Chúa Giêsu Kitô trở về trời
- Viết bởi Dân Chúa
Hằng năm Giáo Hội Công giáo mừng lễ Chúa Giêsu Kitô trở về trời sau khi ngài sống lại từ cõi chết được 40 ngày tính từ ngày Chúa nhật lễ Phục sinh. Vì thế lễ Chúa Giêsu về trời luôn luôn vào ngày thứ năm trong tuần.
Theo Kinh Thánh thuật lại nơi sách Công vụ các Tông đồ 1,1-11:
: "Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt,8 nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất."
9 Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa.10 Và đang lúc các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Người đi, thì bỗng có hai người đàn ông mặc áo trắng đứng bên cạnh11 và nói: "Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.“( CV 1,7-11).
Trên ngọn núi Sinai Thiên Chúa hiện xuống ban truyền 10 điều răn làm căn bản cho đức tin vào Thiên Chúa, và sự tương quan liên kết giữa Thiên Chúa với con người và ngược lại. Trong ý nghĩa đó, núi Sinai là nơi chốn của lòng suy niệm về Thiên Chúa.
Từ trên ngọn núi vùng Galilea Chúa Giêsu phục sinh trở về trời bên Đức Chúa Cha sau quãng đời 33 năm sinh sống trên trần gian đã hoàn thành sứ mạng rao truyền tình yêu ơn cứu độ Thiên Chúa cho con người. Ngọn núi Chúa Giêsu về trời là nơi chốn phản tỉnh ôn nhớ lại đời sống, lời giảng dạy và công việc Chúa Giêsu Kitô đã thực hiện trên trần gian.
Từ trên ngọn núi Chúa Giêsu trở về trời, các Tông đồ, Hội Thánh được chính Chúa Giêsu Kitô sai đi truyền giáo:“ Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy ra đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế,“ (Mt 28, 18-20.)
Trên đỉnh núi cây dầu thuộc khu phố cổ Jerusalem, các tín hữu Chúa Giêsu Kitô thuở ban đầu đã dùng một hang động tụ họp mừng nhớ kỷ niệm Chúa Giêsu về trời. Vào năm 387 một người Roma đạo đức tên là Poimenia đã dâng cúng cho xây dựng một nhà nguyện trên đó. Ngôi nhà thờ này bị quân BaTư dưới thời Chosrau II. năm 614 xâm chiếm tàn phá.
Trong dòng thời gian thế kỷ 7. một ngôi nhà thờ khác được xây dựng mới lại trên nơi đó, trong đó có dấu vết bàn chân Chúa Giêsu còn in trên mặt đất. Có lẽ ngôi nhà thờ này dưới thời Kalifat Al-Hakim năm 1009 đã bị tàn phá.
Đạo binh Thập Tự đã xây dựng lại trên tầng trệt của ngôi nhà nguyện ngày nay vào năm 1150, có dấu vết chân Chúa Giêsu Kitô sâu lõm khắc bằng đá hình chữ nhật trên nền nhà nguyện.
Người Hồi giáo dưới sự lãnh đạo của Saladin sau khi chiếm Jerusalem đã biến ngôi nhà nguyện này thành Moschee Hồi giáo - thánh đường Hồi giáo vào năm 1187.
Vào thế kỷ 1. sau Chúa giáng sinh Giáo hội thời sơ khai mừng lễ Chúa Giêsu Kitô trở về trời chung với lễ mừng Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống. Lý do có sự liên hệ sát gần giữa hai biến cố trọng đại sống lại và sai gửi Chúa Thánh Thần xuống.
Tuy nhiên lễ mừng Chúa Giêsu trở về trời trong suốt dọc thế kỷ 4. được dần phát triển trở thành một ngày lễ riêng biệt như trong bản tường thuật của một người hành hương tên là Egiria năm 383-384 đã nói đến phụng vụ ngày lễ này ở Jerusalem.
Trong kinh Tin kính ngày nay chúng ta đọc tuyên xưng có câu tuyên tín: „ Người lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha“.
Lời tuyên xưng đức tin này đã có sớm từ thời xưa, như nơi các vị Giáo phụ Polykarpo thành Smynra, vịn tử đạo Justino và Giáo phụ Ireneus thành Lyon.
Lời Tuyên xưng Chúa Giêsu trở về trời bên Giáo Hội Roma có từ thời Công đồng Nicaea năm 325 và Công đồng Niceno-Konstantino năm 381:
„ Ngài sống lại ngày thứ ba như lời Thánh kinh.,và lên trời Ngài ngự bên hữu Đức Chúa Cha và sẽ lại đến trong vinh quang, để phán xét kẻ sống và kẻ chết, nước Người sẽ không bao giờ cùng tận.“
Từ năm 379 lễ Đức Chúa Giesu trở về trời, hay còn gọi là lễ Chúa Giêsu thăng thiên được mừng kính trọng thể 40 ngày sau lễ Đức Chúa Giêsu sống lại, và 10 ngày trước lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Lễ Đức Chúa Giêsu Kitô về trời như những lễ mừng Chúa Giêsu sống lại và lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống là những ngày lễ thay đổi ngày tháng theo từng năm.
Lễ mừng kính Chúa Giêsu Kitô về trời theo phụng vụ Giáo hội Công Giáo, Giáo Hội Chính Thống giáo, và Giáo hội Anh giáo là ngày đại lễ.
Theo tập tục đạo đức xa xưa , ba ngày trước lễ Chúa Giesu về trời là ba ngày rước kiệu cầu nguyện cho mùa màng được mưa thuận gío hoà, được mùa hoa trái, cầu bình an cho mọi người. Tập tục này có từ thế kỷ 4. trong Giáo hội Công gíao. Đến thế kỷ 7. dưới thời Đức Giáo hoàng Gregor cả tập tục này được lan truyền rộng rãi trong khắp cả Giáo hội Công giáo hoàn cầu. Nhưng từ 1969 theo luật cải tổ Phụng vụ, tập tục rước kiệu cầu mùa bị bãi bỏ. Tuy nhiên một số nơi vùng thôn quê, hay trong khuôn viên nhà Dòng, tập tục đạo đức này vẫn còn được duy trì hằng năm vào ba ngày trước lễ Chúa Giêsu trở về trời.
Vào ngày mừng lễ Chúa Giesu lên trời trong dân gian theo văn hóa xã hội xưa nay bên các nước Âu Châu và Mỹ Châu có tục lệ mừng tưởng nhớ đến những người cha gia đình.
Tục lệ này có nguồn gốc từ bên xã hội Hoa Kỳ. Bà Louisa Dodd năm 1910 đã kêu gọi thành lập phong trào tưởng niệm tưởng nhớ đến những người cha đã hy sinh chiến đấu bỏ mình trong trận chiến nội chiến 1861-1865 bên Hoa Kỳ.
Năm 1924 Tổng Thống Hoa Kỳ Calvin Coolidge đã đưa ra lời công nhận và khuyên nên dành ngày lễ mừng tưởng nhớ đến những người cha gia đính ở nơi những tiểu bang đất nước Hoa Kỳ. Năm 1974 Tổng Thống Richard Nixon đã ấn định chính thức là ngày lễ nghỉ vào chúa nhật thứ ba trong tháng Sáu.
Mỗi xã hội đất nước tùy theo phong tục tập quán mừng ngày nhớ ơn các người cha cách khác nhau và vào thời điểm ngày tháng cũng khác nhau. Nhưng tựu trung để nhớ đến công ơn sinh thành hưỡng dục và lòng hy sinh của các người cha gia đình, như tập tục ngày hiền mẫu nhớ biết ơn các người mẹ.
Mừng lễ Chúa Giêsu về trời, như các Thánh Tông đồ xưa, con người chúng ta hướng lòng trí tâm hồn về trời, nơi Thiên Chúa ngự, nơi Chúa Giêsu Kitô về đó trước dọn chỗ cho chúng ta sau này cũng được về sống, khi con đường hành trình đời sống trên trần gian chấm dứt.
Trời là quê hương đích thật của con người chúng ta.
Mừng lễ Chúa Giêsu Kitô về trời, 21.05.2020
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
„Năm xưa cây sồi làng Fatima..“
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Fatima là một tỉnh nhỏ của nước Portugal thuộc vùng Vila Nova de Ourém, cách thủ đô Lissabon 130 cây vể hướng Bắc thuộc vùng Santarem. Diện tích thành phố Fatima vào khoảng 71 cây số vuông với dân số 10.000 người theo thống kê năm 2001.
Quân Mauren đã chiếm thống trị vùng Santarem và năm 1147 người Công giáo Portugal đã chiếm lại vùng này. Tên thành phố „Fatima“ ngày nay có lịch sử từ cuộc chiến nói trên. Theo lịch sử truyền lại, có tương truyền trong dân gian, Fatima là con gái của một vị hoàng tộc người Maure đến chiếm đóng vùng Santarem. Cô gái xinh đẹp được đặt tên Fatima là con gái thứ tư của Tiên tri Mahomed, người sáng lập đạo Hồi giáo.
Năm 1158 sau khi người Công giáo chiếm lại Santarem, người phụ nữ xinh đẹp này bị bắt cóc và đem giao nộp cho Ông Hoàng xứ Ourem. Tình yêu nảy nở giữa hai người, họ lấy nhau và cô ta chịu rửa tội gia nhập đạo Công giáo. Vì thế, tên Fatima sau này gia đình vị hoàng tộc đó đặt cho nơi này, nơi bà Fatima được an táng sau khi qua đời.
Tỉnh nhỏ Fatima trở nên thánh địa hành hương nổi tiếng khắp thế giới trong Hội Thánh Công gíao vì Đức mẹ Maria năm 1917 đã hiện ra ở nơi đây.
Fatima trở thành trung tâm hành hương lòng sùng kính Đức Mẹ Maria của nước Portugal và của Gíao Hội Công Giáo hoàn cầu. Mùa hành hương diễn ra từ tháng 05. tới tháng 10. Hằng ngày trong thời gian này đều có buổi lần hạt mân côi vàoi buổi tối, rước kiệu Đức Mẹ Fatima với nến cháy sáng hát bài Ave Maria theo cung điệu của Fatima nước Portugal lúc 21.00 giờ rất lung linh huyền nhiệm.
- Đức mẹ Maria hiện ra ở Fatima
Ở khu rừng đồi làng Fatima trước khi Đức mẹ hiện ra với ba em nhỏ chăn chiên cừu năm 1917 ở thôn Alijustrel, Thiên Thần năm 1916 đã hiện ra dạy cho các em biết cầu nguyện, cho các em rước lễ.
Đức mẹ đã hiện ra với ba em Lucia 10 tuổi, Phanxico 9 tuổi và Jacinta 7 tuổi tất cả 6 lần vào các ngày 13. từ tháng Năm đến tháng Mười 1917. Riêng hiện ra lần thứ tư không vào ngày 13.08., nhưng vào ngày 19.08.1917, vì hôm 13.08. 1917 ba em em bị nhà cầm quyền Vila Nova de Ourem bắt giam trong ba ngày.
Khi hiện ra với ba em, theo lời ba em thuật lại „ Bà đã hiện ra nơi cây sồi“ ở Cova da Iria . Bây giờ nơi thánh địa đó một nhà nguyện được xây dựng năm 1919 bên cạnh có cây sồi to lớn rào kín chung quanh làm di tích kỷ niệm biến cố lịch sử năm xưa. Nơi ngôi nhà nguyện mái bằng nhỏ đơn sơ này chung quang không có tường vách, hằng ngày đều có Thánh lễ mừng kính Đức Mẹ, có bức tượng Đức Mẹ Fatima. Từ sáng sớm tới chiều tối các đoàn hành hương các dân tộc có thể đến xin dâng lễ riêng cho đoàn mình nơi ngôi nhà nguyện lịch sử này.
- Sứ điệp Đức mẹ Fatima
Khi hiện ra Đức mẹ nói với ba trẻ:“ Ta muốn các con tiếp tục lần chuỗi mân côi mỗi ngày cho những người tội lỗi. Hãy hy sinh cầu nguyện cho nhữnng người tội lỗi với lời nguyện: „Lạy Chúa, con xin dâng việc hy sinh này vì lòng mến Chúa cho kẻ có tội ăn năn trở lại, và để đền tạ những sự xúc phạm đến trái tim vẹn sạch Đức mẹ“. Ta muốn các con dâng mình cho trái tim vẹn sạch của ta, và rước lễ đền tạ mỗi thứ bảy đầu tháng. Nếu các con nghe lời Ta, nước Nga sẽ trở lại, thế giới sẽ được hòa bình. Nếu không, nước Nga sẽ phổ biến các sai lầm trên toàn thế giới gây ra chiến tranh và bách hại Giáo hội, nhiều người tốt lành sẽ bị chết vì đạo, đức thánh cha sẽ phải đau khổ nhiều, nhiều quốc gia sẽ bị tiêu diệt, Nhưng sau cùng trái tim mẹ sẽ thắng.“.
- Ba trẻ được Đức Mẹ hiện ra
Đức Thánh Cha Phanxico đã hành hương sang Fatima dịp kỷ niệm 100 năm Đức mẹ hiện ra ở Fatima năm 2017. Ngài đã cùng toàn thể khách hành hương lần chuỗi mân côi, dâng thánh lễ Misa cầu nguyện cho hòa bình trên thế giới.
Và dịp này ngài phong lên hàng Hiển Thánh cho hai trẻ Phanxico và Jacinta, mà ngảy xưa đã được chứng kiến nhìn xem cùng nghe tiếng nói của Đức mẹ Maria, vào ngày 13. Tháng Năm 2017 dịp mừng kỷ niệm có một không hai này.
Thánh trẻ Phancico Marto sinh ngày 11.06.1908 ở Aljustrel, qua đời ngày 04.04.1919 ở Aljustrel Fatima. Trước hết thi hài em được an táng nơi nghĩa trang Fatima, và được cải táng đưa vào Vương cung Thánh Đường Fatima ngày 13.03.1952 cạnh bàn thờ Chúa Thánh Thần.
Thánh trẻ Jacinta Marto sinh ngày 11.03.1910, qua đời ngày 20.02.1920 ở bệnh viện Lissabon. Thi hài được an táng ở Vila Nova de Ourem cho đến ngày 12.09.1935. Sau đó được cải táng đưa về nghĩa trang Fatima, và lại được cải táng đưa vào Vương cung thánh đường Fatima cạnh bàn thờ Truyền tin.
Hai em đã được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ nhị phong lên hàng Chân phước ngày 13. Tháng Năm 2000 ở Fatima, dịp ngài sang hành hương lần thứ ba kính viếng và tạ ơn Đức mẹ Fatima đã cứu sống ngài thoát chết khi bị ám sát vào đúng ngày 13.05. 1981 ở Vatican.
Nữ tu Lucia, Lucia de Jesus dos Santos, sinh ngày 22.03.1907 ở Aljustrel Fatima, qua đời ngày 13. 02. 2005 ở Coimbra. Sau khi được Đức Mẹ hiện ra ở Fatima, năm 1948 Chị Lucia vào dòng kín Carmel ở Coimbra sống đời tu trì trong nhà Dòng kín cho tới khi qua đời.
Ngày 15.02.2005 ngày an táng Nữ tu Lucia toàn thể nước Portugal để tang là ngày quốc táng để vinh danh Chị nữ tu trong lịch sử nước Portugal vào năm 1917 đã được Đức mẹ hiện ra ở Fatima. Và ngày 19.02.2006 thi hài Vị Nữ tu Lucia đưa cải táng đem về an táng trong Vương cung Thánh đường Fatima bên cạnh hai vị Thánh trẻ Jacinta và Phanxico.
Và tiến trình phong Thánh cho Nữ tu Lucia đang trong giai đoạn lập dự án theo như luật Giáo Hội ấn định.
- Hành hương kính viếng Đức Mẹ Fatima
Suốt dọc thời gian từ hơn 100 năm nay, hàng triệu người trên khắp thế giới trong suốt cả năm kéo về thánh địa Fatima hành hương kính viếng Đức Mẹ, dâng thánh lễ, lần hạt đọc kinh cầu khấn.
Cung cách sống đạo hành hương bình dân thôi, nhưng thể hiện đức tin sống động vào Chúa qua việc sùng kính lòng yêu mến tôn kính Đức mẹ là mẹ Thiên Chúa.
Đức Thánh Cha Phanxico đã có tâm tình về ý nghĩa hành hương: ”Hành hương là một lòng đạo đức bình dân, là một hình thức chân thực loan báo Tin Mừng, luôn luôn cần được cổ võ và đề cao giá trị. Tại các đền thánh, tín hữu sống một linh đạo sâu xa, một lòng đạo đức từ bao thế kỷ đã nhào nặn đức tin với những lòng sùng mộ đơn sơ nhưng rất có ý nghĩa”.
”Trong thực tế, người hành hương mang trong mình lịch sử riêng, đức tin với những điểm sáng điểm tối của cuộc đời. Mỗi người mang trong con tim ước muốn đặc thù và một kinh nguyện riêng... Đền thánh thực sự là một môi trường ưu tiên để gặp gỡ Thiên Chúa và đụng chạm đến lòng thương xót của Chúa.”
Hằng tháng vào những ngày 12. và 13. là những ngày cao điểm mùa hành hương, nhất là từ tháng Năm tới tháng Mười.
Vào chiều tối ngày 12. hằng tháng vào lúc 21.00 giờ lần hạt kính Đức mẹ bằng các ngôn ngữ được chọn, sau đó hàng trăm ngàn Gíao dân tay cầm nến cháy sáng cùng với đoàn kiệu có Vị Hồng Y , các Giám mục và hàng trăm Linh mục mặc phẩm phục trắng rước kiệu Đức mẹ Fatima vòng sân công trường Fatima đến lễ đài cuối Vương cung thánh đường Fatima dâng thánh lễ mở đầu đêm canh thức hành hương tới khuy nửa đêm.
Sáng ngày 13. hằng tháng ngày hành hương kỷ niệm Đức mẹ hiện ra vào lúc 09.00 giờ lần hạt ở ngay ngôi nhà nguyện, nơi Đức mẹ hiện ra năm 1917 bên cạnh cây sồi lịch sử, sau đó rước kiệu Đức mẹ ra ngoài công trường như hồi đêm canh thức, dâng thánh lễ đại trào kính Đức Mẹ. Sau Thánh lễ có Chầu Thánh Thể, ban phép lành cho các bệnh nhân và rước kiệu từ giã Đức Mẹ kết thúc ngày hành hương vào khoảng 12.00 giờ trưa.
Hằng ngày tối nào cũng có lần hạt rồi rước kiệu Đức Mẹ với cây nến cháy sáng trên tay, theo con đường đường kiệu nhỏ ngắn thôi với khoảng vài trăm cho tới một ngàn người ở công trường Fatima, và kết thúc với phép lành xin Chúa nhờ lời bầu cử của Đức mẹ Fatima ban cho được ngủ bằng an.
Ngôi Vương cung thánh đường kính Đức Mẹ Fatima cũ Basilica Antiga, được xây năm 1928, tháp chuông cao 56 mét, trên nóc tháp có triều thiên vĩ đại bằng đồng nặng 07 tấn, Trong nhà thờ có mộ của hai Thánh trẻ Phanxicô, Jaxinta và Lucia.
Càng ngày càng trở nên nhỏ với số lượng khách hành hương từ khắp nơi trên thế giới tuôn kéo đổ về. Vì thế một ngôi vương cung thánh đường kính Chúa ba ngôi -Igreja da Santissima Trindade- mới đã được xây cất thêm, và ngày 12.10. 2007 đã được thánh hiến khánh thành dưới thời Đức giáo hoàng Benedictô XVI..
Ngôi thánh đường mới ở cuối quảng trường Fatima đối diện với Vương cung thánh đường cũ ở phía đàng cuối công trường. Ngôi thánh đường mới này có chu vi rộng 125 mét, có chỗ ngồi cho gần 9000 người trong lòng nhà thờ, cổng chính mang tên Chúa Giêsu với 64 mét vuông, chung quanh có 12 cửa ra vào với tên của 12 Thánh Tông Đồ.
Đây là ngôi thánh đường lớn thứ tư trên thế giới của Giáo Hội Công Giáo được xây cất vào thế kỷ thứ 21. Trong ngôi thánh đường này có nhiều nhà nguyện nhỏ khác nhau cho những nhóm hành hương muốn dâng lễ riêng.
Bên cạnh quảng trường Thánh địa Fatima có Bảo tàng viện trưng bày những di tích kỷ vật về Fatima, đặc biệt có triều thiên Đức Mẹ với viên đạn đã bắn làm bị thương Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolo đệ nhị năm 1981. Triều thiên này vào những ngày 12. và 13. từ tháng 05. tới tháng 10. được đội lên tượng Đức Mẹ Fatima đem ra rước kiệu.
Khu chặng đàng Thánh gía nằm trong một khu rừng nhỏ. Cũng trong khu rừng này có địa điểm với bức tượng Thiên Thần hiện ra trao Mình Thánh Chúa cho ba trẻ.
Ở cuối chặng đàng Thánh Gía có nhà nguyện kính Thánh Etienne, do người tỵ nạn Công Giáo Hung gia Lợi dâng cúng năm 1964.
Ở ngoài bìa khu rừng đàng Thánh giá có hai ngôi nhà di tích lịch của gia đình ba trẻ ngày xưa đã sinh ra và lớn lên. Trong khu vườn phía sau có giếng nước, nơi đây Thiên Thần đã hiện ra với ba trẻ. Bn cạnh chung quanh giếng nước ngày xưa có tượng Thiên Thần và tượng ba trẻ bằng đá cẩm thạch mầu trắng.
Năm nay 2020 mùa đại dịch Corona truyền nhiễm lay lan nguy hiểm đe dọa sức khoẻ sự sống con người. Nên mọi hoạt động phải giới hạn ngưng đình trệ lại từ những ngày tháng qua trên toàn thế giới, nhất là ở Âu châu. Nên không có những cuộc hành hương rước kiệu tôn vinh Đức mẹ Fatima như những năm vừa qua. Trung tâm thánh điạ Fatima trở nên vắng vẻ trong không khí u buồn ảm đạm, vì không có bóng những đoàn người nào đến hành hương cầu nguyện.
Mọi người trên khắp thế giới trong dòng nước mắt đau khổ chỉ còn biết hướng trái tim tâm hồn về thánh điạ Fatima lần chuỗi mân côi khẩn khoản xin Đức Mẹ phù hộ cùng Thiên Chúa, cùng Chúa Giêsu Kitô ra tay cứu giúp thế giới cho có được bằng an mạnh khoẻ, có hòa bình trở lại, mau thoát khỏi cơn đại dịch lây lan đe dọa sức khoẻ cùng đời sống con người về mọi phương diện.
- Mầu trắng Fatima.
Thiên Thần hiện ra với ba trẻ dạy ba em cầu nguyện và cho các em rước lễ, Thiên Thần mặc áo mầu trắng.
Khi hiện ra với ba trẻ trên cây sồi ở Fatima Đức mẹ mặc áo trắng.
Và trong sứ điệp thứ ba của Fatima mà Nữ tu Lucia viết lại như lời Đức mẹ đã nói với chị đề cập đến „vị Giám mục mặc áo trắng“ bị ám sát.
Có lẽ vì thế những Thánh đường xây dựng ở khu thánh địa Fatima cũ cũng như mới tường vách đều bằng mầu đá thiên nhiên mầu trắng, bàn thờ nhà nguyện Đức mẹ hiện ra cũng bằng đá cẩm thạch mầu trắng, cả những trạm bàn thờ của 14 chặng đường thập gía Chúa Giêsu cũng xây dựng bằng đá mầu trắng.
Và trưa ngày 13. hằng tháng, sau thánh lễ hành hương kết thúc ngày hành hương, tượng Đức mẹ được khiêng rước từ lễ đài Vương cung thánh đường trở về nhà nguyện thánh địa, mọi người tay cầm khăn nhỏ mầu trắng giơ lên cao vẫy chào từ biệt khi kiệu Đức Mẹ đi ngang qua.
Thật là một quang cảnh đầy cảm động của lòng đạo đức bình dân thắm thiết tình mẹ con, và gợi lên làn không khí thi vị huyền nhiệm như một biển nước mầu trắng đang chuyển động hòa chung vào tiếng hát ca tụng chào biệt Đức Mẹ vang lên khắp cả bầu trời nắng buổi trưa giữa công trường rộng lớn.
Mầu trắng là mầu ánh sáng, chỉ về sự trong trắng và toàn vẹn. Khi một em bé nhận lãnh làn nước Bí Tích Rửa tội, tấm áo trắng được trao mặc cho em: chiếc áo trắng rửa tối. Và ngày sau cùng của đời sống người qua đời cũng được tẩm liệm mặc áo mầu trắng. Như thế có thể suy ra mầu trắng cho khởi đầu và cho sau cùng!
Và trong sách Khải Huyền của Thánh Gioan nói đến cảnh đoàn người mặc áo trắng đứng trước Con Chiên Thiên Chúa trên trời ( Kh 7,9).
Mầu trắng là mầu biểu hiệu của Đức mẹ Fatima, mẹ Chúa trời hiển vinh.
Nhớ về thánh điạ Đức Mẹ Fatima mùa đại dịch Corona, ngày 12. 13. Tháng Năm 2020
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Nụ cười ẩn dấu đàng sau chiếc khẩu trang
- Viết bởi Dân Chúa
Ngày Hiền mẫu, ngày nhớ ơn người mẹ, 10.05.2020, theo nếp sống văn hóa nơi một số quốc gia đất nước bên Âu Châu, diễn ra đúng vào thời gian mùa đại dịch Corona truyền nhiễm gây đe dọa sức khoẻ đời sống con người đang hoành hành trên khắp thế giới.
Vì thế nếp sống trong xã hội từ những ngày tháng qua bị giới hạn đình trệ, ưu tiên cho việc phòng chống vi trùng bệnh đại dịch Corona, ngăn cản không nó cho lây lan truyền nhiễm tiếp ra, nhằm gìn giữ bảo vệ sức khoẻ đời sống con người.
Và cũng vì thế, ngày văn hóa nhớ ơn những người mẹ trần gian năm nay tuy có vui mừng, nhưng vẫn có những lo âu dè dặt bất an lo cho sức khoẻ của mẹ và người con. Vì lúc này không còn được như những thời gian trong qúa khứ có đời sống thanh bình tự do mạnh khoẻ.
Bây giờ mẹ và con, ai cũng phải đeo chiếc khẩu trang, khi đi đến những nơi chung công cộng hay đi xe chung công cộng.
Xưa nay trong nếp văn hóa đời sống hằng ngày, người ta nhận diện một người theo hình dáng nơi khuôn mặt và đời sống cá nhân của người đó. Hai hình ảnh khía cạnh này đi đôi gắn liền với nhau.
Khuôn mặt một người biểu lộ về con người đó rõ nét, cùng không thể lẫn lộn với đặc điểm riêng của người đó với người khác, dù là song sinh. Khuôn mặt một người nói lên điều gì làm nên cá tính chân dung riêng biệt người đó.
Vì thế người nào đó bị cho là „mất mặt“, người đó không chỉ thua thiệt về dáng vẻ bên ngoài, nhưng còn bị thua mất cả sự kính trọng nhìn nhận là một con người, là một người có uy tín đức độ nữa.
Người nào tỏ ra có phong cách bản lĩnh riêng biệt, họ tỏa ra tư chất có sự gì đặc biệt riêng của họ nữa. Và như thế họ được chú ý để ý tới, cùng được trọng dụng.
Trên khuôn mặt một người đôi con mắt và môi miệng quan trọng hơn hết cùng lộ diện rõ hơn cả và là điểm tập trung kéo sự chú ý.
Trong khối đầu óc não của một người là nơi tập trung những cơ quan hệ trọng: Bộ phận của con mắt nhìn xem, bộ phận của đôi tai nghe, bộ phận của mũi ngửi, bộ phận của lưỡi nếm vị. Đôi vành môi bao che miệng lưỡi mở phát ra thành lời từ nơi miệng, và đàng sau vầng trán là khối bộ óc, từ nơi đó những tư tưởng ý nghĩ được đúc kết phát triển.
Theo luật lệ được Đấng Tạo Hóa sắp đặt tạo thành. Những cơ quan bộ phận này cùng chung hợp tạo thành nét riêng biệt của khuôn mặt, mà người ta có thể qua đó đọc nhận ra ý nghĩa thể hiện ra bên ngoài nơi khuôn mặt, như nếp nhăn nơi vầng trán, sự động đậy nơi hai bên sống mũi, hình thù tạo dáng di chuyển của môi miệng, vết mụn sưng hay chấm đỏ nơi vầng đôi má, cái nhìn vui vẻ thân thiện, hòa nhã bình an hay vội vàng hấp tấp lo lắng, bất an..
Những dấu hiệu thể hiện đó trên khuôn mặt của một người nói lên những gì họ suy nghĩ khi gặp cảnh ngộ, hay phản ứng của họ đối với người hoặc sự vật cùng quang cảnh đối diện.
Ngày nay vì bệnh đại dịch Corona lây lan truyền nhiễm gây đe dọa nguy hiểm sức khoẻ sự sống con người, nên bây giờ khi đi ra nơi công cộng vào cửa tiệm mua hàng hóa, đi xe công cộng, trong trường học…phải đeo khẩu trang để phòng chống ngăn ngừa vi trùng bệnh dịch Corona không cho truyền nhiễm bay qua đường hơi thở cùng nước bọt từ nơi miệng bắn ra thâm nhập vào thân thể người khác. Đây là cung cách giữ gìn sức khoẻ cho chính mình và cho người khác. Đó là việc bác ái rất tình người giữ vệ sinh y tế trong nếp sống chung xã hội.
Đeo khẩu trang bịt kín môi miệng xuống tới cằm cùng cả trên mũi gây khó chịu cùng không dễ dàng thở cho được thoải mái. Và như vậy cách liên lạc thông thương bằng lời nói bị hạn chế, vì môi miệng bị bịt kín. Môi miệng cùng hai cửa lỗ mũi bị bịt kín ẩn sau chiếc khẩu trang bằng vải.
Khẩu trang bịt kín như vậy gây ra tâm lý vừa không thoải mái, lại vừa lo sợ bất an nữa. Và cũng không thể nhìn đọc nghĩ suy đoán được nơi khuôn mặt người đối diện ta gặp có phản ứng ra sao nữa.
Dẫu vậy cũng còn đôi con mắt mở ra để nhìn và được nhìn thấy. Qua đôi con mắt không bị khẩu trang bịt kín, người ta còn nhận ra chút phản ứng tình cảm của người đối diện.
Chiếc khẩu trang mang trên mặt khiến người đeo nó trở thành một chút gì vô hình ẩn kín. Vì nụ cười trên môi miệng bị che dấu bịt kín. Nụ cười trước tiên phát tỏa ra từ cái nhìn của một cuộc gặp gỡ thân thiện giữa con người với nhau. Người ta có ví von nụ cười trao cho nhau khác gì chút ánh sáng mặt trời có sức ảo thuật mang đến sự ấm áp thân mật!
Con người chúng ta có suy nghĩ phản ứng như thế với nhau trong đời sống. Nhưng với Thiên Chúa thì thế nào?
Con người chúng ta ngày hôm nay trong mùa đại dịch Corona phải đeo khẩu trang bịt kín môi miệng và mũi làm nhớ tới lời Thiên Chúa chúc lành ghé mắt nhìn thẳng khuôn mặt con người:
"Nguyện ĐỨC CHÚA chúc lành và gìn giữ anh em!
Nguyện ĐỨC CHÚA tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em!
Nguyện ĐỨC CHÚA ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em! (DS 6, 24-26).
Như thế, con người luôn ở trước mặt Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, Đấng không ngoảnh mặt đi khỏi con người loài thụ tạo, không làm ngơ như không nhìn thấy tôi.
Con người tin rằng Thiên Chúa là Đấng hằng theo dõi để mắt nhìn cùng đồng hành với con người do Ngài sinh thành tạo dựng nên. Ngài chiếu sáng đường đời sống tôi như ánh nắng ấm từ nơi mặt trời tỏa xuống trên vũ trụ.
Và nhờ có ánh nắng hơi nồng ấm đó đời sống con người được phát triển sinh sống tươi tốt, mà những gì xem ra như héo tàn đang chết dần mòn.
Một đôi mắt nữa trong đời sống con người luôn nhìn thẳng đến con người. Đó là đôi mắt của người mẹ.
Ngay từ lúc người con mở mắt chào đời, và trong suốt dọc đời sống của người con, người mẹ luôn nhìn thẳng vào khuôn mặt con mình, dù sau này cả khi người con đã khôn lớn trưởng thành đi vào đời.
Ánh mắt người mẹ nhìn thẳng vào khuôn mặt người con mang lại cho người con tình tự yêu thương nồng ấm, sự an ủi vỗ về. Và nhờ đó người con có đời sống khoẻ mạnh, bình an và hạnh phúc. Ánh mắt chúc lành bình an.
Ánh mắt người mẹ nhìn thẳng vào khuôn mặt con mình, để mẹ hiểu nhận ra tín hiệu điều gì xảy ra nơi con mình, điều gì con mình cần, hay đang mong muốn trông chờ. Ánh mặt sự quan tâm lo lắng săn sóc.
Ánh mắt người mẹ không rời xa người con, dù người con ở xa hay đã qúa vãng. Vì trái tim tâm hồn người mẹ hằng nhớ nghĩ đến con mình. Ánh mắt tâm hồn tình mẫu tử.
Ánh mắt của người mẹ ẩn chứa điều bí ẩn huyền nhiệm. Nó tựa như tia nắng mặt trời chiếu tỏa mang đến hơi nồng ấm cho đời sống tâm hồn người con bừng lên niềm vui phấn khởi.
Ngày nhớ ơn mẹ mùa đại dịch Corona 10.05. 2020
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Tháng Năm, tháng hoa kính Đức mẹ Maria
- Viết bởi Dân Chúa
Trong nếp sống phụng vụ Giáo hội Công giáo, Chúa Giêsu Kitô là hình ảnh trung tâm cùng cao trọng của đời sống đức tin. Và sau Chúa Giêsu, hình ảnh Đức mẹ Maria cũng được sùng kính cách đặc biệt. Vì thế, Giáo hội dành tháng Năm hằng năm cho việc sùng kính Đức mẹ Maria.
Người tín hữu Chúa Kitô tin rằng đức mẹ Maria đã được Thiên Chúa tuyển chọn làm người mẹ sinh thành nuôi dưỡng Chúa Giêsu khi xưa ở trần gian. Nên đức mẹ Maria gần gũi cùng hiểu biết đời sống con người nhiều.
Và cũng tin rằng đức mẹ Maria khi xưa đã cùng với Chúa Giêsu, con mình, sống trải qua không chỉ những giai đoạn đời sống vui mừng thành công, mà còn nhiều hơn con đường gian nan đau khổ nữa. Nên đức mẹ Maria đã cùng chia sẻ thân phận nếp sống đó với con người trần gian.
Và bây giờ đức mẹ Maria trên trời là người chuyển lời cầu xin của con người trên trần gian đến trước tòa Thiên Chúa, trước Chúa Giêsu, con của mẹ. Và đức mẹ cũng là người bầu cử cho nữa.
Lòng sùng kính đức mẹ Maria có từ thời xưa. Ngay từ thế kỷ 01. sau Chúa giáng sinh những tín hữu chịu ảnh hưởng văn hóa Hylạp đã khơi lên phong trào lòng sùng kính đức mẹ Maria thay vì sống theo văn hóa Hylạp có tập tục đạo đức tôn sùng kính các vị nữ thần. Như thế các tín hữu này ngay vào thời Giáo Hội sơ khai đã „ rửa tội“ thành Kitô giáo hóa tập tục thờ kính vị nữ thần của dân ngoại thành phụng vụ văn hóa Công giáo hun đúc lòng sùng kính đức Mẹ Maria, mẹ Thiên Chúa.
Hình ảnh tượng về đức mẹ Maria cổ xưa nhất, và có gía trị cao nhất là hình ảnh tượng đức mẹ Maria được vẽ khắc mầu đen. Như hình ảnh tượng đức mẹ Maria đen sùng kính ở trung tâm hành hương Tschenstochau bên Polen, trung tâm hành hương đức mẹ Altoettingen bên Đức, trung tâm hành hương Loreto bên Ý, có nguồn gốc từ những nền văn hóa phát triển cao ở bên Aicập, ở vùng miền Mesopotamien bên Trung Đông.
Ở những nơi đó những hình tượng những vị nữ thần mầu đen , tượng trưng cho những người mẹ có năng sức sinh sản con cái nhiều, luôn là trung tâm của lòng tin như tâm tình lòng tôn thờ nơi tôn giáo thờ kính Isis.
Trong tất cả mọi tôn giáo tôn kính thờ nữ thần, phương diện tình cảm cùng cảm thông đồng hành của vị nữ thần luôn được nhấn mạnh trình bày ưu tiên rõ nét.
Lòng sùng kính đức mẹ Maria cũng mang sắc thái nữ tính trong bản tính Thiên Chúa, nói lên sự yêu thương săn sóc, tình liên đới và sự thông hiểu.
Công đồng Epheso năm 431 sau Chúa giáng sinh đã đề cao vị trí đặc biệt của đức mẹ Maria. Theo Công đồng , đức mẹ Maria được tôn kính là người mẹ Thiên Chúa. Đức mẹ Maria không chỉ là người mẹ đã sinh thành Chúa Giêsu, nhưng là người mẹ của Thiên Chúa.
Sự sùng kính đức mẹ Maria lan rộng khắp nơi vượt mọi biên giới. Trong năm phụng vụ, Giáo hội Công giáo có tới 30 ngày lễ kính và ngày lễ nhớ sùng kính đức mẹ Maria. Rồi ngoài ra còn dành riêng tháng Năm cho việc sùng kính, đức mẹ Maria. Và từ thế kỷ 19. còn có thêm tháng Mười hằng năm nữa cho việc lần hạt đọc kinh Mân côi tôn sùng đức mẹ Maria.
Trong mọi hoàn cảnh đời sống, xưa nay người tín hữu Chúa Giêsu Kitô đều hướng tâm hồn, chạy đến cầu khấn xin đức mẹ Maria phù giúp nguyện cầu cho, nhất là những khi gặp phải hoàn cảnh bị thiên tai, bị bệnh dịch đe dọa, bị bệnh nạn, những bước đường gian nan khốn khó.
Đó đây khắp nơi ở những trung tâm hành hương kính đức mẹ maria như bên Lourdes, bên Fatima, ở Tschenstochau bên Polen, bên Loreto ở Ý, thánh địa Lavang bên Việt Nam, thánh địa Banneux bên Bỉ, trung tâm hành hương Keverlae, Altoettingen bên Đức, trung tâm Lazarette bên Pháp…đều có những tấm bia ghi lại lời tạ ơn treo gắn nơi những bức tường chung quanh đền thờ. Những bức bia tạ ơn này là tâm tình của những người đã nhận được ơn đức mẹ Maria phù hộ và được Thiên Chúa ban ơn chữa lành.
Mùa đại dịch Corona 2020, đức giáo hòang Phanxico đã kêu gọi mọi tín hữu trên khắp hoàn cầu trong tháng Năm sùng kính đức mẹ lần hạt Mân côi xin đức mẹ Maria cầu bầu cùng Chúa ban ơn chữa lành cho nhân loại mau thoát cơn đại dịch lây lan nguy hiểm đe dọa sức khoẻ sự sống con người trong mọi lãnh vực đời sống.
Từ năm 2006, hằng năm vào Chúa nhật thứ hai trong thánh Năm, tháng hoa kính đức mẹ Maria, người tín hữu Công giáo Việt Nam ở những quốc gia đất nước vùng Trung Âu Châu kéo về thánh địa đức mẹ Banneux hành hương cầu xin khấn nguyện.
Đoàn giáo dân rước kiệu cung nghinh Đức mẹ Banneux đến cầu khấn nơi dòng suối nước, nơi ngày xưa vào năm 1933 đức mẹ đã hiện ra dẫn cô Mariette Becco đến đây bảo “ Con hãy nhúng tay vào dòng suối nước này dành cho mọi dân tộc!”.
Rồi rước kiệu đi vào ngôi thánh đường Đức mẹ của người nghèo bên thánh địa Banneux, dâng thánh lễ Misa mừng kính Đức mẹ. mẹ Chuá trời
Thật là một bầu khí đạo đức thánh thiêng cùng rất cảm động trong vui mừng hân hoan. Năm nay Chúa nhật ngày 10.05.2020 không thể diễn ra quang cảnh hành hương của người Công Giáo Vịệt Năm như những năm trước được. Từ những ngày tháng qua bệnh đại dịch Corona truyền nhiễm đe dọa sức khoẻ sự sống con người trên toàn thế giới. Vì thế cuộc hành hương không thể thực hiện được như dự định mong muốn.
Năm nay không thể sang thánh địa Banneux hành hương kính đức mẹ Maria theo như tập tục có xưa nay. Nhưng người tín hữu Chúa Giêsu Kitô không vì thế mà giảm sút lòng yêu mến sùng kính đức mẹ Maria.
Trái lại càng ý thức hiểu rõ hơn sự nghèo nàn giới hạn đời sống con người. Và vì thế, họ với tâm tình lòng yêu mến kêu xin Đức mẹ Banneux, Đức mẹ của người nghèo, phù hộ cùng Thiên Chúa ban ơn cứu giúp cho được bằng an mạnh khoẻ, cùng với ý chí kiên nhẫn chịu đựng những thử thách nghịch cảnh trong đời sống, và mau được thoát khỏi cơn bệnh đại dịch đe dọa lúc này.
Như Đức Giáo Hoàng Phaxixicô có lời kinh tâm tình cầu khấn cùng đức mẹ:
„Lạy Mẹ rất yêu dấu, xin làm cho mọi người trên thế giới được gia tăng cảm thức mình cùng thuộc về một đại gia đình duy nhất, ý thức về mối liên hệ nối kết tất cả mọi người, để với tinh thần huynh đệ và liên đới, chúng con trợ giúp bao nhiêu người đang sống trong nghèo đói và lầm than. Xin khuyến khích sự kiên vững trong đức tin, bền chí trong phục vụ và liên lỉ trong cầu nguyện.
Lạy Mẹ Maria, Đấng An ủi những người đau khổ, xin ôm lấy các con cái đang gặp hoạn nạn của Mẹ và xin Chúa can thiệp bằng bàn tay quyền năng của Người để giải thoát chúng con khỏi đại dịch khủng khiếp này, để đời sống bình thường có thể trở lại trong thanh bình.
Chúng con phó thác cho Mẹ, Đấng chiếu sáng trên hành trình của chúng con như dấu chỉ của ơn cứu độ và hy vọng, ôi khoan thay, ôi nhân thay, ôi Đức Trinh Nữ Maria dịu hiền. Amen.“ ( Đức giáo hoàng Phanxicô)
Hướng về Đức mẹ Banneux
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Đôi tai thính giác.
- Viết bởi Dân Chúa
Thiên Chúa tạo dựng thú vật và con người trong công trình sáng tạo theo như Kinh thánh diễn tả thuật lại ( St 1,1-31) có sự sống và các cơ quan thân thể. Mỗi thứ giống loại đều có thân xác hình thể cơ quan tương xứng hợp với giống loài đó. Một trong những cơ quan hệ trọng là đôi tai để nghe.
Đôi tai được Đấng Tạo Hóa tạo dựng theo một cấu trúc như chiếc cần ăng-ten thu hút làn sóng âm thanh bên ngoài, nó được gắn liền nơi hai bên phải và trái phần thủ cấp (đầu) của thân thể con người cũng như của loài thú động vật.
Đôi tai không chỉ hệ trọng cho sự sống được phát triển, nhưng còn tạo ra sự cân bằng, nét đẹp hài hòa cho thân thể nơi người cùng nơi thú động vật nữa.
Ngoài ra, đôi tai còn có chức năng điều hòa sức sống vị trí của thân thể được thăng bằng không bị nghiêng lệch chao đảo. Nên khi đôi tai, ít là nơi con người, bị bệnh có vấn đề không nghe được, hay nghe không rõ, sẽ gây ra sự choáng váng chóng mặt cho người đó.
Đôi tai để nghe bắt làn sóng, nhưng hệ thần kinh nhỏ li ti của đôi tai nằm ẩn sâu bên dưới làn da sàng lọc những âm thanh, tiếng động được thu nhận vào. Vì thế ngay nơi một em bé mới sinh ra, mắt chưa nhìn rõ, nhưng em đã có đôi tai nghe thật thính diệu kỳ. Em phân biệt được tiếng cha mẹ em, nhất là tiếng của người mẹ. Em nhận ra tiếng mẹ em ngay, cho dù mẹ em còn ở xa em.
Người lớn thanh thiên thiếu nữ bạn trẻ, ngay từ lúc họ yêu nhau, tìm gặp được nhau rồi thành lập gia đình với nhau, họ cũng có đôi tai thính với nhau. Họ thính tai nhận ra tiếng của nhau rất nhạy , dù người bạn đường chỉ nói nhỏ hoặc ngắn. Họ bắt được làn sóng âm thanh tiếng nói của nhau rất bén nhậy.
Khả năng nhậy cảm của đôi tai không chỉ nơi con người, mà còn cả nơi thú động vật nữa. Những con thú vật ngay từ lúc nhỏ thơ bé đã có khả năng nhận ra tiếng của mẹ nó rồi.
Khả năng nhậy bén của đôi tai nghe bắt được âm thanh làn sóng tiếng động quen biết cùng tinh vi nhỏ nhẹ đó, gọi là trực giác. Khả năng trực giác đó mang lại cho người cùng thú vật sự bình an hạnh phúc mạnh khoẻ, vì cảm nhận mình được tin tưởng, được gìn giữ bảo vệ yêu thương, hay đoán biết trước nguy cơ để đề phòng.
Chúa Giêsu dùng hình ảnh đoàn chiên thú vật có đôi tai thính giác nhậy bén nhận nghe ra tiếng của người chăn dắt chúng ra đồng cỏ kiếm thức ăn nuôi sống:
„ Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra.4 Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh.“ ( Ga 10, 3-4)
để nói về mối tương quan mật thiết tràn đầy sự tin tưởng giữa người Mục Tử nhân lành, như cha mẹ và con cái mình. Hình ảnh nầy Chúa Giêsu muốn nói đến chính Ngài là người mục tử nhân lành chăm lo đến đời sống tinh thần của đoàn chiên con người. Người Mục tử nhân lành có đôi tai thính gía nhậy bén cho đoàn chiên của mình, và đoàn chiên cũng có đôi tai thính nhậy bén phân biệt nhận ra tiếng của người chăn dắt săn sóc chúng. Và chúng đi theo sự hướng dẫn của chủ chúng.
Thật là một hình ảnh chan chứa tình tự yêu thương của một bầu không khí nếp sống bình an, vui vẻ khoẻ mạnh.
Trong đời sống chúng ta ai cũng mong muốn có được không khí nếp sống như vậy. Nhưng để có được đôi tai thính giác nhậy bén, con người cần được giáo dục huấn luyện khởi đầu từ nơi cha mẹ. Con người cần có cha mẹ để tâm lắng nghe con mình. Từ mẫu gương tình yêu thương để tai lắng nghe của cha mẹ, chúng ta học được nếp sống có đôi tai thính giác nhậy bén cho người khác, cho môi trường sống chung quanh.
Những tiếng nói yêu thương vỗ về, những lời an ủi khuyến khích đầy niềm tin tưởng góp phần rất lớn cùnng hệ trọng làm cho đôi tai thính giác trở nên nhậy bén.
Đoàn chiên cảm nhận được bình an trên đồng cỏ thức ăn cho đời sống. Vì được người chăn đắt dẫn đến chỗ có lương thực cần thiết cho đời sống.
Trong phúc âm , Chúa Giêsu, hình ảnh người Mục Tử nhân lành, đoan hứa ban cho nhiều hơn chỉ là thức ăn nơi đồng cỏ xanh tươi.
Trong đời sống con người chúng ta không chỉ cần có lương thực thức ăn tươi tốt cho thân xác bao tử được no đầy, cùng cần thiết. Nhưng họ còn cần nhiều hơn nữa để có đời sống được bình an, có niềm vui hạnh phúc.
Con người cần nhiều hơn tình yêu thương săn sóc của người khác cùng đồng hành sát cánh bên cạnh trong mọi hoàn cảnh.
Họ cảm thấy bình an hạnh phúc khi nghe được những tiếng nói tích cực tốt đẹp, khơi vực dậy lòng can đảm.
Tiếng nói nhỏ nhẹ, chan hòa tình yêu thương trong tâm hồn phát tỏa từ Thiên Chúa, Đấng sinh thành, chăm sóc nuôi dưỡng con người, để cho họ tìm được đồng cỏ xanh tươi bình an cho đời sống.
Con người cần có đôi tai thính giác nhậy bén cho những tiếng nói đó.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Covid-19 và hy vọng của ngày mai
- Viết bởi Văn Ngữ, SJ - CTV Vatican News
Covid-19 và Hy Vọng Của Ngày Mai
Trong cuốn sách nhỏ “Người Chữa Lành Vết Thương”[1] (The Wounded Healer), Henri J. M. Nouwen cho thấy vai trò của niềm hy vọng trong đời sống. Những khi phải đối diện với lưỡi hái tử thần, con người sẽ cảm nghiệm rõ hơn về tầm quan trọng của niềm hy vọng.
Có nhiều người lính đã sống sót trở về từ những trận chiến khốc liệt và đầy nguy hiểm. Họ cảm thấy rằng trong cuộc chiến, sự sống sót chẳng khác nào ngàn cân treo sợi tóc. Những lần thoát chết trong gang tấc, họ nhận ra rằng điều kỳ diệu ấy đã xảy ra nhờ vào niềm hy vọng của “ngày mai”. Cái ngày mai chỉ đơn giản là hy vọng được trở lại với cuộc sống thường ngày, được trở về nhà. Ở nơi ấy, có những người thân quen đang chờ đón họ.
Ngược lại, sự tuyệt vọng là con đường ngắn và quen thuộc của sự chết. Henri J. M. Nouwen kể về cuộc phẫu thuật của Harrison. Anh ta rất lo lắng và cảm giác bất an về cuộc phẫu thuật lần này. Harrison tâm sự rằng anh muốn chết một cách tự nhiên, chứ không muốn chết trên bàn mổ. Thực ra, anh ta đang sợ chết, nhưng đồng thời, anh ta cũng không biết sống để làm gì nữa. Anh ta chưa muốn chết, nhưng cũng chẳng mong chờ ngày mai của mình. Ngày mai ấy, chẳng có gì thay đổi so với những gì anh đang phải đối diện: không có công việc, không có nhà cửa và cũng chẳng có ai thân quen. Có thể nói, ẩn sau những lời lẽ của Harrison, anh ta chưa muốn chết, nhưng đồng thời, anh cũng rất sợ ngày mai của mình. Anh chẳng có tia sáng hy vọng nào vào ngày mai. Cho dù, hy vọng ấy đơn giản nhất là có một ai đó chờ đón vào ngày mai, nếu anh trở về. Harrison không vượt qua được cuộc phẫu thuật. Anh ta đã ra vì không thấy ánh sáng ở cuối đường hầm.
Câu chuyện của Harrison cho thấy rằng con người không chỉ sống nhờ cơm bánh, nhờ những kiến thức và các phát minh hiện đại của khoa học kỹ thuật, nhưng còn nhờ những lý do làm cho con người sống có ý nghĩa. Một trong những lý do không thể thiếu, đó là niềm hy vọng.
Covid-19 xóa tan những hy vọng ảo tưởng
Những ngày tháng qua, Covid-19 xuất hiện phá tan mọi hy vọng ảo tưởng của con người. Khi khoa học phát triển và đạt được nhiều thành tựu vĩ đại, nó chiếm được nhiều thiện cảm và không ít người nhận nó làm “đấng bảo trợ”. Cho đến khi, Covid-19 nhỏ bé xuất hiện, nó lần lượt phơi bày và làm lung lay tất cả những gì mà bấy lâu nay con người hãnh diện và tin cậy vào đấy.
Đại dịch Covid-19 đang hoành hành ngang ngược, bất chấp mọi cố gắng nỗ lực và tiếng kêu cứu của con người, nó vẫn không ngừng gia tăng số lượng người nhiễm và người chết. Có rất nhiều nguyên nhân đã được các chuyên gia y tế đưa ra và những lời khuyên tốt để giảm tránh nguy cơ lây nhiễm. Tuy nhiên, đại dịch này còn có một mối quan hệ với một vấn nạn nhức nhối hơn, mà tạm thời đang bị lãng quên. Đó là tình trạng ô nhiễm không khí. Giống như xăng bốc cháy dữ dội hơn, nhờ có không khí. Covid-19 gia tăng sức tàn phá, ở trong môi trường không khí bị ô nhiễm. Nếu bạn bị nhiễm Covid-19 và đang hít phải không khí bị ô nhiễm, thì thật là tai hại. Trong môi trường không khí bị ô nhiễm, các hạt bụi mịn có thể xâm nhập sâu vào cơ thể. Chúng thúc đẩy tăng huyết áp nơi người bệnh tim, và gây khó thở nơi người bệnh tiểu đường. Các hạt bụi này cũng làm suy yếu hệ thống miễn dịch, gây thêm viêm nhiễm phổi và đường hô hấp... Nói chung, nếu sống trong môi trường không khí bị ô nhiễm càng nặng, thì càng gia tăng biến chứng nơi bệnh nhân và làm tăng thêm nguy cơ mắc Covid-19.[2]
Tuy nhiên, giữa màn đêm u tối, những tia hy vọng mới đang xuất hiện. Các nhà máy phải đóng cửa, nhiều hoạt động của con người ngừng lại. Con người đã bớt gây thêm ô nhiễm môi trường. Đã có những dấu hiệu tốt về sự trong lành không khí và tầng ô-zôn đang được cải thiện. Trải nghiệm về không khí sạch hơn. Mặc dù, đây chỉ là trải nghiệm tạm thời do tắt máy, do ngừng hoạt động trên diện rộng, nhưng có thể là bài học quý cho con người: chúng ta muốn xây dựng một thế giới nào sau đại dịch.[3]
Covid-19 xóa tan những hy vọng ảo tưởng và giúp con người nhận ra đâu là những hy vọng bền vững hơn. Thiết tưởng, bài học này, con người cần phải học một cách kỹ càng và ghi nhớ. Nếu không, chúng ta còn phải học lại bài học này nhiều lần nữa.
Giữa cơn đại dịch, con người có thể hy vọng gì?
Ai cũng hy vọng rằng, cơn đại dịch Covid-19 sẽ mau qua đi. Như những ôn dịch đã từng xảy ra trong lịch sử nhân loại, cơn đại dịch nào cũng thế, dù có gây ra nhiều hoang mang lo lắng và đau buồn cho con người, nhưng nó sẽ không ngự trị mãi mãi. Tuy nhiên, những gì đã và đang diễn ra cho thấy rằng dường như đại dịch Covid-19 muốn thách thức và đánh đổ tất cả mọi hy vọng của chúng ta.
Cho đến hôm nay, chưa ai biết khi nào thì dịch bệnh sẽ chấm dứt; chưa ai biết khi nào có vác-xin. Mọi sự đều đang trong niềm hy vọng lạc quan và tin tưởng rằng, rồi mọi sự sẽ ổn thôi. Cũng như ông Nô-ê, chúng ta chưa biết phải chờ đến bao giờ, thì nước rút và cuộc sống trở lại bình thường. Nhưng rõ ràng, giữa cơn đại dịch chúng ta đang thấy nhiều dấu chỉ của niềm hy vọng.
Những người đang thắp lên ngọn nến hy vọng. Họ là các tình nguyện viên, các y bác sĩ đang trực tiếp đụng chạm đến những gì sâu thẳm của con người. Họ là những ngọn nến hy vọng giữa màn đêm u tối của đại dịch. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô (ĐTC Phan-xi-cô) cho rằng họ là những người đổ tràn hy vọng, không gieo rắc nỗi kinh hoàng, nhưng gieo vãi tinh thần tương trợ và đồng trách nhiệm. Ngài khẳng định: “Khí giới chiến thắng của chúng ta là cầu nguyện và âm thầm phục vụ.”[4]
Hy vọng về sự hòa giải giữa con người. Khởi đi từ lời chia sẻ của ĐTC Phan-xi-cô. Ngài nói đến những nhắc nhở của Chúa: “chúng con không thức tỉnh trước những chiến tranh và bất công trên thế giới. Chúng con đã không lắng nghe tiếng kêu của những người nghèo và của trái đất...”[5] Sau đó, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, ông Antonio Guterres đã kêu gọi ”ngừng bắn ngay lập tức” giữa tình trạng đại dịch hiện nay.[6] Và Đức Hồng y Tagle cũng lên tiếng kêu gọi xóa nợ cho các nước nghèo để giúp họ đối phó với virus Corona.[7]
Covid-19 không có biên giới và không biết phân biệt, nó dạy cho con người bài học nền tảng nhất: không ai là một hòn đảo. Tốt hơn, con người cần chung tay xây dựng ngôi nhà chung, một thế giới hòa bình. Và hơn lúc nào hết, con người hiểu ra rằng, chỉ có Chúa mới là Thiên Chúa.
Niềm hy vọng đến từ nơi đâu?
Covid-19 đã giúp con người tháo gỡ những ảo tưởng về chính mình. Con người không thể tự xây dựng cuộc sống tươi đẹp trên những hy vọng ảo tưởng. Dĩ nhiên, ở đây ta không phủ nhận những nỗ lực của con người trong lĩnh vực khám phá và sáng tạo để cải thiện đời sống. Cần tránh cả hai thái cực, (1) phủ nhận và bài trừ những đóng góp của khoa học kỹ thuật cho đời sống của con người; (2) tôn sùng khoa học kỹ thuật quá đáng, lấy khoa học kỹ thuật làm kim chỉ nam cho cuộc sống. Thái độ trung dung là khả dĩ hơn cả. Không bài trừ khoa học, cũng không tôn sùng quá mức, mà cần đặt chúng vào đúng vị trí và vai trò của nó.
Giữa cơn đại dịch, niềm vui Chúa Phục Sinh mời gọi chúng ta nhìn về tương lai với niềm hy vọng vững bền. Cho dù, thực tế những gì đã và đang diễn ra trong những tháng qua, dường như sự chết đang thắng thế.
Chính Đức Giê-su đã trải qua kinh nghiệm này: Ngài đã ở trong mồ ba ngày. Sự chết tưởng là đã chiến thắng. Nhưng sau ba ngày, Thiên Chúa đã làm cho Đức Giê-su trỗi dậy từ cõi chết. Mùa Phục Sinh là thời gian để làm mới lại niềm hy vọng. Niềm tin vào Chúa Phục Sinh thắp lên trong chúng ta hy vọng rằng sự dữ và cái chết của tử thần không làm gì được sự sống và tình yêu. Trong niềm tín thác vào Chúa Phục Sinh, chúng ta không chịu đầu hàng, không chịu buông xuôi, không ngồi đó mà nguyền rủa bóng đêm, nhưng chung tay thắp lên những ngọn nến hy vọng.
Chính Chúa Giê-su Phục Sinh là cội nguồn của mọi hy vọng. Hy vọng của Ngài đem đến, không giống như những hy vọng lạc quan được bén rễ từ nét đẹp nhân bản và được diễn tả qua những câu nói mang tính khích lệ nổi lên trong cõi lòng chúng ta “mọi chuyện sẽ ổn thôi”. Niềm hy vọng của Chúa Giê-su Phục Sinh trao ban có sức mạnh lớn hơn nhiều. Niềm hy vọng ấy nói với chúng ta rằng: “Thiên Chúa có thể biến mọi thứ trở nên tốt lành, vì chưng ngay cả từ ngôi mộ, Ngài cũng đã mang lại sự sống.”[8]
Đây là niềm hy vọng ngoài sức kỳ vọng của con người. Chúa Giê-su Phục Sinh không chỉ ở cùng chúng ta trong mọi hoàn cảnh của kiếp này, Ngài còn chờ đợi và không bỏ rơi chúng ta ở phía bên kia của cánh cổng sự chết. Quyền năng và tình yêu Ngài là sự bảo đảm cho niềm hy vọng vững bền của chúng ta. Bạn có dám buông mình vào niềm hy vọng ấy không?
Bình an cho anh em!... Phúc cho những ai không thấy mà tin! (Ga 20,29)
Văn Ngữ, SJ - CTV Vatican News
[1] Henri J. M. Nouwen, “The Wounded Healer”, Image Doubleady, New York, 1972.
[2] Pollution made Covid-19 worse. Now, lockdowns are clearing the air. (https://www.nationalgeographic.com/science/2020/04/pollution-made-the-pandemic-worse-but-lockdowns-clean-the-sky/ ngày 14/04/2020)
[3] Như ở trên (Pollution made Covid-19 worse. Now, lockdowns are clearing the air.)
[4] https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2020-03/dtc-phanxico-bai-giang-trong-gio-cau-nguyen-phep-lanh-urbi-et-or.html
[5] https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2020-03/dtc-phanxico-bai-giang-trong-gio-cau-nguyen-phep-lanh-urbi-et-or.html
[6] http://www.antv.gov.vn/tin-tuc/the-gioi/lien-hop-quoc-keu-goi-ngung-ban-toan-cau-tap-trung-chong-dich-309021.html
[7] https://www.vaticannews.va/vi/church/news/2020-03/dhy-tagle-giam-no-cho-nuoc-ngheo-virrus-corona.html
[8] Trích lược bài giảng của ĐTC Phan-xi-cô trong Lễ Vọng Phục Sinh (https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2020-04/toan-van-bai-giang-le-vong-phuc-sinh-dtc-phanxico.html)
Mừng lễ Chúa phục sinh thời bệnh dịch Corona
- Viết bởi Dân Chúa
Lễ mừng Chúa Giêsu Kitô phục sinh là ngày lễ khởi thuỷ của Kitô giáo. Khi Giáo hội mừng lễ Vượt qua, tưởng nhớ tới biến cố giải thoát dân Thiên Chúa khỏi cảnh sống nô lệ bên Aicập, ca tụng sự cao cả của Thiên Chúa và sự trung thành của người trong công trình sáng tạo xưa thuở ban đầu và sự sáng tạo mới trong đêm canh thức chờ đợi Chúa Giêsu Kitô chỗi dậy sống lại từ đêm tối sự chết.
Đây là đêm người có đức tin sống trải qua từ niềm thất vọng chán chường được biến đổi sang trạng thái tràn đầy niềm hy vọng phấn khởi, từ đau buồn tang tóc sang niềm vui mừng, từ sự chết biến đổi sang thành sự sống.
Nhưng năm nay cơn đại dịch bệnh Covid 19 đã làm mọi sự biến đổi ra khác!
Lễ phục sinh trọng đại của Kitô giáo và những ngày Chúa nhật tiếp theo trong mùa phục sinh không có thể mừng rộng rãi trọng thể có giáo dân tham dự được. Niềm hy vọng nhường chỗ cho thất vọng chán nản, niềm vui mừng được thay và bằng đau buồn lo lắng, sự gặp gỡ bị giới hạn thay vì tự do, khả thể đe dọa bị lây bệnh nạn thay vì sức khoẻ. Bầu khí đời sống trong xã hội u ám trong hoang mang. Khắp nơi mọi người thu hẹp đời sống lại trong nhà mình. Gia đình tụ họp nhau xem lễ qua không gian ảo của màn hình Tivi và rồi cùng nhau đọc kinh cầu nguyện. Nhà tư sinh sống trở thành „thánh đường thu hẹp“. Nhiều người có suy luận bi quan cho đó là tai họa thảm khốc của ngày chung cuộc tận thế của thế giới!
Ngày chung cuộc tận thế được hiểu là những diễn tả mang tính cách tiên tri nói về ngày cuối cùng của thế giới. Sự tận cùng của thế giới theo thánh sử Mattheus diễn ra ở đồi Golgotha. Khi Chúa Giêsu chết trên cây thập gía :
„50 Đức Giê-su lại kêu một tiếng lớn, rồi trút linh hồn. 51 Ngay lúc đó, bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới. Đất rung đá vỡ.52 Mồ mả bật tung, và xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ được trỗi dậy.53 Sau khi Chúa trỗi dậy, các ngài ra khỏi mồ, vào thành thánh, và hiện ra với nhiều người „ ( Mt 27,50-53).
Khoa thần học đạo đức và sự loan báo tin mừng Chúa Giêsu rất khó khăn lúng túng trong việc tìm hiểu cắt nghĩa đối diện với những hình bi thảm khốc này. Nhưng trái lại kỹ nghệ làm phim ảnh lại không có suy nghĩ phê bình chỉ trích những pha hình ảnh này.
Những pha hình ảnh bi thảm hãi hùng của Kinh thánh diễn tả về ngày tận cùng của thế giới trở thành những gợi ý tưởng lạ lùng cho những cảnh đóng phim về những tai họa. Những nhà làm phim ảnh vui mừng có những cảnh tượng chung cuộc tận cùng đó. Vì những pha hình ảnh như thế sống động tạo ra cảm gíac rợn rùng da thịt kích thích sự tò mò, hấp dẫn ăn khách người xem.
Nhưng những chấm điểm về ngày chung cuộc diễn tả trong kinh thánh là niềm vui mừng về điều mới: Các mồ mả mở tung ra, sự chết bị chôn vùi và sự sống bắt đầu. Bài trình thuật sự thương khó Chúa Giêsu nói về sự chết không là điều gì sợ hãi. Nhưng dẫn đưa đến suy nghĩ về một quang cảnh lớn lao tận cùng: sự chiến thắng của Thiên Chúa , và Ngài trao ban sự chiến thắng đó cho tất cả mọi người có được sự sống.
Thánh tông đồ Phaolo cũng nhận ra tương tự như thế. Sự phục sinh sống lại của Chúa Giêsu Kito là nền tảng đức tin. Không có sự phục sinh sống lại của Chúa Giêsu Kitô sự chết sẽ không bị tiêu diệt. Sự sống lại của Chúa Giesu Kitô là lý do nền tảng của một niềm hy vọng không thể tưởng tượng ra được cho mọi người. Tất cả đều phải chết, nhưng qua nhờ Chúa Giêsu Kitô phục sinh, họ được cứu thoát khỏi sự chết dẫn đưa vào sự sống.
Sự phục sinh sống lại của Chúa Giêsu Kitô không thể biện hộ chứng minh theo lý luận khoa học được. Đó là sự chuyển tiếp từ thời điểm của chúng ta sang sự vĩnh cửu của Thiên Chúa. Đó là sự việc của đức tin. Mà đức tin không thể bị cưỡng bức. Thiên Chúa tôn trọng sự tự do của con người. Người có đức tin, tự nhận biết được giải thoát khỏi sự chết.
Và họ có thể hy vọng rằng những phục sinh nhỏ bé xảy ra trong những quãng thời gian khủng hoảng của đời sống luôn xảy ra, là dấu chỉ sự phục sinh sống lại to lớn.
Bức hình ảnh Lòng Chúa thương xót, tuy không là một tác phẩm nghệ thuật lớn lao do nhà danh họa nổi tiếng vẽ phác họa ra, nhưng lại có sức ảnh hưởng soi lòng đánh động nói với nhiêu người. Bên dưới bức ảnh có dòng chữ: „Lạy Chúa Giêsu, con trông cậy nơi Chúa.“.
Vâng, con người tín thác trông cậy vào Chúa mọi ngày trong suốt đời sống khi vui mừng hạnh phúc khoẻ mạnh, cũng như lúc gặp gian nan khốn khó gặp khủng hoảng lo âu sợ hãi bệnh nạn.
Đây là sứ điệp Chúa nhật lòng Chúa thương xót gửi kêu gọi mọi người.
Lm. Daminh Nguyễn Ngọc Long
Cùng với vết thương
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Trong nếp sống xã hội, khi người nào đó bị thương tích nơi thân thể, họ được băng bó cẩn thận che kín không để lộ diện vết thương ra bên ngoài.
Đó là nếp sống văn hóa tôn trọng đời sống thân xác cùng phẩm gía con người và bảo đảm giữ vệ sinh sức khoẻ. Và nào có ai muốn phơi bầy vết thương nơi thân thể mình ra ngoài đâu?
Chúa Giêsu Kitô sau khi phục sinh sống lại vinh hiển, đã hiện ra với các Tông đồ cùng với những vết thương nơi tay, nơi cạnh sườn mình mà lúc trước đã bị hành hạ trên thập gía cho tới chết. ( Ga 20,19-31).
Vết thương nơi thân thể là dấu hiệu của thất bại, sự yếu kém bị đè bẹp chiến thắng. Nhưng Chúa Giesu Kitô phục sinh không loại bỏ điều đó lại đàng sau. Trái lại đã để những dấu vết của vết thương nơi thân thể mình lộ ra cho nhìn thấy.
Phải chăng qua đó ẩn chứa dấu hiệu sứ điệp nói lên điều gì sâu xa ẩn chứa nữa?
Sự phục sinh không là biến cố khải hoàn xóa bỏ hết những sự đã qua, nhưng có thể nói được rằng sự phục sinh gắn liền với thân xác đã chịu đau khổ hành hạ và đã chết. Sự đau buồn, lo âu hoài nghi cùng sự khốn khổ không nhảy vượt trôi qua trong sự phục sinh. Những điều đó không còn đóng giữ vai trò gì nữa, mà trở thành dấu chỉ nhận ra người chết đã phục sinh sống lại.
Và đó là điều Giáo hội tin nhận sống lại cả về thân xác. Thân xác con người không chỉ có thân thể tứ chi, nhưng còn nhiều hơn nữa. Nó bao gồm lịch sử đời sống mỗi người, với tất cả niềm vui hạnh phúc sự đẹp đẽ cùng cả sự đau khổ chịu đựng hèn kém trong đời sống con người. Xưa nay cho rằng những vết thương tích là những dấu hiệu của sự thất bại và sai xót lầm lỡ, là những dấu vết tích của đau khổ buồn tủi và nghi nan thất vọng xảy ra trong đời sống. Nhưng những đìều đó lại là thành phần làm nên đời sống, khắc nghi trong đời sống, và giúp làm cho trở nên trưởng thành vững mạnh có kinh nghiệm cho đời sống con người.
Và qua những điều đó cũng trở thành dấu hiệu, đặc điểm phân biệt không thể nhầm lẫn đời sống của một người này với người khác. Những khác biệt đó trở thành tương lai của riêng mỗi người nơi Thiên Chúa, Đấng tạo thành nuôi dưỡng và cứu độ con người.
Thiên Chúa không bỏ qua những vết thương tích đời sống con người. Không, Ngài bao bọc gìn giữ trong thân xác phục sinh. Sự đau khổ con người chịu không trở nên vô nghĩa, vô gía trị trước mặt Thiên Chúa. Nhưng Ngài chấp nhận những điều đó trong biến cố phụ̣c sinh sống lại, và biến đổi sang một trạng thái bản thể mới khác biệt, mà Chúa Giêsu Kitô chỉ cho các môn đệ mình.
Không giọt nước mắt nào , không một đau đớn nào là không có gía trị cùng không ẩn chứa ý nghĩa. Nhưng tất cả được bao bọc gìn giữ trong sự vĩnh cửu của Thiên Chúa. Có lẽ vì thế, Chúa Giêsu Kitô phục sinh đã hai lần, như trong Kinh thánh thuật lại, chỉ cho các Môn đệ mình nhận ra dấu vết thương tích nơi thân thể mình.
Những vết thương tích của Chúa Giêsu Kitô phục sinh đã phá tan hoài nghi nơi Tông đồ Toma. Qua dấu vết thương tích của Thầy mình, Ông Toma đã nhận ra đó là Chúa Giêsu Kitô thật. Và có thể Ông Toma cũng mường tượng ra được qua vết thương Ngài muốn chỉ dậy chỉ cho ông điều ẩn dấu trong đời sống là những vết thương tích của chính bản thân cần phải chú trọng để ý tới, không được bỏ qua lãng quên đi, nhưng phải nhận ra ý nghĩa những vết thương tích của đời sống mình. Thiên Chúa không bỏ qua quên lãng những vết thương tích đời sống con người, nhưng tất cả được cùng phục sinh sống lại và được biến đổi trong vinh quang của đời sống mới.
Trong đời sống con người, ai cũng đều trải qua quãng đường đời sống tinh thần cùng nơi thân xác với những đau khổ, chịu đựng, những lo âu thất vọng, những dòng nước mắt thống khổ. Quãng đường đời sống như thế làm cho con người buồn tủi mệt nhọc, như muốn buông xuôi bỏ cuộc…
Nhưng những điều đó không trở thành uổng công, không bị rơi vào quên lãng, cùng không trở thành vô gía trị vô ý nghĩa gì trước mặt Thiên Chúa, Đấng sinh thành ra con người. Trái lại, tất cả được Ngài chấp nhận như những thành phần giai điệu, chấm nét của lịch sử đời sống con người, và được gìn giữ cho cùng được cứu độ phục sinh sống lại với. Vì những vết thương tâm hồn cũng như nơi thân xác đó góp chung làm nên lịch sử đời sống con người.
Chúa Giêsu Kitô phục sinh sống lại cùng với những vết thương tích bị hành hạ nơi thân thể Ngài khi xưa chỉ vẽ ra con đường cứu độ cho con người rằng những vết thương tích không phải là sự thất bại, sự sai xót nhầm lẫn vô ý nghĩ, vô gía trị.
Trái lại tất cả được Thiên Chúa nhìn đến, những vết thương tích đau khổ đó là dấu chỉ đặc thù riêng biệt của từng người trong đời sống cứu độ mới nơi Thiên Chúa.
Chúa nhật 2. phục sinh.
Lm. Daminh nguyễn Ngọc Long
Lời ca tụng Halleluja hay Alleluja
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Bắt đầu từ đêm canh thức ngày thứ Bảy tuần Thánh đón mừng Chúa Giêsu Kitô phục sinh sống lại, lời ca mừng reo hò Halleluia được cất hát xướng lên trọng thể ba lần loan báo tin mừng Chúa Giêsu phục sinh sống lại từ cõi chết.
Và rồi trong suốt mùa mừng lễ Chúa phục sinh, cùng trong mùa phụng vụ thường niên lời ca tụng Halleluja cũng được xướng hát lên trước khi đọc bài phúc âm trong thánh lễ Misa.
Đâu là ý nghĩa lời ca tụng reo mừng Halleluja?
Câu ca tụng reo mừng Halleluja cùng với câu Amen, câu Hosianna là những câu chữ bắt nguồn từ tiếng Do Thái được dùng phổ biến sâu rộng nhất trên thế giới, nhất là trong các kinh phụng vụ Giáo hội Công giáo.
Hallelu mang ý nghĩa „ ca tụng“, còn chữ -Ja ở cuối ẩn chứa viết tắt chữ „Jahwe“, mà trong Kinh Thánh được phiên dịch là „Thiên Chúa“. Như thế Halleluja nói lên tâm tình ý nghĩa sâu xa „ Hãy ca tụng Thiên Chúa!“.
Halleluja là cách chuyển trong tiếng Đức từ ngôn ngữ Do Thái הַלְּלוּיָהּ (hallelu-Jáh). Theo tiếng Latinh viết là Alleluia có nguồn gốc từ tiếng Hy lạp „ἁλληλουϊά“. Vì trong tiếng Hy Lạp không có mẫu tự h.
Câu tung hô Halleluja trong các Thánh Vịnh phần Cựu ước có tới 23 lần: TV. 104,35; 105,45; 106,1.48; 111,1; 112,1; 113,1.9; 115,18; 116,19; 117,2; 135,1.21; 146,1.10; 147,1.20; 148,1.14; 149,1.9; 150,1.6.
Các Thánh vịnh từ 112 tới 118 theo cung cách truyền thống đều bắt đầu bằng câu Hallel : Hãy ca ngợi .
Câu HaleluJah có trong sách Khải Huyền của Thánh Gioan bốn lần ( KH 19,1–6).
Dựa theo phụng vụ Do Thái, các tín hữu Chúa Kitô ngay từ thời sơ khai đã nói lên vui mừng cùng ngợi thành Giêrusalem trên trời bằng lời Halleluja : „ Các cửa thành Giê-ru-sa-lem vang tiếng ca hoan hỷ, mọi nhà sẽ cùng hát: "Ha-lê-luj-a!„ (Sách Tobia 13,18)
Bằng lời ca ngợi Halleluja trong sách Khải Huyền, Con Chiên Thiên Chúa được tung hô ca mừng là người chiến thắng: "Ha-lê-luj-a!Thiên Chúa ta thờ là Đấng cứu độ, Đấng vinh hiển uy quyền! (Kh 19,1.)
Chữ Halleluja là chữ rất cổ xưa có từ thời kinh thánh được các vị Tư Tế xướng lên và dân chúng tín hữu lặp lại trong lễ nghi phụng vụ, để ca tụng Thiên Chúa
Câu chữ Halleluja được dùng đọc hay hát lên trong các lời Kinh phụng vụ của Giáo hội Công giáo, nhưng không dịch ra các ngôn ngữ địa phương, mà giữ nguyên chữ như vậy, tương tự như tiếng Amen, chữ Hosiana.
Halleluja là lời hát diễn tả niềm hy vọng trong lúc gặp khủng hoảng. Hy vọng luôn luôn là dấu chỉ về một tương lai mới như trong Thánh Vịnh 112 đã có lời cầu nguyện: „ Halleluja. Hạnh phúc thay, người kính sợ CHÚA, những ưa cùng thích mệnh lệnh Chúa truyền ban.“ (Tv 112, 1)
Lời ca tụng Halleluja này không là thứ tiếng reo hò qua môi miệng bên ngoài, nhưng liên quan mật thiết với tâm tình lòng yêu mến và tin tưởng sâu thẳm từ trong tâm hồn.
Trong đời sống khi người nào nói lời ca tụng ai, là họ muốn biểu lộ tình thân thiết gắn bó với người được ca tụng. Và qua đó muốn nói lên: Bạn đã làm điều tốt, điều hay chính đáng phải lẽ!
Cũng thế, khi người tín hữu Chúa Kitô nói hát lời ca tụng Halleluja, muốn biểu lộ tấm lòng chân thành của mình với Thiên Chúa: Lạy Thiên Chúa, con hướng nhìn về Chúa. Trong niềm vui mừng hân hoan con ca hát chúc tụng Chúa. Vì Chúa đã thực hiện điều tốt lành thánh thiện cho chúng con!
Lời ca tụng Halleluja không do các tín hữu Chúa Kitô phát minh ra. Nhưng đã có gốc rễ ăn sâu trong lịch sử của dân Do Thái từ hàng ngàn năm rrước đó rồi. Vì thế họ đã viết những Thánh Vịnh Hallel- Ca tụng Thiên Chúa Giavê.
Chúa Giêsu Kitô sinh trưởng trên trần gian là người Do Thái có nếp sống giữ đạo Do Thái đạo đức. Nên Ngài đã cùng đọc cầu nguyện bằng Thánh vịnh Hallel cùng ca hát những Thánh Vịnh Hallel trong các Hội Đường, để ca tụng ngợi khen Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa đã sáng tạo công trình vũ trụ thiên nhiên cho mọi loài sinh sống, vì Thiên Chúa đã cứu giải thoát dân ra khỏi cảnh tù tội nô lệ bên Aicập cho được sống trong tự do trên quê hương đất nước của mình.
Hai biến cố lịch sử sáng tạo này là căn bản này luôn thuộc về đêm canh thức phục sinh trong Giáo hội. Thiên Chúa đã trao tặng con người không gian và sự tự do cho đời sống. Đón mừng Chúa Giêsu Kitô phục sinh sống lại là biến cố sáng tạo mới, mà Thiên Chúa thực hiện cho con người được thoát khỏi hình phạt xiềng xích nô lệ của tội lỗi. Vì thế, người tín hữu Chúa Giêsu Kitô cùng với dân Do Thái hát lời ca tụng Halleluja, bài ca ngợi tạ ơn của những người được cứu độ giải thoát.
Năm nay 2020, người tín hữu Chúa Kitô trên khắp trần gian không có cơ hội cùng chung mừng lễ Chúa Giêsu Kitô phục sinh long trọng như mọi năm trước. Vì hoàn cảnh bệnh dịch do vi trùng Corona lây lan nguy hiểm đe dọa sức khoẻ sự sống con người. Nên mọi sinh hoạt lễ nghi phụng vụ mục vụ bị giới hạn thu hẹp tạm ngưng đình hoãn, để cùng phòng chống tình trạng bệnh dịch lây lan truyền nhiễm lan rộng.
Lẽ dĩ nhiên, các lễ nghi phụng vụ Giáo hội cũng được cử hành thu hẹp trong giới hạn về không gian, thời gian và số người tham dự, và được trực tiếp truyền hình trên các hệ thống kênh truyền hình, truyền thanh. Nhưng đó cũng chỉ là một phần nào bù đắp vào sự thiếu thốn giới hạn cùng xa cách không gian thôi. Nó thiếu không khí linh thiêng sống động, thiếu thốn trống vắng không khí cùng chung mừng vui đọc kinh ca hát gặp gỡ.
Và do đó, lời Halleluja ca tụng mừng kính Chúa Giêsu Kitô phục sinh sống lại trong đêm thánh sáng tạo mới và trong các nghi lễ phụng vụ biến thành lời cầu nguyện:
Xin Thiên Chúa, Đấng sáng tạo cùng nuôi dưỡng gìn giữ vũ trụ thiên nhiên,
Đắng đã cứu độ giải thoát dân Do Thái thoát khỏi cảnh nô lệ bên Aicập,
và đã đánh thức cho Chúa Giêsu Kitô chỗi dậy sống lại từ cõi chết,
gìn giữ ban cho thế giới loài con người ân đức chúc lành, cho chúng con sống bằng an mạnh khoẻ mau sớm được giải thoát cứu nguy khỏi bệnh dịch hoành hành đe dọa loài người. Amen.
Lễ mừng Chúa phục sinh 12.04.2020
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Đêm thánh sáng tạo mới.
- Viết bởi Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Hằng năm vào đêm thứ bảy tuần thánh, Giáo hội có nghi lễ canh thức đón mừng Chúa Giêsu phục sinh sống lại từ cõi chết.
Tuần tự những biến cố nền tảng của vũ trụ, những thắc mắc trung tâm điểm của đời sống con người được ôn nhớ thuật kể lại trong lễ nghi phụng vụ canh thức qua các bài tường thuật của kinh thánh: lửa và nước, ánh sáng và bóng tối, tội lỗi và sự tha thứ, sự chết và sự sống, ý nghĩa và không ý nghĩa.
Theo qui định của Giáo hội có tất cả 09 bài Kinh Thánh được đọc trong đêm canh thức này. Nhưng Giáo hội cho phép rút ngắn không cần phải đọc cả 09 bài, nên chỉ còn phải đọc 05 bài.
- Khởi đầu là bài tường thuật lịch sử công trình sáng tạo vũ trụ trong sách Sáng Thế ( St 1,1-2,2). Bài tường thuật kinh thánh với những chi tiết về công trình sáng tạo vũ trụ này không phải là một thiên khảo luận khoa học thiên nhiên. Nhưng qui hướng đến ý nghĩa thần học đạo đức: Ngay từ thuở ban đầu Thiên Chúa đã có mặt, thần linh của Ngài „ bay lượn trên sóng nước còn hoang vu“. Thiên Chúa muốn vũ trụ này được thành hình theo ý định của Ngài, chứ vũ trụ không là tập hợp do những nguyên tử ngẫu nhiên gộp lại thành hình.
Thiên Chúa cũng muốn tạo thành con người giống theo hình ảnh của Ngài, chứ sự sống con người không là do hỗn hợp vật thể nào làm ra. Thiên Chúa từ khởi thủy là đấng sáng tạo thành con người thân xác cũng như linh hồn sự sống. Vì thế sự sống con người chỉ riêng trên nền tảng đã có ý nghĩa rồi. Ngay từ khởi đầu ý muốn sáng tạo sự sống con người bắt nguồn từ Thiên Chúa., như Ngài nói với chúng ta: Con được tạo thành sinh ra do ý muuốn của Ta. Ta yêu mến con. Con là công trình quan trọng trong công trình sáng tạo thiên nhiên của Ta.
- Bài tường thuật thứ hai trích nơi sách Xuất hành ( Xh 14,15-15,1) nói về dân Do Thái ngày xưa đi trở về quê hương Thiên Chúa hứa từ nước Aicập, nơi họ sống đời nộ lệ bị đàn áp ngược đãi, đi vượt qua an toàn giữa lòng biển đỏ. Bài tường thuật chi tiết đó có những khúc đoạn biến cố được viết mang tính cách kịch tính bi thảm hóa. Phải, có mầu sắc hình ảnh thêu dệt phóng đại thêm vào do ảnh hưởng tâm tính văn hóa cùng cảm nhận của những người viết thuật lại.
Nhưng trung tâm bài tường thuật muốn nói lên rõ rằng: Đấng Tạo Hóa không đơn giản tạo thành sinh ra con người trên vũ trụ, rồi để con người mặc kệ với số phận của họ. Không, Đấng Tạo Hóa trung thành với họ. Ngài dẫn đưa họ đi và hằng cùng đồng hành với trên mọi bước đường. Ngài không để họ bơ vơ một mình cả trong thời gian bất hạnh xấu nhất.
Ở cuối đường hầm tăm tối xuất hiện loé lên đốm lửa ánh sáng soi đường. Tràn đầy niềm tin tưởng vào Ngài, con người bước đi, và sẽ tới đích điểm. Tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng đoan hứa với con người sẽ không bao giờ bỏ rơi họ.
Đây cũng là hình ảnh nói về sự sáng tạo Thiên Chúa thực hiện cho con người qua cuộc giải thoát cứu độ dân Israel khỏi cảnh nô lệ bên Aicập ngày xưa cách đây hằng mấy ngàn năm trước Chúa giáng sinh.
Không có sử sách ghi lại vào thời điểm nào cuộc xuất hành của dân Do Thái từ Aicập diễn xảy ra. Có gỉa thuyết cho rằng cuộc xuất hành có thể xảy ra khoảng những năm 1450 hay 1440 trước Chúa giáng sinh, dưới thời Vua Thutmosis III. triều đại Pharao bên Aicập.
Cũng có đa số những nhà nghiên cứu lịch sử khảo cổ cho rằng cuộc xuất hành của dân Do Thái xảy diễn ra khoảng vào thế kỷ 13. hay 12. trước Chúa giáng sinh dưới thời triều đại 20. của vương triều Pharao.
- Bài thánh thư thứ ba là bài trích sách ngôn sứ Ezechiel. ( Ez 36,16- 28). Trung tâm chính của bài tường thuật, Ngôn sứ Ezechiel loan báo Thiên Chúa sẽ sáng tạo một trái tim mới nơi con người. Ngài sẽ lấy ra khỏi lồng ngực con người trái tim bằng đá, và sẽ thay vào đó trái tim bằng thịt.
Lẽ dĩ nhiên đây là một hình ảnh nói lên một ý nghĩa có pha trộn mầu sắc tưởng tượng phantasie: Con người không cần phải giữ lòng mình cố thủ cứng nhắc, không cần phải chiến đấu lâu dài hơn nữa để dành phần thắng lợi cho riêng mình. Nhưng họ phải sống là con người chân thành, có lòng yêu thương bác ái, có lòng cảm thương với nhau. Đó chính là con người mà Thiên Chúa muốn tạo dựng nên giống hình ảnh của Ngài. Một hình ảnh con người như thế là lời đoan hứa cao đẹp, để có một tương lai sáng sủa bình an!
Ngôn sứ Ezechiel nói đến một sáng tạo mới là cung cách con người sống đối xử với nhau trong tình bác ái yêu thương giống như hình ảnh Thiên Chúa, Đấng là tình yêu thương.
- Bài thánh thư thứ tư trích thư của Thánh Phaolô tông đồ gửi Giáo đoàn Roma ( Rm 6,3-11). Trong bức thư này, thánh Phaolô nhắc lại con người ai cũng phải chết, nhưng sẽ cùng được sống lại với Chúa Giêsu Kitô.
Như vậy phải hiểu như thế nào? Khả năng tâm trí con người chúng ta không suy hiểu biết được điều này. Nhưng con người ai cũng có một đời sống. Và khi đời sống đó trên vũ trụ qua đi, chúng ta còn có một quê hương nữa vẫn tồn tại, mà Thiên Chúa ban cho. Ngay cả khi con người mất tất cả, điều này cũng không là một tai họa xảy đến. Vì con người cùng với Chúa Giêsu Kitô chiến thắng tất cả. Vậy sự gì có thể chia lìa con người chúng ta ra khỏi Chúa Giêsu Kitô?
Đây cũng là hình ảnh, phải là lời tuyên tín về một sáng tạo mới Thiên Chúa thực hiện cho người qua Chúa Giêsu Kitô, Đấng từ cõi chết phục sinh sống lại
- Và bài tường thuật thứ năm là bài Tin mừng Chúa Giêsu Kitô chỗi dậy sống lại từ nấm mồ người chết trong lòng đất. ( Mt 28,1-10)
Lẽ dĩ nhiên đây không phải là bài tường thuật lịch sử theo cung cách mới, nhưng là kinh nghiệm, cảm nghiệm của con người xưa kia sống sát gần với Chúa Giêsu Kitô. Và họ làm chứng rằng: Họ đã gặp Chúa Giêsu Kitô sống lại. Ngài đã hiện ra với họ. Chúa Giêsu Kitô, người thợ mộc thành Nazareth, và là Con Thiên Chúa, đã chết, nhưng không nằm yên trong nấm mồ chôn dưới lòng đất. Ngài còn đang sống.
Điều này nói lên: Đấng từ trời cao xuống trần gian mang ơn cứu độ chữa lành cho phần rỗi linh hồn muôn đời không là lời hứa suông cho trần gian. Tin tưởng vào sự phục sinh sống lại của Chúa Giêsu Kitô không là giấc mơ của điều mơ tưởng không có niềm hy vọng. Nhưng là tương lai của con người chúng ta.
Chúa Giêsu Kitô, một người đã bẻ gẫy phá tan sức mạnh sự chết, làm đảo lộn phá tan điều hoang mang hồ nghi của trần gian xưa nay về sự sống lại của con người. Thánh Phaolô đã viết xác tín: Nếu Chúa Giêsu Kitô không sống lại thì sự rao giảng làm chứng, và đức tin của chúng ta trở thành trống rỗng vô nghĩa lý. ( 1 Cor. 15,14).
Sự phục sinh sống lại của Chúa Giêsu Kitô làm đảo lộn những gì con người suy luận xưa nay, đồng thời xóa chối bỏ những định kiến của con người cho rằng chết là hết, là chấm dứt. Sự Phục sinh mang tầm ý nghĩa xóa bỏ bức tường cứng nhắc để tiến vào khung trời đất mới, quê hương của tự do không còn là nô lệ cho tội lỗi. Nơi đó là tương lai cho con người.
Chúa Giêsu Kitô sống lại từ cõi chết, là người thứ nhất , người tiên phong trước chúng ta, và chúng ta bước theo Ngài.
Đêm canh thức đón mừng Chúa phục sinh là đêm thánh thứ hai sau đêm thánh vô cùng Chúa Giêsu giáng sinh xuống trần gian làm người ngày 25.12..
Đêm canh thức phục sinh trở thành đêm thánh sáng tạo mới trong công trình sáng tạo thiên nhiên cho con người được cứu độ thoát khỏi hình phạt của tội lỗi.
„ Chúa Giêsu ngày thứ ba sống lại đem các Thánh lên!“ ( Kinh cầu chịu nạn)
Đêm canh thức vọng phục sinh, thứ Bảy Tuần Thánh 11.04.2020
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
- Thứ Sáu Tuần Thánh- Trời Cao Đã Khóc
- Immanuel - Thiên Chúa ở cùng chúng ta trên thập gía
- Thứ Năm tuần thánh
- Chút tâm sự của mẹ con con lừa ngày lễ Lá
- Thập giá che khăn
- Dòng nước mắt tình liên đới
- Lễ Tiệc Ly – Sinh nhật của Linh mục
- Dưới bóng áo mẹ từ bi
- Trong cơn khủng hoảng vì tai họa bệnh dịch
- „Ông Thánh Giuse là như cột trụ cho kẻ bệnh tật được cậy trông.“