Tin Việt Nam
Tổ chức Ân xá Quốc tế kêu gọi các công ty công nghệ đừng trở thành tay sai cho nhà cầm quyền Việt Nam
- Viết bởi Đặng Tự Do
Phản ứng trước tin tức theo đó Quốc hội Việt Nam đã bỏ phiếu thông qua một luật đàn áp người dân gọi là “an ninh mạng” trong đó trao nhà cầm quyền những quyền vô hạn để hạn chế tự do phát biểu trực tuyến, Clare Algar, Giám đốc điều hành toàn cầu của Tổ chức Ân xá Quốc tế tuyên bố như sau:
“Quyết định này có những hệ quả hủy diệt tự do ngôn luận ở Việt Nam. Trong bầu khí đàn áp sâu rộng tại đất nước này, không gian trực tuyến là một chỗ nương náu tương đối, nơi mọi người có thể chia sẻ những ý kiến và các quan điểm của mình mà phần nào ít sợ sự tấn công của nhà cầm quyền.”
“Với một quyền lực quá rộng lớn, nó cho phép nhà cầm quyền theo dõi các hoạt động trực tuyến, cuộc bỏ phiếu này có nghĩa là hiện nay không còn nơi nào có thể coi là an toàn ở Việt Nam để mọi người có thể bàn thảo tự do.”
“Luật này sẽ có những tác dụng nghiêm trọng nếu các công ty công nghệ hợp tác với những yêu cầu của nhà cầm quyền Việt Nam và bàn giao cho họ những dữ liệu cá nhân. Chúng tôi trịnh trọng tuyên bố rằng các công ty công nghệ không được dự phần vào các vụ lạm dụng nhân quyền. Ngược lại, chúng tôi kêu gọi họ sử dụng những quyền lực đáng kể có trong tay để đối phó với chính phủ Việt Nam về thứ luật lệ lạc hậu này.”
Bối cảnh
Luật an ninh mạng mới của Việt Nam mang lại những quyền hạn vô biên cho nhà cầm quyền Việt Nam, cho phép họ ép buộc các công ty công nghệ bàn giao một lượng lớn dữ liệu, bao gồm các thông tin cá nhân và kiểm duyệt các bài viết của người dùng.
Tổ chức Ân xá Quốc tế đã viết thư cho các giám đốc điều hành của Apple, Facebook, Google, Microsoft và chủ tịch Samsung bày tỏ những lo ngại của mình về luật này và thúc giục các công ty gây áp lực lên nhà cầm quyền Việt Nam.
Source: Amnesty International - Viet Nam: New Cybersecurity law a devastating blow for freedom of expression
Liên Hiệp Truyền Thông CGVN phản đối Dự luật Đặc Khu và An Ninh Mạng tại Việt Nam
- Viết bởi Liên Hiệp Truyền Thông CGVN
Thông Cáo Báo Chí của Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo Việt Nam
Phản Đối Dự Luật Đặc Khu và An Ninh Mạng tại Việt Nam.
Sydney, ngày 11 tháng 6 năm 2018.
Trước cộng đồng quốc tế, Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo Việt Nam, cùng với Dân Tộc Việt Nam phản đối và mạnh mẽ lên án Dự Luật Đặc Khu và An Ninh Mạng của Nhà Cầm Quyền Cộng Sản Việt Nam áp đặt lên Dân Tộc và Quê Hương Việt Nam, để nối giáo cho Trung Cộng dễ dàng thôn tính Quê Hương Việt Nam.
Trước âm mưu và hiểm hoạ chính thức hoá biến Vân Đồn, Bắc Vân Phong, và Phú Quốc, 3 vị trí chiến lược của Quê Hương Việt Nam, để biến thành căn cứ của Trung Cộng, tiến dần đến việc Hán hoá toàn cõi Việt Nam theo tiến trình của Mật Ứớc Thành Đô. Cùng với đồng bào Việt Nam Quốc Nội và Hải Ngoại, cùng với hào khí của Dân Tộc Việt Nam qua các cuộc biểu tình rầm rội tại Hà Nội, Bình Thuận, Đà Nẵng, Nghệ An, Nha Trang, Mỹ Tho, Đồng Nai, và nhất là tại Sàigòn thân yêu, cũng như tại Hải Ngoại, hàng ngàn vạn người dân Việt Nam đã đồng lòng đứng lên tranh đấu ngăn chận Đạo Luật Đặc Khu và An Ninh Mạng, để cùng nhau bảo vệ sự tồn vong của Quê Hương và Dân TộcViệt Nam.
Những thông điệp của Dân Tộc Việt Nam trong ngày Chúa Nhật 10 tháng 6 năm 2018: "Thông qua luật đặc khu là có tội muôn đời", "Luật thông tin mạng là bịt miệng dân", "Phản đối đặc khu", "Đả đảo luật an ninh mạng", "Đả đảo Tàu cộng xâm lược", "Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp của Việt Nam", "Cho Trung Quốc thuê nước là bán nước", "Luật đặc khu thi hành mục đích là để bán đất cho Trung Quốc" và rất nhiều những thông điệp khác của người dân Việt Nam...Những thông điệp này nói lên trái tim Dân Tộc Việt Nam yêu Quê Hương và Đất Nước Việt Nam, để bảo vệ đến cùng Quê Hương Việt Nam do Cha Ông chúng ta với trên 4000 năm đã xây dựng và bảo vệ giang sơn.
Liên Hiệp Truyền thông Công Giáo Việt Nam hoàn toàn ủng hộ cuộc đấu tranh ôn hòa và hợp lẽ phải của đồng bào Việt Nam Quốc Nội và Hải Ngoại, cùng với hào khí của Dân Tộc Việt Nam tại Hà Nội, Bình Thuận, Đà Nẵng, Nghệ An, Nha Trang, Mỹ Tho, Đồng Nai, và nhất là tại Sàigòn thân yêu, cũng như tại Hải Ngoại, hàng ngàn vạn người dân Việt Nam, cùng với cả Dân Tộc Việt Nam.
Liên Hiệp Truyền thông Công Giáo Việt Nam yêu cầu chính quyền cộng sản Việt Nam phải thực hiện những điều sau:
1) Ngừng ngay Dự Luật Đặc Khu và An Ninh Mạng của Nhà Cầm Quyền Cộng Sản Việt Nam.
2) Tôn trọng nhân quyền và tự do tôn giáo theo Hiến chương Liên hợp quốc.
3) Nhất là hãy trả lại cho Dân Tộc Việt Nam quyền tự quyết và làm chủ Quê Hương Việt Nam.
Với lòng tín thác hoàn toàn nơi Thiên Chúa, chúng tôi hiệp thông, chia sẻ và đồng hành cùng toàn thể Quê Hương và Dân TộcViệt Nam trong hoàn cảnh nhiễu nhương này.
Chúng tôi kêu gọi tất cả các Quốc hội, chính phủ, các đảng chính trị của tất cả các quốc gia, các tổ chức Nhân quyền, Tổ chức Ân xá quốc tế, Uỷ ban Quốc tế về Nhân quyền, và mọi tổ chức quan tâm đặc biệt đến Độc Lập, Tự do, và Nhân quyền ở Việt Nam, xin hãy cùng chúng tôi đồng hành trong cuộc tranh đấu cho Độc Lập, Tự Do, Nhân quyền và Tự do Tôn giáo tại Việt Nam.
Liên Hiệp Truyền thông Công Giáo Việt Nam
Lm. John Trần Công Nghi, Giám đốc Thông tấn xã VietCatholic
Lm. Anthony Nguyễn Hữu Quảng, Chủ Nhiệm dân Chúa Úc Châu,
Lm. Stêphanô Bùi Thượng Lưu, Chủ Nhiệm dân Chúa Âu Châu
Lm. Paul Van Chi Chu, Phó Giám đốc Thông tấn xã VietCatholic
Đặc Khu Kinh Tế Hay Mồ Chôn Tập Thể ?
- Viết bởi Phạm Trần
-Thủ tướng VN bất ngờ quyết định:” Rút số năm cho thuê đất, và không còn giữ mức 99 năm như dự thảo ban đầu.”
-Nguyên Đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh:” Những người đồng ý thì đều là những kẻ bán nước.”
Trước những phản ứng gay gắt của dư luận, Thủ tướng CSVN Nguyễn Xuân Phúc đã bất ngờ xuống giọng tuyên bố “sẽ rút thời gian cho thuê đất đặc khu kinh tế, không giữ nguyên mức cố định 99 năm”.
Tiếp xúc với báo chí tại hành lang Quốc hội sáng ngày 07/06 (2018), ông Phúc nói:” Chính phủ sẽ báo cáo Quốc hội việc điều chỉnh dự thảo luật về việc rút số năm cho thuê đất, và không còn giữ mức 99 năm như dự thảo ban đầu trong dự án Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc (Luật đặc khu).” (theo Zing.VN, ngày 07/06/2018)
Tuy nhiên ông Phúc không cho biết sẽ rút số năm xuống còn bao nhiêu, và liệu đề nghị thay đổi có được Quốc hội và dư luận đồng tình ủng hộ hay không.
Tuy nhiên ông Phúc cũng lưu ý:”Tôi cũng xin nói rằng đây là đất thuê. Đất thuê đó thực hiện theo quy trình nào, hàng năm UBND trình HĐND giá thuê đất, chứ không phải giao vĩnh viễn nhượng tô, nhượng địa như Hong Kong, Ma Cao. Đó là 2 việc hoàn toàn khác nhau. Rất tiếc nhiều người hiểu sai vấn đề này.”
Ông Phúc nói thế, nhưng Dự luật không có chỗ nào viết rằng “hàng năm UBND trình HĐND giá thuê đất” để thay đổi giá thuê đất. Và nếu nhà đầu tư không đồng ý trả giá mới thì lấy đất lại.
Do đó, không có chuyện “nhiều người hiểu sai vấn đề này” với suy luận nhà nước đã có ý “nhượng tô, nhượng địa như Hong Kong, Ma Cao” . Chỉ có nhà nước không minh bạch khi viết ra những điều ấm ớ, nửa kín nửa hở trong Dự luật mà thôi.
Hơn nữa, trong hàng ngàn phản ứng bất bình với thời gian cho thuê đất 99 năm, không ai gán cho Chính phủ và Quốc hội đã âm mưu nhượng đất tổ tiên cho ngoại bang.
Dư luận chỉ lo ngại nếu để cho người nước ngoài giữ đất quá lâu như thế, có ai dám bảo đảm đất này vẫn còn của Việt Nam hay sẽ thành thuộc địa của nước khác qua các mưu mô thâm độc không lường trước được của kẻ thuê đất.
Hãy đọc nguyên văn Điều 32 của Dự luật viết về “Quyền và nghĩa vụ về sử dụng đất tại đặc khu”:
“Căn cứ vào quy mô, tính chất của dự án đầu tư và đề xuất của nhà đầu tư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân đặc khu quyết định thời hạn sử dụng đất để sản xuất, kinh doanh tại đặc khu không quá 70 năm; trường hợp đặc biệt, thời hạn sử dụng đất có thể dài hơn nhưng không quá 99 năm do Thủ tướng Chính phủ quyết định.”
Viết thế nhưng Dự luật lại không nói rõ “trường hợp đặc biệt” là thế nào.
Cũng trong lời tuyên bố không còn giữ thời hạn cho thuê đất 99 năm, ông Thủ tướng Phúc còn vẽ ra ý tưởng đề phòng thông minh của nhà nước.
Ông nói:” Tại đặc khu cũng có cơ cấu nhà đầu tư phù hợp, của từng quốc gia theo một tỷ lệ cần thiết, chứ không phải chỉ một nước. Điều đó đảm bảo an ninh kinh tế, an ninh quốc gia đi liền với nhau trong xây dựng đặc khu. Người dân không nên lo lắng một nước, một quốc gia nào đó độc quyền đầu tư vào…Chúng ta phải tạo một thể chế môi trường cạnh tranh tốt với quốc tế, thuận lợi nhưng phải đảm bảo quyền lợi quốc gia, dân tộc.”
Ông Phúc nói thế thì biết vậy chứ trong toàn bộ Dự luật Đặc khu, chả thấy có chỗ nào nói rõ như thế ! Ai không tin cứ tìm mà đọc.
Đáng chú ý là biến cố Chính phủ bỏ đề xướng cho thuê đất 99 năm chỉ xẩy ra 8 ngày trước khi Quốc hội họp kỳ 5 của Khóa XIV bỏ phiếu Dự luật 3 Đặc khu trong phiên họp bế mạc ngày 15/06/2018.
Như vậy, sau lần hoãn từ kỳ họp 4, Quốc hội đảng cử dân bầu của đảng CSVN đã chọn ngày họp cuối để bỏ phiếu “Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn (tỉnh Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (tỉnh Khánh Hòa) và Phú Quốc (tỉnh Kiên Giang)”, hay còn gọi ngắn gọn là Luật Đặc khu, theo yêu cầu của Bộ Chính trị.
Mặc dù Hiến pháp quy định Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất nước nhưng thực tế là Bộ Chính trị muốn ngồi lên đầu Quốc hội lúc nào cũng được.
Bằng chứng là tại phiên thảo luận ngày 16/04/2018 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, khi thảo luận Luật Đặc khu, Bà Chủ tịch Nguyễn Thị Kim Ngân đã công khai hạ thấp danh dự của cơ quan đại diện dân để nói toạc ra rằng:” Bộ Chính trị đã kết luận rồi, dự thảo luật không trái Hiến pháp, phải bàn để ra luật chứ không không thể không ra luật.”
Bà Ngân, một Ủy viên Bộ Chính trị biết nói như thế là sai, vi phạm Hiến pháp nhưng vẫn phải nói vì Quốc hội chỉ là nơi diễn tuồng dân chủ phân quyền cho đảng duy nhất cầm quyền. Tư duy làm việc quen thuộc khi Bộ Chính trị đã ừ thì Quốc hội cũng phải gật cho tròn bổn phận bù nhìn, trong trường hợp này, đã rõ như ban ngày.
3 VỊ TRÍ CHIẾN LƯỢC
Về dự Luật Đặc khu, do Bộ Kế hoạch và Đầu tư soạn thảo có nội dung “quy định về quy hoạch, cơ chế, chính sách đặc biệt về phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương và cơ quan khác của Nhà nước tại các đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.”
Nhưng trong “đặc biệt” này còn có những thứ “đặc biệt” nào trái tai gai mắt mà nhiều Đại biểu Quốc hội và vô số kể nhân sỹ, trí thức, nhà khoa học và người Việt Nam trong và ngoài nước đã đồng loạt lên tiếng phê phán, đả kích và thậm chí còn cảnh giác cả về hiểm họa mất nước về tay người Tầu Bắc Kinh, nếu lãnh đạo chỉ biết ham lợi trước mắt ?
Sở dĩ những người quan tâm lo âu vì 3 Đặc khu đều là các vị trí chiến lược quốc phòng quan trọng hàng đầu nhìn ra Biển Đông của Việt Nam.
-Vân Đồn (Tỉnh Quảng Ninh) , cửa ngõ ra Vịnh Bắc Bộ, là chặng dừng chân đầu tiên của tầu bè Trung Hoa đi xuống Việt Nam, nhưng cũng là tuyến phòng ngự ở vùng biển Đông Bắc của Việt Nam từ thời các Vua chúa Việt. Hơn nữa Vân Đồn chỉ cách đảo Hải Nam, căn cứ Tầu ngầm của Trung Hoa, chừng 200 hải lý (mỗi hải lý dài 1,852 mét).
-Bắc Vân Phong (Tỉnh Khánh Hòa), nhìn thẳng ra Trường Sa, trực diện với các vị trí đóng quân của Trung Hoa trên các bãi đá, nay đã biến thành đảo mà Bắc Kinh chiếm của Việt Nam từ 1988 gồm Subi, Gaven, Chữ Thập, Gạc Ma và Châu Viên. Ngoài ra Bắc Vân Phong cũng chỉ cách vịnh chiến lược nổi tiếng Cam Ranh trên 60 cây số. Khánh Hòa cũng là nơi phát xuất các tầu Hải quân Việt Nam tiếp vận lương thực và luân chuyển quân lính ra vào 21 vị trí đóng quân của Việt Nam ở Trường Sa.
-Phú Quốc (Tỉnh Kiên Giang), nằm trong vịnh Thái Lan là vị trí phòng thủ chiến lược cực nam của Việt Nam. Từ Phú Quốc, tầu bè và máy bay có thể đi khắp Á Châu-Thái Bình Dương, sang Ấn Độ Dương để đi qua Trung Đông.
Khoảng cách giữa Phú Quốc và bờ biển Kampuchea chỉ chừng 26 cây số nên sự kiện Trung Hoa đã thuê dài hạn được hai cảng Sihanoukville và Bokor của “đàn em” Cao Miên để phô trương sức mạnh quân sự và kinh tế trong khu vực cũng là điều đáng quan tâm.
Vì các yếu tố quốc phòng quan trọng của 3 Đặc khu mà nhiều người Việt Nam đã cảnh báo Quốc hội và đảng CSVN phải đề phòng nguy cơ dùng kinh tế làm bàn đạp thôn tính Việt Nam của Trung Hoa, nếu vì lý do này hay lý do khác, các Công ty của người Tầu, kể cả từ Đài Loan hay Hồng Kông hoặc Ma Cao lại bỏ giá cao để trúng thầu độc quyền hay đầu tư ào ạt vào 3 Đặc khu để thực hiện ý đồ đen tối.
TỪ 99 NĂM ĐẾN LO GIỮ NƯỚC
Hơn nữa, vì thời hạn cho thuê đất dài đến 99 năm của Dự luật và những ưu đãi quá đáng dành cho người đầu tư nước ngoài mà nhiều giới đã khó chịu phản đối và lo lắng cho các thế hệ người Việt tương lai phải gánh hậu quả, nếu tính sai.
Trước những bức xúc này, Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã cố gắng giảm thiểu cường độ “phản ứng do lo ngại có yếu tố Trung Quốc” của nhiều người từ Việt Nam ra nước ngoài.
Ông Dũng nói với báo chí tại hành lang Quốc hội ngày 06/06/2018:” Trong dự thảo Luật không có một chữ nào về Trung Quốc… Chỉ có những người cố tình hiểu theo hướng đó và đẩy vấn đề lên, chia rẽ quan hệ ta với Trung Quốc. Còn Luật quy định bình đẳng trong một môi trường chung, với tất cả thành phần kinh tế và với tất cả các nước. Môi trường hội nhập quốc tế ta đang mở nên bình đẳng hết, không hạn chế người này người khác.
Mọi người đang hình dung tiêu cực. Mọi người đang đẩy thành vấn đề sợ Trung Quốc, nhưng ta bình đẳng không phân biệt, không một ai có thể vào đây làm việc gì khi đất nước ta đang có chủ quyền, ta phải bình tĩnh, xem xét và lắng nghe.”
Phản ứng nhanh và mạnh về chuyện cho thuê đất đến 99 năm, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Trung Hoa, nguyên Thiếu Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh viết:” Cá nhân tôi hoàn toàn không đồng ý với việc thành lập 3 đặc khu và cho thuê đất 99 năm với 3 nhận định như sau :
- Vị trí của 3 đặc khu vô cùng quan trọng , với 3 vị trí rải đều trên phần lãnh thổ VN cả mặt Đông Bắc , mặt Đông và mặt Tây Nam như vậy thì quốc gia nào thuê 99 năm đều có thể khống chế được toàn bộ vùng đất , vùng trời , vùng biển của VN .Đặc biệt là Vân Đồn .
- Trước khi đưa ra kế hoạch này thì người hoạch định nó đã có tính toán kĩ càng về giá trị kinh tế , quốc phòng ,...chưa ? Có công khai cho toàn dân biết và đã lấy ý kiến của dân chưa ? Nếu chưa thì đó là việc làm khuất tất .
- 99 năm nữa thì những người quyết định cho thuê đất 99 năm đã chết từ lâu rồi , vậy ai là người chịu trách nhiệm nếu 3 đặc khu đó làm ăn không hiệu quả hoặc cả 3 đặc khu đó vĩnh viễn rơi vào tay nước khác .
- Không biết ai đưa ra ý tưởng như vậy , kể cả những người đồng ý thì đều là những kẻ bán nước.”
Tiến sỹ, nhà Khoa học, Nhà văn bất đồng chính kiến với đảng CSVN, Hà Sĩ Phu (Nguyễn Xuân Tụ) truyên bố:”Nếu Quốc hội thông qua chủ trương “cho người nước ngoài thuê đất làm đặc khu dài hạn” (chắc chắn sẽ được Tàu Cộng lợi dụng) thì tôi xin phép kết luận một cách khẩn thiết như sau:
Hiện nay không biết đặt mối lo Bắc thuộc lên hàng đầu thì hoàn toàn không xứng đáng là một người Việt Nam! Nếu đa số đại biểu Quốc hội mà đồng tình với chủ trương tai hại như vậy thì cũng có nghĩa tuyệt đại đa số trong Quốc hội VIỆT NAM CS bây giờ lại ‘không phải, không đáng là người VIỆT NAM’!? Vậy thực chất nó là một Quốc hội của người nước nào vậy?! Ôi, nghĩ thế mà đau lòng! (Hữu ý hay vô tình đã biến “của dân-do dân và vì dân” thành “của Tàu-do Tàu và vì Tàu"?).
Trong khi đó tại diễn đàn Quốc hội, Đại biểu Dương Trung Quốc (tỉnh Đồng Nai) băn khoăn tại sao không quan tâm đến phát triển công nghệ tại các đặc khu mà lại chú ý nhiều đến chuyện bất động sản. Ông nói:”Những nhà đầu tư vào công nghệ, nhất là công nghệ cao, người ta đâu cần đến 70-99 năm?...Điều kiện kéo dài thời gian thuê đất thì các nhà đầu tư chân chính không cần. Họ cần môi trường đầu tư tốt, chính sách thuế, hạ tầng, các quan hệ xã hội, giao dịch sòng phẳng, minh bạch hơn là việc được ở lâu".
Theo báo chí Việt Nam thì ông Dương Trung Quốc còn “cảnh báo về những rủi ro tiềm ẩn về mặt an ninh, quốc phòng, trật tự xã hội nếu thời hạn cho thuê đất quá dài... phải hết sức thận trọng bởi nếu không đặc khu có thể sẽ trở thành nơi di dân.”
Đại biểu Trương Trọng Nghĩa (đoàn TP HCM) đồng ý rằng :” 99 năm là một thế kỷ, mấy thế hệ sinh ra và lớn lên, do đó, có thể để cho con cháu sau này quyết định số phận của những dự án ở đặc khu, không nhất thiết quyết thay cho họ.”
Vì cuộc tranh luận khá gay go nên Đại biểu Dương Trung Quốc đề nghị nên biểu quyết riêng về thời hạn 99 năm để sem ai đồng ý, ai không tán thành cho rõ trắng đen với lịch sử.
TIẾNG NÓI CHUYÊN GIA
Cũng lên tiếng về thời gian 99 năm, chuyên gia kinh tế, bà Phạm Chi Lan nói:"Cho thuê đất tối đa 99 chỉ có lợi cho đại gia bất động sản".
Lên tiếng tại cuộc Hội thảo ngày 01/06/2018 về "Chính sách ưu đãi thuế tại các đặc khu: kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị". Bà Phạm Chi Lan cho rằng:”Với thời buổi công nghệ thay đổi nhanh chóng, trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghệ 4.0, vòng đời của một sản phẩm rất nhanh. "Không nhà đầu tư nào đảm bảo sẽ làm ngành đó, nghề đó và lĩnh vực đó trong thời hạn 90 năm, kể cả 70. Đây là 3 - 4 vòng đời sản phẩm, gần hai thế hệ người Việt" (theo Tạp chí điện tử Người Đồng Hành, NĐH).
Tạp chí NĐH viết tiếp:” Theo bà Lan, trong bối cảnh công nghệ liên tục thay đổi, vòng đời và tuổi thọ của các ngành còn chưa rõ, việc Việt Nam mở ra ưu đãi lớn và thời gian thuê đất dài là thừa thãi. Bà Lan đặt vấn đề với thời hạn thuê đất đến 99 năm, khi doanh nghiệp phá sản hoặc chuyển mục đích sử dụng, cơ quan quản lý sẽ xử lý như thế nào?”
Bà nói thẳng:”Thời hạn cho thuê đất ở các đặc khu tối đa 99 năm là một chính sách rất tệ, không nên áp dụng".
Bà cho rằng:” Cơ quan soạn thảo lấy ưu đãi thuế để làm tiền đề thu hút nhà đầu tư và lấy thời hạn cho thuê đất tối đa 99 năm làm cơ sở để các doanh nghiệp lớn có thể "yên tâm" làm ăn là một quan điểm lỗi thời trong thời đại cách mạng công nghiệp này.”
Phóng viên Nam Anh của Tạp chí NĐH viết tiếp:”Đồng tình, chuyên gia kinh tế Lưu Bích Hồ dẫn báo cáo của Ngân hàng Thế giới cho biết 85% các nhà đầu tư ở Việt Nam khi được hỏi khẳng định các chính sách ưu đãi thuế là không cần thiết. Các nhà đầu tư quan tâm hơn đến cơ sở hạ tầng, chất lượng nguồn nhân lực và ổn định xã hội. Theo ông Hồ, nhà đầu tư không cần ưu đãi dễ dãi, họ quan tâm đến công bằng, thuận lợi hơn.”
PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh – Học viện Tài chính cũng cho rằng các chính sách ưu đãi được đề xuất trong dự thảo Luật đều là những ưu đãi dựa trên lợi nhuận mà nhiều quốc gia không còn sử dụng nữa.
Theo ông, dự thảo Luật Đặc khu cần được xem xét lại cẩn trọng, hầu hết các quốc gia trên thế giới đã bỏ các ưu đãi như thuế thu nhập doanh nghiêp, thuế tiêu thụ đặc biêt. Thay vào đó, các nước chuyển sang ưu đãi bằng sự thông thoáng trong tiếp cận vốn, tiếp cận thị trường.”
ƯU ĐÃI NHIÊU QÚA
Ngoài chuyện cho thuê đất quá lâu, dư luận Quốc hội và trong dân còn quan tâm đến những chuyện ưu đãi qúa đáng mà Dự luật dành người nước ngoài, gồm những điểm đáng chú ý như sau:
- Tranh chấp giữa các nhà đầu tư liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh tại đặc khu, trong đó có ít nhất một bên là nhà đầu tư nước ngoài còn có thể được giải quyết tại Tòa án nước ngoài, trừ tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết riêng biệt của Tòa án Việt Nam theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
Về nhà ở:
Điều 33 viết về quyền sở hữu nhà ở của tổ chức, cá nhân nước ngoài tại đặc khu:
1.Đối tượng, điều kiện tổ chức, cá nhân nước ngoài được sở hữu nhà ở tại đặc khu được thực hiện theo quy định của pháp luật về nhà ở.
2. Tổ chức, cá nhân nước ngoài thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở tại Việt Nam theo pháp luật về nhà ở có quyền:
a) Sở hữu nhà ở thông qua đầu tư xây dựng nhà ở theo dự án tại đặc khu theo Luật này và pháp luật có liên quan;
b)Sở hữu nhà ở thương mại, bao gồm căn hộ chung cư và nhà ở riêng lẻ trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở tại đặc khu, trừ khu vực bảo đảm quốc phòng, an ninh theo quy hoạch đặc khu, thông qua các hình thức mua, thuê mua, nhận tặng cho, nhận thừa kế từ chủ đầu tư dự án xây dựng nhà ở, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân.
3. Quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà ở là tổ chức, cá nhân nước ngoài thực hiện theo quy định của pháp luật về nhà ở và quy định của Luật này.
Điều 34. Quyền sở hữu căn hộ khách sạn, biệt thự nghỉ dưỡng, văn phòng làm việc kết hợp lưu trú.
1. Tổ chức, cá nhân nước ngoài thuộc đối tượng và đủ điều kiện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam theo pháp luật về nhà ở thì được sở hữu căn hộ khách sạn (condotel), biệt thự nghỉ dưỡng (resort villa), văn phòng làm việc kết hợp lưu trú (officetel) và các loại hình tương tự khác thông qua các hình thức mua, thuê mua, nhận tặng cho, nhận thừa kế từ chủ đầu tư dự án hoặc tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sở hữu bất động sản trong dự án đầu tư xây dựng bất động sản tại đặc khu, trừ khu vực bảo đảm quốc phòng, an ninh theo quy hoạch đặc khu.
2. Quyền, nghĩa vụ về đất đai của nhà đầu tư và của người sở hữu căn hộ khách sạn, biệt thự nghỉ dưỡng, văn phòng làm việc kết hợp lưu trú và các loại hình tương tự khác được xác định tương ứng với hình thức giao đất, cho thuê đất của dự án đầu tư xây dựng bất động sản theo quy định của pháp luật về đất đai.
3. Chính phủ quy định quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân nước ngoài sở hữu bất động sản quy định tại Điều này.
MIỄN-GIẢM THUẾ
Về thuế thu nhập cá nhân, Dự luật cũng có lắm ưu đãi như sau:
Điều 40. Ưu đãi thuế thu nhập cá nhân
1. Miễn thuế thu nhập cá nhân trong thời gian 05 năm nhưng không quá năm 2030 và giảm 50% số thuế thu nhập cá nhân phải nộp trong các năm tiếp theo đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công và thu nhập từ kinh doanh phát sinh từ đặc khu của cá nhân làm việc tại đặc khu.
2. Miễn thuế thu nhập cá nhân trong thời gian 10 năm nhưng không quá năm 2030 và giảm 50% số thuế thu nhập cá nhân phải nộp trong các năm tiếp theo đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công và thu nhập từ kinh doanh phát sinh từ đặc khu của nhà quản lý, nhà khoa học, chuyên gia có trình độ chuyên môn cao làm việc tại đặc khu.
Dự luật cũng dành nhiều ưu đãi cho “thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng” và “thuế tiêu thụ.”
Ngoài ra, Dự luật còn miễn nhiều thứ cho người nước ngoài như viết trong Điều 45 về “Miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước” , như sau:
1. Miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước tối đa cho cả thời hạn thuê đối với các dự án đầu tư tại đặc khu mà theo quy định của pháp luật về đất đai hiện hành đang được miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước cho cả thời hạn thuê và các dự án sau đây:
a) Dự án đầu tư khu hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo, trung tâm nghiên cứu và phát triển tại đặc khu;
b) Dự ánđầu tư tại đặc khu Phú Quốc thuộc lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế đáp ứng điều kiện quy định tại Phụ lục 3 của Luật này.
2. Miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước tối đa không quá 30 năm đối với dự án đầu tư tại đặc khu thuộc Danh mục dự án cần thu hút đầu tư theo hình thức xã hội hóa thuộc lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao và môi trường, trừ dự án đầu tư quy định tại điểm b khoản 1 Điều này.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân đặc khu ban hành Danh mục dự án cần thu hút đầu tư theo hình thức xã hội hóa thuộc lĩnh vực giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao và môi trường phù hợp với quy hoạch đặc khu.
3. Miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước tối đa 30 năm nhưng không quá một nửa thời hạn sử dụng đất đối với dự án đầu tư sau đây tại các đặc khu Vân Đồn, Bắc Vân Phong:
a)Dự án đầu tư thuộc ngành, nghề ưu tiên phát triển quy định tại Phụ lục 1, Phụ lục 2 của Luật này;
b)Dự ánđầu tư quy định tại điểm b và điểm d khoản 5 Điều 3 của Luật này.
4. Miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước tối đa 19 năm nhưng không quá một nửa thời hạn sử dụng đất đối với dự án đầu tư sau đây tại đặc khu Phú Quốc:
a)Dự án đầu tư thuộc ngành, nghề ưu tiên phát triển quy định tại Phụ lục 3 của Luật này, trừ dự án đầu tư khu du lịch sinh thái, khu nghỉ dưỡng cao cấp từ 4 sao trở lên, khách sạn từ 5 sao trở lên và dự án đầu tư quy định tại điểm b khoản 1 Điều này;
b)Dự ánđầu tư quy định tại điểm b và điểm d khoản 5 Điều 3 của Luật này.
5. Miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước tối đa 15 năm nhưng không quá một nửa thời hạn sử dụng đất đối vớidự ánđầu tư khác ngoài dự án đầu tư quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này.
6. Miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước trong thời gian xây dựng cơ bản theo dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt nhưng tối đa không quá 36 tháng kể từ ngày có quyết định cho thuê đất, thuê mặt nước.
7. Chủ tịch Ủy ban nhân dân đặc khu quy định tiêu chí xác định thời hạn miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước quy định tại Điều này theo từng khu vực, lĩnh vực phù hợp với quy hoạch đặc khu;quyết định thời hạn miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước đối với từng trường hợp cụ thể.
KHÔNG CẦN ĐĂNG KÝ ?
Ngoài những thứ miễn hay ưu đãi, Dự luật còn cho phép:
-Người lao động nước ngoài là chuyên gia, nhà quản lý, giám đốc điều hành có thời gian làm việc dưới 60 ngày và thời gian cộng dồn không quá 180 ngày/năm tại đặc khu không thuộc diện cấp giấy phép lao động.
Người lao động nước ngoài là lao động kỹ thuật có thời gian làm việc dưới 30 ngày và thời gian cộng dồn không quá 90 ngày/năm tại đặc khu không thuộc diện cấp giấy phép lao động.
Người sử dụng lao động có trách nhiệm thông báo cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân đặc khu việc sử dụng lao động nước ngoài quy định tại khoản này; không phải thực hiện xác định nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài, không phải làm thủ tục xác nhận người lao động nước ngoài không thuộc diện cấp giấy phép lao động
Riêng trong lĩnh vực “nhập cảnh, đi lại và cư trú”, Điều 51 viết:”
1. Người nước ngoài nhập cảnh với mục đích vào đặc khu được miễn thị thực với thời gian tạm trú tại đặc khu không quá 60 ngày nếu hộ chiếu còn thời hạn sử dụng ít nhất 90 ngày; trường hợp có nhu cầu đến các địa phương khác ngoài đặc khu thì phải được cơ quan quản lý xuất nhập cảnh đặc khu hoặc đơn vị kiểm soát xuất nhập cảnh cấp thị thực theo quy định của Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam.
2. Người nước ngoài nhập cảnh đặc khuđược tạm trú không quá 60 ngày tại đặc khu trong các trường hợp sau đây:
a) Thuộc diện miễn thị thực theo điều ước quốc tế mà thời hạn tạm trú dưới 60 ngày;
b) Sử dụng thị thực, thẻ tạm trú, giấy miễn thị thực, thẻ doanh nhân APEC còn thời hạn dưới 60 ngày.
3. Người nước ngoài nhập cảnh với mục đích vào đặc khu thuộc diện phải có thị thực nhưng không thuộc Danh sách các nước có công dân được thí điểm cấp thị thực điện tử có thể được cấp thị thực điện tử theo quy định của Chính phủ.
VÀO TỰ DO-CHƠI BÀI THẢ GIÀN
Riêng tại Đặc khu Vân Đồn, dự luật còn cho phép người Trung Hoa vào Vân Đồn tự do như quy định tại Điều 54:”Công dân của nước láng giềng có chung đường biên giới với Việt Nam tại tỉnh Quảng Ninh sử dụng giấy thông hành hợp lệ nhập cảnh vào đặc khu Vân Đồn với mục đích du lịch được miễn thị thực với thời hạn xác định; trường hợp có nhu cầu đến các địa điểm khác của tỉnh Quảng Ninh để du lịch thì làm thủ tục thông qua doanh nghiệp lữ hành quốc tế của Việt Nam.
Chính phủ quy định chi tiết khoản này.
Tại Đặc khu Phú Quốc, Điều 56 duy định cơ chế, chính sách đặc biệt khác như sau:
1. Nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân có dự án đầu tư từ 110 tỷ đồng trở lên tại đặc khu Phú Quốc được cấp thẻ tạm trú đến 10 năm, nếu có chỗ ở hợp pháp thì được cấp thẻ thường trú theo quy định của Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam.
2. Người nước ngoài hành nghề khám bệnh, chữa bệnh tại đặc khu Phú Quốc được cấp thị thực có giá trị nhiều lần với thời hạn 12 tháng; trường hợp có giấy phép lao động thì thời hạn thị thực phù hợp thời hạn của giấy phép lao động.
Người nước ngoài đang khám bệnh, chữa bệnh tại đặc khu Phú Quốc, nếu có nhu cầu ở lại đặc khu quá 60 ngày thì được gia hạn tạm trú trên cơ sở đề nghị của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam.
3. Công dân của nước láng giềng có chung đường biên giới với Việt Nam tại tỉnh Kiên Giang sử dụng giấy thông hành hợp lệ nhập cảnh vàođặc khu Phú Quốc với mục đích du lịch được miễn thị thực với thời hạn xác định.
4. Trong thời hạn 05 năm kể từ khi thành lập đặc khu, căn cứ vào khả năng cân đối ngân sách, Chủ tịch Ủy ban nhân dân đặc khu Phú Quốc quyết định việc hỗ trợ đối với:
a) Người thường trú tại đặc khu Phú Quốc học nghề trong lĩnh vực du lịch, người học nghề tại các cơ sở đào tạo trong lĩnh vực du lịchtại đặc khu Phú Quốc và cam kết làm việc tại đặc khu Phú Quốc;
b) Các chương trình quảng bá du lịch vào đặc khu Phú Quốc.
5. Nhà đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ quản lý tài sản tại đặc khu Phú Quốc được phép đề xuất các cơ chế, chính sách về bảo mật thông tin, quản lý tài sản và cơ chế, chính sách khác theo thông lệ quốc tế để Chủ tịch Ủy ban nhân dân đặc khu Phú Quốc báo cáo cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định cho phép áp dụng.
Việc áp dụng các cơ chế, chính sách quy định tại khoản này phải phù hợp với nguyên tắc quy định tại khoản 2 Điều 6 của Luật này.
6. Chính phủ quy định chi tiết khoản 3 và khoản 5 Điều này.
Cũng đáng chú ý là tại cả 3 Đặc khu, chỗ nào nhà nước CSVN cũng cho phép kinh doanh sòng đánh bạc (casino), xây dựng và kinh doanh khu dịch vụ, du lịch và vui chơi giải trí.
Luật cũng khuyến khích lập các khu nghỉ dưỡng cao cấp từ 04 sao trở lên và khách sạn từ 5 sao trở lên.
Càng ngạc nhiên hơn, khi có nhiều Đại biểu Quốc hội lo ngại về thời hạn cho thuê đất 99 năm hay than phiền Dự luật dành quá nhiều ưu đãi cho người nước ngoài tại 3 Đặc khu thì không thấy ai thắc mắc tại sao phải cho phép lập sòng bài (Saino), lập khu giải trí và xây nhà nghĩ dưỡng, khách sạn 4 hay 5 sao ?
Phản ứng về điểm này, chuyên gia Kinh tế Phạm Chi Lan cho rằng:” Thứ mà Việt Nam cần là công nghệ cao chứ không phải là các casino, do đó trong quy hoạch các đặc khu kinh tế cần phải hướng đến điều này.”
Bà nói:”Tôi cho rằng dù ưu đãi tương tự như nhau, nhưng casino không phù hợp để đi cùng với khu công nghệ cao, vì mấy lẽ.
Trước hết, đối tượng phục vụ của hai lĩnh vực hoàn toàn khác nhau.
Casino phục vụ vui chơi, giải trí, thậm chí kiếm tiền bằng đỏ đen. Khách hàng của casino đa dạng, phần lớn là nhàn rỗi, thích vui vẻ, náo nhiệt, ưa thử vận mạng bằng may rủi, ít nhất là trong thời gian họ vào chơi ở đó.
Công nghệ cao là việc của những người làm trong kinh tế trí thức, có trình độ, kỹ năng cao, đam mê nghiên cứu, thử nghiệm những cái mới trong các lĩnh vực khác nhau. Khách hàng của công nghệ cao quan tâm đến phát triển, trí tuệ, chất lượng công việc và cuộc sống, những giá trị tốt đẹp và cao hơn cho con người. Phần lớn thời gian người ta làm việc trong yên tĩnh, tập trung suy nghĩ, nghiên cứu, tranh luận chuyên môn; tất nhiên cũng có những lúc nghỉ ngơi vui chơi nhưng không như khách casino.
Hai loại khách hàng như vậy rất khó có thể sống và làm việc cùng chỗ với nhau 24/24 được.”
Hai là, không gian và môi trường hoạt động của hai lĩnh vực này rất khác nhau.
Casino có nhu cầu đặt ở nơi có rất nhiều các dịch vụ vui chơi giải trí khác đi cùng với nó, tạo không gian cho các dịch vụ này cùng nhau làm ăn và moi tiền của những khách hàng muốn được thỏa mãn nhiều thứ thú vui. Cũng có những nguy cơ về tệ nạn, tội phạm, rủi ro cho người làm và người chơi, nên các nước thường đặt casino trong khu vực riêng, có hàng rào bảo vệ tách với “người thường” không tham gia vào đó.”
Như vậy thì Tác giả dự luật, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, có kế hoạch gì không hay cứ mơ sẽ có nhiều Đại gia hay Từ bản đỏ đem tiến đổ vào 3 sòng bài là kinh tế sẽ phất lên như diều ?
Thế còn hậu quả xã hội, văn hóa và thuần phong mỹ tục gây ra từ các Casino và nơi giải trí “đèn xanh đèn đỏ” ở 3 Đặc khu thì ai chịu trách nhiệm ?
Ngoài ra, nhà nước CSVN cũng cần phải tìm cách mà chui vào phía sau cánh cửa của các khu phố, làng Tầu, hay bên trong hàng rào của các Dự án kinh tế do Trung Hoa đầu tư như Bauxite Tây Nguyên và Formosa Hà Tĩnh xem họ đang ăn ở và sống ra sao mà khiến nhiều gia đình Việt Nam tan nát như vợ bỏ chồng đi lấy công nhân Tầu hay con phải bỏ trường đi lao động chui bên Lào không thì cả nhà chết đói.
Và chẳng nhẽ những bài học nhập cư bất hợp pháp, công nhân không hợp lệ, ồ ạt và công khai cướp việc của người Việt Nam vì có Chủ đầu tư cùng quê cha Trung Quốc bảo kê đã xẩy ra ở Việt Nam từ lâu mà Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội có biện pháp nào đâu ?
Song song với những tệ nạn xã hội do người Tầu ở lậu, hay công nhân Tầu gây xung đột với người Việt Nam ở Hà Tĩnh và trên Tây Nguyên, nhiều Doanh nghiệp do Trung Hoa làm chủ đầu tư còn gây ra ỗ nhiễm cho Việt Nam trên khắp miền đất nước, nghiêm trọng nhất là thảm họa mội trường do Formosa Hà Tĩnh tác hại tại 4 Tỉnh miền Trung gồm Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Huế-Thừa Thiên năm 2016.
Tuy Formosa là gốc Đài Loan nhưng nhiều thiết bị máy móc và công nhân lại do Trung Quốc làm chủ và cung cấp.
Chính phủ Việt Nam cũng nên nghĩ xem tại sao các Doanh nghiệp Trung Quốc lại có quyền cấm viên chức Việt Nam vào nơi họ làm việc ngay trên lãnh thổ Việt Nam ?
Chuyện vi phạm trắng trợn chủ quyền quốc gia Việt Nam của các Doanh nghiệp Trung Hoa thì ai cũng biết mà Chính phủ lại cứ cúi đầu chịu nhục mới lạ. Chẳng những thế, cứ mỗi khi có biểu tình chống âm mưu xâm lược của Trung Hoa ở Biển Đông, hay lên án các vụ Công ty Tầu gây ô nhiễm môi trường thì người dân lại bị Công an đàn áp dã man thì lực lượng an ninh là của nước nào vậy ?
Bây giờ lại đến chuyện Dự luật 3 Đặc khu dành nhiều ưu đãi cho người nước ngoài khi họ đầu tư vào Việt Nam thì liệu bài học Formosa Hà Tĩnh và Bauxite Tây Nguyên có thoát khỏi tay người Tầu phương Bắc không ? -/-
Phạm Trần
(06/06/018)
Ông Trọng Đã Vung Tay Quá Trán ?
- Viết bởi Phạm Trần
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Hội đồng Lý luận Trung ương, Tác giả Nghị quyết “Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược,đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” (Số 26-NQ/TW) đã muốn vung tay qúa trán, hay biết khó khăn mà vẫn liều, khi ấn định đến năm 2020, năm áp chót của khóa đảng XII, sẽ “kiên quyết xoá bỏ tệ chạy chức, chạy quyền; ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong cán bộ, đảng viên.”
Liệu canh bạc may rủi này có giúp ông Trọng và Ban chấp hành Trung ương khóa XII bảo vệ được chỗ đứng trong lịch sử đảng là những người đầu tiên thành công trong các lĩnh vực khó khăn này, hay tên tuổi họ sẽ bị nhấn xuống bùn đen khi khóa đảng XIII bắt đầu nhiệm kỳ mới (2021-2026) ?
Tuy còn sớm để đo lòng dạ cán bộ đảng viên khi Nghị quyết Trung ương 7, khóa XII được thi hành, nhưng nếu căn cứ vào thất bại của các khóa đảng trước, kể cả khóa XI và XII do ông Trọng lãnh đạo, thì khả năng thành công của ông không nhiều vì thời gian chỉ còn hơn 2 năm.
CHUYỆN DÀI-DÀI THÊM
Cũng nên biết các tệ nạn “chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy tội vv…” , và tình trạng “suy thoái tư tưởng và đạo đức, lối sống” của cán bộ, đảng viên đã thoải mái sống chung với đảng và được nói đến từ khóa đảng VII thời Tổng Bí thư Đỗ Mười chứ có mới mẻ gì đâu.
Thế mà sau gần 30 năm, từ khóa đảng VII đến gữa khóa XII, các cán bộ, đảng viên chuyên nghiệp “chạy” đã “chạy” nhanh hơn và số người suy thoái cũng đã sinh sôi nẩy nở năm sau nhiều hơn năm trước.
Đến bây giờ (tháng 5 năm 2018), dù khóa đảng XII và ông Nguyễn Phú Trọng đã đi được nửa nhiệm kỳ 5 năm, nhưng vấn đề xây dựng và chỉnh đốn đảng, được đặt ra từ Nghị quyết đầu tiên (số 10-NQ/TW) ngày 02/02/1999 của Trung ương 6 (lần 2),khóa đảng VIII (thời Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu) “Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay” , vẫn cứ trăm hoa đua nở khắp nơi thoải mái.
Vì vậy mà ông Trọng, sau khi thay Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh của 2 khóa đảng IX và X, đã phải bổ sung thêm 2 Nghị quyết với nhiều chi tiết mới, cụ thể và cấp bách hơn về tình trạng suy thoái và xuống cấp của cán bộ, đảng viên.
Đó là:
-- Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 16/01/2012, Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) Về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay.
-- Nghị quyết số 04/NQ-TW ngày 30/10/2016, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ.
MỤC TIÊU NGHỊ QUYẾT 7
Từ hai Nghị quyết này, ông Trọng chủ trương đổi mới cả hệ thống chính trị bằng những con người mới và tư duy mới trong nhiệm vụ lãnh đạo và công tác phục vụ trong cán bộ đảng, viên chức nhà nước, Quân đội và Công an.
Tham vọng thì nhiều, nhưng Hội nghị Trung ương 7 lại khoán trắng đặc quyền về cán bộ cho đảng thì có mới mẻ gì hơn xưa ?
Nghị quyết viết:”Thực hiện nghiêm, nhất quán nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị.”
Như vậy là dân chỉ có quyền “ngồi chơi xơi nước”. Mọi việc đã có đảng làm cho người của đảng thì quyền làm chủ đất nước của dân và bổn phận làm đấy tớ cho dân của cán bộ, đảng viên có lằn ranh nào ngăn cách không ?
Đó là lý do buộc Nghị quyết phải vẽ ra cái hình trên giấy về điều gọi là “Phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ.”
Trung ương 7 viết:”Thể chế hoá, cụ thể hoá và tổ chức thực hiện có hiệu quả các quy định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ.”
Các chữ “giám sát, phản biện xã hội” nghe qua tưởng quan trọng lắm, nhưng thực chất chỉ là hình thức dân chủ giả tạo để trang trí cho đảng. Từ xưa đến nay cái “cơ chế dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã bị đảng coi thường.
Ngay đến Tổ chức Mặt trận Tổ quốc, nơi quy tụ hàng trăm Tổ chức Chính trị-Xã hội do đảng thành lập, hay được đảng cho phép hoạt động có làm nên cơm cháo gì giúp dân đâu. Tổ chức lãng phí tiền bạc của dân này là cơ quan ngoại vi làm việc cho đảng. Công tác nổi bật nhất của tổ chức này là chọn ứng cử viên Quốc hội và các Hội dồng Nhân dân cho đảng để cho dân bỏ phiếu, qua các cuộc gọi là “hiệp thương”. Vì cậy, với phương thức “đảng cử dân bầu” này, rất hiếm hoi có ứng cử viên nào được ra ứng cử và đắc cử, nếu không lọt qua cửa ải “hiệp thương” của Mặt trận.
LẠI MÁC-LÊNIN-HCM
Ngoài ít điều nêu trên, Nghị quyết “Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược,đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” còn ràng buộc công tác chọn lọc cán bộ phải tập trung vào tuyệt đối trung thành với Đảng, Chủ nghĩa Mác-Le6nin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh.
Một số điểm quan trọng viết trong Nghị quyết:
-“Quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quán triệt và thực hiện nghiêm Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là về công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ. Kiên quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc; mở rộng các hình thức tuyên truyền, nhân rộng những điển hình tiên tiến, những cách làm sáng tạo, hiệu quả.”
- “Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và thế hệ trẻ, trong đó chú trọng nội dung xây dựng Đảng về đạo đức, truyền thống lịch sử, văn hoá của dân tộc; kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa đào tạo với rèn luyện trong thực tiễn và đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Thực hiện nghiêm túc chế độ học tập, bồi dưỡng lý luận chính trị và cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, nhất là cán bộ trẻ được đào tạo ở nước ngoài.”
--"Đối với cán bộ lãnh đạo, chỉ huy quân đội, công an: Tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân; có ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, sức chiến đấu cao; có số lượng và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; từ 20 - 30% đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.”
SỢ DIỄN BIẾN-CHUYỂN HÓA
Cũng đáng chú ý là trong Nghị quyết 7, đảng đã nói đi nói lại nhiều lần phải đặc biệt quan tâm đến vấn đề tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên. Điều này cho thấy đảng quan tâm đến công tác đề phòng tình trạng “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, nhất là số 600 cấp lãnh đạo chiến lược, từ khóa đảng XIII trở về sau.
Đảng chỉ thị phải :
--"Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ: Nắm chắc lịch sử chính trị và tập trung vào vấn đề chính trị hiện nay. Hoàn thiện quy định để xử lý, sử dụng những trường hợp có vấn đề về chính trị. Không xem xét quy hoạch, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử khi chưa có kết luận về tiêu chuẩn chính trị.”
--"Rà soát kỹ, bổ sung đầy đủ thông tin, đánh giá chính xác, nắm chắc vấn đề chính trị của cán bộ.”
Từ đó, Nghị quyết viết:”Thời gian tới cũng là giai đoạn chuyển giao thế hệ từ lớp cán bộ sinh ra, lớn lên, được rèn luyện, trưởng thành trong chiến tranh, chủ yếu được đào tạo ở trong nước và tại các nước xã hội chủ nghĩa, sang lớp cán bộ sinh ra, lớn lên, trưởng thành trong hoà bình và được đào tạo từ nhiều nguồn, nhiều nước có thể chế chính trị khác nhau.
Tình hình đó tác động mạnh mẽ, toàn diện, sâu sắc đến công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ.”
Ngoài ra, có điểm mới trong Nghị quyết 7 là đảng CSVN đồng ý thu nhận cả nhân tài “người ngoài đảng” dù ở trong nước hay ở nước ngoài.
Nghị quyết viết:” Quy định khung cơ chế, chính sách ưu đãi để phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài có trọng tâm, trọng điểm, nhất là các ngành, lĩnh vực mũi nhọn phục vụ cho phát triển nhanh, bền vững. Xây dựng Chiến lược quốc gia về thu hút và trọng dụng nhân tài theo hướng không phân biệt đảng viên hay người ngoài Đảng, người Việt Nam ở trong nước hay ở nước ngoài.”
Đây là tư duy mới, có thể sẽ được hoan nghênh theo hướng “hòa hợp hòa giải dân tộc”. Tuy nhiên, nếu những ứng cử viên hay người được chọn làm cán bộ cho đảng cũng phải tuyệt đối trung thành với Đảng, Chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh thì lá bài “người ngoài đảng ở trong nước hay ở nước ngoài” có nghĩa gì không ?
Hay Nghị quyết 7 là tín hiệu phải tìm mọi cách và bằng mọi giá để giữ đảng khỏi tan trước cơn hồng thủy suy thoái tư tưởng và tự diễn biến, tự chuyển hóa của cán bộ, đảng viên ? -/-
Phạm Trần
(05/018)
Hội Nghị Nói Dai, Nói Dài Rồi Để Đó
- Viết bởi Phạm Trần
Hội nghị Trung ương 7, khóa đảng XII kết thúc ngày 12/05/2018, sau 6 ngày họp tại Hà Nội đã để lại 2 điểm mới :
(1) Lần đầu tiên báo chí được tham dự tường thuật, nhưng không phổ biến ý kiến trái chiều. Tất cả chỉ nói theo và ca tụng ý kiến thống nhất với Trung ương. Tuyệt đối không có bình luận và phản biện của báo chí về diễn văn khai mạc và bế mạc của Tổng Bí thư.
Một số báo có bài phỏng vấn các cựu viên chức lãnh đạo hay cựu Đại biểu Quốc hội, nhưng tất cả đều đồng tình và hoan nghênh. Đáng chú ý là hầu hết ý kiến đều nhìn ra khuyết điểm và khó khăn trong công tác cán bộ, hay nhìn nhận có nạn chạy chức, chạy quyền, tham nhũng, lãng phí, lợi ích nhóm trong đảng, hay bao che cho nhau từ trên xuống dưới, nhưng ai cũng thắc mắc tại sao chưa diệt được những tệ nạn này.
Cuối cùng họ đều đồng ý chung: đảng chưa quyêt liệt và những người đứng đầu còn nể nang, phe cánh, hoặc thiếu cương quyết để xử lý sai phạm của cấp thừa hành.
(2) Về đề tài then chốt của Trung ương 7, kế hoạch “xây dựng đội ngũ 600 cán bộ cấp chiến lược” (lãnh đạo) cho đảng khóa XIII (2022-2027) và kế tiếp đã được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và các viên chức lãnh đạo nói dai và nói dài từ trước ngày khai mạc (07/05/018).
Nhưng tất cả cũng chỉ nhằm “mặc áo thụng vái nhau” để quảng cáo tên tuổi hơn đề ra các giải pháp để giải quyết những khuyết diểm đã đồng ý phải đẩy lùi.
Tỷ dụ như khi ông Trọng nói rằng :”Trên cơ sở thảo luận kỹ lưỡng và sâu sắc Đề án và Tờ trình của Bộ Chính trị, Hội nghị đã nhất trí cao ban hành Nghị quyết của Trung ương về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ, đủ sức lãnh đạo đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030 và tầm nhìn trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045”.
Nhưng muốn được như thế thì điều kiện cần và phải có của cán bộ là phải được rèn luyện như thế nào và do ai dạy bảo, và với phương pháp nào ?
Nếu đội ngũ mới chỉ được học từ lớp cán bộ lãnh đạo đã xuống cấp, lạc hậu và suy thoái từ trước, hay là thành phần kế thừa, hoặc “hạt giống đỏ” của con ông cháu cha thì liệu có làm được cơm cháo gì không, hay chỉ đẻ ra lớp cán bộ thiếu tài mất đức mới ?
Hơn nữa, khi đảng đặt tiêu chuẩn chọn cán bộ cần “hồng” hơn “chuyên” và phải có gốc đảng là chính thì người ngoài đảng có tài sẽ bị loại và đất nước sẽ muôn đời lạc hậu.
Vì thế, khi ông Trọng đặt tiêu chí cho đội ngũ cán bộ mới phải có “đủ sức lãnh đạo đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030” là chính ông đã lùi mất 10 năm, vì trước đây đảng từng đặt ra mốc đến năm 2020 thì Việt Nam sẽ là nước có nền công nghiệp hiện đại. Nay thời gian còn lại chỉ 2 năm là bằng chứng đảng đã thất bại. Ông Nguyễn Phú Trọng và hai khóa đảng XI và XII (2011-2021) cũng phải gánh trách nhiệm với thất bại này.
Như vậy, sau bước tụt hậu này, liệu có gì bảo đảm cho dự kiến Việt Nam sẽ “trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045” trong khi ở Việt Nam bây giờ ai cũng thấy chủ trương làm “ kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” của đảng là mơ hồ, thiếu cơ cở và loạn thị. Bởi vì trên thế giới chỉ có kinh tế Tư bản Chủ nghĩa và Kinh tế Cộng sản chủ nghĩa. Không làm gì có thứ kinh tế loăng quăng, nửa giăng nửa đèn như Việt Nam tuyên truyền.
Bằng chứng sau hơn 30 năm Đổi mới (từ 1986) , Việt Nam đã làm theo kinh tế Tư bản Chủ nghĩa dưới cái vỏ bọc gọi là “theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa” chỉ để cho khỏi bẽ mặt. Dù có mạo danh cách nào chăng nữa, Hà Nội cũng không thể lấy vải thưa che mắt thánh để nói khác. Thực tế tình hình đã rõ ràng như thế, không ngụy biện được.
Vì vậy, khi đảng và nhà nước nắm toàn quyền kiểm soát và điều chế toàn nền kinh tế thì Việt Nam chậm phát triển so với các nước trong khu vực Đông Nam Á, thua cả Lào và chỉ đứng trên Cao Miên và Miến Điện.
Lý do Việt Nam không ngóc đầu lên được vì Cương lĩnh “Xây dựng đất nước trong thời kỳ qúa độ lên Xã hội Chủ nghĩa” (Bổ sung, Phát triển năm 2011), đã cho phép “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo” . Đây là chủ trương chống lại tự do kinh doanh của người dân, vì các Doanh nghiệp nhà nước thua lỗ nhiều hơn đem lợi nhuận về cho ngân sách nhà nước, trong khi nhà nước phải gánh các khoản thua lỗ hàng trăm ngàn tỷ đồng cho các Doanh nghiệp này.
Cương lĩnh loăng quăng năm 2011, khi ông Trọng lên cầm quyền khóa đảng XI đã viết như thế này:”Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển. Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng bước được xây dựng, phát triển, vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa.”
CÀNG TỐI CÀNG ĐEN
Vì vậy, càng đọc những gì ông Trọng nói trong Diễn văn bế mạc Trung ương 7, càng thấy ngôn ngữ của những thợ viết trong Hội đồng Lý luận Trung ương, tác giả của các văn kiện Đại hội và Hội nghị Trung ương, lòi ra.
Sở dĩ dễ nhận ra vì văn kiện nào cũng chứa đấy văn từ đao to búa lớn, “nghĩa đen” trộn với “nghĩa mờ mờ” gây loạn trí người đọc và rất khó tìm thấy giải pháp.
Hãy nghe ông Trọng đọc tiếp :”Đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược mà chúng ta tập trung xây dựng trong thời gian tới phải có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới - thời kỳ xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, nền kinh tế số, kinh tế tri thức và biến đổi khí hậu, nước biển dâng; giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ trong bối cảnh tình hình trong nước, khu vực và thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường.”
Như vậy có gì mới không, hay toàn lập lại là các thứ tiêu chuẩn đã lỗi thời, đã và đang thất bại từ mấy chục năm qua ? Những câu chữ buộc cán bộ thời kỳ mới phải làm theo “xã hội chủ nghĩa” hay “định hướng xã hội chủ nghĩa” là sản phẩm của những con người óc loãng trong Tổ viết diễn văn cho ông Trọng, trong khi Việt Nam đang cần có những cái đầu trong sáng và trái tim minh bạch để xây dựng đất nước.
ĐẢNG NÓI-AI LÀM ?
Nhìn sâu hơn vào diễn văn bế mạc của ông Trọng, ta sẽ thấy nhiều điều “ra lệnh, chỉ tay 5 ngón” , hay nói cho sướng miệng nhiều hơn đề ra các giải pháp giải quyết.
Tỷ dụ như ông Trọng bảo phải:
-- Thực hiện nghiêm, nhất quán nguyên tắc Đảng lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý thống nhất đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
--Chuẩn hoá, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với tạo môi trường, cơ chế và điều kiện để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo và bảo vệ cán bộ; phân công, phân cấp gắn với giao quyền, ràng buộc trách nhiệm, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực và xử lý nghiêm minh sai phạm.
-- Yêu cầu phải có phương pháp đánh giá cán bộ một cách khách quan, chính xác; có cơ chế tạo động lực, đổi mới sáng tạo, rèn luyện qua thực tiễn có nhiều khó khăn, thách thức lớn của đội ngũ cán bộ và đề cao giải pháp kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền, chủ nghĩa cá nhân, cục bộ địa phương, họ hàng trong công tác cán bộ; coi đây là một trong những nhiệm vụ, giải pháp quan trọng để đấu tranh ngăn chặn sự tha hoá quyền lực trong bộ máy công quyền, sự suy thoái, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên để củng cố và nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ta.
--Ban Chấp hành Trung ương yêu cầu xây dựng và hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực và chống tệ chạy chức, chạy quyền, thân quen, cánh hẩu, lợi ích nhóm trong công tác cán bộ theo nguyên tắc mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế và quyền hạn phải được ràng buộc với trách nhiệm.
--Phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh các tổ chức, cá nhân vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, lạm dụng, lợi dụng quyền lực để thực hiện những hành vi sai trái trong công tác cán bộ hoặc tiếp tay cho tệ chạy chức, chạy quyền.
--Kiên quyết huỷ bỏ, thu hồi các quyết định không đúng về công tác cán bộ, đồng thời xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân sai phạm, có hành vi tham nhũng trong công tác cán bộ. Cụ thể hoá để thực hiện có hiệu quả cơ chế dân biết, dân bàn, dân giám sát công tác cán bộ; mở rộng các hình thức lấy ý kiến đánh giá sự hài lòng của người dân đối với từng đối tượng cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị một cách phù hợp.
Nghe ông Trọng phán bấy nhiêu cũng đủ ù tai, hoa con mắt. Nhưng ai làm và làm bằng cách nào thì hãy học kinh nghiệm 20 năm thất bại về Công tác cán bộ, từ khóa đảng VIII thời Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu qua Nghị quyết về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” ngày 18-6-1997.
Điển hình, nổi bật và đứng đầu trong “8 nhóm nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu mà Hội nghị lần này đã đề ra” vẫn là “công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên và thế hệ trẻ gắn với việc học tập và làm việc theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh”.
Những “Biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị” của đảng viên đã nêu ra trong Nghị quyết 4/XII, ban hành ngày 30/10/2016, có 3 điểm quan trọng:
1) Phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
2) Xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; không kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phụ hoạ theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái.
3) Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Trong suy thoái đạo đức, lối sống Nghị quyết 4/XII vạch ra:
1) Cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình.
2) Vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, gây mất đoàn kết nội bộ; đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức; cục bộ, bè phái, kèn cựa địa vị, tranh chức, tranh quyền; độc đoán, gia trưởng, thiếu dân chủ trong chỉ đạo, điều hành.
3) Kê khai tài sản, thu nhập không trung thực.
4) Mắc bệnh "thành tích", háo danh, phô trương, che dấu khuyết điểm, thổi phồng thành tích, "đánh bóng" tên tuổi; thích được đề cao, ca ngợi; "chạy thành tích", "chạy khen thưởng", "chạy danh hiệu".
5) Quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm tra, đôn đốc, không nắm chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị mình; thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân.
6) Quyết định hoặc tổ chức thực hiện gây lãng phí, thất thoát tài chính, tài sản, ngân sách nhà nước, đất đai, tài nguyên...; đầu tư công tràn lan, hiệu quả thấp hoặc không hiệu quả; mua sắm, sử dụng tài sản công vượt quy định; chi tiêu công quỹ tuỳ tiện, vô nguyên tắc. Sử dụng lãng phí nguồn nhân lực, phí phạm thời gian lao động.
7) Tham ô, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấu kết với doanh nghiệp, với đối tượng khác để trục lợi. Lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực.
8) Thao túng trong công tác cán bộ; chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy tội... Sử dụng quyền lực được giao để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc để người thân, người quen lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để trục lợi.
9) Đánh bạc, rượu chè bê tha, mê tín dị đoan, ủng hộ hoặc tham gia các tổ chức tôn giáo bất hợp pháp. Sa vào các tệ nạn xã hội, vi phạm thuần phong, mỹ tục, truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, chuẩn mực đạo đức gia đình và xã hội.
CHẢ MUỐN HỌC BÁC
Về “học tập và làm việc theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh” thì cũng vẫn ì ra đấy sau 2 năm thực hiện chỉ thị 05 của Bộ Chính trị năm 2016.
Tại hội nghị toàn quốc sơ kết được trực tuyến đi khắp nước diễn ra tại Hà Nội ngày 16/05/2018, những căn bệnh học “hình thức, chiếu lệ” và “thiếu tự giác” vẫn tồn tại trong cán bộ cấp lãnh đạo.
Theo nhân xét của Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng thì trong đảng:” Vẫn còn tình trạng thiếu tự giác, tổ chức thực hiện Chỉ thị hình thức, chiếu lệ, thiếu kiểm tra, giám sát trong quá trình thực hiện. Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa tự giác, chưa thường xuyên rèn luyện, học tập, chưa thực sự là tấm gương cho nhân dân noi theo. Một số nội dung, yêu cầu nêu trong Chỉ thị 05 như: Tổ chức sinh hoạt chuyên đề tại chi bộ, đăng ký nội dung học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, lựa chọn khâu đột phá và tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc, nổi cộm… chưa thực sự đi vào nền nếp. Nhiều nơi tinh thần tự phê bình, phê bình vẫn còn yếu, chưa chủ động phát hiện, đấu tranh với những những biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chưa chủ động đấu tranh có hiệu quả với các biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ...”
Về phần Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng, ông nói trước mặt Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và các Viên chức lãnh đạo cơ quan, ngành Trung ương và truyền đi khắp nơi rằng:”Vẫn còn tình trạng làm qua loa, đối phó, chưa thực sự cầu thị, bệnh “thành tích”, bệnh “hình thức” ở nhiều nơi; Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu, thậm chí có cả cán bộ, đảng viên nắm giữ chức vụ cao trong cơ quan Đảng, Nhà nước còn thiếu tự giác, chưa thường xuyên học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, thiếu tu dưỡng, rèn luyện, không gương mẫu trong công tác và trong sinh hoạt, vi phạm các quy định của Đảng và pháp luật...”
Tường thuật của báo VietNamNet viết:”Một trong những nguyên nhân của những hạn chế trên được Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương cho hay là do tính quyết liệt, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu chưa có nhiều chuyển biến. Một số vấn đề yếu kém, thiếu sót trong công tác lãnh đạo, quản lý, trong công tác cán bộ, trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tuy có chuyển biến nhưng chưa đạt yêu cầu đề ra.”
Đáng chú ý là chuyện “học Bác” vẫn dai dẳng chẳng ra trò trống gì đã được công khai chỉ sau 4 ngày kết thúc Hội nghị Trung ương 7, trong đó có 2 vấn đê nan giải về “suy thoái tư tưởng” và “đạo đức xuống cấp” của cán bộ đảng viên đã được đặt lên hàng đầu phải giải quyết.
Như vậy thì có nước đổ đầu vịt không, hay ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cần có bài diễn văn khác chính xác hơn về tình trạng cán bộ “cấp chiến lược” để khỏi mất mặt trước khi nghỉ hưu ? -/-
Phạm Trần
Khóc cho các anh : Những Hiệp Sĩ Đường Phố
- Viết bởi Lm Lê Văn La Vinh
Đọc xong tờ báo sáng nay với thông tin có vụ án mạng nghiêm trọng vào tối ngày 13/5 tại đường Cách Mạng Tháng 8 Quận 3 và hậu quả là 2 thanh niên tử vong khi các anh đang trừ gian diệt họa, tôi thật sững sờ, xúc động, cảm phục và tiếc thương.
“Hiệp sĩ đường phố” - tên gọi của những đội, nhóm các thanh niên tình nguyện kết hợp lại với nhau để giữ yên phố phường, bảo vệ thôn xóm, giúp cho người, cho nhà được an vui…
Đội, nhóm của những anh em này, hình như không có cơ chế, cũng chẳng có hợp đồng và có lẽ cũng chẳng có thù lao… nhưng các anh đã có tấm lòng, có thiện tâm. Và các anh muốn đem cái tâm thiện này để chia sẻ, để đóng góp cho người khác được an vui, cho nhà nhà được hạnh phúc.
… và hôm nay đang khi bày tỏ tâm thiện của mình khi diệt trừ kẻ gian đang cướp xe máy … thì hai người trong số các anh đã bị giết chết và vài người khác nữa bị thương nặng…
Không biết đã có ai nói chưa, nhưng riêng trong trái tim tôi, CÁC ANH LÀ NHỮNG NGƯỜI HÙNG. Các anh đã ngã xuống để bảo vệ sự an vui và bình an của người khác. Các anh đã cống hiến thiện tâm của mình cách xác đáng cho người khác được nhờ. Ngày ngày, các anh hy sinh niềm vui riêng tư của mình với gia đình và bạn bè để cho gia đình người khác được yên ổn an toàn, để cho xóm làng được trật tự , bình an.
Xin hai lần để nói lời cám ơn đến các anh: Lời cám ơn khi nhìn thấy việc làm mà các anh vẫn thực hiện; và lời cám ơn nữa khi kính viếng hương hồn các anh… bởi vì cái chết của các anh cho thấy rằng cuộc đời này vẫn đẹp sao và vẫn còn đó có rất nhiều tấm lòng… Đồng thời, sự ra đi của các anh cũng là lời nhắc nhở cho những người trẻ chúng tôi biết nhìn về các anh mà phát huy tâm thiện của mình biết dấn thân, để hiểu được hai chữ “hy sinh” và biết sống vì mọi người… xin cảm ơn các anh nhiều lắm.
Xin được thắp nén nhang kính viếng hương hồn các anh: anh Nguyễn Văn Thôi và anh Nguyễn Hoàng Nam với tấm lòng tiếc thương và cảm phục.
R.I.P : Requiem In Pax… xin cho các anh được nghỉ ngơi bình an.
Và xin được kính gởi lời chia buồn đến gia đình của HAI NGƯỜI ANH HÙNG
Lm Lê Văn La Vinh
Quý Soeur Dòng Thánh Phaolô Hà Nội kêu cứu
- Viết bởi Dân Chúa
Thái Hà (08.05.2018) – Chúng tôi vừa nhận được lời kêu cứu từ soeur Cecilia Phạm Dương Quỳnh thuộc Dòng Thánh Phaolô Hà Nội liên quan đến khu vực đất của Dòng trên đường Quang Trung, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Qua điện thoại, soeur Quỳnh cho biết, đêm qua một số người mang máy xúc và các phương tiện thi công vào khu vực đất số 5A-5B, Quang Trung vốn thuộc Nhà Dòng đòi thi công.
Quý soeurs đã ngăn cản, không cho nhóm người đưa máy móc vào khu đất và cắt người coi chừng suốt đêm.
Đến sáng nay, thứ Ba, 08.05, xuất hiện người xưng là chủ thầu công trình đã đưa ‘côn đồ’ đến để sách nhiễu, đánh quý soeurs khi quý sơ cố ngăn cản việc đưa máy móc vào khu đất của nhóm người này.
Soeur Quỳnh cho biết, lực lượng chức năng địa phương để mặc nhóm người đòi thi công tự do vi phạm và có hành động đe dọa, đánh quý soeurs.
Anh chị em hãy liên đới với quý soeurs và cầu nguyện cho quý soeurs trong việc bảo vệ tài sản của hội Dòng.
Như chúng tôi đã đưa tin trước đây, tháng 8/2016, khu đất 5A-5B trên đường Quang Trung, Hoàn Kiếm, Hà Nội vốn thuộc quyền sở hữu hợp pháp của quý soeurs Dòng Thánh Phaolô Hà Nội từ năm 1949. (Bằng Khoán Điền Thổ, số 494, cuốn 3, tờ 94)
Ngay sau biến cố 1954, chính phủ Hồ Chí Minh đã tiến hành cho Viện Vi trùng học Việt Nam đến thuê khu vực này của Nhà Dòng, vốn là ngôi nhà Tập Viện của Dòng (nhà đào tạo các nữ tu). Sau đó, nhà cầm quyền không thuê, cũng không trả, cưỡng đoạt rồi chia cho tư nhân. Từ đó đến nay Nhà Dòng không ngừng lên tiếng yêu cầu nhà cầm quyền trao trả lại mảnh đất này cũng như các cơ sở khác đã bị họ chiếm dụng.
Vào cuối tháng 6/2016, bà Trần Hương Ly, tại Hà Nội đã có sổ đỏ và giấy phép thi công đối với mảnh đất số 5 Quang Trung. Trước sự việc đó, quý soeurs Dòng Thánh Phaolô đã liên tục yêu cầu nhà đầu tư phải dừng việc thi công và trao trả lại mảnh đất cho Dòng.
Sau một thời gian dừng thi công và giữ nguyên hiện trạng khu đất theo quyết định của chính quyền Hà Nội, đến nay không hiểu sao người ta lại muốn tiếp tục thi công trên mảnh đất quý soeurs đang yêu cầu trả lại Nhà Dòng.
Hành động nhóm người của chủ đầu tư đưa đến thi công trên khu vực đất đang tranh chấp và đưa côn đồ, đầu gấu bất chấp pháp luật, khủng bố, đánh người ban ngày giữa trung tâm Thủ đô cần lên án.
Truyền Thông Thái Hà
CÔN ĐỒ ĐÁNH QUÝ SOEURS DÒNG THÁNH PHAOLÔ GIỮA THỦ ĐÔ HÀ NỘI
Thái Hà (08.06.2018) – Như tin đã đưa sáng nay (08.05), tối qua và sáng nay, một nhóm người cố đưa máy xúc, các thiết bị vào khu đất 5A-5B Quang Trung, Hoàn Kiếm của Dòng Thánh Phaolô Hà Nội để thi công.
Khi quý soeurs ngăn cản đã bị một nhóm người ‘côn đồ’ nhục mạ, cầm dùi cui tấn công. Một soeur đã bị đánh ngất xỉu.
Quý soeurs cho biết, lực lượng công an có mặt nhưng làm ngơ để nhóm người này lộng hành và quyết thực hiện ý đồ.
Xin anh chị em hiệp ý cầu nguyện và lên án hành động bạo lực vô pháp luật của chủ dự án và những con người này.
Đề nghị nhà cầm quyền ngăn chặn hành động bất hợp pháp của những người ngang nhiên lộng hành giữa Thủ Đô được gọi là hòa bình này.
Hình ảnh quý soeurs bị đánh tại khu vực đất 5A-5B sáng nay:
Tại Sao 43 Năm Vẫn Xa Mặt Cách Lòng ?
- Viết bởi Phạm Trần
Lần kỷ niệm thứ 43 ngày “30 tháng 4” năm 2018 ở Việt Nam không còn được người dân quan tâm bằng những cuộc vui chơi, tắm biển và giải trí, nhưng hận thù dân tộc lại được phe Tuyên giáo và Quân đội khơi lên gay gắt hơn bao giờ hết.
Ở Trung ương, đảng và nhà nước đã thay việc tổ chức các lễ kỷ niệm hào nhoáng và tốn phí bằng những buổi ca nhạc để phô trương thành tích đã mờ nhạt và phản cảm gọi là “giải phóng miền Nam, thồng nhất đất nước”. Các buổi lễ ở địa phương cũng chỉ bày ra để cho các viên chức lãnh đạo xếp hàng chụp ảnh để báo cáo nhưng rất ít có dân tham dự.
Trong khi ấy thì hàng triệu người dân đã lợi dụng 4 ngày nghỉ lễ dịp 30-04 và Lao động 01/05 (từ 28/04 – 01/05/2018) để trốn khỏi cảnh sống chật hẹp và oi bức ngộp hơi ở thành phố đến những nơi có biển tắm mát và nghỉ ngơi thoải mái.
Tuy nhiên, có nhiều người ra đi mà không bao giờ trở lại. Theo báo cáo của Bộ Công an thì:” Trong bốn ngày nghỉ lễ, từ 28-4 đến 1-5, cả nước xảy ra 113 vụ tai nạn giao thông, làm chết 79 người, bị thương 79 người. Riêng ngày cuối cùng kỳ nghỉ lễ 1-5 có 27 người chết, 33 người bị thương.”
So với bốn ngày nghỉ lễ năm 2017 (29-4 đến 2-5-2017), tai nạn giao thông (TNGT) năm nay, giảm 12 vụ (9,6%); giảm 19 người chết (19,4%), giảm 11 người bị thương (12,2%).
Đó là những chuyện bề nổi của ngày đã được cơ quan tuyên truyền của đảng tô son vẽ phấn gọi là “Đại thắng mùa Xuân 1975”, một bi hài kịch tự kiêu Công sản.
Nhưng khác với các năm trước, lần đầu tiên trong 43 năm kỷ niệm ngày Quân đội Cộng sản vào Sài Gòn ngày 30/04/1975, Ban Tuyên giáo và Tổng cục Chính trị Quân đội đã phải tập hợp một số người viết bài đề cao ý nghĩa của “Đại thắng mùa Xuân”. Mục đích là để bác bỏ những quan điểm cho rằng, dù phải vừa chiến đấu và xây dựng, nhưng “chế độ Việt Nam Cộng hòa” ở miền Nam trước 1975, vẫn có nhiều lĩnh vực thành công và đáng trân trọng hơn Chính phủ Cộng sản của thời bình.
BÁO QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN
Báo Quân đội Nhân dân viết:”Chiến tranh đã lùi xa, Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam mong muốn khép lại quá khứ để nhìn về tương lai hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển. Đại thắng mùa xuân năm 1975 thực sự là động lực để chúng ta vượt qua mọi gian nan, thử thách, vững bước tiến lên vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho hôm nay và muôn đời sau.
Thế nhưng đến nay vẫn có những kẻ cố lừa phỉnh dư luận qua việc ngợi ca chế độ dân chủ, tự do và kinh tế phát triển dưới thời chính quyền Sài Gòn, phủ nhận giá trị của chiến thắng trong thời kỳ mới. Những luận điệu ấy lan truyền trên internet dưới nhiều hình thức, như bài viết, clip hòng đánh lừa những người ít thông tin, thiếu hiểu biết, đặc biệt là nhắm vào thế hệ trẻ.” (QĐND, ngày 01/05/2018)
Ăn nói như thế là tự lừa dối mình, bởi vì, dù có xuyên tạc đến đâu thì cũng không thế phủ nhận :
1.- Việt Nam Cộng hòa, từ 1954 đến 1975, không hề có chủ trương “đảng cử dân bầu”. Dù bị chiến tranh tàn phá và đe dọa, khủng bố, chế độ ứng cử và tranh cử ở miền Nam hoàn toàn tự do. Ở miền Bắc, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong giai đoạn này không có ứng cử và bầu cử dự do. Chỉ có một đảng Cộng sản cầm quyền toàn trị.
Ngay đến bây giờ, sau 43 năm thống nhất đất nước, cả nước Việt Nam vẫn chỉ có một đảng cầm quyền và chỉ có đảng viên Cộng sản hay những cảm tình viên Cộng sản mới được bầu vào các chưc vụ đại diện dân ở Quốc hội và trong các Hội đồng Nhân dân. Đảng tiếp tục không chấp nhận đa nguyên, đa đảng.
2.-Nền kinh tế ở miền Nam là “kinh tế thị trường, tự do kinh doanh và phát triển”. Và mặc dù phải lệ thuộc vào viện trợ kinh tế của Mỹ để tồn tại và phát triển trong khi cùng lúc phải chiến đấu chống Cộng sản miền Bắc xâm lược , người dân miền Nam cũng chưa bao giờ phải xếp hàng trước các cửa hàng quốc doanh hay hợp tác xã để mua từng lon gạo, lạng thịt, cân đường, bó rau hay sợi chỉ cây kim bằng tem phiếu như người dân miền Bắc,
TIẾN SỸ BÙI KIẾN THÀNH
Riêng trong lĩnh vực kinh tế, bài viết của QĐND đã trích lời chuyên gia kinh tế Việt kiều Mỹ, ông Bùi Kiến Thành để cố ý hạ thấp giá trị chính sách kinh tế thời VNCH.
QĐND nói trong cuộc phỏng vấn của BBC tiếng Việt, ông Thành đã :”Từng đánh giá, kinh tế dưới chế độ Sài Gòn là "nền kinh tế phát triển ảo", "không vững chắc", "không dựa vào cơ sở kinh tế mà chỉ dựa vào chiến tranh là chính". Ông Bùi Kiến Thành nhận định đây là nền kinh tế "chưa trong sáng", cụm từ chỉ tình trạng tham nhũng tràn lan của chính quyền Sài Gòn.”
Trích dẫn mà chắp vá và cắt xén như thế là “không có đạo đức” và suy diễn thiếu nghiêm chỉnh. Sự thật thì Tiến sỹ Bùi Kiến Thành đã nói nguyên văn ý của ông trong vế “chưa trong sáng” như thế này:” Trong những năm dưới Đệ nhị Cộng hòa thì có khó khăn do cơ chế quản lý nhà nước vẫn chưa có những kinh nghiệm trong vận hành kinh tế thị trường, quản lý nhà nước vẫn chưa hoàn toàn trong sáng.” (BBC Tiếng Việt, phát thanh ngày 25/4/2015)
Như vậy thì những chữ “cụm từ chỉ tình trạng tham nhũng tràn lan của chính quyền Sài Gòn” , được ráp vào sau 3 chữ “chưa trong sáng” là của báo QĐND tự chế ra để nhét vào miệng Tiến sỹ Bùi Kiến Thành, con Bác sỹ nổi tiếng Bùi Kiến Tín, bạn thân của cố Tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm, chủ hãng dầu Khuynh Diệp, với chủ ý xuyên tạc Chính phủ thời VNCH.
Đáng chú ý là báo QĐND đã bỏ qua mấy câu nói khác của ông Thành như :”Việt Nam ngày nay nên học chế độ Việt Nam Cộng Hòa trong cách nhìn về kinh tế thị trường cũng như cách đào tạo, trọng dụng nhân tài.”
BBC viết tiếp:” Ông Thành cũng cho rằng "dư âm của nền kinh tế tập trung" đang hạn chế sự phát triển của Việt Nam trong thời điểm hiện tại, cũng như trong tương lai.”
BBC hỏi: Ông có thể cho biết một số đặc trưng của nền kinh tế miền Nam trước năm 1975?
Ông Bùi Kiến Thành:” Trước 1975 thì kinh tế miền Nam, dù có những khó khăn do chiến tranh, nhưng vẫn là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường.
Vì trong bối cảnh chiến tranh nên chính sách thời đó là mở rộng tất cả những gì có thể. Nông nghiệp thì gặp khó khăn về chiến tranh, thương mại cũng chỉ trao đổi hàng hóa, chứ việc phát triển công nghiệp thì chưa được bao nhiêu.
Nhưng nó vẫn là nền kinh tế cho phép nhân dân tự do tham gia, để những người có ý chí muốn làm kinh tế được tạo điều kiện tốt.”
Ông Thành, hiện đang làm việc ở Việt Nam bảo thẳng:”Nói chung nền kinh tế Việt Nam Cộng Hòa là một nền kinh tế thị trường có nhiều tiềm năng, nếu được phát triển trong hòa bình thì sẽ có nhiều khả năng phát triển tốt hơn là chính sách phát triển tập trung sau 30/4/1975.
Nếu Việt Nam có hòa bình thì những chính sách phát triển kinh tế bắt đầu từ nền Đệ nhất Cộng hòa vẫn được duy trì, như khu công nghiệp Biên Hòa, các trung tâm phát triển công nghiệp. Khi đó chúng ta học dần dần thì bắt đầu tích lũy kinh nghiệm và bắt đầu đi lên.
Tuy nhiên, sau 30/4 thì tất cả những kinh nghiệm đó bị chặn đứng, áp dụng kế hoạch tập trung của miền Bắc vào miền Nam, bao nhiêu doanh nghiệp bị quốc hữu hóa, doanh nhân thì vào trại cải tạo hoặc bỏ xứ ra đi.
Nền kinh tế tan vỡ ra hết và nền kinh tế tập trung không phát triển được, việc ngăn sông cấm chợ khiến nền kinh tế đi vào ngõ cụt.
Đến khi đó nhà nước cộng sản mới áp dụng chinh sách Đổi Mới. Nhưng Đổi Mới không phải là kinh tế thị trường mà là nền kinh tế 'nhiều thành phần vận hành theo kinh tế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước".
Cho đến nay định nghĩa của nền kinh tế Việt Nam sau Đổi Mới vẫn chưa có gì mới hơn là định nghĩa năm 1986, là kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước.
Vì vậy nên đến 2015, chúng ta vẫn bị sự chi phối nặng nề của các doanh nghiệp nhà nước, không thoát ra được tư duy kế hoạch tập trung của một số lãnh đạo, và không thoát ra khỏi sự vận hành của kinh tế nhà nước, trì trệ và không có hiệu quả.
Từ năm 1985 đến giờ ta không bắt kịp các nền kinh tế khác vì tư duy không rõ ràng, không ai biết kinh tế xã hội chủ nghĩa là cái gì.
Một mặt thì nói là kinh tế thị trường, một mặt thì nói là có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta đã mất hết 30 năm mà vẫn còn loay hoay trong những việc làm không rõ ràng.”
GIÁO DỤC-VĂN HÓA
3.-Bước sang lĩnh vực Giáo dục và Văn hóa thì dù một hay trăm thợ viết thuê của Ban Tuyến Giáo hay Tổng cục Chính trị Quân đội cũng không thể đổi trắng thay đen để xóa đi những thành tựu sáng chói và tính nhân văn của nền giáo dục và nhân bản của văn hóa dân tộc thời VNCH trước 1975.
Trước hết, hãy nghe Tiến sỹ Bùi Kiến Thành phát biểu trên BBC ngày 25/04/2015:” Ở miền Nam trước 75 thì là một nền giáo dục rất mở, người sinh viên và các thầy giáo được quyền tiếp cận các nền giáo dục tư tưởng, dù là tư bản hay cộng sản, không hạn chế.”
Bỏ qua những chương trình giáo dục học vẹt, vừa hồng vừa chuyên, chỉ biết thầy đọc trò viết cho đầy tập, chạy điểm, mua bằng thật và bằng giả và những tệ trạng “muốn lên lớp, được điểm cao” thì phải “ngủ với Thầy” v.v…đã và đang diễn ra ở Việt Nam mà hãy nhìn vào khả năng lao động của công nhân Việt Nam để thấy tương lai đang đi về đâu.
Theo bà Saranya Skontanarak, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Thái Lan (TBA) thì năng suất lao động của người Việt Nam khá thấp so với các quốc gia xung quanh. Một số kết quả nghiên cứu cho thấy năng suất lao động của một người Singapore cao gấp 20 lần năng suất lao động của một người Việt Nam.
Ngay người Thái Lan cũng có năng suất lao động gấp 3 lần người Việt Nam.
Bà Saranya Skontanarak đã đưa ra nhận xét tại cuộc gặp gỡ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh ngày 21/4/2018.
Và tại cuộc Hội thảo chuyên đề "Cải thiện năng suất trong bối cảnh công nghiệp hóa", ông Ngô Văn Tuấn, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, cho biết:” Năng suất lao động của Việt Nam chỉ bằng 7% năng suất lao động của Singapore; 17,6% của Malaysia và đặc biệt chỉ tương đương với 87,4% của Lào.” (theo VNNET ngày 13/01/2018)
Trong khi ấy thì Hiệp hội Bia - rượu - nước giải khát Việt Nam, báo cáo năm 2017 lượng bia các loại tiêu thụ trên cả nước đạt hơn 4 tỉ lít, tăng 6% so với năm 2016.
Cón số này chưa xấu hổ cho bằng đánh giá trong sáng trong kinh doanh của Thế giới đã đặt Việt Nam xếp hạng 141/180 với 53,1 điểm, mức tổng điểm thấp hơn điểm bình quân khu vực và thế giới. Trong 43 nền kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Việt Nam đứng hạng 35, thua Lào (53,6 điểm, hạng 34), Myanmar (53,9 điểm, hạng 33) và Campuchia (58,7, điểm hạng 22).
Về số thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam năm 2017, theo lời Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng thì rất thấp, tương đương 2.385 USD. Ông nói với báo Tuổi Trẻ :”Trong khối ASEAN, con số này thua Lào, chỉ hơn Campuchia và Myanmar.” (Miến Điện)
Như vậy thì vinh hạnh gì, nếu so với thời Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam trước năm 1975 ?
VĂN HÓA ĐỒI TRỤY ?
4.- Trong lĩnh vực Văn hóa, hãy tạm gác sang hành động “gục mặt bước dồn” của những nhóm cán bộ lãnh đạo thiếu học, vô văn hóa, kém văn minh khi họ ra lệnh đốt sách, bắt giam các Văn nghệ sỹ miền Nam sau ngày vào Sài Gòn 1975, mà hãy nói đến phong trào “hát nhạc vàng”, hay dòng nhạc Bolero của miền Nam đang lên cơn sốt ở khắp miền đất nước, sau 43 năm mấy anh Bộ đội mũ tai mèo, dép râu bước vào Sài Gòn hoa lệ.
Những cán bộ Tuyên giáo, Dân vận hãy tự hỏi mình xem tại sao bây giờ nhân dân lại say mê những dòng nhạc của Đoàn Chuẩn và Từ Linh, Văn Cao một thời bị cấm ? Hay vì sao mà nhạc Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Anh Bằng, Minh Kỳ, Lê Dinh, Ngô Thụy Miên, Duy Khánh, Nhật Trường Trần Thiện Thanh v.v… của miền Nam đã được ưa chuộng hơn nhiều Nhạc sỹ miền Bắc, kể cả Phạm Tuyên, con Nhà văn hóa Phạm Quỳnh ?
Luôn tiện những người còn mê ngủ của Tuyên giáo cũng nên tự vấn lương tâm xem do đâu mà Mầu Tím Hoa Sim của Nhà Thơ Hữu Loan, người đã can đảm bỏ đảng và công khai mạt sát đám “cai thầu văn nghệ” làm tay sai cho đảng thời Nhân văn Giai phẩm, đã đi vào lịch sử văn học và được hàng triệu người yêu mến gấp triệu lần hơn những vần Thơ thờ nhà độc tài Cộng sản (Joseph Vissarionovich) Stalin, hay chứa đầy dao găm mã tấu thời Cải cách Ruộng đất của Tố Hữu và Xuân Diệu ?
Ôn lại những chuyện cũ để thấy sự so sánh thành công và thất bại ở miền Nam thời Việt Nam Cộng hòa, trước vào sau ngày gọi là “Đại thắng mùa Xuân 1975”, không phài là không có lý.
Bởi vì, sau 43 năm của cái gọi là “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” ấy, nhân dân miền Nam đã hoàn toàn mất hết các quyền: Tự do ngôn luận và Tự do báo chí; Tự do Lập hội và Biểu tình; Tự do Ứng cử và Bầu cử. Và trong nhiều trường hợp, quyền tự do Tín ngưỡng và Tôn giáo đã bị qủan chế khe khắt.
Thời VNCH, khi ra đường người dân không sợ bị cướp giật và xâm phạm an ninh cá nhân như thời Cộng sản. Họ cũng không phải đem theo tiền để hối lộ dọc đường hay mánh mung chạy chức chạy quyền, lo đút lót để cho con được điểm cao hay tốt nghiệp ra trường, và có việc làm ổn định.
Cũng dưới thời VNCH ở miền Nam, làm gì có chuyện truyền thống “tôn sư trọng đạo” trong giáo dục đã bị bị xúc phạm trắng trợn như vụ Cô giáo phải qùy xin lỗi phụ huynh tại Long An tháng 2/2018. Rồi sau đó vào tháng 3/2018 cô giáo mang thai Phan Thị Hiên, tập sự tại trường mầm non Việt-Lào ở Nghệ An, cũng đã phài qùy gối van xin tha đánh bởi một phụ huynh, chỉ vì trước đó cô giáo đã xử phạt kỷ luật con người này.
Chỉ kể sơ ra đây ít chuyện làm quà để thấy thời Việt Nam Cộng hòa, tuy chưa có dân chủ như nhiều nước khác vì có chiến tranh, cũng đáng sống hơn thời tham nhũng ngập đầu và xã hội có nhiều trộm cắp và giết người như ngóe mất an ninh ở Việt Nam thời Xã hội Chủ nghĩa.
GAY GẮT HÙ HỌA
Thế mà cán bộ Tuyên giáo vẫn có thể bô bô nói rằng:”Chiến tranh đã lùi xa, Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam mong muốn khép lại quá khứ để nhìn về tương lai hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển. Đại thắng mùa xuân năm 1975 thực sự là động lực để chúng ta vượt qua mọi gian nan, thử thách, vững bước tiến lên vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho hôm nay và muôn đời sau.
Thế nhưng đến nay vẫn có những kẻ cố lừa phỉnh dư luận qua việc ngợi ca chế độ dân chủ, tự do và kinh tế phát triển dưới thời chính quyền Sài Gòn, phủ nhận giá trị của chiến thắng trong thời kỳ mới. Những luận điệu ấy lan truyền trên internet dưới nhiều hình thức, như bài viết, clip hòng đánh lừa những người ít thông tin, thiếu hiểu biết, đặc biệt là nhắm vào thế hệ trẻ. (Quân đội Nhân dân, 01/05/2018)
Phân bua như thế xong, báo này quay sang hù họa :” Đảng, Nhà nước ta đã chủ động đề ra và thực hiện phương châm “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai”, “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”, nhưng trong bối cảnh mới, hoàn cảnh mới, mỗi người dân của “con Lạc cháu Hồng” dù ở trong nước hay đang định cư, học tập, công tác ở nước ngoài, không bao giờ được lãng quên lịch sử hào hùng chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam; càng không được vào hùa với các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội, bất mãn để bóp méo, bôi nhọ, xuyên tạc, đòi đánh giá lại lịch sử, phủ nhận tầm vóc vĩ đại của Đại thắng mùa xuân năm 1975 nhằm phục vụ cho những mưu đồ đen tối. (báo Quân đội Nhân dân, 30/04/2018)
Cũng tát nước theo mưa là bài viết trên Tạp chi Quốc phòng Toàn dân (QPTD) của Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hưởng, cũng đưa ra luận điểm bảo vệ cho cái gọi là “chiến thắng” mùa Xuân 1975.
Ông Hưởng cảnh giác hiện vẫn có “những ý kiến lạc lõng xuyên tạc về ý nghĩa lịch sử của Chiến thắng đó, cần phải cảnh giác, kiên quyết đấu tranh, bác bỏ.”
Ông viết:”Suốt hơn bốn thập kỷ qua, những luận điệu xuyên tạc bản chất, tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống xâm lược của nhân dân ta; những mưu đồ bóp méo, hạ thấp, phủ định ý nghĩa và giá trị của Đại thắng mùa Xuân 1975 liên tiếp được các thế lực chống đối, thù địch tung lên trên mọi phương tiện thông tin với nhiều hình thức, cả ở trong nước và nước ngoài. Họ thường “thảng thốt” rằng, chiến thắng lịch sử của nhân dân ta ngày 30-4-1975 đối với họ là “tháng 4 đen”; “ngày quốc hận”. Đồng thời, xuyên tạc bản chất, tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, rằng đó là cuộc chiến tranh “huynh đệ tương tàn” giữa hai miền Nam - Bắc.” (theo QPTD, ngày 26/04/2018)
Viết như thế, nhưng liệu ông Hưởng có sờ lên gáy xem những dư luận không đồng tình với mấy chữ “Đại thắng mùa Xuân 1975” có phản ảnh sự thật trong đời sống nhân dân như mọi ngưởi chưa được “no cơm ấm áo” và đất nước chưa thật sự “có độc lập tự do” , hay những thứ này mới chỉ dành cho một thiểu số có chức, có quyền và những tay sai của đảng cầm quyền ?
Hay xa hơn, vẫn đang có những kẻ nội thù và tay sai ngoại bang muốn phân hóa dân tộc ?
Đó là lý do tại sao sau 43 năm mà “kẻ thắng” và “người thua” vẫn còn xa mặt cách lòng bởi những con người “kêu ngạo Cộng sản” tiếp tục giáo điều, lạc hậu và chỉ biết đặt quyền lợi cá nhân và phe nhóm trên quyền lợi tối cao của dân tộc. -/-
Phạm Trần
Ta Đã Thấy Gì Trong Đêm Nay ?
- Viết bởi Lm. Vĩnh Sang, DCCT
GNsP (30.4.2018) – Tôi ngần ngại mãi tìm đề tài để viết cho số báo Ephata số ra ngày Chúa nhật 29/04/2018 , đắn đo vì số báo ra cận ngày lịch sử của đất nước, ngày 30/04, ngày mà trong trái tim của tôi đau nhói mỗi khi nhắc đến.
Vào những ngày cận kề này bao nhiêu cảm xúc về nỗi đau, về những luyến tiếc lại kéo về. Chiều nay vào trang fb của nhóm bạn trường cũ, có một ai đó nhắc đến người giáo sư Anh văn duyên dáng của trường năm nào, cô đẹp và nổi bật trong tà áo dài đến lớp, mái tóc đen óng ả của cô, và cái răng khểnh là những đặc điểm chắc chẳng ai quên khi nhắc đến cô. Bạn ấy viết về cô với niềm luyến nhớ, vì sau năm 75 cô đã ở lại biển vĩnh viễn không đến được bờ tự do như cô mong muốn. Những dòng chữ cô viết đề tặng tôi trong một cuốn truyện anh ngữ Loranard Doon lại hiện về. Không chỉ mình cô, người bạn thân nhất trong ba đứa chơi với nhau từ thời trẻ thơ của chúng tôi cũng chẳng trở về sau chuyến đi biển năm ấy, đi tìm tự do, bạn bỏ lại ba đứa con gái lớn lên không biết gì nhiều về cha mình, cháu lớn nhất bây giờ là giảng viên một trường đại học, những lần đi chơi với nhau cháu nói “xin nói về ba của con cho con nghe”, tôi cố nén cảm xúc khi những đứa cháu con của chúng nhảy vào lòng tôi gọi “ông ngoại” !
Từ ngày ấy bỗng dưng tôi như trẻ con hờn giận biển, cơn dỗi nỗi hờn 43 năm rồi không ai dỗ dành, bây giờ tóc bạc sương, những lần ra biển chỉ biết ngồi nhìn biển ngậm ngùi lặng lẽ. Biển nhận chìm, biển chia cắt bao nhiêu tình cảm đời tôi ! Những người thân quen cũ giờ trở nên xa lạ bên kia bờ đại dương, “chẳng nợ gì nhau”!
Ngần ngại rồi cũng phải viết vì thời gian không cho suy nghĩ nữa, phải viết về những nỗi đau của mình, của nhiều người, và bây giờ là nỗi đau của cả một dân tộc khi những hình ảnh bước qua ranh biên giới giữa hai miền nam bắc Triều Tiên lồ lộ trên các màn hình mạng xã hội. Không biết nền hòa bình mà họ đang xây dựng có hiện thực và bền vững không, nhưng chúng ta bất hạnh, vì chưa bao giờ và chẳng bao giờ chúng ta có được những hình ảnh hạnh phúc đó. Bao nhiêu xương máu đồng bào ta đã đổ xuống, bao nhiêu nỗi oan khiên theo nhau trong những ngày ngục tù, những tiếng khóc xé lòng khi tiễn đưa những người bạn nằm trong cỗ áo quan phủ lá quốc kỳ, những ngôi nhà buồn tênh trống trải khi những đứa con trai bỏ làng xóm “sinh bắc tử nam” chẳng biết vùi xác nơi nào… 43 năm sau ta nhìn một đất nước tan hoang, biển mất, rừng chẳng còn, anh em, cha con, xếp hàng tranh nhau đi làm nô lệ xứ người ! người ở lại gánh một chồng nợ công trên trời rơi xuống ! người nghèo nối đuôi nhau đòi công lý khắp nơi, những khoa, những bệnh viện ung bướu đầy ắp hơi người không chỗ chen chân.
Cuối cùng rồi cũng phải viết về những nỗi đau ấy, vì mấy bữa nay có thông tin, ngôi nhà cổ có tuổi trên 150 năm ở Saigon được đưa lên thớt của sự đập phá, với một lý do đơn giản, họ muốn mở rộng ngôi nhà Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố (Tòa Đô Chính cũ). Năm 1987 tôi chứng kiến ngôi nhà song sinh với ngôi nhà hiện nay nằm trong khuôn viên Tòa Tổng Giám Mục Saigon, ngôi nhà có tên ”Lăng Cha Cả” bị đập phá ! nỗi buồn về một di tích, một công trình mang đầy tính văn hóa Việt bị phế bỏ, nỗi buồn với tôi còn thấm hơn khi đây là một ngôi nhà gắn liền với cả tuổi lớn lên và thời học trò của tôi. 6 năm thời trung học, mỗi ngày tôi đi qua ngôi nhà này nhiều lần, bao nhiêu những suy nghĩ, tưởng tượng phong phú của tôi năm xưa về ngôi nhà và những gi bên trong ngôi nhà đó, đối với tôi và có lẽ nhiều bạn học trò khác, Lăng Cha Cả là cột mốc tạm chấm dứt mộng mơ của bài “Ngày Xưa Hoàng Thị” vì đã hết con đường ”theo nhau đường dài, trưa trưa chiều chiều” để bước vào đường Trương Minh Ký tấp nập xe cộ qua lại. Hẳn không phải mình tôi nhưng ít là những ai qua lại, những cư dân của nhiều năm, nhiều thế hệ sống quanh đó, cư dân của Saigon và cả những người ngoại quốc đến sống và làm việc ở các đơn vị vùng Phi trường Tân Sơn Nhất, cổng Phi Long. cái đó
người ta gọi là “hồn” của công trình.
Đối với những người có trách nhiệm với đất nước, hình như họ chẳng bận tâm đến hồn, cái họ bận tâm là cái khác. Một xưởng Ba Soong của thời oanh liệt Nguyễn Ánh đóng tàu dong dại dương đối với họ là cỏ rác, những ngôi biệt thự ghi rõ mồn một số nhà của thời mở mang bờ cõi đối với họ là “chuyện nhỏ”, cả quần thể tu viện hiện diện trước cả khi cha mẹ họ sinh ra họ cũng sẵn sàng tước đoạt, những đầu tàu xe lửa cả thế giới thèm khát họ bán với giá sắt vụn, ngoại quốc mua về làm du lịch giá đẩy lên hàng triệu đô, cả một hệ thống đường sắt răng cưa không nơi nào trên thế giới còn không biết bây giờ được nấu chảy hóa thân ra sao rồi !
Trong Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng, Hội Thánh dạy chúng ta rằng : “ số 13 : … Ký ức là một chiều kích của đức tin mà chúng ta có thể gọi là “đệ nhị luật”, tương tự như ký ức của dân Israel về chính mình. Chúa Giêsu để lại cho chúng ta Thánh Thể như là sự tưởng nhớ hằng ngày của Hội Thánh về biến cố Vượt Qua của Ngài, và như là sự chia sẻ sâu xa hơn biến cố này (Lc 22:19)…”
Xúc phạm ký ức, hủy bỏ tính kế thừa, dân tộc, đất nước chúng ta đi về đâu, hỏi sao không buồn, chẳng phải để nhắc lại những kỷ niệm buồn của một thời đã qua, chẳng phải là những lời phàn nàn lẩm cẩm của những người gần miệng lỗ, với hành trình của Hội Thánh, đó là những tiếng kêu nhằm thức tỉnh lương tâm của những ai đang can tâm đập phá hủy bỏ qua khứ, muốn xậy dựng những cái tháp Babel mới cho họ, ghi danh họ ! cái họ tìm không phải là các linh hồn nhưng là công danh sự nghiệp của họ, ghi danh họ !
Lm. Vĩnh Sang, DCCT.
29/04/2018
Trung thành và kiên định có vấn đề
- Viết bởi Phạm Trần