Muối cho trần gian
- Viết bởi Dân Chúa
Muối là chất vị mặn, được dùng làm chất gia vị nêm nếm cho thực phẩm ăn uống dậy mùi thơm ngon đậm đà.
Muối khai thác từ quặng mỏ muối thiên nhiên ngầm dưới lòng đất, hay khai thác lấy từ nước biển đã bốc hơi.
Muối cần thiết cho thực phẩm được gìn giữ tươi tốt không bị ươn thối. Muối cũng còn được dùng trong y khoa pha vào dung dịch rửa vết thương khử trùng.
Vậy muối có ảnh hưởng gì trong nếp sống đức tin đạo giáo không?
Trong kinh thánh cựu ước từ thời xa xưa muối đóng vai trò quan trọng trong việc dâng lễ vật thờ phượng Giave Thiên Chúa:
„(Các) ngươi phải bỏ muối vào mọi lễ phẩm (các) ngươi dâng tiến; (các) ngươi không được để lễ phẩm (các) ngươi thiếu muối của giao ước của Thiên Chúa (các) ngươi; (các) ngươi phải dâng muối cùng với mọi lễ tiến của (các) ngươi.“ ( Sách Levi 2, 13)
Muối pha trộn vào hương tiến dâng lễ tế Giave làm cho trở nên hương thơm thánh thiêng bài trừ chống lại sự ươn thối:
„ Ngươi sẽ lấy các thứ hương chất đó chế thành hương để đốt: hợp chất các hương này sẽ là sản phẩm của thợ làm hương; hương đó sẽ là hương pha muối, nguyên chất, và là hương thánh.“ ( Xuất hành 30, 35)
Chúa Giêsu đi rao giảng nước Thiên Chúa đã đưa ra phương hướng cho đời sống đạo giáo tinh thần: „ Anh em là muối cho trần gian.“ ( Mt 5,13)
Là muối cho trần gian Chúa Giêsu muốn nói : Anh em hãy gieo vãi tin mừng sứ điệp tám mối phúc thật như đem muối rắc trộn vào thực phẩm thức ăn trong nếp sống ở trần gian.
Theo lời mời gọi đó, xưa nay biết bao nhiêu tâm hồn đã quảng đại hy sinh dấn thân vào công việc bác ái tình yêu thương cho con người.
Họ là những người bỏ tất cả lại sau lưng dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa, cho con người. Họ là những vị thừa sai đi rao giảng làm chứng cho tình yêu nước Thiên Chúa ở những vùng chân trời đất nước xa lạ. Như các vị thừa sai linh mục tu sĩ nam nữ ngày xưa và ngay cả bây giờ từ bên Âu châu sang Phi châu, sang Á châu, Nam Mỹ cùng chung sống mang niềm vui sự an ủi sự trợ giúp cho con người xã hội nơi đó.
Muối ngày xưa được dùng rắc trộn vào thịt cá để cho thịt cá không bị ươn thối, giữ cho được tươi lâu hơn. Cũng vậy sứ điệp tám mối phúc thật của Chúa có hương vị tốt mang lại niềm vui phấn khởi giúp đổi mới tâm hồn con người, khi được loan báo có chất muối mặn mà rắc trộn vào.
Đó ngôn ngữ văn hóa, là công việc đượm thấm nhuần tình yêu thương bác ái giúp cho con người hiểu được và cảm nhận được sứ điệp nói về cuộc sống của họ.
Trong tình trạng bệnh dịch xưa nay hoành hành lan tràn đe dọa sức khoẻ cùng sự sống con người khắp nơi trên thế giới, những nhà khoa học nỗ lực sáng chế tìm phương thuốc chữa trị cho người bị mắc bệnh, những bác sĩ, y tá, những người chăm sóc an ủi những bệnh nhân bị bệnh dịch… dấn thân cho công việc bác ái cứu người cứu đời đang làm công việc là muối cho trần gian.
Những trợ giúp nhân đạo cùng chung tay giúp đỡ nhằm ngăn cản chống lại sự lây lan truyền nhiễm bệnh dịch giữa các đất nước quốc gia với nhau, của các hội từ thiện bác ái là chất muối cho trần gian.
Thánh Rochus ngày xưa khi đi hành hương biết có bệnh dịch đang lan tràn hoành hành bên Âu Châu, ông đã không quản ngại hy sinh dấn thân ra tay cứu giúp những người bệnh trên đường ông gặp gỡ. Ông đã làm công việc là chất muối mặn mang đến cho đời sống con người có được niềm cảm thương an ủi.
Và vì thế ngài được kính trọng yêu mến, và được tôn phong là vị Thánh quan thầy của những người bị bệnh dịch.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Dâng con cho Thiên Chúa
- Viết bởi Dân Chúa
Hằng năm vào ngày 2. Tháng hai, Giáo hội Công giáo mừng lễ cha mẹ hài nhi Giêsu dâng con mình vào đền thờ cho Thiên Chúa.
Tập tục đạo đức này có từ thời Tiên tri Mose, như lề luật quy định:m"Vậy khi ĐỨC CHÚA đã đưa ngươi vào đất Ca-na-an như Người đã thề với ngươi và cha ông của ngươi, và khi Người đã ban đất ấy cho ngươi,12 thì ngươi phải nhượng lại cho ĐỨC CHÚA mọi con đầu lòng của loài người và mọi con đầu lòng của loài vật trong đàn vật của ngươi: các con đực thuộc về ĐỨC CHÚA.13 Mọi con đầu lòng của giống lừa, ngươi sẽ lấy một con chiên mà chuộc lại; nếu ngươi không chuộc lại, thì đánh gãy ót nó đi. Còn mọi con đầu lòng của loài người trong số con cái ngươi, thì ngươi sẽ chuộc lại.14 Vậy mai ngày con của ngươi có hỏi: "Điều đó nghĩa là gì? Thì ngươi sẽ nói với nó: "ĐỨC CHÚA đã dùng cánh tay mạnh mẽ của Người mà đưa chúng ta ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ.15 Bởi vì Pha-ra-ô làm khó dễ khi phải thả chúng ta ra, nên ĐỨC CHÚA đã sát hại mọi con đầu lòng trong đất Ai-cập, từ con đầu lòng của loài người cho đến con đầu lòng của loài vật, vì thế mà cha tế dâng ĐỨC CHÚA mọi con so giống đực; còn con đầu lòng trong số con cái cha, thì cha chuộc lại.16 Đó sẽ là dấu ở tay ngươi, và là phù hiệu trên trán ngươi, vì ĐỨC CHÚA đã dùng cánh tay mạnh mẽ mà đưa chúng ta ra khỏi Ai-cập.“ ( Xuất hành 13,11-16), và nơi : Sách Levi 12,1-8, Sách ngôn sứ Isaia 8,14-42,6.
Là tín hữu Do Thái giáo cùng công dân Do Thái, cha mẹ hài nhi Giêsu cũng tuân giữ luật này như luật ấn định 40 ngày sau khi sinh cha mẹ dâng con mình cùng với lễ vật lên Thiên Chúa để người mẹ được thanh tẩy. ( Lc 2, 22-24).
Bên Giáo hội Công giáo Roma có lễ mừng đức mẹ dâng Chúa Giêsu vào đền thờ ngày 2. tháng Hai từ năm 650. Vì lễ mừng Chúa giáng sinh xuống trần gian vào ngày 25. Tháng Mười Hai, theo như sách luật thời Mose ấn định 40 ngày sau khi sinh con.
Từ thế kỷ 11. có nghi thức làm phép nến và rước kiệu nến thắp sáng trong lễ này. Vì thế lễ này còn có tên là lễ Nến. Theo như phúc âm thánh Luca viết thuật lại, hai vị ngôn sứ lão thành Simeon và Hanna, đã gặp gỡ hài nhi Giêsu lúc cha mẹ đem con họ vào đền thờ dâng con cùng của lễ, đã nói ca tụng Hài nhi Giêsu là ánh sáng muôn dân :
“Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa,xin để tôi tớ này được an bình ra đi.Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ, Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài.“ ( Lc 2,29-32)
Từ năm 1997 ngày lễ Đức mẹ dâng con vào đền thờ hay còn gọi là lễ Nến dưới thời đức giáo hoàng Phaol II. còn được gọi là ngày Thánh hiến sự sống.
Bí tích rửa tội cha mẹ xin cho con em mình lãnh nhận không phải là nghi lễ dâng con như sách luật Mose ấn định, nhưng là nghi lễ gia nhập vào Hội Thánh Chúa Kitô ở trần gian. Và qua đó mầm hạt giống đức tin vào Thiên Chúa ghi dấu trong tâm hồn em bé.
Trong bí tích rửa tội em bé không chỉ nhận lãnh làn nước bí tích rửa tội và được xức dầu thánh hiến, nhưng cây nến rửa tội của em còn được thắp sáng từ ngọn lửa cây nến Chúa Giêsu Phục sinh cho đời sống đức tin của em trong mọi giai đoạn đường đời.
Đời sống em được chúc lành thánh hiến cho Thiên Chúa, Đấng là nguồn sự sống từ lúc khởi đầu cho tới tận cùng, và cha mẹ em cũng được cùng chúc lành trong ngày vui mừng thánh đức.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong cơn bệnh dịch
- Viết bởi Lm. Daminh nguyễn Ngọc Long.
Xưa nay trong dòng lịch sử nhân loại luôn có những làn sóng bệnh dịch dưới nhiều khía cạnh hình thái đe dọa sức khoẻ đời sống con người.
Bệnh dịch lan tỏa truyền nhiễm đe dọa làm suy yếu sức khoẻ thể xác, suy nhược tinh thần và gây ra chết chóc cho con người. Đó là thảm cảnh ảm đạm đen tối tàn phá đời sống con người cùng công trình thiên nhiên.
Mỗi khi có làn sóng bệnh dịch nổi lên đe dọa, con người với khả năng trí tuệ cùng phương tiện phát triển khoa học luôn nghiên cứu tìm tòi phát minh chế biến phương thuốc chữa trị ngăn ngừa tiêu diệt vi trùng, vi khuẩn gây ra bệnh dịch. Đây là công việc rất cần thiết cần phải có mang tính chất cứu độ cho con người, cứu nguy cho công trình thiên nhiên vũ trụ.
Song song với phương pháp chữa trị y tế, con người còn hướng tâm hồn mình lên Đấng Tối Cao là cha nguồn sự sống, nguồn sức khoẻ chữa lành cho con người.
Hướng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa, Đấng Tối Cao, con người cầu khẩn nài xin ơn trợ giúp chữa lành cho thể xác và tinh thần. Một nếp sống đức tin sâu thẳm, như lời cầu nguyện trong Thánh Vịnh diễn tả:
„Hỡi ai nương tựa Đấng Tối Cao và núp bóng Đấng quyền năng tuyệt đối,hãy thưa với CHÚA rằng:"Lạy Thiên Chúa, Ngài là nơi con náu ẩn,là đồn luỹ chở che, con tin tưởng vào Ngài."
3 Chính Chúa gìn giữ bạn khỏi lưới kẻ thù giăng, khỏi tai ương tàn khốc.
4 Chúa phù trì che chở, dưới cánh Người, bạn có chỗ ẩn thân:
lòng Chúa tín trung là khiên che thuẫn đỡ.
5 Bạn không sợ cảnh hãi hùng đêm vắng hay mũi tên bay giữa ban ngày,6 cả dịch khí hoành hành trong đêm tối,
cả ôn thần sát hại lúc ban trưa.“ ( Tv 91,1-6)
Và trong dòng lịch sử Hội Thánh Công giáo cũng đã có những vị sống đời thánh thiện dấn thân hy sinh đi cứu giúp những người trong cơn bệnh dịch phần vật chất thể xác cũng như mang sự an ủi cho họ về phần tinh thần.
Một trong những vị thánh quan thầy bảo trợ cho người bị bệnh dịch là Thánh Rochus trong Giáo hội Công giáo vào thời Trung cổ.
Thánh Rochus sinh ra vào năm 1295 ở Montpellier nước Pháp. Ông là một giáo dân tham gia là hội viên dòng ba Phanxico. Theo tương truyền thuật lại, khi Rochus mở mắt chào đời, cha mẹ đã nhìn thất dấu thập gía Chúa Giêsu in trên ngực con mình, và họ cho rằng đó là một dấu chỉ lớn nói lên ân sủng của Chúa ban cho con mình.
Theo lời cha dặn bảo trước khi ông qua đời: Con không được làm tôi của cải vật chất, đừng để nó làm con tối mờ con mắt, nhưng hãy chia sẻ với những người nghèo khổ! Rochus đem tặng hết gia tài của cải của mình, và chỉ giữ lại một bộ quần áo, một chiếc gậy và một túi xách đeo lưng. Với hành trang như vậy Rochus đi hành hương khắp nơi sang tới Roma.
Trên đường hành hương tới Roma, nạn bệnh dịch nổi lên hoành hành bên Ý, bên Âu châu, Rochus tới thăm viếng những người bị bệnh dịch, săn sóc an ủi họ như ông có thể làm được cho họ. Ở Roma lúc đó bệnh dịch cũng xâm chiếm lan tràn tới, Rochus cũng dấn thân ra tay giúp đỡ, và sau cùng chính ông cũng bị mắc bệnh dịch.
Biết mình bị bệnh dịch Ông lui vào sống xa cách ở một túp lều chờ ngày qua đời, nhưng Thiên Thần Chúa hiện đến săn sóc cứu giúp chữa ông. Vào một ngày một con chó của người đi săn ngậm khúc bánh mì mang đến cho bệnh nhân Rochus, và sau cùng con chó không theo chủ trở về nhà, nhưng luôn theo ở bên cạnh Rochus cho tới khi Rochus lành bệnh trở lại.
Khi lành bệnh trở lại, Rochus và con chó trở lại Piacentia săn sóc chăm sóc chữa những người bị bệnh dịch.
Bên Âu Châu, thánh Rochus được yêu mến tôn kính là vị thánh quan thầy của những người bị bệnh dịch.
Vị thánh hành hương Rochus được vẽ khắc trình bày với chiếc gậy hành hương trên tay cùng bình nước, và con chó miệng ngậm khúc bánh đứng dưới chân thánh nhân.
Thời đại ngày nay luôn hằng có những vị sống đạo đức thánh thiện dấn thân quên mình cho những người bị bệnh dịch như cha Thánh Damien de Veuster ( 03.01.1840 - 15.04.1889), một linh mục đã tình nguyện sang Hawai sống làm việc mục vụ giúp đỡ giữa những người bị bệnh phong cùi cho tới khi bị mắc bệnh và mang bệnh dịch này cho tới lúc qua đời.
Ngày 04.06.1995 Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II. đã phong cha Damien lên hàng Chân phước. Và ngày 11.10.2009 đức giáo hoàng Benedictô 16. đã tôn phong Chân phước Damien lên hàng Hiển Thánh .
Thánh Damien là thánh quan thầy bảo trợ của những người mắc bệnh dịch phong cùi.
Ngay trong lòng Giáo hội Việt Nam có đức cha Jean Cassigne là vị Giám mục của người bị bệnh dịch phong cùi ở vùng Di Linh.
Đức cha Jean Cassaigne sinh ngày 30.01.1895 tại Toi Urgons-Grenade nước Pháp; thụ phong Linh mục ngày 19.12.1925 thuộc Hội thừa sai Paris; ngày 06.04.1926 Ngài xung phong lên đường sang Đông Dương truyền giáo, sau một tháng lênh đênh trên biển cả Ngài mới cặp bến cảng Sài Gòn , sau đó về Cái Mơn với cha Delignon để học tiếng Việt. Chỉ 5 tháng sau khi đến Việt Nam Ngài được bổ nhiệm làm cha xứ Di Linh,
Buổi đầu về nhận xứ Ngài bận bịu với biết bao công việc, một mặt lo truyền đạo, dạy đạo, mặt khác là nâng cao đời sống, dân trí cho bà con, ban ngày Ngài qui tụ trẻ em để dạy chữ, chiều đến phải lo cho các lớp giáo lý tân tòng, sau giờ cơm tối lại dạy học cho người lớn.
Đâu chỉ có thế, lúc ấy Ngài còn có biệt danh”Oâng lớn làm thuốc”, bất cứ ai đau ốm đều tìm đến Ngài để được chữa trị hoặc được phát thuốc, mọi người qúi mến Ngài, xem Ngài như vị cha chung. Sự tận tâm tận lực của Ngài đối với những người nghèo, người phong cùi cùng với sự tác động của Thánh thần chiều ngày 7.12.1927 một người phong cùi trong cơn nguy tử đã xin Cha Cassaigne rửa tội. Ngài sung sướng thốt lên:” Đây là niềm vui vĩ đại đầu tiên từ sau ngày mình được chịu chức và dâng lễ mở tay”.
Dù bận bịu trăm công nghìn việc nhưng Cha Cassaigne vẫn dành nhiều thời gian để tìm đến với những người phong cuì bị gia đình, dòng họ ruồng rẫy, xua đuổi vào chốn rừng sâu mặc cho bệnh tật, đói lạnh, có khi họ còn làm mồi cho thú rừng. Sau những lần băng rừng lội suối đem lương thực, thuốc men đến cho họ, Ngài càng cảm thương trước những số phận hẩm hỉu ấy. Một lần cuối mùa thu năm 1928, , khi đang một mình băng qua đường rừng vắng đến thăm một buôn làng ở xa, thì một đoàn 10 người phong cùi rách rưới, dơ bẩn nằm la liệt trên đường kêu gào thảm thiết, họ sụp lạy dưới chân Ngài và xin Ngài cứu giúp họ.
Ngài không cầm được nước mắt, hình ảnh những người xấu số cứ ám ảnh tâm trí, nhiều đêm trằn trọc không ngủ được vì Ngài luôn nghĩ đến những thân phận bị ruồng bỏ, bị loại trừ. Tình yêu thương đã thôi thúc Ngài lập làng cùi, những chòi nhà sàn đơn sơ được dựng lên ở khu đất trống dưới chân đồi gần mé ruộng cách nhà xứ KaLa gần 1km. Có nhà rồi ,Ngài lại băng rừng , kiếm tìm và đưa họ về chung sống, để chăm sóc và chữa trị bệnh tật trước sự “ghê tởm” của không ít người.
Thật may mắn ngày 11.04.1929 làng cùi chính thức được công nhận và được trợ cấp của chính quyền, lúc ấy đã qui tụ được 21 người, họ yên tâm vui sống bên cạnh người cha hiền, không còn sợ sự nghi kỵ, xa lánh của người thân, họ hàng… Một thánh lễ đầu tiên được cử hành trong một nhà nguyện nhỏ ngay tại làng cùi ngày 15.03.1936 thật đầm ấm và dạt dào yêu thương. để lại nhiều dấu ấn tốt đẹp trong những người phong cùi.
Thời điểm này các nữ tu dòng Nữ tử bác ái Vinh Sơn được mời đến để cùng cha Cassaigne chăm sóc người phong cùi.Các nữ tu kể lại rằng cha Cassaigne sống rất đơn sơ, nghèo khó, hễ ai biếu tặng gì Ngài đều chia sẻ , phân phát cho người phong cùi không giữa riêng cho mình bất cứ gì, từ thức ăn, thức uống, quần áo, thuốc men… nhiều năm Ngài sống trong nghèo khó, bệnh tật; có những lần bệnh sốt rét hành hạ, Ngài nằm li bì cả tuần lễ không ăn uống gì, không hề phàn nan hay kêu trách… sức khỏe Ngài suy sụp mau lẹ, nhưng khi khỏe lại Ngài lại tìm đến ngay với những người phong cùi,người nghèo ở khắp các buôn làng.
Ngày lễ kính thánh Gioan Baotixita 24.06.1941 một sự kiện trọng đại đã đến với vị Cha hiền của người dân tộc và những người phong cùi ,khi Ngài được tấn phong Giám mục và là Giám quản Tông tòa Giáo phận sài Gòn . Nhưng sau 14 năm,khi bước vào tuổi 60 (cuối năm 1955) Ngài xin từ chức để nghỉ hưu và tình nguyện về lại Di Linh để phục vụ làng cùi.
Đức Cha Jean Cassaigne qua đời ngày 31.10.1973 giữa những người bị bệnh dịch phong cùi ở làng trại cùi Di Linh, do chính nag`i xây dựng nên từ năm 1927.
Xin Thánh Rochus, Thánh Damien và đức Cha Jean Cassaigne, những vị tông đồ của người bị bệnh dịch cầu thay nguyện giúp thế giới chúng con thoát khỏi cơn đang bị bệnh dịch hoành hành đe dọa.
Xin các Đấng Thánh quan thầy cầu bầu cùng Thiên Chúa, nguồn sự sống và bình an chữa lành bệnh nạn thể xác và tâm hồn mọi người chúng con trong lúc lo âu sự hãi, vì bị bệnh dịch đe dọa.
Lm. Daminh nguyễn Ngọc Long.
Điều Răn thứ 8: từ Tin Giả đến Tin Mừng
- Viết bởi Văn Việt
Điều răn thứ 8 dạy: “Ngươi không được làm chứng dối.” Để tránh sự giả dối, chúng ta cần phục vụ cho sự thật. Và để phục vụ cho sự thật, chúng ta cần nỗ lực kiểm tra các sự kiện, nghiên cứu độ tin cậy các nguồn tin, tuân theo các nguyên tắc logic và chỉnh sửa lại thành kiến của chúng ta. Khi chúng ta không cố gắng đủ để thực hiện các việc đó, chúng ta rất có thể bị lừa để tin tưởng vào sự giả dối và thậm chí là lặp lại nó. Và điều này thể hiện sự lười biếng và không trung thực của chúng ta.
Do đó, tội về điều răn thứ 8 không chỉ bao gồm sự giả dối mà còn bao gồm việc phục vụ cho sự giả dối qua những hành động khiến người khác nghi ngờ sai về lý trí con người hoặc về sự tồn tại của sự thật khách quan, cũng như lặp lại sự giả dối thay vì cố gắng điều tra các tuyên bố gây tổn hại đến danh tiếng của người khác.
Cho nên, việc tham dự hay khuyến khích những hành động xét đoán thiếu suy nghĩ, cũng như vội vã lặp lại những gì chúng ta không biết chắc chắn, đều là những tội thiếu sót chống lại sự thật. Còn sự vu khống là cố tình nói sai sự thật về một người để phỉ báng cả quyền tự nhiên căn bản lẫn danh tiếng tốt của người đó. Vu khống là một tội cố tình chống lại sự thật. Những tội thiếu sót hoặc cố tình này khuyến khích sự không trung thực hơn là sự trung thực; cũng như làm mất lòng tin vào sự thật.
Bên cạnh những việc làm chứng dối do thiếu sót hoặc cố tình, thì việc chia sẻ những sự thật không thích hợp cũng là tội. Ví dụ, bạn phá vỡ tính bí mật riêng tư của một người và tung tin bí mật đó cách công khai, thì cho dù điều đó là sự thật, chẳng lẽ nó không phải là một tội sao? Phàn nàn cũng có thể là một tội, trong trường hợp vì yêu bản thân quá mức, chúng ta than phiền và phóng đại những tổn thương của mình hoặc làm xáo trộn sự bình yên của mọi người. Tuy nhiên, ngồi lê mách lẻo và tin đồn thì có mức độ thường xuyên và nguy hiểm hơn.
Việc ngồi lê mách lẻo là việc nói chuyện những lúc nhàn rỗi, nhưng nó tồi tệ ở chỗ là thường chia sẻ thông tin một cách không cần thiết ở mức độ riêng tư; còn tin đồn cũng vậy, nhưng ở mức độ công khai thông qua các phương tiện truyền thông xã hội. Cả hai đều là tội, nặng hay nhẹ tùy vào mức độ chúng gây bất lợi đối với người bị liên quan. Những tội phổ biến như ngồi lê mách lẻo và tin đồn đáng để khám phá thêm.
Mọi người đều yêu thích một câu chuyện hay, và một cách dễ dàng để trở thành trung tâm của sự chú ý là xây dựng một câu chuyện. Do đó, những câu chuyện ngồi lê mách lẻo như Băng Vải Dính (Velcro), luôn cuốn hút mọi người, nhưng nó cũng thường luôn phóng đại những chi tiết gốc của câu chuyện. Và nạn nhân của việc ngồi lê mách lẻo không bao giờ có cơ hội để tự bảo vệ mình hoặc thậm chí là để làm rõ sự việc.
Hơn nữa, sau khi bạn rời khỏi một căn phòng đầy những lời mách lẻo nói xấu, làm sao bạn biết những người trong phòng không mách lẻo với bạn? Xét cho cùng, những người đó thường thích nói về người khác hơn là nói về họ. Việc ngồi lê mách lẻo tạo ra sự chia rẽ và làm mất lòng tin vì nó thúc đẩy sự không trung thực hơn là sự trung thực minh bạch.
Cả ngồi lê mách lẻo và tin đồn đều giống như những kẻ xâm lược; một khi được phát ra, chúng ta không thể biết hết được chúng tàn phá thế nào. Cũng như không có cách nào để thu hồi chúng. Mách lẻo và tin đồn gieo rắc sự mất đoàn kết, bởi vì vòng luẩn quẩn chia rẽ và nghi ngờ mà chúng gây ra chỉ dẫn đến sự chia rẽ và phân cực nhiều hơn, đó là điều làm suy yếu lòng tin. Phục vụ sự thật trong tình yêu thúc đẩy lòng tin.
Và chẳng phải lòng tin là một điều quý hiếm hơn bao giờ hết hay sao? Tại sao lại phung phí nó, dù chỉ một chút, với những đôi môi mách lẻo?
Chúng ta lên án sự giả dối là đúng. Nhưng chúng ta có kiểm tra lương tâm để xem chúng ta cũng đã góp phần vào sự giả dối và nghi ngờ đó như thế nào không?
Những lỗi nhỏ chống lại sự trung thực sẽ từ từ phát triển thành vụ bê bối lớn về sự không trung thực. Nếu chúng ta muốn sống trong một cộng đồng trung thực, chân thành và tin tưởng, chúng ta phải tránh nói dối, cũng như tránh loan truyền bất kỳ thông tin: thiếu suy xét, bất lợi cho người khác, bôi nhọ danh tiếng của họ, tiết lộ bí mật riêng tư chính đáng của họ, hay than phiền quá mức. Thay vào đó, chúng ta nên khuyến khích sự trung thực trí tuệ, giá trị của sự chân thành và thiện chí, giữ những bí mật riêng tư và khuyến khích lẫn nhau.
Trong thời đại các sự kiện bị thay thế và tin tức bị giả mạo, chúng ta phục vụ cho Tin Mừng khi chúng ta cần thi hành trách nhiệm giải trình và lòng trung thực từ việc kiểm tra lương tâm cá nhân đến việc kiểm tra chéo ở tòa án. Thế giới của chúng ta sẽ tốt hơn khi chúng ta tuân thủ tất cả các điều răn; nhưng chúng ta không thể tuân giữ, thậm chí là biết bất kỳ điều răn nào, nếu chúng ta thi hành điều răn đó mà thiếu sự trung thực vốn có trong điều răn thứ 8.
Văn Việt trích dịch từ catholic-link.org
nguồn: hdgmvietnam.com
Kiên nhẫn cắn gặm thế nào cũng đạt đích thành công!
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Đây là hình ảnh chú Chuột đào bới tìm mồi ăn. Chú tuy nhỏ con, nhưng là loài thú vật có bốn chân chạy nhảy trèo leo trên cẩy cao cùng bơi lội dưới nước rất nhanh lẹ, đôi con mắt tinh sáng nhìn láo liên, có những sợi râu dài nơi mõm.
Chú dùng tay chân đào bới đất, cái đuôi dài là cột thu lôi bắt sóng và giữ thăng bằng cho thân thể. Đôi tai vểnh lên cao để thu bắt âm thanh cực nhỏ vọng đến. Lỗ mũi ngửi đánh hơi rất bén nhậy, và miệng có răng nhọn sắc cắn gặm nhai mồi điệu nghệ. Chuột ăn hỗn tạp nhất là những thức ăn thừa trong thùng rác chúng bới tìm ăn.
Thiên nhiên đã sinh ra chú như vậy. Theo Kinh Thánh thuật lại vào ngày sáng tạo thứ năm Thiên Chúa phán: „Đất phải sinh ra các sinh vật tùy theo loại: gia súc, loài bò sát và dã thú tùy theo loại.“ Liền có như vậy. Thiên Chúa làm ra dã thú tùy theo loại, gia súc tùy theo lại và loài bò sát dưới đất tùy theo loại.“ ( St 1, 25).
Chú không có tên là Chuột trong sách Kinh Thánh. Nhưng chú được Thiên Chúa tạo dựng là loài thú vật sống trên và dưới mặt đất.
Chuột là mồi thức ăn của mèo, của chó nuôi trong nhà cũng như chó sói nơi núi rừng, của loài chim săn bắt mồi như chim đại bàng. Vì thế ở miền quê người ta nuôi mèo, nuôi chó trong nhà để săn bắt chuột bài trừ hậu họa chuột đến để cắn phá mùa màng đồ vật quần áo.
Trong dân gian có ca ví: Nếu mèo đi vắng khỏi nhà, chuột sẽ múa nhẩy khắp nơi trong nhà
Trong sách luật Mose nói vể loài chuột được kể vào loại thú vật ô uế:
“ Trong số các loài vật nhỏ lúc nhúc trên mặt đất, các ngươi phải coi những loài này là ô uế: chuột chũi, chuột nhắt, mọi thứ thằn lằn.“ ( Sách Levi 11,29).
Ngôn sứ Isaia nói đến điều Thiên Chúa ngăn cấm ăn thịt chuột:
„ Những kẻ tự thánh hiến và tự thanh tẩyđể vào các khu vườn sau một người đứng ở giữa,những kẻ ăn thịt heo,thịt các thú vật kinh tởm và thịt chuột, đều sẽ chết cả lũ - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.“ ( Sách Ngôn sứ Isaia 66,17).
Vào khoảng năm 1050 trước Chúa giáng sinh Hòm bia Giao Ước, đựng tấm bia đá khắc ghi 10 điều răn Thiên Chúa do chính Thiên Chúa viết trao cho Mose trên núi Sinai ( 1 Sách Các Vua 4), trong trận chiến ở Aphek bị quân Philitinh chiếm đoạt. Theo sách Samuel ( 1 Samuel 5) người Philitinh chiếm được Hòm bia Giao ước từ tay người Do Thái, đã đem về Aschdod và đặt trong đền thờ kính Thần Dagon của họ. Nhưng sau khi nhiều biến cố bất ưng đem lại những bất hạnh hoạn nạn, bệnh tật xảy ra, người Philitinh đem Hòm bia Giao Ước đó trả lại cho người Do Thái. ( 1 Samuel 6).
Khi trả lại Hòm Bia Giao Ước, ngươi Philitinh phải đúc năm con chuột bằng vàng để làm lễ đền tội, như người Do Thái yêu cầu :
„ Người Phi-li-tinh hỏi: "Của lễ đền tội chúng tôi phải nộp cho Người là gì? " Họ đáp: "Năm cái khối u bằng vàng và năm con chuột bằng vàng, tính theo số các vương hầu người Phi-li-tinh, vì cũng một tai hoạ đã giáng xuống trên tất cả anh em và trên các vương hầu của anh em.5 Anh em hãy làm những hình ảnh các khối u của anh em, và hình ảnh các con chuột đang phá phách xứ sở, và hãy tôn vinh Thiên Chúa Ít-ra-en. May ra Người sẽ nhẹ tay với anh em, với các thần của anh em và xứ sở anh em.“ ( Sách 1. Samuel 6, 4-6)
Tên Chuột của chú có từ khi nào, không thấy sách vở nào ghi nói đến. Chỉ biết chuột có mặt là một loài thú vật sống sát cạnh con người. Chú sinh sôi nẩy nở rất nhanh cùng rất nhiều và có nhiều loại giống khác nhau. Chú có nhiều khuôn mặt tích cực cũng như tiêu cực.
Theo truyền thuyết bên Ai cập một loài Chuột có đầu nhọn được tôn như con vật thánh.
Cũng theo truyền thuyết người Rôma ngày xưa nhìn chú chuột bạch như dấu chỉ của may mắn hạnh phúc.
Người Nhật Bản cho Chuột là người đồng hành của thần thánh về sự giầu sang.
Người Trung Hoa lại nhìn Chuột với cái nhìn trái ngược: Nhà nào, chỗ nào có Chuột đến làm ổ, nơi đó mất trật tự, mất bình an.
Trong đời sống thực tế, Chuột đến làm ổ nơi nào, gây ra cảnh phá hoại nhà cửa, mùa màng cây cối hoa trái thóc lúa, cắn phá đồ đạc. Ngoài ra chuột còn mang gây bệnh tật truyền nhiễm đến, chúng sống chui rúc nơi ẩm thấp tối tăm, ăn ở dơ bẩn rất hỗn tạp hầu như không trừ một thứ gì.
Bên xứ nông nghiệp trồng lúa mạ, như bên Á Đông, người ta hay đặt cạm bẫy ở các bờ ruộng lúa để bắt chuột đồng. Vì chuột từng bầy đàn hay đến những nơi đó làm ổ sinh sản ăn cắn phá lúa mạ, ăn thóc lúa gây hư hoại mùa màng. Những chú chuột đồng ăn lúa mạ sa vào bẫy cạm này sẽ bị giết thui làm món ăn ngon thơm.
Theo thần thoại bên Ấn Độ, Chuột là loại thú vật di chuyển hiện thân của Thần Ganesha có hình thù như đầu con voi.
Trái lại ở Âu châu, Chuột theo niềm tin dân gian là hình ảnh của bệnh truyền nhiễm, của phù thủy, của ma qủi, của thần đất trong nhà.
Người ta quan sát và truyền tụng lại cho nhau: khi những chú Chuột chạy bỏ khỏi một con ngôi nhà, một con tầu nào, đó là lúc căn nhà, con tầu đó găp tai nạn không còn lương thực nữa, bị cháy, hoặc đang bị chìm sâu xuống lòng nước.
Theo cách tính phân chia niên lịch bên Á Đông , chú Chuột đứng đầu trong vòng tròn một giáp 12 con thú vật : Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi- mỗi con vật đứng tên tượng trưng cho mỗi năm âm lịch. Năm mới âm lịch năm nay có tên biểu hiệu của chú Chuột: Canh Tý.
Năm Mới âm lịch ngày Mùng Một tháng Giêng cũng là ngày bắt đầu mùa Xuân năm mới. Chú Chuột với những đặc tính xem ra tiêu cực nhiều hơn tích cực là hình ảnh không tốt đẹp gì cho một năm mới.
Nhưng dẫu thế, Chuột cũng có một hình ảnh tốt trong đời sống: chăm chỉ gặm nhai từng ít một thế nào cũng đục phá được vỏ cứng bao bọc hạt đậu phộng béo ngon bên trong.
Và bây giờ thời đại của Computeur máy vi tính, không có „chuột - mouse, Maus“ không đi tiếp được.
Hình ảnh này giúp suy nghĩ rất nhiều về cung cách sống làm người trong việc học hành giáo dục đào tạo, việc tập đức tính tốt, việc sống đức tin vào Thiên Chúa.
Việc học hành, điều đạo đức tốt đẹp, ích lợi lành mạnh thường phải gắng sức tập luyện từng ngày, từng lúc mới tìm, mới đạt tới thành công được.
Chúc mừng Năm Mới Canh Tý, 2020
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Con chiên Thiên Chúa
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
Có nhiều hình tượng vẽ khắc hình con chiên có cây thập tự bên cạnh làm biểu tượng cho hình ảnh Chúa Giesu.
Tại sao lại có hình ảnh biểu tượng này?
Hình ảnh biểu tượng này có căn rễ nơi nền văn hóa đạo đức kinh thánh từ thời xa xưa.
Con chiên là một con vật non trẻ của loài thú vật cừu hay thú vật dê. Con chiên có tư thái dịu hiền ngây thơ, nên được dùng là hình ảnh biểu tượng về sự thanh khiết và vô tội, hình ảnh về sự hiền dịu và kiên nhẫn.
Trong nhiều tôn gíao sự thanh khiết vô tội đóng vai trò quan trọng. Con chiên được chọn làm hình ảnh biểu tượng cho khía cạnh đó.
Trong Kinh Thánh thời cựu ước Do Thái giáo cũng vậy. Một con vật làm lễ tế hy sinh đền tội phải thanh khiết vô tội, mới có thể được dùng là lễ tế đền tội thay cho con người tội lỗi. ( St 22,8).
Ngày xưa khi người Do Thái xuất hành từ đất Aicập lên đường trở về quê hương nước Thiên Chúa hứa ban, họ mừng Lễ Vượt Qua và trong bữa ăn phải có con chiên: „Con chiên đó phải toàn vẹn, phải là con đực, không quá một tuổi. Các ngươi bắt chiên hay dê cũng được“ ( Xh 12,5).
Lễ tế dâng tiến Giavê Thiên Chúa theo luật ấn định„ Ngày sa-bát, các ngươi sẽ dâng hai con chiên một tuổi, toàn vẹn, cùng với chín lít tinh bột lúa miến nhào với dầu làm lễ phẩm, kèm theo rượu tế.“ ( Ds 28, 9).
Ngay thời xa xưa trước Chúa giáng sinh, Tiên tri Isaia cũng đã mường tượng hình ảnh người tôi trung của Thiên Chúa sau này như con chiên bị đem đi xét xử đền tội thay cho toàn dân:
„ Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca;
như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông,
người chẳng hề mở miệng.“ ( Isaia 53,7)
Đến thời sau Chúa giáng sinh, chính Chúa Giêsu được ca ví là hình ảnh con chiên Thiên Chúa. Thánh Gioan tẩy gỉa đã giới thiệu Chúa Giêsu:
„ Ông Gioan thấy Chúa Giêsu tiến về phía mình liền nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian. „ (Ga 1, 29).
Chính Chúa Giêsu đã bị kết án chết trong dịp lễ Vượt Qua của người Do Thái, lễ kỷ niệm giết chiên ăn bữa sau cùng trước khi người DoThái xuất hành trở về quê hương Do Thái.
Thánh Phaolô Tông đồ đã nhìn nhận Chúa Giêsu Kitô đã hy sinh chịu chết làm con chiên lễ Vượt Qua cho chúng ta. ( 1 cor, 5,7).
Thánh Gioan tông đồ đã gọi các Tông đồ Chúa Giêsu Kitô là Tông đồ của Con Chiên. ( KH 21,14).
Trên trời, theo tường thuật của Thánh Gioan, các Thiên Thần Chúa ca hát chúc tụng Con Chiên vinh hiển. ( Kh 5,12).
Rồi trong một thị kiến trên trời, Thánh Gioan đã nhìn thấy Con Chiên Thiên Chúa đứng ở giữa bốn con vật. ( Kh 5,6).
Và Ông còn nhìn thấy Con Chiên nhận cuốn sách từ bốn con vật và có 24 vị bô lão phủ phục qùy xuống đồng thanh chúc tụng Con Chiên. ( Kh 5,9).
Bốn con vật mà Thánh Gioan nhìn thấy trong thị kiến trên trời là hình ảnh biểu tượng của bốn thánh sử viết phúc âm Chúa Giêsu.
Thánh sử Mattheo với hình một con người. Vì ngay chương đầu phúc âm Ông viết thuật lại lịch sử gia phả Chúa Giêsu theo khía cạnh con người từ thời tổ phụ Abraham tới Vua David có 14 thế hệ, rồi từ Vua David tới thời lưu đầy sang Babylon với 14 đời, và từ sau thời lưu đầy trở về tới Chúa Giêsu cũng có 14 thế hệ.
Thánh Marcô với hình con sư tử. Vì phúc âm của ông ngay chương đầu tiên bắt đầu với lời rao giảng tiếng hô hào lời kêu trong sa mạc của Thánh Gioan tiền hô như tiếng sư tử gầm rống trong rừng hoang .
Thánh Luca với hình tượng một con vật như con bò, con dê. Vì phúc âm của Ông thuật lại biến cố Thầy cả thượng phẩm Dacharia vào đền thờ dâng con vật bị giết tế lễ Thiên Chúa. Và thánh sử cũng thuật lại biến cố quang cảnh hài nhi Giesu sinh ra trong chuồng súc vật chiên bò lừa ngoài cánh đồng Bethlehem.
Thánh Gioan với hình con chim đại bàng. Vì những tư tưởng hình ảnh trong phúc âm của Ông biểu lộ tinh thần cao cả cao sâu diệu vợi như con chim đại bàng dũng mãnh có sức cất cánh bay cao lên tận nền trời mà con mắt thường không sao có thể nhìn thấy nó tít tận trên cao. và từ trên cao nó bay lượn đáp xuống mật đất rất kỳ diệu ngoạn mục.
Rồi hình ảnh bốn con vật cũng đượng hiểu cắt nghĩa là hình ảnh chỉ về sự nhập thể làm người của Chúa Giêsu, về lễ vật tế lễ, sự sống lại và lên trời trời của Chúa Giêsu.
Nhưng tại sao lại dùng con chiên là hình ảnh biểu tượng cho Chúa Giêsu, mà không một trong bốn con vật đó?
Tiên tri Isaia đã diễn tả hình ảnh về người tôi trung của Thiên Chúa như một con chiên. Hình ảnh con chiên được tuyển chọn chỉ về Thiên Chúa xuống trần gian làm người.
Con Chiên này không có quan hệ gì với bốn con vật đứng chung quanh phục vụ Con Chiên. Hình ảnh này làm tương phản với hình ảnh Đấng Cao cả tuyệt đối, làm nổi bật rõ nét giữa Đấng là chủ sự sáng tạo và loài thụ tạo trong các mối liên hệ.
Con Chiên được dùng là hình ảnh chỉ về Chúa Giêsu còn nói lên khía cạnh chính yếu nổi bật của một Thiên Chúa nhập thể làm người trên trần gian. Chúa Giêsu làm người không muốn là một vĩ nhân, một con người tuyệt đối, một nửa Thiên Chúa. Nhưng là một con người toàn vẹn với yếu đuối, như Thánh Phaolo viết trong thư gửi Giáo đoàn Corinthô:
„ Thưa anh em, anh em thử nghĩ lại xem: khi anh em được Chúa kêu gọi, thì trong anh em đâu có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời, đâu có mấy người quyền thế, mấy người quý phái.27 Song những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh;28 những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để huỷ diệt những gì hiện có.“ ( 1 cor 1,26-28).
Trong Giáo hội xưa nay có tập tục dây Pallium của Đức giáo hoàng và các Tổng giám mục đeo choàng trên cổ xuống trước ngực khi cử hành thánh lễ , được dệt bện bằng lông các con chiên Agnes - các con chiên được làm phép ngày lễ kính thánh Agnes 21.01.
Dây Pallium bện dệt bằng lông con chiên như Đức giáo hoàng Benedictô 16. cắt nghĩa: Nhắc nhớ đến Chúa Giêsu sau khi sống lại đã trao trách vụ cho Thánh Phero hãy chăn dắt các con chiên của Thầy. Và cũng là hình ảnh nói về ách gánh nặng của Chúa Giêsu Kitô mà các vị mục tử mang trên vai khi nhận lãnh ý muốn sứ vụ Chúa trao cho.
Trong các thánh lễ, trước khi tiếp nhận tấm bánh Thánh Thể Chúa Giesu Kitô, lời kinh cầu nguyện được toàn thể mọi người trong thánh đường cùng đọc lên hoặc hát ca xướng ba lần: „Lạy Chiên Thiên Chúa, đấng xóa tội trần gian, xin thương xót chúng con „
Và sau cùng vị chủ tế giơ cao Tấm Bánh Thánh Thể Chúa Giêsu Kitô cũng đọc lời giới thiệu như Thánh Gioan tẩy gỉa ngày xưa đã nói: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian.“
Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
Làn nước Bí tích rửa tội
- Viết bởi Dân Chúa
Ông Thánh Gioan tẩy gỉa ngày xưa, bên bờ sông Jordan đã vâng nghe theo lời Chúa Giêsu làm phép rửa cho Ngài. Không biết khi đó Ông Gioan có hỏi những người đến xin lãnh nhận nước rửa tội điều gì không.
Nhưng bây giờ khi cha mẹ bồng ẵm con mình đến xin lãnh nhận làn nước bí tích rửa tội gia nhâđp Giáo hội Công giáo, linh mục hỏi cha mẹ em bé về sự trông mong chờ đợi điều gì từ bí tích rửa tội cho đời sống em bé.
Câu trả lời của cha mẹ: Là cha mẹ, chúng tôi không chỉ có bổn phận nuôi dưỡng con chúng tôi khoẻ mạnh lớn lên về thân xác. Nhưng còn có trách nhiệm tinh thần cầu mong chăm sóc cho con chúng tôi có một đời sống tốt lành chính thực, một đời sống tinh thần có niềm vui hạnh phúc. Là con người chúng tôi không có khả năng làm được điều đó cho con chúng tôi. Nên chúng tôi trông mong chờ đợi và cũng là lòng khấn nguyện cầu xin của chúng tôi từ Bí tích rửa tội cho con chúng tôi do Thiên Chúa, Trời cao ban xuống cho con người.
Vâng theo đức tin Công giáo, qua làn nước Bí tích rửa tội người chịu Bí tích này được thâu nhận vào cộng đoàn Giáo hội Chúa Giesu Kitô. Món qùa tặng đời sống trong vòng thân hữu với Chúa Giêsu Kitô cùng với những người đã nhận lãnh bí tích này trong cộng đoàn Giáo hội Chúa.
Cha mẹ, người đỡ đầu cho em bé cùng toàn thể cộng đoàn hiện diện trong lễ rửa tội cùng tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu Kitô và Chúa Thánh Thần. Thiên Chúa của sự sống, Đấng Tạo Hóa khôn ngoan đã trao ban tạo dựng vũ trụ và sự sống thể hiện nơi Chúa Giêsu Kitô.
Nền văn hóa sự sống qua lòng tuyên tín vào Thiên Chúa sự sống ẩn chứa tầm nhìn hướng đến một viễn tượng sự sống lớn lao:
Tin vào Thiên Chúa như điều răn thứ nhất, thứ hai và thứ ba đòi buộc.
Về gia đình như nơi điều răn thứ bốn nói đến.
Về sự sống như điều răn thứ năm đòi buộc.
Về trách nhiệm gìn giữ tình yêu mầm sự sống như điều răn thứ sáu chỉ dẫn.
Về sự liên đới, trách nhiệm với cộng đồng xã hội, và sự công chính như điều răn thứ bẩy hướng dẫn
Về sự chân thật trung thành như điều răn thứ tám hướng dẫn vạch ra cho con đường đời sống.
Về sự kính trọng người khác và tài sản thuộc về họ như điều răn thứ chín và thứ mười chỉ ra cho cung cách sống.
Trong nghi lễ bí tích rửa tội còn có những hình ảnh dấu chỉ tượng trưng được thực hiện nơi em bé nhận lãnh bí tích :
Dấu thập gía Chúa Giesu Kitô được vẽ trên trán em bé là hình ảnh dấu chỉ đời sống em bé được Chúa phù hộ che chở.
Làn nước được gội đổ trên đỉnh đầu em bé là hình ảnh dấu chỉ về sự sống mới trong Chúa Giêsu Kitô.
Dầu thánh Chrisam là hình ảnh tượng trưng nói lên sức mạnh , sự đẹp, sức khoẻ, được xức trên đầu em bé sống trong cộng đoàn Giáo hội Chúa Giêsu Kitô.
Tấm áo trắng rửa tội đặt trên mình em bé nói lên hình ảnh nền văn hóa sự thiện mỹ, nền văn hóa sự sống.
Và sau cùng cây nến rửa tội của em bé được thắp sáng lên từ ngọn lửa cây nến Chúa Giêsu Kito phục sinh nhấn mạnh đến ánh sáng sự chân thật soi chiếu xua đuổi bóng tối sự dữ trong đời sống, và chỉ đường cho con người nhận ra mình là ai, từ đâu đến trong trần gian, và sau cùng đi về nơi đâu.
Cho em bé nhận lãnh làn nước bí tích rửa tội đức tin vào Chúa Giêsu Kitô gia nhập gia đình cộng đoàn Giáo hội Chúa ở trần gian ẩn chứa tâm tình tạ ơn Thiên Chúa món qùa tặng sự sống được trời cao ban cho.
Và đồng thời cũng là lời cầu xin khấn nguyện cho con đường đời sống em bé hôm nay và ngày mai.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ngôi sao Bethlehem
- Viết bởi Dân Chúa
Mừng lễ Chúa giáng sinh, bài thánh ca „ Kìa trông huy hoàng vì sao…“ được hát vang lên khắp nơi trong các thánh đường, nơi họp mừng lễ ở hội trường và cả ở nhà tư nữa. Và nhất là bài thánh ca này nhắc nhớ đến biến cố Ba Vua được ngôi sao dẫn đường tìm đến hang đá hài nhi Giêsu giáng sinh ở Bethlehem.
Và trong dòng thời gian của nhân loại, con người hằng cần đến „ngôi sao chỉ đường dẫn lối“ trên con đường đời sống, nhất là những khi vướng mắc vào bước đường cùng, vào cơn khủng hoảng, khi bơ vơ hoài nghi…
Vào thời Chúa Giêsu ngày xưa cách đây hơn hai ngàn năm trong thế giới đế quốc Roma cũng đã có niềm tin vào thiên văn các vì tinh tú. Vì cho rằng mỗi người đều có một ngôi sao vận mệnh ngay từ lúc bắt đầu sinh cho tới ngày qua đời. Sự tin tưởng này qủa quyết mỗi người có một ngôi sao vận mệnh trên trời, và tùy theo việc sinh sống ngôi sao của họ chiếu sáng, như lời cầu nguyện tin tưởng xa xưa của dân Do Thái nói lên sự tin tưởng đó:
“4 Người ấn định con số các vì sao,
và đặt tên cho từng ngôi một.“ (Tv 147,4)
Trong bài tường thuật về biến cố hài nhi Giesu sinh ra trên trần thế, ba nhà bác học thiên văn, còn gọi là Ba Vua được „ngôi sao của hài nhi Giêsu, ngôi sao vị vua mới sinh“ chỉ đường chỉ lối từ miền phương Đông tìm tới Bethlehem:
„1 Khi Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem,2 và hỏi: "Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.“ ( Mt 2,1-2).
Vào thời cổ đại, thời vương quốc Hylạp, thời đế quốc Roma hay cả vương quốc Do Thái, trên các đồng tiền có đúc khắc hình ngôi sao là hình ảnh biểu tượng của vua.
Ngôi sao Bethlehem cũng là biểu tượng của vị vua thơ bé không có quyền hành mới sinh, người là vua dân Do Thái không có vương quốc trị vì trên thế giới và sau cùng chết nhục nhã trên cây thập tự.
Qua nhiều cách thế, trong kinh thánh cựu ước, Thiên Chúa được trình bày như là vị vua thống trị thế giới trong tương quan với ánh quang rực rỡ, như trong mùa Vọng thường hay nói tới:
„ Dân đang lần bước giữa tối tăm
đã thấy một ánh sáng huy hoàng;
đám người sống trong vùng bóng tối,
nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.“ ( Isaia 9,1)
hay
„1 Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi.
Vinh quang của ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả trên ngươi.
2 Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân;
còn trên ngươi ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả,
vinh quang Người xuất hiện trên ngươi.“ ( Isaia 60,1-2)
Sách Dân số nói một ngôi sao xuất hiện sẽ vực dậy dân Israel:
„17 Tôi thấy nó, nhưng bây giờ chưa phải lúc,
tôi nhìn, nhưng chưa thấy nó kề bên;
một vì sao xuất hiện từ Gia-cóp,
một vương trượng trỗi dậy từ Ít-ra-en
sẽ đập vào màng tang Mô-áp, đánh vỡ sọ tất cả con cái Sết,“ ( Sách Dân số 24,17).
Trong Kinh Thánh cựu ước ngôi sao hay ánh sáng chiếu soi trong đêm tối chỉ về Thiên Chúa, hay được dùng làm biểu tượng nói đến vua là người mang đến sự giải thoát cứu độ.
Trong phúc âm Thánh Mattheo thuật lại ngôi sao dẫn đường cho Ba Vua tìm đến hài nhi Giesu.
Lịch sử cũng tìm cách tìm hiểu cắt nghĩa theo khía cạnh khoa học thiên văn. Theo nghiên cứu vào năm 7. trước Chúa giáng sinh đã xẩy ra sự xuất hiện nhiều lần của hai vì tinh tú Jupiter và Saturn cùng một lúc trên nền trời.
Những nhà thiên văn China đã chứng minh có ngôi sao chổi đuôi dài xuất hiện trên nền trời vào năm 5. trước Chúa giáng sinh.
Nhưng những nghiên cứu như vậy đã không nhận ra ngôi sao lạ lùng xuất hiện theo hướng nhất định chỉ đường từ Jerusalem tới hang đá Bethlehem, nơi hài nhi Giêsu sinh ra.
„ Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. ( Mt 2,9)
Ngôi sao chỉ xuất hiện một lần cùng vào thời điểm nhất định dẫn đường cho ba vua từ Jerusalem đến Bethlehem thôi. Sau đó ngôi sao không đóng vai trò gì khác nữa. Thiên Chúa đã xuất hiện báo cho Ba Vua tìm đường khác mà trở về nhà không trở lại Jerusalem với vua Herode nữa.
Ngôi sao Bethlehem đã làm chu toàn nhiệm vụ của mình là dẫn đường cho Ba Vua tìm đến vua hài nhi Giêsu mới sinh ra trong hang chuồng súc vật ở Bethlehem.
Người tín hữu Chúa Kitô không phải theo ngôi sao dẫn đường đi tìm Chúa như Ba Vua ngày xưa. Nhưng theo Chúa Giêsu, Đấng khi trở về trời đã trao cho các Tông đồ, cho Giáo hội sứ mạng :
"Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.19 Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần,20 dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.“ ( Mt 28, 18-20).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Chào tiễn biệt năm 2019 và đón mừng năm mới 2020!
- Viết bởi Dân Chúa
Năm 2019 đã đến trong trần gian với con người, đã phục vụ như có thể, và có thể ra đi.
Với nhiều người có thể năm 2019 là một năm gặt hái được nhiều thành công kết qủa tốt đẹp. Với nhiều người lại là một năm không có mấy thành công tốt đẹp như mong ước. Nhưng với người tín hữu Chúa Kitô năm 2019 là năm của Chúa - Annus Domini -
Trong năm 2019 Annus Domini đã xẩy diễn ra sự vui mừng và đau khổ, nụ cười và tiếng khóc, khoẻ mạnh và bệnh nạn, hy vọng và lo âu sợ sệt, lạc quan và bi quan, tình yêu mến và sự nghiêng chiều, chan chứa thiện cảm và lạnh lùng cứng nhắc, tin tưởng được nâng đỡ và bị bỏ rơi, sự sống và sự chết, nghỉ ngơi và làm việc, cùng nhiều những sự việc khác nữa đan chéo song song với nhau.
Năm 2019 với 52 tuần lễ, 365 ngày, 525.600 phút và 31.536.000 giây mà con người đã sử dụng cho nhu cầu đời sống. Thời gian năm 2019 đã phục vụ đời sống con người, và nó có thể từ giã ra đi trong tâm tình biết ơn và có thể cũng trong luyến tiếc, ân hận ái ngại, hay sự cay đắng của con người.
Năm 2019 ra đi thuộc về qúa khứ. Nhưng Chúa vẫn hằng luôn ở bên cạnh với con người. Lễ mừng Chúa Giêsu giáng sinh với những trang trí hình tượng đèn điện qua đi. Nhưng ơn Chúa ban cho tâm hồn đức tin con người không phai nhạt qua đi. Trái lại những kỷ niệm dư âm ngày lễ mừng chan chứa tình yêu thương còn khắc ghi trong trái tim tâm hồn con người. Vì Thiên Chúa đã xuống trần gian làm người trong hình hài một trẻ thơ. Thiên Chúa qua Chúa Giêsu làm người đã trao tặng con người nhân vị mới không có thể bị phá huỷ. Thiên Chúa làm người để con người sống là người con của Chúa.
Chúa Giesu đã đoan hứa Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho tới tận thế. ( Mt 28,20). Đó là qùa tặng, là ân sủng của Chúa cho con người.
Thánh Phaolô tromg thư gửi các Giáo đoàn của Ông luôn bắt đầu cũng như kết thư bằng lời: Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an. Qua những lời đó Thánh Phaolô muốn gây khơi lên niềm hy vọng nơi những người tín hữu Chúa Kitô: Thiên Chúa hằng luôn ở bên cạnh nâng đỡ tinh thần tâm hồn con người trong mọi giai đoạn đời sống.
Thật không còn gì cao qúi tràn đầy niềm phấn khởi cho tinh thần con người hơn những lời linh hướng gây niềm tin tưởng phấn chấn đạo đức này nữa!
Món qùa tặng ân sủng, tình yêu Thiên Chúa và luôn hằng ở bên cạnh cùng lòng Chúa thương xót cho con người qua Chúa Giêsu sinh xuống làm người mang ân sủng đến trần gian vào dịp lễ mừng Chúa giáng sinh luôn hằng có gía trị bước sang ngưỡng cửa thời gian năm mới đến kế tiếp.
Hướng tầm con mắt tâm hồn nhìn ngược trở lại thời gian năm cũ đang đi vào thời gian kết thúc, dù khám phá nhận ra hay không khám phá nhận ra, dù đời sống có những ngày tháng tốt đẹp hay phải trải qua những đau khổ lo âu, ân sủng của Chúa vẫn luôn có đó cho con người. Bàn tay quan phòng của Chúa luôn rợp bóng che chở chúc lành cho đời sống con người, mà con mắt thường con người không thể nào nhìn thấy được.
Đời sống con người thể xác cũng như tinh thần hầu như luôn trong vòng yếu kém. Vậy đâu là hành động gây tác dụng hiệu qủa tích cực của Chúa cho con người?
Thánh Phaolo trong thư thứ hai gửi tín hữu giáo đoàn Corintho đã viết lên kinh nghiệm đức tin của mình:
„ Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này.9 Nhưng Người quả quyết với tôi: "Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối." Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi.“ (2 cor 12,8-10).
Đó đây hằng ngày chúng ta nghe, đọc những tin tức nói về sự suy yếu kém của người khác, cùng ngay cả nơi bản thân mỗi người nữa. Chúng ta nhìn thấy nghe biết được những nỗi thống khổ, những hoang mang lo sợ lạc mất phương hướng của con người. Chúng ta con người cảm thấy mình yếu đuối không có khả năng để có thể đề cập cùng giải quyết những vấn đề đó.
Hồ nghi hoang mang, nhưng chúng ta không bị bỏ rơi sống bơ vơ. Vì ân sủng của Chúa luôn ban xuống, nếu sẵn sàng tiếp nhận cho ơn Chúa thấm nhập sinh hoa kết qủa nơi đời sống.
Những Bí Tích đời sống đức tin là những dấu chỉ của ân sủng Chúa mang sự chữa lành cho tâm hồn đời sống.
Biết bao cha mẹ Công giáo đã hằng bồng ẵm con thơ bé của mình sau khi chúng mở mắt chào đời đến dâng cho Thiên Chúa. Trong vòng tay cha mẹ, khi làn nước Bí Tích rửa tội đức tin vào Chúa Giêsu dội xuống chẩy trên đỉnh đầu, em bé giật mình mở mắt chiếu tỏa ánh sáng trong lành bật tiếng khóc hay nhoẻn miệng tươi cười nhìn cha mẹ em.
Như hình tượng dấu chỉ ân sủng cùng lời đoan hứa sự sống của Chúa cho em bé vừa nhận lãnh làn nước Bí tích rửa tội, cây nến rửa tội của em được đốt thắp lên từ ngọn lửa cây nến Chúa Giêsu phục sinh.
Lớn lên vượt qua ngưỡng cửa lớp tuổi trẻ thơ và bước sang giai đoạn lứa tuổi thanh thiếu niên, các bạn trẻ lần đầu tiên tíếp nhận Tấm Bánh Thánh Thể tình yêu Chúa Giêsu cho tâm hồn đức tin trong lòng bàn tay của mình. Tấm bánh thánh thể Chúa Giêsu là lương thực nuôi dưỡng đức tin cho con người. Qua đó sức mạnh và ân sủng của Chúa ban xuống trong trái tim tâm hồn người lãnh nhận.
Là người Công giáo từ khi lãnh nhận lần đầu tiên Bí tích Mình Thánh Chúa, trong dòng đời sống còn lãnh nhận Bí tích hòa giải xin Thiên Chúa tha thứ những tội lỗi khiếm khuyết trong đời sống đã lỗi phạm cùng Thiên Chúa và anh chị em với nhau trong lời nói, trong hành đống và cả trong tâm tư suy nghĩ nữa, đồng thời xin nguồn ân sủng Chúa xuống thêm sức cho tâm hồn tinh thần sống xứng đáng là con của Thiên Chúa.
Và Bạn trẻ sau đó còn lãnh nhận ân sủng Chúa qua Bí Tích Thêm Sức. Thiên Chúa trao ban Đức Chúa Thánh Thần qua lời cầu nguyện và đặt tay xức dầu thánh của Đức Giám Mục trên trán: Con hãy lãnh nhận Đức Chúa Thánh Thần!
Ân sủng Chúa ban sức mạnh ơn can đảm củng cố đức tin cho bạn trẻ sống làm chứng cho đức tin vào Chúa qua đời sống.
Với niềm vui mừng hân hoan cùng chan chứa niềm hy vọng các bạn thanh niên nam nữ đã tay trong tay dắt tay nhau đến trước bàn thờ Thiên Chúa trao cho nhau lời ưng thuận nhận nhau làm vợ chồng. Đồng thời để nói lên lòng trung thành với nhau, họ đã trao cho nhau những chiếc nhẫn hôn phối như dấu chỉ sự giao ước gắn bó tình yêu vợ chồng với nhau mọi ngày trong đời sống.
Qua đó họ được Thiên Chúa nguồn tình yêu ban ân sủng của Người cho đời sống hôn nhân của họ.
Dòng nước mắt, sự đau buồn, nhớ thương, lo sợ đã ẩn hiện chế ngự trong đời sống kéo dài hằng ngày, cùng năm tháng, khi ai đó người thân yêu trong gia đình đã từ gĩa ra đi khỏi cuộc sống trần gian.
Lạy Chúa, xin cho họ nhận được ánh sáng phục sinh Chúa và ân sủng cùng lòng thương xót của Chúa trong nếp sống mới!
Thánh Phaolo trong cuối thư thứ hai gửi Giáo đoàn Côrinthô đã viết những lời cầu chúc gói trọn trong tâm tư:
„ Ngoài ra, thưa anh em, anh em hãy vui mừng và gắng nên hoàn thiện. Hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí và ăn ở thuận hoà. Như vậy, Thiên Chúa là nguồn yêu thương và bình an, sẽ ở cùng anh em.
Anh em hãy hôn chào nhau cách thánh thiện. Mọi người thuộc dân thánh ở đây gửi lời chào anh em. Cầu chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô, đầy tình thương của Thiên Chúa, và ơn hiệp thông của Thánh Thần. A-men.“.
Năm mới 2020 đang tiến dần vào với đất trời, vào với đời sống con người trên trần gian. Không ai chúng ta biết trước được đàng sau cánh cửa sẽ diễn biến xảy ra như thế nào. Tất cả còn ẩn dấu và đang chờ đợi chúng ta. Năm mới mọi sự còn mới, và dần dần trong thời gian sẽ khai mở ra trong cùng cho đời sống con người.
Chúng ta với lòng tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa, và sự lạc quan tâm niệm nói lên rằng: Xin hân hoan chào đón Năm Mới 2020 đến.
Và xin cầu chúc ân sủng của Chúa, sức khoẻ niềm vui và bình an cho nhau!
Chúc mừng Năm Mới 2020
Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
Thư Noel
- Viết bởi Lm. Phêrô Huỳnh Thế Vinh
Trong một dịp lễ Giáng sinh, Cảnh sát thành phố Los Angeles ở Mỹ đã từng lùng sục mọi hang cùng ngõ hẻm tối tăm để tìm một em bé tên Thad.
Vì người ta đã nhận được bức thư em gửi cho Ông Già Noel như sau:
“Thưa Ông già Noel, Giáng Sinh này xin ông giúp đỡ bố mẹ con. Bố con không còn đi làm nữa. Bây giờ nhà con không có nhiều thức ăn. Mẹ con phải cho chúng con ăn những thức ăn đáng lẽ mẹ ăn…
Con muốn được lên trời để ở chung với các thiên thần. Ông mang con lên trời nhé. Bố mẹ con sẽ không phải mua thức ăn cho con nữa. Điều đó sẽ làm cho bố mẹ con sung sướng. Và xin Ông cũng mang cho bố con một chỗ làm và một ít thức ăn nữa.
Con sẽ không ngủ đâu. Khi Ông cho bố con một việc làm và cho mẹ con một ít thức ăn, con sẽ đi với Ông và bảy con tuần lộc… Con gửi lời chúc Giáng Sinh vui vẻ đến Bà Noel và các chú lùn nữa”.
Ký tên: Thad.
Kết quả sau nhiều ngày tìm kiếm là số không, vì trong thư em không để lại một chút manh mối nào. Tuy nhiên, bức thư trên đã được lan truyền trên các phương tiện truyền thông. Đọc được bức thư đó, nhiều người ở Mỹ và Canada đã góp tiền và thực phẩm để gửi đến “Cơ quan Bảo vệ Trẻ em Thành phố”. Và qua cơ quan này, nhiều gia đình nghèo và trẻ em đường phố nhận được những món quà hữu ích trong dịp giáng sinh.
Bạn thân mến!
Có lẽ, mọi người sẽ không bao giờ tìm thấy em Thad đích thực, nhưng họ có thể tìm thấy rất nhiều em Thad khác xung quanh họ, vì em Thad là hiện thân của rất nhiều trẻ em và gia đình nghèo đói trên trái đất này. Không chỉ vậy, em chính là hiện thân của Chúa Giêsu hài đồng trong thời đại hôm nay.
Khi xưa Chúa Giêsu cũng sinh ra trong cảnh nghèo hèn và bị loại trừ ra bên lề xã hội như bao trẻ em và gia đình đói khổ ngày nay. Người ta đã xua đuổi Ngài, Ngài có thể ở bên cạnh, và trước cửa nhà của ta.
Mùa giáng sinh, mùa Chúa đến với ta, nhưng ta không thể gặp được Chúa nếu ta đã không gặp cho được Ngài trong cuộc sống qua một khuôn mặt của một ai đó, như khuôn mặt của các em bé mồ côi, khuôn mặt của những ông già, bà cụ cô thân cô thế, khuôn mặt của những con người ốm đau, bệnh tật, của những người nghèo đói, của những người bị bỏ rơi, bị loại trừ, và thiếu vắng tình thương… khuôn mặt đó, có thể là những người thân của ta, họ cũng đang cần một sự quan tâm, cảm thông, một sự hỏi thăm hay chăm sóc từ nơi ta.
Lạy Chúa, Chúa là Đấng Cao Cả, Vinh Quang Chúa, cả trời đất này cũng không chứa nỗi, nhưng Chúa đã hạ mình trở nên những người bé nhỏ xung quanh chúng con, và Chúa đã phán: Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy. Xin cho chúng con biết nhận ra Chúa nơi những người xung quanh chúng con, biết yêu thương và phục vụ mọi người như phục vụ Chúa vậy. Amen.
Lm. Phêrô Huỳnh Thế Vinh
Nguồn: hdgmvietnam.com