Tin Cộng Đoàn
Tin Cộng Đoàn
- Viết bởi Trần Mạnh Trác
Ông Vũ Thế Phong đang có một trại nuôi heo nhỏ ở miền Bắc Việt Nam, 200 km phía đông Hà Nội, gần biên giới Trung Quốc.
Nhưng nếu việc xin visa được suôn sẻ, thì ông Phong sẽ có dịp đóng góp tiếng nói của mình cùng với hàng triệu người Công Giáo khác ở Philadelphia , trong dịp 'Hội nghị thế giới gia đình' tổ chức vào tháng chín này, có sự tham dự cuả Đức Giáo Hoàng Phanxicô.
"[Việt Nam] không có một hội nghị lớn như thế", ông Phong viết qua một email gửi cho tờ Daily News. "Trong thời buổi này, thì các thành viên trong một gia đình cần nhiều thời gian hơn để tìm hiểu nhau, để thông cảm nhau... Vì vậy, WMOF là dịp cho mọi người gặp gỡ và trao đổi."
Bà Tracy Purdy, ở một thế giới khác xa với thế giới cuả ông Phong, sống trong một ngôi nhà lớn ở schwenksville có ánh sáng chiếu qua cửa sổ làm ấm bộ sàn nhà bằng gỗ cứng. Trong suốt tầm nhìn cuả vùng, thì không có một trang trại nuôi heo nào cả, nhưng ngọn tháp của nhà máy điện hạt nhân Limerick thì luôn nổi bật trên những con đường hướng về Philadelphia.
Gia đình bà Purdy theo đạo Mormon ở Pottstown. Khi nhìn thấy áp phích kêu gọi người ta cung cấp chỗ ở tạm cho những người tham dự WMOF , bà Purdy đã đăng ký căn nhà cuả bà, mặc dù bà nghi ngờ rằng sẽ chẳng có ai muốn ở một nơi xa xôi, mất hằng một giờ lái xe từ thành phố.
Nhưng hai tuần trước đây, đã có người đặt phòng đầu tiên - một người đàn ông tên là Nguyễn Văn Thông ở Việt Nam.
"Sau khi chúng tôi nhận anh chàng này, thì một câu hỏi đặt ra với tôi, là lý do tại sao một người đi mãi từ Việt Nam để được thấy Đức Giáo Hoàng ở Philadelphia, trong khi ngài cũng đang chu du khắp mọi nơi?" Bà Purdy cho biết. "Tôi tò mò hỏi," Tại sao anh lại đến đây? Tại sao lại là Philadelphia? ' "
Các ông Phong và Thông không phải là những người duy nhất muốn làm một cuộc hành trình dài 8.000 dặm (12,800km) từ Việt Nam trong tháng Chín.
Ngay bây giờ, theo bà Lizanne Pando, giám đốc tiếp thị và truyền thông WMOF, thì đã có rất nhiều người Việt Nam đăng ký cho WMOF, nhiều hơn bất kỳ sắc dân nào khác bên ngoài những người nói tiếng Anh.
Trong số khoảng 7.000 người đăng ký cho 60 thứ tiếng cho đến nay, 668 người đã yêu cầu dịch vụ tiếng Việt - và 209 trong số đó là trực tiếp từ Việt Nam, bà Pando cho biết.
"Khởi đầu tôi đã rất ngạc nhiên," bà Pando cho biết. "Nhưng khi nói chuyện với Đức ông Trịnh Minh Trí, thì tôi không còn ngạc nhiên nữa."
Tại sao nhiều như thế?
Đức ông Giuse Trịnh Minh Trí, sinh quán ở VN, đang là cha sở họ đạo St. Helena trên đường 5th Street và Godfrey Avenue, cũng đang hồi hộp với số lượng đăng ký cuả những người đồng hương và ngài hy vọng con số này sẽ còn tăng hơn nữa.
"Đối với người Việt thì bây giờ còn quá sớm!" ngài nói. "Họ thường đợi cho tới phút chót."
Đức ông Trí, cũng là chủ tịch Liên đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ , đang cố gắng để lo liệu cho những nhu cầu di chuyển của một nhóm lớn nhất từ Việt Nam tới, 114 đại biểu chính thức từ Việt Nam, gồm có 5 giám mục và hơn 30 linh mục.
Đức ông Trí thậm chí còn muốn tổ chức một buổi Lễ tiếng Việt vào ngày thứ bảy, ngài đã chính thức mời Đức Giáo Hoàng Phanxicô tham dự. Ngài hy vọng sẽ có khoảng 3.000 người Việt tham dự Thánh Lễ, ban đầu dự định được tổ chức tại nhà thờ giáo xứ St. Helena cuả ngài, nhưng có thể sẽ phải di chuyển đến trường Cardinal Dougherty High School để cho có đủ chỗ.
"Đây sẽ là một tập hợp lớn nhất của người Công Giáo Việt Nam ở bên ngoài Việt Nam", Đức ông Trí nói.
Có ba lý do, Đức ông Trí cho biết, tại sao có rất nhiều người Việt tham dự cuộc hội này: Nhiều người muốn đi du lịch sang Mỹ, nhiều người có thân nhân và sẽ đến thăm họ ở đây, và dĩ nhiên, nhiều người muốn nhìn thấy Đức Thánh Cha Phanxicô.
"Vì vậy, đây là một hòn đá ném được ba con chim", Đức ông Trí nói.
Về phần ông Phong, ông cho biết đã quyết định đăng ký WMOF này khi Đức Thánh Cha công bố tham dự .
"Xin visa đến Hoa Kỳ từ Việt Nam thì không dễ dàng ," ông Phong, 35 tuổi, viết. "Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng đây là một cơ hội cho những người từ Việt Nam có thể mở rộng tầm nhìn về các tổ chức quốc tế."
Các nhà truyền giáo đã giao giảng Đạo Công Giáo ở Việt Nam từ thế kỷ 16 và đã đặt được một nền móng vững chắc vào giữa thế kỷ 17.
"Chúng tôi đón nhận đức tin từ các nhà truyền giáo từ Tây Ban Nha, Pháp và Bồ Đào Nha", Đức ông Trí nói.
Theo World Fact Book của Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ, thì Công Giáo là đạo lớn thứ 2 ở Việt Nam, với 7 % dân số.
Ông Phong , thuộc giáo xứ Trà Cổ của giáo phận Xuân Lộc, cho biết những khi ông không bận công việc nuôi heo hoặc dành thời gian với vợ con, thì ông tham gia công việc cuả giáo xứ địa phương.
"Đó là cái thú cho cuộc sống của tôi," ông viết. "Đức tin của ngưòi Việt Nam thì rất mạnh mẽ. Cả tôi nữa, đức tin gắn bó tôi với Thiên Chúa."
Tại Hoa Kỳ, có hơn 1 triệu người Công Giáo Việt Nam và có hơn 900 linh mục và 600 nữ tu, Đức ông Trí nói. Riêng tại Philadelphia, ước lượng số người Công Giáo Việt Nam có từ 7.000 đến 10.000. Tám giáo xứ trong giáo phận có những Thánh Lễ tiếng Việt thường xuyên.
Xin được visa là rào cản lớn nhất đối với những người từ Việt Nam đi tham dự hội nghị thế giới.
"Tôi đang chờ được thị thực", ông Phong viết. "Xin hãy cầu nguyện cho tôi."
Cha Bruce Lewandowski, đại diện cho Bộ văn hóa cuả Tổng Giáo Phận và là Chủ tịch cuả Ủy ban thị thực và nhập cư của WMOF, cho biết hầu hết những người nước ngoài đến đây là từ các nước đòi hỏi phải có thị thực visa.
Ban visa và nhập cư, gồm nhiều luật sư và tình nguyện viên, đang làm việc để cung cấp cho những người đăng ký có những hồ sơ cần thiết cho cuộc phỏng vấn xin thị thực của họ, trong đó là thư mời cá nhân từ WMOF, cha Lewandowski cho biết.
"Bạn sẽ chỉ có một cơ hội duy nhất trong cuộc phỏng vấn mà thôi, hoặc được hoặc mất" ngài nói.
Một khi đơn xin thị thực được phê duyệt, thì việc có nhà ở cho chuyến viếng thăm là vấn đề tiếp theo.
"Ngay bây giờ, chúng tôi đang tập trung vào các nhà trọ vì không còn có khách sạn nữa", Đức ông Trí nói.
Bà Purdy, người mở cửa căn nhà ở schwenksville với một dịch vụ du lịch độc lập ở Việt Nam, cho biết bà tình nguyện ngôi nhà là để cho gia đình bà được tiếp xúc với một nền văn hóa mới.
"Tất cả những người Công Giáo mà tôi biết ở đây... Là hạng người Công Giáo cho 2 lễ Phục sinh và Giáng sinh", bà Purdy cho biết. "Vì vậy mà khi thấy những người mộ đạo đi từ Việt Nam đến để gặp giáo hoàng, nó làm cho tôi rất tò mò."
Mặc dù không phải là Công Giáo, bà Purdy cho biết bà hâm mộ Đức Giáo Hoàng Phanxicô.
"Tôi là loại 'fan' cuả ngài," bà nói.
Người Việt Nam cũng hâm mộ Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Đức ông Trí nói.
"Nhờ ở quá trình làm việc với người nghèo, những người từ thế giới thứ ba có thể liên hệ với ngài dễ dàng," Đức ông Trí nói. "Ngài thực tế xuống tận đất đen. Ngài nói từ trái tim mình."
"Việc Đức Giáo Hoàng Phanxicô chú ý đến những người nghèo khó làm cho tôi có ấn tượng với ngài", ông Phong nói. "Tôi hy vọng một ngày nào đó, Đức Giáo Hoàng sẽ đến thăm Việt Nam. Chúng tôi yêu mến ngài."
Sau khi có thị thực và nhà trọ, thì bước tiếp theo là cung cấp bản dịch và giải thích các dịch vụ cho người hành hương Việt Nam.
Vì WMOF là một đại hội quốc tế, cho nên đã phải cung cấp 5 ngôn ngữ chính là: tiếng Anh, tiếng Ý, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, bà Pando cho biết.
Nhưng Đức ông Trí đang hy vọng tiếng Việt Nam sẽ được dùng trong năm nay.
"Do số lượng đăng ký và sự nhiệt tình của cộng đồng người Việt, Hội nghị Thế giới của gia đình đã bắt đầu làm việc hướng tới việc giải thích và những bản dịch bằng tiếng Việt," bà Pando cho biết. "Nhưng chưa có gì đã được hoàn tất."
Với những người Việt Nam từ khắp nơi trên thế giới đến Philadelphia, Đức ông Trí tin rằng cơ hội tốt nhất cho tất cả mọi người gặp gỡ nhau là một Thánh Lễ tiếng Việt vào thứ bảy ngày 26 Tháng Chín.
Năm vị giám mục từ Việt Nam sẽ đồng tế và Đức ông Trí đang kêu gọi các ca đoàn Công Giáo từ 200 giáo xứ Việt Nam tại Hoa Kỳ cùng tham gia vào một ban hợp xướng.
Việc Đức Giáo Hoàng có tham dự Thánh Lễ hay không thì chưa rõ được.
"Tôi viết cho ngài, và nói:' Đây là điều tốt nhất cho Việt Nam, đây là một tập hợp tốt nhất của người Công Giáo Việt Nam,'" Đức ông Trí nói. "Một chuyến thăm 5 phút sẽ là một phước lành cho tất cả chúng con."Trong khi chờ đợi đến tháng Chín, Đức ông Trí không chỉ mong muốn được thăm hỏi những người từ cố hương đến nhưng cũng mong mỏi được thấy mọi người từ khắp nơi trên thế giới tương tác với nhau, tại Philadelphia, nơi quê hương mới của mình.
"Thật là ngoài sức tưởng tượng của tôi. Sự việc là mọi người tìm đến với nhau, sẵn sàng đi, để tìm hiểu và nhìn thấy những khuôn mặt khác nhau. Hiệp nhất trong Giáo Hội bằng cách đó. Thật là đẹp," ngài nói. "Giống như ở trong vườn, bạn nhìn thấy nhiều bông hoa khác nhau. Tôi không biết những bông hoa có giao tiếp với nhau hay không, nhưng thật là đẹp."
Trần Mạnh Trác
- Viết bởi Lê Đình Thông
Ngày 27/04/1965, thầy Giuse Mai Đức Vinh thụ phong linh mục tại Vĩnh Long, chọn khẩu hiệu ‘‘Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari cho đến tận cùng trái đất’’ (καὶ ἔσεσθέ μου μάρτυρες ἔν τε Ἱερουσαλὴμ καὶ ἐν πάσῃ τῇ Ἰουδαίᾳ καὶ Σαμαρίᾳ καὶ ἕως ἐσχάτου τῆς γῆς) (Cv 1,8). Khẩu hiệu linh mục thường nói lên ý hướng mục vụ mai này. Tân linh mục Wojtyła, sau này là thánh Gioan-Phaolô II, lấy khẩu hiệu ‘‘Totus Tuus’’, mượn từ tác phẩm Traité de la dévotion à la très Sainte Vierge Marie (Luận về việc sùng kính Đức Trinh Nữ Maria cực Thánh) của thánh Louis-Marie Grignon de Montfort: Totus tuus ego sum et omnia mea tua sunt, Accipio Te in mea omnia. Praebe mihi Cor tuum, Maria (Con trọn vẹn thuộc về Mẹ và tất cả những gì của con là của Mẹ. Con đón nhận Mẹ vào tất cả những gì thuộc về con. Xin Mẹ trao Trái Tim Mẹ cho con, lạy Đức Maria). Khi chọn khẩu hiệu này, thánh Gioan-Phaolô II bày tỏ lòng tôn sùng Thánh Mẫu. Ngài ước muốn kính viếng đền thánh La Vang, nơi Đức Bà được tôn vinh là Trinh Nữ chở che những người bị bách hại (Vierge des persécutés - 1773). Ngài đến hành hương tại Paris (Đức Mẹ hiện ra với thánh nữ Catherine Labouré - 1830), tại Lộ Đức (Đức Mẹ hiện ra với thánh Bernadette năm 1858), Fatima (Đức Mẹ hiện ra với Lucia, Jacinta, Francisco năm 1917), Đức Bà rơi lệ tại Akita (Nhật Bản) (1973 - 1984) v.v.
Khẩu hiệu linh mục của Đức Ông Mai Đức Vinh, trích từ sách Công vụ Tông đồ, mang các ý nghĩa sau đây:
Về hình thức: Công vụ Tông đồ là công trình sử học trình thuật tiến trình phát triển của Hội thánh tiên khởi. Trong suốt 38 năm mục vụ (chiếm ba phần tư hành trình 50 năm linh mục), Đức Ông Mai Đức Vinh điều hành và phát triển Giáo Xứ Việt Nam tại Paris. Vì Công vụ Tông đồ còn là tác phẩm thần học và văn học, 50 năm linh mục của Đức Ông Giuse là nửa thế kỷ mài miệt làm chứng nhân trong lãnh vực văn hóa.
Khi chọn khẩu hiệu ‘‘Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari cho đến tận cùng trái đất’’, nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, linh mục Mai Đức Vinh làm chứng cho Chúa Kitô đến tận cùng trái đất, tại thủ đô nước Pháp. Trước đây, Việt Nam được mệnh danh thuộc vùng Viễn Đông (Extrême-Orient). Thiết tưởng có thể dùng hình ảnh tận cùng trái đất để nói chiều ngược lại là nước Pháp.
Về nội dung: Theo bản văn viết bằng cổ ngữ Hy lạp: καὶ ἔσεσθέ μου μάρτυρες ἔν τε Ἱερουσαλὴμ καὶ ἐν πάσῃ τῇ Ἰουδαίᾳ καὶ Σαμαρίᾳ καὶ ἕως ἐσχάτου τῆς γῆς có thuật ngữ μάρτυρες, do chữ μάρτυς, có nghĩa là chứng nhân hoặc tử đạo. Trong tác phẩm Apologeticum (50,13), thánh giáo phụ Tertulliano viết: ‘‘Semen est sanguis christianorum’’ (Máu đào Tử đạo là hạt giống trổ sinh Kitô hữu). Từ máu đào đến giọt mực, trong hành trình linh mục, Đức Ông Mai Đức Vinh lấy bút nghiên làm chứng cho đức tin.
Trong phần I, chúng ta tìm hiểu mục vụ văn hóa của Đức Ông Mai Đức Vinh đã chịu những ảnh hưởng nào ? Phần II lược bàn về các công trình văn hóa của ngài.
Phần I: Các yếu tố ảnh hưởng đến mục vụ văn hóa của Đức Ông Mai Đức Vinh:
Hippolyte Taine đưa ra ba yếu tố để giải thích một sự kiện văn học: môi trường (milieu), dòng dõi (race) và thời gian (moment). Ba yếu tố này là mệnh đề đảo ngược của tam tài (三才) trong văn học nước nhà: thiên, địa, nhân (天地人). Bài này bắt đầu bằng yếu tố địa lý.
1) Các yếu tố Thiên Địa Nhân:
1.1. Yếu tố địa lý: Đức Ông Mai Đức Vinh sinh tại giáo xứ Thượng Chiểu, hạt Ba Làng, giáo phận Thanh Hóa, nay thuộc xã Hải Lĩnh, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.
Giáo xứ Thượng Chiểu thuộc hạt Ba Làng. Ba Làng gồm các làng Sung Mãn, Ngoại Hải và Như Xuân, hình cong như chiếc võng, rộng 600 mét dài 2000 mét, bắc giáp núi Thủi, đông giáp Biển Đông, tây giáp sông Bạng, nam giáp Du Xuyên (Núi Do). Linh mục Nguyễn Dương Hiến có câu thơ như sau:
Ba Làng như võng đòn cong
Hai anh Do, Thủi đang còng lưng khiêng.
(Hai anh Do, Thủi là hai ngọn núi Do và Thủi)
Theo thiển ý, tên núi Thủi, núi Do, sông Bạng xuất phát từ dân gian. Còn địa danh các làng tân lập Sung Mãn, Ngoại Hải, Như Xuân là do ảnh hưởng của các nho sĩ Công Giáo.
Ngày 08/01/1955, đồng bào Ba Làng tranh đấu với bộ đội Việt Minh, đòi di cư vào Nam. Tầu Ba Lan Skilinki chở dân Ba Làng cặp bến Saigon vào đầu tháng 2/1955 và trung tuần tháng 04/1955. Ngày 20/07/1955, hơn một ngàn người di cư Ba Làng đáp xe lửa từ Phan Thiết ra Thanh Hải (Nha Trang) định cư.
Địa danh Ba Làng gắn liền với lịch sử Giáo Hội nước nhà. Hải thuyền của cha Đắc Lộ (1591-1660) gặp phong ba bão tố ngoài biển Đông. Ngày 19/04/1627 (lễ kính thánh Giuse), chiếc tầu trôi dạt vào Cửa Bạng, gần Ba Làng. Cha Đắc Lộ liền chọn thánh Giuse làm quan thầy của Giáo Hội Việt Nam. Sau này, tiểu chủng viện thánh Giuse được thành lập tại Ba Làng để ghi nhớ sự việc này.
Thanh Hóa có bốn thánh tử đạo: linh mục Gioan Đoàn Viết Hoạt (1765-1798), linh mục Phaolô Nguyễn Ngân (1771-1840), linh mục Lê Bảo Tịnh (1793-1857) và bà Anê Lê Thị Thành (1781-1841), vị thánh nữ duy nhất người Việt. Thanh Hóa còn rất nhiều anh hùng tử đạo vô danh. Cha thánh Lê Bảo Tịnh biên soạn Phúc âm dẫn giải, Giáo lý đại cương và Lục vấn lương tâm, mở đầu truyền thống mục vụ văn hóa xứ Thanh.
Trong số các thánh tử đạo, linh mục Giacôbê Đỗ Mai Năm (1781-1838) có tên là Mai Ngũ. Dòng tộc Mai trong số các họ lương dân ở Thanh Hóa. Họ ‘‘Mai Đức’’, tên của Đức Ông Mai Đức Vinh, gốc làng Ngũ Kiên, xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Có khoảng 20 chi họ Mai (Mai Thế, Mai Ngọc, Mai Trọng, Mai Văn v.v.) đều gốc người Thanh Hóa.
1.2. Dòng dõi:
Tên của Đức Ông Mai Đức Vinh (枚德榮) có nghĩa là bông hồng (chuỗi Mai Côi) sùng kính Đức Mẹ là Nhân Đức làm Vinh danh Thiên Chúa. Vì Mai (玫) có nghĩa là hoa hồng. Mai côi (玫 瑰): hồng ngọc, màu đỏ như hoa hồng. Chữ Mai (玟) có hai cách phát âm: mai hoặc mân. Nếu nói môi côi là không đúng.
Các yếu tố trên đây ảnh hưởng rất nhiều đến lòng sùng kính Đức Mẹ và lòng tôn kính các tiền nhân tử đạo nước Việt, đươc thể hiện qua nhiều công trình văn hóa của Đức Ông Mai Đức Vinh.
Ngoài ra, còn phải kể đến ca trù, hát xoan trong văn học Thanh Hóa. Yếu tố này ảnh hưởng đến cột thơ bìa báo Giáo Xứ, ký tên Du Sinh vốn là bút hiệu của Đức Ông Mai Đức Vinh. Linh mục Bửu Dưỡng phiên âm Giuse là Du Sinh. Người Tầu chuyển ngữ Yuēsèfū (约瑟夫). Đức Ông Mai Đức Vinh chọn bút hiệu là Du Sinh vừa có nghĩa là Giuse, lại vừa nói lên cuộc sống ‘‘du sinh’’ (游 生) như nước cuốn mây trôi, đến tận cùng trái đất.
1.3. Thời gian:
Năm 1939, giáo phận Vĩnh Long mua thửa đất sau này xây cất đại chủng viện Vĩnh Long (75 đường Nguyễn Huệ, Vĩnh Long). Ngày 01/08/1964, cơ sở này tiếp nhận các thầy đại chủng sinh, trong số có thầy Mai Đức Vinh. Các thầy đến từ các giáo phận Saigon, Cần Thơ, Mỹ Tho. Đại chủng viện Vĩnh Long do các Cha Xuân Bích phụ trách giảng dạy.
Chú Vinh (tận cùng bên trái) trong thời gian học tại tiểu chủng viện Thánh Giuse Thanh Hóa
Ngày 27/04/1965, Đức Cha Antôn Nguyễn Văn Thiện, Giám mục Vĩnh Long, truyền chức linh mục cho 10 thầy, trong số có thầy Giuse Mai Đức Vinh. Thiết tưởng cũng nên nhắc lại vào năm 1969, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI quy định thánh lễ được cử hành bằng ngôn ngữ địa phương (langue vernaculaire). Vì vậy, trước năm 1969, lễ truyền chức linh mục tại Vĩnh Long được cử hành bằng tiếng la tinh: ‘‘Comple in sacerdote tuo ministerii tui summam, et omamentis totius glorificationis instructum, coelestis unguenti rore sanctifica’’ (Xin Thiên Chúa hoàn thành nơi vị linh mục này sự viên mãn mục vụ, xin vẹn toàn các phép bí tích làm vinh danh Đấng Tối cao, xin thánh hóa ngài bằng sương sa dầu thánh). Từ đó, tân linh mục Mai Đức Vinh trở thành Kitô khác (sacerdos alter Christus).
Cuộc đời mục vụ của cha Giuse trải qua năm triều đại giáo hoàng, từ chân phước Phaolô VI (1963-1978), Gioan-Phaolô I (26/08/1978 - 28/09/1978), thánh Gioan-Phaolô II (1978-2005) đến Bênêdictô XVI (2005-2013) và Phanxicô (từ 2013). Ngài chịu nhiều ảnh hưởng của Hội Linh mục Xuân Bích và thánh Gioan-Phaolô II.
2) Ảnh hưởng giáo quyền và linh đạo Xuân Bích đến mục vụ văn hóa của Đức Ông Mai Đức Vinh:
Công trình văn hóa của Đức Ông Mai Đức Vinh mang dấu ấn giáo quyền (magistère de l’Eglise) và linh đạo Xuân Bích (spiritualité de la Compagnie de Saint-Sulpice).
2.1. Hội Linh mục Xuân Bích: Xuân Bích phiên âm từ Saint-Sulpice, mượn ý từ cổ thi: Xuân thảo Bích sắc (春艸碧色): cỏ xuân màu xanh biếc, nói lên tôn chỉ của Hội Linh mục Xuân Bích chuyên lo về giáo dục, đào tạo thanh thiếu niên lứa tuổi xuân xanh. Hội gồm ba tỉnh hội: Pháp (gồm Việt Nam), Canada (gồm Nhật Bản) và Hoa Kỳ.
Phương pháp giáo dục và phúc âm hóa của Hội Xuân Bích ảnh hưởng nhiều đến các hoạt động mục vụ của Đức Ông Mai Đức Vinh. Phương pháp này được giảng dạy tại đại chủng viện Vĩnh Long vào những năm 60 nhằm đào tạo các linh mục có tinh thần cộng đoàn, cùng nhau làm việc để phục vụ Hội thánh và dân Chúa. Ngay từ lúc ngài còn là chủng sinh, thầy Mai Đức Vinh luôn cộng tác với các linh mục và giáo dân trong việc biên soạn sách vở. Một yếu tố khác cũng ảnh hưởng đến hoạt động của Đức Ông Mai Đức Vinh là chủ trương hội nhập văn hóa của thánh giáo hoàng Gioan-Phaolô II.
2.2. Ảnh hưởng của giáo quyền: Tháng 10/1979, thánh giáo hoàng Gioan-Phaolô II sử dụng lần đầu danh từ ‘‘hội nhập văn hóa’’ (inculturation) (Catechesi tradendae, n°53, octobre 1979). Từ đó, khái niệm mới mẻ này được sử dụng rộng rãi trong việc phúc âm hóa và nhiều hoạt động liên tôn khác.
Hội thánh tiên khởi vào đầu công nguyên chuyển từ Do thái sang Hy lạp đã đặt vấn đề hội nhập văn hóa. Ngày nay, vấn đề này mang tính thời sự, với sự giao tiếp của nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong hiến chế Vui mừng và Hy vọng (Gaudium et spes), công đồng Vaticanô II đã đề cập đến tương quan giữa đức tin và văn hóa. Trong thông điệp Redemptoris Missio, thánh giáo hoàng Gioan-Phaolô II định nghĩa hội nhập văn hóa là sự biến đổi sâu xa các giá trị văn hóa, qua việc hội nhập của các nền văn hóa khác nhau vào kitô giáo. Hội nhập văn hóa gồm việc đối thoại với các nền văn hóa tiếp nhận Phúc âm, đòi hỏi một tiến trình tiếp nối lâu dài. Mục vụ văn hóa của Đức Ông Mai Đức Vinh được tiến hành trong tinh thần hội nhập văn hóa của thánh giáo hoàng Gioan-Phaolô II. Trong lời mở cuốn Văn hóa và Đức tin biên soạn ngày 19/03/2004 nhằm lễ Thánh Giuse, quan thầy Giáo Hội, Đức Ông Mai Đức Vinh đã viết như sau:
- Chúng tôi muốn nói lên rằng nước Việt Nam quê hương của chúng ta có nền văn hóa thật thâm niên và phong phú. Mà một nét đậm đáng coi như linh hồn của nền văn hóa đó là tâm thức tôn giáo của dân tộc Việt Nam. kể từ khi có nền văn hóa cho đến ngày nay, tâm thức tôn giáo cao độ nhất, truyền thống nhất của dân tộc chúng ta vẫn là tin vào Trời, thờ Trời, và từ đó, tôn kính tổ tyiên, là đức hiếu thảo.
- Chúng tôi nhận định rằng mọi tôn giáo ngoại sinh du nhập vào Việt Nam theo dòng lịch sử, như Khổng giáo, Lão giáo, Phật giáo, Công Giáo, Hồi giáo, Tin lành… đều phải hội nhập vào nền văn hóa bản địa, phải hòa đồng và thăng tiến niềm tin truyền thống mới mong tồn tại giữa lòng dân tộc, mới đóng góp tích cực cho nền văn hóa Việt Nam và mới có thể phát triển lâu bền.
- Chúng tôi nói rõ rằng đạo Công Giáo hay đức tin Công Giáo, ngay từ đầu, không những đã hội nhập tích cực mà còn thăng tiến nền văn hóa Việt Nam từ những điểm cơ bản nhất: niềm tin vào Trời, đức hiếu thảo, lòng tôn kính tổ tiên, ngôn ngữ, chữ viết và văn thơ, kiến trúc…
Các giáo huấn của Hội Linh mục Xuân Bích và giáo quyền tác động đến các công trình văn hóa của Đức Ông Mai Đức Vinh ra sao, như phần II sau đây.
Phần II: Các công trình mục vụ văn hóa của Đức Ông Mai Đức Vinh:
Có thể chia các công trình mục vụ văn hóa của Đức Ông Mai Đức Vinh làm hai giai đoạn: giai đoạn còn là đại chủng sinh, ngài cùng ba thầy khác thành lập Tủ sách Hương Việt và giai đoạn mục vụ tại Giáo xứ Paris, bắt đầu bằng tờ Hiện Diện.
Công trình văn hóa của ngài được chứng minh vừa bằng lượng sách, vừa bằng nội dung các biên soạn của tác giả:
- Về số lượng: Ba bộ sách lớn theo thứ tự thời gian, tổng cộng 7725 trang:
Hạnh Các Thánh (Saigon, 1959): 12 cuốn, 1920 trang;
Bộ Giáo Luật (Carthage - Hoa Kỳ, 1987), 640 trang, dịch từ bản gốc la tinh Jus canonicum (Promulgatus Datum Romae, die xxv Ianuarii, anno MCMLXXXIII: Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II ban hành ngày 25/01/1983), dịch giả: Đức Ông Mai Đức Vinh, Đức Ông Nguyễn Văn Phương, Linh Mục Phan Tấn Thành, Linh Mục Vũ Văn Thiện;
Tân Lịch Sử Giáo Hội (Giáo Xứ Paris, 2002), 5165 trang, gồm7 cuốn, dịch từ bộ Nouvelle Histoire de l’Église (Paris, Ed. du Seuil, 1963), Đức Ông Mai Đức Vinh chủ biên.
Ngoài ra, còn phải kể đến 5 cuốn sách do Tủ sách Hương Việt xuất bản tại Saigon trước năm 1975 và 42 cuốn sách do ban Tu thư Giáo Xứ Paris xuất bản từ 1998 đến 2015, tổng số trang ước lượng 15 000 trang, chưa kể nhiều biên soạn khác trong báo Giáo Xứ, Bản Tin Cursillo, Liên Tu Sĩ, Bộ Suy niệm Tin Mừng (năm A và năm B) v.v.
- Về nội dung biên soạn: Đức Ông biên soạn nhiều thể loại khác nhau, từ Giáo luật, Thần học đến Triết học, Tu đức v.v.
Trước hết là mục vụ văn hóa ‘‘Hương Việt’’:
1) Mục vụ văn hóa ‘‘Hương Việt’’:
Có thể mệnh danh giai đoạn I mục vụ văn hóa của Đức Ông Mai Đức Vinh là Hương Việt, lấy tên từ nhóm tu thư sơ khởi gồm bốn thầy đại chủng sinh: Mai Đức Vinh, Đỗ Hữu Phổ, Nguyễn Văn Chiểu và Nguyễn Trọng Tri. Sau này cả bốn đều là linh mục. Cha Chiểu và cha Phổ đều đã qua đời. Còn lại Đức Ông Vinh ở Paris, cha Tri nghỉ hưu ở Long Xuyên.
Ngay từ năm 1958, khi về học Triết học ở Đại Chủng Viện Xuân Bích ở Thị Nghè (Saigon), bốn thầy đã thành lập nhóm Hương Việt.
Các sách của nhóm Hương Việt nhắm vào hai đối tượng:
- các thầy đại chủng sinh: chương trình giảng dạy ở đại chủng viện và chương trình cử nhân thần học đại học Công Giáo có môn Giáo luật, Lịch sử Giáo Hội, Kinh thánh, Phụng vụ v.v.
- các độc giả đạo đời muốn tìm hiểu linh đạo Công Giáo.
Tủ sách Hương Việt in tại Phước Sơn Ấn quán - Chợ Lớn; nhà sách Đa Minh (20 đường Bùi Chu - Saigon) phát hành. Ngoài việc chủ biên, biên soạn sách vở, thầy Mai Đức Vinh còn phụ trách liên lạc với nhà in để sửa bản vỗ (morasse) trước khi lên khuôn. Nhà in của nhóm Hương Việt trước đây và nhà in của Giáo Xứ hiện nay đều mang tên Phước Sơn (Xitô).
Trong quá trình mục vụ văn hóa của Đức Ông Mai Đức Vinh, đáng kể nhất là ba bộ sách có tầm mức quy mô, đòi hỏi rất nhiều công phu: Hạnh Các Thánh, Bộ Giáo Luật và Bộ Tân Lịch sử Giáo Hội.
Hạnh Các Thánh:
Năm 1959, nhóm Hương Việt biên soạn ‘‘Hạnh Các Thánh’’ gồm 12 cuốn, mỗi tháng phát hành một cuốn. Đây là việc làm khai sơn phá thạch. Trước ‘‘Hạnh Các Thánh’’ của nhóm Hương Việt, nhà in Nazareth (La Maison de Nazareth) của các Cha Thừa sai Paris tại Hồng Kông đã in sách các thánh bằng tiếng Việt nhưng chỉ phổ biến hạn chế. Cơ sở Nazareth hoạt động từ năm 1884 đến 1934, in 154 sách tiếng Việt, chiếm tổng số 9% sách in.
Lời tựa Hạnh Các Thánh trích dẫn ý tưởng trong sách Minh Tâm Bửu Giám (明心寶鑒):
Minh kính khả dĩ sát hình
Vãng cổ khả dĩ tri kim
明鏡可以察形鑒古可以知今(Gương trong soi bóng soi hìnhViệc xưa dùng để biết rành việc nay).
Việc trích dẫn cổ thi bắc nhịp cầu đông tây, dẫn đưa độc giả vào 1920 trang Hạnh Các Thánh. Thay vì viết là lịch sử các thánh (histoire des saints), tựa đề tập sách tóm lại một chữ ‘‘Hạnh’’ (行), mang các ý nghĩa như sau:
- ‘‘Hạnh’’, còn là ‘‘Hành’’, có nghĩa là bước chân đi, nóí lên cuộc hành trình theo Chúa của các thánh;
- Hạnh là nết na, thi hành chữ ‘‘đức’’(德) được gọi là ‘‘hạnh’’ (行).
Chữ ‘‘Hạnh’’ diễn nghĩa giáo huấn của thánh Phaolô, được chép lại trong lời nói đầu cuốn sách: ‘‘Anh em hãy bắt chước tôi cũng như tôi đã bắt chước Chúa Kitô’’ ( I Cor 11,1). Lời nói đầu Hạnh Các Thánh diễn giải ý nghĩa chữ ‘‘Hạnh’’: ‘‘…còn tấm gương nào phản chiếu trung thành hình ảnh của Chúa Kitô cho bằng đời sống các thánh ? Các thánh là những người đã thực hiện các nhân đức của Chúa Kitô ở một mực độ cao nhất, nhờ Ngài mà Chúa đến với các linh hồn; và qua đời sống các ngài, các linh hồn dễ nhận ra hình ảnh Chúa’’
Hạnh Các Thánh nhắc lại kinh cầu các thánh (Litaniæ Sanctorum) trong lễ truyền chức tại nhà thờ chính tòa Vĩnh Long vào năm 1965: Sancta Maria, ora pro nobis…
Năm 1959, thầy Mai Đức Vinh còn là một đại chủng sinh 24 tuổi. Tuy nhiên, tủ sách Hương Việt đã ấn hành được năm tác phẩm:
- Mầu nhiệm Bác ái: tóm tắt Phúc âm về Bác ái chân chính.
- Khơi nguồn Thánh lễ: Thánh lễ là mặt trời chiếu soi cho ngày sống của người Kitô hữu, là nguồn tuôn ơn cứu độ và sức mạnh để ta hoạt động.
- Tâm sự với Chúa: giới thiệu bút ký của chân phước Charles de Foucault, đấng sáng lập dòng Tiểu đệ và Tiểu muội. Chân phước có tâm hồn khiêm cung, nồng nàn, khuyến khích ta cùng nhau sống vị tha, bác ái.
- Máu Lạc Hồng ghi lại hạnh các thánh tử đạo Việt Nam.
- Thanh niên với tôn giáo dịch cuốn Le Christ et la jeunesse của Đức Cha Tihamer Toth.
Năm 1964, thầy Mai Đức Vinh và cha Nguyễn Hữu Văn (Hưng Hóa) dịch cuốn Thủ bản Tự thuật (Manuscrits autobiographes), ghi lại cả cuộc đời do chính Têrêsa đã viết lại đời sống của mình từ lúc còn thơ ấu, theo lời yêu cầu của chị bà là Pauline, sau đi tu mang tên là Mẹ Agnès de Jésus, cũng là người mà Têrêsa chọn làm ‘‘mẹ nhỏ’’ (petite mère) sau khi bà Martin qua đời.
Năm 1964, trước khi đi Roma, thầy Vinh còn dịch chung với bốn thầy khác cuốn ‘‘Sứ điệp của Têrêsa thành Lisieux’’ (Le message de Thérèse de Lisieux) của cha Marie-Michel Philipon, dòng Đa Minh.
Bộ Giáo Luật:
Năm 1984, Đức Ông Mai Đức Vinh cùng với Đức Ông Nguyễn Văn Phương, cha Phan Tấn Thành (dòng Đa Minh, giáo sư Giáo luật tại Đại học Angelicum - Roma), cha Vũ Văn Thiện, dịch bộ Giáo luật mới (Code de droit canonique) do thánh giáo hoàng Gioan-Phaolô II ban hành năm 1983. Công trình dịch thuật kéo dài từ 1983 đến 1985, căn cứ vào bản gốc tiếng la tinh, đối chiếu với các bản dịch tiếng Pháp và tiếng Anh. Các dịch giả sử dung nhiều danh từ dân luật như chế tài (sanctio), tố tụng (procedure), bất khả ly (indissolubilitas) v.v. Chúng ta đều biết bộ dân luật Pháp do hoàng đế Nã Phá Luân điển chế năm 1804, chủ yếu dựa vào bộ Giáo luật và luật La Mã.
Đức Ông Mai Đức Vinh dịch các quyển III và IV:
- Quyển III quy định sứ mạng chính yếu của Giáo Hội là rao giảng Tin Mừng dưới hình thức truyền giáo, huấn giáo, giáo dục, sách báo, v.v.
- Quyển IV: quy định các Bí tích, nhờ đó Giáo Hội thông truyền ơn cứu rỗi cho nhân loại.Trong lời nói đầu, các dịch giả đã giải thích sự khác biệt giữa bộ Giáo Luật 1983 và bộ Giáo Luật 1917 như sau:
‘‘Chúng ta không nên nhìn bộ Giáo Luật 1983 chỉ như là một ấn bản mới của bộ Giáo Luật 1917, nhằm loại bỏ những gì đã lỗi thời, hoặc nhằm sửa đổi giọng văn cho gọn gàng hơn. Giữa hai bộ luật, có sự tiến triển thần học về các bí tích, các chức vụ Giáo Hoàng, Giám Mục, Linh Mục, v.v.’’
Vì là Bản dịch đầu tiên Bộ Giáo Luật mới 1983, lại được dòng Đồng Công ở Missouri Hoa Kỳ in, cuốn Giáo Luật này được sử dụng khá rộng rãi ở Việt Nam và khắp năm châu, đặc biệt trong các Đại Chủng Viện.
Hiện nay ở Việt Nam có hai bản dịch chính thức của Hội Đồng Giám Mục, một bản dịch do Đức Cha Lê Phong Thuận và nhóm 11 linh mục dịch, xuất bản năm 1996, về sau Đức Cha Phêrô Nguyễn Soạn ra một bản dịch khác, ấn hành sau năm 2000.
Bộ sách thứ ba Tân Lịch Sử Giáo Hội sẽ được đề cập trong phần Mục vụ văn hóa ‘‘Hiện Diện’’.
2) Mục vụ văn hóa ‘‘Hiện Diện’’ (tại Giáo Xứ Paris sau năm 1984):
Nguyệt san ‘‘Hiện Diện’’, Xuân Kỷ Mùi (1979),
tính đến năm Ất Mùi (2015) vừa tròn ba con giáp.
Tại Paris, linh mục Mai Đức Vinh chú trọng đến mục vụ văn hóa khi ngài viết thường xuyên cho tờ báo Hiện Diện. Năm 1984, ngài là chủ nhiệm nguyệt san Giáo Xứ. Trong thời gian này, ngài là chủ biên việc dịch Bộ Tân Lịch Sử Giáo Hội. Bộ Tân Lịch Sử Giáo Hội có hai ưu điểm:
- Ưu điểm về nguyên bản tiếng Pháp: Lịch sử Giáo Hội là môn học chính được giảng dạy trong các đại chủng viện và đại học Công Giáo. Vì vậy có nhiều sách giáo khoa về giáo sử, trong số có:
Jean Comby, Histoire de l’Église des origines au XXIème siècle, Paris, Ed du Cerf
Pierre Pierrard, Histoire de l’ Ếglise catholique, Paris, Desclée
Paul Christophe, 2000 ans d’histoire de l’Église, Paris, Mame
Trong số các sách giáo khoa, Nouvelle Histoire de l’Eglise của Jean Daniélou được sử dụng nhiều nhất. Ngài là linh mục dòng Tên và là nhà thần học lỗi lạc, biên soạn 41 cuốn sách, trong số có Nouvelle Histoire de l’Eglise (tập I). Năm 1963 là Hồng Y, thành viên hàn lâm viện. Trong Revue belge de philologie et d’histoire, Ernest Stein đã khen ngợi tập I như sau: ‘‘Trong 5 thế kỷ đầu, không có cuốn lịch sự Giáo Hội nào có thể sánh bằng’’.
- Ưu điểm về bản dịch tiếng Việt: Đức Ông Mai Đức Vinh đã thành công trong việc quy tụ 20 chuyên viên thuộc nhiều lãnh vực, trong số có ba vị đã qua đời:
Giáo dục: SH Trần Văn NghiêmVăn hóa: GS Nguyễn Khắc XuyênLuật học: LS Nguyễn Thị Hảo
Trong Lời Mở, Đức Ông Mai Đức Vinh đã trình bầy mục đích dịch thuật như sau: ‘‘Trước tiên là muốn đóng góp một phần nhỏ mọn vào việc cung ứng tài liệu cơ bản cho việc học hỏi và nghiên cứu trong kho tàng văn hóa của Giáo Hội và Quê Hương, đặc biệt và thực tế cho các chủng viện tại quê nhà. Thứ đến, chúng tôi muốn chọn phần lịch sử Giáo Hội, bởi vì cho tới nay tại Việt Nam chưa có một bộ Lịch sử Giáo Hội Hoàn vũ nào đầy đủ. Thứ ba, chúng tôi nhận thầy đây là bộ lịch sử mới mẻ, đầy đủ, bên soạn công phu, đúng đắn và kỹ thuật khoa học nhất hiện nay trong bộ môn sử học về Giáo Hội. Thứ bốn, chúng tôi muốn thể hiện một hình thức làm việc chung giữa linh mục, tu sĩ và giáo dân trong phạm vi văn hóa và mục vụ, là hình thức làm việc đã có tại nhiều nước Âu Mỹ.’’
Ban Tu Thư Giáo Xứ: Việc thành lập nhóm chuyên gia dịch thuật Bộ Tân Lịch Sử Giáo Hội là thử nghiệm thành công của việc hợp tác giữa tu sĩ và giáo dân trong lãnh vữc văn hóa. Năm 1984, Đức Ông Mai Đức Vinh chính thức thành lập ban Tu thư của Giáo Xứ, chủ trương làm việc chung giữa linh mục, tu sĩ và giáo dân. Sau đây là các ghi nhận của giáo sư Trần Văn Cảnh về ban Tu Thư Giáo Xứ: ‘‘Xuất phát từ Ban Báo Chí, và được tăng cường bởi ban Mục vụ Hôn nhân, ban Tu thư manh nha vào năm 1997 với việc làm văn hóa tập thể qua việc biên soạn và xuất bản cuốn « Kỷ yếu 50 năm thành lập Giáo Xứ Việt Nam tại Paris » đã dần dà mạnh bạo hơn trong việc sáng tác và dịch thuật. Trong 18 năm, từ 1997 đến 2015, 41 cuốn sách, hoặc kỷ yếu đã được biên soạn, dịch thuật và xuất bản.’’
Đức Ông đưa ra ý kiến dẫn khởi (idée initiale) trong giai đoạn thai nghén tác phẩm. Chính ngài soạn thảo bố cục, mời người cộng tác, đôn đốc mọi việc cho đến khi in sách. Chúng tôi xin đơn cử một ví dụ qua điện thư ngày 12/02/2015 của Đức Ông Mai Đức Vinh gửi một tuần trước Tết Ất Mùi:
‘‘Xin chúc Tết và mừng tuổi Ất Mùi quý vị và gia quyến quý vị nhiều sức khoẻ và hồng ân. Sau đây xin gửi đến Quý Vị chương trình khóa giảng dạy trong tháng ba tới. Sau nữa, xin gợi một phương án văn hóa - thánh kinh, xin quý vị suy nghĩ; chúng ta sẽ có một ngày ngồi lại để trao đổi và xem có thể làm gi đưọc không. Phương án án đó là: ‘‘Trình bày Thánh kinh theo văn hóa Việt Nam’’ qua một số đề tài:
Về gia đình: tình cha con, tình nghĩa vợ chồng, tình anh em, tình bạn bè, tình quê hương, tình thày trò, tình nghĩa với người đã khuất…
Tám mối phúc thật: nghèo, hiền lành, hiếu hòa, bị nguyền rủa, bị bách hai…
Các nhân đức: công bằng, bác ái, nhẫn nại…
Mỗi năm, ban Tu thư đều in thêm sách mới. Ngoài ra, Đức Ông Mai Đức Vinh còn biên soạn nhiều công trình văn hóa khác trong khuôn khổ Hội Liên Tu sĩ hoặc Phong trào Học hội Cursillo:
Năm 2006, Đức Ông chủ biên cuốn ‘‘Tặng Cho Nhau’’ nhân kỷ niệm 60 năm thành lập (1946-2006) trong đó, ngài viết các bài chuyên khảo ký tên Du Sinh:
- Chữ Từ (慈) của Lão Tử; - Biểu trưng của nước; - Mềm hơn nước, mạnh hơn nước.; - Hướng về Đại Hội 03 " 06/08/2006 (thơ)và ba bài ký tên Mai Đức Vinh: - Thoáng nhìn về Liên Tu Sĩ; - Đời tu trong văn chương bình dân; - Người nữ với ơn gọi tận hiến.
Đức Ông Mai Đức Vinh đã ngỏ lời (trong Lời Ngỏ) như sau: ‘‘Mừng Sáu Mươi Nam hiện hữu của Liên Tu Sĩ Việt Nam tại Pháp là chúng ta đóng mốc cho dòng thời gian của hội Liên Tu Sĩ. Trong dòng thời gian, Liên Tu Sĩ Việt Nam tại Pháp đã đi vào lịch sử, đã có thời gian sinh ra và có thời gian hường về Trời Mới, Đất Mới. Nói một cách khác, mừng Sáu Mươi Năm hiệu hữu của Liên Tu Sĩ Việt Nam tại Pháp là chúng ta nghĩ đến các bậc tiền bối đã tạo nên lễ Đầu Mùa và chuẩn bị cho hậu duệ trong ngày lễ Cuối Mùa.’’
Là linh hướng Phong trào Học hội Ki tô giáo (Cursillo), Đức Ông viết nhiều bài huấn giáo nhiều kỳ đăng trong Bản Tin Cursillo:
- Chủ trương thế tục ở Pháp (2008-2010); - Cái nhìn mới vè tôn giáo (2012-2013); - Nhóm Tam điểm (Franc-maçonnerie) (2014); - Linh đạo Cursillo (2015).
Mục vụ văn hóa của Đức Ông có mục đích quy tụ một số các nhà văn hóa, mở đường cho nền thần học Việt Nam, hay nói khác đi là thần học hóa văn hóa Việt Nam.
Theo tiếng Hébreu cổ, yôbel (יוֹבֵל) là tiếng tù và làm bằng sừng dê, nói về lễ kim khánh 50 năm, trùng hợp vào năm Ất Mùi. Trong lễ thụ phong linh mục tại Vĩnh Long, linh mục Giuse Mai Đức Vinh ‘‘xin Thiên Chúa hoàn tất việc tốt lành Người đã khởi sự’’. Thiên Chúa đã khởi sự công cuộc mục vụ văn hóa từ lúc Đức Ông còn là đại chủng sinh ở trong nước, sau này là linh mục rồi đức ông tại hải ngoại. Từ đó, ngài không ngừng biên soạn sách vở, mời gọi các tu sĩ và giáo dân cùng làm việc với ngài. Trong 50 năm qua, mục vụ văn hóa của Đức Ông không vì các khó khăn nhất thời mà bị gián đoạn. Nhân lễ vàng 50 năm linh mục của Đức Ông Giám Đốc, con mạo muội kính dâng ngài bài thơ sau đây, nói thay cho bao điều thiếu sót trong bài viết này:
Lửa thử vàng (ignis aurum probat)ngọn lửa năm mươi phúc thánh ânvàng y thử thách chẳng phai tànđời tu chứng tá cho lời Chúabút mực văn chương chẳng ngại ngần mục vụ tu thư nhiều sách quýđông tây hội nhập mực đầy tràn kim khánh thụ phong ơn trọng đạibút nghiên son sắt nét tinh anh.Đan viện Xitô Orsonnens, mùa chay 2015Lê Đình Thông
- Viết bởi Lm. Trần Văn Hòa
Melbourne - Tôi nhớ mãi những ngày ở rừng Gilwell Park, Melbourne, nước Úc. Với ba lô trên vai, chúng tôi bước vô rừng học tập giữa muôn ngổn ngang, bồn chồn và ngỡ ngàng nơi xứ lạ mà mình chưa từng đặt chân tới. Nhưng rồi nhờ ơn Chúa, chúng tôi đã kết thúc những ngày học thật tốt đẹp.Nước Úc mở rộng vòng tay đón chúng tôi.Nói đến Úc, người ta có cảm tưởng đó là một đất nước xa xôi. Thời nhà Nguyễn, đã có những thương nhân Úc đến buôn bán ở Hội An, nhưng ta không hiểu nhiều về đất nước của họ. Năm 1965 một số lính Úc có qua đây trong cuộc chiến Việt Nam và nói mình là người “Úc Thòi Lòi” phát âm từ Úc Đại Lợi mà ra. Họ ở rải rác trong tỉnh Bà Rịa, Vũng Tàu nhưng không lâu.
Úc nguyên là một hòn đảo lớn nhất thế giới, cũng được gọi là Châu Úc rộng 7,700,000Km2 nằm về phía Nam Bán cầu giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, cận kề các quốc gia Indonesia, Timor, Papua New Genea, Solomon và New Zealand. Người Rôma ngày xưa đã biết tới Úc Châu và gọi đó là Đất Phương Nam, Australis. Sau từ này trở thành Australia, tên nước Úc. Dân bản địa người thô, da đen xàm xạm, đến từ Châu Á và đã sống ở đây từ 40.000 năm trước khi người châu Âu tới. Họ có khoảng 1,000,000 người, sống rải rác trong các khu rừng sâu và triền núi cao, văn minh thấp kém, chủ yếu sống bằng hái lượm, săn bắn và trồng trọt. Ngày nay họ còn khoảng 550,000 người sống phần lớn ở vùng Darwin, Tasmania và được hưởng chính sách ưu đãi của chính phủ.
Năm 1521 Samuel Purchas, người Tây Ban Nha đầu tiên khám phá ra Úc Châu. Năm 1606, Willem Janszoon, người Hà Lan đã đổ bộ lên Cape York. Ông vẽ bản đồ Úc và đặt tên đất mới là Tân Hà Lan, nhưng không tiến hành định cư.
Năm 1770, Thuyền trưởng James Cook đi dọc theo bờ biển, vẽ bản đồ phía Đông Australia, đặt tên nó là New South Wales và tuyên bố chủ quyền cho Anh quốc. Năm 1780, chính phủ Anh sai thuyền trưởng Arthur Phillip đi thiết lập trại tù tại Úc. Ngày 26.01.1788, lá cờ Anh Quốc đã được kéo lên tại Sydney Cove từ đó. Cơn sốt vàng năm 1850 đã cuốn hút nhiều ngàn người Châu Âu tới đây sinh sống. Năm 1907 các bang họp lại thống nhất lập thành một quốc gia duy nhất, nước Úc trong Khối Thịnh vượng Anh.
Nước Úc là hòn đảo rất rộng lớn, nhưng giữa lại là hoang mạc, núi cao hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt nên dân chúng chỉ sống ở những khu đồi thấp ven biển. Úc gồm 6 Tiểu bang và hai Vùng lãnh thổ : Western Australia, Northern Australia, Queensland, New South Wales, Victoria và South Australia. Hai lãnh thổ là Australian Capital Territory (Canberra) và Northern Territory.
Sau thế chiến II, Úc khuyến khích người Châu Âu nhập cư cho đông. Nay số người da trắng vẫn chiếm đa số 80%. Năm 1970, Úc đón nhận nhiều người gốc Châu Á như Phi, Đài, Nhật, Việt, Indo, Lào và Campuchia đến sinh sống...Ngày nay khi tới những thành phố lớn như Melbourne, Sydney, Brisbane, ta không thể không tới thăm các khu dân cư China Town, Việt Town của Footcray, Cabramatta, Bandstown... đông vui không kém gì các thị tứ trong nước.
Khí hậu Úc có vùng nóng như phía Bắc, có vùng ấm như Trung bộ và có vùng lạnh như Nam Úc, tùy từng mùa. Mức sinh hoạt ở đây khá cao, nhưng dễ làm ra tiền, an sinh xã hội thật tốt cho mọi người. Chỉ số phát triển con người theo xếp hạng của LHQ, Úc đứng nhất thế giời. Nền kinh tế Úc đứng thứ 12 thế giới với thu nhập bình quân đầu người GDP là 37,000 USD. Toàn bộ các thành phố Úc đều được đánh giá tốt và đáng sống trên phạm vi toàn cầu.
Úc chấp nhận tự do tôn giáo và đa văn hóa, cấm kỳ thị tôn giáo và chủng tộc, nên mọi nền văn hóa ở đây thi nhau nở rộ. Chúng tôi đã đến tham quan nhiều đình chùa, nhà thờ. Sinh hoạt tôn giáo ở đây rất sôi động và đủ thứ màu sắc đoàn thể dân sự, tôn giáo. Nước Úc mở rộng vòng tay đón anh em chúng tôi đi học khóa LT Hướng đạo và đi tham quan một đất nước vô cùng kỳ thú.
Vào rừng học khóa.
Chúng tôi gồm 6 anh chị em : Lm Trần Ngọc Xưa, anh Trần Tuấn Huy, anh Nguyễn Bảo Nhân, chị Nguyễn Thị Hoàng Oanh, chị Liên Bạch Hoa và tôi, Lm Trần Văn Hòa. Chúng tôi đáp ứng đủ những điều kiện Ban tổ chức đưa ra cho khóa UVHL (Leader Trainer) là có chứng chỉ Phụ tá UVHL (Assistant Leader Trainer), tiếng Anh đù sài và được cấp trên giới thiệu. Cha Xưa đi 27, tôi đi 29 và các anh chị còn lại đi 31.03.Chúng tôi đến tạm trú tại nhà anh chị Nguyễn Mạnh Hà, Trưởng HĐ Úc. Chúng tôi học khóa trong rừng Giwell Park, Trung tâm Huấn luyện trưởng Hướng đạo Úc rộng tới cả trăm héc ta, thuộc khu vực Gembrook, Melbourne, bang Victoria từ 02-07.04.2015.
Suốt khóa học, chúng tôi chỉ biết ăn, học, ngủ không còn liên lạc gì với bên ngoài : không báo chí, không điện thoại, chỉ tập trung vào việc học. Mỗi ngày chúng tôi có nhiều session, không nghỉ trưa, trừ ít giờ ăn bữa, rồi đi học ngay. Bù lại buổi tối chúng tôi ngủ sớm, nhiều giờ hơn ở Việt Nam.
Những phòng ngủ giống như những cái am xây rải rác trong khu rừng, quanh các hội trường, có sẵn điện, nước và toilet. Mỗi phòng 4 giường tầng cho 8 người. Khóa chúng tôi ít nên mỗi phòng chỉ có 4 người. Phòng tôi có anh Nhân, và tôi, người Việt, anh Tim Reley, Ian Dun người Úc. Chúng tôi sống với nhau thật thân thiết, luôn luôn nhắc nhở nhau. Các sinh hoạt không có hiệu lệnh, giờ giấc mọi người đều tự giác sao cho có mặt đúng lúc, đúng nơi. Lúc rảnh mấy anh em cùng phòng tụm nhau đấu láo. Tim, người Công Giáo rất vui tính và tận tình. Ian giống như người giữ giờ, lúc nào anh cũng nhắc nhở cả phòng : “mau mau lên, mau mau lên!” Có lần mới 5 giờ sáng - thường 8giờ mới dậy - anh đã kêu chúng tôi dậy đi lễ. Khăn gói quả mướp, chúng tôi ra văn phòng ngồi chờ mãi tới 8giờ xe bus mới đến đón. Khiếp !
Cách dạy của khóa học là gợi ý trước bằng một số tài liệu gởi cho mỗi học viên, tới lớp phát thêm tài liệu nữa, giảng khóa tổng quát bằng power point và sau đó trao đổi góp ý, làm bài là chính. Vì thế các buổi session vui và trôi đi rất mau, nhưng phải hiểu bài và có kiến thức mới có thể góp ý trao đổi và làm nhiều bài tại lớp được. Dĩ nhiên tất cả đều bằng tiếng Anh. Nếu vững Anh ngữ thì việc học của các ALT không có gì vất vả, lại còn thú vị là đàng khác, vì được tiếp cận với nhiều “tay lão luyện” có học vị cao, dầy kinh nghiệm về đời lẫn về đạo (HĐ).
Khi mới tới, ai cũng lo người Úc nói tiếng Anh rất khó bắt. Nhưng cám ơn Chúa kết quả của Ban điều hành khóa gởi cho Trưởng Nguyễn Mạnh Hà, Nguyên Ủy viên Đa Văn hóa của BĐH Hướng đạo Úc, bang Victoria : “Các Trưởng anh gởi đi học rất khá, những điều anh lo ngại đã không xẩy ra.” Chúng tôi ai ai cũng mừng húm! Tạ ơn Chúa đã dẫn chúng tôi đi và nâng đỡ anh chị em chúng tôi trong suốt khóa học.
Sau khi ra khỏi rừng Gilwell Park, chúng tôi vội vã về nhà anh chị Hà, nơi đón tiếp anh chị em chúng tôi khi tới Úc. Cha Xưa đi lo việc riêng xây nhà cửa chi đó cho giáo xứ của cha, tôi và mấy anh chị về nhà anh chị Thành, Bé và Giang để cùng đi Sydney với nhau. Ai cũng lo đi cho mau kẻo hết ngày. Chúng tôi được đưa đi thăm thắng cảnh Phillip Island, Nhà hát con sò, Gold Coast, Sunshine Coast...và nhiều nơi không thể nhớ hết .... nhất là đi shopping ở Footscray, Cabramatta...và ăn những “tô phở xe lửa”, mà tôi không thể quên hình cái tô và mùi thịt bò vừa thơm, vừa béo ngậy của Xứ Chuột túi. Nhớ có lần bà con đi lạc về nhà kêu í ới ...đau chân quá, đau chân quá! phải rong bộ suốt mấy dẫy phố mới về tới nhà. Hôm đó tôi đi tháp tùng cha Xưa nên thoát ...nạn. Sau ít ngày ở Sydney, chúng tôi bay qua Brisbane vào trọ nhà anh Ngọc, em của anh Huy trong đoàn. Chúng tôi được anh Ngọc dẫn đi thăm khắp nơi danh lam thắng cảnh ở Brisbane và đi chợ trời của Úc.
Nhìn lại chuyến đi, ngoài những kiến thức và chứng chỉ xác nhận khả năng học tập HĐ, chúng tôi rút ra nhiều bài học cho mình:
Dân Úc sống sống tự nhiên và nhường nhịn : ở nhà nhường nhau míếng ăn, miếng uống, chỗ ngủ, chỗ chơi, ra đường nhường bước cho chị, cho em, cho xe phía trước, lúc nào cũng thấy từ tốn và tứ tốn. Ở đây dường như không có cái “văn hóa tranh giành “ như bên mình.
Chúng tôi học nơi anh em HĐVN tại đây cái tình nghĩa huynh đệ chân tình : có anh em bỏ cả công ăn việc làm, lái xe đưa chúng tôi đi đây đó, đãi chúng tôi ăn và cho tiền... dằn túi. Anh em đón tiếp và lo cho chúng tôi đủ thứ đến tận răng. Tôi trộm nghĩ : không biết về nhà mình có đối đãi với anh em mình được như thế không.
Tôi học nơi anh em HĐ Úc cái khiêm tốn: Chẳng thấy ai khoe khoang này nọ, chẳng thấy ai vỗ ngực xưng tên...Huấn luyện viên khóa học dù là bậc thầy, có học vị tiến sĩ, là những giảng viên đại học nhưng cũng chẳng màng giới thiệu cho anh em. Sau này hỏi ra chúng tôi mới biết à ra thế! Và thán phục hết mình. Họ chỉ ghi lại trên tài liệu vỏn vẹn mấy từ chức danh trong HĐ. Thế thôi.
Tôi học nơi bạn sự chân tình và hay giúp đỡ : Bạn cùng phòng, bạn đồng đội chẳng hề kỳ thị, không lạ lẫm nhưng luôn quan tâm đến nhau, cố tạo cho chúng tôi-những người xa lạ- thấy không còn lạ xa, có khi chị đến hỏi han, chỉ vẽ tận tình, có khi anh đến làm quen, kể cho nghe những sinh hoạt HĐ vui vui ở Úc. Tôi gặp mấy anh em Đài, Hongkong nhất là New Genea hay cười và rất vồn vã mà chúng tôi có cảm tưởng như đã quen nhau từ lâu lắm rồi.
Ngày kết thúc khóa học, tiết trời núi rừng Gilwell hôm ấy khá lạnh, nhưng mọi người lại thấy ấm lên, cái ấm của tình huynh đệ sắp hòng xa lìa, cách trở. Mọi tâm tình, ý nghĩ, bài học, sinh hoạt trong suốt khóa như ùa về trong tâm trí các khóa sinh. Mọi người hồi hộp, rưng rưng dòng lệ đợi chờ lời phát biểu kết thúc và chia tay của Khóa trưởng. Tâm trí chúng tôi lúc này thực ngổn ngang, bồi hồi xúc động nhớ thầy, nhớ bạn, không biết bao giờ mới có ngày gặp lại sống những ngày thắm thiết ấy.
Ôi những người anh, những người bạn! Ôi núi rừng Gilwell thăm thẳm, tạm biệt Mi, tạm biệt mọi người! Cho ta gởi lại những giọt lệ nhớ thương, nghẹn ngào của giây phút giã từ. Hẹn một ngày sẽ gặp lại Mi. Đừng quên ta! Đừng quên ta! Hỡi Gilwell Park, Gembrook, ta mến thương Mi, nơi ta ôm ấp biết bao nhiêu là kỷ niệm! Giã từ, thôi giã từ!
Lm Trần Văn Hòa
Nhớ về đại gia đình anh chị Hà, gia đình cha Liêm, anh chị Bé, Giang, Thành, Nghiêm, Ngọc và....
Thân tặng và nhớ mãi các bạn Ngọc Xưa, Tuấn Huy, Bảo Nhân, Hoàng Oanh và Bạch Hoa tham dự khóa LT27 tại Úc 2015.
- Viết bởi Dân Chúa
Trân trọng kính mời: Quý Ông Bà và Anh Chị Em. Các bạn trẻ và các cháu thiếu nhi...
đến tham dự Ðại Hội Công Giáo Việt Nam kỳ thứ 39 với chủ đề:
''Thách đố đức tin trong gia đình''
được tổ chức từ ngày 23.05.2015 đến ngày 25.05.2015
- Viết bởi Bài & Ảnh: Thế Hiển
WGPSG -- Từ sáng thứ Bảy ngày 18/04/2015, tại khuôn viên nguyện đường Dòng Đức Bà Sài Gòn đã diễn ra buổi Hội ngộ giới trẻ thuộc các lưu xá của Dòng như: Đà Lạt, Cần Thơ, Sài Gòn, Đak Nông, Vĩnh Long v.v... Tham dự có khoảng hơn 200 sinh viên trong các màu áo riêng của đoàn đã làm cho bầu khí trở nên vui tươi khởi sắc.
Đến 15g30 Sr. Maria Lê Thị Thanh Nga, Giám tỉnh Dòng Đức Bà Sài Gòn tuyên bố lý do và khai mạc chương trình.
Lý do: Nhân kỷ niệm sinh nhật lần thứ 450 năm của cha Thánh Pierre Fourier và 80 năm Dòng Đức Bà hiện diện tại VN.
Mục đích:
a- Giới thiệu với giới trẻ về tuổi trẻ của 2 vị thánh tiền bối của Dòng là cha Thánh Pierre Fourier và Á thánh Alix Le Clerc. Dòng Đức Bà hoạt động theo lời truyền dạy của Đức Mẹ ban cho chị Chân phước Alix Le Clerc là: “HÃY LÀM CHO NGÀI LỚN LÊN”.
b- Khám phá tiềm năng bản thân để thi hành sứ mạng phục vụ tha nhân, giáo hội và xã hội. Hướng dẫn Ơn gọi Kitô hữu và sứ mạng giáo dục giới trẻ.
Tham dự buổi lễ gồm: Quý cha và sư huynh Lasan diễn giả, quý nam nữ tu sĩ và trên 200 thanh niên nam nữ trẻ của các lưu xá thuộc Dòng Đức Bà.
Sau lời khai mạc là phần sinh hoạt khởi động rất sôi nổi trong 1 giờ.
Đến 16g bắt đầu phần tọa đàm và hỏi đáp thắc mắc.
Phần tọa đàm có 2 diễn giả: Sư huynh Thái Sơn Minh, dòng Lasan và Cha PX Nguyễn Minh Thiệu, dòng Don Bosco.
Sư huynh Thái Minh Sơn trình bày chủ đề: “Tuổi trẻ, Tiềm năng và Sứ Mạng”.
Sư huynh mở đầu với lời cầu nguyện: Hôm nay tuổi trẻ chúng con đứng trước Thiên Chúa, Hội Dòng và sự hiện diện của anh chị em, xin Chúa cho chúng con biết đứng thẳng với ba tính chất của: Giới trẻ, Kitô hữu và Con người.
Xin Chúa cho chúng con biết đứng thẳng trước Chúa và Hội dòng cách khiêm tốn, đứng thẳng để đồng hành với tha nhân một cách kiêu hãnh, đứng thẳng để luôn phục vụ và cầu nguyện. Xin Chúa cho chúng con có được sự thinh lặng bên trong, bên ngoài để lan tỏa ra những người bên cạnh. Xin Chúa cho chúng con biết tự khám phá sức trẻ của chúng con để lên đường phục vụ thế giới, Giáo hội và xã hội.
Sư huynh tiếp: Tiềm năng tươi trẻ là không phạm tội. Bài chia sẻ kéo dài 35 phút và có hỏi-đáp.
Tiếp theo là phần trình bày của Cha PX Nguyễn Minh Thiệu, dòng Don Bosco, với đề tài: “Tuổi trẻ: Thành phần quý báu nhất, nhưng cũng mỏng dòn nhất”.
Cha trình bày 3 tiêu đề: Tuổi trẻ thật quý báu, là niệm vui và hy vọng. Tuổi trẻ cũng mỏng dòn. Để sống tuổi trẻ sung mãn và tròn đầy.
Cha lấy dẫn chứng: 1. “Tuổi trẻ là bình minh của cuộc đời”. “Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời”. “Tuổi trẻ hôm nay là thế giới ngày mai”. 2. “Các ban trẻ là niềm vui của hiện tại và tương lai” (trích lời ĐTC Phanxicô).
Tuổi trẻ là hy vọng của gia đình, giáo hội và xã hội. Tuổi trẻ là quà tặng của Thiên Chúa trao ban.
Sức mạnh, động lực của giới trẻ là sáng tạo và sản xuất. Giới trẻ giàu có về thời gian và sức khỏe. Cha đã đưa ra nhiều con số thống kê tiêu cực do những hệ lụy của sự chọn lựa và nhận định sai lầm các tiềm năng của giới trẻ. Do thiếu vắng sự đồng hành của Đức Kitô vì họ không biết tựa vào Ngài như lời Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã hiệu triệu với các bạn trẻ vì các bạn là thành phần quan trọng cho Giáo hội, xã hội và gia đình: “Hỡi tuổi trẻ thân mến, trong Chúa Kitô, những ước mơ thiện hảo và hạnh phúc của các bạn được thành tựu viên mãn. Hãy hướng đến Đức Kitô, tựa vào Đức Kitô, đặt nền tảng nơi Đức Kitô. Tuổi trẻ là thời kỳ nảy sinh tình yêu, đừng để giá trị này ra ô uế”.
Cha trích thêm lời của ĐTC Phanxicô, trong kỳ ĐHGT năm 2015, dịp Lễ Lá: “Phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch vì họ sẽ được thấy Thiên Chúa”. Ý nghĩa của Ngài muốn nóì về tiềm năng tình yêu của giới trẻ.
Cha kết thúc phần chia sẻ với lời Thánh Phaolô về đức mến: “Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất”.
Cha mạnh dạn kêu mời: “Các bạn hãy đi ngược giòng để phá tan phong trào văn hóa tạm bợ”.
Tràng phào tay kéo dài kết thúc phần tọa đàm đầy tính nhân bản và giúp tuổi trẻ no nê kiến thức cũng như cách chọn lựa đúng đắn cho các tiềm năng của mình. Nhất là tiềm năng tình yêu.
Tiếp nối là phần ăn nhẹ.
Quan trọng không kém là phần sinh hoạt vui nhộn ý nghĩa và trong âm điệu bài “Ra khơi cùng với Đức Kitô”. Nghi thức Sai đi với nhạc cảnh “Những mảnh đời quanh ta”. Hát múa, cử điệu với bài: “Ra khơi cùng với Đức Kitô”. Nghi thức Sai đi diễn ra rất linh thiêng đã ghi dấu ấn mạnh mẽ cho các bạn trẻ tuổi sinh viên.
Hội ngộ đã bế mạc lúc 21g00.
Nguồn: TGP SàiGòn
- Viết bởi Bài & Ảnh: Mạnh Tiến
WGPSG -- “Hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát”. Đó là lời đầu tiên cha chánh xứ đã nói trên xe trước lúc khởi hành đi làm công tác bác ái.
Vào lúc 20g thứ Tư ngày 15/4/2015, giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp đã đến Giáo phận Kon Tum để thực hiện công tác bác ái do hội Bác ái xã hội Caritas tổ chức. Cùng đi với đoàn có cha chánh xứ Phanxicô Xaviê Đậu Nguyễn Hoàng Linh. Các ông bà anh chị em trong cũng như ngoài xứ đã cố gắng thu xếp công việc để cùng tham gia với tâm nguyện bác ái phát xuất từ con tim nhân ái, từ lương tâm ngay thẳng và từ một đức tin chân thật.
Trải qua 14 tiếng ngồi trên xe, và đến 10g trưa ngày hôm sau, đoàn chúng tôi mới đến giáo xứ Plei Rơngol - giáo hạt Chư Prông - Giáo phận Kon Tum. Tại nơi đây đang cử hành Thánh lễ, nên đoàn chúng tôi được tham dự Thánh lễ cử hành cho người anh em dân tộc. Qua đó, chúng tôi thấy họ tham dự Thánh lễ thật sốt sắng, hòa mình cùng cha chủ tế dâng lên Thiên Chúa lời ca tiếng hát, các điệu múa thật đơn sơ mộc mạc nhưng bằng tất cả tin yêu và thành kính. Được biết nơi đây đã hình thành nhà nguyện cho người anh em dân tộc cách đây 100 năm, và sau 8 năm kiên trì mới được phép xây dựng ngôi thánh đường và 2 năm nay mới chính thức được nâng lên hàng giáo xứ. Cha chánh xứ Vinh Sơn Nguyễn Thành Trung (Dòng Don Bosco) chia sẻ với đoàn những khó khăn về: địa lý, con người và chính quyền… Ngài quyết tâm thực hiện việc mang Lời Chúa đến với mọi người chưa nhận biết Thiên Chúa. Nơi đây, đoàn chúng tôi đã chia sẻ 450 bộ quần áo học sinh (47 triệu) phong bì 10 triệu phát thưởng cho thiếu nhi hiếu học và 200 phần quà (265.000đ/1 phần) cho những gia đình khó khăn thật sự.
Sáng 17/4, chúng tôi đến trại nuôi trẻ mồ côi Vinh Sơn 4. Tại đây đang nuôi 170 em. Đoàn chúng tôi đã trao tặng quà gồm: gạo, sữa, mì, dầu ăn… (trị giá 12 triệu) và phong bì 20 triệu để phần nào đó chia sẻ cùng các em. Rất nhiều người trong đoàn chúng tôi không khỏi bùi ngùi xúc động khi thấy các trẻ em mồ côi còn nhỏ mà đã bất hạnh. Qua tiếp xúc, tôi chắc chắn những nơi này sẽ không bao giờ thiếu vắng tình thương và hy vọng. Hành trình tiếp tục đưa đoàn lên kính viếng Đức Mẹ Măng Đen. Tại đây, cha chánh xứ đã dâng Thánh lễ tạ ơn.
Chia tay trong quyến luyến tình cảm của những người tin yêu Chúa, đoàn chúng tôi hướng về Sài Gòn, kết thúc một chuyến đi với bao kỷ niệm. “Cho đi một điều gì đó vì mục đích tốt đẹp, chắc chắn sẽ nhận lại niềm vui từ chính mục đích tốt đẹp ấy”. Nhìn những nụ cười rạng rỡ trên nét mặt của mọi người sau khi hoàn thành công việc bác ái, tôi cảm nhận được niềm vui và sự ấm áp từ tình cảm yêu thương mà mọi người dành cho nhau. Xin cảm ơn hội Bác ái xã hội Caritas giáo xứ đã tổ chức cho mọi người đi tìm nguồn sức mạnh cho cuộc sống của mình. Những kỷ niệm về chuyến đi này sẽ chẳng bao giờ phai nhòa trong lòng mọi người.
Nguồn: TGP SàiGòn
- Viết bởi Micae Bùi Thành Châu
WGPSG -- Con và Cha có duyên được sinh ra ở họ đạo nghèo của Vĩnh Long.
Sau những năm tháng thăng trầm của lịch sử, cha một nơi, con một nẻo. Vả lại, con là đứa con hoang đàng nên cũng ít có cơ hội gặp lại Cha. Con chỉ gặp Cha đôi lần có dịp cũng như sẻ chia những tâm tình, thao thức của Cha khi trở về với quê hương đất Việt.
Vẫn bình dị và dị rất là bình từ lời ăn tiếng nói cũng như cách ăn mặc, cách chi tiêu trong cuộc sống.
Một cuộc đời dài đăng đẳng ở trời Phi để giúp cho Giáo Hội trong âm thầm lặng lẽ, khi về già, Cha vẫn chọn cho mình một con đường khiêm hạ.
Những mối tương quan, những điều kiện lẽ ra có được với cương vị mà Cha cầm giữ suốt gần 40 năm cũng đủ để cho Cha có một nơi nghỉ dưỡng thật khang trang và đầy đủ như bao nhiêu người khác. Thế nhưng, vẫn âm thầm trong căn phòng nhỏ dưỡng bệnh của Hội Dòng Mến Thánh Giá Chợ Quán thân quen. Ít ai có thể nghĩ ra được một cuộc đời lớn như thế mà lại thầm lặng như thế. Đó là lối cha sống, cách cha chọn.
Như hành lý mang theo đến quê người đất khách gói ghém 20 ký hành lý trong tay thì khi trở về quê hương đất Việt cũng vậy! Như hành trang mà bà Cố gói ghém cho Cha như thế nào thì khi già bệnh cũng là như thế!
Nói như thế chứ không phải dễ sống bởi lẽ con người ai ai cũng muốn cho mình có chút gì đó để lại cho đời. Cha không nói gì nhưng Cha đã sống trọn vẹn cuộc đời dâng hiến cách khiêm nhu của Cha.
Đặc biệt, nhờ Chúa ban qua bà cố, Cha sở hữu một nụ cười rất đặc biệt. Cha không chỉ có "Tài" để mang Chúa đến cho mọi người qua con đường truyền thông nhưng Cha còn có cái "Tài" để cho mọi người đến với Chúa, đến với Cha một cách gần gũi nhất nhờ nụ cười và lối sống hiền hòa giản dị của một con người đặc sệt chất miền Nam.
Nhiều lần nhiều lúc có người này người kia quý mến cũng đã ngỏ ý và đã dành cho Cha những tấm chân tình để lo cho Cha về vật chất nhưng Cha vẫn lặng lẽ và không hề đòi hỏi cũng như chẳng bao giờ hưởng dùng. Đặc biệt, những ngày dưỡng bệnh, Cha vẫn vui vẻ để dùng những gì dành cho những người bình dị nhất.
Cha thật "Tài" trong cách đưa Chúa đến với mọi người và Cha cũng thật "Tài" để hướng dẫn chúng con sống khiêm nhu.
Qua Cha, bản thân con học được chút gì đó bài học và con đường khiêm nhượng mà Cha đã đi. Ngày còn trẻ, Thánh Phêrô đi đâu thì đi nhưng khi về già, Chúa mới chính là người dẫn Phêrô. Cha cũng vậy, giống như Thánh bổn mạng Phêrô, về già, Cha đã được Chúa dẫn đi theo con đường Chúa dành cách đặc biệt cho Cha trước khi Chúa gọi Cha về nhà Chúa.
Cha đã sống một cuộc đời đáng sống và đáng nhớ. Đáng sống vì lẽ Cha đã dâng hiến trọn vẹn cuộc đời phục vụ cho truyền thông cách âm thầm. Đáng nhớ vì Cha đã để lại cho chúng con gương mẫu của khiêm hạ hy sinh.
Cha đã đi rồi, chúng con nhớ Cha lắm! Chúng con nhớ nhất là lối sống bình dân giản dị của người nghèo miền sông nước Vĩnh Long.
Xin thắp nén hương lòng kính nhớ Cha và xin nhớ bài học khiêm hạ mà Cha đã để lại cho chúng con. Và, khi gần Chúa hơn, xin Cha cầu thay nguyện giúp để chúng con luôn bước theo Đức Kitô trên con đường khiêm hạ.
Cha Phêrô ơi! Chúng con, và bản thân con đây, nhớ Cha nhiều lắm!
Nguồn: TGP Sàigòn
- Viết bởi Maria Vũ Loan
Từ ngày 15 đến 19 tháng 4 năm 2015, chúng tôi vừa có một chuyến tham quan miền Bắc, thăm một vài nơi ở tây bắc và chia sẻ, gặp gỡ tại hai giáo họ của giáo xứ Tiên Nha, giáo phận Bắc Ninh - một cộng đoàn giáo xứ đang sống trong Năm Thánh, kỷ niệm 100 năm thành lập.
Hiện nay, với công cụ tìm kiếm trên mạng, người ta có thể biết nhiều nơi ở đất nước Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung; vì vậy chúng tôi chỉ xin ghi lại trải nghiệm thực tế về chuyến đi này.
Lúc đầu, chúng tôi phải tính toán “từ mùa Chay sang mùa Phục Sinh” vì vừa tham quan vừa chia sẻ có tính xã hội thì “khó ơi là khó”! Thế là chúng tôi “book tour” giá rẻ và có tách rời đoàn để thăm giáo xứ miền Bắc.
Đến giáo phận Bắc Ninh thăm một giáo xứ
Không theo một trình tự tường thuật nào, trước hết chúng tôi xin nói về việc thăm giáo xứ Tiên Nha, là điểm nhấn của chuyến đi.
Đưa xe bốn chỗ lên Hà Nội đón tôi là thành viên của ca đoàn cùng một Sơ trẻ thuộc nhà dòng có linh đạo là truyền giáo, qua đoạn đường dài 70 km. Đường vào nhà thờ trông rất đặc trưng làng quê miền Bắc vì nhà nào cũng có hàng rào bằng gạch; nhà thờ phần nhiều cũng là kiểu truyền thống, có cái tháp cao.
Cha chánh xứ Giuse Nguyễn Quang Thiều đón chúng tôi vẻ thân thiện. Cha đã ở tuổi bảy mươi nhưng trông khỏe mạnh, nhanh nhẹn. Bữa cơm trưa tại nhà xứ, bên cạnh sông Lục Nam, tuy đơn sơ không bia rượu nhưng ngọt ngào vì có món bầu luộc và đầy tiếng cười vì cha phó quá điển trai nhưng không có duyên bằng hai thầy dòng Tên và một thầy tu triều đang “thực tập” ở đây.
Ở miền Bắc, một giáo xứ có nhiều họ đạo cách xa đến hơn chục cây số nên ngay lúc 13 giờ 00 ngày thứ bảy, chúng tôi đã cùng cha xứ đi vào một nhà nguyện nhỏ, có một số gia đình Công Giáo ở đây, để dự thánh lễ thay ngày Chúa Nhật. Giữa trưa nắng nóng, cùng hòa vào lòng sốt sắng của bà con giáo dân, chúng tôi xúc động khó tả.
Trước khi ban phép lành cuối lễ, cha xứ giới thiệu chúng tôi là “khách quí”; chúng tôi bước lên gần cung thánh, đáp lời và tặng quà cho điểm truyền giáo này một số tiền để chung sức với anh chị em giáo dân mua cái đàn org đắt tiền, có âm vang hay. Sau khi chụp hình kỷ niệm, chúng tôi ngạc nhiên và dâng trào cảm xúc khi thấy một ông trùm trải chiếu ngay sân nhà nguyện, các bà để xuống đó dưa hấu, dứa (thơm), bưởi và một ít bánh kẹo để mọi người ngồi nhâm nhi chuyện trò cùng nhau. Chúng tôi tiếc khi không thể ngồi lại đó mà thăm hỏi giáo dân vì phải đi đến giáo họ Chũ mà thăm người nghèo và giao lưu với thiếu nhi.
Xe về đến giáo họ Chũ, cách nhà thờ Tiên Nha 20 km, Sơ trẻ vui ra mặt. Nhà nguyện ở sát cổng vào còn các Sơ ở ngôi nhà mới xây sạch đẹp phía cuối phần đất. Cộng đoàn của quí Sơ có ba người, mới ra đây được 18 tháng, thế mà đã làm cho “lòng đạo” giáo họ Chũ “nóng lên” từng ngày, số người khô khan nguội lạnh bớt dần và thánh lễ tối Chúa Nhật có đến trên dưới 200 cả người lớn và trẻ em; Đức Giám Mục của Giáo phận đã có nhiều lời khen tặng.
Được dăm ba phút, chúng tôi và Sơ trẻ bắt đầu đi thăm những gia đình nghèo.
Ở miền Bắc này, không thể tìm ra ngôi nhà lá (biểu hiện sự nghèo nàn) như ở miền Nam. Nhà nào nghèo nhất cũng mua “gạch cay” mà xây thành ngôi nhà vuông vức một gian. Gạch cay rẻ tiền nhất vì được làm bằng đá dăm trộn với xi-măng. Người được cho là nghèo khi không có việc làm, già cả mà không ai nuôi hoặc bệnh tật. Có nhà kia mẹ bỏ đi làm rày đây mai đó, bỏ lại hai đứa con nhỏ cho bà cụ già lết đi bằng ghế; nhìn mặt chúng lem luốc như con mèo, lòng chúng tôi se lại. Thôi thì mỗi nhà mỗi cảnh. Khi đi thăm như thế, chúng tôi gặp một làng nghề lâu năm, làm Mỳ Chũ. Đó là sản phẩm của gạo; gạo ngâm, xay, tráng thành bánh đa, cắt, phơi rồi bó dây lạt thành từng cuộn nhỏ; khi nấu thì sợi dai, mùi thơm và dẻo. Đi ra khỏi làng nghề Mỳ Chũ, lòng chúng tôi thấy vui, vì làm nghề này tuy vất vả nhưng còn hơn là ra cửa khẩu, sang Trung Quốc đi làm thuê.
Ngoài nhà nguyện đẹp, họ Chũ còn có tượng Đức Mẹ mà nhiều người thọ ơn nên có lời truyền rằng Mẹ rất thiêng, mà trong cuốn Tre Ngà – kỷ yếu năm 2012 – của giáo phận Bắc Ninh có hẳn một bài viết về lịch sử và truyền thuyết về Đền Đức Mẹ Chũ, tác giả là Giuse Văn Thành.
Sáng hôm sau, chúng tôi đi thăm một vòng quanh vùng như qua khu Khuân Thần, đến xã Kiên Lao, rồi trở về nhà xứ Tiên Nha. Sau giờ cơm, chúng tôi được chứng kiến giáo dân ở đây tham dự thánh lễ giữa buổi trưa. Trong ngôi nhà thờ cổ kính, có tiếng đọc kinh sốt sắng. Hỏi thăm ba đứa trẻ con ở sân nhà thờ, chúng tôi bật cười. Chúng tôi hỏi: “ Bố con làm gì?” “Bố con đi làm Trung Quốc rồi!”. “Còn mẹ con thì sao?”. Đứa lớn hơn trả lời: “Mẹ cũng đi Trung Quốc rồi!”. “Thế các con có biết Trung Quốc là cái gì không?”. Cả ba đứa trả lời giọng Bắc đặc: “Không ạ!” rồi nhoẻn miệng cười. Khi ruộng nương “rỗi việc”, người trẻ hay đi làm thêm như thế, có một chút thoáng buồn trong lòng chúng tôi. Tỉnh Bắc Giang không có nhiều tài nguyên và điểm du lịch nên nhịp sống có phần thầm lặng. Theo lời anh tài xế thì có nhiều doanh trại quân đội đóng ở tỉnh này, làm “bước đệm” cho tỉnh Lạng Sơn. (“đệm” cho tỉnh Lạng Sơn để làm gì thì xin người đọc vui lòng tự hiểu!).
Rời giáo xứ Tiên Nha, chúng tôi còn một chút tơ vương đọc bản lược sử giáo xứ được in to, dán trên tường mà theo dòng thời gian thăng trầm đến hằng trăm năm.
Rời Bắc Giang bằng con đường đi qua khu Côn Sơn, cầu cổ Cẩm Lý có từ thời Pháp, chúng tôi gặp lại đoàn tham quan mà trở về Hà Nội.
Hành trình trên quê hương miền Bắc
Bay ra Hà Nội khá sớm nên chúng tôi rất phấn khởi chào ngày mới. Đường cao tốc từ Hà Nội lên Lào Cai rộng thoáng, hai bên đường cảnh khá đẹp, một vẻ đẹp rất Việt Nam.
Đoạn đường từ Lào Cai lên Sa Pa làm chúng tôi chết lặng cảm xúc vì hẹp, quanh co những dốc cao; nếu tài xế không là “tay lái lụa” thì dễ “về với Chúa” trong phút chốc! Nhờ người khác quay phim chụp hình, chúng tôi nhắm mắt phó thác.
Đến Sa Pa, chúng tôi cảm nhận ngay một “Đà Lạt” của miền Bắc. Niềm vui xen lẫn một chút khó chịu khi thiếu đèn đường, thị trấn chỗ sáng chỗ tối. Những người địa phương bán hoa quả, đặc sản vùng miền cũng bị bóng tối che đi một nửa. Những người dân tộc, đa số là phụ nữ và trẻ em, tụ tập trước khoảng trống nhà thờ như những bóng mờ di chuyển để bán những sản phẩm làm bằng tay. Một anh xe ôm cho biết, những người dân tộc ban ngày làm nương rẫy, buổi tối tụ tập ở đây; người ta nói với du khách rằng, không nên cho họ tiền vì sáng hôm sau họ sẽ không còn tha thiết với nương rẫy và trẻ con chẳng muốn đến trường học. Chúng tôi chỉ cười; chia cho con họ những cái áo thun hay cho các bà mẹ đang địu con một ít tiền thì cũng giống như hình ảnh Chúa nói với các tông đồ: “Các con hãy cho họ ăn đi” mà thôi!
Sáng sớm, sương mù bao phủ thị trấn Sa Pa hẳn là làm du khách không tiếc công đến đây. Hăm hở cười cười nói nói, đoàn tham quan chúng tôi đi vào bản Cát Cát. Con đường đá nhỏ xuống từng bậc, từng bậc vòng quanh bản thành một đường khá đẹp. Có suối có thác rất thơ mộng. Hai bên con đường đá ấy là những cửa hàng to nhỏ khác nhau của người dân tộc. Nhiều trẻ em và người già “nhôi nhai” nghèo nàn. Chúng tôi trao tay những đồng tiền mệnh giá 20.000 và 50.000 đồng VN (1 usd và 2,5 Usd) mới toanh như là một chút chia sẻ cho người già và trẻ em. Những người cùng khổ gặp bên đường thì chỉ “từ thiện” chứ làm sao mà “xã hội” được!
Từ dưới bản đi dần lên, chúng tôi được thưởng thức bài múa của người dân tộc với trang phục đủ sắc màu. Đến đây, còn 300 mét nữa mới lên mặt đường nhựa, chúng tôi không đi nổi, cầm nhờ bàn tay một thanh niên mà cố bước từng bậc đá, lòng thầm hát: “Ôi, đường xa quá con hết hơi rồi, Chúa con thật hết hơi rồi.....”.
Ghé vào Thác Bạc, chúng tôi ăn cơm lam, khoai nướng và gặp gỡ, chia sẻ cho một số người bán mật ong rừng nơi đây, thấy lòng nhè nhẹ vui vui dù cái nắng trưa của núi rừng cũng không kém gay gắt.
Bỏ qua việc thăm bản Tả Van, chúng tôi cứ tiếc hùi hụi, thầm trách anh hướng dẫn viên đoàn tham quan. Rồi ghé vào nhà thờ Sapa, cha quản nhiệm Phêrô Phạm Thanh Bình tươi cười bắt tay chúng tôi, miệng cha bật ra: “Chị Maria Vũ Loan!”. Chúng tôi vui vì hiểu tại sao cha cởi mở như vậy, chắc chắn là nhờ truyền thông Công Giáo. Cha cho xem qua phía sau nhà thờ, nơi đây còn chưa được sạch đẹp vì là nơi ở tạm của các em học sinh cấp 3 đến trọ học. Tiếc hơn nữa, cha mời chúng tôi đi cùng một đoàn quí ông từ thành phố Việt Trì lên, sắp sửa đi vào thăm bản làng, nhưng chúng tôi không thể nào đi được, đành chụp hình kỷ niệm với cha bên hông ngôi nhà thờ đá Sapa đặc biệt đó.
Quay lại Lào Cai, chúng tôi được thăm khu có cửa khẩu tiếp giáp Trung Quốc. Con sông ngăn hai bên và cây cầu nối đường đi qua đi lại không rộng lắm nhưng trong lòng chúng tôi, khoảng cách này thì vẫn còn “rộng vô cùng”!
Trở về Hà Nội, đi quanh hồ Gươm và được thăm phố cổ, lòng chúng tôi có nhiều suy tư: Hà Nội đông đúc và chật chội quá! Nhiều cửa hàng bé tí, người bán hàng nhỏ lẻ, bán rong trên phố chợ ở trong độ tuổi lao động khá nhiều. Anh thợ hớt tóc đặt cái ghế ngay bên đường để cắt tóc cho khách rất vô tư....Thôi thì xã hội mà!
Đi qua nhiều tỉnh của miền Bắc, chúng tôi gặp được bài thơ, xin được trích ra bốn câu:
“Tôi đã về bến cội nguồn đất tổ,
Với đồi chè, rừng cọ giải sông Lô
Tôi đã về đây với tình thơ...
Rộn khúc nhạc hòa ca cùng sông núi...
Bay về Sài gòn lúc trời vừa tối, tay khệ nệ chút quà miền Bắc, chúng tôi thấy lòng nhẹ như bông khi đi qua hành trình Sàigòn – Hà Nội – Lào Cai - Sapa – Hà Nội -Bắc Giang, nhưng chỉ có quà tặng và phong bì tiền đã chia sẻ mới làm cho lòng chúng tôi thênh thang thật sự. Xin cảm ơn những người dân tộc ở Sapa và những giáo dân chân chất đã nhận quà tặng của ân nhân từ tay chúng tôi.
- Viết bởi LM Trần Công Nghị
Xin được thông báo cùng Quý Vị, Đức Ông Phêrô Nguyễn văn Tài, Giám Đốc Chương Trình Việt Ngữ Đài Phát Thanh Chân Lý Á Châu - Radio Veritas - ở Manila, Phi Luật Tân vừa mới qua đời sáng nay lúc 2.40am tại Việt Nam.
Chúng ta cùng hiệp thông cầu nguyện cho Linh Hồn Người Chiến Sĩ Phêrô đã Kiên Cường Trung Thành của Giáo Hội Mẹ Việt Nam trong nhiệm vụ Truyền Bá Tin Mừng Trên Hệ Thống Phát Thanh trong nhiều thập niên đã qua.
Ngài cũng là vị Ân Nhân Đặc Biệt đã giúp đỡ đưa nhiều Linh Mục, Tu Sĩ Nam Nữ của Giáo Hội Việt Nam sang Phi Tu Nghiệp hoặc Học các Trường Đại Học Công Giáo.
Giáo Hội Việt Nam đã mất đi một người chiến sĩ kiên cường trong nhiệm vụ Rao Giảng Tin Mừng trên phương diện truyền thanh và đối với những Dòng Tu và Địa Phận, chúng ta mất đi một Người Bạn có cuộc sống Đơn Sơ và Bình Dân Giản Dị và cũng là một người Ân Nhân Nhiệt Tình.
Xin cho Linh Hồn Đức Ông Phêrô được nghỉ yên trong Nhà Chúa muôn đời.
Theo tin vừa nhận được như sau:
Đức Ông Phêrô qua đời lúc 2.40am sáng hôm nay 21.4.2015 tại bệnh viện Nguyễn Tri Phương.
Thi hài của Ngài đã đưa về Vĩnh Long lúc 3.00am sáng hôm nay. Nghi thức tẩm liệm sẽ cử hành vào chiều ngày hôm nay.
Thứ Sáu lễ An Táng sẽ được cử hành tại nhà thờ Chính Tòa Vĩnh Long lúc 10.00am.
Sau đó thi hài sẽ được đưa về Quê là họ đạo Rạch Lọp chôn cất giữa những người đồng hương thân thuộc.
Kính báo
LM Trần Công Nghị và toàn ban biên tập Việtcatholic chân thành phân ưu
Đức Ông Nguyễn Văn Tài: Cây đại thụ truyền thông Công Giáo đã về với Chúa
Tờ mờ sáng, nghe tin Cha đã ra đi ! Cây đại thụ truyền thông Việt Nam : Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài đã ngã !
Một ơn gọi rất đặc biệt đến với Đức Ông Phêrô.
Đức Ông là người con thứ tư trong gia đình có 6 anh chị em. trong một gia đình nông dân ở họ đạo Rạch Lọp, giáo phận Vĩnh Long. Khi được 10 tuổi, Đức Ông được gửi vào Tiểu Chủng Viện và đi tu từ đó. Và rồi Đức Ông lãnh sứ vụ linh mục nhưng gần như cả đời Đức Ông chưa bao giờ làm cha sở.
Hơn một lần tôi được nghe Đức Ông chia sẻ cuộc đời Đức Ông như cuộc đời của ngôn sứ Gio-na. Khi đang học ở Roma năm thứ hai, Đức Ông được cha thư ký của Đức Thánh Cha thông báo cha sẽ đi Phi Luật Tân để làm việc cho Đài Phát Thanh Chân Lý Á Châu.
Nghe tin ấy, Cha như người từ trên trời rơi xuống đất vậy. Với bản tính của con người, ai ai muốn an thân cũng như không muốn cuộc sống bị xáo trộn, Cha cũng vậy, Cha không muốn đi và lấy cớ sang Đức học tiếng , nhưng cũng chỉ học được một kỳ hè và phải trở về Roma chuần bị cho nhiệm vụ ở Manila.
Cha vẫn cứ đinh ninh rằng Cha làm việc cho đài vài ba năm nhưng Chúa để Cha hiện diện như một ơn gọi đặc biệt suốt 38 năm. 38 năm dài đăng đẳng với công việc âm thầm trong một góc phòng để làm truyền thông, để loan báo Tin Mừng cho Chúa một cách khiêm hạ.
Một cuộc đời dài loan báo Tin Mừng qua Radio, chẳng ai biết mặt nhưng chỉ biết giọng của Ngài, giọng đọc của Cha không lẫn đi đâu được. Giọng đặc sệt người miền Nam truyền cảm và nhẹ nhàng đã để lại trong lòng thính giả qua những dòng tin tức, những dòng suy niệm Tin Mừng và những câu chuyện Cha góp nhặt trong Lẽ Sống.
Ai cũng nhớ, thời bao cấp ở Việt Nam cũng là thời có quá nhiều khó khăn của nền kinh tế thế giới và Châu Á, nhờ Đài Phát Thanh Chân Lý Á Châu mà biết bao nhiêu anh chị em không có điều kiện tham dự thánh lễ được thông công. Hơn thế nữa, không ai thống kê được đã có bao nhiêu anh chị em nhờ vào cái radio nho nhỏ và giọng đọc trầm ấm mỗi ghe được mà xin rửa tội gia nhập vào Giáo Hội. Những công việc âm thầm trong phòng thu âm và những ngày tháng rút ruột nhả tơ để có chương trình phát mỗi ngày quả là một thách đố lớn.
Điều kỳ diệu là Đức ông đã miệt mài cần mẫn trong công việc đòi hỏi nhiều tài lực này suốt bốn thập kỷ.
Cha đã nhiều lần và quá nhiều lần tạ ơn Thiên Chúa đã cho Cha sống đến hôm nay và đó là một ngạc nhiên lớn cho Cha. Cha chia sẻ Cha ngạc nhiên vì khi chịu chức, Cha chỉ xin cho sống được 20 năm, vậy mà Chúa để cho đến hôm nay là 40 năm. Hơn thế nữa, Cha đã hai lần bị nhồi máu cơ tim và gần đây nhất một cơn nữa, vậy mà Chúa vẫn để cho Cha còn sống. Chắc có lẽ Chúa cứ cho Cha được gấp đôi.
Với ân huệ đó, Cha cũng dí dỏm : "Tôi xin Chúa cho tôi 40, có thể Chúa cho tôi gấp đôi chăng?"
Ước muốn của con người, mơ ước của một người tha thiết với loan báo Tin Mừng bằng truyền thông đã khép lại bởi giới hạn cũng như không qua khỏi bàn tay Thiên Chúa.
Do hoàn cảnh, do sứ vụ Cha đã rời xa quê hương vài chục năm trường nhưng ước mơ đau đáu được trở về quê hương luôn ở trong Cha. Chính vì thế, sau khi rời nhiệm vụ, Cha đã trở về quê hương để sống trong âm thầm lặng lẽ và nhất là để đón nhận những đau đớn từ căn bệnh thể xác mà Cha đang mang.
Sống âm thầm, làm việc cũng âm thầm và ra đi cũng âm thầm.
Đức Ông chưa bao giờ nói rẳng phải sống như thế này như thế kia hay như cách tôi đã sống nhưng qua đời sống chân chất của một người miền Nam cũng đã để lại cho mọi người nhiều bài học. Ít nhiều về chuyện truyền thông, con đường truyền thông Đức Ông đi là con đường ôn hòa và mềm mại. Đã không biết bao nhiêu lần Đức Ông như là sứ giả của Tin Mừng, sứ giả của Thiên Chúa để nối kết lại những hiểu lầm, những đối chọi của tôn giáo, của kỳ thị tín ngưỡng ... tất cả đều âm thầm và dường như Đức Ông không muốn cho ai biết công việc âm thầm đó. Đức Ông không một lần phô trương rằng tôi đã làm được chuyện này chuyện kia trong đối thoại, trong giảng hòa một cách êm thắm ... và rồi Đức Ông cũng không hề bám víu một chút gì đó cho Đức Ông vào những ngày cuối đời.
Ẩn náu trong căn phòng nhỏ bé của các nữ tu Mến Thánh Giá Chợ Quán đối với Đức Ông cũng là đủ.
Đức Ông đã sống sứ mạng truyền thông cách đặc biệt bằng chính đời sống nhỏ bé khiêm nhu.
Cây đại thụ truyền thông Việt Nam đã ngã nhưng hình bóng cũng như cách sống của Cha vẫn còn mãi trong lòng của thính giả, của những ai đã hơn một lần quen biết Đức Ông.
Xin Chúa thương đón nhận Đức Ông và để cho Đức Ông một chỗ trong cung lòng Thiên Chúa như suốt cả cuộc đời Đức Ông hằng mong ước. Lẽ nào cả cuộc đời loan báo Tin Mừng, loan báo Tình Thương Thiên Chúa cho mọi người mà Chúa lại bỏ Đức Ông sao ? Chúng con tin tưởng tín thác Đức Ông vào lòng thương xót của Chúa.
Xin tạm biệt Đức Ông và thầm mong gặp Đức Ông trong Nước Trời.
Micae Bùi Thành Châu
Đức ông Phêrô Nguyễn văn Tài, thành viên đồng sáng lập Liên Hiệp Truyền thông CGVN Hải ngoại
Chúng tôi vừa nhận được tin Đức ông Phêrô Nguyễn Văn Tài đã ra đi và an nghỉ trong Chúa tại Saigòn, thật là một tin đột ngột và gợi lên trong tôi biết bao kỷ niệm quá khứ xa xưa, một người bạn, một người anh em, một đồng chí cùng sát cánh làm việc trong lãnh vực truyền thông Công Giáo bao nhiêu năm qua.
Cá nhân tôi biết Đức ông Tài lúc đầu là trong thời gian cùng học bên Roma từ quãng năm 1968 tới 1971. Rồi sau đó khi đức ông phụ trách Đại Phát thanh Veritas, chúng tôi thỉnh thoảng có trao đổi thông tin.
Đặc biệt trong thời gian năm 1980 khi thuyền nhân người Việt Nam sống tạm cư tại đảo Palawan và ở Baatan, tôi được Ủy Ban Di Dân Công Giáo Quốc tế International Catholic Migration Commission (ICCM) cử đến trại làm một cuộc nghiên cứu về tình hình người di cư trong các trại tị nạn trong vòng 3 tháng trời, tôi đã có dịp đến thăm đài Veritas và gặp gỡ Đức ông trao đổi kinh nghiệm về di cư cũng như về truyền thông.
Chúng tôi trao đổi thông tin và các cuộc điện đàm thường xuyên hơn, nhất là từ sau khi thành lập Liên Hiệp Truyền thông CGVN, chúng tôi đã có nhiều cuộc thảo luận và những cuộc gặp gỡ nhau. Biết bao nhiêu kỉ niệm đang sống lại...
Tắt một lời, với tôi, Đức ông Phêrô là một người anh em bình dị, nhã nhặn, từ tốn và rất hăng say trong sứ mạng truyền thông đã được trao phó. Là một người nhiệt huyết hết lòng dấn thân cho Giáo Hội và Quê hương Việt Nam, dù có những khi gặp sóng gío và khó khăn, nhưng với nụ cười niềm nở hiền hòa, ngài đã mở ra cánh cửa đối thoại chân thành cho người đối diện. Và đó chính là chìa khóa cho sự thành công của đức ông Phêrô.
Nhân dịp này, chúng tôi các thành viên Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo Việt Nam hải ngoại, xin dâng lời cầu nguyện cho linh hồn Đức ông Phêrô, xin Chúa trả công cuộc sống vĩnh cửu trên Thiên Quốc. Và với tâm tình tri ân sâu xa một người đã cùng sát cánh với chúng tôi trong lãnh vực tông đồ truyền thông Công Giáo trong suốt nhiều năm qua.
Sau đây xin trích đăng lại biến cố thành lập Liên Hiệp Truyền thông CGVN
Vào cuối tháng 10 năm 2006, các vị Đại Diện các cơ quan Truyền thông Công Giáo Việt Nam ở Hải ngoại đã chính thức có cuộc gặp gỡ nhau tại Nam California với mục đích thành lập Liên Hiệp Truyền Thông CGVN Hải Ngọai. Thành phần tham dự gồm có:
Đức Ông Nguyễn văn Tài (Giám đốc Đài Chân Lý Á châu),
LM Trần Công Nghị (Giám đốc VietCatholic Network),
LM Nguyễn Đức Việt Châu (Chủ nhiệm nguyệt san Dân Chúa Mỹ châu),
LM Bùi Thượng Lưu (chủ nhiệm nguyệt san Dân Chúa Âu châu),
LM Nguyễn Hữu Quảng (Chủ nhiệm Dân Chúa Úc châu),
LM Trần Cao Tường (Đại diện Mạng Lưới Dũng Lạc),
Hiện diện trong Đại Hội này cũng có sự hiện diện của Đức ông Phạm Xuân Thắng (chủ tịch Liên đoàn CGVN/HK), LM Phạm Văn Tuệ, LM Nguyễn Ngọc Chuẩn, Kỹ sư Đặng Minh An, Ông Nguyễn Long Thao, Ông Trần An Bài, Ông Nguyễn Đức Cung, Ông Phạm Hợp, Cô Nguyễn Kim Loan và Cô Lương Bích Vi.
Ngoài ra hai vị khách mời đặc biệt đến tham dự Đại hội thành lập Liên Hiệp Truyền Thông CGVN hải ngoại là Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống (khi đó là Giám mục phụ tá Saigòn, đại diện cho Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn), và Cha Antôn Nguyễn Ngọc Sơn (khi đó là Thư ký Ủy ban Truyền thông Xã hội HĐGMVN).
Sau Đại hội, một thông báo chung đã được đưa ra như sau:
THÔNG BÁO CỦA LIÊN HIỆP TRUYỀN THÔNG Công Giáo VIỆT NAM
Tiếp nối các cuộc gặp gỡ:
• Năm 1995 tại New Orleans giữa các tập san Dân Chúa Ba Châu cùng với Đức Ông Đinh Đức Đạo, Giám Đốc Văn Phòng Phối Kết Mục Vụ Công Giáo Việt Nam Hải Ngoại, Đức Ông Trần Ngọc Thụ, Thư Ký Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và Đức Ông Mai Thanh Lương, Giám Đốc Trung Tâm Mục Vụ Việt Nam tại New Orleans.
• Năm 2003 nhân cuộc Hội Ngộ Niềm Tin tại Rôma.
Một số cơ quan truyền thông Công Giáo trong và ngoài nước đã họp mặt tại Washington DC ngày 20/10/2006 nhân dịp khánh thành Nguyện Đường Đức Mẹ La Vang và tại Orange County, California trong hai ngày 26 và 27/10/2006. Các tham dự viên đã chia sẻ và thảo luận những thao thức của cộng đồng Dân Chúa trước nhu cầu của thời đại và quyết định thành lập Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo Việt Nam. Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài được cử làm đại diện.
Mục tiêu của Liên Hiệp:
1) Chia sẻ kinh nghiệm, tài nguyên và hỗ trợ trong công tác truyền thông.
2) Truyền đạt Tin Mừng Đức Kitô và giáo huấn của Giáo Hội qua các phương tiện truyền thông.
3) Trao đổi thông tin Công Giáo.
Trong dịp này, Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa, Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ, Chủ Tịch Ủy Ban Thông Tin Hội Đồng Giám Mục Việt Nam gởi lời chào thăm và chúc cuộc họp mặt thành công.
Các thành viên được hân hạnh tiếp đón Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống, Chủ Tịch Ủy Ban Văn Hoá Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, và là Giám Mục Phụ Tá của Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, Tổng Giám Mục Sàigòn. Đức Cha đã chuyển lời của Đức Hồng Y như sau:
1) Các cơ quan truyền thông lâu nay đã có nhiều nỗ lực phục vụ Giáo Hội. Việc kết hiệp này là bước khởi đầu rất tốt đẹp. Giáo Hội Việt Nam mong chờ những thành quả của cuộc họp này.
2) Giáo Hội Việt Nam rất mong muốn có sự hợp tác chung giữa các cơ quan truyền thông. Đây là việc làm cấp bách nên xúc tiến càng sớm càng tốt.
3) Cuộc họp mặt diễn ra đúng vào dịp Lễ Chúa Nhật Truyền Giáo, mang một ý nghĩa đặc biệt đối với việc truyền giáo. Ước mong các cơ quan truyền thông hải ngoại hoàn thành được việc hợp tác này, Giáo Hội quê nhà sẽ hưởng được nhiều lợi ích.
Cuộc họp mặt đã kết thúc trong tinh thần đoàn kết yêu thương. Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo Việt Nam ước mong được sự hợp tác và hỗ trợ của mọi thành phần dân Chúa.
Làm tại Orange County ngày 27/10/2006.
Đức Ông Phêrô Nguyễn Văn Tài
Đại Diện Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo Việt Nam
Trong thời gian hoạt động của Liên Hiệp Truyền Thông CGVNHN đã có những nhận dịnh và những thông cáo quan trọng trước những biến cố quan trọng hay thời cuộc tổ quốc và Giáo Hội Việt Nam.
Sau đây là một số những thông cáo quan trọng ở đường links này: Những Thông cáo quan trọng của Liên Hiệp Truyền thông CGVNHN trước tình hình đất nước
- Viết bởi Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
Ngày Thánh Mẫu hành hương Banneux 2015 (10-05-2015)
Rue de L´Esplanade 57, 4141 Banneux (Sprimont), Belgien
„ Lạy nữ vương Mẹ nhân lành, làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy. Thân lạy Mẹ, chúng con con cháu Evà, ở chốn khách đầy kêu đến cùng Mẹ. “
Khi hiện ra cùng cô bé Beco năm 1933 ở Banneux, Đức Mẹ Maria đã dẫn cô đến dòng suối nước và nói với cô: “ Con hãy nhúng tay vào dòng suối nước này dành cho mọi dân tộc!”.
Từ ngày đó dòng suối nước linh thiêng bên thánh địa Banneux trở thành dòng suối nước chữa lành ban ơn bình an tâm hồn cũng như thân xác cho những ai đến cầu nguyện xin ơn đang khi nhúng tay vào đó.
Theo dấu chân cô bé Beco như lời Đức Mẹ đã nhắn nhủ, và tập tục lòng đạo đức xưa nay trong Giáo Hội, ngày Chúa nhật 10.05.2015 chúng ta sẽ kéo về dòng suối nước thánh địa Banneux hành hương kính viếng Đức Mẹ Maria tháng hoa.
Năm nay 2015, ít nhiều người cũng đã trên dưới 30 năm hay có thể 40 năm sống xa quê hương. Vẫn biết quê hương không chỉ là nơi mình sinh ra, lớn lên, nhưng còn là nơi mình đang sinh sống. Dẫu vậy, người Việt Nam có cội nguồn quê hương là dân tộc đất nước Việt Nam.
Ngày xưa, như trong Kinh Thánh thuật lại, dân Do Thái trong cuộc xuất hành từ Ai Cập, đã ròng rã suốt 40 năm đi trong sa mạc trở về quê hương miền đất Chúa hứa.
Chúng ta sau thời gian dài hằng ba hay bốn thập niên xa quê hương, vẫn nặng lòng tha thiết nhớ về nơi đó với lòng cảm kích cùng biết ơn, nhất là Giáo Hội Công giáo Việt Nam chúng ta. Nên dịp hành hương lần này mang sâu đậm ý nghĩa hướng về quê hương đất nước Việt Nam chúng ta với lòng biết ơn thể hiện qua lời cầu nguyện cho quê hương, cho dân tộc được thái bình. Cho Giáo hội Công giáo Việt Nam phát triển tích cực trên nền tảng đức tin vào Chúa, và nhất là cho các gia đình, là tế bào của xã hội dân tộc, được gìn giữ bảo vệ, có đời sống lành mạnh về thề xác cũng như về tinh thần.
Năm nay cũng kỷ niệm năm thứ sáu- đệ lục chu niên- các Cộng đoàn Công giáo Việt Nam ở ba nước Âu Châu: Bỉ, Đức và Hòalan, cùng tổ chức chung Ngày thánh mẫu hành hương Banneux từ tháng Năm 2010.
Đây là một tập tục đạo đức thánh thiện tốt đẹp do ân đức của Thiên Chúa nhờ lời bầu cử của Đức mẹ Banneux ban cho chúng ta, và cùng do lòng đạo đức nhiệt thành sốt sắng sống đức tin của mọi người đã đang kiến tạo nên tập tục thánh đức tốt lành này.
Đức Mẹ Banneux đi lùi hướng mắt về đàng sau
Đức Mẹ Maria khi hiện ra với Mariette Beco khởi đầu trong khu vườn sau nhà và đã dẫn Mariette theo con đường ra đến dòng suối nước. Trên con đường này Đức mẹ đã dẫn Mariette đi, Đức Mẹ đi trước quay mặt về phía Mariette cùng những người đi theo sau. Như thế Đức Mẹ đi lùi, mặt quay hướng nhìn người đi theo đàng sau. Điều này nói lên, Đức Mẹ hằng quan tâm đến mọi người, nhìn cùng lắng nghe tâm sự của con người.
Những người đến nơi này kính viếng luôn được Đức Mẹ ngó xuống nhìn cùng lắng nghe chúng ta tâm sự. Nơi dòng suối nước ban ơn lành, hai tay nhúng vào dòng nước xin ơn và mắt ngước lên tượng Đức Mẹ Banneux trên bờ tường cũng đang nhìn ta bên dưới.
Và cũng do cung cách Đức Mẹ đã làm như thế, nên ở thánh địa Banneux, kiệu Đức mẹ Banneux đi đầu mặt quay về phía người tín hữu đi theo sau kiệu. Đây là một đặc điểm riêng ở thánh địa Banneux, và hầu như không thấy có ở nơi nào khác.
Xin ca ngợi và cám ơn mọi người trong các Cộng Đoàn đã nhiệt thành hăng say cùng chung tay đóng góp tổ chức, tham dự đông đảo hàng ngàn người thật sinh động hôm qua, hôm nay và ngày mai tập tục đạo đức tốt lành Ngày Thánh mẫu hành hương Banneux hằng năm của chúng ta.
Cùng hòa nhịp với nếp sống đạo đức lòng sùng kính Đức Mẹ, cuộc hành hương tới Banneux với tâm tình hướng về quê hương Việt nam, về nôi gia đình của chúng ta, và lòng biết ơn cùng suy niệm noi gương các Vị Thánh Việt Nam, cha ông tiền nhân của chúng ta ngày xưa đã sống đức tin vững vàng vào Thiên Chúa trong suốt cả cuộc đời.
10.30 giờ đón tiếp gặp gỡ
11.30 giờ rước kiệu cung nghinh Đức Mẹ và các Thánh Tử đạo Việt Nam.
12.30 giờ Thánh lễ mừng kính Đức Mẹ ở nhà thờ lớn, các em đánh Trắc và dâng hoa kính Đức Mẹ.
14.00 – 15.30 giờ ăn trưa - Gặp gỡ nhau
15.30 giờ Chặng đàng Thánh gía
16.30 giờ Chầu Thánh Thể - Tôn kính Xương các Thánh Tử đạo Việt Nam
Ngày hành hương kính viếng Đức Mẹ Banneux là ngày hội gặp gỡ bên dòng suối ban ơn tuôn chảy từ trái tim lòng thương xót Chúa qua lời bầu cử của Đức Mẹ và các Thánh Tử đạo Việt Nam cho bản thân riêng mỗi người, cho gia đình, cho các Cộng đoàn Việt Nam, cho Giáo Hội hoàn vũ và cho Quê hương Giáo Hội Việt Nam .
Chúng ta cùng nhau trẩy về hành hương bên dòng suối nước Đức Mẹ Banneux, cùng gặp gỡ nhau và cùng sống đức tin vào Thiên Chúa tình yêu.
Thay mặt Ban tổ chức xin kính mời mọi người cùng về hành hương kính viếng Đức Mẹ Banneux 2015, kỷ niệm đệ lục chu niên ngày Thánh mẫu Banneux, và dịp 40 năm hướng về Quê hương Giáo hội Việt Nam.
Lm. Phanxico Nguyễn Xuyên, Cộng đoàn Công giáo Brüxelles, Vương quốc Bỉ
Lm. Giuse Trần đức Hưng, Xứ Nữ vương các Thánh tử đạo, Vương quốc Hòa Lan
Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long, Giáo đoàn Đức Mẹ Lavang Köln – Aachen, Đức quốc
- Đại hội Giới Trẻ hạt Gia Định 2015
- Giáo xứ Nam Định: Tuổi nhỏ - lòng bác ái lớn
- Gia đình thánh Inhaxiô linh thao Tây Bác Đức họp mặt kỳ thứ 8
- Lễ lòng thương xót Chúa ở giáo xứ Việt Nam Paris
- Ngày hội trại nhóm Tiết Kiệm
- Đại hội Tuyên úy Việt Nam tại Úc Châu
- Tĩnh Tâm Linh Thao tại Tu Viện Schönstatt, Rottenburg-Ergenzingen
- Thanh Sinh Công Liên đoàn Sài Gòn: Chuyện người trẻ
- Thiếu nhi giáo xứ Hà Nội Gò Vấp thăm các em mồ côi khuyết tật
- Trận cầu giao hữu giữa các cha vào ngày cuối cùng tuần tĩnh tâm