lại sẽ sống trong hạnh phúc bình an.
Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng con tôn thờ,
xin giúp con quên mình hoàn toàn
để ở lại trong Chúa.
lặng lẽ và an bình
như thể hồn con đã sống trong vĩnh cửu.
Lạy Đấng thường hằng bất biến,
mong sao không gì có thể khuấy động
sự bình an của con,
hay làm cho con ra khỏi Chúa;
nhưng ước chi mỗi phút lại đưa con
tiến xa hơn vào chiều sâu của mầu nhiệm Chúa!
Xin làm cho hồn con bình an thanh thản,
xin biến hồn con thành chốn trời cao,
thành nơi cư ngụ dấu yêu của Chúa,
nơi Chúa nghỉ ngơi.
Ước chi
con không bao giờ để Chúa ở đó một mình
nhưng con luôn có mặt, với trọn cả con người,
với thái độ nhạy bén trong đức tin,
cung kính tôn thờ
và phó mình cho Chúa sáng tạo.
(Lời nguyện của chân phước Elisabeth de Trinité)
69. Trong cung lòng Thiên Chúa--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Trong lịch sử Việt Nam, tôi thích nhất tướng Trần Hưng Đạo. Trần Hưng Đạo không những có tài thao lược mà lại có đức độ hơn người. Người ta gọi ngài là Đức Thánh Trần thật xứng đáng. Thời nhà Trần có hai tướng tài: Trần Hưng Đạo và Trần Quang Khải. Nhưng hai gia đình lại có mối thù không đội trời chung. Cha của Trần Hưng Đạo trước khi tắt thở còn dặn Trần Hưng Đạo phải thay cha trả thù. Nhưng giặc Nguyên sang xâm lăng nước ta. Trần Hưng Đạo suy nghĩ: Giặc ngoại xâm đang đe doạ. Nếu trong nước các tướng tá không đoàn kết thì không phá nổi thế giặc đang rất mạnh. Nghĩ thế, Trần Hưng Đạo gạt bỏ mối thù nhà, đến làm hoà với Trần Quang Khải. Một hôm, Trần Hưng Đạo sang thăm Trần Quang Khải, tự tay nấu nước tắm cho Trần Quang Khải và nói: “Hôm nay được hân hạnh tắm cho Ngài quốc công”. Trần Quang Khải vui vẻ trả lời: “Hôm nay hân hạnh được tướng công tắm cho”. Từ đó hai người hoà thuận. Cùng chung vai sát cánh phục vụ đất nước. Nhờ sự đoàn kết của hai tướng tài, quân ta đã đánh thắng giặc Nguyên.
Sự đoàn kết của Trần Hưng Đạo và Trần Quang Khải rất phù hợp với bài Tin Mừng của Chúa Nhật 7 Phục Sinh. Hôm nay, Chúa tha thiết cầu nguyện cho cái Chúa hiệp nhất.
Chúa tha thiết với sự hiệp nhất vì Chúa biết rằng: Có hiệp nhất mới xây dựng được cộng đoàn vững mạnh. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Thuận vợ thuận chồng, tát bể đông cũng cạn”. Có đoàn kết làm việc gì cũng xong. Chia rẽ làm suy yếu cộng đoàn. Làm cho công việc trì trệ. Và có khi làm tan rã cộng đoàn.
Chúa tha thiết với sự hiệp nhất vì Chúa biết rằng có hiệp nhất trong nội bộ mới có thể truyền giáo thành công. Hiệp nhất chính là dấu chỉ của môn đệ Chúa như Lời Chúa đã dạy: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là các con thương yêu nhau”. Qua dấu chỉ hiệp nhất, người ngoài mới nhận biết Chúa. Thời sơ khai, khi nhìn thấy các tín hữu đầu tiên sống đoàn kết yêu thương, người ngoại đạo đã bảo nhau: “Kìa xem họ yêu thương nhau biết bao”. Từ đó có nhiều người xin vào đạo để được sống trong cộng đoàn hiệp nhất yêu thương.
Sau cùng, Chúa tha thiết với sự hiệp nhất, vì Chúa muốn ta được hạnh phúc. Có hiệp nhất mới có hạnh phúc. Hạnh phúc của ta là được sống sự sống của Thiên Chúa. Sự sống bắt nguồn từ Thiên Chúa Ba Ngôi. Ba Ngôi hiệp nhất với nhau đến nỗi trở thành một. Như lời Chúa Giêsu nói: “Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy. Thầy và Cha Thầy là một”. Cho đến độ: “Ai thấy Thầy là thấy Cha”.
Sự hiệp nhất giữa Ba Ngôi là nguồn mạch sự sống, nguồn mạch hạnh phúc của ta. Tuy nhiên để được thông phần vào sự sống hạnh phúc đó, ta phải hiệp nhất yêu thương nhau. Thiên Chúa là Tình Yêu, là sự Hiệp Nhất. Muốn được hoà nhập vào nguồn mạch hạnh phúc đó, ta cũng phải đoàn kết yêu thương nhau. Chỉ những ai có tinh thần hiệp nhất yêu thương mới có thể gia nhập cộng đoàn hiệp nhất yêu thương của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Hiệp nhất yêu thương không là một món hàng làm sẵn, nhưng là một tiến trình xây dựng dài lâu. Xây dựng bằng từ bỏ ý riêng. Xây dựng bằng nhịn nhục tha thứ. Xây dựng bằng hy sinh quên mình. Vì thế để đạt đến yêu thương đòi hỏi phải rất nhiều phấn đấu. Phấn đấu của bản thân. Phấn đấu của cả tập thể.
Nếu biết phấn đấu để hiệp nhất, ta sẽ xây dựng được cộng đoàn vững mạnh, ta sẽ truyền giáo thành công và nhất là ta sẽ được tham dự vào sự sống và hạnh phúc của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin thương hiệp nhất chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Tại sao người ta luôn chia rẽ. Chia rẽ đem đến những thiệt hại nào?
2. Tại sao Chúa Giêsu tha thiết với sự hiệp nhất?
3. Ba Ngôi Thiên Chúa đã thể hiện sự hiệp nhất thế nào?
4. Bạn phải làm gì để xây dựng sự hiệp nhất?
70. Để chúng được hiệp nhất nên một như Chúng Ta--Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
Bước vào Chúa nhật thứ VII Phục Sinh, Phụng vụ Giáo hội chuẩn bị tâm hồn chúng ta mừng Đại lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống. Trước khi về trời, Đức Giêsu đã hứa với các môn đệ trong bữa tiệc ly là không bỏ chúng ta mồ côi, Ngài sẽ gửi Chúa Thánh Thần là Đấng Bầu Chữa đến, để trong mọi sự con người tôn vinh Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô. Các thánh Tông Đồ đã qui tụ bên Đức Maria để cầu nguyện, noi gương các ngài, chúng ta cũng hãy hăng hái chuẩn bị sẵn sàng, cầu nguyện và thực hành đức bác ái, đón Chúa Thánh Thần, Đấng từ Chúa Cha hiện xuống trên chúng ta, và thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con kêu lên cùng Chúa, xin Ngài lắng nghe, alléluia; hồn con thưa cùng Chúa: mắt con tìm kiếm thánh nhan Ngài, lạy Chúa, con tìm kiếm Chúa, xin đừng ẩn mặt, alléluia, alléluia.
* Bài đọc Phụng vụ năm A
- Tđcv 1, 12-14: Sau khi Chúa lên Trời, các môn đệ họp nhau cầu nguyện
- Tv 27, 1: Vâng, chúng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh
- 1 Pr 4, 13-16: Nếu bị sỉ nhục vì Đức Kitô thì thật phúc cho anh em
- Ga 17, 1-11a: Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu: "Lạy Cha, xin hãy làm vinh hiển Con Cha "
* Bài đọc Phụng vụ năm B
- Tđcv 1, 15-17; 20-26: Matthia được chọn là Tông Đồ thay thế Giuđa
- Tv 103, 1: Chúa ngự bên hưu Đức Chúa Cha, vinh danh Ngài, lạy Chúa
- 1 Ga 4, 11-16: Ai ở trong Tình Yêu, thì ở trong Thiên Chúa
- Ga 17, 11-19: Lời cầu nguyện của Đức Giêsu: "Xin Cha hãy thánh hiến họ trong Sự Thật "
* Bài đọc Phụng vụ năm C
- Tđcv 7, 55-60: Têphanô, trong lúc chụi tử đạo, ông đã thấy Chúa Giêsu
- Tv 97, 1: Đức Kitô là Chúa, được đưa lên Trời trong vinh quang!
- Kh 22, 12-14; 16-17; 20: "Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ngự đến "
- Ga 17, 20-26: "Để chúng nên một như Chúng Ta là một"
Toàn bộ Phúc Âm thánh Gioan chương 17 là diễn từ ly biệt, được kết thúc bằng kinh nguyện vô cùng cảm động của Chúa Giêsu dâng lên Cha. Kinh nguyện mở đầu bằng lời khẩn cầu danh Cha, ca tụng Ngôi Cha và Ngôi Con (câu 1-5). Chúa Giêsu xin " Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha" (Ga 17, 1).
Tiếp theo là những lời Đức Giêsu xin cho các môn đệ: "Lạy Cha... xin hãy gìn giữ trong danh Cha những kẻ Cha đã ban cho Con". Và đây, Đức Giêsu cầu xin Cha cho chúng ta là những kẻ nhờ các Tông Đồ mà tin vào Ngài và xin cho chúng ta được hiệp nhất: "Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ, nhờ chúng mà tin vào con, để mọi người nên một cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng cũng nên một trong Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con"(Ga 17, 26)
Nhân dịp kỷ niệm 50 khai mạc Công Đồng Vaticanô II trong bối cảnh của năm Đức Tin, chúng ta cũng nên nhắc lại tư tưởng của Công Đồng, muốn thi hành ý muốn của Đức Giêsu khi nhấn mạnh đến việc phải làm để hiệp nhất: "Vì ngày nay ở nhiều nơi trên thế giới, nhờ ơn Chúa Thánh Thần thúc đẩy, rất nhiều cố gắng nhằm tiến tới hiệp nhất đầy đủ theo ý muốn của Chúa Giêsu Kitô đang được thực hiện bằng kinh nguyện, lời nói, việc làm, nên Thánh Công Ðồng này khuyến khích tất cả mọi người công giáo hãy nhận ra các dấu chỉ thời đại để khéo léo tham gia vào công cuộc hiệp nhất.
Phải hiểu danh từ "phong trào hiệp nhất" là những hoạt động và sáng kiên được phát động và tổ chức nhằm cổ võ sự hiệp nhất các Kitô hữu, tùy theo những nhu cầu khác nhau của Giáo Hội và những thời cơ thuận tiện. Trước hết như là mọi cố gắng loại bỏ những lời nói, phán đoàn và việc làm không đúng với hoàn cảnh của các anh em ly khai xét theo công bình và chân lý, vì nếu không sẽ gây thêm khó khăn trong việc giao tiếp với họ. Thứ đến là trong các buổi hội thảo với tinh thần tôn giáo giữa các Kitô hữu thuộc nhiều Giáo Hội hay Cộng Ðoàn khác nhau, có sự "đối thoại" giữa các nhà chuyên môn thấu triệt vấn đề, và mỗi người sẽ giải thích cặn kẽ giáo lý của Cộng Ðoàn mình và trình bày minh bạch những nét độc đáo của giáo lý ấy. Có đối thoại như thế mọi người mới hiểu biết đúng hơn và tôn trọng đúng mức giáo lý cũng như đời sống của mỗi Cộng Ðoàn; cũng nhờ đó mà các Cộng Ðoàn dần dần hợp tác được với nhau rộng rãi hơn trong mọi công cuộc mưu ích chung mà lương tâm Kitô hữu nào cũng đòi hỏi; lại cũng nhờ đó, họ hợp nhau cầu nguyện chung mỗi khi có cơ hội thuận tiện. Sau cùng mọi người hãy kiểm điểm coi mình có trung thành với ý muốn của Chúa Kitô về Giáo Hội không, để rồi hăng hái tiến hành việc canh tân và cải tổ đúng như bổn phận đòi hỏi.
Khi các tín hữu của Giáo Hội Công Giáo khôn ngoan và kiên nhẫn thực hiện tất cả các điều ấy dưới sự giám sát của các chủ chăn tức là họ đã đóng góp cho việc thực hiện công bình và chân lý, sự hòa thuận và hợp tác, tình huynh đệ và đoàn kết. Với đường hướng này, khi đã vượt được mọi trở ngại ngăn cản sự hiệp thông hoàn toàn của Giáo Hội, dần dần mọi Kitô hữu sẽ đoàn tụ qua việc cử hành Phép Thánh Thể duy nhất, hiệp nhất trong một Giáo Hội độc nhất; sự hiệp nhất mà Chúa Kitô từ ban đầu đã rộng ban cho Giáo Hội của Người. Chúng tôi tin rằng sự hiệp nhất ấy tồn tại mãi trong Giáo Hội Công Giáo và hy vọng rằng mỗi ngày sẽ bành trướng thêm cho đến tận thế". (Công Đồng Vaticanô II Sắc Lệnh về Hiệp Nhất, "Unitatis redintegratio" số 4)
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã cầu xin cho chúng con được hiệp nhất. Xin cho chúng con biết thể hiện tinh thần hiệp nhất giữa chúng con bằng sự biết cộng tác với nhau trong những việc làm chung, để xây dựng nhiệm thể cộng đoàn nhỏ bé, trong tình huynh đệ tương thân tương ái. Chúng con tin tưởng vào lời Chúa hứa mà chúng con đã đọc trước bài Tin Mừng, đó là được ở với Chúa đến muôn đời. Amen.
71. Chúa Giêsu hằng cầu thay nguyện giúp cho chúng ta--Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
Toàn bộ Phúc Âm thánh Gioan chương 17 là diễn từ ly biệt, được kết thúc bằng kinh nguyện vô cùng cảm động của Chúa Giêsu dâng lên Cha. Kinh nguyện mở đầu bằng lời khẩn cầu danh Cha, ca tụng Ngôi Cha và Ngôi Con (câu 1-5). Chúa Giêsu xin "Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha" (Ga 17, 1).
Tiếp theo là những lời Đức Giêsu xin cho các môn đệ: "Lạy Cha… xin hãy gìn giữ trong danh Cha những kẻ Cha đã ban cho Con" (Ga 17, 11). Thứ đến là những kẻ nhờ các Tông đồ mà tin vào Chúa là chúng ta, được Chúa lưu tâm đặc biệt trong lời nguyện hiến tế hôm nay: "Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ, nhờ chúng mà tin vào con, để mọi người nên một cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng cũng nên một trong Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con" (Ga 17, 20-26).
Chúng ta là đối tượng trong "lời nguyện hiến tế của Chúa Giêsu". Người đặc biệt quan tâm đến sự hiệp nhất của chúng ta, vì hiệp nhất làm cho chúng ta nên "một": "Để cả chúng cũng nên một trong Ta" (Ga 17,22). Thánh Gioan Phaolô II, Giáo hoàng nói: "Vậy làm thế nào chúng ta có thể, nếu, không làm cho thế giới biết được Thiên Chúa là Tình Yêu? Chúng ta chia rẽ, thì làm sao chúng ta có thể là người đáng tin cậy được?" Lời chứng về Tình Yêu là một bằng chứng mạnh mẽ hùng hồn nhất để thuyết phục thế giới. Chia rẽ giữa các cộng đoàn kitô là gương mù gương xấu cần vượt thắng. Vì chia rẽ làm suy yếu sự đáng tin, và hiệu lực dấn thân rao giảng Tin Mừng của chúng ta và có nguy cơ làm trống rỗng quyền năng của Thập Giá Chúa.
Chúa Giêsu xin cùng Chúa Cha cho tất cả mọi người đã được rửa tội hiệp nhất theo ý muốn: "Xin Cha cho chúng nên một" (Ga 17,21). Thánh Phaolô đã từng cật vấn các tín hữu ở Corintô: "Thế ra Đức Ki-tô đã bị chia năm xẻ bảy rồi ư?" (1Cr 1,13). Đức Thánh Cha Phanxicô nói: "Chắc chắn Chúa Kitô không bị chia năm xẻ bảy. Nhưng với đau khổ, chúng ta phải thừa nhận cách thành thật rằng cộng đoàn của chúng ta đang tiếp tục sống chia rẽ, đó là những gương xấu".
Thiền Chúa là Tình Yêu. Tình yêu thì luôn luôn hiệp nhất, do đó, chia rẽ không phải là dấu chỉ của Tình Yêu. Trong hiên Chúa, nơi Ngài không có sự chia rẽ. Chúng ta chiêm ngắm thái độ của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi: Ngày Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, "Hết thảy họ đồng tâm nhất trí chuyên cần cầu nguyện, cùng với các phụ nữ, và Maria, mẹ Ðức Yêsu và các anh em Người" (Cv 1,14). Đó là bầu khí của Thánh Thần đã vang lên một tiếng động lớn và toàn thế giới đã kinh ngạc (x.Cv 2,6).
Trong lời nguyện hiến tế, Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ còn xin cùng Chúa Cha cho chúng ta nên một để Người ở đâu thì chúng ta cũng ở đó với Người hầu chiêm ngưỡng vinh quang của Người (Ga 17,24). Người yêu mến chúng ta như Chúa Cha đã yêu mến Người và Người muốn ban cho chúng ta tất cả những gì Chúa Cha đã ban cho Người. Vinh quang Người có được từ nơi Cha, đến lượt Người, Người muốn ban cho chúng ta, và làm cho chúng ta nên một. Người muốn rằng, chúng ta không phải là nhiều nhưng làm thành một, hiệp nhất với thần tính của Người trong vinh quang Nước Trời, không phải sát nhập thành một bản thể duy nhất, nhưng trong sự hoàn hảo, tột đỉnh của nhân Đức Tin, Cậy, Mến. Đây là những gì Chúa Kitô đã tuyên bố khi Người nói: "Để chúng được hoàn toàn nên một!" (Ga 17,22).
Theo cách này mà tất cả chúng ta sẽ trở nên một với Chúa Cha và Chúa Con. Vì Chúa Giêsu nói: "Ta và Cha, Chúng Ta là một" (Ga 10,30). Giống như Người cầu nguyện cho những ai bắt chước mình, chúng ta tham dự vào chính sự hiệp nhất… Không phải sự hiệp nhất về bản tính tự nhiên mà Người có với Chúa Cha, nhưng điều này: như Cha đã làm cho Người tham dự vào vinh quang của riêng mình, Người cũng vậy, theo gương Chúa Cha, sẽ hiệp nhất vinh quang của Người với những kẻ mà Người thương mến.
Sau khi Chúa Giêsu về Trời, Các thánh Tông Đồ đã qui tụ bên Đức Maria để cầu nguyện, noi gương các ngài, chúng ta cũng hãy hăng hái chuẩn bị sẵn sàng, cầu nguyện và thực hành đức bác ái, đón Chúa Thánh Thần, Đấng từ Chúa Cha hiện xuống trên chúng ta, và thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con kêu lên cùng Chúa, xin Ngài lắng nghe, Alléluia; hồn con thưa cùng Chúa: mắt con tìm kiếm thánh nhan Ngài, lạy Chúa, con tìm kiếm Chúa, xin đừng ẩn mặt, alléluia, alléluia.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã cầu xin cho chúng con được hiệp nhất. Xin cho chúng con biết thể hiện tinh thần hiệp nhất giữa chúng con bằng sự biết cộng tác với nhau trong những việc làm chung, để xây dựng nhiệm thể cộng đoàn nhỏ bé, trong tình huynh đệ tương thân tương ái. Chúng con tin tưởng vào lời Chúa hứa mà chúng con đã đọc trước bài Tin Mừng, đó là được ở với Chúa đến muôn đời. Amen.
72. Xin cho chúng nên một--Lm Giuse Vũ Thái Hòa
‘‘Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ nhờ lời chúng mà tin vào Con, để mọi người nên một cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha.” Sự mong ước của Chúa Giêsu đối với Giáo Hội của Ngài, đó là sự hiệp nhất. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trên đây cho chúng ta thấy sự sáng suốt tuyệt vời của Ngài. Ngài đã biết trước sẽ có hàng triệu người tin vào Ngài, cũng biết trước rằng thảm họa lớn của các môn đệ Ngài, chính là sự chia rẽ. Phải, sự chia rẽ là một đề tài thời sự đau thương. Trên thế giới hôm nay, có biết bao sự đối nghịch, chia rẽ và hận thù! Giáo Hội cũng không tránh khỏi những đau thương đó, ngay cả các cộng đoàn công giáo Việt Nam...
Một linh mục Ấn Độ tên là Anthony De Mello đã tưởng tượng ra một câu chuyện như sau: Chúa Giêsu than phiền với chúng tôi là Ngài chưa bao giờ được đi xem một trận bóng đá nào cả. Chúng tôi bèn đưa Ngài đi xem một trận đấu rất gay go giữa một đội Tin lành và một đội Công giáo. Đội Công giáo làm bàn trước, một không. Chúa Giêsu vỗ tay hoan hô và tung cả mũ lên trời. Vài phút sau, tới phiên đội Tin lành làm bàn. Lần này, Chúa Giêsu cũng vỗ tay reo hò và cũng tung mũ lên trời. Một khán giả ngồi bên cạnh lấy làm ngạc nhiên và khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu. Ông ta lấy tay đập lên vai Ngài rồi hỏi: “Ê ông bạn, ông bạn ủng hộ bên nào vậy?”. Xem chừng như vẫn còn bị khích động bởi trận đấu, Chúa Giêsu trả lời: “Tôi hả? tôi không ủng hộ bên nào cả. Tôi đến đây là chỉ để thưởng thức trận đấu mà thôi”. Người khán giả đã khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu, bây giờ lại càng bực bội hơn. Ông ta quay sang người bên cạnh và nói nhỏ: “Hắn này là một tên vô thần!”
Trên đường trở về nhà, chúng tôi bàn luận với Chúa Giêsu về tình hình tôn giáo trên thế giới. Chúng tôi nói với Ngài: “Thưa Chúa, những người có tôn giáo thật là buồn cười. Họ tưởng rằng Thiên Chúa chỉ đứng về phía của họ và nghịch lại với những người thuộc tôn giáo khác”. Chúa Giêsu gật đầu tỏ vẻ ưng ý. Ngài nói: “Đó là lý do tại sao Ta không ủng hộ tôn giáo mà chỉ ủng hộ con người. Con người quan trọng hơn tôn giáo. Con người quan trọng hơn ngày Sabbat. Các con nên biết là chính những người có tôn giáo đã treo Ta trên thập giá.”
Khi nói đến hiệp nhất, chúng ta thường mơ một sự hiệp nhất mà trong đó những ai nghĩ khác chúng ta, phải về phía chúng ta! Sự hiệp nhất theo ý muốn của Chúa không phải ở sự xóa bỏ những sự phong phú riêng biệt của mỗi người hoặc của mỗi nhóm. Giáo Hội phải xây dựng sự hiệp nhất trong sự tôn trọng những sự khác biệt chính đáng. Chỉ có một Chúa, một phép rửa tội, một đức tin, nhưng có nhiều cách khác nhau để diễn tả đức tin. Để nói về một Chúa Giêsu, chúng ta có tới bốn cuốn Phúc Âm, tại sao chúng ta không chấp nhận có nhiều cách diễn tả, có nhiều cách sống Tin Mừng, sống đạo khác nhau trong Giáo Hội và trong thế giới?
Trong lá thư gửi tín hữu Côrintô (1 Cr 12, 12-30), thánh Phaolô dùng hình ảnh các chi thể của một thân xác để nói về sự hiệp nhất của Giáo Hội trong sự đa dạng, trong sự bổ túc và liên đới của các phần tử. Thân xác có nhiều chi thể khác nhau. Chân, tay, mắt, mũi, tai và các chi thể khác đều phải cộng tác chặt chẽ với nhau để làm cho thân xác nên mạnh mẽ, và cùng liên đới chịu trách nhiệm với nhau về sự lớn mạnh của thân xác. Cũng thế, mỗi người chúng ta là một chi thể của Giáo Hội. Tuy trình độ khác nhau, nhân sinh quan khác nhau, mỗi người đều phải cộng tác với nhau để Giáo Hội được phát triển và liên đới chịu trách nhiệm về sự phát triển ấy.
Chúng ta cùng cầu nguyện cho Giáo Hội chúng ta, cho mọi phần tử biết sống hiệp nhất trong sự tôn trọng lẫn nhau. Hiệp nhất nhưng không đơn điệu, đa dạng nhưng trong hiệp nhất và hiệp thông. Lúc đó, Giáo Hội được ví như một vườn hoa lớn, và mỗi thành viên là một loài hoa khác nhau, một hương thơm khác nhau. Ôi đẹp thay, phong phú thay, Giáo Hội của Chúa Kitô!
73. Hiệp nhất
Là người Việt Nam, hẳn ai trong chúng ta cũng đều biết câu chuyện cổ tích về những bó đũa. Câu chuyện ấy như sau:
Người cha trong cơn hấp hối, biết mình chẳng còn sống được bao lâu, ông đã gọi các con đến bên giường bệnh và trao cho mỗi người một chiếc đũa và bảo:
- Các con hãy thử bẻ xem sao?
Với một chiếc đũa trong tay, ai cũng bẻ được một cách dễ dàng.
Sau đó, ông trao cho mỗi người một bó đũa và cũng bảo:
- Các con thử bẻ xem sao?
Với cả một bó đũa trong tay, không ai có thể bẻ nổi, dù đã cố gắng hết sức mình. Dựa vào đó, ông đã trăn trối và khuyên bảo:
- Nếu các con biết hiệp nhất và đoàn kết với nhau, thì chẳng ai có thể làm hại các con được.
Từ câu chuyện này, chúng ta thấy sự hiệp nhất và đoàn kết là điều rất cần thiết để đem lại lợi ích cho cá nhân và xã hội.
Thực vậy, trên bình diện cá nhân, nhiều lúc gặp phải những hoàn cảnh khó khăn, tự sức riêng chúng ta không thể giải quyết nổi, thế nhưng nếu có người khác trợ giúp, chúng ta sẽ đón nhận được những ý kiến khách quan và sáng suốt, cũng như đón nhận được những nâng đờ cần thiết dể vượt qua những khó khăn ấy một cách dễ dàng, như tục ngữ đã bảo:
- Việc người thì sáng, việc mình thì quáng.
Hay như người Tây phương vốn thường nói:
- Hai cái đầu thì bao giờ cũng hơn một cái đầu.
Tiếp đến, trên bình diện xã hội, sự hiệp nhất và đoàn kết sẽ tạo dựng được những công trình lớn và sẽ đem lại những thành quả tốt đẹp, mà bình thường một người sẽ không thể nào thực hiện.
Chính vì thế, tục ngữ cũng đã nói:
- Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
- Hợp quần gây sức mạnh.
Hay như người Tây phương cũng thường nói:
- Sự hiệp nhất chính là một pháo đài kiên vững.
- Nếu những con cừu biết đoàn kết, thì sư tử cũng sẽ phải ra về bụng đói.
- Nếu biết đoàn kết, thì đàn kiến cũng có thể thắng nổi sư tử.
Khi quân thù tấn công, nếu mọi người biết hiệp nhất và đoàn kết, chắc hẳn chiến thắng đã nằm trong tầm tay của mình. Đây cũng là một kinh nghiệm quí giá đã từng xảy ra trong lịch sử dân tộc. Hẳn chúng ta còn nhớ vào năm 1284, trước sự đe dọa của quân Nguyên, do thái tử Thoát hoan dẫn sang xâm chiếm nước ta, vua Trần Nhân Tông đã triệu tập đại hội các bô lão tại điện Diên Hồng. Với sự nhất trí của các bô lão, quân ta dù yếu kém, cũng đã chiến thắng vẻ vang.
Hơn thế nữa, ngày nay với xu hướng toàn cầu hóa, để nền kinh tế được phán triển thì mỗi cá nhân riêng biệt sẽ không thể làm gì được. Trái lại, nếu biết đoàn kết, tập trung mọi khả năng về nhân sự, về tài chánh, về chuyên môn…thì mới xây dựng được những công ty, những xí nghiệp lớn có một tầm hoạt động rộng, ảnh hưởng trên nhiều quốc gia.
Từ những sự việc kể trên, chúng ta đi vào đoạn Tin mừng hôm nay với bình diện thiêng liêng.
Thực vậy, trước khi ra đi chịu chết, chắc hẳn Chúa Giêsu đã nhìn thấy một tương lai đen tối đang chớ đón các môn đệ và những người tin theo Ngài. Chắc hẳn Ngài cũng biết rằng thế gian sẽ ghét bỏ và quyền lực sự dữ sẽ tấn công họ. Nếu chiến đấu một cách đơn độc, thì họ sẽ thất bại. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã đặc biệt cầu xin Chúa Cha ban cho họ ơn hiệp nhất:
- …Để họ được nên một như chúng ta là một: Con ở trong họ và Cha ở trong Con, để họ được hoàn toàn nên một.
Trước hết, về phương diện cá nhân, sự hiệp nhất sẽ đem lại cho bản thân chúng ta những lơi ích thiêng liêng to lớn.
Thực vậy, sự hiệp nhất sẽ làm cho lời cầu nguyện của chúng ta có được một giá trị trước mặt Chúa, như lời Ngài đã phán:
- Nếu ở đâu có hai hay ba người hợp lời cầu xin, thì Ta sẽ ở giữa họ.
Hơn thế nữa, nhờ sự hiệp nhất với nhau và với Giáo Hội, chúng ta sẽ được hưởng nhờ những ơn ích và sự giúp đỡ của toàn thể cộng đoàn dân Chúa, nhờ đó chúng ta sẽ dễ dàng vượt thắng những cám dỗ và hiểm nguy trên đường đời. Đây cũng chính là điểm tín điều các thánh thông công đã dạy.
Tiếp đến, về phương diện Giáo Hội, sự hiệp nhất sẽ làm cho việc truyền bá Tin mừng của Giáo Hội gặt hái được những thành quả tốt đẹp, bởi vì sự hiệp nhất và đoàn kết sẽ biểu lộ cho người khác thấy một tình yêu thương chân thành, như lời thánh Gioan đã viết:
- Nếu ai nói mình kính mến Thiên Chúa mà lại ghét bỏ anh em, thì người ấy chỉ là kẻ nói dối, vì ai không yêu thương anh em là người họ trông tháy, thì chẳng thể kính mến Thiên Chúa là Đấng họ không trông thấy.
Đồng thời sự hiệp nhất và đoàn kết còn chứng tỏ chúng ta là người môn đệ đích thực của Đức Kitô và có được một đức tin trưởng thành, nhờ đó dễ lôi cuốn người khác để họ tin vào lời chứng của chúng ta như Đức Thánh Cha Phaolô VI đã viết:
- Lời di chúc thiêng liêng của Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu rằng sự hiệp nhất giữa các môn đệ không những là bằng chứng chúng ta là môn đệ Ngài, nhưng còn là bằng chứng Ngài được Chúa Cha sai đến và đó cũng là trắc nghiệm về sự đáng tin của các Kitô hữu và của chính Đức Kitô.
74. Hiệp nhất
Một linh mục dòng Tên làm việc tại Ấn độ, đó là cha Anthony de Mello, đã kể lại một câu chuyện tưởng tượng như sau:
Ngày kia, Chúa Giêsu than phiền là Ngài chưa bao giờ được đi xem một trận bóng đá nào cả. Và thế là chúng tôi bèn đưa Ngài đi xem một trận đấu rất gay go giữa một đội Tin Lành và một đội Công giáo.
Đội Công Giáo làm bàn trước. Một không. Chúa Giêsu vỗ tay hoan hô và tung cả mũ lên trời.
Vài phút sau, tới phiên đội Tin Lành làm bàn. Một đều. Lần này, Chúa Giêsu cũng vỗ tay reo hò và tung cả mũ lên trời.
Một khán giả ngồi bên cạnh lấy làm ngạc nhiên và khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu. Ông ta lấy tay đập lên vai Ngài và hỏi:
- Này ông bạn, ông bạn ủng hộ đội nào vậy?
Xem chừng như còn bị kích thích bởi trận đấu, Chúa Giêsu trả lời:
- Tôi hả? Tôi không ủng hộ đội nào cả. Tôi đến đây là chỉ để thưởng thức trận đấu mà thôi.
Người khán giả đã khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu, bây giờ lại càng bực bội hơn nữa. Ông ta quay sang người bên cạnh và nói nhỏ:
- Gã này quả là một tên vô thần.
Trên đường về nhà, chúng tôi bàn luận với Ngài về tình hình tôn giáo trên thế giới. Chúng tôi nói với Ngài:
- Lạy Chúa, những người có tôn giáo thật buồn cười, Họ tưởng rằng Thiên Chúa chỉ đứng về phía họ và chống lại với kẻ thuộc tôn giáo khác.
Chúa Giêsu gật đầu tỏ vẻ ưng ý. Ngài nói:
- Đó là lý do tại sao Ta không ủng hộ tôn giáo, mà chỉ ủng hộ con người mà thôi. Con người quan trọng hơn tôn giáo. Con người quan trọng hơn ngày Sabbat. Các con nên biết là chính những người có đạo đã treo Ta trên thập giá.
Khi nói đến hiệp nhất, chúng ta thường mơ tưởng đến một sự hiệp nhất, trong đó những ai nghĩ khác chúng ta, đều phải qui phục và đứng về phía chúng ta. Thế nhưng, sự hiệp nhất theo ý muốn của Chúa thì khác. Sự hiệp nhất này không xóa bỏ những sự phong phú riêng biệt của mỗi người, hay mỗi nhóm. Giáo hội phải xây dựng sự hiệp nhất trong sự tôn trọng những khác biệt chính đáng.
Chỉ có một Chúa, một phép rửa, một đức tin, nhưng có nhiều cách diẽn tả khác nhau. Để nói về Chúa Giêsu, chúng ta có tới bốn cuốn phúc âm. Vậy tại sao lại không chấp nhận có nhiều có nhiều cách sống đạo, sống Tin mừng khác nhau trong Giáo hội và trong thế giới?
Qua thư gửi tín hữu Corintô, thánh Phaolô đã dùng hình ảnh các chi thể của một thân xác để nói về sự hiệp nhất của Giáo hội trong sự đa dạng, bổ túc và liên đới với nhau. Thân xác có nhiều chi thể. Chân tay, mắt mũi, môi miệng…tất cả đều phải cộng tác chặt chẽ với nhau để làm cho thân xác được lớn mạnh, đồng thời liên đới chịu trách nhiệm về sự lớn mạnh ấy.
Cũng thế, mỗi người chúng ta là một chi thể của Giáo hội. Tuy trình độ khác nhau, ý nghĩ khác nhau và việc làm khác nhau, nhưng mỗi người đều phải cộng tác với nhau để Giáo hội được phát triển, đồng thời liên đới chịu trách nhiệm về sự phát triển ấy.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho Giáo hội, để mọi phần tử biết sống hiệp nhất trong tôn trọng lẫn nhau. Hiệp nhất nhưng không đơn điệu. Đa dạng nhưng luôn hiệp nhất và hiệp thông cùng nhau.
Lúc đó, Giáo hội được sánh ví như một vườn hoa, và mỗi thành viên là một loài hoa khác nhau, một hương thơm khác nhau.
Ôi xinh đẹp thay, phong phú thay Giáo hội Đức Kitô!!!
75. Dấu ấn của Thiên Chúa--Achille Degeest
Người ta nói đến Phúc Âm về nhân tính, tức là ba Phúc Âm nhất lãm của các thánh chép sử Matthêu, Marcô và Luca, trong đó mô tả, với một số chi tiết nhân tính, lịch sử Đức Giêsu trong hoàn cảnh sinh hoạt, giao tế, lao động, rao giảng của Người. Chúa được trình bày như một người rất cụ thể, rất “thực”, nhưng cũng là một Đấng Mêsia. Các thư thánh Phaolô và Phúc Âm theo thánh Gioan được xem như Phúc Âm về thần trí, vì hai ông nhấn mạnh vào những viễn ảnh vĩnh cửu do thân thế Đức Giêsu mở ra cho chúng ta. Tất cả những văn bản trên hợp thành một bức hoạ song bản, một bộ Phúc Âm duy nhất. Sự suy niệm của chúng ta không được tách rời hai tấm hoạ nhân tính và thần trí, tuy nhiên chúng ta có thể theo khuynh hướng của mình hoặc chỉ dẫn của phụng vụ mà tuỳ thích đọc Phúc Âm nhất lãm hoặc Phúc Âm về thần trí. Hôm nay phụng vụ mời gọi suy niệm về một trong những đoạn cao đẹp nhất trích Phúc Âm theo thánh Gioan. Chúng ta có thể nêu ra một trong những chức năng cơ bản của Giáo Hội, đó là chức năng trung gian và sự đòi hỏi hợp nhất do chức năng ấy.
1) Giáo Hội đóng vai trò trung gian của Đức Kitô bên cạnh thế gian.
Chúa Giêsu cầu nguyện cho các tông đồ của Người và cho tất cả những ai sau này nhờ hoạt động tông đồ sẽ tin vào Người. Chúa biết rằng các tông đồ thật sự thuộc về thế gian, Người cầu xin cho các ông cũng thuộc về Thiên Chúa. Làm trung gian là đứng giữa, được thiện cảm của cả hai bên, đóng vai gạch nối, tiếp xúc, hoà giải, giao liên. Các tông đồ tượng trưng cho Giáo Hội. Chúa cầu xin cho Giáo Hội của Người được thật sự thuộc về thế gian, đồng thời triệt để thuộc về Thiên Chúa. Thành phần Giáo Hội là những con người, cho nên Giáo Hội tham gia vào thực thể nhân loại, một hỗn hợp bí ẩn trong đó vụng về chậm chạp xen lẫn linh hoạt cao quý. Giáo Hội cần phải tham dự vào đời sống Thiên Chúa, mà bản chất là hợp nhất trong tình yêu. Sự tham dự ấy là đối tượng lời cầu nguyện của Đức Giêsu. Chúa muốn rằng phong trào đại kết (là nét độc đáo của sự tương giao giữa Ba Ngôi Thiên Chúa) phải tiếp nối trong Giáo Hội và trở nên dấu ấn sự hiện diện sống động của Thiên Chúa giữa nhân loại.
2) Vai trò trung gian của Giáo Hội phải mang dấu ấn đại kết.
Thiên Chúa không chia rẽ với chính Thiên Chúa. Khi những Kitô hữu chia rẽ với nhau, họ đi ngược yêu cầu chính của ơn gọi Kitô giáo. Bất hạnh lớn nhất của Giáo Hội là trong phạm vi yêu thương mà không vượt khỏi hạn chế của tâm trí và yếu hèn của tội lỗi. Ở điểm này, mỗi người chúng ta phải tự đặt những câu hỏi rất thực tiễn. Thật vậy, một Kitô hữu tất nhiên có thể nói rằng sự chia rẽ giữa những “Giáo Hội” (sự phân hoá này giống như một vết thương trong trái tim Chúa), là một vấn đề vượt quá sức mình, những dẫu sao phải ý thức về mức độ trách nhiệm của mình. Bằng cách nào? Bằng cách chiến đấu chống sự tội trong con người mình, vì chính sự tội gây chia rẽ –cầu nguyện cho phong trào đại kết- trong khung cảnh sinh hoạt của mình trở nên một cực đại kết chứ không đối đầu –và sau hết, noi gương Chúa, ăn ở hiền lành và khiêm nhượng trong lòng. Mỗi Kitô hữu phải lãnh trách nhiệm mang trong não trạng, trong ngôn ngữ, trong cách cư xử của mình dấu ấn của tình yêu hợp nhất và biểu hiện của Thiên Chúa.
76. Chờ mong Thần Khí
Suy Niệm 1. BÀI HỌC TỪ TÊPHANÔ
Thánh Têphanô là người môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu chết vì đức tin. Têphanô là một thanh niên quảng đại và can đảm. Ông đã làm chứng cho Đức Giêsu bằng lời nói và việc làm, và đã trả bằng cái giá của sự chết.
Đặc tính nổi bật của cái chết ấy là nó giống với cái chết của Đức Giêsu. Giống như Đức Giêsu, Têphanô vô tội. Giống như Đức Giêsu, ông bị buộc tội phạm thượng, và bị xét xử trước Thượng Hội Đồng của người Do Thái. Giống như Đức Giêsu, ông chết chỉ vì một hành vi bạo lực bên ngoài thành, (trong cách này, cả hai bị đối xử như những người bị loại bỏ trong cái chết).
Giống như Đức Giêsu, Têphanô cũng đã cầu nguyện cho những người đã giết ông: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này”. Sau cùng, như Đức Giêsu đã trao linh hồn của Người vào tay Thiên Chúa với lời cầu nguyện. “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha”. Têphanô cũng thế, khi chết, ông đã phó linh hồn ông trong tay Đức Giêsu với lời này: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con”. Trong tất cả những sự kiện, Luca có một ý định rõ ràng. Cái chết của vị tử đạo phản chiếu cái chết của Đức Giêsu.
Sự tàn ác trong việc ném đá Têphanô khiến người ta phải suy nghĩ. Những người giết ông cởi hết quần áo của ông ra và đặt dưới chân thủ lãnh Sao lô là một người Pharisêu cuồng tín. Ông này nghĩ rằng mình đã làm sáng danh Thiên Chúa khi giết chết những người như Têphanô. Ngày nay, một số người cũng nhân danh Thiên Chúa giết người. Giết người khác để tôn vinh Thiên Chúa là một điều ghê tởm.
Sao lô như chúng ta biết không lâu sau đã hoán cải trong đức tin và trở thành một chiến sĩ vĩ đại nhất của đức tin. Chắc chắn, ông đã bị xúc động trước lòng can đảm và sự tha thứ mà Têphanô đã biểu lộ khi ông này chết. Sự hoán cải của Sao lô chứng tỏ rằng một người có thể thay đổi, và Thiên Chúa không bao giờ gạt bỏ một ai.
Nhưng Têphanô không chỉ bày tỏ những phẩm chất ấy lúc chết. Một người không trở thành một anh hùng lúc chết nếu người ấy không là một anh hùng khi sống. Thánh Têphanô đã chứng tỏ sự cam kết theo Đức Giêsu trong đời sống. Ông là một trong những Phó tế đầu tiên được các tông đồ chỉ định để phân phát lương thực cho các quả phụ. Nhưng ông cũng đã rao giảng Lời Chúa. Và chính sự rao giảng không chút sợ hãi của ông về Đức Giêsu đã làm cho các thủ lãnh đạo Do Thái nổi giận.
Têphanô đã đem lại loại làm chứng cao nhất cho Đức Kitô; ông làm chứng với cái chết của mình. Mức độ làm chứng này không được ban cho hoặc đòi buộc mọi người. Điều được đòi buộc nơi mỗi người chúng ta là phải làm chứng với đời sống của chúng ta. Đây không phải là một cách làm chứng êm ái mà là một cách thế gay go và đòi hỏi nhiều sức mạnh với lòng can đảm. Thế giới ngày nay đang kêu gọi sự làm chứng của những người không sợ trở nên một Kitô hữu chân chính.
Ngoài việc chỉ cho chúng ta phải làm chứng như thế nào, Têphanô còn chỉ cho chúng ta cách chết thế nào mà mỗi Kitô hữu phải ao ước đó là chết với lòng tha thứ mọi kẻ thù và trao phó mình cho lòng nhân hậu và thương xót của Chúa.
Suy Niệm 2. BÀI HỌC TỪ PHAOLÔ
Có một hậu cảnh, nhưng đóng vai trò quan trọng trong công việc ghê tởm ném đá Têphanô đó là Sao lô. Ông giữ áo cho những người ném đá và là một thủ lãnh trong việc bách hại các Kitô hữu. Dù vậy, cũng chính ông ít lâu sau đã được đức tin hoán cải và trở thành một chiến sĩ vĩ đại nhất của đức tin. Khó mà tin được điều đó nơi cùng một con người.
Sự kiện Phaolô tham gia vào việc giết Têphanô không có nghĩa ông là một người hoàn toàn xấu xa. Đúng hơn đó là một sự mù quáng. Thái độ cuồng tín tôn giáo đã làm ông mù quáng. Tuy nhiên, có một khía cạnh khác tốt hơn nơi ông. Rõ ràng ông là một người có cam kết cao độ, có khả năng làm việc gian khổ và chịu hy sinh to lớn.
Khi một người trải qua một cuộc hoán cải, chúng ta thường nói: “Anh/chị ấy đã trở thành một con người hoàn toàn mới”. Nhưng đó không phải là toàn bộ sự thật. Trong mỗi cuộc hoán cải, vừa có sự liên tục và sự gián đoạn. Những yếu tố tiêu cực đã bị vượt qua, và những mục tiêu mới đã được thiết lập. Tài năng và thiên hướng của một người không bị chối bỏ, càng không bị mất đi; đúng hơn, chúng được định hướng lại.
Nếu chúng ta có mặt lúc Têphanô bị giết và thấy được vai trò của Phaolô trong vụ việc, hẳn là chúng ta đã loại bỏ ông mãi mãi. Chúng ta có xu hướng làm “đông cứng” người khác trong một giai đoạn đặc biệt của đời sống họ. Chúng ta mãi mãi xét đoán họ trên nền tảng của một kinh nghiệm xấu. Chúng ta có khuynh hướng chia người ta thành hai loại: thánh nhân và tội nhân.
Nhưng con người không dễ phân loại như thế vì con người vốn phức tạp. Một số người dường như không biết gì về bản tính chia cắt của mỗi con người. Ngay khi họ khám phá một sự yếu đuối nơi một người nào, họ liền loại bỏ người ấy mãi mãi. Đối với họ, cái chai luôn có mùi của chất lỏng mà chai đã chứa đựng. Nhưng điều đó có đúng đắn và khôn ngoan không? Chúng ta có nên cấm người ta thay đổi không?
Một nền văn hoá không không ích lợi gì cho chúng ta. Thái độ đối với tội phạm là giam chúng lại và vất chìa khoá phòng giam đi. Một nền văn hoá không tin vào sự tiến bộ hoặc cứu chuộc là một nền văn hoá không hy vọng. Phải chăng đức tin chúng ta quá nhỏ bé đến nỗi chúng ta không thể chấp nhận sự thay đổi và trưởng thành? Như thể ai giết người là đến từ một hành tinh khác, và không đáng có cơ may trở thành người, để sửa chữa và chuộc lại lỗi lầm.
Chúng ta phải học tập sự nhẫn nại và khoan dung mà trước tiên là với chính mình. Chúng ta phải biết rằng chiến đấu để dẹp bỏ. Và chúng ta cũng phải khoan dung đối với người khác. Một con người sẽ được xét xử, không phải bởi chỉ một hành động hoặc bởi chỉ một giai đoạn nào đó của đời mình mà là bởi toàn bộ cuộc đời của người ấy.
Câu chuyện của Phaolô cho thấy rằng một người có thể thay đổi, và Thiên Chúa không bao giờ gạt bỏ một ai ra ngoài ơn cứu chuộc. Một người có thể gây ra một lỗi lầm lớn, nhưng sẽ được cứu chuộc bởi ân sủng của Thiên Chúa như trường hợp của Phaolô. Đó là một bài học to lớn trong đời ông. Chắc chắn, một trong những yếu tố khiên Phaolô hoán cải là gương sáng của Têphanô, Têphanô là một Kitô hữu chân chính. Phaolô đã xúc động bởi lòng can đảm và sự tha thứ mà Têphanô đã bày tỏ khi ông chết.
TIẾP CẬN KHÁC: Hội đoàn của người yếu.
Làm một tín hữu trong thế giới ngày nay có thể là một công việc lẻ loi. Nhưng chính ở chỗ này mà cộng đoàn xuất hiện. Chúng ta cần có cộng đoàn để nâng đỡ đức tin của chúng ta. Trong bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu đã cầu nguyện cho sự hiệp nhất của các môn đệ người: “Lạy Cha, xin cho họ được nên một như chúng ta là một”. Nhưng có phải đây là một lý tưởng không thể có sao? Phải chăng người ta không cần trở nên hoàn thiện và thuộc về một cộng đoàn như thế?
Ngày xưa, một thanh niên có lý tưởng được một cộng đoàn các thầy tu lôi cuốn. Ước muốn gia nhập cộng đoàn ấy là một điều không tránh khỏi đối với anh. Và khi gia nhập, anh trở thành một tập sinh. Ban đầu anh được huấn luyện để trở thành một thành viên của một cộng đoàn những người thánh thiện. Nhưng anh không ở lại đó lâu khi anh có một sự thức tỉnh đột ngột. Anh khám phá rằng những người mà anh xem như hoàn hảo cũng có đầy những thiếu sót và bất toàn. Thật vậy, họ cũng mỏng dòn, tội lỗi và vị kỷ như anh. Anh ta hoàn toàn vỡ mộng đến nỗi anh đã rời bỏ tu viện.
Một cộng đoàn Kitô hữu không gồm những người hoàn hảo. Cộng đoàn nhỏ các Tông đồ mà Đức Giêsu cầu nguyện cho họ gồm những người nhút nhát, yếu đuối và sợ hãi. Jean Vanier nói về “Hội đoàn của những người yếu” và nói rằng sự đoàn kết lớnhơn có thể là kết quả của việc chia sẻ sự yếu đuối so với việc chia sẻ sức mạnh.
Điều này xem ra mâu thuẫn. Nhưng hãy lấy một bó sậy làm ví dụ. Từng cây sậy thì yếu ớt và dễ bị bẻ gãy. Nhưng khi cột chung thành bó, chúng hầu như không thể bẻ gẫy được. Với con người cũng thế, sức mạnh to lớn là kết quả của việc quy tụ, đặc biệt quy tụ những người yếu đuối. Cộng đoàn dường như được liên kết với sự yếu đuối và dễ bị tổn thương. Khi người ta đang vui hưởng sự thành công, người ta tìm kiếm sự thán phục, nhưng khi người ta yếu đuối, người ta tìm kiếm sự hiệp thông. Nếu người ta tìm thấy sự hiệp thông, người ta biết rằng họ được yêu thương không phải vì những thành tựu của họ, nhưng vì họ là ai. Kết quả là họ đạt được sự tín nhiệm lẫn nhau.
Và tâm hồn của một người có khả năng và mạnh mẽ luôn mở ra và tiếp xúc với lời kêu gọi yêu thương đến từ một người yếu đuối hơn mình. Khi một người nào đó nói với bạn về sự thành công và năng lực khác thường của người ấy, bạn thán phục người ấy. Nhưng khi người ấy chia sẻ những thất bại và yếu đuối của người ấy với bạn, người ấy gợi lên lòng thương cảm. Sự thương cảm dẫn đưa và tạo ra sự hiệp thông.
Sức mạnh được giấu kín trong sự yếu đuối và cộng đoàn chân thật gồm những bạn bè yếu đuối. Hội những người Nghiện rượu Vô Danh là một ví dụ cho điều này. Điều kéo các thành viên đến với nhau không phải để được chia sẻ sức mạnh mà là chia sẻ sự yếu đuối là thừa nhận một cách trung thực sự yếu đuối và tính chất dễ tổn thương mà người nào cũng có. Không ai là một mối đe doạ cho người khác, và điều này làm họ sẵn sàng chia sẻ và đón nhận lẫn nhau. Không phải là người hoàn hảo mới được chia sẻ đời sống cộng đoàn.
Các Kitô hữu tiên khởi chịu đựng lẫn nhau bằng việc cầu nguyện và cùng nhau thờ phượng Thiên Chúa cũng như yêu thương phục vụ lẫn nhau. Chúng ta có thể làm được điều tương tự. Chúng ta có thể cùng nhau tiến bước, lắng nghe và học hỏi lẫn nhau. Chúng ta phải mở rộng sang những thành viên khác của cộng đoàn cùng loại hiểu biết và thương cảm mà chính chúng ta mong ước nhận được từ họ.
“Mầu nhiệm cứu độ của tình yêu Thiên Chúa được nhìn thấy không phải trong một cộng đoàn của các anh hùng tâm linh mà của anh chị em khuyến khích nhau trong cuộc hành trình về Vương quốc của niềm hy vọng và thương xót” (Timothy Radeliffe).
77. Hiệp nhất
Mỗi người Kitô hữu chúng ta vì đã được rửa tội, nên ai cũng có trách nhiệm phải truyền giáo, nghĩa là có bổn phận phải rao giảng về Thiên Chúa, về Chúa Kitô và nước trời cho những người khác. Trong việc thực thi bổn phận ấy, sống hiệp nhất có một sức mạnh rất đặc biệt. Vậy sự hiệp nhất đó, là sự hiệp nhất nào? Sự hiệp nhất ấy có giá trị đặc biệt như thế nào trong việc truyền giáo? Và người Kitô hữu chúng ta phải sống sự hiệp nhất ra sao, để góp phần vào công việc truyền giáo của Giáo Hội? Phụng vụ lời Chúa qua bài Tin Mừng hôm nay sẽ trả lời cho chúng ta những câu hỏi đó.
Trước khi từ biệt trần gian, Chúa Giêsu đã cầu nguyện một cách tha thiết với Chúa Cha cho các tông đồ và tất cả những ai nhờ lời họ mà tin vào Chúa Kitô, trong đó có chúng ta được ơn hiệp nhất: “Con không chỉ cầu xin cho những người này nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào Con để tất cả nên một”.
Sự hiệp nhất ở đây là một ân huệ của Chúa Cha mà Chúa Giêsu đã tha thiết cầu xin với Cha Ngài cho chúng ta. Do đó hiệp nhất ở đây không thể là giả tạo như sự hiệp nhất của hai cây gậy buộc lại với nhau thành một; cũng không như hai người bạn đi đường cùng nhau, cùng mục đích, cùng mối lợi, nhưng là nhắm lợi ích riêng của mình; càng không phải là sự hiệp nhất rẻ tiền: cố nhịn nói, cố tránh va chạm để người ngoài nhìn vào không biết chúng ta đang chia rẽ. Trái lại, đây là sự hiệp nhất trong tình yêu thương của Thiên Chúa. Sự hiệp nhất đó phải được như là sự hiệp nhất giữa Thiên Chúa Ba Ngôi: “Như Cha ở trong Con, như Con ở trong Cha”.
Như vậy, sự hiệp nhất ở đây không phải là bất cứ sự hiệp nhất nào, mà là sự hiệp nhất giữa Chúa Kitô và Cha trong Thánh Thần. Căn bản của sự hiệp nhất này là tình yêu phát xuất từ Cha và chính trong sự hiệp nhất này là sức mạnh có tính thuyết phục thế gian tin vào Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế và nhận ra tình yêu thương của Chúa Cha đối với nhân loại.
Chắc hẳn, Chúa Giêsu biết rất rõ sự hiệp nhất mà Ngài mong ước thiết tha cho chúng ta (như đã trình bày ở trên) có một sức mạnh truyền giáo rất đặc biệt. Sở dĩ như vậy, vì Thiên Chúa và nước trời là những mầu nhiệm, những thực tại vô hình không dễ gì tin, bởi mắt phàm không thấy. Trái lại, khi nhìn thấy đời sống yêu thương hiệp nhất của các tín hữu, người ta sẽ nhận ra có sự hiện diện của Thiên Chúa và nước trời.
Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI cũng đã diễn tả sâu sắc về giá trị tông đồ của sự hiệp nhất, ngài nói: “Lời di chúc thiêng liêng của Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu rằng, sự hiệp nhất giữa chúng ta không những là bằng chứng chúng ta là môn đệ Ngài, nhưng còn là bằng chứng Ngài được Chúa Cha sai đến và đó cũng là trắc nghiệm về sự đáng tin của các Kitô hữu và của Chúa Kitô”.
Quả vậy, có hiệp nhất với nhau, các kẻ tin mới tỏ ra mình không phải là những con người bị chia rẽ bởi những tranh chấp, nhưng là những con người có đức tin trưởng thành, có khả năng đối thoại, gặp gỡ nhau nhờ việc cùng tìm kiếm chân lý cách chân thành vô vị lợi. Như vậy sự hiệp nhất minh chứng chúng ta là môn đệ Đức Kitô, là những con người có đức tin vững mạnh và đó là lý do hấp dẫn người ngoài để họ dễ tin vào lời chứng của chúng ta. Hơn nữa, một sự hiệp nhất đến từ Thiên Chúa liên kết chúng ta lại với nhau là biểu hiện sự hiện diện của Thiên Chúa và nước trời ở giữa thế gian, như lời Chúa Giêsu thân thưa cùng Chúa Cha: “Xin cho họ nên một, như vậy, thế gian có thể nhận biết rằng chính Cha đã sai Con và đã yêu thương họ như đã yêu thương Con”.
Sống hiệp nhất nên một cách thân mật như “Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” có một sức mạnh rất đặc biệt cho việc loan báo Tin Mừng. Thế nhưng làm sao chúng ta có thể hiệp nhất nên một cách thân mật như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha được? Quả thật, một sự hiệp nhất như thế nằm ngoài tầm tay của chúng ta và sự hiệp nhất này chỉ có thể thực hiện nơi chúng ta nếu chính Thiên Chúa thực hiện trong ta. Đó là điều mà Chúa Giêsu đã nói: “Con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho Con, để họ được nên một như Chúng Ta là một…” Vinh quang ở đây, chính là sự sống của Thiên Chúa. Việc chúng ta hiệp nhất vào chính sự sống của Thiên Chúa là cơ sở cho việc chúng ta hiệp nhất với nhau, cho nên phương thế hay nhất để thực hiện sự hiệp nhất giữa chúng ta là mức độ chúng ta thông hiệp vào vinh quang của Chúa Giêsu, vào cuộc sống Thần Linh của Ngài, nhờ việc kết hiệp với Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, qua rước lễ, viếng Chúa Giêsu Thánh Thể; nhờ việc lắng nghe và thực thi lời Chúa trong cuộc sống; nhờ việc chân thành cầu nguyện cho sự hiệp nhất trong Giáo Hội, giữa các Kitô hữu với nhau và cho một thế giới tốt đẹp hơn. Một khi hiệp nhất với Chúa Giêsu như thế, chúng ta sẽ dễ dàng hiệp nhất và yêu thương nhau, tránh được mọi hận thù, chia rẽ, ghét ghen… Có như thế, chúng ta mới thực sự là dấu hiệu để người ngoại nhận ra Thiên Chúa là tình yêu và nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế được Chúa Cha sai đến để thực hiện chương trình yêu thương của Người, và lúc đó chúng ta sẽ thấy rằng sống hiệp nhất có một sức mạnh rất đặc biệt trong việc truyền giáo.
Ước chi phụng vụ lời Chúa hôm nay giúp chúng ta ý thức được sống hiệp nhất có một sức mạnh truyền giáo; ý thức rằng Chúa Giêsu đã tha thiết cầu nguyện cho chúng ta được hiệp nhất với nhau như Ngài trong Cha và Cha trong Ngài; ý thức rằng Chúa Giêsu đang cần đến sự cộng tác của chúng ta với ơn Chúa để làm triển nở sự hiệp nhất trong cộng đoàn xứ đạo, gia đình của chúng ta. Nhờ đó chúng ta sống gắn bó với Chúa Giêsu hơn qua việc năng dâng lễ, hiệp lễ, lãnh nhận các bí tích, lắng nghe lời Chúa, cầu nguyện cho sự hiệp nhất yêu thương trong gia đình cũng như trong xứ đạo của chúng ta. Hơn nữa, có Chúa Giêsu là giềng mối sự hiệp nhất trong chúng ta, chúng ta sẽ dễ dàng sống hiệp nhất yêu thương đối với anh chị em của chúng ta. Nguyện xin Chúa Giêsu tiếp tục tác tạo sự hiệp nhất nơi chúng ta.
78. Nên một
Khi cầu nguyện cho các môn đệ tương lai điều quan tâm chính của Người là sự hiệp nhất giữa họ. Người cầu xin Chúa Cha: “Để họ được nên một như chúng ta là một”.
Sự hiệp nhất không giống như sự đồng phục. Đức Giêsu chọn lựa các môn đệ với đủ loại tính khí, phân cách, phong cách và tầng lớp xã hội để gợi ý rằng Người đã tìm trong tính đa dạng một sức sống lành mạnh.
Sự nên một không thể được thực hiện trong một cộng đoàn từ chối sự khác nhau. Sự nên một được hoàn thành khi mọi thành viên khác nhau và góp phần bằng những ơn gọi khác nhau, nhưng tất cả đều được hiệp nhất xung quanh một mục đích chung bởi sự yêu thương nhau. Mỗi người chúng ta phải được thanh luyện khỏi nhu cầu chứng tỏ mình là tốt nhất. Chúng ta phải mở rộng lòng mình với những người khác và vui mừng tiếp đón những ơn gọi của họ.
Chúng ta được kêu gọi từ nhiều tình trạng khác nhau để tạo thành một thân thể trong Đức Kitô. Bằng sự vượt lên trên những sự khác nhau đó, chúng ta trở thành nhân chứng của Thiên Chúa, Đấng cho ánh sáng chiếu soi trên những đường lối khác nhau.
Người ta kể lại một câu chuyện rằng ngày thứ ba của công cuộc sáng thế, sau khi đã tạo ra cây cối, Thiên Chúa đụng phải một vấn đề bất ngờ. Những cây tuyết tùng ở xứ Libăng dường như quá cao đến nỗi chúng bị cám dỗ sinh ra lòng kiêu ngạo. Và thế là Thiên Chúa quyết định tạo ra chất sắt.
Các cây ấy lập tức biết rằng đã có mối đe dọa và bắt đầu khóc, vừa khóc chúng vừa nói: “Oi khổ thân chúng tôi, một ngày nào đó, chúng tôi sẽ bị lưỡi rìu đốn ngã”. Nhưng Thiên Chúa đã trấn an chúng; Người nói với chúng: “Nếu không có cái cán, cây rìu chỉ là một cục sắt. Mà cái cán rìu lại làm bằng gỗ, các ngươi hãy cố sống trong bình an và không phản bội nhau. Hãy sống hiệp nhất và cái rìu sẽ không có quyền lực gì để chống lại các ngươi”.
Đức Giêsu biết rằng sự nên một hay hiệp nhất là sự sống của cộng đoàn non trẻ (các môn đệ). Nhưng phải có sự nên một trên nền tảng yêu thương, và là kết quả của lòng trung thành với giới răn yêu thương: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Cộng đoàn là một thách đố lớn. Tình huynh đệ còn đi xa hơn sự tha thứ cho nhau. Nó bao hàm sự liên đới, chia sẻ, tùy thuộc, nhân hậu và niềm vui mừng trong hạnh phúc của những người khác. Tính vị kỷ là một tai họa đối với một cộng đoàn: mỗi người yêu cầu cộng đoàn quan tâm đến mình, nhưng không một ai muốn quan tâm đến những người khác.
Đáng buồn là qua bao thời đại, sự hiệp nhất mà Đức Giêsu mong ước cho Giáo Hội của Người đã bị rạn nứt nhiều lần. Kết quả là ngày nay chúng ta không phải chỉ có một mà có nhiều Giáo Hội Kitô giáo. Những chia rẽ giữa các Kitô hữu là một cớ gây vấp ngã cho người ngoại giáo. Tuy nhiên, điều thật sự gây vấp ngã không phải là có nhiều tín ngưỡng và sự hành đạo khác nhau của các Kitô hữu thuộc các giáo phái khác nhau, nhưng là giữa họ, có sự thù địch nhau. Chúng ta thấy sự thù địch được đẩy nén cực độ trong bài đọc sách Công vụ Tông đồ liên quan đến việc giết chết Têphanô. Ở đây chúng ta có những người trung kiên của một tôn giáo (Do thái giáo) giết những người của một tôn giáo khác nhau. Chúng ta không nên ngồi chờ điều đó. Nhưng phải chuẩn bị sẵn sàng cho sự qui tụ sắp tới của mọi Kitô hữu.
79. Người yếu
Làm một tín hữu trong thế giới ngày nay có thể là một công việc lẻ loi. Nhưng chính ở chỗ này mà cộng đoàn xuất hiện. Chúng ta cần có cộng đoàn để nâng đỡ đức tin của chúng ta. Trong bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu đã cầu nguyện cho sự hiệp nhất của các môn đệ Người: “Lạy Cha, xin cho họ được nên một như chúng ta là một”. Nhưng có phải đây là một lý tưởng không thể có sao? Phải chăng người ta không cần trở nên hoàn thiện và thuộc về một cộng đoàn như thế?
Ngày xưa, một thanh niên có lý tưởng được một cộng đoàn các thầy tu lôi cuốn. Ước muốn gia nhập cộng đoàn ấy là một điều không tránh khỏi đối với anh. Và khi gia nhập, anh trở thành một tập sinh. Ban đầu anh được huấn luyện để trở thành một thành viên của một cộng đoàn những người thánh thiện. Nhưng anh không ở lại đó lâu khi anh có một sự thức tỉnh đột ngột. Anh khám phá rằng những người mà anh xem như hoàn hảo cũng có đầy những thiếu sót và bất toàn. Thật vậy, họ cũng mỏng giòn, tội lỗi và vị kỷ như anh. Anh ta hoàn toàn vỡ mộng đến nỗi anh đã rời bỏ tu viện.
Một cộng đoàn Kitô hữu không gồm những người hoàn hảo. Cộng đoàn nhỏ các tông đồ mà Đức Giêsu cầu nguyện cho họ gồm những người nhút nhát, yếu đuối và sợ hãi. Jean Vanier nói về “Hội đoàn của những người yếu” và nói rằng sự đoàn kết lớn hơn có thể là kết quả của việc chia sẻ sự yếu đuối so với việc chia sẻ sức mạnh.
Điều này xem ra mâu thuẫn. Nhưng hãy lấy một bó đũa làm ví dụ. Từng chiếc đũa thì yếu ớt và dễ bị bẻ gãy. Nhưng khi cột chung thành bó, chúng hầu như không thể bẻ gãy được. Với con người cũng thế, sức mạnh to lớn là kết quả của việc qui tụ, đặc biệt qui tụ những người yếu đuối. Cộng đoàn dường như được liên kết với sự yếu đuối và dễ bị tổn thương. Khi người ta đang vui hưởng sự thành công, người ta tìm kiếm sự thán phục, nhưng khi người ta yếu đuối, người ta tìm kiếm sự hiệp thông. Nếu người ta tìm thấy sự hiệp thông, người ta biết rằng họ được yêu thương không phải vì những thành tựu của họ, nhưng vì họ là ai. Kết quả là họ đạt được sự tín nhiệm lẫn nhau.
Và tâm hồn của một người có khả năng và mạnh mẽ luôn mở ra và tiếp xúc với lời kêu gọi yêu thương đến từ một người yếu đuối hơn mình. Khi một người nào đó nói với bạn về sự thành công và năng lực khác thường của người ấy, bạn thán phục người ấy. Nhưng khi người ấy chia sẻ những thất bại và yếu đuối của người ấy với bạn, người ấy gợi lên lòng thương cảm. Sự thương cảm dẫn đưa và tạo ra sự hiệp thông.
Sức mạnh được giấu kín trong sự yếu đuối và cộng đoàn chân thật gồm những bạn bè yếu đuối. Hội những người nghiện rượu vô danh là một ví dụ cho điều này. Điều kéo các thành viên đến với nhau là không để được chia sẻ sức mạnh mà là chia sẻ sự yếu đuối là thừa nhận một cách trung thực sự yếu đuối và tính chất dễ tổn thương mà người nào cũng có. Không ai là một mối đe dọa cho người khác, và điều này làm họ sẵn sàng chia sẻ và đón nhận lẫn nhau. Không phải là người hoàn hảo mới được chia sẻ đời sống cộng đoàn.
Các Kitô hữu tiên khởi chịu đựng lẫn nhau bằng việc cầu nguyện và cùng nhau thờ phượng Thiên Chúa cũng như yêu thương phục vụ lẫn nhau. Chúng ta có thể làm được điều tương tự. Chúng ta có thể cùng nhau tiến bước, lắng nghe và học hỏi lẫn nhau. Chúng ta phải mở rộng sang những thành viên khác của cộng đoàn cùng loại hiểu biết và thương cảm mà chính chúng ta mong ước nhận được từ họ.
“Mầu nhiệm cứu độ của tình yêu Thiên Chúa được nhìn thấy “không phải trong một cộng đoàn của các anh hùng tâm linh mà của anh chị em khuyến khích nhau trong cuộc hành trình về vương quốc của niềm hy vọng và thương xót” (Timothy Radcliffe)
80. Cái giá phải trả cho cuộc sống
Kitô hữu chúng ta thường bị tố giác là những người bị ám ảnh với sự sống đời sau mà lãng quên mất cuộc sống hiện tại. Nhưng Kitô giáo không phải là một tôn giáo nghi kỵ cuộc sống cho dù là bên ngoài có vẻ đối ngược với cách sống của một số người. Chúa Giêsu đã không đến trần gian để cướp đi niềm vui của cuộc sống. Chúa Giêsu đến mang cho nhân loại Tin Mừng: cuộc sống này là món quà Thiên Chúa ban cho chúng ta bởi vì Ngài yêu thương chúng ta và lo lắng cho chúng ta! Có lẽ bởi vì chúng ta còn chưa hiểu rõ được sứ điệp Tin Mừng mà Chúa Giêsu mang đến cho chúng ta tại thế gian cho nên chúng ta mới lo sợ đến sự sống đời sau. Thật ra sự sống đó đã bắt đầu ngay từ ở đời này. Sự sống đó đến với chúng ta, và nếu chúng ta còn không biết sống ở đời này ngay bây giờ thì việc lo sợ đến sự sống đời sau thật là vô ích.
Có một câu truyện kể về một chàng thanh niên trẻ xích lại gần, ôm người bạn gái và nói, “Em ơi, anh rất yêu em, anh rất cần em, anh không thể nào sống nếu thiếu em.” Người con gái nhẹ nhàng đẩy người bạn ra và bảo, “Làm ơn đi anh Gioan, đừng nói như vậy. Đừng có làm như thiệt vậy.” Và anh Gioan liền hỏi lại, “Như thiệt vậy?” Thật ra đó là cách thức mà nhiều người chúng ta thường nói và bày tỏ trong cuộc sống mà trong tâm tư không có ý gì cả. Chúng ta chỉ nói chơi thôi.
Chúa Giêsu không bao giờ chơi chữ với chúng ta như thế. Chúng ta còn nhớ câu truyện người thanh niên giàu có đi tìm sự an ủi cho sự trống rỗng trong tâm hồn của anh. Anh có tất cả những gì cần thiết trong cuộc sống, thế nhưng anh vẫn cảm thấy một sự trống rỗng. Anh đã tuân giữ Thập Giới từ khi còn bé. Đối với tiêu chuẩn của cuộc sống, anh là người gương mẫu và lý tưởng, thế nhưng anh lại là một người xa lạ đối với cuộc sống của chính mình. “Lạy Thầy nhân lành, con phải làm gì để tìm kiếm được sự sống đời đời?” (Lc 18:18). Chúa Giêsu đã trả lời với anh một cách thành thật và đứng đắn rằng anh cần phải làm thêm một điều nữa là hãy về bán hết của cải và bố thí cho người nghèo khổ và đến theo Ngài (Lc 18:22).
Có một câu truyện khôi hài như vầy. Một người đàn ông nọ có một sáng kiến muốn đi trên một sợi dây thừng bắt ngang qua Thác Niagara. Sáng kiến này đã được nhiều người thực hành, thế nhưng người đàn ông này còn táo bạo hơn nữa là ông định tâm sẽ vừa đi trên dây vừa đẩy một chiếc xe cút-kít và chở một người ở trên đó. Ông đã không ngừng luyện tập đi trên dây và đẩy chiếc xe cút-kít chở đầy đá. Một ngày nọ, có một người đến nói với ông rằng anh rất tin tưởng ông ta có thể làm được chuyện đó. Người đi trên dây hỏi lại, “Có phải anh rất tin tưởng tôi có thể làm được chuyện này không?” Người kia liền trả lời, “Tôi tin như thế!” Người đi trên dây liền bảo anh ta, “Vậy thì anh hãy lên ngồi trên chiếc xe cút-kít này để tôi đẩy anh đi trên dây.”
Đó là điều mà Chúa Giêsu đã làm đối với những ai muốn đi theo Ngài. Ngài hỏi họ có tin vào Ngài không, nếu có thì, “Hãy ngồi vào chiếc xe cút-kít! Hãy chứng minh! Hãy từ bỏ những chiếc thuyền đánh cá! Hãy từ bỏ gia đình! Hãy theo ta!” Việc này thường được gọi là vâng lời một cách tuyệt đối mà không ngoại lệ. Đó là điều làm cho nhiều người phải điêu đứng ngập ngừng khi phải đối diện. Cái lý do tại sao là bởi vì chúng ta coi thường sự việc, chúng ta lơ là không nghiêm túc. Chúng ta không hoàn toàn tín thác vào Chúa Giêsu khi Ngài nói với chúng ta phải trả cái giá để đạt được sự viên mãn của mình.
Nếu các bạn là những người đang đi tìm những câu trả lời cho những thắc mắc của cuộc sống thì bạn nhớ hai điều: hãy nghiêm túc và hãy chuẩn bị để trả cái giá mà nó đòi hỏi. Các bạn phải sẵn sàng như Thánh Stêphanô trong thời Giáo Hội tiên khởi. Bởi vì vâng lời Chúa Kitô một cách tuyệt đối, ngài đã phải chịu sỉ nhục và ném đá do những người chống đối. Tại chỗ bị ném đá, thánh nhân đã quì gối và cầu rằng, “Lạy Chúa, xin nhận lấy linh hồn con... Nói thế rồi, ông an nghỉ” (Cv 7:59). Những lời cuối cùng này chứng tỏ rằng Thánh Stêphanô đã nắm chắc được điều ông tin và hiểu được ý nghĩa của cuộc sống, và ông sẽ đi đâu. Thánh Stêphanô không phải là người xa lạ với sự sống đời sau, và cũng không phải là người xa lạ với sự sống đời này. Thánh Stêphênô đã không do dự để trả lời lời kêu gọi của Chúa Giêsu để bước vào chiếc xe cút-kít bởi vì thánh nhân đã quá quen với sự việc đó nhiều lần trước khi ngài trả lời để đi theo cuộc sống làm chứng nhân. Thánh nhân đã tin vào lời hứa của Đức Kitô rằng khi cuộc sống này kết thúc thì phần thưởng sẽ là hân hoan và vui mừng. Nhiều người trong chúng ta, có lẽ tất cả chúng ta, sẽ được hỏi để mà trả cái giá dưới một hình thức nào đó.
Chúng ta đi tham dự Thánh Lễ và chẳng có chút gì biến đổi cả. Chúng ta cần phải làm gì để chúng ta được biến đổi. Chúng ta có tin rằng Chúa Giêsu có thể đem tình yêu của Thiên Chúa vào trong cuộc sống của chúng ta, canh tân cuộc sống của chúng ta! Vậy, chúng ta hãy nhảy vô chiếc xe cút-kít, hãy đặt sự sống của chúng ta trong tay Ngài, và hãy hoàn toàn tín thác vào Ngài.
81. Suy niệm của Lm Nguyễn Hữu Thy
TẤT CẢ HÃY HIỆP NHẤT NÊN MỘT
Qua bài Tin Mừng của chúa nhật hôm nay, chúng ta đã nghe lời cầu nguyện của Đức Giêsu: “Lạy Cha, xin cho tất cả họ trở nên một; như Cha ở trong con và con ở trong Cha, tất cả họ cũng phải trở nên một!” Tiếp đến, Đức Giêsu cũng đã nêu lên lý do tại sao Người đã xin cùng Chúa Cha cho các môn đệ của Người biết hiệp nhất với nhau: “...để qua đó, thế gian tin rằng Cha đã sai con!”
Chúng ta biết rằng Đức Giêsu đã cầu nguyện cho sự hiệp nhất giữa những kẻ tin nhận Người như thế vào chính lúc Người và các môn đệ cử hành Bữa Tiệc Ly, bữa ăn sau cùng giữa Thầy trò, vào những giây phút cuối trước khi Người bước vào cuộc khổ nạn. Vâng, đó là những lời trăn trối cuối cùng, là bản di chúc, mà Đức Giêsu để lại cho các môn đệ của Người, những Kitô hữu chúng ta. Và bản di chúc của một người đã ra đi vào chốn thiên thu thì bao giờ cũng linh thiêng và có tính cách bó buộc, khiến những người còn sống bao giờ cũng phải kính trọng, bảo tồn và thực thi một cách nghiêm chỉnh. Nhưng nếu đó lại là bản di chúc của một Thiên Chúa làm người, thì giá trị của nó hoàn toàn mang tính cách tuyệt đối, và các môn đệ của Người cũng hoàn toàn bất khả lựa chọn một giải thích khác ngoài việc thực thi trọn vẹn nó, và theo đúng từng chấm phẩy!
Nhưng liệu những người kitô hữu chúng ta đã có được thái độ trân trọng như thế đối với bản di chúc, đối với những lời trăn trối đầy tâm huyết của Đức Giêsu, Đấng từng yêu thương và đã chịu chết để chúng ta được hưởng ơn cứu độ?
Những ai đã một lần kính viếng nhà thờ được xây dựng trên chính mộ Đức Giêsu ở Giê-ru-sa-lem và quan sát cảnh các kitô hữu thuộc các giáo phái luôn khích bác và tranh dành cãi vã lẫn nhau, sẽ không khỏi ngậm ngùi đau xót tự hỏi: Tại sao các môn đệ Đức Giêsu, lại khinh thường lời di chúc của Người như thế?
Dĩ nhiên, sự hiệp nhất ở đây không chỉ muốn nói đến sự hiệp nhất giữa các giáo phái thuộc Kitô giáo, nhưng còn là sự hiệp nhất giữa tất cả mọi kitô hữu nói chung và sự hiệp nhất giữa các kitô hữu trong một cộng đoàn. Mọi cãi cọ, tranh dành, hận thù, ghen ghét và kỳ thị, phải được loại bỏ hoàn toàn khỏi các cộng đoàn Kitô giáo, vì nó phản tinh thần và ý muốn của Đức Kitô!
Nếu ngày nay và khắp nơi, mọi thứ đều phải được thử, đều phải được trắc nghiệm trước, thí dụ: Đường hướng chính trị, hàng hóa, xe cộ, v.v..., thì phải chăng lời cầu nguyện của Đức Giêsu trước khi chết không phải là một trắc nghiệm về đời sống Kitô giáo của chúng ta, về thái độ đồng cảm và đồng tâm của chúng ta với Đức Kitô? Trước lời cầu nguyện tha thiết như thế của Đức Giêsu: Chúng ta vẫn dửng dưng coi thường hay chúng ta đã quan tâm lắng nghe? Chúng ta có cảm thấy đau xót là từ hằng bao thế kỷ qua và cả đến hôm nay nữa, chính những kitô hữu chúng ta vẫn khép cửa lòng mình lại trước lời cầu xin đó của Chúa Cứu Thế? Chúng ta có đau khổ trước cảnh chính những người kitô hữu chúng ta lại nhẫn tâm chống lại ý muốn của Vị Cha Chung của mình để xâu xé và chia rẽ nhau? Chúng ta không cảm nhận được vết thương đang hằn sâu lên thân mình Đức Kitô sao? Chỉ những người bất tỉnh và mất hết mọi cảm giác mới không cảm nhận được sự đau đớn đó!
Hoặc người ta có thể trắc nghiệm một cách khác, tức: Chúng ta có vui mừng là ngày nay, những người kitô hữu chúng ta đã thức tỉnh và thoát khỏi tình trạng bất cảm và đã biết đau đớn trước những vết thương nơi thân mình Đức Kitô? Chúng ta có vui mừng, là trước lời cầu xin của Đức Giêsu “Lạy Cha, xin cho tất cả nên một”, chúng ta đã biết cảm thấy đau xót và khao khát? Chúng ta có vui mừng là các kitô hữu khắp nơi trên thế giới đã biết nỗ lực vượt lên trên những chia rẽ và cùng quay trở về hiệp nhất với nhau như Đức Giêsu muốn không?
Trong tám ngày nữa, chúng ta sẽ mừng đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, Đấng mà theo thánh Phaolô là Thần Khí của sự hiệp nhất (x. 1Cr 12,13). Dấu chỉ cho sự hiệp nhất đó, là vào ngày lễ Chúa Thánh Thần đầu tiên của Giáo Hội, mọi dân tộc đã họp nhau trước nhà các Tông đồ và tất cả đã nghe và đã hiểu được sứ điệp thánh Phêrô công bố, bởi vì đó lá sứ điệp tình yêu của Thiên Chúa. Nhưng trước ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, “tất cả các Tông đồ đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với Đức Maria thân mẫu Đức Giêsu, và mấy người anh em của Người” (Cv 1,14).
Đúng vậy, chúng ta không thể áp đặt hay ép buộc được phép lạ hiệp nhất được, nhưng chỉ cầu xin như Đức Giêsu đã cầu xin vậy. Vâng, phép lạ hiệp nhất chỉ có thể xảy ra nơi những cộng đoàn Kitô giáo có tinh thần cầu nguyện, biết mở rộng tâm hồn đón nhận sự hướng dẫn của Thiên Chúa và sống theo tinh thần Đức Giêsu.
Max Metzger, vị anh hùng tử đạo thời danh dưới chế độ độc tài Đức Quốc Xã, và là một trong những vị sáng lập phong trào Una-Sancta-Bewegung, bị xử tử 1944, đã viết trong cuốn Nhật ký của ngài trước khi chết: “Tâm hồn tôi hoàn toàn an bình. Tôi đã cống hiến đời tôi cho sự hiệp nhất của Giáo Hội. Và lòng tôi sẽ tràn đầy hoan lạc, nếu Thiên Chúa chấp nhận!” Những kitô hữu can trường và xác tín như thế đã khích lệ, đã động viên chúng ta, cùng hiệp nhất với nhau và hiệp nhất với Mẹ Giáo Hội! Nhưng nhất là lời cầu nguyện mà trước khi chết Đức Giêsu đã dâng lên Chúa Cha, đã động viên chúng ta một cách mạnh mẽ: “Lạy Cha, con đã ban cho họ sự vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một, như chúng ta là một. Vậy, họ phải hoàn toàn nên một; hầu qua đó, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con!” (Ga 17,22-23). Amen.
82. Xin cho tất cả nên một--Jos. Vinc. Ngọc Biển
Chuyện xưa kể rằng: có một ông bố muốn giáo dục con cái về sự hiệp nhất, vì thế, ông đưa cho các con một bó đũa đã cột lại làm một và bảo các con bẻ thử, mấy người con cố gắng cũng không thể nào bẻ gẫy bó đũa... Sau đó, ông lại bảo: hãy tháo bó đũa ra và bẻ từng cái và thế là bó đũa bị bẻ gẫy dễ dàng. Lúc đó, người cha liền bảo: "Như thế là các con đều thấy rằng chia lẻ ra thì yếu, hợp lại thì mạnh. Vậy các con phải biết thương yêu, đùm bọc lẫn nhau. Có đoàn kết thì mới có sức mạnh; đoàn kết thì sống, chia rẽ là chết".
Tin mừng hôm nay thuật lại lời cầu nguyện của Chúa Giêsu cho các môn đệ. Ngài cầu nguyện cho các ông được hiệp nhất và yêu thương nhau. Bởi vì nếu họ biết hiệp nhất, yêu thương thì sẽ cùng nhau vượt qua khó khăn, thử thách cách dễ dàng. Cùng chung tay xây dựng Giáo hội và cùng nhau làm chứng cho Chúa.
1. Hiệp nhất để xây dựng Giáo hội
Đức Giêsu là người hiểu tâm lý của các môn đệ hơn ai hết. Ngài đã đích thân gọi và chọn các ông làm môn đệ cho mình, là những người Ngài sẽ trao phó cách hữu hình công việc xây dựng Giáo hội mà Ngài thiết lập dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Chúa biết rõ sự xuất thân của các ông. Ngài thấu hiểu hoàn cảnh, tâm lý của từng người. Vì thế, lời cầu nguyện cho các môn đệ được hợp nhất là điều rất quan trọng và thực tế. Sự hiệp nhất là yếu tố quyết định sự hưng thịnh hay suy vong của công việc.
Quả thật, nếu không có sự hiệp nhất, thì việc xây dựng Giáo hội trở nên ảo tưởng và vô lý. Và, những lời rao giảng của các ông không ăn nhập gì với mục đích của lời rao giảng. Sự hiệp nhất đó được khởi đi từ khuôn mẫu Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha và Chúa Con nên một nhờ Thần Khí (x. Ga, 15,26). Cũng nhờ Thần Khí ấy ngự trên các môn đệ và làm cho họ hiệp nhất với nhau. Các môn đệ phải là những người đi tiên phong trong sự hiệp nhất này. Trong lịch sử Cứu độ, chúng ta đã thấy rất rõ hậu quả của sự chia rẽ: A đam và E và đã không nghe lời Thiên Chúa nên đã tự mâu thuẫn nội tại khi giơ tay hái và ăn trái cấm. Cain giết Abel vì không hiểu và không thương yêu nhau. Tháp Babel xây không thành vì bất đồng về ngôn ngữ... Chúa Giêsu cầu nguyện cho các ông được hiệp nhất vì: có hiệp nhất, thì mới có mối tương quan, sự cảm thông; mới xây dựng được đời sống cộng đoàn; có sự hiệp nhất thì mới cùng nhau làm chứng về Chúa cách hùng hồn. Nếu không có sự hiệp nhất, thì lẽ tất nhiên, cộng đoàn tan rã và sứ mạng Chúa trao phó không thể chu toàn.
2. Hiệp nhất để truyền giáo
Chúa Giêsu cầu nguyện cho các môn đệ và cho cả những ai tin vào lời các ông rao giảng cũng được hiệp nhất với nhau. Đây quả là yêu tố quan trọng trong khi loan báo Tin mừng. Bởi lẽ, nếu không có sự hiệp nhất, lời rao giảng của các môn đệ trở nên phản chứng hơn bao giờ hết; và những ai đi theo lời các ông loan báo thì thật tệ hại cho cả một đời của họ.
Chúa sắp sửa trao cho các ông sứ mạng truyền giáo đến tận chân trời góc biển. Sứ mạng ấy là quy tụ muôn dân trên khắp mặt đất về một mối. Chỉ có một Chủ chiên và một đoàn chiên duy nhất. Chính vì điều đó, nên Chúa Giêsu khao khát cho các môn đệ phải là những người sống kiểu mẫu về sự hiệp nhất; đồng thời, những ai thuộc về Giáo hội mà các ngài rao giảng cũng đều có một mẫu số chung như các ngài.
Sứ mạng loan báo Tin Mừng ấy luôn đòi hỏi tinh thần hy sinh và từ bỏ của người môn đệ rất cao. Khó khăn ấy là: ốm đau, bệnh tật, cô đơn, hiểu lầm, bắt bớ và chịu chết để làm chứng cho lời rao giảng của mình... Nhưng nếu có sự hiệp nhất, yêu thương thì dù trong hoàn cảnh nào, các ông cũng đều làm chứng cho mọi người về một thực tại siêu việt vượt lên trên những thực tại chóng qua và vô bổ ở đời. Nếu người môn đệ Chúa Kitô rao giảng về một Tin mừng giải thoát, yêu thương mà chính bản thân các ngài lại không có những yếu tố hiệp nhất để chứng minh về lời rao giảng đó thì quả là một điều vô lý. Vì thế, trước khi truyền giáo, người môn đệ phải biết "yêu". Yêu thương là đoàn kết. Yêu thương là sống mầu nhiệm tự hủy để chỉ còn sống cho người khác. Yêu thương là muốn cho người khác cũng được yêu thương như mình. Yêu thương chính là điểm hội tụ của những tấm lòng khao khát tìm chân lý. Có yêu thương như Thầy, thì những lời chứng của người môn đệ mới đủ khả tín. Được như thế, người môn đệ của Chúa Giêsu có quyền hy vọng về một tương lai của Giáo hội mà trong đó người muôn nước sẽ về phủ phục trước Tôn Nhan và muôn dân sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.
3. Người Kitô hữu sống hiệp nhất theo tinh thần của Đức Giêsu
"Lạy Cha, xin cho mọi người nên một" (Ga 17,21) là lời cầu nguyện thể hiện mối ưu tư của Chúa Giêsu rất lớn. Lời cầu nguyện này phát xuất từ nỗi lòng của Ngài trong bữa tiệc ly trước khi chia tay các môn đệ.
Hôm nay, Lời Chúa mời gọi mỗi người chúng ta biết cùng nhau chung tay xây dựng tình hiệp nhất nơi môi trường, nơi hội đoàn của mình. Biết bỏ đi những kiêu ngạo, ích kỷ, tư lợi cá nhân để xây dựng công ích. Vợ chồng biết nhường nhịn nhau, con cái biết ngoan ngoãn vâng lời cha mẹ. Anh chị em biết đoàn kết với nhau, yêu thương và đùm bọc nhau. Biết ý thức được giới hạn của mình để cần đến người khác.
Tuy nhiên, không ai cho cái mình không có. Phải có mới cho. Vì thế, sự hiệp nhất phải bắt nguồn từ Chúa Giêsu. Hiệp nhất với Chúa Giêsu như ngành nho với thân nho; như cây cối cần ánh sáng của mặt trời; như cá trong nước... Có hiệp nhất với Chúa Giêsu và nên một với Ngài thì mới phát sinh sự hiệp nhất với nhau. Đây cũng chính là điều kiện để trổ sinh hoa trái. Hiệp nhất mang tính truyền giáo và truyền giáo nhằm mục đích hiệp nhất. Nếu ai hiệp nhất với Thiên Chúa thì phải sinh hoa kết trái dồi dào. Còn những ai không sinh hoa kết trái thì chính người ấy đã không sống trong sự hiệp nhất với Thiên Chúa.
Ước mong lời cầu nguyện của Chúa Giêsu khi xưa, nay được hiện tại hóa và sinh hoa kết trái dồi dào nơi những môn đệ của Ngài trong thế giới hôm nay.
Lạy Chúa, xin Chúa ban cho chúng con luôn được hiệp nhất với nhau, nhờ biết loại bỏ hận thù, kỳ thị, tranh chấp, kết án lẫn nhau... Xin cho chúng con luôn khiêm tốn trong lời nói và hành động, để không làm thương tổn đến sự hiệp nhất trong Giáo hội, trong xã hội và nơi gia đình. Amen.
83. Chú giải của Noel Quesson
Hôm nay, chúng ta đọc phần cuối “Lời cầu nguyện cho linh mục” của Đức Giêsu.
Đức Giêsu ngước mắt lên trời và cầu nguyện rằng
Tôi thử mường tượng ra quang cảnh trên. Lúc đó là vào chiều thứ năm, Đức Giêsu sắp sửa ra đi chịu chết. Sau khi đã bầy tỏ những tâm sự cuối cùng khá lâu vó các bạn hữu mà Ngài sắp rời bỏ, Đức Giêsu bắt đầu ngỏ lời với Chúa Cha: Ngài cầu nguyện. Đây là lời cầu nguyện dài nhất của Đức Giêsu trong các Tin Mừng.
Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con.
Một lần nữa, chúng ta được mời gọi tìm hiểu xem Đức Giêsu đã ý thức thế nào về Người. Người khoảng ba mươi tuổi sắp phải chết, chỉ dùng ba năm để đề xuất một công trình cần thực hiện. Một trong số mười hai môn đệ mà Người đã tuyển chọn, vừa mới ra ngoài để phản nộp Người Đức Giêsu còn biết rằng, mười một ông khác cũng sẽ bỏ Người. Trong tình huống đó, Đức Giêsu “cầu nguyện” cho những kẻ nhờ lời họ mà tin vào Người trong tương lai. Vâng, Đức Giêsu đã nhìn thấy trước toàn bộ công việc phát triển rộng lớn của công trình Người thực hiện. Người nhìn thấy từng đoàn lũ người sẽ tin vào Người. Người đã thấy trước Giáo hội.
Đức Giêsu đã cầu nguyện cho mọi người, trong những thời đại tiếp sau, sẽ tin vào Người: Người cầu nguyện cho tôi, ngay chiều hôm đó.
Đó là lời cầu nguyện được thực hiện vào một buổi chiều, lời cầu nguyện của một con người cụ thể. Thánh Phaolô quả quyết, lời cầu nguyện đó sẽ không khi nào chấm dứt, bởi vì giờ đây Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa để cầu nguyện giúp cho chúng ta (Rm 8,34). “Ngài hằng sống để chuyển cầu cho họ”. (Dt 7,25).
Vậy nội dung của lời cầu nguyện đó là gì? Đức Giêsu có cầu xin Chúa Cha cho các tín hữu không?
Xin cho tất cả nên một...
Lời nguyện chúc cơ bản mà Đức Giêsu muốn dành cho Giáo hội của Người: đó là sự Hiệp nhất!
Một lần nữa, qua lời cầu nguyện này, Đức Giêsu xuất hiện trước chúng ta như một người sáng suốt phi thường. Người đã cảm thấy trước biết bao đám đông dân chúng, từng tỷ con người sẽ tin vào Người (điều đó đã trở nên hiện thực)! Người dũng cảm thấy rằng, thảm kịch to lớn của các tín hữu là sự “chia rẽ” (điều đó cúng đã xảy ra)!. Tư tưởng tôn giáo đúng nghĩa, vẫn thường mang trong mình nguy cơ ly giáo, vì những điều tuyệt đối mà nó chuyển tải, vì những thái độ cao thượng mà nó gợi lên: đáng buồn thay, các bè phái lại rất gần với sở thích kiếm tìm chân lý. Các ý thức hệ hiện đại, với đặc tính thường quá triệt để của chúng, luôn dẫn đến sự cuồng tín, và do đó đến những ly cách và sai lầm.
Vâng, sự hiệp nhất là một trong những đề tài bi thiết hiện đại. Biết bao sự hiệp nhất đã bị gẫy đổ, biết bao thái độ chống đối, biết bao mối hận thù trong thế giới, cũng như trong Giáo hội.
Lạy Cha, như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha
Đó không chỉ là một sự thông cảm bình thường giữa hai người bạn. Còn có một điều gì khác hơn là một sự khoan nhượng chân thành với nhau. Đó không chỉ là “sự đồng hiện hữu,bình ổn” của các khối, mà trên thực tế họ tìm hết cách để kịch hệt tiêu diệt lẫn nhau.
Mô hình tiêu biểu được Đức Giêsu đưa ra cho các Kitô hữu, đó là Chúa Ba Ngôi. Dù là nhiều nhưng chỉ làm nên một. Thực sự, chúng ta luôn nghĩ đến một thứ hiệp nhất quá dễ dãi, đó là những người không suy tư như chúng ta; con phải liên kết lại với chúng ta! Khi hai người chia rẽ nhau vì sở thích, chọn lựa, tập quán, thì không phải là sự hiệp nhất đích thực. Khi đơn thuần, ta triệt hạ một trong hai người tương quan: lúc đó, sự hiệp nhất chỉ là loại bỏ một trong hai; một thứ đồng hóa mà thôi! Trái lại trong Thiên Chúa, các ngôi vị hoàn toàn tách biệt nhau, nhưng lại tôn trọng nhau, luôn sống trong mối hiệp thông trọn vẹn mà không lẫn lộn; đó là sự hiệp nhất của nhiều ngôi vị. Theo Thiên Chúa, sự hiệp nhất không ở chỗ chỉ nhằm tẩy xóa những tiềm năng khác nhau của mỗi nhóm người, mỗi cá nhân trong một thứ phối hợp mà không để ý đến nét nổi bật và thi vị. Giáo hội cần phải xây dựng một sự hiệp nhất trong thái độ tôn trọng những khác biệt chính đáng.
Tại sao mọi chủng tộc, mọi nền văn hóa lại phải làm mất đi nét độc sáng, đã được Thiên Chúa trao ban cho họ như một yếu tố của sự hòa hợp phổ quát? Tại sao một kiểu đạo đức lại có thể buộc những người cầu nguyện cách khác phải tuân theo? Cần phải chân thành thú nhận rằng, Giáo hội Công giáo từ lâu vẫn lẫn lộn “sự hiệp nhất” với “Âu Châu” hay “La tinh” của mình. Những nhà thần học có tầm cỡ của các xứ truyền giáo thường nghĩ rằng, những mầu nhiệm quan trọng của Kitô giáo (Chúa Ba Ngôi, Nhập thể, Cứu chuộc...) chỉ thực sự bày tỏ tất cả sự phong phú thần học, khi chúng được chuyển dịch lại nhờ các bộ óc của những người An Độ, những người Châu Phi, chịu ảnh hưởng của Phật giáo hay thuyết Vật Linh; cũng như các mầu nhiệm đó đã bắt đầu bày tỏ ánh sáng đầu tiên qua tư tưởng Hi Lạp của Platon và Aristote.
Nhưng chúng ta sẵn sàng sống “sự hiệp nhất” thâm sâu đó giữa những “người khác biệt” không?
Ngày nay, mọi Người đều nói đến “tính đa dạng” và hiệp nhất”. Thực sự, chúng ta có hướng tới một thái độ chân thành lắng nghe những khác biệt, một trao đổi những khả năng riêng tư một chia sẻ văn hóa, “những hệ kín”, một sự tôn trọng kẻ khác không?
Để họ được hoàn toàn nên một, như vậy thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con.
Đức Giêsu đã nói với chúng ta hãy “yêu thương như Người”. Ở đây, Người nói hãy trở nên “một” như Ba Ngôi Thiên Chúa! Nhưng trong câu này, Người còn thêm rằng, chính sự giống nhau đó làm nên Giáo hội mang tính “thừa sai”. Công đồng Vatican II, Công đồng đầu tiên trong lịch sử đề cập tín điều về Giáo hội một cách trực diện, trong Hiến chế tín lý quan trọng “Lumen Gentium” (Anh sáng muôn dân), đã đặt trọn vẹn suy tư'của mình trên một kiểu nói của thánh Xy-pri-anô, giám mục thành Các-ta-gô vào khoảng năm 250: “Giáo hội là một dân tộc rút ra sự hiệp nhất cho mình, từ sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Thần”. Giáo hội là sự mở rộng cho nhân loại, kiểu tương quan liên vị hoạt động trong Thiên Chúa Giáo hội là “bí tích hữu hình” của Thiên Chúa, là “dấu chỉ” của Người: “Giáo hội, ở trong Đức Kitô, như là bí tích, nghĩa là dấu chỉ và phương tiện để kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, và để hiệp nhất với toàn thể nhân loại” (LG số 1).
Thỉnh thoảng ta tiếp tục tìm kiếm xem đâu là những kỹ thuật những cách thức làm tông đồ tốt hơn, những công trình cần phải thiết lập hay nuôi dưỡng, để “Phúc âm hóa” thế giới, để thế gian tin; để trao lại đức tin cho người trẻ, những người trưởng thành đã đánh mất nó. Từ lâu, Đức Giêsu đã trả lời, đã đưa ra quan điểm của Người: chính sự “hiệp nhất” có sức loan báo Tin Mừng! “Hãy nhìn xem, họ yêu thương biết bao”, hẳn là người ta có thể nói về các Kitô hữu như thế, về những con người sống đức tin thế nào để đức tin có sức hấp dẫn kẻ khác. Lạy Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần, xin làm cho chúng con nên một như Chúa.
“Phần con, con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như chúng ta là một: Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một, như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con”.
Đó là lời cầu nguyện của Đức Giêsu dâng lên Chúa Cha, dành cho chúng ta. Đó là cách Đức Giêsu thông truyền tất cả những gì Người đã sống trọn vẹn nhất. Người chia sẻ cho ta “bí quyết riêng” của Người, bí quyết giúp Người thành công vô song, giúp Người được vinh quang, phấn khởi, tươi vui: đó là sự kết hiệp mật thiết của Người với Chúa Cha, được bày tỏ trong hình ảnh thân mật “cư ngụ trong nhau”: Cha ở trong con. Đức Giêsu là con người hoàn toàn thoát khỏi cái tôi, để trọn vẹn “ở trong Chúa Cha”.
Lời nói của Người ư? Đó là những lời của Chúa Cha (Ga 3,2; 7,16; 8,26.38.40...): Yêu thương.
Ý muốn của Người ư? Đó là ý muốn của Chúa Cha (Ga 4, 34; 5,30; 6,38...): Yêu thương.
Hành động của Người ư? Đó là hành động của Chúa Cha (Ga 5,17. 20.30.36; 8,28...): Yêu thương.
Con người của Người ư? Đó là con người của Chúa Cha (Ga 10,30) “Cha và con, chúng ta là một”: yêu thương.
Hình tượng của Chúa Ba Ngôi đó là “mô hình” cho chúng ta, là chương trình hành động của chúng ta trong phạm vi gia đình, thành phố, nghề nghiệp, đoàn nhóm, Giáo hội và mọi tương quan yêu thương!
Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cứng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành.
Lời nói “Con muốn” trên đây của Đức Giêsu là lời nói duy nhất trong toàn bộ Tin Mừng: một kiểu nói đòi hỏi ít gặp thấy trên môi miệng rất “tùng phục” của Người đối với Chúa Cha; thế nhưng lại mang đầy ý nghĩa. Vậy ý muốn duy nhất của Đức Giêsu là gì, khiến Người đã mạnh dạn nài xin Chúa Cha như thế? Biết bao người đã chia sẻ “số phận diệu kỳ của Người con yêu dấu, là thứ hạnh phúc mà chính Người đã cảm mến trước khi thế gian được tạo thành. Chúng ta không nên lướt nhanh trên những kiểu nói thực sự đã làm ta choáng váng: Thực sự đó là “bản tính Thiên Chúa”, hiện hữu trước khi thế giới lộ hình, mà Đức Giêsu muốn khai mở cho chúng ta thấy.
Lạy Cha là Đấng công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con, Con đã biết Cha, và những người này đã biết là chính Cha đã sai Con. Con đã cho họ biết danh Cha, và sẽ còn cho họ biết nữa.
Đó là thảm kịch của Đức Giêsu. Là cuộc thương khó là nỗi đau khổ luôn ám ảnh suốt đời Ngài. Đó là từ chối của con người trước “đề nghị” của Thiên Chúa. Là sự khước từ tình yêu Khước từ giao ước. “Bạn có muốn chung sống” với tôi không? - Không. Chúng ta có thuộc vào số những người mà Đức Giêsu nói đến, những người “nhận biết” món quà tặng phi thường được trao hiến cho họ không? Chúng ta có trở nên “Hiền thê” của sách Khải huyền hoàn toàn sung sướng không?
Để tình Cha đã yêu thương Con ở trong họ, và Con cũng ở trong họ nữa.
Lời nguyện của Đức Giêsu đã kết thúc bằng những lời trên đây. Sang câu kế tiếp, ta sẽ bước vào vườn Ôliu, để chứng kiến cuộc nộp bắt do Giuđa dẫn đầu.
Ta có thể nghĩ rằng, Đức Giêsu vẫn tiếp tục những tư tưởng cầu nguyện như thế, trong những giờ phút cuối cùng của đời Người. Ta cũng có thể nghĩ rằng, ở trên trời, Người vẫn tiếp tục chuyển cầu như trên. Chóp đỉnh thực sự quan trọng của Tin Mừng, “Tin vui” lớn lao: đó là chính Tình yêu của Thiên Chúa, Tình yêu Ba Ngôi, Tình yêu Chúa Cha đã yêu Chúa con, Tình yêu tuyệt đối và vô biên của Thiên Chúa, được chia sẻ cho mọi người muốn đón nhận.
Điều đang hoạt động giữa lòng nhân loại, trong những toan tính yêu thương bé nhỏ đáng thương của ta, cho dù có bất toàn đi nữa, thì thực sự đó là “mối tương quan hoàn hảo, kết hợp các ngôi vị trong Thiên Chúa Ba Ngôi tình yêu” mà một ngày nào đó, chúng ta sẽ được nối lại!
84. Chú giải của Fiches Dominicales
LỜI CẦU NGUYỆN TRỌNG ĐẠI CỦA ĐỨC GIÊSU XIN CHO HỌ NÊN MỘT
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Tiếp theo diễn từ giã biệt
Xưa kia, trước khi ông Môsê lìa xa các môn đệ, thì ở phần cuối những lời từ biệt, ông đã cầu xin Thiên Chúa chúc lành cho các chi tộc Israel (Đnl 33). Cũng thế, trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu, Môsê mới, trước khi lìa xa các môn đệ cũng ngước mắt lên trời đàm thoại với Cha Người. Người thâu tóm một trật trong lời cầu của mình, cả quá khứ những ngày sống ở trần gian, cả tương lai đang chờ đón Người và các môn đệ.
– Trước hết Người cầu cho chính mình (c. 1-5).
Rồi nhắc đến tình thế do cuộc ra đi của Người gây nên, Người cầu cho các môn đệ (c.6-19).
– Và sau cùng Người cầu cho các tín hữu tương lai (c.20- 26). Sách Bài đọc đã trích đoạn sau cùng này để đọc trong Chúa nhật VII Phục sinh.
2. …là lời cầu nguyện trọng đại của Đức Giêsu.
Đức Giêsu cầu xin: “Xin cho họ nên một” bằng hai vế (c 20-21 và 22-23), được kết cấu theo kiểu song hành.
Từ ngữ “nên một” không phải được sử dụng lần đầu nơi Gioan. Đức Giêsu dùng từ ngữ đó để chỉ sự liên kết giữa Người với Cha (10.30) và Người cũng đã áp dụng cho các tín hữu: “Sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (10, 16). Còn trong lời cầu nguyện cho các môn đệ lúc này, từ ngữ đó còn vượt xa mối liên hệ tình cảm giữa các tín hữu, nó chỉ sự hiệp nhất thuộc hữu thể và xuất phát từ sự hiệp thông của Thiên Chúa. X. Léon-Dufour giải thích: “Thật vậy, đọc mấy câu trước và câu sau này thì ta hiểu: sự hiệp nhất nên một của các “tín hữu bắt nguồn từ sự hiệp nhất của Chúa Cha và Chúa Con”
Chính nhờ sự hiệp nhất của các môn đệ mà người đời sẽ nhận biết rằng Đức Giêsu là Đấng Chúa Cha sai đến: “Như vậy thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai Con”
– “Con ở đâu thì họ cũng ở đó với Con”. Ở với Đức Giêsu bên cạnh Chúa Cha chính là “chiêm ngưỡng vinh quang của Người” – tác giả giải thích tiếp – là được thấy người mặt đối mặt, “Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1 Ga 3,2).
– Nhưng việc các tín hữu được dự phần vào vinh quang của Người Con duy nhất, phát xuất từ việc cũng ở lại với nhau, vốn sẽ là đặc điểm của đời sống đức tin. Bởi vậy, lời nguyện kết thúc bằng câu: “Để tình Cha đã yêu thương Con ở trong họ, và Con cũng ở trong họ nữa”. Sự chiêm ngưỡng cuối cùng chỉ có thể xảy ra, nếu nó đã được khởi đầu trong cuộc đời người Kitô hữu.
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Dấu chỉ của Thiên Chúa nơi trần gian
Đức Giêsu đã sống những giờ phút sau hết của cuộc đời trần thế của mình với nhóm nhỏ môn đệ. Người sắp bị nộp vào tay những kẻ toan giết Người.
Đó là “giờ của Người”. Tuy nhiên ánh mắt của Người không bị lu mờ vì những lo âu của giờ phút ấy. Anh mắt ấy mở rộng tầm nhìn hướng về đám đông những người sẽ tin theo Người cho đến ngày tận thế. Chúng ta cũng nằm trong số những kẻ được Chúa cầu nguyện cho, cùng với các môn đệ Chúa thuộc mọi thế hệ. “Con không chỉ cầu cho những người này nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào Con”.
Chúng ta được lời cầu nguyện của Chúa nâng đỡ. Đó không phải là nơi nương tựa của ta đó sao? Người cầu xin điều gì cho các kẻ tin Người chỉ xin có một điều duy nhất: “Cho họ được nên một, như Cha ở trong Con là như Con ở trong Cha, cho họ cũng ở trong chúng ta”.
Ta luôn bị cám dỗ hiểu sai những lời này, không dám bạo dạn và hiểu đúng tầm mức. Có khi chúng ta hiểu những lời đó như một bổn phận Đức Giêsu trao cho ta, để cổ võ sự hiệp nhất và xóa bỏ những chia rẽ. Sự hiệp nhất nên một mà Đức Giêsu nói ở đây không phải là một bổn phận Chúa trao cho ta đâu. Nó là một ân huệ của Chúa Cha, một ân huệ mà Đức Giêsu cầu xin cho ta. Nó chỉ là một nhiệm vụ phải chu toàn, bởi vì trước hết nó là một ân huệ. Hơn nữa, sự hiệp nhất mà Đức Giêsu xin cho ta nằm ngoài tầm tay của sức lực loài người: làm sao ta có thể hiệp nhất nên một cách thân mật như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha? Sự hiệp nhất thần linh này chỉ có thể thực hiện nơi chúng ta, nếu chính Thiên Chúa thực hiện trong ta. Đó chính là điều Đức Giêsu nói: “Con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho Con, để họ được nên một, như chúng ta là một…” ước vọng của Đức Giêsu là các môn đệ đi vào sự hiệp thông đời sống, là chính sự sống của Thiên Chúa. Chính vì thế, Ngươi mới tỏ cho họ biết danh Chúa Cha và thông truyền cho họ tình yêu duy nhất phát xuất từ Chúa Cha: “để tình Cha đã yêu thương Con ở trong họ, và Con cũng ở trong họ nữa”.
Bởi vậy, cộng đoàn các môn đệ có thể trở thành dấu chỉ của chính Thiên Chúa giữa trần gian, dấu chỉ của Thiên Chúa là Tình yêu. Bởi vì họ ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa sống trong họ, chính nhờ họ mà Thiên Chúa tỏ mình ra cho thế gian. Tình yêu nối kết họ là tình yêu của chính Thiên Chúa, là chính tình yêu nối kết Chúa Cha với Chúa Con. Cũng bởi vậy, cộng đoàn các môn đệ có thể khơi dậy đức tin: “Như vậy để thế gian tin rằng Cha đã sai Con”. Đức Giêsu hướng về một mình Thiên Chúa. Sự hiệp nhất toàn bích đến từ Thiên Chúa và liên kết các môn đệ lại với nhau, là biểu hiệp sự hiện diện của Thiên Chúa, giữa thế gian. “Như vậy, thế gian có thể nhận biết rằng chính Cha đã sai Con vì đã yêu thương họ như Cha đã yêu thương Con”. Ơn gọi của chúng ta vĩ đại dương nào Này đây chúng ta được gọi để trở nên địa điểm cho Thiên Chúa tỏ mình cho thế gian? Chỉ có sức mạnh lời cầu nguyện của Đức Giêsu mọi có thể thực hiện được điều đó trong chúng ta.
2. Hội Thánh là hiệp thông
(HĐGM Pháp: “Giáo lý cho người lớn”, trg 187-188).
“Tôi tin Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”. Khi các tín hữu tuyên xưng đức tin trong kinh Tin Kính, họ xác quyết rằng Hội Thánh được nhận biết nhờ những đặc điểm đó. Đó là những “điểm son” của Hội Thánh. Vì không chỉ mô tả mặt ngoài của Hội Thánh, mà còn nói lên chân lý sâu xa về mầu nhiệm Hội Thánh. Xác quyết những điều đó thuộc lãnh vực đức tin, chứ không phải chỉ nguyên nhờ nhìn bề ngoài mà biết được.
“Hội Thánh toàn cầu xuất hiện như một dân tộc mà hiệp nhất do sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”
Nguồn phát sinh sự hiệp nhất của Hội Thánh được nói đến trong thư thánh Phaolô gởi tín hữu Êphêsô: “Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người và trong mọi người” (Ep 4,4-6).
Bởi vậy, Hội Thánh quả quyết rằng sự hiệp nhất Hội Thánh có được không do chính mình, mà là hồng ân của Chúa Thánh Thần.
Sự hiệp nhất này có thể nhìn thấy được, và theo lời Đức Kitô hứa, sẽ không bao giờ mất đi. Nó biểu hiện trong việc tuyên xưng cùng một đức tin, được định thức trong cùng một kinh Tin Kính. Sự hiệp nhất ấy có nền tảng là một phép Rửa duy nhất, làm cho mọi môn đệ Đức Kitô nên một dân tộc duy nhất.
Bí tích Thánh Thể, bí tích của sự hiệp nhất, củng cố, xây dựng và không ngừng canh tân sự hiệp thông giữa các tín hữu, liên kết họ lại với nhau bằng dây đức ái. Tác vụ tông đồ, tác vụ các Giám Mục, linh mục, phó tế là phục vụ cho sự hiệp thông của Hội Thánh.
Bởi vì sự hiệp nhất của Hội Thánh không chỉ do cơ cấu tổ chức tốt đẹp hay do kỷ luật chặt chẽ, mà do sự hiệp thông. Coi Hội Thánh như hiệp thông đó là “một khái niệm trung tâm và nền tảng” (Thượng HĐGM đặc biệt năm 1985). Khái niệm này được triển khai trong các lài liệu của Công Đồng Vatican II. Sự hiệp thông này là hiệp thông giữa Chúa Cha, với Con của Người, Đức Giêsu Kitô, trong Chúa Thánh Thần (xem 1 Ga l,3) và là sự hiệp thông giữa các môn đệ trong tình bác ái.
Sự hiệp nhất còn là một yếu tố căn bản và cần thiết cho việc làm chứng của các tín hữu sống trong thế gian và cho sự khả tín của việc truyền giáo.
- 28/05 Đứng về phía Chúa
- 27/05 Tình yêu và đau khổ
- 26/05 Nỗi buồn sẽ thành niềm vui
- 25/05 Cảm nghiệm sự hiện diện của Đấng Phục sinh
- 24/05 Hoạt động của Thánh Thần
- 23/05 Sự hiện diện của Chúa Thánh Thần
- 22/05 Bình an của Thầy
- 21/05 Chấp nhận lội ngược dòng
- 20/05 Yêu thương và phục vụ
- 19/05 Niềm vui được trọn vẹn