Tin Việt Nam
Nhà Cầm Quyền Hà Nội Xử 6 Tù Nhân Lương Tâm: Những Điều Dối Trá
- Viết bởi Hướng Việt, GNsP
GNsP – “Ở Việt Nam không có cái gọi là tù nhân lương tâm, không có việc những người vì tự do bày tỏ chính kiến mà bị bắt giữ”. Đó là lời khẳng định của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, bà Lê Thị Thu Hằng trong cuộc họp báo thường kỳ hôm nay, thứ Năm, 05.04.2018.
Phát ngôn trên không có gì mới mẻ, nó đã lặp đi lặp lại nhiều lần mỗi khi các tổ chức, báo chí nước ngoài đề cập đến các vụ xét xử những người bất đồng chính kiến. Cũng vậy, khẳng định trên của người phát ngôn Bộ ngoại giao Việt Nam nằm trong bối cảnh ngày nhà cầm quyền Việt Nam xử 6 nhà bất đồng chính kiến tại Hà Nội, gồm 5 nam và 1 nữ.
Cái trơ trẽn và đáng xấu hổ là tại Việt Nam, hàng trăm người đang bị cầm tù cách bất công chỉ vì họ có quan điểm và dấn thân cho những điều mà nhà cầm quyền cảm thấy đe dọa đến bộ máy, quyền lực của họ; nhưng nhà cầm quyền Việt Nam vẫn phủ nhận, nói dối, điều mà một người dân bình thường cũng nhận ra.
Cụ thể những người bị cầm tù vì viết lách, phổ biến tài liệu, ủng hộ cách ôn hòa cho đa nguyên đa đảng, cho tự do dân chủ nhân nhân quyền, liên tiếng chống tham nhũng, ô nhiễm môi trường, hay lên tiếng về nguy cơ Trung Cộng thâu tóm Việt Nam.
Sáng nay (05.04), nhà cầm quyền Hà Nội đưa 6 công dân của mình ra xử vì họ tham gia Hội Anh Em Dân Chủ mà với nhà cầm quyền, họ có ‘âm mưu nhằm lật đổ chính quyền nhân dân’.
Họ đã làm gì? Hội anh em dân chủ giới thiệu mình là “tổ chức phi chính phủ của người Việt Nam đang đấu tranh bảo vệ các quyền con người đã được Hiến pháp Việt Nam và các Công ước quốc tế thừa nhận. Hội AEDC cũng đang vận động xây dựng một xã hội dân chủ tiến bộ, công bằng và văn minh tại Việt Nam.”
Thực tế thì họ cũng chỉ làm bấy nhiêu chuyện: thúc đẩy cách ôn hòa cho dân chủ, nhân quyền tại Việt Nam. Nhằm có một Việt Nam văn minh, phát triển mà nơi đó quyền con người được tôn trọng và mọi người được bình đẳng với nhau.
Nhìn vào hiện tình đất nước thực sự rối ren và bất an: tham nhũng hối lộ, đạo đức con người xuống cấp, ô nhiễm môi trường, người dân khổ cực vì an sinh xã hội kém, những quyền cơ bản của người dân bị vi phạm và nguy cơ lệ thuộc Trung Cộng ngày càng rõ. Trước thực trạng đó, nhà cầm quyền chỉ cố giữ cho mình thế độc tôn lãnh đạo và còn đảng còn mình đi theo chủ thuyết lạc hậu lỗi thời mà chính nơi khai sinh ra và thế giới văn mình đã loại bỏ nó.
Phiên tòa xử 6 công dân hôm nay sẽ cho những ai theo dõi phần nào cho thấy sự trơ trẽn, độc ác của nhà cầm quyền.
Những người ít ỏi can đảm ủng hộ cách công khai cho 6 bị cáo trong phiên tòa hôm nay cũng bị khủng bố, bắt bớ, nhốt…các phóng viên độc lập nước ngoài cũng bị rượt đuổi…như những tội phạm nguy hiểm.
Luật nào, dựa vào đâu nhà cầm quyền làm những chuyện phi nhân, rừng rú đó? Họ đang trà đạp lên chính những điều họ đã thông qua khi vì lợi ích, quyền lực của đảng phái bị đe dọa; hay họ lo sợ sự thật thối nát về hệ thống chính trị mà họ đang vận hành được công khai trước dân chúng và quốc tế.
Phiên tòa được gọi là ‘công khai’ người trong và ngoài nước quan tâm nhưng thông tin bị bưng bít. Truyền thông của nhà cầm quyền đưa tin nhỏ giọt theo sự chỉ đạo, chụp mũ từ ban tuyên giáo. Đây là cách làm mà các thể chế độc tài vẫn áp dụng trong lịch sử nhân loại.
Hình ảnh 6 công dân tri thức, có lòng với quê hương đất nước bị coi như có tội; những người vợ, người mẹ mệt mỏi nhưng can trường bên phiên tòa, họ tranh thủ lót dạ với cái bánh, chai nước trắng lấy sức ủng hộ chồng, con quả thật nó đang phản ánh cho một xã hội Việt Nam đau khổ vì những điều dối trá!
Hướng Việt
Bang Giao Việt-Trung Ngoài Vịnh Bắc Bộ
- Viết bởi Phạm Trần
Tình trạng bằng mặt mà không bằng lòng giữa Việt Nam và Trung Hoa ở Biển Đông đã nổi lên trong chuyến thăm Việt Nam đầu tháng 4/2018 của Ủy viên Quốc vụ, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị.
Nhưng cũng đáng chú ý là khi lãnh đạo Việt Nam tiếp họ Vương thì họ lại không có cùng một tiếng nói. Người đứng đầu đảng,Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tỏ ra thân thiện với Trung Hoa hơn các ông Chủ tịch nước Trần Đại Quang, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Phó Thủ tướng-Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh khi hai bên đề cập đến “khúc xương trên biển” giữa hai quốc gia.
NƯỚC VỚI LỬA
Vương Nghị đã có chuyến thăm chính thức Việt Nam và tham dự Hội nghị Thượng đỉnh hợp tác tiểu vùng sông Mê Công mở rộng lần thứ 6 (The Greater Mekong Subregion (GMS-6) gồm Việt Nam, Cambodia, China, Laos, Myanmar and Thailand.
Khi tiếp Vương Nghị ngày 2/4 (2018), theo bản tin tiếng Việt của Đài Phát thanh Quốc tế Trung Hoa (CRI, China Radio International), ông Trọng cho biết:”Việt Nam và Trung Quốc là láng giềng hữu nghị, đều là nước xã hội chủ nghĩa, hai nước không có lý do nào không đoàn kết và hỗ trợ lẫn nhau.”
Ông Trọng còn mong muốn:”Hai bên nên giải quyết thỏa đáng vấn đề trên biển qua hiệp thương hữu nghị dựa trên tinh thần "vừa là đồng chí vừa là anh em". Là biện pháp chuyển tiếp, hai bên có thể thảo luận triển khai khai thác, phát triển chung, cùng bảo vệ hòa bình và ổn định trên biển.”
Tuy nhiên, không rõ là liệu ý kiến ” khai thác, phát triển chung “ trên biển giữa hai nước của ông Trọng có được Bộ Chính trị của đảng chấp thuận chưa, hay đó là ý kiến của riêng ông ?
Bởi vì bản tin của Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) đã không nói gì đến ý kiến mới mẻ này.
TTXVN chỉ viết:” Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề nghị hai bên tuân thủ những nhận thức chung giữa lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước và những thỏa thuận đã đạt được, nghiêm túc thực hiện “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển”, kiểm soát tốt bất đồng, không có hành động làm phức tạp tình hình, cùng nhau nỗ lực duy trì hòa bình, ổn định trên Biển Đông.” (TTXVN, 02/04/2018)
Đáp lời, vẫn theo CRI, Vương Nghị nói với ông Trọng:”Trung Quốc nguyện cùng nỗ lực với Việt Nam, quản lý và kiểm soát thỏa đáng bất đồng, tìm tòi cùng khai thác, phát triển, không ngừng cải thiện và tăng cường nền tảng lòng dân cho quan hệ hai nước, đảm bảo quan hệ Trung-Việt trước sau như một luôn duy trì định hướng đúng đắn.”
Nếu bản tin của CRI phản ảnh đúng đề nghị của ông Trọng muốn hai nước “thảo luận triển khai khai thác, phát triển chung” trên biển, và coi đây “là biện pháp chuyển tiếp” , trong khi hai nước còn tiếp tục đàm phán cho một giải pháp bền vững thì ông Trọng đã nhượng bộ đòi hỏi “hãy gác tranh chấp để cùng khai thác” của Trung Hoa do Đặng Tiểu Bình đưa ra từ năm 1979 ?
PHẠM BÌNH MINH ĐẾN TRẦN ĐẠI QUANG
Trái với thái độ và ngôn ngữ thiếu cương quyết của ông Trọng, các ông Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã đưa ra quan điểm minh bạch và trực tiếp hơn về chủ quyền biển đảo khi tiếp Vương Nghị.
Tin của VTCNews ngày 01/04/2018 viết:”“Về vấn đề trên biển, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh bày tỏ lo ngại về các nhân tố tiềm ẩn làm gia tăng căng thẳng, bất ổn trên biển, nêu rõ những quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của Việt Nam cần được tôn trọng theo quy định của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982.
Phó Thủ tướng đề nghị hai bên nghiêm túc thực hiện nhận thức chung của Lãnh đạo cấp cao, “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc”, kiên trì giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, thúc đẩy để có tiến triển mới trong công việc của đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ và của 03 nhóm công tác về vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, hợp tác trong lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển, bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển; thực hiện đầy đủ và hiệu quả “Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC), tích cực cùng các nước ASEAN trao đổi các nội dung cụ thể, thực chất của Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC); kiểm soát tốt bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp tình hình, mở rộng tranh chấp, duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông.”
Tuy VTCNews không nói rõ, nhưng ai cũng biết “các nhân tố tiềm ẩn làm gia tăng căng thẳng, bất ổn trên biển” mà ông Phạm Bình Minh đã nói thẳng với Vương Nghị là những vụ Tầu và Lính Trung Hoa đâm tầu, dùng súng tấn công, đánh đập và cướp tài sản của ngư dân Việt Nam đánh bắt ở các vùng biển Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa.
Đối với “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc” mà các ông Minh, Phúc và Quang đã lưu ý Vượng Nghị là họ nói tới gồm 6 Điểm cam kết giữa hai nước Việt-Trung năm 2011, được ký tại Bắc Kinh ngày 11/10/2011, trong chuyến thăm chính thức đầu tiên của ông Nguyễn Phú Trọng, sau khi được bầu làm Tổng Bí thư Khóa đảng XI thay Nông Đức Mạnh.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Hồ Cẩm Đào đã cùng chứng kiến lễ ký kết giữa hai phái đoàn Chính phủ
Nguyên văn 6 Cam kết :
1. Lấy đại cục quan hệ hai nước làm trọng, xuất phát từ tầm cao chiến lược và toàn cục, dưới sự chỉ đạo của phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”, kiên trì thông qua hiệp thương hữu nghị, xử lý và giải quyết thỏa đáng vấn đề trên biển, làm cho Biển Đông trở thành vùng biển hòa bình, hữu nghị, hợp tác, đóng góp vào việc phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc, góp phần duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực.
2. Trên tinh thần tôn trọng đầy đủ chứng cứ pháp lý và xem xét các yếu tố liên quan khác như lịch sử…, đồng thời chiếu cố đến quan ngại hợp lý của nhau, với thái độ xây dựng, cố gắng mở rộng nhận thức chung, thu hẹp bất đồng, không ngừng thúc đẩy tiến trình đàm phán. Căn cứ chế độ pháp lý và nguyên tắc được xác định bởi luật pháp quốc tế trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, nỗ lực tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được cho các vấn đề tranh chấp trên Biển.
3. Trong tiến trình đàm phán vấn đề trên biển, hai bên nghiêm chỉnh tuân thủ thỏa thuận và nhận thức chung mà Lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc và tinh thần của “Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC).
Đối với tranh chấp trên biển giữa Việt Nam-Trung Quốc, hai bên giải quyết thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị. Nếu tranh chấp liên quan đến các nước khác, thì sẽ hiệp thương với các bên tranh chấp khác.
4. Trong tiến trình tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài cho vấn đề trên biển, trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, đối xử bình đẳng, cùng có lợi, tích cực bàn bạc thảo luận về những giải pháp mang tính quá độ, tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của hai bên, bao gồm việc tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển theo những nguyên tắc đã nêu tại điều 2 của Thỏa thuận này.
5. Giải quyết các vấn đề trên biển theo tinh thần tuần tự tiệm tiến, dễ trước khó sau. Vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này. Tích cực thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực ít nhạy cảm như bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm, cứu hộ cứu nạn trên biển, phòng chống, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai. Nỗ lực tăng cường tin cậy lẫn nhau để tạo điều kiện cho việc giải quyết các vấn đề khó khăn hơn.
6. Hai bên tiến hành cuộc gặp định kỳ Trưởng đoàn đàm phán biên giới cấp Chính phủ một năm hai lần, luân phiên tổ chức, khi cần thiết có thể tiến hành các cuộc gặp bất thường. Hai bên nhất trí thiết lập cơ chế đường dây nóng trong khuôn khổ đoàn đại biểu cấp Chính phủ để kịp thời trao đổi và xử lý thỏa đáng vấn đề trên biển./.
(Theo TTXVN)
PHÁN QUYẾT HÌNH LƯỠI BÒ
Đọc kỹ 6 Điểm cam kết và so với những yêu sách phi lý và không có chứng tích lịch sử thì ai cũng thấy đòi hỏi chủ quyền trên 85% diện tích của trên 3 triệu cây số vuông Biển Đông của Trung Hoa là vô lý và bất hợp pháp. Bắc Kinh tự vẽ vùng biễn đảo bao la này nằm trong vùng “Lưỡi Bò” là của Tổ tiên họ.
Đó là lý do tại sao Tòa án Trọng tài thường trực của Liên Hiệp Quốc "Permanent Court of Arbitration, PCA) đã phán rằng Trung Quốc” không có cơ sở pháp lý để yêu sách quyền lịch sử đối với tài nguyên tại các vùng biển phía bên trong đường 9 đoạn.”
Trong thông cáo phổ biến ngày 12/07/2016, Tòa cũng nói:” Dù trong lịch sử, những người đi biển cũng như ngư dân từ Trung Quốc cũng như từ các nước khác đã sử dụng các đảo tại Biển Đông nhưng không có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy về mặt lịch sử Trung Quốc đã chỉ một mình thực hiện việc kiểm soát vùng nước này cũng như tài nguyên tại đây.”
Về việc Trung Quốc tự cho các mỏm đá ở Trường Sa mà họ đã chiếm của Việt Nam (7 vị trí năm 1988) hay của Phi Luật Tân ở vùng Hòang Nham (Scarborough Reef năm 2012 ), có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý (1 hải lý dài 1,852 mét) , Tòa phán:”Theo Công ước, các đảo tạo ra vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa nhưng các “đảo đá không thích hợp cho con người đến ở và có đời sống kinh tế riêng không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa”.
Phán quyết viết tiếp:”Trong Phán quyết ngày 12/7/2016, Tòa đã xem xét các bằng chứng về các bãi và đảo mà Trung Quốc yêu sách ở Biển Đông và kết luận rằng không một đảo, bãi nào có khả năng được hưởng vùng đặc quyền kinh tế. Do Trung Quốc không có khả năng được hưởng vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế của Philippines ở quần đảo Trường Sa, Tòa quyết định là các đệ trình của Philippines không phụ thuộc vào việc phân định trước ranh giới.…”
Sự khẳng định “không một đảo, bãi nào có khả năng được hưởng vùng đặc quyền kinh tế” rất quan trọng vì có liên hệ đến đảo Ba Bình (Itu Aba Island), hay Thái Bình theo Trung Hoa do Đài Loan kiểm soát từ sau Đệ nhị Thế chiến. Ba Bình có diện tích lớn nhất trong quần đảo Trường Sa (0.443 cây số vuông) hiện đang tranh chấp giữa Việt Nam, Phi Luật Tân, Trung Quốc và Đài Loan.
Toàn án Liên Hiệp Quốc đã phán quyết như thế sau khi Phi Luật Tân kiện Trung Hoa để phủ nhận chủ quyền của Bắc Kinh về biển đảo trong hình 9 đoạn, hay còn gọi là Lưỡi Bò vì hình vẽ giống lưỡi con bò.
Ấy thế mà Tướng Phạm Trường Long (Fan Changlong), Phó chủ tịch Quân ủy Trung Ương Trung Quốc vẫn ngang nhiên nói với các Lãnh đạo CSVN tại Hà Nội hồi tháng 6/2017 rằng “các đảo trên biển Nam Hải là của Trung Quốc từ ngàn xưa.”
Mặc dù không được ai nhìn nhận chủ quyền đơn phương của mình ở Biển Đông nhưng Trung Hoa vẫn ngang nhiên tân tạo thành đảo và quân sự hóa 7 vị trí chiếm của Việt Nam trong quần đảo Trường Sa. Đó là các Đá Châu Viên. Đá Chữ Thập, Cụm Đá Ga Ven, Đá Gạc Ma, Đá Tư Nghĩa, Đá Vành Khăn và Đá Xu Bi.
Phía Việt Nam kiểm soát 21 Vị trí gồm 7 đảo san hô/cồn cùng 14 rạn san hô; Phi Luật Tân chiếm 10 gồm 7 đảo san hô/cồn cùng 3 rạn san hô; Mã Lai Á chiếm 6 và Đài Loam chiếm 1 (đảo Ba Bình, lớn nhất trong Quần đảo Trường Sa).
Trong hai cuộc tiếp xúc với ông Phúc và ông Quang, Vương Nghị đã hứa:”Trung Quốc sẽ nghiêm túc thực hiện Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc; mong hai bên kiểm soát và không làm phức tạp tình hình, xử lý thỏa đáng vấn đề trên biển.”
Nhưng chính Trung Hoa mới là nước đã và đang làm phức tạp tình hình Biển Đông bằng các hoạt động quân sự, lấn chiếm và cấm ngư dân các nước lân bang đánh bắt ngư sản từ tháng 5 đến giữa tháng 8/2018.
Ngư dân Việt Nam là nạn nhân thiệt hại nhiều nhất do lệnh cấm đánh bắt của Bắc Kinh và Việt Nam tiếp tục bị Trung Hoa chèn ép phân định vùng biển “bên ngoài Vịnh Bắc Bộ” và đòi hợp tác cùng phát triển.
Đòi hỏi muốn xía phần trong vùng biển “bên ngoài Vịnh Bắc Bộ” vừa có ý nghĩa Quân sự và Kinh tế vì Trung Quốc và Việt Nam đều nói đầy là vùng “chồng lấn lên nhau” giữa Trung Hoa và Việt Nam nên phải phân chia lại, sau khi hai nước ký Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ ngày 25/12/2000.
Theo Hiệp đình này thì :” Việt Nam và Trung Quốc xác định phạm vi phân định và xác định đường phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước trong Vịnh Bắc Bộ đi qua 21 điểm có tọa độ địa lý xác định, nối các đoạn thẳng với nhau. Việt Nam được 53,23% diện tích vịnh, Trung Quốc được 46,77% diện tích vịnh.”
Sau khi Hiệp định này được thi hành thì Trung Hoa lại đòi thương thuyết để giải quyết vùng biển gọi là “chồng lấn ngoài Vịnh Bắc Bộ”
Theo tài liệu phổ biến trên Internet thì tiến sỹ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ Việt Nam nói rằng:” Vấn đề là phải căn cứ hoàn toàn vào Công ước. Chứ còn nếu người ta không căn cứ vào đó mà căn cứ vào những lập trường, vị trí không đúng thì rõ ràng rất khó để đi đến thống nhất”.
Ông Trục khuyến cáo Việt Nam hãy dựa vào “ Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982” để đàm phán với Trung Quốc.
Ông nói:”“Hai bên đều nói là ‘vùng chồng lấn’, nhưng vấn đề là quan điểm về vùng chồng lấn hiện nay là như thế nào thì mới xác định được phạm vi, hoạch định vùng chồng lấn. Vấn đề đó là dựa trên cơ sở nào để xác định vùng chồng lấn. Khi xác định được vùng chồng lấn rồi thì hai bên tiến hành đàm phán để làm sao có được thỏa thuận đi đến một giải pháp công bằng”.
Thái độ lấn tới của Trung Hoa đã được chứng minh qua vụ Trung Hoa tự ý đem Giàn khoan Hải Dương 981 (HD-981) và vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam hồi tháng 5/2014 để tìm dầu khí. Vị trí đặt giàn khoan, bên ngoài Vịnh Bắc Bộ, chỉ cách đảo Lý Sơn (tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam) khoảng 120 hải lý về phía đông (mỗi Hải lý dài 1,852 mét) đã gây ra cuộc khủng hoảng dài 75 ngày giữa Việt Nam và Trung Hoa.
Chính vì thái độ muốn “ăn tham” mà Trung Hoa đã tìm mọi cách và lợi dụng mọi cơ hội làm áp lực Việt Nam phải thương thuyết để hợp tác cùng khai thác vùng biển ngoài Vịnh Bắc Bộ.
Nay, qua lời nói hai nước Việt-Trung nên cư xử với nhau trong tình “vừa là đồng chí vừa là anh em" thì khả năng “hai bên có thể thảo luận triển khai khai thác, phát triển chung” trên biển của Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng chẳng bao lâu nữa sẽ thành sự thật. -/-
Phạm Trần
(04/018)
Mạng Sống Ngư Dân Và Chủ Quyền Việt Nam
- Viết bởi Phạm Trần
Đã có những bằng chứng Trung Cộng gia tăng áp lực ngư dân Việt Nam bỏ biển và đảng Cộng sản Việt Nam quy hàng Bắc Kinh ở Biển Đông từ đầu năm 2018 khi Chính phủ chỉ biết phản đối Trung Hoa bằng nước bọt.
Bằng chứng đã được Hội nghề cá Việt Nam công bố trong công văn ngày 26/03/2018 gửi Văn phòng Chính phủ, Bộ Ngoại giao và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Theo lời ông Phạm Anh Tuấn, Phó chủ tịch thường trực T.Ư Hội Nghề cá Việt Nam thì:” Gần đây, các hội nghề cá 2 tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi liên tục phản ánh các tàu của địa phương này bị tàu lạ tấn công, cướp phá khi đang hoạt động ở vùng biển gần quần đảo Hoàng Sa khiến chủ tàu, ngư dân thiệt hại lớn về kinh tế.” (báo Thanh Niên, 26/03/2018)
Theo báo cáo của T.Ư Hội Nghề cá tỉnh Quảng Nam thì:” Khoảng 2 giờ ngày 18.3, tàu cá mang số hiệu QNa 90822, do anh Nguyễn Tuấn Sơn (ngụ tại xã Tam Quan, huyện Núi Thành) làm chủ tàu, khi đang hành nghề lưới cản ở tọa độ 16 độ vĩ bắc và 111 độ kinh đông thì bị tàu sắt vỏ sơn màu trắng bao vây. Khoảng 15 phút sau, 1 ca nô khác chở theo nhóm người mang súng áp sát mạn tàu. Ngay sau đó, nhóm 6 người đã nhảy lên tàu anh Sơn dùng súng khống chế ngư dân và có hành động cắt phá lưới cụ và lấy đi 2 bình ắc quy.”
Một vụ đâm va nghiêm trọng khác xảy ra với 2 tàu cá của tỉnh Quảng Ngãi gây thiệt hại nặng về tài sản. Sự việc xảy ra ngày 22.3, tàu cá QNg 90440 TS và QNg 90045 TS của ngư dân xã Bình Sơn (huyện Quảng Ngãi) khi đang núp gió ở đảo Đá Lồi, thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, bị tàu sơn trắng số hiệu 46016 và 45103 tấn công đâm va, gây thiệt hại khoảng 800 triệu đồng.
Nhấn mạnh quan điểm phản đối hành động vô nhân đạo đối với ngư dân, T.Ư Hội Nghề cá Việt Nam kiến nghị các cơ quan chức năng vào cuộc truy tìm các tàu lạ có hành vi đâm va, cướp phá tài sản tàu cá Việt Nam để xử lý và ngăn chặn các hành động tương tự; đồng thời đề nghị các cơ quan chức năng liên quan cần tăng cường các biện pháp đảm bảo an toàn, tính mạng và tài sản cho ngư dân Việt Nam trong hoạt động lao động, sản xuất trên biển.”
TẠI SAO KHÔNG NÓI TẦU TRUNG CỘNG ?
Đáng chú ý là trong văn thư báo cáo để phản đối, Hội nghề cá Việt Nam không dám nói thẳng tầu của Hải quân Trung Cộng (hay Trung Quốc) là thủ phạm đâm tầu cá Việt Nam và lính Trung Cộng đã phá hoại và cướp tài sản của ngư dân. Họ chỉ dám nói là “tầu lạ” để không chạm đến Trung Hoa như cách tránh “phạm húy” để không làm phương hại đến giao hảo giữa hai nước Việt-Trung theo yêu cầu của đảng. Nhưng đây không phải là lần đầu tiên chuyện va chạm được coi là “nhạy cảm” phải né tránh mà là tư duy hèn nhát của lãnh đạo đảng và Chính phủ Việt Nam đã được Ban Tuyên giáo đảng áp dụng từ xưa đến nay.
Tuy nhiên, đối với ngư dân—những nạn nhân của đội quân cướp biển đã man Trung Cộng từng bắn ngư dân Việt Nam, đâm chìm tầu trong đêm tối và tịch thu ngư cụ và hải sản đánh bắt thì họ đã tố cáo đích danh lính Trung Hoa.
Bằng chứng đã được viết trên báo Tuổi Trẻ Online ngày 23/03/2018:”Chiều 23-3, tàu cá QNg 90045 do ngư dân Đặng Tằm làm chủ tàu kiêm thuyền tưởng và tàu cá QNg 90440 do ông Đặng Bi làm chủ tàu (cùng trú xã Bình Châu, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) đã về đến cảng Sa Kỳ trình báo với cán bộ đồn kiểm soát biên phòng Sa Kỳ về việc bị tàu Trung Quốc tấn công, cướp phá tài sản trên vùng biển Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.”
Theo trình báo của các thuyền trưởng và thuyền viên thì:” Khoảng 10h ngày 22-3, hai tàu cá này đang trú gió ở Đá Lồi thì bất ngờ bị hai tàu Trung Quốc màu trắng, số hiệu 46106 và 45103, áp sát. Tàu cá QNg 90440 bị đâm mạnh, bị vỡ dọc mạn phải từ đầu đến đuôi tàu, nặng nhất là phía sau tàu.
"Tôi và anh em phát hoảng vì cú đâm mạnh quá. Lúc đó cứ nghĩ tàu bị chìm rồi, bởi gió lớn. Anh em chỉ còn biết lạy trời", thuyền trưởng tàu QNg 90440 Đặng Duy Bình nói.
Cũng theo trình báo của ngư dân, sau cú đâm, phía tàu Trung Quốc thả một canô chở theo 8 người mặc quân phục và mang theo súng, dùi cui áp sát leo lên hai tàu cá.
Thuyền trưởng Bình kể: "Lúc đó tôi đang cầm lái liền bị một người Trung Quốc có súng tát tôi hai bạt tai. Xong họ cướp lái, ép ngư dân về phía mũi tàu. Họ bắt chúng tôi đưa hai tay lên đầu cúi đầu xuống đất, chỉ cần ngước lên là bị đánh".
Dùng vũ lực dồn ngư dân hết về phía mũi tàu, những người Trung Quốc có vũ trang tiếp tục lục cabin lấy đi điện thoại, máy móc, phá lưới và ngư cụ, đồng thời ép ngư dân chuyển toàn bộ hải sản đánh bắt được lên tàu Trung Quốc. "Không làm theo họ cũng đánh", thuyền trưởng Bình nói.
Tương tự, tàu QNg 90045 của ngư dân Đặng Tằm cũng bị cướp phá, chặt dây hơi, phá máy dò cá, bộ đàm.
Ngư dân Tằm cho biết: "Họ có cả thông dịch viên nói rất giỏi tiếng Việt, họ hỏi chúng tôi ở tỉnh nào của Việt Nam, ghi lại vào sổ. Đến khoảng 14h chiều 22-3, sau khi phá hoại, cướp tài sản trên tàu họ bảo chúng tôi về Việt Nam. Lúc này vào cabin mới hay, đến cả điện thoại, nước uống cũng bị cướp sạch".
BỎ THUỐC ĐỘC VÀO NƯỚC ?
Bài báo viết tiếp:”Không chỉ cướp phá, người trên tàu Trung Quốc còn đổ một gói bột màu trắng bao bì ghi chữ Trung Quốc vào nước uống của ngư dân, khiến ngư dân không thể uống. Các ngư dân cho rằng đây là hành động triệt luôn đường sống, không cho ngư dân tiếp tục bám trụ ở Hoàng Sa.
Ông Tằm ước tính thiệt hại lên đến 350 triệu đồng, trong khi tàu cá của ông Bi thiệt hại lên đến 400 triệu đồng. Đến 19h cùng ngày, lực lượng biên phòng Sa Kỳ vẫn làm việc với ngư dân để hoàn tất hồ sơ, báo cáo vụ việc lên tỉnh Quảng Ngãi.”
Đọc những lời kể của ngư dân, có ai là người Việt Nam mà không đau lòng khi thấy Chính phủ và đảng CSVN, kể cả Bộ Ngoại giao đã không có bất cứ phản ứng nào về hành động tàn bạo của lính Trung Hoa trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa.
Mọi người cũng muốn biết lực lượng Cảnh sát Biển và lực lượng tuần duyên Hải quân của Việt Nam đã biến đâu mất trong những giờ phút ngư dân gặp nạn ?
Hình ảnh duy nhất xuất hiện trên các báo Việt Nam cho thấy một số nhân viên của Lực lượng Biên phòng đã được cử đến để lấy lời khai của ngư dân và ghi tang chứng những tầu cá bị quân Trung Cộng tấn công khi họ cập bến.
Việc làm này, cũng như các lần trước, chỉ để báo cáo lên cấp trên cho có lệ và không đem lại bất cứ kế qủa nào.
CẤM ĐÁNH BẮT
Tuy nhiên, hành động tấn công các tầu cá Việt Nam tháng 3 năm nay (2018) quanh vùng biển Hoàng Sa, bị quân Trung Cộng đánh chiếm từ tay Hải quân Việt Nam Cộng hòa tháng 1/1974, đã xẩy ra vào dịp Bắc Kinh đơn phương ra lệnh cấm đánh bắt ở Biển Đông từ 12 giờ ngày 1/5 đến 12 giờ ngày 16/08/2018, mà họ nói là để bảo dưỡng nguồn hải sản.
Đối với ngư dân Việt Nam thì thời gian cấm đánh bắt lại rơi đúng vào vụ mùa thu hoạch cao loại cá Nam hàng năm tập trung về vùng Hoàng Sa và Trường Sa cho nên, dù biết nguy hiểm ngư dân Việt Nam vẫn tiếp tục ra biển đánh bắt.
Vậy Chính phủ Việt Nam đã phản ứng về lệnh cấm của Trung Cộng ra sao ?
Về phương diện bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và bảo vệ an ninh cho ngư dân thì chưa thấy Chính phủ Việt Nam nói gì. Duy nhất chỉ thấy người Phát ngôn của Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng nói rằng:”Việt Nam phản đối và kiên quyết bác bỏ quyết định đơn phương này của phía Trung Quốc.”
Bởi vì theo bà Hằng thì :” Quy chế về nghỉ đánh bắt cá trên biển, bao gồm một số vùng biển của Việt Nam xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, vi phạm các quyền và lợi ích pháp lý của Việt Nam trên các vùng biển của mình, vi phạm luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, đi ngược lại tinh thần và lời văn của Tuyên bố về Ứng xử của các Bên ở Biển Đông, trái với Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc, không phù hợp với thỏa thuận quan trọng Lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được về kiểm soát tốt bất đồng trên biển, không có lợi cho việc duy trì môi trường hòa bình, ổn định và hợp tác ở Biển Đông và xu thế phát triển tốt đẹp của quan hệ hai nước cũng như nỗ lực của các nước trong việc đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông hiện nay.”
Tuy nói thì hằng đấy nhưng Việt Nam không có lực lượng chấp pháp hữu hiệu trên biển nên Trung Hoa đã bỏ ngoài tai tất cả những gì Việt Nam muốn nói.
TẬP TRẬN LÀM GÌ ?
Cũng đáng quan tâm là khi tình hình Việt-Trung nóng lên thì Trung Hoa đã thực hiện hai cuộc tập trận quy mô trên Biển Đông, ngay sau khi lính của họ tấn công ngư dân Việt Nam và ban hành lệnh cấm đánh bắt dài hơn 3 tháng.
Cuộc tập trận thứ nhất của của khoảng 40 tầu Hải Quân các loại và tầu sân bay Liêu Ninh đã diễn ra ở khu vực nam đảo Hải Nam hướng ra Biển Đông.
Sau đó là cuộc tập chiến đấu trên không của Binh chủng Không quân bao gồm vùng trời ở Biển Đông, khu vực Tây Thái Bình Dương và vùng eo biển ở miền nam Nhật Bản.
Theo tin Quốc phòng Tây phương thì Trung Hoa đã sử dụng oanh tạc cơ H-6K, chiến đấu cơ Su-30 và Su-35 và nhiều loại máy bay khác trong cuộc tập dượt này.
Nhưng tại sao Trung Hoa lại tập trận Hải-Không quân lớn như thế vào lúc này ?
Không có bất cứ phát ngôn nào của Bộ Quốc phòng cho biết lý do, nhưng Tân Hoa Xã của Trung Hoa (Xinhua News Agency) đã trích thông cáo của Không quân Trung Quốc viết hôm 25/3 nói rằng: “Việc tập trận của lực lượng không quân là nhằm tập dượt cho các cuộc chiến trong tương lai và là công tác chuẩn bị trực tiếp nhất cho việc chiến đấu.”
Nhưng tương lai là bao giờ và liệu Việt Nam đã chuẩn bị chưa ?
CUỘC CHIẾN TRÊN BIỂN
Rất khó biết, nhưng theo lời Thiếu tướng, nguyên Chuẩn Đô đốc
Lê Kế Lâm, Chủ tịch Hội Khoa học - Kỹ thuật và Kinh tế Biển Thành phố Hồ Chí Minh thì ông tin Việt Nam có đủ sức bảo vệ biển đảo, và tổ chức những trận đánh xa bờ từ 500 đến 600 cây số.
Trong cuộc phỏng vấn của Zing.VN (đăng ngày 01/03/2017), tướng Lâm nói:”Với lực lượng hiện nay, Hải quân Việt Nam đủ sức để bảo vệ bờ biển và hải đảo của Tổ quốc. Điều tôi thấy quý là lớp tàu tên lửa Tia chớp Molniya. Tàu chỉ có lượng giãn nước 560 tấn nhưng có thể mang tới 16 quả tên lửa với tầm bắn 180-200 km. Đây là loại tàu do Việt Nam đóng dựa trên công nghệ chuyển giao của Nga.
Với riêng tàu ngầm, chiến thuật rất khác. Tàu có thể đi ra biển một tháng mới về, kíp tàu đó được lên bờ an dưỡng, huấn luyện rồi lại xuống tàu khác đi. Chúng ta có 6 tàu ngầm nhưng hoạt động trên biển chỉ 2 chiếc. Còn 2 chiếc nằm cảng, 2 chiếc bảo dưỡng.
Tôi nghĩ với lực lượng như hiện nay, chúng ta có thể tổ chức được trận đánh, giáng trả khi bị tấn công".
Ông nói tiếp:”Trước kia, chúng ta không có khả năng đánh ở Trường Sa. Nhưng từ 2010 trở lại đây, khi có lực lượng đặc biệt thì chúng ta có điều kiện tổ chức những trận đánh cách bờ 500-600 km, tức là đánh đến Trường Sa và xa hơn nữa.”
Zing-H: Với việc trang bị một loạt phương tiện, vũ khí tối tân, đánh giá của ông về tương quan lực lượng giữa Hải quân Việt Nam và các nước trong khu vực hiện nay ra sao?
Tướng Lê Kế Lâm:” Nếu so sánh với Hải quân Trung Quốc thì Hải quân của chúng ta còn cách xa họ. Vì họ có một nền công nghiệp quốc phòng hiện đại. Họ phóng được tàu vũ trụ, họ có hệ thống vệ tinh Bắc Đẩu tự dẫn đường thay cho GPS của Mỹ. Tất cả vũ khí của họ đều tự sản xuất ra được. Tàu chiến họ đóng được rất nhanh và nhiều.
Mỗi nước Đông Nam Á cũng có thế mạnh riêng của họ. Ví dụ, Singapore đất nước nhỏ, bờ biển ít, để bảo vệ quốc gia và biển, họ cũng có tàu ngầm và tàu chiến. Hải quân Singapore cũng là lực lượng có sức chiến đấu khiến nhiều nước phải nể sợ.
Đối với Hải quân Việt Nam, từ 2010, chúng ta đã có sức tấn công. Có thể dùng nhiều đòn chứ không chỉ một đòn. Có thể tấn công bằng tên lửa bờ, tên lửa tàu mặt nước, tên lửa ngư lôi của tàu ngầm, bằng các phương tiện khác như đặc công nước, hải quân đánh bộ.”
TƯƠNG LAI GẦN VÀ XA
Zing-H: Tuy nhiên, có thể thấy chiến lược hiện đại hoá Hải quân Việt Nam mới chỉ ở những bước đầu tiên. Theo Chuẩn Đô đốc, tiếp theo chúng ta nên làm gì?
Tướng Lê Kế Lâm :” Chúng ta không thể cứ đi mua vũ khí mãi. Mua tốn tiền đã đành nhưng quan trọng hơn là sự lệ thuộc. Không phải người ta bán cho mình tất cả những gì ưu việt nhất.
Bước tiếp theo phải tự sản xuất. Chúng ta sản xuất gì? Đối với hải quân, trước hết phải sản xuất tên lửa và pháo. Ngân sách quốc phòng ít nhất phải chiếm 2% GDP thì mới đủ tiền để nghiên cứu, chế tạo vũ khí. Mỹ giành 3% GDP, Trung Quốc có thể lớn hơn nữa.”
Nguyên chuẩn Đô đốc Lâm còn khuyên:”Hơn hết, các thế hệ lãnh đạo phải hiểu được ý đồ của nước lớn. Chúng ta hoan nghênh đa phương, đa dạng hoá. Tuy nhiên, không thể tin ai hoàn toàn, cũng không dựa vào ai hoàn toàn. Dựa vào một ai đó rồi sẽ đến lúc bị phản bội.
Nếu phải mua thì đa dạng hoá nhà cung cấp, đừng chỉ đi với một nước. Cái hay của việc này là tiếp thu được nhiều tinh hoa, nhiều kênh vũ khí. Ngoài Nga còn có Pháp, Ấn Độ, Israel... Tuy nhiên, cái khó là hệ thống vũ khí không đồng bộ, người sử dụng phải đi học ở nhiều nước khác nhau. NATO hiện đang hướng tới thống nhất một dòng vũ khí để đảm bảo hậu cần. Theo tôi, Việt Nam nên sản xuất lấy một dòng vũ khí của mình, chỉ có Việt Nam có.”
Zing H:- Trong những năm tới, theo đánh giá của Chuẩn Đô đốc, tình trạng giằng co trên biển giữa các nước sẽ diễn biến như thế nào? Liệu Hải quân Việt Nam đã đủ sức để ứng phó với những biến động đó?
Tướng Lê Kế Lâm: “Việt Nam chưa từng tham gia chiến tranh trên các đại dương. Hơn nữa, đó là chuyện giữa các nước lớn. Nhưng khả năng đó còn xa, không nước nào muốn có cuộc chiến tranh này, kể cả Mỹ hay Trung Quốc.
Còn ở gần như biển Hoa Đông, giữa Nhật và Trung Quốc hay trên Biển Đông thì nếu Trung Quốc có cái đầu nóng, đẩy mạnh hoạt động vũ trang lên cao thì có thể xảy ra xung đột.
Trong trường hợp này, chúng ta phải có đối sách thật linh hoạt, khôn khéo để giữ hoà bình, ngăn chặn đầu nóng của Trung Quốc. Muốn ngăn chặn phải làm tốt hai vế: ngoại giao và tăng cường sức mạnh quân sự. Phải có sức mạnh thật sự để những cái đầu nóng nếu muốn gây ra chuyện gì, sẽ phải tính đến thiệt hại đau đớn.”
CHUYỆN TRƯỚC MẮT
Quan điểm quốc phòng và chiến lược biển của nguyên Chuẩn Đô đốc Lê Kế Lâm đồi với viễn ảnh nguy cơ chiến tranh Việt-Trung trên biển là chuyện có thể còn xa.
Nhưng bây giờ là chuyện gần đã xẩy ra giữa hai nước Việt-Trung liên quan đến Dự án giếng dầu và khí đốt Cá Rồng Đỏ do PetroVietNam hợp tác với Repsol (Spain,Tây Ban Nha) trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Các tin của Kỹ nghệ dầu khí xác nhận Việt Nam đã phải đình chỉ tìm kiếm ở giếng Cá Rồng Đỏ, sau khi Trung Hoa đe dọa sẽ tấn công quân sự rộng rãi vào các vị trí của Việt Nam ở Trường Sa.
Giếng Cá Rồng Đỏ, lô 163-03, nằm ở khu vực bãi Tư Chính (Vanguard Bank), phía Tây Nam trong quần đảo Trường Sa và cách Vũng Tàu khoảng 200 hải lý về phía Đông Nam.
Giếng này có khả năng sản xuất 25.000-30.000 thùng dầu và 60 triệu mét khối khí mỗi ngày.
Trung Hoa cho rằng giếng Cá Rồng Đỏ nằm trong vùng “lưỡi bò” thuộc chủ quyền của họ, mặc dù Tòa án Quốc tế đã bác bỏ luận cứ này từ năm 2016
Bất chấp phán quyết của Tòa án, Trung Hoa lại di chuyển dàn khoan HYSY-760 cùng 40 tàu hải giám tới khu vực gần bãi Tư Chính, gần giếng Cá Rồng Đỏ để cạnh tranh tìm kiếm và khai thác dầu khí với Việt Nam, theo tin của Kỹ nghệ dầu khí.
Tuy nhiên, cho đến nay dù chuyện Cá Rồng Đỏ đã xẩy ra từ giữa năm 2017, cả hai Chính phủ Việt-Trung đều im hơi lặng tiếng, hầu như cả hai bên đều muôn tránh làm cho mối bang giao phức tạp thêm.
Nhưng Trung Hoa không chỉ bất bình với Việt Nam ở Cá Rồng Đỏ mà còn hậm hực với Hà Nội về Dự án Mỏ Cá Voi Xanh của ExxonMobil trong lô 118 ngoài khơi Đà Nẵng.
Tin từ phía Việt Nam và ExxonMobile xác nhận Dự án mỏ dầu khí Cá Voi Xanh sẽ được Petrovietnam và ExxonMobil chính thức khởi động vào cuối năm 2019.
Cũng cần nhắc lại vào ngày 01 tháng 05 năm 2014, Trung Hoa đã ngang nhiên đem giàn khoan khổng lồ Hải Dương (HD) 981 vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, gần đảo Tri Tôn thuộc Quần đảo Hoàng Sa để tìm kiếm dầu.
Vị trí đặt giàn khoan chỉ cách đảo Lý Sơn (tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam) khoảng 120 hải lý về phía đông (mỗi Hải lý dài 1,852 mét) đã gây ra cuộc khủng hoảng dài 75 ngày giữa Việt Nam và Trung Hoa. Nhiều cuộc va chạm tầu, thuyền giữa đôi bên đã xẩy ra nhưng chiền tranh đã được kìm hãm vì áp lực của Thế giới đòi Trung Hoa phải ngưng hoạt động trái phép.
Cuối cùng Trung Hoa đã phải rút giàn khoan HD-981 về nước ngày 15/07/2017, cùng lúc trận bão lớn có tên Thần Sấm tràn vào Biển Đông.
Bang giao Việt-Trung từ đó đã rẽ sang lối đi khác, sau nhiều năm tháng nguôi ngoa sau các biến cố đẫm máu Hoàng Sa 1974, Cuộc chiến biên giới phía Bắc 1979-1990 và cuộc thảm sát Gạc Ma 1988.
Bởi vì lịch sử Việt Nam đã nhiều lần chứng minh Lãnh đạo láng giềng phương Bắc tuy là bạn cùng thuyền hôm nay mà cũng có thể là kẻ lật thuyền ngày mai.
Bằng chứng như chuyện các ngư phủ Việt Nam tiếp tục bị lính Trung Cộng hành hạ, bắn giết và cướp tài sản ở Biển Đông của Việt Nam và các vụ tranh chấp lãnh hải và tài nguyên thuộc quyền sở hữu của Việt Nam đã chứng minh rõ mặt bạn-thù trong Thế giới hôm nay.
Thế mà tiếc thay, Việt Nam vẫn có những Lãnh đạo người Việt Cộng sản còn ngây thơ nhắm mắt để sa vào vào cái bẫy của tình hữu nghị 16 chữ Vàng và Tinh thần 4 tốt (láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt.)
Phạm Trần
Từ Nga Đến Việt Nam
- Viết bởi Phạm Trần
Ông Vladimir Putin tái đắc cử Tổng thống Nga nhiệm kỳ 6 năm lần thứ tư hôm 18/03/2018 được Việt Nam đón nhận như một tin mừng cho sự tồn tại lâu dài của chính mình. Tại sao ?
Thứ nhất, ông Putin là người bạn thân thiết và nước Nga luôn luôn được coi là đồng minh tin cậy nhất của lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ hai, tuy ở xa hơn Trung Hoa, nhưng Nga đã chọn Việt Nam là vị trí chiến lược quốc phòng quan trọng nhất của mình ở Á Châu – Thái Bình Dương.
Thứ ba, Việt Nam là khách hàng mua vũ khí Nga đứng hàng thứ ba sau Trung Hoa và Ấn Độ.
Thứ tư, Việt Nam và Nga có thỏa hiệp coi nhau là “đối tác chiến lược toàn diện” để hợp tác kinh tế-chính trị và quốc phòng hai nước.
Thứ năm, Việt Nam là nơi duy nhất có Trung tâm Nhiệt đới (tên đầy đủ là Trung tâm nghiên cứu khoa học và công nghệ nhiệt đới hỗn hợp Việt – Nga) được thành lập do đề nghị của Nga để nghiên cứu các phương pháp bảo vệ độ bền vững, chống hao mòn và lão hóa các loại vũ khí và vật liệu do Nga sản xuất để sử dụng ở các nước có thời tiết giống Việt Nam.
Thứ sáu, Việt Nam đã đồng ý để cho máy bay quân sự Nga được sử dụng cảng Cam Ranh và sân bay để bảo trì và tiếp liệu trên đường tuần dương.
Vì vậy mà từ năm 2000, theo báo Dân Việt ngày 15/03/2018 :”
Ông Putin đã nhiều lần đến thăm Việt Nam trên cương vị Tổng thống Liên bang Nga, lần đầu vào ngày 1.3.2001, một năm sau khi ông đảm nhận vai trò lãnh đạo nước Nga. Lần thứ 2 ông Putin sang thăm Việt Nam là vào tháng 11.2006, lần thứ 3 là vào tháng 11.2013 và lần thứ 4 là lần ông Putin tới Đà Nẵng dự Hội nghị APEC lần thứ 25 vào tháng 11 năm ngoái (2017).”
NHỮNG ĐIỀU GIỐNG NHAU
GS.TS Nguyễn Cảnh Toàn, chuyên gia Viện nghiên cứu châu Âu, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam (KHXHVN) đã nói với Dân Việt rằng:” Ông Putin là người có cảm tình rất lớn đối với Việt Nam. Ngược lại, ông Putin cũng được phần lớn người Việt Nam yêu mến, kính trọng. Do đó, việc ông Putin thắng cử có ý nghĩa rất lớn đối với Việt Nam.”
Chuyên gia Nguyễn Cảnh Toàn nói tiếp:”Tôi tin là quan hệ hữu nghị giữa 2 nước sẽ tiếp tục phát triển hơn nữa….Tôi còn nhớ rất rõ rằng, chính Putin từng nhấn mạnh vào năm 2001 tại Hà Nội rằng: Việt Nam là một người bạn thủy chung, không bao giờ phản bội. Quan hệ giữa Việt Nam và Liên bang Nga là quan hệ của những người bạn thủy chung, không bao giờ phản bội nhau.”
Ai cũng biết tại sao ông Putin, một cựu trùm tình báo KGB đã “nịnh” Việt Nam như thế. Bởi vì Putin là một nhà lãnh đạo độc tài
hoạt động dưới chiếc mặt nạ đứng đầu Mặt trận Toàn dân Nga ( All-Russia People’s Front) từ năm 2011. Và tuy ngoài mặt, Putin không còn mặc áo Cộng sản nhưng trong tim ông vẫn đầy ắp máu Cộng sản với chủ trương cai trị nhân dân Nga bằng “bàn tay sắt đẫm máu”.
Ông ta không những chỉ đán áp, khủng bố mà còn bị cáo buộc đã ra lệnh cho mật vụ hạ sát đối lập bằng mọi loại vũ khí, kể cả hơi độc.
Nước Nga thời Putin đã bị Tổ chức Minh bạch Thế giới (Transparency International) liệt vào hàng các nước có tình trạng tham nhũng thối nát cao và bị Freedom House giáng xuống hàng các nước không có dân chủ và tự do.
Ở Việt Nam thì nhân dân cũng bị một đảng độc tài cai trị không có bầu cử tự do. Tình trạng quan liêu, tham nhũng, tuy có đem ra xét xử một số Lãnh đạo nhưng “vẫn còn nghiêm trọng” trong hàng ngủ cán bộ, đảng viên.
Các quyền tự do căn bản của dân như tự do tư tưởng, giao lưu và tín ngưỡng, tôn giáo bị kiểm soát gắt gao.
Và mặc dù Hiến pháp quy định người dân có quyền tự do ngôn luận, được lập hội và biểu tình nhưng nhà nước lại không cho tư nhân ra báo. Quyền biểu tình vẫn còn bị nhà nước ngâm tôm không chịu trình ra Quốc hội, trong khi quyền lập Hội tuy đã trình ra Quốc hội nhưng rồi rút lại nói là để bổ sung rồi im luôn từ kỳ họp Quốc hội 13. Trong chương trình làm luật của Quốc hội năm 2018, Dự luật Hội vẫn vắng tên.
CA TỤNG HẾT LỜI
Vì có những điểm giống nhau như thế nên ngoài những điện văn chúc mừng ngoại giao của Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nước Trần Đại Quang, báo, đài nhà nước CSVN đã đăng tin ông Putin thắng cử rộng rãi. Không có bất cứ báo nào dám phê bình chuyện đắc cử của ông Putin là kết qủa của một chiến dịch tranh cử hình thức vì ứng cử viên đối lập sáng giá nhất, Alexei Navalny đã bị ông Putin dùng mọi mánh khóe, kể cả khủng bố để loại bỏ trước ngày bầu cử.
Trong khi ấy, đã có rất nhiều cử tri đã phải “giấu tên” để cho báo chí Tây phương biết họ vì sợ bị trả thù mà phải đi bỏ phiếu.
Vì vậy khi báo chí Việt Nam ca ngợi ông Putin đã thắng tới 76.68% phiếu cử tri, vượt ra 7 Đối thủ, kể cả ứng viên đảng Cộng sản Pavel Grudinin về nhì với 11.78% là chuyện hoang đường.
Vậy mà, trong một bài Bình luận ngày 21/03/2018, báo Cộng an Nhân dân của Bộ Công an Việt Nam vẫn có thể nói rằng:” Ông V.Putin đã chiến thắng và trở thành Tổng thống Nga trong 6 năm tới. Kết quả này hầu như mọi người có thể đoán trước. Bởi, trong tình thế hiện tại, không khó để nhận ra hàng triệu dân Nga đã đặt niềm tin vào vị “thuyền trưởng” tài ba, mạnh mẽ, tỉnh táo, thông minh và bản lĩnh của mình để đưa “con tàu” Nga vượt qua khó khăn, thử thách, từng bước phục hưng một nước Nga hùng mạnh trong thế giới còn nhiều bất ổn...”
“…Những gì người dân Nga cần thì đương kim Tổng thống Putin có. Và khẩu hiệu tranh cử “Một tổng thống mạnh mẽ - Một nước Nga mạnh mẽ” đã “đánh” đúng lòng người Nga không phải từ bây giờ, mà từ rất lâu rồi, từ cách đây gần 20 năm. Người dân Nga cho rằng Vladimir Putin có thể đảm đương trọng trách để đưa nước Nga vượt qua thách thức để tiến lên phía trước.”
Thực tế thì hiện nay nước Nga vẫn còn trên 20 triệu người, trong số 146 triệu dân sống dưới mức nghèo. Số thất nghiệp vẫn ở mức 5.5%.
Nền kinh tế, tuy đã vực lên từ thập niên 1990, và sau cuộc suy thoái 3.7 % năm 2015 với mức thu nhập sụt xuống 10% (theo World Economic Forum, 13/12/2016) thì nay nền kinh tế thời Putin đang ngoi lên nhờ vào giá dâu thô và hơi đốt tăng giá trên thị trường quốc tế. Nhưng thu nhập bình quân đầu người mỗi năm vẫn chưa tới 9,000 Dollars.
Tuy nhiên kinh tế Nga vẫn gặp nhiều khó khăn với lệnh cấm vận của Liên Hiệp Châu Âu (European Union, EU) và của Mỹ vì đã đem quân xâm chiếm Crimea, phần lãnh thổ của Ukraine năm 2014.
Và mặc dù giao hảo giữa Putin và Tổng thống Mỹ Donald Trump có phần thân thiện hơn từ khi ông Trump thắng cử năm 2016, nhưng vì tình báo Nga và chính ông Putin đã bị cáo buộc phá hoại cuộc bầu cử năm 2016, với bằng chứng chống ứng cử viên Dân chủ bà Hillary Clinton để cho ông Trump thắng cử nên lại bị Quốc hội Mỹ trừng phạt thêm 5 Công ty và 19 cá nhân Nga với các biện pháp kinh tế. Nhưng phần lớn việc trừng phạt chỉ lập lại những biện pháp đã được Chính quyền Tổng thống Barrack Obama thi hành rồi.
HỢP TÁC QUỐC PHÒNG
Đối với Việt Nam thì bước đột phá quan trọng thúc đẩy sự phát triển hợp tác kỹ thuật quân sự giữa Nga và Việt Nam là biên bản ghi nhớ liên chính phủ về chiến lược hợp tác kỹ thuật quân sự cho giai đoạn đến năm 2020, được ký kết hồi tháng Mười năm 2008. Theo đó, lần đầu tiên trong lịch sử hợp tác hai nước, tổng khối lượng các hợp đồng ký kết trong năm 2008 đã vượt quá 1 tỷ dollar. Hiện nay khối lượng này được tính vào khoảng vài tỷ dollar.
Việt Nam đã mua của Nga 32 máy bay chiến đấu Su-30MK2, 12 tàu tên lửa cao tốc “Molnia” (Tia chớp) (2 chiếc giao thẳng và 10 chiếc được cấp phép sản xuất), bốn tàu khu trục lớp “Gepard”, sáu tàu ngầm của dự án 636 “Varshavyanka” m(trong phân loại của NATO là tàu ngầm Kilo), một số tiểu đoàn tên lửa phòng không S -300PMU1 và nhiều loại vũ khí khác.”
Cũng nên biết trong cuộc thăm Nga từ ngày 07 đến 10/08/2013, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Đại tướng Phùng Quanh Thanh và Bộ trưởng Quốc phòng Nga, Đại tướng Sergei Shoigu đã đạt được nhiều thỏa thuận quan trọng về “canh tân hoá” quân đội CSVN.
(1) Tướng Thanh xác nhận: “Những nhu cầu phía Việt Nam đề xuất cơ bản phía Bạn đều đáp ứng, trong đó Bạn đồng ý đào tạo cán bộ cho Việt Nam ở tất cả các cấp, các lĩnh vực, các quân binh chủng và một số lĩnh vực khác.
(2) Tiếp theo là hợp tác về lĩnh vực kỹ thuật quân sự, hai bên đã bàn các biện pháp tiếp tục triển khai thực hiện các thỏa thuận hợp tác đã đạt được. Phía Bạn thống nhất một số điểm: trước hết là những hợp đồng mua vũ khí, trang bị kỹ thuật, phía Bạn bảo đảm chất lượng tốt, giá cả hợp lí và có ưu đãi đối với Việt Nam.
3) Là vấn đề hậu mãi như sửa chữa, bảo dưỡng, cung cấp vật tư, phụ tùng, đảm bảo tuổi thọ của trang bị...
4) Là Bạn thống nhất với phía ta là có thể bàn hướng hai bên có thể liên doanh thiết lập các cơ sở sửa chữa, bảo dưỡng.”
Tướng Phùng Quanh Thanh nói thêm rằng: “Bạn đã trao đổi nhiều tình hình, hai bên đều thống nhất về mặt quan điểm, đánh giá; thống nhất về tầm quan trọng cũng như sự cần thiết của việc hợp tác ngày càng sâu rộng hơn, vì lợi ích của nhân dân hai nước và đóng góp vào hòa bình, ổn định trong khu vực; quan hệ song phương không nhằm vào nước thứ ba.”
(Phỏng vấn của VOV, Voice of Vietnam --Đài Phát thanh Quốc gia Việt Nam, 10-08-2013)
Nhưng nếu Nga đã hợp tác chặt chẽ về Quốc phòng với Việt Nam thì phiá Việt Nam cũng đã có những tương nhượng thỏa mãn cho nhu cầu của Nga tại hải cảng chiến lược Cam Ranh như:
- Để Nga thiết lập một cơ sở bảo trì và huấn luyện cho đội Tầu ngầm của Việt Nam.
- Sẽ đơn giản hóa một số thủ tục cho tàu hải quân của Liên bang Nga khi ghé thăm hoặc làm dịch vụ hậu cần kỹ thuật ở các cảng Việt Nam sẽ được nhanh chóng, thuận tiện.
- Thành lập công ty hợp doanh Việt-Nga để sửa chữa, đóng tàu ở khu vực phi quân sự của cảng Cam Ranh. Tướng Phùng Quanh Thanh nói với báo chí hồi tháng 3/2013 rằng cơ sở này sẽ sửa chữa tàu, tiếp dầu, tiếp nước, tiếp lương thực thực phẩm, đón thủy thủ để vào bờ, tham quan nghỉ ngơi sau chuyến đi đường dài trên biển.
Ông Thanh cũng cho biết: “Tổng công ty Tân Cảng thuộc Quân chủng Hải quân Việt Nam được giao chủ trì, có tham gia liên doanh với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam. Công ty Vietsopetro sẽ tham gia góp vốn. Nhưng ta làm chủ, chi phối, ta điều hành, quản lý. Chủ quyền là của Việt Nam.
Cơ sở đóng mới, sửa chữa tàu thuyền, các dàn khoan, các dịch vụ của dầu khí này phục vụ dịch vụ cho các tàu của bất kỳ một nước nào, trong đó có LB Nga.”
- Việt Nam cũng đã đồng ý để cho Nga bỏ vốn 100% xây dựng trung tâm nghỉ dưỡng ở Cam Ranh theo diện dự án đầu tư nước ngoài ngang hàng với Khách sạn 5 sao. Ông Thanh cho hay Nga dành cho Việt Nam quyền quản lý, điều hành. Phía Nga cũng sẽ gửi một số người tham gia cùng quản lý khi dự án hoàn thành đưa vào sử dụng.
Nga chính thức rút khỏi Cam Ranh năm 2002, sau khi hết hạn thuê mướn và Việt Nam cũng đã tuyên bố không để Cam Ranh biến thành một căn cứ quân sự của nước ngoài. Tuy nhiên, dù không có hợp đồng thuê mướn nhưng Cảng Cam Ranh sẽ trở thành trạm dừng chân thường xuyên quan trọng của lực lượng Hải Quân Nga.
Như vậy, chuyện ông Putin tiếp tục làm Tổng thống Nga thêm 6 năm nữa sẽ lôi Việt Nam đi đâu trước viễn ảnh Lãnh tụ Tập Cận Bình sẽ làm Tổng Bí thư đảng và Chủ tịch nhà nước Trung Hoa không hạn kỳ, hay chỉ khi nào ông ta qua đời hoặc tự ý từ chức.
Dù muốn hay không thì thực tế là như thế. Việt Nam sẽ tiếp tục phải chịu một cổ đôi tròng, nếu chưa dứt được món nợ khổng lồ mỗi năm từ 12 đến 15 tỷ dollars nhập siêu từ Trung Hoa. -/-
Phạm Trần
Tình Yêu Đất Nước – Hành Trình Không Ngừng Nghỉ
- Viết bởi Paulus Lê Sơn
Gạc Ma: Đầu Súng Đảng Treo
- Viết bởi Paulus Lê Sơn
Tự Bốc-Tự Than Và Tự Chửi
- Viết bởi Phạm Trần
Tình hình Việt Nam trước Hội nghị Trung ương 7, khai mạc vào tháng 5/2018 có khả năng xấu đi trước hiện tượng thi đua xu nịnh Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng để quên đi nhu cầu cấp bách phải đổi mới chính trị để cho dân tham gia việc nước.
Với chủ đề “ Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” , Ban Tổ chức Trung ương đã tổ chức Hội nghị Lãnh đạo các cơ quan Trung ương tại Hà Nội ngày 6/2/2018 để thu thập ý kiến xây dựng đội ngũ cán bộ.
Theo báo điện tử Trung ương đảng thì Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Phạm Minh Chính nói với Hội nghị rằng:” Việc xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ là nhiệm vụ khó và đặc biệt quan trọng; cần tạo ra cách làm mới, đột phá, khả thi, tạo sự lan tỏa và sức ảnh hưởng lớn nhằm giải quyết những vấn đề cấp bách trong bối cảnh tình hình có nhiều thay đổi.”
Nhưng tại sao lại “cấp bách” vì “tình hình có nhiều thay đổi” thì không thấy ông Chính giải thích. Chỉ biết ông đã yêu cầu các đại biểu dự Hội nghị quan tâm đến “những vấn đề cụ thể như: chống suy thoái, nạn chạy chức, chạy quyền, kiểm soát quyền lực, đẩy lùi những nguy cơ đe dọa đến sự tồn vong của Đảng.”
Như vậy là khẩn trương và không bình thường vì ông Chính không nói tại sao vấn đề xây dựng cán bộ lại nẩy sinh “những nguy cơ đe dọa đến sự tồn vong của Đảng” ?
Chỉ biết một điều chắc chắn là đảng đang lo sót vó lên vì tình trạng “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” đang lan rộng và ăn sâu trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên. Những người bị quy kết thuộc hang ngũ “lợi ích nhóm”, “đề cao chủ nghĩa cá nhân”, “không làm theo lệnh đảng”, “say mê quyền lực”, “tham nhũng” , “cửa quyền”, “dễ bị mua chuộc” , “lũng đoạn nội bộ”, “dèm pha lãnh đạo” và “công khai che bai Chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh” và lười tham gia “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
Những căn bệnh này không mới mà đã có từ lâu và được diễn dịch ra từ hai căn bệnh “suy thoái tư tưởng” và “suy thoái đạo đức” trong các Văn kiện của hai Hội nghị Trung ương 4 khóa đảng XI và Trung ương 4 khóa XII về Xây dựng đảng.
Tuy nhiên, Ban Tuyên giáo Trung ương của đảng và Tổng cục Chính trị của Bộ Quốc phòng đã liên kết chĩa mũi dùi vào điều được gọi là “các thế lực thù địch” bên ngoài và “những kẻ cơ hội” bên trong đã cấu kết với nhau xuyên tạc thành tích xây dựng đảng để chống phá làm mất uy tín đảng và chia rẽ nhân dân.
Vì vậy, báo Quân đội Nhân dân (QĐND) đã cảnh giác trong bài viết ngày 01/03/2018 rằng:”Mục tiêu không bao giờ thay đổi của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa. Để đạt được mục đích ấy, chúng áp dụng nhiều âm mưu, thủ đoạn, trong đó có việc thúc đẩy "tự diễn biến", “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta.”
Báo này viết tiếp:”Một âm mưu, thủ đoạn hết sức nham hiểm trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng Việt Nam là thúc đẩy sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, mà trước hết và chủ yếu là suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng chính trị. Bởi họ toan tính và cho rằng chỉ có làm chệch hướng tư tưởng chính trị thì mới làm cho nội bộ Đảng chia rẽ, tổ chức của Đảng rệu rã, bộ máy của Nhà nước lung lay và nguy cơ tự đánh mất vai trò lãnh đạo, tự sụp đổ sớm muộn cũng đến.”
Nhưng chính Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Ban Chấp hành Trung ương đảng đã báo động tình trạng “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ trước tiên chứ có người nào hay thế lực nào nói rồi đổ vạ cho đảng đâu.
Nhưng ngoài chuyện đảng viên đang “tự biến” để xa đảng họ cũng tự cho mình quyền bỏ cả Mác-Lenin và quên luôn cả “tư tưởng Bác Hồ” để tìm đường sống. Vì vậy mà báo QĐND đã chạm lòng để lên tiếng phản bác:” Cùng với việc xuyên tạc, phủ nhận tính cách mạng, khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thời gian gần đây họ tập trung kích động, cổ xúy cho nhiều quan điểm sai trái phủ định mục tiêu của Đảng và con đường đi lên xây dựng CNXH của nước ta. Họ cho rằng muốn có dân chủ thực sự cho người dân thì Việt Nam phải thực hiện chế độ “tam quyền phân lập”. Họ cổ xúy cho xã hội dân sự và cho rằng “xã hội dân sự là hiện thân của tự do, dân chủ và những giá trị tốt đẹp trong xã hội”; “Hình thành xã hội dân sự độc lập về chính trị là điều kiện, tiền đề cho việc bảo đảm quyền con người”... Họ phủ nhận những kết quả và xuyên tạc cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta hiện nay với các luận điệu đáng lưu ý như: “Cuộc chiến chống tham nhũng hiện nay là “cuộc chiến thanh trừng phe phái trong nội bộ Đảng”; “Chế độ một đảng cầm quyền là nguyên nhân sinh ra tệ tham nhũng”; “Tham nhũng là vấn đề thuộc bản chất của chế độ XHCN ở Việt Nam”.
ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ Ở ĐÂU ?
Dù bài viết có cố tình lẩn tránh, nhưng sự thật là chế độ độc đảng và độc tài ở Việt Nam đã giúp cho tham nhũng tồn tại vì người dân không có cơ hội tham gia việc nước nói chung và phòng, chống tham nhũng nói riêng.
Ngay cả các Đại biểu của dân trong Quốc hội và các Hội đồng nhân dân địa phương cũng không trực tiếp gánh vác chống tham nhũng thì những kẻ tham nhũng được tự do hành nghề cũng là điều dễ hiểu.
Đó là lý do tại sao vào ngày 22/1/2016, cả Hội trường Quốc hội đã “phát sốt” khi họ nghe Bộ trưởng Bộ Kế hoạch & Đầu tư
Bùi Quang Vinh nói dõng dạc: “Đổi mới hệ thống chính trị là điều kiện để phát triển.”
Bài tham luận của ông Vinh đã thẳng thắn trích lại “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020” được Quốc hội thông qua “nêu rõ đổi mới chính trị cần đi đôi với đổi mới kinh tế.”
Ông nói:”Bên cạnh đổi mới ở bộ máy công chức, nguyên tắc thị trường cần được áp dụng đầy đủ hơn, phân biệt khu vực công - tư, bảo vệ quyền tài sản, tạo điều kiện cho người dân tham gia vào quản trị Nhà nước, hoạch định chính sách...”
Tuy ông Vinh không nói ra nhưng ai cũng hiểu đó chính là đòi hỏi đảng phải thật sự tôn trọng quyền tự quyết của dân trong một chế độ có bầu cử tự do và trực tiếp.
Tuy nhiên, đảng đã làm ngơ trước đề nghị thẳng thắn này của ông Vinh. Tiểu sử của ông Vinh cho biết ông sinh năm 1953 tại Hà Nội, từng là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X, XI, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam (2011 - 2016), Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII tỉnh Lai Châu.
Ông là Bộ trưởng duy nhất từng tuyên bố về chủ trương kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa :” Chúng ta cứ nghiên cứu mô hình đó, mà mãi có tìm ra đâu. Làm gì có cái thứ đó mà đi tìm.”
Tại Đại hội đảng XII năm 2016, ông Vinh nói thẳng:”
“ Một hệ thống chính trị phù hợp với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước đây, đặc biệt trong hoàn cảnh chiến tranh nay không còn phù hợp nền kinh tế thị trường, thậm chí còn là rào cản, trở ngại cho sự phát triển.”
Đó là sự thật ngay cả đối với các Chuyên gia kinh tế trong nước, nhưng Lãnh đạo đảng và những cái đầu bảo thủ, giáo điều sỏi đá trong Hội đồng Lý luận Trung ương và Ban Tuyên giáo thì cứ coi cái định hướng mơ hồ “theo Xã hội Chủ nghĩa” là khuôn vàng thước ngọc phải duy trì bằng được.
Vì vậy, mỗi khi bị phê bình và chống đối thì báo đài đảng lại được lệnh phản biện.
Bài viết của QĐND phản ảnh thái độ này bằng lời cảnh giác :”Mục tiêu nhằm tới của họ không gì khác là làm chia rẽ nội bộ mà trước hết là chia rẽ về quan điểm chính trị, từ đó dẫn đến tan rã niềm tin, gây hỗn loạn về lý luận và tư tưởng. Tình hình ấy đòi hỏi chúng ta, mà trước hết là đội ngũ cán bộ, đảng viên không được phép chủ quan, lơ là, mất cảnh giác.”
Nhưng đây là cuộc chiến tư tưởng không có biên cương. Nếu đảng viên đã nghe lời đảng thì làm gì còn tình trạng “tự diễn biến, tự chuyển hóa” ?
Sở dĩ cán bộ, đảng viên và nhân dân đã chán đảng đến tận mang tai vì Lãnh đạo nói mà không làm hoặc nói một đàng làm một nẻo.
Điển hình như Báo cáo Chính trị tại Đại hội đảng XII năm 2016, Khóa đảng XI viềt:”Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế; năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ.”
Nhưng nhóm chữ “đổi mới chính trị” có ý nghĩa gì trong thực tế ?
Hãy nghe chính lời ông Nguyễn Phú Trọng nói tại Hội nghị Trung ương 10, Khóa đảng XI:”Phải nắm vững và khẳng định: Đổi mới chính trị không phải là làm thay đổi chế độ chính trị, thay đổi bản chất của Đảng ta, Nhà nước, mà là đổi mới cơ chế, chính sách, tổ chức bộ máy, kiện toàn nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đổi mới phương thức công tác, lề lối làm việc, cải cách hành chính, chống tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các cơ quan trong hệ thống chính trị, tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia.” (VietNamNet, 12/01/2015)
Như vậy thì có gì mà phải rùm beng lên cho ồn ào hàng xóm ?
NỊNH VÀ HÓT
Nói năng ngược xuôi như thế thì hèn gì mà ông Trọng chẳng được các loa Tuyên giáo hót nịnh đến điếc tai thiên hạ.
Điển hình như Nhị Lê – Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản, cơ quan ngôn luận của Trung ương đã ca:”Thông điệp của Tổng Bí thư gửi tới chúng ta: “Lò đã nóng lên rồi thì củi tươi vào cũng phải cháy…Cá nhân nào muốn không làm cũng không thể được…” là một hình tượng rất sống, rất hay và rất thực tế. Nó thể hiện sự kiên quyết không thể gì lay chuyển của ông Nguyễn Phú Trọng, trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, hiện nay.”
Tưởng hát bấy nhiêu chưa có người nghe, Nhị Lê hót tiếp:”Thông điệp của Tổng Bí thư đã gửi: “Lò đã nóng lên rồi thì củi tươi vào cũng phải cháy…Cá nhân nào muốn không làm cũng không thể được…” là sự kết tinh, thể hiện tầm nhìn, sự kiên định và cả tâm huyết của ông. Cái Ngọn lửa Dân chủ, Đức trị và Pháp trị phải cháy lên trong cái lò ấy! Và, càng tin rằng, không ai cản được, khi Lòng dân đã dậy sóng, đang làm Gió thổi lò, với quyết tâm: “Dân ta đã nói là hành. Đã đốn quyết đốn cả cành lẫn cây”.
(Tuần Việt Nam 09/08/2017)
Tiếp theo là Đài phát thanh nhà nước, Tiếng nói Việt Nam (VOV, Voice of Việt Nam) lên giọng từ Hà Nội:”Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - với tư cách là người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhìn ra mối nguy cơ của đại dịch tham nhũng, bằng tất cả dũng khí và mưu lược của một kẻ sĩ Bắc Hà đã phất lên ngọn cờ tiêu diệt bằng được sự tham nhũng, sự lộng quyền. Ông trở thành một người đốt lò vĩ đại đã nhóm lên chiếc lò được cháy lên bằng ngọn lửa của lương tâm, và công lý để thiêu hủy bằng được cơn đại dịch tham nhũng và lạm quyền.
Người có học bao giờ cũng trọng cái danh và xa lánh mọi ham hố vật chất, sự ích kỷ vun vén quyền lợi cho cá nhân, cho gia đình mình. Vài ba chục năm trở lại đây, người dân từng biết khá nhiều vị có chức sắc bằng quyền lực của mình cất nhắc con cái, người thân vào những vị trí này nọ. Mỗi lần có sự việc nào đó từ cưới xin cho con, thượng thọ cho bố mẹ, không ít vị lợi dụng chức vị để kiếm chác. Trên thiếp mời còn lòe loẹt in đủ chức danh và học vị.
Với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thì không. Đã kinh qua nhiều chức vụ cao nhất của nhà nước, của Đảng nhưng từ việc lớn cho đến việc nhỏ, trong dân gian chưa có lời đồn, giai thoại nào về sự lợi dụng quyền hạn của ông để mưu lợi cho mình, cho người thân.
Về với lớp từ phổ thông đến đại học, Tổng Bí thư vẫn khiêm nhường, hòa đồng với mọi người. Ngay cả khi đang ở vị trí cao nhất Quốc hội, khi về với lớp học cũ, ông vẫn khiêm tốn với bạn đồng môn với các thầy, các cô giáo cũ.”
Hát khan cả họng mà như chưa được ai cho xu nào nên Tiếng nói Việt Nam ca tiếp:”Lò lửa chống tham nhũng đang ngùn ngụt cháy đúng như mong muốn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng “Lò đã nóng lên rồi thì củi tươi vào cũng phải cháy”. Chiếc lò đó đã bắt đầu và sẽ liên tục thiêu ra tro những củi gộc mối mọt, độc địa. Ngọn lửa nghìn độ đó không chỉ được nuôi bằng lương tâm, dũng khí mà còn bằng trí tuệ, tài thao lược bài bản, có lớp lang của một kẻ sĩ có tâm, có tài, có dũng. Nhờ có chiếc lò và ngọn lửa hợp lòng dân như vậy nên chưa bao giờ cuộc chiến đấu chống tham nhũng lại quyết liệt, công bằng và có kết quả như lúc này.
Xin nhắc lại người nhóm lò và giữ cho ngọn lửa trong lò đó, người đứng đầu cuộc chống tham nhũng đang có hiệu lực làm nức lòng người đó chính là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - một kẻ sĩ Bắc Hà ta đó.”
(VOV, ngày19/02/2018)
Với kỷ nguyên của Truyền thông điện tử toàn cầu và con người Việt Nam không còn u ám như thập niên 50 mà báo đài nhà nước thi đua viết bài khen ông Trọng nứt lưỡi thì chắc là ông khoái chí lắm.
Chỉ có điều là khi ông đang ở giữa nhiệm kỳ Khóa đảng XII mà được ca ngợi không tiếc lời như thế thì khi nhớ lại lời ông nói về “đổi mới chính trị”, hẳn không ít người sẽ nói theo lời Cố Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu với hoàn cảnh mới:”Đừng nghe những gì ông Trọng nói mà hãy nhìn kỹ những gì ông Trọng làm”.
Phạm Trần
Báo - Đảng và Tiền
- Viết bởi Phạm Trần
Lần xạo mới nhất xẩy ra ngày 25/02/2018 trên báo Quân đội Nhân dân (QĐND), cơ quan ngôn luận của Bộ Quốc phòng làm loa tuyên truyền cho Ban Tuyên giáo của đảng.
Dưới tiêu đề “Việt Nam bảo đảm tốt tự do báo chí theo luật pháp quốc tế về nhân quyền”, báo này viết :” Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán quan điểm tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do báo chí. Trên cơ sở nội luật hóa pháp luật quốc tế về quyền tự do báo chí, Hiến pháp năm 1946, hiến pháp đầu tiên của nước ta, đã khẳng định người dân có quyền tự do báo chí và được pháp luật bảo đảm thực hiện. Các bản hiến pháp sau này đều kế thừa và phát triển nội dung của Hiến pháp năm 1946 về quyền tự do báo chí. Điều 25, Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định” và khẳng định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của pháp luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
NÓI MỘT ĐÀNG-LÀM MỘT NẺO
Đúng là như vậy nhưng bài viết đã trích lại Hiến pháp để biện minh cho hành động sai trái, suy diễn và tùy tiện của đảng và nhà nước để chạy tội chống dân chủ và đàn áp nhân dân.
Nhóm chữ “Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định” đã được sử dụng lan tràn theo nhu cầu của nhà nước để phủ nhận những quy định của Hiến pháp. Nói cụ thể hơn là làm Luật để xóa bỏ Hiến pháp, hay chậm làm luật để trì hõan thi hành Hiến pháp, đạo Luật cao nhất của Quốc gia.
Bằng chứng như hai quyền “lập hội” và “biểu tình”, tuy đã ghi trong Hiến pháp nhưng Chính phủ không muốn Quốc hội luật hoá hai quyền này. Vì vậy, các tổ chức Xã hội Dân sự tự lập của dân và các cuộc biểu tình tự phát bất bạo động, dù chỉ chống bất công và đòi công bằng cũng bị Công an đàn áp mà không cần giải thích hay phải có phép của Tòa án.
Vì vậy, khi nói đến quyền con người, bộ máy tuyên truyền của đảng thường thổi phồng thành tích đã có hẳn một Chương trong Hiến pháp 2013 để bảo đảm quyền này.
Nhưng tất cả chỉ là con số không khi Điều 14 viết rằng:”Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.”
Những lý do “quốc phòng” và “an ninh quốc gia” của điều này rất mơ hồ, không được giải thích rõ ràng nên nhà nước có quyền sử dụng tùy tiện để bảo vệ chế độ “xin cho”, có lợi nhà nước.
BÁO CHÍ-INTERNET
Từ chuyện quyền con người, báo QĐND bàn qua báo chí để chỉ trích những ai đã lên án Việt Nam không có tự do.
Báo này viết:”Trong những năm qua, các thế lực thù địch vẫn lợi dụng những sơ hở, thiếu sót của Việt Nam trong thực hiện chính sách, pháp luật và vu cáo Nhà nước Việt Nam: “Không có tự do ngôn luận, tự do báo chí”; “Việt Nam kiểm soát và bóp nghẹt quyền tự do báo chí, tự do internet”; “bắt bớ nhiều blogger”… Họ cố tình đưa ra những nhận định, đánh giá sai lệch, thiếu khách quan về tình hình tự do báo chí ở Việt Nam để vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền hòng hạ thấp uy tín Việt Nam trên trường quốc tế.”
Theo QĐND thì những người chỉ trích Việt Nam đã:” Viện dẫn các quy định của luật pháp quốc tế và luật pháp Việt Nam về quyền tự do báo chí, nhưng cố tình tảng lờ những điều khoản nghĩa vụ kèm theo để thực hiện các quy định đó rồi tán phát qua internet, mạng xã hội nhằm làm cho con người hiểu lầm rằng “tự do báo chí” là một quyền tuyệt đối; từ đó cổ xúy các phần tử bất mãn, các đối tượng chống đối lợi dụng quyền tự do báo chí hoạt động tích cực, quyết liệt hơn.”
Không phải cho đến bây giờ (năm 2018), thế giới mới biết Việt Nam không có tự do ngôn luận và tự do tư tưởng. Từ Liên Hiệp Quốc cho đến Liên hiệp Châu Âu (EU, European Union), Tổ chức các nước Đông Nam Á (ASEAN, The Association of Southeast Asian Nations), các Tổ chức nhân quyền, Tôn giáo và Báo chí thế giới và nhân dân các nước văn minh đã kê Việt Nam vào hàng áp chót trong bảng xếp hạng về quyền tự do Báo chí, tự do Internet và tự do Tôn giáo.
Bằng chứng như trong Bảng xếp hạng năm 2017 của Tổ chức Ký giả Không Biên giới (Reporters Sans Frontières - Reporters Without Borders (RSF) đã đặt Việt Nam vào hàng thứ 175 trên tổng số 180 quốc gia. Việt Nam chỉ ở trên Trung Hoa (176), Syria (177), Turkmenistan (178), Eritrea (179) và Bắc Triều Tiên (180-North Korea).
Điều đáng xấu hổ là Việt Nam đứng chót trong 10 Quốc gia của Tổ chức ASEAN, sau cả hai nước đàn em Cao Miên (thứ 132) và Lào (170).
Thậm chí nước Cộng sản độc tài Cuba, đồng minh của CSVN cũng được xếp thứ 173, trên Việt Nam 2 bậc.
Bên cạnh đó, một báo cáo của Nhà Tự Do (the Freedom House) đã xếp Việt Nam vào nhóm 10 nước cản trở tự do Internet nhất trong số 65 quốc gia được đánh giá và dẫn đầu châu Á về kiểm duyệt nội dung trên Internet sau Trung Quốc, trong năm 2017.
Freedom House nhận định, chính quyền Việt Nam đang sử dụng hai chiến thuật để thao túng mạng Internet, là dư luận viên nhận tiền từ nhà nước (paid progovernment commentators) và truyền thông thân nhà nước & tuyên truyền (progovernment media and propaganda).
Vào ngày 25/12/2017, Quân đội Việt Nam đã công bố con số 10,000 quân nhân có khả năng sử dụng Internet ở trình độ cao được sử dụng để bảo vệ đảng và chống các thông tin bất lợi cho nhà nước.
Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam cho biết số chuyên viên này là “Lực lượng 47”, làm theo Chỉ thị 47 của Tổng cục chính trị. Ông gọi họ là những “hạt nhân đấu tranh trên không gian mạng, vừa hồng vừa chuyên" được đưa vào “chiến trường đấu tranh chống những cà nhân và các thế lực chống đảng.”
Ngoài Quân đội, đảng CSVN còn sử dụng một lực lượng Công an điều khiển mạng lưới điện tử để chống những người bất đồng chính kiến và kiểm soát lưu thông trên Internet để ngăn chặn những thông tin bất lợi cho nhà nước và chống đảng.
Do đó, Báo cáo 2017 của Freedom House (từ tháng 6/2016 – 5/2017) đã đánh giá Việt Nam ở hạng có tự do Internet thấp 76/100 điểm xấu, xếp thứ 59/65 quốc gia, thấp nhất trong các nước ASEAN.
Theo Freedom House, chính quyền Việt Nam kiểm duyệt 8/10 chủ đề trên Internet, đứng đầu châu Á về mức độ kiểm duyệt chỉ sau Trung Quốc. Gia tăng đàn áp và bắt tù các Nhà báo tự do, Bloggers ở Việt Nam cũng bị Freedom House lên án gay gắt.
NHẬN VƠ CÁI KHÔNG CÓ
Bằng chứng rành rành như thế mà báo QĐND vẫn cảng cổ lu loa rằng:”Có không ít hoạt động tác động, lôi kéo, mua chuộc các phần tử chống đối, cơ hội chính trị, số phóng viên tha hóa, biến chất tăng cường viết bài xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền, vu cáo Việt Nam vi phạm “quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí” rồi tán phát trên mạng xã hội, internet... Đặc biệt, các đối tượng còn thành lập các câu lạc bộ, các diễn đàn trên mạng xã hội dưới chiêu bài “tự do ngôn luận, tự do báo chí” để tập hợp lực lượng, hình thành các tổ chức chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam.”
Sau đó, QĐND lại trơ trẽn khoe :”Trên thực tế, Việt Nam đã đạt được thành tựu to lớn trong việc bảo đảm quyền tự do báo chí của người dân. Theo thống kê, tính đến năm 2016, cả nước có 857 cơ quan báo chí, gồm: 199 cơ quan báo chí in, 658 tạp chí (trong đó có 105 báo, tạp chí điện tử); 01 hãng thông tấn quốc gia; 67 cơ quan phát thanh truyền hình. Hầu hết các bộ, ban, ngành, đoàn thể chính trị, tổ chức xã hội đều có báo, tạp chí hoặc trang thông tin, báo điện tử.”
Những con số này, chẳng may không giúp đảng và nhà nước CSVN xóa được hình ảnh xấu xa của một Việt Nam chưa hề bao giờ có tự do báo chí. Bởi vì tất cả báo, đài là của các cơ quan đảng, nhà nước và của các tổ chức chính trị, xã hội của đảng hay thuộc phạm vi đảng kiểm soát.
Tuyệt nhiên không có cơ quan nào của tư nhân vì người dân không được quyền ra báo. Cũng như trong lĩnh vực chính trị, Việt Nam không có đảng đối lập vì đảng cầm quyền không chấp nhận “đa nguyên đa đảng”.
Như vậy thì tự do báo chí ở đâu khi người dân không có quyền được cạnh tranh ngôn luận và tư tưởng với đảng cầm quyền ?
Việc này đã được chứng minh trong Luật Báo chí 2016 (Luật số 103/2016/QH13), ban hành ngày 05/04/2016.
Luật này quy định rõ báo chí có nhiệm vụ:”Tuyên truyền, phổ biến, góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước…. xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa…”
Điều 7 của Luật này còn nói rõ vai trò “qủan lý báo chí” của hệ thống cai trị của Chính phủ:
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về báo chí.
2. Bộ Thông tin và Truyền thông chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về báo chí.
3. Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện quản lý nhà nước về báo chí.
4. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm quản lý nhà nước về báo chí tại địa phương.”
Như vậy thì có cách nào khác hơn để nói báo chí không do các cấp chính quyền kiểm soát từ trung ương xuống cơ sở ?
Trong số các điều bị ngăn cấm, báo chí không được”Đăng, phát thông tin chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nội dung:Xuyên tạc, phỉ báng, phủ nhận chính quyền nhân dân;Xuyên tạc lịch sử; phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, anh hùng dân tộc….”
Vì vậy mà trong thời gian vài năm qua, Ban Tuyên giáo của đảng đã chỉ thị báo chí lên án những quan điểm hay bài viết của một số người Việt trong và ngoài nước, kể cả một số cựu đảng viên, đòi “đánh giá lại lịch sử và vai trò của ông Hồ Chí Minh và của đảng CSVN” trong 30 năm chiến tranh huynh đệ tương tàn (1945-1975).
Một số người cũng đã đặt vấn đề : Lịch sử cần được minh bạch để biết ông Hồ và đảng CSVN có công hay có tội với đất nước. Và, ai là người phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về những đổ vỡ và tang thương của dân tộc trong hai cuộc chiến được gọi là “đấu tranh chống Pháp giành độc lập” và “chống Mỹ cứu nước” ?
Nhưng với biện pháp kiểm soát chặt chẽ người làm báo của nhà nước hiện nay thì cơ hội tìm câu trả lời cho “thành công” hay “thất bại” của đảng CSVN trước lịch sử không dễ dàng.
Bằng chứng là nhà báo của đảng, theo Điều 25 của luật Báo chí 2016 là phải:” Bảo vệ quan Điểm, đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát hiện, tuyên truyền và bảo vệ nhân tố tích cực; đấu tranh phòng, chống các tư tưởng, hành vi sai phạm…”
MẶT TRÁI CỦA BÁO CHÍ
Vậy, cái gọi là “báo chí cách mạng” của đảng bây giờ ra sao ?
Căn cứ vào những sự việc xẩy ra và đã được công khai bởi các viên chức đảng lãnh đạo, trong đó có Ủy viên Bộ Chính trị Võ Văn Thưởng, Trưởng ban Tuyên giáo thì nếu trong đảng có tham nhũng, lãng phí và tha hóa thì báo chí cũng có suy thoái và nhận hối lộ hoặc tống tiền bỏ túi và nhiều khuyết tật nghề nghiệp khác.
Bằng chứng này đã được nêu ra tại Hội nghị Báo chí toàn quốc nhằm tổng kết công tác năm 2017, triển khai nhiệm vụ năm 2018, tổ chức ngày 26-12-2017 tại TP Hồ Chí Minh.
Báo Tiền Phong tường thuật:”Thứ trưởng Bộ TT&TT Hoàng Vĩnh Bảo cho biết trong năm qua, báo chí đã thực hiện nghiêm túc sự lãnh đạo, chỉ đạo và định hướng thông tin của Đảng, Nhà nước, thông tin kịp thời, toàn diện đời sống chính trị, kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, ông Bảo cũng chỉ ra nhiều hạn chế, yếu kém của báo chí, như bị cuốn theo mạng xã hội, đăng tải những chuyện nhảm nhí, giật gân, các thông tin chưa kiểm chứng... Một số báo điện tử khai thác thông tin từ ý kiến cá nhân trên mạng xã hội để viết bài, trong khi môi trường truyền thông xã hội đầy rẫy tin giả, tin xấu.
Trong năm 2017, cả nước có 55 trường hợp báo chí bị xử lý với tổng số tiền xử phạt là 1,3 tỷ đồng. Hội nhà báo đã xóa tên 324 hội viên với nhiều lý do, trong đó có nhiều trường hợp vi phạm pháp luật.”
Các báo theo dõi Hội nghị còn dẫn lời ông Hòang Vĩnh Bảo nói rằng:”Báo chí vẫn còn tồn tại những khuyết điểm, hạn chế gây bức xúc trong xã hội như tình trạng “đánh hội đồng”, kết án vụ việc, hiện tượng mà không cần xem xét đến quy định của pháp luật, các kết luận của cơ quan chức năng; tình trạng “suy đoán có tội” phát triển trong báo chí hiện nay gây thiệt hại rất lớn đến cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp… Thậm chí, có tình trạng phóng viên liên kết thành những “liên minh báo chí”, tổ chức theo nhóm lấy danh nghĩa cùng đi tác nghiệp nhằm sách nhiễu, vòi vĩnh doanh nghiệp, theo kiểu ép ký hợp đồng quảng cáo, hợp tác truyền thông và gỡ, sửa bài sau khi đăng một cách tùy tiện, vụ lợi. Cá biệt, có một số phóng viên, nhà báo đã vi phạm pháp luật trong quá trình tác nghiệp, bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Một số phóng viên, nhà báo, biên tập viên… lợi dụng mạng xã hội để bày tỏ quan điểm đi ngược với quan điểm của báo, ảnh hưởng đến hình ảnh của cơ quan báo chí. Nhiều cơ quan thông tin không đúng sự thật, thiếu nhạy cảm về chính trị, đăng tải nhiều thông tin về mặt trái của xã hội; vi phạm về quảng cáo vẫn xảy ra, mặc dù đã giảm đáng kể so với các năm trước.”
Trong khi ấy, Trưởng ban Tuyên giáo Võ Văn Thưởng, người chịu trách nhiệm ngành thông tin và truyền thông cho đảng cũng đã:” Thẳng thắn chỉ ra nhiều hạn chế, thiếu sót của hoạt động báo chí như xa rời tôn chỉ, mục đích, nhất là một số báo điện tử. Khuynh hướng giật gân, câu khách, xào lại tin bài báo khác tương đối phổ biến.”
Tiền Phong viết:”Người đứng đầu ngành tuyên giáo chỉ ra sự cố 59 tờ báo vi phạm khi đưa tin khởi tố 2 nguyên lãnh đạo Tập đoàn dầu khí Việt Nam (PVN) là do xào lại thông tin từ TTXVN nhưng lại “lòe” bạn đọc là của nguồn tin riêng. Trong khi đó, mức xử phạt như gãi ngứa, chưa đủ răn đe.”
Ông Thưởng nói:”Năm 2017, số lượng Phóng Viên bị xử lý hình sự, bị bắt quả tang đang nhận tiền, vòi vĩnh doanh nghiệp nhiều hơn mọi năm khiến những người làm báo chân chính đau lòng. Yêu cầu đặt ra là phải đấu tranh chính trong đội ngũ những người làm báo, không để những con sâu làm rầu nồi canh.”
Người cầm đầu Tuyên giáo còn tiết lộ:”Trong vụ Yên Bái (tham nhũng), một Phóng viên khai đưa bao thư cho 3-4 nhà báo khác. Nhuận bút không đăng bài cao hơn nhuận bút đăng bài và nhuận bút gỡ bài nhiều hơn nhuận bút đăng bài.”
Ông Thưởng còn cho biết :”Nhiều nhà báo bị thu thẻ nhưng vẫn viết báo; bài viết thậm chí còn cay nghiệt hơn; ra tù được cơ quan cũ tuyển dụng làm ở vị trí biên tập.
Trong khi đó nhiều cơ quan chủ quản khoán trắng, miễn sao mỗi năm có 4 -5 tỷ đồng. “Làm như vậy không đúng. Bên cạnh cơ quan quản lý nhà nước, phải truy trách nhiệm cơ quan chủ quản. Cơ quan chủ quản không thể vô can.”
Như vậy thì phải chăng khi nhân dân bị đàn áp vì đòi được quyền tự do ra báo thì các đảng viên nhà báo đã nhờ có hạn chế này mà được tự do hành nghề kiếm bạc để bảo vệ đảng cầm quyền ? -/-
Phạm Trần
(02/018)
Hội đồng Giám mục Việt Nam: Nhật ký Ad Limina 2018 (Ngày 28.02.2018)
- Viết bởi WHĐ
Trong hai ngày 26 và 27/2/2018, quý Hồng y, Tổng Giám mục và Giám mục của Hội đồng Giám mục Việt Nam đã lên đường đi Ad Limina. Trọng tâm của chuyến Ad Limina là cuộc yết kiến Đức Thánh Cha Phanxicô, người cha chung của Giáo hội hoàn vũ vào sáng thứ Hai, ngày 05/3/2018. Cũng trong chuyến đi này, nhận lời mời của Hội Thừa sai Paris (MEP), Hội đồng Giám mục Việt Nam sẽ có cuộc gặp gỡ Hội đồng Hội Thừa sai Paris tại cơ cở của Hội ở thủ đô Paris của Pháp; đồng thời tham dự nghi thức công bố Đức cha Giuse Nguyễn Chí Linh, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, làm hội viên danh dự của Hội. Nhân dịp này, Hội đồng Giám mục Việt Nam gặp Đại học Công giáo Paris, các linh mục, tu sĩ sinh viên Việt Nam đang học tại Paris.
Hồi 10g00 (giờ Paris) thứ Tư 28/2/2018, Hội đồng Giám mục Việt Nam có cuộc gặp gỡ với cha Bề trên tổng quyền và các thành viên của Hội đồng Hội Thừa sai Paris. Đây là cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Hội Thừa sai Paris với Hội đồng Giám mục Việt Nam. Trong cuộc gặp gỡ này, Hội Thừa sai Paris trình bày sơ lược cho quý Đức cha hoạt động của Hội với 4 chiều kích: phục vụ suốt đời (ad vitam), ra bên ngoài (ad extra), truyền giáo (ad gentes) và cùng với giáo hội địa phương (cum Ecclesia). Ơn gọi của Hội Thừa sai Paris là truyền giáo và ngay từ đầu đã có một sự gắn bó đặc biệt với Giáo hội tại Việt Nam. Hai Đức giám mục Tông tòa đầu tiên tại Việt Nam là Đức cha François Pallu và Lambert de la Motte đều là thành viên của Hội. Hiện nay Hội Thừa sai Paris có 180 linh mục, 14 đại chủng sinh đang theo học tại 7 đại chủng viện khác nhau và 5 thầy dự bị.
Tiếp tục sứ vụ truyền giáo, Hội Thừa sai Paris hỗ trợ nâng cao trình độ cho các linh mục tại châu Á. Hiện có 70 linh mục đến từ châu Á được Hội giúp đỡ theo học tại Đại học Công giáo Paris. Riêng đối với Giáo hội tại Việt Nam, từ mấy thập niên qua, Hội đã giúp hàng trăm linh mục của các giáo phận sang du học tại Pháp. Trong hoàn cảnh hiện nay, để giúp các linh mục có điều kiện chuẩn bị tốt ngôn ngữ trước khi du học, Hội ngỏ ý các Đức cha có thể gửi các linh mục sang Thái Lan theo học các lớp Pháp ngữ do Hội đang phụ trách. Ngoài việc hỗ trợ cho các linh mục đi du học, mấy năm gần đây, Hội còn giúp Uỷ ban Giáo sĩ và Chủng sinh của Hội đồng Giám mục Việt Nam thực hiện những khóa đào tạo các nhà đào tạo.
Song song với việc hỗ trợ nâng cao trình độ chuyên môn cho các linh mục, từ 15 năm trở lại đây, Hội còn tổ chức nhóm các thiện nguyện viên đi phục vụ các giáo hội tại châu Á. Đến nay đã có khoảng 2.000 thiện nguyện viên hoàn thành việc phục vụ tại các nơi mà các thành viên của Hội đã từng phục vụ. Hiện nay có 150 thiện nguyện viên đang phục vụ và có 30 thiện nguyên viên đang chuẩn bị lên đường.
Sau khi lắng nghe các thành viên của Hội đồng Hội thừa sai Paris trình bày, quý Đức cha trao đổi với Hội về Hội Thừa sai Việt Nam. Tiếp đó, Hội Thừa sai Paris mời quý Đức cha dùng bữa trưa thân mật tại trụ sở của Hội.
Hồi 15g00 cùng ngày, Hội đồng Giám mục Việt Nam có cuộc gặp gỡ ông Alexandre Scaggion, Phó viện trưởng và cha Jean Louis Souletie, khoa trưởng phân khoa thần học của Đại học Công giáo Paris.
Sau lời chào thăm, ông Phó viện trưởng trình bày khái quát về hoạt động của Đại học. Hiện Đại học có hơn 10.000 sinh viên đang theo học. Có 4 phân khoa liên quan tới Giáo hội là: thần học, triết học, giáo luật và khoa học xã hội.
Tiếp đó, cha khoa trưởng trình bày về phân khoa thần học. Khoa thần học giúp các sinh viên tiếp cận và phân định các nguồn thần học, kinh thánh, luân lý và tâm lý. Sau đó là cuộc trao đổi giữa quý Đức cha với ông Phó viện trưởng và cha khoa trưởng về việc đào tạo thường huấn từ xa, thư viện điện tử qua internet.
Cuối cùng, Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm, Tổng thư ký đại diện Hội đồng Giám mục Việt Nam ngỏ lời cám ơn Đại học Công giáo Paris và Hội Thừa sai Paris đã và đang tiếp tục giúp đỡ Giáo hội tại Việt Nam trong nhiều lãnh vực, nhất là lãnh vực đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn cho các linh mục.
Hồi 17g45, Hội đồng Giám mục Việt Nam cùng Hội đồng Hội Thừa sai Paris dâng Thánh lễ cầu cho việc rao giảng Tin Mừng tại nhà nguyện Hiển Linh của Hội. Cuối thánh lễ, cha Bề trên của Hội công bố Đức cha Giuse Nguyễn Chí Linh làm hội viên danh dự của Hội.
Sau Thánh lễ, Hội đồng Giám mục Việt Nam dùng cơm tối với Hội đồng Hội Thừa sai Paris và các cha sinh viên đang ở tại trụ sở của Hội.
WHĐ
39 Năm Vẫn Chưa Biết Nhục
- Viết bởi Phạm Trần
58 năm sau ngày ông Hồ Chí Minh, cha đẻ của đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) nói câu tuyên truyền“Đảng ta là đạo đức, là văn minh” thì số cán bộ, đảng viên “suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống” và “quan liêu, tham nhũng, lãng phí” tăng cao hơn bao giờ hết.
Kết qủa này là bằng chứng đảng đã hòan toàn bất lực trong kế họach “xây dựng chỉnh đốn đảng” (XDCĐĐ) bắt đầu từ Khóa đảng VII thời Đỗ Mười làm Tổng Bí thư (1991-1997). Bây giờ, dưới thời ông Nguyễn Phú Trọng khoá đảng XII, tổng cộng 27 năm XDCĐĐ mà lãnh đạo vẫn chỉ biết đổ lỗi cho “mặt trái của nền kinh tế thị trường” và số cán bộ, đảng viên thiếu bản lĩnh bị sa ngã trước cám dỗ của tiền tài và danh vọng, là nguyên nhân của tình trạng “tự diễn biến” và “tự chuyển hoá” đang đe dọa sự sống còn của đảng.
Như vậy, nếu ông Hồ còn sống thì hẳn ông phải xấu hổ cho những điều ông nói tại buổi lể kỷ niệm 30 năm ngày thành lập đảng (3-2-1930 / 3-2-1960).
Hồi ấy Ông nói:
“Đảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi cao
Ba mươi năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình!
Đảng ta là đạo đức, là văn minh
Là thống nhất, độc lập, là hoà bình, ấm no
Công ơn Đảng thật là to
Ba mươi năm lịch sử Đảng là cả một pho lịch sử bằng vàng”
(Rút ở "Lời khai mạc lễ kỷ niệm lần thứ 30 ngày thành lập Đảng", Thơ Bác Hồ, NXB Quân Đội Nhân Dân, 1971)
Nhắc lại chuyện xưa của ông Hồ để thấy nhiều điều ông nói chỉ để tuyên truyền gây ảo tưởng và hy vọng hão huyền. Các lớp lãnh đạo sau ông, từ thời Bí thư thứ nhất rồi Tổng Bí thư Lê Duẩn (cầm quyền từ 10 tháng 9 năm 1960 – 10 tháng 7 năm 1986
25 năm, 303 ngày) , đến các Tổng Bí thư Trường Chinh qua Nguyễn Văn Linh (khoá VI) rồi chuyển cho Đỗ Mười (VII), Lê Khả Phiêu (VIII) đến Nông Đức Mạnh (IX và X) sang Nguyễn Phú Trọng (từ Khoá XI), tổng cộng 58 năm mà căn bệnh “suy thoái đạo đức và tư tưởng” của cán bộ, đảng viên vẫn là tiền đề của mọi vấn đề đảng còn phải đối phó.
Nhưng nếu “suy thoái đạo đức” chỉ thu gọn trong phạm vi con người của đảng thì hy vọng sửa sai vẫn có thể làm được nếu lãnh đạo quyết tâm làm đến nơi đến chốn.
Ngược lại, khi “đạo đức” và “văn minh” chỉ còn là tấm bình phong che đậy cho âm mưu xuyên tạc lịch sử thì đạo lý dân tộc và lòng yêu nước đã bị loại bỏ. Càng tệ hại và ô nhục hơn, nếu hành động ấy lại do những người có học vị cao trong xã hội được trao trọng trách bảo tồn và khai sáng đã quay lưng phản bội, theo lệnh của Bộ Chính trị để tránh gây ra phức tạp trong quan hệ Việt-Trung.
Đem suy luận này áp dụng cho hành động sợ Tầu ra mặt của Lãnh đạo đảng CSVN khi họ cố tình lãng quên xương máu của trên 40 ngàn đồng bào và bộ đội đã hy sinh trong cuộc Chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979 -1990 thì ta biết ngay tại sao bộ Lịch sử Việt Nam được Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam phát hành ngày 18/08/2017, tuy đã dám viết “quân Trung Quốc xâm lược” nhưng vẫn hời hợt về cuộc chiến này.
39 NĂM PHẢN BỘI
Trước hết, trong 39 năm qua, mỗi khi ngày 17 tháng 2 hàng năm trở về, hàng triệu con tim người Việt trong nước đã thổn thức tưởng nhớ về những người đã nằm xuống trong cuộc chiến biên giới 1979-1990, dù trong quân ngũ hay dân thường, cụ gìa, đàn bà và trẻ thơ. Nhưng ngoài những cuộc thăm viếng nghĩa trang hay tư gia lẻ tẻ của các cựu chiến binh nhớ về đồng đội cũ, tuyệt nhiên không có bất cứ tổ chức, đòan thể hay chính quyền từ trung ương xuống cơ sở nào đứng ra tổ chức các buổi lễ tưởng niệm và ghi ơn những người đã hy sinh.
Chẳng những thế, đảng và nhà nước CSVN còn ra lệnh cho công an, công an đội lốt côn đồ ngăn chặn, bắt cóc và tấn công những người dân xuống đường tuần hành hay tập trung dâng hương tại kỳ đài Lý Thái Tổ cạnh Hồ Gươm Hà Nội, hay tại Sài Gòn vào ngày 17/2.
Cũng tương tự, các cuộc tổ chức tưởng niệm 74 chiến sỹ Quân đội Việt Nam Cộng hòa hy sinh trong trận chống quân Tầu xâm lăng Hòang Sa năm 1974 và 64 Bộ đội đã bỏ mình ở Trường Sa năm 1988 cũng bị ngăn chặn.
Về mặt báo chí truyền thông thì từ 1979 đến 2016, không báo nào hay bất cứ ai được phép khơi lại cuộc chiến biên giới. Lệnh cấm này đã được nới rộng đối với các báo “không chính thống” từ năm 2017, sau khi bị nhiều trí thức và giới sử học chỉ trích.
Tuy nhiên, các cơ quan báo chí “ruột” như Nhân Dân, Quân đội Nhân dân, Saìgòn Giải Phóng, Thông tấn xã Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam và các Đài Truyền hình chính phủ và Quân đội đều đồng loạt được lệnh “ngậm miệng” để được ăn tiền.
Riêng lần kỷ niệm 39 năm cuộc chiến biên giới năm nay (2018), các báo của Bộ Thông tin và Truyền thông gồm Infonet, VietNamNet và Tuần Việt Nam đã phổ biến một số bài viết dưới dạng nghiên cứu hay phỏng vấn về diễn tiến của cuộc chiến từ ngày 17/02/1979 cho đến các cuộc giao tranh đẫm máu Việt-Trung tại mặt trận Tỉnh Hà Tuyên cũ, đặc biệt tại Vị Xuyên.
Những bài viềt này, tuy có nhiều bằng chứng nhưng chưa được đưa vào sách sử để nói cho các thế hệ người Việt Nam sau này biết tường tận về biến cô đau thương này.
Vì vậy, những sự kiện còn thiếu trong 8 trang (từ trang 351 đến 359) của tập 14 bộ Lịch sử Việt Nam đã để lại một khỏang trốngkhó hiểu.
Bằng chứng khi nói về cuộc chiến bảo vệ lãnh thổ của Việt Nam ở biên giới phía Bắc, đã có không ít thắc mắc tại sao giới viết sử của đảng CSVN phải mở đầu bằng đọan nịnh Trung Hoa thế này:”Việt Nam luôn luôn biết ơn sự giúp đỡ tận tình của Chính phủ và nhân dân Trung Quốc trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước. Việt Nam rất coi trọng quan hệ láng giềng hữu nghị và hợp tác với Trung Quốc.”
Sau đó, sách sử mới Việt Nam lại cố ý liên kết xung đột biên giới Việt-Trung từ năm 1976 với cuộc chiến giữa Việt Nam và Quân Khmer đỏ, do Pol Pot lãnh đạo được Bắc Kinh yểm trợ, ở biên giới Tây Nam.
Nhưng sách lại không dám nói đó là hành động của Trung Quốc dùng Khmer đỏ Pol Pot đề phá Việt Nam mà lại viết ỡm ờ thế này:”Các cuộc xung đột nổ ra ở biên giới Việt – Trung (khu vực Cao Bằng – Lạng Sơn) vào cuối năm 1976 và tháng 3/1977 gần như trùng hợp với thời gian diễn ra tình hình căng thẳng ở biên giới Việt Nam – Campuchia ở phía Tây Nam.”
Đến khi viết về cuộc chiến Việt-Trung thì sách của Việt Nam chỉ tóm tắt:”5h sáng ngày 17/2/1979, 60 vạn quân Trung Quốc đồng loạt vượt biên giới kéo dài 1.400km tiến vào 6 tỉnh của Việt Nam gồm Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Tuyên (Hà Giang, Tuyên Quang), Hoàng Liên Sơn (Lào Cai và Yên Bái), Lai Châu, điều động 9 quân đoàn chủ lực; 2.559 khẩu pháo, 500 xe tăng và xe thiết giáp tiến sâu vào đất Lạng Sơn, Lai Châu 10 — 15km, vào Cao Bằng 40 — 50km.
Quân dân Việt Nam đã kiên cường chiến đấu bảo vệ lãnh thổ Tổ quốc, loại khỏi vòng chiến đấu 62.500 địch, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn, 18 tiểu đoàn, bắn cháy và phá hủy 550 xe quân sự trong đó có 280 xe tăng, xe bọc thép, phá hủy 115 khẩu pháo và súng cối hạng nặng, thu nhiều vũ khí, bắt nhiều tên xâm phạm lãnh thổ Việt Nam.
Tuy nhiên, do bị động nên không phải bộ phận nào cũng giữ vững được khả năng chiến đấu. Đoạn trích sau đây trong báo cáo của Đảng Đoàn Tổng Công đoàn Việt Nam phản ánh một góc độ khác của tình hình: "Trên mặt trận chiến đấu chống quân Trung Quốc xâm lược, các đơn vị tự vệ công nhân viên chức các lâm trường, nông trường, các đoàn địa chất, các xí nghiệp, cơ quan ở sát biên giới đã chiến đấu dũng cảm, góp phần đánh lui nhiều đợt tiến công của địch, tiêu diệt nhiều địch. Tuy nhiên, ít đơn vị chiến đấu được dài ngày do thiếu đạn, thiếu ăn, thiếu chỉ huy thống nhất với bộ đội chủ lực; một số đơn vị bỏ chạy vô tổ chức do bị động, lãnh đạo không vững vàng….".
“….Ngày 1/3/1979, Trung Quốc đề nghị đàm phán Trung – Việt ở cấp Thứ trưởng Ngoại giao để khôi phục hòa bình, an ninh ở biên giới, tiến tới giải quyết tranh chấp về biên giới lãnh thổ. Ngày 14/3/1979, Trung Quốc rút hết quân về nước.”
Đọc những dòng chữ “nửa sự thật” này ai cũng thấy lịch sử đã bị bóp méo có chủ trương che giấu nhiều sự thật. Bởi vì trong chiến tranh thì phải có thương vong, nhưng các nhà viết sử Cộng sản lại che giấu thương vong của phía Việt Nam trong khi họ được tự do phanh phui số tổn thất về người và quân trang của quân đội Trung Hoa
Họ cũng vẽ ra thành công bằng cách nói vắn tắt để vơ vào mà không cần phải chứng minh rằng:” Với thắng lợi của hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Việt Nam đã bảo vệ được chủ quyền dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ, tạo điều kiện để tiếp tục sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Đồng thời, Việt Nam cũng làm tròn nghĩa vụ quốc tế với nhân dân Campuchia và nhân dân Lào, tích cực góp phần bảo vệ độc lập dân tộc và hòa bình ở Đông Dương và Đông Nam Á.”
Lối viết sử mập mờ như vậy chỉ làm cho người đọc thắc mắc thêm, và tất nhiên chẳng mở mang được trí tuệ cho học sinh khi phải học những điều này trong sách Giáo Khoa.
Hơn nữa sẽ chẳng ai hiểu tại sao Việt Nam, dưới thời Cộng sản cầm quyền lại phải có “nghĩa vụ quốc tế với nhân dân Campuchia và nhân dân Lào” để làm gì ? Ai đã ra lệnh, chi viện cho Việt Nam làm như thế, và với mục đích gì ?
Sách sử không dám giải thích vì mấy chữ “nghĩa vụ quốc tế” , không những mơ hồ mà còn tiềm ẩn tổn thất về người và của mà phiá Việt Nam đã tiêu hao ở Lào trong 20 năm theo đuổi chiến tranh xâm lăng Việt Nam Cộng hòa, và thêm 10 năm Việt Nam xâm lăng và chiếm đóng Kampuchea để đánh nhau với quân Khmer đỏ của Pol Pot từ 1979 đến 1989.
Sau 10 năm phiêu lưu ở Cao Miên, quân Việt Nam phải rút về nước để đổi lấy bình thường quan hệ ngọai giao với Trung Hoa năm 1991, tiềp sau Hội nghị bí mật Việt-Trung ở Thành Đô (Tỉnh Tứ Xuyên bên Tầu) năm 1990.
Tổn thất của Việt Nam trong 10 nămở Cao Miên được ước tính khỏang 50 ngàn quân lính chết và lối 30 ngàn bị thương, nhưng không ai biết Việt Nam hay nước nào đền bù thiệt hại này cho những gia đình có người hy sinh ?
Vậy khi sách sử Việt Nam còn thiếu minh bạch thì ai mà tin được các nhà làm sử khi họ viết trong sách mới rằng:”Sau thắng lợi của cuộc chiến đấu bảo vệ lãnh thổ ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, nhiệm vụ củng cố quốc phòng và an ninh càng được đẩy mạnh. Chiến công mới: tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận lực lượng phản động FULRO ở vùng Tây Nguyên, bắt gọn nhiều nhóm phản động, gián điệp, thám báo và làm phá sản âm mưu phá hoại của chúng, là thể hiện sự cảnh giác cao của quân và dân Việt Nam.”
Đọc những dòng này, ai cũng cảm thấy như có tiếp sức hà hơi tuyên truyền của Ban Tuyên giáo nên gía trị lịch sử đã bị bị lu mờ.
Do đó,Tổng chủ biên bộ sử Việt Nam, PGS.TS (Phó Giáo sư-Tiến sỹ) Trần Đức Cường đã nhìn nhận “ Nhiều vấn đề quan hệ Việt - Trung chưa được nhắc đến”, hoặc ông cũng “Tiếc là cuộc chiến bảo vệ biên giới giai đoạn 1980 - 1989 chưa đưa được vào bộ sử do tư liệu hầu như không có.”
Nên biết sau khi rút quân khỏi Cao Bằng và Lạng Sơn ngày 14 tháng 3 năm 1979, quân đội Trung Hoa lại mở ra mặt trận thứ hai từ 1980 đến 1990 đánh vào tỉnh Hà Tuyên (gồm Hà Giang và Tuyên Quang). Cuộc chiến kéo dài nhiều tháng ác liệt và gây thương vọng nặng cho Việt Nam xẩy ra ở Vị Xuyên, nay thuộc Tỉnh Hà Giang thành lập mới từ năm 1991.
Nhưng Giáo sư Cường lại cũng “nuối tiếc bộ sử chưa nói sâu về quan hệ Việt - Trung các thời kỳ hay sự kiện Gạc Ma năm 1988.”
Gạc Ma là bãi đá trong quần đảo Trường Sa và là nơi đã xẩy ra cuộc chiến đẫm máu giữa lực lượng phòng thủ Việt Nam và quân xâm lược Trung Hoa ngày 14/03/1988. Có 64 lính của Quân đội nhân dân đã thiệt mạng ở đây. Gạc Ma nay nằm trong tay quân Trung Hoa cùng với một số bãi đá đã biến thành đảo nhân tạo và căn cứ quân sự của Bắc Kinh.
ĐẠO ĐỨC CỦA LỊCH SỬ
Với những thiếu sót khi biên sọan bộ lịch sử quan trọng, sau 9 năm làm việc và nghiên cứu tài liệu, thử hỏi thứ “đạo đức” và “văn minh” theo tiêu chuẩn của ông Hồ Chí Minh đặt ra năm 1960 thì những nhà viết sử Cộng sản có đáng được tưởng thưởng không ?
Họ hãy nghe Thiếu tướng Lê Mã Lương, người đã chiến đấu 8 năm ở biên giới Việt-Trung và được phong tặng “anh hùng lực lượng võ trang”, kể về chiến sự ác liệt tại Vị Xuyên :”“Đã có cả chục ngàn người lính và thường dân ngã xuống và chừng đó người khác bỏ lại một phần thân thể mình dọc biên giới phía Bắc những năm 1979-1988. Khi nói về lịch sử, dân tộc, chúng ta phải công bằng, không ai được phép lãng quên, không ai được cố tình lãng quên sự thật này”. (Theo báo Tuần Việt Nam, 27/07/2017)
Cậu chuyện bi thương thứ hai nên kể về Pháo đài Đồng Đăng, tỉnh Lạng Sơn.
Đó là khi :”Nhắc đến những ngày đương đầu với quân Trung Quốc tại Lạng Sơn, không thể không kể đến trận đánh tại pháo đài Đồng Đăng. Người trực tiếp chiến đấu tại pháo đài này là Đại tá - Anh hùng Nông Văn Pheo, năm nay 61 tuổi. Ông may mắn sống sót sau trận đánh vô cùng chênh lệch về lực lượng với quân xâm lược.
Để bảo toàn lực lượng, Đại tá Pheo và một số đồng đội đã phải rút lui khỏi pháo đài tìm đường về đơn vị tiếp tục chiến đấu. Theo thống kê, sau 3 ngày đêm chiến đấu anh dũng, Đại tá Nông Văn Pheo đã trực tiếp tiêu diệt 70 tên địch, góp phần gây tổn thất nặng nề cho quân địch.
Nhưng đau xót thay, sau khi pháo đài Đồng Đăng thất thủ, quân Trung Quốc đã sát hại hàng trăm đồng bào ta. Pháo đài trở thành ngôi mộ tập thể lớn nhất trong chiến tranh biên giới của nhân dân Lạng Sơn.
Trước sự tấn công ồ ạt của quân Trung Quốc, Đồng Đăng và thị xã Lạng Sơn đều bị thất thủ. Quân xâm lược đi đến đâu là tiến hành đốt phá nhà xưởng, công sở, kho tàng bến bãi tới đó. Thị xã Lạng Sơn và nhiều địa phương khác gần như bị phá huỷ hoàn toàn sau khi quân Trung Quốc rút đi.”
(báo Dân Việt , ngày 17/02/2018 )
Chi tiết hơn, nhân chứng Hoàng Văn Liên là một trong hai người sống sót tại pháo đài Đồng Đăng, nấm mồ chung của gần 400 người cả dân thường và bộ đội Việt Nam.
Báo Tuần Việt Nam viết ngày 10/02/2018:”Nhóm của ông cùng lực lượng biên phòng chiến đấu quyết liệt. Sau ba ngày, bộ đội tại các lực lượng đã hy sinh gần hết. Những người còn lại rút vào cố thủ trong pháo đài và bắn qua lỗ châu mai. Pháo đài có 3 cửa, một cửa đã bị lấp từ trước, 2 cửa còn lại bị lính Trung Quốc chiếm giữ. Đến ngày thứ 4, lính Trung Quốc thả bộc phá và khí ngạt vào hang khiến toàn bộ gần 400 người cả dân và quân thiệt mạng. Ông và một đồng đội khác lợi dụng đêm tối đã lên khỏi hang rút đi, trở thành 2 nhân chứng cuối cùng cho câu chuyện bi tráng ở pháo đài Đồng Đăng.”
“Pháo đài Đồng Đăng vẫn ở đó, trở thành chứng tích của một sự kiện lịch sử, là nấm mồ chung của gần 400 người Việt Nam.”
(Tuần Việt Nam, ngày 10/02/2018)
Nhìn chung, nhiều biến cố đau thương của Tỉnh Lạng Sơn trong cuộc chiến tranh biên giới 1979 đã bị sách sử mới của Việt Nam cố tình bỏ quên.
Chẳng hạn như chi tiết này của Phóng viên Trường Sơn
:”Theo công bố chính thức, Lạng Sơn đã loại khỏi vòng chiến 19.000 quân Trung Quốc, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn và 4 tiểu đoàn địch, phá hủy 76 xe tăng, thiết giáp, 52 xe quân sự. Để lập nên chiến công này, quân dân Lạng Sơn cũng đã phải chịu hy sinh to lớn: Sư đoàn 3 hy sinh và bị thương gần 1.500 cán bộ chiến sĩ; Sư đoàn 337 hy sinh 650 cán bộ chiến sĩ, Sư đoàn 338 hy sinh 260 cán bộ chiến sĩ, Trung đoàn 197 hy sinh và bị thương 168 cán bộ chiến sĩ…” (Infonet, ngay 17/02/2018)
Vậy thương vọng đôi bên ở mặt trận Vị Xuyên (Hà Tuyên) ngày ấy ra sao ?
Phóng viên Hòang Thùy của Việtnam Express cho biết trong bài viết ngày 25/07/2014:”Mặt trận Vị Xuyên - Thanh Thuỷ được xác định là vùng chiến sự ác liệt nhất trong cuộc chiến tranh chống lấn chiếm biên giới phía Bắc 1984-1989. Trong vòng 4 tháng (4/1984 - 8/1984), Việt Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 7.500 quân Trung Quốc….”
Thương vong của phiá quân đội Việt Nam thì nhiều tài liệu nói là có khỏang 4,000 người đã hy sinh, một nửa trong số này vẫn còn nằm ở chiến trường.
Với những tang thương ngất trời như thế mà ở Việt Nam vẫn có những kẻ làm tay sai cho Tầu phương bắc để rước voi về dày mồ như đã thấy ở Dự án Bauxite Tây Nguyên và Formosa Hà Tĩnh.
Cách ứng xử này làm gì có “đạo đức” và “văn minh” như ông Hồ tuyên truyền cách nay 58 năm vì nó không phải là của những con người có truyền thống và văn hoá Việt Nam.
Càng đáng khinh hơn khi có những lãnh đạo đã đang tâm đánh đổi xương máu chiến sỹ và đồng bào trong chiền tranh biên giới để được yên thân với giặc Phương Bắc mà không biết hèn và nhục là gì. -/-
Phạm Trần
(02/018)