Gương Thánh Nhân
Ngày 06/6 Thánh Norbert (1080-1134)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Norbert (1080-1134)
Norbert đã là một thanh niên yêu chuộng thế gian và các vui thú của nó, rồi hoán cải thành một linh mục thánh thiện, sống đời khắc khổ, khởi sự cho tu hội Premonstratensian đặc biệt sùng kính Thánh Thể và canh tân giáo hội.
Lược sử
Thánh Norbert sinh ở Xanten, Rhineland khoảng năm 1080. Khi là thanh niên, Norbert rất yêu chuộng thế gian và các vui thú của nó. Đó là thói quen từ một gia đình quyền quý và được nối tiếp trong sinh hoạt của triều đình nước Đức. Không một cuộc vui nào mà anh không có mặt. Để đảm bảo cho việc thăng quan tiến chức trong triều đình, anh không do dự chấp nhận chức kinh sĩ, là một chức thánh, và các lợi lộc tài chánh của chức vụ đó. Tuy nhiên, anh đã do dự khi trở thành một linh mục với tất cả các trách nhiệm của ơn gọi ấy.
Các biến cố xảy ra trong đời là để Thiên Chúa thức tỉnh con người.
Anh bắt đầu một cuộc đời cầu nguyện và sám hối. Sau khi chịu chức linh mục năm 1115, Cha Norbert thay đổi hoàn toàn đến độ các bạn bè cũ trong triều đình đều cho là ngài giả hình. Ngài phản ứng bằng cách phân phát hết của cải cho người nghèo và đến xin đức giáo hoàng cho phép ngài đi rao giảng.
Với hai linh mục bạn, Cha Norbert đi khắp Âu Châu để truyền giáo. Và để ăn năn đền tội, ngài đi chân đất giữa mùa đông buốt giá. Không may, hai linh mục bạn đã lâm bệnh và từ trần. Tuy nhiên, ngài bắt đầu được cảm tình của các giáo sĩ trước đây từng khinh miệt ngài. Đức giám mục của Laon muốn ngài canh tân các kinh sĩ trong giáo phận, nhưng các kinh sĩ lại không muốn thay đổi theo kiểu của Cha Norbert, họ cho là quá khắt khe. Vị giám mục không muốn mất con người thánh thiện này, nên đã tặng cho Cha Norbert một phần đất đai để ngài có thể khởi sự một cộng đoàn. Trong thung lũng cô tịch ở Premontre, ngài đã khởi sự một tu hội với mười ba kinh sĩ. Dù với quy luật khắt khe, càng ngày tu hội càng thu hút được nhiều người, kể cả các kinh sĩ trước đây từng chống đối ngài.
Dù được sự giúp đỡ của các nhân vật thế lực trong triều, Cha Norbert biết không sức mạnh nào có thế lực cho bằng uy quyền của Thiên Chúa, do đó, tu hội Premonstratensian đặc biệt sùng kính Thánh Thể, và các tu sĩ đã thành công trong việc hoán cải các người lạc giáo, hòa giải các kẻ chống đối Giáo Hội và kiên cường đức tin cho các tín hữu.
Trong tu hội, còn có các giáo dân thuộc hàng vương tước của triều đình, và khi tham dự lễ cưới của một bá tước, Cha Norbert được Hoàng Đế Lothair để ý và chọn ngài làm giám mục của Magdebourg. Với nhiệt huyết canh tân giáo hội, ngài đã cải tổ giáo phận và gặp nhiều sự chống đối cũng như có lần bị ám sát hụt. Chán nản vì giáo dân không muốn cải tổ, ngài bỏ đi nhưng được hoàng đế và đức giáo hoàng gọi lại.
Vào cuối đời, Đức Norbert được chọn làm tổng giám mục, nhưng ngài đã từ trần sau đó không lâu, khi 53 tuổi.
Suy niệm 1 : Thanh niên
Khi là thanh niên, Norbert rất yêu chuộng thế gian và các vui thú của nó.
Đó là thói quen từ một gia đình quyền quý và được nối tiếp trong sinh hoạt của triều đình nước Đức. Không một cuộc vui nào mà anh không có mặt.Còn hơn thế, Augustinô trong quyển Tự Thuật còn thú nhận về lứa tuổi thanh niên của mình: không tội nào trên thế gian này mà tôi không phạm.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp giới trẻ biết đầu tư bầu nhiệt huyết của lứa tuổi cho các sinh hoạt đạo đức và lành thánh.
Suy niệm 2 : Linh mục
Norbert đã do dự khi trở thành một linh mục với tất cả các trách nhiệm của ơn gọi ấy.
Trong dịp tấn phong linh mục của tu hội, Thánh Norbert giảng, "Ôi linh mục! Bạn không còn cho chính bạn vì bạn là tôi tớ và thừa tác viên của Đức Kitô. Bạn không còn thuộc chính mình vì bạn là hôn phu của Giáo Hội. Bạn không còn là chính bạn vì bạn là người trung gian giữa Thiên Chúa và loài người. Bạn không có gì là của mình vì bạn là hư không.
Vậy linh mục là gì? Là người không có gì cả và cũng là người có tất cả. Ôi linh mục! Hãy cẩn thận, đừng để những gì người ta nói về Đức Kitô trên thập giá lại là điều nói với bạn: 'Hắn cứu được người khác, nhưng không cứu được chính mình!'"
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các linh mục luôn ý thức về trách nhiệm của ơn gọi ấy.
Suy niệm 3 : Biến cố
Các biến cố xảy ra trong đời là để Thiên Chúa thức tỉnh con người.
Ngày kia, trong cơn bão Norbert đã ngã ngựa và bất tỉnh gần một giờ đồng hồ dưới cơn mưa tầm tã. Khi tỉnh dậy, câu đầu tiên anh tự hỏi là, "Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?" Và tận đáy tâm hồn, anh nghe như có câu trả lời, "Hãy tránh xa sự dữ và làm việc lành. Hãy tìm kiếm bình an và theo đuổi sự bình an ấy."
Biến cố ngã ngựa làm Nobert bất tỉnh cọng thêm tiếng nói huyền bí đã giúp ngài trở thành nhà truyền giáo cho vùng âu Châu và một thánh nhân. Cũng thế biến cố ngã ngựa đã làm Saolô mù mắt cùng với tiếng nói bên tai đã giúp ngài trở thành vị tông đồ dân ngoại và cũng là thánh nhân lừng danh.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhận ra qua các biến cố xảy đến trong đời như một lời mời gọi tiến đức mỗi ngày một cao hơn.
Suy niệm 4 : Thay đổi
Cha Norbert thay đổi hoàn toàn đến độ các bạn bè cũ trong triều đình đều cho là ngài giả hình.
Là một thanh niên nổi tiếng không một cuộc vui nào mà anh không có mặt, thế mà bây giờ trở thành một linh mục. Để ăn năn đền tội, ngài đi chân đất giữa mùa đông buốt giá, cũng như phân phát hết của cải cho người nghèo và đến xin đức giáo hoàng cho phép ngài đi rao giảng.
Từ việc thay đổi bản thân nên tốt, ngài cũng muốn thay đổi tha nhân cụ thể là các kinh sĩ theo đường hướng đó, nhưng các kinh sĩ lại không muốn thay đổi theo kiểu của Cha Norbert, họ cho là quá khắt khe. Trở thành giám mục của Magdebourg, với nhiệt huyết canh tân giáo hội, ngài đã cải tổ giáo phận và gặp nhiều sự chống đối cũng như có lần bị ám sát hụt.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con kiên quyết thay đổi cả bản thân lẫn tha nhân,miễn là từ xấu nên tốt.
Suy niệm 5 : Truyền giáo
Với hai linh mục bạn, Cha Norbert đi khắp Âu Châu để truyền giáo.
Truyền giáo cũng có nghĩa là dưỡng giáo, nên các tu sĩ cũng quan tâm đến vấn đề nội bộ và đã thành công trong việc hoán cải các người lạc giáo, hòa giải các kẻ chống đối Giáo Hội và kiên cường đức tin cho các tín hữu.
Nhất là khi hai vị giáo hoàng kình địch nhau sau cái chết của Đức Honorius II, Đức Norbert đã giúp hàn gắn Giáo Hội bằng cách thúc giục hoàng đế hậu thuẫn cho vị giáo hoàng được chọn đầu tiên, là Đức Innôxentê II.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn quan tâm song hành hai việc truyền giáo và dưỡng giáo vốn hổ tương nhau.
Suy niệm 6 : Thánh Thể
Tu hội Premonstratensian đặc biệt sùng kính Thánh Thể.
Dù được sự giúp đỡ của các nhân vật thế lực trong triều, Cha Norbert biết không sức mạnh nào có thế lực cho bằng uy quyền của Thiên Chúa, do đó, Thánh Thể được ngài sùng kính cách đặc biệt.
Một thế giới khác biệt không thể hoàn thành bởi những người thờ ơ, lãnh đạm. Điều đó cũng đúng với Giáo Hội. Giáo Hội không thể nào thay đổi phù hợp với tinh thần của Công Đồng Vatican II nếu hàng giáo sĩ và giáo dân không tha thiết với việc xây dựng đức tin. Noi gương Thánh Norbert, chúng ta phải trung thành với Giáo Hội, nhiệt tâm sùng kính Thánh Thể để có sức mạnh giúp chúng ta sống theo đường lối của Đức Kitô.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con say mê Thánh Thể như là nguồn sống duy nhất của chúng con.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 04/6 Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII (1881 - 1963)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII (1881 - 1963)
Trong thời gian ngắn ngủi làm giáo hoàng được bốn năm rưỡi, ngài đã đưa Giáo Hội vào một kỷ nguyên mới: triệu tập Công Ðồng Vatican II, bắt đầu duyệt xét lại Bộ Giáo Luật và quốc tế hóa Hồng Y Ðoàn.
Lược sử
Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã được tôn phong chân phước vào tháng 9 năm 2000, và được tôn phong hiển thánh cùng thánh Giáo hoàng vào ngày 27 tháng 4 năm 2014 ở Công Trường Thánh Phêrô, Rôma.
Khi được chọn làm giáo hoàng, lúc ấy ngài được bảy mươi sáu tuổi và được coi là vị giáo hoàng "chuyển tiếp."
Sinh trong một gia đình nông dân có đến 10 người con, ngài tên thật là Angelo Giuseppe Roncalli, sinh ở Sotto il Monte thuộc miền bắc nước Ý. Sau thời gian đi tu và chịu chức linh mục, ngài làm giáo sư đại chủng viện và sau cùng, vào ngày 28 tháng Mười 1958, ngài được chọn làm giáo hoàng.
Người ta thường gọi ngài là "Đức Giáo Hoàng Gioan Nhân Hậu", và ngài cũng là con cái của Thánh Phanxicô, khi ngài gia nhập Dòng Ba lúc còn là một chủng sinh. Vị giáo hoàng khiêm tốn này thường bắt chước lời của ông Giuse ở Ai Cập (Cựu Ước) chào hỏi các thành viên của Dòng Ba Phanxicô: "Tôi là Giuse, người anh em của quý vị."
Trong sự thương tiếc của mọi người, ngài từ trần ngày 03 tháng 6 năm 1963 khi 82 tuổi, trong khi miệng không ngớt kêu tên Mẹ Maria. Vì ngài là một người Dòng Ba Phanxicô, nên tiến trình phong thánh cho ngài được các tu sĩ Phanxicô xúc tiến.
Suy niệm 1: Chuyển tiếp
Khi được chọn làm giáo hoàng, lúc ấy ngài được bảy mươi sáu tuổi và được coi là vị giáo hoàng "chuyển tiếp."
Thật vậy, trong thời gian ngắn ngủi làm giáo hoàng được bốn năm rưỡi, ngài đã đưa Giáo Hội vào một kỷ nguyên mới: triệu tập Công Đồng Vatican II, bắt đầu duyệt xét lại Bộ Giáo Luật và quốc tế hóa Hồng Y Đoàn.
Với ba năm ngắn ngủi rao giảng Tin Mừng, có thể nói Đức Giêsu cũng là nhân vật chuyển tiếp từ Cựu Ước bước sang Tân Ước. Ngài đã chính thức thiết lập Nước Thiên Chúa trên trần gian với lề luật mới là tình yêu (Ga 13,34).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đào sâu tình Chúa trong việc yêu thương tha nhân cho xứng với hồng ân được sống trong thời Tân Ước.
Suy niệm 2: Chọn
Vào ngày 28 tháng Mười 1958, ngài được chọn làm giáo hoàng.
Trước khi được chọn làm giáo hoàng, Đức Gioan XXIII đã trải qua rất nhiều cuộc tuyển chọn. Được chọn làm chủng sinh, linh mục, làm giáo sư đại chủng viện và sau đó làm thư ký cho đức giám mục trong gần 10 năm. Kế đến ngài được chọn làm việc cho Tổ Chức Truyền Bá Đức Tin ở Rôma trong bốn năm.
Tiếp theo đó ngài được chọn làm tổng giám mục hiệu tòa và 29 năm đầy khó khăn trong công việc ngoại giao của Tòa Thánh. Ngài được chọn làm hồng y và thượng phụ của Venice năm 1953. Sau cùng, vào ngày 28 tháng Mười 1958, ngài được chọn làm giáo hoàng.
* Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa đã thương ban cho chúng con một cuộc tuyển chọn quý báu nhất là được làm con Chúa.
Suy niệm 3: Nhân Hậu
Người ta thường gọi ngài là "Đức Giáo Hoàng Gioan Nhân Hậu".
Tấm lòng nhân hậu của ngài được hấp thụ từ đời sống nhân hậu của thánh Phanxicô, vì ngài cũng là con cái của Thánh Phanxicô, khi ngài gia nhập Dòng Ba lúc còn là một chủng sinh.
Tấm lòng nhân hậu của Thánh Phanxicô thường được biểu dương đặc biệt qua thái độ ngài sống với các thụ tạo Chúa dựng nên bằng cách gọi: anh cá, chị mặt trăng. Nếu thế thì lòng nhân hậu của Đức Gioan XXIII lại giúp ngài xóa bỏ được khoảng cách giữa ngài với mọi người do chức vụ và quyền uy của vị giáo hoàng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con tấm lòng nhân hậu để dễ đối xử với mọi người.
Suy niệm 4: Khiêm tốn
Vị giáo hoàng khiêm tốn này.
Với anh em, để thể hiện lòng khiêm tốn thẳm sâu, Đức Gioan XXIII thường bắt chước lời của ông Giuse ở Ai Cập (Cựu Ước) chào hỏi các thành viên của Dòng Ba Phanxicô: "Tôi là Giuse, người anh em của quý vị."
Còn với Chúa và với chính bản thân mình, ngài cảm nghiệm thân phận bất xứng đến mức không ngày nào, trước giờ đi nghỉ tối, ngài không tìm đến cha giải tội để xưng thú mọi thiếu sót trong bổn phận mình.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con có lòng khiêm tốn chân thành để dễ nhận ra không chỉ các lầm lỗi mà ngay cả các thiếu sót hằng ngày.
Suy niệm 5: Thương tiếc
Trong sự thương tiếc của mọi người, ngài từ trần năm 1963 khi 82 tuổi, trong khi miệng không ngớt kêu tên Mẹ Maria.
Sự ra đi vĩnh viễn của một người qua cái chết luôn để lại sự vô cùng thương tiếc cho người còn ở lại. Nỗi thương tiếc thường phát lộ nơi những người bà con, thân nhân, bạn hữu hoặc đồng nghiệp
Nhưng trong trường hợp này thật độc đáo vì nỗi thương tiếc không hạn chế chỉ nơi những người đồng đạo, mà còn vươn đến hết mọi người trên thế giới dầu bất đồng chính kiến, bất đồng tôn giáo.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống sao để khi chết đi thì được mọi người thương tiếc.
Suy niệm 6: Mẹ Maria
Đức Gioan XXIII từ trần năm 1963 khi 82 tuổi, trong khi miệng không ngớt kêu tên Mẹ Maria.
Lòng đầy thì miệng mới nói ra. Danh xưng Mẹ Maria không ngừng vang lên từ miệng Đức Gioan XXIII cũng có nghĩa là tâm hồn ngài chất chứa và ứ tràn lòng yêu mến và sùng kính Đức Maria.
Nhất là sự kiện này lại xảy ra vào thời điểm hấp hối của ngài cũng có nghĩa là vào thời điểm quan trọng nhất của một đời người vốn thường bộc lộ ra điểm thâm sâu nhất và tối ưu của mình. Với Đức Gioan XXIII, đó là lòng mến Đức Maria.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con gai tăng lòng mến Đức Maria, để được Mẹ đến cứu trong giờ lâm tử.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 03/6 Thánh Charles Lwanga và Các Bạn (c. 1886)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Charles Lwanga và Các Bạn (c. 1886)
"Trở nên một Kitô Hữu là điều tốt lành, nhưng không luôn luôn dễ dàng." (ĐGH Phaolô VI)
Lược sử
Tổ Chức Truyền Giáo Phi Châu đến Uganda chỉ có 6 năm, tuy nhiên đức tin của cộng đồng Kitô Hữu ở đây thật đáng ca ngợi mà sự hăng say sống Tin Mừng của họ vượt cả các linh mục truyền giáo (Các Cha Da Trắng). Nhiều người tân tòng đã can đảm sống đức tin trong bộ lạc của tù trưởng Mwanga.
Tù trưởng Mwanga là nhà cai trị tàn ác và thích dâm dục với trẻ em và người cùng phái. Các Kitô Hữu làm việc trong triều cố gắng bảo vệ những người tiểu hầu này. Người quản lý các tiểu hầu là một thanh niên Công Giáo hai mươi lăm tuổi, Joseph Mkasa và anh cũng là người lãnh đạo cộng đồng Kitô Hữu.
Anh Charles Lwanga thay thế vai trò lãnh đạo cộng đồng Kitô Giáo trong triều đình -- với trách nhiệm gìn giữ các tiểu hầu khỏi bàn tay dâm loạn của tù trưởng. Một ngày trong tháng Năm 1886, sau khi tù trưởng Mwanga biết tiểu hầu Mwafu đang được học giáo lý Công Giáo, ông nổi điên và đã dùng giáo đâm chết Denis Sebuggwago, là thầy dạy các tiểu hầu.
Đêm hôm đó, anh Charles Lwanga rửa tội thêm năm tiểu hầu nữa. Sáng hôm sau, việc rửa tội được khám phá, Mwanga điên tiết, tụ họp tất cả các tiểu hầu và ra lệnh những ai là Kitô Hữu phải đứng tách sang một bên. Mười lăm người, tất cả đều dưới 25 tuổi, đồng loạt đứng sang một bên và sau đó có thêm hai người nữa trước đây đã bị bắt và có cả hai người lính. Khi được hỏi có muốn giữ đạo hay không, tất cả đều trả lời, "Giữ đạo cho đến chết." Tù trưởng Mwanga ra lệnh tử hình mọi Kitô Hữu sống trong triều.
Tất cả ba mươi hai người Công Giáo và Tin Lành được điệu đến một nơi cách đó 37 dặm để bị thiêu sống. Ba người bị giết trên đường đi. Những người còn lại bị giam giữ trong bảy ngày để chuẩn bị giàn hỏa thiêu. Vào ngày lễ Thăng Thiên, tất cả các vị tử đạo nằm trên chiếu bằng sậy, được bó lại và cột chặt. Sau khi đổ dầu, tất cả đều bị thiêu sống.
Việc bắt đạo bắt đầu lan tràn. Dưới sự cai trị của tù trưởng Mwanga, khoảng 100 Kitô Hữu đã đổ máu đào làm chứng cho đức tin.
Sau khi Mwanga từ trần, các linh mục thừa sai trở lại đây, họ thấy số Kitô Hữu đã lên đến 500 người và một ngàn dự tòng đang đợi để được rửa tội.
Hai mươi hai vị tử đạo Công Giáo đã được Đức Giáo Hoàng Phaolô VI phong thánh ngày 18 tháng Mười 1964.
Suy niệm 1 : Đức tin
Đức tin của cộng đồng Kitô Hữu ở đây thật đáng ca ngợi.
Cũng như Thánh Charles Lwanga, tất cả chúng ta là người rao giảng và chứng nhân cho đời sống Kitô Giáo. Chúng ta được mời gọi loan truyền lời Chúa, qua lời nói và hành động.
Khi can đảm sống đức tin trong thời đại nhiều thử thách về luân lý, chung ta đã sống như Đức Kitô, vì việc thực thi tốt đời sống luân lý chứng nhận phẩm giá của con người.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thực thi tốt đời sống luân lý như một minh chứng niềm tin.
Suy niệm 2 : Ca ngợi
Đức tin của cộng đồng Kitô Hữu ở đây thật đáng ca ngợi.
Không đáng ca ngội sao được, khi sự hăng say sống Tin Mừng của họ vượt cả các linh mục truyền giáo (Các Cha Da Trắng). Vào giai đoạn bách đạo của tù trưởng Mwanga, có khoảng 100 Kitô Hữu đã đổ máu đào làm chứng cho đức tin.
Sau khi Mwanga từ trần, các linh mục thừa sai trở lại đây, họ thấy số Kitô Hữu đã lên đến 500 người và một ngàn dự tòng đang đợi để được rửa tội.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không sống vì được người đời ca ngợi nhưng để xứng với phần thưởng Chúa ban tặng sau này.
Suy niệm 3 : Tân tòng
Nhiều người tân tòng đã can đảm sống đức tin trong bộ lạc của tù trưởng Mwanga.
Các dự tòng được khai tâm về mầu nhiệm cứu rỗi, tập sống theo Phúc Âm, và qua các nghi lễ được cử hành theo từng giai đoạn, họ được đưa vào đời sống đức tin, phụng vụ và bác ái của dân Chúa (Sách Giáo Lý số 1248).
Những người dự tòng đã kết hợp với Hội Thánh, đã thuộc về gia đình của Chúa Kitô và có khi đã sống đức Tin, Cậy, Mến rồi. Hội Thánh là Mẹ hiền yêu thương săn sóc họ như con cái mình (Sách Giáo Lý số 1249).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các dự tòng thấu hiểu giá trị quan trọng của thời kỳ dự tòng như một chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận hồng ân Thiên Chúa trong các bí tích khai tâm.
Suy niệm 4 : Lãnh đạo
Anh Charles Lwanga thay thế vai trò lãnh đạo cộng đồng Kitô Giáo trong triều đình.
Vị lãnh đạo tiền nhiệm của Charles Lwanga là anh Joseph Mkasa. Với trách nhiệm, anh đã chất vấn và lên án hành động giết các nhà truyền giáo của tù trưởng Mwanga. Ông rất quý Joseph, nhưng vì anh dám đòi hỏi ông phải thay đổi lối sống, Mwanga đã quên đi tình bằng hữu ấy và đã tuyên án tử hình sau khi đâm anh bằng giáo. Trước khi bị chặt đầu và hỏa thiêu, anh Joseph đã tha thứ cho nhà vua.
Với trách nhiệm, Charles Lwanga tiếp tục việc giúp các tân tòng và gia tăng việc rửa tội cho các tiểu hầu. Việc này bị tù trưởng Mwanga phát hiện, ông điên tiết lên và ra lệnh tử hình ngài cũng như mọi Kitô Hữu sống trong triều.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các nhà lãnh đạo sống theo gương Chúa là hiến mình vì đoàn chiên.
Suy niệm 5 : Rửa tội
Đêm hôm đó, anh Charles Lwanga rửa tội thêm năm tiểu hầu nữa.
Bí Tích Rửa Tội tái sinh con người vào đời sống mới trong Chúa Kitô. Theo Thánh Ý Thiên Chúa, cin người cần đến bí tích Rửa Tội cũng như cần đến Hội Thánh để được cứu độ. Bí Tích Rửa Tội đưa con người vào Hội Thánh (Sách Giáo Lý số 1277)
Hiệu quả gat ân sủng của bí tích Rửa Tội rất phong phú: tha nguyên tội và tội riêng đã phạm, sinh ra trong đời sống mới, nhờ đó con người trở thành nghĩa tử của Chúa Cha, thành chi thể Chúa Kitô và đền thờ Chúa Thánh Thần. Đồng thời, cho người được rửa tội tháp nhập vào Hội Thánh là Thân Thể Chúa Kitô, và tham dự vào chức vụ tư tế của Chúa Kitô (Sách Giáo Lý số 1279).
* Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã ban bí tích Rửa Tội cho cchúng con.
Suy niệm 6 : Kitô Hữu
Tù trưởng Mwanga ra lệnh những ai là Kitô Hữu phải đứng tách sang một bên.
Kitô Hữu là người có Chúa Kitô vốn là Sự Thật (Ga 14,6). Vì thế trước lệnh của Mwanga, Mười lăm người, tất cả đều dưới 25 tuổi, đồng loạt đứng sang một bên và sau đó có thêm hai người nữa trước đây đã bị bắt và có cả hai người lính.
Khi được hỏi có muốn giữ đạo hay không, tất cả đều trả lời, "Giữ đạo cho đến chết." Tù trưởng Mwanga ra lệnh tử hình mọi Kitô Hữu sống trong triều. Trong chuyến tông du Phi Châu năm 1969, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI nói với người Uganda, "trở nên một Kitô Hữu là điều tốt lành, nhưng không luôn luôn dễ dàng."
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp mọi người ý thức rằng: theo đạo thì không khó lắm nhưng sống đạo thì rất khó.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 02/6 Các Thánh Marcellinus và Phêrô (c. 304)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Các Thánh Marcellinus và Phêrô (c. 304)
Cả hai thánh nhân là người Rôma và coi sự tù đầy như một cơ hội để rao giảng và hoán cải những lính canh tù và gia đình của họ.
Lược sử
Mặc dù chúng ta không biết gì nhiều về hai vị tử đạo dưới thời Diocletian này, nhưng chắc chắn rằng giáo hội thời tiên khởi đã sùng kính hai vị. Chứng cớ của sự tôn kính ấy là đền thờ mà hoàng đế Constantine đã cho xây trên mộ của các ngài, và tên của các ngài được nhắc đến trong Lời Nguyện Thánh Thể I.
Thánh Giáo Hoàng Damasus nói rằng ngài nghe biết câu chuyện về hai vị tử đạo từ người đao phủ mà sau đó người này đã trở lại Kitô Giáo.
Marcellinus là một linh mục, còn Phêrô là người trừ tà, cả hai từ trần năm 304. Theo truyền thuyết về sự tử đạo của các ngài, cả hai là người Rôma và coi sự tù đầy như một cơ hội để rao giảng và hoán cải những lính canh tù và gia đình của họ. Truyền thuyết cũng nói rằng cả hai bị chặt đầu ở trong rừng để người Kitô không có cơ hội chôn cất và tôn kính thi thể của các ngài. Tuy nhiên, hai phụ nữ đã tìm thấy các thi thể ấy và họ đã chôn cất tử tế.
Suy niệm 1 : Tử đạo
Mặc dù chúng ta không biết gì nhiều về hai vị tử đạo dưới thời Diocletian này, nhưng chắc chắn rằng giáo hội thời tiên khởi đã sùng kính hai vị.
"Giáo Hội luôn tin rằng các tông đồ, và các vị tử đạo của Đức Kitô là những người đã đem lại bằng chứng đức tin và đức ái cao cả qua việc đổ máu của họ, thực sự kết hợp chặt chẽ với chúng ta trong Đức Kito" (Hiến Chương về Giáo Hội, 50).
Tử đạo là chết để làm chứng cho chân lý đức tin, nên là lời chứng cao quý nhất. Sống kết hợp với Đức Kitô, khi chịu chết, vị tử đạo làm chứng cho Đấng đã chết và đã sống lại. Những vị tử đạo làm chứng cho chân lý đức tin và đạo lý kitô giáo bằng cái chết anh hùng (Sách Giáo Lý số 2473).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống dũng cảm như tâm tình của Thánh Inhaxiô thành Antiôkia: Hãy để tôi trở nên mồi ngon cho ác thú. Chính nhờ chúng mà tôi sẽ được về với Thiên Chúa.
Suy niệm 2 : Sùng kính
Mặc dù chúng ta không biết gì nhiều về hai vị tử đạo dưới thời Diocletian này, nhưng chắc chắn rằng giáo hội thời tiên khởi đã sùng kính hai vị.
Chứng cớ của sự tôn kính ấy là đền thờ mà hoàng đế Constantine đã cho xây trên mộ của các ngài, và tên của các ngài được nhắc đến trong Lời Nguyện Thánh Thể I.
Phải nói thêm sự tôn kính này nằm trong kế đồ Thiên Chúa. Vì thế với ý đồ không muốn thi thể ngài được sùng kính, người ta đã cho chặt đầu hai vị trong rừng vắng, thế nhưng Chúa đã cho hai phụ nữ tìm thấy các thi thể ấy và họ đã chôn cất tử tế, để rồi lòng sùng kính nảy sinh và lan tràn.
* Lạy chúa Giêsu, xin giúp chúng con gia tăng lòng sùng kính các thánh, vì đó là điều đẹp lòng Chúa.
Suy niệm 3 : Lời Nguyện
Tên của các ngài được nhắc đến trong Lời Nguyện Thánh Thể I.
Tại sao các vị này được nhắc đến trong lời nguyện Thánh Thể và có ngày lễ tôn kính riêng, dù rằng hầu như chúng ta không biết gì về họ?
Có lẽ vì Giáo Hội tôn trọng ký ức còn ghi nhận được trong lịch sử. Và đã một lần, các ngài là động lực khuyến khích toàn thể Giáo Hội. Họ đã thể hiện một bước đức tin tột bực.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không chỉ chiêm ngắm đức tin tột bực của các ngài mà nhất là sống theo niềm tin ấy.
Suy niệm 4 : Trở lại
Thánh Giáo Hoàng Damasus nói rằng ngài nghe biết câu chuyện về hai vị tử đạo từ người đao phủ mà sau đó người này đã trở lại Kitô Giáo.
Cái chết bị chém đầu cách anh dũng của hai vị tử đạo chẳng những đem lại sự sống đời đời cho các ngài, mà còn mang lại sự sống mới cho người đao phủ vốn trở lại Kitô Giáo nhờ cảm kích trước cái chết dũng cảm của các ngài.
Cũng thế, cái chết của vị phó tế tử đạo tiên khởi Têphanô do đám người Dothái quá khích ném đá, trước sự chứng kiến tích cực của chàng thanh niên Saolô, không chỉ mang lại triều thiên vinh quang trên thiên đàng cho ngài, mà còn giúp kẻ bắt đạo Saolô trở lại đạo và trở nên vị tông đồ lừng danh cho đạo Chúa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhận ra những sự hy sinh như là cách tử đạo thiêng liêng không vô hiệu nhưng luôn âm thầm trổ sinh hoa quả tốt đẹp.
Suy niệm 5 : Tù đầy
Cả hai là người Rôma và coi sự tù đầy như một cơ hội để rao giảng và hoán cải những lính canh tù và gia đình của họ.
Cái nhìn lạc quan và tích cực ấy chỉ tìm gặp thấy ở bậc thánh nhân. Chẳng lạ gì, thánh nữ Perpetua đã trả lời với gia đình: "Nhà tù đối với con là một dinh thự và con muốn ở đây hơn chỗ nào khác".
Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn văn Thuận cũng đang được điều tra để phong chân phước, vì trong đời ngài, đặc biệt trong thời gian bị giam cầm 13 năm, ngài cũng có hướng sống ấy, ngài chẳng những nâng đỡ tinh thần các bạn tù mà còn cảm hóa được nhiều viên cai tù.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn có cái nhìn lạc quan và tích cực, cho dầu đang ở hiện trạng bị tù đày.
Suy niệm 6 : Chôn cất
Cả hai bị chặt đầu ở trong rừng để người Kitô không có cơ hội chôn cất và tôn kính thi thể các ngài. Được tổ chức chôn cất thật long trọng hay bị quăng xác ngoài rừng vắng, điều đó chẳng có ý nghĩa gì đối với các vị thánh nhân, vì thực chất tất cả những gì là bụi tro thì cũng chỉ trở về tro bụi mà thôi.
Điều chủ yếu không phải là thân xác vốn hư nát mà là linh hồn bất diệt. Và thật diệu kỳ, hai ngài chỉ quan tâm phần hồn thì lại được Chúa bù đắp cả phần xác. Hai phụ nữ đã tìm thấy thi thể các ngài, họ đã chôn cất tử tế và hơn thế sau đó một đền thờ đã được xây dựng trên mộ các ngài.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết chú trọng phần hồn hơn phần xác, còn mọi sự khác hãy giao cho bàn tay Chúa lo liệu.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 01/6 Thánh Justin Tử Ðạo (c. 165)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Justin Tử Ðạo (c. 165)
Thánh Justin là một giáo dân và triết gia Kitô Giáo đầu tiên đã có những sáng tác vĩ đại bảo vệ đức tin Kitô Giáo. Nhờ các văn bản ấy, chúng ta biết về cuộc đời ngài.
Lược sử
Thánh Justin là một giáo dân và triết gia Kitô Giáo đầu tiên đã có những sáng tác vĩ đại bảo vệ đức tin Kitô Giáo. Nhờ các văn bản ấy, chúng ta biết về cuộc đời ngài.
Thánh Justin sinh ở Flavia Neapolis, Samaria khoảng năm 100, cha mẹ ngài là người ngoại giáo, gốc Hy Lạp. Ngài được giáo dục kỹ lưỡng và đặc biệt yêu thích khoa hùng biện, thi ca và sử học. Khi còn trai trẻ, ngài bị thu hút bởi triết thuyết Plato. Tuy nhiên, ngài nhận thấy chỉ có Kitô Giáo mới trả lời được những thắc mắc lớn lao về đời sống và sự hiện hữu.
Qua những tài liệu Kitô Giáo cũng như việc quan sát các gương anh hùng tử đạo, Thánh Justin đã trở lại Kitô Giáo khi ngài 30 tuổi. Ngài tiếp tục mặc áo choàng của các triết gia thời bấy giờ, và trở nên triết gia Kitô Giáo đầu tiên. Ngài tổng hợp Kitô Giáo với các yếu tính đặc sắc nhất trong triết lý Hy lạp. Theo quan điểm của ngài, triết lý là một nhà mô phạm của Đức Kitô, một nhà giáo dục dẫn đưa người ta đến với Đức Kitô.
Thánh Justin nổi tiếng là một người biện giáo thời bấy giờ. Ngài đi đây đó và tranh luận với các người ngoại giáo, lạc giáo và Do Thái Giáo. Khi người Kitô tiếp tục bị bách hại bởi nhà cầm quyền, ngài đã công khai bảo vệ Kitô Giáo qua lời giảng dạy cũng như văn bản. Trong các sáng tác của ngài, hiện nay chúng ta vẫn còn giữ được hai bản văn gửi cho hoàng đế Rôma và cho Thượng Viện.
Sau cùng ngài bị bắt và bị đưa ra trước quan tổng trấn Rôma là Rusticus. Khi được yêu cầu thờ cúng tà thần, Thánh Justin trả lời, "Người có suy nghĩ đúng đắn không vì sự giả trá mà chối bỏ sự thật."
Thánh Justin bị chém đầu ở Rôma năm 165.
Suy niệm 1 : Giáo dân
Thánh Justin là một giáo dân và triết gia Kitô Giáo đầu tiên đã có những sáng tác vĩ đại bảo vệ đức tin Kitô Giáo.
Danh hiệu giáo dân được hiểu là tất cả những Kitô hữu không thuộc hàng giáo sĩ và bậc tu trì được Hội Thánh công nhận, nghĩa là những tín hữu đã được tháp nhập vào Thân Thể Chúa Kitô nhờ Phép Thanh Tẩy, đã trở nên Dân Thiên Chúa, được tham dự vào chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Chúa Kitô theo cách thức của họ. Họ là những người đang thi hành sứ mạng của toàn dân Kitô giáo trong Hội Thánh và trên trần gian theo phận vụ riêng của mình...
Ơn gọi riêng của giáo dân là tìm kiếm Nước Thiên Chúa bằng cách làm các việc trần thế và xếp đặt chúng theo ý Thiên Chúa. Họ có nhiệm vụ đặc biệt là soi sáng và xếp đặt những thực tại trần gian có liên hệ mật thiết với họ, để chúng không ngừng được thực hiện và phát triển theo thánh ý Chúa Kitô, hầu ca tụng Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Chuộc (LG 31).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp thành phần giáo dân ý thức về sứ mạng quan trọng của mình trong đời sống Hội Thánh.
Suy niệm 2 : Triết gia
Thánh Justin là một giáo dân và triết gia Kitô Giáo đầu tiên đã có những sáng tác vĩ đại bảo vệ đức tin Kitô Giáo.
Là quan thầy các triết gia, Thánh Justin khích động chúng ta hãy dùng các sức mạnh tự nhiên (nhất là sức mạnh của sự hiểu biết) để phục vụ Đức Kitô, và để hình thành đời sống Kitô Giáo trong nội tâm chúng ta.
Vì con người dễ bị sai lầm, nhất là đối với các vấn đề sâu xa của đời sống và sự hiện hữu, chúng ta cũng phải sẵn sàng sửa đổi và kiểm soát lại tư duy chúng ta trong sự soi dẫn của chân lý Kitô Giáo. Do đó, chúng ta mới có thể nói như các thánh nhân uyên bác của Giáo Hội: Tôi tin để có thể hiểu, và tôi hiểu để có thể tin.
* Lạy Chúa Giêsu, xin ban đức tin cho chúng con để nhờ nền tảng vững chắc này chúng con sử dụng sự khôn ngoan hầu đào sâu thêm niềm tin.
Suy niệm 3 : Ngoại giáo
Thánh Justin sinh ở Flavia Neapolis, Samaria khoảng năm 100, cha mẹ ngài là người ngoại giáo, gốc Hy Lạp.
Là người ngoại giáo, cha mẹ ngài thực thi bổn phận giáo dục con cái cách kỹ lưỡng và dĩ nhiên về mặt nhân bản và trí thức. Chính vì thế Justin tích lũy được nhiều đức tính nhân bản căn bản và đặc biệt yêu thích khoa hùng biện, thi ca và sử học.
Thánh sử Máccô cũng xuất thân từ một gia đình không phải kitô giáo. Và ngài cũng được phụ mẫu giáo dục kỹ lưỡng với các đức tính nhân bản cần thiết, nhờ đó sau khi trở lại đạo, ngài có đủ điều kiện để hoàn thành sứ mạng làm cọng sự viên cho tông đồ Phaolô (Plm 24) và sau đó là Phêrô (1Pr 5,13), cũng như là một trong bốn vị thánh sử đã ghi chép Phúc Âm.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp các bậc phụ huynh chu toàn bổn phận giáo dục con cái.
Suy niệm 4 : Kitô Giáo
Justin nhận thấy chỉ có Kitô Giáo mới trả lời được các thắc mắc lớn lao về đời sống và sự hiện hữu.
Con người ở đâu cũng như bất cứ thời đại nào đều mang nhiều nỗi thắc mắc, đặc biệt về nguồn gốc của vũ trụ và của mình. Người ta gặp trong các tôn giáo và các văn hóa cổ xưa nhiều huyền thoại về vấn đề nguồn gốc. Nhưng Justin chỉ tìm được câu trả lời chính xác ở Kitô Giáo mà thôi.
Vì đức tin Kitô Giáo không phải là “đạo thờ Sách” nhưng là đạo do “Lời Thiên Chúa”, “không phải một lời được viết ra và câm lặng, nhưng là Ngôi Lời nhập thể và hằng sống” (Thánh Bênađô, gài giảng về kẻ được sai đi 4,11).
* Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã chỉ cho chúng con con đường tốt nhất trong mọi nẻo đường tìm về quê trời, đó là Kitô Giáo.
Suy niệm 5 : Trở lại
Justin đã trở lại Kitô Giáo khi ngài 30 tuổi.
Nhờ vào những tài liệu Kitô Giáo cũng như việc quan sát các gương anh hùng tử đạo, ngài đã trở thành người kitô hữu.
Một đóng góp quan trọng chúng ta ghi nhận được ở công cuộc trở lại của Justin, đó là việc ngài đọc được các tài liệu Kitô Giáo, nhất là không chỉ nội dung ngài chọn đọc mà còn là cách đọc đến mức tiêu hóa để biến thành chính bản thân.
Ngoài ra phải kể đến một kích thích tố đáng quan tâm, đó là tấm gương soi của các vị anh hùng tử đạo, những người đã dùng mạng sống mình để minh chứng giá trị của niềm tin Kitô Giáo. Justin chẳng những quan sát cách khách quan bằng đầu óc, mà ngài còn cảm kích tận thâm tâm cách sâu xa và biến thành hành động chủ quan được trở nên giống họ là sống chết vì niềm tin Kitô Giáo.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con say mê đọc lời Chúa và chiêm ngắm tấm gương Chúa để mỗi ngày mỗi được nên giống Chúa hơn.
Suy niệm 6 : Triết lý
Theo quan điểm của ngài, triết lý là một nhà mô phạm của Đức Kitô, một nhà giáo dục dẫn đưa người ta đến với Đức Kitô.
"Triết lý là sự am tường những gì hiện hữu, và là sự hiểu biết rõ ràng về chân lý; và hạnh phúc là phần thưởng của sự am tường và sự hiểu biết đo" (Thánh Justin, Đối Thoại Với Trypho, 3).
Con người với ánh sáng của lý trí có thể nhận ra sự hiện hữu của Thiên Chúa qua các công trình của Người, cho dù sự hiểu biết đó nhiều khi bị lu mờ và lệch lạc vì lầm lẫn. Vì vậy đức tin giúp xác nhận và soi sáng lý trí, để hiểu biết cách chính xác chân lý này (Sách Giáo Lý số 286).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết sử dụng lý trí để tìm hiểu nhưng luôn dưới sự soi sáng của đức tin.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 31/5 Lễ Đức Mẹ Đi Thăm Viếng
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Lễ Đức Mẹ Đi Thăm Viếng
Cũng như mọi lễ khác về Ðức Maria, lễ này có liên hệ chặt chẽ với Ðức Giêsu và công trình cứu chuộc của Người.
Lược sử
Đây là một ngày lễ được thiết lập trễ, trong khoảng thế kỷ 13 hay 14. Ngày lễ này được thiết lập trong toàn Giáo Hội để cầu nguyện cho sự hiệp nhất. Chỉ mới đây, ngày cử hành lễ được ấn định theo sau Lễ Truyền Tin vào tháng Ba và trước lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả vào tháng Sáu.
Cũng như mọi lễ khác về Đức Maria, lễ này có liên hệ chặt chẽ với Đức Giêsu và công trình cứu chuộc của Người. Các nhân vật chính trong cuộc thăm viếng (xem Luca 1:39-45) là Đức Maria và bà Êlidabét. Tuy nhiên, tiềm ẩn ở đằng sau là Đức Giêsu và Gioan Tẩy Giả. Đức Giêsu đã làm Gioan Tẩy Giả nhẩy lên vì vui mừng -- niềm vui cứu độ của Đấng Thiên Sai.
Ngược lại, bà Êlidabét được tràn đầy Chúa Thánh Thần và cất lời ca tụng Đức Maria -- mà những lời này còn vang vọng qua các thế hệ. Bà ca tụng Đức Maria vì đã tín thác vào công trình của Thiên Chúa. Sau đó là kinh Ngợi Khen. Ở đây, chính Đức Maria (cũng như Giáo Hội) đã nhận biết sự cao trọng của mình là do Thiên Chúa.
Suy niệm 1: Hiệp nhất
Ngày lễ này được thiết lập trong toàn Giáo Hội để cầu nguyện cho sự hiệp nhất.
Trong Kinh Cầu Đức Bà, có lời xưng tụng Đức Maria là "Hòm Bia Giao Ước." Như Hòm Bia Giao Ước thời xa xưa, Đức Maria đã giúp Thiên Chúa hiện diện trong đời sống của mọi người để dẫn đưa mọi người trở về một mối.
Như Hòm Bia giúp kết hợp 12 dòng họ Israel vì được đặt trong thủ phủ của Đavít thì Đức Maria cũng có sức mạnh kết hợp mọi Kitô Hữu trong Con của ngài. Hiện nay, việc sùng kính Đức Maria đã có những chia cách, nhưng hy vọng rằng việc sùng kính đích thực sẽ dẫn đưa mọi người đến Đức Kitô vốn là nguyên lý hiệp nhất, và từ đó đến với nhau.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không chỉ đến với Chúa mà còn quyết tâm thực hiện di chúc của Chúa là ước gì họ được nên một.
Suy niệm 2: Cứu chuộc
Lễ Thăm Viếng này có liên hệ chặt chẽ với Đức Giêsu và công trình cứu chuộc của Người.
Với sự hiện diện của Thai Nhi Giêsu trong cung lòng trinh khiết của Đức Maria nhân cuộc thăm viếng, niềm vui cứu độ của Đấng Thiên Sai đã đến với gia đình người chị họ: Gioan Tiền Hô được ơn khỏi tội nguyên tổ, bà Êlidabét được tràn đầy Thánh Thần và sau đó ông Dacaria được hết câm.
Với cái chết trên thập giá của Đức Giêsu, niềm vui ơn cứu độ đã đến với toàn thể gia đình nhân loại và cả thế giới: cửa thiên đàng vốn đóng sau tội nguyên tổ nay đã được rộng mở, con người đã được giao hòa với Thiên Chúa và cả vũ trụ.
* Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về hồng ân cứu độ, xin giúp chúng con đừng bao giờ làm gì lãng phí công ơn cứu chuộc của Chúa.
Suy niệm 3: Thăm viếng
Các nhân vật chính trong cuộc thăm viếng là Đức Maria và bà Êlidabét. Tuy nhiên, tiềm ẩn ở đằng sau là Đức Giêsu và Gioan Tẩy Giả.
Trong đời thường không thiếu những cuộc thăm viếng, dầu vai trò có rhể khác nhau hoặc là khách được mời thậm chí khách đến đột xuất hoặc là chủ tiếp đón.
Dầu được mời với tư cách là thượng khách, chúng ta cũng hãy có thái độ hòa nhã và đón nhận tất cả những gì chủ nhà tiếp đãi chứ đừng đòi hỏi (Lc 10,8). Là khách bất đắc dĩ và hơn nữa dầu là một ân nhân, thì cũng hãy bình tĩnh và yên lặng ra đi nếu bị từ chối, chứ đừng có thái độ phản kháng (Lc 8,37;9,53-56).
Là chủ nhà, hãy luôn tỏ ra hiếu khách đến mức nhịn miệng đãi khách, dầu đang gặp phải tình cảnh nào. Là khách viếng thăm hay chủ nhà tiếp đón, hãy cố vượt ra khỏi chính bản thân mình, để nhận ra sự hiện diện ẩn tàng bên trong mỗi người là chính Chúa mà cư xử cho thật phải đạo (Mt 25, 31-46).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sử dụng những cuộc thăm viếng như những cuộc hạnh ngộ tràn đầy ơn Chúa.
Suy niệm 4: Nhẩy lên
Đức Giêsu đã làm Gioan Tẩy Giả nhẩy lên vì vui mừng.
Nhẩy lên cũng là một cách biểu lộ niềm phấn khích vui mừng tột đỉnh đang ứ tràn tâm trí. Được lãnh nhận một cách nhưng không hồng ân khỏi tội nguyên tổ ngay đang còn là thai nhi trong dạ mẹ do cuộc hạnh ngộ diệu kỳ với Thai Nhi Giêsu, thử hỏi làm sao Gioan Tẩy Giả không nhẩy lên vì vui mừng.
Không phải Gioan Tẩy Giả vì còn là thai nhi bé bỏng nên nhẩy lên vì vui mừng, mà ngay cả một người lớn tuổi với chức vụ hoàng đế như một vua Đavít mà cũng biểu lộ niềm vui tột cùng bằng việc nhẩy múa, trong biến cố rước Hòm Bia Giao Ước về Giêrusalem bất chấp phản ứng của Mikhan con vua Saun (2Sm 6).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con cảm nghiệm được niềm hân hoan vui sướng trước tình thương tha thứ của Chúa.
Suy niệm 5: Ca tụng
Bà Êlidabét được tràn đầy Chúa Thánh Thần và cất lời ca tụng Đức Maria.
Cần biết rằng chúng ta không có tài liệu tường thuật chi tiết về cuộc thăm viếng này. Đúng hơn, Thánh Luca, lên tiếng thay cho Giáo Hội, đã dùng một bài thơ có tính cách cầu nguyện để diễn tả lại biến cố này. Lời bà Êlidabét ca tụng Đức Maria là "mẹ của Chúa tôi" có thể coi như sự sùng kính của Giáo Hội thời tiên khởi đối với Đức Maria.
Như tất cả sự sùng kính Đức Maria đích thực, những lời đầu tiên của bà Êlidabét (cũng như của Giáo Hội) là ca tụng Thiên Chúa vì những gì Người đã thể hiện nơi Đức Maria. Kế đến, bà mới ca tụng Đức Maria vì đã tín thác vào công trình của Thiên Chúa. Sau đó là kinh Ngợi Khen. Ở đây, chính Đức Maria (cũng như Giáo Hội) đã nhận biết sự cao trọng của mình là do Thiên Chúa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không chỉ dùng miệng lưỡi mà cả đời sống để ca tụng Thiên Chúa.
Suy niệm 6: Tín thác
Bà Êlidabét ca tụng Đức Maria vì đã tín thác vào công trình của Thiên Chúa.
"Được thúc giục bởi lòng bác ái nên Đức Maria đã đến nhà người bà con... Trong khi mọi lời của bà Êlidabét đều đầy ý nghĩa, lời sau cùng của bà dường như quan trọng hơn cả: 'Phúc cho ai tin rằng lời Chúa nói với họ sẽ được thể hiện' (Luca 1:45). Những lời này có thể liên hệ đến danh xưng 'đầy ơn phúc' mà thiên sứ đã chúc tụng.
Cả hai đoạn này tiết lộ một nội dung căn bản về Thánh Mẫu Học, có thể nói là chân lý về Đức Maria, là người đã trở nên thực sự hiện diện trong mầu nhiệm của Đức Kitô chỉ vì ngài 'đã tin.' Ơn sủng đầy tràn mà thiên sứ loan báo có nghĩa là chính Thiên Chúa. Đức tin của Đức Maria, được bà Êlidabét xưng tụng trong cuộc thăm viếng, cho thấy Đức Trinh Nữ Nagiarét đã đáp ứng thế nào với ơn sủng này" (Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, "Mẹ Đấng Cứu Chuộc," 12).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đào sâu niềm tin để xứng đáng lãnh nhận muôn hồng ân Chúa hằng ban.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 30/5 Thánh Giáo Hoàng Grêgôriô VII (1020-1085)
- Viết bởi Hạnh Các thánh
Thánh Giáo Hoàng Grêgôriô VII (1020-1085)
Ðức Grêgôriô đã tái khẳng định sự hiệp nhất của toàn thể Giáo Hội dựa trên Ðức Kitô và được diễn đạt qua Ðức Giám Mục Rôma, đấng kế vị Thánh Phêrô.
Thế kỷ thứ 10 và tiền bán thế kỷ 11 là những ngày u tối cho Giáo Hội, một phần là vì giáo triều chỉ là con cờ của một vài gia tộc ở Rôma. Vào năm 1049, mọi sự bắt đầu thay đổi khi Ðức Giáo Hoàng Lêô IX, một nhà cải cách, được bầu làm giáo hoàng. Ngài đem theo một đan sĩ trẻ tuổi tên là Hilderbrand đến Rôma làm cố vấn và đại diện đặc biệt cho ngài trong các sứ vụ quan trọng. Sau này, đan sĩ ấy trở thành Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô VII.
Thời ấy, ba tai họa quấy rối Giáo Hội là nạn buôn thần bán thánh (mua bán các chức vụ cũng như đồ vật thiêng liêng), nạn giáo sĩ kết hôn bất hợp pháp và nạn giáo dân tấn phong giáo sĩ (vua và các nhà quý tộc kiểm soát việc bài sai các viên chức Giáo Hội). Ðức Hildebrand đã trực tiếp chống đối các tệ đoan này qua lời khuyên nhủ đức giáo hoàng tiền nhiệm, cũng như trong thời ngài làm giáo hoàng (1073-1085).
Các tông thư của Ðức Grêgôriô nhấn mạnh đến vai trò của vị Giám Mục Rôma là Ðại Diện Ðức Kitô, và là điểm hợp nhất hữu hình của Giáo Hội. Ngài nổi tiếng về cuộc tranh luận lâu dài với Thánh Ðế Rôma Henry IV về vấn đề ai là người kiểm soát việc tuyển chọn các giám mục và tu viện trưởng.
Ðức Grêgôriô hăng hái chống trả mọi tấn công vào sự tự do của Giáo Hội. Vì lý do đó ngài phải đau khổ và sau cùng bị chết trong khi lưu đầy. Ngài nói, "Tôi yêu quý công bằng và ghét bỏ sự bất công; do đó tôi chết trong cảnh lưu đầy." Ba mươi năm sau, Giáo Hội mới thắng được cuộc chiến đấu chống với nạn giáo dân tấn phong giáo sĩ.
Lời Bàn
Cuộc Canh Tân Grêgôriô, một sự kiện quan trọng trong lịch sử Giáo Hội, được mang tên của một người đã cố gắng giải thoát giáo triều và toàn thể Giáo Hội khỏi sự kiểm soát của nhà cầm quyền thế tục. Chống với loại chủ nghĩa dân tộc không lành mạnh ở một số vùng, Ðức Grêgôriô đã tái khẳng định sự hiệp nhất của toàn thể Giáo Hội dựa trên Ðức Kitô và được diễn đạt qua Ðức Giám Mục Rôma, đấng kế vị Thánh Phêrô.
Lời Trích
Ðức Grêgôriô như đã nói với thời đại chúng ta mà trong đó nhà cầm quyền dân sự hay tôn giáo trong nước đang có những đòi hỏi ngấm ngầm: "Trong bất cứ quốc gia nào, ngay cả người phụ nữ nghèo hèn nhất cũng được kết hôn một cách hợp pháp theo luật lệ quốc gia và theo sự lựa chọn của họ; nhưng, qua những khát vọng và thói tục xấu xa của người độc ác, Giáo Hội Thánh Thiện, là nàng dâu của Thiên Chúa và là mẹ của tất cả chúng ta, không được phép bám víu lấy người hôn phu ở trái đất này theo như luật lệ của Thiên Chúa và ý muốn của Giáo Hội" (Lời Kêu Gọi Tín Hữu).
Ngày 29/5 Thánh Maria Anna "de Paredes" (1618 -- 1645)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Maria Anna "de Paredes" (1618 -- 1645)
Sự hy sinh hãm mình của Thánh Maria Anna đã giúp ngài nhậy cảm hơn với nhu cầu của tha nhân, và can đảm hơn khi phục vụ người nghèo.
Lược sử
Thánh Maria Anna, còn gọi là "Bông Huệ Quitô," có cuộc đời rất giống Thánh Rôsa ở Lima. Ngài cũng hãm mình, sống cô độc, được xuất thần và ơn nói tiên tri.
Sinh ở Quito, Ecuador, ngay từ khi còn nhỏ, Maria Anna rất sùng kính Đức Mẹ và đã muốn đi tu. Lúc mười tuổi ngài thề sống khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục. Lúc đầu ngài muốn trở thành một nữ tu dòng Đa Minh, nhưng sau đó ngài gia nhập dòng Ba Phanxicô, trở nên một ẩn tu sống khắc khổ trong nhà người chị, dưới sự linh hướng của cha giải tội dòng Tên.
Cũng như Thánh Rôsa, Maria Anna thường tự cho mình là "Maria Anna của Chúa Giêsu", ngài chăm sóc người nghèo và dạy dỗ các trẻ em người thổ dân ngay tại nhà của mình. Về lối sống khắc khổ, ngài ăn rất ít và ngủ có ba giờ mỗi đêm. Ngài được ơn tiên tri, biết được tâm hồn người khác, chữa lành người bệnh tật qua dấu Thánh Giá hoặc rảy nước phép, và đã có lần làm cho người chết sống lại.
Sau trận động đất năm 1645 ở Quito, một trận dịch lan tràn và Maria Anna đã dâng hiến cuộc đời mình để hy sinh cho thành phố, và thật vậy, ngài đã từ trần ngay sau khi trận dịch bắt đầu giảm bớt.
Ngài được phong thánh năm 1950.
Suy niệm 1: Đức Mẹ
Sinh ở Quito, Ecuador, ngay từ khi còn nhỏ, Maria Anna rất sùng kính Đức Mẹ và muốn đi tu.
Lòng sùng kính chân thành mà Maria Anna đã dành cho Đức Mẹ đã gia tăng giá trị, và giá trị nhân linh của ngài cũng được gia tăng, khi ngài noi gương Đức Mẹ để thực hành trong cuộc sống.
Đức Maria chẳng những nêu gương phục vụ khi dành suốt ba tháng để đóng vai người tôi tớ giúp việc tại nhà chị họ Êlisabét, mà còn thấy trước nhu cầu cấp thiết của gia đình tân hôn tại Cana để ra tay giải quyết khó khăn cho họ. Theo gương đó, Maria Anna cũng hết mình chăm sóc người nghèo và dạy dỗ các trẻ em người thổ dân. Đồng thời ngài cũng dâng hiến cuộc đời mình để hy sinh cho thành phố đang bị bệnh dịch sau trận động đất.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con hằng biết thể hiện lòng sùng kính bằng những hành động cụ thể.
Suy niệm 2: Muốn đi tu
Sinh ở Quito, Ecuador, ngay từ khi còn nhỏ, Maria Anna rất sùng kính Đức Mẹ và muốn đi tu.
Chí nguyện đi tu thật là tốt, nhưng tốt hơn nữa là phải tuân hành theo chương trình của Thiên Chúa an bài định liệu, cho dầu không được đi tu hoặc nhập tu vào một linh đạo khác ước muốn của riêng mình.
Đó là điểm tốt nổi bật của Maria Anna. Thật vậy, lúc đầu ngài muốn trở thành một nữ tu dòng Đa Minh, nhưng sau đó ngài gia nhập dòng Ba Phanxicô, trở nên một ẩn tu sống khắc khổ trong nhà người chị, theo sự an bài của Thiên Chúa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chọn lấy con đường mà Chúa đã ước muốn chọn cho chúng con.
Suy niệm 3: Nghèo
Maria Anna chăm sóc người nghèo và dạy dỗ các trẻ em người thổ dân ngay tại nhà của mình.
Thánh Phanxicô Assisi đã chiến thắng chính mình khi ngài ôm hôn một người cùi. Nếu sự từ bỏ mình không dẫn đến đức bác ái, thì việc ăn năn đền tội đã mất lý do chính đáng.
Sự hy sinh hãm mình của Thánh Maria Anna đã giúp ngài nhậy cảm hơn với nhu cầu của tha nhân, và can đảm hơn khi phục vụ người nghèo.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết thể hiện mối quan tâm đến người nghèo bằng các hành vi thực tế.
Suy niệm 4: Khắc khổ
Về lối sống khắc khổ, Maria Anna ăn rất ít và ngủ có ba giờ mỗi đêm.
Ai muốn trung thành với những lời hứa khi được rửa tội và chống lại các cơn cám dỗ, phải dùng đến phương thế khổ chế tùy theo hoàn cảnh (Sách GiáoLý 2340).
Tính tự cao thường dẫn đến một cám dỗ là sự nguội lạnh. Các bậc thầy linh đạo coi đây là một hình thức suy nhược do thiếu khổ chế, chểnh mảng canh thức, lơ là đời sống nội tâm (Sách GiáoLý số 2733). Chay tịnh và hãm mình góp phần giúp chúng ta làm chủ được các bản năng và đạt tới tự do nội tâm (Sách GiáoLý số 2043).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết tân dụng phương thế khổ chế để chống các chước cám dỗ.
Suy niệm 5: Dấu Thánh Giá
Maria Anna chữa lành người bệnh tật qua dấu Thánh Giá hoặc rảy nước phép, và đã có lần làm cho người chết sống lại.
Thế giới sau ngày nguyên tổ phạm tội đã rơi vào ách nô lệ tội lỗi với các hệ lụy của nó, nhưng cái chết của Đức Kitô trên thập giá đã bẻ gẫy uy quyền của ác thần và giải thoát thế giới (GS 2,2).
Nhờ Thập Giá, ơn cứu chuộc đã đến với thế giới qua một hiệu quả cụ thể trong việc chữa bệnh và trừ quỷ (Mt 8,17). Do đó nhờ đặc sủng Chúa ban, Maria Anna đã dùng dấu Thánh Giá để chữa lành người bệnh tật, thậm chí còn có lần làm cho người chết sống lại.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con vận dụng uy lực Thánh Giá Chúa mỗi lần làm dấu để chữa lành các tật bệnh linh hồn chúng con.
Suy niệm 6: Trận dịch
Sau trận động đất năm 1645 ở Quito, một trận dịch lan tràn và Maria Anna đã dâng hiến cuộc đời mình để hy sinh cho thành phố.
"Khi được thúc giục bởi tình yêu Thiên Chúa và đồng loại, thánh nữ đã tự hành hạ thân xác mình để đền bù tội lỗi cho tha nhân. Quên đi thế giới chung quanh và ngài đắm chìm trong sự ngây ngất, như được nếm trước hạnh phúc vĩnh cửu. Do đó, được biến đổi và phong phú bởi ơn Chúa, với tất cả khả năng, ngài thật hăng say lo lắng đến sự cứu độ không những cho chính mình mà còn cho người khác nữa.
Thánh nữ độ lượng giúp vơi bớt sự bất hạnh của người nghèo và xoa dịu sự đau khổ của người đau yếu. Khi các thiên tai như động đất và bệnh dịch làm kinh hãi người dân thành phố, thánh nữ đã phấn đấu qua sự cầu nguyện, sự đền tội và sau cùng, ngài đã dâng hiến cuộc đời để nài xin lòng thương xót của Chúa Cha mà thánh nữ không thể hoàn thành được bằng nỗ lực con người" (Đức Giáo Hoàng Piô XII).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhận ra thiên tai như một lời Thiên Chúa mời gọi chúng con nắm bắt cơ hội phục vụ các nạn nhân xấu số.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 28/5 Thánh Germain (496 - 576)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Germain (496 - 576)
Thánh Germain là một đan viện trưởng với đặc tính thương người nghèo và chia sẻ của cải cho họ...
Lược sử
Thánh Germain là một đan viện trưởng với đặc tính thương người nghèo và chia sẻ của cải cho họ đến độ các đan sĩ phải phản đối, nếu không đan viện sẽ không còn gì để sống.
Ngài sinh ở Autun nước Pháp, theo học tại Avalon và Luzy dưới sự dẫn dắt của người chú là một linh mục. Sau khi làm đan viện trưởng của Đan Viện Thánh Symphorien gần Autun, năm 555 ngài được Vua Childebert chọn làm giám mục Balê, sau khi Đức Giám Mục Eusebius từ trần.
Trong thời gian làm giám mục, ngài vẫn giữ lối sống kham khổ của đan viện và luyện tập các nhân đức. Ngài tham dự các Công Đồng Balê III và IV (557, 573) cũng như Công Đồng Tour II (566). Ngài thúc giục nhà vua từ bỏ các thói quen ngoại giáo và cấm tiêu xài phung phí trong các buổi lễ Kitô Giáo.
Sau khi vua Childebert từ trần, nước Pháp tan hoang vì sự tranh giành và bị chia làm bốn cho bốn thái tử. Đức Germain đã phải can thiệp, dùng thẩm quyền của Giáo Hội để ra vạ tuyệt thông một thái tử vì sự đồi trụy, và ngài cố gắng ngăn cản cuộc chiến giữa các thái tử khác.
Trước khi sự thái bình được vãn hồi, Đức Germain đã từ trần ở Balê ngày 28-5-576. Thi hài của ngài được chôn trong nhà nguyện Thánh Symphorien nhưng sau đó, năm 754, đã được cung kính chôn cất trong thánh đường chính, trước sự hiện diện của Vua Pepin và thái tử Charlemagne. Từ đó trở đi, Thánh Germain thường được gọi là Thánh Germain-des-Prés.
Ngoài lá thư của Vua Childebert cảm tạ Thánh Germain vì đã cứu ông thoát chết một cách lạ lùng, ngày nay người ta còn giữ một luận án về bản phụng vụ cổ của Pháp mà họ cho rằng Thánh Germain đã sáng tác.
Suy niệm 1: Nghèo
Thánh Germain là một đan viện trưởng với đặc tính thương người nghèo và chia sẻ của cải cho họ đến độ các đan sĩ phải phản đối, nếu không đan viện sẽ không còn gì để sống.
Với lời khấn khó nghèo trong đan viện, Thánh Germain không sống cách tiêu cực mà cách rất tích cực bằng tình hiệp thông và chia sẻ của cải vật chất cũng như tinh thần. Về tinh thần, Ngài vâng giữ lời khấn không vì bó buộc mà vì yêu thương: yêu thương Chúa nên muốn trở nên khó nghèo như Chúa, yêu thương anh em nên muốn nêu gương khó nghèo cho cộng đoàn.
Về vật chất, dù không đủ sống chứ không phải dư thừa, ngài vẫn sẵn lòng chia sẻ và giúp đỡ cho mọi người đang lâm cảnh túng thiếu (2Cr 8,15). Nghĩa cử mà ít ngày trước khi chịu tử nạn, Đức Giêsu đã nêu bật qua tấm gương của bà góa nghèo ở Giêrusalem (Lc 21,4).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống nghèo để giúp người nghèo trở nên giàu có.
Suy niệm 2: Đan viện trưởng
Sau khi làm đan viện trưởng của Đan Viện Thánh Symphorien gần Autun, năm 555 Germain được Vua Childebert chọn làm giám mục Balê, sau khi Đức Giám Mục Eusebius từ trần.
Là đan viện trưởng nên mặc dầu sau khi được bổ nhiệm làm giám mục Balê, ngài vẫn tiếp tục sống tinh thần của một đan sĩ. Ngài giữ lối sống kham khổ của đan viện và luyện tập các nhân đức.
Ý thức về giá trị của việc hãm minh trong việc tiến đức, Thánh Ivo trong lúc theo học, ngài đã ăn chay. Khi ra trường với bằng cấp luật sư, tuy là một người có đầy đủ phương tiện tài chánh, nhưng đời sống cá nhân của ngài thật khắc khổ: ăn chay, mặc áo nhặm, và thức ăn rất tầm thường. Thậm chí có lần ngài để cho người ăn xin ngủ ở trên giường, trong khi ngài ngủ dưới đất. Sự khắc khổ của ngài ngày càng nghiêm nhặt theo thời gian, nhất là sau khi được thụ phong linh mục.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con coi trọng việc ăn chay hãm mình trong việc tiến đức để luôn thực hành cho dầu không phải là một đan sĩ.
Suy niệm 3: Chính quyền
Đức Germain đã phải can thiệp.
Dầu được Vua Childebert chọn làm giám mục Balê, sau khi Đức Giám Mục Eusebius từ trần, nhưng không vì thế mà ngài quỵ lụy chính quyền, ngược lại ngài dũng cảm sống đúng chức năng bảo vệ chân lý của một vị giám mục.
Ngài thúc giục nhà vua từ bỏ các thói quen ngoại giáo và cấm tiêu xài phung phí trong các buổi lễ Kitô Giáo. Sau khi vua Childebert từ trần, nước Pháp tan hoang vì sự tranh giành và bị chia làm bốn cho bốn thái tử. Đức Germain đã phải can thiệp, dùng thẩm quyền của Giáo Hội để ra vạ tuyệt thông một thái tử vì sự đồi trụy, và ngài cố gắng ngăn cản cuộc chiến giữa các thái tử khác.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn can đảm đứng về phía sự thật dầu phải gặp nghịch cảnh gì.
Suy niệm 4: Thái bình
Trước khi sự thái bình được vãn hồi, Đức Germain đã từ trần.
Hòa bình trên trần thế là hình bóng và hoa trái của bình an của Đức Kitô, "Thủ lãnh Hòa Bình" thời Mê-si-a (Is 9,5). Nhờ máu đổ ra "trên Thập Giá, Người đã tiêu diệt sự thù hận" ngay trong thân xác Người (Ep 2,16).
Người đã giao hòa loài người với Thiên Chúa và làm cho Hội Thánh trở thành bí tích hiệp nhất nhân loại và kết hợp nhân loại với Thiên Chúa. "Chính Người là bình an của chúng ta" (Ep 2,14). Người tuyên bố "phúc thay ai xây dựng hòa bình" (Mt 5,9) (Sách Giáo Lý số 2305).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp cho chúng con hiểu rằng hòa bình không chỉ là vắng bóng chiến tranh mà còn là hoa quả của đức ái.
Suy niệm 5: Chôn cất
Thi hài của ngài được chôn trong nhà nguyện Thánh Symphorien.
Nhưng sau đó, năm 754, đã được cung kính chôn cất trong thánh đường chính, trước sự hiện diện của Vua Pepin và thái tử Charlemagne. Từ đó trở đi, Thánh Germain thường được gọi là Thánh Germain-des-Prés.
Thi thể của người đã chết có thể nói hoàn toàn tùy thuộc vào những người đang còn sống để rồi được chôn cất đâu và dời đi đâu cũng được. Chính vì thế khi bà Maria Mácđala ra mộ và thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ, bà chạy về báo tin là thi thể Chúa đã bị người ta đem đi khỏi mộ và không biết họ để Người ở đâu (Ga 20,2), chứ không nghĩ đến việc Chúa đã sống lại.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chớ quan tâm thi thể chúng con được chôn cất ở đâu, mà hết mình chăm lo cho linh hồn được hiện diện trên thiên đàng.
Suy niệm 6: Luận án
Người ta còn giữ một luận án về bản phụng vụ cổ của Pháp mà họ cho rằng Thánh Germain sáng tác.
Để hoàn thành một luận án không thể ngày một ngày hai mà được, nhưng phải dày công nghiên cứu, suy nghĩ đêm ngày gói ghém bao tâm huyết của một đời người, khi ngài không phải sáng tác nhiều mà duy nhất một luận án.
Nếu người đời chỉ sợ những ai suốt đời chỉ đọc một cuốn sách thì thật đáng khâm phục cho người đã dành cả cuộc đời để chỉ viết một cuốn sách như trường hợp thánh Germain. Thiết tưởng cả đời người không làm gì nỗi bật nhưng thực hiện được một công trình hữu ích cho hậu thế như vậy quả là quá đủ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chẳng những trân trọng sách sở mà còn những người sinh thành ra chúng.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 27/5 Thánh Augustine ở Canterbury (c. 605?)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Augustine ở Canterbury (c. 605?)
Thánh Augustine đáng được gọi là "Tông Ðồ của Anh Quốc", thanh tẩy thay vì tàn phá các đền thờ và các phong tục ngoại giáo; du nhập các nghi thức và ngày lễ của người ngoại giáo vào ngày lễ Kitô Giáo; duy trì các truyền thống địa phương...
Lược sử
Vào năm 596, một nhóm đan sĩ 30 người khởi hành từ Rôma đi truyền giáo cho người Anglo-Saxon ở Anh. Dẫn đầu là Augustine, bề trên đan viện Thánh Anrê ở Rôma. Nhưng khi đến Gaul (Pháp) họ nghe những câu chuyện dã man về người Anglo-Saxon cũng như sự nguy hiểm của các luồng nước ở eo biển, họ quay trở về Rôma và gặp vị giáo hoàng đã sai họ đi -- Thánh Grêgôriô Cả -- và đức giáo hoàng cho biết sự lo sợ của họ thì vô căn cứ.
Một lần nữa Augustine lại ra đi, và lần này cả nhóm đã vượt qua eo biển và cập bến đất Kent thuộc về Vua Ethelbert, là người ngoại giáo kết hôn với một Kitô Hữu, bà Bertha, công chúa nước Pháp. Vua Ethelbert tiếp đón họ nồng hậu, thiết lập cho họ nơi cư trú ở Canterbury và trong năm ấy, vào Chúa Nhật Hiện Xuống năm 597, chính nhà vua đã được rửa tội.
Sau khi được tấn phong làm giám mục ở Pháp, Đức Augustine trở lại Canterbury, là nơi ngài thiết lập giáo phận và khởi công xây dựng vương cung thánh đường. Khi số tín hữu ngày càng gia tăng, các giáo phận khác được ngài mở thêm ở Luân Đôn và Rochester.
Cuộc đời Đức Augustine cũng gặp nhiều thất bại. Những cố gắng hòa giải giữa Kitô Hữu Anglo-Saxon và Kitô Hữu Briton bản xứ đã kết thúc trong thất bại đau buồn. Đức Augustine cũng không thuyết phục được người Briton từ bỏ một số phong tục khác biệt với Rôma và quên đi những cay đắng để giúp ngài phúc âm hóa người Anglo-Saxon, là kẻ xâm lăng đã dồn người Briton về miền tây.
Sau những thất bại, Đức Augustine đã khôn ngoan hơn để ý đến các nguyên tắc truyền giáo -- đối với thời bấy giờ thật sáng suốt mà Đức Giáo Hoàng Grêgôriô Cả đề nghị: Hãy thanh tẩy thay vì tàn phá các đền thờ và các phong tục ngoại giáo; hãy du nhập các nghi thức và ngày lễ của người ngoại giáo vào ngày lễ Kitô Giáo; duy trì các truyền thống địa phương càng nhiều càng tốt.
Sau tám năm đến Anh, sự thành công của Đức Augustine tuy hạn hẹp nhưng sau này đã đem lại kết quả tốt đẹp là cả nước Anh đã tòng giáo. Quả thật, Thánh Augustine đáng được gọi là "Tông Đồ của Anh Quốc".
Suy niệm 1: Sai đi
Họ quay trở về Rôma và gặp vị giáo hoàng đã sai họ đi.
Trên đường đi truyền giáo cho người Anglo-Saxon ở Anh, Augustine vốn là trưởng một nhóm đan sĩ 30 người, họ gặp phải khó khăn nên quyết định quay trở về Rôma để xin ý kiến Thánh Grêgôriô Cả. Và rồi vì họ là những người được sai đi nên họ lại lên đường tiến đến đích điểm, tại đây họ đã gặt hái thành công.
Tiên tri Giô-na được Thiên Chúa sai đến thành Ni-ni-vê. Giô-na theo ý riêng quyết định không đi nên trốn lên tàu đi Tác-sít. Chúa tạo nên một cơn bão tố, khiến Giô-na bị ném xuống tàu và được một con cá đưa đến đích điểm Ni-ni-vê, và tại đây Giô-na đã giúp cả dân thành ăn năn sám hối.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn ngoan ngoãn thực thi lệnh truyền người sai đi để gặt hái được thành quả tốt đẹp.
Suy niệm 2: Hôn nhân
Vua Ethelbert, là người ngoại giáo kết hôn với một Kitô Hữu, bà Bertha, công chúa nước Pháp.
Vua Ethelbert vốn là người ngoại giáo nhưng đã trở nên tốt nhờ lối sống tốt của người vợ kitô hữu tốt. Ông tiếp đón phái đoàn của Augustine nồng hậu, thiết lập cho họ nơi cư trú ở Canterbury.
Đời sống tốt của người vợ kitô hữu tốt đã giúp người chồng nên tốt, để rồi trổ sinh một hoa trái tốt hơn. Đó là trong năm ấy, vào Chúa Nhật Hiện Xuống năm 597, chính nhà vua đã được rửa tội.
* Lạy Chúa giêsu, xin giúp chúng con luôn sống tốt để tốt hóa môi trường và tha nhân.
Suy niệm 3: Lo sợ
Đức giáo hoàng cho biết sự lo sơ của họ thì vô căn cứ.
Những nỗi lo sợ vô căn cứ cũng thường được cổ nhân ghi nhận và nêu lên: "Dù chẳng có chi phải lo sợ, chúng cũng kinh hoàng vì sâu bọ đi ngang, vì tiếng rít của loài bò sát" (Kn 17,9). Hoặc "Như những viên đá nhỏ trên bờ tường, khi gió thổi đến, không thể nằm yên, một tâm hồn hèn nhát chiều theo những suy nghĩ dại dột, gặp nỗi lo sợ nào cũng không đứng vững" (Hc 22,18).
Biết thế nhưng sống được thế luôn mãi không phải là dễ, ngay cả các vĩ nhân như nỗi lòng của một I-sa-i-a: "Lòng tôi dao động, nỗi kinh hãi khiến tôi bàng hoàng. Cảnh chiều tà xưa tôi ưa thích nay trở thành mối lo sợ cho tôi" (Is 21,4). Hoặc của một tông đồ Phao-lô: "Khi đến Ma-kê-đô-ni-a, thân xác chúng tôi chẳng được nghỉ ngơi chút nào; trái lại, ở đâu cũng gặp gian nan khốn khó: bên ngoài phải chiến đấu, bên trong phải lo sợ" (2Cr 7,5).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn xác tín có Chúa ở cùng để không phải sợ gì, như lời Chúa hằng trấn an: "Này Thầy đây, đừng sợ" (Lc 24,38).
Suy niệm 4: Thất bại
Cuộc đời Đức Augustine cũng gặp nhiều thất bại.
Những cố gắng hòa giải giữa Kitô Hữu Anglo-Saxon và Kitô Hữu Briton bản xứ đã kết thúc trong thất bại đau buồn. Đức Augustine cũng không thuyết phục được người Briton từ bỏ một số phong tục khác biệt với Rôma và quên đi những cay đắng để giúp ngài phúc âm hóa người Anglo-Saxon, là kẻ xâm lăng đã dồn người Briton về miền tây.
Nhưng các thất bại ấy không làm ngài nãn chí mà ngược lại giúp ngài vận dụng bài học: thất bại là mẹ thành công, để rồi ngài khôn ngoan hơn để ý đến các nguyên tắc truyền giáo, nhờ đó đã thâu lượm được nhiều kết quả khả quan. Chẳng những ngài giúp Vua Ethelbert được rửa tội mà còn cả nước Anh đã tòng giáo để xứng danh là "Tông Đồ của Anh Quốc".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn cậy dựa vào ơn Chúa để biến nghịch cảnh thành thuận lợi.
Suy niệm 5: Truyền giáo
Đức Augustine đã khôn ngoan hơn để ý đến các nguyên tắc truyền giáo.
Đức Giáo Hoàng Grêgôriô Cả sáng suốt đề nghị các nguyên tắc truyền giáo: Hãy thanh tẩy thay vì tàn phá các đền thờ và các phong tục ngoại giáo; hãy du nhập các nghi thức và ngày lễ của người ngoại giáo vào ngày lễ Kitô Giáo; duy trì các truyền thống địa phương càng nhiều càng tốt.
Các nguyên tắc truyền giáo này chẳng những có giá trị đối với thời bấy giờ mà ngay cả ngày nay qua đường hướng của Công Đồng Vaticanô II được thể hiện cụ thể trong chương trình đại kết và hội nhập văn hóa. Có nghĩa là khi loan báo Tin Mừng của Chúa, Hội Thánh cố gắng đem tinh thần Kitô giáo thấm nhuần não trạng, phong tục, luật lệ và cớ cấu của cộng đoàn nơi họ sống trong niềm chân thành tôn trọng (AA 13)..
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhận ra ánh sáng chân lý của Chúa ẩn tàng nơi các tôn giáo và tập tục khác.
Suy niệm 6: Thành công
Sau 8 năm đến Anh, sự thành công của Đức Augustine tuy hạn hẹp nhưng đã đem lại kết quả tốt đẹp là cả nước Anh đã tòng giáo.
Để gặt hái thành công, Đức Augustine đã phải kiên nhẫn đi từng bước một với một thời gian dài 8 năm, như lời khuyên bảo và nhắc nhở của Đức Giáo Hoàng Grêgôriô Cả qua lá thư ngài viết: "Ai muốn trèo ngọn núi cao thì phải đi từng bước, chứ đừng có nhảy."
Thật đúng như lời cổ nhân đã dạy: Dục tốt thì bất đạt. Bài học thực tế cũng từng xảy ra như thế: Trồng cây hôm nay thì đâu thể có quả vào hôm sau được. Trồng cây đã vậy phương chi trồng người, yếu tố thời gian không thể nào không được tôn trọng. Nhất là trồng niềm tin thì càng phải tiến bước từ từ và chậm rãi theo trình tự chớ không được hấp tấp, thậm chí phải trải qua nhiều giai đoạn: kẻ trồng, người tưới, người khác nữa mới gặt (1Cr 3,5-6).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con coi trọng yếu tố thời gian trong việc giáo dục, nhất là về nhân bản và mặt đức tin.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
- Ngày 26-05: Thánh Philipphe Nêrô Linh Mục (1515 - 1595)
- Ngày 25/5 Thánh Mađalêna Sôphi Barat (1779 -- 1865)
- Ngày 24/5 Thánh Maria Mađalêna Pazzi (1566 -- 1607)
- Ngày 23/5 Thánh Gioan Báptít Rossi (1698 -- 1764)
- Ngày 22/5 Thánh Rita ở Cascia (1381 -- 1457)
- Ngày 21/5 Thánh Crispin ở Viterbo (1668 -- 1750)
- Ngày 19/5 Thánh Giáo Hoàng Celestine V (1215 -- 1296)
- Ngày 18/5 Thánh Giáo Hoàng Gioan I (c. 526)
- Ngày 17/5 Thánh Paschal Baylon (1540 - 1592)
- Ngày 16/5 Thánh Simon Stock (1165 - 1265)