Gương Thánh Nhân
Ngày 02/5 Thánh Athanasius (296? - 373)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Athanasius (296? - 373)
Lược sử
Cuộc đời Thánh Athanasius đầy bôn ba vì tận tụy phục vụ Giáo Hội. Ngài là quán quân bảo vệ đức tin đối với sự lan tràn của lạc thuyết Arian. Sự nhiệt huyết của ngài được thể hiện trong các trước tác giúp ngài xứng đáng là Tiến Sĩ Hội Thánh.
Sinh trong một gia đình Kitô Giáo ở Alexandria và được giáo dục kinh điển, Athanasius gia nhập hàng giáo sĩ và là thư ký cho Đức Alexander, Giám Mục của Alexandria, và sau đó chính ngài được nâng lên hàng giám mục. Vị tiền nhiệm của ngài, Đức Alexander, từng là người lớn tiếng chỉ trích một phong trào mới đang bành trướng ở Đông Phương thời bấy giờ, đó là lạc thuyết Arian, họ khước từ thiên tính của Đức Kitô.
Khi Đức Athanasius đảm nhận vai trò Giám Mục của Alexandria, ngài tiếp tục chống với lạc thuyết Arian. Lúc đầu, cuộc chiến dường như dễ dàng chiến thắng và lạc thuyết Arian sẽ bị kết án. Nhưng thực tế thì trái ngược. Công Đồng Tyre đã được triệu tập và vì một vài lý do không rõ ràng, Hoàng Đế Constantine đã trục xuất Đức Athanasius đến miền bắc nước Gaul. Đây là chuyến đi đầu tiên trong một chuỗi hành trình và lưu đầy có nét phảng phất như cuộc đời Thánh Phaolô.
Khi Constantine từ trần, hoàng tử kế vị đã phục hồi quyền giám mục của Đức Athanasius. Nhưng chỉ được có một năm, ngài lại bị truất phế vì sự liên hiệp của các giám mục theo phe Arian. Đức Athanasius đã đệ đơn lên Rôma, và Đức Giáo Hoàng Julius I đã triệu tập một công đồng để duyệt qua vấn đề và các khó khăn liên hệ.
Trong bốn mươi sáu năm làm giám mục, ngài đã phải lưu đầy mười bảy năm chỉ vì bảo vệ tín điều về thiên tính của Đức Kitô. Trong một thời gian, ngài được an hưởng 10 năm tương đối bình an để đọc sách, viết lách và cổ võ lý tưởng của đời sống đan viện mà ngài hết lòng tận tụy.
Các văn bản và giáo lý của ngài hầu hết là các bài bút chiến, trực tiếp chống lại mọi góc cạnh của lạc thuyết Arian. Trong các văn bản của ngài về đời sống khổ hạnh, cuốn Đời Sống Thánh Anthony được nhiều người biết đến và góp phần lớn trong việc thiết lập đời sống đan viện trên khắp thế giới Kitô Giáo Tây Phương.
Suy niệm 1: Quán quân
Thánh Athanasius là quán quân bảo vệ đức tin đối với sự lan tràn của lạc thuyết Arian.
Trong nghành thể dục thể thao, hầu hết các vận động viên đều đã dày công tập luyện cũng như tham gia thi đấu với ước mong đạt được ngôi vị quán quân. Trong số đó, có người cũng thỏa mãn được ước mong để giữ được thứ bậc cao nhất là số 1 thế giới trong nhiều năm, nhưng thực tế luôn bị sóng sau xô sóng trước chứ không giữ vững mãi suốt đời.
Thánh Athanasius thì khác, ngài chuyên chăm sống và bảo vệ đức tin nhằm chống lại lạc thuyết Arian với bao sóng gió trong cuộc đời đến mức phải bị lưu đầy mười bảy năm chỉ vì bảo vệ tín điều về thiên tính của Đức Kitô. Chính nhờ thế ngài đã được tuyên dương là quán quân đến suốt đời.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con kiên tâm chạy thẳng tới đích để đoạt giải thiên đàng (Pl 3,14).
Suy niệm 2: Nhiệt huyết
Sự nhiệt huyết của Thánh Athanasius được thể hiện trong các trước tác giúp ngài xứng đáng là Tiến Sĩ Hội Thánh.
Các văn bản và giáo lý của ngài hầu hết là các bài bút chiến, trực tiếp chống lại mọi góc cạnh của lạc thuyết Arian, vốn là một phong trào mới đang bành trướng ở Đông Phương thời bấy giờ, họ khước từ thiên tính của Đức Kitô.
Đồng quan điểm với Thánh Athanasius, Hội Thánh đã tuyên xưng trong Tuyển tập các Tín điều, các Định Tín và tuyên bố về đức tin và luân lý: Trong cùng một Đức Kitô duy nhất, là Đức Chúa, là Chúa Con duy nhất, chúng ta phải tin nhận có hai bản tính, không lẫn lộn, không thay đổi, không phân chia, không tách biệt. Sự khác biệt giữa hai bản tính không hề bị mất đi do việc kết hợp, nhưng các đặc điểm của mỗi bản tính đã được bảo tồn và hợp nhất trong cùng một ngôi vị duy nhất và một ngôi hiệp duy nhất (DS 301-302).
* Lạy Chúa Giêsu, chúng con đồng tuyên tín Chúa trọn vẹn trong thiên tính và trọn vẹn trong nhân tính, đích thực là Thiên Chúa và đích thực là người.
Suy niệm 3: Thư ký
Athanasius gia nhập hàng giáo sĩ và là thư ký cho Đức Alexander, Giám Mục của Alexandria.
Với chức vụ làm thư ký cho Đức Alexander, Giám Mục của Alexandria, chắc hẳn Thánh Athanasius có cơ hội gần gũi với Đức Alexander, để học hỏi cách điều hành giáo phận cũng như cách đối phó với các biến cố lớn của thời đại. Nhờ thế mà chính ngài được nâng lên hàng giám mục.
Một biến cố lớn xảy ra vào thời đó phải nói đến, đó chính là sự xuất hiện của tà thuyết Arian. Với chức vụ làm thư ký, Thánh Athanasius đã đồng tâm hiệp lực với Đức Alexander để chống lại tà thuyết, nhằm bảo vệ đức tin chân chính của Hội Thánh, đặc biệt bằng các bài viết chống lại mọi góc cạnh của lạc thuyết Arian.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết vận dụng mọi khả năng Chúa ban, để giữ vững niềm tin cho mình và cho người.
Suy niệm 4: Đảm nhận
Khi Đức Athanasius đảm nhận vai trò Giám Mục, ngài tiếp tục chống với lạc thuyết Arian.
Khi là Giám Mục của Alexandria, Thánh Athanasius đã phải đau khổ nhiều vì những thử thách. Ngài được Chúa ban ơn kiên cường để chống lại một điều tưởng như không thể nào vượt qua được vào lúc bấy giờ.
Thánh Athanasius đã sống trọn vẹn trách nhiệm của một vị giám mục. Ngài bảo vệ đức tin chân chính cho đàn chiên, bất kể giá phải trả: Nào là bị Hoàng Đế Constantine trục xuất đến miền bắc nước Gaul. Nào là bị truất phế vì sự liên hiệp của các giám mục theo phe Arian. Nào là bị lưu đầy mười bảy năm chỉ vì bảo vệ tín điều về thiên tính của Đức Kitô.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con, vì trong thế giới ngày nay, chúng con cũng được mời gọi để giữ vững đức tin chân chính với bất cứ giá nào.
Suy niệm 5: Tiếp tục
Khi Đức Athanasius đảm nhận vai trò Giám Mục, ngài tiếp tục chống với lạc thuyết Arian.
Một tâm lý thường tình hay cám dỗ những người mới kế vị trách nhiệm, đó là hay muốn thay đổi hiện trạng bằng những điều mới mẻ hơn, chứ không muốn duy trì những cái cũ của vị tiền nhiệm.
Cách chung những cái mới thì chưa có giá trị, còn những cái không mới thì thường có giá trị vì đã được trải nghiệm qua thời gian và của bao người. Chính vì thế Đức Athanasius đã tiếp tục đường lối cũ của vị tiền nhiệm trong việc chống lại tà thuyết Arian.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sáng suốt để duy trì những điều hay dù là cũ, và đừng chạy theo những cái mới không mang tính hữu ích cho môi trường.
Suy niệm 6: Lưu đầy
Đây là chuyến đi đầu tiên trong một chuỗi hành trình và lưu đầy của Thánh Athanasius có nét phảng phất như cuộc đời Thánh Phaolô.
Những khó nhọc mà Thánh Athanasius đã phải đau khổ trong khi lưu đầy -- trốn tránh, bỏ chạy từ nơi này sang nơi khác -- nhắc nhở chúng ta về những gì mà Thánh Phaolô đã đề cập đến trong cuộc đời ngài:
"Trong nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, ở sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em; trong vất vả mệt nhọc, qua những đêm không ngủ, qua sự đói khát, thường xuyên phải nhịn ăn uống, qua sự lạnh lẽo và trần truồng. Ngoài những điều này, hằng ngày tôi còn bị ray rứt vì sự ưu tư lo cho tất cả các giáo hội" (2 Cr 11,26-28).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con theo gương các thánh nhân cam chịi gian khổ vì Chúa.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 30/4 Thánh Piô V Giáo Hoàng (1504-1572)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Piô V Giáo Hoàng (1504-1572)
Lược sử
Đây là vị giáo hoàng mà công việc của ngài là thi hành nghị quyết của Công Đồng Tridentinô cách đây bốn thế kỷ. Nếu chúng ta nghĩ các giáo hoàng đương thời phải gặp những khó khăn nào trong việc thi hành nghị quyết của Công Đồng Vatican II, thì Đức Piô V lại gặp nhiều khó khăn hơn sau công đồng lịch sử đó.
Đức Piô V sinh trong một gia đình nghèo ở Bosco, nước Ý. Tên rửa tội là Antôniô Micae và vì gia đình quá nghèo nên cậu phải đi chăn cừu. Trong dịp gặp gỡ hai tu sĩ dòng Đa Minh, vì thấy sự thông minh cũng như nhân đức của cậu, họ đã xin phép gia đình đưa cậu về sống với họ, lúc ấy cậu mới 12 tuổi. Sau một thời gian tu tập, Antôniô Micae được thụ phong linh mục năm 1528, sau đó được bổ nhiệm làm giáo sư triết và thần học ở Genoa. Trong mười sáu năm kế đó, Cha Micae đi khắp các cơ sở của nhà dòng để khuyến khích việc tuân giữ Quy Luật Dòng cách nghiêm nhặt qua lời nói cũng như hành động của ngài.
Năm 1555, Cha Micae được tấn phong làm Giám Mục của Nepi và Sutri, và năm 1557, ngài được nâng lên hàng Hồng Y. Năm 1566, Đức Giáo Hoàng Phaolô IV từ trần và Đức Hồng Y Micae được chọn làm người kế vị, lấy tên là Piô V.
Trong nhiệm kỳ giáo hoàng của ngài, 1566 -- 1572, Đức Piô V phải đối diện với một trách nhiệm thật lớn lao đó là phục hồi một Giáo Hội vụn vỡ và phân tán. Dân Chúa thời ấy bị rúng động bởi sự thối nát của hàng giáo sĩ, bởi cuộc Cải Cách Tin Lành, bởi sự đe dọa xâm lăng thường xuyên của người Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 1545, vị giáo hoàng tiền nhiệm triệu tập Công Đồng Tredentinô nhằm cố giải quyết các vấn đề khẩn trương nói trên. Trong vòng 18 năm, các Giáo Phụ thảo luận, lên án, xác nhận và quyết định trong một chuỗi hành động. Và Công Đồng kết thúc năm 1563.
Trong cố gắng cải tổ Giáo Hội và Tòa Thánh Vatican, Đức Piô gặp sự chống đối mãnh liệt của Nữ Hoàng Elizabeth của Anh và Hoàng Đế Maximilian II của Rôma. Các khó khăn ở Pháp và Hòa Lan cũng cản trở cho sự hợp nhất Âu Châu để chống với Thổ Nhĩ Kỳ. Mãi đến giây phút cuối cùng ngài mới có thể tổ chức được một đạo quân và chiến thắng ở Vịnh Lepanto gần Hy Lạp vào tháng Mười 1571.
Sự hoạt động không ngừng của Đức Piô trong việc canh tân Giáo Hội được dựa trên cá tính của ngài là một tu sĩ dòng Đa Minh. Ngài dành nhiều giờ để cầu nguyện với Thiên Chúa, nghiêm nhặt chay tịnh, tự thoái thác những thói quen xa hoa của giáo hoàng thời ấy và trung thành tuân giữ quy luật cũng như tinh thần của Dòng Đa Minh.
Đức Piô từ trần năm 1572.
Suy niệm 1: Thi hành
Đây là vị giáo hoàng mà công việc của ngài là thi hành nghị quyết của Công Đồng Tridentinô cách đây bốn thế kỷ.
Quả là một vị lãnh đạo tinh thần sáng chói và gương mẫu khi ngài không chủ nói mà làm.
Thật vậy, năm 1566, Đức Piô V lên ngôi giáo hoàng và phải đảm nhận công việc cải cách tức thời do Công Đồng đưa ra. Ngài ra lệnh thành lập các chủng viện để huấn luyện các linh mục một cách thích hợp. Ngài cho công bố sách lễ mới, kinh nhật tụng mới, sách giáo lý mới và thiết lập quy chế giáo lý cho trẻ em.
Đức Piô cương quyết áp dụng kỷ luật đối với những lạm dụng trong Giáo Hội. Ngài kiên trì phục vụ người nghèo và người đau yếu qua việc xây cất các bệnh viện, cung cấp thực phẩm cho người nghèo đói và lấy tiền quỹ thường để tổ chức tiệc tùng cho đức giáo hoàng mà giúp đỡ các người tân tòng nghèo ở Rôma.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các nhà lãnh đạo tinh thần đừng đi vào vết xe đổ của các nhà kinh sư và Pharisêu chỉ biết nói mà không chịu làm (Mt 23,3).
Suy niệm 2: Gặp gỡ
Trong dịp gặp gỡ hai tu sĩ dòng Đa Minh, vì thấy sự thông minh cũng như nhân đức của cậu Antôniô Micae, họ đã xin phép gia đình đưa cậu về sống với họ, lúc ấy cậu mới 12 tuổi.
Hạt giống tốt gặp được mãnh đất tốt sẽ sớm triển nở thành cây tươi tốt với những hoa quả tốt đẹp. Chẳng lạ gì sau một thời gian tu tập, Antôniô Micae được thụ phong linh mục năm 1528, sau đó được bổ nhiệm làm giáo sư triết và thần học ở Genoa.
Năm 1555, Cha Micae được tấn phong làm Giám Mục của Nepi và Sutri, và năm 1557, ngài được nâng lên hàng Hồng Y. Năm 1566, Đức Giáo Hoàng Phaolô IV từ trần và Đức Hồng Y Micae được chọn làm người kế vị, lấy tên là Piô V.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chuyên tâm rèn luyện bản thân cho thật tốt, để dễ trở nên tốt hơn khi có cơ may gặp được người tốt.
Suy niệm 3: Quy Luật
Cha Micae đi khắp các cơ sở của nhà dòng để khuyến khích việc tuân giữ Quy Luật Dòng cách nghiêm nhặt qua lời nói cũng như hành động của ngài.
Tâm lý thường tình của con người vốn thích sống phòng khoáng và tự do, không bị gò bó trong khuôn khổ hoặc bị ràng buộc bởi nội quy, bởi lề luật. Nhưng hiện hữu là hiện hữu với, và sống là sống cùng, vì không ai là một hoang đảo.
Điều này có nghĩa là trên đời này đâu chỉ tồn tại một cái “tôi”, mà còn có vô số cái “tôi” khác, bấy nhiêu người là bấy nhiêu cái “tôi” trong xã hội, trong cộng đoàn, trong nhóm. Do đó cần phải có lề luật để dung hòa hết mọi cái “tôi” với nhau, để giúp cuộc sống chung vận chuyển êm đềm trong niềm tôn trọng lẫn nhau. Chính vì thế Cha Micae đã đi khắp các cơ sở của nhà dòng để khuyến khích việc tuân giữ Quy Luật Dòng cách nghiêm nhặt.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tích cực tuân giữ luật lệ cách nghiêm nhặt không chỉ bằng lời nói mà còn bằng hành động nữa.
Suy niệm 4: Phục hồi
Trong nhiệm kỳ giáo hoàng của ngài, Đức Piô V phải đối diện với một trách nhiệm thật lớn lao đó là phục hồi một Giáo Hội vụn vỡ và phân tán.
Giáo Hội bị thảm họa vì Dân Chúa thời ấy bị rúng động bởi sự thối nát của hàng giáo sĩ, bởi cuộc Cải Cách Tin Lành, bởi sự đe dọa xâm lăng thường xuyên của người Thổ Nhĩ Kỳ.
Trong cố gắng cải tổ Giáo Hội và Tòa Thánh Vatican, Đức Piô gặp sự chống đối mãnh liệt của Nữ Hoàng Elizabeth của Anh và Hoàng Đế Maximilian II của Rôma. Các khó khăn ở Pháp và Hòa Lan cũng cản trở cho sự hợp nhất Âu Châu để chống với Thổ Nhĩ Kỳ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tham gia cuộc phục hồi cộng đoàn bằng việc phục hồi chính bản thân mình mỗi ngày mỗi nên tốt hơn.
Suy niệm 5: Công Đồng
Trong vòng 18 năm, các Giáo Phụ thảo luận, lên án, xác nhận và quyết định trong một chuỗi hành động. Và Công Đồng kết thúc năm 1563.
Để kết thúc Công Đồng Vatican II, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã phát biểu trong diễn văn bế mạc của ngài:
"Trong đại hội toàn cầu này, trong thời gian và không gian đặc ân này, quá khứ, hiện tại và tương lai như quy tụ lại. Quá khứ: vì ở đây, tụ họp ở địa điểm này, chúng ta có Giáo Hội của Đức Kitô với truyền thống, lịch sử, các Công Đồng, các tiến sĩ và các thánh của Giáo Hội; hiện tại: chúng ta đang từ giã nhau để đi vào thế giới ngày nay với những bất hạnh, đau khổ, tội lỗi của nó, nhưng cũng có những thành công, giá trị và đức tính của nó; và tương lai ở đây trong lời kêu gọi khẩn trương của những người dân trên thế giới muốn được công bình hơn, trong ý muốn hòa bình, trong khát khao có ý thức hay vô thức về một đời sống cao đẹp hơn, một đời sống mà Giáo Hội của Đức Kitô có thể đem lại và muốn trao ban cho họ".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con xác tín về giá trị của Công Đồng bằng việc hết mình thực thi.
Suy niệm 6: Canh tân
Sự hoạt động không ngừng của Đức Piô trong việc canh tân Giáo Hội được dựa trên cá tính của ngài là một tu sĩ dòng Đa Minh.
Trong đời sống cá nhân và trong hành động của các giáo hoàng, cả Đức Piô V và Phaolô VI đều dẫn dắt gia đình Thiên Chúa trong một tiến trình cải tổ nội bộ nhằm đáp ứng với những thúc giục của Thần Khí trong các Công Đồng chính yếu.
Với sự hăng say và kiên nhẫn, Đức Piô và Phaolô theo đuổi những thay đổi do các Giáo Phụ trong Công Đồng đề ra. Cũng như Đức Piô và Phaolô, chúng ta cũng được mời gọi để liên tục thay đổi tâm hồn và đời sống.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đáp lại lời mời gọi của các vị lãnh đạo tinh thần để liên tục thay đổi tâm hồn và đời sống.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 29/4 Thánh Catarina ở Siena (1347 -- 1380)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Catarina ở Siena (1347 -- 1380)
Lược sử
Trong cuộc đời ngắn ngủi, Thánh Catarina đặt trọng tâm vào việc hoàn toàn phó thác cho Đức Kitô. Điều đáng khâm phục về thánh nữ là ngài coi việc phó thác cho Chúa như một mục đích phải đạt được qua thời gian.
Thánh Catarina, tên thật là Catarina Benincasa, sinh ở Siena và là người con út trong một gia đình có 23 người con. Ngay từ khi 7 tuổi, cô đã dâng hiến tâm hồn cho Đức Kitô. Nơi cô sinh trưởng rất gần San Domenico, trung tâm truyền giáo của Dòng Đa Minh, và khi lớn lên cô bày tỏ ý muốn đi tu, nhưng gia đình lại muốn cô kết hôn. Để nói lên ý chí quyết liệt của mình, cô đã cắt tóc và sau cùng, với sự đồng ý của cha mẹ, Catarina gia nhập tổ chức Mantellate, là hội phụ nữ có liên hệ đến Dòng Đa Minh, họ mặc áo dòng nhưng sống ở nhà, phục vụ người nghèo và người đau yếu. Trong vòng 2 năm liên tiếp cô không bao giờ rời phòng, trừ khi đi xem lễ và xưng tội, và cũng không nói chuyện với một ai trừ cha giải tội. Trong thời gian này, Catarina luyện tập tâm linh qua lối sống khắc khổ.
Sau đó, cô tự phá vỡ đời sống cô độc và bắt đầu hăng say chia sẻ công việc trong nhà, săn sóc người bệnh và giúp đỡ người nghèo. Tuy nhiên cô vẫn dành thời giờ trong thinh lặng và chiêm niệm.
Dần dà, người ta nhận thấy dường như Catarina đọc được tâm hồn của họ và dân chúng thuộc đủ mọi thành phần -- giầu và nghèo, tu sĩ và giáo dân, thợ thuyền và lính tráng - bắt đầu tuốn đến với cô để được khuyên bảo. Từ đó một tổ chức tông đồ giáo dân được thành hình. Các lá thư của cô, hầu hết là các lời khuyên bảo tinh thần và khuyến khích các người mến mộ, ngày càng được công chúng đón nhận.
Vì sự hòa đồng với người đời một cách không sợ sệt cũng như lời nói bộc trực và uy quyền của một người hoàn toàn phó thác cho Chúa, Catarina đã bị dị nghị và dèm pha. Nhưng mọi điều cáo buộc cô đã bị bác bỏ trong Tổng Công Hội Dòng Đa Minh năm 1374.
Một vài tuần trước khi chết, cô đang cầu nguyện trước một bức khảm ở Đền Thánh Phêrô, cô trông thấy con thuyền của Thánh Phêrô dường như rời khỏi bức khảm và đậu trên vai của cô. Con thuyền xô cô ngã quỵ và người ta phải khiêng cô về nhà. Catarina hầu như bất toại cho đến khi từ trần, ngày 24 tháng Tư 1380, lúc ấy mới ba mươi ba tuổi.
Cô được Đức Giáo Hoàng Piô II phong thánh năm 1461, và được coi là một trong những vị thần nghiệm và văn sĩ linh đạo của Giáo Hội. Vào năm 1970, Đức Phaolô VI tuyên xưng thánh nữ là Tiến Sĩ Hội Thánh. Thánh Catarina là người phụ nữ thứ hai (sau Thánh Têrêsa ở Avila) được vinh dự này.
Trong khi các thư của Thánh Catarina thường được coi là cửa ngõ để biết đến con người của ngài, nhưng người ta thường nhắc đến tác phẩm "Đối Thoại" mà ngài chỉ coi đó là "cuốn sách của tôi," gồm các lời giảng dạy của thánh nữ để lại cho các người mến mộ. Cha Raymond, vị linh hướng của thánh nữ cho biết tác phẩm này ghi lại những lời đối thoại với Thiên Chúa khi ngài ngất trí.
Suy niệm 1: Phó thác
Trong cuộc đời ngắn ngủi, Thánh Catarina đặt trọng tâm vào việc hoàn toàn phó thác cho Đức Kitô.
Một thực tế vẫn luôn được tiếp diễn trải qua bao thời đại và trên khắp thế giới, đó là một con người càng nhỏ bé đến mức như một hài nhi mới sinh hoàn toàn bất lực để rồi phải hoàn toàn phó thác vào cha mẹ thì nó lại càng được an toàn và đầy đủ.
Ngược lại giáo sử sơ khai cho hay nguyên tổ Adong và Evà vốn là thụ tạo của Thiên Chúa. Họ đang được hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc sung túc trong bàn tay chăm sóc chu đáo của Thiên Chúa toàn năng, thế nhưng họ đã đánh mất tất cả đến mức trần truồng, một khi họ đã muốn sống tự lập không còn muốn phụ thuộc và phó thác vào Thiên Chúa nữa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con học gương thánh nữ để coi việc phó thác cho Chúa như một mục đích phải đạt được qua thời gian.
Suy niệm 2: Ý chí
Khi lớn lên Catarina bày tỏ ý muốn đi tu, nhưng gia đình lại muốn cô kết hôn.
Để nói lên ý chí quyết liệt của mình, cô đã cắt tóc và sau cùng, với sự đồng ý của cha mẹ, Catarina gia nhập tổ chức Mantellate, là hội phụ nữ có liên hệ đến Dòng Đa Minh, họ mặc áo dòng nhưng sống ở nhà, phục vụ người nghèo và người đau yếu.
Đức Giêsu cũng là nhân vật có ý chí kiên quyết nỗi bật. Thật vậy, mặc dầu biết rõ đi lên Giêrusalem là dấn bước vào tử lộ vì thế tông đồ Phêrô đã mạnh dạn lên tiếng cản ngăn (Mt 16,22), nhưng Đức Giêsu vẫn đi đầu tiến lên (Lc 19,28). Và trên đường thập giá, dầu phải ngã quỵ xuống đất ba lần nhưng Ngài vẫn gượng dậy và dũng cảm tiến lên đón nhận bản án tử hình.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn đứng vững, lòng không nao núng và làm chủ được ý chí của mình (1Cr 7,37).
Suy niệm 3: Khắc khổ
Catarina tu luyện tâm linh qua lối sống khắc khổ.
Lối sống khắc khổ của Catarina mang một sắc thái thật đặc biệt. Trong vòng 2 năm liên tiếp, cô không bao giờ rời phòng, trừ khi đi xem lễ và xưng tội, và cũng không nói chuyện với một ai trừ cha giải tội. Và rồi sau đó, cô tự phá vỡ đời sống cô độc và bắt đầu hăng say chia sẻ công việc trong nhà, săn sóc người bệnh và giúp đỡ người nghèo.
Sự khắc khổ của Đức Giêsu không chủ ở việc ăn châu chấu và uống mật ong rừng cũng như mặc áo lông lạc đà như một Gioan Tẩy Giả, nhưng chủ yếu ở việc phục vụ tha nhân theo các nhu cầu của họ không quản nhọc nhằn thậm chí hy sinh cả giờ ăn uống giờ ngủ nghỉ (Mc 1,32-33;3,20).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống khắc khổ theo hướng luôn tỉnh thức, để không sa vào chước cám dỗ ma quỷ hằng rình chực như sư tử ăn tươi nuốt sống chúng con (1Pr 5,8).
Suy niệm 4: Thinh lặng
Catarina vẫn dành thời giờ trong thinh lặng và chiêm niệm.
Thoạt đầu cô khai thác và phát huy sự thinh lặng ngoại giới bằng cách trong vòng 2 năm liên tiếp cô không bao giờ rời phòng, trừ khi đi xem lễ và xưng tội, và đồng thời cô cũng không nói chuyện với một ai trừ cha giải tội.
Từ sự thinh lặng ngoại tại, cô đã khám phá thấy một sự thinh lặng căn bản và quan trọng hơn nhiều, đó là sự thinh lặng nội tâm, vì với sự thinh lặng này, thì cô có thể ở bất cứ đâu chứ không hẵn phải ở trong phòng đóng kín thì vẫn sống kết hiệp với Chúa được, vì thế cô tự phá vỡ đời sống cô độc và bắt đầu hăng say chia sẻ công việc trong nhà, săn sóc người bệnh và giúp đỡ người nghèo.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luyện tập bằng được lối sống thinh lặng nội tâm, để có thể kết kiệp với Chúa ở bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào.
Suy niệm 5: Dèm pha
Vì sự hòa đồng với người đời một cách không sợ sệt cũng như lời nói bộc trực và uy quyền của một người hoàn toàn phó thác cho Chúa, Catarina đã bị dị nghị và dèm pha.
Cách tốt nhất để vượt qua và chiến thắng những lời thị phi, đó là kiên vững chứng minh giá trị năng lực của mình. Chính nhờ sống thế mà qua thời gian mọi điều cáo buộc cô đã bị bác bỏ trong Tổng Công Hội Dòng Đa Minh năm 1374.
Cô còn có ảnh hưởng rất lớn vì sự thánh thiện hiển nhiên, cũng như vì ảnh hưởng sâu đậm đối với đức giáo hoàng. Cô làm việc không biết mệt trong cuộc thập tự chinh chống với người Thổ Nhĩ Kỳ và trong việc hòa giải thành phố Florence với đức giáo hoàng.
Cô thành công trong việc thuyết phục Đức Giáo Hoàng Grêgôriô XI trở về Rôma, nhưng không bao lâu đức giáo hoàng từ trần và Đức Urbanô VI lên ngôi. Khi cuộc Đại Ly Giáo bùng nổ, Đức Urbanô VI mời Catarina đến Rôma, vì đức giáo hoàng cần sự hỗ trợ của cô. Năm 1378, cô đến Rôma và thường xuyên viết thư gửi các nhà lãnh đạo quốc gia và Giáo Hội để bảo vệ cho quyền giáo hoàng của Đức Urbanô. Hàng ngày, cô đi bộ đến Đền Thánh Phêrô và cầu nguyện cho sự hiệp nhất.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con dũng cảm chấp nhận lối sống dầu bị người đời hiểu lầm đến mức cười chê và dèm pha chứ không bị Chúa chê cười.
Suy niệm 6: Ngất trí
Cha Raymond, vị linh hướng của thánh nữ cho biết tác phẩm này ghi lại những lời đối thoại với Thiên Chúa khi Catarina ngất trí.
Catarina chuyên chăm cầu nguyện và chiêm niệm đến mức ngất trí. Nhờ ngất trí mà một tác phẩm thời danh đã ra đời, đó là tác phẩm "Đối Thoại" mà ngài chỉ coi đó là "cuốn sách của tôi," gồm các lời giảng dạy của thánh nữ để lại cho các người mến mộ.
Một thị kiến cũng đã xảy ra. Catarina đang cầu nguyện trước một bức khảm ở Đền Thánh Phêrô, cô trông thấy con thuyền của Thánh Phêrô dường như rời khỏi bức khảm và đậu trên vai của cô. Con thuyền xô cô ngã quỵ và người ta phải khiêng cô về nhà.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chuyên chăm cầu nguyện và chiêm niệm với sự thinh lặng nội tâm, không để được ngất trí, nhưng để được cảm nghiệm hồng phúc được kết hiệp với Chúa.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 28/4 Thánh Phêrô Chanel (1803 - 1841)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Phêrô Chanel (1803 - 1841)
Lược sử
Bất cứ ai từng làm việc trong cô độc, và cần phải thích ứng tối đa và rất ít cơ hội thành công, đều tìm thấy một tinh thần tương tự nơi Thánh Phêrô Chanel.
Thánh Phêrô Chanel sinh ở Clet trong giáo phận Belley, nước Pháp. Khi là học sinh tiểu học, ngài đã được thầy giáo chú ý vì sự thông minh và đạo đức. Khi gia nhập đại chủng viện, ngài được sự thương mến và quý trọng của các giáo sư cũng như đồng bạn. Khi là linh mục trẻ, ngài làm hồi sinh một giáo xứ trong khu "tồi tệ" của thành phố chỉ sau ba năm hoạt động. Tuy nhiên ngài vẫn muốn trở thành nhà truyền giáo, do đó lúc 28 tuổi ngài gia nhập Dòng Đức Mẹ, là tu hội chú trọng đến công việc truyền giáo ở trong và ngoài nước. Nhưng, trái với điều mong ước, ngài lại được chỉ định công việc dạy học ở đại chủng viện Belley trong vòng năm năm kế đó, và ngài thi hành nhiệm vụ ấy với tất cả nhiệt thành.
Vào năm 1836, nhà dòng được giao cho vùng New Hebrides ở Thái Bình Dương để truyền giáo, và Cha Phêrô thật vui sướng được bổ nhiệm là bề trên của nhóm truyền giáo, tuy nhỏ nhưng hăng say rao giảng Đức Tin cho dân cư trên đảo.
Sau mười tháng lênh đênh trên biển, họ đã cập bến và tách ra làm hai nhóm, và nhóm của Cha Phêrô thì đến Đảo Futuna với hai người phụ tá, gồm một thầy dòng và một giáo dân người Anh. Khi ấy dân cư trên đảo còn trong tình trạng bán khai mà lệnh cấm ăn thịt người chỉ vừa mới được ban hành. Lúc đầu các vị truyền giáo được người bản xứ và tù trưởng Niuliki tiếp đón niềm nở. Tuy nhiên, khi các ngài càng ngày càng sành sõi tiếng địa phương và càng được dân chúng tin tưởng thì ông tù trưởng cảm thấy ghen tức và lo sợ; ông thấy rằng việc chấp nhận đức tin Công Giáo sẽ đưa đến sự bãi bỏ một số đặc quyền mà ông đang được hưởng, với tư cách của một thượng tế và vừa là người cầm quyền. Sau cùng, khi chính con trai ông bày tỏ lòng ước ao muốn được rửa tội, sự căm thù của ông bùng nổ và ông sai các chiến sĩ của ông đi bắt vị trưởng nhóm truyền giáo. Do đó, ngày 28 tháng Tư 1841, Cha Phêrô bị bắt và bị đánh đập cho đến chết bởi những người mà ngài muốn cứu vớt linh hồn họ.
Chỉ trong vòng hai năm sau cái chết của ngài, mọi người trên đảo đều theo đạo Công Giáo và vẫn trung thành với đức tin ấy cho đến ngày nay. Cha Phêrô Chanel là vị tử đạo đầu tiên ở Đại Dương Châu và là quan thầy của châu này.
Suy niệm 1: Thành công
Bất cứ ai từng làm việc trong cô độc, và cần phải thích ứng tối đa và rất ít cơ hội thành công, đều tìm thấy một tinh thần tương tự nơi Thánh Phêrô Chanel.
Thật diễm phúc cho Thánh Phêrô Chanel vì chẳng phải khi còn sống mà sau khi qua đời, ngài đã nếm được sự ngọt ngào của hương vị thành công.
Quả vậy, khi gia nhập đại chủng viện, ngài được sự thương mến và quý trọng của các giáo sư cũng như đồng bạn. Khi là linh mục trẻ, ngài làm hồi sinh một giáo xứ trong khu "tồi tệ" của thành phố chỉ sau ba năm hoạt động.
Rồi chỉ trong vòng hai năm sau cái chết của ngài, mọi người trên đảo New Hebrides ở Thái Bình Dương mà nhà dòng đã giao cho ngài để truyền giáo, tất cả đều theo đạo Công Giáo và vẫn trung thành với đức tin ấy cho đến ngày nay.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chớ chờ đợi và tận hưởng niềm vui được thành công trên đời, nhưng vui mừng vì tên chúng con đã được ghi trên trời.
Suy niệm 2: Đạo đức
Khi là học sinh tiểu học, Thánh Phêrô Chanel đã được thầy giáo chú ý vì sự thông minh và đạo đức.
Lòng đạo đức của Thánh Phêrô Chanel được thấy rõ trong việc từ bỏ ước mong riêng tư dầu chính đáng của mình để thực thi sự sắp đặt của Thiên Ý qua lệnh truyền của bề trên.
Thật vậy, ngài vẫn muốn trở thành nhà truyền giáo, do đó lúc 28 tuổi ngài gia nhập Dòng Đức Mẹ, là tu hội chú trọng đến công việc truyền giáo ở trong và ngoài nước.
Nhưng, trái với điều mong ước, ngài lại được chỉ định công việc dạy học ở đại chủng viện Belley trong vòng năm năm kế đó, và ngài thi hành nhiệm vụ ấy với tất cả nhiệt thành.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chú tâm tập luyện nhân đức để trở thành người đạo đức qua việc luôn thực thi Ý Chúa qua lệnh bề trên.
Suy niệm 3: Ăn thịt người
Dân cư trên đảo còn trong tình trạng bán khai mà lệnh cấm ăn thịt người chỉ vừa mới được ban hành.
Thời bán khai người ta ăn thịt người, còn thời văn mình thì sao? Có thể nói, người ta không còn ăn thịt người theo nghĩa đen, nhưng người ta lại ăn thịt người theo nghĩa bóng và một cách rất tinh vi.
Chỉ bằng một quả bom nguyên tử thả xuống thành phố Nagasaki, Nhật Bản, thì đã giết hại hàng trăm ngàn người. Rồi không cần gươm giáo hay súng đạn mà chỉ bằng một lời nói hành nói xấu hoặc bỏ vạ cáo gian làm mất thanh danh uy tín của một người cũng làm tinh thần họ sa sút và suy sụp đến mức chết còn dễ chịu hơn là được sống.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng bao giờ phạm trọng tội giết người không chỉ về thân xác mà ngay cả về mặt tinh thần nữa.
Suy niệm 4: Ghen tức
Khi các nhà truyền giáo càng ngày càng sành sõi tiếng địa phương và càng được dân chúng tin tưởng thì ông tù trưởng cảm thấy ghen tức và lo sợ.
Lòng ghen tức thường làm đầu óc con người ra mù quáng đến mức hiếu sát bất chấp đối tượng ấy là ai. Thật thế vì ghen tức, Cain không ngần ngại dụ Aben là em ruột mình ra đồng vắng và tự tay giết chết (St 4,8). Cũng vậy vì ghen tức, vua Saun đã manh tâm giết bằng được Đavít vốn là ân nhân mình (1Sm 18,11.17;19,10).
Nếu vì bị mất ảnh hưởng và quyền lợi cá nhân mà vị tù trưởng đã ghen tức đến mức sát hại Thánh Phêrô Chanel thì các đầu mục Dothái cũng vì ghen tức mà giết chết Đức Giêsu.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn kiềm chế bản thân để không gây nhiều hậu quả tai hại do lòng ghen tức.
Suy niệm 5: Đức tin
Chỉ trong vòng hai năm sau cái chết của ngài, mọi người trên đảo đều theo đạo Công Giáo và vẫn trung thành với đức tin ấy cho đến ngày nay.
Sự hiện diện của Đức Kitô đã trở thành duyên cớ cho người sa ngã hoặc đứng lên tùy theo thái độ đón nhận hay khước từ đức tin của họ (Lc 2,34).
Vị tù trưởng thấy rằng việc chấp nhận đức tin Công Giáo sẽ đưa đến sự bãi bỏ một số đặc quyền mà ông đang được hưởng, với tư cách của một thượng tế và vừa là người cầm quyền. Còn chính con trai ông lại bày tỏ lòng ước ao muốn được rửa tội nên sự căm thù của ông bùng nổ và ông sai các chiến sĩ của ông đi bắt vị trưởng nhóm truyền giáo.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con dũng cảm khước từ lợi lộc thế gian, để sống niềm tin vào Chúa hầu đạt được mối lợi vô cùng lớn lao hơn là hạnh phúc quê trời vĩnh cửu.
Suy niệm 6: Tử đạo
Cha Phêrô Chanel là vị tử đạo đầu tiên ở Đại Dương Châu và là quan thầy của châu này.
Chịu đau khổ vì Đức Kitô có nghĩa là chịu đau khổ vì muốn trở nên giống như Đức Kitô. Thường thường chúng ta bị chống đối là vì hậu quả của sự ích kỷ và thiếu khôn ngoan. Chúng ta không phải là người tử đạo khi bị "bạc đãi" bởi những người đã đối xử với chúng ta y như chúng ta đối xử với họ.
Một vị tử đạo Kitô Giáo là người, giống như Đức Kitô, chỉ đơn giản làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa, và sống thật với chính mình. Về điểm này, Đức Hồng Y Newman trong Bài Diễn Văn cho Các Giáo Đoàn Hỗn Hợp đã phát biểu: "Không ai là vị tử đạo chỉ vì một quyết định, không ai là vị tử đạo vì một ý kiến; chính đức tin tạo nên vị tử đạo".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tâm niệm và sống tinh thần tử đạo để trở nên giống Chúa hơn.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 27/4 Thánh Zita ở Lucca (1218 -- 1278)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Zita ở Lucca (1218 -- 1278)
Lược sử
Thánh Zita còn được gọi là Sitha hay Citha. Ngài sinh trong một gia đình nghèo nhưng rất đạo đức ở Lucca, nước Ý. Từ 12 tuổi cho đến chết, ngài làm đầy tớ cho gia đình Fatinelli ở Lucca. Vì không có địa vị trong xã hội nên ngài không có tên họ.
Ngay từ khi còn nhỏ, Zita đã lưu tâm đến những người nghèo và bơ vơ. Lòng thương người ấy ngày càng nổi tiếng, và họ tìm đến ngài. Điều ấy không phù hợp với hoàn cảnh của một đầy tớ cũng như khiến gia chủ phải khó chịu. Và Thiên Chúa đã đích thân ra tay can thiệp.
Ngày tháng dần trôi, ngài trở nên nổi tiếng trong việc giúp đỡ người nghèo, người đau yếu và kẻ tù đầy. Ngay sau khi chết, nhiều phép lạ đã xảy ra nhờ lời cầu bầu của ngài, người ta đã sùng kính ngài như một vị thánh; và danh xưng đó được chính thức trao ban cho ngài năm 1696. Thánh Zita là quan thầy của các người giúp việc trong nhà.
Suy niệm 1: Đạo đức
Thánh Zita sinh trong một gia đình nghèo nhưng rất đạo đức ở Lucca, nước Ý.
Lòng đạo đức của thánh Zita được biểu lộ qua việc bằng lòng chấp nhận số phận làm đầy tớ suốt đời từ 12 tuổi cho đến chết, và nhất là qua lòng thương người nổi bật đối với người nghèo, ngay từ khi còn nhỏ.
Lòng thương người của ngài đã khiến Thiên Chúa phải can thiệp bằng một phép lạ. Một ngày kia, Zita bỏ dở công việc nấu nướng để chăm sóc người nghèo và các đầy tớ khác đã lên mách với gia chủ. Khi xuống bếp điều tra, họ nhìn thấy các thiên thần đang làm công việc bếp núc thay cho Zita.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chú tâm thực hành đức thương người với niềm tin Thiên Chúa sẽ can thiệp đúng lúc.
Suy niệm 2: Đầy tớ
Từ 12 tuổi cho đến chết, thánh Zita làm đầy tớ cho gia đình Fatinelli ở Lucca.
Thánh Zita để lại cho hậu thế một mẫu gương nên thánh trong việc chu toàn bổn phận. Là đầy tớ thì đừng lười biếng nhưng phải siêng năng làm việc hết khả năng mình dầu chỉ được năm hay hai nén (Mt 25,14-30).
Đồng thời là đầy tớ thì phải khiêm tốn phục vụ theo gương Đức Kitô (Ga 13,14-15), cũng như biết ý chủ và hết mình thực thi tôn ý, cho dầu phải luôn chế ngự và hy sinh ý riêng mình theo gương Đức Trinh Nữ Maria (Lc 1,38).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn ý thức mình chỉ là đầy tớ vô dụng vốn làm những việc phải làm theo bổn phận.
Suy niệm 3: Nên thánh
Vì không có địa vị trong xã hội nên thánh Zita không có tên họ.
Con đường nên thánh thật rộng mở cho hết mọi hạng người không phân biệt dẳng cấp hoặc địa vị trong xã hội, giới tính nam nữ, tuổi tác lớn nhỏ cũng như phẩm trật giáo dân hay giáo sĩ. Là một đầy tớ như Zita hoặc một đế vương trên ngai vàng như vua Louis IX nước Pháp cũng có thể làm thánh, miễn có đời sống thánh thiện được thể hiện qua việc sống chết cho Chúa và vì Chúa.
Thật vậy, các anh hài chưa đầy hai tuổi chưa biết gì nhưng bị sát hại trong vụ lùng bắt của vua Hêrôđê cũng được tuyên phong là các Thánh Anh Hài. Một thiếu niên như Dôminicô Saviô hoặc một thiếu nữ Anê chưa được 15 tuổi vẫn được tuyên phong là thánh. Bà giáo dân Anê Lê thị Thành người Việt Nam, nữ tu Têrêxa Hài Đồng Giêsu nguời Pháp, linh mục Maximilien Colbê người Balan, hoặc Giáo Hoàng Clêmentê người Ý vẫn được phong thánh.
* Lãy Chúa Giêsu, xin giúp mỗi người chúng con chuyên chăm sống lành thánh để cũng được nên thánh như các ngài.
Suy niệm 4: Bác ái
Ngay từ khi còn nhỏ, Zita đã lưu tâm đến những người nghèo và bơ vơ. Lòng thương người ấy ngày càng nổi tiếng, và họ tìm đến ngài.
Về đức bác ái, Thánh Phanxicô đã ghi lại trong một bức thư gửi Người Tín Hữu: "chúng ta hãy bác ái và khiêm tốn; chúng ta hãy bố thí vì của bố thí sẽ tẩy sạch vết nhơ tội lỗi trong linh hồn chúng ta (Tb 4,11;12,9).
Vì người ta sẽ mất tất cả những gì họ để lại trần gian mà chỉ đem theo được các phần thưởng của hành động bác ái và bố thí mà họ đã cho đi, vì đó mà họ sẽ được Chúa thưởng công và được đền đáp xứng đáng".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hãy ghi khắc tận tâm khảm và thực thi theo lời khuyên dạy trên.
Suy niệm 5: Can thiệp
Lòng thương người ấy không phù hợp với hoàn cảnh của một đầy tớ cũng như khiến gia chủ phải khó chịu. Và Thiên Chúa đã can thiệp.
Thật vậy, một ngày kia, Zita đã phân phát cả một kho chứa đậu cho những người trong phố khi nạn đói hoành hành. Khả nghi, gia chủ xuống xem xét và lạ lùng thay họ thấy kho vẫn đầy những hạt đậu.
Dầu mang thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, nhưng Đức Maria tôn trọng chương trình của Thiên Chúa, nên không dám hé môi, khiến Thánh Giuse hiểu lầm và đi tới quyết định âm thầm lìa bỏ ra đi. Chính vì thế Thiên Chúa đã can thiệp bằng cách sai sứ thần đến giải thích cho Giuse trong một mộng báo.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn hết mình phụng sự Chúa với niềm xác tín về sự can thiệp đầy tình thương quan phòng của Chúa.
Suy niệm 6: Nổi tiếng
Ngày tháng dần trôi, Zita trở nên nổi tiếng trong việc giúp đỡ người nghèo, người đau yếu và kẻ tù đầy.
Chúng ta thường nói, "Bạn không thể đem theo của cải với mình khi chết." Nhưng người ta vẫn e ngại khi làm việc từ thiện vì họ sợ tài sản của họ sẽ tiêu tan, dù đó là thời giờ, tiền bạc hay sức lực.
Thánh Zita được vinh danh là vì lòng bác ái của ngài. Ngài đã có thể so đo với những người giầu có và bào chữa cho sự ích kỷ của mình. Nhưng ngài đã sống lời Đức Kitô trong câu truyện về người góa phụ nghèo (Lc 21,1-4).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không chủ tìm được nổi tiếng nhưng chủ tìm sống đức ái trọn hảo theo gương Chúa.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 26/4 Thánh Giuse Cottolengo (1786 - 1842)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Giuse Cottolengo (1786 - 1842)
Lược sử
Thánh Giuse Cottolengo là người con cả trong gia đình 12 người con. Sinh trưởng ở Bra, gần Turin, Ý Đại Lợi, sau một thời gian vất vả vì sức khoẻ yếu kém và khó khăn trong việc học, ngài được thụ phong linh mục trong Địa Phận Turin năm 1811.
Trong quãng đời của Cha Giuse, nước Ý tan nát vì chiến tranh và người nghèo cũng như người bệnh tật thường bị quên lãng. Được khích động bởi cuộc đời Thánh Vinh Sơn Phaolô và xúc động trước sự đau khổ của những người chung quanh, Cha Giuse đã thuê phòng ốc để chăm sóc các bệnh nhân, và tuyển mộ các thiếu nữ để điều hành. Khi công việc ngày càng bành trướng và được nhiều người tham gia, Cha Giuse quy tụ những người thiện chí trong hai tổ chức là Tiểu Đệ và Tiểu Muội Thánh Vinh Sơn Phaolô.
Khi bệnh dịch tả lan tràn năm 1831, tổ chức của Cha Giuse phải đóng cửa và di chuyển ra ngoại ô thành phố, ở Voldocco, tiếp tục chăm sóc người bất hạnh. Tổ chức của ngài có tên Nhà Chúa Quan Phòng và phục vụ nhiều loại người khác nhau (người bệnh, già, sinh viên nghèo, người bị bệnh tâm thần, người mù). Tất cả phần tài chánh đều nhờ vào lòng bác ái của mọi người.
Bị mắc bệnh thương hàn, ngài yếu dần và từ trần ở Chieri, nước Ý, và được phong thánh năm 1934.
Suy niệm 1: Vất vả
Sau một thời gian vất vả vì sức khoẻ yếu kém và khó khăn trong việc học, Thánh Giuse Cottolengo được thụ phong linh mục trong Địa Phận Turin năm 1811.
Thành công thường được gặt hái sau chuỗi ngày gian nan vất vả. Để có được một mùa bội thu, người nông dân phải trải qua nhiều công đoạn vất vả trong việc cày bừa gieo trồng rồi thu hoạch. Để có được một bằng tốt nghiệp, người học sinh phải miệt mài học tập và chăm lo đèn sách trong nhiều năm tháng.
Và dĩ nhiên để được thụ phong linh mục, Thánh Giuse Cottolengo cũng phải dày công tu luyện cũng như trau dồi kiến thức và nhất là phải vật lộn với tình trạng sức khoẻ yếu kém của chính bản thân với nhiều năm trời.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chân nhận và sống bài học Chúa dạy: phải qua đau khổ mới vào được vinh quang.
Suy niệm 2: Thi hành thánh ý
Trong quãng đời của Cha Giuse, nước Ý tan nát vì chiến tranh và người nghèo cũng như người bệnh tật thường bị quên lãng. Cha Giuse đã thuê phòng ốc để chăm sóc các bệnh nhân.
Làm thế nào để chúng ta biết được thánh ý Thiên Chúa? Có phải thánh ý đó không thay đổi? Thánh Giuse Cottolengo chỉ bắt đầu thực hiện công việc bác ái nổi tiếng đó sau 21 năm làm linh mục. Những năm cầu nguyện và tìm kiếm đã giúp Thánh Giuse Cottolengo nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa.
Trong quá khứ, dù chúng ta có đáp ứng thế nào với nhu cầu của tha nhân đi nữa, Thiên Chúa luôn luôn mời gọi chúng ta độ lượng hơn nữa, đến mức bỏ ăn (Mc 3,20;6,31) quên nghỉ (Lc 18,15-16), thậm chí hy sinh cả mạng sống mình theo gương Đức Giêsu (Ga 10,11).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn dộ lượng phục vụ tha nhân đến quên mình theo như ý Chúa mong muốn.
Suy niệm 3: Đau khổ
Được khích động bởi cuộc đời Thánh Vinh Sơn Phaolô và xúc động trước sự đau khổ của những người chung quanh, Cha Giuse đã thuê phòng ốc để chăm sóc các bệnh nhân.
Đau khổ luôn hiện diện khắp mọi nơi trên thế giới với muôn vàn dạng thức, và dĩ nhiên cũng gây nên nhiều phản ứng khác nhau. Cha Giuse thì xúc động và biến nỗi niềm thành hành động thuê phòng ốc để chăm sóc các bệnh nhân, và tuyển mộ các người thiện nguyện để điều hành.
Ngược lại có người thì chà đạp trên sự đau khổ của kẻ khác như bán kẻ nghèo khó với giá một đôi giày (Am 2,6), thậm chí làm giàu trên sự đau khổ của tha nhân như một vua Akháp đã dùng thủ đoạn sát hại ông Navốt để chiếm đoạt vườn nho của ông (1V 21,16).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con cùng khóc với người khóc để xoa dịu nỗi khổ của người.
Suy niệm 4: Hợp tác
Cha Giuse đã thuê phòng ốc để chăm sóc các bệnh nhân, và tuyển mộ các thiếu nữ để điều hành.
Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại thành hòn núi cao. Ý thức tự mình một mình không thể làm được hữu hiệu công trình phục vụ những người kém may mắn, Cha Giuse đã bắt tay vào việc chiêu mộ các thiện nguyện.
Thọat đầu Ngài lập nên một tổ chức có tên Nhà Chúa Quan Phòng, rồi dần dần sáng lập các tổ chức Nữ Tử Đấng Thương Xót, Nữ Tử Đấng Chiên Lành, Ẩn Sĩ của Chuỗi Mai Khôi, và các Linh Mục của Thiên Chúa Ba Ngôi, để cùng chung tay phục vụ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con khiêm tốn nhận ra sự hạn hẹp của khả năng mình để luôn chung tay hợp tác với người khác.
Suy niệm 5: Tiếp tục
Khi bệnh dịch tả lan tràn năm 1831, tổ chức của Cha Giuse phải đóng cửa và di chuyển ra ngoại ô thành phố, ở Voldocco, tiếp tục chăm sóc người bất hạnh.
Một công việc diễn tiến đều đặn đến lúc hoàn thành dầu không tránh được nhiều khó khăn, nhưng không thể nào khó khăn bằng một công việc gặp phải trở ngại khi bị gián đoạn mà rồi phải tiếp tục tiến hành cho đến lúc thành công.
Đó là trường hợp của Cha Giuse khi tổ chức phải đóng cửa và di chuyển ra ngoại ô thành phố do bệnh dịch tả lan tràn. Nhưng ngài không bỏ cuộc, ngài không chịu khuất phục trước nghịch cảnh, nên tổ chức đã được ngài phấn đấu tiếp tục để chăm sóc người bất hạnh.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đã bắt tay vào việc thì phải đi đến hoàn thành, cho dầu có bị gián đoạn thì cũng phải tiếp tục luôn mãi.
Suy niệm 6: Tiền bạc
Tất cả phần tài chánh đều nhờ vào lòng bác ái của mọi người.
Tiền bạc có một thế lực rất lớn đến mức có câu: có tiền mua tiên cũng được. Nhưng đừng quên nó lại không có khả năng mua được nước thiên đàng, nếu không được sử dụng đúng ý Chúa, như Chúa đã từng cảnh báo: Người giàu thật khó vào nước thiên đàng biết bao (Mc 10,23-25).
Thật vậy vì tham lam tiền bạc mà hai vợ chồng Khanania và Xaphira đã phạm tội lừa dối Thiên Chúa nên đã bị phạt chết ngay tại chỗ (Cv 5,1-11). Còn ngược lại Banaba bán đất lấy tiền trao cho các tông đồ để phân chia cho các tín hữu thiếu thốn, nên được chọn làm sứ giả loan báo tin mừng (Cv 4,37;13,2) và sau này được tôn vinh hiển thánh.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết sử sụng tiền bạc như viên quản lý trung tín của Chúa.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 25/4 Thánh Máccô
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Máccô (1578-1622)
Lược sử
Những gì chúng ta biết về Thánh Máccô thì trực tiếp từ Kinh Thánh Tân Ước. Ngài thường được coi là nhân vật Máccô trong Tông Đồ Công Vụ 12,12 (Khi Phêrô thoát khỏi ngục và đến nhà mẹ của Máccô).
Phaolô và Barnabas muốn đem theo Máccô trong chuyến truyền giáo đầu tiên, nhưng vì một vài lý do nào đó, Máccô đã ở lại Giêrusalem một mình. Trong cuộc hành trình thứ hai, Phaolô lại từ chối không muốn đem theo Máccô, bất kể sự nài nỉ của Barnabas, điều đó chứng tỏ Máccô đã làm phật lòng Phaolô. Sau này, Phaolô yêu cầu Máccô đến thăm ngài khi ở trong ngục, điều đó cho thấy sự bất hòa giữa 2 người đã không còn.
Là phúc âm đầu tiên và ngắn nhất trong bốn Phúc Âm, Máccô nhấn mạnh đến việc Đức Giêsu bị loài người tẩy chay trong khi chính Người là Thiên Chúa. Phúc Âm Thánh Máccô có lẽ được viết cho Dân Ngoại tòng giáo ở Rôma -- sau cái chết của Thánh Phêrô và Phaolô khoảng giữa thập niên 60 và 70.
Cũng như các thánh sử khác, Máccô không phải là một trong 12 tông đồ. Chúng ta không rõ ngài có biết Đức Kitô một cách cá biệt hay không.
Dấu hiệu của Thánh Máccô là sư tử có cánh, do bởi đoạn Máccô diễn tả Gioan Tẩy Giả như một "tiếng kêu trong hoang địa" (Máccô 1,3), mà các nghệ nhân so sánh tiếng kêu ấy như tiếng sư tử gầm. Đôi cánh của sư tử là vì người ta dùng thị kiến của Êgiêkien về bốn con vật có cánh mà áp dụng cho các thánh sử.
Suy niệm 1: Kinh Thánh
Những gì chúng ta biết về Thánh Máccô thì trực tiếp từ Kinh Thánh Tân Ước.
Kinh Thánh là một kho tàng tích chứa mọi sự khôn ngoan trời đất mang tính vô tận và tuyệt hảo, vì thế chẳng những Kinh Thánh giúp cho chúng ta biết được về Thánh Mác cô mà còn bao điều khác nữa.
Chính Đức Giêsu đã hé mở cho thấy giá trị vượt thời gian và không gian của Kinh Thánh khi nói: Lời Kinh Thánh không thể bị hủy bỏ (Ga 10,35) và được thánh Phêrô xưng tụng: Lời Chúa vẫn tồn tại đến muôn thuở muôn đời (1Pr 1,25).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống niềm xác tín về giá trị vô cùng của Kinh Thánh.
Suy niệm 2: Ở lại
Phaolô và Barnabas muốn đem theo Máccô trong chuyến truyền giáo đầu tiên, nhưng vì một vài lý do nào đó, Máccô đã ở lại Giêrusalem một mình.
Lên đường truyền giáo là một sứ vụ quan trọng và khẩn thiết, nhưng chủ yếu phải ở lại cùng Chúa để nhận ra Thiên Ý và thực thi. Đó cũng là lý do Máccô không lên đường truyền giáo như ý định của Phaolô và Barnabas mà ở lại Giêrusalem một mình.
Và nhất là sau này nhiều người khác cho rằng Máccô đã ở lại làm giám mục đầu tiên của Alexandria, Ai Cập. Thành phố Venice, nổi tiếng với quảng trường San Marco, cho rằng Thánh Máccô là quan thầy của thành phố này; một vương cung thánh đường vĩ đại ở đây được coi là nơi chôn cất thánh nhân.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết ở lại cùng Chúa để nhận ra Thiên Ý và thực thi.
Suy niệm 3: Bất hòa
Phaolô yêu cầu Máccô đến thăm ngài khi ở trong ngục, điều đó cho thấy sự bất hòa giữa 2 người đã không còn.
Thật khó hình dung được việc ở những bậc thánh nhân như một Phaolô và một Máccô lại để mối bất hòa xảy ra. Nhưng điều này cho thấy thánh nhân cũng chỉ là con người, nên trên bước đường hoàn thiện bản thân vẫn luôn tồn tại nhiều khuyết điểm cần phải sửa chữa.
Nhưng cũng chính nhờ thánh thiện mà cuối cùng các ngài cũng đã giải hòa được với nhau, để lại một tấm gương sáng cho mọi người noi theo. Ai cũng có lỗi lầm, điều qun trọng là biết kiên nhẫn khắc phục.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nghiền ngẫm và thực hành lời dạy: Chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn (Ep 4,26).
Suy niệm 4: Phúc âm
Là phúc âm đầu tiên và ngắn nhất trong 4 Phúc Âm, Máccô nhấn mạnh đến việc Đức Giêsu bị loài người tẩy chay trong khi chính Người là Thiên Chúa.
Cuộc đời Thánh Máccô đã hoàn tất những gì mà mọi Kitô Hữu được mời gọi để thi hành: rao truyền Tin Mừng cứu độ cho mọi người. Đặc biệt, phương cách của Thánh Máccô là qua sự viết văn với kiệt tác được gọi là phúc âm thánh Máccô.
Những người khác có thể loan truyền Tin Mừng qua âm nhạc, nghệ thuật sân khấu, thi văn hay giáo dục con em ngay trong gia đình, tùy theo nén bạc mà Chúa ân ban cho mỗi người.
* Lạy Chúa Giêsu, xin thương giúp chúng con đừng lười biếng chôn vùi tài năng mà phải phát huy hết khả năng mình.
Suy niệm 5: Cá biệt
Cũng như các thánh sử khác, Máccô không phải là một trong 12 tông đồ. Chúng ta không rõ ngài có biết Đức Kitô một cách cá biệt hay không.
Một số sử gia cho rằng vị thánh sử này đã nói đến chính ngài trong đoạn Đức Kitô bị bắt ở Giệtsimani: "Bấy giờ một người trẻ đi theo Người chỉ khoác vỏn vẹn một tấm vải gai. Họ túm lấy anh, nhưng anh tuột tấm vải lại, bỏ chạy trần truồng" (Máccô 14,51-52).
Như thế Máccô cũng có biết Đức Giêsu cách cá biệt, nhưng thật ra vốn là đệ tử ruột của thánh Phêrô (1Pr 5,13), Máccô đã dựa theo những lời giảng dạy của thánh Phêrô, để ghi chép mạch lạc thành những chương mục về cuộc sống của Chúa Giêsu, và hoàn thành cuốn phúc âm vô giá.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con mạnh dạn chia sẻ những hiểu biết về Chúa cho tha nhân.
Suy niệm 6: Dấu hiệu
Dấu hiệu của Thánh Máccô là sư tử có cánh, do bởi đoạn Máccô diễn tả Gioan Tẩy Giả như một "tiếng kêu trong hoang địa" (Máccô 1,3), mà các nghệ nhân so sánh tiếng kêu ấy như tiếng sư tử gầm.
Đôi cánh của sư tử là vì người ta dùng thị kiến của Êgiêkien về bốn con vật có cánh mà áp dụng cho các thánh sử. Dấu hiệu của thánh Mátthêu là người vì khởi đầu nói về gia phả Đức Giêsu (Mt 1,1). Dấu hiệu của thánh Luca là bò rừng vì đề cập đến việc tế tự (Lc 1,6) và của thánh Gioan là phượng hoàng vì hướng tới Ngôi Lời cao vời (Ga 1,1).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không dừng lại ở dấu hiệu nhưng khám phá thấy ý nghĩa ẩn sâu trong dấu hiệu.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 24/4 Thánh Fidelis Sigmaringen (1578-1622)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Fidelis Sigmaringen (1578-1622)
Lược sử
Nếu có người nghèo cần đến quần áo, Thánh Fidelis thường lấy ngay quần áo của mình đang mặc mà chia sẻ cho họ. Sự hoàn toàn độ lượng là đặc tính của cuộc đời thánh nhân.
Sinh năm 1578 trong một gia đình giầu có ở Sigmaringen, Thánh Fidelis có tên gọi là Mark Rey, ngay từ nhỏ rõ ràng ngài đã có những khả năng đặc biệt. Sau khi được vinh dự nhận bằng tiến sĩ triết và luật tại Đại Học Freeburg, Mark Rey cùng với ba người bạn đi khắp Âu Châu trong vòng sáu năm. Ngài hành nghề luật sư, và các thân chủ đều mến mộ sự khôn ngoan và công chính của ngài. Nhưng dần dà ngài cảm thấy ghê tởm sự thối nát trong giới đồng nghiệp, và khi được hối lộ để kéo dài một vụ kiện ngài đã quyết định đi tu, gia nhập dòng Phanxicô và lấy tên Fidelis. Tài sản của ngài được chia cho người nghèo và nhà dòng.
Với quyết tâm rao giảng cho mọi người biết về đức tin chân thật, sau khi thụ phong linh mục, Cha Fidelis được phép hoạt động truyền giáo cho người Tin Lành, đó là một công việc đầy nguy hiểm trong thời ấy. Ngài chuẩn bị cho sứ vụ này bằng việc học hỏi, viết lách, cầu nguyện và hãm mình. Với những lời đầy nhiệt huyết ngài bài bác lạc thuyết của Calvin và Zwingli. Nhiều người Tin Lành cũng như người Công Giáo sa ngã đã trở về với đức tin Công Giáo.
Sau đó Cha Fidelis làm Giám Đốc của một tu viện và là nguồn khai sáng cho các tu sĩ với tinh thần chiêm niệm luôn bao trùm nhà dòng. Chính ngài và các thầy chăm sóc các quân nhân về thể xác cũng như tinh thần khiến các sĩ quan Tin Lành tức giận.
Có lần ngài nói với một linh mục bạn về hai điều ước của ngài; một là được ơn không bao giờ phạm tội trọng, và hai là được chết vì Đức Tin. Thiên Chúa đã nhận lời ngài.
Trong ba năm, ngài được Đức Giáo Hoàng Grêgôriô XV sai đến Thetia hoạt động và ngài hoán cải rất nhiều người. Các giáo sĩ theo phái Calvin xách động dân chúng, và vào ngày 24 tháng Tư 1624, đó là lần rao giảng chót của Cha Fidelis. Khi ngài vừa lên toà giảng để nói về "Một Thiên Chúa, Một Đức Tin, Một Phép Rửa", đám đông la ó phản đối, họ lôi ngài ra khỏi nhà thờ và dùng gậy gộc đánh đập và dùng gươm đâm ngài chết.
Suy niệm 1: Bác ái
Sự hoàn toàn độ lượng là đặc tính của cuộc đời thánh nhân.
Tinh thần độ lượng của Thánh Fidelis được biểu lộ trong nhiều việc, cụ thể nếu có người nghèo cần đến quần áo, ngài thường lấy ngay quần áo của mình đang mặc mà chia sẻ cho họ.
Vì độ lượng là đặc tính của cuộc đời thánh nhân, nên dầu là đang là tân tòng, thánh Martinô thành Turinô đã chia cắt phân nửa áo choàng đang mặc của mình cho người hành khất đang nằm rét run bên vệ đường giữa đêm đông giá lạnh.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con có một đức tin mạnh mẽ để nhận ra Chúa đang hiện diện nơi tha nhân hầu dễ dàng thực thi đức ái yêu người.
Suy niệm 2: Luật sư
Thánh Fidelis hành nghề luật sư, và các thân chủ đều mến mộ sự khôn ngoan và công chính của ngài.
Nhưng dần dà ngài cảm thấy ghê tởm sự thối nát trong giới đồng nghiệp, và khi được hối lộ để kéo dài một vụ kiện ngài đã quyết định đi tu, gia nhập dòng Phanxicô và lấy tên Fidelis.
Ngài quyết định rời bỏ nghề luật sư vì không phù hợp với đường hướng của Giáo Hội mà Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 1971 nhắc lại: "Hành động vì sự công bằng và tham dự trong việc biến đổi thế gian thực sự là một yếu tố cơ bản trong việc rao giảng phúc âm hoặc, nói cách khác, trong sứ vụ của Giáo Hội để cứu chuộc loài người và giải thoát con người khỏi mọi áp bức" ("Sự Công Bằng Trong Thế Giới," Thượng Hội Đồng Giám Mục, 1971).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn noi gương người "luật sư của người nghèo" này bằng cách chia sẻ tài năng chúng con với những người kém may mắn, và hoạt động cho sự công bằng của thế giới.
Suy niệm 3: Cầu nguyện
Thánh Fidelis chuẩn bị cho sứ vụ truyền giáo cho người Tin Lành bằng việc học hỏi, viết lách, cầu nguyện và hãm mình.
Sự liên lỉ cầu nguyện của Thánh Fidelis đã giữ ngài luôn trung thành với Thiên Chúa và không nhượng bộ sự lãnh đạm và thờ ơ. Người ta thường nghe ngài nói: "Khốn cho tôi, nếu tôi chỉ là một người lính thiếu tận tâm phục vụ vị Thủ Lãnh đội mão gai."
Sự cầu nguyện đối với sự thờ ơ, và sự lưu tâm đối với người nghèo đã khiến nhiều người Tin Lành cũng như người Công Giáo sa ngã trở về với đức tin Công Giáo, nhờ đó thánh nhân trở nên một gương mẫu có giá trị cho ngày nay.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sử dụng lợi khí cầu nguyện để đứng vững trong đức tin và giúp người sai lạc trở về ràn chiên Chúa.
Suy niệm 4: Lạc thuyết Zwingli
Với những lời đầy nhiệt huyết Thánh Fidelis bài bác lạc thuyết của Calvin và Zwingli.
Zwingli chủ trương công chính hóa bằng nguyên đức tin nhưng dựa trên Thánh Ý Thiên Chúa. Ý Chúa được biểu hiện trong Thánh Kinh và được tự do giải thích dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
Ngoài ra Zwingli còn từ chối Thánh Truyền và các luật lệ Giáo Hội cũng như đánh giá Tiệc Ly chỉ là một kỷ niệm, bánh thánh chỉ là tượng trưng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con xác tín Hội Thánh duy nhất của Đức Kitô là Hội Thánh Công Giáo do vị kế nhiệm Phêrô và các giám mục hiệp thông với ngài điều khiển (Sách Giáo Lý số 816).
Suy niệm 5: Ước nguyện
Có lần Thánh Fidelis nói với một linh mục bạn về hai điều ước của ngài; một là được ơn không bao giờ phạm tội trọng, và hai là được chết vì Đức Tin. Thiên Chúa đã nhận lời ngài.
Liên quan đến việc phạm tội, thân mẫu của thánh Louis IX vua nước Pháp cũng có một ước nguyện được thể hiện trong việc thường nhắc nhở con mình: Mẹ thà thấy con chết trườc mặt mẹ còn hơn thấy con phạm tội.
Còn thánh trẻ Đaminh Saviô thì nuôi sống chí nguyện được bày tỏ trong quyết tâm: Thà chết chứ không thà phạm tội. Và dĩ nhiên quyết tâm này đã được hiện thực nơi bao vị anh hùng tử đạo dầu có thể các ngài đã chưa một lần nói ra thành lời.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không nói nhưng sống mãi chí nguyện thà chết chứ không thà phạm tội.
Suy niệm 6: Chết khi hành sự
Khi Thánh Fidelis vừa lên toà giảng để nói về "Một Thiên Chúa, Một Đức Tin, Một Phép Rửa", đám đông la ó phản đối, họ lôi ngài ra khỏi nhà thờ và dùng gậy gộc đánh đập và dùng gươm đâm ngài chết.
Một trong hai ước nguyện của Thánh Fidelis là được chết vì đức tin, và ngài đã được nhận lời, trong khi thi hành sứ mạng rao truyền các chân lý đức tin trên tòa giảng.
Các giáo sĩ theo phái Calvin xách động dân chúng và đám đông la ó phản đối và giết chết ngài. Một tình cảnh tái diễn tương tự như Đức Giêsu cũng bị các đầu mục Dothái xúi giục quần chúng và họ đồng thanh xin quan Philatô tha Baraba và giết chết Ngài bằng bản án tử hình thập giá (Mt 27,20).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn kiên tâm thi hành bổn phận để cũng được chết khi hành sự.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 23/4 Thánh George (c. 304)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh George (c. 304)
Lược sử
Người ta thường vẽ hình Thánh George đang giết con rồng để cứu thoát một phụ nữ xinh đẹp. Con rồng tượng trưng cho sự dữ. Người phụ nữ tượng trưng cho chân lý thánh thiện của Thiên Chúa. Thánh George là vị tử đạo can đảm đã chiến thắng sự dữ.
Cuộc đời Thánh George thì đầy những huyền thoại đến nỗi thật khó để phân biệt thực hư. Người ta cho rằng Thánh George xuất thân từ Cappadocia thuộc Tiểu Á, là một sĩ quan trong đạo quân của Hoàng Đế La Mã Diocletian (245 -- 313), và là người được Hoàng Đế mến mộ.
Lúc bấy giờ, Diocletian là người ngoại đạo và thù ghét Kitô Giáo. Ông giết bất cứ Kitô Hữu nào mà ông gặp. Thánh George là một Kitô Hữu can đảm, một người lính đích thực của Đức Kitô. Không sợ hãi, ngài đến gặp Hoàng Đế và nghiêm nghị quở trách sự tàn ác của ông. Sau đó ngài từ bỏ địa vị trong quân đội La Mã. Vì lý do đó ngài bị tra tấn bằng mọi cách khủng khiếp nhất và sau cùng bị chém đầu.
Sự can đảm và hăng hái tuyên xưng đức tin của Thánh George đã đem lại niềm phấn khởi cho các Kitô Hữu thời ấy. Nhiều bài hát và bài thơ đã được sáng tác về vị tử đạo này. Đặc biệt, các quân nhân là những người sùng kính ngài.
Ngài được phong thánh năm 494, Đức Giáo Hoàng Gelasius tuyên xưng ngài là một trong những người "mà tên tuổi thật xứng đáng để người đời kính trọng, và chứng từ tử đạo của ngài đáng để dâng lên Thiên Chúa."
Thánh George được đặt làm quan thầy của nước Anh, Bồ Đào Nha, Đức, Aragon, Genoa và Venice.
Suy niệm 1: Con rồng
Người ta thường vẽ hình Thánh George đang giết con rồng để cứu thoát một phụ nữ xinh đẹp.
Con rồng tượng trưng cho sự dữ, vì nó cũng có những hành động thù nghịch đối với người Phụ Nữ như con Mãng Xà vốn đuổi bắt người Phụ Nữ đã sinh con trai... Từ miệng, Con Rắn phun nước ra đằng sau bà như một dòng sông, để cuốn bà đi. Nhưng đất cứu giúp bà... Con Mãng Xà nổi giận với người Phụ Nữ và đi giao chiến với những người còn lại trong dòng dõi bà, là những người tuân theo các điều răn của Thiên Chúa và giữ lời chưng của Đức Giêsu. (Kh 12, 13-18).
Tất cả chúng ta đều có những "con rồng" để khuất phục. Nó có thể là sự kiêu ngạo, sự nóng giận, sự lười biếng, sự tham lam, hoặc bất cứ gì khác. Hãy biết rằng chúng ta chiến đấu những "con rồng" đó với sự trợ giúp của Thiên Chúa. Và rồi, chúng ta có thể tự hào mình là chiến sĩ đích thực của Đức Kitô.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn công tác với ơn Chúa, để chiến thắng được những con rồng đang hoành hành nơi chúng con.
Suy niệm 2: Phụ nữ
Người ta thường vẽ hình Thánh George đang giết con rồng để cứu thoát một phụ nữ xinh đẹp.
Người phụ nữ tượng trưng cho chân lý thánh thiện của Thiên Chúa, với nhiều vẻ đẹp khác nhau. Chẳng hạn bà Rút diễn đạt đạo hiếu của Thiên Chúa (R 1,16-17), còn bà Giuđích thì lòng yêu thương thủy chung (Gđt 16,22), bà Tabitha có nghĩa là Linh Dương thì lòng nhân ái và phục vụ (Cv 9,36).
Riêng Đức Maria là người nữ tin yêu tuyệt vời (Lc 1,45), luôn sống và thực hành lời Chúa (Mt 12,50;Lc 11,28), say mê đời sống cầu nguyện được biểu lộ đậm nét qua bài ca Ngợi Khen (Lc 1,46tt), cũng như quan tâm hết mình đến nhu cầu tha nhân (Ga 2,3).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp giới phụ nữ sống trọn chức năng làm khí cụ biểu lộ nét đẹp của Thiên Chúa.
Suy niệm 3: Chính quyền
Thánh George xuất thân từ Cappadocia thuộc Tiểu Á, là một sĩ quan trong đạo quân của Hoàng Đế La Mã Diocletian (245 -- 313), và là người được Hoàng Đế mến mộ.
Dầu được Hoàng Đế mến mộ, nhưng Thánh George đến gặp Hoàng Đế và nghiêm nghị quở trách sự tàn ác của ông. Sau đó ngài từ bỏ địa vị trong quân đội La Mã. Vì lý do đó ngài bị tra tấn bằng mọi cách khủng khiếp nhất và sau cùng bị chém đầu.
Thánh Gioan Tiền Hô cũng không hề nể sợ uy quyền của vua Hêrôđê. Thấy đức vua vi phạm luật hôn nhân, ngài thẳng thắn ra lệnh cấm đoán đức vua như một kẻ có uy quyền: “Vua không được phép lấy vợ của anh” (Mc 6,18) dầu sau đó phải chuốc lấy hậu quả khốc liệt cho mình là bị bỏ tù và bị chém đầu (Mc 6,17.27).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng sợ kẻ giết được thân xác mà phải sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục (Mt 10,28).
Suy niệm 4: Lính Đức Kitô
Thánh George là một Kitô Hữu can đảm, một người lính đích thực của Đức Kitô.
Ngài là lính nhưng là người lính đích thực của Đức Kitô, vì ngài đã chẳng những nghiêm nghị quở trách sự tàn ác của hòang đế mà còn từ bỏ địa vị trong quân đội La Mã, cho dầu phải bị tra tấn bằng mọi cách khủng khiếp nhất và sau cùng bị chém đầu, để nói lên lòng trung tín với Đức Kitô.
"Mỗi khi nhìn đến đời sống của những người đã trung tín theo Đức Kitô, chúng ta lại có thêm một lý do nữa để phấn khởi tìm kiếm Thành Thánh tương lai" (Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội, 50).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn trung tín với Chúa hơn bất cứ một ai hoặc một điều gì khác.
Suy niệm 5: Phấn khởi
Sự can đảm và hăng hái tuyên xưng đức tin của Thánh George đã đem lại niềm phấn khởi cho các Kitô Hữu thời ấy.
Xét về mặt đời, một con én không làm nên mùa xuân, nhưng xét về mặt thiêng liêng thì khác. Duy chỉ đời sống mẫu gương của thánh Georges trong việc tuyên xưng đức tin đã tạo nên nguồn phấn khích cho mọi Kitô Hữu thời ấy.
Cũng thế, duy chỉ một mình cậu trẻ Đavít can đảm tuyên chiến và hạ gục được tướng khổng lồ Gôliát cũng đem lại an bình cho cả toàn quân dân Ítraen, khiến các phụ nữ trong hết mọi thành ca hát nhảy múa mừng reo: “Vua Saun hạ được hàng ngàn, ông Đavít hàng vạn” (1Sm 18,6-7).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn can đảm sống tốt như đóa sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Suy niệm 6: Sùng kính
Nhiều bài hát và bài thơ đã được sáng tác về vị tử đạo này. Đặc biệt, các quân nhân là những người sùng kính Thánh George.
Vì Thánh George xuất thân từ quân đội nên các quân nhân sùng kính ngài với niềm vinh dự là điều dễ hiểu. Nhưng lý do mà Thánh George được sùng kính không phải vì là quận nhân mà nhất là vì đời sống mẫu gương về việc tuyên xưng đức tin.
Chính vì thế các Kitô Hữu thời ấy chứ không riêng gì các quân nhân đều phấn khởi khi thấy sự can đảm và hăng hái tuyên xưng đức tin của Thánh George. Nếu đã thế thì không chỉ các Kitô Hữu thời ấy mà ở mọi thời đều phải nêu cao mẫu gương ấy, do đó năm 494, Đức Giáo Hoàng Gelasius tuyên xưng ngài là một trong những người "mà tên tuổi thật xứng đáng để người đời kính trọng, và chứng từ tử đạo của ngài đang để dâng lên Thiên Chúa".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thấu hiểu tâm ý của Tòa Thánh để luôn sùng kính Thánh George bằng việc sống theo gương sáng của ngài.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 22/4 Chân Phước Giles ở Assisi (1190 -- 1262)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Chân Phước Giles ở Assisi (1190 -- 1262)
Lược sử
Chân Phước Giles, một môn đệ của Thánh Phanxicô, là người đơn giản và siêng năng cầu nguyện.
Vào ngày 23 tháng Tư, 1208, một người tá điền tên Giles đã phân phát tài sản cho người nghèo và đi theo Thánh Phanxicô. Trong phần giới thiệu ông Giles, Thánh Phanxicô nói: "Đây là một người anh em tốt lành mà Thiên Chúa đã gửi đến cho chúng ta! Hãy ngồi vào bàn và ăn mừng."
Vào năm 1219, ngài đến Tunis để rao giảng cho người Hồi Giáo, nhưng người Kitô Giáo ở đây, sợ rằng ngài sẽ gây khó khăn cho họ, nên đã đưa ngài lên thuyền trở về Ý. Sau đó, Thầy Giles làm việc lao động trong vài năm. Vào năm 1234, ngài di chuyển đến Monte Rapido gần Perugia để theo đuổi đời sống chiêm niệm. Thầy sống ở đây cho đến khi từ trần.
Thầy Giles luôn luôn làm việc để có miếng ăn hàng ngày ngay cả khi ngài là khách.
Là một trong những môn đệ tiên khởi của Thánh Phanxicô, Thầy Giles khước từ mọi dễ dãi về kỷ luật trong Quy Luật Thánh Phanxicô. Thầy được phong chân phước năm 1777.
Suy niệm 1: Môn đệ
Chân Phước Giles, một môn đệ của Thánh Phanxicô, là người đơn giản và siêng năng cầu nguyện.
Trong thời gian đầu sau khi là một tu sĩ dòng Phanxicô và là một môn đệ của Thánh Phanxicô, Thầy Giles tháp tùng Thánh Phanxicô trong nhiều công tác truyền giáo ở chung quanh Assisi, cũng như hành hương đến Rôma, Đất Thánh và đền nổi tiếng của Thánh Giacôbê ở Compostela, Tây Ban Nha.
Là môn đệ của Đức Giêsu, các tông đồ cũng luôn tháp tùng Ngài trên khắp mọi nẻo đường truyền giáo ở đất nước Dothái, đến mức sống tam cùng với Ngài: cùng ăn cùng ở cùng làm việc.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn theo sát Chúa trên đường thập giá để xứng là môn đệ Chúa.
Suy niệm 2: Đơn giản
Chân Phước Giles, một môn đe của Thánh Phanxicô, là người đơn giản và siêng năng cầu nguyện.
Chi tiết sau đây cho thấy Thầy Giles quả là một con người đơn giản. Khi Thánh Bonaventura đến Perugia, Thầy Giles hỏi ngài rằng: một người ngu dốt có thể yêu mến Thiên Chúa nhiều như một học giả không. Thánh Bonaventura, lúc ấy là một thần học gia nổi tiếng xuất thân từ Đại Học Balê và là bề trên tổng quyền, trả lời: "Một bà già tầm thường có thể yêu mến Thiên Chúa nhiều hơn là một bậc thầy về thần học."
Ngay lập tức, Thầy Giles chạy đi gặp một bà già và nói, "Bà ơi, dù bà đơn sơ và không có học thức, nhưng nếu bà yêu mến Thiên Chúa thì bà có thể cao trọng hơn cả Bonaventura".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chú tâm sống đơn giản là chỉ biết yêu mến Thiên Chúa.
Suy niệm 3: Cầu nguyện
Chân Phước Giles, một môn đệ của Thánh Phanxicô, là người đơn giản và siêng năng cầu nguyện.
Là con người cầu nguyện, Thầy Giles ưa thích nói về chuyện thiên đàng cách say sưa đến mức ngất trí như mẫu chuyện kể sau đây, để rồi như đức giáo hoàng Grêgôriô IX và Thánh Bonaventura đồng ý, Thầy Giles là một bậc thầy về đời sống tâm linh.
Đức Giáo Hoàng Grêgôriô IX, trước đây là Hồng Y Hugolinô và là một người ái mộ Thánh Phanxicô, đã có lần đưa Thầy Giles đến Viterbo để ngài có thể tận mắt chứng kiến sự thánh thiện của thầy. Cả hai bắt đầu nói chuyện về thiên đàng, và Thầy Giles đã hai lần rơi vào tình trạng ngất trí trong một thời gian khá lâu.
Một lần khác, đức giáo hoàng yêu cầu thầy khuyên bảo về nhiệm vụ của một giáo hoàng. Thầy nói với đức giáo hoàng là ngài phải có hai đôi mắt trong linh hồn: một đôi để chiêm ngắm những sự trên trời, và một đôi để nhìn đến những sự dưới đất.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con dầu sống ở dưới thế nhưng luôn tưởng nghĩ đến những sự trên trời.
Suy niệm 4: Mục đích
Vào ngày 23 tháng Tư, 1208, một người tá điền tên Giles đã phân phát tài sản cho người nghèo và đi theo Thánh Phanxicô.
Chúng ta được dựng nên với một mục đích. Chân Phước Giles biết rằng mục đích của đời sống chúng ta là sống với Thiên Chúa, và ngài đã vui vẻ chuẩn bị cho đời sống ấy, bằng việc phân phát tài sản cho người nghèo và đi theo chân Thánh Phanxicô, để rồi sống đời thánh thiện và được làm chân phước.
Không như chàng thanh niên giàu có trong Tin Mừng (Lc 18,18-23). Dầu có thiện chí muốn được sự sống đời đời, nên đã tuân giữ các điều răn từ thuở nhỏ, nhưng không bán được tài sản để giúp kẻ nghèo và đi theo Đức Giêsu, nên không được liệt vào danh sách những người lành thánh.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con vượt qua rào cản của vật chất, để sống cho Thiên Chúa như mục đích duy nhất của đời mình.
Suy niệm 5: Bác ái
Vào năm 1219, ngài đến Tunis để rao giảng cho người Hồi Giáo, nhưng người Kitô Giáo ở đây, sợ rằng ngài sẽ gây khó khăn cho họ, nên đã đưa ngài lên thuyền trở về Ý.
Vì bác ái, Thầy Giles không sống cho chính mình mà sống cho tha nhân. Vì thế ngài đến Tunis để muốn chia sẻ hồng ân làm con Chúa cho người Hồi Giáo. Và rồi cũng vì bác ái, ngài không muốn gây khó khăn cho người Kitô Giáo đang sống ở đây nên lại bằng lòng lên thuyền trở về Ý, đúng như tâm tình ngài ghi lại ở cuốn Lời Vàng:
"Chim chóc trên trời, muông thú dưới đất và cá dưới biển đều thỏa mãn khi chúng có đủ thức ăn. Nhưng con người thì không thỏa mãn với những sự trần thế và luôn luôn khao khát những điều khác, do đó hiển nhiên là con người được tạo dựng không chỉ cho chính mình mà còn cho tha nhân. Vì thân xác được tạo dựng là cho linh hồn, và thế giới này được tạo dựng là cho thế giới khác".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tập sống bác ái đừng vì mình mà vì người.
Suy niệm 6: Làm việc
Thầy Giles luôn luôn làm việc để có miếng ăn hàng ngày ngay cả khi ngài là khách.
Thật vậy, có lần khi đang ở nhà một vị hồng y, và buổi sáng hôm ấy trời mưa tầm tã. Vị hồng y vui mừng nghĩ rằng Thầy Giles sẽ không thể nào làm việc lao động được, và thầy sẽ phải nhận lòng bác ái của đức hồng y. Tuy nhiên, người tu sĩ khéo léo này đã đi vào bếp để lau chùi, quét dọn và giúp người đầu bếp chuẩn bị bữa ăn tối!
Đức Giêsu cũng nêu gương làm việc để sinh sống nên được gọi là bác thợ (Mc 6,3) và con của bác thợ (Mt 13,55). Thánh Phaolô cũng sống bằng nghề dệt lụa (Cv 18,3) và tự hào về điều đó (Cv 20,34;1Cr 4,12), nên cũng mạnh mẽ nói lên: “Ai không chịu làm thì cũng đừng ăn (2Tx 3,10).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng lười biếng ăn bám kẻo bị chê trách (Hc 29,23), nhưng hãy luôn siêng năng làm việc để có cái ăn.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
- Ngày 21/4 Thánh Anselm (1033-1109)
- Ngày 20/4 Thánh Conrad ở Parzham (1818 - 1894)
- Ngày 19/4 Chân Phước Luchesio và Buonadonna (c. 1260)
- Ngày 18/4 Chân Phước Pedro de San José Betancur (1626 - 1667)
- Ngày 17/4 Thánh Benedict Joseph Labré (1748 - 1783)
- Ngày 16/4 Thánh Bernadette Soubirous (1844 - 1879)
- Ngày 15/5 Chân Phước Damien ở Molokai (1840 - 1889)
- Ngày 14/4 Thánh Gemma Galgani (1878 - 1903)
- Ngày 13/4 Thánh Giáo Hoàng Martin I (c. 655)
- Ngày 12/4 Chân Phước William Ward (1560-1641)