Gương Thánh Nhân
Ngày 07/10 Lễ Ðức Mẹ Mai Khôi
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Lễ Ðức Mẹ Mai Khôi (*)
Thánh Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập ngày lễ này vào năm 1573. Mục đích là để cảm tạ Thiên Chúa vì người Kitô chiến thắng người Thổ Nhĩ Kỳ ở Lepanto - là một chiến thắng nhờ bởi việc lần chuỗi mai khôi. Vào năm 1716, Ðức Clement XI đã nới rộng ngày lễ này cho toàn thể Giáo Hội.
Lược sử
Thánh Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập ngày lễ này vào năm 1572. Vào năm 1716, Đức Clement XI đã nới rộng ngày lễ này cho toàn thể Giáo Hội.
Sự hình thành chuỗi mai khôi có một lịch sử lâu dài. Mặc dù sự kiện Đức Maria ban chuỗi mai khôi cho Thánh Đaminh được coi là không có trong lịch sử, việc phát triển hình thức cầu nguyện này là nhờ những người theo Thánh Đa Minh.
Suy niệm 1: Thiết lập
Thánh Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập ngày lễ này vào năm 1572.
Mục đích là để cảm tạ Thiên Chúa vì người Kitô chiến thắng người Thổ Nhĩ Kỳ ở Lepanto- là một chiến thắng nhờ bởi việc lần chuỗi mai khôi.
Thật thế vào ngày Chúa Nhật 7/10/1571, hải quân công giáo thắng hải quân Thổ Nhỉ Kỳ một trận thủy chiến oanh liệt ở vịnh Lepante. Tin chiến thắng được báo về Rôma vào Chúa Nhật đầu tháng 10, giữa lúc các hội viên Mai Khôi đang rước kiệu trong thành phố.
Để tạ ơn Đức Mẹ đã nghe lời cầu khẩn của các tín hữu, Đức Piô V vào ngày 5/3/1572 truyền mỗi năm phải làm một lễ Mai Khôi và truyền phải cử hành trong các nhà thờ và nhà nguyện của các hội viên Mai Khôi vào Chúa Nhật đầu tháng 10. Năm 1716, Đức Clément XI truyền cho toàn thể Hội Thánh phải long trọng mừng lễ này. Đến năm 1913, lễ Mai Khôi được ấn định vào ngày 7/10 mỗi năm.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con siêng năng lần chuỗi Mai Khôi không chỉ trong tháng 10 mà suốt năm và suốt đời để tỏ lòng kính yêu và cầu xin cùng Đức Mẹ.
Suy niệm 2: Hình thành
Sự hình thành chuỗi mai khôi có một lịch sử lâu dài.
Đầu tiên, người ta đọc 150 kinh Lạy Cha để phỏng theo 150 Thánh Vịnh. Sau đó người ta thêm vào tập tục đọc 150 kinh Kính Mừng. Và sau cùng các mầu nhiệm của cuộc đời Chúa Giêsu đã được thêm vào trước mỗi kinh Kính Mừng. Từ thế kỷ XV trở đi, chuỗi lần hạt Mai Khôi được tổ chức như chúng ta thấy ngày nay, nghĩa là chia làm 3 chuỗi, mỗi chuỗi 50 kinh suy gẫm về một số các mầu nhiệm liên quan đến các niềm vui, nỗi khổ và điều mừng. Đặc biệt với Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, thì có thêm mầu nhiệm 5 sự sáng.
Lần chuỗi Mai Khôi là một hình thức cầu nguyện với Mẹ, qua Mẹ. Việc đọc kinh Mai Khôi như là một cử chỉ tôn kính và dâng lên Mẹ Maria những đóa hoa hồng thiêng liêng là các kinh Kính Mừng. 150 kinh Kính Mừng là 150 bông hồng hay 150 Thánh Vịnh dâng kính Mẹ, vì chuỗi Mai Khôi được coi như tập Thánh Vịnh về Đức Mẹ, cũng giống như 150 Thánh Vịnh để tôn vinh, chúc tụng và cầu xin cùng Chúa vậy.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con trong khi đọc thì lòng suy gẫm về vai trò của Đức Mẹ trong mầu nhiệm cứu độ được gắn kết với cuộc đời của Đức Mẹ.
Suy niệm 3: Chuỗi mai khôi
Sự hình thành chuỗi mai khôi có một lịch sử lâu dài.
Mai Khôi, Môi Khôi, Mân Côi hay Văn Côi là cách đọc khác nhau của hai chữ Hán mà sách Đại Nam quốc Âm Tự Vị của Paulus Huỳnh Tịnh Của phiên âm là Môi Khôi, còn Hán Việt Tự Điển của Đào Duy Anh phiên âm là Mai Khôi. Cách đọc đúng theo âm Hán Việt hiện đại là Môi Côi. Tiếng Latinh (Rosarium), tiếng Bồ và tiếng Ý (Rosario), tiếng Pháp (Rosaire), tiếng Anh (Rosary) có 3 nghĩa như sau: Một tràng, một chuỗi, một xâu hoa hồng; Một xâu chuỗi hạt trai, hạt đá quý để đeo quanh cổ người phụ nữ; Một vườn hoa hồng.
Sang đến Việt Nam, chuỗi Rosarium được người miền Bắc gọi là "chuỗi Mân Côi" hoặc "chuỗi Văn Côi". Riêng người miền Nam và miền Trung gọi là "chuỗi Môi Khôi". Ngoài mấy cách gọi thông thường của từng địa phương nêu trên, các Cha Dòng Đa Minh thuộc nhánh Lyon, Pháp còn gọi là "chuỗi Mai Khôi". Cách gọi này hiện nay được khá nhiều người dùng, nhất là các tu sĩ và giới trẻ đặt thành nhiều bài hát hay viết các bài suy niệm.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không đặt nặng vấn đề tên gọi nhưng chủ yếu là lần chuỗi để kính yêu và xin ơn cùng Đức Mẹ.
Suy niệm 4: Thánh Đa Minh
Mặc dù sự kiện Đức Maria ban chuỗi mai khôi cho Thánh Đa Minh được coi là không có trong lịch sử, việc phát triển hình thức cầu nguyện này là nhờ những người theo Thánh Đa Minh.
Ngay từ thế kỷ XI, thời thánh Bênađô, những người có lòng sùng kính Đức Mẹ vẫn đọc một chuỗi các kinh Kính Mừng, vừa đọc vừa nghĩ đến những sự vui mừng khổ đau của Đức Mẹ. Có thể nói đó là hình thức khởi đầu của chuỗi Mai Khôi. Sau này, năm 1328, người ta tìm được một tập ghi chép các phép lạ của Đức Mẹ. Trong tập này có nói đến việc Đức Mẹ trao chuỗi Mai Khôi cho Thánh Đa Minh. Và từ đó trở đi người ta cứ truyền tụng cho nhau là Thánh Đa Minh đã lập ra chuỗi Mai Khôi. Vì thế trong Dòng Đa Minh mới có tượng Đức Mẹ trao chuỗi Mai Khôi cho Thánh Đa Minh.
Thật ra, theo Cha Lacordaire, một tu sĩ Dòng Đa Minh và một nhà giảng thuyết trứ danh tại nhà thờ Đức Bà Paris vào giữa thế kỷ XIX, thì năm 1209 ở miền Toulouse, tình thế bấy giờ rất nhiễu nhương: quân của quân chúa Raymond theo bè rối Albigeois đánh nhau với quân của quận chúa Simon de Montfort theo Công Giáo. Thánh Đa Minh làm việc tông đồ ở miền Toulouse lúc bấy giờ. Ngài thấy rằng bao lâu chưa có hòa bình thì bấy lâu rất khó giảng giải để đưa người theo bè rối về nẻo chính đường ngay. Vì thế ngài mới cầu nguyện và xin ai nấy cầu nguyện cho hòa bình. Ngài được ơn soi sáng kiện toàn kinh Mai Khôi đã có từ thế kỷ XIII, bằng cách cứ sau mỗi 10 kinh thì dừng lại một chút, rồi thêm vào một câu hát hay mấy lời lấy trong sách Tin Mừng về cuộc đời Chúa Cứu Thế, cho thay đổi và đở nhàm chán. Ban đầu chỉ lấy những câu nói về niềm vui, sau mới thêm những câu nói về các nỗi khổ và các điều mừng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con vừa ghi nhận công ơn của những vị nỗ lực trong tiến trình hình thành chuỗi Mai Khôi như chúng con có ngày nay, vừa chuyên chăm thực hành việc lần chuỗi Mai Khôi.
Suy niệm 5: Phát triển
Mặc dù sự kiện Đức Maria ban chuỗi mai khôi cho Thánh Đa Minh được coi là không có trong lịch sử, việc phát triển hình thức cầu nguyện này là nhờ những người theo Thánh Đa Minh.
Hai tu sĩ Dòng Đa Minh là linh mục Alan de la Roche người Pháp ở tỉnh Douai (sau này được nâng lên hàng Chân Phước và thường được gọi là "tông đồ mai khôi") năm 1470, và linh mục Jacob Sprenger người Đức ở tỉnh Koein năm 1475 đã lập ra hội Ái Hữu Mai Khôi đầu tiên trong thế kỷ 15. Từ thế kỷ XVI, Đức Giáo Hoàng chính thức giao cho Dòng Đa Minh nhiệm vụ rao giảng về chuỗi Mai Khôi và thành lập các Hội Mai Khôi.
Lần chuỗi Mai Khôi là một hình thức cầu nguyện với Đức Mẹ. Hình thức này đã được hình thành từ thời Trung Cổ rồi được phổ biến vào thế kỷ thứ XII. Vào thế kỷ 16, cách lần chuỗi mai khôi được phát triển như hình thức bây giờ - gồm 15 mầu nhiệm vui, thương và mừng. Tên của chuỗi Mai Khôi phát xuất từ thói quen kết vòng hoa trên đầu cho những bức tượng của Đức Mẹ từ thời Trung Cổ, những hoa hồng tượng trưng cho những lời nguyện dâng lên Đức Mẹ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con dầu gia nhập Hội Mai Khôi hay không, thì vẫn giúp phát triển việc lần chuỗi Mai Khôi.
Suy niệm 6: Ý nghĩa
Lần chuỗi mai khôi là để giúp chúng ta suy tư về các mầu nhiệm cứu chuộc. Đức Piô XII gọi đó là bản tóm lược phúc âm. Đích điểm nhắm đến là Chúa Giêsu - sự sinh hạ, cuộc đời, sự chết và sự sống lại của Người. Kinh Lạy Cha nhắc nhở chúng ta rằng Cha của Đức Giêsu là người khởi xướng sự cứu chuộc. Kinh Kính Mừng nhắc nhở chúng ta hãy cùng với Mẹ Maria suy niệm về những mầu nhiệm này. Các mầu nhiệm đó cũng giúp chúng ta ý thức rằng Mẹ Maria đã và đang kết hợp mật thiết với Con của ngài trong tất cả những mầu nhiệm khi Chúa Giêsu ở trần gian cũng như ở trên thiên đàng. Kinh Sáng Danh nhắc nhở chúng ta rằng mục đích của mọi sự sống là để vinh danh Thiên Chúa Ba Ngôi.
Chuỗi Mai Khôi được nhiều người ưa chuộng vì nó đơn giản. Việc lập đi lập lại những câu kinh quen thuộc tạo nên bầu khí thuận tiện cho việc suy niệm những mầu nhiệm của Thiên Chúa. Chúng ta cảm thấy như Chúa Giêsu và Mẹ Maria ở với chúng ta trong các niềm vui cũng như sự đau khổ của đời sống. Chúng ta hy vọng rằng Thiên Chúa sẽ cho chúng ta được chia sẻ sự vinh quang của Chúa Giêsu và Mẹ Maria nơi thiên đàng.
Chuỗi mai khôi] đưa ra những mầu nhiệm của Đức Kitô trong một phương cách độc đáo mà Thánh Phao-lô đã diễn tả trong Thư gửi tín hữu Philípphê - tự hạ mình, chịu chết và được siêu tôn (2,6-11)... Tự bản chất, việc lần chuỗi mai khôi đòi hỏi sự nhịp nhàng và đều đặn, giúp người tín hữu suy niệm về những mầu nhiệm cuộc đời của Đức Kitô để gắn bó với Người như tâm hồn của Đức Maria, là người gần với Đức Kitô hơn ai hết" (Đức Phao-lô VI, Việc Sùng Kính Đức Trinh Nữ Maria, 45, 47).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thấy được ý nghĩa cũng như các lợi ích của việc lần chuỗi Mai Khôi để thực hành và giúp người khác cũng tích cực thực hiện.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 06/10 Thánh Brunô (1030? - 1101)
- Viết bởi Hạnh các Thánh
NGÀY 06/10 THÁNH BRUNÔ, LINH MỤC (1035 – 1101)
Thánh Brunô sinh khoảng năm1035 tại Cologne, nước Đức và từ trần năm 1101 tại Calabria, miền nam nước Ý. Chúng ta biết được rất ít và đời sống thơ ấu của Ngài. Có lẽ Ngài thuộc gia đình quý phái Der Hautenfaust và được giáo dục ở truờng thánh Cunibert tại sinh quán.
Sau đó dường như Ngài đã bỏ Cologne để theo học tại Reims và từ đó tiếp tục học triết ở Tours. Sau này chúng ta biết Ngài làm thủ lãnh các trường Reims, làm chưởng ấn địa phận và làm kinh sĩ toà tổng giám mục. Chắc chắn Ngài là một trong những học giả lừng danh thời đó. Nhiều người đã tới Reims để thụ giáo với Ngài, trong số đó có Eudes de Chantaillen là người sẽ trở thành giáo hoàng với danh hiệu Urbano II. Các sách chú giải về thánh vịnh và các thư thánh Phaolô là những tác phẩm chúng ta còn lưu giữ được, chứng tỏ thánh nhân là một học giả có thế giá và là người hiểu biết tiếng Hy lạp và tiếng Do thái. Vào thời của Ngài ít có người hiểu biết được như vậy.
Các thử thách đổ xuống cuộc đời thánh Brunô, kể từ khi Đức Tổng giám mục Gevase qua đời năm 1068 và Manasses được đặt kế vị. Manasses là một người khô khan và hung bạo, đã chiếm đã ngai tòa giám mục nhờ việc buôn thần bán thánh. Brunô đứng đầu những nhóm kinh sĩ chống lại và bị triệu về Roma. Manasses trả thù bằng cách tịch biên tài sản và buộc các Ngài phải trốn khỏi thành phố. Brunô trốn về một nơi gọi là Rocher, ở tại nhà một người bạn tên là Adam. Lần kia, trong khi đi dạo tại vườn nhà Adam, Brunô với hai người bạn là Ralph và Fulcius đã bàn về bản chất giả tạo của các thú vui trần thế và niềm vui của đời sống chiêm niệm. Lửa nhiệt tình bùng cháy, họ quyết định sẽ bỏ thế gian để sống đời cầu nguyện, ngay khi nào hoàn cảnh cho phép. Nhưng rồi Fulcius phải đi Roma để trình bản cáo trạng tổng giám mục. Brunô không thể bỏ Reims khi Đức tổng giám mục còn tại vị. Cuối cùng, khi Đức Tổng giám mục bị truất ngôi, chi còn Brunô trung kiên với dự tính.
Sau khi Manasses bị truất ngôi, vị đặc sứ tòa thánh muốn đặt Brunô làm tổng giám mục. Nhưng lúc ấy thánh nhân đã trốn khỏi Reims cùng với sáu người bạn, tới một nơi gọi là Sèche-Phontaine. Ngài ở gần tu viện Molesme là nơi thánh Robertô làm đan viện phụ. Có lẽ Brunô là tu sĩ của tu viện này một thời gian ngắn.
Tuy nhiên Brunô đã không ở lâu tại Sèche-Phontaine. Ngài muốn tìm một nơi xa vắng hơn để khỏi bị du khách quấy rầy. Năm 1084, Ngài cùng với sáu người bạn tìm đến miền núi Savoy. Trên đường đi, các Ngài dừng chân tại Grenoble để tham khảo ý kiến Đức Cha Hugues de Chateaineuf, một học trò cũ của Ngài. Vị giám mục thánh thiện đã mơ thấy bảy ngôi sao sáng trên một miền xa thuộc dẫy núi Cjartreuse. Biết rằng Brunô cùng với sáu người bạn của Ngài là những ngôi sao ấy, đức cha đã không chần chờ dẫn họ ngay tới nơi mà giấc mơ đã chỉ cho Ngài. Đây là một nơi đủ yên tĩnh. Brunô và các bạn liền cư ngụ tại đó. Các Ngài làm một nhà nguyện nhỏ và bảy cái lều chung quanh. Đó là bước đầu của một tu viện lớn vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay, là nhà mẹ của một hội dòng mang tên CHARTREUSE.
Nhưng rồi thánh Brunô đã quá lừng danh và không thể yên thân được lâu. Năm 1090, Đức Urbanô II, một học trò cũ của Ngài đã nhớ đến thày cũ và triệu về Roma làm cố vấn. Dầu vậy, đức giáo hoàng cũng sớm nhận ra rằng: không có chỗ trong giáo triều dành cho Brunô. Ngài ban phép cho thánh nhân rời Roma, với điều kiện là phải có mặt tại nước Ý.
Trong thời gian vắn vỏi tại giáo triều, thánh Brunô đã gặp nhà quý tộc Roger miền Sicily. Khi rời Roma, Ngài đến cư ngụ ở nơi nhà quý tộc hiến cho, tại La Torre miền Calabria. Ngài thiết lập ở đó một tu viện thứ hai, theo kiểu mẫu dòng Chartreuse. Ngày 6 tháng 10 năm 1101, Ngài từ trần, khi chưa có dịp trở về thăm tu viện thứ nhất của Ngài.
Ngày 5/10 Thánh Faustina, Trinh nữ (1905-1938)
- Viết bởi HẠNH CÁC THÁNH
Thánh Faustina, Trinh nữ (1905-1938)
Thánh Maria Faustina mãi mãi gắn liền với lễ kính Lòng Chúa Thương Xót hàng năm (Chúa nhật II Phục sinh), Chuỗi Lòng Chúa Thương Xót và kinh Lòng Chúa Thương Xót được nhiều người đọc hàng ngày lúc 3 giờ chiều trên khắp thế giới.
Chị tên là Helena, sinh ở một nơi mà nay là Trung Tây Ba Lan (một phần thuộc Đức quốc trước thế chiến I), là con thứ 3 trong 10 người con. Lúc 16 tuổi, chị giúp việc nhà cho các gia đình ở 3 thành phố, sau đó mới vào Dòng Tiểu muội Đức Mẹ Nhân từ (Congregation of the Sisters of Our Lady of Mercy) năm 1925. Chị làm bếp, làm vườn và gác cổng ở 3 tu viện của hội dòng.
Chị trung thành làm việc, phục vụ mọi nhu cầu của chị em và dân địa phương, và có đời sống nội tâm sâu sắc. Chị được Chúa Giêsu mặc khải với sứ điệp là ghi lại nhật ký theo yêu cầu của Chúa và linh mục giải tội.
Người ta đã cho chị là người bị tâm thần, nhưng Chúa Giêsu đã chọn chị để trao sứ điệp Lòng Chúa Thương Xót và ơn tha thứ. Có lần Chúa Giêsu đã nói với chị: "Cha không muốn phạt nhân loại, mà chỉ muốn chữa lành, đưa nhân loại vào trái tim thương xót của Cha" (Nhật ký, 1588). Chị nói rằng hai tia sáng phát ra từ Thánh Tâm Chúa Giêsu tượng trưng máu và nước đã đổ ra sau khi Chúa Giêsu tắt thở (x. Ga 19:34).
Vì nữ tu Maria Faustina biết rằng các mặc khải mà chị nhận không cấu thành chính sự thánh thiện, chị viết trong Nhật ký: "Không có ân sủng, không có sự mặc khải, không có sự xuất thần, không có tặng phẩm nào được trao cho một linh hồn để làm cho linh hồn đó hoàn hảo, nhưng là sự kết hiệp mật thiết của linh hồn đó với Thiên Chúa. Các tặng phẩm này chỉ là đồ trang sức của linh hồn, chứ không cấu thành bản chất hoặc sự hoàn hảo. Sự thánh thiện và hoàn hảo của tôi nằm trong sự kết hợp mật thiết ý riêng tôi với Ý Chúa" (Nhật ký, 1107).
Nữ tu Maria Faustina qua đời vì bệnh phổi tại Krakow, Ba Lan, ngày 5-10-1938. Chân phước GH Gioan Phaolô II phong chân phước cho chị năm 1993 và phong thánh cho chị năm 2000.
Ngày 04/10 Thánh Phanxicô Assisi (1182-1226)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Phanxicô Assisi (1182-1226)
Thánh Phanxicô Assisi thực sự sống theo những gì Ðức Giêsu Kitô đã nói và hành động, một cách vui vẻ, không giới hạn và không một chút tự tôn.
Lược sử
Thánh Phanxicô Assisi là một người nghèo hèn nhưng đã làm bàng hoàng và phấn chấn Giáo Hội bởi ngài sống sát với phúc âm-không trong ý nghĩa cực đoan, nhưng thực sự sống theo những gì Đức Giêsu Kitô đã nói và hành động, một cách vui vẻ, không giới hạn và không một chút tự tôn.
Cơn trọng bệnh đã giúp chàng thanh niên Phanxicô nhận ra sự trống rỗng của một đời sống vui nhộn khi còn là người lãnh đạo nhóm trẻ ở Assisi.
Từ thánh giá trong một nguyện đường bỏ hoang ở San Damiano, Đức Kitô nói với ngài, "Phanxicô, hãy đi xây dựng nhà của Thầy, vì nó đã gần sụp đổ." Phanxicô trở nên một người hoàn toàn khó nghèo và là người lao động thấp hèn.
Trong những năm cuối cùng của cuộc đời ngắn ngủi (ngài từ trần khi 44 tuổi) ngài gần như mù và đau nặng. Hai năm trước khi chết, ngài được in năm dấu thánh, là những vết thương thực sự của Đức Kitô ở tay chân và cạnh sườn của ngài.
Trong giờ phút cuối cùng, ngài lập đi lập lại phần phụ thêm của Bài Ca Anh Mặt Trời, "Ôi lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì người Chị Tử Thần." Ngài hát Thánh Vịnh 141, và khi đã đến giờ lìa đời, ngài xin cha bề trên cho ngài cởi quần áo ra để nằm chết trần truồng trên mặt đất, giống như Đức Giêsu Kitô.
Suy niệm 1: Nghèo hèn
Thánh Phanxicô Assisi là một người nghèo hèn nhưng đã làm bàng hoàng và phấn chấn Giáo Hội bởi ngài sống sát với phúc âm.
Thánh Phanxicô Assisi trở nên nghèo hèn chỉ vì ngài muốn giống Đức Kitô. Ngài yêu quý thiên nhiên vì đó là một công trình mỹ miều của Thiên Chúa. Ngài hãm mình phạt xác để có thể hoàn toàn phó thác cho thánh ý Chúa. Sự khó nghèo của ngài đi đôi với sự khiêm tốn, mà nhờ đó ngài hoàn toàn lệ thuộc vào lòng nhân từ của Thiên Chúa. Nhưng tất cả những điều ấy chỉ để dẫn vào tâm điểm của đời sống tâm linh của ngài: sống đời sống phúc âm, đã được tóm lược nơi lòng thương xót của Chúa Giêsu và được tỏ lộ cách tuyệt hảo nơi bí tích Thánh Thể.
Thánh Phan-xi-cô được mời gọi tiến tới một sự trần trụi tối thượng, một sự nghèo khó triệt để. Một sự nghèo khó không chỉ liên quan đến của cải vật chất, nhưng đụng chạm đến bản chất thâm sâu nơi con người. Thánh Phan-xi-cô tin tưởng lời Chúa. Và với đức tin của người nghèo, ngài trao phó hoàn toàn Hội Dòng cũng như bản thân trong bàn tay Thiên Chúa (Lạy Chúa con, Lạy Chúa con, Chúa là ai? Và con là ai?) Yêu và yêu nhiều đều chưa đủ. Phải học trở nên nghèo khó trong tình yêu, nhất là trong tình yêu. Không chiếm hữu sự gì. Không chiếm hữu người nào. Bấy giờ, tình yêu mới đạt tới đỉnh trọn lành.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống nghèo không chỉ liên quan đến của cải vật chất, nhưng đụng chạm đến bản chất thâm sâu nơi con người.
Suy niệm 2: Phúc âm
Thánh Phanxicô Assisi là một người nghèo hèn nhưng đã làm bàng hoàng và phấn chấn Giáo Hội bởi ngài sống sát với phúc âm.
Thật vậy, Phan-xi-cô khám phá thấy Đức Ki-tô khiêm nhường và nghèo hèn đang lần bước giữa loài người và mặc khải cho họ tình yêu của Chúa Cha. Gương mẫu của Đức Ki-tô trở nên ánh sáng chói loà cho đời sống ngài: ngài đặt gương mẫu ấy trên con đường đưa đến tình huynh đệ đích thật. Phan-xi-cô dấn thân đến cùng trên con đường khó nghèo và khiêm hạ. Và một đoàn mộn đệ sớm theo ngài. Điều lôi cuốn tất cả những người nam và những người nữ chính là phẩm chất của lối sống mới mà ngài đề nghị, một lối sống loại trừ mọi hình thức thống trị trong các tương quan nhân loại: tất cả là anh em. Cũng vậy, trong lòng một Giáo hội còn mang tính phong kiến và lãnh chúa trong cách thức cai quản và tương giao với con người, người con của công xã, khi đọc Tin Mừng với một sự nhạy cảm của thời đại, đã tạo nên điều mới; ngài khai sáng một nếp sống chung không có thống trị và ngôi thứ. Tóm lại, ngài kiến tạo huynh đoàn.
Kinh nghiệm sống Tin Mừng của thánh Phan-xi-cô không chỉ là một giai đoạn trong lịch sử ki-tô giáo nhưng có giá trị mẫu mực và tiên tri. Kinh nghiệm đó là một sự đánh thức trong Giáo Hội thế kỷ thứ 13 và hôm nay vẫn còn duy trì một năng lực đổi mới và trẻ trung hoá. Thật thế, kinh nghiệm đó không ngừng lôi cuốn và gợi hứng cho một số đông người nam nữ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không chỉ nghe hoặc đọc Phúc Âm mà chủ yếu là sống.
Suy niệm 3: Trọng bệnh
Cơn trọng bệnh đã giúp chàng thanh niên Phanxicô nhận ra sự trống rỗng của một đời sống vui nhộn khi còn là người lãnh đạo nhóm trẻ ở Assisi.
Truyện kể rằng, một ngày kia cơn bệnh nặng đã làm Phanxicô, một trong những tràng trai trẻ nổi bật ở thành Assisi, nhìn thấy sự trống rỗng trong cuộc đời phóng túng của mình. Từ đó chàng bắt đầu qùi gối cầu nguyện - chàng thường cầu nguyện lâu giờ và đôi khi rất khó khăn - nhưng nhờ những giờ cầu nguyện với Chúa mà chàng đã nhìn ra được viễn tượng là phải tự từ bỏ hết tất cả như chính Chúa Giêsu đã trút bỏ hết mọi sự.
Thế rồi một ngày kia - có thể gọi là cao điểm trên con đường kiếm tìm Chúa - là lúc mà Phanxicô gặp mặt một người cùi trên đường, Phanxicô đã làm một quyết định ôm và ấp ủ người đó vào lòng. Cử chỉ này biểu hiệu một sự tùng phục và dấn thân trọn vẹn của Phanxicô đối với những gì mà Phanxicô đã nghe được trong lời cầu nguyện: "Hỡi Phanxicô! Mọi sự mà con đã yêu thích và đã ước muốn nơi thân xác con, thì bổn phận của con giờ đây là khinh bỉ và ghét bỏ nó, nếu con muốn biết được ý định của Ta. Và khi con bắt đầu được, thì tất cả những gì mà giờ đây con xem là ngọt ngào và yêu kiều đối với con, chúng sẽ trở nên không dung thứ và cay đắng, nhưng tất cả những gì mà trước con thường tránh né thì giờ đây lại trở nên ngọt ngào và vô cùng hoan lạc".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhận ra giá trị của bệnh tật trong kế hoạch tình thương và diệu kỳ của Chúa.
Suy niệm 4: Thánh giá
Từ thánh giá trong một nguyện đường bỏ hoang ở San Damiano, Đức Kitô nói với ngài, "Phanxicô, hãy đi xây dựng nhà của Thầy, vì nó đã gần sụp đổ." Phanxicô trở nên một người hoàn toàn khó nghèo và là người lao động thấp hèn.
Chắc chắn ngài đã nghi ngờ ý nghĩa sâu xa của câu "xây dựng nhà của Thầy." Nhưng ngài không bằng lòng chấp nhận việc đi xin từng cục gạch về xây lại nguyện đường hoang phế ấy. Ngài từ bỏ tất cả những gì ngài có, ngay cả đống quần áo ngài cũng trao lại cho cha của mình (là người đòi Phanxicô bồi thường những gì ngài đã cho người nghèo), để ngài hoàn toàn thuộc về "Cha trên trời." Câu cầu nguyện thời danh của Phanxicô là "Lạy Chúa Giêsu Kitô, chúng con thờ lậy và chúng con chúc tụng Chúa, nơi đây và trong tất cả các nhà thờ trên thế giới, bởi vì Thánh giá Chúa đã cứu chuộc thế giới".
Thời gian ấy, ngài bị coi là một người đạo đức "gàn dở", ngài đi ăn xin từng nhà khiến các bạn cũ phải buồn rầu và ghê tởm, và bị những người thiếu suy nghĩ nhạo cười. Nhưng sự thực dần tỏ lộ. Người ta bắt đầu nhận ra rằng con người này đang cố gắng trở nên một Kitô Hữu đích thực. Ngài thực sự tin vào điều Đức Kitô dạy: "Hãy đi công bố nước trời! Đừng mang theo vàng bạc, tiền của trong túi, đừng mang theo bao bị, giầy dép, gậy gộc" (x. Lc 9,1-3).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết luôn lắng nghe và thực hành lời Chúa mời gọi.
Suy niệm 5: Mù
Trong những năm cuối cùng của cuộc đời ngắn ngủi (ngài từ trần khi 44 tuổi) ngài gần như mù.
Khi thấy bệnh đau mắt của mình tới giai đoạn trầm trọng, Phanxicô phải để người ta mời một nhà phẫu thuật đến chữa trị, mang theo một y cụ để nung đỏ trong lò lửa. Thấy vậy toàn thân ngài run sợ hãi hùng. Để phục hồi dũng cảm, Phanxicô kêu gọi lửa: "Anh lửa ơi, Đấng Tối cao đã ban cho anh một vẻ huy hoàng mà mọi tạo vật đều thèm muốn. Người đã dựng nên anh là vật hữu ích, hùng mạnh và đẹp đẽ. Xin anh hãy đối xử tốt và nhã nhặn đối với tôi, bởi lẽ cho tới nay tôi hằng yêu mến anh trong Chúa. Nguyện xin Đức Chúa uy phong, là Thiên Chúa tạo ra anh, đoái thương làm dịu bớt nhiệt tính của anh, hầu tôi đủ sức chịu đựng cái vuốt ve nóng bỏng của anh".
Cầu nguyện xong, thánh Phanxicô làm dấu thánh giá chúc lành cho ngọn lửa và dũng cảm chờ đợi, không run sợ nữa. Nhà giải phẫu cầm lấy y cụ đỏ rực. Anh em bỏ chạy không dám đứng xem (...) Phanxicô mỉm cười bảo: "Sao anh em nhát gan, khiếp nhược thế! Tôi bảo thật các anh, tôi không cảm thấy bị bỏng, da thịt tôi không đau đớn!" Rồi quay lại phía y sĩ, Phanxicô nói: "Nếu chưa đủ chín thì anh có thể làm nữa!" (2 Cel 166).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết từ điều xấu rút ra điều tốt, từ sự dữ kéo ra sự lành, nhìn kẻ thù nhận ra bạn hữu.
Suy niệm 6: Năm dấu thánh
Hai năm trước khi chết, ngài được in năm dấu thánh.
Tháng tám năm 1224, hai năm trước khi chết, thánh Phan-xi-cô cùng với các anh Lêô, Ăngrờ và Mátxêô lên đường tiến về núi Anvécna, miền Tốtcan. Lên núi Anvécna, ngài có ý định chuẩn bị mừng lễ Thánh Tổng Lãnh Thiên Thần Micae bằng một mùa chay tự nguyện vì lòng đạo đức. Nhưng khi vừa đến đây, ngài liền bị thu hút bởi cuộc khổ nạn của Chúa Kitô. Và những suy tưởng về cuộc khổ nạn không rời bỏ ngài nữa. Cuộc khổ nạn xuất hiện trong tâm trí ngài như một mặc khải về Tình yêu vô biên hằng thôi thúc trọn cả con người ngài. Ngài cảm thấy nẩy sinh trong lòng một nỗi khao khát vời vợi muốn kết hiệp với cuộc khổ nạn của Chúa Kitô. Ngài cầu nguyện như thế này: Lạy Chúa, ước gì mãnh lực nồng cháy và dịu dàng của tình yêu Chúa chiếm ngự tâm hồn con và giải thoát tâm hồn con khỏi mọi sự dưới bầu trời này, để con chết vì yêu Tình yêu của Chúa, như Chúa đã chết vì yêu tình yêu của con.
Thế rồi vào một buổi sáng - vào dịp lễ suy tôn Thánh Giá - trong khi ngài cầu nguyện trên sườn núi, ngài thấy từ trời xuất hiện một thực thể có cánh, một thực thể bằng lửa và ánh sáng: thần Xêraphim có sáu cánh chói ngời như trong thị kiến của ngôn sứ Êdêkien. Đó là một trong các thực thể bất tử chầu chực trước ngai Thiên Chúa và là sự chiếu tỏa vinh quang của Người. Nhưng điều lạ lùng là những thực thể vinh quang và sáng ngời ấy cũng đau khổ: tay chân đều bị đâm thâu.
Trước thị kiến ấy, tâm hồn thánh Phanxicô như bị chia cắt bởi những tình cảm trái nghịch. Vẻ đẹp của thần Xêraphim và ánh mắt dịu dàng của người làm cho thánh nhân chan chứa niềm vui, nhưng sự đau đớn của đấng chịu đóng đinh đồng thời cũng khiến tâm trí ngài rã rời. Một thực thể rạng ngời vinh quang như thế làm sao có thể chịu đau khổ được? Thánh Phanxicô chỉ biết suy tưởng. Và bỗng nhiên, Đau khổ và Vinh Quang, kết hợp với nhau một cách kỳ lạ trong thị kiến ấy, vồ bắt ngài như một con chim săn mồi.
Thị kiến vụt tắt. Bấy giờ, cúi mắt xuống, ngài thấy đôi tay và đôi chân đã bị đâm thủng. Vinh quang Thiên Chúa đã chạm đến ngài. Ngài mãi mãi là con người bị đóng đinh. Tất cả cuộc đời ngài là một sự chiêm ngưỡng Đức Kitô lâu dài và nồng nàn. Và sự chiêm ngưỡng ấy kết cuộc đã biến đổi ngài hoàn toàn theo hình ảnh Đấng Chịu Đóng Đinh.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hằng chiêm ngưỡng Đức Kitô Chịu Đóng Đinh, để biết tự đóng đinh tính xác thịt của chúng con (Gl 5,24).
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 03/10 Thánh Gioan Dukla (1414-1484)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Gioan Dukla (1414-1484)
Sự khó nghèo, tuân phục, khổ hạnh và sùng kính Ðức Mẹ là đặc điểm của đời sống Cha Gioan Dukla.
Lược sử
Sinh trưởng ở Dukla (Ba Lan), Gioan là một nhà khổ tu trước khi gia nhập dòng Conventual (chi nhánh dòng Phanxicô) vào năm 1440. Sau khi thụ phong linh mục, sứ vụ rao giảng đã đưa ngài đến các nơi mà hiện nay là Ukraine, Moldavia và Belarus. Đã vài lần ngài làm bề trên tu hội địa phương và có một lần ngài làm giám thị trung ương dòng Phanxicô ở Lviv (Ukraine).
Thánh Gioan Capistrano đến Ba Lan năm 1453 và thành lập các tu viện sống nghiêm nhặt theo Quy Luật Thánh Phanxicô. Mười năm sau, Gioan Dukla gia nhập tổ chức này, mà sau đó trở thành Tỉnh Dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm. Sự khó nghèo, tuân phục, khổ hạnh và sùng kính Đức Mẹ là đặc điểm của đời sống Cha Gioan Dukla. Ngài tìm cách hòa giải những người ly khai với Giáo Hội Công Giáo. Mặc dù ngài bị mù năm 70 tuổi, ngài vẫn tích cực trong công việc rao giảng và giải tội.
Ngài được phong thánh ở Krosno (Ba Lan) năm 1997 trước một giáo đoàn khoảng 1 triệu người, đến từ Ba Lan, Bohemia, Slovakia, Ukraine và Hungary.
Suy niệm 1: Nhà khổ tu
Gioan là một nhà khổ tu trước khi gia nhập dòng Conventual (chi nhánh dòng Phanxicô) vào năm 1440.
Nhà khổ tu là người tự nguyện sống khắc khổ, tự chế cách nghiêm nhặt, sống chiêm niệm và cầu nguyện, cách ly với xã hội, bao hàm việc khước từ những ý muốn hoặc sở thích, nhằm thông dự vào cuộc tử nạn của Đức Kitô và tuân hành ý Chúa.
Đồng thời nhà khổ tu cũng tu luyện bắt cơ thể phải từ bỏ một số nhu cầu cơ bản và dục vọng, đặc biệt là nhục dục, để đạt tới niềm tin sống lý tưởng trong tâm linh. Tắt một lời, họ tham gia vào cuộc chiến nội tâm (2Tm 4,7), rèn luyện (Dt 12,11) và diệt dục (Rm 8,13).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con cũng biết bước lên bậc thang khổ chế để dễ tiến lên đỉnh trọn lành.
Suy niệm 2: Dòng Conventual
Gioan là một nhà khổ tu trước khi gia nhập dòng Conventual (chi nhánh dòng Phanxicô) vào năm 1440.
Trong bài giảng lễ phong thánh, Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II đã nhắc nhở đến các người con của Thánh Phanxicô khi họ đặt chân đến Trung Âu Châu vào thế kỷ 13: "Sự hoạt động của dòng Phanxicô đã tìm thấy vùng đất mầu mỡ nơi quê hương chúng ta. Vùng đất ấy cũng phát sinh nhiều chân phước và các thánh, là những người theo gương Thánh Assisi Nghèo Hèn, làm sinh động Kitô Giáo ở Ba Lan với tinh thần khó nghèo và tình huynh đệ. Các ngài đã đưa kiến thức cũng như sự khôn ngoan vào truyền thống tinh thần nghèo hèn và lối sống đơn sơ, để từ đó có ảnh hưởng tốt đẹp trong công việc mục vụ."
Khó nghèo, đơn giản, và hăng say tìm kiếm chân lý là đặc điểm của phương cách truyền giáo mà các tu sĩ Phanxicô theo đuổi trong gần tám thế kỷ qua. Họ sẽ giúp chúng ta hăng say làm chứng nhân cho Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tiếp nối đường lối truyền giáo của các ngài tại môi trường sống của chúng con.
Suy niệm 3: Sùng kính Đức Mẹ
Sự khó nghèo, tuân phục, khổ hạnh và sùng kính Đức Mẹ là đặc điểm của đời sống Cha Gioan Dukla.
Một tín hữu Công Giáo đạo đức hằng tôn vinh Đức Maria trong giờ kinh tối mỗi ngày trong Kinh Cầu Đức Bà: Đức Bà phù hộ các giáo hữu, Nữ Vương các Thánh Tông Đồ, Nữ Vương các Thánh đồng trinh.
Gioan Dukla là một tín hữu và hơn thế là một linh mục đã tự nguyện sống đồng trinh cũng như đang tiếp nối sứ vụ rao giảng Tin Mừng của các tông đồ ở các nơi mà hiện nay là Ukraine, Moldavia và Belarus. Ngài đặc biệt không chỉ tôn vinh mà còn khẩn cầu Đức Maria với lòng sùng kính Đức Mẹ của mình.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hằng sùng kính Đức Mẹ để qua Mẹ đến được với Chúa Giêsu.
Suy niệm 4: Đặc điểm
Sự khó nghèo, tuân phục, khổ hạnh và sùng kính Đức Mẹ là đặc điểm của đời sống Cha Gioan Dukla.
Ngài sùng kính Đức Mẹ không chỉ dừng lại ở việc chiêm ngắm Đức Maria mà còn học tập các nhân đức của Mẹ vốn là mẫu gương trong đời sống khó nghèo và tuân phục.
Xuât thân là một nhà khổ tu, ngài tiếp tục sống hướng này, và theo gương Đức Mẹ để sống khó nghèo và tuân phục, cụ thể sau khi thụ phong linh mục, ngài vâng lời nhận lãnh sứ vụ rao giảng Tin Mừng để đến các nơi mà hiện nay là Ukraine, Moldavia và Belarus, cũng như đã vài lần ngài vâng lời nhận làm bề trên tu hội địa phương và có một lần làm giám thị trung ương dòng Phanxicô ở Lviv (Ukraine). Tất cả làm nên đặc điểm của đời sống ngài.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thể hiện lòng sùng kính bằng việc sống theo nhân đức của các ngài.
Suy niệm 5: Hòa giải
Cha Gioan Dukla tìm cách hòa giải những người ly khai với Giáo Hội Công Giáo.
Nghiệp vụ hòa giải tự nó đã là một công việc khó khăn, khi người hòa giải phải đóng vai trò làm con thoi giữa hai bên, mà bên nào cũng có lập trường và hơn thế còn cố thủ trong lập trường của mình, đặc biệt với thành phần ly khai vốn sẵn có một số quan điểm bất đồng không thể vượt qua để đi tới việc tách lìa nhau.
Việc hỏa giải vốn khó khăn lại chồng chất khó khăn cho Cha Gioan Dukla vốn là người trung thành của Giáo Hội, vì yếu tố trung lập của người hòa giải không còn được nhìn nhận nữa. Thành phần ly khai tiếp nhận ngài như một người đến để thuyết phục và kêu mời họ quay trở về nẻo chính. Dầu thế, ngài vẫn vượt qua khó khăn này để hành sự.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết chấp nhận gian khổ vì lòng yêu mến Chúa và Giáo Hội.
Suy niệm 6: Bị mù
Mặc dù Cha Gioan Dukla bị mù năm 70 tuổi, ngài vẫn tích cực trong công việc rao giảng và giải tội.
Hoàn cảnh một người đang sáng mắt nay bỗng bị mù thường gây phản ứng bi quan nơi bệnh nhân. Nhưng với ngài thì không như thế. Ngài vẫn lạc quan tích cực thi hành sứ vụ rao giảng và giải tội, vốn không đòi hỏi chức năng của thị giác.
Chính vì thế trong buổi lễ phong thánh cho ngài, Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II nói: "Đức Giêsu Kitô là vị thầy duy nhất của thánh nhân. Ngài không lùi bước trong việc noi gương Thầy và Chúa, nên trên hết mọi sự điều ngài ao ước là phục vụ. Trong đó bao gồm cả Phúc Âm của sự khôn ngoan, của tình yêu và bình an. Ngài đã thể hiện ý nghĩa này của Phúc Âm trong toàn thể cuộc đời ngài" (L'Observatore Romano, tập 27, số 6, 1997).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn tích cực và lạc quan làm việc dầu gặp phải bất cứ nghịch cảnh nào.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 02/10 Lễ Các Thiên Thần Bản Mệnh
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Lễ Các Thiên Thần Bản Mệnh
Sự sùng kính các thiên thần, trên căn bản, là sự bày tỏ đức tin nơi tình yêu vô tận của Thiên Chúa và sự quan phòng của Ngài đối với mỗi người chúng ta mọi ngày cho đến khi chết.
Lược sử
Có lẽ không khía cạnh đạo đức nào của Công Giáo an ủi các phụ huynh cho bằng sự tin tưởng rằng thiên thần sẽ bảo vệ con cái họ khỏi những nguy hiểm dù có thực hay tưởng tượng. Nhưng thiên thần bản mệnh không chỉ dành riêng cho các em.
Vai trò của các ngài là thay mặt cho mỗi cá nhân trước mặt Thiên Chúa, luôn luôn trông chừng họ, giúp họ cầu nguyện và đưa linh hồn họ lên với Chúa vào giờ lâm tử.
Quan niệm về thiên thần bản mệnh-được chỉ định để hướng dẫn và trông coi mỗi người-
Việc sùng kính các thiên thần được bắt đầu.
Suy niệm 1: Mỗi cá nhân
Vai trò của các ngài là thay mặt cho mỗi cá nhân trước mặt Thiên Chúa, luôn luôn trông chừng họ, giúp họ cầu nguyện và đưa linh hồn họ lên với Chúa vào giờ lâm tử.
Trong xã hội văn minh hiện nay, xuất hiện sự kiện các vệ sĩ luôn sát cánh với các thân chủ nhằm bảo vệ họ. Và dĩ nhiên các thân chủ này là các nhân vật đặc biệt hoặc có kinh tế dồi dào để hậu đãi bằng lương bỗng cho các người cận vệ này.
Điểm này cho thấy tình thương vô biên của Thiên Chúa, khi Người bố trí cho mỗi cá nhân không phân biệt lớn nhỏ, giàu nghèo hoặc sang hèn đều có một thiên thần bản mệnh hằng sát cánh như hình với bóng mọi nơi và mọi lúc cho đến lúc lìa đời, mà không phải bận tâm đến lương bỗng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết dâng lời cảm tạ Chúa vì ân huệ quý báu và nhưng không này.
Suy niệm 2: Trông chừng
Vai trò của các ngài là thay mặt cho mỗi cá nhân trước mặt Thiên Chúa, luôn luôn trông chừng họ, giúp họ cầu nguyện và đưa linh hồn họ lên với Chúa vào giờ lâm tử.
Để thực thi nhiệm vụ trông chừng và bảo vệ thân chủ, người vệ sĩ thường sử dụng các phương tiện vật chất chẳng hạn dao, súng, hoặc khả năng võ thuật, thậm chí cả thân xác họ khi cần thiết, vì địch thủ đối phó là những con người bằng xương bằng thịt.
Với thiên thần bản mệnh, khí giới các ngài dùng thì mang tính thiêng liêng là ánh sáng soi dẫn từ Lời Chúa, là tiếng nói lương tâm dịu dàng mà cương quyết, nhưng lại không cưỡng ép mà vẫn tôn trọng quyền tự do đón nhận hay khước từ của thân chủ, vì địch thủ là ma quỷ vô hình.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con cố gắng luôn vâng nghe theo lời chỉ dạy của thiên thần bản mệnh kẻo phụ lòng ngài.
Suy niệm 3: Linh hồn họ
Vai trò của các ngài là thay mặt cho mỗi cá nhân trước mặt Thiên Chúa, luôn luôn trông chừng họ, giúp họ cầu nguyện và đưa linh hồn họ lên với Chúa vào giờ lâm tử.
Một sự khác biệt căn bản cần ghi nhận: người vệ sĩ bảo vệ thân chủ mình xét về phương diện thể xác không bị thương tích hoặc bị tử vong. Chính vì thế vũ khí sử dụng mang tính vật chất.
Còn thiên thần bản mệnh có nhiệm vụ trông chừng thân chủ mình xét về lãnh vực linh hồn, để cho tâm hồn luôn được trong trắng không nhuốm vết nhơ tội lỗi, do các việc làm hoặc lời nói và tư tưởng xấu xa trái luật Chúa và Giáo Hội.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết quan tâm đến sự sống phần hồn hơn phần xác.
Suy niệm 4: Thiên thần bản mệnh
Quan niệm về thiên thần bản mệnh-được chỉ định để hướng dẫn và trông coi mỗi người.
Xã hội loài người thường duy trì thứ bậc cao thấp, lớn nhỏ, vì thế cũng thường chấp nhận thực trạng tôi tớ thì tùng phục chủ nhân. Nhưng trong vườn nho của Chúa thì không thế. Thiên thần bản mệnh vốn từ trời đến, với sứ mệnh trông coi phàm nhân lại đóng vai trò phục vụ thân chủ của mình.
Một đường lối đảo ngược mà Đức Giêsu đã khẳng định và nêu gương sống: "Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mt 20,25-28).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con theo gương Chúa để biết phục vụ lẫn nhau (Ga 13,14).
Suy niệm 5: Hướng dẫn
Quan niệm về thiên thần bản mệnh-được chỉ định để hướng dẫn và trông coi mỗi người.
Người vệ sĩ khi thi hành sứ mạng thì thường đóng vai chủ động và tích cực, còn thiên thần bản mệnh xem ra giữ vị trí thụ động hơn, nghĩa là chỉ nhằm hướng dẫn và chỉ đạo, chính thân chủ mới lá người đưa ra quyết định và hành sự, dầu hậu quả thế nào đi nữa.
Vì thế một thân chủ khôn ngoan cần thiết phải đón nhận những lời vàng ngọc của thiên thần bản mệnh, và đồng thời phải tự biết bảo vệ mình bằng những vũ khí thiêng liêng: Lưng thắt đai là chân lý, mình mặc áo giáp là sự công chính, chân đi giày là lòng hăng say loan báo tin mừng bình an; hãy luôn cầm khiên mộc là đức tin, hãy đội mũ chiến là ơn cứu độ và cầm gươm của Thần Khí ban cho, tức là lời Thiên Chúa (Ep 6,11-17).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết chăm lo phần rỗi linh hồn mình, vì chính chúng con là người lãnh trách nhiệm trực tiếp.
Suy niệm 6: Sùng kính
Việc sùng kính các thiên thần được bắt đầu khi truyền thống đan viện khai sinh. Thánh Bênêđích là người thúc đẩy mạnh và Thánh Bernard Clairvaux, người cải cách mạnh mẽ của thế kỷ 12, thường nói nhiều về các thiên thần bản mệnh, nhờ đó sự sùng kính các thiên thần được hình thành cho đến ngày nay. Ngày lễ kính các thiên thần bản mệnh được cử hành đầu tiên vào thế kỷ 16. Vào năm 1615, Đức Giáo Hoàng Phao-lô V đã đưa lễ này vào niên lịch Công Giáo Rôma.
Sự sùng kính các thiên thần, trên căn bản, là sự bày tỏ đức tin nơi tình yêu vô tận của Thiên Chúa và sự quan phòng của Ngài đối với mỗi người chúng ta mọi ngày cho đến khi chết. Quan niệm về thiên thần bản mệnh là sự triển khai của học thuyết và lòng sùng mộ Công Giáo được dựa trên Kinh Thánh nhưng không trực tiếp xuất phát từ đó. Lời của Chúa Giêsu trong Phúc Âm Mátthêu 18,10 hỗ trợ cho sự tin tưởng này: "Hãy cẩn thận, đừng khinh miệt những người bé nhỏ này, vì Ta bảo thật cho các ngươi, thiên thần của họ ở thiên đàng luôn nhìn đến Cha Ta".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hằng cầu xin: "Xin thiên thần dẫn đưa linh hồn ông/bà vào thiên đàng; xin các thánh tử đạo đón nhận ông/bà và đưa ông/bà vào thành thánh Giêrusalem mới và vĩnh cửu" (Nghi Thức An Táng).
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 01/10 Thánh Têrêsa Hài Ðồng Giêsu (1873-1897)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Têrêsa Hài Ðồng Giêsu (1873-1897)
"Tôi thích sự buồn tẻ của việc hy sinh âm thầm hơn là những trạng thái xuất thần. Nhặt một cây kim vì tình yêu cũng có thể hoán cải một linh hồn."
Lược sử
"Tôi thích sự buồn tẻ của việc hy sinh âm thầm hơn là những trạng thái xuất thần. Nhặt một cây kim vì tình yêu cũng có thể hoán cải một linh hồn." Đó là những lời của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, một nữ tu dòng Camêlô thường được gọi là "Bông Hoa Nhỏ," người đã sống một đời âm thầm trong tu viện ở Lisieux, nước Pháp. Và quả thật, những hy sinh âm thầm của ngài đã hoán cải các linh hồn. Không mấy vị thánh của Thiên Chúa nổi tiếng như vị thánh trẻ trung này. Cuốn tự truyện của ngài, Chuyện Một Linh Hồn, được cả thế giới đọc và yêu chuộng. Tên thật của ngài là Thérèse Martin, gia nhập tu viện năm 15 tuổi và từ trần năm 1897 lúc 24 tuổi.
Đời sống tu viện dòng kín Camelô thật buồn tẻ và phần lớn chỉ gồm sự cầu nguyện và làm các công việc trong nhà. Nhưng Thánh Têrêsa có được sự hiểu biết sâu sắc thánh thiện để chuộc lại quãng thời gian ấy, bất kể có nhàm chán đến đâu. Ngài nhìn thấy sự đau khổ cứu chuộc trong sự đau khổ âm thầm, sự đau khổ là đời sống tông đồ của ngài.
Vào ngày 19-10-1997, Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II tuyên xưng ngài là Tiến Sĩ Hội Thánh, là người phụ nữ thứ ba trong Giáo Hội được công nhận về sự thánh thiện và về ảnh hưởng tinh thần của những gì ngài viết.
Suy niệm 1: Âm thầm
Tôi thích sự buồn tẻ của việc hy sinh âm thầm hơn là những trạng thái xuất thần.
Thánh Têrêsa có nhiều điều để dạy chúng ta về quan niệm, về thể diện, về cái "tôi." Chúng ta bị nguy hiểm khi nghĩ nhiều về bản thân mình, bị đau khổ khi nhận thức những nhu cầu cần phải thỏa lấp, dù biết rằng không bao giờ chúng ta thỏa mãn. Thánh Têrêsa, cũng như bao vị thánh khác, đã tìm cách phục vụ người khác, thực hiện những gì không phải cho chính mình, và quên mình trong những hành động âm thầm của tình yêu. Ngài là một trong những thí dụ điển hình của sự mâu thuẫn trong phúc âm mà khi hiến thân là khi được nhận lãnh, khi chết đi là khi vui sống muôn đời.
Sự bận rộn với bản thân đã tách biệt con người thời nay với Thiên Chúa, với đồng loại và thực sự xa rời với bản thể. Chúng ta phải học cách quên mình, để suy niệm về một Thiên Chúa là Đấng mời gọi chúng ta thoát ra khỏi sự ích kỷ để phục vụ người khác. Đây là cái nhìn sáng suốt của Thánh Têrêsa Lisieux, và ngày nay cái nhìn ấy có giá trị hơn bao giờ hết.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thấy được giá trị của sự âm thầm như hạt giống được gieo vào lòng đất (Mc 4,26-29).
Suy niệm 2: Bông Hoa Nhỏ
Têrêxa, một nữ tu dòng Camêlô thường được gọi là "Bông Hoa Nhỏ".
Ngài được gọi là Bông Hoa Nhỏ vì thật đúng xét về nghĩa đen cũng như nghĩa bóng.
Xét về nghĩa đen, gia đình thân mẫu ngài có 9 người con, nhưng chỉ có 5 cô con gái Marie, Pauline, Léonie, Céline và Thérèse (Têrêxa) là sống sót đến tuổi trưởng thành, và Têrêxa lại là con út trong nhà, nên Têrêxa là người nhỏ nhất. Đàng khác, ở tuổi 15, Têrêxa xin gia nhập Dòng Cát Minh tại Lisieux thì bị từ chối vì còn quá nhỏ. Thân phụ ngài dẫn ngài đi hành hương Rôma, được yết kiến Đức Giáo Hoàng Lêô XIII và được trả lời: "Hỡi con, hãy làm theo ý bề trên quyết định". Ít lâu sau, Giám Mục Bayeux ra quyền cho bề trên dòng nhận. Vào tháng 4 năm 1888, Têrêxa trở thành một nữ tu với đặc quyền ở tuổi 15, nghĩa là lứa tuổi nhỏ nhất dòng.
Xét về nghĩa bóng, Têrêxa được biết đến nhiều nhất nhờ linh đạo "Đường thơ ấu" của mình. Trong việc tìm kiếm sự thánh thiện, Têrêxa đã thấu hiểu rằng để đạt được điều ấy và bày tỏ tình yêu của mình đối với Chúa, thì không cần phải thực hiện những việc làm thật anh hùng hoặc "cao siêu". Têrêxa viết: "Tình yêu chứng tỏ chính nó bởi việc làm, vì vậy làm sao con có thể chứng tỏ tình yêu của mình được? Con không thể làm chứng việc cao siêu được? Cách duy nhất để con chứng tỏ tình yêu của mình là bằng cách rắc hoa, những bông hoa này là tất cả những hy sinh bé nhỏ, mỗi cái nhìn, mỗi lời nói và thực hiện mọi việc làm bé nhỏ nhất với tình yêu".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hãy trở nên bé nhỏ để được vào Nước Trời (Mt 18,3).
Suy niệm 3: Hoán cải các linh hồn
Những hy sinh âm thầm của Têrêxa đã hoán cải các linh hồn.
Là một Bông Hoa Nhỏ, ngài đồng cảm với những người bé nhỏ hèn mọn được Chúa quan tâm ưu ái không muốn cho một người nào phải hư mất (Mt 18,14). Nên ngài hợp lực bằng việc dâng những hy sinh âm thầm để hoán cải các linh hồn, như ngài đã nói: "Tôi thích sự buồn tẻ của việc hy sinh âm thầm hơn là những trạng thái xuất thần. Nhặt một cây kim vì tình yêu cũng có thể hoán cải một linh hồn". Thánh nữ còn nói ngài gia nhập tu viện Camêlô là "để cứu vớt các linh hồn và cầu nguyện cho các linh mục." Và không lâu trước khi chết, ngài viết: "Tôi muốn dùng thời gian ở thiên đàng để làm những điều tốt lành cho trần gian."
Không lạ gì vào năm 1927, ngài được Đức Giáo Hoàng Piô XI nâng lên bậc hiển thánh và đặt ngài làm bổn mạng các xứ truyền giáo, ngang hành với thánh Phanxicô Xavie. Đúng như nhận định của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong sứ điệp về ngày truyền giáo công bố 28/5/1997: "Không phải tất cả được gọi đi các xứ truyền giáo...Cái quyết định không phải "ở đâu" mà "như thế nào". Chúng ta có thể là những tông đồ đích thực và trong cách hiệu nghiệm hơn cả, giữa những bức tường của nhà ở chúng ta, trong chính nơi làm việc, trên giường bệnh, trong Tu Viện Kín, như chính Thánh nữ Têrêxa".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nỗ lực hoán cải chính chúng con cũng như tha nhân bằng các hy sinh âm thầm.
Suy niệm 4: Chuyện Một Linh Hồn
Cuốn tự truyện của Têrêxa, Chuyện Một Linh Hồn, được cả thế giới đọc và yêu chuộng.
Têrêxa được biết đến hôm nay qua cuốn hồi ký thiêng liêng của mình: Chuyện Một Linh Hồn. Cuốn tự truyện này được viết theo lệnh của hai bề trên của tu viện. Têrêxa bắt đầu cầm bút vào năm 1895 để viết một hồi ký về thời thơ ấu của mình, dưới lệnh của chị Pauline (tên dòng là Mẹ Agnes Chúa Giêsu). Mẹ Agnes ra lệnh sau khi được người chị cả Marie (tên dòng là Mẹ Marie Thánh Tâm Chúa) giục.
Tháng 6 năm 1897, Mẹ Agnes nhìn thấy sự trầm trọng bệnh tình của Têrêxa, liền xin Mẹ Marie de Gonzague, người đã thế mình làm bề trên, cho phép Têrêxa viết một hồi ký khác với nhiều chi tiết hơn về đời sống tu trì của mình. Hồi ký này được xuất bản sau cái chết của Têrêxa và đã được sửa chữa một cách nặng nề bởi người chị Pauline. Ngoài việc sửa cách viết của Têrêxa, Mẹ Marie de Gonzague còn yêu cầu Pauline chỉnh sửa lại hai phần đầu tiên của bản viết tay như thể là chúng được viết cho Mẹ Marie.
Đây là một cuốn sách được bán chạy nhất của thế kỷ XX. Kể từ năm 1973, hai ấn bản của bài viết của Têrêxa, bao gồm "Chuyện Một Linh Hồn", các thư, thơ, cũng như kinh nguyện và các kịch ngắn Têrêxa viết cho những buổi văn nghệ của tu viện đã được xuất bản.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con viết chuyện linh hồn chúng con không cần cho đời nhưng cho Chúa bằng cuộc sống lành thánh và đạo đức.
Suy niệm 5: Đau khổ
Ngài nhìn thấy sự đau khổ cứu chuộc trong sự đau khổ âm thầm, sự đau khổ là đời sống tông đồ của ngài.
Thánh Têrêsa phải chịu đau khổ vì bệnh hoạn trong suốt cả cuộc đời. Khi còn nhỏ, ngài phải trải qua ba tháng đau từng cơn, mê sảng và ngất xỉu. Sau đó, dù yếu ớt nhưng ngài làm việc vất vả trong phòng giặt quần áo và phòng ăn của tu viện. Về phương diện tâm linh, ngài phải trải qua một thời kỳ tăm tối khi ánh sáng đức tin dường như tắt ngúm. Năm cuối cùng của cuộc đời, ngài chết dần vì ho lao. Tuy nhiên, không lâu trước khi chết vào ngày 30-9, ngài thì thào, "Tôi không muốn bớt đau khổ."
Thực sự ngài là một phụ nữ dũng cảm, không rên rỉ vì bệnh tật và lo âu. Đây là một người nhìn thấy sức mạnh của tình yêu, mà sự biến đổi của Thiên Chúa có thể thay đổi mọi sự--kể cả sự yếu đuối và bệnh tật--thành sức mạnh phục vụ và cứu chuộc cho người khác. Không lạ gì ngài là quan thầy của công cuộc truyền giáo. Còn ai có thể thay đổi thế giới ngoài những người ôm ấp sự đau khổ của mình với tình yêu?
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết biến đau khổ hằng ngày thành sức mạnh phục vụ và cứu chuộc cho chính mình và người khác.
Suy niệm 6: Tiến Sĩ Hội Thánh
Vào ngày 19-10-1997, Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II tuyên xưng Têrêxa là Tiến Sĩ Hội Thánh.
Với Tông thư Divini Amoris (khoa học tình yêu Chúa), ngày 19-10-1997, Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II tuyên bố Têrêxa là một trong 33 Tiến Sĩ Hội Thánh của Hôi Thánh toàn cầu. 1 trong 3 người phụ nữ duy nhất được trao tặng danh hiệu này (hai vị kia là Thánh Têrêxa thành Avila và Catarina thành Siêna). Têrêxa là vị thánh duy nhất được công nhận là Tiến Sĩ Hội Thánh dưới đời Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
Dịp này, thông cáo của phòng báo chí Tòa Thánh đã nhận định như sau: 100 năm sau khi Thánh nữ Têrêxa, vị thánh trẻ tuổi và quan thầy của các xứ truyền giáo qua đời, Giáo Hội nhìn nhận giáo lý nổi bật và giá trị hiện đại của sứ điệp thiêng liêng của Thánh nữ, như là hồng ân đặc biệt của Chúa Thánh Thần. Giáo Hội qua việc nhìn nhận Thánh Têrêxa, Tiến Sĩ của Hội Thánh, muốn tôn vinh Thiên Chúa Cha, Đấng mạc khải cho những kẻ bé nhỏ biết Mầu Nhiệm Nước Trời, là làm cho sự khôn ngoan của các thánh được chiếu tỏa mọi thời đại, ngỏ hầu Phúc Âm của Chúa Kitô có thể đến với mọi dân nước.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tìm đến Thánh Tiến Sĩ Hội Thánh này như là đối tượng của việc bình luận và nghiên cứu thần học.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 30/9 Thánh Giêrônimô (345 - 420)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Giêrônimô (345 - 420)
Thánh Giêrônimô đặc biệt nổi tiếng trong việc chuyển dịch Kinh Thánh mà cuốn ngài dịch được gọi là Vulgate. Ðó không phải là bộ Kinh Thánh tuyệt hảo nhưng Giáo Hội công nhận đó là một kho tàng.
Lược sử
Hầu hết các thánh được nhớ đến là vì một vài nhân đức trổi vượt hay sự sùng kính đặc biệt của các ngài, nhưng Thánh Giêrôme được nhớ đến là vì tính nóng nẩy! Thật sự ngài rất nóng tính và có tài viết cay độc.
Trên tất cả ngài là một học giả Kinh Thánh. Ngài là một sinh viên nhiều tham vọng, một học giả thông suốt, một văn sĩ phi thường và là cố vấn cho các tu sĩ, giám mục và giáo hoàng.
Thánh Giêrôme đặc biệt nổi tiếng trong việc chuyển dịch Kinh Thánh mà cuốn ngài dịch được gọi là Vulgate.
Sau phần chuẩn bị kiến thức ngài tung hoành ở Palestine cốt để ghi nhận những nơi đã in dấu Đức Kitô với lòng sùng kính dạt dào. Ngài cũng là một nhà thần bí, đã sống trong sa mạc Chalcis 5 năm để hy sinh cầu nguyện, hãm mình và nghiên cứu. Sau cùng ngài dừng chân ở Bêlem, là nơi ngài sống trong một cái hang mà ngài tin rằng Đức Kitô đã sinh hạ ở đấy. Vào ngày 30 tháng Chín năm 420 Thánh Giêrôme từ trần ở Bêlem. Thi hài của ngài hiện được chôn cất trong Đền Đức Bà Cả ở Rôma.
Suy niệm 1: Nóng tính
Thật sự Thánh Giêrôme rất nóng tính và có tài viết cay độc.
Ngài mau nóng, nhưng cũng mau hối hận, và rất nghiêm khắc với những khuyết điểm của chính mình. Người ta kể, khi nhìn thấy bức tranh vẽ Thánh Giêrôme đang cầm hòn đá đánh vào ngực, một giáo hoàng nói: "Ngài cầm hòn đá đó là phải, vì nếu không, Giáo Hội không bao giờ phong thánh cho ngài" (Đời Sống Thánh Nhân của Butler).
Hình ảnh trên bức tranh vẽ về ngài cho thấy ngài nóng tính không cho người mà còn cho chính mình. Ngài nóng đến mức không dùng tay mà dùng đá đánh vào ngực mình vì các khuyết điểm của mình, như để thú lỗi, như để bày tỏ tâm tình hối hận và quyết tâm chừa cãi của mình.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thực tâm sám hối và sửa đổi lỗi lầm để mỗi ngày một nên tốt hơn.
Suy niệm 2: Viết cay độc
Thật sự Thánh Giêrôme rất nóng tính và có tài viết cay độc.
Tình yêu của ngài dành cho Thiên Chúa và Đức Kitô Giêsu thật mãnh liệt, nên bất cứ ai dạy bảo điều gì sai trái, ngài đều coi là kẻ thù của Thiên Chúa và chân lý, và ngài theo đuổi người ấy đến cùng với lối viết táo bạo và đôi khi châm biếm.
Ngài là một người thẳng tính, cương quyết. Ngài có nhân đức cũng như các tính xấu của một người ưa chỉ trích tất cả những vấn đề luân lý thường tình của con người. Như có người nhận xét, ngài là người không chấp nhận thái độ lưng chừng trong phẩm hạnh cũng như trong việc chống đối sự xấu xa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng có thái độ lưng chừng trong phẩm hạnh cũng như trong việc chống đối sự xấu xa, kẻo cũng bị chính Chúa mửa ra ngoài (Kh 3,16).
Suy niệm 3: Kinh Thánh
Trên tất cả Thánh Giêrôme là một học giả Kinh Thánh.
Ngài dịch bộ Kinh Thánh từ tiếng Hy Lạp sang tiếng La Tinh, vốn không phải là một tử ngữ như ngày nay, nhưng vào thời ấy là một sinh ngữ dành cho các người có học vấn thậm chí các học giả. Ngài cũng viết những bài chú giải là nguồn cảm hứng về kinh thánh cho chúng ta ngày nay. Để thực hiện công trình đó, ngài đã phải chuẩn bị rất kỹ. Ngài là bậc thầy về tiếng La Tinh, Hy Lạp, Cổ Do Thái và Canđê.
Trong buổi triều kiến chung ngày 7/11/2007, Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16 đã phát biểu: Hôm nay chúng ta chú ý đến Thánh Giêrôme, một giáo phụ của Hội Thánh, một vị đã lấy Kinh Thánh làm tâm điểm của đời sống mình. Ngài đã chuyển dịch Kinh Thánh sang tiếng Latinh, ngài đã dẫn giải Kinh Thánh bằng các văn bản của ngài, và nhất là ngài đã quyết tâm sống Kinh Thánh một cách cụ thể bằng cuộc sống trần gian lâu dài của ngài, bất kể tính rất tự nhiên ngài cảm thấy khó khăn và nóng nảy của ngài.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thấy được giá trị của Kinh Thánh như lời thánh nhân: Không biết Kinh Thánh thì không biết Đức Kitô.
Suy niệm 4: Học giả
Ngài là một sinh viên nhiều tham vọng, một học giả thông suốt, một văn sĩ phi thường và là cố vấn cho các tu sĩ, giám mục và giáo hoàng.
Thánh Augustine nói về ngài: "Điều mà Thánh Giêrôme không biết, thì thần chết cũng không biết". Để được thế, ngài đã phải nỗ lực học hỏi suốt đời từ bé đến lớn.
Thật thế học vấn của ngài bắt đầu từ nơi sinh trưởng, ở Stridon thuộc Dalmatia (Nam Tư cũ). Sau giai đoạn giáo dục sơ khởi, ngài đến Rôma, là trung tâm học thuật thời ấy, và đến Trier, nước Đức, là nơi quy tụ các học giả. Mỗi nơi ngài sống một vài năm, để theo học với những bậc thầy tài giỏi.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chuyên cần học hỏi, nhất là học biết Chúa.
Suy niệm 5: Vulgate
Thánh Giêrôme đặc biệt nổi tiếng trong việc chuyển dịch Kinh Thánh mà cuốn ngài dịch được gọi là Vulgate.
Theo lời yêu cầu của Đức Giáo Hoàng Damasus, vào cuối thế kỷ thứ IV, ngài đã nhận lời và chuyên tâm làm công tác chuyển dịch này. Và sau này, Công Đồng Triđentinô đã tu sửa bản Vulgate và công bố đó là văn bản chính thức được dùng trong Giáo Hội: Nó có giá trị để đọc giữa công chúng, được dùng để tranh luận và để rao giảng.
Đó không phải là bộ Kinh Thánh tuyệt hảo nhưng Giáo Hội công nhận đó là một kho tàng. Như các học giả ngày nay nhận xét: "Không ai trước thời Thánh Giêrôme hay cùng thời với ngài và rất ít người hậu sinh sau đó hàng thế kỷ cũng không đủ khả năng để thực hiện công trình đó".
* Lạy Chúa Giêsu, xin trợ giúp các vị chuyển dịch Kinh Thánh để các ngài có thể hoàn thành công trình vĩ đại này.
Suy niệm 6: Thần bí
Thánh Giêrôme cũng là một nhà thần bí, đã sống trong sa mạc Chalcis 5 năm để hy sinh cầu nguyện, hãm mình và nghiên cứu.
"Ở nơi xa xôi nhất của sa mạc hoang vu đầy đá sỏi, như thiêu đốt dưới cái nóng hực lửa của mặt trời đã khiến các tu sĩ cư ngụ nơi đây cũng phải khiếp sợ, tôi thấy mình như ở giữa những say mê và đàn đúm ở Rôma. Trong sự đầy ải và tù ngục mà tôi tự ý xử phạt mình vì sợ hỏa ngục, nhiều khi tôi thấy mình ở giữa đám thiếu nữ Rôma như tôi đã từng sống với họ: Trong cái cơ thể lạnh ngắt và trong da thịt nứt nẻ của tôi, dường như tôi đã chết trước khi thực sự chết, lại khao khát được sống...
Cô đơn trước kẻ thù này, linh hồn tôi phủ phục dưới chân Đức Giêsu, lấy nước mắt rửa chân Người, và tôi chế ngự xác thịt với những tuần lễ ăn chay. Tôi không xấu hổ để thố lộ những sự cám dỗ, nhưng tôi đau buồn vì trước đây tôi không được như bây giờ" (trích thư Thánh Giêrôme gửi Thánh Eustochium).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con cũng biết tạo nên sa mạc trong tâm hồn để hy sinh cầu nguyện, hãm mình và nghiên cứu.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 29/9 Lễ kính các Tổng Lãnh Thiên Thần Micael, Gabriel, và Raphael
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Lễ kính các Tổng Lãnh Thiên Thần
Micael, Gabriel, và Raphael
Thiên Thần theo nguyên ngữ là sứ giả. Thánh Grêgôriô thu nhặt nhiều đoạn khác nhau để xếp các Thiên Thần thành 9 phẩm... "Tên các Thiên Thần là danh xưng chỉ các chức phận chứ không chỉ bản tính." (thánh Grêgôriô Cả)
Lược sử
Các thiên thần - là sứ giả của Thiên Chúa - thường xuất hiện trong Kinh Thánh, nhưng chỉ có các thiên thần Micae, Gabrien và Raphaen là có tên.
Thánh Micae xuất hiện trong thị kiến của tiên tri Daniel và trong Sách Khải Huyền. Việc sùng kính Thánh Micae là sự sùng kính thiên thần lâu đời nhất, xuất phát từ Đông Phương trong thế kỷ thứ tư. Cho đến thế kỷ thứ năm thì Giáo Hội Tây Phương mới bắt đầu mừng lễ kính Thánh Micae và các thiên thần.
Thánh Gabrien cũng xuất hiện trong thị kiến của tiên tri Daniel. Sự xuất hiện của Thánh Gabrien mà nhiều người còn nhớ là khi hiện ra với trinh nữ Maria, mẹ Đấng Cứu Thế.
Hoạt động của Thánh Raphaen chỉ giới hạn trong câu chuyện của ông Tobit thời Cựu Ước. Việc kính nhớ Thánh Gabrien (24-3) và Raphaen (24-10) được thêm vào niên lịch Giáo Hội La Mã trong năm 1921. Vào năm 1970, khi duyệt lại niên lịch, Giáo Hội đã đưa ngày lễ kính hai vị vào chung một ngày với Thánh Micae.
Suy niệm 1: Sứ giả
Các thiên thần -là sứ giả của Thiên Chúa- thường xuất hiện trong Kinh Thánh.
Mỗi một tổng lãnh thiên thần nói trên đều có một nhiệm vụ đặc biệt trong Kinh Thánh: Thánh Micae bảo vệ; Thánh Gabrien truyền tin; Thánh Raphaen hướng dẫn.
Trước đây người ta tin rằng những biến cố không thể giải thích được là do hành động của các thực thể thần linh, nhưng ngày nay khoa học có cái nhìn khác biệt và cảm nhận khác biệt về nguyên nhân và hậu quả. Tuy nhiên, người tín hữu vẫn cảm nhận được sự bảo bọc, sự liên hệ và sự hướng dẫn của Thiên Chúa trong những phương cách không thể giải thích được. Chúng ta không thể coi thường vai trò của các thiên thần.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn tạo điều kiện thuận lợi cho các tổng lãnh thiên thần thi hành nhiệm vụ Chúa trao, bằng việc hằng vâng nghe các ngài.
Suy niệm 2: Tiên tri Daniel
Thánh Micae xuất hiện trong thị kiến của tiên tri Daniel.
Ngài xuất hiện như "hoàng tử vĩ đại" bảo vệ Israel chống lại quân thù:
"Thiên sứ lãnh đạo vương quốc Ba-tư đứng chống lại ta hai mươi mốt ngày. Và này Micae, một trong các thiên sứ lãnh đạo cao cấp, đã đến trợ lực ta. Ta để người ở đó, bên cạnh các vua Ba-tư... Nhưng ta sắp báo cho ngươi biết điều đã ghi chép trong sách sự thật. Không một ai hiệp lực với ta chống lại các vị đó, ngoại trừ thiên sứ Micae, tướng lãnh của các ngươi" (Đn 10,13.21).
1 "Thời đó, Micae sẽ đứng lên. Người là vị chỉ huy tối cao, là đấng vẫn thường che chở dân ngươi. Đó sẽ là thời ngặt nghèo chưa từng thấy, từ khi có các dân cho đến bây giờ. Thời đó, dân ngươi sẽ thoát nạn, nghĩa là tất cả những ai được ghi tên trong cuốn sách của Thiên Chúa" (Đn 12,1).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con vững tin vào nhiệm vụ bảo vệ của tổng lãnh thiên thần Micae chống lại quân thù ma quỷ.
Suy niệm 3: Sách Khải Huyền
Thánh Micae xuất hiện... trong Sách Khải Huyền.
Ngài dẫn đầu đạo binh Thiên Chúa chiến đấu với ma quỷ trong trận chiến vẻ vang sau cùng.
"Bấy giờ, có giao chiến trên trời: thiên thần Micae và các thiên thần của người giao chiến với Con Mãng Xà. Con Mãng Xà cùng các thiên thần của nó cũng giao chiến (Kh 12,1).
Truyền thống Giáo Hội ghi nhận sự kiện này xảy ra khi thiên thần Luxiphe sinh lòng kiêu ngạo không muốn lệ thuộc Thiên Chúa, nên tổng lãnh thiên thần Micae đứng lên giao chiến, và Thiên Chúa đã phạt Luxiphe thành ma quỷ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn khiêm tốn như tổng lãnh thiên thần Micae đứng về phía Chúa.
Suy niệm 4: Tiên tri Daniel
Thánh Gabrien cũng xuất hiện trong thị kiến của tiên tri Daniel.
Ngài thừa hành lệnh (Đn 8,16) đến với tiên tri Daniel để giải thích thị kiến (Đn 8,1) cũng như cắt nghĩa lời tiên tri (Đn 9,1) cho tiên tri Daniel, vào lúc dâng hiến lễ ban chiều (Đn 9,21).
Ngài công bố vai trò của Thánh Micae trong hoạch định của Thiên Chúa, vốn xuất hiện như "hoàng tử vĩ đại" bảo vệ Israel chống lại quân thù.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn mở rộng lòng đón nhận các lệnh truyền của Chúa qua thiên thần Gabrien.
Suy niệm 5: Trinh nữ Maria
Sự xuất hiện của Thánh Gabrien mà nhiều người còn nhớ là khi hiện ra với trinh nữ Maria, mẹ Đấng Cứu Thế.
Biến cố truyền tin này đã được tường thuật trong Tin Mừng thánh Luca (1,26-38) với nhiều bài học quý giá về thiên thần Gabrien cũng như về Đức Maria.
Là sứ thần của Thiên Chúa từ trời đến, Gabrien vẫn khiêm tốn mở lời chào hỏi (28), trấn an (30), trao gởi sứ điệp cách trung thực (31-33), kiên nhẫn giải thích cặn kẻ (35-37) và chỉ rời đi sau khi hoàn thành sứ mạng (38b). Còn Đức Maria không nhu nhược nhận bừa mà vận dụng đặc ân lý trí Chúa ban để suy nghĩ (29) và chân thành nêu lên thắc mắc (34) để rồi cuối cùng khiêm tốn thực thi lệnh truyền (38a).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ghi nhận và sống các bài học quý giá các ngài để lại.
Suy niệm 6: Ông Tobit
Hoạt động của Thánh Raphaen chỉ giới hạn trong câu chuyện của ông Tobit thời Cựu Ước.
Trong chuyện này người xuất hiện để dẫn dắt con ông Tobit là Tobia qua những cuộc mạo hiểm dị thường mà sau cùng dẫn đến một kết quả thật tốt đẹp: Tobia kết hôn với Sarah, ông Tobit được chữa khỏi mù mắt và tài sản của gia đình ông được hồi phục.
Trong cuộc hành trình của mỗi người như một lữ hành ở trần gian tiến về đích điểm quê trời, không thiếu những chông gai, những cạm bẫy của quỷ ma, chúng ta hãy bám víu vào nhiệm vụ hướng dẫn của thiên thần Raphaen và hãy an tâm vững bước như một Tobia, chắc chắn chúng ta sẽ gặt hái được thành quả tốt đẹp.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn vâng theo sự chỉ dẫn tuyệt vời của thiên thần Raphaen.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 28/9 Thánh Wenceslaus (907? - 929)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Wenceslaus (907? - 929)
"Vua Wenceslaus Nhân Từ" đã cụ thể hóa Kitô Giáo trong một thế giới đầy xáo trộn chính trị.
Lược sử
Nếu Giáo Hội được mô tả một cách sai lầm như bao gồm những người "thuộc thế giới khác," thì cuộc đời Thánh Wenceslaus là một minh chứng cho sự khác biệt đó: Người bênh vực các giá trị Kitô Giáo giữa những mưu đồ chính trị mà đó là đặc điểm của Bohemia vào thế kỷ thứ 10.
Người sinh năm 907 gần Prague, con của Công Tước Bohemia.
Sự cai trị của Wenceslaus được ghi nhận qua các nỗ lực nhằm đoàn kết Bohemia, hỗ trợ Giáo Hội và các cuộc đàm phán hòa bình với nước Đức, nhưng chính vì thế người đã gặp khó khăn với những người chống-Kitô Giáo.
Mặc dù cái chết của người là hậu quả chính yếu của biến động chính trị, Thánh Wenceslaus được ca tụng như một vị tử đạo vì đức tin, và mộ của người trở nên trung tâm hành hương. Thánh nhân được xưng tụng là quan thầy của người Bohemia và người Tiệp Khắc trước kia.
Suy niệm 1: Chính trị
Wenceslaus bênh vực các giá trị Kitô Giáo giữa các mưu đồ chính trị.
"Vua Wenceslaus Nhân Từ" đã cụ thể hóa Kitô Giáo trong một thế giới đầy xáo trộn chính trị. Trong khi chúng ta thường là nạn nhân của một loại bạo lực nào đó, chúng ta cũng có thể đồng hóa với sự tranh đấu của thánh nhân nhằm đem lại sự hài hòa cho xã hội. Mọi Kitô Hữu đều được mời gọi tham dự vào việc thay đổi xã hội và sinh hoạt chính trị, vì các giá trị phúc âm rất cần thiết cho thế giới ngày nay.
"Trong khi công nhận thẩm quyền của các thực thể chính trị, Kitô Hữu nào tham gia sinh hoạt chính trị phải cố gắng có những quyết định phù hợp với phúc âm và, trong khuôn khổ của một tập thể chính đáng, phải làm chứng cho đức tin của mình bởi sự phục vụ hữu hiệu và vô vị lợi" (Đức Giáo Hoàng Phao-lô VI, Lời Mời Gọi Hành Động, 46)
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con cố gắng có những quyết định phù hợp với phúc âm khi phải tham gia sinh hoạt chính trị.
Suy niệm 2: Đoàn kết
Sự cai trị của Wenceslaus được ghi nhận qua các nỗ lực nhằm đoàn kết Bohemia, hỗ trợ Giáo Hội và các cuộc đàm phán hòa bình với nước Đức.
Đoàn kết luôn là sức mạnh vô địch. Nếu như không đoàn kết nhất trí trong công việc thì sẽ dẫn đến thất bại. Đoàn kết là cái gì đó rất gần gũi với chúng ta, hằng ngày chúng ta thường nhắc đến nó, chúng ta hay bảo "đoàn kết là sức mạnh", nhưng chỉ nói suông thôi thì không giải quyết được gì, mà phải hành động thiết thực.
Hành động thiết thực có nghĩa là phải hiểu được nhau, cùng chung mục tiêu, cùng chung cái hướng tới. Cả hai bên phải đứng trên lập trường của nhau mà suy xét vấn đề. Không thể đoàn kết khi có cùng chung một đích điểm, nhưng lại có hai cách suy nghĩ trái ngược nhau, hai quan điểm khác nhau và có sự mâu thuẫn giữa hai quan điểm.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thấy được giá trị của sự đoàn kết để biết hy sinh cá tính của mình vì lợi ích chung.
Suy niệm 3: Hỗ trợ
Sự cai trị của Wenceslaus được ghi nhận qua các nỗ lực nhằm đoàn kết Bohemia, hỗ trợ Giáo Hội và các cuộc đàm phán hòa bình với nước Đức.
Thiện ý hỗ trợ Giáo Hội bằng việc bênh vực các giá trị Kitô Giáo của ngài đã sớm thực hiện ngay trước khi lên ngôi, và đã được hỗ trợ. Thật thế bà nội thánh thiện của người là bà Ludmilla, đã nuôi nấng và dạy dỗ người với hy vọng người sẽ cầm quyền ở Bohemia thay cho mẹ của Wenceslaus, là người ưa thích các bè phái chống đối Kitô Giáo.
Hiển nhiên là bà nội Ludmilla bị giết, nhưng các lực lượng Kitô Giáo mạnh thế đã chiến thắng, và Wenceslaus đã nắm giữ chức vụ lãnh đạo trong chính phủ, để rồi ngài có cơ hội thuận lợi tiếp tục tiến hành tinh thần hỗ trợ Giáo Hội cho dầu phải chết vì chí hướng này.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn hỗ trợ Giáo Hội bằng đời sống chứng nhân, thậm chí phải minh chứng bằng cái chết vì đức tin
Suy niệm 4: Hòa bình
Sự cai trị của Wenceslaus được ghi nhận qua các nỗ lực nhằm đoàn kết Bohemia, hỗ trợ Giáo Hội và các cuộc đàm phán hòa bình với nước Đức.
Về đối nội, ngài nỗ lực xây dựng sự đoàn kết để tạo sức mạnh. Về đối ngoại, ngài cố gắng gìn giữ biên giới để bảo vệ sự bình yên cho dất nước.
Một phương cách ngài dùng theo chiều hướng duy trì hạnh phúc an bình thịnh vượng cho dân, đó là tiến hành các cuộc đàm phán hòa bình chứ không dùng biện pháp chiến tranh vốn luôn gây nên những hậu quà khốc hại: sinh hoạt thông thường trong xã hội bị xáo trộn, cuộc sơ tán đến những chỗ ở bất đắc dĩ, tâm lý bất an về sinh mạng, sự mất mát thương tâm của các gia đình có thân nhân bị tử vong, cảnh hoang tàn đổ nát phải khắc phục sau chiến tranh...
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các nhà cầm quyền biết giải quyết vấn đề hòa bình bằng phương án đàm phán hơn chiến tranh.
Suy niệm 5: Khó khăn
Wenceslaus đã gặp khó khăn với những người chống-Kitô Giáo.
Nỗi khó khăn nổi bật cũng là niềm khổ đau lớn nhất trong đời ngài, đó là cảnh nồi da xáo thịt, vì tình địch chủ chốt cực lực chống đối ngài không ai khác, chính là người em ruột của ngài.
Thật thế em của ngài là Boleslav đã nhúng tay vào một âm mưu, và trong tháng Chín 929, ông mời Wenceslaus đến Alt Bunglou để dự lễ các Thánh Cosmas và Damian. Trên đường đi dự lễ, Boleslav đã tấn công chính anh mình, và trong cuộc ẩu đả, Wenceslaus đã bị giết bởi bộ hạ của Boleslav.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các gia đình luôn sống hòa thuận yêu thương nhau trong việc cùng hợp ý thờ phượng Chúa.
Suy niệm 6: Tử đạo
Thánh Wenceslaus được ca tụng như một vị tử đạo vì đức tin.
Xưa nay có lẽ chúng ta đã quen đi với cách thức phân biệt các thánh tử đạo với các thánh giáo phụ, hiển tu, đồng trinh... Nhưng chúng ta quên rằng thánh nào cũng là thánh, và thánh nhân kitô giáo nào cũng trước tiên phải là chứng nhân của Tin Mừng, hay nói cách khác, chứng nhân của Chúa Kitô, chỉ khác nhau cách thức làm chứng mà thôi.
Vậy thì vị tử đạo, trước tiên phải là chứng nhân của Chúa Kitô như mọi chứng nhân khác, trên bình diện đời sống. Cái chết" vì đạo" của người tử đạo chỉ là một cách thức làm chứng mà thôi, chứ không phải làm thay đổi bản chất người chứng của Chúa Kitô. Tại sao người ta dám tử đạo, dám làm chứng cho Tin Mừng, dám làm chứng cho Chúa? Thưa vì người ta quý sự sống đời đời. Người ta cho phần rỗi linh hồn là quý hóa và không có gì có thể đổi lấy được (lm Dr. Francis Hồ ngọc Thỉnh).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con xác tín và sống lời Chúa: "được lợi cả thế gian mà mất linh hồn thì ích lợi gì" (Mc 8,36).
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
- Ngày 27/9 Thánh Vinh-sơn Phao-lô (1580?-1660)
- Ngày 26/9 Thánh Cosmas và Thánh Damian (c. 303?)
- Ngày 25/9 Thánh Elzear và Chân Phước Delphina (1286-1323) (1283-1358)
- Ngày 24/9 Thánh Pacifico ở San Severino (1653 - 1721)
- Ngày 23/9 Thánh Padre Piô (1887-1968)
- Ngày 22/9 Thánh Lorenzo Ruiz và Các Bạn (1600?-1637)
- Ngày 21/9 Thánh Mátthêu
- Ngày 20/9 Thánh Anrê Kim Taegon, Phaolô Chong Hasang và Các Bạn
- Ngày 19/9 Thánh Januarius (c. 305?)
- Ngày 18/9 Thánh Giuse Cupertino (1603-1663)