Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
26/10 Đừng giả hình.
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Đừng giả hình.
Thứ Hai tuần 30 thường niên.
"Chớ thì không nên tháo xiềng xích buộc người con gái của Abraham này trong ngày Sabbat sao?"
Lời Chúa: Lc 13, 10-17
Khi ấy, nhân ngày Sabbat, Chúa Giêsu giảng dạy trong một hội đường. Và đây có một người đàn bà bị quỷ ám làm cho bà đau yếu đã mười tám năm. Bà bị khòm lưng, hoàn toàn không thể trông lên được. Khi Chúa Giêsu xem thấy bà, Người liền gọi bà đến mà bảo rằng: "Hỡi bà kia, bà được khỏi tật của bà". Rồi Người đặt tay trên bà ấy, tức thì bà đứng thẳng lên và tôn vinh Thiên Chúa.
Nhưng viên trưởng hội đường tức giận, vì Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabbat, nên ông cất tiếng bảo dân chúng rằng: "Có sáu ngày người ta phải làm việc: vậy thì các người hãy đến xin chữa bệnh trong ngày đó, chớ đừng đến trong ngày Sabbat".
Chúa trả lời và bảo ông ta rằng: "Hỡi những kẻ giả hình, chớ thì trong ngày Sabbat, mỗi người trong các ông không thả bò hay lừa của mình ra khỏi chuồng mà dẫn nó đi uống nước sao? Phương chi người con gái của Abraham này, Satan cột trói nó đã mười tám năm nay, chớ thì không nên tháo xiềng xích buộc nó trong ngày Sabbat sao?" Khi Người nói thế, tất cả những kẻ chống đối Người đều hổ thẹn, và toàn dân vui mừng vì những việc lạ lùng Người đã thực hiện.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Đứng thẳng được
Suy niệm:
Trong dòng tiến hóa từ vượn lên đến người,
có một thay đổi bên ngoài khá rõ nét.
Càng tiến hóa thì lưng con vật càng thẳng hơn.
Khi con người có thể đứng thẳng, tầm nhìn sẽ rộng hơn, xa hơn.
Hai chi trước được tự do nên có thể làm được nhiều điều phức tạp.
Đứng thẳng đúng là một nét đặc trưng của con người
Người phụ nữ trong bài Tin Mừng hôm nay bị còng lưng đã lâu.
Mười tám năm không thể nào đứng thẳng lên được (c. 11).
Lưng bà còng hẳn xuống khiến tầm nhìn của bà bị giới hạn.
Có lẽ bà chỉ nhìn thấy mảnh đất nhỏ trước mặt hơn là thấy bầu trời cao.
Bệnh này thật khó chịu, khiến bà đi đứng khó khăn.
Vậy mà bà vẫn có mặt ở hội đường vào ngày sabát, khi Đức Giêsu giảng.
Dù bà thấp vì còng lưng, Ngài vẫn trông thấy bà.
Dù bà chẳng xin gì, Ngài vẫn chủ động gọi để gặp bà (c. 12).
Đức Giêsu nhìn thấy sự trói buộc do cơn bệnh dai dẳng.
“Này bà, bà đã được giải thoát khỏi tật nguyền.”
Chữa bệnh chính là đem lại giải thoát cho người phụ nữ.
Hơn nữa, Đức Giêsu còn đặt tay trên bà như một cử chỉ yêu thương.
Tức khắc bà còng lưng đã có thể đứng thẳng lên được.
Điều mơ ước từ mười tám năm, bỗng chốc thành hiện thực.
Bà có thể nhìn thấy bầu trời và cất lời tôn vinh Đấng ngự trên đó (c. 13).
Đức Giêsu coi bệnh của bà như một sự trói buộc của Xatan (c. 16).
Không phải chỉ là trói buộc bằng dây như người ta cột bò lừa (c. 15),
mà là trói buộc bằng xiềng xích.
Chính vào ngày sabát, Đức Giêsu đã cởi xiềng xích đó cho bà,
để bà được tự do, được đứng thẳng như một người bình thường.
Bà còng lưng bị trói buộc bởi gánh nặng của bệnh tật.
Nhưng có bao thứ trói buộc khác làm con người mất tự do.
Như người phụ nữ này, chúng ta muốn và cố làm cho mình đứng thẳng,
nhưng hoàn toàn bó tay từ nhiều năm qua.
Có những thứ trói buộc do tác động bên ngoài,
nhưng có thứ xiềng xích do chính chúng ta đúc nên để tự giam mình.
Tôi bị trói buộc bởi lòng ích kỷ, tham vọng, thèm muốn…
Chúng ta cần thú nhận mình không tự giải thoát mình được,
không tự đứng thẳng được, không tự cắt đứt những thứ trói buộc mình.
Chúng ta cần Đức Giêsu đặt tay của Ngài trên đời ta để ta được tự do.
Đâu phải chỉ người phụ nữ còng lưng mới bị trói buộc.
Tôi cũng bị trói buộc bởi những giá trị mập mờ của thế tục.
Làm sao để tôi được tự do với cái cell phone tôi đang dùng,
với những hình ảnh mà tôi tìm kiếm trên internet,
với lối sống mà ngày nay bao người coi là đáng ước mơ?
Xin cho tôi không chỉ cúi xuống nhìn thấy miếng đất be bé trước mặt,
nhưng có thể ngước lên để thấy bầu trời mênh mông trên cao.
Cầu nguyện:
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế Người là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi,
đến với Người trong mọi sự,
và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.
Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì,
nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người
và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi. Amen
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: GIÊ-SU GIẢI THOÁT
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đời sống con người bị nhiều thứ trói buộc khiến ta trở thành nô lệ. Trong đó có ma quỉ, xác thịt, thế gian. Ta không thể tự cứu mình. Nhờ Chúa Giê-su ta được giải thoát.
Chúa giải thoát khỏi nô lệ ma quỉ. Xa-tan là một ách nô lệ thống trị. Người phụ nữ này bị trói buộc 18 năm rồi. Nhưng không thể thoát ra. Chúa đến. Chúa là sức mạnh vô biên. Xua đuổi ma quỉ. Giải thoát để người phụ nữ trở thành con Thiên Chúa
Chúa giải thoát khỏi nô lệ xác thịt thế gian. Người phụ nữ bị tật còng lưng. Bị trói buộc khom lưng cúi đầu. Bị ràng buộc vào mặt đất. Không vươn lên trời cao được. Phải cúi đầu trước sự dữ. Chúa giải thoát. Để bà có thể mở rộng tầm mắt nhìn lên trời xanh. Để đứng thẳng hiên ngang tràn đầy phẩm giá.
Chúa giải thoát khỏi nô lệ lề luật. Nô lệ lề luật tạo nên một tôn giáo phi nhân. Có thể cởi dây cho thú vật. Mà không dám cởi trói cho con người. Chúa đem đến một tôn giáo mới. Tự do phóng khoáng. Tràn đầy tình thương. Nâng cao con người.
Trong Người ta trở thành con Thiên Chúa. Không còn là nô lệ. Nhưng được tự do. Được gọi Thiên Chúa là “Abba”. “Anh em không lãnh nhận Thần KHí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử”. Vì thế sống đạo không còn phải là nô lệ lề luật. Nhưng là sống mối tình cha – con với Thiên Chúa. Tự do nhưng yêu thương và hiếu thảo. Như thế ta không còn sống theo xác thịt. Nhưng sống theo Thần Khí. Ta sẽ nên sung mãn. Vì được đồng thừa tự với Chúa Giê-su. Thừa kế di sản vô cùng phong phú, vô cùng quí giá trên thiên đàng (năm lẻ).
Trong Người ta trở thành anh em với nhau. Vì thế phải “đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau” (năm chẵn).
Hôm nay thế giới còn bị nhiều trói buộc. Xin Chúa giải thoát ta khỏi mọi nô lệ. Nô lệ thần tượng. Dục vọng. Tội lỗi. Ý riêng. Tự ái. Quan niệm. Đó là những gánh nặng kéo ta cúi xuống. Không đứng thẳng lên được.
Xin giải thoát con. Để con đến với Chúa trong tự do. Trong tình con thảo. Và đến với anh em trong tình huynh đệ. Đạo trở thành gia đình yêu thương. Luật trở thành tình yêu tự do. Người trở nên cao cả. Vì phẩm giá lớn lao.
Suy Niệm 3: Cốt Lõi Của Ðạo
Một đêm mùa Ðông lạnh như cắt, một vị ẩn sĩ không chịu nổi cái lạnh của sa mạc, đã tìm đến xin trú ẩn tại một ngôi chùa. Nhìn thấy gương mặt tiều tụy của vị ẩn sĩ, tu sĩ canh giữ ngôi chùa không nỡ để ông ta đứng mãi giữa trời. Vị tu sĩ cho ông vào, nhưng lại nói một cách cương quyết: "Ông có thể ngủ đêm trong chùa, nhưng chỉ một đêm thôi, ngày mai ông phải rời khỏi nơi này tức khắc, vì đây là nơi tu hành, chứ không phải là trại tế bần".
Giữa đêm, vị tu sĩ nghe thấy tiếng động kỳ lạ. Ông thức dậy và chứng kiến cảnh tượng khác thường: giữa ngôi chùa vị ẩn sĩ đang ngồi sưởi ấm bên một đống lửa cháy phừng. Nhìn lên bàn thờ, vị tu sĩ không còn thấy tượng Phật bằng gỗ nữa. Ông hỏi vị ẩn sĩ, vị này chỉ vào đống lửa điềm nhiên đáp: "Tôi không chịu nổi cái lạnh, nên đã dùng tượng Phật để nhóm lên đống lửa này". Nghe thế, vị tu sĩ quát lớn: "Ông khùng rồi sao? Ông có biết ông đã làm gì không? Ðây là tượng Phật, ông đã đốt cháy Ðức Thích Ca của chúng tôi".
Sáng hôm sau, vị tu sĩ trở lại để đuổi vị ẩn sĩ ra khỏi chùa; ông thấy vị ẩn sĩ đang bới đống tro như để tìm kiếm vật gì đó. Thấy vị tu sĩ thắc mắc, ông ta trả lời: "Tôi đang tìm kiếm những cái xương của Ðức Phật mà ngài bảo là tôi đã thiêu đốt tối hôm qua".
Về sau, vị tu sĩ canh giữ ngôi chùa kể lại câu truyện cho một Thiền sư, và Thiền sư đã trách ông như sau: "Ông là một tu sĩ xấu, bởi vì ông xem một tượng Phật chết trọng hơn một mạng người sống".
Một trong những nguyên nhân dẫn đến cái chết của Chúa Giêsu, chính là cuộc xung đột giữa Ngài và những người Biệt phái. Những người Biệt phái bám vào việc tuân giữ nghi thức và luật lệ đến độ dẫm lên trên cả mạng sống con người. Trong khi đó, đối với Chúa Giêsu, cốt lõi của đạo chính là tình yêu. Phân định về việc giữ ngày Hưu lễ, Chúa Giêsu tuyên bố dứt khoát: "Ngày Hưu lễ được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày Hưu lễ". Ngài đã giải thoát một người đàn bà khỏi bị còng lưng trong ngày Hưu lễ, để chứng tỏ sự sống của con người, giá trị của con người, hay đúng hơn, tình yêu thương cao cả hơn tất cả những nghi thức và việc tuân giữ bên ngoài.
Xin cho chúng ta hiểu rằng cái cốt lõi của đạo chính là tình thương. Xin cho những lời cầu kinh, những việc tuân giữ luật lệ không là những cái vỏ hình thức bên ngoài, mà phải dẫn chúng ta đến những hành động cụ thể của tình yêu. Xin cho chúng ta luôn xác tín rằng sống cho tình yêu là được sống trong Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Ngọn Lửa Nội Tâm
Thế vận hội năm 2000 dành cho những người khuyết tật đã kết thúc một cách tốt đẹp tại Sydney, Australia. Buổi lễ khai mạc hôm tối thứ Tư 18/10/2000 vẫn là biến cố được theo dõi nhiều nhất. Khi nữ lực sĩ ngồi xe lăn người Úc là cô Louis Xaviest châm ngọn đuốc vào vạc dầu nhỏ đặt giữa sân vận động, đám đông khán giả ngồi chật trong vận động trường đã đồng loạt đứng lên vỗ tay chào mừng. Louis Xaviest được chọn để châm ngọn lửa khai mạc thế vận hội gồm hơn bốn ngàn lực sĩ khuyết tật của một trăm hai mươi chín phái đoàn tham dự; ngọn lửa soi rọi vào tất cả mọi thành tích của những lực sĩ mà không gì có thể ngăn cản nổi quyết tâm thi đua của họ. Ðiểm xúc động nhất đối với mỗi người dĩ nhiên là hình ảnh của những con người ra sức chống chọi với mọi nghịch cảnh để thắng vượt chính mình.
Ngọn lửa nội tâm, chủ đề của đêm khai mạc thế vận hội dành cho người khuyết tật đã nói lên được tấm lòng hăng say và nhiệt tâm vươn lên ấy. Nét rạng rỡ hân hoan và đầy hưng phấn của hàng ngàn lực sĩ khuyết tật đã thể hiện được ý nghĩa của thế vận hội dành cho người khuyết tật lần thứ 11 vừa qua, đó là sự chiến thắng của ý chí con người.
Sự chiến thắng của ý chí con người chính là sứ điệp mà thế vận hội dành cho người khuyết tật muốn gởi đến cho thế giới. Nhưng cùng với sứ điệp ấy thế giới cũng đón nhận được một thông điệp khác không kém quan trọng, đó là sự tôn trọng và sự yêu mến cần phải có đối với người khuyết tật. Hàng ngàn lực sĩ được may mắn có mặt trong kỳ thi thế vận hội dành cho người khuyết tật là đại biểu của vô số những người khuyết tật trên khắp thế giới. Họ có thể là những người phải mang thương tật vì tai nạn. Nhưng có biết bao nhiêu người khuyết tật là nạn nhân của chính sự độc ác của con người, và nhất là đang đau khổ vì chính thái độ kỳ thị và dửng dưng của người đồng loại.
Tôn trọng và yêu thương những người anh chị em khuyết tật. Ðây là sứ điệp mà Tin Mừng hôm nay có thể gợi lên cho chúng ta để cùng đào sâu và sống. Chúa Giêsu luôn dành ưu ái cho những người nghèo khổ, những kẻ bé mọn, những người bị xã hội đẩy ra bên lề. Ðể đến với những người này, Ngài sẵn sàng vượt qua mọi thứ rào cản. Trong Tin Mừng hôm nay, để chữa bệnh cho một người phụ nữ bị còng lưng, Ngài đã vượt qua một trong những thứ rào cản gai góc nhất đối với người Do Thái là những cấm kỵ của ngày hưu lễ. Nhiều người Do Thái mà ông trưởng hội đường là điển hình nại đến những cấm kỵ của ngày hưu lễ để bắt bẻ Chúa Giêsu, nhưng Ngài đã vạch mặt chỉ tên những kẻ đạo đức giả. Ðạo đức giả là bởi vì họ vẫn lén lút làm việc xấu trong ngày hưu lễ nhưng lại ngăn cản không cho người khác được làm việc thiện trong ngày này.
Ðối với Chúa Giêsu, Lề Luật được làm ra vì và cho con người, chính vì thế mà Ngài đã khẳng định Lề Luật và sách các ngôn sứ đều qui về một mối duy nhất là yêu người. Vì yêu thương con người, Chúa Giêsu đã sẵn sàng vượt qua mọi thứ rào cản để đến với con người. Ngày nay, Ngài cũng mời gọi chúng ta bước theo Ngài, sẵn sàng vượt qua mọi chướng ngại và đạp rào cản trong cuộc sống để tìm đến với tha nhân, nhất là những kẻ bé mọn, những người bị đẩy ra bên lề cuộc sống do luật pháp và truyền thống của con người dựng lên nhưng cũng có vô số những rào cản do chính chúng ta dựng lên ngay trong tâm hồn và trong ánh mắt của chúng ta. Những rào cản đó là lòng hận thù, sự ích kỷ và nhất là thái độ dửng dưng của chúng ta trước nỗi khổ đau của người khác.
Nguyện xin Ðấng đã đến để xóa bỏ mọi ngăn cách giữa người với người và trở nên mọi sự cho mọi người, xóa bỏ mọi thứ rào cản trong tâm hồn chúng ta để chúng ta bước đi bước trước, tới với tha nhân, nhất là những kẻ bé mọn, những người bị đẩy ra bên lề cuộc sống.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Ngày Sabát, Ngày Làm Vinh Danh Chúa
Ngày sa bát Đức Giêsu giảng dạy trong một hội đường. Ở đó có một phụ nữ bị quỷ làm cho tàn tật đã mười tám năm. Lưng bà còng hẳn xuống và bà không thể nào đứng thẳng lên được. Trông thấy bà, Đức Giêsu gọi lại và bảo: “Này bà, bà đã được giải thoát khỏi tật nguyền!” (Lc. 13, 10-12)
Theo sách Thứ luật của Cựu ước, việc thánh hóa ngày thứ bảy (ngày Sa-bát) như là ngày của Chúa, để kỷ niệm ngày Chúa giải phóng dân Do thái khỏi nô lệ Ai cập. Ngày thứ bảy là dấu chỉ ngày dân Chúa được tự do. Tuy nhiên, nó đã trở thành ngày dân Do thái bị ràng buộc bởi rất nhiều giới luật cấm đoán hơn những ngày khác.
Đức Giêsu muốn phục hưng ý nghĩa chân thực của ngày Sa-bát, nó phải trở nên ngày con người thực hiện nhân phẩm và tự do của con cái Thiên Chúa và làm sáng danh Ngài.
Ngày giải phóng
Đức Giêsu đã chọn một dấu chỉ thế này: một người đàn bà bị quỷ ám từ mười tám năm, quỷ ngăn cản bà nhìn lên Thiên Chúa, hướng về trời, vì nó bắt bà phải còng lưng hẳn xuống, không thể nào đứng thẳng lên được. Bà không ngừng hy vọng được chữa lành, nhưng mọi phương thuốc loài người đều vô hiệu, không thể giải phóng bà khỏi tật gù lưng. Biết được nguyện vọng của bà, Đức Giêsu kêu gọi bà lại, đuổi quỷ ra, và đặt tay trên bà, tức khắc bà đứng thẳng lên được và tôn vinh Thiên Chúa. Ông trưởng hội đường tức tối vì Đức Giêsu đã chữa bệnh vào ngày Sa-bát, ông đã lên tiếng nói với đám đông rằng: “Đã có sáu ngày để làm việc, thì đến mà xin chữa bệnh vào những ngày đó, đừng đến xin vào ngày Sa-bát”.
Đức Giêsu đáp lại: “Thế ngày Sa-bát, ai trong các ngươi lại không cởi giây, dắt bò lừa rời khỏi máng cỏ đi xuống nước? Còn bà này là con cháu Áp-ra-ham, là con cái Thiên Chúa, bị sa-tan trói buộc đã mười tám năm nay, chẳng lẽ lại không được cởi xiềng xích đó trong ngày Sa-bát sao?”.
Ngày Sa-bát chính là ngày của Chúa đã giải phóng dân khỏi nô lệ thì bây giờ Ngài đã dùng quyền năng và lòng thương xót của Ngài mà cứu chữa bà này khỏi nô lệ sa-tan. Còn việc nào làm vinh danh Chúa hơn trong ngày Sa-bát, bằng việc chặt đứt cái giây buộc trói bà và cho bà thứ nước đức tin mà bà hằng cầu xin.
Ngày tạ ơn Thiên Chúa
Ngày Sa-bát là ngày tôn thờ, vâng phục Đấng toàn năng sáng tạo và ngợi khen cảm phục trước những công trình vĩ đại của Ngài, người đàn bà được giải thoát bắt đầu tôn vinh Thiên Chúa. “Còn dân chúng vui mừng vì những việc lạ lùng của Chúa”.
RC
Suy Niệm 6: ĐỪNG VÌ LUẬT MÀ BẤT NHÂN VỚI ANH EM! (Lc 13, 10-17)
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: vào một buổi chiều nọ tại một làng quê, người ta đem một người chết đi chôn. Trong khi chuẩn bị hạ huyệt, người nhà nghe thấy có tiếng động trong quan tài? Ngay lập tức, họ báo cho mọi người biết! Vì thế, người chủ sự lễ nghi truyền cho những người khiêng quan tài dừng lại và mở nắp quan tài ra. Mọi người ngỡ ngàng, xôn xao và sợ hãi vì thấy người chết ngồi dạy! Tuy nhiên, vị chủ sự nói với người trong quan tài rằng: “Thưa ông, theo nguyên tắc, việc ông chết đã được thông báo và chúng tôi đã có giấy báo tử của ông trong tay. Vì thế, cứ chiếu theo nguyên tắc, ông phải được chôn xuống. Vì thế, ông vui lòng để chúng tôi thi hành bổn phận”. Dứt lời, vị trưởng nghi truyền cho mọi người đóng nắp quan tài lại và tiếp tục lễ nghi, mặc cho lời van xin của người trong quan tài!
Trên đây chỉ là câu chuyện giả tưởng nhằm phê phán những người sống hình thức, vụ luật, bất nhân.
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Đức Giêsu lên tiếng chỉ trích rất nặng lời với những người sống vụ luật và bất nhân đối với người khác.
Câu chuyện được khởi đi từ việc Đức Giêsu chữa người đàn bà bị quỷ ám làm cho khòm lưng đã 18 năm vào đúng ngày Sabát. Thấy vậy, ông trưởng hội đường xem ra có vẻ khó chịu vì Đức Giêsu đã vi phạm luật ngày Sabát. Thấy vậy, Đức Giêsu đã lên tiếng nói: "Hỡi những kẻ giả hình, chớ thì trong ngày Sabát, mỗi người trong các ông không thả bò hay lừa của mình ra khỏi chuồng mà dẫn nó đi uống nước sao? Phương chi người con gái của Abraham này, Satan cột trói nó đã 18 năm nay, chớ thì không nên tháo xiềng xích buộc nó trong ngày Sabát sao?". Qua câu hỏi đó, Đức Giêsu mặc cho luật một tinh thần mới, đó là: yêu thương, liên đới và tha thứ. Đây chính là cốt lõi của luật. Luật mà không có tình yêu lồng vào thì đó là luật chết, vì nó giết chết con người cách khủng khiếp nhất.
Ngày nay, vẫn có nhiều người xem ra rất đạo đức như: đọc kinh, xem lễ hằng ngày; lần hạt thì hết chuỗi này đến chuỗi khác. Điều này rất tốt và ích lợi cho đời sống thiêng liêng nếu người đó biết thực hành những điều Chúa và Giáo Hội dạy ngang qua những việc đạo đức đó, tức là “Lời nói đi đôi với việc làm”.
Nhưng chớ trêu thay, vẫn còn đó những cái xác không hồn khi không biết sống yêu thương, không có tấm lòng bác ái, nhân từ, vẫn sống man trá, lọc lừa nhân danh thứ đạo đức dởm bề ngoài. Lại có nhiều người đi lễ đâu phải vì lòng mến Chúa, mà chủ yếu là khoe mẽ quần là áo lượt! Vì thế, khi thấy cha giảng hơi dài một chút là khó chịu, bực tức, hoặc khi cha dẫn giải Lời Chúa mà đụng chạm đến lòng tự ái của mình là đùng đùng nổi giận và chỉ trích cha thế này, cha thế kia...! Tệ hơn nữa là đi lễ chỉ vì luật, nên không thiếu gì những bạn trẻ đi lễ “ôm” hay thuộc đạo “gốc”; đạo “ngắm”; đạo “dòng”!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cần thoát ra khỏi những kiểu giữ đạo vì sợ điều này điều kia. Hay đi lễ nhà thờ chỉ vì thói quen, hoặc muốn chứng tỏ rằng mình đạo đức hơn người. Lời Chúa thôi thúc chúng ta rằng: khi giữ những luật lệ của đạo là điều cần thiết. Tuy nhiên, cần mặc cho nó một tình yêu. Nếu có tình yêu, chúng ta sẽ mến Chúa, yêu anh chị em mình cách chân tình. Luôn muốn và làm điều tốt nhất cho anh chị em chúng ta. Không còn chuyện bè phái, lươn lẹo, lật lường, nhưng ngay thẳng, chân thành và thánh thiện. Chỉ khi làm được chuyện đó, chúng ta mới thấy được luật của Chúa là luật làm cho con người được hạnh phúc, bình an và hoan lạc thực sự. Nếu không thì chỉ là chiếc xiềng quá nặng mà chúng ta vẫn cố đeo trên cổ đến nỗi bò lê lết để mang nó hằng ngày.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con yêu mến Luật Chúa; đồng thời, xin cũng cho chúng con biết đem luật yêu thương của Chúa ra thực hành trong cuộc sống nơi các mối tương quan. Amen.
Ngọc Biển SSP
25/10 Thi hành Ý Cha.
- Viết bởi Mt 22, 34-40
Thi hành Ý Cha.
Chúa Nhật 30 Thường Niên năm A.
"Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi".
Lời Chúa: Mt 22, 34-40
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, những người biệt phái nghe tiếng Chúa Giêsu đã làm cho những người Sađốc câm miệng, thì họp nhau lại, đoạn một người thông luật trong nhóm họ hỏi thử Người rằng: "Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?"
Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Xh. 22, 20-26; 1Tx. 1, 5c-10; Mt. 22, 34-40
1. Hai điều răn
(Trích trong ‘Manna’ - Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
Chúng ta thường ngại xét mình trước khi xưng tội.
Nếu xét mình sơ sài dựa trên Mười Điều Răn,
có khi ta thấy mình chẳng có tội gì nghiêm trọng:
không trộm cắp, không tham lam, không giết người...
Thật ra xét mình không phải là làm bản tự kiểm
trước một danh sách những luật cấm và luật buộc,
cho bằng là đặt mình trước Thiên Chúa và tha nhân.
Tôi phải thành thật tự hỏi:
Tôi có thực sự yêu mến Thiên Chúa không?
Tôi có thực sự yêu mến anh chị em tôi không?
Tất cả điều răn được tóm trong một động từ: yêu.
Tình yêu là cốt lõi của đời sống Kitô hữu,
vì Thiên Chúa là Tình Yêu (1Ga 4,8).
Yêu là bước vào một đại dương mênh mông,
là dấn thân trên một con đường dài hun hút.
Chúng ta chẳng bao giờ thấy mình yêu đủ.
Tình yêu cứ vẫy gọi ở phía trước,
và mở ra những cánh cửa không ngờ.
Giới hạn tình yêu là bóp chết tình yêu.
Chẳng có động từ nào bị hiểu sai cho bằng động từ yêu.
Báo chí phim ảnh làm cho ta nghĩ rằng
yêu chỉ là chuyện quan hệ giữa hai cô cậu.
Hành vi chiếm đoạt theo bản năng lại được gọi là yêu.
Chúng ta cần trả lại ý nghĩa cao đẹp cho động từ này.
Yêu mến Thiên Chúa là điều răn số một.
Không phải chỉ dành cho Ngài phần lớn trái tim,
Ngài đòi tất cả trái tim của tôi, tất cả con người của tôi.
Hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn.
Ai trong chúng ta dám tự hào
mình đã sống trọn vẹn điều răn thứ nhất?
Càng lúc tôi càng thấy Chúa bị mất chỗ trong tim tôi.
Tôi không có giờ cầu nguyện và tĩnh tâm.
Chúa Nhật là ngày tranh thủ làm thêm.
Mối lo toan quá mức về cuộc sống vật chất
làm đời sống thiêng liêng bị sa sút.
Điều răn thứ hai cũng quan trọng không kém:
yêu người thân cận như chính mình.
Chúng ta yêu bản thân mình biết chừng nào!
Chúng ta chỉ muốn điều tốt cho mình
đến nỗi lắm khi làm điều xấu cho người khác.
Cần coi tha nhân như một cái tôi khác của mình.
Họ cũng cần được tôn trọng, cảm thông và yêu mến.
Có biết bao thiệt hại tôi đã gây cho anh em tôi.
Thái độ sống của tôi đã làm khổ bao người khác.
Hai điều răn trên không thể tách rời nhau.
Yêu Thiên Chúa chắc chắn dẫn đến yêu tha nhân.
Tình yêu tha nhân cần đặt nền trên Thiên Chúa.
Người Kitô đi từ nhà thờ ra chợ rồi lại từ chợ vào nhà thờ.
Ngoài chợ, họ gặp Chúa nơi anh em.
Trong nhà thờ, họ gặp anh em nơi Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
* Hai từ "Tình Yêu" đã bị lạm dụng. Theo ý bạn, một tình yêu thực sự phải có những nét gì?
* Trong kinh nghiệm sống đức tin của bạn, có khi nào bạn thấy mình bị giằng co giữa tình yêu đối với Chúa và tình yêu đối với tha nhân không? Bạn đã giải quyết ra sao?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
Lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau
để làm thành một vòng tròn khép kín.
Sau đó chúng con hiểu rằng cần phải buông tay nhau
để nhận những người bạn mới,
để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng
và trái tim được lớn lên mãi.
Lạy Chúa, chúng con biết rằng
cần phải nối vòng tay lớn xuyên qua các đại dương và lục địa.
vòng tay người nối với người,
vòng tay con người nối với Tạo Hoá.
Chúng con thích Chúa đứng chung một vòng tròn
với tất cả loài người chúng con,
nắm lấy tay chúng con và đưa chúng con lên cao.
Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá
giúp chúng con biết nắm lấy tay nhau và nhận nhau là anh em.
2. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Theo truyền thống hội đường Do thái, Luật gồm 613 điều răn.
365 điều cấm làm và 248 điều phải làm.
Giữa một rừng điều răn như thế, người thông luật đã hỏi Đức Giêsu:
“Điều răn nào trọng nhất trong Luật Môsê?” (c. 36).
Đức Giêsu đã trả lời bằng một câu trong kinh Shema,
kinh mà người Do thái phải đọc mỗi ngày.
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi,
với tất cả trái tim ngươi, tất cả linh hồn ngươi, tất cả trí khôn ngươi” (Tl 6, 5).
Và Ngài còn thêm một điều răn thứ hai nữa (c. 39).
“Ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình” (Lv 19, 18).
Tất cả Luật Môsê nằm trong hai điều răn đó.
Hai điều răn được gói trong một động từ yêu.
Mọi điều cấm làm và mọi điều buộc làm,
đều bắt nguồn từ và qui về tình yêu.
Các bạn trẻ thường nghĩ yêu là chuyện dễ.
Nhưng yêu với tất cả trái tim,
tất cả linh hồn, tất cả trí khôn, tất cả sức lực,
nghĩa là yêu với trọn cả con người mình,
thì điều đó không dễ.
Đối với người Do thái, trái tim là nơi phát sinh toàn bộ đời sống tinh thần.
Yêu mến Thiên Chúa bằng tất cả trái tim của mình
là để cho Ngài chi phối mọi tư tưởng, mọi ý muốn, mọi tình cảm.
Tất cả đều nhằm làm cho Ngài
được mọi người nhận biết và tôn vinh.
Yêu người thân cận như chính mình cũng là điều rất khó.
Có bao người làm chúng ta đau khổ và bị xúc phạm.
Yêu thương và tôn trọng họ
đòi một sự từ bỏ mình không nhỏ.
Nhưng chúng ta cũng dễ coi mình là trung tâm và qui tất cả về mình.
Chúng ta lạnh lùng trước nỗi đau,
thiếu sẻ chia và độc đoán, đôi khi dùng tha nhân
như phương tiện lót đường để ta tiến thân.
Nói chung, dù yêu Chúa hay yêu người,
chúng ta cũng phải ra khỏi mình, trao đi chính mình
và chấp nhận mọi hy sinh mà tình yêu đòi hỏi.
Đức Giêsu đã tóm Luật Môsê trong động từ yêu mến.
Và Ngài đã hoàn thiện Luật này bằng cách đẩy yêu mến đến cùng.
Kitô hữu chẳng những yêu mến Thiên Chúa với trọn con người mình,
mà còn được mời yêu mến Đức Giêsu trên mọi thụ tạo khác,
trên mọi của cải, trên những người ruột thịt, và trên cả mạng sống.
Kitô hữu là người mang mối tình sâu đậm với Đức Giêsu,
“Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20),
đến nỗi họ có thể tuyên xưng như Phêrô:
“Thầy biết con mến Thầy.”
Đức Giêsu cũng không chỉ đòi yêu tha nhân như chính mình.
Ngài còn đòi ta phải yêu như Ngài đã yêu (Ga 13, 34-35).
Một tình yêu tha thứ đến vô cùng,
một tình yêu đối với cả kẻ thù,
một tình yêu phục vụ như người tôi tớ,
một tình yêu dám hiến mạng.
Kitô hữu tự bản chất là người biết yêu
và cuộc đời chỉ là tình yêu.
Tình yêu đích thực với Thiên Chúa thì đưa tôi về với anh em.
Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên Chúa.
Chỉ mong đời tôi đong đưa giữa hai tình yêu đó,
để chúng nên một tình yêu.
Cầu nguyện:
Con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Ôi lạy Chúa là vẻ đẹp vừa cổ kính,
vừa luôn mới mẻ, con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Bấy giờ Chúa ở trong con mà con thì ở ngoài,
con cứ chạy đi tìm Chúa ở ngoài.
Con thật hư hỏng, khi chạy theo các thụ tạo xinh đẹp.
Bởi thế, bấy giờ Chúa ở với con mà con lại không ở với Chúa.
Các thụ tạo xinh đẹp kia cứ giữ con ở xa Chúa,
trong khi chúng hiện hữu được là nhờ Chúa.
Chúa đã gọi con, đã gọi to và phá tan sự điếc lác của con.
Chúa đã soi sáng và xua đi sự mù lòa của con.
Chúa đã tỏa hương thơm ngát để con được thưởng thức,
và giờ đây hối hả quay về với Chúa.
Con đã nếm thử Chúa và giờ đây con đói khát Người.
Chúa đã chạm đến con, nên giờ đây
con nóng lòng chạy đi tìm an bình nơi Chúa. (Thánh Âu-Tinh)
3. Mến Chúa và yêu người
Mẹ Têrêxa Calcutta kể: “Hôm ấy, một người lạ mặt đến nhà dòng, ông thấy một Sơ vừa đem về một người hấp hối, nằm bên ống cống, mình đầy giòi bọ rất hôi thối. Thế mà, Sơ rất nương nhẹ nhặt từng con bọ với vẻ mặt vui tươi, thanh thản đầy thương mến... Rồi người lạ đến gặp tôi nói: Thưa mẹ, khi con đến đây với lòng đầy căm hờn của một người vô tín ngưỡng. Nhưng bây giờ con ra về với một tâm hồn hoàn toàn đổi mới. Con bắt đầu tin Chúa, bởi vì con đã chứng kiến tình yêu của Chúa được diễn tả một cách cụ thể qua hành động và qua cách Sơ ấy đã đối xử với người hấp hối bẩn thỉu kia. Bây giờ con tin thật Chúa là tình yêu. Không có tình yêu Chúa trong tâm hồn, không thể nào có đủ nghị lực để yêu tha nhân được”.
Thực vậy, không mến Chúa, không thể yêu người vô vị lợi được. Vì thế Chúa Giêsu đã nhấn mạnh cho mọi người nhận biết hai giới răn quan trọng nhất là: “Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn ngươi... và điều thứ hai giống điều răn ấy: ngươi phải yêu người đồng loại như chính mình”
Lời tuyên bố đó, chấm dứt sự tranh luận của các phe phái Do thái về luật nào quan trọng nhất, giống như lời của bậc thầy chấm dứt cuộc tranh cãi của các học trò.
Tuy nhiên Chúa Giêsu không nói rõ lý do tại sao phải mến Chúa trên hết và thương người như chính mình. Thực ra lý do đã nằm sẵn trong lời tuyên bố của Chúa rồi.
Trước nhất tại sao phải mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn, thánh Marcô còn thêm: hết sức, vì tất cả sức lực thể xác, lòng muốn, trí khôn, linh hồn đều là của Thiên Chúa ban. Tất cả những khả năng ấy được có, được sinh hoạt, được phát triển và thăng tiến đều do bàn tay Chúa. Nếu chúng biết nhận ra Thiên Chúa là chủ của chúng, để nương tựa vào chủ, hướng về chủ, hoạt động theo chủ, thì chúng sẽ được chủ quý chuộng, tô điểm xinh đẹp và cho chúng sống muôn đời. Khi hoàn thành bức điêu khắc tượng Môisê, một kiệt tác thể hiện được hết tinh thần sống động của mình đến nỗi thiên tài Michel-Ange đã hét lớn vào tai tượng: Hãy nói đi. Thiên Chúa cũng đang hét lớn vào lòng trí, linh hồn của mỗi người chúng ta: Hãy yêu mến đi để ngươi nên giống Ta! Vì Ngài đã dựng nên ta, kiệt tác hơn muôn loài trong vũ trụ. Nhận biết mình được Thiên Chúa dựng nên lạ lùng như thế, Salomon đã cầu nguyện thế này: “Lạy Chúa, con sinh ra cốt cách tinh anh, được một hồn lương hảo, tốt lành, được vào một thân xác không tì ố, nhưng Thiên Chúa không ban, con không thể có được khôn ngoan... nên con thưa với Chúa và cầu xin Người hết lòng con” (Kn. 8, 19-21). “Như vậy, lạy Chúa, những đứa con mà Ngài yêu mến sẽ học biết rằng không phải các thứ hoa quả nuôi sống con người. Nhưng là lời Người bảo tồn những ai tin cậy vào Người” (Kn. 16, 26).
Thứ đến, tại sao phải yêu đồng loại như chính mình? Thưa vì đồng loại là những người có ruột thịt, máu mủ giống mình, là những người gần gũi mình, sống chung với mình, cùng loại với mình, cùng bản chất tinh thần và thân xác như mình. Cho nên, đã cùng loại với mình thì dù đó là người Samari hay Israel, Hy Lạp hay Do Thái, nô lệ hay tự do, chủ hay thợ, người sang hay hèn, mình phải yêu họ như chính mình. Tại sao khi thấy họ bị đánh nhừ tử nửa sống nửa chết lại bỏ tránh đi? Tại sao không biết lấy dầu, lấy rượu xoa bóp băng bó vết thương cho họ như người Samari nhân hậu. Chỉ những ai như người Samari biết thương xót người, thấy người khổ như mình khổ, cứu người đau như mình đau, mới được Chúa Giêsu đánh giá là yêu người như chính mình. Từ trên núi Sinai, Chúa đã truyền cho dân Israel phải thương mến giúp đỡ những người bị khinh bỉ, như mẹ góa con côi, những người nghèo đói, ngoại kiều, thì mới thật sự xứng đáng là dân riêng của Chúa (Bài đọc I – Xh. 22, 21-22)
Biết được những lý do tại sao phải mến Chúa và yêu người, ta còn phải biết mến Chúa và yêu người đến mức độ nào, mới thật là mến Chúa yêu người.
Mức độ Chúa Giêsu kêu gọi là: hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Đó là mức độ mến Chúa, còn yêu người đến mức độ như yêu chính mình. Nói khác đi, mến Chúa và yêu người phải tới độ tuyệt đối. Sau đây chúng ta thử xét xem lòng mến Chúa và yêu người của chúng ta đến mức độ nào?
Phần đông mến Chúa bằng làm những việc đạo như giữ mười điều răn, đi lễ Chủ nhật, xưng tội, rước lễ v.v… ở mức độ sợ tội, sợ mất linh hồn, sa hỏa ngục, nên chỉ cố gắng tránh những tội nặng, còn chửi tục, chửi nhau, bỏ học lời Chúa, bỏ lễ thường, lỗi bổn phận hàng ngày, phạm tội nhẹ như uống nước. Họ giống như đứa con sợ bố đánh mới nghe lời. Khi khuất mặt bố, nó không sợ nữa, nó đánh nhau, phá phách nghịch quấy, trộm vụng bất kể. Người mến Chúa chỉ lo sợ phạt chết đời đời cũng vậy. Họ chỉ yêu ai thân mình, chào kẻ chào mình, làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình “thì anh em còn được công chi?” (Mt. 5, 46).
Đó là hạng người mến Chúa yêu người vì lợi cho mình. Họ là những kẻ ích kỷ.
Một số mến Chúa vì thấy Chúa tốt lành, nhận ra những công ơn vô cùng của Chúa ban, nên họ cố gắng đền đáp; nhận ra lời Chúa là lời hằng sống, chân thật, thánh thiện, nên họ cố gắng thực thi. Họ như đứa con hiếu thảo thấy công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra vô tận, nên lo sống xứng đáng đẹp lòng cha mẹ. Vì thế họ cũng cố gắng noi gương nhân hậu của Chúa phần nào đó. Họ là những người tốt lành, cũng biết làm ơn giúp đỡ người khác, hy sinh chịu đựng tha thứ kẻ làm khổ mình. Lúc bình thường họ giống như các môn đệ Chúa, rất chịu khó đi công tác, làm việc tông đồ. Khi gặp thử thách nguy khốn như lúc Thầy bị bắt... thì bỏ trốn. Họ trốn tránh những việc khó khăn, gian lao, nguy hiểm. Họ mến Chúa và yêu người ở mức bình thường.
Một số rất ít họ là những người lành mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn nghĩa là mến Chúa trọn vẹn, sẵn sàng hy sinh mọi sự, kể cả mạng sống mình vì mến Chúa. Ở mức độ mến Chúa tuyệt vời này, họ thương yêu hết mọi người dù xa lạ, dù hèn mọn, dù là kẻ thù, họ thấy tất cả là chi thể của Đức Kitô, lúc sáng láng trên núi Tabo cũng như lúc ô nhục khốn cùng trên núi Sọ. Chỉ có các thánh đã mến Chúa và thương người được thế thôi, như thánh Phaolô nói: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo? như có lời chép: chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết. Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng, nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm. 8, 35-37).
Lạy Chúa Giêsu, xin thêm lòng mến cho con. Xin đốt lửa kính mến Chúa và yêu người trong trái tim con.
4. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ đề: Yêu thương là điều răn quan trọng nhất (Mt 22,36)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Thiên Chúa là tình yêu. Trong Thánh lễ này chúng ta hãy đến với Ngài để được Ngài châm thêm tình yêu vào lòng chúng ta, nhờ đó từ nay chúng ta sẽ mến Chúa và yêu người hơn.
II. Gợi ý sám hối
Xin Chúa tha thứ vì chúng con chưa mến Chúa đủ.
Xin Chúa tha thứ vì chúng con chưa yêu người đủ.
Xin Chúa tha thứ vì những lần chúng con hành động không theo sự hướng dẫn của tình yêu mà lại theo sự thúc đẩy của lòng giận ghét.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Xh 22,21-27)
Cựu Ước có nhiều khoản luật dạy người Do Thái phải yêu thương đồng bào mình. Tình yêu đó có tính cách cục bộ.
Ðoạn sách Xuất hành này cũng theo chiều hướng đó, nhấn mạnh đến việc phải yêu thương những người nghèo khó và góa bụa. Ngoài ra, điểm đặc biệt của đoạn sách này là dạy yêu thương cả những ngoại kiều đang sống trên đất nước mình nữa. Biên giới Tình yêu đã được nới rộng hơn.
2. Ðáp ca (Tv 17)
Ðây là lời cầu nguyện bày tỏ lòng yêu mến Chúa. Tác giả cũng coi Chúa là Ðá Tảng che chở mình, vì thế tác giả tin rằng khi mình bị áp bức mà biết kêu cầu Chúa thì sẽ được Ngài cứu giúp.
Một cách gián tiếp, Tv này tuyên xưng rằng Thiên Chúa đặc biệt yêu thương những người lâm cảnh khổ sở.
3. Tin Mừng (Mt 22,34-40)
Trong bài Tin Mừng tuần trước, những người thuộc hai nhóm Pharisêu và Hêrôđê liên minh nhau để gài bẫy Ðức Giêsu về vấn đề nộp thuế cho Xêda. Họ đã thất bại. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, nhóm Pharisêu chưa chịu thua, họ chọn trong nhóm ra một người thông luật để tranh luận với Ngài.
Câu hỏi là: "Trong lề luật, giới răn nào trọng nhất". Ðây là một câu hỏi hóc búa, bởi vì đạo Do Thái có rất nhiều khoản luật (365 luật buộc và 248 luật cấm), mà luật nào cũng đều quan trọng cả.
Câu trả lời của Ðức Giêsu rất xuất sắc: một là Ngài đã lọc ra được hai điều luật quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người; hai là Ngài liên kết hai điều đó lại: mến Chúa thì phải yêu người, và yêu người thì phải mến Chúa; ba là Ngài chỉ cho thấy hai điều ấy - mà thực ra còn có thể tóm lại thành một điều duy nhất là Yêu Thương - là cốt lỏi của tất cả mọi khoản luật khác.
4. Bài đọc II (1 Tx 1,5c-10) (Chủ đề phụ)
Giáo đoàn Thêxalônikê đã được Thánh Phaolô hết lời khen ngợi. Ðoạn thư này cho chúng ta thấy lý do họ được khen ngợi là vì họ đã nhận lãnh lời rao giảng Tin Mừng giữa bao gian truân khốn khó, và họ đã sống Tin Mừng ấy đến nỗi họ trở thành gương mẫu cho nhiều nơi khác noi theo.
IV. Gợi ý giảng
1. Một lời để ghi nhớ: ngươi phải yêu mến
Ðúng là hai điều răn: điều răn thứ nhất là điều răn lớn. Ðiều răn thứ hai cũng quan trọng không kém. Có nghĩa là hai giới răn ấy không cho phép ta tuỳ thích. Tình yêu mà những giới răn ấy nói tới, đối với Thiên Chúa cũng như đối với tha nhân, không phải là một thứ tình cảm trôi nổi tuỳ theo tính khí của ta. Tình yêu là một sự cam kết lớn lao, một sự dâng hiến chính mình, hiến mạng sống mình. Tình yêu không dừng lại ở nửa đường, mà đi cho tới cùng giống như đám lửa cháy. Giới răn ấy khơi dậy tình yêu khi mà thường tình và một cách tự nhiên lãnh đạm hay chối từ có nguy cơ thống trị. Giới răn ấy là như tia lửa làm bùng lên đám cháy. Giới răn ấy nâng đỡ tình yêu khi nỗi chán chường hay thói quen sẽ làm cho tình yêu ra nguội lạnh hoặc tàn lụi. Giới răn ấy làm bùng lên nhuệ khí khi tình yêu chân thực đòi hỏi nhiều hy sinh, quên mình... Nhờ tương phản và hỗ trợ giữa tình yêu và giới răn này mà đời sống ta được thăng tiến.
Giới răn yêu thương có hai mặt, hai mặt mà không tách biệt nhau như mu và lòng bàn tay. Ðiều răn thứ hai cũng giống, cũng quan trọng như điều răn thứ nhất, là "ngươi phải yêu người thân cận như chính mình". Chỉ có một mình Chúa là Ðấng ta phải yêu mến cách tuyệt đối, hơn cả chính mình ta, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ta. Khi yêu mến Chúa hết mình, vượt khỏi chính mình, ta được vào trong tình yêu Chúa ban tặng, được sống trong tình yêu của Người, lòng ta mở ra hướng về vô biên, bởi lẽ Thiên Chúa muốn thông phần sự sống của Người cho con người, muốn thần hóa con người! Còn về người thân cận, Ðức Giêsu truyền phải yêu người thân cận như chính mình. Ðây không phải là một sự so sánh bình thường, mà còn hơn thế nữa. Không phải chỉ đơn giản là muốn và làm cho người thân cận điều ta muốn cho ta. Ðức Giêsu đã đưa ra một điểm son, một khuôn vàng thước ngọc: "Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó" (Mt 7,12).
Giới răn thứ hai thật minh bạch và đi xa hơn. Giới răn ấy đòi ta yêu mến người thân cận như người ấy là chính ta, là ta đồng hóa với người ấy. Nó diễn tả một sự hiệp thông giữa hai hữu thể, giữa hai cuộc sống, giữa anh em trong một nhà, trong một gia đình Thiên Chúa. Nếu tôi không yêu mến người thân cận của tôi, Nếu tôi khinh chê người ấy, chính là tôi gây thiệt hại cho bản thân tôi. Yêu người thân cận như chính mình, chính là tôi dành cho tôi một tình yêu tuyệt vời... Thế nên, và nhất là có điều răn ấy, thật là điều hạnh phúc! Bởi lẽ khi tôi yêu mến người giống như tôi, người mà tôi nhận ra tôi nơi con người ấy, thì tôi cũng được người ấy đáp lại bằng lòng yêu mến tự nhiên, bằng mối thịnh tình theo nghĩa mạnh nhất; còn nếu theo bản năng tôi ngờ vực một người, thì người ấy có thể trở thành một đối thủ, một người cạnh tranh, một kẻ thù của tôi. Lịch sử từng minh chứng những biến cố thật lớn lao đượm tình huynh đệ, cũng như những cuộc bùng nổ dữ đội nhất từng châm ngòi cho thù hận giữa con người... Ðiều răn thứ hai quả là cần thiết, và rất cần thiết nên Ðức Giêsu mới dùng tất cả những lời lẽ trang trọng mà tuyên bố là điều răn ấy cũng giống như điều răn kia, cũng quan trọng không kém. Người đã đặt con người vào đúng tước vị của nó là hình ảnh và là con Thiên Chúa.
Quả thực đây cũng là điều đơn giản và chắc chắn Chúa muốn ta tham khảo.
Yêu mến thế nào, thường là điều phức tạp; bạn phải tìm kiếm, nhận thức rõ, kiểm soát những tình cảm tốt xấu của bạn, chứ không được miễn trừ. Bạn hãy luôn luôn phải tìm xem để yêu mến thế nào cho đúng sự thật; cần được học hỏi về điều này. Nhưng nếu bạn có một ý chí muốn yêu thương, nếu để cho ngọn lửa của Thánh Thần điều động cuộc đời bạn, thì bạn sẽ thấy con đường phải đi và phương cách để làm. Bạn hãy tìm kiếm hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn bạn. Bạn hãy tìm kiếm như cho chính mình. Thì bạn sẽ gặp ! (Giám mục L. Daloz. Trích dịch bởi Fiches dominicales, năm A, trang 332-334)
2. Một từ tóm tắt tất cả Phúc âm: Yêu mến
Khi nói đến yêu, tôi vốn thích dùng động từ Yêu mến, nó có tính cách chủ động và tích cực, hơn là dùng từ tình yêu, một từ rất đẹp nhưng cũng rất dễ bị phê phán.
Làm sao có thể là tín hữu mà lại không yêu mến? Làm sao có thể nhận biết Thiên Chúa của chúng ta nếu Người không phải là Ðấng yêu mến chúng ta?
Như vậy thì có nhiều cách yêu mến không? Chắc hẳn là có rồi. Nên trong vấn đề này, tôi vẫn theo gót nhà sư phạm trứ danh là thánh Augustinô. Ngài phân biệt ba trình độ trong hành vi yêu mến:
Trình độ thứ nhất, thấp nhất, không có ý nói là xấu nhất: thích được yêu (aimer être aimé). Bạn hãy nói cho tôi biết có ai mà không thích điều đó không? Phải là con người hư hỏng mới dám nói ngược lại. Mọi người đều như vậy thôi... Nhưng cuộc sống cũng đã dạy cho ta rằng tình yêu còn phải là cái gì khác hơn là niềm khoái chí (tự tôn kia).
Trình độ thứ hai: thích yêu (aimer aimer). Ta hãy tạm dịch ở đây là: lấy làm vui khi yêu mến người khác. Ở bậc này người ta có ra khỏi mình một chút, có quảng đại, có vị tha.
Chúa ơi, thật vui và đẹp biết bao khi làm được một việc thiện, khi xả thân, và đôi khi đi tới chỗ đóng vai con chim bồ nông tự để cho con rỉa thịt mình.
Ngay ở điểm này, ai lại không muốn nhận khen thưởng chứ? Bạn hãy nói cho tôi biết bạn có đủ can đảm để đi thăm một bệnh nhân nào đó, đi uỷ lạo một cảnh khốn này, chẳng tìm thấy được ở đó một điều gì khích lệ chăng? Nhưng bạn hãy coi chừng! Tất cả thái quá trong lãnh vực này - quảng đại thái quá - có lẽ là một hình thức tự tôn tự đại của lòng yêu mến chính mình đó thôi.
Còn trình độ thứ ba: Yêu (aimer), có thế thôi! Yêu mến người khác vì chính họ, không phải vì ta làm điều tốt cho họ, không phải vì làm cho nhân đức của ta lớn lên. Không phải thế, bởi lẽ xét cho cùng, người ta không yêu mến vì Ta yêu là yêu thôi. Ðó mới là đỉnh cao của "tình cho không biếu không".
Hãy nhìn nhận điều này: ta chẳng mấy khi đạt tới trình độ đó. Chỉ có một Vị đã hiến thân chỉ vì yêu mà thôi, một Ðức Giêsu ấy muốn lấy bản tính nhân loại của ta, một Ðức Giêsu ấy mới ban cho ta Thần linh tình yêu khi Người tắt thở, một Ðức Giêsu ấy mới có thể sáng nghĩ ra nhân vật Samaritanô nhân lành yêu thương mà không đòi đáp trả và hình dung ra một người cha đang mở rộng vòng tay đón nhận đứa con đi hoang trở về.
Nếu phải cần đến một từ để tóm tắt cả Phúc âm, đó là: Yêu mến.
(H. Denis. trích dịch bởi Fiches dominicales, năm A, trang 334-336)
3. Những chữ đi sau chữ "yêu"
Xem kỹ bản văn Tin Mừng, theo sau động từ yêu mến Chúa là những chữ "hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn"; đi sau động từ yêu thương kẻ khác là những chữ "như chính mình ngươi".
"Hết" là tất cả. Ngoài ra, trong ngôn ngữ Do Thái, người ta thường dùng một từ chỉ một phần để nói đến toàn thể: "lòng" cũng có nghĩa là cả con người, "linh hồn" và "trí khôn" cũng thế. Do đó câu nói trên có nghĩa là: "Hãy yêu mến Chúa với tất cả con người của mình, tất cả con người của mình, tất cả con người của mình." Một kiểu nói mạnh lặp lại tới ba lần. Cũng có thể hiểu là: "Hãy yêu mến Chúa với tất cả mọi chiều kích, mọi lãnh vực, mọi khả năng của mình".
"Như chính mình" nghĩa là không còn phân biệt chủ thể và đối tượng gì nữa. Hay nói cách khác cho dễ hiểu, không phân biệt tôi và anh, tôi và chị hoặc tôi và nó gì nữa. Chỉ còn là một thôi.
Tóm lại, những chữ đi sau động từ "yêu" nhằm diễn tả một tình yêu không biên giới, cả biên giới với Chúa lẫn biên giới với người khác. Tất cả đều yêu nhau. Cuộc sống chỉ là yêu.
4. Bắt đầu yêu mình trước
Trong bài Tin Mừng này, Ðức Giêsu bảo "Ngươi hãy yêu kẻ khác như chính mình ngươi". Có thể hiểu là: hãy biết yêu mình trước rồi mới có thể yêu kẻ khác.
Một cụ già đang ngồi trước cổng thành. Một người khách lạ đến hỏi:
- Dân trong thành này là người thế nào?
- Thế anh thấy dân của thành trước đây anh vừa ghé như thế nào?
- Họ rất tử tế và sẵn sàng giúp đỡ khi mình nhờ tới.
- Thế thì anh cũng sẽ gặp những người như vậy trong thành này.
Một lúc sau, một người khách khác tới và cũng hỏi:
- Dân trong thành này là người thế nào?
- Thế anh thấy dân của thành trước đây anh vừa ghé như thế nào?
- Họ rất khó ưa, ích kỷ và chẳng chịu giúp mình gì cả khi mình nhờ tới.
- Thế thì anh cũng sẽ gặp những người như vậy trong thành này.
Ý nghĩa câu chuyện này là tôi thường đánh giá người khác không theo lòng họ mà theo lòng mình. Nếu ta thấy người ta khó chịu, đó là dấu trong lòng ta đang khó chịu. Người nào bình an trong lòng thì lan tỏa bình an ấy ra ngoài và cảm thấy mọi người đều hiền hòa.
Bởi thế, ta phải học yêu bản thân mình trước rồi mới có thể yêu người khác. Nhưng thế nào là yêu mình? Là hãy ban cho lòng mình những tình cảm cao thượng, bình an, độ lượng.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý: Yêu mình một cách sai lạc thì không thể yêu người khác. Yêu mình sai lạc là thế nào? Là ích kỷ chỉ nghĩ tới mình, chỉ lo cho mình và dành hết mọi sự tốt cho mình. (Flor McCarthy, Love your neighbor as yourself)
5. Chuyện minh họa: Tin Mừng trọn vẹn
Vào thời có nhiều người thích ẩn tu trong sa mạc, có một Tu Sĩ nổi tiếng đạo đức tên là Môsê. Sắp đến lễ Phục sinh, tất cả các tu sĩ đều nhất trí sẽ không ăn gì cả suốt Tuần Thánh, mỗi người ở luôn trong phòng mình và chuyên chăm cầu nguyện.
Ðến giữa tuần, có hai khách lữ hành ghé thăm Thầy Môsê. Thấy họ đói quá, Thầy nấu cho họ một nồi súp. Và để họ không ngại, Thầy cũng ăn một ít trước mặt họ. Ðang lúc đó, các thầy khác thấy khói và mùi thức ăn từ phòng Thầy Môsê bay ra thì bực tức tới bắt lỗi:
- Thầy đã phạm luật!
Thầy Môsê khiêm tốn trả lời:
- Ðúng là tôi đã phạm luật của loài người. Nhưng đó là vì tôi giữ luật Chúa dạy phải yêu thương người khác.
Nghe thế, những thầy kia xấu hổ bỏ đi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Giêsu được yêu cầu nêu ra hai điều luật quan trọng nhất. Ngài đã nêu ra luật mến Chúa và luật yêu người. Ngài đã nối kết cả hai lại với nhau và xem chúng đều trọng như nhau. Thế nhưng loài người chúng ta thường tách hai điều đó khỏi nhau.
6. Mảnh suy tư
Tách rời hai khoản luật lớn của Chúa là một thảm kịch và rõ ràng đi ngược ý Chúa.
Thế nhưng việc này lại thường xảy ra.
Những kẻ lo mến Chúa thì thường không yêu người, và những kẻ lo yêu người lại không mến Chúa. Thế là Tin Mừng bị xé ra làm hai. (Flor McCarthy)
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Trong bữa Tiệc ly Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta một điều răn mới: "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em". Với quyết tâm sống bác ái như Chúa đã dạy, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1. Hội Thánh là dấu chỉ tình thương của Chúa đối với nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho tất cả mọi người trong đại gia đình Hội Thánh / luôn sống hòa thuận thương yêu nhau / và cư xử bác ái với những ai chưa nhận biết Chúa.
2. Lòng bác ái yêu thương không hề có biên giới / chủng tộc /; ngôn ngữ / địa vị xã hội / giầu nghèo / thông thái hay dốt nát / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu / biết cố gắng sống tinh thần quảng đại ấy.
3. Ngày nay / hận thù / bạo lực / khủng bố vẫn còn đang hoành hành dữ dội tại nhiều nơi trên thế giới / gây kinh hoàng cho biết bao người / đem tang tóc và đau khổ cho biết bao gia đình lương thiện / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho lòng bác ái yêu thương / ngự trị trong mọi sinh hoạt trên khắp hoàn cầu.
4. Chân thành yêu thương nhau / hết lòng tôn trọng nhau / và quảng đại giúp đỡ những ai thực sự đói nghèo / là bổn phận của mỗi kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng yêu thương nhau như Chúa đã dạy.
CT: Lạy Chúa, thánh Phaolô quả quyết "Sống bác ái yêu thương là chu toàn lề luật của Chúa". Xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con có thể hết lòng mến Chúa và tha thiết yêu người như Chúa đã dạy. Chúng con cầu xin...
VI. Trong Thánh Lễ
Trước kinh Lạy Cha: Trong kinh Lạy Cha, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta yêu mến Chúa là Cha chúng ta "hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn" ta, cũng như yêu thương tha nhân là anh em chúng ta "như chính mình" ta vậy.
Sau kinh Lạy Cha: "... xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Xin giúp chúng con luôn cố gắng thực thi điều răn quan trọng nhất là Yêu thương. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp..."
VII. Giải tán
Chúc anh em ra về và sống yêu thương trọn vẹn đối với Chúa cũng như đối với tất cả mọi người.
5. Mến Chúa yêu người
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay cho chúng ta thấy sự chống đối dai dẳng của bọn biệt phái đối với Chúa Giêsu. Họ không ngừng tìm cách giăng những cái bẫy để hại Ngài. Họ đã bắt lỗi Ngài trong các việc Ngài làm. Đồng thời họ còn muốn bắt lỗi Ngài trong các lời Ngài nói. Vì giáo huấn của Ngài luôn đi ngược lại với những điều họ giảng dạy, nên họ đã cố gắng tìm cách đưa Ngài trở về với con đường mòn họ đã vạch ra và muốn mọi người noi theo. Họ muốn Chúa Giêsu lặp lại chính những điều họ thường giảng dạy. Họ hỏi Ngài về điều răn trọng nhất. Làm sao có thể nói khác điều luật dạy: Yêu mến Thiên Chúa hết lòng. Nếu như Ngài dừng lại ở đây thì có lẽ họ đã toại nguyện, bởi vì Ngài dạy như họ đã dạy.
Thế nhưng, Chúa Giêsu không dừng lại ở đó mà Ngài còn nói thêm: Giới răn thứ hai cũng giống như giới răn thứ nhất. Giống ở đây không có nghĩa là hai giới răn là một và có thể hoán đổi cho nhau, mà muốn nói đến tầm quan trọng ngang nhau của hai giới răn. Giới răn thứ hai đó là ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi, nghĩa là yêu thương kẻ khác một cách trọn vẹn, một cách hết lòng. Đây chính là nét độc đáo của Chúa Giêsu. Điều Ngài muốn khẳng định ở đây không phải là việc mến Chúa và yêu người, bởi vì những tư tưởng này cũng khá quen thuộc trong Cựu Ước, nhưng chính là việc Ngài đặt hai giới răn này gắn chặt với nhau, cũng có một tầm quan trọng ngang nhau, và hơn thế nữa, theo Ngài thì toàn thể lề luật và sách các tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn này.
Giáo huấn của Chúa Giêsu hẳn đã làm cho kẻ thù của Ngài phải sửng sốt. Nhưng sự sửng sốt này, thay vì lay tỉnh họ, đặt họ trong tư thế sẵn sàng tìm hiểu cái mới trong giáo huấn của Chúa, thì đã làm cho họ thêm chai cứng và thêm quyết tâm trong ý định triệt hạ Ngài. Một cách nào đó có thể nói rằng tình yêu giữa con người với con người là công việc của con người, thế nhưng đây lại là một nỗi bận tâm lớn của Thiên Chúa, bởi vì chính Ngài đã đặt tình yêu này thành mệnh lệnh, thành giới răn và Ngài không ngần ngại tự đặt mình làm trọng tài lo việc thực thi giới răn này: Nếu các ngươi hà hiếp cô nhi quả phụ, làm phiền lòng khách ngoại kiều, bắt người nghèo khó vay tiền phải chịu lãi nặng, họ sẽ kêu thấu đến ta và chính ta sẽ nghe tiếng họ kêu van, sẽ nổi cơn thịnh nộ và sẽ dùng gươm giết chết các ngươi.
Người Kitô hữu vào mọi thời đã đón nhận giới luật yêu thương đồng loại như là một trong hai giới răn quan trọng nhất của Kitô giáo. Mến Chúa yêu người đó là tất cả chương trình sống của người tín hữu. Những công việc chúng ta quen gọi là bác ái từ thiện như giúp đỡ người tàn tật, bệnh hoạn hay gặp phải tai ương đã từng là những hình thức quen thuộc để thực thi giới luật yêu thương.
6. Điều răn trọng nhất
MINH HỌA LỜI CHÚA
1. Mến Chúa và yêu người
Một thanh niên bị công an tầm nả gắt gao. Trên đường tẩu thoát, anh xin tá túc trong một xóm đạo. Giáo dân che giấu anh tận tình. Nhưng thấy công an đến lục soát và hăm dọa nếu không bắt được người thanh niên đó, họ sẽ thiêu rụi xóm đạo và giết chết hết nên giáo dân sợ tìm đến hỏi ý kiến cha xứ. Cha vừa thương người thanh niên vừa sợ cho giáo dân nên không quyết định ngay được. Cha vào phòng đọc Kinh Thánh mong tìm được tìm giải pháp. Cha tìm thấy ông Caipha nói về cái chết của Chúa Giêsu: "Thà một người chết còn hơn cả một dân tộc bị tiêu diệt". Tin đó là Lời Chúa soi sáng, cha bảo giáo dân nộp người thanh niên cho công an và anh bị xử tử. Cái chết của anh thanh niên mà cha biết là vô tội đã dày vò tâm trí cha. Cha giam mình trong phòng để sám hối.
Một sứ thần đến tra vấn cha. Cha đáp:
- Tôi đã nộp người thanh niên đó cho kẻ thù.
Sứ thần tiết lộ cho cha biết:
- Người thanh niên đó chính là Chúa Giêsu.
Lời tiết lộ của sứ thần làm cho cha càng bối rối thêm. Thấy vậy, sứ thần dẫn giải:
- Phải chi thay vì đọc Kinh Thánh, ông đến thăm người thanh niên, và nhìn vào mắt anh, ông sẽ nhận ra ông ta là ai.
Phải chi thay vì đọc Kinh Thánh, ông đến thăm người thanh niên, và nhìn vào mắt anh, ông sẽ nhận ra ông ta là ai.
Chắc chắn anh ta là Chúa Giêsu, vì Chúa Giêsu đã chẳng đồng hóa với tha nhân đó sao?
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu bảo: "Người phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy, là ngươi hãy yêu người thân cận như chính mình" (Mt. 22, 37-39).
Mến Chúa là thương người. Thương người là mến Chúa, vì Chúa đã đồng hóa với tha nhân, và mỗi người là hình ảnh Chúa. Chính vì thế, thánh Gioan đã xác quyết: "Kẻ nào bảo mình mến Chúa mà không thương người là nói dối. Vì tha nhân mình thấy trước mắt mà không thương thì làm sao mến Chúa mình không thấy được" (1 Ga. 4,20).
Câu chuyện trên đây nhắc chúng ta hai giới răn chính yếu Chúa Giêsu dạy trong Tin Mừng hôm nay. Đó là "mến Chúa yêu người". Không thể kính mến Chúa mà ghét bỏ con người. Cũng không thể yêu mến con người mà từ bỏ Chúa.
Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Người, để con người nhận ra mình trong anh em và mến người anh em như chính mình. Như thế "mến Chúa yêu người là một giới răn duy nhất cao trội". Hễ kính mến Thiên Chúa là yêu thương anh em. Nếu không anh em thì không thể nhìn nhận Thiên Chúa và kính mến Người được. (Theo "Phút cầu nguyện cuối ngày", tập III).
2. Người ta thương yêu ông dường nào
Một cuốn phim nói về cậu bé 7 tuổi với ông nội giàu có và đang quản lý nhiều công nhân. Ông là con người ích kỷ, độc ác, bắt công nhân làm việc cực nhọc và nhiều giờ để trục lợi, mà trả lương rất kém. Những ai đã làm việc cho ông đều than phiền ông, nhưng vì không có việc làm nên đành phải chịu vậy.
Trong khi đó, cậu bé quá thần tượng ông mình, nên không nhận ra điều đó. Cậu lại nghĩ ông mình là người quảng đại nhân từ. Cậu thường nói với ông:
- Nội ơi! Người ta thương nội biết dường nào. Vì nội nhân từ quảng đại với họ. Con dám chắc người ta thương nội như con thương nội vậy.
Tình yêu và lời nhắc nhở của cậu bé lần hồi thay đổi được lòng ông lão. Ông đã trở nên người quảng đại nhân ái như đứa cháu ông nghĩ về ông.
Câu chuyện trên đây cho chúng ta thấy tình yêu của Chúa Giêsu có thể thay đổi tâm hồn chúng ta, và ban cho chúng ta sức mạnh thực thi bác ái đối với tha nhân và lòng mến đối với Thiên Chúa.
Việc làm biểu lộ tình yêu rõ rệt và cao cả nhất của Chúa Giêsu là chết treo trên khổ giá.
Trước hết, nó là dấu chỉ gây ấn tượng sâu sắc về tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta, vì "không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì bạn hữu mình" (Ga. 15,13).
Kế đến, việc Chúa Giêsu đóng đinh mời gọi chúng ta đến với tình yêu. Người bảo chúng ta: "Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con" (Ga. 15,12). Người dạy chúng ta biết: chúng ta có thể hy sinh giúp đỡ kẻ khác như người đã hiến mạng sống vì phần rỗi chúng ta.
Sau cùng, ngoài dấu chỉ tình yêu, lời mời gọi đến tình yêu, thập giá Chúa Giêsu còn mạc khải cho chúng ta biết tình thương kéo theo đau khổ: yêu thương giúp đỡ kẻ khác sẽ đem lại đau khổ mất mát cho chính mình, như Chúa Giêsu vì thương chúng ta, để cứu rỗi chúng ta phải chịu chết trên khổ giá.
Như thế, trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta biết điều răn trọng nhất trong đạo là "mến Chúa yêu người". Và Người mời gọi chúng ta thực thi điều răn đó, bằng cách nêu gương cho chúng ta khi Người chịu chết treo trên thập giá, để làm dấu chỉ tình yêu của Người, để mời gọi chúng ta đến tình yêu và mặc khải cho chúng ta biết tình yêu luôn luôn kéo theo đau khổ mất mát. (Theo "Sunday homilies").
3. Thị kiến hay phục vụ
Đã nhiều năm một vị tu sĩ cao tuổi cầu xin Chúa hiện ra củng cố niềm tin cho ông nhưng chưa được Chúa nhận lời. Trong lúc ông buồn phiền thất vọng thì Chúa hiện ra. Ông mừng quá, quỳ gối tiếp kiến Chúa!... Bỗng hồi chuông tu viện báo hiệu giờ phút phát chẩn cho người nghèo đã đến, và ông là người có trách nhiệm đó. Làm sao đây? Ở lại tiếp kiến Chúa hay đi giúp đỡ người nghèo? Ông suy nghĩ một lúc rồi xin phép Chúa đi làm bổn phận.
Khi làm xong bổn phận, ông trở về phòng, vẫn nuối tiếc vì không được diện kiến Chúa như lòng ước nguyện. Nhưng khi mở cửa phòng, ông không thể tin vào mắt mình: Chúa còn ở đó chờ ông, ông mừng rỡ quỳ xuống cảm tạ Chúa. Chúa liền nói:
- Nếu con không đi phát chẩn cho người nghèo. Ta không ở lại đây chờ con.
Câu chuyện trên đây minh họa tuyệt vời giáo huấn của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay: "Con hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của con hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn con, và hãy yêu người thân cận như chính mình con" (Mt. 22, 37-39). Vị tu sĩ lão thành trên đây đã làm đúng ý Chúa Giêsu. Ông đã học được phương thế tốt nhất để kính mến Chúa. Kính mến Chúa không nhất thiết phải từ bỏ mọi sự, phải quay lưng lại với tha nhân, mà thực hiện điều căn bản nhất là phục vụ tha nhân, nhất là những người nghèo khổ bất hạnh.
Một Kitô hữu vĩ đại thời nay là Albert Schweizer, người đã từ biệt những buổi hòa nhạc nổi tiếng ở Châu Âu đi làm bác ái thừa sai phục vụ người nghèo ở Phi Châu đã nói: "Tôi không biết bạn kính mến Chúa bao nhiêu. Tôi chỉ biết một điều là ai biết tìm và thấy cách thức phục vụ tha nhân thì mới thực sự kính mến Chúa như lời thánh Gioan khẳng định: "Nếu ai nói: tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối, vì ai không thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em mình" (1 Ga. 4, 20-21). (Theo "Thiên đàng là thế đó").
4. Mến Chúa trong tha nhân
Cách đây ít lâu, đài truyền hình Ý đã đưa ra một hình ảnh tra tấn dã man tại một số nhà tù ở Mỹ, là một nước tự hào là dân chủ tự do, tôn trọng nhân phẩm con người. Những hình ảnh tra tấn dã man đó là nguyên cớ sinh ra hận thù, bạo lực. Có sức mạnh nào thay đổi được thảm trạng hận thù bạo lực giữa con người không? Một linh mục đã từng bị tù ngục bất công trong nhiều năm kể lại: Trong thời gian bị giam, một đêm nọ tôi đau quá. Thấy người lính gác đi ngang qua, tôi liền nói:
- Này anh, anh thương cho tôi thuốc uống.
- Ở đây không có tình thương.
Đó là bầu không khí đè nặng chúng tôi trong tù ngục. Nhưng rồi một đêm lạnh quá, không ngủ được, tôi nghe có tiếng nhắc nhở tôi: "Tại sao con dại thế? Con còn giàu lắm! Con còn mang tình thương Chúa Giêsu trong lòng con. Hãy yêu thương họ như Chúa Giêsu thương yêu con..."
Thế là tôi bắt đầu yêu thương họ, yêu mến Chúa trong họ, tươi cười với họ, trao đổi với họ. Dần dần chúng tôi trở thành bạn thân. Bầu khí nhà giam thay đổi hẳn. Quan hệ giữa họ và tôi cũng bắt đầu tốt đẹp thân thiện. Từ đó tôi quyết tâm làm theo Lời Chúa Giêsu: "Điều gì con làm cho một người bé mọn nhất trong anh em con là làm cho chính ta".
Sự thay đổi bầu khí nhà tù và mối quan hệ thân thiện trong câu chuyện trên đây là do sức mạnh của tình yêu: yêu Chúa qua tha nhân. Quả thế ở đâu có tình thương, ở đó có an bình vui tươi và hạnh phúc vì có Chúa hiện diện và ngự trị, có ngôn ngữ của bác ái. Đức ái liên kết mọi người nên một, đạp đổ hận thù, nghi kỵ. Bác ái chính là chứng tích nhận ra chúng ta là môn đệ Chúa Kitô.
Bản tính con người hạn hẹp yếu đuối dễ sai lầm, và sai lầm nhiều nhất là không nhìn thấy Chúa trong tha nhân. Thế nên trong Tin Mừng hôm nay, nhân dịp một người trong nhóm Biệt Phái hỏi thử, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta điều răn trọng nhất, cốt yếu nhất, tóm lại tất cả lề luật và lời các ngôn sứ: đó là:
"Con phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của con, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn con...
Và phải thương người thân cận như chính mình con" (Mt. 22, 37-39).
Chúng ta hãy xin Chúa ban cho một trái tim như trái tim Chúa, để có thể kính mến Chúa tha thiết qua anh chị em, nhất là những anh chị em nghèo khổ bất hạnh. (Theo "Phút cầu nguyện cuối ngày", tập IV).
5. Yêu người không thấy mặt
Một trung úy Hải quân Hoa Kỳ thuật lại:
Qua mục "Tìm bạn bốn phương" trong báo chí, anh quen được một người con gái ở New York. Sau một thời gian thư từ qua lại, hai người yêu nhau. Nhưng có điều là chàng trung úy không vui là cô gái không bao giờ gởi hình cô cho anh, và anh muốn biết mặt cô. Cô giải thích:
- Nếu anh yêu em thực sự, thì diện mạo bên ngoài của em đâu phải là quan trọng. Giả như em đẹp, em sợ rằng anh yêu em chỉ vì sắc đẹp, đó là điều làm cho em thất vọng. Ngược lại nếu em xấu thì sao? Anh có yêu em không?...
Khi nào anh về New York, anh sẽ thấy em, và lúc đó anh sẽ quyết định.
Và họ hẹn gặp nhau tại ga xe lửa New York. Vừa đến điểm hẹn, chàng trung úy gặp ngay cô gái đang đứng chờ mình. Anh chưa kịp tự giới thiệu thì cô ta đã lên tiếng:
- Thưa ông, tôi không biết có chuyện gì giữa ông và cô gái đang đứng bên kia đường. Vừa thấy ông, cô ấy đã vội vã sang đó, và nhờ tôi gặp ông nói dùm: Cô ấy chờ ông ở trong quán bên kia đường.
Chàng trung úy vội vã sang bên kia đường, đến quán ăn nơi người yêu đang chờ đợi. Và họ đã gặp nhau vui mừng phở lở.
Câu chuyện trên đây nói lên tình yêu giữa người với người. Cuộc sống của người Kitô hữu chúng ta cũng như một cuộc tình, trong đó chúng ta yêu thương một người mà chúng ta chưa hề thấy mặt. Người tình không chân dung đó chính là Thiên Chúa. Trước khi chúng ta thấy mặt diện đối diện, trước khi cho chúng ta chiêm ngắm dung nhan Người, Thiên Chúa gặp gỡ chúng ta qua dung mạo của người anh em đồng loại chúng ta.
Do đó, cuộc sống của chúng ta tại thế cũng giống như cuộc tập dợt yêu thương từ một tình cảm vị kỷ, tình yêu của chúng ta ngày càng được thanh luyện để trở nên siêu nhiên hơn. Qua bao nhiêu người đồng loại chúng ta gặp mỗi ngày, Thiên Chúa không ngừng đến với chúng ta. Một tình yêu đích thực mà muốn chứng tỏ với Chúa sẽ được đo lường qua chính tình thương mà chúng ta thể hiện với tha nhân, nhất là qua những người mà tự nhiên không bao giờ chúng ta muốn tìm đến gặp gỡ.
Có thực hiện được như thế, chúng ta mới tuân giữ được giới răn trọng nhất mà Chúa Giêsu dạy chúng ta trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta hoàn thành bổn phận đối với Chúa và với đồng loại. Khi đó chúng ta mới xứng đáng lời Chúa Giêsu mời gọi: "Hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các con ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói các con đã cho ăn; Ta khát các con đã cho uống; Ta là khách lạ các con đã tiếp rước; Ta trần truồng các con đã cho mặc; Ta đau yếu các con đã chăm nom; Ta ngồi tù các con đã đến viếng" (Mt. 25, 34-36)
(Theo "Phút cầu nguyện cuối ngày", tập IV).
7. Tình Chúa tình người - AM Trần Bình An
Malala Yousafzai đã được trao giải Nobel Hòa Bình vào hôm thứ Sáu, ngày 10 tháng 10, 2014 cùng với ông Kailash Satyarthi cho những nỗ lực tranh đấu chống lại sự áp bức đối với trẻ em và quyền của giới trẻ, trong đó có quyền được giáo dục.
Malala Yousafzai, người Pakistan, năm nay 17 tuổi là người trẻ nhất trong lịch sử được vinh dự nhận giải Nobel Hòa Bình trong danh sách những người nhận giải nổi tiếng như Martin Luther King Jr., Nelson Mandela and Mẹ Teresa.
Hai năm trước đây Malala Yousafzai bị quân khủng bố cực đoan Taliban bắn vào đầu và cổ bởi vì những tranh đấu của cô đòi quyền được giáo dục cho các em gái nhỏ ở Pakistan. Sau khi hồi phục từ cuộc giải phẫu, Malala đã mở rộng phạm vi chiến dịch vận động ra thế giới bên ngoài và trở thành tiếng nói đi đầu cho quyền được giáo dục của các trẻ em phái nữ.
Từ khi mới 11 tuổi Malala Yousafzai đã bắt đầu có những buổi trả lời phỏng vấn và chuyển tải những thông điệp của cô về sự quan trọng của giáo dục đối với các bé gái. Lúc bấy giờ Taliban đã chiếm đóng thành phố của cô và đe dọa sẽ phá hủy toàn bộ những trường lớp dành cho nữ sinh và ngăn cấm các bé gái đến trường.
"Mặc dù tuổi còn rất trẻ, Malala Yousafzai đã tranh đấu trong nhiều năm cho quyền được đến trường của trẻ em gái. Cô là tấm gương chứng minh rằng trẻ em và thế hệ trẻ cũng có thể đóng góp để cải thiện hoàn cảnh của chính mình. Và Malala đã làm điều đó trong những điều kiện vô cùng nguy hiểm. Qua cuộc tranh đấu hào hùng của cô, cô đã trở thành phát ngôn viên hàng đầu cho quyền của trẻ em gái được học hành." Ủy ban Nobel đã tuyên bố.
Malala Yousafzai hiện đang theo học tại Birmingham, Anh Quốc và cô nhận được tin thắng giải Nobel Hòa Bình vào sáng thứ sáu khi đang ở trong lớp hóa học. Phát biểu cảm tưởng về giải thưởng, Malala nói rằng cô không tin là cô xứng đáng với giải Nobel Hòa Bình. Tuy nhiên, cô xem đây là một khích lệ lớn lao để cô tiếp tục và biết rằng cô không cô đơn trên con đường tranh đấu của cô.
"Đây chỉ là bước khởi đầu, trẻ em trên toàn thế giới cần đứng dậy cho những quyền của mình mà không phải chờ đợi ai khác," cô nói. (Theo CNN & USA Today)
Cô bé Malala Yousafzai tuy tuổi nhỏ nhưng đã chín chắn trưởng thành, ý thức tranh đấu cho nữ quyền, mặc dù nguy hiểm đe dọa tính mạng. Cô can đảm xả kỷ, xả thân cho lý tưởng phụ nữ bình quyền. Phải có một tình yêu tha nhân cháy bỏng, cô mới có thể kiên trì dấn thân. Điều không phải ai cũng dễ dàng làm được, dù có thừa lợi thế hơn cô bé.
Trình thuật Tin Mừng Thánh Matthêu hôm nay, Đức Giêsu tuyên bố hai giới răn quan trọng nhất. Đó là mến Chúa, yêu người. Tuy vắn tắt, đơn giản nhưng thực hiện không hề dễ.
Khi con người bị đột biến gien
Trong sáng, thành thật, dễ thương, trẻ thơ là hình ảnh Đức Giêsu muốn nhắn nhủ, gửi đến những ai mong được hưởng Ơn Cứu rỗi, được vào Nước Trời. Nhưng dù lên non tìm động hoa vàng đi nữa, chắc mấy ai có thể cải lão hoàn đồng, khi cái tâm vẫn còn lục dục, thất tình, tham sân si?
Vốn nhân chi sơ tính bản thiện, trẻ thơ sống hồn nhiên, vô tư, ngay lành trong tình yêu của ông bà, cha mẹ, anh chị em. Thiên Chúa đã đặt dấu ân Tình Yêu trên bản sao của Ngài.
Tiếc thay dấu ấn đó phai mờ dần, khi con người lớn lên, chịu ảnh hưởng thói xấu, gian trá, lưu manh, háo lợi, háo danh, háo chức, háo quyền lực của bá tánh, của môi trường xã hội.
Khi này lương tâm hạ cấp thê thảm. Lương tâm không bằng lương bổng! Thay vì làm con thơ yêu thương của Thiên Chúa, lại cam phận nô lệ cho ba thù, xác thịt, thế gian và ma quỷ, mà Thánh Phaolô đã phải chua xót thốt lên: “Họ chẳng phục vụ Đức Kitô, Chúa chúng ta, mà phục vụ chính cái bụng của mình!” (Rm 16, 18)
Tình yêu trong sáng chấp cánh bay đi, chỉ còn tình hận, tình phụ và tình thù. Con người bị đột biến gien, bị văn minh sự chết cấy sinh tử phù dở sống dở chết, cấy gien tự hoại, tự hủy, như Cty Monsanto cấy gien vô sinh vào hạt giống (GMO), để độc quyền cung cấp giống thực vật, động vật đã đăng ký bản quyền.
Khi Đấng Cứu Thế đến giải thoát con người
"Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em." (Ga 15, 12) Đây chính là lệnh truyền, cũng như điều răn của chính Đức Giêsu phán dạy. Ngôn hành hiệp nhất, Người đã yêu thương con người, đến giảng dạy và chứng mình lời nói bằng chính cuộc chịu nạn, chịu chết và sống lại để giài thoát con người khỏi kiếp nô lệ và cái chết đời đời.
Người đem Tình Yêu cao quý, sáng ngời, nóng bỏng, đến đốt cháy sự chết, gian tà, kiêu căng, hợm hĩnh, xa hoa, giả hình. Tình Yêu xóa tan hận thù, đố kỵ, chia rẽ, để tất cả thương yêu, hiệp nhất với nhau và với Người. “Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như, lạy Cha, Cha ở trong con và con ở trong Cha, để họ cũng ở trong chúng ta.” (Ga 17, 20-21) Nên một với Đức Giêsu, nên đồng hình đồng dạng với Người, thì con người sẽ biết cách yêu thương nhau như Người đã yêu thương con người.
Khi con người biết yêu mến Thiên Chúa, tôn thờ, ngợi khen và cảm tạ, cũng là lúc biết sám hối, thành khẩn tìm về với Ngài, mong muốn Ngài luôn hiện diện trong thế giới đang ra sức chổi bỏ Ngài, từ khước và vô ơn bạc nghĩa với Ngài.
“Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.” (Mt 22, 39)
Thắm đậm Tình Yêu Thiên Chúa, con người mới mở rộng cõi lòng đến với tha nhân, mới có thể yêu tha nhân như chính mình. Mới biết đem đến tha nhân những tinh túy Tình Yêu, tình người, lòng bác ái, tình yêu thương, đùm bọc, che chở, chia sẻ và giúp đỡ tận tình.
“Vì yêu thương, ta sẵn sàng hy sinh tất cả: “Để thế gian biết Đức Chúa Cha yêu Thầy và Thầy yêu mến Đức Chúa Cha, chúng ta hãy chỗi dậy và ra đi.” (Đường Hy Vọng, số 159)
Lạy Chúa, xin gột rửa trái tim chúng con nên trong sạch, tẩy đi những dấu vết, hoen ố, tội lỗi, ích kỷ, kiêu căng, đam mê xác thịt, thế gian, để chúng con xứng đáng đón rước Tình Yêu đại lượng cao cả của Thiên Chúa. Xin Chúa cải hóa chúng con trở lại con người chân chính, nguyên thủy mà Chúa đã yêu thương tạo dựng, để chúng con luôn biết kính yêu Chúa, tôn thờ và cảm tạ Chúa mãi, cũng như biết yêu thương tha nhân chân tình.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dạy dỗ, nhắc nhủ chúng con ngày càng thêm mến Chúa, yêu Chúa qua những bổn phận và trách nhiệm hằng ngày, trở nên chứng nhân Tình Yêu Thiên Chúa giữa tha nhân. Kính xin Mẹ nâng đỡ, hướng dẫn chúng con yêu thương tha nhân như chính Chúa vậy. Amen.
8. Mến Chúa yêu người
Mở đầu đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Matthêu cho thấy một bầu khí tranh chấp và đố kỵ của người Do Thái. Kẻ thì theo nhóm biệt phái, người thì theo nhóm Sađốc. Bên này gài bẫy bên kia và hí hửng khi đối thủ lâm nạn. Từ lãnh vực chính trị xã hội cuộc tranh chấp lan sang phạm vi tôn giáo. Luật pháp có tới 613 khoản, gồm 248 lệnh truyền và 365 lệnh cấm. Những khoản nào là quan trọng nhất. Đó là một vấn đề nóng bỏng.
Tuỳ theo lập trường nghiêng về phụng vụ hay xã hội, đền thờ hay đền vua, mà người ta có thể biện minh cho thái độ của mình, biệt phái hay Sađốc, chống đối hay cộng tác với ngoại bang. Ai cũng muốn tranh thủ người khác về phe mình. Người ta muốn biết ý kiến của Chúa Giêsu, bởi vì lập trường của Ngài rất quan trọng, dân chúng sẽ tuỳ đó mà biểu lộ cảm tình của mình với phe nào, thế nhưng tuyên bố lập trường của mình cũng là điều nguy hiểm cho Ngài, bởi vì phe đối nghịch có thể dựa ào đó mà kết án Ngài.
Tuy nhiên, đó chỉ là những suy tính của người ta. Đã nhiều lần họ gài bẫy Ngài. Nhưng chẳng có lần nào họ đã thành công. Hôm nay cũng vậy. Được hỏi ý kiến về giới răn quan trọng nhất, Ngài đã trả lời như hết mọi người Do Thái đạo đức: Ngươi phải kính mến Thiên Chúa hết lòng. Thế nhưng không dừng lại ở đó mà Ngài còn nói tiếp: Giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất đó là ngươi phải thương yêu anh em như chính mình ngươi. Ngài không đồng hoá hai việc mến Chúa và yêu người. Hai việc đó vẫn khác nhau và vì thế không được xao lãng nhiệm vụ nào. Đó là nét độc đáo của Chúa Giêsu.
Người ta vẫn nói phải mến Chúa và yêu người, phải có thiên đạo và nhân đạo, nhưng bình thường người ta vẫn coi đó là những nhiệm vụ xa rời nhau, không liên hệ gì với nhau. Người ta có thể mến Chúa trong nhà thờ và không thương người ở ngoài xã hội. Hoặc thương người ở ngoài xã hội nhưng lại không mến Chúa ở trong nhà thờ. Hơn nữa, người ta coi việc thương người chỉ là thứ yếu sánh với việc mến Chúa. Đối với Chúa Giêsu thì khác. Phải mến Chúa cũng như yêu người. Ưu tiên là mến Chúa, nhưng đồng thời cũng phải yêu người. Hay như thánh Gioan đã viết: Không thể có lòng mến Chúa, Đấng vô hình, nếu không thương người. Và khi dạy phải yêu người như chính bản thân, thì Chúa Giêsu không có ý bảo phải thương mình trước. Câu nói của Chúa Giêsu có nghĩa là phải yêu người hết lòng cũng như phải kính mến Chúa hết lòng.
Cuối cùng một nét độc đáo khác nữa trong câu trả lời của Chúa Giêsu là tất cả luật pháp và các tiên tri đều quy về sự mến Chúa và yêu người. Như vậy, không những tất cả 613 khoản luật, mà toàn thể lời giáo huấn đều nhằm phát triển lòng mến Chúa yêu người. Như thế vấn đề tranh chấp đã được giải quyết. Chẳng phe nào thắng. Phe nào cũng phải nỗ lực hơn để giữ trọn lề luật. Phe nào cũng đã lầm lạc vì đã không cọi trọng hai nhiệm vụ mến Chúa yêu người như nhau, cho nên đã làm mất quân bình, gây ra những lệch lạc trong đời sống. Đức Kitô đã đến để mang lại ơn cứu độ. Ai đón nhận Ngài thì phải mến Chúa. Ai đã mến Chúa thì cũng phải yêu người.
9. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Sau khi thất bại Đức Giêsu với câu hỏi: “Có nên nộp thuế cho Cêsarê không?”(Mt 22,17) nhóm Biệt phái tiếp tục dùng chiêu khác để gài bẩy Ngài. Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết, họ sai một tiến sĩ luật đến hỏi thử Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất?”(Mt 22,34).
Câu hỏi không dễ trả lời. Bởi vì, thời Đức Giêsu, luật Do thái có 613 khoản, trong đó có 365 luật cấm và 248 luật buộc. Trong 613 khoản luật đó, chính nhóm Biệt phái và các phe nhóm khác vẫn chưa thống nhất với nhau điều nào trọng nhất: Nhóm thì điều luật này, nhóm thì điều luật kia. Nhóm nào cũng muốn giữ lập trường của mình. Trước tình trạng đó, họ muốn hỏi Đức Giêsu để gài bẩy Ngài. Nếu Đức Giêsu trả lời điều luật này trọng điều luật kia không thì Ngài rơi vào tình trạng ủng hộ quan điểm của nhóm này và phủ nhận quan điểm của các nhóm kia. Nên Ngài sẽ bị các nhóm kia chống đối. Nhưng Đức Giêsu không thể mắc bẩy của họ. Ngài luôn có câu trả lời khôn ngoan làm cho bọn họ phải “tâm phục khẩu phục”. Thật vậy, dựa vào sách Đnl 6,5 và sách Lêvi 19,18, Ngài đưa ra câu trả lời rằng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ðó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó”(Mt 22, 37-40). Câu trả lời của Đức Giêsu thật xuất sắc, khiến vị tiến sĩ luật không còn thắc mắc gì thêm nữa. Câu trả lời này cho chúng ta biết trong 613 khoản luật của Do thái tóm lại hai điều luật quan trọng là Mến Chúa – Yêu Người. Hai điều luật này khác nhau nhưng không tách rời. Hai điều luật này luôn đi đôi với nhau: Mến Chúa thì phải yêu người và yêu người thì phải mến Chúa. Chính Thánh Gioan Tông đồ cũng đã nói: “Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em thì đó là kẻ nói dối, bởi vì kẻ không yêu thương người anh em nó thấy trước mắt, tất không thể yêu mến Đấng nó không thấy.”(1 Ga 4,20). Nhưng chúng ta phải làm gì để yêu mến Chúa và tha nhân?
1. Chúng ta phải làm gì để yêu mến Chúa?
Có nhiều việc làm để yêu mến Chúa, xin được đơn cử một vài việc làm sau đây:
Thứ nhất, để yêu mến Chúa, chúng ta phải tuân giữ giáo huấn của Ngài. Đức Giêsu đã từng nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14,15). Nơi khác Ngài cũng nói: “Ai giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” (Ga 14,21). Các giáo huấn của Chúa được cụ thể hóa qua 10 điều răn. Các giáo huấn của Chúa được thể hiện qua: Lời của Ngài trong cuốn Kinh Thánh; Giáo huấn của Giáo hội; tiếng nói của lương tâm; các vị bề trên hợp pháp thay mặt Chúa để coi sóc, dạy bảo chúng ta... Tuân giữ giáo huấn của Chúa không chỉ chứng tỏ chúng ta yêu mến Chúa mà còn để chu toàn bổn phận của chúng ta đối với Ngài, giống như người con yêu mến cha mẹ thì luôn vâng lời cha mẹ.
Thứ hai, để yêu mến Chúa, chúng ra phải “ ước ao làm vui lòng Chúa” (Đức cha Arthur Tonne). Nhưng như thế nào là làm vui lòng Chúa? Sau đây là 8 cách làm vui lòng Chúa:
Chân thành: Hãy sống chân thành với chính mình và tha nhân. Dù khó khăn thế nào thì bạn cũng phải đối diện sự thật – hãy nhớ rằng bạn không lừa được Thiên Chúa, và đó là lừa chính mình. Thiên Chúa và bạn là những người duy nhất biết điều gì thực sự xảy ra, vì thế đừng nói dối Đấng đã hy sinh mạng sống vì bạn!
Khiêm nhường: Đừng bao giờ ưu tiên chính mình. Không thể đốt giai đoạn, hãy cứ duy trì mức đầu và cố gắng để đạt mức tốt nhất. Đừng quên: “Dục tốc bất đạt”.
Dành thời gian cho Chúa: Cố gắng dành thời gian cho Chúa: Tham dự Thánh lễ, tham dự phụng vụ, tham dự giờ kinh chung, cầu nguyện riêng,… Hãy dành thời gian thờ phượng bởi vì không có Thiên Chúa thì chúng ta không thể hiện hữu.
Hãy là chính mình: Bạn không cầu nguyện với gia đình hoặc bạn bè, do đó bạn không nên thay đổi chính mình theo ý họ. Đấng duy nhất mà bạn nên thay đổi theo ý Ngài chính là Thiên Chúa. Ngài muốn bạn là bản sao tuyệt vời nhất của Ngài. Đừng ảnh hưởng bất kỳ ai ở xung quanh bạn, hãy chỉ ảnh hưởng bởi Thiên Chúa mà thôi.
Bám sát giá trị của mình: Đừng mắc lừa cơn cám dỗ hoặc ma quỷ. Hãy nhớ rằng bạn có các giá trị luân lý phải bám sát. Hãy cố gắng hiểu sự khác nhau giữa thiện và ác, đúng và sai. Đừng ảo tưởng bám theo điều mà bạn không thể.
Sống mỗi ngày như ngày cuối cùng: Đừng lãng phí một giây phút nào trong ngày. Hãy sống mỗi ngày như thể là ngày cuối cùng của mình, vì Thiên Chúa luôn chúc lành cho những ai sống với gia đình và bạn bè. Cuộc sống không thể nói trước được điều gì, nhưng hãy chúc tụng và tạ ơn Chúa đã cho bạn có dịp sống với những mơ ước của mình.
Đặt người khác trước mặt mình: Thiên Chúa hy sinh chính mình để bạn có thể sống trọn vẹn. Thay vì sống với gia đình và bạn bè theo tính xác thịt, Ngài đã đặt khác trước Ngài. Hãy cố gắng sống như Ngài. Hãy giúp đỡ những người cần được giúp đỡ. Các thiện cử của bạn sẽ không lãng phí vì Thiên Chúa luôn ở trong bạn.
Tín thác vào Chúa: Thiên Chúa có lý do và kế hoạch cho mọi thứ. Dù hoàn cảnh khó khăn thế nào, bạn cũng phải tin vào Thiên Chúa. Ngài là Đấng duy nhất mà bạn phải tín thác.
(8 cách làm vui lòng Chúa, do Trầm Thiên Thu chuyển ngữ từ beliefnet.com)
2. Chúng ta phải làm gì để yêu thương tha nhân?
Cũng có nhiều việc làm để yêu thương tha nhân, xin được gợi ý vài việc làm sau đây:
Thứ nhất, yêu thương tha nhân là không muốn điều xấu cho họ. Ông Tôbia cha đã khuyên ông Tôbia con rằng: “Điều con không thích thì đừng làm cho người khác”(Tb 4,15a). Và Đức Khổng Tử cũng khuyên các đệ tử rằng: “Điều mình không muốn thì đừng làm cho kẻ khác”. Thánh Phaolô đã dạy rằng: “Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại;”(x. Rm 13,10). Bài đọc I hôm nay cũng dạy: không được làm hại cô nhi quả phụ; không được cho họ vay nặng lãi, hãy trả những của cầm cố của người nghèo trước khi mặt trời lặn…(x. Xh 22, 21-27).
Thứ hai, yêu thương tha nhân là muốn điều tốt cho họ. Đức Giêsu đã nói: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó”(Mt 7,12).
Muốn điều tốt cho tha nhân là phục vụ họ. Chính Đức Giêsu đã rửa chân cho các Tông đồ. Ngài còn quả quyết: “Ta đến không phải được phục vụ, nhưng để phục vụ và đem giá máu của mình để cứu chuộc muôn người” (Mt 20,28). Phục vụ thì đòi hỏi phải hy sinh, hy sinh cho tha nhân chính là tình yêu cao cả: “không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Muốn điều tốt cho tha nhân là phải biết giúp đỡ họ, giống như người Samaritanô nhân hậu (Lc 10, 29-37). Bởi vì, khi chúng ta giúp đỡ tha nhân là chúng ta giúp đỡ chính Chúa. Trong ngày phán xét chung, vị thẩm phán sẽ nói với những người lành rằng: “Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu các ngươi đã đến thăm, Ta bị tù đầy các ngươi đã đến với Ta... Những gì các ngươi làm cho một trong các anh em bé mọn của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25,36).
Lạy Chúa, hằng ngày chúng con vẫn đọc Kinh Kính Mến, vẫn thưa với Chúa rằng “chúng con kính mến Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình”, nhưng trong thực tế chúng con vẫn chưa thực hiện trọn vẹn lời kinh này. Xin Chúa tha thứ cho chúng con và giúp chúng con cố gắng từ nay biết thực hiện trọn vẹn lời kinh này. Amen.
10. Mến Chúa
Có một chứng bệnh mỗi ngày một trở nên trầm trọng trong xã hội ngày nay, đó là chứng bệnh cô đơn. Thực vậy, giữa thời buổi kinh tế thị trường, người ta đổ xô về thành phố. Thế nhưng, dân số thành phố càng gia tăng thì chứng bệnh cô đơn lại càng trầm trọng. Người ta sống cách nhau chỉ một bức tường mà không hề biết đến tên tuổi của nhau. Trong một chung cư, kẻ ở lầu trên, ra vào cùng một lối mà chẳng biết đến kẻ ở lầu dưới. Mỗi người trở thành như một hòn đảo, một pháo đài biệt lập. Đời sống càng xô bồ chen chúc, thì con người lài càng cảm thấy cô đơn. Mặt trời dường như mỗi ngày một thêm nóng bức và oi ả, mà lòng người thì mỗi ngày một thêm lạnh lùng và băng giá. Thiên hạ đối xử với nhau ngày càng thêm hờ hững và xa lạ. Vậy đâu là phương thuốc trị liệu cho chứng bệnh cô đơn này?
Theo tôi nghĩ chúng ta không có một phương thuốc nào hiệu nghiệm cho bằng hãy mến Chúa và yêu người. Hay như Chúa Giêsu đã phán qua đoạn Tin Mừng hôm nay: Giới răn thứ nhất là hãy kính mến Thiên Chúa hết lòng, còn giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là hãy yêu thương tha nhân như chính mình. Tuy nhiên, đây không phải là hai giới răn riêng biệt, nhưng chỉ là một giới răn duy nhất. Yêu người chỉ là sự biểu lộ và hậu quả tất nhiên của lòng mến Chúa. Có yêu người thì mới có thể mến Chúa. Và ngược lại, có mến Chúa thì mới có thể yêu người.
Từ đó chúng ta suy ra: nguyên nhân sâu xa nhất tạo nên chứng bệnh cô đơn, chínhy là vì con người đã xa lìa Thiên Chúa. Thực vậy, cùng với những thành quả của khoa học, con người đã muốn truất phế Thiên Chúa, họ muốn nói lên như dân Do Thái ngày xưa: Chúng tôi không muốn nó cai trị trên chúng tôi. Hẳn chúng ta còn nhớ khi phi thuyền Spoutnick được phóng lên không gian và trở về địa cầu, phi hành gia Gargarine đã tuyên bố với báo chí: Từ nay sẽ không còn ai dám nói rằng có một Thiên Chúa điều khiển trăng sao nữa. Thế nhưng, nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy dăm ba chiếc phi thuyền nhỏ xíu di chuyện trong một khoảng thời gian nào đó trên không trung, làm sao có thể sánh ví với hàng triệu triệu vì sao quay cuồng trên bầu trời, không bằng một hạt cát trong sa mạc, không bằng một giọt nữa giữa biển khơi. Chính vì thế, Carnégie đã nói: Về phương diện khoa học kỹ thuật, loài người đã tiến được những bước khá cao, nhưng về phương diện tinh thần và tôn giáo, họ vẫn còn dậm chân trong một tình trạng ấu trĩ. Chúng ta có tiền nhiều, có áo tốt, có nhà cao, có xe xịn…nhưng lại thiếu bồi dưỡng về tình thần vì con người thời nay đã mất niềm tin vào Thiên Chúa. Niềm tin sẽ là như khí trời, thiếu nó chúng ta sẽ bị ngột ngạt và căng thẳng. Không tin vào Thiên Chúa là nguồn mạch mọi tình thương, chúng ta cũng không thể nào tin vào tình người một cách chân thành và bền bỉ. Vì lòng yêu người chỉ là hoa trái của tình mến Chúa mà thôi.
Bởi đó, ngày nay hơn bao giờ hết, con người phải quay trở về cùng Thiên Chúa, như lời bác học Von Braun đã tuyên bố: Nhờ những hiểu biết về không gian, nhiều người ngày nay cho rằng chúng ta cần phải tin có Thiên Chúa hơn cả những người sống trong thời trung cổ. Bởi đó, những kẻ coi khoa học là chủ tể của con người, thì chỉ biểu lộ sự nông cạn, hẹp hòi của mình mà thôi. Chính vì thế, Pascal đã nói: Khoa học nông cạn làm cho con người xa lìa Thiên Chúa, nhưng khoa học khôn ngoan sẽ dẫn đưa con người tới gần Ngài.
Một khi đã trở về cùng Thiên Chúa, một khi đã tới gần Ngài, chúng ta sẽ không còn cô đơn và tuyệt vọng, nhưng sẽ tràn đầy niềm hy vọng như lời Thánh Vịnh 17 đã diễn tả: Dù có đi giữa bóng tối hãi hùng của sự chết, tôi không còn lo sợ, vì Chúa ở cùng tôi. Hơn thế nữa, một khi đã trở về cùng Thiên Chúa, một khi đã tới gần Ngài, chúng ta mới tìm thấy được cái nền tảng vững chắc, cũng như những giá trị siêu nhiên cho vệc yêu người. Thực vậy, tại sao chúng ta lại phải yêu thương người khác? Vì có chung một Thiên Chúa là Cha, nên chúng ta là anh em. Bởi đó phải yêu thương nhau. Ngoài ra những hành động bác ái và yêu thương còn có một giá trị vĩnh cửu, bởi vì khi giúp đỡ người khác là chúng ta đã giúp đỡ cho chính Chúa vậy. Trong ngày phán xét, Ngài sẽ tra hỏi chúng ta về vấn đề này, và rồi dựa vào đó mà ấn định số phận đời đời của mỗi người chúng ta.
11. Đôi cánh để bay lên - Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Các loại máy bay cần phải có hai cánh mới có thể bay lên không trung. Nếu máy bay bị hỏng mất một hoặc cả hai cánh thì tất nhiên phải nằm lì một chỗ, chẳng thể nào bay lên được.
Các loài chim cũng phải có cánh để bay. Nếu bị cắt mất một cánh, chúng không thể bay lên.
Tương tự như thế, con người muốn được “bay” về thiên đàng thì cũng phải có đủ hai cánh.
Vậy thì hai cánh mà mỗi người chúng ta cần phải có để bay lên tới thiên đàng là gì?
Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su cho biết hai cánh đó là lòng mến Chúa và yêu thương người. Ngài nói rõ điều này với người thông luật: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình" (Mt 22,37-39).
Và qua dụ ngôn về "cuộc phán xét cuối cùng", Chúa Giê-su dạy rằng những ai có lòng mến Chúa yêu người, được thể hiện qua việc quan tâm chăm sóc những người nghèo khổ chung quanh thì sẽ hưởng hạnh phúc đời đời trên thiên quốc; còn ai không có lòng mến Chúa yêu người, thể hiện qua việc thờ ơ, vô cảm trước những nỗi bất hạnh của người khác, thì phải bị sa vào chốn cực hình muôn đời muôn thuở (Mt 25, 35-36).
Như thế thì lòng mến Chúa yêu người chính là đôi cánh tối cần thiết đưa ta về cõi thiên đàng vinh hiển. Người nào không có hai cánh này, chẳng những không được hưởng phúc thiên đàng mà còn phải sa vào hoả ngục.
Ảo tưởng
Tuy nhiên, có một số người lầm tưởng rằng: chỉ cần thờ phượng Thiên Chúa, chủ yếu là tham dự Thánh lễ các ngày Chúa nhật và lễ trọng, cùng đọc kinh sáng tối… là đủ để lên thiên đàng.
Nhưng sống đạo như vậy thì chưa được, chưa làm đúng như Chúa yêu cầu. Thực hành như thế khác gì muốn bay lên thiên đàng mà chỉ cần có một cánh.
Đức thánh Cha Bê-nê-đích-tô nhắc nhở chúng ta phải thực hành đầy đủ hai phần: vừa thờ phượng Thiên Chúa vừa yêu thương mọi người và không thể thiếu một trong hai.
Ngài nói: “Việc thực thi bác ái đối với các goá phụ và trẻ mồ côi, với các tù nhân, với các bệnh nhân và người túng thiếu dưới mọi hình thức, thuộc về bản chất của Hội thánh cũng y như việc phục vụ bí tích và rao giảng Phúc âm. Hội thánh không thể lơ là trong việc thực thi bác ái cũng như lơ là trong việc ban các bí tích và Lời Chúa.[1]”
Máy bay muốn bay lên thì cần phải có hai cánh. Chúng ta muốn cất cánh bay về Thiên đàng thì cũng cần có hai cánh.
Theo lời dạy của Đức thánh Cha Bê-nê-đích-tô thì
- Cánh thứ nhất là thờ phượng Thiên Chúa qua việc cử hành hoặc tham dự Thánh lễ và loan truyền Lời Chúa.
- Cánh thứ hai là sống bác ái, yêu thương phục vụ mọi người.
Nếu chúng ta không thờ phượng Thiên Chúa, cũng không quan tâm săn sóc giúp đỡ những người bất hạnh chung quanh… thì chúng ta như máy bay không có cánh, chẳng thể bay lên.
Nếu chúng ta chỉ thờ phượng Thiên Chúa mà thờ ơ, vô cảm đối với những người bất hạnh… thì chúng ta chỉ như máy bay bị gãy mất một cánh, không thể bay tới thiên đàng.
Nếu chúng ta vừa siêng năng thờ phượng Thiên Chúa vừa yêu thương phục vụ những người bất hạnh chung quanh, thì chúng ta như là máy bay có đầy đủ hai cánh, chắc chắn sẽ “bay” lên tới thiên đàng.
Lạy Chúa Giê-su,
Thiên Chúa đã cho loài chim có đôi cánh để chúng có thể bay vút lên cao và tung cánh khắp bốn phương trời.
Chúa cũng cho mỗi người chúng con có đôi cánh tuyệt vời là quy luật mến Chúa yêu người để chúng con sử dụng mà bay lên thiên đàng hưởng phúc muôn đời với Chúa.
Xin cho chúng con đừng bao giờ cắt bỏ đôi cánh Chúa ban, vì khi làm như thế, chúng con không thể bay về với Chúa mà lại bị trầm luân trong cõi chết muôn đời.
-----------------------------
[1] Thông điệp “Thiên Chúa Là Tình Yêu” số 22 của Đức Giáo hoàng Bê-nê-đích-tô.
12. Giới răn tối thượng – Lm. Ignatiô Trần Ngà
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Người Do-Thái ngày xưa bị trói buộc bởi 613 khoản luật, gồm 365 luật buộc và 248 luật cấm. Tuân giữ bấy nhiêu khoản luật là một ách nặng không ai mang nổi, và giữa một rừng luật lệ như thế, việc tìm cho ra đâu là giới luật quan trọng hàng đầu mà mỗi người phải ưu tiên thực hiện là vấn đề không dễ. Đây cũng chính là vấn nạn mà một người thông luật đặt ra với Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?"
Chúa Giêsu đáp: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình."
1. Giới răn yêu thương, tuy hai mà một
Nhiều người vẫn tưởng rằng giới răn mến Chúa và giới răn yêu người là hai giới răn khác biệt, nhắm về hai đối tượng khác nhau: điều răn mến Chúa quy về Thiên Chúa và điều răn yêu người quy về con người.
Thực ra, hai giới răn nầy cùng đều quy về một mối: đó là yêu mến Thiên Chúa đang hiện diện nơi những con người đang sống chung quanh, hay nói khác đi, yêu thương phục vụ những người chung quanh là phụng sự Thiên Chúa.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu xác nhận hai giới răn nầy không khác biệt nhau khi Người nói: "điều răn thứ nhất là ngươi phải yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình" (Mt 22, 39).
Qua dụ ngôn về "cuộc phán xét cuối cùng", Chúa Giêsu đồng hoá giới răn yêu người với giới răn mến Chúa: những ai cho những kẻ đói khát vất vưởng đầu đường xó chợ một bữa ăn thì Chúa Giêsu nói là họ cho Người ăn; những ai cho những kẻ rách rưới hay mình trần một vài tấm áo thì Chúa Giêsu tuyên bố là họ đã cho Người mặc; những kẻ giúp đỡ những người phiêu cư, lang bạt không nhà có chỗ trọ qua đêm thì Chúa Giêsu gọi họ là đã cho Người trú ngụ... (Mt 25, 35-36) và những người đó được Chúa Giêsu khen ngợi là "những kẻ được Cha Ta chúc phúc" và được Người mời "đến thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho họ từ thuở tạo thiên lập địa" (Mt 25, 34).
Chúa Giêsu cũng long trọng khẳng định rằng khi người ta làm bất cứ điều gì cho những anh em chung quanh là làm cho chính Người. (Mt 25,40)
Thế nên, hai giới răn nầy không khác biệt nhau, vì thực thi giới răn yêu người (giới răn thứ hai) cũng là hoàn thành giới răn mến Chúa (giới răn thứ nhất). Vậy thì tuy được kể là hai, nhưng hai giới răn nầy cũng quy về một mối: tuy hai mà một.
Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô tái khẳng định điều đó: "Ai yêu thương người (điều răn thứ hai) thì đã chu toàn Lề Luật" (tức là đã giữ trọn tất cả các điều răn, kể cả điều răn thứ nhất là mến Chúa) (Rm 13, 8).
2. Giới răn yêu thương là trung tâm của các giới răn khác
Hai giới răn nầy là trung tâm của mọi giới răn, vì tất cả các giới răn khác đều quy hướng về hai giới răn quan trọng nầy; đồng thời đây cũng là giới răn tối thượng bao trùm hết mọi giới răn khác. Vì thế, ai giữ trọn giới răn nầy thì được xem là đã giữ tròn tất cả các điều răn khác.
Thánh Phao-lô khẳng định như thế trong thư gửi tín hữu Rô-ma: "Thật thế, các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời nầy: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy" (Rm 13, 9-10)
Và Chúa Giêsu, qua trang Tin Mừng hôm nay, cũng xác nhận như thế: "Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy". (Mt 22, 40)
* * *
Xưa kia, đang khi quân binh Israel và quân binh Phi-li-tinh giàn binh bố trận để giao chiến với nhau, thì Gô-li-át, một chiến sĩ khổng lồ vô địch trong hàng ngũ Phi-li-tinh đứng ra thách thức với toàn chiến binh Israel: "Các ngươi hãy chọn lấy người khoẻ nhất ra đây giao chiến tay đôi với ta, (không cần hai phe phải dốc toàn quân giao chiến làm gì cho hao binh tổn tướng). Nếu nó hạ được ta thì chúng tao sẽ làm nô lệ chúng bây. Còn nếu ta hạ được nó, thì chúng bây sẽ làm nô lệ hầu hạ chúng tao" (I Samuen 17, 9-10)
Sau đó, Đavít đã thay mặt toàn quân Israel chiến đấu tay đôi với Gô-li-át và đã hạ sát được y ngay từ phút đầu bằng một phát ná bắn đá rồi giật lấy gươm của y mà chặt đầu y.
Thắng được tên Gô-li-át là chiến thắng toàn thể quân binh Phi-li-tinh.
Sự kiện nầy minh họa cho vấn đề nầy là: nếu chúng ta chu toàn giới răn chủ chốt là giới răn yêu thương thì chúng ta đã giữ tròn các giới răn khác.
Muốn chế ngự rắn độc, phải cố tóm cho được cái đầu.
Muốn chinh phục toàn quân thì phải chiếm được bộ chỉ huy.
Muốn giữ tròn lề luật, hãy bắt đầu tuân giữ giới răn yêu người, vì "yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy" (Rm 13, 10).
13. Ý nghĩa ba chữ "Hết"
(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm)
Khi chúng ta dồn tâm gắng sức cho một công việc gì đó, như mua đất, xây nhà, lấy vợ, gả chồng…, ta mô tả: Tôi đã dành cho công việc đó biết bao thời gian, biết bao công sức, biết bao suy tư, biết bao tiền của…. Tức là nhiều lắm!
Rồi khi mô tả một người mệt quá sức, ta không chỉ nói mệt lắm. Nhưng có thể thêm: Ông ấy mệt thở chẳng ra hơi, nói không thành lời, tay giơ không nổi, chân động chẳng lay. Những kiểu mô tả đó nhằm nói lên một phó từ (trạng từ): lắm, rất, nhiều: rất mệt, gắng nhiều …
Khi Chúa Giêsu tóm tắt lề luật bằng một giới răn mà một trong hai, đó là “yêu Chúa thật nhiều” thì Kinh Thánh cũng dùng kiểu nói: “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi, hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết trí khôn ngươi.” Nhưng ba cái “hết” đó có phải chỉ là nhiều lắm, hay còn có ý nghĩa gì thêm? Chắc hẳn là có nhiều ý nghĩa hơn, nhất là khi được gắn với động từ “yêu.” Ta thử tìm hiểu ý nghĩa của ba cái “hết” đó.
Tôi tò mò mở lại vừa học vừa xem nguyên bản Kinh Thánh Do thái (Hipri) dùng 3 cái “hết” đó là những cái “hết” nào, còn Kinh Thánh Hi lạp thì dùng 3 cái “hết” nào.
Do Thái là Đông phương, thì: “hết trái tim, hết linh hồn, hết sức lực” (bơkôl lơbavơka, ubơkol nápơka, ubơkol mơôdeka).
Hy Lạp là Tây phương, viết: “hết lòng (kardia), hết linh hồn (shukhe), hết trí khôn (dianoia).
Người Tây phương nặng óc phân tích, nhất là người Hi Lạp. Thời kỳ khai nguyên Triết học Tây phương là thời đại của Hi lạp. Nói cách khác, Hi lạp là quê hương của các tổ sư Triết Tây, như Socrates, Platon, Aristote, Zénon, Héraclite…, cho nên thay vì như kiểu nói Do Thái: “hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực,” thì Hi Lạp đã chữa “hết sức lực” thành “hết trí khôn”. Tại sao?
Trong chương trình Triết lớp 12 trước đây, người ta chia sinh hoạt con người làm 3 lãnh vực: đời sống tình cảm, đời sống hoạt động và đời sống tri thức (lý trí).
Vì thế: hết lòng, hết trái tim: đời sống tình cảm
Hết linh hồn: tức hết ý chí: đời sống hoạt động
Và thay vì hết sức như Do Thái, Hilạp đổi thành hết trí khôn: tức là đời sống tri thức, lý trí.
Mỗi đời sống có thể lệ thuộc nhau, nhưng cũng có thể độc lập.
Kinh nghiệm hoặc những cảnh diễn ra trước mắt cho ta thấy:
Một người chồng có thể yêu một người khác (đ/s tình cảm). Người chồng này có thể nhớ nghĩ một người khác (đ/s tri thức), và hành động theo ý người vợ trước mặt (đ/s hoạt động). Nói đại như sau: Anh Khanh có thể yêu cô Thương, nhớ cô Tưởng, nhưng lại tuân lệnh bà Xã là vợ của anh đang ở trước mặt.
Có thể ba đối tượng của yêu, của nhớ, của hành động cũng là một, mà cũng có thể là ba đối tượng khác nhau, hoặc hai đối tượng khác nhau: yêu và nhớ một người, và hành động theo lệnh một người khác. Trong một tiểu thuyết của Quỳnh Dao tôi không nhớ rõ, có mô tả chàng kia hỏi nàng nọ “tim em đập làm sao, óc em nghĩ cái gì và hồn em thuộc về ai,” thì nàng đã trả lời “tim em đập hai tiếng Tâm Đan, óc em nghĩ tới hai chữ Tâm Đan và hồn em thuộc về chàng trai mang tên Tâm Đan.” Tâm Đan chính là tên của chàng kia hỏi nàng nọ. Thiên Chúa đòi chúng ta ba đối tượng đó phải là một: một Chúa.
Yêu Chúa hết lòng (đời sống tình cảm), nhớ Chúa không nguôi (đời sống tri thức) và làm theo ý Chúa mãi (đời sống hoạt động). Đó là ý nghĩa mệnh lệnh Chúa theo bản Kinh Thánh Hy Lạp: “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi, hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết trí khôn ngươi.” Các thánh giáo phụ, đặc biệt Augustinô giải thích thêm cho ta:
Yêu Chúa hết lòng tức không yêu ai, yêu gì bằng Chúa. Có một trái tim thì Chúa ngự trị trọn vẹn trong đó.
Yêu Chúa hết linh hồn tức là yêu hết ý chí mình, sẵn sàng vâng theo ý Ngài, dù có phải chết. Chúng ta nghe nói đến thôi miên. Người bị thôi miên là mất hồn, không còn ý chí nữa, mà hành động theo lệnh của người thôi miên mình. Yêu Chúa hết linh hồn là như vậy: bị Ngài thôi miên để lúc nào cũng làm theo ý của Ngài sai khiến.
Yêu Chúa hết trí khôn nghĩa là luôn nhớ tới Chúa, không lúc nào ngơi. Nói theo kiểu nói của ngôn ngữ computer, thì yêu Chúa hết bộ nhớ luôn. Yêu Ngài, là out of memory. Tràn bộ nhớ. Không có cái nào khác lọt vào nữa.
Dân Israel ngày xưa và ngay cả ngày nay khắc ghi mệnh lệnh này của Đức Chúa một cách tuyệt đối. Đây là kinh Sơ ma, “Kinh Hãy Nghe” của họ. Chúng ta nghe trọn vẹn lời kinh “Hãy Nghe” theo bản dịch Hi Lạp:
“Hãy nghe, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Thiên Chúa hết trái tim ngươi, hết linh hồn ngươi, hết trí khôn ngươi, những lời ta truyền cho ngươi hôm nay, ngươi phải ghi lòng tạc dạ và thuật lại cho con cháu. Ngươi hãy lập lại các lời ấy lúc ngồi ở nhà, lúc đi ngoài đường, khi nằm ngủ cũng như khi thức dậy. Ngươi phải buộc những lời ấy vào tay để làm dấu, mang trên trán làm phù hiệu. Phải viết lên khung cửa nhà và khung cửa thành của ngươi” (Đnl 6, 4-8).
Là người Do thái, Đức Giêsu ngay từ nhỏ đã thuộc nằm lòng Kinh Hãy Nghe này rồi. Vì thế mệnh lệnh “hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” phải là mệnh lệnh đệ nhất. Người Do Thái thời đó ai cũng biết, nên khi hỏi Đức Giêsu: Trong lề luật, điều nào trọng nhất? Ngài trả lời dễ dàng.
Nhưng cái hay, cái cả gan của Đức Giêsu là dám nói câu này: Còn một điều nữa cũng giống như vậy: Hãy yêu anh em. Đức Giêsu cả dám đặt “hãy yêu anh em” bằng, như “hãy yêu Chúa.” Đây là mảng đề tài lớn và phong phú mà chúng ta đã được giải thích và ngẫm nghĩ nhiều lần, nhiều cách. Hôm nay chúng ta không đả động gì tới điểm này. Chỉ xin nói một câu: Nếu Chúa Giêsu đã nói “toàn thể lề luật tóm lại trong hai giới răn đó” (mến Chúa, yêu người), thì chúng ta xin tóm tắt hai luật đó thành một: yêu người vì Chúa: ngươi hãy yêu mến anh em hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn vì Ta là Chúa. Bài đọc I rất thấm thía để minh hoạ thêm cho điều này. Chỉ trích tóm một câu: “Nếu các ngươi ức hiếp mẹ goá con côi, thì cơn giận Ta sẽ bốc lên chống lại các ngươi” (x. Xh 22, 21-23).
Để kết luận: Tại sao phải yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Thưa bởi vì Ngài yêu ta trước.
Trong cuốn “tự thuật”, một người cha ghi lại câu chuyện và ý nghĩ sau: một đêm kia trong lúc tôi đang đọc báo, tôi nghe đứa con gái bé nhỏ của tôi bảo: “Bố ơi, để con đếm xem trên trời có mấy ngôi sao?” Rồi tôi nghe nó đếm (1,2,3,…) trong khi tôi vẫn chăm chú đọc báo. Đến khi đọc xong bài báo tôi chú ý lắng nghe và tiếng đứa con gái vẫn tiếp tục 300, 301, 302…. Chợt nó dừng lại quay sang nói với tôi: Bố ơi con không dè trên trời lại có nhiều sao đến thế! Nghe con gái bình luận vậy, tôi chợt nhớ là thỉnh thoảng tôi cũng nói với Chúa “Chúa ơi để con thử đoán xem con đã nhận lãnh bao nhiêu ơn lành của Chúa? Và càng đếm trái tim tôi hình như càng cảm thấy thổn thức không phải vì âu sầu mà vì bị quá nhiều hồng ân Chúa đè nặng. Rồi tôi cũng thấy phải thốt lên như con gái của tôi: Lạy Chúa, con không dè đời con lại có quá nhiều hồng ân của Chúa đến thế!”
Anh chị em thân mến,
Chúng ta cứ thử đếm mà xem, tưởng ít mà hoá ra vô số các ân huệ của Chúa. Tôi có thể kể cả giờ những ý tứ của lời Kinh Cám Ơn “Tôi cám ơn Đức Chúa Trời là Chúa lòng lành… ,” lời kinh cho ta được một số ý niệm về ân huệ của Chúa.
“Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” vì Ngài yêu ta trước.
Mỗi thánh lễ là một lễ tế tạ ơn. Con người chúng ta tạ ơn không xứng. Ta phải hợp với Đức Chúa Con mà tạ ơn Đức Chúa Cha. Trước khi bước vào phần lễ tế tạ ơn, ta hãy tuyên xưng lòng tin của ta vào Đức Chúa.
14. Yêu thương - Con đường dẫn tới sự sống
(Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh)
Tin mừng Mt 22: 34-40: Qua đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe, chúng ta hiểu rằng nền tảng sống đức tin của chúng ta được xây dựng trên luật yêu thương mà Chúa Giêsu đã minh định với các luật sĩ và biệt phái. Quả thật, đức tin không có việc làm là đức tin chết.
Như bao cộng đồng xã hội khác, sau khi Dân Chúa hình thành một cộng đồng xã hội, một bộ luật cũng đã được ban hành để cộng đồng Dân Chúa duy trì được trật tự và phát triển. Tuy nhiên, đây là cộng đồng được Chúa chọn giữa muôn dân, nên bộ luật dành cho Dân Chúa được chi phối bởi niềm tin tôn giáo độc thần, tin vào một Thiên Chúa duy nhất, Đấng đã giải phóng Dân Do Thái ra khỏi Ai Cập, đã chăm sóc cho dân như người mục tử chăm lo cho đàn chiên, như người cha chăm lo cho con cái. Vì thế, bộ luật ban hành cho Dân Chúa được xây dựng trên nền tảng thuộc bản chất của Đấng được gọi là yêu thương, nền tảng đó được Đức Kitô chỉ rõ: Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và thương yêu tha nhân như chính mình.
Trước tiên Chúa Giêsu nói đến tình yêu dành cho Thiên Chúa. Điều này có nghĩa là con người chỉ tìm thấy ý nghĩa đích thực về sự hiện hữu của mình khi nhận ra mình được Chúa yêu thương và bước theo đường lối của Người chỉ vẽ như người con thảo hiếu, hay như người vợ hiền luôn tín trung. Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI trong thông điệp Thiên Chúa là tình yêu đã minh định: “Lịch sử tình yêu của Thiên Chúa với Israel nằm trong chiều kích sâu thẳm ở chỗ, Người ban cho họ Torah (Lề luật) có nghĩa là mở mắt họ cho thấy rõ bản chất đích thực của con người và vạch cho họ con đường để trở thành con người đúng đắn. Lịch sử này bao gồm sự việc: con người khi sống trung tín với Thiên Chúa duy nhất, sẽ cảm nghiệm mình là người yêu của Thiên Chúa và tìm được niềm vui trong chân lý, trong công bình - niềm vui trong Thiên Chúa, niềm vui đó trở thành hạnh phúc thật của mình: "Con còn ai chốn trời xanh Ban Ngài thế sự thật tình chẳng ham.... Còn hạnh phức của con là ở kề bên Chúa (Tv 72) (số 9).
Vì thế việc yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự là hành vi cốt cán chi phối mọi hành động của cuộc sống. Quả thật, sự hiện hữu của con người bắt nguồn từ tình yêu của Thiên Chúa, nên tất cả mọi hoạt động của con người nếu muốn tồn tại cần phải qui hướng về tình yêu này. Lần đọc lại câu chuyện Ađam, nguyên tổ của con người, tác giả sách Sáng Thế đã cho biết, chỉ vì Nguyên tổ đã để cho lý trí và ý chí lệch hướng trong mối tương giao với Thiên Chúa mà con cháu phải chịu cảnh lầm than, không còn đặt Thiên Chúa là trọng tâm của cuộc sống, con người phải đối diện với sự hư vong. Thế giới hôm nay như đang đặt bước chân mình vào con đường của Nguyên Tổ đã trải qua, con đường khước từ Thiên Chúa để tìm vinh danh cho chính mình, và có thể nói thời đại hôm nay là thời đại mà con người quá đề cao chính mình và tỏ ra yêu mình quá mức. Từ thái độ đó, con người rơi vào vào cơn lốc hưởng thụ ích kỷ, đánh mất đi căn tính thần thiêng của mình, và càng ngày càng tục hoá lối sống. Từ thái độ đánh mất mối tâm giao với Thiên Chúa, con người rơi vào khủng hoảng của thất vọng, của sự sợ hãi, và hầu như bế tắc trong nỗ lực đi tìm một sự bình an thư thái. Đây là kinh nghiệm mà Dân Do Thái đã trải qua, bao lâu Dân Chúa đánh mất tình bằng hữu với Thiên Chúa, bấy lâu họ luôn gặp nguy khốn và mạng sống luôn bị đe doạ.
Vì thế luật yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, xét cho cùng chẳng vì thiện ích của Thiên Chúa, nhưng đó lại là phương thế để giúp con người đạt tới hạnh phúc và tìm được sự sống đích thực, vì như đã nói, Thiên Chúa là tình yêu, và chính từ suối nguồn yêu thương này mà sự sống được nẩy sinh. Do đó luật dạy yêu mến Thiên Chúa hết sức mình cũng có nghĩa là luật chỉ cho con người biết làm cho cuộc sống của mình luôn phong phú và được tồn tại. Ai luôn gắn bó với Thiên Chúa, người đó đang xây dựng cho cuộc đời mình một thành trì vững chắc và thù địch sẽ không thể xâm lấn được.
Sự sống đến từ Thiên Chúa luôn thể hiện đặc tính cộng đồng, bởi ngay chính nơi đời sống nội tại của Ngài, Ngài cũng không đơn độc trong một Ngôi vị duy nhất nhưng trong Ba Ngôi vị. Chính từ nơi các Ngôi vị này hình thành một mối dây hiệp thông làm nên một bản thể duy nhất, mối dây yêu thương, và từ đó Thiên Chúa được gọi là Thiên Chúa tình yêu. Vì thế, tất cả mọi tạo thành đều bắt nguồn tình suối nguồn tình yêu này đều mang lấy đặc tính cộng đồng nơi Thiên Chúa Ba Ngôi.
Tác giả sách Sáng Thế đã tường thuật cách tuyệt vời về việc tạo dựng con người, ban đầu chỉ có môt mình Ađam, cho dẫu ông được Chúa cho quyền thống trị trên mọi dã thú, chim trời, nhưng ông cũng chẳng vui, để rồi Chúa phải thốt lên: con người ở một mình không tốt”, Ngài đã tạo nên Eva, một trợ tá tương xứng, và chỉ từ khi đó Adam mới vui, mới cảm thấy hạnh phúc (x. St 2, 18-24). Như vậy Thánh Kinh đã minh nhiên khẳng định, cuộc sống của con người chỉ tròn đầy ý nghĩa khi cuộc sống đó được biểu tỏ trong mối tương giao với tha nhân.
Chính vì thế luật Thiên Chúa ban truyền được xây dựng trên nền tảng giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Hai chiều kích không song song với nhau nhưng kết nối với nhau một cách bất khả phân ly, để có thể quả quyết rằng: yêu người là một con đường dẫn đến gặp gỡ Thiên Chúa, và quay lưng lại với tha nhân sẽ làm cho chúng ta ra mù loà không gặp được Ngài. Chính vì sự nối kết này, luật yêu người không đơn thuần xuất phát từ một cảm tính “đồng loại”, nói như cha ông Việt Nam chúng ta: Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Luật yêu thương vượt xa cảm tính này, nó được xây dựng trên nền tảng đức tin. Đức Benêđictô XVI đã nói: “Tình yêu tha nhân cốt tại chính điều này là, trong Thiên Chúa và cùng với Thiên Chúa, tôi yêu người thân cận, cả khi tôi không thích hoặc không biết người đó. Điều này chỉ trở nên khả thể từ cuộc gặp gỡ thâm sâu với Thiên Chúa, một sự gặp gỡ trở thành hiệp thông ý muốn và thâm nhập vào trong tình cảm. Bấy giờ tôi học cách nhìn người khác không phải chi bằng con mắt và tình cảm của riêng tôi, nhưng từ nhãn giới của Đức Giêsu Kitô” (Thông điệp Thiên Chúa là tình yêu, số 18). Và Đức Phanxicô cũng đã diễn tả: tình yêu tha nhân là một con đường cụ thể, một con đường dẫn chúng ta tới chỗ ra khỏi chính mình để đi đến với những người khác. Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy rằng tình yêu của Thiên Chúa hiện thực trong tình yêu tha nhân. Cả hai đi với nhau. Các trang Tin Mừng tràn đầy tình yêu này: người trưởng thành, trẻ em, người thông thái, kẻ dốt nát, người giầu kẻ nghèo, người công chính, kẻ tội lỗi tất cả đều được tiếp đón trong trái tim của Chúa Kitô.
Qua đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe, chúng ta hiểu rằng nền tảng sống đức tin của chúng ta được xây dựng trên luật yêu thương mà Chúa Giêsu đã minh định với các luật sĩ và biệt phái. Quả thật, đức tin không có việc làm là đức tin chết (Gc 2, 14). Việc làm của đức tin chính là tuân giữ giới luật của Chúa. “Nếu ai giữ các giới răn của Thiên Chúa thì đó là dấu chỉ chúng ta đã nhận biết Thiên Chúa. Ai nói rằng mình biết Chúa mà không giữ các điều răn của Chúa đó là kẻ nói dối, và chân lý không có trong kẻ ấy” ( 1Ga 2: 3-4). Ước mong sao, từng ngườii Kitô hữu chúng ta không để cho ánh sáng đức tin bị vùi tắt trước lối sống thực dụng, hưởng thụ ích kỷ, những luôn cháy sáng lung linh được dệt lên từ một một cuộc sống ngạp tràn yêu thương, yêu Chúa và yêu tha nhân. Amen.
15. Vị thế tối thượng của tình yêu
(Suy niệm của Lm. Giorgio Zevini SDB – Trung Hoàn SDB chuyển ngữ)
Anh chị em thân mến,
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật 30 TN A xoáy vào chủ đề then chốt: vị thế tối thượng của tình yêu, con tim và cốt tủy của người kitô hữu. Chúng ta dừng lại chia sẻ về hai bài đọc để nhấn mạnh trọng tâm của giới răn Chúa, đó là Tình yêu.
Chúng ta cùng cầu xin ơn Chúa Thánh Thần soi dẫn chúng ta chiêm ngắm Lời Chúa: "Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết làm mọi sự bởi vì tình yêu. Chính Chúa Giêsu để lại cho chúng con sứ điệp Tin Mừng của Chúa Nhật tuần này xoay quanh người nghèo khổ, bé nhỏ, hèn mọn.... Xin ban cho chúng con trái tim tự do thoát khỏi mọi ngẫu tượng thế gian, thoát khỏi sự nặng nề cám dỗ thế giới để phụng thờ Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật và duy nhất nhằm phục vụ anh chị em đồng loại với tinh thần xả thân như chính Chúa Giêsu đã sống giữa chúng con. Đó là giới luật sống duy nhất mà Chúa chúng con muốn dấn thân. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con."
Chúng ta khởi đi từ bài trích thư thứ nhất của thánh Phaolo tông đồ gởi tín hữu Thesalonica. Ngay những câu đầu của chương thứ nhất (1Tx 1,5c-10), thánh Phaolô nhấn mạnh đến 3 điểm then chốt cho mọi cộng đoàn kitô hữu. Cha muốn cùng chúng con đọc lại lá thư mà chính thánh Phaolô gởi cho cộng đoàn Thesalonica, thánh nhân nói rằng: các tín hữu Thesalonica đã bắt chước Đức Kitô trở nên gương sáng cho các tín hữu thuộc cộng đoàn Makêđônia và Akhaia. Đó là ý tưởng đầu tiên về hiệu năng truyền giáo của cộng đoàn Thesalonica.
Ý tưởng thứ hai nói về gương sáng của các tín hữu Tx không chỉ cho 2 cộng đoàn Makêđônia và Akhaia mà thôi, mà chính đức tin vào Thiên Chúa của cộng đoàn đã vang dội khắp nơi. Thật là tốt đẹp khi cộng đoàn đặt lời Chúa vào trung tâm của cuộc sống cách sâu xa và lan tỏa Tin Mừng ra ngoài cộng đoàn.
Trong sứ điệp thứ 3 của lá thư, thánh Phaolô khen ngợi các tín hữu đã hoán cải từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa để phục thờ Thiên Chúa hằng sống và là Thiên Chúa thật. Sứ điệp thứ ba này nhấn mạnh đến sự hoán cải trở về sau khi từ bỏ ngẫu tượng.
Như vậy, qua bài trích thư ngắn, thánh Phaolô nhắn gởi chúng ta 3 sứ điệp quan trọng: sứ điệp về truyền giáo như trung tâm của đời sống kitô giáo, như thế cộng đoàn Thesalonica không phải là cộng đoàn đóng kín mình mà là mở ra cho các cộng đoàn khác thông truyền cho các cộng đoàn khác về đức tin sống động, đức tin xây dựng trên Lời Chúa. Thật vậy, Lời Chúa không chỉ làm phong phú cộng đoàn Tx mà lan tỏa đến các cộng đoàn khác; sứ điệp thứ 2 trình bày một cộng đoàn được sinh ra bởi nhờ Lời, cộng đoàn đã lắng nghe, được nuôi dưỡng và hiện thực hóa nhờ Lời, Lời không chỉ để nói mà là để làm chứng cho người khác; sứ điệp thứ 3 của đoạn trích thư chú tâm vào Lời Chúa tạo nên sự hoán cải dẫn đến sự từ bỏ ngẫu tượng và gắn kết cuộc đời chỉ với mình Thiên Chúa. Đây là sức mạnh phi thường của Lời tác động đến mọi cộng đoàn kitô hữu.
Giờ đây, cha mời gọi anh chị em đào sâu về sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay, Đoạn Tin Mừng Mt chương 22 mô tả đời sống của cộng đoàn Do thái - Kitô giáo đã thật sự biết sứ điệp của Thiên Chúa, đã sống kinh nghiệm đức tin vào Thiên Chúa. Đức tin của cộng đoàn được thêm xác tín khi chứng kiến một nhà thông luật tra hỏi Đức Giêsu. Cộng đoàn muốn sống thánh ý Chúa ngang qua câu trả lời của Đức Giêsu đối với nhà thông luật. Đâu là câu hỏi mà nhà thông luật đặt ra cho Ngài, câu hỏi rất đơn giản: "Thưa Thầy, trong sách luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?" Đức Giêsu trả lời, Ngài liệt kê hai điều răn, Ngài nói: yêu mến Thiên Chúa là điều răn đầu tiên và quan trọng nhất, kế đến là yêu mến tha nhân là điều răn thứ hai cũng quan trọng như điều răn thứ nhất. Như vậy, Đức Giêsu liên kết lại hai giới răn trọng đại yêu mến Thiên Chúa và yêu mến tha nhân. Do đó, chúng ta cùng nhau suy nghĩ về sứ điệp Tin Mừng.
Trước hết là sự gắn kết chặt chẽ hai giới răn: mến Chúa yêu người. sự gắn kết chặt chẽ này được đo lường bằng chính mệnh lệnh của Đức Giêsu "yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi" và rồi tình yêu dành cho tha nhân đồng loại được đo lường bằng chính tình yêu bản thân. Hai điều răn này không phải là chênh lệch hơn thấp mà chính điều răn thứ hai thật sự ngang bằng với điều răn thứ nhất. Tình yêu Thiên Chúa chỉ được minh chứng bằng tình yêu dành cho đồng loại cách thật tình, tình yêu mang chiều kích xã hội loài người diễn ra trong đời sống cộng đoàn diễn đạt đặc tính tình yêu mà người ta đang sống với Thiên Chúa. Sự ưu việt của tình yêu Thiên Chúa hiện thực hóa nơi sự ưu tiên tình yêu con người. Và đây, cha muốn gợi lên suy tư trong đời sống chúng ta: nhiêu khi chúng ta tách hai hình thái tình yêu, tình yêu Thiên Chúa và tha nhân trong một vài cách thế nào đó. Chúng ta nhấn mạnh tình yêu tối hậu nơi Thiên Chúa trong khung cảnh nhà đạo, qua kinh nguyện, qua kinh nghiệm với Ngài, qua tương quan đối thoại với Ngài và sự cùng với tâm tình sám hối... chỉ mang chiều kích thuần thiêng liêng mà quên đi tha nhân; hay nhiều khi ta chỉ thuần đề cao tương quan với thực trạng con người mang chiều kích nhân chủng học hay chính trị mà quên đi vị thế ưu việt của Thiên Chúa. Do đó, thái độ sống của người kitô hữu phải nghĩ đến sự công bình, cuộc chiến đấu cho một thế giới đích thực công bằng, đúng hơn cho một khuôn mẫu đúng đắn, là tự do sống hai giới răn.
Chúng ta thường gặp hai nguy cơ. Tin Mừng thúc đẩy chúng ta dấn thân cho con người mà không được quên vị trí tối thượng của Thiên Chúa. Chúng ta được mời gọi thăng trưởng chiều kích nhân loại cho công bằng, hòa bình, hòa giải cho mọi trạng huống con người mà không thể quên tính ưu việt của Thiên Chúa. Đồng thời, chúng ta phải luôn nói về Thiên Chúa mà không quên con người. Như vậy, chúng ta thấy rằng một kitô hữu đích thực là người luôn nói với Thiên Chúa về con người. Đó là điều hết sức căn bản. Thật vậy, Thiên Chúa nói rằng ngày sabát vì con người, chứ không phải con người vì ngày sabát. Do đó, chúng ta có thể nói rằng Thiên Chúa cho con người. Như vậy chúng ta được khích lệ bởi phụng vụ hôm nay trình bày thánh Phaolô nói cho các tín hữu Tx cũng là cho mỗi chúng ta cách rõ ràng rằng người kitô hữu phải dấn thân hai xác tín: mến Chúa yêu người. Một suy tư nền tảng của thánh Phaolô cho các tín hữu đã từ bỏ ngẫu thần để quay về phụng sự Thiên Chúa Hằng sống, là Thiên Chúa thật. Chúng ta phải phụng thờ Thiên Chúa và hoán cải để trở về cùng Người, xa rời mọi ngẫu tượng để phục vụ cho những giá trị nhân loại đưa ta đến với Thiên Chúa. Như thế, chúng ta phải dành chỗ ưu việt cho tình yêu nhằm thực hiện hai giới răn.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta dễ dàng nói yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, nhưng như thánh Gioan nói rằng, làm sao có thể yêu mến Thiên Chúa mà không yêu mến những người anh em mà chúng ta thấy. đó luôn là thực tế của con người, chúng ta kinh nghiêm Thiên Chúa ngang qua tình yêu nhân loại. Đó là hai điều gắn kết chặt chẽ và thâm sâu. chúng ta cùng khẩn khoản nài xin Thiên Chúa hồng ân để sống hai giới răn trọng đại này hầu nên chứng nhân cho nhân loại về giới răn của Thiên Chúa cho một thế giới công bằng, hòa bình và hòa giải cho người nghèo khổ. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
16. Tình yêu là lẽ sống – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Đã có lần Đức Cố Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận từng nói với Bill Gate rằng: "Sự văn minh đích thực là không để ai ở lại phía sau". Và Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phaolo II cũng nói: "Sự văn minh đích thực là phục vụ sự sống". Thế nhưng, "những điều trông thấy mà đau đớn lòng". Một thế giới quá chênh lệch giầu nghèo. Một thế giới quá đề cao đồng tiền mà quên cả lương tri con người. Một thế giới lấy kinh tế làm đầu nên đã làm đảo lộn biết bao thuần phong mỹ tục, và những giá trị đạo đức truyền thống của các tiền nhân. Khoa học tiến bộ, nhưng đạo đức và phong hoá xuống cấp trầm trọng. Sự tiến bộ của khoa học dường như đang giúp sức cho sự dữ gia tăng. Khoa học tiến bộ đang phục vụ cho văn hoá sự chết hơn là phục vụ cho văn hoá sự sống. Người ta tìm muôn nghìn cách thức để lừa đảo, gian manh và truỵ lạc. Đứng trước viễn cảnh đen tối của xã hội hôm nay, Sĩ Phu Bắc Hà đã đúc kết thành bốn câu thơ:
Nhân phẩm từ đây giảm giá rồi
Chỉ còn lương thực tăng giá thôi
Lương tâm bán rẻ hơn lương thực
Chân lý chân giò một giá thôi!
Một thế giới thượng vàng hạ cám đã làm lệch đi rất nhiều những giá trị của cuộc sống. Một thế giới xem ra những nghĩa cử yêu thương thật hiếm hoi. Đó chính là một thách đố cho người ky-tô hữu chúng ta. Liệu rằng chúng ta có dám sống triệt để giới răn mến Chúa yêu người giữa một xã hội loại trừ Thiên Chúa và thiếu thốn tình người hay không? Liệu rằng chúng ta có dám chịu thiệt thòi để người khác hưởng thụ trên lòng quảng đại của chúng ta hay không? Liệu rằng chúng ta có dám yêu người khi mà người ta đang chơi xấu, đang lợi dụng, đang làm hại chúng ta? Đây là một thách đố và cũng là đòi hỏi triệt để, vì căn tính của người môn đệ Chúa là "yêu mến tha nhân như chính mình". Vì tình yêu là lẽ sống, là hơi thở của người ky-tô hữu. Không có tình yêu thì sức sống của người tín hữu đã không còn. Không có lòng quảng đại thì không còn là nhân chứng cho Tin mừng Nước Trời của Chúa. Chúng ta không thể nói yêu Chúa mà trong lòng vẫn còn thù ghét anh em của mình. Chúng ta phải vượt lên trên lòng ích kỷ, sự hẹp hòi của nhân thế để làm chứng cho một tình yêu nhân ái, bao dung và vị tha.
Đây chính là sứ điệp mà Tin Mừng hôm nay muốn loan báo. Chúa mời gọi chúng ta hãy yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Đồng thời Ngài cũng đòi buộc chúng ta phải yêu mến tha nhân như chính mình. Chính Thầy Chí Thánh Giêsu đã làm gương cho chúng ta. Chính Ngài khi bị treo trên thập tự giá đã giới thiệu cho nhân thế một tinh yêu tinh ròng đến nỗi "dám chết cho người mình yêu". Ngài đã chọn thập tự giá làm biểu tượng cho tình yêu tự hiến của mình. Với thanh dọc, Chúa chấp nhận cực hình để tôn vinh Chúa Cha. Với thanh ngang, Ngài muốn ôm trọn nhân loại trong tình thương của Chúa. Người ky-tô cũng được mời gọi trở nên đồng hình đồng dạng với Thầy Giêsu khi chúng ta sống tôn vinh Chúa Cha, và yêu mến anh em như chính mình.
Chính tình yêu đó sẽ giúp chúng ta vượt thắng những tham lam bất chính, những thói hại người hại đời để tìm tư lợi riêng cho bản thân mà người đời vẫn đang sống. Có thể là người, chúng ta cần địa vị, cần danh vọng nhưng vì lòng yêu mến Chúa chúng ta không thể bán rẻ lương tậm, không làm hại đồng loại. Có thể chúng ta cũng cần của cải để sinh sống, nhưng vì Chúa, chúng ta biết sống quảng đại để mua lấy hạnh phúc Nước Trời. Có thể đồng loại, vẫn mưu toan làm hại chúng ta, nhưng vì Chúa chúng ta nhịn nhục và nhẫn nại với nhau trong yêu thương và tha thứ.
Như vậy, chỉ có ở trong tình yêu Chúa, chúng ta mới dám sống yêu thương đồng loại như chính mình. Chính nhờ tình yêu Chúa, sẽ giúp chúng ta trao ban sự sống sung mãn cho nhân thế qua những nghĩa cử yêu thương, bác ái và vị tha. Chính tình yêu đối với Chúa, sẽ giúp chúng ta sống nhân ái và bao dung với tha nhân là hình ảnh của Ngài.
Ước gì giữa một thế giới đang băng hoại về tình người, chúng ta hãy thắp lên ngọn lửa của yêu thương, để sưởi ấm cho những ai đang cô đơn, thất vọng vì thiếu vắng tình thương, sự cảm thông và nâng đỡ của anh em. Ước gì giữa một thế giới đang bán rẻ lương tri, người ky-tô hữu hãy biết sống tôn trọng lẫn nhau, biết sống cho tình người cao quý, hơn là những của cải vật chất tầm thường. Ước gì người ky-tô hữu chúng ta, đừng vì danh lợi thú mà đánh mất nhân phẩm con người là hình ảnh Thiên Chúa. Ước gì giữa một xã hội mà chân lý bị vùi giập, chúng ta dám sống cho sự thật, cho dẫu rằng, có bị nghi kỵ, hiểu lầm, kết án và tẩy chay. Giữa một thế giới mà người ta có thể nhân danh quyền lợi của mình để giết hại người khác một cách phi nhân, ác đức, đặc biệt là các thai nhi vô tội, chúng ta hãy sống theo gương Thầy Giêsu dám chết cho người minh yêu, dám sống mình vì mọi người, và dám trở nên mọi sự cho mọi người như Thầy Giêsu.
Nguyện xin Chúa là tình yêu, xin uốn lòng chúng con nên giống trái tim yêu thương của Chúa. Amen.
17. Thiên Chúa bảo vệ người nghèo
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Mến Chúa yêu người là giới răn nền tảng của Kitô giáo. Ước gì mỗi Kitô-hữu sống giới răn yêu thương này, để mỗi người được hạnh phúc từng ngày.
1. Mỗi người đều bình đẳng trước Thiên Chúa
Người đời có thể thiên tư tây vị, trọng người này khinh người kia, vì người này giầu người kia nghèo, vì người này đẹp người kia xấu, vì người này có tài còn người kia kém trí. Người đời có tiêu chuẩn của họ, còn đối với Thiên Chúa ai cũng là con Chúa, mọi người đều bình đẳng. Thiên Chúa tạo dựng tất cả và ban cho mỗi người nét đẹp riêng. Thiên Chúa tạo dựng con người với những khác biệt, người tài về điều này, người tài về điều kia. Ngài tạo dựng con người như ngón tay có ngón dài ngón ngắn, để con người có dịp giúp đỡ nhau, diễn tả tình tương thân tương ái.
Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ cho con người, Ngài muốn con người chinh phục vũ trụ này, để hưởng dùng và tôn vinh Thiên Chúa. Tài nguyên thiên nhiên cũng tương tự như của cải trần thế người cha người mẹ để lại cho con cái; người cha người mẹ muốn con cái dùng tài sản đó mưu hạnh phúc cho tất cả anh em, nếu một người nào đó ỷ vào sức mạnh hoặc tài khéo của mình mà lấy hết tài sản cha mẹ để lại cho tất cả anh em, thì chắc cha mẹ người đó rất buồn. Cũng tương tự vậy, tài nguyên trên thế giới, Thiên Chúa ban cho tất cả con người, và Ngài muốn con người dùng nó để phát triển tài năng Ngài ban, và giúp con người diễn tả tình yêu đối với nhau. Vũ trụ, là phương tiện Chúa ban giúp con người phát triển chính mình.
Con người là tạo vật tuyệt vời của Thiên Chúa. Qua mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, con người nhận ra con người có giá trị vô cùng đối với Thiên Chúa, vì yêu con người nên Lời Thiên Chúa đã nhập thể và vĩnh viễn làm người. Con người thường không nhận ra nét tuyệt vời của mình và của người khác, tuy nhiên nơi những người yêu nhau người này có thể nhận ra nét tuyệt vời của người kia, và nét đẹp này người khác không thể thay thế được.
2. Thiên Chúa yêu thương con người, cụ thể người nghèo
Thiên Chúa tạo dựng tất cả, Ngài là Cha tất cả mọi loài, và đặc biệt con người. Thiên Chúa yêu thương cả người giầu lẫn người nghèo, cả người thông minh lẫn người chậm hiểu. Tuy nhiên với những người nghèo, hoặc những người bị những người quyền thế khác áp bức, Ngài lưu tâm đến họ một cách đặc biệt. Qua việc Ngài để ý đến những người nghèo và cô thân cô thế, người ta nhận ra giá trị tuyệt vời của con người và hiểu biết hơn về Thiên Chúa.
Thiên Chúa rất quảng đại và công bằng, Ngài cho tất cả mọi người được chia sẻ sự sống vĩnh cửu với Ngài. Thiên Chúa tạo dựng mỗi người, để mỗi người tồn tại và hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài. Không gì bắt Thiên Chúa phải tạo dựng con người, nhưng chỉ vì yêu mà Ngài tạo dựng họ; cũng không gì bắt Thiên Chúa một khi tạo dựng con người thì phải chia sẻ sự sống vĩnh cửu với Ngài, thế nhưng Thiên Chúa đã cho con người được chia sẻ sự sống vĩnh cửu với Ngài. Một khi con người được tạo dựng, con người mãi mãi trường tồn. Mỗi một cá nhân thật mong manh và mỏng dòn, ấy thế nhưng lại là tạo vật đặc biệt, một tạo vật tồn tại vĩnh viễn và được yêu thương cách đặc biệt. Thiên Chúa là Đấng vô cùng tốt lành, nên mới tạo dựng và cho con người được những hồng ân đó.
Thiên Chúa yêu thương con người, nhưng đôi khi người ta nói Thiên Chúa trừng phạt con người. Thực ra Thiên Chúa là nguồn hạnh phúc, Ngài không muốn con người đau khổ nhưng chỉ muốn con người hạnh phúc; nếu Ngài để những gì như thể “hình phạt” xảy ra, thì cũng là để giúp con người “giác ngộ”, nhận ra sự thật và trở về với chân thiện mỹ, để con người được hạnh phúc thật sự. Thiên Chúa làm mọi sự vì yêu thương. Thiên Chúa là Tình Yêu.
3. Yêu Chúa yêu người
Đối với những bậc sinh thành ra mình, người ta phải thảo hiếu. Hạnh phúc đích thực chỉ đến với những người lương thiện. Với những người làm điều ác hoặc không lương thiện, họ có thể là người thành đạt và được thoả mãn về nhiều phương diện, nhưng dường như họ không hạnh phúc đích thực. Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên con người, nên con người phải có bổn phận yêu kính Ngài. Không tôn kính Thiên Chúa, cũng tương tự như một người không yêu kính cha mẹ mình, thì không thể sống hạnh phúc đích thực được. Tuy nhiên không phải chỉ có những người nói tin kính Thiên Chúa mới là những người thờ kính Thiên Chúa thật, một người vô thần cũng có thể là người thờ kính Thiên Chúa mà chính họ không biết, nếu họ làm những điều thiện và sống theo lương tâm họ; và ngược lại cũng có những người mang danh Kitô-hữu, nhưng nếu họ làm ác thì họ vẫn không phải là kẻ thờ kính Thiên Chúa thật cho dù họ vẫn thực hiện những hành vi thờ phượng bên ngoài.
Yêu Chúa và thờ phượng Ngài, đó là điều mỗi người biết Ngài đều phải thực hiện. Tuy nhiên nói yêu Thiên Chúa bằng môi miệng thôi thì chưa đủ. Ai yêu Thiên Chúa thì cũng phải yêu con người. “Nếu ai nói mình yêu Thiên Chúa mà ghét anh em mình, thì đó là kẻ nói dối.” Yêu là muốn điều tốt xảy tới cho người khác, là kính trọng, là nghĩ tốt cho họ, là giúp đỡ, là giúp họ triển nở và hạnh phúc hơn. Nếu ai đó để lòng ghét và thù hận, người đó không thể sống thanh thản hạnh phúc được. Lòng thù hận hoặc không tha thứ, làm người ta khổ. Yêu thương, vui khi thấy người khác hạnh phúc, làm con người bình an thanh thản hạnh phúc.
Ai sống yêu thương là đã có thiên đàng nơi lòng mình. Kinh Thánh cũng nói: Ai sống trong tình yêu là sống trong Thiên Chúa. Nếu một người từ chối “Thiên Chúa” mà sống yêu thương anh em mình thật, người đó vẫn thuộc về Thiên Chúa, và “Thiên Chúa” mà họ từ chối e rằng không phải là “Thiên Chúa” thật, có thể đó là những hình ảnh về Thiên Chúa mà người khác phóng chiếu lên, và với hình ảnh “Thiên Chúa” đó người ta không chấp nhận. Bất kỳ ai, hễ yêu thương anh em mình thật, thì đã chấp nhận Thiên Chúa một cách nào đó, và đang sống trong Thiên Chúa. Và ai đang sống trong yêu thương, Thiên Chúa đang ở với người đó, và người đó cảm nghiệm bình an hạnh phúc.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Xin bạn cho thấy bằng cớ Thiên Chúa cũng yêu thương cả người giầu nữa.
2. Theo bạn, tại sao Kinh Thánh nói rõ Thiên Chúa yêu thương bảo vệ người nghèo?
3. Theo bạn, liệu có thể yêu người mà không yêu Thiên Chúa không? Tại sao?
18. Điều răn trọng nhất
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Người Do thái có rất nhiều luật! Giữa bao nhiêu điều luật đó, điều luật nào trọng nhất? Yêu Thiên Chúa hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực; và yêu anh em như chính mình! Hai điều này không là điều mới, nó đã có trong bộ luật xa xưa, trong sách Thứ Luật và Lêvi (Tl. 6, 5 và Lv.19, 18).
1. Yêu Thiên Chúa hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực ngươi
Người Do thái và đặc biệt là các biệt phái một phần nào biết nguồn gốc nhân loại của Đức Yêsu (con bác thợ mộc Yuse và bà Maria, ở Nadarét)- một người không được giáo dục ở trường lớp và không có nhiều kiến thức! Vì vậy, họ muốn thử Đức Yêsu: "Thưa thầy, giới răn nào trọng nhất?"
Đức Yêsu không nói gì mới, Ngài trích một câu sách Thứ Luật! Câu trả lời của Ngài ngắn gọn, nhưng rất chính xác!
Yêu Thiên Chúa, chọn Thiên Chúa trên hết mọi sự. Coi rằng được Thiên Chúa là được tất cả. Có Thiên Chúa là có tất cả! Mất Thiên Chúa là mất tất cả.
Hệ luận của điều này rất rõ ràng. Thiên Chúa là trên hết, đức tin là trên hết. Nếu điều nào làm một người mất đức tin, người ta sẽ bỏ điều đó. Nếu chọn Thiên Chúa mà phải mất nhiều điều, ngay cả mạng sống, thì họ cũng sẵn sàng mất (trường hợp những người tuyên xưng đức tin dù phải chết). Nếu người chồng ngoại đạo không cho người vợ sống đạo, Hội Thánh cho phép họ ly thân để sống đức tin.
Thà chết chứ không phạm một tội trọng, là trường hợp những người chọn Thiên Chúa trên tất cả.
2. Yêu anh em như chính mình
Sách Lêvi đã dạy điều này, nhưng sau này Đức Yêsu đã dạy: "anh em hãy yêu mến nhau như thày đã yêu mến anh em" (Ga.13, 34).
Từ "yêu người như yêu chính mình" (Lv.19, 18) đến "yêu nhau như Đức Yêsu yêu chúng ta" (Ga.13, 34), là một bước tiến rõ! Đức Yêsu đã yêu chúng ta đến độ tự hủy, chết để chúng ta được sống, cũng vậy chúng ta cũng phải yêu thương nhau và hiến mạng sống cho nhau.
Yêu như Chúa yêu!
3. Yêu nhau như thế nào?
Tôi mới dự buổi chia sẻ của một nhóm bạn sinh viên. Họ là một số bạn ở ký túc xá, và một số bạn cùng nhau thuê nhà trọ ở với nhau. Khi đọc đoạn tin mừng của Chúa Nhật này, có bạn đã chia sẻ: mình đã hy sinh nấu cơm cho các bạn cùng phòng ăn, quét dọn phòng, làm vệ sinh... (và một số bạn đó khá lười, chẳng để ý gì đến việc mình làm, không biết các bạn đó có cho mình là ngu không) để làm chứng bằng đời sống cho các bạn đó, hy vọng các bạn đó thấy điều tốt và các bạn đó tìm hiểu đạo chăng! Một bạn khác chia sẻ: cần phải tổ chức, phân công rõ ràng, chứ không nên hy sinh kiểu như vậy! Bạn sau này cho rằng, nếu chỉ làm thôi, mình sẽ bị dồn nén, mà cũng chẳng làm chứng được gì!
Như thế nào mới là đúng? Như thế nào là yêu thương thực sự? Phải chăng nên nhịn nhục, cam chịu và phục vụ? hay phải nói ra, phân công rạch ròi?
Yêu là muốn điều tốt cho người khác!
Làm sao để giúp tha nhân triển nở toàn diện, về thể xác về tinh thần!
Nếu hy sinh, mà giúp các bạn mình triển nở, trưởng thành, thì mình cần hy sinh phục vụ! Nhưng nếu điều đó làm cho các bạn ỷ lại, làm hư các bạn, thì đó không những không phải là hành vi bác ái, mà lại còn phản bác ái nữa. Cho nên, có khi nhịn nhục, hy sinh phục vụ, là yêu thương, là bác ái; và có lúc phải rạch ròi, phải đòi hỏi, phải cương quyết, mới là bác ái, mới là yêu thương thực!
Yêu thương là muốn điều tốt cho người khác, làm mọi cách để người khác tốt hơn, triển nở hơn, hạnh phúc hơn.
4. Truyền giáo
Khánh Nhật Truyền Giáo. Ngày Giáo Hội cầu nguyện cho việc truyền giáo, cho việc rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc.
Chúng ta xin Chúa cho có nhiều vị quảng đại hiến thân cho công việc thánh thiện này.
Thời buổi này, người ta cần chứng nhân hơn người giảng dạy. Người ta được đánh động bởi những người có đời sống tốt, hơn là những người chỉ biết nói hay. Nếu chúng ta sống tốt, là chúng ta đã đang rao giảng về Thiên Chúa cho những người sống chung quanh chúng ta!
Sống Tin Mừng, đòi chúng ta phải vui tươi triển nở, bình an hạnh phúc. Nếu Tin Mừng không giúp chúng ta bình an hạnh phúc hơn, thì cuộc sống của chúng ta là một phản chứng. Một kitô-hữu, là người cũng chung thân phận với con người ngày nay, nhưng cũng là người được đức tin, được ánh sáng Tin Mừng soi chiếu, nên cuộc sống của họ khác với những người khác. Sống Tin Mừng, là sống giữa những thực tại trần gian, nhưng không thuộc về trần gian. Kitô-hữu, sống giữa lòng thế giới, nhưng như ngọn đèn soi sáng, để con người thời đại này được chỉ lối về với Thiên Chúa.
19. Điều răn quan trọng nhất
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Điều răn trọng nhất của Cựu Ước, thế còn Tân Ước thì sao?
“Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” Câu hỏi người thông luật trong nhóm Pha-ri-sêu đặt ra cho Đức Giêsu không khó trả lời, cũng như câu trả lời của Đức Giêsu chẳng có gì mới lạ, vì tất cả đã được ghi rõ trong lề luật: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi (Đệ Nhị Luật 6:5)… Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình… (Lê-vi 19:18)”. Đối với những ai vốn thông hiểu luật như các Pha-ri-sêu thì câu trả lời của Đức Giêsu là quá hiển nhiên và đầy đủ lắm rồi, chẳng thêm thắt gì được nữa. Thế nhưng cũng qua câu giải đáp này, Đức Giêsu lại muốn xác định thêm một điều mà các sách luật chưa nêu rõ, đó là hai điều răn quan trọng nhất ấy có quan hệ mật thiết với nhau, và “tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”. Vậy thì, trong tâm tư của Người thật sự Đức Giêsu đang muốn khảng định điều gì? Tác giả Mát-thêu khi ghi nhận các điều này, chắc hẳn phải nhận thấy một điều gì đó quan trọng và mới mẻ lắm mà ông muốn truyền đạt tới các Ki-tô hữu tiên khởi gốc Do Thái của ông.
Quả vậy, khi nhóm Pha-ri-sêu đặt vấn nạn này cho Đức Giêsu, chắc hẳn họ đã ngầm nhận thấy trong sứ điệp Người rao giảng có một điều gì đó rất xa lạ đối với nội dung truyền thống của Luật Mô-sê mà họ đang trung thành nắm giữ. Câu trả lời của Đức Giêsu tự nó chẳng giải đáp gì cho thắc mắc họ muốn biết, vì họ thấy nó hoàn toàn đúng, căn cứ theo Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ Cựu Ước mà họ đã quá quen thuộc. Thế nhưng đối với các môn đệ của Đức Giêsu thì đây lại chính là chìa khóa để hiểu ‘điều răn mới’ Người đang muốn truyền đạt.
Bất cứ người Do Thái nào cũng đều biết là phải tôn thờ và yêu mến Đức Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn; lý do là vì chính cha ông họ đã ký kết bền chặt một giao ước với Đức Chúa để được Ngài cho hưởng mọi điều họ mong muốn. Điều kiện căn bản của khế ước này là họ phải hết lòng tôn thờ và yêu mến Đức Chúa ‘hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn’,trên hết mọi sự. Lịch sử đã chứng minh rằng mọi cái cha ông họ có được đều là nhờ Đức Chúa; Ngài đã giải cứu, đã cho cha ông họ được chiến thắng kẻ thù và được ban đất hứa làm gia nghiệp…; chính vì thế mà cha ông và chính họ có bổn phận phải yêu mến tôn thờ Ngài hết lòng. Đối với Đức Chúa đã là như thế thì đối với cận thân cũng phải vậy; yêu cận thân cũng phải sòng phẳng. Yêu người thân cận như yêu chính mình có nghĩa là làm ơn để được hàm ơn lại, còn gây oán sẽ bị báo oán. ‘Răng đền răng và mắt đền mắt’ là thế, là có đi có lại, là song phẳng! Đúng là hai giới luật này liên quan chặt chẽ với nhau, và toàn bộ Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều đặt nền trên giao ước sòng phẳng này trong tương quan của Dân Riêng cả với Đức Chúa lẫn với cận thân đồng bào.
Giao Ước mới mà Đức Giêsu rao giảng vượt xa cái giới hạn của Cựu Ước, khi mà Đức Chúa Mới không chỉ ban sự sống và ân huệ mà trao ban chính mình Người cho những ai trung thành với giao ước. Giao Ước mới hệ tại ở việc Thiên Chúa trao nộp chính Con Yêu Dấu Ngài cho loài người tội lỗi bất trung; giao ước mới đó không còn đặt nền trên công bằng ‘do ut det – hòn đất ném đi hòn chì ném lại’ mà là trên lòng nhân ái xót thương, vì Ngài ban ơn cứu độ cách nhưng không. Trong Tân Ước việc yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết sức sẽ không được coi như một bổn phận áp đặt ‘Ngươi phải yêu mến Đức Chúa…’, mà như một ân huệ đón nhận trong ân tình của người con ‘Ab-ba, Cha ơi!’. Cũng vậy, yêu người thân cận sẽ đi xa hơn rất nhiều cái tính toán của ‘thương người như thể thương thân’, trong đó tính sòng phẳng của ‘răng đền răng mắt đền mắt’ ‘hàm ơn trả oán’ là điều đương nhiên. Trong Tân Ước yêu cận thân sẽ trở thành ‘Hãy thương yêu nhau như chính Thầy yêu thương anh em’, ‘Yêu và làm ơn cho cả kẻ thù…, tha thứ cho kẻ xúc phạm tới mình đến bảy mươi lần bảy…’. Nếu đúng là trong Cựu Ước, toàn bộ Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều qui về hai giới luật ‘phải yêu mến Đức Chúa hết lòng… phải yêu người thân cận như chính mình’, thì trong Tân Ước điều răn ‘mến Chúa yêu người’ mới chỉ có thể hiểu được trong nội dung Thập Giá của Đức Ki-tô Giêsu mà thôi; vì chỉ nơi Thập Giá chứ không phải qua“Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ”, mới cho thấy được cái khác lạ đích thực và tính ưu việt vượt trội của tân giới luật tình yêu. Do đó chiêm ngắm và cử hành Thập Giá trở thành quan trọng bậc nhất trong Giao Ước Mới này. Chẳng trách gì mà Phao-lô mạnh dạn tuyên bố: ông chỉ muốn biết duy nhất có một Đức Giêsu Ki-tô Thập Giá mà thôi!
Và tôi, một linh mục của Giao Ước mới, tôi cần tự vấn xem mình vẫn rao giảng ‘mến Chúa yêu người’ trong nội dung luật Mô-sê và các sách ngôn sứ, hay trong nội dung của Thập Giá Đức Ki-tô tự hiến? Việc hàng ngày cử hành hy tế Thập Giá có giúp tôi và các tín hữu lãnh hội được Điều Răn Mới cách sâu xa hơn hay không, và thường ngày đem ra sống như nét độc đáo nhất của Tin Mừng chúng tôi muốn rao giảng cho hết mọi người?
Lạy Chúa, nếu không chiêm ngắm Thập Giá, con sẽ chẳng bao giờ có thể yêu mến với tâm tình con thảo như Chúa muốn, đồng thời yêu mến tha nhân của con cũng sẽ chỉ luẩn quẩn trong tính toán hơn thua hạn hẹp. Xin dạy con để mỗi khi cử hành Thánh Lễ, bài học yêu thương như chính Chúa đã yêu thương và tự hiến như chính Chúa đã tự hiến cho các tội nhân sẽ được con học thuộc và đem ra sống, để chính con cũng dần được biến đổi nên của lễ toàn thiêu dâng tiến Chúa. Amen.
20. Suy niệm và chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXX Thường Niên Năm A nhấn mạnh “Mến Chúa và Yêu Người là một”.
Xh 22: 20-26
Trong Bài Đọc I, trích từ “Bộ Luật Giao Ước” của sách Xuất Hành, Thiên Chúa đòi hỏi dân Ngài phải thực hành đức ái đối với những người khốn khổ nhất: ngoại kiều, mẹ góa con côi, người túng thiếu. Ngài tự đồng hóa mình với họ: “Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ”.
1Th 1: 5-10
Thánh Phao-lô khích lệ các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca và ca ngợi đức tin kiên vững của họ: dù chỉ vừa mới đón nhận Tin Mừng, họ đã phải chịu trăm chiều gian nan thử thách.
Mt 22: 34-40
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su hiệp nhất hai giới luật mến Chúa và yêu người làm một.
BÀI ĐỌC I (Xh 22: 21-27)
Bản văn nầy được trích từ “Bộ Luật Giao Ước” của sách Xuất Hành. Bộ luật nầy phản ảnh thời kỳ dân Do thái không còn sống cuộc đời du mục nữa, nhưng định cư lập nghiệp ở đất Ca-na-an. Vì thế, Người ta có thể ấn định niên biểu của bộ luật này vào thời hậu Mô-sê, chính xác hơn vào những giai đoạn đầu tiên của thời kỳ định cư, trước khi tổ chức thành một quốc gia, tức vào thời Thủ Lãnh, khoảng năm 1200 và 1030 trước Công Nguyên. Đây là luật của một xã hội chăn nuôi và nông nghiệp. Bộ luật được đặt vào trong bối cảnh “Trên núi Xi-nai, Chúa phán với dân Ít-ra-en”. Đây là hư cấu văn chương được dùng để nhấn mạnh rằng bộ luật nầy vẫn ở trong tinh thần Luật Mô-sê và chỉ là khai triển Luật Mô-sê.
Trên bình diện hình thức, “Bộ Luật Giao Ước” nầy có nhiều quan hệ thân cận với các luật của miền Cận Đông xưa như Bộ Luật Hammourabi, vua Ba-by-lon, vào năm 1700 trước Công Nguyên, trong đó luật cũng được diễn tả theo biểu thức điều kiện: “Nếu ngươi làm điều nầy, nếu người làm điều nọ”. Một biểu thức khác, hiếm hơn trong những bản văn luật thời xưa, nhưng thường gặp trong Cựu Ước, đó là biểu thức mệnh lệnh thường nhất được diễn tả theo hình thức lệnh cấm: “Ngươi không được…”, như trong Thập Giới (Xh 20: 3-17), trong đó chỉ có hai giới răn được diễn tả theo hình thức lệnh truyền: “Ngươi hãy…”. Trong bản văn của chúng ta, hình thức lệnh cấm cũng chiếm ưu thế.
Trên bình diện nội dung, Bộ Luật Giao Ước phân biệt rõ nét với các bộ luật ngoại quốc có cùng xuất xứ. Sự độc đáo của Bộ Luật Giao Ước ở chỗ chính Thiên Chúa đứng ra đảm bảo luật luân lý, vì thế vi phạm luật đồng nghĩa xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Đức Ái được đề cao như luật cốt yếu của cuộc sống xã hội, vì thế, hai giới luật: mến Chúa và yêu người, vốn đã được liên kết cùng nhau rồi.
1. “Người ngoại kiều”.
Ở Ít-ra-en, có nhiều quy chế liên quan đến ngoại kiều. Trước hết, “ngoại kiều cư trú” được hưởng một quy chế khá thuận lợi (nhất là người làm thuê ngụ ở nhà chủ mình). Đoạn, “ngoại kiều vãng lai” được hưởng truyền thống hiếu khách. Cuối cùng, “ngoại kiều nhập cư” phải chịu một quy chế khắc khe. Chính hoàn cảnh của “ngoại kiều nhập cư” nầy mà Bộ Luật Giao Ước lưu ý. Nguyên do được nêu lên là tính lịch sử: “vì chính các người đã là ngoại kiều ở Ai-cập”. Phải nhấn mạnh rằng các luật pháp của miền Cận Đông xưa không bao giờ nêu lên nguyên do của các luật lệ được ban hành. Vì thế, đây là nét đặc thù của Kinh Thánh.
2. “Mẹ góa con côi”.
Thân phận của người phụ nữ ở Ít-ra-en vào thời xưa là “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Vì thế, người phụ nữ góa chồng khó có thể tìm được nơi nương tựa. Nếu không có của cải, người phụ nữ nầy có thể lâm vào một cuộc sống khốn khổ, nhất là phải gánh vác trách nhiệm nuôi nấng con cái. Những cảnh ngộ thương tâm như thế rất thường trong những xã hội thời xưa. Thế nên, luật pháp quan tâm đến cảnh ngộ mẹ góa con côi nầy như phần kết của Bộ Luật Hammourabi: “Ta đã viết những lời nầy trên bia đá ngỏ hầu kẻ mạnh không ức hiếp người yếu và trả lại sự công bình cho mẹ góa con côi”.
Như chúng ta đã nói trên, nét độc đáo của luật Kinh Thánh chính là viện dẫn Thiên Chúa như Đấng bênh vực bảo vệ tình cảnh mẹ góa con côi. Thiên Chúa sẽ đích thân can thiệp và “sẽ cho gươm giết các ngươi”, nghĩa là các ngươi sẽ bị giết chết trong chiến tranh. Một cách nào đó, đây là luật “ân oán phân minh”, nghĩa là vợ con của họ cũng sẽ trở thành góa bụa đơn côi.
3. Cho vay nợ.
Mối quan hệ của mọi thành viên dân Thiên Chúa là cốt nhục tình thâm, vì thế không được để cho bất cứ một ai trong anh chị em mình phải sống trong cảnh nghèo khổ túng thiếu. Phải cho anh chị em vay mượn nhưng không đòi trả lãi.
Tại các dân tộc lân cận, người ta cho vay để lấy lãi. Bộ Luật Giao Ước cấm cho vay lấy lãi như thế. Việc vay lấy lãi được trình bày như đối lập với luật yêu thương anh chị em chủng tộc mình. Quả thật, sách Đệ Nhị Luật xác định: “Người nước ngoài, anh em được cho vay lấy lãi, còn người anh em của anh thì không được cho vay lấy lãi; như vậy, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh sẽ chúc phúc cho anh trong mọi công việc tay anh làm, trên đất anh sắp vào chiếm hữu” (Đnl 23: 20-21).
Đức Giê-su sẽ hủy bỏ quan niệm yêu thương bị giới hạn chỉ trong vòng anh em chủng tộc nầy. Phải nhận ra luật “Cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả” được mở rộng đến hết mọi người, bởi vì mọi người trong bốn bể đều là anh em.
Để tránh người vay lạm dụng, người cho vay có thể lấy áo choàng làm vật thế chấp. Bản văn đưa ra một ví dụ ý nhị. Người chăn chiên nằm ngủ ngoài trời cần chiếc áo choàng làm chăn đắp. “Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ”. Lại một lần nữa, bản văn khẳng định rằng Thiên Chúa bao hàm trong tình yêu tha nhân. Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su khẳng định mến Chúa và yêu người chỉ là một.
BÀI ĐỌC II (1Th 1: 5-10)
Chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca.
1. Tấm gương của những người loan báo Tin Mừng.
Thánh nhân nói đến cách sống của mình và của những người bạn đồng hành của mình là ông Xin-va-nô và ông Ti-mô-thê: “Anh em biết khi ở với anh em chúng tôi đã sống thế nào để mưu ích cho anh em”, mà không nêu ra bất kỳ một chi tiết cụ thể nào. Sau nầy, thánh nhân sẽ đề cập vấn đề nầy một cách cụ thể và rõ ràng hơn như tấm lòng ưu ái mà ngài dành cho họ. Trong đoạn trích dẫn hôm nay, thánh nhân ca ngợi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca vì “noi gương các vị mục tử của họ và bắt chước Chúa”.
Chúng ta đừng quên rằng lúc nầy thánh Phao-lô đang ở Cô-rin-tô, một cộng đoàn Ki-tô hữu mà ngài vừa mới thành lập. Sau nầy ngài viết cho các tín hữu Cô-rin-tô cùng một lời khuyên như vậy: “Anh em hãy bắt chước tôi như tôi bắt chước Chúa Kitô” (1Cr 11: 1) và cả cho các tín hữu Phi-líp nữa: “Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em.” (Pl 3: 17).
2. Tấm gương của các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca.
Những người loan báo Tin Mừng, dù đã phải kinh qua biết bao gian truân, họ vẫn cảm thấy niềm vui vì thấy thành quả của Tin Mừng ở nơi các tín hữu nhờ tác động của “Thánh Thần”. Quả thật, các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, dù đón nhận Tin Mừng trong một thời gian ngắn và phải chịu trăm chiều thử thách, trở nên tấm gương sáng chói cho mọi người:“Từ nơi anh em, Lời Chúa được vang ra; không những ở Ma-kê-đô-ni-a và A-khai-a, mà đâu đâu người ta cũng nghe biết lòng tin anh em đặt vào Thiên Chúa…”
3. Dân ngoại đón nhận đức tin.
Thánh Phao-lô diễn tả niềm vui của ngài vì dân ngoại mở rộng lòng đón nhận đức tin: “Anh em đã từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa như thế nào, để phụng sự Thiên Chúa hằng sống và chân thật”. Như các ngôn sứ thời xưa, thánh Phao-lô đối lập các ngẫu tượng có mắt có tai mà không nghe không thấy với Thiên Chúa hằng sống và chân thật. Thánh nhân ca ngợi họ đã hiểu ý nghĩa cuộc sống Ki-tô hữu: phụng sự Thiên Chúa hằng sống và chân thật và chờ đợi ngày quang lâm của Con Thiên Chúa, Đấng phục sinh từ cõi chết, cứu độ chúng ta và giải thoát chúng ta khỏi cơn thịnh nộ đang đến.
Ở đây, thánh nhân tóm gọn điều cốt yếu lời rao giảng của ngài. Lời rao giảng nầy theo cùng cung giọng với lời rao giảng của Giáo Hội tiên khởi, như chúng ta gặp thấy trong sách Công vụ.
TIN MỪNG (Mt 22: 34-40)
Câu chuyện nầy được cả ba Tin Mừng Nhất Lãm tường thuật. Tuy nhiên, chỉ một mình thánh Mát-thêu đặt câu chuyện nầy vào trong bối cảnh người Pha-ri-sêu tranh luận với Chúa Giê-su ngỏ hầu họ có thể hãm hại Ngài.
1. Vấn nạn nhóm Pha-ri-sêu nêu lên:
Theo thánh Mát-thêu, sau khi nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng về vấn đề kẻ chết sống lại, nhóm Pha-ri-sêu lại xuất hiện và bày mưu tính kế hãm hại Đức Giê-su. Trước đây, họ đã liên minh với nhóm Hê-rô-đê để giăng bẫy Ngài về vấn đề chính trị: “Có được phép nộp thuế cho Xê-da không?” (Mt 22: 15-22), nay về vấn đề tôn giáo: “Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, giới luật nào là giới luật quan trọng nhất?”. Quả thật, sách Luật Mô-sê, tức bộ Ngũ Thư, chứa đựng vô số những lệnh truyền và lệnh cấm, tổng cộng đến 613 điều phải tuân giữ. Làm thế nào nhận ra trong muôn vàn giới luật nầy giới luật nào quan trọng nhất để rồi từ đó chú tâm tuân giữ giới luật quan trọng bậc nhất này là có thể chu toàn các giới luật còn lại? Trong một thời gian dài từ thế hệ nầy đến thế hệ khác, các nhà thông luật tranh luận với nhau nhưng không đưa ra một giải pháp nào thỏa đáng cả. Vì thế, đây là một vấn đề có tính thời sự vào lúc đó, nhưng trong hoàn cảnh nầy, vấn đề được nêu ra là nhằm gài bẫy Đức Giê-su, điều đó cho thấy ác tâm của nhóm Pha-ri-sêu nầy.
2. Câu trả lời của Đức Giê-su.
Đức Giê-su không xuất thân từ trường lớp nào của các kinh sư. Ngài có thái độ khá tự do đối với các giới luật như Ngài sẵn sàng vi phạm huấn lệnh ngày sa-bát (huấn lệnh quan trọng, thậm chí rất quan trọng nữa) vì con người, Ngài và các môn đệ Ngài không thực hành việc rửa tay trước bữa ăn, cũng như Ngài giao du với những người tội lỗi mà người Pha-ri-sêu tránh tiếp xúc để giữ mình khỏi ô uế. Tuy nhiên, Đức Giê-su khẳng định rằng Ngài không đến để hủy bỏ Lề Luật và lời dạy của các ngôn sứ, nhưng đề xuất những quan niệm của riêng mình. Trước vấn nạn mà người Pha-ri-sêu nêu ra, Ngài sẽ trả lời như thế nào? Rốt cuộc, câu trả lời của Ngài sẽ cung cấp cho những con người ác tâm nầy lý do để buộc tội Ngài chứ?
Trước hết, Chúa Giê-su trả lời khi trích dẫn giới luật “mến Chúa” trong sách Đệ Nhị Luật: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em” (6: 4-5). Giới luật nầy trở thành kinh nguyện của người Do thái (được gọi là kinh Shema: “Nghe đây”), luôn luôn đứng hàng đầu trong các kinh nguyện Do thái, và được đọc mỗi ngày hai lần. Kinh nguyện nầy nói lên niềm hãnh diện của dân Ít-ra-en, qua đó họ khẳng định dân tộc của họ khác với các dân tộc khác: không chỉ thờ phượng Thiên Chúa duy nhất và hữu vị, nhưng còn yêu mến Ngài trọn cả tấm lòng của mình. Tiếp đó, Đức Giê-su trích dẫn giới luật “yêu người” trong sách Lê-vi: “Ngươi phải yêu thương người thân cận như chính mình” (19: 18). Chúa Giê-su đem đến cho vấn nạn mà người Pha-ri-sêu nêu lên một lời giải đáp thật sự mới mẽ:
Trước hết, giới luật yêu thương người thân cận được trích dẫn trong sách Lê-vi chỉ giới hạn ở nơi dân tộc Do thái, trong khi Đức Giê-su mở rộng ra với hết mọi người. Trong cùng một câu chuyện, thánh Lu-ca đã khai triển điểm mới mẽ nầy khi để cho thầy thông luật nêu lên vấn đề: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?” và Chúa Giê-su trả lời bằng dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành, người mà người Do thái xem là kẻ thù không đội trời chung, và cuối cùng mời gọi thầy thông luật nầy hãy làm như người Sa-ma-ri để được sự sống đời đời làm gia nghiệp (Lc 10: 29-37).
Thứ nữa, hai giới luật nầy được trích dẫn từ hai sách khác nhau: giới luật mến Chúa trong sách Đệ Nhị Luật (6: 4-5), còn luật yêu người thân cận trong sách Lê-vi (19: 18). Người Do thái cũng đã nhận biết giới luật yêu người thân cận là quan trọng vì đây là luật của Thiên Chúa, vì thế vi phạm giới luật nầy là xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Nhưng trong lời dạy của truyền thống kinh sư, luật mến Chúa được đặt lên hàng đầu, vì thế rất dễ bỏ qua hay thậm chí hy sinh luật “yêu người” vì “mến Chúa”, như những lời phê phán của Đức Giê-su trong những cuộc tranh luận của Ngài với những giai cấp lãnh đạo Do thái về ngày sa-bát. Nét độc đáo trong câu trả lời của Chúa Giê-su không chỉ vì Ngài trích dẫn hai giới luật nầy như là hai giới luật quan trọng bậc nhất, nhưng Ngài còn liên kết hai giới luật thành một.
3. Sự duy nhất của luật “mến Chúa và yêu người”.
Việc hiệp nhất hai giới luật mến Chúa và yêu người là nét đặc trưng của Kitô giáo: vì mỗi người đều được tạo dựng theo hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa (St 1: 26-27) mà Công Đồng Va-ti-can II gọi là “thiên chức toàn vẹn của con người” (“Niềm Vui và Hy Vọng”, 11). Hơn nữa, Đức Giê-su, Con Thiên Chúa làm người, tự đồng hóa mình với mỗi người, đặc biệt là những người nghèo khổ, những người thấp cổ bé miệng: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25: 40, 45). Như vậy, hai giới luật cùng nhau hình thành nên nền tảng cuộc sống của người Ki-tô hữu. Giới luật yêu người chỉ gặp thấy điểm quy chiếu và ý nghĩa trọn vẹn của nó chỉ trong giới luật mến Chúa. Trong toàn bộ Tân Ước, thánh Gioan cho chúng ta lời giải thích ngắn gọn nhất và dễ hiểu nhất về sự duy nhất của mến Chúa và yêu người:
“Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’
mà lại ghét anh em mình,
người ấy là kẻ nói dối;
vì ai không yêu thương
người anh em mà họ trông thấy,
thì không thể yêu mến Thiên Chúa
mà họ không trông thấy” (1Ga 4: 20).
21. Tình yêu là tất cả
(Suy niệm của Barbara E. Reid OP. – Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
“Thưa Thầy, giới răn nào trọng nhất” (Mt 22,36).
Khi tôi hướng dẫn các sinh viên làm luận văn tốt nghiệp, tôi luôn hỏi xem các em có thể tóm tắt bài luận văn bằng một câu đơn giản được không. Cũng tương tự, khi các sinh viên thuyết trình một đề tài gì, tôi luôn bắt các em phải tóm tắt đề tài đó bằng một câu ngắn. Nếu các em không làm được điều này, chứng tỏ các em chưa nắm bắt được nội dung những gì các em sẽ trình bày.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, những người Pharisiêu hỏi Đức Giêsu, trong lề luật giới răn nào quan trọng nhất. Họ muốn Đức Giêsu tóm tắt những điều luật bằng một câu giản đơn. Câu chuyện được thánh Matthêu kể lại hôm nay là giai thoại thứ ba trong bốn giai thoại được thánh ký ghi lại nơi chương 22. Những đầu mục Do Thái giáo đưa ra những cái bẫy nhằm bắt bẻ Đức Giêsu. Trình thuật này khác với những câu chuyện mà Luca hay Marcô ghi lại (xem Mc 12, 28-34; Lc 10, 25-28). Trong Luca hay Marcô, những câu hỏi đưa ra phát xuất từ sự chân thành chứ không phải mang tính gian dối hay giảo quyệt, và Chúa Giêsu đã trả lời với những huấn dụ rất khẳng quyết.
Nơi trình thuật Matthêu, câu hỏi mà những người biệt phái nêu ra để thử Đức Giêsu được diễn bày theo hai dạng thức. Dạng thức thứ nhất, các giới răn đều quan trọng và mọi người phải tuân giữ. Nếu Đức Giêsu chỉ nhấn mạnh đến một giới răn, và tỏ ra khinh suốt đối với những điều khoản khác, họ sẽ bắt bẻ Ngài. Vả lại, theo dạng thức thứ hai, những người biệt phái thử xem Chúa Giêsu có tài năng giống với những thầy dạy đương thời nổi tiếng khác hay không, bởi vì những kinh sư Do thái rất dễ tóm tắt các điều luật. Ví dụ, thầy Rabbi tên là Hillel, đã tóm tắt các giới răn như sau “Những gì bạn ghét bỏ, không muốn người ta làm cho mình, bạn cũng đừng làm cho người khác (Sabb 31a). Trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu cũng đưa ra một định thức tương tự để tóm kết các điều luật “Những gì anh em muốn người khác làm cho mình, anh em hãy làm cho họ, và đây là lề luật, là lời các ngôn sứ (Mt 7,12). Ở đây, Đức Giêsu cũng hé mở một khía cạnh khác của cùng một vấn đề: Đó là phải thực thi tình yêu dành trao cho Thiên Chúa.
Giới lệnh “Hãy yêu mến Thiên Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn, hết sức lực”, cũng đã được nói tới trong sách đệ nhị luật (Dnl 6, 4-9), tức sách Shema, mà những người Do Thái mỗi ngày vẫn phải đọc đi đọc lại hai lần. Phải yêu mến Thiên Chúa với trọn vẹn con người mình. Yêu mến với tất cả cõi lòng, tức là thể hiện những tình cảm sâu xa nhất. Yêu mến với hết linh hồn, tức là tình yêu phát nguồn từ căn rễ mọi sức sống nơi ta. Đồng thời cũng phải yêu mến với tất cả ý thức và sức lực của mỗi người. Giới lệnh yêu thương tha nhân cũng được trích dẫn từ sách Lêvi 19,18 nói về những điều luật thánh thiêng. Giới lệnh này muốn minh thị rằng cách biểu tỏ cụ thể tình yêu đối với Thiên Chúa chính là thương yêu đồng loại. Thực sự đây không phải là hai giới răn, nhưng chỉ là hai khía cạnh của một thực tại duy nhất: đó là Tình yêu.
Đoạn văn này không nói một cách minh nhiên, như nhiều đoạn văn khác trong Kinh Thánh, khi muốn nhấn mạnh rằng, tình yêu đối với Thiên Chúa luôn phải được đặt vào chỗ tối thượng nơi ta. Trước khi chúng ta có thể diễn bày tình yêu đối với Chúa, và tình yêu đối với cận nhân, thì chính Thiên Chúa đã đi bước trước, đã gợi lên sáng kiến để giúp ta am tường về tình yêu Ngài. Khi chúng ta trải lòng mình ra để đón nhận tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, sống thật sung mãn và ngập tràn tình yêu Ngài, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng sẽ biết cách đáp trả tình yêu đó, và dàn trải tình yêu như thế cho mọi người. Khi tình yêu linh thánh của Thiên Chúa chiếm ngự nơi chúng ta, chúng ta dễ dàng quy phục Ngài và chúng ta sẽ tự hỏi giống như tác giả Thánh vịnh đã diễn tả “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ, vì mọi ơn lành Người đã ban cho?”(Tv 116,12). Câu trả lời rất giản đơn: Tình yêu. Tình yêu đáp trả tình yêu. Tình yêu đó hướng đến cả hai đối tượng bất khả phân: Thiên Chúa và tha nhân.
Ngày nay, với cảm thức sâu xa về một thế giới đại đồng rộng khắp, chúng ta xem tất cả mọi tạo vật chung quanh đều là những cận nhân cần được yêu mến. Chúng ta có thể gồm tóm ngay cả việc yêu thương chính mình vào phạm trù này, cho dù theo não trạng của thế giới Kinh thánh, điều đó khá xa lạ. Họ không hiểu yêu thương chính mình, theo cách diễn đạt ý niệm sống cá nhân chủ nghĩa, nhưng theo họ, ý niệm này trải rộng trước hết đến gia đình riêng của họ, đến một đoàn thể, hay một tổ chức tôn giáo nào đó mà họ tham gia. Họ luôn phải lệ thuộc vào người khác, trong khi vẫn luôn phải khẳng định chính mình. Chúng ta biết giới răn lớn nhất là yêu thương, nhưng trong thực tế, điều này không dễ dàng thực hiện. Thánh Augustinô đã khuyên mời chúng ta “Bạn hãy yêu mến đi, rồi bạn muốn làm gì thì làm – Ama et fac quod vis (Trích bài giảng thứ 7 về thơ thứ nhất của Thánh Gioan). Khi bị vặn hỏi về sự hiểu biết và thực hành giới răn của Thiên Chúa như thế nào, Đức Giêsu đã trả lời cho những biệt phái, để họ biết rằng giới răn đó không phải chỉ được Ngài công bố trên môi miệng một cách lý thuyết, nhưng đã được thực hiện trong suốt cuộc đời Ngài. Chúng ta cần phải sao chép lại cách thực hành đó trong cuộc sống chúng ta ngày hôm nay.
22. Lòng mến, luật trên mọi luật – Anmai, CssR
Trong mọi vấn đề của xã hội, từ tình cảm cho đến tất cả các tương quan trong cuộc sống, có thể nói ra hay không nói ra nhưng bên dưới tình cảm, tương quan nó có một khế ước nào đó. Có thể khế ước đó được nói lên chỉ bằng lời, bằng miệng thôi nhưng cũng có những khế ước được lập ra bằng văn tự hẳn hoi chứ nếu không thì người ta sẽ không lấy gì làm bằng chứng được khi một trong hai bên vi phạm cái khế ước được đưa ra.
Chúng ta thấy, từ thuở ban đầu khi tạo dựng trời đất và con người đầu tiên, ngầm bên dưới tình cảm của Thiên Chúa dành cho con người đó có một khế ước: "Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Ê-đen, để cày cấy và canh giữ đất đai. Đức Chúa là Thiên Chúa truyền lệnh cho con người rằng: "Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn; nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết." (Xh 1,14-17)
Cái gì cũng được ăn, được hưởng dùng cả nhưng trái của cây biết thiện ác thì không được ăn vì ăn vào thì sẽ chết! Ađam - Eva đã không giữ được cái khế ước đấy nên rồi đã bị Thiên Chúa trách phạt. Trớ trêu thay là tưởng chừng kinh nghiệm của ông bà nguyên tổ là kinh nghiệm cho con cháu nhưng chúng ta thấy sau này trong hành trình lịch sử cứu độ con người đã vi phạm không biết bao nhiêu là khế ước.
Sau đó, chúng ta thấy, qua Môsê cũng như các ngôn sứ, Chúa muốn nói cho con người quá nhiều điều, quá nhiều luật.
Khi thấy dân chúng sống trong cảnh lầm than, đô hộ, áp bức, Thiên Chúa chạnh lòng thương, đã không vô tâm vô tình để cho dân sống như vậy và Thiên Chúa qua bàn tay Môsê cứu dân. Sau khi cứu dân khỏi nô lệ thì Thiên Chúa qua Môsê đã ban giới luật cho dân như xưa với ông bà nguyên tổ vậy. Sau 3 tháng rời khỏi Ai cập, đến núi Sinai, Thiên Chúa đã gặp Môsê trên núi và báo cho ông chuẩn bị cho dân chúng để nhận khế ước giữa Thiên Chúa và dân. Không phải đón nhận một cách không không nhưng phải có một sự chuẩn bị hết sức nghiêm túc là: phải giữ cho khỏi nhiễm uế, quần áo phải giặt giũ cho sạch. Trong cuộc thần hiện trong tiếng sấm sét, tiếng tù và, ánh lửa và núi bốc khói Thiên Chúa đã ban thập điều cho dân.
Bên cạnh thập điều ấy còn có giải thích các luật về bàn thờ, về giết người, về đánh đập, gây thương tích, trộm thú vật và rồi đến luật về người ngoại kiều, về mẹ goá con côi như chúng ta vừa nghe trong bài đọc thứ nhất.
Sau đó, dân chúng tiếp tục cuộc lữ hành trong sa mạc tiến về đất hứa. Tưởng chừng có người đi theo kè kè bên cạch, làm trung gian với Thiên Chúa thì dân sẽ trung tín với những giao ước mà Thiên Chúa trao cho dân nhưng ngay tại núi Khô-rếp dân đã phạm luật. Môsê đã báo cho dân chúng biết rằng từ ngày ra khỏi Ai-cập thì dân đã phản nghịch chống lại Đức Chúa. Sự phản nghịch ấy đã làm cho Đức Chúa nổi giận muốn tiêu diệt dân nhưng Đức Chúa đã không nỡ làm điều ấy. Môsê đã van xin với Đức Chúa: "Lạy Chúa là ĐỨC CHÚA, xin đừng huỷ diệt dân Ngài, cơ nghiệp Ngài đã dùng sức mạnh lớn lao của Ngài để giải thoát, và đã ra tay uy quyền đưa ra khỏi Ai-cập. Xin nhớ đến các tôi tớ Ngài là ông Áp-ra-ham, ông I-xa-ác và ông Gia-cóp, xin đừng để ý đến sự ngoan cố, sự gian ác và tội của dân này (Xh 9,26.27)
Môsê vô cùng đau đớn, vô cùng bức xúc trước những tội lỗi, những sự thất tín bất trung của dân và ông đã phải thốt lên rằng: Giờ đây, hỡi Ít-ra-en, nào Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, có đòi hỏi anh em điều gì khác đâu, ngoài việc phải kính sợ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đi theo mọi đường lối của Người, yêu mến phụng thờ Người hết lòng, hết dạ, giữ các mệnh lệnh của Đức Chúa và các thánh chỉ của Người mà tôi truyền cho anh em hôm nay, để anh em được hạnh phúc? (Xh 10, 12.13)
Nhìn cách hành xử của dân, chúng ta thấy tội nghiệp cho cái thân già của ông Môsê. Nhiều lần và phải nói là quá nhiều lần mệt mỏi với cái dân cứng đầu cứng cổ nhưng vì ý thức vai trò và nhiệm vụ mà Thiên Chúa trao nên Môsê tiếp tục cuộc hành trình với đám dân cứng đầu cứng cổ này.
Đã hơn một lần, Môsê phải nài nỉ dân: "Những lời tôi nói đây, anh em phải ghi lòng tạc dạ, phải buộc vào tay làm dấu, mang trên trán làm phù hiệu. Anh em phải dạy những lời ấy cho con cái, mà nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy. Anh em phải viết lên khung cửa nhà anh em và lên cửa thành của anh em. Như vậy, bao lâu trời còn che đất, anh em và con cái anh em còn được sống trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã thề với cha ông anh em rằng Người sẽ ban cho các ngài. Nếu anh em cẩn thận giữ tất cả mệnh lệnh tôi truyền cho anh em đem ra thực hành, mà yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đi theo mọi đường lối của Người và gắn bó với Người, thì Đức Chúa sẽ trục xuất mọi dân tộc ấy cho khuất mắt anh em, và anh em sẽ trục xuất những dân tộc lớn và mạnh hơn anh em. Mọi nơi bàn chân anh em giẫm lên sẽ là của anh em: từ sa mạc và núi Li-băng, từ Sông Cả, là sông Êu-phơ-rát, cho đến Biển Tây, sẽ là lãnh thổ của anh em. Không ai sẽ đứng vững được trước mặt anh em; Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ làm cho tất cả miền đất anh em giẫm lên phải kinh khiếp sợ hãi anh em, như Người đã phán với anh em. Hãy xem, hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn: hoặc được chúc phúc hoặc bị nguyền rủa. Anh em sẽ được chúc phúc nếu vâng nghe những mệnh lệnh của Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, mà tôi truyền cho anh em hôm nay. Anh em sẽ bị nguyền rủa, nếu không vâng nghe những mệnh lệnh của Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, nếu anh em bỏ con đường hôm nay tôi truyền cho anh em phải đi, mà theo những thần khác anh em không biết. Khi Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã đưa anh em tới đất mà anh em đang vào chiếm hữu, anh em sẽ đặt lời chúc phúc trên núi Ga-ri-dim và lời nguyền rủa trên núi Ê-van. Những núi ấy ở bên kia sông Gio-đan, trên con đường phía tây, trong đất người Ca-na-an là người ở miền A-ra-va, đối diện với Ghin-gan, bên cạnh cụm sồi Mô-re. Thật vậy, anh em sắp sang sông Gio-đan để vào chiếm hữu đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, ban cho anh em. Anh em sẽ chiếm hữu và ở trong đất ấy. Vậy anh em phải lo đem ra thực hành mọi thánh chỉ và quyết định mà hôm nay tôi trình bày cho anh em". (Xh 11,18-32)
Tất cả những luật qua miệng Môsê và các vị trung gian của Thiên Chúa đưa ra đều nhắm một điều là đến quyền lợi của con người, tình thương cho con người. Chắc có lẽ Môsê thương dân nên ông đã truyền lại cũng như giải thích luật quá nhiều, luật nhiều quá đã làm cho con người phải học, phải nhớ vất vả.
Đó là thời Cựu Ước. Vào thời Tân Ước, Chúa Giêsu có khi gọi là Môsê mới, đấng trung gian giữa Thiên Chúa và con người thì lại khác. Thời Chúa Giêsu, Chúa Giêsu thấy các biệt phái, luật sĩ giữ những luật đó quá sức tỉ mỉ nhưng chỉ giữ bề ngoài chứ tinh thần và tinh tuý của luật thì lại không. Nhiều biệt phái, pharisêu, luật sĩ xét nét Chúa từng ly từng tý. Các ông đã canh chừng Chúa còn hơn là công an theo dõi Toà Giám Mục Hà Nội. Họ canh Chúa Giêsu nào là không chịu rửa tay trước khi dùng bữa, chữa bệnh trong ngày Sabát, các môn đệ bứt gié luá ăn ngày Hưu Lễ... và họ còn bắt bẻ Chúa nhiều điều: nào là "ông ấy là ai mà dám tha tội vì chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền tha tội"... Họ không nhận ra Chúa Giêsu là đấng trung gian mới, đấng sửa lại những lầm lỗi, những đổ nát giữa tình con người và tình Chúa. Hơn một lần, Chúa đã nói cho họ biết nhưng họ dường như không nghe, Chúa nói là Chúa không hề huỷ bỏ lề luật của Môsê nhưng là kiện toàn lề luật.
Trang Tin Mừng hôm nay nhiều người biệt phái và luật sĩ đến chất vấn Chúa về lề luật và Chúa nói thẳng vào mặt họ là tất cả các giới răn mà Môsê đưa ra thì giới răn trọng nhất đó là mến Chúa và yêu người. Đúng như vậy, tất cả các giới luật mà Môsê đưa ra đều nhắm vào Thiên Chúa và con người.
Thánh Giacôbê đã nhắc nhớ chúng ta: "Yêu thương là chu toàn lề luật". Thế đấy! Bao nhiêu lề luật đưa ra không luật nào quan trọng bằng luật của lòng mến. Thánh Phaolô cũng đã nhắc chúng ta: Hiện nay cả ba đức: đức tin, đức cậy và đức mến nhưng đức mến là quan trọng hơn cả.
Hôm nay, một lần nữa, Chúa Giêsu nói thẳng cho những người Pharisêu và những người thông luật cũng chính là Chúa nói với mỗi người chúng ta. Trong đời sống thường nhật, đôi khi chúng ta quá vụ vào các khoản luật nhưng đã đánh mất đi cái cốt lõi, cái tinh tuý, cái chất của luật đó chính là lòng mến, là tình yêu.
Ngày hôm nay, đời sống gia đình, đời sống xã hội người ta dùng quá nhiều luật mà quên đi cái luật lòng mến. Ra đường, lúc nào cũng kẹt xe. Tại sao? Tại ai ai cũng muốn mình được ưu tiên, mình đi nhanh hơn người khác để rồi lấn vạch, lấn tuyến, vượt đèn đỏ... cuối cùng kẹt xe. Quan trọng là họ đã không giữ được lòng mến, lòng bác ái với nhau nên nó mới xảy ra như vậy.
Gia đình cũng vậy, cộng đoàn cũng thế, người ta đưa ra quá nhiều luật với nhau. Bất cứ cái gì người ta cũng đưa ra luật nhưng người ta không chịu đưa ra lòng mến để cư xử với nhau.
Hơn thế nữa, Thánh Phaolô qua thư thứ nhất của Ngài gửi cộng đoàn Thessalônica cũng là gửi cho mỗi người chúng ta: "Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ. Ai ngủ, thì ngủ ban đêm; ai say sưa, thì say sưa ban đêm.Nhưng chúng ta, chúng ta thuộc về ban ngày, nên hãy sống tiết độ, mặc áo giáp là đức tin và đức mến, đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ" (1 Thes 1,5-8). Thế đấy! Ngài mời gọi chúng ta mặc lấy áo giáo là đức tin và đức mến. Trong tất cả mọi giới răn, tất cả mọi lề luật chẳng có luật nào cao trọng cho bằng luật của lòng mến.
Nguyện xin Chúa Giêsu là vua của tình yêu, của lòng mến đến và ở lại với mỗi người chúng ta để Ngài thêm tình thương, lòng mến trên mỗi người chúng ta để chúng ta là ánh sáng, là chứng nhân giữa cuộc đời đầy hơn thua, hận thù, ghen ghét này.
23. Yêu
Từ thời thuở bé tôi đã được mẹ dạy cho nằm lòng kinh Mười Điều Răn. Nhưng tôi cũng nhớ rất rõ tuy mười điều rõ ràng như thế nhưng cũng chỉ được gồm tóm lại trong hai điều là "Mến Chúa và Yêu Người". Đây là một giới răn được gồm tóm tất cả các giới răn trong đạo. Vì thế, khi đến trần gian, Chúa Giêsu không chỉ đến để giải thoát con người khỏi mọi tội lỗi mà thôi, nhưng Ngài muốn giải thoát con người một cách toàn diện, tức là khỏi mọi áp bức bất công, để mọi người được sống trong tình yêu của lề luật, hầu sống đúng với phẩm giá của mình là người Kitô hữu. Vào thời Chúa Giêsu, trong xã hội Do Thái bấy giờ, con người lúc nào cũng bị trói buộc bởi những lề luật. Vì sống quá khắc khe nên "Nhất cử nhất động", con người đều nằm trong mạng lưới chằng chịt của lề luật. Đó là điều làm cho con người lúc nào cũng mang tâm trạng lo âu, sợ sệt. Không biết tôi làm điều kia việc nọ có đúng luật không? Và nếu tôi sai luật thì tôi không phải là người công chính.
Thật vậy, nếu con người chỉ căn cứ vào những luật lệ bó buộc như vậy thì đó là một sai lầm, vì lấy lề luật làm nền tảng cho đời sống luân lý để đo mức độ công chính của đời sống con người. Bởi vậy, chúng ta không lạ gì thế giới có học của thời đại Do Thái bấy giờ, như các luật sĩ và biệt phái nhờ học biết luật và giữ luật nên họ cho là công chính, là thánh thiện, là hoàn hảo hơn người, đến độ trở nên kiêu căng, hách dịch với đại đa số dân chúng là những người không am tường lề luật để tuân giữ.
Khác với các biệt phái, Đức Giêsu không phá bỏ lề luật của cha ông mà Ngài kiện toàn nó trong tình yêu. Ngài đã phản đối những lề luật chẻ "cọng tóc ra làm tư" đó. Lề luật đặt ra để giúp cho con người, chứ không phải con người sinh ra để giữ lề luật. Vì thế, Chúa Giêsu đã đưa ra một giới luật yêu thương hết sức quan trọng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi". Đó là điều răn thứ nhất, và điều răn thứ hai cũng giống như điều răn thứ nhất là "ngươi hãy yêu thương anh em như chính mình ngươi". Thật ra, Chúa Giêsu không dạy làm điều chi mới lạ, vì hai điều răn đó đã có trong Cựu ước, trong sách Đệ Nhị Luật và Lêvi. Ngài chỉ lấy hai điều đó nhập lại làm một và đặt nó làm nền tảng cho đời sống con người chúng ta. Chúa Giêsu đã dạy cho con người biết Thiên Chúa là người Cha nhân từ. Trong lịch sử nhân loại, đây là lần đầu tiên qua lời dạy của Chúa Giêsu, con người gọi Thiên Chúa là Cha: "Lạy Cha chúng con ở trên trời". Một người con ngoan biết thương cha mến mẹ, khi làm một việc gì cần phải coi cha mẹ tôi có cấm cái này không? Có cho phép cái kia không?
Thánh Augustinô sau khi hiểu rõ lời dạy của Chúa Giêsu, ngài đã đưa ra một định luật táo bạo: "Hãy yêu đi rồi làm gì thì làm". Khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta đâu dám cả lòng cố tình làm mất lòng Thiên Chúa được. Khi chúng ta yêu mến anh chị em mình thật lòng, thì làm sao chúng ta dám nói xấu người khác được, làm sao chúng ta thấy người hoạn nạn mà mình vui được, làm sao chúng ta cố tình làm hại người khác được.
Để dễ thấy tầm quan trọng của hai điều răn "Mến Chúa và Yêu Người" trong đời sống, chúng ta hãy hình dung đó là hai chiều kích trong cuộc sống của người Kitô hữu chúng ta: Chiều dọc nối liên hệ với Thiên Chúa và chiều ngang nối liên hệ với tha nhân. Hai chiều kích đó hợp lại thành cây Thánh giá, đó là dấu hiệu của người Công giáo chúng ta. Hằng ngày chúng ta thấy hình ảnh của cây Thánh giá khắp nơi, trong nhà thờ, nơi nhà ở và chúng ta còn có những người luôn mang Thánh giá trong mình, bởi thế không ai có thể hình dung cây Thánh giá mà chỉ có một chiều hoặc dọc hoặc ngang mà thôi. Chính Chúa Giêsu đã nói: "Ai bảo mình mến Chúa mà không yêu thương anh em thì là kẻ nói dối". Bởi vậy mến Chúa và yêu người là hai chiều kích không thể thiếu trong cuộc sống.
Lạy Chúa, xin cho con biết sống yêu thương tất cả mọi người như chính Chúa đã yêu thương chúng con. Amen.
24. Đức ái - Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Người Kitô hữu phải luôn là người bước tới. Khi dừng chân là chúng ta đang tụt hậu và bị lỗi thời. Mọi sự trên trời, dưới đất đang di động và lòng người luôn đổi thay hướng tới. Cuộc sống sinh hoạt của con người trên thế giới không đồng đều như nhau. Sự khác biệt về gia cảnh giúp mọi người thể hiện lòng bác ái và nâng đỡ nhau trong đời sống. Ngày từ những buổi sơ khai, trong xã hội loài người đã có sự đối xử chênh lệch giữa kẻ giầu người nghèo, kẻ sướng người khổ và người làm chủ kẻ làm tôi. Tác giả sách Xuất Hành đã nói đến sự hỗ tương trong cuộc sống: Nếu ngươi cho người nghèo khó nào trong dân cùng định cư với ngươi mượn tiền, thì ngươi chớ hối thúc nó như kẻ đặt nợ ăn lãi quen làm và chớ bắt nó chịu lãi nặng (Xh 22, 24). Ngoài việc đối xử công bằng, con người cần có đức ái yêu thương chia sẻ với nhau. Vì trong cuộc sống của mỗi người có nhiều những éo le và sự cố khó lường. Người ta nói: Nghèo lại mắc cái eo. Đôi khi những sự khó xảy ra dồn dập, cái khó khăn này kéo theo cái khó khác, họa vô đơn chí là thế.
Đêm năm canh, ngày sáu khắc. Tạo Hóa đặt để sự liên đới giữa muôn vật trong thời gian và không gian. Đêm về mọi loài súc vật đồng hoang bắt đầu ra đi tìm kiếm của ăn. Khi ánh bình minh ló dạng, mọi loài thú vật rừng xanh lui vào hang hốc tìm nơi náu ẩn. Con người bắt đầu một ngày mới lo lao động kiếm sống. Trái đất vòng xoay đêm qua ngày tới, giúp mọi loài thụ tạo sinh sống hài hòa. Con người cũng tựa dựa vào khoảnh khắc thời gian để tập tành, lập công và đối nhân xử thế: Nếu ngươi nhận áo xống của người láng giềng cầm cố, ngươi hãy trả lại cho kẻ ấy trước khi mặt trời lặn (Xh 22, 25). Mặt trời lên hay mặt trời lặn là cách diễn tả bình dân của ngôn ngữ loài người. Với lý trí khôn ngoan hiểu biết, con người căn cứ vào sự di chuyển vòng xoay của mặt trời, mặt trăng và thời tiết để ấn định cuốn lịch tính đếm ngày giờ năm tháng. Dùng thời gian đo lường để con người tạo những hiệp định, giao kèo, khế ước, qui ước, hòa ước, giao ước hay thỏa thuận trao đổi của cải với nhau.
Ngày xưa, ngay trong những cộng đồng nho nhỏ đã có sự tín nhiệm nhau qua việc cầm cố và trao đổi để sinh lợi. Xã hội văn minh ngày nay, có rất nhiều nhìn thức kinh doanh kiếm lời qua việc cầm cố mượn nợ. Các chủ ngân hàng dùng việc vay mượn nợ hoặc cầm cố để kiếm lợi nhuận qua việc trả góp dần. Có thể trả nợ hàng tháng (mortgage) nhà cửa, xe cộ, tài sản hay trả nợ thẻ tín dụng. Còn có nhiều tiệm cầm đồ (Pawn hay pledge), nhận tiền thế chân trong một thời gian. Mọi thứ từ thượng vàng hạ cám, đều có thể mang đến tiệm cầm đồ để cầm cố kiếm tiền xài trước. Sự trao đổi hợp lệ có giấy chứng nhận và điều kiện trao trả đúng ngày tháng. Nếu quá thời gian qui định, chủ nhân món hàng có thể sẽ không nhận lại được món đồ đã đưa cầm cố. Ngoài ra, trong xóm làng, còn có kiểu mướn nóng (mượn nóng), người mượn phải chịu trả tiền lời cao hơn, có khi 20-30%. Đây là một cách cho vay nặng lãi kiếm lời dễ dàng của người đời. Là Kitô hữu, trong việc cầm cố, chúng ta cần đối xử với nhau khoan dung hơn, cần có sự công bằng và bác ái nữa.
Tạo Hóa yêu thương tất cả mọi loài thụ tạo, nhưng mức độ và cách diễn tả rất khác biệt. Qua việc nghiên cứu của khoa học, chúng ta có thể nhận biết phần nào sự bày tỏ tình cảm của các loài vật thấp kém tùy theo cấp bậc. Con người cao vượt trên mọi loài thụ tạo, bởi vì con người được tạo dựng do tình yêu và cho tình yêu. Vì có lý trí, tự do và tình cảm, nên con người có thể chọn lựa đối tượng yêu và thể hiện tình yêu một cách đặc thù. Bài phúc âm hôm nay, những người thông luật hỏi thử Chúa Giêsu: Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất (Mt 22, 36). Đã gọi là nhà thông luật thì đương nhiên họ phải hiểu được luật nào là trọng. Biết luật, hiểu luật và giữ luật mới là bước đầu, nhưng sống ý nghĩa thật của luật mới là điều quan trọng. Lề luật giúp người ta sống đạo với cái tâm chính thật. Luật lệ như cái khung, khuôn mẫu và dẫn đưa chúng ta vào đời sống tình yêu nội tâm. Chúa Giêsu muốn mọi người đi vào căn cốt của giới luật.
Trả lời câu hỏi của các nhà thông luật: Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: Người hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, hết lòng hết linh hồn và hết trí khôn ngươi (Mt 22, 37). Yêu mến Thiên Chúa toàn vẹn. Thiên Chúa là tình yêu tuyệt đối. Chúng ta tự vấn phải yêu mến Thiên Chúa thế nào khi chúng ta không thể hình dung, vì Thiên Chúa vô hình. Nhiều khi chúng ta chỉ mạnh miệng tuyên xưng và bày tỏ tình yêu qua ngôn ngữ và sự diễn tả bề ngoài, mà tấm lòng thì rỗng tuếch. Chúng ta có thực sự yêu mến Thiên Chúa không? Nhớ câu tuyện khi người ta bắt bẻ Chúa về việc giữ truyền thống rửa tay trước khi ăn, Chúa đã trả lời: Ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết: Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta (Mk 7, 6).
Yêu mến Thiên Chúa phải đi đôi với sự yêu mến tha nhân. Chúa Giêsu liên kết hai giới răn với nhau: Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Người hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi (Mt 22, 39). Yêu thương kẻ khác thật sự không dễ chút nào. Là con người, tuy rằng chúng ta cùng chủng loại. Nhưng chúng ta có quá nhiều sự khác biệt giữa nhau. Sự khác biệt về dòng giống, chủng tộc, tôn giáo, ngôn ngữ, mầu da, văn hóa, ý thức hệ … Làm sao chúng ta có thể nói yêu thương những người chúng ta chưa bao giờ gặp, không biết thân phận gia cảnh của họ và yêu cả những kẻ thù địch? Yêu thương kẻ khác như chính mình là một thách đố về đức ái vô giới hạn. Chúng ta phải cố gắng tiến tới không ngừng. Tình yêu tha nhân như bơi lội trong biển tình, chúng ta chẳng bao giờ yêu cho thỏa và không bao giờ có thể đáp ứng tròn đầy. Chúng ta thể hiện tình yêu tha nhân bằng tình yêu của Chúa Kitô là luôn tôn trọng, chia sẻ, từ bi, khoan dung, tha thứ cho những người chúng ta gặp gỡ và ước muốn điều lành cho hết mọi người.
Nhà truyền giáo sống tại New Guinea kể câu truyện. Một ông già mới tòng giáo, thường mỗi ngày đến bệnh viện để đọc phúc âm cho các bệnh nhân nghe. Vào một ngày kia, ông không thể đọc được nữa. Bác sĩ đã khám mắt và khám phá ra rằng tình trạng mắt của ông rất tồi tệ và rất có thể sẽ bị mù trong vòng một hay hai năm. Sau đó, trong một thời gian, ông biệt tăm không đến bệnh viện nữa. Không ai biết được điều gì đã xảy ra cho ông. May mắn, một người trẻ đã tìm thấy ông và đưa bác sĩ tới gặp ông. Ông già giải thích cho bác sĩ là ông đang bận rộn để học thuộc bản Kinh Thánh trong khi ông còn nhìn thấy. Ông nói: Để sớm khi tôi trở lại bệnh viện, tôi sẽ tiếp tục công việc của tôi là đọc phúc âm cho các bệnh nhân. Ông đã hiến tặng cái mà Chúa đã ban cho ông.
Yêu thương là cho đi. Yêu thương là chia sẻ. Ai cũng có trái tim yêu thương. Ai cũng có thể cho. Trái tim là biểu tượng của tình yêu. Càng yêu thì trái tim càng rộng mở. Trái tim yêu thương sẽ không có giới hạn. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta có một khả năng yêu thương. Yêu thương là chu toàn lề luật. Muốn sự lành và sự tốt cho người khác. Giúp họ tìm về đường ngay nẻo chính. Thánh Phaolô đã cố công lôi kéo nhiều người đến phụng thờ Thiên Chúa: Vì người ta thuật lại việc chúng tôi đã đến với anh em thế nào và anh em đã bỏ tà thần trở về với Thiên Chúa, làm sai để phụng thờ Thiên Chúa hằng sống và chân thật (1Thess 1, 9). Phaolô đã cho đi cả cuộc đời để phục vụ Chúa và tha nhân.
Lạy Chúa, Chúa là tình yêu. Thánh Augustinô dạy: Yêu đi, rồi làm. Xin cho chúng con được thấm nhuần tình yêu của Chúa để chúng con ra đi làm nhân chứng cho tình yêu. Yêu Chúa và yêu tha nhân như chính mình.
25. Giới răn yêu thương
Tuần báo Newsweek số ra ngày 10/8/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ tại Nhật, đó là "Sư máy". Vị sư máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực thụ: đầu cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp trên gương mặt cử động theo nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi đưa lên, một tay thì gõ mõ. Mỗi vị sư máy có thể cầu kinh không biết mỏi mệt, và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của mười giáo phái Phật giáo khác nhau tại Nhật. Sáng kiến này được đưa ra nhằm đáp ứng cho nhu cầu ơn gọi sư sãi ngày càng khan hiếm trong các Giáo hội Phật giáo tại Nhật. Tuy nhiên, như tác giả bài báo ghi nhận: những cái máy làm được mọi sự, duy chỉ một điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương.
Yêu thương là đặc điểm của con người. Thú vật có thể có cảm giác, nhưng đó không hẳn là yêu thương. Chỉ có con người được tạo dựng theo và giống hình ảnh Thiên Chúa tình yêu mới thực sự được mời gọi yêu thương mà thôi.
Tin Mừng hôm nay nhắc lại cho chúng ta ơn gọi cao cả của con người. Trả lời cho thắc mắc của luật sĩ, Chúa Giêsu đã thu tóm tất cả lề luật thành một giới răn duy nhất là mến Chúa và yêu người. Hai mệnh lệnh này là một giới răn duy nhất, bởi vì không thể kính mến Chúa mà lại ghét bỏ hình ảnh của Ngài là con người, cũng như không thể yêu thương con người mà lại không nhận ra và yêu mến Thiên Chúa là nguồn mạch tình yêu chân thật. Tách biệt hai mệnh lệnh ấy là chối bỏ tình yêu. Các luật sĩ và các biệt phái thời Chúa Giêsu quả là những người đạo đức: họ ăn chay, cầu nguyện và tỏ ra yêu mến Thiên Chúa hơn ai hết; thế nhưng Chúa Giêsu đã điểm mặt họ là những kẻ giả hình, bởi vì lòng yêu mến Chúa nơi họ không được thể hiện bằng tình yêu đối với tha nhân. Chúa Giêsu còn gọi họ là những mồ mả tô vôi, bên ngoài thì bóng loáng, nhưng bên trong thì thối rữa. Có thể so sánh thái độ giả hình ấy với một người máy: người máy có thể làm được nhiều cử chỉ ngoạn mục, nhưng không có một tâm hồn để yêu thương thực sự.
Yêu thương là kiện toàn lề luật; yêu thương là cốt lõi, là linh hồn của Đạo. Đi Đạo, sống Đạo, giữ Đạo, xét cho cùng chính là yêu thương; không yêu thương thì con người chỉ còn là một thứ người máy vô hồn. Thánh Gioan Tông đồ, người đã suốt đời sống và suy tư về tình yêu, vào cuối đời, ngài đã tóm gọn tất cả thành một công thức: "Thiên Chúa là Tình Yêu", và ngài dẫn giải: "Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em thì đó là kẻ nói dối, bởi vì kẻ không yêu thương người anh em nó thấy trước mắt, tất không thể yêu mến Đấng nó không thấy".
Nguyện xin cho cuộc sống của chúng ta ngày càng được thanh luyện và gần gũi hơn với cốt lõi của Đạo là Yêu Thương.
26. Phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Lại một bẫy khác do con người đặt ra để thử lòng Thiên Chúa. Thay vì một nhóm người như trước, họ chọn ra một đại diện cho cả nhóm. Vì muốn thử thách Chúa, họ chọn một vị thông luật, đã là thông luật nên chắc ông này phải thuộc nằm lòng 613 điều luật ghi trong sách Luật Do thái, trong đó 365 điều luật cấm và 248 điều luật truyền làm, chưa kẻ các điều luật phụ nữa. Ông cũng biết các điều trên được chia thành hai vế trọng luật và khinh luật. Phạm khinh luật thì chịu phạt đền tội, nhưng phạm trọng luật như giết người, thờ tà thần, gian dâm... thì bị tử hình. Vì là viên thông luật, hiển nhiên ông biết rõ mỗi nhóm thích giữ một điều luật và cho rằng điều ấy đối với họ là quan trọng hơn cả, có thể Chúa Giêsu đưa ra điều này trọng đối với nhóm này nhưng lại thường đối với nhóm kia, đó là lý do ông đặt ra câu hỏi với Chúa Giêsu hòng nắm chắc phần thắng về mình: “Thưa Thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất”?
Hai Điều răn
Thật không dễ để trả lời. Nếu Chúa trả lời điều luật này trọng, điều luật kia không trọng thì thế nào Người cũng bị qui lỗi là về phe nhóm này, chống nhóm kia, và như vậy Người sẽ mắc bãy của họ.
Chúa Giêsu là Thiên Chúa thấu hiểu lòng người, nhưng Chúa vẫn trả lời. Chúng ta cũng cám ơn vị thông luật này đã hỏi thử Chúa để chúng ta co được chỉ dẫn rõ ràng, xác thực về thứ tự các giới răn.
Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi" (Mt 22, 37). Câu luật này trích trong sách Đệ nhị luật 6,5 có đổi một chút, thay vì “hết sức” thì Chúa nói là “hết trí khôn”. Song cốt yếu không có gì đổi.
Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: "Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi" (Mt 22, 39). Luật này trích ở sách Lêvi 19,18 có khác ở chỗ thay vì yêu kẻ khác thì yêu đồng loại: "Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình".
Ba đối tượng yêu thương
Chúa Giêsu kết luận: "Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó" (Mt 22, 38). Điều răn thì có: thứ nhất mến Chúa, thứ hai yêu người, nhưng gồm ba đối tượng yêu thương: Thiên Chúa, kẻ khác và bản thân.
Đối tượng thứ nhất là Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn trọng nhất và điều răn thứ nhất" (Mt 22, 37-38).
Thiên Chúa không đòi hỏi chúng ta nhiều điều, bởi "yêu mến là chu toàn cả Lề luật" (Rm 13, 10). Nhưng tình yêu có hai vế: Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương kẻ khác... Khi dạy chúng ta yêu mến Thiên Chúa, Chúa đòi hỏi chúng ta phải yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Còn yêu thương kẻ khác, Chúa Giêsu không bảo ta phải yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn; nhưng "yêu kẻ khác như chính mình. Tại sao vậy? Vì Thiên Chúa "là dũng lực, là Đá Tảng, chiến luỹ, cứu tinh, là sơn động, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù chúng ta" (x. Tv 17, 2-3), nên chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa không những hết… mà còn trên hết mọi sự, hơn cả chính mình, vì theo lời Chúa Giêsu thì: "Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất" (Mt 22, 38).
Đối tượng thứ hai là "kẻ khác" Chúa phán: "Giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi" (Mt 22, 39).
Theo quan niệm của Người Do thái lúc bấy giờ thì "tha nhân" là những người đồng chủng, đồng hương, đồng xứ (x. Lv 19, 18). Còn “kẻ khác” được hiểu là hết mọi người, (x. Mt 25, 40). Khi Chúa Giêsu bảo người thông luật "hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi", Người có ý dạy phải thương yêu mọi người chứ không giới hạn trong những người đồng hương với nhau (Mt 25, 40), không những thế mà lại còn phải yêu thương cả địch thù nữa (Mt 5, 43), và yêu như thế nào? "Yêu như chính mình ngươi".
Chúa có truyền dạy chúng ta yêu chính mình không? Thưa: Thiên Chúa xét thấy không cần buộc con người phải yêu chính mình, vì không ai ghét mình bao giờ. Nhưng cũng có nhiều người tự đánh mất mình khi yêu mến sự ác.. Chúa dạy chúng ta yêu mến Thiên Chúa hết lòng, Người truyền cho chúng ta giới luật phải yêu chính mình. Chắc chắn ai trong chúng ta cũng muốn yêu mình. Thiên Chúa là Tình Yêu, chúng ta là kẻ có tình yêu. Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Thiên Chúa đã dành cho chúng ta một tình yêu khác với chúng ta nghĩ. Tình yêu ấy nuôi dưỡng và củng cố các mối quan hệ của tình yêu chúng ta dành cho bản thân và kẻ khác. Trong thực tế, chúng ta phải yêu bản thân mình trong tình yêu Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, và chúng ta có thể bước vào trong tình yêu. Vậy, hãy yêu mến Thiên Chúa hết mình, thì trong Thiên Chúa chúng ta sẽ tìm được chính mình, và tránh được nguy cơ tự đánh mất mình… Nên, theo nguyên tắc, ta yêu kẻ khác như chính mình, yêu Thiên Chúa hết mình và yêu chính mình.
Yêu kẻ khác như chính mình
Khi truyền dạy "Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình", Chúa Giêsu như đặt một tấm gương để tự chúng ta soi xem mình có yêu "kẻ khác" hay không? Chúa Giêsu xem tình yêu " kẻ khác " như "mệnh lệnh của Người," mệnh lệnh tóm tắt toàn thể lề luật. "Đây là mệnh lệnh của Thầy, là anh em hãy yêu nhau như Thầy đã yêu anh em" (Ga 15, 12). Nhiều người có khi đồng hóa toàn thể Kitô giáo với luật yêu người.
Chúng ta cố gắng đi xa hơn một chút bề mặt của nsự việc. Khi nói về tình yêu kẻ khác, người ta nghĩ ngay tới những "việc làm" như bác ái, hay "phải làm" cho kẻ khác như: cho họ ăn, uống, thăm viếng họ, nói tóm tắt là giúp đỡ kẻ khác. Nhưng đó là hậu quả của tình yêu, chứ chưa phải là tình yêu. Lòng từ tâm tới trước sự làm phúc. Trước khi làm phúc, người ta phải muốn làm phúc.
Thánh Phaolô nói rõ: Đức bác ái phải là "không giả vờ," tức là, phải chân thật, nghĩa đen, "không giả hình," (Rm 12, 9); người ta phải yêu "với một con tim trong sạch" (1 Pr 1, 22). Trên thực tế, người ta có thể làm việc bác ái và bố thí vì nhiều lý do không dính dáp gì với tình yêu: tô điểm chính mình, để ra vẻ là một người làm điều thiện, được lên thiên đàng, và có khi để trấn an một lương tâm xấu.
"Như chính mình" Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh người được yêu đồng hóa với người yêu, vì vậy, phải yêu thương kẻ khác bằng chính tình yêu đối với bản thân, nhưng tiên vàn phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Amen.
27. Con người hay Robot? – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Trong bài luận văn về bệnh vô cảm của em Phan Hoàng Yến, học sinh lớp 9A2 trường trung học Chu Văn An, Hà Nội, đã gây ấn tượng mạnh trong xã hội hôm nay. Bài văn được cô giáo cho 9,5 điểm với nhận xét: "Em có những phát hiện và suy nghĩ sâu sắc về hiện tượng đáng buồn này. Một người có trái tim nhân hậu, đa cảm và tư duy sắc sảo như em thật đáng quý."
Bài văn được viết như sau: “Có được một xã hội văn minh, hiện đại ngày nay một phần lớn cũng là do những phát minh vĩ đại của con người. Một trong số đó chính là sự sáng chế ra rô-bốt, và càng ngày, rô-bốt càng được cải tiến cao hơn, tỉ mỉ hơn làm sao cho thật giống con người để giúp con người được nhiều hơn trong các công việc khó nhọc, bộn bề của cuộc sống.Chỉ lạ một điều: Đó là trong khi các nhà khoa học đang "vò đầu bứt tóc" không biết làm sao có thể tạo ra một con chip "tình cảm" để khiến "những cỗ máy vô tình" biết yêu, biết ghét, biết thương, biết giận thì dường như con người lại đi ngược lại, càng ngày càng vô tình, thờ ơ với mọi sự xung quanh. Đó chính là căn bệnh nan y đang hoành hành rộng lớn không những chỉ dừng lại ở một cá nhân mà đang len lỏi vào mọi tầng lớp xã hội - bệnh vô cảm.Nhìn thấy cái xấu, cái ác mà không thấy bất bình, không căm tức, không phẫn nộ. Nhìn thấy cái đẹp mà không ngưỡng mộ, không say mê, không thích thú. Thấy cảnh tượng bi thương lại thờ ơ, không động lòng chua xót, không rung động tâm can. Vậy đó còn là con người không hay chỉ là cái xác khô của một cỗ máy?
Một tháng trước, tôi đọc được một bài báo trên mạng có đưa tin về vụ một đứa bé Trung Quốc hai tuổi bị xe tải cán.
Thương xót, đau lòng làm sao khi nhìn cô bé đau đớn nằm trên vũng máu mà không một người nào qua đường để ý, cuống cuồng gọi cấp cứu. Họ nhìn thấy rồi đấy nhưng họ lại cố tình như không thấy, đi vòng qua cô bé để tiếp tục con đường nhạt thếch, sáo mòn của mình. Càng chua xót, đau lòng, phẫn nộ hơn khi chiếc xe tải tiếp theo nhìn thấy cô bé nằm đó, vẫn thoi thóp thở, bám víu lấy cuộc đời lại vô tình chẹt cả bốn bánh xe nặng trịch đi qua người cô bé, thản nhiên đi tiếp. Người qua đường vẫn thế, vẫn bình thản như không có chuyện gì xảy ra.
Cô bé xấu số chỉ được cấp cứu khi một người phụ nữ nhặt rác đi qua, thấy cảm thông, đau lòng nên đã bế cô đi bệnh viện. Có những con người ích kỷ, vô tâm, tàn nhẫn như vậy đấy! Không những thế, bây giờ ra đường gặp người bị cướp, bị trấn lột, bị đuổi chém nhưng lại không thấy anh hùng nào ra can ngăn, cứu giúp hay chỉ một việc nhỏ nhoi thôi là báo công an. Đó là những con người "không dại gì" và cũng chính "nhờ" những người "không dại gì" đó mà xã hội ngày càng ác độc, hỗn loạn. Chính lẽ đó mà căn bệnh vô cảm càng được thể truyền nhiễm, lây lan.
Quả thực, nếu con người sống không có tình yêu thì cũng chỉ là một Robot cô độc lạnh lùng mà thôi. Nhân loại ngày nay có thể sáng chế ra Robot để làm thay con người nhưng đáng tiếc Robot thì không có tình yêu, vì nó chỉ là cái máy không hồn. Phải chăng nó cũng là phản ảnh lối sống vô cảm không hồn của con người thời đại hôm nay? Có mọi sự nhưng thiếu tình yêu.
Robot ngày nay có thể đọc kinh, hát thánh ca nhưng không có tình yêu trong hành động của mình.
Robot ngày nay có thể đi chợ, quét nhà, ru em nhưng vô cảm với công việc của mình.
Nói đúng hơn, Robot có thể nói, có thể làm nhưng vô hồn, vô cảm, lạnh lùng vì thiếu tình yêu.
Đạo Công Giáo đặt nền tảng trên tình yêu. Yêu Chúa, yêu người. Yêu Chúa không dừng lại ở việc máy móc đi lễ hay đọc kinh nhàn chán mà phải đặt tình yêu của mình vào hành vi thờ phượng Chúa hết lòng. Yêu người không dừng lại ở đầu môi chóp lưỡi mà phải biết chạnh lòng xót thương trước những đau thương mà anh chị em mình đang trải qua.
Như thế tình yêu là lẽ sống, là vẻ đẹp của đời ky-tô hữu. Không có tình yêu thì mọi hành vi thờ phượng của người tín hữu chỉ là Robot. Không có tình yêu thì người ky-tô không thể sống chứng nhân cho tình yêu của Chúa giữa dòng đời. Cuộc đời cần tình yêu như trái đất cần mặt trời để tạo nên vẻ đẹp của vạn vật muôn màu. Cuộc đời thiếu tình yêu như đêm tối lạnh lùng cô liêu. Cách đây mấy hôm tôi đi thăm một trại tâm thần. Tôi nghe thấy họ đang đọc kinh. Họ hát. Họ đứng yên lặng cả gần 200 con người mặc dù họ bị bệnh tâm thần. Tôi ngạc nhiên sao họ lại thuộc kinh đến thế! Nhưng nhìn kỹ tôi thấy họ vô hồn. Họ đứng đó môi mấp máy chỉ ú ớ theo lời kinh của máy ghi âm phát ra mà thôi!
Lời Chúa hôm nay nhấn mạnh với chúng ta phải mến Chúa trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình. Mến Chúa trên hết mọi sự là đặt việc thờ phượng Chúa và thi hành ý Chúa trên mọi giá trị của cuộc sống. Yêu tha nhân như chính mình là “nếu mình muốn người khác làm cho mình điều gì thì hãy làm cho họ như vậy”. Đây là hai mệnh đề trong một giới răn yêu thương mà Chúa đòi buộc chúng ta phải thi hành. Vì khi tạo dựng Chúa đã không tạo dựng chúng ta thành những Robot mà tạo dựng chúng ta có trái tim, có tự do để thăng tiến về hành vi yêu thương.
Xin cho chúng ta biết thăng tiến bản thân khi biết nồng vào những công việc của mình bằng tình yêu nồng nàn. Một tình yêu với Chúa nồng nàn để có thể kính mến Chúa trên hết mọi sự. Một tình yêu với tha nhân thẳm sâu để có thể chia sẻ, cảm thông với nhau trong mọi vui buồn. Amen.
28. Điều răn trọng nhất - Huệ Minh
Kính thưa cộng đoàn,
Lại một cái bẫy khác, do con người đặt ra để thử lòng Thiên Chúa. Thay vì đưa ra một nhóm người như những lần trước, thì lần này họ đưa ra một người đại diện trong nhóm thôi!
Vì muốn thử thách Chúa, họ đã đưa ra một người biết lề luật, và phải nói rằng người này là luật sĩ. Ông rất là thông luật.
Ông này thuộc lòng 613 luật phải ghi trong luật Do Thái. Và trong đó có 365 điều cấm, 248 điều luật truyền làm, chưa tính những cái luật phụ. Ông biết những cái luật này chia làm 2 vế trong Luật: về việc trọng luật và khinh luật.
Phạm khinh luật thì chịu phạt đền tội nhưng phạm trọng luật như: giết người, thờ Tà Thần, gian dâm thì bị tử hình. Bởi vì là người thông luật nên hiển nhiên rằng, ông biết rằng mỗi nhóm có giữ một điều luật và cho rằng điều ấy là quan trọng của họ. Và nếu mà Chúa Giêsu đưa ra cho mình cái luật nào hơn cái luật nhóm kia, thì Chúa Giêsu kẹt.
Và họ chất vấn rằng: Thưa thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất? Thì, chúng ta thấy họ gài bẫy. Chúa Giêsu đáp với người ta rằng: “Yêu mến Thiên Chúa hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức ngươi” nhưng mà, chúng ta thấy cái điều mới mẻ nhất đó là, Chúa nối kết một câu trích khác ở sách Lêvi 19, 18 dạy rằng: “Ngươi sẽ không báo oán, không cưu thù với con cái dân ngươi. Ngươi hãy yêu mến đồng loại ngươi như chính mình”
Trước Chúa Giêsu chúng ta thấy chưa ai đặc ngang hàng giữa luật yêu mến và đến Ngài Ngài đã hợp nhất thành luật mới đó là đặc điểm của Tin Mừng! Hơn nữa Chúa Giêsu còn tuyên bố rằng: Tất cả luật Môsê và sách ngôn sứ đều thuộc về hai điều này. Có nghĩa là hai điều răn này đã diễn tả trọn vẹn thánh ý của Thiên Chúa, và do đó hai điều răn này chứa đựng tất cả mọi điều răn khác. Hay là nói cách khác tất cả các điều răn khác quy về hai điều răn này! và rồi chúng ta thấy sau này Chúa Giêsu đi thêm một bước nữa khi mà Chúa Giêsu dạy người ta phải yêu mến Chúa và yêu thương an hem như Người đã yêu thương chúng ta. Chúng ta yêu mến Chúa và yêu người với chính tình yêu của Người, một tình yêu chấp nhận từ Chúa Cha và cái tình yêu đó thúc đẩy người ta đến độ, hiến thân mình hy sinh mạng sống mình, vì người mình yêu.
Hiến chế về mục vụ Giáo Hội Công giáo trên thế giới ngày hôm nay, chúng ta thấy có vài đoạn nói về hiện tượng vô thần.
Ngày hôm nay Giáo Hội lưu ý chúng ta, về một số trào lưu là nhân bản vô thần. Nghĩa là người ta nhân danh con người để khước từ Thiên Chúa.
Những người đó lý luận rằng: niềm tin vào Thiên Chúa và đời sống mai sau, hạnh phúc mai sau. Để rồi, người ta quên lãng cái cuộc sống trần thế, làm cho người ta vô cảm với người khác. Không có giúp đỡ người khác, và họ sống theo cái kiểu chờ thời, chờ lên thiên đàng.
Và rồi vì nhân danh lòng yêu mến con người mà họ đã khước từ Thiên Chúa, thì những người này thì lý luận cái cơ sở rằng là: nhân danh con người.
Bởi vì chính vì con người mà họ khước từ Thiên Chúa, là điều này không có, bởi vì trong lịch sử Thánh Kinh và trong đời sống Giáo Hội người ta nhấn lòng yêu mến Thiên Chúa mà quên đi tình thương với con người.
Chúa Giêsu đi rất sát với câu chuyện Tin Mừng ngày hôm nay. Những người đạo đức, những người thầy thông luật thì họ cái lời Kinh Sêma, cái lời Kinh Sêma là như thế này mà chúng ta nghe rất quen:
Hỡi Iraen! hãy nghe đây! Thiên Chúa, Chúa chúng ta là Thiên Chúa duy nhất và các ngươi phải yêu Thiên Chúa hết lòng, hết sức ngươi.
Và rồi chúng ta rất là buồn cười, những người đạo đức họ viết cái điều luật này vào trong tờ giấy và cho vào hộp, dán trên trán để khỏi quên.
Dán trên trán thì làm sao mà quên được, lúc nào cũng nhớ cả. Và chúng ta nhớ lại Cựu Ước đã có nhiều lần nói về Luật Yêu Thương:
“Ngươi không được trả thù, ngươi không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình.” (Lv 19, 18).
Nhấn mạnh đến việc mà yêu Chúa, yêu người hết lòng, hết trí khôn! Thì chúng ta lại thấy, thực tế về con người, nó rất là buồn cười: Con người, người ta mâu thuẫn khi mà Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabát thì họ phản đối và họ cắt nghĩa rằng là nếu con lừa rơi xuống hố thì họ có quyền kéo lên và nếu là con người thì không được!
Con người xét cho bằng cùng thì con người không bằng con lừa.
Và chúng ta thấy nhìn thấy cái mâu thuẫn đó để rồi cái dụ ngôn Samaria rất là thực tế.
Thầy tư tế, thầy Lêvi đi lên đền thờ, thấy có một người nằm sóng soài ở dưới đất, bị bỏ rơi chẳng ai coi sóc cả, bởi vì người ta đi lên đền thờ, người ta không muốn vấy vào người đó để bẩn tay. Và rồi người ta đã quên đi cái lòng thương xót, và người ta không nhìn tới những cái con người đau khổ. Họ cứ nghĩ rằng là họ đi lễ, đi đọc kinh, đi cầu nguyện làm tốt, nhưng rồi trong lời ăn tiếng nói, trong các cách hành xử của họ lại thiếu bác ái.
Người ta nhân danh Thiên Chúa để quên đi Thiên Chúa ngày hôm nay, mà người ta nhân danh con người. để rồi Cái thái cực mà nhân danh Thiên Chúa đó, để có thể quên đi Thiên Chúa.Và ngày hôm nay, nhân danh con người, người ta gạt Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của con người. Điều này rất là tinh tế, đã xuất hiện bằng nhiều cách khác nhau.
Liên quan trong cái đời sống thờ phượng, chúng ta có nghe rồi. Có những người lý luận rằng: cần gì đi nhà thờ Đọc kinh cầu nguyện làm gì? miễn là bác ái thôi!
Lý luận này xem ra cũng hay đó. Nhân danh lòng yêu mến mà con người đã gạt Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời mình. Thế nhưng mà rồi tinh tế hơn nữa, đó là: đời sống và luân lý đạo đức. Người ta nhân danh con người để loại trừ Thiên Chúa ra khỏi đời mình.
Ví dụ như: Một chàng trai mà lỡ cho cô gái con người ta có thai thì, biện pháp tốt nhất mà người ta dùng đó là đi phá thai thôi! Trong vòng mấy phút đồng hồ và tốn tiền thì coi như xong! Khỏi có áy náy, xã hội không còn lên án nữa! Và lúc đó cảm thấy là thương cô gái đó đó!
Nhưng mà, khi mà người ta làm như thế người ta nhân danh con người, người ta hủy hoại Thiên Chúa hủy hoại cuộc sống. Sự sống, mà mầm sống mà Thiên Chúa ban cho con người. Người ta loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời người ta, bởi vì chính Thiên Chúa mới là chủ cuộc đời của người ta thật.
Rồi ngày hôm nay ở Việt Nam thì chưa có, chứ ở nước ngoài thì người ta chủ trương “chết êm dịu”:
- Già rồi, gần chết rồi! chích một mũi thuốc đi “chết êm dịu”.
Mà rồi, Giáo Hội không chấp nhận điều đó. Nhưng khi người ta thấy Giáo Hội làm điều đó, người ta cho Giáo Hội là gian ác, Giáo Hội quay lưng với con người.
Rất tinh tế, người ta nhân danh con người, để loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của mình. Người ta mâu thuẫn, mà thật sự rằng, nếu mà thật sự như thế! thì rằng, người ta có yêu mến con người hay không?
Sau khi giúp một cô phá thai, người ta có xóa đi vết thương lòng của cô đó hay không? Hay cái nỗi dằn vặt “giết người con” của cô đó, đi theo cô đến chết! Có thật sự rằng, mình yêu mến cô ta thật sự! Hay mình hủy diệt cô ta cùng với đứa con của cô ta, đó là cái điều chất vấn chúng ta.
Trang Tin Mừng ngày hôm nay xem ra quen thuộc, và rất mới và rất gần với đời sống của chúng ta. Cái nét độc đáo của Chúa Giêsu là đã kết nối hai cái giới răn này thành một, và nếu như tách ra hai giới răn này thì không có gì mới nói cả!
Cựu Ứớc thì đã nói về yêu mến rồi, yêu con người thì không cần! Nhưng mà chúng ta thấy đó về phần mà tôn giáo thì người Việt Nam chúng ta vẫn thường nói là gì: “Yêu người, như thể thương thân”.
Cái nét mới của Chúa Giêsu là nối kết, nối kết cái ý thức đó chứ không có tách lìa.
Còn nói về yêu thương con người thì chả cần gì về Công giáo cả! Có khác nào là Chúa Giêsu. Cái nét mới của Chúa Giêsu là nối kết, giúp cho con người ta không gạt bỏ Thiên Chúa và cũng không gạt bỏ con người bên ngoài. Cái mới nằm ở chỗ đó đó!
Những cái lối sống thiếu bác ái, thiếu yêu thương, thì không thể nào nói rằng mình mến Chúa được! Và ngược lại nếu mình yêu Chúa thì mình cũng phải bác ái, yêu thương thôi!
Như Thánh Gioan tông đồ nói: - Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Chúa, mà lại ghét anh em mình là nói dối; vì ai không yêu thương anh em mình người mà họ trông thấy, mà họ yêu mến người không trông thấy đó là Thiên Chúa. (1 Ga 4:20).
Điều răn mà ta nhận ra từ ngài: “Ai yêu Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em”. (1 Ga 4:21)
Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta, đó là một người Cha yêu thương con cái, ngay khi mà đứa con đó còn ngỗ nghịch. Đồng thời Ngài mời gọi chúng ta nên trọn lành như Cha chúng ta trên trời. Nghĩa là yêu thương mọi người không trừ người nào.
Đó là giáo huấn của Chúa Giêsu, Ngài đến để nói với con người rằng: Thiên Chúa yêu thương và con người cũng hãy yêu thương nhau!
Chúng ta nhớ đến hình ảnh của thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu, khi đó Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu được giao phó trông coi một chị nữ tu lớn tuổi. Chị này nổi tiếng là khó tính trong nhà dòng. Đến giờ ăn, Têrêxa phải dìu chị xuống nhà ăn. Một cái thiếu sót nhỏ cũng đủ cho Têrêxa bị trách móc. Chị ấy bực bội không bằng lòng, nhưng Têrêsa thì ngược lại vẫn tỏ ra thái độ vui tươi và hồn nhiên và chịu đựng tất cả, vì đơn giản Thánh nữ Têrêsa yêu mến Chúa, vì tình yêu Chúa, thánh nữ yêu mến cả cái nữ tu đáng thương này.
Tình yêu đối với Thiên Chúa được tỏ ra bên ngoài là tình yêu đối với tha nhân. Chúng ta không chỉ chứng tỏ tình yêu đối với tha nhân, không chỉ bằng lời nói nhưng bằng hành động: sự nhẫn nhịn, sự thứ tha và cảm thông.
Khi mà Chúa Giêsu truyền dạy ngươi hãy yêu thương người khác như chính mình. Chúa Giêsu như đặt một tấm gương soi, chúng ta có yêu kẻ khác hay không? Chúa Giêsu xem tình yêu của kẻ khác trên mệnh lệnh của Người. Mệnh lệnh ấy tóm tắt về lề luật. Đây là giới răn của thầy: “Anh em hãy yêu nhau như thầy đã yêu thương anh em”.
Nhiều người có khi đồng hóa Kitô giáo với luật Yêu Người. Chúng ta cố gắng đi xa hơn một chút nữa, khi nói về tình yêu người khác, thì người ta nghĩ ngay tới việc làm như: bác ái phải làm cho kẻ khác. Cho kẻ đói ăn, kẻ khát uống, đi thăm viếng...nói tóm lại là giúp đỡ kẻ khác. Nhưng đó là hậu quả của tình yêu chứ chưa phải là yêu. Lòng từ tâm tới trước cái việc làm phúc. Trước khi làm phúc người ta phải muốn là một phúc.
Thánh Phaolô nói rõ với chúng ta: “Đức Bác ái không giả vờ.” Tức là phải chân thật, nghĩa đen là không giả hình. Người ta phải yêu thương với một con tim trong sạch.
Trên thực tế, ta có thể làm việc bác ái và bố thí nhiều, lý do không dính dáng gì tới tình yêu, bởi vì họ đã tô điểm chính mình, bởi vì họ làm cái vẻ đẹp, điều thiện, để được lên thiên đàng. Và có thể là để trấn an một cái lương tâm xấu, bởi vì họ đã không yêu thương thật lòng, như chính mình.
Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh người được yêu đồng hóa với người yêu. Và vì vậy: Hãy yêu thương kẻ khác bằng chính tình yêu của chính bản thân, nhưng tiên vàn phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự.
Ước gì mỗi người chúng ta, nhờ ơn của Chúa Thánh Thần. Sau khi thánh lễ này về, chúng ta sống với ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta ngày mỗi ngày: yêu Thiên Chúa, cũng như yêu mến anh chị em đồng loại; mà đặc biệt không phải chỉ trên môi, trên miệng, mà bằng trên hành động, trên việc làm của mỗi người chúng ta. Amen.
29. Suy niệm của Lm. Joshepus Quang
TRỌN TÌNH VỚI CHÚA VÀ VẸN NGHĨA VỚI NHAU
Là người lương dân hay Công giáo, ai cũng thuộc nhạc phẩm này: “Tình người ngoại đạo” của tác giả Phượng Linh, tác giả là một người ngoại đạo yêu một cô gái Công giáo mà không dám tỏ tình, một hôm ông đến Nhà thờ cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa con thương nàng đã lâu rồi. Thương thì nhiều nhưng con chưa dám nói. Con thương nàng đã lâu rồi mà chưa dám hé môi. Ngại ngùng không cùng tôn giáo thôi. Lạy Chúa con thuơng nàng rất ngoan đạo. Thương nàng thường hay luôn di xem lễ. Con thuơng nàng rất đơn sơ. Màu áo trắng đơn sơ, với nét môi cười nắng nghiêng nghiêng. Con yêu nàng, tình yêu rất chân thành. Tình yêu không lừa dối. Nhưng Chúa ơi, nàng đâu hay biết đâu một người ngoại đạo tha thiết yêu nàng. Tình yêu trái ngang. Lạy Chúa con xin nguyện Chúa trên trời. Cho trọn niềm tin ơn trên Thiên Chúa. Con xin đuợc sống bên nàng, nguời con nhớ con thương. Kính mến tôn thờ Chúa. Amen”.
Anh chàng ngoại Đạo yêu cô gái Công giáo cốt ở điểm nào? Thưa thứ nhất, cô thường đi dâng lễ, có nghĩa rằng giữ trọn tình mến Chúa. Thứ hai, cô này ngoan Đạo, yêu chàng một tình yêu chân tình, tình yêu không lừa dối, có nghĩa rằng cô yêu người như chính mình vậy. Vâng, tại sao, Cô này trọn tình với Chúa và vẹn nghĩa với người yêu bởi vì cô này đã sống Đạo tốt qua việc giữ điều răn lớn nhất và quan trọng rất của Đạo Công giáo là Mến Chúa, yêu người. Đó là điều răn mà Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu trả lời cho người thông luật: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi… Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”.
Trong văn hoá Á Đông, người Việt nam luôn để cao cuộc sống hôn nhân gia đình luôn có tình và có nghĩa với nhau. Cho nên, là vợ chồng sống với nhau phải có tình có nghĩa. Khi bình thường, an vui cũng như sầu khổ, vợ chồng sống với nhau bằng “tình”. Khi một trong hai người bệnh hoạn tai ương, hoặc gây nên lầm lỗi, nếu tình yêu phôi pha hoặc không còn nữa, vợ chồng vẫn sống bên nhau bằng “nghĩa”. Nói cách khác, tình là phần việc của con tim (cảm xúc), nghĩa là phần việc của lý trí (trách nhiệm). Con tim và lý trí đi chung với nhau để cuộc sống vợ chồng bền chặt. Vì vậy, theo văn hoá Việt Nam, vợ chồng lấy nhau vì “tình”, chung sống vì “nghĩa”. Vì thế, chất keo gắn bó cuộc sống vợ chồng chung thuỷ với nhau suốt đời: “tình” và “nghĩa”. “Tình” để yêu thương nhau và “nghĩa” để chịu đựng nhau nâng đỡ, chăm sóc và phục vụ nhau. Mất đi một hợp chất, keo không còn dính nữa, khác gì xi măng không có nước.
Cũng vậy, người Kitô hữu luôn mang trên mình Thánh giá Chúa. Thanh dọc của cây Thánh giá muốn nói rằng, người tín hữu phải vươn lên cao tới Thiên Chúa, để yêu mến Người với tất cả trái tim, hết linh hồn và hết trí khôn. Thanh ngang của thánh giá là phải vươn đến với tất cả mọi người để yêu thương họ như chính mình, không loại trừ một ai, kể cả kẻ thù. Nếu có thanh dọc mà không có thanh ngang, thì đâu phải là Thánh giá. Nếu có mến Chúa mà không có yêu người, thì chưa phải là Kitô hữu. Cho nên chỉ khi sống trọn vẹn giới răn mến Chúa và yêu người, thì chúng ta mới đích danh là Kitô hữu, mới thật sự là trọn tình với Chúa và vẹn nghĩa với nhau trong cuộc sống này. Vì vậy, Chúa Giêsu nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em hãy giữ các điều răn của Thầy… Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy, mà ai yêu mến Thầy thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”(Ga 14,15-21.23). Và ngược lại, “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20).
Muốn mến yêu Chúa, chúng ta có muôn vàn cách để yêu mến Ngài nhưng theo Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh đến việc thực thi Lời Chúa, sống theo giới răn của Chúa. Ngày nay, có nhiều người nghĩ rằng Mến Chúa thì dễ quá. Tôi vẫn đọc kinh sáng tối, đi lễ cầu nguyện hàng ngày, năng tham dự các bí tích. Thực ra, Chúa đâu chỉ đòi hỏi có thế! Hãy nghe lại điều răn lớn nhất này: “Phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”. Trong điều răn có ba chữ hết, chúng ta đã yêu được mấy chữ hết đó. Thường chúng ta chỉ yêu Chúa nửa vời, yêu tùy hứng, yêu đại khái, yêu theo vụ mùa. Vì vậy, chúng ta chỉ yêu mến Chúa hết lòng khi chúng ta dám hy sinh thời giờ, công việc, lợi nhuận, để đi tham dự thánh lễ, các giờ cầu nguyện, các buổi tĩnh tâm, hầu nâng cao đời sống thiêng liêng. Chúng ta chỉ yêu mến Chúa hết linh hồn khi chúng ta dám từ bỏ danh vọng, lợi lộc, chức quyền để trung thành với Chúa và các giới răn của Người. Chúng ta chỉ yêu mến Chúa hết trí khôn khi chúng ta dám làm nhân chứng cho Người trước lương tâm, trước nguy cơ bách hại.
Bên cạnh mến Chúa, chúng ta còn phải yêu thân cận ngươi như chính mình. Nhưng ở đời đâu phải ai cũng dễ mến, dễ thương hết vì “chín người mười ý”, thượng vàng hạ cám, vàng thao lỗn lộn mà. Thế nhưng, chúng ta sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian, mến Chúa mà không yêu người thì là người đạo đức giả. Cho nên, nhà văn học Công giáo Mỹ Thomas Merton nói: “Không yêu thương và nhân từ với kẻ khác, thì tình yêu của chúng ta dành cho Đức Kitô chỉ là tưởng tượng”. Còn Lời Chúa nói: “Anh em hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa.
Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,7-8).
Đời sống Kitô hữu là cuộc tình của mình với Thiên Chúa. Cuộc sống con người chan chứa tình yêu và hiệp thông với Thiên Chúa đời đời. Vì thế, cuộc sống đức tin của chúng ta phải nỗ lực thực hiện cuộc cách mạng yêu thương để làm sao mình không phải là tâm điểm mà chính Chúa và tha nhân là tâm điểm, và mình phải xoay quanh chứ đừng bắt Chúa và tha nhân phải xoay quanh mình. Nhưng Chúa ở đâu bây giờ và lúc này? Ai là người thân cận của tôi? Đó chính là những người còn sống với tôi hay đã qua đời, vì vậy chỉ yêu tha nhân như chính mình khi chúng ta tránh hết sức không làm tổn thương đến nhân phẩm và quyền lợi của người khác; yêu người thân cận như chính mình khi chúng ta biết kính trọng người già yếu, an ủi người khổ đau, giúp đỡ những ai nghèo đói, bênh vực những kẻ cô thế, cô thân; yêu người thân cận như chính mình khi chúng ta biết quảng đại trao ban và xả thân phục vụ những ai đang cần sự trợ giúp và yêu tha nhân như chính mình khi chúng ta biết cầu nguyện cho những người thân yêu hay mọi người đã qua đời vì chưng sống chết đều có nhau như niềm tin chúng ta thường tuyên xưng: “Tôi tin các thánh thông công”.
Vì thế, ước gì qua Lời Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta yêu mến Chúa hết lòng hết sức không phải vì Chúa ban cho chúng ta lợi lộc này, lợi lộc nọ mà vì Thiên Chúa là Tình Yêu và Lẽ Sống, là Hơi Thở của chúng ta. Yêu mến Chúa cũng mời gọi chúng ta có lòng vị tha với tha nhân để yêu thương, phục vụ, hy sinh và cầu nguyện cho nhau hầu luôn giữ trọn tình với Chúa và vẹn nghĩa với nhau. Amen.
30. Giới luật tình yêu
Thiên Chúa là Tình Yêu và Ngài đã tỏ tình yêu đó cho con người qua chương trình cứu độ nhất là qua việc ban Con Một của mình là Đức Giêsu Kitô cho nhân loại. Ngài đến để làm chứng cho tình yêu nhưng không của Thiên Chúa. Chính Ngài đã dạy cho loài người biết giới luật quan trọng nhất là kính mến Chúa trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính bản thân mình.
Người Do thái có tới 613 điều luật, có 365 điều cấm và 248 điều truyền, các phe nhóm không thống nhất với nhau về việc coi giới luật nào là quan trọng nhất, nên họ giữ các điều luật gần như ngang nhau. Hôm nay họ hỏi Chúa Giêsu vừa để có ý thử Người. Nếu Chúa Giêsu nói điều này quan trọng, điều kia không thì thế nào cũng bị qui lỗi là về phe nhóm này, chống nhóm kia và như vậy Người thiên vị, không còn được kính nể nữa. Đối với họ thì câu này rất khó, nhưng Chúa Giêsu thấu biết mọi sự. Để trả lời họ, Chúa Giêsu đã trích dẫn ngay điều luật thứ nhất trong Thập giới mà Thiên Chúa đã truyền cho Môsê: "Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em" (Đnl 6,5). Chính người Do thái cũng đã thấy tầm quan trọng của điều luật này nên kết thành kinh để đọc một ngày 2 lần. Song song với Giới răn đó, Giới răn thứ hai cũng quan trọng không kém: hãy yêu tha nhân như chính mình. Tất nhiên xét về đối tượng thì việc yêu Chúa có giá trị hơn hẳn so với yêu tha nhân, nhưng lòng yêu tha nhân bắt nguồn từ lòng mến Chúa và cũng khẩn thiết như việc yêu mến Chúa vậy. Yêu tha nhân là dấu chứng tỏ chúng ta yêu mến Chúa và biết thi hành lời Chúa dạy. Chúng ta yêu tha nhân vì Chúa nhưng đồng thời tha nhân cũng là đối tượng để chúng ta yêu mến trong tinh thần huynh đệ có chung một người Cha.
Trước khi dạy cho con người giới luật yêu thương, Chúa đã tỏ lòng nhân ái trước, đã hứa ban ơn cứu độ, chuẩn bị dân Israel, và thể hiện tình yêu đối với loài người cách quyết liệt nơi Đức Giêsu Kitô. Thánh phaolô đã diễn tả tình yêu tự huỷ của Chúa Giêsu Kitô đối với loài người trong thư gởi tín hữu Philipphê như sau: Đức Giê-su Ki-tô vốn là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Đức Giê-su Ki-tô là Chúa". (Pl 2, 6-11) Đức Giêsu là một con người trong thế giới loài người được thiên chúa rước đưa vào vinh quang Thiên quốc trong danh dự của một Thiên Chúa. Ngài đã đem biết bao người phàm lên nơi Thiên Chúa ngự và được thông phần vinh quang của Thiên Chúa.
Thật hạnh phúc biết bao cho loài người chúng ta, được tạo dựng bởi vị Thiên Chúa đầy quyền năng, công bằng và nhân từ vô cùng. Ngài đối xử với con người quá khoan dung, nhân hậu. Đáp lại tình thương ấy, chúng con nguyện yêu mến Chúa hết lòng và thực thi giới luật Chúa với hết sức lực con, con sẽ đối xử tốt với anh em đồng loại như Chúa đã đối xử tốt với bản thân con.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con yêu mến Chúa, chúng con cảm tạ Chúa về tình yêu bao la của Ngài, về giới luật yêu thương của Ngài. Xin Chúa cho chúng con luôn biết sống cho tình yêu Chúa và thể hiện rõ bằng hành động cụ thể trong cuộc sống chúng con.
31. Làm sao để yêu thương tha nhân như chính mình
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
“Là Kitô hữu, chúng ta không ít lần được nghe diễn giải về giới luật yêu thương là mến Chúa và yêu người. Đã từng có nhiều vị, vì muốn nhấn mạnh đến mối liên hệ hổ tương giữa đạo mến Chúa và việc yêu thương tha nhân nên đã dùng hình ảnh hai mặt của một đồng tiền. Là hình ảnh minh hoạ dĩ nhiên vẫn có đó sự khập khiễng cần chấp nhận. Tuy nhiên cái hình ảnh hai mặt của một đồng xu xem ra không chỉ khập khiễng mà còn lệch chuẩn.
Chúa Kitô đã khẳng định: Người hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn trọng nhất và điều răn thứ nhất” ( Mt 22,38 ). Đã là điều răn đứng đầu và trọng nhất thì chỉ có một. Xét như loài thụ tạo thì nghĩa vụ thờ phượng Đấng tạo thành là nghĩa vụ hàng đầu và không có gì có thể thay thế. Nếu nhìn nhận mọi sự ta đang có, mọi sự đang là, đều do bởi lãnh nhận từ trên cao, thì việc thần phục đấng tạo Thành là chuyện mang tính sống còn. Nếu Chúa rút hơi lại thì không có loài nào được tồn tại.
Thiên Chúa ta thờ không chỉ là Đấng tạo thành mọi sự mà còn là Cha chí ái. Người không chỉ nhận ta làm con theo nghĩa được dựng nên giống hình ảnh của Người mà còn nhận chúng ta làm nghĩa tử trong Con Một chí ái của Người làm người là Đức Giêsu Kitô. Con người là chi mà Chúa đoái trông. Loài người là gì mà Chúa lại phó ban Con Một. Tất thảy chỉ vì Chúa muốn thông phần hạnh phúc cho chúng ta mà thôi. Như thế bổn phận yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực là bổn phận liên hệ đến phần phúc loài người chúng ta.
Điều răn thứ hai là yêu thương tha nhân như chính mình. Chúa Kitô nói điều răn thứ hai “cũng giống” điều răn thứ nhất. Cái từ “giống” rất dễ bị hiểu lầm là tương đương, là ngang bằng. Tuy nhiên khi nói đến trạng thái “giống” là nói đến một sự phản ánh có điểm quy chiếu. Người ta nói cái hình, cái ảnh giống với người, với vật, với cảnh, chứ không nói ngược lại rằng người, vật, cảnh giống với hình, với ảnh. Tương tự như thế, người ta nói đứa con giống người cha chứ không bao giờ nói người cha giống đứa con. Như thế người cha là nguồn, là điểm quy chiếu của sự được gọi là “giống”.
Với hệ luận như trên thì điều răn thứ nhất là yêu mến Thiên Chúa chính là nguồn, là điểm quy chiếu cho giới răn thứ hai là yêu người. Chính nhờ yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết trí khôn, vì Người là Cha toàn năng chí ái nên ta mới có thể yêu mến nhau như anh chị em. Trong tình yêu mến Thiên Chúa, nhờ lòng yêu mến Thiên Chúa và bởi việc yêu mến Thiên Chúa, chúng ta mớ có thể yêu thương tha nhân cho dù họ dễ thương hay đáng ghét, cho dù làm ơn, làm phước cho ta hay làm hại và thù ghét ta…( x. Mt 5,43-48 ).
Điều răn thứ nhất là nguồn, là nền tảng của điều răn thứ hai. Sư thường, trên nguồn đầy nước thì hạ lưu sẽ có nước chảy. Dòng sông không bị ngăn chặn, nếu hạ lưu không có nước chảy thì chắc chắc trên nguồn đang thiếu nước hay không có nước. Theo lôgich này thì ta hiểu được lời của Thánh Gioan Tông đồ: Khi ta không giữ giới răn thứ hai là yêu người thì chắc chắn ta không giữ giới răn thứ nhất là mến Chúa ( x.1Ga 4,20 ).
Có thể có nhiều người diễn giải rằng tuân giữ giới răn thứ nhất là mến Chúa thì dễ còn giữ giới răn thứ hai là yêu người thì rất khó. Một sự diễn giải như gần đời thường và có vẻ mang tình hiện sinh nhưng lại hơi lệch chuẩn. Sự lệch chuẩn ở đây là nơi cách hiểu về đạo mến Chúa, vì người ta những tưởng rằng tuân giữ một vài hành vi tế tự, một vài nghi lễ thờ phượng bên ngoài là giữ đạo mến Chúa. ( vd: đọc kinh, tham dự Thánh Lễ…)
Quả thật, trong thực tế, sống đạo yêu người không phải dễ dàng. Ta có thể không ngược đãi và áp bức khách ngoại kiều, mẹ goá, con côi. Ta có thể cho vay mượn mà không kiếm lãi. Ta có thể trả áo choàng người nghèo cầm cố trước khi đêm về để họ có cái mà đắp ấm. Ta cũng có thể gặt lúa, hái cà phê mà không mót phần rơi vải, nhằm để cho người nghèo mót lượm. Tuy nhiên, để yêu thương người không mấy dễ thương, yêu thương người hành khổ, thù ghét, làm hại chúng ta thì không dễ chút nào. Người ta độc chiếm quyền lực, nguời ta ra sức vơ vét của cải cách bất công, người ta không màng chi đến người nghèo, không nghĩ chi đến tương lai dân tộc, người ta lại còn gian xảo bôi nhọ các Đấng bậc trong Hội Thánh và qua đó phỉ báng đạo thánh Chúa…, thì làm sao ta có thể yêu thương họ như chính mình đây? Ngay cả những người cùng chung niềm tin, cùng một Hội Thánh mà vẫn không thiếu người thú nhận rằng đạo thì con giữ đạo nhưng con không thể làm hoà hay tha thứ cho mấy cái người làm hại con, làm hại gia đình con…Thử hỏi có bao nhiêu bà mẹ sẵn sàng nhận người giết con trai của mình làm con nuôi? Thử hỏi số vị thánh Tử đạo sẵn sàng cầu nguyện và chúc lành cho kẻ giết mình có đến con số một vài triệu? Vậy thì đại đa số người tín hữu Kitô có thực sự giữ giới răn thứ hai là yêu người chưa? Thật khó trả lời. Nhưng ta có thể khẳng định rằng nếu ta cố tâm giữ giới răn thứ nhất thì sẽ có khả năng thực thi giới răn thứ hai. Vấn đề là giữ giới răn thứ nhất như thế nào.
Thiên Chúa là Đấng không ai thấy bao giờ. Nhưng Người đã nên hữu hình nơi Đức Giêsu Kitô. Ai thấy Chúa Kitô là thấy Chúa Cha ( x. Ga 14,9 ). Và yêu mến Chúa Kitô là yêu mến Thiên Chúa. Yêu mến Chúa Kitô là hãy ở lại trong tình yêu của Người và hãy giữ giới răn của Người ( x. Ga 14 23-24 ).
Ở lại trong tình yêu của Chúa Kitô nghĩa là hãy để cho Chúa Kitô yêu thương ta. Ở lại trong tình yêu của Chúa Kitô là kết hiệp nên một với Người, là nên đồng hình đồng dạng với Người. Một trong những phương thế tuyệt hảo để ở lại trong tình yêu của Chúa Kitô đó là liên lĩ cầu nguyện. Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên để kết hiệp với Chúa, nên một với Chúa, để nhận biết Chúa mà yêu mến Chúa, để biết thánh ý Chúa mà thực thi ý Người. Nên một với Chúa Kitô, nên đồng hình đồng dạng với Người thì ta sẽ biết cách yêu thương nhau như Người đã yêu thương chúng ta ( x. Ga 15,12 ). Và đây là giới răn mới mà Chúa Kitô đã truyền lại cho chúng ta ngay đêm Tiệc Ly, trước khi Người chịu khổ nạn.
Vì biết cùng chung cha mẹ nên người ta nhận nhau là anh chị em., chứ không phải vì đã nhận nhau làm anh chị em nên mới biết mình cùng chung một mẹ cha. Tuy nhiên trong tình yêu, nhiều điều như nghịch lý vẫn hiện hữu. Dù không thể đòi hỏi và không có quyền đòi hỏi rằng khi anh chị em thương nhau là đã yêu cha mẹ, nhưng chính cha mẹ tự nhận lấy việc con cái yêu thương nhau là cách thế tốt đẹp mà chúng tỏ bày lòng hiếu thảo với mình. Cũng thế, là Tình Yêu, Thiên Chúa đã nhận việc loài người chúng ta yêu thương nhau là một phương thế yêu thương Người cách tốt đẹp. Chúa Kitô đã nói rõ chân lý này trong dụ ngôn ngày cánh chung ( x. Mt 25,31-46 ).
Mến Chúa và yêu người là trọng tâm sứ điệp Kitô giáo. Là Kitô hữu, chúng ta thuộc lòng chân lý này. Tuy nhiên để thực thi đạo mến Chúa - yêu người thì cần phải biết Chúa, một sự “biết” theo nghĩa Thánh Kinh đó là gắn bó nên một với Chúa. Ngoài các giờ kinh nguyện, ngoài các buổi tham dự Phụng vụ, thì việc giữ tỉnh lặng khoảng năm, mười phút hay lâu hơn trong một ngày sẽ giúp ta can đảm và nhiệt thành mến Chúa trên hết mọi sự và yêu thương tha nhân như chính mình cách hữu hiệu.
32. Lý do của tình yêu
"Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi, và yêu người thân cận như chính mình".
Tác giả Lovasik trong quyển "Dụ ngôn đời thường" của Rev. Frank Mihalie - SVD có kể câu chuyện về đại văn hào người Nga Tolstoy như sau:
Nạn đói lan tràn lãnh thổ. Một người ăn xin nơi góc phố tiến tới gần Tolstoy. Tolstoy dừng lại, sờ khắp mọi túi nhưng không tìm được đồng nào. Thật lòng thương cảm, ông nói: "xin đừng giận tôi, người anh em ạ, tôi không có đồng nào ở đây". Người ăn xin ngước mặt đáp: "ông gọi tôi là người anh em thì cũng là món quà lớn lắm rồi".
Vâng, yêu thương không nhất thiết phải được đánh giá bằng những tài sản vật chất lớn lao mà hơn thế đó là lòng thương cảm của chúng ta dành cho nhau. Nhưng đôi lúc bạn sẽ hỏi - sao phải yêu thương người khác trong khi họ không có quan hệ thân thuộc nào với mình? Hay tại sao phải yêu? Chẳng phải đó là một trong những thất tình sao? Giữa một xã hội kim tiền này mà còn yêu hết lòng thì dễ bị thua thiệt lắm. Nghĩ như vậy quả là thiển cận. Tôi sẽ cho bạn thấy có hai lý do để chúng ta phải yêu thương nhau như bài học của đoạn Kinh Thánh hôm nay.
Thứ nhất, vì chúng ta là con người. Tình yêu chỉ có duy nhất nơi con người. Ở các loài động vật tất cả hoạt động của chúng là do bản năng. Hơn nữa, hành động gọi là yêu thương của chúng chỉ xảy ra ở những thời điểm nào đó. Khi nhìn thấy cảnh tượng gà mẹ ủ con mình dưới cánh rất mẫu tử ấy, nhưng chỉ một thời gian ngắn. khi gà con đã đủ lông đủ cánh thì đường mẹ, mẹ đi, đường con, con đi. Các loài khác thì cũng không có gì lạ hơn. Còn ở con người, tình yêu bao hàm nhiều góc độ và ngữ cảnh. Tình yêu gia đình, dân tộc, quê hương, vợ chồng, anh em, bạn hữu..., bao trùm lên tất cả các quan hệ tình cảm trên là tình yêu của con người dành cho nhau. Yêu tới cùng, yêu mãnh liệt, yêu đến hy sinh bản thân cho đối tượng yêu thương của mình. Đó là một tình yêu thật phát xuất từ khối óc có lý trí, biết suy tư, chọn lựa, từ trái tim biết rung cảm. Khi con người không còn biết yêu thương thì không còn là con người nữa. Chẳng vậy mà khi có ai đó làm chuyện bất nhân người ta kết luận "nó mất hết tính người". Chỉ nơi con người tình yêu mới được thực hiện phong phú nhất, đẹp nhất và trọn vẹn nhất. Cho nên, không sống yêu thương tức là phủ nhận nhân tính của mình.
Thứ hai, chúng ta phải yêu thương nhau vì "tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa" (1 Ga 4,7). Thiên Chúa đã yêu thương ta trước và tự trở nên gương mẫu của tình yêu cho chúng ta. Ngài đã để máu và nước từ cạnh sườn mình đổ ra để nuôi dưỡng tình yêu nơi trái tim con người, cũng như gội rửa hận thù nơi lương tâm nhân thế. "Thật vậy, chính Đức Giêsu là bình an của chúng ta. Người đã hy sinh thân mình để phá vỡ bức tường ngăn cách là sự thù ghét (Eph 2,14). Mong ước và hy vọng duy nhất của Đức Giêsu không gì khác hơn là "các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương"(Ga15,12). Khi sống yêu thương tức là chúng ta thực hiện chúc thư và nguyện ước ấy, là đáp trả lời mời gọi yêu thương của Ngài, là hoạ lại hình ảnh của Thiên Chúa nơi trần gian, "với dấu này mà người ta sẽ nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là các con hãy yêu thương nhau"(Ga 13,35), là bày tỏ lòng tin tưởng vào Thiên Chúa - là đường, là sự thật, và là sự sống.
Tóm lại, yêu thương là một hoạt động tự nhiên mà Thiên Chúa đã ban tặng cho con người, và nơi tình yêu ấy ta còn thấy đó là một huyền nhiệm. Bởi không ai có thể sống mà không yêu. Do vậy, khi sống yêu thương chính là lúc ta bày tỏ rực rỡ nhất nhân tính và phẩm giá của một người con Chúa - Đấng yêu thương.
33. Thừa tác viên - Lm. Vũ Đình Tường
Nhóm Pharisiêu phái người đến thử Đức Kitô hỏi người rằng: giới răn nào quan trọng nhất. Đức Kitô nói cho họ biết tất cả các giới răn lề luật dậy từ thời các tổ phụ cho đến các tiên tri đều tóm gọn trong hai điều. Đó là mến Chúa hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn và điều thứ hai sanh ra từ điều thứ nhất là yêu thương tha nhân chứ chính thân mình.
Hầu như trong chúng ta ai cũng biết làm thế nào để yêu Chúa hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn nhưng khi áp dụng điều thứ hai vào trong thực tế cuộc sống chúng ta lại gặp khó khăn. Câu chuyện về người giầu có trong phúc âm thánh Marcô 10,17-31 cho thấy rõ khó khăn trên. Chàng thanh niên giầu có mến Chúa với tất cả tấm lòng, giữ tất cả các luật lớn nhỏ. Anh gặp Đức Kitô và nói thế. Đức Kitô khen anh và thêm anh còn thiếu một điều cần phải làm đó là phục vụ tha nhân. Anh buồn rầu bỏ đi và ta không rõ số phận anh ta sau này ra sao. Yêu thương tha nhân đòi hỏi chúng ta phải làm gì cho tha nhân, không thể yêu bằng nói suông nhưng phải hành động thực tế. Tình yêu Thiên Chúa mở đường dẫn ta tới yêu tha nhân. Như thế yêu thương tha nhân chính là phục vụ tha nhân trong tình yêu Chúa. Phục vụ tha nhân trong cộng đoàn đức tin có tên gọi riêng. Tên đó là thừa tác viên. Họ là những người tình nguyện làm công việc chung trong cộng đoàn. Mỗi Kitô hữu cần trở thành một thừa tác viên trong cộng đoàn. Tuỳ hoàn cảnh và thời gian cũng như tài năng Chúa ban cho mỗi người mà trách nhiệm công việc thừa tác cho xứng với tài năng Chúa ban. Công việc phục vụ nào cũng quí, cũng trọng, cũng cao đẹp bởi vì chúng ta thực thi điều răn thứ Hai đó là thương yêu tha nhân qua hành động cụ thể. Chúng ta phục vụ không vì tư lợi hay bè phái mà phục vụ tha nhân, làm cho Danh Chúa cả sáng hơn. Số giờ, số lượng phục vụ rất quí nhưng phẩm chất phục vụ còn quan trọng hơn bởi nó nói lên tâm tình, lòng quí mến, và tình yêu phục vụ. Phục vụ khi có yêu cầu tại chỗ là điều tốt nhưng đó không phải là công việc thừa tác bởi thiếu chuẩn bị, thiếu hy sinh định từ trước. Công việc thừa tác có lịch trình biết trước, được chỉ định từ trước nên thừa tác viên trước khi đến cộng đoàn đã chuẩn bị tâm tình, tinh thần phục vụ trong khi đáp ứng nhu cầu tại chỗ thiếu những chuẩn bị trên, mặc dù người đó quen công việc làm thuần thục nhưng vẫn không thể coi là nhiệm vụ của thừa tác mà chỉ do lòng bác ái giúp khi được yêu cầu.
Cảm xúc của con tim dẫn đến hành động. Nếu tình yêu Chúa đầy ắp trong tim ta không thúc đẩy ta nhận một trách nhiệm nào đó trong cộng đoàn đức tin thì rõ ràng là có điều chi không ổn. Việc cần phải tìm hiểu là điều chi ngăn cản ta thực thi điều răn thứ hai đó là yêu tha nhân. Rất khó có thể biện hộ cho hành động thiếu yêu thương này bởi Kitô hữu tham dự bí tích Thánh Thể mà lại cô lập mình khỏi cộng đoàn đức tin thì không thể nào nói lên đầy đủ í nghĩa của Thánh Thể. Người ta có thể là Kitô hữu tốt nhưng không thể là môn đệ của Đức Kitô bởi là tông đồ là phục vụ mà thiếu phục vụ chính là Kitô hữu hữu danh, chưa chính thức là môn đệ Đức Kitô.
34. Giới răn mến Chúa và yêu người
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Trung Điểm)
Được một luật sĩ hỏi đâu là giới răn trọng nhất trong lề luật, Đức Giêsu trả lời: "Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình". Những lời nầy chúng ta đã biết đến từ nhỏ và được trích ra ở đầu bản luật Thiên Chúa đã ban cho toàn thể dân Do Thái (xem Đnl 6,5).
Đức Giêsu nói đến "lòng" theo nghĩa của Sách Thánh, như từ ngữ diễn tả thực tại sâu xa nhất của con người. "Yêu mến Chúa hết lòng" nghĩa là hướng toàn thể con người mình và hành động của mình về Thiên Chúa trong thái độ mến yêu.. Để giải thích rõ ràng hơn, Tin Mừng nhắc đến "hết linh hồn", nghĩa là với tất cả sự sống; "hết trí khôn" bao gồm tư tưởng và trí tuệ. Với những lời nầy, Tin Mừng không để ý đến những khả năng khác nhau của con người, cho bằng nhấn mạnh điều quan trọng duy nhất là yêu mến Chúa với toàn thể con người mình. Trong Sách Thánh, yêu mến Thiên Chúa không bao giờ được coi chỉ là một tình cảm hay một thực tại trừu tượng, mà có nghĩa là lắng nghe Chúa và đem thực hành lời Người dạy.
Khi trả lời cho vị kinh sư, Đức Giêsu tiếp tục nói là điều răn thứ hai là: "yêu mến người thân cận như chính mình". Điều răn ấy tóm tắt tất cả mọi điều răn khác. Như vậy, lòng yêu mến Chúa không kéo ta ra khỏi thế gian nầy, không cô lập ta trong sự sùng bái riêng tư. Hơn thế, lòng mến yêu ấy là nguồn liên tục và sức thúc đẩy ta yêu mến tất cả mọi người không trừ ai.
Chúng ta có khả năng yêu thương người khác như thế, chính vì chúng ta được Thiên Chúa yêu thương trước: "Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta" (Rm 5,5). Do đó, lòng mến Chúa và yêu người ấy là bảo đảm duy nhất để tạo nên một xã hội trong đó con người được tôn trọng thực sự. Thực thế, Thiên Chúa là Cha của tất cả chúng ta, và chúng ta là anh em với nhau. Người là nền tảng cho sự bình đẳng và phẩm giá của mỗi con người. Lấy đi nền tảng đó, nhân loại sẽ trở thành kỳ thị chủng tộc, con người sẽ bị chà đạp, cách nầy hay cách khác, nơi bản tính của mình; sẽ nẩy sinh sự oán ghét và chia rẽ thành người trên kẻ dưới, kẻ giàu kẻ nghèo, da trắng da đen, đàn ông đàn bà, người tự do người nô lệ, v.v... Trái lại, khi yêu mến Thiên Chúa, chúng ta cũng sẽ yêu mến cha mẹ mình, vì Chúa muốn như vậy. Nếu yêu mến Chúa, chúng ta sẽ yêu mến bè bạn hay những người cộng sự, bởi vì họ là những anh chị em Chúa đã đặt bên cạnh chúng ta.
Nếu yêu mến Chúa, chúng ta sẽ yêu mến nghề nghiệp, công ăn việc làm của mình, bởi vì chúng là con đường mà Thiên Chúa vì yêu thương đã chuẩn bị cho chúng ta. Nếu yêu mến Chúa, chúng ta cũng sẽ yêu mến việc học hành của mình, bởi vì chúng ta muốn chuẩn bị chu toàn dự định Chúa dành cho đời ta. Nếu yêu mến Chúa, chúng ta sẽ yêu mến thể thao hoặc những lúc nghỉ ngơi giải trí, bởi vì biết rằng Chúa muốn chúng ta chăm lo cho sức khỏe của mình... Chỉ khi nào yêu mến như vậy, tâm hồn chúng ta mới không bị chia sẻ và lòng yêu mến của chúng ta sẽ không nửa vời.
Qua bí tích Rửa Tội chúng ta được đón nhận vào tình yêu Thiên Chúa. Mỗi lần tham dự Thánh lễ, chúng ta lại được tham dự vào Mình Máu Thánh Đức Giêsu, tham dự vào tình yêu dâng hiến của Người. Được Thánh Thể nuôi dưỡng, chúng ta có khả năng sống yêu thương như Chúa Giêsu dạy.
35. Ba chiều kích trong tình yêu
(Văn Chính, SDB chuyển ngữ)
Một thơ sĩ người Anh tên là Leigh Hunt đã viết một bài thơ rất nổi tiếng về một người tên là Abou Ben Adhem như sau:
Một đêm kia, khi Abou Ben Adhem choàng tỉnh dậy, anh thấy trong phòng ngủ của anh một thiên thần nhỏ đang cắm cúi viết trên một cuốn sách bằng vàng tên của những người yêu mến Thiên Chúa. Anh rón rén lại gần và hỏi nhỏ: “Có tên của con trong sách đó không, thưa ngài?”. Vị thiên thần nhỏ lắc đầu: “Chẳng có tên của anh”. Abou nài nỉ: “Nếu thế, con xin ngài hãy ghi tên con là người biết yêu mến những người anh chị em của mình thôi”. Đêm hôm sau, vị thiên thần trở lại với danh sách của những người yêu mến Thiên Chúa. Lần này, tên của Abou Ben Adhem đứng ở đầu danh sách.
Bài thơ này cho thấy tình yêu đích thực dành cho Thiên Chúa và tình yêu dành cho tha nhân thì tựa như 2 mặt của một đồng tiền. Người ta không thể tách rời 2 thứ tình yêu này ra khỏi nhau được. Đó cũng chính là những gì mà Tin Mừng ngày hôm nay muốn nói với chúng ta. Khi người ta hỏi Đức Giêsu rằng đâu là giới răn quan trọng nhất trong lề luật, thì câu trả lời vẫn là giới luật về tình yêu đối với Thiên Chúa. Nhưng Đức Giêsu không chỉ dừng lại ở đó. Ngài tiếp tục đưa ra một câu trả lời thực tế hơn. Ngài trình bày cho chúng ta thấy mặt khác của đồng tiền: đó là tình yêu dành cho tha nhân. Tình yêu mến Thiên Chúa cách đích thực và tình yêu thương tha nhân chân thành chỉ là một. Đức Giêsu đã nói: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và là điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môi-sen và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”. (Mt 22, 37-40)
Ở đây, chúng ta thấy Đức Giêsu không chấp nhận lối hiểu tình yêu chỉ trong một chiều kích thôi. Đối với Ngài, tình yêu đích thực phải diễn tả trong 3 chiều kích, đó là (1) tình yêu đối với Thiên Chúa, (2) tình yêu đối với tha nhân, (3) và tình yêu đối với bản thân. Hai thứ tình yêu đầu được đòi hỏi cách tích cực, còn tình yêu thứ ba được đưa ra như một cơ sở của mọi tình yêu. Việc đòi hỏi yêu thương tha nhân như chính bản thân, đã giả định rằng bạn phải biết yêu thương chính mình.
Vì câu trả lời của Đức Giêsu đề cập tới cả 3 chiều kích của tình yêu, vậy đâu là điểm mà Đức Giêsu thực sự muốn nhấn mạnh?
Khi bạn hỏi ai đó một câu hỏi, và trong câu trả lời của người ấy, người ấy còn nói thêm một điều khác nữa mà bạn đã thực sự không muốn hỏi, thì hẳn rằng người ấy đang muốn bạn chú tâm đến yếu tố thêm vào đó. Tuần vừa qua, khi Đức Giêsu bị chất vấn về việc có phải nộp thuế cho hoàng đế Xê-da không, thì Ngài trả lời: “Của Xê-da, thì trả cho Xê-da;” và Ngài còn nói tiếp: “Của Thiên Chúa, thì trả cho Thiên Chúa”. Đó chính là điểm nhấn mạnh của Đức Giêsu khi được hỏi về việc nộp thuế cho Xê-da. Ngài không chỉ nói đến một điều xem ra hiển nhiên về quyền của Xê-da, nhưng còn nhấn mạnh đến quyền của Thiên Chúa mà con người vốn thờ ơ, không coi trọng. Cùng cách thế này, đứng trước vấn nạn đâu là giới răn quan trọng nhất trong lề luật, thì tình yêu đối với Thiên Chúa là chuyện hiển nhiên, nên điều nhấn mạnh của Đức Giêsu ở đây chính là tình yêu đối với tha nhân mà vốn bị con người không để ý tới hoặc coi thường.
Bạn nên nhớ việc bắt bớ Đức Giêsu và các môn đệ của Ngài là do chính những người lãnh đạo tôn giáo. Những kẻ này tưởng rằng họ làm thế để thể hiện lòng nhiệt thành và yêu mến Thiên Chúa của họ, để bảo vệ uy quyền tối cao của Thiên Chúa. Cũng những con người này khi hỏi Đức Giêsu đâu là giới răn quan trọng nhất, thì chính họ là những kẻ đang giăng bẫy nhằm giết Đức Giêsu. Họ rất ý thức về tình yêu phải dành cho Thiên Chúa, nhưng tại sao họ lại trở nên vô cảm trước tình yêu phải dành cho tha nhân? Sao-lê sau này trở thành Thánh Phao-lô, đã từng là một ví dụ điển hình về thứ quan niệm tôn giáo lệch lạc này. Đức Giêsu cũng nói tiên tri rằng: “Hơn nữa, sẽ đến giờ kẻ nào giết anh em cũng tưởng mình phụng thờ Thiên Chúa.” (Ga 16,2).
Điều sai lầm của những người Biệt phái ngày xưa có thể vẫn đang tồn tại nơi bản thân chúng ta. Vẫn có nhiều người Ki-tô hữu đang cố tách rời tình yêu đối với tha nhân ra khỏi tình yêu đối với Thiên Chúa. Sự dấn thân trong niềm tin của họ không bao hàm việc dấn thân cho những quyền lợi của tha nhân, cho sự công bằng và hòa bình.
Chúng ta hãy biết mau mắn đáp trả trước lời mời gọi của Đức Giêsu trong sứ điệp của Ngài ngày hôm nay: Tình yêu đích thực dành cho Thiên Chúa và tình yêu đích thực dành cho tha nhân là 2 mặt của một đồng tiền. Mọi cố gắng nhằm tách rời 2 điều này, sẽ làm sai lệch sứ điệp của Đức Giêsu. Thánh Gioan đã viết trong thư thứ nhất của ngài: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20).
36. Cốt lõi của Lề Luật
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Nhóm Pharisiêu liên minh với nhóm Hêrôđê gài bẫy Chúa Giêsu về vấn đề nộp thuế cho Cêsarê. Họ đã thất bại.
Nhóm Pharisiêu lại tiếp tục liên kết với nhóm Xađốc gài bẫy lần nữa: Có bảy anh em trai cùng lấy một người vợ, ngày tận thế khi sống lại, người đàn bà đó là vợ của ai trong bảy anh em?. Họ cũng thất bại.
Chưa chịu thua. Lần này, như bài Phúc Âm hôm nay thuật lại, họ chọn ra một người thông luật để tranh luận với Chúa Giêsu: Thưa Thầy, trong lề luật giới răn nào trọng nhất?. Đây là một câu hỏi hóc búa, bởi vì đạo Do thái có rất nhiều khoản luật mà luật nào cũng đều quan trọng cả. Luật Do thái có tất cả 613 điều luật khác nhau, trong đó có 365 điều luật cấm và 248 luật phải giữ. Điều răn nào quan trọng nhất? Sở dĩ họ đặt câu hỏi này với Chúa Giêsu là vì một phần vì họ không nhất trí đựơc với nhau, phần vì muốn thử Chúa Giêsu để mong đặt Người vào thế bí không thể giải quyết được.
Chúa Giêsu đã trả lời thật tuyệt vời: Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi hết lòng hết linh hồn hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và là điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn này là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.
Như thế trong 613 điều luật, Chúa Giêsu đã chọn lọc ra hai điều luật quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người từ sách Đệ Nhị Luật (Đnl 6,5) và sách Lêvi (Lv 19,18). Người liên kết hai điều đó lại: mến Chúa thì phải yêu người, yêu người thì phải mến Chúa. Cả hai điều ấy có thể tóm lại thành một điều duy nhất là yêu thương. Yêu thương là cốt lõi của tất cả mọi khoản luật khác.
Suốt cuộc đời, Chúa Giêsu đã làm chứng về sự quan trọng của hai luật đó. Người không chỉ làm chứng bằng lời giảng dạy mà còn bằng chính cuộc sống và cái chết của mình.
Yêu Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn. Lòng mến Chúa phải toàn diện, liên quan đến trái tim, linh hồn và cả khối óc của con người.Tình yêu ấy phải là động lực thúc đẩy tất cả mọi hoạt động tinh thần cũng như thể xác. Chúa Giêsu đã yêu mến Chúa Cha, luôn sống đẹp lòng Cha, luôn dành thời giờ cầu nguyện tâm sự với Cha. Chấp nhận cuộc khổ nạn và cái chết thập giá bởi lòng yêu mến Cha và yêu thương nhân loại.
Yêu người thân cận như chính mình. Điều răn này cũng quan trọng ngang với điều răn thứ nhất về lòng mến Chúa, vì lòng yêu người phát xuất từ lòng mến Chúa và cũng cần thiết như lòng mến Chúa vậy. Đọc Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu thể hiện lòng yêu mến đối với hết mọi người.
- Với người ngoại giáo Samaria, trước đây người Do thái xa lánh khinh khi, nay Chúa gần gũi trân trọng.
- Với người tội lỗi, trước đây người Do thái kết án loại trừ, nay Chúa liên kết tìm về.
- Với người thù địch, trước đây người Do thái báo oán tiêu diệt, nay Chúa cầu nguyện làm ơn.
- Với người nghèo, trước đây người Do thái dửng dưng coi thường, nay Chúa chăm sóc tôn trọng.
- Với người anh em, trước đây người Do thái vị kỷ nhỏ nhen, nay Chúa vị tha quảng đại.
Chúa Giêsu đã sống tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người thật tuyệt hảo. Người còn ban thêm điều răn mới: Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Yêu thương nhau như Thầy đã yêu. Yêu Chúa và yêu người có một động từ chung là yêu. Đối tượng của động từ yêu này có vẻ khác biệt nhưng lại không phân biệt. Hai điều răn ấy tuy hai mà một, giống như hai trang của cùng một tờ giấy, tuy hai mặt khác nhau nhưng cũng chỉ là một tờ giấy duy nhất. Yêu người là yêu Chúa và yêu Chúa là yêu người. Người Kitô hữu có đức tin sẽ nhìn thấy Thiên Chúa nơi anh chị em mà mình gặp gỡ hàng ngày, yêu Chúa nơi họ.
Hai điều răn mến Chúa, yêu người không thể tách rời nhau.Yêu Thiên Chúa chắc chắn dẫn đến yêu tha nhân.Tình yêu tha nhân cần đặt nền trên lòng yêu mến Thiên Chúa. Người Kitô hữu đi từ nhà thờ ra nơi cuộc sống rồi từ cuộc sống đi vào nhà thờ. Ngoài cuộc đời, họ gặp Chúa nơi anh em.Trong nhà thờ, họ gặp anh em nơi Chúa. Thánh Gioan đã nói: Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy (1Ga 4,20). Do đó, “Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình” (Ga 4,21).
Chủ đề Sứ điệp Truyền Giáo năm 2011 của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI là: “Hãy yêu người lân cận như chính mình” (Mt 23,39). Khi yêu thương người lân cận là chúng ta yêu thương Chúa. Yêu thương người lân cận là thước đo tình yêu của người tín hữu đối với Chúa. Sứ điệp viết: “Một trong các mục tiêu của Ngày Thế Giới Truyền Giáo là … giúp cải thiện cuộc sống cho những người đang sống trong các quốc gia nghèo khổ, đói kém, nhất là các trẻ em suy dinh dưỡng, bệnh tật, thiếu chăm sóc y tế và giáo dục là những công tác quan trọng nhất. Tất cả các công việc này đều đi kèm với sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội. Khi loan báo Tin Mừng, Giáo Hội sống gắn bó với cuộc sống con người theo nghĩa rộng nhất”.
Sứ điệp Truyền Giáo năm 2014, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi: “Niềm vui của Tin Mừng phát sinh từ việc gặp gỡ Đức Kitô và việc chia sẻ với người nghèo. Vì lý do này, tôi khuyến khích các cộng đoàn giáo xứ, các hội đoàn và các nhóm hãy sống một đời sống huynh đệ đậm đà, đặt nền trên tình yêu đối với Đức Kitô và quan tâm tới các nhu cầu của những người yếu thế nhất. Ở đâu có niềm vui, sự phấn khởi và ước muốn đem Đức Kitô đến với người khác, ở đấy sẽ phát sinh nhiều ơn gọi đích thực… loan báo Tin Mừng cho nhân loại cần dựa trên tình thương.” (Số 4 và 5).
Mẹ Têrêxa Calcutta đã sống lời Chúa Giêsu dạy: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,34). Mẹ Têrêxa đã thực thi lời Thánh Phaolô: ”Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái, vì ai yêu người thì đã chu toàn lề luật. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy”(Rm 13,8-10).
Mẹ Têrêxa đã sống điều răn yêu thương cách trọn vẹn. Mẹ nhìn thấy Chúa trong những người phong cùi. Mẹ gặp Chúa nơi những người bần cùng khốn khổ. Mẹ yêu Chúa trong những con người bất hạnh. Mẹ tận tình chăm sóc họ. Mẹ dạy các nữ tu: "Con thấy linh mục nâng niu trân trọng Mình Thánh Chúa trong thánh lễ ra sao thì con hãy làm như thế đối với người cùng khổ."
Mẹ Têrêxa yêu mến Chúa hịện diện trong những người nghèo khổ. Mẹ đã yêu Thiên Chúa trong con người. Tông huấn Giáo hội tại Á châu dạy: “ Việc công bình, bác ái và thương xót phải gắn bó mật thiết với đời sống cầu nguyện và chiêm niệm đích thực, và thật vậy, chính cũng một tu đức này là nguồn suối của mọi công trình rao giảng Tin mừng của chúng ta”. Mẹ Têrêxa là nhà truyền giáo “chiêm niệm trong hành động”.
Linh đạo truyền giáo của Mẹ Têrêxa chính là cầu nguyện và yêu thương. Nét đặc sắc của cuộc đời truyền giáo Mẹ Têrêxa là niềm vui nội tâm phát xuất từ đức tin thể hiện qua đời sống yêu thương phục vụ. Mẹ được Giáo hội phong Chân Phước. Mẹ là một vị thánh của thời đại. Mẹ được người đời xem là vĩ nhân. Mẹ được mọi người trên thế giới này yêu mến, cả những người Hồi giáo, Ấn giáo, Cộng sản…
Truyền giáo là nói về Chúa Giêsu cho người khác nghe; sống như Chúa Giêsu cho người khác thấy. Truyền giáo là giới thiệu Chúa Giêsu Kitô cho mọi người bằng chính cuộc sống phục vụ và yêu thương của chúng ta.
Truyền giáo là nói về Chúa Giêsu cho mọi người biết bằng chính cuộc sống yêu thương của mình. Truyền giáo khởi sự bằng cuộc sống và con tim. Cuộc sống và con tim đòi hỏi các môn đệ Chúa Kitô sống có tấm lòng “yêu người lân cận như chính mình”.
Sống linh đạo truyền giáo của Mẹ Têrêxa là yêu mến Thiên Chúa trong con người, chúng ta sẽ giới thiệu cho tha nhân Đạo Chúa là “Đạo những người yêu nhau”, một Đạo rất đẹp, rất bác ái.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho nhân loại hai giới răn quan trọng nhất là yêu Chúa và yêu người.
Xin dạy chúng con biết sống tâm tình biết ơn về những hồng ân Chúa ban, xin cho chúng con biết yêu mến và phụng sự Chúa trong mọi người. Xin dạy chúng con nhận ra hình ảnh Chúa nơi anh em để chúng con yêu Chúa và yêu người với tâm hồn bác ái rộng mở. Amen.
37. Mến Chúa và yêu người
Nhóm Sađốc chất vấn Chúa về sự sống lại đã bị Chúa bẻ gẫy không dám hỏi nữa. Nghe vậy bọn biệt phái muốn tấn công lại, cho nên một nhà thông luật đã đưa ra vấn đề để thử Chúa: Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất. Luật Do Thái gồm cả thảy 613 điều được chia thành 248 điều phải làm và 365 điều phải tránh. Đồng thời có những điều nặng và những điều nhẹ. Phạm những điều nhẹ thì chịu phạt đền tội, còn phạm những điều nặng, có thể bị án tử hình. Các nhà thông luật thường tranh luận với nhau xem điều luật nào quan trọng nhất.
Trước vấn nạn được đưa ra, Chúa Giêsu đã trả lời một cách rõ ràng và xác đáng: Ngươi hãy kính mến Chúa hết lòng. Đó là giới răn quan trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là yãy yêu thương anh em như chính mình. Chúa đem điều luật yêu người đặt ngang hàng với luật mến Chúa, đó là điểm đặc sắc trong những lời giảng của Người.
Lời xác quyết của Chúa thật minh bạch. Đi theo chiều hướng ấy, các tông đồ cũng nhấn mạnh, chẳng hạn thánh Gioan đã viết: Thiên Chúa là tình yêu. Ai ở trong tình yêu là ở trong Thiên Chúa. Rồi thánh Phaolô cũng căn dặn: Anh em hãy mặc lấy đức ái, đó là giềng mối của sự trọn lành. Như vậy mến Chúa hết lòng và yêu anh em như chính mình, đó là đỉnh cao của sự thánh thiện và đó cũng là việc chúng ta cần thực hiện trong cuộc sống trần gian.
Nên thánh không phải là làm phép lạ, vì có vị thánh suốt đời chẳng làm một phép lạ nào cả. Nên thánh cũng không phải là không phạm tội bao giờ, vì có nhiều vị thánh đã sa ngã nặng nề như thánh Phaolô, thánh Augustinô. Nên thánh cũng không phải chỉ là ăn chay đánh tội, thức khuya dậy sớm, làm mòn mỏi thân xác. Thực hiện được những hy sinh to lớn ấy là điều đáng khen, đáng ca ngợi, nhưng không phải là điều cốt yếu của sự thánh thiện. Nên thánh cũng không hệ tại việc đọc kinh dài, xem lễ rước lễ hằng ngày và cầu nguyện lâu giờ. Những việc đạo đức này thật tốt, song chỉ là những phương tiện giúp chúng ta nên thánh chứ không phải là bản chất của sự thánh thiện.
Vì thế, sự thánh thiện cốt tại lòng mến Chúa và yêu người. Bất kỳ những gì, dù nhỏ bé, kín đáo, tầm thường đến đâu, song được làm vì lòng mến Chúa và yêu người, thì nó sẽ trở nên thánh thiện cho chúng ta. Bởi vậy, thánh Augustinô đã nói: Ama et fac quod vis, hãy yêu mến rồi làm gì cũng được.
Rất tiếc có những người đã uổng công xây căn nhà đạo đức thánh thiện của mình không đúng cách vì không có được lòng mến Chúa yêu người làm nền tảng, cho nên không bao lâu chiếc mặt nạ đạo đức bị rớt xuống, và họ chỉ là những kẻ giả hình, gian dối mà thôi. Chúa không kể thời gian lâu mau. Chúa không xét việc làm to nhỏ. Chúa không coi việc làm vất vả hay nhẹ nhàng, nhưng Chúa đo mọi hành vi chúng ta làm bằng tình yêu, Người dùng mức độ tình yêu để đánh giá và ấn định công trạng đời sống chúng ta. Bởi đó, yêu nhiều là làm nhiều, và làm nên công nghiệp của mình trước mặt Thiên Chúa.
38. Giới luật trọng đại - Lm. Minh Vận, CRM
Những người thuộc đảng Herođê gài bẫy Chúa về việc nộp thuế; những người thuộc phái Sadoc chất vấn Chúa về sự sống lại, đều bị thất bại; hôm nay nhóm Pharisiêu, là những kẻ tự hào là những thầy thông luật, lại dùng luật để đặt vấn đề với Chúa và hy vọng sẽ thắng được Ngài; nhưng rồi chúng ta thấy khi đọc tiếp đoạn Tin Mừng này, là tất cả đều phải câm miệng trước sự khôn ngoan và tài đối đáp của Ngài; khiến bọn họ phải kinh sợ hơn nữa khi thấy Ngài thấu suốt tâm tư và vạch trần những âm mưu của họ.
I. GIỚI LUẬT TRỌNG ĐẠI NHẤT
Như chúng ta được biết, trong thời Chúa Kitô sống tại Palestine, bộ luật của Maisen mà người Do Thái phải tuân giữ gồm có 613 khoản: 365 khoản cấm không được làm và 248 khoản buộc phải làm.
Nhóm Biệt Phái và Pharisiêu sau khi bàn bạc kỹ lưỡng, họ sai một luật sĩ thượng thặng trong bọn, đến hỏi thử Chúa: "Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?" Chúa trả lời: "Ngươi hãy kính mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất". Rồi Chúa lại nói tiếp: "Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Người hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi". Sau cùng, Chúa đã quả quyết: "Toàn thể lề luật và các lời tiên tri đều gồm tóm trong hai giới răn đó". Cũng như chúng ta đọc trong kinh 10 Điều Răn: "Mười điều răn ấy tóm về 2 điều này mà chớ, trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen".
Tại sao Chúa lại nhấn mạnh đến giới răn thứ hai cũng giống như giới răn thứ nhất, là vì Chúa thừa biết họ là những người tự hào, huyênh hoang công phúc việc lành họ đã làm, để chứng minh họ là những kẻ phụng sự yêu mến Thiên Chúa; nhưng họ lại sống ngược với tinh thần của Chúa, như chúng ta vừa nghe lời Chúa truyền trong sách Xuất Hành: "Không được ức hiếp khách ngoại kiều, khinh dể và làm hại cô nhi quả phụ; đặt lời ăn lãi quá mức với kẻ túng nghèo thiếu thốn!"
II. BÁC ÁI LÀ THƯỚC ĐO LÒNG MẾN CHÚA
Thấu hiểu giáo huấn của Chúa, các nhà tu đức đã quả quyết rất đúng rằng: "Bác ái huynh đệ là thước đo lòng kính mến Chúa". Thánh Gioan đã chẳng quả quyết: "Những ai cho mình là kẻ kính mến Thiên Chúa, mà lại thù ghét anh chị em mình, đó chỉ là những kẻ nói dối". Vì ngài lý luận: "Không yêu thương anh chị em mình là những kẻ mình xem thấy, mà lại nói là kính mến Thiên Chúa, Đấng mình không xem thấy sao được?"
Chính Chúa Kitô cũng đã xác nhận giáo thuyết này khi Ngài quả quyết: "Bao lâu các con làm những việc thiện này cho một trong những người anh chị em hèn mọn này là các con làm cho chính Ta". Chúa lại hứa trọng thưởng trong ngày chung thẳm, cho những ai thương giúp tha nhân, cũng như họ đã thương giúp chính Chúa.
Trong cuốn John Brown's Body, tác giả Stephen Benet thuật truyện một Đại Úy của chiếc tầu chuyên chợ nô lệ. Stephen viết: "Đại Úy có vẻ sốt sắng và đạo đức. Ông đọc kinh mỗi ngày, nhưng ông lại không quan tâm gì về việc bán người nô lệ là một việc bất công". Nếu có dịp giao tiếp tại nhiều cộng đoàn hay Giáo Xứ, chúng ta sẽ thấy có rất nhiều người có vẻ rất sốt sắng, đạo đức còn hơn cả ông Đại Úy thuyền trưởng chuyên buôn bán người nô lệ chúng ta vừa nghe: Họ đọc kinh như pháo rang, không bỏ Thánh Lễ nào, có ngày Chúa Nhật dự cả 2, 3 lễ, các giờ chầu, các cuộc cung nghinh hay bất cứ một việc đạo đức nào không bao giờ thấy họ vắng mặt. Thế nhưng, ai lỡ làm điều gì phật lòng họ thì họ không thể tha thứ được, họ hờn giận từ năm này sang năm kia; ngay cả con cái trong nhà, họ cũng nguyền rủa, chửi bới và từ rẫy. Hễ thấy một chướng tái gai mắt nào, chẳng hạn thấy một cô, một cậu nào có vẻ cao bồi, áo quần "new way", tóc tai bù xù, là họ đã kết tội là: "Đồ mất dạy, đồ quỉ sứ, thế mà chúng nó còn dám lên rước Chúa à!"
III. MỘT TẤM GƯƠNG BÁC ÁI CAO CẢ
Maria Goretti sinh năm 1890 và chết vì bảo vệ đức trinh khiết năm lên 12 tuổi. Goretti là con thứ ba trong gia đình 7 anh chị em. Vì bố chết sớm, mẹ phải đi làm thuê để nuôi các con, Goretti mặc dầu mới lên 9 tuổi, đã phải săn sóc các em và dọn dẹp nhà cửa thay mẹ. Khi lên 11 tuổi, Goretti được chịu lễ lần đầu. Liền sau đó, Goretti phải trải qua một cơn thử thách vô cùng nặng nề về đức trinh khiết. Alexandro, một thanh niên hàng xóm, say mê sắc đẹp của Goretti và ép Goretti phạm tội. Vì Goretti yêu mến Chúa hết lòng, nên đã chống lại Alexandro và nói với y: "Không được làm thế, vì đó là tội trọng mất lòng Chúa". Alexandro nổi giận và đâm Goretti nhiều nhát dao khiến Goretti phải quần quoại trong vững máu. Goretti được cấp tốc đưa vào bệnh viện cấp cứu, và sau 24 giờ, Goretti đã từ trần trong hương thơm thánh thiện. Khi Goretti gần chết, Linh Mục đưa Mình Thánh Chúa đến cho em lãnh nhận như của Ăn Đàng. Ngài hỏi em cũng cùng một lời mẹ em đã hỏi trước: "Goretti, con có tha cho Alexandro, kẻ thù của con như Chúa đã tha thứ cho kẻ thù của Chúa trên Thánh Giá không?" Goretti thưa: "Thưa Cha, con đã tha cho Alexandro và con hứa sẽ cầu nguyện cho Alexandro được ơn ăn năn thống hối". Alexandro bị vào tù. Rồi sai khi tỏ dấu hối cải, anh đã được tha. Anh còn được một ơn cao cả hơn nữa, là anh đã xin vào giúp việc trong tu viện Dòng các Cha Capuscim cho đến chết. Đó là ơn mà Goretti, vị Thánh đã được Đức Thánh Cha Pio XII tôn phong lên Bậc Hiển Thánh của Giáo Hội năm 1950 cầu bầu cho.
Kết Luận
Chớ gì chúng ta không coi ai là kẻ thù, trái lại còn biết nhận thấy Chúa ở nơi tha nhân. Nếu tha nhân làm mích lòng chúng ta, chúng ta nhận ra đó là những phương tiện Chúa dùng để có dịp cho chúng ta lập công. Không những thế, chúng ta còn cầu nguyện, giúp đỡ, đoán ý lành, tha thứ và làm ơn cho những kẻ làm phiền lòng chúng ta theo gương Chúa, Đức Mẹ và các Thánh đã từng thương yêu và tha thứ cho những kẻ thù ghét làm khốn mình nữa.
Hơn nữa, chúng ta còn có nhiệm vụ rao giảng Đức Bác Ái thương yêu của Chúa cho kẻ khác, để chinh phục họ về cho Chúa bằng chính đời sống Bác Ái yêu thương của chúng ta, đúng như lời Chúa đã truyền dạy: "Các con hãy làm việc thiện để người ta thấy việc các con làm mà ngợi khen Cha chúng con trên trời" (Mt 5:16).
39. Mến Chúa và yêu người
(Suy niệm của Lm. VIKINI – Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Mẹ Têrêxa Calcutta kể: "Hôm ấy, một người lạ mặt đến nhà dòng, ông thấy một Sơ vừa đem về một người hấp hối, nằm bên ống cống, mình đầy giòi bọ rất hôi thối. Thế mà, Sơ rất nương nhẹ nhặt từng con bọ với vẻ mặt vui tươi, thanh thản đầy thương mến... Rồi người lạ đến gặp tôi nói: Thưa mẹ, khi con đến đây với lòng đầy căm hờn của một người vô tín ngưỡng. Nhưng bây giờ con ra về với một tâm hồn hoàn toàn đổi mới. Con bắt đầu tin Chúa, bởi vì con đã chứng kiến tình yêu của Chúa được diễn tả một cách cụ thể qua hành động và qua cách Sơ ấy đã đối xử với người hấp hối bẩn thỉu kia. Bây giờ con tin thật Chúa là tình yêu. Không có tình yêu Chúa trong tâm hồn, không thể nào có đủ nghị lực để yêu tha nhân được".
Thực vậy, không mến Chúa, không thể yêu người vô vị lợi được. Vì thế Chúa Giêsu đã nhấn mạnh cho mọi người nhận biết hai giới răn quan trọng nhất là: " Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn ngươi... và điều thứ hai giống điều răn ấy: ngươi phải yêu người đồng loại như chính mình".
Lời tuyên bố đó, chấm dứt sự tranh luận của các phe phái Do thái về luật nào quan trọng nhất, giống như lời của bậc thầy chấm dứt cuộc tranh cãi của các học trò.
Tuy nhiên Chúa Giêsu không nói rõ lý do tại sao phải mến Chúa trên hết và thương người như chính mình. Thực ra lý do đã nằm sẵn trong lời tuyên bố của Chúa rồi.
Trước nhất tại sao phải mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn, thánh Marcô còn thêm: hết sức, vì tất cả sức lực thể xác, lòng muốn, trí khôn, linh hồn đều là của Thiên Chúa ban. Tất cả những khả năng ấy được có, được sinh hoạt, được phát triển và thăng tiến đều do bàn tay Chúa. Nếu chúng biết nhận ra Thiên Chúa là chủ của chúng, để nương tựa vào chủ, hướng về chủ, hoạt động theo chủ, thì chúng sẽ được chủ quý chuộng, tô điểm xinh đẹp và cho chúng sống muôn đời. Khi hoàn thành bức điêu khắc tượng Môisê, một kiệt tác thể hiện được hết tinh thần sống động của mình đến nỗi thiên tài Michel-Ange đã hét lớn vào tai tượng: Hãy nói đi. Thiên Chúa cũng đang hét lớn vào lòng trí, linh hồn của mỗi người chúng ta: Hãy yêu mến đi để ngươi nên giống Ta! Vì Ngài đã dựng nên ta, kiệt tác hơn muôn loài trong vũ trụ. Nhận biết mình được Thiên Chúa dựng nên lạ lùng như thế, Salomon đã cầu nguyện thế này: "Lạy Chúa, con sinh ra cốt cách tinh anh, được một hồn lương hảo, tốt lành, được vào một thân xác không tì ố, nhưng Thiên Chúa không ban, con không thể có được khôn ngoan... nên con thưa với Chúa và cầu xin Người hết lòng con" (Kn. 8, 19-21). "Như vậy, lạy Chúa, những đứa con mà Ngài yêu mến sẽ học biết rằng không phải các thứ hoa quả nuôi sống con người. Nhưng là lời Người bảo tồn những ai tin cậy vào Người" (Kn. 16, 26).
Thứ đến, tại sao phải yêu đồng loại như chính mình? Thưa vì đồng loại là những người có ruột thịt, máu mủ giống mình, là những người gần gũi mình, sống chung với mình, cùng loại với mình, cùng bản chất tinh thần và thân xác như mình. Cho nên, đã cùng loại với mình thì dù đó là người Samari hay Israel, Hy Lạp hay Do Thái, nô lệ hay tự do, chủ hay thợ, người sang hay hèn, mình phải yêu họ như chính mình. Tại sao khi thấy họ bị đánh nhừ tử nửa sống nửa chết lại bỏ tránh đi? Tại sao không biết lấy dầu, lấy rượu xoa bóp băng bó vết thương cho họ như người Samari nhân hậu. Chỉ những ai như người Samari biết thương xót người, thấy người khổ như mình khổ, cứu người đau như mình đau, mới được Chúa Giêsu đánh giá là yêu người như chính mình. Từ trên núi Sinai, Chúa đã truyền cho dân Israel phải thương mến giúp đỡ những người bị khinh bỉ, như mẹ góa con côi, những người nghèo đói, ngoại kiều, thì mới thật sự xứng đáng là dân riêng của Chúa (Bài đọc I - Xh. 22, 21-22)
Biết được những lý do tại sao phải mến Chúa và yêu người, ta còn phải biết mến Chúa và yêu người đến mức độ nào, mới thật là mến Chúa yêu người.
Mức độ Chúa Giêsu kêu gọi là: hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Đó là mức độ mến Chúa, còn yêu người đến mức độ như yêu chính mình. Nói khác đi, mến Chúa và yêu người phải tới độ tuyệt đối. Sau đây chúng ta thử xét xem lòng mến Chúa và yêu người của chúng ta đến mức độ nào?
Phần đông mến Chúa bằng làm những việc đạo như giữ mười điều răn, đi lễ Chủ nhật, xưng tội, rước lễ v.v... ở mức độ sợ tội, sợ mất linh hồn, sa hỏa ngục, nên chỉ cố gắng tránh những tội nặng, còn chửi tục, chửi nhau, bỏ học lời Chúa, bỏ lễ thường, lỗi bổn phận hàng ngày, phạm tội nhẹ như uống nước. Họ giống như đứa con sợ bố đánh mới nghe lời. Khi khuất mặt bố, nó không sợ nữa, nó đánh nhau, phá phách nghịch quấy, trộm vụng bất kể. Người mến Chúa chỉ lo sợ phạt chết đời đời cũng vậy. Họ chỉ yêu ai thân mình, chào kẻ chào mình, làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình " thì anh em còn được công chi?" (Mt. 5, 46).
Đó là hạng người mến Chúa yêu người vì lợi cho mình. Họ là những kẻ ích kỷ.
Một số mến Chúa vì thấy Chúa tốt lành, nhận ra những công ơn vô cùng của Chúa ban, nên họ cố gắng đền đáp; nhận ra lời Chúa là lời hằng sống, chân thật, thánh thiện, nên họ cố gắng thực thi. Họ như đứa con hiếu thảo thấy công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra vô tận, nên lo sống xứng đáng đẹp lòng cha mẹ. Vì thế họ cũng cố gắng noi gương nhân hậu của Chúa phần nào đó. Họ là những người tốt lành, cũng biết làm ơn giúp đỡ người khác, hy sinh chịu đựng tha thứ kẻ làm khổ mình. Lúc bình thường họ giống như các môn đệ Chúa, rất chịu khó đi công tác, làm việc tông đồ. Khi gặp thử thách nguy khốn như lúc Thầy bị bắt... thì bỏ trốn. Họ trốn tránh những việc khó khăn, gian lao, nguy hiểm. Họ mến Chúa và yêu người ở mức bình thường.
Một số rất ít họ là những người lành mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn nghĩa là mến Chúa trọn vẹn, sẵn sàng hy sinh mọi sự, kể cả mạng sống mình vì mến Chúa. Ở mức độ mến Chúa tuyệt vời này, họ thương yêu hết mọi người dù xa lạ, dù hèn mọn, dù là kẻ thù, họ thấy tất cả là chi thể của Đức Kitô, lúc sáng láng trên núi Tabo cũng như lúc ô nhục khốn cùng trên núi Sọ. Chỉ có các thánh đã mến Chúa và thương người được thế thôi, như thánh Phaolô nói: " Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo? như có lời chép: chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết. Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng, nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta" (Rm. 8, 35-37).
Lạy Chúa Giêsu, xin thêm lòng mến cho con. Xin đốt lửa kính mến Chúa và yêu người trong trái tim con.
40. Chúa là Thiên Chúa…
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, về nội dung, có thể nói làm sáng tỏ ý nghĩa của bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước. Đó là lý do, Giáo Hội không chọn đọc đoạn Phúc Âm tiếp ngay sau bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước về vấn đề kẻ chết sống lại để trả lời cho nhóm Sađucê, một vấn đề không trực tiếp liên quan đến ý nghĩa sâu xa của bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước và Chúa Nhật tuần này. Thật vậy, trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước Chúa Giêsu đã lợi dụng vấn đề “trả thuế cho Cêsa có hợp lý hay chăng?”, do nhóm đồ đề của phái Pharisiêu đặt ra để gài bẫy lời nói của Người, để kêu gọi chung tất cả mọi người và riêng thành phần chất vấn Người rằng: “Hãy trả cho Cêsa những gì của Cêsa và hãy trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”. Qua câu trả lời làm cho mọi người ngỡ ngàng này, Chúa Giêsu chẳng những đã kêu gọi riêng thành phần chất vấn Người và chung dân tộc Do Thái của họ là hãy vì Chúa mà nộp thuế cho Cêsa, tức hãy hàng phục Cêsa là nhân vật Thiên Chúa duy nhất của họ đã muốn dùng để kéo họ về với Ngài, vì thực tế họ đã không “trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa”, những gì Thiên Chúa muốn chứ không phải những gì họ nghĩ ra, những gì theo ý riêng của họ. Trong bài suy niệm Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước tôi đã chia sẻ vấn đề dân Do Thái này như sau:
“Thật vậy, vấn đề Chúa Giêsu trả lời cho vấn nạn có âm mưu của nhóm người Pharisiêu trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, nếu để ý, sẽ thấy có liên hệ đến ba dụ ngôn Người đã nói với thành phần lãnh đạo dân Do Thái trong Phúc Âm ba tuần trước. Ở chỗ, thành phần lãnh đạo Do Thái nói chung, trong đó có những người thuộc nhóm Pharisiêu, như Nicôđêmô chẳng hạn (x Jn 3:1), đã là người con chỉ làm theo ý mình, ‘vâng con đi’, mà thực tế không làm theo ý cha, tức họ đã không ‘trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa’; hay họ đã là bọn tá điền làm vườn nho cho chủ nhưng không sinh hoa lợi cho chủ như ý chủ muốn, lại còn sát hại các thừa sai của chủ, kể cả người con trai duy nhất của chủ, tức họ đã thực sự không ‘trả về cho Thiên Chúa nhưng gì của Thiên Chúa’; hoặc họ đã là những người được chính thức mời đến dự tiệc cưới của vua, song đã từ chối không chịu đến dự, thậm chí còn ra tay sát hại những đầy tớ của vua sai đi mời họ, tức là họ cũng đã không chịu ‘trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa’”.
Vậy, qua bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, Chúa Giêsu đã vạch rõ lý do tại sao họ đã không “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”, và đã xác định rõ cho chung con người, nhất là cho riêng dân Do Thái, biết những gì họ cần phải “trả về cho Thiên Chúa”, và họ phải “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa” bằng cách nào. Vấn đề của bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, qua câu trả lời của Chúa Giêsu cho nhóm Pharisiêu thông luật, đó là vấn đề kính mến Thiên Chúa hết bản thân mình và yêu thương nhau như bản thân mình, một vấn đề cốt lõi của tất cả lề luật và các lời tiên tri, như lời Chúa Giêsu khẳng định ở cuối bài Phúc Âm. Vậy nếu thành phần Pharisiêu nói riêng và dân Do Thái nói chung lại hết sức để ý đến lề luật và cặn kẽ tuân giữ từng điều luật của Thiên Chúa thì họ phải là những người đã kính mến Thiên Chúa hết bản thân của họ cũng như đã yêu thương tha nhân như bản thân của họ? Thế mà, theo Chúa Giêsu, Đấng thấu suốt lòng trí con người, họ chỉ là những kẻ tôn thờ Thiên Chúa bằng môi bằng miệng, còn lòng họ hoàn toàn xa cách Ngài (xem Mathêu 15:8), đúng như người con thưa với cha “vâng con đi” rồi lại không đi trong dụ ngôn cha kêu gọi hai con trai đi làm vườn nho cho ông. Điều Thiên Chúa muốn họ trả về cho Ngài đây không phải là môi miệng của họ, mà là tấm lòng của họ, không phải là việc làm bề ngoài của họ mà là lòng họ tin tưởng nhận biết Ngài, ở chỗ kính mến Ngài “hết lòng muốn, hết linh hồn, hết trí khôn”. Đó là lý do, trong bài đọc thứ hai Chúa Nhật tuần này, Thánh Phaolô đã nói đến việc “bỏ những ngẫu tượng mà quay về cùng Thiên Chúa, để phụng sự Ngài là Thiên Chúa hằng sống chân thật…”
Và chính vì họ không thực lòng kính mến “Chúa là Thiên Chúa” của họ như thế mà họ chẳng những đã không thể “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”, mà còn không thể “trả về cho Cêsa những gì của Cêsa” nữa. Tức là họ như tông đồ Phêrô nhìn tất cả mọi sự theo tự nhiên, theo phán đoán trần gian chứ không theo Thần Linh (xem Mathêu 16:23), và họ như tông đồ Gioan phản ứng hoàn toàn theo tự nhiên, những gì không hợp với họ (như đế quốc Rôma chẳng hạn) đều là kẻ thù của họ, cần phải loại trừ (xem Marco 9:38). Chẳng những thế, vì chỉ tìm mình hơn tìm Chúa, không “trả về cho Thiên Chúa” đúng như những gì của Thiên Chúa và như Thiên Chúa muốn, nên họ cũng đã không “trả về cho Cêsa những gì của Cêsa”, tức cho tha nhân những gì của tha nhân, trái lại, họ đã khinh thường, hà hiếp, bóc lột chính anh em mình, như trường hợp người Pharisiêu lên đền thờ cầu nguyện bộc phát đối với người thu thuế ở cuối đền thờ bấy giờ (xem Luca 18:11), những hành động được Sách Xuất Hành trong bài đọc thứ hai của Chúa Nhật tuần này liệt kê cấm không được làm. Có thể nói, nếu con người biết “trả về cho Cêsa những gì của Cêsa” là họ đồng thời cũng “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”. Hay nói cách khác, một khi họ yêu thương tha nhân như bản thân mình là chứng tỏ họ đã “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”, đã tỏ ra “yêu Chúa là Thiên Chúa hết lòng muốn, hết linh hồn và hết trí khôn” của họ.
Như thế, con người phải “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa” là chính tấm lòng của mình, và trả về cho Ngài bằng cách “yêu thương tha nhân như bản thân mình”. Thế nhưng, chỉ khi nào con người biết “kính mến Chúa là Thiên Chúa của mình hết lòng muốn, hết linh hồn và hết trí khôn” con người mới có thể vừa “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa” vừa “trả về cho Cêsa những gì của Cêsa” mà thôi. Thế nhưng, vấn đề ở đây là tại sao con người phải “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”? Hay tại sao con người phải “kính mến Chúa là Thiên Chúa của mình hết lòng muốn, hết linh hồm và hết trí khôn”? Nếu không phải tại vì “Chúa là Thiên Chúa”!
Đúng thế, theo tiến trình Mạc Khải Thần Linh trong Lịch Sử Cứu Độ của dân Do Thái thì vị “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24), “là Đấng vô hình” (Col 1:15), đã tự ý tỏ mình ra trong lịch sử loài người, cách riêng cho một dân tộc được Ngài tuyển chọn là dân Do Thái. Bằng cách đã tự động lập giao ước với tổ phụ của họ là Abraham và đã giữ trọn những gì Ngài đã hứa với con cháu của ông (xem Luca 1:55), một giao ước và lời hứa đã được nên trọn nơi Đức Kitô Thiên Sai Con Ngài (xem Heb 1:2), Người Con Ngài đã làm đám cưới cho, như dụ ngôn của bài Phúc Âm hai tuần trước. Phải, Người Con này “đã hóa thành nhục thể” (Jn 1:14), đã nên một với loài người, đã cưới lấy nhân tính loài người, như vợ chồng nên một thân thể với nhau, nhờ đó hết mọi người không trừ ai, kể cả Do Thái lẫn Dân Ngoại, đã được mời đến tham dự bữa Tiệc Cưới Thần Linh ấy, một Tiệc Cưới mà thực phẩm Tân Ước tuyệt hảo được thiết đãi nhưng không là chính Mình Máu của Con Thiên Chúa, làm cho khách dự tiệc “được sự sống và là một sự sống viên mãn hơn” (Jn 10:10). Chính vì Thiên Chúa đã yêu nhân loại chúng ta trước một cách nhưng không và vô cùng như vậy mà chúng ta phải kính mến Ngài (xem 1Jn 4:19), bằng chính tình Ngài yêu thương chúng ta. Vì “Chúa là Thiên Chúa” đã yêu thương chúng ta vô cùng bằng chính con tim nhân loại của Con Ngài, thì chúng ta cũng chỉ có thể trả lại cho vị “Thiên Chúa là tình yêu” (1Jn 4:8,16) toàn thiện toàn ái này một cách cân xứng bằng con tim nhân loại của Đấng đã dạy chung Giáo Hội Nhiệm Thể của Người cũng như riêng thành phần môn đệ của Người rằng “Các con hãy yêu nhau như Thày đã yêu các con” (Jn 13:34;15:12).
41. Trò chơi hòa bình
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Ngày kia, ông Macsa, một nhà văn người Nga, đi ngang qua một sân chơi, ông dừng lại quan sát một đám trẻ em trạc tuổi lên 6 lên 7 đang chơi với nhau. Thấy chúng chơi trò gì là lạ, ông cất tiếng hỏi:
- Này các cháu, các cháu đang chơi trò gì thế?
Đám trẻ nhốn nháo trả lời:
- Chúng cháu chơi trò đánh nhau.
Nghe thế ông Macsa hơi cau mày, rồi gọi các em đến, ông ôn tồn giải thích:
- Tại sao các cháu chỉ chơi trò đánh nhau mãi. Các cháu biết chứ, đánh nhau hay chiến tranh có gì là đẹp đâu. Các cháu hãy chơi trò hòa bình xem nào.
Ông vừa dứt lời, một em bé reo lên:
- Phải rồi, tụi mình thử chơi trò hòa bình một lần xem sao.
Thế là cả bọn kéo nhau ra sân, chụm đầu vào nhau bàn tán. Thấy chúng chấp nhận ý kiến của mình, nhà văn hài lòng mỉm cười tiếp tục đi. Nhưng chưa được mấy bước ông nghe có tiếng chân chạy theo. Và chưa kịp quay lại, ông đã nghe giọng của một em bé hỏi:
- Ông ơi, trò chơi hòa bình làm sao? Chúng cháu không biết.
Thưa anh chị em, làm sao trẻ em biết chơi trò hòa bình, khi người lớn cứ chơi trò chiến tranh? Làm sao trẻ em biết chơi hòa bình, khi trong nhà, cha mẹ, anh chị lớn bất hòa, cãi cọ… khi ngoài xóm ngõ người lớn chửi bới, đánh nhau…? Làm sao trẻ em biết chơi trò hòa bình, khi chúng vẫn thấy trên Tivi, báo chí, những cảnh chiến tranh khốc liệt, khủng bố và chém giết dã man?
Dường như thế giới ngày nay chỉ muốn giải quyết những tranh chấp, những xung đột lan tràn bằng bạo động, bằng vũ khí giết người. Mặc dù thế giới đang có trong tay sức mạnh vạn năng của tình yêu, nhưng chỉ một ít người biết sử dụng:
- Mục sư Luther King, người da đen, đã sử dụng khí giới của tình yêu. Ông đã ngã gục, nhưng hàng triệu người da đen đã được đưng lên làm người như những người da trắng.
- Đức Giám Mục Đêmông Tutu, người Nam Phi, cũng đã đi theo vết chân của Ganđi và Luther King.
- Mẹ Têrêsa thành Calcutta cũng đang dùng khí giới của tình yêu để những người không nhà không cửa, những người hấp dẫn hối đầu đường xó chợ được sống và chết như những con người.
Tất cả những tấm gương đó trên đây chỉ là phản bội của một Tình Yêu trọn vẹn hơn. Đó là tình yêu của Đấng đã chịu chết cho người mình yêu. Chính Ngài đã dạy chúng ta điều luật của trò chơi hòa bình. Đó là tình yêu: Yêu Chúa và yêu người. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đáp lại vấn nạn của nhà thông luật Pharisêu về điều luật trọng nhất, bằng cách ghép lại hai điều luật của tình yêu: “Yêu Chúa với tất cả trái tim (Đnl 6,5) và yêu người như yêu mình” (Lv 19,18). Chúa Giêsu đã không đưa ra một điều gì mới mẻ. Nhưng cái độc đáo của Ngài đã cho thấy đâu là cái cốt yếu, cái quan trọng nhất của Luật Môsê: yêu Chúa hết lòng và yêu người như chính mình, cả hai điều luật đều có tầm quan trọng như nhau. Như thế, Ngài đã giải phóng con người khỏi một khối lượng lớn các điều răn (613 điều: 365 điều cấm làm, 248 điều phải làm), để rồi tập trung vào việc tuân giữ hai điều luật chủ yếu: Mến Chúa- Yêu người. Giữ được hai điều luật ấy là chu toàn tất cả pháp luật. Yêu người là thước đo lòng yêu mến Chúa. “Ai không yêu người anh em mình thấy trước mắt, tất cả cũng không thể yêu mến Thiên Chúa mà mắt mình không thấy được” (1Ga 4,20).
Thế nhưng, trong thực tế hằng ngày, có lẽ chúng ta thường quen tách rời Thiên Chúa ra khỏi yêu người; coi như hai điều luật hoàn toàn không liên hệ gì với nhau. Do đó, chúng ta có thái độ mâu thuẫn rõ rệt: làm việc gọi là đạo đức để yêu mến Chúa, nhưng đồng thời cũng làm những việc ám hại tha nhân để trục lợi hoặc ít ra cũng dửng dưng với những nhu cầu cấp bách của người khác. Chúng ta chỉ chú trọng đến việc gọi là mến Chúa mà không tha thiết gì đến việc thương người. Có khi chỉ mến Chúa yêu người vì có thể trục lợi được, chứ không phải vì đó là ý Chúa muốn, là bổn phận của con cái Chúa và vì là anh em với nhau. Mến Chúa bằng cách yêu tha nhân, yêu tha nhân là cách thế tỏ lòng yêu mến Chúa, đó là đều chúng ta phải qua tâm và áp dụng thực hành.
Tuy nhiên, chúng ta đừng quên: “Tình yêu tha nhân phải được nền trên tình yêu Thiên Chúa. Khi trái tim tôi thuộc trọn về Thiên Chúa thì ngay lúc ấy nó cũng thuộc trọn về tha nhân. Người ta chỉ có khả năng yêu tha nhân đến vô cùng khi được tình yêu Chúa chiếm hữu” (Rm 5,5). Trong Chúa, tôi bắt gặp tha nhân là anh em tôi. Trong Chúa, tôi cảm nhận được phẩm giá đích thực và trọn vẹn của một con người, dù đó là một người bệnh tật hay già yếu, một phạm nhân, một người mất trí, một thai nhi còn trong bụng mẹ, một thiếu nữ lầm lỡ, một người mắc bệnh Sida… Trong Chúa, tôi yêu mến họ và nhận ra chính khuôn mặt của Chúa Giêsu đang đau khổ, đói khát, trần trụi, yếu đau, ở tù, cô thế cô thân… (x.Mt 25,35-36).
Tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa thì đưa tôi về với anh em. Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên Chúa, nguồn mạch tình yêu, để múc lấy ở đó sức mạnh hầu tiếp tục trao hiến. Đó là nhịp sống bình thường của người Kitô hữu: cứ đong đưa giữa hai tình yêu. Chính nhờ sự đong đưa này mà trái tim tôi được dần dần mở ra và trở nên giống như trái tim Chúa Giêsu trên Thập giá.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta chỉ là Kitô hữu đích thực khi sống bằng chính sức sống và tình yêu của Đấng đã sống và chết vì yêu thương ta. Chừng nào thế giới của người lớn chúng ta biết sống quảng đại yêu thương, biết giải quyết những tranh chấp không thể tránh được bằng đường lối ôn hòa, thông cảm và tha thứ, chừng đó thế giới trẻ thơ mới biết trò chơi hòa bình, mới triển nở được trong bầu khí hồn nhiên tươi sáng, hứa hẹn một tương lai huy hoàng cho gia đình, xã hội và thế giới.
42. Luật yêu mến. – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Người Do Thái có quá nhiều luật lệ. Họ lại có thái độ duy Lề Luật. Nên tỉ mỉ tuân giữ tất cả mọi điều. Không còn biết điều nào là chính điều nào là phụ nữa. Hôm nay, nhân một câu hỏi. Chúa Giêsu đã cho ta biết chỉ có một điều luật quan trọng: LUẬT YÊU MẾN. Luật này có 2 khía cạnh.
1) Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Nghĩa là yêu mến hết khả năng, hết sức lực. Ta phải yêu mến Chúa như thế thật hợp tình hợp lý.
Vì Chúa đáng yêu đáng mến vô cùng. Chúa là nguồn mạch mọi sự thiện hảo. Ngài là toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ. Nơi Ngài không có một tì vết, khuyết điểm nào. Trong đời sống ai cũng yêu thích những gì tốt đẹp. Chúa là Đấng vô cùng tốt đẹp. Yêu mến Ngài là điều tự nhiên. Ai hiểu biết cũng đều yêu mến Chúa.
Hơn nữa Chúa còn là Đấng sinh thành ra ta. Chính Chúa ban cho ta tất cả. Ta có mặt ở đời này là do ý định của Chúa. Tất cả nhừng gì chúng ta có và chúng ta là đều bởi Chúa. Chúa là vị ân nhân lớn nhất của ta. Yêu mến Chúa là việc làm không những tự nhiên mà còn là bổn phận nữa.
2) Yêu người thân cận như chính mình. Đó là điều răn thứ hai mà Chúa Giêsu nói cũng giống như điều răn thứ nhất. Thực ra đó chỉ là một điều răn vì những lý do sau:
Yêu Chúa và yêu người là hai khía cạnh của một tình yêu. Tình yêu chân thật là tình yêu không có giới hạn, không có loại trừ. Vì thế đã yêu Chúa thì phải yêu người. Nếu tình yêu bị giới hạn, có loại trừ thì sẽ trở thành giả tạo.
Tình yêu đối với tha nhân kiểm chứng tình yêu đối với Thiên Chúa. Thánh Gioan Tông đồ đã nói: “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta nhận được từ nơi Người: Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1Ga 4,20-21).
Còn hơn thế nữa. Ai yêu anh em là yêu chính Chúa. Vì Chúa ở trong anh em. Hơn thế nữa, Chúa ẩn thân trong những anh em bé mọn nhất. Vì thế trong ngày phán xét Chúa nói với ta rằng: “Ta bảo thật cho các người: mỗi lần các người làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các người đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25-40).
Tất cả mọi điều răn khác đều quy về hai điều răn này. Nếu ta giữ trọn vẹn giới răn này, không những ta chu toàn Lề Luật mà còn góp phần xây dựng một thế giới mới, thế giới chan hòa yêu thương, chan hòa tình người. Và đó chính là khởi điểm của thiên đàng mai sau.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Yêu mến Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn. Bạn thấy điều này có hợp tình hợp lý không?
2) Tại sao ta phải yêu tha nhân?
3) Bạn có cảm nghiệm được niềm vui khi ta yêu thương không?
4) Bạn nghĩ thế nào về một thế giới trong đó chỉ có những người yêu thương nhau.
43. Tại sao Thiên Chúa làm người – Achille Degeest
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Vào thời Chúa Giêsu có 2 phong trào đối địch cố gắng nắm lấy uy thế lãnh đạo dân Do thái, đó là phái sa-đốc và biệt phái. Những người sa-đốc đã bị Thày chí thánh khóa miệng, đến lượt những người Biệt phái tìm cách gây khó cho Ngài; nếu thành công họ sẽ được hai cái lợi: qua mặt người sa-đốc và tiêu hủy uy tín của Chúa Giêsu. Họ hội họp nhau trong ý định ấy và thỏa thuận gởi một người trong bọn họ, chuyên gia về Lề luật, đến gặp Chúa Giêsu để hỏi Người về vấn đề tranh luận bất tận trong giới ký lục và luật sĩ. Thực vậy họ đã mổ xẻ lề luật và đã chia lề luật làm 613 huấn giới, 365 điều cấm, 48 chỉ thị. Trước một toàn bộ như thế, một số người Do thái bỏ hết thời giờ xem xét cách sống của mình để sao cho phù hợp với lề luật, một số thì chịu. Do đó một số mới tự hào xem mình là công chính và một số khác sinh lo âu thấy mình là kẻ phạm luật. Cả 2 đều không biết đến sự tự do tinh thần của tình yêu. Vì thế hiểu được có nhu cầu tổng hợp và đơn giản hóa lề luật. Các người Biệt phái chất vấn Chúa Giêsu về vấn đề tế nhị này. Ngài tổng hợp ra sao, Ngài đơn giản theo nguyên tắc nào? Câu trả lời của Chúa Giêsu không muốn mới mẻ và đề ra cái độc đáo. Chỉ có thể nằm trong đường hướng nguyên thủy của một bản luật do Thiên Chúa ban truyền. Câu trả lời chỉ nhắc lại. Thái độ vụ luật tỉ mỉ chi li của người Biệt phái hay khiến họ quên điều chính yếu của lề luật: do Thiên Chúa ban truyền. Luật thánh nhằm nối kết con người với Thiên Chúa. Chúa Giêsu nhắc lại ngọn nguồn và ý nghĩa của lề luật là gì. Lề luật nhằm tạo tương quan yêu thương với Thiên Chúa là Tình thương; bởi đó tình yêu đồng đều Thiên Chúa ban phát cho mỗi người phải liên kết người ta lại với nhau bằng một phản ảnh của tình yêu ấy. Giới răn thứ nhất là kính mến Thiên Chúa và giới răn thứ hai giống như vậy yêu mến người lân cận.
1) Người ta có thể yêu mến Tuyệt đối được không? Có thể yêu mến Đấng xưng mình bằng danh “Ta có” không? Thờ phượng Ngài thì được, nhưng yêu mến Ngài? Thế nhưng tôn giáo Israel và Kinh thánh không ngừng diễn tả một tác động của tâm hồn phải gọi là tình yêu mến. Như vậy có nghĩa là mạc khải ban cho dân Thiên Chúa, khác hẳn các tôn giáo khác. Thông thường các dân chọn và tạo lấy cho mình các huyền thoại, các thần thánh. Trong trường hợp Israel, chúng ta thấy chính Thiên Chúa đã chọn lấy một dân, hành động khởi đầu do từ Thiên Chúa đến và là một hành động yêu mến. Israel được kêu mời yêu mến một Thiên Chúa không phải trừu tượng xa vời, nhưng là sống động và có mặt điều khiển lịch sử của dân. Hiểu cho đúng, lề luật đã khơi động tiềm lực của trái tim. Ta sẽ đặt Luật Ta vào đáy lòng chúng và sẽ viết lên trái tim chúng (Gr 31,33). Phải, người ta có thể yêu mến Tuyệt đối khi Tuyệt đối mang tên Thiên Chúa Israel. Do đó Chúa Giêsu quả quyết rằng giới răn thứ nhất là yêu mến Thiên Chúa.
2) Nhưng Thiên Chúa Israel đã có mặt và tích cực hoạt động trong lịch sử một dân tộc và trong tâm hồn các tín hữu, còn muốn hơn nữa, Con Thiên Chúa khi làm người ước ao được người ta yêu mến bằng tất cả tiềm năng của trái tim loài người. Yêu mến Đấng “Hằng có” được mạc khải cho Môi-sê là một giai đoạn đáng kể của quá trình nhân loại vươn lên tới Thiên Chúa, nhưng chưa phải là trình độ của Phúc âm. Từ Nhập thể Thiên Chúa đã làm người. Ngài có thể làm đối tượng cho toàn thể tác động thâm sâu bao gồm trí khôn, ý chí, cảm xúc, tóm gọn trong chữ “yêu mến” và tác động ấy đặt vào một ai có thể đến gần. Con Thiên Chúa đã đích thân đặt mình vào chỗ khả năng yêu mến của con người có thể tới. Một sự kiện đầy ý nghĩa. Chúng ta đều biết tầm quan trọng của tên người mà mình yêu trong khi yêu. Vậy mà Israel có lề luật tóm tắt trong việc yêu mến đã đánh mất cách đọc chân thật tên Thiên Chúa mình. Người ta không biết danh hiệu “Giavê” có phù hợp với cách đọc nguyên thủy của tên Thiên Chúa hay không. Từ Phúc âm thì không còn như thế nữa. Giáo hội (nghĩa là những người con ưu tú nhất của Giáo Hội) yêu mến Chúa mình là Đức Kitô đến nỗi sẽ không bao giờ quên Tên mà chỉ đọc lên đã làm vui thỏa các thánh. Tên cực trọng Giêsu.
44. Yêu như Chúa yêu
Dựa theo những điều Thiên Chúa truyền dạy trong sách Luật (Ngũ thư: Sáng Thế, Xuật hành, Dân số, Lêvi và Đệ Nhị Luật), những người lãnh đạo tôn giáo Do thái đã làm thành Bộ luật gồm 613 điều khoản và buộc mọi người phải tuân giữ. Vì thế, cuộc sống của người Do thái trở nên rất nặng nề. Họ cảm thấy như bị bao vây bởi "Bức tường luật" kiên cố. Đâu đâu cũng thấy sự ràng buộc mà không thấy sự cảm thông và tình yêu nâng đỡ. Từ đó, người ta bắt đầu có thái độ sống vị luật, sống giả hình. Một số người đem luật ra làm thước đo cho mọi chiều kích của con người trong cuộc sống. Ai giữ luật càng kỹ thì càng được coi là công chính.
Chúa Giêsu đã kịch liệt chỉ trích và lên án thái độ giả hình và vị luật của những người Biệt phái và những nhà thông luật. Bởi vì họ "đã chất lên vai người khác những bó nặng không thể vác nổi, còn họ thì không buồn đọng ngón tay vào lay thử".
Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu bị những người Biệt Phái âm mưu hại Ngài bằng việc họ đặt ra câu hỏi đâu là giới luật quan trọng nhất giữa một rừng luật như thế? Dù biết họ thử mình, nhưng Đức Giêsu vẫn trả lời cho họ để mở mắt cho họ thấy đâu là vấn đề quan trọng nhất cần phải làm để làm đẹp lòng Thiên Chúa và chu toàn Lề Luật của Chúa. Chúa nói: Toàn thể Lề luật và các tiên tri đều tóm trong hai giới răn này: Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu thương anh em như chính mình.
Chúa Giêsu đã làm một điều mới mẻ là Ngài đã nâng giới luật yêu người lên tầm mức quan trọng ngang bằng với việc yêu mến hiên Chúa: Yêu người là yêu Chúa, và yêu mến Chúa thì phải yêu anh em mình. Vì thế, Thánh Gioan tông đồ nói: "ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình thì đó là kẻ nói dối"; "ai yêu thương thì được Thiên Chúa sinh ra".
Làm sao biết được mình yêu mến Thiên Chúa nhiều hay ít? Làm sao biết mình yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự hay chưa? Chúa Giêsu đã cho chúng ta câu trả lời rất rõ ràng: "Ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy". Giữ lời Thiên Chúa là ghi nhớ, yêu mến và đem ra thực hành. Điều quan trọng là làm theo Lời Chúa dạy chứ không phải nói "Lạy Chúa, Lạy Chúa". Thi hành lời Chúa dạy là điều đòi hỏi con người phải có nhiều cố gắng, hy sinh và quên mình. Những điều Chúa truyền dạy xem ra rất khó thi hành và đi ngược lại với những gì là tính toán của con người. Sống giá trị của Tin Mừng đòi hỏi con người phải lột xác, chấp nhận trở thành kẻ khờ dại giữa thế gian này.
Nếu yêu mến Thiên Chúa đã khó như thế thì yêu người lại càng khó khăn hơn, nhất là khi Chúa dạy phải yêu thương kẻ thù của mình. Nhưng chúng ta cần nhớ rằng: Chúa không chơi xấu! Chúa không bao giờ bắt chúng ta làm điều gì quá sức mình. Vì thế, ở đâu khó thì ở đó có ơn Chúa. Điều quan trọng là chúng ta hãy cộng tác với ơn Chúa và hãy sống hết mình trong nỗ lực yêu thương con người.
"Yêu anh em như yêu chính mình". Không ai lại ghét mình bao giờ! Vì thế, nói yêu anh em mình thì hãy yêu cách chân tình, không yêu trên đầu môi chót lưỡi. Yêu thương thật sự là muốn điều tốt cho người mình yêu, là chia sẻ thật sự cho anh em mình ngay cả những gì mình yêu quí và gắn bó. Câu chuyện về hai vợ chống trẻ tỉ phú Bill Gate, người giàu nhất thế giới, đã làm cho mọi người kinh ngạc. Họ đã tự nguyện tặng 95% giá trị tài sản của họ để làm từ thiện. Ước tính khoảng hơn 43 tỷ USD được trao tặng và có khoảng 43 triệu trẻ em nghèo được hưởng lợi từ tấm lòng của những con người hảo tâm này. Giờ đây, có lẽ vợ chống Bill Gate không còn là người giàu nhất thế giới về tiền bạc nữa, nhưng họ sẽ là người giàu nhất thế giới về tấm lòng quảng đại và chia sẻ! Yêu thương là biết hành động theo điều thiện, là thật tình chia sẻ!
Chúng ta hãy tập yêu thương anh em mình bằng cách tập nghĩ tốt, nói tốt và làm những điều tốt cho họ. Đừng dừng lại ở việc cầu chúc những lời tốt cho người khác, nhưng hãy tiến tới hành động. Bởi lẽ, không ít những kẻ: "Miệng thì chúc phúc cầu an, mà lòng nguyền rủa chứa chan những lời". Con người phức tạp lắm! Chúng ta đừng đóng kịch với nhau trong cuộc sống. Bởi lẽ, không ai giữ được những điều giả dối suốt cuộc đời mình. Hơn nữa, chúng ta có thể qua mặt được hết mọi người, nhưng không thể qua mặt được lương tâm của mình và càng không thể qua mặt được Thiên Chúa. Thái độ giả hình luôn là điều mà Đức Giêsu lên án nặng nề nhất. Harret Beecher Stowe đã chia sẻ cho chúng ta một kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa quí báu như sau: "Tôi tìm kiếm linh hồn tôi nhưng tôi không thấy. Tôi tìm kiếm Thiên Chúa nhưng Ngài ở ngoài tầm tay tôi. Tôi tìm kiếm anh em và tôi gặp được cả ba". Quả thật, yêu người là yêu Chúa. Gặp được anh em mình chính là gặp được Chúa vậy!
45. Khi hai mặt của đồng tiền bằng nhau.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Nếu một cuộc trưng cầu dân ý được hỏi ý kiến của mọi người xem ai là người đá banh hay nhất trong mọi thời, hoặc ai là diễn viên giỏi nhất, hoặc ai là nhà soạn nhạc giỏi nhất, thì sẽ có rất nhiều ý kiến. Vì hôm nay những người đương thời với Chúa Giêsu đặt ra câu hỏi: điều nào trong lề luật là cao trọng nhất? Điều đó có một câu trả lời đơn giản hiển nhiên cho bất cứ một ngươi Do thái sốt sắng nào. Dù cho lề luật của người Do thái rất nhiều những không có gì ngạc nhiên khi Chúa Giêsu trả lời: “Các người hãy yêu mến Thiên Chúa là Thiên Chúa của các ngươi với hết tâm hồn, hết trái tim, hết trí khôn ngươi”. Những điều đáng ngạc nhiên là Chúa Giêsu đã nhấn mạnh thêm: “Các người sẽ yêu mến người láng giềng của các người như chính mình”. Câu hỏi: “Lề luật nào là cao trọng nhất?” chỉ có một câu trả lời: Chúa Giêsu đã cho hai câu:
- Câu trả lời đầu tiên được trích từ sách Đệ Nhị Luật đoạn 6 câu 2
- Câu trả lời thứ hai từ sách Lêvi đoạn 19 câu 18.
Chúa Giêsu không nói một điều gì mới. Sự góp phần độc nhất của Người là nối kết hai điều luật, trong hai sách tách biệt của Thánh Kinh và làm chúng nên một. Sự nhấn mạnh của người là không thể có tình yêu thật, tình yêu Thiên Chúa thật, nếu không có tình yêu người láng giềng, tình yêu tha nhân, và không có tình yêu tha nhân nếu không có tình yêu Thiên Chúa.
Hầu hết mọi người có ý ngay lành đều thường nghĩ dễ dàng hơn hoặc ít đòi hỏi hơn, để yêu mến Thiên Chúa thì dễ hơn yêu mến con người. Sau hết chúng ta biết rằng Thiên Chúa là hoàn hảo. Nếu như chúng ta cảm thấy rằng Thiên Chúa không làm đúng bằng chúng ta, thì những lỗi nằm trong sự thất bại của chúng ta, chúng ta dễ hiễu vì chúng ta không phải là Thiên Chúa. Không thể nói về sự liên hệ của chúng ta với con người cách tương tự. Ngay cả những người mà chúng ta yêu mến cũng có thể làm phiền chúng ta lúc chúng ta đang tìm kiếm một chút bình an và thinh lặng, cản trở chúng ta khi chúng ta đang nói chuyện, hoặc khi chúng ta đang dò các kênh của TV, để tìm một chương trình đặc biệt, lời lẽ hùng biện của chính trị có thể khiến chúng ta chống lại những người mẹ không kết hôn đang phải nhờ vào trợ cấp an ninh xã hội, hay là những người tự mãn có thể ảnh hưởng chúng ta trong việc coi rẽ, khinh thường, những người không có việc làm và những người vô gia cư, và ý kiến chung có thể chuyển chúng ta tới một sự coi thường nền tảng sự sống con người qua việc phá thai, chết êm dịu, án tử hình.
Nếu tôn giáo của chúng ta nhấn mạnh không gì hơn là đến nhà thờ cám ơn Chúa vì những đặc ân Ngài ban và để cầu nguyện xin Ngài trợ giúp, điều đó sẽ hầu như luôn luôn là một sự thích thú và một kinh nghiệm dễ dàng. Nhưng ngay trong thánh lễ, chúng ta được kêu gọi để diễn tả tình yêu của chúng ta cho anh em đồng loại thấp kém hơn.
Sau bài giảng chúng ta cất tiếng nài xin cho những dự định quảng đại được thực hiện. Chúng ta thường cầu nguyện cho những nhu cầu của Giáo hội, cho nhà cầm quyền, cho sự cứu độ của thế giới, cho những người bị bất công, bị cướp mất những nhu cầu, cho cộng đoàn địa phương của chúng ta. Lời cầu nguyện này là một phần hợp pháp trong sự thờ lạy Thiên Chúa giúp chúng ta làm viên mãn lề luật yêu thương tha nhân, chúng ta trao cho nhau những dấu chỉ chúc bình an, và điều này thật sự là một lời cầu nguyện khiến chúng ta có thể hoàn tất sự hợp nhất và bình an với những người khác mà Chúa Giêsu trong Thánh Thể đã dự định dành cho chúng ta.
Sự cám dỗ là tách biệt tình yêu Thiên Chúa ra khỏi tình yêu tha nhân. Chúa Giêsu sẽ không nghe những lời nguyện ấy. Lề luật yêu mến Thiên Chúa và lề luật yêu mến tha nhân tuy đã được giới thiệu trong hai sách riêng biệt của Thánh Kinh, nhưng chúng không được tách riêng trong trái tim của chúng ta, trong hành động của chúng ta.
46. Giới răn trọng nhất
Tại thành phố Miami, nước Mỹ, ngày 03/10/1970, cô Edwarda, mới 16 tuổi, đã lâm vào tình trạng hôn mê, do bệnh tiểu đường. Trước lúc sự việc xảy ra, cô quay sang mẹ nài nỉ: "Mẹ ơi, mẹ hứa đừng bao giờ bỏ con mẹ nhé!" Đến hôm nay, hơn 30 năm rồi, cô gái sống như "thực vật" không còn biết gì cả. Vậy mà bà Kaye O'Bara, mẹ cô, vẫn can đảm chăm sóc cho con. Cứ hai giờ là bà phải lấy máu để thử, đo độ đường trong máu, rồi tiêm insuline, hút đờm dãi, tắm rửa, cả cho con ăn nữa. Bà còn gội đầu, chải tóc, vuốt ve, thủ thỉ nói chuyện với con, dù con bà không hề trả lời. Thật là điều kỳ diệu của tình yêu. Khoa học không tài nào giải thích được sức mạnh này. Bà Kaye đã giữ đuợc lòng yêu thương hiếm thấy trên đời (Những điều kỳ diệu, D.P. Eich, trg. 80). Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa cũng nêu cho chúng ta rõ: điều răn của Thiên Chúa quan trọng chính là luật yêu thương. Kính mời anh chị em cùng suy niệm...
a/. Có vài điều chúng ta cần hiểu rõ:
* Người pharisêu hỏi Chúa: Trong luật Môisen, điều răn nào là quan trọng hơn hết? Luật cũ của người Do thái có rất nhiều điều: Bộ luật có tất cả 613 điều khác nhau, trong đó có 365 điều cấm và 248 luật phải giữ. Nhiều như thế, nên phân biệt khoảng nào chính, khoảng nào phụ là một điều khó. Sở dĩ họ đặt câu hỏi này với Chúa Giêsu, chính là vừa để thử Chúa, vừa là vì chính họ cũng không nhất trí với nhau khoảng luật nào là chính, là phụ nữa.
* Chúa trả lời: Phải yêu mến Thiên Chúa ngươi hết linh hồn, hết trí khôn... Đó là điều răn thứ nhất... Còn điều thứ hai cũng quan trọng: hãy yêu tha nhân như chính mình... Hai điều răn này Chúa trích từ sách Đệ nhị luật 6,5 và sách Lêvi 19,18. Chính Chúa Giêsu là người đầu tiên nối kết hai khoảng luật này lại với nhau. Người đặt: luật kính yêu Chúa trước tiên, sau đó là luật thương người. Vậy yêu thương chính là cốt lõi của mọi khoản luật khác và đối tượng của tình yêu chính là Thiên Chúa và anh em mình.
b/. Bài Tin mừng chúa nhật hôm nay muốn dạy cho chúng ta điều gì?
* Chúa Giêsu xác định: hai giới răn yêu mến Chúa và yêu thương tha nhân là gồm tóm hết mọi giới răn khác. Xem ra con người không còn phải bận tâm lo giữ cả 613 điều luật. Ai chu toàn hai giới răn này thì có thể tin mình đã chu toàn lề luật rồi. Thánh Phaolô giải thích ý của Chúa Giêsu trong thư Rôma như sau: "Ai yêu người là đã chu toàn Lề luật. Thật vậy, các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy." (Rm 13, 8-10).
* Giới luật yêu thuơng: Qua bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu xác định luật yêu thương là quan trọng. Lòng mến Thiên Chúa phải toàn diện liên quan đến trái tim, linh hồn, cả khối óc của con người nữa. Tình yêu này phải là động lực thúc đẩy mọi hoạt động tinh thần cũng như thể xác của chúng ta. Chính vì thế mà Chúa nói: tất cả luật Môisen và sách các ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều ấy.
Nói như thế, người ta sẽ hỏi lại: Tại sao luật yêu thương là trên hết và gồm tóm mọi lề luật? Thưa là vì: Thiên Chúa là Tình yêu và bản chất của Thiên Chúa chính là Tình yêu. Kinh thánh cũng đã dạy cho chúng ta biết: con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa; điều đó có nghĩa là con người được Thiên Chúa dựng nên chính là để yêu thương, và để yêu thương như Thiên Chúa. Bản chất Thiên Chúa chính là tình yêu, vì thế không thể nói Thiên Chúa không yêu thương, hay không thể nói Chúa dựng nên con người ta, mà Chúa lại không yêu họ; hay cũng không thể nói, con người được sinh ra lại không yêu thương Thiên Chúa và yêu thương nhau....
Chúa Giêsu chính là tấm gương cao cả về việc thực thi luật yêu thương. Người trước hết luôn yêu mến Chúa Cha, sống đẹp lòng Chúa, và vì vâng lời trọn hảo mà Chúa chấp nhận sinh làm người đền thay tội lỗi cho nhân loại chúng ta. Đọc qua Phúc âm, ta thấy Chúa Giêsu thể hiện lòng yêu thương bằng việc hoàn toàn vâng phục Ý Chúa Cha. Hơn thế nữa, Người tỏ ra lòng yếu mến Chúa Cha qua việc quan tâm yêu thương, cứu giúp hết mọi người, kể cả người tội lỗi, đỉ điếm, thu thuế, người ngoại giáo samaritanô, những người mà các kinh sư, biệt phái xa lánh, khinh thị. Lại nữa, Chúa yêu mến nhân loại không chỉ bằng lời nói thôi, nhưng bằng việc làm cụ thể là lễ tế trên thánh giá. Yêu mến là cho đi, là chết đi, là quên mình cho người khác. Vì thế cái chết của Chúa trên thánh giá chính là cái chết vì TÌNH YÊU.
Bà Keye O'Bara, trong câu chuyện kể trên, cũng là tấm gương cao cả của Tình Yêu...
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Tất cả mọi luật lệ đạo đời đều gồm tóm lại trong hai chữ yêu thương mà thôi. Là người kitô hữu, chúng ta nghĩ làm sao, bao lâu nay thực tâm khi giữ đạo chúng ta có thấy điều này là quan trọng, và mình có cố gắng sống điều răn này. Chính Chúa Giêsu còn dạy hãy yêu kẻ thù như chính mình nữa, chúng ta có tin không?
47. Yêu thương là đón nhận sự sống
Anh chị em thân mến.
Một lần tôi chứng kiến hai con gà đá nhau. Hai con gà vừa nhìn thấy nhau, chúng không thể chấp nhận nhau, chúng vươn những bộ lông của mình ra biểu lộ sự uy nghi trước đối phương, đôi mắt đỏ ngầu hướng về nhau. Chúng nhìn nhau tìm sơ hở của, bất ngờ chúng tung những cú đá, những cú cắn xé, dường như có mối thù truyền kiếp từ lúc nào. Bỗng có một con ngã lăn ra, nhưng vì không có trọng tài nên con kia vẫn còn hung hăng, chạy đến bên đối phương cho dù đã ngã quỵ, tiếp tục cho những ngọn đòn thù bằng chiếc mỏ sắc bén và đôi chân vững chắc của mình. Tôi chợt nhớ đến hình ảnh cảnh gà mẹ ấp ủ đàn con, sao êm đềm quá, thân thương quá. Biết đâu hai chú gà vừa một mất một còn với nhau đây, cũng đã từng được ấp ủ chung cùng một người mẹ. Nếu những chú gà biết yêu thương nhau, chúng lo bảo vệ cho nhau, như gà mẹ bảo vệ cho đàn con, thì chúng đâu tìm cách loại trừ nhau như thế. Một chú gà phải chết đi vì chúng không biết yêu thương nên muốn loại trừ nhau. Yêu thương là sống, còn không biết yêu thương thì không thể tồn tại được, chỉ có đi đến cái chết mà thôi.
Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn trọng nhất.
Ngươi phải yêu thương tha nhân như chính mình. Tất cả luật Môisen và sách các ngôn sứ đều tóm về hai giới răn đó.
Người ta đến hỏi Chúa Giêsu về giới răn để sống theo thánh ý Chúa, Ngài cũng trả lời thật sự cho họ như thế. Tất cả lề luật đều tóm trong giới răn Yêu Thương. Sống yêu thương là sống theo lề luật, vậy mà khi người ta đến hỏi về sự sống lại muốn đưa Chúa Giêsu vào con đường chết. Nhưng Ngài đưa con người đến sự sống, Ngài đưa con người đến nguồn yêu thương. Tất cả lề luật đều giúp cho con người sống, nên lề luật được gồm tóm trong luật yêu thương. Không biết yêu thương là không giữ tròn lề luật, nghĩa là không thể sống được.
Chúng ta là những người đang sống, những người đang được yêu thương và cũng là những người đang biết yêu thương. Hơn thế nữa, chúng ta còn là những người Công Giáo, chúng ta biết mình được Thiên Chúa yêu thương như thế nào, đồng thời chúng ta cũng biết mình phải yêu thương như thế nào cho hợp thánh ý Chúa. Nhưng rất nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta hành động giống như những luật sĩ và biệt phái của thời xưa, muốn đưa người khác vào con đường chết, muốn loại trừ người khác ra khỏi sự sống con người.
Trong cuộc sống đời thường có những lần con người không chấp nhận nhau được, vì người khác được ưu đãi, được hạnh phúc, được thành công hơn mình, nên tìm cách loại trừ để đưa người đó vào con đường chết. Khi đó nếu con người nhớ đến mình đã từng được yêu thương, được chăm sóc như bao người khác, tại sao mình không yêu thương, như đã từng được yêu thương. Khi đó chúng ta giống như hai chú gà đá nhau mà không cần biết mình đang làm gì và muốn gì. Không cần biết mình đang đi trên con đường sống hay đang bước đi trên con đường chết.
Nếu trong cuộc sống mà chúng ta biết đặt câu hỏi: mình đang yêu thương hay đang loại trừ, đang sống hay đang chết. Nếu câu hỏi đó thường xuyên có trong đời sống để biết trả lời thật chính đáng, thì thật là hạnh phúc cho chúng ta.
Nếu chúng ta nhìn thấy được người khác như là một con người thật sự đang hiện diện trước mắt, để biết đối xử cho xứng đáng với nhân phẩm của họ với tất cả những gì cần thiết có thể được. Khi đó chúng ta đang sống, vì biết dùng tình yêu thương. Nếu trong mỗi công việc mà nhớ đến lề luật Chúa Giêsu dạy, để biết thi hành cách chính đáng trong mọi trường hợp, thì thật là hạnh phúc cho chúng ta, vì chúng ta đang biết yêu thương và thi hành lề luật yêu thương. Nếu chúng ta chấp nhận được người khác với tất cả những gì là con người của người đó, để cùng nhau bước đi trên con đường yêu thương. Khi đó lề luật Chúa không phải chỉ ở trên môi miệng, nhưng nó là chính cuộc sống của con người, mà chúng ta đang sống, đang hành động.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa, đốt nóng tình yêu Chúa trong mỗi người, để biết yêu thương thật sự như Chúa đã yêu thương.
48. Suy niệm của Lm Augustine SJ.
Gương mến Chúa và yêu người sống động nơi trại tập trung Ðức Quốc Xã
Nhật báo Kitô hữu Chứng Nhân (Témoignage Chrétien) kể lại một câu chuyện thật cảm động xảy ra năm 1941 trong thế chiến thứ hai.
Có một vị linh mục bị Ðức Quốc Xã giam trong trại tập trung dành cho người gốc Do thái. Như bao người khác, cha bị hành hạ và ngược đãi tàn tệ, còn hơn cả súc vật. Thế nhưng vị linh mục này vẫn vui vẻ tìm cách giúp đỡ anh em đồng cảnh ngộ đang bị khủng hoảng và tuyệt vọng.
Chính cha xin với viên cai tù cho đi lao động thay thế những người đau yếu. Phần bánh mì ít ỏi của cha có khi được dành cho những người có nhu cầu hơn. Ðối với người vận đồ rách rưới, cha cũng chia sẻ những chiếc áo cũ tương đối còn lành lặn.
Trong hoàn cảnh đầy nguy hiểm, cha vẫn lặng lẽ giấu kín lý lịch bản thân là người Công Giáo, hơn nữa còn là một linh mục! Chỉ có một vài người rất thân thiết mới biết rõ ngài là ai.
Trong số những người được vị linh mục này giúp đỡ, có một cậu thiếu niên vốn là một kẻ bụi đời, lớn lên nơi đầu đường xó chợ, không tin bất cứ ai, lại còn ngang tàng trộm cắp để kiếm sống. Cả ở trong trại tập trung, cậu cũng luôn cướp giật, quấy nhiễu mọi người.
Vị linh mục khả ái đã từng bước, tìm cách tiếp cận, trò chuyện, giúp đỡ, khuyên răn, và cuối cùng đã hoán cải được con người tưởng đã trở nên chai lì và vô phương cứu chữa. Dẫu vậy, ngài thấy vẫn chưa đến lúc nói với kẻ mới hoán cải về Thiên Chúa.
Thế rồi, một hôm, cha được tin bản thân sẽ bị chuyển gấp tới trại Ao-sơ-vích (Auschwitz), một trại tập trung mà chỉ nghe danh xưng, trại viên cũng phải kinh hoàng khiếp sợ, vì đó là nơi hủy diệt con người bằng những hầm hơi ngạt và lò thiêu xác. Ngài cố giữ bình tĩnh khi vội vã chia tay mọi người. Ðứng trước mặt cậu thiếu niên vừa mới quyết định hoàn lương, ngài rất muốn giúp cậu hiểu biết về Chúa, tin Chúa và theo Chúa.
Cha nhìn thẳng vào mặt cậu, nhỏ nhẹ hỏi "Này, cháu yêu của bác, cháu có muốn tin vào một người tên là Giêsu không?" Cậu thiếu niên đứng thẳng người lên, trả lời cha bằng một câu hỏi chân thành: "Nhưng thưa bác, ông Giêsu là ai, để cháu có thể tin?" Biết mình không còn thời gian để cắt nghĩa Kinh Thánh và giới thiệu chi tiết về Ðức Giêsu, cha yên lặng một chút, ngẫm nghĩ rồi buột miệng nói với cậu: "Người đó giống như bác!" Cậu thiếu niên đăm đăm nhìn ngài rồi khẳng khái tuyên xưng: "Vâng, nếu ông Giêsu ấy là một người giống như bác, thì cháu tin!"
Sau thế chiến, người ta không còn gặp lại vị linh mục ấy nữa, nhưng chắc chắn một điều là câu chuyện này được một người sống sót, qua các trại tập trung thuật lại như một chứng từ sống động, người ấy chính là cậu thiếu niên năm xưa, giờ đã là một người tân tòng Công giáo.
Chúa Giêsu đưa hai điều răn ấy sống động nơi con tim con người
Câu chuyện có thực vừa kể giúp ta lãnh hội ý của Ðức Giêsu muốn nói với người thông luật là kẻ đã nêu vấn đề "Thưa Thầy, trong sách Luật Môsê, điều răn nào là điều răn lớn nhất?" (Mt 22,35). Ý của người thông luật này là muốn biết điều răn nào là điều răn lớn nhất trong toàn bộ Cựu Ước. Ðức Giêsu trả lời cho thấy không những điều răn lớn nhất là "Ngươi phải yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn ngươi" (Ðnl 6,5), nhưng còn cho thấy điều răn cũng giống điều răn ấy là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình (Lv 19,18). Ðiều khiến cho hai điều răn này giống nhau là ở tình yêu được thể hiện nơi con tim con người. Ngang qua con tim, người tin vào Giavê Thiên Chúa mà yêu mến Ngài "hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn người đó, thì cũng ngang qua con tim, người đó phải phải yêu người thân cận như chính mình".
Như vậy, Ðức Giêsu đưa người thông luật từ ý niệm trừu tượng về điều răn lớn nhất tới hành động cụ thể nơi con tim người tín hữu. Mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, thì trong cụ thể, cũng phải yêu thương người bên cạnh như chính mình. Sau này thư thứ nhất của Gioan sẽ nói: "Nếu ai nói tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy" (4,20).
Nhưng cần phải trở về với Cựu Ước là bối cảnh nơi người thông luật nêu vấn đề, trước khi bàn tới Tân Ước.
Mười điều răn được công bố trên núi Sinai, tóm tắt các trách nhiệm dân Thiên Chúa. Giavê Thiên Chúa ban mười điều răn này cho dân Giao Ước khoảng năm 1450 trước Công Nguyên. Mười điều răn này được ghi khắc trên hai bia đá sau được lưu giữ trong một chiếc hòm, gọi là hòm bia, như là những vật thánh thiêng nhất trong đạo của Cựu Ước.
Mười điều răn xuất hiện ở hai bản văn Cựu Ước (xh 20,2-17 và Ðnl 5,6-21). Mười điều răn này diễn tả cốt lõi của mối tương quan mà Giavê Thiên Chúa đòi hỏi dân Ngài phải duy trì đối với Ngài. Theo những điều Ngài đòi hỏi dân phải giữ, ta cũng biết được về chính bản thân Ngài. Vậy Mười điều răn không chỉ nói với dân Ítraen nhưng còn nói với cả loài người qua mọi thời về Thiên Chúa, Ðấng tạo thành nên mọi người và mọi sự. Các điều răn đều được lập lại dưới hình thức nào đó trong Tân Ước, với điều răn "giữ ngày sabát" trở thành điều răn "giữ ngày Chúa Nhật".
Có thể tóm tắt mười điều răn như sau:
Tấm bia thứ nhất dạy ta về tương quan đối với Thiên Chúa qua 4 điều răn là:
1. Không được thờ Thiên Chúa nào khác
2. Không được thờ ngẫu tượng.
3. Không được kêu tên Thiên Chúa vô cớ.
4. Phải giữ luật ngày Sabát.
Tấm bia thứ hai dạy ta về tương quan đối với đồng loại với 6 điều răn là:
5. Hiếu thảo đối với mẹ cha.
6. Không được giết người.
7. Không được phạm tội ngoại tình.
8. Không được lấy của người khác.
9. Không được làm chứng gian.
10. Không được ước ao của người khác.
Mười điều răn đều nhắm mục đích tích cực là hướng dân Thiên Chúa tới cuộc sống tròn đầy như được Thiên Chúa dựng nên, theo lời ông Môsê tuyên bố với dân: "Anh em hãy đi đúng con đường mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã truyền cho anh em, để anh em được sống, được hạnh phúc và được sống lâu trên mảnh đất mà anh em sẽ chiếm hữu" (Ðnl 5,33). Ai cũng cần được Thiên Chúa hướng dẫn hầu tránh những chọn lựa có hại cho bản thân và người khác, đồng thời hưởng được tình thương của Thiên Chúa.
Ðức Giêsu đến công bố Nước Thiên Chúa nhằm giúp người ta đạt tới các mối phúc thật (Mt 5,1-12). Các mối phúc thật này không dựa trên cơ sở một thứ tình yêu siêu việt trừu tượng. Con người hạnh phúc thật phải nghiệm thấy nơi con tim của mình sự tràn ngập do tình yêu Thiên Chúa, nhờ đó có sức mạnh để yêu tha nhân như chính mình.
Con đường của các mối phúc
Vậy mối phúc đích thực số một phải là sở hữu Nước Thiên Chúa. Con người nghèo tận căn sẽ "yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn "(Mt 22,37). Người đó không còn bị vướng mắc do đam mê nào, cho nên dễ dàng nhận ra mọi sự và cả tạo thành, đều do Thiên Chúa ban. Cho nên người đó, có thể nói, sở hữu được Nước Thiên Chúa như lời Chúa Giêsu dạy: "Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ" (Mt 5,3). Ðúng như lời người cha nhân hậu nói với con cả trong Tin Mừng Luca: "Con à, lúc nào cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con" (Lc 15,31).
Ðiều mà mối phúc thứ hai nhắm là "được đất Thiên Chúa hứa làm gia nghiệp" (Mt 5,4). Ðất hứa nói đây chính là Nước Thiên Chúa. Người thụ hưởng sẽ chẳng còn phải bon chen để tranh dành ảnh hưởng. Ngược lại, người đó chỉ còn sung sướng làm cho Nước đó được chan hoà dưới sự lãnh đạo của Ðấng kêu gọi mọi người học với Người để sống hiền hậu và khiêm nhường (x. Mt 11,29). Ðó là con đường tốt nhất để yêu tha nhân như chính mình.
Ðiều mà mối phúc thật thứ ba nhắm là được chính Thiên Chúa ủi an (Mt 5,5). Ðể được phúc lành đó, người thụ hưởng cần dựa vào sức mạnh của tình yêu của chính Thiên Chúa, để gánh vác trên vai biết bao hậu quả của tội đang hoành hành trên thế giới. Ðó thực sự là con đường thánh giá đưa tới vinh quang. Người đi trên con đường này, sẽ có thể yêu tha nhân như chính mình dưới sự lãnh đạo của Chúa Giêsu.
Ðó chính là con đường mà vị linh mục của trại tập trung Ðức Quốc Xã trong câu chuyện nói trên, đã đi và đã được chính Thiên Chúa ủi an trong Nước của Ngài.
49. Suy niệm của Lm Nguyễn Bình An
Vì yêu bà goá Simpson, Vua nước Anh Edward Đệ Bát đã bằng lòng bỏ ngai vàng để sống đời dân giả hạnh phúc với người yêu. Đây là cuộc tình lý tưởng và chân thật. Kẻ cho, người nhận thấu hiểu và thực thi lời Chúa Kitô dạy “tình cao thượng nhất là tình dám thí mạng cho người yêu” (Ga 15,13). Thế nào là thí mạng? Edward hy sinh và can đảm cởi bỏ vương miện và hoàng bào. Ông trả đời tiện nghi, rời cung điện, bằng lòng sống đơn giản và đạm bạc với người yêu. Nhiều người lắc đầu tắc lưỡi: “thằng khùng!” vì nhà cao bát vàng không hưởng. Nhưng Edward và Simpson đã hân hoan và sung sướng rũ sạch công danh và đời đời có nhau.
Chúa Kitô đã lấy thánh giá làm bằng chứng độc đáo nhất diễn tả tình của Ngài. Chúng ta sống trong hiểm họa và đang lao đầu vào cõi chết. Chúng ta thích thành công với danh, chức và tiên của. Chúng ta chen lấn, tranh giành, lật lọng, mưu mô và chà đạp trên mạng người. Chúng ta đánh giá tình bằng vẻ hào nhoáng và giả tạo bên ngoài. Chúng ta đang hôn mê trong bả phủ vân dẫn đến hư vô và tuyệt vọng. Các hình thức trên bộc lộ cái tình nhỏ bé, hạn hẹp, nông cạn một chiều và ích kỷ của nhân loại.
Chúa lấy thánh giá bắc qua miệng lửa, che đậy hố sâu nguy hiểm và thân thương dìu chúng ta bước qua hố an toàn. Chúa lấy máu và tình thương giập tắt ngọn lửa vô tình và bất nhân. Chúa dùng khổ đau đem lại sự thanh thản, an vui cho nhân loại. Một lần Chúa chết đi cho ức triệu người thoát vòng liên lụy và được giải thoát. Tình yêu cao vời này đã là nguyên nhân cảm hóa và dụ dẫn nhiều tâm hồn can đảm dấn thân theo Chúa. Họ kê vai san sớt gánh nặng và vui bước với Chúa. Họ là những chứng nhân sống, là hiện thân của Giêsu giữa đời. Họ đang nằm rên siết bên đường, đang hấp hối trong rừng sâu, đang thành công giữa đời và nhân ái trong mọi lãnh vực. Họ là những vị tử đạo vô tên tuổi và âm thầm hiến dâng. Nhờ họ mà đức tin được trưởng thành, tình yêu được thăng hoa và Lời Chúa được loan truyền.
Nhìn những người lính thủy quân lục chiến Hoa kỳ thực tập tại căn cứ 29 cây dừa (29 Palm), California: ngày ăn lương khô, uống nước lạnh, mặt mũi và áo quần dính đầy bụi, tay chân nứt nẻ, đêm nằm co ro trong túi ngủ trên bãi cát trong góc đá, và dưới đụm cây làm tôi cảm phục sự hy sinh cao độ của họ và chợt xót xa khi nghĩ đến cả trăm triệu người vô tình quên họ. Vì họ mà quốc gia này thành cường quốc. Vì họ mà dân chúng sống an ninh, tự do và độc lập. Vì họ mà trật tự thế giới được ổn định. Vì họ mà điện Capitol và Nhà Trắng tại Hoa thịnh Đốn thời danh và có thế giá trước Liên Hiệp Quốc và cộng đồng thế giới.
Người không có thánh giá là người chết. Người trốn chạy thánh giá là thiếu tài cao, đức trọng. Người rủa thánh giá là chưa hiểu ý nghĩa và mầu nhiệm thâm sâu của tình yêu. Người lợi dụng thánh giá là kẻ “đục nước béo cò” và “mượn đầu heo nấu cháo”. Họ giỏi khích lệ ai đó vác và vui chịu. Bản thân họ thì đong đưa ăn trên ngồi chốc. Tình chính chuyên và lý tưởng phải là tình như Đức Kitô, bằng lòng chết đi cho người mình yêu và trước khi vĩnh biệt còn gắng rán sức “tha cho họ, vì họ không ý thức việc họ làm.”
Phim “Người chết đang đi” (Dead-man walking) giới thiệu một nghĩa cử cao thương của chị dòng. Chị nhận diện Chúa trong tên tử tội. Chị chối bỏ thù oán của Cựu Ước và loan báo ơn tha thứ của Tân Ước. Chị cảm hóa được tù nhân và yêu cầu tử tội trước giờ thứ 24, nhìn vào chị, hiện thân của tình Chúa hầu an bình ra đi. Chị lên án chính sách giết người man rợ bằng ghế điện, hơi ngạt, thuốc độc và xử bắn. Theo chị, tình chân thật phải là tình tái sinh bằng mọi giá, như Chúa trên thập tự, đã thăng tiến và công chính hóa nhân loại thay vì kết án và nguyền rủa.
Như vậy tình “ông ăn chả, bà ăn nem” là tình ích kỷ. Tình “ong bướm” là tình tắc trách và trốn chạy. Tình “ly dị” là tình hèn nhát và thiếu thủy chung. Những mẫu tình này hình thành do sự bất toàn, đam mê, ích kỷ và hưởng thụ của con người. Đồng thời nó đang phá hủy tận gốc tình yêu cao đẹp Chúa đã khắc ghi trong tâm hồn. Bài học sống và chết cho tình yêu cần được mổ xẻ, phân tích, suy tư và thực hiện trong đời mỗi tín hữu. Nhờ đó mà tình của “cái thủa ban đầu lưu luyến ấy” sẽ “ngàn năm chưa dễ mấy ai quên”.
50. Yêu thương là truyền giáo
(Suy niệm của Lm JB. Nguyễn Minh Hùng)
"Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn ngươi. Và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi". Có bao giờ bạn tự hỏi xem, vì sao Chúa lại dạy phải yêu Chúa và yêu người? Lấy ví dụ: bạn có con đi học. Khi thấy nó lười học, thì nói với nó: "Con học bài đi, con phãi siêng học". Sở dĩ bạn bảo con mình chịu khó học là vì nó chưa chăm học. Chúa dạy loài người phải yêu Chúa yêu người vì loài người chưa yêu Chúa và cũng chưa yêu người. Hoặc chưa yêu một cách trọn vẹn như Chúa muốn. Yêu như Chúa muốn đó là: "Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khốn. Và yêu kẻ khác như yêu chính mình".
Yêu Chúa là phải yêu bằng cả tấm lòng, cả linh hồn, cả trí khôn. Tấm lòng, linh hồn, trí khôn là thành phần trọng yếu nhất của con người. Nếu thiếu tấm lòng, nghĩa là thiếu trái tim, con người chỉ là một cái xác. Nếu không có linh hồn, không phải là người nữa. Nếu thiếu trí khôn, dù mang hình dáng con người, người đó cũng trở nên ngu đần. Yêu Chúa bằng tất cả tấm lòng, cả linh hồn và trí khôn, yêu bằng tất cả thành phần chủ yếu của một con người là yêu vô cùng, yêu không tính toán, yêu Chúa một cách mạnh mẽ. Nhưng chỉ có lòng mến Chúa thôi, chưa đủ. Lòng yêu mến Chúa đòi phải có một giới răn khác bổ túc. Đó là yêu người. Yêu người cũng quan trọng không kém giới răn yêu Chúa. Chính Chúa Giêsu nói: "Giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất là: ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi". Yêu Chúa và yêu người luôn đi đôi với nhau. Nếu nói rằng yêu Chúa mà trong thực tế không yêu tha nhân, không giúp đỡ người khác, là nói dối.
Ngược lại, chính khi yêu thương và giúp đỡ người khác là bằng chứng chứng tỏ mình yêu mến Thiên Chúa.
Tuần trước chúng ta cử hành ngày thế giới truyền giáo. Nhưng tôi nghĩ, sẽ không có truyền giáo đúng nghĩa nếu không biết yêu thương. Lòng yêu thương anh em là phương thế truyền giáo hữu hiệu, vì nhân loại luôn luôn cần đến tình yêu. Chính vì đặt tình yêu lên trên mọi chuẩn mực của một hành vi đạo đức nào đó, nên đạo Công giáo cũng là đạo của tình yêu. Không thể nói với ai, rao giảng cho ai về tình yêu mà bản thân ta không hề biết yêu thương. Đó là sự mâu thuẫn lớn mà ta phải trút bỏ đi. Nếu ta không biết yêu thương thì cũng không thể truyền giáo. Ngược lại, ta có một đời sống yêu thương thật sự, tử tế, vui vẻ với mọi người, sẵn sàng giúp đỡ người khác, những việc làm tốt đó, tự bản thân nó đã chứng minh ta là người có đạo, đã là truyền giáo rồi.
Nhưng không thể lúc nào cũng có thể nói về Chúa được. Lấy ví dụ: một thầy cô giáo có đạo, đi dạy ở một trường học nào đó, chắc chắn thầy cô đó không thể vào lớp học để nói về đạo, về Chúa được. Nhưng điều mà người thầy hay cô đó có thể làm được là chứng minh đời sống đạo của mình như: vui vẻ với đồng nghiệp, yêu thương, độ lượng với học trò... Trong đời sống hằng ngày, mọi người có thể làm được những chuyện rất bình thường như: lượm một cục đá trên đường bỏ vào một nơi nào đó để các em nhỏ đi không bị vấp, các cụ già không bị té. Hoặc là ta biết giữ vệ sinh chung, đừng ném mọi thứ rác rưởi ra đường, ở nơi công cộng... tất cả những việc làm đó đều là những việc làm cụ thể, ai cũng làm được.
Với tất cả những phương thế thực hành vừa đề nghị bên trên, không phải là thể hiện lòng yêu Chúa, yêu tha nhân hay sao? Đó cũng không là phương thế truyền giáo hay sao? tin rằng bạn và tôi đều luôn là những người cố gắng sống tốt, để người ngoài nhìn vào có thể nói rằng: anh hay chị ấy sống tốt vì họ là người Công giáo.
51. Điều răn nào trọng nhất?
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật)
Điên rồ hay là đơn giản
Sau nhóm Xađốc, đến nhóm Pharisêu đặt câu hỏi với Đức Giêsu cũng với ý định bắt bẻ Người. Trước câu hỏi được nêu lên như một cái bẫy, Đức Giêsu đã trả lời ngay, không cần suy nghĩ. Chỉ trong một câu ngắn, Đức Giêsu đã rút gọn toàn bộ lề luật, đổng thời cho thấy tinh thần cũng như nét phong phú của luật pháp.
Xưa kia, bộ luật Do-thái gồm những quy định phức tạp, chặt chẽ với 613 điều -368 điều cấm và 245 điều phải làm, nay được Đức Giêsu đơn giản hoá thành 2 điều, hay đúng hơn chỉ là một: "yêu mến Thiên Chúa và người thân cận." Qua việc nối kết lòng yêu mến Thiên Chúa với tình yêu thương đồng loại, Đức Giêsu đã tóm tắt toàn bộ Kinh Thánh, coi đó như giá trị luân lý nền tảng hay quy tắc của đời sống. Khi tuyên bố điều răn thứ hai cũng quan trọng như điều răn thứ nhất, Đức Giêsu muốn cho thấy rằng tình yêu thương đồng loại có giá trị ngang hàng với lòng yêu mến Thiên Chúa.
Thế là từ nay, những khoản luật phức tạp, những chi tiết khắt khe đã được đơn giản hoá và trở nên thật dễ dàng. Tất cả bộ luật được thu tóm lại trong hai điều răn có liên hệ với nhau cách chặt chẽ. Nói cách khác, toàn bộ các điều răn khác được đặt nền trên hai điều răn này như là những điều cơ bản không thể thiếu, đồng thời cũng hướng tới hai điều răn này như là mục đích sau cùng, như tiêu chuẩn phán đoán. Tất cả những khoản luật đi ngược với tinh thần của hai điều răn này đều trở thành vô giá trị.
Như vậy, Đức Giêsu mở rộng cánh cửa hướng đến sự công chính. Luật pháp chỉ là phương tiện và chỉ có được ý nghĩa khi nó diễn tả được điều cốt yếu là sự thánh thiện nội tâm, là đức tin sống động, là tình yêu nổng nàn thúc đẩy mọi hoạt động.
Thế nhưng, chính tóm tắt có vẻ đơn giản và dễ dàng này lại buộc những người theo Đức Kitô phải sống tích cực hơn và mỗi ngày một hơn. Người ta sẽ không chỉ tuân thủ những chi tiết luật pháp, nhưng là tình yêu mến. Mà lòng yêu mến không thể bị giới hạn ở một mức độ nào đó. Đức Giêsu không nói: "Hãy yêu mến Thiên Chúa và người thân cận bao nhiêu có thể", nhưng Người đã trích dẫn luật Mô-sê: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi."Tại sao Thiên Chúa lại đòi buộc con người phải yêu mến "hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn"? Bản tính con người vốn yếu đuối, giới hạn và hay thay đỗi: điều này Người quá biết. Tại sao Người lại yêu cầu con người phải vượt quá khả năng của mình?
Thật ra, nếu đứng trên quan điểm sự khôn ngoan loài người, thì Tin Mừng toàn là những đòi hỏi vô lý, điên rổ. Những ai mong muốn tìm thấy trong Tin Mừng những câu châm ngôn hợp lý và dễ dàng, người ấy sẽ thất vọng. Quan niệm loài người sao có thể chấp nhận nỗi "Bài giảng trên núi", trong đó người nghèo được đề cao, người hèn kém được vào Nước Thiên Chúa, còn những người được coi là đạo đức lại bị loại trừ? Lý luận của con người làm sao có thể hiểu nỗi câu nói: "Ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ giữ lấy được". (Mt 10,39)? Và sau cùng, còn gì gây chướng kỳ hơn khi chứng kiến con người tự nhận là Đấng Cứu độ, Đấng ban sự sống, lại chịu treo trên thập giá? Toàn là những chuyện điên rồ!
Nên nhớ rằng, Kitô giáo không phải là một tôn giáo có thể lý luận được cách có hệ thống. Tinh thần Kitô giáo luôn hàm chứa một khả năng gây bất ngờ, và cả khó khăn nữa. Kitô giáo không phải là một thứ tôn giáo trong đó mọi sự được sắp xếp cách trật tự và hoàn hảo như một tài sản được quản lý tốt. Trái lại, Kitô giáo luôn là một sự hướng tới: hướng tới vô biên, tới Đấng mà "tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta."(Is 55,8). Đó là một sự điên rồ, điên rồ của tình yêu và đó cũng là tình yêu, tình yêu đối với Thiên Chúa và với đồng loại.
Từ "và" đến "trong"
Vào thời Đức Kitô và cả ngày nay nữa, vẫn có những trường phái tự cho rằng mình có quyền ưu tiên đưa ra giải thích đúng đắn về chân lý. Họ cho rằng quan niệm của mình là có lý còn của người khác thì sai lầm. Có lẽ con người ngày nay không cần quan tâm đến việc tìm hiểu những chi tiết trong các cuộc tranh luận của người Do-thái. Thế nhưng, khi suy niệm lời giải thích của Đức Giêsu, người ta sẽ thấy đòi hỏi luân lý được sáng tỏ và tìm ra được nét thống nhất cho mọi hoạt động và suy nghĩ của mình. Phải yêu mến Thiên Chúa "hay là" yêu mến người thân cận? Nên theo chủ trương chiều dọc "hay là" chiều ngang? Đó là những câu hỏi con người thời nay thường nêu lên. Với một số người, sự quan tâm đến những vấn đề cụ thể của con người có thể gây nguy hại cho lòng tin vào Thiên Chúa. Với những người khác, thời giờ dành cho Thiên Chúa có nguy cơ làm quên lãng người thân cận. Thật ra, ngày nay cũng như ngày xưa, Đức Giêsu luôn mời gọi và bó buộc phải vượt ra khỏi những song quan luận theo kiểu này. Chúng chỉ là những thứ mặt nạ che dấu thái độ từ khước cũng như những nỗi sợ hãi của con người. Trả lời cho nhà thông luật về điều răn trọng nhất, Đức Giêsu đã khẳng định đó là lòng yêu mến Thiên Chúa. Tuy vậy, Người còn đưa ra, hay đúng hơn, còn nối kết tình yêu thương đồng loại với lòng yêu mến Thiên Chúa, "cũng giống điều răn ấy".
Điều răn thứ hai này "cũng giống" điều răn thứ nhất, tức là cả hai đều quan trọng. Nói cách khác, điều răn thứ hai có bản chất và tầm quan trọng cũng "lớn" như điều răn thứ nhất. Dầu vậy, giống nhau chứ không phải là đồng nhất: hai việc đó vẫn khác nhau và có thứ tự trước sau, không thể đổi qua đổi lại với nhau như thể yêu đồng loại cũng là yêu mến Thiên Chúa, và yêu mến Thiên Chúa tức là yêu mến đồng loại: Thiên Chúa luôn ở phía chân trời và luôn mời gọi con người tiến xa hơn; đồng loại là thực tại gần gũi với những giới hạn cụ thể. Giáo huấn của Đức Giêsu có ý nhấn mạnh rằng yêu mến đồng loại cũng có tính cách khẩn thiết như là yêu mến Thiên Chúa, và không được xao lãng nhiệm vụ nào.
Do đó, không có vấn đề bên này hay bên kia. Không được quyền nói "hay là", nhưng phải nói "và". Một cách chính xác hơn: chỉ có thái độ mở ra với Thiên Chúa mới dẫn đến tình yêu thương đồng loại cách đích thực; và chỉ có thái độ sẵn sàng với người khác mới cho phép con người nói rằng mình yêu mến Thiên Chúa mà không dối trá. Sau đó, "và" sẽ biến thành "trong": con người yêu mến Thiên Chúa "trong" người thân cận, và yêu mến người thân cận "trong" Thiên Chúa. Huyền nhiệm và con người hành động không phải là kẻ thù của nhau, nhưng là anh em của nhau.
Bài học phải thuộc lòng
Bài Tin Mừng này con đã thuộc lòng con biết rất rõ điều răn phải yêu mến Thiên Chúa và người thân cận bắt nguồn từ một tâm tình duy nhất. Thế nhưng, hình như bản Tin Mừng chỉ là một thứ kỷ niệm, tựa những câu chuyện cổ tích thời thơ ấu, như một điều không có thực. Làm sao con có thể yêu nỗi mình và cả người khác đang vắng mặt?
Không, con chỉ mới thuộc mặt chữ, con quên rằng chính Thầy đang thì thầm trong hồn con, và đang thúc đẩy con ra khỏi mình. Con đã quên rằng lề luật không phải là nhà tù, cũng không phải là một sự sắp xếp. Trái lại, đó là một lời mời gọi hướng tới tình yêu, đó là lời kêu mời hãy nhận ra rằng: bàn tay con được dựng nên để nắm lấy, và trái tim con được dựng nên để thứ tha. Lắng nghe lời Thầy, con sẽ không cảm thấy gì khác hơn là con đang mang trong mình một khát vọng vô biên. Con nghĩ rằng mình thuộc lòng bài Tin Mừng, nhưng con đã không hiểu thấu Thầy là ai, cũng chẳng hiểu rõ các điều răn. Thầy là tình yêu, và con đã quên mất - Thầy đã đến gặp con để con được sinh ra, và cũng trở thành tình yêu. Thầy biết rõ con không hiểu về chính con, cũng không hiểu về người khác, về Thiên Chúa. Chính vì vậy, Thầy đã đến trần gian. Hãy đến và sống theo Thầy bấy giờ con sẽ thuộc và hiểu rõ về Tin Mừng.
52. Yêu như Chúa yêu
(Suy niệm của Lm. John Nguyễn Văn Tươi. Utica-NY)
Con người luôn khao khát và tìm kiếm hạnh phúc, vì hạnh phúc mang lại cho ta niềm vui, sức sống và nghị lực. Để hiểu thế nào là tình yêu và hạnh phúc, thì chúng ta cần phải biết yêu thương và sống cho tha nhân, đó cũng là giới luật yêu thương của Chúa Giê-su. Người ta không thể có tình yêu và hạnh phúc nếu người đó không biết yêu thương. Lời yêu thương luôn là lời êm đẹp, quyến rũ và hấp dẫn. Yêu và được yêu là niềm hạnh phúc nhất của con người.
Ngày nay, người ta nói rất nhiều về tình yêu, tình yêu được diễn tả trong thơ ca, trong âm nhạc, trong phim ảnh v.v. Tình yêu thì rất đẹp. Nhưng để hiểu và sống đúng với giá trị của tình yêu là điều mà chúng ta cần đáng quan tâm và chia sẻ với nhau qua thông điệp Lời Chúa hôm nay. Như nhà thông luật đặt ra câu hỏi với Chúa Giê-su:" Thưa Thầy, trong sách luật Mô-sê, điều răn nào là quan trọng nhất?" Đức Giê-su đáp:" Người phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng hết linh hồn và hết trí khôn người và yêu người thân cận như chính mình vậy." Lời Chúa Giê-su giải thích rất rõ ràng, yêu Chúa chính là yêu người. Yêu người chính là yêu Chúa. Vì người ta không thể yêu Chúa mà không yêu thương người anh em thân cận. Như lời Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô nói rằng, đạo đức không phải là một thứ sản phẩm để người ta quảng cáo, nhưng là để sống và thực hiện đời sống đức tin, nó được biểu hiện trong mối tương quan với tha nhân và Thiên Chúa.
Người ta có thể dễ dàng nói lời yêu với Chúa, nhưng lại rất khó nói lời yêu thương với một người phản bội, đối nghịch và là kẻ thù với mình. Hằng ngày, có những người hàng xóm đang sống chung quanh ta, họ đang làm cho ta phải sự ganh tỵ và ghen ghét vì họ giàu có, tài năng và hạnh phúc hơn ta. Những thứ cám dỗ đó làm cho ta nhìn người thân cận như là đối thủ cạnh tranh hơn là đón nhận và cảm phục họ, và tha nhân trở thành địa ngục cho mình. Hơn nữa, trong đời sống gia đình, có biết bao gia đình hôm nay đang tan vỡ và ly dị. Họ không có hạnh phúc vì có quá nhiều sự khác biệt trong cuộc sống hôn nhân. Họ không còn cảm nhận được tình yêu và hy sinh dành cho nhau, thì lời nói tha thứ, khoan dung lại càng trở nên khó khăn hơn. Họ phải sống trong đau khổ, uẩn ức và chịu đựng, đó là những nguyên nhân dẫn đến sự tan vỡ hạnh phúc trong đời sống gia đình. Cuộc sống gia đình hôm nay đang gặp phải những thách đố và khó khăn, vì họ có quá nhiều áp lực bởi sự so sánh giàu nghèo, tính toán hơn thua. Tình yêu được đặt trên cung bậc bởi sự đánh giá giàu nghèo và địa vị. Cho nên, con người luôn đi tìm hạnh phúc trong cái hoàn hảo, và kiếm tìm tình yêu trong ảo tưởng hơn là những gì họ đang có. Đó là thứ tình yêu "ảo" qua các trang mạng, sách báo và phim ảnh mà người ta cho đó là thật. Trong khi đó, gia đình mái ấm hạnh phúc thì lại coi thường và bị bỏ rơi. Người ta thường coi hạnh phúc là được hưởng thụ hơn là sự hy sinh. Thật sự, không có hạnh phúc tột đỉnh nào trên trần gian này lại phải không phải trả giá để đạt được nó.
Tình yêu chỉ có giá trị và mang lại hạnh phúc đích thực khi người ta biết chấp nhận và sống cho tình yêu. Như lời Chúa Giê-su dạy: " Không có tình yêu lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống mình vì người mình yêu." Chỉ có tình yêu nơi Đức Giê-su là tình yêu tuyệt đối. Tình yêu làm xóa tan hận thù. Tình yêu làm biến đổi thù thành bạn. Tình yêu là sự tha thứ cho kẻ đã giết mình. Tình yêu đã chữa lành biết bao con người tội lỗi quay trở về. Tình yêu Thiên Chúa vượt lên trên tất cả. Thiên Chúa yêu thương con người và muốn con người hạnh phúc, nên Ngài đã ban Con Một của Ngài là chính Đức Giê-su đã chết cho nhân loại và phục sinh để ban ơn cứu độ cho con người. Ai tin thì sẽ được sống và hạnh phúc đời đời.
Tóm lại, nếu chúng ta muốn được yêu và sống yêu thương như Chúa yêu, thì chúng ta hãy vượt lên trên chính mình, đi ra khỏi sự "cái tôi" thấp hèn và ích kỷ. Tình yêu là sống. Sống là để yêu. Tình yêu mang lại hạnh phúc, nhưng tình yêu phải được gắn liền với tình yêu thạp giá Chúa Ki-tô, thì mới đơm hoa kết trái của đức ái trọn hảo. Như Thánh Phao-lô viết: " Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả và chịu đựng tất cả".
Yêu như Chúa yêu. Tình yêu là không chỉ biết đón nhận mà còn phải biết cho đi. Cho và nhận là bản chất của tình yêu, như vị thánh Đức Giáo Hoàng Gioan PLII đã nói với kẻ đã sát hại ngài rằng: "Tôi luôn cầu nguyện cho người anh em đã bắn vào tôi, người tôi đã chân thành tha thứ". Vì lời tha thứ luôn là điều cao quý nhất làm xóa tan lòng hận thù và chữa lành vết thương tâm linh, để ta có sức mạnh tiếp tục yêu thương. Amen.
53. Suy niệm của ÐGM. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Mọi người đều biết, các giới răn của đạo ta quy về hai việc mến Chúa và yêu người. Nhưng muốn biết phải mến Chúa thế nào và yêu người làm sao thì phải dựa vào Thánh Kinh. Những bài đọc Thánh Kinh hôm nay cũng nói về hai điều đó. Tuy là những bài viết ở những thời đại khác nhau và đã xưa rồi; nhưng suy nghĩ, chúng ta càng nhận thấy tính cách trường cửu của Lời Chúa.
Bài sách Xuất hành đưa chúng ta trở về thời Cựu Ước xa xưa. Chúng ta sẽ ngạc nhiên về tính cách nhân đạo của nếp sống đạo đức thời bấy giờ. Và chúng ta sẽ hiểu bối cảnh của bài Tin Mừng hơn để nhận ra uy tín của Ðức Kitô khi khẳng định về luật mến Chúa yêu người. Cuối cùng thư Phaolô sẽ cho chúng ta thấy gương sáng của một giáo đoàn biết đón nhận và thi hành Lời Chúa.
A. Trước Hết, Thời Xưa Ðã Có Nhân Ðạo
Chúng ta thường nghĩ rằng ngày xưa người ta chỉ biết lấy mắt trả mắt, răng đền răng. Hơn nữa chúng ta còn dám so sánh và cho rằng ở những thời đại xa xưa của Abraham, Môsê và Ðavít, người ta chỉ cư xử với nhau bằng luật rừng, chứ không thể cư xử với nhau theo tình bác ái. Bài sách Xuất hành hôm nay khiến chúng ta phải dè dặt hơn.
Dĩ nhiên đây không phải là những luật đã được ban bố vào thời Xuất hành. Người ta quen lấy những luật ở những thời đại về sau đem cắm vào những thời đại trước và đặt nơi môi miệng của nhà luật pháp trứ danh là Môsê để chúng được thêm uy tín. Tuy nhiên chúng vẫn căn cứ vào biến cố Xuất hành như ta thấy ở ngay câu đầu tiên trong bài đọc hôm nay.
Chúa truyền cho dân: "Khách cư ngụ, ngươi không được ngược đãi và áp bức nó, vì các ngươi đã là khách cư ngụ ở đất Aicập". Và Người dạy không được ức hiếp mẹ góa con côi, kẻo nó kêu lên Người thì khí nộ Người bốc lên làm cho người ta rơi vào cảnh vợ góa con côi.
Chúng ta thử đặt các lệnh truyền này vào thời đại của chúng cách đây ít nhất cũng phải gần 3,000 năm. Ðó không phải là nhân đạo và văn minh sao? Nhất là luật tiếp theo. Phải cho vay mà không được lấy lãi. Ðược giữ vật thế chân để tránh sự lạm dụng, nhưng những đồ cầm đó phải trả lại trước khi mặt trời lặn, kẻo đêm lạnh người nghèo không có áo làm mền.
Thật, ngày xưa đã có những luật không cho phép người ta bóc lột nhau. Nhưng ở đây không phải chỉ có vấn đề nhân đạo, mà còn có cơ sở đạo đức. Chúa dạy dân phải giữ các lệnh truyền bác ái, không phải vì mọi người là đồng loại, hoặc vì phải nhớ lại hồi trước dân đã từng là nạn nhân của nhiều sự bóc lột, nhưng nhất là vì Thiên Chúa là Ðấng lân tuất. Người luôn luôn xót thương và bênh vực những kẻ khó nghèo và yếu thế. Người chống lại bóc lột. Người đòi cho mọi người được bình đẳng vì tất cả đều là hình ảnh của Người. Người ta muốn đẹp lòng Người thì phải săn sóc đến tha nhân. Người không tách rời lòng đạo đức và tình đồng loại. Người không đồng hóa hai vấn đề mến Chúa và yêu người; nhưng Người chỉ chấp nhận những lòng mến Chúa đồng thời cũng thương người.
Ý định của Thiên Chúa thì rõ rệt như vậy; nhưng thường khi người ta lại không thi hành. Ngay ở trong Dân Chúa, bất công xã hội và bóc lột những kẻ yếu hèn là chuyện không hiếm hoi. Các tiên tri của Chúa phản ứng mạnh mẽ, nhưng cho đến thời Chúa Yêsu vẫn còn có những khuynh hướng pháp luật muốn tách rời hai nhiệm vụ mến Chúa và yêu người. Thậm chí người ta còn muốn căn cứ vào lòng mến Chúa để coi nhẹ bổn phận thương người. Ðọc kỹ bài Tin Mừng hôm nay chúng ta sẽ thấy như vậy.
B. Cả Hai Giới Răn Ðều Quan Trọng
Mở đầu, thánh Matthêô đã cho chúng ta thấy bầu khí tranh chấp đố kỵ của thời Ðức Yêsu. Người theo Biệt phái, kẻ theo Sađốc phái. Bên này gài bẫy bên kia và hí hửng khi đối thủ gặp nạn. Từ lãnh vực chính trị xã hội, cuộc tranh chấp lan sang phạm vi tôn giáo. Luật pháp có tới 613 khoản: 248 lệnh truyền và 365 điều cấm. Nhưng khoản nào trọng hơn khoản nào và khoản nào quan trọng hơn hết? Ðó là vấn đề sôi bỏng. Tùy theo người ta nghiêng về phụng vụ hay xã hội, về Ðền thờ hay về đền vua, mà người ta có thể biện minh cho thái độ Biệt phái hay Sađốc phái, thái độ dè dặt hay hợp tác với ngoại bang. Ai cũng muốn tranh thủ người khác về phe mình. Người ta muốn biết ý kiến của Ðức Yêsu. Lập trường của Người rất quan trọng, vì dân chúng sẽ tùy đó mà biểu lộ cảm tình với phe nào. Nhưng tuyên bố lập trường ấy ra cũng thật nguy hiểm cho Người. Phe đối địch sẽ có thêm chứng cớ để tiêu diệt Người.
Tuy nhiên đó chỉ là những suy tính của người ta. Ðã nhiều lần họ gài bẫy Người. Nhưng chẳng có lần nào họ đã thành công. Hôm nay cũng vậy. Ðược hỏi ý kiến về giới răn trọng nhất. Người trả lời như hết mọi người Dothái đạo đức: Ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, và hết lòng trí ngươi. Ðó là câu trong sách Thứ luật (6,5), là kinh nguyện hằng ngày của Dân Chúa. Nhưng Ðức Yêsu không dừng lại ở đó. Người còn nói tiếp: Ðó là giới răn thứ nhất. Thứ đến cũng quan trọng như vậy, là ngươi phải thương đồng loại như chính mình. Người không đồng hóa hai việc mên Chúa và yêu người. Hai việc đó vẫn khác nhau và có thứ tự trước sau, nhưng quan trọng như nhau; và vì thế không được sao nhãng nhiệm vụ nào. Nét độc đáo trong câu trả lời tức là lập trường của Ðức Kitô là ở chỗ đó. Người ta vẫn nói phải mến Chúa và thương người, phải có thiên đạo và nhân đạo. Nhưng thông thường người ta vẫn coi đó là những nhiệm vụ rời nhau, những bổn phận không liên lạc gì với nhau. Người ta có thể mến Chúa trong Ðền thờ và không thương người ngoài xã hội hoặc thương người nơi xã hội nhưng lại không mến Chúa trong Ðền thờ. Nhất là người ta quen coi thương người là thứ yếu sánh với nhiệm vụ phải mến Chúa.
Ðối với Ðức Kitô thì không được như vậy. Phải thương người cũng như mến Chúa. Ưu tiên là mến Chúa nhưng đồng thời cũng phải thương người. Sau này thánh Yoan sẽ giải thích: không thể có lòng mến Chúa vô hình nếu không thương người hữu hình (1Yn 4,20). Và khi dạy phải thương người như chính mình, Ðức Yêsu không có ý bảo phải thương mình trước, hay cũng phải thương cả tha nhân nữa. Câu nói của Người có nghĩa rằng: phải thương người hết mình như đã mến Chúa hết linh hồn.
Cuối cùng một nét độc đáo nữa trong câu trả lời của Ðức Yêsu là: tất cả Luật pháp và Tiên tri đều quy về hai giới răn mến Chúa và yêu người ấy. Và như vậy, không những tất cả 613 khoản luật, mà toàn thể mọi lời giáo huấn đều nhằm phát triển lòng mến Chúa và yêu người.
Vấn đề tranh chấp xưa nay giữa các phe nhóm đã được giải quyết. Chẳng phe nào thắng nhưng nhóm nào cũng phải nỗ lực hơn để giữ trọn Lề luật. Nói đúng ra phe nhóm nào cũng đã lầm lạc. Khi đã không coi trọng hai nhiệm vụ mến Chúa và thương người như nhau, người ta đã làm mất quân bình, gây ra lệch lạc trong đời sống. Ðức Yêsu đã mang ơn cứu độ đến. Ai đón nhận thì phải mến Chúa nhưng đồng thời cũng phải thương người. Thái độ đó, một phần nào chúng ta có thể nhìn thấy nơi giáo đoàn Thessalônikê của thánh Phaolô, mà bài thư hôm nay như muốn nói lên.
C. Một Gương Thực Hành
Có thể nói đây là những đoạn văn đầu tiên của bộ sách Tân Ước. Phaolô đã viết bức thư này trước hết vào khoảng năm 51, tại nhà Aquila sau khi Timôthê đã mang mực và da thuộc đến. Lần đầu tiên biên thư cho một giáo đoàn, nên Phaolô có một thái độ trịnh trọng đạo đức, và hầu như phụng vụ nữa.
Người tạ ơn Chúa vì sự sống đạo nơi giáo đoàn ấy. Giáo đoàn Thessalônikê vừa bắt chước Chúa vừa bắt chước các Tông đồ. Họ sống kết hợp với Chúa nhưng cũng kết hợp với các Tông đồ vì họ đã thấy các Tông đồ đến lo việc của Chúa ở nơi họ nhưng đồng thời đã tỏ ra đầy tinh thần phục vụ họ. Mến Chúa và yêu người không phải là hai phận sự tách biệt, nhưng cũng quan trọng như nhau và phải tiến hành đồng đều. Chính vì vậy mà tiếng tăm của giáo đoàn này đã bay đi khắp nơi và Thessalônikê đã trở thành giáo đoàn gương mẫu. Mọi nơi đều ca ngợi họ về hai điểm: đón nhận Lời Chúa cũng như đón nhận các Tông đồ. Họ vừa mến Chúa vừa thương người, vừa kết hợp với Chúa vừa hiệp nhất với nhau.
Cảm động và chân thật hơn nữa là thái độ đón nhận này quả thật rất siêu nhiên, vì là đón nhận giữa bao nỗi gian truân, nhưng lại hoan hỷ trong Thánh Thần. Ðiều này làm chứng Tin Mừng mà Phaolô đem đến không phải là lời của loài người nhưng là Lời của Thiên Chúa. Dân Thessalônikê đón nhận không phải vì thấy đó là lời lẽ khôn ngoan xác thịt, nhưng là Lời có sức mạnh của Thần Khí. Họ phải lướt thắng nhiều khó khăn để đón nhận và đón nhận vui vẻ. Thế nên họ thật đã tham dự vào mầu nhiệm tử nạn phục sinh của Chúa. Họ đã lãnh nhận được chính ơn cứu độ của mầu nhiệm thập giá. Phaolô đánh giá việc họ đón nhận là việc bắt chước Chúa Yêsu và các Tông đồ; bởi vì khi đón nhận Lời Chúa trong gian truân mà vui vẻ thì rõ ràng người ta đã bắt chước các Tông đồ trong việc dạn dĩ rao giảng Lời Chúa giữa ngăn cấm và đe dọa. Nói cách khác, lòng mến Chúa và thương người nơi giáo đoàn Thessalônikê không theo lẽ thế gian nhưng tựa vào sức mạnh của Thánh Thần. Ðó là nếp sống đạo chân thật vì hoàn toàn siêu nhiên. Phaolô có lý do để hãnh diện vì nếp sống đạo ấy. Người tạ ơn Chúa thật là phải lẽ. Và người không nói sai khi tuyên bố đó là nếp sống phải trở nên gương mẫu cho mọi giáo đoàn.
Chúng ta nghĩ sao về các lời Kinh Thánh ấy? Chúng ta đã thâm tín tất cả Luật pháp và Tiên tri đều quy về hai giới răn mến Chúa và yêu người. Ðó vẫn là hai việc khác nhau: không thể coi mến Chúa là thương người; và cũng không được coi thương người là mến Chúa. Nhưng đó là hai việc quan trọng như nhau; phải thi hành cả hai, phải quý cả hai như một; phải kết hiệp với Chúa và đồng thời cũng phải hợp nhất với mọi người.
Giáo xứ chúng ta có được như giáo đoàn Thessalônikê không? Gặp gian truân, khó khăn, chúng ta có "bắt chước" Chúa và các Tông đồ không? Có giữ đạo và đời không? Có vừa làm tốt đời và đẹp đạo không? Biết đâu những lời trong bài sách Xuất hành không đang còn có giá trị khẩn trương? Chung quanh chúng ta có những đồng bào mới đến. Những anh chị em ấy có được lập tức đón nhận như đồng bào ruột thịt không? Những cảnh mẹ góa con côi cũng không hiếm ở giữa chúng ta. Và chắc chắn nhiều người đang lâm cảnh vay mượn và cần giúp đỡ. Lòng nhân đạo khi gặp khó khăn có vươn lên được nhờ sự giúp đỡ của đức tin không?
Các tín hữu ở Thessalônikê đã nhờ việc "bắt chước" Ðức Kitô mà có một nếp sống đạo chân thực và tốt đẹp. Giờ đây, Ðức Kitô đến hiện diện trong mầu nhiệm tử nạn phục sinh nơi bàn thờ. Chúng ta muốn tham dự vào mầu nhiệm của Người. Nhưng việc tham dự này chỉ chân thật khi chúng ta quyết tâm bắt chước cuộc đời của Ðức Kitô. Chúng ta sẽ làm chứng mình đã tham dự thánh lễ chân thật, nếu sau khi về nhà, chúng ta sẽ sống tốt cả hai nhiệm vụ mến Chúa và yêu người. Chúng ta sẽ là Kitô hữu tốt khi chu toàn các bổn phận đối với cả đạo và đời. Xin Thiên Chúa giúp đỡ chúng ta.
54. Hàng ngàn giới răn?
Một lần nữa những người Pharisêu muốn giăng bẫy Chúa Giêsu, kiểm tra giáo lý của Ngài, dồn Ngài vào chân tường, dẫn Ngài vào trong sự rắc rối của hàng ngàn luật lệ. Người ta sắp thấy điều Ngài biết, sắp thấy Ngài có dạy dỗ tốt điều cần phải dạy dỗ hay không.
Chúa Giêsu thoát ra khỏi cái bẫy với một sự tự do, một sự trong sáng và một sức mạnh sáng tạo làm cho những người Pharisêu không nói được một lời nào. Ngài trích dẫn hai câu cổ điển: “Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa... Ngươi phải yêu thương anh em ngươi...”. Đây là câu trả lời đơn giản của học trò giỏi, nhưng Ngài rút ra từ đó hai điều mới lạ.
Điều thứ nhất, Ngài đưa hai điều luật tới gần nhau bằng cách cho hai điều luật đó có tầm quan trọng như nhau. Kể từ giây phút này tình yêu thương anh em được nâng lên gần với tình yêu thương Thiên Chúa và sẽ không rời ra nữa.
Điều thứ hai, Ngài làm cho viên ngọc duy nhất nay sáng lên bằng cách để cho nó ngự trị trên toàn bộ những điều chúng ta nghĩ và làm: tất cả đều tuỳ thuộc vào tình yêu. Việc kể ra nhiều những điều phải làm hoặc không được làm, làm phát sinh hàng ngàn câu trả lời cho một câu hỏi: tôi có thể yêu thương như thế nào?
Chúa Giêsu nói tất cả những gì chứa đựng trong Kinh Thánh, lề luật và các tiên tri, và do đó tất cả những gì Thiên Chúa chờ đợi nơi chúng ta, phát xuất từ hai điều răn gắn với nhau này. Những người chẻ sợi tóc làm tư đã hỏi Ngài nay bị buộc quay về điều cốt lõi: “Hãy yêu thương”.
Chúng ta cũng thế, chúng ta cảm thấy rằng tuân giữ hoàn toàn hai giới răn lớn này là một cách thức triệt để, nhưng có tính cách bó buộc đến nỗi chúng ta thích đi quanh co ở giữa hàng ngàn điều qui định. Đàng khác, những qui định này là cần thiết, “yêu thương” thì quá mơ hồ, phải hun đúc yêu thương bằng những bó buộc khác nhau. Tôi phải biết rằng tôi thật sự yêu mến Thiên Chúa và anh em của tôi nếu tôi làm điều này điều kia.
Nhưng thế rồi nổi lên một nguy cơ muôn đời: làm mất tác dụng sự bó buộc yêu thương bằng việc cứ nhắm mắt tuân thủ bó buộc đó. Với ít nhiều ý thức chúng ta lý luận theo cách này: nếu tôi làm tất cả những gì được yêu cầu thì đã yêu thương rồi đó. Không đâu. Điều đó chưa đúng, bởi vì điểm xuất phát thì xấu. Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng tất cả trước tiên tùy thuộc vào dự kiến triệt để đó là yêu thương. Chúng ta đừng bao giờ bắt đầu bằng hàng ngàn điều phải làm nhưng là bằng xác tín mà tất cả đều tuỳ thuộc vào đó: tôi phải yêu thương.
Theo Tin Mừng, bí mật của cuộc sống là: trước hết phải thực hành yêu thương điều gì đó một cách hoàn toàn vô điều kiện. Thế rồi ý thức muốn yêu thương này sẽ dần dần hóa thân vào trong tất cả các biến cố, các cuộc gặp gỡ và các sự tuân phục –nhưng không đắm chìm vào trong đó. Sẽ là bất hạnh nếu lại rơi vào trong sự âu lo và sự nô lệ hàng ngàn giới răn, sau khi đã nhận được từ Chúa điều răn ngắn nhất và tự do nhất trong số các điều răn của cuộc sống: Tôi có yêu thương hay không?
55. Điều cốt yếu
Các cuộc tranh luận giữa bọn Biệt Phái về phương diện Giáo lý, đã đi tới chỗ quyết liệt nhất là khi tìm xem điều gì cốt yếu.
“Giới luật nào quan trọng nhất?”. Bọn Biệt Phái hỏi Chúa như thế. Họ mong muốn Chúa sẽ trình bày luật pháp là tạm thời, rồi mưu mô đề cao lời của Ngài để nhờ đó, họ có thể công kích hoặc nói rằng Ngài chỉ nêu lên một điểm trong toàn bộ luật pháp, và vì thế họ cũng có thể làm Ngài thua cuộc. Nhưng Đức Kitô thấu triệt được thâm ý của họ. Ngài đi thẳng vào vấn đề: nghĩa là Ngài nêu lên điểm gì là quyết định, chủ yếu, đúng như lời Thiên Chúa đã dạy, tức là nêu lên một phương diện chung duy nhất đó là đức ái.
Mến Chúa là điều cốt yếu. Điều cốt yếu không phải chỉ là khúm núm sụp lạy Thiên Chúa tạo hóa, cũng không phải là lời tuyên xưng tội lỗi của tội nhân, cũng không là cách chiêm niệm siêu thoát của một người đặc biệt, cũng không là ơn xuất thần của một tâm hồn huyền bí. Nhưng điều cốt yếu là đức ái, tức là dòng nước tình ái giữa Chúa và ta. Đó là tình trạng hiệp nhất thâm sâu và nồng thắm, là ngọn lửa thánh thiện bừng cháy trong tâm hồn, là thái độ hiến thân trọn vẹn để được tan biến trong đấng duy nhất và oai nghiêm là Thiên Chúa. Yêu và được yêu là mầu nhiệm thâm sâu nhất của Tôn Giáo Chúa Giêsu. Ở đây không có vẻ rườm ra như một tôn giáo vị luật, nhưng Ngài chỉ quyết đáp một điểm về bản tính đích thực của luật. Tất cả những giới luật chi tiết khác phải hỗ trợ cho điểm trung tâm này. 10 giới răn chỉ là những đường hướng hoạt động khác biệt. Muốn tuân giữ các giới răn ấy, phải có một lòng mến trung thực thấm nhuần tâm hồn và cảm năng, nghĩa là tâm hồn được chìm đắm sâu xa trong vẻ cao trọng huyền nhiệm của Thiên Chúa.
56. Giới luật thứ nhất và trên hết – Lm. An Phong
Nếu tình cờ có ai hỏi: "Đối với bạn, điều gì quan trọng nhất?"; chắc hẳn sẽ có rất nhiều câu trả lời. Có người sẽ cho rằng đó là chu toàn trách nhiệm; vì ai sinh ra đời cũng đều lãnh nhận trách nhiệm, trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội.
Có người sẽ không ngần ngại trả lời: đó là sống trong sạch; vì quả thật, theo nhà phân tâm học Freud, chúng ta chào đời với đầy những ám ảnh về những cấm kỵ, những cám dỗ về điều răn thứ 6, tội dâm dục…
Người khác lại sẽ cho rằng đó là sự công bằng. Bởi lẽ phải có công bằng trước đã, rồi mới có thể nói đến bác ái, tình yêu. Một xã hội công bằng, đó đã là một điều tuyệt vời lắm rồi.
Và còn có thể có nhiều câu trả lời khác nữa cho câu hỏi này; cũng như người Do Thái khi xưa đã tranh luận mãi về một giới răn trọng nhất.
Đức Giêsu, Ngài tóm tắt điều quan trọng nhất trong một giới luật: "Mến Chúa, yêu người". Tất cả những câu trả lời khác đều tốt, nếu chúng thể hiện được lòng "mến Chúa yêu người"; và sẽ chẳng là gì nếu chúng không xuất phát từ lòng "mến Chúa yêu người". Có thể chúng ta đã coi trọng chuyện "nhà thờ nhà thánh" hơn là quan tâm đến một người hàng xóm đang gặp túng quẫn; có thể chúng ta giữ kỹ mọi lề luật, nhưng lại so đo tính toán với Chúa từng ly từng tí… như thế thì còn đâu là "mến Chúa yêu người" được.
Thái độ căn bản của tình yêu là cởi mở, đón nhận. Mở lòng ra với Thiên Chúa và quảng đại đón nhận anh chị em. Mở lòng ra với Chúa để chu toàn những luật lệ đòi buộc ta không làm như người nô lệ; quảng đại đón nhận anh chị em để mối tuơng quan con người với nhau không bị đổ vỡ, méo mó vì những chấp nhất, tỵ hiềm, ganh ghét.
Thánh Phaolô đã diễn tả tình yêu đó như sau: "Đức Mến thì nhẫn nhục, hiền hậu; không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng vui khi thấy sự ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả" (1Cr 13,4-7).
Chỉ có một điều quan trọng nhất là lòng Mến; nhưng lòng Mến lại được thể hiện trong muôn vàn cách thức khác nhau.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã yêu thương;
và vì tình yêu đó,
Chúa đã dám làm tất cả cho người Chúa yêu.
Xin cho chúng con
cũng được tràn đầy tình yêu như Chúa.
Xin cho chúng con cũng dám vì yêu thương
mà tận tâm phục vụ anh chị em của con.
57. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
GIỚI RĂN TRỌNG NHẤT
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Biệt phái tụ họp lại một chỗ": Kiểu nói được dùng ở đây (“sunôthêsan epi to auto") là một trích dẫn nguyên văn từ Thánh vịnh 2,2: "Vua chúa trần gian dấy binh khởi nghĩa, vương hầu liên minh một khối (dịch sát chữ: "tụ họp lại một chỗ" (sunêthôsan opi to auto) chống lại Giavê và Chúa Kitô của Ngài". Thế mà, trong 26, 3 Mt sẽ còn dùng lại cùng động từ ấy (ở cùng một cách, một thì, một ngôi) để diễn tả âm mưu tại nhà Caipha giữa các thượng tế và các kỳ lão nhằm giết Chúa Giêsu. Qua sự tương đồng ấy, Matthêu ngụ ý là những cuộc tranh chấp trong chương trình này chỉ là mào đầu cho cuộc đối đầu quyết liệt sẽ đưa Chúa Giêsu đến thập giá. Những cuộc tụ họp như vậy của các đầu mục trong dân hay được Matthêu nhắc lới (2, 4; 22, 41; 26, 3. 57; 27, 62; 28,12) và thường là điềm dữ.
"Để làm Người lúng túng": dịch sát chữ: "Để thử Người" Matthêu cũng dùng động từ này (pelrazein) ở 22, 18 nơi kể lại chuyện người ta "thử" Chúa Giêsu về vấn đề nộp thuế cho hoàng đế. Rõ ràng luôn luôn là dùng cạm bẫy trong cả đoạn.
"Giới răn nào lớn nhất trong Lề luật": Lời giải thích được yêu cầu thật đặc biệt quan trọng, vì đây không phải là giải thích một trường hợp cụ thể, đặc thù nhưng là làm sáng tỏ một đòi hỏi luân lý trong chính bản chất của nó. Bản văn hy ngữ dịch sát chữ như sau: Đâu là giới lăn lớn trong Lề luật. Nhưng hình thức nguyên cấp (positio của tĩnh từ lớn (megalê) có giá trị tuyệt đối cấp (superlatio, như thường thấy trong Hy ngữ bình dân (Koinè) và trong bản 70 chịu ảnh hưởng của Hy bá, nhất là nếu sau nó có một danh từ tập hợp, ở đây là Lề luật, hiểu theo nghĩa toàn bộ các giới răn.
"Ngươi phải yêu mến...". Trong việc triệt để hóa Lề luật này, không có vấn đề đơn giản hóa bằng cách loại bỏ những điều lệ phụ tùy (mà Chúa Giêsu lẫn môn đồ đều tuân giữ) cho bằng là nhắc lại ý nghĩa của các giới răn, và cho thấy chúng bắt nguồn từ trong ý định tối cao của Thiên Chúa. Còn về hình thức phát biểu của giới răn này, đừng tìm cách phân tích đâu là những phạm vi tương ứng của lòng, của linh hồn, của trí khôn: ý nghĩa trùng tích của các thành ngữ là: tình yêu phải có tính cách toàn diện, nghĩa là phải động viên tất cả con người; dầu sao, chỉ cần một từ ngữ thôi, như "lòng" chẳng hạn, cũng đủ để ám chỉ toàn thể con người; các tiếng khác thuộc về kiểu nói hùng biện; lòng và tư tưởng (hy lạp: dianoia) là tiếng dịch chữ lòng (hy bá: leb) của Cựu ước; không nên nghĩ đến một chức năng đặc biệt nào đó của trí tuệ suy luận; trí tuệ được vận dụng vì toàn thể con người dấn thân.
"Đó là giới răn lớn, giới răn đệ nhất": Chữ "và" nối liền hai tĩnh từ lớn và đệ nhất chắc có nghĩa giải thích hơn là có nghĩa cộng thêm: giới răn này đứng đầu hết vì nó quan trọng nhất xét về nội dung và ngược lại; tĩnh từ đệ nhất không muốn nói là giới răn đứng đầu nhiều giới răn khác nhưng là đứng đầu tất cả xét về phương diện ý nghĩa, vì chính nó đem lại ý nghĩa đích thực cho mọi giới răn. Bởi vậy kiểu nói thứ đến cũng giống như điều ấy chẳng có nghĩa là: ở hàng thứ hai xét về bậc quan trọng, nhưng là: cũng quan trọng như giới răn thứ nhất; giới răn thứ hai không thể so sánh, hay tương tự như giới răn thứ nhất, song là ngang hàng xét về tầm quan trọng cửa cái mà nó dạy truyền; tuy nhiên nó không đồng nhất theo nghĩa có thể chuyển hoán: tình yêu tha nhân chẳng được đồng hóa với lòng yêu mến Thiên Chúa, nhưng yêu mến tha nhân cũng khẩn thiết như mến yêu Thiên Chúa.
“Toàn thể Lề luật cùng các sứ ngôn": Chúa Giêsu hoàn toàn đứng trên lãnh vực các Sách thánh đã được ban cho tổ tiên dân Do thái. Người không phát minh điều gì; tầm quan trọng của hai giới răn này dựa trên sự kiện chúng tóm kết tất cả các Sách Thánh; nhưng đàng khác, Chúa Giêsu đã tái giải thích các Sách Thánh ấy khi mặc khải ý nghĩa thâm sâu của chúng ra (x Rm 13, 9).
KẾT LUẬN
Cái mang lại cho giới răn này uy tín và sự cao cả, chính là vì Chúa Giêsu đã phát biểu nó lên và cho nó là lớn lao, quan trọng. Người không mang đến (hay chưa mang đến) một giới răn mới mẻ, nhưng Người mặc cho giới răn cũ giá trị đích thực củ a nó. Câu trả lời của Chúa Giêsu không phải là câu trả lời của một ký lục, song là của Chủ lề luật. Chính người công bố nó và hoàn thành nó (5,17). Và chính việc người hoàn thành Lề luật đã đem lại cho Lề luật một tính cách mới mẻ thực sự. Tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân không phải chỉ là hai thái độ nhân loại được truyền làm; chúng được hiện thân trong con người của Chúa Giêsu. Chính vì đến để hoàn tất Lề luật và các ngôn sứ qua cuộc sống, cái chết và sự phục sinh, mà Người có thể tuyên bố với uy quyền rằng tất cả nội dung của Cựu ước đều được “quy về" giới răn mến Chúa và yêu người. Chính trong Người mà không những Lề luật dưới hình thức giới răn, nhưng cả lời hứa về ân sủng đã do các ngôn sứ loan báo, đều tìm được sự thành tựu.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Yêu tha nhân không có nghĩa là yêu họ chỉ vì Thiên Chúa đòi buộc, chỉ vì để vâng lời Ngài. Mối dây Chúa Giêsu thiết lập giữa hai giới răn chẳng phải là một mối dây ngoại tại, pháp lý, tự ý người bày ra, song là nằm trong lý luận của Thiên Chúa, trong chính bản chất của sự vật mà Ngài đã tạo dựng, rằng là ta không thể yêu Ngài mà yêu anh em. Và không phải làm như thể là vì anh em, mà trong thâm tâm lại làm vì Thiên Chúa. Thiên Chúa đích thực chẳng phải là sản phẩm của những ước vọng và những tưởng tượng đạo đức của con ngươi. Ngài đã đi vào trong lịch sử của chúng ta đã can thiệp vào đó bằng cách trở nên liên đối với con người. Ngài đồng hóa với con người (Cv 9, 5: "Ta là Giêsu người đang bắt bớ") đến nói từ đây ta không thể phân biệt Ngài khỏi con người nữa. Thành thử khi thực sự yêu tha nhân vì họ (như Thiên Chúa yêu họ vì họ chứ chẳng phải vì Ngài, vì tình yêu này không đem lại cho Ngài gì cả) ta sẽ yêu Thiên Chúa vì Ngài. Chỉ có một tình yêu, cũng như con người chỉ có một quả tim, một tấm lòng.
2. Một cách cụ thể, phải yêu tha nhân thế nào? Chẳng phải bằng tình cảm (vì có một vài thứ ác cảm tự nhiên hầu như không thể vượt qua) cho bằng là qua thái độ và hành động. Thánh Phaolô đã mô tả cho chúng ta lòng bác ái đích thực như sau: "Đức ái thì khoan dung, nhân hậu; đức ái không ghen tương; ba hoa, tự mãn, không khiếm nhã, không ích kỷ; không cáu kỉnh, không chấp nhất sự ác, không mừng trước sự bất công, nhưng biết chia vui cùng lẽ phải. Trong muôn sự, đức ái hết lòng bao dung, hết lòng kính tin, hết lòng trông cậy, hết lòng kiên nhẫn" (1Cr 13, 4-6). Khi tìm cách tha thứ lỗi lầm của tha nhân, khi luôn hy vọng họ trở nên tốt hơn cho dù bề ngoài thế nào chăng nữa, khi chấp nhận họ như họ đang là, lúc đó chúng ta mới thương yêu thực sự, lúc đó chúng ta mới thật là con cái của Thiên Chúa.
58. Chú giải theo Fiches Dominicales
VẤN ĐỀ GIỚI RĂN TRỌNG NHẤT
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Vấn đề cạm bẫy về “điều răn lớn nhất”
Ba dụ ngôn về xét xử mà chúng ta đã suy niệm trong các Chúa nhật 26, 27 và 28 đã chẳng làm cho các kẻ thù địch Chúa phải câm miệng, mà con châm ngòi một loạt các cuộc tranh cãi khác. Họ liên minh với nhau và lần lượt thử Chúa cốt làm cho Người phải rơi vào bẫy của vấn đề họ đặt ra. Trước hết -Phúc âm tuần rồi- là sự xoay sở của đám "môn đệ những người Pharisiêu cùng đi với những người phe Hêrôđê". Họ tới hỏi Chúa một câu, bấm bụng rằng bẫy đặt ra như vậy là không tài nào tránh thoát: "Xin Thầy cho biết ý kiến có được phép nộp thuế cho César hay không?”. Nhưng Đức Giêsu chẳng để mình bị kẹt chút nào trong thế lường đao của họ, mà đã chuyển hướng vấn đề, và nhìn vào hình tượng in trên đồng tiền mà họ đưa cho coi Người đã tuyên bố: "Của César, trả về César; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa". Một câu trả lời đã khiến cho đối phương của Người không nói thêm được câu nào nữa: “Họ ngạc nhiên, và để Người lại đó mà đi". Tiếp đến -đoạn chuyển tiếp không có trong sách Bài đọc năm A- là ngón xoay sở của những người "phe Sadducée”? nhóm này chủ trương "không có sự sống lại". Họ đem câu chuyện kỳ cục về một phụ nữ, có bảy đời chồng, hy vọng chế giễu chính Đức Giêsu, và lòng tin vào sự sống lại. Nhưng Đức Giêsu đã nhắc lại cho họ điều Thiên Chúa mạc khải trong câu chuyện về bụi gai rực cháy ở sách Xuất Hành 3,6: Đấng đã tỏ mình ra với ông Môsê như là "Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Jacob. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống. Khi nghe tin Đức Giêsu "đã làm cho nhóm Sadducée phải câm miệng", thì đến lượt những người Pharisiêu trở lại vào cuộc. Nhưng lần này là một nhóm; một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giêsu để "thử Người" rằng: "Thưa Thầy, trong sách luật Môsê, điều răn nào là điều răn lớn nhất”. Nên biết rằng, thời đó, sách Luật gồm, không hơn kém 613 điều răn; các kinh sư phân ra 365 điều cấm (bằng với số ngày trong năm) và 248 điều truyền (bằng với số bộ phận trong cơ thể con người). J.Potin giải thích: "Cuộc tranh luận về điều răn nào lớn nhất tạo nên mối xung khắc giữa những người Pharisiêu chủ trương 613 điều răn đều quan trọng như nhau, với những ai ước mong phải có tôn ti đẳng cấp, rõ hơn có thể giải thích cho người ngoài biết đâu là điều cốt yếu là bản chất của đạo”. (Đức Giêsu, lịch sử đích thực", NXB Centurion, 1994, trang 376).
2. Dẫn vào điểm cốt lõi của Tân Ước.
Đức Giêsu đã trả lời thật khôn khéo vấn đề của những người Pharisiêu về việc nộp thuế cho César - Người đã trích dẫn Lời Chúa để phá vỡ mưu đồ của những người phe Sadducée. Còn về giới răn lớn nhất, thì câu trả lời Người là thẳng thắn, không do dự, nhắm thẳng đích. Đức Giêsu không nhắc nhở họ về lời ban bố của sách xuất Hành, đoạn 20: Mười Điều răn Đức Chúa Trời. Người trích dẫn hay đúng hơn, Người đọc thuộc lòng lời tuyên xưng lòng tin của sách Đệ Nhị Luật 6,4-5 mà mọi người Do Thái vẫn đọc khi đi ngủ cũng như khi thức dậy; lời này được ghi trên các thẻ linh mà những người Pharisiêu vốn đeo trên trán là trên cánh tay một lời khẳng định tính cách duy nhất của Thiên Chúa mà theo sau là giới răn yêu mến Thiên Chúa, một tình yêu phải thấm nhập vào tận đáy lòng, sức lực và ý nghĩ: "Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng, hết dạ, hết sức anh em...” Nhưng điểm độc đáo của Đức Giêsu là Người gắn liền "điều răn thứ nhất" này với điều răn thứ hai: ‘cũng giống điều răn ấy’: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình" (Lv 16,18). Làm như vậy không những Người diễn tả được "Tất cả Luật Môsê và các sách Ngôn sứ nghĩa là tập trung tất cả vào hai giới răn đứng đầu này, không có vậy thì mọi điều răn khác đều mất hết ý nghĩa, nhưng Người còn tỏ cho thấy bí quyết của chính cuộc đời Người, một cuộc đời tự hiến vì yêu mến Cha và yêu thương các anh em của Người. Cl Tassin chú giải: "Hai điều răn này chi phối toàn bộ Kinh Thánh (Luật Môsê và sách Ngôn sứ) không phải để bãi bỏ Kinh Thánh, nhưng là để đọc Kinh Thánh mà thấy rõ hơn. Và, trong Kinh Thánh, lòng yêu mến không dính dáng gì với thứ tình cảnh bồng bột, đổi thay tuỳ cảm xúc; lòng yêu mến đây chính là sự quyết định gắn bó với một ai đó mà mình cho người ấy có quyền trên mình và là những hành động cụ thể nuôi dưỡng quyết định này... không bao lâu nữa Đức Giêsu sẽ dùng cuộc khổ nạn của Người "và chứng tỏ rằng Người là hiện thân chính lòng yêu mến Thiên Chúa là lòng yêu thương mọi người này" ("Phúc âm thánh Matthêu”, NXB Centurion, trang 236).
BÀI ĐỌC THÊM
1) “Một lời để ghi nhớ: Ngươi phải yêu mến” (Giám mục L. Daloz "Le Règne des Cieux sest approché". Desclée de Brouwer, trang 309-311).
Đúng là hai điều răn: điều răn thứ nhất là điều răn lớn. Điều răn thứ hai cũng quan trọng không kém. Có nghĩa là những giới răn ấy không cho phép ta tuỳ thích. Tình yêu mà những giới răn ấy nói tới, đối với Thiên Chúa cũng như đối với tha nhân không phải là một thứ tình cảm trôi nổi tuỳ theo tính khí của ta. Tình yêu là một sự cam kết lớn lao, một sự dâng hiến chính mình, hiến mạng sống mình. Tình yêu không dừng lại ở nửa đường, mà đi cho tới cùng giống như đám lửa cháy. Giới răn ấy khơi dậy tình yêu khi mà thường tình và một cách tự nhiên tính lãnh đạm hay chối từ có nguy cơ thống trị. Giới răn ấy là như tia lửa làm bùng lên đám cháy, giới răn ấy nâng đỡ tình yêu khi nỗi chán chường hay thói quen sẽ làm cho tình yêu ra nguội lạnh hoặc tàn lụi. Giới răn ấy làm bừng lên nhuệ khí khi tình yêu chân thực đòi hỏi nhiều hy sinh, quên mình. Nhờ tương phản và hỗ trợ giữa tình yêu và giới răn này mà đời sống ta được thăng tiến! Giới răn yêu thương có hai mặt hai mặt mà không tách biệt nhau như mu và lòng bàn tay: Điều răn thứ hai cũng giống, cũng quan trọng như điều răn thứ nhất, là: "ngươi phải yêu người thân cận, như chính mình". Chỉ có một mình Chúa là Đấng ta phải yêu mến cách tuyệt đối, hơn cả chính mình ta, hết lòng, hết linh hồn và hết tn khôn ta. Khi yêu mến Chúa hết mình, vượt khỏi chính mình, ta được vào trong tình yêu Chúa ban tặng, được sống trong tình yêu của Người, lòng ta mở ra hướng về vô biên, và con người được tạo nên cho cõi vô biên, bởi lẽ Thiên Chúa muốn thông phần sự sống của Người cho con người, muốn thần hoá con người! Còn về người thân cận, Đức Giêsu truyền phải yêu người thân cận, như chính mình. Đây không phải là một sự so sánh bình thường, mà còn hơn thế nữa. Không chỉ đơn giản là muốn và làm cho người thân cận điều ta muốn cho ta. Đức Giêsu đã đưa ra một điểm son, một khuôn vàng thước ngọc: "Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các Ngôn sứ là thế đó" (Mt 7,12). Giới răn thứ hai thật minh bạch và đi xa hơn. Giới răn ấy đòi ta yêu mến người thân cận như người ấy là chính ta, là ta đồng hoá với người ấy. Nó diễn tả một sự hiệp thông giữa hai hữu thể, giữa hai cuộc sống, giữa anh em trong một nhà, trong một gia đình Thiên Chúa. Nếu tôi không yêu mến người thân cận của tôi, nếu tôi khinh chê người ấy, chính là tôi gây thiệt hại cho bản thân tôi. Yêu người thân cận như chính mình, chính là tôi dành cho tôi một tình yêu tuyệt vời. Thế nên, và nhất là có điều răn ấy, thật là điều hạnh phúc! Bởi lẽ khi tôi yêu mến người giống như tôi, người mà tôi nhận ra tôi nơi con người ấy, thì tôi cũng được người ấy đáp lại bằng lòng yêu mến tự nhiên, bằng mối thịnh tình theo nghĩa mạnh nhất, còn nếu theo bản năng tôi ngờ vực một người, thì người ấy có thể trở thành một đối thủ, một người cạnh tranh, một kẻ thù của tôi. Lịch sử từng minh chứng những biến cố thật lớn lao đượm tình huynh đệ, cũng như những cuộc bùng nổ dữ dội nhất từng châm ngòi cho thù hận giữa con người.
Điều răn thứ hai quả là cần thiết, và rất cần thiết nên Đức Giêsu mới dùng tất cả những lời lẽ trang trọng mà tuyên bố là điều răn ấy cũng giống như điều răn kia, cũng quan trọng không kém. Người đã đặt con người vào đúng tước vị của nó là hình ảnh và là con Thiên Chúa? Quả thực, đây cũng là điều đơn giản và chắc chắn Chúa muốn ta tham khảo. Yêu mến thế nào, thường là điều phức tạp; bạn phải tìm kiến, nhận thức rõ, kiểm soát những tình cảm tốt xấu của bạn, chứ không được miễn trừ. Bạn hãy luôn luôn phải tìm xem để yêu mến thế nào cho đúng sự thật; cần được học hỏi về điều này. Nhưng nếu bạn có một ý chí muốn yêu thương, nếu để cho ngọn lửa của Thánh Linh điều động cuộc đời bạn, thì bạn sẽ thấy con đường phải đi và phương cách để làm. Bạn hãy tìm kiếm hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn bạn. Bạn hãy tìm kiếm như cho chính mình thì bạn sẽ gặp!
2. “Một từ tóm tắt tất cả Phúc Âm: yêu mến” (H. Denis "100 mots pour dire la coi" Desclée de Brouwer, trang 31-32).
Khi nói đến yêu, tôi vốn thích dùng động từ Yêu mến, nó có tính cách chủ động và tích cực, hơn là dùng từ Tình yêu một từ rất đẹp nhưng cũng rất dễ bị phê phán.
Làm sao có thể là tín hữu mà lại không yêu mến?
Làm sao có thể nhận biết Thiên Chúa của chúng ta nếu Người không phải là Đấng yêu mến chúng ta? Nhưng vậy thì có nhiều cách yêu mến 'không" Chắc hẳn là có rồi, nên trong vấn đế này, tôi vẫn cứ theo gót" nhà sư phạm trứ danh là thánh Augustino. Ngài phân biệt ba trình độ trong hành vi yêu mến.
Trình độ thứ nhất, thấp nhất, không có ý nói là xấu nhất: Thích được yêu (aimer tres aimé). Bạn hãy nói cho tôi hay, có ai mà lại không thích điều đó không? Phải là con người hư hỏng môi dám nói ngược lại. Mọi người đều như vậy thôi; nhưng cuộc sống cũng đã dạy cho ta rằng tình yêu còn phải là cái gì khác hơn là niềm khoái chí (tự tôn kia).
Trình độ thứ hai: Thích yêu (aimer aimer). Ta hãy tạm dịch ở đây là: lấy làm vui khi yêu mến người khác. Ở bậc này, người ta có ra khỏi mình một chút, có quảng đại có vị tha. Chúa ơi, thật vui và đẹp biết bao khi làm được một việc thêm khi xả thân, và đôi khi đi tới chỗ đóng vai con chim bố nông tự để cho con da thịt mình. Ngay ở điểm này, ai lại không muốn nhận khen thưởng chúng. Bạn hãy nói cho tôi hay bạn có đủ can đảm để đi thăm một 'bệnh nhân nào đó, di uỷ lạo một cảnh khốn này, chẳng tìm thấy được ở đó một điều gì khích lệ chăng? Nhưng bạn hãy coi chừng. Tất cả thái quá trong lãnh vực này - quảng đại thái quá - có lẽ là một hình thức tự tôn tự đại của lòng yêu mến chính mình đó thôi. Còn trình độ thứ ba: Yêu (aimer). Có thế thôi. Yêu mến người khác vì chính họ, không phải vì ta làm điều tốt cho họ, không phải vì làm cho nhân đức của ta lớn lên. Không phải thế, bởi lẽ xét cho cùng, người ta không yêu mến vì; ta yêu là yêu thôi. Đó mới là đỉnh cao của "tình cho không, biếu không". Hãy nhìn nhận điều này: Ta chẳng mấy khi đạt tới trình độ đó. Chỉ có một vị đã hiến thân chỉ vì yêu mà thôi, một Đức Giêsu ấy muốn lấy bản tính nhân loại của ta, một Đức Giêsu ấy mới ban cho ta Thần Linh tình yêu, khi Người tắt thở, một Đức Giêsu ấy mới có thể sáng nghĩ ra nhân vật Samaritano nhân lành yêu thương mà không đòi đáp trả và hình dung ra một người Cha đang mở rộng vòng tay đón nhận đứa con đi hoang trở về. Nếu phải cần đến một từ để tóm tắt cả Phúc âm, đó là: Yêu mến.
59. Mến Chúa yêu người
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy giới răn thứ nhất đó là hãy kính mến Thiên Chúa hết lòng. Còn giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là hãy yêu thương anh em như chính mình vậy.
Tuy nhiên đọc lại Phúc âm, chúng ta có cảm tưởng dường như Chúa Giêsu đặc biệt nhấn mạnh tới giới răn thứ hai. Ngài đã coi việc yêu người là cách thức để biểu lộ tình mến Chúa. Thực vậy có lần Ngài đã phán: Mỗi khi lên đền thờ dâng của lễ mà sực nhớ người anh em có điều chi bất bình với ngươi thì hãy để của lễ đó, trở về làm hoà với người anh em mình trước đã rồi mới tới mà dâng của lễ sau. Hơn nữa mỗi hành động bác ái yêu thương chúng ta thực hiện cho người anh em là chúng ta thực hiện cho chính Chúa. Thế nhưng đặc điểm của lòng yêu người là gì? Tôi xin thưa: đó là tinh thần phục vụ. Phục vụ một cách nhưng không, một cách vô vị lợi, không cần đền ơn báo đáp, không mưu cầu danh vọng địa vị hay được bù lỗ cách này cách khác. Chính Chúa Giêsu đã từng làm gương cho chúng ta: Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Tình yêu Ngài dành cho chúng ta thật cao cả, bởi vì Ngài đã hiến mạng sống Ngài cho chúng ta. Hơn thế nữa, Ngài còn đòi hỏi các môn đệ, những kẻ bước theo Ngài cũng phải sống tinh thần phục vụ như thế. Trong bữa Tiệc Ly, sau khi đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, thì Ngài đã nói với các ông: Nếu Thầy đã rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Từ những điều vừa trình bày chúng ta đi vào một vấn đề thời sự nóng bỏng trong giáo xứ, đó là vấn đề bầu ban hành giáo. Khi thi hành chức vụ của ban hành giáo, thì một trật chúng ta thể hiện tinh thần phục vụ đối với Chúa cũng như đối với người khác tại cộng đồng giáo xứ. Trong những ngày qua, tôi rất xúc động vì có những bà mẹ, những bà vợ, biết mình không thể ra ban hành giáo được, cho nên đã tích cực động viên chồng con của mình. Một bà vợ thì nói: Tôi rất mừng khi thấy ông ra ứng cử, bởi vì khi đã vào ban hành giáo, ông sẽ đạo đức hơn và chừa bỏ được những thói hư tật xấu của mình. Một bà mẹ thì bảo: Mẹ cho con ăn học và mong con sẽ làm được một cái gì lợi ích cho đời. Thế nhưng dưới một góc độ khác, chúng ta không khỏi lo âu và băn khoăn, vì suốt hơn hai tháng cổ động mà hiện giờ, khu vực Thánh đường Vô Nhiễm vẫn còn khiếm khuyết một ứng cử viên. Trong giáo xứ rất nhiều người hội đủ điều kiện, có dư thiện chí và tinh thần phục vụ, nhưng vì hoàn cảnh, vì lý do này lý do khác, đã không thể ra được. Chúng ta hoàn toàn thông cảm với những anh em có lý do chính đáng. Thế nhưng cũng có những người mạnh miệng tuyên bố, nhưng rồi khi đến việc lại chẳng thấy đâu, cho nên sự thể có những tên gọi vừa khôi hài lại vừa chua chát, chẳng hạn như: chánh lặn, chánh chuồn, chánh né… Như thế xem ra phục vụ bằng mồm thì dễ hơn phục vụ bằng hành động, bằng việc làm. Một trong những lý do thường được đưa ra để chuồn, để lặn, để né đó là bà xã. Thực sự thì hiện nay, gia đình nào mà chẳng có những khó khăn, đã ra gánh vác việc chung thì thế nào cũng phải chấp nhận hy sinh một phần công việc nhà. Mà các bà thì vốn tham lam, muốn độc quyền, không muốn ông xã của mình bị chia sẻ, bị hy sinh, cho nên đã ngáng chân, đã làm kỳ đà cản mũi, để ông xã đừng ra. Bởi vì nếu ông xã mà ra, sợ ông ấy quá siêng năng việc chung mà bê trễ việc riêng, nhất là những khi mùa màng dồn dập, cho nên khi có người đến vận động thì tay chân dãy lên đành đạch và miệng thì chối bai bải. Hành động như thế, chứng tỏ chúng ta thiếu tinh thần phục vụ, thiếu trách nhiệm chung, cũng như thiếu tin tưởng vào Chúa, bởi vì Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi những kẻ phục vụ Ngài. Bằng chứng cụ thể là rất nhiều vị chánh, vị phó, vị trùm, vị quản trong những năm phục vụ giáo xứ, kinh tế gia đình vẫn không bị suy giảm, mà hơn nữa lại còn tậu đất, sắm tivi cassette, mua máy bơm, máy suốt cũng như máy cày, như vậy cũng vẫn ăn nên làm ra, cả về tiền bạc cũng như về con cháu.
Để kết luận tôi xin mượn lời kinh hoà bình của thánh Phanxicô Assie: Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người.
60. Mến Chúa yêu tha nhân – Lm Louis Minh Nhiên
Một em bé tuyên bố em yêu mẹ em hết sức của em. Người bác hỏi xem em nói điều đó có ý nghĩa gì. Em trả lời: "Thưa Bác, cháu và mẹ cháu sống ở tầng lầu thứ ba trong khu nhà thuê. Nhà này không có thang máy, và đống củi thì để ở dưới hầm nhà, dưới basement. Mẹ cháu bận rộn suốt ngày và người cũng không được khoẻ cho lắm. Vì thể bổn phận và trách nhiệm của cháu là đem củi từ dưới hầm lên lò sưởi trên nhà. Cháu đã phải dùng hết sức của cháu để có thể bê củi lên đến tầng lầu thứ ba. Như vậy chẳng phải là cháu yêu mẹ cháu hết sức đó sao?"
Là Kitô hữu, chúng ta thường tự hỏi: Đâu là mức độ chúng ta phải yêu Thiên Chúa và tha nhân? Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay bảo chúng ta rằng, trước hết chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và thứ hai là thương yêu tha nhân như chính mình.
Chúa Giêsu trích hai điều luật này trong sách thánh Cựu ước. Điều luật thứ nhất về yêu mến Thiên Chúa trích ở sách Đệ Nhị Luật (Đnl 6,5) và điều luật thứ hai về yêu thương tha nhân trích sách Lêvi (Lv 19,18).
Như chúng ta đã biết căn bản của đạo Do thái gồm tóm trong 10 giới răn Chúa trao cho ông Maisen. Từ những giới răn này, các thầy thông giáo đã thêm thắt thành 613 luật riêng rẽ, chia ra 248 luật phải giữ và 365 luật cấm. Vì vậy thật khó mà nhớ hết tất cả các luật đó để giữ và chu toàn một cách tỉ mỉ trong cuộc sống hằng ngày. Do đó việc nhận biết khoản luật nào quan trọng hơn mà giữ là điều cần thiết.
Khi Chúa Giêsu nối kết hai khoản luật thành một, Ngài có ý cho chúng ta hiểu rằng mến Chúa yêu người đó là hai mặt của một đồng tiền.
Trong những thế kỷ đầu của Kitô giáo, nhiều người đã bỏ thế gian, trở thành những thầy dòng khổ tu, sống hãm mình khắc khổ trong sa mạc. Một dịp mùa chay nọ, một nhóm thầy dòng cùng với Đức Viện phụ Maisen quyết định ăn chay tuần lễ thánh. Tuy nhiên, vào khoảng giữa tuần, một vài thầy dòng ở một tu viện khác đến thăm chòi của Đức Viện phụ Maisen. Thấy họ đói, Đức Viện phụ thương hại và nấu cho họ chút đồ ăn, và để cho họ khỏi nghĩ ngợi, Đức Viện phụ cũng dùng chút ít.
Trong khi đó, các thầy dòng khác thấy khói bốc lên từ chòi của Đức Viện phụ. Điều đó chỉ có nghĩa là Đức Viện phụ đã nấu đồ ăn. Nói một cách khác, ngài đã vi phạm luật giữ chay. Họ sửng sốt và thương hại cho sự yếu đuối của Đức Viện phụ.
Họ đến chất vấn ngài. Đức Viện phụ bước ra khỏi chòi và hỏi: " Tôi đã phạm tội gì mà các thầy nhìn tôi một cách khủng khiếp quá như vậy?". Họ trả lời: "Đức Viện phụ đã vi phạm luật chay mà chúng ta tình nguyện giữ vì yêu Chúa Kitô tử giá". Đức Viện phụ đáp: "Phải, tôi đã vi phạm luật giữ chay. Tôi đã không giữ luật của con người, nhưng trong khi chia sẻ đồ ăn với những thầy dòng nầy, tôi đã giữ luật của Thiên Chúa. Các thầy không nghĩ là Chúa Giêsu cũng làm như vậy sao? Các thầy ạ, các thầy đã xé tin mừng của Chúa ra làm hai. Có hai giới răn trọng, chứ không phải chỉ có một. Chúa Giêsu bảo chúng ta rằng phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, và yêu tha nhân như chính mình. Chúng ta không vào sa mạc để xa tránh nhân loại và để sống một mình với Chúa. Chúng ta đến đây để tìm kiếm tha nhân và yêu thương họ trong Thiên Chúa". Các thầy dòng ra về khiêm nhường và khôn ngoan hơn.
Có lẽ nếu không để ý chúng ta cũng đã phạm cùng một lầm lỗi các thầy dòng, các luật sĩ và biệt phái đã phạm, đó là nghĩ chỉ có một giới luật yêu mến Chúa. Chúng ta có thể chu toàn lề luật siêng năng đi lễ, ăn chay, đọc kinh cầu nguyện, đi hành hương Đất Thánh, hoặc nơi này nơi kia... mà quên đi giới luật yêu thương tha nhân.
Ngược lại, số người khác theo chủ thuyết duy nhân nhân bản, chú trọng giúp đỡ con người, nhưng lại không bao giờ nghĩ đến Thiên Chúa hay cầu nguyện với Ngài.
Thiên Chúa truyền dạy chúng ta yêu mến Chúa và yêu thương tha nhân. Yêu Chúa nhiều thì không dễ, và yêu tha nhân - những con người với nhiều khuyết điểm thiếu sót - lại càng không dễ hơn.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tự vấn lương tâm: Đạo chúng ta là đạo của tình thương, và phải chăng thước đo lòng đạo của chúng ta là những kinh kệ dài dòng và biểu dương tôn giáo, hay chính là tình yêu mà chúng ta thể hiện với tha nhân?
61. Yêu thương
Ngày xưa có một hoàng tử trẻ sống trong lâu đài tráng lệ. Vào một đêm mùa đông, một bà lão ăn xin lỡ đường, muốn trọ qua đêm, đã bị hoàng tử từ chối. Chẳng may, bà lão lại là một bà phù thủy. Để phạt tội hoàng tử không có lòng thương người, bà đã biến chàng thành một con mãnh thú, hình tượng xấu xí và hung dữ. Trước khi ra đi, bà cho con mãnh thú một lời hứa sẽ biến trở lại thành hoàng tử nếu có ai thực sự yêu thương mãnh thú.
Trong ngôi làng gần chỗ con mãnh thú ở, có một thiếu nữ xinh đẹp tên là Belle. Cô mồ côi mẹ, sống với cha già. Cha già con mọn bị đám thợ săn thường xuyên quấy phá. Một ngày nọ, cha cô vào rừng săn thú, đi lạc vào lâu đài, bị mãnh thú bắt giữ. Nhờ con ngựa khôn ngoan đã dẫn cô tìm được cha. Vì thương cha, cô chấp nhận đổi mạng, ở lại sống với con mãnh thú để người cha được tự do ra về.
Về đến nhà, người cha đã kết hợp với bọn thợ săn tìm cách giết con mãnh thú để cứu con gái. Trong khi đó cô gái bắt đầu quen thân, trò chuyện và đem lòng yêu mến mãnh thú, tuy rất đau khổ phải xa cách người cha. Còn mãnh thú vì yêu thương cô gái, không nỡ để cô sống trong đau khổ, nên đã đồng ý thả cô về nhà với cha. Chiến trận ác liệt đã xảy ra giữa bọn thợ săn và con mãnh thú. Đang khi giao chiến với bọn thợ săn, mãnh thú bị thương nặng. Sau khi về thăm cha già, cô gái thương nhớ con mãnh thú và quyết định trở lại tiếp cứu. Cô đến đúng khi mãnh thú bị thương, đang quằn quại trong đau đớn. Cô năn nỉ: “Không! Xin đừng chết! Mãnh thú ơi ta yêu mi!” Rồi cô ôm hôn lên mặt mãnh thú. Nhờ nụ hôn yêu thương đó, mãnh thú biến trở lại thành một hoàng tử khôi ngô tuấn tú như trước. Đó là câu chuyện tình đẹp đẽ được tóm lược trong cuốn phim hoạt hình “The Beauty and the Beast”, “Mãnh Thú và Giai Nhân”.
Câu chuyện trên nói lên sức mạnh cứu độ của tình yêu. Tình yêu có khả năng giải thoát và biến đổi con người. Thật vậy! Hầu hết những vấn đề rắc rối và thảm kịch xẩy ra trên thế giới đều do thiếu tình thương. Rất nhiều phạm nhân đã gây nên tội ác chỉ vì không thể ban tặng hay đón nhận tình yêu thương.
Điều mỗi con người đều khao khát, ước ao và cần đến là tình yêu. Thánh Kinh dạy rằng: “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Tình yêu là bản chất của Thiên Chúa. Và bởi con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, nên cũng luôn khát khao và tìm kiếm tình yêu. Dựa trên nhu cầu căn bản này của con người, trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đã dạy cho những người Biệt phái biết điều răn duy nhất của đức ái, sự viên mãn của lề luật: “Yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn…” Điều răn thứ hai là: “Yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”.
Câu chuyện được kể về một đôi vợ chồng tới gặp cha sở và nói: “Thưa cha, chúng con sắp ly dị, nhưng chúng con muốn xin cha cho chúng con biết ý kiến?” Cha sở suy nghĩ giây lát rồi quay sang hỏi người chồng: “Thánh Kinh dạy rằng con phải yêu thương vợ con như Chúa Giêsu Kitô đã yêu thương Hội Thánh. Con có thể thực hành được điều đó không?” Người chồng thưa: “Thưa không. Con không nghĩ con giữ được điều đó”. Cha sở nói: “Vậy thì con hãy bắt đầu ở mức độ thấp hơn vậy. Thánh Kinh dạy rằng con phải yêu thương người lân cận như yêu chính mình. Con có thể yêu thương vợ con một cách tối thiểu như vậy được không?” Người chồng nói, “Thưa cha không. Điều này cũng còn quá cao!” Một cách tuyệt vọng, sau cùng cha sở đành nói: “Thánh Kinh cũng dạy rằng, con hãy yêu thương kẻ thù của con, thôi con hãy về nhà và bắt đầu từ đó đi!”
Nhóm Biệt phái, đa số gồm các luật sĩ, chủ trương phải tuân giữ các luật lệ của Cựu Ước và cộng thêm khoảng 613 luật lệ do truyền thống của các thầy Rabbi. Còn nhóm Sađđucêô chỉ tin vào các luật lệ và các tiên tri mà thôi, không tin vào truyền thống của các thầy Rabbi. Câu hỏi được đặt ra cho Chúa Giêsu: “Trong luật lệ, giới răn nào quan trọng nhất?” đã được tranh cãi giữa những người Biệt phái và Sađđucêô. Âm mưu của nhóm người Biệt phái nhằm gài bẫy Chúa Giêsu vào những trường hợp xung khắc khó giải quyết giữa các phe nhóm tôn giáo và chính trị để tiêu diệt Ngài. Tâm hồn họ mang nặng thù hận và ích kỷ đang khi bề ngoài giả vờ bàn hỏi về những giới luật yêu thương!
Chàng ca sĩ nhạc pop, Cliff Richard sau một chuyến viếng thăm trại tị nạn Bihari ở Bangladesh trở về nhà đã kể lại một biến cố cảm động như sau: “Buổi sáng đầu tiên ở trại tị nạn, tôi phải rửa tay hàng chục lần. Tôi đã không dám đụng vào bất cứ cái gì, nhất là dân chúng. Mọi người ở trong những trại tị nạn đó đều bị ghẻ lở. Toàn thân đầy mụn nhọt. Tôi đang cúi xuống với một em bé gái, mục đích chính chỉ là chụp vài tấm hình để phô trương với bè bạn. Tôi đã cố gắng hết sức đừng cúi xuống quá gần kẻo đụng chạm vào người em. Ngay lúc ấy, một người nào đó tình cờ đạp lên những ngón chân của em. Bé gái hét lên, và như một phản xạ, tôi nắm lấy em, quên đi sự bẩn thỉu dơ dáy và đầy mụn nhọn trên người em. Tôi nhớ mãi một thân hình nhỏ bé và ấm áp bám chặt vào tôi, ngay lập tức tiếng khóc ngưng bặt. Từ đấy, tôi biết rằng tôi còn phải học hỏi rất nhiều điều thực tế về tình yêu Kitô giáo, nhưng tối thiểu gì tôi cũng đã bắt đầu.
Một nhà tâm lý học nổi tiếng đã đưa ra nhận xét rằng việc yêu thương một người khác là điều thử thách lớn nhất trong mọi sinh hoạt của con người, vì nó đòi hỏi phải hy sinh và từ bỏ bản thân mình. Chính vì những đòi hỏi này nên có nhiều người đã chưa bao giờ yêu người khác một cách thực sự. Hoặc có thể đã yêu, nhưng sau đó gặp đau khổ, họ đã tháo lui. Để thực sự yêu thương một người khác ở mức độ sâu xa, cần phải có sức mạnh để tiến tới việc chia sẻ chính cuộc sống của mình. Đó chính là tình yêu hướng về Thiên Chúa và tha nhân được Chúa Giêsu đề cập đến.
62. Giới răn trọng nhất - Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Tin mừng Mt 22, 34-40: Chúa Giêsu đã trả lời rằng: ”Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Còn giới răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là ngươi hãy yêu thương tha nhân như chính mình ngươi”...
Sau khi thất bại trong việc gài bẫy Chúa Giêsu trong việc nộp thuế cho vua César, nhóm biệt phái muốn tấn công Chúa Giêsu bằng một cú đòn khác. Họ sai một tiến sĩ luật đến hỏi Chúa Giêsu:
"Thưa Thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất”?
Sở dĩ đặt câu hỏi này là vì một đàng các phe nhóm không đồng ý với nhau về điều răn nào là quan trọng nhất, đàng khác họ muốn thử Chúa Giêsu để gài bẫy Ngài, vì nếu Ngài trả lời điều luật này trọng, điều luật kia không trọng thì chắc chắn Chúa sẽ bị một trong hai phe chống đối.
Nhưng Chúa Giêsu đã trả lời rằng: ”Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Còn giới răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là ngươi hãy yêu thương tha nhân như chính mình ngươi”.
Cả hai điều răn này đều được nói đến trong Lề Luật, và bất cứ người Israel nào cũng đều phải biết và ghi nhớ.
Đức Giêsu đã chỉ làm một việc là trích sách Đệ nhị luật (6,4-5) và Lêvi (19,18). Điều đặc biệt ở chỗ là Người đã đặt hai điều răn này ngang hàng với nhau. Có nghĩa là điều răn thứ hai cũng đáng được quan tâm tuân giữ như đối với điều răn thứ nhất, tức là Người nối kết hai điều răn với nhau và dành cho chúng vị trí cao nhất. Hơn nữa, Đức Giêsu còn tuyên bố rằng “tất cả Lề Luật và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”, có nghĩa là hai điều răn này diễn tả trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa trong Kinh Thánh, do đó hàm chứa tất cả mọi điều răn khác.
Phải nói đây là hai giới răn rất đặc biệt, bề ngoài như có vẻ là hai giới răn, nhưng thật ra chỉ là hai cách diễn tả của một giới răn duy nhất. Cả hai giới răn chỉ có một động từ duy nhất là “yêu”. Đối tượng của động từ “yêu” này có vẻ là hai đối tượng khác nhau: tuy có thể phân biệt rõ rệt trên lý thuyết, nhưng trên thực tế thì dường như không thể phân biệt, và không nên phân biệt. Vì thế, hai điều răn ấy “tuy hai mà một”, tương tự như hai mặt của một tờ giấy: tuy là hai mặt khác nhau, nhưng chỉ là một tờ giấy duy nhất. Chính vì thế, thánh Gioan mới nói: “Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20). Do đó, “Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình” (4,21)[1]
Vậy chúng ta đã thực hiện giới răn “Mến Chúa Yêu Người” như thế nào?
Có câu chuyện kể rằng: Trên một con đường vắng, một chiếc xe đang phóng nhanh chợt đột ngột thắng gấp và tấp vào lề đường. Ai đó vừa ném một viên đá vào cánh cửa chiếc xe. Bước ra khỏi xe, liếc nhìn chỗ xe bị ném, người lái xe bực tức chạy nhanh đến tóm ngay thằng bé đứng gần đó - chắc chắn nó là tác giả của vết trầy trên chiếc xe. Trước đó anh đã thấy nó vẫy xe, chắc là để đi nhờ.
"Không cho đi nhờ mà mày làm như vậy hả?"
Anh vừa gằn giọng vừa nắm chặt cổ áo đẩy cậu bé sát vào chiếc xe...
Cậu bé lắp bắp sợ hãi: "Em xin lỗi! Nhưng em ... em ... không biết làm cách nào khác. Nếu em không ném vào xe của anh thì anh đã không dừng lại...Nãy giờ em đã vẫy biết bao nhiêu xe mà không có ai chịu dừng".
Nói đến đó, nước mắt cậu bé lăn dài trên má. Cậu chỉ tay về vệ cỏ phía bên kia đường.
"Có một người... anh ấy bị ngã và chiếc xe lăn của anh ấy cũng ngã theo. Em tình cờ đi ngang qua thấy vậy nhưng không thể đỡ nổi anh ấy vì anh ấy nặng quá". Giọng ngắt quãng vì những tiếng nấc liên tục, cậu bé nài nỉ:
"Anh có thể giúp em đưa anh ấy lên chiếc xe lăn được không? Anh ấy ngã bị chảy máu, chắc là đau lắm.
Lời nói của cậu bé khiến anh thanh niên không thể thốt lên được lời nào. Anh thấy cổ mình như nghẹn lại vì xúc động. Anh đến đỡ người bị ngã lên chiếc xe lăn, băng vết thương và cùng cậu bé kéo xe lên đường.
Cậu bé tiếp tục đẩy chiếc xe lăn chở nạn nhân về nhà. Người thanh niên dõi mắt nhìn theo cho đến khi hình ảnh cậu bé và chiếc xe lăn khuất sau rặng cây đường làng.
Anh bước thật chậm về phía chiếc xe của mình. Sự giận dữ trong anh biến mất. Anh quyết định không sửa lại vết trầy trên xe. Anh muốn nó sẽ nhắc anh về câu chuyện xúc động hôm nay, về một điều mà trước nay anh không để ý đến và cũng không có thời gian để nghĩ đến. Anh đã không nhận ra, không có được lòng trắc ẩn như cậu bé.
Anh đã tiếc thời gian và đi quá nhanh đến nỗi phải có ai đó ném một viên đá vào xe mới làm anh dừng lại. Amen.
----------------------------
[1] JKN, CN 30A TN
63. Mến Chúa yêu người – Lm. Vũ Nghi
Vào thời Đệ Nhị Thế Chiến, tại San Francisco, có hai gia đình di dân sống gần nhau và thuộc cùng một xứ đạo: một gia đình người Nhật và một gia đình người Thụy sĩ. Sau nhiều năm làm việc khó nhọc, cả hai gia đình đã thành công trong nghề trồng hoa hồng. Đột nhiên, ngày 7 tháng 12 năm 1941, Nhật tấn công Trân Chân Cảng, và họ nghe đồn rằng những người Mỹ gốc Nhật sẽ bị bắt vào trại tập trung. Gia đình người Thụy Sĩ hứa sẽ tiếp tục săn sóc vườn hoa cho gia đình người Nhật, nếu thực sự họ bị bắt, vì đây là điều họ đã được Chúa dạy: "Các con hãy thương yêu nhau." (Ga 15,17). Và quả thật, gia đình người Nhật đã bị bắt. Một năm. Hai năm. Rồi ba năm qua đi, gia đình người Thụy Sĩ đã hy sinh thời giờ và sức lực để trồng cấy và đem hoa ra chợ bán thay cho gia đình người hàng xóm của mình. Khi chiến tranh chấm dứt, gia đình người Nhật được trả tự do, và họ đã được gia đình người Thụy Sĩ ra tận bến xe để đón về. Về đến nhà, họ thấy một vườn hoa xanh tươi, một căn nhà sạch sẽ tươm tất, và một món tiền, sinh lời được trong ba năm họ xa nhà.
Được lòng yêu mến Thiên Chúa thúc đẩy, gia đình người Thụy sĩ trên đây đã thực hành đúng lời Chúa đã truyền dạy: "Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết trí khôn... và hãy yêu thường anh em như chính mình."
Mến Chúa và yêu người, đó là hai khoản luật Thiên Chúa quan tâm chú trọng ngay từ những ngày đầu tiên con người xuất hiện trên trái đất, và cũng là hai khoản luật con người đã lỗi phạm ngay từ những trang sử đầu tiên của nhân loại.
Vì nguyên tổ đã không hết lòng tin tưởng ở Thiên Chúa, nên đã tin lời của ma quỉ; vì ghen tương, Cain đã giết chết em mình. Đến thời Xuất Hành, khi Thiên Chúa ban bộ luật cho dân Do thái, một lần nữa, hai khoản luật quan trọng vẫn là hết lòng tôn thờ một mình Thiên Chúa Giavê (Đnl 6,5), và yêu thương anh em đồng loại như chính mình, cách riêng những người nghèo hèn yếu thế (x Lv 19,18.33-34)
Dẫu vậy, khi Chúa Giêsu liên kết hai giới luật này, và coi hai điều này là giới luật cao trọng nhất trong toàn bộ lề luật, Chúa đã làm một điều mới lạ. Nhưng vấn đề ở đây là sao Chúa Giêsu lại làm như vậy.
Khi truyền dạy chúng ta "yêu mến Chúa hết lòng, hết sức, hết trí khôn", đó là Chúa dạy chúng ta hãy yêu mến Chúa với toàn diện con người của mình. Điều này có nghĩa là mọi việc chúng ta làm đều phải qui hướng về Chúa. Thiên Chúa có quyền đòi buộc điều này là vì chúng ta là thụ tạo của Người, và mọi cái chúng ta có đều là do Chúa ban cho. Chúng ta có thể tự tình phụng sự mến yêu Chúa và được hưởng hạnh phúc với Người; hay với sự tự do Chúa ban, chúng ta có thể từ chối phụng sự Chúa, và rồi sẽ phải lãnh chịu hiệu quả của quyết định đó.
Một khi chúng ta quyết định sống với Chúa trong tâm tình thờ kính mến yêu, chúng ta sẽ biết phải có tâm tình nào, hành động làm sao, nói năng thế nào, trong mỗi hoàn cảnh của cuộc sống. Các giới luật khác lúc đó không còn là gánh nặng, nhưng là những nhắc nhở cho chúng ta về bổn phận và trách nhiệm của mình đối với Chúa. Nhưng vì đối với Chúa, chúng ta không thấy, và cũng không cảm nghiệm được bằng giác quan, nên Chúa đã muốn chúng ta yêu mến Người qua các thụ tạo của Người. Theo lời Thánh Augustinô, "Vì chúng ta không nhìn thấy Chúa, nên Chúa đã muốn chúng ta thấy Chúa qua tha nhân. Vì khi yêu mến tha nhân, ánh nhìn của chúng ta được thanh tẩy nên trong sáng hơn để có thể nhìn thấy Thiên Chúa." Dĩ nhiên lòng mến yêu này không phải là tình yêu tự nhiên, hay yêu tha nhân là vì một lợi lộc cá nhân nào đó, nhưng phải là tình yêu được bắt nguồn và phản ảnh chính tình yêu thương của Chúa Kitô: Một tình yêu rộng mở đến mọi người không kể giai cấp, mầu da, chủng tộc; một tình yêu quảng đại quên mình; một tình yêu nhạy cảm, cách riêng đối với những nghèo khổ, bệnh tật, những người bị gạt ra ngoài lề của xã hội.
Chắc rằng cho dù gia đình người Thụy sĩ có yêu mến gia đình người hàng xóm đến đâu đi nữa. họ cũng không đủ sụ quảng đại và kiên nhẫn để tiếp tục công việc bác ái đó trong suốt 3 năm trường, nếu lòng yêu mến đó không được nâng đỡ và thúc đẩy bởi lòng yêu mến Thiên Chúa. Mến Chúa và yêu người do đó có một mối liên hệ thật mật thiết với nhau. Lòng mến Chúa cần được bày tỏ qua tình thương mến đối với tha nhân, và lòng yêu thương tha nhân chỉ bền vững và chân thành khi nó được nuôi dưỡng và nâng đỡ bởi tình yêu mến Thiên Chúa.
64. Yêu thương
Vào ngày kỷ niệm 25 năm thành hôn, Abigail Van Buren, đã xin đăng trên báo trong mục “Dear Abby” lá thư sau đây gửi cho chồng của bà: “Ngày 2 tháng 7 năm 1964. Anh Mort yêu quý, hôm nay là ngày rất đặc biệt đối với em. Đó là ngày kỷ niệm 25 năm thành hôn của em, và em có lời này để ngỏ cùng anh: em đã có một người mẹ và một người cha thực sự yêu thương nhau, do đó em biết được tình yêu là gì. Em đã làm việc rất chăm chỉ để nhìn thấy hai người con đang tuổi thanh xuân vượt qua thời niên thiếu đầy gian khổ một cách an toàn, do đó em biết được sự hài lòng là gì. Em đã cầu nguyện, và những lời cầu nguyện của em đã được lắng nghe, do đó em biết được đức tin là gì. Em đã có anh ở bên cạnh em, một con người tử tế nhất, dịu dàng nhất, đáng kể nhất trên đời, do đó em biết được niềm vui là gì. Em yêu anh”.
Tình yêu hướng về Thiên Chúa và tha nhân mang lại niềm vui. Một niềm vui không giống như khoái lạc, hay hạnh phúc. Một con người hư hỏng có thể tìm được khoái lạc trong những thoả mãn nhục dục. Hoặc một con người tầm thường cũng có những giây phút cảm thấy hạnh phúc trong đời. Nhưng niềm vui chân thật theo ý nghĩa của Thánh Kinh nói đến, chỉ phát xuất từ tình yêu biết hy sinh và quên mình vì Thiên Chúa và tha nhân.
Niềm vui đó cho phép chúng ta nhìn thế giới từ một viễn tượng đã được thăng hoa và phong phú dưới ánh sáng của Tin Mừng. Đó chính là biết “mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người” và trở nên một “khí cụ bình an của Chúa”. Đó chính là tìm an ủi, tìm hiểu biết, tìm yêu mến, hiến thân và quên mình như lời Kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô Assisi đã diễn tả.
Truyện cổ Đông Phương kể lại rằng ngày xưa có bốn chàng thanh niên thực hiện một cuộc du hành băng qua khu rừng. Thình lình, họ gặp một bức tường rất cao chận đứng trước mặt. Lập kế, họ bắc một cái thang dài để leo lên xem cái gì ở phía bên kia. Người thứ nhất leo lên tới đỉnh, nhìn xuống dưới và la lên trong khoái lạc cực độ. Ngay lập tức anh phóng mình xuống. Anh thứ hai cũng làm tương tự như vậy. Rồi anh thứ ba cũng thế. Sau cùng, anh thứ tư leo lên, chiêm ngắm một khung cảnh đầy hứng thú: cây cối xanh tươi, hoa trái muôn nghìn. Chưa bao giờ anh nhìn thấy cảnh tượng đẹp đẽ như vậy. Và, giống như những người khác, anh cũng bị cám dỗ nhẩy xuống đó. Nhưng anh kịp ngưng lại để suy nghĩ đôi chút, nghĩ đến gia đình, vợ con và bạn bè của mình. Sau đó anh đã vội vã leo xuống chân thang và bắt đầu đi rao giảng tin mừng về một khu vườn đẹp tuyệt trần cho những người khác biết.
Từng người một, ba chàng thanh niên đầu tiên đã nhìn thấy một vùng đất mới với những hứa hẹn tuyệt vời. Họ đã quyết định chiếm đoạt lấy cho riêng mình nên đã tự huỷ diệt. Chàng thanh niên thứ tư kịp suy nghĩ và muốn chia sẻ nó với những người khác, nên tồn tại. Cách chắc chắn nhất để làm phong phú cái nhìn nội tâm của chúng ta về tình yêu Thiên Chúa là chia sẻ tình yêu đó với những người khác.
Tôi rất thích bản dịch câu Kinh Thánh trích từ lá thư thứ nhất của thánh Gioan, đoạn 4, câu 7b, của học giả Thánh Kinh Công giáo, Edgar Bruns: “Phàm ai yêu thương, thì sinh ra Thiên Chúa”. Câu này được dịch đúng chữ như sau: “Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra”. Điều thực sự rằng tình yêu Kitô giáo luôn ở trong một tiến trình để Thiên Chúa được sinh ra, được chia sẻ với hết mọi người và lan rộng ra khắp nơi trên thế giới.
Thời Giáo Hội sơ khai, những người không phải Kitô hữu đã để tâm lưu ý đến những người Kitô hữu bằng cách: “Hãy nhìn xem họ yêu thương nhau là dường nào!” Theo một truyền thống của Thánh Gioan để lại, lúc đó ngài đã già yếu và bước đi rất khó khăn đến nhà thờ vào mỗi ngày Chúa nhật. Gioan phải nhờ những người bạn dìu đi. Khi Thánh lễ kết thúc, họ phải giúp cho Gioan đứng lên ban phép lành cho cộng đoàn và nói: “Các con thân mến, các con hãy yêu thương nhau”.
Một ngày nọ, một tín hữu đưa ý kiến rằng vị môn đệ già yếu đó lúc nào cũng nói y như vậy, giống như một cha sở cứ lập đi lập lại mãi một bài giảng. Nhưng vị trưởng lão Gioan đã trả lời rằng: “Không còn gì hơn để nói nữa. Đây là lời nói sau cùng. Nếu chúng ta yêu thương nhau, đó là tất cả mọi sự. Cuối cùng, người ta sẽ thực sự biết rằng chúng ta là những người Kitô hữu bằng tình yêu thương của chúng ta”.
“Lạy Chúa Giêsu, xin cho con toả hương thơm của Chúa đến mọi nơi con đi. Xin Chúa tràn ngập tâm hồn con bằng thần khí và sức sống của Chúa. Xin Chúa xâm chiếm toàn thân con để con chiếu toả sức sống của Chúa. Xin Chúa chiếu sáng qua con, để những người con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang sống và hiện diện trong con. Xin cho con biết rao giảng về Chúa, không bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa” (Lời cầu nguyện của Mẹ Têrêsa Calcutta).
65. Trên đỉnh yêu thương
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu” – Thiên Phúc)
Báo Tuổi trẻ có đăng bài “Phở nóng chiều mưa” của tác giả Bút Bi. Câu chuyện như sau: “Tiệm phở A (đường Kỳ Đồng)” chiều hôm kia mưa như trút nước. Một ông già khoảng 70 tuổi, tay lần dò chiếc gậy, tay xách chiếc gà men cũ kỹ lập cập bước vào quán, mua phở mang về. Lúc ông đang long lấy tiền – gói trong hai ba lớp bịch ni-lông – ra để trả, một trong hai thanh niên đang ngồi ăn phở ở chiếc bàn ngoài cùng bảo là đã trả tiền phở cho ông rồi. Ông già lãng tai ngớ ra không hiểu, người thanh niên vừa nói câu trên chỉ người bạn đang cắm cúi ăn: “Thằng này trả chứ không phải cháu đâu”. Rồi anh nói thêm có lẽ để câu chuyện được tự nhiên hơn: “Nó hỏi bác có con gái không?” Ông già dường như vẫn còn chưa hết ngạc nhiên thật thà nói “có”. Người thanh niên kia bật cười, bảo “nói chơi đó bác ơi”. Bút Bi tình cờ có mặt ở đó cũng bật cười. Mấy cô phục vụ trong quán cũng cười ầm lên. Ông già hiểu ra, hoạt bát hẳn lên, nói vài câu vui vẻ rồi chống gậy đi về.
Tò mò, Bút Bi nhìn hai người thanh niên. Họ ăn mặc giản dị, mang dép, đi chiếc Cub đời cũ, trông có lẽ là những người lao động làm lũ, và cử chỉ của họ thật dễ thương. Người già thường có cảm giác bị bỏ rơi, thèm sự hỏi han, chăm sóc. (Ông gìa phải tự chống gậy đi mua phở dù có con cái?). Chắc tối hôm ấy ông sẽ thấy vui lắm, chẳng những vậy có khi nó còn trở thành một kỷ niệm của ông, để ông đi kể lại với bà con, chòm xóm. Còn Bút Bi cũng thấy vui quá, bèn quyết định ăn luôn… hai tô phở!!
***
Nghe xong câu chuyện “Phở nóng chiều mưa” trên đây, chúng ta cảm thấy ấm áp lên tình con người. Một sự quan tâm tế nhị, một lời thăm hỏi chân thành, một nghĩa cử yêu thương thầm kín, đã làm cho mối quan hệ giữa người với người thân gần gũi hơn, thông cảm nhau hơn, và quí mến nhau hơn.
Điều cốt lõi của Kitô giáo chính là yêu thương. Giới răn lớn nhất của đạo cũng chỉ là “mến Chúa, yêu người”. Đó là sứ điệp mà Tin Mừng hôm nay muốn loan báo. Đức Giêsu trả lời cho người thông luật: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là ngươi phải yêu ngời thân cận như chính mình” (Mt 22, 37-39).
Người Kitô hữu, luôn mang trên mình cây thập giá. Cây thập giá ấy có một ý nghĩa rất cao đẹp: Thanh dọc của cây thập giá muốn nói rằng, người tín hữu phải vươn lên cao tới Thiên Chúa, để yêm mến Người với tất cả trái tim, với trọn vẹn con người. Thanh ngang của cây thập giá muốn nói với người tín hữu, phải vươn đến với tất cả mọi người, để yêu thương họ như chính mình, không loại trừ một ai, kể cả kẻ thù. Nếu có thanh dọc mà không có thanh ngang, thì đâu phải là cây thập giá. Nếu có “Mến Chúa” mà không có “yêu người”, thì chưa phải là Kitô hữu. Cũng như đồng tiền luôn có hai mặt, thì người Kitô hữu luôn phải sống trọn vẹn hai giới răn “Mến Chúa và yêu người” mới đích danh là Kitô hữu.
Có nhiều người nghĩ rằng “Mến Chúa” thì dễ quá. Tôi vẫn đọc kinh sáng tối, đi lễ cầu nguyện hang ngày, năng tham dự các bí tích, và họ bằng lòng với mức độ ấy. Thực ra, Chúa đâu chỉ đòi hỏi có thế! Hãy nghe lại điều răn lớn nhất này: “Phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”. Trong điều răn có ba chữ “hết”, chúng ta dã yêu được mấy chữ “hết” đó. Thường chúng ta chỉ yêu Chúa nửa vời, yêu tùy hứng, yêu đại khái, yêu theo vụ mùa.
Chúng ta chỉ yêu mến Chúa “hết lòng” khi chúng ta dám hy sinh thì giờ, công việc, lợi nhuận, để đi tham dự thánh lễ, các giờ cầu nguyện, hay các buổi tĩnh tâm, hầu nâng cao đời sống thiêng liêng.
Chúng ta chỉ yêu mến Chúa “hết linh hồn” khi chúng ta dám từ bỏ danh vọng, lợi lộc, chức quyền để trung thành với Chúa và các giới răn của Người.
Chúng ta chỉ yêu mến Chúa “hết trí khôn” khi chúng ta dám làm nhân chứng cho Người trước lương dân, trước kẻ bách hại, cho dù phải đe dọa đến cuộc sống và tính mạng.
“Mến Chúa” đã khó, “Yêu người” lại càng khó hơn. Vì người ta đâu phải ai cũng dễ mến, dễ thương. Với cái nhìn không thân thiện của chúng ta sẽ có rất nhiều người dễ ghét và đáng ghét. “Yêu người” như Chúa dạy là “Yêu như chính mình”. Có ai lại ghét mình bao giờ. Trái lại, người ta thường yêu mình quá độ.
Chúng ta chỉ có thể “yêu người thân cận như chính mình” khi chúng ta tránh hết sức không làm tổn thương đến nhân phẩm và quyền lợi của người khác.
Chúng ta chỉ có thể “yêu người thân cận như chính mình” khi chúng ta biết kính trọng người già yếu, an ủi người khổ đau, giúp đỡ những ai nghèo đói, bênh vực những kẻ cô thế, cô thân.
Chúng ta chỉ có thể “yêu người thân cận như chính mình” khi chúng ta biết quảng đại trao ban và xả thân phục vụ những ai đang cần sự trợ giúp.
Mauriao viết: “Ngày nào bạn không còn thắp sáng tình yêu, ngày đó nhiều người sẽ chết vì giá lạnh”.
***
Lạy Chúa, bác ái chính là đồng phục của người Kitô hữu. Nếu ngày nào chúng con yêu anh em mà con tim sẽ thắt, thì xin nhắc cho chúng con nhớ lại Lời Chúa: “Điều gì các con làm cho người bé nhỏ nhất là các con làm cho chính Ta”. Amen.
66. Luật thiện hảo - Trầm Thiên Thu
Thiên Chúa là Đấng tạo thành vũ trụ và ban hành luật pháp. Tác giả Thánh Vịnh cho biết kinh nghiệm: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19:8). Thánh Phaolô so sánh rất mạnh và độc đáo: “Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1 Cr 1:25). Phải thực sự có niềm tin vào Đức Kitô mới khả dĩ hiểu được lập luận này.
Công giáo mệnh danh là Đạo Yêu Thương, có luật gồm 10 điều khoản – gọi là Mười Điều Răn. Cả 10 điều trong Thánh Luật của Thiên Chúa đều liên quan tình yêu – đối với Thiên Chúa (đối thần) và đối với tha nhân (đối nhân). Mười điều nhưng tóm lại chỉ là hai điều: Mến Chúa và yêu người. Hai điều khoản ấy “rút gọn” chỉ còn một điều: YÊU. Nói ngắn gọn cho dễ hiểu và dễ nhớ: Luật Yêu, hoặc Luật Tình. Nói theo ngôn ngữ ngày nay là Luật hai-trong-một.
Ngoài Mười Điều Răn do Thiên Chúa ban qua Môi-sê, Giáo hội còn có Sáu Điều Răn. Cả 16 điều đều đồng quy về chữ YÊU. Trong Mười Điều Răn, ba điều trước là trách nhiệm đối với Thiên Chúa, bảy điều sau là bổn phận đối với mọi người. Có lẽ Thiên Chúa muốn cho chúng ta biết điều này: “Yêu người khó lắm”. Và Ngài muốn chúng ta thể hiện chi tiết đối với nhau, từ suy nghĩ tới lời nói, rồi biến thành việc làm cụ thể. Thánh Giacôbê so sánh: “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2:17 và 26). Còn Thánh Gioan gọi những người đó là “kẻ nói dối” (x. 1 Ga 2:4; 1 Ga 4:20). Yêu thương liên quan công lý.
Chỉ một chữ YÊU, rất ngắn gọn, không còn ngắn hơn được nữa, nhưng “xòe” chữ Yêu đó ra theo hình cánh quạt thì lại vô cùng bao la. Chữ Yêu đó “viết” theo dạng tương tự chữ Thập – Thập Giá. Yêu là Thập Giá, là chịu mọi đau khổ. Thánh Vincent de Paul đặt vấn đề: “Tôi yêu mến Chúa chưa đủ nếu tha nhân của tôi chưa yêu mến Ngài”. Người khác chưa thực sự yêu mến Chúa cũng có phần do lỗi của chúng ta, vì “tấm gương” của chúng ta chưa đủ lớn và chưa đủ sáng để người khác có thể soi vào! Chúa Giêsu “nhắc khéo” qua lời chúc: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa!” (Lc 11:28). Phúc này còn quan trọng hơn cả việc Đức Mẹ được cưu mang và cho Con Thiên Chúa bú mớm. Có yêu mến Thiên Chúa thì mới “lắng nghe và tuân giữ” lời Thiên Chúa.
Như đã nói, chữ Yêu tương quan chữ Thập. Chữ Thập có bốn hướng: Hướng lên trời là hướng đến với Thiên Chúa, hai hướng ngang là các hướng đến với tha nhân (cả người trên và dưới, lớn và nhỏ, sang và hèn, giàu và nghèo, giỏi và dốt,...), và hướng đến với các linh hồn. Tuyệt vời biết bao! Cũng vậy, chữ Yêu bắt đầu bằng mẫu tự Y, giống như một người đứng dang rộng đôi tay. Chỉ những ai có lòng yêu thương thực sự, biết động lòng trắc ẩn người khác, biết thương xót tha nhân thì mới có thể dang rộng vòng tay như vậy. Không ai có thể giả bộ được. Thiên Chúa đã quan phòng và tiền định cho Việt ngữ có dạng độc đáo lắm!
Luật vị nhân sinh. Luật vì con người, nghĩa là luật có sau con người. Tuy có trước luật, nhưng con người lộng hành, thế nên cần có luật để chấn chỉnh, luật như chiếc hàm thiếc kiềm chế ngựa chứng. Đất nước nào cũng có hiến pháp, quốc gia nào cũng có quốc pháp, nhà nào cũng có gia phong, dù chỉ một nhóm nhỏ cũng có luật, chí ít cũng là nội quy. Kitô giáo có Mười Điều Răn là Hiến Pháp Nước Trời. Thánh Phaolô nói: “Lề Luật đã thành người quản giáo dẫn chúng ta tới Đức Kitô, để chúng ta được nên công chính nhờ đức tin” (Gl 3:24).
Thời Cựu Ước, Thiên Chúa truyền nghiêm luật: “Người ngoại kiều, ngươi không được ngược đãi và áp bức, vì chính các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai-cập. Mẹ goá con côi, các ngươi không được ức hiếp. Nếu ngươi ức hiếp mà nó kêu cứu Ta, ắt Ta sẽ nghe tiếng nó kêu cứu. Cơn giận Ta sẽ bốc lên, Ta sẽ cho gươm chém giết các ngươi: thế là vợ các ngươi sẽ thành goá bụa, và con các ngươi sẽ thành côi cút” (Xh 22:20-23).
Luật pháp phải bao hàm tình yêu thương, quyết bảo vệ và nâng đỡ người “nhỏ bé”, nhưng phải trừng phạt kẻ “lớn” mà ngông cuồng, hống hách. Luật pháp không thể theo kiểu “luật rừng”, mà phải nghiêm minh như quân luật: Quân pháp bất vị thân. Nói đầy đủ là: “Pháp bất vị thân, nghĩa bất dung tình” – nghĩa là Pháp Luật KHÔNG được thiên vị mà bênh vực người thân, và Nghĩa Lý KHÔNG được bao che bất cứ ai vì tình cảm. Không dễ đâu đấy! Ai làm được vậy mới đáng tâm phục khẩu phục, là đại nhân, là quân tử, là người thẳng thắn giống Đức Giêsu Kitô.
Luật Chúa rạch ròi đến từng chi tiết: “Nếu ngươi cho một người trong dân Ta, một người nghèo ở với ngươi vay tiền, thì ngươi không được xử với nó như chủ nợ, không được bắt nó trả lãi. Nếu ngươi giữ áo choàng của người khác làm đồ cầm, thì ngươi phải trả lại cho nó trước khi mặt trời lặn. Nó chỉ có cái đó để đắp, để làm áo che thân; nó sẽ lấy gì mà ngủ? Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ” (Xh 22:24-26). Thiên Chúa là Đấng luôn chạnh lòng thương người thấp cổ bé miệng nên Luật của Ngài là Công Luật, là Thiên Luật, là Thánh Luật, chứa đầy Lòng Thương Xót. Quả thật, Luật Chúa là luật thiện hảo vô cùng!
Được sống trong luật thiện hảo như vậy thì thật hạnh phúc. Vì thế, tác giả Thánh Vịnh phải thốt lên: “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con. Lạy Chúa là núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ” (Tv 18:2-3). Tác giả Thánh Vịnh xác nhận và chia sẻ: “Tôi kêu cầu Chúa là Đấng xứng muôn lời ngợi khen, và tôi được cứu thoát khỏi quân thù” (Tv 18:4).
Chúng ta cũng đã và đang nhận lãnh biết bao hồng ân của Thiên Chúa, nhưng chúng ta thường quên tạ ơn. Hãy cùng tác giả Thánh Vịnh xưng tụng Ngài khi chúng ta xác tín: “Đức Chúa vạn vạn tuế! Chúc tụng Người là núi đá cho tôi trú ẩn. Tôn vinh Thiên Chúa là Đấng cứu độ tôi, là Thượng Đế giúp tôi rửa sạch hận thù, bắt chư dân quy phục quyền tôi” (Tv 18:47-48). Nhờ đó, chắc chắn Thiên Chúa lập tức quên hết tội lỗi của chúng ta và âu yếm ôm chúng ta vào lòng, cho chúng ta cư ngụ trong Thánh Tâm Ngài.
Thánh Phaolô chia sẻ tâm sự: “Khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần, và một niềm xác tín sâu xa. Anh em biết, khi ở với anh em, chúng tôi đã sống thế nào để mưu ích cho anh em; còn anh em, anh em đã bắt chước chúng tôi và noi gương Chúa, khi đón nhận lời Chúa giữa bao nỗi gian truân với niềm vui do Thánh Thần ban: bởi vậy anh em đã nên gương cho mọi tín hữu ở miền Makêđônia và miền Akhaia” (1 Tx 1:5-7). Ước gì chúng ta luôn có thể nói với nhau như vậy, nhất là những người có chức có quyền, đừng ỷ thế cậy quyền mà “tự làm luật” (vừa “mới” vừa “lạ”) để rồi làm khổ người khác. Có “quyền” thì đừng “hành” người khác, mà phải phục vụ mới đúng luật (x. Mt 20:26-28; Mc 10:43-45).
Thánh Phaolô bộc bạch thêm: “Khi nói về chúng tôi, người ta kể lại chúng tôi đã được anh em tiếp đón làm sao, và anh em đã từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa thế nào, để phụng sự Thiên Chúa hằng sống, Thiên Chúa thật, và chờ đợi Con của Người từ trời ngự đến, người Con mà Thiên Chúa đã cho trỗi dậy từ cõi chết, là Đức Giêsu, Đấng cứu chúng ta thoát cơn thịnh nộ đang đến” (1 Tx 1:9-10). Vâng, được như vậy thì chẳng cần nói thêm gì nữa, như Thánh Phaolô cũng đã xác nhận trước đó: “Chúng tôi không cần phải nói gì thêm nữa” (1 Tx 1:8).
Trình thuật Tin Mừng hôm nay (Mt 22:34-40) nói về “điều răn trọng nhất” (tương tự Mc 12:28-34 và Lc 10:25-28) liên quan chữ YÊU. Tin Mừng ngắn gọn nhưng súc tích, làm nổi bật chữ YÊU.
Một hôm, khi nghe tin Đức Giêsu đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, những người Pharisêu họp nhau lại – nhóm này “không tin có sự sống lại” nên chuyên tìm cách “gài bẫy” Chúa Giêsu nhiều lần mà không được. Lần này, có một người thông luật trong nhóm hỏi để thử Đức Giêsu: “Thưa Thầy, trong sách Luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?”. Đức Giêsu thản nhiên đáp: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy”. Kinh Thánh không cho biết sau đó thế nào, nhưng chắc chắn là nhóm Xa-đốc đành cắn răng và ngậm bồ hòn làm ngọt mà thôi!
Nói đi nói lại, nói tới nói lui, nói trước nói sau, nói ngang nói dọc,... nói kiểu nào hoặc theo hướng nào thì cũng chỉ để “diễn giải” chữ YÊU mà thôi. Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4:8 và 16) nên luật của Ngài là Luật Yêu. Chúng ta chấp nhận theo Đức Kitô thì phải “giữ trọn vẹn lề luật” (Gl 5:3). Đó là lẽ tất nhiên, không yêu không được. Tại sao? Thánh Gioan cho biết: “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8). Thánh Phaolô giải thích và kết luận: “Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13:10).
Liên quan Luật Yêu, Thánh Bênađô nói: “Lý do yêu mến Thiên Chúa thì nên vì Thiên Chúa, mà mức độ yêu mến Thiên Chúa chính là không có mức độ”. Mức độ yêu là “yêu vô hạn” – không tính toán, không so đo, không phân bì, yêu như điên. Các thánh đều đã yêu “tới bến” và hóa điên rồ vì yêu Đức Kitô, vì các ngài biết chắc rằng Thiên Chúa không thể ngừng yêu thương. Muốn làm thánh, chúng ta cũng phải có “máu yêu” như vậy. Chỉ có các Kitô hữu “chính hiệu” mới có loại máu Y – loại máu này y học không hề biết vì không đủ trình độ để phát hiện.
Quả thật, còn hơn là sự liên tục của hơi thở giúp bảo vệ sự sống, Thiên Chúa không thể ngừng yêu. Thánh Tiến sĩ Tommaso d’Aquino (Tôma Aquinô) xác định: “Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta, khi chúng ta cho là mình cô độc thì Thiên Chúa vẫn ở bên chúng ta”.
Lạy Thiên Chúa, xin thương giúp chúng con chân nhận Ngài là Thiên Chúa duy nhất giàu lòng thương xót, xin giúp chúng con khả dĩ nhận biết chính mình để chúng con yêu mến Ngài hết lòng và yêu thương tha nhân thật lòng, bằng cả con người của chúng con. Xin hướng dẫn chúng con đi theo Đường Chân Lý của Ngài (Tv 25:5). Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
67. Luật trọng đại nhất
Hôm nay Chúa Nhật 30 Thường Niên, Chúa Giêsu và Mẹ Giáo Hội muốn nhắn gửi chúng ta một giới luật quan trọng nhất của người tín hữu Kitô, đó là giới răn "Mến Chúa và Yêu Người". Đây là một giới răn được gồm tóm tất cả các giới răn trong đạo. Vì thế, khi đến trần gian, Chúa Giêsu không chỉ đến để giải thoát con người khỏi mọi tội lỗi mà thôi, nhưng Ngài muốn giải thoát con người một cách toàn diện, tức là khỏi mọi áp bức bất công, khỏi mọi độc tài kìm kẹp, cốt để đem lại cho con người được tự do, hầu sống đúng với phẩm giá của mình là người Kitô hữu. Vào thời Chúa Giêsu, trong xã hội Do Thái bấy giờ, con người lúc nào cũng bị trói buộc bởi những lề luật. Bởi thế, người ta đếm được 248 điều dạy phải làm và 365 điều buộc phải tránh. ‘Nhất cử nhất động’ con người đều nằm trong mạng lưới chằng chịt của lề luật. Đó là điều làm cho con người lúc nào cũng mang tâm trạng lo âu, sợ sệt. Không biết tôi làm điều kia việc nọ có đúng luật không? Và nếu tôi sai luật thì tôi không phải là người công chính.
Thật vậy, nếu con người chỉ căn cứ vào những luật lệ bó buộc như vậy thì đó là một sai lầm, vì lấy lề luật làm nền tảng cho đời sống luân lý để đo mức độ công chính của đời sống con người. Bởi vậy, chúng ta không lạ gì thế giới có học của thời đại Do Thái bấy giờ, như các luật sĩ và biệt phái nhờ học biết luật và giữ luật nên họ cho là công chính, là thánh thiện, là hoàn hảo hơn người, đến độ trở nên kiêu căng, hách dịch với đại đa số dân chúng là những người không am tường lề luật để tuân giữ.
Nhưng Chúa Giêsu đến, Ngài đã đặt lại nền tảng sự công chính, đem đến sự sống đời đời trên tình yêu thương. Ngài đã phản đối những lề luật chẻ cọng tóc ra làm tư đó. Lề luật đặt ra để giúp cho con người, chứ không phải con người sinh ra để giữ lề luật. Vì thế, Chúa Giêsu đã đưa ra một giới luật yêu thương hết sức quan trọng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi". Đó là điều răn thứ nhất, và điều răn thứ hai cũng giống như điều răn thứ nhất là "ngươi hãy yêu thương anh em như chính mình ngươi". Thật ra, Chúa Giêsu không dạy làm điều chi mới lạ, vì hai điều răn đó đã có trong Cựu ước, trong sách Đệ Nhị Luật và Lêvi. Ngài chỉ lấy hai điều đó nhập lại làm một và đặt nó làm nền tảng cho đời sống con người chúng ta.
Chúa Giêsu đã dạy cho con người biết Thiên Chúa là người Cha nhân từ. Trong lịch sử nhân loại, đây là lần đầu tiên qua lời dạy của Chúa Giêsu, con người gọi Thiên Chúa là Cha: "Lạy Cha chúng con ở trên trời". Một người con ngoan biết thương cha mến mẹ, khi làm một việc gì không cần phải coi cha mẹ tôi có cấm cái này không? Có cho phép cái kia không?
Nếu có cấm thì cố tìm xem trong các lời cấm đó có câu nào, tiếng nào để có thể tìm ra một kẽ hở để lánh qua không? Nhưng một người con ngoan bao giờ cũng tự hỏi: "Tôi làm cái này, cha mẹ tôi có vui không? Và tôi chỉ thích làm cho cha mẹ tôi hài lòng mà thôi ".
Thánh Augustinô sau khi hiểu rõ lời dạy của Chúa Giêsu, ngài đã đưa ra một định luật táo bạo: "Hãy yêu đi rồi làm gì thì làm". Khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta đâu dám cả lòng cố tình làm mất lòng Thiên Chúa được. Khi chúng ta yêu mến anh chị em mình thật lòng, thì làm sao chúng ta dám nói xấu người khác được, làm sao chúng ta thấy người hoạn nạn mà mình vui được, làm sao chúng ta cố tình làm hại người khác được.
Để dễ thấy tầm quan trọng của hai điều răn "Mến Chúa và Yêu Người" trong đời sống, chúng ta hãy hình dung đó là hai chiều kích trong cuộc sống của người Kitô hữu chúng ta: Chiều dọc nối liên hệ với Thiên Chúa và chiều ngang nối liên hệ với tha nhân. Hai chiều kích đó hợp lại thành cây Thánh giá, đó là dấu hiệu của người Công giáo chúng ta. Hằng ngày chúng ta thấy hình ảnh của cây Thánh giá khắp nơi, trong nhà thờ, nơi nhà ở và chúng ta còn có những người luôn mang Thánh giá trong mình, bởi thế không ai có thể hình dung cây Thánh giá mà chỉ có một chiều hoặc dọc hoặc ngang mà thôi.
Tôi còn nhớ trong những năm chiến tranh ở Việt Nam, một đêm nọ họ đạo tôi bị pháo kích, sáng ra tôi đi thăm hỏi và an ủi kẻ đau khổ và thăm những người lớn tuổi để củng cố tinh thần của họ trong cảnh lo âu sợ hãi. Tôi ghé thăm một bà đạo đức nọ, bà đi lễ hằng ngày không bỏ sót một ngày nào hết; Chúa Nhật có hai lễ bà cũng đi dự cả hai Thánh lễ luôn. Nhưng khi tôi ghé vào thăm bà, bà nói với tôi rằng: "Thưa cha, thật Chúa thương con vô cùng, vì đêm rồi khi họ pháo kích vào làng, con cầu xin Chúa hết lòng hết sức và Chúa đã nhận lời con rõ ràng cha ơi. Bằng chứng là bao nhiêu bom đạn, pháo kích đều rơi ở xóm trên hết". Bấy giờ tôi nghĩ thầm trong lòng: "Chúa mà nhận lời bà kiểu đó, thì chết mẹ người ta hết rồi".
Vậy khi chúng ta chỉ mến Chúa mà quên yêu người thì cũng lố bịch và buồn cười như câu chuyện của bà già trên vậy thôi. Tình yêu đối với tha nhân phải là sự biểu lộ ra bên ngoài của tình yêu đối với Thiên Chúa. Tình yêu đối với Thiên Chúa hoàn thiện hoá đối với tha nhân, không thể tách rời hai tình yêu đó ra khỏi đời sống đạo của mình được.
Khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thật sự, tự nhiên chúng ta cảm thấy yêu mến tất cả anh em đồng loại của mình, và khi chúng ta yêu mến anh em đồng loại của mình đến nơi, đến chốn với tất cả lòng bác ái vị tha, tự nhiên tâm hồn chúng ta hướng về Thiên Chúa. Chúng ta nên nhớ kỹ hai điều này: "Ai bảo mình mến Chúa mà không yêu thương anh em thì là kẻ nói dối. Còn ai bảo mình yêu người mà không mến Chúa thì là sai lầm".
Xin Chúa cho tất cả chúng ta được mến Chúa hết tâm hồn, biết yêu thương anh em mình như chính mình vậy, để cho danh Chúa được cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
68. Giới răn trọng nhất - Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP.
Tình yêu! Một từ rất quen thuộc, ai cũng biết nhưng người ta chưa hiểu hết nội dung phong phú của nó, hoặc hiểu tình yêu một cách lệch lạc hoặc hiểu một cách phiến diện. Do đó, nhiều khi người ta đã làm mất ý nghĩa cao qúi của tình yêu, đồng hóa tình yêu với tình dục. Người ta chỉ biết dùng tình yêu để tìm đến những thú vui hạ đẳng mà không biết nâng cao tâm hồn lên.
Tình yêu mà phụng vụ đề cập đến hôm nay là một tình yêu hòan hảo, tinh tuyền, cao thượng, phổ quát và phong phú nhất. Tình yêu trong phụng vụ chính là Bác ái công giáo (Caritas). Bác ái là yêu thương một cách rộng rãi như thánh Augustinô đã nói:”Giới hạn của tình yêu là không có giới hạn nào”. Đó là tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân. Hai tình yêu này khác nhau chăng? Thưa không. Chẳng những hai tình yêu này không tách rời nhau mà còn quyện lấy nhau: chỉ là một. Chính tình yêu này giúp chúng ta yêu mến Chúa và phục vụ tha nhân.
Người đời chê những người chỉ biết yêu trên lỗ miệng mà không bao giờ đem ra thực hành bằng những việc làm cụ thể và coi đó chỉ là tình yêu giả dối:
Thương miệng thương môi
Thương miếng xôi miếng thịt.
Theo Đức Cha Arthur Tonne thì yêu mến Chúa là “ao ước làm vui lòng Chúa” và yêu tha nhân là “làm điều thiện hảo cho họ”. Tình yêu đối với Chúa cũng như đối với tha nhân luôn phải kèm theo những đặc tính là hy sinh, phục vụ và dâng hiến. Bất cứ làm việc gì cũng phải được thực hiện trong tình yêu thì mới có giá trị:”Ama et fac quod agis”(Thánh Augustinô): yêu mến đi rồi làm gì thì làm.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Xh 22,21-27.
So sánh Cựu ước và Tân ước, ta thấy Cựu ước còn thô sơ, Tân ước mới hoàn chỉnh. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã nói:”Ta đến không phải để hủy bỏ lề luật và các tiên tri, nhưng để kiện toàn”. Chính vì vậy mà Cựu ước có nhiều điều luật dạy người Do thái phải yêu thương đồng bào mình. Nhưng tình yêu này có tính cách cục bộ.
Bài đọc 1 này trích từ sách Xuất hành nói rõ về đức bác ái và công bình đối với người Do thái với nhau, nhất là đối với những người yếu và kém may mắn nhất: người góa bụa, mồ côi và nghèo khó.
Điểm đặc biệt trong bài đọc hôm nay nói đến tình yêu đối với những người ngoại kiều đang sống trên đất nước mình nữa. Họ là những người đáng thương thiếu sự nâng đỡ và bảo đảm. Chúa đứng ra bênh vực cho họ. Nếu họ là nạn nhân của bất công, họ cứ kêu Chúa và Chúa sẽ đến giúp họ, trừng trị những kẻ nào cư xử xấu đối với họ.
+ Bài đọc 2: 1Tx 1,5c-10.
Trong thư gửi cho tín hữu Thessalonica, thánh Phaolô tỏ ra hết sức vui mừng và khen ngợi giáo đoàn vì họ đã mau mắn đón nhận Tin mừng Ngài rao giảng, và đã cố gắng sống Tin mừng ấy trong những hoàn cảnh thật khó khăn.
Thật vậy, dân Thessalonica đã trở nên gương mẫu cho thế giới Hy lạp: đức tin của họ sống động và sáng chói, đến nỗi họ trở thành gương mẫu cho nhiều nơi khác noi theo.
+ Bài Tin mừng: Mt 22,34-30.
Trong bài Tin mừng tuần lễ trước, nhóm biệt phái và Hêrôđê đã thất bại trong việc gài bẫy Chúa Giêsu về vấn đề nộp thuế cho vua César. Họ chưa chịu thua, lần này họ cử một tiến sĩ luật để tranh luận với Chúa Giêsu về vấn đề: điều răn nào trọng nhất trong sách Luật. Câu hỏi này không phải là dễ trả lời. Trong sách Luật Do thái có 613 điều luật, thật là một rừng luật vì còn nhiều điều luật phụ nữa. Mỗi nhóm thích giữ một điều luật và cho điều luật ấy là quan trọng hơn cả. Nếu Chúa Giêsu chọn một điều luật nào đó thì sẽ làm phật lòng các nhóm khác.
Nhưng Chúa Giêsu đã đưa ra một câu trả lời rất xuất sắc làm cho vị tiến sĩ luật không hỏi gì thêm nữa. Câu trả lời này vừa mới mẻ, lại vừa rộng rãi:
- Một là mến Chúa và yêu người rút ra từ các điều luật trong các sách Luật.
- Hai là liên kết hai luật ấy: điều luật đã mến Chúa thì phải yêu người, yêu người là yêu Chúa.
- Ba là có thể tóm gọn hai luật ấy bằng một luật duy nhất là luật yêu thương.
Như vậy, Yêu thương hay Bác ái là cốt lõi của mọi điều luật và nếu phải cần đến một từ để tóm tắt cả Phúc âm thì đó là yêu mến.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Mến Chúa yêu người
I. BỐI CẢNH CÂU TRUYỆN.
Sau khi thất bại trong việc gài bẫy Chúa Giêsu trong việc nộp thuế cho vua César, nhóm biệt phái muốn tấn công Chúa Giêsu bằng một đòn khác: họ sai một tiến sĩ luật đến hỏi thử Chúa Giêsu:”Thưa Thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất”?
Chữ “Lề luật” ở đây có ý chỉ toàn thể lề luật trong Cựu ước. Câu hỏi này không nhằm một trường hợp đặc biệt nào, nhưng muốn tìm biết điểm cốt yếu trong lề luật. Luật Do thái gồm 613 điều luật, trong đó có 365 điều luật cấm và 248 điều luật truyền làm. Các điều đó chia làm trọng luật và khinh luật. Phạm khinh luật thì chịu phạt đền tội, nhưng phạm trọng luật như giết người, thờ tà thần, gian dâm... thì bị tử hình.
Sở dĩ đặt câu hỏi này là vì một đàng các phe nhóm không đồng ý với nhau về điều răn nào là quan trọng nhất, đàng khác họ muốn thử Chúa Giêsu để gài bẫy Ngài, vì nếu Ngài trả lời điều luật này trọng, điều luật kia không trọng thì thế nào Ngài cũng bị qui lỗi là về phe nhóm này, chống nhóm kia, và như vậy Ngài thiên vị và không còn được kính nể nữa.
Chúa Giêsu đã trả lời một cách rất rõ ràng, rất hợp và xác đáng:”Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất”. Câu luật này trích trong sách Đệ nhị luật 6,5 có đổi một chút, thay vì “hết sức” thì Chúa nói là “hết trí”. Song cốt yếu không có gì đổi.
Chúa Giêsu còn thêm:”Nhưng điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”. Luật này trích ở sách Lêvi 19,18. Chúa đem điều luật yêu người này đặt ngang hàng với điều luật mến Thiên Chúa là một điểm đặc sắc của Chúa, làm cho đạo của Chúa vô cùng cao qúi và vô cùng hấp dẫn.
Tất cả mọi điểm khác trong luật hoặc các điều luật khác chỉ là để chú giải cắt nghĩa hai điều luật đó thôi.
Kẻ khác hay cũng gọi là tha nhân, theo quan niệm của người Do thái đương thời, thì tha nhân chỉ là những người đồng chủng, đồng hương, đồng xứ (Lv 19,18). Nhưng ở đây chữ “kẻ khác” Chúa có ý dạy phải thương yêu mọi người chứ không giới hạn trong những người đồng hương với nhau (Mt 25,40; Lc 5,43), không những thế mà lại còn phải yêu thương cả địch thù nữa (Mt 5,43). “Như chính mình”: Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh người được yêu đồng hóa với người yêu, vì vậy, phải yêu thương tha nhân cũng bằng chính tình yêu đối với bản thân mình.
II. NÓI VỄ CHỮ YÊU.
1. Chưa có một định nghĩa thoả đáng.
Người ta đã định nghĩa rất nhiều về tình yêu, nhưng chưa có một câu định nghĩa nào thoả đáng khiến cho mọi người chấp nhận. Ví dụ Thần học định nghĩa yêu là “diffusivum sui boni”: yêu là thông ban ra sự tốt lành của mình. Còn rất trừu tượng.
Thi sĩ Xuân Diệu cũng chịu, không định nghĩa nổi:
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu,
Nó đến với ta một buổi chiều.
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu.
Theo thánh Phaolô thì “Yêu là cho tất cả, nhận tất cả và chịu đựng tất cả” (x. 1Cr 13,7).
Thánh Gioan tông đồ thì nói:”Căn cứ vào điều này, chúng ta biết tình yêu là gì: đó là Đức Kitô đã phó mạng vì chúng ta”(1Ga 3,16).
Giới trẻ thì đưa ra nhiều định nghĩa tùy theo cái nhìn của mình. Đại khái:
* * Yêu là chết trong lòng một ít (cf Xuân Diệu).
* Yêu là đau khổ.
* Yêu là hy sinh (x. Mt 16,24; Mc 10,52).
* Yêu là phục vụ (x. Ga 13,4-11).
* Yêu là dâng hiến (x. 1Cr 13,7).
Từ ngữ YÊU ở đây không hẳn là AMOR, một thứ tình yêu còn mang tinh chất xác thịt mà người Hy lạp gọi là EROS (ái tình), mà đúng ra là CARITAS (Bác ái hay Đức Mến). Khi nói đến Tình yêu thì Giáo hội Kitô giáo dùng chữ CARITAS. Từ ngữ Caritas mang một âm thanh vô cùng khả ái đối với hết mọi người – bất kể sắc tộc, tôn giáo hay chính kiến – mỗi khi nghe đến, vì nó là biểu tượng cho tình yêu tha nhân phổ quát của Kitô giáo, một tình yêu bắt nguồn và luôn dựa trên nền tảng tình yêu Thiên Chúa (x. 1Ga 4,6).
Thánh Phaolô, khi nói đến tình yêu thì ngài dùng chữ Caritas (Đức mến). Trong thư gửi cho tín hữu Côrintô, ngài nói:”Đức mến (caritas) thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được… Hiện nay đức tin, cậy, mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến”(1Cr 13,1-13).
2. Yêu trong thực hành.
Chúng ta không muốn đưa ra những câu định nghĩa trừu tượng mà đi vào thực hành trong cuộc sống.
Chúng ta có thể nhận câu định nghĩa của Đức cha Arthur Tonne:”Yêu mến Chúa là gì? Yêu mến Chúa là ao ước làm vui lòng Chúa. Lệnh truyền của Chúa Kitô có thể đọc là:”Con hãy ao ước làm vui lòng Chúa”. Yêu mến tha nhân có nghĩa là ao ước làm điều thiện hảo cho họ. Chúng ta không thể “làm điều thiện hảo” cho Chúa, nhưng chúng ta có thể ao ước làm vui lòng Ngài. Chúng ta có thể và phải làm điều thiện hảo cho tha nhân. Một trong những cách tốt nhất để làm vui lòng Chúa là làm điều thiện hảo cho tha nhân. Đã có những lần Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng ai yêu mến Chúa thì tuân giữ giới răn của Ngài. Cách đây vài Chúa nhật, chúng ta đã thấy rằng giới răn của Chúa là bằng chứng tình yêu của Ngài đối với chúng ta. Tuân giữ điều răn Chúa là bằng chứng tình yêu của chúng ta đối với Ngài.
(GM Arthur Tonne, Bài giảng Tin mừng, năm A, tr 130).
III. ĐẶC TÍNH CỦA TÌNH YÊU.
1. Tình yêu và hy sinh.
Nhà đạo chúng ta sử dụng quen thuộc hai từ “hy tế” và “hy lễ”. Theo từ nguyên Hán thì HY là con trâu thui và SINH là con lợn luộc. Thời nhà Thang bên Trung quốc, người ta dùng hai lễ vật này để tế Trời ban cho mưa thuận gió hòa. Nếu dùng chữ “hy lễ” và “hy tế” thì chỉ là tế con trâu thui. Nếu dùng từ HY SINH thì có nghĩa là “tế lễ hy sinh”.
Vậy tình yêu và hy sinh phải đi đôi với nhau. Đã yêu thì phải hy sinh: yêu Chúa thì phải dâng lễ hy sinh cho Chúa. Cho nên, khi dùng từ “hy sinh” thì nó gồm cả: chết rong lòng một ít, đau khổ, phục vụ, dâng hiến...
Trên đường đời không có con đường nào bằng phẳng cả, nhất là con đường tình yêu. Tình yêu cũng có thử thách, gian nan, đau khổ. Nói chung nó đòi phải hy sinh. Mối tương quan sâu xa giữa tình yêu và hy sinh đau khổ đã là đề tài muôn thuở của thi ca và tiểu thuyết, cũng như nghệ thuật thứ bảy. Và người ta thường ví tình yêu và đau khổ cũng như hoa hồng với gai: không thể có hoa hồng mà không có gai. Mối tương quan có thể nói là “biện chứng” này được diễn tả gọn chỉ trong hai từ ghép lại thành một, đó là “yêu thương” hay là thương yêu: yêu thương cùng với đau thương một vần là thế.
(cf Thiện Cẩm, Suối nguồn tình yêu, tr 62).
2. Thánh giá là biểu tượng tình yêu.
Theo Phúc âm chữ “Yêu” liền với chữ “Thập” nhưng vẫn là yêu. Đó là tình yêu Thập giá. Việc chịu đóng đinh thập giá là DẤU CHỈ gây ấn tượng sâu sắc về tình yêu vĩ đại Chúa Giêsu dành cho chúng ta. Chúa Giêsu đã nói:”Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga 15,13). Tôi rất vui mừng vì Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta dấu chỉ vĩ đại ấy, chúng ta cần biết rằng mình đáng yêu vì nếu chúng ta không thấy mình đáng yêu, chúng ta không thể yêu mến kẻ khác được. Tại sao chúng ta không thể yêu nếu không thấy mình đáng yêu? Lý do đơn giản Tình yêu là một món quà tự hiến. Và nếu chúng ta không thấy mình là đáng yêu – và vì thế đáng giá – thì chúng ta sẽ không trao tặng chính mình cho kẻ khác được. Nói tóm lại, chẳng ai đem cho đồ rác rưởi cho kẻ mình khâm phục sâu xa. Vì thế điều đầu tiên mà sự đóng đinh thập giá đem lại chính là dấu chỉ tình yêu mà Chúa Giêsu dành cho chúng ta. Chúng ta đáng giá và đáng yêu mến đến mức Đức Giêsu tự hiến mạng vì chúng ta.
(M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm A, tr 307)
3. Tình yêu trong phục vụ.
Cây Thánh giá là biểu tượng của hai mối tình chí thiết: thanh dọc là bàn tay dâng lên Thiên Chúa, thanh ngang là vòng tay ôm lấy anh em. Thiên Chúa và anh em chỉ là một mối tình duy nhất đi về hai hướng. Đây chính là cốt lõi của mạc khải vậy. Người hành khất ngồi bên vệ đường run lập cập vì lạnh giá, được thánh Martinô thành Tour chia cho một nửa chiếc áo choàng phủ thân, chính là Ngài:”Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu các ngươi đã đến thăm, Ta bị tù đầy các ngươi đã đến với Ta... Những gì các ngươi làm cho một trong các anh em bé mọn của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. (Mt 25,36).
Tình yêu phải được thực hiện trong tinh thần phục vụ. Chính Chúa Giêsu đã làm gương trong tinh thần ấy khi Ngài nói:”Ta đến không phải được phục vụ, nhưng để phục vụ và đem giá máu của mình để cứu chuộc muôn người”. Có rất nhiều gương sáng chói trong công cuộc phục vụ những người nghèo và nhất là những người bệnh nạn, đau khổ.
Truyện: Chị nữ tu phục vụ.
Mẹ Têrêsa Calcutta kể:”Hôm ấy, một người lạ mặt đến nhà dòng, ông thấy một Sơ vừa đem về một người hấp hối, nằm bên ống cống, mình mẩy giòi bọ rất hôi thối. Thế mà, Sơ rất nương nhẹ nhặt từng con bọ với vẻ mặt vui tươi, thanh thản đầy thương mến... Rồi người lạ đến gặp tôi nói:”Thưa mẹ, khi con đến đây với lòng đầy căm hờn của một người vô tín ngưỡng. Nhưng bây giờ con ra về với một tâm hồn hoàn toàn đổi mới. Con bắt đầu tin Chúa, bởi vì con đã chứng kiến tình yêu của Chúa được diễn tả một cách cụ thể qua hành động và qua cách Sơ ấy đối xử với người hấp hối bẩn thỉu kia. Bây giờ con tin thật Chúa là tình yêu. Không có tình yêu Chúa trong tâm hồn, không khi nào có đủ nghị lực để yêu tha nhân được”.
Thật vậy, không mến Chúa, không thể yêu người vô vị lợi được. Vì thế Chúa Giêsu đã nhấn mạnh cho mọi người nhận biết hai điều răn quan trọng nhất là “Mến Chúa yêu người”. Chính tình yêu Chúa đã làm cho người ta bỏ tính vị kỷ mà biết xả kỷ, thay vì chỉ biết lo cho bản thân mình lại biết mở lòng ra để lo cho người khác.
Chúa Giêsu là kiểu mẫu tuyệt hảo về lòng mến Chúa yêu người. Ngài để lại chúc thư:”Hãy yêu mến nhau như Thầy yêu mến các con” (Ga 15,34). Và Ngài đã yêu mến chúng ta đến mức chịu chết vì chúng ta. Có thực hy sinh cho nhau mới chứng thực là đã yêu nhau thật. Hãy tập một vài điều trong “Bài ca đức ái” của thánh Phaolô (1Cr 13,4-7): khoan dung, nhân hậu, không ghen tuông, không ba hoa, không tự mãn, không khiếm nhã, không ích kỷ, không cáu kỉnh, không chấp nhất sự dữ, không mừng trước sự bất công.
Thánh Phaolô tông đồ nhắc nhở cho tín hữu Rôma về trách nhiệm phải thực hành đức ái đối với nhau, không yêu nhau là mắc nợ với nhau vì đây là lệnh truyền của Chúa, Ngài nói:”Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái, vì ai yêu người thì đã chu toàn lề luật. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13,8-10).
Thánh Augustinô khuyên: ”Ama et fac quod agis”: yêu mến đi rồi làm gì thì làm.
Để kết thúc, chúng ta hãy cầu nguyện:
“Lạy Chúa, xin dạy chúng con yêu mến Ngài cho xứng đáng,
Xin dạy chúng con yêu tha nhân như Ngài yêu chúng con.
Xin dạy chúng con yêu cho dù yêu là đau khổ,
Bởi vì qua tình yêu chúng con tôn vinh Chúa,
Qua tình yêu chúng con mang hạnh phúc đến cho tha nhân,
Và qua tình yêu chúng con tìm được ý nghĩa của cuộc sống mình.
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.
69. Lạy Chúa, xin giúp con yêu mến Chúa
Có lẽ các bạn đã nghe bài thơ “Cây cối” kết thúc với những lời “Những bài thơ được làm do những người ngốc như tôi, nhưng chỉ Thiên Chúa có thể tạo dựng được một cây”. Tác giả của bài thơ đó theo đạo Công Giáo lúc 27 tuổi. Ông là một văn sĩ nhạy cảm, cởi mở và đơn sơ, lấy những vật thông thường như thảo mộc và nói lên vẻ đẹp của chúng. Ong tòng quân vào thời thế chiến thứ nhất và đã bị giết đi khi thi hành nghĩa vụ vào tuổi 32, để lại người vợ và gia đình. Tinh thần tôn giáo sâu sắc của Klmer đạt tới sung mãn trong đức tin công giáo. Ông yêu mến và sống đức tin ấy. Những bức thư ông gửi cho vợ, cũng là một thi sĩ, cho các con và bạn hữu đầy tràn những hiểu biết thiêng liêng. Trong một bức thư ông viết có một cái gì rất gần với Tin Mừng hôm nay: “Hãy cầu nguyện cho tôi được yêu mến Chúa hơn. Đối với tôi, nếu tôi có thể yêu mến Chúa mãnh liệt hơn, kiên trì hơn mà không sao nhãng thì thật không có gì khác đáng kể... Tôi đạt được niềm tin do cầu xin ơn ấy. Tôi hy vọng đạt được lòng yêu mến cũng bằng cách đó”.
Bao nhiêu người trong chúng ta đã xin Chúa giúp chúng ta yêu mến Ngài? Yêu mến là một hồng ân do chính Thiên Chúa. Có nhiều người nghĩ lầm rằng chúng ta có thể tiến triển trong lòng yêu mến Chúa do những nỗ lực của chính mình, rằng hoàn toàn tùy thuộc ở cách chúng ta học biết yêu mến Thiên Chúa. Chắc chắn là chúng ta cần làm mọi sự có thể để thực thi lệnh truyền Chúa Kitô: “Hãy kính mến Thiên Chúa là Chúa con”. Nhưng trên hết và vượt mọi nỗ lực của chúng ta, hồng ân này sẽ được ban cho chúng ta khi chúng ta cầu xin cùng cha chúng ta trên trời.
Chúng ta muốn ám chỉ điều gì khi nói “Yêu mến Chúa?” Đây là định nghĩa có giá trị giúp ta hiểu. Yêu mến Chúa nghĩa là ao ước làm vui lòng Chúa. Lệnh truyền của Chúa Kitô có thể đọc là: “Con hãy ao ước làm vui lòng Chúa”. Yêu mến tha nhân có nghĩa là ao ước làm điều thiện hảo cho họ. Chúng ta không thể “làm điều thiện hảo” cho Chúa, nhưng chúng ta có thể ao ước làm vui lòng Ngài. Chúng ta có thể và phải làm điều thiện hảo cho tha nhân. Một trong những cách tốt nhất để làm vui lòng Chúa là làm điều thiện hảo cho tha nhân. Đã có những lần Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: ai yêu mến Chúa thì tuân giữ giới răn của Ngài. Cách đây vài Chúa nhật, chúng ta đã thấy rằng giới răn của Chúa là bằng chứng tình yêu của chúng ta đối với Ngài.
Bạn đến tham dự Thánh lễ bởi vì Thiên Chúa được vui lòng khi bạn tôn thờ Ngài. Bạn năng rước lễ bởi vì Thiên Chúa muốn ở với bạn. Bạn cầu nguyện bởi vì Thiên Chúa được vui lòng khi bạn thưa chuyện với Ngài. Bạn tôn kính danh thánh Chúa bởi vì điều đó làm viu lòng Ngài. Bạn thảo kính cha mẹ bởi điều đó là vui lòng Chúa. Bạn tôn trọng sức khỏe và đời sống của tha nhân bởi vì điều đó làm vui lòng Chúa. Bạn tôn trọng năng lực của phái tính vì điều đó làm vui lòng Chúa. Bạn tôn trọng quyền lợi của tha nhân đối với của cải của họ, danh thơm tiếng tốt, vợ con họ, bởi vì điều đó làm vui lòng Chúa.
Thưc hiện những điều này là yêu mến Thiên Chúa. Và để thực hành những điều này, chúng ta cần đến sự trợ giúp của Thiên Chúa, chúng ta phải xin Ngài giúp đỡ như Kilmer đã làm, như các thánh đã làm. Bạn hãy cầu xin như trong lời nguyện nhập lễ: “Xin cho chúng con được thêm lòng tin cậy mến, và biết yêu chuộng những điều Chúa truyền dạy”.
Lạy Chúa, con muốn làm vui lòng Chúa. Xin Chúa giúp con làm vui lòng Chúa.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
70. Điều răn trọng nhất - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Theo tinh thần của Đức Giêsu, thì trong hai điều răn quan trọng nhất ấy, điều răn nào quan trọng hơn? Phải ưu tiên sống điều răn nào?
2. Tại sao thánh Phao-lô tóm toàn bộ lề luật vào một điều răn duy nhất: “Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13,8)? Ngài bỏ điều răn yêu Chúa sao?
3. Nếu bạn là một người cha đông con, đồng thời là người cha tốt lành không chút vị kỷ, bạn muốn con cái yêu thương mình bằng cách nào?
CHIA SẺ
1. Hai điều răn trọng nhất của Do Thái giáo và Kitô giáo
Người khôn ngoan thì trong mọi lãnh vực luôn luôn phân biệt điều chính và điều phụ, điều cốt lõi và điều “bì phu”, điều cần thiết và điều ích lợi, điều quan trọng và điều không quan trọng. Phân biệt như thế không phải để chỉ làm điều chính và bỏ điều phụ, mà để khi không thể làm được cả hai, thì phải ưu tiên cho điều chính. Vì điều chính là yếu tố quyết định thành công, không thực hiện nó thì chắc chắn sẽ thất bại. Còn điều phụ, nếu làm được thì rất tốt, rất ích lợi, có thể làm cho sự thành công rực rỡ hơn, nhưng không làm được thì cũng vẫn có thể thành công.
Trong việc giữ đạo và nên thánh, chúng ta cũng cần biết điều nào là cốt tủy, là quan trọng nhất; nếu không giữ điều này thì coi như chưa phải là giữ đạo, và không thể nên thánh, cho dù có giữ những điều phụ thuộc một cách thật hoàn hảo. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết, giữa biết bao giới răn, thì giới răn quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người. Đó là cốt tủy của lề luật: “Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy”. Nếu giữ đạo mà không phân biệt điều nào chính điều nào phụ, thì chúng ta dễ giữ đạo theo “kiểu Pha-ri-siêu” đã bị Đức Giêsu tố cáo: “Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng chân thành” (Mt 23,23); “Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà” (23,24). Hướng dẫn người khác giữ đạo và nên thánh mà không phân biệt chính phụ, thì dễ trở thành “những kẻ dẫn đường mù quáng” (23,16). Do đó, bài Tin Mừng hôm nay có tầm quan trọng đặc biệt cho mọi Kitô hữu muốn giữ đạo và nên thánh.
2. Hai điều răn tóm lại thành một điều răn: “yêu thương”
Cũng trong chiều hướng tìm cái chính yếu, ta có thể tiếp tục đặt vấn đề: trong hai điều răn ấy, điều răn nào quan trọng, chính yếu hơn?
Phải nói đây là hai giới răn rất đặc biệt, có vẻ là hai giới răn khác nhau, nhưng thật ra chỉ là hai cách diễn tả khác nhau của một giới răn duy nhất. Cả hai giới răn chỉ có một động từ duy nhất là “yêu”, đối tượng của động từ “yêu” này có vẻ là hai đối tượng khác biệt nhau: tuy có thể phân biệt rõ rệt trên lý thuyết, nhưng trên thực tế và thực hành thì dường như không thể phân biệt, và không nên phân biệt. Vì thế, hai điều răn ấy “tuy hai mà một”, tương tự như hai trang của cùng một tờ giấy: tuy là hai mặt khác nhau, nhưng chỉ là một tờ giấy duy nhất.
Thật vậy, rất nhiều lời trong Thánh Kinh cố tình đồng hóa Thiên Chúa với tha-nhân-của-chúng-ta. Cụ thể nhất là trong đoạn nói về cuộc phán xét cuối cùng (x. Mt 25,31-46), Đức Giêsu đồng hóa chính Ngài với tha nhân, đặc biệt những người đau khổ, nhỏ bé, bị khinh thường, áp bức: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta”, và “mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta”.
Tại sao thế? Vì con người là “hình ảnh của Thiên Chúa” (St 1,26-27; 9,6). Có ai yêu một người mà lại không yêu bức ảnh của người ấy không? Ta thấy những cặp tình nhân, khi không có mặt nhau, thường hôn lên ảnh của nhau. Hơn thế nữa, con người là con cái của Thiên Chúa: ngay khi được tạo dựng, con người đã được Thiên Chúa yêu thương và nâng lên hàng con cái Ngài (x. Kn 5,5; Lc 20,36; Ga 11,52; Rm 8,16). Và Ngài yêu quí con người đến mức, sau khi họ sa ngã, Ngài đã cho Con Độc Nhất của Ngài xuống trần, chịu đau khổ và chết để cứu chuộc họ (x. Ga 13,1; Rm 5,6-8; 14,15b; 1Cr 15,3; 2Cr 5,15; 1Tx 5,10; 1Pr 3,18). Do đó, ai yêu Thiên Chúa, tất nhiên cũng phải yêu con cái của Ngài, những người mà Ngài hết mực yêu thương: “ai yêu mến Đấng sinh thành, thì cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra” (1Ga 5,1).
Như vậy, tha nhân bên cạnh và chung quanh chúng ta chính là hiện thân cụ thể và gần gũi chúng ta nhất của chính Thiên Chúa. Vì thế, yêu những người ấy là yêu chính Thiên Chúa, và không yêu họ chính là không yêu Ngài. Người Kitô hữu có đức tin đích thực phải nhìn thấy chính Thiên Chúa ở nơi những người mình gặp hằng ngày, và yêu Ngài ở nơi họ. Không thể yêu Ngài ở nơi một ai khác chính đáng hơn nơi tha nhân. Chính vì thế, thánh Gio-an mới nói: “Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20). Do đó, “ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình” (4,21).
Quả thật, không phải là phi lý mà thánh Phao-lô và Gia-cô-bê đã tóm lại toàn bộ lề luật không còn vào hai giới răn, mà vào một giới răn duy nhất: “Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Kitô” (Gl 6,2); “Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13,8); “Các điều răn đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. (...) Yêu thương là chu toàn Lề Luật” (13,9-10); “Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là "Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình"“ (Gc 2,8). Không những ta phải yêu thương những người chung quanh mình, hy sinh cho họ, mà còn phải làm sao để họ cũng sống yêu thương và thúc đẩy nhau sống yêu thương nữa: “Chúng ta hãy để ý đến nhau, làm sao cho người này thúc đẩy người kia sống yêu thương và làm những việc tốt” (Dt 10,24).
3. Thực hiện việc yêu Thiên Chúa bằng việc yêu tha nhân
Để dễ hiểu những điều trên, ta hãy xét trường hợp của một người cha rất giàu có, rất khỏe mạnh, không thiếu thứ gì, cũng không cần thứ gì cả. Người cha ấy có một đàn con đông đảo, nhưng vì lỗi của chúng nên chúng trở nên nghèo nàn, đau khổ, thiếu thốn. Nguyên nhân gây nên tình trạng đau khổ ấy là chúng không biết yêu thương. Người cha ấy đã tìm đủ cách để đàn con hạnh phúc hơn, bằng cách giáo dục để chúng có nhiều tình thương hơn, vì một khi chúng biết yêu thương thì tất nhiên và tự nhiên hạnh phúc sẽ đến với chúng. Thử hỏi người cha ấy mong mỏi gì nơi đàn con? Chắc chắn là mong chúng yêu thương nhau (x. Ga 13,34-35).
Có một đứa con kia mong cha ban cho mình của này vật nọ, nên chỉ biết nghĩ đến cha, mong hầu hạ cha, lo cho cha từng chút, đang khi cha đã quá đầy đủ, chẳng cần ai lo cho mình một thứ gì. Ngược lại, đối với những anh em ruột thịt bên cạnh mình đang đau khổ và thiếu thốn, đang cần được chăm nom săn sóc, thì người ấy chẳng thèm đoái hoài đến. Thử hỏi người cha ấy có hài lòng về cách xử sự của người con ấy không? Cách xử sự như thế có hợp lý không? Nếu ta là người cha ấy, ta sẽ nghĩ gì về đứa con ấy, ta muốn nó xử sự thế nào?
Nếu ta là người cha ấy, chắc chắn điều ta mong mỏi nhất là thấy con cái mình yêu thương nhau, lo cho nhau, hy sinh cho nhau, và hễ chúng làm được điều ấy, thì ta sẽ hài lòng vô cùng, vì tình thương của chúng đối với nhau sẽ làm cho chúng hạnh phúc, là điều ta mong muốn nhất. Ta nghĩ rằng chính những đứa biết yêu thương anh em mình một cách vô vị lợi mới là những đứa con hiếu thảo, vì chúng có tình thương đích thực. Vì nếu anh em chúng nghèo khó và khó thương mà chúng còn thương được, ắt chúng phải thương yêu cha chúng hơn nhiều. Còn những đứa chỉ nghĩ tới cha mình giàu có, nên lo chăm chút cho cha đang khi cha chẳng cần điều đó, mà chẳng hề nghĩ đến anh em mình, thì tình thương của chúng đối với cha rất đáng nghi ngờ. Có thể chúng chỉ yêu bản thân chúng mà thôi, còn việc chúng chăm chút đến cha có thể chỉ là một chiến thuật cầu lợi theo sự khôn ngoan ích kỷ của chúng.
Minh họa trên cho thấy chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa bằng cách nào. Có thể nói điều răn quan trọng nhất chính là “yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn”. Nhưng phải thể hiện tình yêu ấy thế nào cho phù hợp với ý của Thiên Chúa? Qua giáo huấn của Đức Giêsu, ta thấy cách tốt nhất để thể hiện tình yêu của mình đối với Thiên Chúa chính là thực hiện điều răn thứ hai: “yêu người thân cận như chính mình”. Đức Giêsu đã làm gương về điều ấy. Ngài chết trên thập giá vì yêu thương con người, đồng loại của Ngài (với tư cách Ngài là một con người), nhưng cái chết ấy chính là lễ hy sinh để thờ phượng Thiên Chúa được Thiên Chúa đánh giá cao nhất. Vậy cách thờ phượng Thiên Chúa, yêu mến Thiên Chúa tốt nhất chính là yêu thương những người người chung quanh mình, những người mình gặp hằng ngày, và hy sinh bản thân mình cho họ.
Cầu nguyện
Tôi nghe Thiên Chúa nói với tôi: “Cha là Thiên Chúa, Cha không cần và không thiếu một thứ gì. Vậy thì con yêu Cha cách nào đây? Nếu con muốn yêu Cha cách thực tế, con hãy yêu Cha nơi những người sống chung quanh con, họ chính là hiện thân của Cha ở bên cạnh con. Con yêu họ, chính là con yêu Cha, và đó là cách tốt nhất để con tỏ lòng hiếu thảo đối với Cha”.
71. Để yêu Chúa và tha nhân, phải biết yêu mình
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Giới răn yêu thương của Thiên Chúa là một giới răn mà người tín hữu thường nghe và đọc đi đọc lại nhiều lần trong Thánh kinh, trong sách tu đức và trong các bài giảng giải. Đồng thời ta cũng nghe nói đến những câu chuyện về tình yêu trong tiểu thuyết, những loại phim ảnh về tình yêu và những mối tình lãng mạn của những cặp trai gái mới lớn lên. Do đó mà quan niệm về tình yêu trong Thánh kinh nơi loài người đã bị nhiễm độc bởi những quan niệm về tình yêu trong sách vở, báo chí và phim ảnh. Vì thế nhiều khi chữ yêu vọng lên như một lời nói trống rỗng bởi vì người ta nói về yêu mà không thực hành.
Còn tình yêu trong Thánh kinh không phải là trống rỗng và nông cạn. Đức Kitô đến diễn tả tình yêu bằng cách chết cho người yêu là nhân loại tội lỗi. Và tình yêu theo nghĩa Phúc âm đã trở thành một biến cố tử nạn trên thập giá. Trong Phúc âm hôm nay Chúa trích sách Đệ nhị Luật (Đnl 6:5) để trả lời người thông luật trong nhóm Pharisêu: Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi (Mt 22:37). Yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn.. là kiểu nói của người Do thái nói lên tính cách toàn diện và trọn vẹn của tình yêu và có nghĩa là yêu bằng toàn diện con người. Vì thế trong Phúc âm thánh sử Mác-cô có thêm hết sức (Mc 12:30) vào từ ngữ yêu mến, thì mức độ yêu mến mà Chúa đòi nơi loài người phải dành cho Chúa trong Phúc âm thánh sử Mát-thêu và thánh sử Mác-cô cũng vẫn như nhau, không hơn không kém.
Còn giới răn thứ hai được trích từ sách Lêvi (Lv 19:18) cũng giống giới răn thứ nhất là: Ngươi phải yêu cận nhân như chính mình (Mt 22:39). Mười Giới luật Thiên Chúa truyền cho Môsê trên núi Sinai (Xh 20) là những đòi hỏi tối thiểu mà người tin yêu và kính sợ Chúa phải thực hành. Những Giới luật này được các nhà lãnh đạo Do thái giáo phân chia thành 613 khoản luật khác nhau gồm 248 khoản truyền dạy và 365 khoản cấm đoán. Bây giờ Đức Kitô tóm tắt lại chỉ trong Hai Giới răn quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người hoặc có thể nói là một Giới răn Yêu thương kép. Câu trả lời của Chúa cho thấy Chúa trung thành với truyền thống và gia sản Do thái giáo. Đã yêu mến Chúa thì cũng phải yêu mến cận nhân, nhìn nhận cận nhân như chính mình. Yêu mến Chúa và yêu mến cận nhân là hai điều răn quan trọng nhất, gắn liền với nhau, không thể tách biệt như lời Chúa phán: Tất cả luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy (Mt 22:40). Thánh Gioan, người môn đệ được Chúa yêu nhắc nhở cho ta: Nếu ai nói họ yêu mến Chúa mà ghét tha nhân là người nói dối (1Ga 4:20-21).
Lý do ta phải yêu mến tha nhân vì tha nhân được tạo thành theo hình ảnh Thiên Chúa và được máu Con Thiên Chúa đổ ra để cứu chuộc. Yêu mến tha nhân có thể đi kèm với cảm giác, nhưng không phải là cảm giác. Yêu phải là việc cam kết và quyết định của lí trí. Ta có thể không có cảm tình với người nọ người kia vì tính tình, tập quán, cách nhìn đời cũng như cách nói năng hành động của họ khác biệt với ta. Đó là cảm giác, cảm tình của ta. Tuy nhiên ta phải làm quyết định không được ghét bỏ, ngược đãi và áp bức người tha nhân. Yêu tha nhân còn là cầu nguyện cho họ và giúp đỡ người cần cơm ăn, áo mặc và nhà ở như lời Chúa dạy trong sách Xuất hành hôm nay (Xh 22:20-25).
Chúa dạy ta phải yêu cận nhân như chính mình như thánh Phaolô vọng lại: Không ai ghét thân xác mình bao giờ (Eph 5:29). Yêu mình đây không hiểu theo nghĩa tự ái quá đáng. Yêu mình có nghĩa là biết đánh giá những gì Chúa ban. Yêu mình là bằng lòng với thân phận và số phận, chấp nhận mình, thoả mãn với những gì mình có: tài năng, sức khoẻ, của cải, nhan sắc. Yêu mình còn có nghĩa là biết tha thứ cho mình, sau khi mình đã làm lỗi. Người ta thường chỉ nghĩ đến việc tha thứ cho người khác, nhưng ít ai nghĩ đến chuyện phải tha thứ cho mình ngay cả sau khi xưng thú tội lỗi và được thứ tha. Sở dĩ người ta không nghĩ đến việc tha thứ cho mình, vì có những khi người ta muốn nuôi cảm tưởng trách mình sau khi đã làm lỗi và phạm tội hoặc vì không muốn nhận mình có lỗi.
Khi người ta không yêu mình, người ta cũng khó có thể thực sự yêu ai. Khi người ta không thoả hiệp với chính mình, với tài năng, của cải mình có, với tầm thước, vóc dáng, diện mạo và điệu bộ của mình, thì người ta khó có thể dành thời giờ lưu ý đến tha nhân. Khi người ta không bằng lòng với số phận hẩm hiu, hoặc số kiếp lầm than của mình, người ta có thể đóng khung trong những cảm tình thương hại mình. Khi người ta không bằng lòng với những sắc thái thuộc về mình hoặc những gì mình có, người ta sẽ bận tâm, áy náy và lo ngại về mình. Do đó người ta tìm cách biện hộ cho mình và phê bình chỉ trích người khác hầu che đậy những khuyết điểm của mình. Đọc văn chương Việt Nam ta thấy có những nhân vật không bằng lòng với số phận. Người có thiên hương quốc sắc như Vương Thúy Kiều nhưng lại gặp mệnh bạc. Người có tài làm thơ với lời thanh, nhưng hàm chứa hai ý: tục hoặc thanh như Hồ Xuân Hương, mà cứ phải làm kiếp vợ lẽ. Người ở trong hoàng cung nhưng không còn được vua đoái hoài đến như Cung oán Ngâm khúc.
Khi người ta phải mang những bệnh tật về thể xác và tinh thần lâu dài, người ta có thể phàn nàn, kêu trách và oán hận Chúa. Mà trách móc và oán hận Chúa thì không thể nói được rằng người ta yêu mến Chúa bằng một tình yêu thanh thoát và bình thản. Vậy thì bao lâu ta còn mang bệnh tật, khổ đau, thiệt thòi trong thân xác và tâm hồn mặc dầu đã đi nhà thương và cộng tác với bác sĩ y khoa hoặc bác sĩ tâm linh để điều trị, ta cầu xin Chúa cho được biết chịu đựng, vác thánh giá của bệnh tật, đau khổ vì yêu mến Chúa. Ta dâng lên Chúa bệnh tật, đau khổ ta đang phải chịu để được hòa lẫn với những hi sinh thánh giá của Chúa để đền bù tội lỗi mình và tội lỗi thế gian. Ta xin Chúa giúp để biết tìm ra ý nghĩa của thánh giá đau khổ. Chấp nhận đau khổ và thánh giá vì yêu, thánh giá và đau khổ mới có thể biến đổi tâm hồn và đời sống và trở thành phương thế cữu rỗi.
Lời cầu nguyện xin Chúa dạy cho biết yêu ba chiều:
Lạy Chúa, chúng con xin tạ ơn Chúa đã đến
dạy bảo loài người về hai giới răn quan trọng nhất
là mến Chúa và yêu người.
Xin dạy con biết sống trong tâm tình biết ơn
về những hồng ân Chúa ban: lớn hoặc nhỏ, ít hay nhiều.
Cũng xin dạy con nhận ra hình ảnh của Chúa nơi tha nhân.
Và xin cho con biết chấp nhận bản thân và hoàn cảnh,
biết bằng lòng với số phận và thoả hiệp với đời sống,
để con có thể yêu Chúa và tha nhân với tâm hồn rộng mở. Amen.
72. "Ngừng lại!"
Để làm cho mọi người chú ý, một nhà giảng thuyết thường hay bày ra nhiều kiểu cách có tính khôi hài trong khi ông giảng. Một lần kia, khi bắt đầu đọc kinh Lạy Cha, ông đọc to hai chữ đầu "Lạy Cha" rồi bất ngờ ông la to "Ngừng lại". Ngay lập tức ông vào bài giảng của ông. Điều ông làm đó gây cho dân chúng cảm thấy xấu hổ khi họ đọc tiếp kinh Lạy Cha, vì họ không hiểu ý nghĩa của nó.
Trong đoạn Phúc Âm hôm nay cũng có đoạn mà chúng ta không nên để cho nó thoáng qua khi nghe, nhưng chúng ta phải tìm hiểu thâm sâu về ý nghĩa của nó. Câu Phúc Âm đó như sau: "Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa ngươi." Chúng ta hãy ngừng tại đây để suy nghĩ. Giới luật này có ý ám chỉ về điều gì? Làm thế nào để chúng ta có thể bày tỏ lòng chúng ta yêu mến Thiên Chúa? Chúng ta đối thoại với Chúa qua việc chúng ta cầu nguyện. Chúng ta tôn thờ Chúa hiện diện nơi mỗi người chúng ta và chúng ta cám tạ Chúa vì Ngài thương yêu chúng ta. Chúng ta cám tạ Chúa vì Ngài ban sự sống cho chúng ta và tất cả mọi sự mà chúng ta đang hưởng dùng tại cõi đời này. Chúng ta cảm tạ Chúa vì qua Chúa Giêsu chúng ta biết được rằng Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta và còn ban nhiều ơn lành cho chúng ta khi chúng ta còn sống. Chúng ta có thể nói" Cám tạ Chúa, Cám tạ Chúa" triệu triệu lần nhưng chúng ta vẫn chưa hiểu ý nghĩ của nó ám chỉ về điều gì thì có ích gì cho chúng ta.
Giới luật mến Chúa mà chúng ta không thể hiểu thấu được vì chúng ta còn hay lỗi phạm đến giới luật "yêu mến kẻ khác." Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu được hỏi "Giới luật nào cao trọng nhất?" Ngài dùng một câu trong Cựu Ứơc để trả lời cho chúng ta. Thứ nhất, "Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa ngươi," thứ hai, "Ngươi phải yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi." Chúa Giêsu muốn chúng ta phải hiểu cao sâu hơn nữa về giới luật tình yêu trong mọi khía cạnh. Giới luật yêu mến Chúa và yêu mến kẻ khác không thể nào tách rời nhau được. Chúng ta không thể nói chúng ta yêu mến Thiên Chúa nhưng đồng thời lại ghét anh em mình.
Chúa Giêsu phán: "Ta ban cho các ngươi giới luật mới... Hãy yêu mến kẻ khác như Thầy đã yêu thương các con. Nếu các con yêu thương nhau, mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ Thầy" (Jn 14:34-35).
Chúng ta hãy bày tỏ lòng yêu mến Chúa tha thiết của chúng ta qua việc chúng ta yêu thương tha nhân. Nếu sự quan tâm của chúng ta nơi tha nhân quá nông cạn thì việc chúng ta yêu mến Chúa cũng nông cạn như vậy. Việc đến nhà thờ chỉ có ý nghĩa khi chúng ta thay đổi lối nhìn của chúng ta đối với tha nhân.
Một nhóm linh mục tu sĩ đã mời một nhà quảng cáo thật nổi tiếng đến để hướng dẫn họ biết làm cách nào để cho cộng đoàn của họ được tăng triển và mọi người trong cộng đoàn sống hăng hái hơn. Họ hy vọng có thể đạt được nhiều kết quả nơi vị thuyết trình này. Nhưng nhà thuyết trình này đã làm cho họ trở nên bỡ ngỡ giống như nhà giảng thuyết trong câu truyện trên. Ông ta không một lời chào hỏi hoặc giới thiệu. Ông ta nhập đề vào buổi thuyết trình với một câu như sau: "Nếu Thiên Chúa đã quên các bạn thì một người hèn kém như tôi thì có thể làm gì cho các bạn được đây? Các bạn có biết rằng sức mạnh nào đã làm cho các môn đệ Chúa Giêsu trở nên bạo dạn và thay đổi cả Tây phương như vậy không? Đó chính là sức mạnh của Đức tin và phép lạ." Sau đó ông ta kết thúc bài thuyết trình của ông ta như sau: "Bởi vì các bạn không còn niềm tin Chúa nơi các bạn nữa, các bạn đã tìm kiếm những sự khôn ngoan thầm kín để thay vào niềm tin đó. Khi các bạn làm như vậy thì các bạn đã tự đưa mình vào hố sâu không lối ra." Quả thật như vậy, trong đời sống mỗi người chúng ta ai cũng tìm cách nào đó để cho những sự khôn ngoan thế tục làm lu mờ niềm tin trong tâm hồn chúng ta. Do đó chúng ta khó lòng đáp trả tiếng nói của Đức tin, vì lòng tin của chúng ta về giới luật yêu thương của Chúa Giêsu đã không còn nơi chúng ta. Chúa Giêsu phán: Chúng ta sẽ được nhận biết chúng ta là con Thiên Chúa qua việc chúng ta thương yêu kẻ khác, nhưng chúng ta đã không chấp nhận điều đó. Chúng ta muốn yêu mến Thiên Chúa, nhưng chúng ta lại oán hận kẻ khác. Điều đó không thể nào xẩy ra được.
Chúng ta hãy ngừng lại, suy nghĩ và kiểm điểm cõi lòng nơi mỗi người chúng ta xem coi chúng ta đã hiểu được ý nghĩa thật sự về lòng yêu mến Chúa của chúng ta như thế nào. Chúng ta chân nhận rằng yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân là hai giới luật không bao giờ tách rời ra được.
73. Điều răn trọng nhất mến Chúa yêu người
Người ta hỏi Đức Giêsu điều răn nào trọng nhất. Ngoài việc tranh luận để tìm cách bắt bẻ Đức Giêsu họ còn lòi ra tính lười "muốn ít, càng ít càng tốt và tính nệ luật "làm đủ luật" là xong và bảo đảm, đủ luật, đủ bổn phận rồi thì yên tâm, khỏi lo. Cụ thể thì đỡ phải suy tính như phải làm việc lành nào đọc mấy kinh thì được bao nhiêu ân xá. Đức Giêsu không trả lời theo ý họ vì không đủ.
Vài điểm CHÚ GIẢI
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa.... hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi:”
Ba cái hết. Ngôn ngữ Do thái không có cách nói tuyệt đối, tối da (superlatif) mà nói ba lần. Ba cái hết là hết ráo trọi, hết trơn. Chỉ cần hết lòng. Chúa muốn tấm lòng. Tấm lòng là con người. Hết lòng là hết cả con người gồm luôn hết linh hồn và hết trí khôn. Việt Nam nói "yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự". Không nổi lắm. Nhưng tại sao, cách nào?
Điều răn thứ hai giống điều răn ấy là: Ngươi phải yêu người lân cận như chính mình: Người lân cận: Với Do thái là thân cận và là người Do thái. Còn với chúng ta là người lân cận, ở gần bên. Như chính mình: Muốn cái gì cho mình thì cũng hãy muốn cho người khác. Yêu thương còn nói nhiều hơn: hy sinh cho nguời khác.
Đức Giêsu chỉ lập lại công thức trong sách luật. Nhưng thêm làm thành khác biệt: điều răn thứ hai giống điều răn ấy. Là một, không tách biệt.
Tất cả luật Mosê và các tiên tri đều gồm trong ấy:
Tóm nhưng không gạt ra ngoài gì hết.
Nếu chỉ coi là vấn đề tranh luận, tìm cách làm khó thì không cần đi vào chi tiết nội dung. Văn mạch của Matthêu là vậy. Nhưng chúng ta cần làm rõ nội dung để thực hành cho có ích.
Tiếng Việt làm cho đơn giản, rất đơn giản là "mến Chúa yêu người". Đơn giản quá thì không chi tiết. Cũng như có câu kinh "Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến, xin cữu rỗi các linh hôn". Đọc hoài, ngon miệng nhưng chẳng biết là gì và cũng chẳng biết làm gì nên chẳng có gì.
Chúng ta cũng nói lai lải "mến Chúa yêu người" rồi kể là đủ. Phải giải thích chi tiết, thật chi tiết mới biết rõ để làm và phải làm đủ chi tiết mới gọi là đủ, mới có kết quả.
Mến Chúa hết lòng hoặc trên hết mọi sự: là làm đẹp lòng Chúa trong mọi sự. Không làm gì mất lòng Chúa. Quá mênh mông. Hết lòng là bằng cả tấm lòng. Chúa thấy tấm lòng chứ không thấy bề ngoài. Thường, người ta chỉ làm bề ngoài, không một chút tấm lòng nói chi hết lòng. Không biết làm sao là hết lòng. "Trên hết mọi sự" thì có mùi vật chất hơn dể hiểu hơn. Đặt Chúa trên hết mọi sự là không để bất cứ cái gì trên Chúa. Không dể tí nào và không mấy ai làm được nhưng lý thuyết thì được.
Có mến Chúa mới có yêu người. Yêu người vì là điều răn của Chúa, là luật buộc thì phải yêu. Không có Thiên Chúa thì cũng không có con người. Người ta loại bỏ Thiên Chúa thì trở thành độc ác đối với nhau. Hoàng Đế Julien (Julien le rénégat) của Rôma thấy người công giáo gây được ảnh hưởng lớn trong dân, người ta theo đạo nhiều mà không theo Hoàng Đế mặc dù ông có uy quyền tuyệt đối, sinh sát nắm trong tay. Ông ra lệnh làm việc bác ái hơn người công giáo vì ông có nhiều phương tiện hơn. Nhưng không kết quả vì thiếu tình thương. Không phải "mến Chúa yêu người".
Không phải là điều răn thứ hai mà là vế hai của một điều răn duy nhất. Người ta xin Đức Giêsu tóm tắt trong một điều răn trọng nhất, ắc và đủ. Người ta sợ nhiều. Ít thì khoẻ. Nên Đức Giêsu tóm tất cả trong "một" là mến Chúa yêu người. Rất gọn, rất ngắn. Nhưng lại mênh mong "tất cả luật Môsê và các tiên tri" đều gồm trong ấy.
Yêu người vì mến Chúa thì mới hết lòng. Yêu người vì mến Chúa thì làm trọn lề luật. Mến Chúa thì làm trọn mọi lề luật đối với Chúa. Yêu người thì làm trọn mọi lề luật đối với nhau. Yêu là nói tình cảm chứ không lý trí. Lý trí không "yêu" mà chỉ làm cái nầy cái nọ. Yêu mới hết lòng. Yêu là không tính toán đến nổi sẳn sàng hy sinh tới cả mạng sống.
Yêu người là mến Chúa. Không yêu người là không mến Chúa như Thánh Gioan nói "anh em mà ngươi thấy trước mắt mà không yêu lại nói yêu mến Thiên Chúa mà ngưoi không thấy là nói dối".
74. Điều răn trọng nhất – Lm PX. Vũ Phan Long
Sự liên kết giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với người thân cận, đồng thời sự khác biệt giữa hai tình yêu đó, giúp ngăn cản một sự tách biệt giữa tôn giáo và xã hội, giữa bản tính bên trong và đời sống bên ngoài.
1.- Ngữ cảnh
Trong cấu trúc văn chương của TM Mt, đoạn văn 22,34-40 phải được coi như một bài tường thuật về một cuộc tranh luận nữa của Đức Giêsu với các đối thủ, là các đại diện Do Thái giáo chính thức. Họ tìm cách gài bẫy Đức Giêsu bằng chính những lời nói của Người (cc. 15 và 35) về những vấn đề ngày càng thêm quan trọng: nộp thuế cho Xêda, là vấn đề đặt đối lập các nhóm Hêrôđê, Pharisêu và Nhiệt Thành (Quá Khích) với nhau; sự sống lại của kẻ chết, là vấn đề được phái Xađốc đặt ra; điều răn lớn nhất, là mối bận tâm của người Do Thái tuân thủ luật Môsê nghiêm nhặt, tức phái Pharisêu. Các vấn đề ấy được đặt ra cho một vị Rabbi: “Thưa Thầy” (didaskale; x. cc. 15.24.36); đây là danh hiệu cho thấy là họ hiểu Đức Giêsu đứng vào vị trí nào. Vấn đề cuối cùng được chính Đức Giêsu nêu ra sẽ là vấn đề “con vua Đavít” (22,41-46). Đây là bốn vấn đề thường được người Do Thái thời Đức Giêsu tranh luận nhiều nhất.
Có lẽ bản văn hôm nay cũng phác lại một cuộc gặp gỡ nào đó giữa Đức Giêsu và một vị tôn sư của Do Thái giáo; vị này hẳn là muốn làm sáng tỏ hoặc đào sâu các điều răn. Ở Mc 12,28-34 và Lc 10,25-28, ta không thấy có giọng điệu bút chiến như ở bản văn Mt (x. c. 34). Riêng trong bản văn Mt, vị thông luật hỏi là để “thử” Đức Giêsu.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Câu chuyển tiếp: Người Pharisêu quy tụ lại (22,34);
2) Câu hỏi về điều răn trọng nhất: mục tiêu và nội dung (22,35-36);
3) Câu trả lời của Đức Giêsu (22,37-40).
3.- Vài điểm chú giải
- Điều răn nào là điều răn trọng nhất (36): Do Thái giáo vẫn đang đi tìm một nguyên tắc thống nhất. Các kinh sư cũng tìm cách xác lập một hệ thống tổng hợp với các đường hướng chủ đạo: Đavít xác định mười một điều (Tv 15,2-5), Isaia sáu (Is 33,15), Mikha ba (Mk 6,8), Amốt hai (Am 5,4), và Khabacúc một (Kb 2,4). Đây là bản tóm lược của Rabbi Simbai (tk iii).
- yêu mến (37): Động từ Híp-ri ’âhav có một loạt ý nghĩa, từ tình yêu tính dục đến tình yêu đới với người trong gia đình, đối với bạn bè, sự trung thành trong đời sống chính trị đến tình yêu đối với Thiên Chúa. Theo cách giải thích của người Do Thái về Đnl 6,5, “tình yêu đối với Thiên Chúa” được diễn tả trước tiên bằng những hành vi vâng phục, trung thành với Torah. Yêu mến Thiên Chúa là hy sinh mạng sống vì các điều răn của Người.
- hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn (37): Theo nhân học Híp-ri, “trái tim” (lòng) là cơ sở của tình cảm; còn “linh hồn” là phương diện sinh lực của con người. “Trí khôn” (dianoia) là từ Hy Lạp cũng có ý nghĩa như “trái tim” theo ngôn ngữ Híp-ri. Tác giả Mt đã lấy từ Mc 12,30 (“lòng, linh hồn, trí khôn và sức lực”), nhưng bỏ “sức lực” và chọn giữ lại “trí khôn” để có bộ ba. Cả ba danh từ này được dùng theo nghĩa tổng hợp: tình yêu đối với Thiên Chúa phải trọn vẹn, huy động tất cả con người, thậm chí phải chết.
- yêu người thân cận (39): Ngữ cảnh của Lv 19,11-18 là như sau: Đây là những điều khoản luân lý căn bản của Thiên Chúa liên hệ đến người thân cận, kể cả người yếu thế về mặt xã hội hoặc một đối thủ tại tòa án. Song song với “yêu” là: không trộm cắp, cư xử sai lệch, nói dối, thề gian, lừa gạt, cướp đoạt, nguyền rủa, xét xử bất công, vu khống, thù ghét. Lv 19,34 thêm: không vi phạm quyền lợi của tha nhân.
- thân cận (39): Theo bản văn căn bản Lv 19,18 và theo hầu như cách giải thích Lv 19,18 của toàn thể Do Thái Paléttina, “thân cận” (đồng loại) đây là người Israel mà thôi, những người đã được Thiên Chúa ban Lề Luật cho. Chỉ những người ngoại quốc đang sống tại đất Israel, cũng đước áp dụng một nền công lý này, mới được kể vào số “người thân cận” (Lv 19,34); sau này, chỉ những người dự tòng mới được coi như thế. Đức Giêsu theo truyền thống Mt đã mở rộng nghĩa của từ ngữ này mà áp dụng cho tất cả mọi người (x. Mt 5,43-48; 7,12; 19,19).
- Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ (40): Đức Giêsu không chỉ đặt hai điều răn này đứng đầu 613 quy định của Luật Môsê, như thể ở bên cạnh các quy định ấy; Người còn làm thành một tổng hợp. “Luật và các Ngôn sứ” là cách gọi tên bộ Kinh Thánh Do Thái (tức Cựu Ước thu hẹp), cũng có thể hiểu là ý muốn của Thiên Chúa đã được ghi giữ trong Kinh Thánh.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Câu chuyển tiếp: Người Pharisêu quy tụ lại (34)
Bản văn hôm nay vẫn nằm trong chiều hướng các cuộc tranh luận các nhóm đại diện Do Thái giáo chính thức gây ra với Đức Giêsu. Tuy vậy, các hoàn cảnh tiêu cực này vẫn không ngăn cản Đức Giêsu cống hiến những mạc khải hoặc giáo huấn quan trọng.
Để đáp lại tin tức về sự thất bại của phái Xađốc, người Pharisêu đã họp nhau lại.
* Câu hỏi về điều răn trọng nhất (35-36)
Một người thông luật trong nhóm đã hỏi để “thử” (peirazôn) Người (c. 35), như họ đã từng làm (x. Mt 22,15.18). Tuy nhiên, câu hỏi này cũng có lý do của nó: các trường phái và các vị thầy Israel vẫn đang cống hiến những lối phân phối và giải thích Lề Luật (Torah) khác nhau. Họ đã phân tích Luật ra thành 613 điều khoản khác nhau. Các kinh sư đã chọn chủ trương giữ luật thật chi li (“vị luật”). Xu hướng vị luật tỉ mỉ này làm phát sinh khi thì niềm vui do tuân giữ được trọn vẹn các điều khoản, khi thì sự tự mãn kiểu Pharisêu (x. Lc 15,29), khi thì sự lo lắng vì không tuân giữ được tất cả (x. Mt 19,18). Dù sao, cần phải tìm ra một nguyên tắc thống nhất giúp người ta biết định hướng trong cuộc đời và nhất là biết cách quyết định trong các chọn lựa thực tiễn. Vì thế, câu hỏi của vị thông luật để “thử” Đức Giêsu có lý do: không chỉ là một tranh luận lý thuyết nhà trường, nhưng cũng có một nhu cầu thực tế. Bởi vì có khi họ đã phải chỉ cho biết những điều răn nào không được vi phạm, cho dù người ta có bị giết, hoặc phải dạy điều gì là quan trọng nhất đối với Lề Luật và các điều răn này dẫn xuất từ các điều răn khác thế nào. Vì vậy, họ có nói tới một kơlal (tiếng Híp-ri có nghĩa là phổ quát tính, nguyên tắc căn bản, tóm tắt, danh hiệu) và một guph (tiếng Híp-ri có nghĩa là phần thân, phần cốt yếu) trong Lề Luật.
* Câu trả lời của Đức Giêsu (37-40)
Câu trả lời của Đức Giêsu cũng chẳng độc đáo, dù là trong lời nhắc lại giới răn tình yêu đối với Thiên Chúa, hay trong lời nhắc nhớ về tình yêu đối với người thân cận. Cả hai điều răn này đều được nói đến trong Lề Luật, và bất cứ người Israel tốt lành nào cũng đều ghi nhớ mà tuân giữ. Đức Giêsu đã chỉ làm một việc là trích sách Đệ nhị luật (6,4-5) và Lêvi (19,18). Nếu có lạ là ở chỗ Người đã đặt hai điều răn này ngang hàng với nhau: “cũng giống” (homoia) có nghĩa là điều răn thứ hai cũng đáng được quan tâm tuân giữ như đối với điều răn thứ nhất, tức là Người nối kết hai điều răn với nhau và dành cho chúng vị trí cao nhất. Hơn nữa, Đức Giêsu còn tuyên bố rằng “tất cả Luật (Môsê) và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”, có nghĩa là hai điều răn này diễn tả trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa trong Kinh Thánh, do đó hàm chứa tất cả mọi điều răn khác, hay là tất cả các điều răn khác quy về hai điều răn này. Như thế yêu mến người thân cận có nghĩa là phải dành cho người thân cận một sự chăm sóc, một tình yêu y như dành cho Thiên Chúa. Nói cách khác, người thân cận cũng phải được yêu mến “hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn”. Không cần phải phân biệt giữa ba từ ngữ này, bởi vì hy-ngữ thường dùng hai từ “trái tim” và “trí khôn” để dịch từ lev Híp-ri (= trái tim). Câu văn có nghĩa là phải vận dụng tất cả bản thân mà yêu mến Thiên Chúa.
Như vậy, câu trả lời của Đức Giêsu đã rõ. Phải yêu mến người khác với trọn vẹn bản thân mình, tức là trong thực tế không chỉ bằng lời nói, còn về phương diện con người, bằng cách giúp đỡ tận tình, nồng nhiệt. Cách đặt ngang hàng hai điều răn như thế, chúng ta đã thấy trong Bài Giảng trên núi, trong đó Đức Giêsu mời gọi người ta làm hành vi phượng tự sau khi đã giao hòa với người anh em (5,23-24) và yêu mến cả kẻ thù như Thiên Chúa yêu họ (5,44-48).
Có thể nói ở c. 40, tác giả Mt tóm tắt cái nhìn của ngài về hai điều răn trọng nhất. Công thức “ Luật (Môsê) và các sách ngôn sứ” đưa chúng ta trở lại với hai đoạn trung tâm ở 5,17 và 7,12. Ở đó, bản văn nói rằng Đức Giêsu làm trọn Lề Luật và các ngôn sứ, và cả hai khối này tập trung vào hoàng kim quy tắc. Như vậy, c. 40 hàm ý là Lề Luật và các sách ngôn sứ được hoàn tất qua Đức Giêsu. Đồng từ “tùy thuộc vào” (kremannymi en) cho chúng ta biết quan niệm của tác giả Mt về Lề Luật. Hai điều răn này, cũng như hoàng kim quy tắc, chính là nguyên tắc căn bản hướng dẫn việc giải thích bài Giảng trên núi, cũng như Lề Luật và các sách ngôn sứ.
+ Kết luận
Câu trả lời của Đức Giêsu không phải là câu trả lời của một kinh sư, dù Người được các người Pharisêu coi như thế. Đây là câu trả lời của vị Chúa Tể Lề Luật. Chính Người công bố Luật và chính Người hoàn tất Luật (x. 5,17). Chính do sự kiện Đức Giêsu hoàn tất Luật mà Người mang lại cho Luật tính chất mới mẻ đích thật. Tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân không phải chỉ là những thái độ con người bị buộc phải có; hai tình yêu này nhập thể nơi bản thân Đức Giêsu. Chính vì Người đã đến dùng cuộc đời, cái chết và sự sống lại của Người mà hoàn tất “Luật và các Ngôn sứ”, mà Người có thể công bố với giọng uy quyền rằng toàn thể Giao ước cũ đều “tùy thuộc” vào việc yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Chính nơi Người mà không những Lề Luật, dưới dạng điều răn, mà cả lời hứa ân phúc, được các Ngôn sứ loan báo, đã được thực hiện trọn vẹn.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Khi tuyên bố về điều răn trọng nhất (“hai trong một”), Đức Giêsu đã công bố sự giải phóng tuyệt vời cho con người. Bây giờ, ta chỉ còn phải tuân giữ hai điều mà thôi. Người nào chu toàn thật sự những gì được yêu cầu trong hai điều răn này thì có thể chắc chắn là đã hoàn tất Lề Luật và thực hiện ý muốn của Thiên Chúa (x. Mt 7,12; Gl 5,14; Rm 13,8-10). Đây chính là điều Thiên Chúa nhắm khi tạo thành con người. Họ được tạo nên để vâng phục Thiên Chúa như chủ và chúa của mình, và cũng để yêu thương Người như cha của mình. Thế mà sự vâng phục chỉ nên trọn vẹn trong tình yêu mà thôi.
2. Người thân cận không phải chỉ là người thuộc về cùng một dân tộc, ở trong cùng một quốc gia, nói cùng một ngôn ngữ. Bất cứ ai cũng có thể là người thân cận của tôi, nhưng không phải lúc nào cũng thế. Tránh né luật yêu thương bằng cách nói đến những người thân cận ở xa, để lơ đi những người ở bên mình đang cần được mình quan tâm, là một cám dỗ dễ rơi vào. Chính tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa và tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta phải là mẫu mực cho tình yêu của con người đối với nhau.
3. Yêu thương anh em không phải chỉ bởi vì Thiên Chúa yêu cầu, để vâng lời Thiên Chúa. Liên hệ giữa hai tình yêu này không phải là một liên hệ pháp lý, võ đoán, mà là liên hệ nội tại: ta không thể yêu mến Thiên Chúa nếu không yêu thương anh em. Trong khi yêu thương người khác vì chính họ, ta yêu mến Thiên Chúa vì chính Người. Chỉ có một tình yêu duy nhất, vì con người chỉ có một con tim. Ta có thể suy ngẫm lại bài thánh ca đức mến của thánh Phaolô để thêm xác tín về điểm này (1 Cr 13,4-6).
4. Sự liên kết giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với người thân cận, đồng thời sự khác biệt giữa hai tình yêu đó, giúp ngăn cản một sự tách biệt giữa tôn giáo và xã hội, giữa bản tính bên trong và đời sống bên ngoài. Yêu mến bản thân mình có thể được nhờ tình yêu đối với Thiên Chúa; chính tình yêu đối với Thiên Chúa đưa tới chỗ không tuyệt đối hóa bản thân, mà lại có một sự nội tâm hóa mới, đồng thời có một tình yêu nồng nàn hơn đối với người thân cận.
75. Cốt lõi của luật là Lòng Mến
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Tin mừng Mt 22, 34-40: Hôm nay, Đức Giêsu nói đến một thứ tình yêu hoàn hảo và phong phú. Hoàn hảo là vì khi yêu mến Chúa trên hết mọi sự, thì chúng ta sẽ được kín múc nguồn lực để yêu mến tất cả mọi người không trừ ai. Phong phú vì: “Giới hạn của tình yêu là không có giới hạn nào” (thánh Augustinô)...
Khi nói về tình yêu, hẳn đã có quá nhiều người biết và định nghĩa về chúng. Tuy nhiên, khi sống căn tính về tình yêu, thì có lẽ không mấy người đạt được! Đôi khi còn hiểu sai hay hành động lệch lạc hoặc phiến diện. Vì thế, sự cao quý của nó đôi khi bị mất ý nghĩa...!
Tin Mừng hôm nay được Đức Giêsu nói đến là một thứ tình yêu hoàn hảo và phong phú. Hoàn hảo là vì khi yêu mến Chúa trên hết mọi sự, thì chúng ta sẽ được kín múc nguồn lực để yêu mến tất cả mọi người không trừ ai. Phong phú vì: “Giới hạn của tình yêu là không có giới hạn nào” (thánh Augustinô). Thật thế, mến Chúa và yêu người là hai mặt nhưng chỉ có một tình yêu. Vì thế, nó không thể tách rời nhau, mà là hòa quyện lại với nhau để làm nên điều thiện hảo.
1. Mến Chúa gắn liền với yêu người
Những người Biệt Phái vốn đã có sẵn sự hiềm khích với Đức Giêsu. Có lẽ, với người Biệt Phái, họ không mong muốn gì hơn là việc loại bỏ Đức Giêsu càng sớm càng tốt cho đỡ ngang tai trái mắt, bởi vì Đức Giêsu chẳng khác gì cái đó ngáng chỗ của họ. Vì Ngài, mà những người này đã phải mất ăn mất ngủ để tìm ra những mưu kế nhằm gài bẫy Đức Giêsu.
Hôm nay, vẫn nằm trong ý định đó, nên họ đã nhất trí với nhau là đề cử một người đại diện để đứng lên hỏi Đức Giêsu về điều răn nào là trọng nhất trong Sách Luật. Đây là câu hỏi khó, không dễ trả lời.
Tại sao họ lại hỏi câu nói đó? Thưa vì trong Sách Luật Môsê có tới 613 điều luật, được chia thành 248 điều phải làm và 365 điều phải tránh. Tuy nhiên, ngay trong các nhóm của họ cũng bất đồng với nhau: mỗi nhóm thích giữ một điều luật và cho điều luật ấy là quan trọng hơn cả. Như vậy, nếu Đức Giêsu nói điều này hơn điều kia, thì hẳn Ngài sẽ làm phật lòng các nhóm còn lại, và như thế, không có lợi gì cho Ngài.
Tuy nhiên, lại một lần nữa, Đức Giêsu đã làm cho mục đích của họ bại lộ và phải câm miệng như nhóm Sađốc. Ngài nói: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy". (Mt 22,37-40).
Khi nói "Điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy", Đức Giêsu muốn dạy cho họ một chân lý rằng: mến Chúa thì phải yêu thương anh chị em mình. Hai điều răn này luôn gắn liền với nhau. Kẻ nào mến Chúa mà không yêu người thì mâu thuẫn, hay yêu người mà không mến Chúa cũng chẳng khác gì “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.
Thánh Gioan cũng nói trong thư của ngài như sau: "Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4, 20).
Qua câu trả lời của Đức Giêsu, chúng ta thấy có sự mới mẻ và phổ quát, không hàm hồ mà thực tế. Bởi lẽ, câu trả lời này đều được rút ra từ chính trong sách Luật Môsê và nó có sự liên đới với nhau mật thiết đến độ không thể bỏ một lấy một hay coi trọng điều này mà giảm khinh điều kia.
Đây chính là điều răn mới và đây cũng chính là tiêu chuẩn để mặc khải dung mạo của một vị Thiên Chúa giàu tình thương, nhưng lại được hiện tại hóa nơi người loan truyền: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 13,34-35).
Thật vậy, tình yêu thương là quan trọng. Thiếu đi tình yêu thương, chúng ta đánh mất đi cốt lõi của luật. Vì thế, thánh Phaolô cũng quả quyết: “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1 Cr 13, 13).
2. Mến Chúa, yêu người gắn liền với lòng bác ái và hy sinh
Như vậy, chúng ta đã nhận ra điều quan trọng trong toàn bộ Lề Luật, đó là lòng mến. Lòng mến này được thể hiện qua đức ái. Nếu không có đức ái, thì tình yêu của chúng ta sẽ chẳng khác gì một sự lừa bịp. Hay như trò “khua chiêng gõ mõ”.
Khi nói về vấn đề này, thánh Phaolô đã giải thích như sau: "Dầu tôi nói được các thứ tiếng loài người và thiên sứ [...] Dầu tôi được ơn nói tiên tri, cùng biết đủ các sự mầu nhiệm, và mọi sự hay biết; dầu tôi có cả đức tin đến nỗi dời núi được,[...] Dầu tôi phân phát gia tài để nuôi kẻ nghèo khó, lại bỏ thân mình để chịu đốt, song không có tình yêu thương, thì điều đó chẳng ích chi cho tôi" (x. 1 Cr 13,1-3).
Như vậy, đối với chúng ta, những người Công Giáo, dấu chỉ để nhận biết chúng ta có yêu Chúa thật lòng hay không lại phụ thuộc vào tình yêu của chúng ta dành cho tha nhân. Và để nhận biết được tình yêu đó lớn hay nhỏ lại phụ thuộc vào đức ái được đặt để trong tình yêu. Thật vậy: “Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” (x. 1Cr 13,7).
Khi yêu thương anh chị em mình cách chân thành, đấy là dấu chỉ chúng ta đang thuộc về Chúa, vì: "Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy" (1 Ga 4,16), còn nếu: "Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu" (1 Ga 4,8).
Nói cách khác, chúng ta biết yêu và có động lực để yêu là vì chúng ta được Thiên Chúa yêu thương trước: "Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta" (Rm 5,5).
Như vậy, ta cũng có thể hiểu tình yêu được khơi nguồn từ chính Thiên Chúa, và ai có được tình yêu với tha nhân thì đã hội ngộ cùng Thiên Chúa và đã ở trong Ngài.
3. Sống sứ điệp Lời Chúa
Cả cuộc đời của Đức Giêsu là hiện thân của một cuộc tình giữa Thiên Chúa và loài người. Cuộc tình đó, Đức Giêsu là người đi bước trước để đến với loài người. Tình yêu của Ngài là một tình yêu hướng tha.
Khi khai mở một cuộc tình như thế, Đức Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta hãy đi trên lộ trình của cuộc tình như Ngài là chấp nhận hy sinh, phục vụ và hiến thân vì người mình yêu. Bởi vì: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13).
Ngày nay, có rất nhiều người lầm tưởng và nghĩ rằng: muốn nên thánh thì phải làm được những chuyện lớn lao, vĩ đại, siêu quần bạt chúng; hay phải là một người đạo đức trổi vượt, ăn chay quanh năm suốt tháng, sáng lễ, chiều kinh, tối chầu; rồi luôn tham gia hết hội đoàn này đến hội đoàn kia; hoặc ở đâu có hành hương là đầu tư tiền bạc để đi cho kỳ được... Những việc làm này thật đáng ca ngợi, bởi vì một cách nào đó thể hiện sự anh hùng, trung thành, tin tưởng... Tuy nhiên, đây không phải là cốt lõi của Đạo, và đây cũng chưa hẳn là bản chất của sự thánh thiện...
Thật vậy, sự thánh thiện không hệ tại ở việc tuân giữ giới luật của Chúa bề ngoài. Bề ngoài thực sự chỉ có giá trị khi nó được thúc đẩy bởi lòng mến mà thôi. Nếu có lòng yêu mến Chúa và yêu thương anh chị em thực sự thì những việc ta làm ở trên mới có giá trị, bằng không nó sẽ vô nghĩa nếu không muốn nói là sẽ nguy hại cho linh hồn vì: chúng ta sẽ dễ rơi vào tình trạng như những người Biệt Phái, Luật Sĩ khi xưa là sống hình thức, giả hình bên ngoài.
Thiên Chúa sẽ không căn cứ vào chuyện ta làm được nhiều hay ít; đọc nhiều kinh; cầu nguyện lâu giờ cũng như đi hết nơi này nơi kia..., nhưng, Chúa sẽ dựa trên tình yêu ta đặt vào đó nhiều hay ít mà trọng thưởng chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu được rằng: mọi sự sẽ vô nghĩa nếu không có tình yêu. Xin Chúa ban cho chúng con luôn luôn lấy tình yêu làm căn cốt, để chúng con được ở trong tình yêu của Thiên Chúa. Amen.
76. Điều răn trọng nhất - JM. Lam Thy ĐVD.
Sau khi đám biệt phái Pha-ri-sêu gài bẫy Đức Giê-su về vụ “nộp thuế cho Xê-da” (CN.XXIX/TN-A) bị thất bại thê thảm, thì lại đến lượt đám Xa-đốc gài bẫy Người về vụ “Kẻ chết sông lại”. Đám Xa-đốc vốn không tin có sự sống lại, nên mới đưa ra trường hợp một người đàn bà liên tiếp sống với 7 đời chồng (là anh em ruột, cứ người anh chết đi thì lại lấy người em kế, cho đến khi cả 7 anh em đều chết hết). Sau đó người đàn bà cũng chết. Họ hỏi Đức Giê-su: “Vậy khi sống lại, thì bà ấy sẽ là vợ ai trong số 7 người chồng đó?” Thực tế, không thể và không hề có chuyện như vậy. Nhóm Xa-dốc phịa ra một câu chuyện không tưởng, mục đích chỉ để dồn Đức Giê-su vào thế bí, nhằm hạ nhục Người. Đức Giê-su đã giáng một đòn rất mạnh, khiến họ phải câm miệng: "Các ông lầm, vì không biết Kinh Thánh, cũng chẳng biết quyền năng Thiên Chúa. Quả thế, trong ngày sống lại, người ta chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời.” (Mt 22, 29-30).
Vì liên tiếp thất bại, nên “Khi nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, thì những người Pha-ri-sêu họp nhau lại.” (Mt 22, 34) tìm phương kế tiếp tục hành động ám muội của họ. Đó là đám người chuyên vỗ ngực tự cho mình là người thông luật và tự hào mình lúc nào cũng tuân thủ Lề Luật cách nghiêm chỉnh. Đáng tiếc là họ “nói mà không làm, bó những gánh nặng mà đặt lên vai người ta, còn chính họ lại không buồn động ngón tay vào”, và nhất là “họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy” (Mt 23, 3-5). Hơn thế nữa, họ vẫn cho rằng Đức Giê-su chống lại Lề Luật (cụ thể là luật Mô-sê), và họ đã liên tục đem Lề Luật ra gài bẫy Người (“các kinh sư và các người Pha-ri-sêu bắt đầu căm giận Người ra mặt, và vặn hỏi Người về nhiều chuyện, gài bẫy để xem có bắt được Người nói điều gì sai chăng.” – Lc 11, 53-54). Họ luôn tìm những chứng gian để có cớ xử án Người (“Còn các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng thì tìm chứng gian buộc tội Đức Giê-su để lên án tử hình” – Mt 26, 59).
Bài Tin Mừng hôm nay CN.XXX/TN-A – Mt 22, 34-40) trình thuật về vụ những “nhà thông luật” Pha-ri-sêu họp nhau lại bàn mưu tính kế, rồi đặt câu hỏi để thử xem Đức Giê-su có “thông luật” không? Họ hỏi: "Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?" Với bộ luật Mô-sê có tới 613 khoản (gồm 248 lệnh truyền và 365 điều cấm), nếu gặp phải tay mơ, thì “bí rị” là cái chắc; nhưng thật không ngờ Đức Giê-su trả lời một cách trơn tru: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy." (Mt 22, 36-40).
Mới thoạt nghe câu trả lời của Đức Giê-su (yêu Chúa và yêu người thân cận), ai cũng cho là hữu lý, vì nghĩ rằng Thiên Chúa là Cha thì yêu Người “hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn” là điều tất nhiên; còn người thân cận thì hẳn phải là những người máu mủ ruột thit (cha mẹ, anh chị em), yêu mến họ là phải đạo làm người. Nhưng chẳng lẽ Thiên Chúa yêu tất cả loài người, mà Người chỉ dạy yêu những người ruột thịt thôi sao? Thắc mắc này không được thánh Mat-thêu trình thuật, nhưng theo thánh Lu-ca thì đó cũng là thắc mắc của chính người đã hỏi Đức Giê-su về “Điều răn trọng nhất” (Lc 10, 29-37): Nhà thông luật “muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giê-su rằng: "Nhưng ai là người thân cận của tôi?" Chỉ đến khi nghe hết “Dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành” (Lc 10, 30-37), nhà thông luật mới vỡ lẽ để hiểu ra rằng “người thân cận” không chỉ bó hẹp trong phạm vi gia đình ruột thịt, mà là tất cả “những người ta gặp trên đường” hay nói rõ hơn, đó là “người trong bốn bể đều là anh em” (“tứ hải giai huynh đệ”), vì tất cả đều là con cái của Người Cha duy nhất trên trời: “Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng ta”.
Tới đây thì mọi sự đã rõ ràng: “Thiên Chúa dựng nên loài người giống hình ảnh Người” (St 1, 27) thì tất cả những tha nhân bên cạnh và chung quanh chúng ta chính là hiện thân cụ thể và gần gũi chúng ta nhất, bởi tất cả đều giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng vô hình, mà lại dựng nên con người giống hình ảnh Người, vậy phải hiểu vấn đề như thế nào cho ổn? Vấn nạn này cũng đã gây nhiều tranh cãi, mãi đến Công Đồng Va-ti-ca-nô II, vấn đề mới sáng tỏ: “Mầu nhiệm về con người chỉ thật sự được sáng tỏ trong Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Thật vậy, A-đam, con người đầu tiên, chính là hình ảnh của Đấng sẽ đến, là Chúa Ki-tô. Chúa Ki-tô, A-đam Mới, trong khi mạc khải về Chúa Cha và tình yêu của Người, cũng giúp con người hiểu biết đầy đủ về chính mình và nhận ra ơn gọi vô cùng cao quý của mình. Là "hình ảnh của Thiên Chúa vô hình" (Cl 1, 15), chính Người là con người hoàn hảo đã trả lại cho con cháu của A-đam hình ảnh Thiên Chúa đã bị tội nguyên tổ làm sai lệch.” (Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội “Gaudium et Spes”, số 22).
Vì thế, yêu những người ấy là yêu chính Thiên Chúa, và không yêu họ chính là không yêu Người. Do đó, thánh sử Gio-an mới nói: “Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em mình” (1Ga 4, 20-21). Đó cũng chính là nguyên cớ khiến thánh Phao-lô và Gia-cô-bê đã tóm lại toàn bộ lề luật vào một giới răn duy nhất: “Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật; Các điều răn đều tóm lại trong lời này: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Yêu thương là chu toàn Lề Luật.” (Rm 13, 8-10); “Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.” (Gl 5, 14); “Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là "Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gc 2, 8).
Chính Con Người không những đã dạy bảo mà còn thực hành điều đó trên Thánh giá. Khi chiêm ngắm Thánh giá thì cũng chính là lúc người tín hữu được trực diện với hình ảnh Thiên Chúa Tình Yêu Giê-su Ki-tô đang dang rộng hai tay mời gọi mọi người hãy trở nên đồng hình đồng dạng với Người. Một cách cụ thể, Người đang muốn nói với tất cả chúng ta: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” – Mt 22, 37-39). Cây Thánh giá hình chữ thập chính là biểu tượng cho hai điều răn quan trọng nhất ấy: Cây gỗ dọc là thân mình của mỗi Ki-tô hữu đang đứng thẳng vươn tới Thiên Chúa, thanh gỗ ngang là hai cánh tay dang rộng ôm lấy anh em trong yêu thương đùm bọc nhau. Nói khác đi, Đạo (con đường) Ki-tô chỉ có 2 chiều: chiều thẳng đứng chỉ sự công minh chính trực của Thiên Chúa là điều phải vươn tới và chiều nằm ngang chỉ tình cảm thương yêu đối với tha nhân là điều phải thực hiện trong cuộc sống.
Rõ ràng 2 điều răn đã liên kết chặt chẽ với nhau trở nên một điều răn quan trọng nhất: “Mến Chúa yêu người”, cũng như 2 thanh gỗ đóng hình chữ thập nhuộm đỏ máu Chúa Ki-tô đã trở nên một Biểu-Tượng-Tinh-Yêu được cả thế giới công nhận và tín phục: HỒNG THẬP TỰ. Vâng, quả thực là Đạo Công Giáo chỉ sống và thực hành duy nhất một điều răn bao trùm lên tất cả: MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI. Muốn “mến Chúa” thì tiên vàn phải biết “yêu người” (“đói cho ăn, khát cho uống, rách cho mặc, tiếp rước khi là khách lạ, viếng thăm khi bị cầm tù…”), vì chỉ có “yêu người” mới thực là “mến Chúa”, bởi "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" (Mt 25, 40).
Không cần phải nói ở đâu xa, cứ xem ngay từ hồi những hạt giống Tin Mừng đầu tiên được gieo trên mảnh đất chữ S này, những anh em không cùng tín ngưỡng, kể cả những người không tín ngưỡng (vô thần) đều gọi Ki-tô Giáo là Đạo Yêu Thương, Đạo Bác Ái. Ngày nay, chúng ta hãnh dịên vì điều đó, thì lại càng phải làm sao cho điều đó trường tồn và phát triển đến thiên thu vạn đại. Muốn được như vậy, hẳn nhiên là phải thực sự trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, cũng tức là phải làm thế nào cho mình trở nên một THẬP-TỰ-GIÊSU giữa đời. Viết tới đây, kẻ viết bài này bỗng liên tưởng tới một sự kiện cũng xảy ra tại Việt Nam vào cuối thập kỷ 80 thế kỷ XX: Đó là câu chuyện bộ phim “Chuyện Tử Tế” của nhà đạo diễn Trần Văn Thủy đã gây chấn động dư luận trong nước và cả thế giới.
Bộ phim được sản xuất và hoàn tất năm 1985, nhưng bị cấm phát hành, mãi đến năm 1987 mới được công chiếu. Bộ phim đã khắc họa hình ảnh của những người dân nghèo khổ dưới chế độ bao cấp của xã hội VN, để từ đó tìm ra lời giải đáp cho câu hỏi: "Thế nào là sự tử tế?" Tác phẩm sau đó đã giành giải Bồ Câu bạc tại Liên hoan phim Quốc tế Leipzig, được nhiều đài truyền hình mua bản quyền để phát lại. Khi phim “Chuyện Tử Tế” được trình chiếu trong liên hoan phim Đại Dương (Pháp), một phóng viên đã hỏi: “Người Ki-tô hữu Việt Nam có thể làm gì cho dân tộc mình?” Đạo diễn Trần Văn Thủy đã trả lời: “Với tôi, điều người ta mong đợi ở các Ki-tô hữu là niềm tin của họ và cách họ sống điều họ tin”. Chính điều này cho thấy tin Đạo là một chuyện, nhưng còn phải biến niềm tin ấy thành hành động sống Đạo giữa đời, đem đến cho đời những điều tốt lành của Đạo, hay nói cách khác là sống tốt Đạo đẹp đời. Chỉ có như thế mới xứng đáng với “Hình ảnh và danh hiệu của Thiên Chúa” ở ngay chính con người của mình: Ki-tô hữu.
Là Ki-tô hữu, tức là một Thập-tự-Kitô, phải chăng là đang thi hành sứ mệnh "Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em" (Mt 28, 19-20)? Câu trả lời thật hiển nhiên: “Vì sứ mệnh này tiếp diễn, và qua dòng lịch sử làm sáng tỏ sứ mệnh của chính Chúa Ki-tô, Ðấng đã được sai đến rao giảng Phúc Âm cho người nghèo khó, nên Giáo Hội được Thánh Thần Chúa Ki-tô thúc đẩy, cũng phải tiến bước trên chính con đường mà Chúa Ki-tô đã đi, là nghèo khó, vâng lời, phục vụ và tự hiến thân cho đến chết, để rồi toàn thắng nhờ sự sống lại của Người. Chính các Tông Ðồ trong niềm hy vọng cũng đã bước đi trên đường lối đó, đã chịu nhiều nghịch cảnh và đau khổ để hoàn tất những gì còn thiếu sót trong cuộc khổ nạn Chúa Ki-tô đã chịu vì thân thể Người là Giáo Hội. Nhiều khi máu các Ki-tô hữu còn là hạt giống nữa.” (SL Truyền Giáo “Ad Gentes”, số 5).
“Máu các Ki-tô hữu còn là hạt giống nữa” ư? Vậy thì máu Ki-tô hữu đổ ra nhuộm đỏ thân mình trở thành một Hồng-Thập-Tự-Kitô, há chẳng phải là ”hat giống Tin Mừng” đó sao? Chính những hạt giống Tin Mừng ấy sẽ trưởng thành và đơm bông kết trái trên cánh đồng TRUYỀN GIÁO vậy. Ôi! Lạy Chúa, xin soi sáng và thêm sức cho con nên một cành nho trổ sinh nhiều hoa trái, để con thực sự trở thành một HỒNG-THẬP-TỰ-KITÔ-HỮU giữa đời thường. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.
77. Luật của sự sống - P. Trần Đình Phan Tiến
Kinh thưa quý vị! Thiên Chúa là nguồn sống, nguồn sống vĩnh cửu, đích thực và duy nhất. Vì sự sống từ nơi Thiên Chúa phát xuất ra, chứ sự sống không do bởi con người. Vì thế, nguồn sống vĩnh hằng nơi Thiên Chúa là điều quan trọng nhất. Chủ đề Lời Chúa hôm nay, Chúa Nhật XXX TN (A), tuy không dài, nhưng thật quan trọng, thật cao siêu. Vì đây là tận cùng là mấu chốt của vấn đề Đức Tin Kitô giáo.
Vâng, tại sao vậy, thưa quý vị? Thưa, bởi vì, tất cả, chung quy, mọi sự rồi phải đến cùng đích đó là: “SỰ SỐNG VIÊN MÃN”. Từ đó, việc giữ đạo mới thật sự có giá trị.
Tại sao chúng ta nói: Thiên Chúa là tình yêu, vâng, quả thật là như thế. Bởi vì, Thiên Chúa là sự sống, là nguồn sống. Nếu như, Thiên Chúa không là tình yêu, thì tất không có sự sống. Chúng ta thấy, tại sao có ma quỷ? Bởi vì, nơi nó không có sự sống. Nó ghen ghét, nó có hận thù, nó là cho chết, tìm cách hãm hại. Thì chúng ta gọi đó là ma quỷ. Tại sao gọi là ma quỷ? Thưa, quỷ là kẻ đầu nêu, là kẻ gieo mầm sự chết. Tức satan, có nghĩa là kẻ phản nghịch, kẻ chống lại Thiên Chúa. Còn, ma là linh hồn người ta bị quỷ cám dỗ theo nó. Cho dù, linh hồn con người phạm tội chống lại Thiên Chúa, hay là quỷ đi nữa, thì Thiên Chúa cũng không tiêu diệt quỷ hay linh hồn đó. Bởi vì Nguồn sống bắt đầu từ Thiên Chúa, Đấng Tạo dựng. Thiên Chúa chỉ tạo dựng một lần và mãi mãi, không tạo dựng hai lần. Đó là nguyên lý nguồn sống từ Thiên Chúa, hay nói cách khác, ngoài Thiên Chúa thì không có nguồn sống. Từ chân lý nầy, chúng ta suy ra, sự sống của linh hồn và sự sống của thân xác. Sự sống của linh hồn tuy siêu nhiên, nhưng bất tử, vĩnh cửu, đời đời. Chúng ta không nhìn thấy sự sống của linh hồn bằng con mắt thể xác. Nhưng chúng ta có thể nhìn thấy sự sống của linh hồn qua con mắt đức tin. Bởi vì, điều gì nhìn thấy qua con mắt thể xác, thì điều ấy sẽ giới hạn. Vì vậy, qua sự sống hữu hạn, chúng ta được nhìn thấy sự sống vô hạn, đó là sự sống của linh hồn. Dù tin hay không, thì đây là chân lý.
Từ sự sống thể xác, chúng ta suy về sự sống của linh hồn, từ đó, chúng ta cần tìm kiếm và tôn thờ Thiên Chúa, Đấng là nguồn của sự sống vĩnh cửu và hữu hạn.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy luật của sự sống. Vâng, luật của sự sống đó là “YÊU THƯƠNG “. Vì tình yêu gắn liền với sự sống, cả nghĩa đen lẫn nghĩa siêu nhiên. Chúng ta tôn thờ Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta, hơn là quyền năng của Thiên Chúa. Vì quyền năng của Thiên Chúa làm cho chúng ta xúc phạm, còn tình yêu thương của Thiên Chúa, thì làm cho chúng ta được sống. Vâng, Thiên Chúa đã tỏ hiện tình yêu của Ngài qua Con Một- là Đức Giêsu –Kitô. Vì nếu chúng ta không đặt tình yêu Thiên Chúa lên trên tất cả, thì chúng ta không thể có sự sống vĩnh cửu được. Vì sự sống vĩnh cửu chỉ có ở một nơi duy nhất đó là Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta không thể vừa tôn thờ Thiên Chúa là tình yêu, mà chúng ta lại không trao ban tình yêu cho tha nhân. Trong đoạn Tin Mừng (Mt 22, 39 b) hôm nay, gọi là “người thân cận “: Người thân cận có nghĩa là: Cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh chị em, hàng xóm,tất cả những người chúng ta gặp hằng ngày, nơi công xưởng, đồng nghiệp, học đường, ngoài chợ, bạn hàng. Tóm lại là tất cả mọi người chúng ta gặp từ người thường xuyên gặp đến những người ít găp, mới gặp. Trong cộng đoàn dòng tu, anh em cùng dòng, bề trên, bạn hữu, tất cả những anh chị em khác dòng, những người giúp việc, tất cả mọi người chúng ta gặp trên đường đi. Cụ thể như trường hợp các thánh. Các thánh tu trì không sống trong môi trường gia đình theo huyết thống, nhưng trong một môi trường gia đình thiêng liêng. Các thánh sống trong bậc gia đình, thì chu toàn bổn phận vì yêu thương gia đình đúng cách. Yêu như chính bản thân mình, là biết “hy sinh” cho người thân cận.
Chúa Giêsu day cho chúng ta biết yêu thương tha nhân như chính mình, là dạy cho chúng ta biết yêu thương đúng cách. Để chu toàn luật yêu mến Thiên Chúa trên tất cả mọi sự. Hai điều nầy không mâu thuẫn với nhau, nên, gọi là một điều răn. Vì ai yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, thì tất không có lòng thù ghét người thân cận. Người thân cận, rất nhiều khi làm mất lòng chúng ta, làm cho chúng ta thiệt thòi về những điều cố tình hoặc vô ý. Chúng ta rất khó chịu, đó là sự sống thân xác. Nhưng, chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, thì đó là sự sống linh hồn, sự sống siêu nhiên. Theo đó, yêu mến và tôn thờ Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu thương người thận cận như chính mình, chính là một con người có thân xác và có linh hồn, như thế mới gọi là một con người sống có sự sống. Như vậy, gọi là “LUẬT CỦA SỰ SỐNG”. Vì nếu, chúng ta chỉ yêu mến và tôn thờ Thiên Chúa không thôi, thì chưa đúng như Lời Chúa dạy. Còn ngược lại, nếu chúng ta chỉ yêu người thân cận không thôi, thì làm sao chúng ta có sự sống đích thực là Thiên Chúa. Khi thân xác hữu hạn qua đi, chúng ta làm sao có sự sống vĩnh cửu là Thiên Chúa được. Vậy, chúng ta phải tìm lấy sự sống vĩnh cửu, để chu toàn sự sống hữu hạn nơi thân xác là yêu người thân cận như chính mình. Vì như thánh Phao-lô nói: “Yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 13, 8). Như vậy, cũng có thể gọi là “LUẬT CỦA SỰ SỐNG “. Khi chúng ta giết người, thì chắn chắc luật xã hội sẽ trừng trị chúng ta. Nhưng khi, chúng ta hận người trong lòng, thì luật tình yêu thương của Thiên Chúa sẽ lên án chúng ta. (vì luật xã hội không làm gì được chúng ta)
Tình yêu chính là sức mạnh, là động lực sống cho con người. Muốn làm được tất cả, trước tiên phải có tình yêu. Không phải chỉ có tình yêu đôi lứa, nam nữ giữa con người mà thôi. Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa, bởi vì: THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU. Tình yêu gắn kết đôi nam nữ và làm cho họ trở nên vợ chồng, như vậy hôn nhân cần có tình yêu. Nhưng, tình yêu của hôn nhân cần có tình dục để chu toàn trọn vẹn tình yêu. Hôn nhân gia đình, nếu thiếu hoặc mất đi hương vị của tình yêu, thì không còn hôn nhân nữa.
Nhưng tình yêu nơi Thiên Chúa là tình bạn hữu muôn đời không thay đổi, vì đó là sự sống thần linh. Chúa Giêsu nói: “ Thầy không gọi anh em là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì điều gì Thầy nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho anh em biết.” (Ga 15, 15).(Lc 12, 4)
Theo đó, Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một sự khôn ngoan đích thực hầu bảo đảm cho chúng ta một sự sống đời đời. Như thế, không phải là “luật của sự sống” hay sao? Lời Chúa cho chúng ta biết sống, sống đúng cách, và sống đời đời.
Thánh Vịnh 17 hôm nay khái dài, cho chúng ta biết:” Bài ca cảm tạ “ Thiên Chúa: Chúa là dũng lực. là thành lũy chở che con. Muôn đời con cảm tạ ơn Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy cho chúng con một điều răn quan trọng nhất, đó là luật mến Chúa trên hết mọi sự, và yêu thường người thân cân như chính mình con. Xin thương ban cho chúng con biết thực thi Lời dạy của Chúa để chúng con nhận được sự sống đích thực từ nơi Chúa là nguồn sống, vì đó chính là đích điểm của chúng con. Amen.
78. Đạo Yêu - vị tha hay vị kỷ
(Suy niệm của Lm. JP. Vũ Minh)
Phúc Âm Nhất Lãm có viết về Điều Răn Trọng Nhất (Mt 22:34-40; Mc 12:28-34; Lc 10:25-28) và bài Phúc Âm của chủ nhật này theo Thánh Mátthêu đã dựa vào bối cảnh của Phúc Âm theo Thánh Mátcô để diễn tả rằng Chúa Giêsu phải đối phó nhiều với các thượng tế, luật sĩ và người Pharisêu vì sau khi Ngài được đón rước vào Thành Thánh Giêrusalem một cách long trọng như một Vị Cứu Tinh nhưng những kẻ ghét Ngài đã quá thiển cận và mù quáng nên họ vẫn cứ gài bẫy, phản kháng và thách đố Chúa Giêsu để họ có thể tìm cách giết Ngài, và những cuộc đối chất này sẽ đưa đến hậu quả tối hậu là Ngài sẽ phải chết.
Trong phần đối chất theo bài Phúc Âm của chủ nhật này, một luật sĩ đã thử Chúa Giêsu với một câu hỏi rất thông thường trong Đạo Do Thái về lời Kinh Shema (như là Kinh Tin Kính) mà người Do Thái phải đọc mỗi ngày -- “Nghe đây, hỡi Ítsraen; ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất, hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em” (NL 6:4-5) -- để xét Ngài sẽ đáp lại thế nào về giới răn trọng đại nhất. Phúc Âm Thánh Mátthêu đã bầy tỏ rằng Chúa Giêsu đã biết ác ý của họ (Mt 22:18) nên Ngài đã dùng dịp này để đáp lại với một câu trả lời thật sâu xa: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai - cũng giống điều răn ấy - là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môisê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy” (Mt 22:37-40); rồi những người muốn tranh luận với Ngài đã phải câm miệng và rút lui.
Câu trả lời tinh tế này cũng là một lời cảnh tỉnh cho cả chúng ta nên ta hãy bàn thêm về câu nói này của Chúa Giêsu:
Yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn là một lẽ đương nhiên của những ai tin vào Thiên Chúa! Nhưng lời kinh này không phải chỉ được đọc suông như con vẹt vì người đọc lời kinh này phải chứng tỏ lòng tin đó qua cuộc sống của họ. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu lại nói thêm vào lời kinh đó với câu nói: “Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ‘Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môisê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy’.” “Yêu người thân cận như chính mình” là bằng chứng cụ thể của người yêu Thiên Chúa một cách đích thực!
“Yêu người thân cận như chính mình” ám chỉ rằng lòng yêu người phải được nhấn mạnh về tình thương tha nhân trước hết... khi ta thấy nỗi đau của người khác chính là nỗi đau của mình và tìm mọi cách để đáp ứng thì mới chứng tỏ được tình yêu tha nhân của mình có tính cách vị tha; thay vì tình yêu theo tính vị kỷ của con người vì họ chỉ nghĩ đến mình trước khi nghĩ đến người khác. Ta hãy xét lại về tình thương của ta với Thiên Chúa hay tha nhân để xem tình thương của ta có tính cách vị tha hay vị kỷ. Đây chính là Đạo Yêu đích thực mà Chúa Giêsu muốn ở nơi ta!
24/10 Nếu không ăn năn hối cải, thì…
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Nếu không ăn năn hối cải, thì…
Thứ Bảy tuần 29 thường niên.
"Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy".
Lời Chúa: Lc 13, 1-9
Khi ấy, có những kẻ thuật lại cho Chúa Giêsu về việc quan Philatô giết mấy người Galilê, làm cho máu họ hoà lẫn với máu các vật họ tế sinh. Người lên tiếng bảo: "Các ngươi tưởng rằng mấy người xứ Galilê đó bị ngược đãi như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác ở xứ Galilê ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy.
Cũng như mười tám người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết, các ngươi tưởng họ tội lỗi hơn những người khác ở Giêrusalem ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế; nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy".
Người còn nói với họ dụ ngôn này: "Có người trồng một cây vả trong vườn nho mình. Ông đến tìm quả ở cây đó mà không thấy, ông liền bảo người làm vườn rằng: Kìa, đã ba năm nay ta đến tìm quả cây vả này mà không thấy có. Anh hãy chặt nó đi, còn để nó choán đất làm gì!" Nhưng anh ta đáp rằng: "Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân: may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Tìm trái mà không thấy
Suy niệm:
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cảnh báo hai lần (cc. 3, 5).
“Nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy.”
Đức Giêsu đi từ những chuyện đau thương chết chóc
của một số người ở Galilê và Giêrusalem,
để nhắc nhở người nghe ra khỏi sự tự mãn của mình mà sám hối.
Dụ ngôn cây vả sẽ cho thấy thế nào là sám hối theo cái nhìn của Ngài.
Đơn giản sám hối là sinh trái.
Trái là điều ông chủ có ý nhắm đến khi trồng cây vả giữa vườn nho.
Ông không trồng vả để lấy củi hay bóng mát.
Cây vả có chỗ trong khu vườn và cũng có chỗ trong tâm trí ông.
Ông có một người làm vườn.
Hẳn người này đã hết sức chăm bón cho cây vả để nó sinh trái.
Ba năm trôi qua, cứ đến mùa vả, ông chủ lại đến, tìm trái và không thấy.
Những hành vi này được lặp lại như một điệp khúc mỗi năm (cc. 6-7).
Ông chủ đi từ hy vọng đến thất vọng.
Cái háo hức khi lần đầu đến cây tìm trái chẳng còn.
Ông đã kiên nhẫn, đã chờ, không phải một năm, mà ba năm.
“Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất” (c. 7).
Rõ ràng quyết định này không do sự tàn ác hay nóng nảy.
Chặt đi khi chẳng còn gì để hy vọng, khi chờ đợi đã mỏi mòn.
Cây vả đã lấy màu mỡ của đất trồng nho, mà không sinh trái.
Nó không đáp ứng ước mơ tự nhiên của ông chủ,
người đã cho nó hiện hữu ở trong khu vườn này.
“Xin cứ để cho nó lại năm nay nữa” (c. 8).
Lời xin của người làm vườn, người đã chăm sóc cây vả từ nhiều năm.
Người ấy xin cho cây vả một cơ hội,
cơ hội duy nhất và cuối cùng để tránh cái chết chắc chắn.
“Tôi sẽ vun xới, bón phân. May ra sang năm nó có trái…”
Cây vả cằn cỗi vẫn còn được hy vọng, còn được chăm sóc.
Không thấy ông chủ phản đối, chắc ông đồng ý chờ thêm một năm.
Cả ông chủ cũng nuôi lại niềm hy vọng.
Cuối cùng cây vả cằn cỗi này có ra trái không, có bị chặt không?
Dụ ngôn không cho ta câu trả lời.
Vì câu trả lời nằm ở chính tôi.
Tôi chính là cây vả ấy.
Tôi đã được trồng, được yêu, được hy vọng, được chờ, được chăm bón.
Bao điều lớn nhỏ Chúa làm cho đời tôi từ trước đến nay.
Hoa trái của cây vả đời tôi có tương xứng với những gì Chúa ban không?
Tôi suy nghĩ về sự kiên nhẫn của Chúa và cả sự thất vọng của Ngài nữa.
Chúa vẫn muốn cho tôi tiếp tục sống trên đời.
Mỗi ngày sống là quà tặng của lòng thương xót.
Còn sống là còn cơ hội để sinh trái, để bày tỏ lòng sám hối ăn năn.
Dù sao câu kết của người làm vườn tốt bụng vẫn là một đe dọa.
“Nếu không ông cứ chặt nó đi!” (c. 9).
Cầu nguyện:
Như thánh Phaolô trên đường về Đamát,
xin cho con trở nên mù lòa
vì ánh sáng chói chang của Chúa,
để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt.
Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa,
ánh sáng phá tan bóng tối trong con
và đòi buộc con phải hoán cải.
Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối
chỉ vì chút tự ái cỏn con.
Xin cho con khiêm tốn
để đón nhận những tia sáng nhỏ
mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày.
Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý
để Chân lý cho con được tự do.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: SÁM HỐI
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Con người thường sống theo xác thịt. Phán đoán theo xác thịt. Gắn bó với xác thịt. Vì thế khi xác thịt phải chết thì lấy làm đau xót. Và cho đó là hình phạt do phạm tội. Nhưng Chúa Giê-su cho biết cái chết thân xác là bình thường. Ai cũng đều phải chết. Có thể do thiên tai. Hoặc do bất cẩn. Nhưng cái chết của linh hồn mới đáng sợ. Đó là cái chết đời đời. Và do tội lỗi. Chính vì thế cái chết thân xác nhắc nhở mọi người đều phải sám hối. Thay đổi đời sống. Đó là điều cấp bách. “Nếu các ông không sám hỗi, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy”. Như cây vả phải sinh hoa kết quả. Chúa kiên nhẫn chờ đợi. Và tạo cơ hội cho con người sám hối. Tuy nhiên thời gian cũng có hạn. Nếu không sám hối chắc chắn sẽ phải chết phần linh hồn.
Chúa Giê-su đã chịu chết trong thân xác để ta được sống trong Thần Khí. Sám hối là từ bỏ nếp sống theo xác thịt. Để sống theo Thần Khí. Được Thần Khí hướng dẫn. Sẽ tới sự sống và bình an. Sống trong Chúa Ki-tô sẽ có Thần Khí của Người. Và Thần Khí đã làm cho Người từ cõi chết sống lại cũng sẽ làm cho thân xác của ta có sự sống mới. “Nếu Đức Ki-tô ở trong anh em, thì dẫu thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em được sống, vì anh em đã được trở nên công chính” (năm lẻ).
Cuộc sống mới trong Chúa Ki-tô làm ta nên viên mãn. Chúa đã xuống thẳm sâu để rồi vươn lên đến tuyệt đỉnh. Người mang theo chúng ta là chi thể của Người. Đầu tiến đến đâu chi thể tiến đến đấy. Và chúng ta sẽ “đạt tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Ki-tô”. Khi đó ta không còn bị xác thịt chi phối. Không còn ngây thơ bị các lý thuyết sai lạc mê hoặc. Ta sẽ “sống theo sự thật và trong tình bác ái, chúng ta sẽ lớn lên về mọi phương diện, vươn tới Đức Ki-tô vì Người là Đầu” (năm chẵn).
Hãy mau chóng sám hối. Từ bỏ con người xác thịt. Sống trong Chúa Ki-tô. Để ta được Thần Khí của Chúa. Sẽ có sự sống. Sẽ viên mãn.
Suy Niệm 3: Thay Ðổi Cái Nhìn
Cùng một biến cố, nhưng người ta có thể nhìn dưới nhiều góc cạnh khác nhau. Bệnh AIDS (SIDA) chẳng hạn, các nhà Y học coi đó như một thách đố cho việc tìm tòi, một số kỹ nghệ gia coi đó là dịp để tung ra các sản phẩm phòng ngừa, các nhà đạo đức thì coi đó như là chiếc roi của Thiên Chúa trừng phạt nhân loại, còn người có đức tin thực sự lại nhận ra ở đó khởi điểm của tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.
Chúa Giêsu đã nhắc đến phản ứng rất thông thường của người Do thái và có lẽ cũng là của nhiều Kitô hữu, đó là qui trách cho Thiên Chúa mọi sự trừng phạt. Khi Philatô ra lệnh xử tử một số người Galilê nổi loạn, thì người Do thái cho rằng những người này đáng bị trừng phạt vì là những kẻ tội lỗi. Khi tháp Silôê đổ xuống làm một số người chết, người ta cũng bảo là họ bị Chúa phạt.
"Chúa phạt", đó có thể là phản ứng của chúng ta khi đứng trước một tai họa cho người khác. Chúng ta vừa gán cho Chúa một hình ảnh không mấy đúng đắn về công bình, vừa vô tình kết án người khác mà quên đi thân phận yếu hèn của mình.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta nhìn vào các biến cố với niềm tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa. Dù con người tội lỗi đến đâu, Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương, tha thứ cho họ. Ý thức về tình yêu ấy, con người cũng được mời gọi hoán cải. Càng nhận ra tình yêu Thiên Chúa, càng ý thức về thân phận yếu hèn của mình và càng phải cảm thông và yêu thương người khác nhiều hơn. Sám hối trước tiên phải là sám hối trong cái nhìn về Thiên Chúa nhân từ, đồng thời thay đổi cái nhìn đối với người khác.
Ước gì hoa trái của yêu thương, phó thác, tha thứ trổ bông trong tâm hồn và tràn ngập trong ánh mắt chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Dấu Chỉ Của Thời Ðại
Trong bài Phúc Âm của ngày hôm qua chúng ta đã nghe Chúa Giêsu dạy về việc phải biết nhìn xem những dấu chỉ của thời đại, biết phân định những biến cố xảy ra theo ánh sáng của Lời Chúa. Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy một thí dụ cụ thể là Chúa Giêsu đã đọc dấu chỉ của thời đại, tức là hai biến cố đau thương vừa xảy ra: quan tổng trấn Philatô đã giết chết một số người Galilê nơi đền thờ; và tháp Silôê sập đè chết mười tám người. Chúa Giêsu đã thuật lại hai biến cố này trước: "Các ông tưởng mấy người Galilê đó tội lỗi hơn hết những người Galilê khác bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy sao? Tôi nói cho các ông biết, không phải thế đâu, nhưng nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy. Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôê đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao? Tôi nói cho các ông biết, không phải thế đâu, nhưng nếu các ông không chịu sám hối thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy".
Tai họa là điều tiêu cực xảy ra, không phải là hình phạt của một vị Thiên Chúa muốn trả thù vì tội lỗi của con người và những anh chị em nạn nhân, không phải là những kẻ xấu tệ, đáng khinh. Những biến cố xảy ra là những dịp kêu gọi con người trở lại cùng Thiên Chúa. Dụ ngôn về cây vả không có trái cũng vậy.
Dụ ngôn mời gọi người nghe hãy ăn năn hối cải và thực hiện đền bù trổ sinh hoa trái tốt và thôi không lạm dụng lòng nhân từ của Thiên Chúa nữa. Mỗi tín hữu đều được mời gọi sống đức tin bằng những việc tốt lành của đức bác ái, một đức tin sống động mới xác tín cá nhân để thực hiện những công việc làm của kẻ yêu mến Thiên Chúa và anh chị em.
Trước nhan Thiên Chúa không có những phân biệt đối xử, những kỳ thị cho người này cao trọng hơn người kia. Chúng ta tự nhiên thường hay có thái độ khinh thị anh chị em và kiêu ngạo cho mình tốt lành hơn cả. Chúng ta cần thay đổi tâm thức để mặc lấy những tâm tình của Chúa, hành xử như Chúa đã nêu gương. Chúng ta hãy biến đổi con tim mình để nó đừng ích kỷ, đừng khinh dễ anh chị em, đừng xét đoán hạ thấp anh chị em, nhưng ngược lại biết mở rộng trong sự vị tha, tình huynh đệ, sự hòa hợp, tình thương, lòng nhân từ, niềm vui, sự bình an, lòng quảng đại và hy vọng. Thay đổi chính tâm hồn mình là một điều khó, một tiến trình liên lỉ, dài hạn, đòi hỏi hy sinh và can đảm cộng tác với ơn Chúa. Ðừng an ủi mình, đừng trấn an lương tâm mình bằng việc phân tích phê bình những sơ sót của anh chị em, dường như thể chúng ta tốt lành hơn: "Nếu các con không sám hối, thì các con cũng sẽ chết giống như vậy".
Lạy Chúa.
Chúng con cảm tạ Chúa vì đã luôn thức tỉnh chúng con, mời gọi chúng con sám hối, canh tân. Chúng con muốn vượt ra khỏi những vòng nô lệ của tật xấu và tội lỗi. Xin thương ban ơn thánh Chúa, thanh luyện giúp chúng con trở thành những con người mới, sống theo mẫu gương của Chúa, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong mọi hoàn cảnh.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Nhận Định Về Những Tai Họa
Đức Giêsu đáp lại rằng: “Các ông tưởng mấy người Galilê đó tội lỗi hơn mấy người Galilê khác bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy sao? Tôi nói cho các ông biết: Không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy.” (Lc. 13, 2-3)
Đức Giêsu đã nói với đám dân chúng về những dấu chỉ thời đại để kêu gọi họ sám hối, kẻo quá trễ. Ngày phán xét đến bất ngờ. Phải gấp lợi dụng thời giờ hiện tại này. Ai từ chối sẽ bị cắt bỏ như cỏ dại bị ném vào lửa.
Tin Ít-ra-en
Nhiều người kể lại tin vừa xảy ra: “Ngài đã nghe tin về vụ Phi-la-tô làm ô uế đền thờ không? Tin gì? Ông ta đã thọc tiết nhiều người xứ Galilê đang dâng tế vật mừng lễ vượt qua và đã lấy máu họ hòa lẫn với máu sinh tế! Chao ôi! Tội phạm thánh. Nhưng chính Gia-vê đã liệng bỏ các tế vật đó. Trời ơi, việc đó đã không xảy ra cho những người công chính như chúng ta!”
Đức Giêsu luôn sẵn sàng dùng những sự kiện khác nhau để dạy dỗ họ biết từ bỏ cái quan niệm hẹp hòi như thế. Nhưng Người không chối có sự tương quan giữa tội lỗi và hình phạt. Hình phạt không chỉ do sự tàn ác của loài người mà còn do những tai họa tự nhiên, như tháp Si-lô-ê đổ xuống đè chết mười tám người. Phải chăng Thiên Chúa dùng những sự kiện đó khiến cho con người phải suy nghĩ. Những sự kiện này chỉ cho thấy Đức Giêsu có lý khi nói về ngày phán xét xảy ra chính lúc chúng ta không ngờ. Chúng ta đều có tội và sẽ bị hủy diệt cùng cách đó nếu chúng ta không ăn năn trở lại.
Những kẻ vô ích bị chặt bỏ:
Đức Giêsu cũng dùng lịch sử dân tộc để chứng tỏ về điểm này. Đó là ba năm nữa chờ cho cây vả sinh trái. Thế mà sau ba năm tưới bón chờ đợi, chủ ra hái trái, nó vẫn không sinh trái. Thứ cây đó quá cứng lòng, quá khô cằn, nó chỉ lo ăn uống và sinh cành lá rườm rà dưới ánh nắng ấm áp để nó bay phất phới nhởn nhơ thoải mái! Nó kéo lê cuộc sống vô ích đối với nước trời, và thà rằng chặt bỏ nó đi còn hơn.
Lịch sử cứu độ tới ngày kết thúc. Đức Giêsu đã đến dâng cho nhân loại một kỳ hạn chót. Nhờ lời Người giảng dạy và sự mạc khải tình yêu Thiên Chúa giúp ta dễ dàng ăn năn sám hối để sinh hoa trái tốt lành bằng cải thiện đời sống và làm việc lành phúc đức. Chúng ta có cố gắng lợi dụng tốt thời giờ mà Thiên Chúa ban cho chúng ta không?
RC
Suy Niệm 6: NẾU KHÔNG SÁM HỐI, SẼ CHẾT Y NHƯ VẬY! (Lc 13,1-9)
Xem lại CN 3 MC
Đứng trước một hiện tượng xảy ra trong cuộc sống, hẳn chúng ta thấy có rất nhiều cách nghĩ từ những cái nhìn khác nhau.
Ví dụ như căn bệnh thế kỷ Sida chẳng hạn:
Có người thì dè bửu và cho rằng đây là do ăn chơi trác táng nên mới bị. Có người thì cho rằng do tội lỗi nên bị Chúa phạt. Lại có người rất cảm thông, luôn tìm cách nâng đỡ, đồng hành, hầu giúp cho người bệnh vượt qua đau khổ về tinh thần và thể xác. Hay ngang qua căn bệnh đó, cũng có những người nhận ra dấu chỉ Thiên Chúa cảnh tỉnh nhân loại về sự kiêu ngạo...
Tin Mừng hôm nay thuật lại việc những người Do thái khi chứng kiến cảnh những người Galilê bị Philatô giết, làm cho máu họ hoà lẫn với máu các vật họ tế sinh, hay như mười tám người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết. Khi chứng kiến như thế, họ cho rằng những người này do tội lỗi ngập đầu nên bị Chúa phạt chết cách bất đắc kỳ tử như vậy.
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã dạy cho họ bài học sám hối qua các sự kiện đó, vì: nếu không lo sám hối, cải tà quy chính thì họ cũng sẽ chết và bị hủy diệt y như vậy.
Trong đời sống đạo, rất nhiều lần chúng ta có thái độ khinh miệt những người tội lỗi. Có khi sẵn sàng gán cho những người ốm đau bệnh tật, hay gặp những cảnh éo le trong cuộc sống là do Chúa phạt vì những tội lỗi của họ gây nên. Điều này cũng có thể đúng, vì Chúa có thể dùng cách thức đó để lay tỉnh lương tâm của họ để họ cải tà quy chính mà được cứu độ. Tuy nhiên, phần chúng ta, chúng ta đừng dành quyền xét đoán đó của Thiên Chúa.
Tưởng cũng nên nói thêm: mỗi khi chúng ta coi thường người khác, ấy là lúc chúng ta tự coi mình tốt lành, đạo đức hơn người ta. Nhưng thực ra, có thật thế hay không, hay chỉ là thói đạo đức giả như những người Pharisêu khi xưa?
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết yêu thương anh chị em mình, nhất là những người tội lỗi, như Chúa đã từng yêu thương và hiến mình vì chúng ta. Đồng thời nhận ra rằng: nếu Chúa không để cho mình có thời gian sám hối, hầu quay trở về với Thiên Chúa và làm hòa với anh chị em thì mình cũng đâu khác gì người anh chị em kia...
Sự kiên trì trong yêu thương của Thiên Chúa phải làm cho chúng ta nhận ra mình bất toàn, yếu đuối. Vì thế, ngay lúc này, phải lo sám hối để trở nên con cái Chúa thực sự. Khi nhận ra điều đó, chúng ta nên có cái nhìn cứu độ của Đức Giêsu, đến để cứu những gì đã mất. Ngài luôn yêu thương những người tội lỗi cách đặc biệt. Dụ ngôn đồng bạc đánh mất; hay dụ ngôn người Cha nhân hậu; hoặc con chiên thất lạc cho thấy bản chất của Thiên Chúa là tình yêu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con nhận ra tình thương của Chúa trên chúng con. Đồng thời nhận ra sự kiên trì chờ đợi của Chúa khi mong mỏi chúng con sám hối trở về. Xin Chúa cũng cho chúng con luôn có cái nhìn cảm thông với anh chị em chúng con như Chúa đã từng cảm thông và yêu thương chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
23/10 23/10 Dấu Chỉ Của Thời Ðại
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Dấu Chỉ Của Thời Ðại.
Thứ Sáu tuần 29 thường niên.
"Các ngươi biết tìm hiểu diện mạo trời đất? Còn về thời đại này, sao các ngươi không tìm hiểu?"
Lời Chúa: Lc 12, 54-59
Khi ấy, Chúa Giêsu phán bảo dân chúng rằng: "Khi các ngươi xem thấy đám mây nổi lên ở phía tây, lập tức các ngươi nói rằng: Trời sắp mưa; và sự thật xảy ra như thế. Và khi gió nam thổi đến, thì các ngươi nói: Trời sắp nóng nực. Và việc đã xảy ra như thế.
Hỡi những kẻ giả hình, các ngươi biết tìm hiểu diện mạo của trời đất, còn về thời đại này, sao các ngươi không tìm hiểu? Tại sao các ngươi không tự mình phê phán điều gì phải lẽ? Thế nên, khi ngươi cùng với kẻ đối phương ra trước mặt quan quyền, thì đang lúc đi dọc đường, ngươi hãy cố lo liệu cho ổn thoả với nó đi, kẻo nó lôi ngươi đến trước quan toà, và quan toà trao ngươi cho lý hình và lý hình tống ngươi vào ngục. Ta bảo cho ngươi hay, ngươi sẽ không thể ra khỏi đó cho đến khi nào trả xong đồng xu cuối cùng".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Nhận xét thời đại này
Suy niệm:
Tục ngữ ca dao nước ta không thiếu những câu nói về thời tiết.
Kinh nghiệm dân gian cho phép dự đoán những gì sắp xảy ra.
Có những dấu hiệu báo trước cơn mưa hay dông bão.
“Sấm đàng đông vừa trông vừa chạy, sấm đàng nam vừa làm vừa chơi.”
Người dân nước Paléttin cũng có những kinh nghiệm tương tự.
“Mây kéo lên ở phía tây” là mây đến từ biển Địa Trung Hải.
Khi thấy mây từ biển tiến vào, người ta đoán mưa đến nơi rồi (c. 54).
Khi thấy gió từ phương nam thổi đến,
luồng gió nóng từ vùng núi Ả-rập,
người ta biết ngay thời tiết sẽ hết sức oi bức (c. 55).
“Và xảy ra đúng như vậy”, Đức Giêsu nhắc lại câu này hai lần.
Ngài cho thấy dự đoán của dân chúng về thời tiết ít khi sai.
Họ khá bén nhạy trước những dấu hiệu thay đổi nhỏ của trời đất.
Tiếc là dân chúng thời Đức Giêsu lại không đủ bén nhạy
để có thể nhận biết được ý nghĩa của những dấu chỉ
đang diễn ra trước mắt họ.
Đức Giêsu ngạc nhiên vì những người cùng thời với Ngài
không thấy được cái độc nhất vô nhị của thời đại họ đang sống.
Họ không cảm thấy hạnh phúc khi được Thiên Chúa đến viếng thăm.
Chính vì thế ơn cứu độ của Thiên Chúa có thể bị quên lãng.
“Hỡi những kẻ đạo đức giả!” Đức Giêsu đã gọi họ như thế (c. 56).
Tại sao các anh nhạy bén trước điều này, mà lại thờ ơ trước điều kia?
Thiếu bén nhạy về mặt tôn giáo cũng là cơn bệnh của con người thời nay.
Thiên Chúa vẫn nói với con người hôm nay qua các dấu chỉ.
Vấn đề là làm sao đọc được ý nghĩa của những dấu chỉ đó.
Thiên Chúa không hiện ra để dạy con người biết tôn trọng trái đất.
Nhưng những hậu quả mà con người phải chịu là lời nhắc nhở của Ngài.
Khi trái đất ấm dần lên, khi băng tan ra và mực nước biển dâng cao,
một số phần đất của quê hương ta sẽ bị chìm dưới nước.
Khi người dân chặt phá rừng, thì lụt lội và hạn hán là chuyện dĩ nhiên.
Cơn bệnh của thế kỷ cũng có thể là một lời nhắc nhở.
Thiên Chúa mời gọi vợ chồng sống chung thủy trong hôn nhân,
và mời các bạn trẻ sống trong sạch trước khi lập hôn ước.
Ngay cả cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu cũng là một dấu chỉ.
Con người được mời gọi tìm ra những cơ cấu kinh tế vững vàng hơn,
để không bị một số ít nhà tư bản hay nước tư bản thao túng.
Mở mắt to để thấy, mở tai to để nghe, đó phải là thái độ của Kitô hữu,
vì hôm nay Thiên Chúa vẫn nói, vẫn làm nơi Đức Kitô, Con của Ngài.
Ngài vẫn nói với chúng ta qua hơn 90% người Việt Nam chưa biết Chúa.
Ngài vẫn nói với ta khi có những bạn trẻ Kitô hữu nghiện ngập, hư hỏng.
Ngài vẫn mời chúng ta làm một điều gì đó cho bao người nghèo khó,
cho trẻ em thất học, cho những phụ nữ lỡ làng, cho những người neo đơn.
Chỉ xin cho ta cảm được chút gió nhẹ của Chúa trong đời ta.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này
là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con mơ ước
không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng,
bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp,
không còn những cô gái đứng đường
hay những người ăn xin.
Con mơ ước
những ngưòi thợ được hưởng lương xứng đáng,
các ông chủ coi công nhân như anh em.
Con mơ ước
tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình,
các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con,
con ước mơ một thế giới đầy màu xanh,
xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển,
và xanh của bao niềm hy vọng
nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.
Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ,
thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: DẤU CHỈ GIÊ-SU
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Biết nhìn ra dấu chỉ thật quan trọng. Biết nhìn thời tiết sẽ sắp xếp công việc hợp lý. Đặc biệt là công việc đồng áng. Để cầy cấy cho đúng thời vụ. Đem lại lương thực cho đời sống thân xác. Nhưng biết nhìn dấu chỉ thiêng liêng còn quan trọng hơn. Vì giúp lo liệu công việc cung cấp lương thực thiêng liêng. Cho sự sống đời đời.
Chúa mắng những người Do thái là giả hình. Vì họ không thể không biết những dấu chỉ về Đấng Cứu Thế: kẻ mù được thấy, kẻ què được đi, người nghèo được nghe Tin Mừng. Chính Chúa đã thực hiện những điều các tiên tri loan báo từ ngàn xưa. Họ giả hình. Vì biết mà không tin. Có lẽ họ sợ phải thay đổi đời sống. Hay là sợ mất quyền lợi khi phải tin theo Chúa. Giả dối. Tâm thần phân liệt.
Chúa cảnh báo họ. Nếu không có phán đoán chính xác. Nếu không thay đổi thái độ để có hành xử đúng đắn. Họ sẽ lãnh lấy hậu quả tai hại. Sẽ bị trừng phạt vì sự thiếu khôn ngoan đó: “Kẻo người ấy lôi anh đến quan toà, quan toà lại nộp anh cho thừa phát lại, và thừa phát lại tống anh vào ngục”.
Chứng tâm thần phân liệt được thánh Phao-lô nhận biết ngay trong bản thân mình. Ngài nhận thấy sự bất lực của mình trong đời sống thiêng liêng: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm”. Và ngài nhận biết mình bị tội lỗi trói buộc. Không sao thoát ra được. Ngài nhận biết chỉ mình Chúa Ki-tô mới có thể cứu ngài thoát sự nô lệ tội lỗi đó: “Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta” (năm lẻ).
Ngài nhận biết thế giới này xung đột chia rẽ. Và sự chia rẽ xuất phát ngay từ nội tâm con người. Đó là do tội lỗi. Cần thống nhất đời sống. Cần thống nhất thế giới. Chỉ có một phương thế: Chịu phép rửa nhân danh Chúa Ki-tô. Như thế “chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hi vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người, và trong mọi người”. Chỉ Thiên Chúa mới có thể giải cứu thế giới. Chỉ Thiên Chúa mới có thể giải thoát con người. Chỉ Thiên Chúa mới có thể duy nhất đời sống. Nhờ Chúa Giê-su Ki-tô (năm chẵn).
Suy Niệm 3: Lạc Quan, Tin Tưởng
"Sinh ngày mùng 4 tháng 7", và "Bàn chân trái của tôi", đó là tựa đề của hai cuốn phim Mỹ hay nhất năm 1990. "Sinh ngày mùng 4 tháng 7" kể truyện một thanh niên Mỹ bị động viên sang VN và trở thành kẻ tàn tật suốt đời. Bất mãn, hận đời, người thanh niên gia nhập phong trào phản chiến ở Mỹ. Còn cuốn phim "Bàn chân trái của tôi" cho thấy hình ảnh một con người phấn đấu với những bất hạnh của mình để đạt thành công. "Bàn chân trái của tôi" nêu bật bài học về lạc quan tin tưởng trong cuộc sống.
Thiên Chúa không bao giờ bỏ mặc con người. Ngay cả khi con người tưởng chừng như mất tất cả, thì đó chính là lúc Thiên Chúa ban ơn dồi dào hơn; từ những mất mát, Thiên Chúa biến thành khởi điểm của những điều kỳ diệu.
Chúa Giêsu luôn mời gọi chúng ta mặc lấy cái nhìn lạc quan và tin tưởng. Chúng ta dễ cảm tạ Thiên Chúa khi gặp may mắn, thịnh đạt, thành công; nhưng chúng ta lại dễ bị cám dỗ để không nhận ra sự hiện diện và tác động của Ngài trong những mất mát, thua thiệt. Nhìn vào điềm báo thời tiết, chúng ta biết được trời sắp mưa hay sắp nóng nực; cũng thế, nhìn vào những may mắn và cả những thất bại, chúng ta hãy nhận ra lời mời gọi tin tưởng và dâng lời cảm tạ Chúa. Mỗi gặp gỡ, mỗi biến cố đều là dấu chỉ thời gian, vừa bày tỏ sự hiện diện và tác động yêu thương của Chúa, vừa mời gọi chúng ta tín thác vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa.
Chỉ với một bàn chân trái, một người tàn tật có thể vươn lên. Chúng ta hãy tự nhủ: những mất mát, khổ đau, thử thách là cơ may Thiên Chúa ban để giúp chúng ta vươn cao trong niềm tin. Chúng ta hãy nói lên niềm tin vào Ðấng luôn có mặt trong cuộc sống chúng ta và tiếp tục yêu thương chúng ta, ngay cả khi chúng ta yếu hèn tội lỗi.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Dấu Chỉ Của Thời Ðại
Chúng ta rất quen với những thời tiết trong một năm và quen như vậy thì chúng ta mới biết tính toán trong công việc làm ăn, canh tác. Thiên Chúa, Cha chúng ta, Người là Ðấng vô hình và Người tạo dựng nên chúng ta hữu hình. Vì thế, Người nói chuyện với chúng ta về tình yêu của Người bằng dấu chỉ. Mục đích Người muốn cho chúng ta nhận ra được ý muốn của Người và phục vụ ý muốn đó với tất cả tấm lòng của người con hiếu thảo. Chỉ tiếc một điều là chúng ta quen thuộc với những dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa để rồi thành công trong công việc làm ăn và nuôi sống cho thân xác, nhưng lại không muốn quan tâm đến những dấu chỉ tình yêu vô cùng cần thiết cho đời sống chúng ta. Chúng ta có vẻ lo lắng cho của cải vật chất của mình mà quên rằng chúng ta còn cuộc sống làm con cái của Thiên Chúa, con cái của Ðấng Tạo Hóa. Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta biết nhận ra dấu chỉ ngôn sứ để có thể có được một đời sống đời đời. Những dấu chỉ ấy, Thiên Chúa Cha đặt để khắp mọi nơi, mọi chốn trong cuộc sống mỗi người qua giáo huấn của Kinh Thánh, qua giáo huấn của Giáo Hội, qua những cơ cấu tổ chức của xã hội, những khoản lề luật để đảm bảo trật tự trong cộng đồng, những biến cố lớn nhỏ trong lịch sử của một đời người, một dân tộc và toàn thế giới. Vấn đề là chúng ta biết nhìn ngắm, biết nhận ra và biết vâng phục yêu mến Thiên Chúa khi Người cho chúng ta những dấu chỉ và những dấu chứng ấy.
Dấu chỉ, dấu chứng lớn nhất là chúng ta có một Thiên Chúa là Cha. Người đã làm được tất cả những gì làm được cho chúng ta, kể cả việc trao ban cho chúng ta Người Con yêu dấu duy nhất của Người, để chúng ta được hòa giải với Người và hòa giải với nhau trong tình anh chị em. Vì thế, chúng ta phải xử với nhau như anh chị em. Hơn nữa đối với Chúa Giêsu, trần gian này chẳng qua là nơi Thiên Chúa giáo huấn cho chúng ta, làm cho chúng ta nên cao cả qua những việc mình làm mỗi ngày để mang lại hạnh phúc cho nhau. Một mai đây khi đến thời đến buổi chúng ta cũng sẽ cùng nhau về với Cha. Sống ở đời này với ưu tiên một là Thiên Chúa thì chúng ta mới có thể mong được về hưởng hạnh phúc với Người.
Lạy Cha yêu thương,
Cha thật là tuyệt vời khi nói với chúng con về tình yêu bằng dấu chỉ và bằng ngôn ngữ. Cha muốn cho chúng con đọc được những dấu chỉ ấy, những hình thức ngôn ngữ ấy để chúng con cảm nghiệm được tình Cha, sống tình Cha và chia sẻ tình Cha với anh chị em chúng con, khi chúng con cùng nhau hành trình về nhà Cha. Thật ra thì dấu chỉ Cha dùng, ngôn ngữ Cha sử dụng rất rõ ràng, hiển nhiên và dễ hiểu, có chăng là tại chúng con cố tình làm như không hiểu. Dưới sự nhắc nhở của Chúa Giêsu, chúng con cố đào sâu hơn nữa những dấu chỉ và chúng con cũng biết tôn thờ Cha bằng những dấu chỉ nghiêm túc của phụng vụ, của các hoạt động tông đồ giáo dân, để dẫn đưa tất cả anh chị em chúng con về với Cha.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Thứ Điếc Bất Trị
Những kẻ đạo đức giả kia, cảnh sắc đất trời, thì các ngươi biết nhận xét, còn thời đại này, sao các ngươi lại không biết nhận xét? (Lc. 12, 56-57)
Một trong những ơn Chúa Thánh Thần cần thiết nhất cho con người suy xét và biết rõ, phân biệt rõ, bản dịch xưa kia gọi là ơn suy biết, nay gọi là ơn minh luận. Đối với việc đời, người ta tự khoe mình có cảm thức rất rõ, giúp người ta phán đoán mọi tình cảnh, lượng định đánh giá để hành động thích hợp, như Đức Giêsu đã nói với đám đông: “Các ngươi biết nhận xét bộ mặt trời đất”.
Thế mà “thời đại này, sao các ngươi lại không biết nhận xét”. Thời đại nước trời đã đến, được Gio-an loan báo và được Chúa tuyên bố với những dấu chỉ toàn năng của Thiên Chúa?
Thứ điếc nhất là không muốn nghe
Khi Người nói phải biết phân biệt lấy điều phải để theo, người ta lại không muốn nghe, họ không muốn nhận xét tự mình, vì lương tâm họ có thể sẽ chỉ cho họ phải theo con đường mà họ không thích. Ăn năn trở lại là nói đến thay đổi hướng đi, từ bỏ những thói quen xấu đã gắn bó với mình, nhận ra tội lỗi mình, chấp nhận mình đã bất trung, họ cự tuyệt với hành động hạ mình xuống, quả quyết từ chối nghe tiếng lương tâm của họ. Họ hoàn toàn điếc không sợ súng.
Mỗi thế hệ ở một thời điểm nhất định và tương lai tùy thuộc vào phán đoán của mình về thời đại đang sống. Ngày nay Thiên Chúa vẫn hoạt động trong đời sống chúng ta, Ngài nói với chúng ta qua những biến cố, qua những người mà chúng ta gặp. Hãy lắng nghe lời Ngài, Ngài khẩn thiết gọi ta trở về với tình yêu của Ngài. Rất nhiều khi chúng ta quay lỗ tai điếc ra nghe. Chúng ta từ chối bồi đắp cho cuộc đời mình. Chúng ta sống quá thoải mái bởi những tiện nghi.
Cố chấp hay ngu đần
Thủ tục tố tụng của đế quốc La-mã xưa rất khắc nghiệt. Một khi khởi tố phải theo những thủ tục rất bất nhân. Cho nên Đức Kitô nhắc nhở và khuyên cố gắng giải quyết với đối phương trước khi phải ra tòa án xét xử. Ngày phán xét cũng sẽ không khoan nhượng và rất khắc nghiệt. Chúng ta hãy lo ăn năn trở lại trước đi, kẻo quá trễ. Người ta lầm tưởng rằng Thiên Chúa rất tốt lành, Ngài không thể để ai bị kết án và Ngài sẽ bãi bỏ công lý. Sự cố chấp, ngoan cố làm chúng ta không muốn nghe lời Chúa, chẳng những là thứ ngu đần mà còn là một trọng tội đẩy ta đến chỗ chết đời đời.
RC
Suy Niệm 6: NHẬN RA DẤU CHỈ ... VÀ SÁM HỐI, CANH TÂN (Lc 12,54-59)
Khi nói về dấu chỉ của thời tiết, ca dao tục ngữ Việt Nam có câu:
“Cơn đàng Đông vừa trông vừa chạy,
Cơn đàng Nam vừa làm vừa chơi”.
Hay:
“Chuồn chuồn bay thấp thì mưa,
Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm”.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã khen ngợi những người Dothái về khả năng tiên đoán điềm trời của họ. Tuy nhiên, Ngài lại khiển trách họ chỉ biết dự báo về điềm trời, còn không biết dùng khả năng vốn có của mình để sử dụng vào lãnh vực cao hơn là những dấu chỉ ơn cứu độ. Ngài trách: “Hỡi những kẻ giả hình, các người biết tìm hiểu diện mạo của trời đất, còn về thời đại này, sao các ngươi lại không tìm hiểu?”.
Khi nói như thế, Đức Giêsu muốn xác định rằng: sự xuất hiện của Ngài ngang qua các hành động và những lời giáo huấn cho thấy: Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, đến để cứu thoát con người khỏi tội lỗi, khỏi chết phần hồn và đem lại cho nhân loại hạnh phúc thật. Đây chính là một điềm lạ vĩ đại, cả thể, nhằm loan báo Triều Đại Thiên Chúa đã đến và đang hiện diện giữa nhân loại thì họ lại không tin, không nhận ra.
Tại sao vậy? Thưa! Họ mong đợi nơi Đấng Cứu Thế phải là một người hùng, đánh đông dẹp bắc bằng vũ lực; phải là Đấng giải phóng dân tộc Dothái khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma. Phải là người giỏi giang về binh đao và xuất xứ của Đấng ấy phải là quyền quý, cao sang.
Tuy nhiên, điều họ mong chờ ấy đã không phù hợp với bản chất của Đấng Thiên Sai, nên họ đã bị tối mắt và lu mờ lương tâm khi Đức Giêsu xuất hiện trong một gia đình nghèo, tầm thường. Hơn nữa, Ngài đến trong thân phận là người tôi tớ của Giavê, để phục vụ và đứng về phía người nghèo, tội lỗi, người không có tiếng nói... Đường lối cứu độ của Ngài lại là con đường khổ giá, khiêm nhường và hiền hậu. Sự nghiệp giải phóng của Ngài không chỉ dành riêng cho một quốc gia, dân tộc nào, mà là cho hết mọi người. Tất cả những điều đó họ đã không nhận ra, nên họ đâu màng chi đến những dấu chỉ về sự hiện diện của Đức Giêsu! Vì thế, họ không sám hối cũng chẳng cần thay đổi đời sống...!!!
Nơi xã hội hay trong cuộc sống, đôi khi chúng ta cũng chẳng khác gì những người Dothái khi xưa khi phỏng chiếu một vị Thiên Chúa phải đứng về phe mình, mặc cho điều mình làm có đúng hay sai? Cũng vẫn còn đó những người luôn có khái niệm: “Tự nhiên có”, mà không hề nhận ra rằng: Chúa đang yêu thương, bao bọc ta và những thứ ta có là do lòng nhân từ của Chúa ban. Đôi khi có những bất chắc trong cuộc sống như tai nạn, bệnh tật, ốm đau... chúng ta đã được Chúa thương cứu sống cách nhiệm mầu. Ấy vậy mà khi chúng ta được chữa lành, thay vì tạ ơn Chúa, cải hóa đời sống và trung thành với Chúa, thì lại vui vẻ cho rằng mình gặp may... Rồi cũng không thiếu những lúc ta ích kỷ đến độ không hài lòng với người anh chị em của mình khi họ gặp điều thuận lợi hơn ta...
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người hãy nhạy bén với ơn Chúa để nhận ra sự hiện diện của Ngài nơi chính Lời của Ngài trong Tin Mừng. Đồng thời, luôn nhận ra tình thương của Chúa qua sự quan phòng kỳ diệu trong cuộc sống nơi các biến cố vui buồn, sướng khổ, thành công hay thất bại của chúng ta. Mặt khác, hãy lo sám hối, cải thiện đời sống và quay trở về với Thiên Chúa một khi đã nhận ra tình thương của Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cám ơn Chúa đã yêu thương chúng con vô bờ. Xin cho chúng con nhận ra tình thương của Chúa và biết sám hối, ăn năn, cải thiện đời sống để xứng đáng trở thành con Chúa và anh chị em của nhau. Amen.
Ngọc Biển SSP
22/10 Lửa tình yêu.
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Lửa tình yêu.
Thứ Năm tuần 29 thường niên.
"Thầy không đến để đem bình an, nhưng đem sự chia rẽ".
Lời Chúa: Lc 12, 49-53
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian, và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên. Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất.
Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ.
Vì từ nay, năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, và con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ chồng".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Phải chi lửa ấy đã bùng lên
Suy niệm:
Nhiệt độ của trái đất có chiều hướng nóng dần lên.
Ðó là một điều đáng sợ.
Nhưng điều đáng sợ hơn
lại là sự lạnh lùng giữa người với người.
Con người cần cơm bánh và giải trí,
nhưng con người còn cần sự nâng đỡ cảm thông.
Nhân loại sống được là nhờ tình thương ấm áp.
Vậy mà băng giá của lãnh đạm dửng dưng
vẫn tồn tại khắp nơi trên mặt đất.
Băng giá nằm ngay nơi lòng con người.
Ðức Giêsu đã khẳng định sứ mạng của Ngài:
Ngài đến để ném lửa trên mặt đất,
và Ngài ước mong, phải chi lửa ấy đã bùng lên.
Ngọn lửa Ðức Giêsu muốn nhóm lên
không phải là ngọn lửa của án phạt và hủy diệt,
không phải là thứ lửa từ trời mà Gioan và Giacôbê
định xin đổ xuống trên một làng của xứ Samari.
Ðây là ngọn lửa vẫn bừng cháy trong tim Ngài,
lửa của Thánh Thần, lửa của yêu thương,
lửa hâm nóng hai môn đệ Emmau đang tuyệt vọng.
Chúng ta cần được ngọn lửa của Ðức Giêsu chạm đến,
cần được Ngài làm bừng sáng lên
những sức mạnh tiềm ẩn nơi ta,
để chúng ta trở thành ánh lửa cho thế giới.
“Phải chi lửa ấy đã bùng lên!”
Chúng ta được mời gọi để thực hiện niềm ước mong
mà Ðức Giêsu đã suốt đời ôm ấp,
đó là làm cho thế giới nên ấm áp hơn
vì con người biết sống cho Thiên Chúa và cho nhau.
Gieo rắc ngọn lửa và ánh sáng
là chấp nhận bị từ khước và đe dọa.
Ðức Giêsu linh cảm những gì sẽ xảy ra cho đời mình.
Ngài sẽ phải chịu một phép rửa kinh khủng,
sẽ phải dìm mình thật sâu trong nỗi khổ đau.
Hôm nay, Ngài mời chúng ta ném lửa trên mặt đất
và chấp nhận đối đầu với sức mạnh của bóng tối.
Khi Ðức Giêsu bị treo trên thập tự,
khi Ngài bị giam trong mồ tối,
bóng tối tưởng như đã nuốt chửng được Ngài.
Nhưng ngọn lửa phục sinh đã bừng lên giữa đêm đen.
Ðó là niềm hy vọng của chúng ta,
những người vẫn còn phải hăng say chiến đấu
để đẩy lui bóng tối ra khỏi mọi nơi, mọi chỗ,
bóng tối của bất công, sa đọa và tuyệt vọng,
bóng tối của hận thù, của nạn mù chữ,
bóng tối của nghèo nàn lạc hậu...
Bóng tối do khép lại cánh cửa của lòng mình,
Bóng tối ở ngay trong lòng tôi.
Có lúc chúng ta sợ hãi bóng tối dầy đặc,
mà ngọn lửa của mình lại yếu ớt.
Nếu một tỷ Kitô hữu đều là những ngọn lửa
thì bóng tối sẽ bị đẩy lùi khỏi mặt đất.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu thương mến,
xin ban cho chúng con
tỏa lan hương thơm của Chúa
đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con
bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con
để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa,
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,
để những người chúng con tiếp xúc
cảm nhận được
Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,
không phải bằng lời nói suông,
nhưng bằng cuộc sống chứng tá,
và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.
(Chân phước Têrêxa Calcutta)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: LỬA YÊU THƯƠNG
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Lời của Chúa hôm nay là lời của lửa. Hành động của Chúa là hành động của lửa: ném lửa xuống mặt đất. Cuộc đời của Chúa là cuộc đời lửa cháy. Cháy lên tình yêu mãnh liệt. Lửa tình yêu bừng cháy thanh luyện. Đó là phép rửa cuối cùng của Chúa. Đó là tình yêu lớn lao hơn mọi tình yêu. Đã biến cuộc đời Chúa thành một thứ vàng ròng tinh khôi.
Chúa ước mong lửa đó cháy lên. Cháy lên trong mỗi người chúng ta. Để ngọn lửa đó thanh luyện trái tim ta. Để chỉ yêu mến một mình Thiên Chúa. Để thanh luyện khỏi những gì thuộc trần gian. Gây nên mối chia rẽ lớn lao. Như lửa tách tạp chất ra khỏi vàng. Tình yêu mến Chúa tách ta khỏi những gì thuộc trần gian. Dù đó là những gì thân thiết nhất. Như ước vọng, đam mê. Những người thân thiết nhất. Như cha mẹ, anh em, vợ chồng. Những gì thâm sâu nhất. Như chính bản thân mình. Tất cả phải được tách lìa. Phải được thanh luyện. Thành vàng ròng tình yêu dành cho Thiên Chúa.
Hãy chiêm ngắm Chúa Giê-su trong vườn Giệt-si-ma-ni. Đó là phép rửa cuối cùng. Ngọn lửa tách biệt cái tôi khỏi thánh ý Chúa Cha. Khiến Chúa đau đớn toát mồ hôi pha máu. Chúa đã trở thành vàng ròng. Để trên thánh giá chỉ còn “phó linh hồn trong tay Chúa Cha”.
Thư Rô-ma cho biết lửa thanh luyện ta khỏi tội lỗi của con người xưa cũ. Để sống cho con người mới trong ân sủng. Cùng là chi thể nhưng cách sử dụng khác nhau: “Trước đây anh em đã dùng chi thể của mình mà làm những điều ô uế và sự vô luân, để trở thành vô luân, thì nay anh em cũng hãy dùng chi thể làm nô lệ sự công chính để trở nên thánh thiện” (năm lẻ).
Thư Ê-phê-sô diễn tả cuộc thanh luyện cuối cùng sẽ giúp ta nên vàng ròng tinh tuyền. Để kết hợp mật thiết với Chúa Ba Ngôi. Được tham dự vào cuộc sống của Thiên Chúa Ba Ngôi: “Xin cho anh em, nhờ lòng tin, được Đức Ki-tô ngự trong tâm hồn; xin cho anh em được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái, để cùng toàn thể dân thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết tình thương của Đức Ki-tô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy anh em sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa” (năm chẵn).
Xin cho đời ta cháy bừng ngọn lửa yêu thương. Để ta cũng ném lửa. Gây nên đám cháy tình thương trên khắp mặt đất này.
Suy Niệm 3: Ðường Ðến Vinh Quang
Bình an chỉ có thể đạt được bằng giá của chiến đấu liên lỉ chống lại tư lợi và khuynh hướng xấu trong con người. "Nếu muốn có hòa bình, hãy chuẩn bị chiến tranh". Nếu muốn có bình an trong tâm hồn, hãy chuẩn bị đương đầu với những cạm bẫy và sức mạnh của ác thần luôn bủa vây lôi kéo chúng ta đến tội lỗi.
Vai trò của các vua chúa trong Cựu Ước là võ trang và chuẩn bị chiến tranh. Chúa Kitô cũng được gọi là Vua, vai trò của Ngài chính là võ trang và chuẩn bị chiến đấu, nhưng khí giới Ngài trang bị cho mình là cái chết trên Thập giá. Chính khi bị treo trên Thập giá, Ngài đã được tôn phong là Vua Do thái. Chúa Giêsu cũng là Vua, vì Ngài đã đánh bại Satan, tội lỗi. Con đường vương giả Ngài đã vạch ra cũng chính là con đường Thập giá. Chúng ta không thể làm môn đệ Ngài, không thể đi theo Ngài, không thể tham dự cuộc chiến của Ngài, mà lại khước từ Thập giá.
Thật ra, thập giá chỉ là một phát minh độc ác của con người để hủy hoại nhau; mãi mãi thập giá vẫn là biểu tượng sự độc ác của con người. Nếu Chúa Giêsu đã ôm trọn Thập giá, thì không phải vì Ngài yêu sự độc ác, tự đày đọa mình, nhưng chính là để thể hiện tình yêu tột độ của Thiên Chúa. Dù con người có độc ác, xấu xa đến đâu, Thiên Chúa vẫn yêu thương, tha thứ cho họ. Chiến thắng của Chúa Kitô chính là chiến thắng của tình yêu trên hận thù, của ân sủng trên tội lỗi, của niềm tin trên thất vọng.
Chúng ta tiếp tục đi theo con đường của Chúa Kitô; chúng ta tiếp tục đau khổ vì tin rằng bên kia những thất bại, khổ đau, tình yêu Thiên Chúa vẫn còn mang lại ý nghĩa cho cuộc sống. Chúng ta đón nhận mọi bách hại, thù ghét, thua thiệt, vì tin rằng chỉ có tình yêu mới có thể thắng vượt được ích kỷ, hận thù trong lòng con người.
Xin Chúa Kitô ban sức mạnh để chúng ta bước theo con đường Thập giá dẫn đến vinh quang.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Khôn Ngoan Của Tin Mừng
Mới thoáng nghe những gì Chúa Giêsu nói, chúng ta cảm thấy khó chịu và có lẽ nhiều người và có lẽ nhiều người nghe Chúa Giêsu cũng cảm thấy khó chịu như chúng ta. Thế nhưng thực tế là như vậy. Sự lựa chọn quyết liệt để sống và trung thành với giáo huấn của Tin Mừng sẽ gây khá nhiều những mâu thuẫn giữa những người thân thương trong gia đình và cả với những người chung quanh của chúng ta nữa. Lý do là vì khôn ngoan theo Tin Mừng khác với khôn ngoan theo tinh thần của thế tục. Chúng ta không thể nói rằng chúng ta không biết thế nào là khôn ngoan theo tinh thần thế tục.
Thiên Chúa muốn chúng ta khôn ngoan lựa chọn quyết liệt để sống theo khôn ngoan của Tin Mừng, vì Chúa cho lửa tình yêu của chúng ta với Thiên Chúa và giữa chúng ta với nhau được bùng lên và bốc cao trên mặt đất này vì đó là cách để Ngài dẫn chúng ta về với Chúa Cha, khi đã tập cho chúng ta biết yêu nhau như con cái của Thiên Chúa.
Lạy Cha là Thiên Chúa chúng con.
Hơn bao giờ hết trong lúc này, chúng con mới nhận thấy được rõ ràng thế nào là khôn ngoan theo Tin Mừng và thế nào là khôn ngoan theo thế tục. Chỉ tiếc có một điều là chúng con vẫn chưa đủ can đảm để cộng tác với Chúa Giêsu, Con Cha khởi lên. Chúng con yếu đuối quá.
Lạy Cha,
Xin Cha ban cho chúng con Thánh Thần của Cha, để chúng con cố gắng can đảm loại bỏ những khôn ngoan thế tục, dù có bị chính những người thân yêu của chúng con phản đối hay ghét bỏ.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Trị Bệnh Bằng Tình Yêu
“Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong chi lửa ấy đã bùng lên, Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất.” (Lc. 12, 49-50)
Sự dữ, sự xấu là con bệnh ung thư xâm nhập càng ngày càng sâu vào con tim nhân loại, đến một mức độ nó bắt con người phải nô lệ và làm đen tối mọi khả năng con người. Tâm lý học chiều sâu đã chứng minh điều đó. Trước nhà tâm lý trị liệu Freud rất xa, Thiên Chúa biết tận đáy những con tim. Chỉ có tình yêu của Ngài mới có thể giải phóng những ràng buộc của sự dữ. Theo thánh ý Ngài, Đức Giêsu đã đến bộc lộ tình yêu của Thiên Chúa cho thế nhân. Sự cứng lòng từ chối của dân Do thái đối với lời Ngài càng ngày càng thấy phải chữa trị tận căn cho nhân loại.
Thanh tẩy sự dữ:
Những ngôn sứ đã tiên báo cho dân Ít-ra-en rằng Thiên Chúa sẽ đến đòi nợ của Ngài trong cơn giận bừng bừng lửa cháy. Nhưng Đức Giêsu đã từ chối không trưng dẫn lời ấy của ngôn sứ I-sai-a nói về ngày báo oán. Người chỉ đến trong tình yêu, không phải để tiêu hủy, nhưng để chữa lành nhờ tình yêu. Người đem lửa đến mặt đất để thanh tẩy, thổi nóng con tim sôi lên làm cho những vi khuẩn nhơ bẩn không còn nữa. Trước sự bành trướng của sự dữ, sự xấu đang vây bọc con tim nhân thế, Đức Giêsu khắc khoải mong ước cho lửa ấy cháy lên, mong ước cho sứ mệnh cứu thế và giải phóng của Người sớm hoàn thành.
Đó là phép rửa Đức Giêsu phải chịu trong đau khổ để mở ra con đường giải thoát tội lỗi và tiếp tế ơn tha thứ. Đó chính là lửa Thánh Thần được Đức Giêsu đem đến thấu tận con tim nhân loại, như gươm hai lưỡi đâm chia rẽ ra hồn với xác, tinh thần với vật chất, đã luôn luôn gây cấn với nhau, như con trai với cha nó, như con gái với mẹ nó, như mẹ chồng với nàng dâu, mới mong chữa trị khỏi cơn bệnh ung thư cho loài người để được sống mạnh mẽ dồi dào.
Sự phân chia này là một vết mổ tận căn ở thân xác gia đình con người. Ai tuân phục lời Chúa và Thánh Thần phải cam kết theo Đức Kitô và cắt đứt những mối dây liên lạc đó, dù là thứ yêu quý nhất, chặt chẽ nhất, vì những thứ dây này kéo ghì họ lại với thế gian. Như thế, họ sẽ thấy hòa bình của Đấng cứu thế rất khác với thứ yên ổn dễ đổ vỡ của thế gian hay của cái chết. “Đối với các ngươi, kẻ kính sợ danh thánh Ta, mặt trời công chính sẽ mọc lên chiếu ánh sáng đến chữa lành các ngươi” (Ml. 3, 20). Mặt trời công chính này chính là Đức Kitô đã yêu thương hy sinh chịu chết để chữa lành tận căn con bệnh của nhân thế.
RC
Suy Niệm 6: BÌNH AN ĐÍCH THẬT LÀ GÌ? (Lc 12,49-53)
Xem CN 20 TN C, thứ Hai tuần 15 TN
Những trang Tin Mừng trước, Đức Giêsu nhấn mạnh đến thái độ tỉnh thức và sẵn sàng để đón chờ Chúa đến. Nếu không tỉnh thức, chúng ta sẽ gặp phải sự đau khổ, bất hạnh, bởi vì chính lúc không ngờ, Con Người sẽ đến. Sang bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu chuyển sang một hướng khác, một đề tài liên quan trực tiếp đến sứ mạng và chương trình cứu độ của Ngài khi loan báo về cuộc thương khó cũng như cái chết, đồng thời cũng xác định những hệ quả của những người đón nhận Tin Mừng.
Trước tiên, Đức Giêsu muốn tiên báo về chính cái chết của mình: “Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất”.
Sau khi đã nói về sứ mạng của Mình, Đức Giêsu muốn đi xa hơn để tiên báo về những hệ lụy sẽ xảy đến cho cuộc đời của những người tin và theo Ngài, Ngài nói: “Các con tưởng rằng Thầy đến đem hòa bình cho trần gian? Thầy bảo cho các con biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ” (Lc 12,49.51). Mới nghe, chúng ta có cảm tưởng rất nghịch lý và mâu thuẫn nội tại. Nhưng không! Qua câu nói đó, Đức Giêsu muốn cho chúng ta hiểu một cách sâu xa hơn rằng: không phải Đức Giêsu đến để đem hòa bình theo kiểu trần gian, mà là một nền hòa bình của Thiên Chúa và chỉ dành cho những ai xây dựng đời mình từ nền tảng Tin Mừng mà thôi. Hòa bình này là một thứ mà tiền không mua được, quyền cao chức trọng cũng chẳng có. Thứ hoà bình của Thiên Chúa mà Đức Giêsu mang đến, người ta chỉ có thể nhận được sau khi đã cố gắng chiến đấu để sống theo Tin Mừng của Ngài. Còn những ai không yêu mến, trung thành và tuân giữ thì sẽ không bao giờ gặp được bình an thực sự. Nhưng ngược lại, họ sẽ bất hạnh và chống đối lại hòa bình của Đức Giêsu nơi anh chị em khác.
Thật vậy, trong thực tế, chúng ta thấy rất rõ sự mâu thuẫn này ngay từ trong gia đình. Cha chống lại con, con chống lại cha; nàng dâu, mẹ chồng chống đối nhau; anh chị em phản bội lẫn nhau là chuyện bình thường. Tất cả khởi đi từ những lựa chọn thuộc về giá trị sống. Những người chọn Đức Giêsu và Tin Mừng của Ngài làm lẽ sống, chắc hẳn sẽ bị những người trong nhà không ưa, không thích bởi vì những người đó, họ đối lập hoàn toàn với những người môn đệ của Đức Giêsu, nên họ chọn cho mình sự đảm bảo nơi tiền, quyền và những thứ vui khác...
Trong số 118 thánh tử đạo Việt Nam của chúng ta, hẳn có quá nhiều người bị chính con ruột hay người thân trong huyết tộc bán đứng bằng cách báo với vua quan để nhận tiền thưởng, hay thăng quan tiến chức, hoặc thỏa mãn cơn giận... nhiều khi chỉ vì những lời dạy dỗ của các ngài dựa trên Tin Mừng của Đức Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa ban cho chúng con bình an của Chúa. Xin cho chúng con cam đảm đón nhận và giữ gìn sự bình an đó trong cuộc sống của chúng con mãi mãi, để chúng con được hạnh phúc thật. Amen.
Ngọc Biển SSP
21/10 Người quản lý trung tín khôn ngoan
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Người quản lý trung tín khôn ngoan.
Thứ Tư tuần 29 thường niên.
"Người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều".
Lời Chúa: Lc 12, 39-48
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy hiểu biết điều này, là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, ắt sẽ tỉnh thức, không để nó đào ngạch nhà mình. Cho nên các con hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến".
Phêrô thưa Người rằng: "Lạy Thầy, Thầy nói dụ ngôn đó chỉ về chúng con hay về mọi người?" Chúa phán: "Vậy con nghĩ ai là người quản lý trung tín khôn ngoan mà chủ đã đặt coi sóc gia nhân mình, để đến giờ phân phát phần lúa thóc cho họ? Phúc cho đầy tớ đó, khi chủ về, thấy nó đang làm như vậy. Thầy bảo thật các con, chủ sẽ đặt người đó trông coi tất cả gia sản mình. Nhưng nếu đầy tớ ấy nghĩ trong lòng rằng: "Chủ tôi về muộn", nên đánh đập tớ trai tớ gái, ăn uống say sưa: chủ người đầy tớ ấy sẽ về vào ngày nó không ngờ, vào giờ nó không biết, chủ sẽ loại trừ nó, và bắt nó chung số phận với những kẻ bất trung. Nhưng đầy tớ nào đã biết ý chủ mình mà không chuẩn bị sẵn sàng, và không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. Còn đầy tớ nào không biết ý chủ mình mà làm những sự đáng trừng phạt, thì sẽ bị đòn ít hơn. Vì người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều, và đã giao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Trung tín, khôn ngoan
Suy niệm:
Kẻ trộm xưa cũng như nay đều đến mà không báo trước,
bất ngờ khoét vách nhà khi gia chủ còn ngủ say.
Đức Giêsu, qua một dụ ngôn, đã dám so sánh mình với kẻ trộm,
chỉ vì Ngài giống anh ta ở nét bất ngờ (cc. 39-40).
“Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ anh em không ngờ, Con Người sẽ đến.”
Ông chủ có thể trở về khi trời gần sáng, lúc canh ba.
Sẵn sàng là mở cửa ngay cho chủ, vì vẫn còn thức, còn chờ, còn đèn sáng.
Thiếu sẵn sàng là ngủ mê, không nghe được tiếng gõ cửa.
Ngủ mê làm chủ nhà không biết kẻ trộm đang khoét vách.
Thiếu tỉnh thức để đón Chúa Giêsu, cũng đem lại hậu quả khôn lường.
Tỉnh thức sẵn sàng là thái độ cần có của chủ nhà, của người lãnh đạo.
Khi Phêrô hỏi Đức Giêsu xem dụ ngôn trên áp dụng cho ai (c. 41),
cho dân chúng hay cho nhóm Mười Hai là những người lãnh đạo,
Ngài đã kể cho họ một dụ ngôn khác về người quản gia.
Vì ông chủ đi vắng nên anh được ông đặt lên coi sóc gia nhân trong nhà,
tuy anh vẫn là một đầy tớ giữa những đầy tớ khác (c. 43).
Chính sự vắng nhà của ông chủ đã làm lộ ra thực chất của người quản gia.
Người quản gia trung tín sẽ chăm chỉ làm tròn bổn phận được giao.
Việc quan trọng là cấp phát phần thóc gạo đúng giờ đúng lúc (c. 42).
Anh này chẳng để ý gì đến chuyện khi nào chủ mình về.
Khôn ngoan đối với anh là làm theo đúng ý của chủ.
Anh chỉ tập trung vào việc phục vụ những người được chủ giao phó,
và phục vụ đúng giờ.
Hẳn anh sẽ được ông chủ khen ngợi và đặt ở một vị trí cao hơn,
nếu bất ngờ ông về mà thấy anh đang phục vụ chăm chỉ.
Nhưng quản gia lại có thể là một người thiếu trách nhiệm.
Thời gian ông chủ vắng nhà cũng là thời gian anh ta có quyền.
Anh đã tận dụng quyền hành có trong tay để áp chế các đầy tớ khác,
và sống một cuộc sống buông thả, vô độ.
“Anh bắt đầu đánh đập các tôi trai tớ gái, và chè chén say sưa” (c. 45).
Lý do hư hỏng của anh này rất đơn giản.
Anh nghĩ “chủ ta còn lâu mới về”, nên ta cứ thoải mái ăn chơi.
Anh chỉ cố làm sao khi chủ về, chủ thấy anh đang làm việc tử tế.
Tiếc thay chủ về sớm hơn anh nghĩ,
“vào ngày anh không ngờ, vào giờ anh không biết” (c. 46).
Sự thật ê chề được phơi bày không thể chối cãi.
Những đầy tớ bị anh hành hạ và bỏ đói, những phung phí tài sản,
là bằng chứng cho sự thất tín của anh.
Kitô hữu là những người đã biết ý Chúa, mà không làm theo,
sẽ bị phạt nặng hơn những người không biết.
Những nhà lãnh đạo được trao quyền hành và trách nhiệm
cũng phải trả lời trước mặt Chúa về cách phục vụ của mình.
Chúng ta đều sợ khi nghe những lời này của Đức Giêsu:
“Ai được cho nhiều, sẽ bị đòi nhiều.
Ai được giao phó nhiều sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn.”
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xưa Chúa đã sai các môn đệ ra khơi thả lưới,
nay Chúa cũng sai chúng con đi vào cuộc đời.
Chúng con phải đối diện
với bao thách đố của cuộc sống,
của công ăn việc làm, của gánh nặng gia đình,
của nghề nghiệp chuyên môn.
Xin đừng để chúng con sa vào cạm bẫy
của vật chất và quyền lực,
nhưng cho chúng con
giữ nguyên lý tưởng thuở ban đầu,
lý tưởng phục vụ quê hương và Hội Thánh.
Lạy Chúa Giêsu,
xin dạy chúng con sống thực tế,
nhưng không thực dụng ;
biết xoay xở nhưng không mưu mô ;
lo cho tương lai cá nhân,
nhưng không quên bao người bất hạnh cần nâng đỡ.
Giữa cơn lốc của trách nhiệm và công việc,
giữa những xâu xé trước bao lựa chọn,
xin cho chúng con biết tìm những phút giây trầm lắng,
để múc lấy ánh sáng và sức mạnh,
để mình được thật là mình trước mặt Chúa.
Nhờ lời Đức Trinh Nữ Maria chuyển cầu,
xin cho chúng con thật sự trở nên chứng nhân,
làm tất cả để Thiên Chúa được tôn vinh,
và phẩm giá con người được tôn trọng. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: TRUNG TÍN VÀ KHÔN NGOAN
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Việc chờ đợi của chúng ta không giản đơn là tỉnh thức. Nhưng còn là có trách nhiệm. Vì trong khi Chúa vắng nhà Chúa trao cho ta quyền quản gia. Nhiệm vụ của quản gia được Chúa định nghĩa là trung tín và khôn ngoan. Khôn ngoan là “cấp phát lúa gạo đúng giờ đúng lúc”. Có của cải nhưng phải biết dùng đúng nơi, đúng lúc, đúng cách, mới sinh hiệu quả tối đa. Làm lợi cho kho tàng của chủ. Đó là người quản gia khôn ngoan. Ta quản chính con người mình với những tài năng của thân xác, trí tuệ và linh hồn. Làm sao phân phát lương thực đúng thời đúng lúc cho chúng phát triển? Trung tín là ta không được gian tham chiếm đoạt của chủ. Trong Tin Mừng Chúa cho biết sự bất trung đó là: “Người đầy tớ ấy nghĩ bụng: “Còn lâu chủ ta mới về”, và bắt đầu đánh đập tôi trai tớ gài và chè chén say sưa”. Dùng những gì Chúa ban để thoả mãn dục vọng. Và tệ hơn, không làm phát triển anh em. Nhưng bóc lột anh em. Đó là bất trung, gian tham.
Thư Rô-ma cho biết bất trung xảy ra vì ta làm nô lệ cho thân xác. Nô lệ cho thân xác tội lỗi sẽ phải chết. Hãy làm nô lệ cho Thiên Chúa ta sẽ nên công chính và được sống. “Anh em không biết sao? Khi đem thân làm nô lệ để vâng phục ai, thì anh em là nô lệ của người mà anh em vâng phục: hoặc làm nô lệ tội lỗi, thì sẽ phải chết; hoặc làm nô lệ phục vụ Thiên Chúa, thì sẽ được nên công chính”. Thánh nhân khuyên nhủ ta: “Anh em đừng dùng chi thể của anh em như khí cụ để làm điều bất chính, phục vụ cho tội lỗi nữa. Trái lại, anh em là những người sống đã từ cõi chết trở về, anh em hãy hiến toàn thân cho Thiên Chúa, và dùng chi thể của anh em như khí cụ để làm điều công chính, phục vụ Thiên Chúa” (năm lẻ).
Thư Ê-phê-sô cho thấy việc quản lý cao quí nhất chính là quản lý Tin Mừng. Vì thế việc phục vụ cao quí nhất cũng là phục vụ Tin Mừng. Và phải phân phát lương thực Tin Mừng cho mọi người đúng nơi đúng lúc. Thánh Phao-lô hãnh diện vì nhiệm vụ đó: “Thưa anh em, hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Ki-tô….Tôi đã trở nên người phục vụ Tin Mừng đó, nhờ ân sủng đặc biệt Thiên Chúa ban cho tôi” (năm chẵn).
Tạ ơn Chúa cho ta được làm quản gia của Chúa. Và đã trao cho ta kho tàng quí giá nhất là Tin Mừng cứu độ. Nhưng bổn phận phân phát Tin Mừng đúng nơi đúng lúc là nhiệm vụ vô cùng cấp bách và khó khăn. Biết bao linh hồn đang khao khát Tin Mừng cứu độ. Tôi làm nhiệm vụ phân phát thế nào? Có xứng đáng là quản gia trung tín và khôn ngoan không?
Suy Niệm 3: Tỉnh Thức Trong Phục Vụ
Danh họa Ý Leonard de Vinci có kể một dụ ngôn:
Giữa một ngôi vườn xinh tươi, có một cây sồi cao, chung quanh là một rừng cây. Cây sồi ngày một lên cao ngạo nghễ. Một hôm, từ trên nhìn xuống, nó ra lệnh cho người làm vườn đốn những cây chung quanh, vì chúng làm vướng víu, quấy rầy và che bóng của nó. Và như thế, cây sồi loại hết mọi cây cỏ để chỉ còn một mình bá chủ ngôi vườn. Thế nhưng một ngày kia, một trận cuồng phong nổi lên, không còn cây cối chung quanh chống đỡ cho bớt gió, cây sồi ngả rạp giữa vườn và chết một cách thê thảm.
Số phận của những người chà đạp người khác để tiến thân cũng giống như cây sồi trong dụ ngôn trên đây. Người ta thường nói: "Trèo cao, té nặng", bởi vì để lên cao, họ đã đạp đổ tất cả người khác, đến độ khi trượt chân té ngã, họ không còn ai nâng đỡ họ.
Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nói lên quan niệm của Ngài về quyền bính. Các Tông đồ không ngừng tranh luận với nhau về quyền bính; cái giấc mộng công hầu khanh tướng luôn ám ảnh các ông, ai trong các ông cũng muốn ngồi chỗ cao trong Vương Quốc mà họ tưởng Chúa Giêsu đã đến để thiết lập. Nhưng đối lại với tham vọng ấy, Chúa Giêsu cho thấy rằng quyền bính là để phục vụ; trong Nước Ngài, kẻ càng được trao nhiều quyền hành, càng phải là người phục vụ, mà phục vụ theo đúng nghĩa là hoàn toàn quên mình để sống cho người khác.
Do phép Rửa, người Kitô hữu chúng ta được tham dự vào chức vị vương giả của Chúa Kitô. Chúa Kitô là Vua, nhưng là Vua của phục vụ. Cung cách vương giả của Ngài là quì trước các môn đệ và rửa chân cho họ. Do đó, tham dự chức vụ vương giả của Chúa Kitô, chúng ta cũng được trao cho một thứ quyền bính, và quyền bính ấy tương đương với phục vụ. Người ta không thể là Kitô hữu, không thể là môn đệ Chúa Kitô mà lại khước từ phục vụ.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tỉnh thức. Sự tỉnh thức đích thực của người Kitô hữu chính là phục vụ. Càng phục vụ, họ càng nhận ra được Nước Chúa đang đến; càng phục vụ, họ càng nên giống Chúa trong cung cách vương giả của Ngài. Ai lãnh nhận nhiều sẽ bị đòi nhiều. Ân sủng dồi dào mà chúng ta lãnh nhận qua Bí Tích Rửa Tội là để san sẻ; tình yêu chúng ta cảm nhận được trong đức tin là để trao ban. Sự thức tỉnh đích thực của người Kitô hữu chính là ý thức rằng sống là để yêu thương và phục vụ, và đó cũng là hạnh phúc đích thực, vì "cho thì có phúc hơn là nhận". Ước gì chúng ta luôn thức tỉnh trong hướng đi ấy.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Tỉnh Thức Và Sẵn Sàng
Với thắc mắc của tông đồ Phêrô: "Lạy Thầy, Thầy nói dụ ngôn đó chỉ về chúng con hay chỉ về cho mọi người", Chúa Giêsu khai triển thêm về chủ đề tỉnh thức và sẵn sàng, và có vẻ như trong lần khai triển này Ngài nhắm đến những người có trách nhiệm trong cộng đồng.
Chủ đề tỉnh thức và sẵn sàng được nối tiếp với những giáo huấn của Chúa Giêsu dành cho giới có trách nhiệm trong cộng đồng dân Chúa. Và dĩ nhiên trước tiên là những người có trách nhiệm trong cộng đồng dân Chúa, họ phải gương mẫu trong thái độ tỉnh thức và sẵn sàng vì không những là sự tỉnh thức, sẵn sàng cần thiết cho ơn cứu độ của bản thân họ mà họ còn phải tỉnh thức và sẵn sàng để người khác có được ân sủng của Chúa nữa.
Công việc của một người có trách nhiệm trong dân Chúa thì muôn vẻ, muôn mặt và thường là những công việc không tên, không tuổi. Họ sống cho dân Chúa và ở giữa dân Chúa để mọi người có thể thấy Chúa qua họ. Trong cuộc sống rao giảng của Chúa Giêsu, Ngài liên tục kiếm tìm, khuyên lơn, an ủi, thánh hóa và giải cứu cho con người. Ngài không có thời khóa biểu cho công việc của mình mà trọn vẹn Ngài sống là cho đi, là trao ban, là sứ mệnh. Dĩ nhiên, chúng ta không thể đòi hỏi những người có trách nhiệm của chúng ta làm như Chúa Giêsu được, nhưng đòi hỏi phải tỉnh thức và sẵn sàng hơn những người khác để xứng đáng là môn đệ, xứng đáng là những người gần Chúa hơn, hầu có thể đem Chúa đến cho mọi người, vì dù sao đi nữa thì các vị ấy cũng được gọi và bản thân của họ tình nguyện để đi theo Chúa.
Anh chàng thanh niên khi nghe Chúa nói: "Anh hãy về bán của cải cho người nghèo rồi hãy đến theo Ta". Anh đã lẳng lặng bỏ đi vì anh không thể làm được chuyện ấy. Chúa Giêsu có buồn đôi chút nhưng Ngài tôn trọng tự do của anh, nếu anh vẫn sống trọn vẹn các giới răn như anh đã thưa với Chúa thì anh vẫn là người rất tuyệt. Thế nhưng, theo rồi mà không dành tất cả cho Chúa và cho anh chị em của mình như Chúa dạy thì thế nào cũng bị Chúa khiển trách. Thỉnh thoảng, có những vị phân bua: "Là gì đi chăng nữa thì cũng phải có những khoản riêng cho mình chứ, có những thứ thuộc đời tư của mình chứ". Không đâu, quí vị không còn đời tư nữa, quí vị không còn gì là riêng rẽ nữa. Tất cả đã là của Chúa và của anh chị em mình, ban cho ai nhiều thì đòi kẻ ấy nhiều; giao phó cho ai nhiều thì đòi kẻ ấy nhiều hơn.
Lạy Cha,
Tất cả chúng con đều là những đầy tớ phải biết thức tỉnh và sẵn sàng, nhưng hôm nay thì Chúa Giêsu, Con Cha, nói về những vị đầy tớ đặc biệt. Ðiều đó quá đúng, vì dù sao thì trong một tổ chức, một cơ cấu, cũng có nhiều công tác khác nhau, và mỗi người đều có một cách phục vụ tùy theo chỗ đứng, tùy theo công việc được giao phó. Chúng con cầu nguyện cho những người được giao cho những trách nhiệm đặc biệt ấy, để các ngài năng giống Con Cha hơn, không có thời khóa biểu cho riêng mình nhưng có thời khóa biểu để phục vụ Cha nơi những anh chị em được trao phó.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Đầy Tớ Chè Chén Say Sưa
“Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông đã không để nó khoét vách nhà mình đâu. Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.” (Lc. 12, 39-40)
Đức Giêsu tiếp tục khuyên nhủ các môn đệ phải luôn luôn tỉnh thức chờ ngày Chúa trở lại. Điều chắc chắn: Đức Giêsu sẽ trở lại. Nhưng khi nào? “Vào giờ các bạn không ngờ”, không được thông báo trên đài phát thanh. Thông báo được người ta chờ đợi rất vắn và là tin cuối cùng, nếu người ta không luôn luôn lắng nghe, người ta sẽ bỏ lỡ.
Đầy tớ trung tín:
Phê-rô và phần lớn Kitô hữu, được rửa tội, giữ đạo đều đều, không làm hại ai. Vậy họ sẽ được bảo đảm ơn cứu độ. Thế mà tại sao Đức Giêsu vẫn liên tục nhắc nhở họ phải tỉnh thức chờ Người trở lại một cách bất ngờ? Như đài ra-đa luôn luôn chờ nghe những tin báo khẩn cấp. Thế thì việc gì Đức Giêsu phải nói: “Hỡi đoàn chiên nhỏ, đừng sợ, Cha các con hảo tâm ban cho các con nước trời rồi”.
Nếu Thầy chí thánh trao cho chúng ta nhiệm vụ quản gia, chúng ta phải có trách nhiệm lo phân phát của ăn thiêng liêng cũng như lương thực tạm thời. Chúng ta càng nhận biết thánh ý Chúa, chúng ta càng phải có trách nhiệm hướng dẫn gia đình sao cho mọi sự được trật tự, không bị một trục trặc sai trái nào, để bất kỳ lúc nào chủ về xem xét và thấy hài lòng trọn vẹn. Lúc đó, chủ an tâm về chúng ta đã được Ngài chọn lựa tốt và cho chúng ta được đời sống phong phú đời đời.
Không tha cho kẻ chè chén say sưa:
Nếu chúng ta không lo tỉnh thức, lại lạm dụng địa vị để say sưa chè chén lãng phí, chủ bất ngờ trở về, chúng ta sẽ bị băm ra trăm miếng, như tập tục của người Ba-tư đối với đầy tớ bất trung. Sự tuyển chọn ban đầu không che chở chúng ta khỏi những xét xử đó, vì chúng ta đã sống vô trách nhiệm, nên hoàn toàn phải chịu tội. Mức độ bị xử phạt tùy theo sự hiểu biết về thánh ý Chúa và chức quyền đã được trao phó. Lỗi của chúng ta là thiếu đức tin, đức cậy, đức mến đối với lời kêu gọi liên tục mà Chúa rất nhân từ quảng đại ban cho chúng ta được phúc sống trước tôn nhan Chúa.
RC
Suy Niệm 6: HÃY QUẢN LÝ CÁCH TRUNG TÍN (Lc 12, 39-48)
Xem CN 19 TN C
Bài Tin Mừng hôm nay tiếp nối hôm qua. Tuy nhiên, cùng một đề tài về sự tỉnh thức. Nhưng nếu hôm qua, Đức Giêsu nhắm đến đối tượng chính là các môn đệ nói chung, thì hôm nay, Ngài trực tiếp để ý đến những người quản lý, hay nói đúng hơn là những người lãnh đạo.
Thật vậy, qua dụ ngôn này, Đức Giêsu nhắm đến sự trung thành, tận tụy với công việc được giao. Ngài nói: không được chè chén say sưa, ngược đãi người khác. Nếu không làm được điều này thì ắt sẽ bị đòn nhiều: “Vì người ta đã ban cho ai nhiều, thì sẽ đòi lại kẻ ấy nhiều, và đã giao phó cho ai nhiều, thì sẽ đòi kẻ ấy nhiều hơn".
Mỗi người chúng ta, một cách nào đó, hẳn đều là những người lãnh đạo. Có thể là chủ công ty, xí nghiệp, trưởng hội này, nhóm kia, hoặc ít ra là cha là mẹ trong gia đình. Nhìn rộng ra thì hết thảy ai ai cũng đều được Chúa trao cho những nén bạc như: sự sống, tài năng, sức lực... Khi được trao ban như thế, ấy là lúc Chúa tin tưởng và trao phó trách nhiệm cho chúng ta, để trong mọi hoàn cảnh, môi trường, chức nghiệp, chúng ta phải làm vinh danh Chúa và lợi ích cho phần rỗi của mình cũng như anh chị em.
Làm được điều đó, chúng ta được Chúa ví như một quản gia trung thành và khôn ngoan.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức và sẵn sàng để chu toàn bổn phận được trao. Hãy luôn nghĩ đến giờ chết của mình để chuẩn bị sẵn sàng trong tư thế của người môn đệ là lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Cần nhạy bén với ơn Chúa và các dấu chỉ để ý thức chu toàn bổn phận.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con một tinh thần tỉnh thức và sẵn sàng, để biết chu toàn bổn phận của mình cách trung thành. Xin cho chúng con luôn biết ý thức mình sẽ chết, để từ đó biết sám hối và canh tân đời sống ngay trong giây phút hiện tại. Amen.
Ngọc Biển SSP
20/10 Tỉnh Thức
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Tỉnh Thức.
Thứ Ba tuần 29 thường niên.
"Phúc cho đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức".
Lời Chúa: Lc 12, 35-38
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy thắt lưng, hãy cầm đèn cháy sáng trong tay, và hãy làm như người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ về gõ cửa, thì mở ngay cho chủ. Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức.
Thầy bảo thật các con, chủ sẽ thắt lưng, xếp chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ chúng. Nếu canh hai hoặc canh ba, chủ trở về mà gặp thấy như vậy, thì phúc cho các đầy tớ ấy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Chủ sẽ phục vụ
Suy niệm:
Chúng ta dành bao nhiêu thời gian để ăn, ngủ, và làm việc trong một đời?
Nhiều người nghĩ mình có thể đưa ra những con số khá chính xác.
Nhưng chúng ta dành bao nhiêu thời gian để chờ?
Có thứ chờ tính được bằng thời gian.
Có thứ chờ kéo dài liên tục nằm nơi trái tim mong ngóng.
Mẹ chờ con, vợ chờ chồng, những người yêu chờ nhau.
Trong một vở kịch của Samuel Beckett, văn sĩ được giải Nobel 1969,
có hai người chờ một nhân vật mơ hồ tên là Godot.
Cả hai chỉ quen sơ sơ ông này, nếu có gặp cũng chẳng nhận ra.
Vậy mà họ vẫn chờ, nhưng ông Godot nào đó đã không đến.
Có lẽ Samuel Beckett muốn nói đến cái phi lý của đời người.
Cứ chờ cứ đợi một điều mơ hồ và chẳng xảy ra.
Đức Giêsu dạy các môn đệ biết chờ đợi trong cuộc sống.
Chờ như những đầy tớ chờ chủ mình đi ăn cưới về.
Đám cưới ngày xưa hay vào ban đêm để tránh cái nóng.
Chủ có thể về trễ, nên phải chịu khó chờ,
nghĩa là phải tỉnh thức, không được ngủ quên.
Nhưng chờ lại không phải là thái độ ngồi yên, thụ động.
Chờ là đặt mình trong tư thế sẵn sàng phục vụ.
“Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sáng” (c. 35).
Người đầy tớ sẵn sàng bắt tay vào việc,
vì chiếc áo đã được vén lên gọn gàng,
và trong đêm, ngọn đèn được châm dầu vẫn luôn cháy sáng.
Có một giây phút quan trọng, giây phút ông chủ về.
Sự chờ đợi, sự tỉnh thức, sự sẵn sàng, tất cả hướng đến giây phút này.
Lỡ giây phút này là lỡ tất cả.
“Để khi chủ về tới, gõ cửa thì mở ngay” (c. 36).
Mở ngay vì mình đang chờ, đang thức, đang sẵn sàng,
áo đã được vén lên để chuẩn bị phục vụ,
đèn đã được thắp sáng để soi trong bóng đêm.
Chủ sẽ ngỡ ngàng vì sự mau mắn như vậy của các đầy tớ.
Nhưng các đầy tớ còn ngỡ ngàng hơn nhiều.
Chính khi các anh chuẩn bị phục vụ chủ, thì chủ lại phục vụ các anh.
“Chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn,
và đến bên từng người mà phục vụ” (c. 37).
Rõ ràng đã có một sự đổi vai bất ngờ: chủ đã thắt lưng, phục vụ như đầy tớ.
Đầy tớ đã trở nên trọng hơn chủ, vì Thầy ở giữa anh em như người hầu bàn.
Đó là mối phúc dành cho người tỉnh thức vào giờ lẽ ra đang yên ngủ.
Canh hai, canh ba, là đã quá nửa đêm về gần sáng (c. 38).
Kitô hữu biết mình chờ ai, chờ một người sớm muộn chắc chắn sẽ đến.
Chờ một cách tích cực với thái độ sẵn sàng làm việc dưới ánh đèn.
Hạnh phúc đến với tiếng gõ cửa đầu tiên trong đêm.
Chúng ta mong nghe được tiếng gõ nhẹ ấy như một tiếng gọi.
Xin mở cửa ngay để được thấy tận mắt Thiên Chúa phục vụ con người.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
con thường thấy mình không có giờ cầu nguyện,
không có giờ đi vào sa mạc
để ở bên Chúa và trò chuyện với Ngài.
Nhưng thật ra sa mạc ở sát bên con.
Chỉ cần một chút cố gắng của tình yêu
là con có thể tạo ra sa mạc.
Mỗi ngày có biết bao giây phút có thể gặp Chúa
mà con đã bỏ mất:
Khi chờ một người bạn,
chờ đèn xanh ở ngã tư,
chờ món hàng đang được gói.
Khi lên cầu thang,
khi đến nơi làm việc,
khi kẹt xe,
khi cúp điện bất ngờ.
Thay vì bực bội hay nóng ruột
con lại thấy mình sống an bình
trong sự hiện diện của Chúa.
Lạy Chúa,
những sa mạc ngắn ngủi hằng ngày
giúp con tỉnh thức
để nhạy cảm với ý Chúa.
Xin cho con yêu mến Chúa hơn
để tìm ra những sa mạc mới
và vui vẻ bước vào. (gợi hứng từ Madeleine Delbrêl).
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: GIÊ-SU CỨU CHÚA
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Dụ ngôn người đầy tớ tỉnh thức nói về Nước Trời. Ta sống ở trần gian trong thao thức chờ đợi đến ngày được vào Nước Trời. Thao thức được diễn tả bằng việc chờ đợi trong đêm. Chủ về muộn nên đầy tớ phải chờ đợi. Thái độ chờ đợi được Chúa diễn tả bằng 3 hoạt động. Thao thức. Thắt lưng. Cầm đèn. Tất cả không chỉ nói lên sự tận tâm. Mà còn cả tình yêu mến. Yêu mến nên khao khát mong chờ. Yêu mến nên không thể ngủ được khi chưa gặp được ông chủ. Yêu mến nên có thể thức cho đến sáng. Chỉ khi gặp ông chủ mới thôi thao thức. Nhưng yêu mến được bày tỏ trong thái độ phục vụ. Thắt lưng gọn gàng, Sẵn sàng làm việc. Bất cứ việc gì. Lúc nào cũng trong tư thế phục vụ. Để làm đúng nhiệm vụ được trao. Yêu mến nên lo xa. Lúc nào cũng cầm đèn. Lúc nào đèn cũng sáng. Để đèn sáng đương nhiên phải chuẩn bị dầu sẵn sàng. Để chủ về thì không phải chờ một phút nào. Để soi đường đón chủ ngay. Không phải mất giờ đốt đèn. Không sợ lật đật vấp ngã. Lòng yêu mến. Sự phục vụ. Tầm nhìn xa. Không uổng công. Sẽ được đền đáp. Một đền đáp quá lớn lao. Một cuộc đổi đời. Không còn là đầy tớ nữa. Được làm chủ. Được ngồi vào bàn ăn. Lại được chính ông chủ phục vụ.
Thư Rô-ma cho biết ta được như vậy là nhờ Chúa Giê-su Ki-tô. Vì tội A-đam mọi người chịu thân phận nô lệ. Nhưng nhờ Chúa Ki-tô mọi người được tự do. Vì tội A-đam mọi người phải chết. Nhờ Chúa Ki-tô mọi người được sống. Vì tội A-đam mọi người chịu luỵ phục. Nhờ Chúa Ki-tô mọi người được thống trị. “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội. Như vậy, nếu tội lỗi đã thống trị bằng cách làm cho người ta phải chết, thì ân sủng cũng thống trị bằng cách làm cho người ta nên công chính để được sống đời đời, nhờ Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta” (năm lẻ).
Thư Ê-phê-sô cho biết ta được thừa hưởng ân sủng do công cuộc cứu độ đem lại, nhờ Chúa Giê-su Ki-tô đã phá bức tường ngăn cách người Do thái với dân ngoại. Cho ta được từ xa lạ nên gần gũi. Từ người dưng nên họ hàng vì thuộc gia tộc Thiên Chúa. “Vậy anh em không còn phải là người xa lạ hay tạm trú, nhưng là người đồng hương với các người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa, bởi đã được xây dựng trên nền móng là các Tông Đồ và ngôn sứ, còn đá tảng góc tường là chính Đức Ki-tô Giê-su”. Chính đá góc tường liên kết tất cả (năm chẵn).
Đó là niềm hi vọng lớn lao. Thay đổi cả cuộc đời. Thay đổi cả số phận. Đáng cho ta thao thức. Phục vụ. Và nhìn xa. Để mong chờ không ngơi trong suốt cả đời.
Suy Niệm 3: Tỉnh Thức
Trong quyển truyện có tựa đề: "Con Ðức Mẹ" xuất bản tại Hà Nội dạo tháng 8/1990, tác giả đã miêu tả sinh hoạt của một giáo xứ miền Bắc một cách ấu trĩ như sau: Tình yêu giữa vợ chồng, cha mẹ, con cái đôi khi không cần thiết, không thiêng liêng cho bằng mối tình đối với Ðức Maria. Lòng tôn sùng đối với Ðức Mẹ chỉ là một thứ bịa đặt lừa bịp của Giáo Hội. Sinh hoạt giáo xứ chỉ là những biểu dương bề ngoài, cuồng tín, người giáo dân càng sùng đạo, thì càng là thành phần bất hảo trong xã hội.
Bất cứ độc giả nào cũng có thể nhận thấy giọng điệu bôi bác ấu trĩ của tập truyện. Tuy nhiên, với thái độ tỉnh thức mà Chúa Giêsu không ngừng mời gọi, người Kitô hữu hãy nhận lấy một phần trách nhiệm trong việc gây ngộ nhận nơi nhiều người ngoài Kitô giáo. Sự thiếu sót giữa niềm tin và cuộc sống hằng ngày; sự hăng hái sinh hoạt giáo xứ, nhưng lại bỏ qua những đòi hỏi của công bằng, bác ái, tình liên đới; đó là những hình ảnh méo mó mà chúng ta tạo ra cho Giáo Hội.
"Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn". Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tỉnh thức. Có lẽ chúng ta rất tỉnh thức trong kinh kệ, trong nghĩa vụ đạo đức, nhưng lại mê ngủ trong những đòi hỏi của Tin Mừng. Kitô giáo không phải là đạo ru ngủ, nhưng luôn thức tỉnh chúng ta, bởi vì đạo là đường để đi. Người chăm chú đi đường không thể ngủ gật, trái lại luôn mở mắt để nhìn thấy cảnh trí chung quanh, để nhận ra hướng đi của mình, để đồng hành với người khác.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh táo để nhận ra Nước Trời đang đến trong từng giây phút. Chúng ta hãy sống thế nào để đạo lý và Giáo Hội không bị hoen ố, nhưng được trình bày bằng những hình ảnh cao đẹp nhất của công bằng, bác ái, yêu thương.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Hạnh Phúc Của Nước Trời
Hôm nay, Chúa Giêsu tiếp tục cho chúng ta nghe về những dụ ngôn báo trước hạnh phúc của nước Trời. Ngài kêu gọi chúng ta tỉnh thức và sẵn sàng cho giây phút Chúa Cha gọi chúng ta về nhà Người và Ngài đã dùng hình ảnh của ông chủ và người đầy tớ. Thật ra, không bao giờ Thiên Chúa muốn coi chúng ta là đầy tớ đâu, nhưng ở đây hình ảnh này được sử dụng để giúp cho chúng ta dễ nhận ra sứ điệp của lời Chúa mà thôi. Dĩ nhiên, tự bản chất thụ tạo, chúng ta bất trung và chúng ta chỉ xứng đáng là đầy tớ nhưng Thiên Chúa luôn nhìn thấy chúng ta là con như Chúa Giêsu là Con của Chúa Cha. Vì là con nên chúng ta biết mình có chỗ trong nhà Cha, là con nên chúng ta biết mình không thể đi hoang, là con nên chúng ta biết dù gì đi chăng nữa, chúng ta vẫn có quyền được thụ hưởng gia tài của người cha.
Trong một câu chuyện cổ tích nọ, người cha già muốn cho các con mình ra đi để cứu nhân độ thế và ước mơ của ông là các con ông làm được nhiều việc thiện, nhiều việc tốt để mang lại lợi ích cho nhiều người, để sau khi kết quả trở về trong hân hoan vì những thành quả của các con mình.
Thiên Chúa sai chúng ta đến với mọi người trong trần gian này cũng với một sứ mệnh tương tự như sứ mệnh của những người con trong câu chuyện cổ tích trên. Chúng ta hãy sống yêu thương, bác ái để làm cho cuộc sống anh chị em của mình được hạnh phúc, vì Thiên Chúa đã đến trần gian để mong mang lại hạnh phúc cho mọi người.
Lạy Thiên Chúa,
Xin giúp chúng con luôn ý thức sẵn sàng như những người đầy tớ khôn ngoan luôn chờ đợi chủ. Sự đợi chờ của chúng con được thể hiện bằng tất cả nỗ lực mang tình yêu thương của Cha đến cho mọi người, với ước mơ được cùng tất cả anh chị em con được về hưởng hạnh phúc vĩnh cửu cùng Cha trên quê trời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Phải sẵn sàng
“Anh em hãy thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Hãy làm như những người đợi chủ đi ăn cưới về, để khi chủ vừa về tới và gõ cửa là mở ngay.” (Lc. 12, 35-36)
Trong đời sống con người, Đức Giêsu tự tỏ mình ra bằng nhiều cách khác nhau xuyên qua những biến cố. Kitô hữu phải luôn sẵn sàng nhận ra Người, đón rước và đi theo Người. Người dẫn ta đi đâu, đến đâu ta không biết. Như Thiên Chúa đã nói với tổ phụ Áp-ra-ham: Con hãy đứng dậy, lìa bỏ tất cả và sẽ đi đến xứ sở Ta chỉ cho con. Ông đi đến hết chỗ này qua chỗ khác hướng về nơi không biết. Ước chi Kitô hữu học lấy bài học tỉnh thức và luôn luôn sẵn sàng theo thánh ý Chúa như ông Áp-ra-ham.
Sẵn sàng đón rước Chúa đến:
Đức Giêsu bảo các môn đệ phải luôn luôn thắt lưng để lo phục vụ, nghĩa là sẵn sàng làm việc hay chuẩn bị lên đường trong mọi hoàn cảnh. Luôn luôn sẵn sàng lên đường như dân Do thái chuẩn bị hành trình trở về đất hứa để mừng lễ Vượt qua, lễ đón mừng Đấng Thiên sai cứu thế.
Đức Giêsu còn nói hãy cầm đèn cháy sáng để mở ngay cho chủ lúc chủ đi ăn cưới về, dù chủ có về trễ. Đó là lời khuyên bảo phải luôn luôn mau lẹ đáp lại tiếng Chúa gọi trong mọi biến cố, mọi cảnh ngộ. Trong Thánh kinh, trong kinh nguyện, mọi nơi, mọi lúc, Chúa đều thông dịch cho chúng ta hiểu qua hành động, qua dấu chỉ thời đại, vì Người luôn luôn bước tới ngày quang lâm để dẫn đưa chúng ta đi với Người.
Phúc cho những ai chủ thấy vẫn tỉnh thức, những ai chiến đấu kiên cường chống lại những dục vọng và những ươn hèn của xác thịt đang ru ngủ họ trong u mê tăm tối. Và đặc biệt hạnh phúc hơn nữa cho những ai vẫn luôn luôn sẵn sàng chờ đợi dù còn lâu Chúa mới đến.
Lãnh nhận phần thưởng:
Mỗi lần gặp Chúa là mỗi lần Kitô hữu được bình an và hạnh phúc, nhờ đó họ càng tỉnh thức, sống tỉnh táo hơn. Phần thưởng sau cùng là được mời vào tham dự tiệc nước trời. Những người vẫn luôn luôn tỉnh thức tới cùng sẽ được mời vào đồng bàn với Chúa, được Chúa chia sẻ vinh quang của Ngài đến muôn đời.
RC
Suy Niệm 6: TỈNH THỨC THÌ SẼ ĐƯỢC CỨU (Lc 12, 35-38)
Xem CN 19 TN C
Những trận mưa lớn kèm gió to tại nơi này hay nơi kia đã khiến bao người nhiều phen ú tim với "những cái chết không báo trước” do những cây cổ thụ đổ xuống hay do sạt lở đất đè lên người...
Hôm nay, bài Tin Mừng trình thuật việc Đức Giêsu căn dặn các môn đệ về sự tỉnh thức để đón chờ Chúa đến.
Tinh thần đón chờ này được ví như người đầy tớ đón chờ ông chủ đi ăn cưới về. Người đầy tớ không hề biết bao giờ ông chủ về, vì đám cưới của người Do thái thường kéo dài có khi buổi sáng, có khi cả ngày hay tới đêm khua... hoặc cũng có thể kéo dài lên tới vài ngày. Tuy nhiên, sự chờ đợi của họ không phải chỉ có ngồi và chờ, nhưng phải thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn. Như vậy, họ phải luôn trong tư thế làm việc, sẵn sàng. Tại sao vậy? Thưa! Vì sự xuất hiện của ông bất thình lình đến độ như tên trộm.
Như vậy, tỉnh thức mà Đức Giêsu nói đến ở đây chính là mỗi người cần có thái độ sẵn sàng đón chờ ngày Chúa đến; chờ đợi cái chết của chính mình trong tinh thần của kẻ tỉnh thức với đầy đủ đèn, dầu trong tay là những hy sinh, những việc đạo đức...
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức để sống trong ơn Chúa. Muốn được sống trong tâm tình con Chúa, phải luôn có thái độ sám hối, ăn năm, làm việc lành phúc đức. Cần thanh tẩy đời sống hằng ngày. Nêu gương sáng cho tha nhân.
Làm được điều đó, chúng ta sẽ được Thiên Chúa trọng thưởng là hạnh phúc đời đời trong cuộc sống mai hậu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn có tinh thần tỉnh thức qua cuộc sống thường ngày bằng những công việc làm cụ thể trong sự hướng thiện, để một khi Chúa đến với mỗi người chúng con bất cứ giờ nào, chúng con đều sẵn sàng ra đi nghênh đón Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
19/10 Làm giàu trước mặt Chúa
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Làm giàu trước mặt Chúa.
Thứ Hai tuần 29 thường niên.
"Những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?"
Lời Chúa: Lc 12, 13-21
Khi ấy, có người trong đám đông thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài cho tôi". Người bảo kẻ ấy rằng: "Hỡi người kia, ai đã đặt Ta làm quan xét, hoặc làm người chia gia tài cho các ngươi?"
Rồi người bảo họ rằng: "Các ngươi hãy coi chừng, giữ mình tránh mọi thứ tham lam: vì chẳng phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu".
Người lại nói với họ thí dụ này rằng: "Một người phú hộ kia có ruộng đất sinh nhiều hoa lợi, nên suy tính trong lòng rằng: "Tôi sẽ làm gì đây, vì tôi còn chỗ đâu mà tích trữ hoa lợi?" Đoạn người ấy nói: "Tôi sẽ làm thế này, là phá các kho lẫm của tôi, mà xây những cái lớn hơn, rồi chất tất cả lúa thóc và của cải tôi vào đó, và tôi sẽ bảo linh hồn tôi rằng: "Hỡi linh hồn, ngươi có nhiều của cải dự trữ cho nhiều năm: ngươi hãy nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi đi!" Nhưng Thiên Chúa bảo nó rằng: "Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?" Vì kẻ tích trữ của cải cho mình, mà không làm giàu trước mặt Chúa, thì cũng vậy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Những kho lớn hơn
Suy niệm:
Cái kho là quan trọng.
Kho bạc quan trọng đối với một đất nước.
Kho lẫm cần cho người làm nghề nông.
Mỗi gia đình, mỗi công ty thường có kho riêng.
Có thể là một tủ sắt để trong nhà hay ở ngân hàng.
Mọi lợi nhuận đều thu vào kho.
Ai cũng muốn cho kho của mình bành trướng.
Sau một vụ mùa bội thu,
mối bận tâm lớn nhất của ông phú hộ trong dụ ngôn
là tìm cho ra chỗ để tích trữ hoa màu của mình,
vì những kho cũ không đủ sức chứa nữa.
Cuối cùng ông đã tìm ra giải pháp này:
phá những kho cũ, làm những kho mới lớn hơn,
rồi bỏ tất cả hoa màu, của cải vào đó,
khóa lại cho thật kỹ, đề phòng kẻ trộm.
Khi nhà kho đã an toàn
thì tương lai của ông vững vàng ổn định.
Nhiều của cải cho phép ông sống thoải mái trong nhiều năm.
Những cái kho lớn cho ông tha hồ vui chơi, ăn uống.
Ông thấy mình chẳng cần đến Chúa, chẳng cần đến ai.
Của cải trong kho bảo đảm cho ông sống hạnh phúc.
Những cái kho là nơi ông đặt lòng mình (x. Lc 12,34).
Xin đừng ai xâm phạm vào chỗ thiêng liêng ấy.
Kho là nơi của cải đổ vào, sinh sôi nẩy nở.
Kho không phải là chỗ chia sẻ cho người khác.
Ông phú hộ sống cô độc, khép kín như cánh cửa kho.
Ông sống với cái kho, sống nhờ cái kho.
Ông tưởng mình đã tính toán khôn ngoan,
nhưng ông không ngờ cái chết đến lúc đêm khuya,
hay có thể có biết bao rủi ro khác xảy đến.
Ông chợt nhận ra mình phải bỏ lại tất cả.
Cái kho không níu được ông, cũng không vững như ông nghĩ.
Những gì ông thu tích như giọt nước lọt qua kẽ tay.
Ai trong chúng ta cũng có một hay nhiều kho.
Có thể chúng ta ôm mộng làm giàu hay đang giàu lên,
chúng ta định nới kho cũ hay xây kho mới.
Chúng ta chăm chút cái kho cho con cháu mai này.
Thật ra của cải không xấu, xây kho cũng không xấu.
“Nhưng phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam” (12,15).
Phải mở rộng những cánh cửa kho của mình,
để kho không phải chỉ là nơi tích trữ cho tôi,
nhưng là phương tiện để tôi giúp đỡ tha nhân.
Ðừng để nhà kho, két sắt, ví tiền thành mục đích.
Người giàu đáng yêu trước mặt Thiên Chúa
là người biết mở kho để trao đi
và thấy Thiên Chúa liên tục làm cho kho mình đầy lại.
Làm thế nào để khi ra trước toà Chúa,
chúng ta thấy kho của mình trống trơn
vì vừa mới cho đi tất cả.
Cầu nguyện:
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng
tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,
chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,
tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,
có bao điều con lãng phí
bên cạnh những Ladarô túng quẫn,
có bao điều con hưởng lợi
dựa trên nỗi đau của người khác,
có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.
Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công chẳng ở đâu xa.
Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.
Con phải chịu trách nhiệm về cảnh người nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân,
vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó
là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.
Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,
vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.
Thế giới còn nhiều người đói nghèo
là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.
Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,
nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: KHO TÀNG GIÊ-SU
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Tiền bạc của cải là mối bận tâm lớn của con người. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường. HIện nay hệ thống tài chính nắm quyền sinh sát thế giới. Trong nền sản xuất công nghiệp phát triển, cần rất nhiều nguyên liệu và nhiên liệu. Ai có nhiều tài nguyên này sẽ giầu có. Sẽ có thế lực. Sẽ điều khiển thế giới. Vì thế ai cũng lo chiếm hữu nhiều tài nguyên. Để có nhiều tiền bạc của cải.
Nhưng nếu chỉ bận tâm về tiền bạc của cải sẽ rất nguy hiểm. Cần có ý thức về những giá trị lớn hơn, cao hơn, bền vững. Nên Chúa Giê-su cảnh báo: “Không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu”. Kể dụ ngôn ông nhà giầu xây kho. Toan tính rất hợp lý, có vẻ chắc chắn và lâu dài. Nhưng biết một mà không biết mười. Chúa chỉ cần đưa ra một câu hỏi: “Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì người sắm sẵn đó sẽ về tay ai”? Tất cả sụp đổ tan tành. Điều quan trọng là bảo đảm được mạng sống. Mạng sống đời này. Nhưng nhất là mạng sống đời đời. Điều đó không nằm trong tầm tay con người. Cần có kho khác và của cải khác bền vững hơn.
Thư Rô-ma cho biết ta tìm thấy điều đó trong Chúa Giê-su Ki-tô. Như tổ phụ Áp-ra-ham đã tin tưởng vào lời hứa của Thiên Chúa. Dám bỏ quê hương tài sản ra đi khi tuổi đã cao. Dám hiến tế cả đứa con trai duy nhất dù chẳng hi vọng sinh con được nữa. Chỉ giữ đức tin vào lời hứa. Tin vào một Thiên Chúa. Chỉ có một đức tin. Tin cả khi không còn gì để tin. Nên tổ phụ đã được tất cả mọi ân sủng do lời hứa của Thiên Chúa đem lại. Cũng thế, khi ta tin vào Chúa Giê-su Ki-tô ta cũng được tất cả. Vì Chúa Giê-su Ki-tô đã từ cõi chết sống lại. Đã từ bỏ tất cả. Để rồi được lại tất cả. Chúa trở nên kho tàng của ta. Tin vào Chúa ta sẽ nên công chính như tổ phụ Áp-ra-ham. Sẽ được lại tất cả (năm lẻ).
Thư Ê-phê-sô giải nghĩa sâu xa hơn. Kho tàng chúng ta có không do công sức của ta. Nhưng do lòng nhân hậu của Chúa. Chúng ta đã sống theo xác thịt. Theo thế gian. Đáng phải chết. “Nhưng Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Ki-tô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki-tô Giê-su trên cõi trời”. Đó là kho tàng không bao giờ hư nát. Vì đó là kho tàng không phải do ta làm ra. Nhưng nhờ tin vào Chúa Ki-tô, ta được thụ hưởng: “Ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Ki-tô Giê-su, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (năm chẵn).
Suy Niệm 3: Ðiều Chỉnh Hướng Ði
Văn hào Nga Léon Tolstoi có kể một truyện ngụ ngôn như sau:
Ngày kia, một người phú hộ gọi người đầy tớ trung thành nhất đến và nói:
Tôi muốn thưởng lòng trung thành của anh; ngày mai, từ lúc mặt trời mọc, anh hãy ra đi, và tính cho đến lúc mặt trời lặn, bao nhiêu dặm anh đi được là bấy nhiêu dặm đất thuộc về anh.
Con người khốn khổ bao năm sống nhờ ông chủ giầu có tưởng mình đang mơ. Tối đó anh không sao chợp mắt được, chỉ mong trời mau sáng để lên đường. Khi ánh dương vừa ló rạng, anh đã hăm hở ra đi. Anh cố gắng đi thật nhanh, nhưng vẫn không thỏa mãn với tốc độ đi, thế là anh liền chạy. Càng nhìn lại quãng đường đã qua, anh càng chạy nhanh hơn, vừa chạy vừa mơ: rồi đây anh sẽ có nhiều đất đai, sẽ giầu có hơn người, sẽ không còn phải sống cảnh đầy tớ nữa; càng mơ, anh càng chạy. Giữa trưa nắng, anh cũng không màng đến chuyện ăn và nghỉ ngơi lấy sức, anh không muốn mất một tấc đất nào. Chiều đến, khi những tia nắng tắt, anh dừng lại và reo lên: "Ðây là đất của ta, ta sẽ có tất cả cho ta, cho gia đình, cho tương lai". Thế nhưng, chính lúc thốt lên câu đó, anh thấy mắt mình hoa lên, tay chân không cử động và tim cũng ngừng đập. Ngày hôm sau, người ta chôn cất con người khốn khổ ấy trong hai thước đất, khoảng đất vừa đủ cho một con người.
Nỗi khốn khổ của người đầy tớ trên đây chính là sự khờ khạo của anh; anh khờ khạo đến độ không nhận ra cái bẫy người giầu giăng ra, cũng như không đo lường được sức mình.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng gọi những kẻ giầu có là ngu dại. Cái ngu dại của người phú hộ trong dụ ngôn là không thể nhìn xa hơn cái kho lẫm mà ông tự xây cất để giam hãm mình vào; cái ngu dại của ông là không biết mình có đem theo được của cải nào sau khi chết hay không?
Kẻ ngu dại nói chung là kẻ sống mà không biết mình đang đi về đâu, không biết đâu là ý nghĩa và hướng đi của cuộc đời. Kẻ ngu dại là kẻ lấy phương tiện cuộc sống làm cùng đích đời người; họ chạy theo quyền lợi, danh vọng, tiền bạc, họ chối bỏ tiếng lương tâm để làm điều phi pháp; họ chà đạp người khác để đạt danh vọng, quyền bính.
Cuộc sống hiện tại có thể là một cạm bẫy. Những giành giựt mưu sinh có thể biến chúng ta thành kẻ ngu dại, chỉ nhìn thấy chén cơm manh áo mà quên đi ý nghĩa và cùng đích của cuộc sống. "Cái khó không những bó cái khôn", mà còn trói buộc lòng quảng đại của chúng ta.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta điều chỉnh hướng đi. Hướng đi của những người có niềm tin phải là hướng đi về những giá trị của Tin Mừng và cùng đích của cuộc đời. Giữa chợ đời tranh chấp bon chen, người có niềm tin sẽ bị xem là kẻ mát mát, khờ dại, nhưng điều người đời cho là khờ dại chính là lẽ khôn ngoan, là luận lý của Thiên Chúa.
Dù phải lội ngược dòng để trung thành với những giá trị Nước Trời, chúng ta cũng hãy can đảm tiến bước và tín thác vào Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Đêm Nay Đòi Mạng Ngươi
Và Người nói với họ: “Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, vì không phải hễ ai được dư giả, thì mạng sống người ấy nhờ của cải mà được bảo đảm đâu.” (Lc. 12, 15)
Đức Giêsu đến thế gian để lo thực hiện công việc của Cha Người: “Của nuôi Thầy là làm theo ý Đấng đã sai Thầy và hoàn tất công việc của Ngài”. Người loan báo nước trời đã đến rồi, phải sám hối trở về kẻo quá trễ. Thời giờ gấp lắm rồi.
Có một người đến xin Đức Giêsu bảo anh mình chia gia tài cho mình. Chúng ta tất cả cũng giống như anh đó thường xin Người giúp đỡ cho những nhu cầu của chúng ta hàng ngày. Đức Giêsu không được Thiên Chúa sai đến để lo giải quyết những công việc đời này. Thánh ý Thiên Chúa là muốn Người loan báo Tin mừng cứu độ cho người nghèo khổ. Đó mới là khẩn thiết! Người không để bị phân tán về những việc theo đuổi của cải thế gian. “Coi chừng!” đời sống đời đời của mỗi người không được của cải bảo đảm đâu. Thay vì trì hoãn để tham lam thu góp giàu sang thế gian, hãy lo chuẩn bị đón nhận nước trời.
Chúng ta đều biết tất cả mọi của cải dễ gây rắc rối bấn loạn. Những người tham quyền, tham giàu, tham danh, hưởng lạc, tự do buông thả, của cải dù bất chính hay chính đáng không bao giờ thỏa mãn dục vọng cho đã, cho sung sướng, vui chơi thỏa thích đâu. Họ không lo đến ngày mai. Họ muốn tất cả, do đó chắc chắn bằng bạo lực hay bằng sức cố gắng riêng và kiệt lực đến bất nhẫn. Họ thật vô phúc như sách Khôn ngoan nói: Chúng bôn ba vội vã hưởng lạc nhờ của hiện có và phung phí của thiên tạo như thời thanh xuân trác táng. Đức Giêsu bảo: “Đồ ngốc, đêm nay người ta sẽ đòi mạng ngươi”, và sau đó còn gì …?
Lúc thuận cũng như lúc nghịch, Đức Giêsu thường nhắc tới tính chất mỏng dòn của đời sống, đặc biệt đối với kẻ tưởng mình được ổn định. Cái chết thường xuyên xẩy đến, nhất là lúc chúng ta không ngờ. Cần phải tích trữ những kho tàng trên trời bằng sám hối, cầu nguyện, ăn chay và bố thí trước kẻo quá trễ.
RC
Suy Niệm 5: HÃY COI CHỪNG KHI SỬ DỤNG TIỀN CỦA! (Lc 12, 13-21)
Xem CN 18 TN C
Của cải là nhu cầu cần thiết trong cuộc sống. Không có tiền, chúng ta khó có thể đáp ứng nhu cầu căn bản như cơm ăn, áo mặc. Tuy nhiên, của cải là con dao hai lưỡi, nó có thể trở thành đầy tớ tốt cho những ai biết sử dụng và trở thành ông chủ tồi nơi những kẻ thượng tôn nó.
Trong thực tế, rất nhiều người cảm thấy an tâm vì cho rằng: “Có tiền mua Tiên cũng được”! Đây là một quan niệm sai lầm căn bản.
Chính vì thế, nên Đức Giêsu đã lên tiếng cảnh báo những kẻ bám vào của cải vật chất như là cứu cánh của mình rằng: "Các ngươi hãy coi chừng, giữ mình tránh mọi thứ tham lam: vì chẳng phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu".
Thật vậy, kho tàng của chúng ta có đồ sộ đến thế nào thì cũng chẳng hề đảm bảo được mạng sống. Nó cũng chẳng đem lại cho chúng ta hạnh phúc thật và không bao giờ có chuyện hứa hẹn cho chúng ta sự sống vĩnh cửu.
Thấy được mối nguy hại của vật chất, và thấy được sự ràng buộc cho những ai muốn theo Chúa để làm môn đệ mà lại vướng bận vào của cải, nên Đức Giêsu nói tiếp: "Ai trong các ngươi không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta”.
Khi dạy như thế, Đức Giêsu không muốn nói là không được chiếm hữu của cải, bởi vì bản chất của nó không phải là xấu hay tội. Vì thế, Đức Giêsu không hề có thái độ kết án người giàu, mà chỉ kết án những kẻ giàu nhưng không biết sử dụng đồng tiền cách khôn ngoan. Ngược lại, họ lại trở thành kẻ ích kỷ như nhà phú hộ giàu có đối xử với Lazarô nghèo khổ không bằng con chó trước cửa nhà ông.
Như vậy, khi nói từ bỏ của cải là Ngài muốn nói đến việc biết xử dụng của cải như thế nào cho có ích nơi mình và người khác. Sử dụng tiền theo tinh thần của Đức Giêsu chính là biết chia sẻ cho những người túng thiếu, biết giúp đỡ cho Giáo Hội để lo cho người nghèo và phát triển Giáo Hội... Nói chung là biết dùng đồng tiền hữu hạn để mua lấy sự vô hạn là Nước Trời qua công việc bác ái, từ thiện của mình.
Thật vậy, ngang qua cách sử dụng tiền của, chúng ta dễ dàng nhận ra người đó đang thuộc về ai! Người môn đệ của Chúa thì sẽ sử dụng nó như là tôi tớ và phục vụ cho lợi ích của Giáo Hội cũng như người nghèo. Còn những người làm đồ đệ cho tiền của thì sẽ lo giữ của cho riêng mình và chỉ lo phục vụ điều bất chính nơi mình mà thôi. Họ coi đồng tiền như là chúa tể của họ và ảo tưởng cho rằng nó sẽ đem lại cho mình hạnh phúc thật.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sử dụng đồng tiền cho đúng ý Chúa, hầu qua đó, chúng con sẽ được hạnh phúc mai ngày trên Thiên Quốc. Amen.
Ngọc Biển SSP
18/10 Các con hãy đi giảng dạy muôn dân
- Viết bởi Mt 28, 16-20
Chúa Nhật 29 Thường Niên năm A. KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO.
CẦU CHO VIỆC RAO GIẢNG TIN MỪNG CHO CÁC DÂN TỘC
"Các con hãy đi giảng dạy muôn dân".
Lời Chúa: Mt 28, 16-20
Bài kết thúc Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Mátthêu.
Khi ấy, mười một môn đệ đi về Galilêa, đến núi Chúa Giêsu đã chỉ trước. Khi thấy Người, các ông thờ lạy Người, nhưng có ít kẻ còn hoài nghi.
Chúa Giêsu tiến lại nói với các ông rằng: “Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thày. Vậy các con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thày đã truyền cho các con. Và đây Thày ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.
CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN
"Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho ông Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa".
Lời Chúa: Mt 22, 15-21
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, các người biệt phái họp nhau lại bàn mưu để bắt bẻ Chúa Giêsu trong lời nói. Các ông sai môn đồ của các ông đi với những người thuộc phái Hêrôđê đến nói với Người rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người ngay chính, căn cứ theo sự thật mà dạy bảo đường lối Thiên Chúa. Thầy chẳng cần để ý đến ai, vì Thầy không tây vị người nào. Vậy xin Thầy nói cho chúng tôi biết Thầy nghĩ thế nào: Có được phép nộp thuế cho Cêsarê hay không?"
Chúa Giêsu thừa hiểu ác ý của họ, nên nói: "Bọn người giả hình, các ngươi gài bẫy Ta làm gì? Hãy đưa Ta xem đồng tiền nộp thuế". Họ đưa cho Người một đồng bạc.
Và Chúa Giêsu hỏi họ: "Hình tượng và danh hiệu này là của ai?" Họ thưa rằng: "Của Cêsarê". Bấy giờ Người bảo họ rằng: "Vậy, cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM CHÚA NHẬT TRUYỀN GIÁO A
Lời Chúa: Is. 2, 1-5; 1Tm. 2,1-8; Mt. 28,16-20
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Is. 45, 1.4-6; 1Tx. 1,1-5b; Mt. 22, 15-21
* LỄ TRUYỀN GIÁO
1. Hãy đi khắp thế gian
(‘Manna’)
"Hãy đi khắp thế giới, loan báo Tin Mừng..."
Lời Đức Giêsu mời gọi làm chúng ta nhức nhối.
Thế giới chẳng phải ở đâu xa.
Thế giới là quê hương tôi với gần 80 triệu dân.
Thế giới là những người tôi vẫn gặp, những nơi tôi vẫn sống.
Thế giới ấy, chân tôi chưa một lần đi hết,
miệng tôi chưa một lần loan báo tin vui.
Tôi có lòng tin không? Tôi có dám tin Lời Chúa không?
Chúa hứa cho những ai tin được khả năng trừ quỷ,
nghĩa là giải phóng con người khỏi mọi hình thức nô lệ,
khả năng chữa bệnh để xoa dịu nỗi đau của trần gian,
khả năng nói những ngôn ngữ mới để đem lại hiệp nhất.
Các tông đồ đã tin và thấy Chúa cùng làm việc với mình.
Họ chẳng bao giờ cô đơn trên bước đường rao giảng.
Có nhiều cách loan Tin Mừng, nhiều cách truyền giáo.
Cách thứ nhất là bằng chính cuộc sống bản thân.
Nếu các Kitô hữu đều siêu thoát danh lợi,
sống trung thực, thanh khiết, sống chung thủy, yêu thương...
Một Kitô hữu nghèo mà vui tươi, hạnh phúc,
thì đó là một lời chứng đáng tin cậy.
Làm cho xã hội được tốt đẹp hơn,
đó cũng là một cách loan báo Tin Mừng rất hiệu quả.
Kitô giáo phải góp phần xây dựng một thế giới
hòa bình và huynh đệ, công bằng và ấm no,
nơi nhân phẩm của từng người được tôn trọng,
nơi bóng tối của sự ích kỷ tàn nhẫn bị đẩy lui.
Mẹ Têrêxa Calcutta đã âm thầm loan báo Tin Mừng
bằng những cử chỉ nhân ái với bao người cùng khổ.
Mẹ đã đi nhiều nơi trên thế giới để lập các cộng đoàn.
Còn thánh Têrêxa nhỏ đã truyền giáo tại chỗ
bằng lời cầu nguyện và những hy sinh nhỏ bé.
Chị là nữ tu dòng Kín, sống trong bốn bức tường,
nhưng lại được phong làm bổn mạng các xứ truyền giáo.
Chị đã đi khắp thế giới, không phải bằng đôi chân,
nhưng bằng lòng ước ao của một trái tim cháy bỏng.
Phải sống sao để người ta thắc mắc, đặt câu hỏi.
Nhưng cũng phải sẵn sàng trình bày câu trả lời.
Dù bạn chẳng uyên thâm về giáo lý
nhưng hãy bập bẹ nói về Chúa bằng kinh nghiệm của bạn.
Truyền giáo là giới thiệu cho người khác Đấng tôi đã quen.
Có thể người ấy đã biết Đấng này từ lâu rồi.
Anrê đã gọi Simon, Philipphê đã gọi Nathanaen đến gặp Chúa.
Cần tập đến với người khác
như Đức Giêsu đã đến với người phụ nữ Samari.
Hãy xin nước uống, trước khi nói về Nước Hằng Sống.
Hãy tìm hiểu người đối diện trước khi loan báo Tin Mừng.
Chúng ta cần thấm nhuần văn hóa dân tộc
thì mới biết cách nói về Chúa Cha cho đồng bào mình.
Nếu cả đời, mỗi Kitô hữu mời được một người theo đạo,
thì nguyện ước của Đấng Phục Sinh được thành tựu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Thánh Têrêxa nhỏ đã được tôn phong làm tiến sĩ Hội Thánh. Bạn nghĩ gì về kiểu truyền giáo bằng cầu nguyện và hy sinh của chị? Bây giờ có hợp thời không?
Mẹ Têrêxa hiến đời mình cho người cùng khổ, bệnh tật, không phân biệt tôn giáo, màu da... Bạn nghĩ gì về kiểu truyền giáo này? Nó có đánh động trái tim con người hôm nay không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con,
nếu Hội Thánh được ví như một thân thể
gồm nhiều chi thể khác nhau,
thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu
một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất.
Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu.
Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động.
Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu,
thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng,
các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình...
Lạy Chúa Giêsu,
cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con,
ơn gọi của con chính là tình yêu.
Con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội Thánh:
nơi Trái Tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu,
và như thế con sẽ là tất cả,
vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh.
Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con,
mọi ước mơ của con được thực hiện.
(dựa theo lời của thánh Têrêxa)
2. Làm cho muôn dân trở thành môn đệ -Mt 28, 16-20
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Lời cuối cùng của Chúa Giêsu trước khi lên trời, theo Tin Mừng Thánh Mat-thêu là: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ.”
Ngài không còn ở giữa chúng ta như Em-ma-nu-en nữa, Ngài muốn chúng ta tiếp nối công trình của Ngài “cho đến tận thế.” Đó là lệnh truyền cuối cùng; Nhưng đối với các Tông đồ, đây là lệnh xuất phát. Lệnh này đã được ban trên núi, ở Ga-li-lê, nơi Ngài bắt đầu sứ mệnh cứu thế của Ngài, nơi Ngài ban hiến chương Nước Trời (tám mối phúc thật). Ngài kết thúc sứ mệnh ấy bằng cách sai các môn đệ vào thế giới, tiếp tục và hoàn tất công trình cứu độ của Ngài. Thánh Mat-thêu ghi lại thái độ của các Tông đồ: “Khi thấy Ngài, các ông bái lạy Ngài”, nghĩa là nhìn nhận Ngài là Thiên Chúa, mặc cho một số người còn hoài nghi.
Chúa Giêsu nói: “Mọi quyền hành trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy”. Chúng ta không nghe Ngài nói, cũng không được chứng kiến cảnh tượng đó, nhưng lời nói của Ngài thật oai nghiêm! Ngài đứng đó giữa các ông, nhưng oai nghi làm sao! Cao cả tuyệt vời! “Mọi quyền hành trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy”. Làm như Ngài không còn thuộc về trần gian này nữa.
Chúng ta có thể nhìn lại nơi đỉnh núi Ta-bo-rê, nơi “Ngài sáng chói như mặt trời”, khiến các môn đệ có mặt phải sấp mình xuống đất, hoảng hồn kinh vía.
Ngài đã sống và đã chết, nhưng giờ đây, Ngài đã sống lại vinh hiển. Ngài là Thiên Chúa hằng sống, đã chiến thắng sự chết và tội lỗi một cách vẻ vang. Ngài còn mang lấy xác phàm, nhưng Ngài đã thuộc về thượng giới, như Ngài đã từng nói với ông Ni-cô-đê-mô và với người Do thái: “Tôi hằng hữu”.
Vậy lệnh truyền: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ”, là lệnh của một Thiên Chúa quyền năng tuyệt đối, chứ không chỉ là lệnh của một người phàm, dù họ là ai.
Chúng ta nghĩ sao?
Chúng ta không hiểu tầm quan trọng của nó, chúng ta xem như một lời tuyên bố của một người nào đó, không quan trọng cho lắm, hay chỉ là cho một số người nào đó có chức phận. Có lẽ lúc nào đó chúng ta cũng chú ý, nhưng không quan tâm cho lắm. Chúng ta thật nhẹ dạ và nông cạn! Đây là một lệnh truyền chứ không là một lời khuyên. Lệnh truyền là phải thi hành không thể bỏ qua… Và lệnh truyền cho mọi người đã tự nguyện chấp nhận là người của Chúa, và hơn nữa là con Chúa.
Các Tông đồ đã hiểu và đã thi hành, tuy rằng không do sức mình mà do Thánh Thần Tình Yêu. Các ngài đã bôn ba khắp mọi miền đất, đã chấp nhận mọi gian khổ để tuân theo, kể cả cái chết.
Thánh Phao-lô, kẻ sinh sau đẻ muộn, cũng đã hiểu và đã hăng say tuân hành, dù phải vượt qua muôn ngàn gian khổ, ngục tù và sau cùng, đã hiến dâng mạng sống, vì lệnh truyền này.
Giáo Hội, hơn hai mươi thế kỷ qua, vẫn tuân hành vì nhận rằng “bản tính của mình là truyền giáo” (Ad Gentes, 1). Giáo Hội không dám bỏ quên lệnh truyền của Thầy mình và cố gắng thi hành đến cùng. Giáo Hội đã tung con cái mình ra khắp muôn phương, trong những vùng đất xa xôi hiểm trở nhất. Những nhà truyền giáo lừng danh như Phan-xi-cô Sa-vi-ê, như cha Ricci, cha Lebbe bên Trung Quốc, và biết bao nhiêu người khác đã vì muốn đem các linh hồn về với Chúa đã không ngần ngại hy sinh tất cả, kể cả mạng sống. Trong số 117 vị thánh tử đạo tại Việt Nam, chúng ta thấy có nhiều giám mục, linh mục, các vị thừa sai ngoại quốc, đã bỏ mình trên miền đất Việt Nam như Thánh Venard, Thánh Đaminh Benares,…
Có lẽ chúng ta không thể so bì với những tay truyền giáo “khổng lồ” ấy, nhưng chúng ta cũng nên tự hỏi: “Tôi có làm gì để truyền giáo trong gia đình tôi, trong làng xóm tôi chưa?”
Lệnh truyền này không chỉ dành cho một thiểu số trong Giáo Hội mà cho mọi người. Là ki-tô hữu cũng là một nhà truyền giáo, chúng ta phải loan truyền cho mọi người Tin Mừng cứu độ của Chúa, vì chúng ta cũng được cứu độ. Chúng ta phải loan truyền tình thương của Chúa, vì chúng ta đã được yêu thương.
Truyền giáo không cần bằng cấp, không cần phương tiện nào cả. Phương tiện, nếu có, chỉ là phụ thuộc. Ngày xưa không có máy tính, không có internet, không có máy móc tinh vi như ngày nay, người ta vẫn truyền giáo. Ngày nay, Đức Giáo Hoàng khuyến khích dùng mọi phương tiện truyền thông tối tân nhất để truyền giáo. Điều đó rất thích hợp với thời đại kỹ thuật số của chúng ta, nhưng phương tiện nào, dù tinh vi đến đâu cũng không bằng cuộc sống. Một cha sở nhà quê chỉ khuyên giáo dân: “Anh em muốn truyền giáo? Hãy sống cho tốt, hãy sống thật tốt”. Và có lẽ cha sở nhà quê ấy không sai lầm. Chính Đức Phao-lô VI đã nói: “Thời đại này, người ta không thích nghe những thầy dạy, mà chỉ tin vào những nhân chứng, và nếu có nghe những thầy dạy, thì thầy dạy đó phải là nhân chứng”.
Sống thật tốt, đó chỉ mới là điều kiện nhưng chưa đủ, vì những người vô thần cũng có thể sống tốt. Phần chúng ta, là ki-tô hữu, chúng ta cần sống tốt, sống thánh giữa đời và đó cũng là phương cách truyền giáo hữu hiệu nhất.
Công Đồng Vatican II đã ban một sắc lệnh về “hoạt động truyền giáo”. Đức Chân Phước Gioan Phao-lô II luôn khuyến khích việc “Phúc Âm hóa mới”, việc “tái Phúc Âm hóa”. Các Ngài luôn thao thức và kêu gọi toàn thể Giáo Hội phải ra đi, phải loan báo Tin Mừng cứu độ…
Các Ngài tiếp nối công trình và tiếng gọi của Chúa Giêsu. Các ngài, từ Đức Gioan XXIII, Phao-lô VI, Gioan Phao-lô II đến đương kim Giáo Hoàng Bê-nê-đic-tô XVI, đã đi khắp thế giới, để làm gì? Để loan báo Tin Mừng, các ngài đi bằng phi cơ, thánh Phao-lô đi bộ, đi thuyền… tất cả chỉ nhắm một mục tiêu: loan báo Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ.
Trong thực trạng hôm nay, chúng ta thấy gì? Thế giới càng ngày càng lún sâu vào làn sóng vô thần… Chúng ta có thể làm gì để thực thi lệnh truyền của Chúa? Chúng ta có cảm thấy rằng, chúng ta có sứ mệnh mang Tin Mừng của Chúa cho mọi người không?
Nhiều nơi trên thế giới, nhất là những nước tân tiến, giàu có, người ta sống như không cần Thiên Chúa. Giàu có, sung túc, người ta chỉ lo hưởng thụ, vui chơi, nên Thiên Chúa trở thành thừa thãi. Nơi khác, Thiên Chúa thẳng thừng bị loại trừ không có đất sống… Vậy, bổn phận của chúng ta phải làm gì?
Đứng trước thế giới vô đạo, chúng ta cần phải làm gì hay chúng ta chỉ khoanh tay đứng nhìn? Chẳng lẽ chúng ta bất lực sao?
Đền thờ của Chúa đang được xây dựng, và vẫn còn xây dựng mãi cho đến tận thế. Chúng ta ngồi nhìn để cho người khác xây, chúng ta không tiếp tay sao? Đóng góp một viên gạch cũng quí. Hãy làm một việc gì đó, nhỏ thôi, cũng hữu ích. Hãy đóng góp một hành vi bác ái, một nụ cười tha thứ, tất cả đều giúp ích cho Đền Thờ Thiên Chúa.
Không ai trong chúng ta được phép đứng ngoài công việc xây dựng Nước Chúa. Rất nhiều người vô danh đã hằng ngày góp phần vào công việc “biến mọi người thành môn đệ”. Chúng ta đừng để cuộc sống chúng ta thành vô dụng khi một hành động “vì yêu” sẽ hữu ích cho Nước Chúa.
Âm thầm hay công khai, chúng ta hãy tiếp tay vào công việc mà Chúa đã trao cho chúng ta.
“Hãy đi !” Đó là mệnh lệnh. Đừng tự nhốt mình trong ngục tù ích kỷ và an phận của mình. Hãy lên đường giữa biển người vô đạo, hãy làm sao cho mọi người biết những gì Chúa đã âm thầm nói trong tâm hồn chúng ta.
Mẹ Tê-rê-xa Calcutta bảo chúng ta hãy “làm dịu cơn khát của Chúa Giêsu”. Ngài đang khao khát các linh hồn. Chúng ta đành lòng để Ngài khao khát mãi sao?
Hãy làm được gì bạn có thể làm để máu Chúa không đổ ra vô ích. Thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giêsu, từ khi vào nhà dòng không lâu, một ngày nọ, trong sách nguyện ló ra một phần bức ảnh, Tê-rê-xa thấy máu nơi tay Chúa chịu đóng đinh, chị đau đớn và quyết tâm từ đấy, “ở mãi dưới chân thập giá để gom góp máu Chúa và đổ tràn trên các linh hồn”.
Yêu mến Chúa, chúng ta không thể ngồi yên, bao lâu quanh ta còn bao nhiêu linh hồn chưa biết tình yêu Chúa.
Và Chúa hứa: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Lời hứa đó đã được thực hiện khi Ngài sai Thánh Thần đến trên Giáo Hội. Ngài cũng thực hiện lời hứa ấy bằng cách trở nên tấm bánh tình yêu hằng ngày cho chúng ta ăn, để cùng với chúng ta, cứu vớt các linh hồn.
Ăn lấy tấm bánh thần linh này, chúng ta không hành động một mình và cô đơn, nhưng cùng nhau hành động; nhờ đó, chúng ta mới đủ can đảm làm chứng nhân giữa cái xã hội vô đạo đang lao mình vào cái chết…
“Hãy đi ! Này Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
3. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Trong lời mở đầu của Sứ điệp truyền giáo năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định: “Hội Thánh tự bản chất là truyền giáo; nếu không, thì Hội Thánh không còn là Hội Thánh của Đức Kitô nữa, mà là một trong nhiều nhóm người cuối cùng chỉ phục vụ mục đích riêng của họ và qua đi.” (Sứ điệp Truyền giáo 2017).
Thật vậy, trước khi về trời, Đức Giêsu đã ra lệnh cho các Tông đồ rằng: “Hãy đi khắp cả thiên hạ rao giảng Tin mừng cho mọi loài thụ tạo.” (Mc 16,15). Vâng lệnh truyền của Thầy chí thánh, các Tông đồ đã ra đi rao giảng Tin mừng ở khắp mọi nơi bằng nhiều cách thế khác nhau và cuối cùng đã lấy cái chết để làm chứng cho lời mình rao giảng. Tiếp nối sứ mệnh của các Tông đồ, Giáo hội ở khắp mọi nơi và qua mọi thời luôn luôn thi hành sứ mệnh truyền giáo. Nhờ nổ lực củaGiáo hội, từ con số 12 lúc ban đầu, hiện nay trên thế giới đã có khoảng 1,2 tỷ người công giáo. Dẫu vậy, số người công giáo vẫn còn quá ít so với số còn lại, chỉ chiếm khoảng 17%. Chính vì vậy, lời mời gọi của Đức Giêsu luôn luôn mang tính thời sự và đòi buộc mọi người kitô hữu phải có trách nhiệm thi hành.Đặc biệt, Đức Giáo Hoàng Phanxicôhy vọngnhiều vào tầng lớp giới trẻ và các hiệp hội Giáo Hoàng truyền giáo. Với giới trẻ, Ngài nói: “Người trẻ là niềm hy vọng của sứ vụ truyền giáo. Con Người của Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng mà Người công bố tiếp tục thu hút nhiều người trẻ. Họ tìm cách hiến thân phục vụ nhân loại với lòng can đảm và nhiệt tâm. ‘Có nhiều người trẻ đang cung cấp sự đoàn kết của họ chống lại các sự dữ của thế gian và tham gia các hình thức khác nhau của đấu tranh và hoạt động tình nguyện…. Đẹp thay khi thấy rằng các người trẻ đang là ‘những người rao giảng ngoài đường’, vui sướng đem Chúa Giêsu ra mọi nẻo đường, mọi quảng trường của thành phố, đến mọi ngóc ngách của trái đất!” (ibid., 106). (x. SĐTG 2017, số 8). Với các hiệp hội Giáo Hoàng truyền giáo, Ngài nói: “Các Hiệp Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo là một phương tiện quý giá đánh thức trong mọi cộng đồng Kitô hữu một ước ao vượt qua các giới hạn và sự an ninh của mình để rao giảng Tin Mừng cho tất cả mọi người. Trong số đó, nhờ một linh đạo truyền giáo sâu xa, được nuôi dưỡng hằng ngày, và liên tục cam kết nâng cao ý thức và nhiệt tâm truyền giáo, các người trẻ, người lớn, gia đình, linh mục, giám mục và tu sĩ nam nữ làm việc để phát triển một lòng (tâm hồn) truyền giáo trong mọi người.” (x. SĐTG 2017, số 9).
Vậy, chúng ta phải làm gì để truyền giáo cho có hiệu quả? Ba việc làm thông thường nhưng quan trọng luôn cần phải có khi truyền giáo, đó là: Rao giảng, làm chứng và cầu nguyện. Trong một số bài chia sẻ về chủ đề truyền giáo, tôi đã đề cập kỹ càng về các chủ đề này rồi. Hôm nay, trong khuôn khổ của bài chia sẻ này, dựa vào sứ điệp truyền giáo của Đức Thánh Cha năm 2017, tôi xin được phép gợi ý thêm một số điểm sau đây:
Thứ nhất, đối tượng truyền giáo là tất cả mọi người không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo hay địa vị. Đặc biệt, đối với những người thiện tâm, họ mong muốn được Tin mừng biến đổi. Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Sứ vụ truyền giáo của Hội Thánh, nhắm đến tất cả mọi người nam nữ có thiện tâm, được dựa trên quyền năng biến đổi của Phúc Âm.” (SĐTG 2017, số 1).Vì thế, trong mọi nơi, mọi lúc, trong các mối tương quan gặp gỡ, chúng ta luôn phải có ý thức truyền giáo.
Thứ hai, nội dung truyền đạt của nhà truyền giáo là Tin mừng. Bởi vì, bởi vì “thế giới rất cần Tin mừng của Chúa Kitô.” (x. SĐTG 2017, số 1). Hãy gieo Tin mừng vào tâm hồn người khác:Đọc Tin mừng cho họ nghe, giảng Tin mừng cho họ hiểu, tặng Tin mừng cho họ đọc, phổ biến Tin mừng bằng mọi cách nhất là qua các phương tiện truyền thông. Khi họ đã nghe, đã hiểu thì chắc chắn họ sẽ sống và được biến đổi. Bởi vì, “Phúc Âm là Tin Mừng tràn đầy niềm vui hay lây, vì nó chứa đựng và ban tặng sự sống mới: sự sống của Đức Kitô Phục Sinh là Đấng, qua việc ban Thần Khí ban sự sống, trở nên cho chúng ta Con Đường, Sự Thật và Sự Sống” (x. SĐTG 2017, số 1). Đức Thánh Cha Phanxicô còn đưa ra một số bằng chứng về sự biến đổi nhờ Tin mừng, Ngài nói: “Tôi nghĩ đến cử chỉ của một học sinh ở Dinka, người đã hy sinh mạng sống để bảo vệ một học sinh sắp bị bộ lạc thù nghịch Nuer tàn sát. Tôi nghĩ đến buổi cử hành Thánh Lễ ở Kitgum, bắc Uganda, nơi mà, sau những vụ tàn sát hung bạo bởi một nhóm loạn quân, một vị thừa sai đã làm cho dân chúng lặp lại lời của Chúa Giêsu trên thập giá: ‘Ôi Thiên Chúa của con, ôi Thiên Chúa của con, sao Ngài nỡ bỏ con?’ Như một cách diễn tả tiếng khóc than tuyệt vọng của các anh chị em của Chúa Chịu Đóng Đinh. Với dân chúng, buổi cử hành Thánh Lễ ấy là một nguồn an ủi và can đảm khôn lường. Chúng ta cũng có thể nghĩ đến vô số chứng từ về việc Tin Mừng giúp người ta vượt qua sự hẹp hòi, xung đột, kỳ thị chủng tộc, chủ nghĩa bộ lạc, cùng cổ võ ở khắp mọi nơi, và giữa tất cả mọi người, sự hòa giải, tình huynh đệ và chia sẻ cho nhau như thế nào.”(SĐTG 2017, số 5).
Thứ ba, nhà truyền giáo phải có tấm lòng mục tử, từ đó mới có thể gieo rắc tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa đến với mọi người. Bởi vì, Thiên Chúa là tình yêu. Ở đâu có tình yêu ở đó có Thiên Chúa. Tình yêu đi liền với tinh thần phục vụ, hy sinh. Đức Giêsu đã nói:“Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người đã dám hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.”(Ga 15,13).Chính Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã khẳng định: “Qua Hội Thánh, Đức Kitô tiếp tục sứ vụ của Người như người Samaritanô tốt lành, chăm sóc các vết thương rỉ máu của nhân loại, và như Người Mục Tử Nhân Từ, không ngừng tìm kiếm những kẻ lang thang dọc theo các nẻo đường quanh co chẳng dẫn đến đâu.”(SĐTG 2017, số 5).
Thứ tư, nhà truyền giáo phải biết liều mình đi ra “chỗ nước sâu,” tới các “vùng ngoại vi”. Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Chúng ta được thách thức ‘đi ra khỏi vùng an toàn của mình để đến tất cả các vùng ngoại vi đang cần ánh sáng Tin Mừng.’” (EG, 20). (x. SĐTG 2017, số 6). Chỗ nước sâu ở đây có thể là những vùng sâu vùng xa, các khu nhà ổ chuột, các trại phục hồi nhân phẩm, những nơi mà ít khi hoặc chưa bao giờ người ta được nghe Tin mừng. Chỗ nước sâu ở đây cũng có thể hiểu là nơi những tâm hồn chai đá, khô cứng, tội lỗi… Họ đang “đói khát chân lý và công lý” (x. SĐTG 2017, số 6). Chỗ nước sâu ở đây có thể là những người vô thần, thậm chí là những người đang chống đối Thiên Chúa, chống đối Giáo hội. Đi ra chỗ nước sâu, đi tới vùng ngoại vi có thể gây nguy hiểm cho nhà truyền giáo,nhưng nếu nhà truyền giáo biết “liều mình” như thế chắc chắn sẽ bắt được những “con cá lớn”. Đức Thánh cha nói tiếp: Sứ vụ truyền giáo nhắc nhở cho Hội Thánh rằng Hội Thánh không phải là cùng đích cho chính mình, mà là công cụ khiêm tốn và trung gian của Nước Trời. Một Hội Thánh quy chiếu về chính mình, một Hội Thánh hài lòng với những thành công trần thế, thì không phải là Hội Thánh của Đức Kitô, thân thể bị đóng đinh và vinh hiển của Người. Đó là lý do tại sao chúng ta nên thích "một Hội Thánh bị bầm dập, đau đớn và dơ bẩn bởi vì nó đang ở ngoài đường, chứ không phải một Hội Thánh bệnh hoạn vì bị giam hãm và ràng buộc bởi sự an toàn của mình" (ibid., 49). (SĐTG 2017, số 6).
Cuối cùng, nhà truyền giáo cần noi gương Mẹ Maria: Noi gương Mẹ lên đường mang Chúa đến với mọi người như biến cố Mẹ đi thăm bà Êlizabet (x. Lc 1,39-56); Noi gương Mẹ biết quan tâm giúp đỡ sự thiếu thốn của kẻ khác như biến cố tại tiệc cưới Cana (x. Ga 2,1-12); Noi gương Mẹ biết can đảm chấp nhận thánh ý Chúa châp nhận hy sinh Con Một vì nhân loại như biến cố trên thập giá (Ga 19,25-27). Đồng thời, chúng ta cũng cần nhờ Mẹ Maria đồng hành và nâng đỡ trên mọi nẻo đường truyền giáo. Đức Thánh Cha nói: “Trong việc thực thi sứ vụ truyền giáo của chúng ta, chúng ta hãy rút cảm hứng từ Mẹ Maria, Mẹ của việc Phúc Âm hóa. Được Thần Khí thúc đẩy, Mẹ đã đón nhận Lời Chúa ở tận đáy đức tin khiêm tốn của Mẹ. Nguyện xin Mẹ Đồng Trinh giúp chúng con nói lên lời ‘xin vâng’ của chính mình, ý thức về nhu cầu cấp bách để làm Tin Mừng của Chúa Giêsu vang lên trong thời đại của chúng con. Xin Mẹ giúp chúng con có lòng nhiệt thành mới trong việc mang đến cho tất cả mọi người Tin Mừng về sự sống, là sự sống đã chiến thắng sự chết. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con để chúng con có thể có được sự táo bạo thánh thiện cần thiết để khám phá ra những cách thức mới ngõ hầu mang lại ơn cứu độ cho mọi người nam nữ.” (SĐTG 2017, số 8).
Nguyện xin Đức Giêsu, “Đấng loan báo Tin Mừng tiên khởi và vĩ đại nhất” (Phaolô VI, Evangelii Nuntiandi, 7), Đấng tiếp tục sai chúng ta đi loan báo Tin Mừng về tình yêu của Chúa Cha trong quyền năng của Chúa Thánh Thần (x. SĐTG 2017, lời mở đầu) hướng dẫn và đồng hành để sứ vụ loan báo Tin mừng của Giáo hội và mỗi người kitô hữu chúng ta mang lại hoa trái dồi dào. Amen.
4. Hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian
(Is 2, 1-5; 1 Tm 2, 4-6; Mt 28, 16-20)
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước vào tháng 10 tháng Mân Côi, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy khám phá lại nét đẹp của lời Kinh này và siêng năng đọc kinh Mân Côi cầu cho thế giới được hoà bình. Tháng 10 còn là tháng truyền giáo, Giáo hội cũng kêu gọi con cái mình dấn thân cho việc truyền giáo, bước theo Chúa Giêsu trong hành trình đức tin, và có Mẹ Maria Nữ Vương truyền giáo đi đầu dẫn chúng ta đến với Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế và dạy chúng ta mang Chúa đến cho tha nhân.
Nhưng Chúa nhật truyền giáo để làm gì?
Để nhắc lại rằng bản chất của Giáo hội là truyền giáo; mục đích đầu tiên của Giáo hội khi được Chúa Giêsu thiết lập là truyền giáo.
Ai phải truyền giáo?
Là chi thể của Hội Thánh, tất cả những người đã chịu phép rửa tội phải thi hành nhiệm vụ truyền giáo. Điều này không có ý nói họ phải đi thật xa. Những nơi nào có họ, họ phải truyền giáo. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô nói: “Không ai được ngưng nghỉ việc này, vì là bổn phẩn khẩn thiết của ngày hôm nay”. Với lại, chính Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta: “Các con hãy đi giảng dạy muôn dân ” (Mt 28, 19). Thánh Phaolô kêu lên: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9, 16).
Giáo hội tự bản chất là truyền giáo.
Nếu như Isaia con trai Amót được thị kiến: “Các dân nước sẽ đổ xô về núi Chúa... trong ngày sau hết” (x. Is 2, 1-5). Thánh Phaolô cho người con tình thần của mình biết: “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu rỗi” (x.1 Tm 2, 4 – 6). Cả bốn sách Tin Mừng đều nêu bật ý nghĩa của việc truyền giáo, nội dung sứ vụ mà Chúa Giêsu trao cho Giáo hội, chứng tỏ bản chất của Giáo Hội là truyền giáo. Chính Chúa Giêsu Phục sinh đã nói với các tông đồ nơi Phòng Tiệc Ly như sau: “Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con” (Ga 20, 21). Đến lượt Chúa Con cũng sai Giáo Hội ra đi cho đến tận cùng trái đất. Đây là sứ điệp duy nhất phát xuất từ Thiên Chúa gửi đến hết mọi người ngõ hầu họ được cứu chuộc và trở nên con cái Thiên Chúa.
Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã nhấn mạnh: Sứ vụ truyền giáo là “bổn phận của toàn thể Giáo hội”, vốn “tự bản chất là thừa sai” (Ad gentes, 2). Trích dẫn lời Đức Phaolô VI, ngài tiếp: “Giáo Hội hiện hữu để truyền giáo, để giảng thuyết và giáo huấn, để làm máng chuyển quà tặng của các ân sủng, để hoà giải các tội nhân với Thiên Chúa, để trường tồn hy lễ của Chúa Kitô trong Thánh Lễ, đó là việc tưởng niệm cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển của Người.”
Đức Bác Ái là linh hồn của sứ mạng truyền giáo.
Thánh Phaolô viết: “Tình Yêu Chúa Kitô thôi thúc tôi” (2 Cr 5, 14). Đức Kitô thúc bách những người đã chịu phép Rửa tội nam phụ cũng như lão ấu, kể cả người đau yếu lẫn người nghèo, khi đã đón nhận tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, có sứ mạng rao giảng và mang tình yêu cho hết mọi người, bằng lời nói và chứng tá cụ thể của Đức Ái. Truyền giáo là gì gì nếu không phải là loan báo Tin Mừng về tình yêu của Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu đã làm. Ngài không những đã hăng say loan báo tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người, Ngài còn hy sinh mạng sống để làm chứng cho tình yêu đó. Hơn thế nữa, Ngài mạc khải và nhập thể tình yêu đó nơi chính bản thân mình. Ngài là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa. Nơi Ngài, tình yêu chiến thắng tội lỗi và sự chết. Vì thế, sứ điệp Tin Mừng Nước Thiên Chúa trở thành Tin Mừng Phục Sinh, Niềm Hy vọng cho toàn thế giới.
Nhân dịp Đại Năm Thánh 2000, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Sứ mạng của Giáo Hội kéo dài sứ mạng của Chúa Kitô. Giáo Hội không ngừng rao giảng cho thế giới Tình Phụ Tử của Thiên Chúa, bằng việc rao giảng và bằng chứng tá của những con cái mình...nhờ việc thực hành mệnh lệnh tình thương đối với Thiên Chúa và đối với anh chị em”. Ngài cũng khuyến khích mọi thành phần trong Giáo hội can đảm khởi hành “mùa truyền giáo mới”, vì “Giáo Hội cần đến với con người, với sự tế nhị và tôn trọng của một người phục vụ. Và Giáo Hội tin tưởng rằng công việc phục vụ trước tiên và cao cả nhất là công việc rao giảng Tin Mừng Chúa Kitô”, ngài kêu gọi: “Anh chị em đừng sợ: hãy mở toang mọi cửa để tiếp đón Chúa Kitô”(Huấn Đức ngày 22 tháng 10/2000, tại Roma).
Cử hành ngày Thế giới Truyền giáo năm nay diễn ra vào ngày cuối của THĐGM về gia đình, trong bối cảnh của Năm Tân Phúc Âm Hóa gia đình. Đức Thánh Cha Phanxicô viết trong sứ điệp của mình rằng: “Ngày nay vẫn còn rất nhiều người không nhận biết Chúa Giêsu Kitô. Thế nên, sứ mạng ad gentes vẫn còn hết sức cấp bách. Mọi thành viên của Hội Thánh được kêu gọi tham gia sứ mạng này, vì Hội Thánh tự bản chất là truyền giáo: Hội Thánh được sinh ra để “đi ra”… Ngày Thế giới Truyền giáo cũng là dịp để làm bùng cháy lên ước muốn và nghĩa vụ tinh thần của việc hân hoan tham gia vào sứ mạng ad gentes. Các cá nhân đóng góp tiền bạc là một dấu chỉ của sự hiến dâng, trước là cho Chúa và rồi cho đồng loại; bằng cách này, sự đóng góp của cải vật chất có thể là một phương tiện để loan báo Tin Mừng cho nhân loại dựa trên tình thương” (Trích Sứ điệp truyền giáo 2014).
Thế giới hôm nay có biết bao tin mừng, tin mừng con ra đời, mừng cưới hỏi, thi cử đỗ đạt, tìm được việc làm đã mất, làm ăn phát đạt… tuy nhiên, đó không phải là Tin Mừng viết hoa. TIN MỪNG, thì chỉ có một: là nhận biết (Thiên Chúa yêu thương chúng ta!) Vậy lệnh Chúa truyền vẫn còn khẩn trương: “Hãy đi rao giảng Tin Mừng”. Tin Mừng Thiên Chúa yêu thương mọi người và từng người, đồng thời phải bận tâm với những người chưa có đức tin hoặc mất đức tin vì tình yêu là lòng thương xót Chúa thôi thúc.
Nhờ lời chuyển cầu của thánh Phanxicô Xaviê, thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu là quan thầy các xứ truyền giáo, nhất là của Mẹ Maria Ngôi Sao truyền giáo, mẫu gương loan báo Tin Mừng, cầu thay nguyện giúp cho Hội Thánh trở nên một mái nhà niềm nở tiếp đón mọi người; một người mẹ cho mọi dân tộc và là nguồn suối tái sinh cho thế giới chúng ta. Amen.
5. Truyền Giáo
"Không biết khi Con Người đến, liệu còn gặp thấy niềm tin trên mặt đất nữa không?" Lời kết của bài Tin Mừng hôm nay gợi cho chúng ta nhiều suy nghĩ. Câu hỏi đó hướng đến một lời mời gọi tích cực, nhưng cũng có thể nói lên một thực trạng tiêu cực của niềm tin không chỉ cho các đồ đệ khi xưa nhưng còn cho chính con người ngày nay.
"Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em". Sứ mạng truyền giáo loan báo Tin Mừng tình yêu cứu độ mà Chúa Giêsu đã khai mở và thực hiện, Ngài đã truyền lại cho Giáo Hội tiếp tục sứ mạng ấy. Đã 2000 năm qua đi và trong bối cảnh của Chúa nhật cầu nguyện cho việc truyền giáo, cộng đoàn chúng ta qui tụ nơi thánh đường này để cùng nhìn lại sứ mạng Kitô hữu của mình.
Trong sứ điệp của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II về Ngày Quốc Tế Truyền Giáo, Ngài nhấn mạnh đến hai ý nghĩa của việc cử hành ngày quốc tế truyền giáo, đó là: mời gọi canh tân về ý thức truyền giáo, nhắc lại tính cấp bách của hoạt động truyền giáo. Đây là sứ vụ liên quan đến mọi Kitô hữu. Quả vậy, ngay từ ngày được lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, mỗi Kitô hữu đã đón nhận sứ mạng tư tế, vương đế và tiên tri. Nói theo lối trình bày của Hiến Chế Anh Sáng Muôn Dân (Lumen Gentium) thì truyền giáo là bản chất của Giáo Hội. Giáo Hội tồn tại là vì sứ vụ, nghĩa là lý do hiện diện của Giáo Hội là truyền giáo. Và như vậy lệnh truyền của Đức Giêsu về truyền giáo là lệnh truyền cho mỗi Kitô hữu, là bổn phận trách nhiệm của mỗi Kitô hữu.
Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Rôma viết: "Tất cả những ai kêu cầu danh Chúa sẽ được cứu thoát. Thế nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe nếu không có ai rao giảng?"
Nhìn vào thực tế hôm nay số người Kitô hữu chỉ chiếm một phần năm dân số thế giới. Lục địa Á Châu gần bốn tỷ người mà trong đó người tín hữu chỉ là một con số quá bé nhỏ với 2,7%. Còn trong đất nước chúng ta với dân số hơn 70 triệu trong đó người Công giáo chỉ chiếm tỷ lệ khoảng 6% (chưa được một phần mười). Đây phải là nỗi thao thức của mỗi Kitô hữu chúng ta. Cụ thể hơn nhìn vào giáo xứ, vào khu vực địa phương chúng ta đây còn bao nhiêu người chưa được nghe nói về Chúa, về Tin Mừng của Ngài, chưa tin theo Chúa? Lý do nào vậy? Trong đó có trách nhiệm của tôi không? Sẽ không thừa khi nói lên hiện trạng không ít người vẫn còn cho rằng việc truyền giáo là của các Đức Giám mục, Linh mục, Tu sĩ; mà quên rằng chính mình cũng có bổn phận đó. Bên cạnh đó, không thiếu những người Công giáo lý luận: "Ôi thôi, đạo nào cũng là đạo, đạo nào cũng dạy người ta ăn ngay ở lành. Và nếu một người ăn ngay ở lành theo tiếng lương tâm ngay thẳng của họ thì dù họ không được rửa tội, họ vẫn có thể được cứu rỗi. Vậy thì tại sao tôi phải mời gọi họ tin vào Tin Mừng cứu độ, mời gọi họ lãnh nhận Bí tích Rửa tội, gia nhập Giáo Hội.
Để trả lời cho lập luận trên, Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, Tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin xác nhận lại một cách rõ ràng rằng bổn phận truyền giáo của Kitô hữu là cần thiết. Mọi người đều mắc tội nguyên tổ, lương tâm con người có thể sai lầm. Họ vẫn cần nghe Tin Mừng, cần ơn thánh Chúa để có sức mạnh lướt thắng...
Mọi tôn giáo đều có những tia sáng mà chúng ta không được phép coi thường hay dập tắt. Mọi tôn giáo đều là tia sáng khởi đầu của đức tin mà chúng ta mong đợi những tia sáng đó khai triển thành bình minh huy hoàng và dẫn đưa vào ánh sáng rực rỡ của đức khôn ngoan Kitô.
Nói đến truyền giáo, trong suy nghĩ của chúng ta thường là dấn thân làm việc truyền giáo và ai càng làm được nhiều thì người ấy càng được xem là nhà truyền giáo lớn. Lịch sử Giáo Hội qua từng thời kỳ xuất hiện những gương mặt vĩ đại trong hoạt động truyền giáo mà tiêu biểu là thánh Phanxicô Xavier, một đời bươn chải, lặn lội đem Tin Mừng đến vùng xa xôi. Tuy nhiên, bao giờ cũng vậy, ẩn bên trong những hoạt động, động lực cho những hoạt động, kim chỉ nam cho mọi hoạt động ấy là cả một tinh thần cầu nguyện của các nhà truyền giáo cũng như mọi tín hữu. Có thể nói cầu nguyện là linh hồn của hoạt động truyền giáo. Nếu thiếu cầu nguyện thì hoạt động chỉ là những thanh la inh ỏi, hời hợt bên ngoài. Thiếu cầu nguyện cũng là thiếu nền tảng giáo lý cho việc rao giảng.
Trong bài đọc 1, sách Xuất hành thuật lại việc Môsê giơ tay cầu nguyện và Giosuê đánh bại quân Amalech. Khi Môsê hạ tay xuống, sức mạnh của Giosuê không còn nữa, nhưng khi ông giơ tay lên thì phần thắng nghiêng về phía Giosuê. Chiến thắng ấy là của Môsê cùng với Môsê: một sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động.
Một hình ảnh minh họa cho sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động trong hoạt động truyền giáo đó là thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu. Chưa từng bước ra ngoài hoạt động truyền giáo, nhưng chỉ bằng hy sinh và cầu nguyện cho các nhà thừa sai trong việc rao giảng Tin Mừng vậy mà thánh nữ đã được tôn phong làm thánh Tiến sĩ Hội thánh, bổn mạng các xứ truyền giáo.
Gần chúng ta hơn có mẹ Têrêsa Calcutta, một người mà cả thế giới đều biết đến với những hoạt động cho tình yêu thương. Mẹ không chỉ làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu bằng lời nói nhưng mẹ nói về Chúa Giêsu, bày tỏ gương mặt của Ngài bằng chính cuộc sống yêu thương của mẹ. Mẹ đã định nghĩa về một nhà truyền giáo, đó là: "Một tín hữu Chúa Giêsu đến độ không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và yêu mến Ngài".
Truyền giáo chúng ta tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa, một Đức Giêsu Kitô, Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và nhân loại, Đấng đã hiến thân để cứu chuộc mọi người. Và truyền giáo là sứ vụ của Giáo Hội và là một nghĩa vụ mà đức bác ái đòi buộc mỗi Kitô hữu phải thực hiện cho anh em đồng loại mình.
Con người ngày nay cần nhân chứng hơn thầy dạy. Và như thế, truyền giáo không chỉ là rao giảng một giáo lý mà cần thiết là chia sẻ một cuộc sống yêu thương. Đây chính là cốt lõi mà Chúa Giêsu đã cô đọng trong giới luật mến Chúa yêu người. Chúng ta thường nói "giữ đạo". Giữ để khỏi mất. Nhưng giữ cũng còn nghĩa là không muốn cho đi. Bước chân truyền giáo không bao giờ được phép "giữ" mà luôn luôn là "cho" đi.
Khi sống yêu thương tôi luôn mở lòng ra để cho đi, để ban tặng. Tình yêu như một nghịch lý: khi tình yêu càng cho đi thì càng được đầy tràn, càng cho nhiều càng được nhiều, trao ban trọn vẹn sẽ nhận lãnh trọn vẹn. Như thế, truyền giáo chính là truyền tình yêu mà chúng ta đã kín múc từ nơi Thiên Chúa và đem trao lại cho anh em mình.
Trong một xã hội mà người tín hữu chỉ là thiểu số thì việc truyền giáo hiện nay chính là quyết tâm sống để người khác nhận ra Chúa Giêsu là Đấng đã đến chỉ để rao giảng về một thứ đạo của tình yêu thương. Mỗi người chúng ta trong khả năng, hoàn cảnh của mình đều có thể truyền giáo vì không ai nghèo đến nỗi không có gì để ban tặng. Như thế sống yêu thương là một hành động truyền giáo thiết thực nhất có thể kín múc được tình yêu Thiên Chúa.
6. Tinh thần Truyền Giáo (Lc 18, 1-8)
(“Với cả tâm tình” - ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống)
"Không biết khi Con Người đến, liệu còn gặp thấy niềm tin trên mặt đất nữa không?". Trang Tin Mừng hôm nay được kết thúc như thế.
Có thể đó là câu hỏi một thoáng bâng khuâng Chúa Giêsu thốt lên cho riêng mình Người. Cũng có thể đó là câu hỏi dự báo một tình huống không vui Chúa Giêsu cảnh giác cho các môn đệ. Có khi câu hỏi đó đợi chờ một lời đáp tích cực mở ra cho lối sống đức tin lạc quan. Và biết đâu, câu hỏi đó lại chẳng tố giác một thực trạng tiêu cực đang dần dà bào mòn niềm tin tôn giáo?
Nhưng đặt trong bối cảnh của Chúa Nhật cầu cho việc truyền giáo, theo tinh thần của các bài đọc, câu hỏi ấy đã ẩn chứa một lời giải đáp. Đó là: để lòng tin còn mãi trên mặt đất, mọi thành phần của Dân Chúa cần phải sống tinh thần truyền giáo.
1) Tinh thần truyền giáo ấy được nuôi dưỡng bằng sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động.
Nói đến truyền giáo người ta thường nghĩ là phải dấn thân làm việc truyền giáo, và ai càng làm được nhiều, người ấy lại càng được xem là nhà truyền giáo lớn. Thực ra, quan niệm ấy cũng đúng, nhưng không đủ, bởi dù không phủ nhận những kết quả lớn lao trong lịch sử Giáo Hội do hoạt động truyền giáo mang lại, nhưng bao giờ cũng thế, bên trong những hoạt động ấy còn là cả một tinh thần cầu nguyện tích cực của bản thân các nhà truyền giáo cũng như của mọi thành phần Dân Chúa.
Thiếu cầu nguyện, hoạt động sẽ không kết quả, hoặc sẽ lái kết quả sang một hướng khác có nguy cơ "sáng danh tôi, tối Danh Chúa". Vắng cầu nguyện, hoạt động có thể trở thành nguy hại, nó đồng nghĩa với náo động nếu không muốn nói là khua động ầm ĩ hoặc khuấy động ồn ào. Quên cầu nguyện, hoạt động chỉ là hời hợt mang tính phong trào bùng lên đó nhưng rồi cũng lịm tắt đó. Bạo phát bạo tàn, mau xộp mau xẹp! Bỏ cầu nguyện, hoạt động coi chừng chỉ còn là một việc cá nhân, dẫu bỏ ra nhiều công sức, nhưng vẫn không phải là hoạt động của Hội Thánh vốn luôn được nuôi dưỡng phong phú bởi nguồn ơn Chúa Thánh Thần.
Cầu nguyện là linh hồn của hoạt động truyền giáo. Nó đem đến cho những hoạt động một sức sống kín múc tận nguồn sứ mạng.
Bài đọc thứ nhất kể lại một hình ảnh sống động cho thấy mối tương liên không thể tách rời giữa việc Môsê giơ tay cầu nguyện và việc Giosuê đánh bại quân Amalếch. Khi Môsê hạ tay xuống, sức mạnh của ông Giosuê không còn nữa, nhưng khi ông giơ tay lên, phần thắng đã nghiêng về phía Giosuê. Chiến thắng ấy không riêng của Môsê hay riêng của Giosuê, mà là của Môsê cùng với Giosuê, là dung hòa của cầu nguyện và hoạt động, là tổng hợp của ơn thánh Chúa và nỗ lực con người.
Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã được mừng kính vào đầu tháng mười này cũng là một hình ảnh khác minh họa cho sự dung hòa giữa cầu nguyện và hoạt động truyền giáo. Chín năm khuôn mình trong nhà kín Lisieux, chưa hề làm việc truyền giáo bên ngoài, thế nhưng chỉ bằng hy sinh cầu nguyện cho các vị thừa sai và cho công cuộc rao giảng Tin Mừng, thánh nữ đã được Giáo Hội đặt làm Bổn Mạng các xứ truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê một đời bươn chải giảng giải đạo Chúa đến tận miền xa Châu Á.
Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo, nên có thể nói được rằng không bao giờ Giáo Hội thôi truyền giáo. Bốn phần năm dân số địa cầu chưa biết Chúa, nên Giáo Hội phải truyền giáo đã đành, nhưng ngay cả một phần năm đã biết Chúa, Giáo Hội cũng phải tái truyền giáo nữa. Xem như thế, truyền giáo vừa là sứ mạng, vừa là số mạng, tức là sự sống còn của Giáo Hội. Và tinh thần truyền giáo ấy một khi được hun đúc đều đặn bằng cầu nguyện và hoạt động, ta có quyền hy vọng khi Chúa Kitô đến, Người vẫn thấy niềm tin trên mặt đất.
2) Tinh thần truyền giáo ấy được thể hiện khi thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện.
Được nuôi dưỡng bằng cầu nguyện dung hòa với hoạt động cây truyền giáo nhất định sẽ vươn lên, nhưng không thể không biết đến yếu tố thời tiết, mưa thuận gió hòa, hoặc nắng hạn mưa giông. "Nhất nước nhì phân tam cần tứ giống", đó là kinh nghiệm trồng cây. Song một cây lành như cây truyền giáo phải biết chứng minh bằng phẩm chất của mình. Nói khác đi, tinh thần truyền giáo cũng phải được chứng minh bằng chí bền sứ mạng, nghĩa là vừa kiên tâm thực hiện những điều tốt, vừa kiên gan chịu đựng ngay cả những điều xấu nữa (thánh Augustinô), phải bền chí khi thuận tiện cũng như khi không thuận tiện.
Khi thuận tiện là khi chí bền truyền giáo giúp ta tỉnh táo đừng để mất mình trong hoạt động đến nỗi quên đi cầu nguyện, giúp ta phân biệt rõ ràng đâu là đóng góp nhỏ nhoi của mình và đâu là ơn ban vô cùng to lớn của Thiên Chúa, và còn mãi giúp ta không chạy theo những thành công trước mắt để sau này khỏi phải trả giá đắng cay trắng tay thất vọng. Trong một chừng mực nào đó, biết đâu lối sống của ông thẩm phán bạo ngược "chẳng kính sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng coi ai ra gì" trong bài Phúc Âm lại chẳng có vài tương đồng với quan niệm háo thắng hoặc đắc thắng của cách truyền giáo thời Trung cổ, vốn xem Kitô giới như một xã hội lý tưởng, nên cố mà đưa người ta vào bằng chinh phục (truyền giáo) hoặc gắng mà ép người ta về bằng cả chinh phạt nữa (thập tự chinh)?
Xem ra kiên tâm thực hiện những điều tốt trong truyền giáo vào thời thuận tiện cũng không ít vấn đề.
Khi không thuận tiện là khi chí bền truyền giáo không chỉ giúp ta chịu đựng những khắc nghiệt thường xuyên, mà còn giúp ta biết tận dụng hoàn cảnh để mà thanh luyện tâm hồn. Nếu những hoạt động phải chấp nhận giới hạn ngoài ý muốn, thì chí bền như một mạch điện tự động "kiểm soát lợi suất" sẽ bù lại những giới hạn ấy bằng một thao thức phong phú của lời nguyện cầu. Và nếu như hoàn cảnh cụ thể không cho phép có một hoạt động bên ngoài nào nữa, thì vẫn còn đó mênh mông một phương tiện truyền giáo bằng gương sáng tình mến, bằng chứng tá đức tin và bằng cách sống tốt đẹp đời Kitô của mình.
Điều đáng sợ không phải là hoàn cảnh khắc nghiệt, mà là chính mình không đủ chí bền mà vượt qua những khắc nghiệt ấy. Trong ý tưởng này, có lẽ rất thích hợp khi đặt hình ảnh người đàn bà góa bụa của bài Phúc Âm, nhiều lần đến quấy rầy ông thẩm phán mong được minh xét minh định minh oan, ở đây như một cổ võ sống động cho chí kiên bền.
Và dầu hoàn cảnh thuận tiện hay không (bài đọc thứ hai), chí truyền giáo thiết tưởng cũng là biểu tỏ của niềm hy vọng, là tình mến khởi đi từ một đức tin sống động vào Thiên Chúa là Cha nhân ái luôn muốn sự tốt lành trong ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Được như thế, chắc chắn khi Chúa Kitô trở lại vẫn thấy niềm tin còn trên mặt đất trong chí bền của Giáo Hội là thân mình Người.
Ước mong rằng suy nghĩ trên sẽ trở nên ý lực cho cuộc sống và trở nên ý nguyện trong Ngày Thế Giới Truyền Giáo hôm nay.
7. Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên
(Suy tư nhân Ngày Thế Giới Truyền Giáo năm 2008)
SỨ MẠNG TRUYỀN GIÁO
Từ 82 năm nay, ngày Chúa Nhật giữa tháng 10 dương lịch được chọn làm Ngày thế giới truyền giáo. Nhân dịp này, Đức Giáo Hoàng thường công bố một sứ điệp kêu gọi cộng đoàn Công giáo thế giới hãy suy tư và hành động để tham gia sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội. Sứ điệp nhân ngày truyền giáo năm 2008 mang chủ đề: "Được mời gọi để trở thành những môn đệ và tông đồ của Đức Giêsu Kitô". Đức Thánh Cha Bê-nê-đi-tô đã nêu rõ tính cách thánh thiêng của sứ mạng truyền giáo, vì đây "là một ân sủng, một ơn gọi xứng hợp và căn tính sâu xa nhất của Giáo Hội" (trích Tông Huấn Loan báo Tin Mừng số 14). Truyền giáo chính là lệnh truyền của Đấng Cứu Thế với các môn đệ trước khi Người về trời. Công cuộc truyền giáo càng trở nên cấp bách hơn nữa trong thời đại hôm nay, khi con người càng ngày càng tỏ ra dửng dưng đối với tôn giáo và những giá trị tâm linh.
Nhờ Bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được trở nên con cái của Thiên Chúa. Bí tích này cũng mời gọi chúng ta trở nên môn đệ và tông đồ của Đức Giêsu, qua những cố gắng của bản thân trong cuộc sống mỗi ngày.
Trở nên môn đệ là muốn sống đời nội tâm, thực thi Lời Chúa và gắn bó với Người, tức là nên thánh.
Trở nên tông đồ là mong làm cho nhiều người hiểu biết Chúa và đi theo làm môn đệ Người, tức là truyền giáo.
Môn đệ và tông đồ, hai sứ mạng này có tương quan mật thiết với nhau đến nỗi trở thành một ơn gọi duy nhất. Không thể làm tông đồ nếu trước đó không trở nên môn đệ; cũng không thể là môn đệ đích thực nếu không thao thức làm việc tông đồ.
Truyền giáo là gì?
Chúng ta thường xuyên nghe nói về từ này. Nguyên gốc của từ này là một danh từ tiếng La-tinh Missio, động từ là Mittere. Từ này có nhiều nghĩa, và một trong những nghĩa thường được hiểu là gửi đi, sai phái đi để làm một công tác quan trọng. Đức Giêsu chính là Đấng được Đức Chúa Cha sai đến trần gian để cứu độ con người và tạo vật. Chính Đức Giêsu cũng sai các môn đệ ra đi, lên đường để cộng tác với Người trong sứ mạng cao cả này.
Truyền giáo trước hết là "ra đi" khỏi chính con người của mình: chúng ta ai cũng có khuynh hướng ích kỷ, khép kín và coi mình là trung tâm. Chúng ta thường lấy mình làm tiêu chuẩn để phán đoán người khác. Ai không có lối suy nghĩ giống chúng ta thì bị phê bình chỉ trích. "Ra đi" khỏi cái tôi của mình, tức là chấp nhận người khác cùng với ý kiến lập trường của họ, là quảng đại bao dung khi bị xúc phạm. Truyền giáo chính là thoát ra khỏi vỏ bọc ích kỷ để hòa đồng với anh chị em mình, tôn trọng sự khác biệt và chấp nhận những hy sinh vì ích chung. Các môn đệ đầu tiên, khi nghe Đức Giêsu kêu gọi, đã bỏ mọi sự mà theo Người. Các ông từ bỏ những dự tính nghề nghiệp, từ bỏ môi trường gia đình, làng xóm. Các ông không hề băn khoăn lo lắng cho ngày mai, nhưng sẵn sàng bước theo Thày, vì các ông tin rằng theo Thày sẽ không phải thiệt thòi thất vọng.
Truyền giáo còn là "ra đi" khỏi những định kiến: Cuộc sống này được dệt lên bởi những niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và đau khổ. Bước ra khỏi những định kiến để đón nhận tha nhân trong tình huynh đệ hài hòa, không phân biệt lập trường chính trị, tôn giáo hay quan điểm xã hội. Một cộng đoàn đức tin gò bó trong quan niệm khắt khe không thể truyền giáo có hiệu quả. Một Giáo Hội dửng dưng với những giá trị trần thế, hoặc khép mình trước những biến cố vui buồn của cuộc sống xã hội chung quanh, sẽ là một Giáo Hội ảm đạm u sầu thay vì hân hoan hy vọng. Một cộng đoàn không dấn thân phục vụ con người sẽ trở nên một thứ ao tù không lối thoát và thiếu sinh khí.
Nhờ hai yếu tố nêu trên, chúng ta tiến tới một điểm cuối cùng, cũng là điều quan trọng nhất, truyền giáo chính là kể lại cuộc đời của Đức Giêsu. Câu chuyện về Đức Giêsu đã được kể từ 2000 năm nay mà không lỗi thời. Lời giảng của Đức Giêsu đã được loan báo từ 20 thế kỷ mà vẫn không mất tính thời sự. Cuộc đời Đức Giêsu đã và đang được kể lại một cách phong phú không những chỉ qua sách vở, mà còn qua chính cuộc đời của các tín hữu. Xuyên qua con người của họ, người ta đọc thấy chính cuộc đời của Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người, Đấng đã cảm thông với người đau khổ, đã chữa lành người bệnh tật, đã phục sinh người chết, đã chúc lành và đã chia sẻ niềm vui với đôi tân hôn trong ngày cưới. Như vậy, truyền giáo chính là sống như Đức Giêsu đã sống, yêu như Đức Giêsu đã yêu. Truyền giáo là có trái tim như trái tim của Chúa, có đôi mắt như đôi mắt của Chúa. Trái tim để yêu và đôi mắt để trao gửi tình thân thiện.
Như thế, truyền giáo không buộc phải làm điều gì to tát ồn ào, mà khởi đi từ những gì rất âm thầm bình dị trong cuộc sống. Chính những hành động bình dị đó có thể mang lại những hiệu quả lớn lao, khi chúng ta thực hiện với thao thức truyền giáo.
8. Ngày Khánh Nhật Truyền Giáo
(Suy niệm của Lm. Phêrô Huỳnh Thế Vinh)
Tin mừng Mt 28: 16-20: Trong việc loan báo tin mừng, Thiên Chúa cần chất lượng hơn là số lượng. Nhiều tấn muối lạc thì chỉ đáng vứt bỏ ra đường cho người ta chà đạp, còn một hạt muối mặn thì được trân quý vô cùng...
Kính thưa quý ông bà và anh chị em,
Ngày nay, người ta thường nói: “Thật thà thẳng thắng thường thua thiệt, lọc lừa luồng lách lại lên lương”. Quả thật không lạ gì khi thực tế có những công nhân đứng lên tố cáo sai phạm của các công ty, xí nghiệp. Họ được thắng kiện nhưng rồi họ bị cho... nghỉ việc. Còn những người lương lẹo luồn lách cứ mãi lên lương, lên chức. Cứ như thế, sống thật thà trong xã hội ngày nay như là một cái gì đó xa xỉ, nguy hiểm và thiệt hại. Tiếng nói của lương tâm ngày càng nhẹ ký, lương tâm đấu tranh riết, nói riết cũng không bằng lương tháng.
Sống trong bầu khí như thế, nhân ngày khánh nhật truyền giáo hôm nay, Chúa Giêsu gởi đến mỗi người Kitô hữu chúng ta một sứ mạng hết sức quan trọng và cần thiết: Sứ mạng truyền giáo, làm chứng cho nước trời bằng chính đời sống chứng tá: anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ. Hay nói cách khác, Chúa mời gọi mỗi người Kitô hữu hãy trở thành muối ướp mặn đời, là ánh sáng chiếu soi trần gian.
Đây là một sứ vụ khó nhưng nó lại là một điều bắt buộc đối với những ai mang danh là Kitô hữu, vì nếu không sống sứ vụ này thì sẽ bị vức bỏ và bị chà đạp, như Lời Chúa đã khẳng định: khi muối lạc đi thì nó đã thành vô dụng, chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp mà thôi. Hơn nữa, thánh Phaolô đã xác quyết: khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng nước trời.
Là người Kitô hữu thì phải mặn chất chân thật, phải tỏa sáng ánh sáng tin mừng cứu độ. Cho nên, người Kitô hữu không thể sống theo kiểu gian dối của thế gian được, người Kitô hữu không thể thấy người ta sống sao thì tôi sống vậy, hay thấy người ta làm bậy tôi cũng làm theo! Không, là Kitô hữu mang trong mình sứ vụ loan báo tin mừng, chúng ta là muối ướp mặn đời, chứ không phải là muối bị thế gian làm biết chất muối chân thật của mình, làm lu mờ ánh sáng tin mừng nơi mình.
Người ta thường có lập luận: “một con én không làm nên mùa xuân”, một mình sống ngay chính thật thà, một mình sống chất tin mừng cũng chẳng thể thây đổi được gì trong xã hội.
“Một con én không làm nên mùa xuân”, điều này đúng, nhưng nếu không có con én đầu tiên thì sẽ chẳng bao giờ có con én thứ hai, thứ ba, và nhiều con én khác nữa để làm nên mùa xuân. Nếu không có ai dám xung phong là người đầu tiên sống chất tin mừng thì sẽ chẳng bao giờ có người thứ hai.
Nếu nốt nhạc bảo rằng: Một nốt nhạc đâu làm nên ca khúc, thì hẳn sẽ không có bản trường ca.
Nếu viên gạch bảo rằng, một viên gạch đâu xây được bức tường, thì hẳn sẽ không bao giờ có một ngôi nhà.
Nếu hạt lúa bảo rằng một hạt lúa đâu phủ hết ruộng đồng, thì hẳn sẽ không có được mùa gặt.
Và nếu con người cứ bảo rằng một cử chỉ yêu thương thật thà đâu cứu được nhân trần, thì hẳn sẽ không bao giờ có công lý và hòa bình, nhân phẩm và hạnh phúc trên thế gian này.
Kính thưa quý ông bà và anh chị em thân mến,
Trong việc loan báo tin mừng, Thiên Chúa cần chất lượng hơn là số lượng. Nhiều tấn muối lạc thì chỉ đáng vứt bỏ ra đường cho người ta chà đạp, còn một hạt muối mặn thì được trân quý vô cùng.
Sống trong một xã hội có quá nhiều gương xấu như hôi của, hối lộ, tham nhũng, bằng giả, bằng gian, lừa gạt, cướp bóc… Thì con người ngày nay đang thiếu và đang rất cần những chứng nhân sống chất tin mừng của Chúa.
Ngày xưa, trước khi tiêu diệt thành phố Sôđôma sa đọa và tội lỗi, Chúa đã có cuộc thương lượng với Abraham. Chúa phán nếu Abraham tìm được 100 người sống thánh thiện trong thành Sôđôma thì Chúa sẽ tha thứ cho cả thành, tìm hoài không thấy, Abraham quay lại và trả giá với Chúa xuống còn 50, 30, 20, và cuối cùng xuống còn 5 người, và Chúa vẫn hứa vì 5 người đó, Chúa cũng sẽ tha thứ cho cả thành, nhưng Abraham tìm không thấy 5 người thánh thiện trong thành, nên Thành Sôđôma đã bị lửa tiêu diệt muôn đời. Thánh bị tiêu diệt vì thiếu 5 người công chính trong muôn ngàn người tội lỗi.
Và thực trạng thiếu vắng người công chính của thành phô Sôđôma ngày xưa cũng đang diễn ra nơi các thành phố, làng mạc, nơi mỗi giáo xứ, nơi mỗi cộng đoàn và trong từng gia đình ngày nay.
Nơi gia đình thiếu những thành viên dám sống chứng nhân để cứu cả gia đình. Vì thiếu vắng một người cha gương mẫu, một người mẹ hiền từ, hay một người con hiếu thảo nên gia đình bị tan vỡ.
Nơi trường học thiếu vắng những học sinh chăm chỉ, sống trung thực thật thà, nên trường học thiếu vắng đi chất men tin mừng.
Nơi công ty, công sở, nơi phố chợ đang thiếu những người sống ngay chính thật thà, nên đau khổ, khổ đau do sự lừa gạt cướp bóc cứ mãi dâng tràn.
Như ngôi nhà cần đến từng viên gạch, Như bản trường ca cần đến từng nốt nhạc, và như mùa gặt cần đến từng hạt lúa. Thì Thiên Chúa và nhân loại ngày nay cũng đang cần đến từng người chúng ta là những Kitô hữu sống mặn chất muối, và tỏa sáng tin mừng để cứu giúp những người thân trong gia đình mình, và những người xung quanh.
Đó là sứ mạng truyền giáo và loan báo tin mừng mà Chúa gởi đến cho mỗi người Kitô hữu chúng ta hôm nay và Chúa luôn đặt hi vọng và tin tưởng vào từng người chúng ta. Amen.
9. Chúa Nhật Truyền Giáo
Hôm nay, ngày thế giới truyền giáo. Mỗi năm một lần, giáo hội nhắc nhở con cái mình về vai trò và bổn phận của người Kitô hữu trong cuộc sống ở trần gian, đó là sống và làm chứng nhân cho Tin Mừng, tức là truyền giáo. Vậy Truyền giáo là gì? Chúng ta phải truyền giáo như thế nào?
Trước hết, truyền giáo là gì? Truyền là truyền bá, truyền thông, rao giảng, loan truyền... Giáo là giáo lý, đạo giáo, Tin Mừng, Phúc âm của Chúa Giêsu...Truyền giáo là truyền bá đạo, là rao giảng Phúc âm, là loan truyền chân lý của Chúa cho người khác hiểu biết, chấp nhận và tin theo. Đàng khác, truyền giáo còn có nghĩa là lập những cộng đoàn Kitô hữu trong đức tin, trong phụng vụ Thánh Thể, bác ái như Giáo hội mong muốn. Nói khác đi, truyền giáo là "gieo trồng" Giáo hội vào các dân tộc, các địa phương, cho đến khi những người trong địa phương ấy trở nên tín hữu, trở thành anh chị em cùng một niềm tin vào Chúa Giêsu, thành một đoàn chiên. Theo ý nghĩa này, truyền giáo không phải chỉ là truyền bá một số giáo lý, nhưng là truyền thông sự sống của Chúa cho anh em khác, vì Thiên Chúa là Đấng hằng sống. Đạo Chúa là đạo sự sống, là nguồn sống, có khả năng thay đổi, biến cải những con người từ không có Chúa trở thành có Chúa, từ mất Chúa trở thành tìm lại được Chúa. Truyền giáo theo nghĩa này là truyền sự sống của Chúa Kitô mà chúng ta đã có sang cho anh em mình, như thân cây nho chuyển nhựa sống sang cho cành nho. Sau hết, truyền giáo còn có một nghĩa nữa là củng cố, tăng cường, huấn luyện đức tin cho một cộng đoàn, cho các tín hữu, để họ lại ra đi truyền giáo cho những người khác.
Vì thế hai chiều của việc truyền giáo: chiều rộng và chiều sâu. Nếu làm cho những người chưa biết Chúa hoặc những người biết mà đã bỏ Chúa, được nhận biết và yêu mến Chúa. Đó là truyền giáo theo chiều rộng, là mở rộng nước Chúa và làm tăng thêm số người thờ phượng Chúa. Còn nếu làm cho những người đã biết và yêu mến Chúa được hiểu biết và yêu mến Chúa hơn, để rồi họ lại tiếp tục làm những công việc ấy nơi những người khác. Đó là truyền giáo theo chiều sâu, vì làm cho nước Chúa được vững chắc hơn và làm tăng thêm số người Công giáo sốt sắng, đạo đức.
Do đó, truyền giáo không phải chỉ có nghĩa là làm cho những người ngoại, lương dân, những người chưa biết được biết và yêu mến Chúa, nhưng còn có nghĩa là truyền đạo Chúa cho cả những người Công giáo sống trong một họ đạo, một giáo xứ với chúng ta nữa. Chúng ta phải sống một đời đạo đức, sốt sắng, thánh thiện để làm gương tốt cho họ, để giúp cho họ thêm lòng yêu mến và tôn kính Chúa.
Đó là ý nghĩa của việc truyền giáo. Và như vậy tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ truyền giáo. Việc truyền giáo không của riêng ai và không phải là một việc làm tùy sở thích, muốn làm hay không cũng được. Nhưng đây là một bổn phận, một nhiệm vụ bắt buộc. Mỗi người chúng ta phải coi đây là vấn đề sống đạo, là vấn đề sống còn của Giáo Hội và là trách nhiệm của chính mình.
Vậy chúng ta phải truyền giáo thế nào? Có rất nhiều cách nhưng nhất thiết phải nhớ hai việc là cầu nguyện và sống chứng nhân. Cầu nguyện cho việc truyền giáo là cách thức rất quan trọng: cầu nguyện cho những người đi truyền giáo, cầu nguyện cho mọi người mở rộng lòng sẵn sàng đón nhận ơn Chúa, đón nhận Lời Chúa. Chúng ta có gương truyền giáo là thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, dù ngài không đi đâu truyền giáo, chỉ ở trong bốn bức tường dòng kín cầu nguyện cho việc truyền giáo nhưng Giáo Hội đã tôn phong ngài là quan thầy các nơi truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê. Ngài đã sống đời truyền giáo, đã âm thầm cầu nguyện và dâng việc hy sinh cho công cuộc truyền giáo. Sống chứng nhân của mình. Đây là cách truyền giáo tốt nhất và hữu hiệu nhất, đó là truyền giáo bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta. Một đời sống đạo đức, chân thành, cởi mở, bác ái, yêu thương, chia sẻ là một tấm gương sáng trước mặt mọi người. Một đời sống tốt đẹp có sức lôi cuốn hơn những lời nói hay, vì "Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo". Sống "tử tế" với mọi người là cách truyền giáo. Sống "tử tế" là sống vui tươi, sống lạc quan, sống biết có trước có sau có trên có dưới, sống lịch sự, sống cảm thông, sống yêu thương với mọi người, sống như thế là chúng ta đang góp phần làm cho danh Chúa được cả sáng và nước Chúa được trị đến, đó cũng là chúng ta đang truyền giáo vậy.
Truyền giáo là một nhiệm vụ và một đặc ân cho mọi kitô hữu. Chúa Kitô muốn chúng ta đem Tin Mừng vào lòng dân tộc. Cần đến sự quảng đại, hy sinh và sẵn sàng của chúng ta, cần đến đời sống nhân chứng của chúng ta để bày tỏ cho anh em tình yêu thương của Ngài. Tích cực tham gia vào công cuộc Phúc Âm hoá mới đó là thực thi lòng mong muốn của Chúa Kitô.
"Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất" (Cv 1,8). Quả thực, Kitô hữu là ai? Thưa họ là những người được Chúa Kitô "chiếm đoạt" (x.Pl 3,12), và vì thế, là người khát khao làm cho Chúa Kitô được mọi người nhận biết và yêu mến ở khắp mọi nơi " cho đến tận cùng trái đất". Chính niềm tin và yêu mến Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta trở thành những người truyền giáo, những nhà truyền giáo, những chứng nhân của Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con can đảm sống đức tin, tha thiết bằng lòng yêu mến và dám thực thi Lời Chúa. Đó là cách thế chúng con đang sống đời truyền giáo như Chúa mong muốn. Amen.
10. Ơn gọi Truyền giáo - Lm Đam. Nguyễn Ngọc Long
Cha Alexander De Rohdes, vị thừa sai truyền giáo ở nước Việt Nam từ 1624 đến 1645, sinh trưởng bên quê hương nước Pháp thành Avignon, và là một trong những vị tiên khởi đã sáng tạo tìm ra Chữ Quốc Ngữ cho văn hóa đất nước dân tộc Việt Nam từ thế kỷ 17, viết thuật lại ơn gọi truyền giáo của mình:
“Cùng lúc khi Chúa ban ơn gọi tôi gia nhập Dòng, thì cũng cho tôi quyết định rời bỏ Âu châu để đi Ấn Độ. Đó là lý do chính khiến tôi chọn Dòng này hơn các Dòng khác. Tôi chỉ thích đi tới những miền đất xa xôi tốt đẹp, nơi bao nhiêu linh hồn sa đọa vì thiếu người giảng, và Chúa đã thành công dẫn đưa tôi vào ý định Người đã gợi nơi tôi.“ (Alexander De Rohes, Divers voyages et missions 1653 - Hành trình và truyền gíao, bản dịch Việt ngữ của Hồng Nhuệ, 1994.).
Và trong dòng lịch sử Giáo Hội Công Giáo từ hơn hai ngàn năm luôn hằng có những tâm hồn nghe cảm nhận được tiếng Chúa kêu gọi hy sinh dấn thân rời bỏ quê hương nơi sinh ra đi đến miền vùng đất nước hẻo lánh xa lạ về mọi phương diện, để sống đời truyền giáo giữa con người xa lạ khác biệt về mọi khía cạnh nơi đó.
Họ sống như thế nào ở những nơi đó?
1. Nữ tu Ruth Katharina Pfau, sinh ngày 9.9.1926 ở thành phố Leipzig nước Đức, sau khi tốt nghiệp là nữ bác sĩ đã xin rửa tội trở thành tín hữu đạo Tin Lành, và sau đó năm 1953 xin vào đạo Công Giáo.
Năm 1957 Bác sĩ Pfau xin nhập Dòng Những người con của trái tim Đức Mẹ Maria. Năm 1960 nhà Dòng gửi chị nữ tu Pfau sang Ấn Độ làm việc là Bác sĩ cho các người phụ nữ. Nhưng vì giấy nhập cảnh bị trục trặc, nên vị nữ tu bác sĩ này ở lại thành phố Karachi bên nước Pakistan. Nơi đây nữ tu bác sĩ Ruth Pfau đã sống cống hiến đời mình chữa trị những bị bệnh phong cùi, bệnh lao phổi, cho tới khi qua đời ngày 10.08.2017.
Suốt cuộc đời vị nữ tu bác sĩ sống giữa những người bị bệnh lao phổi, bệnh phong cùi và chữa trị cho họ.
Khả năng chuyên là một thầy thuốc chữa bệnh, và là một nữ tu có tâm hồn đạo đức tràn đầy lòng thương yêu Thiên Chúa và con người, nên nữ tu Pfau đã không chỉ là một vị bác sĩ chữa bệnh phần thân xác cho những người mắc bệnh, nhưng còn mang đến cho họ tình yêu thương an ủi, niềm hy vọng, mà Chị đã lãnh nhận cùng cảm nghiệm ra từ nơi Thiên Chúa, đấng sinh thành ra đời mình.
Vì thế, Nữ tu bác sĩ Ruth Pfrau được ca ngợi vinh danh là “Mẹ của người phong hủi.“.
Sự hy sinh dấn thân nỗ lực làm việc của nữ tu Ruth Pfau giữa cùng cho người bệnh tật xấu số là muối men là ánh sáng cho trần gian. (Mt 5, 13-14). Đó là công việc truyền giáo giữa lòng đời sống xã hội .
2. Mẹ Thánh Têrêxa thành Calcutta nước Ấn Độ sống cống hiến đời mình cho những người có cuộc sống bất hạnh xấu số thiếu thốn lương thực, bệnh tật đau yếu bị khinh miệt kỳ thị, những trẻ em sống lang thang bị bỏ rơi rơi ngoài đường
Mẹ Thánh Teresa sinh trưởng bên nước Albania, trở thành nữ tu Dòng Đức Mẹ bên Anh quốc, nhưng đã tình nguyên dấn thân sang thành phố Calcutta bên Ân Độ làm việc. Nơi đây vị nữ tu Teresa đã thành lập Dòng Những chị em truyền giáo cho tình yêu thương con người.
Suốt dọc đời sống cho tới khi qua đời ngày 05.09.1997, Nữ tu Teresa và Chị em Dòng đã sống trọn đời mình phục vụ cho những người bất hạnh xấu số ở nơi đó.
Mẹ Thánh Teresa và Chị em nữ tu Dòng của mẹ đã làm công việc truyền giáo: Cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho khách, con người có nhà ở nương thân, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ tù đày, chôn xác kẻ chết.
Việc truyền giáo của mẹ Thánh Teresa cùng Dòng của mẹ, và Nữ tu bác sĩ Ruth Pfau tập trung ở nơi cuộc sống ngay giữa con người nghèo khổ cần được giúp đỡ về vật chất cho thể xác và tinh thần.
Công việc truyền giáo của họ mang đến niềm an ủi, niềm hy vọng cho con người., đặt nền tảng trên Tám mối phúc thật, mà Chúa Giêsu đã rao giảng ( Mt 5, 1- 11)
Thánh Teresa thành Calcutta lúc sinh thời vì những công việc truyền giáo bác ái đã được vinh danh ca ngợi là Mẹ Teresa.
3. Cách đây 400 năm các Vị Thừa Sai từ bên Âu châu sang nước Việt Nam công việc truyền giáo là loan truyền tin mừng phúc âm của Chúa cho con người. Các ngài đã hòa mình chấp nhận cuộc sống xa lạ khác biệt về mọi phương diện, cuộc sống thiếu thốn khổ ải, tù đày rồi bị kết án hành quyết cho tới chết.
Các ngài không chỉ làm công việc rao giảng tin mừng phúc âm đức tin vào Chúa, nhưng còn nỗ lực tìm cách giới thiệu phát triển nếp sống văn minh mới của Âu châu cho con người nữa, mà không loại bỏ hay làm lu mờ phong tục tập quán nếp sống văn hóa cổ truyền của dân tộc. Các ngài đã làm công việc truyền giáo hội nhập văn hóa dân tộc nơi đó.
Chữ Quốc Ngữ là một bằng chứng điển hình cho nền văn hóa hội nhập trong lòng dân tộc đất nước hôm qua hôm nay và ngày mai.
Các nhà thờ cổ kính nghệ thuật văn hóa Âu châu mà các ngài đã có công xây dựng là những di tích lịch sử văn hóa lâu dài cho đất nước xã hội.
Các bài kinh sách, ca vè, những tập tục nếp sống đạo đức… các ngài đã phát triển theo cung cách hội nhập văn hóa cho trở nên có nét đẹp trong sáng vẫn hằng sống động trong nếp sống con người.
“Nhiệm vụ của kitô hữu trong thế giới này là trở thành các thừa sai của niềm hy vọng, mở ra các không gian của ơn cứu rỗi, như các tế bào của sự tái sinh, có khả năng tái trao ban nhựa sống cho những gì xem ra đã mất đi vĩnh viễn…
Đức tin, niềm hy vọng của chúng ta không chỉ là một sự lạc quan; nó là một cái gì khác, hơn nhiều! Nói như thể các tín hữu là những người có một “mảnh trời” hơn nữa ở trên đầu. Điều này thật đẹp! Chúng ta là những người có một mảnh trời hơn nữa ở trên đầu, được đồng hành bởi một sự hiện diện mà ai đó không thể trực giác được.
Như thế nhiệm vụ của các kitô hữu trong thế giới này là mở ra các không gian của ơn cứu rỗi, như các tế bào của sự tái sinh có khả năng trả lại nhựa sống cho những gì xem ra đã mất luôn mãi. Khi toàn bầu trời âm u, thì thật là một phúc lành ai biết nói về mặt trời.“ (Đức Giáo Hoàng Phanxico, Giáo lý buổi triều yết ngày thứ tư, 04.10.2017).
11. Kitô hữu, chứng nhân truyền giáo
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
“Anh chị em đi khắp thế giới, loan báo Tin Mừng cho muôn dân”. Thưa anh chị em, đó là mệnh lệnh cuối cùng của Chúa Giêsu. Giáo Hội từ thời các Tông đồ trải qua các thời đại cuối cùng của Chúa, bất chấp mọi trở ngại.
Thế nhưng, qua 20 thế kỷ truyền giáo, số người tin theo Chúa Kitô vẫn là một thiểu số đáng lo ngại so với dân số thế giới ngày càng gia tăng. Hiện nay, dân số thế giới đã lên đến trên 5 tỷ người, thế mà số tín hữu công giáo chỉ được 900 triệu, nhưng 50 phần trăm là ở Nam Mỹ, còn triệu kia rải rác ở Châu Âu, Bắc Mỹ, Châu Á, Châu Úc và Châu Phi.
Riêng tại Châu Á của chúng ta, một lục địa với hơn 3 tỷ người, trong số đó chỉ có 3% là người Công giáo. Tại Trung Quốc chỉ có 4 triệu người Công giáo giữa một tỷ dân. Tại Nhật Bản có lối 500 ngàn người Công giáo giữa 123 triệu dân. Ở Nam Triều Tiên, 5 triệu người Công giáo trên 42 triệu dân. Tại đất nước Việt Nam chúng ta chỉ có hơn 4 triệu rưỡi người Công giáo trên 72 triệu dân, tỷ lệ hơn 6%. Tại TP. Hồ Chí Minh chúng ta có khoảng hơn 450 ngàn (485.584) người Công giáo trên hơn 5 triệu dân, tỷ lệ 13%. (Tại Hạt Tân Định, có 41.105 người Công giáo trên 266,000 dân). Đó là những con số trên giấy tờ, trong sổ Rửa Tội, còn trên thực tế, họ có sống đạo hay không là chuyện khác.
Như chúng ta được biết, ở những miền có đông giáo dân Công Giáo- ở Nam Mỹ chẳng hạn- đời sống dân chúng ở đó lại nghèo đói và thiếu linh mục.Ở Braxil, một nước lớn nhất Nam Mỹ, dân số 107 triệu, đại đa số là Công giáo. Thế mà gần đây người Công giáo đã bỏ Giáo Hội để sang Hội Thánh Tin Lành tính ra có trên 17 triệu người (lý do có lẽ là để được hưởng trợ cấp). Trái lại, ở các nước giàu có, phồn thịnh về vật chất- như ở Châu Âu và Bắc Mỹ- người Công giáo lại đánh mất niềm tin và không còn tôn trọng các giá trị đạo đức tinh thần nữa, coi thường các luật luân lý của Giáo Hội về đời sống hôn nhân gia đình. Sự kiện đó đang trở nên mối lo âu và là một vết thương đau nhức nhối nhất của Giáo Hội ngày nay.
Xin đan cử ra đây một dấu chỉ của thời đại: Đầu năm 1998, tại thành phố Amsterdam ở Hà Lan, Hội Đồng Giáo Mục đã quyết định đóng cửa một loạt 5 ngôi thánh đường đồ sộ của thành phố, vì không có giáo dân lui tới nữa, trong khi đó phí khoản 9dê3 bảo trì các ngôi thánh đường này lại quá lớn. Tại Bắc Mỹ cũng thế, Đức Hồng Y Josef Bernardin, Tổng Giáo Mục Chicago tuyên bố: ngài buộc lòng phải đóng cửa 13 giáo xứ, 2 cơ sở truyền giáo và 6 trường tiểu học Công giáo trong giáo phận của ngài. Còn Đức Hồng y Szoka, Tổng Giám Mục Giáo phận Detroit cũng tuyên bố quyết định đóng cửa 30 giáo xứ thuộc giáo phận của ngài. Lý do đóng cửa là vì thiếu người và thiếu tiền (x. Bùi Tuần, Ơn Trở Về, tr.85).
Nói lên những dấu chỉ thời đại ấy để chúng ta thấy rằng: Con người ngày nay đã bỏ Chúa, không còn tin vào Chúa nữa, hoặc có nhiều người tin, nhưng với một niềm tin hời hợt, hững hờ. Chính vì thảm trạng nầy mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã ban hành thông điệp “Sứ Vụ Đấng Cứu Độ” (Redemptoris Missio, 1990) để đặt toàn thể Giáo Hội trước sứ mạng truyền giáo và tái truyền trong Thiên Niên Kỷ Thứ III.
Anh chị em thân mến,
Hôm nay, ngày Thế Giới Truyền Giáo, Đức Thánh Cha lại gởi đến toàn thể Dân Chúa một sứ điệp với chủ đề: “Tất cả các kitô hữu đều được mời gọi làm người truyền giáo và chứng nhân”. Đức Thánh Cha nói: “Trước thềm thiên niên kỷ thứ ba, Chúa Giêsu quyết liệt lập lại những lời Ngài đã nói với các Tông đồ trước khi về trời, những lời hàm chứa bản chất sứ vụ của người Kitô hữu: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Quả thực, Kitô hữu là ai? Thưa họ là người được Chúa Kitô “chiếm đoạt” (x.Pl 3,12), và vì thế, là người khao khát làm cho Chúa Kitô được mọi người nhận biết và yêu mến ở khắp mọi nơi “cho đến tận cùng trái đất”. Chính niềm tin vào Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta trở thành những nhà truyền giáo, những chứng nhân của Ngài. Nếu không thực hiện được điều đó, có nghĩa là niềm tin củ chúng ta còn bất toàn, khiếm khuyết và chưa trưởng thành.
Do đó, “Truyền giáo là vấn đề của niềm tin, nó là thước đo niềm tin của chúng ta nơi Chúa Giêsu và nơi tình yêu của Ngài dành cho chúng ta” (RM số 11). Đức tin và truyền giáo đi đôi với nhau: đức tin càng mạnh càng sâu thì nhu cầu truyền thông, chia sẻ và làm chứng niềm tin càng bức thiết. Ngược lại, nếu đức tin suy yếu thì nhiệt tình truyền giáo cũng suy giảm và khả năng làm chứng cũng mất đi sức mạnh. Đó là điều vẫn xảy ra trong lịch sử Giáo Hội: sự sút giảm lòng nhiệt thành truyền giáo là triệu chứng của sự khủng hoảng đức tin. Điều này phải chăng xảy ra khi người ta đánh mất xác tín sâu xa là: “Đức tin càng vững mạnh khi đem chia sẻ” (RM.2). Vì chính khi loan báo Chúa Giêsu Kitô và làm chứng về Ngài mà đức tin của chúng ta được củng cố và tái khám phá con đường đưa đến một nếp sống đúng theo Tin Mừng của Ngài. Như thế, chúng ta có thể nói: “Truyền giáo là một phương thuốc chắc chắn nhất chống lại cuộc khủng hoảng đức tin. Chính nhờ dấn thân truyền giáo mà mỗi thành phần Dân Chúa củng cố căn tính mà mình và hiểu rõ là: không ai có thể là Kitô hữu đích thực nếu không là chứng nhân” (số 2).
Thưa anh chị em,
“Mỗi Kitô hữu được sáp nhập vào Giáo Hội nhờ Bí tích Thanh Tẩy, đều được mời gọi làm nhà truyền giáo và chứng nhân. Đó là sự ủy nhiệm rõ ràng của Chúa Kitô. Và Thánh Thần sai mỗi người kitô hữu ra đi loan báo và làm chứng về Chúa Kitô cho muôn dân: đó là nhiệm vụ và đặc ân, bởi vì đó là một lời mời gọi cộng tác với Thiên Chúa để cứu độ mỗi người và cả nhân loại” (số 3).
Truyền giáo bằng đời sống chứng tá Tin Mừng giữa đời, làm chứng cho Chúa Kitô bằng đời sống yêu thương, bác ái, công bình, cụ thể trong gia đình, ngoài xã hội, là sứ vụ của mọi người giáo dân. Làm chứng cho sự thánh thiện, như những người sống các Mối Phúc của Tin Mừng, đó là căn tính của người Kitô-hữu-chứng-nhân. Con người ngày nay có vẻ dửng dưng không muốn tìm về Thiên Chúa, nhưng trong thực tế, họ cảm thấy cần đến Thiên Chúa và họ bị các Thánh thu hút và đánh động, những vị thánh đã biểu lộ khuôn mặt của Thiên Chúa trong đời sống của mình, như những ánh sao trong đêm tối.
Giáo Hội Việt Nam chúng ta ngày nay phải truyền giáo trong môi trường cụ thể chúng ta đang sống, với những con người cụ thể chúng ta đang gặp. Chúa Kitô cần đến chúng ta để đem Tin Mừng vào lòng dân tộc. Chúa Kitô cần đến tâm hồn quảng đại và sẵn sàng của chúng ta, cần đến đời sống nhân chứng của chúng ta để bày tỏ cho anh em đồng bào tình yêu thương vô biên của Ngài. Tích cực tham gia vào công cuộc Phúc-âm-hóa mới, đó là công việc đặc trưng của những năm chuẩn bị tiến đến Thiên Niên Kỷ Thứ Ba của Hồng Ân Cứu Độ.
12. Lên đường truyền giáo - Huệ Minh
Tin mừng Mt 28: 16-20: Ngày hôm nay, Chúa Nhật này được gọi là Khánh Nhật Truyền Giáo. Giáo hội mời gọi chúng ta, ngày hôm nay, mỗi người trong cái hoàn cảnh của mình, trong cái ơn gọi của mình là truyền giáo. Bởi vì bản chất của Giáo hội là truyền giáo...
Kính thưa Cộng đoàn,
Ngày hôm nay, Chúa Nhật này được gọi là Khánh Nhật Truyền Giáo. Giáo hội mời gọi chúng ta, ngày hôm nay, mỗi người trong cái hoàn cảnh của mình, trong cái ơn gọi của mình là truyền giáo. Bởi vì bản chất của Giáo hội là truyền giáo. Truyền Giáo không dành cho các linh mục, tu sĩ. Nhưng Chúa mời gọi tất cả mỗi người chúng ta: trong hoàn cảnh của mình, trong đời sống của mình, chúng ta truyền giáo theo cái cách thức, theo đường lối: miễn sao Đức Kitô được rao giảng mà thôi.
Điểm nổi bật trong các bài đọc hôm nay, chúng ta thấy: ra đi và đi đến.
Bài đọc thứ I, ngôn sứ Giacaria họa lại một bức tranh đầy ấn tượng rằng là cái cảnh người ngoại giáo níu gấu áo của người Do Thái, và xin: “Chúng tôi đi với các ông, vì chúng tôi nghe nói rằng: Thiên Chúa ở cùng các ông.”
Từ thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã đặt trong lòng nhân loại, cái niềm khát vọng đi tìm Ngài. Thúc đẩy họ đi tìm đến dân tộc Do Thái, và tin rằng: “Chúa của dân này là Chúa tể của vũ hoàn, là Đấng mà họ phải tôn thờ”.
Và qua bài đọc thứ II, chúng ta thấy Tin Mừng được loan truyền không chỉ gói gọn ở đất nước Palestina. Bị bách hại, các Kitô Hữu phải tản mát khắp đất nước La Mã, và chính vì cái sự kiện đó, thay vì bị khống chế là cơ hội mà Tin Mừng được loan báo.
Và ngày hôm nay, kết thúc Tin Mừng theo Thánh Mátthêu. Chúng ta thấy, Chúa Giêsu trước khi chia tay với các môn đệ, Chúa Giêsu đã trao quyền trên Trời dưới đất cho các ông và Chúa Giêsu mời gọi: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ và làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và ChúaThánh Thần.”
Mệnh lệnh truyền giáo đó, chúng ta thấy không gói gọn ở các Tông đồ, nhưng cứ được: loan đi, loan đi, hết người này đến người khác, để minh chứng Thiên Chúa là tình yêu.
Và chúng ta thấy trong cuộc đời của thánh Phêrô. Thánh Phêrô, với một cái bài giảng mà đã kéo được 3000 người trở về với Chúa, rất là tuyệt vời. Bởi vì, qua cái cách mà biện luận của Phêrô, Phêrô đã thuyết phục người ta trong niềm tin.
Và chúng ta thấy thánh Phaolô đặc biệt trong cái tâm tình cuộc đời của ngài, có cái hay: “Anh em hãy đi rao giảng trong mọi hoàn cảnh có những lúc thuận tiện.”Chúng ta thấy có những lúc khản cổ, Phaolô đi rao giảng nhưng không ai theo đạo cả! Nhưng rồi cuộc đời của Phaolô chính là minh chứng cho niềm tin, minh chứng cho sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời của mình, để sau đó Phaolô đã hi sinh cả cuộc đời của mình để loan báo Tin Mừng.
Thánh Phaolô nói với chúng ta rằng: “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. Và đặc biệt, tôi đến với anh em bằng lời lẽ rất là bình thường, rất là bình dân. Chứ tôi không đến với anh em bằng những lời lẽ hùng hồn này nọ. Chúng tôi đến với anh em bằng cả cuộc đời của chúng tôi, chúng tôi nói với anh em bằng cả niềm tin của chúng tôi.
Và chúng ta thấy đặc biệt nơi cuộc đời của Thánh Phanxicô. Ngài đã đi hàng ngàn cây số và Ngài đã Rửa tội cho hàng trăm ngàn người. Có thể tính được là một cây số, ngài rửa tội cho một người. Và cuộc đời của thánh Phanxicô phải nói rằng đó là một mẫu gương truyền giáo, và ngài chính là bổn mạng của các xứ truyền giáo. Khi bước chân của Phanxicô đi đến đâu thì ngài loan báo Tin Mừng đến đó! Phải nói rằng khuôn mặt của Phanxicô là một khuôn mặt lớn trong Giáo Hội, đặc biệt về Loan Báo Tin Mừng bằng đời sống của mình, bằng những nẻo đường truyền giáo của mình.
Thế nhưng truyền giáo không chỉ dừng lại, không có khép kín ở trong cái chuyện là phải ra đi, phải lên đường.
Và một khuôn mặt, chúng ta thấy, một Têrêsa Hài Đồng Giêsu rất là dễ thương! Mới có 24 tuổi đời, nhưng Têrêsa Hài Đồng Giêsu được phong là bổn mạng của các xứ truyền giáo, bởi sao? Bởi vì lẽ, trong cái dòng kín Terêsa sống, có đụng chạm với chị em mình, thế nhưng rồi tất cả Têrêsa đã dâng lên Chúa bằng tất cả tình yêu thương. Tất cả những hy sinh đó, bằng tình yêu thương của mình, mà Têrêxa đã chấp nhận tất cả những khổ đau đó!
Khi thấy chị em giặt đồ hắc ướt vào mặt mình, Têrêsa Hài Đồng Giêsu vẫn mỉm cười, nhưng trong lòng xin dâng lên Chúa tất cả những cay đắng, những đắng đót của cuộc đời. Khi bị chèn ép Têrêsa Hài Đồng Giêsu, vẫn đón nhận và chấp nhận tất cả! Để hi sinh, để dâng lên cho Chúa.
Và rồi chúng ta nhìn thấy nơi khuôn mặt của Têrêsa Calcutta, với tất cả tấm lòng, mẹ Têrêxa đã băng bó vết thương cho những người bị bỏ rơi, và mẹ Têrêsa đã cố gắng làm cho những con người bị bỏ rơi, những con người đau yếu, những con người bệnh tật đó, được chết trong tư cách là người. Một khuôn mặt truyền giáo rất tuyệt vời! Ngày hôm nay, chúng ta lại được nhìn đến: nơi khuôn mặt của mẹ, một tấm lòng đầy bác ái và yêu thương.
Và chúng ta có thể truyền giáo trong mọi hoàn cảnh.
Có một người lính năm 1945 ở đảo Guam, lính Mỹ. Anh ta mới kể lại câu chuyện rằng:
Khi mà anh ta làm cảnh sát trưởng thì, đêm hôm đó, chiều hôm đó nhóm lính của anh đi hành hương về và dơ bẩn tất cả mọi người đều hăm hở đi tắm, để đi ăn. Riêng có một người Công giáo, anh ta ngồi lại và anh ta đọc kinh và anh ta mới ăn cơm, thì cái viên đội trưởng đó tức quá, mới đạp cái anh này một cái.
Nhưng mà rồi đến sáng hôm sau, thấy lọc cà, lọc cọc lúc 4:30 sáng, ngay đầu giường, thì ra là người lính người Công giáo này đã tỉ mĩ, đã chùi đôi giày cho đội trưởng của mình.
Và đến sáng hôm sau, người đội trưởng đã tức tốc chạy đến cha Tuyên uý để xin: “Xin cho con được rửa tội!”
Cha tuyên úy hỏi: Tại sao vậy? Thì người chỉ huy này mới kể lại: hình ảnh của người lính Sĩ quan Công Giáo anh bị chửi bị đạp đó! nhưng anh vẫn đón nhận và chịu đựng và đó là tấm gương để lo cho người đội trưởng trở về với Chúa của mình, không chút đắn đo suy nghĩ. Bởi vì: qua tấm gương của người lính, anh ta thấy nơi người Công giáo một đời sống rất tuyệt vời!
Bất cứ trong hoàn cảnh nào chúng ta thấy, cách đây 2 năm Đức Thánh Cha Phanxicô phong Chân Phước cho ba mẹ của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu.
Chúng ta thấy ngài đề cao về đời sống gia đình. Mẹ của Thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu mất sớm, còn lại bố của ngài. Và bố của ngài đã chăm chuốt cho các con và dâng lên Giáo Hội những người con ưu tú, những người con sống trong đời đan tu.
Chúng ta thấy đó, lược qua cái đời sống truyền giáo của Giáo hội. Ngày hôm nay chúng ta thấy đó! Có thể chúng ta sống trong một cái hoàn cảnh của bước chân đi loan báo Tin Mừng, trong hoàn cảnh của 4 bức tường trong tu viện, trong hoàn cảnh của một đời sống gia đình. Nhưng mà liệu rằng chúng ta có sống cái đời sống chứng nhân của chúng ta như cái anh chàng lính Công giáo đó hay không?
Ngày hôm nay, người ta không cần đến thầy dạy nữa! bởi vì thầy dạy thì quá nhiều! Ngày hôm nay, người ta cần chứng nhân, chứng nhân về một tình yêu, về lòng thương xót của Thiên Chúa ở giữa cuộc đời này.
Chúng ta được mời gọi sống Truyền giáo, chúng ta có thể, trong mọi hoàn cảnh của chúng ta. Làm sao chúng ta có thể nói cho người khác biết rằng: chúng ta có Chúa trong đời chúng ta, bằng một đời sống đượm tình Bác Ái, Yêu Thương.
Ngày hôm nay người ta nghe nhiều quá! người ta cũng chán, nghe nói nhiều quá người ta cũng chán, bởi vì một cái thực tế mà người ta đang sống. Đó là: một cái xã hội vô cảm.
Khi người này không cần biết tới người kia, và người ta sống bởi cái chủ nghĩa Mặc kê nô và người ta vun vén cho mình thì chúng ta là những người Kitô Hữu, chúng ta lại lội ngược dòng và chúng ta lại được mời gọi làm chứng cho Chúa giữa cuộc đời này, bằng tình Bác Ái, Yêu Thương của chúng ta.
Nói thì dễ, nhưng làm thì khó lắm! Bởi vì ai trong chúng ta cũng mang trong mình cái ích kỷ, ai cũng mang trong mình cái tôi!
Và được Chúa mời gọi, nếu như chúng ta mở lòng ra, để chúng ta đón nhận Thần Khí của Chúa: “Thần Khí Chúa đã sai tôi đi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng.”
Nếu chúng ta có Chúa Thánh Thần ở cùng chúng ta, thì chúng ta sẵn sàng và chúng ta có đủ sức, để chúng ta bước chân lên đường đi loan báo Tin Mừng như Chúa mời gọi chúng ta.
Vẫn là những con người yếu đuối, vẫn là những con người hạn chế trong cái thân phận làm người, nhưng nếu có ơn Chúa và nhờ Chúa giúp chúng ta, chúng ta sẽ bước chân lên đường loan báo Tin Mừng trong hoàn cảnh sống của mình, trong mọi ngày sống của mình.
Có thể chỉ là một ly nước, có thể chỉ là một bát cơm, có thể chỉ là một ổ bánh mì cho những người nghèo xung quanh chúng ta, hay là có thể chỉ là một lời cầu nguyện chân thành, để cầu nguyện cho tất cả những vị đang truyền giáo.
Thiên Chúa ban ơn cho chúng ta, để dù trong bất cứ hoàn cảnh nào khó khăn tật nguyền hay là không có thời gian đến với Chúa nhiều, chúng ta vẫn có thể sử dụng bằng đời sống cầu nguyện, đượm tình bác ái, yêu thương của chúng ta, để chúng ta sống làm chứng nhân Tin Mừng của Chúa giữa cuộc đời, và trở thành những người truyền giáo như lòng Chúa mong muốn. Amen.
13. Truyền lửa yêu thương – Lm Ignatiô Trần Ngà
Thông thường khi cầu xin bất cứ ân huệ gì, chúng ta tha thiết cầu xin cho bản thân, cho gia đình mình trước. Thế nhưng, khi đất nước lâm nguy, cần có người ra biên thuỳ bảo vệ, thì người ta lại sốt sắng cầu xin cho người khác, ngoại trừ bản thân, được can đảm xông ra chiến trường bảo vệ giang sơn. Nếu ai cũng cầu như thế và những lời cầu kiểu nầy được chấp nhận, thì làm gì còn Tổ Quốc!
Trong việc cầu cho công cuộc truyền giáo cũng vậy, chúng ta thường cầu với Chúa rằng: “Lạy Chúa, xin cho có đông người, ngoại trừ con, biết quảng đại lên đường đi khắp muôn phương loan báo Tin Mừng cứu độ.” Nhưng thử hỏi: nếu ai cũng cầu xin thế nầy, thì cánh đồng truyền giáo sẽ vắng bóng thợ gặt, tìm đâu ra người đi loan báo Tin Mừng.
Vậy thì lời cầu nguyện thiết thực nhất mà mỗi người chúng ta phải dâng lên Chúa là: “Lạy Chúa, tuy con bất xứng, nhưng xin hãy sai con đi làm thợ gặt cho Chúa ngay hôm nay.”
Dù muốn dù không, chúng ta cũng là ngôn sứ của Chúa ngay từ ngày lãnh bí tích thánh tẩy. Bí Tích Thánh Tẩy làm cho chúng ta trở thành chi thể Chúa Giêsu, cho thông dự vào vai trò ngôn sứ của Người, nên chúng ta phải đảm nhận trách nhiệm loan Tin Mừng cứu độ của Người.
Chính vì thế, trước khi về trời, Chúa Giêsu long trọng chuyển trao cho chúng ta, là môn đệ Người, tiếp tục thi hành sứ vụ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, … dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28, 19-20)
Vậy thì sứ mạng loan Tin Mừng là một bổn phận phải làm chứ không phải là việc tuỳ thích. Thánh Phao-lô thú nhận: “Đối với tôi rao giảng Tin mừng không phải là lý do để tự hào, nhưng là một sự cần thiết buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin mừng.” (1 Cr 9,16).
Vì đây là bổn phận của mọi chi thể Chúa Giêsu nên chỉ khi nào chúng ta tự tách lìa mình ra khỏi Hội Thánh là Thân Thể Chúa, thì chúng ta mới có thể cho phép mình ngừng loan báo Tin Mừng.
Truyền giáo là truyền lửa yêu thương
Trong đêm Vọng Phục Sinh, lòng nhà thờ hoàn toàn chìm trong bóng tối. Thế rồi, từ cuối nhà thờ, Nến Phục Sinh được thắp sáng lên và được long trọng rước lên cung thánh. Linh mục chủ sự lấy lửa từ Nến Phục Sinh thắp lên cho một vài cây nến nhỏ bé khác trên tay vài người. Những người nầy lại đem lửa phục sinh thắp lên cho người bên cạnh và cứ tiếp tục như thế, chẳng mấy chốc, cả ngàn cây nến nhỏ của các tín hữu tham dự đều được thắp lên.
Loan Tin Mừng cũng là thắp lên lửa yêu thương cho người quanh ta. Lửa đức tin, lửa yêu thương đã được Chúa Giêsu thắp lên trong ta, thì đến lượt mỗi chúng ta cũng hãy thắp lửa đức tin, lửa yêu thương ấy cho người bên cạnh và công việc truyền lửa nầy cần phải được tiếp nối không ngừng.
Chân phước Têrêxa Calcutta cũng cho rằng truyền giáo là chia sẻ tình thương. Mẹ không rao giảng Phúc Âm bằng lời nhưng bằng những tâm tình và cử chỉ yêu thương cụ thể. Mẹ cũng chẳng chủ trương yêu thương đại chúng cách chung chung, nhưng là yêu thương từng người đang đối diện.
Mẹ nói: “Đối với chúng tôi, điều quan trọng là từng người một. Để thương yêu một người thì phải đến gần người ấy… Tôi chủ trương một người đến với một người. Mỗi một người đều là hiện thân của Đức Kitô… Người đó phải là người duy nhất trên thế gian (mà ta cần yêu thương trọn vẹn) trong giây phút đó.”
Với tâm tình nầy, Mẹ Têrêxa đã thu phục nhân tâm nhiều người trên thế giới. Cũng bằng phương thức nầy, Giáo Hội công giáo Hàn Quốc đã làm gia tăng gấp đôi số tín hữu chỉ trong vòng mươi năm!
Theo gương Mẹ Têrêxa, mỗi một người công giáo nên kết thân với một người lương, coi người đó như anh em ruột thịt và đem hết lòng yêu thương người đó.
Mỗi gia đình công giáo nên kết thân với một gia đình lương dân, coi họ như thân quyến của mình, sẵn sàng chia ngọt sẻ bùi; khi có kỵ giỗ, cưới xin hay lễ lạc gì trong gia đình, hãy mời họ cùng thông hiệp. Nhờ đó hai bên thắt chặt mối giây thân ái và qua tình thân nầy, Tin Mừng của Chúa Kitô sẽ được lan toả như ánh nến đêm Vọng Phục Sinh.
14. Đi tìm người anh em lưu lạc
(Suy niệm Lễ Truyền giáo của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
NGHĨA VỤ ĐI TÌM NGƯỜI ANH EM LƯU LẠC
Hùng và Cường là hai anh em trong một gia đình hạnh phúc và êm ấm tại một thôn làng nhỏ ở miền Trung. Đời sống an bình bên luỹ tre xanh kéo dài chưa được bao lâu thì chiến tranh nổ ra dữ dội khiến gia đình Hùng và Cường phải theo đoàn người sơ tán.
Trên con đường lánh nạn, bom đạn vô tâm đã trút xuống đầu dân lành vô tội, gây nhiều cái chết đau thương. Dưới lằn bom đạn kinh hoàng, ai nấy cắm đầu chạy trối chết và rồi sau đó, khi đến nơi an toàn, cha mẹ của Cường không thấy Cường đâu nữa. Thế là cả ba người – cha, mẹ và Hùng- quay quắt tìm kiếm Cường suốt cả mấy ngày nhưng cũng hoài công. Bị lạc mất con, cha mẹ Cường gặm nhấm nỗi đau buồn suốt ngày nầy qua tháng khác.
Thường ngày, ông bà vẫn nhắc nhở Hùng hãy cố gắng cất bước tìm em: “Con ơi, lòng cha mẹ rất buồn đau, ngồi đứng không yên khi vắng bóng em con trong ngôi nhà nầy. Con đã khôn lớn rồi, con hãy lên đường tìm em về cho cha mẹ.”
Nghe lời cha mẹ nỉ non, Hùng cảm thấy chột dạ, nên cũng dạ dạ vâng vâng nhưng rồi mãi lo vui chơi với bạn bè, nên cũng chẳng cất bước tìm em.
Ngày này qua tháng khác, dù được cha mẹ nhắc nhủ nhiều lần hãy lên đường tìm em, Hùng vẫn dửng dưng, không thiết gì đến hoàn cảnh đứa em lưu lạc, chẳng màng gì đến nỗi đau của cha mẹ già đang đau khổ vì đứa con xa nhà. Cậu cứ mãi lo việc mình, lo vui đùa với chúng bạn, không màng gì đến em. Như thế, Hùng đúng là người vô cảm vô tâm, bất nghĩa với em, bất hiếu với cha mẹ.
Người cha người mẹ trong câu chuyện trên đây là hình ảnh của Thiên Chúa nhân lành. Hùng tượng trưng cho những người con trong gia đình Thiên Chúa. Cường tượng trưng cho những anh chị em còn đang ở ngoài.
Thiên Chúa là Cha chung của hết mọi người. Ngài yêu thương tất cả không trừ ai và đặc biệt yêu thương những người con lưu lạc. Đã bao lần Ngài van lơn và thúc giục chúng ta hãy đi tìm những đứa em lưu lạc để dẫn đưa em về nhà, nhưng chúng ta vẫn cứ làm ngơ.
Là con cái trong nhà, hằng ngày chúng ta được Thiên Chúa chăm sóc chu đáo. Lời Chúa là thức ăn bổ dưỡng được Chúa trao ban hằng ngày. Chúa lại còn trao ban cả Mình Máu thánh Ngài để bồi bổ, tăng cường sức sống cho chúng ta. Chúa trang điểm chúng ta bằng bao lời khuyên dạy khôn ngoan giúp chúng ta trở thành người có phẩm chất cao đẹp. Chẳng có gì cần thiết cho đời sống tâm linh mà Chúa lại không cung cấp cho chúng ta.
Thế nhưng khi Chúa truyền dạy chúng ta lên đường tìm đứa em lưu lạc, đưa em về sum họp với gia đình và chia sẻ cuộc sống hạnh phúc với mình thì chẳng mấy ai quan tâm.
Như thế, việc loan Tin mừng, giới thiệu Đức Ki-tô cho lương dân và đưa họ về với Chúa là bổn phận phải làm vì đức ái, vì tình huynh đệ. Ai thoái thác là lỗi đức ái đối với anh em mình.
Ngoài ra, tất cả chúng ta, nhờ bí tích Thánh tẩy, được tháp nhập vào Thân Mình Chúa Giêsu, được trở thành chi thể của Ngài.
Là chi thể của Chúa Giêsu, chúng ta không thể từ khước tham gia vào công việc hệ trọng nhất của Ngài là Đầu và của Thân Mình Ngài là Hội thánh.
Một chi thể không làm theo mệnh lệnh của đầu là một chi thể tê bại và một chi thể tê bại thì luôn gây cản trở cho hoạt động của toàn thân.
Vậy, lý do thứ hai khiến chúng ta phải tham gia truyền giáo vì đây là đòi buộc tất yếu đối với các chi thể của Chúa Giêsu. Chi thể nào không tham gia vào sứ mạng tối thượng nầy là tự tách mình ra khỏi Đầu là Chúa Giêsu và Thân Mình Ngài là Hội thánh.
Lạy Chúa Giêsu,
Người anh được vui sống hạnh phúc trong nhà cha mẹ mà không chịu cất bước dẫn đứa em lưu lạc về nhà là người anh bất nghĩa.
Người con không vâng lời cha mẹ dạy hãy tìm kiếm và đưa em về nhà là người con bất hiếu.
Không lẽ chúng con vô tâm vô cảm với các anh chị em lưu lạc của mình mà để mặc họ phải sống trong cảnh xa nhà mãi sao!
Xin cho chúng con, ngay từ hôm nay, quyết tâm lên đường theo lời Chúa mời gọi để dẫn đưa anh chị em mình về sum họp trong nhà Cha thân yêu.
15. Quyền năng từ trên cao
Nếu Đức Giêsu phục sinh không sai gửi Thánh Thần
thì chúng ta sẽ chẳng có một Hội Thánh truyền giáo.
Các tông đồ được lệnh phải chờ ở Giêrusalem.
Chờ mặc lấy quyền năng từ trời cao ban xuống.
Chờ Đức Giêsu sai gửi Đấng Cha đã hứa ban.
Chờ lãnh nhận phép Rửa trong Thánh Thần (Cv 1,5).
Không có sức mạnh của Ngôi Ba Thiên Chúa,
các tông đồ chẳng dám đi rao giảng cho muôn dân,
và trở nên chứng nhân của Đức Giêsu cho cả thế giới.
Không có Thánh Thần thì không có hoạt động truyền giáo.
Điều này vẫn đúng cho thời đại chúng ta.
Thánh Thần vẫn thôi thúc bao tâm hồn đi gieo Tin Mừng,
vẫn hiện diện và hướng dẫn Hội Thánh trong việc rao giảng,
vẫn khơi dậy bao sáng kiến mới mẻ trong việc truyền giáo.
Kitô hữu tự bản chất là chứng nhân.
Các tông đồ đã làm chứng vì họ đã thấy tận mắt.
Chúng ta chỉ có thể làm chứng nếu thấy bằng đức tin.
Thấy bằng đức tin mạnh chẳng kém gì thấy bằng mắt.
Kitô hữu là người thấy được Đấng Vô Hình,
có tương quan thân thiết với Đấng họ mến tin.
Truyền giáo không phải là tuyên truyền một lý thuyết,
mà là đưa người khác đến gặp một Ngôi Vị,
là chia sẻ cho họ niềm xác tín và yêu mến của mình.
Chúng ta cần tự hỏi tại sao sau gần 4 thế kỷ
Kitô giáo ở Việt Nam vẫn chưa phát triển mạnh.
Phải chăng vì đức tin chúng ta đã nhạt nhòa,
vì đời sống chúng ta chẳng có gì đáng nói?
Hay phải chăng chúng ta đã lơ là với việc rao giảng,
hoặc không biết cách loan báo Tin Mừng cho phù hợp?
Có thể tất cả những lý do trên đều đúng.
Truyền giáo hôm nay đòi ta cộng tác với mọi người thiện chí,
để xây dựng một thế giới công bằng, nhân ái hơn,
đòi ta yêu thương và phục vụ những người nghèo nhất.
Truyền giáo là đưa Tin Mừng vào nền văn hoá Việt Nam,
và đưa những giá trị tốt đẹp của văn hoá Việt Nam
vào việc sống và làm chứng cho Tin Mừng.
Chúng ta tin một Thánh Thần duy nhất
đã hoạt động nơi các dân tộc trước khi Ngôi Lời nhập thể,
vẫn luôn hoạt động trong đời Đức Giêsu và trong Hội Thánh,
và còn đang hoạt động nơi các tôn giáo, các nền văn hoá
của mọi dân tộc trong thế giới hôm nay.
Phải làm sao để trình bày Tin Mừng cách dễ hiểu,
gần gũi với tâm thức của đồng bào.
Phải làm sao để bày tỏ một khuôn mặt Đức Giêsu
nhân từ, dễ mến, đem lại hạnh phúc cho con người.
Hội Thánh Việt Nam cần biết bao những người công giáo
biết làm văn, làm nhạc, làm thơ, biết viết kịch, viết báo...
Tinh thần Chúa Kitô phải từ từ thấm vào mọi lãnh vực.
Có thể Kitô hữu mãi mãi vẫn là một thiểu số,
nhưng phải là một thiểu số đóng góp nhiều cho dân tộc.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có người bảo đạo Công Giáo là đạo ngoại lai. Bạn nghĩ sao? Có tôn giáo nào ở Việt Nam không đến từ nước ngoài? Làm sao để đạo Công Giáo gần gũi với lối sống, lối nghĩ của người Việt Nam hơn?
Đức Thánh Cha nói: không truyền giáo là dấu hiệu của khủng hoảng đức tin. Bạn nghĩ sao?
Cầu Nguyện
Lạy Cha,
Cha muốn cho mọi người được cứu độ
và nhận biết chân lý,
chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha.
Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người
chưa nhận biết Đức Giêsu,
họ cũng là những người đã được cứu chuộc.
Xin Cha thôi thúc nơi chúng con
khát vọng truyền giáo,
khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc,
niềm vui và bình an của mình cho tha nhân,
và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.
Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực
trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất
để loan báo Tin Mừng.
Chúng con chỉ xin đến
với những người bạn gần bên,
giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài,
qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.
Chúng con cũng cầu nguyện
cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo.
Xin Cha cho những cố gắng của chúng con
sinh nhiều hoa trái. Amen.
16. Anh em là chứng nhân
(Trích trong ‘Manna’ - Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu đã làm một điều quan trọng,
đó là đào tạo những chứng nhân.
Hội Thánh tương lai phải được xây nền vững chắc
trên những con người có kinh nghiệm cá nhân
về cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Chính vì thế Ngài đã hiện ra cho Simon,
cho hai môn đệ về Emmau, cho các tông đồ.
Ngài cho họ xem chân tay và Ngài đã ăn bánh
để họ đừng nghi Ngài là ma.
Hơn nữa Ngài còn soi sáng cho họ
để họ hiểu những lời Kinh Thánh nói về Ngài.
Các môn đệ đã là chứng nhân, đã tử đạo
để làm chứng cho điều mình xác tín.
Mỗi năm Hội Thánh dành một ngày Chúa Nhật
để nhắc chúng ta nhớ đến bổn phận của mình,
bổn phận truyền giáo cho thế giới.
"Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân"
Chúng ta phải tiếp tục sứ mạng của các tông đồ,
vinh dự đứng vào hàng ngũ các chứng nhân.
Để truyền giáo, chúng ta phải quen thân với Chúa Giêsu,
có kinh nghiệm gặp gỡ Ngài thật sâu lắng,
sống cái chết của Ngài mỗi ngày
và nếm được niềm vui phục sinh Ngài ban tặng.
Để truyền giáo cần có nhiều tình yêu:
tình yêu đối với Chúa Giêsu và đối với con người.
Chính vì mến yêu Ngài
mà ta muốn Ngài được mọi người nhận biết.
Chính vì mến yêu mọi người
mà ta muốn chia sẻ hạnh phúc mình đang hưởng.
Thế giới hôm nay đầy lạc thú và hưởng thụ,
nhưng vẫn là một thế giới buồn.
Buồn vì nạn phá thai, ly dị, tự tử;
buồn vì hận thù, thất vọng và lo âu.
Nhiều bạn trẻ tìm quên trong vui chơi, nghiện ngập,
vì không thấy cuộc sống có ý nghĩa.
Như thế truyền giáo là loan báo tin vui
cho một thế giới buồn.
Đức Thánh Cha đã nhắn nhủ giới trẻ:
"Hội Thánh ủy thác cho giới trẻ nhiệm vụ hô to lên
cho thế giới biết niềm vui vì gặp được Đức Kitô...
Hãy đi rao giảng Tin Mừng giải thoát.
Hãy là những điều ấy với tâm hồn hân hoan."
Chúng ta không thể là những chứng nhân buồn.
Chính cuộc sống của ta phải đầy ắp niềm vui,
sự lạc quan và sự sống của Chúa Phục Sinh.
Chỉ như thế chúng ta mời hy vọng đáp ứng
những đòi hỏi gay gắt của thế giới
đang bước vào đệ tam thiên niên kỷ.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có khi nào bạn nói về Chúa cho một người bạn không? Bạn có thấy mình cần học giáo lý và cầu nguyện để có thể truyền giáo tốt hơn không?
Hơn 90% người Việt Nam chưa tin Chúa. Theo ý bạn, chúng ta có truyền giáo đủ chưa? Phải sửa đổi gì để việc truyền giáo có hiệu quả hơn?
Cầu Nguyện
Lạy Cha,
Cha muốn cho mọi người được cứu độ
và nhận biết chân lý,
chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha.
Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người
chưa nhận biết Đức Giêsu,
họ cũng là những người đã được cứu chuộc.
Xin Cha thôi thúc nơi chúng con
khát vọng truyền giáo,
khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc,
niềm vui và bình an của mình cho tha nhân,
và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.
Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực
trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất
để loan báo Tin Mừng.
Chúng con chỉ xin đến
với những người bạn gần bên,
giúp họ quen biết Đức Giêsu và tin vào Ngài,
qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con.
Chúng con cũng cầu nguyện
cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo.
Xin Cha cho những cố gắng của chúng con
sinh nhiều hoa trái. Amen.
17. Truyền giáo là ra đi
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Lời mở đầu của “Sứ điệp ngày Thế giới Truyền Giáo 2014”, Đức Thánh Cha Phanxicô viết: Ngày nay còn rất nhiều người không biết Đức Giêsu Kitô. Vì thế, việc rao giảng cho người ngoài Kitô Giáo là công việc rất khẩn cấp, mà tất cả mọi thành viên của Giáo hội được kêu gọi để tham dự vào sứ vụ truyền giáo này, bởi vì tự bản tính Giáo hội là truyền giáo: Giáo hội được sinh ra là để “đi ra”.
Thiên Chúa hỏi ngôn sứ Isaia: “Ta sẽ sai ai đi? Và ai sẽ đi cho chúng ta?”. Isaia đã đáp: “Này con đây, xin hãy sai con” (Is 6,8). Isaia ca tụng: “Đẹp thay bước chân người đi khắp vùng đồi núi loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ..." (Is 52,7).
Truyền giáo là ra đi, đi để mang sứ điệp Tin mừng đến với muôn dân.
Sứ vụ sai đi khởi phát từ Chúa Cha “Như Cha đã sai Thầy,Thầy cũng sai anh em”. Chúa Giêsu thực hiện sứ vụ bằng việc ra đi.
Suốt mấy năm ra mặt với đời để hành đạo, Chúa Giêsu không ngừng đi, rày đây mai đó. Ngài luôn ngang dọc trên mọi nẻo đường đất nước của Ngài để truyền đạo.Từ hội đường này đến hội đường khác (Mt 4,23), hay ở ngoài trời, ở ngoài đường.Trên một sườn núi cũng có (Mt 5,1), bên một bờ hồ hiu quạnh cũng có (Mc 6,30-34). Có khi “mệt mỏi vì đường sá”, một mình ngồi trên thành giếng nói chuyện với người phụ nữ đến kín nước (Ga 4,6). Có lúc vì dân chúng chen lấn xung quanh đông đảo quá thì “Ngài mới lên một chiếc thuyền,thuyền của Simon và xin ông ấy chèo ra xa bờ một tí.Ngài ngồi xuống rồi từ ngoài thuyền nói vào mà giảng dạy dân chúng” (Lc 5,3).
Chúa Giêsu thực hiện những cuộc hành trình liên miên.Theo ngôn ngữ của Phúc âm Maccô chương 1: Ngài bỏ Nazareth để đến gặp Gioan bên sông Giođan,rồi đến Galilê,dọc theo bờ biển Galilê,và Ngài đi rao giảng trong các hội đường khắp xứ Galilê. Trong chương 2: Ít lâu sau, Ngài lại về Capharnaum…Ngài ngang qua đồng lúa …Cứ đi và đi như vậy mãi.
Chính giữa khung cảnh đường dài trời rộng thênh thang ấy mà lời giảng dạy của Ngài bao giờ cũng khởi hứng từ một hoàn cảnh của cuộc sống.Các hình ảnh đời thường gần gũi tràn ngập trong lời rao giảng: Cánh huệ mọc ngoài đồng; Đàn chim sẻ đang bay; Một đám ruộng lúa chín vàng mở rộng đến chân trời; Một mẻ cá lớn bên biển hồ; Những hạt giống người nông phu gieo vương vãi trên đường mòn,giữa bụi gai, trên sỏi đá; Một đàn cừu, dê, người chăn lùa về buổi chiều tối; Từng tảng đá,từng hạt sạn người ta nhặt từ một đống muối rồi vất đi; Từng con còng người đánh cá nhặt ra bỏ lại bên bờ sau một mẻ cá…
Việc thu thập môn đệ, Ngài cũng vừa đi, vừa gọi, vừa nhận…Như các môn đệ đầu tiên (Mc 1,16-20).Chúa Giêsu không dừng lại, yên nghĩ, hưởng thụ hay cũng cố vị trí người ta dành sẵn cho.Sau một ngày thành công rực rỡ ở Capharnaum chẳng hạn “Sáng đến,Ngài ra đi vào nơi hoang vắng. Dân chúng đi tìm Ngài và đến nơi Ngài, họ cố giữ Ngài lại, không để Ngài đi khỏi chỗ họ. Nhưng Ngài bảo họ: Ta còn phải đem Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa” (Lc 4,42-43). Như thế, quả là suốt đời Chúa Giêsu đã không hề có trụ sở, không hề có chỗ trụ trì, không hề có nhà thờ. Ngài đi khắp mọi nẻo đường trên thế giới Ngài sống.
Chúa Giêsu bị bắt lúc đang cầu nguyện giữa vườn Giệtsêmani hoang vắng.Bị điệu đến Hanna rồi Caipha.Từ toà đạo qua toà đời. Hết bị điệu đến dinh Philatô lại bị gửi qua dinh Hêrôđê, rồi bị đưa trả về cho Philatô. Không đầy một ngày một đêm mà kẻ tử tù đã phải đi không biết bao nhiêu dặm trên con đường “công lý” của loài người.
Bị kết án thập hình. Hai tay dang rộng, bị đóng đinh thập giá.Tảng đá lấp cửa mồ (Mc 14,32 -15,47). “Lính canh phòng cẩn mật,niêm phong tảng đá lại” (Mt 27,62-66). Thế nhưng, Đức Giêsu đã không dừng chân cả trong cái chết. Ngày thứ ba, Ngài sống lại, vượt cái chết qua sự sống bất diệt.
Sau khi Phục sinh, Ngài cũng đi nhiều nơi, đến với với các môn đệ, cũng cố lòng tin và sai họ ra đi loan báo Tin mừng. Hoàn thành sứ mạng “Ngài lên trời ngự bên hữu Chúa Cha” (Mc 16,19) và luôn đồng hành cùng Giáo hội “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
Chúa Giêsu lập nên Nhóm Mười Hai. Họ được Ngài sai đi rao giảng (Mc 6,7). Giáo hội tiếp nối sứ vụ được sai đi, ra đi đến với muôn dân.
Hai động từ Gọi - Sai Đi diễn tả rõ rệt ơn gọi của Nhóm Mười Hai.Các Tông Đồ là những người được sai đi.
Chúa căn dặn rằng: người được sai đi phải có tinh thần nghèo khó và từ bỏ.
- Nghèo khó về hành trang đi đường: 1 cây gậy, 1 đôi dép,không mang 2 áo. Ý nghĩa ở đây là những kẻ được sai đi phải là những con người thanh thoát, không cồng kềnh nặng nề với của cải vật chất để có thể luôn sẵn sàng lên đường ra đi cho sứ vụ.
- Nghèo khó về phương diện sinh sống: không được mang lương thực, bao bị, tiền bạc. Hành trình như vậy đặt các người được sai đi trong tư thế tuỳ thuộc. Không vướng víu, không “mọc rễ” bất cứ nơi đâu để nhẹ nhàng ra đi nơi nào Chúa muốn.
Chúa Giêsu cũng không dấu giếm họ điều gì cả.Con đường truyền giáo là con đường đầy chông gai, lắm gian khó. Cũng như Ngài, họ đón nhận sự rủi ro bị từ chối, bị xua đuổi. Cần phải hy sinh bản thân. Đó là thân phận kẻ được gọi, được sai đi. Ra đi mà không gì bảo đảm, ra đi mà không mảy may dính bén. Sẵn sàng đến mà cũng sẵn sàng đi.Thành công cũng không thụ hưởng mà thất bại cũng chẳng đắng cay. Bởi lẽ người được sai đi luôn xác tín rằng: “Tôi trồng, Apollô tưới, còn Chúa cho mọc lên”.
Người truyền giáo luôn bị cám dỗ định cư, tìm an toàn bảo đảm bản thân, an nghĩ trong những thành công tạm bợ…và không muốn ra đi. Càng gắn bó, lúc cách xa càng luyến nhớ. Sâu đậm bao nhiêu, lúc giã biệt sẽ nuối tiếc bấy nhiêu.Vì vậy, Chúa muốn các môn đệ luôn sẵn sàng ra đi, lên đường bao giờ cũng đẹp, hạnh phúc chỉ dành cho ai dám lên đường tìm kiếm.
Cuộc đời người Kitô hữu cứ phải ra đi không ngơi nghỉ. Ra khỏi cái cũ và đi tới cái mới. Ra khỏi cái đang có để đi tới cái chưa có. Ra khỏi cái mình đang là để đi tới cái mình phải là. Như thế, hành trình xa xăm nhất lại chính là hành trình của con tim “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi. Nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông”.
Sứ vụ truyền giáo là sứ vụ của người ra đi mang tin vui, tin cứu độ, tin được Thiên Chúa đoái thương. Đức Maria mang trọn niềm vui Đấng Cứu Độ mà nhân loại đón đợi. Đức Maria trở nên người loan báo Tin Mừng vì Mẹ mang trọn niềm vui Chúa Thánh Thần. Ai để cho Chúa Thánh Thần hoạt động trong cuộc đời của mình cũng là người mang trọn niềm vui loan báo. Đức Maria còn là người công bố Tin Mừng: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn” (Lc 1, 49). Thấy được tình thương Thiên Chúa thể hiện trong cuộc đời mình nên lời công bố mang một niềm tin xác tín, đã gặp và đã thấy nên chan chưa niềm vui.
Xuyên suốt Sứ điệp Truyền giáo năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô luôn nói đến niềm vui Tin Mừng: “Tôi mời gọi anh chị em đắm mình vào niềm vui của Tin Mừng và nuôi dưỡng một tình yêu có thể thắp sáng ơn gọi và sứ mạng của anh chị em…Các môn đệ của Đức Kitô luôn luôn vui mừng khi cảm nhận sự hiện diện của Ngài, khi thi hành ý Ngài và chia sẻ đức tin, đức cậy và đức ái Phúc Âm của mình cho người khác” (Sứ điệp Truyền giáo 2014).
Để trở thành người loan Tin Mừng, Đức Maria đã “hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 3,51). Cầu nguyện là chiêm ngắm những điều Thiên Chúa đã thực hiện nơi mình. Đối với Đức Maria, truyền giáo là đem chính Chúa Giêsu cho nhân loại. Chúa Giêsu là lẽ sống, là hạnh phúc, là niềm vui của cuộc đời mỗi kitô hữu. Chúng ta phải xác tín như Đức Maria: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Lc 1, 46). Tràn ngập niềm hân hoan bởi Mẹ đã gặp thấy và cưu mang chính niềm vui có Chúa Giêsu trong lòng Mẹ. Đức Maria reo ca: “Thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1, 47). Đức Maria đã cưu mang chính Chúa Giêsu, quà tặng tuyệt hảo nhất của Thiên Chúa, nguồn ơn cứu rỗi duy nhất, công bố, trao tặng cho nhân loại.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ra đi từ trời cao xuống đất thấp, mang Tin mừng chiếu soi nhân trần. Xin sai chúng con ra đi nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân hay vào những phương tiện trần thế. Xin giúp chúng con chỉ biết cậy dựa vào Chúa.Chỉ mình Chúa là đủ cho chúng con. Amen.
18. Công bình và bác ái
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Chúa Nhật Truyền giáo)
Phải nhìn nhận rằng đến hôm này cái tên của đạo chúng ta: Công giáo thì Chính quyền các cấp nước Việt hiện nay có vẻ miễn cưỡng phải dùng dù không mấy thích. Đã từng một thời gian rất dài, người ta gán ghép cái tên Thiên Chúa giáo cho Công giáo. Người ta không muốn dùng hai từ Công giáo vì Công giáo, hiểu sát nghĩa từ, là đạo chung cho mọi người, không phân biệt quốc tịch, dân tộc, giới tính, hoàn cảnh, địa vị... Công giáo là đạo mời gọi mọi người, mọi nơi, mọi thời, gia nhập để nhận biết Thiên Chúa duy nhất là Đấng sáng tạo nên mọi loài, là Cha của hết mọi người, để mọi người biết sống yêu thương nhau như anh chị em một nhà. Chính vì thế truyền giáo là sứ vụ nền tảng phát xuất từ căn tính của Kitô hữu. Đã là anh chị em một nhà thì quan tâm đến hạnh phúc của nhau là lẽ tất yếu.
Truyền giáo là một nhu cầu tất yếu. Đã nói đến nhu cầu là không thể thiếu. Cái nhu cầu truyền giáo xuất phát từ yếu tính của Kitô hữu, những con người cảm nhận mình được yêu thương, mình đang hưởng nhận hồng phúc to lớn vượt quá công sức và phận vị của mình. Tốt khoe - xấu che là hệ lụy tất yếu. Khi đã cảm nhận hạnh phúc lơn lao mình lãnh nhận thì không thể không chia sẻ cho tha nhân, nhất là khi ta chân nhận tha nhân chính là anh chị em của mình. Không nỗ lực truyền giáo hay thờ ơ với việc rao giảng Tin mừng là một trong những dấu chỉ nói lên rằng ta chưa thực sự cảm thấy hạnh phúc trong đời làm con cái Chúa. Điều này củng cố lời xác nhận của thánh tông đồ dân ngoại: " Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng" (1 Cor 9,16). Hơn nữa, chímh Chúa Kitô đã minh nhiên phán dạy chúng ta phải truyền giáo (x. Mt 28, 18-20)
Một phương thế rao giảng Tin mừng: làm chứng nhân.
Thánh Phaolô minh định rằng người ta tin là nhờ nghe và người ta nghe được là nhờ có người rao giảng (x. Rm 10,14). Với sự phát triển ngày càng hiện đại của ngành thông tin thì chân lý "trăm nghe không bằng một thấy" đang thực sự chứng nghiệm. Những gì đập vào thị giác xem ra gây hiệu quả mạnh hơn là những gì rót vào thính giác. Một hình ảnh nhiều khi nói lên một sự thật cách thuyết phục hơn là một bài diễn thuyết hùng hồn. Đức Phaolô VI đã từng nhận định: "Ngày nay người ta thích theo các chứng nhân hơn là các nhà giảng thuyết. Sở dĩ người ta nghe theo các nhà giảng thuyết vì trước hết họ là những chứng nhân". Quả thật cha ông Việt nam chúng ta đã từng xác nhận: "Lời nói gió bay, gương bày lôi kéo".
Nói đến Phật giáo thì người ta nghĩ ngay đến "từ bi - hỉ xả". Nói đến Khổng giáo thì người ta nghĩ ngay đến "Trung dung; Chính danh - chính phận". Nói đến Lão giáo thì người ta nghĩ ngay đến "Vô vi". Nói đến đạo ông bà thì người ta nghĩ ngay đến "tình hiếu đễ"... Nói đến Công giáo thì không thể không nghĩ đến "công bình - bác ái". Chính khi làm nổi bật cái nét riêng của mình thì ta đang quảng bá cái của mình cách hữu hiệu hơn cả. Dĩ nhiên trong công cuộc truyền giáo, chúng ta không thể không chú trọng đến việc rao truyền Lời Chúa, phổ biến Thánh Kinh dưới mọi hình thức, đặc biệt với sự quan tâm của toàn thể Hội Thánh qua Thượng Hội Đồng Giám Mục đang diễn ra với chủ đề "Kinh Thánh". Tuy nhiên, xin được cụ thể hóa việc rao giảng Tin Mừng bằng đời sống chứng nhân là làm chứng cho cái tinh túy của Công giáo là đạo công bình và bác ái.
1. Sống đức công bình trong tình bác ái: Công bình là một trong những nhân đức luân lý nền tảng giúp gìn giữ sự hài hòa, ổn định trong các mối tương quan giữa người với người, giữa người với vạn vật và giữa người với Đấng tạo Thành. Dưới nhãn quan công bình giao hoán thì của ai hãy trả lại cho người ấy. Điều này đòi buộc ta không được phép xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp và chính đáng của tha nhân, của các tạo vật và của Đấng Tạo Thành. Ta không những không được "lấy của người" mà con không được "ước ao trái phép những gì của người ta" (giới răn thứ 7 và thứ 10).
Luật lệ Cựu ước minh nhiên ghi rõ rằng ta không được ngược đãi người ngoại kiều, khách ngụ cư, không được ức hiếp mẹ góa con côi, không được cho vay ăn lời quá đáng; không đuợc cầm giữ tiền công của người làm thuê qua đêm...(x.Dnl 24,17; Lv 19,13). Tuy nhiên dưới nhãn quan bác ái thì đức công bình đòi hỏi ta phải biết đối xứ với nhau như là anh em đến nỗi khi hái nho thì không được mót những trái rơi vải mà phải để dành cho người nghèo, cũng thế khi gặt lúa cũng phải nghĩ đến người túng cực để ta không lượm mót những gié lúa còn sót hay rơi vải trên đồng (x. Lv 19,10;23,22). Không được phép dừng lại ở việc đối xứ với tha nhân như họ đã làm gì cho ta mà cần phải tiến đến chỗ đối xữ với họ như họ là anh chị em của ta. Có như thế ta mới xứng đáng là con cái Cha trên trời, Đấng cho mưa rơi đều xuống trên người lành lẫn kẻ bất lương, cho mặt trời mọc lên soi người công chính lẫn tội nhân (x.Mt 5,43-48). Với vũ trụ thiên nhiên thì đức công bình đòi hỏi ta phải biết tôn trọng các loài thọ tạo Chúa dựng nên trong sự hài hòa và cân đối của chúng. Hội Thánh khẳng định việc hủy hoại môi sinh là một trọng tội. Khi được trao quyền làm chủ các loài thụ tạo hữu hình thì con người không chỉ quản lý chúng để phục vụ hạnh phúc cho mình và tha nhân mà còn để làm vinh danh Chúa.
2. Sống bác ái trong sự công bình: Sống bác ái là sống yêu thương như Chúa yêu thương, nhờ Chúa yêu thương. Tuy nhiên, sự công bình đòi hỏi chúng ta phải yêu mến Chúa trước hết và trên hết mọi sự, với hết lòng, hết sức, hết cả trí khôn (x. Mt 22,37). Đây là một đòi hỏi mang tính tất yếu. Chúng ta không chỉ thờ phượng Thiên Chúa như là Đấng Tạo thành và an bài mọi sự, là Đấng dựng nên chúng ta từ hư vô, mà còn phải yêu mến Người, vì Người là Cha chúng ta. Do đó bổn phận đức ái đối với Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta phải tiên vàn tìm vinh danh Chúa (x. Mt 6,33), nỗ lực làm cho Danh Chúa cả sáng, nước Chúa trị đến và ý Chúa thể hiện dưới đất cũng như trên trời (x. Mt 6,9-10).
Trên nền tảng đức ái đối với Thiên Chúa, chúng ta sẽ biết yêu thương nhau như anh chị em một nhà. Vì yêu thương nhau nên chúng ta không chỉ không làm những gì cho tha nhân điều mà ta không muốn tha nhân làm cho mình mà còn tiến đến chỗ tích cực làm cho tha nhân những gì ta muốn tha nhân làm cho mình (x. Mt 7,12).
Ngày khánh nhật truyền giáo lại về. Một lần nữa Hội Thánh nhắc nhớ chúng ta nghĩa vụ cao cả và mang tính sống còn của Kitô hữu. Không truyền giáo thì chỉ là Kitô hữu hữu danh vô thực. Không chia sẻ cho tha nhân hạnh phúc mình đang có là một trong những dấu chỉ chứng tỏ rằng ta chưa thực sự cảm nhận hạnh phúc khi được làm con cái Chúa.
19. Khánh nhật truyền giáo – Lm Trần Ngà.
Mến Chúa và yêu người là hai giới răn trọng nhất. Điều đó thì trẻ con cũng thuộc. Nhưng điều quan trọng là làm sao thực thi lòng mến Chúa qua việc yêu thương con người là hiện thân của Thiên Chúa.
Yêu Chúa mà lại ghét người thân cận thì thật là điều trớ trêu như câu chuyện sau đây:
Có một vị hoàng thái tử vào rừng săn bắn gặp một cô gái hái củi trong rừng. Không hiểu Trời xui đất khiến làm sao mà họ yêu nhau tha thiết ngay từ buổi gặp gỡ đầu tiên.
Hoàng tử quay về triều như kẻ mất hồn, ngày đêm tương tư cô gái nghèo mà anh đã đem lòng thương mến và rồi anh khẩn khoản xin vua cha cưới nàng cho bằng được.
Để tìm hiểu xem cô gái có thực sự yêu thương con trai mình bằng tình yêu chân thực hay không, vua cha dạy cho hoàng tử cải trang làm nông dân để thử lòng cô gái...
Thế là hoàng tử hoá thành người nông dân, đến cắm lều gần nhà cô gái, ngày ngày vác cuốc ra đồng làm lụng. Anh lân la đến làm quen với cô gái trong hình hài một nông dân.
Mặc dù cô gái vẫn thầm yêu và mong được kết hôn với hoàng tử, nhưng cô tạ không nhận ra hoàng tử nơi người nông dân nghèo khổ nầy. Cô đã đối xử với anh rất lạnh nhạt và cuối cùng đã xua đuổi anh.
Tiếc thay, cô đã đánh mất cơ hội vô cùng quý báu: mất vinh dự trở thành công nương, thành hoàng hậu tương lai.
Như vị hoàng tử kia hoá thân thành nông dân để thử lòng cô gái, Thiên Chúa cũng hoá thân thành người phàm để thử thách tình yêu của chúng ta. Ngài đã từ trời xuống thế, hoá thân làm người, cắm lều ở giữa loài người, trở nên người thân cận của mỗi người.
Thế nên, khi yêu thương người thân cận là chúng ta yêu thương Chúa, và khi chúng ta từ khước hay bạc đãi người thân cận là bạc đãi Chúa. Tình yêu thương người thân cận là thước đo tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa.
Mẹ Têrêxa là người giữ điều răn yêu thương nầy cách tuyệt hảo. Mẹ nhìn thấy Chúa trong những người phong cùi, trong những người bần cùng khốn khổ và mẹ tận tình yêu thương săn sóc những người ấy hết sức tận tình.
Mẹ dạy nữ tu của mẹ: "Con thấy linh mục nâng niu trân trọng Mình Thánh Chúa trong thánh lễ ra sao thì con hãy làm như thế đối với người cùng khổ."
Mẹ là người vừa yêu mến Thiên Chúa trên trời lại vừa yêu mến Chúa hịên diện trong những người khốn khổ. Mẹ không tách rời hai giới răn mến Chúa và yêu người, nhưng mẹ đã yêu Thiên Chúa trong con người.
Khi hỏi tại sao người công giáo chúng ta truyền đạo mà không thu hút được nhiều người về với Hội Thánh?
Chắc chắn là vì chúng ta chưa sống theo đạo yêu thương. Nếu chúng ta theo phương cách sống đạo của mẹ Têrêxa Calcutta, tha thiết yêu mến Thiên Chúa nơi con người, thì đạo chúng ta trở thành hấp dẫn, và bản thân chúng ta cũng có sức thu hút được nhiều người như mẹ Têrêxa đã minh chứng bằng đời sống của mẹ: Mẹ được người đời xem là bà thánh sống, được mọi người yêu mến, cả những người Hồi Giáo, Ấn giáo, Bà La Môn và các đạo khác đều vô cùng quý mến mẹ.
Nhân ngày Truyền Giáo, xin cho chúng ta biết áp dụng phương thế truyền giáo tuyệt hảo của mẹ Têrêxa là yêu mến Thiên Chúa trong con người, hy vọng nhờ đó, đạo Chúa trở thành một tôn giáo rất đẹp, rất hấp dẫn và nhiều người sẽ quay về với đạo yêu thương nầy.
20. Chứng nhân trong sự hiệp nhất yêu thương
Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ của Lm Tạ Duy Tuyền)
Thế giới ngày hôm qua cũng như hôm nay luôn ngưỡng mộ những chứng nhân cho tình yêu. Một Tê-rê-sa thành Calcutta nhỏ bé nhưng có một trái tim lớn lao đã làm cho cả thế giới kính phục. Ở Việt Nam, người công giáo hay không công giáo họ vẫn nói với nhau về một vị giám mục dám bỏ ngai tòa để đến ở cùng những người cùi tại trại cùi Di linh. Đó chính là Đức Giám mục Cassien. Ngài đã dùng tình yêu để xoa dịu những những đau đớn cho người cùng khổ. Ngài đã chết cho tình yêu, nên tình yêu của Ngài mãi ở lại nơi dương thế qua mọi thời đại.
Hôm nay ngày khánh nhật truyền giáo, thiết tưởng là dịp thuận lợi để chúng ta nhìn lại tinh thần chứng nhân tin mừng của giáo hội sơ khai. Một giáo hội non trẻ nhưng có sức mạnh biến đổi trần gian. Một giáo hội bị cấm đoán nhưng vẫn lan tỏa đến tận cùng thế giới. Một giáo hội nhỏ bé nhưng ai cũng có tinh thần truyền giáo, khiến thánh Phao-lô đã từng nói rằng: "Tôi trồng, Apolo tưới, Thiên Chúa mới cho mọc lên". Vậy đâu là điểm son để giáo hội có thể vượt qua mọi trở ngại để phát triển và canh tân bộ mặt trái đất? Thưa đó chính là tinh thần hiệp nhất yêu thương.
Theo sách tông đồ công vụ, thời giáo hội sơ khai, các tín hữu "sống hiệp nhất với nhau, và để mọi sự là của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu" (Tđcv 2, 44). Họ hợp nhất với nhau không chỉ về niềm tin mà còn hiệp nhất trong tình liên đới chia sẻ của cải vật chất cho nhau. Sự liên đới này tạo nên một cộng đoàn bác ái yêu thương, trong đó mỗi người đều được cộng đồng quan tâm, nâng đỡ và chia sẻ cho nhau tùy theo nhu cầu của từng người.
Chính đời sống yêu mến nhau nơi các tín hữu mà Giáo hội sơ khai đã được toàn dân thương mến. Sự thương mến đó đã đem nhiều người về với Chúa. Sự thương mến đó cũng là nơi bảo vệ các tín hữu khỏi những cuộc tàn sát của bạo chúa hung tàn. Vâng, nếu ngày xưa cộng đoàn Giáo hội sơ khai đã được "toàn dân thương mến" (Tđcv 2,47a), thì đời sống của xứ đạo chúng ta hôm nay, cũng phải là một cộng đoàn được những người chung quanh nhìn bằng ánh mắt trìu mến thân thương. Đó cũng là cách chúng ta ca tụng Chúa và giúp cho "càng ngày càng có nhiều người gia nhập Giáo hội" (Tđcv 2, 47b).
Thế nên, tinh thần truyền giáo mời gọi chúng ta hỗ trợ nhau không chỉ về tinh thần mà còn cả về vật chất, không chỉ là những người có đạo mà còn cả những người lương dân. Đồng thời sự chia sẻ này cũng nói lên sự xóa bỏ những tị hiềm, ghen ghét trong cộng đoàn để đón nhận nhau trong tinh thần bác ái huynh đệ. Lấy "dĩ hòa vi quý" để sống hài hòa, nâng đỡ đùm bọc lẫn nhau tạo nên một cộng đoàn chan hòa yêu thương, bác ái, chia sẻ, cảm thông. Đó cũng là dấu chỉ cho thấy chúng ta là môn đệ Chúa Giêsu, là chứng nhân của Tin mừng giữa lòng dân tộc Việt Nam.
Vì chưng, giới luật quan trọng nhất của kytô giáo chính là Mến Chúa - yêu người, thì người người ky-tô hữu chúng ta phải thể hiện điều đó qua từng lời nói, từng việc làm, luôn được cân nhắc cho vừa ý trời và phù hợp với luân thường đạo lý làm người. Vì vậy, một đời sống chứng nhân Tin mừng cũng phải thể hiện bằng một đời sống hòa hợp với cộng đồng, với tha nhân. Nhất là biết thể hiện sự tương thân tương ái nơi cộng đồng giáo xứ, sự hiệp nhất yêu thương trong tình huynh đệ với tha nhân, nhờ đó mà Tin mừng mới nở hoa trên từng môi trường sống của người tín hữu. Chúng ta không thể là một người kytô hữu tốt mà lại đối xử thật tồi tệ với anh chị em chung quanh. Lối sống này không chỉ là lỗi luật Chúa mà còn là cớ vấp phạm cho những người chưa biết Chúa. Nhà lãnh tụ Ganhi của An Độ đã từng nói: "Nếu những người kytô giáo sống đúng tinh thần giáo lý của họ. Tôi sẽ mời gọi cả dân tộc Ấn trở lại". Chúng ta không thể truyền giáo mà còn mang nặng tính bè phái, tỵ hiềm, chia rẽ. Lối sống này đã không thu góp về cho giáo hội những tín đồ mới mà còn đẩy biết bao người ra khỏi giáo hội bởi lối sống ích kỷ, độc đoán của chúng ta. Thực tế đã có rất nhiều những cộng đoàn, những xứ đạo đổ vỡ vì sự bè phái đã phá đổ tình hiệp nhất yêu thương. Đã có rất nhiều người bỏ đạo, chối đạo vì sự bất khoan dung của chúng ta đã đẩy họ ra khỏi Giáo hội, khỏi cộng đoàn. Và cũng có rất nhiều cái nhìn thiếu thiện cảm của anh em lương dân nhìn đến chúng ta, chỉ vì chúng ta sống thiếu công bình, thiếu lòng bác ái, thiếu lòng bao dung.
Thế nên mỗi người tín hữu phải biết sống tinh thần truyền giáo khởi đi từ lòng mến Chúa, yêu người nơi mỗi người chúng ta. Chúng ta mến Chúa nên chúng ta hăng say truyền giáo. Chúng ta yêu mến tha nhân nên chúng ta muốn chia sẻ niềm vui với tha nhân. Tình yêu mến mời gọi chúng ta đi đến với tha nhân bằng một tình yêu chân thành, không khoe khoang, không giả dối. Tình yêu mến mời gọi chúng ta dấn thân một cách quảng đại để đem tình yêu Chúa nối kết tình người, đưa con người đến cùng Thiên Chúa và giúp con người xích lại gần nhau.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng đã từ trời xuống để gieo tin mừng yêu thương vào cho nhân thế, nâng đỡ và giúp chúng ta sống ơn gọi truyền giáo bằng một tình yêu mến nồng nàn. Ước gì đời sống chúng ta cũng trở thành một lời chứng sống động cho tin mừng khi chúng ta dám sống triệt để theo những đòi hỏi của tin mừng là mến Chúa trên hết mọi sự và yêu mến tha nhân như chính mình. Amen.
21. Cách thức truyền giáo
Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ của Lm Tạ Duy Tuyền)
Hôm nay ngày khánh nhật truyền giáo, chúng ta nghe âm vang lời mời gọi của Chúa vẫn còn vang vọng tới hôm nay: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo". Chúa không nói riêng một ai. Chúa mời gọi tất cả. Chúa không đòi hỏi khả năng, bằng cấp, học vị mà chỉ cần có nhiệt huyết làm tông đồ cho Chúa. Chúa cũng không đòi hỏi người truyền giáo phải hiểu biết tín lý thần học sâu xa, hay luân lý uyên thâm, Chúa chỉ cần có lòng quảng đại dấn thân mở mang nước Chúa. Chúa đã sai 72 môn đệ ra đi với đôi bàn tay trắng, thế mà khi trở về ai cũng vui mừng vì thành quả họ đã đạt được. Chúa đã thưởng công cho mỗi người như nhau, không phân biệt người đến sớm, kẻ đến muộn, người đạo gốc hay mới theo đạo. Từ người thợ giờ thứ 9 cho tới giờ thứ 11 đều được ân thưởng theo lòng nhân từ của Chúa.
Vậy đâu là cách thức truyền giáo hữu hiệu nhất cho người tông đồ của Chúa?
Thánh Gioan Tông đồ đã viết: "Ngôi lời đã hoá thành nhục thể và cư ngụ giữa chúng ta". Chúa Giêsu là Lời hằng sống gieo vào thế gian, nhưng Lời đã mang lấy xác phàm giống như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Ngôi Lời đã trở thành nguồn ơn cứu độ để những ai tiếp xúc với Ngài đều có thể nhận lãnh được sự sống dồi dào cả tinh thần lẫn thể xác. Ngôi Lời đã mặc lấy thân phận con người, để có thể gần gũi, cảm thông và chia sẻ với những khổ đau của con người. Cuộc sống của Ngài đã trở thành trở thành lẽ sống cho con người, "Sống để yêu thương", và Ngài đã đi trọn con đường tình yêu là "dám chết cho người mình yêu". Vì vậy, cách thức duy nhất mà Chúa trối lại cho chúng ta là "anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em". Lời Chúa và giáo huấn của Chúa phải trở thành cung cách sống của người tín hữu. Một đời sống bác ái yêu thương mới thực sự là phương thế hữu hiệu nhất để giới thiệu về Chúa cho tha nhân. Lời nói và việc làm phải đi đôi với nhau. Mang danh kytô hữu và sống đời kytô hữu phải nên một trong con người có đạo mới thực sự trở thành chứng nhân cho Chúa.
Vì vậy, Truyền giáo không thể chỉ đi lễ, đọc kinh cầu nguyện là xong bổn phận chứng nhân cho Chúa. Nếu như thế mới chỉ là hành vi trả lại công bằng cho Chúa, vì việc tạ ơn là hành vi đền đáp lại ân ban của Thiên Chúa dành cho con người. Truyền giáo không phải là việc tuân giữ các giới răn của Chúa. Nếu như thế mới là giữ đạo chứ chưa truyền đao. Truyền giáo không phải là nói thật hay, thuyết trình thật hùng hồn là có thể đem nhiều người về với Chúa. Nếu như thế mới chỉ là tiếp thị chứ chưa mang đạo vào đời như muối như men ướp mặn trần gian.
Trong thông điệp "khánh nhật truyền giáo 2006", Đức Thánh Cha Bênedictô 16 đã viết: "Sứ mạng truyền giáo, nếu không được định hướng bởi Lòng mến, nếu không phát sinh từ một hành động sâu xa của tình yêu thần thiêng, thì sứ mạng đó liền bị rút gọn về chỉ còn như là một hành vi nhân ái và xã hội không hơn không kém. Tình yêu mà Thiên Chúa có đối với mỗi người, kết thành trung tâm của kinh nghiệm sống và loan báo Phúc Âm".
Như vậy, Đức Thánh Cha đã tái khẳng định cách thức mà Chúa Giêsu muốn chúng ta đi đó là thực hành bác ái. Không có lòng mến thì không thể trở thành nhân chứng cho niềm tin của mình. Yêu Chúa luôn đi liền với yêu mến tha nhân. Và thánh Phaolô còn quả quyết "Lòng mến chính là sợi giây ràng buộc chúng ta nên một với Đức Kytô".
Hôm nay nhân ngày khánh nhật truyền giáo, chúng ta hãy rà xét lại lòng mến của chúng ta đã trở nên dấu chỉ của người kytô hữu hay chưa? Ngày xưa cộng đoàn tín hữu tiên khởi họ đã sống thật hiệp nhất với nhau, ngày ngày họ đến hội đường để nghe các tông đồ rao giảng. Họ chia sẻ đời sống hằng ngày với nhau, để không ai phải thiếu thốn. Họ được toàn dân thương mến và ngày càng có thêm nhiều người gia nhập Giáo Hội. Ước gì cộng đoàn xứ đạo chúng ta cũng được những người chung quanh nhìn bằng ánh mắt trìu mến, đầy thiện cảm và tôn trọng, và ngày càng có những người muốn sống đời kytô hữu như chúng ta. Amen.
22. Truyền giáo là sống chứng nhân
NIỀM TIN VÀ HY VỌNG
Hằng năm vào tuần lễ gần cuối năm Phụng vụ, Giáo hội nhắc nhở chúng ta dâng Thánh lễ cầu nguyện cho việc truyền giáo. Thật ra, tự bản chất Giáo hội là truyền giáo. Mỗi thành viên trong Giáo hội đều có trách nhiệm và bổn phận truyền giáo. Bởi đây là lời mời gọi của Chúa Giêsu: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần" (Mt 28, 19).
Đức Thánh Cha Bênêđictô 16 của chúng ta vừa ra Thông điệp Spe Salvi (Niềm hy vọng Kitô giáo). Ngài muốn các con cái mình hãy thật sự sống niềm tin và hy vọng vào Chúa. Thiết nghĩ khi sống được điều này chính là chúng ta đang truyền giáo cho những anh chị em đang sống xung quanh chúng ta.
"Người sống trong niềm tin và hy vọng là người sống có tương lai, sống như có Thiên Chúa đang ở với mình, người đó chính là những người kitô hữu. Tương lai bảo đảm cho hiện tại của họ, tương lai ảnh hưởng đến hiện tại, có tác động và làm thay đổi đời sống hiện tại" (Thông điệp Spe Salvi số 2 - 3).
Đúng vậy, phân biệt giữa một người sống có niềm tin và hy vọng với một người không chẳng có chút niềm tin và hy vọng nào, chúng ta sẽ thấy cách sống của họ rất khác nhau. Người đàn bà xứ Canana đã chạy hết thầy hết thuốc mà chẳng chữa bệnh cho con mình. Giờ đây bà chỉ còn biết hoàn toàn tin tưởng và hy vọng nơi Chúa Giêsu. Điều đáng nói dù Chúa Giêsu đã thử thách bà rất nặng nhưng bà vẫn không nản chí (Mt 15, 21 - 25). Đức Trinh Nữ Maria - Mẹ của chúng ta, cũng vì tin tưởng và hy vọng nơi Chúa nên Mẹ đã đón nhận cách vui vẻ sứ mạng được trao phó. Mặc dù với sứ mạng ấy Mẹ đã phải đón nhận nhiều khó khăn thử thách.
Ngược lại, người sống chẳng có niềm tin và hy vọng sẽ sống như chẳng có ngày mai. Điển hình cách sống của phần lớn của các bạn trẻ hôm nay. Họ chỉ biết đến có tiền bạc và vật chất đời này. Do đó, họ bất chấp luân thường đạo lý miễn sao có lợi cho họ là được.
Do đâu mà người đàn bà xứ Canaan và Đức Trinh Nữ Maria cũng như nhiều người sống được niềm tin và hy vọng nơi Chúa. Là vì họ đã gặp được và mang Chúa Giêsu trong mình. Chúa Giêsu đã hứa: "Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28, 20). Vì thế, chúng ta sẽ gặp được Chúa trong Thánh lễ và qua những lời dạy của Chúa cũng như những chỉ dẫn của Giáo hội. Hãy tin tưởng và hy vọng vào Chúa. Đó là chúng ta đang truyền giáo.
23. Theo Đạo nhờ gương sáng
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Trong bộ phim Tiểu Sử Thánh Têrêxa thành Lisieux đạo diễn đã chọn nữ diễn viên Lindsay Younce thủ vai Têrêxa. Điều đáng nói là sau khi hoàn thành bộ phim, nữ diễn viên ngoại đạo này đã xin theo đạo Công Giáo.
Cô nói: “Quá trình trở lại đạo công giáo của tôi đã bắt đầu ngay trước lúc tôi khởi sự cuốn phim, tuy nhiên tôi đã đợi cho xong phim rồi mới hòan thành quá trình đó. Tôi nghĩ rằng việc được biết thánh Têrêxa đã dẫn tôi tới nhiều khía cạnh của đức tin công giáo mà tôi chưa được làm quen, đặc biệt là niềm vui phát sinh từ đau khổ khi bạn dâng nó lên Thiên Chúa như một của lễ. Bạn xin cho được đau khổ, bạn thấy vui trong đau khổ và đó có thể là những điều nhỏ mọn mà bạn tiến dâng lên mỗi ngày”.
Điều mà cô cảm phục chính là thái độ sống nhịn nhục và phục vụ ân cần của thánh Têrêxa với nữ tu già Augustine. Một người nữ tu rất khó thương, thế mà thánh nữ vẫn yêu thương và biến hành vi ấy thành của lễ cứu độ trần gian để rồi thánh nữ đã có thể nói: “Nếu có tình yêu thì dù cúi xuống nhặt một cái kim cũng đủ cứu độ thế giới. Và ngài cũng nói: “ơn gọi của ngài là tình yêu”.
Ở đời người ta rất cần gương sáng. Gương sáng của người vợ có thể biến đổi người chồng nghiện ngập sa đọa thay đổi đời sống. Gương sáng của cha mẹ sẽ dẫn dắt con cái đi trong chân thiện mỹ. Gương sáng của người tín hữu có thể biến đổi người lương dân và giúp họ đón nhận tin mừng.
Nữ diễn viên Younce đã được ơn theo đạo Công Giáo nhờ đọc tiểu sử và nhập vai thánh Têrêxa, và có lẽ đời sống của chúng ta nếu sống đúng tinh thần ky-tô hữu là sống cho tình yêu thì chắc chắn sẽ mang về cho Chúa biết bao linh hồn.
Nhưng đáng tiếc, vì cuộc sống phản chứng của chúng ta đã khiến bao người lương dân ngã lòng, thất vọng khi chúng ta sống thiếu công bình, bác ái, yêu thương. Đôi khi chúng ta còn gây nên những bất đồng, khổ đau cho tha nhân như Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolo đã từng đại diện cho toàn thể Giáo hội xin lỗi anh em lương dân vì đời sống phản chứng Tin Mừng.
Hôm nay lễ khánh nhật truyền giáo là dịp cho chúng ta xác định ơn gọi của chúng ta là truyền giáo. Giáo hội Chúa Ky-tô thiết lập để sai đi truyền giáo. Người ky-tô hữu là chi thể của Giáo hội cũng phải biết cộng tác vào chương trình truyền giáo theo khả năng và hoàn cảnh của mình. Mỗi người có thể là tay chân, là môi miệng, là mắt, là tai... đều phải tỏa sáng Tin mừng trong khả năng của mình.
Có thể bạn là người nghèo thì hãy sống khó nghèo, đừng vì nghèo mà sinh đạo tặc hay sống xa lánh Giáo hội. Hãy làm chứng cho thế giới biết rằng cuộc đời chỉ là một hành trình tiến về thiên quốc là nơi không còn đau khổ bởi đói, bởi hận thù chiến tranh, thế nên chúng ta hãy tin tưởng và bước đi trong hoàn cảnh của mình.
Có thể bạn là người giầu có, quyền thế hãy biết tạn dụng ơn huệ Chúa ban để tôn vinh Chúa qua đời sống chia sẻ, cảm thông với những mảnh đời bất hạnh.
Có thể bạn là người bệnh tật, hay già nua hãy dâng nỗi đau phần xác của mìh để cầu nguyện cho Giáo hội, hãy cầu cho Giáo hội của Chúa có nhiều thợ lành nghề để mở mang Nước Chúa.
Có thể bạn là người khỏe mạnh, hãy cảm tạ Chúa bằng chính đời sống dấn thân cho tin mừng tùy theo khả năng của mình.
Người ta nói rằng bạn chỉ có thể làm gương sáng nếu biết đặt tình yêu vào công việc của mình. Không có tình yêu sẽ không có những nghĩa cử đẹp cho đời. Không có tình yêu chúng ta sẽ biến môi trường sống cả mình thành một sa mạc khô cằn. Chỉ có trong tình yêu chúng ta mới hết lòng quan tâm, chia sẻ và làm điều gì đó cho tha nhân.
Ước gì chúng ta luôn biết yêu mến Giáo hội, yêu mến công việc của Giáo hội để tùy theo hoàn cảnh chúng ta trở thành chứng nhân cho Nước Chúa. Amen.
24. Nối bước các thừa sai – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Trong tông huấn Ecclesia in Asia, Đức Cố Gioan Hoàng Gioan Phao-lô II đã kêu gọi: "Thiên niên kỷ thứ nhất truyền giáo cho Châu Âu. Thiên niên kỷ thứ hai truyền giáo cho Châu Mỹ. Thiên niên kỷ thứ ba phải truyền giáo cho Á Châu".
Cách riêng với Giáo Hội việt Nam năm 2003 mừng 470 năm Tin Mừng được rao giảng trên quê hương đất nước chúng ta, các Đức Giám mục Việt Nam đã hưởng ứng lời kêu gọi của Đức Thánh Cha, công bố thư mục vụ mang tựa đề "Sứ Mạng Loan báo TinMừng Của Hội Thánh Việt Nam Hôm Nay" đã khẳng định: "Đầu thiên niên kỷ mới, sứ mạng loan báo Tin mừng được đặc biệt trao vào tay chúng ta. Chúng ta hãy tiếp bước các vị thừa sai đầy nhiệt tình tông đồ, hãy phát huy truyền thống kiên cường của các bậc tiền nhân anh hùng tử đạo. Ta hãy đáp lại kỳ vọng của Hội thánh đem Tin mừng cho anh em trên lục địa mênh mông này. Và đặc biệt đem Tin mừng cho anh chị em sống ngay trên quê hương Việt nam". (Thư chung 2003)
Hơn nữa, Giáo hội Việt Nam ngày nay là con cháu của 117 vị thánh Tử Đạo và của hàng chục ngàn người Việt Nam đã chết vì đạo. Nhưng gần 5 thế kỷ trôi qua, Giáo hội Việt Nam xem ra vẫn còn bé nhỏ giữa lòng dân tộc Việt nam. Theo thống kê năm 2006 thì Giáo hội việt nam có 26 Giáo Phận, gồm khoảng 7 triệu giáo dân, trên tổng số hơn 80 triệu người Việt Nam, chiếm tỉ lệ 6,62%.
Là người con của dân tộc Việt Nam, là dòng máu các anh hùng Tử đạo Việt Nam chúng ta cần phải có bổn phận loan báo Tin mừng cho chính quê hương, dân tộc của mình. Đạo làm người dạy chúng ta phải "thương người như thể thương thân", thì đạo làm con Chúa đòi hỏi chúng ta chia sẻ tất cả những gì mình có cho tha nhân, cho đồng loại. Các thánh Tông Đồ, các vị Thừa Sai đã đem niềm vui lớn nhất là Tin mừng Chúa Giêsu được công bố cho toàn thế giới. Các Ngài đã không quản ngại hy sinh tính mạng để đổi lấy niềm vui ơn cứu độ được trao ban tới muôn triệu tâm hồn. "Từng đoàn người vượt suối băng rừng. Từng đoàn người ra khơi giữa biển rộng sóng lớn. Biết bao người bỏ mạng nơi rừng sâu núi thẳm. Biết bao người bỏ xác ngoài biển khơi. Nhưng lớp này nằm xuống, lớp khác đứng lên nối tiếp nhau đem Tin mừng đến tận cùng thế giới". (Thư chung 2003)
Nhờ các vị thừa sai tràn đầy nhiệt huyết, quê hương Việt Nam đã được đón nhận Tin mừng. Nhờ đời sống đức tin anh dũng của các bậc tiền nhân mà thế hệ chúng ta được thừa hưởng một gia tài đức tin vô cùng quý giá. Gia sản này chúng ta không có quyền lưu giữ cho riêng mình, nhưng phải có bỗn phận chia sẻ cho con người thời đại hôm nay. Chúa Giêsu sau khi phục sinh, Ngài đã uỷ thác cho Hội Thánh nhiệm vụ loan báo tin mừng khi Ngài nói: "Anh em hãy đi tứ phương thiên hạ mà loan báo Tin mừng" (Mc 16,15). Lệnh truyền này đã trở thành sứ mạng chính yếu của Hội Thánh Chúa Ky-tô. Hội thánh hiện hữu là để loan báo Tin mừng và làm cho những ai thành tâm đón nhận Tin mừng trở nên môn đệ Chúa Ky-tô, đồng thời quy tụ cho Thiên Chúa mọi con cái tản mác khắp nơi về một mối (Ga 10,52). Thế nên, là người công dân của Nước Trời, chúng ta phản có bỗn phận chu toàn sứ vụ đó cho anh chị em chung quanh chúng ta, cụ thề là cho chình đồng bào và dân tộc Việt Nam.
Vậy, truyền giáo là gì?
Theo công đồng Vat II: "Việc truyền giáo là tất cả những công tác đặc biệt qua đó các nhà rao giảng Phúc âm được Giáo hội sai đi khắp thế gian, thi hành nhiệm vụ rao giảng Phúc âm và vun trồng Giáo hội nơi các dân tộc cũng như giữa những nhóm người chưa tin vào Chúa". (TG 6c)
Trước đó, cha Pierre Charles cũng cho rằng: "mục tiêu truyền giáo không phải là cứu rỗi các linh hồn", hoặc "làm cho dân ngoại trở về với Chúa"...; song là "mở rộng biên cương Giáo hội hữu hình, nhằm hoàn tất tiến trình lớn lên, hầu bao phủ toàn thế giới với lời cầu nguyện và việc phụng tự, tức là để mang cho Đấng Cứu Thế toàn bộ gia sản của Ngài".
Như vậy, việc truyền giáo là "đưa Thiên Chúa đến với con người và đưa con người trở về với Thiên Chúa". Đó chính là mục tiêu chính của việc truyền giáo và cũng là sứ mạng cấp bách của Giáo hội Chúa Ky-tô. Vì Giáo hội được hình thành để tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, Đấng sang lập Giáo hội. Khi hoàn tất sứ mạng của mình ở trần gian, Chúa Giêsu đã sai phái các tông đồ tiếp tục sứ mạng đó cho đến tận cùng trái đất. "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sia anh em" (Ga 20, 21". "Anh em hãy làm chứng cho Thầy khởi đầu từ Giê-ru-sa-lem đến tận cùng trái đất" (Lc 24, 47)
Vì vậy, là người công giáo chúng ta phải có bổn phận mang Tin mừng của Chúa đến cho anh em minh. Hãy tiếp nối sứ mạng của Chúa Ky-tô đưa muôn người đang còn tản mác khắp nơi về với Chúa. Hãy tiếp nối truyền thống của các Thừa sai Việt Nam mang Tin mừng đến cho những anh em nghèo đói, đến những phận người bị bỏ rơi.. # Hãy tiếp nối tinh thần quả cảm hy sinh, kiên cường của các tiền nhân mà mạnh dạn làm chứng cho Chúa, cho dù có bị thua thiệt trước mặt người đời, cho dù có bị hiểu lầm, ngược đãi... nhưng cùng chịu chết với Đức Ky-tô là một mối lợi mà không có một gia sản nào trên trần gian có thể sánh bằng.
Nguyện xin Chúa Giêsu là người thợ lành nghề được sai đến trần gian để gặt lúa của Người, xin giúp chúng con biết dấn thân quảng đại vào cánh đồng truyền giáo Việt Nam hôm nay. Amen.
25. Chúa sai tôi đi - ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Ta thường nghĩ rằng: Việc truyền giáo là dành cho các Giám mục, các Linh mục, Tu sĩ. Giáo dân không được học hỏi gì nhiều làm sao có thể truyền giáo được? Truyền giáo phải có nhiều phương tiện vật chất. Thiếu phương tiện không có thể làm gì được. Đó là những quan niệm sai lầm mà Chúa vạch cho ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúa Giêsu cho ta thấy truyền giáo là công việc của mọi người khi Người sai 72 môn đệ lên đường. Mười hai Tông đồ có tên tuổi rõ ràng. Đó là thành phần ưu tuyển. Đó là các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ. Còn 72 môn đệ không có tên tuổi rõ ràng. Đó là một đám đông không xác định. Đó là tất cả mọi người giáo dân. Khi sai 72 môn đệ, Chúa Giêsu muốn huy động tất cả mọi người thuộc đủ mọi thành phần tham gia vào việc truyền giáo.
Giáo dân tham gia vào việc truyền giáo bằng cách nào? Trước hết phải ý thức sự cấp thiết của việc truyền giáo: "Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt". Lúa đã chín vàng, phải nhanh chóng gặt về không được chậm trễ, nếu không lúa sẽ hư hỏng. Biết bao anh em đang chờ đợi được nghe Lời Chúa. Biết bao anh em đang tìm kiếm Chúa. Biết bao tâm hồn đang mở cửa đón Chúa. Ta phải mau mắn để khỏi lở mất cơ hội.
Thứ đến ta phải cầu nguyện. Sau khi đã chỉ cho thấy đồng lúa chín vàng, Chúa Giêsu không bảo lên đường ngay, nhưng Người dạy phải cầu nguyện trước. Cầu nguyện là nền tảng của việc truyền giáo. Vì truyền giáo phát xuất từ ý định của Thiên chúa. Ơn hoán cải tâm hồn là ơn Chúa ban. Nên cầu nguyện chính là truyền giáo và kết quả của việc truyền giáo bằng cầu nguyện sẽ rất sâu xa. Ta hãy noi gươngThánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu. Vị Thánh sống âm thầm, suốt đời chôn vùi trong 4 bức tường Dòng Kín. Thế mà nhờ lời cầu nguyện, Thánh nữ đã đem được nhiều linh hồn về với Chúa không kém thánh Phanxicô Xaviê, người suốt đời bôn ba khắp nơi để rao giảng Lời Chúa.
Khi đi truyền giáo, hãy trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chúa dạy ta: "Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép" để ta biết sống khó nghèo. Để ta đừng cậy dựa vào tài sức riêng mình. Để ta đừng cậy dựa vào những phương tiện vật chất. Biết mình nghèo hèn yếu kém, biết những phương tiện vật chất chỉ có giá trị tương đối, ta sẽ biết trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Chính Chúa sẽ làm cho việc truyền giáo có kết quả.
Sau cùng, truyền giáo là đem bình an đến cho mọi người. Niềm bình an đến từ thái độ quên mình, sống chan hoà với những người chung quanh. Niềm bình an đến từ sự hiệp thông, có cho đi, có nhận lãnh. Và nhất là, niềm bình an vì được làm con cái Chúa, luôn sống dưới ánh mắt yêu thương của Chúa.
Như thế việc truyền giáo hoàn toàn nằm trong tầm tay của mọi người giáo dân. Mọi người đều có thể ý thức việc truyền giáo. Mọi người đều có thể cầu nguyện. Mọi người đều có thể trông cậy vào Thiên chúa. Và mọi người đều có khả năng cho đi, nhận lãnh, sống chan hoà với người khác
Như thế mọi người, từ người già tới em bé, từ người bình dân ít học đến những bậc trí thức tài cao học rộng, từ người khoẻ mạnh đến những người đau yếu bệnh tật, tất cả đều có thể làm việc truyền giáo theo ý Chúa muốn.
Hôm nay, Chúa đang than thở với mọi người chúng ta: "Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt". Chúng ta hãy bắt chước tiên tri Isaia thưa với Chúa: "Lạy Chúa, này con đây, xin hãy sai con đi".
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn có thấy việc truyền giáo là cấp thiết không?
2. Theo ý bạn, muốn truyền giáo thành công trong vùng này, người tông đồ cần có những đức tính nào?
3. Bạn có bao giờ cầu nguyện cho việc truyền giáo, cho người làm việc truyền giáo, cho những người chưa biết Chúa ở chung quanh bạn không?
Bạn đã bao giờ tham gia vào việc truyền giáo trong Giáo xứ, trong Giáo phận chưa?
26. Lễ Truyền Giáo - ĐGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
(Bài giảng lễ của Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc – Giám mục Giáo phận Mỹ Tho, tại Trung Tâm Mục Vụ GP. Mỹ Tho, vào 16g00 ngày 11.10.2011, ngày Hội Truyền Giáo của Giáo phận) (Dcr 8,20-23 ; Rm 10,9-18 ; Mt 28, 16-20)
Anh chị em quý mến,
1. Hôm nay anh chị em, đáp lại lời kêu gọi của Giáo phận, tụ họp lại đây khá đông đảo, để cùng nhau tuyên xưng đức tin, cử hành mầu nhiệm trọng tâm của đời sống đức tin, nhận lãnh sức mạnh từ trên là Chúa Thánh Thần, và được sai đi loan báo Tin Mừng Tình Yêu của Chúa Giêsu. Lời Chúa trong các bài đọc Kinh Thánh hôm nay, soi sáng cho chúng ta rất nhiều và rất rõ về ý nghĩa của việc Truyền giáo, còn được gọi là Loan Báo Tin Mừng, hay Phúc Âm Hoá.
2. Trong lịch sử của Giáo hội Công giáo, đã có những giai đoạn nhiều người dấn thân mạnh mẽ trong công việc truyền giáo, không những tại quê hương mình, mà cả tại những nơi xa xôi hẻo lánh, đất khách quê người. Nhờ công lao của các nhà truyền giáo ngoại quốc, mồ hôi, nước mắt và máu của các ngài đã đổ ra trên cánh đồng truyền giáo Việt Nam, ngày hôm nay mới có chúng ta, có Giáo hội của Chúa Kitô tại Việt Nam, sinh động và sốt sắng.
3. Dù vậy, người ta cũng tranh cãi nhiều về ý nghĩa và giá trị của việc truyền giáo. Và chính những tranh luận này, trong thực tế cũng đã ảnh hưởng nhiều đến sinh hoạt truyền giáo của Giáo Hội. Có lúc mạnh mẽ hăng say, có khi tựa hồ như đang dừng lại. Để có thái độ đúng đắn và quân bằng về sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội và mọi người Kitô hữu, nên hoàn toàn dựa vào Lời Chúa trong Kinh Thánh và Huấn quyền của Giáo hội.
4. Truyền giáo là gì? Chúng ta làm những gì để được coi là truyền giáo thực sự? Đâu là những nội dung chính yếu của việc truyền giáo?
Truyền giáo trước hết là Rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu về Tình Yêu của Thiên Chúa, về ý muốn Cứu độ của Thiên Chúa, được bày tỏ nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết và sống lại cho chúng ta được tha tội, và thông phần Tình yêu của Thiên Chúa (x. Rm 10, 9-10). Hay nói cách ngắn gọn hơn là rao giảng “Danh Chúa Giêsu Kitô”, để mọi người có thể kêu cầu Danh Người và nhờ đó được cứu thoát (Rm 10, 13). Thư Rôma nhấn mạnh điều này, nói rất rõ ràng và dễ hiểu: người ta chỉ có thể kêu cầu Danh Chúa Giêsu và được cứu rỗi, khi đã tin vào Danh ấy, và chỉ có thể tin nếu đã được nghe giảng, nghe nói về Danh ấy, và chỉ có thể nghe khi có những người được sai đến rao giảng (x.Rm 10, 13-15). Chính vì thế, rao giảng hay loan báo Tin Mừng là bước đầu tiên và quan trọng nhất; vì lý do này mà người ta gọi việc truyền giáo là “loan báo Tin mừng”.
5. Nội dung thứ hai của công việc truyền giáo là “thiết lập cộng đoàn các môn đệ”, cộng đoàn những người tin vào Chúa Kitô, và cộng đoàn này chính là Giáo Hội. Trong đoạn Tin mừng Mát-thêu hôm nay, Chúa Giêsu nói rõ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19). Chỉ trích những cố gắng của các nhà truyền giáo và các Kitô hữu, để có thêm những người tin vào Chúa Kitô, cho “Dân Chúa ngày thêm đông số” là hành vi hoàn toàn đi ngược với ý muốn của Chúa Giêsu đã được chính Chúa minh nhiên bộc lộ.
6. Nội dung quan trọng khác của việc truyền giáo là “cử hành Phụng vụ và các Bí tích”. Ở đây Chúa Giêsu cũng nói rõ: “làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 28, 19). Các Bí tích thuộc về Nhiệm cục Cứu độ của thời đại Tân Ước, vì loài người là những thụ tạo hữu hình, chứ không phải là thiên thần, cần những dấu chỉ hữu hình và hữu hiệu, được Chúa Giêsu thiết lập, để qua đó ban ơn cứu độ cho con người. Chỉ trích việc làm Phép Rửa cho các dự tòng, cũng hoàn toàn đi ngược với ý muốn của Chúa Giêsu. Chúa còn để lại cho Giáo Hội Bí tích Thánh Thể, luôn được coi là chóp đỉnh và nguồn suối của mọi sinh hoạt truyền giáo.
7. Cuối cùng, công việc Huấn giáo hay dạy Giáo lý cũng là một sinh hoạt cốt yếu trong sứ vụ Truyền Giáo, như chính Chúa Giêsu đã căn dặn: “Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19). Mục tiêu của Huấn giáo là dạy cho biết Chúa, tin Chúa và yêu Chúa, giúp cho người Kitô hữu có thể gặp gỡ Chúa, tiếp xúc với Chúa trong đời sống cầu nguyện, cũng như trong đời sống thực tế hằng ngày. Huấn giáo là “dạy cho sống Đạo”, và điều này tối quan trọng trong sứ vụ truyền giáo.
27. Bài Giảng Của ĐTGM. Phaolô Bùi Văn Đọc
1. Giáo Hội tự bản chất có sứ vụ truyền giáo (x. AG,2). Chúa Giêsu Phục Sinh, khi hiện ra với các Tông đồ, đã trao sứ vụ của Người lại cho Giáo hội: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy sai anh em" (Ga 20,21). "Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hay nhận lấy Thánh Thần" (Ga 20,22).
Chúa Giêsu đã trao sứ vụ truyền giáo lại cho chúng ta, và Người cũng đã ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta, cho tất cả chúng ta, không trừ một ai, cho mọi thành viên của Giáo hội, mọi người đã chịu Phép Rửa và trở thành môn đệ của Chúa.
2. Có lẽ một số đông người Công giáo Việt Nam chưa hiểu mình có sứ mạng truyền giáo, chưa xác tín về sứ mạng, chưa đón nhận sứ mạng từ nơi Chúa. Dịp Đại hội Truyền giáo của Giáo phận Sài Gòn hôm nay, chúng ta hãy nhắc lại cho nhau lệnh truyền của Chúa:
"Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ" (Mc 16,15-16).
"Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền dạy cho anh em" (Mt 28,19-20).
"Chúa Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thư ba, từ cõi chết sống lại và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân. Chính anh em là chứng nhân về những điều ấy" (Lc 24,46-48).
3. Cả bốn sách Tin Mừng cho chúng ta thấy rõ ý nghĩa của việc truyền giáo, thấy nội dung sứ vụ mà Chúa Giêsu trao cho Giáo hội.
Trước hết, truyền giáo là loan báo Tin Mừng về tình yêu của Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu đã làm. Ngài không những đã hăng say loan báo tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người Ngài gặp gỡ, mà còn hy sinh mạng sống để làm chứng cho tình yêu đó. Hơn thế nữa, Ngài mạc khải tình yêu đó, nhập thể tình yêu đó nơi chính bản thân mình. Ngài là hiện thân của Tình Yêu Thiên Chúa. Nơi Ngài tình yêu đó đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Vì thế sứ điệp Tin Mừng Nước Thiên Chúa trở thành Tin Mừng Phục Sinh, Niềm Hy vọng cho toàn thể nhân loại.
4. Truyền giáo còn bao gồm việc thiết lập và xây dựng Giáo hội, bắt đầu bằng việc gầy dựng những cộng đoàn các môn đệ của Chúa. Rồi mạnh dạn thúc đẩy các cộng đoàn ấy "làm chứng cho Chúa" hoặc bằng lời nói, hay bằng những việc lành, bằng chính đời sống huynh đệ, đời sống bác ái yêu thương, như lời Chúa dạy: "Cứ dấu này, người ta nhận biết anh em là môn đệ của Thầy là anh em yêu thương nhau" (Ga 13,35).
5. Dĩ nhiên cách truyền giáo trong thế giới hôm nay không thể nào rập khuôn với những cách làm của cha ông, vì sứ vụ của chúng ta là đưa Tin Mừng của Chúa vào các môi trường khác nhau của xã hội hôm nay. Có những môi trường rất khó thâm nhập, mặc dù chính những nơi ấy rất cần những hạt giống Tin Mừng, như môi trường giáo dục, môi trường y tế, môi trường kinh doanh, môi trường xã hội đen, môi trường của những con người khốn khổ..., cả môi trường chính trị nữa.
Chúng ta không truyền giáo bằng cách áp đặt, cưỡng chế những người khác theo chúng ta. Chúng ta cũng không mua chuộc bằng tiền của, hay bằng quyền lợi, bằng những hứa hẹn. Chúng ta cũng không dụ dỗ, như người ta dụ dỗ vị thành niên.
6. Truyền giáo hôm nay phải là giới thiệu, là trình bày, là minh họa, là thuyết phục. Chúng ta giới thiệu Chúa Giêsu cho những người chúng ta gặp. Chúng ta đừng sơ: sự nhút nhát của chúng ta có hậu quả rất lớn. Nhiều người mất cơ hội để biết Chúa. Hãy mạnh dạn như anh em Tin Lành. Họ ít khi bỏ lỡ cơ hội để nói về Chúa.
Một thống kê khá chính xác ở Trung Quốc cho thấy một sự khác biệt quá lớn giữa sự dấn thân truyền giáo của anh em Tin Lành và người Công Giáo: năm 1815, cách đây gần 200 năm, số người công giáo ở Trung Quốc là 215.000 người, số người Tin lành chỉ có 20 người. Hơn 10.000 người Công giáo mới có 1 người Tin Lành. Nhưng thống kê năm 2006 cho biết ở Trung Quốc có 12 triệu người Công giáo, và có tới 36 triệu người Tin Lành, có nghĩa là 3 người Tin Lành mới có 1 người Công giáo.
7. Hãy dùng mọi phương tiện lành mạnh chúng ta có được để loan báo Tin Mừng, phần còn lại Chúa Thánh Thần sẽ bổ túc cho, vì Chúa Thánh Thần mới là tác nhân chính của việc truyền giáo. Ngài sẽ làm những việc lớn lao mà chúng ta không ngờ, miễn là chúng ta tự nguyện trở nên khí cụ trong tay Ngài. Chính Chúa Giêsu, khi hứa ban Thánh Thần cho các môn đệ đã nói về sứ mạng làm chứng của Chúa Thánh Thần: "Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Cha. Người sẽ làm chứng về Thầy. Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầyngay từ đầu" (Ga 15, 26-27).
8. Chúng ta chỉ có thể cùng với Chúa Thánh Thần làm chứng cho Chúa Giêsu, khi chúng ta có "ở với Người", gần gũi với Người, mặc dù chúng ta không thấy Người. Chính vì thế mà đời sống cầu nguyện rất cần thiết để chúng ta có thể loan báo Tin Mừng. Tất cả chúng ta đều là những con người yếu đuối tội lỗi, hãy cầu nguyện cách khiêm nhường như người thu thuế (Publicano) trong Tin Mừng Luca hôm nay, chắc chắn Thiên Chúa sẽ nhậm lời chúng ta, vì như sách Huấn Ca viết: "Lời cầu nguyện của kẻ khiêm nhường vọng lên tới các từng mây" (Hc 35,16).
Hãy làm sao để có thể nói được ít nhất là một phần nào như Phaolô: "Chúa đã phù hộ cha và ban sức mạnh cho cha, để nhờ cha mà lời rao giảng được hoàntất, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng" (2 Tm 4,17).
(Bài Giảng Thánh Lễ Đại Hội Truyền Giáo - tại Trung Tâm Mục vụ Sài Gòn)
28. Lửa truyền giáo - Đức Cha GB. Bùi Tuần
TRUYỀN GIÁO, MỘT ĐẶC ĐIỂM CỦA LINH MỤC VIỆT NAM THỜI NAY
(Bài giảng thánh lễ Truyền Dầu ngày 28 tháng 3 năm 2002)
Một trong những niềm vui lớn của tôi, khi nhìn giáo phận nhà, là thấy số linh mục tương đối đông, đa số còn trẻ, tất cả đều hợp nhất.
Nói chung, tất cả các linh mục của chúng ta đều có thiện chí làm tốt bổn phận của mình.
Hiện nay, bổn phận linh mục tại Việt Nam nói chúng và tại địa phương chúng ta nói riêng không phải dễ dàng.
Ngoài những bổn phận thông thường vốn đi liền với chức linh mục, thì còn một số bổn phận mới.
Thí dụ bổn phận phải biết khôn ngoan phối hợp những giá trị truyền thống với những đổi mới có giá trị. Để sống đạo được nhìn nhận như một mời gọi hấp dẫn, thăng tiến, chứ không phải như một lối sống khép kín, lỗi thời.
Thí dụ bổn phận phải biết khôn ngoan phối hợp những kiến thức tôn giáo với những kinh nghiệm nội tâm. Để sống đạo được nhìn nhận như một chiều kích thiêng liêng đi sâu vào con người, chứ không phải chỉ là một lý thuyết suông.
Thí dụ bổn phận phải biết khôn ngoan phối hợp giáo lý với thực tế cuộc sống. Để sống đạo được coi như ánh sáng của đương thời, chứ không phải như bóng mờ của một cõi xa xôi, lạnh lùng, huyền ảo.
Nhất là bổn phận phải biết khôn ngoan phối hợp mục vụ và truyền giáo. Để linh mục là người ra khơi thả lưới, chứ không phải chỉ là người chủ chăn.
Riêng về bổn phận trên đây, tôi muốn chúng ta cùng nhau dừng lại, để suy nghĩ thêm. Bởi vì truyền giáo là một trách nhiệm quan trọng, một tiếng gọi bức xúc. Nếu coi thường bổn phận này, tôi sợ chúng ta sẽ phạm một lỗi lầm lớn, đạo sẽ cằn cỗi, bản thân ta sẽ chìm sâu xuống thung lũng vô hình cực kỳ nguy hiểm.
Suy nghĩ truyền giáo của chúng ta sẽ được gợi ý bằng mấy việc truyền giáo của Chúa Giêsu, để từ đó chúng ta sẽ thấy việc truyền giáo có thể thực hiện được trong hoàn cảnh mục vụ hiện nay.
Tôi xin nêu lên ba trường hợp của Chúa Giêsu.
Trường hợp thứ nhất là cuộc gặp gỡ với người phụ nữ Samaria (Ga 4,7-42). Bà này là người ngoại giáo. Do đời sống gia đình lôi thôi, bà sống giữa xã hội như kẻ bị loại trừ. Bà không chủ ý đi gặp Chúa Giêsu. Nhưng
Chúa Giêsu đã như vô tình gặp bà. Bắt đầu là một đối thoại vắn về đời sống, về khổ đau, rồi sau đó Chúa làm một cử chỉ cứu độ. Chúa giúp bà vượt qua ranh giới mặc cảm tội lỗi. Bà tin vào Chúa. Hơn nữa, bà trở thành người đứng đầu một nhóm loan báo Tin Mừng giữa dân ngoại.
Trường hợp thứ hai là cuộc gặp gỡ với vị sĩ quan thành Caphanaum (Ga 4,46-54). Ông là người Rôma ngoại giáo. Ông thuộc lớp người có chức có quyền. Ông xin Chúa chữa con ông đang hấp hối. Cũng sau một đối thoại về khổ đau, Chúa đã làm một cử chỉ cứu độ. Chúa đã giúp ông vượt qua được biên giới phân biệt giai cấp, tôn giáo và dân tộc. Ông tin vào Chúa. Hơn nữa, ông trở thành người đứng dầu một nhóm loan báo Tin
Mừng giữa giai cấp chức quyền.
Trường hợp thứ ba là cuộc gặp gỡ với người bại liệt (Ga 5,1-18). Anh này sống chung với một đám người tật bệnh nghèo khổ. Đã 38 năm anh nằm một chỗ cô đơn, lầm lũi trên bờ hồ Bết-da-tha. Anh là kẻ bị xã hội loại trừ. Chính Chúa đã chủ động đến gặp anh. Cũng bắt đầu bằng một đối thoại về khổ đau, sau đó là cử chỉ cứu độ. Chúa đã giúp anh vượt qua biên giới cùng khổ. Anh tin vào Chúa. Hơn nữa, anh trở thành người đứng đầu một nhóm nhỏ loan báo Tin Mừng ngay giữa những người phản đối Chúa.
Ba trường hợp trên đây gồm một người ngoại đạo trong cảnh bê bối, một người quyền chức trong cảnh khó khăn, một người tật bệnh trong cảnh khốn cùng tuyệt vọng. Chúa đã gặp họ, đã nói chuyện với họ về các vấn đề thuộc về cuộc sống, rồi đã làm cho họ một việc cứu độ.
Tôi thấy các loại người như thế hiện nay vẫn còn rất nhiều trong xã hội chúng ta. Nhiều người công giáo đã gặp họ. Cũng đã có những chuyện trò về cuộc sống, về khổ đau, rồi trong lúc thuận tiện đã có những cử chỉ cứu độ. Kết quả rất bất ngờ: Nhiều người trước đây xa lạ nay nhận được Tin Mừng. Sau đó, chính họ gây dựng nhiều nhóm nhỏ để bàn về Tin Mừng và loan báo Tin Mừng. Có nhóm trong khuôn khổ giáo xứ. Có nhóm ngoài cơ chế giáo phận.
Tất cả những gì tôi vừa nêu trên đều làm chứng rằng: Trong mục vụ có vô số cơ hội để truyền giáo. Hơn nữa, trong sống đạo cũng có vô số dịp để làm việc truyền giáo. Linh mục làm, tu sĩ làm, giáo dân cũng làm. Thậm chí người ngoại giáo cũng làm. Làm qua những nẻo đường cuộc sống. Làm qua những vấn đề bức xúc của con người. Nếu không làm thì thiết tưởng không phải không có dịp để làm, nhưng là không có nhiệt tâm và tỉnh thức.
Như thế, điều quan trọng trong truyền giáo là người truyền giáo phải có hồn truyền giáo. Hồn đầy lửa mến Chúa. Hồn đầy lửa thương người.
Lửa đó là lửa từ trái tim Chúa chia sẻ ra. Lửa đó được chia sẻ cho những hồn khiêm tốn, từ bỏ mình, thiện chí muốn gieo trồng sự thiện.
Lửa đó là lửa thanh luyện, lửa cầu nguyện, lửa canh thức, lửa thương cảm, lửa cháy trong thánh giá.
Nhờ lửa như thế, người truyền giáo mới gần gũi được với con người, mới thương cảm được với thân phận từng người, mới hiểu được các vấn đề luôn mới trong dòng lịch sử đầy chuyển biến của xã hội và con người. Nhờ vậy, mà họ là người đáng tin. Đồng bào Việt Nam thời nay không còn dễ tin vào những người nói mạnh nói khéo. Nhưng họ tin vào những người có cái tâm yêu thương, chân thành, khiêm tốn, vừa sâu về đời sống thiêng liêng, vừa cởi mở thông cảm về phía con người.
Với vài suy nghĩ trên đây, tôi xin anh chị em cầu nguyện cho Hội Thánh Việt Nam được trở thành một Hội Thánh truyền giáo. Xin hãy cầu nguyện cách riêng cho các linh mục của chúng ta, để mọi linh mục và từng linh mục, bất cứ trong chức vụ nào, ở tuổi nào, với hoàn cảnh nào, luôn coi bổn phận truyền giáo là một trách nhiệm mà Chúa đòi phải chu toàn. Chu toàn một cách khôn ngoan theo ý Chúa. Mình có trách nhiệm thì cố gắng chu toàn. Còn kết quả ra sao thì hãy để mặc Chúa. Chúng ta cần nâng đỡ các linh mục của chúng ta trong bổn phận truyền giáo. Bởi vì công việc truyền giáo thường được bắt đầu từ các ngài và được phát triển cũng nhờ các ngài.
Chớ chi thời nay truyền giáo trở thành một đặc điểm sáng chói của mọi linh mục tại Việt Nam chúng ta.
29. Suy niệm của Lm Hoàng Kim Toan
ĐỨC MARIA, MẪU GƯƠNG TRUYỀN GIÁO
Đôi khi tôi tự hỏi, tại sao Chúa Nhật Truyền Giáo lại được nhắc trong tháng Mân Côi, tháng dâng kính Đức Mẹ, cùng với Đức Mẹ chiêm ngắm tình thương của Thiên Chúa, bằng những tràng chuỗi đơn sơ và thành kính nhất qua lối cầu nguyện theo Tin Mừng. Những dòng suy niệm này trả lời cho tôi câu hỏi đó.
Những trang Tin Mừng về Đức Maria thật là phấn khởi cho trần thế chúng ta. Có một người phụ nữ, mang trọn vẹn sứ điệp Tin Mừng của Thiên Chúa vào trong lòng nhân thế. Nhân loại vui mừng bởi sự đón nhận này của Mẹ Maria, “để từ nay mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”. Thiên Chúa đã làm cho Mẹ những kỳ công lớn lao nơi Mẹ và còn làm những điều lớn lao ấy cho nhiều tâm hồn nhân thế chúng ta.
Sự chuẩn bị một tâm hồn vô tì tích là sự chuẩn bị của Thánh Thần, Chúa Thánh Thần thực hiện nơi Đức maria những điều lớn lao, bởi Mẹ là người đã để Chúa Thánh Thần hoạt động và làm phát sinh hoa trái của Người. “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ ngự xuống trên Bà” (Lc 1, 35), hoa trái của Chúa Thánh Thần là hoan lạc và bình an. Mẹ đã mang hoan lạc và bình an của Thiên Chúa cắm rễ vào trong trái đất. Maria, công trình tuyệt diệu của Chúa Thánh Thần, nhân thế có một con người được Chúa Thánh Thần chuẩn bị cho sự toàn vẹn để xứng đáng đón nhận Đức Giêsu, Con thiên Chúa vào trong lòng nhân thế, lịch sử đã đổi hướng đi về nguồn ơn cứu độ, về niềm vui của Thiên Chúa đã hứa từ ngàn xưa, và trở nên hiện thực trong sự cưu mang này. Đức Maria trở nên người diễm phúc là nhờ sự chuẩn bị của Chúa Thánh Thần, Chúa Thánh Thần có thể làm cho con người tội nhân của Eva cũ, xuất hiện một Eva mới vô tì tích, trong trắng đẹp lòng trước mặt Thiên Chúa. Maria, công trình của Chúa Thánh Thần thực hiện cho nhân loại.
Maria, là người Mẹ truyền giáo đúng nghĩa nhất, bởi sự tinh tuyền của Mẹ, bởi Mẹ là kỳ công của Chúa Thánh Thần hoạt động trên trái đất này. Mẹ đã đón nhận Con Thiên Chúa cho thế gian và đưa Con Thiên Chúa vào trong thế gian và đó là Tin Mừng đúng nghĩa nhất cho trần thế. Từ nay, nhân loại nhận ra rằng: Sứ vụ truyền giáo là sứ vụ của người mang tin vui, tin cứu độ, tin được Thiên Chúa đoái thương. Đức Giêsu Con lòng Mẹ, một Người Con của nhân loại, một người Con của Thiên Chúa là nguồn ơn cứu độ, suối trào niềm vui cho nhân thế.
Người loan báo Tin Mừng là người được Chúa Thánh Thần tác động cách đặc biệt trên cuộc đời của họ. “Đức Maria lên đường vội vã” (Lc 1, 39). Sự vội vã của con người mang niềm vui khôn tả, thúc đẩy mau mắn lên đường, nhắc lại hình ảnh xưa Isaia đã tiên báo: “Đẹp thay trên núi đồi bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Sion rằng: “Thiên Chúa ngươi là vua hiển trị” ”. (Is 52, 7). Đức Maria mang trọn niềm vui Đấng Cứu Độ mà nhân loại đón đợi, không thể không vui và niềm vui chất ngất, thúc đẩy lên đường loan báo tin vui. Nếu trong lòng tôi và trong lòng bạn mang niềm vui ngập tràn như thế tôi và bạn cũng sẽ vội vã lên đường loan báo. Đức Maria trở nên người loan báo Tin Mừng đúng nghĩa bởi vì Mẹ mang trọn niềm vui Chúa Thánh Thần. Ai để cho Chúa Thánh Thần hoạt động trong cuộc đời của mình cũng là người mang trọn niềm vui loan báo.
Không chỉ là loan báo mà thôi, Đức maria còn là người công bố Tin Mừng. Người công bố là người đã xác tín một cách chắc chắn về những gì Thiên Chúa đã làm cho mình. Đức Maria đã nghiệm thấy như thế trong cuộc đời của Mẹ: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn” (Lc 1, 49). Thấy được tình thương Thiên Chúa thể hiện trong cuộc đời mình, người loan báo sẽ đi xa hơn nữa để, công bố Tin Mừng Thiên Chúa đã làm cho mình. Sự công bố mang một niềm tin xác tín, đã gặp và đã thấy. Sứ vụ loan báo Tin Mừng hôm nay, cần chứng nghiệm nơi người loan báo Tin Mừng như thế, bởi vì người ta đang cần chứng nhân hơn thày dạy. Đức Maria nhận ra bàn tay Toàn Năng của Thiên Chúa thực hiện trong cuộc đời của Mẹ, nên Mẹ là người công bố sứ điệp chắc chắn về Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa cho nhân loại.
Niềm xác tín của Đức Maria mang một chiều kích rất riêng tư, nhờ Mẹ đã “hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 3, 51). Cầu nguyện là chiêm ngắm những điều Thiên Chúa đã thực hiện nơi mình, là cuộc trao đổi, đối thoại giữa nhưng khó khăn, thử thách. Đức Maria trở thành người công bố Tin Mừng, bởi Mẹ đã chiêm ngắm công trình của Thiên Chúa thực hiện cho dân tộc, cho chính Mẹ. Sự chiêm ngắm, đối thoại dẫn đến một xác tín riêng tư chắc chắn để đi đến một công bố cho muôn người. Con đường cầu nguyện của Đức maria đã đi qua là con đường mời gọi những người truyền giáo hôm nay thực hiện.
Truyền giáo không là công cuộc cày xới những mảnh đất hoang, cũng không là công cuộc cải đạo cho những người khác niềm tin. Đối với Đức Maria truyền giáo có nghĩa là đem chính Đức Giêsu cho nhân loại. Đức Giêsu có là niềm vui cho bạn không? trước khi là niềm vui công bố cho người chung quanh bạn, trở lại niềm xác tín này chúng ta trở lại niềm xác tín của Đức Maria, khi Mẹ xác tín: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Lc 1, 46). Tràn ngập niềm hân hoan bởi Mẹ đã gặp thấy và cưu mang chính niềm vui của Đức Giêsu trong lòng Mẹ. Đức Maria không mang niềm vui nào khác ngoài niềm vui: “Thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1, 47). Niềm vui của Thiên Chúa trong ngày Thiên Chúa đoái thương, ngày nào không là ngày Thiên Chúa đoái thương, nhưng đôi lúc chúng ta lại quên mất cảm nghiệm thực sự điều này, để rồi sứ vụ truyền giáo của mỗi thành viên chúng ta cứ hoài dang dở. Đức Maria đã mang chính Đức Giêsu, quà tặng tuyệt hảo nhất của Thiên Chúa, nguồn ơn cứu rỗi duy nhất, công bố, trao tặng cho nhân loại.
Dù là người loan báo, dù là người công bố Tin Mừng đi chăng nữa, Đức Maria luôn đặt mình dưới sự bảo trợ hoạt động của Chúa Thánh Thần. Không thể tách rời Đức Maria khỏi hoạt động của Chúa Thánh Thần, Đức Maria là công trình tuyệt hảo của Chúa Thánh Thần. Dù Đức Maria có được như thế nào chăng nữa, Mẹ cũng luôn đặt mình trong tâm khảm của người: “phận nữ tỳ hèn mọn, Người đã đoái thương nhìn tới” (Lc 1, 48). Người truyền giáo cũng thế, không thể tách rời Chúa Thánh Thần với hoạt động của mình được. Ai có thể chinh phục sự sâu thẳm của lòng người quy hướng về Thiên Chúa, nếu đó không phải là tác động của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần mời gọi con người theo nhiều nẻo đường khác nhau, để quy tụ cho Thiên Chúa một Dân được hiến thánh. Chúng ta là những dụng cụ Thiên Chúa dùng, và hãy đặt cuộc đời mình vào bàn tay của Thiên Chúa.
Không có công trình nào là thua mất cả với ánh mắt nhìn đức tin của Đức Maria, đôi khi gặp những người cứng cỏi quá sức, hãy phó dâng cho Thiên Chúa, như người gieo giống chỉ biết chờ đợi cho hạt giống nảy mầm. Đức Maria đã thấy nghiệm điều này trong cuộc đời của Mẹ: “Chúa biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng” (Lc 1, 51). Chúng ta cần biết chờ đợi điều Thiên Chúa sẽ cho mọc lên, sự chờ đợi là một bài học cuối kết thúc cho sứ vụ truyền giáo chúng ta học nơi Đức Maria.
Kính dâng Mẹ những suy nghĩ này, bởi hơn ai hết Mẹ là vị Thày tốt nhất dạy chúng con sống sứ vụ truyền giáo.
30. Hãy loan báo Tin mừng
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Một đạo sĩ hỏi các đệ tử: Các con có biết khi nào đêm tàn và ngày xuất hiện, khi nào ánh sáng tới và bóng tối lui đi không? Các đệ tử thi nhau trả lời: Thưa thầy, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện là khi từ xa nhìn một đoàn vật người ta có thể phân biệt được con nào là con bò con nào là con trâu không? Thày lắc đầu: không phải. Đệ tử khác trả lời: Thưa thầy có phải ánh sáng tới và bóng tối lui là khi từ xa nhìn vào vườn cây, người ta có thể phân biệt được cây nào là cây xoài cây nào là cây mít không? Thầy vẫn lắc đầu: không phải. Thấy không ai trả lời được, thầy mới giải nghĩa: Đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nào ta nhìn vào mặt người xa lạ và nhận ra đó là anh em mình.
Thật là khó hiểu. Tuy trên đời ta thấy có nhiều thứ ánh sáng. Có ánh sáng mặt trăng mặt trời. Có ánh sáng đèn dầu, đèn điện. Có những ánh sáng như tia X, tia hồng ngoại. Nhưng tất cả những ánh sáng đó chỉ giúp ta nhìn rõ sự vật. Không thấy có thứ ánh sáng nào soi vào mặt người xa lạ mà biến người ấy thành người thân của mình.
Mẹ Têrêxa dường như đã tìm ra thứ ánh sáng ấy. Mẹ là một nữ tu người Anbani, được sai đến phục vụ người nghèo tại Ấn Độ, thấy người nghèo khổ quá tội nghiệp. Biết bao người hấp hối ngoài lề đường. Chết rồi xác bị quẳng vào đống rác như xác thú vật. Biết bao trẻ thơ bị bỏ rơi. Biết bao gia đình chui rúc trong các căn nhà ổ chuột. Biết bao người đói khát không đủ cơm ăn áo mặc. Mẹ lăn xả vào phục vụ người nghèo.
Một hôm Mẹ đi thăm một ông già cô đơn trong căn lều tồi tàn. Bước vào lều Mẹ phải động lòng thương cảm. Vì tất cả đồ đạc chỉ là một mớ giẻ rách. Căn lều bụi bặm bẩn thỉu ngoài sức tưởng tượng. Và nhất là ông già thu mình lại không muốn giao tiếp với ai. Mẹ chào hỏi ông cũng không thèm muốn trả lời. Mẹ xin phép dọn dẹp căn lều ông cũng làm thinh. Đang khi dọn dẹp, Mẹ thấy trong góc lều có một cây đèn dầu bụi bám đen đủi. Sau khi lau chùi, Mẹ kêu lên: Ô, cây đèn đẹp quá. Ông già nói: Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi ngày cưới. Từ khi bà ấy chết, tôi không bao giờ đốt đèn nữa. Thấy ông đã cởi mở, Mẹ Têrêxa đề nghị: Thế ông có bằng lòng cho các chị nữ tu mỗi ngày đến thăm và đốt đèn cho ông không? Ông đồng ý. Từ đó mỗi buổi chiều, các chị tới thăm ông, dọn dẹp nhà cửa, nói chuyện với ông. Ngọn đèn ấm áp trong căn lều ấm cúng. Ông trở nên vui vẻ hơn. Ông đi thăm mọi người. Mọi người đến thăm ông. Cuộc đời ông vui tươi trở lại.
Trước kia cuộc đời ông tăm tối không phải vì ông không thắp đèn. Nhưng vì ngọn đèn trong trái tim ông đã tắt. Trái tim khép kín nên ông mất niềm tin vào con người, vào cuộc sống. Ông nhìn mọi người như thù địch. Từ ngày các nữ tu đến đốt đèn đời ông vui lên, sáng lên. Đời ông sáng lên không phải vì có ngọn đèn dầu hỏa soi sáng. Nhưng vì trái tim ông bừng sáng. Ngọn đèn tâm hồn ông rạng rỡ. Tâm hồn ông cởi mở và ông nhìn thấy mọi người là anh em. Thứ ánh sáng ấy ta thấy trong Phúc âm, khi người Samaritanô nhân hậu cúi xuống săn sóc, băng bó vết thương cho người bị nạn bên đường. Hai người nhìn nhau. Một làn ánh sáng lóe lên. Và họ nhận ra nhau là anh em.
Cứ như thế Mẹ Têrêxa miệt mài phục vụ người nghèo. Lập những trung tâm đón tiếp những người hấp hối, săn sóc để họ được chết, được chôn cất như một con người. Nuôi trẻ mồ côi. Xây bệnh viện. Xây trường học. Công việc càng ngày càng mở rộng. Số người theo Mẹ ngày càng đông và Mẹ lập dòng Nữ tử Thừa sai Bác ái chuyên phục vụ người nghèo. Hiện nay nhà dòng đã có mặt trên 132 quốc gia. Mẹ được thế giới biết tiếng. Mẹ được nhiều giải thưởng trong đó có giải Nobel Hòa bình. Năm 1997, khi Mẹ qua đời, 80 nguyên thủ quốc gia, trong đó có phu nhân tổng thống Mỹ Bill Clinton và phu nhân tổng thống Pháp Jacques Chirac đã đến dự đám tang. Và nước Ấn Độ, đa số dân theo Ấn Độ giáo, vốn không ưa đạo Công giáo, đã chôn cất Mẹ theo nghi thức quốc tang. Hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh hồn Mẹ về trời.
Mẹ Têrêxa là một nhà truyền giáo thành công của thế kỷ 20. Vì Mẹ đã biết thắp lên ngọn đèn soi trong đêm tối. Giữa đêm tối vật chất hưởng thụ. Mẹ đã thắp lên ngọn đèn siêu nhiên của thiên đàng. Giữa đêm tối rụt rè nghi kỵ Mẹ đã thắp lên ngọn đèn ấm áp tình người. Trái tim Mẹ là một ngọn đèn sáng. Ánh sáng ấy tỏa lan tới muôn người làm cho mọi người nhận biết khuôn mặt hiền lành khiêm nhường của Đức Kitô và làm cho mọi người nhìn nhau là anh em.
Vào thời Cộng sản còn mạnh và còn chống đối Công giáo kịch liệt, Mẹ Têrêxa vẫn có thể lập nhà ở Nga, ở Cuba và cả ở Việt Nam. Với tấm lòng bác ái, Mẹ đã có thể đi khắp thế giới như lời Chúa truyền. Với tấm lòng bác ái, Mẹ đã chiếu tỏa ánh sáng Tin Mừng khắp thế giới.
Hôm nay Giáo hội cầu nguyện cho việc truyền giáo. Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta góp phần vào việc truyền giáo. Không gì bằng ta hãy noi gương Mẹ Têrêxa, thắp lên ngọn lửa tin yêu trong lòng mình, đem ngọn lửa yêu thương phục vụ soi sáng khắp nơi. Thế giới sẽ bừng sáng và mọi người sẽ nhìn nhận nhau là anh em.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Nhờ đâu Mẹ Têrêxa đến được cả những nước Cộng sản?
2- Nhờ đâu việc truyền giáo của Mẹ Têrêxa thành công tốt đẹp?
3- Đời sống bạn là ánh sáng hay là bóng tối cho những người chung quanh?
4- Bạn quyết tâm làm gì để loan báo Tin Mừng cho mọi người?
31. Truyền Giáo theo gương Mẹ Têrêsa
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Hôm nay, toàn thể Giáo Hội cầu nguyện cho việc truyền giáo. Ngày Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ nhị tuyên phong Mẹ Têrêxa lên bậc Chân Phúc mà ta quen gọi là Á thánh cũng là ngày cầu nguyện cho việc truyền giáo. Và Đức Thánh Cha khuyên nhủ chúng ta hãy truyền giáo theo gương Mẹ Têrêxa. Vậy Mẹ Têrêxa là ai và Mẹ đã truyền giáo như thế nào?
1) Cuộc đời
Mẹ Têrêxa sinh tại nước Anbani cũ. Mẹ đã xin gia nhập dòng Đức Mẹ Loretto và được sai đi Ấn độ để phục vụ nguơì nghèo. Khi đến Ấn độ, Mẹ được chứng kiến cả một đại dương mênh mông những người nghèo đói. Trẻ sơ sinh bị bỏ rơi nằm la liệt ngoài đường. Những người già cả bệnh tật nằm chờ chết bên những đống rác, và khi chết, bị vất vào đống rác như một con thú vật. Xúc động trước cảnh nghèo khổ. Mẹ lăn xả vào phục vụ người nghèo. Việc đầu tiên là mở những trung tâm đón tiếp, đưa những người hấp hối ngoài đường về, săn sóc để họ được chết như một con người. Rồi mở cửa nhà cô nhi nuôi dưỡng trẻ em bị bỏ rơi. Rồi mở bệnh viện chăm sóc chữa trị những người nghèo khổ. Rồi mở trường cho trẻ em nghèo đến học. Công việc càng ngày càng phát triển. Số người theo giúp Mẹ càng ngày càng đông. Chẳng bao lâu, một dòng mới được thành hình với tên Nữ tử Thừa sai Bác ái. Ngoài 3 lời khấn như những nữ tu khác, còn có lời khấn phục vụ người nghèo. Mẹ được thế giới biết tiếng. Cả thế giới gọi Mẹ là Mẹ Têrêxa. Khi Mẹ qua đời, 80 nhà lãnh đạo quốc gia trên toàn thế giới, trong đó có phu nhân tổng thống Mỹ Bill Cliton và phu nhân tổng thống Pháp Jacques Chirac đã đến nghiêng mình kính cẩn trước thi hài của Mẹ. Nước Ấn độ có đa số dân theo Ấn độ giáo, vốn không ưa đạo Công giáo, thế mà đã nghi thức quốc táng cho Mẹ,đã bắn hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh hồn Mẹ về thiên đàng.
2) Truyền giáo
Mẹ Têrêxa đã truyền giáo cách nào mà thành công như thế? Thưa, Mẹ đã dùng 4 phương cách sau:
Phương cách thứ nhất: cầu nguyện. Có nhiều người tưởng Mẹ Têrêxa là con người hoạt động. Không phải thế. Trước hết Mẹ là con người cầu nguyện. Những giờ cầu nguyện triền miên phát xuất từ nỗi niềm khao khát Chúa. Cầu nguyện đã đưa Mẹ đến phục vụ người nghèo. Rồi việc phục vụ người nghèo đã đưa Mẹ trở về với kinh nguyện. Dòng chảy cầu nguyện liên lỷ không bao giờ ngừng. Có thể nói cuộc đời Mẹ là cuộc đời chiêm niẹm trong hoạt động.
Phương cách thứ hai: thấm nhuần Lời Chúa. Mẹ tha thiết yêu mến Lời Chúa. Lời Chúa thấm vào tận mạch máu thớ thịt, để Mẹ suy nghĩ, nói năng và hành động theo Lời Chúa. Mẹ thường nói: Lời Chúa phải ở trên đầu ngón tay ta. Theo Mẹ 5 từ ngữ quan trọng khắc ghi tên 5 đầu ngón tay của Mẹ là: You did it for me. Đó là 5 từ tóm tắt 25 chương Tin Mừng theo thánh Mátthêu: "Mỗi lần các con làm những việc này cho một trong những anh em bé nhỏ nhất, đó là các con làm cho Thày".
Phương cách thứ ba: yêu mến người nghèo. Nơi Mẹ, yêu mến người nghèo không phải là cảm tính nhất thời. Yêu mến người nghèo thực sự phát xuất từ một đức tin sâu xa. Tin thật Thiên Chúa đang ở trong nhưng người nghèo. Vì yêu mến người nghèo Mẹ đã tự nguyện sống nghèo. Mẹ sống trong một căn phòng đơn sơ, chỉ có một chiếc giường, một bàn nhỏ, một ngọn đèn và một chậu nước.
Phương cách thứ tư: phục vụ bằng tình yêu. Vì tin Chúa đang ngự trong người nghèo, nên phục vụ người nghèo chính là phục vụ Chúa. Vì thế, phục vụ người nghèo là một bổn phận phải thực hiện trong khiêm nhường. Phải phục vụ một cách kính cẩn. Phải phục vụ bằng tình yêu.
Giữa thế kỷ 20 tôn trọng vật chất, quay lưng lại với đời sống tâm linh, Mẹ Têrêxa đã trở nên một nhân chứng sống động của thế giới thần linh. Giữa nước Ấn độ xa lạ với Kitô giáo, Mẹ Têrêxa đã trình bày được khuôn mặt dễ thương dễ mến của Chúa, làm cho mọi người yêu mến đạo Cháu. Mẹ xứng danh là nhà truyền giáo của thế kỷ 20. Giữa những bế tắc Mẹ đã khai thông một lối đi. Lối đi vào thẳng trái tim con người. Trong bóng tối dày đặc, Mẹ đã thắp lên một ngọn đèn. Ngọn đèn đó chiếu lên ánh sáng niềm tin. Giữa trần gian lạnh lẽo, Mẹ đã đốt lên ánh lửa yêu mến. Ánh lửa đó sưởi ấm tình người.
Năm 2004 được Hội đồng Giám mục Việt Nam chọn làm Năm Truyền Giáo. Chúng ta hãy noi gương Mẹ Têrêxa, biết tha thiết cầu nguyện, biết yêu mến Lời Chúa, nhất là biết yêu mến người nghèo và biết phục vụ bằng tình yêu. Để mỗi người Công giáo thực sự là một ngọn đèn chiếu toả ánh sáng của Chúa. Để mỗi người Công giáo là một niềm vui cho những người chung quanh.
Lạy Chân Phúc Têrêxa, xin cầu cho chúng con. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Mẹ Têrêxa đã truyền giáo bằng những phương cách nào?
2- Trong hoàn cảnh của bạn, bạn có thể thực hiện phương cách nào trong 4 phương cách của Mẹ Têrêxa để truyền giáo?
3- Qua cuộc đời Mẹ Têrêxa, bạn thấy ngày nay còn có thể truyền giáo được không?
32. Chứng tá
Truyền giáo là nhiệm vụ của mọi Kitô hữu. Đây là điều công đồng Vaticanô II nhắc đi nhắc lại nhiều lần: việc rao giảng Tin Mừng là bổn phận chính yếu. Bổn phận căn bản của Giáo hội và mỗi Kitô hữu. Công đồng đã làm nổi bật vấn đề truyền giáo và đã định nghĩa Giáo hội là Giáo hội truyền giáo và coi việc truyền giáo là nghĩa vụ tông đồ của mỗi Kitô hữu. Theo công đồng, không một tín hữu nào đáng gọi là tín hữu mà có thể khước từ nhiệm vụ truyền giáo. Việc truyền giáo không thể là một việc tùy sở thích, nhưng mỗi tín hữu phải coi đây là vấn đề sống đạo, vấn đề sinh tồn của Giáo hội và là trách nhiệm của chính mình.
Đối với người giáo dân, qua sắc lệnh về tông đồ giáo dân. Công đồng còn cho thấy vai trò quan trọng của người giáo dân trong việc truyền giáo, vai trò là men, là muối, là ánh sáng, là chứng nhân giữa đời. Bởi vì giáo sĩ không thể sống chân bùn tay lấm nơi đồng ruộng với những nông dân; giáo sĩ không thể gồng gánh theo chân những người buôn bán đi vào đầu đường xó chợ; giáo sĩ không thể đầu tắt mặt tối làm việc trong những cơ xưởng, nhà máy, công trường… nhưng chính những giáo dân nhà nông, những giáo dân buôn bán, những giáo dân công nhân, có nhiệm vụ đem Chúa đến cho anh em mình nơi đồng ruộng, chợ búa, xí nghiệp, nhà máy, nghĩa là những nơi mà giáo sĩ không thể có mặt và không thể đi đến, thì giáo dân sẽ đóng vai trò chủ chốt và chủ động. Bởi đó, không những giáo dân đóng vai trò yểm trợ cho giáo sĩ mà còn đóng vai trò chính yếu, thay thế cho giáo sĩ trong những nơi hay những hoàn cảnh đó.
Như vậy cách truyền giáo tốt nhất và có hiệu quả nhất là đời sống gương mẫu, đời sống Công giáo đích thực, nhất là đời sống thể hiện tình yêu thương của chúng ta. Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm về đạo, khi chúng ta chứng minh tình yêu bằng đời sống tốt thì chúng ta thực sự trở nên những bạn tốt, những công nhân gương mẫu trong nhà máy, những công nhân gương mẫu ngoài công trường. Tóm lại, chúng ta hãy nắm lấy những cơ hội đi lại đây đó, khi thi hành công tác, khi làm ăn sản xuất, khi xê dịch thăm viếng… để nói hay làm chứng về Chúa qua lời nói, thái độ và cách đối xử đầy tình yêu thương của chúng ta.
Mẹ Têrêxa Cancutta đã định nghĩa về một nhà truyền giáo như sau: đó là “một tín hữu Kitô say mê Chúa Giêsu đến độ không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và yêu mến Ngài”. Mẹ Têrêxa không chỉ làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu bằng những lời nói suông, nhưng Mẹ nói về Chúa Giêsu, Mẹ tỏ bày gương mặt của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống yêu thương phục vụ của Mẹ. Do đó, truyền giáo thiết yếu đối với Mẹ Têrêxa là dùng cả cuộc sống của mình để làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu, truyền giáo không chỉ là rao giảng một giáo lý mà thiết yếu là chia sẻ một cuộc sống yêu thương.
Có người đã kể lại lý do và động lực thúc đẩy ông theo đạo như sau: “Tôi đau rất nặng, người ta đưa tôi vào bệnh viện, không ai chăm sóc tôi cả ngoài một chị y tá, chị tỏ ra rất tốt và tận tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đã rất khuya, tôi thấy chị quỳ gối im lặng trong phòng, tôi hỏi: “Chị quỳ làm gì thế?”. Chị trả lời: “Tôi cầu nguyện cho ông”. Chỉ mấy tiếng đó thôi đủ làm cho tôi bấy lâu không biết Chúa, bây giờ được biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi người chị y tá ấy. Giữa những đau khổ thể xác và tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy tình người và những lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy, tôi đã gặp Chúa”.
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy gương sáng và tình yêu thương là bằng chứng cho người ta nhận ra Thiên Chúa. Có nhiều người không bao giờ thấy chúng ta cầu nguyện sốt sắng ở nhà thờ, vì họ có đạo đâu mà đến nhà thờ, nhưng họ thấy cách chúng ta biểu lộ tình thương với họ hay với những người chung quanh mà họ nhận ra Thiên Chúa của tình yêu. Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm về đạo Chúa, khi chúng ta chứng minh tình yêu bằng đời sống tốt thì chúng ta thực sự trở nên những người bạn tốt của nhau.
Trong thư mục vụ năm 2003 của các giám mục Việt Nam, số 10 cũng nói đến cách truyền giáo này: cầu nguyện cho việc truyền giáo là việc quan trọng hàng đầu, việc truyền giáo phải đặt nền tảng trên lời cầu nguyện: cá nhân, gia đình, cộng đoàn, giáo xứ. Trước khi rao giảng bằng lời nói, hãy rao giảng bằng đời sống, chúng ta hãy nêu gương về đời sống hiệp nhất yêu thương, không có lời rao giảng nào có sức thuyết phục bằng sự hiệp nhất yêu thương trong gia đình, xóm làng, trong giáo xứ, trong giáo phận, như lời Chúa phán: “Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết anh em là môn đệ của Thầy, ấy là nếu anh em thương yêu nhau”.
Tóm lại, ngày thế giới truyền giáo hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy luôn ý thức về sự quan trọng của việc truyền giáo và nhắc nhở chúng ta hãy góp phần mình vào công cuộc truyền giáo của Giáo hội bằng việc cầu nguyện và bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta.
33. Truyền giáo
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
“Mỗi người ở ngoài Chúa là một cánh đồng truyền giáo, và mỗi người ở trong Chúa là một nhà truyền giáo”. Câu nói trên rất đúng và cũng rất hay.
“Mỗi người ở ngoài Chúa là một cánh đồng truyền giáo”. Điều đó rất đúng. Như vậy, cánh đồng truyền giáo vẫn còn bao la, mênh mông. Mặc dầu Tin Mừng đã được loan truyền và đạo Chúa đã được thiết lập cả hai ngàn năm rồi mà số đông vẫn chưa được nghe biết Tin Mừng, hay nói ngược lại, chưa được một phần ba nhân loại nhận biết Chúa Kitô. Với đà gia tăng dân số kinh khủng hiện nay, thì một ngày kia số ngày tin theo Chúa sẽ trở thành thiểu số đáng ngại.
Các nước được mệnh danh là “Công giáo” như Tây Ban Nha, Pháp, Ý… có tới 70-80 phần trăm dân số được rửa tội, nhưng được mấy chục phần trăm sống theo đức tin? Từ hơn nửa thế kỷ rồi, ngay giữa Âu Châu đã vang lên những lời cảnh tỉnh: “Nước Pháp, xứ truyền giáo”. Nước Pháp mà còn gọi là xứ truyền giáo thì nói gì đến những xứ truyền giáo chính hiệu như ở Á Châu, Phi Châu. Hai nước có dân số lớn nhất nhì thế giới là Trung Quốc và An độ, chỉ có không tới một phần trăm là Công giáo. Nếu đat nước chúng ta đã thấm nhiều máu tử đạo và đang có một cộng đồng Công giáo tương đối đông đảo, thì sát cạnh nước chúng ta, hai nước Lào và Campuchia kể như vẫn chưa được rao giảng Tin Mừng.
Ngay tại Việt Nam chúng ta, tính đến ngày 31-12-2004, số người Công giáo trên toàn quốc là 5.776.972 người trên tổng số dân cả nước là 82.032.300 người, chiếm tỷ lệ khoảng 7,04% dân số. Việt Nam vẫn còn là xứ truyền giáo, và việc truyền giáo vẫn luon là vấn đề cấp bách. Chính vì sự cấp bách đó nên Giáo Hội luôn luôn cổ võ tinh thần truyền giáo, nhất là trong những văn kiện gần đây của Công đồng Vaticanô II cũng như của các Đức Giáo Hoàng. Cũng nhằm mục tiêu đo, mỗi năm Giáo Hội dành riêng một Chúa Nhật để cầu cho công cuộc truyền giảng Tin Mừng, kêu gọi các tín hữu cầu nguyện, hy sinh, đóng góp, đồng thời thúc giục mọi người tham gia vào công cuộc cao quý vĩ đại ấy.
Truyền giáo là bổn phận của mọi người và mỗi người, việc truyền giáo không của riêng ai, và không phải là một việc làm tùy sở thích, muốn làm hay không cũng được, đây là một bổn phận, một nhiệm vụ bắt buộc, không ai có quyền trốn tránh và không ai có lý do nào tự miễn chuẩn cho mình hay tự bào chữa cho mình được. Từ một em bé đến một cụ già, từ một bệnh nhân đến một lực sĩ, từ một người buôn bán đi khắp đó đây đến một người nội trợ, từ một người bình dân đến một người trí thức… trong mỗi hoàn cảnh sinh sống, ai cũng phải truyền giáo, người nào cũng có thể tìm thấy cách thức truyền giáo thích hợp với khả năng của mình. Do đó, “Mỗi người ở trong Chúa là một nhà truyền giáo”, câu nói đó rất đúng, mỗi người chúng ta phải là một nhà truyền giáo.
Đành rằng không phải ai cũng có thời giờ hoặc khả năng làm công việc truyền giáo trực tiếp, nhưng tất cả mọi người đều có thể và phải thực hiện cách gián tiếp. Chẳng hạn, cầu nguyện cho việc truyền giáo; đóng góp vào việc truyền giáo bằng những hy sinh; bớt tiêu xài một chút trong gia đình hay cho cá nhân mình để đóng góp vào công cuộc truyền giáo, nhưng trên hết là truyền giáo bằng đời sống chứng nhân. Đây là cách truyền giáo tốt nhất và hữu hiệu nhất: Truyền giáo bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta, một đời sống đạo đức chân thành, cởi mở, yêu thương là một tấm gương sáng trước mặt mọi người.
Cách đây ít năm, có một cuốn Phim Việt Nam gây được nhiều chú ý ở ngoại quốc là phim “Chuyện Tử tế” của đạo diễn Trần văn Thuỷ, phim được hãng truyền hình Pháp mua và trình chiếu trong chương trình có tên là Đại Dương. Sau khi xem cuốn phim này, một ký giả ngoại quốc đã hỏi đạo diễn Trần văn Thuỷ: “Những người Kitô Việt Nam có thể làm gì để truyền giáo cho dân tộc họ?” Nhà đạo diễn đã trả lời: “Với tôi, điều người ta mong đợi ở các Kitô-hữu là niềm tin của họ và họ phải sống điều họ tin”. Lời phát biểu trên đáng để chúng ta suy nghĩ. Sống trong một đất nước còn nhiều khó khăn, sống trong một dân toc còn nhiều người chưa biết Chúa, sống trong một xã hội còn nhiều tiêu cực, thì đối với người Kitô, tin và sống niềm tin của mình là phải sống, phải tin thật tử tế, tức là tin và sống tình nhân loại, sống quảng đại, tom lại là sống tình người. Tin và sống như thế không phải chỉ là cách sống dành cho các nữ tu, các linh mục mà cũng chính là sứ mạng và ơn gọi của mỗi Kitô hữu.
Trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu không chỉ sai 12 tông đồ đi rao giảng nhưng Ngài sai tất cả 72 môn đệ. Điều này có nghĩa là việc rao giảng Tin Mừng không phải chỉ dành cho một số thành phần trong Giáo Hội: Giám mục, linh mục, tu sĩ, nhưng là bổn phận của mọi người và mỗi người. Điều đáng chú ý nữa là khi sai các môn đệ đi rao giảng, Chúa Giêsu không mấy chú trọng đến phương tiện. Phương tiện mà Chúa trao cho họ là đừng mang theo túi tiền, bao bị gì cả, phương tiện duy nhất và tiên quyết là đem lại bình an cho mọi người, là sống chia sẻ, sống trọn tình người với họ. Tóm lại là sống tử tế với mọi người.
Sống tử tế là sống vui tươi, sống lạc quan, sống biết điều, sống lịch sự, sống cảm thông, sống yêu thương với mọi người, sống như thế là chúng ta đang góp phần làm cho danh Chúa được cả sáng và nước Chúa được trị đến, tức là chúng ta đang truyền giáo vậy.
34. Đời sống chứng nhân
Hôm nay, ngày thế giới truyền giáo. Chúng ta cùng tìm hiểu xem: Truyền giáo là gì? Chúng ta phải truyền giáo thế nào?
Trước hết, truyền giáo là gì? Truyền là truyền bá, truyền thông, chuyển giao, rao giảng, loan truyền… Giáo là giáo lý, đạo giáo, Tin Mừng, Phúc âm… Truyền giáo là truyền bá đạo, là rao giảng Phúc âm, là loan truyền chân lý của Chúa cho người khác. Đó là ý nghĩa thứ nhất, nghĩa hẹp, nghĩa chặt và chính xác. Đàng khác, truyền giáo còn có nghĩa là lập những cộng đoàn Kitô hữu trong đức tin, trong phụng tự Thánh Thể, bác ái như Giáo hội mong muốn. Nói khác đi, truyền giáo là “trồng” Giáo hội vào các dân tộc, các địa phương, cho đến khi những người trong địa phương ấy trở nên tín hữu, thành một đoàn chiên. Theo ý nghĩa này, truyền giáo không phải chỉ là truyền bá một số giáo lý, nhưng là truyền thông sự sống của Chúa cho anh em khác, vì Thiên Chúa là Đấng hằng sống, đạo Chúa là đạo sự sống, là nguồn sống, có khả năng thay đổi, biến cải những con người từ không có Chúa trở thành có Chúa, từ mất Chúa trở thành tìm lại được Chúa. Truyền giáo theo nghĩa này là truyền sự sống của Chúa Kitô mà chúng ta đã có sang cho anh em mình, như thân cây nho chuyển nhựa sống sang cho cành nho. Sau hết, truyền giáo còn có một nghĩa nữa là củng cố, tăng cường, huấn luyện đức tin cho một cộng đoàn, cho các tín hữu, để họ lại ra đi truyền giáo cho những người khác.
Những ý nghĩa trên đây cho thấy hai chiều của việc truyền giáo: chiều rộng và chiều sâu. Nếu làm cho những người chưa biết Chúa hoặc những người biết mà đã bỏ Chúa, được nhận biết và yêu mến Chúa. Đó là truyền giáo theo chiều rộng, là mở rộng nước Chúa và làm tăng thêm số người thờ phượng Chúa. Còn nếu làm cho những người đã biết và yêu mến Chúa được hiểu biết và yêu mến Chúa hơn, để rồi họ lại tiếp tục làm những công việc ấy nơi những người khác. Đó là truyền giáo theo chiều sâu, vì làm cho nước Chúa được vững chắc hơn và làm tăng thêm số người Công giáo sốt sắng, đạo đức.
Việc phân biệt ý nghĩa như trên đây rất quan trọng để chúng ta hiểu rõ hơn việc truyền giáo, vì truyền giáo không phải chỉ có nghĩa là làm cho những người ngoại, những người lương, những người chưa biết được biết và yêu mên Chúa, nhưng còn có nghĩa là truyền giáo cho cả những người Công giáo sống trong một họ, một xứ với chúng ta nữa. Chúng ta phải sống một đời đạo đức, sốt sắng, thánh thiện để làm gương tốt cho họ, để giúp cho họ thêm lòng yêu mến và tôn kính Chúa.
Đó là ý nghĩa của việc truyền giáo. Và như vậy tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ truyền giáo. Việc truyền giáo không của riêng ai và không phải là một việc làm tùy sở thích, muốn làm hay không cũng được. Nhưng đây là một bổn phận, một nhiệm vụ bắt buộc. Mỗi người chúng ta phải coi đây là vấn đề sống đạo, là vấn đề sinh tồn của Giáo Hội và là trách nhiệm của chính mình.
Vậy chúng ta phải truyền giáo thế nào? Có rất nhiều cách. Chúng ta muốn dùng cách nào cũng được, nhưng nhất thiết phải thi hành hai cách này là cầu nguyện và đời sống chứng nhân: Cầu nguyện cho việc truyền giáo là cách thức rất quan trọng: cầu nguyện cho những người đi truyền giáo, cầu nguyện cho mọi người mở rộng lòng sẵn sàng đón nhận ơn Chúa, Lời Chúa. Cụ thể như thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, cả đời không đi đâu truyền giáo, chỉ ở trong bốn bức tường dòng kín cầu nguyện cho việc truyền giáo. Thế mà Giáo Hội đã tôn phong ngài là quan thầy các nơi truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê. Xin anh chị em hãy suy nghĩ: Chúng ta có thường xuyên thi hành việc này không? Chúng ta có cầu nguyện cho việc truyền giáo không? Nếu không thì đó là tội thiếu sót, bỏ việc phải làm. Thứ hai là truyền giáo bằng chính đời sống chứng nhân của mình: Đây là cách truyền giáo tốt nhất và hữu hiệu nhất, đó là truyền giáo bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta. Một đời sống đạo đức, chân thành, cởi mở, yêu thương là một tấm gương sáng trước mặt mọi người. Một đời sống tốt đẹp có sức lôi cuốn hơn những lời nói hay, vì “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo". Chúng ta hãy suy nghĩ: đời sống chúng ta hiện nay có làm chứng cho Chúa, cho đạo không?
35. Suy niệm của ĐGM. Bùi Tuần
KHIÊM NHƯỜNG TRONG TRUYỀN GIÁO
Người truyền giáo tốt có thể là người không hiểu biết nhiều và sâu sắc về Chúa, nhưng nhất định phải là người có sự sống của Chúa trong mình.
Tôi vẫn nghĩ như vậy. Và tôi có kinh nghiệm như thế.
Người ta không nhìn thấy Chúa trong họ. Nhưng người ta có thể cảm được phần nào sự hiện diện của Chúa trong họ qua một số dấu chỉ. Một trong những dấu chỉ dễ thấy nhưng lại chắc chắn, đó là sự khiêm nhường.
Trước khi khiêm nhường được nâng lên hàng nhân đức siêu nhiên, nó đã là một đức tính nhân bản.
Ngay trên lãnh vực nhân bản, khiêm nhường vẫn được coi là một giá trị cao quí. Văn hoá Việt Nam vốn ca ngợi người khiêm tốn. Lễ giáo Việt Nam vốn đề cao đức khiêm nhường, coi khiêm nhường như một yếu tố của đạo làm người.
Trong xử thế, khiêm nhường là chià khoá mở lòng người ta, gây nên thiện cảm. Nhờ thiện cảm, người ta dễ chấp nhận ta, và dễ nghe ta.
Trái lại, kiêu căng dễ gây nên ác cảm. Khi ác cảm đã chớm nở, thì lý luận dù đanh thép đến đâu, chứng từ dù rõ ràng đến mấy, người ta cũng không muốn đón nhận ta và những gì ta trình bày, kể cả khi ta trình bày Tin Mừng cứu độ.
Cái kiêu căng dễ xúc phạm đến người khác nhất, chính là sự tự đắc cho mình là đúng, là đẹp, là đáng kính trọng; còn người khác thì bị coi là sai, là xấu, là phải loại trừ. Nhất là trong việc phê phán tôn giáo, tín ngưỡng và những lựa chọn liên quan.
Người tự tôn, hay khinh miệt người khác rất dễ rơi vào những sai lầm trầm trọng và sự mù quáng thê thảm. Hơn nữa, họ có thể làm cho chính mình lâm vào tình trạng điên rồ. Để rồi, sẽ làm sụp đổ mọi sự nghiệp đạo đức của mình chỉ trong giây phút. Thảm thương nhất là kẻ kiêu căng cứng lòng sẽ vô tình mở rộng cửa lòng mình, rước quỷ Satan là thần kiêu ngạo vào ngự trị trong đó, để rồi lập liên minh với các hình thức kiêu căng khác, chống lại Nước Thiên Chúa.
Đọc Phúc Âm, tôi thấy Chúa Giêsu nhắc bảo chúng ta phải hết sức tránh mọi hình thức kiêu căng như:
Đừng thích tìm địa vị cao trước công chúng, như trong đám tiệc (Lc 14,7).
Đừng giả hình đạo đức bằng cái vỏ bề ngoài, còn bên trong thì dơ bẩn (Mt 23,5-25).
Đừng căn cứ vào mấy việc đạo đức của mình, để khinh chê người khác (Lc 18,9-14).
Đang khi đó, Kinh Thánh rất khen người khiêm nhường. Đến mức Chúa Giêsu coi họ là những người được Chúa Cha mạc khải cho biết nhiều điều cao siêu, mà Người không cho những người khôn ngoan và thông thái biết (Lc 10,21). Chính bản thân Chúa Giêsu cũng rất khiêm nhường. Ngài nói: “Hãy học với Thầy, vì Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Hơn nữa, suốt cuộc đời, từ khi sinh ra trong hang đá cho đến lúc chết trên thánh giá, Chúa Giêsu luôn làm chứng Đấng cứu thế không phải là một quyền lực, nhưng là tình yêu xót thương phục vụ khiêm nhường.
Do đó, sự khiêm nhường của người truyền giáo không phải chỉ là một đức tính nhân bản, mà còn phải là một nhân đức được chia sẻ từ sự khiêm nhường của Đức Kitô. Đức Kitô truyền sang cho họ sự khiêm tốn của Người, để nhờ đó, họ sẽ luôn nhận được thêm chân lý và sự sống cứu độ của Người.
Chính ở điểm này, mà đến lượt mình, chính người truyền giáo cũng là người cần được Chúa Giêsu thường xuyên truyền giáo cho. Và đây chính là một kinh nghiệm quí báu họ có được về người được truyền giáo.
Kinh nghiệm cho thấy người được truyền giáo rất cần có lòng khiêm tốn.
Thuở xưa, các thầy thượng tế, các kỳ lão, các kinh sư, các biệt phái đã nghe tận tai chính Chúa Giêsu giảng, đã xem tận mắt những phép lạ Chúa Giêsu làm. Nhưng không mấy người trong họ đã tin. Hơn nữa, càng nghe thấy và càng nhìn thấy Chúa Giêsu, họ càng đâm ghét. Sau cùng họ đã giết Người.
Sở dĩ Tin Mừng đã không vào lòng họ được, chính là vì sự kiêu căng tự đắc đã khoá chặt lòng họ.
Thời nay cũng thế. Những người đơn sơ, khiêm tốn dễ đón nhận được những cái mới mẻ của Tin Mừng hơn những người tự phụ kiêu căng.
Vì thế, tôi nghĩ rằng: Người truyền giáo cần phải khiêm nhường. Người được truyền giáo cũng cần khiêm nhường.
Để có đức khiêm nhường, chúng ta không thể coi thường việc tập luyện mình về nhiều mặt. Một người không được uốn nắn tập luyện kỹ lưỡng về đức khiêm nhường sẽ dễ trở nên hư hỏng: Hư hỏng do những thất bại và do cả những thành công, do những thực tế cuộc đời và cả do những ước mơ và ảo tưởng của mình, nhất là do sự cố chấp tôn thờ cái tôi và làm nô lệ cho ý riêng mình.
Không những chúng ta cần tập luyện để nên khiêm nhường, mà cũng cần cầu nguyện khẩn xin Chúa ban ơn khiêm nhường.
Ơn khiêm nhường, mà Chúa ban cho kẻ cậy trông nài van Chúa, sẽ đặt ta dưới cái nhìn thánh thiện của Chúa. Nhờ đó ta sẽ nhận ra Chúa nơi người khác và ta là kẻ tội lỗi, bất xứng, mọi sự Chúa ban cho ta đều do tình xót thương nhưng không của Chúa. Càng được ơn khiêm nhường, ta càng hiểu thấm thiá lời thánh Giacôbê: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (Gc 4,6). Và chúng ta cũng sẽ càng thấy rõ thói quen tìm đắc thắng, phô trương, trịch thượng, bất bao dung trong truyền giáo không những đang trở nên quá lỗi thời, mà còn gây nhiều thiệt hại cho Hội Thánh. Bởi vì đó là những điều rất trái nghịch với thánh ý Chúa.
Một điều lợi nữa, mà ơn khiêm nhường hôm nay sẽ đem lại cho ta, đó là nó giúp ta biết kiểm điểm lại bổn phận đón nhận Tin Mừng và bổn phận loan báo Tin Mừng. Ai trong chúng ta cũng có hai bổn phận đó.
Trong hoàn cảnh cụ thể ta đang sống, Chúa vẫn gửi cho ta vô số Tin Mừng mới mẻ. Ta đã đón nhận thế nào?
Trong địa vị cụ thể của ta và với những phương tiện cụ thể của ta, ai trong chúng ta cũng vẫn có thể góp phần không nhỏ vào việc loan báo phần không nhỏ vào việc loan báo Tin Mừng, hoặc bằng cách này, hoặc bằng cách khác. Ta đã thực hiện bổn phận đó thế nào?
Nếu khiêm tốn biết mình, khiêm tốn ăn năn, khiêm tốn sửa mình về bổn phận truyền giáo, chúng ta sẽ có một lương tâm truyền giáo đổi mới. Để từ nay, ta biết nhận lãnh, biết sinh lời và biết chia sẻ Tin Mừng cho những người gần xa, mà ta có thể gặp.
Nếu ta ý thức được như vậy và cố gắng làm như vậy, thì đời ta sẽ mang ý nghĩa cao đẹp, đi theo đúng hướng về với Cha trên trời.
36. Suy niệm của ĐGM. Bùi Tuần
TIN MỪNG CHO NGƯỜI NGOẠI BIÊN
Thuở còn nhỏ, tôi đã sớm nhận thấy sự khác biệt giữa người giàu và người nghèo.
Lớn lên, tôi cảm được sâu sắc cảnh nghèo. Nghèo thì hèn. Nghèo thì khổ. Cái Nghèo, cái Hèn, cái Khổ dính vào nhau khăng khít. Đồng thời, tôi cũng nhìn được cảnh giàu. Giàu thì sang. Giàu thì có. Cái Giàu, cái Sang, cái Co đồng hành ung dung.
Khi đi qua nhiều nơi, ở lại nhiều nước, tôi lại thấy giàu nghèo làm thành những giai cấp. Giàu là giai cấp cao. Nghèo thuộc giai cấp thếp. Cấp cao, cấp thấp đều có nhiều bậc. Đôi khi, người nghèo khổ bậc dưới không thể và cũng không dám nhìn người giàu sang ở bậc trên. Vì khoảng cách quá xa về địa lý, nhất là về tâm lý.
Trung tâm và ngoại biên.
Để đơn giản hoá tình trạng chênh lệch giữa giàu và nghèo, tôi tạm chọn cho mình một hình ảnh gợi ý. Hình ảnh đó là Trung tâm và Ngoại biên.
Trung tâm có thể áp dụng về nhiều mặt. Như trung tâm kinh tế, trung tâm văn hoá, trung tâm chính trị, trung tâm tôn giáo. Những ai được ở trong hoặc gần những trung tâm đó thường được coi là những người hưởng nhiều may mắn về phát triển, về danh dự, về cuộc sống.
Ngoại biên cũng được hiểu về nhiều lãnh vực như trên. Những ai ở ngoại biên kinh tế, văn hoá, xã hội, tôn giáo thường phải chịu nhiều mất mát, thua thiệt, kém cỏi.
Trung tâm và ngoại biên không hẳn chỉ là địa lý, mà còn là tâm lý và pháp lý.
Thời Chúa Giêsu giáng thế, theo truyền thống lâu đời, thì Giêrusalem là trung tâm chính trị, văn hoá và kinh tế, còn đền thờ là trung tâm tôn giáo. Đền thờ này cũng toạ lạc tại Giêrusalem.
Giêrusalem là nơi tập trung những người có địa vị, nắm quyền lực, sống trong phẩm trật và được ưu đãi.
Đền thờ là nơi thờ phượng của người có đạo. Gian trên dành cho các chức sắc. Gian giữa dành cho các đàn ông Do Thái. Gian cuối dành cho phụ nữ và trẻ con. Ngoài hè dành cho các người ngoại giáo, các kẻ tội lỗi và những ai tàn tật.
Chúa Giêsu đi về ngoại biên.
Trong một tình hình như thế, Thiên Chúa có những lựa chọn lạ lùng.
Thực vậy, Chúa Giêsu xuất hiện ở Galilêa. Xứ này là vùng biên, xa trung tâm Giêrusalem.
Người sinh ra trong một gia đình làm nghề mộc, thuộc dạng nghèo.
Như vậy, Người mang thân phận kẻ nghèo để chia sẻ với thế giới những người ngoại biên.
Khi đi rao giảng Tin Mừng, Người ưu tiên để ý đến những người nghèo, người người tội lỗi và những người cùng khổ. Người áp dụng vào chính mình những lời tiên tri Isaia xưa đã nói:
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi, Chúa đã xức dầu tấn phong tôi.Sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4,17-20).
Người cũng đã xác định: “Thầy đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,13).
Người muốn dạy cho mọi người thấy: Trước mặt Chúa không có vấn đề ưu đãi cho trung tâm và bỏ quên hoặc loại trừ những ngoại biên. Người nói rõ ràng với người phụ nữ ngoại giáo xứ Samaria:
“Này chị, hãy tin tôi: Đã đến giờ, các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem... Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và trong sự thực. Vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (Ga 4,21-24).
Suốt đời, Chúa Giêsu đã sống gần gũi những người ngoại biên, Người đến với họ, Người chia sẻ những nỗi đau của họ, Người được kể như người ngoại biên. Người cho họ thấy Người rất thương họ, và tình thương đó là vô hạn, vô cùng. Thương đến đổ máu mình ra, chết cho họ, chết thay cho họ, và cho mọi người.
Người hiến thân đến tột cùng vì tình yêu. Chính ở điểm hiến thân trên thánh giá, mà Người làm vinh danh Chúa Cha, và chính Người được tôn vinh. Người đã nói trước khi tự nạp mình chịu chết: “Lạy Cha, giờ đã đến. Xin Cha tôn vinh Con Cha, để con Cha tôn vinh Cha” (Ga 17,1).
Người muốn các môn đệ Người cũng hãy theo gương Người, mà đem Tin Mừng đến cho người nghèo khổ như vậy. Muốn được thế, các ngài cần đón nhận sẵn tình thương cứu độ của Người. Để đón nhận, các môn đệ phải rất khiêm nhường trong phục vụ. Gương phục vụ khiêm nhường sau cùng Nguời trối lại là chính Người quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Sau đó, Người truyền dạy: “Thầy đã nêu gương cho các con, để các con cũng làm như Thầy đã làm cho các con” (Ga 13,15).
Phục vụ rất khiêm nhường là một cách tốt nhất để mở cửa lòng, đón nhận lửa tình yêu của Chúa, một thứ lửa đầy ánh sáng chân lý và yêu thương. Nhờ đó, môn đệ Chúa có thể ra đi ngoại biên, đem Tin Mừng cho mọi người, ưu tiên cho những người nghèo khổ.
Vui buồn về thực tế truyền giáo.
Đem mấy tư tưởng Phúc Âm trên đây chiếu dọi vào thực tế truyền giáo tại địa phương, tôi thấy có những điều đáng mừng và có những điểm đáng lo ngại.
Những điểm đáng mừng là từng triệu những người nghèo khổ vẫn đón chờ Tin Mừng, và vẫn sẵn sàng đón nhận Tin Mừng. Nhiều nơi, nhiều người đã gặp được Tin Mừng, nhờ gặp được những người môn đệ Chúa đến với họ, thương cảm đời họ, phục vụ họ một cách khiêm nhường, và dấn thân hy sinh vì họ. Các môn đệ như thế thuộc mọi thành phần, trong đó các nữ tu và giáo dân giữ một vai trò quan trọng.
Những điểm đáng buồn là ở nhiều nơi còn thiếu gương sáng về truyền giáo.
Trên đường đời, không thiếu trường hợp, người có đạo chúng ta thuộc đủ cấp bậc, đã xử sự lạnh lùng với người ngoại biên. Thái độ của ta cũng giống thái độ thầy tư tế và Lêvi xưa trước nạn nhân nằm quằn quại bên vệ đường. Mặc người ngoại Samaria lo cho người ngoại biên (Mt 12,41-44). Ta cứ an tâm đi về đền thờ là trung tâm.
Trong cuộc sống, không thiếu trường hợp, người có đạo chúng ta thuộc đủ cấp bậc, cũng đã xua đuổi người ngoại biên, không cho họ đến gần Chúa. Giống như các môn đệ Chúa xưa đã muốn xua đuổi người đàn bà xứ Canaan. Khi bà cứ lẽo đẽo sát lại bên Chúa Giêsu, để xin Người chữa con bà bị quỉ ám (Mt 15,21-28). Ta bảo vệ Chúa là trung tâm bằng cách loại trừ ngoại biên, tức những ai ta coi là bất xứng.
Trong những công việc chung, không thiếu trường hợp người có đạo chúng ta thuộc đủ cấp bậc, cũng đã đánh giá thấp người ngoại biên. Không giống cách Chúa Giêsu xưa đã đánh giá rất cao người đàn bà goá nghèo, đã dâng cúng vào đền thờ chỉ một đồng xu (Mt 12,41-44). Ta tôn vinh con người theo tiêu chuẩn tiền bạc và địa vị, như thể tiền bạc và địa vị là giá trị của trung tâm đạo.
Hiện nay, Mẹ thánh Têrêsa Calcutta đang được đề cao như một gương mẫu rao giảng Tin Mừng cho người ngoại biên. Mẹ không làm việc gì khác ngoài đi theo đường lối mà Chúa Giêsu đã đi trước. Điều đáng ngợi khen nhất nơi Mẹ là Mẹ làm, chứ không chỉ nói. Với những việc làm yêu thương cụ thể, Mẹ là một người mẹ âm thầm hy sinh, trước khi là thánh vinh quang.
Khi tôn vinh Mẹ Têrêsa, Toà Thánh muốn tôn vinh một tinh thần truyền giáo sáng ngời, một phương cách truyền giáo khôn ngoan, đã rất hữu hiệu, đã gây được nhiều thiện cảm ở các xã hội và tôn giáo đa dạng, tại Ấn Độ nói riêng và Á châu nói chung.
Qua đời sống của mình, Mẹ Têrêsa Calcutta đã giới thiệu dung mạo một Hội Thánh dễ thương, dễ mến. Một Hội Thánh dịu dàng, khiêm tốn phục vụ, đầy tình xót thương, luôn đi tìm những người nghèo khổ, tội lỗi, bị loại trừ, sống trong bế tắc, để đưa họ vào tình Chúa bao la.
Ước gì mọi người truyền giáo chúng ta cũng theo gương Mẹ, để bất cứ ai, nhất là các người ngoại biên, đón nhận được hy vọng là Tin Mừng nơi Chúa là Cha giàu lòng thương xót.
37. Niềm vui của người loan báo Tin Mừng
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển – Khánh Nhật Truyền Giáo – 2014)
Cách đây ít lâu, vào Năm Thánh 2000, người giáo dân Việt Nam có ấn tượng rất vui đối với thư chung của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam với tựa đề: “Hãy vui lên”. Khi ngỏ lời với từng thành phần: “Các linh mục, tu sĩ và chủng sinh; các cụ cao tuổi; những người cha; người mẹ; các bạn trẻ; các em thiếu nhi và anh chị em đau yếu, khổ cực, buồn phiền, bị bỏ rơi – Hãy Vui Lên!”. Khi nghe lời mời gọi của các vị Chủ Chăn, ai nấy đều cảm thấy tràn trề niềm hy vọng.
Năm nay, nhân ngày Khánh Nhật Truyền Giáo, ngày cả thế giới cầu nguyện cho công cuộc loan báo Tin Mừng, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã gửi thông điệp đến toàn thể cộng đồng Dân Chúa trên toàn thế giới. Nội dung của thông điệp đều nói đến: niềm vui của người loan báo Tin Mừng.
Như vậy, ta có thể hiểu rằng: loan báo và đón nhận Tin Mừng phải là một niềm vui sâu xa cho cả người đón nhận và người loan báo.
1. Nhu cầu cấp bách của việc loan báo Tin Mừng
Từ sau Công Đồng Vaticanô II, cách riêng từ những thập niên cuối thế kỷ 20, chúng ta không ngừng nhắc đến hai từ “Truyền Giáo”, hay cụm từ đồng nghĩa “Loan Báo Tin Mừng”. Tuy nhiên, loan báo Tin Mừng có đem lại cho chúng ta niềm vui, hay đúng hơn người loan báo Tin Mừng có cảm thấy vui mừng vì họ đang được tham dự vào công cuộc cứu chuộc của Thiên Chúa cho nhân loại hay không? Đây là câu hỏi được đặt ra cho từng người chúng ta mỗi dịp lễ Khánh Nhật Truyền Giáo.
Thật vậy, sứ mạng truyền giáo phải được người tham gia cảm được, thấu được sự hạnh phúc khi họ đang được diễm phúc làm cho lệnh truyền của Đức Giêsu hiện tại hóa nơi hành động, lời rao giảng của chính mình: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15). Đồng thời, niềm thao thức, sự khát khao cho muôn dân được cứu độ phải nung đốt tâm hồn những người tham gia sứ vụ này như một luật buộc vì lòng mến. Nói như thánh Phaolô: “Khốn thân tôi, nếu tôi không loan báo Tin Mừng” (1Cr 9, 16).
Xác định như thế, chúng ta thấy: sứ vụ Loan Báo Tin Mừng là của chúng ta, thuộc về chúng ta. Sứ vụ này là bản chất của Giáo Hội. Vì thế, Giáo Hội không ngừng loan báo điều mà mình đã tin và lãnh nhận. Nếu không loan báo thì chẳng khác gì kẻ khờ dại không biết sinh lời nén bạc đã được Chúa trao, ngược lại, vô tình, chúng ta đã chôn vùi dưới lòng đất. Không loan báo Tin Mừng là chúng ta phản bội lại chính mình, vì hẳn chúng ta đang bị đánh mất mình khi không sống đúng bản chất.
Sứ vụ này lại càng khẩn thiết khi xã hội và con người đang lao xuống dốc với vận tốc quá nhanh, khiến cho nhiều người mất phương hướng khi không biết hay không thể dừng chân để suy nghĩ lại niềm hy vọng hay mục đích tối hậu của cuộc đời mình.
Chính Đức Thánh Cha Phanxicô trong Tông huấn “Niềm vui Tin Mừng” đã viết: "Mối nguy lớn trên thế giới hôm nay, một thế giới hầu như thấm nhiễm chủ nghĩa tiêu thụ, đó là cảm giác cô đơn và lo lắng phát sinh từ một con tim tự mãn nhưng tham lam, sôi nổi chạy theo những thú vui phù phiếm, và một lương tâm chai lỳ" (Evangelii Gaudium, 2).
Đứng trước thực trạng đó, chúng ta không thể ngồi yên khi thế giới này đang mất dần hy vọng khi bám víu vào những điều mau qua chóng hết mà không hề có hy vọng đích thực. Vì thế, cuộc đời buồn tẻ đang bao trùm nhân loại, và một ngày nào đó, con người sẽ phải thất vọng khi lấn sâu vào con đường diệt vong (xc. Sứ điệp ngày thế giới truyền giáo 2014).
2. Sức hút nơi người tông đồ là niềm vui có Chúa
Tuy nhiên, loan báo bằng cách nào; thái độ của chúng ta ra sao khi đứng trước sứ mạng cũng như trong khi loan báo Tin Mừng cho anh chị em?
Để trả lời cho vấn nạn trên, Đức Thánh Cha Phanxicô nhân ngày Thế Giới Truyền Giáo, ngài đã thổ lộ tâm tình của mình với các nhà truyền giáo như sau: “Chúng ta đừng để mình bị tước mất niềm vui của việc loan báo Tin Mừng! Tôi mời gọi anh chị em đắm mình vào niềm vui của Tin Mừng và nuôi dưỡng một tình yêu có thể thắp sáng ơn gọi và sứ mạng của anh chị em” (xc. Sứ điệp truyền giáo năm 2014).
Như vậy, niềm vui là điều rất cần thiết cho hồn người tông đồ. Nếu không có niềm vui, người loan báo sẽ không thể cảm thấy một niềm hạnh phúc phát xuất từ sứ mạng, và như vậy, thay vì loan báo Tin Mừng, họ sẽ loan tin buồn! Hoặc quá mâu thuẫn khi chúng ta mang trong mình một não trạng được biểu hiện qua hành động bằng thái độ buồn rầu, thất vọng khi giới thiệu một Đức Giêsu là Chúa Cứu Thế mang lại niềm vui và hy vọng cho nhân loại!
Những lúc như vậy, người tông đồ đã làm cho hình ảnh của Đức Giêsu trở nên méo mó ngang qua hành động của mình. Và như thế, người được ta loan báo Tin Mừng, họ không dại gì lại đi tin và theo một Đức Giêsu không có gì hấp dẫn, không có gì hy vọng và không hề có niềm vui! Điều này đã mang lại cho chúng ta sự thất vọng và sứ vụ bị hiểu sai cũng như thi hành không đúng.
Khi nói về sự phản chứng nơi người tông đồ khi loan báo Tin Mừng, Đức Hồng Y Phanxicô X. Nguyễn Văn Thuận đã nói như sau: “Ưu sầu, chán nản, năn nỉ, phàn nàn... Lúc này người ta mới thấy rõ giá trị những lời khuyên nhủ hùng hồn, những lời tuyên bố nẩy lửa của con đến đâu. Thấy mặt con, ai dám theo Chúa nữa?” (ĐHV. số 538). Tại sao vậy? Thưa bởi vì: chúng ta không nuôi dưỡng niềm vui rao giảng Tin Mừng (xc. Sứ điệp ngày thế giới truyền giáo 2014)
3. Nguyên nhân sâu xa để có được niềm vui là lòng mến
Nuôi dưỡng niềm vui là gì nếu không phải là lòng mến! Thật vậy, vì yêu mến Chúa, tôi hy sinh tất cả, chịu đựng tất cả, tha thứ tất cả... Vì yêu mến, tôi phải vui mừng vì đang được chung chia tâm tư, thao thức của người mình yêu. Vì yêu mến, tôi cũng mong muốn cho mọi người được hưởng sự vui mừng mà tôi đang tận hưởng.
Như vậy, nguyên nhân sâu xa chính là người tông đồ không để cho tình yêu của Đức Giêsu xâm chiếm tâm hồn. Hoặc cũng không để cho ngọn lửa tình yêu của Chúa Thánh Thần nung nấu trái tim. Vì thế, hồn người tông đồ đâu có say mê Nước Thiên Chúa và đâu có niềm vui khi rao giảng Tin Mừng!
Khi nói về bản chất của niềm vui được khởi đi từ lòng mến và được đức ái thúc đẩy, Đức nguyên Giáo Hoàng Biển Đức 16 đã nói trong Thông điệp ngày thế giới truyền giáo 2006 như sau: "Sứ mạng truyền giáo, nếu không được định hướng bởi lòng mến, nếu không phát sinh từ một hành động sâu xa của tình yêu thần thiêng, thì sứ mạng đó liền bị rút gọn về chỉ còn như là một hành vi nhân ái và xã hội không hơn không kém. Tình yêu mà Thiên Chúa có đối với mỗi người, kết thành trung tâm của kinh nghiệm sống và loan báo Phúc Âm".
Muốn trở nên người tông đồ thực thụ vì chan chứa niềm vui, người được sai đi loan báo Tin Mừng phải gặp gỡ thân tình với Đức Kitô, cảm nghiệm được ơn gọi và sứ vụ cao quý của mình, và phải yêu mến những người mà mình có cơ may tiếp xúc, nhất là với người nghèo, người bị bỏ rơi, người sống bên lề... Có được điều đó, người tông đồ sẽ đem lại cho họ niềm vui đích thực khi trong mình đang tỏa lan một niềm vui có Chúa.
Thật thế, Đức Giêsu chính là nội dung của Tin Mừng, hay nói cách khác, Ngài chính là cội nguồn của niềm vui và hạnh phúc. Vì thế, người loan báo và người đón nhận, tất cả đều được: "Niềm vui của Tin Mừng đổ đầy trái tim và cuộc sống của tất cả những ai gặp Chúa Giêsu. Những ai chấp nhận đề nghị cứu độ của Người thì được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn phiền, trống rỗng nội tâm và cô đơn. Với Đức Kitô, niềm vui luôn luôn được tái sinh." (Evangelii Gaudium, 1).
Mong sao, mỗi người chúng ta hãy hân hoan vui mừng trước, trong và sau khi loan báo Tin Mừng. Chúa sẽ không bao giờ vui vì một người loan báo Tin Mừng nhưng lại với một khuôn mặt buồn rầu, ủ rũ. Biểu hiện đó làm cho họ tự mâu thuẫn với chính mình. Đức cố Hồng Y Phanxicô X. đã nói: “Một ông thánh buồn là một ông thánh đáng buồn”.
Như vậy, niềm vui của Chúa tràn ngập tâm hồn chúng ta và qua đó, chúng ta đem lại cho nhân loại một niềm hy vọng lớn lao là có niềm vui của Chúa ở cùng. Như thế, đến ngày sau hết, chúng ta sẽ vui mừng vì: “Tên anh em đã được ghi trên trời" (Lc 10,20).
Lạy Chúa Giêsu, lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít, xin Chúa ban cho chúng con những thợ gặt lành nghề để ra đi gặt lúa về cho Chúa. Tuy nhiên, xin Chúa ban cho Giáo Hội những thợ gặt với tâm hồn chan chứa niềm vui để đem lại niềm hy vọng cho con người. Amen.
38. Ngày Khánh Nhật Truyền Giáo - Mt 28, 16-20
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Ngày Thế Giới Truyền Giáo năm nay một lần nữa quy tụ chúng ta quanh con người Đức Giêsu, “Người rao giảng Tin Mừng đầu tiên và vĩ đại nhất”[1]. Người liên tục sai chúng ta đi công bố Tin Mừng tình yêu của Thiên Chúa Cha trong quyền năng Chúa Thánh Thần. Ngày Truyền Giáo này mời gọi chúng ta một lần nữa suy tư về việc truyền giáo ở tâm điểm của đức tin Kitô giáo. Hội Thánh tự bản chất là truyền giáo; nếu không, Hội Thánh không còn là Hội Thánh của Đức Kitô nữa. Vì vậy điều quan trọng đối với chúng ta là tự đặt ra cho mình những câu hỏi về căn tính Kitô giáo và trách nhiệm của chúng ta là những tín hữu trong một thế giới đầy hỗn loạn và thất vọng ê chề, bị xâu xé bởi những cuộc chiến huynh đệ tương tàn nhắm vào những con người vô tội một cách bất công.
Nền tảng việc truyền giáo của chúng ta là gì?
Tâm điểm việc truyền giáo của chúng ta là gì?
Chúng ta phải có cách tiếp cận cơ bản nào để thi hành công việc truyền giáo?
- Khi chúng ta nói đến sứ vụ truyền giáo thì điều chúng ta cần phải lưu ý là việc truyền giáo của Hội Thánh không phải là quảng bá một ý thức hệ tôn giáo, càng không phải là đề nghị một học thuyết đạo đức cao siêu, nhưng nhờ việc truyền giáo của Hội Thánh, chính Đức Giêsu Kitô tiếp tục rao giảng Tin Mừng và hành động; như thế việc truyền giáo của Hội Thánh làm hiện diện trong lịch sử thời điểm của Đức Kitô, một thời điểm thuận lợi cho Ơn Cứu Độ. Nhờ việc công bố Tin Mừng, Đức Giêsu Phục Sinh trở thành người đương thời của chúng ta, để những ai đón nhận Người với đức tin và đức mến có thể trải nghiệm sức mạnh biến đổi của Thần Khí Người, Đấng làm cho loài người và mọi thụ tạo sinh hoa kết quả, như mưa làm cho trái đất vậy.
- Việc truyền giáo của Hội Thánh dựa trên sức mạnh biến đổi của Tin Mừng. Tin Mừng là Tin Vui chứa đầy niềm vui có sức lan toả, vì nó chứa đựng và cống hiến sự sống mới: sự sống của Đức Kitô Phục Sinh, Đấng là Con Đường, Sự Thật và Sự Sống (x. Ga 14,6) cho chúng ta, và đổ đầy Thần Khí ban sự sống cho chúng ta. Người là Con Đường mời gọi chúng ta theo Người với lòng tin tưởng và can đảm. Khi theo Đức Giêsu là Con Đường, chúng ta trải nghiệm Sự Thật và lãnh nhận Sự Sống của Người, nghĩa là có sự hiệp thông viên mãn với Thiên Chúa Cha trong quyền năng Chúa Thánh Thần. Sự sống ấy giải thoát chúng ta khỏi mọi ích kỷ, và là nguồn sáng tạo trong tình yêu.[2]
- Giải thoát khỏi ích kỷ như thế nào?
Chúng ta cùng nhau đọc lại câu chuyện "cái giếng của Ryan".
Trong một lần nghe cô giáo nói để có được một cái giếng cho người Urgando, thì cần phải có 70 đôla, thế mà vẫn còn rất nhiều người Châu Phi phải bị chết khát vì không có nước sạch. Cậu bé Ryan 6 tuổi người Canada đã vô cùng xúc động, với suy nghĩ rằng, nhiều người đang chết và cậu nói với ba mẹ rằng mình cần số tiền đó.
Thế rồi, cậu nhận làm việc nhà. Với mỗi hai đôla kiếm được, cậu lại gạch thêm một vạch trên cái thước rồi bỏ tiền vào trong cái hộp thiếc. Cậu làm việc không ngừng. Ryan hút bụi, lau cửa sổ và nhiều việc khác. Thậm chí cậu còn làm việc nhà cho cả những người hàng xóm cũng như ông bà nội, ông bà ngoại và rồi tất cả số tiền kiếm được đều bỏ vào trong hộp thiếc.
Sau bốn tháng, Ryan đã tiến đến gần mục tiêu của mình. Mẹ cậu đã gọi điện cho một người quen làm ở cơ phát triển quốc tế của Canada để nhờ liên lạc với tổ chức cung cấp nước sạch và hệ thống vệ sinh cho người dân ở các nước đang phát triển.
Tháng tư năm 1998. Ryan đã mang theo hộp thiếc đầy tiền của mình đến gặp vị giám đốc của chương trình WaterCan". Họ đã cám ơn cậu bé và nói rằng sự đóng góp của cậu rất quan trọng, tuy nhiên để xây một cái giếng thì cần phải tốn đến những 2.000 đôla. Ryan không hề thất vọng và nói một cách đơn sơ chân thành: “Không sao ạ. Con sẽ làm việc nhà nhiều hơn nữa!”.
Tin tức về những gì Ryan đang làm đã lan đi khắp nơi và chẳng mấy chốc cha mẹ cậu nhận được nhiều cuộc gọi từ các hãng truyền thông. Một tờ báo cũng đăng tải câu chuyện về cái giếng của Ryan và sau đó số tiền đóng góp được gửi đến từ khắp nơi. Một trường trung học ở Comwall, Ontario, sản xuất nước đóng chai và tặng tổ chức WaterCan một tấm séc trị giá 228 đôla để ủng hộ cho chương trình đào giếng của Ryan.
Đội Hợp Ca Thiếu Nhi Trung Ương ở Ottawa đã quyên góp 1.000 đôla. Hiệp Hội Nước Ngầm ở Miền Đông Ontario đã đóng góp 2.700 đôla. Chẳng mấy chốc Ryan đã có nhiều hơn số tiền cần có để xây giếng. Thế là, cái giếng của Ryan đã được xây cạnh trường tiểu học Angolo ở Uganda, Châu Phi và hoàn thành vào tháng tư năm 1999!
Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở đó. Bắt đầu từ một mơ ước của một cậu bé nhằm thay đổi cuộc sống của nhiều người, mà hầu hết là những người cậu chưa từng gặp. Tổ chức từ thiện mang tên Ryan đã quyên được một số tiền rất lớn và đã có thể xây dựng được cả hàng ngàn chiếc giếng ở Châu Phi.
Còn Ryan thì vẫn chăm chỉ làm việc mỗi ngày, và lời cầu nguyện mà cậu bé vẫn thường khấn nguyện mỗi đêm đó là: “con cầu mong cho mọi người ở Châu Phi đều có nước sạch". Đó chính là sức mạnh của một ước mơ.
Đến đây tôi sực nhớ có một câu danh ngôn thế này: "Nếu quí vị nhìn thấy một gia đình hạnh phúc, quí vị nên biết rằng, ở trong gia đình đó, có những con người đã biết sống quên mình”. Đó chính là giá trị của lòng hy sinh. Định nghĩa hạnh phúc luôn được đặt trên nên tảng là lòng hy sinh. Đừng bao giờ từ chối người khác nếu chúng ta vẫn có cơ hội để trao ban.
Chúng ta đã từng gặp vô số những con người luôn phàn nàn, và có khuôn mặt khó coi. Họ dường như luôn muốn người khác thấy họ vô cùng khổ sở trong công việc của mình. Chúng ta tin rằng nếu cứ phàn nàn và giữ bộ mặt nhăn nhó như vậy, thì chắc chắn họ sẽ còn gặp khó khăn mãi và không có gì ngạc nhiên là họ sẽ mãi dậm chân tại chỗ!
Trái lại chúng ta cũng đã gặp những người luôn vui vẻ sẵn sàng giúp đỡ người khác dù hoàn cảnh, cũng như công việc của họ vẫn còn khó khăn. Những người như vậy sẽ luôn có những người yêu mến và trân trọng.
Vậy, thay cho lời kết, chúng ta cùng nhau xác tín rằng: để có được chiếc chìa khóa của hạnh phúc đích thật, chúng ta chỉ cần áp dụng một nguyên tắc vô cùng đơn giản ngay ngày hôm nay. Hãy làm cho người khác điều mình muốn người khác làm cho mình như Đức Giêsu dạy: "Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta như vậy." (Mt 7,12).[3] Amen.
---------------
[1] Phaolô VI, Evangelii Nuntiandi, 7
[2] Sứ điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô cho Ngày Thế giới Truyền giáo 2017
[3] Tuấn Hải - Lê Hằng. Phút Suy Niệm Tháng Mân Côi, trg.208-318
39. Hãy thả lưới bên phải thuyền (Lc 5, 1-11)
(Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt)
Các Tông đồ đã đánh cá vất vả suốt đêm mà không được con cá nào. Nay Chúa Giêsu bảo các ngài phải ra khơi một lần nữa. Chắc các ngài phải ngần ngại lắm. Ngần ngại vì vừa qua một đêm vất vả, thân thể mỏi nhừ vì suốt đêm phải vật lộn với biển cả, với sóng gió, với chài lưới. Ngần ngại vì đang buồn ngủ. Mắt chĩu nặng vì suốt đêm không ngủ, đang cần một giấc ngủ để hồi phục sinh lực. Ngần ngại vì vừa bị thất bại ê chề, đã mất hết ý chí phấn đấu. Thế nhưng các ngài vẫn vâng lời Chúa, ra khơi, thả lưới. Và kết quả thật là bất ngờ. Lưới đầy cá chất đầy hai thuyền đến gần chìm.
Qua bài Tin Mừng này Chúa muốn dạy tôi những bài học về việc truyền giáo.
Bài học thứ nhất: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi vất vả. Phải lao động đêm ngày. Như các Tông đồ đã chài lưới suốt đêm thâu trong sương đêm giá lạnh, trong sóng gió biển khơi, trong vất vả cực nhọc. Suốt đêm đã lênh đênh trên biển cả, sáng sớm vừa mới về tới đất liền, tưởng được nghỉ ngơi, không ngờ lại phải ra khơi ngay tức khắc. Ra khơi cả lúc đang mệt mỏi cần nghỉ ngơi. Người muốn truyền giáo cũng phải noi gương các tông đồ. Làm việc không nghỉ. Phải đầu tư sức lực và trí tuệ. Phải phấn đấu không ngừng. Làm cho hết việc chứ không làm cho hết giờ. Và phải chấp nhận tất cả những mỏi mệt, những thử thách.
Bài học thứ hai: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi kiên trì. Vì việc truyền giáo có nhiều thất bại hơn thành công, có nhiều mệt nhọc hơn vui thích, nên việc truyền giáo đòi hỏi rất nhiều kiên trì. Kiên trì khi đã gặp thất bại. Kiên trì khi đã chán nản, mệt mỏi rã rời. Kiên trì khi gặp những trắc trở. Như lời thánh Phaolô khuyên dạy: “Hãy rao giảng Lời Chúa. Hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2Tim 4,2). Các Tông đồ thật kiên trì, mặc dù đã thất bại sau suốt một đêm vất vả, các ngài vẫn tiếp tục ra khơi theo lệnh Chúa truyền. Trong quá khứ, ta đã gặp nhiều thất bại trong việc truyền giáo. Hôm nay Chúa lại mời gọi ta hãy ra khơi, hãy lên đường truyền giáo. Ta hãy mau mắn đáp lời Chúa mời gọi, kiên nhẫn làm việc trên cánh đồng truyền giáo, bất chấp mọi thất bại, bất chấp mọi chán nản.
Bài học thứ ba: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi thanh luyện bản thân. Truyền giáo là công việc thánh thiện nên người truyền giáo phải thánh thiện. Sự thánh thiện khởi đi từ nhận thức thân phận yếu hèn tội lỗi. Và từ đó nảy sinh nhu cầu được thanh luyện. Như Phêrô cảm thấy mình tội lỗi không xứng đáng ở gần Chúa. Như Phaolô ngã ngựa cảm thấy mình lầm lạc. Như Isaia cảm thấy môi miệng mình ô uế. Sau khi được thanh luyện các ngài đã trở thành những nhà truyền giáo gương mẫu. Thánh hóa bản thân là một điều kiện quan trọng để truyền giáo thành công.
Bài học thứ tư: Truyền giáo là một công việc đòi hỏi lắng nghe Lời Chúa. Vì truyền giáo là một công việc thiêng liêng. Nên ta không thể cậy dựa vào sức lực phàm nhân, phương tiện phàm trần. Các tông đồ là những ngư phủ chuyên nghiệp. Các ngài biết rõ biển hồ Galilê như lòng bàn tay. Thế mà các ngài đánh cá suốt đêm chẳng được con nào. Đó là bài học dạy ta biết rằng, nếu cậy dựa vào tài sức riêng, việc truyền giáo sẽ không có kết quả. Việc các tông đồ vâng lời Chúa ra khơi và vâng lời Chúa thả lưới bên phải mạn thuyền cho ta thấy một thái độ khiêm nhường lắng nghe. Dù Chúa Giêsu không phải là ngư phủ chính gốc. Dù Chúa Giêsu không hiểu biết biển hồ, nhưng các ngài vẫn vâng lời Chúa. Chính nhờ thế, các ngài đã thành công. Người làm việc truyền giáo phải noi gương các tông đồ biết khiêm nhường nhận biết sự bé nhỏ nghèo hèn của bản thân để thao thức lắng nghe Lời Chúa. Chỉ làm theo Lời Chúa, làm theo ý Chúa, làm vì Chúa việc truyền giáo mới có kết quả tốt đẹp.
Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta một nghị lực mạnh mẽ để sẵn sàng chấp nhận những vất vả khổ cực trong việc truyền giáo. Xin cho chúng ta biết chấp nhận cả những thất bại mà vẫn kiên trì lên đường truyền giáo. Và nhất là xin cho mọi người chúng ta được Chúa dạy bảo, để biết làm theo ý Chúa. Chỉ có như thế, việc truyền giáo mới có kết quả tốt đẹp.
Lạy Chúa Giêsu, xin kêu gọi chúng con lên đường truyền giáo. Lạy Chúa Giêsu, xin thanh luyện chúng con để xứng đáng làm việc truyền giáo. Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết cách làm việc truyền giáo. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Truyền giáo là lẽ sống của Hội Thánh, bạn có ý thức điều này không?
2. Muốn truyền giáo phải có những điều kiện nào?
3. Bạn đã bao giờ bắt tay vào việc truyền giáo chưa?
4. Năm nay bạn đã quyết tâm làm gì để đóng góp vào việc truyền giáo?
40. Thế Giới Truyền Giáo: Đến với muôn dân
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ' - Lc 24, 44-53)
Anh chị em thân mến,
Ngày 07/12/1990 Đức Giáo Hoàng Phaolô II đã gởi cho toàn thể Giáo Hội Công Giáo một thông điệp mang tựa đề: "Sứ vụ Đấng Cứu Độ" (Redemptoris Missio). Thông điệp được công bố để kỷ niệm 25 năm ngày Công Đồng Vatican II ban hành Sắc lệnh về Hoạt động Truyền Giáo của Giáo Hội: "Đến Với Muôn Dân" (Ad gentes) đồng thời nhân dịp kỷ niệm 500 năm Christophe Colomb tìm ra Tân Thế giới và Tin Mừng được rao giảng ở Châu Mỹ. Thông điệp còn xuất phát từ những đòi hỏi cấp bách của xã hội và Giáo Hội trong những năm cuối của thiên niên kỷ II tiến tới năm 2000. Mới đây, trong Tông thư "Tiến tới Thiên niên kỷ III", Đức Thánh Cha lại kêu gọi toàn thể Giáo Hoi chuẩn bị mừng Năm Thánh 2000 bằng việc canh tân đời sống thánh thiện trong Giáo Hội để tiến tới công cuộc truyền giáo mới. Đức Thánh Cha không chuẩn bị cho Giáo Hội tiến tới ngày tận thế! Trái lại, Ngài thúc đẩy Giáo Hội nhân dịp bước qua Thiên niên kỷ III, tìm gặp lại sự thánh thiện và lòng nhiệt thành tông đồ mà Giáo Hội cần phải có để theo đuổi sứ mạng của mình trong thế giới nhằm phục vụ Tin Mừng cho Nước Chúa hiển trị.
Đã một thời, hễ nói đến truyền giáo là chúng ta nghĩ đến việc ra đi đến những miền đất xa xôi, những vùng dân cư chưa hề biết Chúa vì chưa bao giờ có các nhà truyền giáo tới với họ. Ngày nay, không phải chúng ta không nghĩ tới những vùng đất nầy nữa, nhưng chúng ta phải quan tâm đến môi trường chúng ta đang sống, vì có những anh chị em chưa biết Chúa đang sống bên cạnh chúng ta. Chúng ta không cần phải đi đâu xa xôi nữa. Theo Tông huấn "Loan báo Tin Mừng" của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI thì truyền giáo là đem Tin Mừng đến môi trường nhân loại và nhờ tiếp xúc với Tin Mừng, con người được biến đổi từ bên trong, tạo nên một nhân loại mới, bằng bí tích Thánh Tẩy và đời sống theo Tin Mừng. Vì vậy, ngày nay Giáo Hội dùng từ ngữ "Tin-Mừng-hóa" thay cho truyền giáo. Tin Mừng hóa là làm cho Tin Mừng thấm nhập vào mọi thực tại của cuộc sống con người. Không một thực tại nào, không một lãnh vực nào của đời sống con người mà không phải là đối tượng của việc loan báo Tin Mừng.
Như vậy, quan niệm truyền giáo ngày nay bao quát rộng rãi hơn, bao trùm cả cuộc sống con người, tất cả các công cuộc thăng tiến hay phát triển con người toàn diện, bắt đầu từ công cuộc giải phóng con người khỏi đói kém, bệnh tật, mù chữ, nghèo túng, bất công, áp bức, bóc lột. Tất cả các vấn đề đó không phải là điều xa lạ với việc loan báo Tin Mừng (x. LBTM 30,31). Lý do chính là vì bác ái: "Làm sao có thể công bố giới răn mới của Chúa Giêsu tức là giới răn yêu thương, mà không xúc tiến trong công lý và hòa bình, sự phát triển đích thực của con người" (LBTM 31). Thực ra, việc loan báo Tin Mừng của Giáo Hội từ bao giờ vẫn luôn đi kèm theo những công cuộc thăng tiến con người: như mở trường học, xây cất bệnh viện, tổ chức cứu trợ, khai hoang lập ấp, nâng ca dân trí... Việc thăng tiến con người được xem là thành phân của chính sứ mạng rao giảng Tin Mừng, vì được bao gồm trong ơn cứu độ Chúa Kitô đem đến và Giáo Hội tiếp tục công bố và thực hiện.
Vì vậy, thưa anh chị em, ở đây vai trò của anh chị em giáo dân thật là quan trọng, không thể thay thế được. Giáo Hội quý trọng anh chị em, khuyến khích anh chị em dấn thân vì đồng loại. Ngay trong lúc cố gắng tạo các điều kiện giúp anh em đồng loại sống xứng đáng với nhân phẩm hơn, anh chị em biết rằng, mình cũng đang làm nhiệm vụ loan báo Tin Mừng, đang làm việc tông đồ; dù các môi trường hay các tổ chức, các cơ quan trong đó anh chị em dấn thân không thuộc về Giáo Hội. Tuy nhiên, nhiệm vụ loan báo Tin Mừng nầy không dừng lại ở việc thăng tiến đời sống con người mà thôi, mà cuối cùng phải nhằm đưa con người đến chỗ sống một cuộc sống mới từ bên trong, nhờ lãnh nhận bí tích Rửa Tội và hoán cải cuộc sống theo Tin Mừng.
Nhưng bằng cách nào? Thưa anh chị em,
Hình thức đầu tiên của việc loan báo Tin Mừng là chứng tá đời sống. Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II trong Thông điệp "Sứ Vụ Đấng Cứu Độ" đã nhất trí với nhận định của Đức Phaolô VI trong Tông huấn "Loan báo Tin Mừng" rằng: "Con người ngày nay tin vào các nhân chứng hơn là các thầy dạy". Muốn người khác tin, không phải chỉ dạy đạo lýc mà còn phải sống đạo lý mình dạy nữa. Con người hôm nay chờ đợi nơi nhà truyền giáo:
- Một sự quan tâm đặc biệt đến con người nói chung, nhất là những người nghèo, thấp cổ bé miệng, những người đau khổ. Những hoạt động bác ái là những nét son của Giáo Hội trong mọi thời đại.
- Một sự dấn thân phục vụ công lý và hòa bình, thăng tiến phụ nữ, bảo vệ trẻ em và bênh vực quyền con người.
- Một sự hòa nhập vào đời sống của dân tộc mình: trugn thành với đất nước, quyền dân tôc, với nền văn hóa dân tộc mình trong lúc vẫn đề cao tình huynh đệ đại đồng giữa các dân tộc.
- Lòng khiêm tốn để nhìn nhận các giới hạn và sai sót của mình, để mỗi ngày một cải tiến.
- Lòng can đảm để chống lại mọi áp bức, mọi bất công hay bóc lột.
Nếu đáp ứng đủ những sự chờ đợi nầy, lời rao giảng của nhà truyền giáo sẽ có cơ may được đón nhận dễ dàng hơn.
Ngoài ra, nhà truyền giáo phải hết sức thận trọng để luôn trung thành với giáo huấn cả Đức Kitô, hiệp nhất với toàn thể Giáo Hội và ý thức mình chỉ là "người được sai đi". Trong mọi hoàn cảnh, thuận lợi hay không thuận lợi, nhà truyền giáo luôn xác tín rằng tự đáy lòng mọi người đều mong chờ được đón nhận chân lý về Thiên Chúa, về con người và về con đường cứu độ. Như Đức Kitô xưa, nhà truyền giáo can đảm rao giảng Lời Chúa. Nếu nhà truyền giáo có bị xiềng xích, bị tù đầy hay bị mất mạng sống vì đức tin... thì đó là một lời loan báo Tin Mừng hùng hồn và có sức thuyết phục nhất (x. SVĐCĐ 26-81).
Anh chị em thân mến,
Trong viễn tượng của ngày năm thứ ba sắp đến, chúng ta hãy là những người phát ngôn cho Tin Mừng, hãy phổ biến với hết sức lực của chúng ta lời cứu rỗi, sự thật của Thiên Chúa để biến đổi trọn cả thực tại trần gian theo tinh thần Tin Mừng. Không phải là lúc phải lo sợ, không phải là lúc để dành cho người khác thi hành trách vụ nầy. Mỗi người, xét theo là thành phần của Giáo Hội, cần phải lãnh lấy phần trách nhiệm của mình. Mỗi người trong chúng ta cần phải làm cho những ai sinh sống gần bên, trong gia đình, tại học đường, trong các môi trường lao động, văn hóa, được hiểu rằng: "Chúa Kitô là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống" của loài người (Ga 14,6). Cần phải công bố và làm cho từng người biết được sự thật cứu rỗi, vì chúng ta không thể nào sống lãnh đạm trước sự kiện hàng triệu triệu người chưa biết hay biết không đúng về Chúa Kitô và Tin Mừng cứu độ của Ngài.
Hai ngàn năm đã qua đi kể từ khi những lời "Các con hãy ra đi giảng dạy muôn dân" được Chúa Kitô truyền dạy. Công cuộc rao giảng Tin Mừng cho muôn dân tùy thuộc vào chúng ta. Chúa Kitô cần đến chúng ta để đem Tin Mừng cứu độ đến mọi nẻo đường thế giới. Chúa Kitô cần đến tâm hồn quảng đại và sẵn sàng của chúng ta, cần đến đời sống chứng tá của chúng ta để bày tỏ cho tất cả mọi người tình thương vô biên của Ngài.
41. Suy niệm của Lm Augustine
Khốn cho tôi nếu không rao giảng Tin Mừng
Bài Tin Mừng hôm nay là một lệnh lên đường. Lệnh đó được truyền trước tiên cho mười một môn đệ thân cận của Đức Giêsu. Chẳng bao lâu một môn đệ nữa được thêm cho đủ số mười hai: đó là ông Mát-thi-a thay thế Giu-đa Ít-ca-ri-ót (Cv1,26). Nhưng cuộc bầu ông Mat-thi-a vào nhóm Mười Hai còn được nối tiếp bằng cuộc trở lại của Sao-lô, con người bắt bớ các Kitô hữu, sau trở nên vị Tông đồ Dân Ngoại (Cv 13,47). Ông là biểu tượng của lòng nhiệt thành truyền giáo lây lan với câu nói bất hủ: "Khốn cho tôi nếu không rao giảng Tin Mừng!" (1C 9,16). Chính qua các cuộc hành trình truyền giáo, tông đồ Phao-lô đã thiết lập các giáo đoàn vùng Tiểu Á và Trung Đông. Những địa danh Cô-rin-tô, Thê-xa-lô-ni-ca, Phi-líp-phê, Ê-phê-xô trong cuộc hành trình thứ hai của ngài đã trở nên thời danh với những lá thư ngài viết gửi các giáo đoàn. Thư ngài viết gửi giáo đoàn Ga-lát chẳng hạn, cho thấy thế nào là người môn đệ của Đức Giêsu theo bề sâu. Người đó được đưa vào sự sống của chính Đức Kitô để có thể nói rằng "Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi" (Gal 2,20). Tức một cách nào đó, Đức Kitô trở nên chủ thể mọi sinh hoạt của người Kitô hữu. Cho nên tự bản chất, người Kitô hữu không thể không làm chứng về sự hiện diện và hành động của Đức Kitô. Người đó tự nhiên thao thức muốn đem Tin Mừng của Đức Kitô loan báo và chia sẻ cho tha nhân.
HÌNH ảNH SốNG ĐộNG Về TRUYềN GIÁO
Nhưng thử hỏi cảm thức về bổn phận truyền giáo nơi các Kitô hữu ngày xưa, ngày nay người trở lại đạo còn nghiệm được chăng? Hãy coi hình ảnh sống động của những Kitô hữu sốt sắng truyền giáo nơi dân tộc ít người. Một số họ đã được giới thiệu hai năm trước đây cũng dịp Chúa Nhật cầu nguyện cho công cuộcTin Mừng hóa thế giới.
Anh BN năm nay 27 tuổi. Anh đã học đạo năm 1993. Kể từ đó anh góp phần đắc lực vào việc truyền giáo giữa đồng bào anh. Mùa mưa bắt đầu là lúc thích hợp nhất để anh ra ruộng, ra rẫy, nơi anh vừa lao tác với đồng bào, vừa truyền đạo cho họ. Anh nói như một nhà thần bí rằng: "Chúa đoan chắc Chúa ở với con và con được ở với Chúa. Con thấy Chúa nói với con. Có những thôn làng muốn biết Chúa. Thế là con thấy rõ Chúa đến nhà kêu con đi. Qua con, Chúa nói với người ta. Người ta nhìn miệng con. Người ta nghe con nói. Điều lạ lùng là người ta tin Chúa! Vợ con sắp sinh cũng bảo con: "Thôi anh cứ đi đi! Đã có Chúa lo cho em ở nhà!" Lần ấy con đi truyền giáo về gần đến làng thì được tin vợ con đã sinh một bé gái. Con quỳ xuống tạ ơn Chúa. Bé gái sinh ra là gia đình con có cơ may được thêm một người đàn ông lo việc ruộng rẫy trong tương lai." Anh BN có ý nói về phong tục mẫu hệ của đồng bào anh. Bé gái lớn lên mà lấy chồng thì chồng đến ở nhà bố mẹ vợ thay vì vợ đến ở nhà bố mẹ chồng. Gia đình anh hy vọng sẽ có con rể lo việc ruộng rẫy và anh sẽ có thêm cơ hội lo việc truyền giáo.
Anh CĐ hôm ấy đi truyền giáo theo hướng sông Đồng Nai. Nửa đên anh đang đi thì xe đạp của anh bị trục trặc. Khi ấy có tiếng cọp gào. Anh phải chui vào hốc đá khiến cọp đói ngồi rình anh suốt đêm! Anh thưa với Chúa: "Chúa ơi! Con đi truyền giáo nên Xa-tan nó chặn đường con!" Ban sáng khi mặt trời mọc, con thấy mất an toàn nên lỉnh vào rừng sâu. Anh CĐ khi ấy thưa với Chúa: "Chúa ơi, Xa-tan nó đi rồi, thế là con lại lên đường đến điểm truyền giáo như con đã hẹn với người ta."
Anh X tìm đến với đồng bào anh nơi rừng thẳm vào giữa mùa đói. Họ thiếu thốn cả của ăn lẫn áo mặc. Anh thương họ quá đến nỗi anh đã để lại cho họ tất cả quần áo anh mang theo. Anh về nhà, chỉ còn duy nhất chiếc áo gió và quần xà lỏn trên người!
HộI NHậP VĂN HÓA
Anh BX khác hẳn những anh em nói trên về giáo dục và về địa bàn hoạt động. Chính anh đã có công dịch ra tiếng M'nông tất cả các kinh đọc, các bài hát hiện đang được dùng. Anh cũng dịch ra tiếng M'nông cuốn giáo lý căn bản và sách Tin Mừng theo thánh Matthêu. Còn sách Tin Mừng theo thánh Máccô hiện anh dịch xong được 10 chương. Vậy phần đóng góp đặc sắc của anh trong việc truyền giáo cho dân tộc anh là hội nhập văn hóa.
Theo nghĩa tổng quát, văn hóa chỉ tất cả những gì con người dùng để trau dồi và phát triển các năng khiếu đa diện của tâm hồn và thể xác; cố gắng chế ngự cả trái đất bằng trí thức và lao động; làm cho đời sống xã hội, đời sống gia đình cũng như đời sống chính trị trở nên nhân đạo hơn, nhờ tiến bộ trong các tập tục và định chế,… diễn tả, truyền thông và bảo tồn trong các công trình của mình, những kinh nghiệm tinh thần và hoài bão lớn của các thời đại, để giúp cho nhiều người và toàn thể nhân loại tiến bộ hơn (Giáo Hội trong thế giới ngày nay, số 53). Anh BX đang làm công việc truyền thông này về tôn giáo cho dân tộc anh. Thử hỏi một người dân tộc như anh BX mở mắt chào đời nơi rừng sâu, làm sao đạt được trình độ để làm việc văn hóa như hiện anh đang làm? Quan trọng hơn nữa là ý nghĩa truyền giáo của công việc anh đang làm, ý nghĩa ấy lóe lên trong đầu óc anh từ bao giờ? Có dấu nào cho thấy anh đã chọn công cuộc truyền giáo một cách tự do do ân sủng của Thiên Chúa? Hãy nghe anh BX tự thuật, có khi ta sẽ phần nào thỏa mãn được những thắc mắc nói trên.
ĐẹP THAY BƯớC CHÂN NGƯờI ĐI LOAN TIN MừNG
"Tôi sinh ra năm 1940 khi dân tộc tôi còn trong tình trạng du canh du cư chưa được đặt dưới quyền một Nhà Nước nào. Tới năm 1946, chi tộc trưởng của chúng tôi mới được đặt làm trưởng làng thuộc xã Đắc Tích gồm 16 buôn trong quận Dak Sông, tỉnh Darlac. Riêng tôi lên 8 tuổi mới cắp sách đi học tại trường ngã ba biên giới, và lên 11 tuổi thì được gởi đi học trường tiểu học Nguyễn Du tại Ban Mê Thuột; lên 16 tuổi được nhận vào trường trung học trước khi gọi là Collège Sabatier. Trong hai năm ở đây tôi tự động đi học giáo lý Công Giáo mỗi tuần hai lần vào buổi tối. Ngày đáng ghi nhớ là 12 tháng 5, 1958, khi tôi được Chúa mời gọi đi gặp vị linh mục thừa sai Mai Hộ (Elie Maillot). Ngài nhận tôi vào học lớp giáo lý tại nhà thờ Bu Prăng cùng với hai anh em người Sê Đăng, Kontum. Nhờ đó ngày 12 tháng 5, 1960, tôi được nhận vào nội trú trường đào tạo giảng viên giáo lý mang tên Chân Phước Cuénot, là nơi tôi được học tiếng Bana, tiếng Pháp cũng như học Kinh Thánh Tân Ước và Cựu Ước. Ngày 14 tháng 11, 1960, tôi được chịu phép Rửa Tội, Thêm Sức và bí tích Thánh Thể. Ngày 27 tháng 12, 1960, tôi đã thi đậu bằng tốt nghiệp khóa giáo lý căn bản sơ cấp để trở nên giáo phu, tức Thày giảng đạo.
Thế là tôi bắt đầu dấn thân truyền giáo dưới sự hướng dẫn của linh mục thừa sai Mai-Đình -Sử (Jean Moriceau), vừa đi truyền giáo vừa học thêm.
Thời gian 1960-1964: 6 thôn được nghe tôi trình bày giáo lý và hai gia đình chịu phép Rửa tội.
Thời gian 1965-1975, tôi cùng với 4 giáo phu khác góp phần giúp cho trên ba ngàn người học đạo trong số đó có trên 1,500 người đã chịu phép Rửa tội và Thêm sức qua ba đợt do Đức Cha Mai.
Kể từ đầu năm 1976 tình hình tôn giáo ra khác. Chính tôi phải đi cải tạo 6 tháng tại Đác Nông. Trong suốt mấy năm kế tiếp, tệ nạn xã hội xảy ra trong họ đạo, như ăn trộm ăn cắp, rượu chè, phạt vạ nhau, có một vụ chồng giết vợ, một vụ anh giết em. Trong bối cảnh không mấy sáng sủa ấy, tôi đã cầu nguyện nhiều xin Chúa soi sáng cho tôi biết phải làm gì để phục vụ Người. Tôi được an ủi nhiều nhờ gặp được Đức Cha Phêrô Mai dịp đi họp Mặt Trận tỉnh ngày 30 tháng 12, 1980.
Thời gian 1986-1990, tôi đã hoạt động trở lại dậy giáo lý cho gần 300 gia đình tại Quảng Tín; chừng 100 gia đình tại Quảng Tân; chừng 50 gia đình tại Đạc Rung; 18 gia đình tại Bù Do; 49 gia đình tại Quảng Rực; 300 gia đình tại Đác Nhau. Tôi hy vọng có nhiều thời giờ hơn để giúp những gia đình tân tòng nói trên sau khi dịch xong Tin Mừng theo thánh Mác-cô ra tiếng M'nông"
Anh BX thực sự đã được Chúa an bài để trở nên môn đệ của Chúa Giêsu, cộng sự viên đắc lực của những vị kế nghiệp các thánh tông đồ. Cho nên anh cũng được vinh dự tích cực tham gia việc thi hành lệnh lên đường để làm cho muôn dân trở nên môn đệ của Đức Giêsu.
MộT Số CÂU HỏI GợI Ý
1. Bạn nghĩ gì về tinh thần truyền giáo của anh em dân tộc như BN? X và BX? Riêng về hoạt động truyền giáo của anh BX có những gì đáng kể đối với bạn?
2. Theo bạn có gì khác nhau giữa truyền giáo và Phúc Am hóa? Chính đời sống của gia đình bạn, của giáo xứ bạn, của công việc làm ăn bạn đang thực hiện, có cần được Phúc Âm hóa chăng? Bằng cách nào?
42. Suy Niệm của Đức Hồng Y GB. Phạm Minh Mẫn
(Bài giảng của ĐTGM Phạm Minh Mẫn trong thánh lễ làm phép Dầu ngày Thứ Năm Tuần Thánh 2002)
Lời Chúa hôm nay nói về Chúa Giêsu và chức linh mục. Chúa Giêsu được Chúa Cha trao ban Chúa Thánh Thần và sai đi loan Tin Mừng cứu độ cho người nghèo, giải thoát kẻ lâm cảnh tù đầy, kẻ sống trong nước mắt đau khổ. Chúa Giêsu cũng trao ban Chúa Thánh Thần và mời gọi một số người than dự vào đời sống và chức vụ linh mục của Người, một đời sống và chức vụ phát xuất từ tình yêu, phát triển trong tình yêu, nhằm thể hiện tình yêu, làm chứng cho tình yêu trong giáo hội cũng như ngoài xã hội.
Ngỏ lời với mọi thành phần dân Chúa và riêng với các linh Mục Việt Nam là những người đang tiếp nối sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu, đang truyền giáo trên đất nước Việt Nam ngày nay, Đức Gioan Phaolô II nhắc nhở chúng ta hai điều thiết yếu này:
1/ Thực hiện điều Chúa dạy "Hãy ra khơi". Nãy ra khơi với mối quan tâm rao giảng Tin Mừng. Hãy ra khơi với ý thức sứ vụ truyền giáo liên quan đến toàn thể dân Chúa và đòi hỏi mọi người phải có lòng nhiệt thành mới, những phương pháp mới, một ngôn ngữ mói. Hãy ra khơi để chia sẻ cho mọi người niềm hy vọng kitô giáo, bằng cách không ngừng đề nghị với nhau con đường đối thọai ngay thẳng và hợp tác lành mạnh.
2/ Hãy nhận luồng gió Chúa Thánh Thần làm cho những sáng kiến tông đồ phong phú mang lại một sinh lực mới cho đời sống cầu nguyện, cho việc huấn luyện nhân sự.
Can đảm ra khơi, đối thoại ngay thẳng, hợp tác lành mạnh, quảng đại chia sẻ, đối với nhiều người, có lẽ là một ngôn ngữ mới, phương pháp mới. Kỳ thực, việc ra khơi, đối thoại bắt nguồn từ tình yêu cứu độ của Ba Ngôi Thiên Chúa đối với loài người, động lực thúc đẩy đối thoại và hợp tác với nhau là lòng bác ái và uoc muốn gặp gỡ Đức Kitô Đấng Cứu Thế, và đường lối mới này dẫn đến chia sẻ niềm hy vọng cho cộng đồng dân tộc. Trong một hoàn cảng xã hội mà lợi lộc, thanh thế, quyền lực, đang lên ngôi như những gía trị hàng đầu trong cuộc sống, con đường đối thoại và hợp tác nhằm phục vụ cho sự sống và phẩm gía con người, đặc biệt người nghèo, người bị bỏ rơi, quả là một thách đố to lớn đối với những nhà truyền giáo hôm nay. Do đó, nếu không có một con tim đầy tình yêu khoan dung, quảng đại và can đảm hy sinh của người mục tử nhân lành, nếu không có một đời sống nội tâm dựa trên ánh sáng và sức mạnh của Chúa Thánh Thần, thì thách đố to lớn đó chỉ là điều không tưởng.
- Chính vì thế mà trong huấn từ gửi đến các linh mục ngày thứ năm tuần thánh năm 2002 này, Đức Thánh Cha khuyên linh mục hãy theo gương đón rước Chúa Giêsu vào nhà mình, hãy mở rộng cửa con tim để cho lòng từ bi thương xót của Chúa Giêsu đi vào và đổi mới nếp sống của mình. Trong cầu nguyện cũng như trong thi hành sứ vụ, linh mục hãy mở rộng tâm trí đón nhận ơn Chúa Thánh Thần soi sáng, thúc đẩy và dẫn dắt ta như một ánh sáng mới làm cho linh mục trở nên thừa tác viên chân chính, chứng nhân trung thực của lòng yêu thương cứu độ của Thiên Chúa trong lòng Giáo hội và xã hội. Có tận tình đảm nhận lối sống của Chuá Giêsu, linh mục mới có khả năng tiếp nối và hoàn thành sứ vụ của mình.
Mỗi ki tô hữu, giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân, từ khi lãnh bí tích thanh tẩy, được Thiên chúa không ngừng tao ban Chúa Thánh Thần, đổ tình yêu của Người vào lòng, và sai đi loan tin mừng. Xin anh chị em hãy thường xuyên cầu nguyện cho mọi ki tô hữu, cho cả giám mục và linh mục, ý thức và quan tâm hiện diện với Chúa Thánh Thần trong mọi suy nghĩ và hành động, ra sức nuôi dưỡng cho tình yêu bác ái của mỗi người được lớn lên trong thực tế cuộc sống hàng ngày. Đó là cách thế giúp mỗi người ngày càng trở nên sứ giả tin mừng của Đức Ki tô. Xin anh chị em hãy cầu cho tôi.
43. Thầy Ở Cùng Anh Em
(Trích dẫn từ 'Manna' – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
Truyền giáo là một mệnh lệnh và cũng là một ước mơ của Chúa Phục Sinh: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ."
Ngài đòi ta phải ra đi loan báo Tin Mừng, nhưng cuối cùng là phải giúp người khác trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, nghĩa là có tương quan thân thiết với Ngài, dám sống như Ngài, sống cho Cha và con người.
Đấng Phục Sinh nắm quyền trên cả thế giới, nên Ngài sai chúng ta đến với mọi dân tộc. Tin Mừng không còn bị giới hạn trong mảnh đất Israel, nhưng lan rộng khắp trái đất (x. Mt 10,5). Ngày nào còn một người chưa trở thành môn đệ, ngày ấy trách nhiệm chúng ta vẫn còn.
"Bằng cách làm phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần". Phép Rửa khiến người ta trở thành môn đệ Đức Kitô, và đi vào tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa.
"Bằng cách dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy truyền cho anh em", như thế các môn đệ thuộc bất cứ thời đại nào đều có một điểm chung, đó là cùng tuân giữ toàn bộ giáo huấn của Chúa.
"Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" Đây không phải là một lời hứa cho tương lai, nhưng là một điều đang xảy ra trong hiện tại. Chúa Giêsu thật là Emmanuel (Mt 1,23), Ngài ở cùng Giáo Hội, ở cùng các môn đệ, Ngài ở bên họ trong mọi bước đường rao giảng (Mc 16,20).
Khi nhìn đến quê hương Việt Nam, chúng ta thấy hơn 70 triệu người chưa biết Chúa. Chúng ta có trách nhiệm loan báo Tin Mừng, có bổn phận nói về Chúa cho họ, nói bằng lời và nói bằng cuộc sống cụ thể. Làm sao qua cuộc sống của tôi: yêu thương, tha thứ, hy sinh phục vụ, bình an vui tươi, người ta gặp được Đấng Vô Hình mà gần gũi? Làm sao tôi có thể trả lời được những câu hỏi, soi sáng được những vấn đề nhức nhối của họ bằng ánh sáng Tin Mừng?
Truyền giáo không phải là tuyên truyền hay mua chuộc, cũng không phải là áp đặt một cách tinh vi, Truyền giáo là hát lên niềm vui chất chứa nơi lòng mình, là tỏa hương tự nhiên như đoá hoa. Truyền giáo là hơi thở của một Giáo Hội đầy sức sống Thánh Thần.
Chúng ta phải biếu Chúa Giêsu cho con người hôm nay. Nhưng trước hết chúng ta phải có Chúa Giêsu, và phải biết lắng nghe con người.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, tại sao ít người Việt Nam theo đạo Công Giáo? Có gì cần sửa đổi để người khác dễ chấp nhận đạo chúng ta hơn không?
Cha Đắc Lộ đã đi truyền giáo ở Việt Nam và đã đóng góp nhiều cho việc hình thành chữ Quốc Ngữ. Theo bạn, người Công Giáo Việt Nam hôm nay có thể làm được điều gì cho quê hương Cha Đắc Lộ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Chúa đã muốn trở nên con của loài người, con của trái đất, con của một dân tộc. Chúa vẫn yêu mến dân tộc của Chúa dù họ từ khước Tin Mừng và đóng đinh Chúa vào thập giá. Xin cho chúng con biết yêu mến quê hương, một quê hương còn nghèo nàn lạc hậu sau những năm dài chiến tranh, một quê hương đang mở ra trước thế giới nhưng lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc và bảo vệ nền đạo lý của cha ông.
Xin cho chúng con đừng nhắm mắt ngủ yên trong sự an toàn và tiện nghi vật chất, nhưng biết trăn trở trước nỗi khổ đau, và làm một điều gì đó thật cụ thể cho những đồng bào quanh chúng con. Ước gì chúng con biết phục vụ đất nước bằng khối óc, quả tim và đôi tay. Và ước gì chúng con biết khiêm tốn cộng tác với muôn người thiện chí.
44. Truyền giáo
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – R. Veritas)
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến viếng thăm Ấn Độ hồi tháng 11.1999. Cao điểm của chuyến viếng thăm này là nghi thức công bố Tông Huấn về Giáo Hội Tại Á Châu. Tông Huấn này là một đúc kết kết quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục tại Á Châu nhóm họp tại Rôma hồi tháng 4.1999. Việc chọn Ấn Độ làm nơi công bố Tông Huấn mang một ý nghĩa đặc biệt. Những nơi mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mong mỏi đến viếng thăm nhất hẳn phải là Đài Loan, Hồng Kông, Trung Hoa Lục Địa và đặc biệt là Việt Nam. Thế nhưng, cho đến nay người ta vẫn cứ nại đến lý do chính trị và quan hệ ngoại giao để không cho Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến viếng thăm Giáo Hội ở phần đất này. Dĩ nhiên đằng sau những lý do chính trị và quan hệ ngoại giao ấy, ai cũng thấy rõ chủ trương bài trừ tôn giáo và nhất là chống lại Giáo Hội. Tựu trung linh hồn của bất cứ một chế độ độc tài ý thức hệ nào cũng là tinh thần bất khoan nhượng. Người dân không những bị cưỡng bách phải tuyên xưng ý thức hệ của chế độ mà còn bị kỳ thị loại trừ và bách hại về niềm tin tôn giáo của mình.
Tuy là một quốc gia có nền dân chủ lớn nhất thế giới hiện nay, Ấn Độ đang bị xâu xé vì tinh thần bất khoan nhượng. Tại một quốc gia với một tỷ dân này, liên minh cầm quyền gồm những người theo chủ nghĩa Ấn Giáo, trong đó có một số thành phần cực đoan lại tái cử thêm nhiệm kỳ nữa, tinh thần bất khoan nhượng ngày càng gia tăng tại Ấn Độ. Trong những năm gần đây, người ta ước tính là đã có gần 150 vụ tấn công nhắm vào nhân sự và các cơ sở của Kitô Giáo, nhiều vị mục sư và linh mục bị sát hại, nhiều nữ tu bị bạo hành, nhiều nhà thờ bị đốt phá.
Một nhóm Ấn Giáo cực đoan đã tổ chức cuộc biểu tình phản đối nhân dịp Đức Thánh Cha Gioan Phaolô Ii viếng thăm Ấn Độ. Họ đòi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II lên án các cuộc trở lại Công Giáo cũng như xin lỗi người Ấn Độ về những phương pháp truyền giáo cho người Ấn trong quá khứ. Chính trong bầu khí đầy bất khoan nhượng ấy mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đến viếng thăm Ấn Độ, đúng hơn chính bầu khí bất khoan nhượng ấy đã khiến Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chọn Ấn Độ làm nơi để công bố Tông Huấn về Giáo Hội Tại Á Châu.
Trong bầu khí đó chúng ta thấy rằng, sứ điệp mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã ngỏ với các tín hữu Kitô tại Ấn Độ và toàn thể Á Châu, cũng như với tất cả mọi người Ấn Độ là sứ điệp về lòng khoan nhượng. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trưng dẫn cuộc cách mạng bất bạo động vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại do Mahatma Gandhi chủ xướng, Ngài cũng nói đến tấm lòng khoan dung độ lượng của biết bao nhiêu nhà hiền triết Ấn Độ.
Quả thật, tôn giáo nào cũng tốt trong một mức độ nào đó, câu nói này nói lên tinh thần khoan nhượng vốn là yếu tính của tất cả mọi tôn giáo. Thật thế, tôn giáo nào cũng dạy con người ăn ngay ở lành; tôn giáo nào cũng lên án ích kỷ, bạo động, hận thù và tinh thần bất khoan nhượng.
Trong tuyển tập có tựa đề "Con Đường Đơn Sơ" của Mẹ Têrêsa Calcutta, vị Sáng Lập Dòng Nữ Tu Thừa Sai Bác Ái đã viết như sau: "Chỉ có một Thiên Chúa và Ngài là Thiên Chúa của tất cả mọi người. Do đó, cần phải nhận ra mọi người bình đẳng trước mặt Chúa. Tôi vẫn luôn luôn nói rằng, chúng ta phải giúp cho một người Ấn Giáo trở thành người Ấn Giáo tốt hơn; một người Hồi Giáo được trở thành một người Hồi Giáo tốt hơn và một người Công Giáo trở thành một người Công Giáo tốt hơn." Lễ quốc táng mà chính phủ Ấn Độ đã dành cho Mẹ cách đây 4 năm chứng tỏ rằng, sứ điệp mà Mẹ mang đến cho dân tộc này đã được mọi người đón nhận. Sứ điệp ấy không chỉ được Mẹ Têrêsa nói lên bằng những lời nói suông mà còn bằng cả cuộc sống của Mẹ nữa.
Hôm nay là ngày thế giới truyền giáo, chúng ta hiệp nhau cầu nguyện cho công việc truyền giáo của Giáo Hội, chúng ta cầu nguyện cách đặc biệt cho các nhà thừa sai trên cánh đồng truyền giáo của Giáo Hội. Chúng ta tuyên xưng rằng, Chúa Giêsu Kitô là Đấng duy nhất cứu rỗi nhân loại, nhưng quan trọng hơn cả là chúng ta được Giáo Hội mời gọi mỗi người ý thức về sứ mệnh truyền giáo của mình, nhất là hiểu được ý nghĩa đích thực của việc truyền giáo trong thế giới hôm nay.
Mẹ Têrêsa Calcutta đã định nghĩa về một nhà truyền giáo: "Đó là một tín hữu Kitô say mê Chúa Giêsu đến độ không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và yêu mến Ngài". Mẹ Têrêsa không những chỉ làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu bằng những lời nói suông, nhưng Mẹ nói về Chúa Giêsu, Mẹ tỏ bày gương mặt của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống yêu thương phục vụ của Mẹ. Do đó, truyền giáo thiết yếu đối với Mẹ Têrêsa là dùng cả cuộc sống của mình để làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu.
Truyền giáo không chỉ là rao giảng một giáo lý mà thiết yếu là chia sẻ một cuộc sống yêu thương. Đây chính là cốt lõi mà Chúa Giêsu cô đọng trong giới răn mến Chúa và yêu người được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe trong Tin Mừng hôm nay. Trong xã hội mà Kitô giáo chỉ là thiểu số thì truyền giáo đối với Kitô hữu hiện nay là quyết tâm sống như thế nào để cho mọi người nhận biết Chúa Giêsu là Đấng đã đến chỉ để rao giảng một thứ đạo, đó là đạo của tình thương. Trong một chế độ chối bỏ những quyền tự do cơ bản nhất của con người, thì truyền giáo đối với các tín hữu Kitô hiện nay chính là biểu lộ được bộ mặt đích thực của Đạo là yêu thương và khoan nhượng.
45. Cái Đạo ấy hay thật!!!
(PM. Cao Huy Hoàng – Suy tư nhân ngày Khánh Nhật Truyền Giáo 2014)
Đêm qua, 16-10, tôi nhận một email chuyển tiếp, nội dung được chép lại từ một trang facebook với tựa đề “Cái Đạo Ấy Hay Thật”. Nội dung như sau:
“Xin cầu cho linh hồn Maria mới qua đời. Maria Nguyễn Thị Liên. Sinh năm 1982. Thôn Tân Mỹ, Xã Nghĩa An, Huyện Tư Nghĩa, Tỉnh Quảng Ngãi. Chiều nay đúng 17h15 ngày 16-10-2014 em đã trút hơi thở cuối cùng về với Chúa sau hai năm dài đằng đẳng sống chung với bệnh tật. Xin mọi người hãy hiệp ý cầu nguyện cho em.
CÁI ĐẠO ẤY HAY THẬT!!!
“Cái đạo ấy hay thật!”. Đó là câu nói của Dì em Liên, bởi gia đình em không có đạo. Liên sinh ra, được lớn lên trên miền biển đầy gió, nắng và cát. Gia đình khó khăn, em là con gái lớn, nên phải xa quê vào thành phố kiếm tiền phụ bố mẹ lo cho đàn em bốn đứa ở quê nhà. Em may mắn xin được một chân làm công nhân trong một xí nghiệp may giầy da xuất khẩu ở Bình Dương. Tiền lương cũng tạm ổn đủ lo cho bản thân còn dư chút ít gởi về cho mẹ. Em chăm chỉ làm việc lại ngoan hiền nên không mấy lâu đã có người để ý và rồi hai người ấy đã yêu nhau, chàng thanh niên có đạo chính dân sài thành lại không chê cô gái quê đen đúa. Họ yêu nhau đến 7 năm mới tính đến chuyện kết hôn, vì em ấy phải đợi các em mình khôn lớn mới dám nghĩ đến hạnh phúc của mình. Nào ngờ, vừa học xong giáo lý, chịu phép rửa tội để chuẩn bị làm lễ đính hôn thì em ấy phát hiện mình bị bệnh nan y: phải cắt bỏ toàn bộ tử cung, không thể sinh con được, nhưng chàng thanh niên ấy và gia đình anh vẫn không thay đổi việc cưới hỏi…Nhưng rồi, bệnh em vẫn không qua khỏi. Hai năm điều trị, gia đình em khó khăn nên em phải phụ thuộc hoàn toàn vào bạn trai. Mẹ và bà ngoại của người yêu vẫn luôn đồng hành ủng hộ hai đứa mặc dù biết em bệnh tật, có chữa khỏi cũng không thể sinh con…Nhưng mọi cố gắng đều vô nghĩa, con vi rút đã phá hủy toàn bộ trong cơ thể em. Em quằn quại đau đớn và trút hơi thở cuối trên tay người yêu. Cha chánh xứ Giuse Trương Đình Hiền biết được, nên cho người đến lo toàn bộ đám tang cho em, từ cái ly nhang, bàn thờ, đèn cho đến hòm, đồ tang, liệm…v..v…Mấy đêm liền trước ngày em mất, giáo xứ lại đến đọc kinh, mặc dù nhà em ấy cách nhà thờ cả mười cây số. Thế nên Dì em ấy và gia đình em ấy mới nói “cái đạo ấy hay thật”.
Lạy Chúa, xin thương xót linh hồn Maria mới qua đời, xin dẫn đưa em về nước trời vĩnh cửu, nơi chỉ có tiếng cười và niềm hạnh phúc… và cũng xin cho chúng con luôn ý thức thực tại trần gian là cõi vô thường để chúng con học theo gương Chúa sống khiêm nhường, yêu thương, bác ái như chính gia đình của người bạn trai em ấy để cho mọi người xung quanh đều thốt lên rằng: CÁI ĐẠO ẤY HAY THẬT. Amen.”
Tôi bỗng nhớ một câu chuyện khác ở Xuân Lộc. Cũng hai người yêu nhau, chàng là quí tử của một gia đình hôn nhân dị giáo. Bố chàng là một cán bộ. Mẹ chàng là một Ki-tô hữu đạo dòng, sốt sắng. Nàng là một lương dân. Hai người yêu nhau đã ba năm trời. Và khi họ định kết hôn với nhau thì chuyện không vui xảy đến: nàng có dấu hiệu ung thư… Buồn vời vợi. Mẹ chàng nói với con trai yêu quí: “Đây chính là lúc mà con phải yêu em nhiều nhất, để chứng tỏ mình là người có đạo”. Thế là chàng đã lên kế hoạch dắt nhau khấn xin Mẹ Tapao hằng tháng. Suốt ba năm viếng Mẹ Tapao, cùng với ba năm chạy thầy chạy thuốc cho người yêu… cô nàng không còn dấu hiệu bịnh ung thư nữa vào lần khám cuối cùng tháng 7 năm 2013. Và họ đã nên vợ thành chồng trước mặt Chúa và Giáo Hội vào tháng Mân Côi 2013. Phép lạ của niềm tin, của tình yêu khởi đầu từ việc anh dũng làm chứng cho Tình Yêu Thiên Chúa, để một cán bộ trong nhà mình, một đại gia đình lương dân nhận ra rằng: “Cái đạo ấy hay thật”.
Tôi muốn hiểu từ “hay” trong câu nói của Dì em Liên, và của dân gian, mang nghĩa “tốt”, “lạ lùng”, “khác thường”. Và câu chuyện “Cái Đạo Ấy Hay Thật” đến với tôi trong những ngày chuẩn bị cho ngày “Khánh Nhật Truyền Giáo” gợi lên cho tôi nhiều niềm vui nhưng cũng nhiều thao thức.
- Vui, vì vẫn đang có rất nhiều anh chị em Giáo Dân sống giữa đời thường đang anh dũng làm chứng về Thiên Chúa bằng một tình yêu thương “lạ lùng”, “khác thường”, đến nỗi có thể có một vài lời ra tiếng vào cho là ngu dại! Thiết nghĩ, Thiên Chúa luôn ủng hộ cho những ai yêu ngu dại theo kiểu ấy. Và những ai ủng hộ cho một tình yêu hết lòng, hết sức, hết mình vì hạnh phúc của người mình yêu, ấy là những người đang sống đẹp lòng Thiên Chúa và làm chứng cho Thiên Chúa trước mắt người đời.
Vui, vì không thiếu những tình cảnh oái ăm trở nên thách đố nặng nề lớn lao cho người giáo dân trong thời đại gian dối này, nhưng các tín hữu Chúa vẫn tin tưởng và vượt qua. Có một chị ở đâu mới đến đây hơn năm nay. Chị nghèo khổ, nuôi ba đứa con dại. Ai thấy cũng thương. Kẻ ít, người nhiều giúp vốn cho chị để chị bán bánh xèo qua ngày. Quán bánh xèo của chị mỗi ngày mỗi đông khách. Khoảng 3 tháng trở lại đây, chị có chơi hụi và vay mượn của nhiều người để thêm vốn liếng làm ăn. Bất ngờ, chị biến mất. Nghe đâu số nợ của chị giựt đi khoảng hai, ba trăm triệu. Trong số những người cho chị vay mượn, không ít là người công giáo. Sau giờ kinh Mân Côi tại nhà nọ, sẵn câu chuyện chị bánh xèo giựt hụi, quịt nợ bỏ đi, mấy người đang nói chuyện với nhau về việc giữ “mười bốn mối thương người”: biết ai thực mà thương, biết ai gian mà tránh! Chẳng biết ai thực, chẳng biết ai gian, nhưng chính mình phải là người sống thực. Có một bà già đã cho chị ấy mượn 12 triệu nói: “Tiền để dành uống thuốc, cho ả mượn. Hồi cho mượn thì tui nghĩ vì thương ả, giúp ả làm ăn nuôi mấy đứa nhỏ. Ngờ đâu… Nhưng cũng không sao. Đã thương thì thương cho trót. Biết đâu mà đòi. Chúa cho cái khác”.
“Chúa cho cái khác”. “Cái đạo ấy hay thật”.
Có người nói vui: “Cho kẻ đói ăn. Cho kẻ khát uống. Cho kẻ rách rưới ăn mặc. Viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc. Cho khách đỗ nhờ. Chuộc kẻ làm tôi. Chôn xác kẻ chết”… may ra, chỉ có chôn xác kẻ chết là không bị lừa trong thời này thôi.
Có người lại nói: “Chúa bảo cứ cho”. Chúa không có dặn trước khi cho phải hỏi xem người ta đói thật hay đói giả, đỗ nhờ thật hay giả vờ đỗ nhờ để rồi khuya khoắt cuỗm hết của cải nhà ta đi mất”.
Thao thức, vì chúng ta đang sống trong một xã hội nghiêng lún về tiền bạc, vật chất, dẫn con người ta dần dần đến chỗ vô cảm, và còn tệ hơn thế nữa, dẫn đến chỗ tham lam, ác độc, có thể làm bất cứ chuyện bất nhân bất nghĩa miễn sao cho mình có lợi, có lộc, có dư giả, thoải mái, sung sướng.
Thao thức vì, liệu mỗi chúng ta có đứng vững trước trào lưu duy vật mỗi ngày mỗi cuốn chúng ta vào chỗ vô cảm với nhau, cuốn vào tình trạng không còn biết chạnh lòng xót thương những mảnh đời nghiệt ngả, hoặc cuốn vào chỗ từ chối sự hiện diện của Thiên Chúa và Tình Yêu Quan Phòng của Ngài.
Thao thức vì chúng ta phải lội ngược dòng chảy của những xu hướng vật chất để sống “tốt”, sống “khác thường”, sống “lạ lùng” như Con Thiên Chúa đã sống và đã yêu, để mọi người có thể nói “CÁI ĐẠO ẤY HAY THẬT!”.
Lạy Chúa, Tình Yêu luôn có một tiếng vọng xa ngàn. Xin cho chúng con biết sống yêu như Chúa đã yêu, để làm chứng cho mọi người về một Thiên Chúa Quyền Năng nhưng Giàu Lòng Thương Xót. Amen.
* CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN
1. Suy niệm và chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXIX Thường Niên năm A nêu lên một vấn đề thật tinh tế: mối tương quan giữa công dân trần thế và công dân Nước Trời.
Is 45: 1, 4-6
Bài Đọc I trích từ sứ điệp an ủi của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị cho những người lưu đày ở Ba-by-lon, trong đó ông thoáng thấy vua Ba-tư là Ky-rô là lợi khí mà Thiên Chúa chọn để giải thoát dân Ngài khỏi cảnh đời nô lệ tại Ba-by-lon.
1Th 1: 1-5
Bài Đọc II trích từ thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca. Đây là bản văn Tân Ước đầu tiên làm chứng về sức sống mãnh liệt của Hội Thánh tiên khởi, trong đó thánh nhân ca ngợi đức tin, đức mến và đức cậy của họ.
Mt 22: 15-21
Trong cuộc tranh luận với nhóm Pha-ri-sêu và nhóm Xa-đu-xê-ô, Đức Giêsu trả lời một vấn đề nan giải giữa nghĩa vụ của người công dân trần thế và nghĩa vụ của người công dân Nước Trời khi công bố rằng “Của Xê-da trả về Xê-da, của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa”.
BÀI ĐỌC I (Is 45: 1, 4-6)
Bản văn này là một trong nhiều sứ điệp an ủi mà vị ngôn sứ biệt danh I-sai-a đệ nhị ngỏ lời với những người lưu đày ở Ba-by-lon. Vị ngôn sứ nầy, trên mười năm, từ 550 đến 539 trước Công Nguyên, đã tìm cách an ủi đồng bào của mình, họ nhục chí trước cuộc lưu đày tưởng chừng như vô tận nầy. Ông hứa với họ rằng Thiên Chúa sắp ra tay giải thoát dân Ngài khỏi cảnh đời nô lệ tại Ba-by-lon. Niềm hy vọng của ông nhắm đến vua Ky-rô, nước Ba-tư.
Vào năm 553 trước Công Nguyên, vua Ky-rô đã cất đi quyền thống trị của vua Mê-đi. Sau khi đã thống nhất quyền lực Mê-đi vào Ba-tư, ông xuất quân chinh phục miền Tiểu Á. Vào năm 539, ông tiến quân vào Ba-by-lon, chấm dứt thời kỳ thống trị của Đế Quốc Ba-by-lon. Ngay cả trước khi những cuộc chiến thắng ngoạn mục của vua Ky-rô vang dội khắp nơi, vị ngôn sứ lưu đày này đã loan báo rằng ý định của Thiên Chúa là sử dụng vua Ky-rô để giải thoát dân Ngài khỏi cảnh đời tù đày tại Ba-by-lon.
1. Sấm ngôn của vị ngôn sứ.
Sấm ngôn này thật sự gây hoang mang. Phải chăng Đức Chúa nhờ đến một vị vua ngoại giáo để giải thoát dân Ít-ra-en? Vị ngôn sứ xua đi những thành kiến của những người lưu đày bằng cách khẳng định đó là cách hành xử của Thiên Chúa. Ông mạnh dạn quả quyết rằng vua Ky-rô đã được Đức Chúa tuyển chọn và thánh hiến để trở nên khí cụ trung thành của Ngài.
Phần đầu sấm ngôn được trình bày như một bản văn phong vương, đồng hóa vua Ky-rô với một vị vua của dân Ít-ra-en: Đức Chúa thánh hiến vị vua mà Ngài đã tuyển chọn, và “cầm lấy tay phải nó”, nghĩa là trợ giúp và bảo vệ vua, đảm bảo rằng vua sẽ chiến thắng mọi quân thù. Tất cả những diễn ngữ trong sấm ngôn nầy được gặp thấy không chỉ trong các bản văn Kinh Thánh nhưng cũng trong các bản văn miền Cận Đông. Người ta có thể đọc những dòng chữ được khắc trên một hình trụ: “Marduk (vị thần Ba-by-lon) tìm kiếm một lãnh tụ chí công vô tư mà thần có thể cầm tay. Đó là Ky-rô mà Ngài công bố là Chúa Tể muôn dân. Ngài đặt dưới chân vua xứ sở Guti, thúc dục ông xuất chinh chống lại Ba-by-lon, đi bên cạnh ông như một người bạn”.
Trong sấm ngôn của mình, vị ngôn sứ xác định rằng Đức Chúa hứa với vua Ky-rô một cuộc chiến thắng như thế nào khi gợi lên:
“Ta sẽ tước khí giới của các vua,
mở toang cửa thành trước mặt nó,
khiến các cổng không còn đóng kín” (Is 45: 1).
Cốt là các cổng thành danh tiếng bằng đồng của Ba-by-lon. Quả thật, các cổng thành mở toang đón tiếp vua Ky-rô mà ông không phải phí sức đánh chiếm. Ba-by-lon bị sụp đổ mà không cần phải giao chiến.
2. Đức Chúa, Chúa Tể của mọi biến cố.
Chính vì dân Ngài mà Đức Chúa dẫn đưa vua Ky-rô từ chiến thắng nầy đến chiến thắng khác:
“Ta đã cầm lấy tay phải nó,
để bắt các dân tộc suy phục nó” (45: 1)
Thiên Chúa “gọi đích danh vua”, đây là diễn ngữ Kinh Thánh muốn nói rằng Thiên Chúa đã trao phó cho vua một sứ mạng. Ngài ban cho vua một tước hiệu: “người được xức dầu” (45: 1) dù vị vua ngoại giáo nầy không biết Ngài.
Quả thật, vua Ky-rô hành xử như một vị vua được Đức Chúa tuyển chọn. Vua tỏ ra mình hào hiệp: khi chiến thắng vua Mê-đi là Astyage, ông để cho vua nầy được sống và khi chiến thắng vua Ba-by-lon là Crésus, ông cũng hành xử như thế. Ông không gây bất kỳ thiệt hại nào đối với thành Ba-by-lon, bày tỏ lòng tôn kính tôn giáo của kẻ bại trận và nhất là giải thoát những dân tộc bị lưu đày tại Ba-by-lon trong số đó có dân Do thái. Dù thế nào, vị ngôn sứ quả quyết chính Đức Chúa là Chúa Tể của mọi quyền bính chính trị, chính Ngài ban quyền lực, chính Ngài hướng dẫn mọi biến cố:
“Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác;
chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ Ta” (45: 5).
Sứ điệp của vị ngôn sứ thật rõ ràng. Đức Chúa không chỉ là Thiên Chúa của dân Do thái mà còn là Thiên Chúa của muôn dân muôn nước. Ngài không lệ thuộc vào một quyền lực trần thế nào, trái lại mọi quyền bính đều xuất phát từ Ngài. Dù ý thức hay không, họ đều là khí cụ trong tay Ngài để thi hành chương trình cứu độ của Ngài. Đó cũng là câu trả lời của Đức Giêsu với tổng trấn Rô-ma là Phi-la-tô: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ngài” (Ga 19: 11.
BÀI ĐỌC II (1Tx 1: 1-5)
Chúng ta bắt đầu đọc thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca. Thánh nhân viết thư nầy từ Cô-rin-tô vào năm 51. Đây là bức thư đầu tiên của thánh nhân và đồng thời cũng là bản văn Tân Ước cổ kính nhất. Được viết chưa tới hai mươi năm sau cái chết của Đức Giêsu, bức thư nầy thật sự là một chứng liệu quý báu vén mở cuộc sống đức tin của Giáo Hội tiên khởi.
1. Lời chứng:
Phần đầu của bức thư cung cấp một lời chứng đáng chú ý về đức tin của Giáo Hội tiên khởi. Trước hết, đây là một trong những bức thư liên kết thường hằng nhất danh xưng “Thiên Chúa” với tước vị “Cha”: “Thiên Chúa là Cha” và “Thiên Chúa là Cha chúng ta”; tiếp đó, danh xưng “Chúa Giêsu Ki-tô”, nghĩa là Đức Giêsu là Đấng Mê-si-a và là Chúa, một tước hiệu bao hàm thần tính và vinh quang của Ngài. Cựu Ước dành riêng tước hiệu “Chúa” nầy cho Thiên Chúa của dân Ít-ra-en. Cuối cùng, quyền năng của Chúa Thánh Thần được bày tỏ ở nơi công cuộc loan báo Tin Mừng. Như vậy, Ba Ngôi Thiên Chúa là nét độc đáo của niềm tin Ki-tô giáo.
Mặc khác, ngay từ bản văn Tân Ước đầu tiên này, xuất hiện thuật ngữ “Hội Thánh” (“ecclesia”) được dùng để chỉ một cộng đoàn Ki-tô hữu: “Kính gởi Hội Thánh Thê-xa-lô-ni-ca”. Trước tiên, thuật ngữ “Hội Thánh” mang nét nghĩa phàm trần: tại dân Hy lạp, thuật ngữ nầy chỉ Hội Đồng nhân dân. Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất đã đặt trên môi miệng Đức Giêsu thuật ngữ nầy trong sách Tin Mừng Hy-lạp của mình (Mt 16: 18; 18: 17). Phải nói rằng để loan báo Giáo Hội tương lai của mình, Đức Giêsu thật ra đã sử dụng thuật ngữ Híp-ri và A-ram: “qahal”, một thuật ngữ chỉ “đại hội” trong sa mạc (Đnl 4: 9-13; 9: 10; 18: 16; 23: 2; 31: 30) hoặc cộng đồng phụng vụ của dân Thiên Chúa Cựu Ước (1Sb 13: 2; 28: 8; 2Sb 20: 3; 30: 1; Nkm 1: 12). Vả lại, hai thuật ngữ Do thái và Hy lạp cùng chia sẻ một thực tại bởi ngữ căn của chúng: trong khi thuật ngữ Do thái: “qahal”, bao hàm một khái niệm về một dân được Thiên Chúa kêu gọi, triệu tập thành dân riêng của Ngài dưới chân núi Xi-nai, thì thuật ngữ Hy lạp: “ecclesia”, phát xuất từ động từ “kaleô” ở thể thụ động (được kêu gọi) và tiếp đầu ngữ: “ex” (tách riêng ra). Cả hai được dùng để diễn tả cách chính xác thực tại Hội Thánh: không tự mình hình thành nên, nhưng được Thiên Chúa quy tụ lại thành dân riêng của Ngài.
Nếu thánh Phao-lô gọi các cộng đoàn Ki-tô hữu địa phương là Hội Thánh, thánh nhân luôn luôn hiệp nhất các cộng đoàn nầy vào Hội Thánh Mẹ, là Hội Thánh Giê-ru-sa-lem. Toàn thể hình thành nên một Hội Thánh duy nhất, mà thánh nhân sẽ gọi là “Thân Thể Đức Ki-tô”.
2. Hội Thánh Thê-xa-lô-ni-ca:
Thê-xa-lô-ni-ca là thủ phủ miền Ma-kê-đô-ni-a. Đây là thành phố thứ hai của Châu Âu mà thánh Phao-lô mang Tin Mừng đến. Thành phố thứ nhất là Phi-líp-phê cũng thuộc miền Ma-kê-đô-ni-a.
Thê-xa-lô-ni-ca là một thành phố cảng được hưởng một nền thương mại phồn vinh. Tên của thành phố được một trong các tướng lãnh của A-lê-xan-đê đại đế lấy tên vợ của mình là Thê-xa-lô-ni-ca đặt cho. Ở đây có một cộng đồng kiều bào Do thái sinh sống. Họ có một hội đường. Trong sách Công Vụ, thánh Lu-ca đã thuật lại tiến trình thành lập Hội Thánh Thê-xa-lô-ni-ca nầy cách giản lược nhưng đầy gian nan (Cv 17: 1-9). Chính trong hội đường Do thái nầy mà thánh Phao-lô đã rao giảng trong ba ngày sa-bát liên tiếp.
Lời rao giảng của thánh nhân được vài người Do thái và một số đông người Hy-lạp hoan hỉ tiếp đón, trái lại gây phẩn nộ cho cộng đoàn Do thái ở đây. Họ gây náo loạn trong thành phố đến nổi thánh Phao-lô và bạn đồng hành của ngài là ông Xi-la buộc phải vội vã trốn khỏi thành phố ngay trong đêm ấy. Thánh Phao-lô trốn chạy đến Bê-roi-a và từ đó đến A-thê-na bằng đường biển. Lo lắng vì đã để lại một cộng đoàn non trẻ, đức tin chỉ vừa mới bén rễ, ấy vậy đã phải chịu nhiều phiền nhiễu rồi, thánh nhân khẩn khoản xin người môn đệ thân tín của mình là ông Ti-mô-thê trở lại Thê-xa-lô-ni-ca để ủy lạo những người Kitô hữu non trẻ nầy. Khi gặp lại thánh Phao-lô lúc đó ở Cô-rin-tô, ông Ti-mô-thê đem đến cho thánh nhân những tin tức đầy khích lệ: Hội Thánh non trẻ nhưng thật kiên vững trong đức tin. Vui mừng và an tâm, thánh Phao-lô viết thư thứ nhất nầy. Thư gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca nầy cùng với thư gởi tín hữu Phi-líp-phê chất chứa những lời trìu mến nhất của thánh nhân.
3. Chúng tôi, Phao-lô, Xin-va-nô và Ti-mô-thê.
Theo thể thức thư tín vào thời đó, một hay nhiều người đồng ký tên vào một bức thư: “Chúng tôi, Phao-lô, Xin-va-nô và Ti-mô-thê”. Ông Xin-va-nô cũng được gọi Xi-la trong sách Công Vụ và sau nầy trở thành thư ký của thánh Phê-rô ở Rô-ma (1Pr 5: 12). Vào lúc nầy, ông thay thế ông Ba-na-bê ở bên cạnh thánh Phao-lô, sau khi thánh nhân chia tay với Ba-na-bê ở Cô-rin-tô. Còn ông Ti-mô-thê là một trong những người đồng hành trung tín nhất của thánh Phao-lô. Chúng ta gặp thấy tên ông bên cạnh tên thánh Phao-lô trong sáu bức thư của thánh nhân.
4. Thiên Chúa là Cha chúng ta và Chúa Giêsu Kitô.
Tiếp đó là tên người nhận thư: “kính gởi Hội Thánh Thê-xa-lô-ni-ca”. Chúng ta lưu ý việc chuyển từ danh từ số ít để chỉ tập thể: “Hội Thánh”, đến ngôi thứ hai số nhiều: “Chúc anh em được ân sủng và bình an”. Đây thật sự là điều hoàn toàn mới mẻ và có sức hấp dẫn của cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi, trong đó mọi người đều nhận ra nhau như anh chị em trong Thiên Chúa được tuyên xưng là Cha và trong Đức Giêsu Ki-tô được tuyên xưng là Chúa, tương phản với tổ chức cơ cấu của xã hội dân sự và thậm chí của Do thái giáo. Quả thật, chúng ta cũng gặp thấy danh xưng “anh chị em” cùng với biểu thức tiêu biểu của thánh Phao-lô: “trong Đức Giêsu Ki-tô” hay “trong Đức Ki-tô” không chỉ ngay từ những hàng đầu tiên của bức thư đầu tiên nầy, nhưng còn được lập đi lập lại thường hằng trong tất cả các bức thư khác của thánh nhân. Đây thật sự là danh xưng diễn tả mối tương quan thân thiết của thánh nhân với tất cả mọi Ki-tô hữu và đây cũng là biểu thức chủ chốt hình thành nên cuộc sống nội tâm của thánh nhân, cũng như tính năng động sứ vụ Tông Đồ của ngài.
Như vậy, thuật ngữ “Hội Thánh” tự nó nói lên cộng đồng Ki-tô hữu, trong đó mọi người, dù ở chức vụ nào, đều coi nhau như anh chị em, tránh được quan niệm Giáo Hội trước Công Đồng Vatican II theo đó Giáo Hội như gắn liền với các Đấng các Bậc mà bỏ qua một thành phần đông đảo và sinh động là Giáo Dân.
5. Ân sủng và bình an.
Lời chào mở đầu của bức thư liên kết lời chào của người Do thái: “bình an” (“shalom”) với lời chào của người Hy-lạp: “ân sủng” (“c-haris”). Thánh nhân sẽ sử dụng lời chào nầy trong tất cả các bức thư của ngài, ngoài trừ hai bức thư gởi Ti-mô-thê trong đó thánh nhân thêm vào “lòng thương xót”: “ân sủng, lòng thương xót và bình an”. Thật ra, sự liên kết của hai thuật ngữ: “bình an” và “ân sủng” nầy vốn đã hiện diện trong Do thái giáo rồi. Chúng ta gặp thấy như vậy trong sách Dân Số: “Nguyện xin Đức Chúa chúc phúc cho anh em… Nguyện xin Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em”. Lời nguyện chúc nầy tái xuất hiện trong các sách khải huyền Do thái ngoại thư như sách Hê-nốc 1: 4: “Nguyện xin Thiên Chúa ban cho anh em ân sủng và bình an”, cũng như trong các lời cầu nguyện của cộng đồng Qum-rân. Nhưng thánh Phao-lô đem lại cho lời cầu chúc nầy ý nghĩa phong phú của Ki-tô giáo như khi thánh nhân viết cho các tín hữu Phi-líp-phê: “Bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết” (Pl 4: 7).
6. Cảm tạ Thiên Chúa.
Sau nầy, hầu như tất cả những bức thư của mình, thánh Phao-lô đều bắt đầu với lời “cảm tạ” hay “chúc phúc” theo cách thức Do thái. Trong thư gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca nầy, thánh nhân đặc biệt khai triển lời cảm tạ: “Chúng tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa khi nghĩ đến anh chị em”. Thánh Phao-lô diễn tả niềm vui của mình khi biết rằng các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca vẫn một mực trung thành và vững mạnh bất chấp những phiền nhiễu mà những người Do thái gây ra cho họ.
7. Ba nhân đức đối thần.
Một lần nữa, một trong những lợi ích lớn lao về phương diện lịch sử cũng như về phương diện thần học của bản văn Tân Ước đầu tiên nầy, đó là khám phá ở đây lời phát biểu ba nhân đức căn bản mà sau nầy sẽ được gọi là ba nhân đức đối thần: “Chúng tôi không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc anh em gánh vác vì lòng mến, và những nghịch cảnh anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô”. Ở đây cũng như ở Col 1: 4-5, thánh nhân trích dẫn ba nhân đức đối thần nầy theo cùng một trật tự: đức tin, đức mến và đức cậy, còn ở 1Cr 13: 13 theo một trật tự khác: đức tin, đức cậy và đức mến.
8. Chiều kích Ba Ngôi.
Các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca đa số đều xuất thân từ lương dân. Thánh nhân nhấn mạnh họ thuộc về dân Chúa chọn, cùng một tước hiệu như những người đồng đạo của họ là những người Ki-tô hữu xuất thân từ Do thái. Từ đây, ơn tuyển chọn của Thiên Chúa mở rộng cho hết mọi người. Nhưng nhất là thánh nhân thán phục những thành quả đáng ngạc nhiên ở Thê-xa-lô-ni-ca: họ không thể là hoa trái duy nhất do lời loan báo Tin Mừng của thánh nhân, nhưng trên hết do tác động của Chúa Thánh Thần.
Trong thư gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân viết: “Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa. Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan phàm nhân, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa.” (1Cr 2: 1-4). Thật ra, đây là điều mà thánh nhân đã nói với các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca rồi: “Khi chúng tôi rao giảng Tin Mừng cho anh em , thì không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần, và một niềm xác tín sâu xa” (1Tx 1: 5).
TIN MỪNG (Mt 22: 15-21).
Bài Tin Mừng nầy rất nổi tiếng được cả ba Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại. Lời công bố của Đức Giêsu: “Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” đã được biện luận như một sự phân biệt giữa hai lãnh vực: đạo và đời. Biện luận nầy gợi lên nhiều áp dụng thực tiển khác nhau qua nhiều thế kỷ. Trong bối cảnh trực tiếp, lời công bố nầy được ghi ở giữa những cuộc tranh luận với nhóm Pha-ri-sêu vào những ngày cuối cùng sứ vụ của Đức Giêsu ở Giê-ru-sa-lem trước cuộc Tử Nạn của Ngài: “Nghe các dụ ngôn Người kể, các thượng tế và người Pha-ri-sêu hiểu là Người nói về họ. Họ tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ dân chúng, vì dân chúng cho Người là một ngôn sứ” (Mt 21: 45).
1. Âm mưu thâm độc:
Những người Pha-ri-sêu bàn mưu tính kế với nhau tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời để triệt hạ Ngài. Họ cấu kết với phe Hê-rô-đê, một đảng phái chính trị, được thiết lập từ Hê-rô-đê Cả, luôn luôn sát cánh với chính quyền Rô-ma với hy vọng rằng lần nầy có thể làm chứng tố cáo Đức Giêsu để có thể hãm hại Ngài.
Bằng cách rào trước đón sau, họ tán dương đức tính chí công vô tư của Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật, và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa”. Chữ “đường lối” là thuật ngữ tôn giáo. Thuật ngữ nầy có nguồn gốc trong các Thánh Vịnh, đặc biệt Tv 119 trong đó tác giả đề xuất hai con đường, một dẫn đến việc thực thi đức công chính và một dẫn đến sự hư vong. Bất chấp ác ý của họ được khôn khéo bọc trong những lời tâng bốc, lời khen ngợi này phải thật sự phản ảnh dư luận quần chúng về con người của Ngài qua lời nói cũng như hành động của Ngài, nếu không làm thế nào những lời này có thể trở nên cái bẫy được chứ. Cuối cùng, viện cớ soi sáng lương tâm của mình, họ đặt ra một câu hỏi gài bẫy: “Có được phép nộp thuế cho Xê-da, hoàng đế Rô-ma hay không?”.
Phải nhận định hoàn cảnh đặc thù của miền Giu-đê vào thời đó miền Giu-đê. Kể từ khi vua Ác-khê-lao, con vua Hê-rô-đê Cả, bị hoàng đế Au-gút-tô truất quyền vào năm 6 Công Nguyên, miền Giu-đa đặt dưới quyền cai trị trực tiếp của chính quyền Rô-ma, đại diện tại chỗ là một quan Tổng Trấn Rô-ma, trong khi miền Ga-li-lê và những địa hạt phía Bắc vẫn dưới quyền cai trị của hai người con khác của vua Hê-rô-đê Cả là tiểu vương Hê-rô-đê An-ti-pát và tiểu vương Phi-líp-phê. Ở miền Giu-đê, nhóm Nhiệt Thành khuyến cáo không được nộp thuế, vì đây là thái độ thuần phục chính quyền chiếm đóng; trong khi nhóm Sa-đu-xê-ô, hợp tác với chính quyền Rô-ma, ủng hộ việc nộp thuế; còn nhóm Biệt Phái giữ lập trường trung dung: họ không tán thành chủ trương bạo động của nhóm Nhiệt Thành cũng như thái độ cộng tác của nhóm Sa-đu-xê-ô. Vì thế, “nộp thuế hay không” là một vấn đề có tính thời sự. Nhưng các địch thủ của Ngài có ý định hoàn toàn khác: họ muốn đặt Ngài vào một vấn đề tiến thoái lưỡng nan để trừ khử Ngài.
Nếu trả lời “được phép”, Đức Giêsu sẽ đánh mất uy tín của Ngài đối với quần chúng, vì dân chúng đặt ở nơi Ngài niềm hy vọng giải phóng quốc gia khỏi ách đô hộ của đế quốc Rô-ma. Nếu trả lời “không được phép”, Ngài tự đặt mình đối đầu với chính quyền Rô-ma, và chắc chắn những người thuộc phe Hê-rô-đê thân chính quyền Rô-ma sẽ có cớ để tố cáo Ngài là phản động, là sách động quần chúng chống chính quyền đô hộ. Nhưng nếu như Ngài giữ thái độ im lặng, các đối thủ của Ngài có cớ để bài bác đức tính chí công vô tư của Ngài mà họ đã rào trước đón sau trước đó rồi.
2. Câu trả lời của Đức Giêsu
Nhưng Đức Giêsu không tránh né câu hỏi hóc búa nầy. Ngài yêu cầu họ cho Ngài xem “một quan tiền nộp thuế”. Lời đòi hỏi rất quan trọng, vì nó quyết định cho câu trả lời của Ngài. Chung quy có hai loại tiền tệ hiện hành ở Giê-ru-sa-lem. Đồng tiền chính thức của đế quốc Rô-ma mang hình và danh hiệu của Xê-da, hoàng đế Rô-ma. Mọi hình thức nộp thuế đều phải được quy định bằng đồng tiền chính thức nầy. Ngoài ra, còn có “tiền đền thờ” đặc thù của dân Do thái, được dành riêng cho các cách dùng trong phụng tự (đó là lý do tại sao có những người đổi tiền trong sân đền thờ). Cầm lấy một quan tiền mà họ trao cho Ngài, Ngài hỏi họ: “Hình và danh hiệu nầy là của ai đây?” Họ đáp: “Của Xê-da”. Ngài trả lời: “Của Xê-da trả về Xê-da; của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa”.
3. Công dân trần thế và công dân Nước Trời:
Về phương diện lịch sử, đây là lần đầu tiên mà sự phân biệt giữa hai nghĩa vụ: người công dân trần thế và người công dân Nước Trời, được diễn tả cách rõ nét nhất. Đứng trước sự phân biệt ấy người ta dễ rơi vào hai thái cực: hoặc đặt nặng các giá trị công dân Nước Trời mà xem thường các giá trị công dân trần thế, hay quá chú tâm vào các giá trị công dân trần thế mà coi nhẹ những giá trị công dân Nước Trời.
Câu trả lời của Đức Giêsu “Của Xê-da trả về Xê-da; của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa” đặt người tín hữu trước hai nghĩa vụ phải chu toàn: công dân trần thế và công dân nước trời. Cả hai không hề loại trừ nhau, nhưng đồng hiện diện và ảnh hưởng hổ tương: tìm cách xây dựng Nước Trời qua việc cùng chung sức xây dựng trần thế bằng cách thăng tiến đời sống con người về phương diện vật chất lẫn tinh thần, thăng hoa những giá trị của con người, và nhất là làm cho mọi lãnh vực trần thế thấm nhuần sự hiện diện của Thiên Chúa để rồi cuối cùng dẫn đưa trần thế trở về với Thiên Chúa. Đó cũng là lời dạy của Công Đồng Va-ti-can II: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngay nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Ki-tô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ” (“Vui Mừng và Hy Vọng”, 1).
Các đối thủ của Đức Giêsu nghĩ là đặt Ngài vào thế bí không có lối thoát, nhưng cuối cùng chính họ phải nhận ra rằng Ngài quán triệt vấn đề đến nổi họ phải kinh ngạc. Những kẻ muốn Ngài cứng họng chắc hẳn phải gặp thấy ở nơi câu trả lời của Ngài một giáo huấn rành mạch thấu tình đạt lý: một sự hiệp nhất cuộc đời của người tín hữa giữa công dân Nước Trời và công dân trần thế, bởi vì hai nghĩa vụ này hàm chứa một huấn lệnh quan trọng bậc nhất, một huấn lệnh làm nên chân tính của người Ki-tô hữu: mến Chúa và yêu người là một.
2. Trả về Chúa những gì thuộc về Chúa
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Trong những dụ ngôn mà chúng ta có dịp nói đến trong những Chúa Nhật vừa qua: Dụ ngôn hai người con, dụ ngôn những tá điền sát nhân, dụ ngôn tiệc cưới của hoàng tử, chúng ta thấy mối căng thẳng giữa nhóm Pha-ri-sêu và Chúa Giêsu càng ngày càng tăng. Nhóm nầy tìm hết mọi cách để hạ uy tín của Chúa Giêsu trước mặt dân chúng, và hôm nay họ tìm cách gài bẫy Ngài.
Nhóm Pha-ri-sêu và nhóm thân Hê-rô-đê không bao giờ hợp nhau, vì lập trường của họ thường đối chọi nhau. Nhưng đối với Chúa Giêsu, họ lại cấu kết với nhau, vì cả hai nhóm đều căm thù Chúa Giêsu và ganh tị với Ngài.
Trong xã hội mọi thời, chúng ta cũng thấy đầy dẫy những liên minh giữa những nước thù địch nhau, tranh chấp với nhau trước một kẻ thù chung. Giữa những phe phái và các nhóm cũng thế, cấu kết với nhau để diệt kẻ thù chung.
Họ đến với Chúa Giêsu, lời lẽ của họ ngọt ngào làm sao! “Thầy là người chân thật… không vì nể ai…”
Chúa Giêsu không thích dua nịnh. Hơn nữa, Ngài thấu suốt tâm tưởng của họ, Ngài thẳng thắn vạch trần sự điêu ngoa giả trá của họ: “Tại sao các ngươi lại thử tôi? Hỡi những kẻ giả hình!”
Ngài trả lời câu hỏi của họ không né tránh: “Hãy cho tôi xem đồng tiền nộp thuế”.
Vào thời của Chúa Giêsu, người Do-thái sống dưới ách nô lệ của người Rô-ma. Họ phải sử dụng đồng tiền của Rô-ma, của kẻ thống trị. Họ phải nộp rất nhiều thứ thuế và xem đó như một ách nô lệ đang đè nặng trên vai họ. Họ âm thầm phản đối, nhưng vẫn phải nộp thuế. Trốn thuế, đối với người Rô-ma là một tội nặng phải vào tù.
Nhóm Pha-ri-sêu chống chính quyền Rô-ma, còn nhóm thân Hê-rô-đê thì lại thân chính quyền, nhưng lần này họ thỏa thuận với nhau để đánh gục kẻ thù chung của họ là Chúa Giêsu.
Họ đặt câu hỏi như một cái bẫy, như một gọng kềm, trả lời cách nào cũng bị mắc bẫy: “Thưa Thầy, xin Thầy cho biết ý kiến, có được phép nộp thuế cho vua Xê-da hay không?” Chỉ có một câu trả lời: nộp thuế hay không .
Nếu bảo nộp thuế, thì Chúa Giêsu sẽ bị dân chúng phản đối, vì đó là hành động đồng lõa với kẻ thống trị, bóc lột thường dân. Uy tín của Ngài sẽ bị tổn thương nặng nề trước mặt dân chúng. Còn nếu bảo đừng nộp thuế, thì phe Hê-rô-đê sẽ tố cáo với chính quyền Rô-ma và Ngài sẽ bị vào tù. Trả lời kiểu nào cũng thua.
Nhưng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, không ai có thể ràng buộc Ngài hay gài bẫy Ngài được. Ngài sẽ phải trả lời thế nào để thoát khỏi gọng kềm đang siết chặt quanh Ngài?
Nhiều người trong chúng ta thường xem câu trả lời của Chúa Giêsu là quá hợp lý, và Ngài đã làm câm miệng bọn người gian manh kia. Chúng ta không đặt vấn đề gì, nhưng cần phải hiểu tại sao Chúa Giêsu bảo nộp thuế mà mọi người đều đồng ý, và không có ai thắc mắc gì cả, kể cả nhóm Pha-ri-sêu? Đối với nhóm này, nộp thuế là nô lệ, là phản dân hại nước, sao họ không phản đối gì cả?
Câu hỏi của họ có tính cách dân sự và chính trị. Chúa Giêsu không đứng trên bình diện tầm thường đó, Ngài đưa vấn đề về phương diện đạo đức, Ngài giải quyết vấn nạn bằng Luật Chúa. Ngài không nói ra, nhưng mọi người đều có thể hiểu là điều răn thứ bảy đòi buộc: “Của ai phải trả cho nấy”. Ngài hỏi: “Đồng tiền này của ai? Hình này là của ai?” Họ trả lời mà không biết Ngài đi đến đâu: “Của Xê-da”. “ Vậy, của Xê-da thì trả cho Xê-da”, đó là đúng Luật Chúa, không ai không biết điều đó và họ phải đồng ý thôi. Nhưng Chúa Giêsu không dừng lại ở đó, Ngài đòi buộc họ đi xa hơn, lên cao hơn.
Cuộc sống của chúng ta thường đặt chúng ta vào những hoàn cảnh “tiến thoái lưỡng nan” như thế. Cần phải chọn một giải pháp đúng, và phải chọn theo tiêu chuẩn của Chúa chứ không theo trần gian. Chúng ta là những kẻ tin Chúa, cho nên chúng ta vừa là công dân trần thế, vừa là công dân Nước Trời.
Hiện nay chúng ta đang sống trong một xã hội vô đạo. Con người hôm nay đa số là duy vật (duy vật thực hành) và một số người Công giáo đã sống theo làn sóng vô đạo đó. Tiền bạc, danh vọng và tiện nghi trở thành một thứ tôn giáo mới: thờ tiền. Đó là một thứ tôn giáo đang lan tràn nhanh chóng trong thế giới, trong mọi tầng lớp xã hội hiện nay.
Một số người Công giáo đã từ từ bỏ rơi Thiên Chúa để chạy theo “ông thần tài”.
Tôn giáo mới này hấp dẫn hơn và làm thỏa mãn những ước muốn vật chất của con người; vì “có tiền, mua tiên cũng được”. Ngay cả những người của Chúa cũng không thoát khỏi cơn cám dỗ của “ông thần tài” này.
Chúa Giêsu khẳng định: “của Xê-da, hãy trả cho Xê-da, của Chúa hãy trả cho Chúa”.
Trả cho Chúa cái gì?
Chúng ta có gì để trả cho Chúa? Thực ra chúng ta không có gì để trả cho Chúa cả. Chúng ta trọn vẹn là của Chúa. Chúng ta được tạo nên và “có cái gì mà chúng ta không lãnh nhận?” (Thánh Phao-lô).
Chúng ta sẽ trả cho Chúa được gì?
Tất cả. Mọi sự của chúng ta là của Chúa ban, nhưng chúng ta có thể trả cho Chúa một thứ: Chúng ta phải trả cho Chúa tình yêu. Chúng ta mắc nợ Chúa một món nợ mà suốt đời chúng ta trả không hết: đó là nợ tình yêu.
Chúa không buộc chúng ta làm gì cho Ngài, vì Ngài không cần chúng ta. Ngài chỉ mong chúng ta hạnh phúc. Từ lúc Ngài quyết định: “Ta sẽ tạo nên con người giống hình ảnh Ta”, Ngài chỉ mong tạo nên một đứa con và đứa con đó sẽ hạnh phúc với Ngài và trong Ngài. Sách Sáng Thế đã vẽ ra cảnh sống thần tiên trong vườn địa đàng, và khi A-đam phản bội, Chúa không bỏ rơi con người trong vực sâu tội lỗi, nhưng Ngài cho chúng ta Người Con Một của Ngài… Và xuyên suốt quyển Kinh Thánh, chúng ta thấy gì? Chúng ta chỉ thấy tình yêu tràn ngập trên chúng ta, là những con người đáng ghê tởm.
“Của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa”. Đó là những gì Thiên Chúa đang đợi chờ nơi chúng ta. Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài chỉ mong chúng ta sống cho tình yêu. Chúng ta được yêu thương trọn vẹn, hãy đáp trả lại bằng tình yêu trọn vẹn. Thực ra tình yêu của chúng ta chỉ như sương mờ ban mai, mau tan mau biến, nhưng bàn tay của Chúa luôn yêu thương dìu dắt. Thánh Thần Tình Yêu đã được ban cho chúng ta, nhờ đó chúng ta có thể gọi: “Abba”, (lạy Cha) với tất cả tâm tình con thảo.
Hơn nữa, Người Con Một yêu dấu của Chúa Cha đã đến với chúng ta, để nhờ Ngài, chúng ta đến với Chúa Cha: “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.” Chính nhờ Ngài, “Đấng đầy ân sủng và chân lý”, chúng ta được “hết ơn này đến ơn khác”, và trong Ngài, chúng ta yêu mến Chúa Cha như Ngài hằng mong ước. Như thế, chúng ta đáp trả tình yêu bằng tình yêu.
Hôm nay, nơi bàn thờ này, chúng ta thấy thực hiện trước mắt chúng ta, chương trình yêu thương của Chúa Cha. Ngài đã ban Con Một Ngài cho chúng ta, và tiếp tục ban đến tận thế. Nơi đây, chúng ta được yêu thương, được nuôi dưỡng, không phải bằng thứ của ăn hay hư nát, mà bằng Bánh ban sự sống.
Hãy làm như Chúa Giêsu đã nói: “Của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa”. Chúng ta trả bằng chính Người Con Một của Ngài, và cùng với Người Con Cha yêu dấu ấy, chúng ta cũng hiến dâng tất cả cuộc sống, tất cả gánh nặng hôm nay, tất cả con tim nhỏ bé của chúng ta.
3. Của Xêda hay của Thiên Chúa
Năm 1920 thánh Grandhi hô hào dân chúng Ấn không đóng thuế cho đế quốc Anh, để tranh đấu cho nước được độc lập.
Đóng thuế là nghĩa vụ của dân đối với chính quyền. Dân Ấn không đóng thuế là không công nhận người Anh là chính quyền của mình, là chống lại đế quốc xâm lăng để giải phóng đất nước thoát ách thực dân.
Câu hỏi của phái Pharisiêu nói với Đức Giêsu: “Có nên đóng thuế cho Xêda, hoàng đế Rôma không?”
Không phải họ mong Ngài đứng lên hô hào dân Do thái chống đế quốc như ông Grandhi, vì họ đã đi với phe Hêrôđê, thân đế quốc, đến hỏi Đức Giêsu. Cũng không phải họ mong Ngài hô dân đóng thuế cho Xêda, vì họ thuộc phái ái quốc quá khích, bài đế quốc.
Vậy họ muốn gì ở câu đáp của Đức Giêsu?
Họ chỉ muốn Ngài đáp có hay không thôi, nên họ tâng bốc khen ngợi Ngài rất khéo léo: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật, và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy không vị nể ai. Không đánh giá người ta theo bề ngoài”. Như vậy, họ đặt hai cái bẫy: một bẫy tâng bốc để buộc Ngài phải trả lời, một bẫy nộp thuế để kẹp ngài giữa hai gọng kìm phải đáp có hay không.
Đức Giêsu đáp đúng như họ khen, chứ không đúng như họ gài bẫy.
Đúng như họ khen: “Thầy là người chân thật, không đánh giá theo bề ngoài”. Ngài đã thành thật đánh giá đúng lòng, đúng tim, đúng đầu óc tâm tư của họ. Ngài nói: “Các ông thật giả hình, các ông có ác ý gài bẫy tôi!”
Đánh giá họ xong, Ngài cứ sự thật dậy đường lối của Thiên Chúa: “Của Xêda, trả về Xêda. Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”
+ Của Xêda, trả về Xêda: Tiền của Xêda, trả về Xêda; của ai trả về chủ nó. Không xài nó, không lợi dụng nó để mua tiên hay phạm tội ác. Cũng không để nó lôi kéo mình, bắt mình làm nô lệ nó. Của ai trả về họ, vừa thực thi công bằng vừa giải thoát mình, cho mình sống tự do, thanh thoát. “Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo” (Nguyễn Công Trứ)
+ Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa: Đây là mục đích chính của Đức Giêsu. Đấng Cứu thế đến giải thoát mọi người khỏi nợ trần gian, khỏi ách satan, trả họ về Thiên Chúa. Khi Đức Giêsu nói đến của Thiên Chúa, Ngài muốn cứu đối phương thoát khỏi vòng kiểm tỏa chính trị đang dằn vặt họ, đang buộc trói họ, khiến họ âm mưu dùng thủ đoạn chính trị hắc ám gài bẫy ngài. Ngài muốn nhắc nhở họ nhận biết: Chính họ là của Thiên Chúa vì Thiên Chúa đã sinh thành, bảo trợ họ, chọn họ làm dân riêng, chính ra họ phải nên giống như vua Ky-Rô, dù là dân ngoại, đã được Thiên Chúa chọn làm mục tử của Ngài. Vua đã biết Thiên Chúa là Đấng nắn ra ông từ lòng mẹ, Đấng cứu chuộc ông, Đấng tác thành mọi sự (Is. 44, 24.28). Đấng đã xức dầu tấn phong ông, đã cho muôn dân suy phục ông, đã bắt các vua phải hạ khí giới. Đấng đã trang bị đầy đủ cho ông, để ông làm cho từ đông sang tây, thiên hạ biết Ngài là Thiên Chúa của họ, chẳng có thần nào khác (Bài đọc I - Is. 45, 1. 4-6). Vua Ky-Rô đã biết ơn Thiên Chúa và đã thành tựu mọi ý muốn của Thiên Chúa (Is. 44, 28).
Chính ra, họ phải lo thành tựu mọi ý muốn của Thiên Chúa như vậy, chứ đừng lo âm mưu tiêu diệt những người của Thiên Chúa. Những người của Thiên Chúa là Đấng Messia và tất cả thiên hạ. KyRô cũng như Moisen chỉ là hình bóng Đấng Messia. KyRô chỉ giải thoát dân Israel khỏi nô lệ Babilon. Moisen cũng chỉ giải phóng con cháu Giacop khỏi nô lệ Ai Cập. Đấng Messia mới thực là Đấng Cứu thế từ trời xuống giải phóng muôn dân thiên hạ khỏi kiếp sống lưu đầy trần gian, khỏi thần chết quỷ dữ để trả muôn dân về làm con cái Thiên Chúa muôn đời. Đấng Messia đó chính là Đức Giêsu Kitô, đã đến tuyên bố năm hồng ân, thời kỳ đại xá, xóa tội trần gian, bắt đầu thời đại mới. Thời đại Tin mừng cứu độ, mở toang cửa tình yêu Thiên Chúa cho muôn dân được kết hợp cùng Thiên Chúa là Cha, như Hội thánh “Thessalonica đang kết hợp cùng Thiên Chúa là Cha và Đức Giêsu Kitô trong ân sủng và bình an” (Thes. 1,1). Để rồi tất cả đều làm việc vì lòng tin, gánh vác những nỗi khó nhọc vì lòng mến, và kiên nhẫn chịu đựng những nghịch cảnh vì trông đợi Chúa Giêsu Kitô (Bài đọc II – Thes. 1,5).
Lạy Chúa, tất cả là của Chúa, tất cả đều được Chúa mến thương, tất cả đều được Chúa ban Tin mừng cứu độ, tất cả đều được mời gọi làm con Chúa và là anh em với nhau, dù Xêda, Hêrôđê hay Pharisiêu. Xin cho tất cả mọi người biết thành tựu ý muốn của Chúa như Đức Kitô, như KyRô, như thánh Phaolô và Hội thánh Thessalonica để tất cả đều được xác tín sâu xa là mọi sự đều là của Chúa và biết cảm tạ Chúa với lòng thương mến chân tình, thoát mọi âm mưu tranh giành, gài bẫy nhau. Amen.
4. Công bằng – Lm. Joshepus Quang
Ai trong chúng ta cũng biết vụ thiên tai kép ở Nhật năm 2011. Năm ấy, một tình nguyện viên đi làm công tác từ thiện kể lại rằng: “Khi trận động đất sóng thần xảy ra vài ngày, tôi được phái tới một trường tiểu học phụ giúp hội tự trị ở đó phân phát thực phẩm cho những người bị nạn. Trong cái hàng rồng rắn những người xếp hàng tôi chú ý đến một em nhỏ chừng 9 tuổi, trên người chỉ có chiếc áo thun và quần đùi. Trời rất lạnh mà em lại xếp hàng cuối cùng, tôi sợ đến lượt của em thì chắc chẳng còn thức ăn nên mới lại hỏi thăm. Em kể khi đang học ở trường trong giờ thể dục thì động đất và sóng thần đến, từ ban công lầu 3 của trường em nhìn thấy chiếc xe và cha bị nước cuốn trôi, nhiều khả năng đã chết. Nhìn thấy em nhỏ lạnh, tôi mới cởi cái áo khoác cảnh sát trùm lên người em nhỏ. Vô tình bao lương khô khẩu phần ăn tối của tôi bị rơi ra ngoài, tôi nhặt lên đưa cho em và nói: "Đợi tới phiên của con chắc hết thức ăn, khẩu phần của chú đó, chú ăn rồi, con ăn đi cho đỡ đói". Cậu bé nhận túi lương khô của tôi, khom người cảm ơn. Tôi tưởng em sẽ ăn ngấu nghiến ngay lúc đó nhưng không phải, cậu bé ôm bao lương khô đi thẳng lên chỗ những người đang phát thực phẩm và để bao lương khô vào thùng thực phẩm đang phân phát rồi lại quay lại xếp hàng. Ngạc nhiên vô cùng, tôi hỏi tại sao con không ăn mà lại đem bỏ vào đó. Cậu bé trả lời: "Bởi vì còn có nhiều người chắc đói hơn con. Bỏ vào đó để các cô chú phát chung cho công bằng chú ạ".
Công bằng là một trong bốn nhân đức nhân bản của Đạo Công Giáo: Khôn ngoan, công bằng, dũng cảm và tiết độ. Nhưng thế nào là công bằng? Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo dạy rằng: “Công bình là đức tính luân lý cốt tại một ý chí liên lỉ và vững chắc, quyết tâm trả lại những gì mình mắc nợ với Thiên Chúa và với người lân cận. Công bằng đối với Thiên Chúa được gọi là “nhân đức thờ phượng”. Đối với người ta, công bằng là tôn trọng quyền lợi của mỗi người và thiết lập sự hài hòa trong các tương quan nhân loại, sự hài hòa này đưa tới việc không thiên vị đối với các nhân vị và đối với các công ích, như Lời Chúa dạy: “Các ngươi không được thiên vị người yếu thế, cũng không được nể mặt người quyền quý, nhưng hãy xét xử công minh cho đồng bào” (Lv 19,15). “Người làm chủ hãy đối xử công bằng và đồng đều với các nô lệ, vì biết rằng cả anh em nữa cũng có một Chủ trên trời (Cl 4,1)” (số 1807).
Cho nên, Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu dạy chúng ta về đức ông bằng này: “Của Xê-da trả lại cho Xê-da, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa” (Mt 22, 21). Xê-da có gì mà trả? Xê-da tên và huy hiệu của một hoàng đế. Chúa Giêsu nói tên và huy hiệu là của Xê-da thì trả lại cho ông. Còn mạng sống và mọi sự của ông đều là của Chúa ban cho. Của Xê-da ở đây là những thứ công bình bác ái giữa người với người, hay là bổn phận phải thi hành cho đất nước, cho gia đình và xã hội gọi tắt là đức công bằng đối với tha nhân. Cho nên, đối với tha nhân, đức công bằng đòi ta phải trả về cho họ những quyền được sống, quyền có của cải… Cho nên, đức công bằng đòi buộc ta phải tôn trọng của cải, tiền bạc, danh dự, mạng sống của tha nhân. Bởi thế, ta không được lấy, không được giữ, không được làm thiệt hại những gì thuộc về người khác.
Còn của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa? Của Thiên Chúa là cái gì? Thưa là tất cả mọi sự, chính sự hiện hữu của ta, chính sự sống của ta, tất cả đều là quà tặng Thiên Chúa ban. Bởi vì Thiên Chúa là Đấng tạo dựng vũ trụ và dựng nên ta, cứu chuộc ta. Cho nên, đức công bằng đòi ta phải biết ơn Thiên Chúa qua việc , tạ ơn, chúc tụng, ngợi khen, suy tôn, thần phục và thờ phượng Ngài, “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi" (Lc 4, 8).
Lời Chúa hôm nay như là lời chất vấn lương tâm công bằng của chúng ta rằng chúng ta phải trả lại cho Thiên Chúa và tha nhân những gì? Thứ nhất, con người đã quay lưng lại với Thiên Chúa, đã phá vỡ những nét đẹp của hình ảnh Thiên Chúa khi lao vào những đam mê lầm lạc như: ngoại tình, dâm ô, cướp của, giết người hay gian dối, điêu ngoa... khiến tâm thiện nơi con người thành tâm tà, tâm ác vì đức công bằng với Thiên Chúa, hỡi con người, hãy trả lại cho Thiên Chúa những thứ thuộc về Thiên Chúa: con người là hoạ ảnh Thiên Chúa, là "nhân chi sơ tính bản thiện". Rồi, con người đã lạm dụng tự do để giết chết các thai nhi vô tội khiến hàng triệu thai nhi bị tước đoạt quyền sống, quyền làm người của mình, vì lẽ công bằng với Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa quyền làm chủ sự sống. Rồi nữa, con người đã đang tâm phá vỡ trật tự tự nhiên khi ngăn sông, lấp biển, chặt cây, đốt rừng khiến lũ lụt tràn lan, mưa nắng thất thường, vì đức công bằng với Thiên Chúa, hỡi con người hãy trả lại cho Thiên Chúa những trật tự thiên nhiên mà chính Ngài đã khôn ngoan xếp đặt. Thứ hai, chúng ta phải trả lại cho tha nhân những gì? Thưa, con người ngay nay đã sớm vong ân bội nghĩa khi dứt bỏ tình cha, nghĩa mẹ. Họ đã sống thiếu trách nhiệm với gia đình và xã hội khi lười biếng và sống sa đoạ tội lỗi, vì đức công bằng với tha nhân, hỡi con người, hãy trả lại cho tha nhân lòng biết ơn, lòng hiếu thảo mà mỗi người chúng ta từng mang ơn khi bước vào đời. Rồi, ngay nay nhiều người đã làm dụng quyền bính để vun quén cho bản thân, để bóc lột kẻ thấp cổ bé họng để làm giầu cho bản thân, vì đức công bằng với tha nhân, hỡi con người, hãy trả lại cho tha nhân sự công bình và bác ái mà mỗi người khi sinh ra đều được hưởng dùng của cải mà Thiên Chúa ban tặng qua vũ trụ vạn vật này.
Quả thật chúng ta đều đã phạm tội, vi phạm luật Chúa nên đáng bị hình phạt. Nhưng vì yêu thương con người nên Thiên Chúa đã cứu chuộc chúng ta bằng chính mạng sống của Chúa Giêsu trên thập giá. Vâng, Thập Giá bày tỏ sự công bằng tuyệt đối của Thiên Chúa khi Ngài tha tội cho chúng ta để trọn sự công bằng theo luật của Chúa, nhưng cũng trọn vẹn tình yêu thương của Ngài đối với chúng ta. Vì vậy, phương cách tốt nhất để chúng ta có được sự công bằng theo ý muốn của Thiên Chúa nơi mình đó là: từ bỏ tội lỗi và trở về với Chúa Kitô, tin vào Phúc Âm và rao truyền Phúc âm.
Chúng ta là con cái của Chúa nên được Ngài yêu thương hơn ai hết. Tuy nhiên, Thiên Chúa – Đấng Công Bình, không bao giờ chấp nhận tội lỗi hay một điều gì bất công. Chúa sẵn sàng sửa trị để chúng ta ăn năn, chứ không bỏ rơi chúng ta. Như người mẹ thương con có lúc phải đánh con để sửa trị, để dạy dỗ để người con mỗi lúc một tốt hơn chứ không đánh cho bỏ ghét. Thiên Chúa đối với chúng ta cũng vậy.
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta biết dấn thân vào việc kiến tạo những công bằng đồi với Chúa và xã hội loài người qua việc Kính mến Chúa trên hết mọi sự sau lại yêu người như Chúa yêu ta vậy. Đây cũng là cách chúng ta loan truyền Tin Mừng cứu độ một cách nhanh nhất và hữu hiệu nhất trong cánh đồng truyền giáo hôm nay. Amen.
5. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ đề: Bổn phận đối với thế quyền và thần quyền
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
"Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc", đó là phương châm mà Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam đề ra cho mỗi người giáo dân Việt Nam.
Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta cầu xin Chúa giúp chúng ta chu toàn hai bổn phận đối với Chúa và đới với tổ quốc.
II. Gợi ý sám hối
Vì ích kỷ, chúng ta không góp phần xây dựng xã hội và đất nước.
Vì mải mê lo việc thế gian, chúng ta sao lãng bổn phận đối với Chúa.
Lẽ ra vì có ánh sáng Tin Mừng hướng dẫn, chúng ta phải là một công dân gương mẫu, nhưng chúng ta chưa được như thế.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Is 45,1.4-6)
Bối cảnh lịch sử: Năm 587, đế quốc Babylon xâm chiếm Giêrusalem, bắt dân Do Thái đi đày. Gần 50 năm sau, đế quốc Babylon sụp đổ và đế quốc Ba Tư dành ngôi bá chủ. Vua của Ba Tư lúc đó là Cyrô. Vừa mới chiến thắng Babylon xong, năm 538, Cyrô ra sắc chỉ cho dân Do Thái được hồi hương.
Mặc dù Cyrô là một người ngoại không hề thờ kính Thiên Chúa, nhưng ngôn sứ Isaia lại coi ông là người được Thiên Chúa dùng: chính Thiên Chúa trao quyền cho ông, Thiên Chúa cho ông thống trị các dân, và Thiên Chúa xui lòng ông cho dân Chúa được hồi hương. Tóm lại, Cyrô là dụng cụ Chúa dùng để thực hiện chương trình của Ngài. Vì thế, cuối đoạn trích này, Isaia nhấn mạnh: "Ta là Chúa và chẳng có chúa nào khác".
2. Ðáp ca (Tv 95)
Tv này ca tụng Thiên Chúa với tư cách là Vua và Chúa tể duy nhất đích thực của muôn dân. So với Ngài, các vua chúa trần gian đều là hư ảo.
3. Tin Mừng (Mt 22,15-21)
Bình thường, phái Pharisêu và nhóm Hêrôđê không thuận nhau, bởi một bên (nhóm Hêrôđê) thì chạy theo chính quyền Rôma đang đô hộ xứ Palestine, còn bên kia (phái Pharisêu) thì chống lại quân đô hộ. Nhưng hôm nay hai nhóm này liên minh nhau để chất vấn Ðức Giêsu nhằm tìm được cơ hội làm hại Ngài.
Vấn đề họ đem ra chất vấn Ðức Giêsu là "Có được phép nộp thuế cho Xêda không?" Ðây là một cái bẫy thâm độc, vì nếu Ðức Giêsu trả lời "Có" thì nhóm Pharisêu sẽ kết án Ngài là phản quốc; còn nếu Ngài nói "không" thì nhóm Hêrôđê sẽ tố cáo Ngài là phản động.
Với câu trả lời "Của Xêda trả cho Xêda, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa", Ðức Giêsu chẳng những không mắc bẫy họ, mà còn dạy lại họ một bài học: đừng chỉ mải mê lo chuyện chính trị, mà hãy lo chu toàn một bổn phận khác còn quan trọng hơn nhiều, đó là bổn phận đối với Thiên Chúa.
4. Bài đọc II (Tx 1,1-5b) (Chủ đề phụ)
* Từ Chúa nhựt này, bài đọc II được trích từ thư thứ nhất Thánh Phaolô gửi tín hữu Thêxalônikê.
Thêxalônikê là một giáo đoàn non trẻ mà Phaolô rất chăm lo:
Non trẻ: Phaolô thành lập giáo đoàn này vào năm 50 trong chuyến truyền giáo thứ hai. Nhiều người đã đón nhận Tin Mừng và lập thành một cộng đoàn sống động với đức tin cậy mến sốt sắng.
Lo lắng: Nhưng Phaolô chỉ được ở với họ trong một thời gian ngắn (Cv 17,2 nói Phaolô ở với họ "3 ngày". Có lẽ "3 ngày" này không theo nghĩa đen, chỉ có ý muốn nói là trong một thời gian rất ngắn). Sau đó do những người Do Thái mưu hại, Phaolô phải trốn khỏi đó. Tuy Phaolô đã đi xa, nhưng rất lo lắng cho giáo đoàn non trẻ này trước những đòn tấn công của kẻ thù. Vì thế Phaolô gửi thư về khuyến khích họ.
Phần đầu của lá thư này là những lời chào hỏi và khuyến khích. Ðặc biệt Phaolô khen ngợi đức tin, cậy và mến của họ: "Chúng tôi không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc anh em gánh vác vì lòng mến, và những gì anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi".
IV. Gợi ý giảng
1. Bổn phận công dân
"Có được phép nộp thuế cho Xêda không?" Có nhiều từ trong câu hỏi này cần được giải thích thêm cho rõ:
Thuế: không phải chỉ có ý nói tới việc đóng thuế, mà còn bao gồm tất cả những gì thuộc bổn phận công dân như: yêu nước, góp phần xây dựng đất nước, tuân thủ luật pháp, tùng phục chính quyền...
Xêda: đối với hoàn cảnh lịch sử riêng thời Ðức Giêsu thì Xêda chỉ chính quyền đang đô hộ đất nước Do Thái. Còn đối với hoàn cảnh chung của mọi thời thì chữ Xêda này nên được hiểu theo nghĩa rộng, chỉ chính quyền cách chung.
Có được phép không: Ðộng từ "được phép" ở thể thụ động, gián tiếp muốn hỏi Thiên Chúa có cho phép không.
Như thế ý nghĩa của câu hỏi này là: Theo ý Thiên Chúa thì người tín hữu có bổn phận gì đối với đất nước và chính quyền không?
Câu trả lời của Ðức Giêsu "Của Xêda hãy trả cho Xêda" là nền tảng giáo lý về bổn phận công dân: người tín hữu của Chúa cũng là công dân của một đất nước, cho nên phải chu toàn mọi bổn phận công dân một cách đầy đủ và gương mẫu.
Không phải vì là thần dân của Vua Giêsu và là công dân của Nước Trời mà người tín hữu không còn bổn phận gì đối với đất nước và chính quyền trần gian, bởi vì Nước Trời mà Vua Giêsu thành lập "không thuộc thế gian này" cho nên cũng không chống lại nước và chính quyền trần gian.
Chính Ðức Giêsu đã làm gương chu toàn bổn phận công dân: cha mẹ Ngài đã vâng lệnh hoàng đế để về quê quán khai tên (Lc 2,3-5); Ðức Giêsu bảo Phêrô đóng thuế cho ông và cho Ngài (Mt 17,24-27).
2. Lợi riêng và ích chung
Người Việt Nam nói chung và người tín hữu Việt Nam nói riêng có một thiếu sót rất lớn, đó là không tích cực đóng góp cho lợi ích chung.
Những thể hiện: trốn thuế, gian lận để giảm thuế, ăn cắp của chung, không quan tâm giữ gìn tài sản chung của xã hội, ngại đóng góp để bảo trì hoặc tu sửa nhà thờ, không nhiệt tình góp "tiền rỗ" trong các thánh lễ...
Thiếu sót ấy có lẽ phát xuất từ một cách suy nghĩ rằng mình không có bổn phận gì đối với việc chung và ích chung. Từ suy nghĩ ấy, mỗi lần bỏ ra chút ít gì cho ích chung thì cho rằng đó là một việc thi ơn, một việc từ thiện.
Suy nghĩ ấy hoàn toàn sai. Góp phần cho ích chung không phải là việc tuỳ ý mà là bổn phận, không phải là bố thí mà là công bằng, bởi vì mình được thụ hưởng ích chung cho nên theo công bằng mình phải đóng góp vào đó.
Những công dân và tín hữu có trình độ suy nghĩ trưởng thành ở một số nước khác đều rất ý thức bổn phận này: đối với đất nước, họ quan tâm đóng thuế đầy đủ; đối với Hội Thánh, mỗi lần dự lễ họ đều góp "tiền rỗ", thậm chí có người ít đi lễ mà cũng gởi tiền góp vào quỹ xứ đạo...
3. "Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa"
Vế thứ hai trong câu Ðức Giêsu trả lời là một lời nhắc nhở cho những kẻ muốn gài bẫy Ngài. Họ đều là tín đồ Do Thái giáo nhưng họ mải mê lo chuyện chính trị, kẻ thì phò theo chính quyền Rôma, người thì chống lại. Họ lại còn muốn lôi Ðức Giêsu vào vòng tranh chấp chính trị của họ nữa. Ðang khi đó thì họ rất thờ ơ với bổn phận đới với Thiên Chúa. Bởi thế Ðức Giêsu nhắc: việc chính trị thì cứ lo, nhưng đừng quên bổn phận đối với Thiên Chúa.
Ta thường nghe nói "tốt đời đẹp đạo". Xét cho cùng, một người tín hữu có "đẹp đạo" trước thì mới dễ "tốt đời" sau, bởi vì chính "đạo" vừa dạy vừa giúp ta cách sống tốt ở "đời".
4. Chuyện minh họa
a/ Ngày nay, hai chữ "chính trị" thường được hiểu theo nghĩa xấu, "làm chính trị" bị coi là một việc nguy hiểm, như những chuyện sau đây:
- Hai vợ chồng nhà kia sinh được cậu quí tử. Ngày cậu thôi nôi, một người bạn góp ý thử xem tương lai cậu ra sao. Họ đặt trên bàn một cây vàng, một cuốn Thánh Kinh. một chai rượu và xem cậu chọn cái gì. Nếu cậu chọn vàng thì tương lai sẽ là thương gia. Nếu chọn Thánh Kinh thì là linh mục. Nếu chọn chai rượu thì cuối cùng chỉ là anh chàng bét nhè.
Rồi họ đưa cậu vào. Cậu lấy cây vàng đút túi, kẹp cuốn sách vào nách và ôm chai rượu bước ra. Thấy thế, người chồng bảo vợ: "Tốt lắm! Nhất định sau này nó sẽ là một nhà chính trị!"
- Ba người chết và về trời cùng ngày. Người thứ nhất là giáo hoàng, người thứ hai là linh mục và người thứ ba là một chính trị gia.
Thánh Phêrô dẫn họ vào thiên đường: giáo hoàng và linh mục ở trong hai túp lều nhỏ, còn nhà chính trị gia vào tòa nhà lớn.
Cả linh mục và giáo hoàng cung kính hỏi xem tại sao hai tôi tớ trung thành như họ được hưởng cuộc sống hạnh phúc ở nơi không hấp dẫn, trong khi nhà chính trị được sống trong tòa nhà vĩ đại.
Thánh Phêrô trả lời: "Này các con, ở đây đã có nhiều linh mục và giáo hoàng. Nhưng đây là nhà chính trị đầu tiên của chúng ta".
b/ Nhưng tham gia chính trị và làm chính trị cũng là bổn phận công dân của người tín hữu. Sau đây là những tấm gương của một số tín hữu làm chính trị để phục vụ cho quyền lợi đồng bào và nhân loại:
- Dag Hammarskjold, tổng thư ký Liên hợp quốc, chết trong một tai nạn máy bay năm 1961 đang lúc ông đi thăm vùng Trung Phi. Ông không nghĩ việc ông làm chính trị là phương tiện thăng tiến xã hội, mà là thi hành ơn gọi làm tín hữu của ông. Ông nói: "Thờ ơ trước sự ác còn tệ hơn chính sự ác nữa; trong một xã hội tự do, kẻ phạm tội chỉ là một số ít, nhưng tất cả mọi người đều phải chịu trách nhiệm về tội phạm của họ"; "Không một lối sống nào thỏa mãn hơn sống mà phục vụ vô vị lợi cho đất nước và nhân loại".
- Gandhi nói: "Tôi làm chính trị vì tôi không thể tách rời cuộc sống với niềm tin của tôi. Vì tôi tin Thượng Ðế nên tôi bước vào chính trị. Làm chính trị là cách tôi phụng sự Thượng Ðế".
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Thiên Chúa là Cha nhân từ. Người dựng nên trời đất muôn vật, và lúc nào cũng: quan tâm chăm sóc hết thảy mọi loài. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin.
1. Hội Thánh luôn nhắc nhở các kitô hữu phải sống gương mẫu / tuân thủ luật pháp / mến yêu tổ quốc / sống hòa hợp với hết thảy mọi người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết luôn yêu mến tổ quốc của mình / và gương mẫu trong việc tuân giữ luật pháp.
2. Người kitô hữu có thể khác nhau về quốc gia / chủng tộc / ngôn ngữ / nhưng luôn hiệp nhất trong cùng một đức tin / đức cậy và đức mến / Chúng ta hiệp lời cầu xin / cho các tín hữu luôn biết sống đoàn kết / thương yêu và nâng đỡ nhau / trong mọi tình huống của cuộc sống thường ngày.
3. Người kitô hữu có hai bổn phận quan trọng / bổn phận đối với Chúa và đối với tổ quốc / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết chu toàn mọi trách nhiệm đối với Chúa / và làm tròn nghĩa vụ của một người công dân tốt / là mến yêu tổ quốc / và hiệp sức cùng đồng bào xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh hơn.
4. Ngoài người mẹ ruột của mình / người kitô hữu có hai người mẹ thiêng liêng khác / đó là Hội Thánh và Ðất nước / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn làm tròn chữ hiếu với các bà mẹ này.
CT: Lạy Chúa, Chúa đã thương ban cho chúng con một dày non sông gấm vóc, một tổ quốc hào hùng, một dân tộc quật cường, một đất nước nhiều tiềm năng về mọi mặt. Xin cho chúng con biết hết lòng yêu mến và bảo vệ tổ quốc chúng con. Chúng con cầu xin...
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Qua lời nguyện "Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời", chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta chu toàn những bổn phận cả đối với cả trần thế lẫn đối với Chúa.
- Sau kinh Lạy Cha: "... xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Xin giúp chúng con khôn ngoan biết trả cho Xêsa những gì của Xêsa, và trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp..."
VII. Giải tán
Anh chị em đã nghe giáo huấn của Chúa về hai bổn phận. Anh chị em hãy ra về và sống "đẹp đạo tốt đời".
6. Chân tường - Lm. Vũ Đình Tường
Cuộc sống kẻ ít, người nhiều đều có kinh nghiệm bị dồn vào ngõ bí, dồn vào chân tường hầu như không lối thoát. Hoàn cảnh đó gây lo lắng cho cá nhân và âu lo cho thân nhân, thân hữu. Bị dồn vào chân tường ít hay nhiều lệ thuộc vào hoàn cảnh sống và công việc người đó làm. Đức Kitô trong cuộc đời rao giảng công khai cũng có kinh nghiệm bị người dồn vào chân tường. Hoàn cảnh trớ trêu này xảy ra không phải vì Ngài nói hay làm điều gì sai trái mà do ghen vì Ngài nổi tiếng hơn chúng, họ tức nên tìm cách chống đối. Căm thù vì giáo huấn của Ngài cắn rứt lương tâm họ, làm cho họ ăn không ngon, ngủ không yên, lương tâm dầy vò do những thủ đoạn xem ra tốt lành nhưng thật ra là những hành động ác độc, tội lỗi họ chủ trương nhằm thu lợi cho cá nhân. Thái độ của họ cho biết họ không những từ chối lắng nghe Chúa giảng dậy, kêu gọi họ thống hối mà còn chống lại giáo huấn của Đức Kitô. Một khi từ chối hay chống lại í kiến người khác có nghĩa là từ chối học từ người đó. Vì thế họ không học được những gì tốt đẹp, cao quí, tha thứ, yêu thương từ Đức Kitô. Thái độ kiêu ngạo này được thêm dầu bằng những cuộc họp kín với mục đích tìm cách hại Đức Kitô. Họ tin tưởng vào tài trí của nhóm gom lại sẽ thắng Đức Kitô dễ dàng vì thế họ họp kín dàn trận mong Đức Kitô sập bẫy. Cái bẫy họ giương ra xem có vẻ khiêm nhường nhưng thực tế không phải vậy bởi họ tính toán với nhau một câu hỏi mà trả lời đồng thuận thì bị trói chân tay mà trà lời bất đồng sẽ dẫn đến cái chết thảm. Họ muốn giết người nhưng không muốn tay mình vấy máu
Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dậy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta. Vậy xin Thầy cho biết í kiến: có được phép nộp thuế cho Xêda hay không? Mt 22,16-17
Viên thuốc bọc đường này nhìn thì ngọt ngào bắt mắt nhưng nuốt vào sẽ là độc dược huỷ diệt toàn lục phủ, ngũ tạng. Đức Kitô biết rõ thâm í họ. Phần đầu của câu hỏi mang tính cách tôn giáo. Họ ca tụng Đức Kitô ngoài miệng nhưng trong lòng họ không tin điều họ nói ra. Nếu tin như những gì họ ca tụng Đức Kitô họ đã không tìm cách gài bẫy Ngài. Phần sau của câu hỏi lại dính đến chính trị đương thời và đó là mấu chốt của cái bẫy. Tất cã nhưng phần khác của câu nói chỉ trang trí, mong đánh lạc hướng người nghe. Theo họ nghĩ Đức Kitô không còn chọn lựa nào khác ngoại trừ hai câu trả lời là thuận nộp thuế hoặc chống nộp thuế. Nếu Đức Kitô dậy là nộp thuế họ sẽ ghép Ngài vào hàng ngũ những người cộng tác với ngoại bang, cộng tác với quân xâm lược đế quốc Roma mà toàn dân đang oán hận. Nếu Đức Kitô trả lời là không nên đóng thuế họ sẽ mau mắn tố cáo với đế quốc là Đức Kitô không những chống lại nộp thuế mà còn xúi dân chúng làm loạn và như thế chính Đức Kitô chọn lựa tròng thòng lọng vào cổ mình do đế quốc Roma giết chết. Đức Kitô đã không sập bẫy nhưng còn mượn dịp chúng sốt sắng lắng nghe dậy cho chúng một bài học khác biệt về của cải chóng qua, mau tàn trần thế và của cải vĩnh cửu trên nước trời.
Ngài dậy chúng những gì thuộc về trần gian là của trần gian, những gì thuộc về Thiên Chúa là của Thiên Chúa. Thật là sai lầm khi so sánh của cải hư nát trần thế với của cải muôn đời tồn tại trên Thiên Quốc.
Đầu óc con người thường bị tư tưởng chính hướng dẫn và ngày đêm tư tưởng chính đó chỉ đạo, ảnh hướng tới lối sống, cách suy nghĩ của người đó. Thí dụ tù nhân sống trong trại khổ sai, thiếu dinh dưỡng nên ngày đêm cái tư tưởng đói khát hành hạ con người. Người đang khao khát tìm việc luôn nghĩ đến cách làm sao có việc, việc gì cũng được miễn là có việc rồi hãy hay. Chính trị gia mỗi lần xuất hiện trước công chúng quan tâm chính của họ không phải là nói những gì nhưng nói sao để được tiếng. Người không may mắc bệnh nan y luôn sốt sắng nghe đâu hay là cầu nơi đó. Tương tự như vậy nhóm chống đối Đức Kitô ngày đêm luôn tìm cách làm sao hạ được Ngài, càng sớm càng tốt, càng thê thảm càng mừng. Sau khi đóng đanh Đức Kitô vào thập giá nhóm chống đối họp nhau mở tiệc mừng. Cách nhìn về cuộc sống giữa nhóm chống đối và Đức Kitô quả khác biệt không cách nào hoá giải. Họ coi Đức Kitô như là đá tảng ngăn cản con đường họ đang tiến. Không lăn được tảng đá Kitô đi họ không thể thi hành được quỉ kế bóc lột kẻ khác. Đức Kitô trái lại coi sứ mạng của Ngài nơi trần gian là mang lại sự sống vĩnh cửu, giải thoát họ khỏi đam mê tội lỗi.
Ngài xác định Ngài đến để giải thoát nên mọi thế lực trần thế cố thể dồn Ngài vào chân tường đều thất bại. Riêng Ngài tự chọn làm tảng đá góc, nền tảng hạnh phúc muôn đời cho những ai bước theo con đường Ngài hướng dẫn, đó chính là xây nhà trên nền đá.
7. Trả Thiên Chúa điều thuộc Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Câu trả lời của Đức Yêsu trong trường hợp đặc biệt đã trở thành tiêu chuẩn nhận định và sống: “hãy trả cho Xêda điều thuộc Xêda, và trả cho Thiên Chúa điều thuộc Thiên Chúa.”
1. Mỗi người đều thuộc về Thiên Chúa
Có phải mọi người đều thuộc về Thiên Chúa, hay chỉ có một số người đặc biệt thôi? Người Do Thái nhận họ là dân riêng của Thiên Chúa, được Thiên Chúa yêu thương cưng chiều, được Thiên Chúa giải phóng khỏi nô lệ Aicập; chính Thiên Chúa đã dẫn dắt họ qua những người được Ngài tuyển chọn và xức dầu. Kitô-hữu cũng nhận mình thuộc về Thiên Chúa, là con của Thiên Chúa và là những người được gọi để thừa kế cùng với Đức Kitô.
Lời Chúa trong sách tiên tri Ysaya gọi một vị vua nước ngoài là Kitô, tức người được Thiên Chúa xức dầu. Vua Xyrô là vị vua đã cho người Do Thái lưu đầy được trở về quê hương. Vua Xyrô đã hành xử theo lương tri, và như vậy vua đã làm theo thánh ý Thiên Chúa. Không phải chỉ có mình vua Xyrô, một người ngoại được là con của Thiên Chúa, nhưng tất cả những người ngoại cũng đều là con của Thiên Chúa. Với người Do Thái, chỉ có dân Do Thái là dân của Thiên Chúa, còn các dân tộc khác và cả các Kitô-hữu cũng là dân ngoại; nhưng với nhãn quan của sách tiên tri Isaya người ta có thể nói vua Xyrô và mọi người thuộc mọi dân tộc cũng đều là dân con của Thiên Chúa.
Con người là một tạo vật tuyệt vời của Thiên Chúa. Qua biến cố Đức Yêsu chết trên thập giá, con người nhận ra giá trị cao quý của mình, vì nếu không quý giá thì tại sao Thiên Chúa đã phải nhập thể làm người, tại sao Đức Yêsu đã phải chết trên thập giá. Mọi người đều thuộc về Thiên Chúa, đều có Thiên Chúa là Cha. “Của Xêda trả cho Xêda, còn những gì thuộc Thiên Chúa thì trả cho Thiên Chúa.”
2. Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người mọi dân tộc
Mỗi người đều có Thiên Chúa là Cha. Chính Thiên Chúa tạo dựng mỗi người qua cha mẹ mình. Con cái không là điều hoàn toàn theo ý cha mẹ muốn, có những cặp vợ chồng muốn có con nhưng không có; có những cha mẹ muốn có người con gái nhưng lại sinh con trai. Con cái là hồng ân của Thiên Chúa, cho cha mẹ cũng như cho chính người con. Thiên Chúa là Cha, hiểu theo nghĩa như cha mẹ sinh con cái thì Thiên Chúa cũng tạo dựng mỗi người qua người cha người mẹ.
Mọi dân tộc đều do Thiên Chúa tạo dựng. Như một cha mẹ sinh con, nhưng chiều cao màu da mái tóc của mỗi người con cũng thường khác nhau; cũng vậy những dân tộc khác nhau đều do Thiên Chúa tạo dựng với những nét đặc biệt, tuy nhiên đều là anh em của cùng một Cha trên trời. Như cha mẹ yêu thương tất cả những người con mình sinh ra, Thiên Chúa cũng yêu thương mọi dân tộc. Dân Do Thái là một dân đặc biệt, vì qua dân Do Thái Thiên Chúa ngỏ lời với tất cả mọi người về tình yêu của Ngài đối với mọi dân tộc. Kinh Thánh tuy được viết qua dân Do Thái nhưng là lá thư tình Thiên Chúa viết cho tất cả con người của mọi dân tộc, như vậy mỗi dân tộc đều có quyền và có bổn phận phải đọc những lá thư tình yêu này.
Thiên Chúa yêu thương con người. Ngài muốn ngỏ lời với con người. Ngài đã chọn dân tộc Do Thái để ngỏ lời và diễn tả tình yêu của Ngài. Đức Yêsu, Lời Thiên Chúa nhập thể làm người, là một người Do Thái, nhưng Ngài là người của tất cả mọi người và của mọi dân tộc. Đức Yêsu là biểu tượng tình yêu Thiên Chúa cho tất cả mọi người. Qua Đức Yêsu, con người biết Thiên Chúa là Đấng yêu thương, đã yêu con người đến độ ban Con Một Ngài cho con người. Không ai yêu con người bằng Thiên Chúa, không ai yêu “tôi” bằng Thiên Chúa, không ai tin “tôi” bằng Thiên Chúa, không ai hy vọng ở “tôi” bằng Thiên Chúa. Qua Đức Yêsu, con người hiểu biết về Thiên Chúa cách rất đặc biệt. Đức Yêsu là Lời Tuyệt Vời Thiên Chúa cho con người.
3. Mạng sống và tự do như những quà tặng
Con người của mọi thời đại đều bận tâm về những vấn đề rất cụ thể. Ngày xưa người ta cũng bận tâm về vấn đề nộp thuế, cũng bận tâm tìm ăn tìm mặc đến độ Đức Yêsu phải rao giảng “tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Trời, còn những điều khác như cơm áo sẽ được ban thêm cho con người.” Hôm nay, câu trả lời của Đức Yêsu cho những người gài bẫy nhằm hại Ngài nhắc nhở con người về chân lý quan trọng: “hãy trả cho Thiên Chúa điều thuộc Thiên Chúa.”
Điều thuộc Thiên Chúa là gì? Mạng sống con người, quà tặng Thiên Chúa ban cho mỗi người, cho cha mẹ, cho dân tộc, và cho con người. Mạng sống con người thuộc về Thiên Chúa. Một số người và một số nước không quý mạng sống, không đón tiếp hồng ân sự sống, nên xã hội của họ, dân tộc của họ đang ít đi, đang chết dần. Hiện tại, dân da đen châu Phi đang lan tràn ở châu Âu và châu Mỹ, vì tuy nghèo nhưng dân tộc này lại quý mạng sống. Họ sẵn sàng chấp nhận món quà Tạo Hoá ban cho họ. Một gia đình không có tiếng trẻ em, không có thế hệ trẻ, gia đình đó buồn chừng nào; cũng tương tự một nước không có nhiều người trẻ, nhìn chung quanh chỉ thấy người già, đất nước đó ảm đạm chừng nào. Một người suy nghĩ xa, sẽ thấy đất nước và dân tộc đó đi về đâu! Đó là tương lai của những dân tộc không quý trọng hồng ân sự sống mà Chúa ban và mời gọi họ đón nhận.
Tự do là quà tặng Thiên Chúa ban cho con người. Con vật không có tự do, chỉ có con người hoặc thiên thần mới có tự do. Với tự do, con người có thể hoặc trở nên tuyệt vời hoặc trở nên đồi tệ. Tự do, như một con dao hai lưỡi; tuy vậy Thiên Chúa vẫn ban cho con người như một quà tặng vô cùng quý. Thiên Chúa ban tự do cho con người, và Ngài tôn trọng tự do của con người. Ngài tạo dựng mỗi người không hỏi ý kiến mỗi người vì lúc đó con người chưa hiện diện, nhưng Ngài không ép con người lên thiên đàng để chia sẻ sự sống vĩnh cửu với Ngài. Nếu Thiên Chúa tôn trọng tự do của con người như vậy, con người cũng phải tôn trọng tự do của nhau. Cả những bậc cha mẹ cũng phải tôn trọng tự do của con cái khi chu toàn sứ mạng giáo dục con cái như Thiên Chúa trao phó.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Điều gì nơi bạn thuộc Xêda và điều nào thuộc Thiên Chúa?
2. Một người ngoại được gọi là Đấng Kitô của Đức Chúa, điều này có nghĩa gì với bạn?
3. Có dấu chỉ nào cho thấy bạn thuộc về Thiên Chúa không?
8. Trả Thiên Chúa điều thuộc Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
1. Ngay cả khi không nhận biết Ngài...
Thiên Chúa kêu gọi Kyrô vua Ba-Tư, vì Thiên Chúa yêu thương con dân Israel.
Thiên Chúa đã kêu gọi Kyrô ngay cả khi vua này không nhận biết Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã thắt lưng cho vua Kyrô, ngay cả khi vua "ngoại" này không nhận biết Ngài.
Qua vua Ba Tư, Thiên Chúa đã thực hiện bao điều lạ lùng; cụ thể là diễn tả tình yêu của Ngài đối với dân tộc Ngài thương yêu là Israel.
Thiên Chúa yêu thương và gọi đích danh từng người chúng ta, thậm chí ngay cả khi chúng ta không nhận biết Ngài. Và bao điều tốt đẹp chúng ta lãnh nhận, đó cũng là những hồng ân của Thiên Chúa đang thực hiện cho chúng ta qua trung gian nào đó!
2. Khi tôi cầu nguyện, tôi hằng nhớ đến anh em
Dân Thessalonica cũng là cớ để thánh Phaolô chúc tụng Thiên Chúa!
Sự kiện một người đón nhận Tin Mừng, đó là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa hiện diện và hồng ân của Ngài đang tỏ lộ.
Lòng tin, cậy, công việc bác ái mà dân Thessalonica đã thực hiện, là bằng chứng cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người, và cụ thể là dân Thessalonica.
Thiên Chúa yêu thương dân Thessalonica; cụ thể Thiên Chúa yêu thương dân Thessalonica qua thánh Phaolô. Dân Thessalonica luôn ở trong trái tim của Phaolô; rõ ràng và cụ thể qua việc thánh nhân luôn nhớ đến dân Thessalonica trong kinh nguyện.
3. Cái gì của Thiên Chúa thì trả cho Thiên Chúa
"Bọn người giả hình, các ngươi gài bẫy ta làm gì?"! Biệt phái giả hình! Tâm địa ác nhưng lại che dấu điều đó đi! Muốn gài bẫy Đức Yêsu để hại Ngài, nhưng lại làm như thể có điều không biết để xin Ngài chỉ dẫn!
Nếu người ta không làm điều xấu, thì người ta đã không giả hình.
Đừng làm hại ai! Khi làm hại người khác, hoặc muốn điều xấu cho người khác, thì chính mình trở thành người bất hạnh, xấu xa!
Thiên Chúa tạo dựng tất cả đều tốt đẹp!
Có cái gì không là công trình, không thuộc về Thiên Chúa?
Chúng ta là công trình của Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Ước gì chúng ta luôn ý thức mình thuộc về Thiên Chúa, để cả đời sống chúng ta là lời ca ngợi tôn vinh Thiên Chúa. Được vậy, chúng ta sẽ bình an hạnh phúc!
9. Thiên Chúa và Caesar
Các người biệt phái và thông luật không dám dùng võ lực để bắt Chúa, vì thế họ tính đến chuyện dùng mưu mẹo. Để đạt mục đích, họ tạo thêm vây cánh. Họ chọn một số đồ đệ sắc sảo, tức là những người theo học với các thầy ký lục hay tiến sĩ luật. Họ còn mời thêm những người thuộc phái Hêrôđê. Nhóm này theo một con đường chính trị rộng rãi, muốn đem văn minh Hy Lạp vào mọi cơ cấu xứ Palestin, vì thế họ rất được các nhà cầm quyền Lamã nể vì. Về phương diện tôn giáo họ theo phái Sađốc, từ lâu rồi họ liên kết với các nhà thông luật để chống lại Chúa Giêsu. Họ đặt một câu hỏi rất hóc búa: Có nên nộp thuế cho Caesar không?
Caesar là vua Lamã, tất cả xứ Palestin đều thuộc quyền Lamã, nên phải cúng tiền và đóng thuế. Người Do Thái tranh luận ráo riết liệu có nên nộp thuế cho người ngoại giáo chiếm quyền không? Nhận nộp thuế có khác chi phủ nhận quyền lợi tối cao của Thiên Chúa, là Đấng đã thương nhận cai tri dân Ngài. Nộp thuế có khác chi từ chối những đòi hỏi của quyền hành Đấng cứu thế. Đàng khác chính quyền Lamã rất nghi kỵ. Palestin còn vua nào khác ngoài Caesar.
Câu hỏi của họ là một con dao hai lưỡi. Nếu bảo rằng phải nộp thuế thì họ sẽ kết án là vong bản, còn nếu bảo rằng không thì sẽ bị kết án là phản loạn. Chúa Giêsu biết ý họ nên bảo: Hãy đưa cho Ta xem đồng tiền nộp thuế. Đó là đồng tiền được lưu hành, trên mặt có khắc chữ hoàng đế Caesar. Người Do Thái đã dùng đồng tiền này một cách không áy náy, như vậy là một việc đã rồi. Họ nhận Caesar là vua của họ. Vì thế Chúa bảo: Của Caesar hãy trả cho Caesar. Qua lời đó, Chúa dạy phải nộp thuế nhưng cùng một trật Chúa đòi cái thái độ ấy không được mâu thuẫn với quyền lợi của Thiên Chúa. Vì của Thiên Chúa phải trả cho Thiên Chúa. Và như vậy, Chúa phân biệt rõ ràng, một quyền của Thiên Chúa gọi là thần quyền và một quyền khác gọi là thế quyền. Cho đến nay nhiều người vẫn lẫn lộn hai thứ quyền đó: Tôn giáo với quê hương, thế quyền với thần quyền, nay Chúa phân tách rõ ràng không phải trái ngược nhau mà còn bổ túc cho nhau. Cả hai quyền cùng lo cho lợi ích con người. Thần quyền giúp ích cho phần hồn, thế quyền giúp ích cho phần xác. Xác hồn tuy hai mà là một. Con người chỉ là người khi có hồn và xác. Hai quyền đều chỉ phục vụ cho con người, hướng con người về với Thiên Chúa. Sự lẫn lộn rất tai hại, nhưng đồng thời sự thiếu thỏa hiệp cũng không kém tai hại, vì cả hai đều bởi Thiên Chúa và cùng đi tới một mục đích đó là lợi ích của con người.
Theo gương Chúa Giêsu, Giáo Hội ngày nay cũng muốn nói rõ những nhận định của mình về các vấn đề con người như: Văn hoá, kinh tế, xã hội, hoà bình. Trong hiến chế Vui mừng và Hy vọng, Công đồng Vatican II cũng đã xác quyết như thế. Là người Công giáo, chúng ta cũng cần có những nhận định đúng đắn về những sự kiện xảy ra theo tinh thần Phúc Âm, để có thể sử dụng khôn khéo và tích cực. Tuy nhiên cần noi theo gương Chúa Giêsu, luôn luôn là dấu chỉ của sự hiệp nhất và cố gắng dung hoà cũng như tạo được sự tốt đời đẹp đạo.
10. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Biệt phái là một nhóm tín đồ Do Thái giáo, thông thạo Lề Luật, giữ luật cách nhiệm nhặt theo mặt chữ, tự cho mình là thánh thiện, sống tách biệt với dân nghèo và dân ngoại. Họ tin linh hồn bất tử, tin có đời sau, tin các thiên thần. Nhưng cuộc sống của họ thường đối nghịch với Chúa Giêsu (x. Mc7,5; 8,11; 10,2; 12,13), có óc nệ luật (x. Lc 6,1-5), chi ly (x. Mt 23,23-24), tự cao tự đại (x. Mt 18, 11-12), và nhất là giả hình (x. Mt 23,3-6). Chính vì thế, nhiều lần Đức Giêsu đã tố cáo sự giả hình của họ, Ngài không ngần ngại ví họ như “mồ mả tô vôi” (x. Mt 23). (x. Tiểu ban Từ vựng – UBGLĐT/HĐGMVN)
Bản chất giả hình của những người Biệt phái lại một lần nữa được họ thể hiện một cách rõ nét trong đoạn Tin mừng hôm nay (x. Mt 22,15-21). Thật vậy, Thánh Mathêu cho chúng ta biết, họ dùng những lời ngon ngọt để nịnh hót, tâng bốc, ca ngợi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người ngay chính, căn cứ theo sự thật mà dạy bảo đường lối Thiên Chúa. Thầy chẳng cần để ý đến ai, vì Thầy không tây vị người nào.” (Mt 22,16). Nội dung của những lời nói này không có gì sai, thậm chí còn rất đúng với bản chất vốn có của Đức Giêsu. Giá như họ nói những lời đó với một tấm lòng yêu mến, tôn trọng và chân thật trong lòng thì tốt biết mấy. Nhưng thực tế miệng họ nói những lời ngon ngọt như vậy không phải phát xuất từ lòng yêu mến, tôn trọng và chân thật trong lòng mà để che đậy ác ý của họ từ bên trong. Bởi vì, sau khi nịnh hót, tâng bốc, ca ngợi Đức Giêsu, họ đưa ra một câu hỏi hết sức hóc búa để gài bẩy Ngài. Họ hỏi: “Xin Thầy nói cho chúng tôi biết Thầy nghĩ thế nào: Có được phép nộp thuế cho Cêsarê hay không?”(Mt 22,7). Đúng là“miệng nam mô bụng bồ dao găm.” Với câu hỏi này, nếu Đức Giêsu trả lời “có” thì đồng nghĩa với việc Ngài ủng hộ chính quyền ngoại bang Rôma đang đô hội Nước Do Thái lúc bấy giờ, mà chính họ được coi là những người ái quốc đang chống lại chính quyền đó. Cho nên, Đức Giêsu sẽ bị chính họ và dân chúng lên án là kẻ phản quốc. Ngài sẽ mất uy tín với dân chúng. Ngược lại, nếu Đức Giêsu trả lời “không” thì Ngài sẽ bị liệt vào kẻ phản động, chống đối chính quyền, bị nhóm Hêrôđê lên án. Bởi vì nhóm Hêrôđê là những kẻ “cọng rắn cắn gà nhà”, họ ủng hộ chính quyền Rôma để trục lợi. Cho nên, chúng ta mới hiểu vì sao bình thường giữa nhóm Biệt phái và nhóm Hêrôđê hay chống đối nhau, thế mà hôm nay họ lại được nhóm Biệt phái mời đến để hợp tác chống lại Đức Giêsu.
Như thế, họ đã đưa Đức Giêsu vào cái thế “lượng đao luận”, nghĩa là trả lời cách nào cũng mắc bẫy của họ. Nhưng “vỏ quýt dày có móng tay nhọn”. Sau khi nghe những lời tâng bốc và câu hỏi của họ đặt ra, Đức Giêsu đã tố cáo ý đồ thâm độc của họ và Ngài đưa ra giải pháp của mình, Ngài nói: “Bọn người giả hình, các ngươi gài bẫy Ta làm gì? Hãy đưa Ta xem đồng tiền nộp thuế”. Họ đưa cho Người một đồng bạc. Và Chúa Giêsu hỏi họ: “Hình tượng và danh hiệu này là của ai?” Họ thưa rằng: “Của Cêsarê”. Bấy giờ Người bảo họ rằng: “Vậy, cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa.” (Mt 22,18-21).
Câu trả lời của Đức Giêsu khiến họ chưng hửng, nhưng qua câu trả lời này cũng dạy cho họ và chúng ta một bài học: Mỗi người đều có bổn phận đối với Tổ quốc và đối với Thiên Chúa.
1. Bổn phận đối với Thiên Chúa
- Chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa: Người kitô hữu tin Thiên Chúa là Cha, là Đấng dựng nên, cứu chuộc, quan phòng và muốn mọi người được hưởng hạnh phúc Nước Trời. Kinh thánh cũng dạy mọi người phải biết Kính sợ, yêu mến và biết ơn Thiên Chúa: Thật vậy, con người phải biết kính sợ Thiên Chúa: “Hỡi Israel, nào Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, có đòi hỏi anh em điều gì khác đâu, ngoài việc phải kính sợ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em.” (x. Đnl 10,12); Con người phải biết yêu mến Thiên Chúa, yêu mến bằng cách tuân giữ các giới răn và lệnh truyền của Ngài: “Anh em phải đi theo mọi đường lối của Người, yêu mến phụng thờ Người hết lòng, hết dạ, giữ các mệnh lệnh của Đức Chúa và các thánh chỉ của Người mà tôi truyền cho anh em hôm nay, để anh em được hạnh phúc.” (x. Đnl 10,12-13); Con người phải biêt tạ ơn Thiên Chúa: “Hãy tạ ơn Thiên Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.” (Tv 118,1); “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh”(1Tx 5,18); “Chúng tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa” (x. 1Tx 2,13).
- Trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài: Thiên Chúa ban cho con người có tự do, nhưng con người đã lợi dụng tự do để cướp đi quyền làm chủ của Thiên Chúa: Con người cướp đi quyền làm chủ sự sống của Thiên Chúa để giết chết bao nhiêu mạng người: Vụ xả súng mới đây tại bang Las Vegas của Mỹ đã giết chết 59 người; vấn đề phá thai, an tử hằng năm giết chết hàng triệu người vô tội; Con người cướp đi quyền làm chủ thiên nhiên của Thiên Chúa: nạn phá rừng gây ra lũ lụt, dùng thuốc sâu, chất hóa học gây ô nhiễm môi trường; Con người cướp đi quyền làm chủ lương tâm, không còn nghe theo tiếng lương tâm để làm lành lánh dữ nên gây ra biết bao nhiêu tội ác; Con người cướp đi quyền sở hữu của Thiên Chúa qua sự quản lý của Giáo hội về các vấn đề như: đất đai, cơ sở tôn giáo; Người của Thiên Chúa như các giám mục, linh mục, tu sỹ bị hành hung, đánh đập, giết chết nhiều nơi trên thế giới…Đức Giêsu nói: “Hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa” (x. Mt 22,21).
2. Bổn phận đối với Tổ quốc
Mỗi người đều có một tổ quốc, có quyền công dân. Đi liền với quyền lợi là bổn phận đối với tổ quốc của mình. Bổn phận trên hết và trước hết là nộp những khoản thuế hợp pháp cho nhà nước. Thời Chúa Giêsu, người Do thái bị đế quốc Rôma đô hộ, nên họ đang tiêu dùng tiền Rôma. Vì tiêu dùng tiền của Rôma nên đương nhiên họ phải nộp thuế cho đế quốc Rôma. Đây là một hành động hợp lý mang tính xã hội. Chính gia đình Thánh gia và cụ thể là chính Đức Giêsu cũng đã từng chu toàn nghĩa vụ công dân của mình. Kinh thánh cho biết: Thánh Giuse và Mẹ Maria đã vâng lệnh nhà vua trở về Bêlem để kê khai hộ khẩu (x. Lc 2,4); Đức Giêsu đã sai Phêrô đi câu cả để lấy tiền nộp thuế cho Ngài và cho Phêrô (x. Mt 17,26); dù biết lệnh bất công nhưng Ngài vẫn để cho chính quyền bắt Ngài (x. Lc 23,22). Thánh Phaolô dạy: “Anh em nợ ai cái gì, thì hãy trả cho người ta cái đó: nộp sưu cho người đòi sưu, trả thuế cho người đòi thuế, sợ người phải sợ, kính người phải kính.” (Rm13,7)
Ngoài ra, nếu chính quyền là hợp pháp và làm đúng với nghĩa vụ của họ thì buộc lòng người dân phải vâng phục và kính nể. Thánh Phêrô đã từng bảo các kitô hữu rằng: “Hãy tôn trọng mọi người, hãy yêu thương anh em, hãy kính sợ Thiên Chúa, hãy tôn trọng nhà vua.” (1Pr 2,17). Thánh Phaolô thì bảo các Kitô hữu: “Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập.” (Rm 13,1). Chính trong bài đọc thứ nhất cho chúng ta biết, Thiên Chúa đã dùng vua Cyrô để giải phóng dân Ngài, nên việc làm của vua Cyrô chính là đường lối của Thiên Chúa. Vì vậy, dân Chúa phải tùng phục nhà vua.
3. Phải ưu tiên bổn phận đối với Thiên Chúa
Nếu những khi bổn phận đối với Tổ quốc đi ngược lại với bổn phận đối với Thiên Chúa thì phải ưu tiên bổn phận đối với Thiên Chúa hơn. Bởi vì, người kitô hữu không thể làm những điều trái với giáo huấn của Thiên Chúa, của Đức Giêsu và kể cả giáo huấn của Giáo hội. Chính Thánh Phêrô và các Tông đồ đã khẳng định rằng: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29). Câu chuyện của Thánh Thomas More sau đây là mẫu gương cho mỗi người kitô hữu chúng ta:
Vua Henry VIII nước Anh đã kết hôn hợp thức với bà Catherine d’Aragon, nhưng ông nại đến tòa thánh Rôma xin hủy bỏ cuộc hôn nhân đó. Toà thánh đã từ chối. Henry liền tự mình giải quyết vấn đề và tái kết hôn. Thế là ông ta ra lệnh cho bạn bè và các chức sắc ký vào một văn bản tuyên bố đồng ý nhìn nhận hành động của ông là đứng đắn. Nhiều bạn bè của More đã ký vào, nhưng More thì từ chối. Henry yêu cầu More ký vào, nếu không sẽ bị bắt giam và xử tội tạo phản theo luật nhà nước. More vẫn khăng khăng từ chối. Ngài bị giằng co giữa hai bổn phận: một đối với Chúa, một đối với Tổ quốc. Khi chúng xung đột nhau, thì More không còn chọn lựa nào ngoài sự trung tín với luật Chúa. (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm A, tr.305).
Tóm lại, mỗi người kitô hữu có hai bổn phận quan trọng phải chu toàn, đó là bổn phận đối với Thiên Chúa và bổn phận đối với Tổ quốc. Nhưng khi phải lựa chọn một trong hai thì cần ưu tiên bổn phẩn đối với Thiên Chúa hơn. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết tránh thói giả bình của Biệt phái và sự thông đồng ác ý của nhóm Hêrôđê. Đồng thời, xin Chúa giúp chúng ta luôn biết chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa và bổn phận đối với Tổ quốc. Amen.
11. Yêu nên ghen! – Anmai, CSsR
Một đứa bé ghen với em mình khi bố mẹ đều dành hết tình cảm cho thằng cu Tí mới sinh. Một em bé khóc thét lên khi mẹ bế một em bé khác... Lớn hơn một chút là ghen với đứa bạn học cùng lớp khi nó được thầy cô quý mến hơn hay được nhiều bạn bè mến mộ hơn. Khi đến tuổi trưởng thành rồi thì ghen với người yêu với người bạn đời khi họ có biểu hiện không chung thủy. Thậm chí khi làm cha làm mẹ rồi họ vẫn còn ghen. Ghen với đứa con nhỏ mới sinh khi "thằng nhóc" dành hết sự quan tâm của vợ, ghen... với con dâu, nhiều bà mẹ có cảm giác mất con trai.
Ghen, một "phẩm chất" cố hữu của tình yêu đôi lứa, một điều nghe đã quá đỗi bình thường nhưng lại không hề cũ trong mọi thời đại.
"Phẩm chất" này đã tồn tại lâu đời, như một thực tại khách quan trong ý thức hệ của con người từ lúc sinh ra và có thể còn tồn tại mãi mãi cùng với cuộc sống.
Bản chất của tình yêu là không thể chia sẻ. Bất cứ một sự chia sẻ nào cũng làm cho tình yêu trở nên không trọn vẹn và mất đi sự thiêng liêng của thứ vốn có tính bền vững vĩnh cửu trong đời sống tinh thần của con người.
Khi đã đem lòng yêu ai, người ta chỉ muốn người ấy chỉ là của riêng mình. Một cách tuyệt đối. Theo đó, những người yêu chưa hết mình, theo kiểu nửa vời hoặc những kẻ tính toán, hẳn nhiên không thể có cái "ghen nồng nàn", đáng yêu, đẹp đẽ như một người có sự trao gửi tuyệt đối về tư tuởng và hành động đối với người mình yêu.
Lời ngôn sứ Isaia mà chúng ta vừa nghe đã gợi lại cho chúng ta về hình ảnh của một Thiên Chúa ghen tuông. "Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác; chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ Ta. Dù ngươi không biết Ta, Ta đã trang bị cho ngươi đầy đủ, để từ Đông sang Tây, thiên hạ biết rằng chẳng có thần nào khác, ngoại trừ Ta. Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác".
Lời ngôn sứ ấy đã tả về một Thiên Chúa phải nói là quá ghen tương "chẳng có thần nào khác, ngoại trừ Ta". Nếu ai nghe Đức Chúa nói câu này cũng sẽ rất sốc. May mà câu nói này nó đặt trong bản văn Kinh Thánh và có đầu có đuôi, có nguyên nhân chứ không Đức Chúa cũng bị các phương tiện truyền thông cắt đầu cắt đuôi và sẽ "cảnh cáo" là người không xứng đáng là công dân Nước Trời chứ huống hồ gì là Chúa của Nước Trời. Mà cũng đúng thôi, nghe qua sốc thật. Nhưng, chúng ta hãy bình tình, ngồi lại với nhau đọc lại, nhìn lại lịch sử cứu độ mà Thiên Chúa thực thi cho dân Ngài thì chúng ta sẽ hiểu rõ văn mạch của đoạn này. Cũng thế! nếu chúng ta đọc lại toàn bộ bản văn phát biểu của Đức Tổng Giuse Ngô Quang Kiệt, tâm tình, thao thức của Ngài, chúng ta sẽ hiểu được Ngài muốn nói gì.
Tại sao Đức Chúa lại phán như thế? Không phải tự nhiên mà Ngài phán như thế! Chúng ta, khi nhìn lại lịch sử cứu độ thì chúng ta thấy Đức Chúa có ý và có lý chứ không phải là không không mà Đức Chúa nói như thế.
Từ thuở tạo thiên lập địa, Thiên Chúa đã tạo nên trời đất muôn vật, tạo nên con người có nam có nữ và Ngài cũng không quên thiết lập mối quan hệ, mối tương quan và nói đúng hơn là mối tình với con người. Thế nhưng, chẳng bao lâu thì ông bà nguyên tổ đã sa ngã, đã phạm tội và đã đánh mất đi cái tình yêu tinh tuyền tự ban đầu. Và cứ tiếp tục như thế, Thiên Chúa đã yêu thương con người nhưng hình như con người cứ cố tình ngoảnh mặt làm ngơ và khước từ cái tình yêu ấy. Không từ bỏ, không đoạn tuyệt, Thiên Chúa vẫn một lòng chờ đợi lòng chai dạ đá của con người sẽ thay đổi nhưng chờ mãi vẫn không thấy.
Qua miệng của các ngôn sứ, Thiên Chúa đã nhiều lần ngon ngọt có, răn đe có nhưng lòng dạ của con người cứ trơ trơ ra vậy.
Qua Môsê, người trung gian giữa Thiên Chúa và con người, Thiên Chúa đã phán: "Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta. Ngươi không được tạc tượng vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ. Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, là một vị thần ghen tương. Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông. Còn với những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời. Ngươi không được dùng danh Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi một cách bất xứng, vì Thiên Chúa không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng. Ngươi hãy giữ ngày sa-bát, mà coi đó là ngày thánh, như Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã truyền cho ngươi. (Tl 6,6-12)
Hơn một lần Môsê đã cảnh báo: "Nếu các ngươi thực sự vâng nghe những mệnh lệnh Ta truyền cho các ngươi hôm nay, mà yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, và phụng thờ Người hết lòng hết dạ, thì Ta sẽ ban mưa cho đất các ngươi đúng mùa, mưa đầu mùa và mưa cuối mùa, và các ngươi sẽ thu hoạch lúa mì, rượu mới và dầu tươi của các ngươi. Ta sẽ cho cỏ mọc trong cánh đồng của các ngươi, cho súc vật của các ngươi ăn. Các ngươi sẽ được ăn và được no nê. Anh em hãy ý tứ kẻo lòng anh em bị quyến rũ mà bỏ đi phụng thờ những thần khác và sụp xuống lạy chúng, vì Đức Chúa sẽ nổi cơn thịnh nộ với anh em, Người sẽ đóng cửa trời: sẽ chẳng còn mưa, đất sẽ không còn trổ sinh hoa trái, và anh em sẽ mau chóng biến khỏi miền đất tốt tươi mà Đức Chúa ban cho anh em. Những lời tôi nói đây, anh em phải ghi lòng tạc dạ, phải buộc vào tay làm dấu, mang trên trán làm phù hiệu. Anh em phải dạy những lời ấy cho con cái, mà nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy. Anh em phải viết lên khung cửa nhà anh em và lên cửa thành của anh em. Như vậy, bao lâu trời còn che đất, anh em và con cái anh em còn được sống trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã thề với cha ông anh em rằng Người sẽ ban cho các ngài.". (Tl 11,13-21).
Thiên Chúa, vì lẽ quá yêu thương con người nên Ngài đã lập một giao ước tình yêu với con người, thế nhưng con người cứ ngoảnh mặt đi với tình yêu ấy.
Chắc có lẽ chúng ta không thể nào quên được cái sự kiện khi mà Môsê lên núi để đàm đạo với Chúa thì ở dưới núi, dân chúng đã đúc bò vàng... chưa hết, dân chúng sau này còn đi theo thần ngoại bang để rồi ngày hôm nay, chúng ta được nghe Isaia cảnh báo.
Tưởng chừng Cựu Ước là kinh nghiệm lớn chuyện tình giữa con người và Thiên Chúa nhưng con người thời Tân Ước cũng thế! Cũng chạy theo không biết bao nhiêu là thần khác để rồi ngày hôm nay khi những người Pharisiêu và những người muốn Chúa mắc bẫy đã chửi thẳng vào mặt họ: "Hỡi những kẻ giả hình! Người còn nói với họ: "của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa." Nói như thế, Ngài muốn nói với Pharisiêu, những người thử Ngài và thậm chí ngay cả những người chúng ta rằng những gì của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa.
Vâng! Chúng ta là con cái của Thiên Chúa, chúng ta phải sống sao cho ra con cái Thiên Chúa chứ đừng sống theo kiểu người đời. Thánh Phaolô hơn một lần đã nhắc nhở chúng ta: "Anh em đừng có rập khuôn theo đời này! Chúng ta, hôm nay có cơ hội để nhìn lại mình xem chúng ta sống như thế nào? Chúng ta có sống với tư cách là con cái Thiên Chúa hay không hay là chúng ta sống theo tư cách của người đời.
Chúng ta phải nhớ một điều rằng, qua trang sách Isaia Thiên Chúa có cái thái độ gì đó mà ta nôm na gọi là ghen! Tại sao ghen! Tại vì yêu quá nên ghen và khi con người quay lưng thì Thiên Chúa cảnh báo.
"Chúa có tình yêu cao vời vợi,
tình vượt cao hơn ngàn vì sao
mãi mãi luôn bao la, muôn đời con cảm tạ tình Cha
Mãi mãi Chúa là cha nhân ái, là mẹ hiền nuôi sống con".
Chúng ta vẫn thường hát như vậy nhưng tình ta và tình Chúa như thế nào? Ta có khá hơn những người dân trong thời Cựu Ước, chúng ta có khá hơn luật sĩ, biệt phái thời Tân Ước hay không? Hình như nó chẳng khá hơn mà nó còn tệ hơn nữa. Chúa thường hay trách móc biệt phái và luật sĩ nhưng thử hỏi chúng ta có giữ luật Chúa bằng họ không? Nếu so sánh thì chúng ta khác quá xa. Tình Chúa thì vẫn còn còn tình của ta với Chúa nó nhạt nhạt làm sao đấy.
Tình ta và Chúa đã nhạt thì tình con người làm gì mà mặn được?
Nhìn vào thực trạng đời sống mỗi người chúng ta ngày hôm nay nó làm sao đó để rồi cuộc đời nó cũng làm sao đó. Xã hội nó làm sao đó, gia đình nó làm sao đó, thành viên trong gia đình nó làm sao đó để rồi cái tình, cái nghĩa giữa con người ngày hôm nay nó cũng không được đong đầy. Chúng ta thấy nó nhợt nhạt nhưng chúng ta cứ lờ đi, chúng ta không nhắc nhở nhau để sống với nhau chung tình chung thuỷ hơn.
Thật sự ra mà nói, có yêu mới có ghen chứ chẳng ai dại đi ghen khi không yêu. Chúa quá yêu nên Chúa mới ghen và nhắc chúng ta không có thần nào khác ngoài Chúa. Chúng ta ngày hôm nay thì quá sức tưởng tượng, chúng ta chạy theo đủ thứ thần hết: tiền, tình, dục, danh, vọng... chúng ta làm thế làm sao mà Chúa không ghen được?
Còn gia đình, nó cứ nhợt nhợt với nhau làm sao đó. Chúng ta nhìn lại mình, xem mình có yêu chồng, yêu vợ, yêu con cái, yêu thành viên trong gia đình, trong cộng đoàn mình chưa?
Nguyện xin Chúa là vua của tình yêu đổ đầy con tim chúng ta tình yêu nồng nàn để chúng ta yêu Chúa, yêu anh chị em đồng loại hơn.
12. Thiên Chúa - Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Thiên Chúa đã mạc khải cho dân biết về thần tính của Người, tiên tri Isaia ghi: Ta là Chúa và chẳng còn Chúa nào khác: Ngoài Ta ra không có Thiên Chúa nào nữa, Ta đã thắt lưng cho ngươi khi ngươi không nhận biết Ta (Is 45, 5). Không phải tự nhiên mà loài người có thể nhận biết rõ về Thiên Chúa. Trải qua muôn thế hệ, con người vẫn còn lần mò đi tìm kiếm về nguồn chân, thiện, mỹ. Trên thế giới còn rất nhiều người chưa nhận biết Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa. Khái niệm về một Đấng Tối Cao hay Thượng Đế rất là đa dạng. Mỗi tôn giáo có các quan niệm khác nhau về Thượng Đế. Các niềm tin tôn giáo cổ thời lưu lại cho chúng ta một kho tàng quí báu trong công việc suy tư tìm kiếm nguồn cội. Hình như có bao nhiêu tôn giáo là có bấy nhiêu cách giải thích về sự hiện hữu của Tạo Hóa.
Niềm tin của con người rất phức tạp và đa dạng, chúng ta có thể phân chia niềm tin làm nhiều ngành: Niềm tin đa thần (Polytheism), niềm tin Phiếm Thần (Pantheism) và niềm tin Độc Thần (Monotheism), còn gọi là Nhất Thần Giáo. Tín ngưỡng Đa Thần phát sinh từ lòng khao khát, sự sợ hãi các hiện tượng thiên nhiên và những cảm tính về một thế giới linh thiêng nào đó. Niềm tin Đa Thần cũng có thể bắt nguồn từ truyện thần thoại miêu tả những nhân vật có hình tướng lạ thường, phi thường và siêu phàm. Trong lịch sử cổ đại, đa số các nền văn hóa đặt niềm tin vào nhiều thần linh và quyền lực thiên nhiên. Các vị thần được con người tôn phong danh hiệu. Họ tin rằng những vị thần này cai quản và độ trì cho con người trong những lãnh vực khác nhau trong đời sống. Những người thuộc Đa Thần Giáo không có khái niệm về một vị thần tối cao, duy nhất tự hữu và hằng hữu.
Độc Thần Giáo là niềm tin vào một Đấng Tối Cao duy nhất. Niềm tin khởi nguồn từ tổ phụ Abraham được xem là tôn giáo Độc Thần. Họ tin rằng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất và con người phải phụng thờ Ngài. Trong Kinh Thánh Cựu Ước, nguồn kiến thức chủ yếu là độc thần giáo. Niềm tin này được chính Thiên Chúa mạc khải cho cha ông, các tổ phụ, các tiên tri và dân riêng. Đạo Do-thái Giáo đặt căn bản niềm tin chủ yếu về Độc Thần. Người Do-thái dùng từ Giavê, Elohim, Chúa, Thiên Chúa, nhưng họ không chấp nhận Đấng Messia (Chúa Giêsu) là Chúa. Chúng ta phân biệt một chút: Chúa Giavê là niềm tin của Do-thái Giáo, Allah của Hồi Giáo và Thiên Chúa (Ba Ngôi) của Kitô Giáo. Đạo Hồi Giáo trình bày xác tín về độc thần giáo. Họ đặt trọn niềm tin vào Đấng Allah duy nhất và qua một tiên tri là Mohamad. Tính duy nhất của Đấng Allah là giáo lý căn cốt của niềm tin.
Kitô Giáo tin vào Thiên Chúa tạo dựng toàn thể vũ trụ và tiếp tục bảo tồn vũ trụ trong mọi nơi và mọi lúc. Khái niệm miêu tả Thiên Chúa là một thực thể tối cao, nguyên nhân đệ nhất, vĩnh tồn và siêu nhiên. Chúng ta đọc trong sách Sáng Thế Ký: Thiên Chúa phán: Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm chủ các biển, chim trời, gia súc, tất cả mặt đất và mọi giống bò dưới đất (Stk 1, 26). Giải thích của Kitô Giáo, dựa vào Lời Chúa mạc khải, các giáo phụ lập luận về giáo lý: Thiên Chúa phán: ‘Chúng Ta…’, nói về Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi riêng biệt: Chúa Cha tạo dựng, Chúa Con cứu chuộc và Chúa Thánh Thần thánh hóa.
Chúng ta tìm hiểu sơ qua về quan niệm của những người hữu thần và vô thần. Thuyết Hữu Thần (Theism) cho rằng Thiên Chúa vừa siêu nhiên và vừa hiện hữu nội tại. Thần Giáo (Deism) miêu tả Thiên Chúa siêu nhiên và là một vị thần mơ hồ và xa cách. Vô Thần (Atheism) không tin có Thượng Đế hoặc thiếu niềm tin rằng: Có Thượng Đế, đồng nghĩa với Phi Thần Luận (Nontheism). Có khoảng 2% dân số thế giới là người vô thần. Người Vô Thần có thái độ hoài nghi tất cả những gì thuộc tôn giáo và tín ngưỡng. Họ đòi hỏi mọi thứ phải có bằng chứng thực nghiệm và không tin có sự tồn tại của thần thánh. Thuyết vô thần khẳng định quan điểm thần thánh không tồn tại và phủ nhận mọi thứ siêu nhiên. Đạo Phật Giáo (Buddhism) và Ấn Độ giáo (Hinduism) không đòi hỏi niềm tin vào một vị Thiên Chúa cá thể. Con người chưa có sự thống nhất về các khái niệm vô thần.
Dân Do-thái sống giữa một thế giới đa thần. Giữa muôn hình vạn trạng của các niềm tin và văn hóa, họ đã dễ dàng bị nhiễm những tư tưởng về cách sống tự nhiên và tự do phóng khoáng. Nhiều khi họ chạy theo các dân tộc chung quanh thờ kính những vị thần mà họ không hiểu biết. Thí dụ: thần Baal, có mắt mà không nhìn, có tai mà không nghe và cũng chẳng cảm thông được gì. Các thần chỉ là gỗ đá vô cảm, vô tài và vô năng. Thiên Chúa yêu thương dân mà Ngài đã chọn. Chúa sai các tiên tri để hướng dẫn và qui tụ dân về một mối cùng tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất. Lịch sử dân Do-thái là lịch sử ơn cứu độ được Thiên Chúa mạc khải: Để các kẻ từ đông sang tây nhận biết rằng ngoài Ta ra không có ai khác: Ta là Chúa và chẳng có chúa nào khác (Is 45, 6).
Bài phúc âm hôm nay, kể lại câu chuyện các nhà lãnh đạo tôn giáo muốn gài bẫy bắt bẻ Chúa Giêsu cả về đạo lẫn đời liên quan vấn đề nộp thuế: Khi ấy, các người Biệt Phái họp nhau lại bàn mưu để bắt bẻ Chúa Giêsu trong lời nói (Mt 22, 15). Chúa Giêsu thấu tỏ sự lật lừa không ngay thẳng trong lòng của họ. Chúa Giêsu đã trả lời cho họ một cách khôn ngoan tuyệt đối: Vậy cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa (Mt 22, 21). Câu trả lời không chỉ cho những người Biệt Phái ngày xa xưa, nhưng cho chính chúng ta ngày hôm nay đây. Chỉ có hai đối tượng, Thiên Chúa và con người. Vậy cái gì là của Thiên Chúa? Nếu xét cho tận cùng, tất cả mọi sự đều thuộc về Thiên Chúa. Từ sự sống, khả năng, thời gian, không gian, nguồn vốn và cả con người đều phát sinh từ Thiên Chúa. Chúng ta thuộc về Chúa trọn vẹn cả xác lẫn hồn. Cái gì là của Cêsarê, có nghĩa là của con người trần thế? Chúng ta mắc nợ nhau vì sự hỗ tương. Chúng ta sống là sống cùng và sống với người khác. Chúng ta có trách nhiệm đối với xã hội, với chính quyền, với quốc gia dân tộc và với nhau. Đóng thuế là một bổn phận và nghĩa vụ của người công dân để giúp bảo trì cuộc sống an sinh xã hội.
Chúng ta sống trên đời để tìm nhận biết thờ phượng Thiên Chúa là Cha chúng ta và yêu thương mọi người như anh em để cùng được chung hưởng hạnh phúc đời này và đời sau. Con người là một loài thụ tạo cao quí nhất, nhưng không thể sống độc lập một mình. Thượng đế an bài mọi sự cách lạ lùng trong vũ trụ. Muốn sinh tồn, con người phải gắn kết với môi trường thiên nhiên chung quanh. Tâm linh hướng về Đấng Tối Cao để thờ lạy và cảm tạ. Thánh Phaolô đã cầu nguyện trong tâm tình tạ ơn: Tôi hằng tạ ơn Thiên Chúa cho mọi người anh em, trong khi tôi cầu nguyện, tôi hằng nhớ đến anh em không ngừng (1Thess 1, 2). Thiên Chúa là tình yêu. Vì yêu, Thiên Chúa đã chia sẻ sự sống và tạo dựng con người giống hình ảnh của Chúa. Giữa Thiên Chúa và loài người có một sợi giây liên kết sâu đậm trong tình yêu: Hỡi anh em là những kẻ được Thiên Chúa yêu mến, tôi từng biết anh em được Thiên Chúa yêu mến (1Thess 1, 4).
Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Xin Chúa mở lòng mở trí để chúng con biết trả lại cho Chúa những gì thuộc về Chúa. Chúng con tạ ơn Thiên Chúa đến muôn ngàn đời.
13. Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa
Cùng đích của cuộc sống con người là ăn tiệc cưới trong Nước Trời. Muốn ăn cưới thì phải sắm áo cưới. Trước tiên là "trả về cho Thiên Chúa" cái gì là của Thiên Chúa, là làm trọn bổn phận với Thiên Chúa. Là công bình. Là sắm áo cưới.
Vài điểm CHÚ GIẢI
- Có được phép nộp thuế cho Xêxa không? Người Do thái chống lại Rôma không nộp thuế. Nếu Đức Giêsu nói "nộp" là đi ngược, là có tội với dân tộc. Không nộp thì chóng lại Rôma là phản động. Câu hỏi khó. Nhưng không khó với Đức Giêsu.
- Cho ta xem đồng tiền nộp thuế....hình và huy hiệu là của ai? Họ đáp: của Xêxa. Người liền bảo họ: Của Xêxa hãy trả cho Xexa, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. Rất đơn giản. Là phép công bình. Không ai bắt bẻ được.
Bài Phúc Âm hôm nay chỉ nhằm một ý thôi: Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. Là công bình. Nhưng người ta không công bình đối với Thiên Chúa. Họ giết người con thừa tự để cướp vườn nho. Mọi sự thành khó.
Của Xêxa trả cho Xêxa. Xêxa có gì? Có chăng là tên và huy hiệu. Tên và huy hiệu là của Xêxa thì để cho ông. Còn mạng sống và mọi sự của ông đều là của Chúa ban cho. Dù ông đã kiêu căng, ngạo mạng xưng mình là Augustô, là thần thánh tuyệt đối, loại bỏ Thiên Chúa, tôn mình lên thay thế Thiên Chúa. Rõ ràng là không của ông vì ông không làm chủ, không giữ được dù là một tí xíu. Thực tế chứng minh là ông đã mất tất cả dù ông đã hết sức cố gắng bám lấy để giữ lại. Nhưng lực bất tòng tâm. Caligula, con nuôi ông đã ám sát ông và đã tước lấy tất cả.
Còn Thiên Chúa. Người là Chủ Tể thật sự, tồn tại mãi mãi. Số phận của bao nhiêu Xêxa cũng đều vậy. Không khác tí nào, nói lên sự thật "Thiên Chúa mới là Chủ Tể" dù ai muốn xưng gì thì xưng nhưng đều là "rởm". Vậy mà người ta vẫn thích xưng mình nầy nọ.
Chúng ta tưởng là chúng ta có, chúng ta làm chủ! Nhưng hỏi: chúng ta có làm chủ mạng sống mình không? Sống chết không tuỳ chúng ta. Mọi cái chúng ta có đều không thựôc quyền làm chủ của chúng ta, còn mất lúc nào chúng ta không nắm chắc. Trời cho không thấy trời lấy chẳng hay mà.
Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa. Là lẽ công bình: Của ai thì trả cho nấy. Người ta không nhìn nhận trật tự nầy mới sinh rối.
Voltaire mỗi khi viết đều ký tên "EI" (Écrasons l"Infâme). Nhưng chính y bị tiêu diệt. Là bằng chứng cụ thể "không trả cho Thiên Chúa của Thiên Chúa" thì phải vậy.
Người ta chối bỏ Thiên Chúa để khỏi trả cho Thiên Chúa "của" Thiên Chúa.
Còn những người nhìn nhận Thiên Chúa thì chỉ biết xin thêm chứ không biết trả.
Cụ thể trả gì?
Thí dụ Chúa nhật, ngày của Chúa thì phải trả cho Chúa. Nhưng người ta có chịu đâu. Có trả thì trả bậy một chút vì mắc cả trăm thứ mắc! Mắc coi nhà, mắc hội phụ huynh, mắc phụ bầu cử... cứ mắc rồi "thưa cha con có bỏ Chúa nhật", xong, các lễ trọng, chầu MTC, kinh hôm kinh mai, học giáo lý, học kinh thánh, tham gia hội đoàn, quét nhà thờ, phụ việc nhà thờ, cho Chúa ăn, cho Chúa uống, việc bác ái,... hành hương...
Có làm mới có công và có lý do để Chúa thưởng cho công bằng.
Những người đi tu hiến cả cuộc đời cho Chúa là trả nhiều nhất. Giáo dân thường thì làm quới chức, trùm, câu để nhiều thì giờ giúp việc nhà thờ...
Không biết trả cho Chúa thì Chúa không cho thêm mà còn lấy lại cái đã cho.
Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa.
14. Nộp thuế
Thời bấy giờ, dân Do Thái đang sống dưới ách thống trị của đế quốc Lamã. Có những kẻ cộng tác với đế quốc, thì ủng hộ việc nộp thuế. Nhưng cũng có những người muốn lật đổ ách thống trị, thì chống đối việc nộp thuế, bởi vì làm như thế chẳng khác nào nối giáo cho giặc.
Trong một bối cảnh như vậy, câu hỏi có nên nộp thuế cho César hay không, quả là một cái bẫy. Trả lời là có thì mất lòng dân. Còn trả lời là không thì sẽ bị kết án là chống đối nhà nước. Trước hết Chúa Giêsu bảo họ đưa cho mình xem đồng tiền La mã. Hành động này đẩy họ vào cái thế phải trả lời cho chính câu hỏi đã nêu ra, bởi vì mang trong người đồng bạc La mã là chấp nhận những sự ràng buộc của La mã. Tiếp đến hình và chữ ký trên đồng tiền này đã đem lại cho Chúa Giêsu một câu trả lời đầy lý tưởng: Của César hay trả cho César, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa.
Với câu trả lời này, Chúa Giêsu không nề nhằm mục đích đưa ra nền tảng cho một học thuyết chính trị, cũng không hề có ý định tách biệt thế giới làm hai. Một thuộc về César, một thuộc vê Thiên Chúa. Ngài để việc này tuỳ cá nhân quyết định vì mỗi người phải giải quyết về những đối nghịch giữa Thiên Chúa và trần gian.
Là người Kitô hữu, chúng ta có hai quyền công dân đi đôi với nhau, sở dĩ như vậy vì chúng ta là công dân của hai thế giới, đó là thế giới trần gian và thế giới thiên quốc. Như vậy, chúng ta phải tôn trọng những đòi buộc của mỗi bên. Chính vì thế mà trong bức thư gởi tín hữu Rôma, thánh Phaolô đã khuyên nhủ: Hãy vâng phục các vị cầm quyền, hãy nộp cho họ những gì chúng ta mắc nợ. Mong rằng giữa hai quyền công dân này không bao giờ xảy ra những xung đột, nhưng luôn đi song song và bổ túc cho nhau, vì đạo chỉ đẹp khi ở trong đời và đời chỉ tốt khi ở trong đạo.
Còn nếu chẳng may xảy ra xung đột thì người Kitô hữu phải biết cách giải quyết: Vâng phục Thiên Chúa hơn vâng phục loài người. Đó là cách thức đã từng được người Kitô hữu giải quyết trong dòng lịch sử, mỗi khi có những cấm cách và bách hại xảy đến.
Vua Henri VIII nước Anh đã kết hôn hợp pháp, nhưng rồi ông xin Đức Giáo Hoàng huỷ bỏ cuộc hôn nhân hợp pháp ấy. Vì không có nền tảng chính đáng, Đức Giáo Hoàng đã từ chối. Và thế là ông ra lệnh cho bạn bè và các chức sắc ký vào một bản tuyên bố đồng ý chấp nhận hành động của ông. Nhiều người đã ký, nhưng Thomas More thì từ chối. Nhà vua yêu cầu Thomas More ý vào nếu không sẽ bị tống giam và khép vào tội phản loạn, nhưng Thomas More vẫn khăng khăng từ chối. Ngài bị giằng co giữa hai bổn phận. Một đối với Thiên Chúa và một đối với nhà vua. Và khi chúng chống đối nhau, ngài không còn một lựa chọn nào khác ngoài việc trung thành với lề luật của Thiên Chúa.
Bởi vì, Thiên Chúa phải chiếm chỗ nhất, phải chiếm địa vị số một trong tâm hồn và trong cuộc sống của chúng ta.
15. Trên đầu viễn vọng kính
(Suy niệm của Thiên Phúc – Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)
Vua nước Đức Frederic tự cho mình là học rộng tài cao, lấy làm hãnh diện đã khám phá ra một phương pháp mới, khả dĩ làm cho nền kinh tế quốc gia phát triển mạnh. Ông ngồi trong phòng tính đi tính lại: cứ mỗi năm chim sẻ ăn hết 2 triệu thùng thóc trên toàn lãnh thổ. Vì thế, ông truyền phát động chiến dịch bài sẻ. Giết được một con chim là được một phần thưởng.
Toàn dân hưởng ứng nhiệu liệt vì thấy công việc dễ dàng và vui thú. Thế là lần lượt chim sẻ bị bắn chết, một số khác bay về một phương trời xa. Cuối cùng, chẳng còn thấy một mống nào trền toàn lãnh thổ. Frederic vui mừng khôn tả vì tin chắc kế hoạch của mình sẽ thành công rực rỡ.
Nhưng có ngờ đâu, vừa khi ngày mùa tươi tốt đầy hứa hẹn tới, thì không biết từ đây từng bầy sâu bọ đua nhau kéo đến, từng đàn châu chấu cũng ùn ùn xuất hiện tràn lan khắp lãnh thổ, không cách nào diệt nổi. Thế là Frederic chỉ còn cách ngồi trong điện rồng lòng buồn ủ rũ, chứng kiến kỳ công của mình hoàn toàn sụp đổ.
Các qui luật của thiên nhiên, các định luật trong vũ trụ, đều được Thiên Chúa an bài, sắp xếp, để nên tốt đẹp và hữu ích cho con người. Một khi con người đã phá vỡ những qui luật ấy thì tai họa sẽ ập tới chỉ còn là vấn thời gian.
Đức Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, đã không chỉ thoát khỏi cạm bẫy của nhóm Phariseu: “Có được phép nộp thuế cho Xeda hay không?” (Mt 22,17). Người còn bất ngờ đưa ra một câu nói thời danh khiến bọn họ phải câm miệng: “Của Xeda, trả về Xêda; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa” (Mt 22,21). Qua câu này, Đức Giêsu đã nhìn nhận thế quyền của Xêda. Nhưng có quyền gì của Xêda, mà lại chẳng xuất phát từ Thiên Chúa. Đức Giêsu đáp lại Philato: “Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chửng ban cho Ngài” (Ga 19,11).
Nếu phải trả lại cho Xêda đồng bạc mang hình và danh hiệu của Xêda, thì có loài thụ tạo nào mà không mang hình hài và tên gọi của thiên Chúa. Nhà bác học Newton đã nói: “tôi nhìn thấy Thiên Chúa trên đầu viễn vọng kính của tôi”.
Người ta phá vỡ hình ảnh bao la hùng vĩ của Thiên Chúa, khi người ta chặt cây, đốt rừng cho lụt lội tràn lan; rồi thải khí carbonic lên bầu trời, cho lủng từng Ozone.
Người ta phá vỡ hình ảnh xinh đẹp của Thiên Chúa, khi người ta ly dị, phá thai, sinh hoạt đồng tính luyến ái.
Người ta phá vỡ hình ảnh chân thật của Thiên Chúa, khi người ta đọc kinh, đi lễ; nhưng sống ích kỷ, lường gạt, và gian lận.
Sách Sáng thế viết: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hginh ảnh thiên Chúa” (St 1,27)). Vì thế, con người là tác phẩm tuyệt vời mà Thiên Chúa nhìn thấy rất rõ hình ảnh củaNgười trong đó. “Của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa”. Hãy trả lại cho Thiên Chúa hình ảnh con người đã được Người dựng nên rất thanh khiết thuở ban đầu. Hãy trả lại cho Thiên Chúa vũ trụ, tài nguyên và muôn sinh vật, hình ảnh trong lành mà người đã dựng nên. Hãy trả lại cho thiên Chúa thế giới do Người tạo nên, hình ảnh của an bình và yêu thương.
Chính Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước bằng một tình yêu vô biên. Vì thế hãy mở rộng tâm hồn để đón nhận tình yêu Chúa. Huyền diệu của tình yêu là khi nào người kia lãnh nhận, tình yêu ấy mới thực sự thành tình yêu. Tình yêu cho đi, không người nhận, sẽ trở về với người đã trao ban.
***
Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã yêu thương chúng con, đã cho chúng con mang hình ảnh cao quý của Chúa.
Xin cho chúng con biết làm cho hình ảnh của Chúa ngày càng rõ nét trong cuộc đời chúng con, bằng cách quảng đại và yêu thương con người. Amen.
16. Vấn nạn quyền bính dân sự
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
“Của Xêda hãy trả cho Xêda. Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa” (Mt 22,21). Câu nói của chúa Giêsu năm nào đã làm cho nhiều người Pharisêu và nhóm người phe Hêrôđê là những người đầy dã tâm đang tìm mọi cách hãm hại Người phải chưng hửng. Thoặt nghe câu chuyện chúng ta dễ nghĩ đến sự khôn ngoan của Chúa Giêsu. Phải nhận rằng Người đã tài tình thoát khỏi cái thế tiến thoái lưỡng nan do bởi cái bẫy hiểm độc của nhóm Pharisêu và phe Hêrôđê, những người vốn không thích nhau, thì nay lại hợp sức giăng ra. Tuy nhiên, nhân câu chuyện thú vị này và nhất là qua câu trả lời của Chúa Giêsu, chúng ta có được một cái nhìn chuẩn mực hơn về vấn nạn quyền bính trong các xã hội dân sự.
Con người là hữu thể có tính xã hội. Có thể nói rằng tính xã hội là một trong những yếu tố nền tảng làm nên con người. Không ai là một hòn đảo. Kinh Thánh khẳng định: “con người ở một mình không tốt” (St 2,18). Cái không tốt ở đây không chỉ liên hệ đến phẩm tính mà còn liên hệ đến căn tính, nghĩa là liên hệ đến hữu thể “người”. Nói nôm na là nếu “ở một mình” thì không thể thành người đúng nghĩa. Một vài sự kiện về các trẻ bé lạc trong rừng sâu như một minh chứng rõ ràng. Dù sau đó khi được phát hiện và đưa về thì “người rừng” rất khó hòa nhập với xã hội loài người. Quyền bính có ra là do yêu cầu của tính xã hội. Đã là hai người thì tất yếu có kẻ trên, người dưới. Đã là tập thể thì phải có người đứng đầu để lãnh đạo. Một tập thể mà không có người chỉ huy thì chuyện tan rã là chuyện không sớm thì muộn cũng xảy ra. Không có người lãnh đạo thì sẽ dẫn đến tình trạng hỗn độn, cá lớn nuốt cá bé. Chính vì thế sự hiện hữu của quyền bính là điều tất yếu cần thiết. Vị trí quan trọng và thiết yếu của quyền bính được nhìn nhận do bởi vai trò của nó. Quyền bính có ra là để gìn giữ xã hội ổn định trong trật tự, công bằng; xây dựng công ích; bảo vệ kẻ cô thân, yếu thế, người bất hạnh; tạo điều kiện cho mỗi người và mọi người hoàn cảnh thuận lợi để tồn tại, phát triển và nên hoàn thiện.
Theo viễn kiến này và dưới ánh sáng đức tin, chúng ta nhìn nhận rằng Thiên Chúa muốn có sự hiện hữu của quyền bính trong xã hội dân sự. Và sự hiện hữu của quyền bính là trong chương trình sáng tạo của Thiên Chúa, khi Người dựng nên nhân loại mang tính xã hội. Như thế chúng ta có thể nói không sợ sai lầm rằng quyền bính là một trong những công trình của Thiên Chúa, nghĩa là do Thiên Chúa làm nên.
Những gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa. Xêda là một hình thức quyền bính của xã hội dân sự thời phong kiến xưa. Xêda là hoàng đế của La mã hoặc bất cứ vị hoàng đế của nước nào cũng đều thuộc về Thiên Chúa. Ngày nay, Tổng thống, Thủ tướng, Bộ trưởng, Quốc Hội, Tòa án…cũng là quyền bính xã hội và chúng đều thuộc về Thiên Chúa. Vì thuộc về Thiên Chúa thì những người nắm giữ quyền bính ấy phải hành động theo thánh ý Thiên Chúa. Hoàng đế Kyrô khi ra sắc chỉ cho dân Do Thái bị lưu đày trước đây được hồi hương và tái thiết Đền thờ thì đã được ngôn sứ Isaia nhìn nhận như là người được Thiên Chúa tuyển chọn. Hoàng đế Kyrô còn được gọi là người được xức dầu vì ông đã thực thi thánh ý Thiên Chúa (x.Is 45,1).
Chúng ta cần phân biệt sự hiện hữu của quyền bính với người nắm quyền bính. Sự hiện hữu của quyền bính là chính đáng, hợp pháp và phải đạo vì do Thiên Chúa làm nên. Tuy nhiên không phải bất cứ ai nắm quyền bính cũng đều chính đáng, vì có thể họ chiếm lấy quyền bính cách không hợp pháp hoặc họ thực thi quyền bính cách không phải đạo. Lich sử minh chứng có trường hợp người ta đã chiếm lấy quyền bính cách “ma đạo” và hành quyền kiểu độc tài, phi nhân và phi luân. Như thế chúng ta cần phải phân biệt rạch ròi thực thể quyền bính với những người nắm quyền để khỏi nhầm lẫn.
Xét quyền bính như là một cơ cấu tổ chức điều hành một tập thể xã hội hay tôn giáo thì nó thật chính đáng và hợp lý. Tuy nhiên hình thức quyền bính này cũng cần phải được chỉnh sửa cho phù hợp với sự phát triển của con người và xã hội để phục vụ cách hữu hiệu ngày mỗi hơn. Chẳng hạn như cơ cấu quyền bính loại hình quân chủ chuyên chế không thể nào thích hợp với con người và xã hội hôm nay. Nhiều hình thái cơ cấu, tổ chức không chỉ cần phải được đổi mới mà thậm chí còn phải bị thay thế bằng hình thái khác. Có thể nói rằng với đà phát triển của nhân loại như hôm nay thì những hình thái quyền bính mang tính độc tài, chuyên chế không còn lý do để hiện hữu.
Xét những con người nắm quyền bính thì trước hết chúng ta cần xem xét cách thức họ nắm giữ quyền hành có hợp pháp không, nghĩa là có minh bạch và công bằng không. Chúng ta dễ nhận ra cách thức xem ra được gọi là khá công bằng hiện nay để xây dựng công quyền đó là “phổ thông đầu phiếu”. Và dù được tổ chức bầu bán công khai thì cũng cần phải xét xem việc bầu bán ấy có tiến hành trong sự tự do và công bằng hay không. Thực tế đã có đó những cuộc bầu bán tuy là công khai những chỉ là một thứ hình thức hợp pháp hóa sự độc quyền, vì chưa bầu mà thiên hạ đã biết những ai sẽ đắc cử và sẽ đảm nhận vai vế gì trong hệ thống công quyền.
Kế đến chúng ta cần xem xét những người cho dù đảm nhận quyền bính cách hợp pháp và công minh nhưng họ có hành quyền cách công tâm và đúng mực không, dĩ nhiên là ở một mức độ nào đó khả dĩ có thể chấp nhận. Nếu đang nắm quyền mà không thực thi vai trò của quyền bính như đã nói trên, đó là xây dựng công ích, gìn giữ trật tự, bảo vệ người cô thế…, thì chắc chắn những người ấy đang đi ngoài đường lối của Thiên Chúa. Như thế họ không chỉ không đáng được tôn trọng mà thậm chí còn cần phải bị thay thế.
Giáo Hội không làm thay việc của Chính quyền. Đây là một lời khẳng định đúng. Thế nhưng cần hiểu hai từ Giáo Hội ở đây xét như là một thực thể tôn giáo mang tính xã hội có cơ cấu tổ chức và cả quyền bính. Còn những con người có tôn giáo thì chắc chắn phải thực thi nghĩa vụ “con người mang tính xã hội” của mình. Họ phải tích cực tham gia và xây dựng quyền bính xã hội để làm cho nó ngày càng thuộc về Thiên Chúa hơn, nghĩa là được vận hành cách chính đáng và phải đạo. Giáo hội Công giáo chỉ cấm hàng giáo sĩ và tu sĩ không được tham gia vào các chức vụ công quyền, trừ khi có lý do thật khẩn thiết và được ban phép (GL Đ.287.2 ; Đ.672). Còn với tín hữu giáo dân thì việc trực tiếp hay gián tiếp tham gia công quyền và xây dựng công quyền ngày càng trở thành “chính quyền” là một nghĩa vụ khẩn thiết, không thể xao nhãng hay bỏ qua vì bất cứ lý do gì.
“Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”. Có thể khẳng định rằng thể chế nào, nền công quyền nào hay người nắm quyền lực nào mà không “thuộc về Thiên Chúa” thì đang bị Thần dữ chi phối. Thần dữ vốn là tên sát nhân và là cha của sự gian dối thì “thành quả” của nó chính là sự chết chóc, bạo lực và hận thù (x.Ga 8,44). Chính vì thế để làm phát triển nền văn minh tình thương và sự sống thì mọi Kitô, dù là giáo dân, tu sĩ hay giáo sĩ, theo cách thế của mình, đều có bổn phận làm cho các cơ chế công quyền và những người nắm quyền “thuộc về Thiên Chúa”, nghĩa là hiện hữu, vận hành và thi hành quyền bính phù hợp với thánh ý Thiên Chúa. Để được vậy, thiết nghĩ không gì hơn chúng ta cần tích cực can đảm bảo vệ công lý và làm chứng cho sự thật trong tình yêu. Ủy Ban Công Lý và Hòa Bình thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đang có chương trình phổ biến và học tập “Học Thuyết Xã Hội của Giáo Hội Công Giáo”. Mong sao chương trình này không dừng lại ở phạm trù truyền đạt kiến thức mà được hiện thực hóa bằng việc làm cụ thể, rõ ràng.
17. Nộp thuế hay không nộp thuế
(Suy niệm của Barbara E. Reid – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Hãy trả cho Xê-da những gì thuộc về Xê-da, và trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa” (Mt 22, 2).
Trong bài Tin Mừng hôm nay, những người Pharisiêu và nhóm Hêrôđê nêu lên một câu hỏi để chất vấn Đức Giêsu về việc có phải nộp thuế cho Xê-da hay không. Họ đặt câu hỏi nhưng không phải thực lòng muốn Đức Giêsu chỉ dẫn xem phải thực hành nghĩa vụ mang tính luân lý này như thế nào, nhưng chỉ để gài bẫy Ngài. Họ đặt Đức Giêsu trước một tình huống tiến thoái lưỡng nan, không dễ trả lời. Từ khi người Rôma chiếm lãnh thổ Palestine năm 63 trước công nguyên, và đặt sự đô hộ tại đó, người Do Thái buộc phải nộp thuế hàng năm cho đế quốc tính theo đầu người đã kê khai, bất kể đàn ông, đàn bà hay nô lệ. Mỗi người một năm phải nộp một đồng Dina, nộp bằng tiền đúc Rôma, có in hình hoàng đế Tibêriô, ông vua đã trị vì từ năm 14 đến năn 37 sau công nguyên.
Thái độ của những người Do Thái đồng hương với Đức Giêsu đối với đế quốc Rôma rất khác nhau, tùy theo kế sách của họ phản ứng trước sự đô hộ như thế nào. Một số người thì muốn an phận, và chấp nhận nộp thuế để khỏi phiền hà, cho dù họ rất khó chịu. Một số khác bằng lòng nộp thuế vì họ coi nhà cầm quyền Rôma như là đại diện cho quyền bính của Thiên Chúa (xem Rm 13, 1-7; 1P 2, 13-17). Một số khác, theo phe thân vua Hêrôđê, sẵn lòng cộng tác với chính quyền Rôma, và được nhà nước bảo hộ trao ban những đặc quyền trong các tổ chức dân sự. Họ tự nguyện nộp thuế, không phản đối. Một số khác thì hoàn toàn tuyệt vọng, vì tiền thuế cao là một gánh nặng, khiến họ dễ lâm cảnh nợ nần, mất đất đai để sinh sống. Khi không còn tiền để trả nợ, họ sẽ bị bán làm nô lệ (Mt 18, 23-25). Còn một nhóm khác lại nhất quyết không chịu nộp thuế, vì họ nghĩ tất cả mọi sự đều thuộc về Thiên Chúa (Lv 25,23). Một ít thành phần thì hoàn toàn cự tuyệt chống đối, và bất hợp tác với đế quốc trong bất cứ vấn đề gì. Cũng có một số người cực đoan, ngấm ngầm hình thành nhóm ái quốc, quyết nổi dậy cướp chính quyền bằng vũ lực, lật đổ sự cai trị của đế quốc. Sử gia Josephus có nêu tên một vài lãnh tụ cách mạng, cầm đầu nhóm nổi dậy vào đầu thế kỷ thứ nhất, trong đó có Guiđa người Galilê (Cv 5,37) người đã nổi dậy chống nền đô hộ, đương nhiên chống cả việc nộp thuế, nhưng cuộc nổi dậy bị thất bại.
Khi đưa ra câu hỏi hóc búa này để vặn hỏi Đức Giêsu, người Pharisiêu muốn hạ uy tín Ngài. Nêú Ngài cổ vũ việc nộp thuế, có nghĩa là Ngài thỏa hiệp với ngoại bang, với kẻ thù của dân tộc, như vậy dân sẽ không còn tin Ngài là một ngôn sứ nữa. Các sứ ngôn luôn rao giảng về đường lối Thiên Chúa đối kháng với đường lối cầm quyền của đế quốc, của Xê-da. Nếu chủ trương như thế, uy tín của Đức Giêsu sẽ không còn. Còn nếu Ngài trả lời không phải nộp thuế, Ngài tự đặt mình vào tình huống rất nguy hiểm vì sẽ bị nhà cầm quyền Rôma sờ gáy ngay lập tức.
Giữa hai trạng huống này, Đức Giêsu đã tìm ra một giải pháp. Đồng tiền thuộc về hoàng đế Xê-da, hãy trả về cho Xê- da. Rồi quay về Thiên Chúa, Ngài nói với đám đông, tất cả mọi sự phải quy hướng về Thiên Chúa. Những gì thuộc về Thiên Chúa, phải trả về cho Thiên Chúa. Đối với những người tin, thì tất cả mọi sự đều thuộc về Thiên Chúa, không chừa cái gì. Thế rồi, Đức Giêsu phóng một tầm nhìn để tương đối hóa những quyền bính trần gian, khi Ngài nhấn mạnh rằng chỉ Thiên Chúa mới là Đấng tối cao, nắm quyền trên mọi sự. Câu trả lời khôn ngoan của Đức Giêsu khiến những kẻ chống đối và muốn gài bẫy Ngài rất kinh ngạc. Họ câm họng không nói được gì, và đợi chờ một dịp khác để bắt bí Ngài.
Trong Tin Mừng, những người chất vấn Đức Giêsu nêu ra câu hỏi không phải với dụng ý ngay chính và thật lòng. Họ chỉ muốn gài bẫy để ám hại Ngài. Dẫu sao, trình thuật cũng có thể gợi ý cho các Kitô hữu thời nay biết cách ứng xử, khi phải đối mặt với một chính quyền có những hành động đi ngược thánh ý của Thiên Chúa và thiết định những luật lệ về luân lý trái nghịch với lương tâm Công giáo.
Chúng ta có phải nộp thuế cho chính phủ hay không? Ví dụ có vài Kitô hữu như Đức Cha Raymond Hunthausen, Tổng Giám mục giáo phận Seatle trước đây, đã phản đối chính phủ về việc nộp thuế để có ngân sách trang bị vũ khí hạt nhân. Chúng ta có nên phản kháng không nộp thuế thu nhập cá nhân, như một động thái để chống chiến tranh, như ông Dorothy Day đã làm hay chăng? Hoặc chúng ta vẫn nộp thuế, nhưng khôn khéo vận động, bỏ phiếu hoặc tham gia vào những tổ chức bất bạo động để phản kháng ôn hòa những chính sách sai lầm của chính phủ?
Đức Giêsu mời gọi chúng ta quy hướng về nước Thiên Chúa. Sự khôn ngoan của Ngài trong câu trả lời về bổn phận đối với Thiên Chúa và đồng thời cũng phải chu toàn nghĩa vụ trần thế, mời gọi chúng ta trước tiên phải luôn hướng vọng về Thiên Chúa, và đặt Thiên Chúa vào chỗ tối thượng trong cuộc đời chúng ta.
Ngài sẽ giúp chúng ta biện phân để biết ứng xử trong những trạng huống cụ thể của cuộc sống phức tạp ngày hôm nay.
18. Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
CỦA XÊ-DA, TRẢ VỀ XÊ-DA; CỦA THIÊN CHÚA, TRẢ VỀ THIÊN CHÚA
Những người biệt phái và những người thuộc phe Hê-rô-đê âm mưu gài bẫy hãm hại Chúa Giêsu. Khởi đầu, họ đưa ra những lời mật ngọt để dụ Người đi vào cạm bẫy: "chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai..." rồi tiếp đó, xô Chúa Giêsu vào tròng: "Có được phép nộp thuế cho Xê-da không?"
Trả lời đằng nào cũng mắc nạn. Nếu bảo rằng: được phép, thì người Do-Thái sẽ vin vào đó mà kết án Chúa Giêsu là người ủng hộ đế quốc Rô-ma, phản bội đồng bào; nếu bảo không thì họ sẽ tố giác Người với chính quyền Rô-ma với tội danh là xúi dân đừng nộp thuế.
Chúa Giêsu biết ngay mưu đồ thâm độc của họ, Người lách khỏi cạm bẫy cách tài tình khi đề nghị họ cho Người xem đồng tiền nộp thuế và yêu cầu họ trả lời hình và hiệu trên đồng tiền đó là của ai. Họ trả lời: "của Xê-da". Chúa Giêsu mượn cơ hội đó để nêu lên cho mọi người một nhận định đáng quan tâm suy nghĩ: "của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa".
* * *
1. Mọi sự đều là của Chúa, nếu Người lấy đi, ta chẳng còn gì
Mọi thứ chúng ta có đều là của Chúa ban. Nếu Chúa cất đi những gì Chúa ban, thử hỏi chúng ta còn lại được gì?
Chúng ta hãy nghe lại chuyện ông Gióp để hình dung xem khi Chúa lấy lại những gì Chúa trao thì con người còn lại những gì.
"Xưa ở đất Út có một người tên là Gióp. Ông là người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác. Ông sinh được bảy người con trai và ba người con gái. Ông có một đàn súc vật gồm bảy ngàn chiên dê, ba ngàn lạc đà, năm trăm đôi bò, năm trăm lừa cái và một số rất đông tôi tớ. Ông là người giàu có nhất ở Phương Đông...
Một ngày kia, Satan đến gặp Thiên Chúa. Thiên Chúa khen ông Gióp là người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và xa lánh điều ác.
Satan cho rằng ông Gióp tốt với Chúa như vậy chẳng qua là vì Chúa ban cho ông ta phúc lộc dư dật. Nếu Chúa thử giơ tay rút lại những tài sản Chúa ban cho Gióp, xem Gióp có còn kính sợ Chúa nữa không? Chắc chắn là Gióp sẽ nguyền rủa Chúa thôi!
Thiên Chúa chấp thuận để cho Satan thử thách lòng trung tín của ông Gióp đối với Người.
Vậy là một ngày kia, đang khi các con trai con gái của Gióp đang ăn uống ở nhà anh cả, thì có một người đưa tin đến cho ông Gióp rằng:
- Trong lúc bò của ông đang cày ruộng và lừa cái ăn cỏ bên cạnh, dân Sơ-va đã xông vào cướp lấy; chúng lại còn dùng gươm giết chết các đầy tớ. Chỉ còn mình tôi thoát nạn chạy về báo cho ông hay.
Người ấy còn đang nói thì một người khác chạy về thưa:
- Lửa của Thiên Chúa từ trời giáng xuống đốt cháy chiên dê và đầy tớ; lửa đã thiêu rụi hết, chỉ có mình tôi thoát nạn chạy về báo tin ông hay.
Người nầy còn đang nói thì một người khác chạy về thưa:
- Người Can-đê chia thành ba toán ập vào cướp lấy lạc đà; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn chạy về báo tin ông hay.
Người ấy còn đang nói thì một người khác chạy về thưa:
- Con trai con gái ông đang ăn uống tại nhà người anh cả thì một trận cuồng phong từ bên kia sa mạc thổi thốc vào bốn góc nhà; nhà sập xuống đè chết hết tất cả mọi người, chỉ có mình tôi thoát nạn chạy về báo tin ông hay.
Bấy giờ ông Gióp chỗi dậy, xé áo mình ra, cạo đầu, sấp mình xuống đất, sụp lạy và nói: "Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi cũng sẽ trở về đó trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa!" (Gióp 1, 6-22).
Câu chuyện trên đây giúp chúng ta biết rằng: mọi sự ta có đều là của Chúa tạm ứng cho ta hưởng dùng, nếu mai đây Chúa đòi lại thì chúng ta không khác gì ông Gióp: trần trụi, chơ vơ, chẳng còn gì!
Nhờ đôi mắt Chúa ban, chúng ta được nhìn thấy vẻ huy hoàng của thế giới; nếu Chúa lấy đi, chúng ta thành kẻ mù loà. Đôi chân nầy cũng là ân huệ Chúa ban, nhờ đó chúng ta có thể đi đến bất cứ nơi đâu mình muốn; nếu Chúa lấy đi, chúng ta trở thành người tàn phế. Nhờ hơi thở Chúa ban, chúng ta còn tồn tại đến hôm nay; nếu Chúa cất đi, chúng ta tắt hơi sau năm phút. Nhờ ánh sáng mặt trời Chúa ban, chúng ta được sưởi ấm và được sống; nếu Chúa lấy đi, chúng ta sẽ chết cóng vì lạnh sau nửa tiếng đồng hồ... Chúa ban cho chúng ta tất cả, chúng ta là những kẻ mắc nợ Ngài trong tất cả những gì chúng ta có.
Ngoài những món quà vật chất còn có vô số ân huệ thiêng liêng, mà ân huệ lớn nhất là Thiên Chúa Cha đã trao ban cho ta ngay cả Con Một của Người để mang lấy tội lỗi chúng ta, chịu khổ hình và chịu chết thay cho chúng ta.
Ngoài ra chúng ta cũng mang nợ xã hội rất nhiều: Thợ hồ xây nhà cho ta ở; thợ mộc đóng bàn ghế cho ta dùng; thợ may cung cấp cho ta quần áo che thân; thầy giáo cho ta tri thức và văn hoá; cha mẹ sinh ra, nuôi dạy chúng ta được khôn lớn như ngày hôm nay...
2. Hãy đền đáp công ơn Thiên Chúa vì những ân huệ Người ban tặng cho ta.
Trong tương quan xã hội, người Việt Nam có truyền thống đáp nghĩa đền ơn rất chu đáo. Bánh ít đưa đi, bánh dì đưa lại. Có qua có lại mới toại lòng nhau. Hôm nay có dịp nhận quà mừng của người khác, mai đây người ta không quên đáp lại bằng một quà mừng tương xứng.
Nợ người đời tuy ít mà người ta còn lo đáp đền sòng phẳng, huống là những món nợ rất lớn đối với Thiên Chúa toàn năng.
Thầy giảng Anrê Phú Yên là một vị thánh tử đạo rất trẻ, là học trò của cha Đắc Lộ. Thầy được lãnh bí tích rửa tội năm 15 tuổi, được đào tạo và trở thành giáo lý viên năm 17 tuổi và đến năm 19 tuổi thì bị quan quân bắt bớ.
Thầy vui lòng được chết để làm chứng cho Tin Mừng và cho Chúa Kitô. Ước vọng của thầy là muốn dâng hiến trọn vẹn cuộc đời để đền đáp lại ân tình của Chúa. Ước vọng đó được thầy diễn tả qua câu nói: "Đem mạng sống đáp đền mạng sống, lấy tình yêu đáp trả tình yêu." Thiên Chúa đã yêu thầy vô cùng thì thầy cũng đáp lại bằng tình yêu thật lớn. Thiên Chúa đã chết cho thầy thì thầy cũng muốn dâng hiến mạng sống thầy cho Chúa. Đó cũng là nội dung lời dạy trong Tin Mừng hôm nay: hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Người.
Cùng nguyện xin Thiên Chúa giúp chúng ta không vô ơn và tự phụ khi nhận được rất nhiều ân huệ của Thiên Chúa nhưng biết dâng hiến tất cả những gì Chúa ban, từ thời giờ, sức lực, trí tuệ đến tài năng, của cải và trọn cuộc sống chúng ta để báo đền vô vàn hồng ân Thiên Chúa.
19. Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa
Người Pharisêu là những người giữ luật rất tốt. Họ giữ luật tỉ mĩ. Vì thế, ai không giống họ thì sẽ bị họ thanh trừ. Ngược lại, Chúa Giêsu là người sống cụ thể của luật bằng tình thương và lòng nhân ái. Điều này làm cho họ mất ảnh hưởng thậm chí là còn đe doạ quyền lợi của họ. Do đó, người Pharisêu càng thêm ghét Chúa Giêsu và họ tìm đủ mọi cách để loại trừ Ngài.
Hôm nay Phúc âm cho chúng ta thấy những người Pharisêu cố tình gài bẫy Chúa Giêsu. Nhưng họ không thể bắt bẻ được Ngài. Họ không thành công trong âm mưu của mình. Bởi vì Chúa Giêsu là Sự Thật. Ngài nói thật và làm thật. Ngài không thích gian dối. Khi đi rao giảng, gặp gỡ dân chúng, Ngài thường lên án sự giả hình và gian dối của những người Pharisêu bằng những lời lẽ thật nặng nề: "Tại sao các người lại thử Ta, hỡi những kẻ giả hình!" (Mt 22, 18).
Những người pharisêu là người lãnh đạo tôn giáo Do Thái. Mặt trong họ chống lại chính quyền Rôma đang cai trị dân Do Thái, mặt ngoài họ thoả hiệp với chính quyền để củng cố và duy trì địa vị của mình. Họ đã bàn tính với những người thuộc phái Hêrôđê, đang điều hành guồng máy chính quyền La Mã thu thuế ở Palestine. Họ hỏi Chúa Giêsu rằng: "Có được phép nộp thuế cho Cêsarê không?" (Mt 22, 17). Nếu trả lời không, Chúa sẽ bị chính quyền Rôma bắt về tội phản loạn. Nếu trả lời có, Chúa sẽ bị những người Do Thái ái quốc và dân chúng đang theo Ngài bỏ rơi. Trả lời cách nào Chúa cũng bị thiệt thòi, theo như họ đã nghĩ. Một cách khôn ngoan, Ngài không trả lời không hay có nhưng chỉ vào đồng tiền có hình Cêsarê mà nói: "Trả về Casarê cái gì của Casrê, và trả về Thiên Chúa cái gì của Thiên Chúa" (Mt 22, 21)
Qua câu trả lời của Chúa Giêsu, chúng ta hiểu ngay Thiên Chúa luôn nắm giữ quyền tối thượng trên mọi sinh hoạt của con người (Ga 3, 27; 19, 11; 1Cr 4, 7)
Một câu chuyện huyền thoại cổ kể về một ông vua đầy quyền lực và tàn bạo có thể điều khiển thuộc hạ phải làm theo ý mình tất cả mọi việc. Nhưng trừ một điều nhà vua không thể làm được là phá huỷ niềm tin của họ vào Thiên Chúa. Do đó, vua cho gọi ba nhà cố vấn thông thái nhất nước đến và hỏi: "tôi có thể dấu Thiên Chúa ở đâu để dân chúng sẽ không tìm ra Ngài" Nhà thông thái thứ nhất trả lời; "Hãy dấu Thiên Chúa vào các hành tinh thật xa trong không gian, dân chúng sẽ không tìm ra Ngài" Nhà thông thái thứ hai không đồng ý: "Như thế không được! Một ngày nào đó dân này sẽ nghiên cứu cách bay vào không gian, tới những hành tinh đó, và họ sẽ tìm thấy Thiên Chúa của họ. Tốt hơn hết là dấu Ngài xuống đáy đại dương." Người thứ ba phản đối: "Như thế cũng không được! Một ngày nào dân này sẽ biết cách lặn xúông đáy biển, và họ sẽ tìm thấy Thiên Chúa. Tốt hơn hết, hãy dấu Ngài trong đời sống hằng ngày của mỗi người, không ai sẽ có thể tìm thấy Ngài cả!". Thiên Chúa hiện diện trong mọi sinh hoạt của con người. Phần mình, con người, một loài thụ tạo, có bổn phận phải nhận biết yêu mến Thiên Chúa.
Như vậy, cái gì của Thiên Chúa và cái gì của Casarê? Đây không chỉ là vấn đề của những người Pharisêu, nhưng còn là vấn đề của các Tông Đồ, của chúng ta, và của con người qua mọi thời đại.
Chúa Giêsu đã không tránh né vấn đề bằng cách bỏ mặc con người với cách giải quyết riêng của mình. Trái lại, Ngài đã hiến thân để chứng mình cho cách thức giải quyết của Ngài. Ngài đã ban cho con người nguyên tắc chung, và con người có bổn phận phải áp dụng nguyên tắc đó vào trong những trường hợp cụ thể. Khi được hỏi ý kiến về điều răn nào quan trọng nhất, Chúa Giêsu đã ban hành nguyên tắc chung là: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống như diều răn ấy là; ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình" (Mt 22, 37-39)
Trong suốt cuộc đời rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã tận tình cắt nghĩa luật lệ này trong mọi lúc, mọi nơi và mọi hoàn cảnh. Hai điều luật vĩ đại nàykhông thể phân chia ra làm hai. Chúng ta không thể chu toàn lụât thứ nhất nếu không thi hành luật thứ hai. Yêu mến Thiên Chúa mà không yêu thương người lân cận là một sự mâu thuẫn. Thánh Gioan đã viết: Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy... ai yêu mến Thiên Chúa, cũng phải yêu mến anh em mình" (1Ga 4, 20-21)
Một câu chuyện kể về bốn vị thiên thần chứng kiến việc sáng tạo vũ trị của Thiên Chúa. Thiên thần thứ nhất hỏi: "Tại sao Ngài đã tạo nên nó?" vị thứ hai nói: "Ngài đã tạo nên nó bằng cách nào?" vị thứ ba năn nỉ Thiên Chúa; "Xin Ngài hãy ban nó cho con" Sau cùng, vị thứ tư nói: "Thật là tuyệt diệu! Nào ta hãy đi và chăm sóc nó!" Câu hỏi thứ nhất: "Tại sao Ngài đã tạo nên nó?" là phương pháp của triết học. "Ngài đã tạo nên nó bằng cách nào?" là phương pháp của khoa học. "Xin Ngài hãy ban nó cho con" là phương pháp ích kỷ. "Nào ta hãy chăm sóc nó!" là phương pháp của tôn giáo nhận ra rằng tất cả mọi sự là của Thiên Chúa. Tất cả đất đai thuộc về Thiên Chúa, gồm cả bầu trời, nước non, loài vật và con người là của Thiên Chúa, gồm cả những người kiêu căng hay khiêm tốn; giàu sang hay nghèo hèn; Tất cả mọi người đã được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, và có quyền lực yêu thương và kính trọng theo đúng phẩm giá con người.
Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói: "Chúng ta không được kêu gọi để thành công, nhưng chúng ta đã được kêu gọi để trung thành." Trung thành với Thiên Chúa là quyền ưu tiên tối thượng trên tất cả mọi sự.
Thử hỏi xem có một cái gì hay vật gì trong vũ trụ này mà lại không thuộc về Thiên Chúa? Trái đất và vũ trụ này do Thiên Chúa tạo dựng nên, và chính con người cũng được Ngài tạo dựng. Mỗi người chúng ta đã lãnh nhận sự sống từ Ngài, bởi vì không có gì mà chúng ta đang dùng mà lại không do Ngài ban cho.
Vậy, nếu không trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài, không hướng về Ngài tất cả những gì trong vũ trụ hay tất cả những gì ta đang hưởng dùng thì đó là thái độ phản loạn của con người. Con người muốn chiếm hữu lấy chỗ của Thiên Chúa và qui mọi sự về chính mình, lấy mình làm chủ, làm tiêu chuẩn cho mọi sự, những thái độ kiêu ngạo sai lầm này chỉ dẫn đưa đón những tranh chấp, hận thù, bạo lực và xa rời Thiên Chúa mà thôi. Vì thế, bao lâu mỗi người chúng ta không nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng chủ tể của mình, không trả lại cho Ngài và không qui hướng về Ngài tất cả những gì thuộc về Ngài, không để cho Thiên Chúa chiếm chỗ nhất trong cuộc sống của mình, thì bấy lâu con người không thể xây dựng một xã hội nhân bản xứng đáng là con người, không thể nào xây dựng một xã hội hoà hợp, trong đó mọi người nhìn nhận nhau như là anh chị em trong đại gia đình có Thiên Chúa là Cha: "Hãy trả cho Xêsa những gì của Xêsa, và hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa".
Hôm nay Lời Chúa mời gọi mỗi người Kitô hữu chúng ta hãy dấn thân nhiều hơn nữa, đặt Chúa vào chỗ nhất trong cuộc sống của mình, đặt Chúa vào chỗ nhất trong mọi sinh hoạt xã hội của mình. Tất cả mọi biến cố, tất cả những gì chúng ta đang thừa hưởng là đến từ Thiên Chúa và đều do tình yêu thương của Ngài trao ban.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm lạ và tri ân Ngài mãi mãi, vì tất cả những gì chúng con có đều là do Chúa ban cho. Xin Chúa giúp chúng con sống ở đời này nhưng biết dùng mọi của cải mà làm sáng danh Chúa. Amen.
20. Của Cê-da trả về cho Cê-da
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Maria Hải Dương CRM)
Bài Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay, Chúa Giêsu xác quyết bổn phận của chúng ta là phải vâng phục quyền bính. Nhóm Biệt Phái và Hêrôđê gài bẫy Ngài bằng một câu hỏi: Có phải nộp thuế cho Cê-da không?
Người Do Thái quan niệm đóng thuế như vậy chỉ làm cho thế lực ngoại bang trên dân tộc thêm vững mạnh. Nếu Chúa đồng ý, Ngài sẽ bị kết án là hợp tác với người Rôma. Nếu không đồng ý, Ngài sẽ bị tố cáo chống đối nhà cầm quyền Rôma. Thực vậy, đối với người Do Thái thời Chúa Giêsu: từ chối nộp thuế là chống lại Rôma, còn chịu nộp thuế là công nhận quyền bính hoàng đế ngoại bang và ngoại đạo. Trong khi người Do Thái vẫn cứ phải nộp thuế và giao dịch bằng đồng tiền Rôma với hình hoàng đế Cê-da và chữ Cê-da thần thánh. Trong khi người Do Thái không thờ ngẫu tượng, ở đây lại là ngẫu tượng sống .
Chúa trả lời: những gì của Cê-da trả về cho Cê-da, những gì của Thiên Chúa, trả về cho Thiên Chúa. Câu trả lời của Chúa Giêsu không có ý dạy ta phân biệt đạo đời. Quan điểm của Chúa Giêsu không dạy ta từ chối dấn thân, tham gia chính trị, vì ta không thể phụng thờ Thiên Chúa nếu chúng ta không dấn thân phục vụ anh chị em. Dấn thân vào đời không phải để thống trị ai, nhưng là theo gương Đức Giêsu đã hiến dâng cả mạng sống để mở ra một tương lai hoà bình, tình thương và công lý cho con người. Chúa Kitô muốn đưa Thiên Chúa vào trong cuộc sống thường ngày của con người. Chính Ngài cũng chia sẻ kiếp sống con người qua hình ảnh con bác thợ mộc, và rồi làm những phép lạ để cứu chữa con người cả hồn xác. Ngài không cho đó là chuyện trần thế, không liên quan gì đến Thiên Chúa. Ngài chỉ muốn trả lại cho Cê-da: thuế má, sự tùng phục luật công bình. Ngoài ra không còn gì khác. Nói cách khác, Ngài không muốn biến con người trở thành một ngẫu tượng, được coi ngang hàng với Thiên Chúa.
Là công dân, người tín hữu được kêu mời chu toàn nghĩa vụ đóng góp cho quốc gia những tài lực, nhân lực như công ích đòi hỏi, cũng như trách nhiệm đóng thuế, vì đó là nghĩa vụ người công dân. Vì một khi người dân đón nhận những lợi ích xã hội thì họ phải có bổn phận đóng góp. Đây chính là vấn đề tình liên đới nhân loại. Thêm vào đó, người tín hữu cũng phải cầu nguyện cho những nhà lãnh đạo quốc gia, biểu lộ lòng tôn kính biết ơn đối với nhà cầm quyền, vì quyền bính đến từ Thiên Chúa. Tất cả những sự liên hệ với chính quyền phải thực sự trở nên con đường dẫn tới sự thánh thiện. Thế nên, việc đóng thuế, quyền bầu phiếu, tham gia những tổ chức công ích phải là nghĩa vụ không riêng gì của ai. Đối lại, chính quyền phải lo cho lợi ích người dân, mà không trục lợi cá nhân mình. Chính quyền cũng phải biết tôn trọng luật tự nhiên, và lo cho quyền lợi dân chúng, bao gồm việc bảo vệ sự sống ngay từ trong bụng mẹ tới lòng đất, bảo vệ nền tảng hôn nhân truyền thống gia đình một nam một nữ, bảo vệ quyền tự do tôn giáo, phát huy quyền lợi cha mẹ, và đẩy mạnh việc giáo dục trẻ em cách thích ứng.
Chúa Kitô tuyên bố: của Cê-da hãy trả cho Cê-da, của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa. Bình luận về lời Chúa Kitô, Thánh Augustinô nói với chúng ta, và cũng như lời kết cho bài suy niệm hôm nay: "Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta trả lại hình ảnh Người cho Người, hình ảnh mà theo đó chúng ta đã được tạo dựng nên. Đó là điều Người muốn nói với người Do Thái khi hỏi: có được phép nộp thuế cho Cê-da hay không?... Cũng như Cê-da tìm hình tượng mình trên đồng tiền thế nào thì Thiên Chúa cũng tìm hình tượng mình trong linh hồn chúng ta như vậy. Cê - da đòi bạn trả gì? Trả hình ảnh lại cho ông. Chúa đòi bạn trả lại gì? Trả lại dung mạo của Người. Nếu mất đồng tiền làm bạn phải than khóc vì bạn đã đánh mất hình tượng Cê-da thì khi mất hình ảnh Chúa trong lòng bạn, bạn gây xỉ nhục cho Chúa biết mấy".
Xin Đức Mẹ, Đấng hằng suy niệm và ghi nhớ Lời Chúa trong tâm hồn, giúp chúng con luôn giữ gìn hình ảnh Chúa trong tâm hồn chúng con. Amen.
21. Trả nợ cuộc đời – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một câu chuyện kể rằng: có một người con gái nông thôn lên thành thị học, sau khi học thì cưới chồng giàu sang. Khi đám cưới, mẹ cô từ dưới quê nghèo lên dự, nhưng vẫn mang dáng dấp quê mùa với bộ đồ đã bạc màu, cũ kỹ. Sợ khách chê cười và xem thường mình, cô con gái không dám nhìn mặt mẹ và không dám giới thiệu mẹ với khách. Dù rằng, cô vẫn biết bà mẹ nhà quê rất tủi thẹn, nhưng cô vẫn lạnh lùng làm ngơ. Cô con gái đã đánh mất lòng thương yêu ngay cả đến với mẹ mình. Cô là loại người vong ân bội nghĩa. Cô đã phạm tội bất hiếu khi đang tâm không nhìn nhận công đức của mẹ đã dành cho cô: "chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, tất bật nuôi con cho tới khi trưởng thành". Những loại người như vậy thường bị người đời kết án, tẩy chay, xem thường...
Lời Chúa hôm nay như là lời chất vấn lương tâm chúng ta. Của Xê-za hãy trả về cho Xê-za, của Thiên Chúa hãy trả về cho Thiên Chúa. Của Xê-za có thể là những thứ công bình bác ái giữa người với người, hay có thể là bổn phận phải thi hành cho đất nước, cho gia đình và xã hội. Của Thiên Chúa chính là con người phải lệ thuộc vào Thiên Chúa vì sự sống là của Thiên Chúa ban, và còn được Ngài ưu ái dựng nên giống hình ảnh Ngài. Của Thiên Chúa còn là những kỳ quan thiên nhiên mà Thiên Chúa đã quan phòng xếp đặt cho có thời, có lúc để nuôi dưỡng con người. Chính vì thế mà có ai đó nói rằng: con người sinh ra đã mang kiếp nợ trần. Con người đã mang ơn khi vào trần gian nên phải trả nợ cho hết cuộc đời. Trả nợ Thiên Chúa và trả nợ tha nhân.
Vậy, chúng ta phải trả lại cho Thiên Chúa và tha nhân những gì?
Hãy trả lại cho Thiên Chúa những thứ thuộc về Thiên Chúa. Đó chính là con người là hoạ ảnh Thiên Chúa, là "nhân chi sơ tính bản thiện". Nhưng đáng tiếc, con người đã quay lưng lại với Thiên Chúa, đã phá vỡ những nét đẹp của hình ảnh Thiên Chúa khi lao vào những đam mê lầm lạc như: ngoại tình, dâm ô, cướp của, giết người hay gian dối, điêu ngoa... khiến con người trở thành "chó sói của con người" như lời của Saint paul Sart đã từng thốt lên trong chua chát!
Hãy trả lại cho Thiên Chúa quyền làm chủ sự sống. Nhưng đáng tiếc, con người đã lạm dụng tự do để bức tử các thai nhi vô tội khiến hàng triệu thai nhi bị tước đoạt quyền sống, quyền làm người của mình.
Hãy trả lại cho Thiên Chúa những trật tự thiên nhiên mà chính Ngài đã khôn ngoan xếp đặt. Nhưng đáng tiếc, con người đã đang tâm phá vỡ khi ngăn sông, lấp biển, chặt cây, đốt rừng khiến lũ lụt tràn lan, mưa nắng thất thường...
Hãy trả lại cho tha nhân lòng biết ơn mà mỗi người chúng ta từng mang ơn khi bước vào đời. Nhưng đáng tiếc, nhiều người đã sớm vong ân bội nghĩa khi dứt bỏ tình cha, tình mẹ. Họ đã sống thiếu trách nhiệm với gia đình và xã hội khi lười biếng và sống sa đoạ tội lỗi.
Hãy trả lại cho tha nhân sự công bình và bác ái mà mỗi người khi sinh ra đều được hưởng dùng của cải mà Thượng Đế ban tặng qua vũ trụ vạn vật. Nhưng đáng tiếc, nhiều người đã làm dụng quyền bính để vun quén cho bản thân, để bóc lột kẻ thấp cổ bé họng để làm giầu cho bản thân.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: hãy trả lại cho Thiên Chúa sự trong trắng tâm hồn của con người là hình ảnh ban đầu mà Thiên Chúa đã tạo dựng nên. Hãy trả lại cho tha nhân không chỉ là quyền được sống mà còn được sống dồi dào trong sự tôn trọng tự do của nhân quyền giữa người với người, không phân biệt giai cấp hay màu da sắc tộc...
Chúng ta đang sống trong một xã hội mà mọi giá trị đang mai một và đảo ngược. Ngay thẳng thật thà thì bị coi là ngu khờ dại dột... "Lương tâm không bằng lương tháng". Một xã hội mà dối trá đang ngự trị khắp nơi mà có ai đó nói trong cay đắng rằng: xã hội hôm nay đang tiến từ thời kỳ đồ đá, đồ đồng sang thời kỳ "đồ đểu"! Một xã hội mà Cái TÔI lên ngôi Thượng Đế nên có quá nhiều những thị phi. Con người hôm nay đang lừa dối lòng mình và lừa dối tha nhân khi nói rằng: không có Thiên Chúa, không có thần linh. Chết là hết... Vì vậy mà người ta luôn đang tâm làm hại lẫn nhau, luôn tìm cách loại trừ Thiên Chúa để dễ dàng làm ngược với lương tri con người.
Ước gì mỗi người chúng ta biết nhận ra sự sống là quà tặng Thiên Chúa ban và được nuôi dưỡng trong tình yêu thương của đồng loại, để rồi mỗi người chúng ta luôn biết sống trong tâm tình tri ân Thiên Chúa và cảm tạ tha nhân. Amen.
22. Ác ngầm – Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
Cổ Học Tinh Hoa có thuật lại câu chuyện xảy ra trong thời Chiến quốc bên Trung Hoa: Vua nước Nguỵ muốn cầu hoà với vua Kinh nước Sở nên đã dâng cho vua này một cô gái tuyệt đẹp. Vua Kinh yêu nàng ta mê mệt đến nổi chẳng còn thiết gì đánh nhau. Vua đem cô gái về nước và lập làm vợ thứ.
Hoàng hậu nước Sở là Thịnh Tụ thấy vua thương cô gái cũng đem lòng quí mến chiều chuộng. Muốn mặc gì, đi chơi đâu, nhất nhất hoàng hậu cũng đồng ý. Thấy thế vua Kinh mừng lắm, có lần khen: “Hoàng hậu thấy ta yêu quí vợ mới mà cũng đem lòng thương mến như thế thì có gì khác nào con thảo biết thờ kính cha mẹ, tôi trung biết làm vui chủ mình”.
Hoàng hậu thấy vua không nghi ngờ gì nên một dịp kia mới bảo cô gái đẹp: “Đức vua thương yêu ngươi lắm, chỉ ghét có cái mũi của ngươi. Giá mà từ nay, mỗi lần trông thấy đức vua, ngươi che mũi lại thì chắc sẽ được yêu thương hơn nhiều”.
Nghe lời khuyên nên hễ vừa thấy đức vua, cô gái nọ liền che mũi lại. Thấy lạ vua Kinh mới dò thăm với hoàng hậu. Trước thì hoàng hậu trả lời “không biết” đến khi thấy vua cứ gặng hỏi, bà mới nói; “Thiếp nghe đâu cô ấy nói thân thể đức vua có mùi hôi khó ngửi, nên cứ phải che mũi thế đấy”.
Nghe vậy nhà vua nổi giận quát lên: “Thế thì xẻo ngay cái mũi của nó cho ta”.
Lập tức một tên lính cầm dao đi xẻo mũi cô gái, bởi hoàng hậu có dặn: hễ nghe vua phán gì thì phải thi hành ngay.
Ôi nham hiểm và thâm độc thay! Lòng bừng bừng ghen tức, nhưng ngoài mặt lại rộng lượng vô bờ. Bên trong muốn xé nát người ta, nhưng bên ngoài vẫn quyến luyến thiết tha. Rồi cuối cùng, bằng một mũi tên độc, Trịnh Tụ hạ được hai “con nhạn”: tình địch bị cắt mũi, nhà vua mất người yêu. Thế mới hay tác hại kinh khủng của những kẻ khẩu tâm bất nhất. Miệng nam mô, lòng là một bồ dao găm.
Tội nghiệp nhà vua, vô tư đến nỗi tưởng lời nói của hoàng hậu là chân tình. Thấy người ta thuận ý thì đắc chí, khi nghe tiếng chê thì lồng lộn căm tức, không cần suy xét, nên mắc vào cạm bẫy gian manh.
Hôm nay, một chiếc bẫy cũng được giương lên rất khéo. Kẻ đặt bẫy cũng tinh ranh không kém Trịnh Tụ. Nhưng người họ muốn gài bẫy không dại khờ như vua Kinh.
Các ký lục biệt phái cùng nhóm người Hêrôđê giăng lên một chiếc bẫy. Họ chắc mẩm Chúa có chạy đường trời cũng không thoát. Đầu tiên họ ca tụng tang bốc Ngài lên tận mây xanh. Nào là “chúng tôi biết Thầy là người ngay chính”, nên chúng tôi tìm đến. Nào là “Thầy cứ căn cứ theo sự thật mà dạy bảo đường lối Thiên Chúa”, nên chúng tôi xin học hỏi. Nào là “Thầy không thiên tư tây vị ai”, nên thầy sẽ nói tất cả, chẳng sợ mất lòng người nào.
Thật ghê gớm! Lời ca tụng của họ ngầm bảo rằng chuyến này Đức Giêsu phải mở miệng. Mà như thế ắt sẽ mắc quai.
Sau khi rào đầu chắn đuôi, họ mới giăng bẫy để Chúa bước vào: “Thưa Thầy, có nên nộp thuế cho Cêsarê không?”. Nếu không im lặng thì câu trả lời chỉ còn là “có” hay “không”. Nhưng “có” cũng chết, mà “không” cũng hết sống. Vì khi trả lời “có”, lập tức Đức Giêsu bị ghép với phường thu thuế, đám người đang bị dân Do thái ghét đắng ghét cay: hễ ai ủng hộ nộp thuế hay cộng tác với chính quyền Rôma đều bị xem như bọn cấu kết với ngoại bang, thiếu tinh thần dân tộc, và đáng khinh chứ không đáng kính, đáng tôn.
Nhưng nếu Đức Giêsu nói “không”, ngay lập tức bọn theo phe Hêrôđê sẽ tố cáo Ngài có tinh thần dấy loạn, dám chống lại chính sách nhà nước. Và tất nhiên Ngài sẽ khó tránh khỏi án phạt đích đáng.
Một câu hỏi đơn sơ nhưng sao khó giải quyết. Tuy nhiên việc giải quyết câu hỏi vẫn không phức tạp cho bằng giải quyết lòng người. Phức tạp là vì người hỏi không mang chủ đích tìm một con đường hay một hướng đi cho đời, nhưng là để làm hại kẻ khác. Phức tạp còn là vì người hỏi không định lái đời mình theo điều dạy bảo, nhưng mong có câu trả lời theo ý mình muốn.
Đừng tưởng chỉ có đời xưa người ta mới hỏi phức tạp như thế. Đời nay cũng thế thôi!
Có người từng đặt vấn đề: “Con đi làm, bị chủ trả lương thấp, con câu giờ, làm ít tính nhiều có tội không? Mình ‘ăn’ tiền chính phủ rồi thỉnh thoảng đem cúng nhà thờ có sao không?” Có người lại thắc mắc: Nếu vợ chồng chẳng còn nồng ấm, gia đình đang biến thành hoả ngục, li dị hay ngoại tình sẽ là lối thoát hay nhất, nhưng tại sao Giáo hội không cho phép?” Người khác còn nói: “Thời buổi này nuôi dạy con cái không dễ, nhưng sao Giáo quyền không cho ngừa thai như chính quyền cho phép? Tại sao Giáo hội không rộng rãi đôi chút để đáp ứng lối sống và nhu cầu con người thời đại? Dường như lề luật của Chúa và Giáo hội làm nên xiềng xích trói buộc tự do và hạnh phúc con người?”
Thế đấy, xưa và nay không thiếu những câu hỏi “đơn sơ” như của biệt phái và bè Sađoc.
Nhưng một câu hỏi và cũng là câu trả lời căn bản nhất sẽ là: Tại sao người ta không chịu thay đổi lối sống cho phù hợp với những giá trị bất biến của Tin Mừng như công bằng, hy sinh, bác ái, yêu thương, tha thứ, tôn trọng sự sống, một vợ một chồng…, mà lại cứ đòi Chúa Kitô và Giáo hội thay đổi chân lý theo sở thích và đam mê của con người? Tại sao không dùng những phương cách chính đáng để đạt đến mục đích tốt lành mà lại dùng những mục đích rất kêu để biện minh cho các hành động vô luân và bất nhân?
Thành ra vấn nạn không phải nơi Thiên Chúa nhưng là nơi con người. Thay vì “con vâng ý cha”, người ta lại cứ muốn “Cha theo ý con”. Vấn đề không phải là Thiên Chúa hay Giáo hội khắt khe, độc tài, thiếu cảm thông hiểu biết, nhưng vấn đề là vì con người cứ cho mình hiểu biết hơn Thiên Chúa, khoan nhân hơn Hội Thánh. Thế rồi khi lên tiếng thì tiếng đó không phát xuất từ con tim khao khát chân lý, muốn tìm con đường đúng nhất hầu có được niềm vui thẳm sâu, nhưng nó lại phát xuất từ ích kỷ dối gian, đam mê bất chính, khát khao tội lỗi. Chúng đến từ ý tưởng của thế gian chứ không phải từ Thiên Chúa.
Trong khi người ta hỏi Chúa Giêsu về chuyện thế tục, Ngài lại hướng họ đến một chiều kích cao hơn: Hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Thử hỏi, có gì tốt đẹp người ta nhận được mà không đến từ Thiên Chúa. Thành ra, vượt lên Cêsarê để đi đến Thiên Chúa, vượt qua vật chất để hướng về tâm linh là bổn phận cần thiết nhất trong đời con người.
Ước chi bao tâm tư mỗi ngày đời tôi sẽ luôn khởi đi từ con tim mến thương chân thành, nhiệt tình xây đắp nhân phẩm, tha thiết làm sáng danh Cha. Có thể, hồn tôi sẽ được bình an; cuộc sống sẽ chứa chan tin yêu hy vọng.
23. Của César
Ngày nay trước vấn đề tục hoá, vai trò của tôn giáo dường như mỗi lúc một mờ nhạt. Thế nhưng rải rác đó đây vẫn còn những sự kiện đáng cho chúng ta suy nghĩ. Chẳng hạn giáo chủ Khomenei ra lệnh hành quyết đối với nhà văn Salman Rushdie vì ông này đã báng bổ Hồi giáo qua cuốn "Vần thơ của ác quỷ". Và cũng đã lâu, các học giả Hồi giáo đòi lấy đầu bà Thủ tướng Butto nước Pakistan vì bà này dám huỷ bỏ luật chặt tay những kẻ trộm cắp. Trong bối cảnh đó thì đoạn Tin Mừng sáng hôm nay có ý nghĩa gì?
Đây là lần đầu tiên bọn biệt phái và phe Hêrôđê liên kết với nhau tưởng rằng sẽ mưu cầu đại sự, ai ngờ chỉ nhằm loại bỏ Chúa Giêsu bằng cách gài bẫy Ngài trước một vấn đề xem ra nan giải: Có được phép nộp thuế cho César hay không? Nêu lên câu hỏi này, bọn biệt pháp chỉ chờ câu trả lời có để ghép tội Chúa Giêsu là kẻ chống phá tôn giáo, đi với đế quốc. Trong khi phe Hêrôđê thì lại chờ câu trả lời không để xếp Ngài vào số những kẻ thù địch với chính quyền. Có hay không, phần thiệt luôn nghiêng về Chúa Giêsu.
Nhưng thật bất ngờ đến độ chưng hửng, Chúa Giêsu không những đã vạch trần thủ đoạn nham hiểm của họ, mà còn đẩy họ tới chỗ phải chịu trách nhiệm về những chọn lựa của mình. Ngài nói: Của César hãy trả cho César. Đây là một sự kiện thực tế bởi vì họ tiêu dùng tiền Rôma thì cũng phải đóng thuế cho Rôma. Quyền lợi đi liền với nghĩa vụ. Nộp thuế cho César không phải là một hành vi phạm thánh như bọn biệt phái cố tình dàn dựng, nhưng là một hành động hợp lý với những ai có ý thức xã hội.
Bọn biệt phái thì chưng hửng còn phe Hêrôđê thì cụt hứng. Những tưởng đã chụp mũ được Chúa Giêsu trong góc độ chính trị, nếu Ngài phủ nhận quyền bính của César, nhưng Ngài lại muốn khẳng định mình trong cương vị tôn giáo. Thế nên, chẳng thể bảo Ngài là thoả hiệp hay chống đối, bởi vì Ngài là con người tôn giáo biết chu toàn mọi bổn phận công dân.
Vượt trên vấn nạn của kẻ thù, Chúa Giêsu còn mời gọi họ bước tới với trách nhiệm tôn giáo. Dù đứng trong lập trường nào, họ đều là những người Do Thái, kính mến Thiên Chúa và tuân giữ luật lệ của Maisen, nên bổn phận trước hết của họ phải là bổn phận tôn giáo: của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. Qua đó Ngài cũng xác quyết vê quyền tối thượng của Thiên Chúa. Thực vậy, Thiên Chúa là chủ và quyền năng của Ngài bao trùm mọi lãnh vực. Ngài không tự đặt mình ngang hàng với César để tranh chấp hay bảo vệ những quyền lợi của mình. Bởi vì nộp thuế hay không nộp thuế cho César đâu có thêm bớt được cho vinh quang của Ngài. Do đó, chúng ta có thể chu toàn những bổn phận đối với Thiên Chúa mà vẫn cứ an tâm nộp thuế cho César.
Chúng ta không phải chỉ ngỡ ngàng và thán phục cung cách trả lời của Chúa Giêsu, mà còn ngỡ ngàng và thán phục hơn nữa với nội dung của lời giải đáp, có sức làm bật tung những lối nhìn tù túng. Có thể nói được rằng chỉ có một bổn phận duy nhất là làm đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng bao trùm trong mọi lãnh vực. Bởi vì đạo chỉ đẹp hơn khi ở trong đời và đời chỉ tốt hơn khi ở trong đạo.
24. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
CỦA THIÊN CHÚA TRẢ CHO THIÊN CHÚA
Người Do Thái muốn gài bẫy Chúa nên đưa ra câu hỏi hóc búa. Không ngờ Chúa trả lời thật khôn ngoan: “Của César trả cho César, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”. Với câu trả lời này, Chúa Giêsu minh định hai điều:
Thứ nhất: Tôn giáo và chính trị tách biệt nhau. Chính trị không thể trở thành tôn giáo hoặc bắt tôn giáo làm nô lệ. Tôn giáo cũng không thể đi vào chính trị, đánh mất bản chất của mình.
Thứ hai: Mỗi người phải chu toàn hai nhiệm vụ. Nhiệm vụ đối với xã hội là “trả cho César” những gì của César. Nhiệm vụ đối với Thiên Chúa: “trả cho Thiên Chúa” những gì thuộc về Thiên Chúa.
Hình và huy hiệu khắc trên đồng tiền là của hoàng đế César vì thế phải trả lại cho ông. Nhưng linh hồn con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa nên linh hồn phải được trả về cho Thiên Chúa.
Để có được đồng tiền mang hình ảnh César, người dân phải làm việc vất vả. Cũng thế, để linh mang hình ảnh Thiên Chúa, con người cũng phải ra sức làm việc.
Nhưng hai cách làm việc thật khác xa nhau. Để chia sẻ phần nào quyền lực của vua chúa trần gian, người ta phải làm việc theo cách vua chúa đó là tìm chiếm hữu của cải. Để trở nên giống hình ảnh Thiên Chúa, con người phải suy nghĩ và hành động như Thiên Chúa đó là yêu thương và cho đi.
Bí tích Thánh Thể là minh họa rõ nét nhất về tính cách yêu thương và cho đi của Thiên Chúa. Nói về bí tích Thánh Thể, lòng trí ta tự nhiên hướng về bữa Tiệc Ly, cuộc Khổ Nạn và cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Qua đó ta thấy một vài khía cạnh trong tình yêu của Chúa.
Đó là tình yêu phục vụ. Tin Mừng thánh Gioan thuật lại. Chúa Giêsu yêu thương những kẻ thuộc về mình thì yêu thương cho đến cùng. Nên trong bữa ăn tối, Người cầm lấy chậu nước và khăn rồi đi rửa chân cho từng môn đệ.
Đó là tình yêu tự hiến. Khi lập phép Thánh Thể. Chúa Giêsu đã nói: “Đây là Mình Thày bị nộp vì anh em; Đây là Máu Thày đổ ra cho anh em và mọi người được tha tội” (Lc 22,19).
Đó là tình yêu hiền lành khiêm nhường. Chúa Giêsu cam lòng chịu kết án oan ức, chịu sỉ nhục, chịu hành hạ chịu chết mà chẳng một lời oán thán.
Đó tình yêu tha thứ. Không chỉ tha thứ mà còn cầu xin Chúa Cha tha cho những kẻ làm hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm không biết” (Lc 23,34). Người cũng tha thứ cho kẻ trộm lành: “Thật Ta bảo thật, hôm nay con sẽ ở với Ta trên thiên đàng” (Lc 23,43).
Đó là tình yêu muốn tiếp diễn mãi mãi. Nên Người truyền cho ta: “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thày” (Lc 22,19). Cử hành thánh lễ, chầu Mình Thánh, kiệu Thánh Thể để Chúa ở mãi với ta, tiếp tục bày tỏ tình yêu thương với ta.
Người mong muốn kéo dài tình yêu của Người cho đến tận cùng không gian và đến tận cùng thời gian nơi cuộc đời chúng ta. Vì thế khi ta chịu lễ, ta phải kết hiệp mật thiết với Người, nên một với Người. Nên một với Người là biến đổi để ta suy nghĩ, nói năng và hành động như Người, nghĩa là sống như Người.
Sống như Chúa là hãy có tình yêu thương phục vụ. Vì Chúa đã dạy: “Như Thày đã rửa chân cho các con, các con cũng hãy rửa chân cho nhau” (Ga 13,14). Sống như Chúa là hãy có tình yêu tự hiến. Quên mình vì hạnh phúc của người khác. Dám hy sinh thời giờ, sức khỏe, tiền bạc vì anh em. Sống như Chúa là hãy có lòng hiền lành khiêm nhường. Vì Chúa đã dạy: “Hãy học cùng Thày, vì Thày hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Sống như Chúa là hãy tha thứ, không phải chỉ tha thứ 7 lần mà đến 70 lần 7 (x. Mt 18,21-22).
Sống như thế, ta trở nên hình ảnh sống động của Thiên Chúa giữa trần gian. Sống như thế, ta trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Sống như thế ta tôn sùng bí tích Thánh Thể một cách thiết thực và hữu hiệu nhất. Sống như thế là sống nhờ Thánh Thể. Không còn sống cho những giá trị trần gian mau qua, nhưng sống cho những giá trị vĩnh cửu của Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin dạy con biết sống bí tích Thánh Thể để con được kết hiệp với Chúa và càng ngày càng nên giống Chúa hơn. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Ban đã phải trả cho César những gì thuộc về César. Nhưng bạn có thực sự trả cho Chúa những gì thuộc về Người không?
2- Bạn làm gì để nên giống Chúa?
3- Qua bí tích Thánh Thể, bạn có thể hiểu được gì về tình yêu Chúa đối với bạn?
25. Mọi sự là của Chúa, hãy trả Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Dịp lễ Đức Mẹ La Vang, tháng 8 năm 2017 vừa qua. Khi đề cập đến tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam, Đức Tổng Giám Mục Girelli nhận định rằng, tại một số tỉnh, nhà cầm quyền lo lắng và phàn nàn về người Công Giáo và các hành động của họ. Nhưng ngài khuyên nhà cầm quyền CSVN nên nhận thức rằng, Giáo Hội Công Giáo nên được xem như một điều tích cực, thay vì một điều có vấn đề đối với đất nước.
Trích câu nói thời danh của Chúa Giêsu rằng: "Trả cho Caesar những gì của Caesar, và trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa". Đức Tổng Giám Mục Leopoldo nói tự do tôn giáo không phải cái gì thuộc về các quan chức chính quyền, mà phải nằm trong tay của người dân. Ông kêu gọi "các Caesar Việt Nam hãy trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa".
Đoạn Tin Mừng hôm nay mang đầy tính thời sự vì chúng ta đang sống trong một thế giới con người muốn gạt bỏ Thiên Chúa ra ngoài cuộc sống, hoặc nhận tất cả về mình, không còn kể đến Thiên Chúa nữa. Câu kết của đoạn Tin Mừng hôm nay đã trở thành lời bất hủ và ghi đậm dấu ấn trong lịch sử, trong tương quan phân chia, sở hữu thường ngày.
Đoạn Tin Mừng hôm nay mang đầy tính thời sự vì chúng ta đang sống trong một thế giới con người muốn gạt bỏ Thiên Chúa ra ngoài cuộc sống, hoặc nhận tất cả về mình, không còn kể đến Thiên Chúa nữa. Câu kết của đoạn Tin Mừng hôm nay đã trở thành lời bất hủ và ghi đậm dấu ấn trong lịch sử, trong tương quan phân chia, sở hữu thường ngày.
Thầy dạy bảo đường lối Thiên Chúa
Chúng ta khẳng định, Chúa Giêsu là Lời sống động của Thiên Chúa thế mà con người lại cố tìm để bắt lỗi Lời của Ngài! Con người nói: "Thầy dạy bảo đường lối Thiên Chúa", nhưng vẫn cứ hỏi: "Có được phép nộp thuế cho Cêsarê hay không?" (Mt 22, 17). Hỏi để mà hỏi, không phải để biết cho bằng gài bẫy. Thực tế nhóm Pharisiêu lại tự bẫy và trói chặt mình trong câu hỏi lưỡng nan ấy. Bằng cách từ chối đơn giản hóa vấn đề của đối phương, Chúa Giêsu đặt ra vấn đề căn bản mới và thiết yếu là: ai đứng vào vị trí Thiên Chúa?
Chính vì họ hỏi con đường của Thiên Chúa, "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy … dạy bảo đường lối Thiên Chúa" (Mt 22, 16), nên Người dẫn họ đi theo hướng đó, đây là tất cả giáo lý của Chúa. Thấu hiểu tâm tư của họ, Chúa bảo họ đưa cho xem đồng tiền, xem xong, thấy có khắc hình của một hoàng đế trên đồng tiền, họ khẳng định đó là hình của Cêsarê, Chúa nói: "Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê" (Mt 22, 21). Thực tế, người Do thái không nhận biểu tượng hình ảnh này, dù Cêsarê được biết đến là một hoàng đế tự cọi mình là thần đi chăng nữa, ông cũng chỉ là một con người. Theo Lời Chúa trong sách Sáng Thế, chỉ có Thiên Chúa làm ra con người giống hình ảnh Chúa cách sống động: "Chúng ta làm ra con người giống hình ảnh chúng ta và giống chúng ta" (St 1, 26). Hãy trả đồng tiền này cho chủ nhân của nó và hãy trả cho Thiên Chúa linh hồn chúng ta.
Linh hồn chúng ta thuộc về Chúa
Đồng tiền mang hình ảnh của Cêsarê, nhưng linh hồn chúng ta là chính hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi, thể theo thánh vịnh: "Lạy Chúa, xin tỏa ánh tôn nhan Người trên chúng tôi". (Tv 4, 7)... Ánh tôn nhan Thiên Chúa là ánh của ân sủng ghi dấu trên chúng ta hình ảnh Ngài, làm cho chúng ta giống Ngài, ánh tôn nhan Chúa còn là ấn tích được ghi trong trí chúng ta, chúng ta nhận biết ai đó nhờ khuôn mặt của người ấy, thì Thiên Chúa cũng nhận biết chúng ta nhờ tấm gương của lý trí. Nhưng lý trí này đã bị biến dạng do tội lỗi con người, vì tội lỗi khiến con người chống lại Thiên Chúa. Ân sủng Đức Kitô sửa chữa lại lý trí chúng ta. Đó là lý do tại sao thánh Tông đồ Phaolô nói trong thư gửi tín hữu Êphêsô rằng: "Hãy đổi mới tình thần" (Ep 4, 23). Ánh sáng ở đây còn là ân sủng, nhằm phục hồi hình ảnh Thiên Chúa ghi khắc trong chúng ta.
Thiên Chúa Ba Ngôi đã khắc ghi vào con người hình ảnh giống Ngài. Con người giống Chúa Cha ở điểm trí nhớ, giống Chúa con ở trí hiểu, giống Chúa Thánh Thần ở chỗ biết yêu mến… khi tạo dựng, con người được dựng lên" giống hình ảnh Chúa" (St 1,26). Hình ảnh trong sự nhận biết chân lý, tương tự trong nhân đức yêu thương. Ánh tôn nhan Thiên Chúa chính là ân sủng công chính hóa chúng ta và một lần nữa cho thấy hình ảnh được tạo ra. Ánh sáng này là tất cả những điều tốt đẹp nơi con người, được ghi dấu, như hình ảnh của nhà vua trên đồng tiền. Đó là lý do tại sao Chúa nói: "Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê" (Mt 22, 21). Điều này ý nói: phải trả cho Cêsarê hình ảnh của Caesar, trả cho Thiên Chúa linh hồn anh em, đã được điểm tô và ghi dấu ánh sáng tôn nhan Thiên Chúa. Chúng ta không thể trao cho Cêsarê linh hồn của chúng ta, nó luôn thuộc về Chúa.
Mọi sự là của Chúa
Lời Chúa Giêsu nói: "Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa" (Mt 22, 21) xác lập một sự khác biệt sâu xa giữa thiêng liêng với thế trần, làm nền tảng cho sự tìm kiếm của người kitô hữu trên mặt đất này. Con người là trung tâm và tột đỉnh của sự sáng tạo, phẩm giá con người hiện nay được thừa nhận rộng rãi, tuy nhiên, khó khăn vẫn còn đó, chúng ta phải phân biệt hai chủ quyền khác nhau của Thiên Chúa trên thế giới. Cêsarê và Chúa không ở cùng một cấp độ, Chúa là Đấng Sáng Tạo, Chúa tể trời đất, Cêsarê là hoàng đế, những ông cũng chỉ là một thụ tạo, một con người, ông phải phụ thuộc vào Chúa và cũng phải trả lẽ trước mặt Chúa, đây không phải là Thiên Chúa hoặc Cêsarê mà là Thiên Chúa và Cêsarê, mỗi vị trong cấp độ xứng hợp riêng của mình.
Vậy "Trả cho Cêsarê những gì thuộc về Cêsarê" nghĩa là trả cho Cêsarê những gì chính Chúa muốn trao cho Cêsarê. Chúa thống trị trên tất cả kể cả Cêsarê, nên Thiên Chúa làm chủ quyền thiêng liêng Nước Chúa được thực thi trong Chúa Kitô qua Giáo hội của Người. Đương nhiên, Ngài làm chủ cả thế tục và thể chế chính trị mà Chúa thực hiện gián tiếp qua các quyền bính thế gian. Về vấn đề này, Chúa Giêsu đã từng nói rõ với Philatô khi ông nói với Chúa: "Ông không biết rằng ta có quyền tha ông, mà cũng có quyền đóng đinh ông hay sao?" (Ga 19, 10) Chúa Giêsu đáp: "Quan chẳng có quyền gì trên tôi, nếu từ trên không ban xuống cho" (Ga 19,11). Thánh Phaolô là người đầu tiên nhìn thấy hiệu quả của giáo huấn này nên viết: "Mọi người hãy phục tùng chính quyền bởi vì không có quyền bính nào mà không đến từ Chúa. Ai chống lại quyền bính thì chống lại trật tự Thiên Chúa đã đặt ra… đó là lý do tại sao anh em phải nộp thuế bởi vì chính quyền chịu trách nhiệm như những người phục vụ Chúa" (Rm 13,1).
Trước khi vâng lời con người, chúng ta phải vâng lời Thiên Chúa và lương tâm chúng ta. Đó cũng là nghĩa vụ của chúng ta phải nói với Cêsarê, cụ thể với quyền bính thế gian rằng, hãy trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa.
Lạy Chúa là Đấng tạo thành trời đất và là chủ muôn loài, tất cả thuộc về Chúa, xin cho chúng con biết luôn hướng lòng về Chúa và tôn thờ Chúa là Chúa chúng con. Amen.
26. Độc lập tinh thần và phục vụ chính trị.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Xứ Pa-lét-tin vào thời Chúa Giêsu là một tỉnh của đế quốc La mã. Như mọi tỉnh khác, ngoài đủ thứ thuế còn nộp thêm một sắc thuế đặc biệt để tỏ dấu phục tùng Hoàng đế. Giữa những người Do thái có kẻ chủ trương nộp thuế; kẻ khác, những người phái Nhiệt thành –những người kháng chiến đương thời, coi như bổn phận tôn giáo phải từ chối không nộp thuế. Những người phái Nhiệt thành rất được lòng dân. Các kẻ đối nghịch với Chúa Giêsu đặt cho Ngài câu hỏi sau: Có nên nộp thuế cho vua Cê-sa không? Câu hỏi ấy là một cái bẫy. Họ đã tính toán nếu Chúa Giêsu trả lời không, Ngài sẽ gặp khó khăn với chính quyền La mã và sẽ bị bắt giam; nếu Ngài trả lời có, Ngài sẽ làm mất lòng dân, dân sẽ loại bỏ Ngài. Dầu thế nào họ cũng thanh toán được Ngài. Như các trường hợp tương tự, thường Chúa Giêsu đưa ra một câu trả lời vượt quá câu hỏi. Vấn đề thật đối với Ngài là gì? Việc Nước Thiên Chúa đến và lan rộng. Đối với quyền hành trần thế, Ngài trả những gì thuộc phạm vi nó trên mặt trần thế, đồng thời khẳng định rằng vương quyền Thiên Chúa không liên kết gì với thực tại ở đời mà người ta gọi là Quốc gia. Đối với Thiên Chúa, Ngài trao trả những gì thuộc về Thiên Chúa, phẩm giá và định mệnh con người: Người ta đã bình luận nhiều về lời Chúa Giêsu “Trả cho Cê-sa những gì thuộc về Cê-sa và trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa”. Để hiểu rõ cần đi vào cách nhìn của chính Chúa Giêsu và nhớ lại các hoàn cảnh thực thụ khi Ngài giảng dạy.
1) Xã hội chung quanh lôi kéo muốn tôn vinh Ngài làm vua trần thế. Sau việc hoá bánh ra nhiều, đám đông muốn phong vương cho Ngài. Chính các môn đệ lâu ngày tin tưởng vào một vương quyền trần thế. Chúa Giêsu đã phải không ngừng chống lại quan niệm sai lầm ấy của những người đi theo. Nhiều lần Ngài công bố mà không ai hiểu rằng Ngài là “Người tôi tớ đau khổ” được các tiên tri báo trước và sứ mạng Ngài nhằm khai trương Nước Thiên Chúa. Do đó câu Ngài trả lời cho những người Biệt phái vượt quá bình diện một thái độ kháng cự hay không kháng cự một quyền hành trần thế. Chế độ trần thế của bất kỳ cộng đoàn nhân loại nào, dầu có mang hình thức nào, con người trong đó cần phải có thể dâng cho Chúa những gì thuộc về Chúa và việc phục vụ phải dâng cho Thiên Chúa (thờ phượng, rao giảng, Phúc âm, các phép bí tích..) đi qua trung gian Người Tôi Tớ đau khổ và chiến thắng, không phải tách biệt các quyền hành thế gian này nhưng đứng trên chúng.
2) Nhưng như vậy phải nói Phúc âm muốn bất biến chính trị hay sao? Vấn đề đang bàn luận sôi nổi. Trong căn bản có thể nói công việc chính yếu của Phúc âm là thay đổi tâm hồn, Ở mức độ các cơ cấu xã hội. Dĩ nhiên có một số cơ cấu nâng đỡ hay gây khó khăn cho công việc của Phúc âm. Việc biến cải cá nhân và việc thay đổi xã hội ảnh hưởng lẫn nhau. Bổn phận chính trị của Kitô hữu do đó là góp phần xây dựng một trật tự xã hội thuận lợi cho Phúc âm. Phải dành ưu tiên cho việc nào? Biến cải nội tâm hay cải tạo xã hội? Vì tâm hồn là một nguồn mạch và vì Phúc âm đâm rễ trong tâm hồn, ưu tiên được dành cho cố gắng thường trực hoán cải tâm hồn. Khi ấy người Kitô hữu nào dấn thân cải tạo xã hội thoát nguy cơ chọn làm quy luật hành động những nguyên tắc, những mục tiêu và phương tiện thuộc về thế gian chớ không thuộc về Phúc âm. Hơn nữa sẽ giúp ích cho thế gian bằng cách không tự giới hạn vào việc lập lại những gì thế gian nói, nhưng đóng góp được sứ điệp riêng của Phúc âm.
27. Những đòi hỏi của Tin Mừng
(Suy niệm của Lm. Bùi Mạnh Tín)
Vì tin theo Chúa Kitô và sống theo những điều Ngài giảng dạy, chúng ta trở thành môn đệ của Ngài, được mệnh danh là "Kitô hữu", như sách Tông Đồ Công Vụ ghi: "Chính tại Antiokia, lần đầu tiên các môn đệ được gọi là kitô hữu" (CV 12,27).
Tuy nhiên, dù đã theo Chúa Kitô, được rửa tội, trở nên phần tử cửa Giáo Hội, và là "những công dân Nước Trời", chúng ta vẫn sống trong xã hội, vẫn là công dân của một quốc gia nào đó, với những bổn phận dân sự phải thi hành, những đóng góp phải chu toàn, và nhất là với những luật lệ đôi khi trái với các nguyên tắc Phúc Âm.
Chính vì thế, với hai tư cách "công dân Nước Trời" và "công dân trần thế", chúng ta thường có những lẫn lộn phức tạp nhiều khi khó phân biệt, có những dằng co khó giải quyết, được bên này thì mất bên kia: tốt đời mà không đẹp đạo, tốt đạo lại hỏng đời, nhất là khi những đòi hỏi của hai bên trái ngược nhau. Sư lẫn lộn và dằng co này nhiều khi trở thành những thách thức lớn lao hoặc những cạm bẫy khó tránh. Câu truyện trong Phúc Âm hôm nay là một bằng chứng...
Ngày nay trong xã hội chúng ta cũng đầy dẫy thách thức cà cạm bẫy như thế:
- Vấn đề ly dị hôm nay đã trở thành "bình thường và quen thuộc". Trong những gia đình ly dị, có một số là Công Giáo. Tôi sẽ cố gắng giữ vững lập trường của một kitô hữu, trung thành với luật Chúa, hay tôi nên chạy theo các trào lưu trần tục của xã hội?
- Nếu cần thì cứ phá thai. Hàng ngày có biết bao vụ giết thai nhi trong các nhà thương hay tại những địa điểm có tên là "Kế hoạch hóa gia đình" (Parenthood Plans). Chỉ vì không muốn có thêm một đứa con, chỉ vì danh dự cá nhân hoặc gia đình, tôi nên quyết định thế nào? Phải giữ giới răn "Thứ năm chớ giết người", hay quyết định phá hủy một thai nhi vô tội do chính huyết nhục của tôi tạo thành?
- Tôi cần tiền mua chiếc xe. Tôi sẽ cống gắng làm lụng và để dành tiền trong thời gian lâu dài, hay sẽ đến một cơ quan chính quyền khai rằng mình bệnh tật, dù tôi rất khỏe mạnh?
Trước những vẫn đề như thế, chúng ta có thể chạy theo các trào lưu xấu của xã hội và những lợi ích bất chính, đánh mất lập trường của một kitô hữu, hay quyết định gắn bó với giáo huấn của Chúa... Đứng bên này hay bên kia là quyền tự do của mỗi người. Nhưng nếu muốn trở thành những môn đệ đích trung thành và những Kitô hữu đích thực của Chúa, chúng ta cần sáng suốt và can đảm, và luôn nhắc nhở cho mình lời Chúa Kitô: "Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích gì?" Lời này của Đức Kitô phải trở thành châm ngôn cho cuộc sống đức tin của chúng ta, một châm ngôn đã thực sự tạo thành sức mạnh vô cùng lớn lao nơi các thánh Tử Đạo Việt Nam. Đúng vậy, thánh Phạm Khắc Khoan (1771- 1840) khi được hỏi: "Ông có muốn sống không?", đã trả lời: "Sống thì ai không ham..., nhưng nếu sống mà phải bỏ Chúa tôi, thì tôi không ham". Thánh Trần Văn Trung, trước giờ chết, đã mạnh dạn nói lên lập trường của mình: "Tôi là người theo đạo Công Giáo, tôi sẵn sàng đi đánh quân địch nước nhà, nhưng bắt tôi bỏ đạo, thì không bao giờ tôi chịu". Khi bị dụ dỗ, thánh Nguyễn Huy Mỹ cương quyết đáp: "Bẩm quan, tôi biết đạo Công Giáo là đạo thật, nên tôi không thể bỏ được, và không bao giờ dám chà đạp Thánh Giá Chúa tôi".
Ước gì trong cuộc sống này, khi luôn cố gắng trở thành những công dân yêu nước thực sự, chúng ta luôn sáng suốt và cam đảm tranh đấu cho tư cách "công dân Nước Trời" của mình, dù phải đương đầu với những khó khăn và phải mất đi tư cách công dân trần thế.
28. Trả về Thiên Chúa
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
"Có được phép nộp thuế cho Xê-da không?"
Câu hỏi sắc như một con dao hai lưỡi.
Nếu Đức Giêsu bảo phải nộp, ắt Ngài chẳng yêu nước yêu dân. Thứ thuế thân nộp cho đế quốc Rôma thật là điều ô nhục. Nhưng nếu Ngài bảo đừng nộp, hẳn Ngài sẽ bị tố cáo.
"Cho tôi xem đồng tiền dùng để đóng thuế."
Khi đưa cho Đức Giêsu đồng bạc có hình Xê-da, những kẻ giương bẫy thú nhận họ có dùng thứ tiền này, và như thế họ đã mặc nhiên nhìn nhận quyền của Xê-da.
Khi biết hình và dòng chữ trên đồng bạc là của Xê-da, Đức Giêsu đã nói một câu không dễ hiểu: "Vậy hãy trả lại cho Xê-da những gì của Xê-da". Ngài nhìn nhận một sự độc lập nào đó của ông. Ông có quyền điều hành đế quốc của ông như ông muốn. Đối với người Do Thái sử dụng đồng bạc của Xê-da, Đức Giêsu không hề ngăn cản họ nộp thuế cho ông ấy, như sau này có kẻ tố cáo (x. Lc 23,2). Nhưng Ngài cũng không buộc mọi người phải nột thuế cho Xê-da, vì có người coi việc nộp thuế thân cho hoàng đế Rô-ma là phủ nhận quyền tối thượng của Thiên Chúa.
Chẳng những Đức Giêsu không bị mắc bẫy mà Ngài còn nhân cơ hội đi lên một bình diện cao hơn: "Hãy trả lại cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa." Đây mới thật là vấn đề Ngài hết sức quan tâm.
Chúng ta tự hỏi: có cái gì ngoài Thiên Chúa mà lại không phải là thụ tạo của Ngài?
Phải trả lại cho Xê-da đồng tiền mang hình và tên ông, nhưng phải trả lại cho Thiên Chúa những gì mang hình Ngài, những gì đã được ghi khắc tên Ngài trên đó.
Hình ảnh nổi bật nhất là con người (x. St 1,26). Toàn bộ con người mang dấu ấn của Thiên Chúa. Không ai được khinh miệt phụ nữ, thai nhi hay người già. Không ai được làm hoen ố sự trong sáng của lương tâm. Xúc phạm con người là phạm đến nơi sâu thẳm của Thiên Chúa.
Mọi quyền bính đạo đời đều nhằm phục vụ con người, đều nhằm làm sáng lên hình ảnh Thiên Chúa nơi nó. Trả con người lại cho Thiên Chúa là dâng nó cho Ngài, là nhìn nhận chủ quyền của Ngài trên đời ta.
Cả vũ trụ cũng tiềm tàng dấu ấn của Thiên Chúa: đất, rừng, sông biển, không khí, tài nguyên và muôn sinh vật. Hãy trả lại cho Thiên Chúa vũ trụ trong lành, hiền hậu, nghĩa là trả lại cho con người món quà Ngài đã tặng.
Mọi quyền bính đều bắt nguồn từ Thiên Chúa (x.Ga 19,11). Chúng có giá trị và sự tự lập, nếu phù hợp với ý Ngài, cũng là phù hợp với quyền lợi chính đáng của con người.
Chúng ta có chiếm đoạt điều gì của Thiên Chúa không?
Hình ảnh của Thiên Chúa nơi tôi rõ hay mờ nhạt?
Có lớp bụi nào che khuất khuôn mặt Chúa nơi tôi?
Ước gì tôi đọc được tên Thiên Chúa, tên Đức Giêsu trên những người tôi gặp, những biến cố tôi sống mỗi ngày.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn nghĩ gì về những điểm giống nhau và khác nhau giữa quyền của quốc gia và quyền của Hội Thánh? Theo bạn, đâu là giới hạn của những quyền này?
Hình ảnh Thiên Chúa nơi con người nhiều khi đã bị che lấp và những hình ảnh khác đã chiếm chỗ. Theo bạn, đâu là những hình ảnh khác đang in dấu trên con người hôm nay?
Cầu Nguyện
Lạy Cha,
Có những người bạn trẻ thích xăm hình lên người, hay muốn ăn mặc, đi đứng theo kiểu một ngôi sao thể thao hay điện ảnh. Họ vui khi thấy mình giống hệt những thần tượng mà mình yêu thích.
Xin Cha giúp chúng con biết hãnh diện vì mang nơi mình hình ảnh cao quý của Cha và sống theo phong cách của Cha:
Cha quảng đại mở ra để chia sẻ hạnh phúc thần linh,
Cha khiêm tốn tôn trọng tự do của con người,
Cha yêu thương đến nỗi dám trao hiến Người Con Một chí ái,
Cha bao dung tha thứ trước những tâm hồn hoán cải,
Cha luôn tận tụy làm việc để nâng đỡ cả thế giới.
Ước gì người ta biết Cha trên trời, khi gặp chúng con ở dưới đất.
Ước gì người ta đọc thấy tên Cha trong tim của chúng con, và nhận ra chúng con là con Cha. Amen.
29. Trả cách sòng phẳng
(Suy niệm của John W. Martens – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Thưa Thầy, có được phép nộp thuế cho Hoàng đế không?” (Mt 22,17)
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Thánh sử Matthêu đã ghi lại một trong những câu nói của Chúa Giêsu mang tính thách đố lớn nhất, khiến chúng ta tự hỏi “Thế thì chúng ta mắc nợ ai, và mắc nợ cái gì để phải trả cách sòng phẳng?” Câu trả lời của Chúa Giêsu, được dịch giả King James chuyển dịch rất nhẹ nhàng “Hãy trả cho Xêda những gì thuộc về Xêda, và trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa”. Câu trả lời xem ra có vẻ giản đơn và đương nhiên phải làm như vậy. Tuy nhiên ẩn ý sâu xa thì không đơn giản chút nào. Thế những gì được cho là thuộc về Xêda, và không thuộc về Thiên Chúa?
Trong một đoạn văn khá hay nơi trình thuật của Isaia chương 45 (bài đọc thứ nhất), ngôn sứ cho thấy Thiên Chúa đã cắt đặt Ky-rô một người ngoại đạo thuộc xứ Ba Tư làm vua, và gọi ông ta là “người được xức dầu” (mashiach). Đó là một người lãnh đạo gốc dân ngoại giống như Xêda, nhân vật được nói tới hôm nay. Trong bản văn của Isaia, Thiên Chúa dùng Ky-rô như khí cụ của Ngài. Ngài nói về ông ta: “Ta đã cầm lấy tay phải nó, để bắt các dân suy phục nó. Ta tước khí giới của các vua”. Thiên Chúa còn nhấn mạnh thêm “Dù ngươi không biết Ta, Ta đã gọi ngươi đích danh, đã ban cho ngươi một tước hiệu, đã trang bị cho ngươi đầy đủ, để từ đông sang tây, thiên hạ biết rằng chẳng có thần nào khác ngoại trừ Ta. Ta là Đức Chúa, chẳng còn Chúa nào khác”. Ky-rô là công cụ mà Thiên Chúa sử dụng để biểu thị quyền năng thần thiêng nơi Ngài. Quyền lực mà Ky-rô có trong tay, không phải do tài cán hay sức lực nơi cá nhân ông, nhưng được vay mượn từ nơi Thiên Chúa. Đối với ngời Do Thái, họ vẫn xác tín rằng chỉ một mình Thiên Chúa có quyền năng tối thượng trên mọi loài.
Vì vậy, một số người Pharisiêu và phái Hêrôđê hỏi Chúa Giêsu “Có phải nộp thuế cho Hoàng đế hay không?” Câu hỏi này là một cú đòn nham hiểm được tung ra để tấn công Ngài. Họ giả vờ nịnh hót, tâng bốc nhằm gài bẫy Ngài “ Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người ngay thật, và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta”. Câu hỏi tung ra một chiêu rất độc, như một cái bẫy để hạ giá Đức Giêsu. Cái bẫy đó là gì? Hoặc là Đức Giêsu đồng thuận và cổ xúy việc nộp thuế cho đế quốc. Điều này sẽ gây bất bình trước cảm thức chung của người Do Thái. Hoặc Đức Giêsu chống lại việc nộp thuế, như phần đông người Do Thái vẫn có xu hướng như vậy, thì đó lại là một hành động tiềm ẩn nguy hiểm rất lớn trước sự cai trị khắc nghiệt của những người cầm quyền Rôma.
Đức Giêsu đã từng bị gài bẫy trước những câu hỏi được đưa ra, nhưng Ngài đã khôn khéo và dễ dàng đáp trả, ví dụ như khi các thượng tế và kỳ mục hỏi Ngài “Ông lấy quyền gì mà hành xử như thế (Mt 21, 23-27). Tuy nhiên, trước câu hỏi nêu ra trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu tỏ vẻ khó chịu khi phải trả lời. Có thể vì những người đặt câu hỏi có một dụng ý quá nham hiểm, cung điệu có vẻ tâng bốc và giả dối. Vì thế, trong câu trả lời, Đức Giêsu lại đặt một câu hỏi ngược lại để đánh đố họ. Việc Đức Giêsu nhắm đến, là họ phải trả lời, xem họ nghĩ gì về sự tương quan giữa Thiên Chúa và nhà cầm quyền, hay giữa Giáo hội và quyền bính trần thế.
Đức Giêsu nói với họ, những người giả vờ thắc mắc để gài bẫy Ngài, là “hãy đưa Ngài xem đồng tiền để nộp thuế. Họ trưng ra một đồng tiền đúc Denarius. Hình ảnh in trên đồng tiền là chân dung hoàng đế Tiberiô, kèm theo câu viết “Tiberiô Xê-da, con của Augustô, đấng thần linh”. Đồng tiền biểu thị phong thái rất cao ngạo, vì sự thần thánh được gắn cho Augustô và Tiberiô. Khi những người Pharisiêu và phái Hêrôđê xác nhận đồng tiền thuộc về Xê-da, Đức Giêsu trả lời họ: Hãy trả cho Xê-da những gì thuộc về Xê-da, và trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa”.
Vậy thì ai là chủ và là người có quyền, và có quyền trên cái gì? Vài học giả nghĩ rằng có một cách cắt nghĩa rất giản đơn. Đồng tiền in hình Hoàng đế, thì ông ta là chủ và có quyền trên đồng tiền đó. Đồng tiền thuôc về ông ta. Lý luận đơn giản là như thế. Nhưng chúng ta phải biết rằng, quyền lực của chính phủ, ngay cả một chính phủ ngoại bang như đế quốc Rôma, chỉ có thể tồn tại nhờ vào quyền lực tối cao phát nguyên từ chính Thiên Chúa. Nộp thuế là một phần nói lên sự tuân phục quyền bính trần thế. Một số học gỉa khác lại đưa ra tính cách thâm sâu và bí nhiệm nơi câu nói của Đức Giêsu. Ý nghĩa sẽ tùy thuộc vào thái độ chúng ta, khi chúng ta tin rằng mọi sự đều thuộc về Thiên Chúa và phải quy hướng trọn vẹn về Ngài. Như vậy, Xê-da không sở đắc bất cứ một thứ quyền bính nào, cho dù đồng tiền có in hình ông, và người ta phải nộp thuế cho chính quyền Rôma, do ông cai trị. Dầu sao, trong cả hai tình huống, Đức Giêsu gắn trách nhiệm cho những kẻ chất vấn để gài bẫy Ngài, và tránh được cái bẫy được giăng ra. Không phải Ngài trực tiếp cổ xúy cho những đầu mục Do Thái giáo thuộc phái nhiệt thành, hay rơi vào cái bẫy để những người Rôma có thể đến bắt Ngài. Tuy nhiên, chúng ta phải động não về câu hỏi được Đức Giêsu đưa ra cho chúng ta hôm nay, cũng như ngày xưa Ngài đã hỏi ngược lại “Ai là người chủ của đồng tiền Denarius?”. Thực tế, nếu chúng ta suy xét thấu đáo và biết phân định một cách sâu xa, câu hỏi mang chở lời chất vấn “Chúng ta mắc nợ Thiên Chúa cái gì? Thiên Chúa có thật sự là ông chủ, và có phải tất cả những gì chúng ta có đều thuộc về Ngài hay không?
Đồng tiền Denarius được Rôma sản xuất, thuộc về Rôma. Nhưng Rôma đã trịch thượng gắn mác Tiberius lên đó như một vị thần linh. Tính thần linh này chỉ dành riêng cho một mình Thiên Chúa mà thôi. Có lẽ trong câu trả lời của Đức Giêsu, Ngài muốn nói cho chúng ta biết rằng, trong thế giới linh thánh, tiền bạc không phải là đơn vị để chúng ta giao dịch hay trao đổi. Vậy thì tiền bạc trần gian, chúng ta cứ trả lại cho trần gian, trong đó có những nhà cầm quyền ở trần gian này. Còn điều mà chúng ta phải trả cho Thiên Chúa, cho một mình Thiên Chúa là Đấng tối thượng, chính là sự tôn thờ và suy phục Ngài. Chúng ta suy phục và tôn thờ duy nhất một mình Thiên Chúa mà thôi, không mắc nợ ai điều này. Khi những gì thuộc về Xêda, và những gì thuộc về Thiên Chúa đối kháng nhau, chúng ta phải tuyệt đối quy thuận Thiên Chúa. Ngài là chủ nhân của tất cả. Ngài là Đấng duy nhất mà chúng ta phải luôn quy hướng về.
30. Nên nộp thuế chăng?
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – R. Veritas)
Đi hỏi xem Đức Giáo Hoàng có bao nhiêu sư đoàn? Stalin đã có lần thốt lên như thế khi nhắc đến người có vai trò trung gian của Tòa thánh trong chiến trường quốc tế. Không đầy một thế kỷ sau, một vị Giáo hoàng đến từ Đông Au đã làm lung lay tận gốc rễ chế độ của Liên xô. Quả thật, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tỏ ra là một con người đáng sợ đối với rất nhiều nhà lãnh đạo chính trị và người cuối cùng hẳn phải là chủ tịch Phidel Castro, người đã đặt tất cả nhân loại dưới bờ vực của chiến tranh nguyên tử từ đầu thập niên 60. Dưới mắt giới truyền thông, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chỉ là một con người bảo thủ, bênh vực giá trị truyền thống. Thế nhưng, nếu ta cần chứng kiến khi những giá trị truyền thống ấy bảo đảm cho phẩm giá con người thì không ai tỏ ra thẳng thắn, can đảm cho bằng ngài.
Người ta vẫn còn nhớ khi đến Pháp lần đầu tiên từ năm 1981, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã không ngần ngại hỏi từng người dân Pháp, kể cả vị nguyên thủ quốc gia của nước này như sau: “Hỡi nước Pháp, tôi đã làm gì với phép rửa của ngươi?”. Câu hỏi ấy ngài đi thẳng vào lương tâm mỗi người dân Pháp: “Đâu là chỗ đứng của niềm tin tôn giáo trong cuộc sống của mỗi người?”.
Một câu hỏi như thế cũng có thể được nêu lên cho mỗi một người Kitô hữu chúng ta. Người có tôn giáo dễ có khuynh hướng phân chia cuộc sống thành nhiều ô độc lập với nhau, ô ở Công giáo, ô ở phố chợ với nhau, ô ở nhà thờ v.v. Sự phân chia ấy dễ tạo nên hai bộ mặt tương phản nơi người tín hữu. Một bộ mặt rất đạo đức ở nhà thờ hay khi cầu kinh và một bộ mặt phi đạo đức bên ngoài nhà thờ.
Khi tuyên bố: “Của Xêda hãy trả lại cho Xêda, của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa”, Chúa Giêsu không những đã thoát được cái bẫy thâm độc của những người Biệt phái và phe Hêrôđê. Ngài còn khẳng định về chỗ đứng trong cuộc sống con người: “Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa”.
Thiên Chúa không phải là một vị thần, hay vị thần của thế giới thần linh. Thiên Chúa không phải là món đồ trang sức cho con người, nhưng Thiên Chúa là Chủ tể, là gia nghiệp, là tất cả của con người. Ngài không chiếm chỗ nhất trong cuộc sống con người, mà con người phải tìm kiếm Ngài trong tất cả mọi sự. Ngài không chỉ ngự một góc nào đó trong nhà thờ, Ngài không chỉ hiện diện trong một buổi cầu kinh nào đó. Ngài gặp gỡ con người ở khắp mọi nơi, trong mọi sinh hoạt của cuộc sống con người. “Của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa”, có nghĩa là hãy dành chỗ nhất cho Ngài trong cuộc sống, tìm kiếm Ngài, gặp gỡ Ngài, yêu mến Ngài trong tất cả mọi sự.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tự vấn lương tâm và xác định lại sự chọn lựa căn bản của chúng ta. Niềm tin tôn giáo không phải là một sinh hoạt xa xỉ tùy tiện, được giản lược trong bốn bức tường của nhà thờ, hay chỉ trong bài diễn văn đặc biệt trong năm hay trong suốt một đời người. Niềm tin ấy phải thấm nhập vào toàn bộ cuộc sống và hướng dẫn mọi chọn lựa, suy nghĩ và hành động của người Kitô hữu.
Khi niềm tin được sống một cách triệt để như thế, thì Giáo Hội không chỉ có một vài sư đoàn, mà sẽ là một đạo binh có sức cải tạo và thay đổi bộ mặt của xã hội. Khi người tín hữu Kitô sống cho đến cùng những đòi hỏi của niềm tin, họ sẽ tìm được bình an và hạnh phúc đích thực cho cuộc sống, bởi vì họ có Chúa làm gia nghiệp cho cuộc đời.
31. Song hành
"Của Xeda trả cho Xeda của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa"
Khi phân tích ngữ nghĩa của câu trong ngôn ngữ, người ta nhận thấy có nhiều câu đúng ngữ pháp nhưng ngữ nghĩa lại không rõ ràng. Nhà ngôn ngữ gọi chúng là câu mơ hồ nghĩa (arbitrary). Thí dụ câu "Ông lão nhìn đứa trẻ với cái kính hiển vi". Câu này có hai nghĩa. 1. Ông lão với cái kính hiển vi nhìn đức trẻ (cái kính của ông lão). 2. Ông lão nhìn đức trẻ mà nó đang có cái kính (cái kính của đứa trẻ).
Trong các phiên toà xét xử, thẩm phán hay luật sư bào chữa không được hỏi những câu mơ hồ như thế. Đai loại như "Anh không còn đánh vợ nữa phải không?". Trả lời còn thì rõ tội rồi. Còn trả lời không, nghĩa là trước đây có. Như vậy cũng không thoát tội.
Hôm nay, bọn Pharisêu đưa Đức Giêsu vào một tình cảnh nữa sống nữa chết như vậy. "Có được phép trả thuế cho Xeda không?". Trả lời không là chống đế quốc Lamã. Còn nói có thì ủng hộ ngoại bang, là đồ phản quốc. Thế nhưng, đâu đơn giản mà Đức Giêsu mắc lừa họ. Ngài đã trả lời họ bằng một câu không còn có thể bắt bẻ vào đâu được. Cái gì cũa Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa, của Xeda trả cho Xeda. Và qua cơ hội này, Ngài lưu ý cho mọi người một bài học. Mọi người đều phải có trách nhiệm với Thiên Chúa và với xã hội mà mình sinh sống.
Là một Kitô hữu, chúng ta có bổn phận với Thiên Chúa, với Giáo Hội là lẽ đương nhiên. Vì ngang qua Giáo hội ta hưởng ân huệ của Thiên Chúa. Chúng ta phục vụ cho Giáo Hội vì chúng ta thừa biết điều đó có lợi cho chúng ta. Đó không chỉ là một bổn phận mà còn là một quyền lợi. Quyền cai quản của chức tư tế cộng đồng mà ta nhận lãnh khi chịu phép Rửa Tội. Đây là một suy nghĩ trưởng thành của một người có trình độ.
Tuy vậy, số những người am tường đạo lý ấy vần còn quá ít trong Giáo hội. Tình trạng cha chung không ai khóc vẫn nhan nhãn mỗi ngày. Việc của Giáo Hội ư? Đã có hàng Giáo sĩ lo. Đâu phải trách nhiệm của tôi? Nếu có đóng góp thì kêu ca phàn nàn, tìm cách thoái thác. Không tránh được thì xem như việc đại từ thiện, rộng rãi, hy sinh vô bờ bến. Để rồi bắt người khác phải nhớ ơn, lưu dấu, phục vụ, trả lễ theo điều kiện này kia của mình. Hành động như thế quả thật không sinh ít lợi mà còn mắc thêm tội kêu ngạo. Bạn thật không hiểu rằng: Giáo Hội là Mẹ. Chúng ta múc lấy sinh lực từ Mẹ để lớn lên. Vậy thì hỗ trợ xây dựng Giáo hội là lẽ công bằng trước khi đó là hành vi bác ái.
Điểm thứ hai mà chúng ta cần phải quan tâm cho thấu đáo là trách nhiệm của một người công dân đối với đất nước, dân tộc mình. Từ "thuế" ở câu nói của người Pharisêu không đơn thuần là nộp thuế mà còn là bổn phận xây dựng xã hội, bảo vệ hoà bình, tuân thủ luật pháp. Ngoài những vị trí và những vai trò khác nhau của một cá nhân chúng ta không loại bỏ bổn phận là công dân của một đất nước, là thành viên của một cộng đồng dân tộc. Nếu loại bỏ hai yếu tố ấy ra khỏi một con người thì chúng ta tự tách mình ra khỏi cộng đồng con người. Do vậy, bản thân ta luôn gắn liền với sự thịnh, suy của dân tộc mình. Theo đó Giáo hội không cấm đóan con cái mình tham gia vào các hoạt động chính trị, xã hội. Nếu không nói là ủng hộ con cái mình trong tinh thần chân lý và sự thật tích cực dấn thân đề nhờ đời sống tốt đạo của mình mà góp phần cải biến xã hội, thánh hoá thế trần, đưa mọi người trở về Ánh Sáng chân thật. Chẳng phải đường hướng của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam là "Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc" đó sao? Chính Đức Giêsu đã làm gương mẫu cho chúng ta về vấn đề này. Cha mẹ Ngài theo lệnh vua mà trở về quê khai nhân khẩu (Lc 2,3-5). Ngài đã bảo Phêrô đi đóng thuế cho hai người (Mt 17,24-27). Theo gương Đức Giesu Giáo hội đã làm biết bao những việc để phát trển nhân sinh và con người.
Nói khác hơn, cả hai trách nhiệm trên đều đáng trân trọng và cần được duy trì. Hơn ai hết, Kitô hữu phải ý thức vấn đề này một cách sâu sắc hơn. Tuy nhiên để dung hoà được cả hai đòi hỏi chúng ta cần có sự khôn ngoan của Thánh Thần để trong hoạt động ta có được nhũng kết quả khả quan nhất.
32. Cái gì của Cêsar hãy trả cho....
Anh chị em thân mến,
Đức TGM Ngô Quang Kiệt, ngày 20. 09. 2008, trong bài phát biểu tại UBND TP. Hà nội, trước một cử tọa khá đông người, Ngài đã nói: " Chúng tôi đi ra nước ngoài rất nhiều. Chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam đi đâu cũng bị soi xét. Chúng tôi buồn lắm chứ. Chúng tôi mong muốn đất nước mình mạnh lên. Làm sao như một anh Nhật nó cầm cái hộ chiếu là đi qua tất cả mọi nơi, không ai xem xét gì cả. Anh Hàn Quốc bây giờ cũng thế. Còn người Việt Nam chúng ta thì tôi cũng mong đất nước lớn mạnh lắm và làm sao thật sự đoàn kết, thật sự tốt đẹp, để cho đất nước chúng ta mạnh..." Vậy mà hôm sau báo đài Việt Nam đã loan tin ầm lên, trong khi họ chỉ trích có một phần nhỏ câu nói của ngài: "Chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam..." Thói đời là thế, khi người ta không ưa ai, muốn hạ bệ ai, nhất là khi người ta chẳng tôn trọng sự thật, chẳng sợ lương tâm gì cả... Câu chuyện hôm nay của Tin mừng cũng tương tợ thế, khi phái Pharisêu muốn gài bẫy để bắt bẽ Chúa Giêsu, cả muốn hạ bệ Người nữa. Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a/. Có hai điểm chúng ta cần lưu ý:
* Câu hỏi của người Do thái: "chúng tôi có được nộp thuế cho người La mã không?" Phái Pharisêu cùng bàn mưu với phái Hêrôđê; họ tìm cách bắt bẽ Chúa Giêsu. Họ hỏi Người: "chúng tôi có phải nộp thuế cho La mã không?" Thực ra, họ ghét cay ghét đắng người Lamã và cả phái Hêrôđê.... Qua câu hỏi này, họ đặt Chúa trong tình thế tiến thoái lưỡng nan. Cái bẫy được gài rất chu đáo: Trả lời có cũng mắc bẫy, vì họ sẽ tố cáo Chúa không trung thành với hoàng đế. Trả lời không cũng dính luôn, vì nhóm pharisêu sẽ tố cáo Chúa không trung thành với dân tộc, muốn bán đứng quê hương mình. Họ nghĩ rằng thế nào Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi cái bẫy đã giăng. Nhưng họ không ngờ....!
* Câu trả lời của Chúa Giêsu: "Cái gì của Xêda, hãy trả cho Xêda, cái gì của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa." Trước cái bẫy đang chờ sẵn, Chúa Giêsu rất bình tĩnh, tự chủ, không khiêu khích, cũng không sợ sệt, Ngài bảo họ đưa đồng tiền cho xem và hỏi: hình và danh hiệu này là của ai? Họ trả lời: của Xêda. Chúa liền nói: "Vậy thì của Xêdahãy trả về cho Xêda, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. Câu trả lời làm cho hai phe nhóm phải bĩ mặt, đầy kinh ngạc. Họ không ngờ câu trả lời đầy khôn ngoan và kỳ diệu của Chúa...
b/. Câu trả lời của Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta điều gì?
* Cái gì của Xêda, hãy trả cho Xêda: người Kitô hữu thuộc về Chúa, nhưng không ở ngoài guồng máy xã hội. Chúa xác định rõ rệt và tổng quát về vai trò của nhà nước, của các quyền bính xã hội trần thế. Triều đại Nuớc Thiên Chúa đã khai mở khi Chúa Giêsu ra đi rao giảng công khai, nhưng quyền bính trần thế vẫn còn cần thiết và chính đáng để duy trì và ổn định phát triển xã hội. Thiên Chúa hoàn toàn không lệ thuộc cũng không chống đối xã hội trần thế. Vì thế, CĐ Vatican II xác định: người kitô hữu có nhiệm vụ vừa tìm kiếm Nước Thiên Chúa, vừa có bổn phận xã hội là một công dân góp phần xây dựng xã hội công bằng, thịnh vuợng và đầy tình thương (HC Lumen Gentium).
* Cái gì của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa: sứ mạng của Chúa đến trần gian là sứ mạng tôn giáo, không phải là chính trị. Với sứ mạng tôn giáo, Chúa nhắc nhở mọi người có nghĩa vụ trở về với Thiên Chúa, trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đã nói vói Philatô: Nuớc tôi không thuộc về thế gian này; nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì thuộc hạ của tôi sẽ chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do thái... Những người chất vấn Chúa Giêsu muốn nhìn Chúa dưới góc độ chính trị, nhưng chính Chúa lại muốn họ thấy Chúa là con người của tôn giáo.
Câu chuyện: Vua Henri nước Anh đã có vợ rồi; nhưng vua muốn bỏ vợ mình để cuới bà Anne Boleyne. Vua buộc các quần thần phải ký vào bản tuyên ngôn công nhận việc vua làm là đúng. Sau vua tuyên bố ly khai với Tòa Thánh, và lập Anh giáo. Thomas More (1478-1535) quan chưởng ấn rất mực trung thành của nhà vua, đã không nhận ly khai với Tòa Thánh, để theo Anh giáo. Ông đã bị kết án. Đây chính là tấm gương can đảm, dám nói lên sự thật: cái gì của Xêda, hãy trả cho Xêda, cái gì của Thiên Chúa, hãy trả cho Thiên Chúa. Chính vì thế mà Ông bị hành quyết và đã trở thành một vị thánh.
Thánh Gioan Tẩy giả cũng thế, vì lời nói ngay thật đã phải chết dưới lưỡi đao oan nghiệt của vua Hêrôđê... Tất cả mọi điều này để minh chứng câu nói của Chúa Giêsu: cái gì của Xêda phải trả lại cho Xêda, cái gì của Thiên Chúa phải trả cho Thiên Chúa.
c/. Gợi ý sống và chia sẻ:
Là người công giáo, trong cuộc sống bình thường, chúng ta có can đảm sẵn sàng tuyên xưng Chúa trước mặt mọi người, bằng lối sống ngay thật, không gian dối, không bè phái không? Sống trong xã hội, chúng ta vẫn phải có bổn phận tôn trọng luật pháp phần đời, nhưng vẫn luôn ý thức cuộc sống của ta là của Thiên Chúa, và ngày nào đó, ta phải trở về với Thiên Chúa không?
33. Suy niệm của Lm Nguyễn Hữu An.
CON NGƯỜI - HÌNH ẢNH THIÊN CHÚA
Trong Phật giáo có một câu chuyện nổi tiếng:
Có một người đàn ông cao ngạo chẳng biết sợ ai, luôn coi thường đạo lý. Nghe Đức Phật dạy rằng đừng bao giờ lấy ác báo ác và một ngày kia, hắn đến gặp Đức Phật và dự tính xem Phật có sống được điều Ngài giảng không. Hắn bắt đầu tuôn ra đủ mọi lời thóa mạ Ngài và gọi Ngài là tên đần độn. Trong khi hắn liên tục xổ ra đủ thứ lời lăng mạ thì Đức Phật vẫn kiên nhẫn lắng nghe. Chờ hắn mỏi miệng không nói thêm lời nào nữa, Ngài mới lên tiếng: "Này con, nếu một người không chịu nhận món quà mà kẻ khác biếu cho thì món qùa ấy sẽ đi về đâu"? Gã cay cú đáp: "Thằng điên nào mà chẳng biết, dĩ nhiên là món ấy sẽ trở về lại với người đem cho". Đức Phật liền nói: "Hỡi con, con vừa tặng ta rất nhiều lời thóa mạ nhưng ta chẳng nhận đâu nhé". Gã kia câm miệng không thốt ra lời nào nữa. Đoạn Đức Phật nói tiếp: "Kẻ nào lăng mạ một người thánh thiện thì cũng giống như hắn ta khạc nhổ lên trời. Những thứ hắn khạc nhổ ra khôntg làm nhơ bẩn bầu trời, trái lại sẽ rơi xuống làm nhơ bẩn gương mặt của chính hắn. Cũng thế kẻ nào thóa mạ một người nhân đức thì khác nào tung bụi ngược chiều gió, bụi sẽ chỉ bay vào mắt hắn mà thôi." (Trích tuyển tập chuyện hay, Giấc mộng vàng trang 167)
Câu chuyện trên là một minh họa cho cuộc tranh luận nổi tiếng giữa các Pharisiêu, Luật sĩ và Chúa Giêsu qua bài Tin mừng hôm nay.
Nhóm Biệt phái bàn mưu để làm cho Đức Giêsu lỡ lời mắc bẩy. Họ hợp tác với phe Hêrôđê để chất vấn Người về vấn đề nộp thuế. Nhóm Biệt phái ghét cay ghét đắng người Rôma đang đô hộ Israel, còn phe Herôđê thì lại nịnh bợ các quan bảo hộ để được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi. Dù không ưa nhau nhưng họ lại liên kết với nhau để chống lại Đức Giêsu. Một mình đối nghịch với Đức Giêsu trong lãnh vực tôn giáo, nhóm Biệt phái không làm được gì đến Người, họ muốn nhờ bàn tay chính quyền là phe Hêrôđê để gài bẫy Người trong vấn đề chính trị. "Chúng tôi có được nộp thuế cho Xêda hay không?" Câu hỏi đặt Đức Giêsu trong tình thế tiến thoái lưỡng nan, bẫy gài sắc như con dao hai lưỡi. Trả lời có cũng mắc bẫy, không có cũng mắc bẫy. Nếu Đức Giêsu bảo không thì nhóm Hêrôđê tố cáo là không trung thành với Hoàng đế. Còn nếu Người bảo có thì Người sẽ bị nhóm Pharisiêu tố cáo là không trung thành với dân tộc. Hai đàng, đàng nào cũng trọng tội. Trước gọng kềm đang siết chặt, Đức Giêsu rất bình tĩnh, rất tự chủ, không ngạo mạn khiêu khích nhưng cũng không khúm núm sợ sệt. Người bảo họ đưa cho xem đồng tiền và hỏi: hình va danh hiệu này là của ai?. Khi được trả lời là "của Xêda" Đức Giêsu liền tuyên bố "thế thì của Xêda trả về Xêda; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa". Câu trả lời của Người làm cho 2 phe nhóm bẽ bàng hụt hẫng. Đức Giêsu phân biệt đâu ra đó: của Hoàng đế hãy trả cho Hoàng đế, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. Đức Giêsu không dùng miệng lưỡi mình để kết án họ, nhưng bắt chính họ phải tự tuyên án cho mình như có lời chép rằng: Vì nhờ lời nói của anh mà anh sẽ được trắng án và cũng tại lời nói của anh mà anh sẽ bị kết án (Mt 12, 37).
Sứ mạng của Đức Giêsu khi đến trần gian là sứ mạng tôn giáo, là đưa nhân loại về với Thiên Chúa chứ không phải là chính trị. Chính Người đã từ chối làm vua, làm Messia đánh đông dẹp bắc theo mong đợi của người Do Thái. Câu trả lời của Đức Giêsu làm nổi bật chân lý ấy. Với sứ mạng tôn giáo, Đức Giêsu nhắc cho họ nghĩa vụ phải trở về với Thiên Chúa, trả cho Thiên Chúa những gì là của Thiên Chúa. Những kẻ chất vấn muốn nhìn Đức Giêsu dưới gốc độ chính trị thì Người làm cho những kẻ có lập trường chính trị phải thấy Người là con người tôn giáo.
Một cuộc đối thoại giữa thần quyền và thế quyền, giữa Thiên Chúa và Xêda. Cũng như sau này trong cuộc đối thoại với Philatô, Đức Giêsu trịnh trọng tuyên bố: Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì thuộc hạ của tôi sẽ chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái, nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này. Qua lời tuyên bố này Đức Giêsu có vẻ như khẳng định vương quyền của mình, một vương quyền mà Philatô chưa có thể hiểu thấu.
Mối tranh chấp giữa thần quyền và thế quyền, giữa đạo và đời đã xảy ra từ thời Chúa Giêsu cũng như từ muôn thưở. Đức Giêsu không muốn được coi như vị cứu tinh chính trị theo ý của người Do thái. Người không đến để nắm lấy chính quyền, thống trị như một vị hoàng đế Xêda hay như vua Hêrôđê. Trong thực tế Người phân biệt rõ thần quyền và thế quyền, tuy công nhận quyền hành chính trị như một điều tất nhiên nhưng Người tự đặt mình vào mức độ khác. Nước Trời mà Người đang rao giảng, đang thể hiện hoàn toàn khác biệt vàkhông cạnh tranh với đế quốc của Xêda, vì Nước Trời là vương quốc trường tồn của Thiên Chúa dành cho tất cả, nơi đó không có áp chế, không có thống trị, chỉ có niềm vui, bình an và hạnh phúc miên trường.
Những gì của Xêda hãy trả cho Xêda. Xêda là hiện thân cho một đế quốc hùng mạnh và giàu có của một thời lịch sử đã qua. Xêda cũng còn là biểu tượng cho thế lực tiền bạc, tham vọng quyền bính và danh lợi dưới mọi hình thức trong xã hội ngày nay đối với mọi người.
Những gì của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. Đức Giêsu đã khéo léo nhắc đến bổn phận của con người đối với Thiên Chúa. Có cái gì ngoài Thiên Chúa mà lại không phải là thụ tạo của Ngài? Phải trả cho Thiên Chúa những gì mang hình ảnh Ngài, những gì được khắc ghi tên Ngài trên đó. Hình ảnh nổi bật nhất là con người (St 1, 26). Toàn bộ con người mang dấu ấn Thiên Chúa và cả vũ trụ cũng tiềm tàng dấu ấn của Thiên Chúa. Trả con người lại cho Thiên Chúa là dâng nó cho Ngài, là nhìn nhận chủ quyền của Ngài. Trả vũ trụ trong lành cho Thiên Chúa cũng là trả lại cho con người món quà lớn lao mà Ngài đã trao tặng.
Mỗi người Kitô hữu luôn hãnh diện vì mang trong bản thân mình hình ảnh cao quý của Thiên Chúa và luôn sống phong cách của Ngài: quảng đại chia sẻ, yêu thương trao hiến, bao dung tha thứ, khiêm tốn phục vụ. Được như thế, mỗi người chúng ta sẽ luôn làm cho hình ảnh Thiên Chúa ngày càng rõ nét trong cuộc đời mình.
34. Suy niệm của Lm. Phaolô Đoàn Thanh Phong
CỦA CESAR, TRẢ VỀ CESAR
CỦA THIÊN CHÚA, TRẢ VỀ THIÊN CHÚA
Thưa Anh Chị Em,
Nếu có dịp đến viện bảo tàng Manchester bên nước Anh, và khi đến ghé thăm khu trưng bày các loại đồng tiền cổ từ thời đế quốc Rôma, ai cũng có thể nhìn thấy đồng tiền Denarius bằng bạc, trên có đúc niên biểu và hình của hoàng đế Roma. Đây là đồng tiền được lưu hành trong nước Do Thái thời Chúa Giêsu. Trên đồng tiền này, có in hình Ce’sar Tiberius, đầu đội vòng hoa như một vị thần, cùng với dòng chữ: "Ce’sar Tiberio, con của thần Augusto" (cf. Tassin). Cầm đồng tiền ấy trên tay, người ta có thể liên tưởng đến câu chuyện người đàn bà với đồng tiền bị mất; đến dụ ngôn ông chủ vườn nho đã trả lương cho những người thợ làm vườn. Nhất là, người ta có thể liên tưởng đến đồng tiền Chúa Giêsu đã dùng để trả lời cho cả 2 nhóm Pharisêu và Herodes trong Tin Mừng hôm nay.
Thực ra, đây là 2 nhóm người khác nhau về nguyên tắc, về quan điểm sống. Nếu như những người thuộc nhóm Herodes chấp nhận nộp thuế cho hoàng đế, như là phương cách bảo vệ chỗ đứng của mình trong bộ máy cai trị, thì trái lại, nhóm Pharisêu chỉ chấp nhận nộp thuế cách miễn cưỡng. Bởi, họ không đón nhận thái độ của các Ce’sar Rôma luôn tự coi mình là thần minh, cho nên đối với họ, việc nộp thuế cho đế quốc được xem như một sự xúc phạm đến Thiên Chúa. Vì thế, không chỉ phải nộp thuế, mà ngay cả việc mang trong mình đồng tiền của kẻ ngoại bang đã là một hành vi bội giáo. Nhưng vì cùng mâu thuẫn, xung đột tư tưởng với Chúa Giêsu, nên họ sẵn sàng xóa bỏ nguyên tắc, quan điểm riêng, chấp nhận liên minh lại với nhau để gài bẫy Chúa Giêsu bằng câu hỏi: "Có được phép nộp thuế cho hoàng đế Ce’sar không?”. Đây là một vấn đề mới nghe qua thật bình thường, nhưng sự thực lại không hề đơn giản. Thật vậy, nếu Chúa Giêsu trả lời rằng nên nộp thuế, thì chính Ngài đã nhìn nhận Ce’sar là Chúa của mình,Ngài sẽ trở thành một kẻ bội giáo, mất tín nhiệm với số đông quần chúng. Còn nếu Ngài trả lời rằng không nộp thuế, thì Ngài sẽ bị tố cáo là kẻ chống lại hoàng đế, chống lại chính quyền Rôma. Thật “tiến thoái lưỡng nan”, trả lời thế nào cũng khó. Thế nhưng, thật bất ngờ Ngài lại dùng đồng tiền hai mặt của Rôma để trả lời: "Của Ce’sar, trả về Ce’sar; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa" (Mc 12,17). Trả lời như thế, không những Chúa Giêsu thoát được cái bẫy thâm độc của những người đạo đức giả, mà còn khẳng định chỗ đứng của Thiên Chúa trong đời sống, trong vũ trụ: "Phải trả cho Ce’sar đồng tiền mang hình ảnh và tên của Ce’sar thế nào, thì cũng phải trả lại cho Thiên Chúa những gì mang dáng hình của Thiên Chúa”. Trả lời như vậy là Chúa Giêsu muốn dạy họ rằng mỗi người luôn có hai bổn phận phải thực hiện giữa đời và trong đạo. Vì có đạo nào lại không ở trong đời và có đời nào lại không là của đạo. Một người Kitô hữu trong đạo cũng là công dân của một đất nước, cho nên cần phải chu toàn cả hai bổn phận thì mới đúng là người Kitô hữu đích thực, là công dân trong đất nước và cũng là công dân trong Nước Trời mai sau.
+ Sống giữa đời phải hiểu rằng: Quốc gia thì có luật pháp; Gia đình thì có gia pháp; Cộng đoàn thì có luật riêng của cộng đoàn. Vì thế, ai ai cũng phải có trách nhiệm chu toàn bổn phận với đời, với xã hội. Cụ thể, gia đình Nagiarét, dù Mẹ Maria sắp đến ngày sinh con, nhưng họ vẫn tùng phục luật xã hội, phải rời miền Bắc trở về miền Nam. khi được lệnh trở về quê để khai báo hộ khẩu.
+ Sống trong đạo thì phải chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu luôn ưu tiên cho công việc của Chúa Cha. Nên khi hành hương ở hội đường, Ngài đã ở lại để giảng dạy giáo lý, qua đó, Ngài muốn khẳng định rằng: lo việc của Thiên Chúa thì hơn lo việc trần thế (x.Lc 2,46). Không chỉ Ngài đề cao việc của Cha Ngài, mà những người theo Ngài, Ngài cũng đòi hỏi rất gắt gao: "Kẻ nào đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ, con cái, anh chị em mình và cả mạng sống mình nữa, ắt không thể làm môn đệ của Ta" (Lc 14,26-27). Và cũng vì thế, mà Thánh Phaolô xác định: "Nếu tôi luôn luôn làm hài lòng mọi người, thì tôi không còn là môn đệ của Chúa Giêsu" (Gl 1,10). Nghĩa là, Ngài phải làm hài lòng Thiên Chúa trước, thì Ngài mới có khả năng làm hài lòng mọi người. Rõ ràng, với câu trả lời của Chúa Giêsu "Của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa" (Mc 12,17), thì hai bổn phận đối với đời và đối với đạo, với Thiên Chúa, luôn cần phải đi song hành với nhau, không có sự loại trừ. Bởi vì, Đạo Công Giáo không phải là Đạo Duy Tâm mà là Đạo có: Có Chúa Kitô, có linh hồn và thể xác, có nhân tính và thần tính, có đời này và có đời sau.
Thưa Anh Chị Em,
Một trong những khuynh hướng tiêu cực nơi những người có tôn giáo đó là khuynh hướng phân chia đời sống thành nhiều phạm vi tách rời nhau: phạm vi ở phố chợ khác với ở gia đình, và lại càng khác với phạm vi trong khuôn viên nhà thờ, giáo xứ. Sự tách biệt ấy dễ làm nên những bộ mặt tương phản nơi người tín hữu: Ở nhà thờ là dung mạo rất đạo đức hiền lành và đơn sơ, nhưng bên ngoài pham vi nhà thờ, thì lại là một bộ mặt khác xấu xí hơn như người ta thường nói vui với nhau: Ơ nhà thờ thì hứa với Chúa thật nhiều và ra khỏi nhà thờ thì thất hứa với Chúa cũng thật nhiều. Vì vậy, cần phải hiểu rằng Thiên Chúa hiện diện - không chỉ ở trong một góc nào đó của nhà thờ khi cử hành phụng Vụ hay trong những buổi cầu nguyện sốt sắng. Chúng ta có thể gặp thấy Ngài ở mọi nơi, cả trong các sinh hoạt đời thường. Vì Thiên Chúa là Đấng Emmanuel – một Thiên Chúa ở với con người, nhưng quan trọng hơn, con người là nơi hình ảnh của Thiên Chúa được thể hiện tròn đầy nhất. Được tạo thành theo dáng hình Thiên Chúa, con người chỉ thực sự lớn lên trong ơn gọi làm người, ơn gọi làm con Chúa khi thể hiện đúng vai trò bổn phận của mình trong thế giới hôm nay và trong lòng Hội Thánh. Vì vậy, lắng nghe lời Chúa hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta ý thức bổn phận của mình trong xã hội cũng như trong Giáo hội để có thể thống nhất trong phương cách thực hiện dưới sự hướng dẫn của Chúa. Có như thế, chúng ta mới thực sự làm đúng như lời Chúa Giêsu mời gọi: “Của Cesar, trả về Cesar; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa". Amen.
35. Suy niệm của Charles E. Miller.
HÃY DÂNG CHO THIÊN CHÚA NHỮNG GÌ LÀ CỦA THIÊN CHÚA
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Nếu Đức Giêsu phải qua một cuộc kiểm tra trong trường học ngày hôm nay, thì Ngài sẽ không Vượt Qua nổi. Ngài không bao giờ trả lời một câu hỏi, hay ít nhất là không trả lời trực tiếp. Một số người cũng giống như thế. Các bạn hỏi họ: “Bạn thế nào?”. Và họ trả lời: “Cám ơn bạn vì đã hỏi”. Đó không phải là một câu trả lời.
Trong bài Phúc Âm ngày hôm nay Chúa Giêsu đã bị hỏi là để chu toàn Lề Luật có trả thuế cho đế quốc hay là không? Một câu trả lời có hay là không đủ để trả lời cho câu hỏi này. Thay vào đó, Chúa Giêsu đã làm cho đối thủ của Ngài phải đưa cho Ngài đồng bạc Rôma, tiếp đến Người đòi hỏi họ phải đưa ra chính kết luận của họ. Chúa Giêsu có một lý do đúng đắn trong việc không đưa ra một câu trả lời trực tiếp bởi vì những người hỏi Ngài không chân thành; họ cũng đặt bẫy trong câu hỏi của họ. Nếu Ngài trả lời có, phải chu toàn Lề Luật đóng thuế thì người Pharisiêu sẽ tố cáo Ngài phản bội lại những người đồng hương Do Thái, xứ sở của chính Ngài. Mặt khác nếu trả lời không, họ sẽ có thể bắt Ngài bởi chống lại người Rôma.
Từ bài học đồng bạc, không ngạc nhiên gì khi Chúa Giêsu đã nói với họ hãy trả cho Cesar những gì thuộc về Cesar. Còn hơn là ngạc nhiên và ngay cả bị sốc nữa, khi Chúa Giêsu nói thêm hãy trả cho Thiên Chúa tất cả những gì thuộc về Thiên Chúa. Điều đó giông như là nói với cổ động viên bóng đá nhiệt thành rằng đừng quên xem một số trò chơi trên TV, nếu một người nào đó cho anh một vé chơi trò chơi hãy bảo đảm rằng anh sẽ đi. Loại trò chơi đó đối với một người cổ động viên bóng đá là một chuyện dư thừa. Vì những người Pharisiêu cũng gần giống như thế nếu nói với họ hãy trao cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa thì không chỉ là dư thừa nhưng đúng là một sự nhục mạ.
Ý của Chúa Giêsu thì không cố ý nhục mạ họ, nhưng là thách đố họ. Không nghi ngờ gì họ đã trả thuế cho đế quốc cai trị họ. Những người Rôma làm điều đó bằng cưỡng bách, bằng bạo lực nếu cần thiết. Nhưng Thiên Chúa không cưỡng bách chúng ta bất cứ điều gì. Ngài tìm kiếm sự phục vụ, trao ban một cách tự do. Trên tất cả Ngài yêu cầu một tình yêu mà tình yêu đó phải thành thật và không ích kỷ, giống như tình yêu của Ngài hướng đến chúng ta. Những người cố ý gài bẫy Chúa Giêsu trong bài giảng của Ngài, tin rằng tôn giáo là một cái gì nhỏ bé hơn qua việc giữ luật bên ngoài. Họ nghĩ rằng tôn giáo như xây một bức tường, cứ đặt những viên gạch với nhau thì bức tường sẽ được dựng lên. Họ không nhận ra rằng với cái vẻ đạo đức bên ngoài đã đặt nên một bức tường giữa họ với Thiên Chúa, và giữa Thiên Chúa với dân của Người. Họ cũng thành công trong việc cô lập chính họ khỏi những đòi hỏi cần quảng đại trong việc lạy Thiên Chúa hoặc trong việc phục vụ đồng loại, những kẻ đang có nhu cầu cần giúp đỡ.
Những thách đố đối với chúng ta là gì? Chúng ta có trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa không? Chúng ta có xứng đáng được khen ngợi như thánh Phaolô đã khen ngợi tín hữu Thessalonica: “Chúng tôi đã kiên bền, chú ý… Còn anh em có chứng minh đức tin của anh em, khổ nhọc trong tình yêu, và trình bày cách kiên bền trông cậy vào Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta không?”.
Chứng mình đức tin của chúng ta: nó có nghĩa là sống theo một cách mà mọi người biết chúng ta là người Công giáo, những người thực thi tôn giáo của chúng ta một cách nghiêm chỉnh và sẵn lòng chịu những điều khác nữa. Lao nhọc trong tình yêu: đó là nhận biết chúng ta phải thực hiện theo cách của mình như chúng ta tử tế với những người khác, chúng ta tự nguyện thăm viếng đau ốm hoặc đi mua sắm đồ hco những người không thể đi được. Trình bày niềm hy vọng kiên bền vào Đức Kitô: Thách đố này là sống cuộc sống của chúng ta không theo cảm tính, như Thiên Chúa không hiện diện bởi vì chúng ta một là được thúc đẩy bởi cái vĩnh cửu còn không chỉ là do những giá trị thế lực.
Chúa Giêsu cảm thấy không cần thiết để trả lời những câu hỏi của người Pharisiêu nhưng chúng ta sẽ nồng nhiệt và sẵn lòng trả lời với một lòng sốt sắng khi Người hỏi: “Các con có sẵn lòng trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa không?”.
36. Xin Thầy cho biết ý kiến
Khi nói đến từ "bổn phận" thì tất chúng ta đều nghĩ ngay đến hai việc cần phải làm tròn, đó chính là bổn phận với Chúa và với người đời. Nhưng trong thực tế không phải người ta không biết về điều này nhưng đôi khi họ cố tình quên hoặc cố tình không hiểu, để rồi họ thắc mắc xem bên nào trọng hơn, bên nào kém hơn. Chính câu trả lời của Chúa Giêsu hôm nay đã làm thỏa mãn biết bao người, đã làm sụp đổ ý đồ bắt bẻ xấu xa của bọn Pharisêu: "Của Xêsa hãy trả cho Xêsa, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa". Đó là câu trả lời đầy ý nghĩa sâu xa của Chúa Giêsu cho những người đối nghịch muốn gài bẫy để có cớ bắt bẻ Ngài.
Những người ấy chính là bọn Pharisiêu và những kẻ theo phái Hêrôđê. Trong thực tế, hai nhóm người này có trường phái ngược nhau; nhóm Pharisiêu thì chỉ muốn bênh vực truyền thống sống đạo của cha ông họ mà thôi. Họ coi đó là cách thế duy nhất để làm đẹp lòng Thiên Chúa, và trên phương diện chính trị thì họ không chấp nhận sự hiện diện của chính quyền Rôma đang nắm quyền cai trị vùng đất Palestine lúc đó.
Bấy giờ, vua Hêrôđê được hoàng đế Rôma bổ nhiệm nắm chính quyền, vua Hêrôđê này không phải là người Do Thái, nhưng ông là người dân ngoại không thuộc Do Thái giáo. Còn những người Pharisiêu thì không chấp nhận sự thống trị của chính quyền Rôma trên đất nước Palestine. Theo lẽ thường thì hai nhóm người này không hoà hợp được với nhau. Thế nhưng, trớ trêu thay, để chống lại Chúa Giêsu thì họ liên kết với nhau, những người Pharisiêu liên kết với những người của vua Hêrôđê.
Mặt khác, những người của Hêrôđê thì lại ủng hộ tập trường của vua Hêrôđê, tức của hoàng đế Rôma để chấp nhận sự thống trị của vua. Nhưng hai nhóm người này liên kết với nhau để đặt ra một vấn nạn mà họ cho là phức tạp nhất: "Có nên nộp thuế cho hoàng đế Xêsa hay không?". Nếu Chúa Giêsu trả lời là không, thì nhóm người Hêrôđê sẽ bắt Chúa vì tội xúi giục dân chúng làm loạn không nộp thuế cho hoàng đế Rôma. Còn nếu Chúa trả lời "có" thì những người phe Pharisiêu sẽ có cớ để tố cáo Chúa với dân chúng là Chúa đi với người ngoại bang, không đáng là một vị lãnh đạo tôn giáo.
Đối với họ, theo cái nhìn và suy luận của họ thì Chúa Giêsu chắc chắn sẽ rơi vào bẫy, vì không có câu nào khác để trả lời: Một là phải nộp thuế hai là không nộp thuế. Nhưng câu trả lời của Chúa Giêsu làm cả hai hạng người này không bắt bẻ được Ngài, đồng thời Chúa Giêsu còn xác quyết một chân lý sự thật đầy mới mẻ, đó là: "Những gì của Xêsa hãy trả cho Xêsa và những gì của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa. Hãy tìm nước Thiên Chúa trước, rồi mọi sự khác sẽ được ban cho anh em dư đầy".
Thử hỏi xem có một cái gì hay vật gì trong vũ trụ này mà lại không thuộc về Thiên Chúa? Trái đất và vũ trụ này do Thiên Chúa tạo dựng nên, và chính con người cũng được Ngài tạo dựng. Mỗi người chúng ta đã lãnh nhận sự sống từ Ngài, bởi vì không có gì mà chúng ta đang dùng mà lại không do Ngài ban cho.
Vậy, nếu không trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài, không hướng về Ngài tất cả những gì trong vũ trụ hay tất cả những gì ta đang hưởng dùng thì đó là thái độ phản loạn của con người. Con người muốn chiếm hữu lấy chỗ của Thiên Chúa và qui mọi sự về chính mình, lấy mình làm chủ, làm tiêu chuẩn cho mọi sự, những thái độ kiêu ngạo sai lầm này chỉ dẫn đưa đón những tranh chấp, hận thù, bạo lực và xa rời Thiên Chúa mà thôi. Vì thế, bao lâu mỗi người chúng ta không nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng chủ tể của mình, không trả lại cho Ngài và không qui hướng về Ngài tất cả những gì thuộc về Ngài, không để cho Thiên Chúa chiếm chỗ nhất trong cuộc sống của mình, thì bấy lâu con người không thể xây dựng một xã hội nhân bản xứng đáng là con người, không thể nào xây dựng một xã hội hoà hợp, trong đó mọi người nhìn nhận nhau như là anh chị em trong đại gia đình có Thiên Chúa là Cha: "Hãy trả cho Xêsa những gì của Xêsa, và hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa".
Ngày hôm nay Giáo Hội tha thiết mời gọi mỗi người Kitô hữu chúng ta hãy dấn thân nhiều hơn nữa, đặt Chúa vào chỗ nhất trong cuộc sống của mình, đặt Chúa vào chỗ nhất trong mọi sinh hoạt xã hội của mình. Tất cả mọi biến cố, tất cả những gì chúng ta đang thừa hưởng là đến từ Thiên Chúa và đều do tình yêu thương của Ngài trao ban.
Lạy Chúa, chúng con vâng lời ca tụng những hồng ân Chúa ban, xin Chúa ban cho con nhiều sức mạnh để con vừa là tính hữu tốt, vừa là một công dân tốt, mải là một người sống "tốt đạo đẹp đời". Amen.
37. Tôn giáo và chính trị
- Nếu Thầy chống nộp thuế thì Thầy chống lại người Rôma; nếu Thầy ủng hộ việc nộp thuế, thì Thầy chống lại Thiên Chúa.
Để làm hại Chúa Giêsu, người ta giăng một cái bẫy buộc Ngài phải rơi vào đó. Đất nước đang sống dưới sự chiếm đóng của Rôma và người Do thái biến đều đó thành một vấn đề tôn giáo. Cho nên đó là điều Tin Mừng muốn làm cho chúng ta suy nghĩ: tôn giáo và chính trị.
Những người theo Hêrôđê là những người hợp tác và rình mò Chúa Giêsu có lời nào bất cẩn nhằm tố cáo Ngài là người xách động. Nhưng những người Pharisêu, và thực tế là toàn thể dân Do thái, ghét người Rôma và xem họ là những kẻ đàn áp và là dân ngoại. Đóng thuế, tức là công nhận phục tùng một vị hoàng đế ngoại đạo. Như thế chẳng phải là chống lại Thiên Chúa hay sao? Thầy tự xưng là Đấng Cứu Thế, Thầy không thể chấp nhận điều đó, Thầy không ủng hộ việc đóng thuế chứ?
Chúa Giêsu bẻ gẫy cái bẫy kết hợp đó: các ngươi đang sử dụng tiền của César, các ngươi chấp nhận tình cảnh đất nước bị chiếm đóng, do đó, “hãy trả cho César những gì thuộc về César”, nhưng các ngươi đừng trộn lẫn điều này bất cứ như thế nào với đức tin của các ngươi vào Thiên Chúa.
Cho nên Chúa Giêsu phân biệt tôn giáo với chính trị. Không như người ta thường làm bằng cách cắt cuộc sống ra làm hai: một bên là lãnh vực của César, chính trị, và bên kia là lãnh vực của Thiên Chúa, tôn giáo. Không, tôn giáo và chính trị khác hẳn nhau, tuy nhiên chúng chồng chéo lên nhau.
Hẳn có hai lãnh vực, hoặc đúng hơn là nhiều lãnh vực. Trước hết là lãnh vực của Thiên Chúa là lãnh vực bao trùm tất cả. “Hãy trả cho Thiên Chúa cái gì thuộc về Thiên Chúa” có nghĩa là: các ngươi hãy xem tất cả trong cuộc sống của các ngươi liên quan đến Thiên Chúa như thế nào. Ai cũng có quyền có quan điểm. Cho nên phải “trả lại cho Thiên Chúa” tất cả những gì chúng ta làm trong chính trị cũng như trong tất cả. Đó là ánh sáng rõ ràng về các vấn đề “đức tin và chính trị” và về bao nhiêu vấn đề khác nữa.
Bởi vì bên trong quyền tối thượng hoàn toàn cuả Thiên Chúa, có biết bao nhiêu là lãnh vực trong đó chúng ta phải thực thi tự do của chúng ta: cuộc sống cá nhân, gia đình, xí nghiệp, xã hội. Không có vấn đề sống tất cả những cuộc sống đó một cách độc lập với Thiên Chúa. Cũng không có vấn đề ràng buộc Ngài với sự chọn lựa của chúng ta, trong khi tuyên bố rằng thái độ chính trị này là thái độ chính trị duy nhất của người Kitô hữu chẳng hạn. Trước kia, người ta dễ dàng nghĩ rằng bỏ phiếu cho cánh hữu là “vì Thiên Chúa”; ngày nay, đúng hơn là ngược lại, và đây là cũng sai nốt. Dầu sao thì cũng có cám dỗ lớn lao trong việc đặt Thiên Chúa vào trong những đề cương bầu cử hoặc trong nhiệt tình chính trị. Không, đó là César chứ không phải Thiên Chúa. Thiên Chúa không còn thuộc về cánh hữu hay cánh tả nữa.
Nhưng cám dỗ ngược lại cũng xấu: tìm cách thoát ra để gần Chúa, xa rời mọi sự dấn thân tập thể. Thế là chúng ta trốn tránh yêu thương anh em chúng ta, bởi vì phần lớn nhờ hoạt động chính trị mà chúng ta có thể thăng tiến công bằng xã hội và chất lượng cuộc sống. Ở kỹ trong nơi ấm áp, đọc kinh, và để cho người ta làm bất cứ điều gì trong nước thì đó không phải là đạo đức mà là ích kỷ.
Người ta đã sử dụng câu trả lời của Chúa Giêsu theo nhiều cách. Tôi nghĩ rằng đây là nguyên tắc phát xuất từ đó cho phép từ chối sự tách biệt hoàn toàn giữa đức tin và chính trị trong khi tránh được sự tập hợp các khuynh hướng: không có một nền chính trị nào có thể ràng buộc Thiên Chúa, nhưng tất cả các nền chính trị đều phải trả lẽ cho Ngài.
38. Hình ai đây?
Mỗi người chúng ta đã được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài có lý trí, có ý chí. Có lý trí để hiểu biết và có tâm tình để yêu mến. Trước khi dựng nên loài người, Thiên Chúa phán: “Ta hãy dựng nên con người như hình ảnh Ta và giống Ta… và Thiên Chúa đã thực hiện dự định ấy: Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh Chúa”. Cái hình ảnh ấy con người mang trong mình từ khi được thụ thai trong lòng mẹ, con người có những đức tính giống Thiên Chúa, nếu mỗi ngày biết trau dồi phát triển thêm, thì con người càng trở nên giống Chúa hơn. Tư tưởng ấy Chúa Kitô đã nhắc lại cho chúng ta hôm nay trong dịp tranh luận với nhóm Pharisêu.
Chúa là sự thật hiện thân, là chân lý vĩnh cửu, nên Ngài rất ghét những kẻ giả hình: bề ngoài thơn thớt nói cười mà bề trong nham hiểm giết người không gươm. Họ định đến gài bẫy để bắt lỗi Chúa thế mà họ chỉ dùng toàn những lời tâng bốc xu nịnh: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật… chẳng vị nể ai…”. Chúa không thể chịu được cái giọng dối trá ấy, vì đối với Ngài thì “có phải nói là có, không thì nói là không, còn những cái quá trớn đều là xấu xa”. Vì không thể chịu được nên Chúa đã phải gọi họ là bọn giả hình, và Ngài đã cho họ biết những mánh lới quỷ quyệt của họ không làm gì nổi Ngài. Chúa bảo họ cho Ngài xem một đồng tiền vẫn đóng thuế. Thời ấy ở Palestine, dân chúng tiêu dùng hai thứ tiền: khi đóng thuế vào đền thờ thì bắt buộc phải dùng tiền Do Thái, bởi vì theo luật Do Thái, không một hình ảnh sinh vật nào được đưa vào khu vực đền thờ, mà tiền ngoại quốc lại thường có hình người hay vật, còn tiền Do Thái chỉ có số và niên hiệu mà không có hình ảnh gì. Trái lại, khi nộp thuế cho chính phủ bảo hộ thì phải dùng tiền Rôma, tiền của Xêda. Ai đổi lấy tiền ấy, tức là bằng lòng đóng thuế. Chúa bảo đưa Chúa xem không phải là Chúa không biết thứ tiền ấy, mà Ngài chỉ muốn đưa họ vào chính cái bẫy mà họ đã gài định mưu hại Chúa. Nghĩa là Chúa làm cho họ thú nhận bằng lời nói và việc làm rằng họ muốn hay ít nữa bằng lòng đóng thuế cho Xêda rồi. Chúa sẽ không trả lời câu họ hỏi có nên hay không nên nộp thuế mà Ngài chỉ nói: “Của Xêda thì trả về Xêda”, nghĩa là các ông đã có tiền của Xêda tức là các ông đã sẵn sàng đóng thuế cho Xêda rồi, còn hỏi làm gì nữa? Hãy đưa cái của nợ ấy mà hoàn lại cho Xêda, thế là xong. Câu trả lời của Chúa còn bao hàm một ý nghĩa về quyền lợi của chính phủ hay chính quyền hợp pháp, “Quyền hành hợp pháp là do Thiên Chúa”.
Thánh Phaolô đã viết như thế cho giáo đoàn Rôma và Ngài còn thêm: “Những gì ta nợ ai thì phải trả cho người ấy”, mắc sưu thì trả sưu, mắc thuế thì trả thuế, mắc tôn trọng thì trả tôn trọng, mắc yêu mến thì trả yêu mến. Những cái đó cũng là những món nợ: nợ vật chất và tinh thần. Chúng ta phải thanh toán tất cả những món nợ ấy với những ai có quyền đòi hỏi ở chúng ta. Nhưng không phải chúng ta chỉ nợ nhau, nợ loài người mà thôi, mà còn nợ cả Thiên Chúa nữa. Để làm tròn nhiệm vụ thiêng liêng, Chúa Giêsu đã không ngần ngại thêm: “Và hãy trả về Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”. Chúng ta nợ Chúa những gì? Chúng ta nợ tất cả. Thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Côrintô: “Ngươi có cái chi mà ngươi đã không nhận được? Nếu ngươi đã nhận được ở chỗ khác thì sao lại hãnh diện như là không”. Ngoài những đức tính, những khả năng tự nhiên của bản tính loài người: linh hồn, lý trí, ý chí, những cái chúng ta nhận được khi thụ thai, những cái làm cho chúng ta nên giống Thiên Chúa một phần nào, Chúa còn in vào trong tâm hồn chúng ta, trao cho chúng ta nhiều hình ảnh, nhiều vốn khác nữa.
Lúc chịu phép rửa tội, Chúa đã in vào trong tâm hồn chúng ta một hình ảnh Con Chúa, hình ảnh Chúa Kitô, một hình ảnh thật tốt, không thể tẩy xoá đi được, nhưng chưa được rõ lắm. Không những chúng ta có nhiệm vụ bảo tồn hình ảnh ấy được nguyên vẹn, mà chúng ta còn có bổn phận tô điểm bức ảnh ấy cho thêm rõ ràng, tươi đẹp. Hình ảnh ấy không thể chỉ là bức hoạt hoạ hay hí hoạ. Bức hoạt hoạ chỉ làm trò cười cho thiên hạ thôi. Bức hình ấy phải là bức ảnh truyền thần tô mầu, đúng chân dung Chúa Kitô: Chúa là Đấng đáng yêu mến, quý trọng… thì hình ảnh của Ngài cũng phải gợi lên được những tâm tình ấy, nghĩa là chúng ta phải làm thế nào để người khác trông vào nơi chúng ta là hình ảnh của Chúa, họ phải cảm thấy sự đáng yêu mến quý trọng của Ngài, nếu không, chúng ta chỉ là bức hí hoạ của Chúa. Những người mới tập vẽ hay những hoạ sĩ kém khi vẽ một bức chân dung xong, cho dù cố gắng mấy vẫn còn phải đề tên người được vẽ ở dưới, không thì người xem bức hình ấy sẽ không biết là ai. “Hình này là hình ai đây?”. Câu ấy có thể là một câu mà Chúa muốn đặt ra cho chúng ta chăng? Có biết bao tín hữu đều là những bức hình cần phải đề tên rõ ở dưới, nghĩa là nếu không có một mẫu ảnh, một tấm áo hay một huy hiệu nào trên người họ thì người khác không thể biết được họ là tín hữu. Trên cổ họ có lẽ lúc nào cũng cần phải đeo một tấm bảng nhỏ ghi: “Đây là một tín hữu”, bởi vì họ không mang trên mình họ, trong con người họ, trong tư tưởng, trong lời nói, trong hành động của họ một nét nào là nét Chúa nữa.
Hôm nay, Chúa đòi và mong muốn chúng ta sẽ mang lại cho Chúa hình ảnh mà Chúa đã trao cho chúng ta khi chúng ta được thụ thai cũng như khi chúng ta chịu phép rửa tội, và không những chỉ một hình ảnh y nguyên như lúc chúng ta nhận được nơi Chúa, mà còn phải là một hình ảnh đẹp gấp bội nữa, bởi vì nén vàng nén bạc trao cho chúng ta cần phải sinh lời ra nữa, bức hình trao cho chúng ta cần phải tô điểm thêm nữa. “Hình ai đây?”. Hằng ngày chúng ta hãy tự cảnh tỉnh mình như thế: tôi làm việc này, tôi nghĩ ngợi như thế, tôi ăn nói như vậy có giống Chúa không? Hành động này, tư tưởng ấy, lời nói kia là hình ảnh ai đó? Chúa hay Xêda? Hãy trả ngay cho Xêda những gì là của Xêda. Và nhất là hãy giữ lại để trao về cho Chúa những gì là của Chúa.
39. César
Người Do Thái lúc bấy giờ đang sống dưới ách thống trị của đế quốc La mã. Họ thường phải nộp những thứ thuế khá nặng cho hoàng đế César. Đứng trước vấn đề này, họ có ba thái độ khác nhau.
Thái độ thứ nhất của những người thuộc phái Sađốc và đảng Hêrôđê, họ chấp nhận việc nộp thuế, nhằm bảo đảm cho chỗ đứng của họ và sự bao bọc của chính quyền Rôma.
Thái độ thứ hai là của bọn Biệt phái, miễn cưỡng chấp nhận nộp thuế. Họ coi ách đô hộ của người La mã là một thứ hình phạt của Thiên Chúa, vì thế cần phải tu thân tích đức để được tha thứ.
Cuối cùng là thái độ của những người ái quốc, họ không chấp nhận sự hiện diện của ngoại bang trên quê hương đất nước. Họ chủ trương dùng võ lực để đánh đuổi thực dân và coi việc nộp thuế là điều ô nhục, xúc phạm đến Thiên Chúa, vì không chấp nhận để Thiên Chúa thống trị trên Israel là dân riêng của Ngài.
Còn thái độ của Chúa Giêsu là như thế nào? Trước hết, Ngài tố giác sự giả hình của bọn Biệt phái: Họ giả bộ khen ngợi Ngài bằng những lời đẹp đẽ nhất:
- Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật, Thầy dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy chẳng vị nể ai và không đánh giá theo bề ngoài.
Thế nhưng bên trong những lời đẹp đẽ ấy lại là một ý đồ đen tối, muốn gài bẫy để hại Ngài. Bởi vì nếu Ngài trả lời phải nộp thuế thì Ngài sẽ bị dân chúng phản đối. Còn nếu Ngài trả lời không phải nộp thuế thì họ sẽ tố giác Ngài với chính quyền Rôma.
Vì thế, Ngài bảo họ cho xem đồng tiền nộp thuế. Đây là một đồng tiền bằng bạc, được lưu hành trong toàn đế quốc La mã từ năm 268 trước công nguyên, mãi đến năm 200 sau công nguyên vẫn còn được xử dụng. Trên mặt đồng tiền có hình bán thân của hoàng đế Tibêriô Xêda. Chúa Giêsu cầm đồng tiền và hỏi:
- Hình và dòng chữ này là của ai?
Và khi biết là của Xêda, Ngài bèn nói:
- Của Xêda hãy trả cho Xêda, còn của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa.
Câu nói đó có ý nghĩa: Đồng tiền mang hình Xêda nên chúng ta phải trả cho Xêda, còn con người chúng ta mang hình ảnh Thiên Chúa, nên chúng ta phải trả toàn bộ bản thân chúng ta cho Thiên Chúa. Ngài không nói một cách rõ ràng là phải nộp thuế cho Xêda để bày tỏ sự phục tùng, nhưng nếu chúng ta được phép nộp thuế vì nghĩa vụ thì cũng đừng quên rằng mình thuộc về Thiên Chúa, và chỉ mình Ngài mới có quyền tối thượng, mới là Đấng chúng ta phải yêu mến trên hết mọi sự.
Tóm lại, tiền bạc của con người có thể thuộc về hoàng đế, còn chính bản thân chúng ta phải thuộc về Thiên Chúa. Vì Ngài có quyền tối thượng trên mọi người và mọi quyền bính trần gian.
Những gì của Thiên Chúa phải trả cho Thiên Chúa. Đó là lời nhắn nhủ thật bất ngờ khiến chúng ta phải kiểm điểm lại cuộc sống, bởi vì chúng ta có bổn phận phải tôn trọng những đòi hỏi của Ngài. Thế nhưng khi bon chen trong lãnh vực trần thế, chúng ta đã thực sự chu toàn những bổn phận của chúng ta đối với Thiên Chúa hay chưa?
40. Thiên Chúa và nhà nước
Thật là sai lạc khi nghĩ rằng Giáo hội Công giáo thì chống đối lại nhà nước. Với chúng ta thật rõ ràng và minh bạch, khi chúng ta trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa, nhưng chúng ta cũng không quên trả lại cho quê hương đất nước những gì thuộc về quê hương đất nước. Thế nhưng, trong trường hợp có những nhà nước chủ trương một chính sách bài trừ tôn giáo, xoá bỏ địa vị của Thiên Chúa, thì chúng ta phải phản ứng như thế nào?
Tôi nghĩ rằng chúng ta phải đấu tranh, phải phản kháng nhưng không phải với bạo lực và sức mạnh, bởi vì đối với chúng ta chống lại chính quyền hợp pháp là một tội, lỗi điều răn thứ tư. Chúa Giêsu cũng đã không giảng dạy sự bạo động nhưng đã giảng dạy đức vâng lời, cho dù là vâng lời một chính quyền ngoại đạo.
Thánh Phaolô cũng chủ trương như thế khi ngài viết cho các tín hữu Rôma: Ai chống đối lại quyền bính thì cũng chống đối lại Thiên Chúa. Các tín hữu đầu tiên đã không dùng gươm giáo để chống lại những sự bắt bớ cấm cách, nhưng đã chấp nhận tù đày và chết chóc. Cuộc chiến đấu của chúng ta là một cuộc chiến đấu cân não, là một cuộc chiến đấu siêu nhiên. Bằng những đường lối hợp pháp, chúng ta thành thực bày tỏ những nguyện vọng chính đáng của chúng ta. Trong trường hợp có những luật lệ đi ngược với đường lối của Thiên Chúa, thì chúng ta không buộc phải tuân giữ, bởi vì chúng ta hãy nhớ tới lời thánh Phaolô: Thà vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người đời.
Đức thánh Cha Léo XIII đã cho biết một kinh nghiệm quí giá: trong thời bình cũng như trong thời chiến, những Kitô hữu nhiệt thành bao giờ cũng là những người công dân tốt. Họ sẵn sàng chấp nhận mọi khổ đau, và ngay cả cái chết để không chối bỏ Thiên Chúa và Giáo Hội, bởi vì nhà nước không phải là Thiên Chúa, chỉ có Thiên Chúa mới là Đấng tối cao và quyền năng mà thôi.
Hẳn chúng ta còn nhớ trước toà án Philatô, Chúa Giêsu đã trả lời: Nếu từ trên không ban cho ông thì ông chẳng có quyền hành gì đối với tôi. Hay như thánh Phaolô cũng đã viết: Mọi quyền bính đều xuất phát bởi Thiên Chúa để phụng sự cho Thiên Chúa. Còn trong trường hợp nhà nước tôn trọng tự do tín ngưỡng, đảm bảo cho người công dân được thi hành niềm tin tưởng của mình, thì chúng ta có bổn phận phải cộng tác. Mặc dù có sự phân biệt giữa đạo và đời, nhưng chúng ta vẫn có thể tạo được một sự hợp nhất chân thành để cùng nhau làm tốt đời đẹp đạo. Bởi vì của César phải trả cho César và của Thiên Chúa phải trả cho Thiên Chúa.
Chúng ta mong muốn, chúng ta nguyện ước cho nhà nước luôn được như thế. Có người cho rằng nhà nước và Giáo Hội là hai cơ chế riêng biệt, như hai đường thẳng song song, mà sự hợp nhất chỉ đem đến những lạm dụng tai hại. Dĩ nhiên chúng ta không chối cãi giữa nhà nước và Giáo Hội có nhiều điểm khác biệt, thế nhưng cả hai cùng theo đuổi cái lợi ích, cái tốt lành cho dân chúng. Chính ở khởi điểm này mà có thể hợp nhất với nhau. Nếu nhà nước và Giáo Hội cùng cộng tác và nếu mỗi người chúng ta cùng nỗ lực làm tốt đời đẹp đạo, thì chắc chắn đất nước này sẽ mỗi ngày một phát triển và quê hương này sẽ mỗi ngày một tốt đẹp hơn lên.
41. Trả về Thiên Chúa - AM Trần Bình An
Chiến dịch diệt chim sẻ (Đả ma tước vận động) là một trong những hành động đầu tiên trong kế hoạch Đại Nhảy Vọt của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ năm 1958 đến năm 1962. Bốn loại con vật cần phải bị diệt trừ đó là chuột, ruồi, muỗi và chim sẻ.
Chiến dịch được Mao Trạch Đông, chủ tịch Cộng hòa Nhân dân Trung hoa phát động. Chim sẻ bị liệt kê vào trong danh sách vì chúng ăn hạt thóc lúa, gây thiệt hại cho nông nghiệp. Theo quyết định thì tất cả các nông dân tại Trung Quốc nên đập gõ nồi, niêu và rượt đuổi chim sẻ khiến chúng sợ sệt bay đi. Ổ chim sẻ bị phá, trứng bị đập vỡ, các chim con trong tổ bị giết chết. Chim sẻ bị giết được chất thành đống cao như ngọn núi nhỏ trên đồng ruộng.
Mùa vụ năm sau được khá hơn năm trước, vì không còn chim sẻ, nhưng họ đã quên đi một sự thật là chim sẻ ăn châu chấu. Sau đó châu chấu tràn ngập vùng miền quê phá nát mùa màng và kéo theo sau là một nạn đói xảy ra tại Trung Quốc.
Tháng tư năm 1960 Viện Hàn Lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ (United States National Academy of Sciences) nêu lên vấn đề là chim sẻ ăn côn trùng nhiều hơn là ăn hạt thóc. Mao Trạch Đông chỉ nói là: "Hãy quên nó đi", và ra lệnh ngưng diệt chim sẻ. Vào lúc đó thì quá trễ vì số lượng châu chấu đã bùng nổ ngoài tầm kiểm soát. Từ năm 1959 đến 1961, có đến 30 triệu người chết đói trong Nạn Đói Lớn ở Trung Quốc.
Cũng đáng ghi nhận là có nhiều nhân tố ngoài nạn châu chấu tràn ngập nông thôn ngoài tầm kiểm soát vào thời đó. Một trong các nhân tố gây ra nạn đói là việc tập thể hóa ruộng đất ở nông thôn.
Ngày 19 tháng 6 năm 1998, một bích chương ở Đại học Nông nghiệp Tây Nam tại Trùng Khánh có dòng chữ như sau: "Hãy diệt bốn loại con vật gây hại." Một chiến dịch tương tự cũng được thấy vào mùa xuân năm 1998 tại Bắc Kinh. Lần này thì không ai đáp lời kêu gọi cho loại chiến dịch kiểu đó. (Wikipedia)
Trong thiên nhiên luôn có các loài thiên địch như chim chóc, sâu bọ, giun dế, vi sinh,… có nhiệm vụ cân bằng sinh thái, để môi trường luôn phát triển bền vững. Tiêu diệt những thiên địch là phá vỡ hệ sinh thái tự nhiên, thì môi trường sẽ bị hủy diệt, gây nên những hệ quả tàn khốc, như đất đai bị sói mòn, thảm thực vật biến dạng, suy thoái, cạn kiệt, kéo theo lũ lụt và sa mạc hóa. Vậy hãy trả lại thiên nhiên tươi tắn nguyên thủy cho Thiên Chúa. Ngài đã tạo dựng cho con người thụ hưởng những môi trường tự nhiên, hỗ tương, đa dạng, phong phú, những cảnh quan hùng vĩ, ngoạn mục, thân thiện và hữu ích cho cuộc sống lành mạnh.
Tin Mừng thánh Matthêu hôm nay thuật lại âm mưu của nhóm Pharisiêu và nhóm thân Hêrôđê gài bẫy Đức Giêsu. Trả lời nộp thuế cho César, hay không cũng đều bị kết án. Nhưng Người khôn ngoan không những tránh sập bẫy, mà còn răn dạy một bài học chí tình, chí lý: “Của César, trả về César, của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.”
Của César, trả về César
Trong lần thứ ba cám dỗ nơi hoang mạc, quỷ đem Đức Giêsu lên một ngọn núi cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các nước thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy và bảo rằng: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi.” Đức Giêsu liền nói: “Satan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi.” (Mt 3, 8-10).
Lần này, nhân chuyện đóng thuế cho Roma, Đức Giêsu phán của César thì hãy trả về César. Vậy của César chính là vinh hoa lợi lộc, giàu sang, phú quý, của cải, tiền bạc, chức tước, quyền lực, danh giá, như Satan đã từng cám dỗ Đức Giêsu.
Không phải Đức Giêsu khuyên hoàn toàn từ bỏ tiền bạc của cải vật chất, mà Người muốn tín hữu khôn ngoan dùng làm phương tiện, mua lấy tình người, nhân ái, bác ái và phục vụ, cũng như ký thác vào tài khoản ngân hàng Thiên Quốc, để lấy lợi tức sống đời đời. “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi vĩnh cửu (Lc 16, 9).
“Của cải chôn vùi con, nếu con đội nó trên đầu; của cải làm bệ chân con, nếu con đứng lên nó.” (Đường Hy Vọng, số 407)
Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa
Khi tạo dựng con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Người đã đặt vào lòng dạ con người lương tâm, trí khôn, và nhất là Tình Yêu, bộc lộ qua tình mẫu tử, tình phụ tử, tình huynh đệ, tình bạn, tình đôi lứa và tình người. Vậy phải trả về Thiên Chúa những gì Người đã trao phó, đầu tư cho từng người. Đó là đạo đức, khôn ngoan, tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân. Trả lại Chúa tất cả những gì tốt đẹp mà Chúa đã tín nhiệm gửi gắm, đầu tư cho từng cá nhân phát triển, sinh lợi, gặt hái nhiều hoa thơm trái ngọt.
Từ vốn liếng căn bản đó, Thiên Chúa mong đợi mỗi người phát triển phong phú hơn. Mỗi người được giao một vài nén bạc làm vốn liếng, phải trả về Thiên Chúa cả gốc lẫn lãi, phải sinh lời gấp năm gấp mười, gấp trăm. Chắc chắn Người sẽ vui mừng, hoan hỷ, khen ngợi, ban thưởng cho gấp bội lần: "Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!" (Mt 25, 21)
Trả lại Thiên Chúa công ơn sinh thành, dưỡng dục, nuôi nấng, vì cha mẹ, thầy giáo, chính là những người thay mặt Thiên Chúa nuôi dạy. Trả lại Thiên Chúa những lời giáo huấn của các Chủ Chiên, Linh mục, tu sĩ, giáo dân đã hướng dẫn, chỉ bảo, răn dạy, khuyên nhủ, cũng như ban các Bí Tích, giúp kẻ liệt, từ khi sinh ra đến khi xuôi tay nhắm mắt.
Trả lại Thiên Chúa hồng ân cứu độ do chính Đức Chúa Con đã xuống trần, rao giảng, chịu nạn, chịu chết, và đã sống lại, chỉ vì Ngài muốn giải thoát con người khỏi kiếp đọa đầy. Làm sao có thể trả được cho Thiên Chúa những công ơn vĩ đại vô cùng, vô song, vô tận, nếu không khiêm nhường, cúi đầu, đấm ngực ăn năn thống hối trở về hằng ngày, vì những lỗi lầm, tội lỗi, vô ơn bạc nghĩa, chất chồng liên tục lâu nay. Cùng trở nên nhân chứng của Đức Giêsu cho mọi người.
“Dùng của cải cách quảng đại, trọng của cải cách tế nhị, xa của cải cách anh hùng. Vì không phải của con, chính là của Chúa trao cho con sử dụng, của người nghèo.” (Đường Hy Vọng, số 414)
Lạy Chúa Giêsu, xin soi sáng cho chúng con biết đâu là của thế gian, đâu là của Chúa. Tuy tất cả mọi thứ tốt lành đều là của Chúa, từ Chúa ban phát, mà chúng con cứ lầm tưởng là của công sức chúng con thu vén, làm lợi. Kính xin Chúa cho chúng con luôn nhận thức tất cả những gì tốt lành là của Chúa, để chúng con luôn cố gắng sinh lợi gấp chục, gấp trăm dâng lên Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng con biết dùng của cải đúng đắn, hữu ích, để mưu cầu hạnh phúc vĩnh cửu. Xin giác ngộ chúng con luôn nhớ công ơn cứu chuộc và những hồng ân hằng ngày của Chúa, để chúng con luôn dâng lời tạ ơn, chúc tụng, ngợi khen Thiên Chúa. Amen.
42. Trả về
Một thương gia tuổi đã trung niên, vừa đáp máy bay xuống phi trường sau một chuyến đi làm ăn xa trở về. Bà vợ ra phi trường đón chồng ngay tại cửa máy bay. Vừa bước ra khỏi cửa, người chồng gặp cô chiêu đãi viên hàng không trẻ đẹp và hấp dẫn đi ngang qua. Với vẻ mặt rạng rỡ, ông thương gia nói với cô chiêu đãi viên hàng không rằng: “Tôi hy vọng chúng mình sẽ bay chung với nhau nữa, cô Saunders”. “Làm sao anh biết tên cô ấy?” Bà vợ liền hỏi chồng. Ông chồng trả lời ngon lành, “Em nhìn thấy không, tên của cô ấy được ghi trên bảng ngay phía trước máy bay, dưới tên của người phi công chính và phi công phụ”. Căn cứ vào lời chồng nói, bà vợ hỏi tiếp, “Thế hả, vậy anh nói cho em biết tên của người phi công chính và phi công phụ đi?” Ông thương gia đỏ mặt lúng túng. Sự gian dối, giả hình đã bị lộ tẩy.
Phúc âm hôm nay, cho chúng ta thêm một ví dụ nữa về lòng dạ gian dối của những người Pharisêu khi họ cố tình gài bẫy Chúa Giêsu. Ngài thường lên án sự giả hình và gian dối của họ bằng những lời lẽ thật nặng nề: “Tại sao các người lại thử Ta, hỡi những kẻ giả hình!” “Khốn cho các ngươi, hỡi những người Pharisêu!”
Trong chương trình “Late Show” kể chuyện hài hước trên tivi, Jay Leno nói về bài diễn văn nhận chức tổng thống của tổng thống George Washington kéo dài chỉ có một phút rưỡi mà thôi. Leno đã nói: “Tôi đoán rằng sẽ chẳng có chuyện gì nhiều để nói nếu bạn là một nhà chính trị mà lại không nói dối!”
Những người Pharisêu là những chức sắc trong tôn giáo, mặt trong họ chống lại chính quyền Lamã đang cai trị dân Do Thái, mặt ngoài họ thoả hiệp với chính quyền để củng cố và duy trì địa vị. Họ đã bàn tính với những người thuộc phái Hêrôđê, đang điều hành guồng máy chính quyền Lamã thu thuế ở Palestine, hỏi Chúa Giêsu rằng: “Có được phép nộp thuế cho Cêsarê không?”. Nếu trả lời không, Chúa sẽ bị chính quyền Lamã bắt vì tội phản loạn. Nếu trả lời có, Chúa sẽ bị những người Do Thái ái quốc và quần chúng đang theo Ngài bỏ rơi. Trả lời cách nào Chúa cũng bị thiệt thòi, theo như họ đã nghĩ. Một cách khôn ngoan, Chúa không trả lời “không” hay “có”, nhưng chỉ vào đồng tiền có hình Cêsarê mà nói: “Trả về Cêsarê cái gì của Cêsarê, và trả về Thiên Chúa cái gì của Thiên Chúa”.
Qua câu trả lời của Chúa Giêsu, chúng ta không nên giải thích rằng Thiên Chúa và Cêsarê nằm trên hai đường thẳng song song, không nên nghĩ rằng Thiên Chúa và xã hội trần gian sẽ không bao giờ gặp gỡ nhau. Thiên Chúa luôn nắm giữ quyền tối thượng trên mọi sinh hoạt của con người.
Một câu chuyện huyền thoại cổ kể về một ông vua đầy quyền lực và tàn bạo có thể điều khiển thuộc hạ phải làm theo ý mình tất cả mọi việc. Nhưng trừ một điều nhà vua không thể làm được là phá huỷ niềm tin của họ vào Thiên Chúa. Do đó, vua cho gọi ba nhà cố vấn thông thái nhất nước đến và hỏi: “Tôi có thể dấu Thiên Chúa ở đâu để dân chúng sẽ không thể tìm thấy Ngài?” Nhà thông thái thứ nhất trả lời: “Hãy dấu Thiên Chúa vào các hành tinh thật xa trong không gian, dân chúng sẽ không tìm ra Ngài”. Nhà thông thái thứ hai không đồng ý: “Như thế không được! Một ngày nào đó dân này sẽ nghiên cứu cách bay vào không gian, tới những hành tinh đó, và họ sẽ tìm thấy Thiên Chúa của họ. Tốt hơn hết là dấu Ngài xuống đáy đại dương”. Người thứ ba phản đối: “Như thế cũng không được! Một ngày nào dân này sẽ biết cách lặn xuống đáy biển, và họ sẽ tìm thấy Thiên Chúa. Tốt hơn hết, hãy dấu Ngài trong đời sống hằng ngày của mỗi người; không ai có thể tìm thấy Ngài cả!”
Thiên Chúa hiện diện trong mọi sinh hoạt của con người, và con người, một loài thụ tạo, có bổn phận phải nhận biết và yêu mến Thiên Chúa như sách Giáo lý Công giáo đã dạy ở số 1. bắt đầu sách giáo lý rằng: “Trong một dự tính hoàn toàn do lòng nhân hậu, Thiên Chúa vô cùng toàn hảo và hạnh phúc nơi bản thân mình, đã tự ý sáng tạo nên con người để cho con người được thông phần vào sự sống diễm phúc của Ngài. Bởi vậy, ở mọi nơi và mọi thời, Ngài muốn ở gần con người. Ngài kêu gọi con người, giúp con người tìm kiếm Ngài, nhận biết và yêu mến Ngài hết sức mình”.
43. Sở hữu - Trầm Thiên Thu
Không ai lại không có gì sở hữu, hiểu đơn giản là quyền làm chủ. Đó là quyền cơ bản nhất của mỗi con người. Về tài chính, người ta còn có “quyền sở hữu chéo” (ngân hàng này sở hữu ngân hàng khác, doanh nghiệp này sở hữu một doanh nghiệp khác,... mối quan hệ vừa trực tiếp vừa gián tiếp – khái niệm này xuất hiện từ thập niên 1980).
Thiên Chúa ban cho chúng ta thời gian và quyền tự do, chúng ta được quyền sở hữu đó, nhưng chúng ta không làm chủ mà chỉ quản lý. Chúa Giêsu đã nói rõ: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban” (Ga 3:27). Thật vậy, khi nói về một tài năng nào đó, người ta dùng chữ “thiên phú” – tức là “trời cho” đó thôi. Tác giả sách Giảng Viên cảm nhận: “Tôi nhận ra rằng mọi sự Thiên Chúa làm sẽ tồn tại mãi mãi. Không có gì để thêm, chẳng có gì để bớt. Thiên Chúa đã hành động như thế để phàm nhân biết kính sợ Người” (Gv 3:12-14). Vấn đề quan trọng là người nào đó có tài năng mà còn “biết kính sợ Chúa” hay không, có biết khiêm nhường hay không. Ảo tưởng là “chết chắc”!
Đức Chúa phán với kẻ Ngài đã xức dầu là vua Kyrô: “Ta đã cầm lấy tay phải nó, để bắt các dân tộc suy phục nó, Ta tước khí giới của các vua, mở toang các cửa thành trước mặt nó, khiến các cổng không còn đóng kín nữa” (Is 45:1). Ngài giải thoát ai, người đó thuộc quyền sở hữu của Ngài. Chúng ta cũng được Thiên Chúa cứu độ bằng Giá Máu của Đức Giêsu Kitô, Con Một Yêu Dấu của Ngài, vậy chúng ta cũng thuộc về Thiên Chúa, thuộc về Đức Kitô, thuộc dòng dõi Áp-ra-ham và được thừa kế (Gl 3:29). Mà những ai thuộc về Thiên Chúa thì phải vâng lời Ngài (Ga 8:47). Đó mới là vấn đề!
Thiên Chúa giải thích: “Vì lợi ích của tôi tớ Ta là Giacóp, và của người Ta đã chọn là Ít-ra-en, Ta đã gọi ngươi đích danh, đã ban cho ngươi một tước hiệu, dù ngươi không biết Ta. Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác; chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ Ta. Dù ngươi không biết Ta, Ta đã trang bị cho ngươi đầy đủ, để từ Đông sang Tây, thiên hạ biết rằng chẳng có thần nào khác, ngoại trừ Ta. Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác” (Is 45:4-6). Thiên Chúa nhấn mạnh tính cao cả duy nhất của Ngài bằng cách lặp đi lặp lại: “Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác”. Điều đó chứng tỏ rằng chúng ta chỉ được phép tôn thờ một mình Ngài. Và thật diễm phúc, chúng ta đã nhận ra điều này, để rồi chúng ta đang tôn thờ Ngài và không ngừng nỗ lực học bài học yêu của Ngài. Cũng như dân Ít-ra-en, chúng ta được trở nên dân riêng của Ngài.
Trước đó, Thiên Chúa cũng đã động viên và xác nhận với dân Ít-ra-en: “Đừng sợ, vì Ta đã chuộc ngươi về, đã gọi ngươi bằng chính tên ngươi: ngươi là của riêng Ta!” (Is 43:1). Ngài cũng đang nói với chúng ta như vậy. Dân Ít-ra-en là “vật sở hữu” của Thiên Chúa, chúng ta cũng thế. Ngày nay cũng có những thứ thuộc về Thiên Chúa, tương tự như Dân Riêng vậy, thuộc quyền sở hữu của Ngài. Ai dám liều mạng mà “đụng chạm” đến những gì của Chúa thì “kẹt lắm” đấy!
Ở dưới bầu trời này, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời. Ngay cả chuyện ăn uống và hưởng những thành quả do công lao khó nhọc mình làm ra, tức là tận hưởng những gì mình sở hữu, đó đã là một món quà Thiên Chúa ban tặng rồi (x. Gv 3:1-12). Vâng, tất cả chỉ là phù vân, chúng ta “chẳng khác chi con vật một ngày kia phải chết” (Tv 49:13), chẳng có gì bền vững, chỉ có Thiên Chúa là Đấng vạn đại trường tồn (Tv 102:25). Biết mình hữu hạn, biết Chúa vô hạn, để mà hết lòng tôn thờ và tán tụng Thiên Chúa. Tác giả Thánh Vịnh mời gọi chúng ta: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu!” (Tv 96:1).
Việc chúng ta ca tụng Chúa chẳng thêm gì cho Ngài, nhưng đem lại ơn cứu độ cho chúng ta (Kinh Nguyện Thánh Thể). Ca tụng Chúa không chỉ là trách nhiệm và bổn phận của chúng ta mà còn là niềm hạnh phúc cho chúng ta: “Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người. Chúa thật cao cả, xứng muôn lời ca tụng, khả tôn khả uý hơn chư thần, vì chư thần các nước thảy đều hư ảo, còn Đức Chúa, Người sáng tạo trời cao” (Tv 96:3-5). Ca tụng Chúa khi chúng ta may mắn, đó là điều dễ dàng, nhưng ca tụng Chúa ngay cả khi cuộc đời chúng ta không “xuôi chèo mát mái”, đó mới là điều khó thực hiện nhưng lại có giá trị cao.
Thiên Chúa ban cho chúng ta mọi thứ (vật chất và tinh thần) mà chúng ta cứ tưởng là “điều dĩ nhiên”, chúng ta không biết tạ ơn thì thôi, lại còn “so đo” vì cứ thưởng mình không được may mắn như người khác. Thật ra đó là ý mình, không phải Ý Chúa. Quả thật, Thiên Chúa luôn xứng đáng để chúng ta xưng tụng mọi nơi và mọi lúc: “Hỡi các dân các nước, hãy dâng Chúa quyền lực và vinh quang, hãy dâng Chúa vinh quang xứng danh Người. Hãy bưng lễ vật, bước vào tiền đình Chúa, và thờ lạy Chúa uy nghiêm thánh thiện, toàn thể địa cầu, hãy run sợ trước Thánh Nhan. Hãy nói với chư dân: Chúa là Vua hiển trị, Chúa thiết lập địa cầu, địa cầu chẳng chuyển lay, Người xét xử muôn nước theo đường ngay thẳng” (Tv 96:7-10).
Thiên Chúa sở hữu tất cả, chúng ta chẳng có gì. Vả lại, Chúa Giêsu đã xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Vậy vì cớ gì mà chúng ta lại không tôn vinh và không tạ ơn Thiên Chúa? Có ai đau khổ bằng ông Gióp? Thế mà trong lúc đau khổ đến tột cùng, mất hết mọi vật sở hữu, từ của cải tới con cái, nhưng ông Gióp vẫn “không hề phạm tội cũng không buông lời trách móc phạm đến Thiên Chúa” (G 1:22). Thiên Chúa đã nói với Satan về ông Gióp: “Chẳng có ai trên cõi đất này giống như nó: một con người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác” (G 1:8). Một tấm gương to lớn và sáng chói để chúng ta soi vào. Cũng chưa đến nỗi nào mà chúng ta đã than trách đủ thứ. Còn lâu thật là lâu chúng ta mới có thể “xách dép” chạy theo Thánh Gióp. Thật vậy, vác thập giá đâu có sướng, đâu có nhàn, không thể cứ tà tà mà vác!
Bổn phận chúng ta không chỉ phải biết tạ ơn và cầu nguyện cho mình mà còn phải tạ ơn và cầu nguyện cho người khác, đồng thời còn phải biết cảm ơn nhau. Thánh Phaolô nói: “Chúng tôi hằng tạ ơn Thiên Chúa về tất cả anh em. Chúng tôi nhắc đến anh em trong lời cầu nguyện, và trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta, chúng tôi không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc anh em gánh vác vì lòng mến, và những gì anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô” (1 Tx 1:2-3). Tình liên đới Kitô giáo thật tuyệt vời!
Thánh Phaolô vừa giải thích vừa xác định: “Anh em là những người được Thiên Chúa thương mến, chúng tôi biết rằng Thiên Chúa đã chọn anh em, vì khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần, và một niềm xác tín sâu xa. Anh em biết, khi ở với anh em, chúng tôi đã sống thế nào để mưu ích cho anh em” (1 Tx 1:4-5). Thánh Phaolô nói với giáo đoàn Thêxalônica nhưng cũng là nói với chính chúng ta – mỗi người, mỗi gia đình, mỗi hội đoàn, mỗi giáo xứ, mỗi giáo phận, mỗi tu viện, mỗi chủng viện,...
Nhà có gia phong, nước có quốc pháp. Quốc gia nào cũng có hiến pháp – nhưng hiến pháp phải hợp lòng dân, không thể tự ý ra luật “tùy hứng” rồi bắt người khác thực hiện. Luật có sau con người. Luật vị nhân sinh, luật vì con người. Luật giúp con người sống tốt hơn và giúp duy trì trật tự. Nên giữ luật nhưng đừng câu nệ luật, cứng ngắc theo “chữ đỏ”. Tương tự, tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư yên. Trong ba người cùng đi cũng có một người là thầy, có khả năng hướng dẫn hai người kia, tức là có thể “làm luật”.
Trình thuật Mt 22:15-21 nói về việc sở hữu. Một hôm, những người Pharisêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy. Không chỉ vậy, họ còn cấu kết với phe Hêrôđê, ông vua nham hiểm và hèn nhát. Quả thật, họ sai các môn đệ của họ cùng đi với những người phe Hêrôđê đến nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta. Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?” (Mt 22:16-17). Đó là những người “miệng nam-mô mà bụng một bồ dao găm”. Kinh khủng thật!
Tuy nhiên, vải thưa không thể che mắt thánh! Chúa Giêsu biết tỏng họ có ác ý, nên Ngài nói thẳng: “Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình? Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế!”. Họ thường xuyên bị Chúa Giêsu trách mắng thẳng mặt và nguyền rủa, thế mà họ vẫn cứ trơ trơ. Họ thản nhiên đưa cho Ngài một quan tiền. Ngài vừa chỉ đồng tiền vừa hỏi họ: “Hình và danh hiệu này là của ai đây?”. Họ đáp tỉnh queo: “Của Xêda”. Trơ trẽn thật đấy! Bấy giờ, Ngài bảo họ: “Thế thì của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” (Mt 22:21). Cái gì của ai thì trả cho người đó. Câu trả lời của Chúa độc đáo quá! Nghe vậy, họ ngạc nhiên lắm, nhưng đành lẳng lặng bỏ đi!
Cái gì của người khác, tức là không thuộc quyền sở hữu của mình, chớ có “mong muốn” hoặc rờ tới. Điều mà Thiên Chúa đã nghiêm cấm trong Thập Giới: “Chớ lấy của người” và “chớ tham của người” (Giới Răn thứ bảy và thứ mười). Thế nhưng có một số người có khái niệm lệch lạc thế này: “Cho không lấy, thấy không xin, kín thì rình, hở thì rinh”. Nguy hiểm quá! Cuộc sống có nhiều dạng sở hữu, nhưng cần phải biết phân biệt rạch ròi: Cái gì thuộc về trần tục, và cái gì thuộc về tâm linh. Đừng lầm lẫn để rồi râu ông nọ lại đem cắm cằm bà kia. Vâng lời quyền bính thế gian cũng là vâng lời Thiên Chúa, nếu khoản luật đó hợp với công bình và bác ái.
Thánh Phaolô nói về nhà chức trách: “Làm điều thiện thì không phải sợ nhà chức trách, có làm điều ác mới phải sợ. Bạn muốn khỏi phải sợ chính quyền ư? Hãy làm điều thiện, và bạn sẽ được họ khen ngợi, vì chính quyền là người thừa hành của Thiên Chúa để giúp bạn làm điều thiện. Nhưng nếu bạn làm điều ác thì hãy sợ, vì họ mang gươm không phải không có lý do. Thật vậy, họ là người thừa hành của Thiên Chúa để giáng cơn thịnh nộ của Người xuống kẻ làm điều ác. Vì lẽ đó, cần thiết phải phục tùng, không những vì sợ bị phạt, mà còn vì lương tâm” (Rm 13:3-5). Ở đây là “lương tâm ngay lành”. Cũng nên lưu ý loại “lương tâm chai cứng”, lệch lạc, không đủ mức phân biệt phải hoặc trái. Loại lương tâm này rất nguy hiểm, vì mất cảm thức tội lỗi. Những người thuộc tổ chức IS (Islamic State – Nhà nước Hồi giáo) giết người dã man vì họ cho đó là “điều chính nghĩa” (sic!). Thậm chí họ còn hành hạ cả các trẻ em vô tội. Mới đây, có khoảng 70.000 trẻ em bị hành hạ dã man. Niềm tin tôn giáo của họ lệch lạc nên họ bất nhân quá!
Thánh Phaolô đã dặn dò đệ tử Titô: “Anh hãy nhắc nhở cho ai nấy phải phục tùng và tuân lệnh các nhà chức trách, các người cầm quyền, phải sẵn sàng làm mọi việc tốt, và đừng chửi bới ai, đừng hiếu chiến, nhưng phải hiền hoà, luôn luôn tỏ lòng nhân từ với mọi người” (Tt 3:1-2). Những mệnh lệnh cách rất mạnh mẽ, dù theo thể phủ định hoặc xác định!
Tất cả là phù vân. Mọi thứ sẽ qua đi. Ngay cả những gì sở hữu cũng không thuộc về chúng ta mãi mãi, kể cả sự sống: “Chúa lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi” (Tv 104:29). Những gì chúng ta sở hữu và thuộc về chúng ta là nhân đức. Loại “vật sở hữu” này rất quan trọng, gọi là “công trạng”, vì đó sẽ là chứng cớ hùng hồn bênh vực cho chính chúng ta, chỉ nhờ đó mà chúng ta được trở thành Công Dân Nước Trời – dĩ nhiên trước tiên phải nhờ công cuộc cứu độ của Đức Giêsu Kitô. Có Chúa là có tất cả, Thánh Tiến sĩ Thomas Aquinas rất khôn ngoan khi cầu xin: “Con chỉ muốn Chúa thôi!”. Đó là điều duy nhất mà mỗi chúng ta phải nỗ lực để khả dĩ “sở hữu” mãi mãi!
Hôm nay là ngày Khánh nhật Truyền giáo, ngày cổ vũ ơn thiên triệu linh mục và dâng hiến, nói đơn giản là “ơn gọi đi tu”. Ngày Thế giới Truyền Giáo được Đức Piô XI khai sinh từ năm 1926, và theo truyền thống thường rơi vào Chúa Nhật áp chót của tháng 10, năm nay là ngày 19-10-2014. Hôm nay cũng là ngày tuyên Chân phước cho ĐGH Phaolô VI (triều đại giáo hoàng từ 21-6-1963 tới 6-8-1978), người được mệnh danh là “Giáo hoàng Trầm tư”.
Trong sứ điệp Khánh nhật Truyền giáo năm nay, ĐGH Phanxicô chia sẻ: “Nhân Ngày Thế Giới Truyền Giáo này, tôi nghĩ đến các Giáo hội địa phương. Đừng bao giờ để mình mất đi niềm vui của việc loan báo Tin mừng! Tôi mời gọi anh chị em hãy chìm mình trong niềm vui của Tin Mừng và nuôi dưỡng một tình yêu có thể thắp sáng lên niềm ơn gọi và sứ mạng của anh chị em. Tôi thúc bách mỗi người trong anh chị em nhớ lại, như thể anh chị em đang thực hiện một cuộc hành hương nội tâm, ‘mối tình đầu’, mối tình mà Đức Chúa Giêsu Kitô đã sưởi ấm con tim anh chị em, không phải để nhớ nhung, nhưng là để luôn ở lại trong niềm vui. Các môn đệ của Chúa đã luôn ở lại trong niềm vui khi họ ở với Ngài, thực thi ý Ngài và chia sẻ với người khác đức tin, niềm hy vọng và đức ái tin mừng”. Và ngài nhắc nhở thêm: “Hãy hướng về Mẹ Maria, mẫu gương loan báo tin mừng khiêm nhường và với trọn niềm vui, chúng ta hãy dâng lên lời cầu nguyện của chúng ta để Giáo hội có thể trở nên mái nhà cho tất cả mọi người, một người mẹ cho tất cả mọi dân tộc và có thể sinh ra một thế giới mới”.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết nhận thức đúng đắn về niềm tin và quyền sở hữu của chúng con. “Ngày là của Chúa, đêm cũng là của Chúa” (Tv 74:16), “trời là của Chúa, đất cũng là của Chúa” (Tv 89:12), chúng con chẳng có gì, xin triệt tiêu tính kiêu ngạo trong chúng con và đổ vào trái tim chúng con đầy “máu yêu thương” để chúng con NÊN MỘT (Ga 17:20-23) theo Tôn Ý Con yêu Dấu của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
44. Trả về
Cái gì là của Thiên Chúa và cái gì là của Cêsarê? Đây không chỉ là vấn đề của những người Pharisêu, nhưng còn là vấn đề của các tông đồ, của chúng ta, và của con người qua mọi thời đại. Chúa Giêsu đã không tránh né vấn đề bằng cách bỏ mặc cho con người với cách giải quyết riêng của mình. Trái lại, Ngài đã hiến thân để chứng minh cho cách thức giải quyết của Ngài. Ngài đã ban cho con người luật lệ chung, và con người có bổn phận phải áp dụng luật chung đó vào trong những trường hợp cụ thể. Khi được hỏi ý kiến về điều răn nào quan trọng nhất, Chúa Giêsu đã ban hành nguyên tắc chung là: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là: ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình”,
Trong suốt cuộc đời rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã tận tình cắt nghĩa luật lệ này trong mọi lúc, mọi nơi và mọi hoàn cảnh. Hai điều luật vĩ đại này không thể phân chia ra làm hai. Chúng ta không thể chu toàn luật thứ nhất nếu không thi hành luật thứ hai. Yêu mến Thiên Chúa mà không yêu thương người lân cận là một sự mâu thuẫn. Trong thư gửi tín hữu, thánh Gioan đã viết: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy… ai yêu mến Thiên Chúa, cũng phải yêu mến anh em mình”.
Tất cả mọi người đã được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, và có quyền được yêu thương và kính trọng theo đúng phẩm giá của con người. Chính quyền không có quyền ban cho hay lấy đi quyền này của mỗi người, nhưng có bổn phận che chở và bảo vệ nó. Khi chính quyền chu toàn bổn phận này, chính quyền đã giúp cho người dân thi hành cả hai bổn phận trung thành với Thiên Chúa và với tổ quốc. Nhưng khi chính quyền theo đuổi một chính sách phủ nhận và chà đạp quyền căn bản của con người, người dân không thể chu toàn cả hai bổn phận được, khi đó lương tâm sẽ lên tiếng trả lời.
Sách Giáo lý Công giáo số 2242 đã nói: “Người công dân có nghĩa vụ, theo lương tâm, không tuân theo những luật lệ của chính quyền dân sự, khi các luật lệ này nghịch với những đòi hỏi của trật tự luân lý, nghịch với những quyền căn bản của con người hoặc với những lời dạy của Phúc âm. Sự từ chối vâng phục các uy quyền dân sự khi họ đòi hỏi những điều nghịch với lương tâm ngay chính, được biện minh bởi sự phân biệt giữa việc phục vụ Thiên Chúa và việc phục vụ cộng đồng chính trị. “Trả về Cêsarê cái gì của Cêsarê, và trả về Thiên Chúa cái gì của Thiên Chúa”. “Phải vâng phục Thiên Chúa hơn là vâng phục người ta”.
Vua Henri nước Anh, đã có vợ rồi, nhưng muốn cưới thêm vợ thứ hai. Vua ra lệnh cho các quần thần phải ký vào bản tuyên ngôn công nhận việc làm của vua là đúng. Thomas More, quan chưởng ấn không ký, vì ông không thể làm trái với tiếng nói của lương tâm mình. Ông đã bị hành quyết và trở thành một vị thánh.
Dietrich Bonhoeffer đã dám đi ngược lại đường lối của nhiều nhà thờ ở Đức để lên tiếng chống lại sự cai trị tàn bạo của Adolf Hitler trong thời gian quyền lực của Hitler đang lên tới tột đỉnh ở Đức. Bonhoeffer đã bị hành quyết vì tiếng nói chân chính của mình, và sau này những lời cảnh cáo của ông mới thành sự thực.
Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói, “Chúng ta không được kêu gọi để thành công, nhưng chúng ta được kêu gọi để trung thành”. Trung thành với Thiên Chúa là quyền ưu tiên tối thượng trên tất cả mọi sự.
Một tờ báo cổ vũ về giá trị của đời sống gia đình đã kể câu chuyện về một người đàn ông lần đầu tiên đến thăm thủ đô Washington D.C… Ông rất cảm động trông thấy những nghị sĩ và dân biểu mà từ trước tới nay chỉ nghe nói mà thôi. Ông say mê nhìn ngắm những toà nhà của chính phủ và những cơ quan quan trọng của đất nước. Nhưng cái cảnh gây ấn tượng mạnh nhất là lá cờ tổ quốc bay phất phới trên đầu khi viếng thăm toà nhà quốc hội. Kết thúc một vòng tham quan thành phố thủ đô Washington, ông tự nghĩ: “Đây là nhà của chính phủ. Đây là nơi cư ngụ của quyền lực. Đây là nơi quan trọng nhất trên toàn thể đất nước Hoa Kỳ!”
Sau này, người đàn ông đó có dịp đến thăm một gia đình nông trại. Ông chăm chú nhìn thấy con cái của gia đình này sau khi đi học về, mỗi người tự động mau mắn làm những công việc nhà. Ngồi vào bàn ăn tối, ông hân hoan nhìn thấy những khuôn mặt vui tươi và lắng nghe những câu chuyện huyên náo sống động. Trước bữa ăn, ông cảm thấy ấm lòng khi người cha của gia đình đọc đoạn Thánh Kinh, rồi cha mẹ con cái cùng nắm tay nhau, cúi đầu tạ ơn lòng nhân lành của Thiên Chúa, và cầu nguyện cho Giáo Hội, cho bạn bè, cho tất cả mọi người đang lầm than. Họ cũng cầu nguyện cho tổ quốc, cho tổng thống và tất cả mọi người đang cầm quyền. Sau này, khi ra về, ông bắt đầu suy nghĩ về điều vừa nhìn thấy ở nông trại đơn sơ. Thình lình ông nhận ra mình đã sai lầm khi nghĩ rằng thủ đô Washington là nơi quan trọng nhất ở Hoa Kỳ. Ông ý thức rằng quyền lực thực sự của một quốc gia không phải nằm ở cơ cấu tổ chức của chính quyền. Quyền lực thực sự của một quốc gia được tìm thấy trong những mái gia đình đang tự do: “trả về Cêsarê cái gì của Cêsarê, và trả về Thiên Chúa cái gì của Thiên Chúa”.
45. Sống có trách nhiệm
Anh chị em thân mến.
Trong trận chiến nam bắc của Mỹ, có một người lính dũng cảm dưới thời của tướng Abraham Lincoln. Sau khi thống nhất đất nước, anh lính trẻ được đưa về phục vụ kề cận bên tổng thống. Hằng ngày anh ta đến văn phòng làm việc với bộ quần áo chỉnh tề, làm việc theo giờ giấc hẳn hoi, giữ mọi nghi lễ phép tắc của nơi làm việc. Đồng thời phải hoàn thành công việc theo mọi người đòi hỏi. Anh làm việc được mọi người thương yêu và kính trọng, vì sự nhiệt tình đồng thời còn là người của tổng thống. Nhưng anh ta cứ khó chịu vì công việc cứ lập đi lập lại hằng ngày. Với sức lực của một người trẻ, anh ta thấy công việc văn phòng dường như không thích hợp và có vẻ như vô ích cho anh. Một hôm anh gặp tổng thống và nói: "Xin hãy trao cho tôi một công việc như thế nào cũng được, khó khăn như thế nào tôi cũng không sợ, tôi sẵn sàng chết cho tổ quốc, chứ đừng dể tôi làm công việc nhàm chán này". Vị tổng thống bèn vỗ vai thân mật và nói với anh ta: "Anh muốn chết cho tổ quốc, chứ anh không muốn sống để phục vụ tổ quốc sao?"
Sau đó vị tổng thống bỏ đi, anh lính trẻ chắc cũng hiểu ra lời nói với anh, anh lo sống cho xứng đáng với trách nhiệm hiện tại để sống phục vụ cho tổ quốc.
Những người biệt phái và những người thuộc phái Hêrôđê họ họp nhau bàn tính để hại Chúa Giêsu. Họ là những người Do Thái đạo đức, họ đang trông chờ Đấng cứu thế. Vậy mà Đấng cứu thế ở bên họ, họ không chấp nhận, họ muốn loại trừ vì họ chỉ muốn sống theo như những gì mình muốn. Họ muốn sống đạo đức theo cách của họ, chứ không phải đạo đức như Thiên Chúa muốn. Họ đến bên Chúa Giêsu để hỏi về cách sống hiện tại, nhưng họ cũng không thuộc về hiện tại. Họ không chấp nhận được cái hiện tại mình đang sống, họ không chấp nhận được hoàn cảnh sống, họ không muốn thi hành những gì hoàn cảnh đòi buộc họ. Những người đó họ chỉ muốn thực hiện những gì theo ý riêng mình, họ không cần biết những gì họ muốn có hợp lý hay không.
Chúa Giêsu cho họ bài học về cuộc sống: "Của César hãy trả cho César, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa". Ngài muốn nói với họ: họ đang dùng những gì mà trần thế ban cho họ, thì hãy chu toàn trách nhiệm mà trần thế đòi hỏi nơi họ, không được trốn tránh. Còn những gì của Thiên Chúa mà con người nhận biết được, thì cũng phải đền đáp cho xứng đáng với những gì họ nhận được từ Thiên Chúa. Nhưng họ cũng không chu toàn được.
Những người xưa là như thế. Còn những người của ngày hôm nay, mỗi người trong chúng ta; Thiên Chúa cũng cho mỗi người một địa vị, một hoàn cảnh sống, Thiên Chúa muốn mỗi người sống tốt trong hoàn cảnh địa vị của mình. Chúng ta nhìn lại xem: chúng đang là những người biệt phái, chúng ta đang tự hào mình là người đạo đức, nên tự cho mình cái quyền chê bai, chỉ trích người khác. Trân tráo hơn nữa, chúng ta còn cho mình một quyền hạn lớn lao hơn là bắt mọi người phải thi hành theo những gì mình gọi là đạo đức. Nếu người khác không chấp nhận thì làm đủ mọi cách để loại trừ và chê họ là quân vô đạo. Nhưng có khi nào chúng ta chịu nhìn lạixem, những gì mình nghĩ, mình muốn, đó có phải là những gì Thiên Chúa muốn không. Hay chúng ta chỉ đòi hỏi những gì không phải của hiện tại, không bằng lòng với những gì đang có; như vậy chúng ta giống như anh lính trẻ của vị tổng thống hoa kỳ: muốn chết cho tổ quốc, chứ không muốn sống để phục vụ tổ quốc.
Nếu chúng ta nhìn thấy được trách nhiệm của mình trong hiện tại, nhìn thấy được những gì mình cần phải làm, nhìn thấy được công việc mình phải chu toàn với tất cả trách nhiệm, để rồi bắt tay vào việc và hành động với tất cả trách nhiệm cần phải có. Khi đó chúng ta hoàn thành trách nhiệm những gì Thiên Chúa muốn nơi chúng ta. Khi đó chúng ta đang trả cho Thiên Chúa những gì là của Ngài. Nếu chúng ta nhận ra được những người chung quanh mình đang cần gì và không ngần ngại đáp ứng nhu cầu của họ, vì nhận ra Thiên Chúa nơi họ. Khi đó thật hạnh phúc cho chúng ta, vì lời của Chúa Giêsu: "của César hãy trả cho César, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa" đang được thực hiện một cách trọn hảo nơi chúng ta.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban ơn soi sáng và sức mạnh cho mỗi người, biết nhận ra trách nhiệm của mình đối với Chúa và với mọi người để biết thi hành cho tốt đẹp.
46. Kurios Christos!
Nghi thức hôn phối được bắt đầu khi nghe tiếng đàn vọng lên. Họ hàng bên đàng gái hồi hộp đợi chờ tiếng đàn vang lên. Nhưng đợi mãi vẫn không thấy, nên người giúp lễ đã ra hiệu cho người đánh đàn bằng cách búng tay. Những vẫn không thấy động tĩnh gì. Người giúp lễ liền vỗ tay để ra hiệu, cũng không ăn thua. Vì mọi người đang chờ, cho nên người giúp lễ hoảng hốt vội vàng kêu tên của người đánh đàn to tiếng: "Quì... Quì." mọi người trong nhà thờ liền quì xuống.
"Kurios Christos!" (Chúa Kitô là Chúa) là bản tuyên xưng đức tin của nhóm người La Mã sống vào thế kỷ đầu tiên công nguyên. Họ là những người được gọi là Kitô giáo. Vào thời kỳ này vua là chúa mọi người vì thế mọi người phải quì bái trước bàn thờ của vua Caesar. Mỗi năm họ buộc phải kêu tên nhà vua, "Kurios Caesar," nghĩa là "Caesar là chúa tể." Khi nhóm người Kitô giáo hồi đó đọc bản tuyên xưng của họ thì cũng có nghĩa là "Quốc gia-Caesar-không phải là chúa!"
Họ đã minh chứng những gì đã được tuyên xưng trên núi Sinai: "Chúng tôi sẽ không có chúa nào khác ngoài Thiên Chúa". Họ cũng xác định sự trung thành đối với Chúa cao hơn đối với quốc gia. Chính vì thế, nhiều người đã bị quẳng cho sư tử ăn thịt. Tuy nhiên, lòng cương quyết của họ vẫn không ngừng cho dù phải chết cách nào đi nữa họ vẫn thưa, "Không!" vì họ nghĩ, "quốc gia này phải luôn luôn dưới quyền của Chúa, và quốc gia này sẽ bị Chúa phán xét."
Một thương gia vào khoảng 45 tuổi được vợ đón tại phi trường sau khi thi hành công tác. Khi cô chiêu đãi viên xinh đẹp đi ngang qua hai người, người chồng liền nói với cô ấy: "Tôi hy vọng sẽ được bay với cô trong chuyến bay khác. Cô Lan." Người vợ nghe thấy vậy, nóng mặt hỏi chồng: "Làm sao anh biết được tên cô ta?" Ông chồng đáp: "Tên cô ta được ghi trong danh sách của chuyến bay, anh còn biết tên cô ta ở dưới tên của người phi công nữa." Người vợ hỏi tiếp: "Vậy tên của người lái máy bay tên gì. Anh có thể cho em biết được không?" Ông ta thua trận và sự giả dối của anh ta đã bị lộ.
Chúa Giêsu chỉ trích mạnh mẽ về sự giả hình. Ngài lên án những hạng người chỉ bày tỏ vẻ bề ngoài khi họ ăn chay và cầu nguyện: "Giả hình, vì họ làm như vậy để được khen ngợi và được mọi người biết đến." Ngài lên án những người làm đầu trong đền thờ vì họ chỉ ca tụng Chúa trên môi miệng, nhưng lòng họ thì trống rỗng.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, nhóm Pharisiêu cố gắng dụ Chúa Giêsu vào cạm bẫy của họ bằng cách làm cho Ngài lỗi luật quốc gia. Họ hỏi Chúa có nên nộp thuế cho Caesar hay không. Họ nghĩ Chúa Giêsu sẽ chống lại việc nộp thuế cho chính phủ La Mã, như vậy có lợi cho nhóm người tư tế, và Ngài sẽ bị bắt vì chống lại nhà nước. Và nếu Chúa Giêsu làm ngược lại thì làm phật lòng nhóm tư tế. Họ gài Chúa Giêsu vào thế tiến thoái lưỡng nan. Nhưng Chúa Giêsu trả lời họ cách khôn ngoan, tránh né không đi vào phe nào. Ngài cắt nghĩa cho họ biết những gì của Caesar thì trả cho Caesar, còn những gì của Thiên Chúa thì trả cho Thiên Chúa. Ngài nhìn thấu sự giả hình của bọn họ, Ngài không muốn bước vào cạm bẫy của bọn chúng.
Nhưng những gì của Caesar? Những gì của Thiên Chúa? Đó không phải là những câu hỏi khó trả lời chỉ riêng đối với nhóm Biệt Phái, nhưng cũng là những câu hỏi khó giải quyết đối với các Tông đồ. Và ngay trong thời đại này cũng là một vấn nạn trong tôn giáo. Chính phủ thay đổi, hình thức cũng thay đổi, quốc gia, kinh tế, văn hóa và xã hội luôn được thay đổi nhưng vấn nạn thì không bao giờ thay đổi.
Những gì là của Chúa? Những gì là của Caesar? Chúa Giêsu để cho chúng ta tự giải quyết lấy chính mình. Hơn thế nữa, Ngài đã dùng chính mạng sống mình để giải quyết vấn nạn đó. Ngài ban cho chúng ta lề luật thông thường nhất, nhưng chúng ta đã làm cho nó trở nên phức tạp khi thi hành. Luật đó được đặt ra khi người ta hỏi Ngài về giới luật nào trọng nhất. Ngài trả lời: "Ngươi phải yêu Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng hết sức và hết linh hồn ngươi." đó là điều răn thứ nhất và trọng nhất. Còn điều răn thứ hai: "Ngươi phải thương yêu kẻ khác như chính mình ngươi" (Mt 22:38).
Chúa Giêsu đã đề cao giới luật này trong suốt cuộc sống công khai của Ngài trong mọi nơi, mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh. Ngài tuyên bố hai giới luật này không bao giờ tách rời được. Chúng ta không thể chu toàn giới luật thứ nhất nếu không hoàn tất giới luật thứ hai. Nói yêu Chúa nhưng không thương yêu tha nhân thì hoàn toàn trái nghịch. Thánh Gioan nói," Nếu ai nói tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối, vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy thì họ không thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng mà họ không trông thấy. Đây là giới luật mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình (1 Jn 4:20,21).
Nếu như vậy khi nào chúng có thể vừa thi hành luật Chúa và đồng thời thi hành luật quốc gia? Thiên Chúa ban cho chúng ta phẩm tính con người khi tác tạo nên chúng ta. Mỗi cá nhân được hưởng quyền đó. Mọi người đòi buộc phải trọng kính nhân phẩm này. Khi luật quốc gia vi phạm đến nhân phẩm con người như: phá thai, kỳ thị, nô lệ vân vân... chúng ta không tuân theo cũng không lỗi luật quốc gia, vì chúng ta phải vâng lời Thiên Chúa hơn luật con người.
Chúng ta hãy trao lại Chúa những gì thuộc về Ngài. Chúng ta phải vâng phục Thiên Chúa. Chúng ta phải bỏ đi những gì làm chúng ta xa lìa Chúa.
47. Nộp thuế cho Xê-da - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Trong cuộc đời, bạn có gặp trường hợp xung đột giữa hai “bản tịch” như Đức Giêsu, nghĩa là trung thành với tôn giáo thì bị kết án là phản bội đất nước, và ngược lại, trung thành với đất nước thì bị kết án là phản bội tôn giáo không? Trong trường hợp đó, bạn cần phải hành xử thế nào?
2. Bạn có phân biệt rõ rệt như Đức Giêsu: cái gì của Xê-da, cái gì của Thiên Chúa không? Nghĩa là phân biệt thánh ý Thiên Chúa và ý muốn của các thế lực đạo đời đang chi phối mình không? Phải coi ý muốn của ai quan trọng hơn?
CHIA SẺ
1. Tình trạng hai “bản tịch” của Đức Giêsu
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy sự xung đột giữa hai “bản tịch” của Đức Giêsu cũng như của mọi Kitô hữu có quê hương dân tộc, nghĩa là vừa là tín đồ của một tôn giáo, tức “giáo tịch”, vừa là người dân của một đất nước, tức “quốc tịch”. Ngài cũng như chúng ta, vừa phải yêu mến Thiên Chúa và có những bổn phận tôn giáo (như thờ phượng Thiên Chúa, phục vụ Giáo Hội, hành xử theo lương tâm…), vừa phải yêu quê hương đồng bào và có nghĩa vụ đối với đất nước của mình (như tôn trọng pháp luật, đóng thuế, quân dịch…). Hai thứ trách nhiệm này thường phù hợp với nhau, nhưng cũng có rất nhiều trường hợp chúng xung đột nhau: trung thành với tôn giáo thì có vẻ như phản bội đất nước, và ngược lại.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, người Pha-ri-siêu và phe đảng Hê-rô-đê hợp nhau đặt bẫy Đức Giêsu. Người Pha-ri-siêu là phe chủ trương trung thành với Do Thái giáo và đất nước Do Thái, vì thế, họ âm thầm chống lại người Rô-ma đang cai trị đất nước họ. Còn phe đảng Hê-rốt là người của Hê-rô-đê An-ti-pa - tiểu vương miền Ga-li-lê - chủ trương ủng hộ chính sách đô hộ của Rô-ma. Vì thế, hai phe này thường chống đối nhau kịch liệt: người Pha-ri-siêu coi phe Hê-rô-đê là phản Thiên Chúa và phản quốc; còn phe Hê-rô-đê là tay sai của đế quốc, tìm cách giết chết từ trong trứng nước những mầm mống chống lại đế quốc trong dân Do Thái.
Điều rất lạ là trong bài Tin Mừng này hai phe chống đối nhau ấy lại hợp sức với nhau hãm hại Đức Giêsu, bằng cách đặt Ngài vào một trường hợp thật khó xử là sự xung đột giữa hai “bản tịch” ấy. Họ chất vấn Ngài: “Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?” Trả lời thế nào Ngài cũng đều bị kết án. Nếu nói “được phép”, Ngài sẽ bị người Pha-ri-siêu lên án là ủng hộ người Rô-ma là kẻ thù của dân tộc, đồng thời chống lại Thiên Chúa mà tín đồ Do Thái giáo coi là vị Vua duy nhất. Còn nếu bảo “không được” thì người của Hê-rô-đê sẽ bắt Ngài nộp cho chính quyền Rô-ma vì tội tuyên truyền phản động, chống lại chính sách của đế quốc. Nhưng Đức Giêsu đã trả lời họ một cách thật tài tình, khiến cho cả hai phe không bắt bẻ Ngài được, đồng thời cho chúng ta một nguyên tắc để hành xử khi mang hai “bản tịch” trên. Đó là “của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”.
2. Thần quyền hợp với thế quyền bách hại Đức Giêsu
Người mang hai “bản tịch” như thế bị chi phối rất nhiều bởi hai lực lượng: thần quyền bên tôn giáo và thế quyền bên đất nước, xã hội. Lý tưởng nhất là hai lực lượng này cùng quan tâm đến những thiện ích chung của mọi người để cùng cộng tác với nhau, mưu lợi ích và hạnh phúc cho toàn dân. Đó là điều đại hạnh phúc cho mọi người dân, mọi tín đồ. Nhưng tại nhiều quốc gia, thần quyền và thế quyền chống đối nhau, nhất là khi hai bên có những quan điểm căn bản ngược lại nhau. Chẳng hạn khi thế quyền chủ trương vô tôn giáo, hoặc nghiêng hẳn về một tôn giáo nào đó, coi tôn giáo đó là quốc giáo, khiến tín đồ các tôn giáo khác lâm vào thế bị bạc đãi. Lúc đó, những người dân hai “bản tịch” bị ngược đãi ấy bị buộc phải chọn một bên và bỏ một bên một cách thật đau lòng. Đau lòng là vì họ chẳng muốn bỏ một bên nào, bên nào cũng hết sức thân thiết với họ. Họ lâm vào thế kẹt: hễ trung thành với tôn giáo thì bị nhà nước kết án, mà trung thành với nhà nước thì bị tôn giáo kết án.
Nhưng cũng có những trường hợp thần quyền và thế quyền hợp với nhau áp bức và bóc lột người dân vốn thấp cổ bé miệng, như trường hợp bài Tin Mừng hôm nay. Lúc đó thần quyền có thể trở thành công cụ của thế quyền hoặc ngược lại: hai bên lợi dụng thế của nhau để áp bức người dân, để cùng có lợi. Hai bên có thể thỏa hiệp với nhau, bênh vực hay tương nhượng lẫn nhau, hoặc bên này im lặng để mặc bên kia tự do hành động sai trái, bất chấp quyền lợi chung của đất nước, tôn giáo, hay người dân.
Thần quyền cũng như thế quyền đều được lập nên nhằm mục đích phục vụ lợi ích chung của dân chúng và của các tín đồ. Thần quyền còn nhằm phụng sự Thiên Chúa. Nhưng lịch sử các quốc gia và các tôn giáo, cũng như cuộc đời của Đức Giêsu cho thấy: không phải lúc nào thần quyền và thế quyền cũng đi đúng mục đích của mình. Nhiều trường hợp họ theo đuổi những mục đích cá nhân hay tập thể nhỏ của họ. Thiết tưởng các Kitô hữu chân chính, tức những môn đệ đích thực của Đức Giêsu, cho dù hoạt động trong thần quyền hay thế quyền, cũng luôn luôn đặt quyền lợi của Thiên Chúa, của đất nước, của tôn giáo và của dân chúng lên trên hết. Họ sẵn sàng hy sinh bản thân, quyền lợi cá nhân cũng như tập thể nhỏ của họ cho mục đích cao cả ấy. Nếu không thì càng giữ chức vụ cao, họ càng trở thành công cụ của Xa-tan, của sự ác, và đương nhiên chức vụ cao ấy sẽ là nhân duyên tạo nên sự trừng phạt của Thiên Chúa dành cho họ.
3. Áp dụng nguyên tắc của Đức Giêsu
Là tín đồ của một tôn giáo trong một đất nước, chúng ta có hai “bản tịch” với hai loại nghĩa vụ: một là đối với Thiên Chúa, Giáo Hội, đời sống tâm linh, lương tâm con người; hai là đối với quốc gia, xã hội. Người Kitô hữu cần cố gắng thi hành trọn vẹn chừng nào có thể hai loại nghĩa vụ ấy. Việc này sẽ dễ dàng nếu hai thế lực đạo và đời cùng đồng quan điểm và cùng hợp lực với nhau vì ích lợi chung. Lúc đó, cả hai thế lực đều là những công cụ phục vụ điều thiện, vì thế, tuân theo mệnh lệnh của những thế lực ấy cũng chính là vâng lời Thiên Chúa. Thánh Phê-rô đưa ra nguyên tắc: “Hãy tôn trọng mọi người, hãy yêu thương anh em, hãy kính sợ Thiên Chúa, hãy tôn trọng nhà vua” (1Pr 2,16). Đối với nhà nước phục vụ ích lợi chung như thế, thánh Phao-lô nói: “Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do Thiên Chúa thiết lập. Như vậy, ai chống đối quyền bính là chống lại trật tự Thiên Chúa đặt ra, và kẻ nào chống lại sẽ chuốc lấy án phạt” (Rm 13,1-2). Đó chính là áp dụng lời của Đức Giêsu: “Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”, nghĩa là nghĩa vụ thuộc bên nào thì hãy chu toàn nghĩa vụ ở bên nấy.
Tuy nhiên, lý tưởng trên nhiều khi không xảy ra, lúc đó người dân hai “bản tịch” sẽ gặp nhiều khó khăn. Là người Kitô hữu, chúng ta cần phải đặt thánh ý Thiên Chúa và lương tâm con người lên trên hết. Và kế đó là phải phân biệt giữa ý muốn của Thiên Chúa và ý muốn của hai thế lực đạo, đời ấy. Chủ trương và động lực của hai thế lực này không phải luôn luôn phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa và lương tâm con người. Hai thế lực ấy vốn là bề trên, là bậc cha mẹ mà bình thường ta phải tuân phục. Đức vâng phục Kitô giáo đòi buộc chúng ta phải tuyệt đối vâng lời bề trên bao lâu chúng ta biết mệnh lệnh của bề trên phản ảnh thánh ý của Thiên Chúa. Chừng nào chúng ta thấy mệnh lệnh của bề trên không còn phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa, thì dù bề trên ấy là thần quyền hay thế quyền, chúng ta không phải tuân phục. Vì “phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29). Nếu ta biết ý của bề trên phản lại ý muốn của Thiên Chúa mà vẫn nhắm mắt vâng lời là ta đã phạm tội đồng lõa với họ. Hãy xem gương dân Do Thái, chính vì hùa theo giới lãnh đạo tôn giáo giết Đức Giêsu và các ngôn sứ, mà hậu quả là nước Do Thái đã bị xóa tên trên bản đồ thế giới gần 20 thế kỷ.
Điều quan trọng là chúng ta phải thực hành thánh ý của Thiên Chúa được thể hiện qua lương tâm ngay thẳng và được giáo dục của mình, bất chấp làm như thế có ý nghĩa chính trị hay thương mại hay gì gì khác nữa. Chúng ta không chủ trương làm chính trị hay thương mại, mà chỉ chủ trương làm theo thánh Thiên Chúa hay lương tâm. Không thể vì một bổn phận nào đó mang ý nghĩa chính trị hay thương mại mà chúng ta có quyền miễn làm theo thánh ý Thiên Chúa hay theo tiếng nói của lương tâm. Trước những xung đột như thế, hãy tự hỏi: ta phải làm theo ý Thiên Chúa hay theo ý muốn của con người?
Cầu nguyện
Lạy Cha, chúng con đang sống trong một thế gian đầy phức tạp, việc sống theo ý muốn của Cha không phải là đơn giản, vì rất nhiều khi các nguyên tắc chồng chéo và mâu thuẫn nhau. Chính vì thế, chúng con phải biết nguyên tắc nào là cao nhất. Nguyên tắc cao nhất mà Kinh Thánh mặc khải cho, chính là: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29), hay “Chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, mới được vào Nước Trời mà thôi” (Mt 7,21). Xin cho con biết tuân thủ nguyên tắc ấy qua lương tri và lương tâm của con. Amen.
48. Nên giống Chúa
Việc xảy ra trong một hầu quốc gần bờ sông Rhin nước Pháp. Vua của lãnh thổ này vừa qua đời. Sau một thời gian đất nước loạn lạc và chinh chiến, dân chúng chán cảnh chiến tranh và đòi một người kế vị yêu chuộng hòa bình. Nhưng các quan trong triều có trách nhiệm chọn người kế vị lại bối rối, khó xử, vì vị vua mới qua đời có để lại hai đứa bé còn nằm trong nôi, và đứa nào cũng dễ thương hết. Làm thế nào biết được em nào sẽ là con người yêu chuộng hoà bình?
Lúc đó, một vị quan có trách nhiệm lựa chọn đưa ra ý kiến là hãy quan sát kỹ hai em đang nằm ngủ trong nôi như hai thên thần, ông thấy em bé thứ nhất ngủ mà tay mở ra trong khi đứa thứ hai nắm chặt tay lại. Không do dự, ông chọn ngay đứa thứ nhất, và sử đã ghi lại rằng đó là vị hoàng tử đầy từ tâm và nhân ái dịu hiền.
Đây là hình ảnh kỳ diệu của Chúa Giêsu dịu hiền và tốt lành, là vua và là trung tâm của mỗi tâm hồn. Ngài xuống thế, lúc ở trong máng cỏ cũng như khi ở trên cây thập giá, Ngài đưa tay ra trong dáng điệu đón nhận.
Mỗi người trong chúng ta đã được Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài có lý trí, có trí khôn để hiểu biết và có tâm tình để yêu mến. Cái hình ảnh ấy, con người mang trong mình tự khi được thụ thai trong lòng mẹ, con người có những đức tính giống Thiên Chúa, hay đúng hơn, có những khả năng để trở nên giống Thiên Chúa. Nếu mỗi ngày biết trau dồi phát triển thêm, thì con người càng trở nên gống Chúa hơn, và người đời sẽ nhận ra giống hình ảnh Chúa nơi chúng ta, như cử chỉ em bé trong câu chuyện nói lên đời sống em.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đặt câu hỏi: hình này là hình ảnh của ai đây? Câu ấy có thể là câu một Chúa muốn đặt ra cho chúng ta chăng? Ngoài những đức tinh, những khả năng tự nhiên của bản tính loài người, linh hồn thiêng liêng, lý trí và ý chí, những cái ta nhận được khi thụ thai, những cái làm ta nên giống Thiên Chúa một phần nào, Chúa còn in vào trong tâm hồn chúng ta, trao cho chúng ta nhiều hình ảnh khác nữa.
Lúc chịu phép rửa tội, Chúa đã in vào trong tâm hồn chúng ta một hình ảnh con Chúa, hình ảnh Chúa Kitô, một hình ảnh thật tốt, không thể tẩy xóa đi được, nhưng chưa được rõ lắm. Không những chúng ta có bổn phận tô điểm bức ảnh ấy cho thêm rõ ràng, cho thêm tươi đẹp... nghĩa là chúng ta phải làm thế nào để người khác trông vào nơi chúng ta là hình ảnh của Chúa, họ phải cảm thấy sự đáng mến đáng quí trọng của Ngài, nếu không, chúng ta chỉ là bức hí họa của Chúa.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu còn bảo nhóm biệt phái Do thái: “Cái gì của Xêda và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa”. Câu trả lời này của Chúa bao hàm nhiệm vụ trần thế và thiêng liêng của chúng ta. Thánh Phaolô đã dạy: “Những gì ta nợ ai, thì phải trả cho người ấy. Hãy nộp thuế cho kẻ có quyền thu thuế hay trả công cho kẻ có quyền lấy công, hãy sợ kẻ đang sợ, hãy kính kẻ đáng kính” (Roma 13,7). Những cái đó là những món nợ vật chất và tinh thần. Chúng ta phải thanh toán tất cả những món nợ ấy với những ai có quyền đói hỏi ở nơi ta.
Nhưng không phải chúng ta chỉ nợ nhau, nợ loài người mà thôi mà còn nợ cả Thiên Chúa nữa. Thi hành việc bác ái cho tha nhân chính là trả nợ cho Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Những gì làm cho họ “là” làm cho chính Ngài”. (Mt 25,40)
Mong rằng: chúng ta sẽ mang lại cho Chúa hình ảnh mà Ngài đã trao cho chúng ta khi được thụ thai cũng như khi chúng ta chịu phép rửa tội. Và không những chỉ một hình ảnh y nguyên như lúc chúng ta nhận được nơi tay Chúa mà còn phải là một hình ảnh tươi đẹp gấp bội nữa, bởi vì chúng ta cần phải tô điểm thêm nữa.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
49. Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển
TÔI LÀ CÔNG DÂN NƯỚC TRỜI, HAY CÔNG DÂN TRẦN THẾ, HOẶC CẢ HAI?
Trong thế chiến thứ hai, người ta kể một câu chuyện như sau:
Franz JaŠggerstatter sinh ra tại nước Áo. Anh được giáo dục theo tinh thần Kitô giáo. Trong cuộc sống, anh không có gì nổi trội, trình độ học vấn nơi anh chỉ là sơ cấp. Cuộc sống của anh trôi đi cách bình thường, nhưng thanh thản với nghề làm thuê theo hợp đồng. Sau đó anh lấy vợ và có với nhau 3 mặt con.
Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây chính là sự trưởng thành trong cuộc sống thường nhật cũng như đời sống đức tin nơi anh.
Sự trưởng thành này đã đem lại cho anh một lập trường kiên định về việc trung thành với Luật Chúa được ghi khắc trong Lương Tâm.
Đang sống trong cảnh thanh bình thì thế chiến thứ hai ập đến. Anh cũng như nhiều thanh niên khác buộc phải đi lính cho đội quân Hitler. Tuy nhiên, Franz đã từ chối và trả lời những người thắc mắc rằng: “Cuộc chiến này không phải là cuộc chiến vì chính nghĩa. Nên, thật là sai lầm nếu tôi gia nhập quân đội. Điều này trái với Lương Tâm tôi!"; anh nói tiếp: "Tôi yêu dân tộc, và tôi yêu quê hương tôi. Nhưng có một luật lệ cao cả hơn, đó là Luật của Thiên Chúa. Và Luật của Thiên Chúa nói trong Lương Tâm tôi: cuộc chiến này phi nghĩa!".
Kết cục, anh bị bắt và cầm tù. Mọi người khuyên ngăn, kể cả vợ anh, họ nài nỉ anh xem xét lại... Nhưng không thể thay đổi được tư tưởng của anh, cuối cùng anh đã bị chém đầu vào ngày 9.8.1943.
Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy cả cuộc đời của Franz là một cuộc chọn lựa giữa chính nghĩa và bất nhân. Giữa cái tạm bợ và vĩnh viễn. Giữa hạnh phúc và đau khổ... Franz đã đi theo đúng đường lối của Thiên Chúa là: "Cái gì của César thì hãy trả cho César, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa".
1. Ý đồ của nhóm Pharisiêu và Hêrôđê với Đức Giêsu
Hôm nay, bài Tin Mừng trình thuật việc Đức Giêsu bị hai nhóm Hêrôđê và Pharisiêu chất vấn Ngài về việc nộp thuế.
Kỳ thực thì hai nhóm này vốn từ lâu đã không đội trời chung, bởi vì nhóm Hêrôđê thì phò cho chính quyền Rôma, còn phe Pharisiêu thì trung thành với dân tộc và chống lại việc đô hộ trên đất nước họ. Tuy nhiên, ngàn năm một thủa, hôm nay cả hai nhóm, họ đều có chung một mục đích là trả thù Đức Giêsu.
Tại sao thế? Chuyện rất đơn giản là: Đức Giêsu được dân chúng mến phục vì những việc tốt lành, những bài giảng hấp dẫn, nhất là Ngài đã đứng lên tố cáo sự giả hình của nhóm Pharisiêu để bênh vực cho người nghèo, người thấp cổ bé họng không có tiếng nói... Vì thế, nhóm Pharisêu sợ mất uy tín với dân chúng. Họ không ngần ngại tận dụng mọi cơ hội để để thực hiện cho kỳ được mục tiêu của họ là loại bỏ Đức Giêsu ra khỏi xã hội bằng cái chết. Còn nhóm Hêrôđê thì sợ tầm ảnh hưởng của Đức Giêsu trên dân và vì thế, có nguy cơ bị lật đổ chế độ đô hộ của đế quốc Rôma.
Để thực hiện được hành vi này, họ đã cấu kết với nhau để chung tay gài bẫy Đức Giêsu.
Điều mà họ đưa ra để nhờ Đức Giêsu giải quyết, chính là: “Có được phép nộp thuế cho vua César chăng?” Đây là một câu hỏi hóc búa, một tình huống đầy cam go, chẳng khác gì chuyện người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang và họ nhờ Đức Giêsu phân xử. Họ đã dùng chiêu thức: “Nhất tiễn diệt song điêu” (một mũi tên, bắn hai đích). Đây là cái bẫy thâm độc. Nếu Chúa trả lời “có” thì nhóm Pharisiêu kết án Ngài phản quốc; còn nếu Người nói "không" thì phe Hêrôđê tố cáo Ngài phản động, chống tại chính quyền Rôma. Câu trả lời nào thì cũng đều sụp bẫy của chúng. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã trả lời cách khôn ngoan, khiến họ không thể tìm cớ tố cáo Ngài được. Ngài nói: "Cái gì của César thì hãy trả cho César, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa".
Với câu trả lời trên, Đức Giêsu thoát ra khỏi cái bẫy họ đã giăng sẵn, và không những thế, Ngài còn dạy cho họ một bài học quan trọng, đó là: cần ý thức để biện phân đâu là những cái thuộc về Thiên Chúa và đâu là thuộc về con người. Bổn phận của con người phải có đối với Thiên Chúa là gì?
2. Sứ điệp Lời Chúa
Khi nói "Cái gì của César thì hãy trả cho César, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa". Đức Giêsu muốn nói đến sự lựa chọn của chúng ta. Sự phân định để lựa chọn cho đúng được đặt nền trên chính Lương Tâm nơi mỗi người.
Lương Tâm chính là hoạt động của Chúa Thánh Thần. Nhờ Lương Tâm, chúng ta biết được điều thiện và điều bất toàn. Lương Tâm được ví như cái bánh lái của con tàu giữa biển khơi. Nếu không có bánh lái, con tàu sẽ không biết sẽ đi về đâu! Lương Tâm cũng giống như chiếc la bàn mà người thám hiểm đi trong rừng cần có để xác định hướng đi cho đúng. Nói cách khác, nhờ Lương Tâm chúng ta biết được điều gì nên làm và điều gì không nên. Vì thế, trong mọi tình huống, người Công Giáo phải ưu tiên cho Lương Tâm lên tiếng và làm theo.
Vì vậy, chúng ta phải tôn trọng điều đúng phù hợp với luân lý Kitô Giáo và nội dung Tin Mừng. Tránh những điều nghịch với Lương Tâm và trái với đạo lý của Đức Giêsu và giáo huấn của Giáo Hội. Phải can đảm, nhất quyết không thể phó thác cuộc đời, công việc và mục đích cuối cùng của chúng ta cho César, nhất là Lương Tâm. Noi gương các thánh Tử Đạo, là những người đã nhất quyết trung thành với Thiên Chúa khi phải lựa chọn giữa sự sống và sự chết vì không luật lệ nào được chống lại Luật của Thiên Chúa!
3. Thực hành sứ điệp Lời Chúa
Ngày nay, giữa tôn giáo và chính trị, chúng ta được mời gọi vừa tuân thủ những lợi ích quốc gia khi điều được ban bố đúng với Lương Tâm. Mặt khác, chúng ta phải có nghĩa vụ trung tín với Thiên Chúa qua Luật của Ngài được nghi khắc trong Lương Tâm.
Vì thế, cần có những nguyên tắc như sau:
- Luôn đồng hành với dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào
Thứ nhất, là người Công Giáo, chúng ta được mời gọi sống tinh thần: “là người Công Giáo tốt thì cũng là người công dân tốt” (Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16); Tuy nhiên, “lòng yêu nước của chúng ta phải thiết thực” (HĐGM VN).
Vì thế: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ” (Vat II. Gaudium Et Spes, số 1). Thật vậy, khi được Chúa Thánh Thần hướng dẫn qua Lương Tâm, chúng ta đều có sự liên kết mật thiết với cuộc sống, con người và xã hội hiện thời mà ta được mời gọi để sống cùng và sống với.
Trong thực tế, có nhiều sự khác biệt rõ rệt, nhưng luôn tâm niệm rằng: dù sống nơi đâu, làm bất cứ việc gì, chúng ta đều chung một mục đích là phục vụ hạnh phúc cho con người và thăng tiến quê hương. Nếu đi ngược lại, ấy là lúc chúng ta đang phản bội quê hương, đất nước.
- Chỉ buộc vâng phục quyền bính trần thế khi điều được ban hành là đúng
Thứ hai, khi sống trong xã hội trần thế, chúng ta được mời gọi chu toàn nghĩa vụ của mình là một công dân trong một đất nước. Vì thế, chúng ta phải chung tay, góp sức với mọi thành phần, nhằm xây dựng đất nước ngày càng tốt đẹp, trong sáng và lành mạnh hơn. Đã là công dân, mỗi người đều có bổn phận đóng thuế, tuân thủ những định luật đúng do một thể chế hợp pháp ban hành. Nhưng những điều lệ, luật định đó phải phù hợp với lẽ phải.
Vì thế, chúng ta luôn ủng hộ đường lối, chính sánh đúng. Tuy nhiên, tùy vai trò, hoàn cảnh thực tế, hẳn chúng ta sẽ không chấp nhận chính sách trái với luân lý Công Giáo! Bởi lẽ, điều này nghịch với Lương Tâm chân chính của một con người.
- Phải ưu tiên cách tuyệt đối cho Lề Luật của Thiên Chúa
Cuối cùng, người Kitô hữu có mục đích tối hậu là chính Thiên Chúa và sự sống đời đời mai hậu. Vì vậy, luật lệ mang tính tuyệt đối mà người Công Giáo phải thượng tôn và thi hành cách trung thành, đó chính là Luật của Thiên Chúa.
Là người Công Giáo, nhưng sống trong một xã hội dân sự, chúng ta được Thiên Chúa mặc khải và định hướng bởi Lương Tâm nhằm biết làm lành, lánh dữ, nên trong mọi lựa chọn, phải lựa chọn Thiên Chúa và những căn tính thuộc về Ngài. Mặt khác, lựa chọn người nghèo; thấp cổ bé họng; những người không có tiếng nói phải là ưu tiên của chúng ta khi được chi phối bởi Luật Thiên Chúa. Khi lựa chọn như thế, hành động của chúng ta là phải yêu thương và nâng đỡ họ, nhằm giúp cho con người, xã hội và cuộc sống được công bằng, dân chủ, văn minh.
Xác định được như thế, chúng ta sẽ hiểu hơn về câu nói của Đức Giêsu: "Cái gì của César thì hãy trả cho César, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa".
Lạy Chúa Giêsu, xin ban Chúa Thánh Thần xuống trên chúng con, để chúng con biết việc chúng con phải làm, ngõ hầu chúng con được bình an, hạnh phúc ngay trong xã hội trần thế. Xin cho chúng con biết lựa chọn những điều ưu tiên, tuyệt đối cho sự sống đời đời. Amen.
50. Cái gì của Cêsarê thì trả cho Cêsarê....
(Suy niệm của Paul-Maurice Lâm Thái Sơn)
Đọc bài Phúc âm hôm nay, chúng ta không khỏi ngạc nhiên khi thấy Chúa Giêsu, thay vì trả lời thẳng vào câu hỏi của đối phương đề cập đến pháp luật của hoàng đế La Mã và chuyện có nên nộp thuế cho Cêsarê hay không thì Ngài lại nói đến quyền hành của Thiên Chúa.
Thực tế mà nói, vấn đề nộp thuế là chuyện đương nhiên, không cần phải bàn. Vả lại câu hỏi được đặt ra cũng không đúng vào đâu, chẳng qua đối phương muốn bàn mưu để bắt bẻ và ám hại Chúa mà thôi. Cái gút mắc của vấn đề là: dân Do Thái thời bấy giờ đang bị đế quốc La Mã xâm chiếm và đô hộ, vì thế họ xem người La mã như dân vô đạo và thù nghịch, vậy thì nộp thuế cho hoàng đế Cêsarê (một kẻ ngạo mạn phách lối dám tự cho mình là thần thánh) là một hành vi nhục mạ điều luật Thiên Chúa (vì ngươi chỉ tôn thờ một Chúa duy nhất mà thôi). Cho nên: nếu bảo rằng phải nộp thuế, Chúa Giêsu sẽ bị họ tố cáo là kẻ phiến loạn. Trước câu hỏi đầy mưu mô của đám Hêrôđê và biệt phái. Chúa Giêsu lên tiếng: " Hãy trả cho Cêsarê những gì Cêsarê, và trả cho Thiên Chúa những điều thuộc về Thiên Chúa". Qua câu trả lời này, ta thấy Chúa phân biệt rõ quyền hạn của Cêsarê và quyền lực của Thiên Chúa.
Mối tranh chấp giữa thần quyền và thế quyền, giữa đạo và đời đã xảy ra từ thời của Chúa Giêsu cũng như từ muôn thuở. Một thí dụ điển hình trong lịch sử Pháp quốc: vào năm 1801, một " hoà thân điều ước" (concordat) đã được ký kết giữa hoàng đế Nã Phá Luân đệ I và Đức Giáo Hoàng Piô VII; cho đến năm 1905 thì sự tách lìa hai quyền bính thiêng liêng và trần thế đã được tuyên bố dứt khoát.
Trở lại bài Phúc Âm, Chúa Giêsu khi rao giảng Tin Mừng, Ngài không muốn được coi như vị cứu tính chính trị theo ý của người Do Thái. Ngài không đến để nắm lấy chính quyền, đảm nhận trách nhiệm và chúc vụ như một vị hoàng đế Cêsarê hay như một vị vua Hêrôđê. Trong thực tại, Ngài phân biệt rõ thần quyền và thế quyền, tuy công nhận quyền hành chính trị như một điều tất nhiên, nhưng Ngài tự đặt mình vào mức độ khác. Nước Trời mà Ngài đang rao giảng và đang thể hiện nơi Ngài hoàn toàn khác biệt và không cạnh tranh với đế quốc của Cêsarê, vì Nước Trời là vương quốc trường tồn của Thiên Chúa dành cho tất cả, nơi đó không có áp chế, không phân chia kẻ đô hộ và người bị trị.
Thái độ của Chúa cho thấy rõ chính trị có giá trị riêng của nó. Các xã hội ngày nay cần phải có sự tổ chức theo phương diện chính trị, nhưng Thiên quốc không được lẫn lộn với bất cứ thể chế hoặc cơ cấu tổ chức trần thế nào, cho dù chế độ đó có hoàn mỹ chăng nữa.
Chính trị là nghệ thuật và khoa học bảo đãm đời sống con người một cách hài hòa trong một xã hội. Mục đích chủ yếu là: kiếm tìm ấm no hạnh phúc cho từng người, tôn trọng và bảo vệ an ninh trật tự cho mọi công dân v..v... Những mục tiêu này cần phải hoà hợp với các tôn chỉ của Nước trời nơi mà tình yêu và sự kính trọng Thiên Chúa được gắn liền với tha nhân. Nơi nào có liên hệ đến số mệnh của con người thì nơi đó có Thiên Chúa. Vì thế Giáo hội vẫn kêu gọi các tín hữu không nên khinh thường sứ mệnh và trách nhiệm của những nhà lãnh đạo quốc gia, đồng thời phải thi hành đúng bổn phận người công dân (nộp thuế, nghĩa vụ...) cũng như tích cực góp phần xây dựng xã hội cho tốt đẹp hơn.
Để đạt mục đích này, các xã hội trần gian sử dụng nhiều phương thế khác nhau, có những chính sách phức tạp và cơ cấu tổ chức đa diện đôi khi cũng tương phản nữa... Nhưng trong lãnh vực chính trị, Giáo hội luôn tôn trọng sự tự trị của quyền bính thế trần với mỗi cách thức riêng biệt của nó, và dĩ nhiên Thiên Chúa không tự biểu lộ dưới hình thức các đảng phái chính trị: thật là sai lầm khi gán ghép Thiên Chúa trong phe tả hoặc phe hữu. Tiếc rằng trên chính trường thế giới ngày nay, ta thấy có những chính thể dám khinh thường và chống chọi quyền bính của Thiên Chúa, hoặc ngược lại tuyên bố hữu thần nhưng ngang nhiên áp bức, bốc lột, chà đạp phẩm giá và tự do của con người. Và chúng ta đã thấy rõ nơi nào mà tất cả không được tôn trọng thì nơi đó con người cũng không được đề cao. Khi quyền lực của một quốc gia coi rẻ nhân phẩm thì đương nhiên công dân sẽ bị áp bức chà đạp. Một chính thể vô thần thì cũng vô nhân đạo một cách bi thảm.
Vì thế, những gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê và những gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa. Chúng ta đều biết Cêsarê là hiện thân cho một đế quốc hùng lực và giàu mạnh của thời lịch sử đã qua, nhưng Cêsarê cũng còn là biểu tượng cho thế lực tiền bạc hay tham vọng quyền bính và lợi danh dưới mọi hình thức trong xã hội ngày nay đối với mọi người... nhưng xin đừng lên án vội, vì Cêsarê có thể là kẻ khác mà cũng có thể là chính mỗi người chúng ta. Cho nên trong cái phức tạp của đời sống, trong sự giằng co thường nhật, Thiên Chúa mời gọi chúng ta nên nhận thức rõ vấn đề chọn lựa và chu toàn trách nhiệm.
Trước một câu hỏi chỉ nêu lên vấn đề pháp lý trần thế, Chúa đã khéo léo nhắc đến bổn phận của con người đối với Thiên Chúa. Vậy thì lúc mà chúng ta chu toàn công việc hằng ngày là lúc mà chúng ta đang trả cho Cêsarê những gì thuộc về Cêsarê, và đến lúc tham dự Thánh Lễ, khi bánh và rượu mà Chúa ban cho chúng ta được dâng lên trước bàn thờ, thì lúc đó chúng ta đang dâng lên Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài.
51. Bổn phận đối với Chúa và xã hội
Nói đến loài người, chúng ta không thể nào bỏ qua vấn đề bổn phận. Vì con người tồn tại được là nhờ ơn Chúa và con người lớn lên nhờ có cha mẹ, tha nhân, xã hội chăm lo. Do đó, mọi người đều có bổn phận đối với Chúa và đối với đồng loại. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho người Do thái cũng là cho chúng ta hiểu thêm về vấn đề này.
Để hiểu đúng lời Chúa Giêsu dạy, trước nhất, chúng ta hãy xét đến bối cảnh của đoạn Tin Mừng này: Đất nước Do thái trong cảnh đô hộ, do người Rôma cai trị, ngoài việc phải đóng góp riêng cho đền thờ như luật Chúa truyền, họ còn phải nộp thuế cho đế quốc. Người Do thái nói chung không chấp nhận sự đô hộ này và coi việc nộp thuế là điều sỉ nhục, vì là dấu họ bị nô lệ cho dân ngoại. Thực ra, việc nộp thuế cho Rôma là vấn đề phức tạp, phái Hêrôđê và biệt phái không đồng quan điểm với nhau trong chuyện này. Người Do thái yêu nước không thể chấp nhận việc nộp thuế mà chỉ làm vì ép buộc, còn những người thuộc phái Hêrôđê thì đồng ý với đế quốc Rôma. Cả hai nhóm này tuy không đồng quan điểm nhưng hôm nay vì muốn chống Chúa Giêsu nên họ cùng đến để dò xét và tìm cách bắt bẻ Người.
Khi Do thái còn nô lệ Rôma thì không thể trốn tránh việc nộp thuế! Nhòm Biệt Phái và Hêrôđê biết rõ là vấn đề này chưa thể giải quyết được nên đã đưa ra hỏi với ý gài bẫy Chúa Giêsu. Hiểu được thâm ý của họ, Ngài bảo họ: "Cho Ta xem đồng tiền nộp thuế! " Họ liền đưa cho Người một quan tiền. Người hỏi họ: "Hình và danh hiệu này là của ai đây?" Họ đáp: "Của Xê-da." Bấy giờ, Người bảo họ: "Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa." (x. Mt 22, 19-22) Một khi đã chấp nhận xài tiền tức là chấp nhận mặc nhiên quyền của Cêza nhưng những người này vẫn làm ra vẻ như không chấp nhận. Ở đây, Chúa Giêsu vừa trả lời cho họ vừa muốn dạy họ phân định hai thực quyền khác nhau nhưng bổ túc nhau. Đó là:
Thế quyền có bổn phận điều hành, lo công ích xã hội, bảo đảm ổn định đời sống vật chất cho dân chúng. Người Do thái đã nhận sự điều hành này thì tất nhiên họ phải tuân theo những luật lệ chính đáng của chính quyền La mã.
Thần quyền vượt trên mọi quyền nhân loại, lo cho lợi ích đời đời của con người, con người phải tôn thờ, kính mến và tuân phục thiên Chúa qua những người đại diện Giáo hội.
Như vậy, sống trên đời này, con người có bổn phận tuân phục Chúa và những luật lệ hợp lý của xã hội nữa. Chúng ta không thể bỏ qua nhiệm vụ với xã hội khi sống đạo và khi lo bổn phận trần thế chúng ta không được đặt nhẹ bổn phận đối với Chúa. Chúng ta phải luôn tuân theo lời Giáo huấn của Chúa trong Giáo hội, giữ các giới răn, sống 8 Mối Phúc và năng lãnh các Bí tích.
Thế quyền có bổn phận lo an sinh và phát triển kinh tế, gìn giữ an ninh, bảo đảm trật tự xã hội cho chúng ta an ổn làm ăn sinh sống. Do đó, chúng ta có bổn phận đóng góp công sức cho xã hội theo lẽ công bằng và mưu ích hạnh phúc cho toàn xã hội trong đó có chúng ta.
Là những người con cùng một Cha, chúng ta đừng chỉ lo cho mình mà quên đi quyền lợi của người khác. Còn đối với chính mình, chúng ta biết lo nuôi xác thì cũng phải biết nuôi hồn cho tương xứng vì chúng ta là loài có xác và hồn. chúng ta phải sống sao để làm tròn bổn phận và đặt bổn phận vâng phục Chúa ưu tiên trên tất cả.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy cho chúng con hiểu đúng bổn phận của mình đối với Chúa và đối với trần thế. Xin cho chúng con biết thi hành bổn phận này trong cuộc sống để mưu cầu hạnh phúc cho chính mình cũng như cho tha nhân trong xã hội mình đang sống.
52. Trả cho Xêda và trả cho Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Nhóm người Pharisêu trong Phúc âm hôm nay kết cấu với nhóm Hêrôđê để đưa Chúa vào cuộc tranh chấp chính trị. Nhóm Pharisêu thuộc giáo phái của Do thái giáo. Họ hay phê bình chỉ trích những lời nói và hành động của Chúa, cho rằng Chúa đi ra ngoài tập tục của tiền nhân. Và Chúa cũng thường cảnh giác họ, gọi họ là bọn giả hình vì họ giữ đạo mà thiếu tâm tình bên trong. Nhóm người Pharisêu lại hậm hực vì phải trả thuế cho chính phủ ngoại bang là người La mã. Đây là loại thuế nhân danh, tính theo đầu người: đàn ông từ 14 tới 65 tuổi, cũng như đàn bà từ 12 tới 65. Còn nhóm Hêrôđê là những người phò đế quốc La mã và do đó phò cả chính sách của vua Hêrôđê. Trước khi đưa Chúa vào tròng, họ tỏ ra nịnh bợ trước đã như khen Chúa là người chân thật và không thiên vị (Mt 28:16).
Thế rồi họ đặt câu hỏi với Chúa: Có được phép nộp thuế cho Xêda không? (Mt 22:17). Câu hỏi có vẻ đơn sơ, nhưng ngụ ý của họ lại khác. Nếu Chúa trả lời có, nghĩa là phải nộp thuế cho Xêda thì Người sẽ bị coi là phản động và mất thế giá trước mặt người Do thái thời bấy giờ vì họ muốn thoát khỏi quyền lực của vua ngoại bang. Nếu Chúa trả lời không, nghĩa là không cần nộp thuế cho Xêda, phe Hêrôđê sẽ tố cáo với nhà chức trách La mã là chống chính quyền ngoại bang. Chúa biết rõ thâm ý của họ nên dùng chính đồng tiền nộp thuế có hình Xêda để giải thích cho họ. Chỉ vào hình Xêda trên đồng tiền, Chúa bảo họ: Của Xêda, trả về Xêda, của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa (Mt 22:21).
Ở đây Chúa phân biệt hai phạm vi thế quyền và thần quyền. Thế quyền và thần quyền tách biệt nhau, nhưng có liên hệ với nhau. Chúa muốn họ cũng vâng phục thế quyền để duy trì trật tự và lợi ích công cộng. Thế quyền cũng bắt nguồn bởi Thiên Chúa như lời Thánh kinh dạy là mọi quyền bính trên trời dưới đất đều bởi Thiên Chúa. Trong bài trích sách ngôn sứ Isaia, Chúa đã dùng vua Ba tư ngoại giáo là Kyrô, người được sức dầu, để thống trị đế quốc Babylon, đem dân tộc Chúa chọn trở về khỏi ách lưu đầy (Is 45:1). Công đồng Vaticanô II nói về những liên hệ giữa thế quyền và thần quyền như sau: Tuỳ theo hoàn cảnh và địa phương, nếu cả hai càng duy trì được sự cộng tác lành mạnh, cả hai càng phục vụ lợi ích của con người một cách hữu hiệu hơn (Gaudium et Spes #76). Dựa vào lời Chúa dạy thì Thiên Chúa và Xêda, hay nói cách khác, thần quyền và thế quyền, đều có những đòi hỏi nơi người công dân. Bằng cách bảo nộp thuế cho Xêda, Chúa bảo toàn quyền hợp pháp của Xêda để duy trì trật tự và ích lợi chung cho xã hội loài người. Mặc dầu là chính phủ thuộc địa, nhưng trong giai đoạn thuộc địa đó, chính quyền thuộc địa cũng cung ứng được những tiện ích nào đó cho người dân.
Người công dân trách nhiệm thì tuân hành luật lệ hợp pháp của quốc gia để duy trị trật tự và lợi ích công cộng. Đóng thuế là phương tiện giúp chính phủ bảo toàn an ninh và an sinh xã hội. Chính Chúa Giêsu đã làm gương trong việc nộp thuế đền thờ để người khác khỏi vấp phạm, mặc dù cắt nghĩa theo luật đền thở thì Chúa được miễn. Chúa bảo ông Phêrô: Con hãy ra biển thả câu, con cá nào bắt được trước tiên thì hãy mở miệng nó ra, lấy một đồng bạc về mà nộp xuất thuế của Thày và của con (Mt 17:27). Tuân giữ luật dân sự, Mẹ Maria và thánh Giuse đã làm cuộc hành trình về Bêlem, để khai sổ nhân danh theo lệnh hoàng đế Augúttô (Lc 2:1-7).
Việc tuân giữ luật pháp dân dự giả thiết rằng luật pháp đó dựa theo và phù hợp với luật Thiên Chúa. Còn khi mà luật pháp dân dự đi ngược lại luật Thiên Chúa, thì người công giáo theo tiếng lương tâm ngay thẳng phải bày tỏ lập trường. Người công giáo gồm cả hàng giáo sĩ, có hai quyền công dân: công dân nước trần thế và công dân nước Trời. Là người công dân của nước trần thế, người công giáo cần đóng thuế và tuân hành luật pháp công bình của quốc gia, xã hội. Ngoài ra dựa theo lời Chúa dạy, Giáo hội cũng khuyến khích người công giáo, với tư cách là công dân của một quốc gia, tham gia vào guồng máy chính trị của xã hội. Tuy nhiên tập thể Giáo Hội, cũng như hàng giáo sĩ, thành phần ưu tú của Giáo hội, không chủ trương tham chính, cũng không đem chính trị đảng phái vào Giáo hội bởi vì Giáo hội là một thực thể siêu việt, đứng trên mọi thể chế chính tri. Giáo hội mang tính chất trường tồn, còn đảng phái cầm quyền chỉ có tính chất giai đoạn, nay còn mai mất khi có việc đổi chủ. Công Đồng Vaticanô II khẳng định về Giáo hội và thể chế chính trị như sau: Giáo hội không cách nào bị đồng hoá với một cộng đoàn chính trị và cũng không cấu kết với bất cứ hệ thống chính trị nào vì Giáo hội vừa là dấu chỉ vừa là bảo đảm cho tính cách siêu việt của con người (Gaudium et Spes #76).
Khi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II viếng thăm Mỹ Châu, Ngài cảnh giác một linh mục là thành viên Hạ viện ở một quốc gia Bắc Mỹ và một linh mục bộ trưởng chính phủ tại một quốc gia ở Trung Mỹ rằng nếu muốn tiếp tục làm linh mục thì phải bỏ việc tham chính. Hai vị đã tuân theo lời Đức Thánh Cha. Lí do là vì tham chính là làm chính trị. Mà làm chính trị đôi khi phải thủ đoạn và ma giáo. Mà ma giáo và thủ đoạn thì không phù hợp với chức vụ linh mục. Ngoài ra để thu hút phiếu của nhóm nọ nhóm kia, linh mục làm chính trị có thể ủng hộ lập trường nào đó, đi ngược lại đường lối của Giáo hội.
Là công dân nước Trời, người công giáo có bổn phận trả cho Thiên Chúa những gì thuộc Thiên Chúa. Ta trả cho Thiên Chúa bằng việc thờ phượng, tin yêu mến Chúa và tuân giữ giới răn Chúa. Ta trả cho Chúa bằng việc góp của xây dựng, sửa sang và dọn dẹp nhà Chúa. Ta trả cho Chúa bằng việc tông đồ để mở mang nước Chúa hầu làm vinh danh Chúa. Ta trả cho Chúa bằng việc bác ái, phục vụ và giúp đỡ tha nhân, hình ảnh của Chúa.
Lời cầu nguyện xin cho biết phân định thần quyền và thế quyền:
Lạy Chúa, con xin tạ ơn Chúa đã đến dạy bảo loài người phân định giữa thần quyền và thế quyền. Xin cho luật pháp các quốc gia được phản ảnh luật Chúa. Còn những nhà làm luật chưa nhận biết Chúa, xin cho luật pháp họ đạo đạt được phản ảnh luật tự nhiên đã được ghi khắc trong lương tâm chính trực của họ. Cũng xin dạy con biết tuân giữ luật pháp công chính hầu cho trật tự và tiện ích công cộng được bảo đảm. Và xin dạy con biết tuân hành luật Chúa để mối liên hệ giữa Chúa và con được tăng triển. Amen.
53. Xin Thầy cho biết ý kiến
Bài Phúc âm hôm nay có một câu đặc biệt thường được trưng dẫn, đó là: "Của Xêsa hãy trả cho Xêsa, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa". Đó là câu trả lời đầy ý nghĩa sâu xa của Chúa Giêsu cho những người đối nghịch muốn gài bẫy để có cớ bắt bẻ Ngài.
Những người ấy chính là bọn Pharisiêu và những kẻ theo phái Hêrôđê. Trong thực tế, hai nhóm người này có trường phái ngược nhau; nhóm Pharisiêu thì chỉ muốn bênh vực truyền thống sống đạo của cha ông họ mà thôi. Họ coi đó là cách thế duy nhất để làm đẹp lòng Thiên Chúa, và trên phương diện chính trị thì họ không chấp nhận sự hiện diện của chính quyền Rôma đang nắm quyền cai trị vùng đất Palestine lúc đó.
Bấy giờ, vua Hêrôđê được hoàng đế Rôma bổ nhiệm nắm chính quyền, vua Hêrôđê này không phải là người Do Thái, nhưng ông là người dân ngoại không thuộc Do Thái giáo. Còn những người Pharisiêu thì không chấp nhận sự thống trị của chính quyền Rôma trên đất nước Palestine. Theo lẽ thường thì hai nhóm người này không hoà hợp được với nhau. Thế nhưng, trớ trêu thay, để chống lại Chúa Giêsu thì họ liên kết với nhau, những người Pharisiêu liên kết với những người của vua Hêrôđê.
Mặt khác, những người của Hêrôđê thì lại ủng hộ tập trường của vua Hêrôđê, tức của hoàng đế Rôma để chấp nhận sự thống trị của vua. Nhưng hai nhóm người này liên kết với nhau để đặt ra một vấn nạn mà họ cho là phức tạp nhất: "Có nên nộp thuế cho hoàng đế Xêsa hay không?". Nếu Chúa Giêsu trả lời là không, thì nhóm người Hêrôđê sẽ bắt Chúa vì tội xúi giục dân chúng làm loạn không nộp thuế cho hoàng đế Rôma. Còn nếu Chúa trả lời "có" thì những người phe Pharisiêu sẽ có cớ để tố cáo Chúa với dân chúng làChúa đi với người ngoại bang, không đáng là một vị lãnh đạo tôn giáo.
Đối với họ, theo cái nhìn và suy luận của họ thì Chúa Giêsu chắc chắn sẽ rơi vào bẫy, vì không có câu nào khác để trả lời: Một là phải nộp thuế hai là không nộp thuế. Nhưng câu trả lời của Chúa Giêsu làm cả hai hạng người này không bắt bẻ được Ngài, đồng thời Chúa Giêsu còn xác quyết một chân lý sự thật đầy mới mẻ, đó là: "Những gì của Xêsa hãy trả cho Xêsa và những gì của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa. Hãy tìm nước Thiên Chúa trước, rồi mọi sự khác sẽ được ban cho anh em dư đầy".
Thử hỏi xem có một cái gì hay vật gì trong vũ trụ này mà lại không thuộc về Thiên Chúa? Trái đất và vũ trụ này do Thiên Chúa tạo dựng nên, và chính con người cũng được Ngài tạo dựng. Mỗi người chúng ta đã lãnh nhận sự sống từ Ngài, bởi vì không có gì mà chúng ta đang dùng mà lại không do Ngài ban cho.
Vậy, nếu không trả về cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài, không hướng về Ngài tất cả những gì trong vũ trụ hay tất cả những gì ta đang hưởng dùng thì đó là thái độ phản loạn của con người. Con người muốn chiếm hữu lấy chỗ của Thiên Chúa và qui mọi sự về chính mình, lấy mình làm chủ, làm tiêu chuẩn cho mọi sự, những thái độ kiêu ngạo sai lầm này chỉ dẫn đưa đón những tranh chấp, hận thù, bạo lực và xa rời Thiên Chúa mà thôi. Vì thế, bao lâu mỗi người chúng ta không nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng chủ tể của mình, không trả lại cho Ngài và không qui hướng về Ngài tất cả những gì thuộc về Ngài, không để cho Thiên Chúa chiếm chỗ nhất trong cuộc sống của mình, thì bấy lâu con người không thể xây dựng một xã hội nhân bản xứng đáng là con người, không thể nào xây dựng một xã hội hoà hợp, trong đó mọi người nhìn nhận nhau như là anh chị em trong đại gia đình có Thiên Chúa là Cha: "Hãy trả cho Xêsa những gì của Xêsa, và hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa".
Hôm nay Lời Chúa mời gọi mỗi người Kitô hữu chúng ta hãy dấn thân nhiều hơn nữa, đặt Chúa vào chỗ nhất trong cuộc sống của mình, đặt Chúa vào chỗ nhất trong mọi sinh hoạt xã hội của mình. Tất cả mọi biến cố, tất cả những gì chúng ta đang thừa hưởng là đến từ Thiên Chúa và đều do tình yêu thương của Ngài trao ban.
Lạy Chúa, chúng con xin dâng lời cảm lạ và tri ân Ngài mãi mãi, vì tất cả những gì chúng con có đây đều là do Chúa ban cho. Xin Chúa gìn giữ chúng con trong đức tin mà giờ đây chúng con cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
54. Nộp thuế cho Xêda – Lm PX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Tiếp sau phân đoạn 21,23–22,14 về các dụ ngôn là bốn giai thoại tường thuật các thức Đức Giêsu đánh bại các đối thù trong các cuộc tranh luận tại Đền Thờ. Có thể gọi đây là các “truyện về tranh luận”. Nét tiêu biểu của các truyện này là người tường thuật không quan tâm đến lập trường của các đối thủ của Đức Giêsu. Ông thường cho thấy: hoặc các đối thủ giăng một cái bẫy bằng câu hỏi hiểm độc (cc. 15-22), hoặc câu hỏi của họ tạo ra cơ hội cho một câu trả lời (cc. 34-40). Nếu có nói đến lập trường của họ, thì chỉ nói rất ngắn gọn (cc. 23.42), vì cần phải nói ra cho cuộc tranh luận. Các đối thủ của Đức Giêsu được mô tả giống như các diễn viên ranh ma nhưng thừa thãi.
Hình thái của bốn truyện cũng có đặc tính của cuộc tranh luận tại lớp học, trong đó các học trò đặt câu hỏi cho thầy (22,16.24.36). Theo một lược đồ của truyền thống kinh sư Do Thái, các tranh luận nhà trường được bố trí thành bốn bậc với độ mạnh tăng dần và được đặt tên như sau:
1- [K]hokmâh (“sự khôn ngoan”): đây là một tranh luận về quy tắc phải theo khi liên hệ đến những bản văn pháp luật;
2- Haggadâh (“truyện ký”): đây là một lối giải thích các băn văn Kinh Thánh bề ngoài mâu thuẫn với nhau;
3- Bôrut (“sự tầm thường”): đây là một tranh luận nhắm biến niềm tin thành một trò hề;
4- Derek ‘erets (“đường đất”): đây là một tranh luận về những nguyên tắc cơ bản của đời sống luân lý.
Chúng ta có thể cho rằng tác giả Mt đã trình bày các đoạn văn trong chương 22 từ c. 15 đến c. 46 theo lược đồ này, nhưng ngài đảo thứ tự truyền thống, bằng cách đặt haggadâh vào cuối cuộc đối chất, hầu nêu bật tính tiệm tiến của cuộc đối chất cho đến câu hỏi cuối cùng của Đức Giêsu (x. c. 42):
1- [K]hokmâh:22,15-22,
2- Bôrut: 22,23-33;
3- Derek ’erets: 22,34-40,
4- Haggadâh: 22,41-46.
Ba tranh luận đầu được gợi lên bởi ba nhóm đại diện Do Thái giáo chính thức. Họ tìm cách gài bẫy Đức Giêsu bằng chính những lời nói của Người (cc. 15 và 35) về những vấn đề ngày càng thêm quan trọng: nộp thuế cho Xêda, là vấn đề đặt đối lập các nhóm Hêrôđê, Pharisêu và Nhiệt Thành (Quá Khích) với nhau; sự sống lại của kẻ chết, là vấn đề được phái Xađốc đặt ra; điều răn lớn nhất, là mối bận tâm của người Do-thái tuân thủ luật Môsê nghiêm nhặt, tức phái Pharisêu. Các vấn đề ấy được đặt ra cho một vị Rabbi: “Thưa Thầy” (didaskale; x. cc. 15.24.36); đây là danh hiệu cho thấy là họ hiểu Đức Giêsu đứng vào vị trí nào. Nhưng cứ mỗi lần Đức Giêsu lại đưa họ đến một câu hỏi triệt để hơn. Để rồi cuối cùng, Người chủ động đặt rõ ràng cho họ câu hỏi phát sinh do dự hiện diện của Người giữa họ trong Đền thờ, và như thế Người buộc họ phải lấy lập trường dứt khoát.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Toan tính của các đối thủ của Đức Giêsu (22,15);
2) Cuộc gặp gỡ với vấn đề nộp thuế cho Xêda (22,16-17);
3) Câu trả lời của Đức Giêsu (22,18-21):
a) lật mặt nạ bằng nhận định mở đầu (c. 18),
b) lật mặt nạ bằng cách dùng đồng tiền nộp thuế (cc. 19-21a),
c) giáo huấn quan trọng nhất của Đức Kitô: tìm kiếm Thiên Chúa (c. 21b).
Bài đọc phụng vụ bỏ câu kết của cuộc tranh luận (c. 22).
3.- Vài điểm chú giải
- người Pharisêu … người thuộc phe Hêrôđê (1-2): Những người Pharisêu đại diện cho thái độ không khoan nhượng về tôn giáo. Họ nhất định không bỏ mất tự do của Dân Thiên Chúa trước chính quyền Rôma. Còn người thuộc phe Hêrôđê thì ủng hộ Rôma, bởi vì Đế quốc nâng đỡ các tiểu vương xuất thân từ gia đình Hêrôđê Cả.
- người chân thật … chẳng vị nể ai (16): Đây là hai đòi hỏi mà các kinh sư luôn phải nhớ mà đáp ứng: trung thành với Lề Luật và không cả nể, thiên vị.
- được phép … hay không (17): “Được phép” (exestin) [và “không được phép”] là công thức tiêu biểu của TM Mt (12,2.4.10.12; 14,4; 19,3; 20,15; 27,6). Câu hỏi “được phép không?” thường được người tín hữu Do Thái đặt ra cho mình và cho các kinh sư. Tầm mức của câu hỏi có tính quy thần: dưới mắt Thiên Chúa, tức dưới ánh sáng của Lề Luật, có được phép nộp thuế không? Như thế, câu hỏi không được đặt ra trên bình diện Luật dân sự hoặc thời cơ chính trị.
- nộp thuế (17): Ngoài nhiều khoản thu được bổ cho tất cả các công dân trong Đế quốc (thuế cầu đường, thuế quan…), các tỉnh phải đóng một thứ cống (Lt. tributum) cho hoàng đế, để bày tỏ sự thuần phục. Người Do Thái rất ghét thứ cống thuế này, còn Nhóm Quá Khích thì buộc phải coi việc từ chối nộp như một bổn phận tôn giáo.
- đồng tiền nộp thuế (19): Người Do Thái chỉ có quyền đúc tiền đồng, chứ không được đúc tiền bạc. Như vậy các đồng tiền của họ có giá trị nhỏ nên không được phép dùng để đóng thuế. Họ phải dùng đồng quan (dênarion). Chẳng hạn, đồng quan của hoàng đế Tibêriô có một bên là hình cái đầu hoàng đế, bên kia là hình bà Livia, mẹ của hoàng đế, được coi như nữ thần hòa bình.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Toan tính của các đối thủ của Đức Giêsu (15)
Câu 15 mở đầu cho toàn phân đoạn (cc. 15-46). Các đối thủ của Đức Giêsu lần lượt xuất hiện: tại Đền Thờ, các thượng tế và kinh sư đã can thiệp (21,15), kế đó là các thượng tế và kỳ mục trong dân (21,23), rồi đến các thượng tế và người Pharisêu (21,45), bây giờ đến lượt những người Pharisêu và những người thuộc phe Hêrôđê (22,15). Sau này những người thuộc nhóm Xađốc cũng đến (22,23), và cuối cùng lại là những người Pharisêu (22,35.41). Họ vẫn chống nhau, nhưng bây giờ họ liên minh với nhau để chống một kẻ thù “chung”.
Hôm nay nhóm Pharisêu nhắm rút được một tuyên bố (logos) của Đức Giêsu, để lời ấy trở thành một cái bẫy hại Người.
* Cuộc gặp gỡ với vấn đề nộp thuế cho Xêda (16-17)
Ở đây những người Pharisêu sai các môn đệ của họ (thật ra người Pharisêu không có môn đệ, mà là các kinh sư) cùng đi với những người thuộc phe Hêrôđê mà gài bẫy Đức Giêsu. Ở Mc 12,14-15, câu hỏi của họ vừa có tính lý thuyết (“có được phép nộp thuế?”) vừa thực tiễn (“chúng tôi có phải nộp thuế?”); ngược lại trong Mt, câu hỏi chỉ có tính lý thuyết (như ở Lc 20,20-26). Thật ra câu hỏi của họ hết sức nham hiểm. Lời đầu tiên họ nói, rất dài, nhắm ru ngủ các nghi ngờ, là một lời khen hết sức giả hình (c. 16: captatio benevolentiae): họ chào Người là “Thầy” (Rabbi); họ đề cao sự chân thành, khả năng, tính chí công vô tư của Người. Thật ra, Đức Giêsu đúng là như thế, nhưng nơi môi miệng của những sứ giả do người Pharisêu thù nghịch gửi đi, các lời của họ rỗng tuếch và không lương thiện. Từ đó, họ xin Người ban giáo huấn về một vấn đề phức tạp; họ “nhả chất độc ra” (c. 17): một câu hỏi dứt khoát và đột ngột: “có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?”. Nếu trả lời “có”, Đức Giêsu sẽ khiến dân chúng nổi giận, vì Người tỏ ra là người nghiêng theo Đế quốc; và người Pharisêu chẳng bỏ lỡ cơ hội mà đánh đổ tất cả uy tín của Người trước mặt dân chúng. Còn nếu trả lời “không”, Người sẽ bị coi là chống chính quyền Rôma; và phe Hêrôđê có lẽ sẽ là những người đầu tiên tố cáo Người là người muốn phá rối trị an. Hơn nữa, câu hỏi còn có tầm mức thần học, bởi vì các nhóm Do Thái cực đoan coi việc sử dụng đồng bạc ngoại quốc như một kiểu thờ ngẫu tượng, mà điều răn thứ hai lên án: không được đưa các hình ảnh hoàng đế hoặc các biểu hiệu tượng trưng quyền bính của ông vào Đền Thờ để khỏi làm giảm thiểu vương quyền của Đức Chúa (Yhwh). Khi các tổng trấn (chẳng hạn Philatô) đã tìm cách làm như thế để hạ nhục người Do Thái, các vị này đã gặp phải phản ứng chống đối gay gắt nhất. Những người thuộc Nhóm Quá Khích (Nhiệt Thành) dứt khoát không nhận quyền Hoàng đế nên cũng không đóng thuế. Họ không đặt vấn đề về lý thuyết hay thực hành. Nhưng người Pharisêu thì chọn một thái độ trung dung; họ đã chấp nhận đóng thuế để đổi lấy tự do tôn giáo. Vậy câu hỏi đặt ra cho Đức Giêsu rất nham hiểm, để Người không có ngõ thoát: “có được nộp thuế hay không?”. Nhưng Đức Giêsu thấy rõ cái bẫy.
* Câu trả lời của Đức Giêsu (18-21)
Trước tiên, Đức Giêsu lật mặt nạ của họ bằng nhận định mở đầu: “Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ đạo đức giả” (c. 18). Người cho thấy Người không phải là kẻ khù khờ. Họ đã mở đầu câu chuyện rất mềm mỏng (c. 16b) không phải vì họ tha thiết tìm kiếm chân lý của Thiên Chúa, nhưng chỉ vì muốn đưa Người vào thế lưỡng nan, để hại Người. Họ đáng bị gọi là “những kẻ đạo đức giả” theo hai nghĩa: trước tiên, bởi vì họ giả bộ rất quan tâm đến một vấn đề thời sự; kế đó, bởi vì khi sử dụng đồng quan để giao dịch buôn bán, họ đã minh nhiên nhìn nhận quyền của Hoàng đế từ lâu rồi.
Kế đó, dù câu hỏi được đặt ở bình diện lý thuyết, Đức Giêsu đã chuyển sang bình diện thực hành để trả lời (“Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế”, c. 19). Nếu họ cũng như mọi người Do Thái có trong túi các đồng quan Rôma, mặc dù có các hình ảnh và dòng chữ bất kính, ngẫu tượng, điều đó có nghĩa là họ đã có một giải pháp cho vấn đề. Tại sao khi dùng đồng quan ấy (của Đế quốc) mà giao dịch buôn bán thì họ không áy náy bao nhiêu, mà bây giờ “trả về Xêda” (nộp thuế) thì họ lại áy náy đến thế? Nếu có vấn đề ở đây, thì họ đã giải quyết từ lâu rồi: được phép nộp thuế. Trong lãnh vực tiền bạc, họ đã nhìn nhận họ lệ thuộc Xêda.
Nhưng rồi Đức Giêsu đi quá câu hỏi được đặt ra: chỉ có một điều quan trọng nhất, mà họ hoàn toàn có thể làm ngay khi phải sống dưới ách đô hộ, đó là “trả về Thiên Chúa”, điều thuộc về Người (c. 21b). Đây là điều Đức Giêsu đã không ngừng nói đến kể từ khi ra đi hoạt động: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33. Xem Bài giảng trên núi). Khi nói như thế, Đức Giêsu không có ý thiết lập hai trật tự khác nhau là Quốc gia và Hội Thánh như hai điểm quy chiếu khác nhau, cũng không biện minh cho việc quy phục Hoàng đế. Người chỉ muốn đặt các vấn đề vào đúng chỗ của chúng. Thật ra các vấn đề liên hệ đến Hoàng đế chẳng là gì so với các vấn đề liên hệ đến Nước Thiên Chúa. Người ta đã hỏi Đức Giêsu về thuế, chứ không hỏi gì về các đòi hỏi của Thiên Chúa cả. Người không tìm cách tránh né, vì không thể được, nhưng khi trả lời, Người cũng chỉ đặt mỗi chuyện vào đúng chỗ của nó. Các đối thủ chẳng còn biết tiếp tục câu chuyện như thế nào nữa. Các quyền của Hoàng đế đã không bị vi phạm, nhưng các quyền của Thiên Chúa thì đã được khẳng định rất mạnh. Người ta hoàn toàn có thể thỏa mãn các đòi hỏi của Thiên Chúa trong khi vẫn đóng thuế cho Hoàng đế.
+ Kết luận
Thật ra, Đức Giêsu không muốn thiết lập hai trật tự khác nhau song song, trong đó Thiên Chúa và Xêda đều là chúa tể; Người cũng không dạy về thái độ tùng phục Hoàng đế. Người chỉ muốn đặt các vấn đề vào đúng vị trí của chúng. Người không phủ nhận rằng cũng có thể có những xung đột, và đôi khi phải chọn lựa (x. Cv 4,18-20). Nhưng Người muốn nói rằng xung đột ấy không có ở chỗ người Pharisêu muốn thấy có. Bởi vì người nào thật sự tùng phục Thiên Chúa và sống trong niềm chờ mong Nước Trời và sự công chính của Thiên Chúa, thì có thể nhìn nhận tính chính đáng cũng như những giới hạn của những quyền của Xêda (x. 1 Pr 2,13-16).
5.- Gợi ý suy niệm
1. Chúng ta hoàn toàn có thể lấy lại lời người Pharisêu khen ngợi Đức Giêsu, nhưng gột rửa sạch mọi toan tính giả hình, để thưa với Đức Giêsu. Đức Giêsu đúng là Đấng chân thật: Người không uốn cong các đòi hỏi của chân lý hoặc luật luân lý theo các nhận định về thời cơ hoặc nhằm thành công cho riêng mình. Người chính là Sự Thật (x. Ga 14,6). Đức Giêsu dạy đường lối của Thiên Chúa: đây không phải là Luật Môsê hay sự khôn ngoan loài người của các triết gia và các nhà luân lý; Người là “ánh sáng cho thế gian” dẫn đưa chúng ta (Ga 8,12), để chúng ta khỏi đi trong bóng tối. Người chẳng vị nể ai: Người là Đấng cứu độ mọi người (x. 1 Tm 2,3-6), nên không bận tâm về màu da, chủng tộc, trình độ trí tuệ, hoàn cảnh xã hội của con người (x. Ga 3,28).
2. Thiên Chúa vẫn dành chỗ cho Hoàng đế. Nếu hết lòng với Thiên Chúa, con người có thể và phải chu toàn các quy định của Hoàng đế (chính quyền) trên nhiều lãnh vực, nhưng trọn vẹn bản thân thì thuộc về Thiên Chúa và không được từ chối Người bất cứ điều gì của mình. Thiên Chúa đòi hỏi một điều hoàn toàn khác với việc từ chối nộp thuế cho Xêda, Người đòi hỏi một điều to lớn hơn vô cùng. Người đòi hỏi chính bản thân con người, cách tuyệt đối và trọn vẹn (“Yêu mến Thiên Chúa hết lòng…”).
3. Quyền dân sự nằm trong bình diện trần thế, là bình diện phải lê thuộc các thực tại của bình diện tôn giáo. Ở trong bình diện trần thế, Đức Giêsu nhìn nhận rằng việc nộp thuế cho chính quyền Rôma chẳng có gì là vô luân hay phạm thánh cả. Thánh Phaolô có viết: “Anh em nợ ai cái gì, thì hãy trả cho người ta cái đó: nộp sưu cho người đòi sưu, trả thuế cho người đòi thuế, sợ người phải sợ, kính người phải kính” (Rm 13,7). Người Kitô hữu không được viện cớ là mình phải chu toàn các bổn phận tôn giáo để miễn chuẩn các bổn phận đối với quốc gia hoặc trong quốc gia. Chúng ta là công dân Nước Trời (x. Pl 3,19-20), nhưng sống tư cách ấy tại một quê hương trần thế.
55. Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa
Của Caesar trả cho Caesar,
Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa
** Bối Cảnh Đoạn Tin Mừng:
Đế quốc Rôma thống trị xứ Palestin từ năm 63 trước Chúa giáng sinh và đã đặt nền cai trị rất vững chắc tại đất nước này. Họ cũng đặt vua Hêrôđê là người Do Thái để đại diện Rôma cai trị dân. Nhưng dân Do Thái lại chia ra nhiều phe: Phe Hêrôđê và những người thuộc nhóm Sađucêô thì ủng hộ việc đóng thuế cho Rôma để củng-cố địa vị và tài sản. Phe Pharisêô thì bất đắc dĩ phải nộp thuế, nhưng trong lòng không muốn tuân phục. Còn phe thứ ba, thuộc nhóm những người yêu nước quá khích thì hoàn toàn tẩy chay việc đóng thuế cho đế quốc Rôma mà họ coi là dân ngoại, không có quyền chi trên dân của Chúa!
Dân Do Thái lại gồm 3 loại người:
- Công Dân Rôma là những người có quốc tịch Rôma (như Thánh Phaolô...)
- Người tự do là những người dân thường. Chúa Giêsu thuộc nhóm người tự do.
- Người nô-lệ.
Theo luật Rôma, tất cả mọi người cả nam cũng như nữ từ 14 tới 65 tuổi, hàng năm phải đóng thuế cho Rôma 1 đồng bạc DENARIUS. Đồng bạc. Đồng DENARIUS được đúc bằng bạc, nặng 3,8g. Đồng DENARIUS đã được đế quốc Rôma dùng từ năm 268 trước Chúa Giáng Sinh và mãi tới năm 200 sau Công Nguyên vẫn còn tiếp tục dùng trong đế quốc Rôma. Đồng bạc được khắc hình các hoàng đế Rôma, thời Chúa Giêsu, thì hình và hiệu trên đồng DENARIUS là hình và hiệu của hoàng đế Tibêriô, ông cai trị từ năm 31 trước Chúa giáng sinh và băng hà năm 14 sau Chúa giáng sinh.
Câu hỏi nham hiểm:
Với bối cảnh trên, sau khi 2 nhóm Pharisêô và Sađucêô đã thất-bại trong việc cấu kết lại với nhau để cật-vấn Chúa Giêsu nhiều điều, mục đích để hại Chúa, nhưng Chúa đã khiến bọn họ phải “Câm Họng!”, nên lần này, chúng cấu-kết với nhóm Hêrôđê, nhóm III thiên về chính trị, ủng hộ đế quốc Rôma để gài bẫy hầu có thể kết án tử cho Chúa Giêsu. Chúng đến với Chúa Giêsu với bề ngoài rất cung kính, muốn tìm hiểu con đường Công Chính để noi theo. Họ lễ phép thưa: “Thưa Thầy!” –(RABBI là tiếng học trò thưa với thầy) “Chúng tôi biết Thầy là người Công Chính, không tây vị ai, Xin Thầy nói cho chúng tôi biết Thầy nghĩ thế nào? Có nên nộp thuế cho Caesar hay không?” (Mt 22:17).
Đây là câu hỏi vô cùng nham hiểm, nhưng dưới bề ngoài rất chân thành, vô tội, muốn biết sự thật để sống theo Sự Thật, nhưng với dã tâm của chúng, chúng nghĩ rằng: chắc chắn sẽ đưa Chúa vào gọng kìm, không thể thoát được! Đây là miếng mồi nhìn thoáng qua rất dễ nuốt, nhưng bên trong là lưỡi câu sắc bén, đầy nguy hiểm! Bởi vì: Nếu Chúa trả lời: “NÊN nộp thuế thì những người Do Thái yêu nước sẽ nghĩ rằng Chúa về phe với Rôma hà hiếp dân và do đó sẽ chẳng ai tôn kính, nghe lời dạy của Chúa nữa! Còn nếu Chúa trả lời: “KHÔNG NÊN nộp thuế cho Caesar! Thì nhà cầm quyền sẽ liệt Ngài vào số những người phản loạn và sẽ không tránh được án tử hình!
Đứng trước cạm bẫy vô cùng nguy hiểm mà những người thù ghét Chúa giăng ra, Chúa Giêsu thấu rõ dã tâm quỷ quyệt của chúng, nên, trước khi trả lời, Chúa thẳng tay vạch mặt nạ đáng tởm của chúng. Ngài nghiêm nghị phán: “Hỡi bọn giả hình! Các ngươi gài bẫy Ta làm chi?” (Mt 22: 18) Thật xấu hổ cho bọn người nham hiểm muốn giăng bẫy hại Chúa!
Đoạn Chúa bảo: “Hãy đưa cho Ta đồng tiền!”, đoạn Chúa hỏi họ: “Hình và hiệu này là của ai?”. Chúng trả lời: “Của Caesar”. Chúa trả lời thẳng thắn, không cần úp mở:
“CỦA CAESAR thì trả cho Caesar,
của THIÊN CHÚA thì trả cho Thiên Chúa!” (Mt 22:21)
Câu trả lời của Chúa Giêsu trở thành thời danh và trở thành nguyên-tắc cho Sự Công Bằng cho toàn nhân loại noi theo! Thần quyền và thế quyền là hai phương diện hoàn toàn khác nhau. Con người trần thế, vì có xác, có hồn nên cần chu toàn các luật lệ trần thế cũng như về Thiên-Luật. Tuy nhiên, vì Thiên Chúa là Chủ-Tể Tối Cao, Đấng vượt trên mọi loài trên trời dưới đất, nên Thiên Luật phải được tuyệt đối chấp hành.
CỦA CAESAR:
Các nhân luật: Chẳng hạn như luật của Liên Bang, luật tiểu bang, luật giao thông, luật thuế vụ, luật của thành phố... nói chung: Những luật đem lại công ích cho nhân loại, cho dân tộc, chúng ta phải chấp hành. Tuy nhiên, những luật trái với Đạo Lý, trái Công Bằng, chẳng hạn: những luật cho phép phá thai, hôn nhân đồng tính hay an-tử... là những luật trái với đạo đức thì các công dân không bao giờ được phép làm. Đặc biệt là những luật chống lại Thiên Chúa thì không bao giờ được tuân theo, vì đó là phản loạn với Đấng Tạo Hoá, Đấng đã tạo dựng, gìn giữ và bang trợ hết thảy muôn loài muôn vật!
** Của Caesar: Đó là những gì CỦA NGƯỜI KHÁC như: Tiền bạc, sản nghiệp, tiếng khen, nghề nghiệp... hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của cá nhân đó, người khác hoàn toàn không có quyền tiêu dùng, làm hao hụt hay lấy đi trái với ý rõ ràng của chủ của. Phạm quyền sở hữu, bất cứ bằng cách nào đều là tội Lỗi Đức Công Bằng!
** Của Caesar: Cũng nên để ý về VIỆC ĐÓNG THUẾ cho chính phủ. Mọi công dân trong nước đều được hưởng những tiện nghi công cộng như: đường xá, trật tự an ninh, cứu hoả, nhà thương, bưu điện... Tất cả những chi phí đó đều lấy từ tiền đóng thuế của toàn dân. Trong khi những người khác đóng thuế mà ta không đóng, thì đó là tội lỗi Đức Công Bằng!... Có người có gia tài to lớn, có 2, 3 nhà cho thuê, nhưng lại cho người khác đứng tên để được hưởng TRỢ CẤP NGƯỜI GIÀ... thì đó cũng là tội lỗi Đức Công Bằng!
CỦA THIÊN CHÚA
Thiên Chúa là Chủ Tể muôn loài, muôn vật, nhờ Ngài, muôn loài được tạo dựng, bảo trì và nuôi dưỡng. Ngài nắm giữ mọi vận mạng các quốc gia, dân tộc. Do đó chỉ mình Thiên Chúa mới xứng đáng nhân loại tôn thờ và yêu mến. Mình Thiên Chúa vì thế có Quyền Tối Thượng, Quyền Tuyệt Đối, quyền vượt trên mọi quyền trần gian, không ai được hành động trái với Thánh luật của Chúa.
Riêng con người, chúng ta được Thiên Chúa vô vàn trân quý và “Sáng tạo giống hình ảnh của Người” (Sáng Thế Ký 1:27). Vì thế, nhân loại mọi nơi, mọi thời đại, tất cả, dù da trắng, da vàng, da đen, mọi ngôn ngữ chủng tộc đều là CON THƯỢNG ĐẾ, và do đó, chúng ta vô cùng Hạnh Phúc vì được Thiên Chúa yêu thương, bang trợ và dẫn đưa về tới Bến Bờ Phước Hạnh Vô Biên trong vương quốc của Chúa là Gia Nghiệp mà Cha Thiên Thượng đang dành sẵn cho tất cả các con yêu của Ngài.
Đã là con, chúng ta có bổn phận phải hết lòng hiếu thảo, yêu mến và tuân theo Thánh Chỉ của Cha. Hơn nữa, chúng ta cần chân nhận rằng: Tất cả những gì chúng ta có, đều bởi Cha chúng ta: Linh hồn, thân xác, sức khoẻ, tài năng, cơ hội, địa vị, thời giờ... tất cả đều bởi Cha Thiên Thượng mà có. Và do đó, chúng ta hãy trả lại cho Cha chúng ta để tỏ lòng suy tôn, tùng phục Thánh Ý của Cha. Sống như thế mới trọn đạo con thảo đối với Cha!
** Chúng ta hãy lắng đọng tâm tư xem chúng ta có TRẢ LẠI CHO THIÊN CHÚA những gì thuộc về Thiên Chúa, hay chúng ta nghĩ rằng những thứ đó hoàn toàn do chúng ta mà có được!
Sách NHỊ LUẬT dạy “phải dâng Thiên Chúa ít nhất 10% mọi hoa lợi của chúng ta” (Nhị Luật 14:22-27):
Thời giờ: Chúng ta mỗi ngày đã dùng mấy phút để tôn vinh, ca ngợi Chúa?
Về sức khoẻ, tài năng... chúng ta có dùng để làm vinh danh Chúa hay chỉ để lo cho thân xác???
Linh hồn và thân xác... chúng ta có dùng toàn thể con người từ ý tưởng, lời nói, việc làm để tôn vinh Chúa hay chỉ để phục vụ cho thân xác của riêng ta??
Trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa: Chúng ta được phước hạnh và bổn phận phải yêu mến Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn, thì đó mới hoàn thành bổn phận được Thiên Chúa yêu thương và tạo thành và sẽ được chung hưởng Phước Lộc Vô Tận mai sau với Ngài!
** CHÚA GIÊSU CÓ CHẤP HÀNH LUẬT TRẦN THẾ KHÔNG?
Mặc dầu Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa giáng phàm, đáng lẽ Ngài không cần và không buộc phải chấp hành các luật trần thế, bởi vì Ngài vượt trên tất cả các vua chúa trần gian, nhưng Ngài vẫn nêu gương tuân phục:
Cha Mẹ của Chúa Giêsu đã tuân lêựnh hoàng đế để trở về Bethlêhem để khai sổ nhân đinh (Lc 2:4)
Chính Chúa Giêsu đã truyền cho ông Phêrô đi đánh cá để nộp thuế cho Ngài và cho ông Phêrô (Mt 17:26)
Mặc dầu chính Tổng-trấn Philatô- người kết án tử cho Chúa Giêsu- đã xác-nhận Ngài hoàn toàn vô tội... Thế nhưng chính Chúa Giêsu thì hoàn toàn không một lời phản-đối! Ngài chấp nhận chịu chết do bản án bất-công đó! (Lc 23:22)
** GƯƠNG THÁNH THOMAS MORE
Thánh Thomas More bên nước Anh vị thủ lãnh các quan trong triều, rất được Vua Henri VIII kính phục và thương mến. Tuy nhiên, vua muốn xin Toà Thánh để ly-dị bà hoàng-hậu Catherin D’Aragon nhưng Toà Thánh không thể chấp nhận vì trái với luật Chúa. Vua liền cưới bà vợ khác và bắt tất cả quần thần phải ký vào văn bản chấp nhận hành động của vua, ai không tuân thì bị giết chết. Thánh Thômas More nhất định không làm theo mệnh lệnh của nhà vua nên bị xử tử.
Thánh Thomas More đã yêu mến và tuân theo luật Chúa hơn lệnh của Đức Vua. Ngài đã chứng tỏ tình yêu trung kiên với Thiên Chúa xứng đáng triều thiên vinh quang các Thánh Tử Đạo
56. Chú giải của Noel Quesson
Bấy giờ những người Pha-ri-sêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy. Họ sai các môn đệ của họ cùng đi với nhau người phe Hê-rô-đê đến gặp Đức Giêsu…
Chúng ta thường sai lầm mà cho rằng thời đại của chúng ta là thời đại khó sống nhất. Không còn có sự "nhất trí về đạo đức và xã hội" hôm nay. Những quan điểm chống đối nhau có thể được bày tỏ công khai. Người ta không còn biết suy nghĩ gì, và có thái độ thế nào đối diện với một số vấn đề lớn.
Nếu chúng ta thật sự biết đọc Tin Mừng, chúng ta sẽ khám phá ra rằng thời đại của Đức Giêsu cũng khó sống không kém. Đức Giêsu đã sống trong một bối cảnh lịch sử thật sự bùng nổ. Những đạo quân La Mã chiếm đóng miền Pa-lét-tin và cuộc kháng chiến của người Do Thái không ngừng âm ỉ vào những năm 30 ấy, Hoàng Đế Xê-da ngườibắt cả một Đế quốc mênh mông quỳ mọp là Tibêre một ông già cai trị Đế quốc từ hòn đảo Capri của nhà vua. Những người không cộng tác với quân chiếm đóng, nhóm Dê-lốt hô hào từ chối nộp thuế. Nhà Hê-rô-đê, trái lại dựa vào chính quyền La Mã để giữ địa vị của họ. Sau hết, có nhóm Pha-ri-sêu ra sức bảo vệ sự tự do tôn giáo bằng cách chiều theo hoặc ít hoặc nhiều các quyền lực chính trị.
Phái đoàn đến tìm Đức Giêsu để giăng bẫy Người được cố ý bao gồm những con người có quan điểm trái ngược nhau phe Pha-ri-sêu và phe Hê-rô-đê. Dù Đức Giêsu có theo "cánh hữu' hay "cánh tả", Đức Giêsu sẽ mắc bẫy và làm hại thanh danh của Người mà thôi!?
Họ đến nói với Đức Giêsu rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta.”
Bốn lời khen ngợi nịnh hót là miếng mồi xảo quyệt để che giấu cái bẫy. Tuy nhiên cái bẫy ấy cũng là một lời tôn kính mà các nhân viên gây hấn đó đã khen một thầy Rabbi trẻ tuổi: Họ thừa nhận Đức Giêsu là một con người độc lập sống phục vụ Thiên Chúa và cương quyết. Thực ra, chúng ta biết rằng Đức Gi'êsu thường có thái độ ngược lại với những quan điểm đang thịnh hành: Người đã thán phục đức tin của ông đội trưởng của đạo quân La Mã (Mát-thêu 8,10). Người đã giao du với những người thu thuế và tệ nhất là một trong các người thu thuế ấy có mặt trong số các tông đồ của Người (Mát-thêu 9,9-10). Trước khi đi xa hơn, chúng ta hãy dành thời gian để nguyện ngắm Đức Giêsu, một con người không giống như những người khác. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết theo gương Chúa để luôn luôn là người chân thật... để đi theo chính lộ của Thiên Chúa… không để chúng con bị lôi kéo bới những ảnh hưởng định đưa chúng con đến nơi mà chúng con không muốn... để chúng con luôn luôn được tự do hoàn toàn, không cứng nhắc, không thỏa hiệp không đánh giá người ta theo bề ngoài.
Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: "Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?".
Câu hỏi này khéo léo một cách quỷ quyệt: Nếu Đức Giêsu trả lời "có", Người sẽ không còn được quần chúng ủng hộ vì họ đang chờ đợi một. Đấng Mê-si-a xua đuổi kẻ xâm lược… Nếu Người trả lời "không”, Người sẽ bị phe Hê-rô-đê tố giác như một kẻ xúi giục nguy hiểm chống lại La Mã.
Như thế, Giáo Hội HÔM NAY, cũng như ở mọi thời, thấy mình đối đầu với cùng một vấn đề: vai trò của Giáo Hội không thể trực tiếp làm chính trị... nhưng Giáo Hội cũng không thể đứng trung lập. Và dầu sao đi nữa, dầu nói "có" hoặc nói "không", dầu có nói hay không nói, Giáo Hội thấy mình bị kéo vào trong phe này hay phe khác. Vậy lời đáp lại của Đức Giêsu là gì?
Nhưng Đức Giêsu biết họ có ác ý nên Người nói: "Tại sao các người lại thử tôi hỡi những kẻ giả hình? Đưa đồng tiền nộp thuế cho tôi coi? Họ liền đưa cho Người một đồng bạc.
Trước tiên Đức Giêsu cho họ thấy Người không bị họ lừa! Và Người lột mặt nạ đạo đức giả của họ, bằng cách yêu cầu họ chỉ cho Người thấy một đồng tiền với sự ngây thơ. Không ngần ngại một giây, họ rút tiền ra khỏi túi họ. Như thế, trong khi đóng vai trò của những người đắn đo thận trọng tự vấn mình về việc giữ mình trong sạch trước kẻ ngoại xâm, họ biết sử dụng tốt đồng tiền của kẻ vô đạo để kinh doanh! Dẫu sao, việc đóng thuế không làm cho lương tâm họ ô uế hơn là sử dụng mỗi ngày đồng tiền xấu đó.
Và Người hỏi họ: "Hình và danh hiệu này là của ai đây?". Họ đáp: "Của Xê-da".
Những người La Mã giành quyền đúc đồng tiền bằng bạc, dấu ấn vương quyền của họ. Và đồng bạc có mang tính của Hoàng đế với danh hiệu của ông ta. Hình cái đầu của Tibère được coi như dấu chỉ sự lệ thuộc ô nhục vào La-Mã: Hoàng đế tự xưng mình là thần linh? Người ta biết rằng nhóm Dê-lốt (Zélotes) cấm các thành viên của họ nộp thuế. Đức Giêsu với danh tiếng về sự trung tín với chỉ mình Thiên Chúa làm thế nào mà lại không đứng về cánh tả với những người xúi giục nổi loạn nhân danh Kinh Thánh chứ?
Đức Giêsu sẽ trả lời gì.
Bấy giờ, Người bảo họ: 'Thế thì của Xê-da, trả về Xê da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa".
Câu trả lời của Đức Giêsu đã trở thành một câu châm ngôn đến độ nó trở thành một câu tục ngữ bình dân có trong các trang hồng của từ điển Larousse. Tuy nhiên người ta thường hiểu câu đó rất sai, như thể Đức Giêsu hoàn toàn theo chủ trương tách rời "Giáo Hội và Nhà Nước" đồng thời chấp nhận một thứ độc lập hoàn toàn của quyền lực chính trị…hoặc, ngược lại như thể Đức Giêsu yêu cầu các môn đệ của Người không được tham gia vào các công việc trần thế…
Vậy phải cố gắng hiểu biết tư tưởng ẩy của Đức Giêsu để áp dụng nó vào thời đại chúng ta. Vì thế chúng ta phải chú trọng đến cả hai phần của câu đó, mà vẫn cho phần thứ hai tất cả giá trị của kết luận có tính quyết định.
a) Của Xê-da, trả về Xê-da...
Trong viễn cảnh của toàn bộ Cựu ước, mọi quyền bính đều do Thiên Chúa mà có. Và chúng ta cũng đã nghe trong bài đọc đầu tiên của Chúa nhật hôm nay: Một ông vua dân ngoại như Ki-rô đã được Thiên Chúa xức dầu để thực hiện các công việc của Thiên Chúa "dù không biết Thiên Chúa” (I-sai-a 45,1-4-6). Thánh Phaolô áp dụng chính nguyên tắc ấy để yêu cầu các Kitô hữu đầu tiên tuân phục các chính quyền dân sự (Rôma 13,1-7; Titô 3,1-2).
Thật vậy, không ai có thể coi chừng sự liên đới xã hội và dân sự. Và hẳn người ta sẽ giải thích Tin Mừng rất sai khi muốn cắt đời sống con người thành những lát rời nhau như thể các Kitô hữu và Giáo Hội có thể không biết đến chính trị... như thể tôn giáo phải quanh quẩn trong nhà thờ và không được ảnh hưởng trên đường phố, đô thị, các công việc, gia đình, luật pháp, thuế khóa... Quả thật, Đức Giêsu đã thướng từ chối đóng vai trò của "Đấng Mê-si-a” xã hội chính trị mà người ta muốn bắt Người làm: đó là ý nghĩa sâu xa của kinh nghiệm tâm linh của các cám dỗ đến với Người lúc bắt đầu đời sống công khai (Mt 4,8-10); đó là ý nghĩa của việc Người chạy trốn vào sự cầu nguyện khi người ta muốn đưa Người lên làm vua sau khi hóa bánh ra nhiều (Ga 6,14-15); đó là ý nghĩa lời Người quở trách Phêrô khi ông này xuống ngăn cản Người trở thành Đấng Mê-si-a đau khổ (Mt 16,21-23); đó là ý nghĩa rất rõ ràng của lời Người tuyên bố với Philatô: "Tôi là vua, nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này" (Ga 18,36).
Tuy nhiên, trong lời đáp lại của Đức Giêsu: “của Xê-da, trả về Xê-da", khó mà không nhận thấy một lời mời gọi phải tính đến quyền bính đã được thiết lập và tôn trọng các quyền hành của nó. Khi chọn thái độ ấy, Đức Giêsu đưa vào thế giới cổ đại một sự phân biệt cách mạng: Người giản thiêng chính trị bằng việc khẳng định Xê-da là Xê-da... nhưng không phải là Thiên Chúa! Trong khi mà Xê-da vì là Xê-da nên tiếp tục thực hiện chức vụ của ông ta! Đó là một chức năng thuộc về con người phụ thuộc mọi sự cố bất ngờ, và những thực tế xã hội chính trị phức tạp, khống chế độ, những hệ thống, những ý thức hệ. Nhưng vẫn chưa nói hết tất cả.
b) Của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa...
Chúng ta là những con người hiện đại nên chúng ta biết giờ đây mọi nền chính trị coi thường phần thứ hai này của tư tượng Đức Giêsu rồi sẽ dẫn con người đi về đâu. Những xã hội "không Thiên Chúa" cũng là những xã hội phi nhân. Khi Nhà Nước coi mình là thần linh, nó sẽ đè bẹp con người. Chính Xê-da cũng phải phục tùng Thiên Chúa, và trả cho Thiên Chúa sự gì thuộc về Người. Việc Đức Giêsu đề cao “bổn phận của chúng ta đối với Thiên Chúa" là một việc rất có ý nghĩa, trong khi mà người ta không hỏi Người câu hỏi ấy nhưng chỉ hỏi Người một câu hỏi thế tục: Vì thế mệnh đề này là đỉnh điểm của toàn bộ trang Tin Mừng hôm nay. "Của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa". Cả cuộc đời của Đức Giêsu không ngừng kêu gọi chúng ta điều đó. Chính trị dù rất quan trọng bởi vì nó là nghệ thuật đem lại công ích, không phải là tất cả con người, không phải là phần chủ yếu nhất của con người. "Con người không chỉ sống bởi bánh"... bởi chỗ ở, bởi thị trường, bởi sự sản xuất. Được tạo dựng theo "hình ảnh của Thiên Chúa" "theo hình và hiệu của Thiên Chúa", con người có số phận phải chia sẻ chính sự sống của Thiên Chúa. Nếu Xê-da đã có thể in hình của mình lên những đồng tiền và vì thế người ta phải trả lại tiền đó cho Xê-da thì còn hợp lý hơn thế biết bao đối với Con người đã được hình ảnh của Thiên Chúa đóng ấn, con người phải "trả mình" trọn vẹn về cho Thiên Chúa! (St 1,26). Con người đáng được tôn trọng tuyệt đối vì số phận của con người vốn thánh thiêng. Như thế Đức Giêsu không để cho Người bị mắc bẫy mà người ta giăng ra cho Người. Một lần nữa, người đã mạc khải điều kín nhiệm và sứ mạng của Người: Thiết lập Triều đại của Thiên Chúa... và bởi thế mạc khải chiều kích cao cả nhất của con người! Nhưng quả thật, có phải tôi trả cho Xê-da điều thuộc về Xê-da? Có phải tôi coi chiều kích chính trị của đời tôi là điều nghiêm túc? Và có phải tôi cũng trả cho Thiên Chúa điều thuộc về Người. Có phải đời sống tôi được hiến dâng hoàn toàn cho Thiên Chúa.
57. Chú giải của Fiches Dominicales
VẤN ĐỀ NỘP THUẾ CHO CESAR
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Kẻ khéo giăng bẫy…
Ba dụ ngôn về xét xử mà chúng ta đã suy gẫm suốt mấy tuần rồi (dụ ngôn hai người con được sai đi làm vườn nho, Chúa nhật 26; dụ ngôn những tá điền sát nhân, Chúa nhật 27; dụ ngôn khách dự tiệc cưới, Chúa nhật 28) vẫn không đủ làm cho các kẻ thù địch Chúa tan rã hàng ngũ. Trái lại họ còn liên minh với nhau và thay phiên nhau trong cố gắng làm cho Chúa phải rơi vào bẫy của họ. Sau khi đã "bàn bạc với nhau, tìm cánh làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy" thì một lần nữa những người Pharisiêu, không ngại gì sai các môn đệ của họ cùng đi với những người thuộc phe Hêrôđê. Vấn đề họ đặt ra. cho thấy rất rõ những thái độ khác nhau của họ đối với người Rôma chiếm đóng. Đang khi những người Pharisêu đành phải bằng lòng coi sự có mặt của quân chiếm đóng như một điều xấu không tránh khỏi được, miễn là tự do tôn giáo được bảo đảm - những người phe Hêrôđê là nhóm chính trị ủng hộ gia đình Hêrôđê lại thân với chính quyền Rôma- thì những người thuộc nhóm quá khích" (zéloté) lại chủ trương bày tỏ sự chống đối công khai, nên nhóm này cấm các thành viên của nhóm không được đụng chạm đến tiền bạc của người Rôma. Họ lên tiếng hỏi Đức Giêsu, sau mấy lời mở đầu đầy vẻ phỉnh phờ: vậy xin Thầy cho biết ý kiến có được phép nộp thuế cho Ceasar hay không P. de Surgy đưa ra nhận xét sau: "Vấn đề họ đặt ra này liên can tới sứ vụ thiên sai, điều đó không làm ta ngạc thiên, bởi lẽ họ chỉ muốn nhắm đả kích việc Đức Giêsu cho mình là Đấng Cứu Thế là thôi. Vả lại họ đặt ra vấn đề cũng là thì lòng thì địch ghen ghét muốn cho dân chúng hay chính quyền thù ghét Người" (“Assemblées du seigneur" số 60, trang 10).
Họ nghĩ: Dù Đức Giêsu trả lời đàng nào, thì Người cũng không thể thoát khỏi bẫy. Nếu Người trả lời "không", nếu Người không nhìn nhận công khai việc phải nộp thuế này, thì đúng là Người chống lại với hoàng đế César - Và nhưng người phe Hêrôđê sẽ vội vã tố cáo Người với nhà chức trách Rôma - Trái lại, nếu Người trả lời “Có", nếu Người công khai thừa nhận là nên nộp thuế cho César, thì Người hợp thức hoá sự hiện diện vô đạo và bất nhân của người Rôma trên một đất thánh mà Thiên Chúa đã ban cho tổ phụ Abraham và con cháu ngài; vậy thì trước con mắt của một dân tộc đang trông đợi một cuộc giải phóng quốc gia, Người mất hết tín nhiệm và đừng hòng coi mình là Đấng Messia đến thực hiện những ước mơ của họ. Những người Pharisiêu sẽ không bỏ lỡ cơ hội để đánh trống la làng về chuyện này.
2. … thì chính họ lại mắc bẫy.
Trước khi trả lời câu hỏi của họ, Đức Giêsu làm cho lộ ra thanh thiên bạch nhật "thói giả hình" của những kẻ đối thoại với Người. Người yêu cầu họ: "Đem đồng tiền nộp thuế cho tôi coi. Lạ thay! Họ có đem theo một đồng. Quả là hồi đó "đồng tiền này", đồng quan Rôma, đều có mang hình tượng hoàng đế Rôma, đầu đội vòng hoa như một vị thần, cùng với danh hiệu rõ ràng này: César Tibeno con của thần Augusto: Augusto". Cl. Tassin chú giải: "Rõ ràng là có chuyện coi mình như thần thánh, mặc dầu bản thân Tiberio vẫn coi mình là một người như mọi người". Nhất là từ thời Caligula, thì các hoàng đế Rôma vẫn hiên ngang đòi cho mình có căn tính thần thánh. Cựu ước đã rò ràng cấm chỉ những hình ảnh phàm trần cùng vì xu hướng thần thánh hoá này. Để tôn trọng cái cảm quan tôn giáo này, các nhà cầm quyền Rôma chỉ đúc những đồng tiền không có hình ảnh để dùng trên lãnh thổ Do thái. Nhưng, đối với việc nộp thuế trong đế quốc, thì người ta không tránh khỏi được đồng bạc bất nhân ấy, mà đồng tiền ấy, theo nét trào phúng của câu chuyện, xem ra lại được móc ra từ túi của những người Pharisiêu vốn dĩ rất trung thành với những điều cấm đoán của Luật Chúa" (Phúc Âm thánh Matthêu, NXB Centurion, trang 233).
Chúa hỏi họ: “Hình và danh hiệu này là của ai đây”. Họ đáp: của César. Và Chúa Giêsu nói lên một câu bất hủ -nhưng lại rất hay bị người ta cắt nghĩa sai- khiến những kẻ đối mặt với Người phải hết sức ngạc nhiên": "Thế thì của César, trả về César; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa? Người không phải là Đấng Messia mà, để chu toàn công việc của mình, phải nắm lấy quyền chính trị và đảm nhận những trách nhiệm và chức vụ của César. Và bởi vì chính họ đã được tạo dựng giống hình ảnh Chúa, nên Người khuyên nhủ họ hành động sao cho trong mọi sự Thiên Chúa phải được phụng sự trên hết; còn đối với quyền hành chính trị, mặc dầu vẫn hết mực tôn trọng, nhưng khi quyền ấy ngẫu nhiên tự thần thánh hoá mình mà chiếm đoạt luôn cả những quyền chỉ thuộc về Thiên Chúa, thì họ phải lên tiếng phản đối vì: "Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa”? Không muốn để mình kẹt vào thế lưỡng nan do đối phương bày ra, Đức Giêsu xác định lập trường của Người và xoay chuyển vấn đề. Nước Thiên Chúa không phải là nước cạnh tranh với nước của César; Nước ấy thuộc về một trật tự khác và nằm ở một bình diện khác, Đấng Messia không đến để chiếm chỗ của César và thực hiện một sứ vụ thiên sai có tính tôn giáo - chính trị; Người đến thiết lập Nước Thiên Chúa. P. de Surgy kết luận: khi mời gọi người ta trả về César... cái mà thông thường Người... có thể đòi hỏi theo như trách nhiệm của chính mình và nhất là khi làm cho hiểu rõ bản chất của Nước Chúa cũng như sứ vụ cứu thế của người và khi khẳng định quyển ưu tiên của Thiên Chúa, Đức Giêsu đem vào quan niệm của Người xưa một sự phân biệt rạch ròi và rất cách mạng: nghĩa là Người làm cho chính trị mất đi tính thần tinh và thánh thiêng, chống lại với mọi xu hướng tôn thờ nó như một ngẫu tượng; người trả chính trị cho chính trị, bằng cách nhìn nhận giá trị của nó và quy cho nó một trách nhiệm riêng. Khi trả chính trị về cho chính trị, Đức Giêsu không có ý để cho chính trị ở trong một hoàn cảnh trung lập với Phúc âm. "Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.Với những lời dứt khoát này Đức Giêsu kêu gọi ta sống cuộc đời của ta, kể cả đời sống chính trị, trong niềm trung tín với Thiên Chúa, Đấng đã tỏ mình ra nơi người. Người đòi hỏi đời sống chính trị của ta phải trung tín với những ước vọng và tinh thần Phúc Âm. Người cũng lêu gọi Giáo Hội cũng như cộng đồng đức tin phải nắm giữ, không phải là phận vụ thống trị hay luân lý đối với chính trị, nhưng là vai trò tiên tri về Phúc âm hoá là bằng con đường hoán cải các tâm hồn sẽ đem lại hiệu quả thực sự: sống giữa lòng lịch sử nhân loại Giáo Hội phải dùng đời sống và lời nói mà lặp lại cho César, tiếng gọi của Thiên Chúa hằng sống là và lên tiếng "mời gọi, mời gọi chuyên chăm, và mời gọi không ngừng tất cả mọi người tiếp tay thực hiện những gợi hứng tích cực của Phúc âm trong công cuộc xây dựng thành đô của loài người" (O.C. trang 24).
BÀI ĐỌC THÊM
1. “Hình tượng này là của ai đây?”
Thánh Augustino bài giảng 24.
Anh em thân mến, Thiên Chúa đòi chúng ta trả lại hình ảnh Người (hình ảnh mà theo đó chúng ta đã được tác tạo) Đó chính là điều Người muốn nói cho những người Do Thái khi họ đưa Người coi một đồng bạc. Trước hết họ muốn thử Người khi hỏi Người rằng: "Xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho César hay không để, nếu Người trả lời: được phép, thì họ có thể tố cáo Người là nhục mạ dân tộc Israel vì muốn cho dân thần phục bằng việc đóng thuế và trở thành chư hầu dưới ách thống trị của hoàng đế. Còn nếu Người trả lời là không được phép, thì họ sẽ có thể tố cáo Người tội phát ngôn chống lại hoàng đế César, là căn cớ cho dân chúng từ chối nộp thuế mà họ phải nộp, bởi lẽ người ta đang sống dưới ách của hoàng đế. Đức Giêsu nhìn thấy mưu mô của họ, như sự thật tìm ra điều gian dối, vì Người đã làm cho họ phải chịt là chính miệng lưỡi họ gian dối. Người không dùng miệng lưỡi mình mà kết án họ, nhưng bắt chính họ phải tuyên án cho mình, như có lời chép rằng: "Vì nhờ lời nói của anh, mà anh sẽ được trắng án, và cũng tại lời nói của anh mà anh sẽ bị kết án" (Mt 12,37). Người nói với họ: "Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình! Đưa đồng tiền nộp thuế cho tôi coi!. Họ liền đưa cho Người một đồng bạc. "Hình và danh hiệu này là của ai đây Họ đáp: "Của César". Bấy giờ Đấng Cứu Thế bảo họ: "Thế thì của César, trả về César; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa" Cũng như César tìm hình ảnh mình trên đồng tiền thế nào, thì Thiên Chúa cũng tìm hình ảnh của Người-trong hình hồn bạn như vậy. Đấng Cứu chuộc phán rằng: "của César, trả về César". César đòi bạn trả gì? trả hình ảnh của ông. Chúa đòi bạn trả gì? Hình ảnh Người. Nhưng hình ảnh của César thì in trên đồng tiền, hình ảnh của Thiên Chúa ở trong lòng bạn: Nếu mất đồng tiền khiến bạn phải khóc, vì bạn đã đánh mất hình ảnh César. Thì gây xỉ nhục cho hình ảnh Chúa trong lòng bạn, lẽ nào điều đó lại không hề làm cho bạn phải nhỏ lệ sao?".
2. “Hôm nay đến lượt ta làm chứng Tin Mừng”.
(Sổ tay sinh hoạt Ngày thế giới Truyền giáo).
"Năm 180, tại miền đất nay là nước Tunisit có 5 phụ nữ và 7 người đàn ông là nông dân bị bắt vì là những người có đạo Người ta ép họ chối bỏ đức tin và nhìn nhận hoàng đế Rôma là Chúa. Theo án lệnh, một phụ nữ trong đám đáp: "chúng tôi kính trọng César vì là hoàng đế nhưng chúng tôi chỉ tôn thờ Thiên Chúa mà thôi. Tất cả đều bị kết án tử, họ là những vị tử đạo tiên khởi của Bắc Phi.
Họ làm chứng cho lời Chúa mà chúng ta vừa nghe: "Hình và danh hiệu của César, trả về César, vì đồng tiền này là dấu hiệu sự tổ chức xã hội mà con người tham dự nào, tỉ dụ như việc nộp thuế, nhưng con người được tạo dựng theo hình ảnh Chúa (St 1,26-27) và "mang danh hiệu: Con thuộc về Chúa (Is 44,5), nên phải trả về Chúa"... Đây chẳng qua là một thí dụ xưa rồi, nhưng ta có thể tìm ra vô vàn những mẫu tương đương trong tất cả lịch sử Kitô giáo. Cho tới thời hiện đại... Đó chẳng phải là kết quả của việc loan báo Tin Mừng, của Lời Chúa được đón nhận có sức làm biến đổi đời sống con người như đã thể hiện nơi Giáo Hội trẻ trung ở Thessalonica mà thánh Phaolô nói tới đó sao? Chính ngài, ngài biết rõ mình được sai đi rao giảng bí ẩn của Thiên Chúa mà Đức Giêsu đã mạc khải... Nhưng điều làm cho thánh nhân vui mừng là được thấy sống dậy một cộng đồng các người nam nữ mà đời sống của họ được đổi mới nhờ việc họ đón nhận Tin Mừng này. Họ có một lòng tin sống động, một lòng mến tích cực và một lòng cậy trông vững vàng như ta thấy thánh tông đồ nói về họ. Những cộng đồng này, đến lượt mình, trở thành những nhân chứng giúp mở ra những hàng rào xã hội trong đó con người có nguy cơ bị giam hãm. Những cộng đồng này móc nối với cộng đồng kia lần lượt nổi lên như những hoa trái của Lời Đức Giêsu, tạo thành một chuỗi các mắt xích, đã dần dần thể hiện một sự hiệp thông các Giáo Hội địa phương và đó chính là Giáo Hội của Chúa trong thế giới. Các giáo hội ấy cùng nhau thực thi Lời Chúa "Của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa.
58. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
NỘP THUẾ CHO HOÀNG ĐẾ
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Phải đặt đoạn này trong toàn bộ các chương 21-23 như thế nào?
2. Có lạ lùng không khi hai phe Biệt phái và Hêrôđê hợp tác chặt chẽ với nhau ở đây?
3. Phải chăng tiếng kêu "Thầy" có một cách dùng đặc biệt trong Mt?
4. "Cạm bẫy" mà các kẻ đối thoại với Chúa Giêsu giăng ra cho Người đúng ra là gì?
5. Biệt phái có phải là "giả hình" chỉ vì đã giả vờ khen Chúa Giêsu không? Phải chăng họ cũng không sống giả hình trong chính vấn đề nộp thuế?
6. Câu trả lời của Chúa Giêsu vượt quá câu hỏi do địch thủ Người đặt ra ở chỗ nào?
*****
1. Trong vụ tranh tụng diễn ra tại Đền thờ giữa Chúa Giêsu và các địch thủ Người: thượng tế và ký lục (20,18; 21, 15), thượng tế và niên trưởng trong dân (21, 23), thượng tế và Biệt phái (21, 45), chúng ta đã thấy điểm tranh chấp dần dần xác định: lai lịch của Con Đavít và nguồn gốc quyền bính của người hay, nói cách tương đương, bản chất của Nước Thiên Chúa. Các dụ ngôn đã cho thấy sự cấp bách phải chọn lựa, đồng thời vẫn còn để cho cơ hội hối cải về sau (21, 32; 21, 45).
Bây giờ đến bốn cuộc tranh luận móc nối nhau theo chiều hướng đi lên. Chúng xem ra được xếp đặt theo một lược đồ thông dụng của các giáo sĩ:
- Hokmâh (sự khôn ngoan): một cuộc tranh luận về phép xử thế nhân cơ hội một vấn đề pháp luật (22,15-22).
- Haggadâh (lời chú giải): một dịp giải thích các đoạn Kinh Thánh có vẻ mâu thuẫn (22,41-46).
- Bôrut (điều thô tục): một cuộc tranh luận nhắm chế nhạo một niềm tin (22, 23-33).
- Dérèk érèts (con đường thế): một tranh luận về các nguyên tắc căn bản của đời sống luân lý (22,34-40).
Tuy nhiên Mt đổi thứ tự cổ truyền bằng cách đặt haggadâh vào phần cuối của cuộc tranh chấp để cho thấy cuộc tranh chấp tiến đần đến câu hỏi sau cùng của Chúa Giêsu.
Ba cuộc tranh luận đầu tiên được khỏi xướng do ba nhóm đại diện cho Do thái giáo chính thức, họ muốn tìm cách gài bẫy Chúa Giêsu bằng chính lời nói của Người (cc.15 và 35) về những vấn đề càng lúc càng quan trọng: việc nộp thuế cho hoàng đế vấn đề chia rẽ phe cánh Hêrôđê, nhóm Biệt phái và đảng Nhiệt thành; kẻ chết sống lại; vấn đề bị phái Sađucêô chối bỏ; điều răn lớn nhất: mốl bận tâm của những người Do thái chăm chú giữ luật là nhóm Biệt phái. Các vấn đề này được đặt ra cho một Rabbi, một "Thầy" (didaskale: cc. 6. 27. 36), tước hiệu cho thấy sự hiểu biết của họ về Chúa Giêsu đến mức độ đâu, nhưng Người, cứ mỗi lần như vậy, lại dẫn họ đến một vấn đề căn để hơn. Và sau cùng Người đi bước trước bằng cách đặt rõ cho họ vấn đề nêu lên do sự có mặt của Người giữa họ trong Đền thờ, khiến họ bị bắt buộc phải chọn lập trường tối hậu.
2. Đoạn ngắn này bao gồm âm mưu của địch thủ Chúa Giêsu (c. 15), cuộc toan tính của họ bên Người (16, 17) và câu Người trả lời cho họ (18- 21): trọng tâm của trình thuật nằm trong lời phán quyết sau cùng, cái lời lưu giữ với những hạn từ rành rẽ một giáo huấn quan trọng của Chúa Kitô. Đưa ra nhân một cuộc tranh luận với các tiến sĩ Luật, công thức này quả nổi bật trong khung cảnh đó.
Câu hỏi đặt ra cho Chúa Giêsu là một câu hỏi hóc búa, nhằm mục đích hại Người hoặc trước dân chúng, hoặc trước quyền bính dân sự. Như ta biết, nhóm Biệt phái tượng trưng cho tinh thần bất nhượng bộ về vấn đề tôn giáo và một cách chính thức tượng trưng cho những người quyết tâm bảo vệ sự tự do của dân Chúa tước quyền bính Rôma tại Giuđêa, quyền bính này nằm trong tay một tổng trấn mà đôi lúc, với sự hỗ trợ của binh lính, đã tỏ ra rất hà khắc. Còn nhóm Hêrôđê lại thân với Rôma, vì đế quốc nâng đỡ các quận vương xuất thân từ giòng tộc Hêrôđê Cả đang trị vì ở Galilê và Pêrê (Hêrôđê Antipas) hoặc Auranitide, Gaulanitide, Batanée, Tratronitide và lturée (philíp). Nhóm chủ trương hợp tác với kẻ chiếm đóng vì sự hợp tác này có lợi cho họ.
Các lời nói của những kẻ được sai phái thật sảo quyệt. Câu đầu tiên, rất dài, với dụng ý đánh tan mọi ngờ vực, là một lời khen đầy tôn kính giả vờ đối với Chúa Giêsu (c. 18). Họ chào Người với tước hiệu Rabbi. Họ khen Người thành thật. Có thẩm quyền và bất thiên vị. Họ năn nỉ xin Người phán một lời để giải quyết một vấn đề phức tạp mà họ không thể nào đồng ý với nhau. Sau câu xã giao rườm rà và thơn thớt ấy là đến một liều thuốc độc (c. 17), một câu hỏi sắt như dao và bất ngờ: "Có được phép nộp thuế cho hoàng đế không?".
Ngoài các loại thuế gián thâu đánh trên mọi công dân của đế quốc (thuế thông lưu, thuế thương chính, thuế kế sản và thuế mại vật), các tỉnh còn phải nộp cống thuế (tributum) cho nhà vua; cùng với việc kiểm tra, cống thuế này là dấu chỉ rõ ràng nhất của việc lệ thuộc; người Do thái ghét thứ thuế đó lắm và đảng Nhiệt thành coi việc từ chối nộp nó là một bổn phận tôn giáo. Tại Giuđêa, nó đã được giòng tộc Séleucos thiết lập từ lâu và được người Rôma duy trì dưới hai hình thức là thuế điền thổ (tributum soli) và thuế thân (tributum capitis) mà nhiều nhân viên có nhiệm vụ thâu dưới sự kiểm soát của các quan chức chuyên môn là các tổng trấn, được đặt đứng đầu mỗi khu vực tài chính.
Thành thử câu hỏi đặt ra cho Chúa Giêsu hàm chứa một lưỡng đao: nếu Người chấp nhận nguyên tắc trả thuế thì dân chúng sẽ xem Người như một tên Do thái gian, một người bạn của Rôma và nhóm Biệt phái sẽ có cơ hội đạp đổ uy tín của Người trên dân chung. Nếu tuyên bố chống nộp thuế, nhóm Hêrôđê sẽ phản ứng tức thì và sẽ có cớ để làm Người bị tổng trấn lên án bằng cách trình bày Người như một tên phá rối trật tự chung. Cổ võ việc chống đối nộp thuế điều mà chính Người sẽ thực sự bị gán ghép trong vụ xử án trước tòa Philatô sau này. (x Lc 23, 2).
Câu trả lời của Chúa Giêsu gồm ba yếu tố:
1. Trước tiên Người tuyên bố rằng mình không phải là kẻ dễ bị lừa gạt. Người biết mình bị giăng bẫy và biết các kẻ đối thoại (đều nham hiểm và tà tâm).
2. Người trả đũa một cách khéo léo bằng cách hỏi vặn lại. Vì những kẻ nói với Người đều đã trả lời, qua các sự kiện, cho chính câu hỏi họ nêu lên. Chúa Giêsu bắt buộc họ tỏ ra cho thấy là họ đang mang trong mình đồng tiền của đế quốc (người Do-thái không được quyền đúc tiền bằng đồng đỏ hay bằng bạc mà chỉ bằng đồng thau, những thứ ít giá trị này không được dùng để nộp thuế thân hoặc thuế điền thổ). Theo lời Người yêu cầu họ liền đưa ra một đồng quan. Đồng quan chính là thứ tiền dùng nộp thuế. Ngoài ra, đồng này lại còn được khắc hình và tên của hoàng đế tại vị (lúc ấy là Tibêriô). Làm thế, Chúa Giêsu muốn ngầm hỏi họ rằng tại sao họ ngại ngùng khi phải trả lại cho hoàng đế (qua việc nộp thuế) đồng tiền có nguồn gốc Rôma và ngoại giáo ấy hơn là khi nhận nó với cùng thế giá của hoàng đế trong các giao dịch bán buôn của họ? Nếu đã có một vấn đề thì từ lâu họ đã giải quyết bằng cách chấp nhận rồi. Trong lãnh vực tiền tệ, họ đã tự nhận mình lệ thuộc hoàng đế Rôma.
3. Bấy giờ Chúa Giêsu mới đi xa hơn câu hỏi được đặt: Nói cho cùng, chỉ có một điều quan trọng mà người ta có thể thực hiện cách hoàn toàn ngay dưới ách thống tn của ngoại bang, đó là trả lại cho Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài. Điều này, Người không ngừng nói từ khi bắt đầu hoạt cộng và cả Tin Mừng đầy dấy: hãy tìm kiếm Thiên Chúa trước hết mọi sự hãy tìm Nước Trời và sự công chính của Nước ấy trước tiên... Nếu ta thực sự quan tâm đến điều đó, thì mọi vấn đề khác đầu trở thành phụ thuộc, không quan yếu; cơm ăn, áo mặc và công lý dưới trần gian (x. 5, 39-42). Tuy thế, câu nói này không muốn thiết lập hai trật tự khác biệt mà mỗi thứ sẽ là một điều quy chiếu tối hậu: Giáo Hội và quốc gia, và lại càng không muốn đề cao thái độ tùng phục hoàng đế. Nó chỉ đặt các vấn đề vào đúng chỗ của chúng thôn. Các vấn đề liên quan tài hoàng đế đến sau các vấn đề liên hệ tới Nước Trời. Người ta đã đặt vấn đề nộp thuế cho Chúa Giêsu, nhưng lại không hỏi gì Người về những đòi hỏi của Thiên Chúa. Người đã chẳng tìm cách tránh né vấn đề vì có thể gây nên nguy hiểm cho bản thân. Người chỉ đặt lại mọi sự vào đúng chỗ của chúng khiến các địch thủ không còn cách nào theo đuổi câu chuyện, chẳng còn biết làm sao để đun sôi cuộc tranh luận lên. Quyền lợi của hoàng đế đã không bị động chạm, nhưng nhất là quyền lợi của Thiên Chúa đã được đề cao. Người ta có thể hoàn toàn thỏa mãn các yêu sách của Thiên Chúa mà vẫn nộp thuế cho hoàng đế. Chính Thiên Chúa là Đấng duy nhất mà con người phải yêu mến hết sức lực mình (x. 22, 37)
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Họ sai đến với Người môn đồ của họ": một câu khó hiểu: trong Tin Mừng (và hầu như trong văn chương Do thái), người ta chỉ đề cập đến "môn đồ của Biệt phái" ở đây và ở Mc 2, 13 thôi; trong "môn đồ" hàm chứa giả thuyết có một tôn sư, thế mà các người Biệt phái không dạy dỗ bao giờ, trừ ra một số trong bọn họ là Ký lục. Phải chăng Biệt phái đã sai môn đồ của những ký lục như thế. Điều đó rất có thể. Một Biệt phái đứng tuổi mà lại đi hỏi về vấn đề nộp thuế thì chắc chắn không phải là chuyện tự nhiên và có thể làm cho Chúa Giêsu nghi ngờ, vì lập trường của họ về vấn đề này đã quá rõ đối với dân chúng Palestine.
"Thầy": Trong Mt, các môn đồ chẳng bao giờ dùng tiếng Thầy khi nói với Chúa Giêsu, nhưng dùng danh xưng “Ngài" (Kyrie); chỉ có các Ký lục, Biệt phái, phe Saducêô (8, 19; 9, 11; 12, 38; 22, 16. 25. 36) cũng như những người thu thuế (17, 24) và chàng thanh niên giàu có (19, 16) sử dụng thôi. Giuđa, người duy nhất trong đám 12, hai lần dùng danh xưng, "Thầy" (26, 25.49), trong mà Chúa Giêsu yêu cầu tránh trong cộng đoạn huynh đệ (23, 7- 8).
“Chúng tôi biết...": Lời khen lớn nhất tặng cho một rabbi, nghĩa là một kẻ cắt nghĩa Lề luật cho đời sống hằng ngày, là khen họ trung thành với Lề luật (cách dịch của BJ và Nguyễn Thế Thuấn: "ngay thật” (franc) và “chân thành" (franchise) kể ra quá yếu, cách của Osty hay hơn: "Chúng tôi biết Thầy là người chân thật và Thầy dạy đường lối của Thiên Chúa trong chân lý") và không thiên vị ai; các giáo sĩ đương thời hay nhắc đi nhắc lại hai yêu sách này. Sau Cựu ước, Tân ước thường tố cáo tội thiên tư, những thói trọng người theo địa vị và giai cấp xã hội (Cv 10, 34; Gc 2, 1.9; Rm 2,11; Ep 6. 9; Cl 3, 25...).
"Có được phép nộp thuế cho hoàng đế không?": Kiểu nói đặc thù này của Mt (12, 24. 10. 12; 14, 4; 19, 3; 20, 15; 27, 6) là câu hỏi mà người Do thái mộ đạo luôn luôn tự đặt cho mình và là câu mà các giáo sĩ có nhiệm vụ giải đáp trong cả ngàn nố lương tâm nêu lên cho cuộc sống thường nhật; nó có ý nghĩa quy thần: trước mắt Thiên Chúa, nghĩa là dưới ánh sáng của lề luật có được phép nộp thuế không? thành thử câu hỏi không được đặt ra trong phạm vi dân luật hay chính trị, vì trong trường hợp đó, nó sẽ được phát biểu: "Có được phép không nộp thuế chăng?"
"Đồ giả hình": Các người đối thoại với Chúa Giêsu giả hình trong hai chuyện. trước hết là họ làm bộ như rất quan tâm đến một vấn đề thời sự trong lúc chỉ cốt đặt nó ra để làm cho Chúa Giêsu lúng lúng. Thứ đến là khi sử dụng đồng quan ("đồng tiền của hoàng đế") trong các giao dịch thương mại của họ, họ đã mặc nhiên thừa nhận quyền bính của hoàng đế từ lâu rồi.
"Hãy trả cho hoàng đế": câu trả lời này chứa đựng một thẩm định tích cực và tổng quát về vai trò của Nhà nước trong đường hướng của một vài giáo thuyết Do thái đương thời cho rằng những người làm lớn nhận lãnh quyền bính từ nơi Thiên Chúa (Đn 2,21; 2,37-38; Cn 8, 15-16; Ga 19,11; Rm 13,1-7). Triều đại của Thiên Chúa đã được khai mào, tuy nhiên các triều đại của thế gian này vẫn còn hành xử quyền bính cách chính đáng luỵ chỉ tạrn thời. Đối với các quyền bính chính trị, thì Chúa Giêsu, trong toàn bộ Tin Mừng, đã tỏ ra một thái độ chung chung là hoàn toàn không lệ thuộc, nhưng cũng chẳng chống đối. Cách sống của Kitô hữu đầu tiên, như được mô tả trong Công vụ sứ đồ và các thánh thư, cũng nằm trong chiều hướng ấy.
KẾT LUẬN
Qua câu trả lời, Chúa Giêsu không phân định ranh giới giữa hai phạm vi hay hai lãnh vực trong đó Thiên Chúa và hoàng đế sẽ làm chúa tể trong những gì liên quan đến mình. Người chẳng có ý bảo rằng sự vâng phục nhà nước có thể được quan niệm một cách độc lập với sự vâng phục Thiên Chúa. Người không phủ nhận việc có thể xảy ra những tranh chấp giữa Thiên Chúa và hoàng đế và có nhiều trường hợp cần phải chọn lựa giữa việc vâng lời Thiên Chúa và vâng lời người ta (x Cv 4, 18-20). Người chỉ bảo sự xung đột này chẳng có ở nơi mà Biệt phái muốn thấy. Kẻ nào thực sự tùng phục Thiên Chúa và sống trong niềm mong đợi Nước Trời và sự công chính của nó, thì có thể thừa nhận tính cách chính đáng và đồng thời những giới hạn của quyền lợi hoàng đế. Sở dĩ Biệt phái đã đặt câu hỏi, là vì họ không lấy làm quan trọng sự hiện hữu của họ trong thế giới của hoàng đế cũng như sự hiện hữu của Thiên Chúa mà thế giới của hoàng đế cũng lệ thuộc vào. Chính vì Chúa Giêsu đích thực là vua các vua và Chúa các chúa (1Tm 6,15) mà mệnh lệnh của người: hãy trả cho hoàng đế những gì thuộc về hoàng đế..." làm cho việc tùng phục quyền bính thế gian này có một ý nghĩa, một nội.dung ki tô giáo: "Anh em hãy vì Chúa là tùng phục mọi thể chế trong nhân loại hãy hành động như tôi tớ của Thiên Chúa" (1 Pr 2, 13-16).
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Chúng ta có thể lấy lại, nhưng phải gột rửa khỏi mọi ý hướng mỉa mai trong đó, lời Biệt phái khen ngợi Chúa Giêsu, một lời thật xứng hợp cho Người Chúa Giêsu là Đấng chân thật: Người không để cho những đòi hỏi của sự thật hay của luân lý tùy thuộc vào những toan lính "xu thời", chỉ cốt mưu sự thánh công; người nói thẳng thắn trước mặt địch thủ; câu trả lời của Người là có hoặc không (2Cr 1, 18-20), tùy như sự việc đúng hay sai, tốt hay xấu; Người tự xác định chính mình là Sự thật (Ga 14,6). Chúa Giêsu dạy đường lối của Thiên Chúa không phải luật Môisen (Ga 1,17) cũng chẳng phải sự khôn ngoan nhân trần (1Cr 2,1-16) của các triết gia hay nhà luân lý định hướng cuộc đời chúng ta nhưng là giáo huấn Chúa Giêsu; Người là ánh sáng mà chúng ta phải theo để khỏi lạc đường; Người cũng đã xác định mình là "ánh sáng thế gian" (Ga 8, 12) và quả quyết rằng "ai theo Ta, không phải bước đi trong tăm tối” Chúa Giêsu chẳng thiên vị ai: Người là Cứu Chúa của mọi người (x.1Tm 2, 3-6); đối với Người, những khác biệt về chủng tộc phái tính, gốc tích và địa vị xã hội không quan trọng (Gl 3, 28). Với Người, mỗi người là một cá vị độc đáo.
2. Mối bận tâm lớn của Chúa Giêsu, trong câu Người trả lời là biểu lộ tính cách siêu việt và tuyệt đối của những quyền lợi Thiên Chúa. Trước đòi hỏi nộp thuế, Người không chối từ, trái lại còn nhìn nhận việc ấy có tính cách chính đáng. Nhưng Người lại nêu lên một đòi hỏi còn sâu xa hơn, triệt để hơn, của một trật tự hoàn toàn khác hẳn: người ta phải trả cho Chúa không phải một vật nào đó, nhưng là chính bản thân của mình.
3. Thành thử quyền bính dân sự chỉ chuyên trách trong trật tự trần thế là trật tự lệ thuộc vào những thực tại của trật tự tôn giáo. Trong phạm vi này, mà Chúa Giêsu không muốn xác định rõ hơn, Người đã nhìn nhận rằng việc người Do thái nộp thuế cho chính quyền rôm đương thời không có gì là vô luân và phạm thánh cả. Dù chẳng xác quyết bổn phận nộp thuế xem ra Người vẫn giả thiết nó như một hậu quả của tính cách chính đáng của thuế má; nhưng Người không, đi sâu vào trong các quan điểm này, những quan điểm mà thánh Phaolô sẽ minh giải về sau: "Nợ gì với ai hãy trả cho người ấy: sưu cho kẻ đòi sưu, thuế cho kẻ đòi thuế" (Rm 13, 6-7).
4. Kiểu nói: “Hãy trả cho hoàng đế những gì thuộc về hoàng đế" muốn diễn lả những đòi buộc của đời sống cộng đồng trong số những đòi buộc của đời sống luân lý. người Kitô hữu không thể nào tự miễn cho mình những bổn phận đối với quốc gia và trong quốc gia, lấy cớ là chỉ thực hiện những bổn phận thuần túy tôn giáo. Việc vấn tâm của chúng ta do đó phải xét đến các bổn phận của người công dân. Vì dù là công dân của Nước Trời (Pl 3, 19-20), chúng ta cũng là công dân của một quê hương trần thế mà chúng ta mang trách nhiệm về trong mức độ quê hương ấy đòi chúng ta phải dấn thân phục vụ (Cv 21,39: Phaolô, công dân thành Tarsê; Cv 16, 37-39 và 22, 25-29; Phaolô, công dân Rôma).
5. Thánh Phaolô nói rõ mọi quyền bính đều từ Thiên Chúa mà ra, và ta phải tùng phục chính quyền trong những gì thuộc địa hạt của nó, không những vì sợ hãi và vì lợi ích, nhưng còn vì bổn phận lương tâm (Rm 13,1-7; Tt 3, 1). Ngài cũng khuyên nhủ cầu nguyện cho các nhà đương quyền, để hòa bình được ngự trị trong thế gian (1Tm 2, 1-4).
59. Phải trả về cho ai? - Lm Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP.
Thiên Chúa có thể dùng mọi phương tiện để thực hiện ý định của Ngài. Ngài dùng ngay cả vua ngoại đạo để giải thoát dân Ngài. Mọi sự đều ở trong tay Chúa. Chúa muốn thế nào thì được như vậy, không ai có thể phá bỏ được kế hoạch của Thiên Chúa.
Người Kitô hữu sống trên trần thế có hai nhiệm vụ song song: nhiệm vụ đối với Thiên Chúa và đối với Tổ quốc. Trên nguyên tắc, hai nhiệm vụ này độc lập với nhau, nhưng trong thực tế, khi thi hành những nhiệm vụ này, đôi lúc chúng ta gặp không ít khó khăn, đôi lúc làm cho chúng ta lo lắng. Câu hỏi được đặt ra là làm thế nào vừa phụng sự Thiên Chúa vừa phụng sự Tổ quốc mà không xung đột nhau? Làm sao có thể sống tốt đạo đẹp đời một cách hài hoà trong cuộc sống hằng ngày?
Chúa Giêsu cũng là một công dân của nước Do thái. Ngài cũng có lý lịch rõ ràng và một Tổ quốc để phụng sự. Ngài đã chu tòan nhiệm vụ của một người công dân của một nước bị trị (x. Mt 17,26; Lc 23,22) theo nguyên tắc “Của César thì trả cho César”. Chúng ta cũng phải theo cách sống của Chúa Giêsu: chu tòan nhiệm vụ đối với Thiên Chúa và Tổ quốc. Dĩ nhiên, trong những trường hợp có sự va chạm giữa chính quyền và tôn giáo thì chúng ta hãy theo nguyên tắc này: không luật lệ nào được chống lại luật của Thiên Chúa, vì như thế là cũng phạm đến con người.
Nhiệm vụ của Kitô hữu là phải cầu nguyện và khôn khéo thế nào để tạo ra sự hòa hợp giữa Giáo hội và quốc gia để cả hai cùng phục vụ con người một cách tốt đẹp.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Is 45,1.46.6.
Thiên Chúa có thể dùng bất cứ phương tiện nào để thực hiện ý định của Ngài: bằng chứng là Ngài đã dùng Cyrô, vua ngoại đạo, để giải thoát dân Ngài.
Theo lịch sử, năm 587 trước công nguyên, đế quốc Babylon xâm chiếm Giêrusalem, dân chúng bị bắt đi đầy. Gần 50 năm sau, đế quốc Babylon sụp đổ và đế quốc Ba tư chiếm ngôi bá chủ. Năm 538, vua Ba tư là Cyrô, sau khi chiến thắng Babylon, đã ra sắc chỉ cho dân Do thái được hồi hương.
Mặc dầu vua là người không biết Thiên Chúa nhưng Ngài đã dùng vua để thực hiện chương trình của Ngài. Chính vua Cyrô cũng không ngờ rằng ông là khí cụ của Thiên Chúa: chính Thiên Chúa trao quyền cho ông. Thiên Chúa cho ông thống trị các dân, và Thiên Chúa xúi lòng ông cho dân Chúa được hồi hương. Vì thế tiên tri Isaia đã không ngại gọi ông là “Đấng xức dầu của Thiên Chúa”.
+ Bài đọc 2: Tx 1,1-5b.
Thánh Phaolôâ đã thành lập giáo đoàn Thessalonica vào năm 50 trong chuyến truyền giáo lần thứ hai . Trong khi gặp rất nhiều khó khăn: người Do thái muốn ám hại, nên Ngài phải bỏ trốn trước khi hoàn thành việc đào tạo và tổ chức giáo đoàn. Khi được tin tốt về giáo đoàn non trẻ này, Ngài vô cùng sung sướng vì họ có một đức tin vững vàng, một lòng cậy trông và một đức ái sống động. Ngài viết thư này để khuyến khích họ và cảm tạ Chúa vì tất cả những thành quả mà giáo đoàn này đã thu lượm được:”Chúng tôi không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc anh em gánh vác vì lòng mến, và những gì anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi”.
+ Bài Tin mừng: Mt 22, 15-21.
Bình thường nhóm biệt phái và nhóm Hêrôđê không thuận nhau vì, một đàng nhóm biệt phái là người ái quốc chống lại chính quyền Roma đang đặt ách đô hộ trên quê hương họ; đàng khác nhóm Hêrôđê thì ủng hộ chính quyền Roma để trục lợi. Hai khuynh hướng mâu thuẫn nhau nhưng hôm nay cùng liên minh với nhau để gài bẫy Chúa Giêsu.
Họ chất vấn Chúa bằng một cầu rất hóc búa:”Có được phép nộp thuế cho César không”? Nếu trả lời “có” thì nhóm biệt phái cho Ngài là phản quốc vì tiếp tay với ngoại bang ; nếu trả lời “không” thì sẽ bị nhóm Hêrôđê tố cáo là Ngài phản động và chắc chắn Ngài sẽ bị chính quyền bắt giữ.
Nhưng, Chúa Giêsu giội cho họ một gáo nước lạnh khi trả lời:”Của César trả cho César, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”. Chúa Giêsu đã thoát khỏi cạm bẫy thâm độc của họ ; đồng thời dạy cho họ một bài học thực hành: có sự khác biệt giữa tôn giáo và chính trị. Tôn giáo không phải là để phục vụ cho chính trị, và chính trị cũng không để phục vụ cho tôn giáo.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Res clamat domino - Của đòi về chủ.
I. BỐI CẢNH CÂU CHUYỆN.
Từ trước tới nay chúng ta thấy Chúa Giêsu ở thế công. Ngài đã dùng ba dụ ngôn để chỉ trích những nhà lãnh đạo truyền thống Do thái: dụ ngôn đứa con trai bất hiếu không chịu nghe lời cha, dụ ngôn người làm vườn gian ác đã giết đầy tớ vua, dụ ngôn tiệc cưới của nhà vua vì họ không đến dự.
Bây giờ chúng ta thấy họ đưa ra đòn phản công để đưa Chúa Giêsu vào thế gọng kìm bằng một câu hỏi hóc búa, nhằm hai mục đích: một là bị nhà cầm quyền bắt, hai là mất uy tín với dân chúng vì là người phản quốc.
Cũng nên biết chúng ta đang ở vào năm 30 dưới thời hoàng đế César Tiberius, và quân đội ông đang chiếm xứ Do thái gây nhiều nhiễu nhương cho dân chúng, phong trào chống đối đang âm ỉ lan rộng. Họ có hai tầng lớp người lãnh đạo chống đối nhau: nhóm biệt phái ái quốc chống nhà cầm quyền và nhóm Hêrôđê thân chính quyền đô hộ để trục lợi. Bình thường, hai nhóm này chống đối nhau, nhưng hôm nay cùng nhau tìm phương thế ám hại Chúa Giêsu với một câu hỏi hóc búa về vấn đề nộp thuế.
Dân Do thái phải nộp thuế cho chính quyền Rôma. Có ba thứ thuế:
- thuế điền thổ.
- thuế lợi tức.
- thuế thân.
Luật thuế thân qui định mọi người nam nữ từ 14 đến 65 tuổi đều phải đóng một denier, tương đương với lương công nhật của một người. Thuế ở trong câu hỏi đây là thuế thân.
Người dân các nước bị trị bao giờ cũng phải nộp thuế cho chính quyền bảo hộ. Năm 1920, ông Gandhi hô hào dân chúng Ấn không đóng thuế cho đế quốc Anh để tranh đấu cho nước được độc lập. Đóng thuế là nghĩa vụ của dân đối với chính quyền. Dân Ấn không đóng thuế là không công nhận người Anh là chính quyền của mình, là chống lại đế quốc xâm lăng để giải phóng đất nước thoát cảnh thực dân.
Vậy, Chúa Giêsu có theo đường lối của ông Gandhi không hay phải theo một đường lối nào để giải quyết cho ổn thỏa? Câu trả lời xẩy ra như sau theo Tin mừng của Luca:
“Hôm ấy, nhóm biệt phái và nhóm Hêrôdê sai mấy môn đệ đến hỏi thử Chúa Giêsu:”Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật cứ sựï thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta. Vậy xin Thầy cho biết ý kiến:”Có được phép nộp thuế cho César hay không”?
Hỏi như vậy là họ đã đưa Chúa Giêsu vào thế gọng kìm, mà triết học gọi la cái thế “luỡng đao luận”, nghĩa là con dao hai lưỡi, nói thế nào cũng chết: chối cũng chết mà nhận cũng chết. Nếu Chúa Giêsu bảo nên nộp thuế là lệ thuộc vào ngoại bang, là phản quốc, do đó mất uy tín với dân chúng. Nếu Chúa bảo là không thì bị liệt vào loại phản động, chống chính quyền, thế nào cũng bị bắt.
Nhưng Chúa Giêsu lại có một cách xử lý rất khéo léo, rất tinh vi:”Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế”. Họ đưa cho Ngài một quan tiền. Người hỏi họ:”Hình và danh hiệu này là của ai”? Họ đáp:”Của César”. Bấy giờ, Người bảo họ:”Thế thì của César, trả về cho César ; của Thiên Chúa, trả về cho Thiên Chúa”.
II. BÀI HỌC CHÚA DẠY TA.
1. Chúa Giêsu, một người công dân.
Chúa Giêsu có một lý lịch rõ ràng. Ngài là một công dân Do thái nên Ngài phải thi hành mọi nhiệm vụ đối với một công dân Do thái đang bị người Roma đô hộ. Bản thân Ngài sống như mọi người không có gì khác, cả gia đình Ngài cũng vậy. Kinh thánh cũng cung cấp cho chúng ta một số chi tiết chứùng tỏ gia đình Thánh gia thất đã chu toàn nghĩa vụ công dân:
- Cha mẹ Ngài đã vâng lệnh nhà vua để về Belem khai hộ khẩu {Lc 2,4).
- Chính Ngài đã sai Phêrô đi câu cá để lấy tiền nộp thuế cho mình và cho Phêrô nữa (Mt 17,26).
- Chính quyền ra lệnh bắt và giết Chúa, Ngài vẫn vui lòng tuân lệnh dù Ngài biết lệnh ấy bất công, mà chính Philatô, người lên án giết Chúa cũng phải nhận là Ngài vô tội (Lc 23,22).
Câu nói của Ngài:”Của César thì trả cho César” đã phản ảnh một cách hết sức trung thực những công việc Ngài đã làm, đúng như Thánh kinh đã viết về Ngài:”Chúa làm trước, rồi mới dạy người ta làm sau” (Cv 1,1).
2. Kytô hữu, một người công dân.
Một người công dân phải có giấy khai sinh và có một hộ khẩu thường trú. Không ai ở trên trời rơi xuống, không ai sống lơ lửng trên không trung. Mỗi người phải có một quốc tịch, mặc dù có thể thay đổi được quốc tịch ấy. Đã là công dân của một nước nào thì phải chấp hành những luật lệ của nước ấy. Mọi công dân phải góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tránh những hành vi làm tổn thương đến Tổ quốc ấy.
Về điểm này, ta có bằng chứng về cách sống của những cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Một tác giả vô danh hồi thế kỷ thứ ba đã viết trong tác phẩm “Thư gửi cho Diognetus” như sau
: “Người Kitô hữu không khác với những người khác về cư trú, về ngôn ngữ hay về lối sống. Bởi vì họ không cư ngụ một thành nào riêng biệt, cũng không dùng ngôn ngữ nào khác thường và nếp sống của họ chẳng có chi khác biệt. Không phải do suy tư hay bận tâm tra cứu mà họ khám phá được các giáo thuyết. Họ không chủ trương một giáo điều nào của loài người như một số người nọ.
Họ ở rải rác trong các thành phố Hy lạp lẫn trong các thành của người Man di, tùy theo số phận dun dủi. Họ sống theo tập tục của kẻ bản xứ trong cách phục sức, ăn uống và cách sống, nhưng bộc lộ một thái độ sống khiến nhiều người cho là lạ lùng. Họ sống trong quê hương của họ mà như những kẻ ở đâu. Họ tuân thủ mọi cái chung như các công dân khác và chịu gánh nặng dường như ngoại kiều. Miền xa lạ cũng là quê hương của họ nhưng mọi quê hương chỉ là đất khách cho họ mà thôi. Họ cũng dựng vợ gả chồng như ai và sinh đẻ con cái, nhưng chẳng hề bỏ con. Họ đồng bàn nhưng chẳng đồng sàng”.
(Cap.V.VI PG 21173 B.117 C , Các Bài đọc 2 Mùa PS, tr 84)
Chúng ta phải khẳng định rằng trước khi là một Kitô hữu ta đã là người của một quốc gia nào đó, ví dụ, trước khi là người Công giáo, tôi đã là người Việt nam. Nhờ phép rửa tội, chúng ta trở thành người Việt nam công giáo. Giữa người công dân Việt nam và người công dân Công giáo Việt nam không có gì khác nhau, không có gì mâu thuẫn nhau. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Mọi người đều có bổn phận và quyền lợi như nhau đối với đất nước.
3. Tương quan giữa tôn giáo và chính trị.
Vấn đề tương quan giữa tôn giáo và chính trị, giữa Giáo hội và quốc gia là một vấn đề tế nhị và đôi khi, thật gai góc, nhiều khi có nhiều lấn cấn. Chúng ta có thể đưa ra đây mấy nguyên tắc cho chúng ta hành xử trong đời sống thực tế không thể tránh được:
a) Nguyên tắc thứ nhất:
Xã hội dân sự và xã hội tôn giáo, quốc gia và Giáo hội là hai vấn đề độc lập với nhau. Dù là cả hai phục vụ cho ơn gọi cá nhân và xã hội của con người ; nhưng quan điểm và cách hành động của họ vẫn khác nhau.
b) Nguyên tắc thứ hai:
Với tư cách là công dân, thành viên của một đoàn thể thế gian, người Kitô hữu phải chấp nhận sống theo luật lệ của đoàn thể đó và làm trọn bổn phận như đóng thuế, vâng phục chính quyền hợp pháp trong mọi việc mà chính quyền đòi hỏi. Người Kitô hữu sẽ dùng mọi phương tiện hợp pháp: bỏ phiếu, báo chí, nghiệp đoàn để góp phần xây dựng một xã hội công bằng và nhân đạo hơn.
c) Nguyên tắc thứ ba:
Người Kitô hữu cố giữ giá trị hướng thượng và tư cách tuyệt đối những quyền của Thiên Chúa, vì biết rằng khi những giá trị này bị xâm phạm thì con người cũng bị xâm phạm, nhất là kẻ hèn yếu. Chúng ta không bao giờ chấp nhận một luật lệ nào chống lại luật của Thiên Chúa. Người Kitô hữu cố gắng làm sao để tạo ra sự hoà hợp giữa Giáo hội và quốc gia, và như thế cả hai sẽ phục vụ tốt biết bao cho con người. (Cf Cử hành Phụng vụ Chúa nhật, tr 215)
III. SỰ CHỌN LỰA CỦA CHÚNG TA.
Người Kitô hữu chúng ta có hai quyên công dân đi đôi với nhau. Chúng ta là công dân của thế giới, tức trần thế này và công dân thiên quốc. Chúng ta phải phụng sự Thiên Chúa và Tổ quốc, hai nhiệm vụ này phải đi sánh đôi. Như thế chúng ta kính trọng và tôn kính đối với những đòi hỏi của hai bên.
Thiên Chúa có thể dùng mọi phương tiện để giúp ích cho con người và cho dân Chúa. Trong bài đọc thứ nhất, ta thấy Thiên Chúa đã dùng vua Cyrô để giải phóng dân Chúa. Như thế, dân Chúa đã phải tùng phục chính quyền trong những công việc về chính trị, mà không thể làm khác vì đó là đường lối của Thiên Chúa.
Thánh Phêrô trong thư thứ nhất đoạn 2 câu 17 đã bảo các Kitô hữu:”Hãy tôn kính Thiên Chúa và hãy kính trọng Hoàng đế”. Và trong thư gửi tín hữu Rôma đoạn 13, câu 1 và 7, thánh Phaolô bảo các Kitô hữu:”Hãy vâng phục các vị cầm quyền. Hãy nộp cho họ những gì các ngươi mắc nợ họ, hãy nộp thuế thân, thuế tài sản và hãy tỏ lòng kính trọng họ”.
Mong ước rằng hai loại quyền công dân này của chúng ta không bao giờ xung đột nhau. Tuy nhiên, lỡ có xẩy ra xung đột, thì người Kitô hữu phải biết cách giải quyết. Các Kitô hữu đã từng phải giải quyết như thế ngay từ thời Chúa Giêsu. Họ đã phải giải quyết như thế suốt thời kỳ đế quốc Rôma bách hại Giáo hội. Họ đã phải giải quyết như thế suốt thời trung cổ. Họ đã phải giải quyết như thế trong thế kỷ 16 và 17 khi hàng chục ngàn Kitô hữu phải chạy trốn sang Mỹ châu để giữ đạo mà không bị nhà nước can thiệp.
Có lẽ chúng ta có thể minh hoạ tất cả những điều trên bằng trường hợp của thánh Thomas More, vị thánh tử đạo người Anh. Robert Bolt đã làm nổi bật cuộc xung đột của More – liên quan đế những gì thuộc César và những gì thuộc về Thiên Chúa – trong cuốn sách nhan đề “A man for all seasons”(Người của mọi mùa).
Truyện: thánh Thomas More
Vua Henry VIII nước Anh đã kết hôn hợp thức với bà Catherine d’Aragon, nhưng ông nại đến tòa thánh Rôma xin hủy bỏ cuộc hôn nhân đó. Toà thánh đã từ chối. Henry liền tự mình giải quyết vấn đề và tái kết hôn. Thế là ông ta ra lệnh cho bạn bè và các chức sắc ký vào một văn bản tuyên bố đồng ý nhìn nhận hành động của ông là đứng đắn. Nhiều bạn bè của More đã ký vào, nhưng More thì từ chối. Henry yêu cầu More ký vào, nếu không sẽ bị bắt giam và xử tội tạo phản theo luật nhà nước. More vẫn khăng khăng từ chối. Ngài bị giằng co giữa hai bổn phận: một đối với Chúa, một đối với Tổ quốc. Khi chúng xung đột nhau, thì More không còn chọn lựa nào ngoài sự trung tín với luật Chúa.
(M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm A, tr 305)
Như thế, bài Tin mừng hôm nay nhắc chúng ta nhớ đến hai bổn phận đi đôi với nhau của chúng ta. Chúng ta là công dân trần thế, đồng thời cũng là công dân Nước Trời. Chúng ta có bổn phận phải trung tín với cả hai Tổ quốc. Chúng ta hy vọng các bổn phận này không bao giờ xung đột nhau. Nhưng nếu lỡ có xung đột thì chúng ta phải giải quyết chúng giống như thánh Thomas More đã làm, nghĩa là không gây thương tổn cho Thiên Chúa hoặc cho lương tâm ta.
Cuộc sống của Kitô hữu tại thế là như vậy, chúng ta không thể làm khác được. Nhiều lúc chúng ta hay than vãn là chúng ta phải mang hai gánh trên vai: vừa phải chu toàn bổn phận ở đời lại vừa lo tròn nghĩa vụ trong đạo. Đối với những ai có tâm hồn đạo đức thánh thiện thì sự khó khăn đó không đến nỗi quá băn khoăn lo lắng ; trái lại, đối với những ai mang nặng ích kỷ trần tục nếu chẳng may đạo hay đời đòi hỏi phải chịu khó hy sinh làm một điều gì đó, tức khắc họ lên tiếng phàn nàn kêu trách và nại đủ lý do để từ chối. Đây chính là vấn đề mà người biệt phái đã thắc mắc với Chúa và Chúa đã giãi bầy cho họ cũng như cho chúng ta hiểu để biết mà sống cho tốt đạo đẹp đời. Trong mọi trường hợp chúng ta phải đặt quyền lợi của Chúa trên hết, đôi lúc vì thế mà phải bị thiệt thòi. Lời Chúa vẫn còn yên ủi chúng ta khi chúng ta gặp phải những trường hợp éo le như thế:”Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì ích lợi gì”.
Truyện: Mọi sự thuộc về Chúa.
Hoàng đế Frédéric đi tham quan một trường học nhỏ miền quê. Đúng lúc học trò đang học môn địa lý. Vua hỏi một em nhỏ tuổi:
- Làng con ở đâu?
- Tâu hoàng thượng, làng con ở trong nuớc Phổ.
- Nước Phổ ở đâu?
- Tâu hoàng thượng, nước Phổ ở trong đế quốc Đức.
- Đế quốc Đức ở đâu?
- Tâu hoàng thượng, đế quốc Đức ở trong châu Âu.
- Châu Âu ở đâu?
- Tâu hoàng thượng, châu Âu ở trong thế giới.
- Thế giới ở đâu?
Suy nghĩ một lát em bé dõng dạc trả lời:
- Tâu hoàng thượng, thế giới ở trong tay Chúa.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho dân tộc mình theo lời của Thomas Jefferson:
Lạy Thiên Chúa tối cao,
Ngài ban cho chúng con mảnh đất tốt tươi này làm gia nghiệp. Xin hãy chúc lành cho mảnh đất chúng con, xin hãy cứu chúng con khỏi bạo lực, và mọi đường lối xấu xa, xin hãy bảo vệ sự tự do của chúng con...
Xin ban thần trí khôn ngoan xuống trên những kẻ mà nhân danh Ngài, chúng con đã ủy thác quyền cai trị... Trong thời thịnh vượng, xin đổ tràn xuống lòng chúng con niềm tri ân, và trong ngày gian truân, xin đừng để niềm tin của chúng con vào Ngài bị suy giảm.
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
17/10 Thiên Chúa, Thánh Thần và Con Người
- Viết bởi Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
Thứ bảy, sau Chúa Nhật XXVIII Thường Niên
I. LỜI CHÚA: Lc 12, 8-12
“Thầy nói cho anh em biết: phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Con Người cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì sẽ bị chối trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa.
“Bất cứ ai nói phạm đến Con Người, thì còn được tha; nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì sẽ chẳng được tha.
“Khi người ta đưa anh em ra trước hội đường, trước mặt những người lãnh đạo và những người cầm quyền, thì anh em đừng lo phải bào chữa làm sao, hoặc phải nói gì, vì ngay trong giờ đó, Thánh Thần sẽ dạy cho anh em biết những điều phải nói.”
(Bản dịch của Nhóm Phiên Dịch CGKPV)
II. SUY NIỆM
1. Thiên Chúa, Thánh Thần và Con Người
Lời của Đức Giê-su trong bài Tin Mừng liên quan đến ba vấn đề xem ra rời rạc: nhìn nhận hay từ chối Con Người cách công khai (c. 8-9); nói phạm đến Con Người và nói phạm đến Thánh Thần (c. 10); và trường hợp người môn đệ bị đưa ra xét xử công khai (c. 11-12).
Nhưng, nếu biết lắng nghe, chúng ta vẫn nhận ra sự hài hòa hiện diện ở bên dưới những lời của Đức Giê-su, được tường thuật lại trong bản văn Tin Mừng này: cả ba phần của bài Tin Mừng đều liên quan đến thái độ của con người đối với Đức Giê-su: công khai từ chối Người (phần 1); người ta xét xử môn đệ của Người (phần 3); những lựa chọn như thế, có thể được tha thứ hay không (phần 2, nghĩa là trung tâm). Hơn nữa, sự hài hòa trong những lời này của Đức Giê-su, còn được duy trì bởi sự hiện diện của Ba Ngôi Thiên Chúa. Thực vậy:
Đức Giê-su với tư cách là Con Người, nghĩa là Ngôi Hai Thiên Chúa, Ngài được người môn đệ công khai nhìn nhận, dù phải chịu thiệt thòi, thậm chí chịu bách hại; và Ngài cũng sẽ công khai nhìn nhận người môn đệ trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa Cha.
Người ta có thể nói phạm đến Thánh Thần không? Và trong trường hợp người môn đệ bị đưa ra trước hội đường, trước mặt những người lãnh đạo và những người cầm quyền, Thánh Thần sẽ dạy cho người môn đệ điều phải nói.
2. “Ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ”
Như thế, người môn đệ khi “công khai nhìn nhận” Đức Giê-su, sẽ có nguy cơ bị người đời loại trừ, nhưng lại được vào sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa: được Ngôi Hai Thiên Chúa được vào tương quan phụ tử với Thiên Chúa Cha và được tràn đầy Thánh Thần hôm nay và ngay trong hoàn cảnh bị bách hại.
Xin cho chúng ta “công khai nhìn nhận” Đức Giê-su trong lòng chúng ta và trong cách sống của chúng ta. Sự phản kháng chắc chắn sẽ xảy ra, không chỉ bên ngoài, nhưng cả bên trong chúng ta nữa. Nhưng làm sao sánh được với niềm vui khôn tả, được tháp nhập vào trong sự sống viên mãn và vĩnh hằng của Ba Ngôi Thiên Chúa, được tháp nhập vào trong Gia Đình mới của Đức Giê-su hôm nay (x. Lc 8, 19-21)?
Chúng ta có thể dừng lại để suy gẫm về cách thức chúng ta “công khai nhìn nhận” Đức Giê-su trong sống thường ngày của chúng ta.
Nhưng thực ra Ngài đã công khai nhìn nhận chúng ta trước rồi, dù chúng ta là ai và ở trong tình trạng nào, ngang qua mầu nhiệm nhập thể và mầu nhiệm Vượt Qua, được diễn tả nơi mầu nhiệm sáng thứ nhất. Như thánh Phaolô nói: “Đức Ki-tô chết cho chúng ta, khi chúng ta còn là tội nhân”. Và sự nhìn nhận, thậm chí tuyển chọn yêu thương của Đức Ki-tô dành cho chúng ta, vẫn được làm mới lại mỗi ngày trong Thánh Lễ. Chúng ta chỉ cần đáp lại thôi.
3. “Nói phạm đến Thánh Thần”
Một trong những điều khó hiểu nhất trong bài Tin Mừng, và có lẽ trong các Tin Mừng, đó là lời này của Đức Giê-su:
Bất cứ ai nói phạm đến Con Người,
thì còn được tha;
nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần,
thì sẽ chẳng được tha. (c. 10)
Lời này không chỉ khó hiểu, những con làm cho chúng ta lo sợ, khi tự hỏi: “tôi có bao giờ nói phạm đến Thánh Thần chưa?” Nhưng nếu chúng ta hiểu ra, chúng ta sẽ cảm thấy bình an và tạ ơn Chúa vô cùng. Bởi lẽ, Lời Chúa luôn luôn là Lời ban sự sống, Lời làm cho sống và duy trì sự sống.
Người ta có thể dễ dàng nói phạm đến Con Người, bởi vì Người là Ngôi Hai Thiên Chúa, nhưng nhập thể nơi con người Đức Giê-su Na-da-rét. Người Do Thái đã nói phạm đến Người và còn rất nhiều người hôm qua và hôm nay nữa.
Nhưng Thánh Thần là Đấng hoàn toàn vô hình, vì Người là Thần Khí, là năng động, là tương quan, nên người ta không thể phạm đến Thánh Thần được. Hơn nữa, Thánh Thần là tương quan tình yêu giữa Thiên Chúa Cha và Thiên Chúa Con, giữa Thiên Chúa và con người, và giữa con người với con người.
Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. (Ga 15, 9-10.12)
Vì thế, “nói phạm đến Thánh Thần” hay sâu rộng hơn, sống ngược lại với năng động Thần Khí, vốn là TƯƠNG QUAN TÌNH YÊU, là tự hủy diệt chính mình !
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc