Gương Thánh Nhân
Ngày 16/6 Thánh Gioan Phanxicô Regis (1597-1640)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Gioan Phanxicô Regis (1597-1640)
Gioan Phanxicô Regis lưu tâm đến người nghèo và rất siêng năng thi hành mục vụ. Ngài thành công trong việc hoán cải nhiều người và đã đưa họ trở về với đời sống đạo tốt lành.
Lược sử
Sinh trong một gia đình giầu có ở Narbonne, Languedoc nước Pháp, ngay từ nhỏ, vì quá mến mộ các thầy giáo Dòng Tên nên Gioan Phanxicô luôn ao ước gia nhập dòng này. Và ngài đã thực hiện ý định ấy khi 18 tuổi. Trong thời gian tu tập, mặc dù học trình rất nghiêm nhặt nhưng ngài đã dành nhiều thì giờ cầu nguyện hàng đêm.
Sau khi được thụ phong linh mục, Cha Regis đi truyền giáo trong một vài thành phố ở Pháp. Đặc biệt, ngài lưu tâm đến người nghèo và rất siêng năng thi hành mục vụ. Ngay từ sáng sớm ngài đã có mặt ở tòa giải tội sau khi cử hành Thánh Lễ.
Vào thời bấy giờ, vì thiếu giám mục và các linh mục thì chểnh mảng, giáo dân không biết gì đến bí tích có trên 20 năm. Nhiều hình thức Tin Lành phát triển mau chóng trong khi hàng giáo sĩ vẫn giữ thái độ lãnh đạm trong nhiều lãnh vực. Trong ba năm trường, Cha Regis đã đi khắp địa phận, tổ chức các buổi học hỏi, xưng tội trước khi mời đức giám mục đến thăm. Ngài thành công trong việc hoán cải nhiều người và đã đưa họ trở về với đời sống đạo tốt lành.
Sau khi làm việc cả ngày Giáng Sinh không ngừng nghỉ, vào ngày hôm sau ngài đã ngất xỉu vì kiệt sức sau khi lên toà giảng. Bốn ngày sau đó, trước khi thở hơi cuối cùng, ngài đã thốt lên: "Lạy Chúa Giêsu, con phó linh hồn con trong tay Chúa." Lúc ấy ngài mới 43 tuổi.
Ngài được phong thánh năm 1737.
Suy niệm 1 Ao ước
Gioan Phanxicô luôn ao ước gia nhập dòng này.
Ao ước vẫn luôn là một động lực tiềm tàng nơi mỗi người, nhất là khi còn tấm bé, nhưng điều cần nêu lên ở đây, đó là có thực hiện được hay không, và thực hiện được như thế nào.
Với Gioan Phanxicô, chúng ta đã tìm thấy được câu trả lời. Thật vậy, ngay từ nhỏ, ngài luôn ao ước gia nhập Dòng Tên, vì quá mến mộ các thầy giáo dòng này. Và ngài đã thực hiện ý định ấy khi được 18 tuổi.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con thực hiện được ao ước duy nhất và phổ quát của hết mọi người kitô hữu chúng con, là sống sao để được về với Chúa trên thiên đàng, sau khi kết thúc cuộc đời lữ thứ trần gian này.
Suy niệm 2 Cầu nguyện
Trong thời gian tu tập, mặc dù học trình rất nghiêm nhặt nhưng Gioan Phanxicô đã dành nhiều thì giờ cầu nguyện hàng đêm.
Việc học hành trong thời gian tu tập là điều rất quan trọng và khẩn thiết cho một tập sinh. Dĩ nhiên ngài nghiêm túc thực hiện hết mình. Tuy nhiên ngài cũng sớm nhận ra vai trò còn quan trọng và khẩn thiết hơn hết cho một tu sĩ như là nguồn sống và là căn tính của một tu sĩ đúng nghĩa, đó là việc cầu nguyện. Chính vì thế ngài đã dành nhiều thì giờ để hàng cầu nguyện cho dầu phải vào lúc ban đêm.
Đức Giêsu đã nêu gương về lối sống ấy. Dầu suốt ngày phải miệt mài đi rao giảng Tin Mừng trên mọi nẻo đường đất nước Dothái, không quản nhọc mệt nắng mưa, thậm chí không thiết đến thì giờ ăn uống nghỉ ngơi, Ngài vẫn luôn tranh thủ để cầu nguyện, dầu phải vào rừng vắng, lên núi cao, vào lúc sáng sớm hay chiều tối hoặc giữa đêm khuya.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chuyên chăm cầu nguyện như một thứ lương thực chính yếu của đời chúng con.
Suy niệm 3 Truyền giáo
Sau khi được thụ phong linh mục, Cha Regis đi truyền giáo trong một vài thành phố ở Pháp.
Mặc dù Cha Regis ao ước đi truyền giáo cho người da đỏ Bắc Mỹ ở Gia Nã Đại, nhưng suốt cuộc đời ngài đã tận tụy phục vụ Thiên Chúa trong những nơi hoang vu nhất ở ngay quê hương của ngài. Ở đó ngài phải chịu sự khắc nghiệt của thời tiết và nhiều thiệt thòi khác. Tuy nhiên, sự thánh thiện của ngài ngày càng gia tăng và được nhiều người biết đến.
Về đời sống cá nhân, là con người truyền giáo, ngài càng khó khăn với chính mình bao nhiêu thì ngài lại nhân từ với người khác bấy nhiêu. Thức ăn của ngài thường là rau trái và bánh thô, nhiều khi vì số người đến xưng tội quá đông đến độ ngài không còn thời giờ để ăn uống. Để hy sinh hãm mình, mỗi đêm, ngài ngủ không quá ba giờ đồng hồ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết hổ trợ cho công cuộc truyền giáo bằng chính lối sống thánh thiện và hãm mình,
Suy niệm 4 Mục vụ
Cha Regis lưu tâm đến người nghèo và siêng năng thi hành mục vụ.
Vào buổi chiều ngài đi thăm các bệnh nhân và tù nhân. Vào năm 1631, khi trận dịch hạch tấn công thành phố, ngài làm việc trong bệnh viện ở Toulouse với "những công việc tầm thường nhất ở trong bếp nhưng lúc nào cũng vui vẻ và sẵn sàng."
Trong bốn năm cuối đời, ngài rao giảng và làm việc trong các tổ chức xã hội, nhất là cho người tù, người bệnh và người nghèo. Vào mùa thu năm 1640, dù cảm thấy cái chết đã gần kề, Cha Regis vẫn cố gắng trong công tác mục vụ, nhằm đưa các linh hồn về với Chúa. Sau khi làm việc cả ngày Giáng Sinh không ngừng nghỉ, vào ngày hôm sau ngài đã ngất xỉu vì kiệt sức sau khi lên toà giảng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đánh giá cao công tác thăm viếng gia đình trong chương trình mục vụ.
Suy niệm 5 Giải tội
Ngay từ sáng sớm Cha Regis đã có mặt ở tòa giải tội sau khi cử hành Thánh Lễ.
Vào thời bấy giờ, vì thiếu giám mục và các linh mục thì chểnh mảng, giáo dân không biết gì đến bí tích có trên 20 năm. Nhiều hình thức Tin Lành phát triển mau chóng trong khi hàng giáo sĩ vẫn giữ thái độ lãnh đạm trong nhiều lãnh vực.
Suốt trong ba năm trường, Cha Regis đã đi khắp địa phận, tổ chức các buổi học hỏi, xưng tội trước khi mời đức giám mục đến thăm. Ngài thành công trong việc hoán cải nhiều người và đã đưa họ trở về với đời sống đạo tốt lành.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con siêng năng chạy đến tòa giải tội, để giữ mãi được sự bình an trong tâm hồn.
Suy niệm 6 Chết
Bốn ngày sau đó, trước khi thở hơi cuối cùng, Cha Regis đã thốt lên: "Lạy Chúa Giêsu, con phó linh hồn con trong tay Chúa."
Hơi thở biểu hiện cho cuộc sống. Cuộc sống của ngài bày tỏ một tâm tình hoàn toàn phó thác cho Chúa qua bao nghịch cảnh gặp phải trên bước đường thi hành chức vụ linh mục, dặc biệt trong sứ vụ mục vụ và truyền giáo nhằm đưa nhiều tâm hồn về vối Chúa.
Mỗi hơi thở kéo dài cuộc sống của ngài cũng là một tâm tình ngài phó thác cho Chúa, phó thác bản thân ngài cho Chúa, phó thác tâm tư nguyện vọng, cùng mọi chương trình hoạt động của ngài cho Chúa, cũng như phó thác mọi con chiên ngoan hiền kể cả những con chiên lạc đàn được sớm quay về ràn chiên Chúa. Sứ mạng hoàn thành cũng có nghĩa là đã đến lúc phải trút hơi thở cuối cùng để hoàn toàn thuộc về Chúa.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tập biết thở là để sống, và sống là để cho Chúa.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 15/6 Thánh Germaine Cousin (1579-1601)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Germaine Cousin (1579-1601)
Bất kể những lao nhọc và bất công trong đời sống, Germaine vui lòng chấp nhận mọi sỉ nhục. Cô thích đi chăn cừu, vì đó là cơ hội để cầu nguyện và chuyện trò với Thiên Chúa.
Lược sử
Thánh Germaine là một thiếu nữ quê mùa ở làng Pibrac, gần Toulouse. Vì mẹ mất sớm nên cô phải lớn lên trong hoàn cảnh đau khổ. Ngay khi chín tuổi, Germaine đã phải đi chăn cừu.
Germaine rất đạo đức và siêng năng tham dự Thánh Lễ.
Germaine quá nghèo để có thể chia sẻ vật chất cho người khác. Nhưng tình yêu tha nhân của cô luôn luôn được thể hiện qua sự giúp đỡ bất cứ ai cần đến cô, nhất là các trẻ em trong làng, là những người được cô dạy cho biết kính sợ Thiên Chúa.
Vào lúc ấy, sự thánh thiện của Germaine bắt đầu được dân làng chú ý. Nhưng điều này cũng không giúp thay đổi gì tình trạng của cô trong gia đình. Thật vậy, cô bị trừng phạt vì đã chia sẻ thức ăn cho người ăn xin. Có lần vào mùa đông, bà mẹ ghẻ nghi ngờ cô giấu miếng bánh trong vạt áo, nhưng khi mở ra bà chỉ thấy những bông hoa thật đẹp của mùa hè rơi xuống. Gia đình bắt đầu nhận ra sự thánh thiện của cô và mời cô vào sống ở trong nhà, nhưng Germaine xin được tiếp tục cuộc sống như trước.
Năm cô 22 tuổi, người ta tìm thấy cô nằm chết trên đống rơm dưới gầm cầu thang. Thi hài của cô được chôn trong nhà thờ ở Pibrac. Bốn mươi ba năm sau, khi tân trang nhà thờ, các người thợ vô tình khai quật mộ của cô và người ta tìm thấy xác của cô vẫn còn nguyên vẹn. Sau khi được trưng bầy cho mọi người kính viếng trong một năm trời, thi hài của cô được chôn cất trong gian cung thánh. Nhiều phép lạ đã xảy ra nhờ lời cầu bầu của cô. Tiến trình phong thánh cho cô mãi cho đến năm 1849, cô mới được Đức Giáo Hoàng Piô IX phong thánh và đặt làm quan thầy của các thiếu nữ ở thôn quê.
Suy niệm 1 Đau khổ
Vì mẹ mất sớm nên Germaine phải lớn lên trong hoàn cảnh đau khổ.
Nỗi khổ đau mất mẹ chỉ là khởi điểm cho một chuỗi những khổ đau dồn dập tiếp theo trong đời. Chẳng những cô bị người cha ghét bỏ mà còn bị người mẹ ghẻ đối xử thật tàn nhẫn. Vì không muốn Germaine chung đụng với con riêng của mình, bà mẹ ghẻ bắt Germaine phải ngủ trong chuồng súc vật hoặc dưới gầm cầu thang, lúc nào cũng phải làm việc trong khi ăn uống rất kham khổ.
Sống cơ cực và chết cũng chẳng khá hơn chút nào khi người ta tìm thấy cô nằm chết trên đống rơm dưới gầm cầu thang vào năm cô được 22 tuổi. Rồi tiến trình phong thánh cho cô dầu được khởi sự từ năm 1700, nhưng vì cuộc Cách Mạng Pháp, tiến trình này đã bị đình trệ, mãi cho đến năm 1849, cô mới được Đức Giáo Hoàng Piô IX phong thánh
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con mỗi khi gặp khổ đau, hãy biết nhìn đến khổ đau của người, nhất là của Chúa, để phấn đấu vươn lên.
Suy niệm 2 Chăn cừu
Ngay khi chín tuổi, Germaine đã phải đi chăn cừu.
Bất kể những lao nhọc và bất công trong đời sống, Germaine vui lòng chấp nhận mọi sỉ nhục. Cô thích đi chăn cừu, vì đó là cơ hội để cầu nguyện và truyện trò với Thiên Chúa.
Môsê xưa kia cũng lạc quan rời bỏ cảnh xa hoa và sung túc của cung điện vua Pharaô, để ôm ấp kiếp sống chăn chiên cho bố vợ là Gi1trô ở núi Khôrếp ở Mađian, nên đã gặp được Chúa trong đám lửa từ giữa bụi cây, và nhận lãnh sứ mạng cao cả là giải cứu dân Chúa thoát ách Aicập (Xh 3,1-12).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn có cái nhìn lạc quan, để biến cuộc sống nên tươi đẹp trong bàn tay quan phòng diệu kỳ của Chúa.
Suy niệm 3 Thánh Lễ
Germaine rất đạo đức và siêng năng tham dự Thánh Lễ.
Mỗi sáng nghe chuông đổ, dù đang chăn cừu, cô vội vã cắm cây gậy xuống đất và chạy đến nhà thờ, phó thác đàn cừu cho sự chăm sóc của các thiên thần.
Chưa bao giờ đàn cừu bị nguy hại vì sói rừng khi vắng mặt cô, dù ở cạnh khu rừng. Người ta kể rằng, có lần cô đã đi trên mặt nước, chạy băng qua sông để kịp dự lễ.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn thể hiện lòng yêu quý Thánh Lễ, bằng việc hết mình sắp xếp mọi việc đễ kịp giờ dâng Thánh Lễ.
Suy niệm 4 Bác ái
Germaine quá nghèo để có thể chia sẻ vật chất cho người khác. Nhưng tình yêu tha nhân của cô luôn luôn được thể hiện qua sự giúp đỡ bất cứ ai cần đến cô, nhất là các trẻ em trong làng, là những người được cô dạy cho biết kính sợ Thiên Chúa.
Vào lúc ấy, sự thánh thiện của Germaine bắt đầu được dân làng chú ý. Nhưng điều này cũng không giúp thay đổi gì tình trạng của cô trong gia đình. Thật vậy, cô bị trừng phạt vì đã chia sẻ thức ăn cho người ăn xin.
Có lần vào mùa đông, bà mẹ ghẻ nghi ngờ cô giấu miếng bánh trong vạt áo, nhưng khi mở ra bà chỉ thấy những bông hoa thật đẹp của mùa hè rơi xuống. Gia đình bắt đầu nhận ra sự thánh thiện của cô và mời cô vào sống ở trong nhà, nhưng Germaine xin được tiếp tục cuộc sống như trước.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết thực thi đức ái đối với tha nhân, nếu không bằng vật chất vì không có khả năng thì ít là bằng tinh thần, nhất là bằng gương sáng.
Suy niệm 5 Chôn cất
Thi hài của Germaine được chôn trong nhà thờ ở Pibrac.
Bốn mươi ba năm sau, khi tân trang nhà thờ, các người thợ vô tình khai quật mộ của cô và người ta tìm thấy xác của cô vẫn còn nguyên vẹn. Sau khi được trưng bầy cho mọi người kính viếng trong một năm trời, thi hài của cô được chôn cất trong gian cung thánh.
Dầu nằm chết trên đống rơm dưới gầm cầu thang, nhưng cô lại được chôn cất cách vinh dự trong nhà thờ và nhất là sau này được chuyển chôn trong gian cung thánh đầy quang vinh. Tất cả nhờ vào cuộc đời thánh thiện trổi vượt được biểu hiện qua thân xác vẫn còn nguyên vẹn sau bao năm trời được chôn cất cùng với các phép lạ kèm theo. Nhưng điều quan trọng nhất là cô đang được yên nghỉ trong niềm hạnh phúc thiên đàng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con chú tâm sống không vì chốn an nghỉ đời này mà là được yên nghỉ đời đời bên Chúa trên thiên đàng.
Suy niệm 6 Phép lạ
Nhiều phép lạ đã xảy ra nhờ lời cầu bầu của Thánh Germaine.
Xa mặt mà không cách lòng. Hơn ai hết, người Việt Nam chúng ta đã cảm nghiệm được cách sâu sắc câu nói thâm thúy này, sau biến cố lịch sử chia đôi đất nước giữa hai miền Nam và Bắc với hiệp định Genève vào năm 1954, để rồi ngọn lửa tình thương vô biên giới này đã có dịp bừng cháy lên mãnh liệt vào dịp thống nhất đất nước vào năm 1975 với việc tìm về gặp gỡ và sum họp của bao người trong cùng một gia tộc.
Trên trái đất mà còn như thế, phương chi trên cõi trời cao. Chính vì thế nhờ thế lực ở bên tòa Chúa, Thánh Germaine đã không ngừng sống tình liên đới với những người còn sống ở trần thế mà đang gặp nhiều nghịch cảnh cả về tinh thần lẫn thân xác. Ngài thể hiện tình hiệp thông này bằng việc thực hiện nhiều phép lạ, nhằm đáp ứng nhu cầu khẩn thiết và nguyện vọng chính đáng của họ, mỗi khi họ mở lời kêu xin cứu giúp.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con vững tin và sống mãi mầu nhiệm hiệp thông của Giáo Hội mà chúng con hằng tuyên tín mỗi dịp đọc kinh Tin Kính.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 14/6 Thánh Albert Chmielowski (1845-1916)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Albert Chmielowski (1845-1916)
Albert sáng lập tổ chức các Thầy Dòng Ba Phanxicô để giúp đỡ người nghèo và người vô gia cư, bất kể tuổi tác, tôn giáo hay chính kiến.
Lược sử
Sinh ở Igolomia gần Krakow, Ba Lan, Thánh Albert là người con cả trong gia đình giầu có, và tên rửa tội là Adam. Trong cuộc cách mạng 1864 chống với Nga Hòang Alexander III, Adam bị thương và bị cụt chân trái.
Với khả năng hội họa Adam đã theo học ở Warsaw, Munich và Balê. Sau khi trở về Krakow, Adam gia nhập dòng Phanxicô Thế Tục. Vào năm 1888, Adam lấy tên là Albert khi sáng lập tổ chức các Thầy Dòng Ba Phanxicô. Công việc chính yếu của tổ chức là giúp đỡ người nghèo và người vô gia cư, bất kể tuổi tác, tôn giáo hay chính kiến.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phong chân phước cho Thầy Albert năm 1983 và phong thánh cho ngài sáu năm sau.
Suy niệm 1: Con cả
Sinh ở Igolomia gần Krakow, Ba Lan, Thánh Albert là người con cả trong gia đình giầu có, và tên rửa tội là Adam.
Là người con cả trong một gia đình giầu có, dĩ nhiên Albert có đủ kiều kiện để xây mộng vàng trên đài vinh quang trần thế. Nhất là Albert lại có biệt tài hội họa và được trau dồi kiến thức từ một số trường danh tiếng ở Warsaw, Munich và Balê.
Thế nhưng ngài lại chọn con đường tìm vinh danh Thiên Chúa hơn là chính bản thân. Do đó ngài đã xin gia nhập dòng Phanxicô Thế Tục. Và sau đó sáng lập tổ chức các Thầy Dòng Ba Phanxicô với công việc chính yếu là giúp đỡ người nghèo và vô gia cư, bất kể tuổi tác, tôn giáo hay chính kiến.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng tìm vinh quang trần thế chóng qua, nhưng miệt mài tìm đạt được vinh quang thiên đàng.
Suy niệm 2: Adam
Sinh ở Igolomia gần Krakow, Ba Lan, Thánh Albert là người con cả trong gia đình giầu có, và tên rửa tội là Adam.
Đây là một sự trùng hợp ngẫu nhiên hay cố tình. Dầu sao danh xưng giống nhau này cũng nói lên một ít tương quan giữa ngài với nguyên tổ Adam. Ngài là hậu bối có cội nguồn từ nguyên tổ Adam với tội tổ tông truyền. Đồng thời ngài là con cả của gia đình ngài. cũng như nguyên tổ Adam là con cả của gia đình nhân loại.
Nhưng có sự khác biệt, có lẽ vì thế mà sau này ngài đổi tên là Albert. Từ bài học phạm tội của nguyên tổ Adam do nghe lời vợ là Eva, ngài không chọn sống trong bậc vợ chồng mà tự nguyện sống đời độc thân trong bậc tu trì. Ngài gia nhập dòng Phanxicô Thế Tục, và tiếp tục sống ơn gọi này suốt đời trong tổ chức các Thầy Dòng Ba Phanxicô do ngài sáng lập.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết học theo cái tốt của người và học tránh cái xấu của người.
Suy niệm 3: Cụt chân
Trong cuộc cách mạng 1864 chống với Nga Hoàng Alexander III, Adam bị thương và bị cụt chân trái.
Thiên Ý thường được bày tỏ trong các biến cố của đời người. Điều quan trọng là có nhận ra hay không để rồi quyết tâm vượt qua thử thách và thực hiện cho đẹp lòng Chúa và mưu ích cho bản thân cũng như tha nhân.
Phúc thay cho Albert đã đọc được lời mời gọi của Thiên Chúa qua biến cố bị thương và bị cụt chân trái. Albert đã chuyển hướng đời mình bằng việc xin gia nhập dòng Phanxicô Thế Tục, và sau đó đã sống suốt đời trong tổ chức các Thầy Dòng Ba Phanxicô do chính ngài sáng lập.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn nhận ra Thiên Ý và thực thi trong các biến cố đời mình.
Suy niệm 4: Hội họa
Với khả năng hội họa Adam đã theo học ở Warsaw, Munich và Balê.
Với biệt tài vốn có và nhất là được trau dồi ở các trường thời danh, ngài đã từ bỏ tất cả để theo đuổi ơn gọi tu trì theo lời mời gọi của Chúa qua biến cố bị thương và bị cụt chân trái, để lại một tấm gương cho hậu thế.
Trong cuốn sách kỷ niệm kim khánh linh mục năm 1996, khi chia sẻ về ơn thiên triệu của chính mình, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cho biết Thầy Albert đã có một ảnh hưởng trong ơn gọi ấy "bởi vì tôi tìm thấy nơi ngài sự hỗ trợ tinh thần và một tấm gương khi từ bỏ thế giới nghệ thuật, văn chương và kịch nghệ, để nhất định chọn lựa ơn gọi linh mục". Khi là một linh mục trẻ, Đức Giáo Hoàng đã viết một kịch bản về cuộc đời Thầy Albert để tỏ lòng biết ơn thánh nhân.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con không chỉ chiêm ngắm các tấm gương sáng của người mà nhất là biến thành lối sống của chính mình.
Suy niệm 5: Albert
Vào năm 1888, Adam lấy tên là Albert khi sáng lập tổ chức các Thầy Dòng Ba Phanxicô.
Tên cũ Adam với lối sống cũ nhuộm màu trần tục dầu không mang lấy những vết nhơ tội lỗi nào đáng khiển trách, nhưng cũng chưa phù hợp với bức họa tuyệt vời mà Chúa muốn danh họa Albert tô điểm cho thế giới và bao người. Vì thế tên cũ Adam cần phải được xóa bỏ để thay thế bằng một tên mới Albert.
Bức tuyệt tác danh họa Albert vẽ lên được ghi đậm dấu ấn của ngòi bút vốn là một bản thân đạo đức thánh thiện của một đấng sáng lập dòng, cũng như dấu ấn của muôn màu sắc rực rỡ vốn là các công trình từ thiện nhằm phục vụ người nghèo và người vô gia cư, bất kể tuổi tác, tôn giáo hay chính kiến.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn là bức họa tuyệt tác do bàn tay Thiên Chúa vẽ lên trong phòng trưng bày thiên đàng.
Suy niệm 6: Tổ chức
Công việc chính yếu của tổ chức là giúp đỡ người nghèo và người vô gia cư, bất kể tuổi tác, tôn giáo hay chính kiến.
Tổ chức cứu giúp người nghèo khổ thì không thiếu, nhưng không biệt tôn giáo và chính kiến thì thật hiếm thấy. Riêng tổ chức này chính là các Thầy Dòng Ba Phanxicô, vốn là những vị tự nguyện suốt đời sống theo sát chân Đức Giêsu là người của mọi người. Không lạ gì họ mở rộng tấm lòng để cứu giúp tất cả mọi hạng người không biên giới.
Đức Giêsu trên bước đường rao giảng Tin Mừng cũng đã từng thi ân giáng phúc cho quần chúng nghèo đói không kể đàn bà con trẻ (Mt 14,21). Ngài cũng dùng quyền năng làm phép lạ cứu sống và chữa lành bệnh cho người ngoại giáo (Mt 15,22) và cả người ngoại quốc (Lc 7,2), cũng như gia đình người bất đồng chính kiến (Mc 5,22-23). Nhất là Ngài cũng không ngần ngại chọn làm cộng sự viên những người xuất thân là nghề thu thuế (Mt 9,9) và kẻ bắt đạo (Cv 9,4).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn quảng đại và bao dung cứu giúp mọi người không phân biệt một ai.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 13/6 Thánh Antôn ở Padua (1195-1231)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Antôn ở Padua (1195-1231)
"Các thánh giống như các vì sao. Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, Ngài đã giấu họ nơi kín đáo để đừng chiếu tỏa trước mặt người khác dù đôi khi họ muốn như vậy." (Thánh Antôn)
Lược sử
Quy tắc đời sống của Thánh Antôn là "từ bỏ mọi sự và theo Đức Kitô," đúng như lời ghi trong Phúc Âm. Nhiều lần Thiên Chúa đã gọi thánh nhân đến các hoạch định mới và ngài đã đáp ứng một cách nhiệt thành và tận tụy hy sinh để phục vụ Đức Giêsu Kitô cách trọn vẹn hơn.
Vị thánh rất nổi tiếng này sinh ở Bồ Đào Nha, và tên rửa tội là "Ferdinand." Ngài được sự giáo dục kỹ lưỡng của các tu sĩ dòng Augustine và sau đó đã gia nhập Dòng. Khi hai mươi lăm tuổi, cuộc đời ngài chuyển hướng.
Thầy Antôn không bao giờ nói về mình, nên không ai trong nhà dòng biết được sự thông minh và tài giỏi thực sự của ngài. Thầy Antôn đã đi rao giảng khắp nước Ý. Ngài nổi tiếng đến nỗi dân chúng phải đóng cửa tiệm để đến nghe ngài giảng.
Thầy Antôn là thầy dòng đầu tiên được dạy thần học cho các thầy khác.
Người thời ấy thường tìm đến Thầy Antôn để xin chữa lành hồn xác. Nhiều phép lạ đã xảy ra qua lời cầu bầu của thánh nhân ngay khi còn sống.
Thầy Antôn từ trần ở Arcella, gần Padua, nước Ý khi ngài ba mươi sáu tuổi. Chỉ một năm sau, ngài đã được Đức Giáo Hoàng Grêgôriô IX phong thánh.
Người ta thường vẽ Thánh Antôn bế Hài Nhi Giêsu vì Đức Giêsu đã hiện ra với ngài.
Suy niệm 1: Từ bỏ
Quy tắc đời sống của Thánh Antôn là "từ bỏ mọi sự và theo Đức Kitô," đúng như lời ghi trong Phúc Âm.
Với quy tắc ấy, ngài từ bỏ niềm khao khát được tử đạo theo gương một số tu sĩ dòng Phanxicô bị bách hại bởi người Moor và được tử đạo ở Morocco, để rồi ngài chấp nhận sống trong một nơi hiu quạnh, với công việc rửa chén trong nhà bếp và dành thời giờ để cầu nguyện, đọc Kinh Thánh, và nhất là ngài không bao giờ nói về mình, nên không ai trong nhà dòng biết được sự thông minh và tài giỏi thực sự của ngài.
Nhiều khi chúng ta muốn được người đời để ý đến những công việc tốt lành của chúng ta, nhưng ít ai muốn chú ý. Đó là lúc chúng ta cầu xin Thánh Antôn giúp chúng ta vui lòng chấp nhận, và chú tâm đến những gì chúng ta có thể đem lại cho đời, hơn là nhận được từ người đời.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống tinh thần từ bỏ đến mức quên mình vì người.
Suy niệm 2: Hoạch định
Nhiều lần Thiên Chúa đã gọi thánh nhân đến các hoạch định mới và ngài đã đáp ứng một cách nhiệt thành và tận tụy hy sinh để phục vụ Đức Giêsu Kitô cách trọn vẹn hơn.
Ngài gia nhập dòng Phanxicô với ước mơ đến Phi Châu để rao giảng cho người Moor hầu được tử đạo. Chúa quan phòng để ngài lâm bệnh nặng phải trở về Ý và dành thời giờ để cầu nguyện, đọc Kinh Thánh. Nhờ đó ngài trở thành một giáo sư, nhà giảng thuyết, làm phép lạ để hoán cải những kẻ lầm lạc.
Từ kinh nghiệm bản thân, trong một bài giảng, Thánh Antôn nói: "Các thánh giống như các vì sao. Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, Ngài đã giấu họ nơi kín đáo để đừng chiếu tỏa trước mặt người khác dù đôi khi họ muốn như vậy. Tuy nhiên, họ phải sẵn sàng hy sinh đời sống chiêm niệm âm thầm để đổi lấy việc bác ái, một khi tâm hồn họ nhận ra đó là lời mời của Đức Kitô".
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn đi theo kế đồ của Thiên Chúa để mưu ích cho mình và cho người.
Suy niệm 3: Chuyển hướng
Khi 25 tuổi, cuộc đời Antôn chuyển hướng.
Lúc bấy giờ, ngài nghe tin một số tu sĩ dòng Phanxicô bị bách hại bởi người Moor và được tử đạo ở Morocco -- đó là Thánh Bernard và các bạn. Ferdinand khao khát được chết vì Đức Kitô nên ngài gia nhập dòng Phanxicô.
Lúc bấy giờ, dòng này mới thành lập và Thánh Phanxicô vẫn còn sống. Ferdinand lấy tên là "Antôn" và đến Phi Châu để rao giảng cho người Moor. Nhưng ngay sau đó, ngài lâm bệnh nặng phải trở về Ý và sống trong một nơi hiu quạnh, chấp nhận công việc rửa chén trong nhà bếp và dành thời giờ để cầu nguyện, đọc Kinh Thánh.
* Lạy Chúa Giêsu, đời người ngắn ngủi và lắm đổi thay, xin giúp chúng con biết chuyển hướng đời mình theo kế đồ của Thiên Chúa để gặt hái nhiều thành quả cho Chúa và Giáo Hội.
Suy niệm 4: Rao giảng
Thầy Antôn đã đi rao giảng khắp nước Ý.
Mãi cho đến khi có buổi lễ tấn phong, và vì không ai trong dòng kịp chuẩn bị nên Thầy Antôn đã được chọn để diễn giảng. Những năm tìm kiếm Đức Kitô trong sự cầu nguyện, trong Kinh Thánh và phục vụ Chúa trong sự nghèo hèn, khiêm hạ đã chuẩn bị Thầy Antôn được sẵn sàng để Thần Khí dùng đến khả năng của thầy.
Bài giảng của thầy đã làm mọi người kinh ngạc và từ đó trở đi, cho đến khi ngài từ trần vào chín năm sau đó, Thầy Antôn đã đi rao giảng khắp nước Ý. Ngài nổi tiếng đến nỗi dân chúng phải đóng cửa tiệm để đến nghe ngài giảng.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn tôn trọng thính giả, để biết chuẩn bị kỹ lưỡng bài giảng bằng việc suy niệm và sống trước nói.
Suy niệm 5: Thầy dạy
Thầy Antôn là thầy dòng đầu tiên được dạy thần học cho các thầy khác.
Được công nhận là người siêng năng cầu nguyện, hiểu biết Kinh Thánh và thần học, Thầy Antôn là thầy dòng đầu tiên được dạy thần học cho các thầy khác.
Ngài là người hiểu biết thâm sâu, nhất là về Kinh Thánh, do đó Đức Giáo Hoàng Piô XII đã tuyên xưng ngài là "Tiến Sĩ Tin Mừng," hoặc Tiến Sĩ Kinh Thánh. Kiến thức uyên thâm của ngài đã được Thiên Chúa dùng để rao giảng cho những người lạc giáo và hoán cải những kẻ lầm lạc.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ý thức về cơ hội của một thầy dạy là học được bốn lần: lần đầu học để được làm thầy, lần hai học khi dọn bài để dạy, lần ba là học đang lúc dạy, và lần bốn là sống lời mình đã giảng dạy như một tấm gương cho học trò.
Suy niệm 6: Phép lạ
Người thời ấy thường tìm đến Thầy Antôn để xin chữa lành hồn xác. Nhiều phép lạ đã xảy ra qua lời cầu bầu của thánh nhân ngay khi còn sống.
Một lần cha Antôn giảng về mầu nhiệm Chúa Giêsu ngự thật trong Thánh Thể. Có người lạc đạo không tin, đến thưa với Ngài: Nếu xem thấy phép lạ, tôi mới tin! Cha Antôn nói với anh: Hãy để con lừa của anh nhịn đói 3 ngày, rồi đem nó tới cửa nhà thờ, anh sẽ thấy phép lạ. Ðúng ngày hẹn, người kia đem con lừa đã nhịn đói ba ngày và thúng đồ ăn đến trước cửa nhà thờ, thấy thúng đồ ăn trước mắt, nó vội vàng chạy tới ăn lấy ăn để. Nhưng vừa lúc đó, cha Antôn kiệu Mình Thnh Cha tới cửa nhà thờ. Lạ lùng thay, con lừa đột nhiên bỏ ăn, đến trước Thánh Thể Chúa: Nó quì gối, cúi đầu lậy ba lần. Người lạc đạo đã tin, và sau đó trở lại Công Giáo.
Một hôm, có người đến xưng tội với Ngài, nhưng vì quá xúc động, ông ta không thể nói lên lời. Cha Antôn bảo ông viết các tội vào giấy rồi đưa cho Ngài xem. Sau khi ban ơn Xá Giải, cha Antôn trao lại tờ giấy cho ông. Về tới nhà, ông đem tờ giấy đã viết tội đi đốt, nhưng lạ lng thay, khi mở ra, chỉ còn là một tờ giấy trắng bạch! Trở lại gặp cha Antôn, ông thưa Ngài đầu đuôi câu truyện, Ngài nói với ông: Chúa đã làm phép lạ để chứng nhận quyền tha tội của các vị linh mục.
* Lạy Cha Giêsu, xin gip chng con luơn chạy tìm đến phép lạ cao cả dầu xảy ra thường xuyên sau lời truyền phép của vị chủ tế là bánh và rượu trở thành Mình Máu Cha.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 12/6 Thánh Giáo Hoàng Lêô 3 (c. 816)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh Giáo Hoàng Lêô 3 (c. 816)
Năm 795, ĐGH Lêô 3 được chọn làm giáo hoàng thứ 96. Ngài giúp đỡ người nghèo và bảo trợ các công trình nghệ thuật, dẹp được lạc thuyết Thừa Tự (*) ở Tây Ban Nha, nhưng vẫn bị giới quý tộc khinh miệt vì ngài xuất xứ từ giới bình dân.
Lược sử
Sinh ở Rôma, nước Ý, Đức Lêô là người thủ kho của tòa thánh và là linh mục trưởng ở Santa Suzanna khi ngài được chọn làm giáo hoàng năm 795 để kế vị Đức Hadrian I, vừa mới từ trần.
Hai người cháu của Đức Hadrian I đều mong muốn được làm giáo hoàng, do đó họ xúi giục các thanh niên quý tộc tấn công Đức Lêô.
Đức Lêô được cảm tình của người thế lực nhất thời bấy giờ, đó là Hoàng Đế Charlemagne ở Paderborn, và ông đã cung cấp vệ binh để hộ tống đức giáo hoàng trở về Rôma giữa tiếng reo hò của mọi người.
Tuy nhiên, kẻ thù vẫn không để ngài yên. Họ tố cáo Đức Lêô về tội thề gian và ngoại tình. Năm 800, Charlemagne đến Rôma và chỉ định một ủy ban điều tra để cứu xét điều cáo buộc Đức Lêô. Uỷ ban không tìm thấy một chứng cớ nào, và Đức Lêô đã thề trước hội đồng giám mục rằng ngài vô tội đối với các cáo buộc ấy.
Vào lễ Giáng Sinh, tại đền Thánh Phêrô, Đức Lêô đã ban thưởng cho Charlemagne tước vị Hoàng Đế Rôma Thánh Thiện. Điều này là nguyên do hình thành Đế Quốc Rôma Thánh Thiện -- là một cố gắng nhằm thể hiện lý tưởng Thành Phố Thiên Chúa của Thánh Augustine -- mà đã ảnh hưởng đến lịch sử Âu Châu trong nhiều thế kỷ.
Với sự giúp đỡ của Charlemagne, Đức Lêô đã dẹp được lạc thuyết Thừa Tự ở Tây Ban Nha, nhưng khi Charlemagne muốn thêm chữ Filioque (và Đức Chúa Con" ) vào kinh Tin Kinh Nicene thì Đức Lêô đã từ chối, một phần vì ngài không cho phép giáo dân can thiệp vào nội bộ giáo hội, và một phần vì ngài không muốn chống đối Giáo Hội Byzantine.
Khi Charlemagne từ trần năm 814 và Đức Lêô không còn ai bảo vệ, quân thù lại nổi dậy chống đối ngài. Với tất cả uy thế và quyền bính cá nhân, ngài đã dẹp tan âm mưu nổi loạn của giới quý tộc ở Campagna. Tuy nhiên, ngài bị vẫn bị giới quý tộc khinh miệt vì ngài xuất thân từ giới bình dân. Ngài từ trần năm 816 và được phong thánh năm 1673.
Suy niệm 1: Thủ kho
Đức Lêô là người thủ kho của tòa thánh và là linh mục trưởng ở Santa Suzanna.
Với tráxh nhiệm của người thủ kho, Đức Lêô dĩ nhiên chẳng những bảo quản tốt các tài sản vật chất của tòa thánh, mà còn phân phối cách nghiêm túc theo nhu cầu chính đáng của mỗi địa phương. Chính ngài còn thành lập một đạo quân để chống với giặc Saracen, lấy lại được một số tài sản của Giáo Hội ở Gaeta.
Nhất là với tư cách của người thủ lãnh Giáo Hội, ngài rất chú tâm đến việc bảo vệ đức tin chân truyền của Hội Thánh Chúa. Do đó ngài nỗ lực chống lại các chủ thuyết sai trái, cụ thể đã dẹp được lạc thuyết Thừa Tự ở Tây Ban Nha, cũng như khi Charlemagne muốn thêm chữ Filioque (và Đức Chúa Con") vào kinh Tin Kinh Nicene thì Đức Lêô đã từ chối.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con quản lý linh hồn chúng con cho thật tốt trước mọi chước cám dỗ của quỷ ma.
Suy niệm 2: Tấn công
Hai người cháu của Đức Hadrian I đều mong muốn được làm giáo hoàng, do đó họ xúi giục các thanh niên quý tộc tấn công Đức Lêô.
Trong cuộc rước nhân ngày lễ Thánh Máccô, Đức Lêô bị bọn côn đồ kéo xuống khỏi ngựa và chúng định cắt lưỡi và đâm mù mắt của ngài. Nhờ sự can thiệp kịp thời của công tước xứ Spotelo, ngài thoát chết và trốn trong tu viện Thánh Erasmus, sau đó ngài đã bình phục mau chóng một cách lạ lùng.
Kẻ thù vẫn không để ngài yên. Họ tố cáo Đức Lêô về tội thề gian và ngoại tình. Nhưng Charlemagne đến Rôma và chỉ định một ủy ban điều tra và ngài đã được minh oan. Khi Charlemagne từ trần năm 814 và Đức Lêô không còn ai bảo vệ, quân thù lại nổi dậy chống đối ngài. Với tất cả uy thế và quyền bính cá nhân, ngài đã dẹp tan âm mưu nổi loạn của giới quý tộc ở Campagna.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn kết hiệp mật thiết với Chúa là Đấng đã thắng thế gian, để đương đầu và vượt qua được sức tấn công của những người chống đối.
Suy niệm 3: Cảm tình
Đức Lêô được cảm tình của người thế lực nhất thời bấy giờ, đó là Hoàng Đế Charlemagne ở Paderborn
Ngón tay có ngón dài ngón ngắn. Bên cạnh những người xấu luôn chống đối, ngài cũng có được cảm tình của những người tốt, cụ thể là Hoàng Đế Charlemagne. Ông đã cung cấp vệ binh để hộ tống đức giáo hoàng an toàn trở về Rôma giữa tiếng reo hò của mọi người sau vụ bị tấn công.
Cách tổng quát, đức giáo hoàng và hoàng đế hành động ăn khớp với nhau. Theo lời đề nghị của Charlemagne, Đức Lêô còn thành lập một đạo quân để chống với giặc Saracen, lấy lại được một số tài sản của Giáo Hội ở Gaeta. Tính hào phóng của Charlemagne đã giúp Đức Lêô canh tân nhiều nhà thờ ở Rôma và Ravenna, cũng như giúp đỡ người nghèo và bảo trợ các công trình nghệ thuật.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn xác tín về tình thương Chúa, khi Người không bao giờ để ai phải bị thử thách quá sức chịu đựng (1Cr 10,13). Có kẻ ghét thì có người thương, và có kẻ chống đối thì có người bảo vệ giúp đỡ.
Suy niệm 4: Tố cáo
Kẻ thù vẫn không để ngài yên. Họ tố cáo Đức Lêô về tội thề gian và ngoại tình.
Năm 800, Charlemagne đến Rôma và chỉ định một ủy ban điều tra để cứu xét điều cáo buộc Đức Lêô. Uỷ ban không tìm thấy một chứng cớ nào, và Đức Lêô đã thề trước hội đồng giám mục rằng ngài vô tội đối với các cáo buộc ấy.
Thật phúc cho Đức Lêô! Dầu bị vu cáo nhưng cũng sớm được minh oan khi còn tại thế và tại chức. Còn Đức Giêsu thì bị vu cáo dầu với các thứ tội khác và dù được xét là công chính cũng như vô tội (Mt 27,19;Lc 23,14-15.22), thế mà vẫn bị xử tội chết cách bất công.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con cam chịu hàm oan dầu không được minh oan đến chết, để được trở nên giống Chúa nhiều hơn.
Suy niệm 5: Ban thưởng
Vào lễ Giáng Sinh, tại đền Thánh Phêrô, Đức Lêô đã ban thưởng cho Charlemagne tước vị Hoàng Đế Rôma Thánh Thiện.
Điều này là nguyên do hình thành Đế Quốc Rôma Thánh Thiện -- là một cố gắng nhằm thể hiện lý tưởng Thành Phố Thiên Chúa của Thánh Augustine -- mà đã ảnh hưởng đến lịch sử Âu Châu trong rất nhiều thế kỷ.
Theo gương Thiên Chúa thưởng phạt công minh (Mt 16,27), Đức Lêô cũng ban thưởng công trạng của Charlemagne, và dĩ nhiên cũng trừng phạt các lạc giáo cách thích đáng bằng vạ tuyệt thông.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống không trông chờ phần thưởng đời này mà chủ yếu đời sau (Mt 6,1-6).
Suy niệm 6:. Lạc thuyết Thừa Tự
Với sự giúp đỡ của Charlemagne, Đức Lêô đã dẹp được lạc thuyết Thừa Tự ở Tây Ban Nha.
Thuyết Thừa Tự chủ trương Đức Kitô chỉ là con nuôi của Thiên Chúa, do đó Người không phải Thiên Chúa thật. Lạc thuyết này đã bị kết án, vì Hội Thánh luôn bảo vệ và minh giải chân lý đức tin: Đức Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật.
Khi Charlemagne muốn thêm chữ Filioque ("và Đức Chúa Con") vào kinh Tin Kinh Nicene thì Đức Lêô đã từ chối, một phần vì ngài không cho phép giáo dân can thiệp vào nội bộ giáo hội, và một phần vì ngài không muốn chống đối Giáo Hội Byzantine.
Filioque: Cho đến ngày nay, Chính Thống Giáo Hy Lạp và một số Giáo Hội Đông Phương vẫn cho rằng Chúa Thánh Thần chỉ bởi Chúa Cha mà ra, do đó, những ai chủ trương rằng Chúa Thánh Thần cũng bởi Chúa Con mà ra thì họ cho là lạc giáo.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn đứng vững trong niềm tin chính truyền của Hội Thánh.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 11/6 Thánh Barnabas (thế kỷ thứ nhất)
Thánh Barnabas (thế kỷ thứ nhất)
Thánh Barnabas là người "đầy tràn Thánh Thần và đức tin. Do đó đã lôi cuốn một số đông người về với Chúa."
Lược sử
Thánh Barnabas, một trong những nhà truyền giáo tiên khởi của Giáo Hội, đóng vai trò chủ yếu trong việc loan truyền và chuyển dịch Phúc Âm cho dân ngoại. Qua sách Công Vụ Tông Đồ, chúng ta được biết ngài là người Do Thái ở Cypriot tên thật là Giuse, và các tông đồ đã đặt tên cho ngài là Barnabas sau khi ngài bán của cải và giao cho các tông đồ cai quản.
Mặc dù Barnabas không phải là một người trong nhóm Mười Hai nguyên thủy, Thánh Luca coi ngài như vị tông đồ vì ngài được lãnh nhận nhiệm vụ đặc biệt từ Chúa Thánh Thần. Một trong những đóng góp quan trọng của Barnabas là ngài đã đảm bảo cho Saolô, một người mới tòng giáo mà ai ai cũng sợ hãi vì quá khứ bắt đạo của Saolô. Sau đó, Barnabas được sai đi rao giảng ở Antiôkia. Khi công việc ngày càng có kết quả, Barnabas đã xin Phaolô (tên cũ là Saolô) đến tiếp tay; cả hai đã xây dựng một giáo hội thật phát triển. Theo sách Công Vụ Tông Đồ, chính ở Antiôkia mà "lần đầu tiên các môn đệ được gọi là Kitô Hữu."
Chính trong cộng đoàn siêng năng cầu nguyện này mà "Thánh Thần phán bảo, 'Hãy dành riêng cho Ta Barnabas và Phaolô để lo cho công việc mà Ta đã kêu gọi hai người ấy." Sau đó họ ăn chay cầu nguyện, rồi đặt tay trên hai ông và tiễn đi." Do đó, Barnabas và Phaolô khởi hành chuyến đi truyền giáo đầu tiên thực sự ở nước ngoài, trước hết đến Cyprus (là nơi họ hoán cải một quan đầu tỉnh người Rôma) và sau đó đến lục địa Tiểu Á. Lúc đầu các ngài rao giảng cho người Do Thái, nhưng bị chống đối dữ dội nên họ quay sang rao giảng cho dân ngoại và đã thành công lớn. Trong một thành phố, người Hy Lạp quá mến mộ các ngài đến nỗi họ tôn thờ Barnabas và Phaolô như các thần Zeus và Hermes. Vất vả lắm các ngài mới ngăn cản được đám đông hiếu khách ấy đừng dâng của lễ mà tế các ngài.
Công cuộc truyền giáo cho dân ngoại nẩy sinh vấn đề là người tòng giáo có phải cắt bì theo luật Do Thái hay không. Phaolô và Barnabas đã chống đối tập tục này và lập trường của các ngài đã làm chủ tình hình trong Công Đồng Giêrusalem.
Barnabas và Phaolô dự định tiếp tục công cuộc truyền giáo, nhưng ngay tối trước khi khởi hành, một bất đồng xảy ra là có nên đem theo một môn đệ nữa hay không, là ông Gioan Máccô. Vì vấn đề này mà hai tông đồ tách làm đôi. Phaolô đem Silas đi Syria, còn Barnabas đem Máccô đến Cyprus. Sau này, ba người: Phaolô, Barnabas và Máccô đã làm hòa với nhau.
Mặc dù không có những dữ kiện rõ ràng, dường như Barnabas, với sự tháp tùng của Gioan Máccô, đã trở về Cyprus. Ở đây, theo truyền thuyết, ngài đã chịu tử đạo vào năm 61.
Suy niệm 1 : Tiên khởi
Thánh Barnabas, một trong những nhà truyền giáo tiên khởi của Giáo Hội.
Ngài được mệnh danh như thế vì ngài đóng một vai trò chủ yếu trong việc loan truyền và chuyển dịch Phúc Âm cho dân ngoại.
Đồng thời ngài và Phaolô đã cùng khởi hành chuyến đi truyền giáo đầu tiên thực sự ở nước ngoài, trước hết đến Cyprus (là nơi họ hoán cải một quan đầu tỉnh người Rôma) và sau đó đến lục địa Tiểu Á.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sẵn sàng kế tục công cuộc truyền giáo của các vị tiền bố cho dân ngoại qua việc quan tâm đến các anh em lương dân mà chúng con có cơ hội gặp gỡ hằng ngày.
Suy niệm 2 : Giuse
Qua sách Công Vụ Tông Đồ, chúng ta được biết ngài là người Do Thái ở Cypriot tên thật là Giuse.
Như có một sự an bài kỳ diệu của Thiên Chúa cho người mang tên Giuse với sự kiện luôn xuất ngoại. Thật vậy, Giuse Barnabas là người thực hiện chuyến đi truyền giáo đầu tiên thực sự ở nước ngoài.
Cậu trẻ Giuse con của tổ phụ Giacóp thời Cựu Ước cũng rời quê cha đất tổ để đến xứ Ai Cập, dầu do lòng ghen ghét của các anh em (St 37,28). Và Thánh Cả Giuse trong Tân Ước cũng có lần phải rời Bê Lem để trốn sang Ai Cập do sự truy sát hài nhi Giêsu của vua Hêrôđê(Mt 2,14).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con ý thức rằng trần gian chỉ là nơi đất khách tạm thời, chúng con phải quyết tìm về quê thật thiên đàng.
Suy niệm 3 : Tên Barnabas
Các tông đồ đã đặt tên cho ngài là Barnabas.
Giuse đã được các tông đồ cải tên là Barnabas, cho xứng với nghĩa cử ngài đã bán của cải và giao cho các tông đồ cai quản, nhất là cho phù hợp với sứ vụ tông đồ truyền giáo cho dân ngoại mà ngài được nhận lãnh theo kế đồ của Thiên Chúa.
Đức Giêsu cũng mang danh xưng này theo nghĩa của tiếng Hípri là Thiên Chúa Cứu Độ. Danh xưng này vửa diễn tả căn tính, vừa diễn tả sứ mạng của Người (Lc 1,31). Bởi vì "chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền tha tội" (Mc 2,7), cho nên chính Thiên Chúa trong Đức Giêsu là Chúa Con Vĩnh Cửu làm người" sẽ cứu dân Mình khỏi tội" *Mt 1,21). Như thế, trong Đức Giêsu, Thiên Chúa quy tụ tất cả lịch sử cứu độ nhân loại (Sách Giáo Lý số 430).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sống sao cho xứng với danh Kitô hữu chúng con nhận lãnh được qua bí tích Rửa Tội.
Suy niệm 4 : Tông đồ
Thánh Luca coi ngài như vị tông đồ.
Mặc dù Barnabas không phải là một người trong nhóm Mười Hai nguyên thủy, nhưng ngài được đánh giá như thế vì ngài được lãnh nhận nhiệm vụ đặc biệt từ Chúa Thánh Thần.
Thật vậy chính trong bầu khí cộng đoàn đang chăm chú cầu nguyện mà "Thánh Thần phán bảo: 'Hãy dành riêng cho Ta Barnabas và Phaolô để lo cho công việc mà Ta đã kêu gọi hai người ấy." Sau đó họ ăn chay cầu nguyện, rồi đặt tay trên hai ông và tiễn đi".
Thánh Barnabas được đề cập như một người tận hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Ngài là người "đầy tràn Thánh Thần và đức tin. Do đó đã lôi cuốn một số đông người về với Chúa." Ngay cả khi ngài và Thánh Phaolô bị trục xuất khỏi Antiôkia, họ "tràn đầy niềm vui và Thánh Thần."
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhiệt tình chu to àn sứ vụ tiên tri mà chúng con được ban trong bí tích Rửa Tội.
Suy niệm 5 : Bảo lãnh
Một trong những đóng góp quan trọng của Barnabas là ngài đã đảm bảo cho Saolô.
Vì sao Saolô cần được bảo lãnh? Vì quá khứ bắt đạo, nên khi Saolô muốn tòng giáo và gia nhập cộng đoàn các tín hữu, thì ai ai cũng sợ hãi, ngay cả Khanania cũng ngại ngùng (Cv 9,13).
Việc Barnabas đứng ra bảo lãnh cho thấy tinh thần cao cả cũng như thế giá và uy tín của ngài giữa cộng đoàn các tín hữu sơ khai, nhờ đó mà Sao lô được đón nhận. Đồng thời việc bảo lãnh đầy liều lĩnh này cũng cho thấy đã không đánh mất một nhân tài.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con theo gương Chúa rộng tay cứu vớt mọi người, chứ đừng chê bỏ hoặc loại trừ một ai.
Suy niệm 6: Bất đồng
Barnabas và Phaolô dự định tiếp tục công cuộc truyền giáo, nhưng ngay tối trước khi khởi hành, một bất đồng xảy ra.
Nguyên do xảy ra bất đồng giữa Barnabas và Phaolô là có nên đem theo một môn đệ nữa hay không, là ông Gioan Máccô. Vì vấn đề này mà hai tông đồ tách làm đôi. Phaolô đem Silas đi Syria, còn Barnabas đem Máccô đến Cyprus. Sau này, ba người: Phaolô, Barnabas và Máccô đã làm hòa với nhau.
Người đời thường nói cha mẹ sinh con trời sinh tính để xác nhận sự bất đồng vẫn tồn tại ngay trong phạm vi gia đình huyết thống ruột thịt do sự khác biệt giữa các tính khí của con cái. Do đó các lãnh vực khác làm sao tránh được sự bất đồng. Điều quan trọng là cố gắng vượt qua để duy trì hòa khí.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn sống được tinh thần Chúa dạy để xứng đáng hiệp dâng Thánh lễ mỗi ngày (Mt 5,24).
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 10/6: Chân phước JOACHIMA (1783-1854)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Chân phước JOACHIMA (1783-1854)
Joachima là một goá phụ trẻ với cuộc sống khắc khổ và chiếc áo dòng Ba Phanxicô là y phục thường ngày. Bà dành nhiều thời giờ để cầu nguyện và thăm viếng kẻ liệt.
Sinh trong một gia đình quý tộc ở Barcelona, Tây Ban Nha, khi lên 12 tuổi Joachima đã muốn trở thành một nữ tu dòng Camêlô. Nhưng cuộc đời ngài thay đổi, khi 16 tuổi ngài kết hôn với một luật sư trẻ, Theodore de Mas. Cả hai rất đạo đức và đều gia nhập dòng Ba Phanxicô. Trong 17 năm thành hôn, họ có tất cả tám người con.
Ðời sống gia đình êm ả của họ bị khuấy động khi Napoleon xâm lăng Tây Ban Nha. Joachima phải đem các con đi lánh nạn; trong khi Theodore ở lại nhà và đã chết. Mặc dù Joachima lại mong muốn đi tu, nhưng bà phải chu toàn bổn phận của một người mẹ. Ðồng thời, người goá phụ trẻ này bắt đầu một cuộc sống khắc khổ và chiếc áo dòng Ba Phanxicô đã trở nên y phục thường ngày của ngài. Trong cuộc sống hy sinh hãm mình ấy, bà dành nhiều thời giờ để cầu nguyện và thăm viếng kẻ liệt.
Bốn năm sau, khi các con đã khôn lớn và đã thành gia thất, chỉ còn người con út vẫn độc thân, bà Joachima đã nói lên khao khát đi tu với cha giải tội. Do sự khuyến khích của cha, bà đã thành lập tu hội Camêlô Bác Ái. Giữa những cuộc chiến huynh đệ tương tàn vào thời ấy, bà Joachima đã bị cầm tù và sau này, bị đầy sang Pháp trong một vài năm.
Vì đau yếu bệnh hoạn, bà đã phải từ chức bề trên tu hội. Trong vòng bốn năm kế tiếp, từ từ bà bị tê liệt. Cho đến khi từ trần năm 1854 lúc 71 tuổi, bà là người nổi tiếng và được mọi người khâm phục về tinh thần cầu nguyện, sự tín thác sâu xa vào Chúa và lòng bác ái vô bờ.
Suy niệm hạnh chân phướcJoachima
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 09/6 Thánh EPHREM Phó Tế, Tiến Sĩ Hội Thánh (306 - 373)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Thánh EPHREM Phó Tế, Tiến Sĩ Hội Thánh (306-373)
Lược sử:
Là nhà thơ, nhà giáo, nhà hùng biện và bảo vệ đức tin, Thánh Ephrem là người Syria duy nhất được xưng tụng là Tiến Sĩ Giáo Hội. Ngài tự mặc cho mình một trọng trách là chống với các học thuyết lầm lạc đang lan tràn vào thời ấy, và luôn luôn là người bảo vệ đức tin Công Giáo mạnh mẽ.
Sinh ở Nisibis, Mesopotamia, Thánh Ephrem được rửa tội khi là thanh niên và nổi tiếng là một thầy giáo nơi quê của ngài. Khi hoàng đế nhượng lại phần đất Nisibis cho người Ba Tư, Ephrem cùng với các Kitô Hữu khác trốn sang Edessa (thuộc Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay) để tị nạn. Ngài được cho là đã đem lại vinh dự lớn lao cho một trường kinh thánh ở đây. Ngài được phong chức phó tế nhưng không muốn làm linh mục.
Ngài có tài sáng tác văn chương và các tác phẩm phản ảnh sự thánh thiện của ngài. Mặc dù không phải là một học giả vĩ đại, các văn bản của ngài cho thấy sự hiểu biết sâu rộng về Kinh Thánh. Khi viết về mầu nhiệm của sự cứu độ loài người, Thánh Ephrem cho thấy một tâm linh nhân bản dễ mến và thiết thực cũng như sự sùng kính lớn lao đối với nhân tính Đức Giêsu và Mẹ Maria.
Người ta nói rằng vào năm 325, ngài đã tháp tùng đức giám mục Giacôbê của Nisibis đi tham dự Công Đồng Nicea. Chắc chắn rằng các văn bản của ngài là một bảo vệ hùng hồn cho thần tính của Đức Giêsu Kitô. Ngài còn sáng tác thi ca để chống với lạc giáo Gnostic. Ngài lấy những bài ca bình dân của người lạc giáo, và dùng chính âm điệu của họ, biến đổi thành những thi ca mang ý nghĩa chính truyền. Thánh Ephrem là người đầu tiên đưa thánh thi vào phụng vụ chung của Giáo Hội như một phương tiện để dạy dỗ người tín hữu. Ngài sáng tác thi ca nhiều đến nỗi được xưng tụng là "Đàn Thụ Cầm của Chúa Thánh Thần."
Lời Bàn
Nhiều người ngày nay vẫn khó chấp nhận việc ca hát trong nhà thờ. Tuy nhiên, ca hát là một truyền thống có từ thời Cựu Ước và Tân Ước. Ðó là một phương cách tuyệt vời để biểu lộ cũng như kết tạo tinh thần hợp nhất và niềm vui cho cộng đoàn. Thi ca của Thánh Ephrem được một sử gia thời xưa xác nhận là đã "đem đến vẻ lộng lẫy cho cộng đoàn Kitô Hữu." Ngày nay, chúng ta cũng cần có những người như Thánh Ephrem để cộng đoàn thêm thánh thiện trong lời ca tiếng hát.
SUY NIỆM
Suy niệm 1 : Bảo vệ
Thánh Ephrem là nhà thơ, nhà giáo, nhà hùng biện và bảo vệ đức tin.
Thánh Ephrem được tôn vinh lên bậc thánh nhân không vì các biệt tài ngài có mà nhất là nhờ vào công lao của ngài trong việc bảo vệ đức tin Công Giáo.
Thật thế, ngài tự mặc cho mình một trọng trách là chống với các học thuyết lầm lạc đang lan tràn vào thời ấy, đặc biệt Ngài còn sáng tác thi ca để chống với lạc giáo Gnostic. Vào dịp ngài tháp tùng đức giám mục Giacôbê của Nisibis đi tham dự Công Đồng Nicea, chắc chắn rằng các văn bản của ngài là một bảo vệ hùng hồn cho thần tính của Đức Giêsu Kitô.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tích cực sống và bảo vệ đức tin Công Giáo, vì đó là con đường nên thánh.
Suy niệm 2 : Tị nạn
Khi hoàng đế nhượng lại phần đất Nisibis cho người Ba Tư, Ephrem cùng với các Kitô Hữu khác trốn sang Edessa (thuộc Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay) để tị nạn.
Thuở còn sơ sinh, Đức Giêsu cũng từng được Thánh Cả Giuse và Đức Maria ẵm sang Ai Cập đang đêm để tị nạn, vì lệnh truy sát của hoàng đế Hêrôđê (Mt 2,14).
Nhằm bênh vực một người anh em Hípri đang bị người Ai Cập đánh đập, Môsê lỡ tay giết chết người Ai Cập, Chuyện bại lộ, Môsê đã phải trốn sang miền Mađian để tị nạn trước lệnh truy lùng của Vua Pharaon (Xh 2,15).
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đừng liều mình cách vô ích khi tình hình chưa bắt buộc.
Suy niệm 3 : Thánh thiện
Ngài có tài sáng tác văn chương và các tác phẩm phản ảnh sự thánh thiện của ngài.
Thánh Ephrem yêu quý một đời sống thanh bạch, khắc khổ trong một hang nhỏ ở ngoại ô thành phố Edessa. Ngài cũng thường vào phố để rao giảng.
Trong thời kỳ nạn đói năm 372, ngài tiếp tay phân phối thực phẩm cho người đói, và tổ chức việc chữa trị người đau yếu. Ngài tận tụy trong công việc này đến nỗi kiệt sức, lâm bệnh và từ trần vào khoảng năm 373.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con đào sâu lòng đạo đức thánh thiện vừa bằng việc tu huyện bản thân vừa hiến mình phục vụ tha nhân đến chết.
Suy niệm 4 : Kinh Thánh
Các văn bản của ngài cho thấy sự hiểu biết sâu rộng về Kinh Thánh.
Với sự hiểu biết sâu rộng về Kinh Thánh, Ephrem đã đem lại vinh dự lớn lao cho một trường kinh thánh ở Edessa, khi ngài đến đây để tị nạn.
Còn hơn thế sự hiểu biết sâu rộng về Kinh Thánh đã giúp ngài thành công trong việc bảo vệ đức tin Công Giáo khi nỗ lực chống lại các học thuyết lầm lạc đang lan tràn vào thời ấy, cụ thể là lạc giáo Gnostic.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn gắn bó với Kinh Thánh nhờ chăm đọc và ân cần học hỏi.
Suy niệm 5 : Gnostic
Ngài còn sáng tác thi ca để chống với lạc giáo Gnostic.
Lạc thuyết này cũng như các lạc thuyết đầu tiên phủ nhận nhân tính hơn là chối bỏ thiên tính của Đức Kitô. Ngay từ thời các tông đồ, đức tin Kitô giáo nhấn mạnh đến việc nhập thể đích thực của Con Thiên Chúa "đến trong xác phàm" (1Ga 4,2-3;2Ga 7).
Hội Thánh tuyên xưng rằng Đức Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật, không thể tách rời. Người thật sự là Con Thiên Chúa đã làm người, là anh em của chúng ta, nhưng vẫn luôn là Thiên Chúa, Chúa chúng ta (Sách Giáo Lý số 469).
* Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin tuyên xưng Chúa có hai bản tính vừa là người vừa là Chúa.
Suy niệm 6 : Bài ca
Ngài lấy những bài ca bình dân của người lạc giáo, và dùng chính âm điệu của họ, biến đổi thành những thi ca mang ý nghĩa chính truyền.
Thánh Ephrem là người đầu tiên đưa thánh thi vào phụng vụ chung của Giáo Hội như một phương tiện để dạy dỗ người tín hữu. Ngài sáng tác thi ca nhiều đến nỗi được xưng tụng là "Đàn Thụ Cầm của Chúa Thánh Thần."
Nhiều người ngày nay vẫn khó chấp nhận việc ca hát trong nhà thờ. Tuy nhiên, ca hát là một truyền thống có từ thời Cựu Ước và Tân Ước. Đó là một phương cách tuyệt vời để biểu lộ cũng như kết tạo tinh thần hợp nhất và niềm vui cho cộng đoàn. Thi ca của Thánh Ephrem được một sử gia thời xưa xác nhận là đã "đem đến vẻ lộng lẫy cho cộng đoàn Kitô Hữu."
* Lạy Chúa Giêsu, ngày nay chúng con cũng cần có những người như Thánh Ephrem để cộng đoàn thêm thánh thiện trong lời ca tiếng hát, xin giúp chúng con.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 08/6 Chân phước ISABELLE nước Pháp (c. 1270)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Chân phước ISABELLE nước Pháp (c. 1270)
Tuy sống trong cung điện sang trọng, bất cứ lúc nào có thời giờ rảnh rỗi Isabelle đều dành để giúp người nghèo và người đau yếu.
Isabelle sinh trong một gia đình nổi tiếng. Anh của ngài là Thánh Louis; cha ngài, Vua Louis VIII của nước Pháp; mẹ ngài là hoàng hậu thánh thiện Blanche ở Castile.
Chính ngài cũng được ban cho nhiều tài năng đặc biệt, ngay từ nhỏ Isabelle đã có khiếu học hành. Mặc dù ngài rất tận tụy với gia đình -- nhất là giúp đỡ anh Louis -- bất cứ lúc nào có thời giờ rảnh rỗi ngài đều dành để giúp người nghèo và người đau yếu.
Tuy sống trong cung điện sang trọng, Isabelle lại tự ý theo đuổi đời sống của một nữ tu.
Sau cái chết của mẹ ngài, Isabelle sáng lập tu viện Phanxicô lấy tên là "Đức Khiêm Tốn của Trinh Nữ Maria" ở Longchamps, Balê. Ngài sống ở đây trong chín năm trời khổ hạnh, dù rằng chính ngài chưa bao giờ là một nữ tu. Vì chỉ muốn là một tạo vật bé mọn của Thiên Chúa, ngài từ chối chức vụ bề trên tu viện.
Khi ngài từ trần ngày 23-2-1270, người ta nghe có tiếng thiên thần ca hát. Ngài được Đức Giáo Hoàng Lêô X phong chân phước năm 1520.
Suy niệm hạnh Chân phước Isabelle nước Pháp
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Ngày 07/6 Tôi Tớ Thiên Chúa Giuse Perez (1890-1928)
- Viết bởi Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
Tôi Tớ Thiên Chúa Giuse Perez (1890-1928)
Ngày nay, đạo Công Giáo đang phát triển mạnh ở Mễ, một phần cũng nhờ sự ấp ủ của các vị tử đạo như Cha Giuse.
Lược sử
"Máu các vị tử đạo là hạt giống của Giáo Hội," lời của Tertullian trong thế kỷ thứ ba đã được thể hiện nơi Cha Giuse Perez.
Cha Giuse sinh ở Coroneo, Mễ Tây Cơ, và gia nhập dòng Phanxicô khi 17 tuổi. Vì cuộc nội chiến ở Mễ thời bấy giờ, ngài buộc phải học triết thần ở California.
Sau khi được thụ phong linh mục ở Santa Barbara, ngài trở về Mễ Tây Cơ và phục vụ tại Jerecuaro từ năm 1922 trở đi. Vì sự bách hại dưới thời tổng thống Plutarco Calles (1924-28), Cha Giuse phải ngụy trang dưới nhiều hình thức khi đi thăm người Công Giáo. Vào năm 1927, tài sản của Giáo Hội bị quốc hữu hóa, các trường Công Giáo phải đóng cửa, và các linh mục, nữ tu ngoại quốc bị trục xuất.
Một ngày kia Cha Giuse và vài người bị bắt sau khi cử hành Thánh Lễ một cách lén lút. Cha Giuse đã bị quân lính đâm chết vào ngày 2 tháng Sáu 1928.
Về sau, thi hài Cha Giuse được cung nghinh về Salvatierra để chôn cất giữa tiếng hô vang dậy, "Vạn tuế Vua Kitô!"
Suy niệm 1 : Nội chiến
Vì cuộc nội chiến ở Mễ thời bấy giờ, Giuse Perez buộc phải học triết thần ở California.
Bất cứ cuộc chiến tranh nào, ngay cả nội chiến thì cũng thường gieo rắc vô số thảm họa cho dân lành vô tội. Mọi người phải sống trong hoàn cảnh bất an, không biết cái chết sẽ đến với mình và thân nhân mình lúc nào và thế nào. Một trong cách phản ứng, đó là tránh xa. Đó cũng là lý do buộc Giuse Perez phải rời quê để tiếp tục việc học triết thần ở California.
Cuộc nội chiến ở xã hội thì có thể lẫn tránh được, nhưng cuộc nội chiến ở bản thân với các khuynh hướng thiện ác thì sao? Dĩ nhiên không ai lẫn tránh được mà phải đương đầu mỗi ngày từng giây phút. Biết thế chúng ta hãy luôn tỉnh thức và kết hiệp mật thiết với Đức Kitô để gặt hái được chiến thắng (Ga 16,33).
* Lạy Chúa Giêsu,xin giúp chúng con khiêm tốn nhận ra sự bất lực của mình để bám víu vào quyền uy vô hạn của Chúa trong cuộc chiến thắng ác thần.
Suy niệm 2 : Bách hại
Vì sự bách hại dưới thời tổng thống Plutarco Calles (1924-28), Cha Giuse phải ngụy trang dưới nhiều hình thức khi đi thăm người Công Giáo.
Cuộc bách hại được biểu hiện qua sự kiện tài sản của Giáo Hội bị quốc hữu hóa, các trường Công Giáo phải đóng cửa, và các linh mục, nữ tu ngoại quốc bị trục xuất.
Hơn thế Thánh Lễ cũng phải được cử hành một cách lén lút, để rồi Cha Giuse và vài người đã bị bắt khi bị phát hiện. Và Cha Giuse đã bị quân lính đâm chết vào ngày 2 tháng Sáu 1928.
* Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn can đảm và trung kiên cho các tín hữu phải sống dưới thời bị bách hại.
Suy niệm 3 : Ngụy trang
Vì sự bách hại dưới thời tổng thống Plutarco Calles (1924-28), Cha Giuse phải ngụy trang dưới nhiều hình thức khi đi thăm người Công Giáo.
Trong cuộc chiến với vua Aram, vua Akháp vua Ítraen đã từng ngụy trang thành một người lính để ra trận (1V 22,30), nhưng với chủ đích vị kỷ nên đã bị giết chết (1V 22,35).
Còn Cha Giuse thì dùng cách ngụy trang với mục đích thăm viếng mục vụ nhằm nâng đỡ và động viên tinh thần vững tin sống đạo của các tín hữu dưới thời bách hại nên được Chúa giữ gìn và che chở.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn tập sống vị tha hơn là vị kỷ để được Chúa chúc phúc.
Suy niệm 4 : Thánh Lễ
Một ngày kia Cha Giuse và vài người bị bắt sau khi cử hành Thánh Lễ một cách lén lút.
Qua các thánh lễ, dân lữ hành của Thiên Chúa c6ng bố mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu "cho tới khi Người lại đến" (1Cr 11,26) và "theo con đường hẹp của thập gía", để tiến vào bàn tiệc thiên quốc; bấy giờ những người được tuyển chọn sẽ đồng bàn trong Nước Chúa (Sách Giáo Lý số 1344).
Thánh Lễ là lễ tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, nghĩa là công trình cứu độ được thực hiện qua đời sống, cuộc khổ nạn và phục sinh của Người. Công trình này được hiện tại hóa trong cử hành phụng vụ (Sách Giáo Lý số 1409). Vì thế dầu bị cấm đoán, các Thánh Lễ cũng được cử hành một cách lén lút.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con vận dụng thời điểm tự do tôn giáo để siêng năng đi dâng Thánh Lễ mỗi ngày.
Suy niệm 5 : Đâm chết
Cha Giuse đã bị quân lính đâm chết vào ngày 2 tháng Sáu 1928.
"Đức Giêsu đã phải nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ, nhờ ơn Thiên Chúa" (Dt 2,9). Trong ý định cứu độ, Thiên Chúa đã an bài cho Chúa Con không những "chết vì tội lỗi chúng ta" (1Cr 15,3), nhưng còn phải "nếm sự chết", nghĩa là trải qua cái chết, trạng thái hồn và xác tách rời nhau, từ lúc Người tắt thở trên thập giá cho đến khi sống lại (Sách Giáo Lý số 624).
Giáo Hội Công Giáo ở Mễ Tây Cơ bây giờ thì tự do hơn thời thập niên 1920. Ngày nay, đạo Công Giáo đang phát triển mạnh ở Mễ và Thánh Lễ cũng được cử hành cách công khai chứ không phải lén lút, một phần cũng nhờ sự ấp ủ của các vị tử đạo như Cha Giuse.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con nhận ra và cố sống ý nghĩa của cái chết vì đại nghĩa.
Suy niệm 6 : Chôn cất
Thi hài Cha Giuse được cung nghinh về Salvatierra để chôn cất giữa tiếng hô vang dậy, "Vạn tuế Vua Kitô!"
Cái chết vì đại cuộc của Cha Giuse đã được mọi người tôn vinh và thể hiện bằng việc cung nghinh và chôn cất thi thể ngài giữa tiếng hô vang dậy: "Vạn tuế Vua Kitô!".
Lời tung hô muốn diễn tả ý nghĩa kép: Cha Giuse quả là một hiện thân của Đức Kitô với nếp sống và cái chết vì tha nhân như một Kitô khác. Nhưng cũng nhờ Đức Kitô mà Cha Giuse đã sống và chết được như thế, nên phải cùng ngài cất tiếng cảm tạ vạn tuế Vua Kitô.
* Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con dùng bản thân mình để làm Đức Hitô mãi hiện diện giữa trần thế.
Lm. Phêrô Nguyễn Ngọc Mỹ
- Ngày 06/6 Thánh Norbert (1080-1134)
- Ngày 04/6 Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII (1881 - 1963)
- Ngày 03/6 Thánh Charles Lwanga và Các Bạn (c. 1886)
- Ngày 02/6 Các Thánh Marcellinus và Phêrô (c. 304)
- Ngày 01/6 Thánh Justin Tử Ðạo (c. 165)
- Ngày 31/5 Lễ Đức Mẹ Đi Thăm Viếng
- Ngày 30/5 Thánh Giáo Hoàng Grêgôriô VII (1020-1085)
- Ngày 29/5 Thánh Maria Anna "de Paredes" (1618 -- 1645)
- Ngày 28/5 Thánh Germain (496 - 576)
- Ngày 27/5 Thánh Augustine ở Canterbury (c. 605?)