Hình ảnh cuộc gặp gỡ trên đỉnh núi cao
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Những cuộc họp thượng đỉnh giữa chính phủ các quốc gia đất nước, giữa các khối liên hội đoàn…thường được tổ chức với những vị trách nhiệm đứng đầu ngày càng cần thiết, để cùng nhau thảo luận về một cung cách sinh hoạt chung với nhau, và giảm bớt như có thể những trái ngược gây ra hiểu lầm hay thiệt hại cho nhau!
Trong nếp sống tinh thần đức tin có cuộc gặp gỡ thượng đỉnh không?
Từ mấy thập niên nay, sau thời Công đồng Vaticanô 2. đã có những cuộc gặp gỡ liên tôn giáo giữa các vị chức sắc đứng đầu các tôn giáo trên bình diện các nước trên thế giới. Các Vị gặp nhau trong tình huynh đệ cùng nhau cầu nguyện chung, cùng tìm hiểu tôn trọng xích lại gần nhau, nhất là cùng xây dựng nếp sống hoà bình giữa nhau, dù có những khác biệt về niềm tin, về cung cách con đường thực hành niềm tin…
Ngày xưa Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, xuống trần gian làm người cũng đã có cuộc gặp gỡ ở trên đỉnh núi cao, ngọn núi Tabor bên nước Do Thái với hai vị chức sắc Thánh thời Cựu ước trước Chúa Giêsu, như kinh thánh viết thuật lại. ( Mt 17,1-8)
”Sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao.2 Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.3 Và bỗng các ông thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người.4 Bấy giờ, ông Phê-rô thưa với Đức Giê-su rằng: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.”
5 Ông còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”6 Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất.7 Bấy giờ, Đức Giê-su lại gần, chạm vào các ông và bảo: “Chỗi dậy đi, đừng sợ!”8 Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Đức Giê-su mà thôi.”
Phúc âm nói đến con số sáu “Sáu ngày sau”. Trong bài tường thuật về sáng tạo trời đất, thú vật, cây cỏ và con người, Thiên Chúa sáng tạo xây dựng công trình trong sáu ngày. Con số sáu là con số kinh thánh, và con người được Thiên Chúa tạo dựng nên vào ngày thứ sáu, ngày cao điểm của công trình sáng tạo thiên nhiên, và con người cũng là triều thiên cao điểm của công trình sáng tạo.
Sáu ngày trước cuộc gặp gỡ trên núi cao Tabor cùng với ba Tông đồ Phero, Giacobe và Gioan, Tông đồ Phero đã tuyên xưng đức tin với Chúa Giêsu ” Thầy là Đức kitô Con Thiên Chúa hằng sống!” ( Mt 16,16).
Như thế với thông tin về thời gian nói lên cuộc gặp gỡ biến hình của Chúa Giêsu quy hướng vào bản tính thiên chúa ( thiên tính) của Chúa Giêsu cùng nói lên sự linh thiêng cao cả.
Chúa Giêsu cùng với ba Tông đồ lên một ngọn núi cao. Phúc âm không nói đến tên ngọn núi, nhưng thời cựu ứơc đã nói đến tên ngọn núi Tabor ( sách Thẩm Phán 4-5) và Thánh Vịnh 89,13 đã nói đến ngọn núi Tabor là ngọn núi thánh của Thiên Chúa.
Ngay từ thế kỷ 4. sau Chúa Giêsu, khi nghiên cứu địa lý kinh thánh Đức giám mục Cyillo thành Jerusalem ( +386) đã qủa quyết ngọn núi Chúa Giêsu lên gặp gỡ biến hình là núi Tabor. Ngày nay đến hành hương lên núi Tabor cao 588 mét ở miền bắc nước Do Thái vùng Galiliee, có thánh đường lớn với ba khung cửa phía mặt tiền do Dòng Phanxicô xây dựng năm 1924 trên nền hoang tàn để nát dấu vết còn xót lại của những đền thờ, tu viện thời xa xưa đã xây dựng ở đây.
Ngọn núi cao xưa nay là hình ảnh nơi chốn gần gũi với Thiên Chúa. Trong cuộc đời Chúa Giêsu ở trần gian cũng đã sống trải qua nơi những ngọn núi: núi cám dỗ, núi bài giảng Tám mối phúc thật, núi Golgotha, nơi Ngài bị đóng đinh vào thập giá, và sau cùng cũng trở về trời từ đỉnh núi Sion.
Trên đỉnh núi khi biến hình áo của Chúa Giêsu trở nên trắng tinh sáng chói. Tấm áo mầu trắng nói lên sự trong sạch tinh tuyền cùng niềm vui mừng, ánh sáng mầu trắng trong thấu suốt.
Thánh Gioan tông đồ trong sách Khải Huyền trong những thị kiến trên trời đã nói đến ” Như thế, ai thắng sẽ được mặc áo trắng” (KH 3,5), “ Bấy giờ mỗi người trong số họ đã được lãnh một áo trắng…”. (Kh 6,11). Đó đây cũng bắt gặp hình tượng các vị Thiên Thần của Chúa có phẩm phục mầu trắng. Và ngày nhận lãnh làn nước Bí tích Rửa tội, em bé hay người lớn được rửa tội cũng khoác mặc áo mầu trắng.
Hình tượng Chúa Giêsu Kitô phục sinh được khắc vẽ với y phục mầu trắng sáng chói như tuyết. Lễ mừng Chúa Giêsu phục sinh và trong suốt 40 ngày sau lễ mừng cho đến lễ mừng kính Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống, phẩm phục phụng vụ trong thánh lễ là mầu trắng.
Trong Kinh Tin Kính có câu tuyên xưng về Chúa Giêsu Kitô” Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng bởi ánh sáng” diễn tả mầu ánh sáng trắng trong tinh tuyền phát ra từ nơi Ngài.
Cuộc biến hình gặp gỡ thượng đỉnh không chỉ ở trên đỉnh ngọn núi cao, nhưng còn có hai vị cao cả thời Cựu ước trước Chúa Giêsu cùng hiện đến đàm đạo với Ngài nữa : Tiên tri Mose và Tiên tri Elija ( Mt 17,3).
Hai vị Tiên tri thời Cựu ước xa xưa trong Do Thái giáo là hai vị chức sắc lãnh đạo hàng đầu dân Thiên Chúa. Các Vị không còn trên trần gian nữa. Tiên tri Mose đã qua đời trên đường dẫn dân Do Thái trở về quê hương Do Thái từ đất nước Ai Cập ( Sách dân số 34,10). Tiên tri Elija đã được Thiên Chúa cho cỡi xe có lửa cháy sáng rực trở về trời ( 2 Các Vua 2,11). Hai Vị Tiên tri lãnh đạo hàng đầu này là những vị gần gũi với Thiên Chúa cách khác thường đặc biệt.
Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa khai mở thời tân ước, cùng đàm đạo với hai Vị tiên tri chức sắc hàng đầu, thời Cựu ước qúa khứ đã qua, nhưng có vị trí chỗ đứng sát gần Thiên Chúa, nói lên sự liên tục trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa cho con người trên trần gian.
Và Thiên Chúa qua Chúa Giesu Kitô trong dòng lịch sử thời gian nhân loại luôn gần bên con người nơi Lời giảng dậy, sự hy sinh dấn thân chịu chết và sống lại của Người.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh khu vườn
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Bất cứ khu vườn nào, dù to hay nhỏ, đều chiếu tỏa nét văn hóa sự sống động tươi mát thanh thản. Vì sự sống với muôn mầu sắc của cây cỏ lá hoa trái thảo mộc mọc phát triển nơi đó.
Khu vườn xanh tươi đầy sức sống động phát triển luôn là đề tài, là hậu cung cảnh thiên nhiên trong hội họa, cùng cả trong văn chương.
Trong đời sống xưa nay ở mọi nơi, con người cũng luôn cần khu vườn cảnh thiên nhiên.
Khu vườn cảnh thiên nhiên có đóng vai trò gì trong nếp sống tinh thần tôn giáo linh thiêng không?
Trong bài tường thuật về công trình sáng tạo trời đất, từ khởi thủy Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá, đã tạo dựng khu vườn Eden như căn bản cho đời sống con người được tồn tại cùng phát triển có niềm vui hạnh phúc và bình an:
“Rồi ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa trồng một vườn cây ở Ê-đen, về phía đông, và đặt vào đó con người do chính mình nặn ra. ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa khiến từ đất mọc lên đủ mọi thứ cây trông thì đẹp, ăn thì ngon, với cây trường sinh ở giữa vườn, và cây cho biết điều thiện điều ác. Một con sông từ Ê-đen chảy ra tưới khu vườn, và từ đó chia thành bốn nhánh. Tên nhánh thứ nhất là Pi-sôn, nó bao quanh tất cả đất Kha-vi-la là nơi có vàng; vàng ở đất này tốt, tại đó có nhũ hương và đá ngọc. Tên nhánh thứ hai là Ghi-khôn; nhánh này bao quanh tất cả đất Cút.Tên nhánh thứ ba là Tích-ra; nhánh này chảy ở phía đông Át-sua. Còn nhánh thứ bốn là Êu-phơ-rát.ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Ê-đen, để cày cấy và canh giữ đất đai.” ( St 2,8-15)
Như thế khu vườn thiên nhiên theo ý muốn của Thiên Chúa là nơi chốn không chỉ để con người canh tác làm việc sản xuất thực phẩm nuôi sống mình, nhưng còn là nơi chốn nghỉ ngơi, thưởng lãm không khí bình yên tìm lại sức khỏe thân xác cùng tâm trí tinh thần. Hình ảnh đó diễn tả sự nhịp nhàng hòa điệu giữa con người với khu vườn thiên nhiên, một căn bản cho đời sống.
Nhưng rất tiếc, Ông Bà tổ phụ của loài người chúng ta, Adong và Evà, đã vì không giữ lời Thiên Chúa, Đấng tạo Hóa, căn dặn, nên làm cho sự hoà nhịp đó bị mất thăng bằng. Hậu qủa khiến cho Ông Bà cùng con cháu bị đuổi ra khỏi nơi đó. Và khu vườn đất thiên nhiên trở thành chiến trường cho đời sống con người, như kinh thánh viết:
Chúa phán:“Vì ngươi đã nghe lời vợ và ăn trái cây mà Ta đã truyền cho ngươi rằng: “Ngươi đừng ăn nó”, nên đất đai bị nguyền rủa vì ngươi; ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời ngươi, mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra.
18 Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng.
19 Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất.”( St 3, 17-19).
Và như thế Ông Bà đã đánh mất đời sống thiên đàng khu vườn Eden trên trần gian. Đời sống chốn trần gian trở thành thung lũng đầy nước mắt đau khổ có nhiều bệnh tật, luôn xảy ra lo âu khủng hoảng, chao đảo hoang mang. Đời sống thể xác cũng như tinh thần bị giới hạn mọi mặt khía cạnh, và sau cùng phải chết.
Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, đã đến trong trần gian với sứ mạng mang niềm hy vọng ơn cứu chuộc, sự sống quân bình lại cho linh hồn con người, khi xưa đã mất, bị luận phạt do tội của Ông Bà nguyên tổ gây ra.
Chúa Giêsu Kitô cũng đã trải qua những giờ phút trong vườn cây dầu Gethsemany bên Jerusalem. Nhưng Ngài không để bị cám dỗ sa ngã như Ông Bà nguyên tổ Adong Evà khi xưa. Trái lại Ngài đã chọn lựa quyết định chấp nhận vâng lời Thiên Chúa Cha, sẵn sàng dấn thân hy sinh chịu đau khổ. ( Mt 26,36-45). Sự chọn lựa quyết định của Ngài trong khu vườn cây Dầu Gethsemany như thế trở nên lễ tế lên Thiên Chúa Cha mang lại ơn phúc niềm hy vọng được cứu độ cho phần rỗi linh hồn con người.
Trong khu vườn Eden khi xưa, Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa , sau khi Ông Bà nguyên tổ lỗi phạm tội lỗi luật ăn qủa trái Ngài cấm, đã đi tìm ông bà: “Chúng con ở đâu vậy ?” ( St 3, 8-12) . Vì Ông Bà sau khi lỗi phạm luật Chúa, liền nhận ra mình trần truồng, xấu hổ nên lấy lá che thân cùng đi lẩn trốn trong lùm hàng cây.
Trong khu vườn cây dầu Gethsamany, Chúa Giêsu Kitô trong đau khổ lo sợ trước khổ hình và sự chết, đã qùi gối cầu nguyện than thở cùng Thiên Chúa: Lạy Cha, xin cất chén đắng này rời khỏi Con! Nhưng xin đừng theo ý con, một xin vâng theo ý Cha! ( Mt 26, 39).
Ông bà nguyên tổ nhân loại, vì theo ý muốn riêng không vâng lời Thiên Chúa, đã đánh mất khu vườn Eden, đã đánh mất sự sống bình an hạnh phúc. Nhưng dẫu vậy vẫn được Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa đã tìm: Chúng con ở đâu vậy?
Trong khu vườn cây dầu Getheamany, Chúa Giêsu Kitô đã không để ý muốn riêng mình thống trị. Nhưng vâng theo ý muốn của Thiên Chúa Cha. Nên sự hy sinh của Ngài trở nên ơn cứu chuộc mang lại sự sống thần thánh thiên đàng phần linh hồn cho con người, khi xưa đã mất vì tội của Ông Bà nguyên tổ.
Khắp nơi trong vũ trụ có những khu vườn to nhỏ khác nhau. Khu vườn phản ánh nếp sống văn hóa con người trồng cấy cây thực phẩm, cây cối thảo mộc hoa lá nơi đó.
Khu vườn là hình ảnh biểu tượng cho sự cố gắng nỗ lực của con người đầu tư xây dựng một nếp nhà quê hương cho mình. Đồng thời khu vườn với những nét cây cối thiên nhiên cùng văn hóa cũng diễn tả nếp sống sự tin tưởng và sự an ủi, mà con người có thể tìm thấy được chút sự bình an cho đời sống trong một thế giới có nhiều chao đảo bấp bênh thử thách.
Con người trong đời sống luôn cần khu vườn cảnh thiên nhiên cho đời sống tìm được quân bình thanh thản, cùng giúp tâm trí kín múc lại sức lực suy nghĩ sáng tạo cho hôm nay cùng ngày mai.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh nếp sống từ bỏ
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm trong nếp sống đạo đức của Giáo Hội có mùa chuẩn bị đón mừng lễ Chúa Giesu Kitô phục sinh, ngày lễ quan trọng trung tâm điểm của năm phụng vụ Giáo Hội.
Ngày lễ mừng trung tâm này không giới hạn vào một ngày lễ mừng. Nhưng có hai mốc thời gian trước và sau đó. Mùa thời gian trước chuẩn bị tới ngày lễ. Và sau đó mùa phục sinh, từ lễ Chúa phục sinh tới lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống, là mùa phát triển mở rộng.
Mùa chuẩn bị trước lễ Chúa phục sinh có tên gọi là mùa chay bắt đầu từ ngày thứ Tư lễ Tro và kéo dài 40 ngày liền.
Con số 40 là con số trong Kinh Thánh có gía trị biểu tượng cao cả thánh đức: Tiên tri Elija ăn chay đi 40 ngày trong sa mạc tới núi Horeb gặp Thiên Chúa Giave. Dân Israel xuất hành đi xuyên suốt qua sa mạc 40 năm từ nước Ai Cập trở về quê hương Thiên Chúa hứa ban. Tiên tri Mose ở trên núi Sinai cầu nguyện 40 ngày chờ đợi đón nhận Mười điều răn của Thiên Chúa. Và Chúa Giêsu Kitô vào sống trong sa mạc ăn chay 40 đêm ngày trước khi ra đi rao giảng nước Thiên Chúa.
Cung cách sống mùa chay thời xa xưa trong Giáo hội rất nghiêm ngặt, phải sống từ bỏ không ăn thịt, không uống bia rượu, mà còn từ bỏ cả lối sống vui ưa thích nữa, như những thú vui nhộn, kịch nhạc xiếc…Và trong tuần lễ mùa chay vào các ngày thứ sáu phải ăn chay hãm mình, có nơi có người ăn rất ít, ăn lạt cùng chỉ uống nước lạnh…, và trong suốt mùa chay 40 ngày không được ăn cả những loại thực phẩm như sữa nữa. Nhưng ngày nay việc ăn chay kiêng thịt chỉ vào hai ngày trong mùa chay: Thứ Tư lễ Tro và thứ Sáu Tuần Thánh.
Thời gian ba năm vừa qua ( 2020-2022) nhân loại sống trải qua cơn khủng hoảng đe dọa do bệnh đại dịch Corona gây ra khiến mọi người phải bắt buộc sống trong giới hạn nghiêm ngặt tựa như ăn chay. Tình trạng khủng hoảng này đã làm đảo lộn những thói quen nếp sống không chỉ thường ngày, mà cả những sinh hoạt nhu cầu ưa thích, cùng cần thiết nữa như giao tiếp liên lạc xã hội. Trong đời sống con người bị bó buộc phải hy sinh từ bỏ cung cách thân tình sống sát gần nhau, phải giữ khoảng cách biệt lập giới hạn sự gặp gỡ đụng chạm thân thể, để vi trùng không chuyền sang nhau tránh lây lan truyền nhiễm. Họ phải đeo khẩu trang, phải rửa tay khử trùng giữ vệ sinh nghiêm ngặt khi gặp nhau, dù là giữ khoảng cách. Tất cả trở thành xa lạ cùng bầu khí ngột ngạt sợ hãi nữa!
Như thế vi trùng đại dịch Corona đã khiến con người không chỉ sống từ bỏ kéo dài trong khủng hoảng đe dọa sợ hãi, nhưng theo khía cạnh đạo đức còn là hình ảnh một nếp sống mùa chay với những hy sinh từ bỏ (những) nhu cầu thói quen trong đời sống nữa, nhất là những thói quen gây ra nguy hiểm cho sức khỏe thể xác cũng như tinh thần!
Chưa hết. Càng ngày cung cách sống từ bỏ, sống thay đổi nếp sống cũ theo thói quen càng trở nên cần thiết cho môi trường thiên nhiên. Vì khí hậu vũ trụ đang trong tình trạng khủng hỏang có nguy cơ bị tàn phá hủy diệt.
Các đo đạc phân tích khoa học báo động nhiệt độ trong vũ trụ đang dần nóng dần thêm lên. Trái đất lâm vào tình trạng biến đổi khí hậu cùng trở nên khô và nóng, những tảng băng tuyết tan chảy mau khiến nước biển mặn dâng cao tràn vào nguồn sông ngòi đất liền, nạn hạn hán xảy ra nhiều nơi trên thế giới, mực nước nơi ao đầm hồ sông ngòi xuống thấp cạn dần, cảnh mưa gió bão lụt lội thường xuyên xảy ra tàn phá môi trường sinh sống cho thảo mộc cây cỏ, thú động vật và ảnh hưởng tồi tệ sâu rộng đến nguồn lương thực cùng sức khoẻ cho con người nữa.
Để cứu nguy tình trạng khủng hoàng này, các nhà khoa học, các nhà chuyên môn về khí hậu môi trường thiên nhiên đã báo động kêu gọi đưa ra những chương trình phải thay đổi cung cách nếp sống theo thói quen xưa nay gây phá hại khí hậu môi trường như từ bỏ xe chạy xăng dầu, từ bỏ động cơ máy nổ, than đốt thải ra khí độc hại CO 2, từ bỏ dùng plastic đồ nhựa nylon… Thay vào đó sử dụng nguồn sức thiên nhiên như sức gió, ánh nắng mặt trời, sức mạnh của nguồn nước thiên nhiên để sản xuất ra nămg lượng…giúp sống gìn giữ bảo vệ ngôi nhà thiên nhiên mà Thiên Chúa sáng tạo ban cho mọi loài cùng sinh sống trong đó.
Những kêu gọi đề nghị bảo vệ thiên nhiên đang trở nên thời sự được thế giới xã hội và cả tôn giáo hưởng ứng đề cao sắp xếp đưa vào chương trình thay đổi khẩn thiết hàng đầu. Sự từ bỏ lối sống thói quen cũ gây tác hại cho môi trường khí hậu thiên nhiên trở nên thời sự cấp bách mang sâu đậm trách nhiệm khía cạnh đạo đức, như Đức giáo hoàng Phanxicô đã nói đến trong thông điệp Laudato Si ( 2015).
Từ bỏ nào cũng đòi hỏi phải học tập. Từ bỏ thói quen nếp sống ưa thích không lành mạnh vệ sinh, để giữ gìn vệ sinh sức khoẻ sống vượt qua khỏi tình trạng khủng hoảng bệnh đại dịch Corona đe dọa vừa qua đòi hỏi nhiều hy sinh tập dượt.
Từ bỏ thói quen sống dễ dãi sẵn có gây tác hại cho thiên nhiên để góp phần bảo vệ khí hậu môi trường thiên nhiên cho tránh khỏi khủng hoảng bị phá hủy đòi hỏi phải thay đổi lối sống cũ theo thói quen, cùng học tập cung cách lối sống tốt mới khác cho phù hợp thời sự.
Mùa chay tựa như tấm gương kính soi chiếu nhìn lại tâm hồn cuộc sống để nhận ra những thói quen nếp sống không phù hợp với đạo đức trong chiều kích thiêng liêng hướng tới Thiên Chúa, và cả trong chiều kích cuộc sống con người với nhau.
Và để đời sống tinh thần thiêng liêng trở nên tốt lành mạnh đòi hỏi phải từ bỏ, phải thay đổi cùng tập tành cung cách lối sống tốt đẹp lành thánh bác ái.
Nếp sống từ bỏ thay đổi củng cố nếp sống tinh thần hướng lên trời cao nơi Thiên Chúa, nguồn đời sống, và lan rộng chiều ngang đường chân trời sống tình bác ái và niềm hy vọng với thiên nhiên và con người.
Thứ Tư lễ Tro 2023
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh tâm tình tuyên xưng trong kinh Lạy Cha.
- Viết bởi Dân Chúa
Trong nghệ thuật hội họa một bức tranh có mặt phía trước và mặt sau hậu cung là hai điểm làm cho bức tranh được phân biệt nổi lên rõ nét.
Trong bức tranh đời sống con người chúng ta, nếp sinh hoạt diễn xảy ra hằng ngày được hiểu như là mặt trước xem thấy bằng con mắt được. Và mặt sau hậu cung là thế giới linh thiêng bao phủ xung quanh mà không nhìn thấy được, chỉ cảm nhận được bằng trái tim cùng thần kinh. Với người có lòng tin đó là thế giới của Thần Linh, của Thượng Đế, của Thiên Chúa.
Người tín hữu Chúa Giêsu Kitô xác tín sâu thẳm về thế giới hậu cung này trong (bức tranh) đời sống của mình. Hằng ngày từ buổi sáng lúc thức dậy ra khỏi giường ngủ cho tới buổi chiều tà, lúc ăn uống, lúc đọc kinh cầu nguyện…họ luôn luôn vẽ làm dấu hình thập gía Chúa Kitô trên thân thể mình. Cử chỉ này nói lên lòng tin tưởng vào một thế giới Thiên Chúa vô hình, nhưng hằng hiện diện và cùng hoạt động với trong bức tranh thế giới hữu hình nơi thế giới trần gian.
Cùng trong suy nghĩ đó, Kinh Lạy Cha đọc cầu nguyện hằng ngày, được hiểu có hậu cung thế giới của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu Kitô dậy khi cầu nguyện hãy đọc Kinh lạy Cha ( Mt 6, 09-13 ) hằng ngày trong mọi hoàn cảnh đời sống, cụ thể là xin “ cho chúng con lương thực đủ dùng hằng ngày” cùng bày tỏ cả những lo âu, gánh nặng, buồn vui, trông mong chờ đợi trong đời sống nữa.
Những hoàn cảnh cụ thể cảm nhận, đếm đo lường được trong đời sống như thế là mặt nổi phía trước lời Kinh lạy Cha, và còn có mặt phía sau hậu cung nơi Kinh nầy nữa. Đó là một thực thể phía bên kia, phía sau không thể nhìn thấy. Nhưng người tín hữu Chúa Kitô xác tín chân nhận thực thể vô hình đó giống như thực thể vật chất của đời sống là nền tảng luôn đụng chạm vào đời sống của mình.
Thực thể phía sau hậu cung đó linh thiêng. Phải, đó là một cá nhân thần linh đã cùng luôn sáng tạo đổi mới mọi sự trong vũ trụ, trong đó có những sự lạ lùng hằng diễn xảy ra trong đời sống trên địa cầu nơi thiên nhiên, nơi sự tồn tại phát triển sự sống của thú động vật, của con người.
Thực Thể cá nhân thần linh đó không phát minh sáng tạo nên công trình vũ trụ vật chất do từ một vật thể đã có sẵn. Nhưng đã sáng tạo bằng chính tư tưởng ý muốn thần thánh của Ngài qua lời nói phán ra: Hãy có!
Đồng thời Ngài đã khắc ghi phú bẩm vào công trình sáng tạo đó khả năng mầm sống để cho tồn tại phát triển từ thệ hệ này sang thế hệ khác nối tiếp nhau không mai một cùng tận.( Sách Sáng Thế 1, 1-31)
Sức mạnh khởi sự từ nguyên thủy không thể hiểu cắt nghĩa được, cùng vượt tầm suy nghĩ được đó là phía sau hậu cung trong Kinh Lạy Cha, mà Chúa Giêsu dậy cầu nguyện, với tâm tình đầy lòng tin tưởng phó thác, bằng câu thân thưa mở đầu: Lạy Cha chúng con!
Ngôn ngữ tâm tình mở đầu thân thiết đó như lời nói của người con tỏ bày nói cùng cha mẹ mình. Ngôn từ “ Lạy Cha” đó chất chứa tâm tình lòng yêu mến cùng lòng tôn kính, tin tưởng sâu xa chân nhận người cha mình hằng luôn lo lắng che chở cho nhu cầu đời sống mình vật chất cũng như tinh thần, của ăn nước uống cũng như những vui buồn thành công thất bại mọi giai đoạn con đường đời sống.
Kinh lạy Cha là kinh Chúa Giêsu dậy để cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Đồng thời khi đọc Kinh này cũng diễn tả lòng tuyên xưng vào Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa tràn đầy lòng yêu thương săn sóc tác phẩm công trình Ngài đã sáng tạo dựng nên, mà con người là triều thiên nhiệm mầu của công trình sáng tạo trong vũ trụ.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh hang đá Đức Mẹ Lourdes
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ngày 11. 02.1858 Đức mẹ Maria cho tới ngày 16.07.1858 đã tất cả 18 lần hiện ra với cô bé Bernadette Soubirous ở hang động vách núi đá Massabielle bên Lourdes ,bờ sông Gave de Pau ở miền nam nước Pháp.
Lần hiện ra thứ 16., ngày 25.03.1858, đức mẹ đã nói với Bernadette bằng tiếng địa phương „Que soy era Immaculada Counceptiou - Mẹ là đấng vô nhiễm nguyên tội.“
Giáo Hội Công giáo Roma hằng năm đã thành lập lễ mừng kính nhớ Đức mẹ Lourdes vào ngày 11.tháng Hai.
Hình ảnh hang đá đức mẹ Lourdes nói lên gì trong nếp sống đạo đức ?
Đức mẹ hiện ra với Bernadette ở hang động vách núi đá Massabielle. Hang động này thời Bernadette sinh sống dơ bẩn, tối tăm, ẩm ướt và lạnh. Người ta gọi hang động này là một loại chuồng heo. Vì dân chúng ở đây thường dẫn heo ra ăn cỏ và tắm. Nhưng Đức mẹ Maria, đấng tinh tuyền vẹn sạch không vướng mắc tội tổ tông truyền đã chọn nơi hang động dơ bẩn này hiện ra với Bernadette.
Hai hình ảnh, hai sự kiện trái ngược nhau, có thể nói như ánh sáng với bóng tối, như trắng với đen, trong sạch với dơ bẩn... Điều này nói lên Thiên Chúa qua Đức Mẹ Maria với trái tim lòng yêu mến muốn đến gặp gỡ con người trong tình trạng bơ vơ khốn quẫn, vì tội lỗi khiếm khuyết trong đời sống.
Hang đá Đức Mẹ Lourdes không phải chỉ là nơi chốn hình thể địa lý, nhưng còn là nơi chốn theo ý nghĩa tâm linh, Thiên Chúa tỏ cho con người dấu chỉ Ngài hằng yêu thương con người, dù thế nào đi chăng nữa.
Hang đá này cũng là nơi Thiên Chúa gửi cho con người sứ điệp: Ngài đến với con người, Ngài yêu mến đời sống con người với thành công và cả với những vết thương đau khổ, những đổ vỡ, những dơ bẩn trong đời sống, những hạn chế giới hạn của con người.
Hằng năm có trên dưới 6 triệu khách hành hương đến kính viếng hang đá Đức Mẹ Lourdes. Họ đến nơi đây để cầu khấn xin ơn phù hộ, nhất là xin được chữa lành bệnh tật đau khổ nơi thân xác cũng như trong tâm hồn. Vì thế hằng năm có tới hơn 60.000 bệnh nhân khắp nơi trên thế giới được đưa đến nơi này hành hương cầu khấn xin ơn chữa lành. Cho tới nay có nhiều người được ơn chữa lành nhờ lời cầu bầu của Đức Mẹ Lourdes. Nhưng Giáo Hội cho tới bây giờ mới chỉ công nhận là phép lạ chữa lành do Đức Mẹ Lộ Đức có 68 trường hợp thôi.
Khi đến đây hành hương hầu như ai cũng muốn sống trải qua những nghi thức đã thành nếp sống đạo đức từ hơn trăm năm nay.
Hành hương Đức Mẹ Lourdes ai cũng mong muốn đi vào hang đá, nơi ngày xưa năm 1858 Đức mẹ đã hiện ra với Thánh nữ Bernadette. Đi vào nơi thánh địa Lourdes, ai cũng lâm râm đọc kinh cầu khấn, tay chạm sờ vào tảng đá trên đỉnh đầu ngay dưới chân Đức Mẹ ngày xưa đã hiện ta đứng trên đó.
Đụng chạm sờ vào „ tảng đá thánh thiêng“ này không phải là để cho sức mạnh chữa lành chuyền sang mình. Nhưng với tâm tình lòng mong muốn được đụng chạm gần với tảng đá, như trong Kinh Thánh diễn tả, là dấu chỉ của Thiên Chúa.
Hang động trong núi đá tựa như căn phòng che chắn cho được an toàn trong thiên nhiên. Như ở hang đá Bethlehem và mộ đá vườn Gethsemani, tảng đá nơi hang động này cũng có ý nghĩa chiều kích siêu nhiên thiêng liêng. Ngày xưa khi được Đức Mẹ hiện ra trong hang đá Massabielle, chị Bernadette đã theo trực gíac lòng tin nói lên „đây là bầu trời của tôi“.
Vì thế, những người hành hương đến nơi đây được mời gọi mở tâm hồn mình hướng về siêu nhiên thiêng liêng. Đi v ào hang núi đá đụng chạm vào tảng đá và cầu khấn cùng Thiên Chúa, xin Ngài là bến bờ vững chắc an toàn cho đời mình. Cùng hướng tầm nhìn lên nguồn nước không hề bị khô cạn trong hang đá này.
„Lạy Chúa là núi đá, là thành lũy, là Đấng giải thoát con,
Lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ.“ ( Tv 18, 3)
Nơi cửa hang đá Đức Mẹ hiện ra từ ngày 19.02.1958 không ngừng nghỉ gián đoạn ngày đêm những ngọn nến xếp thành nhiều tầng như một ngọn tháp hình khối tròn từ dưới mặt đất vươn lên trời cao được đốt thắp cháy sáng xuyên suốt. Những hàng ngọn nến cháy sáng lung linh trước hang đá Đức Mẹ Lourdes không chỉ chiếu tỏa vẻ đẹp trang trí nghệ thuật văn hóa, nhưng còn tỏa nét linh thiêng nhiệm mầu diễn tả tâm tình lòng thành khẩn yêu mến cậy trông của con người.
Năm xưa Chị Bernadette tay cầm cây nến đã được làm phép đốt cháy sáng đi vào hang đá gặp Đức Mẹ Maria hiện ra. Và sau khi diện kiến Đức Mẹ hiện ra, và Bernadette đã để cây nến cháy sáng của mình lại trong hang đá. Cũng trong ngày đó, một vài cây nến của những người khác cùng đi với Bernadette cũng được đốt sáng lên cắm tại hang đá này.
Từ ngày đó khách hành hương không ngừng nghỉ ngày và đêm thắp sáng những cây nến nơi hang đá này. Điều này đã trở thành tập tục nếp sống đạo đức ở nơi đây. Một ngọn nến của người hành hương đốt thắp nơi hang đá diễn tả hình ảnh dấu chỉ rõ nét hữu hình của lòng tin lời cầu xin hay lời tạ ơn.
Hằng năm hàng triệu người đến thắp nến cầu nguyện nơi hang đá Lourdes. Theo ước tính tất cả hơn kém 700 tấn nến được dùng đốt thắp ngày đêm trong suốt cả năm tại nơi đây.
Ánh sáng ngọn nến nhắc nhớ tới Ông Bà nguyên tổ Adong Eva đã lỗi phạm luật Thiên Chúa, nên bị xua đuổi đi vào sống trong bóng tối tội lỗi.Trái lại Chúa Giêsu Kitô đã đến trần gian mang ơn cứu độ cùng sự soi sáng cho con người khỏi bóng tối tội lỗi. Cây nến cháy sáng nhắc nhớ đến cây nến Chúa Phục sinh, và cây nến Rửa tội của mỗi người ngày lãnh nhận Bí tích rửa tội.
Hằng ngày vào buổi chiều tối ở Lourdes đều có rước kiệu Đức Mẹ, hàng chục ngàn người tay cầm nến cháy sáng lung linh trong đêm tối, vừa đi vừa đọc kinh ca hát biểu lộ rõ nét dấu chỉ niềm vui mừng hy vọng cậy trông.
Chúa Giêsu đã nói với mọi người:“ Thầy là ánh sáng trần gian. Ai theo Thầy sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.“ (Ga 8,12)
Lần hiện ra ngày 25.03.1858 Đức Mẹ Maria đã nói với Bernadette : „Con hãy uống nước này và lấy nước đó mà rửa mặt“. Lời này cũng là lời mời gọi cho mỗi người khi đến hành hương nơi dòng nước Đức Mẹ Lourdes. Vì thế, xưa nay ai đến đây cũng đều lấy nước suối Đức Mẹ Lourdes rửa mặt, uống, cùng lấy mang về, hay vào hồ dành riêng để tắm.
Đây là cung cách sống lòng đạo tốt lành. Nước suối Lourdes không là nước từ dòng sông Gave de Pau chảy vào. Nhưng là nước thiên nhiên chảy vọt lên từ nguồn dòng nước sâu trong lòng đất.
Nước suối Lourdes trở nên thời danh qua nhờ những phép lạ chữa bệnh, mà người bệnh tắm dìm mình trong nước đó, hay rửa tay, rửa mặt và uống nữa. Nước suối Đức Mẹ Lourdes là dấu chỉ của lòng tin, như chị Thánh Bernadette đã nói cho mọi người:“ Chúng ta dùng nước này như phương dược chữa lành, nhưng phải có lòng tin, và phải cầu nguyện. Nước này không mang lại hiệu qủa nếu không có đức tin“. Đức Giê-su nói: "Ai uống nước này, sẽ lại khát.14 Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời." Ga 4,14).
Nơi thánh địa Lourdes những bệnh nhân, những người tân tật được mang đưa đến hành hương. Từng đoàn người như một dòng nước chảy trên những chiếc xe đẩy khắp vùng trung tâm thánh địa. Hình ảnh một thánh địa Lourdes sẽ như thế nào, nếu không có những bệnh nhân, người tàn tật được đưa đến đây xin ơn chữa lành?
Hằng năm có hơn 60.000 người bệnh, người tàn tật từ khắp mọi nơi trên thế giới đến đây hành hương. Nơi thánh địa Đức Mẹ Lourdes, họ cảm nhận thấy đây là bến bờ sự an ủi, sự an bình và tình yêu thương chiếu tỏa từ trời cao, cùng từ những con ngươi săn sóc họ, cho tâm hồn họ. Và có nhiều người được ơn chữa lành bệnh thể xác.
Lourdes là nơi chốn của phép lạ siêu nhiên, nơi chốn sự chữa lành những vết thương đau khổ. Càng ngày có nhìều người bệnh, người tàn tật đến hành hương, nên ở Lourdes có đội ngũ những người thiện nguyện làm công việc đưa đón săn sóc những bệnh nhân, như đẩy xe di chuyển đưa họ đến hang đá cầu nguyện, đưa dẫn họ đến hồ suối nước tắm. Thánh địa Lourdes trở thành nơi chốn của dấu chỉ tình bác ái yêu thương và tha thứ làm hòa cho trái tim tâm hồn.
Trong Kinh cầu Đức Bà có câu khấn nguyện: Salus infirmorum - Đức Bà cứu kẻ liệt kẻ khốn! Nói lên lòng tin tưởng cậy trông, qua lời bầu cử của Đức Mẹ Maria, xin Thiên Chúa chữa lành bệnh nạn phần thể xác cũng như phần tinh thần tâm hồn. Và như thế, những người đau khổ vì bệnh nạn đến hay được đưa đến Lourdes cầu xin khấn nguyện với tâm nguyện đó. Thiên Chúa đã sáng tạo ban cho con người sự sống, chắc chắn Ngài cũng ban cho con người ơn chữa lành an ủi cho đời sống, nhờ lời bầu cử của Đức mẹ Maria, mẹ Thiên Chúa.
Và từ năm 1993 Đức Thánh giáo hoàng Phaolô 2. đã thiết lập Ngày thế giới bệnh nhân trong Giáo hội Công giáo vào ngày lễ kỷ niệm Đức mẹ Lourdes, ngày 11. tháng Hai hằng năm, cầu nguyện cho các người đang trong cơn bị bệnh tật nhận được ơn an ủi xoa dịu chữa lành thể xác cũng như tinh thần tâm hồn từ Thiên Chúa, Đấng là nguồn sự sống cùng ơn chữa lành bình an.
Đức thánh cha Phanxico kêu mời mọi người nhớ đến những người đau bệnh trong tinh thần cùng đồng hành liên đới: “ Vào Ngày Thế giới Bệnh nhân lần thứ XXXI này, khi toàn thể Giáo hội đang trên lộ trình Hiệp hành, tôi mời gọi anh chị em cùng suy tư về sự thật rằng chính nhờ kinh nghiệm về sự mong manh và bệnh tật mà chúng ta có thể học cách cùng nhau bước đi theo phong cách của Thiên Chúa, đó là sự gần gũi, trắc ẩn và dịu dàng…
Ngày Thế giới Bệnh nhân không chỉ mời gọi cầu nguyện và gần gũi với những người đau khổ. Đồng thời, nó cũng nhằm mục đích khơi dậy nơi dân Chúa, các tổ chức chăm sóc sức khỏe và xã hội dân sự về một phương thức mới để cùng nhau tiến tới.`’ ( Đức giáo hoàng Phanxico, Thông điệp Ngày thế giới bệnh nhân 11.02.2023).
Đến với Đức Mẹ Lourdes là đến với nguồn ơn suối nước Bí tích thanh tẩy cầu khấn cho tâm hồn cũng như thân xác con người với lòng tin tưởng cậy trông được thoát khỏi ách bóng tối tội lỗi sự dữ đè nặng đời sống.
“-Đoàn con từ khắp năm châu, kính dâng Đức mẹ:
lòng con yêu mến Mẹ hiền với hương hoa trước tòa
Ave, Ave Maria – Ave, ave Maria!
-Đời con nhiều nỗi thương đau, tránh sao bao suối lệ tràn!
Mẹ ơi, xin hãy ôm con xiết trong đôi cánh tay Mẹ.
Ave, Ave Maria – Ave, ave Maria!”
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh ánh sáng cho trần gian
- Viết bởi Dân Chúa
Ánh sáng cũng như nước rất quan trọng cần thiết cho sự sống, cho các sinh hoạt trong đời sống được nẩy sinh, phát triển duy trì, không chỉ cho con người, mà cả cây cối thảo mộc cùng thú động vật nữa.
Trong niềm tin tôn giáo ánh sáng xưa nay diễn tả hình ảnh mầu nhiệm linh thiêng thần thánh. Vì thế, trong các nơi thờ tự…những cây nến to nhỏ thường được đốt thắp chiếu sáng ngày đêm, để biểu lộ lòng tin và tâm tình cầu nguyện khấn xin.
Trên bước đường rao giảng nước Thiên Chúa cho con người, Chúa Giêsu Kitô đã dùng hình ảnh ánh sáng nhắn nhủ: “ Anh em là ánh sáng cho trần gian!” ( Mt 5, 14).
Vậy hình ảnh ánh sáng cho trần gian là gì?
Trong thánh đường thờ tự cũng như tại nhà riêng luôn có những cây nến được đốt thắp chiếu sáng với nhiều mục đích khác nhau. Có những cây nến, như Nến Chúa Phục sinh, Nến Rửa tội, Cây nến ngày thành hôn… được đúc cùng vẽ chạm khắc những hình ảnh mầu sắc trên đó trang trí rất đẹp, thơ mộng thi vị… Nhưng cây nến khi được đốt thắp lên, ngọn lửa sẽ từ từ thiêu đốt làm cho cây nến dần tan chảy tiêu tan, và sau cùng không còn gì nữa rồi bị cạo vứt bỏ!
Có lẽ cây nến, và có khi cả chủ nhân của nó cũng có tâm sự đau buồn hoài nghi cùng phản đối tại sao lại làm như thế cho cây nến đẹp thi vị bị hao mòn tiêu tan. Hành động như thế mang lại lợi ích gì?
Ngọn Lửa như hiểu đọc được tâm sự phản kháng hoài nghi đau buồn của cây Nến nói ngay:“ Này Bạn Nến, nhiệm vụ của tôi là đốt thắp Bạn lên để cho chiếu sáng!”
Cây Nến hốt hoảng la lên:” Nhưng khi Bạn đốt thắp tôi lên, tôi không chỉ bị nóng bỏng, nhưng tôi sẽ bị thiêu hủy. Vẻ đẹp mỹ miều thơ mộng nơi thân xác của tôi không còn nữa. Tất cả những hình ảnh mầu sắc nơi thân thể tôi bị đốt cháy tiêu tan thành chất vứt bỏ. Đời sống tôi không còn nữa. Ôi thật đau buồn!”
Ngọn lửa cũng cùng thông cảm với cây Nến và nói:” Vâng, Bạn nói đúng. Nhưng nếu Bạn không muốn để cho được đốt thắp chiếu sáng lên, vậy nhiệm vụ đời sống của Bạn là gì vậy? Bạn nên biết rằng chẳng có sự gì muôn năm vĩnh cửu, không có ngày tận cùng. Bạn không thể mãi mãi muôn đời tồn tại đâu..!”
Cây nến vươn mình lên tiếng đối lại: “Nhưng tôi đau lòng tiếc xót muốn gìn giữ vẻ đẹp của tôi mà! “
Ngọn Lửa qủa quyết hơn: ” Bạn muốn làm gì với vẻ đẹp thân xác của Bạn, khi Bạn luôn luôn đứng trên trụ cao, rồi ngày tháng những bụi bặm bay bám cuộn chung quanh thân xác đẹp của Bạn, hay Bạn chỉ muốn nằm yên trong hộp kín dưới đáy hòm tủ chất chứa nơi tối tăm!
Nếu Bạn không được đốt thắp lên, Bạn sẽ không chiếu sáng ra được. Đời sống Bạn rồi ra sẽ có ngày kết thúc. Bạn phải chết mà không làm nhiệm vụ sống đời sống mình!...
Chúa Giêsu Kitô muốn tất cả con người sống đời sống mình, nhưng họ chỉ sống, khi chiếu sáng lên. Chính vì thế, Ngài đã nhắn nhủ : Anh em là ánh sáng cho trần gian! Và để cho khỏi bị hiểu sai nhầm, Ngài đã nói rõ thêm: Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi ra trước mặt con người nơi trần gian…(Mt 5, 14.16).
Chúa Giêsu qua đó không cho là quan trọng cây Nến bị tiêu tan chết với những hình thù đẹp chạm vẽ khắc trên thân nó, nhưng là ánh sáng. Với ánh sáng cây nến trở nên đẹp, và chỉ khi được đốt thắp chiếu sáng lên, cây nến mới có ý nghĩa hoàn thành nhiệm vụ đời sống của nó.
Mỗi người là công trình tác phẩm của Thiên Chúa tạo thành trong trần gian, v-à có giới hạn về mọi khía cảnh. Trong đời sống trên trần gian mỗi người là một cây nến được Đấng Tạo Hóa trang điểm phú ban cho thân xác hình hài, khả năng trí khôn tinh thần, điều kiện sinh sống có mức độ, nghề nghiệp ơn gọi dáng vẻ khác nhau. Nhưng đều có nhiệm vụ đời sống là chiếu sáng theo cung cách hoàn cảnh văn hóa đời sống nơi xã hội sinh sống.
Nói cách khác, đó là hoàn thành tốt đẹp nhiệm vụ đời sống của mình giữa lòng xã hội trần gian. Và như thế là sống đời sống mình, như Chúa Giêsu Kitô nhắn bảo: Anh em là ánh sáng cho trần gian!
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh lễ ánh sáng
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm vào ngày 02. tháng Hai dương lịch, Giáo hội Công giáo mừng lễ Đức mẹ Maria dâng con, Chúa Giêsu trong đền thờ Jerusalem.
Đâu là hình ảnh ngày lễ này trong nếp sống đức tin?
Theo luật lệ Mose trong Kinh Thánh, người mẹ sau khi sinh con trai, được 40 ngày ( Sách Levi 12,2-4) phải cử hành nghi lễ trong đền thờ: thanh tẩy chính mình, đem dâng con trẻ cho Thiên Chúa, bằng dâng lễ vật hoặc con chiên non, hoặc chim bồ câu.
Maria 40 ngày, sau khi hạ sinh hài nhi Giêsu, cũng đã tuân giữ luật truyền này. Cha mẹ hài nhi Giêsu, Giuse và Maria, đã đi từ Bethlehem, nơi hài sinh Giêsu sinh ra, đến đền thờ Jerusalem, vì từ Bethlehem gần đền thờ Jerusalem, cách khoảng hơn kém 08 cây số, thi hành phận vụ thánh đức này, như trong phúc âm Thánh sử Luca viết thuật lại ( Lc 2,22-40)
Lễ mừng Đức mẹ dâng Chúa Giêsu trong đền thánh, sau khi Chúa Giêsu Kitô trở về trời, đã được Giáo hội bên Đông phương cũng như bên Tây phương mừng kính ở Jerusalem từ thế kỷ thứ 5.
Lễ mừng kính này trong Giáo hội Công giáo Roma khoảng từ năm 650 trở thành lễ mừng trọng thể. Và từ thế kỷ 11. nghi thức tập tục đạo đức làm phép nến và rước kiệu nến được cùng mừng thêm vào trong ngày lễ này. Vì thế lễ mừng kính này còn có tên Lễ Nến, lễ ánh sáng.
Tập tục nghi thức làm phép và rước Nến có thể Giáo hội đã thu nhận, rửa tội, cho nghi thức tôn giáo Rước kiệu thanh tẩy của dân ngoại thành Roma, như trước đó thường diễn ra vào đầu tháng Hai. Như thế tập tục này có nguồn gốc căn rễ lễ nghi của dân ngoại trước đó trong xã hội bên thành Roma.
Đức cố thánh cha Benedictô 16. đã có suy tư về biến cố ngày lễ cha mẹ hài nhi Giêsu đem con mình lên đền thờ Jerusalem xin ơn xá tội thanh tẩy, và dâng trẻ Giesu cho Thiên Chúa chu toàn như luật lệ Mose.
“ Lễ nghi phụng vụ như Thánh sử Luca viết diễn tả nhấn mạnh đến khía cạnh Cuộc gặp gỡ: gặp gỡ giữa hài nhi Giêsu và ông già Simeon. Vì thế lễ này trong văn hóa khung cảnh Hy Lạp có tên gọi “ Hypapanti” – Sự gặp gỡ. Trong cuộc gặp gỡ này giữa người trẻ, hài nhi Giêsu, và người gìa, Ông Simeon, Giáo hội nhìn ra như sự gặp gỡ hội ngộ giữa thế giới dân ngoại qua đi vào qúa khứ và sự khởi đầu mới nơi Chúa Giêsu Kitô, giữa thời điểm cựu ước đang dần đi vào qúa vãng và thời điểm mới của Giáo hội các dân tộc đang thành hình diễn ra.
Điều này tiên báo nói trước ra rằng, nó còn nhiều hơn như một vòng luân chuyển không cùng tận của sự chết và sự thành hình phát triển,
nó còn nói lên nhiều hơn sự an ủi rằng, sự qua đi lui vào dĩ vãng của một thế hệ luôn luôn nảy sinh tiếp theo một thế hệ mới với những ý tưởng suy nghĩ mới và những niềm hy vọng mới.
Sự gặp gỡ không chỉ mang lại niềm hy vọng cho Ông già Simeon, nhưng cho tất cả mọi người. Vì niềm hy vọng vươn vượt qua ngang sang bên kia sự chết.” ( Joseph Kardinal Ratzinger, Beruehrt vom Unsichtbaren, Herder 1917, tr. 45/ Maria Lichtmess- Begegnung von Chaos und Licht)
Hằng năm vào ngày lễ Mẹ Maria dâng hài nhi Giêsu trong đền thờ ngày 02.tháng Hai, hay còn có tên là Lễ Nến, lễ ánh sáng kết thúc mùa giáng sinh, hang đá Chúa giáng sinh được rỡ cất bỏ.
Cho tới 1969 lễ Nến đức mẹ Maria còn có tên nữa là lễ Thanh tẩy Đức mẹ Maria. Và cũng từ năm 1969 theo phụng vụ cải tổ ngày lễ này còn có tên lễ Dâng Chúa Giêsu vào đền thờ.
Từ 1997 vào ngày lễ ngày 2. Tháng Hai, trong Giáo hội Công giáo còn có tập tục, do đức Thánh cha Gioan Phaolô 2. thành lập, là Ngày thánh hiến đời sống của các vị chọn nếp sống tu trì tận hiến dâng mình cho Thiên Chúa. Mục đích nói lên lòng biết ơn và cầu nguyện cho họ trong niềm vui mừng hy vọng đã chọn nếp sống hy sinh từ bỏ tận hiến đời sống mình vì nước trời cho Thiên Chúa và cho con người.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh bài Tám Mối Phúc Thật
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Vào ngày Chúa Nhật và lễ trọng, người tín hữu Công giáo trước thánh lễ thường đọc kinh Tám Mối phúc thật. Kinh cầu nguyện này là những lời của Chúa Giêsu Kitô ngày xưa đã rao giảng đầu tiên cùng đám dân chúng kéo đến đến vừa xem và vừa nghe giảng đạo, như thuật viết lại trong phúc âm ( Mt 5,1-12). Và bài giảng này còn được gọi là Hiến chương nước Trời, hay bài giảng trên núi.
Hình ảnh bài giảng này vẽ diễn tả điều gì?
Phúc âm thuật viết lại “ Thấy đám đông, Chúa Giêsu lên núi. Người ngồi xuống…“ ( Mt 5,1).
Thánh sử Mattheo viết rõ nơi chốn Chúa Giêsu giảng ở trên núi. Qua điều này Thánh sử muốn nhắc nhớ đến núi Sinai, nơi ngày xưa Thánh Tiên Tri Mose đã lên nhận bản 10 điều răn của Thiên Chúa cho dân Israel.
Sự nhắc nhớ này ở ngay phần đầu bài tường thuật bài giảng Tám mối phúc thật: Nơi đây ở ngọn núi đoàn dân mới của Thiên Chúa tụ họp.
Và cung cách ngồi xuống giảng của Chúa Giêsu làm rõ nét truyền thống một Thầy Rabbi của Do Thái, khi giảng vẫn ngồi. Chúa Giêsu rao giảng tôn trọng truyền thống Cựu Ước. Những lời giảng dậy chất chứa nội dung kinh thánh Cựu ước. Nhưng dẫu vậy đó là những lời kinh thánh thời Tân ước.
Chúa Giêsu bắt đầu bài giảng không với chuỗi những đòi hỏi “Con phải…”, nhưng là lời khuyến khích tâm hồn suy nghĩ nảy sinh sáng kiến dẫn đưa đến lòng ăn năn thay đổi cung cách sống với những ca ngợi chúc phúc.
Bài giảng của Ngài có tám lần ( Mt 5,3.-10.) với lời “Phúc cho…” Và lần 9. ( Mt 5,11.) Phúc thay cho anh em nói thẳng trực tiếp tới người nghe Ngài giảng.
Lời chúc ” Phúc thay” ẩn chứa gói ghém tâm tình lời chân thành cầu chúc sự hạnh phúc điều may lành tốt đẹp!
Những lời chúc phúc “ phúc thay” của bài giảng Tám mối phúc thật của Chúa Giêsu không chỉ trái ngược với sự cảm nhận suy nghĩ thời cổ xa xưa, nhưng cũng cả với trí khôn suy nghĩ lành mạnh bình thường nữa. Không chỉ người giầu có, người khoẻ mạnh, người quyền thế cao sang được ca ngợi chúc phúc, nhưng còn cả người nghèo hèn, người đói khát thiếu thốn, người đau buồn, người bị ghét bỏ áp bức, người bị khinh khi ruồng bỏ.
Vậy phải hiểu thế nào?
Trong thực tế đời sống hằng ngày vào các giai đoạn thời đại trên trần gian, đời sống diễn ra rất khác trái ngược nhau: Sức mạnh của quyền hành, của tiền bạc vật chất thắng lướt trên tay ! Người yếu kém cô thế bị đẩy sang một bên ra ngoài bìa bên lề…
Thật là một bức tranh thảm thương đau buồn cho người nghèo hèn yếu kém cô thế!
Văn hào người Anh Gilbert Keith Cheleston có lần suy tư về Bài giảng trên núi, đã có cảm nhận: “ Đọc bài giảng trên núi lần thứ nhất, người ta có cảm tưởng tất cả được đặt đảo lộn lên hết trên đầu!”.
Bài giảng đưa ra những lời ca ngợi chúc phúc như một thách đố giá trị luân lưu trong xã hội về công việc làm ăn sinh sống và về dòng tiêu thụ. Những lời đó vẽ ra một hình ảnh ngược với hình ảnh trần thế hiện tại: Hình ảnh bức tranh nước Thiên Chúa.
Những ca ngợi chúc phúc trong bài giảng trên núi đưa hướng tầm nhìn đến thời sau cùng của trần thế, đến đích điểm một trời mới đất mới, nơi đó sự công bằng chính trực ngự trị.
Nước Thiên Chúa xuất hiện trong ánh sáng mới: sự nghèo đói, chiến tranh, sự bất công bị xóa bỏ. Như vậy phải chăng là một hình ảnh yên ủi cho an tâm chịu đựng vượt qua đau khổ thử thách trong đời sống?
Không, những ca ngợi chúc phúc của bài giàng trên núi còn nhiều hơn những hình ảnh về niềm hy vọng gây niềm an ủi phấn khởi cho con người trong thung lũng nước mắt trần thế không mang đến sự bình an cho đời sống.
Những chúc phúc của bài giảng gợi lên sự khao khát ngưỡng vọng mong muốn đạt tới một thế giới khác bên Thiên Chúa: thế giới bình an, thế giới công bình chính trực.
Sự bình an hạnh phúc của con người là trung tâm trái tim tình yêu của Chúa Giêsu Kitô. Chính vì thế Ngài đã chiết giải trong bản hiến chương nước trời: Tám mối phúc thật.
Nó xem ra trái ngược với thực tế mạnh được yếu thua trong đời sống trên trần gian. Nhưng sự bình an ở đời này và nhất là ở đời sau là điều quan trọng hơn tất cả, mà con người luôn phải kiến tạo xây dựng. Bài giảng tám mối phúc thật nêu ra những hướng dẫn cho đời sống đi tìm hạnh phúc bình an hôm nay ngày mai.
Tất cả bắt đầu với hai bàn tay không trước mặt Thiên Chúa từ khi thành hình hài sự sống, rồi sinh ra mở mắt chào đời cho đến ngày sau cùng đời sống trên trần gian, như Martin Luther đã có tâm tình xác tín: Chúng ta là người hành khất!
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh năm Mão, con Mèo
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long.
Theo cách tính Âm Lịch dựa vào vòng di chuyển của Mặt Trăng, cùng theo tập tục văn hóa, năm Nhâm Dần, con Cọp, đến hết tháng Chạp kết thúc. Và năm mới Mão, con Mèo sẽ tiến vào thay chỗ: năm Qúy Mão.
Con mèo được đứng đại diện làm chủ cả một năm mới sắp tới theo âm lịch.
Một số quốc gia đất nước bên vùng trời Á Đông mừng Tết Nguyên Đán âm lịch chung. Nhưng các nước Trung quốc, Hàn quốc, và Nhật Bản theo văn hóa năm Mão tương ứng với loài Thỏ, còn bên Việt Nam Mão tương ứng với loài Mèo. Nên họ lấy con Thỏ là con vật hình ảnh biểu tượng cho năm Mão. Còn bên Việt Nam lấy con Mèo là con vật hình ảnh biểu tượng cho năm Mão.
Hình ảnh con năm Mèo nói gì với dân gian chúng ta?
Mèo là loài thú vật bốn chân, thân hình nhỏ, chạy nhảy chuyền nhanh lẹ nhẹ nhàng, có bộ lông mượt mịn màng mầu khoang đốm trắng, đen, vàng, xám tro...
Mèo là loài thú vật nuôi trong nhà để bắt chuột giữ nhà, nhất là ở vùng đồng ruộng cày cấy có nhiều chuột. Ở bên xã hội Tây phương, mèo là con vật được nuôi cưng chiều như một em bé cho vui cửa vui nhà.
Mèo là loài thú vật ăn thịt sống như thịt chuột, thịt gà, thịt chim và cả cá nữa. Loài thú vật này có đôi mắt sáng nhìn ban đêm rất rõ. Theo khoa học khảo cứu, mắt của mèo chỉ nhìn thẳng phía trước, hầu như không di chuyển bên trái phải được, nên mắt mèo tập trung rất mạnh phân biệt rất rõ đối tượng lọt vào trong vùng chung quanh.
Mèo có đôi tai đứng thẳng che phủ bởi lông kín đáo cùng rất nhậy thính, và có thể quay xoay chiều nhanh nhẹ để bắt làn sóng âm thanh nhỏ bén nhậy. Theo khoa học khảo cứu đôi tai của mèo có làn sóng rất nhạy tới 65.000 Hz, cao gấp ba lần của con người. Đôi tai thính nhạy bắt được làn sóng âm thanh tinh vi cùng với đôi con mắt tinh sáng, khiến mèo nhanh lẹ có phản ứng tự vệ hoặc tấn công săn bắt đối tượng rất chính xác.
Thân thể mèo tuy nhỏ, nhưng xương rất cứng, nhất là bốn chân của mèo có những móng vuốt sắc bén chụp vồ bắt con mồi chính xác. Hàm răng của mèo rất sắc bén cấu xé thịt con mồi nhanh lẹ.
Theo khảo cứu khoa học khẩu vị lưỡi của mèo cũng tinh tế lắm, thích ăn vị mặn, chua, đắng. Nhưng nó lại không thích vị ngọt.
Bộ râu ở đôi mi mắt, mép cằm của con mèo là một thứ „Ăng-ten „ bắt chuyền tín hiệu rất nhậy chuyền đi tín hiệu vào tận thần kinh bên trong não bộ. Nhờ thế mèo có phản ứng nhìn cảm nhận rất tinh vi nhậy bén dù là ban đêm.
Ngoài giống mèo nuôi trong nhà còn có giống mèo rừng. Loại mèo hoang dã này thân hình cao to lớn hơn nhiều, chúng chạy rất nhanh lẹ, săn mồi rất dữ tợn hung ác, tấn công cả người nữa. Loài báo hổ, sư tử cũng phần nào thuộc bộ tộc giống mèo.
Dù là loài thú vật trong nhà, nhưng mèo cũng có chỗ đứng trong nền văn hóa dân gian xưa nay.
Mèo là con thú vật có nhiều hình thù khác nhau trong các nền văn hóa dân gian. Với người Nhật, ánh mắt nhìn của mèo là dấu chỉ sự dữ, sự xấu.
Trong văn hoa của vùng Kabbala và cả trong Phật Giáo, hình ảnh con mèo gần sát tương tự như con rắn.
Trong thần thọai ở bên Ai cập trái lại, mèo là con vật nuôi trong nhà giống như con vật có ích lợi, và được coi như một con vật thánh hiện thân nơi nữ thần Bastet, vị thần mèo có hình thù giống như đầu mèo coi giữ nhà cửa cùng con người, vị nữ thần của sinh sản.
Con Mèo có bộ lông mầu đen được xem là loài thú vật phù thủy xấu xa hung ác, là hình ảnh của ma qủy. Có những người tin kiêng dị đoan cho mèo đen là loài mang đến điều bất hạnh không may mắn.
Trong dân gian có truyền khẩu, mếu con mèo nhảy qua cỗ quan tài người đã qua đời nằm trong đó, xác chết sẽ bật dựng lên như người sống! Truyền khầu này muốn nói đến điều xấu sự dữ của mèo gây ra.
Trong Kinh Thánh có hai nơi nói đến mèo, nhưng đều nói đến điều điềm không tốt lành:
“ Mèo rừng gặp chó rừng , loài dê ma quái hú gọi nhau. Đó cũng là nơi dung thân cho qủy Lilít, là chốn hắn nghỉ ngơi. “ (Isaia 34, 14).
“ Trên thân mình chúng cũng như trên đầu chúng, người ta thấy bay lượn nào dơi, nào nhạn và các thứ chim khác, lại có cả mèo nữa. “ (Baruch 6,21)
Năm mới Âm Lịch có tên Qúy Mão. Mùa Xuân năm mới Qúy Mão về với đất trời cùng lòng người.
Mùa Xuân năm mới mang đến cho lòng người không khí niềm vui rộn ràng. Trong không khí đó chúng ta tạ ơn Thiên Chúa ban cho đời sống thêm một năm mới, cùng cầu chúc cho nhau những gì tốt đẹp may mắn trong đời sống năm mới.
Điều này chính đáng cùng cần thiết giúp đời sôúng tinh thần phấn khởi vươn lên. Nhưng có lẽ, như người Tây phương có thành ngữ ví von về con mèo, có thể lấy dùng làm như lời nhắc nhở về cách sống khôn ngoan cẩn trọng trong năm con Mèo, cũng là điều hay tốt đẹp cùng giúp ích cho đời sống.
Ngạn ngữ dân gian nước Đức có khôn ngoan: "Kaufen Sie nicht die Katze im Sack!" Geprüfte Gebrauchte sind besser als die Katze im Sack" = „ Xin đừng mua con mèo nhốt trong bao. Nhưng tốt hơn hãy khảo sát hàng hóa trước để khỏi bị mua lầm con mèo dấu nhốt trong bao!
Chúc mừng Năm Mới Qúy Mão!
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh chiên Thiên Chúa
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Các quốc gia đất nước, các hãng xưởng hay hội đoàn đạo đời…thường có hình biểu tượng đặc biệt in vẽ hay thêu khắc trên cờ, trên huy hiệu riêng của mình, như hình chim đại bàng, con gà trống, con sư tử, lá cây tùng phong, con gấu, đàn ngựa chạy thi, con gấu, dòng sông nước, đồi núi…
Còn khi nói về Chúa Giêsu Kitô có hình ảnh biểu tượng gì chỉ về Ngài?
Ngay từ khởi đầu khi Chúa Giêsu bước ra rao giảng tình yêu nước Thiên Chúa, Thánh Gioan tẩy gỉa đã giới thiệu Chúa Giêsu là con chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian. ( Ga 1,29).
Con chiên trong đạo Do Thái là con vật thánh. Ngày xưa khi dân Do Thái xuất hành từ nước Ai Cập trở về quê hương nước Do Thái, họ theo lệnh Thiên Chúa truyền qua Tiên tri Mose, mỗi gia đình phải giết một con chiên nướng ăn trước khi lên đường xuất hành. ( Sách Xuất hành12, 1-14 ).
Con chiên vì thế trở thành hình ảnh biểu tượng con vật thánh, con vật tế lễ mang lại ơn cứu chuộc cho dân thoát khỏi cảnh nô lệ bên xứ lưu đầy Ai cập.
Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, xuống trần gian làm người, theo ý Thiên Chúa hy sinh cuộc đời làm lễ tế đền tội thay cho tội lỗi nhân loại, mang lại ơn cứu chuộc phần rỗi linh hồn cho con người. Vì thế Thánh Gioan tẩy gỉa, người đã làm phép rửa cho Chúa Giêsu ở sông Jordan, đã dùng hình ảnh con chiên tiên báo nói về Chúa Giêsu Kito.
Trong thánh lễ Misa trước khi mọi người giáo hữu tiếp nhận Tấm Bánh Thánh Thể Chúa Giêsu Kitô, lời tung hô tuyên tín: Đây chiên Thiên Chúa, đấng xóa tội trần gian, được xướng đọc lên.
Tấm bánh Thánh Thể Chúa Giêsu Kitô là hình ảnh biểu tượng con chiên về đời sống của Ngài làm hy lễ đền tội dâng lên Thiên Chúa, trở thành lương thực niềm tin tinh thần cho con người.
Chúa Giêsu Kitô qua sự hy sinh chịu chết trên thập gía đã trở thành bánh lương thực thiêng liêng cho đức tin con người. Ngài không giữ sức mạnh sự thánh thiêng lại cho mình, nhưng vì tình yêu mến tiếp tục trao tặng con người, và tự biến thành nhiều cho mọi người cùng được tham dự. Hình ảnh sự hy sinh dấn thân vì tình yêu thể hiện nơi cha mẹ lo lắng chăm sóc cho con cái mình. Hay con cái lo lắng săn sóc cho cha mẹ, khi các ngài tuổi gìa sức yếu đau ốm bệnh nạn.
Chúa Giêsu dấn thân chịu chết trên thập gía tự hiến mình làm lễ tế như con chiên bị giết làm lễ tế và để chịu cắt chia sẻ.
Tấm bánh Thánh Thể Chúa Giêsu Kitô được phân phát chia sẻ giống tựa như con chiên. Trong lịch sử cổ đại con chiên được dùng có gía trị là con vật tế lễ. Người ta nhìn nhận nơi con chiên những khía cạnh gía trị cao qúi như sự kiên nhẫn, sự tận tụy hy sinh dấn thân, tình yêu mến, và sự hiền lành hòa bình.
Kinh thánh cũng nói đến nhữg đức tính như vậy, nên gọi là con chiên lễ vượt qua. Vì vào lễ Vượt qua trong Do Thái giáo, những con chiên ở trong đền thờ Jerusalem được giết làm lễ tế hy sinh đền tội xin ơn tha thứ dâng lên Giave Thiên Chúa, và đồng thời nhắc nhớ lại biến cố xuất hành khi xưa từ Ai Cập trở về quê hương đất nước Do Thái. Trong biến cố này con chiên cũng được giết ăn trước khi xuất hành, và máu của nó được bôi quyết trên cửa nhà, để được thoát khỏi án sự chết.
Và như thế máu của con chiên trong Do Thái giáo là dấu chỉ về sự sống và ơn cứu chuộc.
Theo phúc âm Thánh Gioan thuật lại, Chúa Giêsu Kitô chết trên thập gía bên ngoài thành Jerusalem năm xưa vào đúng thời điểm những con chiên bị giết làm lễ tế trong đền thờ.
Thánh Gioan tẩy gỉa đã giới thiệu tiên báo về Chúa Giêu Kitô là “ con chiên Thiên Chúa” trong tương quan với hình ảnh “Con chiên lễ Vượt qua”.
Và qua đó muốn diễn tả: Hãy thôi thi hành nghi thức giết các con vật làm lễ tế vào ngày lễ Vượt Qua. Sự đó đã đến thời kết thúc. Vì Chúa Giêsu Kitô là Đấng đem đến sự sống, ơn tha thứ làm hòa với Thiên Chúa và ơn cứu chuộc. Sự hy sinh chết trên thập gía của Chúa Giêsu có gía trị “ xóa bỏ tội lỗi cho nhân loại”.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Hình ảnh khuôn mặt lễ Ba Vua
- Nhớ về người thợ trong khu vườn của Chúa
- Hình ảnh người mẹ an ủi người con
- Hình ảnh bước vào năm mới 2023
- Hình ảnh ngôi sao giáng sinh Bethlehem
- Hình ảnh mục đồng đêm Chúa giáng sinh
- Hình ảnh Thánh cả Giuse trong mùa Vọng
- Hình ảnh Thiên Chúa mùa vọng
- Hình ảnh lễ Đức mẹ vô nhiễm nguyên tội
- Hình ảnh giấc mơ thần thánh.