Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh cha cử hành thánh lễ tại Juba, Nam Sudan
Trong thánh lễ duy nhất tại Nam Sudan, Đức Thánh cha Phanxicô mời gọi các tín hữu trở thành “muối đất và ánh sáng thế gian”, góp phần nhỏ bé của mình để mang lại an bình và cải tiến đất nước, xã hội, môi trường mình sinh sống.
Chúa nhật, ngày 05 tháng Hai là ngày cuối cùng của Đức Thánh cha trong chuyến viếng thăm tại Nam Sudan, và cũng là ngày chót trong chuyến tông du 6 ngày của ngài tại Cộng hòa Dân chủ Congo và Nam Sudan. Đức Thánh cha chỉ có một hoạt động duy nhất là thánh lễ tại khu vực Lăng John Garang ở thủ đô Juba, nơi ngài đã cùng với hai vị lãnh đạo Anh giáo và Tin lành Trưởng lão Ecosse cử hành buổi cầu nguyện đại kết, chiều thứ Bảy hôm trước, ngày 04 tháng Hai, trước sự tham dự của khoảng 50.000 tín hữu Kitô.
Lúc 7 giờ 30 sáng Chúa nhật, ngày 05 tháng Hai, tại Tòa Sứ thần Tòa Thánh thủ đô Nam Sudan, Đức Thánh cha đã từ giã các nhân viên tại đây và cám ơn các ân nhân đã hỗ trợ việc tổ chức cuộc viếng thăm của ngài, rồi lên đường đến khu vực lăng vị lập quốc Nam Phi, ông John Garang de Mabior. Ông là người đã lãnh đạo Quân đội và Phong trào giải phóng nhân dân Sudan trong 22 năm, từ 1983 đến 2005, chống lại chính sách Hồi giáo hóa và Arập hóa của nhà cầm quyền Sudan ở miền bắc, đối với nhân dân miền nam nước này, đã số là tín hữu Kitô. Năm 2005 là năm ký Hòa ước phổ quát giữa hai bên, đưa tới cuộc trưng cầu dân ý và nền độc lập của Nam Sudan hồi năm 2011.
Ông John Garang đã không được chứng kiến lễ độc lập của Nam Sudan, vì ông đã tử nạn trong tai nạn máy bay trực thăng, ngay sau khi đã tuyên thệ như Phó Tổng thống Sudan và Chủ tịch chính quyền Nam Sudan. Chính tại lăng này, ngày 09 tháng Bảy năm 2011, Tổng thống Salva Kiir đã tuyên bố nền độc lập của Nam Sudan.
Khu vực trước mộ của ông John Galang là công viên mở cho dân chúng. Khi đến đây lúc 8 giờ 15 phút sáng Chúa nhật, Đức Thánh cha đã cùng Đức Tổng giám mục Stephen Ameyu, Chủ chăn của 850.000 tín hữu Công giáo địa phương, dùng xe Papamobile tiến qua các lối đi để chào thăm hơn 100.000 tín hữu từ nhiều nơi, vượt qua bao nhiêu con đường dài để đến tham dự thánh lễ đặc biệt này. Trong số những người hiện diện, cũng có Tổng thống Salva Kiir và nhiều quan chức trong chính quyền.
Đồng tế với Đức Thánh cha, có tất cả 13 giám mục hai nước Sudan, các hồng y và giám mục trong đoàn tùy tùng của Đức Thánh cha, và hàng trăm linh mục toàn quốc.
Bài giảng của Đức Thánh cha
Trong bài giảng thánh lễ, Đức Thánh cha quảng diễn bài Tin mừng theo thánh Matthêu, đọc trong Chúa nhật thứ V thường niên, trong đó Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ: “Các con là muối đất và là ánh sáng thế gian” (Mt 5,13.14).
“Các con là muối đất” - Muối mang lại hương vị
Đức Thánh cha giải thích rằng: “Muối được dùng để mang hương vị cho lương thực. Đó là một nguyên liệu vô hình mang lại vị cho mọi thứ. Chính vì thế, ngay từ thời xa xưa, muối được coi như biểu tượng của sự khôn ngoan, nghĩa là nhân đức ta không thấy, nhưng mang lại hương vị cho cuộc sống và nếu không có nó thì cuộc sống trở nên nhạt nhẽo, không có hương vị. Nhưng sự khôn ngoan mà Chúa Giêsu nói ở đây là gì? Chúa dùng hình ảnh muối, ngay sau khi công bố các mối phúc của Ngài cho các môn đệ: qua đó, chúng ta hiểu các mối phúc thật chính là muối cho đời sống Kitô hữu. Thực vậy, các mối phúc mang sự khôn ngoan của Trời Cao xuống trần thế: chúng cách mạng các tiêu chuẩn của trần thế, quan niệm thường tình của người đời. Nói vắn tắt, các mối phúc khẳng định rằng để được hạnh phúc hoàn toàn, chúng ta không được tìm cách trở nên hùng mạnh, giàu sang và quyền lực, trái lại cần khiêm tốn, hiền hòa và thương xót; đừng gây sự ác cho ai, nhưng trở thành những người xây dựng hòa bình cho mọi người. Chúa Giêsu dạy chúng ta cần có sự khôn ngoan của người môn đệ, đó là điều mang lại hương vị cho trái đất chúng ta đang ở. Chúng ta hãy nhớ rằng: nếu chúng ta thực hành các mối phúc, không những chúng ta mang lại hương vị cho cuộc sống của ta, nhưng còn cho xã hội, và đất nước nơi chúng ta sinh sống”.
Muối gìn giữ
Đức Thánh cha nói thêm rằng: “Vào thời Chúa Giêsu, ngoài việc mang lại hương vị, muối còn có một chức năng thiết yếu khác, đó là gìn giữ lương thực để nó khỏi hư hỏng. Nhưng Kinh thánh nói rằng có một “lương thực”, một thiện ích thiết yếu khác phải gìn giữ trên hết mọi sự khác, đó là giao ước với Thiên Chúa. Vì thế, thời ấy, mỗi khi người ta dâng lễ vật cho Chúa, họ bỏ một chút muối vào đó. Thực vậy, chúng ta hãy nghe Kinh thánh nói về vấn đề này: “Trong hiến vật của ngươi, ngươi đừng để thiếu muối giao ước với Thiên Chúa của ngươi; ngươi hãy bỏ muối vào mọi lễ vật của ngươi”, Lêvi đoạn 2 câu 13.
“Vì thế, muối nhắc nhớ nhu cầu chính yếu là gìn giữ mối liên hệ với Thiên Chúa, vì Chúa trung tín với chúng ta, giao ước của Người với chúng ta không thể hư hỏng, bất khả xâm phạm và bền lâu (Xc Dân số 18,19; 2 Cr 13,50. Do đó, người môn đệ của Chúa Giêsu, trong tư cách muối đất, là chứng nhân về giao ước Chúa đã thực hiện, giao ước mà chúng ta cử hành mỗi ngày trong mỗi thánh lễ: một giao ước mới, giao ước vĩnh cửu, không thể phá vỡ (Xc 1 Cr 11,25; Dt 9), một tình thương đối với chúng ta không thể phá hủy dù chúng ta bất trung”.
Đức Thánh cha nhắn nhủ rằng: “Anh chị em thân mến, chúng ta là chứng nhân về sự tuyệt vời ấy. Xưa kia, khi các cá nhân hoặc dân tộc ký kết giao ước với nhau, giao ước thân hữu, thường thường họ trao đổi với nhau một chút muối; chúng ta là muối, chúng ta được kêu gọi làm chứng về giao ước với Thiên Chúa trong vui tươi và với lòng biết ơn, chứng tỏ mình là người có khả năng kiến tạo những mối dây thân hữu, sống tình huynh đệ, thiết lập những tương quan nhân bản tốt đẹp, để ngăn chặn không để sự ác làm hư hỏng, ngăn chặn căn bệnh chia rẽ, những áp phe bẩn thỉu bất chính, tệ nạn bất công được lướt thắng”.
Đức Thánh cha nói với các tín hữu Nam Sudan rằng: “Hôm nay, tôi muốn cám ơn anh chị em vì anh chị em là muối đất tại quốc gia này. Tuy nhiên, đứng trước bao nhiêu vết thương, bạo lực đang nuôi dưỡng chất độc hận thù, gian ác gây nên lầm than và nghèo đói, có thể là anh chị em cảm thấy mình bé nhỏ và bất lực. Những khi anh chị em bị cám dỗ cảm thấy mình không thích hợp, hãy cố gắng nhìn muối và những hạt bé nhỏ của nó: nó là một nguyên liệu nhỏ bé và một khi rắc muối trên một món ăn, nó tan đi, nhưng chính nhờ thế nó mang lại hương vị cho mọi phần. Cũng vậy, các Kitô hữu chúng ta, tuy yếu thế và bé nhỏ, và cả các năng lực của chúng ta có vẻ chẳng là gì đứng trước sự to lớn của các vấn đề, và trước cơn thịnh nộ mù quáng của bạo lực, chúng ta có thể đóng góp một phần quyết định để thay đổi lịch sử. Chúa Giêsu mong muốn rằng chúng ta hành động như muối: chỉ cần một chút muối tan ra, là đủ thể mang lại một hương vị khác cho toàn thể. Vậy chúng ta đừng thối lui, vì nếu không có phần bé nhỏ ấy, không có sự đóng góp nhỏ bé của chúng ta, thì tất cả bị mất hương vị. Chúng ta hãy bắt đầu từ sự ít ỏi, từ điều thiết yếu, từ những gì không xuất hiện trên các sách sử, nhưng nó thay đổi lịch sử: nhân danh Chúa Giêsu, các mối phúc thật, chúng hãy từ bỏ khí giới oán ghét và thù hận để đón nhận kinh nguyện và bác ái; chúng ta hãy vượt thắng ác cảm và đố kỵ, vì với thời gian, những thứ này trở thành kinh niên và có nguy cơ tạo nên sự đối nghịch giữa các bộ lạc và sắc tộc; chúng ta hãy học cách bỏ một chút muối tha thứ trên các vết thương, nó làm xót một chút nhưng chữa lành. Và cho dù con tim rướm máu vì những thiệt hại phải chịu, chúng ta hãy từ bỏ một lần cho tất cả ước muốn lấy ác báo ác, và chúng ta sẽ được an bình trong tâm hồn; chúng ta hãy đón nhận và yêu thương nhau trong chân thành và quảng đại, như Chúa đã làm với chúng ta. Chúng ta hãy bảo tồn điều thiện chúng ta có và không để mình bị sự ác làm hư hỏng!
“Ánh sáng thế gian”
Tiếp tục bài giảng, Đức Thánh cha nói: “Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian. Chúa nói với các môn đệ rằng họ cũng là ánh sáng thế gian. Điều này có nghĩa là chúng ta, khi đón nhận ánh sáng của Chúa Kitô, ánh sáng là Chúa Kitô, chúng ta trở nên sáng ngời, chiếu tỏa ánh sáng của Thiên Chúa!
Chúa Giêsu nói thêm rằng: “Một thành ở trên núi không thể che giấu được, và người ta cũng không thắp đèn để đặt dưới giá, nhưng đặt trên giá để soi sáng cho mọi người trong nhà” (Mt 5,15). Đây cũng là một hình ảnh quen thuộc thời ấy: nhiều làng ở miền Galilea ở trên đồi, từ xa người ta đã thấy rõ; và những ngọn đèn trong nhà, được đặt trên giá để soi sáng trong mọi góc nhà; và khi phải tắt đèn, thì người ta đậy nó bằng một nắp vung bằng gỗ hoặc bằng đất nung, gọi là nắp vung, làm cho nó thiếu dưỡng khí và ngọn lửa sẽ tắt đi.
“Anh chị em, lời mời gọi của Chúa Giêsu hãy trở thành ánh sáng thế gian thật là rõ: chúng ta là những môn đệ của Chúa, chúng ta được kêu gọi chiếu sáng như một thành ở trên cao, như một ngọn đèn với ánh lửa không được tắt. Nói khác đi, trước khi bận tâm về những bóng đêm bao quanh chúng ta, trước khi hy vọng những gì chung quanh trở nên sáng rõ, chúng ta phải chiếu sáng, soi sáng bằng cuộc sống và bằng những công việc của chúng ta cho thành phố, làng mạc và những nơi chúng ta cư ngụ, những người chúng ta gặp gỡ, những hoạt động chúng ta thi hành. Chúa ban cho chúng ta sức mạnh để trở thành ánh sáng nơi Người, cho mọi người; vì tất cả phải có thể thấy những việc lành của chúng ta và khi thấy, họ cởi mở kinh ngạc đối với Thiên Chúa và tôn vinh Chúa (Xc v.16): nếu chúng ta sống như những người con và anh em trên trái đất, dân chúng sẽ khám phá họ có một người Cha trên trời. Vì thế chúng ta được yêu cầu cháy sáng tình thương: đừng để cho ánh sáng chúng ta tắt lịm, từ cuộc sống chúng ta không còn dưỡng khí bác ái, những công việc gian ác cướp mất không khí trong lành của chứng tá chúng ta. Đất nước này, đẹp đẽ và đau thương, đang cần ánh sáng mà mỗi người chúng ta có, hay đúng hơn, đang cần ánh sáng là mỗi người trong anh chị em!
“Anh chị em rất thân mến, tôi cầu chúc anh chị em là muối được rắc lên và tan đi trong quảng đại để mang hương vị cho Nam Sudan, hương vị huynh đệ của Tin mừng, trở thành những cộng đoàn Kitô sáng ngời, như những thành ở trên cao có thể chiếu tỏa một ánh sáng thiện hảo trên tất cả mọi người và chứng tỏ rằng thật là đẹp và có thể sống trong nhưng không, có hy vọng, tất cả cùng nhau xây dựng một tương lai hòa giải.”
Cuối thánh lễ, Đức Tổng giám mục Stephen Ameyu, của Giáo phận Juba, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Sudan, đã chào mừng và cám ơn Đức Thánh cha, Đức Tổng giám mục Justin Welby của Anh giáo và Mục sư Iain Greenshields của Tin lành Trưởng lão Ecosse đã đến thăm Nam Sudan. Đức Thánh cha đã tặng cho giáo phận Juba một chén lễ quý giá.
Kinh Truyền tin
Thánh lễ được tiếp nối với kinh Truyền tin. Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh, Đức Thánh cha cám ơn Đức Tổng giám mục Stephen sở tại, và chào thăm Tổng thống cùng với toàn thể chính quyền, các vị lãnh đạo dân sự và tôn giáo hiện diện. Ngài cám ơn vì sự tiếp đón và sự chuẩn bị cho chuyến viếng thăm của ngài.
Đức Thánh cha cám ơn các tín hữu đông đảo, đã lặn lội từ xa đến đây. Ngoài lòng quý mến, ngài còn cám ơn họ vì niềm tin, sự kiên nhẫn và tất cả những điều tốt lành đang làm cũng như những vất vả mà anh chị em biết dâng lên Thiên Chúa, không chút nản chí, biết tiến bước.
Đức Thánh cha nói: “Tại Nam Sudan có một Giáo hội can đảm, cùng họ hàng với Giáo hội tại Sudan, có một vị thánh là Giuseppe Bakhita, một phụ nữ cao cả, nhờ ơn Chúa đã biến đau khổ phải chịu thành hy vọng.
“Hy vọng là lời tôi để lại cho mỗi người trong anh chị em, như một hồng ân cần chia sẻ, như một hạt giống mang lại hoa trái.”
Đức Thánh cha không quên cầu chúc hòa bình cho Nam Sudan và nói: “Cùng với hai người anh em của tôi là Đức Tổng giám mục Justin và Mục sư Iain, mà tôi thành tâm cám ơn, chúng tôi đã đến đây và sẽ tiếp tục đồng hành với anh chị em, làm tất cả những gì chúng tôi có thể để có những bước tiến đích thực hướng về hòa bình. Tôi muốn phó thác hành trình hòa giải và hòa bình này có một phụ nữ khác, cao cả và đồng thời bé nhỏ nhất, rất cao vời nhưng đồng thời rất gần gũi chúng ta, đó là Mẹ Maria, Mẹ chúng ta, Nữ Vương hòa bình... Giờ đây, chúng ta hãy cầu nguyện và phó thác cho Mẹ chính nghĩa hòa bình của Nam Sudan và toàn Phi châu với bao nhiêu anh chị em chúng ta trong đức tin đang chịu bách hại và nguy hiểm, bao nhiêu người đau khổ vì xung đột, bị bóc lột và nghèo đói. Chúng ta cũng phó thác cho Đức Mẹ hòa bình thế giới, đặc biệt tại nhiều nước đang có chiến tranh, như Ucraina đau thương.”
Thánh lễ kéo dài hơn hai tiếng đồng hồ và kết thúc với kinh Truyền tin và phép lành của Đức Thánh cha. Liền đó, Đức Thánh cha và hai vị lãnh đạo Kitô tại Anh quốc cùng ra phi trường quốc tế của thủ đô Juba, cách đó 7 cây số. Tại đây, lúc 11 giờ đã diễn ra nghi thức tiễn biệt các vị với sự hiện diện của Tổng thống Nam Sudan.
Máy bay Airbus A359 của hãng Ita Airways chở Đức Thánh cha, đoàn tùy tùng và các ký giả quốc tế, cất cánh lúc gần 12 giờ trưa. Chuyến bay dài gần 7 tiếng đồng hồ, đã đưa Đức Thánh cha về đến Roma bình an, kết thúc tốt đẹp chuyến tông du lần thứ 40 của ngài tại nước ngoài.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Diễn văn của ĐTC trước các Giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ, chủng sinh của Nam Sudan
Anh chị em em thân mến, xin chào anh chị em!
Tôi đã mong chờ được gặp anh chị em từ lâu; xin tạ ơn Chúa vì cơ hội này. Cám ơn Đức cha Yunan Tombe Trille đã có những lời chào mừng dành cho tôi. Cám ơn anh chị em đã hiện diện nơi đây, một số anh chị em đã mất nhiều giờ đến đây. Tôi luôn khắc ghi trong tâm hồn một số khoảnh khắc đã trải qua trước cuộc viếng thăm này: buổi cử hành tại Quảng trường Thánh Phêrô năm 2017, để cầu xin Chúa ban hồng ân hòa bình; và cuộc tĩnh tâm năm 2019 với các nhà lãnh đạo chính trị, những người được mời gọi, qua lời cầu nguyện, đưa ra quyết tâm vững chắc để theo đuổi hòa giải và tình huynh đệ trong nước. Trên hết, chúng ta cần điều này: chào đón Chúa Giêsu, bình an và niềm hy vọng của chúng ta.
Trong diễn văn hôm qua, tôi đã được truyền cảm hứng từ dòng nước của sông Nile, chảy qua Nam Sudan, như xương sống đất nước anh chị em. Trong Kinh Thánh, nước liên tưởng đến hành động của Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo. Nước là lòng trắc ẩn của Thiên Chúa làm dịu cơn khát khi chúng ta đang lang thang trong sa mạc, là lòng thương xót thanh tẩy chúng ta khi chúng ta rơi vào vũng lầy tội lỗi, trong bí tích Thánh tẩy, Người đã thánh hoá chúng ta “bằng nước tái sinh và đổi mới trong Thánh Thần” (Tt 3, 5). Chính từ quan điểm Kinh Thánh mà tôi muốn nhìn dòng nước sông Nile theo cái nhìn mới. Một mặt, trong lòng sông này, đổ vào trong đó dòng nước mắt của một dân tộc bị đắm chìm trong đau khổ, tử đạo và bạo lực; một dân tộc cầu khẩn như tác giả thánh vịnh: “Bờ sông Babylon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Xion” (Tv 137, 1). Thực tế, nước của dòng sông vĩ đại này chứa đựng tiếng rên rỉ đau khổ của các cộng đoàn anh chị em, tiếng kêu đau đớn của nhiều cuộc đời bị tan vỡ, thảm kịch của một dân tộc phải chạy trốn, nỗi đau của những phụ nữ và sợ hãi ghi sâu trong mắt trẻ em. Tuy nhiên, đồng thời nước của dòng sông vĩ đại đưa chúng ta trở lại câu chuyện của Môsê, dấu hiệu giải thoát và cứu độ. Thực tế, từ dòng nước đó Môsê đã được cứu, dẫn dân đi vào giữa Biển Đỏ. Dòng nước đã trở thành phương tiện cứu độ, biểu tượng trợ giúp của Thiên Chúa, Đấng thấy sự đau khổ của con cái, lắng nghe tiếng kêu khóc và đến cứu họ (Xh 3, 7). Nhìn vào câu chuyện Môsê, người đã dẫn dắt Dân Chúa đi qua sa mạc, chúng ta hãy tự hỏi đâu là ý nghĩa của việc trở thành thừa tác viên của Chúa trong một lịch sử được đánh dấu bằng chiến tranh, hận thù, bạo lực và nghèo đói. Làm thế nào chúng ta có thể thi hành thừa tác vụ trong vùng đất này, dọc theo bờ sông đã đẫm máu người vô tội, giữa những khuôn mặt đẫm lệ của những người được giao phó cho chúng ta?.
Để cố gắng trả lời, tôi dừng lại ở hai thái độ của Môsê: ngoan nguỳ và chuyển cầu
Điều đánh động đầu tiên trong câu chuyện của Môsê là sự ngoan nguỳ của ông trước sáng kiến của Chúa. Tuy nhiên, chúng ta không được nghĩ rằng điều này luôn luôn xảy ra như thế. Lúc đầu, ông muốn tự mình chống bất công và áp bức. Được công chúa của Pharaoh cứu từ sông Nile, ông phát hiện ra danh tính của mình. Xúc động trước đau khổ và sỉ nhục của anh em mình, một ngày Môsê quyết định thi hành công lý một mình qua việc đánh chết một người Ai Cập vì đã ngược đãi một người Do Thái. Tuy nhiên, sau sự kiện này, ông đã phải chạy trốn và ở lại sa mạc trong nhiều năm. Ở đó, ông đã trải qua một sa mạc nội tâm. Ông đã nghĩ đến việc đối phó với bất công một mình và bây giờ, kết quả là ông trở thành kẻ phải chạy trốn, sống trong cô đơn, nếm trải cảm giác thất bại cay đắng. Sai lầm của Môsê là gì? Đó là nghĩ mình là trung tâm, chỉ dựa vào sức mạnh mình. Nhưng như thế, ông vẫn là một tù nhân của những phương pháp tồi tệ nhất của con người, như đáp trả bạo lực bằng bạo lực.
Trong cuộc sống của chúng ta, đôi khi cũng có thể xảy ra như thế. Trong sâu thẳm chúng ta nghĩ mình là trung tâm, chúng ta có thể tự làm được mọi chuyện, nếu không phải trong lý thuyết thì ít ra trong thực tế. Chúng ta cho rằng với tài khéo của mình, chúng ta có thể tìm câu trả lời cho những đau khổ và những nhu cầu của dân chúng qua các phương tiện của con người, như tiền bạc, trí thông minh, quyền lực. Trái lại, hoạt động của chúng ta đến từ Chúa, Người là Thiên Chúa chúng ta và chúng ta được kêu gọi để trở thành những khí cụ ngoan nguỳ trong tay Người. Môsê đã học được điều này, khi một ngày Chúa chủ động đến gặp ông, hiện ra “trong đám lửa từ giữa bụi cây” (Xh 3, 2). Ông đã để cho mình được thu hút, nhường chỗ cho sự kinh ngạc, có thái độ ngoan nguỳ để cho mình được chiếu sáng bởi sự lôi cuốn của ngọn lửa. Ông tự bảo: “Mình phải lại xem cảnh tượng kỳ lạ này mới được: vì sao bụi cây lại không cháy rụi?” (Xh 3, 3). Sự ngoan nguỳ cần cho thừa tác vụ của chúng ta là đến gần Thiên Chúa với sự ngạc nhiên và khiêm nhường, để cho mình được thu hút và hướng dẫn bởi Chúa. Đầu tiên là Thiên Chúa chứ không phải tôi, để phó thác cho Lời Người trước khi cậy đến lời chúng ta, để đón nhận sáng kiến của Chúa cách ngoan nguỳ trước khi tập trung vào dự án riêng của chúng ta và của Giáo hội.
Khi chúng ta ngoan nguỳ để Chúa uốn nắn, chúng ta sẽ sống thừa tác vụ theo một cách mới. Trước Vị Mục Tử Nhân Lành, chúng ta hiểu rằng chúng ta không phải là những người đứng đầu bộ lạc, nhưng là những mục tử đầy lòng trắc ẩn và thương xót; không phải là những ông chủ của dân, nhưng là những người phục vụ, những người được kêu gọi rửa chân cho anh chị em; không phải là một tổ chức thế gian, quản lý của cải dưới đất, nhưng là cộng đoàn con cái Chúa. Rồi chúng ta làm như Môsê đã làm trước Chúa: cởi dép ở chân ra với sự tôn kính và khiêm nhường (Xh 3, 5), cởi bỏ sự tự phụ, để Chúa thu hút và nuôi dưỡng cuộc gặp gỡ với Người trong cầu nguyện; mỗi ngày đến gần với mầu nhiệm Thiên Chúa, để Người đốt cháy bụi gai kiêu ngạo và những tham vọng của chúng ta, và làm cho chúng ta trở thành những người đồng hành khiêm tốn trong hành trình của những người được trao phó cho chúng ta.
Được lửa Thiên Chúa thanh tẩy và soi sáng, Môsê đã trở thành phương tiện cứu độ cho những anh chị em của ông đang đau khổ. Thái độ ngoan nguỳ của ông trước Chúa làm cho ông có khả năng chuyển cầu cho họ. Khía cạnh thứ hai của tính cách Môsê mà tôi muốn nói với anh chị em đó là chuyển cầu. Ông kinh nghiệm về một Thiên Chúa đầy lòng trắc ẩn, Đấng không dửng dưng trước tiếng kêu của dân nhưng xuống giải cứu họ. Cụm từ này thật hay: đi xuống. Thiên Chúa, trong “sự hạ mình”, đã xuống ở giữa chúng ta, trong Chúa Giêsu mang lấy thân phận con người chúng ta, qua cái chết và những giây phút địa ngục của chúng ta. Thiên Chúa không ngừng đi xuống để nâng chúng ta lên. Như Môsê, Thiên Chúa đã “xuống” ở giữa dân nhiều lần trong thời sa mạc. Thật vậy, vào những thời điểm quan trọng và khó khăn nhất, ông Môsê lên núi có sự hiện diện của Chúa để chuyển cầu cho dân, nghĩa là đứng vào vị trí của dân để đưa họ đến gần Chúa, rồi đi xuống. Chuyển cầu “không có nghĩa đơn giản là ‘cầu nguyện cho ai đó’, như chúng ta thường nghĩ. Theo nguyên ngữ, nó có nghĩa là ‘bước vào giữa’, sẵn sàng bước vào giữa một hoàn cảnh” (C.M. MARTINI, Un grido di intercessione, Milan, 29 January 1991). Như vậy, chuyển cầu là đi xuống và đặt mình ở giữa dân mình, đóng vai trò như cầu nối họ với Thiên Chúa.
Các mục tử được yêu cầu trau dồi nghệ thuật “bước vào giữa” này. Đó là bước vào giữa những đau khổ và nước mắt của dân, vào giữa sự đói khát Thiên Chúa và khát khao tình thương của anh chị em. Nhiệm vụ đầu tiên của chúng ta không phải là trở thành một Giáo hội được tổ chức hoàn hảo, nhưng là một Giáo hội, nhân danh Chúa Kitô, đứng vững giữa cuộc sống đầy khó khăn của dân chúng, một Giáo hội vì con người sẵn sàng để cho tôi xắn tay áo và chịu bẩn tay.
Chúng ta đừng bao giờ thi hành thừa tác vụ của mình bằng cách chạy theo uy tín tôn giáo và xã hội, nhưng bước đi giữa và bên cạnh dân, học cách lắng nghe và đối thoại, hợp tác giữa chúng ta với nhau, những thừa tác viên và với giáo dân. Tôi muốn nhắc lại điều quan trọng này: cùng nhau. Các giám mục và linh mục, linh mục và phó tế, mục tử và chủng sinh, các thừa tác viên chức thánh và tu sĩ – luôn nuôi dưỡng sự tôn trọng đối với nét đặc thù kỳ diệu của đời sống tu trì. Giữa chúng ta, hãy cố gắng vượt thắng cám dỗ lo cho cá nhân, lợi ích nhóm. Là điều đáng buồn khi các mục tử không có khả năng hiệp thông, khi không hợp tác và thậm chí dửng dưng với nhau! Chúng ta hãy vun đắp sự tôn trọng lẫn nhau, gần gũi và hợp tác cụ thể. Nếu chính chúng ta không làm được điều này, làm sao chúng ta có thể rao giảng cho người khác?
Bây giờ chúng ta hãy trở lại với Môsê và suy tư về nghệ thuật chuyển cầu, chúng ta hãy nhìn vào đôi tay của ông. Kinh Thánh cống hiến cho chúng ta ba hình ảnh về vấn đề này: Môsê tay cầm gậy, Môsê dang tay, Môsê giơ tay lên trời.
Hình ảnh đầu tiên, Môsê với cây gậy trong tay, cho chúng ta biết rằng ông can thiệp bằng lời ngôn sứ. Với cây gậy, ông làm nên những điều kỳ diệu, những dấu hiệu về sự hiện diện và quyền năng Chúa; nhân danh Chúa ông lên tiếng, mạnh mẽ tố cáo sự áp bức mà dân đang phải chịu đựng, và yêu cầu Pharaô phải để họ ra đi. Anh chị em thân mến, chúng ta cũng được mời gọi chuyển cầu cho dân tộc chúng ta, lên tiếng chống lại sự bất công và lạm quyền áp bức và sử dụng bạo lực để đạt được mục đích riêng giữa đám mây xung đột. Nếu chúng ta muốn là những mục tử chuyển cầu, chúng ta không thể giữ thái độ trung lập trước những nỗi đau do những hành vi bất công và bạo lực gây ra. Bởi vì ở đâu có một người nam hay người nữ bị xúc phạm các quyền cơ bản là xúc phạm đến Chúa Kitô. Tôi vui khi nghe chứng tá của cha Luka. Cha nói Giáo hội không mệt mỏi thực hiện một sứ vụ vừa mang tính ngôn sứ vừa mang tính mục vụ. Cám ơn anh chị em, vì nếu có một cám dỗ mà chúng ta phải để ý, thì đó là cám dỗ để mọi thứ như hiện tại và không tham gia vào các tình huống vì sợ mất đặc quyền và lợi ích.
Hình ảnh thứ hai là Môsê với đôi tay dang rộng. Kinh Thánh cho chúng ta biết ông “đã giơ tay trên mặt biển” (Xh 14,21). Đôi bàn tay mở rộng của ông là dấu hiệu cho thấy Chúa sắp thể hiện uy lực. Sau đó, ông Môsê cầm bia Chứng Ước trong tay (Xh 34,29) và cho dân chúng thấy; bàn tay giơ cao của ông chứng tỏ sự gần gũi của Thiên Chúa, Đấng luôn hoạt động đồng hành với dân Người. Tự nó, lời ngôn sứ không đủ để giải thoát khỏi sự dữ: cần phải giang rộng vòng tay với anh chị em, để nâng đỡ họ trên hành trình. Chúng ta có thể hình dung Môsê chỉ đường và nắm tay mọi người để khuyến khích họ kiên trì bước đi. Trong bốn mươi năm, ở tuổi già, ông vẫn ở bên cạnh họ: đó là ý nghĩa của sự gần gũi. Đó không phải là một nhiệm vụ dễ dàng: ông thường phải nâng đỡ tinh thần của những người đang chán nản và mệt mỏi, đói và khát, hay lầm bầm và thờ ơ. Và khi thực hiện nhiệm vụ này, Môsê cũng phải đấu tranh với chính mình, vì nhiều lúc, ông cũng trải qua những giây phút tăm tối và u sầu, như khi ông thưa với Chúa: “Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài ? Tại sao con lại không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên con? [...] Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con” (Ds 11,11.14). Tuy nhiên, Môsê đã không lùi bước: luôn ở gần Thiên Chúa và không quay lưng lại với dân. Đây cũng là nhiệm vụ của chúng ta: dang tay ra, thức tỉnh anh chị em chúng ta, nhắc nhở họ rằng Thiên Chúa trung thành với các lời hứa của Người, thúc giục họ tiến bước. Bàn tay chúng ta được “xức dầu bằng Thần Khí” không chỉ để thực hiện các nghi thức thánh, nhưng còn để khuyến khích, giúp đỡ và đồng hành với mọi người để giúp họ thoát ra khỏi những gì làm họ tê liệt, khép kín, làm họ sợ hãi.
Hình ảnh thứ ba, cuối cùng: Môsê với hai tay giơ lên trời. Khi dân phạm tội, làm một con bò con bằng vàng, Môsê lại đi lên núi. Chúng ta hãy nghĩ xem ông kiên nhẫn biết bao. Ông cầu nguyện, đó thực sự là một cuộc đấu tranh với Chúa, cầu xin Người không bỏ rơi Israel. Ông đi xa đến mức nói: “Dân này đã phạm một tội lớn! Họ đã làm cho mình một tượng thần bằng vàng! Nhưng giờ đây, ước gì Ngài miễn chấp tội họ! Bằng không, thì xin Ngài xoá tên con khỏi cuốn sách Ngài đã viết” (Xh 32, 31-32). Môsê đứng với dân chúng cho đến phút cuối, giơ tay thay mặt họ. Ông không nghĩ đến việc tự cứu mình; ông không bán dân vì lợi ích của mình! Ông can thiệp, đấu tranh với Chúa; ông vẫn giơ tay cầu nguyện trong khi các anh em của ông chiến đấu trong thung lũng bên dưới (Xh 17, 8-16). Mang những cuộc đấu tranh của người dân đến trước mặt Chúa trong lời cầu nguyện, nhận sự tha thứ cho họ, thực hiện sự hòa giải như những kênh của lòng thương xót Chúa: đây là nhiệm vụ của chúng ta với tư cách là những người chuyển cầu.
Anh chị em thân mến, những bàn tay ngôn sứ này, vươn ra và giơ lên, đòi hỏi nhiều nỗ lực. Trở thành những ngôn sứ, những người đồng hành và những người chuyển cầu, thể hiện bằng cuộc sống của chúng ta mầu nhiệm về sự gần gũi của Thiên Chúa với dân Người, chúng ta có thể phải trả giá bằng mạng sống của mình. Nhiều linh mục và tu sĩ - chúng ta đã nghe điều này trong lời chứng của sơ Regina - đã là nạn nhân của bạo lực và các cuộc tấn công khiến họ mất mạng. Thực tế, họ đã hiến mạng sống mình vì Tin Mừng. Sự gần gũi của họ với các anh chị em là một chứng tá tuyệt diệu mà họ để lại cho chúng ta, một di sản mời gọi chúng ta tiếp tục sứ vụ của họ. Chúng ta hãy nghĩ đến Thánh Daniele Comboni, đã cùng với các anh em thừa sai của ngài thực hiện một công việc truyền giáo vĩ đại ở vùng đất này. Ngài thường nói rằng một nhà truyền giáo phải sẵn sàng làm bất cứ điều gì vì Chúa Kitô và Tin Mừng. Chúng ta cần những tâm hồn can đảm và quảng đại sẵn sàng chịu đau khổ và chết vì châu Phi.
Tôi muốn cám ơn anh chị em vì tất cả những gì anh chị em làm giữa rất nhiều thử thách và đau khổ. Thay mặt cho toàn thể Giáo hội, cám ơn anh chị em về sự cống hiến, cam đảm, sự hy sinh và sự kiên nhẫn. Anh chị em thân mến, tôi ước mong anh chị em luôn là những mục tử và chứng nhân quảng đại, được trang bị chỉ bằng lời cầu nguyện và bác ái; anh chị em hãy để cho mình không ngừng ngạc nhiên trước ân sủng Chúa; và trở thành một phương tiện cứu rỗi cho những người khác, những ngôn sứ của sự gần gũi đồng hành với mọi người, những người chuyển cầu với những cánh tay giơ cao. Xin Đức Trinh Nữ Maria gìn giữ anh chị em. Và, xin anh chị em đừng quên cầu nguyện cho tôi.
Đức Thánh Cha chủ sự buổi Cầu nguyện đại kết tại Lăng "John Garang"
Hoạt động cuối cùng của Đức Thánh Cha trong ngày thứ hai của chuyến viếng thăm Nam Sudan là chủ sự buổi Cầu nguyện Đại kết tại Lăng John Garang.
Sau khi gặp gỡ những người di tản nội địa tại Hội trường Tự do, Đức Thánh Cha cùng Đức Tổng Giám mục Anh giáo của Canterbury và vị Điều hành Tổng công nghị của Giáo hội Scotland di chuyển đến Lăng John Garang gần đó.
Lăng John Garang
Lăng này là nơi an nghỉ của tiến sĩ John Garang de Mabior. Ông là lãnh đạo Lực lượng và Phong trào Giải phóng Nhân dân Sudan từ năm 1983 đến năm 2005, năm ký Hiệp ước Hoà bình Toàn cầu, với kết quả là Nam Sudan được độc lập vào năm 2011. Tuy nhiên ông John Garang không thể chứng kiến sự kiện này vì ông đã qua đời do tai nạn máy bay sau khi đã tuyên thệ làm phó tổng thống thứ nhất của Sudan và Tổng thống của chính phủ Nam Sudan.
Chính trên lăng mộ của ông John Garang, vào ngày 9/7/2011, ông Salva Kiir Mayardit, Tổng thống hiện tại của Nam Sudan, đã tuyên bố đất nước độc lập.
Cầu nguyện đại kết: Con cầu nguyện để họ nên một... (Ga 17,21)
Chủ đề của buổi cầu nguyện là ‘Con cầu nguyện để họ nên một...’ (Ga 17,21). Tham dự buổi cầu nguyện đại kết có đại diện của các Giáo hội Kitô tại Nam Sudan.
Bắt đầu buổi cầu nguyện, mục sư Thomas Tut Puot Mut, Chủ tịch Hội đồng các Giáo hội của Nam Sudan, đã đại diện chào mừng Đức Thánh Cha và các phái đoàn đại kết.
Đoạn sách Công vụ Tông đồ (2,42-47) được công bố trong buổi cầu nguyện đại kết, thuật lại việc các tín hữu tiên khởi chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng cầu nguyện, đồng tâm nhất trí và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ. Sau đó, đoạn Tin Mừng thánh Gioan (17,20-26) thuật lại lời Chúa Giêsu cầu nguyện cho tất cả được hiệp nhất, được trở nên một, “như Cha ở trong con và con ở trong Cha, để họ cũng ở trong chúng ta.”
Trong buổi cầu nguyện, các tín hữu thuộc các Giáo hội Kitô khác nhau cũng đã tuyên xưng đức tin, bằng cách cùng nhau đọc lại kinh Tin Kính các Tông đồ. Sau đó, những lời cầu nguyện khẩn cầu lòng thương xót cho quốc gia đã được các tín hữu thuộc các Giáo hội Kitô khác nhau ở Nam Sudan dâng lên Thiên Chúa.
Diễn văn của Đức Thánh Cha
Mở đầu bài chia sẻ, Đức Thánh Cha nói rằng mọi người đang quy tụ, như là Dân Thánh của Chúa, cầu nguyện cho dân tộc đang bị thương tích này. Và ngài nhấn mạnh: “Là Kitô hữu, cầu nguyện là điều đầu tiên và quan trọng nhất mà chúng ta được mời gọi thực hiện để có thể hoạt động cho sự thiện và có sức mạnh để kiên trì trên hành trình của chúng ta.” Từ đó ngài chia sẻ về ba động từ: Cầu nguyện, làm việc và bước đi.
1. Cầu nguyện
Trước hết là cầu nguyện. Đức Thánh Cha khẳng định rằng sự dấn thân của các cộng đoàn Kitô hữu trong việc thăng tiến con người, trong tình liên đới và hòa bình sẽ vô ích nếu không có lời cầu nguyện.
Suy tư về ý nghĩa của việc cầu nguyện trong đời sống và sứ vụ lãnh đạo dân tộc của ông Môsê trên hành trình tìm đến tự do, đặc biệt qua biến cố tại Biển Đỏ: trước mặt họ là một bức tường nước không thể vượt qua được và đàng sau là quân địch đang tiến đến, với chiến xa và ngựa, Đức Thánh Cha nhận xét rằng trong hoàn cảnh tuyệt vọng đó, ông Môsê khuyên dân chúng: |Đừng sợ! Cứ đứng vững, rồi anh em sẽ thấy việc Đức Chúa làm hôm nay để cứu thoát anh em” (Xh 14,13). Ông có được sự chắc chắn như vậy là nhờ lắng nghe Chúa (xem các câu 2-4), Đấng đã hứa với ông rằng Người sẽ tỏ vinh quang của Người. Và Đức Thánh Cha khẳng định: “Sự kết hợp với Thiên Chúa, sự tin tưởng vào Người được vun trồng trong cầu nguyện, là bí quyết nhờ đó ông Môsê có thể lãnh đạo dân chúng đi từ áp bức đến tự do.”
Cầu nguyện ban cho chúng ta sức mạnh để tiến bước
Đối với chúng ta cũng vậy. Đức Thánh Cha nói: “Cầu nguyện ban cho chúng ta sức mạnh để tiến bước, để vượt qua những nỗi sợ hãi, để thoáng thấy, ngay cả trong bóng tối, ơn cứu độ mà giờ đây Thiên Chúa đang chuẩn bị. Hơn nữa, cầu nguyện kéo ơn cứu độ của Thiên Chúa xuống trên con người.” Đặc biệt, các mục tử của dân Chúa có bổn phận đặc biệt chuyển cầu cho đoàn chiên của mình để xin Chúa của sự bình an can thiệp nơi mà con người không thể mang lại bình an.
Hãy chuyên cần và đồng tâm cầu nguyện
Và Đức Thánh Cha mời gọi các Kitô hữu thuộc các hệ phái khác nhau hãy hiệp nhất với nhau, như một gia đình duy nhất, có trách nhiệm cầu nguyện cho mọi người; hãy chuyên cần và đồng tâm cầu nguyện (xem Cv 1,14) để Nam Sudan, giống như dân Chúa trong Kinh Thánh, ‘có thể đến được miền đất hứa.’”
2. Làm việc vì hoà bình
Về động từ thứ hai - làm việc, theo Đức Thánh Cha, chúng ta được mời gọi làm việc là vì hoà bình, vì Chúa Giêsu muốn chúng ta trở thành “những người kiến tạo hòa bình” (Mt 5,9). “Người muốn Giáo hội của Người không chỉ là dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, mà còn là sự hiệp nhất của toàn thể nhân loại (x. Lumen gentium, 1).” Chúa Kitô “là bình an của chúng ta” chính bởi vì Người tái lập sự hiệp nhất: Người là Đấng “làm cho cả hai nên một, phá đổ những bức tường ngăn cách, thù hận” (x. Ep 2,14). Đức Thánh Cha giải thích: “Đây là bình an của Thiên Chúa: không chỉ là một thỏa thuận đình chiến giữa các cuộc xung đột, nhưng là một sự hiệp thông huynh đệ, đến từ việc liên kết với nhau, không phải từ việc nuốt chửng nhau; từ tha thứ chứ không từ chế ngự; từ hòa giải chứ không từ áp đặt.”
Ai theo Chúa Kitô thì luôn chọn bình an; ai gây chiến tranh và bạo lực là phản bội Chúa
Và Đức Thánh Cha kêu gọi: "Chúng ta hãy làm việc không mệt mỏi vì nền hòa bình mà Thần Khí của Chúa Giêsu và Chúa Cha thúc giục chúng ta xây dựng: một nền hòa bình hội nhập sự đa dạng và thúc đẩy sự hiệp nhất trong sự đa dạng. Đây là bình an của Chúa Thánh Thần, Đấng dung hòa những khác biệt, trong khi thần khí thù địch với Thiên Chúa và con người lợi dụng những khác biệt để chia rẽ.” Đức Thánh Cha lưu ý rằng “những ai gọi mình là Kitô hữu đều phải biết chọn đứng về phía nào. Ai theo Chúa Kitô thì luôn chọn bình an; ai gây chiến tranh và bạo lực là phản bội Chúa và chối bỏ Tin Mừng của Người. Điều Chúa Giêsu dạy chúng ta thì rất rõ ràng: yêu thương mọi người, vì mọi người đều được Cha chung trên trời yêu thương như con cái. Tình yêu của người Kitô hữu không chỉ dành cho người thân cận của mình, mà còn dành cho mỗi người, bởi vì mỗi người trong Chúa Giêsu đều là người thân cận, anh chị em của chúng ta - thậm chí cả kẻ thù của chúng ta (x. Mt 5,38-48). Điều này càng đúng hơn biết bao đối với những người là thành viên của cùng một dân tộc, mặc dù thuộc các nhóm sắc tộc khác nhau.”
Hãy cùng nhau làm việc vì sự hiệp nhất huynh đệ
Đức Thánh Cha mời gọi hãy cùng nhau làm việc vì sự hiệp nhất huynh đệ này giữa các Kitô hữu chúng ta và hãy giúp nhau truyền bá thông điệp hòa bình trong xã hội, truyền bá phong cách bất bạo động của Chúa Giêsu, để nơi các tín hữu không còn chỗ cho một nền văn hóa dựa trên tinh thần báo thù.
3. Bước đi: làm việc cùng nhau
Sau các động từ cầu nguyện và làm việc, Đức Thánh Cha chia sẻ về động từ thứ ba: bước đi. Ngài cảm ơn các cộng đồng Kitô giáo đã dấn thân mạnh mẽ để thúc đẩy các tiến trình hòa giải, cảm ơn chứng tá đức tin của họ, một chứng tá xuất phát từ nhận thức, được diễn tả không chỉ bằng lời nói nhưng còn bằng hành động, rằng “trước những chia rẽ lịch sử, có một thực tại bất di bất dịch: chúng ta là Kitô hữu, chúng ta thuộc về Chúa Kitô.” Ngài nhận xét rằng có một điều tốt đẹp là “giữa quá nhiều xung đột, những người tuyên xưng đức tin Kitô giáo chưa bao giờ làm dân tộc bị chia rẽ, nhưng đã và vẫn tiếp tục là một yếu tố của sự hiệp nhất.”
Việc gieo rắc Tin Mừng phải góp phần gieo rắc sự hiệp nhất
Đức Thánh Cha cũng khen ngợi rằng “Truyền thống đại kết của Nam Sudan là một kho tàng quý giá, một hành động ngợi khen danh Chúa Giêsu, một hành động yêu thương dành cho Giáo hội, hiền thê của Người, một mẫu gương cho tất cả để tiến tới trên con đường hiệp nhất Kitô giáo.” Do đó, di sản này phải được gìn giữ trong cùng tinh thần đó: “Những chia rẽ trong Giáo hội trong các thế kỷ qua không được ảnh hưởng đến những người được loan báo Tin Mừng, nhưng việc gieo Tin Mừng phải góp phần gieo sự hiệp nhất nhiều hơn. Chủ nghĩa bộ lạc và chủ nghĩa bè phái nuôi dưỡng bạo lực trong nước không được ảnh hưởng đến các mối quan hệ giữa các tôn giáo; ngược lại, ước gì chứng tá về sự hiệp nhất của các tín hữu phải được tuôn đổ trên toàn dân.”
Ký ức và dấn thân
Để giúp các Kitô hữu kiên trì tiếp tục cuộc hành trình của mình, Đức Thánh Cha đưa ra hai yếu tố quan trọng: ký ức và dấn thân. Trước hết, về ký ức, Đức Thánh Cha mời gọi các Kitô hữu đừng sợ mình không sống theo gương mẫu của các vị tiền nhân, ngược lại hãy cảm thấy bị thúc đẩy bởi những người đã mở đường cho họ.
Đừng bao giờ hành động như những đối thủ cạnh tranh
Chia sẻ về sự dấn thân, Đức Thánh Cha nói: “Chúng ta tiến tới sự hiệp nhất khi tình yêu được thể hiện cách cụ thể, khi chúng ta cùng nhau giúp đỡ những người bị gạt ra bên lề, những người bị thương tích và bị từ chối.” Ngài nhận xét rằng các Kitô hữu đã thực hiện điều này trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong việc chăm sóc sức khỏe, giáo dục, bác ái. Ngài mời gọi họ hãy tiếp tục dấn thân nhưng “đừng bao giờ hành động như những đối thủ cạnh tranh, mà như là các thành viên trong gia đình, những anh chị em, những người, bằng lòng cảm thương đối với những người đau khổ, những người được Chúa Giêsu yêu quý, đã tôn vinh Thiên Chúa và làm chứng cho tình thân hữu mà Người mong muốn.”
Tiếp tục buổi cầu nguyện, Đức cha Stephen Ameyu Martin Mulla, Tổng Giám mục giáo phận Juba, mời gọi tất cả cùng đọc kinh Lạy Cha bằng các ngôn ngữ khác nhau mà người dân Nam Sudan sử dụng.
Sau cùng, Đức Thánh Cha và hai vị lãnh đạo của Giáo hội Anh giáo và Giáo hội Scotland cùng ban phép lành cho tất cả tín hữu hiện diện.
Kết thúc giờ cầu nguyện Đức Thánh Cha trở về Toà Sứ thần cách đó 2 km để dùng bữa tối và nghỉ đêm, kết thúc ngày thứ hai viếng thăm Nam Sudan.
Chúa Nhật ngày 5/2/2023 Đức Thánh Cha sẽ chủ sự Thánh lễ tại Lăng John Garang trước khi đọc kinh Truyền Tin với các tín hữu và lên đường trở về Roma. Vatican News Tiếng Việt sẽ truyền hình trực tiếp Thánh Lễ với thuyết minh tiếng Việt, lúc 1h45 chiều Chúa Nhật, 5/2/2023.
Hồng Thủy - Vatican News
Giám mục Ngumbi: Đức Phanxicô đã làm cho thế giới thấy được sự đau khổ của người dân Congo
“Bây giờ sự đau khổ của người dân miền đông Congo được công nhận giữa ban ngày”. Sau bài diễn văn nhói lòng của Đức Phanxicô với các nạn nhân sống sót của các vụ bạo lực ở miền đông Congo, giám mục Willy Ngumbi, giáo phận Goma cảm xúc về sáng kiến này của Đức Phanxicô. Ngài kêu gọi chính quyền Congo chấm dứt “xấu hổ” mà đất nước Congo đã gánh chịu cách này cuộc kia nhiều lần.
vaticannews.va, Stanislas Kambashi, đặc phái viên tại Kinshasa, Congo, 2023-02-02
Giám mục giáo phận Goma cùng đi với các nạn nhân sống sót sau các vụ bạo lực ở miền đông Congo đến gặp Đức Phanxicô ngày thứ tư 1 tháng hai. Với giám mục Ngumbi, “đây là giây phút xúc cảm sâu đậm nhưng cũng là giây phút tạ ơn mà ngài giữ như những kỷ niệm quý báu trong đời”. Giám mục thay mặt tất cả nạn nhân sống sót cám ơn Đức Phanxicô, người đã chủ động xin gặp các nạn nhân. Người dân Goma và người dân miền bắc Kivu vui mừng được gặp Đức Phanxicô và dự thánh lễ giám mục Ngumbi đồng tế cùng với Đức Phanxicô ở sân bay Ndolo.
Giám mục giáo phận Goma phản ứng trước bài diễn văn của Đức Phanxicô
Bây giờ thế giới biết người dân miền đông Congo thực sự đau khổ như thế nào
Trước tiên, giám mục nhắc, theo lẽ trong chương trình Đức Phanxicô sẽ đi Goma, nhưng cuối cùng chuyến đi bị hủy bỏ. Ở đó ngài sẽ gặp nhiều nạn nhân hơn, sẽ đến thăm trại tị nạn dành cho người di cư và nạn nhân thiên tai. Nhưng nhờ cuộc gặp hôm nay và sự hiện diện của nhiều phương tiện truyền thông, thế giới biết người dân Congo đã thực sự đau khổ như thế nào, nhất là ở miền đông: những hành động tàn bạo vẫn còn và đã làm cho người dân phải ra đi hàng loạt. Giám mục giáo phận Goma nói: “Chúng tôi hy vọng những người có thiện tâm sẽ giúp chúng tôi, trước hết là chấm dứt cuộc chiến sau là xoa dịu nỗi đau khổ của người dân phải di cư.”
Tại thành phố Goma, hiện có hơn 200.000 người phải di tản vì chiến tranh và một số bị bỏ rơi, giám mục nhấn mạnh đến tầm quan trọng của cuộc gặp này, nhờ đó nhiều người biết được nỗi đau của người dân miền đông và những lời của Đức Phanxicô rất mạnh, công bằng, nâng đỡ và an ủi người dân.
Chấm dứt “nỗi xấu hổ” mà Congo phải gánh chịu
Giám mục Ngumbi cho rằng, sau cuộc gặp này sẽ có một cái gì đó có thể thay đổi, vì Đức Phanxicô đã xin người Congo hoán cải, trở thành tác nhân thay đổi trong cộng đồng của họ; điều mà giám mục giáo phận Goma xem là lời kêu gọi nâng cao nhận thức và sứ mệnh để chính họ là người kiến tạo hòa bình trong cộng đồng của họ. Ngài hy vọng chính quyền Congo nắm được lời kêu gọi “chấm dứt sự xấu hổ” mà đất nước đã phải chịu đựng qua các cuộc tấn công và bạo lực tàn bạo của các nhóm bên trong cũng như bên ngoài. Ngài kêu gọi các chính phủ thực hiện các biện pháp cần thiết để chấm dứt tình huống này.
Khai thác tài nguyên thiên nhiên
Giám mục Ngumbi cũng lên án cộng đồng quốc tế, “họ không vô tội trong những gì đang xảy ra ở miền đông Congo”. Ngài nhận thấy việc khai thác tài nguyên thiên nhiên là một trong những nguyên nhân chính của sự đau khổ này. Để minh họa cho nhận xét, ngài trích dẫn ví dụ về Kishishe, một địa phương bị các phần tử của nhóm vũ trang M23 tấn công vào cuối tháng 11 năm 2022. Hơn 120 người thiệt mạng trong vụ tấn công này. Mục tiêu của những kẻ tấn công là kiểm soát các mỏ pyrochlore, một khoáng chất quý hiếm, có cấu trúc tinh thể, đắt hơn coltan và được dùng trong kỹ nghệ hàng không và vi tính. Nhưng những khoáng sản chiến lược này không được dùng ở Congo mà được các ngành công nghiệp phương Tây và các nơi khác dùng.
Ngài lên tiếng chất vấn những ai nhận và dùng các khoáng chất này để chế tạo vũ khí, điện thoại và các phụ kiện khác: “Họ phải biết đây là những khoáng chất máu.” Ngài kết luận: “Chúng ta phải chấm dứt cuộc chiến này và để người dân Congo được sống trong hòa bình, hòa giải và tình huynh đệ.”
Marta An Nguyễn dịch
Nguồn: phanxico.vn
Chuyến đi của Đức Phanxicô đến Nam Sudan: “Giáo hội đã góp phần xây dựng ý thức cho đất nước”
Nam Sudan là nước có đa số người dân theo kitô giáo, độc lập từ năm 2011 nhưng chìm trong nội chiến mà dù đã có thỏa thuận hòa bình năm 2018 nhưng nội chiến chưa bao giờ thực sự kết thúc ở đây. Tổng giám mục giáo phận Juba hy vọng chuyến đi của Đức Phanxicô đến Nam Sudan sẽ khuyến khích các nhà lãnh đạo chính trị giữ lời hứa hòa bình của họ.
la-croix.com, Augustine Passilly, Juba, 2023-02-03
Xin cha cho biết cha mong chờ gì ở chuyến đi của Đức Phanxicô?
Tổng giám mục Stephen Ameyu Martin Mulla: Tôi muốn ngài nói chuyện với các nhà lãnh đạo của chúng tôi, để họ hiểu bây giờ là lúc vượt qua việc ký kết các thỏa thuận hòa bình. Họ phải bắt đầu làm việc vì lợi ích chung cho dân chúng, người dân đã đau khổ quá lâu. Họ phải đoàn kết, chung sức để người dân không còn sống trong bạo động.
Chúng tôi mong ngài đặt vấn đề về di sản tích cực mà các nhà lãnh đạo có nhiệm vụ mang lại cho hòa bình và hòa giải. Mỗi người đều có những ý tưởng riêng, quan trọng với họ và với những người cùng đảng với họ, nhưng những khác biệt này không thể ngăn họ thống nhất để vạch ra một vận mệnh chung.
Cha sẽ gởi thông điệp gì cho ngài?
Tôi sẽ xin ngài đừng mệt mỏi với người dân Nam Sudan và các đại diện của họ, giống như trường hợp của cộng đồng quốc tế và các nước láng giềng trong khu vực của chúng tôi. Tôi chia sẻ mối quan tâm của họ. Không ai biết chuyện gì sẽ xảy ra vào cuối ba năm chuyển tiếp được lên kế hoạch ban đầu và sẽ kết thúc vào ngày 22 tháng hai tới đây.
Các nhà lãnh đạo chúng tôi đã không thể thực hiện hiệp định hòa bình trong ba năm qua, làm thế nào họ sẽ làm được trong hai năm tới? Nhưng tôi tin Thần Khí của Chúa hoạt động trong lòng mỗi người. Thỏa thuận đạt được giữa các nhà lãnh đạo cho thấy một nền tảng chung để trên đó mọi việc có thể phát triển. Tôi sẽ xin Đức Phanxicô cầu nguyện cho hòa bình ở Nam Sudan để chúng tôi tìm ra con đường thống nhất và hòa giải.
Vì sao gần 12 năm giành độc lập, người dân Nam Xu-đăng vẫn chưa được sống trong hòa bình?
Vì thiếu quyết tâm áp dụng nội dung và tinh thần của hiệp định hòa bình. Kể từ khi ký kết, tôi không thấy bất kỳ sự khác biệt nào trong hành vi giữa các nhà lãnh đạo chúng tôi. Mục tiêu của họ vẫn là duy trì vị trí đứng đầu nhà nước để chia sẻ của cải đất nước. Vì thế những người này không quan tâm đến việc kết thúc chiến tranh. Họ đã quên chương trình ban đầu của họ và chỉ dựa vào bạo lực.
Chiến thuật của họ là hỗ trợ các nhóm vũ trang nhỏ trên toàn lãnh thổ, nghĩ rằng những xung đột này sẽ cho phép họ loại bỏ các đối thủ cạnh tranh để áp đặt mình là một bên duy nhất. Phong trào Giải phóng Nhân dân Sudan (SPLM), lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập, vẫn chìm trong hệ tư tưởng cộng sản phản đối hòa bình. Bất cứ khi nào nhóm này kêu gọi đàm phán, thực ra là để có thời gian củng cố vị thế của chính mình.
Giáo hội công giáo đóng vai trò gì trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng nhiều mặt này và nói chung là việc xây dựng cho Nam Sudan một bản sắc?
Giáo hội công giáo đã đi đầu trong sự phát triển của người dân Nam Sudan. Chúng tôi đóng vai trò quan trọng trong lãnh vực giáo dục và ở một số vùng, chúng tôi quản lý nhiều trung tâm y tế hơn chính phủ. Nhưng trên hết, chúng tôi đã góp phần xây dựng ý thức cho người Nam Sudan. Nếu chúng tôi đã thành một quốc gia, thì một phần nhờ sự đầu tư của Giáo hội để giải phóng người dân về mặt tinh thần.
Ngay cả ngày nay, chúng tôi vẫn tiếp tục xây dựng bản sắc này bằng cách giúp giáo dân hiểu được thế nào là tinh thần đoàn kết. Chúng tôi kiên quyết phản đối chủ nghĩa bộ lạc, vì chúng tôi tin vào sự bình đẳng giữa nam và nữ, dù họ thuộc sắc tộc hay chủng tộc nào. Ngay cả khi chúng tôi thừa nhận điểm yếu của chính mình. Khi tôi được bổ nhiệm làm tổng giám mục Juba, một số người đã phản đối vì tôi đến từ miền đông chứ không phải từ thủ đô. Bất chấp tất cả, Giáo hội luôn thể hiện sự kiên cường và tiếp tục đấu tranh để củng cố sự đoàn kết giữa những người Nam Sudan.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Đức Thánh cha gặp gỡ các giám mục, linh mục, tu sĩ và chủng sinh Nam Sudan
Đức Thánh cha Phanxicô mời gọi các giáo sĩ và tu sĩ Nam Sudan, “ngoan ngoãn” đối với sự hướng dẫn của Chúa và tận tụy phục vụ dân Chúa.
Đức Thánh cha đưa ra lời nhắn nhủ trên đây, trong cuộc gặp gỡ lúc 9 giờ sáng, thứ Bảy ngày 04 tháng Hai vừa qua, ngày thứ hai trong chuyến viếng thăm của ngài tại Nam Sudan. Nơi gặp gỡ là Nhà thờ chính tòa thánh Têrêsa ở Juba, thủ đô Nam Sudan, chỉ cách Tòa Sứ thần Tòa Thánh 2 cây số. Thánh đường này được kiến thiết cách đây 70 năm (1952).
Hiện diện trong buổi gặp gỡ, có tất cả 10 giám mục thuộc 7 giáo phận ở Nam Sudan, cùng với Đức Hồng y Tổng giám mục Khartoum và 2 giám mục khác thuộc nước Sudan, vì các vị họp thành một Hội đồng Giám mục duy nhất. Ngoài ra, có hàng trăm linh mục, nữ tu và chủng sinh.
Huấn dụ của Đức Thánh cha
Sau lời chào mừng của Đức cha Chủ tịch Yunan Tombe Trille, Giám mục giáo phận El Obeid, Đức Thánh cha đã ngỏ lời với mọi người. Ngài nhắc lại tấm gương của ông Môsê, người đã hướng dẫn dân Chúa qua sa mạc, để trả lời cho câu hỏi: đâu là “ý nghĩa của sứ vụ làm thừa tác viên của Thiên Chúa trong một lịch sử đầy chiến tranh, oán ghét, bạo lực, nghèo đói? Làm thế nào thi hành sứ vụ tại lãnh thổ này, dọc theo hai bờ sông thấm nhiễm bao nhiêu máu người vô tội, trong khi khuôn mặt những người được ủy thác cho chúng ta đầy những giọt lệ đau thương?”
Đức Thánh cha đề nghị hai thái độ của ông Môsê: ngoan ngoãn và chuyển cầu.
Trước tiên là sự ngoan ngoãn của ông Môsê đối với sáng kiến của Thiên Chúa.
Ông Môsê khám phá căn tính Do thái của mình và xúc động vì đau khổ, tủi nhục của những người anh em mình, và một ngày kia ông đã quyết định tự thi hành công lý và giết chết người Ai Cập đang ức hiếp một người Do thái. Nhưng sau đó, ông Môsê phải trốn chạy và ẩn náu nhiều năm trong sa mạc... “Lỗi lầm của ông Môsê ở đây là nghĩ mình là trung tâm, chỉ cậy dựa vào sức riêng của mình. Nhưng như vậy là ông là tù nhân cho những phương pháp tệ nhất của con người, bạo lực đáp trả bạo lực.”
Đức Thánh cha nhận xét rằng: “nhiều khi chúng ta cũng bị cám dỗ như thế, nghĩ mình là trung tâm, và chỉ cậy dựa tài năng của mình, hoặc như Giáo hội, nghĩ rằng mình có thể tìm ra câu trả lời cho những đau khổ và nhu cầu của dân, qua những phương thế con người, như tiền bạc, sự xảo quyệt, quyền hành.” Trái lại, hoạt động của chúng ta đến từ Thiên Chúa: “Ngài là Chúa và chúng ta được kêu gọi trở thành những dụng cụ ngoan ngoãn trong tay Chúa.”
Ông Môsê học được điều đó khi một ngày kia Chúa đưa ra sáng kiến và đến gặp gỡ ông, hiện ra với ông “trong bụi gai cháy đỏ” (Xh 3,2). Ông Môsê để cho mình bị thu hút, nhường chỗ cho kinh ngạc, đặt mình trong thái độ ngoan ngoãn, để cho mình được soi sáng nhờ ngọn lửa đó.
Đức Thánh cha nói: “Sự ngoan ngoãn cần có cho sứ vụ của chúng ta là: đến gần Thiên Chúa trong sự kinh ngạc và khiêm tốn, để cho mình được Chúa thu hút và hướng dẫn; Vị thế tối thượng không phải là của chúng ta nhưng thuộc về Thiên Chúa, tín thác vào Lời Chúa trước khi dùng những lời nói của chúng ta”.
Thái độ thứ hai là sự chuyển cầu
Ông Môsê đã cảm nghiệm về một vị Thiên Chúa cảm thương, không lãnh đạm trước tiếng kêu của dân Ngài và đi xuống để giải phóng họ, nghĩa là đặt mình giữa dân, trong lịch sử của dân, để đưa họ đến gần Chúa. Chuyển cầu không chỉ có nghĩa là cầu nguyện cho một người nào, nhưng theo nguyên ngữ có nghĩa là “thực hiện một bước ở giữa”, đặt mình trong một hoàn cảnh, đặt mình giữa dân để trở thành nhịp cầu nối kết họ với Chúa. Các mục tử được kêu gọi phát triển nghệ thuật bước đi giữa những đau khổ và nước mắt của dân, giữa sự đói khát Thiên Chúa của các anh chị em.
Đức Thánh cha nói: “Nghĩa vụ đầu tiên của chúng ta không phải là một Giáo hội có tổ chức hoàn hảo, nhưng là một Giáo hội, nhân danh Chúa Kitô, ở giữa cuộc sống đau khổ của dân, dấn thân với họ. Không bao giờ chúng ta phải thi hành sứ vụ, theo đuổi danh tiếng, uy tín tôn giáo và xã hội, trái lại, đồng hành giữa dân, học cách lắng nghe và đối thoại, cộng tác giữa các thừa tác viên với nhau và với giáo dân”.
Đức Thánh cha cũng nhắc nhở mọi người hãy luôn tôn trọng đặc tính tuyệt vời của đời tu, chiến thắng cám dỗ cá nhân chủ nghĩa, lợi lộc phe phái. Ngài nói: “Thật là buồn khi các mục tử không có khả năng hiệp thông, không cộng tác được với nhau, và thậm chí làm ngơ không biết nhau. Chúng ta hãy vun trồng sự tôn trọng nhau, gần gũi, cộng tác cụ thể. Nếu điều đó không xảy ra giữa chúng ta, thì làm sao chúng ta có thể rao giảng cho người khác được?”
Trong bài huấn dụ, Đức Thánh cha cũng nhắc nhở các giáo sĩ và tu sĩ Nam Sudan hãy lên tiếng chống lại những bất công và lạm quyền đè bẹp dân chúng, lợi dụng bạo lực để thủ lợi. Ngài nói: “Nếu chúng ta muốn là những mục tử chuyển cầu, chúng ta không thể dửng dưng lãnh đạm trước đau khổ do bất công và bạo lực tạo nên, vì nơi nào một người nam nữ bị thương tổn trong các quyền căn bản của họ, thì Tin mừng của Chúa Kitô bị thương tổn.”
Đức Thánh cha nhắc đến hình ảnh ông Môsê giơ hai tay trên biển (Xh 14,21), đó là dấu hiệu Chúa sắp hành động. Tiếp đến, ông giơ hai bia đá lề luật cho dân. “Để giải thoát khỏi sự ác, lời ngôn sứ mà thôi chưa đủ, còn cần giơ hai tay cho anh chị em, nâng đỡ họ trong hành trình.”
Ngoài ra, ông Môsê cũng giơ hai tay lên trời. Khi dân sa ngã phạm tội, đúc bò vàng để thờ lạy, ông Môsê lại lên núi, cầu nguyện, như một cuộc chiến đấu thực sự với Thiên Chúa, xin Chúa đừng bỏ rơi Israel, tha thứ tội lỗi cho họ. Môsê nói: “Chẳng vậy, xin xóa tên con khỏi sách mà Chúa đã viết!” (Xh 32,31-32). Ông đã đứng về phía dân, và con giơ tay bênh vực dân. Ông không nghĩ đến việc cứu thoát một mình, không bán dân vì tư lợi, nhưng chuyển cầu, chiến đấu với Thiên Chúa; ông giơ cao hai tay cầu nguyện, trong khi các anh em của ông chiến đấu ở thung lũng (Xh 17,8-16)”.
Sau bài huấn dụ, Đức Thánh cha ban phép lành cho mọi người, trước khi chụp hình chung với các giám mục và bắt tay chào một số đại diện linh mục, nữ tu và các chủng sinh. Rồi Đức Thánh cha trở về Tòa Sứ thần để gặp gỡ các tu sĩ Dòng Tên.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Tổng thống Nam Sudan ân xá 36 tử tội
Tổng thống Nam Sudan, ông Salva Kiir, đã ân xá cho 36 tử tội, bị giam tại nhà tù trung ương ở thủ đô Juba.
Sắc lệnh ân xá của Tổng thống đã được đọc trên đài SSBC, tối thứ Sáu, ngày 03 tháng Hai vừa qua. Trong số các tử tội được ân xá, có 4 phụ nữ.
Tổng thống Kiir cũng ân xá có 35 tù nhân bị kết án vì không trả tiền bồi thường hoặc bị án phạt của tòa án.
Sắc lệnh này được Tổng thống Kiir ký vài giờ, sau khi Đức Thánh cha Phanxicô và các vị lãnh đạo tôn giáo thế giới đến Juba để viếng thăm.
Theo điều số 285 của bộ hình luật Nam Sudan, Tổng thống có quyền tha trọn hoặc tha một phần án phạt.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Đi bộ 9 ngày, vượt qua 400 cây số để gặp Đức Thánh cha
60 bạn trẻ và 24 người lớn đã đi bộ trong 9 ngày, vượt qua 400 cây số, để đến gặp và cầu nguyện với Đức Thánh cha Phanxicô, trong cuộc viếng thăm của ngài tại thành phố Juba, thủ đô Nam Sudan.
Đoàn lữ hành được Đức cha Cristiano Carlassare, Giám mục giáo phận Rumbek ở mạn Nam Juba hướng dẫn. Đoàn khởi hành ngày 25 tháng Giêng và đã tới thủ đô Nam Sudan ngày 02 tháng Hai vừa qua.
Đức cha Carlassare người Ý, năm nay 46 tuổi (1977) là một thừa sai Dòng thánh Comboni, được Đức Thánh cha bổ nhiệm làm Giám mục giáo phận Rumbek hồi tháng Ba năm 2021, sau 10 năm trống tòa. Nhưng trước khi thụ phong, ngài bị một số người chống đối bắn vào 2 bắp chân, trong đêm 25 tháng Tư. May mắn, đạn chỉ xuyên qua các bắp cơ và không đụng tới xương hoặc dây thần kinh chân. Trong số 12 người bị bắt vì dính líu tới vụ này, có 3 giáo sĩ, trong đó có linh mục John Mathiang, điều hợp viên của giáo phận. Đức cha đã chịu 6 cuộc giải phẫu trước khi có thể chống nạng để đi lại. Đức cha được truyền chức giám mục một năm sau khi được bổ nhiệm.
Trong hành trình tiến về thủ đô, đoàn hành hương của Đức cha Carlassare đã được dân chúng tại các làng và giáo xứ tiếp đón và giúp đỡ, và theo Đức cha, một cách nào đó, hàng ngàn người cũng đã tham gia vào cuộc hành hương này. Họ phấn khởi khi thấy nhiều bạn trẻ tham dự.
Đức cha Carlassare là giám mục thừa sai duy nhất trong số 13 giám mục hiện diện tại cuộc gặp gỡ với Đức Thánh cha, sáng ngày 04 tháng Hai tại Nhà thờ chính tòa giáo phận Juba.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
ĐTC gặp gỡ các lãnh đạo chính quyền và dân sự của Nam Sudan
Sau khi viếng thăm xã giao Tổng thống và các Phó Tổng thống của Cộng hoà Nam Sudan, Đức Thánh Cha đã đến hoa viên của Dinh Tổng thống để gặp gỡ các cấp chính quyền, xã hội dân sự của Nam Sudan và ngoại giao đoàn tại nước này.
Khoảng 250 người gồm các lãnh đạo chính trị và tôn giáo, các nhân vật ngoại giao và các đại diện xã hội dân sự đã hiện diện để chào đón Đức Thánh Cha.
Cùng Đức Thánh Cha đến thăm Nam Sudan có Tổng Giám mục Anh giáo Justin Welby của Canterbury và vị Điều hành Đại Hội đồng Giáo hội Scotland.
Sau bài nói chuyện của Tổng thống Nam Sudan, trong bài diễn văn của mình, Đức Thánh Cha kêu gọi các vị lãnh đạo của Nam Sudan hãy là những nguồn nước mát tưới cho đất nước khô cằn vì bạo lực và xung đột. Ngài kêu gọi đừng đổ máu, dừng bạo lực, thôi phá huỷ và nhất là chống nạn tham nhũng.
Cuộc hành hương vì hòa giải và hoà bình
Đức Thánh Cha khẳng định ngay từ đầu rằng ngài đến Nam Sudan "như một người hành hương hòa giải, với ước mơ được đồng hành với quý vị trên con đường dẫn đến hòa bình, một con đường cong queo nhưng không thể trì hoãn được nữa. Và ngài nói rằng ngài bắt đầu cuộc hành hương đại kết vì hòa bình này sau khi nghe thấy "tiếng kêu của cả một dân tộc đang than khóc vì bạo lực mà họ phải gánh chịu, vì tình trạng thiếu an ninh kéo dài, vì sự nghèo đói tấn công họ và những thảm họa thiên nhiên hoành hành."
Từ hình ảnh sông Nile, con sông dài nhất thế giới, cũng chảy qua Nam Sudan, với những nguồn mạch của nó, Đức Thánh Cha suy tư về những nguồn suối tươi mới và đầy sức sống để tưới mát lại cho đất nước Nam Sudan bị khô cằn vì xung đột và chiến tranh.
Lời kêu gọi các nhà lãnh đạo
Trước hết, theo Đức Thánh Cha, các nhà lãnh đạo chính là những nguồn suối này, "những nguồn suối tưới mát sự chung sống, những người cha, người mẹ của đất nước non trẻ này." Ngài nói: "Quý vị được kêu gọi tái tạo đời sống xã hội, như những nguồn thịnh vượng và hòa bình trong lành, bởi vì người dân Nam Sudan cần điều này: cần những người cha chứ không cần những ông chủ; cần những bước phát triển ổn định chứ không cần sự sa sút không ngừng."
Đừng đổ máu nữa!
Để Nam Sudan không bị biến thành một nghĩa trang, mà trở lại là một khu vườn tươi tốt, Đức Thánh Cha cầu xin các vị lãnh đạo chấp nhận một lời đơn giản, của Chúa Kitô. Đó là "đừng đổ máu nữa, đừng xung đột nữa, bạo lực và buộc tội lẫn nhau chống lại những người phạm tội đã đủ rồi, đừng để người dân phải đói khát hòa bình nữa. Phá hủy đã đủ rồi, đã đến lúc xây dựng! Hãy bỏ lại đàng sau thời gian chiến tranh và để thời gian hòa bình bừng lên!"
Quyền hành là để phục vụ cộng đồng
Tiếp đến, nói về tên gọi Cộng hoà của Nam Sudan, nghĩa là thừa nhận quốc gia là một thực tại chung, của mọi người và mọi người đều có trách nhiệm chủ trì và điều hành, vì công ích. Và Đức Thánh Cha khẳng định: "Mục đích của quyền hành là để phục vụ cộng đồng." Ngài cảnh giác về cám dỗ dùng quyền lực để mưu ích riêng và nói rằng cần thực sự mang tính cộng hoà, "bắt đầu từ những thiện ích chính yếu: nguồn tài nguyên dồi dào mà Chúa đã ban cho miền đất này không để dành riêng cho một số ít người, mà là gia sản của tất cả mọi người, và các kế hoạch phục hồi kinh tế phải tương ứng với các dự án để phân phối của cải một cách công bằng."
Cổ võ dân chủ
Sự phát triển của một nền dân chủ lành mạnh là nền tảng cho sự tồn tại của một nền Cộng hòa. Đức Thánh Cha giải thích rằng dân chủ bảo về sự phân biệt đúng đắn về các quyền lực; nó cũng bao gồm việc tôn trọng nhân quyền, đặc biệt là quyền tự do bày tỏ ý kiến của mình.
Cùng nhau
Đức Thánh Cha nói rằng đã đến lúc biến lời nói thành hành động, đến lúc dấn thân thực hiện một sự biến đổi khẩn cấp và cần thiết. Ngài nói: "Chúng ta hãy hiểu nhau và thực hiện Thỏa thuận hòa bình, cũng như Lộ trình! Trong một thế giới đầy chia rẽ và xung đột, đất nước này tổ chức một cuộc hành hương đại kết vì hòa bình, một điều hiếm có; nó là một sự thay đổi đường hướng, một cơ hội để Nam Sudan bắt đầu chèo thuyền trở lại trong vùng nước lặng, nối lại đối thoại, không có sự giả hình và chủ nghĩa cơ hội. Ước gì đây là cơ hội để mọi người làm sống lại niềm hy vọng: ước gì mỗi người dân hiểu rằng không còn thời gian để mình bị cuốn theo dòng nước không lành mạnh của hận thù, của chủ nghĩa bộ tộc, chủ nghĩa vùng miền và khác biệt sắc tộc; đã đến lúc cùng nhau chèo thuyền hướng tới tương lai!"
Gặp gỡ
Sông Nile Trắng, với dòng nước thật trong, được tạo thành bởi sự hợp lưu của sông Nile với một dòng sông khác ở Hồ No. Nói cách khác, nó phát sinh từ một cuộc gặp gỡ. Từ đó, Đức Thánh Cha nhận định rằng "nếu đằng sau mọi bạo lực là sự tức giận và oán giận, và đằng sau mọi tức giận và oán giận là ký ức chưa lành về những vết thương, sự sỉ nhục và sai trái, thì cách duy nhất để thoát khỏi điều này là gặp gỡ: đón nhận người khác như anh em và dành chỗ cho họ, ngay cả khi nó có nghĩa là lùi lại phía sau. Thái độ này, cần thiết cho các tiến trình hòa bình, cũng không thể thiếu cho sự phát triển gắn kết của xã hội."
Vai trò của người trẻ và phụ nữ
Đức Thánh Cha kêu gọi dành không gian cho người trẻ để họ hành động cho tương lai. Ngài cũng kêu gọi cho phụ nữ được tham gia nhiều hơn vào các tiến trình chính trị và ra quyết định. "Các phụ nữ cần được tôn trọng, vì ai bạo hành phụ nữ là xúc phạm đến Thiên Chúa, Đấng đã nhận lấy thân thể từ một người phụ nữ."
Tiếp tục bài diễn văn, Đức Thánh Cha kêu gọi quốc gia trẻ trung Nam Sudan khám phá lại mầu nhiệm của sự gặp gỡ, ân sủng của tập thể. "Chúa Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể, đã dạy chúng ta rằng chúng ta càng trở nên bé nhỏ, dành chỗ cho người khác và đón nhận mọi người lân cận như anh chị em, thì chúng ta càng trở nên vĩ đại hơn trước mắt Chúa." "Chúng ta cần nhìn vượt trên các nhóm và sự khác biệt để bước đi như một dân tộc duy nhất, trong đó, như đã xảy ra với sông Nile, các nhánh khác nhau mang lại sự phong phú." Đặc biệt Đức Thánh Cha kêu gọi đảm bảo sự an ninh cần thiết cho các nhà hoạt động cứu trợ nhân đạo và để công việc của họ được hỗ trợ cần thiết.
Bảo vệ thiên nhiên
Nói về những thảm kịch thiên nhiên, Đức Thánh Cha nói về thiên nhiên bị thương tích và tàn phá, và từ chỗ là nguồn sống có thể trở thành mối đe doạ chết chóc, như gây nên lũ lụt. Ngài mời gọi phải quan tâm đến thiên nhiên và nghĩ đến tương lai và các thế hệ mai sau. Đặc biệt ngài nói rằng cần chống lại nạn phá rừng do lòng tham lợi nhuận gây ra.
Chống tham nhũng
Một lần nữa, dùng hình ảnh làm sạch lòng sông để tránh lũ lụt, Đức Thánh Cha nói rằng đời sống xã hội Nam Sudan cũng cần được tẩy rửa bằng cuộc chiến chống tham nhũng. Ngài nói: "Sự phân phối các nguồn quỹ không công bằng, những kế hoạch bí mật để làm giàu, những thỏa thuận bảo trợ, sự thiếu minh bạch: tất cả những điều này làm ô nhiễm lòng sông của xã hội loài người, khiến cho những nơi cần nhất lại thiếu các nguồn lực. Trước hết, cần phải chống lại sự nghèo đói, là mảnh đất màu mỡ mà hận thù, chia rẽ và bạo lực bén rễ trong đó. Nhu cầu cấp bách của một quốc gia văn minh là quan tâm đến công dân của mình, đặc biệt là những người yếu đuối và thiệt thòi nhất."
Kiểm soát vũ khí
Một hình ảnh tượng trưng khác là những bờ kè ngăn lũ lụt do sông gây nên, Đức Thánh Cha nói rằng trong đời sống con người cũng cần những bờ kè. "Trước hết, cần phải kiểm soát dòng vũ khí mà bất chấp lệnh cấm, vẫn tiếp tục đến nhiều quốc gia trong khu vực và cả ở Nam Sudan: ở đây cần nhiều thứ, nhưng chắc chắn không phải là cần thêm những công cụ giết người khác." Còn có các bờ kè khác cần thiết như việc phát triển các chính sách y tế đầy đủ, nhu cầu về cơ sở hạ tầng quan trọng và đặc biệt là mục tiêu quan trọng của việc xóa mù chữ và giáo dục.
Hợp tác quốc tế
Như "sông Nile Trắng rời Nam Sudan, đi qua các quốc gia khác, hợp với sông Nile Xanh rồi đổ ra biển. Những dòng sông không có biên giới; chúng kết nối các lãnh thổ khác nhau," Đức Thánh Cha nói rằng để đạt được sự phát triển phù hợp, hơn bao giờ hết, điều cần thiết là phải thúc đẩy các mối quan hệ tích cực với các quốc gia khác, bắt đầu từ những quốc gia trong khu vực. Ngài cảm ơn sự đóng góp quý báu của cộng đồng quốc tế đối với đất nước này, và tôi bày tỏ lòng biết ơn đối với những nỗ lực nhằm thúc đẩy hòa giải và phát triển. Nhưng kêu gọi một cách tiếp cận trực tiếp và đặc biệt là không áp đặc các mô hình có sẵn nhưng không phù hợp với thực tế địa phương.
Đức Thánh Cha cũng chân thành chia sẻ rằng một số điều ngài đã nói có vẻ thẳng thừng và trực tiếp. Ngài xin họ hiểu rằng nó xuất phát từ tình cảm và sự quan tâm mà ngài dành cho cuộc sống của Nam Sudan, nơi ngài cùng với những người anh em đến viếng thăm như một người hành hương của hòa bình.
Cầu nguyện cho Nam Sudan
Và kết thúc bài diễn văn, Đức Thánh Cha nói: "Chúng tôi muốn gửi đến quý vị những lời cầu nguyện chân thành và sự hỗ trợ của chúng tôi để Nam Sudan có thể trải nghiệm sự hòa giải và thay đổi đường hướng. Cầu mong con đường sống còn của nó không còn bị lũ lụt bạo lực lấn át, không còn bị sa lầy trong đầm lầy tham nhũng và bị ngăn chặn bởi sự tràn ngập của nghèo đói. Xin Chúa Trời, Đấng yêu thương mảnh đất này, ban cho nước này một mùa bình an và thịnh vượng mới. Xin Chúa phù hộ cho Cộng hòa Nam Sudan!"
Kết thúc cuộc gặp gỡ Đức Thánh Cha trở về Toà Sứ thần cách đó 2 km dùng bữa tối và nghỉ ngơi.
Hồng Thủy - Vatican News
Chắc chắn ở đây bài giảng sẽ không quá dài!
fr.aleteia.org, Sachin Jose, 2023-02-01
Chắc chắn đây là nhà nguyện mà không một ai than phiền thiếu sưởi! Tại Đại học Công nghệ Michigan, miền bắc Hoa Kỳ, năm nào các sinh viên cũng dự thánh lễ vào tháng 1 trong giá lạnh và… trong tuyết. Mỗi năm, họ duy trì truyền thống xây một nhà nguyện bằng băng thực sự, dưới áo Đức Mẹ Tuyết.
Nhà nguyện có bàn thờ, có thánh giá được khoét trong một bức tường băng. Bức tượng Đức Mẹ Lộ Đức ở bên phải nhà nguyện. Nhà nguyện có cả bục giảng được che phủ hoàn toàn để đọc và giảng. Kính màu được lắp trên tất cả các bức tường và sinh viên ngồi trên băng ghế. Tất cả sinh viên được mời tham gia xây dựng nhà nguyện mùa động, chỉ kéo dài trong vài tuần, bắt đầu ngày 10 tháng 1 và sẽ kết thúc vào tháng 2 với “thánh lễ đá”. Hy vọng các sinh viên sẽ không thấy bài giảng quá dài…
Marta An Nguyễn dịch
Nguồn: phanxico.vn