Hình ảnh giá trị đời sống
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ai cũng đề cao qúi trọng gía trị.
Nơi một đồ vật thể gía trị được nhanh chóng đánh gía bằng tiền bạc, như chiếc xe hơi gía vài chục ngàn, hay vài ngàn… Điều này nói lên gía trị của chiếc xe. Và bằng tiền có thể mua tậu được chiếc xe đó.
Nhưng có những đồ đạc vật thể yêu mến qúi trọng không thể thay thế, hay mua được bằng tiền bạc. Không phải gía trị của vật thể gía mua bán nhiều ít bao nhiêu. Nhưng là gía trị tinh thần gói ẩn trong đó.
Cô Vân đi hành hương, lúc về quên chiếc nhẫn nhỏ bằng vàng ở khách sạn. Về đến nhà thấy không còn chiếc nhẫn, cô thẫn thờ tiếc xót. Sốt ruột cô gọi điện thoại nhờ hỏi bên khách sạn nơi phòng đã trú ngụ, để mong tìm kiếm xin lại chiếc nhẫn bỏ quên bằng mọi gía.
May cho cô. Khách sạn theo chỉ dẫn đã tìm lại được đúng chiếc nhẫn cô để quên trong phòng. Nhận lại được, cô rỡ mừng rỡ hạnh phúc khôn tả. Vì tìm lại được chiếc nhẫn gía trị qúy báu. Cô cho biết chiếc nhẫn theo thời gía không bao nhiêu tiền. Điều này cô không màng tới.
Nhưng điều cô quan tâm gắn bó tới gía trị chiếc nhẫn, vì đó là món qùa tặng của mẹ cho cô, mà bây giờ bà đã qua đời. Đó là chiếc nhẫn kỷ niệm, chiếc nhẫn tình yêu mến mẹ cô dành cho đời cô. Mỗi khi nhìn, đeo chiếc nhẫn đó, cô nhớ đến công ơn sinh thành dưỡng dục của mẹ mình, đến tình mẫu tử.
Cô yêu mến qúi trọng giá trị chiếc nhẫn. Vì món qùa tặng này ẩn hiện hình ảnh người mẹ.
Còn con người có giá trị thế nào? Có thể đánh giá bằng tiền bạc mua bán được không?
Xưa nay không thể mua con người bằng tiền bạc được, dù vẫn có những trường hợp người khác muốn nhận một em bé làm con nuôi,và thỏa thuận trả cho gia đình ruột thịt của em một số tiền... Nhưng thân thể hình hài sự sống em bé không là gía trị hệ tại nơi số tiền trả đó. Em là một con người,. Thân xác sự sống của em có gía trị linh thiêng qúi báu cao cả klhông có gì có thể so sánh được, mà Đấng Tạo Hóa ban cho đời em. Không có gì có thể thay thế cho sự sống linh thiêng của em được.
Người con trai thứ hai bỏ nhà ra đi sống đời tội lỗi ăn chơi phung phí hoang đàng, như dụ ngôn Chúa Giêu Kitô kể trong phúc âm thuật lại ( Lc 15,1-32). Hết tiền sinh sống, anh ta lâm cảnh đói khát bơ vơ hoang mang. Anh thấy mình không còn gì, như không có gía trị gì nữa! Qúa mắc ở xấu hổ. Nhưng hoàn cảnh bó buộc, nên đành trở về nhà để cầu xin sao có miếng ăn no đủ cho khỏi bị chết đói giữa đường…
Nhưng người cha sinh thành ra anh không nhìn qúa khứ hoang đàng đưa đến cảnh nghèo túng đói khát, thân thể tiều tụy của con mình, hầu như làm cho bị mất gía trị nhân phẩm con người. Trái lại, ông vẫn nhìn nhận gía trị của con mình. Với ông giá trị con mình vẫn luôn tồn tại, cho dù cuộc sống bề ngoài sa đoạ tội lỗi, đói rách nghèo khổ của con mình thế nào đi chăng nữa.
Người cha không nói lời gì. Nhưng tâm hồn ông xúc động thổn thức. Ông chạy đến ôm hôn người con mình, sai cho người đi lấy quần áo tốt đẹp mặc cho, trao vào tay chiếc nhẫn tình yêu niềm vui mừng cha con, và còn tổ chức bữa ăn thịnh soạn ăn mừng.
Những cử chỉ này của người cha nhân hậu là hình ảnh không chỉ nói lên niềm vui hạnh phúc, cùng lòng nhân hậu thương xót. Nhưng còn sâu xa hơn nữa: Ông nhìn nhận ra gía trị cao đẹp qúi báu của người con là tài sản linh thiêng cao qúi. Không có gì có thể thay thế, hay đánh đổ tàn phá làm mất đi giá trị cao qúi linh thiêng đó được.
Người cha giầu lòng nhân hậu thương cảm với con mình là hình ảnh tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Ngài không chối từ bỏ rơi ai. Ngài luôn công nhận bảo vệ gía trị của con người, cho dù họ có nếp sống tội lỗi xa lìa hay chối bỏ Ngài, và hằng mong chờ họ trở về với Ngài.
Con người có kinh nghiệm sống sâu xa, vật chất là phương tiện sinh sống. Nó không là tất cả. Nó không làm nên giá trị con người. Nhưng chính con người làm ra nó, và khoác cho nó một gía trị tương đối trong đổi chác mua bán để phục vụ đời sống.
Thánh Phaolô nói lên niềm tin tưởng xác tín: “ Không phải của ăn vật chất làm cho chúng ta có gía trị trước mặt Thiên Chúa.” ( 1 cr 8,8).
Giá trị của con người không thể đem ra so sánh được bằng tiền bạc, hay vật thể đổ chác được. Giá trị con người linh thiêng cao qúi bao la sâu thẳm không có cùng tận.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh chương trình của Thiên Chúa
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Con người xưa nay ai cũng mong muốn có đời sống khoẻ mạnh, có hạnh phúc bình an niềm vui trong đời sống.
Nhưng rất tiếc, nhiều điều không diễn xẩy ra như mong muốn. Đời sống phải đối diện gặp nhiều khó khăn, nhiều thử thách khủng hoảng chao đảo…
Như từ hơn hai năm nay bệnh đại dịch Covid 19 truyền nhiễm lây lan đe dọa sức khoẻ đời sống nhân loại trên hoàn cầu, nạn lũ lụt, hạn hán cháy rừng tàn phá rừng cây, ruộng đồng hoa mầu, đe doạ ngôi nhà thiên nhiên, rồi chiến tranh bên đất nước Ukraina gây cảnh tử vong, tàn phá đường xá nhà cửa, đời sống kinh tế và nền hòa bình thế giới bị đe dọa…
Tất cả đã cùng đang diễn xẩy ra không như con người ao ước mong muốn sự tốt đẹp thịnh vượng, bình an cho đời sống! Thực trạng đó đưa đến suy nghĩ thắc mắc tại sao lại xảy ra những hình ảnh tiêu cực như thế cho đời sống ?
Kinh Thánh sách Khôn Ngoan ( Kn 9,13-18) có tin tưởng suy tư: Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa có chương trình tốt đẹp cho đời sống con người.
Nhưng con người chúng ta không thể luôn luôn nhận ra và cùng không hiểu nổi chương trình của Thiên Chúa:” Ai trong loài người có thể biết được ý định của Thiên Chúa? Hay ai có thể suy tưởng được sự Thiên Chúa muốn? “ ( Kn 9,13).
Chúng ta phải sống chịu đựng cảnh thử thách, sự tiêu cực không như mong muốn, nhưng làm sao có thể hiểu được chương trình tốt đẹp của Thiên Chúa cho đời sống mình?
Kinh Thánh nơi sách Khôn Ngoan đưa ra hướng dẫn:” Ai hiểu thấu Thánh ý của Chúa, nếu Chúa không ban sự khôn ngoan, và không sai Thánh Thần Chúa từ trời cao xuống.” ( Kn 9,17).
Như vậy phải chăng với sự khôn ngoan của Thiên Chúa và Thần linh của Ngài chúng ta có thể hiểu được nhiều sự tốt hơn?
Được cho là khôn ngoan, khi người nào đó từ tận trong trái tim tâm hồn có thể hiểu nhận ra nếp sống hài hòa tốt đẹp với những người khác, với thiên nhiên trong trời đất.
Cũng được cho là khôn ngoan, khi người nào đó có thể đi đến quyết định tốt đẹp đúng đắn trong những hòan cảnh tế nhị khó khăn có nhiều đòi hỏi thách đố.
Kinh Thánh trình bày trong niềm xác tín, sự khôn ngoan của Thiên Chúa to lớn bao la, Ngài là người ban phát, là Thầy dậy là mẫu mực của khôn ngoan. Thiên Chúa tự chính mình là sự khôn ngoan.
Sự khôn ngoan của Ngài thể hiện nơi sự sáng tạo trong vũ trụ, sáng tạo sự sống con người và nuôi dưỡng sự sống con người về thân xác, hơi thở cùng trí khôn suy nghĩ phát triển suy nghĩ.
Người Kitô giáo chúng ta tin nhận rằng Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, xuống trần gian sống làm người giữa chúng ta, đã chỉ ra sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Chúng ta tin rằng Chúa Giêsu Kitô là người khôn ngoan nhất trên vũ trụ. Ngài đã đến trần gian sống gây mang niềm vui hạnh phúc. Sự khôn ngoan của ngài thể hiện nơi sự chữa lành, nơi sự nâng đỡ ủi an con người.
Như thế, dù không sao hiểu được những tiêu cực trong đời sống xẩy ra, nhưng với sự tin tưởng vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng là sự khôn ngoan, Đấng không bỏ rơi con người, nhưng hằng đưa bàn tay ra nâng đỡ che chở công trình vũ trụ cùng con người trong mọi trường hợp.
Thiên Chúa ban tặng con người Thần Linh của Người, mà chúng ta gọi là Đức Chúa Thánh Thần. Thần linh Thiên Chúa giúp tâm trí hiểu nhận ra chương trình của Ngài cho đời sống.
Con người qua Chúa Giêsu Kitô là sự khôn ngoan của Thiên Chúa, trong Chúa Thánh Thần hiểu nhận ra, Thiên Chúa cùng hằng đồng hành với trên con đường đời sống.
Thiên Chúa có chương trình tốt đẹp cho con người trên đường lữ hành trần gian.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh cung cách sống lòng khiêm nhượng
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Cung cách sống lòng khiêm nhượng là một đức tính tốt, một nhân đức thánh thiện anh hùng luôn được khuyến khích đề cao. Nhưng trong thực tế đời sống đức tính nhân đức khiêm nhượng, nhất là ngày hôm nay, thường bị cho là cổ hủ, là thụt lùi dậm chân tại chỗ…
Vì đời sống cạnh tranh trong xã hội đòi buộc phải tỏ ra có bản lĩnh vượt thắng những khó khăn thách đố, rào cản chắn lối, phải tiến tới phía trước, phải trổi vượt có thành tích, sáng kiến hay mới lạ!
Còn trong lãnh vực tinh thần đạo giáo thì hình ảnh cung cách nếp sống này như thế nào?
Hiểu ý nghĩa lòng khiêm nhượng không dễ dàng đơn giản, vì liên quan gắn bó với nếp sống của con người.
Có người tự nguyện sống đơn giản. Họ bằng lòng với hiện tại với điều có, họ không đòi hỏi gì khác. Cung cách nếp sống khiêm nhượng đơn giản này, không có gì trổi vượt sáng chói, nhưng mang đến cho đời sống sự bằng lòng trong niềm vui. Đây là cung cách nếp sống lòng khiêm nhượng chống lại sự kiêu ngạo.
Có người vì hòan cảnh đời sống, không tự nguyện, nhưng phải chấp nhận như mình có. Họ khép mình cùng thích nghi với môi trường hoàn cảnh sống. Một nếp sống khiêm nhượng trong tương quan với hoàn cảnh đời sống.
Sách Jesus Sirach 3, – Sách Huấn ca – nói về lòng khiêm nhượng trên căn bản cung cách nếp sống nơi con người trong chiều tương quan với Thiên Chúa và với con người.
Trong tương quan với Thiên Chúa, lòng khiêm nhượng thể hiện trong sự kính trọng và lòng tin tưởng: Vì quyền năng Thiên Chúa thì lớn lao, Người được tôn vinh nơi các kẻ khiêm nhường. ( Huấn ca 3, 20).
Người tin tưởng vào Chúa, nhận hiểu ra sự khác biệt giữa Thiên Chúa, đấng Tạo Hoá, và con người, loài thụ tạo.
Con người là tạo vật yêu qúi được Thiên Chúa tạo thành nuôi dưỡng. Không có Thiên Chúa con người chẳng là gì. Nhưng con người không phải là hình nộm diễn kịch trên sân khấu của Thiên Chúa. Trái lại họ là người có tự do, có trí tuệ suy nghĩ phát triển do Thiên Chúa tạo dựng sinh thành.
Tâm tình lời cầu nguyện cậy trông, cung cách tôn kính tuân phục thờ phượng Thiên Chúa trình bày diễn tả lòng khiêm nhượng. Và như thế nói lên danh vọng, tiếng tăm thành tích qua đi, nhưng duy chỉ có Thiên Chúa vẫn luôn tồn tại. Ngài là khởi đầu, hiện tại và cùng tận. Ngài là Đấng ban tặng con người sự sống hôm nay và ngày mai.
Trong chiều tương quan với con người, tác gỉa sách Huấn ca nêu ra lời kinh nghiệm khôn ngoan: “: Con ơi, hãy hoàn thành việc của con một cách nhũn nhặn, thì con sẽ được mến yêu hơn người hào phóng.” ( Huấn ca 3, 17).
Cung cách nếp sống thực tế lịch sự nhũn nhận này tỏ ra sẵn sàng quên mình, không cho mình là chính, là quan trọng. Cung cách nếp sống nhũn nhặn này hướng tầm nhìn tới người chung quanh mình trong tình bác ái liên đới.
Thánh Phaolô có suy tư về cung cách nếp sống bác ái lòng khiêm nhượng: ”Anh em đừng làm gì vì cạnh tranh hoặc háo danh, nhưng mỗi người với tất cả sự khiêm tốn, hãy coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm tư lợi, nhưng hãy tìm lợi ích của người khác nữa” (Pl 2,1-4).
Mẹ Thánh Terexa thành Calcutta cả đời hiến thân phục vụ người nghèo trong xã hội bên Ấn Độ, đã có tâm tình về khía cạnh cung cách nếp sống lòng khiêm nhượng:
“ Thực ra công việc của chúng ta không quan trọng, nhưng là công việc đơn giản khiêm nhượng nhất. Gíá trị công việc hệ tại nơi tinh thần tình yêu hướng về Chúa nơi tâm hồn. Người ta không thể yêu mến Chúa, mà không có tình yêu mến người khác.
Mặt khác người tu sĩ truyền giáo cho tình yêu vì người khác không bao giờ được quên lời Chúa Kitô Giêsu nhắn nhủ trong dụ ngôn ngày phán xét chung thẩm:” Ta đói , con đã cho ta ăn…” Điều nay chúng ta cố gắng thực hiện: cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc. Tìm kiếm Chúa Kitô Giêsu nơi những người nghèo hèn khốn cùng, nơi người hấp hối sắp qua đời, nơi người người bệnh, nơi người mồ côi bơ vơ bị bỏ rơi.
Công việc của chúng ta khởi đầu với những trẻ em bị bỏ rơi bên lề đời sống. Những trẻ em này không phải chỉ có ở một nơi, nhưng rất tiếc buồn thảm thay luôn có trở lại. Có một lần trong những năm đầu tiên hoạt động bác ái của Dòng chúng tôi, cảnh sát dẫn đến cho chúng tôi một nhóm trẻ em trong trại tù bị giam hãm. Vì chúng bị bắt gặp phạm tội ăn cắp. Tôi hỏi các em, tại sao các em làm như vậy. Chúng trả lời, mỗi ngày từ 17 giờ tới 20 giờ chúng con được người lớn dậy cho kỹ thuật ăn trộm ăn cắp.” ( Mutter Teresa, Leben, um zu lieben. Jahreslesebuch, Herder 1999, trang 51.).
Cung cách nếp sống khiêm nhượng không tỏa ra thành tích sáng chói, nhưng mang lại niêm vui sự bình an cho con người.
Sách Huấn ca có suy niệm sâu xa hơn về cung cách đối nghịch với nhân đức lòng khiêm nhượng “ Kẻ kiêu ngạo lâm cảnh khốn cùng thì vô phương cứu chữa, vì sự xẩy xa đã ăn sâu mọc rễ trong nó. ( Huấn ca, 3, 28).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh cửa hẹp
- Viết bởi Dân Chúa
Cửa thành phố thường rộng thênh thang cho nhiều người cùng đi vào, đi ra cùng một lúc.
Cửa thánh đường cũng rộng, nhưng không to rộng bằng cửa thành phố.
Cửa nhà ở cũng rộng, nhưng nhỏ hẹp hơn nhiều về chiều cao cũng như chiều rộng cửa thành phố, cửa thánh đường.
Cửa dinh Tổng Thống, dinh Thủ Tướng, dinh Tỉnh trưởng…rộng cao cùng đẹp. Nhưng lại mang hình ảnh biểu tượng là cửa hẹp. Vì chỉ một người nào được người dân đất nước tín nhiệm chọn bầu làm Tổng Thống, làm Thủ tướng, làm tỉnh trưởng được vào thôi.
Hình ảnh cửa trong nếp sống niềm tin tôn giáo thì thế nào?
Chúa Kitô Giesu khi đi rao giảng nước Thiên Chúa cho trần gian đã qủa quyết chính Ngài là cửa dẫn vào sự sống ơn cứu độ cho con người.
Và Ngài vạch ra cung cách lối sống chọn lựa cửa: “ Có kẻ hỏi Chúa Giesu: "Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?" Nhưng Người phán cùng họ rằng: "Các ngươi hãy cố gắng chiến đấu vào qua cửa hẹp…” ( Lc 13, 24).
Cửa rộng hay hẹp đều ẩn chứa ý nghĩa cho đời sống. Con người thường ai cũng thích muốn đi qua lối cửa cao rộng cho dễ chịu thông thoáng cùng nhanh chóng.
Đi qua lối cửa hẹp chật chội phải thứ tự chờ đợi tới phiên, rồi còn phải thu mình, thu đồ đạc mang theo lại cho gọn mới qua lọt được. Như thế theo bản tính tự nhiên của con người không dễ chịu, nên ngại không muốn đi qua lối cửa chật hẹp...
Trong đời sống luôn có cửa hẹp làm bằng chất liệu vật lý, và nơi mỗi người cũng đều có những cửa hẹp tinh thần.
Nơi đền thờ Chúa giáng sinh bên Bethlehem chỉ có một cửa duy nhất ra vào, mà cửa đó vừa nhỏ lại vừa thấp chật hẹp. Khi ra cũng như khi vào, chỉ một người qua lọt được thôi, và phải khom lưng cúi đầu xuống để không bị va chạm đụng vào đố xà cửa bằng đá phía bên trên.
Chúa Kitô Giesu, Con Thiên Chúa là Đấng cao cả, đã từ trời cao hạ mình sinh xuống trần gian làm người như một em bé sơ sinh được đặt nằm trong máng đựng rơm cỏ cho xúc vật ăn. Vì thế, chiếc cửa nhỏ chật hẹp nơi đền thờ của Chúa muốn nhắc bảo cho người đi vào cũng phải có thái độ khiêm cung khom lưng cúi đầu xuống để vào bái kiến thờ lạy Đấng đã khiêm nhường từ trời cao hạ mình xuống mặt đất làm người.
Rồi khi vào đền thờ có ngôi mộ trống nơi Chúa Kitô Giêsu đã được an táng ở Jerusalem, mà Ngài đã chỗi dậy sống lại, người hành hương cũng phải khom mình cúi xuống đi chui qua ngõ cửa nhỏ thấp chật hẹp chỉ cho một người, mới vào tới căn phòng huyệt mộ có ngôi mộ thánh trống.
Cửa nhỏ thấp chật hẹp nơi ngôi mộ thánh trống nhắc nhớ đến cung cách sống cúi mình xuống đất là nguồn gốc con người được tạo thành từ đất cát. Khi vào tới ngôi mộ trống nhắc nhớ đến Đấng được an táng nằm trong ngôi mộ dưới lòng đất đã sống lại lên trời cao, nơi là ngai chỗ ở của Ngài. Và trời cao cũng là quê hương con người mong đợi được đạt tới, sau quãng đời hành trình trên trần gian.
Cuộc sống ở đời, con người trong bất cứ lãnh vực nào cũng đều phải trải qua cửa hẹp, nhất là cung cách nếp sống tinh thần đạo giáo đòi hỏi nhiều hy sinh cố gắng liên tục.
Người tập luyện thể thao, thể lực phải giữ đều đặn kỷ luật chương trình huấn luyện đề ra, người học sinh, sinh viên, nhà giảng thuyết, nhà khoa học…phải luôn luôn mài rìu công việc sách vở, nghiên cứu tìm hiểu khám phá. Họ phải nỗ lực liên tục chiến đấu ép mình vượt qua tính khí luôn thích muốn sự dễ dãi nhanh chóng. Sống theo kỷ luật hy sinh từ bỏ là hình ảnh biểu tượng cửa hẹp. Vượt qua được cửa hẹp đó, họ mới đạt tới đích điểm gặt hái được thành công.
Ngày 28. Tháng Hai năm 2013 đức giáo hoàng Benedictô 16. đã từ bỏ cửa rộng cao ngôi giáo hoàng bước xuống thu mình đi vào khung cửa hẹp nhà Dòng Mẹ Thiên Chúa sống đời ẩn dật cầu nguyện.
Ngày 29.07.2022 ngày cuối cùng chuyến thăm đất nước Canada, Đức thánh cha Phanxicô đã có buổi trò truyện gặp gỡ các tu sĩ Dòng Tên. Ngài đã dùng hình ảnh “ sự mong manh” của bản tính con người nói về cửa hẹp đời sống con người:
“Này Marc, tôi có ấn tượng về một chữ cha đã nói, "sự mong manh." Đã rất nhiều lần chúng ta nghe người ta nói rằng Dòng Tên là đội quân của Giáo hội, đội quân hùng mạnh… tất cả chỉ là tưởng tượng! Chúng ta không bao giờ nên nghĩ về sự tự mãn của mình. Tôi tin rằng sức mạnh thực sự của một tu sĩ Dòng Tên bắt đầu bằng việc tự ý thức được tính mong manh của chính mình. Chính Chúa là Đấng ban sức mạnh cho chúng ta.” ( Cùng nhau bước đi: Đức Phanxicô trò truyện với các tu sĩ Dòng Tên, Vietcatholic, 13. Aug. 2022)
Trong đời sống tinh thần luôn đòi buộc phải đi qua cửa hẹp khi:
giữ kỷ luật tập luyện thói quen nhân đức, tính tình tốt lành thánh đức,
kính trọng sự sống trong vũ trụ thiên nhiên
từ bỏ điều chiều theo ý thích ham muốn cảm quan và sự dễ dãi nhanh chóng.
chu toàn việc bổn phận hằng ngày
Cửa hẹp, con người ai cũng ngại cùng sợ phải đi qua lối này. Vì phải tập luyện giữ kỷ luật liên tục, hy sinh chiến đấu cố gắng chịu đựng cả đau khổ nữa. Nhưng khi đi qua được, lại đạt tới cửa thành công cho đời sống, cửa bình an cho tâm hồn, và cửa ơn cứu độ của Chúa cho linh hồn.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh niềm hy vọng ủi an.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Nhân loại đang sống trong hoang mang lo sợ, vì bệnh đại dịch lây lan truyền nhiễm kéo dài từ hơn hai năm nay, rồi chiến tranh lúc này bên đất nước Ukraina gây cảnh tàn phá tử vong, bỏ quê hương xứ sở di cư đi tỵ nạn, đời sống tinh thần văn hóa cùng kinh tế xuống dốc, chao đảo xáo trộn mất an ninh... Và bây giờ tình trạng khí hậu thiên nhiên, môi trường đời sống trong vũ trụ cành lúc càng nóng lên, nước trở nên khan hiếm, rừng cây bị cháy bị tàn phá hủy hoại, đời sống kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề…là đề tài nóng bỏng thời sự, là nỗi lo âu to lớn của nhân loại khắp hoàn cầu.
Trong hoàn cảnh như thế, con người đi tìm kiếm bến bờ niềm an ủi hy vọng không chỉ cho đởi sống lúc này, nhưng họ còn có tâm tình suy nghĩ tin tưởng sâu xa hơn nữa: một đời sống bên kia sau quãng đời trên trần gian! Họ trông mong một đời sống thiên đàng bên kia thế giới trần gian này…
Khi đọc kinh lần chuỗi mân côi, nơi chặng thứ năm mùa Mừng có lời suy ngắm cầu xin: Đức Chúa Trời thưởng Đức Mẹ trên trời. Ta hãy xin Đức Mẹ phù hộ cho ta được thưởng cùng Đức Mẹ trên nước thiên đàng.
Lời suy niệm cầu xin này diễn tả tâm tình mừng kính Đức mẹ được Thiên Chúa đưa lên trời hồn xác sau cuộc sống trên trần gian, mà Giáo hội mừng lễ này hằng năm vào ngày 15. Tháng Tám giữa mùa hè nóng bức.
Con người được Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, sinh thành tác tạo cho sống trên trần gian có giới hạn về thời gian sinh sống. Vì thế, tâm hồn con người, nhất là người tín hữu Chúa Kitô, có suy nghĩ hướng về một đời sống sau này trên trời.
Nhưng hình ảnh trời được hiểu như thế nào? Phải chăng đến một lúc nào đó trong đời sống trời bỗng dưng ụp xuống trên ta?
Theo trí tưởng tượng Trời được vẽ trình bày là một không gian xa xôi tận trên cao, vượt xa khỏi tầm nhìn của con mắt vươn tới, cùng cả trí hiểu biết tưởng tượng ra nữa. Trời có chiều kích không gian luôn ẩn hiện trong tâm trí đầu óc con người.
Theo đức tin Kiô giáo, Trời thể hiện cụ thể với hình hài nơi thân thể của Đấng đã từ trời cao xuống trần gian làm người ở thành Nazareth bên nước Do Thái từ trước đây hơn hai ngàn năm: Chúa Kitô Giesu, Con Thiên Chúa. Nơi Chúa Kitô Giesu, Thiên Chúa ở giữa con người trần gian. Trời cao đã xuống sinh sống với con người trần gian.
Thiên Chúa nơi Chúa Giesu Kitô đã chia sẻ thân phận nếp sống với con người, để con người trần thế có được đời sống không còn bị là nô lệ cho tội lỗi nữa. Chúa Giêsu Kitô mang đến sự bình an, niềm vui và sự sống cho con người trần gian.
Chúa Giêsu Kito đến trần gian không phải để nhân danh Thiên Chúa luận tội kết án, nhưng để cứu độ trần gian cho khỏi hình phạt của tội lỗi. Vì thế con người không cần hoài nghi lo âu đến một lúc nào đó trời bỗng dưng ụp xuống trên thân thể. Trời đang ở giữa trần gian.
Hằng năm người tín hữu Chúa Kitô mừng kính lễ Đức mẹ Maria về trời, sau quãng đường đời sống trên trần gian. Đức mẹ Maria là con người tiên khởi, trong số những người đã đi vào giấc ngủ ngàn thu, được Thiên Chúa cất nhắc đưa về trời cả hồn lẫn thân xác.
Đức Mẹ Maria đã đạt tới đích điểm về tới trời, đó là niềm tin của chúng ta, và cũng nói lên niềm hy vọng sau cuộc sống giới hạn trên trần gian, con người cũng được Thiên Chúa cứu độ thâu nhận như Đức mẹ: xin Đức Mẹ phù hộ cho ta được thưởng cùng Đức Mẹ trên nước thiên đàng!
Lễ mừng kính Đức mẹ Maria về trời là lễ của tất cả mọi tín hữu tin theo Chúa Giêsu Kitô, với niềm trông mong, sau quãng đời hành trình trên trần thế, cũng được Thiên Chúa cứu độ cho về trời như Đức mẹ Maria.
Như Đức mẹ Maria đã bước qua ngưỡng cửa sự chết nghìn thu sang vào sự sống, con người chúng ta cũng xin được như vậy. Đức mẹ Maria đã trở nên hình ảnh dấu chỉ niềm hy vọng an ủi cho con người.
Trời cao đã không ụp xuống trên Đức mẹ Maria. Nhưng Đức mẹ đã cưu mang Trời cao là Chúa Giesu Kitô ngay trong cung lòng mình. Lời xin vâng bằng lòng cho chương trình như ý Thiên Chúa muốn thực hiện đã khiến Maria trở thành mẹ của con Thiên Chúa, Đấng từ trời cao xuống trần gian làm người với thân xác hình hài một con người giữa trần gian.
Con người có thể gặp được trời ngay trong đời sống. Đức giáo haòng Benedictô 16. đã có suy niêm:” Trời không phải là một nơi chốn vượt xa khỏi trên những vì tinh tú. Trời là điều gì lớn lao hơn nhiều. Qua Chúa Giêsu Kitô, Đấng bị đóng đinh và đã sống lại, con người có chỗ ở nơi Thiên Chúa…Có Thiên Chúa là có trời.”
Trong Chúa Giêsu Kitô trời đã xuống trần gian, để con người qua gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô tìm được trời và sự sống cho tương lai mai sau.
Mừng lễ Đức Mẹ hồn xác về trời
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh ngọn đèn cháy sáng
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Khi trời tối ban đêm, hay cả khi ban ngày trong nhà đóng cửa kín không có ánh sáng chiếu lọt vào, luôn cần có ánh sáng của đèn dầu,hay đèn điện chiếu tỏa soi đường chỉ lối cho sinh hoạt trong cuộc sống.
Ánh sáng ngọn đèn cháy sáng mang đến niềm vui, không khí phấn chấn an ủi cho con người cùng cả thú vật nữa, như cho người bệnh, cho thú vật nuôi nhốt trong chuồng, trong rừng hoang…
Ánh sáng chiếu tỏa từ ngọn đèn xóa tan đẩy lùi bóng tối tăm sang một bên. Khuôn mặt những vật thể khi có ánh sáng chiếu dọi tới lộ diện ra được nhìn thấy rõ rệt hơn.
Các xe hơi lúc chạy trên đường ngày cũng như đêm, nhất là khi đi vào đường hầm u tối…cũng bật đèn sáng không phải chỉ để chiếu sáng cho thấy rõ đường, nhưng còn để được các xe khác cùng chiều chạy song song bên cạnh, hay xe chạy hướng ngược chiều tuyến bên cạnh nhìn thấy mà tránh khỏi bị tai nạn va chạm đụng vào nhau..
Ánh sáng ngọn đèn chiếu soi mang đến trật tự toàn cho đời sống.
Ngọn đèn cháy sáng báo hiệu người cầm đèn vẫn còn tỉnh thức, vẫn còn chờ đợi.
Cha mẹ thường bật đốt một ngọn đèn nhỏ trong phòng con nhỏ thơ ấu của mình. Khi em bé giật mình thức giấc mà nhìn thấy ánh sáng ngọn đèn em sẽ bớt sợ hãi kêu la khóc lóc.
Có những cha mẹ dùng ngọn đèn có cảm biến, hễ khi nào người con thức giấc kêu khóc, ngọn đèn sẽ tự động bật sáng lên để báo hiệu.
Trong căn phòng của người bệnh, người cao niên cũng thường hay bố trí có ngọn đèn nhỏ cháy sáng mờ nhạt vào ban đêm, để giúp họ bớt cảm thấy cô đơn sợ hãi.
Có những căn nhà trang bị những ngọn đèn tự động chiếu sáng vào ban đêm tối trời. Hễ khi có người hay con vật nào chạy ngang qua, ngọn đèn bật chiếu sáng lên báo hiệu nhà được canh giữ.
Ánh sáng ngọn đèn chiếu tỏa sự an ninh.
Chúa Kitô Giêsu đã dùng dụ ngôn năm người trinh nữ canh thức cầm đèn đón chờ chủ rể tới ( Mt 25,1-13) nói lên ý nghĩa của ngọn đèn cháy sáng: chúng tôi luôn sẵn sàng chờ đợi. Ngọn đèn cháy sáng trên tay chúng tôi là dấu hiệu không những chúng tôi còn tỉnh thức, nhưng nhiều hơn thế nữa. Tình yêu mến của chúng tôi luôn có để ngọn đèn cháy sáng, cho dù phải chờ đợi lâu cả trong mỏi mệt, cho dù phải cố gắng nỗ lực hy sinh.
Về tình trạng đời sống tâm linh phải sẵn sàng, Chúa Kitô Giesu dùng ngọn đèn cháy sáng làm hình ảnh ví dụ cho cung cách đời sống đạo đức tinh thần với Thiên Chúa, đấng tạo dựng nên đời sống con người.
"Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay.” ( Lc 12,35).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh Thánh lễ Misa
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Từ vài năm nay dấy lên làn sóng tranh luận về thánh lễ Misa cử hành theo phụng vụ canh tân từ Công đồng Vaticano II. năm 1965 bằng tiếng địa phương mỗi dân tộc, và phụng vụ theo Tridentino, thánh lễ bằng tiếng Latinh cũ thời trước Công đồng Vaticano II.
Đức Giáo hoàng, bây giờ đang nghỉ hưu, Benedictô XVI. năm 2007 bằng tự sắc SUMMORUM PONTIFICUM đã qui định cho phép được cử hành Thánh lễ Misa theo phụng vụ Tridentino cũ bằng tiếng Latinh
Và bây giờ đức Giáo hoàng đương kim Phanxico bằng tự sắc Traditionis Custodes ra qui định mới có phần giới hạn việc cử hành thánh lễ Misa theo truyền thống Tridentino cũ bằng tiếng Latinh.
Hằng ngày, hằng tuần, người Công Giáo đi tham dự Thánh lễ Misa nơi các xứ đạo được cử hành trong Giáo hội bằng tiếng địa phương.
Cung cách sống đức tin theo tập tục thói quen đạo đức là việc tốt lành. Nhưng nếu việc làm đạo đức của đức tin tình yêu mến ăn sâu rễ trong vùng trí khôn hiểu biết, sẽ giúp đời sống có nhiều ý nghĩa sâu đậm cùng vững chắc hơn.
Vẫn biết tin là việc của trái tim tình yêu. Suy nghĩ, tìm tòi hiểu biết thuộc về lãnh vực của trí khôn lý trí. Nhưng đời sống con người chúng ta cần cả hai. Tình yêu hay đức tin cần sự suy nghĩ tìm tòi hiểu biết của trí khôn về điều mình tin yêu. Như thế điều yêu mến, điều tin có cơ sở nền tảng cùng trở nên trong sáng.
Trí khôn tìm tòi suy nghĩ cũng cần đến trái tim tình yêu mến cùng lòng tin. Có thế, điều hiểu biết của trí khôn không trở nên chai đá lạnh lùng, hay dửng dưng với sự sống, với thiên nhiên cùng những điều bí ẩn mầu nhiệm trong đất trời, mà trí khôn giới hạn của con người không sao suy hiểu hết, cùng vươn sang tới được.
Hình ảnh Thánh lễ Misa chúng ta tham dự mang lại ý nghĩa gì cho đời sống con người?
Theo Giáo lý Công giáo Thánh lễ Misa là lễ tế tạ ơn Thiên Chúa . Là nguồn mạch và là trung tâm cùng cao điểm của đời sống đức tin người Công giáo.
Trong đời sống hầu như vào mọi thời đại cùng mọi nơi đều có những lễ mừng lớn nhỏ tưởng niệm đến những biến cố hiến tế hy sinh.
Nhà văn Khái Hưng trong tập truyện „ Anh phải sống“ thuật lại truyện một người mẹ đã hy sinh chịu chết chìm giữa dòng sông, để cho người chồng sống sót bơi vào bờ nuôi ba đứa con còn nhỏ dại.
„ Bỗng Lạc run run khẽ nói: Thằng Bò! Cái Nhớn! Cái bé!...không…Anh phải sống!
Thức bỗng nhẹ hẳn đi. Cái vật nặng không thấy bám vào mình nữa. Thì ra Lạc nghĩ đến con đã lẳng lặng buông tay ra để chìm xuống đáy sông, cho chồng đủ sức bơi vào bờ.“ ( Khái Hưng, truyện Anh phải sống)
Những người con và chồng chị Lạc suốt đời, hằng ngày tưởng nhớ với lòng đau buồn thương mến cùng biết ơn sự hy sinh cao của người mẹ, của người vợ thân yêu.
Những buổi lễ tưởng nhớ hoặc công khai với tiếng hát, lời kinh, hoặc âm thầm trong tâm hồn, của con người nhớ đến lễ hiến tế sự hy sinh những người đã sống cho người khác hằng ngày , hằng tuần hằng năm hay vào những dịp kỷ niệm, là nhu cầu của đời sống nội tâm tinh thần con người.
Đó là nhu cầu của lòng biết ơn.
Như thế phải chăng Thánh lễ Misa cũng có chiều kích tương tự như thế sao?
Lẽ dĩ nhiên hình ảnh so sánh trên đây không thể nói lên hết nội dung ý nghĩa của Thánh lễ Misa, dù chỉ là một cắt nghĩa trợ giúp cho dễ hiểu thôi.
Trong Thánh lễ Misa chúng ta không chỉ tưởng nhớ đến sự chết của Chúa Giêsu trên thánh gía, nhưng Thánh lễ Misa trình bày mầu nhiệm ẩn kín diễn tả sự cứu chuộc của Chúa Giêsu cho linh hồn con người thoát khỏi cảnh hình phạt linh hồn phải chết, mà từ khi Ông Bà nguyên tổ Adong-Eva đã phạm tội và bị Thiên Chúa ra án phạt phải chết.
Không phải bài giảng, cũng không phải phần rước lễ là trung điểm của Thánh lễ Misa. Nhưng là sự cứu chuộc cho linh hồn con người chúng ta, mà Chúa Giêsu đã mang đến qua của lễ hiến tế bằng chính sự sống của Ngài.
Nói đến của lễ hiến tế, người Công giáo chúng ta thường hiểu theo như đã được dậy bảo: cần phải sống sao càng nhiều là của lễ hiến tế, để làm đẹp lòng Thiên Chúa. Hay liên kết của lễ hiến tế của Chúa Giêsu trên thánh gía như là ý muốn của Thiên Chúa đòi buộc Chúa Giêsu là con Thiên Chúa phải làm như thế.
Lễ hiến tế thật ra có ý nghĩa dâng lên cho Thiên Chúa, những gì Thiên Chúa ban cho con người ở dưới đất trần gian. Những điều đó thuộc về Thiên Chúa.
Trong Thánh lễ Misa chúng ta đem đời sống mình hòa nhập vào đời sống Thiên Chúa, mà chúng ta đã lãnh nhận từ nơi Ngài. Làm như thế chúng ta có được bầu khí sự tự do thong dong. Và như vậy, ta không cần phải mang đem theo điều gì, cùng không phải làm gì trước như thành tích công trạng đem trình bày lấy phần thưởng. Chúng ta giữ đời sống mình thuộc vào trong vòng ân đức của Thiên Chúa là đủ cùng chính đáng. Ngài biết chúng ta là ai và chúng ta có nhu cầu gì.
Một ý nghĩa nữa của lễ hiến tế là sự hy sinh. Trong Kinh Thánh diễn tả sự chết của Chúa Giêsu là lễ hiến tế. Điều này nói lên Chúa Giêsu đã làm trọn vẹn đầy đủ tình yêu thông qua sự hy sinh đến chết trên thặp tự.
Kinh Thánh không nói đến Thiên Chúa đã yêu cầu Chúa Giêsu con mình phải là của lễ hiến tế chết trên Thánh gía. Chúa Giêsu được sai đến trần gian không phải để chịu chết, nhưng để loan báo Tin Mừng tình yêu Thiên Chúa.
Khi xuống trần gian Chúa Giêsu đã nhận ra sự va chạm với giới Thầy cả Luật sĩ thời đó, những nhà thông thái phái Saduxeo, phái Phariseo có thể dẫn đến sự chết cho chính Ngài. Biết vậy, nhưng Ngài không chạy trốn, vẫn một tâm nguyện trung thành đứng về phía những người thuộc về mình, cùng chứng tỏ tình yêu mình qua sự chết.
Chúa Giêsu Ngài đã muốn tình yêu mình, không vì bị hành hạ khổ nhục cho tới chết, trở thành tiêu tan ra vô ích. Nhưng đó là sự hy sinh cho những người tin theo Ngài. Như Ngài đã nói: Thầy hiến đời sống mình cho đoàn chiên…Không ai lấy mạng sống của Thầy đi được, nhưng chính Thầy hy sinh mạng sống mình cho họ.“ ( Ga 10,15-18)
Như thế sự chết của Chúa Giêsu nói lên cường độ sâu thẳm tình yêu mến của Ngài. Ngài đã yêu mến con người không giữ lại gì, và cho đến tận cùng.
Sự chết của Ngài cũng còn nói lên sự tự do cùng sự thản nhiên tự chủ chính mình. Ngài đã tự nguyện hy sinh chết cho con người.
Trong khi cử hành dâng Thánh lễ Misa là lễ tạ ơn, chúng ta đặt đời sống mình trong vòng tình yêu của Chúa Giêsu. Chúng ta tưởng nhớ với tâm hồn sâu thẳm đến hiến tế trên Thánh gía của Chúa Giêsu, là hiến tế tình yêu có sức cảm hóa làm thay đổi tâm hồn ta, cùng mang đến ân đức cứu chuộc cho linh hồn con người.
Thánh lễ Misa là lễ tế tạ ơn, tưởng niệm nguồn ơn chuộc của Chúa Giêsu hy sinh chịu chết trên Thánh gía cho con người.
Thánh lễ Misa là trung tâm cùng cao điểm của đời sống đức tin người Công giáo. Qua đó những người tín hữu Chúa Kitô cùng nhau đọc kinh cầu nguyện, ca hát mừng kính Thiên Chúa, và đồng thời củng cố tình liên đới với nhau trong cùng một đức tin, một Phép Rửa vào Một Thiên Chúa là Cha.
Thánh lễ Misa là cung cách sống đức tin của Giáo Hội, của người tín hữu Chúa Kitô còn đang trên con đường đời sống trên trần gian. Và khi cử hành tham dự Thánh lễ Misa người tín hữu cũng nhớ đến những người thân yêu ruột đã được Thiên Chúa gọi trở về đời sau.
Đó là cung cách sống lòng hiếu thảo biết ơn, và cũng là điều tin nhận mầu nhiệm các Thánh cùng thông công: „Tôi trông đợi kẻ chết sống lại, và sự sống đời sau.“.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh hành trang trong đời sống
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Mỗi khi đi đâu xa, như lúc đi nghỉ hè, đi hành hương, hay đi du lịch tham quan thắng cảnh, ai cũng thường sửa soạn hành trang đồ dùng cá nhân cần thiết xếp gói vào Va-li mang theo.
Nhưng nhiều khi, chắc ai cũng đã có kinh nghiệm, mang nhiều hành trang đồ dùng qúa phải mang xách va-li nặng kéo lê chỉ thêm mệt. Vì mang theo cả những hành trang đồ dùng ưa thích tưởng là sẽ cần dùng tới, cùng cả đồ không cần dùng tới nữa.
Mang nhiều hành trang cần thiết cùng cả hành trang ham thích và không cần dùng. Nhưng có một hành trang thường hay quên ít được chú ý tới: mục đích của nghỉ hè, mục đích của hành hương! Mà loại thứ hành trang này gọn nhẹ cùng cần thiết nhất!
Còn trong đời sống, hành trang gì cần phải mang theo ?
Chúa Giêsu sai các Tông đồ đi đến với con người, mang Lời Chúa đến cho họ. Ngài nhắn nhủ họ rất khác lạ:
„Chúa Giêsu gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ quỷ. Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo.“ ( Mc 6,7-13 )
Tại sao Chúa Giêsu lại bảo các Tông đồ đi đến với con người nhưng không được mang theo cái gì gây vướng trở kể cả thức ăn nước uống, quần áo đồ dùng? Trong trường hợp gặp lúc đói khát thì xoay trở thế nào đây?
Ai đã có kinh nghiệm khi đi xa bằng xe lửa, lúc xuống bến trạm phải lôi kéo hành lý túi xách cồng kềnh nặng, rồi còn phải đi đường xa nữa, lúc đó thấm mệt. Vì mang kéo đồ vừa nặng vừa nhiều, nên không đi nhanh được, chỉ đi từng quãng rồi lại dừng nghỉ lấy hơi sức. Rồi lại còn phải chú ý không biết có còn quên để lại trên xe không, hay dọc đường bị vướng vào cục đá bậc gồ ghề làm rách vali…
Chưa hết, những khi phải đổi xe lửa ở trạm dọc dường, lúc đó những gói túi va li cồng kềnh là một gánh nặng phải khuân kéo sang bến trạm chỗ khác. Và lúc đó thầm nghĩ: Phải chi mình mang theo ít đồ có phải nhẹ tiện hơn không. Như thế cuộc nghỉ hè, du lịch sẽ vui, có ý nghĩa tốt biết mấy !
Và suy nghĩ đồ đạc đâu quan trọng bằng mục đích của nghỉ hè, của du lịch tham quan thắng cảnh, sống rộn lên trong tâm trí càng rõ nét hơn.
Với Chúa Giêsu cũng thế. Nên khi sai các Tông đồ, Ngài nhắn bảo các ông mang theo điều quan trọng thôi: mang lời Chúa đến cho con người.
Các Tông đồ mang đến cho con người Lời Chúa. Họ kể thuật gì về Lời Chúa cho con người?
-Công trình sáng tạo trong thiên nhiên là ngôi nhà do Thiên Chúa sáng tạo dựng nên cùng gìn giữ cho luôn xanh tốt đổi mới.
-Sự sống mỗi con người, khả năng thể xác cũng như tâm trí tinh thần là báu vật ân phúc của Thiên Chúa trao tặng con người.
-Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa từ trời cao xuống thế làm người mang ơn cứu độ phần rỗi linh hồn cho con người bị vướng vào vòng tội lỗi, mà loài người hằng mong chờ.
-Chúa Giêsu đến khuyên bảo con người sống theo giới răn tình yêu thương: mến yêu Thiên Chúa và yêu mến kính trọng con người.
-Nước Thiên Chúa là nước tình yêu thương, tha thứ làm hòa.
-Con đường hy sinh trong đời sống không chỉ là số phận của con người, nhưng là gía trị giúp xây dựng đời sống: lửa thử vàng, gian nan thử đức!
Không phải những túi xách vali đồ đạc cồng kềnh nặng nề quan trọng cho cuộc nghỉ hè, cuộc du lịch tham quan thắng cảnh, nhưng chính cuộc nghỉ hè, cuộc du lịch.
Trong nghỉ hè, đi du lịch, ai cũng muốn nghỉ ngơi, muốn nhìn xem thưởng ngoạn cảnh thiên nhiên, cảnh sinh hoạt nếp sống văn hóa của con người nơi vùng đó. Và cũng muốn có thời giờ để cùng bạn bè hay người quen thân đi dạo, nói chuyện, cùng làm quen với những người lạ gặp gỡ dọc đường. Để thực hiện những điều đó, chỉ cần mang theo loại hành trang nhỏ gọn.
Đến đất nước ngôn ngữ xứ lạ, cuốn từ điển nào cũng không giúp gì bao nhiêu. Nếu quên không biết nói làm sao, chân tay, đôi con mắt, những ngón tay giúp phần nào ra dấu hiệu diễn tả điều ta mong muốn nói gì.
Nụ cười thân thiện là tiếng nói mang lại niềm vui, cùng là tín hiệu cho người khác nhận ra điều gì đang mong cần giúp đỡ.
Hành trang quan trọng trong cuộc sống con người cần mang theo và có thể trao cho người khác được là tình yêu thương.
Thứ lọai hành trang này vừa gọn nhẹ vừa cần thiết ở trong trái tim tâm hồn mỗi người.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh sai đi tới con người
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Xưa nay trong nếp sống Hội Thánh có nghi thức sai đi vào những dịp sau đại hội đức tin, sau đại hội thánh mẫu, lễ mừng kỷ niệm năm thánh, hay sau khóa học hỏi về phụng vụ về mục vụ…
Các Thỉnh nguyện viện được cử sai đi làm công việc bác ái, công việc truyền giáo dậy giáo lý, cùng đồng hành với con người nơi môi trường sinh sống giữa dòng đời sống xã hội.
Một nhiệm vụ sống gần gũi đời sống với con người và chan chứa lòng đạo đức tinh thần.
Ngày xưa Chúa Giêsu Kitô cũng sai các môn đệ ra đi như thế “ Ngài chọn thêm bảy mươi hai người nữa, và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới.”
Hình ảnh này diễn tả điều gì về đời sống đạo giáo đức tin?
Các đây 400 năm các Vị Thừa Sai từ các nước bên Âu Châu đưa tin mừng Chúa Giêsu Kitô sang các nước bên Á Châu, trong đó có đất nước Việt Nam. Hội Thánh Chúa được thành lập phát triển nơi các xã hội đất nước đó, và bên các nước ở Phi Châu, Nam Mỹ và Đại dưng Châu cũng theo con đường truyền giáo tương tự như vây.
Các vị Thừa Sai được Hội Thánh Chúa cử sai đi đến những nơi đó làm công việc loan truyền đức tin tinh thần đạo giáo vào Thiên Chúa cho con người.
Trong dòng lịch sử thời gian, việc sai đi làm công việc truyền giáo đã có nhiều thay đổi. Việc truyền giáo càng ngày càng được nhấn mạnh tập trung vào nền văn hóa tập tục, vào tinh thần lòng nhiệt thành hăng say của chính người dân nơi đất nước họ đang sinh sống.
Đời sống đức tin của họ vào Thiên Chúa là nhân chứng, là lời loan truyền tin mừng Chúa cho người khác. Việc truyền giáo đi liền với việc sống hội nhập vào nếp sống văn hóa xã hội, nơi con người sinh sống.
Một chị phụ nữ người Phi Châu trong cuộc hội thảo bàn luận về việc truyền giáo đã có phát biểu ý kiến về kinh nghiệm của xứ đạo bên đó “ Chúng tôi cử sai các anh chị em đến các làng mạc sống làm việc loan truyền tin mừng vào Chúa, không với các sách vở bích chương cắt nghĩa tuyên truyền quảng bá về đức tin. Nhưng là những gia đình sống thực hành tốt đời sống đức tin vào Thiên Chúa, để mọi người nhìn thấy thế nào là nếp sống Kitô giáo.”.
Ý kiến kinh nghiệm này sống động cùng cụ thể, như trong dân gian có ngạn ngữ khôn ngoan” Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo!
Có câu chuyện thuật lại về đời sống của Thánh Phanxico thành Assisi: Thánh nhân và một thầy tu trẻ tuổi đã cùng nhau đi vào thành phố và rao giảng nơi đó. Họ đi rảo qua các con đường trong thành phố và nói chuyện với nhau về đời sống cộng đoàn, về nếp sống đức tin của mình. Sau đó hai người trở về tu viện, người tu sĩ trẻ nói với Thánh Phanxico trong thái độ hoảng hốt kinh ngạc: Thưa Thầy, dọc đường phố chúng ta đã quên không giảng giải gì cả!
Thánh Phanxicô mỉm cười đặt tay lên vai học trò nói: ” Này con, chúng ta đã trong suốt thời gian đã không làm gì khác đâu. Mọi người đã nhìn quan sát thầy trò chúng ta trò truyện, khuôn mặt chúng ta, cung cách chúng ta xử sự với nhau. Có những phần chúng ta nói chuyện với nhau họ cũng nghe thấy cả. Như thế chúng ta đã rao giảng rồi vậy. Ra đi đến với đời sống con người là rao giảng rồi...”
Lời chứng này nhắc nhớ đến hình ảnh Chúa Giêsu Kitô nói với các Tông Đồ trước khi về trời:” Anh em sẽ là nhân chứng của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp cả miền Judea, Samaria và cho đến tận cùng trái đất. ( Công vụ Tông đồ 1,8).
Làm chứng cho Chúa vượt qua mọi ranh giới hình thể thể địa lý đất nước châu lục vũ trụ.
Làm chứng cho Chúa vượt qua mọi ranh giới thời gian ngày giờ năm tháng, thế kỷ.
Làm chứng cho Chúa nơi con người ở mọi tầng lớp xã hội, mọi nền văn hóa, tập tục hoàn cảnh đời sống cùng tâm lý của họ nữa.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hình ảnh „Năm xưa cây sồi làng Fatima“
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Fatima xưa kia là một ngôi làng nhỏ miền thôn quê, nhưng trong thời gian lịch sử đã trở thành tỉnh thành phố nhỏ của nước Portugal thuộc vùng Vila Nova de Ourém, cách thủ đô Lissabon 130 cây vể hưóng Bắc. Diện tích thành phố Fatima vào khoảng 71 cây số vuông với dân số hơn kém 10.000 người.
Quân Mauren đã chiếm thống trị vùng Santarem và năm 1147 người Công giáo Portugal đã chiếm lại vùng này. Tên thành phố „Fatima“ ngày nay có lịch sử từ cuộc chiến trên.
Theo lịch sử truyền lại, có tương truyền trong dân gian, Fatima là con gái của một vị hoàng tộc người Maure đến chiếm đóng vùng Santarem. Cô gái xinh đẹp được đặt tên Fatima là con gái thứ tư của Tiên tri Mahomed, người sáng lập đạo Hồi giáo.
Năm 1158 sau khi người Công giáo chiếm lại Santarem, người phụ nữ xinh đẹp này bị bắt cóc và đem giao nộp cho Ông Hoàng xứ Ourem. Tình yêu nảy nở giữa hai người, họ lấy nhau và cô ta chịu rửa tội gia nhập đạo Công giáo. Vì thế, tên Fatima sau này gia đình vị hoàng tộc đó đặt cho nơi đó, nơi bà Fatima được an táng sau khi qua đời.
Tỉnh nhỏ Fatima trở nên thánh địa hành hương nổi tiếng khắp thế giới vì Đức mẹ đã hiện ra nơi đây.
Fatima trở thành trung tâm hành hương lòng sùng kính Đức Mẹ Maria của nước Portugal và của Gíao Hội Công Giáo hoàn cầu. Mùa hành hương diễn ra từ tháng 05. tới tháng 10. Hằng ngày trong thời gian này đều có buổi lần hạt mân côi, rước kiệu Đức Mẹ Fatima với nến cháy sáng hát bài Ave Maria theo cung điệu của Fatima nước Portugal lúc 21.00 giờ rất lung linh huyền nhiệm.
- 1. Đức mẹ Maria hiện ra ở Fatima
Chỉ ở Fatima trước khi Đức mẹ hiện ra với ba em nhỏ chăn chiên cừu năm 1917 ở thôn Alijustrel, Thiên Thần năm 1916 đã hiện ra dạy cho các em biết cầu nguyện, cho các em rước lễ.
Đức mẹ đã hiện ra với ba em Lucia 10 tuổi, Phanxico 9 tuổi và Jacinta 7 tuổi tất cả 6 lần vào các ngày 13. từ tháng Năm đến tháng Mười 1917. riêng hiện ra lần thứ tư không vào ngày 13.08. nhưng vào ngày 19.08.1917 vì hôm 13.08. 1917 ba em em bị nhà cầm quyền Vila Nova de Ourem bắt giam trong ba ngày.
Khi hiện ra với ba em, theo lời ba em thuật lại „ Bà đã hiện ra nơi cây sồi“ ở Cova da Iria . Bây giờ nơi thánh địa đó một nhà nguyện được xây dựng năm 1919 bên cạnh có cây sồi to lớn rào kín chung quanh làm di tích kỷ niệm biến cố lịch sử là năm xưa.
Nơi ngôi nhà nguyện mái bằng nhỏ đơn sơ này chung quang không có tường vách, hằng ngày đều có Thánh lễ mừng kính Đức Mẹ, có bức tượng Đức Mẹ Fatima, từ sáng sớm tới chiều tối các đoàn hành hương các dân tộc có thể đến xin dâng lễ riêng cho đoàn mình nơi ngôi nhà nguyện lịch sử này.
- 2. Sứ điệp Đức mẹ Fatima
Khi hiện ra Đức mẹ nói với ba trẻ:“ Ta muốn các con tiếp tục lần chuỗi mân côi mỗi ngày cho những người tội lỗi. Hãy hy sinh cầu nguyện cho nhữnng người tội lỗi với lời nguyện: „Lạy Chúa, con xin dâng việc hy sinh này vì lòng mến Chúa cho kẻ có tội ăn năn trở lại, và để đền tạ những sự xúc phạm đến trái tim vẹn sạch Đức mẹ“. Ta muốn các con dâng mình cho trái tim vẹn sạch của ta, và rước lễ đền tạ mỗi thứ bảy đầu tháng. Nếu các con nghe lời Ta, nước Nga sẽ trở lại, thế giới sẽ được hòa bình. Nếu không, nước Nga sẽ phổ biến các sai lầm trên toàn thế giới gây ra chiến tranh và bách hại Giáo hội, nhiều người tốt lành sẽ bị chết vì đạo, đức thánh cha sẽ phải đau khổ nhiều, nhiều quốc gia sẽ bị tiêu diệt, Nhưng sau cùng trái tim mẹ sẽ thắng.“.
- 3. Ba trẻ được Đức Mẹ hiện ra
Từ ngày 13. Tháng Năm 2022 là năm mừng kỷ niệm biến cố lịch sử Đức mẹ hiện ra ở Fatima được đúng tròn 105 năm.
Những lễ mừng kỷ niệm biến cố lịch sử 105 năm, những chuyến hành hương sang Fatima được tổ chức trong suốt cả năm kỷ niệm. Đức Thánh Cha Phanxico cũng hành hương sang Fatima dịp này. Trung tâm Fatima cũng xây dựng con đường hành hương trong khu thánh địa để khách hành hương có thể đi theo con đường đó đến các trạm dừng lại cầu nguyện.
Hai em chăn chiên cừu được Đức mẹ hiện ra ở trên cây sồi vùng Cova da Ira là Phanxico và Jacinta được Đức Thánh Cha Phanxico tôn phong lên hàng Hiển Thánh trong Hội Thánh Công gíao vào ngày 13. Tháng Năm 2022 dịp mừng kỷ niệm 105 năm.
Thánh trẻ Phancico Marto sinh ngày 11.06.1908 ở Aljustrel, qua đời ngày 04.04.1919 ở Aljustrel Fatima. Trước hết thi hài em được an táng nơi nghĩa trang Fatima, và được cải táng đưa vào Vương cung Thánh Đường Fatima ngày 13.03.1952 cạnh bàn thờ Chúa Thánh Thần.
Thánh trẻ Jacinta Marto sinh ngày 11.03.1910, qua đời ngày 20.02.1920 ở bệnh viện Lissabon. Thi hài được an táng ở Vila Nova de Ourem cho đến ngày 12.09.1935. Sau đó được cải táng đưa về nghĩa trang Fatima, và lại được cải táng đưa vào Vương cung thánh đường Fatimma cạnh bàn thờ Truyền tin.
Hai em đã được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ nhị phong lên hàng Chân phước ngày 13. Tháng Năm 2000 ở Fatima, dịp ngài sang hành hương lần thứ ba kính viếng và tạ ơn Đức mẹ Fatima đã cứu sống ngài thoát chết khi bị ám sát vào đúng ngày 13.05. 1981 ở Vatican.
Nữ tu Lucia, Lucia de Jesus dos Santos, sinh ngày 22.03.1907 ở Aljustrel Fatima, qua đời ngày 13. 02. 2005 ở Coimbra. Sau khi được Đức Mẹ hiện ra ở Fatima, năm 1948 Chị Lucia vào dòng kín Carmel ở Coimbra trong nhà Dòng kín cho tới khi qua đời.
Ngày 15.02.2005 ngày an táng Nữ tu Lucia toàn thể nước Portugal để tang là ngày quốc tắng để vinh danh Chị nữ tu trong lịch sử nước Portugal ngày xưa năm 1917 đã được Đức mẹ hiện ra ở Fatima. Và ngày 19.02.2006 thi hài Vị Nữ tu Lucia đưa cải mộ đem về an táng trong Vương cung Thánh đường Fatimabên cạnh hai vị Thánh Jacinta và Phanxico.
Và tiến trình phong Thánh cho Nữ tu Lucia đang trong giai đoạn lập dự án theo như luật Giáo Hội ấn định.
- 4. Hành hương kính viếng Đức Mẹ Fatima
Suốt dọc thời gian từ 105 năm nay, hàng triệu người trên khắp thế giới trong suốt cả năm kéo về thánh địa Fatima hành hương kính viếng Đức Mẹ, dâng thánh lễ, lần hạt đọc kinh cầu khấn. Cung cách sống đạo hành hương bình dân thôi, nhưng thế hiện đức tin sống động vào Chúa qua việc sùng kính lòng yêu mến tôn kính Đức mẹ là mẹ Thiên Chúa.
Đức Thánh Cha Phanxico đã có tâm tình về ý nghĩa hành hương: ”Hành hương là một lòng đạo đức bình dân, là một hình thức chân thực loan báo Tin Mừng, luôn luôn cần được cổ võ và đề cao giá trị. Tại các đền thánh, tín hữu sống một linh đạo sâu xa, một lòng đạo đức từ bao thế kỷ đã nhào nặn đức tin với những lòng sùng mộ đơn sơ nhưng rất có ý nghĩa”.
”Trong thực tế, người hành hương mang trong mình lịch sử riêng, đức tin với những điểm sáng điểm tối của cuộc đời. Mỗi người mang trong con tim ước muốn đặc thù và một kinh nguyện riêng... Đền thánh thực sự là một môi trường ưu tiên để gặp gỡ Thiên Chúa và đụng chạm đến lòng thương xót của Chúa.”
Hằng tháng vào những ngày 12. và 13. là ngày cao điểm mùa hành hương, nhất là từ tháng Năm tới tháng Mười.
Vào chiều tối ngày 12. hằng tháng vào lúc 21.00 giờ lần hạt kính Đức mẹ bằng các thứ ngôn ngữ được chọn, sau đó hàng ngàn Gíao dân tay cầm nến cháy sáng cùng với đoàn kiệu có Vị Hồng Y , các Giám mục và hàng trăm Linh mục mặc phẩm phục trắng rước kiệu Đức mẹ Fatima vòng sân công trường Fatima đến lễ đài cuối Vương cung thánh đướng Fatima dâng thánh lễ mở đầu đêm canh thức hành hương tới 24.00 giờ.
Sáng ngày 13. hằng tháng ngày hành hương kỷ niệm Đức mẹ hiện ra vào lúc 09.00 giờ lần hạt, sau đó rước kiệu Đức mẹ ra ngoài công trường như hồi đêm canh thức, dâng thánh lễ đại trào kính Đức Mẹ. Sau Thánh lễ có Chầu Thánh Thể, ban phép lành cho các bệnh nhân và rước kiệu từ giã Đức Mẹ kết thúc ngày hành hương vào khoảng 12.00 giờ.
Hằng ngày tối nào cũng có lần hạt rước kiệu Đức Mẹ ngắn và nhỏ thôi với khoảng vài trăm cho tới một ngàn người ở công trường Fatima.
Ngôi Vương cung thánh đường kính Đức Mẹ Fatima cũ Basilica Antiga, được xây năm 1928, tháp chuông cao 56 mét, trên nóc tháp có triều thiên vĩ đại bằng đồng nặng 07 tấn. Trong nhà thờ có ba ngôi mộ của Chân Phước Phanxicô, Jaxinta và Lucia.
Vương cung thánh đường càng ngày càng trở nên nhỏ với số lượng khách hành hương từ khắp nơi trên thế giới tuôn kéo đổ về. Vì thế một ngôi vương cung thánh đường kính Chúa Ba Ngôi -Igreja da Santissima Trindade- mới hiện đại đã được xây cất, và ngày 12.10. 2007 đã được khánh thành.
Ngôi thánh đường mới ở cuối quảng trường Fatima đối diện với Vương cung thánh đường cũ ở phía đàng cuối công trường. Ngôi thánh đường mới này có chu vi rộng 125 mét, có chỗ ngồi cho gần 9000 người trong lòng nhà thờ, cổng chính mang tên Chúa Giêsu với 64 mét vuông, chung quanh có 12 cửa ra vào với tên của 12 Thánh Tông Đồ.
Đây là ngôi thánh đường lớn thứ tư trên thế giới của Giáo Hội Công Giáo được xây cất vào thế kỷ thứ 21. Trong ngôi thánh đường này có nhiều nhà nguyện nhỏ khác nhau cho những nhóm hành hương muốn dâng lễ riêng.
Bên cạnh quảng trường Thánh địa Fatima có Bảo tàng viện trưng bày những di tích kỷ vật về Fatima, đặc biệt có triều thiên Đức Mẹ với viên đạn đã bắn làm bị thương Chân Phước Giáo hoàng Gioan Phaolo đệ nhị năm 1981. Triều thiên này vào những ngày 12. và 13. từ tháng 05. tới tháng 10. được đội lên tượng Đức Mẹ Fatima đem ra rước kiệu.
Khu chặng đàng Thánh gía nằm trong một khu rừng nhỏ. Cũng trong khu này có địa điểm với bức tượng Thiên Thần hiện ra trao Mình Thánh Chúa cho ba trẻ.
Cuối chặng đàng Thánh Gía có nhà nguyện kính Thánh Etienne, do người tỵ nạn Công Giáo Hung gia Lợi dâng cúng năm 1964.
Ở ngoài bìa khu rừng đàng Thánh giá có hai ngôi nhà di tích lịch của gia đình ba trẻ ngày xưa đã sinh ra và lớn lên. Trong khu vườn phía sau có giếng nước, nơi đây Thiên Thần đã hiện ra với ba trẻ. Còn giếng nước ngày xưa và có tượng Thiên Thần và tượng ba trẻ bằng đá cẩm thạch mầu trắng..
‘Thiên Thần hiện ra với ba trẻ dạy ba em cầu nguyện và cho các em rước lễ, Thiên Thần mặc áo mầu trắng.
Khi hiện ra trên cây sồi ở Fatima Đức mẹ mặc áo trắng.
Và trong sứ điệp thứ ba của Fatima mà Nữ tu Lucia viết lại như lời Đức mẹ đã nói với chị đề cập đến „vị Giám mục mặc áo trắng“ bị ám sát.
Có lẽ vì thế những Thánh đường xây dựng ở khu thánh địa Fatima cũ cũng như mới tường vách đều bằng mầu đá trắng, cả những trạm bàn thờ của 14 chặng đường thập gía Chúa Giêsu cũng xây dựng bằng đá mầu trắng.
Và ngày 13. hằng tháng, sau thánh lễ hành hương kết thúc ngày hành hương từ lễ đài Vương cung thánh đường trở về nhà nguyện thánh địa, mọi người tay giơ lên cao vẫy tấm khăn mầu trắng chào từ biệt khi kiệu Đức Mẹ đi ngang qua. Thật là một quang cảnh đầy cảm động và thi vị như một biển nước mầu trắng đang chuyển động hòa chung vào tiếng hát ca tụng Đức Mẹ vang lên khắp cả bầu trời nắng buổi trưa giữa công trường rộng lớn.
Mầu trắng là mầu ánh sáng, chỉ về sự trong trắng và toàn vẹn. Khi một em bé nhận lãnh làn nước Bí Tích Rửa tối, tấm áo trắng được trao mặc cho em: chiếc áo trắng rửa tối. Và ngày sau cùng của đời sống người qua đời cũng được tẩm liệm mặc áo mầu trắng. Như thế có thể suy ra mầu trắng cho khởi đầu và cho sau cùng!
Và trong sách Khải Huyền của Thánh Gioan nói đến cảnh đoàn người mặc áo trắng đứng trước Con Chiên Thiên Chúa trên trời .
Mầu trắng là mầu biểu hiệu của Đức mẹ Fatima, mẹ Chúa trời hiển vinh.
105 năm Đức mẹ hiện ra ở Fatima
1917- 13.07.2022
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Hình ảnh với trái tim và linh hồn.
- Hình ảnh đặt tay truyền chức thánh
- Hình ảnh thời sự Giáo Hội Công giáo nước Đức
- Hình ảnh hai khuôn mặt của Thánh Phero và Phaolo
- Hình ảnh công trình thiên nhiên
- Hình ảnh lời nhận xét tuyên xưng
- Hình ảnh lễ Mình Máu Thánh Chúa
- Hình ảnh ba chiều - 3 D
- Hình ảnh Đức Chúa Thánh Thần, thần khí hòa bình.
- Hình ảnh bảy ân đức Chúa Thánh Thần