Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Người Công giáo Nga mong chờ chuyến tông du của ĐTC đến Kazakhstan
Tổng Giáo Phận Mẹ Thiên Chúa sẽ tổ chức cuộc hành hương để cầu nguyện cho chuyến tông du của Đức Thánh Cha đến Kazakhstan từ ngày 13 đến 15/9/2022, để tham dự Đại hội lần thứ 7 các lãnh đạo tôn giáo truyền thống và thế giới, một sự kiện ủng hộ hoà bình và chống lại việc sử dụng tôn giáo để biện minh cho các cuộc xung đột.
Cuộc hành hương sẽ diễn ra theo khẩu hiệu “Chúng ta là nhân chứng của sự hiệp nhất”, sẽ bắt đầu tại Mátxcơva vào ngày 12/9: điểm dừng chân đầu tiên là Omsk, một thành phố của Nga ở Siberia. Vào ngày hôm sau, các tín hữu hành hương sẽ đến Karaganda ở Kazakhstan, và từ đây họ sẽ đến Karlag, nơi giam giữ tù nhân của Liên Xô từ năm 1930 đến 1960. Có hàng chục nghìn tù nhân đã chết ở đây, một nơi tử đạo của nhiều Kitô hữu, trong đó có cả người Nga. Vào ngày 14/9, đoàn hành hương sẽ di chuyển đến Nur-Sultan để tham dự Thánh lễ do Đức Thánh Cha chủ sự tại Quảng trường Expo. Hành trình trở về Mátxcơva sẽ bắt đầu vào ngày 15/9.
Trong một cuộc phỏng vấn với Vatican News, Đức Tổng Giám Mục Paolo Pezzi cho biết trong bối cảnh chuyến tông du của Đức Thánh Cha đến Kazakhstan, đây là một chuyến hành hương rất ý nghĩa, các tín hữu Nga muốn bày tỏ sự gần gũi với Đức Thánh Cha.
Đức Tổng Giám Mục nói: “Chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha tới Kazakhstan rất quan trọng đối với chúng tôi - các tín hữu Công giáo Nga. Trước hết bởi vì chúng tôi không biết khi nào Đức Thánh Cha có thể đến với chúng tôi, Kazakhstan là quốc gia gần chúng tôi nhất và do đó đây là một cơ hội tuyệt vời. Hơn nữa, đây cũng là dịp để chúng tôi có thể bày tỏ lòng trung thành và trên hết là tình yêu của chúng tôi đối với Đức Thánh Cha, bởi vì người Nga yêu mến Đức Thánh Cha. Đây chính là lý do thúc đẩy chúng tôi đi hành hương để gặp Đức Thánh Cha”.
Đức cha José Luis Mumbiela Sierra, Giám mục Giáo phận Chúa Ba Ngôi ở Almaty và là Chủ tịch Hội đồng Giám mục Trung Á nói với Vatican News: “Chúng ta không phải là những người hành hương để tìm kiếm một sự hiệp nhất không thể đạt được nhưng là những nhân chứng của một sự hiệp nhất đã sống trong tâm hồn chúng ta, bởi vì Thiên Chúa duy nhất ngự trong tâm hồn chúng ta và sai chúng ta đến để tất cả những ai đã được tạo dựng theo hình ảnh và giống như Người đều có thể hưởng cuộc sống và tình yêu Người”.
Ngọc Yến - Vatican News
Tiếp kiến chung 17/8: Tuổi già đảm bảo đích đến của sự sống
Bài đọc sách thánh trước bài giáo lý được trích từ sách tiên tri Đa-ni-en.
Tôi đang nhìn
thì thấy đặt những chiếc ngai
và một Đấng Lão Thành an toạ.
Áo Người trắng như tuyết,
tóc trên đầu Người
tựa lông chiên tinh tuyền.
Ngai của Người toàn là ngọn lửa,
bánh xe của ngai
cũng rừng rực lửa hồng.
Từ trước nhan Người,
một sông lửa cuồn cuộn chảy ra.
Ngàn ngàn hầu hạ Người,
vạn vạn túc trực
trước Thánh Nhan.
Toà bắt đầu xử,
sổ sách được mở ra.(Đn 7,9-10)
Bài giáo lý của Đức Thánh Cha.
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Những lời trong giấc mơ của Đa-ni-ên, mà chúng ta đã nghe, gợi lên một thị kiến về Thiên Chúa vừa huyền bí vừa rực sáng. Thị kiến này được lặp lại ở phần đầu của sách Khải Huyền và đề cập đến Chúa Giêsu Phục Sinh, Đấng đã hiện ra với Thị nhân với tư cách là Mêsia, Tư tế và là Vua, vĩnh cửu, toàn tri và bất biến (1,12-15). Người đặt tay lên vai của Thị nhân và trấn an: “Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống. Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời” (câu 17-18). Rào cản cuối cùng về nỗi sợ hãi và thống khổ đã gợi nên trong cuộc thần hiện biến mất như thế: Đấng Hằng sống trấn an chúng ta, ban cho chúng ta sự an toàn. Người đã chết, nhưng giờ đây Người hiển trị nơi dành cho Người: Người là Khởi nguyên và Tận cùng.
Trong sự đan xen các biểu tượng này, có một khía cạnh có lẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về mối liên hệ của sự thần hiện này với vòng đời, thời gian của lịch sử, vương quyền của Thiên Chúa đối với thế giới thụ tạo. Và khía cạnh này liên quan đến tuổi già.
Thị kiến cho thấy ấn tượng về sức sống và sức mạnh, sự cao quý, vẻ đẹp và sự quyến rũ. Trang phục, đôi mắt, giọng nói, đôi chân, mọi thứ đều lộng lẫy trong thị kiến đó. Đó là một thị kiến! Tuy nhiên, tóc của người ấy trắng như len, như tuyết. Giống như của một người già. Thuật ngữ Kinh thánh phổ biến nhất để chỉ người cao tuổi là “zaqen”, xuất phát từ từ “zaqan”, có nghĩa là “râu”. Tóc trắng là biểu tượng lâu đời của một thời gian sống rất dài, một quá khứ xa xưa, một sự tồn tại vĩnh cửu. Chúng ta không được coi thường những biểu tượng này: hình ảnh một vị Thần cổ đại với mái tóc trắng không phải là một biểu tượng ngớ ngẩn, đó là một hình ảnh trong Kinh thánh, đó là một hình ảnh cao quý và cũng là một hình ảnh dịu dàng. Nhân vật ở giữa các cây đèn vàng trong Sách Khải Huyền gợi nên Đấng Lão Thành trong lời tiên tri của Đa-ni-ên. Đấng ấy già như toàn thể nhân loại và thậm chí còn hơn thế nữa. Đấng ấy cổ xưa và mới mẻ như sự vĩnh cửu của Thiên Chúa. Bởi vì sự vĩnh cửu của Thiên Chúa là như vậy, cổ kính và mới mẻ, bởi vì Thiên Chúa luôn làm chúng ta ngạc nhiên với sự mới mẻ của Người, luôn đến gặp chúng ta, mỗi ngày một cách đặc biệt, vào đúng khoảnh khắc đó, cho chúng ta. Người luôn luôn đổi mới: Thiên Chúa là vĩnh cửu, Người luôn luôn là như vậy.
Trong các Giáo hội Đông phương, lễ Gặp gỡ Chúa được mừng vào ngày 2 tháng Hai, là một trong mười hai đại lễ của năm Phụng vụ. Nó làm nổi bật cuộc gặp gỡ của nhân loại, được đại diện bởi các cụ Simeon và Anna, với Chúa Kitô Hài nhi, Con vĩnh cửu của Thiên Chúa làm người. Một biểu tượng đẹp này có thể được chiêm ngưỡng ở Roma trong các bức tranh khảm của nhà thờ Santa Maria ở Trastevere.
Trong phụng vụ Byzantine, giám mục cầu nguyện với cụ Simeon: “Đây là Đấng đã được sinh ra bởi Đức Trinh Nữ: Người là Ngôi Lời, Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Đấng vì chúng ta đã nhập thể và đã cứu độ con người”. Và tiếp: “Hôm nay xin hãy mở cửa trời: Lời vĩnh cửu của Chúa Cha, mặc lấy sự thế tạm mà không đánh mất thần tính, được Mẹ Đồng Trinh dâng tiến vào đền thờ theo Luật và được cụ già bồng ẵm trên tay”. Những lời này diễn tả lời tuyên xưng đức tin của bốn Công đồng Đại kết đầu tiên, là những thánh Công đồng đối với tất cả các Giáo hội. Nhưng cử chỉ của cụ Simeon cũng là biểu tượng đẹp nhất cho ơn gọi đặc biệt của tuổi già, nhìn cụ Simeon chúng ta nhìn biểu tượng đẹp nhất của tuổi già: dâng trẻ em đến trong thế giới này như một món quà không gián đoạn của Thiên Chúa, biết rằng một trong số trẻ em này là Người Con sinh ra từ trong chính cung lòng Thiên Chúa, từ trước muôn đời.
Trên đường tiến đến một thế giới nơi tình yêu, mà Thiên Chúa đặt ở tạo vật, sẽ cuối cùng toả sáng mà không gặp trở ngại nào, tuổi già phải thực hiện cử chỉ này của Simeon và Anna, trước khi từ biệt. Tuổi già phải mang lại chứng tá cho trẻ em về phúc lành của họ, đây là tâm điểm của tuổi già: nó đi từ sự khởi đầu - đẹp đẽ và khó khăn – đến mầu nhiệm của một đích đến trong cuộc sống mà không ai có thể tiêu diệt được, ngay cả cái chết. Làm chứng về đức tin trước mặt trẻ em là gieo mầm sự sống; Làm chứng về con người và đức tin là ơn gọi của người cao tuổi. Chúng ta, những người già, được kêu gọi để làm điều này, làm chứng tá, bởi vì chứng tá này giúp cho họ tiến bước.
Lời chứng của người cao tuổi thì đáng tin cậy đối với trẻ em: người trẻ và người lớn không thể làm cho lời chứng này chân thực, dịu dàng, thấm thía như người già, ông bà có thể làm. Khi người lớn tuổi chúc lành cho cuộc sống mà họ đã từng nếm trải, trút bỏ mọi oán hận cho cuộc sống đang qua đi, thì điều đó thật sự thuyết phục. Không cay đắng vì thời của mình đã qua và phải ra đi, không. Nhưng là cho đi niềm vui của rượu ngon được tạo nên bởi thời gian. Lời chứng của người cao tuổi gắn kết các thế hệ và các chiều kích thời gian: quá khứ, hiện tại và tương lai. Thật đau đớn - và tai hại - khi thấy rằng các thế hệ bị xem như là những thế giới tách biệt, cạnh tranh nhau, tìm cách sống bằng cái giá phải trả của người khác. Nhân loại thì cổ, rất cổ, nếu chúng ta nhìn theo đồng hồ thời gian. Nhưng Con Thiên Chúa, Đấng sinh ra bởi một người phụ nữ, là Khởi Nguyên và Tận Cùng của mọi thời. Nghĩa là không ai bị rơi ra khỏi sự vĩnh cửu của Người, khỏi sức mạnh tuyệt đối của Người, khỏi sự gần gũi yêu thương của Người.
Sự liên minh của người già và trẻ em sẽ cứu lấy gia đình nhân loại. Nơi nào trẻ em, người trẻ nói chuyện với người già, thì nơi đó có tương lai. Ngược lại, nếu không có sự đối thoại giữa người già và người trẻ thì tương lai không rõ ràng. Liên minh của người già và trẻ em sẽ cứu gia đình nhân loại. Liệu chúng ta có thể trả lại cho trẻ em, những người phải học cách sinh ra, chứng tá dịu dàng của những người lớn tuổi, những người sở hữu sự khôn ngoan về cái chết không? Liệu nhân loại này, với tất cả sự tiến lên của nó tưởng chừng như đứa trẻ mới sinh hôm qua, có thể lấy lại được ân sủng của một tuổi già dừng lại ở chân trời đích đến của chúng ta không? Cái chết chắc chắn là một bước nhảy khó khăn của cuộc sống: nhưng cũng là bước nhảy khép lại thời gian bất định và không còn cần đến đồng hồ. Bởi vì vẻ đẹp của một cuộc sống không có hạn sử dụng bắt đầu ngay lúc đó. Nhưng nó bắt đầu từ sự khôn ngoan của người lớn tuổi, những người có khả năng cho người trẻ những chứng tá. Chúng ta hãy nghĩ về đối thoại, về liên minh của người già và trẻ em, người già và người trẻ, và chúng ta đảm bảo rằng mối liên kết này không bị đứt đoạn. Ước chi người già có được niềm vui được nói, được diễn tả mình cho người trẻ và ước chi người trẻ tìm đến người già để nhận được nơi họ sự khôn ngoan của cuộc sống.
Cuối buổi tiếp kiến, ĐTC chào thăm các nhóm tín hữu đến từ các nước, ngài cùng đọc Kinh Lạy Cha với các tín hữu và ban phép lành cho mọi người.
Nguồn: Vatican News
Giáo hội Công giáo tại Thánh địa liên đới với Chính thống Copte Ai Cập
Giáo hội Công giáo tại Thánh địa liên đới với Giáo hội Chính thống Copte Ai Cập trong vụ hỏa hoạn hôm 13 tháng Tám vừa qua, tại Nhà thờ Abu Seifein ở Imbaga, thuộc tỉnh Giza gần thủ đô Cairo, làm cho ít nhất 41 người chết và 16 người bị thương.
Trong số các nạn nhân thiệt mạng, có ít nhất 15 trẻ em. Nhiều tín hữu bị thương khi nhảy từ cửa sổ của các lầu trên của nhà thờ này, gồm bốn lầu. Bộ trưởng y tế của Ai Cập nói rằng khói và sự chen lấn đè bẹp nhau khiến nhiều người bị tử vong hoặc bị thương.
Trong thông cáo ngày 14 tháng Tám vừa qua, các vị Bản quyền Công giáo tại Thánh địa, đứng đầu là Đức Thượng phụ Pierbattista Pizzaballa của Giáo hội Công giáo Latinh Jerusalem, bày tỏ đau buồn khi hay tin về vụ hỏa hoạn trầm trọng này và Hội đồng càng đau buồn hơn vì con số cao các nạn nhân bị thiệt mạng và bị thương. Các vị cũng viết rằng:
“Chúng tôi cầu xin Chúa ban ơn an nghỉ cho linh hồn những người chết trong hỏa hoạn và cho những người bị thương mau bình phục. Chúng tôi cũng gửi lời chia buồn với Đức Thượng phụ Tawadros II, Giáo chủ Chính thống Alessandria và gia đình các nạn nhân”.
Nhiều vị lãnh đạo Công giáo Âu Mỹ và Hồi giáo Ai Cập đã bày tỏ tình liên đới với Giáo hội Chính thống Copte Ai Cập. Đặc biệt đại Imam Ahmed Al-Tayyeb, của Đền thờ Hồi giáo và Đại học Al-Azhar ở Cairo, đã ra lệnh cho vị thủ quỹ của tổ chức này xuất tiền để cứu trợ khẩn cấp cho gia đình các nạn nhân, đồng thời bệnh viện của Đại học Al Azhar sẵn sàng chữa trị cho các nạn nhân, cả về mặt tâm lý.
Imam Al-Tayyeb là vị đã ký với Đức Thánh cha Phanxicô Tuyên ngôn về tình huynh đệ nhân loại, hồi tháng Hai năm 2019 tại Abu Dhabi.
Theo cuộc điều tra sơ khởi của cảnh sát địa phương, hỏa hoạn xảy ra tại nhà thờ là vì chạm điện.
Giáo hội Chính thống Copte là một Giáo hội Chính thống Đông phương, tách khỏi Công giáo sau Công đồng chung Calcedonia năm 451 và hiện chiếm khoảng 10% dân số Ai Cập.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Hành hương toàn quốc tại Lộ Đức
Sau gần hai năm bị hạn chế vì đại dịch, Trung tâm Thánh Mẫu Lộ Đức bây giờ lại nhộn nhịp với các tín hữu hành hương.
Nổi bật nhất là cuộc hành hương toàn quốc lần thứ 149 do các cha dòng Đức Mẹ Mông Triệu tổ chức, từ ngày 11 đến 16 tháng Tám năm 2022 với cao điểm là Lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên trời, ngày 15 tháng Tám. Hơn 15.000 tín hữu đã tham dự cuộc hành hương này, trong đó có 450 bệnh nhân.
Cha Jean-Xavier Salefran, Phó quản đốc Đền thánh Lộ Đức, nói rằng “Làn sóng các tín hữu hành hương cho thấy chúng ta đang phục hồi sau thời đại dịch, khi mà, lần đầu tiên trong lịch sử 162 năm của Đền thánh, hồi tháng Ba năm 2020, Trung tâm Thánh Mẫu Lộ Đức phải đóng cửa không đón nhận các tín hữu hành hương. Đó thực là một thời kỳ khó khăn đối với mỗi người. Nay các tín hữu bắt đầu trở lại đây, nhưng chúng ta vẫn chưa đạt được con số thời trước đại địch”.
Trước đại dịch, mỗi năm có khoảng ba triệu rưỡi tín hữu hành hương tại Lộ Đức. Năm 2020, chỉ có 800.000 người. Năm ngoái, số tín hữu không vượt quá một triệu 600.000 người.
Cuộc hành hương toàn quốc năm nay tại Lộ Đức có chủ đề là: “Cùng với Mẹ Maria, chúng ta hãy trở nên chứng nhân hy vọng”.
Trong cuộc hành hương, cũng có các nhóm hành hương người Ucraina và trong các ý nguyện, các tín hữu đã đặc biệt cầu nguyện cho hòa bình tại đất nước này.
Đền thánh Đức Mẹ Lộ Đức có ngân sách khoảng 30 triệu Euro mỗi năm, hoàn toàn do các tín hữu hành hương dâng cúng, trong đó ba phần tư được dành để trả lương cho 320 nhân viên. Số người này chịu “thất nghiệp” một phần trong khoảng thời gian từ tháng Chín đến tháng Sáu, vì số tín hữu hành hương giảm sút trong những tháng đó.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Tổng Giám mục Virgilio do Carmo da Silva: nhà giáo cho đất nước trẻ Đông Timor
cath.ch, I.Media, 2022-08-12
Tổng Giám mục Virgilio do Carmo da Silva, 54 tuổi, giáo phận Dili ở Đông Timor sẽ được phong hồng y ngày 27 tháng 8 – 2022 | wikimedia commons CC-BY-SA-2.0
“Khi biết tin, tôi bị sốc đến mức gần ngất xỉu”. Đó là phản ứng của giám mục Virgilio do Carmo da Silva, giáo phận Dili khi ngài nghe tin mình sẽ là hồng y đầu tiên của Đông Timor. Với việc phong hồng y này, quần đảo Đông Nam Á nhỏ bé với 1,3 triệu dân, có khoảng 97% là người công giáo, tiến thêm một bước nữa để ra với thế giới, sau một lịch sử đầy chông gai và chiến đấu cho độc lập gần đây.
Giám mục Virgilio do Carmo da Silva nói trong cuộc họp báo ngày thứ ba, 30 tháng 5 sau khi biết tin ngài sẽ được phong hồng y: “Tôi tin Đức Phanxicô không làm điều này cho tôi mà cho Giáo hội và người dân Đông Timor. Giáo hội và người dân Đông Timor xứng đáng nhận được ơn và sự công nhận này từ Thiên Chúa, ở một nước mà Tin Mừng đến cách đây 500 năm và tổ chức kỷ niệm 20 năm độc lập ngày 20 tháng 5”.
Sinh năm 1967 tại thành phố Venilale, giám mục Virgilio do Carmo da Silva học tại các trường do Hiệp hội Thánh Phanxicô Salêdiêng, Don Bosco điều hành. Sau đó ngài vào dòng này, khấn lần đầu năm 1990 và khấn trọn năm 1997. Ngài chịu chức ngày 18 tháng 12 năm 1998.
Trong thời gian đầu làm linh mục, ngài dành thời gian để đào tạo các tập sinh và điều khiển các trường Salêdiêng ở Đông Timor, và cùng lúc này, từ năm 2005 đến năm 2007 ngài đi Rôma để lấy bằng linh đạo tại Đại học Giáo hoàng Salêdiêng. Sau đó ngài về lại quê hương và năm 2015 ngài được bầu làm Bề trên Tỉnh dòng Salêdiêng Đông Timor và Indonesia. Một năm sau, ngày 18 tháng 3 năm 2016, Đức Phanxicô bổ nhiệm ngài làm giám mục Dili, thủ đô của Đông Timor, tiếp đó Dili được nâng lên hàng tổng giáo phận và ngài là tổng giám mục năm 2019. Hồng y tương lai cũng là phó chủ tịch Hội đồng Giám mục Timorese.
Tháng 8, giám mục Virgilio do Carmo da Silva, 54 tuổi, sẽ là hồng y trẻ thứ hai, sau giám mục người Ý Giorgio Marengo, 48 tuổi, Tông tòa Ulaanbaatar (Mông Cổ).
Một đất nước trẻ, công giáo và gần với Giáo hội
Đông Timor là quốc đảo trẻ có nguồn gốc công giáo mạnh mẽ. Từ thế kỷ 17 đến năm 1975, quốc gia nhỏ bé này dưới quyền cai trị của Bồ Đào Nha, họ mang đạo công giáo đến với người dân. Năm 1975, quốc gia được độc lập, nhưng sau đó bị nước láng giềng Indonesia xâm lược, dẫn đến nhiều năm bạo lực xung đột giữa quân đội và các nhóm ly khai.
Giáo hội công giáo đóng vai trò quan trọng trong thời kỳ này để giúp người dân Timor, đặc biệt dưới sự lãnh đạo của giám mục Carlos Ximenes Belo, Giám quản Tông Tòa Dili, ngài công khai lên án các lực lượng Indonesia chiếm đóng đất nước và kêu gọi cuộc kháng chiến bất bạo động. Năm 1996, ngài nhận giải Nobel Hòa bình cho những nỗ lực của mình cùng với chính trị gia José Ramos-Horta, hiện ông là tổng thống của đất nước.
Thêm nữa, năm 1989, Đức Gioan-Phaolô II có chuyến đi gây tranh cãi tới đất nước này, lần đầu tiên ngài đưa việc Indonesia chiếm đóng Đông Timor ra chính trường quốc tế. Ngài lên án các hành vi vi phạm nhân quyền mà không nêu rõ ràng đó là các lực lượng Indonesia, ngài thận trọng không có cử chỉ nào để khẳng định chủ quyền của Đông Timor. Vatican ủng hộ các các giám mục, linh mục địa phương nhưng vẫn chính thức trung lập về vấn đề độc lập.
Hơn 5.000 giáo dân tham dự thánh lễ do giám mục Virgilio do Carmo da Silva cử hành năm 2019 để kỷ niệm 30 năm chuyến tông du của Đức Gioan-Phaolô II. Sau đó một giám mục đã tuyên bố, chuyến tông du của Đức Gioan-Phaolô II “là thời điểm thế giới bắt đầu biết về cuộc đấu tranh giành độc lập của người Timor”. Khi Đức Gioan-Phaolô II qua đời, Đông Timor đã cử hành quốc tang ba ngày.
Cuối cùng Liên Hiệp Quốc bảo trợ cuộc trưng cầu dân ý về độc lập dẫn đến việc Indonesia rút quân năm 1999. Hiến pháp có hiệu lực năm 2002 nêu rõ “nhà nước công nhận và đánh giá cao sự tham gia của Giáo hội công giáo trong quá trình giải phóng dân tộc”.
Tập trung vào giáo dục và ổn định trong thời hậu độc lập
Chính trong bối cảnh đó, giám mục Virgilio do Carmo da Silva lớn lên và đã định hướng cuộc đời ngài cho đến ngày hôm nay, trong khi đất nước mong manh này vẫn bị tình trạng chia rẽ in dấu mạnh, cố gắng tìm cách là một quốc gia độc lập. Giống như các vị tiền nhiệm của ngài, ngài duy trì mối quan hệ chặt chẽ với nhà nước.
Tổng thống Ramos-Horta và Thủ tướng Taur Matan Ruak đã nhanh chóng chúc mừng giám mục khi biết ngài sắp được phong hồng y. Nghị viện cũng ra thông báo chúc mừng, cho rằng đây là “giây phút lịch sử” của đất nước và là nguồn “tự hào của người dân Đông Timor”.
Cơ bản là nhà giáo, giám mục Virgilio do Carmo da Silva hợp tác chặt chẽ với Nhà nước để nâng cao chất lượng giáo dục và các cơ hội giáo dục của đất nước. Hơn nữa, vì Đông Timor là quốc gia rất trẻ, năm 2020 tuổi trung bình của người dân là 20,8 nên tân hồng y nhấn mạnh đến sự cần thiết phải giáo dục và đào tạo người trẻ trong đức tin công giáo.
Tháng 12 năm 2021, ngài khánh thành trường Đại học công giáo đầu tiên trong nước vinh danh Đức Gioan-Phaolô II, thực hiện mục tiêu lâu dài của tổng giáo phận. Ngài tuyên bố: “Đại học công giáo Timor phải ở tầm cao thế giới trong tất cả các lĩnh vực nỗ lực của con người, cảm hứng từ các truyền thống trí tuệ, đạo đức và tâm linh công giáo.”
Tháng 5 năm 2022, giám mục Virgilio do Carmo da Silva có mặt trong buổi gia hạn một thỏa thuận giữa Giáo hội và chính phủ Đông Timor, trong đó có phần công quỹ hỗ trợ cho công việc và hoạt động của Giáo hội. Theo hãng tin UCA News, năm 2022, chính phủ đã cấp 15 triệu đô la cho Giáo hội, 50% trong số đó là để hỗ trợ các mục tiêu giáo dục.
Dù có mối quan hệ thân thiết với nhà nước, tổng giám mục giáo phận Dili cũng không ngại lên tiếng trong các tiến trình chính trị vốn không phải lúc nào cũng suôn sẻ ở quốc gia non trẻ đang phát triển. Trong cuộc bầu cử tháng 4 năm 2022, ngài kêu gọi tổng thống tương lai “giữ lời hứa bầu cử của mình để người dân không mất lòng tin” và “gần gũi với người dân không chỉ trong chiến dịch tranh cử mà còn trong ý thức phải biết khó khăn mà người công dân gặp phải”. Ngài nói thêm: “Chúng ta phải tôn trọng Hiến pháp và tăng cường kỷ luật để đất nước chúng ta là một xã hội hòa bình, thịnh vượng và dân chủ.”
Một chuyến thăm có thể có của Giáo hoàng?
Đức Phanxicô dự kiến thăm Đông Timor, Indonesia và Papua New Guinea tháng 9 năm 2020. Chuyến đi chưa bao giờ được công bố chính thức nhưng không có lý do nào được đưa ra về việc hủy bỏ, đại dịch được cho là lời giải thích khả dĩ nhất.
Tuy nhiên, trong một phỏng vấn với hãng tin Argentina Telam tháng 10 năm 2021, Đức Phanxicô nói ngài muốn “giải quyết nợ chưa thanh toán cho chuyến đi Papua New Guinea và Đông Timor”. Nhưng chuyến đi Đông Timor dường như không nằm trong chương trình nghị sự, Đức Phanxicô 85 tuổi bị đau đầu gối sẽ có chuyến đi ở các quốc gia khác trong những tháng tới.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Caritas Ý tiếp tục giúp đỡ những người tị nạn Ucraina
Theo số liệu của Liên Hiệp Quốc, sau sáu tháng chiến tranh, 15,7 triệu người Ucraina cần hỗ trợ nhân đạo, 9,1 triệu người tị nạn và 6,6 triệu người phải di dời. Theo UNICEFÝ, ít nhất 5,2 triệu trẻ vị thành niên dưới 18 tuổi đang cần hỗ trợ, trong đó ba triệu người vẫn đang ở trong nước.
Cha Marco Pagniello, giám đốc Caritas Ý, mong ước hoà bình cho Ucraina. Cha cho biết: “Việc gây quỹ cho các can thiệp nhân đạo của Caritas không phải là cách duy nhất mà mỗi chúng ta có thể đóng góp. Cần phải sát cánh cùng các cộng đồng Ucraina bằng cách chia sẻ cây thánh giá với họ.”
Cũng trong tinh thần này, Caritas Ý đã đáp ứng lời kêu gọi của hai Caritas Ucraina để tổ chức một kỳ nghỉ hè liên đới cho 192 trẻ dễ bị tổn thương trong độ tuổi từ 1-18 tại hai vùng Lombardia và Toscana của Ý. Monia Copes, người điều hành việc đón tiếp tại giáo phận Como cho biết: “Nhiều em mất cha mẹ và gia đình hoặc không có tin tức gì về gia đình ở quê nhà. Mục đích của kỳ nghỉ này là tạo cho các em cảm nhận được những giây phút thanh thản và an toàn.”
Văn Yên, SJ - Vatican News
Đại hội của Hiệp hội Truyền thông Công giáo thế giới (Signis)
Trong những ngày này, từ 15 đến 18 tháng Tám năm 2022, Hiệp hội Truyền thông Công giáo, gọi tắt là Signis, đang tiến hành tại Hán Thành (Seoul), thủ đô Hàn Quốc, về chủ đề: “Hòa bình trong thế giới kỹ thuật số”, với sự tham dự của khoảng 300 người đến từ 31 quốc gia năm châu.
Hiện diện tại buổi khai mạc, như một chủ tịch danh dự, cũng có Đức Tổng giám mục Phêrô Trịnh Thuần Trạch (Chung Soon-taick), Tổng giám mục giáo phận Hán Thành sở tại.
Trong diễn văn khai mạc, ông Paolo Ruffini, Bộ trưởng Truyền thông của Tòa Thánh, kêu gọi giới truyền thông hãy thay đổi tâm thức, “không coi thế giới kỹ thuật số là điều đã được làm sẵn rồi, nhưng chúng ta có thể thay đổi, làm cho nó trở nên tốt hay xấu... kiến tạo một thế giới mạng có năng lực giải thoát, mang lại tự do, thay vì hợp thức hóa một mạng cầm tù mọi sự”.
Ông Ruffini cũng nhận xét về một điều nghịch lý trong thời đại ngày nay, đó là người ta nối mạng, vào mạng rất nhiều, nhưng có bao nhiêu người cô độc... Thế giới ngày nay được xây dựng trên truyền thông, đả thông, nhưng cũng là nạn nhân của sự thiếu cảm thông, trao đổi”. Một cám dỗ liên tục con người gặp phải là “nuôi ảo tưởng mình có thể tách biệt định mệnh của bản thân với người khác, thậm chí tách biệt trí tuệ với chính cái hồn của chúng ta”.
Theo Bộ trưởng Ruffini, các nhà truyền thông không nên hài lòng với mô hình kỹ thuật chuyên môn. “Trong tư cách là Giáo hội, chúng ta có nghĩa vụ hiểu cần làm gì để làm cho tương lai chúng ta được tốt đẹp hơn, làm cho kỹ thuật được liên kết với luân lý đạo đức, thấm nhiễm tinh thần nhưng không, trao tặng, sự chia sẻ là tinh thần thiêng liêng linh hoạt chúng ta. Chúng ta có nghĩa vụ làm chứng rằng thật là đẹp khi được làm thành phần của một cộng đoàn... Khi nhìn nhận chúng ta là những chi thể của nhau, cống hiển trang mạng của chúng ta như một nơi mà con người có thể thực sự gặp gỡ nhau, chúng ta có thể làm chứng về một cách thức khác để sống thời đại chúng ta dựa trên sự trao tặng hơn là tiêu thụ, trên tình liên đới hơn là thị trường, chia sẻ hơn là loại trừ”.
Trong tháng trước đây, ngày 18 tháng Bảy vừa qua, Đức Thánh cha Phanxicô cũng đã gửi sứ điệp cho các thành viên Hiệp hội Truyền thông Công giáo, trong tiến trình đến gần đại hội hiện nay, qua đó ngài khuyến khích họ hãy giúp quần chúng phân biệt chân giả trong lãnh vực truyền thông kỹ thuật số ngày nay, đồng thời phục vụ sự đối thoại và cảm thông giữa các cá nhân và cộng đoàn để xây dựng sự sống chung hòa bình.
Đức Thánh cha viết: “Với đại hội này, Hiệp hội “Signis” có thể giữ một vai trò quan trọng bằng việc giáo dục qua truyền thông, liên kết các phương tiện Công giáo và chống lại những dối trá và tin tức xuyên tạc. Tôi khuyến khích anh chị em kiên trì trong những nỗ lực ấy, đặc biệt quan tâm đến nhu cầu cần giúp đỡ dân chúng, nhất là những người trẻ, phát triển một cảm thức phê bình lành mạnh, học cách phân biệt chân giả, phải và trái, điều thiện và điều ác, cũng như đánh giá cao tầm quan trọng của hoạt động cho công bằng, hòa hợp xã hội và tôn trọng căn nhà chung của chúng ta. Tôi cũng khích lệ anh chị em để ý đến nhiều cộng đoàn trên thế giới còn bị gạt bỏ khỏi không gian kỹ thuật số, coi sự bao gồm kỹ thuật số mà một ưu tiên trong kế hoạch tổ chức của anh chị em. Làm như thế, anh chị em đóng góp nhiều vào việc phổ biến nền văn hóa hòa bình, dựa trên sự thật của Tin mừng”.
Hiệp hội “Signis”, được thành lập hồi tháng Mười Một năm 2001, qui tụ tất cả các ngành truyền thông Công giáo, từ báo chí, tới phát thanh, truyền hình, điện ảnh, Internet và các hình thức kỹ thuật truyền thông mới. Hiệp hội này đã được Tòa Thánh chính thức nhìn nhận.
G. Trần Đức Anh, O.P. | RVA
Nguồn: Đài Chân Lý Á Châu
Lộ Đức tìm lại du khách và khách hành hương của mình
Lộ Đức vẫn là một trong những nơi hành hương được yêu chuộng nhất của khách hành hương vùng nói tiếng Pháp. Flickr / Andy Hay / CC BY 2.0)
cath.ch, Maurice Page, 2022-08-14
Năm 2022, thành phố Đức Mẹ Lộ Đức sẽ tìm lại một số du khách và khách hành hương của mình, sau khi hứng chịu toàn bộ ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng sức khỏe, làm cho hoạt động của Trung tâm bị đình trệ vài tháng trong hai năm 2020 và 2021.
Báo La Croix đưa tin, nếu năm 2022 là năm hứa hẹn tốt hơn, nhưng việc trở lại sinh hoạt bình thường như trước Covid vẫn còn chưa chắc chắn ở thành phố khách sạn thứ hai của Pháp.
Thành phố Đức Mẹ đã phải chịu đựng toàn bộ gánh nặng của cuộc khủng hoảng sức khỏe. Lần đầu tiên trong lịch sử, Đền thánh Đức Mẹ, nơi thu hút và nguồn lực kinh tế chính của thành phố đã phải đóng cửa vào tháng 3 năm 2020 trong lần cách ly đầu tiên. Ông David Torchala, giám đốc truyền thông của Đền thánh tóm tắt: “Vào năm 2020, chúng tôi đã mất 90% lượng người tham dự.” Các khách sạn và nhà hàng được nhà nước giúp đỡ cho đến nay cũng ghi nhận như vậy.
Du khách dần dần quay về
Dần dần, du khách quay về, khi các hạn chế về sức khỏe và biên giới được dỡ bỏ, các cuộc hành hương được tổ chức tiếp tục. Năm ngoái, thánh địa đã đón 1,6 triệu du khách, so với hơn ba triệu trước khi xảy ra khủng hoảng. Năm nay, 670.000 du khách và khách hành hương đã về lại Lộ Đức.
Ít các tổ chức hành hương hơn
Tuy nhiên, hoạt động của thành phố Đức Mẹ chưa hoàn toàn trở lại như trước. Trước hết, các khách hành hương nước ngoài chưa quay trở lại và Covid-19 tiếp tục ngăn chặn một số, nhiều người trong số này bị bệnh, bị khuyết tật hoặc yếu ớt vì thế họ sẽ gặp rủi ro khi đi xa. Ngoài ra bối cảnh kinh tế hiện tại không có lợi cho việc trở lại bình thường.
Ngoài khía cạnh sức khỏe và kinh tế, chính mô hình của cuộc hành hương cũng thay đổi. Linh mục Jean-Xavier Salefran, phó giám đốc Đền thánh cho biết: “Chúng tôi quan sát thấy có những thay đổi trong cách du khách đến Lộ Đức. Họ di theo nhóm nhỏ bạn bè, gia đình hoặc cùng giáo xứ. Một thay đổi không còn phù hợp với mô hình kinh tế của thành phố mà từ 150 năm nay dựa vào các cuộc hành hương được tổ chức ở quy mô lớn.
Lộ Đức, trái tim của dãy núi Pyrenees
Người dân ít giữ đạo hơn và họ tự tổ chức chuyến đi của mình, họ đặt phòng trên Internet. Thêm nữa du khách chỉ đến Lộ Đức một ngày và không ở lại đây. Vì thế từ đầu năm đã có 1,6 triệu ‘du khách đến chơi’ gần bằng số du khách của năm 2019.
Đối diện với sự phát triển này, thành phố đã phát triển một chiến lược mới để thu hút du khách hàng qua khẩu hiệu “Lộ Đức, trái tim của dãy núi Pyrenees”, cổ động Lộ Đức là nơi để từ đó leo núi, thu hút du khách đi bộ, đi xe đạp và ở lại thành phố.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Hồng y tương lai William Goh, nghệ nhân hòa hợp ở Singapore
cath.ch, I.Media, 2022-06-23
Tổng giám mục William Goh Seng Chye của Singapore sẽ được phong hồng y ngày 27 tháng 8 năm 2022 | catholic.sg
Tên của tổng giám mục William Goh Seng Chye không được mong chờ nhiều trong danh sách các tân hồng y được giáo hoàng bổ nhiệm vào ngày 29 tháng 5.
Ở Singapore, hòn đảo nhỏ bé nằm cuối bán đảo Mã Lai, ở cửa eo biển Malacca, vào thế kỷ 16, đạo công giáo đã đến đây cùng với các thương gia Bồ Đào Nha. Linh mục đầu tiên đến Singapore là vào năm 1821, sau đó linh mục Jean-Marie Beurel đến năm 1839, cha là nhà truyền giáo người Breton, bây giờ Giáo hội Singapore xem ngài là người sáng lập Giáo hội công giáo địa phương. Hai trăm năm sau, nước Cộng hòa nhỏ bé của Đông Nam Á sắp có tân hồng y là tổng giám mục William Goh Seng Chye đương nhiệm.
William Goh sinh năm 1957 tại Singapore trong gia đình công giáo giữ đạo. Ngài cho biết ơn gọi của ngài là do lòng đạo sốt sắng mẹ ngài, ngài còn nhớ cách bà sốt sắng lần chuỗi như thế nào khi ngài chỉ mới lên bốn. Năm mười hai tuổi, ngài bắt đầu lần hạt mân côi mỗi ngày, giữ lòng kính mến Đức Mẹ và suy gẫm Sách Thánh.
Một nhân viên ngân hàng thành linh mục
Cha mẹ ghi tên cho William vào học trường công giáo trên đảo, thanh niên William gia nhập Thanh sinh công, giúp lễ và đam mê với phụng vụ. Năm 1976, William học xong trung học, anh có ý định làm linh mục nhưng vẫn còn do dự. Sau khi thi hành nghĩa vụ quân sự, anh chọn làm việc cho ngân hàng Barclays của Anh. Anh làm việc ở đó hai năm và rất vui vẻ trong thời gian này, cùng lúc đời sống thiêng liêng và đức tin của anh tiếp tục phát triển. Nhưng lời kêu gọi làm linh mục quá mạnh và dù người cha phản đối, anh quyết định vào chủng viện địa phương ở Penang.
Năm 1985, ngài qua Rôma một năm để lấy bằng thần học tại Giáo hoàng Học viện Urbania, sau đó ngài về lại Singapore và thụ phong linh mục ngày 1 tháng 5. Sau đó, ngài trở lại Rôma để tiếp tục nghiên cứu thần học tín lý cũng tại Giáo hoàng Học viện Gregorian. Trở lại Singapore, ngài được giao trách nhiệm giảng dạy và huấn luyện tại đại chủng viện, ngài là trưởng khoa, kiểm sát viên và cuối cùng là giám đốc, chức vụ ngài giữ cho đến năm 2013. Năm 1995, ngài vào ủy ban thần học của ủy ban các hội đồng giám mục Châu Á.
Trong những năm này, ngài là linh hướng của trung tâm linh đạo giáo phận và của một số phong trào thanh niên và đặc sủng, một trong những niềm đam mê của ngài trong cương vị mục tử. Ngài cho biết giới trẻ công giáo Singapore “sinh động, sáng tạo và tràn đầy năng lực” và để phát triển, Giáo hội phải tìm cách hiểu nguyện vọng của họ.
Một giám mục cam kết đối thoại giữa các tôn giáo
Năm 2012, Đức Bênêđíctô XVI bổ nhiệm giám mục Goh làm giám mục phụ tá Singapore cho tổng giám mục Nicholas Chia Yeck Joo, người sẽ nghỉ hưu vào năm sau khi đến 75 tuổi. Giám mục William Goh sau đó là tổng giám mục thay thế tổng giám mục Joo và là giám mục thứ hai người Singapore đứng đầu giáo phận.
Tổng giám mục Goh quan tâm đến việc đầu tư vào văn hóa đối thoại giữa các tôn giáo, một nét đặc trưng của thành phố-Quốc gia nhằm thúc đẩy sự hòa hợp giữa các cộng đồng phật giáo, hồi giáo, lão giáo, ấn độ giáo, tin lành và công giáo địa phương. Kể từ năm 2014, ngài là một trong những đại diện chính thức của thành phố đối thoại với các cộng đồng này. Một ngày sau khi được phong giám mục năm 2013, trong cuộc họp có sự tham dự của các đại diện tôn giáo chính của Singapore, ngài than phiền cho sự thế tục hóa thế giới và sự trỗi dậy của chủ nghĩa thế tục, trách nhiệm cho sự phát triển của chủ nghĩa tương đối và vì thế tạo phân tán trong xã hội.
Vận động chống các vụ lạm dụng
Tại châu Á, giám mục Goh là một trong số ít giám mục lên tiếng công khai về vấn đề lạm dụng. Tháng 5 vừa qua, ngài đã xin lỗi cộng đồng công giáo sau vụ một linh mục trong giáo phận của ngài bị kết án lạm dụng hai trẻ vị thành niên, ngài kêu gọi “ý thức đến các thực tế”. Dưới sự điều hành của ngài, văn phòng độc lập phụ trách các vụ lạm dụng của giáo phận, đã có từ năm 2011, đã chuyển qua cho một giáo dân lãnh đạo năm 2018.
Cuối cùng, trong đời sống xã hội của đất nước, được Giáo hội công giáo hỗ trợ, giám mục Goh là một trong những người bảo vệ mạnh mẽ nhất cho việc bãi bỏ án tử hình ở Singapore, nơi án tử hình vẫn thường xuyên được tuyên bố, đặc biệt là trong các vụ buôn bán ma túy
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn
Giám mục Paulo Cezar Costa: Mục tử trẻ của thủ đô Brazil
cath.ch, I.Media, 2022-07-27
Hồng y tương lai Paulo Cezar Costa nhìn nhận: “Đúng là hoàn toàn ngạc nhiên!” | © Tổng giáo phận Brasilia
Trong một họp báo ngày 29 tháng 5 – 2022, sau khi biết mình có tên trong danh sách 20 tân hồng y sẽ được Đức Phanxicô phong ngày 27 tháng 8, giám mục Costa nói: “Trong đời tôi, tôi luôn muốn là người phục vụ.”
Kể từ khi được phong giám mục 11 năm trước, năm nay giám mục Costa 55 tuổi, ngài đã nhanh chóng thăng tiến trong hàng giám mục Brazil. Tháng 12 năm 2020, ngài cai quản tổng giáo phận Brasilia và luôn tìm cách thúc đẩy đối thoại, gần gũi với giáo dân của mình.
Ngài nhìn nhận: “Tôi hoàn toàn ngạc nhiên, tôi cảm nhận lòng tốt của Đức Phanxicô với Giáo hội Brazil và với giáo phận Brasilia. Tôi hết lòng biết ơn Đức Phanxicô, ngài đã chọn tôi.”
Tháng 8 năm nay, giám mục Costa sẽ là hồng y trẻ thứ ba, sau tân hồng y Giorgio Marengo, 48 tuổi, người đứng đầu Tông tòa Ulaanbaatar, Mông Cổ và tân hồng y Virgílio do Carmo da Silva, 54 tuổi, tổng giám mục Dili, Đông Timor. Cho đến lúc này, hồng y trẻ nhất là hồng y Dieudonné Nzapalainga, tổng giám mục Bangui, Cộng hòa Trung Phi, ngài 55 tuổi và vài tháng.
Một nhà giáo, một mục tử ngay từ đầu
Giám mục Costa sinh ngày 20 tháng 7 năm 1967 tại Valença, bang Rio de Janeiro. Chịu chức năm 1992, ngài học triết học và thần học ở Brazil, sau đó lấy bằng tiến sĩ tại Đại học Giáo hoàng Gregorian, Rôma năm 2001.
Trở về Brazil năm 2002, ngài làm quản xứ vài năm và từ năm 2006 đến năm 2010, ngài phục vụ trong ngành giáo và đào tạo các giáo sĩ tương lai, với tư cách là giám đốc chủng viện, giám đốc viện thần học và triết học, giám đốc và giáo sư khoa thần học Đại học Công giáo Giáo hoàng Rio de Janeiro. Năm 2010, khi mới 43 tuổi, ngài được Đức Bênêđíctô XVI phong giám mục phụ tá Tổng giáo phận São Sebastião do Rio de Janeiro, do hồng y Orani João Tempesta quản trị.
Trong chức vụ giám mục, ngài tiếp tục làm việc cho nhiều ủy ban và văn phòng khác nhau liên quan đến sinh viên và trường đại học, cùng các việc khác. Năm 2013, giám mục làm giám đốc quản trị Ngày Thế Giới Trẻ và đã gặp Đức Phanxicô trong chuyến tông du đầu tiên của ngài.
Giám mục giáo phận São Carlos
Năm 2016, giám mục Costa được bổ nhiệm làm giám mục giáo phận São Carlos, thuộc bang São Paulo, nơi có khoảng một triệu người công giáo. Ngài giữ chức vụ này cho đến năm 2020, trong những năm này ngài thành lập Tòa án Giáo hội, Ủy ban Bảo vệ Trẻ vị thành niên và Người dễ bị tổn thương, các linh mục đại diện giám mục, phong chức cho ít nhất tám linh mục và mở lại Chủng viện Propaedeutic.
Năm 2019, ngài và một trong các giám mục phụ tá của ngài đã nhận quyền công dân danh dự của thành phố công nhận tinh thần phục vụ cao cả của họ với cộng đồng. Trong thánh lễ tiễn ngài năm sau, một nữ giáo dân thay mặt cho giáo dân giáo phận São Carlos đã nói lên “lòng biết ơn sâu xa” với ngài vì ngài là mục tử nhân hậu giữa đàn chiên.
Ngài nói trong cuộc phỏng vấn với người có trách nhiệm truyền thông trong giáo phận ngày 1 tháng 6 – 2022: “Tôi đã cống hiến bốn năm bốn tháng cho São Carlos và tôi rất hạnh phúc được làm việc ở đây. Với tôi, São Carlos là trường học tuyệt vời, nơi tôi có thể đóng góp với tất cả những gì tôi có, đức tin và cuộc sống mà Giáo hội đã cho tôi. Nhưng ở đâu tôi cũng có thể học hỏi và trưởng thành rất nhiều.”
Thúc đẩy đối thoại trong môi trường chính trị căng thẳng
Được bổ nhiệm vào tháng 10 năm 2020, tháng 12 ngài về làm tổng giám mục Brasilia, gồm lãnh thổ của quận liên bang Brazil, thủ đô và vùng ngoại ô có khoảng hai triệu giáo dân. Trụ sở của Hội đồng Giám mục cũng ở Brasilia.
Giám mục Costa kế nhiệm hồng y Sergio da Rocha, từ năm 2020, hồng y là người đứng đầu Giáo hội Brazil với tư cách là tổng giám mục giáo phận São Salvador da Bahia. Kể từ khi giáo phận Brasilia được thành lập năm 1960, tất cả các tổng giám mục ngoại trừ người đầu tiên đều được bổ nhiệm hồng y.
“Xây dựng văn hóa gặp gỡ”
Ngày 21 tháng 10 năm 2020 là ngày ngài nhậm chức tổng giám mục, ngài tuyên bố với hãng tin Moteópoles: “Tôi khởi đi với mong muốn hội đủ các cơ quan quyền lực: hành pháp, lập pháp, tư pháp. Mong muốn đối thoại, xây dựng những gì mà Đức Phanxicô gọi là văn hóa gặp gỡ.”
Trong một đất nước ngày càng phân cực về chính trị, lại bị ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid (hơn 675.000 người chết) và Brazil vẫn còn gặp khó khăn kinh tế, mục tiêu của giám mục Costa không dễ đạt được. Tuy nhiên, ngài xem việc thúc đẩy đối thoại và lên tiếng trên quan điểm Giáo hội là điều cốt yếu trong sứ mệnh của mình.
Tháng 7 năm 2022, ngài nói với báo Jornal Opção: “Phân cực trở nên một cái gì có thể tiêu cực, khi mọi người trở nên sắc bén hơn trong quan điểm của mình và mất khả năng đối thoại. Nguy hiểm của phân cực là khi nó bám vào ý thức hệ hơn là nghĩ đến các vấn đề thực của người dân”, ngài xem đây là một trong những vấn đề chính trị ngày nay.
Theo dõi chiến dịch tranh cử tổng thống
Trong cuộc họp báo sau khi được tin ngài sẽ là hồng y, ngài đã đề cập đến ý tưởng này và hy vọng trong cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 10 sắp tới, các ứng cử viên sẽ đề xuất các giải pháp cụ thể vì lợi ích của người dân, thay vì dành thì giờ để thảo luận các ý thức hệ.
Dù ngài tuyên bố “Giáo hội không can thiệp vào chính trị của các đảng phái” nhưng giám mục Costa nhận thức rõ Brasilia là trung tâm điều hành đất nước và cho biết ngài không ngại giữ vững lập trường về những vấn đề mà giáo hội cho là quan trọng. Trong một cuộc phỏng vấn với O Estadão tháng 11 năm 2020, ngài nhìn nhận “không du di” đôi khi là cần thiết khi chúng ta ý thức được “điều tốt nơi con đường nhân bản”, ngài trích dẫn các vấn đề liên hệ đến sinh thái và bảo vệ vùng Amazon.
Ngài nói sau khi nghe tin ngài sẽ là hồng y vào tháng 5 -2022: “Còn rất nhiều việc ở phía trước. Công việc của tổng giáo phận Brasilia thân yêu của chúng ta và công việc phục vụ Giáo hội. Nhưng mọi thứ phải được thực hiện với niềm vui và tìm cách phục vụ trong niềm vui.”
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
Nguồn: phanxico.vn