Gương Thánh Nhân
Ngày 15/5 Thánh Isidore (1070 - 1130)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Isidore (1070 - 1130)
Thánh Isidore là quan thầy của các nông dân và làng quê. Ngài còn nổi tiếng là thương người nghèo và cũng thường để ý đến việc chăm sóc loài vật.
Lược sử
Thánh Isidore là quan thầy của các nông dân và làng quê. Đặc biệt, ngài là quan thầy của Madrid, Tây Ban Nha, và của Hội Nghị Đời Sống Công Giáo Thôn Quê Hoa Kỳ.
Khi lớn tuổi, ngài làm công cho gia đình ông Gioan de Vergas, một địa chủ giầu có ở Madrid, và trung thành làm việc cho đến mãn đời. Isidore kết hôn với một thiếu nữ đạo đức và chính trực mà sau này bà được tuyên xưng là thánh Maria de la Cabeza. Hai người có được một con trai nhưng chẳng may cậu chết sớm. Cả hai ông bà tin rằng ý Chúa không muốn hai người có con, do đó họ quyết định sống khiết tịnh cho đến suốt đời.
Isidore là người đạo đức thâm trầm bẩm sinh. Ngài thức dậy từ sáng sớm để đi lễ và dành thời giờ trong những dịp lễ lớn để đi viếng các nhà thờ ở Madrid và vùng phụ cận. Trong khi làm việc, ngài luôn chuyện trò với Thiên Chúa. Khi bị các đồng nghiệp cho rằng ngài trốn tránh nhiệm vụ qua việc tham dự Thánh Lễ hằng ngày, lấy nhiều thời giờ để cầu nguyện, v.v., Isidore trả lời rằng ngài không còn lựa chọn nào khác hơn là tuân theo Ông Chủ tối cao.
Isidore còn nổi tiếng là thương người nghèo và cũng thường để ý đến việc chăm sóc loài vật.
Isidore từ trần ngày 15 tháng Năm 1130, và được phong thánh năm 1622, cùng với các Thánh I-nhã, Phanxicô Xaviê, Têrêsa và Philip Nêri.
Suy niệm 1: Làm công
Khi lớn tuổi, Isidore làm công cho gia đình ông Gioan de Vergas, một địa chủ giầu có ở Madrid, và trung thành làm việc cho đến mãn đời.
Chúng ta có thể tìm thấy nhiều sự ứng dụng nơi vị lao công thánh thiện này: Công việc lao động có phẩm giá; sự thánh thiện không bắt nguồn từ địa vị xã hội; sự chiêm niệm không lệ thuộc vào học thức; đời sống thanh bạch là con đường dẫn đến sự thánh thiện và hạnh phúc.
Chúng ta thường kêu xin Chúa thương thánh hóa công ăn việc làm của chúng ta, mà chúng ta quên rằng lời cầu ấy không cần phải xin vì Chúa luôn ban, nhưng điều quan trọng là chúng ta phải dùng công ăn việc làm của mình mà thánh hóa chính mình và tha nhân, vì thế hãy luôn chọn những công việc ngay chính.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nỗ lực nên thánh bằng việc chu toàn công việc.
Suy niệm 2: Kết hôn
Isidore kết hôn với một thiếu nữ đạo đức và chính trực mà sau này bà được tuyên xưng là thánh Maria de la Cabeza.
Cuộc hôn nhân này được đánh giá là hạnh phúc, vì cả hai phối ngẫu đều có một điểm chung là đạo đức, vốn được biểu hiện qua việc: sau cái chết sớm của cậu con trai, thì cả hai ông bà tin rằng ý Chúa không muốn hai người có con, do đó họ quyết định sống khiết tịnh cho đến suốt đời, và đã trở thành thánh nhân.
Ngược lại cuộc hôn nhân giữa Catarina và ông Guiliano Adorno được đánh giá là bất hạnh, vì thiếu yếu tố căn bản là đạo đức. Quả vậy, ông Adorno là một người quý tộc nhưng lại là một người không có đức tin, cọc cằn, hoang phí và không chung thủy.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các bạn trẻ luôn biết chọn lấy một tiêu chuẩn ưu tiên là đạo đức để đi vào đời sống hôn nhân.
Suy niệm 3: Khiết tịnh
Cả hai ông bà tin rằng ý Chúa không muốn hai người có con, do đó họ quyết định sống khiết tịnh cho đến suốt đời.
Sống khiết tịnh là làm chủ phái tính, nhờ đó thống nhất được đời sống thể lý và tinh thần. Phái tính cho thấy con người thuộc về thế giới vật chất và sinh học, nhưng khi được hội nhập vào tương quan giữa người với người,, trong đó người nam và người nữ hiến thân cho nhau trọn vẹn và vĩnh viễn, phái tính mới có giá trị thực sự nhân linh (Sách Giáo Lý số 2337).
Đức khiết tịnh đòi hỏi phải học biết tự chủ, để sống như một con người. Rõ ràng con người phải chọn lựa: hoặc chế ngự các đam mê và được bình an; hoặc làm nô lệ chúng và trở nên bất hạnh... Muốn tự chủ phải tập luyện lâu dài và công phu. Không bao giờ coi như đã tập xong, phải cố gắng suốt đời, ở mọi lứa tuổi (Sách Giáo Lý số 2339 và 2342).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luônm nhớ rằng đức khiết tịnh là nhiệm vụ màmọi người dều phải sống.
Suy niệm 4: Đạo đức
Isidore là người đạo đức thâm trầm bẩm sinh.
Thật vậy, ngài thức dậy từ sáng sớm để đi lễ và dành thời giờ trong các dịp lễ lớn để đi viếng các nhà thờ ở Madrid và vùng phụ cận. Trong khi làm việc, ngài luôn chuyện trò với Thiên Chúa.
Khi bị các đồng nghiệp cho rằng ngài trốn tránh nhiệm vụ qua việc tham dự Thánh Lễ hằng ngày, lấy nhiều thời giờ để cầu nguyện, v.v., Isidore trả lời rằng ngài không còn lựa chọn nào khác hơn là tuân theo Ông Chủ tối cao.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con siêng năng chuyên cần tham dự Thánh Lễ, vì đó là nguồn mạch mọi thánh đức.
Suy niệm 5: Làm việc
Trong khi làm việc, Isidore luôn chuyện trò với Thiên Chúa.
Thậm chí ngài còn sẵn sàng bỏ hết mọi việc làm ăn, chớ không bỏ việc tham dự Thánh Lễ hằng ngày, vì ngài không còn lựa chọn nào khác hơn là tuân theo Ông Chủ tối cao. Tinh thần này đã khiến Thiên Chúa phải can thiệp kịp thời, như câu chuyện kể:
Truyền thuyết kể rằng, một sáng kia khi ông chủ đến cánh đồng để bắt quả tang Isidore trốn việc đi nhà thờ, ông thấy các thiên thần đang cầy cấy nơi khu ruộng của Isidore.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tâm niệm và sống lời Chúa dạy: người ta sống không nguyên bởi bánh mà còn bởi mọi lời từ miệng Thiên Chúa phán ra.
Suy niệm 6: Lựa chọn
Isidore không còn lựa chọn nào khác hơn là tuân theo Ông Chủ tối cao.
Trong tất cả mọi sự lựa chọn, Isidore luôn đặt vị trí Thiên Chúa lên hàng ưu tiên và ở nấc thang trên cùng, ngay cả bản thân và công ăn việc làm. Ngài đã thực hành đúng như điều răn thứ nhất đã dạy: Phải yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và trên hết mọi sự.
Lịch sử Hội Thánh đã ghi lại biết bao chứng tích của các chứng nhân đức tin đã thể hiện lòng yêu mến Chúa trên hết mọi sự, kể cả những lời dụ dỗ với vinh hoa phú quý và chúc quyền danh vọng, cũng như bao cực hình về thể xác và tinh thần, để sẵn sàng hy sinh mạng sống, đổ máu đàu miễn là trung thành với Chúa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hết mình thờ lạy Chúa và thờ phượng chỉ một mình Người thôi.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 14/5 Thánh Matthias
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Matthias
Người được chọn phải là người đã theo Ðức Kitô từ ban đầu - phải trung thành với Người dù có những khó khăn và đã chứng kiến sự phục sinh của Ðức Kitô và thực sự quyết tâm làm nhân chứng cho sự phục sinh của Ðức Kitô.
Lược sử
Theo Tông Đồ Công Vụ 1,15-26, sau khi Đức Giêsu Lên Trời, các tông đồ cần phải tìm người thay thế cho Giuđa. Với tất cả những bàng hoàng chưa thông hiểu, những nguy hiểm đang phải đương đầu, tại sao các ngài lại chú ý đến việc tìm vị tông đồ thứ mười hai? Số mười hai là con số quan trọng cho Dân Được Chọn: mười hai là con số của mười hai chi tộc Israel. Nếu một Israel mới phát sinh từ các môn đệ của Đức Kitô, thì cần phải có mười hai tông đồ. Nhưng biết ai để mà chọn?
Khi Thánh Phêrô đứng lên đề nghị phương cách chọn lựa, lúc ấy có một trăm hai mươi người đang tụ tập cầu nguyện. Thánh Phêrô biết rằng người được chọn phải là người đã theo Đức Kitô từ ban đầu -- từ lúc Người chịu thanh tẩy bởi Gioan Tẩy Giả cho đến khi Lên Trời. Lý do thật dễ hiểu, tông đồ phải là người theo Đức Kitô trước khi bất cứ ai biết đến, phải trung thành với Người dù có những khó khăn và đã chứng kiến sự phục sinh của Đức Kitô.
Có hai vị hội đủ điều kiện : Matthias và Giuse Barsabbas. Các tông đồ biết hai vị này đã từng ở với họ và ở với Đức Kitô trong suốt thời gian Người thi hành sứ vụ. Nhưng ai thực sự quyết tâm làm nhân chứng cho sự phục sinh của Đức Kitô. Chỉ có Thiên Chúa mới biết được điều đó. Các tông đồ đã cầu nguyện và bỏ phiếu. Người được chọn là ông Matthias, là người được thêm vào nhóm Mười Một.
Đó là tất cả những gì chúng ta được biết về Thánh Matthias.
Suy niệm 1: Thay thế
Các tông đồ cần phải tìm người thay thế cho Giuđa Ítcariốt.
Với tất cả những bàng hoàng chưa thông hiểu, những nguy hiểm đang phải đương đầu, tại sao các ngài lại chú ý đến việc tìm vị tông đồ thứ mười hai? Vì số mười hai là con số quan trọng cho Dân Được Chọn, mà nay vì Giuđa bội phản và thắt cổ tự vận, nên cần có người thay thế để bổ sung vào con số thiếu hụt đó.
Cũng còn có một cuộc thay thế khác sau đó. Vì bận việc rao giảng lời Chúa nên Nhóm Mười Hai không làm tròn được việc phân phát lương thực hằng ngày cho các tín hữu, do đó nhóm Bảy người trong đó có thánh Têphanô đã được chọn để thay thế các ngài chuyên lo công tác này (Cv 6,1-6).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn tôn trọng những sự thay thế mà các vị hữu trách đã phải đắn đo quyết định.
Suy niệm 2: Mười hai
Số mười hai là con số quan trọng cho Dân Được Chọn.
Mười hai là con số của mười hai chi tộc Israel. Nếu một Israel mới phát sinh từ các môn đệ của Đức Kitô, thì cần phải có mười hai tông đồ để xét xử mười hai chi tộc Ítraen mới (Mt 19,28).
Cũng vậy, thành thánh Giêrusalem mới cũng có mười hai cửa do mười hai thiên thần canh giữ, và trên các cửa có ghi tên mười hai chi tộc con cái Ítraen (Kh 21,12). Và dân được cứu tức con số những người được đóng ấn là 144.000 người tức 12.000 người mỗi một chi tộc (Kh 7,4-8).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng bao giờ là một con số bội phản sẽ bị thay thế vào.
Suy niệm 3: Chọn
Cần phải có mười hai tông đồ. Nhưng biết ai để mà chọn?
Để chọn ra được Nhóm Mười Hai và gọi là Tông Đồ, trong số đông đảo những người môn đệ đi theo, Đức Giêsu đã chọn một phương cách, đó là lên núi cầu nguyện suốt đêm cùng Thiên Chúa (Lc 6,12-16).
Theo gương đó, để chọn ra vị tông đồ thay thế Giuđa Ítcariốt cho đủ con số mười hai, trong tổng số một trăm hai mươi người đang họp mặt, và đặc biệt với hai người được đề cử là Matthias và Giuse Barsabbas, các Tông đồ cũng chọn lấy phương thế cầu nguyện (Cv 1,15-26).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn duy trì truyền thống sốt sắng cầu nguyện trong việc chọn lựa nhân sự.
Suy niệm 4: Tông đồ
Tông đồ phải là người theo Đức Kitô trước khi bất cứ ai biết đến.
Đồng thời tông đồ cũng phải là người đã theo Đức Kitô từ ban đầu -- từ lúc Người chịu thanh tẩy bởi Gioan Tẩy Giả cho đến khi Lên Trời, phải là người trung thành với Đức Kitô dù có những khó khăn, cũng như đã chứng kiến sự phục sinh của Đức Kitô.
Có hai vị hội đủ điều kiện -- Matthias và Giuse Barsabbas. Các tông đồ biết hai vị này đã từng ở với họ và ở với Đức Kitô trong suốt thời gian Người thi hành sứ vụ. Nhưng ai thực sự quyết tâm làm nhân chứng cho sự phục sinh của Đức Kitô. Chỉ có Thiên Chúa mới biết được điều đó.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không dựa vào ý riêng, nhưng căn cứ vào tiêu chuẩn đạo đức đúng theo Thiên Ý, mỗi khi tuyển lựa nhân sự làm tông đồ.
Suy niệm 5: Bỏ phiếu
Các tông đồ đã cầu nguyện và bỏ phiếu.
Ngoài phương thế siêu nhiên là cầu nguyện, các tông đồ còn dùng đến cách thế tự nhiên là bỏ phiếu vốn phổ biến ở mọi nơi và mọi thời, nhằm bảo đảm tính dân chủ và tôn trọng ý kiến chung của mọi người.
Thời Macabê, sau khi chiếm lại Đền Thờ, các chiến hữu đã thanh tẩy cũng như bỏ phiếu quyết định và chỉ thị cho toàn dân Do-thái hằng năm phải mừng các ngày lễ ấy (2Mc 10,8). Thời đại mới, tại Công Đồng Vaticanô II, các tài liệu cũng đều được dùng cách bỏ phiếu mà quyết định.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết phối hộp hai phương cách tự nhiên và siêu nhiên.
Suy niệm 6: Chọn
Người được chọn là ông Matthias, là người được thêm vào nhóm Mười Một.
Đức Clêmentê ở Alexandria nói rằng Thánh Matthias, cũng như tất cả các tông đồ khác, được Đức Kitô chọn không phải vì họ tốt lành, nhưng vì Đức Kitô đã thấy trước con người tương lai của họ.
Các ngài được chọn không phải vì sự xứng đáng nhưng vì các ngài sẽ trở nên người xứng đáng. Đức Kitô cũng chọn chúng ta giống như vậy. Thử nghĩ xem Đức Kitô muốn bạn trở nên một người như thế nào?
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống xứng với ơn gọi kitô hữu đã được Chúa thương kén chọn cách nhưng không.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 13/5 Thánh Pancratius (c. 304)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Pancratius (c. 304)
Thánh Pancratius sinh vào cuối thế kỷ thứ ba, cha mẹ mất sớm và được người chú ở Rôma nuôi dưỡng. Sau đó, hai chú cháu theo Kitô Giáo. Trong thời gian cấm đạo của Hoàng Ðế Diocletian, Pancratius bị chặt đầu năm 304, lúc ấy ngài mới 14 tuổi.
Lược sử
Thánh Pancratius là vị tử đạo thời tiên khởi mà chúng ta biết rất ít về ngài. Truyền thuyết nói rằng ngài sinh vào cuối thế kỷ thứ ba và được người chú ở Rôma nuôi dưỡng sau khi cha mẹ mất sớm. Sau đó, hai chú cháu theo Kitô Giáo. Trong thời gian cấm đạo của Hoàng Đế Diocletian, Pancratius bị chặt đầu năm 304, lúc ấy ngài mới 14 tuổi.
Ngài được chôn trong một nghĩa địa mà sau này mang tên của ngài. Thánh Pancratius được nước Anh đặc biệt sùng kính vì Thánh Augustine ở Canterbury đã dâng hiến một nhà thờ ở đây cho Thánh Pancratius, và thánh tích của ngài được tặng cho vua xứ Northumberland.
Suy niệm 1: Tử đạo thời tiên khởi
Thánh Pancratius là vị tử đạo thời tiên khởi mà chúng ta biết rất ít về ngài.
Thánh Pancratius là vị tử đạo thời tiên khởi. Còn vị tử đạo tiên khởi trong lịch sử Hội Thánh phải nêu lên, đó là Thánh Phó Tế Têphanô. Ngài được chọn để thay Nhóm Mười Hai lo việc phân phát lương thực hằng ngày cho cộng đòan giáo hội sơ khai (Cv 6,1-5). Một vài người Do Thái thời ấy, là thành viên của hội đường nhóm nô lệ được giải phóng lên án ngài và ném đá ngài đến chết (Cv 7,59).
Còn vị thánh tông đồ tử đạo tiên khởi lại là Thánh Giacôbê là anh của Thánh Gioan, con ông Dêbêđê. Ngài đã được vinh dự là vị Tông Đồ đầu tiên hiến mạng sống cho Tin Mừng. Khoảng năm 43 hay 44, vào trước ngày Lễ Phục Sinh, Vua Hêrôđê Agrippa I đã xử trãm ngài (Cv 12,1-2), đúng như lời Đức Giêsu đã phán: “Con sẽ uống chén đắng của Ta” (Mt 20,23).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn là người tiên phong trong việc dấn thân phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân.
Suy niệm 2: Mồ côi
Pancratius được người chú ở Rôma nuôi dưỡng sau khi cha mẹ mất sớm.
Nỗi đau đi liền với nỗi thất vọng về một tương lai đen tối trước thảm cảnh cha mẹ mất sớm của Pancratius đã được xoa dịu nhờ vào sự nuôi dưỡng của một người chú ở Rôma.
Nhất là sự nuôi dưỡng này không chỉ dừng lại ở mặt thân xác, trí tuệ, nhân bản mà còn về mặt đạo đức và tôn giáo, khi cả hai chú cháu đều đồng thuận theo Kitô Giáo, ngay trong thời gian cấm đạo của Hoàng Đế Diocletian.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các bậc phụ huynh ý thức về bổn phận phải đáp ứng những nhu cầu thể xác và tâm linh của con cái (Sách Giáo Lý số 2252).
Suy niệm 3: Tử đạo
Pancratius bị chặt đầu năm 304, lúc ấy ngài mới 14 tuổi.
Chặt đầu có thể nói là một trong những cách hành hình mà các bạo vương bách đạo thường dành cho các anh hùng tử đạo ở mọi nơi và mọi thời. Thời Vua Hêrôđê Agrippa I tại đất nước Ítraen, Thánh Gioan Tẩy Giả cũng như Thánh Giacôbê anh của Thánh Gioan cũng đã bị chém đầu (Mc 6,16;Cv 12,1-2).
Tại đất nước Việt Nam, dười triều vua Tự Đức, linh mục Laurensô Hưởng gốc xứ Kẻ Sải, trên đường đi kẻ liệt đã bị bắt và bị chém đầu tại pháp trường Ninh Bình. Cũng thế, linh mục Phaolô Lê văn Lộc sinh tại làng An Nhơn tỉnh Gia định. Ngài nhận chức Bề Trên Tiểu chủng viện Thị Nghè giữa cơn cấm đạo gắt gao của Vua Tự Đức. Ngài đã bị bắt và cũng bị chém đầu.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con vững sống niềm xác tín không chỉ đầu mà cả toàn thân chúng con đều luôn thuộc trọn về Chúa.
Suy niệm 4: Tuổi
Pancratius bị chặt đầu năm 304, lúc ấy ngài mới 14 tuổi.
Nếu tài năng không lệ thuộc vào tuổi tác với sự hiện diện của các thần đồng, thì sự thánh thiện cũng như thế. Chẳng những thánh Pancratius được hồng phúc tử đạo vào lứa tuổi 14, mà còn thánh nữ đồng trinh Anê cũng chịu chết vì đạo khi lên 13 tuổi. Ngoài ra thánh trẻ Đaminh Saviô dầu không tử đạo nhưng cũng sống và chết cách thánh thiện vào lúc 15 tuổi.
Thông thường người đời đều ưa thích cái đẹp và ai cũng mong muốn sớm chiếm hữu cho mình. Đã tạo dựng con người giống hình ảnh Thiên Chúa, chắc hẳn Thiên Chúa cũng thủ đắc sở thích này, và muốn sớm hái về vườn hoa thiên đàng những đóa hoa tươi thắm và xinh đẹp, để bụi đời không có đủ thời gian làm cho chúng phải phai màu hoặc kém sắc.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống thánh và kiên trì sống thánh đến cùng dầu ở bất cứ độ tuổi nào.
Suy niệm 5: Tên
Pancratius được chôn trong một nghĩa địa mà sau này mang tên của ngài.
Trẻ nhỏ thường bị lãng quên trong một xã hội tôn vinh chức quyền và địa vị với bao thành quả vĩ đại trong đời. Để lưu danh lâu dài, nhiều con đường, nhiều tượng đài cũng như nhiều công trình đã được mang tên các vị danh nhân ấy.
Thật phúc và thật vinh dự cho Pancratius. Ngài không phải là một trẻ vô danh tiểu tốt. Nhờ hồng phúc tử đạo mà ngài được cả nước Anh đặc biệt sùng kính qua việc Thánh Augustine ở Canterbury đã dâng hiến một nhà thờ ở đây cho ngài, và thánh tích của ngài được tặng cho vua xứ Northumberland, cũng như một nghĩa địa mà sau này mang tên của ngài.
Suy niệm 6: Thánh tích
Thánh tích của Thánh Pancratius được tặng cho vua xứ Northumberland.
Việc tôn kính các thánh tích là một trong các hình thức đạo đức của Hội Thánh (Sách Giáo Lý số 1674). Chúng ta tôn thờ Đức Kitô vì Ngươi là Con Thiên Chúa. Còn chúng ta tôn kính các vị tử đạo vì các ngài là những môn đệ và những người noi gương Chúa (Thánh Pôlicáp).
Các ngài đang chiêm ngưỡng Thiên Chúa, đang ca ngợi Người và không ngừng quan tâm đến những kẻ còn ở trần gian... Chuyển cầu là công việc cao cả nhất của các ngài theo ý định của Thiên Chúa. Chúng ta có thể và có bổn phận xin các ngài chuyển cầu cho chúng ta (Sách Giáo Lý số 2683).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con, khi tôn kính các thánh nhân qua các thánh tích của các ngài, thì không chỉ xin ơn mà nhất là noi gương các ngài.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 12/5 Thánh Nereus và Thánh Achilleus (thế kỷ I)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Nereus và Thánh Achilleus (thế kỷ I)
Nereus và Achilleus là binh lính của đạo quân Rôma và nhiệm vụ của họ là bách hại người Kitô Giáo. Các ngài phục vụ dưới quyền bà Flavia Domitilla, và đã bị lưu đầy và bị hành quyết cùng với bà khi chính bà này trở lại đạo.
Lược sử
Những gì chúng ta biết về hai vị tử đạo của thế kỷ thứ nhất là từ các lời chứng của Thánh Giáo Hoàng Damasus trong thế kỷ thứ tư, và được ghi khắc trên tấm bia để tưởng nhớ hai ngài. Nhưng điều dẫn giải này chỉ xảy ra sau cái chết của các ngài đến 300 năm.
Đức Damasus kể rằng Nereus và Achilleus là binh lính của đạo quân Rôma và nhiệm vụ của họ là bách hại người Kitô Giáo.
Chúng ta không rõ hai ngài đã trở lại đạo như thế nào, chỉ biết đó là một "phép lạ đức tin." Đức tin đã chiến thắng sự sợ hãi cái chết.
Chúng ta biết là các ngài đã tử đạo, nhưng Đức Damasus không cho biết chi tiết như thế nào. Sau này, truyền thuyết nói rằng các ngài phục vụ dưới quyền bà Flavia Domitilla, là cháu gái của Hoàng Đế Domitian, và đã bị lưu đầy và bị hành quyết cùng với bà khi chính bà này trở lại đạo. Truyền thuyết này có lẽ phát xuất từ sự kiện là hai ngài đã được chôn cất trong một hầm mộ được gọi là nghĩa trang Domitilla.
Suy niệm 1: Lời chứng
Những gì chúng ta biết về hai vị tử đạo của thế kỷ thứ nhất là từ các lời chứng của Thánh Giáo Hoàng Damasus trong thế kỷ thứ tư.
Chiếu theo luật Dothái như có chép rằng lời chứng của hai người là chứng thật (Ga 8,17), nhưng thực tế chưa hẳn như thế, như trường hợp của hai vị kỳ lão đồng tình vu cáo kết tội bà Susanna, để rồi sau đó tiên tri Đanien đã vạch trần và giải oan cho bà thì sao? (Đn 13).
Ngược lại lời chứng duy chỉ của một người vẫn có giá trị chân chính như lời chứng của Thánh Giáo Hoàng Damasus về hai vị tử đạo Nereus và Achilleus. Điều mà Đức Giêsu cũng đã từng trả lời cho người Dothái: “Phần tôi, tôi có một lời chứng lớn hơn lời chứng của ông Gioan: đó là những việc Chúa Cha đã giao cho tôi để tôi hoàn thành; chính những việc tôi làm đó làm chứng cho tôi rằng Chúa Cha đã sai tôi” (Ga 5,36).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chú tâm dùng việc làm minh chứng cho lời mình nói.
Suy niệm 2: Nhiệm vu
Nereus và Achilleus là binh lính của đạo quân Rôma và nhiệm vu của họ là bách hại người Kitô Giáo.
Có lẽ hai ngài chẳng có gì chống đối đạo và cũng không muốn đổ máu người vô tội, nhưng họ tuân lệnh chỉ vì sợ chết. Nói cho cùng, đó là nhiệm vụ của một người lính mà họ phải chu toàn.
Thánh Athanasius cũng đã sống trọn vẹn trách nhiệm của một vị giám mục. Ngài bảo vệ đức tin chân chính cho đàn chiên, bất kể giá phải trả: Nào là bị Hoàng Đế Constantine trục xuất đến miền bắc nước Gaul. Nào là bị truất phế vì sự liên hiệp của các giám mục theo phe Arian. Nào là bị lưu đầy mười bảy năm chỉ vì bảo vệ tín điều về thiên tính của Đức Kitô.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết chu toàn nhiệm vu của mình.
Suy niệm 3: Trở lại
Chúng ta không rõ hai ngài đã trở lại đạo như thế nào, chỉ biết đó là một "phép lạ đức tin".
Những anh chị của chúng ta trong Đức Kitô cũng đã sống ở một thế giới giống như chúng ta -- chủ nghĩa quân phiệt, chủ nghĩa vật chất, hung bạo và hoài nghi - tuy nhiên các ngài đã biến đổi tâm hồn để trở lại đạo nhờ sự hiện diện của Đấng Hằng Sống.
Cũng thế Peregrine lúc bấy giờ rất hăng say chính trị đến mức muốn hành hung Cha Philip. Thế nhưng lòng đạo đức và thái độ xử sự hòa nhã của ngài đã thay đổi con người Peregrine. Peregrine bắt đầu chuyển đổi nhiệt huyết của mình vào các công việc tốt lành và ngay cả gia nhập Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ ở Siena, lúc ấy đã 30 tuổi.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp những người thiện tâm nhưng vô tình đã lầm đường lạc lối được sớm gặp cơ hội trở về chính lộ.
Suy niệm 4: Đức tin
Chúng ta không rõ hai ngài đã trở lại đạo như thế nào, chỉ biết đó là một "phép lạ đức tin."
Phép lạ đức tin này tác động mạnh mẽ hai ngài đến mức họ quăng vũ khí và trốn ra khỏi trại, vứt bỏ áo giáp và gươm đao để mặc lấy đời sống mới trong Đức Kitô.
Vì đã từng là những kẻ bách hại, có lẽ các ngài biết rõ hơn ai hết về sự đau khổ đang chờ đợi người Kitô. Tuy nhiên, đức tin đã chiến thắng sự sợ hãi cái chết, và sự chiến thắng của đức tin là sự ngọt ngào nhất mà các ngài chưa bao giờ được cảm nghiệm.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con phát triển hồng ân đức tin Chúa ban bằng các hành động cụ thể.
Suy niệm 5: Sợ hãi
Đức tin đã chiến thắng sự sợ hãi cái chết.
Điều này không chỉ đúng cho hai người lính dũng cảm là Nereus và Achilleus, mà còn cho cả phụ nữ và trẻ con, như bảy mẹ con tử đạo thời vua Antiôkhô. Chứng kiến cảnh các con chịu gia hình và giết chết, bà vẫn dùng lời lẽ sôi sục như một chí khí nam nhi để chấp nhận cực hình và cái chết không chút hãi sợ (2Mc 7).
Sự can đảm của chúng ta cũng được phấn khích bởi các anh hùng liệt nữ, là những người đã ra đi trước chúng ta và đã được ghi dấu đức tin nhờ mang lấy thương tích của Đức Kitô.
* Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn can đảm cho chúng con, để giữ vững niềm tin không chút sợ hãi, dầu phải chịu thiệt thân.
Suy niệm 6: Truyền thuyết
Truyền thuyết này có lẽ phát xuất từ sự kiện là hai ngài đã được chôn cất trong một hầm mộ được gọi là nghĩa trang Domitilla.
Truyền thuyết thì thường không mang tính giá trị lịch sử, nhưng cũng hàm chứa một sự thật hoặc một ý nghĩa nào đó dầu rất nhỏ hoặc rất ít, vì không có lửa làm sao có thể có khói được.
Như trong trường hợp của các vị tử đạo tiên khởi, Giáo Hội chỉ biết bám víu vào chút ký ức sơ sài giữa những dữ kiện mù mờ của lịch sử. Nhưng đó là một khích lệ lớn lao cho tất cả Kitô Hữu khi biết rằng chúng ta có một di sản quý báu.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con trân trọng bảo tồn di sản quý báu của Giáo Hội.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 11/5 Thánh Y-Nhã ở Laconi (1701 - 1781)
- Viết bởi Hạnh các Thánh
Thánh Y-Nhã ở Laconi (1701 - 1781)
Thánh Y-Nhã là một thầy khất thực thánh thiện.
Ngài là con thứ hai trong một gia đình nông dân ở Sardinia và tên thật là Francis Ignatius Vincent Peis. Ngay từ nhỏ Vincent đã biết cái nghèo là gì, nhưng trong mái nhà đơn sơ ấy là bầu khí thánh thiện của một người cha siêng năng làm việc và người mẹ đạo đức, luôn dạy con cái trở nên xứng đáng là con Chúa.
Ngay từ nhỏ, Vincent đã thường đau yếu luôn, và khi 18 tuổi anh bệnh nặng đến nỗi phải nằm liệt giường trong nhiều tháng. Chạy đến với Ðức Trinh Nữ Maria, anh hứa sẽ trở thành một tu sĩ dòng Capuchin nếu Ðức Mẹ chữa khỏi. Và Vincent bắt đầu hồi phục, nhưng lại quên đi lời hứa ấy. Mãi cho đến một biến cố thứ hai, khi anh đang cưỡi ngựa thì con ngựa trở chứng chạy lồng lộn tưởng như muốn hất anh xuống đất nhưng bỗng nhiên nó thuần thục trở lại, và anh tin rằng Thiên Chúa đã can thiệp để nhắc lại lời hứa trước đây. Năm 1721, anh gia nhập tu viện Thánh Biển Ðức ở Cagliari, và sau khi mặc áo dòng, anh lấy tên là Thầy Y-Nhã.
Sau khi tuyên khấn, thầy được sai đến tu viện ở Buoncammino làm đầu bếp trong vòng hai năm. Và mười năm tiếp đó thầy đi khất thực cho tu viện ở Iglesias và sau lại trở về Buoncammino làm nghề dệt. Tuy nhiên, chỉ được vài năm, thầy lại trở về công việc khất thực cho nhà dòng. Có thể nói, "công việc" của thầy bao gồm việc lang thang trên đường phố Cagliari để xin thức ăn cho nhà dòng. Không bao lâu, thầy là khuôn mặt quen thuộc của dân chúng và họ gọi thầy là "Padre Santo" (Cha Thánh).
Thầy được sự yêu quý của người già cũng như sự tin tưởng của người trẻ. Trẻ con ở Cagliari lại càng quý mến "Padre Santo" là chừng nào khi thầy luôn kể cho chúng nghe các câu truyện hấp dẫn của các thánh, dạy bảo cho chúng biết về Thiên Chúa, cũng như chỉ vẽ chúng cách cầu nguyện cùng Thiên Chúa.
Lòng thương yêu tha nhân đã trở nên phần thiết yếu trong cuộc sống hàng ngày của thầy, và từ đó xuất phát sự khôn ngoan, lòng nhiệt thành có sức thu hút người khác.
Trong hai năm cuối của cuộc đời, thầy bị mù, và từ trần ngày 11 tháng Năm 1781. Thầy được phong thánh năm 1951.
Lời Bàn
Tại sao người dân ở Cagliari lại giúp đỡ các tu sĩ? Các môn đệ của Thánh Phanxicô là những người siêng năng làm việc nhưng đó là những công việc không đủ sống. Trong những điều kiện ấy, Thánh Phanxicô cho phép họ đi xin ăn. Cuộc đời Thánh Y-Nhã cho chúng ta thấy, những gì Thiên Chúa coi là giá trị thì không liên hệ đến đồng lương cao hay thấp.
Lời Trích
"Tôi thường làm việc với đôi bàn tay, và tôi vẫn muốn làm việc; tôi thực sự mong muốn tất cả các anh em đều tận tình làm việc. Những ai không biết cách làm việc hãy học làm việc, không phải vì muốn được trả lương nhưng vì sống gương mẫu và để tránh sự lười biếng. Và khi chúng ta không được trả lương, hãy trông nhờ vào bàn ăn của Thiên Chúa, mà đi ăn xin từng nhà" (Thánh Phanxicô, Bản Di Chúc).
Trích từ nguoitinhuu.com
Ngày 10/5 Chân Phước Damien ở Molokai (1840 - 1889)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Chân Phước Damien ở Molokai (1840 - 1889)
Lược sử
Chân Phước Damien, tên thật là Giuse "de Veuster", sinh ở Bỉ ngày 3 tháng Giêng 1840, trong một gia đình mà cha là một nông dân cần cù và bà mẹ tận tụy dạy dỗ đức tin cho tám người con.
Ngay từ nhỏ, cậu Giuse mạnh khoẻ và tráng kiện, đã phải thôi học để giúp cha trong công việc đồng áng. Cậu chăm chỉ giúp đỡ gia đình trong nhiều năm, nhưng tâm hồn cậu vẫn ở một nơi nào đó. Vào lúc 19 tuổi, theo gương anh mình, Giuse gia nhập Tu Hội Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria, và lấy tên là Damien. Vì nhất quyết theo đuổi việc học và để hết tâm hồn trong đời sống tu trì, chẳng bao lâu Damien đã bù đắp được sự thiếu hụt trong việc giáo dục trước đây.
Vào năm 1863, Cha Pamphile, anh ruột của Thầy Damien, chuẩn bị đến quần đảo Hạ Uy Di trong công tác truyền giáo. Nhưng cha lâm bệnh nặng, và Thầy Damien tình nguyện thế chỗ. Sau năm tháng dòng dã trên biển, thầy đến hải cảng Honolulu. Trong vòng hai tháng tiếp đó, thầy được thụ phong linh mục và được bổ nhiệm phục vụ ở Đại Đảo của Hạ Uy Di. Sự phục vụ của Cha Damien được ghi nhận là hăng say và tính tình dễ dãi của ngài thu hút được nhiều người. Sau khoảng một thập niên, ngài tình nguyện đến Molokai để phục vụ các người bị mắc bệnh Hansen, thường gọi là bệnh cùi. Vào lúc Cha Damien đến đây, những người mắc bệnh cùi bị đầy ra đảo này đã hơn mười năm qua.
Cha Damien, lúc ấy 33 tuổi, đến Molokai vào tháng Năm 1873 với hành trang là cuốn sách kinh và một ít quần áo. Theo dự định ban đầu của tu hội, ngài chỉ ở đây một vài tháng rồi sau đó có các linh mục khác lần lượt ra thay thế. Nhưng sau khi đến đây được ít lâu, ngài đã viết thư xin cha bề trên cho phép ngài vĩnh viễn ở lại Molokai.
Có thể nói, ngài sống với người cùi -- ăn uống với họ, đụng chạm đến họ, chào đón họ. Cha Damien được giao cho trông coi một cộng đồng Công Giáo. Hàng ngày, cha như chìm đắm trong sự cầu nguyện, suy gẫm và đọc sách thiêng liêng, do đó ngài lôi cuốn được hàng trăm người trở lại đạo. Nhưng tâm hồn của cha vẫn ở với tất cả các nạn nhân của bệnh Hansen, dù Công Giáo hay không Công Giáo. Ngài chăm sóc người bệnh, mai táng kẻ chết, lắng nghe những tâm sự đau lòng. Ngài giúp cải tiến hệ thống dẫn nước cũng như nơi ăn ở của họ. Ngài trông coi việc xây cất một trường học, một cô nhi viện và tổ chức sinh hoạt thiếu nhi cũng như ca đoàn. Ngài là người đào huyệt cũng như chủ sự lễ an táng.
Người ta không rõ khi nào thì Cha Damien bị lây bệnh cùi, nhưng chắc chắn là một ngày trong năm 1884 khi ngài bị phỏng ở chân mà không thấy đau. Căn bệnh tấn công ngài như bất cứ người nào khác: từ từ, chân tay và mặt mũi ngài biến dạng, tai ngài sưng to và méo mó. Vào ngày 15 tháng Tư 1889, ngày thứ Hai Tuần Thánh, căn bệnh đã chấm dứt cuộc đời Cha Damien, khi mới 49 tuổi. Lúc ấy được 16 năm sau khi ngài đến Molokai, và 25 năm kể từ khi ngài đến Hạ Uy Di để bắt đầu công việc truyền giáo.
Trong những ngày cuối đời, Cha Damien được Mẹ Bề Trên Marianne Cope chăm sóc, là người đã hứa sẽ tiếp tục công việc mà cha đã khởi sự. Và sơ đã thể hiện điều đó trong 30 năm kế tiếp với sự cộng tác của các sơ trong tu hội.
Cha Damien được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong chân phước vào tháng Sáu 1995. Và cuối năm 1999, theo lời yêu cầu của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ và đã được Vatican chấp thuận, Chân Phước Damien được kính nhớ vào ngày 15 tháng Tư trong niên lịch phụng vụ của Giáo Hội Hoa Kỳ.
Suy niệm 1: Cần cù
Chân Phước Damien, tên thật là Giuse "de Veuster", sinh ở Bỉ ngày 3 tháng Giêng 1840, trong một gia đình mà cha là một nông dân cần cù và bà mẹ tận tụy dạy dỗ đức tin cho tám người con.
Thông minh tài trí thì không phải mấy ai cũng có được, nhưng có thể bù đắp bằng đức tính cần cù, như lời cổ nhân dạy: Cần cù bù thông minh.
Hấp thụ được đức tính cần cù của phụ mẫu, Damien dầu thôi học ngay từ nhỏ để giúp đỡ gia đình, nhưng đến năm 19 tuổi, ngài vẫn cần cù theo đuổi việc học và đời sống tu trì, chẳng bao lâu Damien đã bù đắp được sự thiếu hụt trong việc giáo dục trước đây, để rồi được thụ phong linh mục vào năm 1863.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết cần cù không để làm giàu nhưng để khỏi bị thiệt thân như lời Sách Châm Ngôn dạy (Cn 13,4).
Suy niệm 2: Thôi học
Ngay từ nhỏ, Damien mạnh khoẻ và tráng kiện, đã phải thôi học để giúp cha trong công việc đồng áng.
Con đường học vấn vốn là con đường thông thường giúp cho người tiến thân. Nhưng không thiếu những người phải chấp nhận thôi học vì hoàn cảnh túng thiếu của gia đình như một Damien.
Cũng thế Thánh Richard đã phải bỏ dở việc học để giúp anh mình quản trị cơ sở khỏi bị lụn bại. Và khi có cơ hội, ngài cũng không muốn lập gia đình vì muốn đi học trước đã. Ngài vào Đại Học Oxford và với sự chăm chỉ học hành, không lâu ngài đã có được một địa vị quan trọng trong trường. Sau khi được thụ phong linh mục, ngài được tấn phong làm giám mục của Chichester, nước Anh.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn coi trọng việc học hành, không nhằm tiến thân nhưng ít là để được thành nhân.
Suy niệm 3: Dễ dãi
Sự phục vụ của Cha Damien được ghi nhận là hăng say và tính tình dễ dãi của ngài thu hút được nhiều người.
Tính tình dễ dãi nhưng không vượt quá giới hạn của các nguyên tắc cơ bản phải tuân thủ thường có hiệu quả thu hút được nhiều người. Chính yếu tố then chốt này đã giúp Cha Damien lôi cuốn được hàng trăm người trở lại đạo.
Tính tình dễ dãi của Đức Giêsu cũng từng tạo điều kiện cho bao người chạy tìm đến với Ngài, từ hạng dân thường đến người có chức quyền, kể cả các bệnh nhân phong cùi mà xã hội loài người loại bỏ và xa tránh, thậm chí cả trẻ em cũng được tiếp nhận.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tránh lối sống quan liêu kẻo bị người người ngại ngùng tìm đến.
Suy niệm 4: Bệnh cùi
Sau khoảng một thập niên, ngài tình nguyện đến Molokai để phục vụ các người bị mắc bệnh Hansen, thường gọi là bệnh cùi.
Người ta không rõ khi nào thì Cha Damien bị lây bệnh cùi, nhưng chắc chắn là một ngày trong năm 1884 khi ngài bị phỏng ở chân mà không thấy đau. Căn bệnh tấn công ngài như bất cứ người nào khác: từ từ, chân tay và mặt mũi ngài biến dạng, tai ngài sưng to và méo mó. Vào ngày 15 tháng Tư 1889, ngày thứ Hai Tuần Thánh, căn bệnh đã chấm dứt cuộc đời Cha Damien, khi mới 49 tuổi.
Đúng như lời ngài tâm sự: "Thiên Chúa là Đấng nhân lành biết rõ những gì cần cho tôi nên thánh, và với tâm hồn sẵn sàng, tôi vui sướng nói rằng, 'Xin cho ý Cha được thể hiện.' Còn phần tôi, tôi chấp nhận là một người cùi để đem các linh hồn về cho Đức Giêsu Kitô".
* Lạy Chúa Giêsu, bệnh cùi thật đáng sợ với việc hủy hoại thân xác, nhưng không sánh được với tội lỗi vốn giết chết cả linh hồn.
Suy niệm 5: Hành trang
Cha Damien, lúc ấy 33 tuổi, đến Molokai vào tháng Năm 1873 với hành trang là cuốn sách kinh và một ít quần áo.
Sở dĩ Cha Damien chỉ mang theo cuốn sách kinh và một ít quần áo, là vì ngài hiểu rõ: Hành trang lên đường của nhà truyền giáo phải được đặt lên hàng đầu, đó là đời sống tâm linh hơn là vật chất.
Để gây ý thức cho các tông đồ về điều này, Đức Giêsu đã từng ra chỉ thị: "Anh em đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, cũng đừng có hai áo” (Lc 9,3).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sắm sẵn hành trang lên đường truyền giáo là chính Chúa vì có Chúa mới trao Chúa cho người được.
Suy niệm 6: Sống
Có thể nói, Cha Damien sống với người cùi.
Ngài sống hòa đồng đến mức cùng ăn uống với họ, đụng chạm đến họ, chào đón họ. Ngài chăm sóc người bệnh, mai táng kẻ chết, lắng nghe những tâm sự đau lòng. Ngài là người đào huyệt cũng như chủ sự lễ an táng, để rồi cuối cùng ngài cũng bị mắc bệnh cùi.
Đức Giêsu đã có lối sống hòa đồng tuyệt hảo đến mức Ngài là Thiên Chúa nhưng khi nhập thế và nhập thể làm người, Ngài đã trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế (Pl 2,7), ngoại trừ tội lỗi (1Pr 2,22;Dt 7,26).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết hạ mình sống hòa đồng với mọi người ngoại trừ tội lỗi.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 09/5 Thánh Catarina ở Bôlônha (1413 -- 1463)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Catarina ở Bôlônha (1413 -- 1463)
Một số các thánh dòng Phanxicô có đời sống nổi nang, Thánh Catarina đại diện cho các thánh phục vụ Thiên Chúa trong âm thầm.
Lược sử
Một số các thánh dòng Phanxicô có đời sống nổi nang, nhưng Thánh Catarina lại đại diện cho các thánh phục vụ Thiên Chúa trong âm thầm.
Catarina, sinh ở Bôlônha, và năm mười một tuổi được chọn làm nữ tì cho cô con gái vị hầu tước ở Ferrara và nhờ đó cũng được ăn học tử tế. Khi người con gái này đi lấy chồng, cô cũng muốn Catarina đi theo hầu, nhưng Catarina đã từ giã triều đình và gia nhập dòng Ba Phanxicô khi mười bốn tuổi.
Catarina quyết định theo đuổi một đời sống tuyệt hảo, và sự thánh thiện của ngài được mọi người khâm phục. Sau đó, cộng đoàn của ngài trở nên một phần của Dòng Thánh Clara và ngài phục vụ với công việc làm bếp và giữ cửa. Trong một thời gian ngài thường được thị kiến Đức Kitô cũng như Satan. Một trong những thị kiến xảy ra vào dịp Giáng Sinh, ngài được thấy Đức Trinh Nữ Maria bế Hài Nhi Giêsu. Ngài viết lại các cảm nghiệm này trong cuốn "Manifestations" (Những Sự Khải Hiện) bằng tiếng Latinh. Ngài còn sáng tác các thánh vịnh, thánh ca và có hoa tay viết chữ đẹp và hội họa.
Nhờ sự vận động của ngài với Đức Giáo Hoàng Nicôla V, tu viện Dòng Thánh Clara ở Ferrara được thành lập và Sơ Catarina được chỉ định làm Bề Trên. Tiếng tăm về sự thánh thiện và đời sống khắc khổ của Cộng Đoàn ngày càng lan rộng. Sau đó Sơ Catarina được chỉ định làm Bề Trên một tu viện mới ở Bôlônha.
Vào mùa Chay 1463, Sơ Catarina lâm bệnh nặng và từ trần ngày 9 tháng Ba, ngài được chôn cất mà không có quan tài. Nhưng mười tám ngày sau đó, thi thể của ngài được khai quật vì có những việc chữa lành nhờ lời cầu bầu của ngài và vì mùi thơm bốc lên từ ngôi mộ. Người ta tìm thấy thi thể của ngài không bị rữa nát và vẫn nguyên vẹn cho đến ngày nay, hiện được cất giữ ở nguyện đường tu viện Thánh Clara ở Bôlônha. Ngài được phong thánh năm 1712.
Suy niệm 1: Phục vụ
Thánh Catarina lại đại diện cho các thánh phục vụ Thiên Chúa trong âm thầm.
Là nữ tì cho cô con gái vị hầu tước ở Ferrara, Catarina đã có điều kiện làm quen với nếp sống phục vụ và phục vụ tốt đến mức khi người con gái này đi lấy chồng, cô cũng muốn Catarina đi theo hầu. Nhưng Catarina quyết định theo đuổi một đời sống tuyệt hảo hơn trong việc phục vụ Thiên Chúa, nên ngài đã từ giã triều đình và gia nhập dòng Ba Phanxicô.
Bằng kinh nghiệm phục vụ, Thánh Catarina viết về bảy vũ khí tinh thần để chống lại các cám dỗ: "Đức Giêsu Kitô đã hy sinh tính mạng để chúng ta được sống. Do đó, bất cứ ai muốn vác thập giá của mình vì Đức Kitô phải có những vũ khí thích hợp cho cuộc chiến đấu này, nhất là những vũ khí sau đây. Thứ nhất, sự chuyên cần; thứ hai, đừng cậy vào sức mình; thứ ba, tín thác vào Chúa; thứ bốn, hãy nhớ đến sự Thương Khó Đức Kitô; thứ năm, hãy nhớ đến cái chết của mình; thứ sáu, hãy nhớ đến sự vinh hiển của Thiên Chúa; thứ bảy, theo các huấn thị của Kinh Thánh mà noi gương Đức Giêsu Kitô trong thời gian ở sa mạc" (Về Bảy Vũ Khí Tâm Linh).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ghi nhận bài học phục vụ của Thánh Catarina để mang lại nhiều lợi ích cho phần rỗi chúng con.
Suy niệm 2: Âm thầm
Thánh Catarina lại đại diện cho các thánh phục vụ Thiên Chúa trong âm thầm.
Với tính háo danh, người đời nói chung thường yêu thích phục vụ với những công việc nổi bật với những chức vụ quan trọng. Thánh Catarina thì khác. Ngài chọn và bằng lòng phục vụ với những công việc âm thầm như làm bếp và giữ cửa, miễn là thể hiện được lòng ham muốn phục vụ.
Dầu không mấy ai thích phục vụ âm thầm nhưng trong công việc phục vụ, tính âm thầm lại rất cần thiết, rất có hiệu năng và cũng rất có giá trị cho việc thành tựu của công việc đến mức không thể không có được.. Thật thế các diễn viên chính thường đóng góp rất lớn cho việc thành công của vỡ tuồng, nhưng không thể quên mất vai trò rất quan trọng của các nhân vật ở hậu trường sân khấu.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn khiêm tốn nhận lãnh và đóng đúng vai trò của mình, dầu là một vị trí rất âm thầm.
Suy niệm 3: Nữ tì
Catarina, sinh ở Bôlônha, và năm mười một tuổi được chọn làm nữ tì cho cô con gái vị hầu tước ở Ferrara.
Đã là nữ tì thì hãy luôn nhớ và sống đúng thân phận mình, cho dầu có được chủ thương yêu cất nhắc và ban đặc ân nào. Đừng như Haga vốn là nữ tì của bà Xarai, nhưng một khi được bà chủ cho đến với Ápram để có được mụn con là Ítmaên thì lên mặt coi khinh cả bà chủ (St 16,1-5).
Ngược lại hãy theo gương Catarina vốn là nữ tì của cô con gái vị hầu tước và nhờ đó cũng được ăn học tử tế. Dầu vậy Catarina vẫn luôn sống tròn chức năng nữ tì của mình là kính yêu và phục tùng chủ, nên khi người con gái này đi lấy chồng, cô cũng muốn Catarina đi theo hầu. Nhất là hãy theo gương Đức Maria, dầu được đặc ân làm Mẹ Thiên Chúa, nhưng Mẹ vẫn tự nhận mình là nữ tì của Người mà thôi qua việc xin vâng mọi điều theo Thiên Ý (Lc 2,38).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn tự trọng sống đúng chức năng mình để xứng được người tôn trọng.
Suy niệm 4: Thánh thiện
Sự thánh thiện của Catarina được mọi người khâm phục.
Lúc sinh tiền, nhờ thánh thiện mà Catarina được đặc ân thị kiến trong một thời gian dài. Đồng thời cũng nhờ đó mà tu viện Dòng Thánh Clara ở Ferrara được thành lập và Sơ Catarina được chỉ định làm Bề Trên. Và sau này còn được chỉ định làm Bề Trên một tu viện mới ở Bôlônha nữa.
Sau khi qua đời và được chôn cất thì mười tám ngày sau đó, thi thể của ngài được khai quật vì có những việc chữa lành nhờ lời cầu bầu của ngài và vì mùi thơm bốc lên từ ngôi mộ. Người ta tìm thấy thi thể của ngài không bị rữa nát và vẫn nguyên vẹn cho đến ngày nay, tất cả nhờ sự thánh thiện của ngài.
* Lạy Chúa Giêsu, chúng con không cả dám mong được những đặc ân Chúa ban nhờ sự thánh thiện, nhưng xin giúp chúng con luôn nỗ lực nên thánh.
Suy niệm 5: Thị kiến
Trong một thời gian Catarina thường được thị kiến Đức Kitô cũng như Satan.
Một trong những thị kiến xảy ra vào dịp Giáng Sinh, ngài được thấy Đức Trinh Nữ Maria bế Hài Nhi Giêsu. Ngài viết lại các cảm nghiệm này trong cuốn "Manifestations" (Những Sự Khải Hiện).
Sở dĩ Catarina nhận được đặc ân thị kiến và khá nhiều lần, chẳng qua là vì ngài có đời sống thánh thiện vốn được biểu hiện qua việc ngài chuyên chăm cầu nguyện, và cầu nguyện không chủ yếu xin ơn nhưng tiến đến mức chiêm niệm và nhiệm hiệp.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con cải tiến việc cầu nguyện đến mức chiêm niệm chứ không dừng lại ở việc xin ơn.
Suy niệm 6: Chôn cất
Catarina lâm bệnh nặng và từ trần ngày 9 tháng 3, ngài được chôn cất mà không có quan tài.
Catarina đã chết và thi thể ngài được chôn cất mà không có quan tài. Điều này có ý nghĩa gì? Chắc hẳn muốn diễn tả phần nào tinh thần tuyệt đối từ bỏ của ngài. Ngài không quan tâm đến phần xác mà tất cả là cho phần hồn.
Chính vì thế mặc dù có cơ hội để sống một cuộc đời sung sướng trong triều đình, ngài đã hăng hái đáp lời mời gọi của Thiên Chúa mà gia nhập đời sống tu trì. Sự thánh thiện, lòng bác ái của ngài đã thu hút nhiều người trên con đường trọn lành.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con noi gương đời sống và cái chết thánh thiện của thánh Catarina, để quyết tâm sống bác ái như một cùng đích của cuộc đời.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 06/5 Thánh Ðaminh Saviô (c. 1857)
- Viết bởi Hạnh các Thánh
Thánh Ðaminh Saviô (c. 1857)
"Tôi không làm được những điều trọng đại. Nhưng tôi muốn tất cả những gì tôi làm, ngay cả những gì nhỏ nhặt nhất, là để vinh danh Thiên Chúa." (Ðaminh Saviô)
Thánh trẻ Đaminh Saviô là người Ý (1842-1857) 15 tuổi, đệ tử dòng Salesien-Don Bosco, bổn mạng thiếu niên.
1. Tâm hồn đạo đức từ nhỏ: Savio là thánh trẻ rất quen thuộc với nhiều người, nhờ sự phổ biến sách vở của dòng Salesien - Don Bosco.
Đaminh Saviô được sinh ra chào đời ngày 2-4-1842. Gia đình cậu là gia đình nghèo thuộc nước Ý. Anh chị em gồm 12 người. Nhà nhèo nên gia đình phải di chuyển nơi ở nhiều lần. Năm Đaminh 2 tuổi, gia đình em dọn về Murialdo, một làng thật nhỏ cũng thuộc Castelnuovo d'Asti.
Ngay từ nhỏ Saviô đã được dậy cho thói quen đọc kinh tối sáng. Em lại ngoan ngoãn dễ vâng lời cha mẹ. Saviô đã trở thành niềm vui cho cha mẹ, đặc biệt những lúc ông Carlô đi làm về, Saviô thường ra đón ba bằng những nụ cười tươi và hôn biết ơn.
Khi lên 5 tuổi, Savio đã thích giúp lễ. Cậu nhỏ quá, nhiều khi chủ tế phải đưa lùi đồ lễ ra cạnh bàn thờ cho cậu cất đi. Nhiều ngày cậu đi lễ sớm, phải đứng chờ ngoài trời tuyết, vì cha sở chưa mở cửa nhà thờ. Cha Gioan Zucca, cha sở ở Murialdo đã nói: “Trong những ngày đầu tiên tôi đến xứ Murialdo, tôi thường thấy một em bé khoảng 5 tuổi theo mẹ đến nhà thờ. Em thật sốt sắng trong nhà thờ và một ngày em tới sớm, dù sương tuyết, tôi thấy em quỳ cầu nguyện trước nhà thờ... Cảm kích trước sự sốt sắng của em tôi đã dò la và được biết em là Đaminh Saviô, con bác thợ rèn Carlô Saviô.
Năm 1849 mới 7 tuổi em đã thuộc lòng giáo lý và sốt sắng đủ điều kiện để được rước Chúa. Làm sao có thể tả xiết ngày vui mừng và trọng đại này của em! Khi được rước lễ lần đầu, cậu dốc lòng 4 điều:
1/ Tôi sẽ siêng năng xưng tội và rước lễ .
2/ Tôi sẽ thánh hoá các ngày lễ trọng.
3/ Chúa Giêsu và Mẹ Maria là những người bạn thân nhất của tôi.
4/ Tôi thà chết chứ không phạm tội.
Học xong tiểu học lúc 10 tuổi, vì nhà ở xa phố nên Saviô phải đi bộ 18 cây số để tới trường, cậu rất hăng hái không ngại hy sinh để đi học. Một ngày kia, có ông già thấy bé thường đi bộ một mình đi học, ông hỏi cậu:
- Con đi học một mình, đường vắng mà con không sợ à?
- Cậu trả lời “Cháu đâu có đi một mình, có Thiên Thần Bản mệnh cùng đi với cháu mà!”
Lên 12 tuối, năm 1853 gia đình Đaminh Saviô phải dọn về Mondonio và cũng chính năm đó Saviô gặp được cha Don Bosco, cậu nói: "Con muốn làm linh mục". Đaminh Saviô đã bày tỏ cậu là tấm vải trong tay người thợ may lành nghề là cha Don Bosco để Ngài cắt thành tấm áo đẹp dâng Chúa.
Khi được tiếp xúc với Don Bosco, Saviô đã tìm thấy con đường lên thánh là “Phụng sự Chúa trong vui vẻ”.
2. Lên 14, Savio nhập trường của cha Bosco
Với sự hướng dẫn của cha, cậu đã nên thánh. Savio luôn thân thiện, vui vẻ, khôn ngoan, chu toàn bổn phận, giúp đỡ bạn học, đưa về đàng lành...
Cậu có lòng tôn kính Thánh Thể và Đức Mẹ cách đặc biệt. Cám ơn sau rước lễ rất sốt sắng .
Trong trường, cậu được phép tổ chức hội Đức Mẹ Vô nhiễm, lôi kéo bạn học tôn kính Đức Mẹ. Về sau, khi cha Bosco lập dòng, 22 em trong hội Mẹ Vô nhiễm đã nhập dòng mới này. Vào chiều hôm ấy 8 tháng 12 năm 1854, trong dịp Đức Thánh Cha công bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, qua lời khuyên của cha giải tội, Đaminh Saviô đã tới trước bàn thờ Đức Mẹ, tuyên lại lời hứa em đã làm vào dịp rước lễ lần đầu như sau: “Lạy Mẹ Maria, con dâng cho Mẹ trái tim Con. Xin Mẹ làm cho nó luôn thuộc về Mẹ. Giêsu Maria, xin hãy luôn là bạn của con! Xin để con chết còn hơn là phạm tội!”
Cha thánh Don Bosco khi viết về tiểu sử của cậu đã ghi như sau: "Ở lứa tuổi học trò việc bỏ học đi chơi hay a dua bạn bè thường xảy ra. Với Saviô cậu cũng bị quyến rũ trốn học đi chơi... Saviô đã tìm hết cách để chối từ nhưng các bạn cố lôi cuốn cậu, thuyết phục cậu chẳng có tội lỗi gì khi làm thế... Cuối cùng Saviô đành phải nói, cậu sẽ đi nhưng để cậu về xin phép ba mẹ đã... Thế là cậu thoát được những mời mọc mà thường tình các bạn trẻ khó má tránh thoát.”
Khi Saviô lên trung học, Saviô phải ra ngoài học, vì trong nhà không có lớp. Thời gian ấy, Đaminh Saviô đã thể hiện một hành vi thật là can đảm và anh hùng. Đó là giữa bạn bè có hai người đã cãi vã hận thù và quyết ném đá nhau cho đến chết. Saviô cố gắng giải hòa nhưng không xong. Cậu đành xin hai bạn cho theo đến nơi ném đá. Tới nơi đã hẹn, Saviô làm chuyện mà không có ai tưởng nổi: Cậu chia khoảng cách để hai người đứng đối diện nhau; mỗi người đã cầm sẵn trong tay 5 cục đá, rồi Saviô lên tiếng.
- Trước khi các bạn thi hành cuộc thách đấu, tôi muốn các bạn hoàn thành điều kiện tôi đề nghị.
Nói đoạn, cậu rút cây Thánh Giá nhỏ đeo ở cổ, giơ cao lên, rồi nói:
- Tôi muốn hai bạn nhìn thẳng vào Chúa chịu đóng đinh, để rồi, trong khi ném một viên đá vào tôi, bạn hãy dõng dạc nói các lời sau đây: “Chúa Giêsu Kitô vô tội đã chết khi tha thứ cho những kẻ đóng đinh ngài, còn tôi kẻ có tội lại muốn xúc phạm đến Ngài và thực hiện một việc báo thù nghiêm trọng”.
Nói xong, cậu đến quì gối trước anh bạn đang hằm hằm sát khí mà nói:
- Bạn hãy ném đá tôi đi.
Anh bạn nhanh nhảu nói:
- Không, không bao giờ. Tôi không có chuyện gì chống lại bạn và tôi sẵn sàng bảo vệ bạn nếu thằng kia làm hại bạn.
Nghe thấy vậy, Saviô chạy sang anh bạn khác và cũng dùng những lời như trước.
Anh bạn này cũng ngỡ ngàng và nói giọng run run
- Saviô là bạn của mình, mình sẽ không làm hại bạn! Nếu thằng chó chết kia làm hại bạn tôi sẽ giết nó!
Khi ấy Đaminh Saviô đứng lên, và nói:
- Cả hai bạn đều sẵn sàng liều thân chết để bảo vệ tôi, một người tội lỗi, tại sao các bạn lại không thể tha thứ cho nhau, vì chính Chúa đã chết để cứu linh hồn các bạn?
Trước lòng can đảm ấy, hai tên đã ôm lấy Saviô và ôm lấy nhau, tha thứ cho nhau, và đã trở thành bạn của nhau.
Quyết tâm sống thánh đã làm Saviô âm thầm hy sinh chịu nóng lạnh của thời thiết khắc nghiệt làm sức khỏe cậu suy yếu và ngã bệnh. Vì kém sức khoẻ, Savio đã rời trường sau 2 năm sống rất ngoan ngoãn ở đây.
3. Về gia đình chữa bệnh và qua đời
Ngày 1-3-1857 Saviô phải giã từ nhà cha Don Bosco để về gia đình trị bệnh.
Trên giường bệnh Saviô đã vui nhận mọi sự trong niềm tín thác vào Chúa và Đức Mẹ như những người bạn đường của cậu. Chiều ngày 9-3-1857, Saviô đã lãnh nhận Bí Tích sau cùng để về cùng Chúa và Đức Mẹ.
Cậu qua đời khi lên 15 tuổi. Khi cậu gần chết, cậu xin cha cậu đọc kinh cầu đi đàng cho người hấp hối. Đột nhiên, mặt cậu vui tươi, cậu nói: "Con đang được thấy cảnh đẹp tuyệt vời".
Saviô chết đi nhưng cậu đã trở thành tấm gương soi cho giới trẻ, một cuộc sống bình thường nhưng chu toàn nghĩa vụ của người trẻ là học sinh... và làm tông đồ cho giới trẻ.
Saviô đã thể hiện nhiều phép lạ nên ngày 5 tháng 3 1950, Đức Thánh Cha Piô XII tuyên phong Á thánh cho Đaminh Saviô. Ngày 12 - 6 - 1954 cũng Đức Thánh Cha Piô XII tuyên phong hiển thánh cho Đaminh Saviô.
Trong lễ phong hiển thánh cho Saviô, Đức Thánh Cha đã trình bầy Saviô như là một thiếu niên mảnh khảnh, với một thân xác yếu đuối nhưng có một tâm hồn cương nghị đầy khát vọng tận hiến bản thân cho Tình yêu siêu việt của Chúa Kitô. Là học trò của Cha Thánh Gioan Bosco, Saviô đã hiểu được sống thánh là chu toàn bổn phận trong niềm vui để phụng sự Thiên Chúa và tha nhân”.
Cậu bé phi thường (truyện thánh Savio)
Ngày 06/5 Chân Phước Gerard ở Lunel (thế kỷ 13)
- Viết bởi Hạnh các Thánh
Chân Phước Gerard ở Lunel (thế kỷ 13)
Gerard sinh trong một gia đình quyền quý ở miền nam nước Pháp. Ngay từ nhỏ ngài rất đạo đức - khi mới năm tuổi, ngài đã xin mặc áo dòng Ba Phanxicô.
Khi 18 tuổi, Gerard cùng với người em là Effrenaud trốn trong một cái hang ở cạnh bờ sông và bắt đầu hai năm trường sống như các vị ẩn tu. Sau đó hai anh em quyết định đi hành hương, một phần là để ngăn cản những người hiếu kỳ đến thăm vì nghe tiếng thánh thiện của hai anh em. Sau khi đi chân đất đến Rôma, hai người sống ở đây trong hai năm, thăm viếng nhiều đền đài nổi tiếng.
Họ tiếp tục cuộc hành hương đến Giêrusalem, nhưng trên đường đi thì Gerard ngã bệnh. Effrenaud phải đưa Gerard tạm trú trong một lều tranh ở Montesano, nước Ý, để đi tìm thầy thuốc. Nhưng trước khi Effrenaud trở về thì Gerard đã trút hơi thở cuối cùng.
Nhiều phép lạ đã xảy ra ở mộ của Gerard, và nơi ấy trở nên trung tâm hành hương. Những người bị đau đầu kinh niên hoặc bị chứng động kinh đều được sự chữa lành đặc biệt qua lời cầu bầu của ngài. Từ lâu thành phố Montesano kính Chân Phước Gerard như vị quan thầy của mình. Ðôi khi ngài được gọi là Gery, Gerius hoặc Roger ở Lunel.
Ngày 04/5 Thánh Peregrine (1265 -- 1345)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Peregrine (1265 -- 1345)
Ngài đặc biệt tận tụy chăm sóc người đau yếu, người nghèo và những người sống bên lề xã hội.
Lược sử
Thánh Peregrine sinh ở Forli, nước Ý, và là quan thầy của những người bị đau khổ vì bệnh ung thư, bệnh AIDS (SIDA) và các căn bệnh trầm trọng khác.
Lúc bấy giờ thành phố Forli dưới quyền cai quản của Đức Giáo Hoàng và được coi là một phần của Quốc Gia Vatican. Peregrine sinh trong một gia đình có chân trong một đảng phái tích cực chống đối đức giáo hoàng. Vì Forli là nơi phát sinh đảng này nên thành phố ấy đang bị giáo hội cấm chế. Điều này có nghĩa không được cử hành Thánh Lễ và các Bí Tích ở đây. Thánh Philip Benizi, Bề Trên Dòng Tôi Tớ Đức Maria được sai đến Forli để kêu gọi thành phố hòa giải và bãi bỏ hình phạt.
Ông Peregrine lúc bấy giờ rất hăng say chính trị nên đã chất vấn Cha Philip trong khi ngài rao giảng, và ngay cả hành hung Cha Philip. Giây phút tấn công Cha Philip dường như đã thay đổi con người Peregrine thật mãnh liệt. Ông bắt đầu chuyển đổi nhiệt huyết của mình vào các công việc tốt lành và ngay cả gia nhập Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ ở Siena, lúc ấy đã 30 tuổi.
Sau đó Peregrine trở về Forli. Truyền thống nói rằng ngài không phải là một linh mục, nhưng chỉ là một thầy trợ sĩ, đảm nhận công việc tông đồ cho dân chúng ở Forli. Ngài đặc biệt tận tụy chăm sóc người đau yếu, người nghèo và những người sống bên lề xã hội. Một trong những hãm mình đặc biệt của ngài là chỉ đứng bất cứ ở đâu nếu không cần thiết phải ngồi. Điều đó đưa đến bệnh giãn tĩnh mạch ở chân và biến chứng thành một vết thương có mủ, thật đau nhức và được chẩn đoán là ung thư. Vết thương ngày càng lan rộng, xông mùi hôi thối và không thể chữa trị được. Sau cùng các bác sĩ quyết định phải cắt chân của ngài.
Vào lúc 60 tuổi, ngài phải đối diện với một thập giá mới và khó khăn hơn. Truyền thống kể rằng vào đêm trước khi giải phẫu, Peregrine cầu nguyện rất lâu trước thập giá Đức Giêsu, xin Chúa chữa lành nếu đó là thánh ý Chúa. Khi ngủ thiếp đi, Peregrine thấy Đức Giêsu rời khỏi thập giá và chạm đến chân của ngài. Khi tỉnh dậy, vết thương đã lành lặn và không phải giải phẫu nữa.
Peregrine sống thêm 20 năm nữa, và từ trần ngày 1 tháng Năm 1345, hưởng thọ 80 tuổi. Ngài được phong thánh năm 1726. Người dân Forli chọn ngài làm Thánh Quan Thầy cho thành phố.
Suy niệm 1: Chọn
Suy niệm 1: Cấm chế
Vì Forli là nơi phát sinh đảng phái tích cực chống đối đức giáo hoàng, nên thành phố ấy đang bị giáo hội cấm che.
Một hình thức cấm chế thành phố Forti đang mắc phải, đó là không được cử hành Thánh Lễ và các Bí Tích ở đây, vì tội tích cực chống đối đức giáo hoàng. Đây là quyền phán quyết Hội Thánh được ân ban khi Đức Giêsu ban bố: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ" (Ga 20,23).
Theo thánh Tôma Aquinô, để khuyến khích tín hữu sống đức hạnh, phải giúp họ biết sợ Chúa phạt và mong được thưởng công. Nhưng nếu xa lánh sự dữ vì sợ bị phạt, chúng ta sống như tên nô lệ. Nếu chạy theo phần thưởng, chúng ta khác nào kẻ làm thuê. Nếu chúng ta tuân phục vì chính sự thiện và vì yêu mến Đấng ban hành lề luật, chúng ta mới thực sự là con (T. Basiliô Cả).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn tập sống tinh thần giữ luật vì lòng mến Chúa để xứng được làm con Chúa.
Suy niệm 2: Hòa giải
Thánh Philip Benizi, Bề Trên Dòng Tôi Tớ Đức Maria được sai đến Forli để kêu gọi thành phố hòa giải và bãi bỏ hình phạt.
Thiên Chúa là Đấng công bình tuyệt đối nhưng đồng thời cũng dạt dào tình thương. Vì thế sau khi ra án phạt cho hai ông bà nguyên tổ do tội lỗi của họ, Thiên Chúa thể hiện lòng thương vô bờ đối với họ bằng lời hứa ban ơn cứu độ (St 3,15).
Theo gương đó, sau khi tuyên phạt thành phố Forti về tội tích cực chống đối đức giáo hoàng, Hội Thánh không loại bỏ nhưng đã sai Thánh Philip Benizi đến Forli để kêu gọi thành phố hòa giải hầu có thể bãi bỏ hình phạt.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống được tâm tình của Chúa là quyết tâm không để bất cứ một ai hư mất (Mt 18,14;Ga 17,12).
Suy niệm 3: Tấn công
Giây phút tấn công Cha Philip dường như đã thay đổi con người Peregrine thật mãnh liệt.
Ông Peregrine lúc bấy giờ rất hăng say chính trị nên đã chất vấn Cha Philip trong khi ngài rao giảng, và ngay cả hành hung Cha Philip. Thế nhưng Cha Philip không muốn mình trở nên giống như kẻ thù bằng cách chống đối lại, mà sống tình yêu thương như lời Chúa dạy (Mt 5,44). Chính lòng đạo đức và thái độ xử sự hòa nhã của ngài đã thay đổi con người Peregrine.
Peregrine bắt đầu chuyển đổi nhiệt huyết của mình vào các công việc tốt lành và ngay cả gia nhập Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ ở Siena, lúc ấy đã 30 tuổi. Ngài đảm nhận công việc tông đồ cho dân chúng ở Forli. Ngài đặc biệt tận tụy chăm sóc người đau yếu, người nghèo và những người sống bên lề xã hội. Ngài cũng sống hãm mình một cách đặc biệt.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết lấy đức báo oán để thu phục nhân tâm tha nhân.
Suy niệm 4: Chu toàn
Truyền thống nói rằng Peregrine không phải là một linh mục, nhưng chỉ là một thầy trợ sĩ, đảm nhận công việc tông đồ cho dân chúng ở Forli.
Trong vườn nho của Thiên Chúa, có muôn vàn công việc với bao sắc thái khác nhau thích ứng với nhiều khả năng chuyên môn không giống hệt nhau. Vì thế mỗi người được Thiên Chúa ban cho đặc sủng riêng (1Cr 7,7), kẻ này làm Tông Đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ (Ep 4,11).
Điều quan trọng là phục vụ, là xây dựng thân thể Đức Kitô, cho đến khi tất cả đạt tới sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Kitô. Ý thức được thế, nên dầu không phải là một linh mục, mà chỉ là một thầy trợ sĩ, nhưng Peregrine đã hân hoan chu toàn chức năng của mình để nên thánh.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chọn con đường nên thánh bằng việc hết mình chu toàn bổn phận theo đấng bậc mình.
Suy niệm 5: Hãm mình
Một trong những hãm mình đặc biệt của Peregrine là chỉ đứng bất cứ ở đâu nếu không cần thiết phải ngồi.
Điều đó đưa đến bệnh giãn mạch tĩnh ở chân và biến chứng thành một vết thương có mủ, thật đau nhức và được chẩn đoán là ung thư. Vết thương ngày càng lan rộng, xông mùi hôi thối và không thể chữa trị được. Sau cùng các bác sĩ quyết định phải cắt chân của ngài.
Cùng chung cảnh ngộ của thánh Peregrine khi vì hãm mình mà bị bệnh tật, đó là trường hợp của thánh Phêrô Damian. Vì quá hăng say trong sự cầu nguyện và ngủ quá ít nên không bao lâu Phêrô Damian bị bệnh mất ngủ trầm trọng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn theo gương đạo đức của các thánh nhân, để chấp nhận chịu thiệt về phần xác mà bảo đảm được phần hồn, còn hơn là nhằm bảo vệ thân xác mà đánh mất phần linh hồn.
Suy niệm 6: Thập giá
Vào lúc 60 tuổi, ngài phải đối diện với một thập giá mới và khó khăn hơn.
Truyền thống kể rằng vào đêm trước khi giải phẫu, Peregrine cầu nguyện rất lâu trước thập giá Đức Giêsu, xin Chúa chữa lành nếu đó là thánh ý Chúa. Khi ngủ thiếp đi, Peregrine thấy Đức Giêsu rời khỏi thập giá và chạm đến chân của ngài. Khi tỉnh dậy, vết thương đã lành lặn và không phải giải phẫu nữa.
Một thập giá mang tính phổ quát cho hết mọi người, đó là thi hành Thiên Ý. Vì thế trước nguy cơ phải bị giải phẫu, Peregrine đã cầu nguyện nhưng cầu nguyện theo thánh ý Chúa, có nghĩa là dược chữa lành hay không là tùy Thiên Ý. Và rồi sự lạ xảy ra: vết thương đã lành lặn và không phải giải phẫu nữa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tập làm quen vác lấy thập giá mang tính phổ quát cho hết mọi người, đó là thi hành Thiên Ý.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
- Ngày 02/5 Thánh Athanasius (296? - 373)
- Ngày 30/4 Thánh Piô V Giáo Hoàng (1504-1572)
- Ngày 29/4 Thánh Catarina ở Siena (1347 -- 1380)
- Ngày 28/4 Thánh Phêrô Chanel (1803 - 1841)
- Ngày 27/4 Thánh Zita ở Lucca (1218 -- 1278)
- Ngày 26/4 Thánh Giuse Cottolengo (1786 - 1842)
- Ngày 25/4 Thánh Máccô
- Ngày 24/4 Thánh Fidelis Sigmaringen (1578-1622)
- Ngày 23/4 Thánh George (c. 304)
- Ngày 22/4 Chân Phước Giles ở Assisi (1190 -- 1262)