Giấc mơ Xuân
- Viết bởi nhà văn Quyên Di
GIẤC MƠ XUÂN
Ca dao Việt Nam có câu: "Đố ai nằm ngủ không mơ? " Câu ấy mang ngầm ý nghĩa là ai ngủ thì cũng mơ cả. Vậy mà có nhiều người nói rằng họ không biết mơ là gì, hay ít nhất dù có mơ, tỉnh dậy cũng không nhớ gì hết. Tôi không biết những người ấy nghĩ gì; riêng tôi thấy tiếc cho họ, vì trong mơ có nhiều cái dễ thương lắm.
Tôi thì... may mắn có ''khả năng'' mơ và ''khả năng'' nhớ những giấc mơ của mình. Tôi mơ... giỏi đến độ nhắm mắt lại là mơ, mà ngủ... gật cũng mơ luôn. Tôi còn có khả năng "mơ lại", tức là là mơ cùng một giấc mơ nhiều lần; lại có khả năng ''mơ tiếp'' nữa: đêm hôm trước mơ một đoạn, đêm hôn sau mơ thêm đoạn kế tiếp, y như truyện đăng từng kì trên nhật báo vậy! Lắm lúc tôi cũng băn khoăn tự hỏi mình làm gì mà mơ lắm thế.
Khi mong ước một điều gì mình chưa có, ta gọi là ''mơ''. Nằm ngủ chiêm bao cũng gọi là ''mơ''. Như thế, người ta tự hiểu rằng giấc mơ trong khi ngủ phản ảnh phần nào suy tư khát vọng của mình. Khi chuyện không xảy ra trong đời sống thực được, người ta đem nó vào giấc mơ. Tôi thương nhớ ai mà không gặp được ngươi đó, tôi đem người đó vào giấc mơ và tôi gặp gỡ họ trong giấc mơ ấy. Tôi mong làm được việc này chuyện nọ mà chưa làm được; trong giấc mơ, tôi làm được tất cả những chuyện đó. Bởi vậy, biết bao người khi mơ thì muốn mơ luôn không đậy nữa, hoặc đã lỡ dậy rồi thì nuối tiếc giấc mơ. Tôi nhớ đến câu hát: "Tôi đang mơ giấc mộng dài, đừng lay tôi nhé cuộc đời chung quanh."Ở đây, tôi không có ý nới tới những giấc mơ hãi hùng mà người ta gọi là ''ác mộng''.
Tuy nhiên, giấc mơ không phải chỉ phản ảnh những ước mơ trong cuộc sống thực tế hoặc do sự thúc ép của tiềm thức vô thức. Giấc mơ nhiều khi là một lời nhắn bảo, hay một điềm báo. Thánh Giuse, trong giấc mơ, đã thấy thiên thần hiện đến và dặn dò Người phải đem Maria và hài nhi Giêsu sang Ai Cập lánh nạn (Mạt 2: 13). Giuse trong Cựu ước cũng đã giải mộng cho Pharaon, để biết được những điều sắp xảy đến cho đất nước Ai Cập (Kn 41: 17-32).
Tôi không tin những giấc mơ bao giờ cũng là điểm báo một chuyện gì. Bận tâm với những gì xảy ra trong mơ, người ta sẽ rụt rè e sợ không đâu và vì thế làm hư chuyện thực sự phải làm trong đời sống thực tế. Tôi cũng không phải là người giải mộng, không phải là nhà tâm lí để đi tìm những ẩn ức của chính mình, được thể hiện trong giấc mơ. Tôi cũng không dựa vào những điều thấy trong mơ để mua vé số hay đánh số đề! Tuy nhiên, tôi hay tìm ý Chúa qua những giấc mơ. Chúa để cho mọi chuyện xẩy đến cho tôi, thì giấc mơ của tôi cũng không ngoài ý Chúa.
Có những giấc mơ tôi thường mơ đi mơ lại nhiều lần. Một trong những giấc mơ đó là giấc mơ ''lượm bạc cắc''. Trong mơ, tôi thấy trên đường đi, những ai đó đã làm rớt không biết bao nhiêu là bạc cắc. Đụng đâu cũng thấy, nhìn đâu cũng có. Và tôi cúi lưng xuống nhặt, nhặt thỏa thích; nhét đầy túi mà nhìn xuống đất cũng vẫn còn. Có điều những đồng bạc cắc đó không sạch sẽ cho lắm, đồng thì đầy bụi đất, đồng thì dính bùn, đồng thì nằm trên đống rác... Tỉnh dậy, tôi thường băn khoăn tự hỏi: có phải mình đang sống cuộc sống tầm thường, là đà dưới đất; đang theo đuổi những mục tiêu thấp kém; đang cúi mình tìm kiếm những lợi lộc thấp hèn, những vinh danh phù ảo?
Có lẽ tôi chưa đứng thẳng dậy, hướng về phía trước, nơi có chân trời nạc sáng. Mắt tôi còn đang mê mải cúi xuống đất đen, kiếm tìm những đồng bạc cắc lấm láp rơi rớt đâu đó. Những băn khoăn và tra vấn lương tâm ấy khiến tôi phản tỉnh. Nếu trước bất cứ mọi chuyện, dù khi mơ hay lúc tỉnh, sau đó tôi đều biết đặt lại vấn đề và đối diện với lương tâm như thế, chắc tôi đã khá hơn nhiều lắm.
Một giấc mơ khác tôi cũng mơ đi mơ lại nhiều lần. Tôi gọi đó là ''giấc mơ trần truồng''. Trong mơ, tôi thấy mình trần truồng đi giữa những đám đông. Tôi vô cùng xấu hổ, trốnn đâu cũng không được, che đậy thế nào cũng không hết. Và tôi cứ phải đi như thế trước bao nhiêu con mắt dòm ngó của mọi người. Giấc mơ đó cũng khiến tôi nhiều khi tỉnh dậy cảm thấy băn khoăn. Thường tôi hay tư hỏi: lúc này tôi có đang hãnh diện, tự hào về một vài ''thành công'' tôi đạt được? Có phải tôi đang tự khoác cho mình đủ thứ hào quang lộng lẫy hay trang điểm cho mình bằng đủ thứ khả năng hay đức tính mà chưa chắc tôi đã thực sự có? Nếu quả tôi đang như vậy, thì qua ''giấc mợ trần truồng'', Chúa nhắc cho tôi biết tôi không là gì. Tôi sinh ra trần truồng và chẳng có gì đáng hãnh diện. Những gì tôi có là quà tặng Chúa gửi cho để tôi chia sẻ với anh chị em khác, nó không phải của riêng tôi, hay của chính tôi, nên tôi không có lí đo gì để hãnh diện.
Tôi còn nhiều giấc mơ khác nhưng kể ra đây thì dài dòng lắm. Tôi muôn bạn nhìn về giấc mơ của bạn. Chẳng biết bạn có ''khả năng'' mơ nhiều và nhớ nhiều như tôi không, nhưng ít nhiều chắc cũng có những giấc mơ bạn nhớ. Nhớ nó, không phải để vui với mộng mà quên thực tế; không phải để bị ám ảnh và lo sợ; cũng không phải để dựa vào nó mà quyết định mua vật nọ, bán vật kia, Nhưng nhớ nó, để tìm hiểu xem, qua nó, mình có điều gì cần phản tỉnh, có vấn đề gì thuộc lãnh vực lương tâm cần xét lại.
Tôi rời bỏ những giấc mơ ngủ để trở về với giấc mơ đời. Có người định nghĩa về tuổi trẻ như sau: ''Tuổi trẻ là tuổi biết ước mơ. '' Như thế, mỗi khi ta tự hỏi lòng, mà thấy mình còn biết mơ ước, thì ta cứ yên tâm rằng mình còn đang là tuổi trẻ. Và như thế, mình cứ vui mà sống. Thực sự tuổi trẻ là tuổi có nhiều mơ ước nhất, thế thôi, chứ tuổi nào cũng có ước mơ; và trong hoàn cảnh nào, người ta cũng vẫn ước mơ. Một giáo sư văn chương của tôi nói rằng: "Con người là sinh vật chân bước trên mặt đất mà mắt ngắm trăng sao."
Giấc mơ của tuổi trẻ thường là giấc mơ đẹp, trong giấc mơ có hơn có bướm, có chàng hoàng tử xinh trai hay cô công chúa diễm lệ, có một chân trời rực sáng và một cánh cổng tương lai rộng mở. Giấc mơ ấy được gọi là Giấc Mơ Xuân, và tuổi trẻ cũng được gọi là Tuổi Xuân. Mùa Xuân đẹp như thế nào thì Tuổi Xuân và Giấc Mơ Xuân cũng đẹp như thế. Nếu Tuổi Xuân kéo dài và Giấc Mơ Xuân thành sự thật thì có lẽ người ta đã tìm thấy hạnh phúc và bước chân đã đặt lên ngưỡng cửa thiên đàng.
Có người xem thường những ước mơ, cho đó là điều thiếu thực tế. Hãy hành động hơn là ngồi mơ ước. Đó là châm ngôn của họ. Tuy nhiên, nếu không có những ước mơ thì người ta cũng không có động lực biến ước mơ thành sự thật. Bởi thế, theo tôi thì, hãy cứ ước mơ đi, nhưng đừng chìm đắm trong mơ. Hãy thức tỉnh để hoạt động và biến ước mơ thành sự thật. Một nhà tư tưởng đã có câu nói thật dễ thương:
"Ưa mộng mơ, đâu để mộng say lòng,
Theo lí tưởng, nhưng thoát vòng không tưởng."
Nói cho cùng, đời người cũng là một giấc mơ dài. Chúng ta nghe nhiều đến ''giấc mộng kê vàng'', nằm mộng thấy cả cuộc đời mình mà tỉnh dậy nồi kê chưa chín. Trong "giấc mơ dài'' đó, ta đã làm gì, đã sống thế nào, đã thực hiện được chút gì mục tiêu của ''giấc mộng dài'' đó chưa? Đã gọi là ''giấc mơ" thì thế nào cũng có lúc thức tỉnh. Đối với những người ý thức, thì khi thức tỉnh tức là lúc ta đã trọn vẹn giấc mơ, để trở về với cuộc sống thật, cuộc sống vĩnh hằng bên Thượng Đế. Hạnh phúc cho ta, nếu trong giấc mơ đời, ta biết mơ về Đấng đã tạo dựng nên ta và gửi ta và giấc mơ tươi đẹp. Nếu trong giấc mơ đời ta không mơ về Thượng Đế, thì khi trở về, ta quên mất Ngài và lòng chỉ lưu luyến với những gì ta đang mơ trong giấc mơ đời. Khi đó, có lẽ Thượng Đế cũng chỉ nhìn ta như một người xa lạ.
Ngày xưa, có lần Trang Tử nằm mơ thấy mình hóa bướm, tỉnh dậy bâng khuâng tự hỏi không biết mình là người hay là bướm. Mình là người rồi nằm mơ thành bướm, hay mình là bướm và đang nằm mơ là người? Giấc mơ Trang Tử cho ta thấy cái tương đối và hư không của đời sống. Trang Tử đã mơ và đã băn khoăn, giấc mơ và nỗi băn khoăn của một triết gia.
Với tôi, một người Công giáo, tôi không băn khoăn như Trang Tử. Thực ra tôi cũng băn khoăn, nhưng nỗi băn khoăn của tôi nó khác. Giả dụ tôi cũng mơ thành bướm như Trang Tử, nỗi băn khoăn của tôi sẽ thế này: nếu tôi la người, tôi có biết dùng đôi chân để đi trên nẻo đường Chúa đã dẫn lối? Và nếu tôi là bướm, tôi có dùng đôi cánh để bay lượn khắp cả trời Xuân, tìm cho ra Đấng được gọi là Chúa của mùa Xuân bất diệt?
Tôi yêu những Giấc Mơ Xuân. Tôi yêu những giấc mơ khi ngủ và yêu cả giấc mơ đời. Đời người ta, nếu được dệt bằng những giấc mơ đẹp và ước mơ thần tiên thì đẹp đẽ biết bao nhiêu. Và với tôi, giấc mơ đẹp nhất, ước mơ thần tiên nhất là giấc mơ và ước mơ được luôn gần gũi với Chúa của mùa Xuân.
Nhà Văn Quyên Di
Tác giả: Nhà văn Quyên Di
Lễ Tro: Ăn chay kiêng thịt 30 Tết Nguyên Đán Ất Mùi 2015 ra sao?
- Viết bởi Lm Fx Nguyễn hùng Oánh
Ủy Ban Phụng tự/ HĐGMVN đã ra thông báo:
1/ Về Lễ Tro: Hội Đồng Giám Mục đã quyết định cử hành Lễ Tro vào 30 Tết Ất Mùi (tức là không dời Lễ Tro).
2/ Chuyển ăn chay kiêng thịt dời vào ngày thứ sáu Mồng Chín Tết (ngày thứ sáu 27-2-2015).
Một thắc mắc của Dòng tu, của giáo dân sống như nhà tu: con ăn chay kiêng thịt ngày thứ tư Lễ Tro rồi có phải buộc ăn chay ngày thứ sáu Mồng Chín Tết không?
Phải ăn chay kiêng thịt đúng luật dạy tức là thứ tư Lễ Tro, nhưng Hội Đồng Giám mục đã cho dời vào Mồng Chín Tết, đó là một một đặc ân. Ta có thể chối từ đặc ân nầy (x. Gl 80,2) và giữ chay kiêng thịt vào Ngày thứ tư Lễ Tro (tức là không phải ăn chay kiêng thịt thứ sáu Mồng Chín Tết nữa). Ăn chay kiêng thịt ngày thứ tư Lễ Tro, xin nhớ ngày tính giờ từ không giờ (nửa đêm) đến hết 24 giờ.
Nếu Lễ Giao thừa về, ăn uống tới một, hai giờ sáng thì sao ?
Thì ăn chay kiêng thịt ngày thứ sáu Mồng Chín Tết. Xin nhớ cho kỹ: 14 tuổi trọn mới buộc kiêng thịt ngày thứ sáu quanh năm cho đến chết (thứ tư Lễ Tro và thứ Sáu Tuần thánh phải kiêng thịt còn các thứ sáu khác thay vì kiêng thịt tức là được ăn thịt nhưng phải làm việc đạo đức, như lần một tràng hạt …hoặc việc từ thiện để bù vào) và 18 tuổi trọn đến hết 59 tuổi mới buộc phải ăn chay thứ Tư Lễ Tro, thứ sáu Tuần Thánh.
Lm Fx Nguyễn hùng Oánh
Lịch sử mùa Chay Thánh
- Viết bởi Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Tứ thời bát tiết Xuân, Hạ, Thu, Đông, thay đổi tuần hoàn luân vòng chuyển đổi. Niên lịch phụng vụ của Giáo hội Công Giáo cũng nằm trong chu kỳ ấy.
Phụng vụ Giáo Hội cũng có bốn Mùa như : Mùa Vọng, Mùa Giáng Sinh qua đi, Mùa Thường niên tiếp nối, chúng ta chuẩn bị bước vào Mùa Chay Thánh, cao điểm là Tuần Thánh và Đêm Vọng Phục Sinh. Vậy Mùa Chay có từ bao giờ, kéo dài bao lâu ? Những việc chúng ta làm trong Mùa Chay có ý nghĩa thế nào ? Mùa Chay đến rồi lại đi, chúng ta làm gì để Mùa Chay không trở nên nhàm chán và có ý nghĩa ?
Mùa Chay có từ bao giờ, kéo dài bao lâu ?
Vào những thế kỷ đầu Kitô giáo, để sống đạo và thực hành đạo, các kitô hữu tiên khởi đã quan sát những người chung quanh xem họ sống đạo và thực hành đạo thế nào, cụ thể như việc người Dothái giữ ngày Sabát, hay lên Đền thờ cầu nguyện. Tuy các kitô hữu tiên khởi họp nhau thành một cộng đoàn tế tự, cử hành phép rửa nhân danh Cha và Con và Thánh Thần theo một công thức tuyên xưng đức tin. Nhưng khi cử hành các ngày đại lễ như lễ Vượt Qua, lễ Năm Mươi, dù vẫn giữ nguyên những ngày lễ của người Dothái nhưng lại mặc cho các ngày lễ ấy một ý nghĩa mới, chẳng hạn : khi cử hành, họ không chỉ nhắc lại các biến cố Xuất Hành Cựu Ước, mà còn tưởng nhớ cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Kitô, cũng như việc Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các Tông đồ.
Mãi đến thế kỷ thứ IV, trong Giáo hội mới nảy sinh những ý kiến khác nhau như : liệu có cử hành lễ Phục Sinh vào ngày lễ Vượt Qua của người Dothái không ? Tại các Giáo đoàn thuộc Tiểu Á, họ vẫn giữ nghi lễ chiên vượt qua. Riêng Giáo đoàn Antiokia lại ấn định lễ Phục Sinh vào ngày Chúa Nhật sau lễ Vượt Qua của người Dothái, trong khi đó, các kitô hữu tại Alexandria do các nhà chiêm tinh tính toán nên đã chuyển rời lễ Phục Sinh vào dịp phân xuân.
Cho dù có sự khác nhau về ngày cử hành các ngày lễ, nhưng lễ Phục Sinh vẫn là lễ chung của toàn thể cộng đoàn Kitô giáo, vì lễ Phục Sinh dựa trên nền tảng đức tin, trước lễ Phục Sinh, có một thời gian chuẩn bị tương đối dài gọi là Mùa Chay hay “40 ngày”, tưởng nhớ 40 Chúa Giêsu ở trong hoang địa 40 đêm ngày.
Việc thực hành Mùa Chay đã có từ thời thì đầu Kitô giáo, nhưng trải qua những bước thăng trầm, mãi tới thế kỷ thứ II, thời thánh Irênê, giám mục thành Lyon, việc giữ chay ngắn hạn từ hai đến ba ngày, không ăn bất kỳ thức ăn nào mới được phổ biến. Sang kỷ thứ III tại Alexandria, người ta kéo dài việc ăn chay ra hết một tuần. Những dấu tích của Mùa Chay hay “40 ngày” được tìm thấy ở thế kỷ thứ IV, trong lễ qui của Công Đồng Nicêa. Đây là thời gian chuẩn bị mừng lễ, nhưng ưu tiên vẫn là việc giúp các người dự tòng chuẩn bị lãnh Phép Rửa Tội và Đêm Vọng Phục Sinh.
Cuối thế kỷ thứ IV, Giáo đoàn tại Giêrusalem bắt đầu giữ chay 40 ngày hay còn gọi là Mùa Chay 8 tuần, người ta ăn chay suốt thời gian này, trừ thứ Bẩy và Chúa Nhật. Sang thế kỷ thứ V, tại Aicập người ta cũng giữ chay, tiếp đến là xứ Gôlơ, người ta ăn chay ngày thứ Bẩy và thứ Sáu tuần trong Mùa Chay. Trong khi giữ chay, các kitô hữu chỉ ăn một bữa mỗi ngày, thức ăn gồm có bánh, rau và nước. Giữ nghiêm ngặt nhất là ngày Thứ Sáu và Thứ Bẩy Tuần Thánh, người ta không ăn một chút thức ăn nào. Giờ ăn chay được qui định tùy theo sự khác nhau của mỗi giáo đoàn. Vì mùa chay gồm 6 tuần không thể tương ứng với 40 ngày được. Nên sang thế kỷ thứ VII, người ta đã lùi về trước Mùa Chay mấy ngày, cụ thể như bắt đầu từ ngày thứ Tư cho đến ngày thứ Bẩy tuần trước khi bước vào Mùa Chay, ngày mà hôm nay chúng ta gọi là Thứ Tư Lễ Tro, ngày ăn chay. Đồng thời, ba Chúa nhật trước Mùa chay, là gồm tóm thời gian chuẩn bị mừng lễ Phục Sinh, cách lễ Phục Sinh chín tuần. Việc giữ chay ngày càng đòi hỏi nghiêm ngặt hơn, chẳng hạn như buộc chỉ ăn bữa tối. Nhưng đến thế kỷ thứ VIII, việc giữ chay được nới rộng ra, nghĩa là cho phép những người ốm đau bệnh tật được ăn chứng, bơ, sữa, cá và cả rượu nữa. Sang thế kỷ XII và XIII, bữa ăn ngày chay được ấn định là trước giờ trưa 3 giờ tức 9 chín giờ sáng, tiếp theo được ăn “bữa ăn nhẹ” vào buổi tối. Sang thế kỷ XVII việc ăn chay giảm dần và Giáo hội cho phép được ăn cháo, sữa và cá nhỏ. Trong ngày chay, tại các hoàng gia, nhà bếp thi nhau trổ tài làm ăn với những thực đơn sao cho dồi dào phong phú hơn ngày thường.
Từ năm 1949, Giáo hội Công giáo qui định việc giữ chay và kiêng thịt là ngày Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh mà thôi. Lý do vì hai ngày đó là ngày tưởng nhớ sự chết : ngày thứ tư lễ Tro, linh mục chính thức làm phép tro được đốt từ những cành lá đã làm phép vào ngày Lễ Lá năm trước rồi vẽ hình thánh giá trên trán người nhận tro và nhắc lại rằng “ngươi là tro bụi, và người sẽ trở về tro bụi”, nhắc lại cái chết của mỗi người chúng ta, tiếp đến, ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, ngày tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá.
Trong phụng vụ của Giáo hội Chính Thống, thời gian chuẩn bị bước vào Mùa Chay kéo dài năm tuần liền, mỗi tuần đọc một đoạn Tim Mừng riêng, với cách thức sám hối sâu xa. Tuần thứ bốn, được ấn định là ngày kiên thịt và ăn chay trong toàn Giáo hội. Chúa nhật thứ năm được gọi là Chúa nhật Hòa giải, mỗi người hòa giải với người bên cạnh trước khi toàn thể cộng đoàn xin lỗi Chúa.
Cảm tưởng chung là một bầu không khí “vui và buồn”. Mỗi tín hữu, với sự hiểu biết có giới hạn và khác nhau về phụng vụ, nên khi bước vào nhà thờ với các kinh nguyện của Mùa Chay, mỗi người mỗi cảm tưởng khác nhau. Một phần vì những lời kinh tiếng hát mang đậm nét buồn, màu áo tím, những bài đọc dài hơn, đơn điệu hơn ngày thường, và hầu như không có nét vui tươi. Một nét đẹp nội tâm rực sáng, tựa như ánh sáng ban mai chiếu rọi từ thung lũng tối tăm lên tận đỉnh cao của núi đồi.
Niềm vui âm thầm, êm dịu và toàn bộ các bài Sách thánh trong Mùa Chay nghe thật đơn điệu cho thấy sự bình an đã dẫn đưa người ta tới những điệp ca hòa tấu Allêluia trong Đêm Vọng Phục Sinh.
Chúa nhật lễ Lá là thời gian không còn dành riêng cho việc tưởng niệm cuộc khổ nạn nữa, bước vào một Tuần Thánh, với những bài đọc nhắc lại những ngày sau hết của Chúa Kitô trên trần gian và sự Phục Sinh của Ngài.
Tại sao lại gọi là 40 ngày chay thánh ?
Từ “Mùa Chay” là một từ tương phản với từ gốc latinh là “quadragesima” có nghĩa là 40. Trong Kinh thánh, con số 40 có ý diễn tả một khoảng thời gian chờ đợi, một quá trình, tượng trưng cho việc chuẩn bị gặp gỡ Thiên Chúa. Số 40 còn diễn tả hành trình trong sa mạc trên đường về Đất hứa của Dân Dothái kéo dài 40 năm. Ông Môisen đã ở trên núi Chúa 40 ngày (x. Xh 24, 18; 34,28). Những người trinh sát đã ở trong vùng đấy 40 ngày (x. Ds 13, 25). Elia đã đi 40 ngày trước khi tới được hang ở đó Ngài được thị kiến (x. 1V 19, 8). Ninivê đã được cho 40 ngày để sám hối (x. Gn 3, 4). Và quan trọng nhất là Chúa Giêsu được Chúa Thánh Thần thúc đẩy vào trong hoang địa 40 ngày để ăn chay cầu nguyện trước khi thi hành sứ vụ công khai (x. Mt 4,2).
Như vậy Mùa Chay là mùa nhắc nhớ 40 năm hành trình trong sa mạc của dân Dothái, 40 ngày trong hoang địa của Chúa Giêsu. Con số 40 ngày, là thời gian đi vào hoang địa của cõi lòng, thinh lặng để chuẩn bị gặp gỡ Chúa. Đây là thời gian phụng vụ cao điểm thuân tiện thích hợp cho các kitô hữu noi gương Đức Kitô dùng 40 ngày để ăn năn đền tội và dấn thân phục vụ anh chị em. Và bằng 40 ngày long trọng của Mùa Chay, mỗi người được liên kết mật thiết hơn với các Mầu Nhiệm của Chúa Giêsu, Đấng đang tiến đến cái chết và sự sống lại.
Mùa chay mang lại cho chúng ta điều gì?
Phần lớn người kitô hữu không thực hành việc ăn chay, nguyện ngắm, nên Mùa Chay không có ảnh hưởng tới đời sống của họ là bao? Khi nói về Mùa Chay, người ta thường hiểu một cách không tích cực lắm. Đại đa số dân chúng cho rằng trong Mùa Chay việc kiêng ăn, kiêng uống giữ chay chiếm vị trí hàng đầu.
Tuy nhiên điều đáng lưu ý là đại đa số người kitô hữu không thực hành đạo trong đời sống nhưng họ vẫn đến nhận tro vào Thứ Tư Lễ Tro. Đây là một nghi thức giầu tính biểu tượng, nó tác động đến tận đáy lòng con người, nhắc nhớ người ta suy nghĩ về thân phận của mình khi nhận tro và mời gọi con người trở về với Chúa. Vì nhiều khi con người quên đi thân phận yếu hèn, mỏng giòn của mình, dẫn đến đau thương và đổ vỡ. Bi kịch cuộc đời con người đều từ đó mà ra. Con người phạm tội, tội cắt đứt sự hiệp thông giữa con người với Thiên Chúa, làm cho con người mất đi hạnh phúc, phải đau khổ và phải chết. Chuyện sa ngã của Nguyên tổ đã chứng minh điều đó. Lịch sử cứ độ của Dân Chúa, tội thì Chúa phạt, hối cải thì Chúa tha và cứu. Nên mỗi khi lâm vào hoàn cảnh bi đát đau thương hay thất vọng, Dân Chúa đều nhận ra rằng cần phải sám hối trở về giao hòa với Thiên Chúa để được chữa lành. Mùa Chay là mùa sám hỗi, chúng ta hãy ra sức làm những việc cần thiết để được giao hòa và hiệp thông với Chúa, hầu được Chúa ban ơn.
Trong đời sống người kitô hữu, nhiều khi lắng nghe lời Chúa xong, chúng ta đã có quyết tâm đi xưng tội, làm việc đền tội, nhưng rồi kết quả không mấy khả quan, thì Mùa Chay là cơ hội rất thuận lợi. Thư thánh Phaolô nói với chúng ta : “Đây là lúcthuận tiện, đây là ngày cứu độ» (2 Cr 6,2). Đây là thời gian khẩn trương trong năm phụng vụ, thời gian thuận tiện được ban cho chúng ta để đẩy mạnh quyết tâm hoán cải, tăng cường việc lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện, thống hối, mở rộng tâm hồn đón nhận thánh ý Chúa, thực hành khổ chế một cách quảng đại hơn, để đi tới và giúp đỡ tha nhân đang túng thiếu: đó là một hành trình tinh thần giúp chúng ta chuẩn bị sống Mầu Nhiệm Phục Sinh. Vậy chúng ta hãy tin tưởng điều đó và bước vào Mùa Chay Thánh.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Ba trụ đầu rau nấu bếp
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Theo phong tục tập quán văn hóa Á Đông Việt Nam, vào ngày 23. Tháng Chạp âm lịch có tập tục cúng tiễn đưa Ông Táo về trời.
Tập tục văn hóa dân gian này tuy vậy cũng ẩn hiện phần nào tâm linh đời sống con người.
Nói đến Ông Táo là nói về nhà bếp nấu ăn. Ngày xưa, và ngày nay ít nhiều nơi vẫn còn, ở vùng thôn quê bên quê nhà Việt Nam, nhà bếp đun thổi bằng rơm rạ, bằng trấu vỏ lúa, bằng củi than. Nên bếp nấu theo cổ truyền có ba trụ hình khối vuông chữ nhật, trên đầu đẽo nghiêng sâu độ ba phân đắp nặn nung bằng đất, hay đẽo gọt bằng đá, quen gọi là „ đầu rau“. Ba trụ đầu rau này cao chừng từ hai tới ba mươi phân. Ba trụ đặt ba góc cách nhau theo hình tam giác rộng to nhỏ tủy theo vòng chu vi cái nồi đặt bên trên ba trụ đầu rau. Mặt trước ba đầu rau là cửa để cho rơm rạ, than củi vào đốt lửa lên đun nấu.
Bếp có ba trụ đầu rau kê lên như thế vững chắc, nồi cơm, canh, nồi nước bên trên không bị lung lay nghiêng đổ.
Vậy hình ảnh ba trụ đầu rau táo quân ở nhà bếp có thể nói gì với chúng ta về đức tin đạo giáo?
Trong dân gian bên tây phương cũng có ngạn ngữ câu: „Con số ba là con số tốt đẹp.“
Ba trụ đầu rau kê chụm gần lại nhau thành một cái bếp cho việc nấu nướng làm liên tưởng đến thuyết tam vị nhất thể. Và với người Công giáo làm nhớ đến mầu nhiệm căn bản của đức tin: Một Chúa Ba Ngôi.
Ngay từ lúc con em mình còn thơ ấu, các người mẹ thường cầm bàn tay nhỏ bé của chúng vẽ hình thánh giá trên trán, trên ngực em và đọc lời kinh:‘‘ Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần .Amen‘‘ trước bữa ăn, mỗi khi uống thuốc và trước khi đi ngủ. Người mẹ làm chuyện này vì thói quen đạo đức tốt lành của mình, và muốn gieo vào tâm hồn con mình thói quen cùng tâm tình đạo đức này.
Đây là việc đạo đức đơn sơ nhưng căn bản biểu lộ tâm tình biết ơn sâu thẳm vào Thiên Chúa, Đấng là chủ vạn vật trời đất và là nguồn sự sống. Và tập quán này cũng còn muốn nói lên: Xin Thiên Chúa chúc lành cho của ăn, cho giấc ngủ và cho cuộc đời của con!
Câu kinh và dấu thánh giá nói lên ý nghĩa gì ?
Câu kinh ngắn gọn này hàm chứa điều căn bản sâu thẳm và rất khó cắt nghĩa của niềm tin: Mầu nhiệm Thiên Chúa ba ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần – Một Chúa nhưng có ba ngôi vị.
Trong đời sống có nhiều điều ta không thể nhìn thấy, nhưng chỉ có thể cảm thấy như tình yêu, hạnh phúc, không khí, sự sống và Thiên Chúa.
Không nhìn thấy, nhưng cảm thấy điều đó nhất là khi nhìn thấy một biểu tượng. Như khi nhìn thấy hình trái tim, ta liên tưởng ngay đến tình yêu, đến sự sống. Khi nhìn thấy chim bồ câu, ta nghĩ ngay đến hoà bình. Khi nhìn thấy hai chiếc nhẫn cưới, đó là biểu tượng của tình yêu hôn nhân giữa hai người nam nữ. Khi nhìn thấy cây nến cháy, ta cảm thấy không khí ấm cúng thi vị hay tấm lòng chân thành đang cầu xin khấn nguyện...
Trong thiên nhiên có những yếu tố, thường là ba, nối liền với nhau để tạo nên một liên đới chung và mang lại sự hài hoà hỗ tương cần thiết cho vạn vật như đất, nước và không khí; chiều sâu, chiều cao và chiều rộng – không gian ba chiều ; quá khứ, hiện tại và tương lai. ( Những) Ba yếu tố này tạo nên một liên kết chung, nếu thiếu một yếu tố, mối liên kết sẽ không thành.
Cũng như những biểu tượng trên đây, một Thiên Chúa mà có ba ngôi, không phải là một người có ba đầu hay ba thân mình, cũng không phải ba Chúa, nhưng là ba Ngôi Vị: Thiên Chúa, Chúa Con và Chúa Thánh Thần tạo nên một Thiên Chúa.
Thiên Chúa Cha, ngôi thứ nhất, Đấng tạo dựng trời đất, con người cùng vạn vật trong hoàn vũ.
Chúa Con, ngôi hai, chính là Chúa Giêsu, Đấng xuống thế làm người mang ơn cứu chuộc, sứ điệp tin mừng tình yêu từ trời cao xuống cho con người.
Chúa Thánh Thần, ngôi thứ ba, là hơi thở sự sống cho công trình sáng tạo của Thiên Chúa.
Các Thánh Giáo Phụ, những bậc học giả lỗi lạc có đời sống đạo đức thánh thiện cao sâu, khi suy niệm về mầu nhiệm Một Chúa mà có ba ngôi, đã dùng hình ảnh mặt trời, tia sáng chiếu toả từ đó và hơi ấm của mặt trời để cắt nghĩa như sau:
Đức Chúa Cha, ngôi thứ nhất, được ví như mặt trời. Mặt trời ai cũng biết to lớn vô cùng tận và rất xa diệu vợi ngoài tầm nhìn của con mắt loài người.
Từ mặt trời phát toả ra luồng tia sáng chiếu dọi xuống trần gian. Ánh quang từ mặt trời chiếu ra là hình ảnh Chúa Giêsu, ngôi thứ hai, xuống thế làm người.
Khi ánh quang chiếu dọi xuống trần gian mọi sinh vật được sưởi ấm và có sự sống. Hơi ấm sự sống là hình ảnh Chúa Thánh Thần, ngôi thứ ba Thiên Chúa.
Chúa Giê su khi truyền cho các Tông đồ đi giảng đạo và làm phép thanh tẩy cho mọi người tin theo Chúa, ngài trao cho các ông một công thức: Làm phép Rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Phép Rửa niềm tin trong Thiên Chúa Ba Ngôi.
Bà mẹ cầm tay con mình làm dấu thánh giá cho em và mỗi khi chúng ta làm dấu thánh giá bắt đầu từ trên trán và đọc: Nhân danh Cha: Vâng, Thiên Chúa Cha ở trên cao, người hằng giơ tay che chở phù hộ con.
Đoạn đưa tay xuống ngực và đọc: Và Con: Vâng, Chúa Giê su xuống trần gian làm người sống ở giữa trần gian.
Sau đó đưa tay sang hai bên trái và phải nơi hai vai và đọc: Và Thánh Thần: vâng, Chúa Thánh Thần, đấng bao bọc cuộc đời con, mang đến cho con sự sống.
Và sau cùng hai tay chắp lại trước ngực và đọc:Amen: Con xin tin như vậy!
Một công thức ngắn gọn với cử chỉ của đôi bàn tay trên thân mình mỗi người, nhưng hàm chứa điều căn bản sâu thẳm của đức tin vào Một Thiên Chúa Ba Ngôi.
Những hình ảnh biểu tượng này giúp cắt nghĩa suy niệm phần nào về một mầu nhiệm niềm tin vượt quá tầm hiễu biết của con người chúng ta. Và lẽ tất nhiên mỗi người, tuỳ theo ân đức của Chúa Thánh Thần ban cho, có những suy tư khác nhau về mầu nhiệm niềm tin này. Cắt nghĩa hay hình ảnh không phải là niềm tin, nhưng giúp soi dẫn hướng về điều tin và giúp cách thực hành niềm tin cho sống động trong đời sống thôi.
Niềm Tin đó không phải là một công thức đọc ngoài miệng, nhưng sống động nơi thân xác con người. Thiên Chúa Ba Ngôi ở trong tâm hồn và hằng đồng hành trong cuộc đời con người.
Tập tục cúng hay tiễn Ông Táo về chầu trời ngày cuối cuối năm âm lịch là cung cách nấp sống văn hóa truyền thống trong dân gian từ xa xưa.
Tập tập nếp sống văn hóa này tuy mang mầu sắc của một Lễ Hội, nhưng cũng gói ghém chất chứa một nội dung có khía cạnh lòng tin trong dân gian.
Với người Công giáo, tập tục lễ hội này nhắc nhớ chúng ta đến khía cạnh thiêng liêng Thiên Chúa ba ngôi vị.
Đây là căn bản của đức tin chúng ta.
Ngày tiễn Ông Táo về trời, 23. Tháng Chạp âm lịch năm Giáp Ngọ.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ba trụ đầu rau nấu bếp
Theo phong tục tập quán văn hóa Á Đông Việt Nam, vào ngày 23. Tháng Chạp âm lịch có tập tục cúng tiễn đưa Ông Táo về trời.
Tập tục văn hóa dân gian này tuy vậy cũng ẩn hiện phần nào tâm linh đời sống con người.
Nói đến Ông Táo là nói về nhà bếp nấu ăn. Ngày xưa, và ngày nay ít nhiều nơi vẫn còn, ở vùng thôn quê bên quê nhà Việt Nam, nhà bếp đun thổi bằng rơm rạ, bằng trấu vỏ lúa, bằng củi than. Nên bếp nấu theo cổ truyền có ba trụ hình khối vuông chữ nhật, trên đầu đẽo nghiêng sâu độ ba phân đắp nặn nung bằng đất, hay đẽo gọt bằng đá, quen gọi là „ đầu rau“. Ba trụ đầu rau này cao chừng từ hai tới ba mươi phân. Ba trụ đặt ba góc cách nhau theo hình tam giác rộng to nhỏ tủy theo vòng chu vi cái nồi đặt bên trên ba trụ đầu rau. Mặt trước ba đầu rau là cửa để cho rơm rạ, than củi vào đốt lửa lên đun nấu.
Bếp có ba trụ đầu rau kê lên như thế vững chắc, nồi cơm, canh, nồi nước bên trên không bị lung lay nghiêng đổ.
Vậy hình ảnh ba trụ đầu rau táo quân ở nhà bếp có thể nói gì với chúng ta về đức tin đạo giáo?
Trong dân gian bên tây phương cũng có ngạn ngữ câu: „Con số ba là con số tốt đẹp.“
Ba trụ đầu rau kê chụm gần lại nhau thành một cái bếp cho việc nấu nướng làm liên tưởng đến thuyết tam vị nhất thể. Và với người Công giáo làm nhớ đến mầu nhiệm căn bản của đức tin: Một Chúa Ba Ngôi.
Ngay từ lúc con em mình còn thơ ấu, các người mẹ thường cầm bàn tay nhỏ bé của chúng vẽ hình thánh giá trên trán, trên ngực em và đọc lời kinh:‘‘ Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần .Amen‘‘ trước bữa ăn, mỗi khi uống thuốc và trước khi đi ngủ. Người mẹ làm chuyện này vì thói quen đạo đức tốt lành của mình, và muốn gieo vào tâm hồn con mình thói quen cùng tâm tình đạo đức này.
Đây là việc đạo đức đơn sơ nhưng căn bản biểu lộ tâm tình biết ơn sâu thẳm vào Thiên Chúa, Đấng là chủ vạn vật trời đất và là nguồn sự sống. Và tập quán này cũng còn muốn nói lên: Xin Thiên Chúa chúc lành cho của ăn, cho giấc ngủ và cho cuộc đời của con!
Câu kinh và dấu thánh giá nói lên ý nghĩa gì ?
Câu kinh ngắn gọn này hàm chứa điều căn bản sâu thẳm và rất khó cắt nghĩa của niềm tin: Mầu nhiệm Thiên Chúa ba ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần – Một Chúa nhưng có ba ngôi vị.
Trong đời sống có nhiều điều ta không thể nhìn thấy, nhưng chỉ có thể cảm thấy như tình yêu, hạnh phúc, không khí, sự sống và Thiên Chúa.
Không nhìn thấy, nhưng cảm thấy điều đó nhất là khi nhìn thấy một biểu tượng. Như khi nhìn thấy hình trái tim, ta liên tưởng ngay đến tình yêu, đến sự sống. Khi nhìn thấy chim bồ câu, ta nghĩ ngay đến hoà bình. Khi nhìn thấy hai chiếc nhẫn cưới, đó là biểu tượng của tình yêu hôn nhân giữa hai người nam nữ. Khi nhìn thấy cây nến cháy, ta cảm thấy không khí ấm cúng thi vị hay tấm lòng chân thành đang cầu xin khấn nguyện...
Trong thiên nhiên có những yếu tố, thường là ba, nối liền với nhau để tạo nên một liên đới chung và mang lại sự hài hoà hỗ tương cần thiết cho vạn vật như đất, nước và không khí; chiều sâu, chiều cao và chiều rộng – không gian ba chiều ; quá khứ, hiện tại và tương lai. ( Những) Ba yếu tố này tạo nên một liên kết chung, nếu thiếu một yếu tố, mối liên kết sẽ không thành.
Cũng như những biểu tượng trên đây, một Thiên Chúa mà có ba ngôi, không phải là một người có ba đầu hay ba thân mình, cũng không phải ba Chúa, nhưng là ba Ngôi Vị: Thiên Chúa, Chúa Con và Chúa Thánh Thần tạo nên một Thiên Chúa.
Thiên Chúa Cha, ngôi thứ nhất, Đấng tạo dựng trời đất, con người cùng vạn vật trong hoàn vũ.
Chúa Con, ngôi hai, chính là Chúa Giêsu, Đấng xuống thế làm người mang ơn cứu chuộc, sứ điệp tin mừng tình yêu từ trời cao xuống cho con người.
Chúa Thánh Thần, ngôi thứ ba, là hơi thở sự sống cho công trình sáng tạo của Thiên Chúa.
Các Thánh Giáo Phụ, những bậc học giả lỗi lạc có đời sống đạo đức thánh thiện cao sâu, khi suy niệm về mầu nhiệm Một Chúa mà có ba ngôi, đã dùng hình ảnh mặt trời, tia sáng chiếu toả từ đó và hơi ấm của mặt trời để cắt nghĩa như sau:
Đức Chúa Cha, ngôi thứ nhất, được ví như mặt trời. Mặt trời ai cũng biết to lớn vô cùng tận và rất xa diệu vợi ngoài tầm nhìn của con mắt loài người.
Từ mặt trời phát toả ra luồng tia sáng chiếu dọi xuống trần gian. Ánh quang từ mặt trời chiếu ra là hình ảnh Chúa Giêsu, ngôi thứ hai, xuống thế làm người.
Khi ánh quang chiếu dọi xuống trần gian mọi sinh vật được sưởi ấm và có sự sống. Hơi ấm sự sống là hình ảnh Chúa Thánh Thần, ngôi thứ ba Thiên Chúa.
Chúa Giê su khi truyền cho các Tông đồ đi giảng đạo và làm phép thanh tẩy cho mọi người tin theo Chúa, ngài trao cho các ông một công thức: Làm phép Rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Phép Rửa niềm tin trong Thiên Chúa Ba Ngôi.
Bà mẹ cầm tay con mình làm dấu thánh giá cho em và mỗi khi chúng ta làm dấu thánh giá bắt đầu từ trên trán và đọc: Nhân danh Cha: Vâng, Thiên Chúa Cha ở trên cao, người hằng giơ tay che chở phù hộ con.
Đoạn đưa tay xuống ngực và đọc: Và Con: Vâng, Chúa Giê su xuống trần gian làm người sống ở giữa trần gian.
Sau đó đưa tay sang hai bên trái và phải nơi hai vai và đọc: Và Thánh Thần: vâng, Chúa Thánh Thần, đấng bao bọc cuộc đời con, mang đến cho con sự sống.
Và sau cùng hai tay chắp lại trước ngực và đọc:Amen: Con xin tin như vậy!
Một công thức ngắn gọn với cử chỉ của đôi bàn tay trên thân mình mỗi người, nhưng hàm chứa điều căn bản sâu thẳm của đức tin vào Một Thiên Chúa Ba Ngôi.
Những hình ảnh biểu tượng này giúp cắt nghĩa suy niệm phần nào về một mầu nhiệm niềm tin vượt quá tầm hiễu biết của con người chúng ta. Và lẽ tất nhiên mỗi người, tuỳ theo ân đức của Chúa Thánh Thần ban cho, có những suy tư khác nhau về mầu nhiệm niềm tin này. Cắt nghĩa hay hình ảnh không phải là niềm tin, nhưng giúp soi dẫn hướng về điều tin và giúp cách thực hành niềm tin cho sống động trong đời sống thôi.
Niềm Tin đó không phải là một công thức đọc ngoài miệng, nhưng sống động nơi thân xác con người. Thiên Chúa Ba Ngôi ở trong tâm hồn và hằng đồng hành trong cuộc đời con người.
Tập tục cúng hay tiễn Ông Táo về chầu trời ngày cuối cuối năm âm lịch là cung cách nấp sống văn hóa truyền thống trong dân gian từ xa xưa.
Tập tập nếp sống văn hóa này tuy mang mầu sắc của một Lễ Hội, nhưng cũng gói ghém chất chứa một nội dung có khía cạnh lòng tin trong dân gian.
Với người Công giáo, tập tục lễ hội này nhắc nhớ chúng ta đến khía cạnh thiêng liêng Thiên Chúa ba ngôi vị.
Đây là căn bản của đức tin chúng ta.
Ngày tiễn Ông Táo về trời, 23. Tháng Chạp âm lịch năm Giáp Ngọ.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Lễ Đức Mẹ Lộ Đức - Ngày cầu nguyện cho bệnh nhân
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ngày 11.02.1858 Cô bé Bernadette và người em Toinette cùng với bạn gái Jeanne Abadie đi kiếm củi ở ven bờ dòng sông Gave, gần hang động núi đá cây cối mọc um tùm. Thình lình Bernadette nghe tiếng động như tiếng gío thổi, nhưng cây cối không chuyển động. Bernadette ngước mắt nhìn sâu vào khe núi đá thấy một ánh sáng bao phủ một người phụ nữ đang nhìn và mỉm cười với mình. Đây là lần thứ nhất đức mẹ Maria hiện ra với Bernadette.
Tất cả đức mẹ đã hiện ra với Benadette 18 lần tại hang núi đá Massabielle.
Lần I. ngày 11.02.1858 , Lần 2. ngày 14.02., lần 3. ngày 18.02, lần 4. ngày 19.02., lần 5. ngày 20.02., lần 6. ngày 21.02., lần 7. ngày 23.02., lần 8. ngày 24.02., lần 9. ngày 25.02. , lần 10. ngày 27.02., lần 11. ngày 28.02.
Lần 12. ngày 1.3., lần 13. ngày 2.3., lần 14. ngày 3.3, lần 15. ngày 04.03., lần 16. 25.03. Lần 17. ngày 7.4, và lần 18. ngày 16.07.1858
Lần hiện ra thứ 16., ngày 25.03.1858, đức mẹ đã nói với Benadette bằng tiếng địa phương „Que soy era Immaculada Counceptiou - Mẹ là đấng vô nhiễm nguyên tội.“
1. Hiện ra trong hang đá
Đức mẹ hiện ra với Bernadette ở hang động vách núi đá Massabielle. Hang động này thời Bernadette sinh sống dơ bẩn, tối tăm, ẩm ướt và lạnh. Người ta gọi hang động này là một loại chuồng heo. Vì dân ở đây thường dẫn heo ra ăn cỏ tắm nơi đây.
Nhưng Đức mẹ Maria, đấng tinh tuyền vẹn sạch không vướng mắc tội tổ tông truyền đã chọn nơi hang động dơ bẩn này hiện ra với Bernadette. Tại sao?
Hai hình ảnh, hai sự kiện trái ngược nhau, có thể nói như ánh sáng với bóng tối, như trắng với đen, trong sạch với dơ bẩn...
Điều này nói lên Thiên Chúa qua Đức Mẹ Maria với trái tim lòng yêu mến muốn đến gặp gỡ con người chúng ta trong tình trạng bơ vơ khốn quẫn, vì tội lỗi khiếm khuyết trong đời sống.
Hang đá Lộ Đức, nơi Đức Mẹ hiện ra, không phải chỉ là nơi chốn hình thể địa lý. Nhưng còn là nơi theo ý nghĩa tâm linh, Thiên Chúa tỏ cho con người dấu chỉ Ngài hằng yêu thương con người, dù thế nào đi chăng nữa.
Hang đá Lộ Đức cũng là nơi Thiên Chúa gửi cho con người sứ điệp, Ngài đến với con người, Ngài yêu mến đời sống con người với thành công và cả với những vết thương đau khổ, những đổ vỡ, những dơ bẩn trong đời sống, những hạn chế giới hạn của con người.
Hang núi đá Massabiele nằm ở Lourdes. Thành phố Lourdes là một thành phố nhỏ ở miền quê miền Nam nước Pháp, dưới chân rặng núi Pyrenee với 16.000 dân cư.
Lourdes trở thành trung tâm hành hương kính viếng Đức Mẹ không chỉ cho nước Pháp mà cho toàn thế giới từ ngày Đức mẹ hiện ra năm 1858, và đã được Hội Thánh công nhận 1862.
Hằng năm có trên dưới 6 triệu khách hành hương đến kính viếng hang đá Đức Mẹ Lộ Đức. Họ đến nơi đây để cầu khấn xin ơn phù hộ, nhất là xin được chữa lảnh bệnh tật đau khổ nơi thân xác cũng như trong tâm hồn. Vì thế hằng năm có tới hơn 60.000 bệnh nhân khắp nơi trên thế giới được đưa đến nơi này hành hương cầu khấn xin ơn chữa lành.
Cho tới nay có nhiều người được ơn chữa lành nhờ lời cầu bầu của Đức Mẹ Lộ Đức. Nhưng Giáo Hội cho tới bây giờ mới chỉ công nhận là phép lạ chữa lành do Đức Mẹ Lộ Đức có 68 trường hợp thôi.
Khi đến đây hành hương hầu như ai cũng sống trải qua những nghi thức đã thành nếp sống từ hơn trăm năm nay.
2. Đụng chạm sờ vào tảng đá Lộ đức
Khi đến hành hương Đức Mẹ Lộ Đức ai cũng mong muốn đi vào hang đá, nơi ngày xưa cách đây 155 năm Đức mẹ đã hiện ra với Thánh nữ Bernadette. Đi vào đây, nơi thánh địa, ai cũng lâm râm đọc kinh cầu khấn, tay chạm sờ vào tảng đá trên đỉnh đầu ngay dưới chân Đức Mẹ ngày xưa đã hiện ta đứng trên đó.
Đụng chạm sờ vào „ tảng đá thánh thiêng“ này không phải là để cho sức mạnh chữa lành chuyền sang mình. Nhưng với tâm tình lòng mong muốn được đụng chạm gần với tảng đá, như trong Kinh Thánh diễn tả, là dấu chỉ của Thiên Chúa.
Hang động trong núi đá tựa như căn phòng che chắn cho được an toàn trong thiên nhiên. Như ở hang đá Bethlehem và mộ đá vườn Gethsemani, tảng đá nơi hang động này cũng có ý nghĩa chiều kích siêu nhiên thiêng liêng. Ngày xưa khi được Đức Mẹ hiện ra trong hang đá Massabielle, chị Bernadette đã theo trực gíac lòng tin nói lên „đây là bầu trời của tôi“.
Vì thế, tất cả mọi người hành hương đến nơi đây được mời gọi mở tâm hồn mình hướng về siêu nhiên thiêng liêng. Đụng chạm vào tảng đá và cầu khấn cùng Thiên Chúa, xin Ngài là bến bờ vững chắc an toàn cho đời mình. Cùng hướng tầm nhìn lên nguồn nước không hề bị khô cạn trong hang đá này.
„Lạy Chúa là núi đá, là thành lũy, là Đấng giải thoát con,
Lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn,
là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ.“ ( Tv 18, 3)
3. Những hàng nến cháy sáng
Nơi cửa hang đá và chỗ gần hang đá Đức Mẹ hiện ra từ ngày 19.02.1858 không ngừng nghỉ gián đoạn ngày đêm những hàng nến to nhỏ được đốt thắp cháy sáng xuyên suốt của khách hành hương mang đến, hay của những người gửi mang đến. Vào ngày này năm xưa Chị Bernadette tay cầm cây nến đã được làm phép đốt cháy sáng đi vào hang đá gặp Đức Mẹ Maria hiện ra. Và sau khi diện kiến Đức Mẹ hiện ra, Bernadette đã để cây nến cháy sáng của mình lại trong hang đá. Cũng trong ngày đó, một vài cây nến của những người khác cùng đi với Bernadette cũng được đốt sáng lên cắm tại hang đá này.
Từ ngày đó khách hành hương không ngừng nghỉ ngày và đêm thắp sáng những cây nến nơi hang đá này. Điều này đã trở thánh tập tục nếp sống đạo đức ở nơi đây. Một ngọn nến của người hành hương thắp nơi hang đá không thay thế cho lời cầu nguyện. Nhưng đó là dấu chỉ rõ nét hữu hình của lời cầu xin hay lời tạ ơn.
Hằng năm hàng triệu người đến thắp nến cầu nguyện nơi hang đá Lộ Đức. Theo ước tính tất cả hơn kém 700 tấn nến được dùng đốt thắp ngày đêm trong suốt cả năm tại nơi đây.
Ánh sáng cây nến nhắc nhớ tới Ông Bà nguyên tổ Adong Eva đã lỗi phạm luật Thiên Chúa, nên bị xua đuổi đi vào sống trong bóng tối tội lỗi. Trái lại Chúa Giêsu Kitô đã đến trong trần gian mang ơn cứu độ cùng sự soi sáng cho con người khỏi bóng tối tội lỗi.
Cây nến cháy sáng nhắc nhớ đến cây nến Chúa Phục sinh, và cây nến rửa tội của mỗi người ngày lãnh nhận bí tích rửa tội.
Hằng ngày vào buổi chiều tối ở Lộ Đức đều có rước kiệu Đức Mẹ, hàng chục ngàn người tay cầm nến cháy sáng lung linh trong đêm tối, vừa đi vừa đọc kinh ca hát biểu lộ rõ nét dấu chỉ niềm vui mừng hy vọng cậy trông.
Chúa Giêsu đã nói với mọi người:“ Thầy là ánh sáng trần gian. Ai theo Thầy sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.“ (Ga 8,12)
4. Suối nước Đức Mẹ Lộ Đức
Lần hiện ra ngày 25.03.1858 Đức Mẹ Maria đã nói với Bernadette : „Con hãy uống nước này và lấy nước đó mà rửa mặt“. Lời này cũng là lời mời gọi cho mỗi người khi đến hành hương nơi dòng nước Đức Mẹ Lộ Đức. Vì thế, xưa nay ai đến đây cũng đều lấy nước suối Đức Mẹ Lộ Đức rửa mặt, uống, cùng lấy mang về, hay vào hồ dành riêng để tắm.
Đây là cung cách sống lòng đạo tốt lành. Nhưng đừng lẫn lộn nước suối Đức Mẹ Lộ Đức với nước Phép trong nhà thờ. Nước suối Lộ Đức không là nước từ dòng sông Gave de Pau chảy vào. Nhưng là nước thiên nhiên chảy vọt lên từ nguồn dòng nước sâu trong lòng đất.
Nước suối Lộ đức trở nên thời danh qua nhờ những phép lạ chữa bệnh, mà người bệnh tắm dìm mình trong nước đó, hay rửa tay, rửa mặt và uống nữa.
Nước suối Đức Mẹ Lộ đức là dấu chỉ của lòng tin, như chị Thánh Bernadette đã nói cho mọi người:“ Chúng ta dùng nước này như phương dược chữa lành, nhưng phải có lòng tin, và phải cầu nguyện. Nước này không mang lại hiệu qủa nếu không có đức tin“.
Đức Giê-su nói: "Ai uống nước này, sẽ lại khát.14 Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời." Ga 4,14
5. Khách hành hương
Từ hơn 150 năm nay và vẫn còn tiếp tục nữa trong tương lai, hằng năm hằng triệu người thuộc mọi giới, nam nữ, gìa trẻ, người khỏe mạnh, người gìa yếu bệnh tật, đủ mọi mầu da chủng tộc, ngôn ngữ khác nhau từ khắp mọi châu lục trên thế giới kéo về hành hương nơi hang đá dòng suối nước Đức Mẹ Lộ Đức.
Càng ngày con người càng cảm nhận thấy cần ơn trợ giúp thiêng liêng từ trời cao cho đời sống, sự cần thiết lòng ăn năn thống hối cùng sự tha thứ hòa giải với Thiên Chúa, và nhất là sự chữa lành những vết thương bệnh tật đau khổ phần thân xác cũng như tinh thần.
Vì thế, thánh địa Lộ Đức, tuy là một địa điểm nhỏ miền quê nằm dưới chân rặng núi Pyrene, đã trở thành trung tâm thu hút mọi người tuốn về hành hương cầu khấn đi tìm đến nguồn ơn cho những nhu cầu đang mong chờ khao khát.
Hang đá, dòng suối nước Đức Mẹ Lộ Đức là nơi chốn, nhịp cầu nối liền đời sống đức tin vào Thiên Chúa của anh chị em con người với nhau trong lòng Hội Thánh hoàn cầu.
„Tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ.“ ( Kh 7,9)
6. Những bệnh nhân
Nơi thánh địa Lộ Đức những bệnh nhân, những người tân tật được mang đưa đến hành hương. Từng đoàn người như một dòng nước chảy trên những chiếc xe đẩy khắp vùng trung tâm thánh địa. Hình ảnh một thánh địa Lộ Đức sẽ như thế nào, nếu không có những bệnh nhân, người tàn tật ?
Hằng năm hơn 60.000 người bệnh, người tàn tật từ khắp mọi nơi trên thế giới đến đây hành hương Lộ Đức. Nơi thánh địa Đức Mẹ Lộ Đức, họ cảm nhận thấy đây là bến bờ sự an ủi, sự an bình và tình yêu thương chiếu tỏa từ trời cao, cùng từ những con ngươi săn sóc họ, cho tâm hồn họ. Và có nhiều người được ơn chữa lành bệnh thể xác. Lộ Đức là nơi chốn của phép lạ siêu nhiên, nơi chốn sự chữa lành những vết thương đau khổ.
Càng ngày có nhìều người bệnh, người tàn tật đến hành hương, nên ở Lộ Đức có đội ngũ những người thiện nguyện làm công việc đưa đón săn sóc những bệnh nhân, như đẩy xe di chuyển đưa họn đến hang đá cầu nguyện, đưa dẫn họ đến hồ suối nước tắm.
Thánh địa Lộ Đức trở thành nơi chốn của dấu chỉ tình bác ái yêu thương và tha thứ làm hòa cho trái tim tâm hồn.
Chúa Giêsu nói : „Thầy bảo thật anh em, điều gì anh em làm cho một người bé mọn nhất trong anh em, là anh em làm cho chính Thầy.“ ( Ga 25, 40)
***************
Năm 1858 Đức Mẹ Maria hiện ra với Thánh nữ Benadette ở Lourdes. Đức Mẹ đã nói cho Benadette biết chính Đức mẹ là người không vướng mắc tội tổ tông truyền lại, và chỉ cho Bernadette cùng mọi người hãy đến dòng suối nước nơi chân núi mà tắm gội cùng lấy về uống dùng.
Từ ngày đó, các tín hữu khắp mọi nơi trên thế giới kéo đổ về Lourdes hành hương kính viếng Đức Mẹ cùng tắm trong dòng suối nước trong lành ơn thánh, kín múc đưa về uống với lòng thành kính tin tưởng được Thiên Chúa nhờ lời bầu cử của Đức mẹ, ban ơn cứu giúp. Và lòng thành kính của rất nhiều người luôn được Thiên Chúa nhậm lời.
Từ năm 1993 đức Giáo hoàng Gioan Phaolo II. đã lấy ngày 11.02 là ngày lễ kính Đức mẹ Lộ Đức là ngày cầu nguyện cho các bệnh nhân trên thế giới.
Lời nói về chính mình là người không vường mắc tội tổ tông và dòng suối nước Đức Mẹ ở Lourdes là hình ảnh chỉ dẫn giới thiệu cho con người về làn nước bí tích Rửa tội khỏi tội tổ tông truyền lại.
Đến với Đức Mẹ Lourdes là đến với nguồn ơn suối nước bí tích thanh tẩy cho được khỏi bóng tối tội lỗi đè nặng tâm hồn cũng như thân xác con người.
Lễ Đức Mẹ Lộ Đức, 11.02.2015
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Mẩu đối thoại về lễ Nến
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm vào ngày 02.02., Hội Thánh Công giáo mừng lễ đức mẹ Maria dâng hài nhi Giêsu vào đền thờ.
Ngày lễ mừng này không là ngày lễ trọng trong lịch Phụng vụ của Hội Thánh. Nhưng nơi các thánh đường đều được cử hành với những nghi thức phụng vụ trọng thể theo truyền thống xưa nay.
Người tín hữu Chúa Kitô mừng lễ với tâm tình đạo đức tin tưởng. Nhưng vẫn không ít người thắc mắc về ý nghĩa đạo đức thần học của ngày lễ, nhất là về truyền thống lễ nghi.
1. Một tâm hồn - MTH - đâu là nguồn gốc ngày lễ này, và tại sao lễ mừng này vào ngày 02.02. hằng năm ?
Phụng vụ - PV - lễ mừng đức mẹ Maria dâng con cho Thiên Chúa có nguồn gốc theo tục lệ của Maisen thời Cựu ước , như sách Levi 12,1-8 ghi chép. Người mẹ sau khi sinh con được 40 ngày - bảy ngày cộng với 33 ngày - mới mãn thời kỳ ở cữ, ở ẩn, được thanh tẩy, và lúc đó đem con dâng cho Thiên Chúa trong đền thờ.
Đức Mẹ Maria sinh Chúa Giêsu, theo lịch phụng vụ Hội Thánh, từ ngày 25.12. đến ngày 02.02 là 40 ngày. Vì thế lễ mừng, này theo luật Maisen, vào ngày này hằng năm.
2. MTH: Thủ tục người mẹ thanh tẩy và dâng con trong đền thờ diễn tiến như thế nào?
PV: Người mẹ sắm dọn đôi chim bồ câu còn non trẻ, hay một con cừu non làm lễ vật dâng cho Thiên Chúa trong đền thờ. Những lễ vật hiến tế này được trao cho vị Tư Tế lo việc tế tự thờ phượng Thiên Chúa.
3. MTH: Đức Mẹ Maria đã làm thủ tục lễ nghi này như thế nào?
PV: Thánh sử Luca - 2,21/40 - thuật lại đức mẹ Maria cũng giữ đúng như luật Maisen viết truyền lại để làm lễ thanh tẩy sau khi sinh con, và đem hài nhi Giêsu dâng trong đền thờ cho Thiên Chúa. Nhưng trong buổi lễ nghi thanh tẩy dâng Chúa Giêsu nơi đền thờ, lại trở thành cuộc hội ngộ gặp gỡ giữa hai thế hệ gìa và trẻ, Cựu ước và tân Ước.
4. MTH: Cuộc hội ngộ gặp gỡ đó xảy ra như thế nào?
PV: Hai nhân vật đại diện cho thế hệ người gìa của thời Cựu ước là Ngôn sứ Simeon và Hanna. Hai vị này là những người công chính, có lòng đạo đức hằng mong đợi ơn cứu chuộc cho dân của Chúa. Họ đã đến đền thờ Giêrusalem vào đúng lúc đức mẹ Maria bồng hài nhi Giesu, thế hệ trẻ của thời Tân ước, đến.
Hai vị Ngôn sứ đã cảm động xin được bồng ẵm hài nhi Giêsu trên tay mình và nghẹn ngào nói lời ca tụng Thiên Chúa, vì có hạnh phúc được tận mắt nhìn thấy Đấng cứu độ, người mở ra thời Tân Ứơc cho con người.
„ Muôn lạy Chúa giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin cho tôi tớ này được ra đi bình an. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel dân Ngài.“
5. MTH: Ngày nay trong Hội Thánh Công giáo có còn lễ nghi thanh tẩy dâng con trong thánh đường không?
PV: Không , không có lễ nghi như vậy nữa. Nhưng các trẻ sơ sinh, tùy theo sức khoẻ của người mẹ và em bé, sẽ được lãnh nhận Bí Tích rửa tội ở trong thánh đường.
Bí tích rửa tội là dấu chỉ sự thanh tẩy khỏi tội nguyên tổ. Qua làn nước Bí Tích rửa tội, người tín hữu Chúa Kito cùng chết với Chúa Kito và cùng được sống lại với Người.
Bí tích rửa tội là Bí tích khởi đầu để tiếp nhận những Bí tích khác trong Hội Thánh Chúa Giêsu Kito ở trần gian. Bí tích này có khác chi „tấm thẻ căn cước“ người công dân trong hội Thánh Công giáo.
6. MTH: Tại sao ngày lễ đức mẹ dâng hài nhi Giêsu vào đền thờbây giờ lại có lễ nghi làm phép nến đèn cầy?
PV: Thuở xa xưa người Roma theo tập tục lễ nghi thờ kính thần thánh của họ, có lễ nghi rước kiệu ánh sáng đền tội kính thờ các vị thần thánh. Lễ nghi đền tội này được cử hành mỗi năm năm một lần. Khi đạo Công giáo truyền sang Roma, Hội Thánh đã tiếp nhận - gọi nôm na là rửa tội cho tập tục này - biến thành tập tục với nghi lễ làm phép nến và rước kiệu nến. Vì thế lễ này được gọi bằng tên lễ ánh sáng
Do đó vào ngày lễ mừng này có lễ nghi làm phép nến và rước kiệu nến trong thánh đường. Qua đó muốn tuyên xưng Chúa Giêsu là ánh sáng, như lời Ngôn sứ Simeon đã ca ngợi nói hài nhi Giesu là ánh sáng cho muôn dân.
7. MTH: Lễ nghi dâng Chúa Giêsu vào đền thờ và rước kiệu nến có từ khi nào ?
PV: Theo sử sách còn lưu lại, lễ đức mẹ dâng chúa Giêsu vào đền thờ có từ thế kỷ thứ 5. bên Gierusalem, và từ thế kỷ thứ 7. được đưa sang mừng ở Roma.
8: MTH: Tại sao chúc tụng Chúa Giêsu là ánh sáng?
PV: Chúc tụng Chúa Giêsu là ánh sáng, không phải nói Ngài là ánh sáng đèn diện, đền ô tô như ở ngoài đường, trong nhà . Nhưng muốn nói đến Ngài ánh sáng sức mạnh thiêng liêng cho tâm hồn con người.
Trong đời sống con người chúng ta cần ánh sáng. Vì thế ngay từ thuở nguyên thủy, Thiên Chúa đã tạo dựng ánh sáng đầu tiên làm nền tảng cho sự sống trong vũ trụ.
Ánh sáng soi đường chỉ lối tìm hướng đi. Không có ánh sáng con người mất phương hướng chỉ đường. Vì thế, ban đêm hay trong vùng dưới hầm sâu trong hang núi, con người cần có ánh sáng soi đường dẫn lối. Người bị mù lòa không nhìn thấy ánh sáng rất đau khổ và tủi hổ. Vì họ hoàn toàn sống vùng trong bóng tối đen mù mịt, không biết sự gì đang diễn tiến xảy ra chung quanh mình, và khi đi chỉ còn lần mò không biết đâu là đường thẳng trước mặt, hay bên trái bên phải.
Ánh sáng chiếu dọi tới khơi dậy sức sống niềm hy vọng cho tâm hồn đời sống con người. Chúa Giêsu khi thấy người mùa lòa từ thuở mới sinh ngồi ăn xin bên vệ đường. Ngài động lòng thương cảm chữa cho anh khỏi mù, mắt anh được mở ra nhìn thấy ánh sáng. Ánh sáng tràn vào thân thể vào trái tim tâm hồn anh.
Chúa Giêsu đã mang lại ánh sáng cho đời anh. Sức sống niềm hy vọng bừng đậy nơi anh. Ga 9,1-38.
Chúa Giêsu trên đường rao giảng nước Thiên Chúa đã khẳng định „ chính Ngài là ánh sáng cho trần gian.“ Qua đó Ngài muốn nói: Từ trời cao là Con Thiên Chúa, ngài xuống trần gian làm người mang ánh sáng tình yêu ơn cứu độ cho con người được ra khỏi vùng bóng tối tội lỗi hình phạt sự chết cho linh hồn con người vì tội tổ tông. Với Ngài ánh sáng của Thiên Chúa đi vào trần gian.
Ánh sáng mang lại sự sống. Với ánh sáng của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu, sự sống ơn cứu chuộc cho con người trên nước Thiên Chúa được phục hồi bừng lên.
Ca tụng Chúa Giêsu là ánh sáng còn trong ý nghĩa niềm tin tưởng: „ Lời Chúa là ngọn đèn soi cho bước, là ánh sáng chì đường con đi“ Tv 119, 105.
Lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu vào đền thờ.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hãy theo Thầy.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Lời mời gọi: Hãy theo tôi, theo hướng thẳng trước mặt, hay theo hướng rẽ sang phía bên trái hoặc phải…chúng ta thường nghe khi được chỉ dẫn tìm đường đi đến đích điểm nào.
Lời mời gọi : Hãy theo người nọ, người kia, theo giáo huấn này, hay theo lý thuyết kia…cũng được nói đến nhiều. Nhưng sức lôi cuốn không mạnh. Vì người nghe có tự do suy nghĩ, cân nhắc lựa chọn trước khi đi theo.
Khi còn nhỏ thơ bé trẻ tuổi, con cái nghe theo lời đi theo cha mẹ gọi: Hãy theo cha, theo mẹ. Chúng liền bám đi theo ngay.
Lớn lên thành người trưởng thành đi vào trường đời sống, con người có nhu cầu được tự do cân nhắc lựa chọn đối tượng mình theo.
Cho nhu cầu đời sống, hai bạn trẻ đáp lại tiếng gọi của tình yêu của nhau - người phụ nữ nói với người thanh niên: Hãy theo em. Người thanh niên nói với người phụ nữ: Hãy theo anh. Họ bỏ mọi sự lại đàng sau và đi theo sống chung với nhau. Từ nhu cầu căn bản đó, họ không chỉ lập một tổ ấm gia đình riêng với nhau, nhưng họ cùng nhau làm bài toán nhân cho đời sống xã hội dần lớn thêm ra.
Chúa Giêsu khi ra rao giảng nước Thiên Chúa cũng đi kêu gọi các cộng sự viên. Gặp được người cộng tác tốt theo ý muốn, Ngài gọi mời họ: „ Hãy theo Thầy. Thầy sẽ làm cho anh em thành những kẻ lưới người như đi lưới cá“.
Lời mời gọi thật đơn giản, không có điều kiện gì. Nhưng lại có sức mạnh thu hút thuyết phục, và họ đi theo Ngài. Trên căn bản đó, tin mừng của Chúa được rao giảng lan tỏa rộng rãi khắp mọi nơi, vào mọi thời đại.
Lời kêu gọi của Chúa Giêsu ngày xưa nói với các môn đệ cộng sự viên đầu tiên cũng vẫn hằng được nói với mọi người trong Hội Thánh Chúa Kitô: Hãy theo Thầy.
Có những người nghe theo tiếng gọi của Chúa chọn bậc sống gia đình. Nơi khung cảnh gia đình, sự sống do Thiên Chúa ban cho được lan truyền nhân giống thêm ra. Cũng nơi khung cảnh gia đình, tin mừng tình yêu, nếp sống tình liên đới giữa vợ chồng, giữa cha mẹ con cái, giữa anh chị em họ hàng, được chăm sóc sống động.
Có những người, một số ít thôi, nghe theo tiếng mời gọi của Chúa: Hãy theo Thầy, chọn theo nếp sống đời tu trì tận hiến trong khung cảnh nhà Dòng, chủng viện giáo phận. Họ là những người làm việc trực tiếp trong khu vườn Hội Thánh Chúa ở giữa lòng xã hội con người. Họ là những cộng sự viên, từ bỏ tất cả sống dấn thân cả đời chỉ cho việc làm chứng rao giảng Tin mừng của Chúa giữa con người.
Khung cảnh đời sống xã hội vào mỗi thời đại có những biến chuyển cùng nhu cầu khác nhau. Vì thế tiếng kêu gọi của Chúa: Hãy theo Thầy, có âm vang giai điệu khác.
Đức hồng Y Luis Antonio Gokim Tagle trong bài diễn văn cám ơn từ biệt Đức Thánh Cha đã nói lên âm vang giai điệu lời mời gọi: Hãy theo Thầy, cho hợp với khung cảnh đời sống xã hội ngày hôm nay.
„Đức thánh Cha đến Phi Luật Tân cách đây ba ngày. Ngày mai Đức thánh Cha sẽ ra đi. Mọi người Phi Luật Tân cũng muốn đi theo Đức thánh Cha - không phải đến Rome - nhưng là đến những vùng ngoại vi, đến những khu ổ chuột, những nhà tù, bệnh viện, đến tới thế giới chính trị, tài chính, nghệ thuật, khoa học, văn hóa, giáo dục và truyền thông xã hội. Chúng con sẽ đi đến thế giới để mang tới ánh sáng của Chúa Giêsu, Chúa Giêsu là trung tâm của chuyến thăm mục vụ của ĐTC và là nền tảng của Giáo Hội. Chúng Con sẽ đi tới những nơi mà ánh sáng của Chúa Giê-su đang cần thiết ở đó. (Manila,18.01.2015.).
Ngày xưa, cách đây ba hay bốn trăm năm, các Vị Thừa Sai từ bên Âu châu nghe theo tiấng gọi: Hãy theo Thầy, đi làm việc truyền giáo rao giảng tin mừng đức tin vào Chúa cho các dân tộc bên Á Châu, bên Phi Châu. Họ đến với những người chưa biết đến Tin mừng của Chúa.
Trong xã hội Âu châu văn minh ngày nay hầu như về mọi phương diện, đời sống đức tin, sinh hoạt nơi xứ đạo ngày dần nhỏ hẹp ít đi. Vì càng ngày ít người trẻ đi, ít người lui tới tham dự các Bí Tích ở thánh đường, ơn Gọi linh mục tu sỹ giảm thiểu ít đi. Vì thế, việc loan truyền nối lửa đức tin vào Chúa cho đời, cho thế hệ người trẻ, không còn như ngày trước có linh mục tu sỹ ở thánh đường, nhưng do chính những cha mẹ, người giáo dân phải dần dần đảm trách.
Nghe theo tiếng gọi: Hãy theo Thầy, ra đi làm việc rao truyền tin mừng của Chúa hôm nay nơi đời sống xã hội Âu châu không chỉ là đến với người chưa biết Chúa. Nhưng là làm sao cho đời sống đức tin sống động hấp dẫn con người, cùng củng cố đức tin nơi người đã biết Chúa, mà họ đang thờ ơ hay hồ nghi đức tin vào Chúa, Đấng là nguồn gốc cùng ánh sáng cho đời sống con người.
Điều này Đức Thánh giáo hoàng Gioan Phaolo đệ nhị đã cổ vũ là việc „ tái truyền giáo“ .
Đó cũng là một âm vang giai điệu mới của lời mời gọi: Hãy theo Thầy.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hãy can đảm lên. Đừng sợ than khóc.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong đời sống khi thấy một em bé khóc, ai cũng động lòng thương cảm, và tìm cách nói an ủi dỗ cho em đừng khóc nữa. Vì tiếng khóc cùng với dòng nước tuôn chảy từ khoé mắt, trên hai gò má của em bé tạo nên hình ảnh thật thương tâm buồn thảm: tại sao em bé lại phải như vậy?
Nhiều người đã chứng kiến, hay chính bản thân đã trải qua sự khốn khó đau buồn trong đời sống, đến nỗi họ than khóc kêu la thành tiếng, và cũng có khi không sao khóc ra thành tiếng được mà chỉ có dòng nước mắt tuôn chảy ra thôi.
Trong những đám tang tiễn đưa người qúa cố, sự đau buồn u ám bao phủ mọi người. Có những người thân yêu ruột thịt khóc thành tiếng. Nhưng cũng có người cố cầm lòng không để cho tiếng khóc bật ra thành tiếng. Họ chỉ ngậm ngùi ủ rũ, để cho dòng nước mắt lăn chảy trên khoé mắt, gò má.
Khóc than là sự tự nhiên trong đời sống con người. Tiếng khóc là một ngôn ngữ diễn tả tình cảm đau buồn thất vọng, lo âu hoài nghi, sự giận dữ và cũng có thể sự vui mừng nữa.
Trong Kinh Thánh nói nhiều đến sự than khóc:
„ Đi cho khuất, hỡi người làm điều gian ác. Vì Chúa đã nghe tiếng than khóc của ta rồi. ( Tv 6,9)
„Bước đường con lận đận, chính Ngài đã đếm rồi. Xin lấy hũ vò mà đựng nước mắt con. Nào Ngài đã chẳng ghi tất cả vào sổ sách?“ (Tv 56, 9.)
„ Chúng trở về nước mắt tuôn rơi, Ta sẻ an ủi và dẫn đưa chúng tới dòng nước, qua con đường thẳng… (Gieremia 31,9.)
„ Trên núi này , Người sẽ xé bỏ chiếc khăn tang che phủ mọi dân, và tấm màn trên muôn nước. Người sẽ tiếu diệt mọi tử thần. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ lau khô dòng nước mắt trên khuôn mặt mọi người. Isaia .“ ( 25, 8)
Ông Thánh Phero khóc lóc thảm thiết ăn năn hối lỗi, vì đã phạm tội chối thầy mình, Chúa Giêsu ba lần. (Mt 25,75)
Đức thánh Cha Phanxico trong bài giảng ở Phi luật tân hôm 17.01.2015 đã chứng kiến một em bé gái khóc thảm thiết thương tâm, khi em đặt câu hỏi tâm sự với ngài về hoàn cảnh đời sống đau khổ của em. Và Ngài đã ca ngợi em, đề cao sự than khóc là ngôn ngữ của tấm lòng chân thành:
„ Hỡi những em gái, em trai, giới trẻ thân mến, trong thế giới ngày nay rất thiếu thốn khả năng biết khóc. Thành phần sống bên lề xã hội khóc. Những người bị loại trừ khóc. Những ai bị sa thải khóc. Có một số thực tại trong đời sống chúng ta chỉ có thể nhìn bằng cặp mắt được thanh sạch bằng nước mắt của chúng ta.
Tôi mời gọi từng người trong các bạn ở đây hãy tự hỏi mình rằng tôi đã biết khóc thương hay chưa, biết khóc than hay chưa? [Khi tôi thấy một con trẻ đói khổ, một con trẻ nghiện hút trên hè phố, một con trẻ vô gia cư, một con trẻ bị bỏ rơi, một con trẻ bị lạm dụng, một con trẻ bị xã hội lợi dụng làm nô lệ?]
Tiếc thay, lại có nhiều người khóc than vì họ muốn một điều gì hơn nữa. Đó là những gì tôi muốn nói trước hết. Chúng ta hãy biết khóc thương, như em [Glyzelle Palomar] đã tỏ ra cho chúng ta thấy hôm nay. Chúng ta đừng quên bài học này.
Câu hỏi quan trọng về lý do tại sao có quá nhiều trẻ em phải chịu đựng khổ đau, em đã khóc than đặt vấn đề. Và câu trả lời quan trọng chúng ta có thể đáp lại hôm nay đó là chúng ta làm sao để có thể biết, thực sự biết khóc thương, biết khóc than.
Chúa Giêsu trong Phúc Âm đã khóc. Ngài đã khóc người bạn qua đời. Người đã khóc trong lòng của Người cho gia đình mất đứa con gái của họ. Người đã khóc khi thấy người phụ nữ góa đem người con trai của bà đi chôn táng. Và Người đã động lòng đến chảy nước mắt, đã cảm thương khi thấy đoàn lũ dân chúng không có chủ chiên. Nếu các bạn không biết khóc các bạn không thể trở thành Kitô hữu tốt lành.
Đây là một thách đố, hai em Jun và Glyzelle đã đặt thách thức này cho chúng ta hôm nay. Và khi các em đặt câu hỏi này với chúng ta, tại sao trẻ em lại chịu khổ đau, tại sao tai ương này hay hoạn nạn kia lại xẩy ra trong đời sống, câu trả lời của chúng ta cần phải một là thinh lặng hai là một thứ ngôn từ xuất phát từ các giọt lệ của chúng ta. Hãy can đảm. Đừng sợ khóc than. „
Vua David khi hay tin Absalom con mình đã qua đời, Ông đã can đảm than khóc lớn tiếng:“ Absalom con ơi, Absalom con ơi. Phải chi cha chết thay cho con. Absalom con ơi.“ (1 Sách Các Vua , 19,1.)
Ngôn ngữ than khóc cùng dòng nước mắt không là khía cạnh yếu kém tiêu cực. Nhưng là điểm mạnh và tự nhiên của đời sống con người.
Con người chúng ta luôn cần can đảm dùng đến ngôn ngữ than khóc dòng nước mắt nói lên tâm tình của lòng mình với Thiên Chúa và với những con người khác.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
„Lạy Chúa này con đây.“
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ngày xưa Ngôn sứ trẻ tuổi Samuel khi nghe tiếng Chúa gọi trong tâm hồn đã thưa lại: „ Lạy Chúa này con đây“.
Ngày một em bé mở mắt chào đời, em bật tiếng khóc đòi mẹ. Tiếng khóc của em cũng là lời: “ Lạy Chúa này con đây. Con vừa ra khỏi cung lòng mẹ con. Hai bàn tay con đang nắm chặt đi vào giữa lòng đời sống trong công trình tạo dựng của Chúa cùng với mọi người. Con hoàn toàn chưa biết gì hết. Nhưng xin Chúa chúc lành cho tuổi thơ bé của con, và cho cha mẹ con sống khoẻ mạnh.“
Khi lớn lên đi vào đời
Ngày hai bạn trẻ quen biết nhau rồi đi đến thỏa thuận muốn cùng nhau lập mái ấm gia đình chung cho đời mình. Họ trao cho nhau lời ưng thuận nhận nhau làm vợ chồng, cùng trao cho nhau chiếc nhẫn tình yêu là dấu chỉ bằng chứng lòng chung thủy với nhau. Họ cùng nhau cầu nguyện và cũng nói lên tâm tình “ Lạy Chúa, này chúng con đây. Chúng con vừa kết hợp với nhau thành vợ chồng. Chúng con vui mừng hân hoan, nhưng chúng con cũng chưa biết rồi sẽ như thế nào. Xin Chúa chúc lành cho gia đình mới của chúng con .“
Ngày cha mẹ nhận được tin vui mừng có con đang thành hình trong cung lòng người mẹ. Họ vui mừng cám ơn nhau. Nhưng họ cũng không quên tạ ơn Thiên Chúa, Đấng dựng nên đời sống con của họ. Họ cũng nói lên tâm tình: „ Lạy Chúa, bào thai con chúng con đây đang thành hình trong cung lòng người mẹ, mà Chúa ban cho gia đình chúng con, xin cám tạ ơn Chúa, Xin Chúa ban ân đức cho em bé được phát triển thành hình sự sống trở nên một con người khoẻ mạnh.“
Ngày Bạn trẻ nghe tiếng Chúa gọi chấp nhận cuộc sống tu trì vào nhà Dòng, hay vào chủng viện giáo phận, họ cũng nói với Chúa: „ Lạy Chúa, này con đây. Con nghe tiếng Chúa gọi con, con đi theo. Nhưng con không biết sẽ ra sao. Xin Chúa cứ nói điều Chúa muốn con phải sống, phải làm gì. Con lắng nghe Chúa nói. Con luôn cần có Chúa cùng đồng hành chỉ dẫn trên con đường đời sống.“
Rồi khi tuổi đời nhiều thêm, lúc sức khoẻ thể xác cũng như trí khôn tinh thần đạt tới mức cao điểm, và từ từ suy giảm đi xuống, con người cảm nhận càng rõ hơn giới hạn của mình. Trong những khoảnh khắc suy nghĩ tư lự, họ nói lên tâm tình của mình: „Lạy Chúa, này con đây. Chúa đã tác thành sinh ra con ra sống ở đời. Bây giờ sức lực con đã đến giai đoạn không sao phát triển lớn hơn được nữa. Nhưng trái lại càng ít đi, và yếu kém dần. Xin Chúa nâng đỡ con.“
Những khi đời sống gặp giai đoạn gian khốn khó, tinh thần lẫn thân xác mỏi mệt như chùng xuống, chúng ta cũng nói:“ Lạy Chúa, này con đây. Con đang trong lúc khủng hoảng mệt mỏi muốn buông xuôi tất cả. Con muốn lắng nghe Chúa nói cho tinh thần , tâm trí con được mạnh sức bừng dậy vươn lên.“
Mỗi khi hồi tâm nhìn lại đời sống như để xét mình, ta cảm nhận mình có nhiều lỗi lầm làm mất lòng Chúa và tha nhân, nhiều thiếu sót sao lãng việc bổn phận, tâm tình ăn năn hối lỗi trỗi dậy trong tâm trí muốn sửa chuộc lại lỗi lầm đã vấp phạm ta cũng nói : „ Lạy Chúa này con đây. Con đến trước Chúa với những nặng nề của khiếm khuyết lỗi lầm. Những tội lỗi đè nặng tâm hồn con. Con xin Chúa nói lời tha thứ cho con được sống lại.“
Khi nghe tin hung dữ chiến tranh, chết chóc, nghèo đói, bệnh dịch hoành hành gây đau khổ cho con người trên thế giới, là con người ai cũng động lòng thương tâm. Nhưng không biết làm sao được. Chúng ta cũng ngước mắt hướng lên trời cao chắp đôi tay nói lên tâm tình:“ Lạy Chúa, này con người, loài thụ tạo của Chúa đây đang trong cơn nguy hiểm khốn khó đau khổ. Xin Chúa hãy phán như xưa Chúa đã phán: Hãy có! Và thế giới liền có được bình an. Vì tin rằng với Chúa không có sự gì là không có thể.“ .
Khi gia đình gặp sự phiền muộn lo âu, người mẹ thường chạy đến bàn thờ đốt thắp cây nến nguyện cầu và thưa cùng Chúa: Lạy Chúa, này gia đình con đây. Chúng con đang trong cảnh túng quẫn khó khăn, đau khổ chồng chất. Xin Chúa giúp gia đình con vượt qua cơn khốn khó.“
Và lúc chiều tối khi lên giường ngủ, ta cũng làm Dấu Thánh gía và nói lên tâm tình: „ Lạy Chúa, này con đây. Một ngày đã qua, con chỉ biết cố gắng sống làm việc như bổn phận trách nhiệm Chúa trao cho. Con là người đầy tớ vô dụng. Xin Chúa tha thứ và chúc lành cho con ngủ bình yên.“
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Mẩu đối thoại về lời Halleluja!
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Cha Mẹ của bé Chi hát trong ca đoàn nhà thờ. Thỉnh thoảng ở nhà, ông bà lại hát bài có câu Halleluja. Nghe cha mẹ hát sao hay qúa, nhưng chẳng hiểu biết Halleluja là gì. Bé hỏi mẹ về ý nghĩa của Halleluja.
Mẹ nói: Halleluja có nghĩa, Lạy Thiên Chúa tình yêu, chúng con vui mừng ca ngợi tôn thờ Chúa! Và lời Halleluja thường được hát trong các bài thánh ca ở nhà thờ!
Bé Chi: Thế những người khác khi nghe chữ Halleluja có hiểu như thế không?
Người cha chen vào: Ba nghĩ là có, chứ sao không!
Người mẹ nói thêm vào: Không phải ở bên Âu châu người ta mới hiểu chữ Halleluja như thế. Nhưng cả những người bên Á châu, bên Phi châu, bên Mỹ châu, bên Úc châu cũng đều hiểu như thế cả.
Bé Chi: Hay qúa, chữ Halleluja là từ ngữ đẹp, ai cũng hiểu được. Thế có thể dùng chữ đó làm lời chào hỏi được không?
Người cha: Ðẹp và hay thì đúng rồi. Nhưng dùng để chào hỏi, thì ba chưa nghe thấy bao giờ!
Người mẹ: Có chứ sao không! Mùa phục sinh ở nhà thờ, linh mục thường nói câu Halleluja như lời chào ở cuối thánh lễ đó. Bố con ông không nghe thấy sao?
Bé Chi: Và cả trước khi ông cha đọc bài gì đó khó hiểu, cả nhà thờ cũng hát bài có hai ba lần chữ Halleluja nữa mà. Nghe thấy vui vui!
Người mẹ: Thế ở nhà trẻ, cô giáo có tập cho chúng con bài hát có chữ Halleluja không?
Bé Chi: Có, nhưng cô không nói Halleluja là gì và hát để làm gì!
Người cha: Cách đây hai năm, đi hành hương chung sang Ðức Mẹ Međugory. Mẹ con bé Chi ở nhà không đi được. Vào buổi chiều tối sau thánh lễ, một nhóm bạn trẻ từ nhiều nước khác nhau tụ tập đàn hát cuối thánh đường. Thấy vui nhộn, tò mò mấy người chúng tôi đi đến nhập cuộc cùng ca hát.
Mọi người cười nói vui vẻ. Nhưng ngôn ngữ khác nhau. Thành ra chẳng làm sao hiểu đề nghị của nhau hát hay nói cái gì. Một bạn trẻ, tôi nhớ hình như là người Labanon liền cất hát câu đầu có chữ Halleluja lên. Thế là mọi người cùng cất tiếng hát theo bài Halleluja của Taizé. Lúc đó không khí trở nên sống động lạ thường. Và cũng nhờ đó, những người khác ở chung quanh cùng kéo lại nhập cuộc hát theo.
Tan cuộc, một bạn trẻ đến bắt tay chào biệt chúng tôi và chỉ nói Halleluja, đang khi trên môi miệng nở nụcười thân ái hạnh phúc! Và ai cũng hiểu anh muốn nói điều gì! Thật tuyệt!
Bé Chi: Thế hát có một bài Halleluja đó thôi sao?
Người cha: Bài hát đó có nhiều câu và được dịch viết ra bằng nhiều thứ tiếng. Những bạn trẻ họ hát theo ngôn ngữ nước họ. Ðến phần điệp hhúc câu Halleluja, mọi người hát chung chữ đó thôi. Ai cũng thuộc chữ Halleluja và nhạc điệu cả cùng vỗ tay theo.
Người mẹ: Cũng cách đây ba năm Hội Hiền mẫu chúng tôi đi hành hương sang chỗ Thánh Phanxico thành Assi bên Ý. Bữa cơm chiều hôm đó ở nhà ăn lớn cho khách hành hương. Một nhóm nhỏ hành hương người tây ban Nha đọc kinh hát một bài trước khi ăn cơm. Lại một nhóm khác người Balan cũng đọc kinh hát một bài nữa...Thấy vậy nhóm chúng tôi chỉ làm dấu Thánh gía và cất hát bài Halleluja của Taizé lên. Thế là mọi người trong nhà ăn hôm đó cùng hát theo to tiếng vang dội khắp phòng ăn to lớn chứa hàng trăm người.
Hát xong họ còn vỗ tay, huýt sáo cười nói vui vẻ. Rồi còn chúc nhau bằng đủ mọi thứ tiếng „ăn ngon“ nữa!
Bé Chi: Ba còn bài hát nào có chữ Halleluja nghe vui vui nữa không?
Người cha: Có chứ, ba có đĩa nhạc bài Halleluja của Händel hay tuyệt, và rất hợp với không khí mùa mừng lễ Chúa giáng sinh và lễ Chúa Giêsu sống lại!
Người mẹ: Nghe đĩa CD thì hay đã đành hay rồi. Nhưng nếu cùng hát theo được với ca đoàn trong thánh đường nữa thì còn hay hơn nữa!
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long