Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
03/11 Bàn tiệc Nước Trời
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Bàn tiệc Nước Trời.
Thứ Ba tuần 31 thường niên.
"Anh hãy ra ngoài đường ngoài ngõ, và cố ép người ta vào cho đầy nhà tôi".
Lời Chúa: Lc 14, 15-24
Khi ấy, một người đồng bàn thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Phúc cho kẻ sẽ được ăn tiệc trong nước Thiên Chúa". Người phán cùng kẻ ấy rằng: "Có một người kia dọn tiệc linh đình, và đã mời nhiều thực khách. Tới giờ dự tiệc, ông sai đầy tớ đi báo cho những kẻ được mời để họ đến, vì mọi sự đã dọn sẵn sàng rồi. Nhưng mọi người đồng thanh xin kiếu. Người thứ nhất nói với ông rằng: "Tôi mới tậu một thửa ruộng, tôi cần phải đi xem đất, nên xin ông cho tôi kiếu". Người thứ hai nói: "Tôi mới mua năm đôi bò, và tôi phải đi thử chúng, nên xin ông cho tôi kiếu". Người khác lại rằng: "Tôi mới cưới vợ, bởi đó tôi không thể đến được".
"Người đầy tớ trở về thuật lại những điều đó cho chủ mình. Bấy giờ chủ nhà liền nổi giận, bảo người đầy tớ rằng: "Anh hãy cấp tốc đi ra các công trường và các ngõ hẻm thành phố mà dẫn về đây những người hành khất, tàn tật, đui mù và què quặt". Người đầy tớ trở về trình rằng: "Thưa ông, lệnh ông ban đã được thi hành, thế mà hãy còn dư chỗ". Ông chủ lại bảo người đầy tớ rằng: "Anh hãy ra ngoài đường ngoài ngõ và cố ép người ta vào cho đầy nhà tôi. Vì tôi bảo cho các người biết: không một ai trong những kẻ đã được mời, sẽ được nếm bữa tiệc của tôi".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Xin kiếu
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay vẫn nằm trong bối cảnh của bữa tiệc
do một ông Pharisêu chức sắc mời Đức Giêsu vào ngày sabát (Lc 14, 1).
Những lời Ngài nói trong bữa tiệc đã đánh động một người cùng bàn.
Ông chia sẻ với Đức Giêsu về niềm hạnh phúc
của người được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa (c. 15),
ở đó có mặt các tổ phụ và thiên hạ từ khắp tứ phương (Lc 13, 28-29).
Chính vì thế Đức Giêsu đã muốn kể một dụ ngôn về Nước Trời.
Nước Trời giống như một đại tiệc do một người khoản đãi.
Ông đã mời nhiều quan khách đến dự.
Khi đến giờ đãi tiệc, ông còn sai đầy tớ đi mời họ lần nữa.
“Mời quý vị đến, vì mọi sự đã sẵn sàng rồi” (c. 17).
Tiếc thay lời mời ấy, đại tiệc ấy, lại bị mọi người coi nhẹ.
Ai cũng có lý do để xin kiếu từ.
Kẻ thì kiếu vì cần phải đi xem miếng đất mới mua (c. 18).
Kẻ thì kiếu vì phải đi kiểm tra năm cặp bò mới tậu (c. 19).
Kẻ khác lại xin kiếu vì phải ở nhà với người vợ mới cưới (c. 20).
Có vẻ các lý do đưa ra đều có lý phần nào.
Nhưng thực sự chúng có phải là những lý do chính đáng
để từ chối đại tiệc mà mình đã được mời cách trân trọng hay không?
Vấn đề chỉ là chọn lựa.
Xem đất mới mua, xem bò mới tậu, ở nhà với vợ mới cưới,
những điều ấy hẳn cần thiết và quan trọng.
Nhưng có quan trọng bằng chuyện đi dự tiệc không?
Nếu đi dự tiệc để diễn tả sự hiệp thông của tình bạn
thì có thể hoãn các chuyện khác không, để chọn điều có giá trị hơn?
Chúng ta hiểu được sự nổi giận của ông chủ,
khi thấy bữa tiệc dành để khoản đãi các khách quý lại bị đổ vỡ.
Ông thấy chính mình bị xúc phạm, tình bạn bị coi thường.
Ông quyết định dành bữa tiệc này cho những ai không phải là khách quý,
những người thuộc giới hạ lưu, nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù (c. 21).
Và khi phòng tiệc vẫn còn chỗ trống, ông đã khẩn khoản lôi kéo vào
cả những người ở ngoài đường hay trong vườn nho (c. 23).
Cuối cùng, người được mời trước thì bị loại, vì họ tự loại chính họ (c. 24).
Còn những người có vẻ không xứng đáng lại được ngồi vào bàn.
Chẳng ai xứng đáng được dự bàn tiệc Nước Thiên Chúa
nếu Thiên Chúa không mời.
Nhưng chẳng ai bị loại trừ khỏi bàn tiệc cánh chung
nếu họ không cố ý từ chối lời mời đó.
Chẳng ai có thể tự cứu mình mà không cần đến Thiên Chúa,
nhưng con người có thể làm mình bị trầm luân mãi mãi
chỉ vì thái độ khép kín của mình trước ơn Chúa ban.
“Tôi xin kiếu”, đó là câu nói của nhiều người Kitô hữu hôm nay.
Chúng ta xin kiếu một cách quá dễ dàng,
chẳng để ý gì đến nỗi thất vọng và đau đớn của người đãi tiệc.
Lời mời của Thiên Chúa bị từ chối chỉ vì những chuyện không đâu.
Chuyện tất bật làm ăn, chuyện vui chơi giải trí, chuyện mời mọc của bạn bè.
Có nhiều chuyện thấy có vẻ quan trọng hơn, khẩn trương hơn,
đến nỗi có người bỏ tham dự thánh lễ Chúa Nhật.
Hãy chọn Thiên Chúa và biết quý những gì Ngài muốn ban cho ta.
Đại tiệc Thiên Chúa đã dọn sẵn rồi,
không chỉ ở đời sau, mà ngay ở đời này.
Ngài mong ta đến để dự tiệc, hay đúng hơn để chia sẻ một tình bạn.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
nhiều bạn trẻ đã không ngần ngại
chọn những cầu thủ bóng đá,
những tài tử điện ảnh
làm thần tượng cho đời mình.
Hôm nay
Chúa cũng muốn biết chúng con chọn ai,
và chúng con thật sự đắn đo
trước khi chọn Chúa.
Bởi chúng con biết rằng
chọn Chúa là lội ngược dòng,
theo Chúa là bước vào con đường hẹp:
con đường nghèo khó và khiêm nhu,
con đường từ bỏ và phục vụ.
Hôm nay, chúng con chọn Chúa
không phải vì Chúa giàu có,
tài năng hay nổi tiếng,
nhưng vì Chúa là Thiên Chúa làm người.
Chẳng ai đáng chúng con yêu mến bằng Chúa.
Chẳng ai hoàn hảo như Chúa.
Ước gì chúng con can đảm chọn Chúa
nhiều lần trong ngày,
qua những chọn lựa nhỏ bé,
để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng con,
và để chúng con
thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: BỮA TIỆC HIỆP THÔNG
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
“Phúc thay ai được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”. Đó là hạnh phúc đích thực. Vì bữa tiệc trong Nước Thiên Chúa là bữa tiệc hiệp thông. Con người được hiệp thông với Thiên Chúa. Không chỉ là đồng bàn. Nhưng đồng sự sống. Đồng hưởng hạnh phúc vinh quang. Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống, sự thiện hảo, hạnh phúc. Được hiệp thông với Thiên Chúa, con người đạt đến sự viên mãn. Viên mãn trong sự sống. Viên mãn trong hạnh phúc.
Thật đáng tiếc và đáng buồn khi con người chỉ khư khư bám víu lấy những chân trời nhỏ hẹp, những giá trị bọt bèo, những mảnh vụn hạnh phúc chóng qua, những riêng tư nhỏ nhoi cá nhân ích kỷ. Những mảnh ruộng, những cặp bò…Để từ chối bữa tiệc hiệp thông. Từ chối hạnh phúc đích thực, lớn lao, toàn vẹn của Nước Trời. Những người nghèo không có gì để bám víu lại dễ mở lòng hiệp thông. Nên dễ vào Nước Trời theo lời mời của Thiên Chúa.
Thực ra ở trong Thiên Chúa ta không mất gì hết. Chỉ nên phong phú hơn. Thư Rô-ma diễn tả mầu nhiệm hiệp thông trong một thân thể. Các chi thể tham dự vào sự sống toàn thân. Nhưng mỗi chi thể vẫn có đặc sắc và nhiệm vụ riêng. Rất cần thiết cho toàn thể. Cũng vậy trong Nước Chúa có nhiều chức năng. Ai ở đâu hãy làm việc của mình cho tốt là góp phần vào sức sống của toàn thể. Nhưng phải biết trân trọng và kết hợp với người khác. “Chúng ta tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể trong Đức Ki-tô, mỗi người liên đới với những người khác như những bộ phận của một thân thể” (năm lẻ).
Để đi vào mầu nhiệm hiệp thông với Thiên Chúa và với anh em, ta phải mặc lấy tâm tình của Chúa Giê-su Ki-tô. Tự khiêm tự hạ. Hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha. Hoàn toàn hiến mình cho anh em. “Chúa Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người”(năm chẵn).
Từ bỏ bản thân để chu toàn thánh ý Chúa Cha. Ta chu toàn nhiệm vụ của mình. Thiên Chúa được tôn vinh. Và chính bản thân ta cũng được tôn vinh. Và vì sống mầu nhiệm hiệp thông trọn vẹn, ta được hưởng trọn vẹn sức sống của toàn nhiệm thể. Và góp phần vào sức sống của nhiệm thể Chúa Ki-tô.
Suy Niệm 3: Lời Mời Dự Tiệc
Một trong những hình ảnh Kinh Thánh dùng để nói về Nước Thiên Chúa, đó là bữa tiệc. Sách Cách Ngôn đã mô tả bữa tiệc của Ðấng Khôn Ngoan như một giá trị cứu rỗi. Ngôn sứ Isaia nói đến một bữa tiệc Thiên Chúa dọn ra cho dân khi thời Cứu thế đến, tất cả mọi người đều được mời đến dụ, không phân biệt ai. Ðó cũng là bữa tiệc mà Chúa Giêsu dùng để nói về Vương Quốc của Ngài.
Tại Palestina, mỗi khi có tổ chức một bữa tiệc lớn, thì khách luôn luôn được mời trước, và người chủ tiệc cũng nhận được câu trả lời của khách trước. Khi tiệc rượu đã sẵn, ông chủ sai các đầy tớ đi báo cho người được mời để họ đến dự. Bởi thế, một lời từ chối vào phút cuối quả là một tổn thương lớn cho người chủ tiệc.
Thiên Chúa là ông chủ của bữa tiệc Nước Trời cũng đã chuẩn bị một bữa tiệc lớn cho Israel. Các Tiên tri được sai đi gọi mời, và khách được mời cũng sống trong tâm tình chờ đợi. Nếu có các sách Tiên tri để loan báo về bữa tiệc thì cũng có các Thánh vịnh nói lên tâm tình tin tưởng và đợi chờ Thiên Chúa. Thế nhưng, khi giờ đến, lúc tiệc rượu đã chuẩn bị sẵn sàng thì kháck được mời lại từ chối.
Bàn tiệc Nước Trời vẫn được dọn ra và khách được mời hôm nay không ai khác hơn là mỗi người chúng ta. Bí tích Rửa tội là tấm thiệp cho phép chúng ta tham dự bàn tiệc này. Nhưng khi giờ đã đến, chúng ta lại để mình bị lôi cuốn bởi của cải vật chất, bởi thú vui trần thế, mà bỏ qua lời mời gọi đến tham dự bàn tiệc thánh.
Thiên Chúa vẫn mời gọi và chờ đợi chúng ta. Ước gì chúng ta hiểu đúng giá trị của bữa tiệc Ngài dọn sẵn cho chúng ta mỗi ngày, để với tất cả lòng yêu mến biết ơn, chúng ta tham dự, ngõ hầu chúng ta được mạnh sức tiến tới bàn tiệc vĩnh cửu trên Thiên quốc.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Chủ bị ế mặt
Đầy tớ nói: “Thưa ông lệnh ông đã được thi hành mà vẫn còn chỗ. Ông chủ bảo người đầy tớ: Ra các nẻo đường, dọc theo bờ rào bờ giậu, ép người ta vào đầy nhà cho ta. Tôi nói cho các anh biết: Những khách đã được mời trước kia, không ai sẽ được dự tiệc của tôi.” (Lc. 14, 22-24)
Một người đồng bàn nghe Đức Giêsu nói về ngày sống lại của những người công chính liền bình luận: “Phúc thay cho ai được dự tiệc trong nước Thiên Chúa”. Kẻ ấy chắc chắn được cứu độ và được hưởng hạnh phúc. Để lay chuyển quan niệm sai lầm về định mệnh vững chắc của họ, như thường lệ, Đức Giêsu dùng một câu chuyện tiếp tục liên quan đến một bữa tiệc lớn để đem áp dụng vào tiệc nước trời.
Khách từ chối vinh dự.
Quý khách đã được giấy mời dự đại tiệc và chủ biết ai sẽ đến. Trước bữa tiệc, như thường lệ, chủ sai đầy tớ đi mời lần nữa: “Mời quý vị đến, cỗ bàn đã sẵn”. Quý khách đã nhận lời trước, đến phút chót lại từ chối, làm chủ nhục nhã ế mặt quá. Những lời từ chối cho chủ thấy rõ: Họ quan tâm đến công việc của họ hơn đến dự tiệc với chủ mời. Xin kiếu vì mới mua thửa đất, mới tậu bò, mới cưới vợ.
Tất cả mọi người Ít-ra-en đều được Thiên Chúa mời dự tiệc nước trời. Bây giờ, Đức Giêsu đến mời lần chót. Cần phải ăn năn sám hối trở về vì đây là ngày cứu độ. Biệt phái từ chối lời mời của Người vì họ lo việc riêng của họ, quay mặt đi chỗ khác không lưu tâm đến Thiên Chúa. Họ phỉ báng và kiêu ngạo từ chối quà tặng vinh quang của Thiên Chúa.
Tặng ban cho những người bất hạnh.
Ông chủ lúc đó sai đi mời vào dự đại tiệc tất cả mọi người đã bị cộng đồng dân thánh Ít-ra-en loại bỏ. Vẫn còn nhiều chỗ trống trong đại tiệc, đầy tớ lại đi mời tất cả mọi dân tộc dân ngoại một cách tha thiết, khẩn khoản dù họ luôn luôn bị coi là thứ ô uế như cộng đồng Ít-ra-en khinh bỉ họ. Họ được thuyết phục để họ thấy mình thật sự được mời dự đại tiệc.
Trước sự chai đá của biệt phái đã từ chối tin vào Đức Giêsu, Người muốn nhấn mạnh để họ suy nghĩ rằng: Họ đã tự ý tách khỏi nước trời, trong khi Thiên Chúa vô cùng thương yêu đã kêu gọi những người nghèo khó và tội lỗi, dù họ cảm thấy họ là kẻ bất xứng nhất.
RC
Suy Niệm 5: HẠNH PHÚC CHỈ CÓ ĐƯỢC KHI TA ĐẾN DỰ TIỆC (Lc 14, 15-24)
Xem thêm CN 28TN A (Mt 22,l-14) và thứ Năm tuần 20 TN
Nói theo ý hướng chủ quan: ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, ấy là lúc chúng ta tạm cầm chiếc vé để vào Nước Trời, tuy nhiên, điều đó có thành hiện thực hay không lại phụ thuộc vào thái độ, cung cách sống kế tiếp của chúng ta.
Tại sao lại thế? Thưa là vì nhiều người lầm tưởng rằng: đã lãnh Bí tích Rửa Tội là chắc chắn được vào Nước Trời, nên không hề lo lắng gì đến chuyện sống ra sao và phải làm những gì? Những người như thế, họ chẳng khác gì những cô trinh nữ khờ dại có đèn mà không có dầu; hay như những người đầy tớ ngủ mê nên không biết ngày nào, giờ nào chủ họ sẽ về; hoặc như gia chủ không tỉnh thức nên đã để kẻ trộm đào ngạch khoét vách và lấy đi những thứ trong nhà...
Họ thật giống những người Dothái hôm nay khi được mời dự tiệc, họ đã không thèm đếm xỉa tới lời mời thịnh tình của Chủ, nên cuối cùng họ đã không đến, mà ngược lại, những người tội lỗi, nghèo khổ, những người thấp cổ bé họng, những người bên lề xã hội lại được vào chung vui tiệc cưới của ông Chủ.
Ngày nay, sự dửng dưng vô cảm với bàn tiệc Nước Trời vẫn còn đó nơi người Kitô hữu chúng ta. Vì thế, không lạ gì khi vẫn có những người thích ăn chơi, nhậu nhẹt, chè chén say xưa; hay vẫn tin vào những chuyện mê tín dị đoan; hoặc những chân lý nửa vời nên không màng chi đến chuyện đạo đức, lễ lạy..., nên người ta dễ bỏ qua những việc bác ái, đạo đức thường ngày... Chúng ta nhiều khi sẵn sàng đặt để vai trò của Chúa xuống hàng thứ yếu, nhưng khi được hỏi thì vẫn nói là mến Chúa trên hết mọi sự! Ôi thật là một sự giả hình!
Tin Mừng hôm nay cho thấy, chủ tiệc đã dọn sẵn cỗ bàn để đãi khách. Thiệp mời cũng đã được gửi đi, nhưng niềm vui chỉ có được khi khách đến hiện diện nơi bàn tiệc mà thôi.
Thật thế, những người được mời đâu đoái hoài gì đến thiện ý của Chủ tiệc, nên đã đặt những chuyện cá nhân lên trên và viện cớ: nào là đi tậu đất, thăm trại, mua bò và mới cưới...
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta một mặt hãy có lòng nhân từ như Thiên Chúa là Đấng yêu thương hết thảy mọi người, không phân biệt họ là ai... đồng thời cũng dạy cho chúng ta bài học về sự mau mắn đáp lại lời mời gọi của Chúa và thi hành những điều Chúa dạy để được sống đời đời. Niềm vui sẽ nên trọn khi chúng ta để cho tình yêu của Thiên Chúa phủ lấp trên mình và chi phối nơi cuộc sống của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin tha thứ vì những lần chúng con khước từ tình yêu của Chúa dành cho chúng con. Xin cho chúng con biết mau mắn đáp lại lời mời gọi yêu thương của Chúa để được hưởng sự sống đời đời. Amen.
Ngọc Biển SSP
02/11 Bên kia sự chết
- Viết bởi Ga 6, 51-59
Bên kia sự chết.
Thứ Hai tuần 31 thường niên – CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI.
“Ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời”.
* Theo Tông Hiến ngày 10/08/1915, hôm nay mọi linh mục được phép cử hành hoặc đồng tế ba thánh lễ, miễn là cử hành vào những giờ khác nhau; có thể chỉ một ý lễ cho bất cứ ai và nhận bổng lễ, còn ngoài ra phải dành một lễ cầu nguyện cho mọi tín hữu đã qua đời và một lễ cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng (không có bổng lễ đối với hai lễ này).
Cầu nguyện cho những người đã qua đời là một trong những truyền thống cổ kính nhất của Hội Thánh. Vì thế, sau ngày mừng các anh chị em đã được sống thân mật với Thiên Chúa trên thiên đàng, ta lại hướng về các anh chị em chúng ta đã qua đời trong niềm hy vọng phục sinh, và cùng hướng về “tất cả mọi người quá cố mà chỉ một mình Chúa biết lòng tin của họ”.
Lễ Nhất
LỜI CHÚA: Ga 6, 51-59
“Ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời”.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do-thái rằng: “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống”. Vậy người Do-thái tranh luận với nhau rằng: “Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?”
Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: “Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Ðấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Ðây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời”.
Lễ Nhì
LỜI CHÚA: Lc 23, 33. 39-43
“Hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.
Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”. Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục người rằng: “Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa”.
Ðối lại, tên kia mắng nó rằng: “Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao? Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta làm, còn ông này, ông có làm gì xấu đâu?” Và anh ta thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Chúa Giêsu đáp: “Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.
Lễ Ba
LỜI CHÚA: Ga 17, 24-26
“Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con”.
Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
LỄ CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI
Lời Chúa: *Rm 6,3-9; Ga 6,51-59 *Kn 3,1-9; Lc 23, 33.39-43; *Rm 5,4-11; Ga 17,24-26
Suy Niệm 1: Sao Ngài bỏ rơi con?
Suy niệm:
Ðoạn Tin Mừng trên đây kể lại cho ta
cuộc đời Ðức Giêsu vào những giây phút cuối.
Ngài đã đón nhận cái chết một cách không dễ dàng
sau nhiều giờ hấp hối trên thập giá.
Ðau đớn đến tột cùng, nhục nhã và cô đơn kinh khủng.
Có vẻ lúc đó Cha lại vắng mặt và làm thinh.
“Lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”
Ðức Giêsu có cảm tưởng như Cha bỏ rơi mình
vào chính lúc Ngài vâng phục Cha, chấp nhận cái chết.
Chúng ta cần nghe được tiếng kêu xé ruột của Ðức Giêsu.
Ngài kêu bằng tất cả sức lực còn lại của mình.
Ngài kêu một tiếng lớn, rồi tắt lịm.
Chúng ta thích thấy Ðức Giêsu chết bình an hơn,
chết anh hùng hơn và chết lành hơn.
Nhưng Ðấng vô tội, chết thay cho cả nhân loại,
đã chẳng được hưởng chút êm đềm nào từ Thiên Chúa.
Lời cuối của Ngài là một tiếng gọi: Lạy Thiên Chúa của con,
một câu hỏi tại sao mà Ngài không rõ câu trả lời.
Ðức Giêsu đã nhắm mắt trong niềm tin trần trụi.
Tháng 11 được dành để nhớ đến những người đã khuất.
Ðã có thời người ta cho rằng theo đạo là bất hiếu,
vì không lo giỗ chạp, cúng vái, nhang đèn...
Nhưng trong niềm tin của Kitô giáo,
điều người chết cần không phải là đồ ăn hay vàng mã,
mà là cầu nguyện, hy sinh, việc lành và thánh lễ.
Ngọn lửa luyện ngục tuy gây nhiều đau đớn không nguôi,
nhưng có sức tẩy luyện, biến đổi và thánh hóa.
Có thể nói các linh hồn ở luyện ngục có phúc hơn ta,
vì họ biết chắc chắn sớm muộn gì họ cũng vào thiên đàng.
Chính vì thế họ vui lòng để cho tình yêu Chúa thanh lọc,
và càng lúc càng trở nên hoàn hảo hơn để đến gần bên Chúa.
Chúng ta cần sống mầu nhiệm các thánh thông công.
Các thánh trên trời chuyển cầu cho Hội Thánh dưới thế.
Hội Thánh dưới thế chuyển cầu cho các linh hồn đau khổ.
Tất cả liên đới với nhau như các chi thể của một thân thể.
Trong tháng này Hội Thánh mời chúng ta đi viếng nghĩa trang
để cầu nguyện cho các người thân yêu đã lìa đời.
Những hàng mộ nói với ta về cái chết không sao tránh được.
Dù già hay trẻ, dù khỏe hay đau, dù giàu hay nghèo,
nhưng cuối cùng cái chết vẫn là điểm hẹn.
Cái chết được chia đều cho mọi người.
Nghĩa trang có phải là nơi an nghỉ cuối cùng không?
Con người còn gì khi thân xác nát tan trong lòng đất?
Nhờ Ðức Giêsu phục sinh mà mầu nhiệm cái chết được vén mở.
Cái chết chỉ là nhịp cầu đưa ta vào cõi sống.
Con người sống là để chết, và chết là để sống mãi,
sống một cuộc sống hạnh phúc tuyệt vời hơn nhiều.
Cùng với thánh Phanxicô, xin gọi cái chết là chị - Chị Chết.
Ước gì người Kitô hữu học được nghệ thuật sống
nhờ biết đón lấy cái chết trong niềm hy vọng tin yêu.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
nếu người ta cứ phải sống mãi trên cõi đời này
thì thật là phiền toái.
Nhưng cái chết vẫn làm chúng con đau đớn
vì phải chia tay với những người thân yêu,
vì bao mộng mơ, dự tính còn dang dở.
Xin cho chúng con đừng nhìn cái chết
như một định mệnh nghiệt ngã và phi lý
nhưng như một hành trình
trở về nguồn cội yêu thương.
Lạy Chúa Giêsu, trước cái chết thập giá,
Chúa đã run sợ, nhưng không tháo lui,
và Chúa đã chết trong niềm vâng phục tín thác,
để trở nên người đầu tiên bước vào cõi sống viên mãn.
Xin cho chúng con nghe được lời dạy dỗ của cái chết.
Cái chết cho thấy cuộc sống mong manh, ngắn ngủi,
chính vì thế từng giây phút trôi qua thật quý báu.
Cái chết bất ngờ mời gọi chúng con luôn tỉnh thức.
Cái chết nhắc nhở chúng con là khách lữ hành
đang trên đường về quê hương vĩnh cửu.
Sống một đời và chết một lần.
Lạy Chúa, đó là thân phận làm người của chúng con.
Xin dạy chúng con biết cách chết nhờ biết cách sống. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy niệm 2: Bốn bà vợ
(Suy niệm ngày Lễ Các Linh Hồn của Frère Trần An Phong)
Một phú gia kia cưới đến 4 bà vợ.
Ông ta rất thương bà vợ thứ nhất, mỗi khi kiếm được tiền là ông liền mua sắm cho bà đủ thứ áo quần sang trọng, dẫn bà đi ăn tại các nhà hàng trứ danh. Không những thế, ông còn tung tiền mua sắm cho bà đủ thứ hột xoàn, trân châu. Bà muốn gì ông cũng chiều chuộng. Ông cưng bà như cưng trứng, hứng bà như hứng hoa!
Và mỗi lần đi họp, hay đi kinh doanh, ông đều sung sướng và hãnh diện mang theo bà vợ thứ hai. Ông luôn khoe bà với bà con lối xóm, với đồng nghiệp, khách hàng. Bà là niềm hãnh diện của ông!
Mỗi khi gặp khó khăn, cho dù lớn hay nhỏ, ông đều thủ thỉ, tâm sự với bà vợ thứ ba. Ông tin tưởng bà lắm, vì bà luôn là người cố vấn cho ông, một người cố vấn khôn ngoan, trung tín và đầy yêu thương. Bà thật là người bạn đời tri kỷ có một không hai trên đời!
Còn bà vợ thứ tư lại rất thương ông, thương ông tha thiết, thương ông nồng nàn, thương ông chứa chan. Nàng dành hết cả cuộc đời mình để lo cho cuộc sống của ông, sự nghiệp của ông. Nàng không từ chối một hy sinh nào cho chồng cả. Ngay cả những khi ông lầm lỗi, bà cũng can đảm thầm nhắc nhở, khuyên lơn, và rộng lòng tha thứ. Thế nhưng! Ông lại chẳng mấy khi để ý đến nàng.
Rồi một ngày kia, ông phát bệnh. Bệnh ung thư của ông đã đến thời cuối cùng, các bác sĩ đều bó tay. Biết mình chả còn sống được bao lâu, ông bèn cho mời các bà vợ đến để nói lời cuối cùng.
Bà thứ nhất mặc xiêm y lộng lẫy, nữ trang óng ánh, nước hoa lan tỏa khắp phòng, đến bên chồng đang hấp hối.
- Em, anh sắp chết rồi. Em là người anh yêu mến nhất, chăm sóc cho em từng li từng tí. Em có muốn theo anh về bên kia thế giới để chung sống, để lo lại cho anh không?
- Không!
Nàng lạnh lùng đáp.
- Anh đi đường anh, em đi đường em. Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.
Nói xong, nàng ngoảnh mặt, vội vã bước ra khỏi phòng. Lời bà như một nhát dao đâm thấu tim ông!
Người phú gia vừa cố gắng nắm tay bà vợ thứ hai, vừa run run hỏi:
- Em, suốt đời anh, em là niềm hạnh phúc, là niềm kiêu hãnh của anh. Giờ đây anh sắp chết, em có muốn theo anh về bên kia, như hào quang chói sáng cho anh, như người tiến cử anh vào cuộc sống huy hoàng không?
- Không! Anh chết rồi, tôi sẽ cưới người khác. Tôi phải thuộc về người khác chứ! Ai lại theo kẻ chết xuống mồ bao giờ.
Nói xong, nàng trở gót bỏ đi. Mỗi tiếng gót giày nàng nện xuống thềm nhà, là một nhát búa đóng đinh xuyên qua tim chàng.
Đau buốt, nát tim, người phú gia quay nhìn bà vợ thứ ba và ân cần hỏi:
- Em, trong suốt cuộc đời, em là người luôn sát cánh cùng anh. Không có chuyện gì mà anh không chia sẻ cùng em. Em luôn bên cạnh anh, lúc vui cũng như lúc buồn. Giờ đây, anh sắp chết, em có chịu theo anh không?
- Anh yêu, em biết anh yêu em lắm, và em cũng yêu anh. Nhưng cùng lắm, em chỉ có thể theo anh ra nghĩa trang, nhìn anh đi vào lòng đất lạnh, rồi thắp cho anh những nén hương lòng. Em sẽ nhớ anh thật nhiều, nhưng theo anh, em không thể nào làm được.
Nói xong, nước mắt nàng tuôn trào.
Bỗng đâu, một giọng nói yếu ớt vang lên:
- Em sẽ theo anh về bên kia thế giới. Anh yêu, cho em theo anh. Đừng bỏ em!
Chàng phú gia lấy hết sức tàn ngồi chổm dậy, nhìn về phía phát xuất ra giọng nói. Và kià! Người vợ thứ tư của chàng đang ôm mặt khóc nức nở. Thân hình nàng qúa mảnh khảnh tựa hồ dễ bị cuốn theo chiều gió. Một người vợ yêu chàng tha thiết, nhưng đã bị chàng bỏ bê cả cuộc đời.
* * *
Trước cái chết, chàng phú gia mới chân nhận ra giá trị tình yêu. Ngày hôm nay, ngày nhớ đến Các Tín Hữu Đã Qua Đời, 2 tháng 11 mỗi năm, mình nhớ đến cái chết, và nhận ra bốn bà vợ của đời mình.
Mình đã quá yêu bà vợ thứ nhất - thân xác mình. Cho dù mình có mặc cho nó đủ thứ lụa là gấm vóc, nuôi dưỡng bằng cao lương mỹ vị, mình cũng chẳng đem theo được về bên kia thế giới.
Mình đã hãnh diện với chức tước, bằng cấp - bà vợ thứ hai - nhưng chức tước ấy sẽ thuộc về người khác khi mình giã từ cõi thế.
Họ hàng, gia đình mình - bà vợ thư ba, sẽ theo mình ra tận nghĩa trang, sẽ hằng năm kỵ giỗ cho mình, nhưng nào ai theo mình xuống huyệt.
Còn cái linh hồn của mình - bà vợ thứ tư - mà mình đã vì qúa chăm lo thể xác, chạy theo tiền tài danh vọng, bon chen chức tước quyền cao, ít khi mình buồn nghĩ đến thì sẽ theo mình đi vào thiên thu.
* * *
“Ca tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi!
Suốt cuộc đời, tôi xin hát mừng Chúa,
Sống bao lâu, nguyện đàn ca kính Chúa Trời.
Đừng tin tưởng nơi hàng quyền thế,
Nơi người phàm chẳng cứu nổi ai.
Họ tắt hơi là trở về cát bụi,
Dự định bao điều: ngày ấy tiêu tan.
Phúc thay người được Chúa Trời nhà Gia-cóp phù hộ
Và cậy trông Chúa, Thiên Chúa họ thờ.” (Thánh Vịnh 145: 1-5)
Suy Niệm 3: Sống Tháng Các Linh Hồn
(Lm. Gioan B. Nguyễn Đình Lưu)
“Con hãy nhớ đến mẹ mỗi khi dâng thánh lễ”. Lời thánh Monica cũng chính là ý nguyện mà các linh hồn tiền nhân muốn nhắc nhở cùng chúng ta là con cháu của các ngài.
Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh tối Thứ Năm tuần trước có phát đi chương trình: “Những đứa con hiếu thảo”. Một trong những khuôn mặt được giới thiệu đó là anh Kim Sơn. Tuổi thơ của anh là những tháng ngày đen tối, bởi cha mẹ đã sớm ly dị khi đã có với nhau ba mặt con. Thiếu sự yêu thương dạy dỗ, Kim Sơn xa dần trường học để bước vào trường đời. Bài học đầu đời mà Kim Sơn học được đó là bài học lừa lọc, dối trá, đấu đá để dành quyền sống. Kết cục của những tháng ngày ngang dọc là những ngày đen tối trong chốn lao tù, là sự hận đời đen bạc, là nỗi buồn tuyệt vọng cô đơn.
Trong lúc đó, mẹ của anh vẫn tần tảo với gánh bún riêu, lê gót qua các phố chiều, chắt chiu từng đồng, để đổi lấy cho anh những hũ chao, những lon ruốc sả. Trải qua nhiều năm tháng, tình thương của người mẹ không hề xói mòn, hy vọng của mẹ không hề bị dập tắc. Cuối cùng tình mẹ đã chiến thắng. Năm 2005, anh được ra khỏi trại và quyết tâm làm lại cuộc đời. Ổn định cuộc sống, anh lập gia đình và đưa mẹ về sống chung để có dịp phụng dưỡng. Anh dứt khoát không để mẹ phải gánh bún đi bán, anh hứa với lòng mình: mẹ muốn ăn gì, mặc gì, anh sẽ mua cho mẹ. Anh còn tuyên bố: hạnh phúc nhất của đời tôi là được sống với mẹ, là được ở bên mẹ mãi mãi.
Câu chuyện của anh Kim Sơn, hẳn phải làm ấm ấp bao tấm lòng của các bà mẹ, đang được sống trong sự chăm sóc ân cần của con cháu, sau một đời tần tảo vất vả. Tuy nhiên, không phải ai cũng được hưởng những ngày tháng hạnh phúc trong sự đùm bọc của con cái. Lại càng ít người còn nhớ và lo lắng cho cha mẹ khi các ngài đã qua đời. Chính vì thế mà Giáo hội đã dành ngày 2 tháng 11 này, và trọn tháng 11 để khơi dậy lòng hiếu thảo nơi những người Kitô hữu, cũng là những người con của gia đình.
Ai trong chúng ta lại chẳng một lần sinh ra bởi cha mẹ, chẳng được ấp ủ trong mái ấm gia đình. Đây chính là chiếc nôi của tình yêu, ngôi trường của lòng nhân ái. Từ trong cái xã hội nhỏ bé ấy, chúng ta đã được bú mớm, nuôi dạy, và từng ngày lớn lên trong vòng tay yêu thương của tình cha, và tiếng ru ầu ơ của mẹ. Để đổi lấy cho chúng ta sức khỏe, cha mẹ đã phải đổ bao mồ hôi sức lực để có bữa cơm miếng cá cho con; lại còn biết bao trăn trở lo lắng cho chúng ta về đường đức tin, học vấn. Hôm nay, chúng ta thành người, có địa vị, có cuộc sống an lành, có gia đình ổn định, lại chính là lúc mà các ngài nhắm mắt xuôi tay. Cái giá mà các ngài phải trả cho sự thành đạt, thành nhân của chúng ta, đâu chỉ là công sức, là nước mắt, là những héo hắt khổ đau, mà có khi còn cả mạng sống mình. Ca dao ViệtNam đã mượn hình ảnh rất quen thuộc để diễn tả sự hy sinh ấy:
“Con cò lặn lội bờ ao, gánh gạo nuôi chồng...”
hay:
“Cha mẹ thương con như biển hồ lai láng,
con thương cha mẹ tính tháng tính ngày”.
Giờ phút này, nghĩ lại công ơn to lớn của các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ, ai trong chúng ta lại không cảm thấy dạt dào niềm xúc động nhớ thương. Nỗi niềm trắc ẩn thôi thúc chúng ta phải làm một cái gì đó cho các ngài, giúp đỡ các ngài, báo hiếu các ngài.
Ai dám quả quyết: hạnh phúc đang ở trong tầm tay của các người thân yêu chúng ta, hay vẫn còn đang là số phận đau thương của chốn hỏa hòa rên xiết.
Vì vậy cùng với lòng tưởng nhớ tri ân, chúng ta hãy thực hiện điều mà các ngài ngày đêm mong chờ khao khát: đó là sớm giúp các ngài ra khỏi chốn luyện hình đau thương, vào chung hưởng hạnh phúc với Chúa. Công việc này, tự sức các ngài không làm được, chỉ biết trông cậy vào chúng ta là con cháu.
Theo lời khuyên bảo của Giáo hội, chúng ta hãy gửi đến cho các đẳng linh hồn nhiều lời cầu nguyện, nhiều việc lành hy sinh, nhất là những thánh lễ trên Bàn Thờ. Bài đọc sách Mikea mà chúng ta vẫn nghe trong thánh lễ an táng đã đề cao việc quyên góp xin lễ cho các linh hồn, là một điều hết sức cần thiết và quí giá. Bởi vì khi cử hành thánh lễ, là tái hiện hy tế Thập giá của Chúa Giêsu, là hiện tại hóa Mầu Nhiệm cứu độ cho các đẳng linh hồn, là mở ra cánh cửa hy vọng cho các người thân của chúng ta, là đưa các ngài từ chốn đau khổ tối tăm vào nơi ánh sáng hạnh phúc.
Và còn gì hạnh phúc hơn, khi chúng ta biết rằng một khi được đón nhận vào tham dự hạnh phúc với Thiên Chúa, các linh hồn sẽ cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta là con cháu của các ngài còn đang phải từng ngày chiến đấu vật lộn với những cam go thử thách. Cuộc thử thách ấy đang diễn ra từng ngày không cân sức, giữa thế lực của ma quỷ, của sự tội, của đam mê với niềm tin còn quá mỏng dòn và non yếu của người Kitô hữu.
Như Đức Kitô đã từng an ủi các Tông đồ trong giờ phút biệt ly đầy nước mắt và đau thương: Lòng các con đừng xao xuyến... thì các đẳng linh hồn cũng đang khích lệ và ngỏ lời cùng chúng ta:
- Đừng xao xuyến vì Con Thiên Chúa đã chết để đền thay tội lỗi của chúng ta.
- Đừng xao xuyến vì Ngài đi là để dọn đường cho chúng ta.
- Hãy tin vào Thiên Chúa vì Ngài là Đấng từ bi và giàu lòng thương xót.
- Hãy tin vào Thiên Chúa và trung thành với Ngài qua các công việc bổn phận hằng ngày và việc giữ các giới răn của Chúa.
Xin vì công nghiệp của Đức Kitô, nhờ lời cầu bầu của các thánh và cầu nguyện của cộng đoàn dân Chúa, Chúa sẽ tha thứ, và sớm đưa các đẳng linh hồn về hưởng hạnh phúc, sau cả đời đã tin tưởng phó thác nơi Chúa.
Kim Sơn sau cả một quãng thời gian đi hoang, không màng đến sự hy sinh vất vả và nước mắt của mẹ, nhưng cuối cùng, anh đã làm cho người mẹ mình thỏa lòng mát dạ khi đã hối hận trở về, cùng dành trọn thời gian còn lại để lo lắng chăm sóc tuổi già của mẹ.
Còn phần chúng ta, được đánh thức qua câu chuyện của anh Kim Sơn, chúng ta sẽ làm gì cho các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ, anh chị em thân yêu của mình trong ngày hôm nay và trong tháng các đẳng linh hồn này?
Xin Chúa cho mỗi chúng ta, luôn biết tỏ lòng thảo kính đối với các bậc tổ tiên ông bà, cha mẹ, anh chị em đã qua đời, bằng việc đọc kinh, dâng những hy sinh việc lành, và đặc biệt là thánh lễ mồng 2 tháng 11 hôm nay, xin vì công nghiệp của Con Chúa trên Thập giá, mà thứ tha muôn tội lỗi và đưa các ngài về hưởng hạnh phúc tôn nhan Nước Chúa.
Suy niệm 4: Lễ Các Linh Hồn
(Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên)
Trong 4 tháng lang thang trên đất Mỹ, tôi nghe và thấy nhiều cảnh ngộ của cái chết:
Một người VN ở Cali chết thật bình thường, nhưng nghe nói tang lễ cho cụ ít ra cũng 20,000.00 USD, riêng cỗ quan đã hết 7,000.00 rồi. Kể ra cái chết ở đấy cũng có giá cao đấy.
Ở Florida tôi nghe kể về cái chết của một Bác Sỹ VN, sau năm 75, Ông đã nỗ lực để nuôi con ăn học thành tài trên đất khách quê người, ai cũng thành tài và thành công. Bà Cụ thì mất trước khá lâu. Ông đến tuổi hưu. Sống một mình, lấy việc dạy võ dưỡng sinh cho các đồng hương làm niềm vui. Rồi cụ phải vào bệnh viện. Cuối cùng cũng đã chết ở đó, không người thân bên cạnh. Người ta phải theo giấy tờ trong người cụ, để điện cho các con cụ. Khi các con có mặt, tất cả đã ký giấy để hiến cụ cho khoa thí nghiệm của bệnh viện: vì tương lai khoa học! Chuyện ấy cũng rất bình thường, nếu như không có cái chuyện sau đó. Phải, các đồng hương của cụ, vì mến yêu tinh thần hy sinh và phục vụ cộng đồng của cụ, muốn đến làm lễ truy điệu cho cụ tại tang gia. Nhưng ở đây con cái cụ quá ngạc nhiên về cái yêu cầu ấy, vì gia đình không làm gì cả, mọi việc là bệnh viện đã làm theo cách của bệnh viện rồi. Cuối cùng, vì sự tha thiết của các đồng hương, người gia đình bằng lòng cho họ mượn một tấm ảnh cụ để tổ chức lễ truy điệu cho Thầy ở nơi khác.
Ở Arlington, tôi nghe kể về cái chết của một cụ già người Mỹ. Cụ sống với cụ Bà ở đây đã lâu, cho dù có 2 người con, cũng thành đạt, nhưng chẳng bao giờ thấy họ tới thăm các cụ. Trong trường hợp cụ bà thế nào không biết, nhưng hàng xóm thấy mùi hôi nồng nặc từ nhà các cụ, báo cảnh sát, người ta mới khám ra cụ ông đã chết mấy ngày rồi!
Tôi cũng được thông tin về cái chết của 17 thủy binh trên chiến hạm Cole. Tôi nhìn trên TV thấy người ta đang tìm kiếm Thống Đốc Missouri sau tai nạn máy bay. Tôi cũng thấy cảnh chiếu người ta quăng xác 2 cảnh sát chìm Do Thái qua cửa sổ, và những cái chết do sự trả thù.
Cái chết vẫn ám ảnh cuộc sống con người, cho dù con người luôn tự hào về tiến bộ, văn minh, giàu sang và no đủ, dường như là đã đẩy lùi bóng ma sự chết.
Tuy nhiên, có lẽ người ta khá thành công trong việc khiến cho con người không còn nhiều suy nghĩ về những vấn đề siêu hình, kể cả cái chết. Con người hầu như chỉ còn kịp suy nghĩ về công việc làm mỗi ngày của họ thôi. Họ đi bên cạnh cái chết với sự rất xa lạ.
Nếu như chỉ có cái hiện tại là quan trọng, thì tôi thiết nghĩ những cái chết cụ thể trên kia thật vô cùng phi lý. Những cái chết chỉ vì cho một hiện tại tốt đẹp, lại bị chính đứa con mình cưu mang phủ nhận cách thật phũ phàng. Cho dù bằng lý trí, con người muốn chối bỏ cái bên kia sự chết, nhưng bằng chính mỗi một cái chết của mình, con người lại khẳng định họ tin vào thế giới bên kia cái chết, cho dù nó là gì, thì không ai nói thành lời.
Đức Giêsu Kitô, đã đến, và cũng bằng cái chết của mình, Ngài khẳng định bên kia sự chết, có thế giới của sự sống thật: Sự sống chan hòa yêu thương. Tình Yêu được đảm bảo bởi Tình Yêu Vô Biên của MỘT NGƯỜI CHA. Đức Giêsu đến để đem lửa yêu thương ấy vào trần gian, để biến đổi mọi hiện tại của cõi nhân sinh nên hiện tại vĩnh hằng của Tình Cha với con cái mình.
Ngày lễ Các Linh Hồn chỉ có ý nghĩa trong Tình Yêu Vĩnh Hằng ấy:
Cuộc sống hôm nay, không chỉ là cơm bánh, nhưng còn là ánh sáng yêu thương của Cha rọi soi mọi giây phút cuộc đời mình. Tình yêu phải phủ trùm mọi cảnh huống, kể cả cõi sống bên kia cái chết.
Suy niệm 5: Lễ Các Đẳng Linh Hồn
(Hiền Lâm)
I. THÁNH LỄ I – Tin mừng Gioan 6,37-40
Trong kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm các thánh thông công, là sự hiệp thông mật thiết giữa ba thành phần Hội Thánh, bao gồm Hội Thánh Vinh Thắng, Hội Thánh Lữ Hành và Hội Thánh Thanh Luyện. Ngày hôm qua, trong sự tương giao, Hội Thánh Lữ Hành chúng ta hân hoan chia sẻ niềm vui và cảm tạ Chúa với Hội Thánh Vinh Thắng trên trời, thì hôm nay, chúng ta cùng hiệp thông cầu nguyện cho Hội Thánh Thanh Luyện là các đẳng linh hồn trong luyện ngục.
Bài Tin Mừng hôm nay đưa ra cho chúng ta một tiêu chuẩn giúp chúng ta sẽ đạt tới vinh thắng, đồng thời cũng nâng đỡ niềm tin cho chúng ta khi dâng lời cầu xin cho các tín hữu đã qua đời.
1) Vâng theo Thiên Ý (x.Ga 6,37-39)
Mở đầu bài Tin Mừng, Chúa Giêsu khẳng định sứ mạng của Người là đến trần gian để làm theo ý Chúa Cha, hầu cứu độ hết mọi người, không loại trừ một ai.
- Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta sống sứ mệnh người Kitô hữu, là vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, để được thông phần vào cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu Kitô, mưu ích cho các linh hồn, và mai sau cũng được phục sinh với Người.
- Các tín hữu đã qua đời, cũng là những người như chúng ta, đã cùng được dìm trong nước Thánh Tẩy, được lãnh lấy của ăn thần linh là Thánh Thể, và đã vượt qua cái chết thể lý. Chúng ta tin tưởng lời Chúa Giêsu hứa hôm nay rằng, những ai Chúa Cha ban cho Tôi thì Tôi không muốn để mất một ai, mà sẽ ban sự sống đời đời cho họ, và cho họ sống lại trong ngày sau hết. Tuy nhiên, trong thời gian còn sống, các linh hồn còn vướng những vết nhơ tội lỗi và chưa được hoàn toàn xứng đáng diện kiến Chúa. Mầu nhiệm hiệp thông các thánh thông công, chúng ta tin tưởng cầu xin cho họ.
2) Tin vào Chúa Giêsu Kitô (x.Ga 6,40)
Chúa Giêsu nói rõ cho chúng ta biết, ý Thiên Chúa Cha muốn mọi người chúng ta là tin vào Con Thiên Chúa, tức là tin vào Chúa Giêsu, để nhờ đó họ sẽ được mãi mãi chiêm ngưỡng thánh nhan Người và được sống lại trong ngày sau hết.
- Như thế, điều kiện tiên quyết để được cứu độ là phải tin và sống niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô. Nên dù mặc nhiên hay minh nhiên, không qua Đức Giêsu Kitô thì không thể vào Nước Thiên Chúa.
Sẽ khó trả lời khi nói điều này với người ngoài Kitô Giáo, nhưng hết những ai qua tôn giáo của họ hoặc qua tiếng lương tâm mà ăn ở tốt lành thánh thiện thì mặc nhiên ở trong Đức Kitô (được rửa tội “bằng lửa”). Cũng thế, những ai dám hy sinh tính mạng vì niềm tin hoặc vì Đức Ái, thì dù chưa được lãnh nhận bí tích rửa tội, thì cũng mặc nhiên ở trong Đức Kitô toàn thể (rửa tội “bằng máu”). Lại nữa, Ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu mang tính vượt thời gian từ quá khứ đến hiện tại. Chính vì thế mà trong bài đọc I, ông Gióp đã nói: “Tôi tin rằng Đấng Cứu Chuộc tôi hằng sống, và ngày sau hết khi thân xác tiêu tan, tôi sẽ được chiêm ngưỡng Người” (G 19,25-27).
- Một điều đáng khích lệ chúng ta nữa là, như trong bài đọc II, thánh Phaolo dạy: “Chúa Giêsu đã chết để cứu chúng ta là tội nhân…” (Rm 5,8). Như thế, dù tội lỗi như thế nào đi nữa, chúng ta không thất vọng, chúng ta chắc chắn sẽ được cứu độ vì đã tin vào Chúa Giêsu Kitô, miễn là chúng sống xứng đáng với niềm tin đó.
Và đó cũng là tâm tình mà chúng ta dâng lên Chúa trong ngày hôm nay, để cầu nguyện cho các linh hồn. Amen.
II. THÁNH LỄ II – Tin mừng Luca 23,33.39-42
Phụng vụ Lời Chúa trong thánh lễ này, tập chú nói về niềm hy vọng đạt tới thực tại tương lai vĩnh hằng:
Hình ảnh ngôn sứ Isaia được nhìn thấy (bài đọc I), miêu tả việc Thiên Chúa bù đắp lại cho những gian lao đau khổ mà con người chịu khi còn sống nơi trần thế là: “…Thiên Chúa sẽ lau khô mọi dòng lệ, xé bỏ khăn tang, xoá sạch mọi ô nhục và thiết đãi muôn dân một bữa tiệc… Chính Người là Đức Chúa ta hằng đợi trông…” (x. Is 25,6a.7-9).
Trong thư Rôma (bài đọc II), thánh Phaolô cho biết chúng ta là con cái Thiên Chúa sẽ được đồng thừa kế gia nghiệp cùng với Đức Kitô. Và gia nghiệp đó vượt xa mọi thực tại hạnh phúc thế gian, bởi vì những đau khổ đời này sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải (x. Rm 8,14-23).
Qua bài Tin Mừng, niềm hy vọng và khích lệ lớn dành cho chúng ta, là dù quá khứ chúng ta có đầy tội lỗi, nhưng chỉ cần một thời gian ngắn ngủi trở về với Chúa, thì tình thương hải hà của Chúa sẵn sàng tha thứ và nhận chúng ta vào Nước của Người.
Tuy nhiên, để được vào Nước Chúa như người “trộm lành” kia, theo Chúa trong “giờ thứ 11”, nghĩa là giờ phút cuối cùng, vẫn cần ít nhất hai thái độ:
1. Nhận ra con người tội lỗi của mình.
Ở Nga, người ta vẫn coi anh chàng “trộm lành” có tên là Dismat này là một vị thánh và là bổn mạng của các tội nhân mang án tử. Anh đã nên thánh ngay phút chót của cuộc đời trần thế, chỉ vì anh đã thống hối và tin vào Chúa Giêsu.
Người trộm lành đã ý thức tội lỗi của mình và đáng chịu phạt xứng với tội lỗi anh đã gây ra.
2. Tin và cầu xin với Chúa Giêsu Kitô.
Tuy nhiên, chỉ dừng lại ở sám hối mà thôi thì chưa đủ để được vào Nước Thiên Chúa, người trộm lành cần đến niềm tin nơi Đấng bị đóng đinh kia là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ. Đây là một đặc điềm của đạo Công Giáo chúng ta. Chúng ta không chỉ sám hối mà còn phải tin vào Tin Mừng là tin vào Chúa Giêsu Kitô (khác với Phật Giáo), không phải tự cứu mình bằng nỗ lực bản thân mà là cần kết hợp với ơn Chúa, hoàn thiện bản thân trong sự kết hợp với ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu Kitô. Cũng không phải chỉ tin là đủ, mà phải hành động cụ thể là sám hối và tin và Tin Mừng.
- Cùng hiệp thông cầu cho các tín hữu đã qua đời hôm nay. Chúng ta cùng biết ý thức về thân phận yếu đuối mỏng giòn của mình, đồng thời tin tưởng vào giá máu cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô, sẽ giải thoát các linh hồn đang phải thanh luyện trong luyện ngục. Các đẳng từng, là những người như chúng ta, đã tin vào Chúa Giêsu Kitô, nhưng trong đời sống niềm tin đó còn thiếu sót, hoặc chưa có một sự sám hối đền tội cho đủ, nên bây giờ còn phải thanh luyện nơi luyện ngục.
Chúng ta tin tưởng và cậy trông vào Thiên Chúa, nhưng không ỷ lại vào giờ phút chót, vì chúng ta không biết lúc nào Chúa gọi mình ra đi, nên cần luôn có một sự tỉnh thức và sẵn sàng.
III. THÁNH LỄ III – Tin mừng Gioan 11,17-27
Trong thánh lễ III, Giáo Hội cho đọc đoạn Tin Mừng Gioan kể về việc Chúa Giêsu đến thăm gia đình Bêtania sau khi được tin Lazarô chết. Đoạn Tin Mừng này làm nổi bật lên hai bài học sau đây:
1. Chân lý đức tin qua các lời tuyên xưng của cô Martha.
- “Lạy Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con đã không chết”
Phải, “được Chúa thì được tất thảy, mất Chúa thì mất sạch tay”. Lời nói của Martha như là một lời than trách vì Chúa Giêsu đến chậm nên Lazarô em chị đã chết, nhưng đây là một cách diễn tả của Tin Mừng Gioan là: linh hồn chúng ta được coi là đã chết khi vắng Chúa Giêsu.
- “Bất cứ điều gì Thầy xin thì Thiên Chúa cũng ban cho Thầy”
Nghĩa là dù em con đã chết rồi, nhưng bây giờ Thầy xin thì Thiên Chúa vẫn cho em con được sống lại. Thật vậy, dù linh hồn chúng ta đã bao lần chết đi vì vắng Chúa, chúng ta xưng thú tội lỗi và đón rước Chúa vào lòng thì Chúa Giêsu sẽ lại phục hồi cho ta sự sống thiêng liêng với muôn vàn ơn phúc.
- “Con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”
Đây là điều chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Đức tin Công Giáo chúng ta xác nhận rằng, những người lành thánh sau khi lìa đời, linh hồn sẽ được hưởng tôn nhan Chúa, và ngày tận thế thân xác cũng sẽ được phục sinh để hưởng hạnh phúc trường cửu. Niềm tin này đã có từ thời Cựu Ước, mà trong bài đọc I, sách Macabê đã ghi lại việc quyên góp tiền để xin dâng hy lễ đền tội cho các chiến sĩ đã tử trận. Ngày nay, nơi Giáo Hội Công Giáo, trong sự hiệp thông, chúng ta vẫn cầu nguyện, dâng việc lành và xin lễ đền tội cho các linh hồn.
2. Lời khẳng định của Chúa Giêsu về sự sống.
- “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống”
Chúa Giêsu Kitô là sự sống của linh hồn. Vì thế, khi chúng ta không ăn Bánh Sự Sống thì linh hồn chúng ta sẽ chết yểu và hư đi.
Chúa Giêsu còn là sự sống lại. Chính Người là Đấng đầu tiên sống lại từ cõi chết, mở đường cho những ai tin vào Người và thông hiệp trong cái chết của Người sẽ được phục sinh như Người.
- “Ai tin vào Thầy thì dù chết rồi thì vẫn sẽ được sống”
Hôm nay chúng ta dâng lễ và viếng nghĩa trang cầu nguyện cho các linh hồn, chính là vì chúng ta đang tin vào điều này. Các đẳng linh hồn vẫn sống vì đã tin vào Chúa Giêsu, nhưng còn mang ít nhiều vết nhơ của tội. Vì thế, lời cầu xin và việc dâng hy lễ của chúng ta là cậy nhờ dòng Máu Sự Sống của Chúa Giêsu đến giải thoát các linh hồn cho về hưởng sự sống vĩnh cửu.
- “Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”
Lời này hướng đến chúng ta là những người đang còn hiện hữu trên trần gian. Vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô nên sẽ không sợ cái chết, cái chết thể lý chỉ là cửa ngõ đưa chúng ta về cuộc sống vĩnh cửu.
Suy Niệm 6: Lễ Các Linh Hồn
(Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
“Tôi nhận ra rằng mọi sự Thiên Chúa làm sẽ tồn tại mãi mãi. Không có gì để thêm, chẳng có gì để bớt. Thiên Chúa đã hành động như thế để phàm nhân biết kính sợ Người”. (Gv 3, 14)
Suy niệm 1: Xin nhớ đến tôi
Người ta kể rằng: Có một người duy nhất sống sót trong một tai nạn đắm tàu và trôi dạt trên một hoang đảo nhỏ. Kiệt sức, nhưng cuối cùng anh đã gom được những mẫu gỗ trôi dạt và tạo cho mình một túp lều nhỏ để trú ẩn và cất giữ một vài đồ đạc còn sót lại. Ngày ngày anh nhìn về chân trời cầu mong được cứu thoát, nhưng dường như vô ích.
Thế rồi một ngày, như thường lệ anh rời khỏi chòi để tìm thức ăn trong khi bếp lửa trong lều vẫn cháy. Khi anh trở về thì túp lều nhỏ đã ngập trong lửa, khói cuộn bốc lên trời cao. Điều tồi tệ nhất đã xảy đến. Mọi thứ đều tiêu tan thành tro bụi. Anh chết lặng trong sự tuyệt vọng: “Sao mọi việc lại thế này lại xảy đến với tôi hở trời!”.
Thế nhưng, rạng sáng hôm sau, anh bị đánh thức bởi âm thanh của một chiếc tàu đang tiến đến gần đảo. Người ta đã đến để cứu anh. “Làm sao các anh biết được tôi ở đây?” - Anh hỏi những người cứu mình. Họ trả lời: “Chúng tôi thấy tín hiệu khói của anh”.
Những người đã chết cũng đang sống trong hoài bão chờ mong. Họ chờ mong có ai đó nhớ đến họ. Họ chờ mong có ai đó cứu thoát họ. Họ đã bị âm dương xa cách ngàn trùng. Cuộc đời của họ đã trôi dạt vào một bến bờ xa lắc. Không lối thoát. Không tự mình cứu mình. Họ chỉ còn trông mong nơi những người còn sống.
Người thanh niên trên đảo đã vô tình đốt lều tạo thành khói lửa báo hiệu cầu cứu. Những người đã chết theo những mạc khải tư họ vẫn hiện về với lửa, với nóng, với lời cầu xin “xin cứu giúp họ”. Những ánh lửa vẫn là lời mời gọi con người hãy nhớ đến những người đã khuất. Họ đang chịu sự hình phạt do tội mình gây nên. Họ đang phải thanh luyện nên hoàn hảo hơn. Thế nhưng, họ bất lực vì không thể làm gì khác hơn để cứu mình. Họ mong chúng ta hãy cứu giúp họ.
Trong bí mật Fatima chúng ta cũng thấy: Mẹ Maria đã mạc khải qua lời chị Lucia như sau:
“Đức Mẹ đã tỏ cho chúng con thấy một biển lửa lớn, dường như ở dưới lòng đất. Ma quỉ và các linh hồn dưới hình người bị chìm ngập trong lửa này, giống như những cục than hồng thông suốt, hoàn toàn như thỏi đồng đen đủi hay bóng láng, bập bềnh trong một đám cháy rực lửa, lúc thì bị tung lên không trung bởi những ngọn lửa xuất phát từ chính mình họ cùng với những đám khói cả thể, lúc thì bị rớt một cách nhẹ bỗng xuống khắp nơi như những tia lửa của một đám cháy khổng lồ, với những tiếng la thất thanh và rên xiết đớn đau tuyệt vọng, khiến chúng con kinh khiếp và rùng mình sợ hãi. Có thể nhận ra đám ma quỉ bằng những hình thù rùng rợn và ghê tởm giống các con thú kinh khiếp chưa từng thấy. đen ngòm và thông suốt. Thị kiến này kéo dài trong giây lát. Chúng con làm sao có thể tỏ lòng biết ơn cho đủ đối với Người Mẹ thiên đình nhân ái của chúng con, Đấng mà trong lần hiện ra thứ nhất đã sửa soạn trước cho chúng con bằng lời hứa sẽ đem chúng con về thiên đàng. Bằng không, con nghĩ rằng chúng con sẽ chết đi vì sợ hãi và kinh hoàng.
Tháng 11 Giáo hội mời gọi chúng ta nhớ tới những người thân yêu của chúng ta đã ly trần. Họ có thể là ông bà, cha mẹ của chúng ta. Họ có thể là bằng hữu của chúng ta. Họ cũng có thể là những người đã gây nên không biết bao nhiêu đau khổ cho chúng ta. Họ đã hối hận nhưng không còn cơ hội sửa lỗi hay lập công. Họ đang trải qua ngọn lửa thanh luyện để được xứng đáng vào dự yến tiệc Con Thiên Chúa.
Theo giáo lý về luyện ngục, Giáo hội cũng khẳng định: “Tất cả những người chết trong ân nghĩa Chúa, nhưng chưa được thanh luyện hoàn toàn, mặc dù chắc chắn được cứu độ đời đời, còn phải chịu thanh luyện sau khi chết, nhằm đạt được sự thánh thiện cần thiết để vào hưởng phước Thiên Đàng. Hội Thánh gọi việc thanh luyện cuối cùng của những người được chọn là luyện ngục. Điều này khác hẳn với hình phạt đời đời” (các số 1030-1031).
Vậy chúng ta có thể làm gì cứu giúp các linh hồn?
Trong sách Macabêô II, 12: 25, tác giả nói rằng việc nhìn nhận phần thưởng dành cho những người an nghỉ cách đạo đức mang ý nghĩa lành thánh; do đó ông Yuda đã xin dâng lễ tế cầu ơn xá tội cho những linh hồn người chết để họ được tha thứ tội lỗi”.
Mỗi người chúng ta đều có những người rất thân yêu đã ly trần. Họ chỉ mong chờ chúng ta một lời kinh, một thánh lễ,một việc lành thay cho họ. Họ đang nói với chúng ta “Xin đừng quên tôi”. Xin cho chúng ta biết dùng tháng 11 như là một tháng đền ơn đáp nghĩa những người đã yêu thương chúng ta mà nay đã ly trần bằng việc nhớ và cầu nguyện cho họ. Amen
Suy niệm 2: Dụ ngôn cây chuối
Có một cậu bé hỏi bố rằng:
“Bố ơi, trong cuộc đời của một cây chuối nó sinh ra được bao nhiều buồng?”
“Chỉ một buồng duy nhất.” – Bố tôi trả lời.
Cậu nhỏ ngạc nhiên về câu trả lời của bố. Nó cứ đinh ninh trong cuộc đời của mình một cây chuối ít nhất cũng phải cho vài buồng quả.
“Khi buồng chuối chín cũng là lúc cây chuối mẹ chết đi.” – Bố nói thêm.
Thực vậy, nếu có dịp quan sát một cây chuối mang một buồng quả chín ta sẽ thấy: Lá của cây chuối mẹ héo rũ và xác xơ, và thân của nó oằn xuống như sắp gãy vì nó phải mang trên mình một buồng chuối nặng trĩu quả. Chỉ một thời gian ngắn nữa thôi, khi buồng chuối chín hoàn toàn, cây chuối mẹ sẽ gục hẳn xuống.
Trong quá trình nuôi buồng chuối, cây chuối mẹ đã hy sinh những phần tinh túy nhất của mình – chất dinh dưỡng trong gốc, thân và lá – để dồn cho những quả chuối được chín, để dâng cho đời những trái chuối ngon ngọt.
Hóa ra lâu nay hàng ngày tôi vẫn ăn chuối và thỉnh thoảng vẫn nhìn thấy một bụi chuối mà không hề hay biết cây chuối tượng trưng cho một hình ảnh đẹp về sự hy sinh.
Cây tốt lại sinh trái tốt. Cây chuối từ đời này đến đời kia cứ tiếp tục dâng hiến, hy sinh để cho một mần sống mới phát triển. Phẩm chất của cây chuối không chỉ là thơm ngon, là chất bổ dinh dưỡng mà còn là bài học quý báu của tình yêu hy sinh đến quên cả tính mạng mình. Đó là mẫu gương của sự hy sinh, của tình yêu bất diệt.
Tháng 11 là dịp để chúng ta nhớ tới biết bao hy sinh của những bậc làm cha mẹ đã quên mình vì chúng ta. Họ đã đánh đổi cuộc đời cho chúng ta sự sống, cho chúng ta tiếng cười và bình an. Họ đã một cuộc đời tận hiến thân mình như cây chuối chỉ mong mang lại cho đời trái chin thơm ngon và chấp nhận gục ngã theo số phận an bài.
Vâng, khi nói đến cha mẹ, chúng ta không thể quên những hy sinh mà các ngài đã dành cho chúng ta. Điều này đã thể hiện qua biết bao ca từ của lời hát, của những câu ca. Văn học luôn phát triển cùng với những vần thơ ca tụng về tình cha tình mẹ. Và có lẽ, từ bé đến già, không nhiều thì ít, ai cũng cảm thấy thấm thía ơn đức cao cả của mẹ cha:
“Công cha đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ song thân”.
“Biết thờ song thân”, thờ trong khi sống, thờ sau khi chết, thờ thế nào cho phải đạo làm con, cho xứng đáng phần nào công lao tảo tần nuôi con của mẹ:
“Nuôi con buôn tảo bán tần
Chỉ mong con lớn nên thân với đời
Những khi trái nắng trở trời
Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên
Trọn đời vất vả triền miên,
Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con”.
Thế nên, nếu so sánh công đức của mẹ hiền như non cao cũng chưa xứng đáng:
“Ai rằng công mẹ như non
Thực ra công mẹ lại còn lớn hơn”.
Tình thương của cha mẹ thật lớn lao. Tình thương ấy thật bao la, bát ngát, nên mỗi khi mẹ cất tiếng ru con thì đời con thêm tươi sáng:
“Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.
Khó đi mẹ dắt con đi,
Con đi trường học mẹ đi trường đời”.
Vậy, những tình yêu mà cha mẹ dành cho chúng ta, các ngài cần gì nơi chúng ta? Chắc chắc không phải là tiền bạc, vì tiền bạc các ngài dành giụm để cho chúng ta. Chắc chắc đó không phải là danh vọng, vì tuổi gìa chẳng còn ham muốn những tham sân si của dòng đời. Các ngài cần tình yêu của chúng ta qua sự chăm sóc, thăm nom của chúng ta khi các ngài còn sống. Niềm mơ ước đó đã thể hiện qua những lời mẹ ru con:
“Ai về tôi gửi buồng cau,
Buồng trước kính Mẹ, buồng sau kính Thầy.
Ai về tôi gửi đôi giầy,
Phòng khi mưa gió để Thầy Mẹ đi”.
Trong đạo hiếu đôi khi những người con còn dám chấp nhận hy sinh hạnh phúc, hy sinh cuộc đời riêng tư của mình, một lòng chỉ quyết phụng dưỡng mẹ cha:
“Ơn hoài thai, to như bể!
Công dưỡng dục, lớn tợ sông!
Em nguyện ở vậy không chồng,
Lo nuôi cha mẹ hết lòng làm con”.
Không chỉ ở nhà mới phụng dưỡng cha mẹ mà ngay cả khi sang nhà chồng hay khi làm ăn nơi xa vẫn một niềm lắng lo, vẫn canh cánh bên lòng một cuộc đời già nua của cha mẹ:
“Chim đa đa đậu nhánh đa đa,
Chồng gần không lấy, để lấy chồng xa.
Mai sau cha yếu, mẹ già.
Bát cơm đôi đũa, kỹ trà ai dâng?
Lòng thảo hiêu ấy được tỏ bày một cách chân thành khi các ngài đã qua đời, luôn cầu nguyện, thắp hương tưởng nhớ mẹ cha.
Giáo Hội Công Giáo mời gọi chúng ta lấy tinh thần thảo hiếu của người Việt vào trong đời sống tôn giáo bằng việc dùng tháng 11 như là tháng ân hiếu mẹ cha.
Đạo hiếu luôn dạy chúng ta “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Đạo hiếu luôn nhắc nhở chúng ta phải tỏ lòng hiếu thảo với cha mẹ. Xin cho chúng ta luôn sống thảo hiếu với cha mẹ. Khi còn sống biết kính trọng vâng lời. Khi các ngài đã qua đời luôn nhớ đến các ngài trong kinh tối, kinh sáng và trong thánh lễ hằng ngày. Amen.
Suy Niệm 7: Lịch sử ngày Lễ Các Đẳng Linh Hồn
(vietcatholic.net - LM. Nguyễn Phước).
Ngay từ thời tiên khởi, Giáo Hội đã khuyến khích chúng ta cầu nguyện cho người chết như một nghĩa cử bác ái. Thánh Augustine viết, “Nếu chúng ta không lưu tâm gì đến người chết, thì chúng ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ.” Tuy nhiên, các nghi thức cầu cho người chết có tính cách dị đoan thời tiền-Kitô Giáo đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nỗi mãi cho đến đầu thời Trung Cổ, nhờ các dòng ẩn tu có thói quen cầu nguyện cho các tu sĩ đã qua đời hàng năm thì một nghi thức phụng vụ cầu cho người chết mới được thiết lập.
Vào giữa thế kỷ 11, Thánh Odilo, Tu Viện Trưởng dòng Cluny, ra lệnh rằng mọi tu viện dòng Cluny phải cầu nguyện đặc biệt và hát kinh Nhật Tụng cầu cho người chết vào ngày 2 tháng Mười Một, ngay sau lễ Các Thánh. Truyền thống này được lan rộng và sau cùng được Giáo Hội chấp nhận đưa vào niên lịch Công Giáo La Mã.
Ý nghĩa thần học làm nền tảng cho ngày lễ này là sự thừa nhận bản tính yếu đuối của con người. Vì ít có ai đạt được một đời sống trọn hảo, mà hầu hết đã chết đi với vết tích tội lỗi, do đó cần có thời gian thanh tẩy trước khi linh hồn ấy được đối diện với Thiên Chúa. Công Đồng Triđentinô xác nhận có luyện tội và nhấn mạnh rằng lời cầu nguyện của người sống có thể rút bớt thời gian thanh luyện của linh hồn người chết.
Sự dị đoan vẫn còn dính dấp đến ngày lễ này. Thời trung cổ người ta tin rằng các linh hồn trong luyện tội có thể xuất hiện vào ngày lễ này dưới hình thức các phù thủy, các con cóc hay ma trơi. Và họ đem thức ăn ra ngoài mộ để yên ủi người chết.
Tuy nhiên việc cử hành lễ với tính cách tôn giáo vẫn trổi vượt. Người ta tổ chức đọc kinh cầu nguyện ở nghĩa trang hay đi thăm mộ người thân yêu đã qua đời và quét dọn, trang hoàng với nến và hoa.
***
Có nên cầu nguyện cho người chết hay không là một tranh luận lớn khiến chia cắt Kitô Giáo. Vì sự lạm dụng ơn xá trong Giáo Hội thời ấy nên Luther đã tẩy chay quan niệm luyện tội. Tuy nhiên, đối với chúng ta, cầu cho người thân yêu là một phương cách cắt bỏ sự chia lìa với người chết. Qua lời cầu nguyện, chúng ta cùng đứng với những người thân yêu, dù còn sống hay đã ra đi trước chúng ta, để dâng lời cầu xin lên Thiên Chúa.
***
“Chúng ta không thể coi luyện tội là một nhà tù đầy lửa cận kề với hỏa ngục - hoặc ngay cả “một thời gian ngắn của hỏa ngục.” Thật phạm thượng khi nghĩ rằng đó là một nơi chốn mà Thiên Chúa bủn xỉn đang bòn rút từng chút thân xác... Thánh Catherine ở Genoa, vị huyền nhiệm của thế kỷ 15, viết rằng “lửa” luyện tội là tình yêu Thiên Chúa “nung nấu” trong linh hồn đến nỗi, sau cùng, toàn thể linh hồn ấy bừng cháy lên. Đó là sự đau khổ của lòng khao khát muốn được xứng đáng với Đấng được coi là đáng yêu quý vô cùng, họ đau khổ vì sự mơ ước được kết hợp đã cầm chắc trong tay, nhưng lại chưa được hưởng thật trọn vẹn” (Leonard Foley, O.F.M., Tin Chúa Giêsu).
***
Lạy Chúa Giêsu,
nếu người ta cứ phải sống mãi trên cõi đời này
thì thật là phiền toái.
Nhưng cái chết vẫn làm chúng con đau đớn
vì phải chia tay với những người thân yêu,
vì bao mộng mơ, dự tính còn dang dở.
Xin cho chúng con đừng nhìn cái chết
như một định mệnh nghiệt ngã và phi lý,
nhưng như một hành trình trở về nguồn cội yêu thương.
Lạy Chúa Giêsu, trước cái chết thập giá,
Chúa đã run sợ, nhưng không tháo lui,
và Chúa đã chết trong niềm vâng phục tín thác,
để trở nên người đầu tiên bước vào cõi sống Vĩnh Hằng.
Xin cho chúng con nghe được lời dạy dỗ của cái chết.
Cái chết cho thấy cuộc sống mong manh, ngắn ngủi,
chính vì thế từng giây phút trôi qua thật quý báu.
Cái chết bất ngờ mời gọi chúng con luôn tỉnh thức.
Cái chết nhắc nhở chúng con là khách lữ hành
đang trên đường về quê hương vĩnh cửu.
Sống một đời và chết một lần.
Lạy Chúa, đó là thân phận làm người của chúng con.
Xin dạy chúng con biết cách chết nhờ biết cách sống.
Amen!
(theo Maranatha 89)
Suy Niệm 8: Tưởng nhớ người đã ra đi
(Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long)
Khi tưởng nhớ đến người đã qúa cố, tâm tình buồn thương nhớ tiếc khơi dậy nơi những người còn đang sống trên trần gian.
Tâm tình này đạo đức và rất tình người. Tâm tình này cũng dẫn đưa chúng ta đến suy nghĩ về những khác biệt trong đời sống của con người. Nhưng mọi người đều có ngày mở mắt chào đời từ trong cung lòng mẹ đi ra. Và ai cũng có ngày sau cùng của đời sống rồi được bọc trong cỗ áo quan chôn vùi dưới lòng đất.
Những người đã ra đi khỏi cuộc sống trần gian về thế giới bên kia và những người còn đang sống, trước sau vẫn thuộc về nhau. Tất cả đã cùng chung sống với nhau. Chúng ta và họ đã cùng chia sẻ cuộc sống niềm tin, cuộc sống tình người với nhau.
Họ đã ra đi. Nhưng họ vẫn hằng hiện diện trong trái tim tình yêu mến của chúng ta. Họ vẫn hằng sống động trong tâm tình biết ơn của chúng ta, cùng trong những kỷ niệm ngày đã cùng nhau sống trải qua.
Mỗi khi cùng nhau dâng thánh lễ tưởng nhớ đến người qúa cố, chúng ta muốn nói lên: Không chỉ một mình tôi làm việc này. Nhưng tất cả mọi người trong thánh đường đang cùng dâng thánh lễ cũng tưởng nhớ đến thân nhân của họ đã qúa cố.Vì cuộc đời ai mà không có lần đau buồn chia lìa vĩnh biệt người thân của mình đã qua đời.
Và trong thánh lễ tưởng niệm sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô không chỉ chúng ta người còn đang sống, mà cả những người đã qúa cố cùng quây quần bên bàn tiệc thánh lễ: Tôi tin các Thánh cùng thông công. Tôi tin phép tha tội. Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen.
Bánh Thánh, Mình Máu Chúa Giêsu nối kết người còn sống và người đã qua đời lại với nhau trong niềm tin và tình yêu mến.
Với niềm tin và tâm tình yêu mến chúng ta hôm nay:
1. Tưởng nhớ đến Tổ tiên, Ông Bà, cha mẹ đã ra đi về cùng Thiên Chúa.
Họ là những người đã sinh thành, nuôi dưỡng, dạy dỗ chúng ta nên người khôn lớn. Họ là những người đã không chỉ nuôi dưỡng chúng ta bằng sữa, bằng cơm ăn áo mặc, lo lắng cho sức khỏe. Nhưng họ đã hy sinh suốt cả cuộc đời làm tròn nhiệm vụ là cha mẹ được Thiên Chúa giao phó, nuôi dạy uốn nắn đời sống đức,tin tinh thần đạo đức của chúng ta.
Tình yêu đó, công ơn đó xin muôn đời ghi nhớ, và mỗi khi dâng Thánh lễ chúng con đều nhớ đến và mang dâng lên bàn thờ Chúa.
2. Tưởng nhớ đến những người thân yêu ruột thịt trong gia đình đã an giấc ngàn thu: họ là chồng hay vợ; là con cái, cháu chắt, anh chị em, cậu cô chú bác, cô dì.
Với họ chúng ta đã cùng nhau trải qua những chặng đường đời sống vui buồn cay đắng ngọt bùi, đã cùng nhau sống những giờ phút thành công cũngnhư thất bại, hy vọng có lo âu sợ sệt cũng có. Một phần đời sống của ta từ nơi họ và một phần đời sống của họ cũng từ nơi ta.
Ân nghĩa, tình yêu và những kỷ niệm này luôn hằng khắc ghi trong tâm khảm ngươì còn đang sống, và xin dâng lên bàn thánh hợp cùng hy lễ Chúa Giêsu trên thánh giá.
3. Xin tưởng nhớ đến các linh mục, những người được Thiên Chúa và Hội Thánh trao nhiệm vụ săn sóc việc tinh thần đạo đức cho các tín hữu trong các xứ đạo. Sau những năm tháng âm thầm hy sinh làm việc tông đồ, họ đã nghe tiếng Chúa gọi trở về đời sau.
Sự hy sinh và lòng quảng đại sống rao giảng, làm nhân chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa trong các xứ đạo của linh mục là ân đức của Chúa ban tặng cho con người.
Người tín hữu Chúa Kitô vui mừng và cảm thấy an ủi vì có linh mục, vị hướng dẫn tinh thần, là người cùng đồng hành với trong cuộc sống niềm tin vào Thiên Chúa.
Linh mục vui và cảm thấy được nâng đỡ vì có Thiên Chúa ở cùng ông trong mọi hoàn cảnh và nhất là được cùng chung sống xây dựng phát triển đời sống niềm tin với mọi người tín hữu.
Các cha nằm nơi nghĩa trang sâu trong lòng đất mẹ. Nhưng những người tín hữu xưa kia đã cùng chung sống trải qua trong xứ đạo không quên ơn các cha. Nơi bàn thánh xưa kia các cha cùng dân Chúa dâng thánh lễ, ngày nay khi dâng thánh lễ họ cùng hợp với của lễ Chúa Giêsu nhớ đến cầu nguyện cho các cha.
4. Xin nhớ đến các Nữ Tu cùng các Thầy Dòng đã chọn đời sống thanh tịnh theo tiếng gọi của Chúa trong Hội Dòng, đã được Thiên Chúa gọi về đời sau.
Xưa kia các Thầy, các chị em Nữ Tu đã nghe tiếng Gọi của Chúa từ trời cao từ bỏ mọi sự có thể có và được phép hưởng dùng, chọn nhận sống đời khiết tịnh nhiệm nhặt, đời phục vụ cho ích chung của nước Chúa và cho con người.
Đời sống từ bỏ hy sinh vác thánh giá và âm thầm cầu nguyện của các Thầy, các chị em Nữ tu là nhân chứng sống động cho tình yêu Thiên Chúa giữa trần gian.
Xin dâng lên bàn thờ Chúa trong các thánh lễ cầu cho các Thầy, các anh chị em Nữ tu.
5. Xin nhớ đến các Bạn Bè người quen thân, các vị ân nhân ngày xưa đã cùng nhau trải qua những giờ phút vui buồn, những kỷ niệm êm đẹp. Giờ đây họ đã thành người thiên cổ.
Xin cám ơn lòng ưu ái tình người chúng ta đã trao cho nhau và xin dâng các Bạn lên bàn thờ Thiên Chúa, Đấng là đời sống và ơn cứu chuộc của con người chúng ta.
6. Xin nhớ đến những nạn nhân đã qua đời vì thiên tai bão lụt, hạn hán, chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật và những người mồ côi bơ vơ không có ai nhớ đến.
Họ tất cả cũng là con Chúa và niềm tin dạy chúng ta: Họ cũng được Thiên Chúa cứu độ. Nơi bàn tiệc thánh Chúa Giêsu họ có chỗ ngồi đồng hàng với tất cả mọi người.
Xin cùng với ánh nến tình tương liên đới dâng lên bàn thờ Thiên Chúa nguồn tình yêu thương lời kinh cầu nguyện cho linh hồn họ đã về nơi chín suối ngàn thu.
7. Xin tưởng nhớ đến những thành viên trong Cộng đoàn chúng ta đã được Thiên Chúa gọi trở về đời sau.
Cộng đoàn chúng ta được thành lập cho chúng ta, và do chúng ta cùng chung lưng đấu cật xây dựng nên từ những chục năm qua. Những hy sinh đóng góp của mỗi người trong cộng đoàn là những viên gạch xây dựng nên ngôi nhà cộng đoàn đức tin sống động vào Thiên Chúa Ba ngôi.
Mỗi khi nhớ đến những người xưa kia đã cùng chung vai sát cánh xây dựng nên Cộng đoàn, mà giờ đây họ đã ra đi về với Chúa trước chúng ta, Cộng đoàn chúng ta ngậm ngùi nhớ đến họ với lòng biết ơn và cảm phục.
Xin cùng dâng lời kinh tiếng hát hòa lẫn trong làn hương khói và ánh nến cầu nguyện cho họ trước bàn thờ Thiên Chúa Ba ngôi.
8. Xin nhớ đến các em hài nhi đã qua đời hay bị phá hủy sự sống ngay khi đang còn là thai nhi trong thời kỳ phát triển thành hình nơi cung lòng mẹ.
Các em thai nhi vô tội bị phá hủy hình hài sự sống là những Thiên Thần bé nhỏ tí hon của con người trước tòa Thiên Chúa, Đấng là nguồn sự sống và lòng nhân lành.
Xin thắp những ngọn nến hồng nhỏ bé nhớ về các Thiên Thần vô tội. Các Thiên Thần tí hon vô tội là những vị cầu bầu cho chúng ta trước ngai tòa Thiên Chúa tình yêu.
9. Trước nấm mồ chúng ta muốn đọc lại sứ điệp của những người đã ra đi về đời sau nhắn gửi lại:
- Tôi ra đi bây giờ nằm sâu dưới lòng đất, hay đã bị thiêu hủy thành tro bụi. Nhưng tôi tin rằng tôi trở về cùng Thiên Chúa, Đấng sinh thành ra tôi.
- Tôi nằm sâu trong lòng nấm mồ này. Nhưng tôi vẫn hằng hy vọng trông mong Thiên Chúa sẽ cứu độ linh hồn tôi và sẽ cho tôi sống lại được hưởng đời sống bất diệt, như Ngài đã cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết.
- Tôi bây giờ nằm chôn kín trong nấm mồ xây kín bằng xi-măng cát đá. Nhưng tôi hằng có tâm tình yêu mến Thiên Chúa của tôi. Vì Ngài là Cha đời tôi, Ngài hằng yêu mến tôi.
Và tôi tâm niệm rằng:
- Những gì ngày xưa tôi xây dựng làm ra, giờ này tôi phải bỏ lại.
- Những gì ngày xưa tôi thu góp tích lũy để dành, giờ này tôi không mang đi được.
- Nhưng những gì ngày xưa tôi cho đi, bây giờ tôi nhận lãnh trở lại.
Suy Niệm 9: Lễ Các Linh Hồn
(TGM. Phêrô Nguyễn Văn Nhơn)
Anh chị em thân mến,
Biến cố ngày 11.9 tại Hoa Kỳ đã làm chúng ta bàng hoàng. Mỗi lần nhắc lại hoặc thấy những hình ảnh đó, chúng ta không khỏi buồn sầu, lo lắng, tức giận. Có thể mỗi người nhìn biến cố đó với một góc độ khác nhau. Nhưng có một góc độ có lẽ ít người nghĩ đến. và đó là vấn đề mà chúng ta sẽ cùng nhau chia sẻ.
Trên thế giới từ xưa tới nay, không phải chỉ có biến cố ngày 11.9, mà còn vô vàn biến cố khác, chẳng hạn sự kiện hai quả bom nguyên tử ở Nhật Bản năm 1945. có một câu hỏi được đặt ra: Thế thì số phận của những người đã chết trong các biến cố đó ra sao?
Ngày nay người ta chỉ nói đến sự trả thù, phải trả thù cho những người chết oan, trả thù cho những người đau khổ. Công lý thế gian, công lý của con người thực hiện ra sao chúng ta không biết, nhưng về mặt đức tin, chúng ta sẽ suy nghĩ như thế nào??? Phải dựa vào Lời Chúa, vì chính Chúa muốn chúng ta hãy dùng Lời của Ngài để an ủi nhau, cách riêng trong những biến cố thảm thương như vậy.
Bài đọc I của ngày lễ hôm nay, cách nào đó, khiến chúng ta phải suy nghĩ. vì nhiều người chết rất bi thương, cái chết không xứng hợp chút nào với đời sống của họ, người ta chỉ còn biết thương tiếc và nghĩ rằng như thế là chấm dứt một cuộc đời, chấm dứt cách buồn thảm, tràn đầy thất vọng. Thế nhưng Lời chúa lại nói với chúng ta: Những người công chính khi chết đi, họ sẽ được đưa vào trong vinh quang của Thiên Chúa, nếu cái chết của họ hay sự đau khổ của họ xảy đến cũng giống như vàng phải được trui luyện trong lửa, để chắt ra chất vàng tinh ròng và loại bỏ những thứ cặn bã.
Con người mà Thiên Chúa đã tạo dựng, yêu thương và cứu chuộc. chính là vàng. (Nếu chúng ta có thì giờ để hiểu rằng, trên Thiên Quốc có biết bao nhiêu người công chính, bao nhiêu con người đã được Thiên Chúa rước và cho vào trong vinh quang của Ngài. Đó chỉ mới nói về những con người được tạo dựng ở trần thế. Còn thế giới của thiên thần, thế giới thần linh, tất cả đều ở trong vinh quang đó). Có thể nào chúng ta vào Nước Trời với một tấm áo đầy bụi bặm, nhơ bẩn. phải được tinh luyện, sự tinh luyện đó không phải bởi sức lực của chúng ta, nếu bởi chúng ta chắc chúng ta sẽ thất vọng vì thấy rõ sự yếu đuối của mình, thì đây, thánh Luca nói trong bài Phúc Âm của ngài: Khi suy niệm về sự chết, khi cầu nguyện cho những người đã chết, bao giờ chúng ta cũng phải đặt trên nền tảng Đức Kitô Tử Nạn-Phục Sinh, không đặt trên nền tảng và không đi từ chân lý đó thì không có một thắc mắc hay một vấn nạn nào được giải quyết, được soi sáng.
Mầu Nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh, cao điểm được thể hiện trên núi Canvariô (dù rằng chưa Phục Sinh), Chúa đã biểu lộ vinh quang của Ngài như lời thánh Gioan: Chính khi Ngài được treo dựng lên nơi cao, vinh quang chói ngời của Ngài sẽ tỏa ra. Vậy thánh Luca cho chúng ta thấy: một thế giới sa đọa tội lỗi, (và thế giới đó) đã nhạo cười, đã đóng đinh Chúa Giêsu và đưa Ngài đến cái chết thảm thê trên thập giá. Trong thế giới đó, còn có những con người thiện tâm, có những con người sẵn sàng hoán cải, dù rằng trước mắt thế gian con người đó xứng đáng với cái chết (vì cũng đã bị treo trên thập giá). Nhưng Chúa Giêsu nói: Quả thật, ngày hôm nay ngươi sẽ được vào trong Nước Thiên Đàng.
Nhưng nếu chỉ thấy Ngài chịu chết thì làm sao chúng ta được sống lại? Cái chết của Ngài đem đến những gì cho chúng ta? Vì nếu Ngài chết mà Ngài không sống lại thì cái chết của Ngài cũng vô ích, tình thương của Ngài cũng vô ích!
Chúa Giêsu chết và Ngài đã Phục Sinh. Chính Ngài là đầu mối của tất cả mọi việc, chính nơi Ngài mà chúng ta (những người cách này hay cách khác đã tin vào Ngài) tìm được niềm tin và hy vọng. Nhưng không chỉ những người được Rửa Tội mới gọi là tin vào Ngài. Có những người rất thành tâm, thiện chí, nhưng vì một hoàn cảnh nào đó. họ vẫn cố gắng sống theo lương tâm, Ngài vẫn đón nhận trong tình yêu và trong Ơn Cứu Chuộc của Ngài.
Chúng ta cám ơn người trộm “lành”, vì nhờ có anh, như một dấu chứng nếu chúng ta tin vào Ngài “Lạy Thầy, khi vào Nước Thiên Đàng xin nhớ đến con”. Anh ấy biết gì về Chúa Giêsu? Biết gì về Mầu Nhiệm Nhập Thể? Biết gì về Mầu Nhiệm Cứu Chuộc? Biết gì về Mầu Nhiệm sống lại??? Nhưng anh đại diện cho một số đông trên trần thế này, một cách nào đó vẫn hướng về một sự linh thiêng, hướng về một Đấng Tối Cao, muốn làm những việc tốt lành. Những người đó sẽ được Máu của Chúa đổ ra để thanh tẩy tội lỗi và cho vào Nước Trời. 6000 người chết trong một khoảnh khắc, chắc chắn có một số đông được tình yêu và Máu Chúa đổ ra để xóa tội lỗi và cứu chuộc họ. Tại sao chúng ta cứ muốn ấn định cho Thiên Chúa những người được vào Nước Trời, mà không đặt niềm tin của chúng ta nơi lượng khoan hồng từ bi và nơi công lao của Ngài? Vì Ngài đã hạ mình chịu chết trên thập giá, nên Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Ngài và đặt mọi loài dưới quyền của Ngài, trong cái chết và sự Phục Sinh của Ngài, Ngài xin với Chúa Cha là hãy tha thứ, hãy cứu độ, hãy chuộc lại hết những tâm hồn (lúc này hay lúc khác), đã có sự tin tưởng vào Ngài. Từ đó chúng ta thấy rằng sẽ không bao giờ tìm được sự công bằng nơi trần thế này, sự công bằng và yêu thương chỉ tìm thấy nơi một mình Chúa mà thôi.
Nếu có được niềm tin đó, cuộc đời trở nên sáng tỏ hơn. Đứng trước các biến cố, chúng ta đỡ buồn phiền thất vọng, chúng ta thấy cuộc đời vẫn đáng sống và những đau khổ xảy đến triền miên vẫn có ý nghĩa, vẫn có giá trị, vì chúng ta được tham dự vào Mầu Nhiệm Tử Nạn của Đức Kitô để được sống lại với Ngài.
Vậy trong tháng các linh hồn, với niềm tin đó chúng ta sẽ thấy được những điều gì?
1. Những linh hồn trong lửa luyện ngục là những vị thánh, tuy không được tuyên phong trên bàn thờ, cũng chưa được hưởng vinh quang, nhưng phần rỗi thì đã chắc chắn. Không phải vì họ ít tội, nhưng vì tình yêu của Thiên Chúa và công nghiệp của Con Một Ngài. Giờ đây họ chịu thanh luyện để trở nên tinh ròng, để mang một chiếc áo cưới thật mới mẻ vào dự tiệc cưới, vào Nước Trời. Không ai có thể chia cắt, không gì làm họ mất niềm hy vọng vào đời sống vinh phúc đó.
2. Đàng khác, các linh hồn giờ đây không làm được gì cho họ nữa, vì thời gian để lập công nghiệp đã qua (không phải họ không biết, nhưng cũng giống chúng ta biết rằng giây phút đang sống là thời gian tích lũy công phúc, là thời gian chuẩn bị để được vào Nước Chúa. Chúng ta còn có thì giờ, chúng ta hãy làm). Các vị ấy chỉ còn trông cậy vào lòng nhân thứ của Chúa, Ngài kêu gọi và ban cho chúng ta được tham dự và tiếp tục sứ mạng cứu độ qua lời cầu nguyện, qua sự hy sinh hãm mình, chúng ta sẽ giúp được các linh hồn đó.
Lẽ dĩ nhiên đừng nghĩ rằng Chúa phải chờ đời những lời cầu nguyện của chúng ta để Chúa cứu vớt, Ngài đã cứu vớt rồi. Nhưng Chúa muốn chúng ta sống trong sự thông hiệp, muốn cho chúng ta có sự liên đới hữu hiệu, Ngài tạo điều kiện để chúng ta thấy rằng: thì ra chúng ta còn có thể làm được rất nhiều cho những người thân yêu của chúng ta. Biết đâu khi họ còn sống, chúng ta chưa có một tâm tình, chúng ta chưa đối xử tốt, thì giờ đây chúng ta có một cơ hội rất tốt.
Phát xuất từ những tâm tình trên, cách đây hơn 1000 năm, ngày lễ cầu cho các linh hồn 02.11 được thiết lập, đó là niềm an ủi rất lớn cho những người còn sống, cho chúng ta có một phương tiện tuyệt hảo để yêu thương và biểu lộ tình yêu, cứu giúp những người mình yêu thương. Ngày hôm nay, trong tháng này và suốt cả cuộc đời, chúng ta hãy tập nhân đức yêu thương, nhớ đến các linh hồn.
(Cách đây 100 năm, cũng có một nhà dòng được thiết lập chỉ nhằm mục đích để cầu nguyện, ăn chay, hãm mình cho các linh hồn trong lửa luyện ngục, mà điều đó tất cả chúng ta đều làm được).
3. Anh chị em nghĩ sao nếu những người nhờ lời cầu nguyện chúng ta, đã được về Thiên Đàng, được hưởng vinh quang Chúa mà các ngài lại quên chúng ta??? Chắc chắn trong vinh quang (và sự khôn ngoan) của Thiên Chúa, các ngài biết dưới trần thế này, đã có những con người yêu thương, cầu nguyện, hy sinh cho các ngài. chắc chắn lời cầu nguyện của các ngài cho chúng ta sẽ có uy tín và hiệu quả (lời cầu nguyện của chúng ta lúc thì chia trí, lúc thì không xứng đáng. đủ hết mọi lý do). Trong lịch sử Giáo Hội, nhiều biến cố cho thấy rằng: các thánh thông công là sự sống rất sinh động, không phải là một chân lý chết ngắt, nhưng là sự sống được diễn tả mỗi ngày. Khi chúng ta ngồi đây, chúng ta vẫn liên kết với các thánh trên trời và các linh hồn trong lửa luyện ngục để cầu nguyện và nâng đỡ nhau. Sống trong một sự liên đới như vậy, anh chị em có thấy chúng ta là những con người diễm phúc, là những con người rất giàu tình yêu thương, là những con người được nâng đỡ???
Khi tôi nói những điều này, các bạn trẻ lại càng phải suy nghĩ nhiều hơn, để thấy rằng trong từng giây phút, chúng ta phải sống cho có ý nghĩa, vì từng giây phút của cuộc sống, có thể xây dựng hạnh phúc và phần rỗi cho rất nhiều người và cho chính bản thân chúng ta. Nhờ lời chuyển cầu của các thánh và các linh hồn trong lửa luyện tội (chúng ta tin rằng) chúng ta vẫn tiếp tục đón nhận hồng ân Chúa, đón nhận cách đặc biệt mỗi lần chúng ta cử hành thánh lễ, là lễ tế tạ ơn đồng thời là lễ tế đền tội cho chúng ta.
Suy Niệm 10: Lễ Các Linh Hồn (Rm 5,5-11; Ga 17, 24-26)
(ĐGM. Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản)
Anh chị em thân mến,
Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe là đoạn cuối của Lời nguyện Hiến Tế. Trong bữa Tiệc Ly, sau khi rửa chân cho các môn đệ để dạy cho các ngài bài học yêu thương phục vụ trong khiêm tốn, Chúa Giêsu nói cho các môn đệ về con đường tiến về nhà Cha: Ngài chính là con đường dẫn mọi người đến với Thiên Chúa. Không ai có thể đến được với Cha mà không qua Ngài. Ngài chính là vinh quang của Thiên Chúa Cha, ai thấy Ngài là thấy Cha. Ngài còn hứa ban Thánh Thần cho những ai yêu mến Ngài và tuân giữ mệnh lệnh của Ngài. Chúa Giêsu còn nói đến mối liên hệ giữa Ngài và các môn đệ qua hình ảnh của cành nho gắn liền với thân nho. Cành nào kết hợp với cây, sẽ được cây nuôi dưỡng và sinh nhiều hoa trái. Cành nào lìa cây sẽ bị khô héo. Vì người môn đệ gắn liền với cuộc sống của Thầy, nên cũng được chia sẻ vinh quang cũng như sự đau khổ với Thầy. Nếu thế gian có ghét các môn đệ, là bởi họ không chấp nhận Chúa Giêsu, và bởi vì các ngài không thuộc về thế gian. Và Chúa Giêsu an ủi các môn đệ: “Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an.Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên Thầy đã thắng thế gian” (16,33).
Sau đó, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời và cầu nguyện: “Lạy Cha, giờ đã đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha. Thật vậy, Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời, đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất vầ chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô».
Chúa Giêsu có quyền ban sự sống đời đời cho những ai đến với Người. Và sự sống đời đời được ban cho người môn đệ là họ nhận biết Thiên Chúa Cha, Đấng Duy Nhất, để ngoài Ngài ra không còn tôn thờ đấng nào khác. Và nhận biết Đức Giêsu Kitô là Đấng Chúa Cha sai đến trần gian làm Đấng Cứu Chuộc. Để có thể nhận biết Thiên Chúa Cha và Đấng Người sai đến là Đức Giêsu Kitô, con người phải biết đón nhận, tin vào Ngài, để Ngài dạy cho chúng ta cách sống của người con Thiên Chúa.
Và Chúa Giêsu cầu nguyện tiếp: «Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yeu thương con trước khi thế gian được tạo thành».
Người môn đệ được chia sẻ điều kiện sống của Thầy, sự vâng phục trong sự hạ mình và sự tôn vinh trong vinh quang.Sự chiêm ngưỡng vinh quang của Đức Giêsu Kitô cũng là sự hiểu biết về tình yêu liên kết Chúa Cha và Chúa Con: chính trong sự hiệp nhất này mà nền tảng của sự hiện hữu con người tìm thấy chỗ đứng của mình.
Vì người tin vào Chúa Giêsu và trở thành môn đệ của Ngài, hiện diện trong Chúa Ba Ngôi, nên người đó được tham dự vào sự sống của Thiên Cha: đó là sự sống đời đời. Chúa Giêsu ao ước là Ngài ở đâu thì người tin vào Ngài cũng được ở đó. Nơ Chúa Giêsu ở không phải tùy thuộc vào nơi chốn, vì Thiên Chúa ở khắp mọi nơi và Chúa Giêsu luôn hiện diện với Chúa Cha.khi Chúa nhập thể làm người, Ngài hiện diện hữu hình giữa các môn đệ và vẫn liên kết với Thiên Chúa Cha. Khi Ngài chịu an táng trong mồ, các môn đệ không thấy Ngài, nhưng Ngài vẫn luôn hiện diện giữa các ông trong sự vắng mặt. Bằng chứng là sau khi sống lại, Chúa hiện ra với các môn đệ và Ngài biết rõ những điều họ lo lắng, nghi ngờ. Sau khi về trời ngự bên hữu Thiên Chúa, hứa Giêsu vẫn tiếp tục hiện diện bên các môn đệ trong Thánh Thần, Đấng làm cho các môn đệ nhớ lại Lời Chúa Giêsu và bầu cử cho họ trước mặt Thiên Chúa.
Vì thế, trong khi đi rao giảng, các môn đệ vẫn luôn cảm nhận được sự hiện diện của Thầy Chí thánh bên cạnh. Dẫu cho các ngài sống trong điều kiện thuận tiện, hay chịu thử thách trăm bề, các ngài vẫn luôn gắn bó với Chúa Giêsu.
Anh chị em thân mến,
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu giới thiệu Ngài là “Bánh Hằng Sống từ trời xuống, ai ăn bánh này thì có sự sống đời đời. Và bánh ta sẽ ban, chính là thịt TA, để cho thế gian được sống”. Ngài còn nhấn mạnh: “Ai ăn thịt và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại trong ngày sau hết”.
Bánh Hằng Sống là lương thực làm cho sống. Không phải như mân trong sa mạc chỉ nuôi dưỡng phần xác, Bánh Hằng Sống làm cho người ăn có được sự sống đời đời. Câu hỏi “làm thế nào có được sự sống đời đời”, là thao thức của nhiều người tìm đến với Chúa Giêsu. Người hướng dẫn họ tuân giữ Lề Luật theo một tinh thần mới, hoán cải đời sống và tin vào Đấng được Thiên Chúa sai đến.
Tin vào Chúa Giêsu không chỉ là một sự chấp nhận của lý trí, nhưng còn phải sống theo Lời Người và kết hợp mật thiết với Người. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa nhấn mạnh đến việc “ăn thịt và uống máu Người”
“Ăn thịt và uống máu Người” nói lên sự hiệp thông giữa người môn đệ và Chúa Giêsu, giống như hình ảnh cành nho gắn liền với thân nho. Những ai ăn và uống máu Người thì có sự sống của Người thông truyền ngay khi còn ở đời này. Sự sống này không bị gián đoạn do cái chết, vì Chúa hứa cho sống lại trong ngày sau hết. Giữa khoảng cách của cái chết và sự sống lại trong ngày sau hết, sự sống của Chúa Giêsu vẫn tiếp tục nuôi dưỡng người tín hữu.
Tin vào Chúa Giêsu mang lại sự sống đời đời; “Như ông Môi-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc. Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. (Ga 3, 14-16)
Anh chị em thân mến,
những người thân của chúng ta đã tin vào Chúa Giêsu, đã cố gắng cả cuộc đời mình để nên hoàn thiện như Chúa Cha, Đấng ngự trên trời, đã nổ lực không ngừng vượt lên trên những sự yếu đuối trong thân phận con người để bươc theo Chúa Giêsu trong đời sống thực tế của mình. Chỉ có Chúa mới biết sự thiện chí và lòng trung thành của mỗi người. Và cũng chỉ có Chúa đánh giá đúng mức những điều tốt đẹp hay sai lỗi.
Chúng ta tin rằng những người thân của chúng ta đã từng sống trong đức tin, sống trong niềm trông cậy, sống trong sự hoán cải không ngừng, chắc chắn đã nhận biết Thiên Chúa là Đấng hay thương xót, biết Chúa Giêsu là Đấng cứu chuộc. Dẫu cho những người thân của chúng ta bước vào một thế giới khác, một cách hiện hữu khác, chúng ta vẫn tin rằng các ngài đang thông hiệp với sự sống của Thiên Chúa. Và vì thế, chúng ta tiếp tục cầu nguyện để họ được luôn sống trong sự sống đời đời trong khi trông chờ ngày sống lại cùng với Chúa Giêsu.
Trong tháng cầu nguyện cho các linh hồn, Giáo hội tạo điều kiện cho chúng ta có dịp thông công với những người đã khuất. Vì thé từ trưa ngày lễ Các Thánh đến nửa đêm ngày cầu cho các tín hữu đã qua đời, nếu ai viếng nhà thờ, thì được ơn đại xá. Từ ngày 01 đến hết ngày 08, nếu ai viếng nghĩa địa, cầu nguỵen cho các linh hồn cũng được ơn đại xá. Những ơn đại xá này sẽ được nhường lại cho các linh hồn.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống kết hợp với Chúa Ba Ngôi và với những anh chị em đang chịu thanh luyện.
Xin Chúa chúc lành cho tất cả anh chị em.
Suy Niệm 11: Nguồn nước mắt
(ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần)
Trí nhớ của tôi lưu giữ nhiều hình ảnh. Trong số đó, có một thứ hình ảnh rất thầm lặng, nhưng thường gây trong tôi nhiều cảm xúc và suy nghĩ. Thứ hình ảnh đó là các nghĩa trang.
Tôi đã viếng nhiều nghĩa trang. Tại Việt Nam, tại Ý, tại Đức, tại Pháp, tại Nga, tại Vaticăng.
Tôi đến viếng các nghĩa trang, chủ ý để suy gẫm, cầu nguyện, và cũng để tìm cảm nghiệm. Có thứ cảm nghiệm chỉ tìm được ở nghĩa trang. Tôi đã nghĩ như vậy và đã làm như vậy, khi tôi viết luận án: “Đau khổ của tình yêu”.
Đã có những cảm nghiệm độc đáo in rất sâu vào lòng tôi từ các nghĩa trang. Đặc biệt là từ những dòng nước mắt ở nghĩa trang.
Có những nước mắt của tình yêu dạt dào.
Có những nước mắt của nỗi buồn, nhung nhớ.
Có những nước mắt của lòng hối hận khôn nguôi.
Có những nước mắt của tấm lòng tha thứ muộn màng.
Có những nước mắt của ân tình, hiếu nghĩa.
Có những nước mắt của niềm tin sâu sắc mong chờ.
Khi đi sâu hơn một chút giữa các dòng nước mắt, tôi có thể cảm nghiệm được một số khám phá quan trọng:
Khám phá ra những chân lý nhân sinh.
Khám phá ra những hy vọng ứu độ.
Khám phá ra chính mình.
Khám phá ra chân lý.
Những nước mắt ở nghĩa trang là những tiễn biệt thân thiết. Tiễn biệt người đã chết, người vĩnh viễn ra đi. Sự chết là một sự thật không cần bàn tới. Nhưng đó lại là một chân lý cực kỳ quan trọng.
Bất cứ ai, rồi cũng phải chết. Cái chết đáng sợ. Nhưng đáng sợ hơn lại là cái gì đàng sau cái chết. Đáng sợ, vì nó quá bất ngờ. Biết đâu, trong số mồ mả, cũng có những hồn vì thế mà đang khóc ròng rã đêm ngày.
Ở đây, tôi chỉ xin trích dẫn một đoạn Phúc Âm: “Có một ông nhà giàu nọ, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu đó. Anh thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rơi xuống mà ăn cho đỡ đói. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta.
Thế rồi, người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Apraham.
Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn. Dưới địa ngục, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Apraham ở trên đàng xa, và thấy Ladarô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên: Lạy tổ phụ Apraham, xin thương xót con, xin sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát, vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm.
Ông Apraham đáp: Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con đã nhận phần phước của con rồi. Còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và con đã có một vực thẳm quá lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được” (Lc 16,19-26).
Với dụ ngôn trên, Chúa dạy ta những chân lý quan trọng. Ai cũng phải chết. Nhưng sự Chúa đánh giá từng người sau khi chết thường vượt quá sự con người suy nghĩ. Người phú hộ đó sống đời này được đầy đủ, sung sướng, an nhàn, xét mình chẳng thấy gì là xúc phạm Chúa, chẳng thấy gì là làm hại ai. Nhưng người phú hộ đó đã bị rơi vào hoả ngục. Chỉ vì sống thiếu thương cảm, thiếu liên đới, thiếu chia sẻ, thiếu xót thương. Trái lại, người ăn mày kia đã được lên thiên đàng. Vì dù bị chìm trong cảnh khổ, anh đã sống nêu gương về đức khiêm nhường, hiền lành và chân thật. Không được người dư dật chia sẻ, anh phải sống đói khổ, nhưng anh vẫn chia sẻ với mấy con chó đói ăn.
Nhờ ơn Chúa, những sự thực như trên đã được nhiều người nhận ra một cách sâu sắc trong những dòng nước mắt tại nghĩa trang. Những chân lý đó đã thay đổi đời họ.
Ngoài ra, biết bao người nằm trong nghĩa trang và khóc tại nghĩa trang cũng đã tìm được hy vọng cuộc đời qua một ngả khác.
Khám phá ra hy vọng
Không thiếu trường hợp, tôi đã chứng kiến những cuộc trở về. Họ đã trở về từ những dòng nước mắt của một người nào đó. Người đó cầu nguyện cho họ. Người đó khóc với họ thay vì nói với họ.
Một lúc bất ngờ, lời Chúa Giêsu phán xưa trở thành chuyện đời họ. Chúa an ủi họ rằng: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc. Người đau ốm mới cần. Hãy về học biết ý nghĩa của câu này: Cha muốn lòng nhân, chứ đâu cần của lễ. Vì Cha đến, không để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,12-13).
Những lời dịu dàng đó đã đi sâu vào lòng họ. Cõi lòng vốn đóng kín, khoá chặt, chất chứa những u uất, thất vọng, nay mở ra để hy vọng tràn vào.
Họ cảm thấy mình được xót thương, được yêu thương. Họ sám hối. Họ cảm thấy mình được tha thứ. Và chính họ cũng dễ dàng tha thứ. Một sự bình an lạ lùng trùm phủ tâm hồn họ. Họ ra đi bình an trong sự tin tưởng phó thác tuyệt đối ở Chúa giàu lòng thương xót. Họ khóc vì xúc động, đây là những dòng nước mắt đầy tình cảm tạ.
Những người chứng kiến cũng không cầm được nước mắt. Những dòng nước mắt ấy không nói nên lời, nhưng ngọt ngào niềm hy vọng cứu độ.
Khám phá ra chính mình.
Tại những nghĩa trang, thấy người ta khóc, nhất là khi chính mình khóc, tôi như nghe được tiếng Chúa Giêsu nói: Cha thương con, Cha thương mọi người. Cùng với lời Chúa trao ban tình yêu, tôi khám phá ra chính mình tôi, với những vết thương, với những tang tóc đau buồn. Khám phá ra chính mình trong sự thực trần trụi.
Khám phá để giúp trút bỏ những cái nhìn ảo. Nhìn ảo về mình. Nhìn ảo về những công việc của mình. Nhìn ảo về người khác. Nhìn ảo về cuộc đời.
Để cũng nhận ra rằng: dù với những yếu đuối, tội lỗi, mong manh, tôi vẫn được Chúa gọi với tình xót thương:
Gọi hãy cảm thương.
Gọi hãy chia sẻ.
Gọi hãy trở về.
Gọi hãy hiến dâng.
Gọi hãy cầu nguyện và đền tạ.
Gọi hãy sám hối và tín thác.
Gọi hãy vượt qua sự chết và mọi nghĩa trang, để bay vào cõi phúc đời đời.
Ơn gọi đó sẽ thực hiện được, miễn là tôi biết nhờ ơn Chúa, ở lại trong tình Chúa yêu thương. Như lời Chúa kêu gọi: “Hãy ở lại trong Cha, như Cha ở lại trong các con” (Ga 15,4).
Suy Niệm 12: Tri ân tình cha, tình mẹ
(Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Đây là một câu chuyện có thật về sự hy sinh của một người mẹ trong trận động đất kinh hoàng ở Nhật Bản năm 2011. Sau khi trận động đất đã qua đi, khi các nhân viên cứu hộ đến thu dọn ngôi nhà của một người phụ nữ trẻ, họ nhìn thấy thân thể cô ấy qua các vết nứt. Nhưng cách tạo hình cơ thể của cô có gì đó rất lạ, tựa như một người đang quỳ gối cầu nguyện, cơ thể nghiêng về phía trước, và có một vật gì đó được hai tay của cô đỡ lấy. Ngôi nhà bị sụp và đổ ập lên lưng và đầu cô.
Người đội trưởng đội cứu hộ đã rất khó khăn khi luồn tay mình qua khoảng cách hẹp trên tường để chạm tới cơ thể của người phụ nữ. Anh ấy đã hy vọng rằng người phụ nữ này có thể vẫn còn sống. Nhưng, cơ thể lạnh và cứng của cô nói với anh rằng, cô ấy chắc chắn đã qua đời.
Đội cứu hộ rời khỏi ngôi nhà và tìm kiếm tại những toà nhà sụp đổ khác. Nhưng không hiểu sao, người đội trưởng dường như bị một lực hút kéo trở lại căn nhà sụp đổ của người phụ nữ đã chết. Một lần nữa, anh quỳ xuống, và lần tìm qua những khe nứt hẹp một chút không gian dưới cơ thể đã chết. Rồi đột nhiên, anh hét lên đầy phấn chấn: “Một đứa bé!!!! Có một đứa bé!”.
Cả đội cùng nhau cẩn thận bỏ từng cái cọc trong đống đổ nát xung quanh xác người phụ nữ. Có một bé trai 3 tháng tuổi được bọc trong một tấm chăn hoa ngay bên dưới xác người mẹ. Người phụ nữ rõ ràng đã thực hiện một hành động hy sinh cuối cùng để cứu con trai mình. Khi ngôi nhà của cô rơi xuống, cô đã dùng cơ thể của mình để làm tấm chắn bảo vệ con trai mình. Cậu bé vẫn ngủ một cách yên bình khi đội trưởng đội cứu hộ nhấc bé lên.
Bác sĩ đã nhanh chóng kiểm tra sức khoẻ cậu bé. Sau khi ông mở tấm chăn, ông nhìn thấy một chiếc điện thoại di động bên trong. Có một tin nhắn văn bản trên màn hình, nói rằng, “Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con”...
Chiếc điện thoại này đã đi từ bàn tay này đến bàn tay khác và qua bàn tay khác... Tất cả những người đọc tin nhắn đều đã khóc. “Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ rằng... mẹ rất yêu con...”.
Tháng 11 lại về đem lại cho chúng ta một chút tâm tình tri ân tình cha, tình mẹ. Một tình yêu bao la như trời bể mà cha ông ta vẫn nói rằng:
“Công cha đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ song thân”.
“Biết thờ song thân”, thờ trong khi sống, thờ sau khi chết, thờ thế nào cho phải đạo làm con, cho xứng đáng phần nào công lao tảo tần nuôi con của mẹ:
“Nuôi con buôn tảo bán tần
Chỉ mong con lớn nên thân với đời
Những khi trái nắng trở trời
Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên
Trọn đời vất vả triền miên,
Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con”.
Thế nên, nếu so sánh công đức của cha mẹ như non cao cũng chưa xứng đáng. Tình cha tình mẹ còn vượt xa không gian và thời gian. Có thể nói tình cha tình mẹ mãi không già luôn tươi trẻ trong cuộc đời của con. Cha mẹ có thể không để lại cho con gia tài lớn lao hay những công trình vĩ đại nhưng cha mẹ luôn để lại cho con một tình yêu thương vô ngần dành cho con. Vì thế mà có ai đó nói rằng:
Đi khắp thế gian không ai tốt bằng Mẹ
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng Cha
Tình cha mẹ thương con là một tình yêu không biên giới. Một tình yêu vượt qua mọi toan tính vật chất để có thể bảo vệ che chở đời con. Đó là một tình yêu to lớn đầy hy sinh cho đàn con khôn lớn:
Mây trời lòng lộng không phủ kín công Cha
Tần tảo xóm hôm Mẹ nuôi con khôn lớn
Lá cây trong rừng dẫu nhiều cũng không thể sánh bằng công ơn của cha mẹ. Sao trên trời thật khó đếm, nhưng công ơn của cha mẹ lại càng khó đếm hơn những vì sao:
“Đố ai đếm được lá rừng,
Đố ai đếm được mấy từng trời cao
Đố ai đếm được những vì sao,
Đố ai đếm được công lao mẫu từ”.
Chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, sinh lực hao mòn, nặng nhọc gánh chịu, làm sao ta có thể quên được tình mẹ bao la như biển cả ấy:
“Nhớ ơn chín chữ cù lau
Ba năm nhủ bộ biết bao nhiêu tình”.
Tình ở đây là tình mẹ thương con. Tình thương ấy thật bao la, bát ngát, nên mỗi khi mẹ cất tiếng ru con thì đời con thêm tươi sáng:
“Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.
Khó đi mẹ dắt con đi,
Con đi trường học mẹ đi trường đời”.
Vậy, đổi lại sự hy sinh của tình cha tình mẹ, các ngài cần gì nơi chúng ta? Chắc chắc không phải là tiền bạc, vì tiền bạc các ngài dành giụm để trao lại cho chúng ta. Chắc chắc đó không phải là danh vọng, vì tuổi gìa chẳng còn ham muốn những tham sân si của dòng đời. Các ngài cần tình yêu của chúng ta qua sự chăm sóc, thăm nom của chúng ta khi các ngài còn sống. Và khi các ngài đã qua đời, đó chính là lời cầu nguyện của chúng ta dành cho các ngài.
Người phụ nữ Nhật trước khi chết chỉ để lại một thông điệp cho con chính là: “con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con”... Đó chính là thông điệp của tất cả các đấng sinh thành kẻ còn sống cũng như người đã qua đời đang nói trong con tim mỗi người chúng ta. Chúng ta được sinh ra trong tình cha tình mẹ, được lớn lên trong tình thương đó và tình thương đó mãi mãi theo chúng ta trong suốt hành trình cuộc đời. Đó cũng là bổn phận mà chúng ta phải báo hiếu qua hai chữ yêu thương. Yêu thương thể hiện của lòng thảo kính vâng phục các ngài. Yêu thương thể hiện qua chữ hiếu luôn phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già. Yêu thương thể hiện qua lời cầu nguyện ngày đêm dành cho những người đã qua đời.
Ước gì mỗi người chúng ta từng được cưu mang trong tình yêu của cha mẹ thì hãy sống sao cho tròn chữ hiếu. Hãy biết tận dụng tháng 11 để tích luỹ ơn ích thiêng liêng mà cầu nguyện cho các ngài. Hãy làm việc bác ái, hy sinh và cầu nguyện giúp các ngài vượt qua cuộc thử thách trước toà phán xét của Thiên Chúa. Ước gì những hy sinh và lời cầu nguyện chân thành của chúng ta là lễ vật đẹp nhất để dâng về Thiên Chúa và dâng kính tổ tiên. Amen.
Suy Niệm 13: Luyện ngục
CẦU NGUYỆN CHO NHỮNG NGƯỜI ĐÃ QUA ĐỜI
Vấn đề chúng ta tìm hiểu hôm nay, đó là có những sự gì xảy ra cho các linh hồn nơi luyện ngục? Hai chữ luyện ngục mà thôi cũng đã đủ cho chúng ta thấy đó là nơi đau khổ, đền bù và thanh luyện. Vào ngày phán xét, chúng ta sẽ thấy mình còn xa cách với lý tưởng mà Chúa đã ấn định. Mặc dù linh hồn ra đi trong tình trạng ơn thánh, nhưng còn biết bao nhiêu những sau lỗi, biết bao nhiêu những tỳ vết khiến chúng ta phải kêu lên: Lạy Chúa, con không thể nào trở về cùng Chúa khi chưa xóa bỏ hết những hoen ố của biết bao nhiêu lần vấp phạm.
Có lẽ ngay trong lúc này, chúng ta cũng cảm thấy: Chưa bao giờ tôi đã lên tới đỉnh trọn lành, chưa bao giờ tôi được thỏa mãn với chính bản thân mình?
Làm sao chúng ta có thể hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa trong cuộc sống hiện tại như Đức Kitô ngày xưa? Thì đây, luyện ngục sẽ là nơi để chúng ta kết thúc những công trình còn dang dở. Lửa thanh luyện càng bừng cháy để thiêu đốt những bụi bậm, những rác rưởi, những cặn bã, thì hình ảnh Chúa càng rực sáng trong tâm hồn chúng ta. Và khi hình ảnh ấy đã trở nên chói lòa, rực rỡ và huy hoàng, thì luyện ngục sẽ chấm dứt và chúng ta sẽ được bước vào niềm hạnh phúc thiên đàng.
Nếu quan niệm như thế, chúng ta sẽ cảm thấy nông cạn và hời hợt khi cho rằng: Hình phạt luyện ngục thì không xứng đáng với lòng nhân từ và thương xót của Chúa. Ngài sẽ tha thứ cho chúng ta một cách nhưng không, mà chẳng cần phải đều bù thanh luyện chi cả.
Nếu suy nghĩ một chút, chúng ta sẽ thấy không thể nào chấp nhận được quan niệm ấy, bởi vì nó đi ngược lại với sự thánh thiện và công thẳng tuyệt đối của Chúa.
Thánh vịnh 118 đã bảo: Thiên Chúa thật công bằng và phán quyết của Ngài thật ngay thẳng.
Chính Chúa Giêsu cũng đã xác quyết: Ngươi sẽ không ra khỏi đó cho đến khi trả xong đồng xu cuối cùng.
Lòng thương xót và sự công bằng của Thiên Chúa thoạt xem ra như tương phản lẫn nhau, nhưng lại vô cùng hòa hợp với nhau qua tín điều về luyện ngục.
Thực vậy, trong khi sự công bằng đòi phải đền bù và thanh luyện, thì lòng thương xót lại đưa ra những phương tiện, những cách thức giúp đỡ để được rút ngắn thời gian đau khổ. Từ đó, chúng ta thấy được hai khía cạnh của luyện ngục, đó là đau khổ và an ủi. Bởi vì hình phạt ở luyện ngục cũng giống như hình phạt ở hỏa ngục, nhưng chỉ khác một điều, đó là ở luyện ngục thì chỉ tạm thời, còn ở hỏa ngục thì vĩnh viễn. Và hình phạt đau khổ nhất chính là phải xa lìa Thiên Chúa vào giữa lúc chúng ta nhận biết Ngài là ai và đang cố gắng tiến đến với Ngài. Tuy nhiên, không phải chỉ có thế.
Mặc dù là một nơi đau khổ và thanh luyện, nhưng luyện ngục không phải là hỏa ngục, trái lại luyện ngục chính là lối dẫn vào thiên đàng.
Những linh hồn nơi luyện ngục chắc chắn không phải rơi vào tay ma quỉ, nhưng sẽ được nghỉ yên trong Chúa. Ơn cứu rỗi của họ đã được bảo đảm và họ sẽ không bị kết án. Đó là khía cảnh đầy vui mừng và an ủi của luyện ngục.
Vậy luyện ngục là gì?
Tôi xin thưa: Luyện ngục là hỏa ngục, nhưng ở đó có niềm vui.
Hay nói một các khác: Luyện ngục là thiên đàng, nhưng ở đó có đau khổ.
Họ đau khổ vì hiện tại còn đang phải tạm thời xa cách Chúa. Nhưng đồng thời họ vui mừng vì một ngày kia sẽ được nhìn ngắm tôn nhan Chúa, mặt đối mặt.
Niềm tin vào luyện ngục sẽ đem lại một sự an ủi và khích lệ, khiến chúng ta không bao giờ phải tuyệt vọng. Thế nhưng tín điều này còn là một lời cảnh cáo gửi đến mổi người chúng ta đang sống trong cuộc sống này: Đừng bình thản trong tội lỗi.
Đồng thời cũng là một thôi thúc: Đừng thất vọng trước những sai lỗi vấp phạm của mình.
Sau cùng, hãy thêm lời cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục, bởi vì như sách Macabêô đã xác quyết:
Cầu nguyện cho những người đã chết để họ được giải thoát khỏi mọi tội lỗi là một việc làm thánh thiện và có giá trị cứu rỗi.
Suy Niệm 14: Nghĩ về sự chết
(ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần)
Tôi biết là có ngày tôi sẽ chết. Mặc dầu tôi không biết sẽ chết ngày giờ nào, nơi nào, cách nào.
Chắc chắn tôi phải chết. Đó là một chân lý hết sức rõ ràng và chắc chắn. Chân lý này, không ai đã dạy tôi. Nó nằm ngay trong con người của tôi.
Cái chết cũng là một biến cố đụng tới mọi người. Nó là một vấn đề chung. Vấn đề này được coi là hết sức quan trọng. Bởi vì nó đặt ra câu hỏi: Đâu là ý nghĩa cuộc sống? Cuộc đời đi về đâu? Bên kia sự chết có gì không?
Câu trả lời theo lý thuyết có thể tìm được trong nhiều sách, nhất là sách đạo. Nhưng câu trả lời theo cảm nghiệm sẽ thường chỉ hiện lên một cách sống động, khi ta ở bên cạnh những người sắp chết, hoặc chính ta đã có lần thập tử nhất sinh.
Những lúc đó, câu trả lời sẽ không phải là một kết luận lạnh lùng của triết học hay của giáo lý. Nhưng sẽ là cái gì linh thiêng thăm thẳm chứa trong những cảm tình, cảm xúc, cảm động, cảm thương, khi hiện tượng sự chết rập rình sát tới.
Những hiện tượng khác thường nơi người sắp chết rất đa dạng. Có thể là những lo âu sợ hãi, những khắc khoải đợi chờ, những nắm bắt bâng khuâng, những ngóng trông mệt mỏi, những cái nhìn xa xăm. Cũng có thể là những bất bình tức giận, những chán nản phiền muộn, những buông xuôi tiếc nuối, những phấn đấu tuyệt vọng. Cũng có thể lại là những ăn năn đầy bình an toả sáng, mang dấu ấn của một nghị lực thiêng liêng và một tin tưởng đến từ cõi đời đời.
Tất cả những hiện tượng như thế phản ánh những trực cảm nội tâm: Đã tới lúc vĩnh biệt. Đã tới lúc ra đi. Đã tới lúc phải bỏ lại tất cả. Đã tới lúc phải trực diện với lương tâm. Lương tâm hỏi về trách nhiệm: Trách nhiệm làm người nói chung và trách nhiệm làm con Chúa nói riêng.
Trước đây, có nhiều điều về trách nhiệm đã lẩn trốn lương tâm. Nhưng lúc con người sắp chết, những điều lẩn trốn đó sẽ trở về trình diện rất nghiêm túc.
Tôi có cảm tưởng là người sắp chết lúc đó sẽ nhận ra: Sự sống của mình là một quà tặng Chúa ban. Ơn gọi được làm con Chúa càng là một ân huệ quí báu Chúa trao cho nhưng không. Chúa ban sự sống và ơn làm con Chúa, để mình phát triển mình và những người xung quanh trong những chặng đường lịch sử nhất định. Sự phát triển sẽ tuỳ ở ơn Chúa, nhưng cũng tuỳ thuộc vào sự tự do và tinh thần trách nhiệm của mỗi người.
Thực tế cho thấy là đã có những phát triển đạo đức, và trái lại cũng có những phát triển tội lỗi. Với những phát triển tốt, người sắp chết cảm thấy được an ủi, coi như nhiệm vụ được trao đã phần nào hoàn thành.
Trái lại nếu thấy những phát triển của mình là xấu, nhiệm vụ được trao đã không hoàn thành, họ sẽ không thể không sợ hãi. Bởi lẽ hậu quả sẽ vô cùng quan trọng. Vì chết là bước sang cõi đời sau với hai ngả: thiên dàng và hoả ngục. Mà hai ngả này đều rất rõ ràng công minh.
Vì thế, nói cho đúng, vấn đề đặt ra cho ta về cái chết sẽ không phải là sợ chết, mà là sợ chết dữ, chết mà sau đó không được lên thiên đàng, nhưng phải xuống hoả ngục.
Những tư tưởng trên đây thường nhắc nhủ tôi về ba chọn lựa này:
1. Hãy tiến về sự chết của mình như tiến tới một quãng phải vượt qua, để về với Cha trên trời.
Một khi nhìn sự chết của mình như thế, thì cuộc sống của mình cũng được hiểu theo hướng đó.
Để đi đúng hướng về Cha trên trời, tôi chỉ có một đường phải chọn, đó là Chúa Giêsu Kitô. Người là đường, là sự thực và là sự sống (Ga 14,6). Đón nhận Người, lắng nghe Người, đi theo Người, bắt chước Người. Người là gương mẫu cho ơn gọi làm người và ơn gọi làm con Thiên Chúa. Điều quan trọng tôi sẽ hết sức quan tâm trong việc theo Chúa Giêsu sống ơn gọi, là phải phấn đấu thanh luyện mình, phải biết khiêm tốn quên mình, dấn thân sống theo ý Chúa, để được trở thành tạo vật mới. Nếp sống kiêu căng cần phải bị loại tận gốc. Nếp sống cầu nguyện khiêm nhường cần được thường xuyên phát huy.
2. Hãy tiến về sự chết của mình như người được sai đi truyền giáo, mong trở về với Đấng sai mình.
Sống như người truyền giáo và chết như người truyền giáo. Truyền giáo một cách cụ thể ở địa phương này, ở thời điểm này. Nghĩa là một địa phương và thời điểm có nhiều khác biệt. Vì thế, tôi phải tỉnh thức lắng nghe hướng dẫn của Thánh Thần Đức Kitô. Ngài đang dẫn người truyền giáo vào chiều sâu. Ngài đang giúp người truyền giáo mở rộng nhiều liên đới. Ngài đang tạo ra cho nhà truyền giáo nhiều dịp để loan báo Tin Mừng. Tôi có luôn khiêm tốn cầu nguyện hồi tâm, để trở thành dụng cụ ngoan ngoãn trong tay Ngài không?
3. Hãy tiến về sự chết của mình như người khắc khoải trở về với Đấng đã trao cho mình điều răn mới.
Điều răn mới này, tôi nhận được từ Lời Chúa: “Thầy ban cho chúng con một điều răn mới là chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13,34).
Để hiểu thấm thía hành trình tình yêu, tôi nên hằng ngày gẫm suy đoạn văn sau đây của thư thánh Gioan:
“Chúng ta biết rằng: chúng ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương anh em. Kẻ không yêu thương, thì ở lại trong sự chết. Phàm ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân. Và anh em biết: không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em. Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được? Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm. Căn cứ vào điều đó, chúng ta sẽ biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa” (1Ga 3,14-19).
“Phần chúng ta, chúng ta hãy yêu thương, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước. Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 4,19-21)
Khi tôi sống với những hướng kể trên, tôi sẽ coi sự chết như là một điểm chấm dứt nhiệm vụ.
Nhiệm vụ được chấm dứt. Nhưng nhiệm vụ có được hoàn thành hay không, đó là chuyện khác và đó mới là điều quan trọng. Chúa sẽ phán xét công minh điều đó. Ở đây, tôi có lý do để lo, bởi vì tôi biết tôi đã lỗi phạm nhiều.
Biết lo là điều tốt. Không phải lúc gần chết mới lo, mà phải lo ngay bây giờ. Biết lo ở đây là tìm cách sửa mình, đổi mới mình nên tốt hơn. Coi như bắt đầu lại.
Khởi sự từ quyết tâm tận dụng ngày giờ còn lại và những phương tiện trong tầm tay để chu toàn các nhiệm vụ được trao một cách tốt đẹp nhất. Nhất là tỉnh thức ưu tiên đón nhận Nước Trời vào bản thân mình bằng sám hối và tin mến khiêm cung.
Những nỗi lo như thế là chính đáng. Khi chúng ta làm hết sức mình, thì những nỗi lo đó sẽ đem lại những tiến triển và hân hoan. Với hân hoan và tin tưởng nơi Chúa giàu tình yêu thương xót, chúng ta bình tĩnh đi về sự chết. Sự chết lúc đó chỉ là bước sang sự sống mới vô cùng tốt đẹp hơn trước. Và như thế, sau cùng, chỉ có thần chết là phải chết thôi.
Suy Niệm 15: Luyện ngục
Từ cổ chí kim, cũng như từ đông sang tây, người ta đều có truyền thống thương tiếc và an táng người quá cố một cách kính cẩn. Ngày xưa, người ta thương tiếc và dâng tặng người quá cố một thánh lễ an táng trọng thể, một bài điếu văn chải chuốt, rồi tụ tập ăn uống linh đình, tiếng khóc biến thành những câu chuyện ròn rã bễn cỗ bàn rượu thịt ê hề. Nỗi thương nhớ trôi mất theo từng ly rượu của bàn tiệc, để rồi khi tiệc tan, trở về nhà và không còn nghĩ gì đến người quá cố đang khổ đau vì bị thanh luyện nữa.
Có một người sau khi chết được dẫn vào luyện ngục. Anh ta thấy mọi người trong đó đang đứng trong một vũng bùn lên tới quá đầu gối. Có người đang hút thuốc. Người khác thì uống cà phê và mọi người đều cười nói với nhau một cách vui vẻ. Anh ta thầm nghĩ: Nếu luyện ngục là như vậy, thì đâu có gì tệ lắm.
Vừa nghĩ thế, anh ta liền nhìn thấy một người trong bọn trông giống như một viên cai ngục, vỗ tay ra hiệu và tuyên bố: Hết giờ nghỉ xả hơi rồi. Bây giờ hãy chống cằm xuống đất và chổng hai chân lên trời.
Nghe đến đây, anh ta bỗng ngất xỉu. Thì ra đó chỉ là một giấc mơ.
Vậy luyện ngục là gì?
Dĩ nhiên luyện ngục không phải là một căn hầm hay một vũng bùn như trong câu chuyện vừa nghe. Theo lời các thánh, luyện ngục chính là nơi các linh hồn được thanh tầy, để trở nên trong sạch, xứng đáng được hưởng kiến tôn nhan thánh Chúa.
Các linh hồn nơi luyện ngục chắc chắn đã được cứu độ, nhưng chưa phải là trong giây phút hiện tai. Do đó, luyện ngục thực sự là một dấu chứng của lòng Chúa xót thương.
Một ông cụ luôn khuyên nhủ con cháu hằng ngày đọc kinh sớm tối kẻo mất linh hồn. Thế nhưng, một người con của cụ trả lời: Không cần đọc nhiều, mà chỉ cần đọc ba kinh Kính mừng là đủ lên thiên đàng cả giường lẫn chiếu.
Ông cụ đáp lại: Lên thiên đàng, thì chúng mày đừng hòng. Tao chỉ mong chúng mày xuống luyện ngục là đã phúc lắm rồi.
Thực trạng bất toàn của con người khiến chúng ta cảm thấy không xứng đáng được diện kiến, gặp gỡ mặt đối mặt với Thiên Chúa, bởi vì Ngài là đấn thánh thiện vô cùng.
Sự thánh thiện của Thiên Chúa và tội lỗi là hai cái gì đối kháng nhau, như lửa với nước, như ánh sáng với bóng tối. Do đó, tội lỗi làm cho chúng ta phải xa lìa Thiên Chúa, khiến chúng ta quay lưng chống lại Ngài và đi ngược lại với bản tính thánh thiện tuyệt vời của Ngài. Thực vậy, Thiên Chúa thánh thiện không thể nào chấp nhận một chút bợn nhơ xấu xa nào trong vương quốc của Ngài.
Đối với các linh hồn đáng thương còn mang dấu ấn của tội lỗi, thì luyện ngục chính là nới ẩn náu đầy yêu thương, là tiền đường của thiên đàng. Các ngài vui mừng trong đau khổ. Và nỗi đau khổ nặng nề nhất không phải là cực hình hỏa ngục, mà là khát vọng được diện kiến thánh nhan Thiên Chúa, mà hiện nay chưa được trở thành sự thật, mà vẫn còn bị trói buộc trong sợ mòn mỏi trông chờ và mong đợi.
Với ý thức về tội lỗi của mình, các ngài sẽ không rời xa luyện ngục, cho tới khi được tẩy sạch mọi vết nhơ tội lỗi. Còn mang lầy một chút dấu vết của tội lỗi trong tâm hồn mình cũng là một đớn dau cho các ngài, khi cảm thấy mình bất xứng.
Chính vì thế, trong niềm hiệp thông, chúng ta hãy giúp đỡ các ngài bài những hy sinh, những lời kinh và những thánh lễ chúng ta dâng lên, bởi vì đó mới chính là những điều các ngày đang cần đến, đỗng thời đó cũng là cách thức chúng ta báo hiếu, đền đáp công ơn của các ngài một cách sâu xa và có ý nghĩa nhất.
Suy Niệm 16: Bóng câu cửa sổ
Kiếp phù-sinh, tháng ngày vắn-vỏi,
Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,
Một cơn gió thoảng là xong,
Chốn xưa mình ở cũng không biết mình.
(Tv 103, 15-16)
Vào ngày 31 tháng giêng năm 2000, một hung tín được loan ra: chuyến bay 261 của hãng Alaska với 83 hành khách và 5 nhân-viên phi-hành-đoàn, cất cánh từ Mễ Tây Cơ để đi Seattle, tiểu bang Washington, đã rớt xuống Thái-Bình-Dương, cách Los Angeles chừng 20 dặm đường chim bay. Khoảng 10 xác chết đã được vớt lên, số còn lại đã bị tan nát trong lòng biển cả. Trong số nạn-nhân nầy, có một bé gái thiên-thần mới được bốn tháng. Vì thân-mẫu là người gốc Mễ-Tây-Cơ, cha mẹ đã đưa em về quê ngoại để được rửa tội.
Chỉ trong năm 1999, ba cánh chim sắt đã lao xuống biển cả. Đêm 16 tháng bảy năm 1999, máy bay do Kennedy, 38 tuổi, con trai duy-nhất của cố Tổng Thống John Kennedy, chở vợ là Carolyn Bessette và chị vợ là Lauren Bessette, đi dự lễ cưới cháu mình, đã bị rớt xuống Đại Tây Dương. Một tuần sau, đoàn cấp cứu đã vớt được các thi-hài.
Mấy tháng sau, chiếc máy bay của Ai-Cập với trên 200 hành-khách, đã rớt xuống Đại-Tây-Dương và không một xác nào được tìm thấy.
Vào sáng thứ ba (11-09-2001). một đại-họa khủng-khiếp đã làm chấn-động thế-giới: nhóm khủng-bố Osama Bin Laden đã cướp giựt bốn máy bay và chỉ trong một giờ đồng-hồ đã làm nổ tung hai ngọn tháp chọc trời của Trung-Tâm Thương-Mại Thế-Giới ở Nữu-Ước và sau đó đánh sập một cánh của Ngũ-Giác-Đài ở Hoa-Thịnh-Đốn. Tổng số thương-vong khoảng trên ba ngàn người, trong số đó không thiếu những chuyên-gia lỗi -lạc về kinh-tế, tài-chánh, ngân-hàng, kỹ-thuật và quân-sự...
Trong huấn-từ nhân cuộc triều-yết chung vào sáng thứ tư (ngày 12-09-2001), Đức Thánh Cha Gioan-Phaolồ Đệ-Nhị đã mô tả đại-họa đó là “một ngày đen tối nhất trong lịch-sử loài người, một xúc phạm ghê-gớm cho phẩm-giá con người.”
Tôi mới có dịp nói chuyện với một người bạn rất khỏe mạnh, nhưng ba hôm sau, người bạn đó đã được khâm-liệm vì bị ngã gục dưới họng súng tấn-công của một địch-thủ.
Ngay cả hôm nay đây, biết bao người đang nối tiếp nhau lìa đời bằng sự chết chóc để đi vào nơi vĩnh-cữu. Những trường-hợp ra đi vĩnh-viễn được nêu ra đây quả rất thông thường, nhưng cũng đủ cho chúng ta hiểu rằng tử-thần sẽ đến viếng chúng ta một cách bất ngờ không một lời báo trước.
Khi quan-sát một số người đang cuồng-nhiệt theo đuổi danh-vọng, thú vui hay của-cải vật-chất thì chúng ta sẽ hết sức ngạc-nhiên với ý-nghĩ là họ đang sống mà không chút ưu-tư về cuộc sống đời đời. Con người trong thời-đại văn-minh tiến-bộ nầy dường như đang sống theo lý-tưởng quá ư trần-tục của một tư-tưởng-gia thời xưa: “Chúng ta đừng quan-tâm đến sự chết, nhưng hãy nghĩ đến sự sống thiên-đàng mà chúng ta tìm kiếm không phải là những đường phố bằng vàng nhưng là những túi vàng vậy. Những khát vọng của chúng ta chỉ thuộc về cõi tạm nầy chứ không phải thuộc về cõi đời đời, và thiên-đàng mà chúng ta suy tưởng phải là một cõi phong-phú về tiền bạc và đủ các tiện-nghi cho chúng ta hưởng-thụ. Quả thật, chúng ta không cần phải lo nghĩ đến sự chết.” Tuy-nhiên, sách Giảng-Viên đã nói rõ ràng: “Có thời để sinh ra, có thời để lìa đời.” (Gv 3, 2).
Kinh Thánh cũng cho biết ông A-Dong sống đến chín trăm tuổi rồi mới qua đời. Ông Sết hưởng thọ chín trăm mười hai tuổi rồi từ trần. Ông Hê-nóc sống chín trăm lẻ năm tuổi rồi cũng phải từ giả cõi đời. Hơn sáu tỷ người đang sống trên mặt đất hiện nay rồi cũng sẽ ra đi trong vòng một trăm năm nữa, không ai sẽ thấy ánh mặt trời của thế-kỷ hai mươi hai. Trong thư gởi tín-hữu Do-Thái, Thánh Phaolồ đã viết: “Thân phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét.” (Dt 9, 27).
Mặc dầu khoa-học đã tiến-bộ, sau khi vượt qua giới-hạn của không-gian địa-cầu và đang tiến sâu vào không trung, nhưng trên cương-vị con người, chúng ta luôn luôn bị ràng buộc bởi cuộc sống trên mặt đất. Có rất ít bài giảng-luận về sự chết, thiên-đàng, hỏa-ngục. Tuy-nhiên, chân-lý bất-biến là tất cả mọi người trên mặt đất đều phải kết-thúc bằng sự chết và vấn-đề chuẩn-bị cho cuộc sống trong đời sau rất là hệ-trọng, như lời Thánh-Kinh: “Nếu con luôn luôn suy gẫm về sự chết, sự phán xét, thiên-đàng, hỏa-ngục thì con sẽ không bao-giờ phạm tội.”
Ở Âu-Mỹ, có một thành-ngữ như sau: “Ở đời nầy, chỉ có hai việc chắc-chắn không ai thoát khỏi là sự chết và nộp thuế.” Chúng ta thường lo lắng dành tiền dể nộp thuế mà quên mất vấn-đề quan-hệ hơn là sự chết. Ta cần phải ý-thức hơn về việc tử-thần đang tiến gần mỗi người chúng ta một cách nhanh chóng. Lời Chúa đã căn dặn: “Thế thì của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên-Chúa, trả về Thiên-Chúa.” (Mt 22, 21).
Người giàu không thể nhờ tiền bạc xin sửa đổi hình phạt đang chờ đợi mình thành một án treo; người nghèo cũng không thể nói với sự chết cho mình sống thêm một ngày nữa vì nó đã chiếm-hữu con người từ lúc mới lọt lòng mẹ cho tới khi đi vào mồ-mả. Sẽ có lúc sau khi mọi người đông-đảo họp nhau cầu-nguyện thì đã ra về và “còn lại một mình tôi” trong nơi hoang vắng...!
Thánh Giacôbê đã viết: “Anh em không biết cuộc đời mình ngày mai sẽ ra sao. Thật vậy, anh em chỉ là hơi nước xuất hiện trong giây lát, rồi lại tan biến đi.” (Gc 4, 14). Như đám sương mù buổi sáng, rất mong manh, bốc thành hơi nước dưới ánh triêu-dương rồi biến mất giữa ban ngày, đời người cũng giống như giọt sương mai hiện ra chốc lát rồi lại tan ngay.
Thật vậy, sự sống chẳng khác gì cái thoi dệt cửi: “Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa và chấm dứt, không một tia hy-vọng.” (Gióp 7, 6). Một văn-sĩ đã viết: “Chỉ khi nào thời gian, với một bàn tay không biết chán, xé hết phân nửa số trang sách của đời mình để nung đốt lò dục-vọng, lúc ấy con người mới bắt đầu nhận thấy những trang còn lại của đời sống mình không còn bao nhiêu nữa”. Tiên-tri I-Sai-A đã suy ngắm: “Lạy Chúa, con như người thợ dệt, đang mãi dệt đời mình, bỗng nhiên bị tay Chúa cắt đứt ngay hàng chỉ.” (Is 38, 12). Sách Biên-Niên-Sử quyển I cũng viết: “Ngày đời của chúng con trên mặt đất như bóng câu cửa sổ, không để lại dấu vết.” (1 Sb 29, 15).
Khi William Russel lên đoạn đầu đài, ông đã lấy đồng hồ trong túi áo ra rồi trao cho vị y-sĩ săn-sóc ông và nói: “Xin ông làm ơn giữ hộ cái đồng-hồ nầy vì tôi không cần đến nó nữa. Bây giờ tôi sắp bước vào cõi đời đời.”
Thánh Gióp cũng đã từng than-thở: “Vì tuổi con người đã được Ngài ấn-định, sống được bao năm tháng là tùy thuộc ở Ngài. Ngài định giới-hạn rồi, sao có thể vượt qua.” (G 14, 5). Tác-giả Thánh-Vịnh cũng đã nói: “Kiếp phù-sinh, tháng ngày vắn-vỏi, tươi thắm như cỏ nội hoa đồng, một cơn gió thoảng là xong, chốn xưa mình ở cũng không biết mình.” (Tv 103: 15,16).
Ngày nầy nối tiếp ngày khác, trôi qua với một tốc-độ tăng dần mãi dường như theo nhịp tiến của chúng ta tới tuổi già. Những ngày của chúng ta trên mặt đất nầy giống hệt kiếp hoa: “Người phàm nào cũng đều là cỏ, mọi vẻ đẹp của nó như hoa đồng nội. Cỏ héo, hoa tàn khi thần khí Đức Chúa thổi qua.” (Is 40, 6-7).
Trong những giờ phút cuối cùng đời mình, Cesar Bergia đã nói: “Trong suốt đời sống của tôi, tôi đã tiên-liệu mọi sự, trừ sự chết, và bây giờ, ôi, thật khốn nạn cho tôi, tôi phải chết mà không chuẩn-bị được gì trước cho sự chết của tôi.”
Một thanh-niên mới hai mươi bốn xuân xanh, suốt đời mạnh khỏe, nhưng bất thình-lình lâm trọng bệnh. Trước khi sắp từ-giả cõi đời, anh đã rên-rỉ, than-van và quằn-quại trên giường bệnh với những lời gào thét sau đây: “Ôi, tôi đã phung-phí những ngày xanh của tôi, tôi đã làm khánh-tận đời tôi. Tôi sẽ thưa gì với Đức Chúa, khi tôi phải ứng hầu trước mặt Ngài?” Thánh Phaolồ. trong thư gởi tín-hữu Do-Thái, đã cảnh-cáo: “Và nếu mọi vi-phạm cũng như bất tuân đều bị phạt đích đáng, thì làm sao chúng ta thoát khỏi, nếu chúng ta thờ-ơ với ơn cứu-độ cao-quý như thế?” (Dt 2, 3).
Một văn thi-sĩ khuyết-danh đã viết những câu sau đây, trong bài thơ 'Sách Sự Sống':
“Tôi quì cầu-nguyện, nhưng chẳng lâu được; tôi có nhiều việc phải làm. Tôi phải cấp-tốc đi làm vì hóa-đơn đòi tiền chồng chất.
Vì vậy, tôi quì gối, đọc vội một kinh và nhảy đứng dậy. Việc bổn-phận Kitô-hữu của tôi đã làm xong và tâm-hồn tôi thanh-thản, bình-an.
Suốt ngày tôi không có thời-giờ để buông một lời chào hỏi vui-vẻ hoặc nói về Chúa Kitô với bạn-bè vì sợ họ cười nhạo tôi.
Tôi luôn miệng la lớn: Không có thời-giờ, không có thời-giờ, nhiều chuyện phải làm quá! Không có thời-giờ để lo cho việc rỗi linh-hồn, nhưng cuối cùng giờ chết đã đến.
Tôi trình-diện trước mặt Đức Chúa; tôi đứng với đôi mắt cúi xuống, vì Đức Chúa đang cầm trong tay một quyển sách, sách sự sống.
Đức Chúa nhìn vào trong sách và nói: 'Cha không tìm thấy tên con, vì có lần Cha dự-tính viết xuống, nhưng Cha chẳng lúc nào có thời-giờ.' “
Khi thể xác của chúng ta chết và sự sống của chúng ta ở trên mặt đất nầy chấm dứt, phần linh-hồn của chúng ta vẫn tiếp-tục sống động trong cõi đời đời. Victor Hugo, một đại văn-hào Pháp đã nói: “Tôi cảm biết có sự sống tương-lai trong tôi.” Cyrus cũng đồng ý-kiến: “Tôi không thể nghĩ rằng linh-hồn chỉ sống khi còn ở trong một thân-thể hay chết.” Chính Emerson cũng nói: “Bằng chứng hiển-nhiên về sự bất-diệt của linh-hồn là chính nơi sự bất mãn của chúng ta đối với mọi kết-luận trái ngược.” Mark Twain đã viết: “Tôi không bao giờ tìm thấy mảy-may sự thật có thể chứng-minh về đời sống tương-lai, nhưng tôi có khuynh-hướng chờ-đợi nó.”
Xưa kia Đức Chúa đã phán với vua Hezekiah: “Hãy lo thu xếp việc nhà, vì ngươi chết, chứ không sống nổi đâu.” (2 V 20, 1). Do môi miệng của tiên-tri A-mốt, Đức Chúa cũng tuyên phán cho mọi người: “Ngươi hãy chuẩn-bị đi gặp Thiên-Chúa của ngươi.” (Am 4,12).
John Bunyan, tác-giả cuốn “Thiên-lộ lịch-trình”, đã nói lúc ông gần qua đời: “Các bạn đừng than khóc cho tôi, nhưng hãy than khóc cho chính các bạn. Tôi sẽ về nhà đời đời nơi có Đức Chúa Trời là Cha Đức Giêsu Kitô: Ngài sẽ tiếp rước tôi dù tôi là một tội-nhân bởi công-lao cứu chuộc của con Ngài. Tôi tin rằng chúng ta chẳng bao lâu nữa sẽ gặp nhau trên nước sáng láng của Chúa để hát bài ca mới và sống sung-sướng trong cõi đời đời.”
Chúng ta hãy lợi-dụng những giây phút chóng qua của đời người để chuẩn-bị cho cuộc sống đời đời: “Thiên-Chúa yêu thương thế-gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Ga 3,16).
“Sinh ký tử qui” (sống gởi thác về). Người có Đức Tin đặt niềm tín-thác trọn-vẹn nơi Chúa Quan-Phòng trong cuộc sống cũng như giờ phút lâm-chung, như lời Thánh Phao-Lồ đã nói: “Vì đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi.” (Pl. 1,21).
Trong tinh thần phó-thác tuyệt-đối đó, các Anh Chị trong dòng Tiểu-Muội và Tiểu-Đệ, mỗi ngày đã đọc kinh “Dâng Mình” của Cha Charles de Foucauld như sau:
“Lạy Cha, con phó-thác mình con cho Cha. Xin hãy làm nơi con mọi sự đẹp ý Cha. Cha làm cho mặc lòng, con cũng cám ơn Cha. Con sẵn-sàng luôn luôn, con nhận lãnh tất cả, miễn ý Cha được trọn-vẹn trong con, trong tất cả loài Cha tạo-dựng. Con chẳng ước muốn chi khác nữa. Lạy Cha là Chúa Trời con, con phó-thác linh-hồn con trong tay Cha. Con dâng linh-hồn con cho Cha. Lạy Cha, với tất cả tình yêu của lòng con, vì con mến Cha và vì mến Cha nên con thấy cần phải hiến-thân con, phó trót mình con trong tay Cha, không do-dự đắn-đo song vô-cùng tin cậy, vì Cha là Cha của con. Amen.”
Suy Niệm 17: Họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa
Một linh mục đang chuẩn bị cho trẻ em lãnh bí tích thêm sức, Ngài kiểm tra những điều các em học hỏi. Ngài hỏi một em trai: “Thiên Chúa sẽ nói gì trong ngày phán xét chung với những người đã sống cuộc đời rất tốt lành?” Không do dự, chú bé đáp: “Hãy lên trời sống với Ta”. Rồi linh mục hõi một em bé gái: “Còn những người sống cuộc đời rất xấu xa thì sao? Thiên Chúa sẽ nói gì với họ?”. Cô bé đáp: “Các người không được lên trời. Các người phải đi nơi khác”. Linh mục nói tiếp: “Vậy Thiên Chúa sẽ nói gì với những người chưa tốt lành đủ để lên trời và cũng không xấu đến nỗi phải vào hỏa ngục?” Một em bé nhanh nhảu giơ tay và trả lời theo kiểu mới bằng những lời rất đúng: “Thiên Chúa sẽ nói: “Ta sẽ nhìn các con”.
Câu chuyện này làm nổi bật hai trong nhiều chân lý mà chúng ta cần nhắc lại trong ngày lễ các linh hồn hôm nay và trong cả trong tháng 11 này được dành riêng để kính nhớ các linh hồn còn trong luyện hgục. Chân lý thứ nhất là: một số linh hồn chưa đủ tốt lành để lên trời và không xấu đến nỗi phải vào hỏa ngục. Vậy những người đó đi đâu khi họ qua đời? Chỉ Giáo hội công giáo có câu trả lời, là họ vào luyện ngục. Chân lý khác được em bé gái diễn tả là: đau khổ lớn nhất của luyện ngục là các linh hồn ở đó không được nhìn thấy Thiên Chúa, vì Thiên Chúa sẽ nhìn xem họ sau này, cho nên họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa về sau.
Bạn không tìm thấy từ “luyện ngục” trong Thánh Kinh, nhưng bạn có thể tìm được ý tưởng về nó. Chính Chúa chúng ta muốn nói rằng: một số tội được đền chuộc lại ở đời sau khi Ngài nói về tội không thể tha thứ vì từ chối kêu xin sự tha thứ (Mt 12,32)
Chúa Giêsu cũng nói về một ngục tù nơi linh hồn sẽ bị tống vào đó vì một số tôi. Họ sẽ chẳng được ra khỏi đó cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng (Mt 5,26), thánh Phaolô nói về những người sống ở thế gian này không hoàn thiện, tuy nhiên họ sẽ được cứu độ như bằng lửa thử luyện (ICor 3,13).
Cựu ước cũng chỉ cho thấy luyện ngục. Giuda Macabê, nhà lãnh đạo Do thái, đã dâng lễ tế đền tội cho người đã chết: “Cầu nguyện cho người đã chết là một ý tưởng lành thánh và đạo đức, để họ được tha thứ tội lỗi” (Amac 12,46).
Các linh hồn lành thánh không được lập công được nữa vì họ cũng không thể phạm tội nữa. Họ không thể giúp mình nhưng có thể giúp chúng ta. Họ đau khổ chính là vì họ không có thể ở cùng Thiên Chúa và nhìn xem Thiên Chúa. Họ chịu thứ đau khổ thanh tẩy có thể so sánh với đau khổ vì lửa. Nhưng họ vẫn vui mừng: họ nắm chắc là họ sẽ được lên trời.
Nhiêu linh hồn lành thánh này là những người thân yêu của chúng ta. Chúng ta có thể giúp đỡ họ bằng cầu nguyện, bằng việc lành và đặc biệt nhờ thánh lễ mà chúng ta cầu nguyện: “Xin Chúa nhớ đến tổ tiên, thân thuộc chúng con và anh chị em tín hữu đang an nghỉ chờ ngày sống lại, xin cho tất cả được hưởng ánh sáng tôn nhan Chúa”.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
Suy Niệm 18: Bên kia sự chết
Trên giường hấp hối, thánh Monica đã nhắn nhủ con ngài là Augustino như sau: “Mẹ chỉ xin con một điều là hãy nhớ đến mẹ khi tới bàn tiệc thánh”.
Có lẽ nhiều người trong chúng ta cũng đã được nghe nhiều lời van xin tương tự phát ra từ môi miệng của những người thân của chúng ta, trước khi từ giã cõi đời... Nhưng xa mặt cách lòng, nhiều người trong chúng ta lãng quên những lời van xin thống thiết ấy. Cần được thương, cần được nhớ: đó là khát vọng tự nhiên của con người. Không ai muốn là một hoang đảo cô đơn. Dưới cái nhìn Đức Tin, lời van xin kẻ khác cầu nguyện cho, còn chứng tỏ một lòng khiêm tốn, một thái độ chấp nhận cái giới hạn mỏng manh bất lực của mình.
Để giúp chúng ta có dịp đáp lại thỉnh cầu của những người đã đi vào thế giới bên kia và để thể hiện mối tình thông hiệp “các thánh thông công”, Giáo Hội ngay từ buổi đầu kỷ nguyên Kitô đã cổ động việc tưởng nhớ cầu nguyện cho những người quá cố. Những thế kỷ gần đây đã dành tháng 11 hằng năm cho việc đạo đức ấy. Hai ngày lễ mừng kính các thánh và cầu cho các linh hồn được ấn định vào hai ngày mùng một và mùng hai đầu tháng với những kinh nguyện rất ý nghĩa, nhắc chúng ta về sự hiệp thông trong Giáo Hội. Công đồng Vatican II trong hiến chế về Mầu Nhiệm Giáo Hội đã viết như sau: “Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh...”.Nói về sự bầu cử của các đẳng linh hồn, Công Đồng viết như sau: “Khi được về quê Trời và hiện diện trước nhan Chúa, nhờ Người, với Người và trong Người, các thánh lại không ngừng cầu bàu cho chúng ta bên Chúa Cha...”. Sự trao đi nhận lại đó vừa là một việc bác ái vừa là một bổn phận thảo hiếu đáp đền, đã thực sự củng cố Giáo Hội thêm vững bền trong sự thánh thiện.
Quỳ cầu nguyện một mình trong nhà thờ, hay ngậm ngùi đốt lên một ngọn bạch lạp tại một nghĩa trang nào, có lẽ ai trong chúng ta cũng cảm thấy bùi ngùi xúc động khi nghĩ đến những người chết và chính cái chết. Chúng ta đang đứng giữa biên giới vô hình của sự sống và sự chết. Và một cách vô cùng huyền nhiệm và sống động, những người chết đang hiện diện với chúng ta bằng một sợi dây liên kết thâm sâu, thắm thiết... Cái chết không còn là một chấm hết cuối cùng đối với chúng ta nữa. Tình yêu mạnh hơn sự chết. Chính Tình Yêu đã làm cho những người đã chết được sống và cũng chính Tình Yêu liên kết chúng tư với những người chết. Vâng, chỉ có Tình Yêu mới làm cho con người được bất tử. Chỉ có Tình Yêu mới làm cho con người liên kết với những người đã chết. Chỉ có Tình Yêu mới mặc cho những nghĩa cử của con người sự bất diệt.
Mỗi lần chúng ta hy sinh cho một người nào đó, mỗi lần chúng ta săn sóc một người đau yếu, an ủi một người đau khổ, bênh vực một người cô thế, hay cùng với những người khác dấn thân để canh tân cuộc sống... Chúng ta đang tiến dần đến sự bất tử.Yêu thương chính là tái sinh, là sự thông dự vào sự sung mãn của cuộc sống. Đó phải là niềm tin của chúng ta trong ngày hôm nay khi chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho người quá cố. Xin Chúa nâng đỡ Đức Tin yếu kém của chúng ta, xin Ngài ban thêm niềm hy vọng cho chúng ta.
Suy Niệm 19: Các tín hữu đã qua đời.
Trong thánh lễ cầu cho những người đã qua đời, chúng ta thường hát:
- Lạy Chúa, xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy.
Khi cầu xin với Chúa như vậy, chúng ta phải giả thiết các linh hồn ấy chưa đến được nơi hạnh phúc vĩnh cửu, nhưng đồng thời cũng không bị đày đọa trong hỏa ngục. Và dựa vào giáo lý, chúng ta đã biết luyện ngục là nơi đau khổ, trong đó linh hồn những người công chính sẽ phải thanh tẩy tội lỗi trước khi bước vào Nước Trời.
Các linh hồn ấy không bị ném vào chốn cực hình muôn kiếp, nhưng cũng chưa được vào thiên đàng. Sở dĩ như vậy vì Thiên Chúa là Đấng thánh thiện và trong sạch vẹn toàn. Ngài không bao giờ chấp nhận chút bùn nhơ tội lỗi, dù là nhỏ bé tầm thường. Linh hồn vấp phạm đã được tha thứ, nhưng còn phải đền bù và thanh luyện về những sai lỗi ấy. Và thật là may mắn, chúng ta có thể giúp đỡ bằng những lời kinh, những hy sinh và những thánh lễ dâng lên cho Thiên Chúa, để xin Ngài xóa bỏ tội lỗi, giảm bớt hình phạt và mau giải phóng các linh hồn ấy.
Sau đây chúng ta hãy lắng nghe một tiếng nói từ thế giới bên kia vọng về. Vào mùa chay năm 1922, nữ tu Joséfa xin với Chúa cho mình được liên hệ với thế giới của luyện ngục, và nữ tu đã ghi nhận:
- Rất nhiều linh hồn đã xin ngài hy sinh và cầu nguyện cho.
Một linh hồn nói:
- Tôi đã sống trong tình trạng tội lỗi suốt bảy năm. Sau đó tôi bị đau ốm ba năm. Tôi từ chối không muốn xưng tội. Tự tay tôi đã xây lấy hỏa ngục cho tôi. Nhưng nhờ lời kinh và hy sinh của người mẹ, mà tôi ăn năn thống hối trở về với Chúa và sống trong tình trạng ơn thánh. Bây giờ tôi đang bị giam cầm trong luyện ngục. Tôi van xin ngài hãy cứu giúp tôi, để mau mau chóng ra khỏi tù ngục này.
Hãy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục vì đó là một bổn phận bác ái. Nỡ lòng nào mà chúng ta không ra tay trợ giúp kẻ kêu cầu chúng ta. Nỡ lòng nào mà chúng ta lại lãnh đạm trước một người bạn đang chới với giữa dòng nước mà không tìm cách cứu vớt.
Hãy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục vì đó là một bổn phận công bằng, vì tất cả chúng ta đều liên đới với nhau trong sự thiện cũng như trong sự ác, trong sự tốt cũng như trong sự xấu. Những người bị đền bù, rất có thể vì đời sống tầm thường, vì gương mù gương xấu của chúng ta mà vấp ngã, rất có thể vì yêu thương chúng ta mà các ngài đã sai lỗi điều nọ điều kia. Dù ít hay nhiều, chúng ta cũng liên đới chịu trách nhiệm về những hình phạt của các ngài và phải chia sẻ về những hình phạt ấy.
Sau cùng, hãy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục vì đó là việc làm có lợi cho chúng ta. Cầu nguyện cho các ngài, thì các ngài cũng sẽ bầu cử cho chúng ta vì các ngài đã là những bạn hữu nghĩa thiết của Chúa. Tưởng nhớ đến các ngài, thì chắc hẳn mai ngày khi ở trong hoàn cảnh khổ đau như thế, Chúa cũng sẽ không để chúng ta chìm vào quên lãng.
Cách đây không lâu cha sở vùng Bretagne là một mục tử tận tâm chăm sóc đoàn chiên của mình. Chẳng may ngài bị chết bất ngờ, và có tới hơn hai trăm linh mục khác đến đồng tế trong thánh lễ an táng của ngài.
Ngài đã nói với các em nhỏ trong giờ giáo lý cuối cùng như sau:
- Hãy cầu nguyện cho các linh mục. Nếu cha bị chết bất ngờ, chắc hẳn cha sẽ phải vào trong luyện ngục. Các em hãy hứa là sẽ cầu nguyện và cầu nguyện nhiều cho cha nhé.
Và để kết luận, tôi xin đưa ra nơi đây ý kiến của một tờ báo Công giáo:
- Bạn nhớ cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục và cũng thường xuyên nghĩ tới cái chết, sự phán xét, thiên đàng và hỏa ngục. Bạn còn có thể chuẩn bị cho ngày gặp gỡ mặt đối mặt với Thiên Chúa. Trong ngày đó, chỉ có hai con đường: hoặc là đau khổ vĩnh viễn, hoặc là hạnh phúc muôn đời. Vậy chúng ta chọn con đường nào đây?
Suy Niệm 20: Cái chết
Hôm nay chúng ta tụ tập trong nhà thờ này để cử hành lễ các Linh Hồn, để tưởng nhớ đến những người đã khuất nhất là những người đã có một mối liên hệ thương yêu và ơn nghĩa đối với chúng ta như ông bà cha mẹ. Chính vì thế mà tôi muốn chia sẻ một vài ý nghĩa về sự chết. Vậy cái chết là gì và nó đem lại cho chúng ta những bài học nào?
Cái chết là một sự dứt bỏ có tính cách cưỡng bức, nó chia lìa hai người bạn thân thiết nhất đó là linh hồn và thể xác. Cái chết là một cuộc hành trình, một chuyến đi cô đơn nhất vì người ra đi sẽ phải để lại sau lưng tất cả những gì mình quyến luyến nhất, từ những người thân yêu đến tiền bạc và địa vị được gầy dựng do mồ hôi nước mắt. Nó sẽ chấm dứt tất cả những gì chúng ta đã đầu tư trong cuộc đời. Chính vì thế nó thường làm cho chúng ta bàng hoàng và sợ hãi.
Thế nhưng, là người Kitô hữu chúng ta phải nhìn cái chết dưới ánh sáng đức tin. Thực vậy dưới ánh sáng đức tin thì cái chết không phải là một chấm dứt mà là một khởi đầu, không phải là một ra đi mà là một trở về nhà Cha, không phải là một chia lìa nhưng là một kết hợp mật thiết với Thiên Chúa. Từ đó chúng ta rút ra được những bài học quý giá.
Bài học thứ nhất đó là ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Ý nghĩa đó được tóm gọn trong câu giáo lý: Hỏi người ta sống ở đời để làm gì? Thưa, ta sống ở đời để nhận biết, thờ phượng, kính mến Đức Chúa Trời và thương yêu mọi người như anh em. Hầu ngày sau được mưu hạnh phúc đời đời. Câu trả lời này thật ngắn gọn và rõ rệt, giúp chúng ta giải quyết những vấn đề đã từng làm cho chúng ta băn khoăn và thắc mắc. Không hiểu được chân lý này, hay cố tình quên lãng chân lý này, chúng ta sẽ trở nên những kẻ lầm đường lạc lối, không còn thấy được phương hướng cho cuộc sống, liều mình mất đi cả chì lẫn chài, cả đời này lẫn đời sau. Murillo, một hoạ sĩ Tây Ban Nha, đã khắc trên tường phòng mình hàng chữ như sau: Hãy sống như là sẽ phải chết. Hãy tập làm quen với cái chết bằng tinh thần từ bỏ liên tục.
Bài học thứ hai là bài học khôn ngoan. Trong mọi hoàn cảnh, hãy chuẩn bị sẵn sàng để ra trước mặt Chúa mà tính sổ cuộc đời. Đừng bao giờ quên rằng, chúng ta được xét xử dựa trên tình yêu: tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với anh em, chứ không phải là được xét xử theo dáng bộ bề ngoài và những việc đạo đức nặng phần trình diễn. Bởi vậy trong nhịp sống thường ngày, chúng ta có lo thực thi bác ái hay không, có biết thực tâm tha thứ cho kẻ lỗi phạm đến chúng ta hay không? Có biết nở nụ cười hoà giải đối với những kẻ đã gây nên xích mích, có biết đem lại niềm vui và hạnh phúc cho những kẻ xung quanh? Có biết làm chứng nhân cho Chúa bằng đời sống yêu thương hay không?
Nếu trong cuộc sống trần gian, chúng ta đã thực sự yêu thương anh em thì chúng ta mới có thể tiến lại gần cùng Thiên Chúa, Đấng có một trái tim cảm thông với đau khổ sẵn sàng để tha thứ và ân thưởng những người thiện chí. Khi tâm hồn chúng ta đã giao hoà cùng Thiên Chúa, thì bấy giờ cái chết không còn nhuốm vẻ tang tóc bi ai nữa. Chúng ta không còn nói như Laffirgue: Điều đau buồn nhất trong cuộc sống là cái chết. Trái lại chúng ta sẽ bảo: Đối với người tín hữu thì điều an ủi và khích lệ nhất trong cuộc sống là cái chết, bởi vì cái chết sẽ chấm dứt những đau khổ phần xác, để rồi dẫn đưa chúng ta vào niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
Suy Niệm 21: Chết không phải là xa cách vĩnh viễn
Hằng ngày người ta chứng kiến hoặc nghe nói hoặc đọc trên báo chí về những cái chết do già yếu, bệnh tật, tai nạn, thiên tai, chiến tranh, bạo động... gây ra. Và người ta nghĩ chết chóc là chuyện xẩy ra cho người khác, chứ chưa xẩy ra cho chính mình. Đa số loài người có thể đương đầu với cuộc sống dù có vất vả khổ cực đi nữa. Tuy nhiên ít ai muốn đương đầu với cái chết. Người ta cũng cảm thấy khó chấp nhận cái chết của người còn trẻ tuổi và người thân yêu. Tâm trạng đó có nghĩa là người đời sợ chết hay chưa muốn chết vì người ta sợ đối diện với những gì xẩy ra ở đời sau mà người ta không biết trước được. Có những người sợ chết đến nỗi dặn những người thân yêu phải nắm chặt tay chân mình trong lúc hấp hối.
Trong thực tế, chết có thể xẩy đến cho bất cứ ai: già trẻ, lớn bé, hoặc bất cứ lúc nào: ngày cũng như đêm, hay bất kì ở đâu, ngay cả tại những nơi mà người ta tưởng là an toàn nhất, người ta vẫn có thể chết. Như vậy, chết không kiêng nể một ai. Khi nào thiên thần Chúa đến gõ cửa nhà linh hồn, gọi linh hồn ra khỏi xác, là một điều bí mật. Như vậy sống và chết gắn liền với nhau. Có thể nói được là người ta sinh ra để mà chết. Và tất cả cuộc sống là một tiến trình đi về cái chết.
Đối với người tin tưởng vào ơn cứu độ của Chúa Kitô, Đấng cứu độ trần gian, thì chết không phải là hết, cũng không phải là xa cách vĩnh viễn. Chết chỉ là một biến đổi từ đời này qua đời khác. Người thân nhân còn sống cần đem sự hiện của người khuất bóng vào đời sống gia đình bằng hình ảnh của người quá cố, bằng công nghiệp của người quá cố để lại, bằng những kỉ niệm có được với người quá cố và nhất là bằng lời cầu nguyện và lễ dâng cho người quá cố.
Phụng vụ lễ các linh hồn nhắc nhở cho người tín hữu là người lữ hành trên cuộc hành trình đi về nhà Chúa, họ không đi một mình, nhưng cùng đồng hành với toàn thể dân Chúa, cùng với Mẹ Maria và các thánh, cùng với người tín hữu tại thế và các linh hồn nơi luyện ngục.
Theo tín điều Các Thánh cùng Thông công, thì Mẹ Maria và các thánh trên trời có thể cầu bầu cho người tín hữu tại thế. Người tín hữu tại thế có thể cầu nguyện cho nhau, ủng hộ tinh thần cho nhau và cầu nguyện các linh hồn nơi luyện ngục. Giáo lí về việc người tín hữu tại thế cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục được các Công Đồng Nicea II, Firenze và Triđentinô gọi là Tín Điều Các Thánh cùng Thông Công thì Công Đồng Vaticanô II gọi là sự hiệp thông sống động (GH #51).
Như vậy đức tin của người công giáo được hỗ trợ một cách tối đa bằng lời cầu bầu của Mẹ Maria và các thánh và lời cầu nguyện, hi sinh và gương sáng của người khác. Và ngay cả khi nằm xuống vĩnh viễn, người quá cố vẫn còn được hỗ trợ bằng lời cầu nguyện của họ hàng, thân nhân và bạn hữu và của toàn thể Giáo hội và bằng ý chỉ của thánh lễ dâng. Biết được như vậy, nghĩa là biết được rằng sau khi chết mà còn có những người thân yêu, bạn bè nhớ đến mình trong lời cầu nguyện và thánh lễ, là điều sưởi ấm tâm hồn biết bao.
Ngay trong thời Cựu ước ngôn sứ Isaia đã có thể nhìn đến một viễn tượng khi Đấng cứu độ trần gian sẽ đến: tiêu diệt tử thần (Is 25:8). Còn thánh Phaolô thì bảo tín hữu Rôma phải cậy trông vào ngày mà họ: sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang (Rm 8:21). Kinh Tiền tụng I trong Thánh lễ cầu cho những người đã qua đời nhắc nhở cho người tín hữu: Sự sống thay đổi chứ không mất đi và khi nơi nương náu ở trần gian bị huỷ diệt tiêu tan, thì được một chỗ cư ngụ vĩnh viễn trên trời. Chết là một biến đổi vì Chúa Kitô đã toàn thắng sự chết bằng việc phục sinh của Người. Bằng việc sống lại Chúa đã xoá bỏ tội lỗi và toàn thắng sự chết.
Trước khi về trời, chính Chúa Giêsu cũng hứa với ta qua các tông đồ: Thầy đi dọn chỗ cho chúng con. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho chúng con thì Thầy sẽ trở lại và đón chúng con về với Thầy, để Thầy ở đâu, chúng con cũng được ở đó (Ga 14:2-3). Lời hứa đó đã được thực hiện cho người gian phi cùng chịu đóng đanh với Chúa Kitô mà có lòng ăn năn sám hối: Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng (Lc 23:43).
Hôm nay vì lòng hiếu thảo và tình bác ái Kitô, ta đến nhà thờ dâng thánh lễ cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục, những linh hồn tổ tiên, ông bà cha mẹ, anh chị em, họ hàng thân quyến và bạn hữu đã khuất bóng. Xin Chúa vì lòng nhân hậu, khoan dung và hay tha thứ xét nhử nhân hậu với các linh hồn, đưa các linh hồn về hưởng ơn nghĩa trong nước Chúa.
Lời cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời:
Lạy Chúa cả nhân lành hay thương xót.
Chúa không muốn cho loài người phải chết đời đời,
nhưng được sống.
Xin Chúa dủ lòng thương xót các linh hồn đã qua đời.
Xin dùng máu thánh Con Chúa đã đổ ra vì tội lỗi loài người
mà tẩy sạch vết nhơ tội lỗi cho các linh hồn
cho được hưởng phúc trường sinh. Amen.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ - Lm Trần Bình Trọng)
Suy Niệm 22: Cầu cho các tín hữu đã qua đời
Hôm nay chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho những người thân cũng như mọi người quá cố. Lễ cầu cho các đẳng đã được thánh Audilo, tu viện trưởng tu viện Crainy, tại Pháp, thiết lập cách đây một ngàn năm, liền sau lễ Các Thánh, qua đó Giáo Hội vui mừng cử hành việc thông hiệp các thánh và ơn cứu rỗi.
Thánh Audilo đã thúc giục các tu sĩ trong tu viện hãy cầu nguyện một cách đặc biệt cho người quá cố. Lời cầu cho các đẳng không mấy chốc đã lan rộng ra khắp nơi.
Để nuôi dưỡng tâm tình và lời cầu nguyện của chúng ta trong ngày hôm nay, thiết tưởng chúng ta nên lắng nghe lại sứ điệp mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã gửi cho đức cha Raymon Sagi, giám mục Otinsalone và Margone, nhân dịp kỷ niệm một ngàn năm thánh Audilo thiết lập lễ cầu cho các đẳng linh hồn.
Mầu nhiệm vượt qua phải là trọng tâm của những suy tư và là nền tảng của những lời cầu nguyện của chúng ta trong ngày hôm nay.
Đức Thánh Cha viết như sau:
“Khi cầu nguyện cho người quá cố, trước tiên Giáo Hội chiêm ngắm mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Kitô, Đấng mang lại ơn cứu rỗi và sự sống vĩnh cửu cho chúng ta qua thập giá của Ngài. Do đó, cùng với thánh Audilo, chúng ta có thể lặp lại không ngừng như sau: “Thánh giá là nơi nương ẩn, là đường đi và là sự sống của tôi. Thánh giá là khí giới bất diệt của tôi. Thánh giá chiến thắng mọi sự dữ. Thánh giá đẩy lui mọi bóng tối”. Thánh giá của Chúa Giêsu nhắc chúng ta rằng mọi cuộc sống đều được ánh sáng phục sinh soi dẫn và không có một hoàn cảnh nào là hoàn toàn hư mất, bởi vì Ngài đã chiến thắng sự chết và mở đường cho chúng ta tiến vào sự sống thật. Trong ngày cầu cho người đã qua đời, chúng ta nói lên niềm hy vọng cho chúng ta”.
Đức Thánh Cha giải thích:
“Tin vào sự phục sinh của thân xác là nhìn nhận rằng sẽ có một chung cục, một cùng đích cho mọi người. Một cùng đích thỏa mãn khát vọng của con người đến độ nó không còn gì phải khao khát nữa. Niềm khát vọng ấy được thánh Augustinô diễn tả một cách thật kỳ diệu như sau: “Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa và tâm hồn chúng con không thể an nghỉ khi chưa được nghỉ an trong Chúa”. Do đó, tất cả chúng ta được mời gọi để sống với Chúa Kitô, Đấng ngự bên hữu Chúa Cha và được chiêm ngắm Thánh Thần, vì Thiên Chúa là đối tượng của niềm hy vọng Kitô. Cầu nguyện cho người quá cố, chúng ta không chỉ tưởng nhớ đến những người thân và các tín hữu Kitô. Chúng ta cũng được mời gọi để tưởng nhớ và cầu nguyện cho tất cả mọi người quá cố, dù tin hay không tin, dù thuộc về hay ở ngoài Giáo Hội hữu hình”.
Đức Gioan Phaolô II đã trích dẫn kinh Tin Kính của Đức Phaolô VI như sau:
“Chúng ta tin rằng Giáo Hội là cần thiết trong ơn cứu rỗi, bởi vì Chúa Kitô là trung gian duy nhất và là con đường cứu rỗi duy nhất, và bởi vì Ngài hiện diện với chúng ta trong thân thể Ngài là Giáo Hội, nhưng chương trình của Thiên Chúa ôm trọn lấy tất cả mọi người. Do đó những ai không do lỗi của họ mà không biết Tin Mừng của Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài, nhưng thành tâm tìm kiếm Chúa và hành động theo lương tâm của mình nhờ ơn Chúa thúc đẩy, mà thực thi ý muốn của Ngài, những người đó cũng thuộc về dân Ngài, cho dẫu bằng một cách thế mà chúng ta không thấy và do đó cũng có thể được phần rỗi đời đời. Chỉ có Chúa mới biết con số những người ấy”.
Chính vì thế mà Đức Thánh Cha kêu gọi chúng ta hãy cầu nguyện cho tất cả mọi người quá cố. Lời cầu nguyện mà Giáo Hội không ngừng dâng lên Chúa có một giá trị lớn lao, đó là đặc điểm của một tâm hồn luôn hướng về lòng nhân từ của Chúa. Giáo Hội tin rằng các linh hồn đã được thanh luyện, đã được nâng đỡ bởi lời cầu nguyện của các tín hữu, và nhất là bởi thánh lễ trên bàn thờ cũng như các việc bố thí và những việc làm đạo đức khác.
Trong phần kết thúc sứ điệp gởi cho đức giám mục kiêm tu viện trưởng tu viện Crainy, nhân dịp kỷ niệm một ngàn năm thiết lập ngày cầu cho các đẳng, Đức Thánh Cha tha thiết kêu gọi như sau:
“Tôi cổ võ các tín hữu công giáo hãy sốt sắng cầu cho những người quá cố, cho người thân trong gia đình và cho tất cả mọi anh chị em đã ly trần để họ được tha thứ khỏi hình phạt cho tội lỗi của họ, và có thể lắng nghe được lời mời gọi của Chúa: “Hỡi linh hồn yêu dấu, hãy vào nghỉ ngơi muôn đời trong vòng tay từ ái của Ta”.
Trong ngày hôm nay và trong suốt tháng 11 này, chúng ta hãy dâng mọi ý nguyện và những hy sinh của chúng ta để cầu nguyện cho người thân và mọi người quá cố. Ước gì những lời cầu nguyện và hy sinh ấy cũng nuôi dưỡng và củng cố niềm hy vọng của chúng ta vào cuộc sống mai hậu, và nhờ đó mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của chúng ta.
Suy Niệm 23: Báo hiếu mẹ cha
Có một mẩu chuyện có thật được ghi lại trên một trang blog như sau:
Bạn tôi mở ngăn tủ của chồng mình và lấy ra một gói nhỏ. Gói kỹ càng trong lớp giấy lụa. Chị bảo: Đây không phải là gói đồ bình thường, đây là một chiếc áo thật đẹp. Chị vứt lớp giấy bọc, và lấy ra chiếc áo mịn màng và bảo: Tôi mua chiếc áo này tặng anh ấy, lần đầu tiên chúng tôi sang New York, cách đây 8 - 9 năm rồi, nhưng anh ấy chưa bao giờ mặc! Anh ấy muốn dành cho một dịp nào đặc biệt. Vậy thì hôm nay, tôi nghĩ là dịp đặc biệt nhất rồi. Chị đến cạnh giường và đặt gói áo ấy cạnh những món đồ mà tí nữa sẽ được bỏ vào áo quan mà liệm. Chồng chị vừa mới qua đời...
Quay sang tôi, chị bảo: Đừng bao giờ giữ lại một cái gì mà chờ cơ hội đặc biệt cả. Mỗi ngày sống đã là một cơ hội đặc biệt rồi! Có thể sẽ không có dịp nào đặc biệt như ngày hôm nay. Thế nên, điều gì đáng bỏ công, đáng làm, hãy làm từ ngày hôm nay. Điều gì chúng ta muốn làm cho anh em mình, hãy làm ngày hôm nay, đừng để ngày mai khi mà chúng ta không còn cơ hội để tỏ lòng quan tâm, yêu thương chăm sóc anh em mình. Đừng để những giọt nước mắt của nuối tiếc chảy dài trước chiếc quan tài mà người ta yêu đã nằm bất động chẳng còn có thể hạnh phúc khi được chúng ta quan tâm, chăm sóc, yêu thương.
Vâng, có lẽ lúc này, chúng ta cũng nuối tiếc một điều gì đó khi đứng trước nấm mồ của người thân yêu chúng ta. Có những điều, những việc, những lời nói đáng lý chúng ta phải dành cho họ, nhưng chúng ta lại chần chừ, lại trì hoãn. Nhưng giờ đây, chúng ta không còn cơ hội để làm điều gì đó cho họ. Họ cũng không còn cần những điều ấy nơi chúng ta. Họ đã ra đi và bỏ lại tất cả những vui buồn của kiếp người. Họ không còn cảm thấy hạnh phúc khi chúng ta đối xử ân cần, chân thành với họ. Họ cũng không còn những giọt nước mắt tủi hận vì sự thờ ơ, thiếu trách nhiệm của chúng ta. Đối với họ giờ đây, những tình cảm, những vật chất mau qua đã không còn giá trị, đã không đủ mang lại niềm vui hay buồn đau cho họ. Vậy giờ đây, họ cần điều gì nơi chúng ta?
Trong đức tin Kitô giáo, chúng ta biết rằng chết không phải là hết. Nó chỉ là khởi đầu của một hành trình đi vào cõi thiên thu. Sau cái chết tôi sẽ đi gặp gỡ Đấng Tạo Hoá, và tính sổ cuộc đời mình. Cùng đích của cuộc đời là được sống mãi với Thiên Chúa. Nếu tôi đã sống trong ân nghĩa của Ngài, thì chuyến đi cũng giống như trở về nhà của mình. Sinh ký tử quy, tôi trở về nhà để sống với Thiên Chúa, Đấng dựng nên tôi. Danh từ bình dân gọi đây là Nước Thiên Đàng, nơi không còn nước mắt, chỉ có niềm vui và hạnh phúc viên mãn.
Dầu vậy, trong chuyến đi này, chúng ta cũng cần được thanh luyện, như vàng được thử trong lửa. Vì trong cuộc sống, ít nhiều có lần, tôi cũng đã không sống trong ân sủng của Ngài, tôi đã để những quyến luyến của tạo vật làm chủ trái tim tôi, đóng những lớp bụi trần trên con người thật của tôi. Tôi sinh đến trong đời với hai bàn tay trắng, và khi ra đi, tôi cũng chẳng mang gì theo được ngoại trừ công phúc và tội lỗi. Giai đoạn thanh tẩy này gọi là Luyện Tội, nơi chúng ta được tái tạo lại theo hình ảnh của Thiên Chúa. “Lửa” luyện tội sẽ đốt cháy tất cả những lớp bụi bặm, sơn phết mà tôi đã tô vẽ cho mình trong cuộc sống.
Như vậy, người đã chết cần nơi chúng ta lời cầu nguyện, cần thánh lễ chúng ta dâng để thanh tẩy họ, cần việc lành phúc đức chúng ta làm thay cho họ, để nhờ công phúc của chúng ta kết hợp với hiến tế của Con Chiên Thiên Chúa, giúp họ thoát khỏi những đau khổ của luyện tội. Đây cũng có thể là những nghĩa cử cao đẹp mà chúng ta có thể dành cho những người thân yêu ở cõi vĩnh hằng. Đây cũng là cách chúng ta tỏ lòng thảo hiếu với công ơn sinh thành của ông bà, cha mẹ. Vì đạo hiếu Việt Nam luôn đề cao công đức sinh thành. Đạo hiếu dạy phải 'thờ cha kính mẹ mới là đạo con”. Đó còn là công bằng phải trả cho ông bà cha mẹ, vì “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Đó còn là cách chúng ta để đức về sau: “Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó”. Vì vậy, người khôn ngoan không ai lại không thảo kính cha mẹ. Người khôn ngoan luôn làm mọi cách để báo hiếu cha mẹ khi còn sống và cả khi các ngài đã qua đời. Khi sống quan tâm, chăm sóc. Khi chết dâng lễ, cầu nguyện.
Chính vì lẽ đó, tháng 11 là dịp để chúng ta nhớ đến công ơn sinh thành, để đền đáp ơn nghĩa chín chữ cù lao mà các ngài đã dành cho chúng ta bằng những thánh lễ chúng ta dâng, bằng những hy sinh, những việc lành phúc đức chúng ta làm cho các ngài. Người Phật giáo có mùa Vu Lan là mùa báo hiếu. Người Công giáo cũng có thể nói tháng 11 là mùa báo hiếu để chúng ta làm tất cả những gì có thể để đền đáp ân nghĩa mẹ cha, mà nay đã qua đời. Với ý nghĩa đó, giờ đây chúng ta cùng nhìn lại một chút công ơn mà ông bà cha mẹ đã dành cho chúng ta qua những lời ca dao, những vần thơ trong kho tàng văn học Việt Nam.
Trước tiên là ân nghĩa sinh thành:
“Công cha đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ song thân”.
Những bậc làm cha mẹ thường đánh mất chính mình để lo cho con có cơm có áo, có những ngày đến trường để bằng bạn bằng bè. Cha mẹ chẳng tiếc gì những giọt mồ hôi rơi rớt trên nương đồng, lai láng trên công trường:
“Nuôi con buôn tảo bán tần
Chỉ mong con lớn nên thân với đời
Những khi trái nắng trở trời
Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên
Trọn đời vất vả triền miên,
Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con”.
Thế nên, phận làm con phải hiếu để bù đắp lại phần nào những đắng cay vất vả mà các ngài đã sẵn lòng vì ta bằng cách:
“Mẹ già ở túp lều tranh,
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con”.
Và dù không được ở gần cha mẹ, thì người con thảo hiếu luôn dành cho cha mẹ những tình cảm chân thành từ những cây nhà lá vườn, những hoa trái đầu mùa dâng tặng mẹ cha:
“Ai về tôi gởi buồng cau,
Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy.
Ai về tôi gởi đôi giầy,
Phòng khi mưa gió để thầy mẹ đi”.
Vâng, đứng trước biết bao ân sâu nghĩa nặng của cha mẹ, phận làm con phải thảo hiếu. Chúng ta đừng bao giờ quên rằng: những gì chúng ta có là do công cha nghĩa mẹ. Mỗi người chúng ta đều có nguồn cội. Mỗi người chúng ta đều phải khắc ghi trong lòng ân sâu nghĩa nặng mẹ cha. Với tâm tình đó, chúng ta cùng hát với nhau bài “Ơn nghĩa sinh thành” để ghi khắc mãi trong tim về tình yêu trời bể của cha mẹ đã dành cho chúng ta.
“Uống nước nhớ nguồn
Làm con phải hiếu
Anh ơi hãy nhớ năm xưa
Những ngày còn thơ
Công ai nuôi dưỡng.
Công đức sinh thành
Người hỡi đừng quên
Công cha như núi thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Người ơi, làm người ở trên đời
Nhớ công người sinh dưỡng
Đó mới là hiền nhân
Vì ai ta nên người tài ba
Hãy nhớ công sinh thành
Vì ai mà có ta. Uống nước...
(Lm. Tạ duy Tuyền)
Suy Niệm 24: Hãy nhớ đến công đức của các ngài
(Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP)
Tại đất nước của chúng ta hay trên thế giới, có lẽ không ai lại không biết đến cây chuối. Có nhiều loại chuối, nhưng các loại chuối đều giống nhau ở một điểm là: chúng chỉ sản sinh ra một buồng chuối duy nhất, không bao giờ có buồng thứ hai. Lúc mới lớn, chúng to cao, thân vạm vỡ, lá xanh tươi. Nhưng khi chúng bắt đầu có buồng, thì cũng là lúc chúng chuẩn bị héo tàn xơ xác với thời gian, và, khi buồng chuẩn bị chín, cây chuối mẹ sẽ ủ rũ, héo úa như muốn dồn hết sức lực còn sót lại để nuôi chúng. Sự sống của nó kết thúc khi buồng chuối đã chín hẳn.
Như vậy, trong quá trình sinh trưởng của buồng, cây chuối mẹ phải hy sinh những tinh túy nhất của mình cho buồng chuối. Có thế, chúng ta mới được tận hưởng những trái chuối to, thơm ngon và bổ dưỡng….
Cây chuối là biểu tượng cho một tình yêu cao thượng. Nhìn cây chuối đang mang buồng, chúng ta suy nghĩ đến sự quảng đại, hy sinh đến quên mình của những bậc tiền nhân chúng ta.
Hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta cử hành thánh lễ Cầu Hồn để cầu nguyện cho các linh hồn là những ông bà, cha mẹ, tổ tiên, những người thân yêu, ân nhân, thân nhân, bạn hữu…. của chúng ta đã ra đi về với Chúa.
1. Lý do cần cầu nguyện cho các linh hồn
Cầu nguyện cho các ngài là bổn phận, là sống tinh thần hiệp thông, là thể hiện đức ái và nhất là biểu lộ niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa.
Như vậy, tháng 11 đối với đạo Công Giáo được gọi là tháng báo hiếu tổ tiên. Vì thế, những người con, cháu, chắt hãy nhớ công ơn trời bể, nhất là những lời dạy dỗ, bảo ban của các ngài mà khắc cốt nghi tâm: “Hỡi con, lệnh cha con truyền, hãy lo tuân giữ, lời mẹ con dạy, chớ bỏ ngoài tai […], vì huấn lệnh là ngọn đèn, lời dạy dỗ là ánh sáng, và lời quở trách bảo ban là đường dẫn tới sự sống” (x. Cn 6,20.23).
Thật vậy, cả cuộc đời của các ngài đã sống hết mình vì con cái. Đôi khi vì hạnh phúc của con mà người mẹ phải chấp nhận tần tảo ngược xuôi, ăn bữa nay, lo bữa mai, nhưng nhất quyết không để con mình phải đói, phải rách, hay bị thất học…. Có những người mẹ đã cống hiến luôn cả một phần cơ phận của mình để có tiền lo cho con cái ăn học hay chữa bệnh…:
“Nuôi con buôn tảo bán tần, chỉ mong con lớn nên thân với đời. Những khi trái nắng trở trời, con đau làm mẹ đứng ngồi không yên. Trọn đời vất vả triền miên, chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con”.
Hoặc có những người cha đã phải thức khua dạy sớm, làm lụng vất vả để nuôi sống gia đình và lo cho con cái bằng bạn bằng bè:
“Cha tôi tuy đã già rồi, nhưng còn làm lụng để nuôi cả nhà. Sớm hôm vừa dấy tiếng gà, cha tôi đã dạy để ra đi làm”.
Đó là về vật chất, còn về tinh thần thì sao? Chắc hẳn không có người cha, người mẹ nào lại muốn con cái mình sinh ra hư hỏng, trái lại, các ngài luôn mong muốn cho chúng càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan, đạo hạnh…. Tuy nhiên, vì sự lêu lổng, tính ham chơi và tuổi đời bồng bột, nên đã biết bao lần con cái làm cho cha mẹ phải tủi nhục đắng cay! Đấy là chưa kể đến những đứa con bất hiếu đến độ đuổi cha mẹ ra khỏi nhà, chửi mắng các ngài chỉ vì không đáp ứng những nhu cầu bất chính của chúng! Quả đúng là: “Cha mẹ thương con như biển hồ lai láng, con thương cha mẹ tính tháng tính ngày”.
Nhiều khi con cái đâu có hiểu được rằng: chúng được thành đạt, nên người; được cơm no áo ấm; được nở mặt nở mày với những nụ cười rạng rỡ; được nhiều người thương mến, kính trọng…. Có bằng này chức kia lại là kết quả của cha mẹ một nắng hai xương, dầm mưa dãi nắng; cầy sâu cuốc bẫm; suốt ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời để dành dụm được chút ít dư dật, hầu lo cho con cái được ấm no, hạnh phúc.
Nói chung: “Công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.
Đây là gia tài quý báu mà các ngài truyền lại cho con cháu.
Thật vậy, công đức, gương sáng của các ngài đã để lại cho chúng ta là cả một gia tài vô giá, vì thế, “Uống nước phải nhớ nguồn, ăn quả phải nhớ kẻ trồng cây”, vì: “Mẹ cha vất vả nuôi mình. từ khi trứng nước công trình biết bao. Làm con phải nhớ công lao, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Nhưng có lẽ món quà quý giá nhất giờ đây mà các ngài mong muốn nơi chúng ta, đó là dâng thánh lễ và lời cầu nguyện.
2. Cầu nguyện là món quà quý giá nhất dành cho các linh hồn
Vì thế, niềm tin Kitô Giáo cho chúng ta một niềm hy vọng rằng: chết không phải là hết, nhưng là một cuộc đi về Quê Thật, vì: “Sinh ký, tử quy”. Chính trong niềm tin này mà chúng ta có một sự liên hệ mật thiết giữa người sống và người chết cách nhiệm mầu, nhưng sống động. Thế nên, khi đứng trước hay nhìn thấy các nấm mồ của người thân yêu đã quá cố, chúng ta không thể quên công ơn của các ngài, vì: “Mồ thật chôn các người chết là trái tim của người sống” (Tục ngữ). Sự sống và tinh thần của các bậc tổ tiên được lưu truyền hậu thế mãi mãi nơi những khuôn mặt, trái tim của hậu sinh là chúng ta.
Vì thế, Mẹ Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy tưởng nhớ công ơn của các ngài để noi gương và nhất là dâng lời cầu nguyện, hy sinh cho các linh hồn. Đây là cách báo hiếu tốt nhất dành cho người quá cố và đây cũng là niềm tin của mỗi chúng ta. Trong Kinh Thánh, chúng ta vẫn tuyên xưng: “Tôi biết rằng Ðấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu huỷ, thì với tấm thân, tôi sẽ được nhìn ngắm Thiên Chúa” (G 19,25-26). Xác tín này cũng chính là niềm tin của Mattha trước cái chết của Lazarô, vì thế, cô được Đức Giêsu mặc khải về sự sống sau cái chết nơi những người tin: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11, 25-26). Lời hứa về sự sống đời đời còn được Đức Giêsu mặc khải nhiều lần khác nhau: “Ý của Ðấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6, 39). Lúc khác Ngài khẳng định mạnh mẽ hơn: Ai “tin vào người Con, thì được sống muôn đời” (Ga 6, 40). Hay: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6, 54).
3. Sứ điệp ngày lễ
Mỗi khi tháng 11 đến, ngoài việc cầu nguyện cho các linh hồn, Giáo Hội mời gọi chúng ta ý thức rằng: “Nay người, mai ta”. Sự ra đi của tiền nhân là dấu chỉ báo trước cho chúng ta biết, một mai chúng ta cũng sẽ lần lượt ra đi như các ngài để trở về thế giới bên kia, vì: “Mọi sự dầu hay, hay dở, đều không chắc chắn, chỉ sự chết là chắc chắn sẽ xảy đến” (thánh Augúttinô).
Tuy nhiên, thông điệp được sáng lên từ những nấm mồ tưởng chừng như bất động kia lại rất sống động khi nó chuyển tải cho chúng ta những chân lý như: cuộc đời này thật hữu hạn. Sẽ có ngày tôi cũng phải từ giã mọi người để ra đi về với Chúa và được chôn cất trong ba tấc đất nhỏ bé kia. Thân xác chúng ta sẽ trở về với cát bụi, và mọi cố gắng đến đây chấm dứt, chỉ còn biết cậy trông lòng thương xót của Thiên Chúa, lòng nhân ái của mọi người bằng đời sống hy sinh và cầu nguyện mà thôi.
Bên cạnh đó, từ nơi nấm mồ toát lên lời mời gọi chúng ta: hãy sống lành để được chết thánh; hãy yêu thương để được yêu thương; hãy tha thứ để được thứ tha; hãy sống như ngày mai sẽ chết, để ngay từ giây phút này sám hối ăn năn, đây chính là tinh thần tỉnh thức trong ân sủng.
Lạy Chúa Giêsu, chính Chúa là sự sống đời đời, xin ban cho các linh hồn được an nghỉ trong tình thương của Chúa và xin cho chúng con sống tốt trong cuộc sóng hiện tại, để mai ngày được cùng tổ tiên chúng con ca tụng Chúa trên Nước Trời. Amen.
Suy Niệm 25: Thân xác và linh hồn
(John W. Martens //Chuyển ngữ : Văn Hào SDB)
“Ta sẽ cho họ chỗi dậy trong ngày sau hết” (Ga 6,40).
Khi chúng ta chết, điều gì sẽ xảy đến? Đây là vấn nạn chúng ta thường đặt ra, đặc biệt đối với các Kitô hữu, khi mọi người đều hướng vọng về sự sống mai sau. Nhưng trước khi thân xác chúng ta được phục sinh trong ngày sau hết, trong thời gian chuyển tiếp, điều gì sẽ xảy đến ? Sau khi giã từ trần gian, chúng ta sẽ đi về đâu? Đây là điều thường gây ngộ nhận, nếu chúng ta không quán triệt giáo lý của Giáo hội. Hồi còn nhỏ tôi vẫn nghĩ về sự phục sinh mai sau và cho rằng sau khi chết, tôi sẽ được sống lại ngay lập tức trên quê trời cùng với tất cả những ai đã được quyền năng Chúa cho sống lại. Đây không phải là cái nhìn theo quan điểm Kitô giáo. Tuy nhiên, nhiều Kitô hữu vẫn ngộ nhận rằng sau khi chết, chúng ta sẽ sống trên quê trời, tuy không mang hình hài thân xác, nhưng linh hồn được giải thoát khỏi những ràng buộc của thể lý, và đó cũng là cuộc sống mà mọi người phải hướng vọng về. Cuộc sống mai hậu khi thân xác chết đi, là một điều rất khó giải thích, bởi vì những bản văn Kinh Thánh chỉ nói tới điều đó cách rời rạc và không nhất quán đưa ra một cắt nghĩa tổng thể. Về cuộc sống sau khi chết, Kinh Thánh chỉ mặc khải một cách tiệm tiến dần dần.
Những người Do Thái cổ đại không đặt trọng tâm vào thế giới mai hậu, nhưng họ chỉ nhắm đến cuộc sống hiện sinh với những phần thưởng và chúc lành từ nơi Thiên Chúa. Đó là một cuộc sống trường thọ của ngày hôm nay, được đông con nhiều cháu, có dư dật của cải, cụ thể có nhiều hoa màu ruộng đất và đàn gia súc phong phú. Theo quan niệm cổ xưa, người chết sẽ xuống âm phủ, là nơi không phải để thưởng phạt, nhưng chỉ là nơi bóng tối của sự chết bao trùm khi chúng ta an giấc ngàn thu.
Cựu ước nói rất ít về sự phục sinh. Mãi về sau này, trong các bản văn thuộc thế hệ sau lưu đầy khi dân Israel trở về kiến thiết lại Giêrusalem, sự phục sinh thân xác mới được nhắc tới. Vài thế kỷ trước công nguyên, dần dần xuất hiện sự phát triển quan niệm về số phận muôn đời của những người đã chết. Muộn thời sau này, người Do Thái mới có tư tưởng tuy không hệ thống hóa, nhưng nhấn mạnh rằng trọn vẹn con người chúng ta cả xác lẫn hồn sẽ được chỗi dậy trong ngày sau hết.
Trong khi có khá ít những tư tưởng nói về cuộc sống con người sau cái chết để chờ đợi được phục sinh, thì tác giả sách Khôn ngoan, bộ sách đã được viết vào khoảng từ năm 30 đến năm 40 trước công nguyên tại Alexandria thành phố nói tiếng Hy Lạp, có đề cập đến ‘linh hồn những người công chính’ đã chết. Tác giả viết: “Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa. Bọn ngu si coi họ như đã chết rồi. Khi họ ra đi, chúng cho là họ gặp phải điều vô phúc. Lúc họ xa rời chúng ta, chúng ta tưởng là họ bi tiêu diệt. Nhưng thật ra họ đang hưởng bình an (Kn 3 1-3). Quan niệm âm phủ không còn nữa, nhưng thay vào đó, là tình trạng con người thoát khỏi cực hình và được an bình. Toàn bộ trình thuật đưa ra một tiến trình phán xét sau khi chết, và nói về sự hiện diện tiếp mãi của Thiên Chúa. Nhưng bản văn cũng tiên báo một Vương quốc của Thiên Chúa trong tương lai, khi đó linh hồn người công chính sẽ thống trị muôn dân nước và xét xử muôn dân tộc, và Đức Chúa sẽ cai trị họ đến muôn đời (Kn 3, 7-8).
Đối với người Kitô hữu, Vương quốc tương lai này sẽ được khai mở khi Đức Giêsu trở lại, lúc đó tất cả mọi người, kẻ sống cũng như kẻ chết, sẽ được tham phần vào sự sống lại của Đức Kitô nơi thân xác họ. “Vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại (Rm 6,5). Đức Giêsu cũng nói về sứ mạng cứu thế của Ngài, khi chiến thắng tội lỗi và sự chết: “ Quả thật, đây là ý muốn của Cha tôi, là những ai thấy Chúa Con và tin vào Người Con, sẽ có sự sống đời đời, và Ta sẽ cho họ chỗi dậy trong ngày sau hết” (Ga. 6,39).
Khi còn sống trong thân xác nơi trần thế, chúng ta đợi chờ cái chết chắc chắn sẽ đến, và hướng vọng về Vương quốc mai sau trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Chúng ta cũng ngóng đợi sự viên thành của Vương quốc Nước Trời, khi hồn và xác được kết hiệp lại để sống muôn đời. Sách Giáo lý Công giáo, điều 1005 cũng cắt nghĩa theo lời dạy của Thánh Phaolô, với một viễn cảnh tràn trề hy vọng: ‘Để được chỗi dậy với Đức Kitô, chúng ta phải chết với Đức Kitô, tức là chúng ta phải xa lìa thân xác để được cư ngụ với Chúa’. Sự chia lìa tạm thời này chính là cái chết, khi thân xác tách rời khỏi linh hồn. Linh hồn sẽ được kết hiệp lại với thân xác trong ngày kẻ chết sống lại. Vì thế, cùng với linh hồn những người công chính đã ra đi trước chúng ta, các Kitô hữu sẽ chờ đợi Vương quốc của Thiên Chúa, nơi đó mọi sự được viên toàn, và Thiên Chúa sẽ là tất cả trong mọi sự.
Suy Niệm 26: Lễ cầu nguyện cho các linh hồn – JK
TIN MỪNG: Lc 23,33-34.39-43
Câu hỏi gợi ý:
Thiên Chúa không muốn con người đau khổ, tại sao Ngài lại bắt linh hồn người chết phải thanh luyện cho hoàn hảo mới được vào thiên đàng?
Chịu thanh luyện để nên hoàn hảo, Bản chất của sự hoàn hảo này là gì? Là tình yêu? đức tin? sự trong sạch? hay sự tôn trọng lề luật? hay sự gì khác?
Người gian phi đầy tội lỗi trong bài Tin Mừng, tại sao lại được Đức Giêsu cho vào thiên đàng ngay? Vậy yếu tố cốt yếu nhất để vào thiên đàng là gì? Đọc kinh? cầu nguyện? dâng lễ? bố thí? giữ luật? hay tình yêu? lòng vị tha?
CHIA SẺ
1- Niềm tin của người Công giáo về luyện ngục
Hôm nay và suốt tháng 11 này, người Công giáo chúng ta đặc biệt quan tâm cầu nguyện cho những người quá cố. Chúng ta thường nghĩ họ đang phải chịu thanh luyện bằng đau khổ để trở nên hoàn hảo. Sự thanh luyện đó được Giáo Hội định tín: “Linh hồn kẻ chết chưa đền tội hoàn toàn sẽ được thanh luyện sau khi chết với những hình phạt được gọi là “Thanh Luyện” (DS 856/464).
Mục đích của việc thanh luyện là làm cho linh hồn trở nên hoàn hảo, hoàn toàn vị tha, đầy tình thương, không còn một chút tâm địa ích kỷ, độc ác, tham lam nào nữa. Thiên Đàng đòi hỏi một sự hoàn hảo như thế thật là hợp lý, vì đó là một «nơi» hoàn toàn hạnh phúc, hoàn toàn thánh thiện, là “nơi” chúng ta sẽ trở về để hưởng hạnh phúc muôn đời. (Gọi là «nơi» thì chỉ là tạm gọi, vì thật ra, Thiên đàng, luyện ngục hay hỏa ngục không phải là nơi chốn, là không gian vật lý cho bằng là những tình trạng tâm linh hoặc tâm lý. Chẳng hạn: Thiên Đàng là tình trạng tâm linh hoàn toàn hạnh phúc, không còn một chút đau khổ, của những tâm hồn hoàn hảo, thánh thiện. Còn Hỏa Ngục là tình trạng tâm linh hết sức đau khổ của những tâm hồn độc ác, xấu xa, ích kỷ...)
2- Thiên đàng đòi hỏi người trong đó phải thật hoàn thiện
Không cần phải xét về phía Thiên Chúa, mà ngay chính chúng ta cũng đòi hỏi rằng: để vào Thiên Đàng thì phải thật trọn hảo. Thật vậy, thử hỏi, khi trở về “nơi” lý tưởng đó để hưởng hạnh phúc, ta có thể hoàn toàn hạnh phúc khi phải sống chung với thân nhân, bạn bè với những tính nết xấu như họ đang có bây giờ không? Nếu người ở thiên đàng mà còn ích kỷ, còn ác ý, còn lãnh đạm, còn hẹp hòi, còn hay nghĩ xấu cho người khác, dù chỉ một chút xíu, thì chính bản thân họ sẽ đau khổ, đồng thời còn gây nên đau khổ cho người khác nữa. Chưa hoàn hảo mà đã sống ở Thiên Đàng thì ta sẽ làm ô nhiễm cái hạnh phúc tinh tuyền của Thiên Đàng, và biến Thiên Đàng trở thành một cái gì không còn là Thiên Đàng nữa. Do đó, Thiên Đàng đòi hỏi những người bước vào phải hoàn toàn trong sạch, tốt lành, nếu còn chút gì xấu xa thì phải thanh luyện cho hết. Tình trạng thanh luyện ấy được gọi là «luyện ngục».
3- Tội lỗi hay tính vị kỷ là đầu mối gây đau khổ
Chắc chắn Thiên Chúa không bao giờ muốn con người phải đau khổ. Việc Ngài sai Con Một mình xuống chịu chết một cách thảm thương để cứu nhân loại chứng tỏ điều ấy. Nhưng Ngài không thể trực tiếp cứu chúng ta khỏi đau khổ, mà chỉ có thể cứu chúng ta khỏi những nguyên nhân gây nên đau khổ là tội lỗi. Trong sách Khải Huyền, thánh Gioan viết: “Người đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta” (Kh 1,5). Đau khổ chỉ là ngọn, còn tội lỗi mới là gốc. Muốn tránh khổ thì phải tránh tội lỗi. Diệt khổ thì chỉ là diệt ngọn, khổ vẫn có thể tiếp tục phát sinh. Diệt tội lỗi mới là diệt khổ tận gốc. Nhưng con người vì còn u mê nên thường sợ khổ chứ không sợ nguồn gốc phát sinh ra đau khổ là tội lỗi, là tính ích kỷ. Họ vẫn cứ tiếp tục phạm tội, sống ích kỷ. Vì thế, dù tìm đủ mọi cách để tránh khổ, con người vẫn cứ rơi vào đau khổ, hết khổ này đến khổ khác. Trong việc cứu khổ cho người khác, cho các linh hồn được thanh luyện, con người cũng chỉ nghĩ tới việc cứu họ khỏi đau khổ, chứ không nghĩ tới việc cứu họ khỏi những nguyên nhân gây đau khổ.
Nguồn gốc của tội lỗi chính là tính ích kỷ, chỉ biết nghĩ tới đau khổ và hạnh phúc của mình, mà không quan tâm hay biết đến đau khổ và hạnh phúc của người khác. Vì thế, nguyên nhân sâu xa hơn của đau khổ chính là tính ích kỷ.
4- Tình yêu hóa giải đau khổ và đem lại hạnh phúc
Nếu ích kỷ là nguồn gốc phát sinh đau khổ, thì ngược lại, tính vị tha hay tình yêu chính là nguồn tạo nên hạnh phúc. Do đó, người ta chỉ có thể vào được thiên đàng khi họ có đầy tràn tình yêu và không còn chút tính ích kỷ nào nữa. Nắm vững điều này, ta mới hiểu được ý nghĩa sâu xa câu nói Đức Giêsu, khi có người – vốn đã giữ rất chu đáo các lề luật – hỏi Ngài về cách đạt được sự sống đời đời: «Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi» (Mc 10,21). Điều đó có nghĩa là phải biết yêu thương và thật sự thể hiện tình yêu ấy thì mới được sự sống đời đời, tức được hạnh phúc đích thực. Kho tàng ở trên trời mà mọi người muốn lên đó phải sắm cho mình chính là kho tàng tình yêu.
Người trộm lành trong bài Tin Mừng hôm nay đã thể hiện được tinh thần vị tha và tình yêu ấy. Trong cảnh khổ như thế mà anh không hề nghĩ tới đau khổ của bản thân mình, mà chỉ nghĩ tới đau khổ của Đức Giêsu, thương cho Ngài bị hàm oan: «Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!». Chính vì thế, anh đã được Đức Giêsu nói: «Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng». Người trộm lành tuy đầy tội lỗi, nhưng cuối cùng anh đã phát tâm yêu thương, và tình yêu đã biến anh thành người tốt lành, xứng đáng với hạnh phúc thiên đàng. Đúng như câu nói của thánh Phaolô: «Tình yêu che phủ muôn vàn tội lỗi» (1Pr 4,8).
5- Chấp nhận đau khổ vì tình yêu là bí quyết của hạnh phúc
Câu chuyện về người trộm lành trên làm tôi nghĩ đến một câu chuyện của Đức Phật. Trong một tiền kiếp nọ của ngài, ngài đã phạm một trọng tội khiến ngài bị đọa vào địa ngục. Tại đó, ngài cùng nhiều người khác bị đau khổ ghê gớm. Khi nhìn thấy những người trong đó đang quằn quại với những cực hình vô cùng đau đớn như mình, ngài thương họ vô cùng. Tình thương ấy khiến ngài phát tâm nguyện rằng: Tôi nguyện sẵn sàng chịu thay cho mọi người trong địa ngục này tất cả những đau khổ mà họ đang phải chịu, để họ thoát khỏi những cực hình ghê gớm này! Vừa nguyện như thế xong thì lập tức ngài tự nhiên thoát khỏi cảnh đau khổ ấy. Còn những người kia thì vẫn tiếp tục ở lại đấy chịu đau khổ.
Tôi chỉ coi chuyện trên như một dụ ngôn. Tuy không có thực, nhưng nó nói lên một chân lý mà chính tôi đã thực nghiệm thấy rất đúng. Khi tôi chỉ quan tâm chú ý tới những đau khổ tôi đang phải chịu, thì tôi thấy đau khổ ấy – một cách chủ quan – tăng lên gấp bội. Nhưng khi tôi quan tâm tới những đau khổ của người khác đang phải chịu, khi tôi muốn làm giảm bớt đau khổ cho họ, khi tôi chấp nhận chịu đau khổ thay cho họ, hay chịu khổ nhiều hơn nữa để họ bớt khổ hay để họ được hạnh phúc, thì lập tức tôi cảm thấy tâm hồn mình mạnh mẽ lên. Lúc ấy những đau khổ tôi đang chịu – tuy dù một cách khách quan không hề thay đổi, mà có thể còn tăng lên – bỗng nhiên mất đi tính dữ dội hay thảm khốc của chúng đối với tôi. Chúng không còn làm tôi đau khổ được như trước.
Áp dụng kinh nghiệm này vào đời sống gia đình, tôi nhận thấy: khi tôi sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả, mọi đau khổ, mọi buồn phiền để làm những người thân yêu của tôi bớt khổ và được hạnh phúc, thì điều lạ lùng tôi cảm nghiệm được là tôi không hề đau khổ mà lại thấy hạnh phúc hơn. Tôi hạnh phúc hơn vì tôi thấy nhờ hành động ấy của tôi mà những người tôi yêu thương được hạnh phúc hơn. Điều làm họ hạnh phúc nhất là thấy tôi yêu thương họ, hết mình với họ. Và chính vì thế, họ cũng chẳng để tôi phải vất vả hay chịu đau khổ thay cho họ, ngược lại họ lại sẵn sàng chịu đau khổ thay cho tôi. Và thế là cả gia đình tôi – trong đó có tôi – đều cảm thấy hạnh phúc trong bầu khí đầm ấm yêu thương. Thế là chỉ vì tôi sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả, cực nhọc, đau khổ thay cho những người thân yêu, mà tôi biến gia đình tôi thành một gia đình hạnh phúc. So với nhiều người chủ gia đình khác, tôi thấy mình hạnh phúc hơn họ nhiều, xét cả mặt khách quan lẫn chủ quan. Tôi nhận thấy: không phải khi mình sẵn sàng chịu đau khổ thay cho người khác thì tất nhiên mình sẽ phải chịu đau khổ nhiều hơn đâu! Mà ngược lại, thái độ quên mình ấy lại đem lại hạnh phúc cho cả tôi lẫn những người chung quanh tôi. Đó là kinh nghiệm của tôi trong gia đình. Và tôi đang áp dụng kinh nghiệm này ra ngoài gia đình, trong xã hội… và tôi vẫn thấy nó đúng. Xin chia sẻ với mọi người kinh nghiệm có thật này để may ra hữu ích cho ai đó!
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, thánh Gioan nói: «Tình yêu không biết đến sợ hãi; trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi, vì sợ hãi gắn liền với hình phạt và ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo» (1Ga 4,18). Con cảm thấy chính khi con thật sự có tình yêu thì con không sợ đau khổ, mà sẵn sàng đón nhận đau khổ để người khác được hạnh phúc. Và khi con không sợ đau khổ, thì đau khổ không còn tác oai tác quái trên con nữa. Nó không còn khả năng làm con mất bình an hạnh phúc được nữa. Và con cảm thấy bình an và hạnh phúc do tình yêu đem lại chính là thiên đàng. Một thiên đàng mà con có thể cảm nghiệm trước ở ngay trần gian này.
01/11 Con đường nên thánh
- Viết bởi Mt 5, 1-12a
Con đường nên thánh.
Chúa Nhật 31 Thường Niên năm A. LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ. Lễ trọng. Lễ HỌ.
"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó".
* Đại lễ kính toàn thể các thánh nam nữ hôm nay cho ta chiêm ngưỡng đám đông hằng ha sa số những người đã được Chúa Kitô cứu chuộc, đồng thời cũng cho ta thấy trước tương lai chúng ta đang hướng tới. Nhưng lễ này còn giúp ta ý thức mối dây liên đới giữa ta với các anh chị em đã đi trước vào thế giới vô hình. Nay, họ đang được ở bên Thiên Chúa và đang chuyển cầu cho chúng ta. Họ là sức mạnh nâng đỡ cuộc đời chúng ta.
* Từ trưa ngày Lễ Các Thánh đến nửa đêm ngày Cầu cho các tín hữu đã qua đời, ai viếng nhà thờ, nhà nguyện, đọc một kinh Lạy Cha và một kinh Tin Kính, thì được hưởng một ơn đại xá, với những điều kiện theo thường lệ (xưng tội, rước lễ, cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng), nhưng phải nhường lại cho các linh hồn.
Mỗi ngày được hưởng một lần mà thôi. Ai bị ngăn trở, có thể viếng nhà thờ, nhà nguyện, lãnh ơn đại xá vào Chúa nhật trước hay Chúa nhật sau.
Lời Chúa: Mt 5, 1-12a
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng:
"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.
Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp.
Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an.
Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả.
Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương.
Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa.
Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ.
"Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời".
CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Mt 23, 1-12
"Họ nói mà không làm".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng và các môn đệ rằng: "Các Luật sĩ và các người biệt phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ: vì họ nói mà không làm. Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta, còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử. Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy: vì thế họ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là "Thầy".
Phần các ngươi, các ngươi đừng muốn được người ta gọi là Thầy, vì các ngươi chỉ có một Thầy, còn tất cả các ngươi đều là anh em với nhau. Và các ngươi cũng đừng gọi ai dưới đất là cha: vì các ngươi chỉ có một Cha, Người ngự trên trời. Các ngươi cũng đừng bắt người ta gọi là người chỉ đạo: vì các ngươi có một người chỉ đạo, đó là Ðức Kitô. Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi.
"Hễ ai tự nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống, sẽ được nâng lên".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
* LỄ CÁC THÁNH
Lời Chúa: Kh 7,2-4. 9-14; 1Ga 3,1-3; Mt 5,1-12
1a. Nước Trời là của họ
Suy niệm:
Nếu chúng ta được lên trời để thăm các thánh,
hẳn chúng ta sẽ không khỏi ngỡ ngàng trước sự đa dạng.
Các thánh không phải chỉ là những vị được tôn phong,
mà là tất cả những ai đang hưởng hạnh phúc trên trời.
Các thánh thật khác nhau về nhiều mặt:
giới tính, tuổi tác, màu da, tiếng nói, nghề nghiệp,
hoàn cảnh, thời đại, bậc sống, khả năng, tính tình...
Có người không biết viết như thánh nữ Catarina Siêna.
Có người đậu tiến sĩ triết hạng tối ưu như thánh Edith Stein.
Có người làm bao phép lạ phi thường như ngôn sứ Êlia.
Có người sống âm thầm như chị Têrêsa nhỏ.
Nói chung chẳng gì có thể ngăn cản chúng ta nên thánh,
vì Thiên Chúa muốn mọi người nên thánh chẳng trừ ai.
Các mối phúc là con đường nên thánh.
Con đường này chính Ðức Kitô đã đi và mời ta cùng đi.
Ngài mời ta có tâm hồn nghèo khó, hiền lành,
nghĩa là hoàn toàn tín thác vào một mình Thiên Chúa,
có lòng khát khao sự công chính, chỉ mong làm trọn ý Ngài.
Trong tương quan với tha nhân, Ðức Kitô mời ta
có lòng thương xót, biết đau nỗi đau của người khác,
có tâm hồn trong sạch, nghĩa là sống ngay thẳng, chân thành,
có tinh thần xây dựng hòa bình và công bằng xã hội,
nghĩa là chăm lo phát triển toàn diện từng người và mọi người.
Sống các mối phúc trên là chấp nhận mối phúc bị bách hại.
Mỗi vị thánh đều sống nổi bật trong một số mối phúc.
Họ đã nếm phần nào hạnh phúc từ đời này
trước khi hưởng hạnh phúc trọn vẹn bền vững trên trời.
Chúng ta thường nghĩ nên thánh là chuyện cao siêu
dành cho một thiểu số hết sức đặc biệt.
Thật ra mọi Kitô hữu đều được mời gọi nên thánh.
“Các con hãy nên trọn lành như Cha trên trời.”
Chỉ Thiên Chúa mới là nguồn mọi sự thánh thiện.
Ngài mời chúng ta chia sẻ sự thánh thiện của Ngài.
Nên thánh là đáp trả lời mời đó.
Khi chiêm ngắm các thánh, ta có thể hiểu nên thánh là gì.
Nên thánh là để cho tình yêu chi phối toàn bộ cuộc sống,
là ra khỏi cái tôi hẹp hòi của mình
để sống hết tình cho Thiên Chúa và tha nhân.
Nên thánh là luôn lắng nghe tiếng Chúa
và trung thành đáp lại trong giây phút hiện tại.
Nên thánh là yêu mến cuộc sống mà Chúa tặng trao,
là để cho Chúa yêu mình, nắm tay mình,
dắt mình vào thế giới riêng tư của Chúa.
Nên thánh là thuộc trọn về Chúa và về anh em,
là để Chúa dần dần chiếm lấy mọi chỗ của đời mình.
Chúa mời tôi nên thánh với con người và hoàn cảnh riêng.
với sa ngã của quá khứ và mỏng giòn của hiện tại,
với cái dằm vẫn thường xuyên làm tôi nhức nhối.
Chúa muốn tôi nên thánh với mặt mạnh, mặt yếu của tôi.
Ước gì đời tôi vén mở một nét nào đó của Chúa.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
con phó mặc con cho Cha,
xin dùng con tùy sở thích Cha.
Cha dùng con làm chi, con cũng xin cảm ơn.
Con luôn sẵn sàng, con đón nhận tất cả.
Miễn là ý Cha thực hiện nơi con
và nơi mọi loài Cha tạo dựng,
thì, lạy Cha, con không ước muốn chi khác nữa.
Con trao linh hồn con về tay Cha.
Con dâng linh hồn con cho Cha,
lạy Chúa Trời của con,
với tất cả tình yêu của lòng con,
Vì con yêu mến Cha,
vì lòng yêu mến
thúc đẩy con phó dâng mình cho Cha,
thúc đẩy con trao trọn bản thân về tay Cha,
không so đo, với một lòng tin cậy vô biên,
vì Cha là Cha của con.
(Chân phước Charles de Foucauld)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
1. Nên thánh
Có bao giờ chúng ta đi tham dự một chương trình diễn nhạc trẻ hay chưa? Những âm thanh vang dội như kích thích hàng ngàn bạn trẻ, hò hát, nhảy nhót, có khi lăng quay xuống đất như những nhạc sĩ trình diễn. Có thể nói được rằng họ say sưa trong tiếng nhạc. Phải chăng đó là một hình ảnh đặc thù cho thời đại chúng ta đang sống. Thời đại của âm thanh, ánh sáng và vận tốc. Trái đất dường như chỉ còn là một trạm dừng chân, để rồi từ đó người ta khởi đầu chinh phụ vũ trụ.
Hằng ngày chúng ta ghi nhận biết bao nhiêu âm thanh hỗn độn. Từ những lời nói thương yêu đến những lời chửi bới. Từ tiếng nhạc êm dịu đến tiếng động cơ chát chúa. Từ những âm thành ồn ào ngoài phố chợ đến những lời quảng cáo, tuyên truyền trên truyền thanh truyền hình. Chúng ta đang sống trong một thế giới mà tiếng động vang lên tựa hồ như vô tận.
Thế nhưng, giữa một môi trường như vậy, liệu con người có còn nghe thấy được tiếng nói từ trời cao hay không? Chính vì thế mà thánh Phaolô đã xác định để chúng ta được thấy rõ ý muốn của Thiên Chúa là chúng ta hãy nên thánh. Ý muốn ấy phải chiếm một địa vị ưu tiên, phải là nỗi ưu tư số 1 trong cuộc đời chúng ta.
Tuy nhiên, con người thời nay lại nhún vai coi thường, vì nên thánh là một cái gì quá lạ lẫm đối với họ. Vậy nên thánh là như thế nào? Trước hết tôi xin thưa: Nên thánh không phải là chạy trốn trần gian vì trần gian có nhiều tội lỗi xấu xa. Nên thánh cũng không phải là quỳ gối chăm chỉ cầu nguyện, siêng năng xưng tội một cách máy móc, và tham dự những thánh lễ ngày Chúa nhật. Sự thánh thiện hệ tại việc chúng ta chấp nhận Chúa là mục đích của đời sống, là trọng tâm của mọi tư tưởng, lời nói và việc làm. Đó là điều chính yếu, còn những sự khác chỉ là phụ thuộc.
May thay thời buổi chúng ta vẫn còn có những vị thánh. Đời sống của họ là một rao giảng quý giá. Họ như muốn nói với chúng ta: Thiên Chúa là mục đích duy nhất của cuộc đời. Còn tất cả chỉ là mờ nhạt và vô nghĩa. Đối với họ Thiên Chúa là tất cả. Nỗi ưu tư của họ là tìm biết thánh ý Chúa mà thôi. Mặc dù chúng ta không có ơn gọi vào dòng tu, nhưng tất cả chúng ta đều được kêu mời trở nên thánh. Nên thánh không phải là một bổn phận làm cho chúng ta sợ hãi. Nó không cấm cản chúng ta hưởng thụ những niềm vui chính đáng, vì Thiên Chúa không phải là kẻ thù, nhưng là suối nguồn của những niềm vui trong lành. Tuy nhiên, Thiên Chúa phải trổi vượt trên mọi thứ đó, Ngài chính là cùng đích của chúng ta. Cho dù bên ngoài có những âm thanh ồn ào, thì trong thẳm sâu cõi lòng, chúng ta vẫn phải lắng nghe tiếng Chúa, vì tiếng nói ấy sẽ chỉ cho chúng ta thấy con đường nên thánh. Bởi vì: Ai tuân giữ những giới luật của Ta thì người đó sẽ được Ta yêu mến. Thực vậy, con đường nên thánh là con đường nhỏ hẹp, nhưng chính con đường ấy sẽ đưa chúng ta đến cuộc sống vĩnh cửu.
2. Hoa đời dâng Chúa
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một bài hát sinh hoạt được hát như sau: "mỗi người là một nụ hoa cùng đem về đây góp gió, làm thành vườn hoa muôn màu muôn sắc tươi xinh. Mỗi người là một cành hoa, cùng đem về đây góp gió, làm thành vườn hoa, vườn hoa, vườn hoa chúng mình". Bài hát đơn sơ nhưng nói lên ý nghĩa cuộc đời thật thi vi. Cuộc đời của chúng ta là một cành hoa: Hoa lan, hoa huệ, hoa cúc, hoa hồng... Hoa nào cũng đẹp. Hoa nào cũng có cách thể hiện mình giữa đời thật nên thơ và hữu ích. Nụ hoa muôn màu như con người với những thể xác, cá tính, nhân cách khác nhau. Nụ hoa muôn vẻ như con người mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Hôm nay, Hội thánh mừng kính các thánh nam nữ như là những bông hoa đầu mùa trong vườn hoa mà Thiên Chúa vun trồng. Hội thánh là vườn ươm. Thiên Chúa đã ra công vun trồng cho cây hoa lớn lên trong ân sủng, trong sự chăm sóc tận tụy của Ngài. Các thánh là những bông hoa luôn quy về hướng mặt trời để nhờ mặt trời ban sức sống, chăm sóc, dưỡng nuôi nên vẹn tuyền. Các thánh luôn cần lòng từ bi, ân sủng của Chúa chữa lành những thương tích do mối mọt tội lỗi gây ra. Các thánh cũng như những bông hoa luôn được chăm sóc tỉ mỉ khỏi những cám dỗ tội lỗi, những vương vấn bụi trần.
Như vậy, sẽ có bao nhiêu vị thánh hôm nay chúng ta mừng kính? Thưa, có rất đông. Bởi vì ai cũng có thể nên thánh. Ai cũng được mời gọi nên thánh. Nên thánh là ơn gọi mà Thiên Chúa đã tiền định: "Anh em hãy hoàn thiện như Cha anh em ở trên trời là Đấng hoàn thiện". Nên thánh không khó. Nên thánh là làm theo ý Chúa, là sống trong ân nghĩa cùng Chúa. Nên thánh không phụ thuộc vào giai cấp, không tính theo năng lực. Nên thánh tùy theo ơn gọi và hoàn cảnh của mình. Như những bông hoa muôn sắc, dù là hoa nhỏ bé hay to lớn, dù là loài hoa không hương không sắc nhưng vẫn là đóa hoa đáng yêu, đáng quý và đáng được nâng niu. Các thánh nam nữ cũng thuộc mọi tầng mọi lớp xã hội. Có thể các ngài thuộc hàng giáo sĩ nhưng cũng có thể là hàng giáo dân. Các ngài có thể là cha mẹ, là anh em, là bè bạn của chúng ta. Các ngài là những người đã nỗ lực hoàn thiện mình trong ân thánh Chúa. Các ngài không vương vấn tội lỗi. Các ngài không để những đam mê làm chủ. Các ngài luôn chọn Chúa hơn là những tạo vật trần gian. Các ngài cũng có thể là những tội nhân được ơn trở lại như kẻ trộm trên cây thập giá. Các ngài cũng có thể từng có những lầm lỡ nhưng biết đứng dậy sau những lần vấp ngã. Điểm chung của các ngài là đã được chết trong ân sủng và tình thương của Chúa.
Nhìn lại cuộc đời của Chúa Giêsu, với ba mươi ba năm dương thế, Chúa Giêsu đã lôi kéo bên Ngài những bông hoa đầu mùa của Hội thánh thật giản dị, âm thầm, và đơn sơ. Một bác thợ mộc thành Nagiaret, luôn tận tụy với công việc và gia đình. Một Maria đơn sơ chân thành, dám nói lời xin vâng ngay cả khi chẳng biết điều gì sẽ đến trong ngày mai. Một Phê-rô, Simon... những ngư phủ chất phác, đầu hôm sớm mai trên biển cả đã bỏ thuyền chài mà đi theo Chúa. Một Gia-kêu, Madalena, là những tội nhân đã được ơn hoán cải trở về. Một người trộm lành đã ra đi bình an trong lời tha thứ đón nhận của Đấng tạo thành ...
Và hôm nay, những khuôn mặt phản chiếu hình ảnh của các thánh dường như vẫn tiếp tục tỏ hiện trong dòng đời dương thế hôm nay. Họ có thể là cha, là mẹ chúng ta, những con người đang khổ sở vì chúng ta, đang hy sinh từng ngày cho chúng ta. Họ có thể là những người lao công đang dệt đời mình trên công trường hay trên nương đồng với hy sinh, tận tụy hoàn thành nhiệm vụ và trách nhiệm của mình. Họ có thể là những người bất hạnh bởi tai nạn, bởi nghèo đói, hay những bệnh nhân đang đón nhận thập giá Chúa gửi với lời xin vâng thẳm sâu. Vâng, những vị thánh đó vẫn đang sống, đang đồng hành với chúng ta trong cuộc sống. Họ đang hiến tế đời mình trong những đau khổ trần gian, trong những hy sinh từ bỏ, trong quảng đại dấn thân hết mình vì anh em đồng loại. Họ có thể chưa hát bài ca chiến thắng như các thánh nam nữ trên trời nhưng cuộc đời họ đáng là thánh vì họ luôn yêu mến Chúa trên hết mọi sự và yêu mến tha nhân như chính mình. Họ đã dám sống một cuộc đời mà người ta bảo rằng: "Người trồng cây phúc người chơi - Ta trồng cây hạnh để đời về sau".
Nguyện xin các thánh nam nữ đã được sống trong ân nghĩa cùng Chúa cầu thay nguyện giúp cho mỗi người chúng ta luôn nhận ra tình thương của Chúa để biết sống đền đáp ân tình Chúa ban. Xin giúp cho mỗi người chúng ta biết gìn giữ ân sủng cao quý là con cái của Chúa bằng việc sống thanh sạch, và can đảm dũ bỏ bụi trần mê muội. Xin cho mỗi người chúng ta biết đón nhận ý Chúa qua việc vui với phận mình và chu toàn bổn phận làm người và làm con Chúa. Amen.
3. Ánh sáng của các Thánh trên trời
(Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Một buổi tối tại vận động trường Los Angeles, Mỹ, một diễn giả nổi tiếng, ông John Keller, được mời diễn thuyết trước khoảng 100,000 người.
Đang diễn thuyết bỗng ông dừng lại và dõng dạc nói:
- Bây giờ xin các vị đừng sợ! Tôi sắp cho tắt tất cả đèn sáng trong sân vận động nầy.
Đèn tắt. Cả sân vận động chìm sâu trong bóng tối âm u. Ong John Keller nói tiếp:
- Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm đang cháy thì hãy hô lên cho tôi biết.
Ánh lửa nhỏ bé từ que diêm loé lên trong màn đêm được mọi người nhìn thấy và nhiều tiếng hô vang: 'tôi đã thấy'.
Sau khi đèn được bật sáng trở lại, ông John Keller giải thích:
- Ánh sáng của một hành động nhân ái dù bé nhỏ như một que diêm cũng sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy.
Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại tắt. Một giọng nói vang lên:
- Tất cả những ai ở đây có mang theo diêm quẹt, xin hãy đốt cháy lên!
Bỗng chốc, hàng ngàn đốm sáng loé lên trong bóng đêm và cả vận động trường được thắp sáng.
Ông John Keller kết luận:
- Nếu tất cả chúng ta hợp lực cùng nhau thì có thể chiến thắng bóng tối, chiến tranh, khủng bố, cái ác và oán thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương, bằng sự tha thứ và lòng tốt của chúng ta... (trích từ Nghệ thuật sống)
Ánh sáng của một que diêm nhỏ cũng có thể xoá đi một mảng tối và người ta có thể nhìn thấy nó từ đằng xa. Ánh sáng của hàng ngàn que diêm nhỏ bé có thể đẩy lui bóng tối bao trùm cả một quảng trường và chiếu soi cho nhiều người trong đêm tối.
Ánh sáng của các thánh nam nữ trên trời, tức là những gương sáng của các ngài, toả sáng như những vì tinh tú, chiếu soi cho nhân loại đang đắm chìm trong bóng đêm lầm lạc và tội lỗi.
Trong ngày lễ các thánh hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa cho ánh sáng của các thánh nam nữ trên trời được lan tỏa vào tâm hồn chúng ta, tiếp tục cháy lên trong chúng ta và qua chúng ta toả ra cho mọi người.
Lời Chúa vẫn thúc giục mỗi người: "Anh em là ánh sáng cho thế gian" (Mt 5, 14). Thế gian tăm tối đang rất cần ánh sáng.
Trong khi bao gia đình trên thế giới đổ vỡ vì bất hoà và ly dị thì chúng ta hãy toả ra ánh sáng chung thuỷ trong đời sống vợ chồng.
Đang khi trong một số gia đình con cái khinh dể cha mẹ, bất hiếu với ông bà thì chúng ta hãy chiếu toả ánh sáng của lòng hiếu thảo đối với tổ tiên.
Đang khi trong xã hội hôm nay đầy dẫy dối trá lọc lừa thì chúng ta hãy toả ra ánh sáng của lòng chân thật.
Đang khi nhân loại sống hận thù, oán ghét thì chúng ta hãy thắp lên ánh lửa yêu thương.
Đang khi người ta coi thường nhân phẩm, khinh miệt kẻ bần cùng thì chúng ta hãy thắp lên ánh lửa của lòng tôn trọng mọi người, vì tất cả những người chung quanh chúng ta là chi thể của Chúa Giêsu.
Đang khi nhiều người sống bon chen ích kỷ, thì chúng ta hãy thắp lên ánh sáng của lòng quảng đại vị tha.
Phải toả sáng là bổn phận của mỗi người, không ai được miễn trừ.
Không có người nào hoàn toàn xấu, không có mảnh đời nào hoàn toàn tối tăm. Một con người dù bên ngoài có vẻ xấu xa tồi tệ thế nào đi nữa thì nơi người ấy vẫn tiềm tàng những sáng và điểm tốt.
Sở dĩ người ta không nhận ra điểm sáng, điểm tốt của một người nào đó chỉ vì ánh sáng nơi họ còn bị che chắn bởi một số thói hư, như ánh sáng của chiếc đèn dầu (đèn hột vịt) bị che khuất bởi bóng đèn bám đầy muội khói. Chỉ cần lau chùi bóng đèn cho sạch, chỉ cần khêu bấc cho cao lên và cho thêm dầu vào, thì ánh sáng lại lan toả. Cần giúp nhau lau chùi lại bóng đèn, cần khêu bấc, thêm dầu cho nhau bằng những lời động viên thân ái.
Dù bạn là ai, bạn đều có ánh sáng trong người, bạn hãy khêu bấc, thêm dầu và lau sạch bóng đèn cho đèn bạn toả sáng. Lời Chúa Giêsu đang thúc giục chúng ta: "Chính anh em là ánh sáng cho trần gian... Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt mọi người..." ( Mt 5, 14. 16).
Không trì hoãn nữa, ta hãy bắt đầu khêu bấc cho đèn mình sáng lên ngay hôm nay.
4. Chân Dung Các Vị Thánh
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Người ta nói thánh là người làm theo ý Chúa, không theo bọn ác nhân. Thánh là người hoàn toàn thuộc về Chúa từ trí óc tới con người. Họ là những con người luôn sống thanh sạch "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Họ có tâm hồn thanh khiết, nhờ đó mà họ có thể nhìn thấy Thiên Chúa nơi tạo vật, nơi tha nhân và một cách trọn vẹn nơi thiên quốc. Như vậy sự thánh thiện hệ tại ở tâm hồn luôn ở trong Thiên Chúa. Họ thuộc về Chúa. Họ sống cho Chúa. Họ sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Họ đã nên thánh ngay từ cuộc đời dương thế này. Họ biết dệt đời mình trong hy sinh từ bỏ những tham lam bất chính, những đam mê lầm lạc, những xa hoa ích kỷ để thể hiện lòng mến Chúa trên hết mọi sự. Họ là những người can trường chiến đấu với phận đời oan trái, cay nghiệt của nghèo đói, bệnh tật, bị bỏ rơi, bị bóc lột, bị hiểu lầm, bị phản bội, bị bách hại . . .nhưng vẫn trung thành với đức tin. Dẫu phận đời có oan nghiệt họ vẫn cảm thấy an bình, vì được sống trong ân nghĩa cùng Chúa. Họ đã chiến thắng số phận đầy oan khiên khi tìm được niềm an vui vì chọn Chúa là gia nghiệp trọn đời.
Chân dung của các vị thánh được Chúa Giêsu phác hoạ qua tám nét chính mà ta quen gọi là tám mối phúc thật. Họ sống giữa cuộc đời đầy sóng gió của sự dữ, của những vòng xoáy cuộc đời đầy đam mê truỵ lạc, của những thói đời hưởng thụ nhưng họ vẫn giữ mình luôn thanh khiết không hoen ố tội nhơ, không thoả hiệp sự dữ, không lao vào vòng xoáy của danh lợi thú mà lạc xa tình Chúa. Họ có mặt trong mọi nơi, mọi chốn. Họ thuộc đủ mọi màu da, sắc tộc. Họ thuộc mọi thành phần trong xã hội.
Có thể họ là những người mẹ đang bươn chải "một nắng hai sương", với quang gánh trên lưng còng cho con cái niềm vui tiếng cười. Bà chấp nhận đánh mất cuộc đời cho gia đình chén cơm, chén gạo mỗi ngày.
Có thể họ là những người cha đang chịu nhiều oan khiên, chồng chất của thói đời bất công, áp bức, bóc lột đang đè nén cuộc đời của họ, nhưng họ không chịu đánh mất nhân cách, nhân phẩm, lương tri con người để đổi lấy chút bổng lộc trần gian mau qua.
Có thể họ là một ai đó đang bị bỏ rơi, đang bị bóc lộc, đang bị chà đạp, nhưng họ không bán rẻ nhân phẩm của mình. Họ sẵn sàng chịu thiệt thòi, chịu thiếu thốn mà lòng thanh sạch hơn là hoen ố tâm hồn để đổi lấy niềm vui giả tạo mau qua.
Có thể họ là những người già neo đơn, những người bệnh đau lâu ốm dài đang vò võ từng ngày chờ đợi tân lang đến đón vào dự tiệc thiên quốc. Họ không nản lòng. Họ không để tim đèn vụt tắt. Họ vẫn cầm đèn cháy sáng chờ đón chủ trở về và mau mắn ra nghinh đón chủ.
Có thể họ là những người trong quá khứ đã lầm đường lạc lối, đã từng buông thả đời mình trong đam mê sắc dục, đã từng sống hại người hại đời, nhưng nay họ đã được ơn trở về. Họ đang sám sối từng ngày. Họ đang dành trọn cuộc đời của mình để đền bù những lầm lỗi của quá khứ bằng những việc lành phúc đức.
Có thể họ là chính chúng ta, những con người đang khao khát sống đời trọn lành. Có thể vì sự khao khát nên trọn lành mà chúng ta đang đi ngược dòng với trào lưu tục hoá của thế gian. Chúng ta trở thành kẻ thù nghịch của thế gian. Chúng ta không đồng thuận với mưu đồ đen tối. Chúng ta không thoả hiệp với sự gian dối giả tạo. Chúng ta đang phải chiến đấu từng ngày để nói không với tội và trung thành với tin mừng nước Chúa.
Như vậy, các thánh không ở đâu xa. Ở ngay trong cuộc đời chúng ta. Họ đang sống với chúng ta. Họ đang dâng những hy sinh hằng ngày cho chúng ta và để cứu độ chúng ta. Theo đức tin ky-tô giáo dạy chúng ta: Giáo hội thiên quốc gồm những con người đã vượt qua cuộc đời trong ơn nghĩa với Chúa. Họ đã trung thành phụng sự Chúa trong cuộc đời dương thế. Và hôm nay, họ tiếp tục phụng sự Chúa trên thiên quốc. Còn chúng ta là Giáo hội lữ thứ trần gian. Chúng ta cũng được gọi là giáo hội thánh thiện vì chúng ta đang gột rửa đời mình mỗi ngày nên hoàn thiện hơn. Chúng ta đang nỗ lực trở nên thánh. Chúng ta đang chiến đấu từng ngày nên hoàn thiện hơn.
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội mừng kính các thánh nam nữ ở trên trời. Các ngài đã đi qua bụi trần này với một tâm hồn thanh khiết. Thế nên, họ đã được nhìn xem Thiên Chúa vì Phúc thay ai có tâm hồn thanh khiết, họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. Xin Chúa qua lời bầu cử của các ngài ban cho chúng ta lòng tin mạnh mẽ để chúng ta biết phó thác trọn cuộc đời trong sự quan phòng của Chúa. Xin ban cho chúng ta lòng mến sắt son để có thể yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Xin ban cho chúng ta đức cậy kiên vững để chúng ta trông cậy vào ơn Chúa mà hoàn thiện đời mình mỗi ngày nên thánh thiện hơn. Amen.
5. Các thánh
Nói tới việc nên thánh, nhiều người thường có thái độ hoài nghi và an phận, họ bảo: Nên thánh là chuyện của các linh mục, tu sĩ, những người có nhiều thời giờ để đọc kinh cầu nguyện, chứ còn chúng tôi phải ngược xuôi, bươm chải giữa lòng đời. Không trộm cắp giết người, không bỏ lễ ngày Chúa nhật, không bỏ xưng tội rước lễ vào mùa Phục sinh cũng là khá lắm rồi, còn nói chi đến chuyện nên thánh.
Đó là một quan niệm sai lạc, bởi vì sự thánh thiện không phải là một lý tưởng dành riêng, một loại ngành chuyên nghiệp cấp cao, dân chúng đừng hòng mơ tưởng tới. Quan niệm này có lẽ xuất phát từ một thực tế, đó là trong số những vị thánh được Giáo Hội tuyên phong, thì con số giáo dân rất thấp so với các linh mục và tu sĩ. Hơn nữa, có những thời người ta đề cao tính chất phi thường và xuất chúng, thậm chí có lúc nhiều người thi đua nhau lập thành tích trong khổ chế. Rồi cùng với trí tưởng tượng, người ta đã thêu dệt thêm cho ly kỳ và hấp dẫn.
Còn một quan niệm sai lạc khác nữa coi việc xa tránh thế gian là điều kiện cốt yếu để nên thánh. Chúng ta thường nói: tu là cõi phúc, tình là giây oan, sự thánh thiện là một cái gì thuộc về cá nhân, không dính dấp chi tới cuộc đời. Vậy thì Giáo Hội quan niệm như thế nào về sự thánh thiện? Tôi xin thưa: trong Kinh Tiền tụng ngày lễ hôm nay, chúng ta vốn thường đọc: Khi tuyên dương công trạng các ngài, Chúa biểu dương chính những ân sủng Ngài ban. Nghĩa là các thánh không phải là những siêu nhân, nhưng là những con người bình thường, được Chúa tuyển chọn và ban cho tham dự vào sự sống của Ba Ngôi, được Chúa giúp sức để sống một cuộc sống phù hợp với Tin mừng. Công trạng của các ngài là một đón nhận và không cản trở ơn huệ của Chúa.
Bởi vì chỉ mình Thiên Chúa mới là Đấng thánh, còn chúng ta được trở nên thánh, khi tham dự vào sự thánh thiện duy nhất ấy. Các thánh sở dĩ được tuyên phong là thánh, bởi vì cuộc đời các ngài được coi như là một tấm gương phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa. Mà vì Thiên Chúa đã xuất hiện nơi Đức Kitô, nên có thể nói cách khác rằng: Ai giống Đức Kitô, người ấy trở nên thánh thiện. Ai thực hiện những giá trị Tin mừng, người ấy trở nên thánh thiện. Một sự thánh thiện như thế rất có thể được thực hiện trong một đời sống rất bình thường. Thánh thiện Kitô giáo không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với hoàn thiện. Có những vị thánh mà vẫn bất toàn. Chính Chúa Giêsu cũng đã từng nói: Những kẻ trộm cắp, đĩ điếm có thể vào Nước Trời dễ hơn những kẻ tự coi mình là đạo đức, là mô phạm.
Đúng thế, với người trộm lành, Chúa Giêsu đã hứa: Ngay hôm nay con sẽ được lên thiên đàng với Ta. Có lần người ta đã thắc mắc tại sao vị tử đạo kia có hai vợ mà vẫn được làm thánh. Sở dĩ, ngài được làm thánh không phải vì có hai vợ, mà vì mặc dù tội lỗi như thế, ngài đã chấp nhận chịu chết để khỏi chối Chúa. Mất vợ thì được, chứ mất Chúa thì không.
Ngày nay chúng ta cần tới một sự thánh thiện tỏa rộng, một hình thức thánh thiện vừa bình dân, vừa gần gũi lại vừa có thể được thực hiện cho hết mọi người, thay vì một hình thức thánh thiện chọn lọc, dành riêng cho một thiểu số. Giáo Hội không phong thánh cốt để mà thờ, nhưng để tôn vinh Thiên Chúa, để khuyến khích chúng ta noi theo và bắt chước.
6. Bài học của sinh tồn
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một người đã hỏi một chuyên gia leo núi như sau:
- Nếu chúng ta ở lưng chừng núi đột nhiên gặp mưa lớn thì phải làm sao?
- Anh phải cố leo lên đỉnh núi!
- Tại sao không chạy xuống dưới? Gió mưa ở đỉnh núi chẳng phải lớn hơn sao?
- Đi lên đỉnh núi, cố nhiên mưa gió có thể lớn hơn, nhưng không đủ uy hiếp mạng sống của người. Còn chạy xuống dưới núi, xem ra khá an toàn, nhưng có thể gặp tuyết trượt bộc phát chôn sống.
Anh nói thêm: -... đối với mưa gió, chạy trốn nó, thì anh sẽ bị lũ cuốn trôi; đương đầu với nó, thì anh lại có cơ may sống sót!
Xem ra để sống sót trước khó khăn không phải là an phận“sống chung với lũ” mà phải “chiến đấu với lũ” để tồn tại. Và như vậy, quy luật chung để tồn tại là phải đối diện với khó khăn, với thử thách để vươn lên. Không lẩn tránh khó khăn. Không trốn chạy sự dữ. Nhưng phải tìm cách tồn tại trong những hoàn cảnh đầy khó khăn nhất.
Trong đời sống luân lý, lẽ thường cũng rất nhiều cám dỗ bủa vây. Cám dỗ như những cơn lũ muốn nhậm chìm chúng ta. An phận sống chung với chúng e rằng sẽ có ngày “mưa lâu thấm đất” khiến chúng ta cũng sa vào cám dỗ. Sự khôn ngoan nhắc nhở chúng ta phải chiến đấu với cám dỗ, phải chiến thắng cám dỗ và xua tan cám dỗ. Điều này chính Chúa Giêsu đã làm và đã chiến thắng trong cuộc cám dỗ 40 đêm ngày. Ma quỷ cũng đã bầy ra trước mặt Chúa những nhu cầu hưởng thụ rất đỗi bình thường của con người, nhưng chỉ với điều kiện là quay lưng lại với Thiên Chúa. Chúa đã Giêsu nhắc ma quỷ quy tắc là phải vâng lời Thiên Chúa, và điều quan yếu trong cuộc sống, không phải là sự đói khát thể xác mà còn tìm kiếm thỏa mãn cái đói của tâm hồn là chính Thiên Chúa.
Hôm nay chúng ta mừng kính các thánh nam nữ, họ là những người con ưu tú của Giáo hội. Họ đã chiến thắng cám dỗ. Họ đã vượt qua thử thách để hôm nay cùng nhau cầm cành lá vạn tuế tung hô Chúa cửu trùng chí thánh. Họ đã đi qua những dòng đời vấn đục khác nhau nhưng lòng họ giống nhau ở chỗ luôn giữ lòng thanh khiết không chiều theo cám dỗ xác thịt. Họ sống giữa dòng đời đầy thị phi cùa sự bất công gian dối nhưng họ vẫn tỏa lan hương thơm của lòng bác ái, vị tha dấn thân phục vụ mọi người. Họ không để lòng tham trỗi dậy để rồi sống tham lam bất chính. Họ không để dục vọng thống trị để sống đam mê trụy lạc. Họ đã sống một đời yêu và yêu cho đến cùng, một tình yêu không toan tính thiệt hơn. Một tình yêu cho đi và cho đi mãi. Họ đã đối đầu với nghi nan, bách hại, tù đầy, tra tấn... nhưng vẫn một lòng trung thành sống theo thánh ý Chúa.
Điều quan yếu là họ đã chiến thắng cám dỗ, chiến thắng những nghịch cảnh đời sống không bằng sức mình mà bằng cách cậy dựa vào ơn Chúa. Chỉ với ơn Chúa mới đủ sức cho họ vượt thắng nghi nan. Chỉ với ơn Chúa họ mới chiến thắng được những cám dỗ nằm sâu trong bản tính con người như tính kiêu căng, thói hưởng thụ... Họ đã biết cậy dựa vào ơn Chúa để làm chủ chính mình, để chiến thắng cám dỗ và dấn thân xây dựng Nước Chúa trên trần gian. Hôm nay họ đang được ân thưởng hạnh phúc Nước trời nhờ một đời sống để ý Chúa thể hiện trong cuộc đời họ. Họ đã đạt được hạnh phúc viên mãn vì đã chiến thắng thế gian đầy cám dỗ bon chen này.
Cuộc sống luôn có rất nhiều cám dỗ. Cám dỗ hưởng thụ vật chất, hưởng thụ xác thịt. Cám dỗ ở ngay trong lòng mình khi tìm kiếm sự dễ dãi bản thân, tìm kiếm sự đồng lõa của dục vọng, của tính tham lam... Đôi khi chúng ta cảm thấy bất lực trước biết bao cám dỗ lôi kéo. Chúng ta cũng từng đứng dậy sau rất nhiều lần vấp ngã nhưng rồi vẫn ngã quỵ trước cám dỗ.
Mừng kính các thánh nam nữ là một dịp khơi lên trong chúng ta một niềm hy vọng về cuộc sống. Dầu cuộc sống có cám dỗ nhưng không đánh gục chúng ta nếu biết cậy dựa vào ơn Chúa. Dầu có những lần thất bại trước cám dỗ nhưng vẫn có thể đứng dậy để canh tân, để sửa đổi nhờ ơn Chúa. Chính nhờ sức mạnh và quyền năng của Chúa chúng ta sẽ mãi đứng vững và chiến thắng trong trận chiến nhiều cam go cám dỗ này.
Ước gì chúng ta luôn biết noi gương các thánh biết bám vào Chúa như cành liền cây để sức sống của Chúa mãi tuôn chảy trên chúng ta. Xin Chúa giúp chúng ta đừng bao giờ thất vọng về mình nhưng luôn biết đứng dậy làm lại cuộc đời nhờ ơn Chúa. Và xin cho chúng ta luôn biết hoàn thiện mình mỗi ngày tốt hơn trong ơn thánh của Chúa. Amen.
7. Chiều rộng của Ơn Cứu Độ
(Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Năm phụng vụ có năm mùa nhưng tựu trung chỉ mừng một mầu nhiệm duy nhất, mầu nhiệm cứu độ: Chúa Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta.
Năm mùa phụng vụ đều quy về chính Chúa Kitô là Đấng Cứu độ. Ngài là Con Thiên Chúa nhập thể, đã sinh ra, đã chết, đã sống lại, lên trời ngự bên hữu Chúa Cha, và gởi Thánh Thần đến với Giáo hội.
Các ngày lễ về các Thánh nói lên thành quả của ơn cứu độ. Mỗi vị Thánh được tôn phong hàng ngày là một bằng chứng sống động về sự thành công của ơn cứu độ.
Các ngày lễ này có hai cao điểm:
- Lễ Đức Maria hồn xác lên trời là chiều cao và chiều sâu của ơn cứu độ. Thiên Chúa cứu độ là cứu cả hồn xác,toàn diện con người “Người đã đoái thương nhìn đến phận hèn tớ nữ…Người đã làm những điều cao cả”.
- Lễ các Thánh Nam Nữ là chiều rộng của ơn cứu độ “Lòng thương xót của Chúa trải rộng từ đời nọ đến đời kia”.
Chúng ta mững lễ các Thánh Nam Nữ là mừng Nhà Cha rộng lớn như lòng Thiên Chúa, đủ chổ cho mọi chi tộc trong Israel. Bài đọc 2 trong sách Khải huyền, Thánh Gioan viết: “đã nghe nói số những kẻ được niêm ấn là 144 ngàn thuộc mọi chi tộc con cái Israel”. 144 ngàn không phải là nhiều. Giáo phận Phan thiết có 166 ngàn giáo dân. Nhưng 144 ngàn trong Khải huyền là một con số tượng trưng, một con số tràn đầy (12x12=144). Số kẻ được niêm ấn là tròn đầy. Và điều tuyệt diệu là trong thị kiến Khải huyền chi tộc nào cũng có số người được niêm ấn như nhau: 12 ngàn thuộc chi tộc Giuđa, 12 ngàn thuộc chi tộc Ruben, 12 ngàn thuộc chi tộc Gad… không tên họ nào lấn lướt, không tên họ bị loại trừ. Các chi tộc đều được Thiên Chúa kêu mời đầy đủ.
Không chỉ Israel được thương mời mà “Sau đó tôi còn mãi nhìn,thì này một đoàn lũ không biết cơ man nào mà kể, thuộc mọi nòi giống, dòng họ, dân tộc, tiếng nói”. Quả là đang trở thành hiện thực nơi Lời Chúa Giêsu đã thốt lên khi gặp được lòng tin của viên bách quản: “Ta bảo thật các ngươi, nhiều kẻ tự phương đông, phương đoài mà đến và được dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacop trong nước trời”.
Trong ngày lễ Các Thánh, Giáo hội nhìn lên trời có thể vui ca như cô gái Sion “Vui ca lên nào thiếu nữ Sion… Hãy đưa mắt tư bề, muôn dân đông tây đang tập trung tới ngươi. Con cháu người đang từ đàng xa đổ về”. Các Thánh đông đảo trong Nhà Cha. Vì vậy, mừng lễ Các Thánh, người Kitô hữu vui tươi trong một nhãn giới lạc quan căn bản là có thể tin rằng Thiên đàng có nhiều chỗ hơn Hoả ngục. Niềm tin tưởng lạc quan của chúng ta lại có vẻ nghịch thường: con đường đi tới phải là con đường hẹp nhưng cửa nước trời lại được Thiên Chúa mở rộng thênh thang.
Ngày lễ hôm nay là lễ tưởng nhớ, vui mừng hiệp thông với các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh em, bạn bè, tất cả những người thân của chúng ta đã ra đi trước chúng ta mà chỉ một mình Chúa biết lòng tin của họ (Kinh Tạ Ơn IV) khi chúng ta có thể hy vọng họ được gia nhập vào hàng ngũ Các Thánh trên trời. Giáo hội vẫn mừng lễ các Thánh trước lễ cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, các linh hồn đang ở luyện ngục. Luyện ngục dẫu sao chỉ là một thời gian tạm trú. Không ai có hộ khẩu thường trú ở đó cả. Nói cách khác, luyện ngục chỉ là một chuyến đò ngang. Thiên đàng mới là bờ bến. Giáo hội dành tháng 11 để cầu nguyện cho các linh hồn, dâng thánh lễ, làm việc lành chuyển cầu cho các linh hồn, nói lên mối hiệp thông huyền nhiệm giữa người sống và kẻ chết trong lòng tin.Giáo hội thâm tín rằng: Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ơn tha thứ của Chúa cũng là ơn thành hoá, thăng hoa con cái Chúa trở về Nhà Cha, không chỉ được ơn tha thứ mà còn dự tiệc muôn đời.
Thiên Chúa đã dựng nên muôn loài. Trong muôn loài, có loài hoa, trong loài hoa Thiên Chúa đã tạo ra muôn loại, muôn giống khác nhau. Có thể nói, mỗi vị Thánh là một loài hoa khoe sắc trong vườn hoa thiêng liêng. Có nhiều vị thánh rao giảng tin mừng. Có thánh tử đạo, có thánh lo bác ái từ thiện, có thánh lo dạy học, có thánh chuyên sống đời cầu nguyện chay tịnh… Nhưng có một điểm chung nơi Các Thánh, đó là các Ngài đã bắt chước Chúa Kitô, sống cho hạnh phúc của người khác, it khi tìm hạnh phúc hay thú vui cho riêng mình.
Các Thánh không phải là những con người hoàn hảo, thánh thiện, tinh tuyền, không vướng mắc lỗi lầm thiếu sót hay tật xấu nào. Không ai bẩm sinh đã là Thánh. Các Thánh cũng không phải là những siêu nhân, những con người phi thường vượt trên đám đông nhân loại. Các Thánh càng không phải là những người bất thường kỳ dị. Các Thánh là những con người bình thường như mọi người, nhưng các Ngài đã “sống những điều tầm thường một cách phi thường”. Nhờ Ơn Chúa trợ lực, các Ngài đã cố gắng tiến tới mẫu mực của mình là Chúa Kitô. Bí quyết nên thánh của các Ngài là sống tám mối phúc thật, là đón nhận ân sủng của Chúa vô điều kiện, hợp tác với ân sủng đó, vâng theo ý Chúa, chọn điều thiện, luyện tập nhân đức.
Mọi cuộc đời, mọi con người đều có thể nên thánh. Có những vị thánh không có tên trong lịch, nhưng vẫn được gần Chúa. Có những vị thánh nông dân chân lấm tay bùn, vất vả nuôi con. Có những vị thánh nội trợ âm thầm, quét nhà nấu bếp mà lòng lúc nào cũng vui. Có những vị thánh là những người con ngoan trong gia đình, hiếu thảo với cha mẹ, yêu thương quảng đại đối với anh chị em. Có những vị thánh là nữ tu, là tu sĩ, là linh mục, là giám mục. Có những vị thánh là những con người đam mê chân lý, như những nhà khoa học, những triết gia. Có những vị thánh là những nghệ sĩ làm đẹp cuộc đời bằng nhiều cách khác nhau, mang lại niềm vui cho mọi người.
Mừng lễ Các Thánh Nam Nữ, chúng ta hân hoan chúc tụng Các Thánh là những người bạn của chúng ta và xin các Ngài cầu thay nguyện giúp cho chúng ta, để chúng ta nhận ra mình cũng được Chúa mời gọi nên thánh như các Ngài, và cố gắng vươn lên giống như các Ngài.
Nguyện xin các Thánh Nam Nữ giúp chúng con tập sống mỗi ngày, thăng tiến trên con đường trọn lành như lời mời gọi của Chúa Giêsu: các con hãy nên Thánh như Cha trên trời là Đấng Thánh.
Xin cho chúng con luôn ghi nhớ lời Thánh Augustinô: Ông nọ bà kia nên Thánh được, còn tôi, tại sao lại không?
8. Các Thánh
Một viên tướng nọ rất ghét một vị ẩn sĩ trong vùng ông ta cai quản. Do đó, ông ta thường sai một nhóm gái làng chơi đến quấy rầy, quyến rũ, phá phách nhà tu hành đủ kiểu, nhưng không lần nào có hiệu quả cả. Một bữa đang khi vị ẩn sĩ tắm dưới suối thì đám con gái mất nết cũng ào xuống tắm và ra sức chọc ghẹo. Thấy thế, vị ẩn sĩ vội bước lên bờ thì đám con gái ăn mặc hở hang đó không chịu tha, liền vây tròn xung quanh vừa nhảy múa ca hát vừa ăn nói tục tĩu. Chẳng chút động lòng hay tức giận, vị ẩn sĩ ngước mắt lên trời, hai tay dang rộng với dáng điệu vui mừng hớn hở và cầu nguyện rằng: “Lạy Thượng Đế, con cảm tạ Ngài đã ban cho nhân loại những con người rất đẹp đang nhảy múa đây. Phải chăng chính hiện thân Chân Thiện Mỹ của Ngài đang ở đây. Con xin thành tâm cảm tạ Ngài”. Cứ thế, vị ẩn sĩ trong tư thế và tâm tình đó vẫn vui vẻ cầu nguyện. Càng lâu nét mặt ông càng rạng rỡ, thanh thoát hơn bao giờ hết. Bỗng một cô gái trong đám bỏ hàng chạy đến quì sấp dưới chân vị ẩn sĩ và thốt lên: “Đây đúng là một vị Thánh, một vị Thánh ở giữa loài ngoài”.
Có lẽ, cái cảm tưởng chung nhất khi nghe nói đến một vị thánh là một người đều cho rằng đó là một loại người siêu phàm, họa hiếm, trăm năm mới có một người. thật ra, về một phương diện nào đó các Ngài đúng là hạng người như thế, nhưng nếu chúng ta ngây thơ đến độ quá thần thánh hóa các Ngài là chúng ta sẽ mắc phải một thứ mặc cảm bệnh hoạn: nghĩa là có lúc nào đó dám ước mơ làm thánh thì cho việc ấy là một chuyện phạm thượng, bất kính, rồi dần dần coi việc nên thánh là chuyện viễn vọng, quá xa tầm tay của mình.
Vậy chúng ta tự hỏi mang mặc cảm tự ti bệnh hoạn như thế có đúng không? Và phải quan niệm Các Thánh là những người như thế nào mới hợp lý? Các Ngài có cái gì giống và cái gì khác mọi người chúng ta?
Trước hết Các Thánh là những người giống chúng ta: cũng được sinh ra, lớn lên bình thường, đôi khi còn rơi vào những hoàn cảnh khắc nghiệt hơn như nghèo khổ có, bệnh hoạn có, tang tóc tai họa có, chán nản thất vọng có, vui buồn có… Và cũng mang trong mình mọi yếu đuối hư hèn, mọi tính hư nết xấu, cũng tham sân si, cũng hỉ ai ái nộ, cũng lầm lỡ mang tiếng xấu. Thuộc đủ mọi thành phần giai cấp trong xã hội: giàu sang quyền thế có, bần cùng dân đen có, trí thức bác học có, dốt nát quê mùa có. Nói tắt các Ngài không khác chúng ta bao nhiêu, trái lại nhiều Vị còn mang nơi mình một quá khứ đầy tội lỗi, xấu xa hơn chúng ta nữa.
Tuy nhiên Các Ngài là những người khác chúng ta. Chính cái khác này đã nâng Các Ngài lên bậc thần thánh và làm cho chúng ta trở thành con người tầm thường. Nói rõ hơn, cái khác ở đây không phải là một sự kiện lạ lùng, một bí quyết gia truyền, cũng không phải một đặc ân dành riêng cho một số người, cũng không phải do dòng máu di truyền, mà là có quyết tâm cao, cố gắng phi thường, dốc quyết sắt đá, cải thiện không ngừng, hợp tác với ơn Chúa cách hiệu quả.
Nói cụ thể hơn là khi đứng trước mãnh lực của tiền tài danh vọng, Các Ngài thấy lợi ít hại nhiều nên đã cương quyết từ bỏ, còn chúng ta viện đủ lý do để bám theo, trước những quyến rũ của thế gian xác thịt, Các Ngài dốc lòng xa tránh để sống thanh cao trong sạch hơn là nô lệ cho đam mê nhục dục, trước anh em đồng loại, thay vì xa tránh, tranh chấp, giận ghét, oán thù Các Ngài còn luyện tập từ bỏ cả những quyền lợi riêng tư, hưởng thụ chính đáng nữa. Dĩ nhiên, tất cả những việc làm đó mà Các Ngài quyết tâm thực hiện chỉ vì vâng lời Chúa dạy để yêu mến Người và phục vụ anh em nên Các Ngài đã thành công trên con đường cứu rỗi.
Như thế, cái khác giữa Các Thánh và chúng ta xem ra không có gì quá khác xa nhau. Chẳng qua Các Ngài vâng theo ý Chúa hơn, chọn điều thiện điều tốt hơn, cố gắng luyện tập các nhân đức hơn. Còn chúng ta nại đủ lý do này khác để từ chối ơn Chúa soi sáng hước dẫn, không cố gắng quyết tâm đủ để tuân thủ lời Chúa dạy, mà chỉ biết lo dung dưỡng bản thân, tham quyền cố vị nên mãi mãi không bước đến cùng đời sống trọn lành được.
9. Những bậc thang của giá trị
((Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Hôm nay lễ Các Thánh Nam Nữ, Giáo Hội muốn mời gọi các tín hữu Kitô củng cố lại định hướng căn bản và xác định lại bậc thang giá trị trong cuộc sống. Trong một Thánh Lễ kết thúc một hội nghị liên tôn tại Rôma vào năm 1999, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói đến những căn bệnh xã hội hiện đại. Ngài nói rằng cuộc cách mạng kỹ thuật của thế kỷ XX đã không mang lại được những tiến bộ về mặt tinh thần và luân lý. Trước đám đông tụ họp tại quảng trường thánh Phêrô, Đức Thánh Cha đã đặt câu hỏi như sau:
"Nhìn vào hiện trạng của nhân loại có quá đáng lắm không khi chúng ta nói đến một cơn khủng hoảng về văn minh?"
Ngài giải thích như sau:
"Chúng ta chứng kiến những tiến bộ vĩ đại về kỹ thuật, nhưng chúng ta lại không luôn luôn đi đôi với sự tiến bộ về tinh thần và luân lý, chúng ta cũng thấy khoảng cách ngày càng gia tăng giữa người giàu và người nghèo trên bình diện cá nhân cũng như quốc gia".
Cơn khủng hoảng về văn minh mà Đức Thánh Cha nói đến hẳn cũng được biểu hiện trong bậc thang giá trị mà con người thời đại chọn lựa. Ở chóp đỉnh của bậc thang này chắc chắn không phải là những giá trị tinh thần, luân lý và đạo đức mà là của cải vật chất, quyền bính, danh vọng và lạc thú. Con người không được đánh giá dựa trên những giá trị tinh thần và luân lý mà chỉ trên cơ sở của tài năng, tiền của, quyền bính và danh vọng.
Lễ Các Thánh hôm nay, Giáo Hội muốn mời gọi các tín hữu Kitô chúng ta xác định lại bậc thang các giá trị trong cuộc sống của chúng ta. Là những người lữ hành trong trần thế, chúng ta không ngừng được mời gọi để ngước nhìn lên thiên đàng. Hưởng dùng của cải vật chất nhưng chúng ta lại được mời gọi để tìm kiếm hạnh phúc vĩnh cửu. Sống trong xã hội trần thế nhưng chúng ta phải tìm kiếm và xây dựng những giá trị của Nước Trời. Trong cuộc lữ hành trần thế, chúng ta không tiến bước trong đơn độc vì đã có biết bao người đi trước và chỉ cho chúng ta con đường để bước tới.
Hôm nay, chúng ta được nhắc nhở để nhìn lên những con người ấy, họ - tức các thánh không phải là những con người phi thường. Các ngài cũng chỉ là những con người bình thường như mọi người bình thường khác, nhưng đã sống đời thường một cách phi thường. Chính vì thế mà các ngài mới có thể là mẫu mực để chúng ta noi theo, chúng ta ngước mắt nhìn lên các thánh trên trời đã đành, mà cũng được mời gọi để nhìn vào cuộc sống tại thế này. Ở đây, hàng ngày chúng ta tiếp cận với không biết bao nhiêu vị thánh sống. Họ không cần phải là những người có hào quang chiếu sáng bằng những kỳ công hay nhân đức phi thường. Họ là tất cả những ai trong cố gắng mỗi ngày phấn đấu không ngừng để luôn đặt những giá trị tinh thần và luân lý vào chỗ cao nhất trong bậc thang giá trị. Chúng ta đồng hành với những vị thánh âm thầm vô danh kia và chúng ta cũng được mời gọi để không ngừng thể hiện sự thánh thiện đời thường ấy, bởi vì thánh thiện như Công Đồng Vatican II đã khẳng định là ơn gọi chung của mọi người tín hữu.
Nguyện xin các thánh cầu thay nguyện giúp để chúng ta luôn ý thức được ơn gọi nên thánh ấy.
Lạy Chúa,
Chúng con phải lao đao vất vả vì cuộc sống mỗi ngày. Xin cho chúng con luôn biết hướng về trời cao, để biết tìm kiếm và xây dựng những giá trị vĩnh cửu, ngõ hầu sau cuộc đời tạm bợ này chúng con được về hưởng nhan Chúa cùng với các thánh của Chúa.
10. Phúc thay ai hiền lành
Khát vọng lớn nhất, sâu xa nhất của con người là được hạnh phúc. Vì thế, người ta thường cầu chúc cho nhau được dồi dào phúc, lộc, thọ. Trong bộ ba đó, phúc đứng hàng đầu. Nhưng điều quan trọng là phải sống thế nào để đạt được hạnh phúc đích thật?
Qua bài Tin Mừng Lễ Các Thánh (Mt 5, 1-12), Chúa Giêsu nêu lên tám đối tượng được chúc phúc và một trong những đối tượng đó là người hiền lành: "Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp".
Chúa Giêsu là Thiên Chúa nên Người có đầy đủ những phẩm tính cao đẹp nhất, thế nhưng Người lại chú trọng đến đức tính hiền lành hơn hết và kêu mời chúng ta: "Hãy học với tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường" (Mt 11, 29), "phúc cho những ai hiền lành", "hãy khôn ngoan như con rắn và hiền lành như bồ câu" (Mt 10, 16).
Vậy giờ đây, xin cùng nhìn lại những phẩm chất của người hiền lành.
Người hiền lành mềm dẻo như tre.
Trong cơn bão tố cuồng phong, nhiều cây cổ thụ cao lớn bị xô ngã, trốc gốc, gãy cành; nhưng tre và trúc thì an bình vô sự nhờ tính mềm dẻo của mình. Tương tự như thế, người hiền lành luôn mềm dẻo trong cách đối nhân xử thế, nên họ không hề bị ngã gục đau thương.
Người hiền lành mềm mại như nước.
Người ta có thể đập vỡ đá cứng, nhưng không bao giờ đập vỡ được nước. Khi ta giáng búa tạ vào đá, đá sẽ dùng sự cứng rắn của mình kháng cự lại búa và như thế đá sẽ bị vỡ tan; còn khi giáng búa tạ vào nước, nước dùng sự mềm mại của mình mà nuốt trửng búa và nhận chìm búa xuống bùn!
Nước tuy mềm mại nhưng có thể bào mòn đá cứng: "nước chảy đá mòn." Người hiền lành tuy mềm mỏng nhưng có thể làm xiêu lòng những tâm hồn chai đá nhất.
Người hiền lành lấy nhu thắng cương, lấy nhược thắng cường.
Họ hiểu được chân lý Chúa Giêsu dạy: "Ai dùng gươm thì sẽ phải chết vì gươm" nên họ không dùng bạo lực với bất cứ ai. Họ không ăn miếng trả miếng như bao nhiêu người khác, không theo luật "mắt đổi mắt răng đền răng" nhưng biết chế ngự tính nóng nảy, hãm dẹp tính tự ái, biết lấy thiện báo ác, biết lấy tình thương xoá bỏ hận thù.
Vì thế, rốt cuộc, người hiền lành mới là người chiến thắng. Họ thu phục được nhân tâm và tình yêu của mọi người chung quanh.
Ngày nọ, thánh Vinh-sơn bước vào một tiệm cơm, ngả mũ xin thực khách bố thí cho những trẻ mồ côi mà ngài đang chăm sóc. Cũng trong tiệm ấy, có một anh thợ giày ngạo mạn và đang có hơi men hất hàm hỏi ngài: "Tiền cho trẻ em nghèo hả? Có đây!"
Thế rồi anh ta hớp một ngụm bia, phun thẳng vào mặt thánh Vinh-sơn trước những cặp mắt bàng hoàng kinh ngạc của các thực khách. Mọi người im lặng chờ đợi sự đáp trả cân xứng từ phía Vinh-sơn, một con người vạm vỡ vừa bị xúc phạm quá đáng trước mặt đám đông.
Vinh-sơn từ từ cho tay vào túi, không phải để tìm hung khí trừng trị anh thợ giày nhỏ thó kia, nhưng là để rút ra một chiếc khăn tay và từ tốn lau khuôn mặt dơ bẩn của mình. Sau đó, cho khăn vào túi, ngài ôn tồn nói với anh thợ giày: "Cám ơn anh. Phần anh cho tôi, tôi đã nhận. Thế còn phần của các trẻ mồ côi đâu?"
Mọi người trong quán hết sức ngạc nhiên vì thái độ điềm tĩnh và hiền lành tột bực của ngài. Cả anh thợ giày hỗn láo kia cũng cảm thấy rúng động trước tấm lòng bao dung hào hiệp và bản lãnh rất cao của ngài. Anh ta quỳ xuống tạ lỗi và sau đó, quay về quyên góp bà con bạn bè một số tiền khá lớn đem đặt dưới chân thánh Vinh-sơn để giúp cho những kẻ nghèo.
* * *
Lạy Chúa Giêsu hiền lành khiêm nhượng,
Chúa kêu mời "hãy học cùng Tôi vì Tôi dịu hiền". Xin cho đoàn con biết học sống hiền lành như Chúa để đáng được hồng phúc Chúa hứa ban.
(Lm Trần Ngà)
11. Các Thánh
Hôm nay toàn thể Giáo hội long trọng mừng lễ Các Thánh Nam Nữ, vì thế chúng ta hiệp nhau nơi đây để ca tụng những kỳ công mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi những người đi trước chúng ta, những người đã đi theo Đức Kitô, chính Ngài đã mở ra cho họ một con đường: “Con đường của sự sống, con đường của hạnh phúc”, và hôm nay các ngài đang chia sẻ vinh quang đó với chính Đức Giêsu trên Nước Trời. Cùng với các ngài, chúng ta hãy hân hoan vui mừng, bởi vì hôm nay là lễ của tất cả những người đang sống cũng như của tất cả các thánh đang hưởng mặt Chúa trên Nước Trời, Cùng với tất cả chúng ta đang đi trên con đường xây dựng tình yêu, xây dựng hạnh phúc cho tất cả mọi người.
Cũng như mọi người, các thánh cũng là những con người yếu đuối, nhưng các ngài đã thắng vượt được khó khăn và thử thách trong cuộc sống, cho nên chúng ta cũng xin các ngài bầu cử cho chúng ta để chúng ta tiếp tục cuộc lữ hành tiến về thiên quốc và cũng như các ngài, chúng ta bắt đầu cuộc sống bằng tâm tình sám hối, xin Chúa thứ tha cho những lần chúng ta đã chối từ không muốn làm chứng nhân tình yêu của ngài trước mặt mọi người.
Trong đa số các nhà thờ bên Tây Phương, nhìn lên bốn bức tường và các cửa sổ bằng kính, người ta thường thấy hình của các vị thánh được chạm trổ đủ mọi màu sắc. Có một em bé gái nọ, lần đầu tiên được mẹ đưa đi viếng thăm một nhà thờ cổ kính. Trong khi các du khách bị thu hút bởi những công trình nghệ thuật trong nhà thờ thì em bé lại dán chặt đôi mắt vào chân dung của các vị thánh được vẽ trên các kính màu. Em ngây ngất trước vẻ đẹp của những chân dung ấy mà không biết họ là ai. Và một du khách nào đó đã giải thích cho em biết: đó là các vị thánh.
Tối hôm đó, trước khi lên giường ngủ, em bé đã khoe với mẹ rằng: em đã biết ai là một vị thánh và em nói với mẹ như sau: “vị thánh là một người mà ánh sáng chiếu xuyên qua”. Có lẽ không có một định nghĩa nào xác đáng hơn về các vị thánh. Các vị thánh là con người mà ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa đã chiếu xuyên qua các ngài. Chính định nghĩa ấy mà hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta ngước mắt nhìn lên trời cao để chiêm ngắm các vị thánh được Giáo hội tôn phong hay không được ai biết đến, tất cả các vị thánh đều là những con người đã luôn luôn để cho ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa chiếu xuyên qua mình để soi sáng mọi người xung quanh.
Năm 1986, trong chuyến viếng thăm lần thứ ba tại Pháp, Đức Thánh Cha Gioan Phalô II đã nhắc đến những hồng ân cao cả mà Thiên Chúa đã ban cho nước này. Đó là sự hiện diện của rất nhiều vị thánh. Đức Thánh Cha nói như sau: “Khi các vị thánh đi qua thì Thiên Chúa cùng đi qua với các ngài”.
Cũng trong chuyến viếng thăm lần thứ ba tại Pháp của Đức Thánh Cha, Ngài có nói như sau: “Các thánh cũng là những con người yếu hèn như chúng ta, nhưng ánh sáng của Đức Kitô đã chiếu xuyên qua tất cả con người của các vị ấy”. Các Ngài đã cứu Giáo hội bằng chính sự yếu hèn của mình. Qua cuộc sống của các thánh, Thiên Chúa gởi đến cho chúng ta một tín hiệu: “Tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa mời gọi để nên thánh”. Các thánh là những ngọn hải đăng, các ngài chỉ cho chúng ta một một con người đường để chúng ta đi về với Chúa. Con đường ấy chính là con đường hạnh phúc, một nguồn hạnh phúc thâm sâu phù hợp với khát vọng cơ bản nhất của lòng người.
Trong Tin Mừng mà Giáo hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, hai chữ “Có Phúc Hạnh Phúc” đã được Chúa Giêsu lập lại đến chín lần. Có lẽ Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ với chúng ta rằng: “Nếu các ngươi nghe lời Ta nếu các ngươi sống như Ta thì các ngươi sẽ được hạnh phúc thực sự”. Và có lẽ các vị thánh cũng sẽ mời gọi chúng ta như sau: “Nếu anh chị em sống như chúng tôi thì anh chị em cũng sẽ được hạnh phúc”.
Trên thế giới này có bao nhiêu lời hứa hẹn về hạnh phúc. Trên khắp cả nẻo đường mà chúng ta đi qua, các phương tiện truyền thông xã hội mà chúng ta nghe và mỗi ngày sống đâu đâu cũng nghe thấy những lời kêu gọi tìm hạnh phúc. Người ta mời gọi: hãy tiêu dùng sản phẩm của chúng tôi thì quí vị sẽ được hạnh phúc.
Quả thật, trái đất mà chúng ta đang sống đầy dẫy những lời quảng cáo cho hạnh phúc. Thế nhưng, chỉ có một mình Chúa Giêsu mới có thể đề ra cho chúng ta hạnh phúc thực sự và con đường dẫn đến hạnh phúc ấy là con đường của tình yêu mà chính Ngài đã đi qua. Ngài nói với chúng ta rằng: “Không thể có hạnh phúc đích thực nếu không có tình yêu”, một tình yêu quên mình, chia sẻ và tha thứ cho đến cùng.
Con đường hạnh phúc mà Chúa Giêsu đề ra cho chúng ta là con đường của những tâm hồn trong sạch, cởi mở với tha nhân đến độ quên chính bản thân mình. Đó là con đường của những con người khi bị loại trừ và bách hại vẫn tiếp tục chúc tụng và yêu thương. Đó là con đường của những con người không ngừng hoạt động để mang lại hòa bình cho người khác, để mọi người biết nhìn nhận tình yêu thương nhau như anh em con Cha trên trời. Chính Chúa Giêsu đã qua con đường ấy, Ngài qua thực là mẫu người của hạnh phúc. Từ 2000 năm qua, đã có biết bao nhiêu người đi theo con đường ấy và ngày nay con đường ấy được tiếp tục mở ra cho mỗi người chúng ta.
12. Lễ các Thánh nam nữ
(Lm. Nhân Tài)
“Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.”
Hôm nay Giáo Hội hân hoan mừng lễ kính các thánh nam nữ trên thiên đàng, qua thánh lễ này chúng ta càng thấu hiểu hơn nữa về mầu nhiệm các thánh thông công của Giáo Hội, và khi suy niệm đến mầu nhiệm thông công này, chúng ta càng đặt niềm tin tưởng của mình vào Thiên Chúa và Hội Thánh hơn.
Các thánh là những con người, không ai có thể nên thánh nếu không đi qua cuộc sống làm người với những khổ đau, không đi qua đau khổ thì không thể trở thành một thánh nhân, bởi vì chính Đấng cứu chuộc nhân loại là Chúa Giêsu Kitô đã làm như thế: bị đánh đòn, bị đóng đinh vào thập giá và cuối cùng chết trên thập giá.
Các thánh nam nữ là những con người như chúng ta, khi còn sống ở thế gian các ngài cũng có tham sân si, cũng có kiêu căng, có giận hờn, có ghét ghen, có tham lam, có những tội lỗi mà chúng ta đã phạm hôm nay, nhưng các ngài biết cậy vào ơn Thiên Chúa và biết quyết tâm đứng lên cố gắng làm lại cuộc đời mình, biết chiến đấu với những cám dỗ để rồi hôm nay các ngài được hưởng phúc với Thiên Chúa và các thiên thần của Thiên Chúa trên thiên đàng.
Các thánh nam nữ là những con người như chúng ta, có vị đã từng làm vua, có vị đã từng làm quan lớn quan nhỏ, làm bác sĩ, làm kỹ sư, làm thấy giáo, làm nô lệ, có vị làm giáo hoàng, có vị làm giám mục, làm linh mục, phó tế, có các vị là nam nữ tu sĩ. v.v… nghĩa là các ngài đủ mọi thành phần giai cấp trong xã hội có những đời sống và hoàn cảnh khác nhau, nhưng các ngài đã có một mục đích để sống, đó chính là phải trở nên thánh, phải trở thành những bạn hữu của Thiên Chúa trong chính bổn phận của mình.
Các thánh nam nữ là những con người như chúng ta, nhưng các ngài đã biết thực hiện “Hiến Chương Nước Trời” tức là “Tám Mối Phúc” ngay tại trần gian này:
1) Các ngài giàu có nhưng đã sống tinh thần khó nghèo vì Nước Trời.
2) Các ngài bị người khác vu oan giá họa nhưng vẫn hiền lành với họ.
3) Các ngài đã chia vui với người vui và buồn với người buồn, nên được Thiên Chúa ủi an ngay khi còn ở đời này.
4) Các ngài mong muốn được trở nên người công chính, và sống công chính giữa một xã hội đầy mưu mô xảo trá, nên được Thiên Chúa cho thỏa lòng
5) Các ngài biết thương xót người, tức là biết động lòng trước cảnh thương tâm của người khác, nên được Thiên Chúa xót thương.
6) Các ngài sống trong danh vọng, sống giữa bụi trần với những đam mê của nó, nhưng vẫn giữ được tâm hồn trong sạch, nên các ngài được nhìn thấy Thiên Chúa.
7) Các ngài đi đến đâu là đem bình an của Thiên Chúa đến nơi đó, các ngài được gọi là những người biết kiến tạo hoà bình, nên các ngài được gọi là con Thiên Chúa.
8) Các ngài bị bắt bớ, bị đánh đập, bị tra tấn, bì tù đày vì các ngài sống và tin vào Chúa Giêsu, Đấng sẽ ban Nước Trời cho họ, nên các ngài đã được Nước Trời làm của mình sau khi từ giã cõi đời tạm này.
Các thánh nam nữ đều là những con người như chúng ta, các ngài đã trở nên những thánh nhân, thì chúng ta cũng có thể trở nên thánh như các ngài, bởi vì nên thánh là đòi hỏi của Phúc Âm và là mục đích sống ở đời của chúng ta –người Kitô hữu.
Xin Mẹ Maria và các thánh nam nữ trên thiên đàng, cầu bàu cho chúng ta là những người đang trên đường đi về quê trời biết noi gương của các ngài, biết quyết tâm đổi mới cuộc sống của mình, biết đứng dậy khi ngã xuống trong tội, và biết phục vụ và tha thứ cho nhau trong tình yêu của Thiên Chúa.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
13. Ơn gọi nên thánh
(Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Hôm nay cùng với Giáo hội, chúng ta long trọng cử hành Thánh lễ mừng kính Các Thánh Nam Nữ.
Theo lời Sách Khải Huyền, Các Thánh trên trời là "một đoàn người đông đúc, không sao đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi nước, mọi ngôn ngữ". Họ đang chúc tụng Thiên Chúa, Đấng ngự trên ngai và Con Chiên, là Chúa Giêsu Kitô Đấng Cứu độ chúng ta.
1. Các Thánh Nam Nữ là ai?
Các Thánh Nam Nữ là những phúc nhân (chữ của Đức Cha Bùi Văn Đọc), những người đang hưởng hạnh phúc đời đời bên cạnh Thiên Chúa. Các Ngài là tất cả những người đã chết trong ơn nghĩa Chúa, đang thuộc trọn về Chúa. Các Ngài sung sướng, vui mừng vì thấy mình được Thiên Chúa yêu thương, được thấy Thiên Chúa đẹp đẽ.
Các Thánh Nam Nữ đông vô kể "Tôi lại thấy một Thiên Thần khác, mang ấn của Thiên Chúa hằng sống, từ phía mặt trời mọc đi lên... Rồi tôi nghe nói đến con số những người được đóng ấn: một trăm bốn mươi bốn ngàn người được đóng ấn" (Kh 7,2-4). Con số "một trăm bốn mươn bốn ngàn" chỉ là một cách nói để bày tỏ sự viên mãn và hoàn hảo của dân Thiên Chúa, dân mới được Thiên Chúa cứu chuộc, thuộc về Thiên Chúa, chứ không thể hiểu theo nghĩa số học, số lượng. "Một trăm bốn mươn bốn ngàn" trong Khải huyền là một con số tượng trưng, một con số tròn đầy (12x12=144). Số kẻ được niêm ấn là tròn đầy. Và điều tuyệt diệu là trong thị kiến Khải huyền chi tộc nào cũng có số người được niêm ấn như nhau: 12 ngàn thuộc chi tộc Giuđa, 12 ngàn thuộc chi tộc Ruben, 12 ngàn thuộc chi tộc Gad... không tên họ nào lấn lướt, không tên họ bị loại trừ. Các chi tộc đều được Thiên Chúa kêu mời đầy đủ. Bởi ngay sau đó, thánh Gioan viết tiếp: "tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nỗi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành thiên tuế" (Kh 7,4).
Một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi. Đó là cộng đoàn các Thánh Nam Nữ. Quả là đang trở thành hiện thực nơi Lời Chúa Giêsu đã thốt lên khi gặp được lòng tin của viên bách quản "Ta bảo thật các ngươi, nhiều kẻ tự phương đông, phương đoài mà đến và được dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacop trong nước trời". Chính vì thế, ngoài những vị thánh mà Giáo Hội đã xác định được và đã kính nhớ các Ngài vào các ngày lễ trong năm, Giáo Hội còn dành ra một ngày lễ đặc biệt để long trọng kính nhớ hằng hà sa số các vị thánh mà Giáo Hội chưa hoặc không thể xác định được, gọi chung là Các Thánh Nam Nữ. Chúng ta mững lễ các Thánh Nam Nữ là mừng Nhà Cha rộng lớn như lòng Thiên Chúa, đủ chỗ cho mọi dân tộc.
2. Con đường nên thánh
Thánh Gioan viết: "Một trong các kỳ mục lên tiếng hỏi tôi: những người mặc áo trắng kia là ai vậy? Họ từ đâu tới? Tôi trả lời: thưa Ngài, Ngài biết đó. Vị ấy bảo tôi: Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao" (Kh7,13). Thánh Tông đồ đã nhìn thấy họ trên Thiên đàng, tràn đầy hân hoan, ca hát chúc tụng Thiên Chúa: "Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên" (Kh 7,14). Quả thực, việc thanh tẩy tội lỗi chỉ thành tựu nhờ máu Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế. Tuy nhiên, các Thánh đã phải trải qua cuộc gian truân lớn. Vì tình yêu Đức Kitô, tất cả đã phải giao chiến với quyền lực của sự dữ, với muôn nghìn đau khổ và khó nhọc. Nhưng thánh Gioan cũng giới thiệu phần thưởng lớn lao của các Ngài: "Họ đêm ngày thờ phượng trong đền thờ của Thiên Chúa... Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh" (Kh 7,15-17).
Các Thánh "đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên". Như thế, họ không phải là những con người hoàn hảo, thánh thiện, tinh tuyền, không vướng mắc lỗi lầm thiếu sót hay tật xấu nào. Không ai bẩm sinh đã là Thánh. Các Thánh cũng không phải là những siêu nhân, không là những con người phi thường vượt trên đám đông nhân loại. Các Thánh càng không phải là những người bất thường kỳ dị. Các Thánh là những con người bình thường như mọi người, nhưng các Ngài đã sống những điều tầm thường một cách phi thường. Nhờ Ơn Chúa trợ lực, các Ngài đã cố gắng tiến tới mẫu mực của mình là Chúa Kitô. Bí quyết nên thánh của các Ngài là sống Tám Mối Phúc Thật, là đón nhận ân sủng của Chúa vô điều kiện,hợp tác với ân sủng đó, vâng theo ý Chúa, chọn điều thiện, luyện tập nhân đức.
Có rất nhiều vị thánh bởi vì có rất nhiều cách để nên thánh, nhiều con đường nên thánh. Trong bài Tám Mối Phúc Thật, Chúa Giêsu đã trình bày tám con đường nên thánh, tám con đường để được hạnh phúc đích thực. Có người nên thánh, vì sống khó nghèo, không ham mê của cải trần gian, chỉ ham mê một điều là thích được Chúa yêu và đáp trả lại tình yêu của Chúa. Có người nên thánh, vì sống hiền lành, tử tế với mọi người, nhịn nhục, yêu thương mọi người không trừ một ai. Có người nên thánh, vì đã phải chịu đau khổ nhiều mà không ngã lòng thất vọng, còn biết dùng những đau khổ của mình, kết hợp với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, dâng lên cho Thiên Chúa làm của lễ. Có người nên thánh, vì có lòng nhân từ quảng đại và hay tha thứ, có lòng xót thương xót đối với những người đau khổ tinh thần hay thể xác. Có người nên thánh, vì khao khát Chúa, muốn sống công chính đẹp lòng Chúa. Có người nên thánh vì tâm hồn trong sạch, không vương vấn tội lỗi trần gian, không bị các thứ đam mê xác thịt làm chủ. Có người nên thánh vì hiếu hòa, không gây hấn với ai, mà còn dấn thân hoà giải những người khác, đem lại bình an cho mọi người. Có người nên thánh, vì sống tốt, sống ngay thẳng, trung thành với Chúa và giáo huấn của Người, dù phải bách hại khổ sở, có khi còn bị giết chết nữa. Mọi cuộc đời, mọi con người đều có thể nên thánh. Có những vị thánh không có tên trong lịch, nhưng vẫn được gần Chúa. Có những vị thánh nông dân chân lấm tay bùn, vất vả nuôi con. Có những vị thánh nội trợ âm thầm, quét nhà nấu bếp mà lòng lúc nào cũng vui. Có những vị thánh là những người con ngoan trong gia đình, hiếu thảo với cha mẹ, yêu thương quảng đại đối với anh chị em. Có những vị thánh là nữ tu, là chủng sinh, là linh mục, là giám mục. Có những vị thánh là những con người đam mê chân lý, như những nhà khoa học, những triết gia. Có những vị thánh là những nghệ sĩ làm đẹp cuộc đời bằng nhiều cách khác nhau, mang lại niềm vui cho mọi người (ĐGM Bùi Văn Đọc).
Tuy có nhiều cách thức nên thánh, có vị nên thánh trong bậc tu trì, có vị lại nên thánh trong đời sống gia đình, có vị nên thánh bằng các hoạt động tông đồ năng nổ, có vị nên thánh trong một đời sống âm thầm, lặng lẽ, có vị nên thánh nơi pháp trường đẫm máu, có vị nên thánh chốn sa mạc cô liêu... Nhưng tựu trung, tất cả các thánh đã gặp nhau trên một con đường. Đó là con đường hẹp, con đường thập giá, Chúa Giêsu đã đi "qua đau khổ đến vinh quang".
"Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống
Mùa gặt mai sau khấp khởi mừng".
Chỉ mình Thiên Chúa mới là Đấng Thánh, còn con người được mời gọi trở nên thánh khi tham dự vào sự thánh thiện duy nhất của Thiên Chúa. Các Thánh được tuyên phong lên bậc hiển thánh bởi vì cuộc đời các ngài là một tấm gương phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa. Ai giống Đức Kitô, người ấy trở nên thánh thiện. Ai thực hiện những giá trị Tin mừng, người ấy trở nên thánh thiện. Một sự thánh thiện như thế rất có thể được thực hiện trong một đời sống rất bình thường. Giáo hội hướng tới một sự thánh thiện tỏa rộng, một hình thức thánh thiện vừa bình dân, vừa gần gũi lại vừa có thể được thực hiện cho hết mọi người, thay vì một hình thức thánh thiện chọn lọc, dành riêng cho một thiểu số. Đó là thành quả Ơn Cứu Độ của Chúa Kitô. Giáo Hội không phong thánh cốt để mà thờ, nhưng để tôn vinh Thiên Chúa, để khuyến khích chúng ta noi theo và bắt chước.
Con đường nên thánh được Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay là con đường Tám Mối Phúc Thật.
Sống các Mối Phúc Thật, chúng ta lớn lên trên đường thiêng liêng và trở nên cao lớn trước mặt Chúa. Năm Phụng vụ, Giáo hội tôn kính nhiều vị Thánh có tên tuổi. Ngày lễ các Thánh Nam Nữ, Dân Chúa tham dự thánh lễ để tôn kính tất cả, trong đó có ông bà cha mẹ, những người thân yêu đã ra đi trước chúng ta và đã trở nên thánh nhân, mặc dù chưa được Giáo hội tuyên phong.
Trở nên giống Chúa Giêsu, trở nên trọn lành như Chúa Cha ở trên trời, trở nên thánh, đó là ơn gọi của mọi người Kitô hữu chúng ta và đó cũng là sứ điệp Chúa Giêsu và Giáo Hội muốn nhắn gửi qua ngày lễ kính Các Thánh Nam Nữ.
14. Các Thánh nam nữ
Có một hiệp sĩ nọ bị kẻ thù hạ nhục nên nhất quyết truy lùng để báo oán. Anh đem theo mười người bạn với mũ giáp lên đường. Thấy mình không thể chống cự nổi, kẻ thù bèn xuống ngựa, nằm giang tay ra theo hình thập giá và nhắm mắt chờ đợi nhát gươm định mệnh. Trông thấy hình thập giá và kẻ thù của mình đang thở dốc như người hấp hối, người hiệp sĩ động lòng thương nên đã chặn các bạn lại, không cho họ tấn công. Anh nhẹ nhàng đến gần,mời hắn ta đứng dậy và tha thứ cho hắn. Sau Cử chỉ anh hùng ấy, người hiệp sĩ cảm thấy tâm hồn mình tràn đầu sự bình an và tươi vui, mà anh chưa từng được nếm thử trong đời. Anh ghé vào một ngôi nhà thờ, quì dưới chân thánh giá cầu nguyện. Lúc sau, anh như thấy Chúa Giêsu nhấc đầu khỏi thập giá cúi xuống chào mình, như vẻ tàn đồng cử chỉ tha thứ cùa anh. Anh thấy rằng mình giống Ngài được một chút bởi vì khi hấp hối trên thập giá, Ngài cũng đã cầu xin Thiên Chúa tha cho những kẻ giết mình.
Trở nên giống Chúa Giêsu, trở nên trọn lành như Chúa Cha ở trên trời, hay nói một cách khác, trở nên thánh đó phải là ơn gọi của mọi người kitô hữu chúng ta và đó cũng là sứ điệp Chúa Giêsu và Giáo Hội muốn nhắn gửi cho chúng ta trong ngày lễ hôm nay.
Thực vậy sự thánh thiện chính là nền tảng làm thành thân mình mầu nhiệm của Đức Kitô là Giáo Hội, cộng đoàn các thánh. Sự thánh thiện như thế không phải là ơn gọi dành riêng cho một lớp người đặc biệt được các ơn thần bí này nọm mà là ơn gọi bình thường của tất cả mọi người tin vào Chúa. Nó là điểm tới tự nhiên của cuộc sống đức tin và tình mến nơi mỗi người chúng ta, nó là bổn phận của mọi người tin Chúa bởi vì tin có nghĩa là mở rộng tâm hồn đón nhận Thiên Chúa và tin mừng yêu thương của Ngài, đồng thời dấn thân sống những đòi buộc của tin mừng ấy, để ngày càng trở nên giống Chúa hơn, là đấng thánh thiện trọn lành.
Bí quyết nên thánh đã được Chúa Giêsu cống hiên cho tất cả chúng ta qua các mối phúc thật mà Ngài đã rao giảng, đã sống và làm gương cho chúng ta. Ngài đã chỉ cho chúng ta tám ngả đường giúp chúng ta nên thánh, nghĩa là trở nên giống Chúa.
Điều quan trọng đó là chúng ta có can đảm thực thi tinh thần tám mối phúc thật, có dám bước đi trên những ngà đường Ngài đã chỉ vẽ hay không?
15. Người khổng lồ thiêng liêng
Ít năm trước đây, một triệu phú người Pháp là Công tước Alfred de Pierre-Cout, đã để lại trọn gia tài 2 triệu đôla để nuôi lớn những người khổng lồ. Tòa án thực hiện di chúc, cho trích một phần tư số tiền của gia tài là 500.000 đôla để dùng vào thử nghiệm này. Các viên chức thành phố Rouen nước Pháp đã tìm kiếm trên thế giới những người đàn ông, đàn bà lớn con. Cho họ sống từng đôi trong những ngôi nhà gần Rouen. Thử nghiệm chấm dứt ít năm sau.
Hai ngàn năm trước đây, một nhân vật vĩ đại nhất đã đến trên mặt đất này và để lại một di sản để làm phát sinh không phải người khổng lồ, nhưng là người phi thường thiêng liêng, không phải những người có thân thể to lớn, nhưng là những người có tâm hồn siêu việt. Chúng ta vừa đọc chúc thơ của Người trong bài Tin Mừng hôm nay. Bài giảng thời danh trên núi cho chúng ta phương cách để trở thành siêu việt. Chúng ta thường gọi là Tám Mối Phúc Thật – Tám con đường hạnh phúc.
Trong ngày lễ các Thánh, chúng ta tôn kính tất cả mọi người nam nữ, già trẻ trong mọi thời đại, thuộc mọi quốc gia, mọi nghề nghiệp. Họ đã sống theo đường lối này và đã trở thành siêu nhân. Tên tuổi và việc làm của hơn 40.000 siêu nhân này được ghi trong sổ bộ của Hội Thánh Chúa Kitô. Nhưng còn một số đông vô kể không có tên trong sổ bộ. Các ngài cũng là những siêu nhân, chúng ta tôn kính các ngài trong ngày hôm nay. Trong số đó có nhiều vị gần gũi và thân thương với chúng ta. Điều gì làm các ngài thành vĩ nhân? Chúa Giêsu nói với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay. Các ngài nghèo khó trong tinh thần: Tiền bạc, của cải không phải là cái các ngài quan tâm.
* Các ngài hiền lành, hòa nhã, ân cần, khoan dung. Các ngài đã chịu đói, chịu khát, các ngài đấu tranh Công lý cho mọi người. Các ngài nhân từ, dung thứ những thiếu sót của con người.
* Các ngài có tâm hồn trong sạch, không phải chỉ trong giới răn thứ sáu. Nhưng còn trong mục đích làm đẹp lòng Chúa và ích lợi cho tha nhân. Các ngài là người kiến tạo hòa bình: với chính các ngài, với tha nhân và với Chúa.
* Lòng tốt của các ngài đưa các ngài đến tù tội, ngược đãi và ngay cả sự chết. Các ngài bị sỉ nhục, bị nhạo cười vì niềm tin, vì hành động như những người theo Chúa Kitô.
Mỗi lần chúng ta thực hành một trong Tám Mối Phúc Thật này, chúng ta lớn lên trên đường thiêng liêng, chúng ta trở nên cao lớn trước mặt Chúa. Để khuyến khích chúng ta lớn lên, Mẹ Giáo Hội nhắc nhở chúng ta suốt một năm tên của các vị Thánh. Hôm nay, ngày lễ các Thánh nam, nữ, gia đình Chúa xum họp quanh bàn thánh Chúa để tôn kính tất cả, trong đó có bà con láng giềng đã trở nên siêu nhân, mặc dù chưa được ghi tên trong sổ bộ.
Sức mạnh để trở nên siêu nhân Chúa Kitô cho chúng ta trong của ăn, chúng ta lãnh nhận nơi bàn tiệc Thánh Lễ. Ước gì tất cả chúng ta sẽ được trong số những người sẽ được tôn kính trong ngày lễ các Thánh mai sau.
Xin Chúa chúc lành bạn.
16. Ơn gọi Kitô hữu
Trên một chuyến xe lửa, người ta chụm đầu vào nhau và bàn tán sôi nổi về một vụ phá thai vừa mới xảy ra ở trong vùng. Nhiều người đã bênh vực cho hành động ấy của người mẹ trẻ. Một vài người khác thì giữ thái độ yên lặng. Và chỉ có một cô gái đã thẳng thắn nói lên rằng:
- Không thể được, vì đó là một hành động sát nhân. Đứa nhỏ, dù mới chỉ là một thai nhi bé bỏng, cũng đã là một người có linh hồn và thể xác.
Chàng thanh niên, người tình của cô gái thì bĩu môi tỏ vẻ khinh bỉ trước lập trường dứt khoát của cô gái. Nhưng rồi ngày hôm sau, chàng thanh niên đã nhận được bức thư của cô gái, trong đó cô gái đã viết: - Tôi không hy vọng rằng mình sẽ xây dựng được hạnh phúc với một kẻ không dám mở miệng bênh vực quan điểm của Giáo Hội.
Cô gái này quả thực là một người can đảm, dám lên tiếng bênh vực sự toàn vẹn của tôn giáo, dù có phải hy sinh cả một cuộc tình tốt đẹp. Tuy nhiên, cũng thật đáng buồn vì có rất nhiều người trong chúng ta lại hành động một cách khác hẳn. Đối với họ, sống là để làm việc. Và làm việc là để kiếm tiền. Và kiến tiền là để nuôi sống gia đình, cũng như để có được những tiện nghi, những hưởng thụ tư riêng. Sau tất cả những công việc đó, nếu còn chút ít thời giờ, thì họ mới nghĩ đến tôn giáo và mới nhớ rằng mình cũng có một linh hồn bất tử và mình cũng là Kitô hữu. Có thể họ cũng sẳn sàng làm một vài việc đạo đức chiếu lệ nào đó, miễn là không mất quá nhiều thời giờ và không thiệt hại tới địa vị, danh vọng và lợi tức của họ. Còn nếu như đời sống tôn giáo đem lại những thiệt thòi và khó khăn, họ sẽ vội vã ban Chúa như Giuđa hay chối Chúa như Phêrô.
Nếu đọc lại lịch sử Giáo Hội, chúng ta sẽ thấy những tín hữu đầu tiên đã không sống và hành động như thế. Họ luôn hãnh diện tuyên xưng mình là Kitô hữ. Họ coi tước hiệu Kitô hữu là như một ơn gọi của Thiên Chúa xuất phát từ trời cao.
Chính vì thế, thánh Phaolô đã khuyên nhủ họ:
- Anh em hãy sống xứng đáng với ơn gọi của mình.
Còn chúng ta thì sao? Thái độ của chúng ta rất có thể đã thật khác xa với thái độ của các tín hữu sơ khai. Chúng ta đã lãnh nhận bí tích Rửa tội và có tên trong hồ sơ lưu trữ của giáo xứ. Đạo của chúng ta là đạo giấy tờ. Còn trong cuộc sống, chúng ta lại hành động trái với những gì chúng ta đã tin nhận, trái với lý tưởng cùa người Kitô hữu.
Phải chăng chúng ta chỉ là những Kitô hữu “dổm”, hữu danh vô thực. Có tên mà không sống, không làm, không hành động? Phải chăng danh hiệu Kitô hữu chỉ còn là như một chiếc phù hiệu mà nhiều lúc chúng ta cũng chẳng muốn mang lấy, vì nó ảnh hưởng tới lý lịch, nghề nghiệp và địa vị của chúng ta. Chỉ cần nhìn vào một vài việc đạo đức là chúng ta có thể thẩm định được chúng ta nghĩ gì về ơn gọi Kitô hữu của chúng ta. Chẳng hạn ngày Chúa nhật, chúng ta đi tham dự thánh lễ. Đi thì đã muộn, rồi lại còn tụm năm tụm ba đứng bên ngoài nhà thờ nói chuyện và hút thuốc. Chúng ta làm dấy thánh giá một cách nguệch ngọc, như vẽ bùa trên mình. Rồi khi thánh lễ chưa kết thúc, chúng ta đã vội vã ra về, đúng với tiêu chuẩn: đi muộn về sớm. Trong khi đó, chúng ta sẵn sàng thức khuya dạy sớm để coi một trận đấu bóng đá. Chúng ta lặn lội, bất kể đêm hôm mưa gió để đi coi một buổi trình diễn văn nghệ hay một vở tuồng cải lương…
Là Kitô hữu, chúng ta là những người đã được Chúa kêu gọi. Ơn gọi của chúng ta là nên thánh, là sống Phúc âm giữa lòng cuộc đời. Nếu chúng ta trung thành với ơn gọi, chắc chắn chúng ta sẽ được thừa hưởng vinh quang Nước trời mà Ngài đã hứa ban. Đức Kitô là đường, là sự thật và là sự sống. Ngài sẽ soi lối để chúng ta biết kính mến Thiên Chúa và yêu thương anh em, nhờ đó xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn. Là Kitô hữu, chúng ta trở nên như men trong bột, như ánh sáng trong bóng tối và như muối trong thức ăn. Hoạt động của chúng ta tuy âm thầm nhưng có sức hoán cải và đội mới cả xã hội này.
Rất nhiều lần tôi nghe những anh em ngoại giáo phát biểu như sau:
- Là người có đạo thế mà cũng vợ nọ con kia, thế mà cũng gian tham độc ác, thế mà cũng rượu chè cờ bạc… Tin đạo chứ không tin kẻ có đạo…
Nghe qua những lời phát biểu trên, hẳn chúng ta đã cảm thấy nhức nhối và cay dắng, bởi vì quả thực, chúng ta chưa sống xứng đáng với ơn gọi của mình. Chúng ta chưa thực sự trở nên trọn lành như Cha chúng ta ở trên trời là Đấng trọn lành.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa, hôm nay chúng con mừng kính các thánh nam nữ, là những bậc đàn anh đàn chị đã đi trước chúng con và đã chu toàn được ơn gọi Kitô hữu của mình. Xin cho chúng con biết luôn cố gắng sửa đổi lại những sai lỗi và khuyết điểm, đồng thời ra sức thực thi giới luật yêu thương của Chúa để chúng ta trở thành những chứng nhân của Chúa giữa lòng cuộc đời. Xin cho chúng con luôn ghi nhớ lời thánh Augustinô: Ông nọ bà kia nên thánh được, còn tôi tại sao lại không?.
17. Nên thánh
Người ta kể lại rằng trong đời thánh Antôn tu rừng có một lần ngài xin tá túc trong ngôi nhà của anh thợ đóng giày theo lệnh Chúa. Hai vợ chồng dọn bữa ăn và chuẩn bị chỗ ngủ cho thánh nhân. Ngài ở đó ba ngày, hỏi thăm về đời sống và công ăn việc làm. Nhờ những câu chuyện trao đổi, họ đã trở thành bạn thân với nhau. Sau đó, thánh nhân từ giã họ mà trở về nhà. Lúc bấy giờ Chúa hỏi: con thấy người thợ giày ấy thế nào? Thánh nhân thưa lại: Ông ta là một người đơn sơ, vợ ông có thai và sắp sinh con. Họ có vẻ yêu nhau lắm. Ông ta có một cửa tiệm nhỏ để đóng và sửa giày. Ông ta làm việc hăng say, gia đình ông ta sống đạm bạc với số tiền kiếm được nhưng luôn biết chia sẻ giúp đỡ cho những người kém may mắn. Ông ta và vợ luôn tin tưởng mãnh liệt vào Chúa và cầu nguyện ít nhất mỗi ngày một lần. Họ có nhiều bạn thân và người thợ giày thì luôn miệng kể chuyện khôi hài cho mọi người cười. Chúa lắng nghe thánh nhân và cuối cùng Ngài phán: Antôn, con là một vị thánh sống, nhưng người thợ giày và bà vợ cũng là những vị thánh sống.
Cơ hội nên thánh luôn ở trong tầm tay của chúng ta, con đường theo Chúa nằm ngay dưới chân chúng ta. Chu toàn bổn phận của mình trong vui tươi, tin tưởng và phó thác nơi tình yêu thương của Chúa là mình đang bước vào con đường cứu rỗi. Đừng tìm đâu xa. Ơn thánh Chúa đang tràn ngập trong những biến cố lớn nhỏ của đời mình. Thánh nữ Têrêxa hài đồng khuyên: Mỗi khi cúi xuống nhặt một cây kim vì lòng yêu mến Chúa và phục vụ anh em, đó là chúng ta đang xây đắp kho tàng vĩnh cửu của mình trên trời.
Tin tưởng, kính mến Thiên Chúa và yêu thương, phục vụ, tha thứ cho anh em trong những liên hệ hằng ngày, đó là con đường nên thánh.
Nên thánh không phải là cố gắng làm những công việc phi thường, nhưng là khiêm tốn chu toàn bổn phận hằng ngày một cách tốt đẹp. Nên thánh chính là làm những công việc bình thường một cách phi thường. Người Do thái mong đợi một vị cứu tinh cao sang quyền phép, nên họ đã không nhận ra con người ngheo nàn tại Nagiarét là Đấng Cứu thế. Hêrôđê đòi xem những phép lạ, nên đã không nhìn thấy nơi người tử tội là vị Thiên Chúa tối cao.
18. Thánh thiện
Linh mục Anthony de Melo có kể câu chuyện như sau: Có một linh sư Ấn giáo nọ nổi tiếng là bậc thánh thiện, ông đã mở được nhiều trung tâm cầu nguyện và qui tụ được nhiều đệ tử.
Ngày kia, có một người tìm thầy học đạo tình cờ đến trước cửa trung tâm. Con người khao khát chân lý từ bao năm nay cảm thấy như được giác ngộ khi gặp gỡ vị linh sư. Vị linh sư nói với anh:
- Trước khi nhận ngươi làm đệ tử, ta thấy cần phải thử thách ngươi về sự vâng lời. Đằng trước trung tâm có một dòng sông dày đặc cá sấu, ta muốn ngươi phải lội qua dòng sông ấy.
Không một chút do dự, người thanh niên để nguyên quần áo quăng mình xuống dòng sông. Vừa lội qua dòng sông anh vừa hô lớn: “Tung hô quyền năng kỳ diệu của thầy tôi”.
Nhờ có sự hỗ trợ của nhiều người và của chính vị linh sư, người thanh niên đã bơi qua dòng sông và trở về an toàn. Sự kiện này càng làm cho vị linh sư thấy mình là người thánh thiện. Lập tức, ông cho tập trung các đệ tử trong nhà lại và trịnh trọng bước xuống dòng sông, vừa công khai bơi lội vừa hô lớn: “Tung hô quyền năng của ta, tung hô quyền năng của ta”. Thế nhưng, ông vừa dứt lời thì đàn cá sấu ào tới cắn xé ông ra từng mảnh.
Thánh thiện chính là quên mình, quên mình đến độ không được phép ý thức về sự thánh thiện của mình. Thiên Chúa ban cho ta sự thánh thiện là để cho người khác hưởng dùng. Bao lâu sự thánh thiện đem lại lợi ích cho kẻ khác thì bấy lâu người đó còn thánh thiện. Trái lại, kể từ giây phút một người thánh thiện giữ riêng ân huệ cho mình, thì người đó đánh mất sự thánh thiện, đồng thời đánh mất chính bản thân.
Thật ra, thánh thiện không là một đặc ân cho một số người ngoại hạng. Đó là ơn ngọi của mỗi người kitô. Người kitô không thể không là người thánh thiện, vì chính thánh thiện là tên gọi của Chúa Kitô: “Ngài là Đấng thánh”.
“Ngài là Đấng thánh”, bởi vì hơn ai hết Ngài là Đấng quên mình. Thánh Phaolô đã nói đến sự thánh thiện của Chúa Kitô bằng công thức: “Ngài để tự hạ vâng phục cho đến chết và chết trân thập giá”. Đó cũng là lý tưởng bắt buộc của mọi người tín hữu kitô. Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ: “Ai tìm sự sống mình thì sẽ mất, và ai đành mất mạng sống mình vì Ta người đó sẽ tìm lại được”. Quên mình, sống trọn vẹn cho người khác, đó chính là định nghĩa đích thực của sự thánh thiện.
19. Niềm hy vọng hạnh phúc
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA: Mt 5, 1-12a
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Những lời Chúa nói hôm nay thật lạ lùng. Khác hẳn với những gì người đời thường nói. Nhưng đem đến cho ta biết bao niềm hy vọng.
Trước hết là niềm hy vọng hạnh phúc. Cuộc sống trần gian có nhiều khổ đau đến nỗi nhiều người gọi trần gian là thung lũng nước mắt. Ai cũng mơ ước được hạnh phúc. Nhưng hầu như hạnh phúc luôn ở ngoài tầm tay con người. Với những lời chúc phúc hôm nay, Chúa cho ta biết Chúa đã dựng nên con người để được hạnh phúc. Dù hiện nay ta còn phải chịu nhiều đau khổ, ưu phiền, khốn khó, nhưng những đau khổ, ưu phiền khốn khó đó sẽ qua đi. Vì cuộc sống này chỉ là tạm bợ. Hạnh phúc Chúa hứa sẽ vĩnh cửu vì cuộc sống đời sau không bao giờ tàn úa.
Tiếp đến là niềm hy vọng Nước Trời. Hạnh phúc ta được không ở tại đời này, nhưng ở trên Nước Trời. Trên Nước Trời ta được hạnh phúc vì được làm chủ nhân Nước Trời. Và trên Nước Trời, ta sẽ được an ủi, được thương xót, được làm con Chúa, được thấy mặt Chúa. Đó là hạnh phúc tuyệt đối không gì có thể so sánh được.
Sau cùng là niềm hy vọng được chính Chúa. Qua những lời chúc phúc. Chúa cho ta hiểu rằng Chúa chính là nguồn mạch sự sống của ta, là tất cả ý nghĩa đời ta, là hạnh phúc của ta. Được Chúa là được tất cả. Chúa là sản nghiệp lớn lao sẽ khiến ta trở nên giàu có. Chúa là niềm an ủi khiến ta không còn sầu khổ. Chúa là hạnh phúc tuyệt đối khiến ta thỏa chí toại lòng không còn khao khát gì nữa. Còn gì hạnh phúc hơn khi ta được chiêm ngưỡng Chúa tỏ tường, được làm con Chúa, được Chúa yêu thương.
Tuy nhiên để đạt được Chúa, bản thân ta phải được thanh luyện theo con đường Tám Mối Phúc. Chính Chúa Giêsu đã đi vào con đường đó. Người đã sống nghèo, đã sống hiền lành khiêm nhường, đã chịu giết hại vì rao giảng Tin Mừng. Người đã mở đường đi về hạnh phúc.
Các thánh là những người đã đi theo Chúa Giêsu trên con đường thanh luyện. Các ngài đã giặt áo trong máu Con Chiên nên áo của các ngài trắng như tuyết. Các ngài được hưởng hạnh phúc Nước Trời vì các ngài đã chịu thanh luyện trong cuộc sống trên trần gian. Các ngài được chính Chúa vì các ngài đã từ chối không ham mê dính bén những của cải trần gian.
Vì thế, lễ các thánh là lễ của niềm vui. Chúng ta vui mừng vì các thánh chính là thân nhân của chúng ta, là tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn bè chúng ta.
Lễ các thánh là lễ của niềm hy vọng. Các thánh là người như chúng ta với tất cả những thiếu thốn, những yếu hèn. Các ngài đã đạt tới hạnh phúc Nước Trời. Như thế chúng ta hy vọng cũng sẽ được hạnh phúc Nước Trời như các ngài. Chúng ta còn hy vọng hơn nữa, vì Chúa đã hứa cho ta được hạnh phúc Nước Trời làm sản nghiệp. Lời hứa của Chúa là niềm hy vọng của chúng ta.
Nhưng lễ các thánh cũng là lễ của phấn đấu. Con đường dẫn ta tới Nước Trời là con đường Tám Mối Phúc. Đó là con đường phấn đấu từ bỏ mình, từ bỏ những ham hố tranh dành, chiếm hữu, thống trị. Phấn đấu sống khiêm nhường và nhất là yêu thương xây dựng hòa bình. Khi phấn đấu sống như thế, ta xây dựng Nước Trời từ trần gian, biến trần gian thành nơi hạnh phúc, biến mọi người thành anh em. Khi phấn đấu xây dựng Nước Trời như thế, ta góp phần xây dựng hòa bình trên trần gian.
Lạy các thánh nam nữ ở trên trời, xin cầu cho chúng con.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1) Tám mối phúc của Chúa đem đến cho ta những niềm hy vọng nào?
2) Lễ các thánh gợi cho ta những tâm tình nào?
3) Làm thánh là giúp xây dựng xã hội. Bạn nghĩ gì về ý kiến này?
20. Nên hình bóng Ngài
(GM. Giuse Vũ Văn Thiên)
(Bài giảng Lễ các Thánh nam nữ trên trời – năm 2014)
Chỉ có Thiên Chúa là Đấng Thánh. Ngài là nguồn mạch của sự thánh thiện. Bản chất của Thiên Chúa là thánh thiện và yêu thương. Vì yêu thương, Thiên Chúa muốn chia sẻ với chúng ta sự thánh thiện của Ngài, giống như những người cha mẹ muốn tìm kiếm, dạy dỗ và để lại cho con cái những điều tốt đẹp. Nhờ Thiên Chúa chia sẻ với chúng ta sự thánh thiện của Ngài, nên chúng ta mới có thể hy vọng nên thánh hay nên hoàn thiện. Vì Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn thánh thiện, cho nên những ai nên thánh là trở thành giống Chúa, là đón nhận sự thánh thiện của Chúa. Người thánh thiện là người phản chiếu sự tốt lành của Chúa. Sự thánh thiện được thể hiện trong lời nói, tư tưởng và việc làm. Vì thế, chúng ta thường nói đến hào quang của các thánh. Hào quang là sự phản chiếu huy hoàng của một vị thánh, là kết quả của một cuộc đời mong muốn rập khuôn theo cuộc đời Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người.
Nên thánh là bổn phận của người tín hữu. Hãy nghe Thánh Phêrô nói với chúng ta: “Bởi vì Đấng kêu gọi anh em là Đấng Thánh, anh em cũng vậy, anh em hãy nên thánh trong mọi hành động của anh em, như đã được viết: Các ngươi hãy nên thánh, vì Ta là Đấng Thánh” (1 Pr 1,15). Như vậy, trong cuộc đời của chúng ta, nếu không thiện chí cố gắng để được nên thánh, thì đó là một thiếu sót. Bởi lẽ khi lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy, chúng ta được trao sứ mạng nên thánh, tức là nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu.
Nói đến sứ mạng nên thánh, có thể nhiều người suy nghĩ: “nên thánh khó quá, vì tôi chỉ là một người dân bình thường, không được học hỏi đào tạo”. Suy nghĩ như vậy là chưa hiểu lời mời gọi của Chúa. Nên thánh không phải một gánh nặng, phải có sức khỏe mới mang nổi. Nên thánh không phải một bài toán khó, ai đã học cao biết rộng mới có thể giải được. Nên thánh đơn giản chỉ là một cách sống của mình giữa đời thường, như bông hoa tự nhiên tỏa hương thơm. Những cử chỉ hành động của cuộc sống hằng ngày được thực hiện với lòng yêu mến và biết ơn Chúa đều có thể giúp ta nên thánh. Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu đã viết: “Nhặt một cây kim vì yêu mến cũng có thể hoán cải một linh hồn”.
Chúng ta hãy suy niệm lời chúc phúc của Chúa để thấy việc nên thánh phù hợp với mọi người. Có rất nhiều phương pháp giúp ta đạt được Chân lý. Tám mối phúc thật là những phương pháp mà Chúa Giêsu đã đề nghị cho những ai muốn nên thánh. Qua những mối phúc này, chúng ta hiểu ra rằng nên thánh nhiều khi chỉ là những việc đơn giản trong cuộc sống thường ngày, được thực hành với trái tim yêu mến và lương tâm ngay thẳng. Sống tinh thần nghèo khó, luôn biết sám hối khóc lóc vì những lầm lỗi của mình, khát khao sự công chính, sống hòa thuận và sắn sàng đón nhận những bất tiện do đời sống chứng tá Tin Mừng gây nên. Những việc làm đó, nếu được thực hiện với tình yêu mến và trong niềm vui, sẽ đem lại cho chúng ta sự bình an và nhờ đó, chúng ta đã bắt đầu nên thánh.
Ngày lễ kính các Thánh nam nữ trên trời cũng là dịp chúng ta tưởng nhớ những người thân yêu của chúng ta đã về Nhà Cha. Trong số đó, có những người đã được hiển thánh, vì họ sống một cuộc sống tốt lành theo giáo huấn của Chúa. Họ không được Giáo Hội phong thánh, nhưng chính Thiên Chúa phong thánh cho họ. Họ đang hưởng hạnh phúc vĩnh cửu nơi tôn nhan Chúa và đang cầu bầu cho chúng ta.
Ngày lễ kính các Thánh nam nữ trên trời cũng nhắc chúng ta hãy nhận ra những người tốt, việc tốt xung quanh mình. Dù thuộc nền văn hóa hay tín ngưỡng nào, những hành động nhằm cổ võ hòa bình và xây dựng những điều thiện hảo, đều phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa, vì Ngài là nguồn mạch của sự thánh thiện.
Thánh Phaolô đã gọi cộng đoàn các tín hữu là cộng đoàn các thánh. Là thành viên trong cộng đoàn Giáo Hội, mỗi chúng ta đã bắt đầu hành trình nên thánh. Chúng ta cũng được chia sẻ sự thánh thiện của Giáo Hội, được thể hiện qua đời sống thánh thiện của Đức Maria, Thánh Giuse, các thánh Tông đồ và các thánh qua mọi thời đại.
Nên thánh là lời mời gọi của Chúa. Nên thánh cũng là một bổn phận của chúng ta. Đó là mục đích căn bản và cốt lõi của đời sống Kitô hữu. Nhờ cuộc sống thánh thiện, chúng ta thuộc về Chúa là Đấng Chí Thánh, trở nên hình bóng của Ngài. Và như thế, chúng ta đã nếm hưởng hạnh phúc đời sau, ngay khi chúng ta còn sống trong cõi đời tạm này.
21. Nên thánh
Ngày kia, thánh Antôn tu rừng đã đến gặp bác thợ giày, vì nghe đồn bác là một người đạo đức lạ thường. Được hỏi về bí quyết nên thánh, bác thợ giày liền đáp:
– Tôi chỉ biết đóng giày mà thôi.
Ngạc nhiên, thánh nhân bèn hỏi lại:
– Nếu chỉ có thế, làm sao mà thánh thiện cho được. Như tôi đây, tôi thường nghĩ đến Chúa trong từng giây phút. Bác có bí quyết nào khác nữa không?
Bác thợ giày liền giải thích:
– Tôi làm việc tám giờ, cầu nguyện tám giờ và nghỉ ngơi tám giờ.
Thánh nhân vẫn chưa cho đó là một cuộc sống lý tưởng vì ngài cầu nguyện ở mọi nơi và trong mọi lúc. Thánh nhân hỏi tiếp:
– Còn về đức khó nghèo thì sao?
Bác thợ giày trả lời:
– Tài sản và lợi tức của tôi, một phần ba thì dâng cho Giáo Hội, một phần ba thì bố thí cho người nghèo, còn một phần ba thì giữ lại cho tôi.
Thánh nhân cũng chưa cho đó là một bí quyết trọn hảo, bởi vì chính ngài đã phân phát tất cả những gì mình có cho Giáo Hội và cho người nghèo. Vặn hỏi mãi, cuối cùng bác thợ giày mới chịu bật mí:
– Mặc dù tôi bố thí một phần ba cho người nghèo, nhưng đêm ngày tôi không thể ngủ yên khi nhìn thấy cảnh nghèo túng chung quanh tôi, đến nỗi tôi đã phải thân thưa cùng Chúa: Lạy Chúa, thà rằng Chúa để cho con phải xuống hỏa ngục, còn hơn là nhìn thấy những kẻ khốn khổ này phải sống triền miên trong cảnh nghèo đói.
Nghe nói thế, thánh nhân liền bỏ ra về vì ngài chợt hiểu rằng: Ngài chưa đủ thánh thiện như bác thợ giày, đến độ dám hy sinh tất cả vì người nghèo.
Từ câu chuyện trên, chúng ta nhận thấy có nhiều cách để nên thánh, dường như không có một mẫu mực thánh thện nào chung cho tất cả mọi người. Có người nên thánh ngay trong bậc gia đình của mình giữa trần gian. Có người chịu chết vì đạo. Có người sống trong bậc tu trì. Mỗi vị thánh là một cách sống. Tuy nhiên, giữa những khác biết đó, vẫn có một mãu số chung cho mọi cuộc sống thánh thiện, đó là tình yêu.
Thực vậy, Thánh Phaolô đã diễn tả: Dù tô nói được mọi thứ tiếng, dù tôi làm được những việc lạ lùng, mà nếu không có đức ái, không có tình yêu, thì tôi cũng chỉ là như não bạt khua vang.
Không có đức ái, không có tình yêu, thì tòa nhà đạo đức của chúng ta chỉ được xây trên một nền móng hão huyền mà thôi. Chúa Giêsu cũng đã nói:
– Các con hãy nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành.
Thiên Chúa là Tình yêu. Ngài đã yêu thương mọi người, không loại trừ một ai. Cũng vì tình yêu, mà Ngài đã xuống thế làm người như chúng ta và đó cũng chính là điểm tận cùng của tình yêu. Bác thợ giày trong câu chuyện vừa nghe không những đã dành mọi của cải cho người nghèo, mà hơn thế nữa bác còn nghĩ đến người nghèo như là lẽ sống của bác. Và đó chính là bí quyết cao vời nhất để nên thánh.
Bố thí tất cả của cải, xa lánh mọi thú vui, đêm ngày ăn chay cầu nguyện… Tất cả đều tốt, nhưng nếu sống như thế để tìm cho mình sự thanh thản trong tâm hồn vì sợ bị người khàc quấy rầy, thì vẫn chưa phải là lý tưởng cao đẹp nhất.
Hãy nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành. Đó phải là lý tưởng của chúng ta. Cha trên trời đã yêu thương mọi người đến nỗi đã trao ban chính Con Một Ngài. Thiên Chúa là Cha, bởi vì Ngài luôn sống cho con cái của Ngài. Và bây giờ đến lượt chúng ta, để trở nên giống Ngài, chúng ta cũng phải sống cho người khác, bằng những hành động bác ái và yêu thương, nâng đỡ và phục vụ mọi người. Đó chính là bí quyết giúp chúng ta trở nên tốt lành và thánh thiện.
22. Hạnh phúc thay
Một người Pháp tên là Pi-e Quốc (Alfred de Pierrecout) để lại gia tài hai triệu đô la với lời di chúc phải dùng số tiền này gây giống những người khổng lồ. Người ta đã tìm và chuyển những người cao lớn ngoại khổ về một vùng gần tỉnh Ru-ăng (Rhuen), rồi khuyến khích họ lập gia đình với nhau, mong thành lập một dòng giống khổng lồ. Chương trình này tiến hành được ít năm rồi thất bại. Còn Chúa Giêsu cũng muốn gây dựng một dòng giống vĩ nhân và đã thành công. Bí quyết thành vĩ nhân của Chúa đã tóm gọn trong Bài giảng trên núi, cũng gọi là “Tám mối phúc thật”.
Chúa Giêsu công bố những bí quyết hạnh phúc này trên một gọn núi. Khung cảnh làm tăng vẻ hùng vĩ long trọng, khiến ta nhớ tới núi Sinai của Cựu Ước, nơi Thiên Chúa công bố mười giới luật. Những điều hạnh phúc này cũng gọi là Hiến chương Nước Trời, đây là tóm lược toàn bộ giáo lý của Đức Kitô. Tuy đơn sơ giản dị nhưng là tinh hoa của Tin Mừng, Chúa muốn gửi gắm với tất cả nhân loại, nhất là những người đau khổ: ốm yếu, tật nguyền, nghèo túng, thất nghiệp, những người bị khinh chê, tuyệt vọng, giới thu thuế và người tội lỗi.
Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó…, phúc cho những người hiền lành…, phúc cho ai có từ tâm…, phúc cho ai bị bắt bớ vì sự công chính… Những người gặp khó khăn đau khổ sẽ được hạnh phúc trong Giáo Lý Đức Giêsu, đây là kiểu nói khác của Lời Chúa: “Ai vất vả mệt mỏi hãy đến với Ta và Ta sẽ cho nghỉ ngơi. Hãy nhận lấy gánh của Ta và hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng và các con sẽ được nghỉ ngơi lại sức vì ách của Ta êm ái, gánh của Ta nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30). Chính vì đem hạnh phúc lại cho người đau khổ mà Chúa Giêsu mới đúng là “Đấng được trông chờ”, là “người được tiên báo”, là “người đem Tin Mừng Cứu Độ”. Chúng ta đừng được quên từ ngữ Tin Mừng Cứu Độ đã được chính Chúa nhắc lại: “Thần Linh Chúa xuống trên tôi, Người đã xức dầu tôi, sai tôi mang Tin Mừng cho người nghèo, băng bó cho ai có cõi lòng tan vỡ, công bố giải thoát cho các tù nhân, an ủi những người bị áp bức…” (Is.61,1-6; Lc.4,18).
Hạnh phúc cho họ… vì Nước Trời là của họ… Tám mối phúc thật đóng khung trong kết luận đó. Nước Trời thuộc anh em, không phải chỉ là lời hứa hẹn mai sau, nhưng niềm hạnh phúc này còn lan toả ngay trong hiện tại. Khi hiến chương tám mối phúc thật được thực hiện thì những người đau khổ sẽ hạnh phúc, tình thế sẽ đổi thay. Chúa không ca tụng đói nghèo, đau khổ, nhưng muốn cải thiện cuộc sống dưới ánh sáng Tin Mừng. Nước Trời, Nước Thiên Chúa là tổ chức được xây dựng ngay trong cuộc sống thế trần, và đầu tiên nhằm xoá hết khổ đau, áp bức. Chúa Giêsu không phải chỉ là Vua mai sau, nhưng ngay bây giờ Nước Chúa đã hình thành, và Chúa đã là Vua luôn đem hạnh phúc cho dân của Người.
Phúc cho người có tâm hồn nghèo, vì Nước Trời thuộc về họ. Phúc cho người hiền lành, họ sẽ được đất. Trong từ ngữ Hy Lạp, hai ý đó chỉ có một từ. Đó không phải là thái độ chịu đựng tiêu cực, nhưng là một cố gắng đạt tới, để cho nhân quyền được tôn trọng. Phúc cho ai than khóc, họ sẽ được ủi an. Phúc cho ai đói khát công chính, họ sẽ no thoả. Phúc cho ai có từ tâm, họ sẽ được thương xót. Phúc cho ai tinh sạch trong lòng, họ sẽ thấy Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã khóc với Matta và Maria; Chúa đã sống công chính rập mẫu Chúa Cha. Chúa đã thương xót các tội nhân, Người luôn tha thứ. Các tín hữu phải noi gương Chúa ban phát lòng thương xót và tha thứ. Khi đó họ được gọi là con Thiên Chúa, vì họ đã kiến tạo hoà bình.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con noi gương các bậc thánh thiện mà Giáo Hội mừng kính hôm nay, biết thực hành những lời Chúa dạy trong Tám mối phúc thật, để chúng con lãnh nhận hạnh Chúa hứa ban.
23. Hạnh phúc Nước Trời
Làm sao có thể diễn tả được nỗi vui mừng của Giáo hội khi nhìn thấy những người con đã đạt tới mục đích, đã bước vào quê hương Nước Trời, đã được hưởng niềm hạnh phúc với Thiên Chúa.
Đã nhiều lúc Giáo hội như một người mẹ băn khoăn lo lắng cho con cái mình đang vất vả chiến đấu với một thân phận giòn mỏng, với một bản tính yếu đuối, thì giờ đây Giáo hội có thể thở phào nhẹ nhõm và dâng lên Chúa tâm tình biết ơn, tâm tình cảm tạ, vì những người con ấy đã chiến thắng và lãnh nhận triều thiên sự sống. Trong bầu khí của ngày lễ Các Thánh hôm nay, tôi xin chia sẻ ba ý tưởng.
Ý tưởng thứ nhất là về quê trời. Giáo hội cầm tay chúng ta mà dẫn vào quê trời, nhưng chúng ta sẽ nhìn thấy gì ở đó? Thánh Gioan sách Khải huyền đã diễn tả:
- Thiên Chúa ngồi trên ngai có các thiên thần Kêrubim vây quanh, trước ngai là bàn thờ, trên bàn thờ có con chiên bị sát tế, tức là Đức Kitô, Đấng Cứu độ. Chung quanh bàn thờ là 80 vị bô lão, tượng trưng cho Cựu ước và Tân ước. Sau đó là một đám đông vô kể những người được lựa chọn thuộc mọi dân tộc, thuộc mọi ngôn ngữ, thuộc mọi màu da. Họ mặc áo trắng dài, tay cầm cành lá thắng trận và miệng hát vang khúc ca mới: Chúng tôi là những người đã được cứu chuộc bằng máu châu báu, chúng tôi đến từ khắp mọi dân nước. Và mọi người thờ lạy chúc tụng Thiên Chúa và Con chiên.
Dĩ nhiên đây chỉ là hình ảnh thánh Gioan nhìn thấy trong một thị kiến, còn về hạnh phúc Nước Trời, có lẽ chúng ta phải nói lên như thánh Phaolô:
- Mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe và trái tim chưa một lần cảm nghiệm được điều Thiên Chúa dành để cho những người yêu mến Ngài.
Bởi đó hãy dứt bỏ những sợi dây níu kéo và cột chặt chúng ta lại với mặt đất, hầu nhờ đó chúng ta hướng tâm hồn lên trời là quê hương đích thực của chúng ta, mà một ngày kia chúng ta sẽ được gia nhập vào cộng đoàn các thánh.
Ý tưởng thứ hai là về các Thánh. Giáo hội hướng dẫn chúng ta nơi trần gian và thúc đẩy chúng ta trở nên thánh qua việc thực hiện hiến chương Nước Trời, tức là tám mối phúc thật của Chúa.
Nhìn vào cuộc sống, chúng ta thấy có những người đói khổ, không đủ cơm ăn áo mặc, những người nô lệ bị bạc đãi, những bệnh nhân anh dũng chấp nhận khổ đau. Họ vui lòng chấp nhận và coi đó như là những thập giá được Chúa gửi đến và họ đã trở nên thánh thiện.
Bên cạnh những người bước đi trên con đường thập giá, chúng ta còn thấy có những tâm hồn quảng đại, trong trắng và yêu chuộng hòa bình. Họ là những người thật âm thầm và vô danh trước mặt người đời, nhưng lại có một giá trị to lớn trước mặt Thiên Chúa. Vậy chúng ta có muốn bước vào con đường của các ngài hay không?
Ý tưởng thứ ba đó là về chúng ta. Giáo hội mong muốn chúng ta trở nên những vị thánh. Lý tưởng nên thánh không phải là một cái gì được dành riêng cho linh mục tu sĩ, mà là một bổn phận chung của mỗi người con cái, vì con nhà tông không giống lông cũng giống cánh, hay như Chúa Giêsu đã phán:
- Các con hãy trở nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là đấng trọn lành.
Sự thánh thiện không phải là một đỉnh cao mà chỉ một vài người đạt tới. Cũng không phải là một bông hoa chúng ta phải lặn lội vào tận rừng sâu mới hái được. Trái lại, ai trong chúng ta cũng có thể và phải trở nên thánh.
Nhìn vào các thánh trên trời chúng ta thấy: Không phải chỉ có các đấng được ghi trong niên lịch phụng vụ, mà còn là một số rất đông thuộc mọi dân mọi nước. Tất cả các ngài không phải là những người làm phép lạ, sống trong tu viện hay nổi tiếng về một phương diện nào đó. Trái lại, có những vị cũng tầm thường như chúng ta, cũng sa ngã như chúng ta, cũng sống giữa lòng cuộc đời đầy bon chen và cám dỗ như chúng ta, bởi đó chúng ta thêm phấn khởi mà nói lên như thánh Augustinô: Ông nọ bà kia lên thánh được, còn tôi tại sao không.
Trong ngày hôm nay, chúng ta hãy dốc quyết uốn nắn sửa đổi những sai lỗi, để trong ngày sau hết chúng ta được gia nhập cộng đoàn các thánh và vui hưởng niềm hạnh phúc Nước Trời.
24. Các Thánh và bổn phận nên thánh
Hôm nay chúng ta mừng kính các thánh trên trời, là những bạn hữu nghĩa thiết của Chúa, là những người được Chúa tuyển chọn và tạo thành một đám đông vô kể bước vào vinh quang Nước trời, như thánh Gioan đã diễn tả:
– Các ngài thuộc những dòng họ đã được đóng ấn, mặc áo trắng và cầm cành lá thắng trận.
Chúng ta cũng có thể nói được rằng: các thánh là những bậc đàn anh đã đi trước chúng ta. Nhìn vào đời sống của các ngài, chúng ta cảm thấy được an ủi và khích lệ, bởi vì các ngài cũng đã phải chiến đấu trong cuộc chiến trần gian, các ngài cũng đã phải mang trên đôi vai thân phận yếu của kiếp người và cũng đã vấp phạm, có vị còn ngập chìm trong tội lỗi hơn cả chúng ta nữa.
Nhưng với ơn Chúa trợ giúp và cùng với những cố gắng cá nhân, các ngài đã chiến đấu, đã đi đến cùng mà vẫn giữ được đức tin. Các ngài đã kết thành một hàng rào danh dự chung quanh Con Chiên là chính Chúa.
Chắc hẳn bây giờ từ trời cao, các ngài đưa mắt nhìn chúng ta bằng cái nhìn trìu mến và thầm mong một ngày kia chúng ta cũng sẽ được bước vào cõi phúc trường sinh. Các ngài đã chỉ cho chúng ta con đường nên thánh mà các ngài đã đi qua. Các ngài sẽ nâng đỡ và nói với chúng ta rằng:
– Hãy tìm kiếm Chúa và đừng sợ hãi. Tất cả chúng ta đều được mời gọi nên thánh. Hãy bắt chước chúng tôi vì chúng ta cũng chỉ là những kẻ tầm thường và đáng thương. Hãy uốn nắn những sai lỗi. Hãy cố gắng trở nên trọn lành như lời Chúa đã truyền dạy.
Vào một buổi tối người mẹ đã nói với những đứa con của mình như sau:
– Mẹ sẽ rất vui mừng nếu như một trong các con trở nên một vị thánh.
Lập tức đứa bé nhất đã giơ tay lên và nói: – Con sẽ là một vị thánh.
Đứa bé giữ lời hứa, lớn lên làm tới chức Giáo hoàng với danh hiệu Celestinô V, và đã trở nên một vị thánh.
Trở nên một vị thánh không phải là một việc có thể được thực hiện trong một sớm một chiều, nhưng là kết quả của những cố gắng không ngừng, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác, trong suốt cả cuộc đời, để được luôn trung thành cùng Chúa.
Quan sát một người tập đi xe đạp, chúng ta thấy không phải cứ ngồi lên xe là đã chạy được ngay. Lúc đầu thế nào cũng xiêu bên nọ, xọ bên kia, ngã lên ngã xuống, rách cả quần, toạc cả đầu gối… Nhưng nếu cố gắng mãi, sẽ có lúc người ấy biết đi và biết đi một cách anh dũng, bỏ cả hai tay m xe vẫn không đổ.
Hay như chú bé kia nuôi một con sáo, để tập cho con sáo biết nói, chú bé phải cho nó ăn ớt, rồi lặp đi lặp lại ngày này qua ngày khác lời mình định dạy cho nó, đến một ngày nó sẽ nói được.
Cũng vậy trên con đường trọn lành, chúng ta sẽ tiến lên từ từ, từng bước một, trong khi nhìn ngắm mẫu gương của các thánh. Cùng với sự trợ giúp của ơn Chúa và những cố gắng của bản thân, chúng ta sẽ học biết phải yêu mến Chúa như thế nào. Mỗi ngày sẽ là một bước tiến lại gần Chúa hơn. Chúng ta không phải chỉ trở nên thánh một lần thay cho tất cả, mà phải liên tục trở nên thánh. Chúng ta giống như người bơi ngược dòng nước, không tiến tức là lùi. Không cố gắng bơi sẽ bị dòng nước là những đam mê tội lỗi cuốn trôi.
Ơn gọi nên thánh không phải là một ơn gọi được dành riêng cho các linh mục và tu sĩ, nhưng là một ơn gọi của mọi người con Chúa, bởi vì con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Chắc hẳn Chúa sẽ vui mừng khi nhìn thấy những đường nét của Ngài trong tâm hồn chúng ta.
Hãy suy gẫm lời thánh Augustinô:
– Cậu nọ cô kia nên thánh được, còn tôi tại sao lại không?
Dù trẻ hay già, dù đàn ông hay đàn bà, tất cả chúng ta đều có thể và phải trở nên thánh.
Thánh Đamascênô kể lại một mẩu chuyện như sau: ngày xưa ở một vùng kia, người ta có một tập tục kỳ lạ, đó là mỗi vị vua chỉ được trị vì mười năm. Trong thời gian đó, ông ta nắm giữ mọi quyền lực, đều hành mọi công việc, mặc sức sử dụng tiền bạc…Nhưng sau thời gian ấy, người ta sẽ tước đoạt phủ việt cũng như triều thiên và đày ải ông ta tới một hoang đảo xa xôi, để ông phải chết dần chết mòn trong cô đơn và tuyệt vọng.
Năm ấy có một vị vua lên ngôi, nhưng ông ta khôn ngoan hơn những người đi trước. Trong thời gian trị vì, ông ta chỉ có một ý nghĩ: phải chuẩn bị cho tương lai, kiến thiết hòn đảo xa xôi nơi ông ta sẽ bị lưu đày. Ông truyền cho người ta xây cất cung điện, biến rừng hoang thành những vườn cây ăn trái và những cánh đồng lúa xanh tươi. Rồi ông cho chở tất cả vàng bạc châu báu của vương quốc tới hòn đảo ấy.
Chúng ta thầm khen: – Ông vua này quả là thận trọng và khôn ngoan.
Hãy bắt chước ông vua ấy, dùng cuộc sống ngắn ngủi hiện tại mà đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Hãy gửi trước về trời những kho tàng, là những hành động bác ái yêu thương của chúng ta.
Đừng lần lữa, nhưng hãy bắt tay vào việc nên thánh ngay từ hôm nay, bởi vì như một câu danh ngôn đã bảo: – Việc hôm nay chớ để tới ngày mai, bởi vì ngày mai biết đâu đã quá muộn, liệu còn có hay không?
25. Chúng tá có nên thánh được không?
(Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội mừng trọng thể lễ các thánh nam nữ. Qua thánh lễ hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy biểu lộ niềm vui mừng, hãnh diện và hy vọng vào ơn cứu độ của Thiên Chúa dành cho chúng ta là những người cùng chung niềm tin vào Chúa như các thánh.
Tuy nhiên, hẳn mỗi người chúng ta nhiều khi tưởng tượng ra sự xuất sắc của các thánh như là những vĩ nhân, những người siêu quần bạt chúng, hay các ngài như là những người có một cuộc sống đặc biệt, khác thường nên mới trở nên những vị thánh! Còn chúng ta, những người tầm thường, có lẽ niềm hy vọng nên thánh là điều khó có thể xảy ra!
Suy nghĩ như thế có đúng hay sai? Và chúng ta có trở nên thánh trong thời đại hôm nay được hay không? Giờ đây, chúng ta cùng nhau suy niệm về cuộc đời của các thánh, và từ đó, rút ra một giải đáp cho thắc mắc trên. Trước tiên, chúng ta cùng nhau tìm hiểu xem: các thánh là ai? Và các ngài đã sống như thế nào?
1. Các thánh là ai?
Khi đặt câu hỏi như thế, chúng ta có thể trả lời ngay rằng: các ngài là những Giáo hoàng, Hồng y, Giám mục, Linh mục, Tu sĩ và Giáo dân. Các ngài là những người tri thức, nhưng cũng không thiếu những đấng bình dân học vụ. Các ngài là những người có địa vị trong Giáo Hội và xã hội, nhưng cũng không thiếu những đấng thường dân. Các ngài là những người được sinh ra nơi thành phố phồn hoa đô hội, nhưng cũng có vị hiện hữu nơi cuộc đời này trong cảnh màn trời chiếu đất, nơi thôn quê hẻo lánh… Các ngài là những bác sĩ, kỹ sư, là những người giàu, nhưng cũng rất nhiều đấng suốt ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, là những người nghèo, cảnh mẹ góa con côi… Các ngài cũng là những người thánh thiện, tốt lành ngay từ nhỏ, nhưng cũng không thiếu đấng trước đó là kẻ rối đạo, chối đạo, sống cuộc đời bê tha và trác táng, nhưng chỉ được ơn sám hối, canh tân, tin tưởng, phó thác nơi Chúa trước khi nhắm mắt rời bỏ thế gian mà thôi…
Như vậy, các thánh thật đông đảo và các ngài từ mọi nơi, mọi miền và đủ mọi thành phần. Chính thánh Gioan khi được thị kiến đã thốt lên: “… kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ” (Kh 7, 9); và: “Một trăm bốn mươi bốn ngàn người được đóng ấn, thuộc mọi chi tộc con cái Itraen” (Kh 7, 4); các ngài “… là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên”(Kh 7,14).
Nói chung, thế giới của các thánh gồm đủ mọi thành phần, và số lượng các thánh không ai đếm xuể. Công việc của các ngài là tôn vinh, thờ phượng, cảm tạ Thiên Chúa và cầu thay nguyện giúp cho chúng ta. Các ngài đang được sống một sự sống hạnh phúc nơi quê thật là Nước Trời.
Việc chúng ta ngưỡng mộ tài cao đức rộng, cuộc sống phi thường của các thánh hẳn không sai, nhưng không phải là tuyệt đối đúng, vì thực tế, trong số các thánh, nhiều đấng cũng không hơn gì chúng ta. Có khi các ngài cũng là nhưng người tội lỗi một thời như Maria Mađalêna, Phêrô, người trộm lành, Phaolô, Augustinô…
Điều đáng nói ở đây chính là: các ngài thuộc những người đã trải qua kinh nghiệm về yếu đuối, sa ngã và tội lỗi, nhưng các ngài đã sám hối, ăn năm, canh tân đời sống theo ánh sáng Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô. Các ngài là những người 99 lần ngã, nhưng lần thứ 100 thì đứng dậy và đứng luôn trong ân sủng.
Thật vậy, sau khi sa ngã, các ngài đã nhận được ân sủng và tình thương lớn lao của Thiên Chúa dành cho mình, nên các ngài đã tin tưởng, phó thác và yêu mến Thiên Chúa hết lòng, yêu thương anh chị em tha thiết. Như thế, có thể nói: các thánh đều là những người đã nếm mùi đau khổ thử thách ở trần gian như chúng ta, xong, các ngài vẫn giữ được lòng trung thành với Thiên Chúa và kiên trì tuân giữ Giới Luật của Người cũng như thi hành xuất sắc Tám Mối Phúc Thật.
Cuộc đời hy sinh, đòn vọt, bắt bớ vì Chúa và tâm tình sám hối, canh tân để trở nên ngày càng đồng hình đồng dạng với Đức Kitô nơi các thánh được ví như một cuộc thanh luyện và cố gắng liên lỷ.
2. Các thánh là những người trung thành với Hiến Chương Nước Trời
Tất cả các thánh, không ai là người sống ngoài bản Hiến Chương Nước Trời mà Tin Mừng hôm này thuật lại. Các ngài luôn coi bản Hiến Chương Nước Trời như là khuôn vàng thước ngọc cho cuộc đời mình. Qua bản Hiến Chương này, các ngài đã sống tinh thần nghèo khó, không bị lệ thuộc vào vật chất, sống hiền lành và bao dung, quảng đại, tha thứ. Cuộc đời các ngài luôn khao khát sự sống công chính, mong muốn sống trong sạch, yêu thương, chăm sóc những người đau khổ, luôn kiến tạo hòa bình và khước từ hận thù, xây dựng tình huynh đệ, hiệp nhất, yêu thương. Các thánh còn là những người vì yêu mến Chúa trên hết mọi sự, nên chấp nhận mọi sự hiểu lầm, đòn vọt, bắt bớ, gươm đao và ngay cả cái chết để được mối lợi tuyệt đối là Đức Kitô, vì người, các ngài đành mất hết (x. Pl 3, 8). Các ngài được ví như những người lái buôn, đã đánh đổi tất cả một khi đã tìm được Kho Tàng, Viên Ngọc Quý. Vì thế, đối với các ngài: “…sống là Ðức Kitô, và chết là một mối lợi” (Pl 1, 21), nên không có gì tách các ngài ra khỏi tình yêu của Đức Kitô.
Mừng lễ các thánh nam nữ hôm nay, chúng ta có niềm an ủi thật lớn lao, đó là: các thánh không phải là người xa lạ với chúng ta. Các ngài là những người có cùng niềm tin, là tổ tiên, là cha ông, là những người thân của chúng ta.
Có những vị thánh nổi tiếng, nhưng cũng không thiếu những vị thánh bình thường, vô danh.Đường lối nên thánh cũng không phải chỉ có một con đường độc điệu, mà là nhiều con đường khác nhau…
Như thế, các thánh là những người rất gần gũi với cuộc sống thực tế của chúng ta. Bởi vậy, mỗi người đều có quyền hy vọng rằng: “Ông nọ bà kia nên thánh được, còn tôi, tại sao không?” (Thánh Augustino).
3. Hãy trở nên thánh vì ta là Đấng Thánh
Lời mời gọi nên thánh vẫn luôn là một điều gì đó mới mẻ và hấp dẫn đối với chúng ta. Tuy nhiên, để sống được lời mời gọi này, chúng ta phải lội ngược dòng, phải lột xác và chấp nhận sự nghịch lý của Tin Mừng, bởi lẽ, chúng ta đang sống trong một xã hội thực dụng, thỏa mãn xác thịt, ham muốn điều bất chính, gây bất hòa, chia rẽ, vô cảm, dửng dưng với đau khổ của anh chị em, gây nên những bạo lực, đau khổ, sống dối trá, giả hình, bóc lột, bất công…!
Trong khi đó, Lời Chúa và những giá trị của Chân Lý luôn nhắc nhở và mời gọi chúng ta ý thức rằng: hạnh phúc đích thực của chúng ta ở nơi Thiên Chúa và quê hương chúng ta ở Trên Trời, chứ không phải ở những thứ chóng tàn, mau qua sớm hết nơi trần gian này…
Vì thế, muốn đạt được Nước Trời làm gia nghiệp, chúng ta phải chiến đấu liên lỷ để biện phân và lựa chọn giữa tốt và xấu, giữa thiện và ác, giữa cuộc sống tạm bợ và cuộc sống vĩnh cửu. Chấp nhận đi theo con đường hẹp của Tin Mừng. Được hạnh phúc hay bất hạnh là do sự lựa chọn của chúng ta.
Mừng kính lễ các thánh nam nữ hôm nay, chúng ta cùng nhau tạ ơn Chúa đã ban cho Giáo Hội những gương sáng ngang qua cuộc đời của các thánh, từ đó trở thành động lực cho mỗi chúng ta phấn đấu trên con đường nên thánh. Đồng thời, mỗi khi mừng kính các thánh, chúng ta cũng tạ ơn Chúa đã ban nhiều ơn thánh trợ giúp, để: con cháu, anh chị em, cha mẹ, ông bà, tổ tiên... chúng ta đã thành công trên con đường tiến đức và nay đang diện kiến tôn nhan Chúa.
Mặt khác, qua việc mừng lễ này, sứ điệp Lời Chúa và Giáo huấn của Giáo Hội mời gọi chúng ta tái khám phá và làm mới lại sự quyết tâm trong việc: nghĩ thánh, hành động thánh và sống thánh trong cuộc sống thực tại hôm nay.
Lạy các thánh nam nữ trên trời, xin chuyển cầu cùng Chúa cho chúng con. Amen.
26. Con đường nên thánh
Có một cô bé, muốn được cảm thấy thế nào là câm, nên đã quyết định không nói một lời nào trong vòng 7 ngày. Ngày đầu tiên cô bé đi mua hàng với mẹ. Những người bán hàng đã mỉm cười khi thấy cô bé cố gắng làm hiệu cho biết món hàng cô bé cần. Có người cố tình đụng vào cô bé làm cô bé ngã lăn ra đất. Cô bé thầm nghĩ: đây là cách mình bị xúc phạm, mình bị tổn thương. Cuối cùng thì một tuần lễ cũng trôi qua và cô bé hớn hở bảo: Tôi thật hạnh phúc và biết ơn vì có thể nói được.
Hằng ngày trên thế giới có biết bao nhiêu người bị xúc phạm, bị tổn thương, hay gặp phải những điều bất hạnh và khổ đau. Thế nhưng Chúa Giêsu luôn đứng về phía họ khi Ngài phán với chúng ta: Phúc cho những người khó nghèo, những người khổ đau, những người hay thương xót, những người bị bách hại, những người yêu chuộng hoà bình, những người có lòng trong sạch... vì Nước Trời là của họ.
Với những lời chúc phúc trên đây, chúng ta hãy nghĩ tới những người đau yếu bệnh tật, những người mù loà, què quặt, những người già cả cô đơn, những người dốt nát, ít học và thất nghiệp. Tâm hồn họ dường như lúc nào cũng lo âu, tuyệt vọng. Chúng ta cũng hãy nghĩ đến những người không nhà ở, thiếu cơm ăn áo mặc, những người khác màu da, khác tiếng nói bị xã hội khinh bỉ và kỳ thị. Tất cả những người này, nhiều lúc đã lâm vào một cảnh buồn sầu chán nản, thiếu can đảm và nghị lực. Họ luôn lo âu và sợ hãi bởi vì họ bị hành hạ, bị đối xử một cách bất công. Thế nhưng, như chúng ta đã thấy, Chúa Giêsu luôn đứng về phía họ, Người yêu thương và chúc phúc cho họ: Hỡi những ai mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến với Ta, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi.
Nếu như hôm nay chúng ta đang gặp phải những thử thách trên đây, thì hãy tin tưởng vào tình thương của Chúa, bởi vì chúng ta đang được Ngài yêu thương và chúc phúc. Đồng thời, hôm nay cũng là một dịp thuận tiện để chúng ta suy nghĩ về vấn đề này khi chúng ta tôn vinh các thánh, bởi vì các ngài đều đã trải qua những khổ đau và bất hạnh trong cuộc đời, thế nhưng các ngài đã biết lợi dụng chính những khổ đau và bất hạnh ấy để thăng tiến trên đường thánh thiện, cũng như giành lấy tình thương và phúc lành của Chúa. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã làm được gì để tiến bước trên con đường thánh thiện giữa lòng cuộc đời chúng ta?
27. Thánh ý Thiên Chúa chính là mong muốn chúng ta hạnh phúc.
Thánh ý Thiên Chúa chính là ước mong chúng ta nên Thánh.
Khi Đức Giêsu giảng khai mạc nước trời, Người mở miệng nói về hạnh phúc để cho chúng ta biết bí quyết hạnh phúc: Phúc thay, Phúc thay... Đồng thời mời gọi chúng ta nên Thánh. Tất cả tóm lại một điều: Hãy nên toàn thiện như Cha chúng ta trên trời là Đấng toàn thiện.
Con Thiên Chúa
Điều làn Đức Giêsu đầy hoan lạc chính là sự liên kết sống động vời Thiên Chúa. Người gọi Thiên Chúa là: Cha Tôi và Cha anh em. Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa là Chân Lý, Thiên Chúa là ánh sáng và là Thiện Mỹ, Thiên Chúa là Sự Sống. Cho nên chiếm hữu Thiên Chúa chính là chiếm hữu tất cả, chúng ta được mãn nguyện. Chính vì thế, thiếu vắng Thiên Chúa, cắt đứt những cầu nối giữa Thiên Chúa, chính là mất tất cả.
Do đó, “Được lời lãi cả thế gian, mất linh hồn nào được ích gì?”. Không có Chúa Cha, Đấng ban cho ta tất cả, chúng ta không có gì hết, vì chúng ta không còn gì nữa. Chúng ta không còn liên hệ sống động thân tình con với cha rất đáng mến của chúng ta, chúng ta không còn sinh tồn nữa.
Nếu không muốn khốn nạn.
Nếu chúng ta chất đầy giầu sang, âu yếm và mọi danh vọng quyền thế của thế gian sẽ phương hại đến sự liên đới của chúng ta với Thiên Chúa. Lúc đó thật “Vô phúc cho chúng ta”, Đức Giêsu không chúc dữ chúng ta, nhưng Người tuyên bố cho biết những khốn khổ, “Không có Ta, các ngươi không thể làm chi được”, các ngươi không thể làm gì hết. Trái lại, nếu Thiên Chúa ở với chúng ta, lúc đó trong chúng ta đầy vẻ đẹp nghèo khó, bị bắt bớ, đầy vẻ đẹp xót thương, chịu đựng đói khát, và tự đáy con tim chúng ta tràn đầy hạnh phúc. Đó là cấu trúc của tất cả hạnh phúc.
Vậy ngay từ bây giờ chúng ta muốn được sống lại lúc giờ chết của chúng ta, chúng ta còn thời giờ để lên Thánh theo lời Chúa dạy chúng ta ở đời này. Cần thiết phải trở về với Chúa ngay. Đây là dịp may cuối cùng cho những ai biết lắng nghe lời Chúa.
J.M
28. Con đường nên thánh
Trong năm, chúng ta mừng rất nhiều vị thánh. Có vị thánh lớn tuổi nhưng cũng có vị thánh rất trẻ. Có vị thánh là giáo sĩ nhưng cũng có vị thành chỉ là những nông dân bình thường. Có vị thánh là nam hay là nữ thuộc mọi thành phần dân Chúa. Mỗi vị thánh đều ra sức điểm tô cho Giáo hội những vẻ đẹp rạng ngời nhân đức của Tin mừng. Họ đã sống một cuộc đời thuộc về Chúa. Họ chọn Chúa thay cho những phù hoa trần gian. Họ có thể đã từng có những bước chân sai lầm nhưng họ đã kịp sửa lại lối đi. Họ có thể đã từng có những quyến luyến của phù hoa nhưng họ đã kịp thời chọn Chúa thay cho những danh lợi thú mau qua. Họ có thể là những vị thánh chưa được ghi trong sử sách nhưng họ đang được đứng chung với hàng ngũ các thánh mà ca tụng Thiên Chúa.
Người ta vẫn tưởng các vị thánh là những con người hoàn hảo ngay từ khi ấu thơ. Họ không tì vết. Họ thanh khiết vẹn tuyền như Chúa Giêsu và Đức Maria. Họ được chọn để nên thánh mà làm mẫu gương cho chúng ta. Họ là con người hoàn hảo đến mức độ không vướng mắc tội lỗi, thiếu sót hay tật xấu nào. Họ là những siêu nhân phi thường đáng chúng ta "kính nhi viễn chi".
Nếu các thánh là những con người phi thường như vậy thì bản thân chúng ta làm sao nên thánh? Mẫu gương của họ có ích gì cho con người bất toàn và tội lỗi của chúng ta? Nhưng rất hạnh phúc cho chúng ta, vì các thánh đa số là những con người yếu đuối mỏng dòn. Họ đã từng mắc phải sai lầm. Nhưng quan yếu là họ đã sám hối ăn năn.
Thánh Phê-rô vị đá tảng của Hội Thánh, nhưng cuộc đời của ngài đã không ít lần bị Chúa quở mắng vì hiểu sai thánh ý Chúa. Tội lớn nhất trong cuộc đời của ngài chính là chối Chúa ba lần trong đêm tối. Nhờ ơn Chúa, ngài đã thay đổi đời sống để trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa qua cái chết tử đạo.
Thánh Mát-thêu, thánh Madalena đều đã từng chọn tiền bạc, thú vui xác thịt nhưng những điều đó đã không thoả mãn những dục vọng đam mê, chỉ khi gặp Chúa các ngài mới tìm được bình an tâm hồn.
Ở Việt Nam có thanh tử đạo Phao-lô Hạnh người Tân Triều. Ngài từng làm bảo kê ở chợ Cầu Muối. Nhưng sống trong tội lỗi với nghề bất lương này, ngài luôn cảm thấy bất an lương tâm. Cho tới khi, ngài mạnh dạn bảo vệ những con người thấp cổ bé miệng, ngài đã bị người ta tố cáo là người công giáo, nhưng ngài vẫn bình an tâm hồn kể cả lúc ra pháp trường.
Vâng, các thánh là những người bình thường như mọi người. Họ cũng phải chống trả trước biết bao cám dỗ mời mọc. Họ cũng từng hối hận về những lầm lỗi của bản thân. Họ đã và đang cố gắng bám vào Chúa để được nâng đỡ, cứu vớt khỏi những cám bẫy thế gian. Họ đã từng vấp ngã nhưng họ đã đứng dậy nhờ tình thương và ân sủng của Chúa.
Vì vậy, hôm nay, chúng ta mừng các thánh nam nữ ở trên trời, không chỉ là các thánh đã được ghi trong sử sách mà toàn bộ những ai được nên công chính nhờ tình thương của Thiên Chúa. Họ đã được gột rửa linh hồn tội lỗi của mình trong Máu của Con Chiên - Đấng Cứu Độ trần gian. Họ đã trải qua một cuộc đời chiến đấu không ngừng để đứng vững trước mọi cám dỗ của phù hoa trần gian. Họ đã đi qua những thăng trầm cuộc đời với niềm tín thác xin vâng vào Chúa. Họ đã sống một cuộc đời hy sinh vì Chúa và vì tha nhân. Họ đã biết tháp nhập đời mình vào Thiên Chúa nhờ Chúa Giêsu Ky-tô. Họ đã được sống và chết trong ân sủng của Chúa.
Mừng lễ các thánh là dịp nhắc nhở cho chúng ta con đường nên thánh là của chung mọi người. Ai cũng phải nên thánh, vì đây là đòi buộc của Chúa "Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em là Đấng hoàn thiện". Vâng, là hoạ ảnh của Chúa, nên con người cũng phải gìn giữ vẻ đẹp thánh thiện của tâm hồn. Mỗi người chúng ta đều được mời gọi nên thánh để gìn giữ nét đẹp của phẩm giá con người và được hạnh phúc viên mãn trong nhà Cha.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta biết hoàn thiện con người mình trong ân nghĩa Chúa. Cho dù có những vấp ngã, những yếu đuối nhưng trông cậy vào ơn Chúa, chúng ta sẽ vượt thắng mọi sự nhờ tình thương và ân sủng của Chúa. Amen.
(‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm. Tạ duy Tuyền)
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN – A 2020
Lời Chúa: Ml. 1,14b – 2,2b.8-10; 1Tx. 2, 7b-9.13; Mt. 23, 1-12
1. Là anh em với nhau
(Trích trong ‘Manna’ - Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
Nửa sau của bài Tin Mừng hôm nay có thể làm chúng ta bị sốc.
Đức Giêsu bảo ta đừng để ai gọi mình là thầy,
vì chỉ có một Thầy, một vị lãnh đạo là chính Ngài;
cũng đừng gọi ai là cha,
vì chỉ có một Cha là Thiên Chúa trên trời.
Vậy mà chúng ta vẫn gọi nhiều vị trong Hội Thánh là cha,
là Đức Thánh Cha, là giáo phụ, thượng phụ, viện phụ...
Chúng ta có làm sai lời Chúa dạy không?
Ta có phải hiểu theo nghĩa đen lời của Đức Giêsu không?
Hội Thánh sơ khai đã không hề hiểu theo nghĩa đen.
Thánh Phaolô đã coi mình là cha sinh ra các tín hữu,
đã gọi họ là con (1Cr 4,14-17; Gl 4,19).
Hội Thánh cũng có những thầy dạy (Cv 13,1; 1Cr 12,28),
và những vị lãnh đạo (Cv 15,22; Rm 12,8).
Vậy đâu là điều Đức Giêsu muốn nhắn nhủ chúng ta?
Chắc chắn Ngài không hề muốn phá bỏ
những cơ cấu cần thiết cho thân thể Hội Thánh,
Ngài cũng không loại bỏ phẩm trật và quyền hành.
Ngài chỉ muốn chúng ta đừng quên:
mọi quyền bính trong Hội Thánh đều bắt nguồn từ Thiên Chúa
và phải quy về Thiên Chúa.
Nếu có ai làm thầy, làm người lãnh đạo,
thì vì họ được chia sẻ quyền làm Thầy của Đức Giêsu.
Nếu họ được gọi là cha,
thì vì họ được chia sẻ quyền làm Cha của Thiên Chúa.
Dù có chức vụ hay chức vị gì trong Hội Thánh,
tôi cũng không được quên chân lý này:
còn tất cả anh em đều là anh em với nhau,
con một Cha trên trời.
Chỉ có một vị Thầy là Đức Giêsu.
Nhưng Thầy Giêsu lại sống như bạn của các môn đệ,
như anh em với họ (Ga 15,14; Mt 12,49-50),
và nhất là như tôi tớ phục vụ họ (Mt 20,28).
Đức Giêsu mãi mãi là gương cho các nhà lãnh đạo.
Quyền lãnh đạo chính là để phục vụ con người.
Phần đầu của bài Tin Mừng cho thấy
sự giả hình của một số người pharisêu,
có quyền giảng dạy Lề Luật.
Giả hình là không làm điều mình dạy người khác,
là dễ dãi với chính mình, nhưng khắt khe với tha nhân.
Giả hình là biến việc thờ phượng Chúa thành thờ mình,
làm việc tốt để người ta thấy và thán phục.
Khi nhìn khuôn mặt của người pharisêu giả hình, tôi thấy tôi:
háo danh, khoa trương, ích kỷ, dám "đốc" chứ không dám làm...
Có những đoạn Tin Mừng làm chúng ta nhức nhối,
vì mở cho chúng ta những chân trời xa,
cho chúng ta thấy những điều cần làm, phải làm, nhưng chưa làm.
Gợi Ý Chia Sẻ
Vẫn thường có khoảng cách giữa điều tôi nghĩ với điều tôi nói, giữa điều tôi nói với điều tôi làm. Chúng ta ít nhiều đều có chút giả hình. Bạn nghĩ gì về sự giả hình của bạn?
Quyền hành thường làm con người hư hỏng. Bạn thấy có cách nào để tránh mối nguy hiểm này không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Khi đến với nhau, chúng con thường mang những mặt nạ.
Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình.
Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt
dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.
Khi đến với Chúa, chúng con cũng thường mang mặt nạ.
Có những hành vi đạo đức bên ngoài
để che giấu cái trống rỗng bên trong.
Có những lời kinh đọc trên môi,
nhưng không có chỗ trong tâm hồn,
và ngược hẳn với cuộc sống thực tế.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúng con cũng thường ngắm mình trong gương,
tự ru ngủ và đánh lừa mình,
mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn.
Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ,
đã ăn sâu vào da thịt chúng con,
để chúng con thôi đánh lừa nhau,
đánh lừa Chúa và chính mình.
Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành,
để chúng con được lớn lên trong bình an.
2. Chỉ có một Cha – Lm. Vikini
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Xu hướng tự nhiên của muôn loài và lòng người luôn hướng về một duy nhất, một nguồn, một Đấng tuyệt đối độc nhất. Xu hướng này không do thụ tạo, mà do Thiên Chúa, vì Người lôi kéo tạo vật hướng về Người, dù tạo vật chẳng nhận ra Người: "Người ở giữa thế gian và thế gian nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người" (Ga. 1, 10). Không nhận biết Người, mà chúng vẫn hướng về Người. Các hành tinh vĩ đại quy về một định tinh, các hệ thống định tinh hay thái dương hệ lại đi theo một hướng, toàn thể vũ trụ được tổ chức trong một trật tự lạ lùng. Kinh Thi nói: Thiên sinh chưng dân hữu vật hữu tắc - Trời sinh dân chúng có sự vật có phép tắc. Nhà sinh vật thời danh Darwin đã dầy công tìm tòi, sắp xếp, phân loại giúp ta thấy rõ trật tự đó. Các tổ chức của loài người, ở mọi thời đại cũng luôn luôn có một thủ lãnh: trong gia đình, làng xã, đất nước, thế giới. Các đạo giáo lớn như đạo Khổng, Lão, Phật, Ấn, Hồi đều qui niềm tin về một Đấng duy nhất. Đạo Khổng gọi Đấng ấy là Thượng Đế hay Ông Trời. Đức Khổng nói: Duy thiên sinh thông minh, (Kinh thư trọng hủy cáo) Duy thiên vi đại. Lão gọi là đạo: Đạo khả đạo phi thường đạo (Đạo đức kinh ch. I). Phật gọi là tâm bình đảng, tâm bát nhã, chân như, tâm đại giác.
Ấn gọi là Đại ngã (Brahma). Hồi gọi là thánh Allah (Ar-Allah) "There is no god, but God, and Mohammed is the messenger of God" (Không có thần nào khác ngoài Thiên Chúa, và Mohammed là sứ giả của Ngài). Thánh Allah là Chúa duy nhất, độc nhất, chỉ có Ngài là Đấng tạo hoá, quan phòng, tác tạo mọi sự hiện có và sẽ có, siêu việt, nội tại, toàn năng ân điển, hiện hữu vô hình và đời đời.
Có thể nói đó là bản tóm tắt niềm tin của nhân loại hướng về Thiên Chúa, Đấng tối cao tuyệt đối. Nhưng đó là một niềm tin còn lờ mờ ẩn hiện trong lương tri của một số người, họ chưa được Thiên Chúa mạc khải qua các ngôn sứ và nhất là qua Con Một Thiên Chúa giáng trần là Đức Giêsu Kitô. Tuy nhiên, họ đã có xu hướng tự nhiên về Người: "Muôn loài thọ tạo những mong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người" (Rm. 8,19).
Tại sao có sự diễn tả khác nhau: Vì mỗi người có cá tính và tự do riêng. Có những người nhờ đức tính chân thật khiêm tốn họ công nhận chắc chắn có Thiên Chúa. Họ không thể hiểu được Người nhưng họ vẫn "Kính nhi viễn chi" và chuyên chăm trau dồi đạo đức như Khổng tử, Lão tử và Đức Phật.
Có những hạng người kiêu căng đầy tham sân si, đã tự tôn mình làm Chúa tể như bao nhiêu bạo chúa: Kiệt, Trụ, Tần thủy Hoàng bên Đông phương. Nabukôđônôsô, Xêda và Nêrông bên Tây phương. Biệt phái, luật sĩ và tư tế Do thái cũng thuộc hạng tự cao tự đại như vậy, nên Đức Giêsu đã nhiều lần cảnh cáo họ: họ như mồ mả quét vôi bên ngoài mà trong đầy thối tha. Thối tha vì họ dám ngạo mạn "ngồi trên toà Môisê...." Họ làm mọi việc cốt để cho người ta thấy. Cho nên họ đeo những hộp sách kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm ghế đầu trong Hội đường... Họ thích thiên hạ gọi bằng thầy (Rabbi) (23, 4-7). Họ tôn mình lên, không còn thấy Thiên Chúa trên họ nữa, cho nên họ sẽ bị hạ xuống (23, 12).
Thiên Chúa, Chúa tể càn khôn đã phán để hạ họ xuống: "Ta đã làm cho các ngươi đáng khinh bỉ và hèn hạ trước mặt toàn dân". "Ta sẽ trút lời chúc dữ xuống trên các ngươi". Bởi lẽ: "các ngươi đi trệch đường; không chịu nghe và không để tâm làm vinh danh Ta; và đã làm cho bao nhiêu người vấp ngã vì lời các ngươi". (Bài đọc I -Ml. 2, 2. 8-10).
Chỉ có lời của Đấng từ trời hạ mình xuống mới làm cho muôn dân nhận biết: Chỉ có một Thiên Chúa mà thôi. Đấng ấy là Đức Giêsu Kitô đã đến dạy chúng ta: "Anh em đừng gọi ai ở dưới đất là Cha, vì anh em chỉ có một Cha trên trời" (23,9). Cha trên trời thế nào? Thưa là "Đấng ngự trên trời, vì Người làm cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như kẻ tốt, và làm mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính" (Mt. 5,45).
Như vậy chỉ có Cha trên trời mới tạo thành và nuôi dưỡng muôn loài muôn vật chứ không phải ai khác. Nếu ta gọi người sinh ra ta, nuôi dưỡng ta là cha, thì Cha trên trời mới đích thực là Cha toàn năng, là Cha muôn thuở. Cha dưới đất chỉ là cha tạm thời tham dự vào quyền phép Cha trên trời trong việc sinh ra, nuôi dưỡng ta ngắn hạn. Cha trên trời còn là "Đấng vô cùng toàn thiện" (Mt. 5,48), là Đấng đã yêu thương thế nhân, đã ban Con Một chí ái của Người cho thế nhân, để cứu thế nhân khỏi chết đời đời và cho họ được sống muôn đời (Ga. 3,16). Cho nên khi "anh em làm vinh danh Cha, mở rộng nước Cha, vâng theo ý Cha, yêu thương anh em, yêu thương mọi người và cả kẻ thù, biết cầu nguyện tha thứ cho nhau" (Mt. 6, 9-15), có tâm tình và sống như Đức Giêsu Kitô để tôn vinh Cha trên trời (Phil. 2, 6-7) như vậy anh em mới nên "hoàn thiện như Cha trên trời, Đấng thấu suốt mọi sự sẽ thưởng công cho anh em" (Mt. 5, 49 và 6, 6).
Lạy Cha chúng con ở trên trời, xin cho chúng con biết lo làm sáng danh Cha, như thánh Phaolô "khi ở giữa anh em, biết cư xử thật dịu dàng, chẳng khác nào mẹ hiền ấp ủ con thơ". Xin cho chúng con biết quý mến anh em, sẵn sàng hiến cho anh em Tin mừng của Cha và cả mạng sống chúng con nữa mà không quản khó nhọc vất vả ngày đêm (1Tx. 2, 7-9) để cho mọi người nhận biết chỉ có một Cha trên trời và chỉ có một Thầy là Đức Giêsu Kitô, còn tất cả là anh em với nhau. Lạy Cha, xin cảm tạ Cha muôn đời. Amen.
3. Suy niệm và chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXXI Thường Niên Năm A trình bày cho chúng ta những bổn phận và trách nhiệm của các tư tế thi hành tác vụ tế tự của mình và của những người có sứ vụ giảng dạy và loan báo Tin Mừng.
Ml 1: 14-2: 2, 8-10
Ngôn sứ Ma-la-khi, vào thế kỷ V tCn, tố cáo những vi phạm nghiêm trọng của các tư tế Giê-ru-sa-lem khi thi hành tác vụ tế tự.
1Tx 2: 7-9, 13
Thánh Phao-lô cho thấy sự tận tâm tận lực của ngài và tính vô vị lợi tuyệt đối của ngài trong sứ vụ tông đồ của mình.
Mt 23: 1-12
Chúa Giê-su quở trách thói hư tật xấu của các kinh sư và những người Pha-ri-sêu, đồng thời Ngài cũng cảnh giác các môn đệ Ngài, sau nầy họ sẽ là những người lãnh trách nhiệm trông coi Hội Thánh của Ngài.
BÀI ĐỌC I (Ml 1: 14-2: 2, 8-10)
Ngôn sứ Ma-la-khi quở trách cách nghiêm khắc các tư tế Giê-ru-sa-lem cũng như cộng đoàn tín hữu, vào thời kỳ người ta thờ ơ lãnh đạm, thậm chí ngờ vực. Thời kỳ nầy được định vị vào tiền bán thế kỷ V tCn, khoảng 40 hay 50 năm sau khi Đền Thờ được tái thiết. Như chúng ta biết, Đền Thờ của vua Sa-lô-môn đã bị đạo quân Ba-by-lon phá hủy khi đánh chiếm kinh thành Giê-ru-sa-lem vào năm 587 tCn và được tái thiết vào giữa những năm 521 và 515 tCn nhờ lòng nhiệt thành của những người lưu đày từ Ba-by-lon trở về. Nhưng vài thập niên sau đó xuất hiện những dấu hiệu của sự thoái hóa vì nhiều nguyên nhân, nhất là việc canh tân tôn giáo được dự kiến bị chậm trễ. Việc tế tự bị lạm dụng và tâm tình tôn giáo trở nên nguội lạnh.
Một ngôn sứ nặc danh (Ma-la-khi không là tên riêng nhưng là biệt danh, có nghĩa “sứ giả của Ta”) phản ứng mãnh liệt. Đây là một trong những nét tiêu biểu của lịch sử Ít-ra-en, mỗi lần dân Chúa đi trệch hướng, một ngôn sứ xuất hiện để cảnh báo họ và lay động tiếng lương tâm của họ. Ma-la-khi là vị ngôn sứ cuối cùng, đánh dấu việc kết thúc truyền thống ngôn sứ. Truyền thống ngôn sứ sẽ tái xuất hiện nhưng dưới hình thức khác, hình thức văn chương khải huyền.
Bản văn Ma-la-khi được trích dẫn hôm nay gồm có hai phần: trong phần thứ nhất, những lời quở trách được gởi đến các tư tế, và trong phần thứ hai, những lời quở trách được gởi đến các tín hữu (giáo dân).
1. Các tư tế:
Đây không là lần đầu tiên mà một ngôn sứ gởi những lời quở trách nghiêm khắc đến các tư tế Giê-ru-sa-lem. Các ngôn sứ như Mikha, Xô-phô-ni-a, Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en đã không sợ làm như vậy trong những hoàn cảnh khó khăn hay bi thảm.
Ngôn sứ Ma-la-khi cho rằng, không phải không có lý do, thời kỳ ông sống thật là trầm trọng. Vào giờ dân Thiên Chúa mất nền độc lập của mình (họ sống dưới quyền thống trị của đế quốc Ba-tư), vào giờ họ phải khẳng định hơn bao giờ hết những giá trị đặc thù của mình, thì họ lại coi thường việc tế tự dâng lên Thiên Chúa của mình và sống cuộc sống luân lý không xứng đáng với niềm tin mà họ công bố.
Theo truyền thống ngôn sứ, lời của ngôn sứ cũng chính là lời của Thiên Chúa: “Quả thật, chính Ta là Đức Vua cao cả, - Đức Chúa các đạo binh phán” (Ml 1: 14). Kiểu nói này xuất phát từ các Thánh Vịnh, như Tv 47:
“Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả úy,
là Vua Cả thống trị khắp địa cầu” (Tv 47: 3).
Ngôn sứ Ma-la-khi muốn nhấn mạnh sự tương phản giữa việc tế tự cẩu thả mà các tư tế Giê-ru-sa-lem thực hiện với tế tự của lương dân, ở đó Danh Thiên Chúa được tôn kính. Từ đó, ngôn sứ Ma-la-khi đưa ra ba lời quở trách nghiêm khắc:
- “Nếu các ngươi không nghe và không lưu tâm tôn vinh Danh Ta” (1: 14). Thật ra, câu nầy quy chiếu đến những trách cứ của đoạn văn trước đó, liên quan đến những vi phạm nghiêm trọng trong việc tế tự ở Đền Thờ như dâng những tế vật què hay bệnh tật, vân vân. Lúc đó, như trong luật “Răng đền răng mắt đền mắt”, Thiên Chúa sẽ biến đổi những lời cầu xin những phúc lành của các tư tế cho dân chúng thành những những tai họa.
- “Các ngươi đã đi trệch đường và làm cho nhiều người lảo đảo trên đường Luật dạy” (2: 8a). Lời quở trách thứ hai nầy nhắm đến nhiệm vụ giảng dạy mà các tư tế có bổn phận thực thi. Tư tế là người được ủy thác Lời Chúa; họ sở hữu sự hiểu biết về Lề Luật. Ấy vậy, lời giảng dạy của họ là một sự đồi bại thật sự, đến mức khiến cho nhiều người tín hữu lầm đường lạc lối.
- “Các ngươi đã không tuân giữ đường lối Ta và hay nể vì khi áp dụng Luật” (2: 8b). Lời quở trách này được gởi đến các tư tế trong việc điều hành công lý. Lời quở trách này rất gần với huấn lệnh của sách Đệ Nhị Luật: “Anh em không được làm sai lệch công lý, không được thiên vị ai và không được nhận quà hối lộ, vì quà hối lộ làm cho những kẻ khôn ngoan hóa ra đui mù và làm hỏng việc của những người công chính” (Đnl 17: 19).
Những lời quở trách của ngôn sứ Ma-la-khi gởi đến các tư tế Giê-ru-sa-lem rất gần với những lời quở trách mà Đức Giê-su sẽ gởi đến các kinh sư và những người Pha-ri-sêu. Đó là lý do Giáo Hội chọn bản văn Ma-la-khi này.
2. Các tín hữu (giáo dân)
Tiếp đó, ngôn sứ Ma-la-khi ngỏ lời với “dân Thiên Chúa”, cộng đoàn tín hữu, mà ông là một thành viên. Ngôn sứ mời gọi các tín hữu hiệp nhất với nhau: “Tất cả chúng ta chẳng có một cha sau?” (Ml 2: 10). Ngôn sứ kêu gọi đến tình phụ tử của Thiên Chúa, vừa là Đấng tạo dựng con người: Chẳng phải cùng một Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta sao?”, vừa là Đấng đã chọn Ít-ra-en làm con của Ngài: “Thế mà sao chúng ta lại bội phản nhau mà vi phạm giao ước của cha ông chúng ta”.
Bản văn này giới thiệu một đề tài rất đặc thù, nhưng âm vang sứ điệp Tin Mừng hôm nay.
BÀI ĐỌC II (1Tx 2: 7-9, 13)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca.
Trong đoạn thư trích dẫn này, thánh Phao-lô phác họa một bức tranh nhỏ về sứ vụ tông đồ của ngài bằng những từ ngữ gợi hình đầy cảm xúc. Danh xưng: “chúng tôi” bao gồm các cộng tác viên của thánh nhân. Trong đoạn văn trước, thánh nhân đã giải thích rằng thánh nhân không tìm cách áp đặt trên họ uy quyền mà tước vị tông đồ ban cho ngài. Thánh Phao-lô sánh ví hành động của ngài với bà mẹ hiền: ngài đã sinh ra các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca thân yêu trong đức tin, ngài đã nuôi dưỡng họ bằng Lời Thiên Chúa và ngài sẵn sàng dâng hiến cho họ không những Tin Mừng mà còn cả mạng sống mình như mẹ hiền ấp ủ con thơ trong lòng của mình.
Vai trò mẫu tử của thánh Phao-lô thật thích hợp bên cạnh những người ki-tô hữu mới theo đạo; nhưng xa hơn, thánh Phao-lô hoàn tất bức tranh của mình khi gợi lên vai trò phụ tử của mình (không được trích dẫn hôm nay): “Anh em biết: chúng tôi đã cư xử với mỗi người trong anh em như cha với con; chúng tôi đã khuyên nhũ, khích lệ, van nài anh em…” (2: 11-12). Điều quan trọng là không nên tách rời vai trò mẫu tử và vai trò phụ tử ở nơi thánh Phao-lô, vì chúng diễn tả hai khía cạnh của sứ vụ tông đồ.
Về công việc mà thánh Phao-lô ám chỉ đến “để khỏi thành gánh nặng cho một người nào trong anh em” (2: 9), chúng ta không được biết công việc nào. Khi ở Cô-rin-tô và Ê-phê-xô, thánh Phao-lô đã có thể làm nghề dệt lều trong xưởng dệt của hai ông bà A-qui-la và Pơ-rít-ki-la. Có thể thánh nhân đã có thể gặp một công việc như vậy ở Thê-xa-lô-ni-ca. Dường như thánh nhân đã làm việc thâu đêm để ban ngày dâng hiến cho sứ mạng tông đồ của thánh nhân (2Tx 3: 8). Nhưng chắc hẳn công việc này không đem lại lợi nhuận cao, vì suốt thời gian thi hành sứ loan báo Tin Mừng tại Thê-xa-lô-ni-ca, thánh Phao-lô đã chấp nhận sự trợ giúp vật chất từ phía các tín hữu Phi-líp-phê, một trường hợp ngoại lệ.
Đoạn, dưới hình thức tạ ơn, thánh Phao-lô ca ngợi đức tin của các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, vì họ đã biết đón nhận Tin Mừng như Lời Thiên Chúa (2: 13).
TIN MỪNG (Mt 23: 1-12)
Đoạn Tin Mừng được trích dẫn hôm nay gồm hai phần: trong phần thứ nhất, Chúa Giê-su nghiêm khắc phê phán các kinh sư và những người Pha-ri-sêu (23: 1-7), và trong phần thứ hai, Chúa Giê-su cảnh giác các môn đệ Ngài (23: 8-12).
1. Phê phán nghiêm khắc các kinh sư và những người Pha-ri-sêu (23: 1-7)
Giáo huấn này không chỉ dành riêng cho các môn đệ mà cả đám đông dân chúng nữa: “Bấy giờ, Đức Giê-su nói với đám đông dân chúng và các môn đệ”. Trong giáo huấn này, Chúa Giê-su không chỉ vạch trần cho thấy những thói hư tật xấu của các kinh sư và người Pha-ri-sêu mà còn nhắm đến Giáo Hội tương lai của Ngài: tránh tiêm nhiễm “men Biệt Phái”.
A- Thói giả hình (23: 2-3)
Các kinh sư mà Chúa Giê-su nói đến ở đây xuất thân từ nhóm Pha-ri-sêu, vì thế chương 23 này liên kết liên tục giữa “các kinh sư và những người Pha-ri-sêu”.
- “Ngồi trên tòa ông Mô-sê mà giảng dạy”: Theo nghĩa đen, “tòa” là chỗ giảng dạy trong hội đường, ở đó vị kinh sư thường ngồi để cắt nghĩa Lề Luật; theo nghĩa bóng “tòa” ám chỉ những người có thẩm quyền giảng dạy Luật Mô-sê. Ông Mô-sê đã chuyển giao cho dân chúng Lề Luật mà ông đã lãnh nhận từ Thiên Chúa, còn các kinh sư thì có phận vụ giảng dạy Luật Mô-sê cho dân chúng.
Khi công bố rằng “Tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ”, Chúa Giê-su công nhận thẩm quyền giảng dạy Lề Luật của các kinh sư, nhưng Ngài cảnh giác dân chúng và các môn đệ Ngài phải phân định Lề Luật mà các kinh sư này công bố và giảng dạy trong các hội đường với cách sống của họ: “Còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm”. Vài năm sau đó, thánh Phao-lô, khi đối mặt với các bạn đồng môn Pha-ri-sêu trước đây của mình, cũng đã đưa ra những lời quở trách tương tự: “Vậy, bạn biết dạy người khác, mà lại không dạy chính mình! Bạn giảng: đừng trộm cắp, mà bạn lại trộm cắp! Bạn nói: chớ ngoại tình, mà bạn lại ngoại tình! Bạn gớm ghét ngẫu tượng, mà bạn lại cướp bóc đền miếu! Bạn tự hào vì có Lề Luật, mà bạn lại vi phạm Lề Luật, và như vậy bạn làm nhục Thiên Chúa! Thật đúng như lời chép: Chính vì các ngươi mà danh Thiên Chúa bị phỉ báng giữa chư dân” (Rm 2: 21-24).
Chính thói tự phụ cho rằng mình thông hiểu Lề Luật dẫn các kinh sư và những người Pha-ri-sêu đến thái độ khinh bĩ những kẻ bé mọn, những người không biết Lề Luật. Thánh Gioan nêu ra điều đó trong Tin Mừng của mình: Người Pha-ri-sêu nói với những vệ binh: “Trong hàng thủ lãnh hay trong giới Pha-ri-sêu, đã có một ai tin vào tên ấy đâu? Còn bọn dân đen này, thứ người không biết Lề Luật, đúng là quân bị nguyền rủa” (Ga 7: 47-49). Thái độ khinh miệt của họ như vậy thật là đối lập biết bao với Tin Mừng mà Đức Giê-su gởi đến những người bé mọn và những người khiêm hạ.
B- Chủ nghĩa duy luật (23: 4)
Truyền thống giải thích Lề Luật của các kinh sư, còn được gọi là “truyền thống của các tiền nhân”, đã tạo nên những quy tắc chi ly với muôn vàn những điều cấm và những điều buộc. Chúa Giê-su gọi đó là “cái ách” gông vào cổ, “cái gánh” đè nặng lên vai dân chúng: “Họ bó những gánh nặng mà đặt trên vai người ta”. Ngài đã từng tranh luận với họ về những quy tắc này như khi họ kết án các môn đệ về việc không tuân giữ nghi thức rửa tay trước khi ăn hay về việc bức bông lúa mà ăn vào ngày sa-bát.
Ở đây, Chúa Giê-su không tấn công tính khắc khe của các quy tắc, nhưng tính giả hình của các thầy dạy này, họ ra luật cho người khác giữ, còn họ thì không giữ; họ xác định mức độ dễ dãi cho họ, nhưng đòi buộc mức độ khắc khe cho người khác; họ thích “chỉ tay năm ngón” cho người khác, còn họ thì “không buồn động ngón tay vào”. Chính vì chủ nghĩa duy luật nầy mà Đức Giê-su giải thoát khi công bố giới luật yêu thương của Ngài: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11: 28-30).
C- Thói phô trương (23: 5)
Chúa Giê-su vạch trần cho thấy thói phô trương đạo đức bề ngoài của các kinh sư này: “Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy”. Tất cả những gì họ làm chỉ để mọi người khen ngợi họ là những người đạo đức thánh thiện chứ không cốt để tỏ lòng mến Chúa. Thật đối nghịch biết bao với những lời khuyên mà Đức Giê-su ban cho các môn đệ Ngài: “Khi làm những việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng. Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi bố thí, đừng để cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6: 1-4).
Để minh họa thói phô trương này, Chúa Giê-su dẫn chứng hai tập tục là “đeo hộp kinh” và “mang những tua áo”.
- “Hộp kinh” là cái hộp nhỏ bằng da đựng lời tuyên xưng đức tin cốt yếu nhất của Ít-ra-en được trích dẫn từ sách Đệ Nhị Luật: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng hết dạ, hết sức ngươi” (Đnl 6: 4-5). Tập tục đeo hộp kinh trên trán rất được tôn kính vì nói lên lý tưởng là mỗi người Do thái phải thường xuyên ghi nhớ Luật của Thiên Chúa và cam kết thi hành. Khi lên 12 tuổi, người nam Ít-ra-en đeo hộp nhỏ ở trên trán vào giờ cầu nguyện ban sáng và đọc lời chúc tụng như sau: “Chúc tụng Ngài, lạy Đức Chúa là Thiên Chúa, vì Ngài đã thánh hóa chúng con bằng các giới răn của Ngài và đã truyền cho chúng con đeo các hộp kinh”.
- “Những tua áo” là những dây vải ghi những câu Kinh Thánh được đính vào cánh tay áo hay vạt áo. Tập tục nầy bắt nguồn từ lời dạy của sách Dân Số: “Đức Chúa phán với ông Mô-sê: Ngươi hãy nói với con cái Ít-ra-en và bảo chúng phải làm tua khâu vào tà áo của chúng, qua mọi thế hệ, và cột lên tua áo đó một sợi dây đỏ tía. Vậy các ngươi sẽ mang tua áo, và khi nhìn thấy nó, các ngươi sẽ nhớ đến mọi mệnh lệnh của Đức Chúa mà thi hành, chứ không theo con tim và đôi mắt các ngươi mà đi làm điếm” (Ds 15: 37-39). Đức Giê-su không phê phán tập tục này nhưng trách cứ nặng lời thói phô trương đạo đức của các kinh sư và những người Pha-ri-sêu: “Họ đeo những hộp kinh thật lớn” và “mang những tua áo thật dài” cốt để cho thiên hạ thấy.
D- Thói háo danh (23: 6-7)
Chúa Giê-su phê phán thói háo danh của họ: ưa thích những chỗ ngồi danh dự trong các hội đường và trong bàn tiệc, được mọi người kính trọng trong công cộng.
2. Cảnh giác các môn đệ (23: 8-12)
A- Cộng đoàn huynh đệ (23: 8-10)
Những cảnh giác này được gởi đến cho những người có trách nhiệm trông coi các cộng đoàn ki-tô hữu: “Phần anh em”. Theo truyền thống thời xưa, mối quan hệ giữa “thầy” và “trò” khắng khít đến độ họ có thể gọi nhau là “cha” và “con” (x. 2V 2: 12; 1Cr 4: 14-17; 1Pr 5: 13). Trọng tâm của các câu cảnh giác này chính là “Còn tất cả anh em đều là anh em với nhau” (một lời khẳng định được đặt vào trung tâm của ba lời khuyên ở thể phủ định: “đừng”), nghĩa là mọi người ki-tô hữu, dù ở địa vị chức tước nào, đều là anh chị em với nhau trong một gia đình có Thiên Chúa là Cha trên trời và có một Tôn Sư là Đức Giê-su. Qua những lời này, Chúa Giê-su muốn nhắn gởi những vị hữu trách trong các cộng đồng ki-tô hữu phải luôn luôn ý thức rằng mình có thể được xem là thầy, cha, lãnh đạo, mục tử…trong mức độ người ấy thông dự vào tư cách là Thầy, Cha, Lãnh Đạo, Mục Tử đích thật là Đức Giê-su, như lời dạy của thánh Phao-lô: “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Ki-tô” (1Cr 11: 1), mà mẫu gương của Đức Ki-tô chính là: “Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20: 28).
B- Đức khiêm hạ (23: 11-12)
Trong khi người Pha-ri-sêu ham muốn được quyền cao chức trọng, thì Chúa Giê-su nhấn mạnh rằng những quyền hành chức tước trong Hội Thánh của Ngài, phải được thực hiện như một hình thức phục vụ mọi người, nhất là những người nghèo hèn bé mọn, chứ không phải để ăn trên ngồi trước, có kẻ hầu người hạ: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải là người phục vụ”.
Thái độ tự cao tự đại và thói tham quyền không phù hợp với người môn đệ Chúa Ki-tô: “Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”. Trong câu này, những động từ được dùng ở thể thụ động để chỉ Thiên Chúa là tác nhân: “Ai tôn mình lên, sẽ bị Thiên Chúa hạ xuống, ai hạ mình xuống, sẽ được Thiên Chúa tôn lên”. Đã đành ai cũng khinh ghét kẻ kiêu căng và mến chuộng người khiêm hạ, nhưng quan trọng hơn nữa là chính Thiên Chúa cũng hạ bệ kẻ kiêu căng và nâng cao người khiêm hạ. Đó cũng là lời rao giảng của thánh Gia-cô-bê: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (Gcb 4: 6). Và đó cũng là lời ca ngợi của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a trong lời kinh Mangificat:
“Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1: 52).
3. Kết Luận:
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Mát-thêu đối chiếu hai hình ảnh Hội Thánh, một Hội Thánh theo kiểu mẫu Pha-ri-sêu: nói mà không làm, huênh hoang tự đắc, chuộng vẻ hào nhoáng bên ngoài, ham danh vọng và quyền hành, dễ dải với chính mình nhưng khắc khe với người dưới quyền. Bên kia là một Hội Thánh theo kiểu mẫu Đức Giê-su, trong đó những người ki-tô hữu cư xử với nhau như anh chị em trong một gia đình có Thiên Chúa là Cha và Đức Giê-su là Tôn Sư. Trong Hội Thánh theo kiểu mẫu Đức Ki-tô, quyền hành chức tước là những ân ban nhằm mục đích phục vụ, chứ không để phân biệt người trên với kẻ dưới, người giàu sang với kẻ nghèo hèn, người có quyền hành địa vị với kẻ cùng đinh. Chính vì mối nguy hiểm này có nguy cơ đánh mất vẻ đẹp của Hội Thánh mà Chúa Giê-su cảnh giác những người lãnh trách nhiệm trông coi các cộng đoàn ki-tô hữu là đừng bắt chước Hội Thánh theo kiểu mẫu Pha-ri-sêu.
4. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ đề: Khuyến cáo những người có trách nhiệm hướng dẫn người khác
"Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta" (Mt 23,4)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Lời Chúa hôm nay nói về trách nhiệm hướng dẫn người khác. Trong chúng ta, nhiều người có trách nhiệm hướng dẫn: kẻ thì hướng dẫn gia đình, người thì hướng dẫn một nhóm người trong họ đạo hoặc ngoài xã hội. Trách nhiệm hướng dẫn rất nặng nề và đòi hỏi rất nhiều, kẻo "mù dẫn mù, cả hai lăn cù xuống hố".
Chúng ta hãy chăm chú lắng nghe Lời Chúa dạy cách hướng dẫn người khác. Ðồng thời chúng ta cũng hãy nài xin Chúa trợ lực để chúng ta có thể chu toàn trách nhiệm của mình.
II. Gợi ý sám hối
Nhận lãnh trách nhiệm hướng dẫn người khác, nhưng chúng ta chưa có một đời sống gương mẫu để làm gương cho những người được chúng ta hướng dẫn.
Nhiều khi chúng ta còn làm gương xấu.
Chúng ta để ý nhiều đến vinh dự của mình, mà ít quan tâm phục vụ.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Ml 1,14-2,2.8-10)
Ngôn sứ Malakhi rao giảng vào thế kỷ thứ V trước công nguyên, khi ấy Ðền thờ đã được xây dựng lại xong. Tuy nhiên những nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái chỉ quan tâm tổ chức các lễ nghi bề ngoài, không quan tâm hướng dẫn tinh thần dân chúng.
Từ đó phát sinh nhiều tệ nạn: các lễ vật dâng tiến cho Chúa là những con vật đui mù què quặt, thậm chí là những con vật ăn cắp; dung túng cho việc li dị, hôn nhân với người ngoại, trốn thuế thập phân; các nhà lãnh đạo đối xử với dân chúng một cách quan liêu, chỉ nhằm tư lợi.
Thiên Chúa bảo ngôn sứ Malakhi nhắc nhở về cung cách lãnh đạo: làm cho dân biết tôn vinh Thiên Chúa, trung thành với giao ước, và đối xử với mọi người trong tình anh em cùng một Cha.
2. Ðáp ca (Tv 130)
Tv này là lời cầu nguyện của một tín hữu chân thành. Tác giả nguyện sống khiêm tốn "mắt chẳng liếc nhìn cao", "không lo nghĩ những chuyện lớn lao" mà chỉ chuyên chăm "lo giữ linh hồn cho êm can và thanh thản", luôn trông cậy vào Chúa "như trẻ thơ sống trong lòng thân mẫu".
3. Tin Mừng (Mt 23,1-12)
Ðức Giêsu nói về giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái thời của Ngài, tức là các luật sĩ và các người biệt phái:
Một mặt, Ngài bảo mọi người phải tôn trọng chức vụ của họ, vì họ "ngồi toà Môsê", và hãy làm theo những gì họ dạy.
Nhưng mặt khác đừng noi theo hành vi của họ, biểu hiện những thói xấu như: chỉ tay năm ngón, hám danh, kiêu căng.
4. Bài đọc II (1 Tx 2,7-9.13)
Cung cách lãnh đạo của Thánh Phaolô:
"Chúng tôi đã trở thành những kẻ bé mọn giữa anh em"
Ðối xử với tín hữu "như người vú nuôi nâng niu con cái mình"
Sẵn sàng hy sinh tất cả cho tín hữu, ngay cả mạng sống mình.
Cố gắng tự lực cánh sinh để không trở thành gánh nặng cho giáo đoàn.
IV. Gợi ý giảng
1. Vinh quang ở đâu?
Có một người đàn ông đi dạo đến một nơi hành hương. Mệt nhọc, ông ngồi nghỉ trên một ghế đá. Ông hết sức ngạc nhiên và rồi lại tỏ ra hãnh diện sung sướng khi thấy nhiều người đi qua trước mặt ông đã ngã mũ cúi chào. Trong khi còn nghĩ ngợi, thắc mắc thì có một bà già cũng đến trước mặt ông. Sau khi cúi chào, bà đã nhìn lên và miệng lâm râm nhiều lời mà ông nghe không rõ. Thế rồi bà cũng ra đi. Lúc ấy ông mới quay lại và nhìn lên theo hướng bà già kia đã nhìn. Ông nhận ra rằng ngay sau lưng và phía trên đầu ông có một thánh giá đã được dựng lên ở đó. Và ông xấu hổ bỏ đi nơi khác.
Chúng ta cũng thường lầm lẫn như thế. Lời Chúa muốn giải thoát chúng ta khỏi những danh lợi hão huyền và rất đáng hổ thẹn của thế gian. Bởi vì, thật là dạ dột và lố bịch khi con người không biết rõ giá trị của mình, lại thích được chiếm địa vị cao, ham được những ưu đãi. Những ham ước ấy chỉ khiến họ bị lợi dụng và trở nên trò cười cho thiên hạ. Có khi còn tây nhiều tai họa cho người khác nữa.
Theo lời dạy của Chúa Giêsu thì khác hẳn: "Ai muốn làm lớn phải làm đầy tớ mọi người. Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên". Chúa không chỉ dạy bằng lời. Ngài còn làm gương, Ngài đã dẫn chứng bằng cả cuộc đời hiến thân phục vụ trong khiêm tốn của mình. Thập giá của Ngài là một bằng chứng không thể phủ nhận được.
Quả thật, Chúa Giêsu đã ý thức rất rõ bản chất và danh vị của mình. Nhưng Ngài sẵn sàng chọn sự rốt hèn, hết mình phục vụ, không ngại quỳ xuống rửa chân cho các đệ tử của mình, và cuối cùng dám để cho người ta bóc lột cả đến danh dự và sự sống thân xác của Ngài nữa.
Tất cả là để làm sáng tỏ vinh quang Thiên Chúa tình yêu và vì hạnh phúc của con người mà Ngài sẽ thu phục trong vương quốc Thiên Chúa.
Tưởng chứng Thập giá là một ngõ bí, một sự hạ nhục và huỷ diệt. Nhưng thực ra, nhờ Thập giá mà Chúa Giêsu đã mở ra con đường phục sinh vinh quang. Ngài đã trở thành bất tử và được nâng lên tột cùng, để rồi cũng lôi kéo mọi người lên theo.
Như thế, chúng ta hiểu rằng: vinh quang thật không khởi từ danh vị nhưng được xác định qua những nỗ lực và khiêm tốn phục vụ. Cái đáng tin, đáng phục không phải ở lời nói, quyền lực, mà là ở cuộc sống phản ảnh sự chân thực, ở khả năng cống hiến và mức độ dấn thân để sống yêu thương cách xứng đáng.
Chúng ta hãy nhìn lên "tòa thập giá" của Chúa Giêsu để tìm những lời dạy chí lý và khám phá ra những phương cách chia sẻ vinh quang đích thực và vững bền. (Lm Nguyễn thanh Tước, Tây Ninh. Trích trong báo CgvDt số đặc biệt giáng sinh '95, trang 281-282)
2. Mô hình người lãnh đạo gương mẫu
Mô hình này dựa trên những lời Ðức Giêsu dạy và chính gương của Ngài được ghi lại trong các sách Tin Mừng, như Mt 20,24-28; Mt 23,1-32; Ga 13,1-20 v.v.
Tấm lòng của người lãnh đạo: yêu thương những kẻ được mình hướng dẫn.
Phương châm của người lãnh đạo: tự coi mình là đầy tớ, có bổn phận phục vụ những kẻ mình hướng dẫn.
Cung cách của người lãnh đạo: hạ mình, hy sinh, gương mẫu.
3. Những thói xấu mà người lãnh đạo dễ mắc phải
Bài đọc I và bài Tin Mừng hôm nay vạch rõ những thói xấu mà những người lãnh đạo dễ mắc phải:
Lo tìm vinh dự cho mình, mà quên tìm lợi ích cho thuộc cấp.
Thái độ quan liêu, coi rẻ thuộc cấp.
Sai khiến người khác làm, phần mình thỉ chỉ tay năm ngón.
Quên phục vụ người khác, mà bắt người khác phục vụ mình.
4. Suy nghĩ về cái "làm" và cái "thấy"
Cái "làm" của chúng ta dễ bị ảnh hưởng tác động của cái "thấy".
- Nếu "làm để cho người ta thấy", thì: khi người ta thấy thì chúng ta cố gắng làm cho thật tốt để được người ta khen; nhưng khi không ai thấy thì chúng ta hoặc không làm, hoặc làm cẩu thả.
- Nhưng cái "thấy" của người ta thế nào? Người ta chỉ có hai con mắt và chỉ hiện diện ở một nơi, cho nên có cái người ta thấy và có cái người ta không thấy.
- Ngay cả khi người ta thấy đi nữa thì làm sao? Có khi người ta thấy việc chúng ta làm và người ta khen hoặc chê; nhưng nhiều khi người ta dù có thấy nhưng thờ ơ chẳng có ý kiến khen chê gì cả (thí dụ chúng ta đi một đoạn đường, chúng ta thấy rất nhiều việc, nhưng chúng ta vẫn dửng dưng đâu có ý kiến gì); có khi mình làm việc tốt, người ta thấy nhưng lại hiểu sai và cho là việc xấu (thí dụ chuyện Quan Âm Thị Kính: Thị Kính thương chồng định lấy kéo cắt dùm một sợi râu của chồng, có người thấy thế tố cáo Thị Kính muốn dùng kéo giết chồng).
- Còn cái "thấy" của Chúa thế nào? Có câu hát: "Con kiến đen, nằm trên hòn đá đen, mà trời tối đen Ðức Chúa Trời cũng thấy". Nghĩa là Chúa thấy hết mọi sự, ở khắp mọi nơi. Không gì mà Ngài không thấy. Và khi thấy thì Chúa luôn đánh giá: nếu thấy ta làm điều tốt thì Chúa vui và thưởng ta, còn thấy ta làm điều xấu thì Chúa buồn và phạt ta.
Ðức Giêsu dạy chúng ta đừng làm như người biệt phái "Họ làm mọi sự cốt cho người ta thấy", nhưng hãy cố gắng luôn sống dưới cái nhìn của Chúa, làm gì dù có người thấy hay không, dù việc lớn hay việc nhỏ, việc chung hay việc riêng, hãy luôn làm vì muốn đẹp lòng Chúa.
5. Chuyện minh họa
a/ Tiền giả
Có khi nào người ta dám quẳng bỏ những tờ giấy bạc không? Thưa có, khi đó là tiền giả. Nhiều người đã quẳng bỏ Kitô giáo vì thấy những kitô hữu giả hình (W.E. Biederwolf).
b/ Ông vua ở truồng
Một ông vua kia rất ham mặc áo quần đẹp. Hai tên lưu manh đến gạ gẫm: "Chúng tôi có thể dệt và may cho bệ hạ một bộ áo rất đặc biệt từ xưa tới nay chưa ai từng thấy. Nhưng áo này phải dệt bằng vàng". Vì quá ham bộ áo đặc biệt ấy, nhà vua đưa cho hai tên ấy hết túi vàng này tới túi vàng khác. Thực ra chúng chẳng may gì cả. Rồi một hôm hai tên lưu manh cho biết áo đã may xong, mời nhà vua mặc thử. Chúng chỉ làm cử điệu tay chân như đang mặc áo cho nhà vua. Khi chúng cho biết đã mặc xong, nhà vua hỏi các quan chung quanh "Áo ta có đẹp không?" Ai nấy trầm trồ khen nức nở. Quá phấn khởi, nhà vua bảo quân hầu kiệu ngài ra các đường phố để khoe áo đẹp. Dân chúng hai bên đường cũng nức nở khen. Nhà vua rất sung sướng. Bỗng nhiên một đứa trẻ hô lớn: "Ông vua ở truồng! Ông vua ở truồng!". Nhà vua nhìn lại mình và mới biết mình đang ở truồng thật.
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Ðức Giêsu đến trần gian không phải để được kẻ hầu người hạ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và tha thiết cầu xin.
1. Hội Thánh luôn dùng đời sống phục vụ mà xoa dịu đau khổ của nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / nâng đỡ các công cuộc từ thiện của Hội Thánh / để qua đó Hội Thánh có thể giới thiệu Chúa cho mọi nước mọi dân.
2. Trên thế giới ngày nay / từ những khu nhà ổ chuột ở các thành phố / cho tới tận những miến xa xôi hẻo lánh / rừng thiêng nước độc / lúc nào cũng có những người thiện nguyện / đang hy sinh cả tuổi thanh xuân / hạnh phúc riêng tư / và cả mạng sống của mình nữa / để phục vụ những anh chị em bất hạnh nhất của xã hội / những Ðức Kitô bị bỏ rơi / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / gìn giữ những anh chị em ấy luôn được an toàn / và cho họ tìm được niềm vui trong việc phục vụ tha nhân.
3. Ngày nay / bên cạnh rất nhiều người trẻ có tâm hồn quảng đại / âm thần phục vụ / thì cũng có một số người khác chỉ biết ăn chơi trác táng / hưởng thụ ích kỷ / không bao giờ biết quan tâm đến nỗi thống khổ / của những người nghèo chung quanh mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu / nhất là các kitô hữu trẻ / biết sống cho một lý tưởng cao đẹp.
4. Sẵn sàng giúp đỡ người khác trong cơn hoạn nạn / là một trong những cách sống đạo đẹp lòng Chúa nhất / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết vui với người vui / và khóc cùng người khóc như Thánh Phaolô đã dạy.
CT: Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy chúng con: "Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em; còn ai muốn đứng đầu trong anh em, thì phải làm đầy tớ anh em". Xin ban ơn trợ giúp để chúng con có thể sống như Chúa đã dạy. Chúa hằng sống và hiển trị.
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Là những người nhận trách nhiệm lãnh đạo một số người nào đó, chúng ta dễ bị cám dỗ hám danh, bắt người ta phục vụ mình, kiêu ngạo v.v. Trong Kinh Lạy Cha sau đây, chúng ta hãy thành khẩn xin Chúa giúp chúng ta khỏi sa vào những chước cám dỗ ấy.
VII. Giải tán
Thánh lễ vừa xong, Anh chị em hãy trở về chu toàn những trách nhiệm của mình trong tinh thần phục vụ, khiêm tốn và yêu thương.
5. Những anh hùng cứu độ - Lm. Mark Link, SJ.
Chủ đề: “Thập giá là dấu chỉ của Tình Yêu, là lời mời gọi đến Tình Yêu và là sự mặc khải về Tình Yêu.”
Cách đây nhiều năm các rạp hát có chiếu một cuốn phim nhan đề Little Lord Fauntlroy (Tiểu chủ Fannilleroy) nói về một cậu bé 7 tuổi đến sống với ông nội là một người giàu có đang quản lý nhiều công nhân dưới quyền. Ông lão bản chất là con người ích kỷ và độc ác, nhưng cậu nhỏ quá thần tượng ông mình, nên không thể nhận ra điều đó. Cậu lại nghĩ ông mình quảng đại và tốt bụng. Cậu bé thường nói với người ông: "Nội ơi! Thiên hạ chắc hẳn yêu ông biết dường nào! Cháu dám cá là họ yêu nội hầu như cũng nhiều bằng cháu yêu nội vậy !".
Ðể rút ngắn câu chuyện, tình yêu của cậu bé dần dà làm mềm mại trái tim ông già, và ông đã trở nên loại người tốt mà đứa cháu vẫn nghĩ cho ông.
Câu chuyện này giống như một dụ ngôn của Chúa Giêsu cho thấy tình yêu Ngài dành cho chúng ta có thể thay đổi chúng ta và ban cho chúng ta sức mạnh để trở nên loại người giầu yêu thương như Ngài vẫn thấy nơi tiềm năng chúng ta.
Tình yêu nằm nơi trọng tâm lời dạy và cuộc đời Chúa Giêsu. Và trong tất cả hành vi của Chúa Giêsu, không hành vi nào biểu lộ tình yêu Ngài rõ rệt hơn việc Ngài bị đóng đinh trên thập tự.
Và điều gì khiến cho việc chịu đóng đinh thập tự là bằng chứng hùng hồn về tình yêu của Chúa Giêsu như thế?
Trước hết, việc chịu đóng đinh thập tự là DẤU CHỈ gây ấn tượng sâu sắc về tình yêu vĩ đại Chúa Giêsu dành cho chúng ta. Chúa Giêsu đã nói: "Không tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì bạn hữu mình" (Ga 15: 13). Tôi rất vui mừng vì Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta dấu chỉ vĩ đại ấy, chúng ta cần biết rằng mình đáng yêu vì nếu chúng ta không thấy mình đáng yêu, chúng ta không thể yêu mến kẻ khác được. Tại sao chúng ta không thể yêu nếu không thấy mình đáng yêu? Lý do đơn giản: Tình yêu là một món quà tự hiến. Và nếu chúng ta không thấy mình là đáng yêu và vì thế đáng giá, thì chúng ta sẽ không trao tặng chính mình cho kẻ khác đựơc. Nói tóm lại, chẳng ai đem đồ rác rưởi cho kẻ mình khâm phục sâu xa. Vì thế điều đầu tiên mà sự đóng đinh thập giá đem lại chính là dấu chỉ tình yêu mà Chúa Giêsu dành cho chúng ta. Chúng ta đáng giá và đáng yêu đến mức Ðức Giêsu tự hiến mạng vì chúng ta.
Thứ đến, bên cạnh dấu hiệu của tình yêu, việc chịu đóng đinh cũng là lời mời gọi đến với tình yêu. Ðây là một cách diễn tả bằng hình ảnh điều mà Chúa Giêsu đã thường dùng ngôn từ để nói: "Các con hãy thương yêu nhau như Ta đã yêu thương các con"(Ga.15, 12).
Tôi rất vui mừng vì Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta như thế chứng tỏ Ngài nghĩ rằng tình yêu của chúng ta là quí giá. Ngài dạy chúng ta rằng chúng ta có thể giúp đỡ kẻ khác bằng tình yêu của mình giống như Ngài đã dùng tình yêu của Ngài để giúp đỡ chúng ta.
Các bậc tôn sư cho chúng ta thấy rằng lòng tự trọng của tuổi trẻ sẽ tiến bộ rất nhiều khi họ khám phá ra tình yêu của họ là đáng giá. Chúng ta có thể thấy đựơc sự đổi thay sâu xa khi một sinh viên dấn thân vào một chương trình phụng sự chẳng hạn: dạy kèm thêm cho các sinh viên lớp nhỏ hơn, đọc sách cho người mù nghe, hoặc thăm viếng người già cả. Thường đây là lần đầu tiên họ khám phá ra mình có giá trị, mình có khả năng giúp đỡ tha nhân.
Như thế, điều thứ hai mà thập giá chúng ta đem lại là lời mời gọi chúng ta yêu thương tha nhân như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta. Nó giúp chúng ta khám phá được tình yêu chúng ta là đáng giá, chúng ta có thể dùng tình yêu của mình để giúp đỡ tha nhân.
Thứ ba, ngoài dấu chỉ tình yêu chúng ta như lời mời gọi đến với tình yêu, thập giá Chúa Giêsu còn là sự mặc khải cho chúng ta về tình yêu rằng tình yêu thương kéo theo đau khổ.
Tôi rất vui mừng vì Chúa Giêsu đã mặc khải điều ấy cho chúng ta, vì điều ấy chống lại sự dối trá đang liên tục xẩy ra hằng ngày trên màn ảnh truyền hình cho rằng người ta có thể gíup kẻ khác mà mình chẳng phải mất mát gì hết. Vị bác sĩ trên truyền hình cứu chữa bệnh nhân mà bản thân chẳng hề đau khổ gì cả. Vị luật sự trên truyền hình bảo vệ cho kẻ bị áp bức bóc lột mà bản thân ông chẳng bị đau thương gì hết. Viên sĩ quan cảnh sát cứu đứa bé bị đối xử tàn nhẫn mà chính ông không hề bị đối xử tệ như vậy bao giờ. Giáp bào sáng loáng của những anh hùng cứu độ trên truyền hình này chỉ dơ bẩn thôi chứ chẳng bao giờ bị mẻ hay bị hư. Chúa Giêsu cho chúng ta thấy yêu thương và giúp đỡ kẻ khác bao giờ cũng kéo theo đau khổ cho chính mình.
Không đau khổ sao được khi phải nhẫn nại với một kẻ thân yêu quát mắng chúng ta.
Không đau khổ sao được khi phải thứ tha giống như ông bố của đứa con hoang đàng và phải đón đứa con ương ngạnh trở về nhà.
Không đau sao được khi phải khiêm tốn nhìn nhận giống cậu con trai hoang trong câu chuyện ấy rằng mình đã sai lầm.
Ðôi khi tôi nghĩ: nếu chúng ta có luật bắt buộc phải ghi trên bao bì những thực phẩm có hai dòng chữ: "thực phẩm này có thể hại cho sức khoẻ bạn" thì chúng ta cũng nên có luật là các chứng thư hôn thú phải được ghi thêm dòng chữ sau: "Tình yêu chắc chắn kéo theo đau khổ".
Ðiều này dẫn chúng ta tới chủ điểm sau cùng là: chúng ta nên vui mừng khi cảm thấy đau khổ vì đã dấn thân vào tình yêu. Chúng ta nên vui mừng khi phải đau khổ với cùng một người về cùng một việc hết ngày này qua ngày nọ. Chúng ta nên vui mừng khi cảm thấy đau khổ vì bị mất đi một cơ hội để hãnh diện, hoặc mất đi một vinh dự hay một dịp thăng quan tiến chức.
Tại sao chúng ta lại nói lên một điều khó tin như thế? Arthur Godfrey ngôi sao truyền hình trước đây có cho chúng ta lời giải thích tuyệt vời trong bài viết đăng trong cuốn "The Guideposts Treasury of Faith (1970) (Cẩm nang hướng đạo đức tin). Trên bức tường nơi văn phòng làm việc của mình, Godfrey thường treo một tấm biển ghi: "Lạy Chúa, con thà chịu lửa đốt hơn là phải làm vật phế thải".
Godfryey nói rằng tấm biển đề nhắc ông câu chuyện về bác thợ rèn nọ, dù phải chịu nhiều tai ương mà vẫn vững tin nơi Chúa. khi một kẻ vô đạo hỏi bác ta làm thế nào bác có thể vẫn giữ niềm tin vào Chúa dù chịu biết bao tai ương, bác liền trả lời: "Khi tôi chế tạo một dụng cụ, tôi thường lấy một thanh sắt và nung lửa. Ðoạn tôi đập nó trên đe để xem nó có độ cứng không. Nếu có, tôi sẽ chế ra một dụng cụ hữu ích, nếu không tôi quẳng nó vào đống sắt vụn hết xài".
Câu chuyện trên dẫn chúng ta trở lại chủ điểm của mình. khi chúng ta chịu đau khổ vì tình yêu, chúng ta có thể hoan hỉ vì biết rằng Chúa đang sử dụng chúng ta.
Tóm lại, sự kiện Chúa Giêsu bị đóng đinh thập tự là Dấu chỉ Tình yêu Ngài dành cho chúng ta, là lời mời gọi chúng ta yêu mến tha nhân, đồng thời cũng là sự mặc khải về tình yêu tức là tình yêu luôn kéo theo đau khổ.
Ðể kết thúc, chúng ta hãy cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin dạy chúng con yêu mến Ngài cho xứng đáng, xin dạy chúng con yêu tha nhân như Ngài yêu chúng con.
Xin dạy chúng con yêu cho dù yêu là đau khổ,
Bởi vì qua tình yêu chúng con tôn vinh Chúa,
Qua tình yêu chúng con mang hạnh phúc cho tha nhân,
Và qua tình yêu chúng con tìm đựơc ý nghĩa của cuộc sống mình. Amen.
6. Thiên Chúa của tình yêu - Lm. Mark Link, SJ.
Một vài năm trước đây William Golding có viết một cuốn tiểu thuyết nổi tiếng mang tên Lord of the Flies. Đó là câu chuyện về một nhóm học sinh khoảng 14 tuổi.
Các học sinh này sống vất vưởng trên một hoang đảo sau khi chiếc máy bay cứu họ từ Anh Quốc, trong Thế Chiến II, bị rớt trên biển Thái Bình Dương. Phi công và người phụ tá đều bị chết ngay lập tức, chỉ có các cậu trai này là còn sống sót.
Lúc đầu, mọi sự đều êm đẹp. Chúng vui thích thám hiểm hòn đảo này và trở nên những chủ nhân mới.
Nhưng sau đó mọi sự trở nên tồi tệ. Chúng cãi nhau, và chia làm hai phe đối nghịch. Dần dà chúng trở nên man rợ và bắt đầu tiêu diệt lẫn nhau.
Một trong những điểm phát xuất từ câu chuyện của Golding là, nếu để tự ý, bản chất con người sẽ trở nên hung bạo.
Nói cách khác, nếu không có lề luật và cơ cấu để hướng dẫn, bản chất con người có xu hướng thiên về sự dữ. Nó sẽ đi theo chiều hướng ít trở ngại nhất, và kết quả là sự xáo trộn.
Nói một cách tích cực, điểm mà Golding muốn nói là: Xã hội cần có lề luật và cơ cấu để tồn tại. Nếu không có lề luật và cơ cấu, không bao lâu xã hội sẽ suy thoái thành một loại rừng rú. Không có gì là linh thiêng; không ai được tôn trọng.
Người Do Thái xưa có một triết lý tương tự về bản tính con người. Họ tin rằng cần phải có lề luật và cơ cấu để dân Israel tồn tại và phát triển thành một quốc gia.
Đó là một khung cảnh được thấy trong sách Nêhêmia (8:1-8), trong đó toàn thể dân tộc tụ tập lại và tự hứa sẽ tuân giữ lề luật.
Từ ngày đó trở đi, việc nghiên cứu lề luật trong Israel trở thành một trong những nghề quan trọng nhất. Những luật gia cổ xưa này, được gọi là luật sĩ, tự khoác cho mình một trách nhiệm là áp dụng lề luật vào những chi tiết nhỏ bé nhất trong đời sống hàng ngày.
Thí dụ, hãy lấy điều luật cấm người ta không được làm việc vào ngày Sabát. Các luật sĩ dành cả giờ đồng hồ để thảo luận về việc áp dụng luật này vào các hành động tỉ như bước đi. Thí dụ, người ta có thể bước đi bao xa để coi đó là sự giải trí thay vì làm việc?
Và vì thế có những điều luật nói rằng, trong ngày Sabát có thể bước đi nửa dặm, nhưng ai bước đi xa hơn quãng đường đó thì bị coi là phạm luật.
Các luật sĩ còn đi xa hơn nữa. Họ “xây những hàng rào chung quanh lề luật,” để giữ dân chúng khỏi vi phạm luật vì sự tình cờ.
Nói cách khác, bước đi nửa dặm trong ngày Sabat thì không sao; nhưng để giữ cho dân chúng khỏi tình cờ vi phạm luật, các luật sĩ đặt ra một điều luật rằng người ta chỉ có thể bước đi hai phần năm dặm.
Nhận xét về thói vụ luật quá đáng này, William Barclay, một người nghiên cứu luật Do Thái, đã viết như sau:
Vào lúc sự dẫn giải lề luật chấm dứt, phải mất trên năm mươi bộ sách để ghi lại các quy tắc phát sinh từ việc dẫn giải đó.
Kết quả sau cùng của việc này là nhiều thường dân ở Israel từ bỏ việc tuân giữ lề luật mà các luật sĩ đặt trên vai họ. Họ thực sự chán nản và không còn hy vọng gì để làm vừa lòng Thiên Chúa. Nhiều thường dân còn bỏ cả việc tuân giữ các điều luật chính.
Hậu quả là những người này bị các luật sĩ và Biệt Phái tẩy chay, coi họ là những người tội lỗi và bị ruồng bỏ.
Điều này giải thích lý do tại sao Đức Giêsu đối xử rất khắc nghiệt đối với các luật sĩ và Biệt Phái. Đó là vì họ làm ô uế tôn giáo và biến tôn giáo thành một bộ lề luật.
Điều này cũng giải thích lý do tại sao Đức Giêsu nói với các luật sĩ và Biệt Phái trong bài phúc âm hôm nay:
“Họ cột những gánh nặng không thể khiêng nổi trên lưng người dân; nhưng họ lại không muốn nhấc ngón tay để giúp người dân mang những gánh nặng ấy.”
Trái với thói vụ luật này, Đức Giêsu chủ trương tình yêu và sự tha thứ. Người nói rằng tâm điểm của tôn giáo thì không phải là một cuốn sách đầy luật mà chỉ có một ít người có thời giờ rảnh rỗi để học biết và tuân giữ.
Đúng hơn, đó là một tâm hồn đầy tràn tình yêu và trắc ẩn, mà mọi người đều có khả năng.
Đức Giêsu nhấn mạnh đến điều này trong bài phúc âm tuần trước khi Người tóm lược các giới răn của lề luật thành hai điều: Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sư và yêu thương tha nhân như chính mình.
Tất cả các giới răn khác đều lệ thuộc vào hai điều này.
Nói cách khác, Đức Giêsu nói rằng quý vị có thể đặt ra mọi lề luật quý vị muốn và tuân giữ những điều luật quý vị đặt ra. Nhưng nếu lý do để thi hành như vậy không phải là tình yêu Thiên Chúa và tha nhân, quý vị đã quên đi điểm chính của lề luật và tôn giáo.
Thánh Phaolô, từ một người Biệt Phái trở lại Kitô Giáo, trong thư gửi Tín Hữu Côrintô ngài đã nhấn mạnh đến cùng một điểm này khi nói:
Tôi có thể có được mọi đức tin đến độ chuyển cả ngọn núi – nhưng nếu tôi không có tình yêu, tôi cũng chẳng là gì. Tôi có thể cho đi mọi sự tôi có… nhưng nếu tôi không có tình yêu,
điều này chẳng ích gì cho tôi.
Yêu thì nhẫn nại, yêu thì ân cần.
Yêu không phải là ghen tương, không phải là khoe khoang,
không phải là tự mãn, không phải là thô lỗ,
yêu không tìm lợi ích riêng cho mình,
không hay nóng giận, không cay đắng,
yêu không vui khi làm điều sái quấy nhưng vui khi thấy sự thật.
Tình yêu không bao giờ bỏ cuộc; và sự tin tưởng, sự hy vọng và sự kiên nhẫn của tình yêu
thì không bao giờ thất bại.”
1 Cor. 13:2-7
Nếu có hồ nghi về địa vị hàng đầu của tình yêu trong tôn giáo, những lời trên của T. Phaolô đã xua tan tất cả.
Hãy kết thúc bằng lời của Mẹ Têrêsa, là người hơn ai hết đã duy trì sự quân bình mỹ miều giữa tình yêu và lề luật khi đề cập đến sự thực hành tôn giáo. Mẹ nói:
Nhiệm vụ của mỗi người là một nhiệm vụ yêu thương…
Hãy khởi sự ngay nơi bạn đang ở, với những người gần gũi nhất với bạn.
Hãy biến nhà bạn thành các trung tâm đầy trắc ẩn và tha thứ không ngừng.
Đừng để ai sau khi đến với bạn mà không trở nên tốt hơn và vui hơn…
Vào lúc chết khi chúng ta đối diện với Thiên Chúa, chúng ta sẽ được xét xử dựa trên tình yêu; không phải bao nhiêu công việc mà chúng ta đã làm,
nhưng bao nhiêu tình yêu mà chúng ta đã biến thành hành động.
7. Hạ xuống và nâng lên
Sau khi nghe đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta không khỏi băn khoăn tự hỏi: Tại sao Chúa Giêsu lại phê bình chỉ trích bọn biệt phái và luật sĩ? Tôi xin thưa rất có thể khi phê bình chỉ trích như thế, Chúa Giêsu nhằm đề cao cảnh giác và hướng dẫn cho các môn đệ đừng mắc phải cái thói tật của những hạng người ấy. Hơn nữa khi ghi lại những lời ấy, thánh Matthêu cũng muốn nhắn gởi mỗi người chúng ta, là những người đang sống trong lòng Giáo Hội, bởi vì trong lòng Giáo Hội có những người muốn tổ chức Giáo Hội theo kiểu mẫu Do Thái và hàng tư tế đạo mới có vẻ như muốn bắt chước hàng tư tế đạo cũ.
Như chúng ta đã biết bọn biệt phái và luật sĩ tiên vàn được công nhận như là những người có quyền ngự toà Maisen, nghĩa là họ nắm giữ quyền giáo huấn và trông coi luật pháp. Địa vị này không phải là nhỏ. Toà của Maisen ngày xưa được đặt ở núi Sinai, nơi ông tuyên bố luật pháp và ký kết giao ước giữa Thiên Chúa và dân Do Thái. Núi Sinai thuở ấy có mây trời che phủ và sấm chớp vang rền khiến cho dân chúng hết sức sợ hãi. Tất cả những chi tiết ấy đều nói lên quyền lực vô biên của Thiên Chúa. Còn thời Chúa Giêsu, thì hàng tư tế ngồi trên toà Maisen nghĩa là họ có quyền giáo huấn, tiếp nối địa vị của ông. Thế nhưng họ đã thi hành quyền ấy như thế nào? Tôi xin thưa có hai cách. Một là họ dạy luật pháp cho người khác, còn bản thân họ thì lại không thi hành. Hai là họ thêm thắt vào lề luật đến nỗi họ trở nên kẻ rao giảng truyền thống của loài người chứ không phải là lề luật của Thiên Chúa nữa. Với cách trên họ là những kẻ giả hình vì họ nói mà không làm. Còn với cách dưới họ gò ép mọi người phải sống theo khuôn mẫu họ đã vẽ ra.
Họ còn là những kẻ hiếu danh, muốn ăn trên ngồi trốc. Nhiều khi tính hiếu danh này đã đi tới những hành động quá trớn, chẳng hạn nới rộng hộp đựng Kinh Thánh, làm to tua áo, ưa được ngồi chỗ nhất trong đám tiệc và được chào hỏi ngoài đường phố. Họ coi mình là trung tâm của vũ trụ và xã hội này chỉ có mình họ là to lớn mà thôi. Đây cũng là điều mà chúng ta cần phải tẩy trừ, cần phải xa tránh. Sống trong lòng Giáo Hội, chúng ta phải xác tín rằng mọi vinh quang là của Thiên Chúa, chỗ đứng của Ngài phải trổi vượt trên mọi người. Có hướng về Thiên Chúa, thì chúng ta mới là anh em của nhau và Giáo Hội mới đích thật là Hội Thánh của Đức Kitô. Đây là một bổn phận chung cho mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc, chúng không phải chỉ là một bổn phận dành riêng cho số người nào đó. Có thi hành như thế, thì chúng ta mới thật sự giảng đạo Chúa chứ không phải là giảng chính mình và cuộc đời của chúng ta mới tìm thấy được sự bình an hạnh phúc bởi vì như lời Chúa đã phán: Ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng.
8. Nghịch lý trong đời - Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Có một định lý thật trái ngược đang hình thành trong xã hội Việt Nam. Nơi nào kinh tế còn nghèo nàn, người dân lại sống đùm bọc lẫn nhau. Lá lành đùm lá rách. Nơi nào kinh tế phát triển, người ta lại sống thờ ơ và dửng dưng với nhau. Nhà nào cũng kín cổng cao tường. Người nghèo tối lửa tắt đèn có nhau. Họ sẵn sàn phục vụ lẫn nhau, bất kể mưa nắng, bất kể ngày đêm. Họ phục vụ không toan tính. Không vụ lợi. Điều này ở người giầu không có. Người giầu sẵn sàng bố thí nhưng họ không dễ dàng cúi xuống phục vụ cho nhau. Họ không ngần ngại bỏ hàng triệu để xây những nhà tình thương, tình nghĩa, nhưng rất khó lòng mở rộng cửa đón tiếp kẻ nghèo đói, bần cùng. Người nghèo không có của nên tìm cách phục vụ lẫn nhau. Người giầu có, đi kiếm tôi tớ phục vụ. Cha mẹ không cần phục vụ con cái. Vợ chồng không cần phục vụ lẫn nhau. Con cái không cần phục vụ gia đình vì đã có những người giúp việc, những Osin phục vụ thay cho hết mọi người.
Bên cạnh sự phân hóa giầu nghèo dẫn đến tình trạng phân biệt giai cấp chủ - tớ, còn có một định lý trái ngược nơi những người có chức có quyền. Người có chức trên danh nghĩa là để phục vụ nhưng xem ra họ trở thành người được phục vụ. Họ có quyền để bảo người khác phục vụ. Tùy theo chức to, chức nhỏ. Họ đều có người trợ lý, trợ tá để phục vụ cho mình. Người quyền quý có kẻ đưa người đón. Kẻ hầu người hạ. Chức càng cao, quyền càng lớn, càng lắm kẻ để sai, để khiến. Thế nên, người ta thường tranh giành nhau chức vụ để được ăn trên người trốc và được người khác phục vụ với “mâm cao cỗ đầy”.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã lên án gắt gao thói khoe khoang, giả hình và vụ lợi của những người biệt phái. Họ nói mà không làm. Họ dùng chức quyền, địa vị để vun quén của cải, để sống một cuộc đời thượng lưu, xa sỉ. Đối lại thái độ ấy của người biệt phái, Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ hãy theo gương Chúa để hạ mình làm tôi tớ phục vụ cho nhau. Người càng làm lớn càng phải biết phục vụ anh em nhiều hơn.
Chúa Giêsu đã không chỉ nói các môn sinh hãy phục vụ lẫn nhau mà chính Ngài đã cúi mình rửa chân cho các môn sinh. Một hành vi khiêm tốn đến nỗi các môn sinh phải kinh ngạc, còn Phêrô sợ hãi, thốt lên: “không đời nào Thầy là Chúa, là Thầy mà lại rửa chân cho con”.
Vì việc rửa chân cho khách theo thói tục Do Thái ngày xưa chỉ dành cho tôi tớ trong nhà. Đó không phải là việc của người chủ, hay của người có chức có quyền. Thế mà, Chúa là chủ, là Thầy lại cúi mình rửa chân cho tôi tớ, cho môn sinh của mình.
Đối với phong tục Việt Nam không có tập quán rửa chân cho khách. Song le, vẫn có rất nhiều công việc phục vụ tầm thường khác đòi hỏi chúng ta phải khiêm tốn phục vụ cho nhau. Có biết bao người già yếu bệnh tật không ai nương tựa, không ai chăm sóc. Họ đang cô đơn giữa dòng đời. Họ đang sống một cuộc đời lây lất thiếu thốn tình thương. Họ đang khao khát một nghĩa cử yêu thương, kính trọng từ chúng ta. Liệu rằng chúng ta đã làm gì để đem lại niềm vui và hạnh phúc cho họ? Có biết bao nhiêu công việc tầm thường trong gia đình như: lau chùi nhà cửa, rửa chén bát, tắm rửa, giặt giũ cho con cái đang dồn lên vai một người vợ, một người mẹ, liệu rằng ta có bao giờ cúi mình phụ giúp hay vẫn sống trưởng giả quan liêu? Có biết bao gia đình lân cận đang túng quẫn cơ cực, thiếu thốn mọi bề, liệu rằng chúng ta đã bao giờ chia sẻ cho họ một chút gánh nặng, một chút tình thương từ lòng quảng đại của chúng ta hay không? Và còn biết bao công việc không tên, không tuổi đang cần những tâm hồn quảng đại và đầy lòng khiêm tốn mới có thể thực thi, liệu rằng ta có dám can đảm để thực hiện hay chỉ ra lệnh và chỉ bảo người khác thực hiện?
Phục vụ không phải là của hạng cùng đinh, nghèo khổ mà là của những con người có trái tim yêu thương. Càng phục vụ càng làm cho phẩm giá con người của mình càng thêm cao đẹp.
Chúng ta tự hỏi: Tiêu chuẩn nào để đánh giá về giá trị và nhân cách của một con người? Phải chăng là dựa trên của cải, chức vụ? Thưa không, mà là dựa trên những việc họ làm có mang lại lợi ích cho tha nhân hay không. Có tiền nhưng bủn sỉn, keo kiệt, lại thêm xem thường người bần cùng, chỉ làm cho tha nhân khinh bỉ và loại trừ. Có chức, có quyền nhưng lại hống hách, kiêu căng, chèn ép người thấp cổ bé miệng, chỉ làm cho tha nhân xa tránh và xem thường.
Có ai đó đã nói rằng: “người ta chỉ thán phục người có tài ăn nói, nhưng nhân loại chỉ nghiêng mình trước một người có lòng nhân”.
Ước gì mỗi người chúng ta biết gom góp những nghĩa cử cao đẹp cho tha nhân trong cuộc sống hằng ngày thay cho sự vun quén lúa thóc đầy nhà và chuyên dùng những hàng hóa xa sỉ phẩm mà đánh mất tình bạn, tình thân. Ước gì mỗi người chúng ta biết tích lũy cho đầy lòng mình tình yêu và lòng thương xót đối với tha nhân thay cho những của cải đầy nhà mà mất đi tình hàng xóm làng giềng.
Nguyện xin Chúa Giêsu, Đấng đã đến trần gian để phục vụ và hiến mạng sống mình vì lợi ích nhân loại, giúp chúng con biết noi gương Ngài luôn sống quảng đại quên mình vì hạnh phúc của anh chị em chung quanh. Amen.
9. Phục vụ - Lm. Joshepus Quang
Nhìn vào đời sống của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Chúa Giêsu coi việc phục vụ là trung tâm và chóp đỉnh của đời sống với Thiên Chúa và tha nhân. Qủa thế, Chúa Giêsu được Thiên Chúa sai đến để thi hành ý muốn của Thiên Chúa: mạc khải Thiên Chúa cho nhân loại để ai tin vào Người sẽ được sống đời đời (Ga 3,31-36) và đền bù sự chối từ phục vụ Thiên Chúa của ông bà nguyên tổ chúng ta (St 3,6) qua cái chết đau thương trên thập giá (Mt 16,21). Chúa Giêsu là Chúa, là Thầy nhưng “Người không đến để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và ban sự sống mình làm giá cứu chuộc cho muôn người” (Mc 10,45). Cho nên, cả đời Ngài là một chuỗi hành vi phục vụ con người: rao giảng Nước Trời, chữa lành tật bệnh, tha tội, chúc lành cho trẻ em, dạy dỗ các môn đệ, rửa chân cho các môn đệ và thậm chí kẻ phản bội mình (Ga 13,1-15) nữa, rồi chịu nạn chịu chết để cứu độ muôn người. Vì vậy, Chúa Giêsu hôm nay mời gọi chúng ta: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”.
Phục vụ của Chúa Giêsu là thế, còn chúng ta có làm được như thế với một kẻ phản bội mình, từng làm mình khổ trăm bề, chúng ta có khả năng tươi cười, tha thứ yêu thương hay phục vụ họ như bao người khác không. Đừng lo là mình không làm được! Chúa Giêsu ban cho chúng ta tình yêu cao quí đó qua việc chúng ta kết hiệp với Ngài trong Bí tích Thánh Thể, “Ai ăn thịt và uống máu tôi thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Ðấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy” (Ga 6,56-57).
Rõ ràng rằng động lực giúp chúng ta phục vụ tha nhân đó là tình yêu Chúa Giêsu Thánh Thể. Qủa thế, một buổi nói chuyện của Thánh Têrêxa Calcutta trước Hội Nghị Quốc Tế về Thánh Thể tại Nairobi, Kenya, năm 1985, Thánh nữ đã nói rằng Đức Giêsu đến với chúng ta vì mục đích: “Để nói với chúng ta rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Chúng ta thật quý giá đối với Người. Chúng ta đã được tạo dựng để yêu thương và được yêu thương, và chúng ta phải yêu thương nhau như Người yêu thương chúng ta, như Chúa Cha yêu thương Người”. Mẹ nói tiếp: “Thập giá và nhà tạm, như hai biểu tượng cụ thể cho tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại: Khi nhìn lên thập giá, chúng ta biết rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến thế nào. Và khi nhìn lên nhà tạm, chúng ta biết rằng Người vẫn ở đó để yêu thương chúng ta như thế nào. Mối liên kết mật thiết giữa nỗi đau khổ của Đức Kitô và sự hiện diện của Đức Giêsu trong nhà tạm đổ tràn đầy vào nỗi đau khổ trên thế giới. Đức Giêsu đã tự biến mình thành Tấm Bánh ban Sự Sống, hầu làm thỏa mãn nỗi đói khát của chúng ta về tình yêu. Và như thể việc này vẫn không đủ đối với Người, nên Người còn tự biến mình thành một kẻ đói khát, trần truồng, khiêm tốn nhất, những người đau yếu, nghèo khổ, không được ai cần đến, không được yêu thương, những kẻ phong hủi, nghiện ma túy, nghiện rượu, các cô gái điếm… để chúng ta phục vụ”.
Như thế, Thánh Thể chính là tình yêu hy tế mà Thiên Chúa dành cho chúng ta, để được ăn vào và tiêu hóa, và trở thành một phần trong con người chúng ta. Khi chúng ta đón rước Thánh Thể, thì chúng ta được Thiên Chúa ban sức mạnh để yêu mến và phục vụ những người khác, với cùng tình yêu mà Đức Kitô đã bày tỏ cho chúng ta. Bằng cách này, bí tích Thánh Thể giúp chúng ta mang tình yêu của Đức Kitô và thúc bách chúng ta đến phục vụ mọi người vì chính Chúa Giêsu cũng hiện diện nơi họ. Cho nên, Lời Chúa trong bài đọc 2, Thánh Phaolô nói: “Chúng tôi đã quý mến anh em, đến nỗi sẵn sàng hiến cho anh em, không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà cả mạng sống của chúng tôi nữa, vì anh em đã trở nên những người thân yêu của chúng tôi”. Còn Đức Thánh Cha Phanxicô, trong Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng, nói rằng: “Hội Thánh “đi ra” dấn thân và nâng đỡ, sinh hoa trái và vui mừng. Thiên Chúa đã có sáng kiến, Ngài đã yêu chúng ta trước và vì thế chúng ta có thể dấn bước, mạnh dạn có sáng kiến, đến với người khác, tìm kiếm những người sa ngã, đứng ở các ngả đường để đón mời những người bị gạt ra bên lề vào mà an ủi nâng đỡ họ. Nếu chúng ta thực hành, thì phúc cho chúng ta!” (Số 24).
Là Kitô hữu, chúng ta trước hết rập theo cung cách phục vụ của Chúa Giêsu. Để phục vụ, chúng ta cần xóa mình, xoá những chức vụ, địa vị, những đặc quyền, hay đặc ân mình có. Phục vụ không phải là chuyện nhục nhã, luồn cúi hay nhút nhát nhưng là vinh dự, là một mối phúc. Chúa Giêsu nói: “Tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi” (Ga 13,16). Có nghĩa rằng Chúa Giêsu là người sai tôi đi, mà người sai tôi đi đã cúi mình xuống phục vụ thì tôi không thể làm khác được.
Ở đời này, ai ai cũng có cao vọng làm lớn, muốn có uy quyền, có tiền… điều đó không sai trái, nhưng chúng ta có được những thứ đó không phải bằng những hành vi giang hồ mà bằng nỗ lực chân chính của mình. Và khi ta có chúng, chúng ta sử dụng chúng đúng với mục tiêu xứng hợp với nhân phẩm của mình, đúng với luật tự nhiên và luật Chúa. Đừng vì chúng mà tranh cãi nhau, xâu xé nhau, đối xử với nhau một cách bất công và tàn nhẫn. Chúa Giêsu không hủy bỏ cao vọng của con người nhưng khẳng định rằng cao vọng không phải là thống trị, đàn áp người khác nhưng là hạ mình phục vụ Chúa và tha nhân. Cho nên, Thánh Giacôbê dạy: “Đức khôn ngoan Chúa ban làm cho con người trở nên trước là thanh khiết, sau là hiếu hoà, khoan dung, mềm dẻo, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình” (Gc 3,16-17).
Để kết thúc bài chia sẻ, tôi xin mời cộng đoàn cùng nhau hát bài hát “Kinh hoà bình” như một lời cầu nguyện của chúng ta để xin Chúa cho chúng ta sống Lời Chúa hôm nay trong cuộc sống này: Lạy Chúa từ nhân....
10. Sống thật - Trầm Thiên Thu
Thời gian tưởng chừng bao la vô tận nhưng nó lại ngắn dần, ngắn dần... Một năm đang từ từ khép lại. Năm Phụng vụ cũng chuẩn bị kết thúc, nhắc chúng ta về sự kết thúc cuộc đời: Chết. Đặc biệt là sự kết thúc thế gian: Tận Thế. Càng về cuối Năm Phụng Vụ, Giáo hội cho chúng ta nghe lại những đoạn Phúc Âm mang màu sắc “lạ” hơn với những lời Chúa Giêsu khiển trách “rát” hơn: Giả hình.
Sống thật là điều thật là khó. Phải thực sự can đảm mới có thể dám “sống thật” với một lương-tâm-chân-chính. Trong cuộc sống thường nhật, mỗi khi muốn “chứng tỏ” mình để người khác tin mình, người ta thường nói: “Tôi không như người ta đâu, tôi thật lòng lắm, hiền lắm, chịu đựng lắm,...”. Nhưng kinh tởm thay, khi người ta “nói thật” như vậy lại chính là lúc người ta đang giả dối – giả dối với người khác và giả dối với chính mình. Đó là dạng Pharisêu thời @ đấy thôi! Vì ảo tưởng mà người ta giả dối, ảo tưởng là “lừa gạt chính mình” (Gl 6:3).
Đối với những điều xấu xa, bê bối, lén lút,... Thánh Phaolô nói thẳng: “Đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối, phải vạch trần những việc ấy ra mới đúng” (Ep 5:11). Đây là một trong các câu Kinh Thánh khiến người ta “dị ứng”, không muốn “ngó” tới!
Thiên Chúa đã tuyên phán rạch ròi: “Chính Ta là Đức Vua cao cả, và danh Ta được kính sợ giữa chư dân” (Ml 1:14b). Như một phương trình phải có hai vế cân đối, Thiên Chúa đưa ra vế thứ hai là một lời cảnh báo: “Nếu các ngươi không nghe và không lưu tâm tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ khiến các ngươi mắc tai hoạ, Ta sẽ biến phúc lành của các ngươi thành tai hoạ. Phải, Ta biến phúc lành ấy thành tai hoạ, vì các ngươi chẳng lưu tâm gì cả” (Ml 2:2). Đây không là lời hù dọa, mà là sự công bằng, là sự thật minh nhiên.
Ngài tỏ tường mọi sự, biết rõ lòng ai thế nào, sống giả dối hoặc chân thật, nhất là đối với những người có chức, có quyền: “Nhưng các ngươi đã đi trệch đường và làm cho nhiều người lảo đảo trên đường Luật dạy. Các ngươi đã huỷ hoại giao ước với Lê-vi. Còn Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi đáng khinh và ra hèn mạt trước mặt toàn dân, vì các ngươi không tuân giữ đường lối Ta, và hay nể vì khi áp dụng Luật. Tất cả chúng ta chẳng có cùng một cha sao? Chẳng phải cùng một Thiên Chúa đã dựng nên chúng ta sao? Thế mà sao chúng ta lại bội phản nhau mà vi phạm giao ước của cha ông chúng ta?” (Ml 2:8-10).
Định kiến, thiên vị hoặc phe cánh là “độc tố” của cuộc sống, nhất là đối với đời sống tôn giáo. Đó là “ngôn hành bất nhất” – nói một đường làm một nẻo, hoặc nói hay mà làm dở ẹc, thậm chí nói người khác làm chứ mình không làm. Đây không là một hiện tượng, nhưng là một tình trạng tệ hại vẫn thấy xảy ra nhiều nơi – cả giáo xứ và dòng tu.
Những người như vậy là kiêu ngạo, ỷ thế cậy quyền, ảo tưởng, và không thèm nhớ câu Chúa Giêsu nói: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban” (Ga 3:27). Do đó mà họ vênh vang tự đắc. Tác giả Thánh Vịnh biết mình là ai nên đã khiêm nhường: “Lòng con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào, Chúa ơi! Đường cao vọng, chẳng đời nào bước, việc diệu kỳ vượt sức, chẳng cầu. Hồn con, con vẫn trước sau giữ cho thinh lặng, giữ sao thanh bình. Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con, hồn lặng lẽ an vui” (Tv 131:1-2).
Đó là tinh thần thơ ấu tâm linh mà Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã áp dụng tuyệt đối. Chính Chúa Giêsu rất thích trẻ thơ (x. Mt 19:13-15; Mc 10:13-16; Lc 18:15-17). Sống như vậy là sống khôn ngoan, là cách sống thật sẽ được Thiên Chúa chúc phúc.
Trong tinh thần đó, Thánh Phaolô cầu chúc: “Xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc khải cho anh em nhận biết Người. Xin Người soi lòng mở trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh” (Ep 1:17-18).
Là Tông đồ, có cả chức và quyền, nhưng Thánh Phaolô không tự cho mình cái quyền được tôn trọng: “Trong khi chúng tôi có thể đòi anh em phải trọng đãi, với tư cách là Tông Đồ Đức Kitô. Chúng tôi đã quý mến anh em, đến nỗi sẵn sàng hiến cho anh em, không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà cả mạng sống của chúng tôi nữa, vì anh em đã trở nên những người thân yêu của chúng tôi. Thưa anh em, hẳn anh em còn nhớ nỗi khó nhọc vất vả của chúng tôi: đêm ngày chúng tôi đã làm việc để khỏi thành gánh nặng cho một người nào trong anh em, suốt thời gian chúng tôi loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa cho anh em” (1 Tx 2:7-9). Ngày nay thì sao? Dĩ nhiên cũng vẫn có những người biết “vì người khác” như vậy, nhưng cũng không thiếu những người thích dùng quyền và chỉ tay năm ngón.
Trong bài viết “Cầu Nguyện với Chúa về Tình Hình Quỷ Dữ Lộng Hành Ngày Nay”, ĐGM G.B. Bùi Tuần chia sẻ thẳng thắn: “Kinh nghiệm cho tôi thấy những gì Chúa phán đều đã xảy ra nhiều cách khác nhau. Có một số ít người được lãnh nhận chức thánh, do tranh đấu, do vận động, do mưu lược. Có nghĩa là đã có sự lừa dối trong việc trở thành mục tử. Mục tử giả bị Chúa gọi là kẻ trộm, kẻ cướp. Cũng có một số ít người vào chuồng chiên một cách đàng hoàng, nhưng không hy sinh cho đoàn chiên thì bị Chúa gọi là kẻ làm thuê (x. Ga 10:12). Nghĩa là họ cũng có sự lừa dối trong trách nhiệm, một trách nhiệm đòi nhiều từ bỏ chính mình, vác thánh giá mà theo Chúa”.
Ngày xưa, Thánh Phaolô đã nói rõ: “Chính Satan cũng đội lốt thiên thần sáng láng! Vậy có gì là khác thường khi kẻ phục vụ nó đội lốt người phục vụ sự công chính” (2 Cr 11:14-15). Đáng sợ quá!
Thánh Phaolô chia sẻ: “Về phần chúng tôi, chúng tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa, vì khi chúng tôi nói cho anh em nghe lời Thiên Chúa, anh em đã đón nhận, không phải như lời người phàm, nhưng như lời Thiên Chúa, đúng theo bản tính của lời ấy. Lời đó tác động nơi anh em là những tín hữu” (1 Tx 2:13). Ước gì điều chia sẻ này của Thánh Phaolô là thực tế minh nhiên trong các cộng đoàn Kitô hữu, dù cộng đoàn lớn hoặc nhỏ. Để được xứng danh là Kitô hữu thì không là chuyện đơn giản, phải CÓ thật chứ không thể CÓ giả!
Mt 23:1-12 là trình thuật khiến nhiều người “ngại” tiếp cận, không chỉ không thích mà còn… “khó chịu” – nhất là những người có quyền “ăn trên, ngồi trước” (đạo cũng như đời): “Các kinh sư và các người Pharisêu ngồi trên toà ông Môsê mà giảng dạy” (Mt 23:2). Sao vậy nhỉ? Lý do rất đơn giản: Lời Chúa nói thẳng quá, nói rõ quá, nói “toạc móng heo” luôn, chẳng “úp mở” chi cả. Thầy Giêsu luôn thế đấy! “Thuận ngôn” thì thường khiến “nghịch nhĩ”, người không chính trực sẽ “dị ứng” ngay thôi. Chắc hẳn đây là một trong những đoạn Phúc âm mà người ta “ngại” đọc nhất, có đọc thì cũng chỉ “lướt qua”, tìm cách “nói lái” hoặc “né tránh” sao đó. Miễn cưỡng vì… bị lúng túng!
Nói dễ, làm khó. Tất nhiên là “nói trước” đôi khi “bước không qua”. Theo đạo hoặc theo Chúa cũng có nhiều dạng, một trong các dạng là “nhãn hiệu”. Vâng, chỉ có cái “mác” thôi. Ngày nay, những thứ ghi Made in USA hoặc Made in Japan khiến người ta tin tưởng hơn Made in Vietnam, dù chất lượng chưa chắc hơn, nhất là bất cứ thứ gì ghi Made in China đều khiến người ta “rùng mình” và tẩy chay ngay lập tức!
Thường thì người ta có xu hướng thích “nói suông” thôi, “hành động” thì còn... xét lại. Ở nơi nọ hoặc nơi kia vẫn thấy có những “siêu nhân”, không chỉ nói suông mà còn “chỉ tay năm ngón”, đùn đẩy trách nhiệm, hạt muối cắn đôi nhưng hạt đường ăn cả, tình trạng của nhóm Pharisêu mà Chúa Giêsu đã chỉ trích gay gắt: “Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào” (Mt 23:4). Họ không muốn nhận trách nhiệm nhưng lại đòi nhiều quyền lợi. Lời dạy của Chúa Giêsu: “Ai làm lớn phải phục vụ” (x. Mt 20:24-28; Mc 10:40-45) và “người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em” (Mt 23:11). Lời khuyên của Thánh Phaolô: “Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau” (Gl 6:2). Đó là những lời người ta không muốn nhắc tới. Đôi khi Chúa cũng bị hàm oan, vì người ta cứ lợi dụng lòng tốt của Chúa, rất có thể người ta còn dám nhân danh Chúa mà đàn áp người khác. Cờ đến tay ai thì người đó phất. Người ta vẫn nói thế đấy!
Về những người có chức, có quyền, muốn chứng tỏ mình tốt lành, Chúa Giêsu “mách nước” cho chúng ta: “Tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm” (Mt 23:3). Rất nhiều khi chúng ta tỏ ra nghiêm túc, nói chuyện đạo đức, đi tới nơi này nơi nọ để làm việc từ thiện bằng vài bao quần áo cũ, vài thùng mì ăn liền, cho người ta ít tiền, dăm ba đồ lặt vặt,… và thế là tưởng mình “ngon ăn”, nhưng thực chất chưa chắc vì thấy chính Chúa nơi những con người nghèo khổ, những con người sa cơ lỡ vận kia, nhưng có thể cũng chỉ là dạng mà Chúa Giêsu đã vạch trần: “Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là Thầy” (Mt 23:4-7).
Đồ từ thiện đó có phải là đồ do chính mình hy sinh hay là đồ thừa? Coi chừng chỉ là phế phẩm, thay vì vứt đi thì chúng ta đem “tặng” cho họ, rồi oang oang nói là “làm từ thiện”. Như vậy có phải là bác ái đúng nghĩa? Còn lâu, may ra thì chỉ ở mức bố thí hoặc công bằng. Chân phước Mẹ Teresa Calcutta (28/8/1919 – 5/9/1997), sáng lập Dòng Truyền giáo Bác ái (Missionaries of Charity), đưa ra nguyên tắc sống: “Yêu là cho đi đến khi cảm thấy đau”. Yêu vậy mới là bác ái đúng như Chúa dạy. Khó lắm chứ chẳng đơn giản hoặc nông cạn như chúng ta tưởng đâu!
Thánh Phaolô đã phân tích: “Lòng bác ái không được giả hình giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành; thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình; nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa” (Rm 12:9-11). Thật độc đáo khi người Pháp nói: “Đừng vì kính mến Chúa mà chống đối kẻ khác”. Người ta giả hình chỉ vì họ trọng hình thức bề ngoài và ảo tưởng, nhưng hãy coi chừng: “Ai tưởng mình là gì mà kỳ thực không là gì hết, thì là lừa gạt chính mình” (Gl 6:3). Quả thật, “con cái đời này khôn ngoan hơn con cái sự sáng” (Lc 16:8). Thật đáng sợ vì xuất hiện càng ngày càng nhiều thứ giả!
Chúa Giêsu nói nhiều điều “khó lọt tai”, điều này rồi điều kia. Chúng ta chê chế độ phong kiến vì cứ phải “kính, bẩm, thưa, trình”, nhưng ai dám “nói thẳng, nói thật”, không luồn cúi, thì bị “ghét”, bị xa lánh. Ai dám “săm soi” cái-ghế-toàn-năng của người khác thì “có chuyện” ngay. Chuyện đời xưa nay vẫn thế, và chuyện nhà đạo cũng có khác gì đâu!
Chúa Giêsu không bao giờ “vòng vo tam quốc”, bất cứ ai không sống thật đều bị Ngài “phang” tới bến: “Các người như mồ mả không có gì làm dấu, người ta giẫm lên mà không hay” (Lc 11:44). Kinh khủng thật, nhưng rất “đã ngứa”. Người ta giết Chúa Giêsu chết thảm thương chỉ vì Ngài dám nói thẳng, dám “ý kiến, ý cò”, dám “chỉ trích” người khác, dám “chạm” vào chỗ “nhạy cảm” của những “người lớn” (vừa có chức vừa có quyền).
Có nên sống thật, và sống thật như thế nào? Đó là nỗi băn khoăn không của riêng ai. Với câu hỏi đó, chắc chắn ai cũng có thể trả lời: “Rất nên”. Tuy nhiên, có thể hiện cách sống thật hay không mới là vấn đề. Cần phải can đảm và dứt khoát. Đó cũng là một cách “từ bỏ mình” theo ý Chúa muốn!
Lạy Thiên Chúa của chân lý, công minh và chính trực, xin xót thương chúng con là những kẻ tội lỗi (Lc 18:13), xin giúp chúng con can đảm tẩy não cho đúng Ý Ngài, luôn làm đúng với những gì chúng con nói. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
11. Khiêm nhường
Thầy Pacifique là một trong số những môn đệ đầu tiên của thánh Phanxicô d’Assie, ngày kia thầy được Chúa đưa lên thiên đàng và chiêm ngắm những cảnh sắc huy hoàng. Thầy nhìn thấy một chiếc ngai sáng chói, và Chúa đã nói với Thầy: Chiếc ngai mà con thán phục đó là chiếc ngai của Lucifer, nhưng vì kiêu ngạo, nó đã bị bỏ mất, giờ thì nó thuộc về Phanxicô d’Assie, người tôi tớ khiêm nhường của Ta. Hôm sau trong giờ nghỉ, thầy đã hỏi thánh nhân: Thưa cha, cha nghĩ gì về mình. Thánh nhân trả lời: Tôi chỉ là một kẻ tội lỗi đáng thương nhất. Thầy dòng ngạc nhiên: Làm sao mà cha có thể như vậy được. Thánh nhân trả lời: Nếu Chúa ban cho kẻ khác những ơn hệt như đã ban cho tôi, thì họ đã trở nên tốt lành thánh thiện hơn tôi rất nhiều. Thầy dòng suy nghĩ, và nhớ tới lời Chúa đã phán: Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
Vậy chúng ta phải hiểu thế nào về lời nói của Chúa Giêsu? Đâu là ý tưởng của Ngài? Dĩ nhiên Chúa không bảo chúng ta tuân giữ một đức khiêm nhường bề ngoài, một sự khiêm nhường giả hiệu, chẳng hạn như khi đi dự tiệc, là phải chọn ngay mâm cuối, để rồi sẽ được chủ nhà mời lên mâm trên. Căn bản của thái độ này chính là kiêu ngạo, sự trá hình. Chúa không bảo chúng ta hãy lợi dụng chỗ thấp để làm cho mình được vinh dự, trái lại, chúng ta phải có tâm tình khiêm nhường, sẵn sàng chấp nhận những công việc khiêm tốn, những địa vị kém cỏi. Chúa là Đấng phân định công nghiệp của chúng ta, chính Ngài sẽ chỉ cho chúng ta đứng vào địa vị xứng hợp.
Chúng ta sống trên trần gian, không phải là để thống trị mà là để phục vụ kẻ khác như lời Ngài đã phán: Con Người đến không để được phục vụ mà để phục vụ và hiến thân vì người khác. Ai muốn làm lớn, hãy trở nên như tôi tớ. Đó chính là bài học mà chúng ta không bao giờ được quên lãng, vì Chúa chống đối kẻ kiêu ngạo và yêu thương người khiêm nhường.
Một nữ tu kia có tiếng hát rất hay. Sơ biết điều đó và thường hãnh diện mỗi khi hát trong nhà nguyện của cộng đoàn. Sau khi sơ ấy chết đi, thánh nữ, Gertrude nhìn thấy linh hồn của sơ ấy quằn quại trong lửa luyện ngục. Trước cảnh tượng kinh hoàng ấy, thánh nữ đã khóc thương, nhưng Chúa hiện ra và phán: Vị nữ tu này đang đền bù, tẩy xoá tính kiêu ngạo. Hãnh diện vì tiếng hát, sơ ấy đã đi tìm những lời khen phù phiếm thay vì phụng sự thánh danh Ta.
Phải chăng chúng ta cũng đã tình cờ trở nên giống vị nữ tu trước những tài năng mà Chúa đã ban? Hãy dùng những khả năng của mình để phụng sự Chúa và anh em, nhờ đó mà chúng ta sẽ sống tâm tình khiêm nhường đích thực, vì ai hạ mình xuống, sẽ được không phải là người đời, mà chính là Chúa nâng lên.
12. Khiêm nhường
Chúng ta có thể xác quyết: Khiêm nhường là con đường bảo đảm nhất dẫn chúng ta tới quê hương Nước Trời.
Thực vậy, tội của ông bà nguyên tổ là gì, nếu không phải là sự kiêu căng, muốn trở nên bằng Thiên Chúa, từ chối không chịu để cho Ngài hướng dẫn, bằng cách giơ tay ngắt trái cấm mà ăn. Tội của Lucifer, vị thần mang ánh sáng, là gì, nếu không phải là tính kiêu ngạo, không muốn phục tùng Thiên Chúa nữa.
Từ đó, chúng ta thấy mình chỉ có thể gặt hái được những thành quả tốt đẹp, nếu biết trở nên như trẻ nhỏ, phó thác vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa, người cha đầy yêu thương và giàu lòng thương xót.
Dưới mắt Thiên Chúa, chúng ta thấy dường như có một sự đảo lộn giá trị: Ai tự nâng mình lên cao thì sẽ bị hạ xuống thấp, và trái lại ai hạ mình xuống thấp thì sẽ được nâng lên cao, bởi vì chính Chúa Giêsu đã phán: Ai muốn làm lớn thì phải trở thành kẻ rốt hết và làm đầy tớ phục vụ cho mọi người…Ai trở nên giống trẻ nhỏ, thì sẽ là người lớn nhất trong Nước Trời…
Để nuôi đám đông dân chúng trong hoang địa, Chúa Giêsu đã không làm cho manna từ trời rơi xuống, nhưng Ngài đã dùng năm chiếc bánh và hai con cá của một em nhỏ.
Và trong cuộc sống, Ngài đã sử dụng những phương tiện tầm thường nhất. Thực vậy, để thiết lập Giáo Hội, Ngài đã không chọn lựa những tiến sĩ luật và những nhà thông thái, trái lại, Ngài đã kêu gọi những con người đơn sơ và dốt nát.
Tại phòng tiệc ly, mặc dù luôn ý thức quyền năng của mình, thế nhưng Ngài đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ, để dạy cho các ông bài học khiêm nhường và phục vụ.
Trong công cuộc cứu độ nhân loại, Ngài đã không sử dụng tới uy quyền của một vị Thiên Chúa, nhưng đã cúi đầu chấp nhận thập giá, như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Ngài đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.
Ngài cũng muốn chúng ta noi gương bắt chước Ngài: các con hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng.
Đoạn Tin Mừng hôm nay đưa ra hai khuôn mặt, đó là khuôn mặt của một bậc thầy, một tiến sĩ luật và khuôn mặt của một người tôi tớ, một người hèn mọn.
Kẻ kiêu căng luôn đặt mình làm trung tâm của vũ trụ, muốn người khác phải trọng kính và coi mình như một vị thủ lãnh. Chính vì thế, kẻ kiêu căng không hề biết vâng lời và yêu thương. Họ sẽ không bao giờ được thỏa mãn, trái lại lúc nào cũng ghen tức vì hấy người khác được thành công. Một kẻ như vậy thì làm sao có thể gặp được Thiên Chúa.
Trong khi đó, người khiêm nhường biết từ bỏ mọi sự, ngay cả bản thân cùng với địa vị và danh dự. Họ biết nhận định đúng về con người của mình, đồng thời họ biết quên mình đi để mưu cầu lợi ích cho những người chung quanh. Chính vì thế, họ được dành cho nhiều tình cảm tốt đẹp và được chính Thiên Chúa đón nhận, vì tâm hồn họ trống rỗng, không có những vướng mắc và níu kéo.
Kytô giáo của chúng ta không thể thiếu vắng sự khiêm nhường, như lời thánh Bernađô đã xác quyết: Lời rao giảng quan trọng nhất của Đức Kitô chính là sự khiêm nhường.
Và thánh Phanxicô Assie cũng nói: Thiên Chúa thấy tôi tội lỗi hơn hết mọi người, nên Ngài đã chọn tôi để làm những công việc trọng đại.
Còn thánh Phanxicô Xaviê thì bảo: Trên dấu chân của Đức Kitô, chúng ta chỉ thực sự được nâng lên, một khi đã thực sự hạ xuống.
Để kết luận, chúng ta cùng nhau ghi nhớ tư tưởng sau dây của ông Gandhi: Nếu chúng ta nghĩ rằng mình là một cái gì đó, thi chúng ta đã đặt một hàng rào để ngăn cách với Thiên Chúa, còn nếu chúng ta nghĩ rằng mình chẳng là gì cả, thì chúng ta sẽ trở nên một với Ngài.
13. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Sau một loạt đụng độ giữa nhóm Luật sĩ và Biệt phái với Đức Giêsu, hôm nay Ngài nhắc nhở thái độ của các môn đệ và dân chúng đối với họ như thế nào?
1. Làm và tuân giữ theo lời nói của họ
Đức Giêsu luôn tôn trọng những người lãnh đạo thời bấy giờ, nhất là những người lãnh đạo về mặt tôn giáo như các Luật sĩ và Biệt phái. Ngài tôn trọng quyền giáo huấn của họ, vì họ “ngồi trên tòa MôiSen”, nghĩa là họ là những người kế vị MôiSen, họ có quyền giải thích luật MôiSen, họ được trao phó quyền để dạy dỗ dân chúng. Vì thế, Ngài bảo các môn đệ và dân chúng nghe theo lời dạy dỗ của họ: “Các Luật sĩ và các người biệt phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm và tuân giữ”(x. Mt 23,2-3).
2. Đừng noi theo hành vi của họ
Tuy vậy, Đức Giêsu lại khuyên các môn đệ và dân chúng “đừng noi theo hành vi của họ”(x. Mt 23, 2-3). Bời vì: “Họ nói mà không làm. Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta, còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử. Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy: vì thế họ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là ‘Thầy’.” (x. Mt 23,3-7).
Họ nói mà không làm: “Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta, còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử”(Mt 23,4). Bó nặng ở đây chính là luật lệ. Lúc đầu Thiên Chúa chỉ ban truyền cho Môsen Thập điều. Qua thời gian họ đã thêm thắt lên tới 613 điều, đến nỗi không biết điều nào là chính điều nào là phụ. Trong các điều luật đó, họ đưa ra nhiều thứ luật lệ hết sức vô lý. Họ không tuân giữ nhưng họ lại bắt ép dân chúng tuân giữ. Tương tự như trong xã hội chúng ta đang sống: Nhà nước sinh ra nhiều luật lệ nhưng chỉ áp đặt cho thường dân, còn quan chức thì dung túng. Chẳng hạn: Hai thiếu niên cướp bánh mỳ thì bị đưa ra xét xử, còn quan chức tham nhũng cả hàng nghìn tỉ đồng thì lại chỉ bị kỷ luật.
Họ hám danh tranh lợi: “Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy: vì thế họ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo”(Mt 23,5).
* Nới rộng thẻ kinh: Nguyên việc đeo thẻ kinh không xấu mà trái lại còn rất tốt, vì người Do thái thường làm như thế để nhắc nhở mình nhớ đến luật Chúa. Nhưng cái không tốt và trở thành thói xấu nơi những người Luật sĩ và Biệt phái là vì họ cố ý làm thẻ kinh rộng hơn, dài hơn, thậm chí là nét chữ đậm hơn không phải nhắc nhở họ tuân giữ luật mà để cho người ta thấy họ đạo đức.
* May dài tua áo: Việc mang tua áo nhắc nhở người Do Thái nhớ đến các giới răn. Vì thế, người Do thái mang tua áo không phải là xấu. Chính Đức Giêsu cũng mang tua áo. Nhưng tại sao nơi những người Biệt phái và Luật sĩ lại trở thành xấu? Bởi vì họ tăng kích thước dài hơn bình thường nhằm mục đích để khoe mình đạo đức.
Họ muốn được tôn trọng và ưu đại nơi công cộng: “Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là ‘Thầy’.” (Mt 23,6-7). Người Việt Nam chúng ta tôn trọng những vị cao tuổi và những người có địa vị trong xã hội và Giáo hội. Cho nên, mỗi khi có đám tiệc hay hội họp, người ta thường dựa vào tuổi tác và địa vị để sắp xếp chỗ ngồi. Còn khi ra đường gặp nhau thì người dưới có bổn phận phải chào hỏi người trên. Phong tục này rất nhân văn. Ở Do thái cũng tương tự như vậy. Nhưng, tại sao Đức Giêsu lại lên án những người Luật sĩ và Biệt phái? Bởi vì: Họ muốn được chỗ nhất; Họ muốn được chào hỏi; Họ muốn được người ta xưng hô là Thầy. Động từ “muốn” ở đây diễn tả sự thiếu khiêm tốn của họ. Chức vụ họ có được là nhờ cộng đoàn, nhờ Thiên Chúa ban cho. Họ có trách nhiệm dùng chức vụ để phục vụ chứ không phải để bắt người khác tôn trọng mình. Vì thế, Đức Giêsu đã lên ái thói xấu hay khoe khoang, muốn được người ta tôn trọng và ưu đại nơi công cộng của họ.
Ngoài những thói xấu trên đây, Đức Giêsu đã từng lên án nhiều thói xấu khác của các Luật sĩ và Biệt phái, nhất là thói giả hình. Ngài ví họ “giống như mồ mả tô vôi” (x. Mt 23,27).
3. Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:
Thứ nhất, tôn trọng và lắng nghe các vị lãnh đạo: Trước những vị lãnh đạo được trao quyền chính thức trong đạo ngoài đời, chúng ta phải tôn trọng, lắng nghe và thực hành theo những lời dạy bảo của họ. Các vị lãnh đạo đó có thể là Đức Giáo Hoàng, Giám Mục, Linh mục, Bề trên cộng đoàn, cha mẹ, chính quyền hợp pháp…Vì khi họ dạy bảo nhân danh chức vụ thì đó là tiếng nói của Thiên Chúa. Chúng ta lắng nghe và thực hành lời họ dạy bảo là chúng ta đang làm theo ý Chúa.
Thứ hai, hãy sống thành thật: Giả hình, gian dối không chỉ là thái độ của các luật sĩ và biệt phái ngày xưa mà nó còn len lỏi vào các môi trường sống của chúng ta ngày hôm nay. Thật vậy, ngày hôm nay sự giả hình, gian dối len lỏi vào trong mọi lãnh vực của xã hội và giáo hội. Thậm chí, sự gian dối giả hình có mặt ngay chính nơi các trường học. Một kết quả điều tra không gây bất ngờ nhưng khiến nhiều người lo lắng: Tỉ lệ nói dối cha mẹ ở học sinh cấp I (Tiểu học) là 22%, cấp II (THCS) là 50%, cấp III (THPT) là 64% còn ở sinh viên là 80%. Vì thế, sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta phải sống trung thực trước mặt Chúa cũng như trước mặt mọi người: “Có thì nói có, không thì nói không còn gian dối là do ma quỷ mà ra.”(Mt 5,37).
Thứ ba, lời nói và việc làm phải đi đôi với nhau: Đức Giêsu đã tố cáo các Luật sĩ và Biệt phái: “nói mà không làm.” Nhưng nếu Đức Giêsu sống trong thời đại chúng ta, chắc chắn Ngài cũng tố cáo thái độ nói mà không làm của nhiều người trong chúng ta, nhất là các vị lãnh đạo trong Giáo hội cũng như ngoài xã hội. Sự thất hứa của vị chủ tịch Hà nội đối với nhân dân Đồng Tâm cách đây không lâu là một bằng chứng. Cho nên, sứ điệp Lời Chúa hôm nay còn mời gọi chúng ta ngôn hành phải đồng nhất, lời nói và việc làm phải luôn đi đôi với nhau.
Thứ tư, phải sống khiêm nhường: Chức vụ trong đạo ngoài đời là do Chúa và những người khác ủy thác. Hãy dùng chức vụ đó để phục vụ những người thuộc về mình trong khiêm tốn, chứ không phải bắt người khác phục vụ hay tôn trọng mình. Hãy sống khiêm nhường, tránh xa kiêu ngạo. Vì Chúa thích kẻ khiêm nhường và ghét kẻ kiêu ngạo. Ngài đã từng nói: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên” (Mt 23,12).
Lạy Chúa, xin cho các vị lãnh đạo trong Giáo hội cũng như ngoài xã hội luôn biết lánh xa những lỗi lầm khuyết điểm của các Luật sĩ và Biệt phái ngày xưa là: hám danh, tranh lợi, khắt khe với mọi người. Đồng thời, xin Chúa giúp họ noi theo vị Lãnh đạo tối cao là Đức Giêsu, không chỉ hướng dẫn dân chúng bằng lời nói mà còn bằng cả cuộc sống gương mẫu của mình trong tinh thần phục vụ và hy sinh. Amen.
14. Chỉ có một – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.
Đức Yêsu nói đừng cho phép mình gọi ai là thầy vì chỉ có một thầy là Đức Kitô, và cũng đừng gọi ai dưới đất là cha vì chỉ có một Cha trên trời, còn tất cả là anh em của nhau. Dường như không làm theo lời Đức Yêsu, vẫn không phải là làm trái ý Ngài!
1. Chỉ có một Cha trên trời
Không có ai là không có cha mẹ, mỗi người đều được cha mẹ sinh ra, và mỗi người đều gọi các đấng sinh thành ra mình là cha mẹ, thế mà hôm nay Đức Yêsu lại dạy đừng gọi ai dưới đất là cha. Lý do Đức Yêsu đưa ra để giải thích lời dạy: vì tất cả chỉ có một Cha ở trên trời.
Quả thật tất cả chúng ta có cùng một Cha ở trên trời: “Lạy Cha chúng con ở trên trời…” Thiên Chúa là Cha của tất cả, Ngài tạo dựng tất cả, Ngài sinh mỗi người qua cha mẹ mình. Thiên Chúa là Cha thật, và cha mẹ trần gian được tham gia chức “cha” của Thiên Chúa. Cha mẹ trần gian cộng tác với Thiên Chúa qua việc tạo dựng con người. Cha mẹ chúng ta cùng với chúng ta đều gọi Thiên Chúa là Cha.
Cha mẹ không có quyền tuyệt đối trên người con. Luật pháp trần thế cũng như luật đạo đều cho phép con cái được tự do khi tới mức độ tuổi trưởng thành nào đó, hoặc trong lãnh vực nào đó. Chẳng hạn một số nước cho con cái tới tuổi 21 được hoàn toàn tự do định đoạt đời sống của mình. Luật đạo dạy con cái được quyền tự do lập gia đình với người mình thương yêu chứ không phải vâng lời cha mẹ làm trái ý mình. Chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tuyệt đối trên con người. Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người vô cùng. Có những cha mẹ trần gian không yêu thương nên giết con mình khi con mình còn trong bào thai, hoặc bỏ con không nhận nuôi khi người con đó đã được sinh ra. Thiên Chúa là Đấng luôn yêu thương tất cả và từng người: “Có người mẹ nào không thương con mình sinh ra, nhưng cho dù có người mẹ nào bỏ con mình, thì Ta cũng không bao giờ bỏ ngươi.” Cha mẹ trần gian được trao sứ mạng yêu thương con cái đại diện Chúa, hầu con cái nhận ra tình yêu của Thiên Chúa qua cha mẹ, chính vì vậy người cha người mẹ được tham dự chức “cha” của Thiên Chúa. Để làm tròn sứ mạng của mình, cha mẹ phải luôn yêu thương con cái, để thực sự là chứng nhân và là dấu chỉ tình yêu của Cha trên trời.
2. Chỉ có một thầy là Đức Kitô
Ai trong chúng ta cũng có những thầy ở trần gian, và gần như không thể làm theo lời Đức Yêsu “đừng gọi ai là thầy,” thế mà Đức Yêsu vẫn dạy: “đừng gọi ai dưới đất là thầy,” vì tất cả chỉ có một thầy là Đức Kitô.
Đấng dạy con người về Thiên Chúa đúng đắn nhất, là Lời Thiên Chúa, là Lời nhập thể, là Đức Yêsu. Chỉ có Ngài mới biết Thiên Chúa thật, và là Đấng mặc khải đích thực Thiên Chúa cho con người. Vì thế, người thầy đúng nghĩa nhất, chỉ là Đức Kitô. Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. Qua Ngài và với Ngài, con người chắc chắn tới được cùng Thiên Chúa.
Thiên Chúa cũng cho chúng ta tham dự chức “thầy” của Lời Thiên Chúa qua việc mời gọi chúng ta hãy làm chứng về Thiên Chúa cho anh chị em chúng ta. Chính Đức Yêsu cũng sai gởi các môn đệ Ngài: “anh em hãy đi rao giảng cho muôn dân, dạy họ những điều Thầy đã truyền cho anh em…” Những người dạy đàng ngay lẽ chính, dạy người khác về Thiên Chúa, cũng được tham dự chức “thầy” của Đấng Kitô. Tuy nhiên, có lúc con người khi cộng tác với Thiên Chúa trong chức vụ “thầy,” thay vì giúp người khác biết rõ hơn về Thiên Chúa, lại che mờ Thiên Chúa không để Ngài toả sáng như Ngài là. Chỉ có một thầy đích thực, là Đức Kitô.
3. Sự thật sẽ giải phóng anh em
Lời dạy của Đức Yêsu hôm nay giúp con người ý thức về con người thực của mình. Chỉ có Thiên Chúa là Cha thật của mỗi người; chỉ có Đức Yêsu là vị thầy đích thật của con người. Những người khác được gọi là cha là thầy, là được tham dự chức cha chức thầy của Thiên Chúa Cha và của Lời nhập thể. Hiểu như vậy, khi chúng ta gọi ai là cha là thầy, chúng ta thấy rõ giới hạn của người đó, cũng như thấy rõ thiên chức cao cả người đó đang hành xử.
Thầy chỉ là thầy, khi giúp người khác nhận ra sự thật. Sự thật ở đây không chỉ là chân lý, hiểu như một phán đoán hay một lời tương ứng với thực tại, nhưng là chính Thực Tại Uyên Nguyên. Là thầy, nghĩa là qua lời hay cung cách cư xử của người này, giúp người khác nhận ra hoặc vươn tới Thiên Chúa.
Người thầy đích thực của con người, là Đức Kitô, là Thánh Thần Thiên Chúa. Chính Thánh Thần soi sáng con người, giúp con người qua những dấu chỉ nhận ra thực tại uyên nguyên là chính Thiên Chúa, giúp con người có sức mạnh thiêng liêng để đi trọn con đường về với Cha trên trời. Thiên Chúa là Đấng giúp con người nhận ra chính mình, giúp con người nhận biết đâu là chính đâu là phụ, giúp con người tự do thoát mọi ràng buộc để sống hạnh phúc.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Nếu bạn tiếp tục gọi các đấng sinh thành ra bạn là cha, và những người dạy bạn là thầy, bạn có làm trái lời Đức Yêsu không? Tại sao?
2. Sứ mạng “tiên tri” của Kitô-hữu có thể xem là ơn gọi “làm thầy” không? Tại sao?
3. Theo bạn, có một loại “thầy” nào mà không dùng lời để dạy không? Xin minh giải.
15. Suy niệm của Lm. John Trần Khả
Một bà đến thưa với vị linh mục: "Thưa cha con khổ quá tại vì đã lâu lắm rồi nhà con bỏ không đi nhà thờ, không xưng tội rước lễ. Con không biết làm sao khuyên nhà con được."
Cha hỏi: "Vậy thì ông nhà có nói lý do tại sao ông bỏ không chịu đi nhà thờ và không xưng tội rước lễ không?"
Bà trả lời, "Thưa cha, ông nhà con ông ấy rất là gàn, nhưng ông ấy nói cũng có lý nên con không biết nói làm sao để tranh luận với ông ấy được. Nhà con nói rằng: 'Tôi thấy có quá nhiều người giả hình. Họ siêng năng đi nhà thờ, đọc kinh xem lễ, ăn chay kiêng thịt, gia nhập hội đoàn này, tổ chức nọ, nhưng chẳng có tinh thần đạo đức bác ái thật gì cả. Đến nhà thờ thì ê a đọc kinh và rầm rang ca hát, nhưng về nhà thì sống bê bối, ra xã hội thì sống tham lam, hẹp hòi ích kỷ. Nhiều người còn gian lận, bỏ vạ cáo gian, phê bình chỉ trích, nói hành nói xấu người khác. Đến nhà thờ tôi chỉ thấy toàn là những người giả hình! Đi lễ đi nhà thờ mà như thế thì vô ích đi làm gì! Họ cũng đâu có khá gì hơn tôi đâu!"
Nghe như thế, cha nói với bà: "Ông nhà nói rất đúng đấy. Bà đừng cãi với ông làm gì, bà về nói với ông như thế này, 'Cha bảo là cha đồng ý với ông trăm phần trăm. Ông nói rất có lý. Và cha nhắn tôi về nói lại với ông là ở nhà thờ vẫn còn chỗ trống cho thêm một người giả hình nữa. Cha mời ông đến để gia nhập đầy nhà thờ cho vui!'"
Chúng ta không ai có thiện cảm với những người nói mà không làm. Chúng ta càng ghét những người giả dối bề ngoài nói thánh nói tướng lên mặt đạo đức giảng cho người khác, nhưng đời sống riêng tư của họ lại bê bối không sống theo điều họ rao giảng. Các bài đọc hôm nay dạy chúng ta phải tránh lối sống giả dối ngôn hành bất thuận như thế. Thiên Chúa đã dùng miệng tiên tri Malakia để cảnh cáo các tư tế và dân chúng vì họ đã hủy bỏ giao ước; sống vị nể, và đi sai đường lối làm cho nhiều người vấp phạm. Trong bài Phúc âm, Chúa Giêsu đã nghiêm khắc phê bình những người Biệt phái và Pharisiêu là giả hình, vì họ đã sống quá xa lạ với những lời họ giảng dạy. Họ nói một đàng làm một nẻo.
Thái Độ Của Luật Sĩ và Biệt Phái
Luật Sĩ là những nhà chuyên môn về luật. Họ là những người được tuyển chọn làm tư tế, và làm thầy dạy thiên hạ. Pharisiêu là những người biệt phái; tuy họ không phải là những người được học có bằng cấp cao, không phải là tư tế, nhưng họ là những người được biệt phái làm đầu trong dân. Họ tận tình và tỉ mỉ giữ lề luật. Họ rất hãnh diện về địa vị lãnh đạo trong tôn giáo, về sự yêu mến tôn trọng lề luật và lòng sùng đạo của họ. Họ thích được nhìn nhận và được coi là gương mẫu cho thiên hạ. Họ muốn tài năng của họ phải được người khác nhận ra và được ngưỡng mộ cũng như được tưởng thưởng xứng đáng. Họ chuộng được người khác chú ý.
Chúa Giêsu nhìn thấu tỏ lòng dạ của các Luật Sĩ và Biệt phái. Ngài biết là họ không rao giảng Thiên Chúa mà là rao giảng chính họ và những kiến thức hiểu biết của họ. Hiện tượng dài dòng kinh kệ và mặc áo tua rua chỉ là sự trình diễn phô trương, bởi vì trong thực tế họ đã lơ là hay bỏ qua tinh thần đức tin, sự công bình và lòng nhân ái. Họ trống rỗng và nông cạn, không tốt lành và cũng chẳng thánh thiện. Lối sống của họ là lối sống tìm sự vinh hoa giả tạo cho bản thân, chú trọng đến bề ngoài và nặng tinh thần thế tục.
Nói cách khác, họ đã nói những bài nói đạo đức, nhưng đã không bước đi trên con đường đạo đức. Họ trình bày những nguyên tắc sống đạo, nhưng lại không sống đạo. Họ nói thánh nhưng không sống thánh. Họ thích đứng nơi công cộng để được chú ý và được kính trọng, nhưng lại không có những tư cách xứng đáng để được kính trọng. Họ thích được ngồi bàn trên và chỗ danh dự, thích được gọi là thầy, nhưng lại không có tư cách của một vị thầy. Kết quả là việc rao giảng của họ tạo ra nhiều khuấy động rối loạn và sai lạc; gây đau khổ và thiệt hại cho nhiều người. Chúa Giêsu đã nhìn thấy sự giả dối của ho, và Ngài đã không ngần ngại lên án lối sống giả tạo và giả hình như thế.
Chúng ta sẽ lầm lẫn nếu chúng ta chỉ phân tích và nhận định thái độ của những người Biệt phái và Pharisiêu. Trong một cách nào đó chúng ta cũng có những hình thức và lối sống kiêu ngạo, và giả hình của Pharisiêu.
Loại giả hình thứ nhất là nói mà không làm đúng theo lời mình nói. Rất ít người trong chúng ta dám nói rằng chúng ta đã thực hành tất cả những gì chúng ta nói hay những điều chúng ta tin. Chúng ta cũng dễ dàng mặc cho mình những cái tốt đẹp bề ngoài. Chúng ta tô điểm cho cái tôi xã hội, cái tôi công cộng một vẻ bề ngoài thật lịch sự, đạo đức, liêm sỉ hơn với con người thực sự của chúng ta. Hoặc nhiều khi lòng chúng ta không trong sáng đủ để sống với một chủ đích là tìm vinh danh Thiên Chúa. Chúng ta còn tìm mình và tìm hư danh cho mình.
Loại giả hình thứ hai xấu xa hơn một khi chúng ta không những không thực hành mà còn không tin cả những điều chúng ta rao giảng. Chúng ta công bố lớn tiếng nơi công cộng chỉ vì chúng ta muốn lấy lòng người nghe và chiêu mộ người ta để đạt tư lợi. Chúng ta nói hay, giảng hay, tô điểm bề ngoài với những cử chỉ đạo đức thanh liêm để che mặt thiên hạ, nhưng trong lòng không tin nhận. Rồi trong đời sống tư lại có một lối sống ngược lại với những gì chúng ta rao giảng. Chúng ta lên án người này người kia sống bê tha tội lỗi, trong khi chính mình cũng vụng trộm tình nghĩa lăng nhăng, hoặc kín đáo làm những điều vô luân bất nghĩa, bất chính. Hoặc với người ngoài và với khách hàng thì chúng ta lịch sự khiêm tốn để chiếm được cảm tình của người ta, nhưng khi trở về nhà thì chúng ta lại không đối xử lịch sự với những người thân trong gia đình; chúng ta đánh đập hành hung hay chửi bới con cái... Sống như thế có nghĩa là còn giả hình. Sống như thế là sống hai lòng, hai mặt. Sống như thế là vừa kiêu ngạo vừa lừa bịp. Và Chúa Giêsu không bị lừa bởi tất cả những lớp vỏ bề ngoài giả hình như thế.
Tinh Thần Người Môn Đệ Chúa Kitô
Chúa Kitô đòi các môn đệ của Ngài phải sống điều mình rao giảng. Không ai được muốn người khác gọi mình là thầy hay là cha. Tất cả là anh chị em với nhau. Hơn thế nữa những người môn đệ của Chúa Giêsu phải biết quý trọng và chú ý đến tinh thần phục vụ trong khiêm tốn. Lời của Chúa Giêsu là một thách đố cho tất cả mọi Kitô hữu về tinh thần sống đạo và làm chứng về niềm tin của mình.
Cách đây không lâu, một người ở Port Arthur, TX biên thư thắc mắc về việc tại sao Giáo Hội lại bắt giáo dân gọi các linh mục là 'cha' trong khi Chúa Giêsu lại nói là đừng gọi ai dưới đất là cha, vì chỉ có một Cha trên trời? Và tại sao các cha lại tránh né không chịu giải thích? Tôi cũng cảm thấy khó khăn để giải thích. Tôi cũng cảm thấy ngượng ngùng khi xưng mình là 'cha' trong lúc nói chuyện với người khác.
Nhưng một lần có người gọi tôi là ' anh' thay vì gọi là 'cha' thì tôi cũng như một số người khác đứng đó đã cảm thấy có cái gì ngường ngượng nghe không thuận tai. Tuy nhiên danh từ 'cha' dùng để gọi các linh mục cũng chỉ là một tước hiệu nói lên tình liên hệ thiêng liêng trong Giáo Hội giống như địa vị làm cha trong tình liên hệ của người cha đối với con cái trong gia đình. Tước hiệu đó đã được dùng từ lâu do lòng quý mến và kính trọng của người giáo dân dành cho các linh mục là những người đại diện Thiên Chúa và là hiện thân của Chúa Kitô trong chức vị tư tế. Nếu chúng ta chú trọng quá nghiêm khắc vào từ ngữ thì chúng ta không hiểu đúng ý của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu có ý nói là không ai được tự đặt mình vào địa vị làm Cha như Thiên Chúa, và cũng không được coi bất cứ ai dưới đất là Cha thay thế Thiên Chúa. Chỉ có một chức vị Cha chân thật là Thiên Chúa, và chỉ có một Thầy chân thật là Đức Kitô. Điểm Chúa Giêsu nhấn mạnh là "Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi." Do đó có lẽ chúng ta không nên quá quan tâm đặt vấn đề khi người giáo dân gọi các linh mục là 'cha', nhưng chúng ta có thể đặt vấn đề nếu thấy các linh mục của mình không có tinh thần phục vụ như Chúa Giêsu mong muốn và đòi hỏi.
Trong tinh thần phục vụ Tin Mừng chân chính, Thánh Phaolô trong bài đọc hai đã thẳng thắn tâm sự với giáo đoàn Thessalonica rằng, " Anh em còn nhớ đến công lao khó nhọc của chúng tôi: Chúng tôi phải làm việc ngày đêm để khỏi trở nên gánh nặng cho một ai trong anh em, khi chúng tôi rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa giữa anh em" (1 Thes 2:9).
Một vị truyền giáo ở Ấn Độ đã tâm sự như sau:
Là một sinh viên ở Paris, tôi đã học nhiều lớp triết và tôn giáo. Tôi dùng nhiều giờ để bàn luận với những sinh viên khác về Thiên Chúa, về ý nghĩa và mục đích của cuộc đời. Đó là thời gian vui và hứng thú, nhưng tôi vẫn không tìm ra được hướng đi cho đời mình cho đến khi một người bạn trẻ nói với tôi một điều làm thay đổi đời tôi. Trong một cuộc bàn luận, anh ta đã nhìn thẳng vào tôi và nói, " Anh sẽ không bao giờ tìm gặp được Thiên Chúa qua việc bàn thảo và tranh luận về Thiên Chúa bởi vì Thiên Chúa là tình yêu. Anh chỉ tìm được Thiên Chúa khi anh yêu thương vô vị lợi." Lúc đó tôi đang khảo cứu về thánh Phanxicô thành Assisi. Tôi học thấy điểm đổi đời của Phanxicô không phải là lúc ngài bỏ hết mọi sự giầu sang phú quý, nhưng là lúc ngài dùng lý trí và ý chí để xuống ngựa và ôm lấy người phong cùi. Điều này đã cảm kích tôi và khi tôi nghe biết ở Ấn Độ đang cần có người phục vụ trong trại phong cùi, và tôi đã tới đây. Nơi đây tôi vẫn đang phục vụ, và nơi đây tôi tìm được Thiên Chúa. Bạn sẽ không tìm được Thiên Chúa qua bàn thảo hay tranh luận, và bạn cũng chẳng bao giờ tìm thấy Thiên Chúa trong việc tự đưa mình lên, bởi vì Ngài là Thiên Chúa của Tình Yêu. Bạn chỉ tìm được Ngài khi bạn biết yêu thương vô vị lợi.
16. Thuốc chủng ngừa bệnh biệt phái – Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Bài đọc này tiết lộ một trong những lý do căn bản khiến người biệt phái đối đầu với Chúa Giêsu. Bài đọc cũng chất vấn chúng cả chúng ta ngày nay nữa, vì vấn đề đặt ra là sự thành thực của cuộc sống đối với Đức tin. Chúa Giêsu kết án người biệt phái cắt nghĩa lề luật mà sắp đặt theo sở thích của mình. Và thay vì có lương tâm khiêm nhường của tội nhân trước mặt Thiên Chúa, họ có lương tâm của kẻ tự mãn. Cần lưu ý Chúa Giêsu không hề đả kích quyền uy của các thày thông giáo giảng dạy giáo lý Do thái ở thời Ngài; nếu dùng bài đọc này biện minh cho việc phản kháng quyền hành trong dân Thiên Chúa quả là lạm dụng. Điểm chính xác mà Chúa Giêsu nhắm đến là sự phù hợp phải có giữa lời nói và việc làm; Ngài cũng tố cáo thái độ mong được người chú ý hơn là sống theo ý Thiên Chúa. Bởi đó những người nhận quyền hành có bổn phận, phải làm gương cụ thể những điều họ giảng dạy. Đồng thời việc chấp nhận ngay thẳng lời giáo huấn đến từ các vị có quyền buộc tín hữu thi hành những điều họ tin. Một vài điều xác định về bài đọc. Các thẻ kinh ở đây là những hộp vuông nhỏ bằng giấy hay bằng da bò màu đen, trong đựng những đoạn ghi chép các câu Kinh thánh nói về tnh1 chất linh thiêng của lề luật. Các người Do thái mộ đạo đeo trên trán hay buộc vào cánh tay trái để đọc vào kinh sáng; những biệt phái bị Chúa trách cứ có lẽ lúc nào cũng mang bên mình. Các tua áo và cả các túm đính vào bốn góc áo choàng có giá trị dấu hiệu tôn giáo để nhắc nhở tuân giữ lề luật. Các lời chào hỏi có tầm quan trọng lớn lao ở Đông phương, cử chỉ và lời dùng để chào nói lên phẩm giá xã hội người mình chào. Những người biệt phái rất thích được người ta thưa: “Bẩm thày đạo sư, nguyện chúc Ngài khang an”. Để suy gẫm:
1) Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta, còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử. Câu nói của Chúa tố cáo một cố tật của mọi kẻ nắm giữ quyền hành, mọi người cắt nghĩa luật pháp và ở đây chúng ta giới hạn trong phạm vi tôn giáo. Có một thứ am tường luật pháp, để tránh né các đòi buộc mà lương tâm vẫn yên ổn. Người ta cắt nghĩa sao cho kẻ khác buộc phải giữ còn mình thì thoát. Một cố tật khác là, cắt nghĩa luật pháp theo những ý tưởng và quyền lợi mà mình muốn bảo vệ. Cắt nghĩa Phúc âm cách sao để biện minh cho một số chủ trương “bảo thủ”, hay “cách mạng” là một việc giả hình, biệt phái cũng đáng kết án như việc giảng dạy Phúc mà tìm cách để khỏi thi hành. Trong cả hai trường hợp, đều có sự dối trá. Một bên biến Phúc âm thành gánh nặng cho người khác, một bên đặt thêm vào gánh nặng mà Phúc âm không có. Cả hai bên đều có việc tráo quan niệm nhân loại vào chỗ thánh ý Thiên Chúa.
2) Làm sao có được thuốc chủng ngừa bệnh biệt phái? Các người chỉ có một Thày, một Cha, một Đấng chỉ đạo. Chúa Giêsu nhắc nhở người Kitô hữu rằng Đấng duy nhất xét đoán lương tâm họ là Thiên Chúa, dầu họ ở mức độ quyền bính hay tuân phục nào đi nữa. Họ phải thực hành điều họ dạy, điều họ tin. Sự ngay thẳng nội tâm trước mặt Thiên Chúa sẽ khiến họ ý thức mình là kẻ có tội. Khi cần, nó có thể khơi dậy một sự tìm kiếm trong lòng những người khác. Họ sẽ không thuộc số những kẻ hành động có ý cho người ta thấy. Họ sẽ hành động cách nào để khi thấy việc họ làm, người ta sẽ ngợi khen Cha ở trên trời (Mt 5,16)
17. Suy niệm của Charles E. Miller
HÃY DÂNG CHO THIÊN CHÚA CHỖ NHẤT VÀ KHÔNG ĐỂ CHO MỘT NGƯỜI NÀO KHÁC
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Những người con thường gọi cha mẹ của chúng là cha mẹ, mặc dù Chúa Giêsu đã nói đừng gọi ai dưới đất là “cha”. Những vị dạy dỗ trong trường học chấp nhận tước hiệu “thầy” mặc dù Chúa Giêsu nói: “Tránh gọi ai là Thầy”. Điều đó sẽ là ngớ ngẩn nếu duy trì những điều thực hành này khi những điều này trái với hướng dẫn của Chúa Giêsu. Hiển nhiên là ý nghĩa của nó không phải là nghĩa chữ. Mặc dù đúng hơn qua những điều giống như ra lệnh này, Chúa Giêsu muốn dạy cho chúng ta rằng chúng ta đừng trao cho người nào chỗ nhất trong đời sống của chúng ta, mà chỗ này chỉ thuộc về mình Thiên Chúa.
Chúng ta là con cái của cha mẹ chúng ta. Một số người đã được chúc phúc bởi cha mẹ mình và một số khác thì hoàn toàn không. Tuy nhiên, chúng ta phải nhìn lên thiên đàng để tìm thấy những Đấng cha mẹ hoàn hảo, một người tuyệt vời không thể tưởng tượng được đó là Cha của Chúa Giêsu Kitô, và Đấng đó đã trở thành Cha của chúng ta nữa. Chúng ta không thể cho phép ai chiếm mất chỗ của Thiên Chúa trong đời sống của chúng ta.
Tất cả chúng ta phải có những vị thầy trong những khoảnh khắc khác nhau từ lúc chúng ta sinh ra trong suốt thời gian ở trường, khi chúng ta có một công việc, và thật sự xuyên qua toàn bộ đời sống của chúng ta, có một người có thể dạy dỗ chúng ta về mọi chân lý căn bản nhất của đời sống, cả đời này và cả đời sau, là Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta không thể cho phép bất cứ ai hơn Chúa Giêsu trong việc Chúa Giêsu trở nên Thầy dạy chúng ta về những giá trị của đời sống.
Thiên Chúa đã nói qua lời của tiên tri Malakia trong bài đọc I của Chúa Nhật hôm nay. Bài đọc tuyên bố: “Quả Ta là vua lớn lao”. Có ai trong đức tin chối điều đó không? Thiên Chúa đòi hỏi câu trả lời trong câu hỏi của Ngài: “Các ngươi có chấp nhận rằng các ngươi không được đặt ai vào chỗ của Ta như là Chúa các đạo binh của các ngươi không?”. Chúng ta phải trả lời: “Amen”.
Tuy nhiên có lẽ trong trường hợp của chúng ta thì không khác biệt mấy với những người dân mà tiên tri Malaki đã rao giảng sứ điệp của ông. Họ là những người dân Do Thái đang trở về từ cuộc lưu đày ở Babylon, họ thấy quê nhà của họ đã bị xâm chiếm bởi một dân tộc khác, dân tộc đó không chia sẻ tôn giáo và những giá trị như họ. Hoàn cảnh là một thách đố đức tin cho cả hai, thành phần là tư tế và dân chúng. Đó là lý do vì sao tiên tri Malaki đã rao giảng cho họ một bài giảng khẩn cấp và lớn lao như vậy.
Đó là lý do vì sao Phúc Âm của Chúa Nhật có một ý nghĩa lớn lao đối với chúng ta. Chúng ta sống một xứ sở, xứ sở đó đã được thúc đẩy bởi những nguyên tắc chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa vật chất, chủ nghĩa tiêu thụ, mà không phải bởi những giá trị của tôn giáo. Hầu hết mọi người mà chúng ta có thể nói rằng họ tin vào Thiên Chúa, nhưng sự cám dỗ thời đại trong xứ sở của chúng ta là sống mà Thiên Chúa không hiện hữu. Sự cám dỗ đó có thực đối với chúng ta, tuy nhiên nó có thể tinh tế hay mờ nhạt khi chúng ta đang ngồi trong nhà thờ.
Có lúc nhà thờ sẽ là nơi cư ngụ của chúng ta, là ngôi nhà tinh thần của chúng ta trên mặt đất này. Nơi đây trả sự chú ý cho Chúa Giêsu, vị Thầy dạy của chúng ta, khi chúng ta lắng nghe lời Người tuyên bố trong Thánh Kinh. Chúng ta tuân theo giáo huấn của Ngài bằng việc cầu nguyện với Thiên Chúa như là ‘Cha của chúng ta”, không chỉ trong lời kinh Lạy Cha, nhưng qua Thánh Lễ. Chúng ta nối kết với Người trong hy tế của Chúa Giêsu Kitô để hiểu rằng. Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và là vị Vua cao cả của chúng ta, là Đấng mà chúng ta dâng lời ngợi khen và cảm tạ.
Hơn nữa, chúng ta sẽ tìm thấy một dân và với dân đó chúng ta chia sẻ những giá trị trong đời sống, dân mà họ sẽ nâng đỡ chúng ta trong đức tin và là dân mà chúng ta sẽ sẵn lòng giúp đỡ trong mọi lúc họ cần. Người Do Thái trở về một miền đất có vẻ giống như là ngoại quốc đối với họ. Chúng ta sẽ không bao giờ có cảm giác là mình không có chỗ trong một nhà thờ Công giáo. Chúng ta phải tìm thấy nơi mỗi người, dân tộc được dâng hiến, là dân muốn theo những giá trị của Chúa Giêsu, Đấng là Con Thiên Chúa Cha đã ban cho chúng ta.
18. Quyền bính để phục vụ – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Lời Chúa hôm nay thật mạnh mẽ, khiến ta bàng hoàng, chới với. Phải chăng Chúa muốn phá đổ tất cả những cơ chế trong xã hội và trong Giáo Hội? Phải chăng tất cả chúng ta đều sai lầm? Có lẽ không nên hiểu theo nghĩa đen của mặt chữ nhưng phải hiểu theo tinh thần. Qua chân lý: Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em, Chúa muốn dạy ta phải sống những quan hệ với xã hội theo một tinh thần mới gồm 3 khía cạnh sau đây.
1- Mọi người đều bình đẳng. Mọi người bình đẳng trong xã hội vì tất cả đều là người. Là người như nhau nên phải được kính trọng như nhau. Cũng thế, mọi người bình đẳng trước mặt Chúa. Vì mỗi người đều là hình ảnh của Thiên Chúa. Cùng là hình ảnh Thiên Chúa, nên mọi người phải kính trọng nhau. Mọi người đều là con của Cha trên trời và đều là anh em với nhau. Nên mọi người đều phải vâng phục Thiên Chúa và yêu thương anh em chung quanh mình.
2- Chức vị chỉ là một phân công. Một xã hội phải có tổ chức. Có tổ chức nên có nhiều công việc. Phân công để công việc chung được trôi chảy. Hơn nữa phải hiểu rằng mọi quyền lực đều đến từ Thiên Chúa. Làm cha mẹ là được thông phần vào quyền làm Cha của Thiên Chúa. Làm người lãnh đạo là được dự phần vào quyền cai trị của Thiên Chúa. Con người không tự mình chiếm đoạt được chức vị, nên phải khiêm nhường nhận biết ơn Chúa ban vì lợi ích của tập thể.
3- Chức vị là để phục vụ. Hãy nhìn vào một gia đình. Trong gia đình cha mẹ là quan trọng nhất, là người điều khiển gia đình. Nhưng chính cha mẹ lại phục vụ nhiều nhất. Cha lao động vất vả. Mẹ cực nhọc chăm sóc con thơ. Nhìn bề ngoài cha mẹ không khác người giúp việc. Nhưng cha mẹ điều hành gia đình trong khi phục vụ con cái thơ dại. Cha mẹ đã dùng quyền để yêu thương và phục vụ. Cũng thế, người có nhiệm vụ trong Giáo Hội và trong xã hội phải là người có lòng yêu mến anh em. Chu toàn nhiệm vụ với tình yêu thương sẽ giúp ta biết phục vụ bằng chức vụ của mình.
Không ở đâu ta có thể tìm gương mẫu cho những lời Chúa dạy hôm nay bằng tìm nơi chính Chúa Giêsu Kitô, đặc biệt trong bí tích Thánh Thể.
Bí tích Thánh Thể đưa ta về phòng Tiệc Ly, nơi Chúa ăn bữa tối cuối cùng với các môn đệ. Trong khi ăn, Chúa đứng dậy, cầm chậu nước đi rửa chân cho từng môn đệ. Rồi Chúa nói: “Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân nhau. Thầy đã làm gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em?” (Ga 13,12b-15). Quyền bính để phục vụ. Không còn minh họa nào sinh động hơn. Không còn giải nghĩa nào sáng tỏ hơn hình ảnh Chúa quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Không còn lệnh truyền nào thuyết phục hơn, vì chính Chúa đã làm gương trước.
Bí tích Thánh Thể cho ta thấy sự hiến thân phục vụ của Chúa Giêsu. Trở thành tấm bánh là để trở thành lương thực nuôi con người. Không trở thành một tượng đài uy nghi để mọi người cung kính. Không trở thành một trang sức quý giá để mọi người trân trọng. Nhưng trở thành tấm bánh để phục vụ con người. Trở thành lương thực là trở thành những gì gần gũi nhất. Trở thành lương thực là chấp nhận phục vụ sự sống: chịu nhỏ bé đi để người khác được lớn lên, chịu đau khổ cho người khác được hạnh phúc, chịu chết đi cho người khác được sống. Bí tích Thánh Thể là một mẫu gương về quyền bính phục vụ. Thiên Chúa phục vụ con người. Người Cha hy sinh cho hạnh phúc của con cái. Chúa tể vũ trụ hiến thân nuôi dưỡng loài thụ tạo.
Như thế, bí tích Thánh Thể thiết lập một mối quan hệ mới giữa con người. Quyền bính là để phục vụ. Nếu hiểu và thực hành Lời Chúa dạy hôm nay, ta sẽ biến đổi bộ mặt thế giới. Thế giới sẽ trở nên một gia đình ấm cúng chan chứa tình người. Xã hội sẽ tươi đẹp vì sống theo nền văn minh mới, nền văn minh của tình thương.
Năm Thánh Thể đã kết thúc, nhưng mầu nhiệm Thánh Thể phải tiếp tục mãi mãi trong cuộc đời chúng ta. Sống mầu nhiệm Thánh Thể là biết quan tâm phục vụ anh chị em. Sống mầu nhiệm Thánh Thể là duy trì sự hiện diện của Chúa Giêsu ở giữa xã hội, giữa cuộc đời chúng ta. Hiện diện đó là một tấm bánh bẻ ra cho một thế giới phát triển, một thế giới chan hòa yêu thương, một thế giới hạnh phúc thực sự.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con biết noi gương Chúa, phục vụ mọi người trong tình yêu thương.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Tại sao mọi người đều bình đẳng?
2- Chức vị chỉ là một phân công trong Giáo Hội, bạn hiểu điều này thế nào?
3- Quyền bính là để phục vụ. Bạn thấy điều này đã ứng dụng ở đâu?
4- Bạn phải làm gì để sống bí tích Thánh Thể theo tinh thần bài Tin Mừng hôm nay?
19. Hãy sống trong sự thật
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Đêm kia tại một làng đánh cá bên Ấn Độ, một ngư phủ nghèo lẻn vào trong hồ cá của một người nhà giàu để thả lưới. Nhưng chưa kịp kéo lưới lên thì bị người giàu phát hiện. Người này cho gia nhân bủa đi khắp nơi quanh cái hồ mênh mông của mình để bắt cho bằng được tên trộm.
Đám gia nhân đốt đuốc đi tìm khắp nơi mà không thấy bóng dáng tên trộm đâu cả. Trong khi đó thì anh ngư phủ nghèo lấy tro rắc lên đầy mình và đến ngồi dưới một gốc cây gần đó y hệt một nhà hiền triết hay một đạo sĩ.
Sau nhiều giờ tìm kiếm, đám gia nhân không thấy kẻ trộm mà chỉ thấy một đạo sĩ ngồi dưới gốc cây đang đắm mình trong suy tư và cầu nguyện. Chỉ một ngày hôm sau tiếng đồn đã vang đi khắp nơi rằng có một đạo sĩ đang tu luyện dưới gốc cây bên bờ hồ của nhà phú hộ.
Thế là thiện nam tín nữ từ các ngã đường đổ xô đến gốc cây để chiêm ngưỡng vị tu hành. Người thì mang hoa quả, kẻ thì mang tiền bạc. Không mấy chốc mà quà cáp tuôn đổ tràn lan quanh nhà tu hành bất đắc dĩ.
Nhà tu hành mới nhủ thầm trong bụng: Thà đánh lừa bà con để sống còn hơn là đánh cá suốt ngày mà chẳng được gì. Nghĩ như thế rồi, ông ta tiếp tục đóng vai tu hành, ngày đêm tụng niệm và chờ đợi sự tiếp tế của dân làng.
Anh chị em thân mến, “Chiếc áo không làm nên thầy tu”. Người đánh cá bất đắc dĩ phải trở thành vị tu hành trên đây có thể là một hình ảnh không xa lạ bao nhiêu đối với chúng ta. Một cách nào đó, có khi chúng ta cũng sơn vẽ cho mình một nước áo đạo đức để đánh lừa bà con và đánh lừa chính mình như những Luật Sĩ và Pharisêu giả hình mà hôm nay Chúa Giêsu kịch liệt chống đối. Họ thường phô trương, tự phụ, tranh giành địa vị, tìm kiếm danh vọng. Họ chép những câu Kinh Thánh đeo lên trán, buộc vào cổ tay, để chứng tỏ họ ghi nhớ và tuân giữ luật hơn bất cứ ai khác. Khi đi dự tiệc, họ phải ngồi vào chỗ danh dự. Ở Hội đường, họ phải ngồi chỗ nhất và ở nơi công cộng, họ đòi được chào kính, xưng hô là Thầy. Họ muốn tôn mình lên cao hơn mọi người.
Ngược lại với thái độ đạo đức giả và kiêu căng tự phụ của những Luật Sĩ và Pharisêu. Chúa Giêsu đưa ra cho các môn đệ và cũng là cho cộng Kitô hữu chúng ta, một thái độ sống chân thật: đó là phong cách thể hiện tình huynh đệ, sự bình đẳng và tinh thần phục vụ. “Anh em chỉ có một Thầy, một vị lãnh đạo, là Đức Kitô. Anh em chỉ có một Cha, là Cha trên trời. Còn tất cả anh em đều là anh em với nhau”. Vì thế, “trong anh em, người làm lớn hơn cả phải làm đầy tớ anh em”.
Thưa anh chị em, đọc đoạn Tin Mừng hôm nay, tất cả Giáo Hội của Chúa Kitô, từ giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ đến giáo dân phải bình tâm suy nghĩ. Những lời Chúa nói trước các Luật sĩ và Pharisêu ngày xưa phải có tiếng vọng đến chúng ta ngày nay. Pharisêu không còn, nhưng não trạng pharisêu chưa chết, vẫn còn sống mãi. Giáo Hội qua các thời đại phải nhìn nhận rằng những phô trương lòe loẹt, chủ nghĩa hiếu thắng trần tục (triomphalisme) đã đi vào trong hàng ngũ Giáo Hội. Những chức tước, áo mũ cân đai, cờ quạt, kiệu rước… đã làm hoen ố đi hình ảnh một Giáo Hội chân thật, một “Giáo Hội nghèo của người nghèo”. Công Đồng Vatican II đã bỏ đi nhiều những điều phù phiếm đó và muốn cho Giáo Hội mang khuôn mặt đích thực của Chúa Kitô khiêm tốn, phục vụ.
Đức Cha Bernard Topel (1903-1986) Giám Mục giáo phận Spokane, Wa. Hoa Kỳ, đã viết trên báo của Giáo phận: “Trong thời kỳ họp Công Đồng, các Giám Mục thường hay nói về Giáo Hội như Giáo Hội của người nghèo, tôi nghe mà sinh bối rối, vì tôi chưa thấy chúng ta là Giáo Hội của người nghèo chút nào cả!” Từ cái bối rối này, Đức Cha Topel đã thực thi Công Đồng cách quyết liệt gần như Thánh Phanxicô Assisi thực thi Tin Mừng: Đức Cha đã bán Tòa Giám Mục, nhẫn vàng, thánh giá, giây đeo và gậy cẩn ngọc thạch để lấy tiền giúp người nghèo. Với bốn ngàn đô, Ngài mua một căn nhà ở ngõ cụt để làm tư dinh. Sau giờ làm việc, Ngài về làm vườn, trồng rau, xin đầu cá nấu ăn. Nhiều người không tán đồng, họ nói: “Vua thì phải sống cho ra Vua, Chúa thì phải sống cho ra Chúa, Giám mục thì phải sống cho Giám mục”. Nguyên là thạc sĩ toán học, Đức Cha trả lời: “Không phải là kết toán làm thành bài toán. Bài toán chúng ta là phải trừ, chia và nhân: phải bớt tiêu xài xa hoa, để chia sẻ với những người nghèo khó và nhân thêm niềm hy vọng sống xứng đáng cho họ”.
“Trong anh em, ai lớn hơn cả phải là người tôi tớ phục vụ”. Trong Nước Trời, không ai có quyền thống trị kẻ khác, tất cả chúng ta đều là anh em. Ngay cả việc hành xử quyền bính, cho dù thuộc phạm vi dân sự hay tôn giáo, cũng chỉ là một hình thức phục vụ: “Cán bộ là đầy tớ của nhân dân”, ngay cả Đức Giáo Hoàng cũng tự nhận là “Tôi tớ của các tôi tớ” (Servus servorum). Người cha, người mẹ trong gia đình, sở dĩ được các con cái quý mến là vì biết tận tụy phục vụ, hy sinh cho con cái. Càng cho đi, càng được nhận lại, càng cho đi nhiều, càng được nhận lại nhiều hơn. Chúa Giêsu đã dạy và cho các môn đệ. Ngài đã tự hạ, vâng phục cho đến chết trên thập giá vì yêu thương loài người chúng ta. Chính vì thế, Ngài đã được siêu tôn là Đức Chúa: “Ai tự hạ mình xuống, sẽ được tôn lên. Ai tự tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống”.
Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu tỏ ra thông cảm và khoan dung đối với mọi người tội lỗi, mọi hèn yếu của con người. Nhưng Ngài lại có thái độ khe khắt đối với thói giả hình của những người Pharisêu. Ngài không ngừng kêu gọi các môn đệ của Ngài cẩn thận giữ mình kẻo vướng lây phải thói tật đáng ghét này. Chúng ta giữ đạo, nhưng có lẽ chưa sống đạo. Có khi chúng ta mang lớp sơn đạo đức bên ngoài mà thiếu thực chất của một lòng đạo đức chân thật bên trong. Hãy sống trong sự thật trước mặt Chúa và anh chị em. Nhờ khiêm tốn và phục vụ, chúng ta sẽ sống theo đúng đường lối của Chúa và dễ dàng sống với anh em như đòi hỏi của đức ái: mến Chúa - yêu người.
20. Chỉ có một Cha
Xu hướng tự nhiên của muôn loài và lòng người luôn hướng về một duy nhất, một nguồn, một Đấng tuyệt đối độc nhất. Xu hướng này không do thụ tạo, mà do Thiên Chúa, vì Người lôi kéo tạo vật hướng về Người, dù tạo vật chẳng nhận ra Người: “Người ở giữa thế gian và thế gian nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người” (Ga. 1,10). Không nhận biết Người, mà chúng vẫn hướng về Người. Các hành tinh vĩ đại quy về một định tinh, các hệ thống định tinh hay thái dương hệ lại đi theo một hướng, toàn thể vũ trụ được tổ chức trong một trật tự lạ lùng. Kinh Thi nói: Thiên sinh chưng dân hữu vật hữu tắc - Trời sinh dân chúng có sự vật có phép tắc. Nhà sinh vật thời danh Darwin đã dầy công tìm tòi, sắp xếp, phân loại giúp ta thấy rõ trật tự đó. Các tổ chức của loài người, ở mọi thời đại cũng luôn luôn có một thủ lãnh: trong gia đình, làng xã, đất nước, thế giới. Các đạo giáo lớn như đạo Khổng, Lão, Phật, Ấn, Hồi đều qui niềm tin về một Đấng duy nhất. Đạo Khổng gọi Đấng ấy là Thượng Đế hay Ông Trời. Đức Khổng nói: Duy thiên sinh thông minh, (Kinh thư trọng hủy cáo) Duy thiên vi đại. Lão gọi là đạo: Đạo khả đạo phi thường đạo” (Đạo đức kinh ch. I). Phật gọi là tâm bình đảng, tâm bát nhã, chân như, tâm đại giác.
Ấn gọi là Đại ngã (Brahma). Hồi gọi là thánh Allah (Ar-Allah) “There is no god, but God, and Mohammed is the messenger of God” (Không có thần nào khác ngoài Thiên Chúa, và Mohammed là sứ giả của Ngài). Thánh Allah là Chúa duy nhất, độc nhất, chỉ có Ngài là Đấng tạo hoá, quan phòng, tác tạo mọi sự hiện có và sẽ có, siêu việt, nội tại, toàn năng ân điển, hiện hữu vô hình và đời đời.
Có thể nói đó là bản tóm tắt niềm tin của nhân loại hướng về Thiên Chúa, Đấng tối cao tuyệt đối. Nhưng đó là một niềm tin còn lờ mờ ẩn hiện trong lương tri của một số người, họ chưa được Thiên Chúa mạc khải qua các ngôn sứ và nhất là qua Con Một Thiên Chúa giáng trần là Đức Giêsu Kitô. Tuy nhiên, họ đã có xu hướng tự nhiên về Người: “Muôn loài thọ tạo những mong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người” (Rm. 8,19).
Tại sao có sự diễn tả khác nhau: Vì mỗi người có cá tính và tự do riêng. Có những người nhờ đức tính chân thật khiêm tốn họ công nhận chắc chắn có Thiên Chúa. Họ không thể hiểu được Người nhưng họ vẫn “Kính nhi viễn chi” và chuyên chăm trau dồi đạo đức như Khổng tử, Lão tử và Đức Phật.
Có những hạng người kiêu căng đầy tham sân si, đã tự tôn mình làm Chúa tể như bao nhiêu bạo chúa: Kiệt, Trụ, Tần thủy Hoàng bên Đông phương. Nabukôđônôsô, Xêda và Nêrông bên Tây phương. Biệt phái, luật sĩ và tư tế Do thái cũng thuộc hạng tự cao tự đại như vậy, nên Đức Giêsu đã nhiều lần cảnh cáo họ: họ như mồ mả quét vôi bên ngoài mà trong đầy thối tha. Thối tha vì họ dám ngạo mạn “ngồi trên toà Môisê...”. Họ làm mọi việc cốt để cho người ta thấy. Cho nên họ đeo những hộp sách kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm ghế đầu trong Hội đường... Họ thích thiên hạ gọi bằng thầy (Rabbi) (23, 4-7). Họ tôn mình lên, không còn thấy Thiên Chúa trên họ nữa, cho nên họ sẽ bị hạ xuống (23, 12). Thiên Chúa, Chúa tể càn khôn đã phán để hạ họ xuống: “Ta đã làm cho các ngươi đáng khinh bỉ và hèn hạ trước mặt toàn dân”. “Ta sẽ trút lời chúc dữ xuống trên các ngươi”. Bởi lẽ: “các ngươi đi trệch đường; không chịu nghe và không để tâm làm vinh danh Ta; và đã làm cho bao nhiêu người vấp ngã vì lời các ngươi” (Bài đọc I –Ml. 2, 2. 8-10).
Chỉ có lời của Đấng từ trời hạ mình xuống mới làm cho muôn dân nhận biết: Chỉ có một Thiên Chúa mà thôi. Đấng ấy là Đức Giêsu Kitô đã đến dạy chúng ta: “Anh em đừng gọi ai ở dưới đất là Cha, vì anh em chỉ có một Cha trên trời” (23,9). Cha trên trời thế nào? Thưa là “Đấng ngự trên trời, vì Người làm cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như kẻ tốt, và làm mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt. 5,45). Như vậy chỉ có Cha trên trời mới tạo thành và nuôi dưỡng muôn loài muôn vật chứ không phải ai khác. Nếu ta gọi người sinh ra ta, nuôi dưỡng ta là cha, thì Cha trên trời mới đích thực là Cha toàn năng, là Cha muôn thuở. Cha dưới đất chỉ là cha tạm thời tham dự vào quyền phép Cha trên trời trong việc sinh ra, nuôi dưỡng ta ngắn hạn. Cha trên trời còn là “Đấng vô cùng toàn thiện (Mt. 5,48), là Đấng đã yêu thương thế nhân, đã ban Con Một chí ái của Người cho thế nhân, để cứu thế nhân khỏi chết đời đời và cho họ được sống muôn đời (Ga. 3,16). Cho nên khi “anh em làm vinh danh Cha, mở rộng nước Cha, vâng theo ý Cha, yêu thương anh em, yêu thương mọi người và cả kẻ thù, biết cầu nguyện tha thứ cho nhau” (Mt. 6, 9-15), có tâm tình và sống như Đức Giêsu Kitô để tôn vinh Cha trên trời (Phil. 2, 6-7) như vậy anh em mới nên “hoàn thiện như Cha trên trời, Đấng thấu suốt mọi sự sẽ thưởng công cho anh em” (Mt. 5, 49 và 6, 6).
Lạy Cha chúng con ở trên trời, xin cho chúng con biết lo làm sáng danh Cha, như thánh Phaolô “khi ở giữa anh em, biết cư xử thật dịu dàng, chẳng khác nào mẹ hiền ấp ủ con thơ”. Xin cho chúng con biết quý mến anh em, sẵn sàng hiến cho anh em Tin mừng của Cha và cả mạng sống chúng con nữa mà không quản khó nhọc vất vả ngày đêm (1Tx. 2, 7-9) để cho mọi người nhận biết chỉ có một Cha trên trời và chỉ có một Thầy là Đức Giêsu Kitô, còn tất cả là anh em với nhau. Lạy Cha, xin cảm tạ Cha muôn đời. Amen.
21. Tư cách của người lãnh đạo
(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP.
Người ta thường nói:”Tốt danh hơn lành áo”(Tục ngữ) hay “Hổ tử lưu bì”(Hổ chết để da), tất cả đều nói lên chân lý này: trên đời ai cũng muốn có danh thơm tiếng tốt, ngay cả sau khi chết. Danh thơm tiếng tốt phải phát xuất tự con người, cả trong lẫn ngoài, chứ không phải chỉ có cái mẽ bề ngoài, nhất là cái bề ngoài giả dối.
Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy sống trung thực với lòng mình: có thì nói có, không thì nói không. Đừng đưa cái giả dối bề ngoài mà loè mắt thiên hạ. Chúa dạy các môn đệ hãy nghe và thực hiện những lời dạy dỗ của luật sĩ và biệt phái dạy vì họ được trao ban quyền giáo huấn ; nhưng Chúa cảnh giác mọi người: đừng bắt chước việc họ làm vì những việc làm của họ chỉ có tính cách khoe khoang, muốn cho người ta biết tới để ca ngợi họ.
Còn chúng ta hãy sống trung thực với lòng mình để lúc nào ngôn hành cũng đồng nhất, không cần sống kiểu cách như nhiều người chủ trương: “Đẹp đẽ khoe ra, xấu xa che lại”(Tục ngữ). Tốt nhất trong mọi trường hợp hãy cố ở khiêm nhường trước mặt Chúa và trước mặt người ta, vì Chúa đã phán:”Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”(Mt 23,12).
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Ml 1,14 – 2,2.8-10.
Sau khi dân Do thái được vua Cyrô cho hồi hương, đền thờ được xây dựng lại, việc thờ phượng Chúa phát triển rầm rộ. Nhưng với thời gian, đà tiến của những ngày đầu tiên dừng lại . Từ đó, việc thờ phượng dần dần xuống cấp, các tệ nạn phát sinh như dung túng cho việc ly dị, hôn nhân với người ngoại, trốn thuế thập phân ; các nhà lãnh đạo đối xử với dân chúng một cách quan liêu, chỉ nhằm tư lợi.
Tiên tri Malakia xuất hiện vào thế kỷ V trước công nguyên tuyên sấm lời Chúa. Tiên tri qui trách nhiệm về các nhà lãnh đạo tôn giáo về sự xuống cấp trầm trọng ấy, đặc biệt là các tư tế: họ làm nhiệm vụ một cách chểnh mảng, chỉ lo tìm lợi riêng. Thiên Chúa dùng tiên tri Malakia nhắc nhở về cung cách lãnh đạo: làm cho dân biết tôn vinh Thiên Chúa, trung thành với Giao ước, và đối xử với mọi người trong tình anh em cùng một Cha.
+ Bài đọc 2: 1Tx 2,7-9 . 13.
Thánh Phaolô nhắc nhở tín hữu Thessalonica vềø cách hành xử của Ngài đối với họ:Yêu thương săn sóc họ như người vú nuôi sẵn sàng hy sinh tất cả cho tín hữu cả mạng sống của Ngài. Khỏi làm phiền lòng họ trong việc nuôi ăn, Ngài đã muốn tự túc bằng một nghề lao động chân tay. Ngài vui mừng khi thấy họ đón nhận Tin mừng do Ngài giảng dạy như chính Lời Chúa.
+ Bài Tin mừng: Mt 23,1-12.
Các nhà lãnh đạo của dân Do thái, đặc biệt là luật sĩ và biệt phái là những “rabbi”, bậc thầy của dân, có nhiệm vụ dạy dỗ. Nhưng lời nói và việc làm của họ không am hợp nhau, chức vụ và cách sống của họ không tương xứng. Vì thế, Chúa Giêsu nhắc nhở các tông đồ cũng là cho chúng ta.:
a) Phải tôn trọng chức vụ của họ vì họ ngồi “trên toà Maisen” mà giảng dạy. Hãy làm theo những gì họ dạy.
b) Nhưng đừng bắt chước việc họ làm vì họ là người kiêu căng, cứng cỏi, hám danh, thích chỉ tay năm ngón.
c) Ngược lại, Chúa đòi ở các môn đệ phải có thái độ khác: phải thành thực, thẳng thắn, khiêm nhường và phục vụ.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Ai tự nâng mình lên.
I. NHỮNG NGƯỜI LUẬT SĨ VÀ BIỆT PHÁI.
Bất kỳ ai cũng tỏ ra khó chịu và dứt khoát không chấp nhận lối sống giả hình, giả dối của một người nào đó. Chúa Giêsu cũng cảm thấy như vậy, đặc biệt đối với những luật sĩ và biệt phái. Chúng ta thử xem họ sống như thế nào mà trong bài Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu đã cảnh cáo chúng ta đừng theo gương họ.
1. Địa vị của họ trong xã hội.
Họ là những người được “ngồi tòa Maisen”, nghĩa là những người kế vị Maisen, có quyền chính thức giải thích luật Maisen. Chúa Giêsu công nhận các luật sĩ và biệt phái có quyền chính thức. Vì thế, dân chúng và các môn đệ phải lắng nghe và tuân giữ những lời họ nói vì đây là tiếng nói của Thiên Chúa. Mọi người phải tôn trọng họ vì họ là những bậc thầy, những người được chính thức giảng dạy.
2. Những nết xấu của họ.
Nết xấu triền miên của luật sĩ và biệt phái là giả hình giả bộ, giả nhân giả nghĩa. Trong lòng và bộ điệu bên ngoài khác hẳn nhau. Họ chỉ là những người diễn kịch, cách sống của họ chỉ có bề ngoài, chứ không có bề trong. Họ thuộc vào hạng người:
Bề ngoài thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không dao.
(Truyện Kiều)
Dựa vào Tin mừng hôm nay, chúng ta có thể vạch ra một số nết xấu nổi bật của họ:
a) Hám danh cầu lợi.
Mọi công việc họ làm đều có tính cách cầu lợi, muốn cho mọi người chú ý đến mình, ca ngợi mình , cho nên họ mới:
* Nới rộng thẻ kinh:
Thẻ kinh đây là tấm da mỏng, trên có viết 4 đoạn Kinh thánh quan trọng (Xh 13,1-10 ; 13,11-16 ; Đnl 6,4-9 ; 11,13-21) Thể kinh có mục đích rất tốt là nhắc nhở người ta luôn nhớ đến luật Chúa. Người Do thái thường đeo thẻ này mỗi khi đọc kinh cầu nguyện ; các luật sĩ và biệt phái đeo những thẻ này dài hơn, rộng hơn và nết chữ đậm mầu hơn để người ta chú ý và cho mình là đạo đức.
* May dài tua áo:
Áo khoác ngoài của người Do thái giống như tấm khăn mỏng, 4 đầu dính tua bằng len làm giải buộc, có mầu tím tượng trưng trời, mục đich nhắc nhở người ta nhớ đến các giới răn (Ds 15,38-40 ; Đnl 22,12). Chính Chúa Giêsu cũng mang tua áo (Mt 14,36, Mc 6,56 ; Lc 8,44).
Các người Do thái đều mang tua áo, nhưng các luật sĩ và biệt phái thì tăng kích thước quá đáng để có ý khoe mình sốt sắng đạo đức hơn người.
b) Ưa được tôn trọng và ưu đãi.
Luật sĩ và biệt phái muốn được người ta tôn trọng và biệt đãi nơi công cộng, nhất là trong đám tiệc và nơi hội đường.
* Nơi đám tiệc và hội đường:
Theo phong tục , người Do thái xếp chỗ theo tuổi tác và chức vụ hay tài trí, cũng giống như ở Việt nam chúng ta. Tuổi tác và chức vụ là cái dễ nhận ra, nhưng còn tài trí và khôn ngoan thì khó nhận ra. Các luật sĩ và biệt phái muốn tỏ ra là mình tài trí khôn ngoan, nên thường chọn những chỗ cao nhất.
* Nơi phố xá:
Người Do thái có thói quen chào người trên mình trước theo tuổi tác hay chức vụ của họ. Các luật sĩ và biệt phái ưa được bái chào nơi phố xá và còn thích được xưng hô là “Thầy” (x. Trần hữu Thành, Suy niệm Tin mừng CN, A, tr 319-320).
c) Họ nói mà không làm.
Các luật sĩ và biệt phái phải dạy dỗ và đòi hỏi người ta giữ luật cách tỉ mỉ và nghiêm khắc. Họ chất những gánh nặng của lề luật trên vai người dân mà họ không động tay đến. Họ nói mà không làm. Họ là những người ngôn hành bất nhất, họ thuộc hạng người:”Mồm miệng đỡ chân tay”.
3. Chúa Giêsu nhắc nhở.
Chúng ta thấy Chúa Giêsu phân biệt quyền giáo huấn và những người thi hành quyền đó. Ngài nhìn nhận những người luật sĩ và biệt phái có quyền giáo huấn, vì họ là những người được chính thức trao phó nhiệm vụ dạy bảo dân chúng. Do đó, khi họ thi hành nhiệm vụ nhân danh Chúa thì phải nghe và thi hành những gì họ dạy bảo. Nhưng tại sao Chúa lại bảo đừng bắt chước hay noi theo những việc họ làm? Phải chăng họ đã làm những điều bất chính? Không, Chúa nhìn nhận họ có làm nhiều việc thật, bình thường thì đó là những việc tốt đáng ca tụng, nhưng đối với Chúa thì chẳng ra gì, vì thái độ giả hình, giả dối của họ. Lòng đạo đức của họ chỉ có tính cách giả dối, một thứ đạo đức chỉ có cái vỏ bề ngoài.
II. TÂM LÝ CỦA NGƯỜI TỰ NÂNG MÌNH LÊN.
Những người tự nâng mình lên là những người kiêu ngạo. Họ ham danh vọng, ham tiếng khen, thích được tỏ vinh quang ra cho người ta thấy, nhưng đấy chỉ là vinh quang ảo, không có thật. Tất cả là do trí tưởng tượng của họ bầy ra và tự gán cho mình vinh dự ấy. Cái uy tín không phải mình tự tạo ra và gán cho mình nhưng phải do người khác tặng cho mình qua nhận xét của người ta.
Những luật sĩ và biệt phái muốn cho người ta chào mình với danh hiệu “Thầy”. Tước hiệu Thầy để gọi các luật sĩ và biệt phái kể ra thì mới lắm, bắt đầu từ ông Simon con ông Hittel, ông giáo huấn đời Hêrôđê cựu nhân.
Từ câu 8 -12 nói riêng với các tông đồ, Chúa Giêsu khuyên giữ đức khiêm nhường. Chúa không bài trừ khỏi Giáo hội tất cả những tước hiệu đáng kính. Trong một xã hột trật tự tất nhiên phải có. Song đòi hỏi cho được và giận hờn khi không được lại là một chuyện khác. Chính những luật sĩ và biệt phái đã muốn, đã ước ao được cái danh dự hão mình không đáng được ấy.
Truyện: Bé cái lầm.
Có một thi sĩ kia sáng tác được một số bài thơ, bắt đầu nổi tiếng. Một buổi chiều ra công viên thành phố đi dạo, rồi ngồi nghỉ trên ghế đá kê sát vào tường. Ông hết sức ngạc nhiên và rồi lại tỏ ra hãnh diện sung sướng khi thấy nhiều người đi qua trước mặt ông đã ngả mũ cúi chào. Trong khi còn nghĩ ngợi, thắc mắc thì có một bà già cũng đến trước mặt ông. Sau khi cúi chào, bà đã nhìn lên và miệng lâm râm nhiều lời mà ông không nghe rõ. Thế rồi bà cũng đi. Lúc ấy ông mới quay lại và nhìn lên theo hướng bà già kia đã nhìn. Ông nhận ra rằng ngay sau lưng và phía trên đầu ông có một cây thánh giá đã được dựng lên ở đó. Và ông xấu hổ bỏ đi nơi khác.
Chúng ta cũng thường lầm lẫn như thế. Lời Chúa muốn giải thoát chúng ta khỏi những danh lợi hão huyền và rất đáng hổ thẹn của thế gian, Bởi vì, thật là dại dột và lố bịch khi con người không biết rõ giá trị của mình, lại thích được chiếm địa vị cao, ham được những ưu đãi. Những ham ước ấy chỉ khiến họ bị lợi dụng và trở nên trò cười cho thiên hạ. Có khi còn gây nhiều tai họa cho người khác nữa.
(Báo Cg và Dt, Giáng sinh 1995, tr 281)
III. BÀI HỌC CHO CHÚNG TA.
1. Nội thánh ngoại vương.
Suy nghĩ về bài Tin mừng hôm nay, chúng ta phải tự hỏi mình: đời sống chúng ta có gì là giả hình hoặc đóng kịch không? Ngôn hành của chúng ta đồng nhất hay bất nhất? Chúng ta hãy nhớ: chúng ta có thể sống đóng kịch, che đậy, giấu giếm người này người nọ, nhưng chúng ta có thể sống mãi như thế không? Không. Có ngày mọi sự kín đáo sẽ bị phơi ra ánh sáng, lúc đó mới “cháy nhà ra mặt chuột”. Phải cố sống sao cho trung thực trước mặt Thiên Chúa cũng như trước mặt mọi người.
Truyện: Hai người bộ hành.
Có hai người bộ hành đi đường xa. Đêm đến họ phải vào một cái miếu để ngủ nhờ. Đây là một ngôi miếu nổi tiếng là nhiều ma quái. Bầu không khí lạnh lẽo đến rợn người làm cho hai người khách bộ hành cảm thấy sợ khi đã vào trong miếu.
Trong hoàn cảnh này, người không Kitô nói với bạn Kitô rằng:”Anh làm ơn cho tôi mượn cây thánh giá anh đang đeo ở cổ đi. Tôi sợ quá. Hy vọng rằng cây thành giá của anh sẽ làm cho tôi bớt sợ”.
Thế là người Kitô kia đã gỡ cây Thánh giá anh đang đeo ở cổ trao cho người bạn không Kitô. Hai người nằm nghỉ đêm.
Trời về khuya, con yêu tinh xuất hiện, nó rờ vào cổ của người Kitô, tính sát hại người này, bỗng nó thốt lên:
- Người này có trong mà không có ngoài.
Con yêu tinh có ý nói rằng người này là người Kitô đích thực, tuy không mang trong mình một dấu hiệu Kitô nào.
Qua người không Kitô, con yêu tinh chạm đến cây Thánh giá người này đeo ở cổ, nó thốt lên:
- Người này có ngoài mà không có trong.
Con yêu tinh có ý nói rằng, người này tuy mang Thánh giá ở cổ, nhưng không phải là người Kitô đích thực.
Câu truyện trên đây cho chúng ta hiểu rằng bản chất của người Kitô không hệ tại những tô điểm bên ngoài. Chiếc áo dòng không làm nên ông thầy tu. Cây Thánh giá mang vào cổ cũng chẳng thể biến ngay một người trở thành Kitô hữu được.
Lời Chúa trong Thánh lễ hôm nay đòi hỏi chúng ta phải lo sao cho đời Kitô hữu của mình có được sự thống nhất trong ngoài… Nhất là giữa niềm tin và cuộc sống có sự ăn khớp với nhau. Bởi vì nếu không như thế chúng ta sẽ chẳng khác nào mồ quét vôi và thành trò hề cho thiên hạ mà thôi.
Ngày xưa, vua Thành Thang và vua Thương được người đời gọi là “thánh vương” vì các vị đó có một đời sống tốt lành gương mẫu, trong ngoài ăn khớp với nhau. Chính vì thế, người Á đông lấy câu nói của Vương dương Minh làm châm ngôn cho cuộc sống của mình hằng ngày:”Nội thánh ngoại vương”: bên trong là một vị thánh, bên ngoài là một ông vua.
2. Hãy hạ mình xuống.
Người đời ai cũng có tham sân si, ai cũng muốn cho mình vượt trên các người khác, nhất là những người lãnh đạo. Có những người kiêu căng đã tự tôn mình lên làm chúa tể như bao nhiêu bạo chúa: Kiệt, Trụ, Tần thủy Hoàng bên phương Đông. Nabuchodonosor, César, Néron bên phương Tây. luật sĩ , biệt phái và tư tế Do thái cũng thuộc hạng tự cao tự đại như vậy, nên Chúa Giêsu đã nhiều lần cảnh cáo họ ; họ như mồ mả quét vôi bên ngoài mà trong đầy xác chết thối tha. Thối tha vì họ dám ngạo mạn “ngồi trên tòa Maisen...” Họ làm như thế cốt làm cho người ta thấy.
Chúa khuyên mọi người hãy biết tự hạ, nhất là các cấp lãnh đạo. Trong bài đọc I hôm nay Thiên Chúa đã dùng tiên tri Malakia mà khiển trách họ. Ngoài ra, Chúa Giêsu còn đưa ra một mô hình người lãnh đạo gương mẫu theo Tin mừng: như Mt 20,24-28 ; Ga 13,1-20vv...
* Tấm lòng của người lãnh đạo: yêu thương những kẻ được mình hướng dẫn.
* Phương châm của người lãnh đạo: tự coi mình là đầy tớ, có bổn phận phục vụ những kẻ được mình hướng dẫn.
* Cung cách của người lãnh đạo: hạ mình, hy sinh, gương mẫu.
Truyện: Đức Giáo hòang Gioan 23
Đức Gioan 23 đã kể lại kinh nghiệm của Ngài như sau:
“Khi tôi mới được bầu làm Giáo hoàng để lãnh đạo Giáo hội hoàn vũ, tôi rất lo lắng, sợ hãi trước một trách vụ quá nặng nề. Nhưng một đêm kia, trong giấc ngủ, tôi nghe một tiếng bảo tôi:”Gioan đừng tự xem mình quá quan trọng”. Tôi đã áp dụng câu nói này, và từ dạo ấy, tôi ăn ngon, ngủ yên như trước khi được chọn làm Giáo hoàng”.
Khiêm nhường là một đức tính được Thiên Chúa ưa thích, khác với tính tự cao tự đại, có thể so sánh với những ngọn đồi. Trái lại, đức khiêm nhường giúp chúng ta đào sâu những trũng thấp để đón nhận những hồng ân của Thiên Chúa, không thể dừng lại ở những ngọn đồi, nhưng chảy xuống và đọng lại ở những trũng thấp dưới chân đồi.
(Thiên Phúc, Tất cả là hồng ân, tr 12)
“Lạy Chúa, Chúa thương người khiêm nhường, vì người khiêm nhường nhận biết sự thật. Mà Chúa là sự thật, nên Chúa không chấp nhận sự lừa dối. Xin cho con luôn biết sự thật về con chính là lúc thụ tạo yếu hèn và bất toàn. Xin cho con luôn ý thức rằng tất cả những gì con có, từ tiền bạc của cải vật chất, cho đến những tài năng của trí tuệ, tất cả đều thuộc về Chúa. Và xin cho con luôn biết quảng đại để trao lại cho những ai cần đến con. Vì con biết rằng Chúa sẽ thương yêu con nhiều hơn”. Amen.
22. Lúc này đây, ngài có phải là anh em của tôi không?
Hôm qua, có người đột nhiên nói với tôi: “Tại sao linh mục để cho người ta gọi mình là cha? Linh mục hãy đọc Tin Mừng thì sẽ rõ!”
Tôi đọc được trong Tin Mừng: “Các con đừng muốn cho người ta gọi mình là thầy, các con đừng muốn cho người ta gọi mình là tiến sĩ, các con đừng gọi ai là cha”. Chắc chắn ở đây có một bài học mà chúng ta phải rút ra.
Tôi nghĩ rằng không nên chú mục vào những danh hiệu bị Chúa Giêsu lên án. Loại bỏ các danh hiệu đó, các bạn sẽ tìm được hàng chục danh hiệu khác cần thiết trong cuộc sống xã hội: ông thị trưởng, ông Tổng thống, Đại uý... Người ta thay thế danh hiệu Ngài bằng Đức giám mục? Danh hiệu này chẳng thích hợp và cũng không thoát được sự lên án của Chúa Giêsu.
Thật ra sự lên án của Chúa Giêsu nhắm đến điều gì? Tại sao lại gán cho điều chỉ là một chút kiêu căng một tầm quan trọng như thế? Thực tế, có điều gì trầm trọng đang xảy và một sự vụng về rõ ràng về biên tập của Matthêu lèo lái chúng ta. Luôn luôn nơi Matthêu, điều đó là cố ý, rất được trau chuốt từng ly từng tí. Ngài bắt đầu bằng: “Tất cả các con đều là anh em”. Sau đó Ngài tiếp: “Các con chỉ có một Cha mà thôi”. Nhưng ý tưởng anh em đến nhanh hơn bởi vì trong văn mạch, ý tưởng này là ý tưởng chủ đạo, mặc dầu ý tưởng này rõ ràng liên kết với tư cách làm Cha của Thiên Chúa: “Tất cả các con đều là anh em, bởi vì tất cả các con đều có cùng một Cha trên trời”.
Ở đây chúng ta rất kiêu căng, Chúa Giêsu sửa chữa lại những quan hệ bị sai lệch, giống như những nhà chuyên môn sửa lại những cái xương bị trật khớp. Chúng ta khó chịu trong cơ thể xã hội khi các quan hệ sai lệch và đau đớn: khi ông chủ đóng vai tay anh chị thì những người thuộc quyền khúm núm. Vấn đề là không phải nói: “Ông thị trưởng”, mà là có một ông thị trưởng tốt. Bên dưới danh hiệu không quan trọng đến thế, có những thái độ, những tấm lòng, một tinh thần.
Trong xã hội các môn đệ của mình. Chúa Giêsu muốn có một tinh thần, một tinh thần dường như rõ ràng nơi Ngài đến nỗi quan hệ giữa Ngài với Chúa Cha là rất thắm thiết. Chúng ta đừng đụng đến điều đó, đừng ai chiếm chỗ của Chúa Cha, đừng ai dành cho một người nào đó một tầm quan trọng làm lu mờ Thiên Chúa.
Hậu quả cũng rất rõ ràng: giữa con người với nhau chỉ có thể có quan hệ anh em mà thôi. Những chức vụ cần thiết và những danh hiệu có ích không được làm thay đổi tinh thần “anh em”. Tôi có thể để người ta gọi mình là cha... nếu tôi có một trái tim anh em! Nhưng điều đó phải rõ ràng trong các lời nói và trong các thái độ của tôi, và đừng ai cám dỗ tôi tự cho mình là Thiên Chúa.
Khuynh hướng ma quỷ làm cho chúng ta trượt về phía kiêu ngạo sẽ luôn luôn làm cho việc suy niệm bài Tin Mừng này có ích. Than ôi! Chúng ta có thể viết cả một quyển sách về sự kiêu ngạo trong Giáo hội, y phục, tước hiệu, ngôi thứ, và ghê gớm hơn nữa, chuyên quyền, tự mãn. Sự việc có phần tốt đẹp hơn, nhưng để duy trì tinh thần của Chúa Giêsu, các thầy, các cha và các tiến sẽ tự giữ gìn là điều chưa đủ: trong dân Chúa, bất cứ ai cũng có thể nói với họ rằng “Lúc này đây, Ngài có phải là anh em của tôi không?”
23. "Họ nói mà không làm!" - Lm. Quốc Toản, CRM
Khi còn là một Đệ Tử Sinh, trong lớp tôi có một anh rất đạo đức và hiền lành, nhưng nổi tiếng là lười... Không bao giờ muốn làm nhưng chỉ muốn đứng chỉ tay năm ngón. Vì thế, anh có biệt danh là trưởng ban "H.Ô." Chỉ biết đứng "HÔ" hào người khác làm còn chính mình thì không bao giờ rớ tay vào. Do đó, chẳng ai ưa.
Ai trong chúng ta chẳng quí mến người hay làm ít nói hơn người hay nói ít làm. Chính Chúa Giêsu cũng thế. Bằng chứng là trong Tin Mừng hôm nay, Ngài chỉ trích bọn Pharisêu, những kẻ cho mình là người chỉ dẫn dân chúng nhưng chính mình chẳng quan tâm gì đến những băn khoăn của con người. Ngài trách họ là "những kẻ nói mà không làm... buộc những bó nặng và chất lên vai người ta nhưng chính mình lại không muốn giơ ngón tay để giúp kẻ khác gánh vác" (x. Mt 23:1-4).
Chúa Giêsu là Thầy chỉ dậy chúng ta biết tìm đến sự sống. Ngài không chỉ dậy bằng lời nói nhưng bằng chính việc làm. Ngài đã vác gánh nặng của kẻ khác. Ngài chữa người ốm đau, trừ quỉ, và cho kể chết sống lại. Ngài dậy dân chúng về tinh yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, ăn uống với quân thu thuế và phường tội lỗi trong khi kêu mời mọi người thống hối. Sau khi sống lại, Chúa Giêsu dậy các tông đồ (nhất là Phêrô) biết tha thứ cho chính mình vì đã chối Ngài. Đặc biệt nhất, tuy Ngài vô tội nhưng đã chết cho những kẻ có tội.
Chúa Giêsu không yêu chuộng kẻ giầu hơn người nghèo. Ngài khác hẳn với những người làm đầu mà tiên tri Malachi quở trách trong bài Đọc I hôm nay. Ngài đã làm gương cho ta bằng việc tiếp xúc với mọi thành phần trong xã hội, kính trọng mọi người.
Chúa Giêsu không hề để ý đến danh tiếng. Bằng chứng là mỗi lần chữa cho ai khỏi bệnh thì cấm họ không được loan truyền cho ai biết. Ngài luôn luôn hướng dẫn mọi người chú ý đến Nước Thiên Chúa hơn là chú ý đến chính Ngài. Ngài không ưa những kẻ muốn cho lời nguyện của mình được nói lên nơi công chúng và cho mọi người ái mộ vì những việc từ thiện mình đã làm.
Thánh Phaolô cũng noi gương Chúa Giêsu và dậy dỗ mọi người bằng gương sáng. Khi đến một nơi nào thì việc đầu tiên là ngài bắt đầu hành nghề làm lều rồi mới giảng dậy. Trong Bài Đọc II hôm nay, Thánh nhân ca tụng dân Thành Thesalônica vì đã đón nhận sứ điệp của ngài "không phải như lời người phàm, nhưng như lời Thiên Chúa, đúng theo bản tính của lời ấy" (1 Thes 2:13). Thánh Phaolô đã giảng dậy bằng việc làm trong khi sống với họ và thà chết hơn là chối bỏ đức tin nơi Chúa Giêsu.
Là môn đệ của Chúa Giêsu chúng ta được mời gọi theo Chúa làm gương sáng bằng việc làm như Thánh Phaolô. Ta có thể làm gương sáng ngay trong gia đình. Khi còn nhỏ ai trong chúng ta cũng đã nghe những lời Bố Mẹ nói, đồng thời cũng quan sát những việc các ngài làm cách rất chăm chú. Nếu có điều trái ngước giữa lời nói và việc làm thì ta chọn làm theo những việc các ngài làm hơn là những lời các ngài nói. Ngày nay, giới trẻ vẫn tin vào hành động hơn lời nói; chúng luôn nhớ những lúc người lớn bỏ giờ để lắng nghe những bận tâm của chúng, hiện diện với chúng cũng như theo dõi chúng trong những sinh hoạt tại nhà trường hoặc sân banh v.v.
Bạn tôi tuy rất tốt lành nhưng không ai ưa thích vì anh ta thuộc thành phần "H.Ô." Bọn Luật sĩ và Pharisêu cũng bị Chúa trách cũng chỉ vì "nói mà không làm." Chúa Giêsu và Thánh Phaolô dậy và nêu gương cho ta bằng cách dùng việc làm để hướng dẫn anh em... Tiệc Thánh Thể ta tham dự hằng ngày hoặc hằng tuần nhắc nhở chúng ta: Chúa Giêsu không chỉ nói; Ngài đã thí mạng sống để chúng ta thấu hiểu tình yêu Thiên Chúa đối với chúng ta. Những người chúng ta sẽ tiếp xúc hôm nay cần phải thấy Chúa Giêsu hoạt động trong chúng ta. Xin Chúa Giêsu Thánh Thể và Mẹ Maria giúp chúng ta luôn biết minh chứng đức tin bằng việc làm để Chúa không trách ta như trách bọn Pharisêu, "nói mà không làm".
24. Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường
Nếu không dẫn đường chỉ lối thì thôi. Nếu là người dẫn đường thế nào cũng có ngày lạc đường, ngoại trừ chỉ đi những con đường quen thuộc. Đi con đường quen thuộc ít bị lạc vì là đường quen, đi thường xuyên. Lạc đường xảy ra khi phải đi những con đường lạ, đường chưa quen, hoặc có lần đi qua, chỉ nhớ mài mại, không nhớ rõ. Trong trường hợp đó lạc đường có thể xảy ra.
Không muốn đứng đường, phải tìm đường. Tìm về đúng đường cần định rõ vị trí nơi đang lạc mới có thể định hướng về. Định đúng hướng phải biết cách nhìn hướng. Nhìn hướng có nguyên tắc nhìn. Không biết cách định hướng, coi như phó mặc cho may rủi. May thì tìm được đường về. Rủi sẽ vất vả, khổ sở hơn, đói khát và sợ hãi ập đến. Đó là chưa kể đến sợ ngủ đêm giữa rừng, sợ gặp rắn độc, thú dữ, sợ chết không ai biết để cứu.
Lạc đường đời là thế. Lạc đường tâm linh còn nguy hiểm hơn. Nguy hiểm nhưng không thấy lo lắng, sợ hãi vì nỗi sợ tâm linh không đến dồn dập. Người chỉ đạo đi sai coi như là lạc đạo. Tình trạng lạc đạo tồi tệ hơn lạc đường gấp bội. Lạc đường nếu chết cũng chỉ chết về thân xác, thể lí, linh hồn chưa chắc đã chết; trong khi lạc đạo chết cả thể lí lẫn tâm linh. Tệ hơn nữa người lãnh đạo đi lạc không lạc một mình mà lạc bầy, đàn, phe nhóm. Lạc đường do thành tâm, không cố ý lạc. Lạc đạo do gây nên bởi ngoan cố, cố tình, chủ ý, gây bè, kéo phái rủ nhau đi lạc. Cá nhân đi lạc thường lo lắng sợ sệt; trong khi phe nhóm đi lạc to tiếng, ồn ào, hiếu động mục đích vừa tìm vây cánh vừa gây tiếng vang làm át tiếng nói chân chính. Nước cờ của nhóm lạc đạo là lên tiếng chỉ trích, chê bai người lãnh đạo. Nếu không chê người lãnh đạo kì thị thì cũng ghép tội thiếu hiểu biết lắng nghe hoặc gán cho tiếng xấu để đề cao việc lạc đạo của phe nhóm mình. Nhóm lạc đạo lợi dụng tính khoan dung, nhân từ của Giáo Hội để lung lạc, làm yêu sách. Khi đạt được một vài điều đòi hỏi, ước mong nhóm đó coi là chiến thắng, thành công. Nếu yêu cầu của nhóm không đúng sẽ không được đáp ứng, được đáp ứng như thế là bề trên sai, mình đúng.
Bài Phúc âm Đức Kitô vạch rõ trần tâm lí khát khao lãnh đạo, thích hư danh, ảo vọng, tiếng vỗ tay, tiếng ca ngợi, lời khen. Họ thích phô trương công việc họ làm để thiên hạ thấy mà ngợi khen họ. Thích được gọi là thầy và vui mừng vì là người chỉ đạo, lãnh đạo nhóm.
Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy: vì thế họ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là Thầy (Mt 23,7)
Chương đầu sách tiên tri Malaki cho biết kẻ lãnh đạo lạc đạo nếu không hối cải sẽ bị chúc dữ. Điều lạ là ngay những điều chúc lành, lời cầu xin của người lãnh đạo lạc đạo cũng biến thành lời chúc dữ.
Ta sẽ chúc dữ cho sự chúc lành của các ngươi (Ml 2,2)
Lạc đạo không chỉ ảnh hưởng đến người đó mà còn ảnh hưởng đến đời con cháu nữa. Họ ca tụng, tán thưởng, khuyến khích, ban khen cho nhau. Người biết chuyện nhìn vào lại khinh chê, bài bác. Cuối cùng mọi chuyện bị lật tẩy họ bị khinh rẻ trước mặt người đời.
Đức Kitô kết luận:
Hễ ai tự nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống, sẽ được nâng lên (Mt 23,12)
Để tránh lạc đạo chỉ có con đường duy nhất dẫn ta đến cùng Chúa. Con đường đó là con đường chính Đức Kitô mặc khải:
Thầy là đường, là sự thật và là sự sống (Gn 14,6)
Bởi vì chính Ngài là đường, không phải người dẫn đường mà là đường. Con đường chẳng bao giờ đi lạc chỉ có người đi trên con đường đó bị lạc. Đức Kitô là đường nên đường Ngài dẫn đi là con đường công chính, không bao giờ sai lạc. Để đi trên con đường đó, đi đúng đường, tiếng nói chân chính nơi trần thế là tiếng nói của Giáo Hội Chúa trên dựng trên con đường hoàn thiện là Đức Kitô. Chống đối, chê bai Giáo Hội là từ chối đi trên con đường toàn thiện là Đức Kitô.
25. Đạo đức thật và đạo đức giả
Có một bà vợ thường xuyên càu nhàu về tình trạng khô khan nguội lạnh của ông chồng. Hơn thế nữa, bà còn tỏ ra khinh ghét tất cả những hình ảnh ông đã xâm trên mình.
Ngày kia, trong một cố gắng nhằm cải thiện đời sống cũng như mối liên hệ với vợ, ông đã quyết định xâm hình Chúa Giêsu thật to trên tấm lưng của mình. Trở về nhà, ông hớn hở giơ tấm lưng trần cho vợ xem và hỏi:
- Bà có biết ai đây hay không?
Chẳng đợi cho vợ trả lời, ông liền nói:
- Chúa đấy.
Thế nhưng, bà vợ bỗng nổi giận đùng đùng và quát lớn:
- Thật là báng bổ. Chúa nào lại ở trên cái lưng bẩn thỉu và nhớp nhúa của ông.
Nói rồi, bà vơ lấy cái chổi và cứ thế quất vào tấm lưng của ông cho đến khi bật cả máu.
Sau trận đòn ấy, ông ra ngồi dưới một gốc cây và bật khóc. Ông khóc không phải vì trân đòn của bà vợ thuộc vào hạng sư tử Hà Đông, nhưng khóc vì nhận ra rằng mình không còn cách nào để làm đẹp lòng bà vợ luôn tự hào về tình trạng đạo đức của mình.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đọan Tin mừng sáng hôm nay và chúng ta dễ dàng nhận ra hai mẫu người đã được Chúa Giêsu nhắc đến. Mẫu người thứ nhất là những người luôn vỗ ngực tự hào vì mình công chính và đạo đức. Còn mẫu người thứ hai là những kẻ tội lỗi và bị xã hội loại trừ.
Chúng ta còn thấy được chân dung hai mẫu người này qua những lời giảng dạy cùa Chúa và nhất là qua những câu chuyện Ngài đã kể.
Chẳng hạn câu chuyện về người con phung phá.
Cậu em tượng trưng cho kẻ tội lỗi, còn người anh cả tượng trưng cho những người tự nhận mình là đạo đức và công chính. Khi nghe biết thằng em mình đã ăn năn sám hối, quay trở về và được người cha niềm nở tiếp đón, thì anh ta đã sừng sổ và giận dữ. Trong lúc người cha dịu dàng khoan dung, thì anh ta đã bực tức xỉa xói:
- Thằng con hư đốn của cha.
Chủ đích của câu chuyện dĩ nhiên nói về lòng nhân từ và khoan dung của Thiên Chúa, nhưng đồng thời qua đó, Ngài còn nhắm tới bọn biệt phái và luật sĩ vì đám người này đã tỏ ra bực bội và tức tối khi thấy những kẻ tội lỗi được Chúa Giêsu ân cần tiếp đón.
Và hơn thế nữa, họ vốn tự hào là những người đạo đức và công chính, để rồi có thái độ kinh bỉ, chỉ trích và gay gắt kết an những kẻ tội lỗi.
Chúng ta cũng thấy được chân dung hai mẫu người trên qua câu chuyện về người biệt phát và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện.
Người biệt phái thì huênh hoang tự đắc:
- Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì con chẳng phải là kẻ ham hố, bất lương hay ngọai tình. Con cảm tạ Chúa vì con không giống cái thằng thu thuế kia. Con dâng cho Chúa một phần muời hoa lợi của con…
Ngược lại, người thu thuế thì đứng ở đằng xa, cúi đầu, đấm ngực và khiêm tốn kêu cầu:
- Lạy Chúa, xin thương xót con vì con chỉ là một kẻ tội lỗi.
Và Chúa Giêsu đã kết thúc câu chuyện:
- Ta nói cho các ngươi hay khi trở về, không phải người biệt phái mà là người thu thuế được nên công chính trước mặt Thiên Chúa.
Sở dĩ như vậy là bởi vì ai nâng mình lên thì sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên.
26. Đầy tớ
Ba người Kitô hữu đang thảo luận với nhau về những bản dịch Thánh Kinh mới xuất bản gần đây. Một người nói: “Tôi thích bản dịch Phúc âm của The New English Version. Nó dễ đọc hơn những bản dịch cũ. “Người thứ hai thêm ý kiến: “Tôi lại thích bản dịch của The New Jerusalem Bible. Nó hiện đại hoá ngôn ngữ mà không mất đi ý nghĩa thiêng liêng của Thánh Kinh”. Người thứ ba trả lời: “Tôi biết một bản dịch hay nhất. Đó là bản dịch của mẹ tôi. Bà đã chuyển dịch Thánh Kinh vào trong đời sống, và đó là bản dịch có sức thuyết phục nhất mà tôi chưa bao giờ thấy. Mẹ tôi là một con người đầy tình thương luôn luôn để tâm tới những nhu cầu của người khác một cách nghiêm chỉnh. Đó là điều Chúa Giêsu đã làm khi Ngài sống trên trái đất”. Với ý kiến này, tất cả ba người đều đồng ý như vậy!
Thánh Matthêu đã diễn tả một cách rõ ràng cuộc đời phục vụ của Chúa Giêsu qua những công việc đầy tình thương và quan tâm tới những người bị xã hội bỏ rơi. Ngài đã chạm đến những người cùi, đã ôm và hôn những em bé, đã khoan dung với những người tội lỗi bị khước từ bởi những kẻ tự cho mình là đạo đức, đã chết cho những người hèn mọn nhất của con cái Thiên Chúa, không trừ một ai: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.
Tư tưởng chính trong các bài đọc hôm nay kêu gọi chúng ta, giáo sĩ cũng như giáo dân phải trở về với bản chất đích thực của người môn đệ Chúa Giêsu. Đó là phải trở nên những người đầy tớ phục vụ trong tinh thần khiêm tốn của Thiên Chúa: “Anh em cũng đừng để ai gọi mình là lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Kitô. Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em”.
Bài đọc thứ nhất, đến từ ngòi bút của tiên tri Malachi. Ngày xưa, Malachi đã viết những lời gay gắt về những vị lãnh đạo tinh thần của Israel trong thời đại của ông. Những lời tố cáo về sự cẩu thả trong phụng vụ, ban bố những hướng dẫn sai lạc, có những quyết định thiên vị… Dĩ nhiên, Malachi là một người giáo dân. Ông không giữ vai trò gì trong phẩm trật của đền thờ. Nhưng như là một giáo dân sùng đạo, ông đã nhìn thấy một số vấn đề về tôn giáo đáng bị quở trách, do đó, ông không thể im lặng. Lương tâm của ông đã bắt ép ông phải nói những lời khó nghe với những vị lãnh đạo tinh thần của mình: “Và giờ đây, hỡi các tư tế – linh mục – đây là lệnh truyền dành cho các ngươi: Nếu các người không nghe và không lưu tâm tôn vinh danh Ta, Đức Chúa các đạo binh phán, Ta sẽ khiến các người mắc tai hoạ, Ta sẽ biến phúc lành của các ngươi thành tai hoạ”.
Nhiều năm sau, dưới cái nhìn của Chúa Giêsu, những điều trên cũng vẫn chưa khá hơn. Lần này, sự phê phán đến trên những người Biệt phái và các Kinh sư “ngồi trên toà Môsê mà giảng dạy… họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ lại không muốn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy… ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc… ưa được chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là rabbi”.
Tôi rất thích nghe những bài giảng đầu tiên của các thầy sáu. Thích không phải vì chứng kiến sự run rẩy và lúng túng. Thích không phải vì tò mò nghe xem có cái gì mới lạ, thầy sáu có khiếu giảng thuyết hay không. Nhưng thích vì các thầy sợ! Sợ không phải vì đứng trước công chúng. Sợ không phải vì không biết nói gì – đã dọn sẵn rồi, đã qua lớp giảng thuyết rồi! Nhưng sợ và rụt rè vì lần đầu tiên đứng ra giảng không biết lời mình giảng có phù hợp với việc mình làm hay không. Lời lẽ trong bài giảng nghe có vẻ dè dặt và nhẹ nhàng. Không dám nói mạnh! Còn ngại miệng lắm!
Đấy là kinh nghiệm của riêng tôi, lần đầu tiên giảng dạy. Càng làm linh mục lâu năm, ăn nói càng bạo dạn. Và nói nhiều điều chính mình chưa thực hiện được. Đôi khi xem ra giữa cái tôi mình nói và cái tôi mình sống nó không mấy ăn nhập phù hợp với nhau. Càng không ăn nhập với nhau thì lại càng nói hăng, có lẽ để làm cho lương tâm bớt cắn rứt! Nói hăng và nói hay nữa. Nhưng lại được giáo dân khen là giảng hay! Càng hay tức là càng nói những lý tưởng cao cả mà mình chưa thực hiện được. Thật là xấu hổ và đáng bị Chúa mắng cho là “Họ nói mà không làm”!
Tôi không lấy làm lạ trước những điều Chúa Giêsu khiển trách các Biệt phái và Kinh sư, vì đó là mặt trái của chức vụ tư tế ở mọi thời đại. Người thuyết giảng thích được nổi tiếng và thường phát biểu những lời hay ý đẹp. Chủ tế thích sự uy nghi lộng lẫy của nghi thức bên ngoài. Lãnh đạo tôn giáo thích được tôn vinh và kính trọng như thần thánh. Có lẽ tự trong ý niệm của tôn giáo đã có một cái gì đó làm cho người ta cảm thấy rằng một số người đã đạt tới một mức độ cao hơn của đời sống thánh hiến, và bây giờ họ đáng được sự kính trọng hay đối xử đặc biệt. Sự kính trọng quá đáng của người giáo dân Việt Nam nơi các linh mục là một điển hình. Gặp các cha thì phải khoanh tay cúi đầu: “Con xin phép lạy cha ạ!” Lạy mà còn phải xin phép nữa!
Đối với tôi, chính ở điểm này, một cách nào đó, đã làm mờ nhạt ý nghĩa của ơn kêu gọi và bí tích truyền chức thánh để trở thành những người đầy tớ của Thiên Chúa như Công đồng Vatican II đã giải thích:
“Để bảo đảm cho dân Thiên Chúa có các vị chủ chăn và các phương tiện tăng trưởng, Chúa Kitô đã thiết lập trong Giáo Hội của Ngài những thừa tác vụ khác nhau để phục vụ lợi ích của tất cả thân thể. Đúng thế, các thừa tác viên có quyền chức thánh sẽ phục vụ anh chị em mình, để tất cả những ai thuộc về Dân Thiên Chúa có thể đạt tới ơn cứu độ”.
27. Đầy tớ
Con người mang lấy thừa tác vụ của Giáo Hội dễ lạm dụng chức thánh của mình và quên đi trách nhiệm phục vụ lợi ích của cộng đoàn. Vào thời điểm lịch sử của Giáo Hội Công giáo Hoa Kỳ hiện nay, đang khi có những lời tố cáo về việc lạm dụng tình dục trẻ em bởi các linh mục và một số giám mục, hơn bao giờ hết, sự đòi hòi về tư cách lãnh đạo và tinh thần trách nhiệm trở nên cấp bách và cần thiết. Và, một lần nữa, ai là những vị tiên tri nói lên những lời cảnh giác trong tình thế hiện nay của Giáo Hội? Họ lại là những người giáo dân giống như tiên tri Malachi!
Trong lúc theo dõi những diễn tiến của Hội đồng Các Giám Mục Công Giáo Hoa Kỳ ở Dallas vào tháng 6 năm 2002, những người giáo dân như Scott Appleby, giáo sư sử học của trường đại học University of Notre Dame, và bà Margaret O’Brien Steinfels, chủ bút tạp chí Commonweal, đã nói về các giám mục rằng các ngài đã thất bại thê thảm trong vai trò trách nhiệm của mình để chăm sóc những con người dễ bị tổn thương nhất, con cái của chúng ta. Có lẽ chưa bao giờ có một giai đoạn trong lịch sử Công giáo Hoa Kỳ, những người lãnh đạo tinh thần đã bị công khai chỉ trích bởi giáo dân như hiện nay. Và cũng chưa bao giờ có những lời chỉ trích thực sự mang tính chất muốn sửa đổi và xây dựng như hiện nay…
Dĩ nhiên, phê bình chỉ trích thường liên hệ với một lý tưởng. Sự phê bình về thái độ của các thầy tư tế của tiên tri Malachi và của giáo dân nhằm vạch ra một con đường tốt đẹp hơn cho đời sống tôn giáo. Tự bản chất của các thừa tác vụ là để phục vụ cho Chúa Kitô và Giáo Hội như sách Giáo lý Công giáo số 876 đã dạy: “Được gắn liền cách nội tại với bản chất bí tích của thừa tác vụ Giáo Hội, là đặc điểm phục vụ của thừa tác vụ này. Đúng thế, các thừa tác viên hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa Kitô là Đấng ban sứ mạng và uy quyền cho họ, và họ thật sự là “những nô lệ của Chúa Kitô”.
Vấn đề phục vụ được Giáo Hội kêu gọi, không phải chỉ dành cho các giáo sĩ, hay tu sĩ, nhưng còn cho mọi người Kitô hữu như là môn đệ của Chúa Kitô. Thánh Phaolô đã khuyên chúng ta bằng chính gương sáng của ngài trong thư thứ nhất gửi cho người Kitô hữu của Thêsalônica: “Trong khi chúng tôi ở giữa anh chị em, chúng tôi đã cư xử thật dịu dàng, chẳng khác nào mẹ hiền ấp ủ con thơ. Chúng tôi đã quý mến anh chị em đến nỗi sẵn sàng hiến cho anh chị em, không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà cả mạng sống của chúng tôi nữa…”
Những lời của thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm lắng nghe lời Chúa, công bố lời Chúa và sống lời Chúa. Tất cả chúng ta được gọi để sống một cách nguyên vẹn và đầy đủ vai trò “chăm sóc” mà thánh Phaolô diễn tả. Chúng ta được kêu gọi để cùng nhau làm việc biến đổi trái đất này thành vương quốc Thiên Chúa. Chúng ta được kêu gọi để chăm sóc lẫn cho nhau, và đặc biệt những người đã bị tước đoạt mất những nhân quyền căn bản và những nhu cầu của họ vì bất công, bạo lực và vì sự lãnh đạo vô trách nhiệm. Chúa Giêsu đã gọi những người Kitô hữu bước theo Ngài là “ánh sáng thế gian”, có nghĩa là mỗi người Kitô hữu phải chia sẻ vai trò lãnh đạo của Ngài.
Tuy nhiên, bổn phận của chúng ta phải được thi hành trong tinh thần khiêm tốn như Chúa Giêsu khuyên dạy: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em”. Chúng ta được gọi không phải để đóng vai trò quyền lực hay kiêu hãnh, nhưng để phục vụ như những người đầy tớ khiêm tốn của Thiên Chúa.
Trong những ngụ ngôn Aesop có kể câu chuyện “Ngựa và con lừa”. Ngày xưa, có người kia nuôi ngựa và lừa để chúng giúp việc trong nhà. Ông có thói quen bắt lừa phải chở hàng nặng đến gần quỵ, trong khi lại để ngựa thong thả theo sau với mớ đồ nhẹ tênh. Ngày kia, cả ba lên đường. Con lừa vì đau yếu mấy ngày nên than thở với ngựa rằng: “Tôi khó chịu quá! Anh chở hộ tôi ít món. Nếu không tôi chết mất”.
Con ngựa đá giò lái, bảo lừa im đi kẻo gây rắc rối cho nó. Con lừa im lặng, ráng bước thêm nửa dặm nữa rồi lăn ra chết. Ông chủ tháo hết hàng đặt lên lưng ngựa. Không những thế, ông còn đặt luôn xác của con lừa xấu số lên lưng ngựa nữa. Bấy giờ, ngựa mới than thở: “Than ôi! Bây giờ tôi mới thấy cái tai hại của tính ích kỷ”.
Vai trò của Chúa Giêsu được diễn tả trong Phúc âm thánh Matthêu là vai trò Người Đầy Tớ của Thiên Chúa. Chúng ta, các giáo sĩ tu sĩ và giáo dân, được gọi để chia sẻ những khả năng tinh thần, vật chất và ngay cả chính đời sống của mình phục vụ cho tha nhân. Khi chúng ta phục vụ cho Giáo Hội và nhân loại, chúng ta được biến đổi từ những con người tội lỗi trở thành những con người mang Thần Khí của Thiên Chúa, Thiên Chúa của tình yêu thương và phục vụ.
28. Đóng kịch
Tất cả chúng ta đều tỏ vẻ khó chịu và dứt khoát không chấp nhận lối sống giả hình, giả dối của người nào đó, Chúa Giêsu cũng thế thôi. Ngài thường phàn nàn và khiển trách tính cách giả hình, giả dối của những người Pharisêu và kinh sư, đồng thời Ngài cũng khuyến cáo dân chúng: hãy đề phòng và cảnh giác đối với những người ấy, cụ thể như bài Tin Mừng hôm nay.
Chúng ta thấy Chúa Giêsu phân biệt quyền giáo huấn và những người thi hành quyền đó. Ngài nhìn nhận các người Pharisêu và kinh sư có quyền giáo huấn, vì họ là những người được chính thức trao phó nhiệm vụ dạy bảo dân chúng, do đó khi họ thi hành nhiệm vụ là họ nhân danh Chúa, nên phải nghe và giữ những gì họ dạy bảo. Nhưng tại sao Chúa lại nói đừng bắt chước hay noi theo những việc làm của họ? Phải chăng họ đã làm những việc bất chính? Không, Chúa nhìn nhận họ có làm nhiều việc thật, bình thường thì đó là những việc tốt đáng được ca tụng, nhưng đối với Chúa thì chẳng nghĩa lý gì, vì thái độ giả hìng, giả dối của họ. Lòng đạo đức của họ chỉ có tính cách giả dối, một thứ đạo đức chỉ có cái vỏ bên ngoài.
Mỉa mai hơn nữa, đáng trách hơn nữa, họ là những người có thẩm quyền giải thích luật, họ nhấn mạnh luật lệ từng chữ, từng tiếng và họ khắt khe đòi hỏi mọi người phải tuân giữ, nhưng chính họ thì lại không áp dụng cho chính mình. Như thế, họ nói mà không làm, hoặc tệ hơn nữa, họ nói một đàng làm một nẻo, như thánh Phaolô nói: “Ngươi giáo dục kẻ khác mà không giáo dục mình. Ngươi hãnh diện về lề luật mà chính ngươi lại lỗi luật”, nghĩa là ngôn ngữ và hành vi của họ mâu thuẫn nhau, lý thuyết và thực hành của họ bất nhất. Họ rao truyền lời Chúa, nhưng thực ra họ lạm dụng uy tín làm thầy và địa vị làm thủ lãnh của họ. Cho nên, trong con người họ như có hai phương diện, hai nếp sống: một nếp sống giả hình trong bổn phận; còn với chính mình lại buông xuôi, buông thả. Cuộc sống nước đôi như vậy thật là phiền phức: cái đúng trở thành cái sai, và cái sai mới là đúng.
Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu có thái độ nghiêm khắc, đến nỗi Chúa khiển trách họ nặng lời. Ngài không bao giờ có thể chấp nhận được cái thói giả hình và thái độ kiêu căng tự phụ của họ. Chính lối sống đạo như vậy đã chuốc lấy cho họ những lời khiển trách, có thể nói là gay gắt nhất phát ra từ miệng Chúa Giêsu. Chúa đã vạch trần bộ mặt giả hình và cách sống đóng kịch bôi bác của họ, và Chúa dạy chúng ta đừng sống như thế. Hãy sống thành thực, nói và làm đi đôi với nhau và trước sau như một.
Chúng ta hãy lặng tâm suy nghĩ: những người Pharisêu không còn, nhưng lối sống của Pharisêu chưa hết, vẫn còn nơi chúng ta. Nhìn vào xã hội, nhìn vào đời sống thực tế, chúng ta thấy: sự giả hình, giả dối đã thành ra như thông lệ, từ lãnh vực tình yêu đến lãnh vực văn hoá, kinh tế, tôn giáo, chính trị, người ta vẫn thường dùng cái bên ngoài mà lừa đảo nhau. Tính giả hình, giả dối ai mà không ghét, thế nhưng người ta lại thường đồng ý rằng: muốn được kẻ khác kính nể, cần phải giăng một bức màn dầy giữa tư tưởng và cái lưỡi, giữa tâm trạng bên trong và cách cư xử bên ngoài.
Thậm chí có người còn nói một cách trơ trẽn, trắng trợn rằng: ai muốn thành công thì đừng bao giờ duy trì một thái độ trước mặt cũng như sau lưng. Đừng bao giờ nên nói ra ngoài miệng như mình đang nghĩ trong bụng, dẫu trong bụng có muốn tru di tam tộc người ta đi nữa, bên ngoài cũng phải làm ra vẻ ngọt ngào. Vì vậy mà trong xã hội không thiếu gì những người: “Bề ngoài thơn thớt nói cười. Mà trong nham hiểm giết người không gươm”. Thành ra, để phân biệt được ai là chính trực, ai là giả hình, ai là người trung nghĩa, ai là kẻ lừa thầy phản bạn thật là khó. Chúng ta thấy có những người đóng kịch rất tài tình: bên ngoài coi lương thiện, đạo hạnh, tử tế mà thực sự bên trong là tay độc ác ghê tởm vô cùng, có những người tỏ ra đàng hoàng dưới ánh nắng, nhưng trong bóng râm tỏ ra lưu manh đáng sợ.
Chúng ta hãy suy nghĩ: đời sống của chúng ta có gì là giả hình hoặc đóng kịch không? Chúng ta hãy nhớ: chúng ta có thể sống đóng kịch, che đậy, giấu giếm người này người khác, nhưng chúng ta có thể sống mãi như thế không? Không đâu, chắc chắn sẽ có ngày “cháy nhà ra mặt chuột”. Giả như chúng ta có sống được mãi như thế suốt đời, không ai biết chăng nữa, nhưng chúng ta có thể qua mắt được Thiên Chúa không? Chắc chắn là không. Được lòng người đời hay được người đời ca tụng, nhưng không được lòng Chúa, không được Chúa ghi công thì cũng như không, chẳng có giá trị gì. Đó là điều chúng ta cần suy nghĩ và tự nhủ mình khi làm bất cứ điều gì, kể cả những việc đạo đức.
29. Bí quyết trở nên người cao cả – Lm. Trần Ngà
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Đã là người, ai cũng muốn nâng mình lên, muốn khẳng định mình, muốn nâng cao giá trị bản thân. Tại sao mọi người đều cùng có chung một khát vọng như thế?
Có thể nói rằng chính Thiên Chúa đã đặt vào lòng chúng ta khát vọng muốn vươn cao như thế để thôi thúc chúng ta vươn lên, để "trở nên người thành toàn, đạt tới tầm vóc viên mãn của Đức Ki-tô". Chính Chúa Giêsu cũng mời gọi mọi người vươn tới những giá trị cao cả: "Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện." (Mt 5, 48). Như thế, khát mong trở nên con người thành toàn là một khát vọng rất chính đáng và tự nhiên.
Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều người nhắm đạt đến lý tưởng nầy bằng những hình thức hư ảo.
Vậy ta có thể vươn tới lý tưởng nầy bằng cách nào?
1. Những phương thức sai lầm
Những luật sĩ và biệt phái thời Chúa Giêsu muốn nâng cao giá trị của mình bằng cách làm những việc đạo đức bề ngoài cốt để cho người ta thấy; họ "đeo những hộp kinh lớn hơn người khác trên trán, mang những tua áo dài hơn mọi người chung quanh, ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm những hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và mong được thiên hạ gọi là thầy."
Các môn đệ Chúa Giêsu có lúc cũng muốn nâng cao giá trị của mình qua nhiều cuộc tranh luận để xác định giữa các ông, ai là người lớn nhất. (Mc 9,33-37. Lc 9,46-47)
Và rồi một bữa nọ, tưởng lầm rằng mai đây Chúa Giêsu sẽ được lên ngôi cao, hai anh em Gioan và Giacôbê cùng với mẹ là Bà Dê-bê-đê đến nài xin Chúa Giêsu cho mình được ngồi bên hữu và bên tả ngai vinh hiển của Người. Nghe vậy, mười môn đệ kia bất bình ra mặt với Gioan và Giacôbê, vì chưa gì mà hai anh em nầy đã toan tính nắm giữ hai chiếc ngai mà họ cũng đang ngấp nghé. (Mc 10, 35-41)
Trong xã hội hôm nay cũng thế, ai cũng muốn được trọng vọng, được tôn vinh, được nâng cao bằng cách nầy hay bằng cách khác.
2. Đâu là phương cách thực sự mang lại giá trị cho đời người
Giá trị con người không tuỳ thuộc vào của cải hay địa vị xã hội như những người biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giêsu tưởng lầm. Họ tưởng rằng hễ "đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài, được ngồi vào chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm được hàng ghế đầu trong hội đường, được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là thầy#" là có giá trị trước mặt mọi người. Thật ra, giá trị con người không do những thứ nêu trên đem lại.
Giá trị con người cũng không tuỳ thuộc vào ghế cao, ghế thấp, vào địa vị công danh như hai môn đệ Gioan và Giacôbê lầm tưởng, nhưng giá trị đó tuỳ thuộc vào phẩm chất và lòng đạo đức của con người.
Qua Công Đồng Vaticano II, Giáo Hội minh định: "Giá trị con người không tuỳ thuộc nơi "tôi-có" (= bản thân ta và những gì ta sở hữu) mà tuỳ thuộc nơi "tôi-là" (= bản chất đích thật của ta)".
Biệt thự của ta, xe hơi sang trọng của ta, chức vụ và quyền hạn lớn lao của ta... không làm cho ta có giá hơn những người không nhà, không xe, không địa vị, không chức quyền. Chỉ có phẩm chất cao đẹp và lòng đạo đức (nếu có) của ta mới có thể làm cho ta có giá trị hơn người khác mà thôi.
Nhân dịp nầy, Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ, các luật sĩ và biệt phái và cho cả chúng ta biết phương thế đích thực để làm cho mình nên cao trọng. Đó là hạ mình phục vụ tha nhân như người tôi tớ: "Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em" (Mc 10, 43. Mt 23,11)
Lời dạy nghe thật ngược đời, khó được mấy ai chấp nhận, nhưng đó là chân lý!
Cuộc đời Mẹ Têrêxa Calcutta minh chứng điều đó.
Mẹ Têrêxa sinh ngày 26 tháng 8 năm 1910 tại An-ba-ni nhưng trải qua phần lớn đời mình trên mảnh đất Calcutta của An-độ, từ đó, Mẹ được mang danh hiệu Têrêxa Calcutta. Mẹ đã hiến thân làm tôi tớ phục vụ những mảnh đời cùng khổ nhất trên thế gian nầy nên Mẹ trở thành người phụ nữ được trọng vọng và yêu mến nhất trên thế giới.
Năm 1975, kỷ niệm 25 năm mẹ Têrêxa lập Dòng Thừa Sai Bác Ái, các vị đại diện của18 tôn giáo đã họp nhau tại Calcutta để tham dự tuần lễ cầu nguyện, cảm tạ Thượng Đế vì sự đóng góp của một người phụ nữ mang danh "Thừa Sai Bác Ái".
Năm 1996, quốc hội lưỡng viện của Hoa Kỳ nhất trí phong tặng mẹ danh hiệu "Công Dân Danh Dự" của Hoa Kỳ. Mẹ là nhân vật thứ tư trên thế giới được ban tặng danh hiệu nầy.
Ngày 5-9-1997, Mẹ Têrêxa qua đời tại Calcutta, Ấn Độ. Chính phủ Ấn Độ tổ chức an táng trọng thể Mẹ Têrêxa theo nghi thức quốc táng, một vinh dự từ trước tới nay chỉ dành cho các lãnh tụ hàng đầu của đất nước có nhiều công trạng với quốc gia.
Ngày 19 tháng 10 năm 2003, Mẹ được Giáo Hội nâng lên hàng Chân Phước. Mẹ là người được phong Chân Phước nhanh nhất trong lịch sử Giáo Hội từ trước đến nay: chỉ 6 năm sau ngày qua đời! Trước Mẹ, hai vị được phong chân phước nhanh nhất là Thánh Gioan Bosco và Thánh Maximilian Kolbe cũng phải mất đến 30 năm.
Cuộc đời và sự nghiệp của Mẹ Têrêxa Calcutta minh chứng lời dạy của Chúa Giêsu là chân lý.
Ước gì mỗi người chúng ta thôi tìm kiếm vinh quang cho mình bằng những hình thức hư ảo của những hạng người nông nổi, nhưng biết dấn thân phụng sự tha nhân theo lời dạy của Chúa Giêsu và theo gương Chân Phước Têrêxa Calcutta để cho thế giới nầy được ấm lên bằng lửa yêu thương và hạnh phúc hơn bằng tinh thần phục vụ.
30. Quyền bính để phục vụ – An Phong
Bài Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu tấn công những người Pharisêu giả hình, thích phô trương. Đồng thời, Ngài cũng vạch ra một cách sống của người môn đệ trong việc hành sử quyền bính: "Quyền bính là để phục vụ".
Hẳn là có nhiều phản ứng khác nhau khi nghe bài Tin mừng hôm nay:
Có người sẽ dửng dưng, vì những gì được nói đến trong bài Tin mừng này chẳng dính dáng gì tới mình; nhưng thái độ đó sẽ có lẽ là một dấu hiệu xấu, vì Lời Chúa thực sự luôn là một sứ điệp trao gởi cho người nào biết lắng nghe.
Có người sẽ mừng thầm, vì không thấy mình mắc phải những điều mà Chúa Giêsu đã khiển trách nơi những người Pharisêu giả hình. Nhưng thái độ mừng thầm như thế có lẽ là một dấu hiệu xấu. Bởi lẽ một thái độ tự mãn sẽ dễ làm cho người môn đệ Đức Giêsu đi vào chính vết xe của những người Pharisêu.
Có người sẽ hả hê vì cho rằng những lời của Đức Giêsu thật thích đáng cho những bọn giả hình, ngày xưa cũng như ngày nay; những người sống đạo quá hình thức, thích phô trương; hay "lên mặt dạy đời"… Nhưng thái độ hả hê cũng là một dấu hiệu xấu; bởi lẽ, trước sứ điệp của Đức Giêsu, bổn phận của chúng ta là xét mình chứ không phải xét người.
Có người sẽ có thái độ "nổi loạn", vì nhận thấy Giáo hội có một cơ cấu tổ chức quá hình thức; các "đấng bậc" trong Giáo hội quá quan liêu, cha chú… họ thấy dường như Đức Giêsu đồng tình với mình khi bảo đừng gọi ai dưới đất là Cha… Nhưng thái độ này có lẽ cũng là một dấu hiệu xấu; vì họ không có tinh thần chia sẻ trách nhiệm chung với gia đình Giáo hội; và đặt mình đứng ở bên ngoài, bên trên, để phê phán một cách dễ dãi.
Thái độ đích thực của người môn đệ Đức Giêsu, trước hết, là phải tự xét lại tinh thần sống đạo của mình; và điều chính yếu không phải là xét nét về những ngôn từ "cha", "thầy", "người lãnh đạo"; nhưng là xét xem mình có thực sự đón nhận giáo huấn của Chúa Giêsu là vị Thầy duy nhất không; có thực sự cậy dựa vào một mình Thiên Chúa là Cha nâng đỡ chở che không; có thực sự sống tinh thần huynh đệ, phục vụ đối với anh chị em của mình không.
Lạy Chúa Giêsu,
Chỉ có một mình Chúa mới có thể cứu chúng con
khỏi lòng ích kỷ,
khỏi thói kiêu căng,
khỏi những ham muốn bất chính,
khỏi tội lỗi dày vò.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin đừng để con đi tìm sự giải thoát ở nơi đâu khác.
31. Biệt phái giả hình
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – Radio Veritas Asia)
Sau khi tham dự tuần tĩnh tâm, tuần tĩnh tâm Quốc Tế với khoảng 6,000 linh mục tại Rôma vào năm 1990, một linh mục đã viết trong tập nhật ký của mình:
"Tôi đã nhìn thấy nhiều linh mục ngủ gục trong khi các thuyết trình viên nổi tiếng đứng trên diễn đàn hăng say chia sẻ những tư tưởng thần học đạo đức cao siêu. Nhưng rồi không một người nào ngủ cả khi Mẹ Têrêsa Calcutta thuyết trình. Mẹ không nói lời văn hoa, nhưng Mẹ sử dụng ngôn ngữ đơn sơ và tôi nghĩ cả khi Mẹ Têrêsa không cần nói lời nào, chỉ cần sự hiện diện của Mẹ cũng đủ thúc đẩy chúng tôi, thu hút chúng tôi canh tân đời sống mình, bởi vì Mẹ sống chân thành khiêm tốn với những gì Mẹ nói."
Chân thành và khiêm tốn cũng là chủ đề chính của bài Phúc Âm hôm nay. Người chân thành chỉ sống những gì họ nói và chỉ nói những gì họ đã làm. Đó là những chứng nhân của Chúa mà xã hội ngày hôm nay cần đến, như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói: "Con người ngày nay không cần những thầy dạy nói suông, nhưng cần những kẻ dám chứng thực những điều họ nói, cần những chứng nhân. Người chân thành không nói láo, không giả hình, không tự kiêu cho mình hơn kẻ khác, không phê bình chỉ trích. Thái độ phê bình chỉ trích đôi khi chỉ là cách thức để che giấu những tật xấu nơi chính mình, ta phê bình chỉ trích kẻ khác chỉ vì ta không dám đối diện với sự thật nơi chính mình, bởi vì sự thật đó buộc ta phải canh tân liên lỉ".
Những kẻ biệt phái trong Phúc Âm hôm nay có thể nói được là những kẻ không dám nhìn vào thực tại nơi chính mình, họ không có lòng đạo đức, không muốn nhìn thấy sự thiếu vắng này nên che đậy bằng tua áo dài, bằng những thẻ kinh bên ngoài để chứng tỏ cho người khác thấy được sự thông minh của họ, nhưng đó là sự thông minh không có đạo đức, một sự thông minh trống rỗng. Trước mặt Chúa Giêsu, chúng ta cần chân thành và khiêm tốn nhìn nhận những sơ sót để xin ơn sám hối và canh tân. Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi ta xét lại thái độ sống của mình.
Nhân dịp này ta nhắc lại đoạn trích trong cuộc họp thường niên Hội Đồng các Giám Mục nói về việc sám hối, nơi số 3 của bức thư chung các Đức Giám Mục Việt Nam đã viết:
"Để tâm hồn đón nhận được đầy tràn ơn Chúa trong Năm Thánh chúng ta cần có một số chuẩn bị. Việc đầu tiên phải làm là sám hối, vì trong quá khứ chúng ta đã sai phạm nhiều, có những lầm lỗi cá nhân của các tín hữu, các tu sĩ, các linh mục, giám mục. Có những lầm lỗi của cả tập thể các Giáo Hội, của từng Giáo Phận, của mỗi Giáo Xứ. Có những lầm lỗi cố tình chống lại ơn Chúa, cản trở chương trình của Chúa, có những lầm lỗi vô tình khiến chúng ta trở thành vật cản ơn thánh, để lỡ cơ hội đón nhận ơn Chúa cho bản thân chúng ta và cho mọi người".
Sám hối là trở về với Chúa nhưng cũng là trở về với anh chị em. Phải hòa giải với anh chị em, vì chính ta đã góp phần gây ra bất công, chia rẽ, bất hòa khiến anh chị em xa Chúa. Phải hòa giải với anh chị em, vì đó là điều kiện cần thiết để hòa giải với Chúa. Phải hòa giải với anh chị em, vì đó là ước nguyện của Chúa Giêsu Kitô trước khi từ giã cõi trần. Sám hối sẽ dẫn đến đổi mới con người, đổi mới cuộc sống và sám hối càng sâu xa thì đổi mới càng mãnh liệt.
Với con người mới chúng ta hân hoan hướng trọn niềm vui với tình nghĩa Thiên Chúa là Cha và với anh chị em con cùng một Cha trên trời. Với con người mới chúng ta trút bỏ được gánh nặng quá khứ để thanh thản bước vào thiên niên kỷ mới. Với con người mới chúng ta hân hoan bước vào cuộc sống mới, cuộc sống không ngừng đổi mới ơn thánh với tình bác ái huynh đệ, với lòng khiêm tốn, với tinh thần dấn thân phục vụ.
Để sống chân thành với chính mình, chúng ta cần phải sám hối. Sám hối, hòa giải, đổi mới. Để làm tất cả những điều này chúng ta cần có lòng khiêm nhường. Người khiêm nhường biết rõ mình là ai: với những điểm tốt cũng như với những điểm xấu, những điểm tiêu cực cũng như tích cực và trông chờ ơn Chúa ban để canh tân đời sống của mình.
Ước chi bài Phúc Âm hôm nay nhắc nhở mỗi người chúng ta hãy trở về với nguồn mạch ơn Thánh Chúa để canh tân đời sống mình với hết lòng khiêm tốn. Xin Chúa ban ơn để chúng ta canh tân đời sống và được kiên nhẫn trong đời sống, được lớn lên với các nhân đức.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con sống chân thành và khiêm tốn với Chúa và tha nhân. Nhờ đó, chúng con tìm được ơn tha thứ, tình yêu và nguồn bình an để sống trọn vẹn vai trò làm con Chúa. Amen.
32. Điểm "A" cho sự cố gắng!
Một trong những bài viết của Ralph Emerson, ông đã đặt một câu hỏi như sau: "Làm thế nào để đo lường sự thành công?" (How do you measure success?) Ông đã trả lời bằng cách đưa ra ba điểm sau:
Biết quí vẻ đẹp (to appreciate beauty).
Biết tìm ra những ưu điểm ở người khác.
Biết làm cho thế giới trở nên tốt hơn bằng những gì mình có thể.
Trong chúng ta, có lẽ không mấy người thấy phương thức trên có gì đáng cho chúng ta công kích cả. Chẳng có mấy ai lại cãi rằng biết đánh giá đúng về những vẻ đẹp, hoặc tìm ra những ưu điểm ở kẻ khác, hoặc để lại cho thế giới những điều gì tốt đẹp lại không phải là đã sống thành công. Tuy nhiên, xét cho cùng, phương thức trên chưa phải là một phương thức để đo sự thành công một cách hoàn hảo.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đi xa hơn Ralph Emerson về sự thành công. Ngài đã phán rằng, "Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em" (Mt 23:11). Rất nhiều người trong chúng ta có lẽ thấy điều này thật là quá sức của chúng ta có thể làm được.
Một học sinh trung học đã viết một tấm thiệp cho bà ngoại của nó đang nằm trong bệnh viện: "Thưa ngoại, mẹ con nói là ngoại đang là nằm bệnh viện để trắc nghiệm (you are in the hospital for tests). Cháu rất mong là ngoại sẽ lấy được điểm A!" Đó cũng là điều mà Chúa Giêsu đã đưa ra cho tất cả những người muốn theo Ngài, "Ai là người lớn nhất, hãy phục vụ." Ngài mong muốn tất cả chúng ta đều lãnh điểm "A" về môn "Phục Vụ Tha Nhân."
Sự sinh tồn của chúng ta dựa bằng những gì chúng ta lãnh nhận, nhưng cuộc sống của chúng ta dựa trên những gì chúng ta trao ban (we make a living by what we get, but make a life by what we give). Không phải vị trí (position) của chúng ta làm cho cho chúng ta vui sống, nhưng là cách thức của chúng ta. Trong cuốn sách "The Kingdom Within" (Vương Quốc Ở Bên Trong), tác giả John Stanford đã kể lại thời niên thiếu của ông. Vào những mùa hè, ông thường trở về sống tại một căn nhà ngoại ô vùng nông trại tại New Hampshire. Ông còn nhớ cái chỗ đó thật là đơn sơ, không có điện, hoặc những ống nước như thời nay. Điểm mà ông vẫn chú ý là người nhà của ông thường lấy nước ở một cái giếng ở gần đó. Cái giếng này đã cho những người nhà của ông nước để sử dụng trong mọi công việc. Lúc nào nó cũng có nước, cho dù là trong lúc hạn hán... Sau đó một thời gian, ngôi nhà nông trại đã được sửa sang lại một cách khang trang có đầy đủ tiện nghi hệ thống điện và nước
Sau đó một vài năm, ông trở về căn nhà nông trại khang trang đó. Do sự tò mò thúc đẩy, ông đã lần mò ra cái giếng. Bây giờ nó đã được đậy lại. Trong khi gỡ các tấm đậy nắp giếng ra, trong đầu ông, ông cho rằng nó vẫn còn nước như những năm trước đây. Thế nhưng, thật là một sự bất ngờ, sau khi mở ra và nhìn xuống, cái giếng đã bị khô cạn từ lúc nào.
Ông đã đi tìm hiểu lý do tại sao cái giếng lại bị cạn khô như thế. Sau một thời gian, ông đã hiểu ra được lý do tại sao cái giếng bị khô cạn. Khi người ta lấy nước ở cái giếng, thì những mạch nước nhỏ ở dưới lòng đất sẽ cứ tuôn chảy nước vào cái giếng, và nhờ sự di chuyển này các mạch nước không bị tắc nghẽn. Thế nhưng khi người ta ngưng không múc nước ở trong giếng ra nữa thì các mạch nước bị nghẹt lại và không chảy nước vào trong giếng nữa.
Đó là một bài học rất quí giá cho mỗi người Kitô hữu chúng ta. Đạo Công Giáo đòi buộc chúng ta phải cho đi những gì mình có trong khả năng của mình. Ơn thánh của Chúa hằng luôn đổ tràn trên chúng ta không bao giờ ngừng. Những món quà mà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta cũng không bao giờ ngưng. Thế nhưng tâm hồn của chúng ta bị khô cạn là bởi vì chúng ta đã không biết dùng những gì mà chúng ta đã lãnh nhận.
"Người lớn nhất trong anh em phải là người phục vụ tất cả những người khác." Có dễ làm không? Có lẽ không. Tuy nhiên, các bạn hãy thử đi, rồi các bạn sẽ thấy thích. Các bạn hãy thử đi rồi các bạn sẽ cảm nghiệm được niềm vui khôn tả trong tâm hồn khi phục vụ kẻ khác bởi vì qua đó, cuộc sống của chúng ta được trở nên sung mãn và dồi dào hơn.
33. Hướng đến sự thật
(Suy niệm của G. Nguyễn Cao Luật, OP)
Giả hình và kiêu ngạo
Thêm một lần nữa, Tin Mừng đề cập đến những người Pharisêu. Họ là những người có địa vị trong xã hội và có tầm ảnh hưởng khá rộng. Và cũng thêm một lần nữa, lời lẽ của Đức Giêsu với những người Pharisêu chẳng có chút gì là dịu dàng, hoà hoãn. Đức Giêsu đã đưa ra những lời nghiêm khắc với những người tự nhận mình biết tất cả, nhưng chính họ lại chẳng hiểu gì.
Vậy, Đức Giêsu quở trách những người Pharisêu về chuyện gì? Sự dối trá của họ. Thông thường, sự dối trá chỉ thể hiện qua lời nói: người ta biết một điều là sai nhưng lại trình bày là đúng. Về phương diện này, người Pharisêu không bị khiển trách. Điều họ quả quyết thực sự là đúng: họ có nhiều kiến thức, có khả năng xét xử, lời họ nói có thể dẫn đến Thiên Chúa, và dựa vào những thẩm quyền chính thống. Họ không nói năng như những người xa lạ muốn chiếm đoạt một quyền dành riêng. Họ là những người "nối quyền ông Môsê mà giảng dạy" -như lời Đức Giêsu, họ không giống như những người Xa-ma-ri vốn cũng nói về ông Môsê, nhưng giáo huấn của người này đã sai lạc vì đã pha trộn thêm nhiều yếu tố khác.
Như vậy, sự dối trá của những người Pharisêu không phải là lời nói, nhưng một cách tinh vi hơn, là sự cách biệt, sự mâu thuẫn giữa lời họ nói và việc họ làm. Đức Giêsu đã nhắn nhủ các môn đệ: "... họ nói mà không làm. Vậy những gì họ dạy, thì anh em hãy làm, hãy giữ ; nhưng cách họ hành động, thì đừng có làm theo." Bởi vì "họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buổn động ngón tay vào."
Chính sự cách biệt, mâu thuẫn giữa lời nói và việc làm cho thấy tội của người Pharisêu. Đó là tội "giả hình". Đó là một sự đứt đoạn mà chẳng hề có một sự hối hận nào.
Xa hơn, Đức Giêsu cho thấy động lực của thái độ này: "họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy", tức là lòng "kiêu ngạo". Đây không phải là thái độ của một người tự hào về những tài năng hay sự thành công của mình, nhưng đây là một thái độ tinh vi hơn, nếu không muốn nói là tệ hại hơn. Quả vậy, đây là việc sử dụng quyền bính và uy tín cách bất xứng: đúng ra quyền bính và uy tín này chỉ có được ý nghĩa khi được sử dụng qua và vì nhiệm vụ của mình, và khi có nhiệm vụ càng cao, lại phải khiêm tốn hơn. Làm sao người ta có thể tự nhận là dụng cụ của Thiên Chúa để thông truyền cho người khác về mầu nhiệm của Người, mà lại chẳng quan tâm đến việc sống xứng hợp với mầu nhiệm này, và cũng chẳng ý thức rằng dụng cụ chỉ có được ý nghĩa khi phục vụ cho điều mình đã khấn nguyện, và mình chỉ là một phản ánh cho sự thật lớn lao!
Những người Pharisêu đã sử dụng quyền bính được trao cho mình để tìm vinh quang cho cá nhân và thu lợi cho riêng mình. Đó là một sự sai lầm, một sự lạm dụng quyền bính. Sự lạm dụng này đã biến họ trở thành những người đổi bại, ngược hẳn với điều họ bắt người khác làm.
Vì lợi ích của cộng đoàn
Thiên Chúa đã trao Lời của Người cho con người, nhưng họ đã tìm cách chiếm đoạt Lời đó. Con người được mời gọi làm sứ giả, làm tôi tớ của Lời, nhưng họ đã biến lời đó thành dụng cụ để phục vụ lợi ích riêng mình. Nói cách khác, họ biến Thiên Chúa thành người phục vụ họ.
Hiện tượng này đã xảy ra vào thời Đức Giêsu, và vẫn xảy ra trong Hội Thánh, suốt dòng lịch sử. Đã không phải chỉ một lần Hội Thánh bỏ quên sứ mạng cốt yếu của mình là loan báo Tin Mừng, các giáo sĩ cũng đã nhiều lần ủng hộ các chế độ trong đó quyền lợi của các vị được đề cao để rổi xa lánh những đòi hỏi của Tin Mừng. Và với các tín hữu, sứ điệp được trao cho họ là sự thật, nhưng họ đã cắt nghĩa theo lối của mình để xét đoán người khác.
Những lời của Đức Giêsu với những người Pharisêu cho thấy thái độ đầy giận dữ trước sự dối trá, và những hình thức của nó là kiêu căng, giả hình, ham mê tiền bạc. Những hình thức dối trá này làm phát sinh tình trạng vô trật tự và cuối cùng làm bùng nỗ bạo lực. Nơi người Pharisêu, lời chân lý đã bị trói chặt, bị giam hãm, và thay vào đó là lời dối trá.
Ngoài ra, những lời của Đức Giêsu cũng là một lời mời có sức giải thoát, cho thấy một chân trời mới đang xuất hiện và làm nỗ tung những giới hạn của con người. Những lời này mở ra một khoảng không để mọi người có thể hiệp thông với nhau, cùng chia sẻ một ưu tư là trao đổi về ý nghĩa chiều hướng sẽ đến, luôn cần phải khám phá. Những lời này không phải là những lý do để tạo ra những trường phái đối lập nhau, hay gây ra những cuộc chiến tranh có sức gây huỷ diệt.
Chính vì mỗi người ý thức được nhiệm vụ của mình là bảo toàn sự siêu việt của Lời, nên Hội Thánh phải là điểm quy chiếu của sứ vụ: không ai có quyền giải thích lời Chúa mà không hướng đến toàn thể cộng đoàn. Không ai có quyền giải thích lời Chúa nhằm lợi ích cho cá nhân mình, trong khi coi thường ích lợi của người khác.
Tuy vậy, Hội Thánh cũng nhắc nhở rằng, những lời này có thể được đọc lại theo một cách thức mới do những người nghèo. Cộng đoàn có thể được hình thành và bao gổm những trách nhiệm nhỏ hay lớn, nhưng từ căn bản, tất cả mọi người trong cộng đoàn đều bình đẳng trước Thiên Chúa. Mọi người, bất kể là ai, đều là anh em với nhau, và đều cùng được mời gọi làm cho lời đã âm vang trong lòng họ được thêm phong phú. Mỗi người, trong trách nhiệm, trong công việc của mình, đều là chứng tá sống động và đích thực của lời Chúa.
Đừng tưởng mình vô tội
Đọc lại đoạn Tin Mừng này, có lẽ chúng ta cảm thấy vui mừng vì nhận thấy Đức Giêsu nói những lời này với những người đã sống và chết từ lâu. Ngày nay chẳng còn những kinh sư, những biệt phái nữa! Có phải như thế không?
Và cũng có lúc chúng ta nghĩ rằng có một vài sự kiện trong quá khứ có thể đã tạo nên một hình ảnh không mấy tốt đẹp về Hội Thánh, nhưng tất cả đã trôi vào dĩ vãng.
Nhưng coi chừng, chúng ta lại không phải là kinh sư và biệt phái đấy sao, mỗi khi lời nói và việc làm của chúng ta không ăn khớp với nhau.
Và nhất là, khi đã ý thức được điều này, không phải chỉ là thay đổi thái độ, còn cần phải thay đổi lối nhìn: tất cả chúng ta đều là anh em, tất cả chúng ta đều bình đẳng, vì chúng ta "chỉ có một Cha, chỉ có một Thầy, chỉ có một vị lãnh đạo."
Không có điều nào cho phép chúng ta nghĩ mình trổi vượt hơn người khác, dù đó là kiến thức, địa vị xã hội, hay tiền bạc ... Những điều này chỉ có ý nghĩa một khi chúng ta đem sử dụng để phục vụ người khác.
Như vậy, để không dối trá với người khác, với chính mình và với tình yêu, chúng ta phải gạt bỏ đi thế giới đầy ảo tưởng và những vẻ bên ngoài mà tính ích kỷ và thói kiêu ngạo hay tạo nên nơi chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta không còn muốn "thu góp" và "xuất hiện", lúc ấy chúng ta mới bắt đầu "là".
Cái nhìn đức tin xuyên thủng tấm màn bên ngoài. Cái nhìn của những người Pharisêu, cái nhìn dối trá, thật quá thô thiển, bởi vì nó chỉ mong tìm vinh quang và ích lợi. Cái nhìn này không cho chúng ta nhận ra những chiều kích về con người cũng như về Thiên Chúa. Chúng ta chẳng ngạc nhiên nếu một ngày nào đó những vẻ hào nhoáng này rơi xuống, và khi ấy những chiều kích đích thực sẽ xuất hiện, trong đó -như lời Đức Giêsu- "người đầu hết sẽ trở nên cuối hết, và người cuối hết sẽ nên trước hết."
"Trong tất cả thảm kịch của Chúa Giêsu, người ta cảm nhận ra vì sao người Pharisêu lại sợ Người. Bởi vì sự hiện diện của Người làm mờ đi sự hiện diện của họ, và chính vì sự ghen tương mà họ đã không có được sự sáng suốt để nhận biết Người ... Họ đã cảm thấy không có vũ khí ngang tầm để tấn công Chúa Giêsu. Họ đã cảm thấy ở Người có một sự chân thật, một sự chất phác mà họ không thể với tới được. Họ đã muốn bịt tiếng nói đó, bởi tiếng nói đó quá trung thực khiến họ không thể thoát được ...
"Nếu chúng ta làm điệu làm bộ với mốt này, mốt nọ, điều đó ích lợi gì cho ai, vì đó chỉ là những điệu bộ. Điều mà dân chúng chờ đợi, đó là một ý thức sắc bén về sự công bằng, lòng nhân ái, một sự rộng mở của con tim, rộng mở đến vô hạn, đến độ người ta nhận ra ở đó có cái gì rất lạ lùng, một ý tưởng của Thiên Chúa ..."
(x. Maurice Zundel, "Sống với Chúa trong cái thường ngày", tập 1, trang 33-35).
34. Sống thực
Anh chị em thân mến.
Thời buổi ngày hôm nay con người thường dùng sự hào nhoán bên ngoài để đối xử với nhau, nên nhiều khi hết sức giả tạo, vì bên ngoài như thế nhưng bên trong hoàn toàn khác. Cũng như hằng ngày chúng ta nhìn thấy những mẫu quảng cao trên Tivi, cái gì cũng tốt, cũng đẹp cũng hay, nhưng thực chất khi mang về xử dụng thì biết bao nhiêu điều không như lời quảng cáo, làm cho người tiêu dùng phải khó chịu. Thực chất con người phải chấp nhận những gì mình đã mang lấy, có những lúc cay đắng chấp nhận những gì đã mua mà không dùng được vì mình đã bị lừa. Chính vì thế mà Việt Nam chúng ta có câu:
Dò sông dò biển dể dò,
Nào ai lấy thước mà đo lòng người.
Lòng người khó mà biết được, không chỉ nhìn bên ngoài mà đoán được lòng người. Nhưng Chúa Giêsu đòi buộc những ngươi theo Ngài có một tâm hồn trung thực trong cuộc sống. Cử chỉ bên ngoài thể hiện được tâm tình bên trong và sống chân thành với nhau. Ngài không chấp được cuộc sống hình thức bên ngoài khác với bên trong tâm hồn của con người, Ngài không thể nào chấp nhận cuộc sống giả hình nên Ngài mới nói: "Các lật sĩ và những người biệt phái ngồi trên toà Môisen mà giảng dạy. Vậy những gì họ nói, các con hãy làm và tuân theo, nhưng đừng noi theo hành vi của họ, vì họ nói mà không làm ..."
Chúa Giêsu muốn dạy bảo cho mọi người sống theo thánh ý Chúa bằng cuộc sống của mình, bằng cả lời nói và hành động, bằng những gì phát xuất tự tâm hồn chứ không phải chỉ là những hình thức bên ngoài để che dậy những gì bên trong, vì Thiên Chúa nhìn thấy tận bên trong tâm hồn con người.
Một học giả đã nói thật chí lý: trong cuộc sống đời thường, con người thích làm cái đầu con gà hơn là làm cái đít con voi.
Mọi người đều thích được nhiều người biết đến, thích được mọi người kính trọng, thích được mọi người khen tặng. Nhiều khi thực chất không có gì, mà vẫn thích được có địa vị, nên cố làm ra vẻ cho mọi người lầm tưởng để kính trọng, để rồi dùng mọi biện pháp mọi thủ đoạn để đạt được mục đích mà mình không xứng đáng để được. Chính vì thế mà có nhiều chuyện không hay htường xảy ra trong cuộc sống.
Chúng ta là những người công giáo, là những người đã được nghe những lời chỉ dạy của Chúa Giêsu, nhưng cuộc sống hiện tại của mỗi người cho đến giờ phút này như thế nào? Mỗi người để một ít phút, nhìn lại mình:
Chúng ta bảo rằng mình không như những luật sĩ và biệt phái của ngày xưa: chúng ta nói nhưng cũng có làm những việc tốt, cũng thi hành những việc bác ái, cũng biết giúp người khác trong nhiều việc. Coi chừng, chúng ta là những luật sĩ và biệt phái của ngày hôm nay. Những việc làm của mình có phải là thi hành thánh ý Chúa, vì bác ái yêu thương, hay làm cho người ta nhìn thấy, làm để rồi tự mãn kiêu căng và ngũ quên trên những việc làm mà chúng ta cho là đạo đức thánh thiện để không còn biết cố gắng.
Nếu chúng ta nhìn thấy được những lần mình khó chịu với người khác vì họ đến quấy rầy, nếu chúng ta nhớ đến bao nhiêu lần mình không thể chấp nhận được người khác khi họ dám nói thẳng vào những sai phạm của mình, còn những lần mình không thể giúp đở người khác khi họ cần đến. Những lúc đó là những lúc mà chúng ta trốn tránh, cho người khác phải vát những bó nặng mà không muốn dùng ngón tay của mình để thử xem như thế nào.
Còn những lúc chúng ta muốn dạt được mục đích mà mình cho là danh vọng, lợi nhuận? Những lúc đó chúng ta không từ một thủ đoạn nào, cũng không nhìn thấy được những đau khổ của người khác, không lắng nghe những lời oán than kêu trách, vì chỉ biết đạt mục đích nên bỏ ngoài tai tất cả. Những lúc đó chúng ta đang noi theo hành vi của những luật sĩ và biệt phái, noi theo hành vi của những người mà Chúa Giêsu bảo đừng noi theo.
Nếu chúng ta nhìn thấy được những người chung quanh đang cần đến chúng ta và không ngần ngại để làm cho họ những gì cần thiết, nếu chúng dùng con tim yêu thương mà hành động thì thật là hạnh phúc cho chúng ta.
Xin Chúa ban mỗi người chúng ta có một con tim chân thành để biết sống theo những gì Chúa dạy bảo.
35. Trách kẻ giả hình
Sự kiện có nhiều tín hữu lấy việc phải đóng góp như là cớ để rời bỏ Giáo Hội, vén mở cho thấy một vấn đề khác đang gây âu lo không ít cho Hội Đồng Giám mục các nước Âu Châu. Đó là nhiều Kitô hữu đánh mất đi niềm tin của họ trong một xã hội bị tục hoá nặng nề. Chính vì nhiều tín hữu Âu Châu không sống đạo và không liên hệ gì với Giáo Hội nữa, nên họ thấy việc đóng góp cho Giáo Hội trở thành một gánh nặng vô lý.
Trong một xã hội đang đánh mất đi các giá trị Kitô của mình như Giáo Hội Âu Châu, thì chỉ một Giáo Hội sinh động với một số tín hữu sống lòng tin trung thực và xác tín mới có sức trao ban hy vọng cho con người đang lạc hướng bơ vơ ấy. Đây là lý do giải thích tại sao Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã khẩn thiết khuyến khích công tác "tái truyền giảng Tin Mừng" và kêu gọi các quốc gia tái khám phá ra nền văn hóa Kitô của mình.
Nhưng thế nào là sống lòng tin trung thực cho một Giáo Hội sinh động? Các bài đọc Phụng vụ của Chúa Nhật 31 Thường Niên hôm nay cống hiến cho chúng ta một số tư tưởng, giúp chúng ta duyệt xét lại lòng tin của mình vào Giáo Hội.
Bài Tin Mừng hôm nay được thánh Matthêu ghi lại cuộc đụng độ trầm trọng giữa Chúa Giêsu và hàng lãnh đạo Do Thái, đồng thời nó cũng diễn tả tình trạng căng thẳng sự đổ bể liên hệ giữa cộng đoàn Do Thái và cộng đoàn Kitô giáo trong thời sơ khai.
Cuộc đụng độ ấy cho thấy hai loại Giáo Hội đối nghịch nhau: Thứ nhất là một Giáo Hội đầy dẫy những tín hữu thủ cựu huênh hoang, phách lối, ham hố quyền bính, vụ luật và dùng luật lệ làm bình phong che đậy cuộc sống giả dối tội lỗi của mình. Thứ hai là một Giáo Hội sống theo tinh thần Tin Mừng của Chúa Giêsu, trong đó hàng lãnh đạo là những người khiêm tốn, thánh thiện, biết hy sinh xả kỷ phục vụ và sống nêu gương cho người khác.
Vậy, khi mạnh mẽ chỉ trích hàng lãnh đạo Do Thái, Chúa Giêsu đã phản đối quyền lãnh đạo hợp pháp của họ, nhưng đồng thời Ngài cũng vạch trần những thái độ sống đạo sai lạc của giới lãnh đạo, của hàng tư tế, của giới luật sĩ và biệt phái, giới ký lục và các bô tão. Họ là những người thông hiểu luật Chúa, đáng lý ra họ phải nêu gương cho tín hữu thì ngược lại họ lại gây nên gương mù, gương xấu cho dân chúng.
Vì thế, Chúa Giêsu đã tố cáo thái độ sống đạo lệnh lạc của họ là không trung thực, sống phản chứng. Họ nói mà không làm, rao giảng mà không sống các điều mình rao giảng. Họ dạy tín hữu phải biết sống đơn sơ khó nghèo, trong sạch, liêm chính, không ham danh ham lợi, không chạy theo của cải vật chất trần gian, biết chia sẻ với người túng thiếu. Nhưng họ lại quan liêu hống hách, bê tha dục vọng, tranh giành chức vị, chạy theo tiền bạc của cải, quyền bính và sống ích kỷ, gian ác và tội lỗi, sống sa đọa hơn giáo dân rất nhiều. Thái độ nói một đàng làm một nẻo ấy của họ bôi nhọ và giảm uy tín Giáo hội, khiến cho giáo dân từ bỏ Giáo Hội và làm cho những người chưa biết Chúa xa rời tình yêu của Ngài.
Chúa Giêsu không chỉ tố cáo thái độ sống đạo lệch lạc của họ, mà Ngài còn tố cáo việc sống đạo vụ hình thức nặng nề của họ. Họ chủ trương tuân giữ luật lệ một cách tỉ mỉ, rườm rà theo bề ngoài mà quên đi tinh thần nòng cốt của luật. Tâm thức luật lệ ấy khiến cho hàng lãnh đạo Do Thái gia tăng số luật lệ, cam đoan đủ điều và biến luật lệ trở thành dụng cụ áp chế, bóp nghẹt sự tự do tinh thần trong cuộc sống lòng tin, khiến cho liên hệ giữa tín hữu với Thiên Chúa trở thành một gánh nặng đè bẹp, ngột ngạt khó thở, vì bị các luật lệ cột buộc bao vây tư bề.
Thật ra, các liên hệ với Thiên Chúa phải giúp cho tín hữu cảm nhận được lòng yêu thương nhân thứ và quan phòng ấp ủ của Ngài đối với mình. Vì thế, cuộc sống lòng tin phải là cuộc sống vui tươi, hạnh phúc tràn đầy hy vọng và an bình, chứ không phải là nhắm mắt tuân hành các luật lệ trống rỗng vô hồn.
Hơn nữa, kiểu sống đạo giả hình và phô trương của họ mang tính cách háo danh, thích ăn trên ngồi trốc, thích được nịnh hót, thích được xưng tụng và chào hỏi bằng tước hiệu trọng vọng.
Mặc dù không thi hành các luật Chúa, nhưng hàng lãnh đạo Do Thái khi giảng dạy ở Hội đường thì họ lại nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo, huênh hoang, vạch đường chỉ lối cho người khác phải theo. Nhưng khi trở về đời sống riêng tư thì chui đầu vào ngõ bí, làm những điều mà phải đóng cửa tắt đèn mới dám làm. Vậy, những kẻ giả hình đó phải coi chừng, vì Chúa Giêsu sẽ chỉ mặt điểm tên mà bảo rằng: "Ngươi là cái mả tô vôi, ở ngoài thì trắng trẻo sạch sẽ, bên trong thì đầy thây ma xác chết thối tha, là những phường nói một đàng làm một nẻo".
Nếu chúng ta không ý thức những điều đó, để rồi chúng ta lại rơi vào bánh xe xa lầy của những kẻ giả hình, lúc đó Chúa cũng trách chúng ta như vậy. Không trách sao được, khi chúng ta mở miệng dạy đạo đức cho người khác mà đời sống mình lại không đạo đức chút nào? Không trách làm sao được khi mình mở miệng răn bảo người khác không nên trộm cắp, phải tôn trọng tài sản của kẻ khác, mà chính mình lại là kẻ hối lộ, tham nhũng, ăn gian ăn bớt đủ thứ. Tha làm sao được khi mình dạy người khác phải chung thủy trong gia đình, thanh tịnh trong đấng bậc mình, còn mình thì đưa người cửa trước, đón người cửa sau.
Tin Mừng hôm nay nhắc nhở cho chúng ta biết rằng, Chúa Giêsu luôn luôn hiện diện với từng người trong chúng ta trong cuộc sống, diện đối diện, mắt nhìn mắt, chúng ta hãy để cho lời Ngài xoáy vào tâm can, vào tâm hồn chúng ta. Vậy chúng ta đừng sợ chi cả vì bao lâu chúng ta còn sợ Lời Chúa, thì bấy lâu chúng ta còn bào chữa để che giấu cho con người thứ hai trong chúng ta, con người chỉ thích bóng tối. Hãy lôi cổ con người thứ hai đó ra ánh sáng Lời Chúa để định bệnh cho nó. Hãy mổ xẻ nó và với ơn Chúa hãy băng bó cho nó, tạo lại những nếp sống hài hòa trong mọi lãnh vực của đời sống chúng ta.
Thật vậy, sự hài hoà mọi lãnh vực trong đời sống của mình không phải là chuyện dễ, vì con người chúng ta đều có giới hạn. Nhưng Thiên Chúa đã đặt vào trong con người chúng ta những ý nghĩ của điều thiện hảo, giúp chúng ta hướng đến sự sống vô biên. Vậy chắc chắn điều Chúa muốn là chúng ta cố gắng trong khả năng, trong địa vị của mình để trở thành một mẫu gương sống cho người khác, nhất là những người mà chúng ta có trách nhiệm hướng dẫn dạy dỗ họ.
Có như thế, chúng ta mới giảng dạy cho người khác một cách xác tín, mạnh dạn khuyên bảo người khác mà không đớ lưỡi, mà không ngượng miệng, không cứng họng, nhất là người khác đó là con cháu của mình. Và như thế, mỗi người chúng ta mới thực hiện được lời khuyên tha thiết của Chúa Giêsu: "Chúng con phải sống thế nào để người khác nhìn vào chúng con mà ngợi khen Cha chúng con ở trên trời".
Chúng ta cũng nên biết rằng, đối với thời đại chúng ta đang sống, nếp sống gương mẫu của các Kitô hữu là một phương thế hữu hiệu nhất để mở đường cho người khác tin vào Thiên Chúa. Có thể nói được rằng, con người ngày nay cần phải có đời sống gương mẫu để củng cố đức tin. Vì chính nhờ đời sống ngay lành, thánh thiện, công bình và bác ái của những người tin Chúa sẽ làm cho những người khác phải đặt câu hỏi. Nhờ đó mới khơi dậy trong họ một ước nguyện đi tìm Chân Thiện Mỹ mà Chân Thiện Mỹ tuyệt đối chính là Thiên Chúa vậy.
36. Lãnh đạo: là lãnh đạn – Như Hạ
Hiện tại Việt Nam được xếp vào một trong 20 nước tham nhũng nhất thế giới. Bệnh tham nhũng đã thành nan y. Trong khi Công giáo'Việt Nam chỉ chiếm 8% dân số, có tới 30% giới trẻ ghiền ma túy là người Công giáo. Tất cả những dữ kiện ấy tố cáo Việt Nam tràn ngập những con người chỉ thích hưởng thụ ít biết phục vụ.
Trước sự kiện đó chúng ta phải lành gì? Tại sao có tình trạng trầm trọng như vậy? Chẳng lẽ giới trẻ bị bỏ rơi, không còn là đối tượng cho Giáo hội phục vụ sao? Thực tế Giáo hội có vạch nổi hướng đi cho giới trẻ hôm nay không?
CÁI TÔI ĐÁNG GHÉT
Chính khi đức Giêsu thấy đám đông, Người chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt (Mt 9:36). Lý do vì thời đó các kinh sư và người Pharisêu chỉ tìm cái tôi trong việc lãnh đạo quần chúng. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là ráp-bi (Mt 23:6-7). Suốt ngày luẩn quẩn với cái tôi như thế họ không thể nào biết được nhu cầu quần chúng.
Cái tôi kệch cỡm ấy bị phơi bày ra ánh sáng: Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài (Mt 23:5). Đúng là mầu mè. Họ thích khoe khoang cái tôi hơn là bắt tay hanh động cùng với người khác. Quyền bính trở thành cứu cánh mọi đam mê thống trị, chứ không phải là phương tiện phục vụ quần chúng. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ lại không buồn động ngón tay vào (Mt 23:4). Cần gì phải bận tâm tới những điều tầm thường! Bọn dân đen ngu dốt mới phải cúi đầu khuất phục. Còn ta thuộc hàng lãnh đạo phải sống trên lề luật chứ?
Bên ngoài các kinh sư và người Pharisêu rất đạo đức và uy quyền, vì họ ngồi trên tòa ông Mô sê mà giảng dạy (Mt 23:2). Họ không phải là những người ngu dốt. Trái lại họ giảng rất hay, chủ yếu gây thanh thế và danh vọng cá nhân, chứ không nhằm làm sáng danh Thiên Chúa. Họ đưa ra những lề luật và giải thích luật rất thông suốt để khai sáng quần chúng. Đức Giêsu cũng công nhận như thế: Những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ ; nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm (Mt 23:3).
Có một khoảng cách ghê gớm giữa lý thuyết và thực hành. Đức Giêsu không thể chấp nhận một kiểu mẫu lãnh đạo như thế trong cộng đồng Người. Thật vậy đối với Đức Giêsu, lãnh đạo không phải là ngồi văn phòng ra chỉ thị. Nhưng lãnh đạo là lãnh đạn. Chính Đức Giêsu là người lãnh đạn đầu tiên khi trở thành đối tượng cho mũi dùi dư luận đầy hiềm khích của các kinh sư và người Pharisêu. Chúa đã thi hành trước tiên điều Chúa căn dặn môn đệ: Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em (Mt 23:l l). Mức phục vụ anh em nơi Đức Giêsu đã lên tới tột đỉnh, vì Người đã hi sinh cả mạng sống. Chính nhát giáo đâm thấu tim Người đã mạc khải chân lý lãnh đạo là lãnh đạn.
Tại sao Đức Giêsu có thể phục vụ tới mức đó? Chắc chắn Người chẳng bao giờ nghĩ tới cái tôi như các kinh sư và người Pharisêu. Người không nghênh ngang, màu mè. Trái lại Người đã quỳ gối rửa chân cho các môn đệ. Thày ở giữa anh em như một người tôi tớ''.
Mặc dù tài giảng thuyết vô cùng lôi hút quần chúng, Người không tìm hư danh, nhưng chỉ lo cho danh thánh Cha vinh hiển (Mt 6:9; Lc l l:2).
THẾ GIỚI ĐẠI ĐỒNG
Sống theo tinh thần Đức Giêsu, người môn đệ làm thành một cộng đồng huynh đệ, không còn giai cấp, địa vị. Trong cộng đồng thiêng liêng, mọi người đều bình đẳng. Thật vậy tất cả anh em đều là anh em với nhau (Mt 23:8). Quyền bính chỉ có nghĩa là phục vụ anh chị em (Faley:1994). Bởi đó ngay giám mục và linh mục cũng chỉ là những thừa tác viên trong cộng đồng dân Chúa. Thật ý nghĩa khi một linh mục ghi trên tấm ảnh kỷ niệm ngày lãnh tác vụ linh mục, thay vì ghi nhớ ngày chịu chức. Phục vụ đã được Chúa nhấn mạnh như dấu chỉ đặc biệt của cộng đồng Ki tô giáo (Faley: 1994).
Khác hẳn với mẫu mực Đức Giêsu đã nêu cao, cộng đồng Do thái giáo ngày xưa gồm toàn những người lãnh đạo đi trệch đường và làm cho nhiều người lảo đảo trên đường Luật dạy không tuân giữ đường lối Thiên Chúa, và hay nể vì khi áp dụng Luật (MI 2:8-9). Họ không dám giáo hóa dân chúng đúng nhức. Có lẽ xôi oản đã lành cho thầy ngọng miệng rồi chăng?
Trái lại ngay từ đầu trong cộng đồng Ki tô giáo, Chúa đã nêu cao nhiều mẫu gương phục vụ Trong khi thi hành sứ mệnh, các tông đồ đã không hống hách hay ăn trên ngồi trốc, trái lại các ngài luôn khoan dung và quan tâm tới mọi người (Faley: 1994). Trong số đói thánh Phao lô nổi bật như một vị lãnh đạo xuất chúng vì đã cư xử thật dịu dàng, chẳng khác nào mẹ hiền ấp ủ con thơ (lTx 2:7). Người xả thân vì Chúa và anh em: Chúng tôi đã quý mến anh em, đến nỗi sẵn sàng hiến cho anh em, không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà cả mạng sống của chúng tôi nữa (lTx 2:8). Rõ ràng nếu thừa tác vụ hay việc phục vụ trong tinh thần thương yêu là một dấu hiệu môn đệ đích thực, thì phải làm cho con người dấn thân toàn diện, chứ không thuần túy như làm một công tác trong Giáo hội (Doohan: 1993).
ĐƯỜNG HƯỚNG LÃNH ĐẠO HÔM NAY
Đức Thánh Cha Gioan Phao lô II càng lành sáng tỏ chân lý lãnh đạo là lãnh đạn khi Người bị bắn gục trên quảng trường thánh Phêrô năm 198l. Đó là hình ảnh nói lên tất cả sự thật bên trong của việc lãnh đạo dân Chúa. Sự thật bên trong là tình yêu Chúa Ki tô thúc đẩy chúng tôi (2Cr 5: 14) phải xây dựng Nước Thiên Chúa bằng con đường phục vụ.
Con đường phục vụ lớn lao và gian truân nhất là đến với người nghèo. Vị lãnh đạo Hội Thánh hôm nay cho thấy: Bảo vệ người nghèo là làm vinh danh Thiên Chúa, là Cha của người nghèo (VietCatholic 28/10/1999). Đó là hướng đi Chúa đã vạch ra cho Giáo hội từ 2000 năm trước: Kẻ nghèo được nghe Tin Mừng (Mt l l:5; x.Lc 4.: 18). Đức Thánh Cha giải thích': Trong Tân Ước, sứ điệp phấn khởi vui mừng được loan báo cho người nghèo... Nghèo khó của Phúc Âm luôn luôn hàm ý phải có sẵn một tình yêu vĩ đại cho nhĩmg người nghèo nhất trên thế giới (VietCatholic 28/10/1999).
Người nghèo là nạn nhân trực tiếp của bất công. Chúng ta không thể bình chân như vại trước cảnh anh em đang chết đói cả về vật chất lẫn tinh thần. Cứu được con người khỏi cảnh đói khổ, Hội Thánh sẽ trở nên niềm hi vọng cho muôn dân, Ki tô hữu thực hiện được sứ mệnh do niềm tin đòi hỏi. Chỉ có phục vụ vô điều kiện mới biến cải thế giới. Phục vụ như thế không tránh khỏi búa rìu dư luận và hi sinh quyền lợi lẫn mạng sống. Nhưng có sẵn sàng lãnh đạn, chúng ta mới trở thành lãnh đạo trong Đức Giêsu Kitô. Một tinh thần dấn thân cho công lý sẽ lôi hút giới trẻ và người nghèo hôm nay vào Nước Thiên Chúa, một Nước công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần (Rm 14:17).
37. Suy niệm của Lm Gioan B. Phan Kế Sự
(Ml 1, 14B - 2, 2b. 8-10)
“CÁC NGƯƠI ĐÃ ĐI SAI ĐƯỜNG LỐI, LÀM CHO NHIỀU NGƯỜI VẤP PHẠM”
Khi nói tới hay phải đối mặt với những bọn kinh sư, pharisiêu, biệt phái, luật sĩ, thái độ của Chúa Giêsu rất thẳng thắn, nghiêm khắc và chỉ trích nặng lời vì thói giữ đạo giả dối, cách sống thủ đoạn, chỉ có cái vỏ bề ngoài. Đối với hạng người này, Chúa vạch mặt thẳng thắn và cho những chỉ dẫn thật cụ thể và thực tế để giúp chúng ta xa tránh, và nhất là nhận diện một cách rõ ràng cái bộ mặt giả dối, đểu cáng, một thứ đạo đức gỉa hình, không xứng đáng làm con cái của Chúa.
Những gì họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm và tuân giữ. Hạng người này mở miệng là nhân danh đủ thứ, trích dẫn cả Lời Chúa, nại đến đủ thứ quyền lực hay cố bám vào những cái phao rách để làm bình phong cho cái “giả nhân gỉa nghĩa” của mình.
Nhưng đừng noi theo hành vi của họ: vì họ nói mà không làm. Đó chính là lối sống giả dối và thiếu việc làm của họ.Xem ra chỉ có võ mồm thay cho tay chân, thích chỉ tay năm ngón, thích móc ví tiền của người khác mà không hề đổ lấy một giọt mồ hôi!
Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta, còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử. Giữa lời nói và hành động luôn mãi là một vực thẳm. Hạng người chỉ thích rình nuốt hết công của người khác, chỉ thích mọi người tung hô, mọi người ca tụng và thích cả việc “kính thưa kèm theo cả kính gởi”
Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy, bởi mục đích sống của họ là “một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”. Của ăn của họ là những lời dua nịnh, tung hô. Thái độ và hành động của họ là dương dương tự đắc, ngạo mạn và coi thường cả lương tri.
Cách sống này đã được tiên tri Malaki nhắc đến trong Cựu Ước “Các ngươi đã đi sai đường lối, làm cho nhiều người vấp phạm”. Quả thế, căn bệnh biệt phái có sức tác hại không chỉ đối với cá nhân, mà hơn thế, còn gây tác hại và làm băng hoại nhiều thế hệ con cháu, chỉ biết lao vào những lễ nghi hình thức hoành tráng bên ngoài mà quên đi cách sống đẹp lòng Chúa.
“Còn các ngươi…” Chúa nhắn nhủ tất cả chúng ta:
“Anh em chỉ có một Thầy, còn tất cả chỉ là anh em với nhau”. Chẳng ai thua ai mà cũng chẳng ai kém ai trước mặt Chúa, vì mọi người là con một Cha, và chắc gì mình đã hơn ai.
“Trong anh em,người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em.” Phục vụ và sẵn sàng cúi xuống để rửa chân cho nhau luôn là bài học khó thuộc và “đau cột sống!”
“Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. Quyền bính, với Chúa và với Giáo Hội là phục vụ, không phải là sức mạnh để thống trị hay trừng phạt!
Chúa dạy là thế, nhưng rồi con người vẫn chỉ thích làm ngược, nói ngược, cư xử với nhau bằng luật rừng như những kẻ bụi đời, xã hội đen! Thật đau lòng thay!
Lời cầu nguyện:
Lạy Chúa, thật buồn thay khi căn bệnh ung thư di căn của gỉa hình vẫn và đang ngày càng làm băng hoại và giết chết Giáo Hội. Lời mời gọi truyền giáo của Chúa đã chẳng và không bao giờ có sức thuyết phục được khi chính đời sống và hành động đã tố cáo bộ mặt giả dối và hư danh của chúng con. Xin giúp chúng con biết dùng Lời Chúa làm kim chỉ nam hướng dẫn và là con đường chân lý và sự thật, hầu chúng con tránh được những lời nguyền rủa của Chúa. Amen.
38. Tuân giữ và phục vụ
Đức Giêsu đến để phục vụ và nên gương cho loài người trong việc vâng giữ luật Chúa. Theo chương trình của Thiên Chúa, Abraham được chọn làm tổ phụ một dân riêng. Trong dân tộc này, Thiên Chúa đã chuẩn bị cho những hiểu biết cần thiết để sống đạo. Chúa còn sai nhiều tiên tri đến giảng dạy dân Do thái để họ sống đúng đường lối Chúa. Trước khi Chúa Giêsu xuống thế, có những nhóm người chủ trương sống triệt để luật Chúa như nhóm biệt phái, luật sĩ, Essini... Tuy nhiên, một số người trong nhóm biệt phái, luật sĩ thời Chúa Giêsu lại đi tìm hư danh, làm vì mình hơn là vì dân Chúa. Chúa Giêsu đã chỉ cho các môn đệ thấy những sai lầm trong nhóm biệt phái để các môn đệ Chúa không giẫm vào vết xe đổ này. Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy các môn đệ Ngài sống tinh thần khiêm nhường trong khi thi hành nhiệm vụ và cảnh giác trước những gương xấu của các Biệt phái.
Những điều Chúa Giêsu dạy chúng ta tránh là:
Dạy người khác mà mình không làm. Luật sĩ dùng sự hiểu biết của mình để dạy dân hiểu đúng luật Chúa là tốt nhưng họ lại thiếu lòng yêu mến Thiên Chúa, họ không lo thi hành điều họ dạy người khác làm. Điều này rất nguy hại vì nó có thể làm cho dân chúng sống vị luật, vì sợ hãi hơn là vì yêu mến Chúa và tha nhân. Hơn nữa, dân chúng có thể bắt chước lối sống giả hình của họ và không còn tinh thần đạo đức đích thực nữa!
Buộc những bó nặng chất lên vai người khác mà chính mình không lay thử. Họ dạy giữ luật cách tỉ mỉ và nghiêm khắc làm cho người khác khó giữ nổi, trong khi họ lại dễ dãi với chính mình. Họ là những người ngôn hành bất nhất, không nên gương cho dân chúng về lòng đạo đức mà chỉ làm dân chúng thêm nặng lòng vì không giữ nổi hết các chi tiết tỉ mỉ họ đưa ra.
Hám danh và cầu lợi: họ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo để được người ta chú ý và ca tụng, có ý khoe mình là sốt sắng đạo đức hơn người! Đây là điều người Kitô hữu lưu ý, vì đối với Chúa, chỉ có lòng khiêm hạ mới đẹp lòng Chúa. Việc đạo đức, thánh thiện là rất tốt nhưng phải làm với lòng kính mến Chúa để tôn thờ Chúa cách chân thành với hết tâm hồn mình.
Người Biệt phái tỏ ra đạo đức để được loài người ca tụng, kính trọng, được đối xử ưu tiên, được gọi là thầy... nếu làm việc Chúa với mục đích này thì họ đã được người đời trả công rồi, Chúa đâu cần trả công cho họ về những việc này! Như vậy, chúng ta phải tránh những điểm này và quyết tâm làm việc vì Chúa, cho Chúa và vì phần rỗi anh em mình.
Khi chúng ta làm những người lãnh đạo cộng đoàn hay những nhóm lớn, nhỏ, tuy chúng ta có quyền hạn hơn những thành viên nhưng quyền đó chỉ để phục vụ, không được lạm dụng nó. Chúa giêsu đã nói rõ: các con chỉ có một Cha, một Thầy, một Vị Chỉ Đạo là Thiên Chúa còn tất cả mọi người là anh em với nhau. Vì vậy, tuy môn đệ làm công việc của Thầy, với các chức vụ tư tế, tiên tri, vương đế nhưng không được kiêu căng tự phụ, ham hư danh. Dù ở chức vụ, địa vị nào cũng phải khiêm nhường và tôn trọng tha nhân theo gương thầy chí thánh là đức Giêsu kitô. Ai càng làm lớn càng phải lo phục vụ, càng có trách nhiệm đối với tha nhân, càng phải làm việc nhiều hơn để được Chúa ban cho phần thưởng là hạnh phúc đời đời trên Thiên quốc.
39. Nói mà không làm
Luật đầy đủ là "yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu người lân cận như chính mình". Là phục vụ. Làm được là đủ điều kiện để có áo cười đi ăn tiệc Nước Trời. Nhưng người ta nói nhiều mà không làm, không phục vụ mà muốn được phục vụ.
Vài điểm CHÚ GIẢI
- Các người biệt phái ngồi trên toà Môsê mà giảng dạy: Làm thầy thông luật dạy và giải thích luật Môsê cho dân.
- Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta...: Giải thích luật quá khó, buộc nhặc.
- Nhưng chính họ không buồn động tay vào: buộc người ta mà mình không làm.
- Họ làm mọi việc cốt để cho người ta thấy: Chỉ để phô trương.
- Họ ưa chỗ nhất....ưa được chào hỏi....và được gọi là rabbi (thầy): ưa hư danh.
- Đừng dể ai gọi mình là rabbi... đừng gọi ai là cha... cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo: hiểu theo mạch văn "như những biệt phái kể trên" nói mà không làm.
- Trong anh em người làm lớn hơn cả phải làm người phục vụ: như Đức Giêsu là Thầy và là Chúa mà hạ mình phục vụ "rửa chân". Người phục vụ đến hiến mạng sống.
- Ai tặng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nhắc lên: Hạ mình xuống là để phục vụ. Phục vụ thì có thưởng lớn sẽ là người lớn trong Nước Trời. Chúa Giêsu dạy: Làm việc lành thì phải kín đáo chỉ để Cha trên Trời biết và Người sẽ trả công.
Trước mặt Chúa thì phải thật lòng. Giả hình Chúa không ưa. Chuộng hư danh thì không có gì để Chúa thưởng. Các người biệt phái "ngồi trên toà Môsê" nói mà không làm. Làm thì chỉ để "cho người ta thấy", khoe khoang, để được được danh dự.
Yêu người như chính mình là khiêm tốn phục vụ. Thực tề thì chỉ có chữ "PHỤC VỤ" là đủ tất cả vì làm nhỏ để phục vụ thì sẽ là người lớn trong Nước Trời.
40. Sống chân tình
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu” – Thiên Phúc)
Chuyện kể rằng: Ngày kia, Nữ hoàng Shaba gởi đến vua Salomon hai bó hoa rất giống nhau, để thử xem sự khôn ngoan của ông tới đâu. Đó là một bó hoa thật và một bó hoa giả.
Nhà vua bèn mở cửa sổ, cho bầy ong bướm bay vào. Tức thì các chú ong và các nàng bướm liền sà ngay xuống những bông hoa thật.
**
Những bông hoa giả có sắc mà chẳng có hương, có bóng hình mà không có sự sống.
Những kẻ giả hình nói nhiều làm chẳng được bao nhiêu. Thậm chí, chỉ nói suông mà không có thực hành. Họ dung túng cho mình nhưng lại nghiêm khắc với kẻ khác.
Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu vạch trần những con người giả hình ấy. Người nói: “Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào” (Mt 23,4). Người giả hình còn nhiều tật xấu khác mà Đức Giêsu không tiếc lời chỉ trích. Như tính khoe khoang công đức, thích ăn trên ngồi trước, ưa được kính trọng chào hỏi nơi công cộng, và muốn người ta gọi mình là “thầy”.
Sau khi nghe Đức Giêsu mô tả khuôn mặt kẻ giả hình, hẳn ai trong chúng ta cũng thấy dáng dấp của mình trong đó. Nếu không háo danh thì cũng khoa trương, nếu không kể công lênh thì cũng thích được trọng vọng, nếu không ích kỷ cũng nói nhiều làm ít.
Đức Giêsu quả đã không nương tay khi cầm con dao mổ, rạch sâu vào ung nhọt của lương tâm mỗi chúng ta. Cuộc giải phẫu ấy làm chúng ta đau buốt, nhưng sau khi đã lấy ra hết ung nhọt hôi tanh của tính giả hình, chúng ta sẽ chân thành và khiêm tốn hơn.
Chúng ta sẽ chỉ sống những gì mình nói và chỉ nói những gì mình đã làm. Đức Gioan Phaolo II đã nói: “con người ngày nay không cần những thầy dạy nói suông, nhưng cần những chứng nhân sống điều họ nói”.
Chúng ta không bao giờ phê bình lên án một ai, vì khi cỉ trích kẻ khác là chúng ta đang ngấm ngầm che giấu những tật xấu nơi chính mình, là chúng ta không dám đối mặt với sự thật nơi bản thân, bởi sự thật đó buộc chúng ta phải sám hối và canh tân luôn mãi.
Trong thẳm sâu của lòng người, ai cũng muốn có được một chút danh vọng, ai cũng thích trổi vượt hơn người. Hôm nay, Đức Giêsu đã cho chúng ta một quan điểm mới, để đáp lại nhu cầu muốn làm lớn trong mỗi chúng ta: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm ngươì phục vụ anh em” (Mt 23,11). Điều này đức Giêsu đã làm gương trước khi dạy. Tuy Người là Chúa và là Thầy, nhưng Người luôn coi mình như bạn hữu, như anh em, và nhất là như đầy tớ phục vụ và yêu thương các môn đệ cho đến cùng. Như thế, “làm lớn” theo quan điểm của Đức Giêsu chính là cúi xuống trước anh em để chân tình phục vụ họ trong yêu thương. Thánh Phaolo viết: “Người được chấp nhận không phải là để tự cao tự đại, nhưng là người được Chúa đề cao” (Gr 10,18).
Hãy soi đời mình vào tấm gương Giêsu, để tìm cho mình một phong cách sống đẹp nhất.
**
Lạy Chúa, nếu có ai nói chúng con giả hình, chắc là chúng con không vui. Nhưng khi đối diện với chính mình, chúng con thật sự thấy mình có giả dối.
Xin giúp chúng con tháo gỡ các thứ mặt nạ mà bấy lâu đã làm cho khuôn mặt chúng con biến dạng, để chúng con không còn đánh lừa nhau, đánh lừa Chúa, và đánh lừa chính mình. Xin dậy chúng con luôn biết sống chân thành. Amen.
41. Đừng sống giả dối kiểu biệt phái!
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP.)
Sống trên đời, ai cũng muốn cho mình được trọng vọng. Sự huênh hoang tự đắc gần như nó đã bén sâu trong tâm trí con người ở mọi thời. Vì thế, nhiều người đã cố gắng bằng mọi cách có thể để ngụy trang cho mình, hầu mong đạt được mục đích.
Những kiểu cách này, đã được các Luật Sĩ và Biệt Phái khai thác triệt để và sử dụng chúng như lá bùa hộ mệnh cho mình.
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã thấu hiểu tường tận những con người này, vì thế, chúng ta không lạ gì khi dạy các môn đệ và dân chúng bài học khiêm nhường, Ngài đã đưa ra hình ảnh đối lập nơi những Luật Sĩ và Biệt Phái để làm toát lên tác hại của sự dối trá, giả hình.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy trung thành, khiêm tốn, làm việc trong sự thật và lòng mến. Có thế, công việc của chúng ta mới được đẹp lòng Chúa, nếu không, hẳn sẽ thất bại.
1. Ý nghĩa Lời Chúa
Khởi đi từ bài đọc I cho chúng ta biết: sau khi vua Cyrô cho dân Dothái được hồi hương và tự do thờ phượng Thiên Chúa. Dân chúng quá đỗi vui mừng. Tuy nhiên, sự hồ hởi, nhiệt huyết buổi ban đầu dần dần lắng xuống và vụt tắt, nhường chỗ cho sự ươn lười, chểnh mảng của cả người lãnh đạo lẫn dân chúng. Vì thế, dẫn đến hệ quả là: người dân thì sống vô cảm, tranh dành và ganh tỵ với nhau, còn những nhà lãnh đạo thì quan liêu, hách dịch, tự kiêu, bảo thủ và dối trá...
Đúng lúc đó, tiên tri Malakhi xuất hiện, ngài đã vạch trần nguyên nhân của sự xuống cấp này, đồng thời chỉ cho thấy trách nhiệm thuộc về các vị lãnh đạo. Họ đã không tìm ý Chúa để thực thi, nhưng họ đã thượng tôn chính kiến của mình và tìm những lợi lộc thấp hèn cho riêng bản thân.
Khi đến, tiên tri Malakhi đã kêu gọi họ sám hối để được tha thứ, tránh được cơn thịnh nộ của Thiên Chúa và giao hòa lại với Ngài, hầu xứng đáng là người thay mặt Chúa, hướng dẫn dân đi theo đường công chính.
Sang bài đọc thứ II, thánh Phaolô đã trở nên vị lãnh đạo đối lập lại với các nhà lãnh đạo của thời tiên tri Malakia trong bài đọc I. Thánh nhân đã luôn tìm thánh ý Thiên Chúa để thực thi. Luôn quy chiếu mọi vinh dự và vinh quang về Thiên Chúa, còn bản thân của ngài thì chỉ là đầy tớ phục vụ trong lòng mến.
Chính tâm tình như thế, thánh Phaolô đã trở thành mục tử luôn hy sinh, sống hết lòng vì đoàn chiên được trao phó. Sống tinh thần phục vụ chứ không để người khác phục vụ. Chính gương sáng đó nơi ngài mà dân thành Thêxalônica có một đời sống đạo thật vui tươi, hân hoan và yêu thương nhau.
Sang bài Tin Mừng, Đức Giêsu đã chỉ rõ cho các môn đệ và dân chúng về ích lợi của sự khiêm nhường. Chính sự khiêm nhường sẽ làm cho tư cách và hành động của người môn đệ trở nên hấp dẫn, vì lời nói và hành động của họ đi đôi với nhau.
Đời sống và cung cách ứng xử của người loan báo Tin Mừng cần tránh hết sức bao nhiêu có thể những thói kiêu căng, cứng ngắc, hám danh, thích quyền và sai khiến như các Luật Sĩ và Biệt Phái. Vì thế, tư cách của nhà lãnh đạo theo tinh thần của Chúa, chính là: khiêm nhường, tự hạ, trung thực, hiền lành, lắng nghe, đơn sơ, và hăng say phục vụ chứ không mong được người khác phục vụ. Có được những đặc tính đó, người môn đệ sẽ hành động vì Chúa, nhân danh Chúa và quy hướng về Ngài hết thảy.
2. Lối sống giả hình của những “Rapbi” Dothái
Hình ảnh và đời sống của người kiêu ngạo và khiêm nhường luôn luôn đối lập nhau. Kiêu ngạo, giả dối là thuộc về phe ma quỷ, còn khiêm tốn là thuộc về bản chất của Thiên Chúa. Người đi theo ma quỷ, hẳn sẽ thuộc về chúng với tất cả những đặc trưng của chúng. Người thuộc về Thiên Chúa thì luôn mang trong mình phẩm hạnh của Ngài.
Khi thấy được những Luật Sĩ và Biệt Phái sống kiểu quen trò bịp bợm thói lưu manh..., Đức Giêsu đã không muốn để cho dân chúng bị mắc hợm và cũng không muốn các môn đệ của mình khi thi hành sứ vụ lại có một lối sống như họ. Vì thế, Ngài đã thẳng thắn phê phán họ cách công khai và hướng dẫn các môn đệ về cách thức thi hành Luật Chúa.
Vì thế, Đức Giêsu phán: “Những gì họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ: vì họ nói mà không làm”. Không được sống kiểu: “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao” (Truyện Kiều).
Nguyên nhân dẫn đến việc các Biệt Phái và Luật Sĩ sống giả đò nhân đức là vì:
Họ thuộc hạng người chỉ biết tìm lợi lộc cho mình, hám danh, muốn được mọi người ta ca tụng ở nơi công cộng là đạo đức, tốt lành.
Cũng chính vì những ý tưởng đó chủ đạo, nên họ mới nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo cốt để cho người ta chú ý và khen là mình đạo đức, khôn ngoan, chứ không nhằm nhắc nhớ mình nhớ đến luật Chúa hầu thực hành cho đúng cốt lõi của Luật.
Chính cách sống đó, dẫn họ đến thái độ ưa được người ta chào hỏi nơi công cộng, thích được ngồi cỗ nhất trong đám tiệc và mong muốn được người ta chào mình bằng thầy....
Nói chung, thực ra những người Luật Sĩ và Biệt Phái này họ thuộc hạng am tường Kinh Thánh thật. Nhưng điều đáng nói chính là sự mâu thuẫn giữa lời nói và hành động của họ. Họ giải thích luật thật cặn kẽ và bó buộc người ta phải thi hành từng chi tiết. Tuy nhiên, với bản thân họ thì không hề để ý tới. Họ thuộc dạng nói một đàng, làm một nẻo: “Ngôn hành bất nhất”; hay: “Mồm miệng đỡ chân tay”.
Thấy được hình thức của họ, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ và dân chúng hãy vâng nghe lời họ giảng dạy khi họ nhân danh Thiên Chúa. Tuy nhiên, lòng đạo đức của họ thì hoàn toàn giả dối, vì thế không được làm theo.
3. Sống Sứ điệp Lời Chúa
Khi nghe bài Tin Mừng này, hẳn nhiều người trong chúng ta luôn có thái độ phê phán những nhà lãnh đạo tinh thần..., tuy nhiên, xét về một góc độ nào đó, mỗi người chúng ta cũng đang là những người nắm giữ vai trò đại diện cho Chúa khi đảm nhận trọng trách là người cha, người mẹ trong các gia đình, hay là những người lãnh đạo một hội đoàn, tập thể nào đó trong đạo.... Vì thế, chung một sứ điệp, Đức Giêsu cũng mời gọi chúng ta hãy thống nhất trong việc giữ đạo và sống đạo. Giữa niềm tin và cuộc sống phải ăn khớp với nhau. Cần tránh kiểu: “Ngôn hành bất nhất” giống như những người Luật Sĩ và Biệt Phái. Đừng giống như những người lãnh đạo tinh thần Dothái khi xưa là: chỉ lo tô son trét phấn bên ngoài như kiểu mồ mả tô vôi, còn bên trong thì nhơ bẩn, thối tha. Nếu sống như vậy, chúng ta đâu khác gì những tay hề chuyên nghiệp trên sân khấu đang diễn một vở kịch châm biếm!
Mặt khác, cần tránh thói kiêu ngạo, khoe khoang, phô trương, giả hình và bất nhân…. Bởi vì những tính cách đó là con đẻ của ma quỷ. Nhưng hãy mặc lấy tâm tình từ bi, nhân hậu, hiền hòa, nhẫn nại và khiêm nhường. Sống trong tâm tình và thái độ của kẻ bé mọn, tôi tớ, đến để phục vụ chứ không phải được người khác phục vụ.
Thật vậy, đời sống khiêm nhường là thuộc về phẩm hạnh của Thiên Chúa và được Ngài yêu mến. Sống đức khiêm nhường là được ở trong Thiên Chúa. Hành động khiêm nhường sẽ được Chúa chúc lành. Người khiêm nhường sẽ thành công và được nhiều người ca tụng.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết học cùng Chúa, vì Chúa hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Xin uốn lòng chúng con nên giống trái tim Chúa. Amen.
42. Sống chân thành
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Chân thành, nguyên ngữ Latinh là: Sincerus, a, um.
Sincera có một lịch sử. Ngày xưa, người La mã thấy cột đá cẩm thạch nào không được nhẵn, có lỗ, sứt mẻ, họ lấy sáp ong nhét vào những lỗ đó, rồi đánh cho thực trơn láng.
Cũng giống như phụ nữ lấy phấn sáp thoa vào mặt để che những vết nhăn. Những cột cẩm thạch nào không có sáp ong, là dấu tuyền vẹn, và gọi là: Sine cera; Sine: không, cera: sáp ong. Qua các thời đại, hai tiếng này ghép lại thành một là “sincera”, và có nghĩa là không phấn sáp, không giả tạo, nhưng thành thực, chân thành.
Tình thương giữa con người với nhau cần phải sincera: không phấn sáp, không giả tạo, nhưng tự nhiên và chân thành.
Ngày xưa, Nữ Hoàng Saba nghe biết về sự khôn ngoan của Salomon, nên đã gởi đến Nhà Vua hai bó hoa để thử xem sự khôn ngoan của ông tới đâu. Đó là một bó hoa thật và một bó hoa giả rất giống nhau. Vua đặt hai bó hoa lên bàn và liền mở cửa để cho bầy ong bướm bay vào. Thế là đàn ong bướm liền sà ngay xuống những bông hoa thật. Những bông hoa giả có sắc mà chẳng có hương, có hình dáng mà không có sự sống.
Những kẻ giả hình nói thì nhiều, mà làm thì chẳng bao nhiêu, thậm chí nói suông mà không thực hành, dung túng cho mình, nghiêm khắc với kẻ khác.
Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu vạch trần sự giả hình của các Kinh sư, Pharisiêu.
- Giả hình: vì họ nói mà không làm
- Thích thống trị: Vì họ bó những gãnh nặng lên vai người khác, còn chính họ thì không buồn động động ngón tay vào.
- Thích khoe khoang: Vì họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy.
- Thích hám danh: Vì họ ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi nơi cộng cộng, được thiên hạ gọi là Rápbi.
Nghe Đức Giêsu mô tả khuôn mặt kẻ giả hình, xét mình, ai cũng thấy dáng dấp của mình trong đó. Nếu không háo danh thì cũng khoa trương, nếu không kể công thì cũng thích được trọng vọng, nếu không ích kỷ, cũng nói nhiều làm ít…
Những người Pharisiêu tự cho mình là đạo đức, là bậc thầy dạy dỗ dân chúng về cách sống đạo. Nhưng Đức Giêsu đã nhìn thấy trong lối sống đạo của họ, có những biểu hiện lệch lạc, giả hình, làm hoen ố đạo thật. Nhân đó, Người đưa ra mấy chỉ dẫn thiết thực cho đời sống đạo:
- Chỉ dẫn 1: Lời nói đi đôi với việc làm:
Giữa lời nói và việc làm, thường có một khoảng cách rất lớn như giữa lý thuyết với thực hành, giữa ước mơ với hiện thực, giữa lý tưởng với thực tại. Nói thì dễ, nhưng làm thì khó, nên người ta để rơi vào thói nói nhiều, làm ít, hoặc chỉ nói suông mà không làm, hoặc còn tệ hơn, khi việc làm thì mâu thuẫn với lời nói, như người Pharisiêu “nói mà không làm”. Trong những trường hợp ấy, nói về Đạo, trở thành phản chứng, làm cho người nghe khó chấp nhận Đạo.
Khi phê phán thái độ của người Pharisiêu, Đức Giêsu muốn dạy chúng ta đừng nói nhiều, nhưng hãy làm. Chính việc làm minh chứng Đạo thật, việc làm mới có sức thuyết phục. Lý thuyết, dù có hay đến đâu, nếu không thực hiện được thì cũng vô ích. Người ta thích câu tục ngữ "Đừng nghe những gì người ta nói, mà hãy nhìn kỹ những gì người ta làm".
- Chỉ dẫn 2: Hãy làm một cách khiêm tốn.
Người Pharisiêu làm gì cũng muốn phô trương, muốn tỏ ra mình đạo đức. Họ đeo lề luật trên trán, trên tay. Đeo rồi sợ người khác không nhìn thấy, họ phải đeo những hộp kinh thật lớn, may những tua áo thật dài để cho mọi người biết họ yêu mến lề luật, giữ đạo cặn kẽ. Thói phô trương biến thành tự phụ, tự mãn, hợm hĩnh. Cho nên những người Pharisiêu luôn ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, ưa được chào hỏi nơi công cộng.
Khi phê phán người Pharisiêu, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ hãy thực hành đạo trong kín đáo: Khi làm việc lành phúc đức, anh em chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Khi bố thí đừng để tay trái biết việc tay phải làm (Mt 6,3). Khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha anh em, Đấng hiện diện nơi kín đáo.(Mt 6,6) (x. Chia sẻ Tin Mừng năm A, ĐGM Giuse Ngô Quang Kiệt).
Âm thầm làm việc đạo đức là dấu chỉ lòng mến Chúa chân thực. Lòng mến chân thực dẫn đến thái độ khiêm tốn, biết kính trọng ngươi khác, biết luôn phục vụ anh em.
Lời chỉ dẫn trên đây của Đức Giêsu giúp chúng ta sống chân thành và khiêm tốn. Người chân thành khiêm tốn chỉ sống những gì họ nói và chỉ nói những gì họ làm. Người chân thành khiêm tốn không nói láo, không giả hình, không tự cao cho mình hơn kẻ khác, không phê bình, không chỉ trích.
Ứng xử trong các mối quan hệ, phải chân thành. Còn gì thất vọng cho bằng khi thấy những cử chỉ, thái độ, lời nói có vẻ lịch sự, bác ái, nhưng thực tế lại giả tạo, xã giao miễn cưỡng, một thứ nguỵ tạo giả hình. Trước mặt niềm nở, sau lưng nói hành nói xấu, gièm pha. Lối sống của Pharisêu vẫn còn nhiều lắm trong đời sống thực tế hàng ngày. Sự giả hình, giả dối đã thành ra như thông lệ, từ lãnh vực tình yêu đến lãnh vực văn hoá, kinh tế, tôn giáo, chính trị, người ta vẫn thường dùng cái bên ngoài mà lừa đảo nhau. Vì vậy cần phải sống chân thành, tín nhiệm, tin tưởng nhau.
Kinh nghiệm cho thấy một người không chân thành thì khó được tín nhiệm “một lần bất tín, vạn sự bất tin”.
Trong bài đọc 1, Tiên tri Malakhi trách mắng nghiêm khắc những tư tế Do Thái làm việc cẩu thả, biếng nhác và giả dối trong khi thi hành tác vụ của mình. Sau khi đi lưu đày về, đền thờ đã được tái thiết, nền phụng tự đã được thiết lập lại, nhưng sự nhiệt thành của những ngày đầu tiên đã bị biến mất. Nhiều tư tế không còn lưu tâm đến trách nhiệm của mình, bỏ bê công việc tôn vinh danh Chúa, làm gương mù gương xấu, khiến cho nhiều người đi sai đường lối Chúa và hủy bỏ giao ước. Họ không còn được dân chúng tín nhiệm vì họ không chân thành trong sứ vụ hàng ngày của mình.
Thánh Phaolô trong bài đọc 2 nhắc lại với giáo đoàn Thessalonica tình yêu vô vị lợi, tình yêu dâng hiến mà ngài đã ân cần dành cho họ, như một người mẹ dành cho con cái mình. Ngài đã giảng dạy lời Chúa cho họ; họ đã đền đáp ngài cũng tràn đầy tình yêu. Thánh Phaolô sống chân thành với cộng đoàn, ngài đã không ngần ngại và vui mừng được trao ban cho họ chính cả mạng sống của mình. Đáp lại, mọi người đã sống trung thành với Lời Chúa. Lời Chúa đã phát huy tác dụng nơi cộng đoàn này, đã sinh hoa trái tốt đẹp nơi cuộc sống của mỗi người.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta sống chân thành với chính mình, với người khác, với Thiên Chúa. Tư tưởng đi đôi với lời nói. Lời nói đi đôi với việc làm. Cả ba lãnh vực tư tưởng, lời nói, việc làm đều phải diễn tả sự trung thực và chân thành. Như bông hoa thật đẹp đầy màu sắc toả hương thơm, những người chân thành khiêm nhường toả hương thơm qua việc làm. Những điều mà các vị ngôn sứ vĩ đại đã nói ra, thường hay bị lãng quên, nhưng những hành động mà các vị Thánh nhân, anh hùng thực hiện, luôn được hậu thế ghi nhớ mãi. Hãy soi đời mình vào tấm gương Chúa Giêsu, để tìm cho mình một phong cách sống đẹp chân thành.
43. Hãy nghe… nhưng đừng theo…
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Lời Chúa nói về trường hợp của thành phần lãnh đạo Do Thái
Bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này có thể nói là bài Phúc Âm đúc kết những gì Chúa Giêsu đã nói về thành phần lãnh đạo dân Do Thái ở những bài Phúc Âm của 5 tuần trước đây: 3 tuần về 3 bài dụ ngôn người con không chịu đi làm vườn nho cho cha dù hứa với cha là đi (tuần 26), nhóm tá điền gian ác ra tay hạ sát người con duy nhất của chủ vườn nho với ý định muốn cướp gia sản của người con này (tuần 27), thành phần được vua mời đến tham dự tiệc cưới chẳng những từ chối không chịu đến mà còn ra tay sát hại các vị thừa sai của vua (tuần 28); và 2 tuần về hai vấn nạn thách thức trả đũa của họ, vấn nạn về việc nộp thuế cho Cêsa có hợp pháp hay chăng (tuần 29), vấn nạn điều luật nào trọng nhất trong toàn bộ lề luật (tuần 30).
Nhận định chung chung và chính thức của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này về thành phần ấy là họ nói mà không làm, đúng hơn, họ nói một đàng làm một nẻo, họ chỉ tìm mình chứ không tìm Chúa, họ là những người giả hình không thật, họ hoàn toàn đúng như ba dụ ngôn Người đã nói về họ. Thật vậy, theo lời Chúa nói về họ trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, trước hết, họ là người con thưa với cha đi làm vườn nho cho cha song thực tế lại không đi, ở chỗ, họ đã làm và chỉ làm theo ý thích của mình: “Họ nói thì mạnh lắm song làm chẳng bao nhiêu”; sau nữa, họ là nhóm tá điền gian ác ra tay hạ sát người con duy nhất của chủ vườn nho với ý định muốn cướp gia sản của người con này, ở chỗ, họ chỉ tìm kiếm vinh danh cho bản thân mình mà thôi: “Tất cả những việc họ làm là để khoe khoang”; sau hết, họ là thành phần được vua mời đến tham dự tiệc cưới từ chối không chịu đến vì bận bịu đủ thứ chuyện riêng tư, ở chỗ, họ chỉ để ý tìm lợi lộc riêng tư cho họ: “Họ thích ngồi những chỗ danh dự nơi những bữa tiệc tùng và những ghế nhất trong hội đường, thích được trọng vọng nơi phố xá, và thích được gọi là ‘Sư Phụ’”.
Lời Chúa khuyên dạy dân chúng và các môn đệ của Người
Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã không trực tiếp nêu lên những nhận định này với thành phần Người muốn nói đến ở trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, như Người đã thẳng mặt khiển trách họ nặng lời vào lần họ đặt vấn đề với Người về việc các môn đệ của Người không rửa tay trước khi ăn (x. Mt 15:1-9), hay như Người đã thậm tệ khiển trách họ (vắng mặt) ngay sau phần của bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này (x Mt 23:13-39). Trong trường hợp của bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, Chúa Giêsu nêu lên nhận định của Người về họ “với dân chúng và các môn đệ của Người”. Để làm gì? Hoàn toàn không phải để nói xấu họ, (cái xấu mà đằng nào không nói thì cũng đã quá tỏ tường trước mắt thiên hạ), cho bằng hoàn toàn vì lợi ích của chung dân chúng cũng như của riêng môn đệ của Người, thành phần dân gian vốn chân thành thiếu hiểu biết, nhiều khi đến khờ dại, có thể bị nhiễm lây men gương mù gương xấu của nhóm lãnh đạo này, như có lần Người đã căn dặn các môn đệ của Người về thứ men ấy mà các vị lại cứ tưởng Người nói như thế là vì các vị khi sang bờ bên kia không mang theo bánh ăn (x Mt 16:5-12).
Vậy Người đã căn dặn thành phần dân chúng cũng như môn đệ của Người những gì, nếu không phải hai điều: thứ nhất, về nguyên tắc chung, “những vị luật sĩ và Pharisiêu đóng vai trò làm thày thừa kế Moisen; bởi thế, các người hãy tuân hành và tuân giữ hết những gì họ bảo các người. Nhưng chớ có theo gương của họ”; thứ hai, về việc áp dụng thực hành theo chi tiết liên quan trực tiếp đến những cử chỉ lời nói cụ thể gương mù gương xấu cần phải lưu ý “chớ có theo” là “tránh danh xưng ‘Sư Phụ’… đừng gọi ai trên đời là cha… tránh được gọi là thày”.
Về vấn đề thứ nhất liên quan đến nguyên tắc “hãy tuân giữ… nhưng chớ theo”, Chúa Giêsu muốn dân chúng và các môn đệ của Người hãy thực hành vấn đề Người đã nêu lên cho nhóm lãnh đạo Do Thái này ở bài Phúc Âm cách đây hai tuần, đó là vấn đề “hãy trả cho Cêsa những gì của Cêsa, và hãy trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”. Ở chỗ nào? Nếu không phải thực hiện việc “hãy trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa” đây tức là thành phần được Người căn dặn trong bài Phúc Âm tỏ ra “tuân hành và tuân giữ hết những gì họ bảo các người”, chỉ vì “những vị luật sĩ và Pharisiêu đóng vai trò làm thày thừa kế Moisen”. Và khi thành phần này thực hiện việc “hãy trả về cho Cêsa những gì của Cêsa”, tức là “chớ có theo gương của họ”, những gì xấu xa của các bậc thày này. Tóm lại, chúng ta không được khinh thường những người làm đầu, nhất là những vị có chức thánh, những vị Chúa đã chọn làm việc của Ngài và cho Ngài, dù họ có bê bối đến đâu đi nữa, dù họ có bị tai tiếng về những lạm dụng trẻ em như ở Hoa Kỳ hiện nay đi nữa. Bởi vì, Thiên Chúa Toàn Năng có thể dùng mọi sự để làm việc cho Ngài và thực hiện ý định của Ngài, như Ngài đã dùng thánh giá là tiêu biểu cho sự dữ và sự chết để cứu chuộc nhân loại vậy. Theo giáo lý của Giáo Hội Công Giáo, một vị linh mục đang mắc tội trọng làm các phép Bí Tích vẫn thành, tuy có tội.
Về vấn đề thứ hai liên quan đến những ngôn hành cụ thể cần phải tránh “chớ theo”, như “tránh danh xưng ‘Sư Phụ’… đừng gọi ai trên đời là cha… tránh được gọi là thày”. Ở phần thực hành này có hai vế, vế áp dụng cho chính bản thân và vế áp dụng liên quan đến người khác. Trước hết, về việc thực hành liên quan đến vế áp dụng cho bản thân: Tại sao phải tránh danh xưng “Sư Phụ”, vì, theo Chúa lời Giêsu nói trong bài Phúc Âm, “trong các người chỉ có một vị thày, còn tất cả đều là môn sinh”. Và tại sao phải tránh được gọi là thày, vì cũng theo lời Người nói, “chỉ có một vị thày duy nhất là Đức Kitô”. Sau nữa, về việc thực hành liên quan đến vế của người khác, đó là việc “đừng gọi ai trên đời này là cha”, vì, trong bài Phúc Âm, Chúa Giêsu đã khẳng định: “Các người chỉ có một cha duy nhất là Đấng ở trên trời”. Riêng về vấn đề “cha” này, anh chị em Tin Lành tỏ ra cự người Công Giáo chúng ta khi chúng ta gọi các vị linh mục là “cha”. Trong khi họ căn cứ vào lời Chúa trong bài Phúc Âm Chúa Nhật này theo nghĩa đen, người Công Giáo lại hiểu theo nghĩa về tinh thần, nghĩa làm cha sinh ra con cái trong ơn nghĩa Chúa bằng Phép Rửa. Giá những người anh chị em Tin Lành của chúng ta, những người không gọi người chồng của mẹ mình là “ông – ông ơi” để tránh chữ “cha”, cũng hiểu “Này là Mình Thày… Máu Thày” theo nghĩa đen như những chỗ như chỗ “cha” này thì hay biết mấy!
Kitô hữu áp dụng thực hành Lời Chúa dạy dân chúng và các môn đệ
Bởi vậy, cả trong vấn đề thi hành những điều áp dụng thực hành “chớ theo” như Chúa Giêsu dạy trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này liên quan đến ngôn hành không tốt của nhóm lãnh đạo dân Do Thái, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta thực hành tinh thần của nguyên tắc “hãy trả cho Cêsa những gì của Cêsa và hãy trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”. Nghĩa là, dù chúng ta có đóng vai trò làm “cha” trong việc “rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” (Mt 28:19), hay làm “thày” trong việc “dạy cho họ tuân giữ những gì Thày đã truyền cho các con” (Mt 28:20) đi nữa, chúng ta hãy làm những việc ấy như là những thừa tác viên của Người, Đấng tuyên hứa “sẽ mãi mãi ở cùng các con cho đến tận thế” (Mt 28:20), chứ đừng làm những thừa tác vụ ấy theo sở thích tự nhiên, như trường hợp người con nói đi làm vườn nho cho cha nhưng thực tế lại không, cũng đừng làm những thừa tác vụ này cho tư lợi của mình, như trường hợp của thành phần tá điền làm vườn nho song không nộp hoa lợi cho chủ. Trái lại, chúng ta hãy ý thức mình chỉ là một người ở đầu đường xó chợ, vô danh tiểu tốt, chẳng là gì trước nhan Thiên Chúa, song đã được vinh dự Ngài kêu gọi, “không phải các con đã chọn Thày song chính Thày đã chọn các con và sai các con đi sinh hoa kết trái” (Jn 15:16), mà chúng ta phải hết sức nỗ lực để đáp ứng lời mời gọi của Ngài một cách xứng đáng, như thể chúng ta mặc áo để tham dự tiệc cưới do Ngài khoản đãi vậy.
Bởi thế, mỗi khi nghe người khác gọi mình là “cha”, là “thày”, nếu chúng ta thực sự đóng vai trò thừa tác viên trong những địa vị này, chúng ta hãy coi đó như một lời nhắc nhở chúng ta rằng, chúng ta phải luôn luôn sống động và tác hành làm sao cho xứng đáng với thiên chức cao cả ấy. Mẫu gương thừa tác viên này được sáng tỏ nơi chứng từ của Vị Tông Đồ Dân Ngoại trong bài đọc thứ hai của Chúa Nhật tuần này: “Chúng tôi chia sẻ với anh em chẳng những tin mừng của Thiên Chúa mà còn chính đời sống của chúng tôi nữa… Đó là lý do tại sao chúng tôi liên lỉ tạ ơn Thiên Chúa vì trong việc anh em đã lãnh nhận sứ điệp của Ngài từ chúng tôi anh em đã nhận lấy sứ điệp ấy không phải như lời lẽ của người ta mà thực sự là lời của Thiên Chúa tác động nơi anh em là những người tin tưởng”. Trái lại, một khi chúng ta dám lạm dụng ơn Chúa ban, việc Chúa chỉ định, để làm theo ý riêng, ý thích của mình, lạm dụng vai thế để làm lợi cho mình, thì chúng ta hãy coi chừng những gì đã được Ngài dùng miệng tiên tri Malachi mà phán trong bài đọc thứ nhất Chúa Nhật tuần này: “Các người đã đi trệch đường và đã làm cho nhiều người qụi ngã bởi việc hướng dẫn của các người. Các người đã làm vô hiệu giao ước của Lêvi, Chúa các đạo binh phán. Vì các người không theo đường lối của Ta và tỏ ra lệch lạc nơi các quyết định của các người, nên Ta làm cho các người bị khinh chê và đê hèn trước mắt tất cả mọi người…”.
44. Họ nói mà không làm - Lm. Trầm Phúc
Chúa Giêsu vẽ ra chân dung của các kinh sư và Pha-ri-sêu là những người lãnh đạo của dân Do Thái. Ngài công khai nêu lên những thái độ của họ và không khoan nhượng.
Các kinh sư và Pha-ri-sêu giảng dạy cho người khác đúng theo Luật Chúa, nên “Hãy nghe và làm theo điều họ dạy” vì họ có trình độ, là những người chuyên môn, luật Môsê họ thuộc lòng. Họ là những lý thuyết gia vì họ nói mà không làm nên chúng ta đừng làm theo họ. Họ là những người có chức phận trong đạo, họ ngồi trên tòa Mô-sê để giảng dạy. Họ có quyền trục xuất khỏi Hội Đường những người không giữ Luật, vì thế họ tỏ ra uy quyền và oai phong. Họ tỏ ra mình là người đạo đức, thông Luật. Họ mang hộp kinh thật to (Hộp kinh là một túi nhỏ đựng những thẻ bài ghi những câu Kinh Thánh quan trọng), để chứng tỏ họ biết Kinh Thánh hơn mọi người. Họ mang tua áo thật dài để chứng tỏ họ có chức quyền trong dân thánh. Vào đám tiệc, họ thích chọn những chỗ danh dự dành cho khách quý, thích được người ta bái chào nơi công cộng, và gọi là Rabbi, nghĩa là thầy.
Bức chân dung mà Chúa Giêsu vẽ ra đây không mấy đẹp đẽ về các vị “đáng kính” ấy. Ngài tỏ ra gay gắt, chống đối kịch liệt thái độ “quan liêu giả hình” đó.
Hiện nay trong Giáo Hội, dòng giống Pha-ri-sêu vẫn còn tồn tại và sống mãnh liệt; Chúng ta gọi là “giáo sĩ trị”. Nhất là ở vùng quê, nếp sống quan liêu này vẫn còn khá phổ biến, vì trình độ giáo dân còn kém, không ai dám hở môi, và giáo dân Việt Nam rất nể trọng cha thầy.
“Họ chất gánh nặng lên vai người khác, còn họ thì chễm chệ ngồi, không động móng tay”. Điều này rất đúng nơi nhiều giáo xứ. Một giáo dân ở Sài Gòn, trí thức, đạo đức nói: “Tôi đi cùng với phái đoàn Caritas Đức, ngày Chúa nhật, chúng tôi vào một nhà thờ để dự lễ. Điều làm tôi cảm động vô cùng là thấy Cha sở quỳ với giáo dân đọc kinh. Điều đó rất ít thấy ở thành phố và trong nhiều họ đạo. Đúng giờ các linh mục bước ra bàn thờ dâng lễ. Các ngài viện lý do là phải đọc kinh nhật tụng khá dài rồi, còn giờ đâu mà đọc kinh với giáo dân?... Giáo dân đọc kinh là việc của giáo dân. Không phải tất cả đều như thế. Tôi quen biết với một linh mục, khi giáo dân bắt đầu đọc kinh thì Cha sở có mặt, cùng cầu nguyện với cộng đoàn. Ngài nói: “Đối với tôi, cầu nguyện với cộng đoàn là cầu nguyện với Giáo Hội. Không bao giờ cộng đoàn cầu nguyện mà không có tôi”. Pha-ri-sêu hay chủ chăn? Đây chỉ là một ví dụ.
Chúa Giêsu cho thấy, nếp sống quan liêu của các ông kinh sư và Pha-ri-sêu và dạy dân: “Đừng để ai gọi mình là “Rabbi”. Vì trước mặt Chúa, chúng ta không ai hơn ai, mọi người đều như nhau, và đều là anh em của nhau. Nếu ai có khả năng hơn thì giúp đỡ anh em mình. Chúng ta chỉ có Chúa Giêsu là Thầy mà thôi. “Nhưng cũng đừng gọi ai là cha, vì chỉ có một Cha duy nhất là Thiên Chúa”. Điều này cần phải hiểu đúng: con trong nhà gọi bố là gì? Giáo dân gọi linh mục là gì? Như thế phải hiểu lời Chúa muốn nói gì với chúng ta?
Từ “cha” trong gia đình và trong Giáo Hội là một từ có tính cách tình cảm và tạm bợ. Cha trên trời là Cha duy nhất, là nguồn gốc và là cùng đích mọi sự. Gọi cha trần gian hay cha tinh thần chỉ một mối liên hệ máu huyết hay tinh thần trong một thời gian, không ngăn cản chúng ta tôn thờ Thiên Chúa với toàn vẹn ý nghĩa của nó, tức là Cha vĩnh cửu, Cha tuyệt đối. Chúa Giêsu cũng dùng chữ cha đó: “Có người cha nào khi con cái xin cá mà cho nó hòn đá?”
Đối với Chúa Giêsu, quyền bính là để phục vụ. Cha mẹ trong gia đình phải chăng là đầy tớ của con cái? Linh mục cũng được gọi là cha theo nghĩa là nô bộc của giáo dân: Dâng lễ, dạy giáo lý, ban các bí tích… cũng chỉ là những hành động phục vụ mà thôi.
Chúa Giêsu đến với chúng ta, tuy Ngài là Thiên Chúa, Ngài vẫn tự xem mình là tôi tớ. Cả cuộc đời Ngài là một hành động phục vụ liên lỉ và trọn vẹn. “Ở giữa anh em, Thầy là tôi tớ”. Và Ngài đã làm như thế.
Ngài phục vụ khi chữa lành bệnh nhân, khi rao giảng, khi tìm con chiên lạc, đến nỗi “Ngài không có giờ dùng bữa”, có khi Ngài mệt mỏi ngồi nghỉ nơi bờ giếng Gia-cob, và nơi Ngài đỉnh cao của phục vụ là “ban mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người”.
Thái độ quan liêu, độc tài… là thái độ của Pha-ri-sêu. Pha-ri-sêu thường tìm danh dự và quyền lợi cho mình; còn Chúa Giêsu thì khiêm hạ, bỏ mình vì người khác. Pha-ri-sêu thì sống bên ngoài, phô trương, tìm đặc ân đặc lợi; còn Chúa Giêsu thì sống nội tâm, quên mình, từ bỏ tất cả, chỉ tìm thi hành ý Cha trên trời. Pha-ri-sêu thì sử dụng hồng ân của Chúa để tạo uy thế cho mình; còn Chúa Giêsu thì sử dụng tất cả để cứu vớt những gì đã hư mất. Và Chúa Giêsu đã kết luận: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống”. Chúa Giêsu đã từng dạy môn đệ như thế khi các ông cứ tranh nhau ai là người lớn nhất.
Chúng ta tin vào một Thiên Chúa toàn năng, nhưng lại là một Thiên Chúa khiêm nhường. Ngài tự hủy mình khi sai Ngôi Hai đến trần gian, làm thân con người như mọi người, và phục vụ…
Cha Francois Varillon viết một quyển sách để ca tụng sự khiêm nhường của Thiên Chúa. Thiên Chúa khiêm nhường vì Người là Tình Yêu trọn vẹn và “nguyên chất”. Người cho đi tất cả trong Con Một của Người, và Chúa Giêsu, “đồng bản thể với Đức Chúa Cha”, cũng là Tình Yêu. Ngài luôn trong tình trạng tự hủy, và khiêm nhường thẳm sâu.
Đạo Công giáo không tôn thờ ai ngoài Thiên Chúa. Đấng Tối Cao và cũng là Đấng thấp hèn nhất. Trước mặt Ngài tất cả chỉ là tro bụi, nhưng Ngài đã trở nên tro bụi đó vì yêu.
Chúng ta tôn thờ một Thiên Chúa khiêm nhường, mà chúng ta lại sống như Pha-ri-sêu sao? Chúng ta sẽ bị hạ xuống. Chúa Giêsu “khiêm nhường và hiền hậu” vẫn mãi mãi là gương mẫu cho chúng ta.
Nơi bàn thờ hiến tế này, sự khiêm nhường tự hạ của Chúa Giêsu được tỏ hiện rõ rệt nhất nơi tấm bánh thần linh là Mình Máu Ngài. Hãy chiêm ngưỡng khuôn mặt đầy yêu thương và khiêm tốn của Ngài. Ăn lấy Ngài để nên một với Ngài trong một đời sống khiêm hạ, bỏ mình đến tận cùng.
45. Đóng kịch
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Tất cả chúng ta đều tỏ vẻ khó chịu và dứt khoát không chấp nhận lối sống giả hình, giả dối của người nào đó, Chúa Giêsu cũng thế thôi. Ngài thường phàn nàn và khiển trách tính cách giả hình, giả dối của những người Pha-ri-sêu và kinh sư, đồng thời Ngài cũng khuyến cáo dân chúng: hãy đề phòng và cảnh giác đối với những người ấy, cụ thể như bài Tin Mừng hôm nay.
Chúng ta thấy Chúa Giêsu phân biệt quyền giáo huấn và những người thi hành quyền đó. Ngài nhìn nhận các người Pha-ri-sêu và kinh sư có quyền giáo huấn, vì họ là những người được chính thức trao phó nhiệm vụ dạy bảo dân chúng, do đó khi họ thi hành nhiệm vụ là họ nhân danh Chúa, nên phải nghe và giữ những gì họ dạy bảo. Nhưng tại sao Chúa lại nói đừng bắt chước hay noi theo những việc làm của họ? Phải chăng họ đã làm những việc bất chính? Không, Chúa nhìn nhận họ có làm nhiều việc thật, bình thường thì đó là những việc tốt đáng được ca tụng, nhưng đối với Chúa thì chẳng nghĩa lý gì, vì thái độ giả hình, giả dối của họ. Lòng đạo đức của họ chỉ có tính cách giả dối, một thứ đạo đức chỉ có cái vỏ bề ngoài.
Mỉa mai hơn nữa, đáng trách hơn nữa, họ là những người có thẩm quyền giải thích luật, họ nhấn mạnh luật lệ từng chữ, từng tiếng và họ khắt khe đòi hỏi mọi người phải tuân giữ, nhưng chính họ thì lại không áp dụng cho chính mình. Như thế, họ nói mà không làm, hoặc tệ hơn nữa, họ nói một đàng làm một nẻo, như thánh Phaolô nói: "Ngươi giáo dục kẻ khác mà không giáo dục mình. Ngươi hãnh diện về lề luật mà chính ngươi lại lỗi luật", nghĩa là ngôn ngữ và hành vi của họ mâu thuẫn nhau, lý thuyết và thực hành của họ bất nhất. Họ rao truyền lời Chúa, nhưng thực ra họ lạm dụng uy tín làm thầy và địa vị làm thủ lãnh của họ. Cho nên, trong con người họ như có hai phương diện, hai nếp sống: một nếp sống giả hình trong bổn phận, còn với chính mình lại buông xuôi, buông thả. Cuộc sống đôi như vậy thật là phiền phức: cái đúng trở thành cái sai, và cái sai mới là đúng.
Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu có thái độ nghiêm khắc, đến nỗi Chúa khiển trách họ nặng lời. Ngài không bao giờ có thể chấp nhận được cái thói giả hình và thái độ kiêu căng tự phụ của họ. Chính lối sống đạo như vậy đã chuốc lấy cho họ những lời khiển trách, có thể nói là gay gắt nhất phát ra từ miệng Chúa Giêsu, Chúa đã vạch trần bộ mặt giả hình và cách sống như thế. Hãy sống thành thực, nói và làm đi đôi với nhau và trước sau như một.
Chúng ta hãy lặng tâm suy nghĩ: những người Pha-ri-sêu không còn, nhưng lối sống của Pha-ri-sêu chưa chết, vẫn còn nơi chúng ta. Nhìn vào xã hội, nhìn vào đời sống thực tế,chúng ta thấy: sự giả hình, giả dối đã thành ra như thông lệ, từ lãnh vực tình yêu đến lãnh vực văn hóa, kinh tế, tôn giáo, chính trị, người ta vẫn thường dùng cái bên ngoài mà lừa đảo nhau. Tính giả hình, giả dối ai mà không ghét, thế nhưng người ta thường đồng ý rằng:muốn được kẻ khác kính nể,cần phải giăng một bức màn dầy giữa tư tưởng và cái lưỡi, giữa tâm trạng bên trong và cách cư xử bên ngoài.
Thậm chí có người còn nói một cách trơ trẻn, trắng trợn rằng: ai muốn thành công thì đừng bao giờ duy trì một thái độ trước mặt cũng như sau lưng. Đừng bao giờ nên nói ra ngoài miệng như mình đang nghĩ trong bụng, dầu trong bụng có muốn tru di tam tộc người ta đi nữa, bên ngoài cũng phải làm ra vẻ ngọt ngào. Vì vậy mà trong xã hội không thiếu gì những người: "Bề ngoài thơn thớt nói cười. Mà trong nham hiểm giết người không gươm". Thành ra, để phân biệt được ai là chính trực, ai là giả hình, ai là người trung nghĩa, ai là kẻ lừa thầy phản bạn thật là khó. Chúng ta thấy có những người đóng kịch rất tài tình: bên ngoài coi lương thiện, đạo hạnh, tử tế mà thực sự bên trong là tay độc ác ghê tởm vô cùng, có những người tỏ ra đàng hoàng dưới ánh nắng, nhưng trong bóng râm tỏ ra lưu manh đáng sợ
Chúng ta hãy suy nghĩ: đời sống của chúng ta có gì là giả hình hoặc đóng kịch không? Chúng ta hãy nhớ: chúng ta có thể sống đóng kịch, che đậy, giấu diếm người này người khác, nhưng chúng ta có thể sống mãi như thế không? Không đâu, chắc chắn sẽ có ngày "cháy nhà ra mặt chuột". Giả như chúng ta có sống được mãi như thế suốt đời, không ai biết chăng nữa, nhưng chúng ta có thể qua mắt được Thiên Chúa không? Chắc chắn là không. Được lòng người đời hay được người đời ca tụng, nhưng không được lòng Chúa, không được Chúa ghi công thì cũng như không, chẳng có giá trị gì. Đó là điều chúng ta cần suy nghĩ va tự nhủ mình khi làm bất cứ điều gì, kể cả những việc đạo đức.
46. Sống chân thành và khiêm tốn
Sống chân thành và khiêm tốn cũng là chủ đề chính của bài Phúc Âm hôm nay. Người chân thành là người sống những gì họ nói và chỉ nói những gì họ đã làm. Có thể nói người sống chân thành thì Lời nói và hành động là một. Có nói có, không nói không. Đó là những chứng nhân của Chúa mà xã hội ngày hôm nay cần đến, như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói: "Con người ngày nay không cần những thầy dạy nói suông, nhưng cần những kẻ dám chứng thực những điều họ nói, cần những chứng nhân. Người chân thành không nói láo, không giả hình, không tự kiêu cho mình hơn kẻ khác, không phê bình chỉ trích. Thái độ phê bình chỉ trích đôi khi chỉ là cách thức để che giấu những tật xấu nơi chính mình, ta phê bình chỉ trích kẻ khác chỉ vì ta không dám đối diện với sự thật nơi chính mình, bởi vì sự thật đó buộc ta phải canh tân liên lỉ". Vì lẽ đó, chúng ta thấy Chúa Giêsu không chấp nhận lối sống của Biệt phái. Trong Phúc Âm hôm nay họ có thể được coi là những kẻ không dám nhìn thẳng, nhìn thật vào chính mình. Họ có lòng đạo đức, nhưng đạo đức của kẻ khoe khoang, muốn cho người khác biết mình đạo đức, họ nói nhiều hơn điều mình đã sống....Họ may dài tua áo, nới rộng thẻ kinh bên ngoài để chứng tỏ cho người khác thấy họ là kẻ đạo đức. Họ có làm nhiều việc thật, bình thường thì đó là những việc tốt đáng được ca tụng, nhưng đối với Chúa thì chẳng nghĩa lý gì, vì thái độ giả hình, giả dối của họ. Lòng đạo đức của họ chỉ có tính cách giả dối, một thứ đạo đức chỉ có cái vỏ bên ngoài. Hơn nữa, đáng trách hơn nữa, ngôn ngữ và hành vi của họ mâu thuẫn nhau, lý thuyết và thực hành của họ bất nhất. Họ rao truyền Lời Chúa, nhưng thực ra họ lạm dụng uy tín làm thầy và địa vị làm thủ lãnh của họ. Cho nên, trong con người họ như có hai phương diện, hai nếp sống: một nếp sống giả hình trong bổn phận; còn với chính mình lại buông xuôi, buông thả. Cuộc sống nước đôi như vậy thật là phiền phức: cái đúng trở thành cái sai, và cái sai mới là đúng. Chúa Giêsu không bao giờ có thể chấp nhận được cái thói giả hình và thái độ kiêu căng tự phụ của họ. Hãy sống thành thực, nói và làm đi đôi với nhau và trước sau như một.
Trước mặt Chúa Giêsu, chúng ta cần sống chân thành và khiêm tốn. Chúng ta cần can đảm nhìn nhận thân phận con người yếu đuối của mình, con người gắn liền với đầy khiếm khuyết và tội lỗi, mỏng giòn và yếu đuối. Chắc chắn Chúa biết rõ, Chúa biết tường tận con người chúng ta. Chúa biết chúng ta hơn "chúng ta biết ta". Cho nên hãy sống đơn sơ, chân thành và khiêm tốn trước mặt Chúa và anh em. Ý thức được như vậy chúng ta càng trông cậy vào tình thương của Chúa, trông cậy vào sự tha thứ của Chúa, biết đặt trọn niềm "phó thác cuộc đời mình trong tay Cha."
Nhìn nhận thân phận yếu đuối để biết kêu cầu và cậy dựa vào Chúa, xin ơn sám hối và canh tân đời sống mình. Chúng ta cần sám hối vì trong quá khứ chúng ta đã sai phạm nhiều. Phạm tội còn là thái độ chống lại ơn Chúa, cản trở tình thương và chương trình của Chúa. Có những lầm lỗi trở thành vật cản ơn thánh, để lỡ cơ hội đón nhận ơn Chúa cho bản thân chúng ta và cho người khác. Sám hối là trở về với Chúa nhưng cũng là trở về với anh chị em. Phải hòa giải với anh em, vì chính ta đã góp phần gây ra bất công, chia rẽ, bất hòa khiến anh em xa Chúa. Hòa giải với tha nhân là hòa giải với Chúa. Vì thế, sám hối sẽ dẫn đến đổi mới con người, đổi mới cuộc sống và sám hối càng sâu xa thì đổi mới càng mãnh liệt.
Trong con người mới chúng ta hân hoan hướng trọn niềm vui với tình nghĩa Thiên Chúa là Cha và với tha nhân, chúng ta trút bỏ được gánh nặng quá khứ để sống cho tình yêu thương của Chúa, chúng ta hân hoan bước vào cuộc sống mới, cuộc sống không ngừng đổi mới ơn thánh với tình bác ái huynh đệ, với lòng khiêm tốn, với tinh thần dấn thân phục vụ. Để sống chân thành với chính mình, chúng ta cần phải sám hối. Sám hối, hòa giải và đổi mới. Để làm tất cả những điều này chúng ta cần có lòng khiêm nhường. Người khiêm nhường biết rõ mình là ai: với những điểm tốt cũng như với những điểm xấu, những điểm tiêu cực cũng như tích cực và trông chờ ơn Chúa ban để canh tân đời sống của mình.
Bài Phúc Âm hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy trở về với nguồn mạch ơn Thánh Chúa để canh tân đời sống mình với hết lòng khiêm tốn, để sống chân thật và trở nên nhân chứng cho tình yêu thương của Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con sống chân thành và khiêm tốn với Chúa và tha nhân. Nhờ đó, chúng con tìm được ơn tha thứ, tình yêu và nguồn bình an để sống trọn vẹn vai trò làm con Chúa. Amen.
47. Hãy sống thành thật
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Trong một tỉnh kia, người ta tổ chức một buổi thuyết trình về Công giáo tiến hành. Họ mời ông X, là người đạo đức và có tài diễn thuyết để nói chuyện với mọi người. Trước mặt công chúng đông đảo, đủ mọi hạng người, đủ mọi tầng lớp, ông X lên diễn đàn nói rất hùng hồn, rất trôi chảy và rất hay. Đại ý ông nói như sau: “Lúc này hơn bao giờ hết, người Công giáo chúng ta phải hoạt động tích cực trong mọi lãnh vực, nhất là trong lãnh vực xã hội và từ thiện. Đối với những người chung quanh, chúng ta phải vui vẻ, hòa nhã, nhẫn nhịn, dễ cảm thông và giúp đỡ.v.v..”. Dứt lời, mọi người vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt.
Sau đó, ông X lên xe ra về. Trong số thính giả đến nghe buổi diễn thuyết đó, có một người ở cạnh nhà ông X, tâm trí còn đang thán phục bài thuyết trình vừa hay vừa thức thời của ông, nghe thấy trong nhà ông X có tiếng càu nhàu và la rầy người giúp việc, người ấy tò mò lắng nghe. Câu chuyện xảy ra như sau: khi ông X diễn thuyết về, chị giúp việc dọn cơm cho ông. Đồ ăn rất ngon, nhưng có món xào hơi mặn. Ông X khó chịu, gắt gỏng và gọi chị giúp việc lên hỏi: “Ai nấu món này?” - “Dạ, thưa con” - “Tại sao mặn đắng thế? tao có phải là tù đâu mà cho ăn uống thế này?” - “Xin ông tha cho con, con đang đau nên vô ý nêm quá tay ”. Tức thì cái đĩa xào bay xuống sàn nhà, đổ vỡ tung tóe. Rồi ông X đứng lên tuyên bố: “Tháng này tao sẽ trừ lương mày”. Nói xong ông lên xe ra tiệm ăn. Tác giả câu chuyện này kết luận: “Ngôn hành tương phản là thế. Lời nói và việc làm không đi đôi với nhau. Trên đời không thiếu những người như ông X”.
Câu chuyện trên cũng đúng với bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu tố giác trước dân chúng và khuyến cáo họ: phải đề phòng tính cách giả hình, bôi bác của các kinh sư và các người Pharisêu. Qua đó, Chúa dạy chúng ta phải sống thành thực, nói và làm trước sau như một.
Trước hết, chúng ta thấy Chúa Giêsu phân biệt quyền giáo huấn và những người thi hành quyền đó. Ngài nhìn nhận các kinh sư và những người Pharisêu có quyền giáo huấn, vì họ là những người được chính thức trao phó nhiệm vụ dạy bảo dân chúng, do đó khi họ thi hành nhiệm vụ là họ nhân danh Chúa, nên phải nghe và giữ những gì họ dạy bảo. Nhưng tại sao Chúa lại nói đừng bắt chước hay noi theo những việc làm của họ? Phải chăng họ đã làm những việc bất chính? Không, Chúa nhìn nhận họ có làm nhiều việc thật, bình thường thì đó là những việc tốt, đáng khen. Nhưng đối với Chúa thì chẳng nghĩa lý gì, vì thái độ giả hình, giả dối của họ. Lòng đạo đức của họ chỉ có tính cách giả dối, một thứ đạo đức chỉ có cái vỏ bề ngoài.
Mỉa mai hơn nữa, đáng trách hơn nữa, họ là những người có thẩm quyền giải thích luật, họ nhấn mạnh luật lệ từng chữ, từng tiếng và khắt khe đòi hỏi mọi người phải tuân giữ, nhưng chính họ thì lại không áp dụng cho chính mình. Như thế, họ nói mà không làm, hoặc tệ hơn nữa, họ nói một đàng làm một nẻo, giữa ngôn ngữ và hành vi của họ mâu thuẫn nhau, lý thuyết và thực hành của họ bất nhất, không đi đôi với nhau, họ rao truyền Lời Chúa, yêu cầu người khác phải tuân giữ, nhưng chính họ thì lại không tuân giữ. Cho nên, trong con người họ như có hai phương diện, hai nếp sống: một nếp giả hình trong bổn phận, còn với chính mình, lại buông xuôi, buông thả. Cuộc sống nước đôi như vậy thật là phiền phức: cái đúng trở thành cái sai, và cái sai mới là cái đúng.
Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu có thái độ nghiêm khắc, đến nỗi Chúa khiển trách họ nặng lời. Ngài không bao giờ có thể chấp nhận cái thói giả hình và thái độ kiêu căng tự phụ của họ. Chính lối sống đạo như vậy đã chuốc lấy cho họ những lời khiển trách, có thể nói là gay gắt nhất phát ra từ miệng Chúa Giêsu. Chúa đã vạch trần bộ mặt giả hình và cách sống đóng kịch bôi bác của họ. Và Chúa dạy chúng ta đừng sống như thế, hãy sống thành thực: nói và làm đi đôi với nhau và trước sau như một.
Tìm hiểu bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta hãy suy nghĩ: những người kinh sư và Pharisêu không còn, nhưng lối sống, cách sống của họ chưa chết, vẫn còn nơi chúng ta. Nhìn vào xã hội, nhìn vào đời sống thực tế, chúng ta thấy: sự giả hình, giả dối vẫn hiện diện khắp nơi, từ lãnh vực tình yêu đến lãnh vực văn hóa, kinh tế, tôn giáo, chính trị, người ta vẫn thường dùng cái bề ngoài mà lừa đảo nhau. Tính giả hình giả dối ai mà không ghét. Thế nhưng, người ta lại thường đồng ý rằng: muốn được kẻ khác kính nể, cần phải giăng một bức màn dầy giữa tư tưởng và cái lưỡi, giữa tâm trạng bên trong và cách xử sự bên ngoài
Thậm chí có người còn nói một cách trơ trẽn, trắng trợn rằng: Nếu muốn thành công, thì đừng bao giờ duy trì một thái độ trước mặt cũng như sau lưng, đừng bao giờ nói ra ngoài miệng như mình đang nghĩ trong bụng. Dầu trong bụng có ghét người ta thậm tệ, bên ngoài phải làm ra vẻ ngọt ngào. Vì vậy mà trong xã hội thiếu gì những người: “bang mặt mà không bằng lòng”. Thành ra, để phân biệt được: ai là người chân chính, ai là kẻ giả hình, ai là người trung nghĩa, ai là kẻ lừa thầy phản bạn, thật là khó. Chúng ta thấy có những người đóng kịch rất tài tình: bên ngoài coi lương thiện, đạo hạnh, tử tế, mà thực sự bên trong là tay độc ác ghê tởm vô cùng. Có những người tỏ ra đàng hoàng dưới ánh nắng, nhưng trong bóng râm tỏ ra lưu manh đáng sợ.
Chúng ta hãy suy nghĩ: đời sống của chúng ta có gì là giả hình hay đóng kịch không? Chúng ta hãy nhớ: chúng ta có thể sống đóng kịch, che đậy giấu diếm người này người khác, nhưng chúng ta có thể sống mãi như thế không? Không đâu, chắc chắn sẽ có ngày “cháy nhà ra mặt chuột” . Giả như chúng ta sống được mãi như thế suốt đời, không ai biết chăng nữa, nhưng ta có thể qua mắt được Thiên Chúa không? Chắc chắn là không. Được lòng người đời hay được người đời ca tụng, nhưng không được lòng Chúa, không được Chúa ghi công, thì cũng như không, chẳng có giá trị gì. Đó là điều chúng ta cần suy nghĩ và tự nhủ mình khi làm bất cứ điều gì, kể cả những việc đạo đức.
48. Sống đạo gương mẫu - Lm. Minh Vận, CRM
Vào một ngày đẹp trời, Thánh Phanxicô Nghèo với một Thầy phụ tá đi giảng đạo với ngài trong thành Assisi. Chiều xuống, hai cha con trở về nhà Dòng, Thầy phụ tá thắc mắc hỏi: "Thưa Cha , Cha không giảng gì sao?" Thánh nhân trả lời: "Chúng ta đã giảng rồi". Thầy phụ tá đáp: "Từ sáng tới giờ đã thấy Cha giảng bài nào đâu, chúng ta mới chỉ rảo qua một vòng thành phố mà thôi". Thánh Phanxicô mỉm cười đáp: "Con không biết sao, chính cách đi đứng đoan trang, cư xử lịch thiệp, thưa hỏi lễ độ và thăm hỏi ân cần với mọi người, đã là một bài giảng hùng hồn chinh phục người ta về với Chúa rồi đó".
Thực vậy, ca dao Việt Nam đã chẳng có câu nói hữu lý rằng: "Lời nói như gió lung lay, gương bày như tay lôi cuốn". Bài giảng không lời của Thánh Phanxicô Nghèo còn công hiệu hơn biết bao bài diễn văn hùng hồn của các học giả lỗi lạc, hơn cả những bài thuyết giáo của các nhà truyền giáo trứ danh khác, nó còn có sức hấp dẫn và lôi cuốn đến nỗi chim trời cũng phải tập trung lại quanh ngài; cá biển cũng phải ngóc đầu lên nghe ngài nói; hơn nửa, hầu khắp cả thế giới, muôn người ngày nay hướng về ngài, cảm phục, ca ngợi, tôn kính, và cầu khẩn ngài như một vị Thánh rất thần thế luôn cầu bầu cho họ trước tôn nhan Chúa. Biết bao người sung sướng được trở nên môn sinh của ngài và can đảm dấn thân bước theo đời sống khó nghèo, khiêm nhu gương mẫu thánh thiện của ngài, để phụng sự vinh danh Thiên Chúa và phục vụ phần rỗi các linh hồn.
I. NẾP SỐNG ĐẠO GIẢ HÌNH
Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, chính Chúa Kitô đã tố cáo lối sống đạo giả hình của các luật sĩ và biệt phái Do Thái xưa, trước mặt dân chúng đang lắng nghe Ngài và đồng thời, Chúa lên tiếng căn dặn mọi người: "Các con hãy tuân giữ các giáo lý họ dạy, nhưng đừng noi theo các gương xấu của họ, vì họ nói mà không làm. Họ chất những gánh nặng trên vai người ta mà chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử. Họ luôn phô trương công đức, tự đắc, tự kiêu, hãnh diện xưng mình là bậc thầy, là người chỉ đạo, là bậc thủ lãnh của dân chúng". Quả thực, ngôn hành đối nghịch; họ đã sống phản lại giáo lý họ rao giảng và làm ô danh cho địa vị cao cả của họ. Ngày nay, chúng ta cũng thường thấy có những bậc thầy tương tự như thế.
II. NẾP SỐNG ĐẠO CHÂN THỰC
Là những tôi tá trung thành của Thiên Chúa; những Tông Đồ đích thực của Chúa Kitô; những con cái ngoan thảo của Giáo Hội, chúng ta phải sống nếp sống đạo chân thực, phù hợp với giáo lý và gương mẫu đời sống thánh thiện của Chúa Kitô, đúng như lời Chúa đã dạy: "Chúng con hãy làm việc thiện, để người ta thấy việc chúng con làm mà ngợi khen Cha chúng con ở trên trời" (Mt 5:16).
Thánh Phaolô, người tông đồ đích thực Chúa Kitô đã tuyển chọn đặc biệt, ngài đã sống đúng với giáo lý Chúa trao cho ngài rao giảng, ngài đã sống thật với lòng mình, nên ngài đã dám quả quyết với chúng ta: "Như người mẹ dưỡng nuôi nâng niu con mình, thì cha cũng yêu thương chúng con, đến nỗi cha rất vui lòng trao phó cho chúng con, không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà còn cả mạng sống cha nữa, vì chúng con đã trở nên con cái nghĩa thiết của cha" (Thess 2:7-9,13). Ngài còn dám quả quyết hơn nữa: "Cha đã trở nên nọi sự cho nọi người để cứu rỗi mọi người" (1Cor 9:22). Như thế, Thánh Tông Đồ đã đi đúng với giáo huấn của Thầy Chí Thánh dạy: "Trong các con, ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ và làm tôi mọi người" và ngài còn theo sát gương mẫu của Đấng đã tuyển chọn và ủy thác sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho ngài, theo Đấng đã làm gương: "Cũng như Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ mọi người và nên giá cứu chuộc cho nọi người" (Mt 20:28).
III. CHÚNG TA ĐÃ SỐNG ĐẠO THẾ NÀO
Khi nhắc lại những giáo huấn Chúa đã dạy và chiêm ngắm những gương lành Chúa đã thực hiện, chúng ta hãy cùng nhau kiểm điểm: Chúng ta đã sống nếp sống đạo gương mẫu, đúng với ơn gọi cao cả làm con Chúa và hợp với sứ mạng Chúa đã ủy thác cho chúng ta, tùy theo địa vị và chức vụ của mỗi người chưa?
1. Là những tông đồ được Chúa trao phó việc rao giảng Tin Mừng, lo phần rỗi các linh hồn, chúng ta dã tận tâm hy sinh, để mưu cầu Ơn Cứu Độ cho các linh hồn, chinh phục họ trở về với Chúa, để Chúa tôn vinh phụng sự và yêu mến chưa?
2. Là những con ngoan thảo của Giáo Hội, chúng ta có tha thiết yêu mến Giáo Hội, hăng say bảo vệ Giáo Hội, nỗ lực xây dựng và làm cho Giáo Hội được phát triển và trường tồn không?
3. Là những phần tử của Hội Dòng, chúng ta có tận lực chung tay xây dựng Hội Dòng, bằng mọi khả năng có thể, làm cho Hội Dòng được vững mạnh và phát triển đúng như ý Chúa, Mẹ mong muốn không?
4. Là những bậc làm cha mẹ, chúng ta đã lo cho con cái biết giữ luật Chúa và Giáo Hội, lo cho con cái nên người hữu dụng của xã hội không?
5. Là những người con, chúng ta đã biết tôn trọng cha mẹ như những vị đại diện Chúa, mau mắn vâng phục, ngoan ngoãn hiếu thảo và làm hài lòng cha mẹ như Chúa truyền chưa?
Kết Luận
Chớ gì mỗi người chúng ta biết sống cuộc đời đạo đức gương mẫu thánh thiện đích thực. Nếu chúng ta đạt được ước nguyện này như một nghĩa vụ ưu tiên, quan trọng và khẩn thiết, chắc chắn chúng ta sẽ chu toàn được sứ mạng Chúa ủy thác tùy theo địa vị, chức vụ của mỗi người chúng ta.
49. Các kinh sư và Pharisiêu giả hình - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Động lực căn bản nào khiến những người Pha-ri-siêu hành động như vậy? Ta có bị thúc đẩy bởi động lực đó không?
2. Nếu mọi việc tốt đẹp ta làm đều làm nhằm để được tiếng khen, để được ca tụng, thì người khác có nghĩ rằng ta tốt, ta đạo đức không? Thiên Chúa sẽ đánh giá ta thế nào? Trước mặt Ngài, đạo đức của ta là đạo đức gì?
3. Muốn thánh thiện đích thực, ta phải xây dựng sự thánh thiện đó trên nền tảng nào?
Suy tư gợi ý:
1. Tật xấu chung của con người: muốn được mọi người nể phục tôn trọng, muốn được hơn người khác
Đọc bài Tin Mừng hôm nay, ta thấy ngay hai phần rõ rệt diễn tả hai tinh thần đối chọi nhau. Phần đầu nói lên tinh thần “phình to bản ngã” của người Pha-ri-siêu, thích đặt nặng “cái tôi”, đưa “cái tôi” của mình lên trên “cái tôi” của người khác. Còn phần sau là tinh thần “tự hủy” của Đức Giêsu, là tinh thần từ bỏ mình, quên mình, xả kỷ, đặt “cái tôi” của mình dưới “cái tôi” của kẻ khác.
Tinh thần “phình to bản ngã” không chỉ là tâm lý của những người Pha-ri-siêu, mà còn là tâm lý của đại đa số nhân loại chúng ta. Chúng ta thích được mọi người nể phục, ca tụng, đề cao; thích khoe những ưu điểm, thành tích của mình; thích có địa vị hay quyền lực trong xã hội hay Giáo Hội; thích được người khác phục vụ, qụy lụy; ai nói đụng chạm đến mình thì tỏ ra bực bội; thấy những người chung quanh hơn mình thì đâm ra buồn nản, ganh tức, v. v.. Tâm lý như thế là tâm lý rất bình thường, không mang tính bệnh hoạn. Nó chỉ trở thành bệnh hoạn khi trở nên quá đáng, nghĩa là ước muốn được hơn người trở thành một nỗi ám ảnh, hay biến ta thành một người đầy tham vọng, và muốn thỏa mãn những mong ước ấy với bất cứ giá nào, bất chấp phải làm những điều trái lương tâm... Tình trạng bệnh hoạn ấy sẽ khiến tâm hồn ta thường xuyên mất bình an và làm người khác khó chịu.
Muốn nên thánh, ta phải vượt lên trên tâm lý bình thường ấy. Nếu ta thắng vượt được tâm lý đó, thì ta đã trở nên hơn người bình thường một bậc. Và lên được bậc này là lên được bậc căn bản nhất để nên thánh rồi. Thật vậy, không ai có thể nên thánh nếu vẫn còn trong tình trạng tâm lý coi “cái tôi” của mình là “cái rốn của vũ trụ”, là hơn hết mọi người, và coi ý riêng, ý kiến, quyền lợi mình cao hơn ý riêng, ý kiến, quyền lợi người khác.
2. Coi chừng kẻo thứ đạo đức của ta đang được xây dựng trên tâm lý muốn “phình to bản ngã”
Khi ta tự đặt ta cao hơn người khác hoặc những gì của ta cao hơn của người khác thì ta cũng mong muốn, thậm chí đòi hỏi người khác phải coi ta hơn bản thân họ, hoặc những gì của ta hơn của họ. Một người luôn đặt nặng “cái tôi” của mình như thế vẫn có thể được mọi người coi là đạo đức, thậm chí là “đạo cao đức cả”, nhờ tuân giữ chi tiết và hoàn hảo các luật lệ tôn giáo, hoặc làm được những việc phúc đức lớn lao như những người Pha-ri-siêu thời Đức Giêsu. Họ sẵn sàng tuân giữ mọi quy luật tôn giáo, làm những hành động tốt, không phải vì mến Chúa yêu người, mà vì muốn được mọi người chung quanh nể phục, ca tụng, coi mình là người đạo đức, và nhờ đó, tín nhiệm mình, tôn mình lên những địa vị cao trong xã hội hay Giáo Hội.
Nhưng trước con mắt Thiên Chúa, tinh thần “phình to bản ngã” ấy làm hỏng tất cả những gì có vẻ tốt đẹp của họ. Tinh thần ấy đã biến những hành vi đạo đức như đọc kinh cầu nguyện, làm phúc bố thí, có vẻ yêu thương… thành những hành vi vị kỷ. Vì những hành vi ấy không xuất phát từ động lực yêu thương. Trước mặt Thiên Chúa, giá trị đạo đức của một hành động phần rất lớn hệ tại động lực thúc đẩy: càng vị tha, càng vì yêu thương thì càng có giá trị, còn càng vị kỷ thì càng giảm giá trị. Điều này thánh Phao-lô nói rất rõ: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,3). Những hành vi ấy, cho dù vĩ đại, có vẻ đầy tình thương, hay đem lại lợi ích cho rất nhiều người khác, nhưng vì không được thúc đẩy bởi động lực yêu thương, nên chẳng có giá trị trước Thiên Chúa, và chẳng đem lại lợi ích tâm linh cho ta. Khi làm vì ta, thì ta đã đạt được những lợi ích trần thế, nghĩa là “đã được phần thưởng rồi” (Mt 6,5b).
Chính trong viễn ảnh này mà câu Kinh Thánh sau đây trở nên dễ hiểu: “Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: "Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?... Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!” (Mt 7,22-23). Việc nói tiên tri, trừ quỷ, làm phép lạ, tự bản chất đều là những việc đạo đức, nhưng nếu làm với động lực vị kỷ chứ không phải vì yêu thương, thì chẳng có giá trị gì về tâm linh. Nếu dựa vào những việc đạo đức kém giá trị ấy để lên mặt tự hào và khinh khi người khác, thì những việc ấy lại trở thành tội ác! Vì thế, muốn nên thánh, ta cần phải thường xuyên thanh luyện động lực khi làm những điều thiện, những việc đạo đức.
3. Sự thánh thiện đích thực được xây dựng trên nền tảng tự hủy, quên mình, xả kỷ, yêu thương
Thứ đạo đức của người Pha-ri-siêu được xây dựng trên nền tảng “phình to bản ngã”, nên đó là thứ đạo đức giả, có thể được người đời lầm tưởng mà đánh giá cao, nhưng trước mặt Thiên Chúa chẳng có giá trị gì. Đức Giêsu muốn chúng ta, những kẻ theo Ngài, là những người đạo đức thật sự. Nghĩa là đạo đức của ta phải được xây dựng trên nền tảng tự hủy và yêu thương. Ngài khuyên chúng ta đừng ham được mọi người gọi mình là “ráp-bi”, là “cha”, là “thầy”, là “người lãnh đạo”... nghĩa là đừng ham được mọi người nể phục, kính trọng, đề cao, đừng khao khát quyền lực, địa vị... Hãy tự coi mình là một số không, chẳng có gì đáng tự hào, đáng cậy công... Vì xét cho cùng, ta chẳng có một điều gì có giá trị do tự ta làm ra cả. Tất cả những gì có giá trị nơi ta đều đến từ Thiên Chúa. Thánh Phao-lô nói: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh?” (1Cr 4,7).
Khi ta tự hào với người khác về đạo đức, tài năng, lòng can đảm... thì điều ấy giả thiết rằng ta đã tự coi những thứ tốt đẹp ấy là do ta chứ không phải do ai khác. Thế là ta đã trở thành kẻ vô ơn đối với Thiên Chúa, vì không gì ta có mà không phải do Ngài ban. Gioan Tẩy giả nói với những người Pha-ri-siêu: “Đừng tự hào rằng: "Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham." Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham” (Mt 3,9). Cũng vậy, Thiên Chúa có thể biến những kẻ vô dụng, hèn kém nhất trong thế gian này, những kẻ mà ta đang khi rẻ thành những kẻ đạo đức và tài năng hơn ta. Và Ngài cũng có thể giảm các ân huệ Ngài vẫn ban cho ta, lập tức lúc đó ta trở thành kẻ không ra gì. Biết bao người đang được mọi người coi là cao cả mà chỉ vì bị mất ơn Chúa đã trở thành kẻ tầm thường! Như vậy, người hiểu biết và khôn ngoan đích thực sẽ không bao giờ dám tự hào về mình điều gì. Thánh Phao-lô khuyên: “Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa” (1Cr 1,31; x. 2Cr 10,17). Một người đạo đức thật sự sẽ không “làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy” (Mt 23,5), “cốt để người ta khen” (Mt 6,2) như những người Pha-ri-siêu, mà trái lại sẽ làm theo lời khuyên của Đức Giêsu: “Khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm” (Mt 6,3); “khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo” (6,6). Những việc tốt đẹp ấy nếu ta không làm vì ta, để vinh danh ta, mà làm vì yêu thương, vì ích lợi của tha nhân, thì dù nhỏ mọn, chúng vẫn có giá trị lớn lao trước mặt Thiên Chúa. Còn nếu làm vì ta, để được khen, được nể phục, thì việc ấy dù có lớn lao đến đâu, cũng trở nên vô giá trị trước Thiên Chúa, bất chấp chúng được người đời ca tụng thế nào. Vậy chính tinh thần tự hủy, quên mình, xả kỷ, vị tha khi hành động mới làm cho hành động của ta có giá trị, và giúp ta nên thánh thật sự.
Cầu nguyện
Tôi nghe Thiên Chúa nói với tôi: “Cha dựng nên con từ hư vô, và dựng nên người khác cũng từ hư vô. Tự bản chất và tự bản thân con, con chẳng hơn người khác một chút nào. Ngược lại người khác cũng chẳng hơn con chút nào. Con có hơn người khác được điều gì, thì do chính Cha đã ban đủ ơn để con hơn được như vậy. Thế thì con có lý do gì để lên mặt với những kẻ thua kém con? Rất có thể một lúc nào đó, Cha sẽ lại cho những kẻ kém con, những kẻ con khinh thường ấy hơn con. Tốt hơn là con hãy quên con đi, đừng tự coi mình là gì cả. Chính thái độ ấy làm cho con trở nên cao cả trước mặt Cha, làm đời sống con hạnh phúc và tốt đẹp biết bao! Cha mong con có thái độ ấy”.
50. Làm chứng cho Chúa
(Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM)
Thánh Phanxicô nói với một thầy Dòng ngài: Chúng ta cùng đi giảng đạo chiều nay. Thế rồi sau một buổi chiều rảo quanh các phố xá, khu xóm, làng mạc, hai cha con trở về, ngồi bệt xuống ghế, hổn hển thở hơi tai. Ngài buông lời: Tạ ơn Chúa rồi lại im lặng. Thầy tùy tùng mới cất tiếng hỏi: Thưa cha, cha nói đi giảng đạo mà con có thấy cha giảng gì đâu. Ngài mìm cười trả lời: Chính cách đi đứng tử tế, nói năng thưa hỏi kẻ qua đường một cách đoan trang, lễ phép, chính cách cư xử bác ái, chân thành và ân cần giúp đỡ mọi người của chúng ta, là một bài giảng hùng hồn, và đánh động nhất đó con. Chúng ta đã giảng bằng chính gương sống của mình rồi.
Việt Nam có câu: Lời nói lung lay, gương bày lôi cuốn. Là cách diễn tả bằng thực hành nhiều hơn là bằng rao giảng. Có một nhà nghiên cứu xã hội làm một bản trắc nghiệm và phỏng vấn. Ông cho hay: tám mươi phần trăm người trả lời: Xem gương người xưa đã sống và đã làm.
Chúa trách cứ người Pharisiêu, và các thầy thông luật chỉ chú tâm vào nghĩa chữ mà không thực hành: Họ chỉ tay mà không làm. Họ bó cho người khác gánh còn họ không hề đưa ngón tay lay thử. Hỏi trong gia đình, chúng ta phục ai, thương ai, nếu không phải là người có lòng quán xuyến mọi việc, có chân tay mau rảo, có việc làm luôn tay luôn chân, có tâm hồn đạo hạnh, có tấm lòng rộng rãi, cởi mở...... Hỏi trong gia đình chúng ta ghét ai nhất: Nếu không phải là kẻ hay nói đổng, lắm mồm, nói dai và đay nghiến mà không chạy việc.
Nhìn vào gương người xưa có đủ mọi khía cạnh gương sáng cho chúng ta soi. Họ là những nhân chứng của Tin Mừng, của nước trời: Nhân chứng đức tin như ông Abraham giết con. Nhân chứng thứ tha như vua Davít cắt vạt áo vua khi vua cho ông là kẻ thù. Nhân chứng lề luật như Daniel trong lò lửa không chịu ăn thịt. Nhân chức trong sạch như Maisen đẹp trai và hoàng hậu Pharao mê sắc. Nhân chứng giữ đạo như bảy con của bà Macabêu bị hành quyết. Nhân chứng hy sinh cho đồng loại như Đức Cha Cassaigne, Thánh Damien tông đồ người hủi, Mẹ Têrêsa Ấn Độ. Nhân chứng gia đình như Đức Mẹ và thánh Giuse thành Nazareth. Nhân chứng từ bỏ như hoàng hậu Elzabeth, như Phanxicô khó khăn tụt áo sống trả lại cha trước quan tòa.
Thật đáng ca ngợi những bậc cha mẹ luôn nêu gương cho con cái. Đáng ca ngợi những người con sống và giữ theo lời cha mẹ khuyên dạy. Đáng ca ngợi những bậc ông bà sống đạo cho các con cháu thấy, nghe và bắt chước. Sống và thực hành như vậy chắc chắn các ngài sẽ bị phản đối, bị công kích, bị chê bai, bị kết án là khác đời. Nhưng các ngài sẽ giúp con cháu can đảm chấp nhận và vươn lên khỏi những nếp sống đê hèn đè bẹp cuộc sống. Sống như vậy các ngài đã nên tấm gương sáng ngời cho thế hệ mai sau và không sống như vậy sẽ không có các thánh trên trời.
51. Nói và làm
Qua đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nghiêm khắc kết án bọn biệt phái và luật sĩ là những người lãnh đạo tôn giáo trong dân Do Thái. Thế nhưng, biết đâu những lời kết án nghiêm khắc ấy cũng được gửi đến cho mỗi người chúng ta, bởi vì những khuyết điểm của họ cũng là những khuyết điểm của mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Nhìn lại khuôn mặt của bọn biệt phái và luật sĩ, chúng ta không khỏi giật mình bởi vì bản thân chúng ta cũng có những đường nét nào đó giống như họ. Vậy đâu là những khuyết điểm chính yếu bọn biệt phái và luật sĩ đã mắc phải để rồi đã bị Chúa Giêsu chỉ trích và phê bình một cách gắt gao?
Khuyết điểm thứ nhất, đó là họ nói mà không làm. Có một khoảng cách vừa sâu lại vừa rộng giữa những điều họ giảng dạy với những điều họ thực hành trong đời sống cá nhân. Chúa Giêsu đã diễn tả thật chính xác về họ như sau:
Họ nói mà không làm. Họ nói thì nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu. Tệ hơn nữa, họ nói một đàng nhưng làm quàng một nẻo, họ làm ngược lại những gì họ đã nói và đã giảng theo kiểu:
- Khẩu phật tâm xà.
- Miệng nam mô, bụng bồ dao găm.
Và như vậy, điều quan trọng đối với chúng ta là phải thống nhất đời sống, để việc chúng ta làm ăn khớp với lời chúng ta nói và dạy. Lời nói phải biểu lộ những gì ấp ủ trong cõi lòng, chứ không phải chỉ là sự vận dụng khéo léo những ngôn từ hoa mỹ để thu hút và lôi cuốn người khác như người ta vốn thường bảo:
- Khéo mồm mép, khỏe tay chân.
Trong nghi lễ phong chức Linh mục, Đức Giám mục đã khuyên các tân chức như sau:
- Khi suy gẫm Lời Chúa, các con hãy chú tâm tin điều chúng con đọc. Dạy điều các con tin và làm điều các con dạy.
Mong rằng chúng ta cũng sẽ thực hiện được như vậy.
Bọn biệt phái nói mà không làm, nhưng lại bắt người khác phải làm. Chúa Giêsu đã dùng một hình ảnh sống động để diễn tả về khuyết điểm này:
- Họ chất những gánh nặng lên vai người khác, còn chính bản thân họ thì lại không muốn đụng ngón tay lay thử.
Thái độ này ngày nay chúng ta gọi một cách khôi hài là giám đốc, giám xúi chứ không phải là giám làm, giám nhận lấy trách nhiệm của mình.
Như vậy ở đây chúng ta lại thấy xuất hiện một khoảng cách giữa điều chúng ta làm với điều chúng ta buộc người khác phải làm. Chúng ta khoan dung với bản thân, nhưng lại hết sức nghiệt ngã với người khác. Dường như chúng ta đòi hỏi người khác là để khỏa lấp sự yếu đuối của bản thân.
Khuyết điểm thứ hai, đó là tính háo danh và tự mãn. Họ làm mọi việc cốt để được người ta thấy. Như vậy cái đích nhắm của mọi hành động đó là tiếng khen, uy tín và danh dự cá nhân. Tất cả đều qui về cái tôi của mình, đều nhằm lôi kéo sự chú ý của người khác. Thậm chí cả những hành vi đạo đức cũng biến thành một thứ son phấn để trang điểm cho bộ mặt giả hình của chúng ta.
Thiên Chúa bị bỏ rơi khi các việc đạo đức của chúng ta được khua chiêng gióng trống, nặng phần trình diễn, khiến người ta chỉ thấy được bản thân chúng ta mà không thấy được chính Thiên Chúa.
Với một vài nét chấm phá đơn sơ, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy rõ bộ mặt giả hình của bọn Biệt phái và luật sĩ. Biết đâu, đó cũng là bộ mặt giả hình của mỗi người chúng ta.
Chính vì thế, chúng ta hãy cầu xin để mỗi người chúng ta luôn sống trung thực với bản thân, với người khác và với Thiên Chúa. Tư tưởng thì đi đôi với lời nói. Còn lời nói thì lại đi đôi với việc làm. Cả ba lãnh vực tư tưởng, lời nói và việc làm của chúng ta đều không quanh co, không uẩn khúc, nhưng trong suốt như pha lê.
52. Làm lớn phải phục vụ
Anh chị em thân mến,
Một người cha nọ dạy con rằng: "Con nên nhớ thời bây giờ, không tin ai được hết; ngay cả cha con cũng đừng tin nữa. Biết đâu cha mẹ vẫn gạt con cái. Con thấy không? Ra đường người ta chỉ nghĩ đến móc túi kẻ khác, mua gian bán lận; có mấy ai dám nói thật đâu... Vì vậy, con nên nhớ, đừng tin ai cả, ngay cha mẹ con cũng không tin nữa.." Sau bài huấn đức đó mấy hôm, một bữa nọ, người cha bảo con: con leo thang này lên gác lấy cho cha mấy món đồ cha cần trên đó. Đứa con vâng lời lên gác... Đến lúc xuống, người cha đã lấy thang đi mất. Ông bảo: con cứ nhảy xuống đi, cha sẽ đỡ cho... Đứa con y lời nhảy xuống. Người cha không đỡ. Đứa con gãy giò. Lúc đó cha mới nói: "Thấy hôn, tao đã bảo, ngay cả cha mày cũng đừng tin nữa mà..." Bài học cụ thể thiệt đó, nhưng bù lại đứa con phải gãy giò. Hơn bị tốn của một chút đó! Bài giáo lý của Chúa Giêsu hôm nay cũng tương tợ thế: Chúa cảnh báo dân chúng: nghe lời các kinh sư chỉ bảo, nhưng đừng làm theo việc họ làm, vì họ nói mà không làm. Kính mời anh chị em cùng suy niệm...
a/. Có vài điều chúng ta cần hiểu rõ:
* Các kinh sư, các người pharisêu: họ là những nhà thông luật; họ nối quyền Môisen, có nhiệm vụ giải thích Kinh thánh, luật Môisen, áp dụng vào đời sống. Vì thế, nên Chúa Giêsu dạy phải nghe họ. Nhưng cách làm của họ, Chúa dạy dân chúng đừng theo, vì họ sống giả hình, nói mà không làm, đặt ách lên vai người khác mà tay họ không động đến, thích đeo hộp kinh lớn, mang tua áo, thích ngồi chổ nhứt, ưa người ta ca tụng, nhưng lại lại tham lam, khinh dễ người nghèo khó, áp bức cô nhi hóa phụ...
* Đừng bắt ai gọi mình bằng Thầy; cũng đừng bắt gọi bằng cha, gọi người lãnh đạo: Chúa Giêsu muốn dạy chỉ có một Đức Kitô là Thầy, là người lãnh đạo, một Thiên Chúa là Cha. Không ai được phép vượt qua lời dạy đó. Thực ra, trong đạo chúng ta nếu có gọi ai là Thầy, là Cha, là người lãnh đạo, đó không phải là đi ngược lời Chúa dạy; đó chỉ nói lên mối liên hệ tinh thần. Thánh Đaminh muốn đưa tinh thần này vào dòng của mình; ngài mong muốn anh em gọi nhau bằng huynh đệ (frater). Ta cũng thấy Tu hội của Tiểu đệ, Tiểu muội rất mong muốn thực hiện tinh thần này, nên mọi người đều gọi nhau là anh em....
b/. Qua bài Tin mừng này Chúa muốn dạy ta điều gì?
* Chúa vạch trần thói sống giả hình của các kinh sư, biệt phái: họ thích sống giả hình, vì hay nói mà không làm - thích thống trị kẻ khác, đặt gánh nặng lên vai người khác, còn mình thì không buồn động đến - thích khoe khoang, làm để cho mọi người thấy - ham danh, ưa ngồi chổ nhất, thích được chào, thích được gọi là thầy. Chúa còn cảnh giác dân chúng, dạy dân nghe lời họ chỉ dạy, nhưng đừng làm theo họ, nhất là chỉ vâng lời một Thầy độc nhất là Đức Kitô mà thôi...
* Chúa chỉ trích lối sống của các kinh sư, nhưng Người cũng đưa ra mấy chỉ dẫn cho đời sống đạo thiết thực: 1. lời nói đi đôi với việc làm: Thực tế, giữa lời nói và việc làm có khoảng cách rất lớn. Vì nói thì dễ, nhưng làm lại là chuyện khó, nên các kinh sư thích nói suông hơn là làm; hoặc nhiều lúc tệ hơn, họ "nói mà không làm." Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng nói suông, nhưng hãy làm; nhất là hãy làm cách chân thành. Ông bà ta cũng nói:"Lời nói như gió lung lay, việc làm như tay lôi kéo." Chúa nhắc nhở: người môn đệ có nhiệm vụ rao giảng lời Chúa, không thể dùng lý thuyết suông mà thuyết phục. Chính lời nói kèm theo việc làm mới có sức lôi kéo người ta và làm cho họ tin theo.
Hãy làm trong khiêm tốn: các kinh sư, pharisêu làm gì cũng muốn phô trương, tỏ ra mình đạo đức, từ đó biến thành tự phụ, tự mãn...Trái lại, Chúa Giêsu dạy các môn đệ, khi bố thí, khi cầu nguyện, khi ăn chay, đừng phô trương cho người ta thấy; hãy làm nơi kín đáo, để một mình Thiên Chúa biết mà thôi. Âm thầm làm việc đạo đức là dấu chỉ của lòng mến Chúa chân thật, từ đó dẫn đến khiêm tốn, kính trọng kẻ khác, sẵn sàng phục vụ anh em. Tuy nhiên, lối sống của kinh sư, biệt phái vẫn hiện hữu nhiều lắm trong đời sống thực tế ngày hôm nay. Nó hiện hữu không chỉ ngay trong cuộc sống đời, mà ngay trong nhà đạo chúng ta nữa. Vì vậy cần phải sống chân thành, tín nhiệm, tin tưởng nhau, nhất là để Chúa trong cuộc sống, chúng ta mới tránh khỏi thói sống chuộng hình thức như kể ở trên...
Chân thật: tiếng latinh là Sincerus, a, um. Ngày xưa những cột đá cẩm thạch nào không được nhẵn nhụi, lại có lỗ, sứt mẻ, thì người ta lấy sáp ong nhét vào lỗ đó, rồi đánh cho trơn láng. Cây cột nào trơn láng thì gọi là sine cera: nghĩa không có sáp ong. Với thời gian, chữ này viết dính lại: sincera; có nghĩa là không phấn sáp, không giả tạo. Cuộc sống con người cần phải thành thật, chân thành, không phấn sáp, không giả tạo. Đó chính là điều Chúa muốn dạy chúng ta sống trên đời này...
Nhà nuớc VN chúng ta dán bích chương đầy đường, hô hào kêu gọi mọi người VN: đoàn kết - yêu thương - quảng đại - xóa bỏ hận thù - cùng nhau bắt tay xây dựng xã hội giàu có, công bằng, dân chủ và văn minh; vậy mà vụ đất Thái Hà, và Tòa Khâm sứ, chúng ta thấy gì? Có phải như lời Chúa quở trách pharisêu: nói mà không làm, hay nói một đàng, làm một nẻo không?
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Chúa Giêsu trách những người pharisêu nói mà không làm, người kitô hữu chúng ta nghe thì hài lòng lắm, vì họ đáng trách như thế. Phần chúng ta, là cha mẹ trong gia đình, là người phục vụ trong họ đạo, có nhiều lúc ta tự xét mình trước mặt Chúa, ta tự thấy mình đã không dám nói, dám làm điều này điều nọ, để nêu gương sáng cho mọi người nhất là cho chính con em, cháu chắt chúng ta không?
53. Chú giải của Noel Quesson
Các kinh sư và người Pha-ri-sêu ngồi trên tòa ông Môsê mà giảng dạy. Vậy những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ...
Bản văn này là một phần cuộc tranh luận mạnh mẽ giữa Đức Giêsu với những quyền bính tôn giáo ở Giêrusalem: cuộc khổ nạn sắp đến gần và chúng ta biết rằng sự khước từ của các thân hào ở thủ đô là một trong những nguyên nhân cái chết của Đức Giêsu.
Vào thời kỳ Mátthêu viết Tin Mừng của ngài, cuộc tranh luận nổ ra một cách bi thảm: Sau khi Đền thờ bị phá hủy vào năm 70, các người Pha-ri-sêu đã trở thành nhóm duy nhất còn tồn tại có tổ chức... và được quy tụ lại ở Giam-ni-a (Giáp nê), họ chính thức tuyệt thông với những người Do Thái theo Kitô giáo, coi những người này như những người lạc giáo và trục xuất họ ra khỏi Hội Đường Do Thái.
Những nhận xét về lịch sử này, tuy vậy, không cho phép chúng ta nghĩ rằng Matthêu chỉ đơn thuần nghĩ ra các cuộc tranh luận chống Pha-ri-sêu ấy. Đức Giêsu rõ ràng đã chết vì chống đối lại một số thủ lãnh tại thủ đô. Điều đó không có nghĩa là tất cả những người Pha-ri-sêu đều đáng bị lên án. Và trong bất kỳ trường hợp nào, điều đó không thể nuôi dưỡng một cuộc bút chiến chống Do Thái. Vả lại chúng ta nhận thấy rằng, trong câu đầu tiên Đức Giêsu khuyên "thực hành và tuân giữ những điều các kinh sư và Pha-ri-sêu giảng dạy". Vì thế Người thừa nhận họ có thẩm quyền trong kiến thức về Luật của Thiên Chúa. Đức Giêsu không phê phán học thuyết và những nguyên tắc của người Pha-ri-sêu. Người yêu cầu chúng ta áp dụng những điều họ dạy.
Nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm.
Nếu Đức Giêsu tán đồng lý tưởng mà các Pha-ri-sêu đòi hỏi, thì Người lại trách họ rõ ràng đã không đem lý tưởng đó ra thực hiện cho đủ. " Vậy có một sự nghịch nghĩa khi tiếp thu tư tưởng của Đức Giêsu để biện minh cho thái độ bừa bãi trên bình diện thực hành tôn giáo. Người ta còn nghe quá nhiều những lời biện minh dễ dãi: "Tôi không đi dự thánh lễ bởi vì các Kitô hữu không tốt hơn những người khác... đó là những người Pha-ri-sêu! Chính Đức Giêsu không phê bình những người Pha-ri-sêu vì họ "thực hành" quá nhiều nhưng vì họ thực hành không đủ lý tưởng của họ.
Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào.
Chúng ta thấy lại một nét nổi bật của Đức Giêsu: Người bênh vực những người nhỏ bé, nghèo nàn, yếu đuối. Các kinh sư là những học giả. Ngày nay hẳn người ta gọi đó là những nhà trí thức, những người biết rành về Kinh Thánh. Những người Pha-ri-sêu đúng ra là những người sùng đạo. Ngày nay, người ta sẽ nói đó là những chiến sĩ, những người dấn thân để biến đổi xã hội. Nguy cơ lớn của học giả và người quảng đại là họ rất đòi hỏi những người khác khi áp dụng những nguyên tắc cao cả của họ cho các tập tục bên ngoài, thay vì xét lại chính bản thân mình. Canh tân người khác luôn luôn dễ hơn hoán cải chính mình.
Lạy Chúa, xin giúp đỡ chúng con luôn sống nhân từ với người khác và khắt khe với chính chúng con. Xin làm cho chúng con gánh bớt gánh nặng của người khác và chớ để chúng con thành một gánh nặng cho những người xung quanh chúng con.
Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội trường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi”.
Những hộp kinh là những hộp nhỏ chứa những bản văn Kinh Thánh mà người ta dùng dây cột ở trán và cổ tay: đó là một cách để nhớ lại lời Chúa (Xh 13,9-16; Đnl 6,8-11,18). Những tua áo ở lai áo cũng là một cách để nhắc người ta nhớ đến những điều răn của Thiên Chúa (Ds 15,37; Đnl 22,12).
Tập tục này giống với tục lệ đeo huy chương, vòng cổ, nhẫn.
Đức Giêsu không lên án những tập tục này tự nó. Chính Đức Giêsu cũng mang những tua áo (Mt 9,20; 14,36). Nhưng ở đây Đức Giêsu công kích thói tự kiêu vặt vãnh về tôn giáo: Người ta khoe khoang lòng sùng đạo của mình. Người ta tìm cách để được chú ý. Người ta đặt mình ra trước, chạy theo vinh hoa, phô trương thói kiêu căng hão huyền, tìm kiến những đặc ân đặc quyền. Tất cả đều là một khuyết điểm mà thời nào cũng có. Mỗi thời đại theo cách của thời đại đó.
Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là “ráp-bi".
Công thức này chỉ cho chúng ta thấy rằng Đức Giêsu hơn tất cả những người Pha-ri-sêu của thời Người và quả thật, đây là lời Người nhắc nhở các môn đệ của mình. Thay vì lúc nào cũng áp dụng Tin Mừng cho những người khác, ví dụ như thay vì lên án những người giảng đạo nói mà không làm “bó những gánh nặng mà chất lên vai các tín hữu" thì chúng ta phải trở lại với chính mình: Phần anh em, đừng bắt người ta tôn xưng mình, cho mình được hưởng đặc quyền.
Còn tôi, cái cách của tôi làm cho tôi rơi trong sự lệch lạc ấy là gì?
Vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em là anh em với nhau.
Đức Giêsu lên án thói tự phụ rằng chúng ta phải là những người nắm giữ chính thức học thuyết đúng nhất. Chỉ một mình Thiên Chúa mới dạy chân lý tuyệt đối. Phần chúng ta, chúng ta chỉ đến gần chân lý ấy mà thôi. Còn tất cả anh em là anh em với nhau, Công thức này ngắn gọn, đầy những yêu sách. Đây là một yêu cầu về sự bình đẳng sâu xa giữa chúng ta với nhau: Một lần nữa, tôi phải áp dụng cho chính tôi những lời ấy: tôi có xu hướng muốn thống trị ai? Tôi có xu hướng muốn nhìn ai một cách ngạo nghễ, muốn khinh bỉ, phán xét ai?
Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời.
Mỗi lần mà Đức Giêsu truyền cho chúng ta có những thái độ trên bình diện đạo đức (làm điều này... không làm điều kia...), Đức Giêsu đều dùng các thái độ và xác tín của đức tin để nâng đỡ chúng. Ở đây yêu sách về sự bình đẳng bắt nguồn trong sự phụ thuộc của chúng ta trước Thiên Chúa. Đức Giêsu không đòi bãi bỏ mọi phẩm trật, quyền bính, tình phụ tử nào có thể thay thế cho Thiên Chúa. Đây là một yêu sách triệt để của tự do? Mọi con người đều có quyền gặp Thiên Chúa một cách trực tiếp. Không một thế phẩm nào được thay thế cho Đấng Duy Nhất, Đấng có thể cứu chuộc con người. Vâng, đối với Đức Giêsu việc gặp gỡ tình yêu của Chúa Cha, ở trên trời rất quan trọng đến độ mọi tấm chắn kính lọc, mọi sản phẩm thay thế mọi thế phẩm bất kỳ nào xem ra đều có hại. Đừng gọi ai dưới đất này là "cha"! Chắc chắn người ta có thể cho một người tước hiệu này nhưng không nên vì thế mà bị giam hãm trong mối quan hệ ấy, và trở thành ấu trĩ như trẻ con. Đức Giêsu biết rằng "chỉ có" Thiên Chúa mới là Thiên Chúa.
Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo là Đức Kitô
Đây cũng là lời cảnh báo tương tự không nặng được nhắc lại dưới những hình thức khác nhau. Xuyên qua những công thức ấy, chúng ta đã chẳng có thể khám phá chính điều chủ yếu của lời giáo huấn sao? Người lãnh đạo không phải là người lôi kéo người khác đến với mình nhưng lôi kéo người khác đến với chân lý.
Nhà giáo dục Kitô giáo, theo một ý nghĩa sâu xa hơn chỉ thật sự thành công trong việc giáo dục nếu người ấy có thể dẫn học trò mình bước vào quan hệ trực tiếp với Đức Giêsu. Trách nhiệm của cha mẹ, các nhà giáo dục và các linh mục vì thế rất nặng nề và kỳ diệu: một ngày kia họ phải tự quên mình là "thầy", bởi vì học trò mình đã tìm thấy vị Thầy duy nhất, vị "Lãnh đạo" duy nhất. Cuối cùng, một người dạy giáo lý chỉ đạt được mục đích khi dẫn đưa người học giáo lý đến kinh nguyện cá nhân để gặp gỡ cá nhân với Thiên Chúa. Và một nền giáo dục chỉ thật sự đạt được mục đích của nó nếu người được giáo dục một ngày kia có thể không cần đến nhà giáo dục nữa để hướng dẫn cuộc đời mình trong sự tự do hoàn toàn và dưới cái nhìn nội tâm của vị Thầy duy nhất.
Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ xuống, sẽ được tôn lên.
Công thức này làm ngạc nhiên, dễ nhớ vì tính chất nghịch lý, là một trong số những câu mà Đức Giêsu đã phát biểu. một cách rõ ràng dễ nhớ nhưng người ta không thể xác định vào thời điểm chính xác nào trong sự giảng dạy của Người. Thật vậy, người ta tìm thấy câu ấy trong những văn cảnh khác nhau. Trong Matthêu (20,26) để gạt bỏ tham vọng của các con trai ông Dêbêđê: Trong Luca (14,11), để mời gọi các môn đệ không nên chọn chỗ nhất ở bàn tiệc. Trong Luca (18,14), để phục hồi danh dự cho người thu thuế trước sự tự mãn của người Pharisêu. Dù sao, tư tưởng ấy chắc chắn là một xác tín của Đức Giêsu mà Người đã không ngừng nhắc lại trong những trường hợp khác nhau.
Do đó nó không phải là một phương tháp hành văn của các tác giả Tin Mừng nào. Dẫu sao công thức ấy mạnh mẽ và tra hỏi chúng ta những bản năng tự tôn của tôi là gì? Những công việc phục vụ của tôi là gì?
54. Chứng nhân
Ngày Chúa nhật hàng tuần tôi thường hay dành một buổi sáng để đi thăm nhà giáo dân trong họ đạo, đặc biệt là những người sống lạnh nhạt tôi lại thường xuyên đến thăm và động viên họ hơn. Khi tim hiểu nguyên nhân làm cho họ lạnh nhạt, tôi thấy một trong những nguyên nhân đó là sự bất mãn trong đời sống đạo. Họ bất mãn vì thấy những người giảng dạy lại sống không ra gì, những người thường xuyên đi lễ lại sống quá tệ. Đôi khi họ lại sống ngược lại với lời kinh Chúa dạy. Bài Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu cũng lên án thái độ sống lệch lạc đó. Tiêu biểu là người luật sĩ Pharisêu, họ am hiểu Kinh Thánh lề luật ngưng lại sống không trung thực, sống phản chứng. Họ nói mà không làm, rao giảng mà không sống các điều mình rao giảng. Họ dạy tín hữu phải biết sống đơn sơ khó nghèo, trong sạch, liêm chính, không ham danh ham lợi, không chạy theo của cải vật chất trần gian, biết chia sẻ với người túng thiếu. Nhưng họ lại quan liêu hống hách, bê tha dục vọng, tranh giành chức vị, chạy theo tiền bạc của cải, quyền bính và sống ích kỷ, gian ác và tội lỗi, sống sa đọa hơn giáo dân rất nhiều. Kiểu sống của họ đã bôi nhọ và làm giảm uy tín Giáo hội, khiến cho giáo dân từ bỏ Giáo Hội và làm cho những người chưa biết Chúa xa rời tình yêu của Ngài.
Chúa Giêsu không chỉ tố cáo thái độ sống đạo lệch lạc của họ, mà Ngài còn tố cáo việc sống đạo vụ hình thức nặng nề của họ. Họ chủ trương tuân giữ luật lệ một cách tỉ mỉ, rườm rà theo bề ngoài mà quên đi tinh thần nòng cốt của luật. Tâm thức luật lệ ấy khiến cho hàng lãnh đạo Do Thái gia tăng số luật lệ, cam đoan đủ điều và biến luật lệ trở thành dụng cụ áp chế, bóp nghẹt sự tự do tinh thần trong cuộc sống lòng tin, khiến cho mối dây liên hệ giữa tín hữu với Thiên Chúa trở thành một gánh nặng đè bẹp, ngột ngạt khó thở, vì bị các luật lệ cột buộc bao vây tư bề.
Thật ra, các liên hệ với Thiên Chúa phải giúp cho tín hữu cảm nhận được lòng yêu thương nhân thứ và quan phòng ấp ủ của Ngài đối với mình. Vì thế, cuộc sống lòng tin phải là cuộc sống vui tươi, hạnh phúc tràn đầy hy vọng và an bình, chứ không phải là nhắm mắt tuân hành các luật lệ trống rỗng vô hồn.
Hơn nữa, kiểu sống đạo giả hình và phô trương của họ mang tính cách háo danh, thích ăn trên ngồi trước, thích được nịnh hót, thích được ca tụng và chào hỏi bằng tước hiệu trọng vọng.
Mặc dù không thi hành các luật Chúa, nhưng hàng lãnh đạo Do Thái khi giảng dạy ở Hội đường thì họ lại nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo, huênh hoang, vạch đường chỉ lối cho người khác phải theo. Nhưng khi trở về đời sống riêng tư thì chui đầu vào ngõ bí, làm những điều mà phải đóng cửa tắt đèn mới dám làm. Vậy, những kẻ giả hình đó phải coi chừng, vì Chúa Giêsu sẽ chỉ mặt điểm tên mà bảo rằng: "Ngươi là cái mả tô vôi, ở# ngoài thì trắng trẻo sạch sẽ, bên trong thì đầy thây ma xác chết thối tha, là những phường nói một đàng làm một nẻo".
Nếu chúng ta không ý thức những điều đó, để rồi chúng ta lại rơi vào bánh xe xa lầy của những kẻ giả hình, lúc đó Chúa cũng trách chúng ta như vậy. Không trách sao được, khi chúng ta mở miệng dạy đạo đức cho người khác mà đời sống mình lại không đạo đức chút nào? Không trách làm sao được khi mình mở miệng răn bảo người khác không nên trộm cắp, phải tôn trọng tài sản của kẻ khác, mà chính mình lại là kẻ hối lộ, tham nhũng, ăn gian ăn bớt đủ thứ. Tha làm sao được khi mình dạy người khác phải chung thủy trong gia đình, thanh tịnh trong đấng bậc mình, còn mình thì đưa người cửa trước, đón người cửa sau.
Chúng ta cũng nên biết rằng, đối với thời đại chúng ta đang sống, nếp sống gương mẫu của các Kitô hữu là một phương thế hữu hiệu nhất để mở đường cho người khác tin vào Thiên Chúa. Có thể nói được rằng, con người ngày nay cần phải có đời sống gương mẫu để củng cố đức tin cho chính mình và cho người khác.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết sống theo Lời Chúa, và nhất là qua hành động của mỗi người sẽ là một lời rao giảng tuyệt vời trong cánh đồng truyền giáo của Chúa. Amen.
55. Chớ giả hình, kiêu ngạo
(Suy niệm của Br Vincent Quốc Thanh)
Trong sử các đấng tổ phụ tu hành có chép chuyện một thầy ẩn tu nổi tiếng nhân đức. Khi biết mình sắp lìa cõi đời, thầy xin Bề trên dòng đến ban các Bí tích sau cùng. Tình cờ một tên trộm khét tiếng trong vùng cũng đến chỗ của thầy ẩn tu. Thấy thầy cả làm các phép trong đạo, tên ăn trộm động lòng thống hối và được ơn trở lại. Cho mình không xứng đáng vào phòng thầy ẩn tu, hắn chỉ đứng ngoài và kêu lên: "Ôi, chớ gì tôi được phúc như thầy". Thầy ẩn tu nghe thấy lấy làm đắc ý và đáp lại: "Ừ, thật đó, giả mày được giống như tao, thì còn phúc nào bằng."
Rồi tên ăn trộm liền chạy đi xưng tội. Nhưng vì chạy mau quá, nên đâm đầu xuống vực thẵm mà chết. Vị ẩn tu được tiếng là nhân đức cũng chết sau một vài ngày. Một thầy ẩn tu khác trước vốn ở chung với thầy này khóc thương cho bạn mình, nhưng lại vui cho kẻ trộm đã chết. Có người hỏi tại sao, thì thầy trả lời: " Người trộm chắc được rỗi linh hồn vì đã có lòng ăn năn tội. Còn thầy ẩn tu đã hư đi đời đời vì kiêu ngạo."
Thầy ẩn tu trong chuyện thuộc vào loại thầy " nói mà không làm" (Mt 23,3). Thầy làm những việc nhân đức cốt để cho người ta trông thấy và khen ngợi. Thầy thích được gọi là "Rabbi " (thầy hoặc vĩ nhân) nơi công cộng và chiếm chỗ nhất trong đám tiệc. Khoác áo nhà tu, nhưng không có tinh thần tu trì, thầy mắc hai lỗi lớn trong đường thiêng liêng: giả hình và kiêu ngạo.
Tại sao thánh sử Matthêu lại chống việc gọi các vị lãnh đạo tinh thần là " thầy" hoặc "cha"? Tiếng "Rabbi" được dùng vào khoảng năm 60-80 A.D. để chỉ về những vị thầy Do Thái có quyền giảng dạy luật Môisen. Theo mạch văn và theo hoàn cảnh lịch sử, thánh sử Matthêu chống lại những vị lãnh đạo tinh thần thời bấy giờ hơn là danh xưng. Ông Saul Ben Batnith (ca.80-120) là vị lãnh đạo tinh thần đầu tiên dùng danh xưng Abba, "cha". Mặc dầu Thánh kinh ngăn cản việc dùng danh xưng này, nhiều vị ẩn tu đã dùng danh xưng Abba để chỉ về những người cha tinh thần.
Theo Cha Benedict T. Viviano, OP., nhà chú giải Thánh kinh, những Kitô hữu tin chỉ có một Cha trên trời và một vị Thầy duy nhất là Đức Giêsu Kitô. Tuy nhiên, cũng có những vị " cha" và "thầy" giữ vai trò chuyển tiếp (transitory role). Những vị "cha" và "thầy" đó giúp cho những người theo Chúa hiểu về người Cha nhân lành và vị Thầy khả ái là Chúa Giêsu Kitô. Những vị "cha" hay "thầy" chuyển tiếp này nên được gọi là "ngôn sứ, hiền nhân, và kinh sư". (Mt 23,34)
Vấn đề ở đây không phải là dùng danh xưng nào cho chỉnh hơn, nhưng là làm sao để sống đúng với danh xưng của mình. Nếu mình là " cha" hoặc "thầy" thì phải làm sao cho đời sống nội tâm phù hợp với danh tính và cử điệu bên ngoài của mình. Càng ý thức mình là những vị lãnh đạo tinh thần của dân Chúa, "cha" và "thầy" càng phải hại mình xuống và phục vụ hết sức mình (Mt 23,11). Nếu được thế thì chắc chắn người Cha trên trời sẽ được kính mến và vị Tôn sư duy nhất sẽ được tôn vinh.
56. Chú giải của Fiches Dominicales
TRONG HỘI THÁNH, CHỨC VỤ LÀ ĐỂ PHỤC VỤ, THEO GƯƠNG ĐỨC GIÊSU TÔI TỚ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Thi hành chức vụ…
Thay vì làm cho những đối thủ của Đức Giêsu im tiếng, ba dụ ngôn về ngày chung thẩm mà chúng ta đã suy niệm trong các ngày Chúa nhật thứ 26, 27 và 28, lại làm nổ ra một loạt những tranh luận, trong đó bọn họ bắt tay nhau và thay phiên nhau giăng những cạm bẫy hòng để Đức Giêsu mắc vào. Trước hết, trong Phúc âm Chúa nhật thứ 29, là mưu mô của "môn đệ nhóm Biệt phái và những người thuộc phe Hêrôđê": “Có nên nộp thuế cho hoàng đế hay không. Họ nêu lên câu hỏi, chắc ăn là sẽ bắt được con tôm. Nhưng Đức Giêsu chẳng dại gì để mình rơi vào thế lưỡng nan, Người chuyển hướng vấn đề, và dựa vào hình khắc trên đồng tiền người ta trao cho, Đức Giêsu tuyên bố: "Hãy trả cho César những gì thuộc về César, và trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa". Một câu trả lời làm cho những kẻ hạch hỏi phải im tiếng: "Mọi người đều sửng sốt và rút lui". Thứ đến, một đoạn không có trong bài đọc năm A, là thủ đoạn của những người thuộc phái Sadducée, "những kẻ không tin có sự sống lại". Bằng câu chuyện tưởng tượng về một người đàn bà với bảy đời chồng, họ nắm chắc phen này sẽ giễu cợt được Đức Giêsu và niềm tin vào sự sống lại. Nhưng Đức Giêsu bắt họ phải quay về với mặc khải của Thiên Chúa trong câu chuyện bụi gai bốc lửa trong sách Xuất Hành, chương 3: Người là Đấng tự xưng mình là "Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacob, không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là Thiên Chúa của người sống.
Nghe tin Đức Giêsu đã "khoá miệng những người Sadducée", các ông Biệt Phái lại tấn công Chúa. Lần này họ kéo đến cả nhóm: Thưa Thầy-một người trong bọn họ, một tiến sĩ luật, lên tiếng vạn hỏi Chúa- điều răn nào là điều quan trọng nhất. ("Đức Giêsu đã trả lời bằng cách liên kết chặt chẽ hai giới luật mến Chúa và yêu người. Người kết luật: "Tất cả sách Thánh, gồng Lề luật là các Ngôn sứ, đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy. Các đối thủ của Chúa, sau khi đã ê chề với kết cục của ba cuộc tranh luận, không còn dám hạch hỏi Chúa điều gì nữa". Đức Giêsu đã lật ngược thế cờ, chính những kẻ giăng bẫy để kết tội Chúa nay lại bị Người vạch tội. Người không hề có ý xem thường quyền bính của những bậc "ngự toà Môsê" và nắm giữ nhiệm vụ giải thích lề luật, nhưng chỉ muốn vạch trần cho họ thấy sự bất nhất giữa cái nói (giáo huấn) và cái làm của họ: "Họ chỉ biết nói mà không làm". Lợi dụng quyền giải thích Luật của Môsê, họ chất trên vai kẻ khác những gánh nặng mà bản thân họ không hề đụng vào. Hoàn toàn trái ngược với Đức Giêsu, người "chu toàn" Lề Luật, nhưng lại tỏ ra dịu dàng, ân cần đối với những ai phải mang gánh nặng nề (Mt 11,28-30). Cho mình là mẫu mực của thiên hạ - có thể họ chân thành nghĩ thế - "họ luôn làm mọi việc tốt để cho mọi người thấy". Họ lo tô điểm cái vỏ bên ngoài - vỏ đạo đức vỏ địa vị xã hội- hơn là làm sao để lời nói và việc làm của mình đi đôi với nhau.
"Hộp kinh": Đó là những túi da đựng những đoạn Kinh Thánh mà mọi người Do Thái đạo đtíc thời đó cũng như nay thường mang trên cánh tay trái và trên trán của mình mỗi lần cầu nguyện. Vì sợ người ta thấy không rỏ, nên họ đã nới những hộp kinh này ra quá khổ. "Tua áo”: Đó là những chùm len may ở bốn góc của áo ngoài mà những người Do Thái ngoan đạo thời đó cùng như Đức Giêsu, đã mang và ngày nay cũng thế, để thường xuyên nhớ đến các giới răn của Chúa. Những tua áo ấy cũng có kích thước quá phô trương. Danh vọng, địa vị là những thứ họ đặc biệt thèm khát: Họ háu ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, và được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng là được thiên hạ gọi là ráp bi.
2. Để phục vụ theo gương Đức Giêsu:
Khi viết Phúc âm, vị thánh sử muốn kể lại những câu chuyện về Đức Giêsu, bằng cách thời sự hoá chúng lại cho các cộng đoàn Kitô hữu hôm nay đang sống trong những năm 80. Những cộng đoàn ấy đang gặp chống đối và bách hại từ phía hội đường Do thái, những cộng đoàn ấy đang có nguy cơ bị lay nhiễm virút Biệt phái, và một số người có trách nhiệm trong đó đang mở ra cho thấy một thứ tinh thần kẻ cả rỗng tuếch. Thánh Matthêu cũng thế, sau khi đã gom góp những lời của Đức Giêsu nói với các luật sĩ và biệt phái giả hình, ông liền thuật lại những điều Chúa dạy nhằm xác định đâu là những nét đặc thù của việc thi hành quyền bính trong cộng đoàn "các môn đệ" của người. Đó là:
Tình huynh đệ: "Tất cả anh em đều là anh em với nhau”. “Anh em" là từ thông dụng nhất xuyên suốt cả Tân ước, để gọi thành viên của cộng đoàn Kitô hữu, nghĩa là của gia đình Hội Thánh. Do đó phải dứt khoát loại trừ tính kẻ cả, tinh thần tự mãn, làm cho những ai đang thi hành một tác vụ hay một chức năng trong Hội Thánh quên đi họ cũng chỉ là một người anh em giữa các anh em của mình. Lòng đơn sơ: "Anh em chỉ có một Vị Thầy là Đức Kitô anh em chỉ có một Cha, Đấng đang ngự trên trời”? những danh xưng mà người ta có thể dành cho những vị có trách nhiệm trong cộng đoàn Hội Thánh, không bao giờ được phép che khuất tính cách là con một Cha duy nhất mà người Kitô hữu tuyên xưng, tư cách của các vị lãnh đạo trong Hội Thánh bắt buộc phải là một hiện diện phục vụ, và hoàn toàn là một phản ánh trong suốt về Đấng Duy Nhất (Assemblées du Seigneur, số 62, trang 31). Tinh thần phục vụ: Người lớn nhất trong anh em, phải là người phục vụ. Mọi chức vụ trong Hội Thánh từ nay đều phải được thi hành theo gương Đức Giêsu là Thầy và là Chúa, nhưng lại "hạ mình xuống" và làm đầy tớ phục vụ các anh em của Người (cf. Rửa chân các môn đệ)
BÀI ĐỌC THÊM:
1. “Một trách nhiệm phục vụ”. (L. Daloz, trong "Le règne de Dieu s'est approché", Centurion, trang 315).
Đức Giêsu khiển trách những người Luật sĩ và Biệt phái vì họ tự cho mình hơn kẻ khác, và muốn tỏ mình ra hơn kẻ khác: họ nới rộng hộp kinh, nối dài tua áo, nghĩa là họ muốn những thứ đó của họ phải nổi bật hơn của người... Họ muốn khoe mình đạo đức, sốt sắng với Chúa và với lề Luật hơn; Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, thích được người ta chào hỏi giữa nơi công cộng và được thiên hạ gọi là "ráp bi"... Lời mô tả của Đức Giêsu thật rõ ràng, dễ sợ, không bỏ qua điều gì. Ngược lại, chúng ta hãy nghe những gì Người căn dặn các môn đệ: đừng đễ ai gọi mình là "ráp bi", đừng gọi ai dưới đất là cha, đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo. Ở đây cũng thế: tất cả đều rõ ràng! Dĩ nhiên chúng ta không nên hiểu theo nghĩa sát mặt chữ: nếu như thế lại phải thêm dài dài không biết bao nhiêu danh xưng khác nữa mới đủ! Tuy vậy, điều rất quan trọng các môn đệ của Đức Giêsu không bao giờ được quên, là đừng để mối tương quan giữa họ với nhau rập khuôn theo kiểu tương quan của xã hội họ đang sống. Cách con người liên hệ với Thiên Chúa luôn ảnh hưởng tới tính chất của mối liên hệ giữa người với nhau. Nó cho thấy rằng mọi địa vị của con người, mọi chức vụ trong xã hội và cả trong gia đình, mọi trách nhiệm... đều phải ở trong thế hệ thuộc với một Đấng vừa là Tạo Hoá vừa là Cha của mọi người. Và không một thứ quyền bính nào có giá trị nếu không qui chiều về người: Thử hỏi nhân danh cái gì một con người tư cho mình ở bên trên một con người khác, cũng mang hình ảnh Thiên Chúa như mình, đòi kẻ đó phải phục vụ và vâng lời mình? Bởi chỉ có một Thầy, một Cha, và một Người Cha Đạo duy nhất! Và do việc chúng ta chỉ có Thiên Chúa là Cha, nên tất cả loài người chúng ta đều bình đẳng như nhau trong cùng một nhà: "Tất cả anh em đều là anh em với nhau!”. Quyền bính, chức cả, đều chỉ là những trách nhiệm phục vụ. Chỉ trong phục vụ, chúng mới có lý do tồn tại: "Kẻ làm lớn trong anh em sẽ là người phục vụ. Chúng ta có thể là những danh hiệu của tình yêu; là ánh phản chiếu chính uy quyền và sự cao cả của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã cho thấy rõ điều đó khi Người hạ mình xuống làm người đầy tớ đau khổ và vâng phục. Mẫu gương đó của Chúa đã từ nay trở nên quy luật cho mối tương quan giữa các môn đệ với nhau: "Ai treo mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên”.
2. “Ở bên các gia đình đang gặp tang chế: một sứ mạng của Hội Thánh, một phục vụ huynh đệ” (do một nhóm thành viên cộng tác thuộc giáo phận về mục vụ bí tích và phụng vụ của vùng truyền giáo phía Tây, trong "Vers la lumière" (CRER, Angers).
"Ai có trách nhiệm?"
"Tất cả mọi người thuộc cộng đoàn Dân Chúa đều phải ý thức trách nhiệm của mình trong việc cử hành an táng. Tất cả không cùng một danh nghĩa như nhau, nhưng mỗi người có phần mình tuỳ hoàn cảnh và tuỳ chức vụ của mình (...). Cả cộng đoàn nói chung cũng có vai trò của nó. Cả cộng đoàn được mời gọi làm chứng về niềm hy vọng và niềm tin của mình vào sự phục sinh. Vấn đề không phải là tìm cách đưa người giáo dân thế chỗ của linh mục, nhưng làm sao để họ hợp tác vào việc trình bày một Hội Thánh tôi tớ.
1. Hai thái độ phải có: Một hiện diện huynh đệ: Khi có người qua đời trong khu xóm, trường học, thôn làng, nhà máy... của mình, chẳng lẽ người Kitô hữu chúng ta không biết đến hiện diện, một cách thực tế, và đầy kính trọng sao? Mối liên hệ đơn sơ giữa người với người, sự quan tâm chân thành đến người khác, có khả năng làm dịu đi nỗi đau thương của cái chết. Đến đó, hiện diện và thinh lặng bên những con người đang đau khổ. Lắng nghe tiếng thở than, mỗi tức tươi sự câm nín của họ. Đây không phải là lúc để diễn thuyết hay dạy đời, nhưng là cơ hội để hiệp thông và đồng cảm, theo nghĩa trọn vẹn của nó.
2. Một chứng tá: Sự hiện diện như thế sẽ làm sáng tỏ giá trị của mọi cuộc sống, và làm chứng về sự trân trọng của Hội Thánh đối với tất cả những gì làm nên lịch sử của một đời người.
Những vai trò khác nhau: Tình trạng giảm sút số linh mục, sự nhìn nhận chỗ đứng của những người dã chịu phép thanh tẩy, ý thức về tính cộng đoàn trong mục vụ tang lễ, mời gọi mọi phần tử trong cộng đoàn Kitô hữu phải làm tròn nhiều vai trò khác nhau... trước khi cử hành (...) đang lúc cử hành (...) sau cử hành (...) Sự ra đi của một người thân, một người bà con, một người hàng xóm hay một người bạn luôn là một biến cố đau thương. Người Kitô hữu trong cùng khu xóm đó không được phép tỏ ra hờ hững. Công tác mục vụ an táng của Hội Thánh là một yếu tố quan trọng cho việc loan báo Tin Mừng hôm nay. Tham dự vào lễ nghi an táng không phải là chuyện chẳng đặng đừng ở đời, nó là một phần của ơn gọi của những ai đã lãnh nhận phép Thanh Tẩy. Do đó khi ở bên những tang gia trong lúc bối rối, các Kitô hữu đang thi hành sứ mạng của họ: trong Hội Thánh. Có lẽ cần khẩn trương lên một kế hoạch đào tạo và thông tin cho các cộng đoàn Kitô hữu, sao để hình thành được những nhóm phụ trách tang lễ".
57. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
THÓI GIẢ HÌNH VÀ KHOE KHOANG CỦA KÝ LỤC VÀ BIỆT PHÁI
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Khi ấy Chúa Giêsu nói với dân chúng và môn đồ của Người rằng". Trong Tin Mừng Nhất lãm, Chúa Giêsu không ngỏ lời trực tiếp với Biệt phái, nhưng với dân chúng và các môn đồ. Điều này thật quan trọng, nó có nghĩa là Người không tấn công chính giáo thuyết Biệt phái, nhưng đúng ra tự đặt mình làm trung gian giữa dân chúng và thủ lãnh xưa nay của họ để giải phóng dân khỏi ách nặng nề mà tinh thần nệ luật của các thủ lãnh ấy đặt trên vai họ. Chắc hẳn vì chính việc chống đối này hơn là vì những điểm đặc thù trong giáo thuyết mà Chúa Giêsu đã bị đẩy vào chỗ chết; đối với các thủ lãnh của dân, Người chẳng những là một tên tà đạo nguy hiểm hay một tên cuồng phái, như nhóm Essêni, những người rất mực khinh bỉ "dân chúng" hay "đám đông” song còn là một kẻ thù trực tiếp chuyên chống lại toàn thể dân Thiên Chúa. Mt nhấn mạnh đến mối tranh chấp này giữa Biệt phái và Chúa Giêsu, vì ông muốn giải thích cho Kitô hữu biết tại sao Chúa Giêsu bị đẩy đến chỗ chết do chính Biệt phái là những kẻ điều khiển sinh hoạt Hội đường vào thời của Người.
"Ngự tòa Môisen": Không nên hiểu động từ "ngự" theo nghĩa bút chiến, như thể Chúa Giêsu quả quyết rằng các Ký lục và Biệt phái chiếm ngự cách trái phép tòa Môisen. Ngược lại bản văn cho thấy là Chúa Giêsu không hề tấn công chính thế chế giáo sĩ, cũng như những kẻ mà Người tố cáo là ký lục giả hiệu. Người khiển trách một điểm khác. Trong Tân ước, từ ngữ kathodra, theo nghĩa tòa giảng sư, chỉ xuất hiện ở đây mà thôi (trong 21, 12 nó có nghĩa là bàn của những người buôn bán); tòa Môisen là tòa của các giáo sĩ, những người có nhiệm vụ giải thích áp dụng bằng cách khai triển luật Môisen.
"Họ nói mà không làm". Trước tiên (nhưng không phải là lần duy nhất), Chúa Giêsu tố cáo địch thủ Người có thái độ bất nhất: giáo huấn họ có giá trị nhưng chính họ lại không trung thành; hữu hiệu tính của giáo huấn họ, trong văn mạch này, mặc hai khía cạnh: một đàng, các giáo sĩ là những người giảng dạy hữu quyền của dân chúng; đàng khác, mọi điều họ nói chẳng phải là sai. Ở đây chúng ta gặp một thái độ đúng là của Do Thái ki tô giáo, chứ không phải là cửa Do thái giáo; vì quả thực, chỗ khác, Chúa Giêsu tấn công chính "men" nghĩa là chính nội dung giáo thuyết giáo sĩ.
Tiếng số nhiều "hành vi của họ" chỉ tất cả tác phong của Biệt phái, chứ không ám chỉ đến một vài thái độ riêng biệt mà Chúa Giêsu khiển trách; ký lục và Biệt phái chẳng phải là gương mẫu xứng đáng của đoàn chiên. Dĩ nhiên, chớ quên rằng đây là một chân dung tập thể, chứ chẳng phải của một cá nhân nào. Vì có nhiều giáo sĩ giữ luật rất tỉ mỉ. Khi cựu Biệt phái Phaolô tự tuyên bố mình vô phương trách cứ trước Lề luật (Pl 3, 6), thì phải nói là ngài rất chân thành. Ở đây, sự nghịch lý là, một cách chính thức, truyền thống giáo sĩ đã luôn luôn nhạy cảm trước sự quàng xiên Chúa Giêsu tố cáo nơi đây: "Học, giữ và thực hành, ngoài ra không cớ gì khác nữa" (Sifré sur le Dt 47), "Ai học mà không thực hành, thì tốt hơn là nó đừng được sinh ra" (Sifré surle Lv 26, 3, 110), "...Torah đã được ban chính là để học, để dạy, để gìn giữ và để chu toàn" (sifré sur les Nb 115), "...Đẹp thay những lời phát xuất từ miệng những người thực hành chúng, đẹp thay người giảng dạy chúng và đẹp thay kẻ đem chúng ra thực hành" (Yebamot 8,4).
"Họ có những gánh nặng": "Gánh nặng" mà Biệt phái chất lên vai người ta đối nghịch với "gánh nhẹ nhàng" của vị Thầy những người khiêm hạ (11, 30). Biểu tượng "gánh" gợi lên hình ảnh một tên nô lệ bị đè bẹp dưới sức nặng của một đồ vật mà người ta đây cột kỹ trên vai y nhưng lại không giúp y vác lấy Động từ "bó" chắc hẳn quy chiếu, theo nghĩa bóng, về các halakhot mà các giáo sĩ dùng để áp đặt cho dân những trói buộc lương tâm theo cách giải thích Kinh thánh của họ. Dầu sao, ở đây Tin Mừng không quan tâm đến tính cách nghiêm khắc của kỷ luật (Mt không ghét bỏ thứ kỷ luật đó cho lắm, x 23, 23), nhưng là đến thói giả hình cố ý tạo nên hai đấu: một đấu thuận lợi cho mình và một đấu đòi hỏi cho kẻ khác. Không phải sự bất lực hay tính yếu đuối của Biệt phái, nhưng là ý định xấu xa của họ bị tố cáo chỗ này (ou thelousin: họ không muốn); ta biết động từ "muốn" là một tràng những thuật ngữ của Mt.
"Mọi việc của họ, họ đều làm để được người ta thấy": Yếu khoản tố cáo thứ hai: tính cách quy ngã của các hành vi Biệt phái làm. ở đây Mt lấy lại chủ đề và ngay cả ngữ vựng của phần thứ hai trong Diễn từ trên núi (6, 1-6. 16- 18). Như thường lệ, ý tưởng chính trước tiên được phát biểu (c. 5a) rồi được khai triển trong một vài thí dụ (c.5b-7).
"Thủ phù": Đây là những hộp nhỏ hình vuông bằng da thuộc hoặc da bò con đựng những giải da dê mịn trên đó ghi 4 bản văn Kinh Thánh: Đnl 11, 13- 22; 6, 4- 9; Xh 13, 11 - 16; Xh 13, 2- 10. Thủ phù mặc một ý nghĩa tôn giáo rất cao nếu ta biết lý tưởng mà nó làm dấu hiệu: ghi nhớ không ngừng kỷ niệm của Lề luật Thiên Chúa và lời cam kết tuân theo luật đó. Từ năm 13 tuổi, trẻ em Do thái mang một thủ phù trên đầu và một ở tay trái vào buổi sáng những ngày thường, lúc giờ cầu nguyện, và đọc lên lời chúc tụng sau đây: "Lạy Giavê Thiên Chúa Vua vũ hoàn, chúc tụng Ngài đã thánh hóa chúng con bằng huấn lệnh Ngài và đã truyền cho chúng con mang lấy thủ phù đây". Bản văn chúng ta ám chỉ đến một thói quen của những người Do thái quá sùng đạo mang thủ phù cả ngày và nới rộng các giải kinh để dễ bề trông thấy. Chúa Giêsu không khiển trách việc các giáo sĩ mang thủ phù, nhưng khiển trách việc họ muốn lấy đó phô trương. Cũng thế đối với các tua áo, một thứ chùm lông (bằng len hay lụa) mà, theo quy định của Lề luật (Ds 15, 37- 39) mọi người Israel tốt đều phải mang ở bốn góc áo ngoài, như một lời nhắc nhở thường xuyên các giới răn, phải đem ra thực hành mà Chúa đã dạy. Biệt phái đã làm to đại các tua ấy vì muốn phô trương ta đây đạo đức.
"Chỗ nhất nơi hội đường": Các chỗ nhất này xây lưng lại với tráp Lề luật và quảy mặt về phía dân chúng.
"Cùng bái chào ngoài công trường": Theo quy luật của giáo sĩ, "người ta phải bái chào kẻ trối vượt hơn mình trong việc hiểu biết Lề luật"; thành thử, ưa được bái chào là ưa được công nhận như là trối vượt kẻ khác.
“Rabbi": Hạn từ hy bá Rab (lớn), vào thời Chúa Giêsu, có nghĩa là "chúa"; người ta thường thêm một tiếp vị ngữ của ngôi thứ nhất: Rabbi (“chúa tôi"). Với thói quen, tiếp vị ngữ này dần dần mất ý nghĩa. Hình như vào hậu bán thế kỷ I, lúc Mt biên soạn Tin Mừng của ông, tiếng "rabbi " này được dùng để chỉ một chức vụ tương đương với chứ("tiến sĩ") và,'trong nghĩa đó, dùng để gọi các thầy dạy tôn giáo và các chuyên viên lừng danh nhất về Lề luật.
"Còn các ngươi": Đối xứng với ba thái độ kiêu căng vừa nêu là ba mệnh lệnh truyền dạy đức đơn sơ cho một nhóm người được chỉ định 8 lần (trong bản hy lạp) bằng đại danh từ "các ngươi". Chắc hẳn tiếng này không quy về dân chúng nói chung, nhưng về các môn đồ (x.c. 1) và qua họ, quy về những người hướng dẫn các cộng đoàn Kitô giáo. Qua cung giọng và lời văn, mấy câu này bổ túc cho "bảng hướng dẫn về đời sống tu đức và mục vụ" của chương 18. Trọng tâm của chúng không nằm trên việc cấm chế mọi phẩm trật trong Giáo Hội, nhưng trên các động từ "chớ cho gọi mình, đừng xưng hô ai "; chúng muốn tấn công chính lòng kính trọng đức giáo sĩ (rabbinat). Trong ngôn ngữ sêmita, "được gọi" thường tương đương với "là Do đấy câu 8 muốn bảo: các người đừng muốn là thầy (x Gc 3, 1), đừng tự đặt mình làm thầy giữa các ngươi, vì "thảy của các ngươi chỉ có một". Nếu lưu ý đến tính cách song đối của c. 10 và văn mạch chung của Tân ước (x.Ga 13, 13-14), thì Thầy duy nhất đó không ai khác hơn là Chúa Kitô.
"Đừng xưng hô ai dưới đất là "cha": Mệnh lệnh này xem ra phản đối thói quen gán cho một vài vị hướng dẫn cộng đoàn tước hiệu Abba cùng trong một ý nghĩa danh dự và xã hội như tước hiệu Rabbi. Rõ ràng là nó không nhắm đến người cha gia đình theo nghĩa đen (x. Mt l5,4-6; 19,19): Mệnh lệnh lại càng không chống đối cái truyền thống kỳ cựu -có nơi mọi dân tộc và trong Thánh Kinh- theo đó giữa thầy và trò phải thiết lập một mối liên hệ tương tự mối liên hệ giữa cha và con, khiến họ thường gọi nhau là "cha" và "con" (x. 2V2,12; Cn 4,1; 1Cr 4, 14-17; Gl 4,19; 2Tm 1,2; Tt 1,4; 1Pr 5,13; 1 Ga 2, 1.12). Chẳng hạn như trong các tiến sĩ Israel của 4 thế kỷ đầu hơn 50 vị được mang tước hiệu "Abba". Vì vậy trong các thể chế Kitô giáo, người ta cũng dùng khá nhiều tước hiệu "cha" dưới mọi hình thức (ví dụ: viện phụ, abbé; Đức Thánh Cha, Pape v.v...) theo nghĩa linh tông ấy. Đấy chẳng phải là đi ngược lại Tin Mừng, vì cái quan trọng là tinh thần chứ không phải chữ viết. Nên lưu ý là ở đây cũng vậy, các câu không nhấn mạnh đến sự phủ nhận mọi quyền bính trong Giáo Hội cho bằng là đến mối nguy tạo nên do những "đại nhân vật" chiếm hết danh dự dành cho Thiên Chúa và Chúa Kitô.
Ở giữa ba lời khuyến cáo chống Biệt Phái, lý do của chúng được lặp lại ba lần: Chỉ có một... thầy, cha, chỉ đạo). Chiếu theo nguyên tắc ấy, nhân cách của những người lãnh đạo Giáo Hội vừa bị hạ xuống vừa được đề cao: nhân cách đó phải nói lên sự hiện diện của Đấng duy nhất và đồng thời là tấm màn trong suốt không ngăn che Ngài. Cũng thế đối với vị Mục tử duy nhất (Ga), vị Thượng tế duy nhất (Dt). Kitô hữu chỉ xem một con người như thầy, như cha, như thủ lã nh, thư mục tử, như linh mục... trong mức độ con người ấy tham dự vào tư cách của vị Thầy, Cha, Thủ lãnh, Mục tử, Linh mục đích thực.
"Kẻ nào tự hạ mình xuống sẽ được nhắc lên": ý tưởng hạ mình cần phải được giải thích theo ý tưởng phục vụ ở câu trước, vì đây không phải là chuyện tự nhiên ưa thích xóa mình, hay anh hùng phủ nhận bản thân hoặc khiêm nhường đến làm cho mình lụi bại. Theo nghĩa của Tin Mừng, không ai hoạt động và sung sướng vì được hoạt động hơn kẻ phục vụ hết mình. Thì tương lai của 5 động từ vừa có tính cách truyền lệnh (c. 11) vừa có tính cách cánh chung (c. 12): các ngươi phải làm điều đó và Thiên Chúa sẽ trả lại cho các người vào ngày Chung thẩm ("bị hạ xuống" và "được nhắc lên" là những thể thụ động diễn tả hành động của Thiên Chúa). Thành thử các động từ này không mô tả một định luật tâm lý hay xã hội tự nhiên cho rằng định mệnh con người có thể thay đổi.
KẾT LUẬN
Óc tham vọng, tính háo danh nói lên cái tinh thần thống trị của một quyền bính đã tách khỏi nguồn gốc của mình, đã chiếm đoạt những quyền lợi chỉ thuộc về một mình Thiên Chúa. Khi vạch trần các tính xấu của Hội đường, Chúa Giêsu muốn đề phòng Giáo hội Người cho khỏi nhiễm lây chúng, vì tính cách chính thống, vô hồn, tinh thần câu nệ hình thức, óc giáo sĩ trị bao giờ cũng vẫn là những cám dỗ lớn cho Giáo Hội; Giáo Hội chỉ có thể thoát khỏi chúng khi luôn nhớ rằng mình chỉ là "nữ tỳ của Chúa" (Lc 1, 38), tuân phục một mình vị Chúa độc nhất ấy mà thôi, Đấng không chấp nhận một chia sẻ nào (Mt 6, 24); uy quyền đích thực của Giáo Hội chỉ có khi Giáo Hội biết hạ mình theo gương Chúa Kitô. Đấng vốn là lớn hơn cả nhưng đã hóa thành kẻ bé nhất, là người đầu song đã tự: trở nên kẻ rốt hết, là Thầy và là Chúa nhưng đã trở thành kẻ phục vụ mọi người (Mt 20, 26-27; Lc 22, 24-30; Ga 13, 13-16).
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Chúng ta cảm thấy gì khi nghe lời Chúa Giêsu chỉ trích Biệt phái? Phải chăng là thỏa mãn vì nghĩ rằng nó nhắm đúng vào những Biệt phái đời nay mà chúng ta biết rõ? Nhưng đấy không phải là dấu chỉ của một lòng kiêu hãnh nào đó sao, lòng kiêu hãnh muốn quả quyết rằng nhờ ơn Chúa, tôi không thuộc hạng người như vậy? Nếu chúng ta ra khỏi nhà thờ mà trong lòng tự khen mình không phải là Biệt phái, thì đó thật là một dấu hiệu chẳng mấy tốt lành. Môn đồ đích thực của Chúa Giêsu, kẻ biết lòng mình rất yếu đuối và dễ buông theo đàng tội lỗi thì bao giờ cũng hiểu rằng mình đang mang trong người mọi gốc rễ của Biệt phái, hiểu rằng bổn phận đầu tiên của mình là tự tra vấn hơn là tự hỏi ai là Biệt phái trong xứ đạo.
2. Chúng ta cũng vậy, mỗi người tùy theo vai trò xã hội, tuổi tác phái tính, kiến thức, chúng ta đã chẳng từng đòi hỏi một lòng kính trọng nào đó, một sự tán thành công khai, hay hơn nữa, một sự vâng phục và tùng quyền nào đó sao? Thanh danh và tăm tiếng là một điều tốt, nhưng nỗi lắng lo quá độ về tiếng tăm là một chuyện không hay gì. Sự đòi hỏi lòng vâng phục từ phía cha mẹ là một điều tốt khi nó phát xuất từ tinh thần hiền lành và bác ái, nhưng lại trở nên xấu và hoàn toàn có tính cách biệt phái lúc chỉ là một cái cớ để tỏ uy quyền và áp đặt ách thống trị.
3. Khi phê phán và khinh bỉ tha nhân bằng cách đòi hỏi họ phải có một thái độ khác, chúng ta đã đặt một gánh nặng trên vai họ và đồng thời tránh đặt lại vấn đề chính mình rồi. Thật ra, chúng ta có thể nhận ra chính mình trong chân dung Chúa Giêsu mô tả về Biệt phái.
4. Phẩm trật của Nước Trời không ở trong kiến thức cũng chẳng nằm trong khả năng chuyên môn hay trong việc điều khiển, nhưng là trong việc phục vụ. Trong Nước Trời, không ai là chủ, chẳng ai có quyền thống trị kẻ khác, tất cả chúng ta đều là anh em. Ngay cả việc hành xử uy quyền, cho dù thuộc phạm vi dân sự hay tôn giáo, cũng chỉ là một hình thức phục vụ. Ngay cả Đức Giáo Hoàng cũng tự gọi là "tôi tớ của các tôi tớ Thiên Chúa".
5. “Kẻ lớn nhất sẽ là người phục vụ", Chúa Giêsu đã nói thế. Rõ ràng đấy là vấn đề tập luyện một đức khiêm nhường nào đó. Tiếng “sẽ là" chỉ rõ đây là tình trạng mà chúng ta phải đạt cho được chứ chẳng phải là tình trạng tự nhiên. Thành thử chúng ta không thể nào không chống lại cơn cám dỗ muốn thống trị, muốn đè bẹp tha nhân, chống lại cơn cám dỗ muốn tỏ ra mình quan trọng mà làm thiệt hại cho kẻ khác. Tuy nhiên đức khiêm nhường trong phục vụ không phải là việc dẹp bỏ những khả năng tự nhiên hay là sự từ chổi hoạt động và phát triển, nhưng là một thứ tâm trạng, một niềm xác tín rằng mình chỉ là một dụng cụ mà ước muốn duy nhất là trở nên ngoan ngoãn trước sự thúc đẩy của Thánh Thần.
6. Có một tiêu chuẩn cho phép ta nhận biết mình có trung thành với những lời khuyên nhủ khiêm nhường mà Chúa Giêsu vừa ban cho ta không? "Vậy mọi điều họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm theo và giữ lấy" hay nói cách khác: "Các ngươi hãy có đủ lòng đói khát sự thật và công chính để phân biệt điều thiện bất cứ đèn từ đâu". Một Kitô hữu thật sự khiêm nhượng không bao giờ từ chối lời lành của một người nào đó, lấy cớ rằng kẻ ấy chẳng sống phù hợp với lời họ bảo, rằng họ giả hình hay khoe khoang. Vì Chúa có thể dùng họ để làm cho chúng ta tốt hơn.
58. Linh mục là Cha
(Viết theo “Bạn muốn biết”, Radio Veritas – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Chúa Giêsu khẳng định trong Tin Mừng hôm nay: “Đừng gọi ai dưới đất là Cha vì các ngươi chỉ có một Cha trên trời”. (Mt 23,11-12). Người ta thường dựa vào câu Thánh Kinh này để biện hộ cho quan điểm không gọi Linh mục là Cha. Vậy phải hiểu câu nói Chúa Giêsu như thế nào?
1. Tại sao gọi Linh mục là Cha? Thói quen ấy có từ lúc nào trong Giáo hội? Đâu là nền tảng của cách gọi này?
“Cha” theo định nghĩa, là một người đàn ông có một hay nhiều con. Một cách nào đó, Cha là người mang lại sự sống cho con. Do đó, bất cứ ai mang lại sự sống cho người khác, bằng cách này hay cách khác, cũng đều có thể được gọi là Cha. Người ta cũng gọi một ai đó là Cha Già Dân Tộc khi người này đã hy sinh đấu tranh mang lại độc lập cho tổ quốc. Danh từ Cha ở đây được hiểu theo nghĩa loại suy. Chúng ta gọi Cha những người đàn ông nào đó có đặc tính của người Cha. Cũng như khi chúng ta chào hỏi một người là ông bà, chú bác, thì không nhất thiết người đó phải có một liên hệ họ hàng với chúng ta. Danh xưng Cha được gán cho Linh mục cũng được hiểu theo nghĩa ấy.
Cách gọi này không phải là điều mới mẻ, ngay từ đầu lịch sử Giáo hội, các Giám mục được gọi là Cha, rồi dần dà người ta áp dụng cách gọi ấy cho các Linh mục.
Lý do gọi Linh mục là Cha thật đơn sơ và tự nhiên: Linh mục là thừa tác viên các bí tích. Ngài nhân danh Chúa Kitô và Giáo hội để ban bí tích và sự sống ơn thánh.Qua lời dạy bảo, một cách nào đó, Linh mục cũng nuôi dưỡng người Kitô hữu trong đời sống thiêng liêng. Do đó Linh mục đóng vai trò người Cha đối với các tín hữu.
Công đồng Vaticanô II, trong sắc lệnh về sứ vụ và đời sống Linh mục, đã nói về tương quan giữa Linh mục và giáo dân: Do bí tích thánh chức, các Linh mục Tân ước thi hành nhiệm vụ cao cả và cần thiết, đó là Cha và Thầy trong dân Chúa và cho dân Chúa.
2. Gọi Linh mục là Cha phải chăng đi ngược lại Tin mừng vì Đức Giêsu đã nói: đừng gọi ai dưới đất là Cha vì các ngươi chỉ có một Cha, Đấng ngự trên trời. Phải hiểu câu nói này như thế nào?
Vào thời Cải cách, người Tin Lành đã dựa vào câu nói này để bãi bỏ cách gọi Linh mục là Cha. Chúng ta phải hiểu đúng nghĩa câu nói của Đức Giêsu. Đặt câu nói này trong văn mạch của đoạn Tin mừng.
Đức Giêsu đang tranh luận với nhóm Pharisiêu,Luật sĩ. Ngài khiển trách họ giả hình, nói mà không làm, họ thích thống trị, họ bó những gánh nặng chất lên vai người khác, còn họ không nhúng tay vào, họ thích khoe khoang làm mọi việc cho người ta thấy, họ hám danh muốn ngồi chỗ nhất nơi công cộng và muốn người khác tỏ lòng kính trọng qua những danh xưng thầy, cha, người chỉ đạo. Qua đó, Đức Giêsu đưa ra một quan điểm mới cho các môn đệ: trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em.
Đức Giêsu không cấm chúng ta gọi Cha đẻ của mình là Cha hoặc gọi bất cứ ai dạy dỗ chúng ta là Thầy. Hẳn Ngài đã từng gọi Thánh Giuse là Cha và những người dạy mình là Thầy. Do đó, không nên hiểu câu nói ấy theo từng chữ. Người Do thái thường dùng kiểu nói phóng đại. Chúa Giêsu dùng kiểu nói này khi bảo rằng: Nếu tay con gây vấp ngã, hãy chặt nó đi. Nếu mắt con làm cớ cho con vấp phạm, hãy móc mắt đi để được vào Nước trời. Chính Thánh Phaolô, người hiểu sâu xa Lời Chúa, thế mà ngài tự xưng mình là Cha các tín hữu, ngài cũng gọi Timôthêô là con yêu dấu.
Khi Đức Giêsu nói: “Đừng gọi ai trên mặt đất này là cha, vì ngươi chỉ có một Cha trên trời”, Ngài không phủ nhận chúng ta có những người cha người mẹ mà Thiên Chúa đòi buộc chúng ta phải kính trọng (x. Mt 15,4). Ngài muốn dạy rằng tình phụ tử nhân loại chỉ là một sự chia sẻ tư cách cha của Chúa Cha Tối Cao là Đấng Tạo Thành, một Người Cha hoàn hảo.
Đức Giêsu vừa đề cao tính cách là Cha của Thiên Chúa, vừa xác định tính cách chỉ đạo của Ngài, đồng thời Ngài cũng đả phá sự kiêu hãnh của một số nhà lãnh đạo Do thái giáo thời đó, họ ưa thích được người ta gọi là Cha, là Thầy.
3. Có buộc phải gọi Linh mục là Cha không?
Về cách xưng hô, dường như không có một luật nào buộc. Gọi Linh mục là Cha hay không, đó là vấn đề của tình cảm và niềm tin. Gọi Linh mục là Cha hay không, điều đó không quan trọng cho bằng có ác ý trong cách cư xử với Linh mục hay không. Sự thiếu lễ độ, lịch sự tối thiểu đối với một người lãnh đạo, dù chỉ là lãnh đạo một cộng đoàn nhỏ, không chỉ là một xúc phạm đến Linh mục, mà còn có thể xúc phạm đến chính tình cảm tôn giáo của người tín hưũ nữa.
Chúng ta quen gọi các linh mục là cha. Tuy nhiên, đó không phải là danh xưng mang tính ẩn dụ hay màu sắc thi ca. Tư cách cha của linh mục là thật vì là sự tham dự vào tư cách Cha thần linh (x. 1 Cr 4,15; Ep 3,15). Vì thế, tư cách cha của linh mục được thiết lập bởi tư cách làm Cha của Chúa Cha trên trời mang tính tổng thể, hoàn tất việc tự hiến.
Với tư cách là cha, linh mục thực hành như lời thánh Phaolô đã dạy Titô: "Phần anh, hãy dạy những gì phù hợp với giáo lý lành mạnh. Hãy khuyên các cụ ông phải tiết độ, đàng hoàng, chừng mực, vững mạnh trong đức tin, đức mến và đức nhẫn nại. Các cụ bà cũng vậy, phải ăn ở sao cho xứng là người thánh, không nói xấu, không rượu chè say sưa, nhưng biết dạy bảo điều lành. Đó là những điều anh phải nói, phải khuyên, phải sửa dạy với tất cả uy quyền. Chớ gì đừng có ai coi thường anh" (Ti 2,1-3.15).
Đức Giêsu đã dạy bài học quan trọng nhất cho các linh mục, lãnh đạo là để phục vụ. Vào Bữa Ăn Tối, sau khi rửa chân cho Nhóm Mười Hai, Ngài nói: “Anh em gọi Thầy là “Thầy” và là “Chúa”, điều đó phải lắm. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em”. (Ga 13,13-15).
31/10 Khiêm tốn hạ mình
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Khiêm tốn hạ mình.
Thứ Bảy tuần 30 thường niên.
"Hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên".
Lời Chúa: Lc 14, 1. 7-11
Khi ấy, Chúa Giêsu vào nhà một thủ lãnh các người biệt phái để dùng bữa, và họ dò xét Người. Người nhận thấy cách những kẻ được mời chọn chỗ nhất, nên nói với họ dụ ngôn này rằng:
"Khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: "Xin ông nhường chỗ cho người này", bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết. Nhưng khi ngươi được mời, hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết, để khi người mời ngươi đến nói với ngươi rằng: "Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên", bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc. "Vì hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Ngồi chỗ cuối
Suy niệm:
Khi thấy các khách dự tiệc có khuynh hướng chọn ngồi chỗ nhất,
Đức Giêsu đưa ra một lời khuyên đối với họ (cc. 8-10).
Mới nghe những lời khuyên này,
ta có cảm tưởng đây chỉ là những lời dạy cách ứng xử khôn khéo.
Nên chọn ngồi chỗ cuối,
vì nếu chủ tiệc sắp xếp lại chỗ ngồi theo thứ bậc,
bạn có cơ hội được mời lên chỗ trên.
Thà ngồi dưới rồi được đưa lên, còn hơn ngồi trên mà bị kéo xuống.
Như thế ngồi chỗ cuối rốt cuộc chỉ là một giả vờ,
để che dấu tham vọng muốn được ngồi lên trên.
Ngồi chỗ cuối chỉ là để tránh một xấu hổ, sỉ nhục,
và nhắm đến một vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn (cc. 9-10).
Đức Giêsu có ý khuyên dạy người ta như thế không?
Chắc là không.
Qua dụ ngôn đơn sơ và có thể gây hiểu lầm trên đây (c. 7),
Đức Giêsu muốn nói với khách dự tiệc một điều quan trọng hơn nhiều.
Bài ca Magnificat đã nói đến một sự đảo ngược lớn lao sẽ xảy ra:
Chúa dẹp tan kẻ kiêu căng, hạ bệ người quyền thế, đuổi kẻ giàu sang,
nhưng nâng cao kẻ khiêm nhường, ban dư đầy cho người đói (1, 51-53).
Các Mối Phúc cho và Khốn cho cũng nói lên sự đảo ngược này.
Phúc cho người nghèo, người đói, người khóc than.
Khốn cho người giàu, người no, người được ca tụng (6, 20-26).
Dụ ngôn Ladarô và ông nhà giàu là một minh họa về điều đó (16, 19-31).
Trong câu cuối của bài Tin Mừng hôm nay,
Đức Giêsu cũng nói lên sự đảo ngược ấy khi Nước Thiên Chúa đến.
“Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống.
Còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (c. 11).
Bị hạ xuống trong bữa tiệc, thật là điều hổ nhục.
Nhưng bị Thiên Chúa hạ xuống trong ngày sau hết thì kinh khủng hơn nhiều.
Nỗi hổ nhục sẽ muôn đời còn mãi.
Để thực hành lời khuyên của Đức Giêsu cho đúng đắn,
thánh Basiliô cho ta một soi sáng như sau:
“Chúng ta phải để cho chủ tiệc lo chuyện xếp chỗ các khách mời.
Như thế chúng ta mới nâng đỡ lẫn nhau trong nhẫn nhục và bác ái,
đối xử với nhau trong sự kính trọng,
xa tránh mọi tìm kiếm hư danh và khoe khoang.
Chúng ta không giả vờ khiêm tốn.
Bởi lẽ thích tranh chấp và cãi vã là dấu hiệu kiêu ngạo
còn lớn hơn chuyện ngồi ghế đầu khi phải ngồi chỉ vì vâng phục.”
Kitô hữu vẫn phải đối diện với cám dỗ của tham vọng và quyền uy.
Ngấm ngầm hay lộ liễu, những tranh giành ảnh hưởng vẫn xảy ra.
Trong lòng, ai cũng nghĩ mình xứng đáng hơn người khác.
Thèm muốn vinh dự, chức tước, đã gây bao chia rẽ trong Giáo Hội.
Chỉ mong tôi thực sự hạ mình trước anh em tôi.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, vì con bé nhỏ,
nên xin yêu ngài bằng khả năng bé nhỏ của con.
Cho con biết yêu
những công việc bé nhỏ mỗi ngày,
những công việc âm thầm,
những bổn phận mà con làm vì yêu mến.
Cho con biết yêu những hy sinh bé nhỏ mỗi ngày,
vui lòng đón nhận những thánh giá tuy nhỏ,
nhưng làm tim con đau đớn.
Cho con biết yêu tinh thần bé nhỏ của trẻ thơ,
đơn sơ thú nhận mình yếu đuối và bất lực,
sung sướng nương tựa vào duy một mình Chúa.
Hơn nữa, xin cho con can đảm,
dám chọn những gì giúp con trở nên bé nhỏ hơn,
nhờ đó con vui tươi phục vụ mọi người
và hạnh phúc khi thấy Chúa lớn lên trong con.
Mỗi lần bị cám dỗ tự cao,
xin cho con biết ngắm nhìn con đường Chúa đã đi,
con đường bé nhỏ và khiêm hạ.
Ước gì con được làm bạn của Chúa
trên đường từ Bêlem đến Núi Sọ,
và được ở bên Chúa trong Nước Trời. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: NÂNG LÊN – HẠ XUỐNG
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Bữa tiệc bộc lộ những khuynh hướng của xã hội. Rõ nét là khuynh hướng thể hiện đẳng cấp. Đẳng cấp của chủ tiệc. Đẳng cấp của khách mời. Thế gian kiêu ngạo. Ai cũng muốn thể hiện mình. Nhưng chỗ ngồi có hạn. Quyền định đoạt là do gia chủ.
Chúa dùng hình ảnh bữa tiệc để nói về Nước Trời. Vị thế trong Nước Trời do Chúa quyết định. Theo những tiêu chí ngược hẳn với trần gian. Cũng như bữa tiệc trần gian, bữa tiệc Nước Trời cũng thể hiện cuộc chiến. Trần gian thể hiện mình bằng đấu tranh với người khác. Nước Trời thể hiện bằng đấu tranh với chính mình. Đấu tranh với người khác để chiến thắng. Thắng về tiền tài, danh vọng, chức quyền. Đấu tranh với chính mình để thắng chính mình. Thắng bằng hạ mình, quên mình, huỷ mình. Chủ tiệc trần gian căn cứ vào tiền tài, địa vị, chức quyền mà xếp chỗ. Chúa căn cứ vào việc chiến thắng chính mình. Và theo tiêu chí: “Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống. Còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Thư Rô-ma cho biết giáo huấn của Chúa ứng với dân Ít-ra-en. Họ tự tôn vì là dân tộc được Chúa chọn. Nhưng vì tự tôn nên họ không tin Chúa Giê-su. Không ăn năn sám hối. Họ sẽ bị loại trừ. Vì họ bị loại trừ. Nên dân ngoại được Chúa mở rộng cửa đón tiếp. “Thiên hạ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa…con cái bị loại ra”(Lc 13,29). Nhưng thánh Phao-lô tin tưởng rằng sau khi dân ngoại được đón nhận, Chúa lại thương đưa dân được tuyển chọn vào Nước Trời. Đó là lòng thương xót vô biên của Chúa (năm lẻ).
Hiểu được điều đó nên thánh Phao-lô không còn đấu tranh theo ý riêng. Chỉ biết theo ý Chúa. Chỉ gắn bó với Chúa Ki-tô. Quên mình để phục vụ Chúa. Và phục vụ anh em, “Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô, và chết là một mối lợi. Nếu sống ở đời này mà công việc của tôi được sinh hoa kết quả, thì tôi không biết phải chọn đàng nào. Vì tôi bị giằng co giữa hai đàng: ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Ki-tô, điều này tốt hơn bội phần: nhưng ở lại đời này thì cần thiết hơn, vì anh em. Và tôi biết chắc rằng tôi sẽ ở lại và ở bên cạnh tất cả anh em để giúp anh em tấn tới và được hưởng niềm vui đức tin mang lại cho anh em” (năm chẵn).
Hãy theo gương thánh Phao-lô. Hoàn toàn quên mình. Thuận theo ý Chúa. Phục vụ Chúa. Phục vụ lợi ích linh hồn anh em. Không tính toán gì cho mình. Ta sẽ được Chúa trả lại gấp bội. “Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Suy Niệm 3: Bài Học Khiêm Nhường
Sống trong xã hội ngày càng tiến bộ, con người tự nhiên muốn vượt lên khỏi những cái tầm thường hiện tại. Họ muốn tìm cho mình một địa vị nào đó để đảm bảo cho cuộc sống; họ ham muốn giàu sang, uy quyền, muốn chiếm cho mình chỗ nhất nơi công hội, tiệc tùng. Nhưng Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay lại đề ra nét đặc thù của Kitô giáo đi ngược với thái độ hám danh và cũng là bài học cho mỗi người, đó là bài học khiêm nhường.
Thật thế, theo Tin Mừng thuật lại, hôm đó Chúa Giêsu đến dùng bữa tại nhà một đầu mục nhóm Biệt phái. Nhận thấy ở đó có những thực khách háo hức chọn chỗ nhất, Chúa Giêsu liền nói với họ một dụ ngôn, trong đó Ngài mời gọi người ta hãy sống khiêm nhường bằng cách chọn lấy địa vị sau chót: khi anh được mời đi ăn cưới, anh đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng cũng được mời... Trái lại, khi được mời, anh hãy ngồi vào chỗ cuối.
Xét bề ngoài, thì đây chỉ là một vấn đề lịch sự, bởi vì xếp chỗ ngồi là việc của chủ nhà, chứ không phải của người dự tiệc. Tuy nhiên, việc chọn chỗ cuối như thế phải được thực hiện một cách đơn sơ, tự nhiên, chứ nếu tìm chỗ cuối với hậu ý và hy vọng được mời lên chỗ cao hơn, thì đó là một sự khiêm nhường giả tạo, một sự kiêu ngạo tinh tế.
Lời khuyến cáo của Chúa Giêsu còn tiềm ẩn một ý nghĩa sâu sắc hơn. Ðối với Ngài, tiệc cưới tượng trưng cho Nước Thiên Chúa, trong đó kẻ nào nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống, còn kẻ hạ mình xuống sẽ được nhắc lên. Vượt ngoài tầm đòi hỏi của xã giao, lời nói của Chúa làm cho con người đi xuống chiều sâu của khiêm nhường và tiến lên chiều cao của Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa là một vinh dự, một ân ban, mà chỉ những ai tự hạ và ý thức mình là hư vô mới có thể lãnh nhận. Còn kẻ tưởng mình cao trọng, chắc chắn không thể chiếm hữu Nước Thiên Chúa, và Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng, nhưng ban ơn cho người khiêm nhường.
Với lời mời gọi và gương sống tự hạ, khiêm nhường của Chúa từ lúc sinh ra cho đến lúc chết trên Thập giá, chúng ta hãy quyết đi vào con đường khiêm nhường bằng cách sống đúng với giới hạn của một thụ tạo nhỏ bé trước mặt Thiên Chúa vô biên, để nhờ đó Ngài sẽ là tất cả cho chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Con Ðường Khiêm Hạ
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta sống khiêm tốn. Lấy câu chuyện chỗ ngồi trong bàn tiệc như một bài dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn mạc khải cho chúng ta tín hữu Kitô điều thâm sâu trong đạo: "Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên". Với châm ngôn này, Chúa Giêsu muốn đặt con người ra trước mặt Thiên Chúa. Thật thế, tất cả phẩm giá con người có được đều bởi Thiên Chúa mà ra. Từ sự sống thể lý đến các phẩm tính tinh thần, từ giá trị cho đến những thành đạt trong cuộc sống và nhất là những nhân đức con người tôi luyện được. Tất cả đều nhờ bởi ơn Chúa. Nhân câu chuyện ngồi trong bàn tiệc mà thực khách hầu hết là những người biệt phái, vốn hám danh và tự mãn, Chúa Giêsu hẳn muốn nhắc đến thói giả nhân giả nghĩa và kiêu ngạo của họ. Với những thực hành tôn giáo như ăn chay, cầu nguyện, bố thí mà họ chuyên cần thực thi, những người biệt phái dễ lên mặt khinh thị những thành phần thấp hèn trong xã hội. Chúa Giêsu đưa họ trở về với chân lý của con người. Con người chỉ thực sự sống cho ra người khi biết nhận ra giá trị đích thực của mình trong tương quan với Thiên Chúa. Và nhận ra giá trị của mình cũng có thể là nhận ra sự hư không và thân phận hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa. Ðây chính là tâm tình cơ bản của Mẹ Maria. Chính khi nhận ra mình là người tôi tớ trước mặt Thiên Chúa mà Mẹ đã nên cao trọng. Mẹ đã khiêm hạ trước mặt Thiên Chúa cho nên đã được Thiên Chúa nâng lên. Nguyện xin Mẹ Maria cầu bầu cho chúng ta cũng dõi bước theo Mẹ trên con đường khiêm hạ ấy.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Phúc Cho Ai Hạ Mình Xuống
“Khi anh được mời, thì hãy vào ngồi vào chỗ cuối, để cho người đã mời đến nói: “Xin mời ông bạn lên trên cho, Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt mọi người đồng bàn.Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” (Lc. 14, 10-11)
Đức Giêsu thường đồng bàn với biệt phái và luật sĩ. Họ đã rình xét lúc Người chữa người phù thũng và kết án Người trong lòng họ. Về phần Người đã để ý tới những khách đến chọn chỗ nhất.
Thực vậy, họ có thói quen tôn mình lên tự xếp mình vào bàn trọng vọng nhất. Những kẻ tưởng mình xứng đáng nhất đã giành nhau chỗ danh dự nhất vì trật tự chỗ ngồi không lệ thuộc vào tuổi tác nhưng sắp xếp theo địa vị cao thấp.
Đức Giêsu không dạy khôn ngoan của loài người
Theo sự khôn ngoan của loài người, người ta thường dạy nhau khi được mời đến dùng bữa, tốt hơn nên chọn chỗ thấp. Khi chủ thấy khách quan trọng thì đến mời người khách ấy lên chỗ cao hơn, lúc đó người ấy được vẻ vang trước mặt mọi người. Nếu khách làm trái lại thì thật xấu hổ, vì những kẻ được mời dự tiệc theo tục lệ Do thái, họ nằm trên đi-văng để ăn và rất khó đứng dậy đổi chỗ cho người vị vọng hơn. Cho nên ai hạ mình xuống không còn sợ bị hạ bệ trước mặt những người khác.
Đức Giêsu không trưng dẫn lời khuyên cổ nhân của sách khôn ngoan loài người. Sứ điệp của Người luôn luôn hướng dẫn ta đến nước Thiên Chúa và lời giáo huấn của Người luôn liên quan đến ơn cứu độ.
Người áp dụng vào nước trời
Người luôn luôn diễn tả chân lý đáng ghi nhớ này: Ai muốn vào nước trời phải trở nên bé nhỏ và khiêm tốn, không được đòi địa vị như luật lệ loài người sắp xếp. Không phải nhờ chính giá trị riêng của mình mà người ta sẽ được xét xử. Nhưng chính Chúa Cha, Đấng thấu suốt con tim và bụng dạ sẽ xét xử người ta.
Đức Giêsu lên án tính kiêu ngạo cố chấp của biệt phái. Họ sẽ bị hạ xuống vì họ đã cho mình là cao trọng, họ tìm danh lợi ở dưới đất, họ đã được phần thưởng rồi. Trái lại những kẻ nghèo khổ, thâu thuế, tội lỗi ý thức mình nhỏ bé hèn hạ trước mặt Thiên Chúa thì sẽ được nâng lên.
Phúc cho ai khiêm nhường, vì họ sẽ được thấy vinh quang nước Chúa.
RC
Suy Niệm 6: THẾ NÀO LÀ NGƯỜI KHIÊM NHƯỜNG ? (Lc 14, 1. 7-14)
Có một lần, trên xe buýt có hai linh mục, hai giáo dân. Vị linh mục lớn tuổi hỏi một bác đang cùng lộ hành với ngài rằng: theo ông, thế nào được gọi là người khiêm nhường?
Tưởng rằng với tuổi đời khá cao và đã từng trải, mình sẽ trả lời “ngọt như đường mía lau”. Bác ta trả lời rằng: “Thưa cha, người khiêm nhường là người không có bon chen với ai; luôn nghe lời của người khác và làm theo; và người khiêm nhường là luôn cho mình bất xứng!”. Vị linh mục kia trả lời: “Không đúng! Vì nếu người khiên nhường chỉ mong cho được bình yên thì họ thuộc về hạng người bị thụ động, mềm yếu; hay luôn làm theo ý người khác là người trốn tránh trách nhiệm, thiếu tự chủ, chứ thực chất không phải khiêm nhường; hoặc luôn coi mình là bất xứng thì không chừng, khiêm nhường kiểu này chẳng khác gì ‘một lần khiêm tốn bằng bốn lần kiêu ngạo’ vì họ có thể dùng chiêu thức này để người khác đề cao, khen ngợi và đánh giá mình đạo đức trước mặt mọi người”. Bác kia hỏi lại: “Vậy ai là người khiêm nhường thật?” Linh mục trả lời: “Người khiêm nhường là người sống đúng sự thật, biết nhận ra sự thật và tôn trọng sự thật”.
Thật vậy, theo tinh thần Tin Mừng, người khiêm nhường thật chính là người biết nhận ra sự thật hữu hạn của mình và nhận thấy Chúa quyền năng. Nhận ra mình yếu hèn, tội lỗi và Thiên Chúa yêu thương. Người khiêm nhường cũng là người biết mở rộng tâm hồn để đón nhận hồng ân của Thiên Chúa, sự góp ý của anh chị em.
Nói chung, người khiêm nhường là người biết ý thức rằng: mọi sự mình có là do Chúa yêu thương. Vì thế, sống khiên nhường là luôn biết hạ mình trước mặt Chúa và tha nhân. Luôn biết sám hối, canh tân để được Thiên Chúa nâng lên trong ân sủng của Ngài, bởi vì: "... hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên".
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con học được bài học khiêm nhường của Chúa để chúng con được thuộc về Chúa cách trọn vẹn. Amen.
Ngọc Biển SSP
30/10 Yêu thương là linh hồn của lề luật
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Yêu thương là linh hồn của lề luật.
Thứ Sáu tuần 30 thường niên.
"Trong ngày Sabbat, ai trong các ông có con lừa hay con bò rơi xuống giếng mà không kéo nó lên sao?"
Lời Chúa: Lc 14, 1-6
Khi ấy, vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu vào dùng bữa trong nhà một thủ lãnh biệt phái, thì những người hiện diện ở đó dòm xét Người. Bấy giờ có một người mắc bệnh thuỷ thũng ở trước mặt Người. Chúa Giêsu lên tiếng hỏi các Luật sĩ và biệt phái rằng: "Trong ngày Sabbat, có được phép chữa bệnh không?" Các ông ấy làm thinh.
Bấy giờ Người kéo kẻ ấy lại, và chữa lành, rồi cho về. Ðoạn Người bảo các ông rằng: "Trong ngày Sabbat, ai trong các ông có con lừa hay con bò rơi xuống giếng mà không lập tức kéo nó lên sao?" Nhưng các ông không thể trả lời câu hỏi ấy.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Chữa khỏi và cho về
Suy niệm:
Sau khi dự nghi thức ở hội đường vào ngày sabát,
người ta thường mời khách về nhà dùng bữa trưa.
Bữa ăn này đã được chuẩn bị từ ngày hôm trước.
Hôm nay Đức Giêsu lại được một người Pharisêu mời dùng bữa.
Đây là lần thứ ba Ngài được mời ăn như thế (x. Lc 7, 36; 11, 37).
Và đây cũng là lần thứ ba có sự căng thẳng
vì Ngài chữa bệnh trong ngày sabát (x. Lc 6, 6; 13, 10).
Những người Pharisêu trong bữa ăn hôm nay chăm chú nhìn Ngài (c. 1).
Chúng ta không rõ người mắc bệnh phù thũng có là khách không.
Hay phải chăng anh ấy là người không mời mà đến?
Nếu là khách thì tại sao Đức Giêsu lại cho anh về sau khi chữa khỏi?
Dù sao thì anh ấy cũng đang đứng trước mặt Đức Giêsu (c. 2).
Ngài thấy những dấu hiệu của bệnh phù thũng nơi thân xác anh.
Trên người anh có chỗ sưng lên vì nước bị ứ lại.
Chính Đức Giêsu là người chủ động đặt vấn đề với người Pharisêu.
”Có được phép chữa bệnh trong ngày sabát không ?” (c. 3).
Hiển nhiên đối với họ, chỉ được phép chữa những bệnh nhân hấp hối.
Anh bị phù thũng không nằm trong diện này.
Vậy mà họ đã giữ thái độ thinh lặng trước câu hỏi đó (c. 4).
Đức Giêsu đã chữa bệnh cho anh chỉ bằng một cử chỉ đỡ lấy.
Không có lời nói nào kèm theo.
Có lẽ anh đã đi về nhà, lòng vui sướng vì được khỏi bệnh.
Đức Giêsu đã muốn biện minh cho hành vi chữa bệnh trong ngày sabát
bằng một câu hỏi về cách ứng xử trong một trường hợp cụ thể (c. 5).
” Giả như các ông có đứa con trai hoặc con bò sa xuống giếng,
các ông lại không kéo nó lên ngay lập tức, dù là ngày sabát sao?”
Họ đã không thể đưa ra câu trả lời,
vì dĩ nhiên là phải kéo nó lên ngay, trước khi nó chết dưới giếng.
Đối với Đức Giêsu, chữa bệnh đơn giản là kéo một người lên ngay.
Dù Ngài không phủ nhận tầm quan trọng của việc giữ ngày sabát,
nhưng ngày sabát lại không cấm làm điều phải làm, đó là chữa bệnh.
Rõ ràng Đức Giêsu quan tâm đến nhu cầu của con người.
Nếu để đến hôm sau mới chữa cho anh phù thũng thì cũng được.
Nếu để bà còng lưng mười tám năm chịu thêm một ngày cũng không sao.
Nhưng Ngài muốn giải phóng con người ngay lập tức, khi có thể được.
Ngài muốn làm vơi nỗi đau kéo dài đã lâu của con người.
Chính vì bà còng lưng đã mười tám năm đau khổ
nên không cần kéo dài thêm, dù chỉ một ngày nữa.
Luật lệ đạo đời nhằm phục vụ cho hạnh phúc thực sự của con người.
Trong cuộc sống hôm nay, có nhiều việc cần làm ngay.
Có bao mảnh đời sắp bị đổ vỡ, có những nguy cơ đe dọa nhân phẩm,
có những người trẻ đứng trên bờ vực, có những thai nhi bị chối từ.
Làm sao chúng ta không dửng dưng với những em nhỏ ở kề miệng giếng,
và không quay lưng với những người đã sa xuống vực sâu?
Cầu nguyện:
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng
tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,
chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,
tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,
có bao điều con lãng phí
bên cạnh những Ladarô túng quẫn,
có bao điều con hưởng lợi
dựa trên nỗi đau của người khác,
có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.
Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công
chẳng ở đâu xa.
Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.
Con phải chịu trách nhiệm
về cảnh nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân,
vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó
là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.
Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,
vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.
Thế giới còn nhiều người đói nghèo
là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.
Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,
nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy Niệm 2: CON NGƯỜI HAY CON BÒ
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Có những ý thức hệ phi nhân coi con người như dụng cụ. Cũng có những tôn giáo phi nhân chà đạp con người. Hôm nay Chúa Giê-su hỏi một câu mà người Pha-ri-sêu không thể trả lời. Câu hỏi thật nghịch lý nhưng đầy đau xót. Con người hay con bò? “Ai trong các ông có con bò sa xuống giếng, lại không kéo nó lên ngay, dù là ngày sa-bát?’ Và họ không thể đáp lại những lời đó”. Vậy mà con người bị sa xuống hố tử thần lại không được họ cứu trong ngày sa-bát. Trong khi con bò thì họ cứu ngay. Kinh Tin Kính tuyên xưng: Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta Người đã từ trời xuống thế. Chúa coi con người là quan trọng. Đến nỗi ban chính Con Một mình để cứu chúng ta. Vậy mà con người lại coi thường con người. Lãng quên con người. Thậm chí lạnh lùng vô cảm trước đau khổ của đồng loại.
Đạo Chúa phải noi gương Chúa. Quan tâm yêu thương con người. Đó là điều thánh Phao-lô hằng canh cánh bên lòng. Nên một với Chúa Ki-tô, thánh nhân luôn mang nhân loại trong trái tim. Vui mừng khi họ có đức tin và tiến bộ trong lòng mến. Thánh nhân tâm sự về tình yêu thương của mình dành cho giáo dân Phi-líp-phê: “Tôi có những tâm tình như thế đối với tất cả anh em, đó là điều hợp lý, bởi vì tôi mang anh em trong lòng tôi. Khi tôi bị xiềng xích, cũng như lúc tôi bênh vực và củng cố Tin Mừng, anh em đều thông phần vào ân sủng tôi đã nhận được. Có Thiên Chúa làm chứng cho tôi: tôi hết lòng yêu quý anh em tất cả, với tình thương của Đức Ki-tô Giê-su” (năm chẵn).
Cũng với tình thương cứu độ đó, thánh nhân buồn phiền khi nhân loại xa lìa Chúa. Ngài yêu thương đồng loại đến sẵn sàng chịu đau khổ để họ được ơn cứu độ. “Thưa anh em, có Đức Ki-tô chứng giám, tôi xin nói sự thật, tôi không nói dối, và lương tâm tôi, được Thánh Thần hướng dẫn, cũng làm chứng cho tôi rằng: lòng tôi rất đỗi ưu phiền, và đau khổ mãi không ngơi. Quả vậy, giả như vì anh em đồng bào của tôi theo huyết thống, mà tôi có bị nguyền rủa và xa lìa Đức Ki-tô, thì tôi cũng cam lòng”. Ngài đã nên một với Đức Ki-tô. Sẵn lòng chịu đau khổ thiệt thòi cho anh em đồng loại được hạnh phúc. Đó là đạo thật. Đạo vì con người. Không phải vì lợi lộc vật chất. Không phải vì lề luật. Càng không phải vì bản thân (năm lẻ).
Tôi đang sống đạo thế nào? Có noi gương Chúa Giê-su và thánh Phao-lô để sống vì con người, vì hạnh phúc của con người không? Hay tôi đang biến đạo thành cơ chế tàn nhẫn trói buộc con người? Tệ hơn nữa, coi của cải và bản thân hơn ơn cứu độ của anh em?
Suy Niệm 3: Linh Hồn Của Lề Luật
Gilgal Zamir, người thanh niên 25 tuổi đã sát hại Thủ tướng Do thái, ông Y. Rabin, khi bị tòa án tại Tel Aviv kết án tù chung thân, chẳng những không để lộ bất cứ cử chỉ hối hận nào, mà còn tuyên bố: "Tất cả những gì tôi làm là làm cho Chúa, làm cho lề luật, làm cho dân tộc Israel".
Thái độ của Gilgal Zamir đã khiến cho quan tòa đưa ra nhận định: Gilgal Zamir có những khuynh hướng vị kỷ, nhìn thế giới chỉ dưới hai mầu trắng đen mà thôi; anh ta là sản phẩm của một nền giáo dục không quan tâm đủ đến những giá trị nhân bản và đạo đức cần mang lại cho người trẻ hiện nay.
Gilgal Zamir có thể là hiện thân của những Biệt phái thời Chúa Giêsu, nghĩa là luôn miệng nhân danh Chúa và lề luật. Cũng như những người Biệt phái, anh tin tưởng nơi Chúa, anh trung thành với lề luật, anh yêu tổ quốc. Nhưng anh thiếu một điều hệ trọng nhất để có thể sống như một con người, đó là một trái tim, một trái tim để biết yêu thương, để biết rung động trước nỗi khổ đau của người khác. Khi con người không có một trái tim, thì họ sẽ mù quáng: mù quáng vì không những không còn nhạy cảm trước nỗi khổ đau của người khác, mà nhất là không còn biết hối hận vì đã xúc phạm đến người khác.
Nhân danh lề luật, những người Biệt phái thời Chúa Giêsu không ngừng dòm ngó rình mò để bắt bẻ Ngài, nhất là những gì có liên quan đến việc tuân giữ ngày Hưu lễ như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay. Nhưng đối với Chúa Giêsu, linh hồn của lề luật chính là tình yêu thương. Tất cả vụ án của Chúa Giêsu đều bắt nguồn và xoay quanh những cuộc đối đầu về lề luật. Ðối đầu với những người Biệt phái cho đến cùng bằng cái chết trên Thập giá, Chúa Giêsu muốn chứng tỏ cho con người thấy rằng chỉ có một lề luật duy nhất để tuân giữ, đó là luật yêu thương, và chỉ có một giá trị cao cả nhất để sống và chết cho, đó là tình yêu.
Giáo dục con người sống cho ra người có nghĩa là giáo dục cho con người biết sống yêu thương. Thông minh đĩnh đạc, mà không có trái tim để yêu thương, thì đó là một tai họa cho bản thân cũng như cho xã hội. Có tất cả mà không có một trái tim để yêu thương, thì đó là nỗi bất hạnh lớn nhất đối với con người. Cách mạng mà không xây dựng trên tình yêu thương, thì đó chỉ là phá hoại. Ðạo đức mà không có yêu thương, thì chỉ là một trò lừa bịp.
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa đã mạc khải cho chúng ta chân lý về con người. Mang lấy hình ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu, xin cho chúng ta luôn ý thức rằng chúng ta chỉ đạt được định mệnh của mình bằng cuộc sống yêu thương mà thôi. Là môn đệ của Ðấng đã chết trên Thập giá để nêu gương yêu thương cho chúng ta, xin cho chúng ta ý thức rằng cốt lõi của đạo là giới răn yêu thương mà Ngài đã để lại cho chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Quyết Tâm Chiến Thắng
Một trong những lực sĩ được chú ý trong kỳ thế vận hội dành cho người khuyết tật lần thứ 11 vào tháng 10 năm 2000 là anh Gabriel, vận động viên bơi lội duy nhất của Chilê. Sinh ra chỉ với một chân và lại là một chân không bình thường, còn hai cánh tay thì cụt gần sát nách, vậy mà trong hồ bơi anh sải người lướt tới trong nước chẳng khác nào bất cứ một vận động viên bình thường nào. Tuy không đạt được một huy chương nào nhưng ý chí phấn đấu của người lực sĩ tàn tật ba mươi hai tuổi này đã biến anh thành một ngôi sao sáng chiếm lĩnh được sự ngưỡng mộ, khâm phục và nhất là lòng quí mến của khán giả.
Trong một lá thư gởi cho khán giả, anh đã nói đến ý chí phấn đấu của mình. Sinh ra trong một gia đình đông con, lại tàn tật, Gabriel đã vượt qua được mọi giới hạn để thành đạt. Hiện nay, anh làm kế toán viên trong một công ty. Thời gian nhàn rỗi anh đi bơi. Qua anh, người ta thấy được chiến thắng của sự quyết tâm của con người. Nhưng Gabriel không chỉ nói đến chiến thắng của sự quyết tâm, anh còn đề cao sự nâng đỡ mà những người chung quanh dành cho anh. Trong lá thư gửi cho khán giả, anh viết như sau:
"Tôi đến đây với niềm hy vọng và với chút tham vọng là đạt được một huy chương. Tôi quả tình mong muốn điều đó. Nhưng tình yêu mà quí vị dành cho tôi làm cho tôi cũng cảm thấy như đã đạt được chiến thắng rồi. Tôi sẽ mãi mãi trân trọng tình yêu của quí vị. Nếu có một thiên đàng thì thiên đàng chính là nơi đây".
Tâm tình trên đây của một người lực sĩ khuyết tật cũng có thể là tâm tình của bất cứ một kẻ bị đẩy ra bên lề của xã hội hay một tâm tình đau khổ nào, khi họ gặp được một sự nâng đỡ, một lời nói an ủi, một cử chỉ thương mến, hay bất cứ một sự tôn trọng nào dành cho họ.
Trong Tin Mừng hôm nay, một lần nữa chúng ta bắt gặp cử chỉ quen thuộc của Chúa Giêsu. Ngài vượt qua mọi rào cản trong cuộc sống để tìm đến với những người tàn tật và bất cứ ai đang gặp đau khổ trong thể xác và tâm hồn. Những người biệt phái và luật sĩ đã đưa ra không biết bao nhiêu là hàng rào để đẩy những con người khốn khổ ra bên lề xã hội. Chúa Giêsu đến để qui tụ mọi người không trừ một ai. Ngài đạp đổ mọi thứ rào cản của cuộc sống. Có mặt trong những bữa tiệc linh đình của những người biệt phái giàu sang, Ngài cũng không ngần ngại ngồi đồng bàn với những người thu thuế, những người bị xã hội gán cho nhãn hiệu là hạng người bất chính, ngay cả những cô gái điếm.
Là trái tim của một Thiên Chúa nhân từ, là tình yêu nhập thể, Chúa Giêsu muốn thể hiện tình yêu với tất cả mọi người trong xã hội. Nhưng một cách đặc biệt, Ngài dành ưu ái cho những người khốn khổ, những người bị đẩy ra bên lề xã hội. Chữa bệnh cho một người bị mắc bệnh phù thủng trong nhà một người biệt phái và ngay trong ngày sabát, Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ các biệt phái rằng chỉ có một luật duy nhất tóm kết mọi thứ Lề Luật, luật ấy chính là luật yêu thương.
Một lần nữa, Tin Mừng hôm nay nhắc nhở các tín hữu Kitô chúng ta về cốt lõi của đạo là Tình Thương. Trong bài ca bác ái được ghi lại trong đoạn 13 của thư thứ nhất gửi cho giáo đoàn Côrintô, thánh Phaolô đã khẳng định:
"Giá như tôi có đem hết gia tài mà bố thí hay nộp cả thân xác tôi để bị thiêu đốt mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi".
Ước gì bất cứ ai chúng ta gặp gỡ trong ngày hôm nay, nhất là những người cần sự giúp đỡ, đều tìm được thiên đàng của cuộc sống qua tình yêu của các tín hữu Kitô chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Tình yêu trên mọi lề luật
Người lên tiếng nói với các nhà thông luật và những người Pha-ri-sêu: “Có được phép chữa bệnh ngày sa bát hay không? Nhưng họ làm thinh. Người đỡ lấy bệnh nhân, chữa khỏi và cho về.” (Lc. 14, 3-4)
Ngày Sa-bát là ngày người ta mời bạn bè thân quen đến dùng bữa. Đức Giêsu lợi dụng những dịp này để dạy tinh thần giữ luật Sa-bát cho những biệt phái và chuyên gia về luật. Trước sự khước từ trả lời câu hỏi của Đức Giêsu. Người đã chữa người phù thũng để cho các tiến sĩ luật hiểu rằng ngày Sa-bát được đặt ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày Sa-bát, Đức Giêsu nhiều lần chữa bệnh trong ngày Sa-bát. Bây giờ Người vẫn tự do chữa bệnh như vậy. Trên đường Người đi chịu khổ nạn để cho người ta thấy rõ rằng ngày Sa-bát phải lo cứu giúp mọi người khốn khổ.
Chữa bệnh là giải thoát
“Họ cố dò xét Người” để xem Người xưng mình là Con Thiên Chúa, có giữ đầy đủ luật thánh ngày Sa-bát không. Và kìa một người phù thũng, không được mời xuất hiện trước mặt Đức Giêsu. Do tình cờ hay cố ý? Đức Giêsu không sợ mắc bẫy. Trái lại, Người biết người ta coi bệnh tật là hậu quả của tội lỗi. Chữa khỏi bệnh chính là giải thoát khỏi bệnh và tội lỗi một trật và như vậy chữa bệnh là lý do rất chí lý để ca tụng và tôn thờ Thiên Chúa trong ngày Sa-bát.
Trước hàng rào con mắt rình dò Đức Giêsu không làm Người thất đảm, Người hỏi các nhà thông luật và những người biệt phái: “Có được phép chữa bệnh ngày Sa-bát hay không?”. Người biết rõ câu trả lời và sự im lặng của các người khách đó.
Theo thái độ của họ, Đức Giêsu tỏ cho họ thấy tình yêu và quyền phép của Thiên Chúa. “Người đỡ lấy bệnh nhân, chữa khỏi và cho về”. Một kinh nghiệm quý báu cho họ, nhưng họ vẫn cố chấp không hiểu gì về tình yêu và quyền phép Thiên Chúa.
Ngày Sa-bát là ngày giải thoát
Để mở trí thông minh cho họ, Đức Giêsu đã đặt một câu hỏi để làm cho họ phải suy nghĩ: “Ai trong các ông có đứa con trai hoặc có con bò sa xuống giếng, lại không kéo nó lên ngay, dù là ngày Sa-bát?”. Vậy ngày Sa-bát sao không được kéo người đau ra khỏi hố sâu của bệnh tật? Thiên Chúa yêu thương con cái của Ngài, và đặc biệt hơn nữa đối với người tội lỗi và đau khổ. Cho nên ngày của Chúa là ngày giải thoát họ khỏi mọi xiềng xích tội lỗi và bệnh tật, đó là ngày tốt nhất đối với Thiên Chúa và bày tỏ tình yêu của Ngài. Những ông khách đó đã không thể trả lời vì họ không nhận: Tình yêu trên mọi lề luật. Họ chỉ nhận luật lệ trên tình yêu và lòng thương xót.
RC
Suy Niệm 6: LUẬT PHẢI ĐƯỢC CHI PHỐI BỞI TÌNH YÊU (Lc 14, 1-6)
Có một câu chuyện kể rằng: khi đang đi trên đường vào chiều tối, một cô gái bị nhóm thanh niên lạ mặt vây hãm. Đang thực hiện hành vi cướp giật và đồi bại... bất thình lình, có một chàng trai bảnh bao, võ nghệ thuộc loại giỏi, nên anh ta đã tung ra những tuyệt chiêu để đánh đuổi bọn cướp và bảo vệ cô gái. Thấy không chống trả lại được, bọn cướp đã bỏ đi cách nhanh chóng, để lại cô gái cũng như chiếc xe hàng hiệu của cô trong sự tiếc nuối! Còn cô gái thì sợ hãi tột cùng. Tuy nhiên, với nghĩa cử hào hiệp, cộng thêm bề ngoài bảnh trai... cô gái đã nhanh chóng lấy lại tinh thần và thán phục, tôn trọng với chàng trai tốt bụng đã giúp đỡ mình thoát nạn. Trong tâm hồn cô, chàng trai này đã chiếm được một vị trí đặc biệt. Thấy được cô gái đã siêu lòng, chàng trai tỏ vẻ yêu thương và hứa hẹn đủ điều. Tuy nhiên, lợi dụng lúc cô gái không để ý, hắn ta đã nhanh chóng lên xe của chính cô và tẩu thoát, để lại cô gái một mình trong sự bàng hoàng... Như vậy, thực chất chàng trai đã làm mờ mắt và siêu lòng cô gái trên đây chính là một tên lừa siêu hạng!
Hôm nay, ngang qua việc người đàn bà mắc bệnh phù thũng đến với Đức Giêsu đúng vào ngày Sabát, và các người Luật Sĩ tỏ ra khó chịu! Nhân cơ hội này, Đức Giêsu dạy cho những người Luật Sĩ bài học tình thương phải phát xuất từ tấm lòng chân thật chứ không phải vì giả bộ bề ngoài.
Khởi đi từ câu hỏi: "Trong ngày Sabát, có được phép chữa bệnh không?", tiếp theo sau đó, Ngài lại đặt ra một tình huống và yêu cầu họ trả lời: "Trong ngày Sabát, ai trong các ông có con lừa hay con bò rơi xuống giếng mà không lập tức kéo nó lên sao?". Tuy nhiên, họ đã cứng họng và không thể trả lời được bất cứ câu hỏi nào của Đức Giêsu. Lý do những Luật Sĩ không thể trả lời được các câu hỏi của Đức Giêsu chỉ vì họ sống vụ luật, hình thức, giả tạo. Nên gặp phải Đấng là nguồn gốc của chân lý, tình thương thì đương nhiên họ phải câm miệng, bởi vì họ thuộc hạng người: luôn chất những gánh nặng không thể vác nổi lên vai người ta, còn họ, họ không đụng một ngón ta mà lay thử.
Thật vậy, nếu luật mà không có tình thương thực sự thì hẳn sẽ chỉ là trò bịt bợm, dối lừa và lợi dụng mà thôi. Câu chuyện trên cho thấy rõ bản chất của chàng trai kia: hắn giữ luật là bảo vệ người thấp cổ bé họng, chân yếu tay mền trước sự tấn công của kẻ mạnh, nhưng những hành vi, nghĩa cử đó của hắn đâu phải vì tình thương, mà là một chiêu thức tinh vi, một trò bỉ ổi để lừa gạt mà thôi.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi chúng ta hãy tránh cho xa thói chuyên nghề bịt bợm, lưu manh nhân danh đạo đức, nhân danh công lý... như những người Luật Sĩ khi xưa. Đừng vì cái mác đạo đức bên ngoài mà bất nhân đến độ loại bỏ tiếng Lương Tâm để đi đến hành vi vu oan cho người khác, chỉ vì người ta dám nói lên sự thật, hay vì người ta dễ thương khi sống cốt lõi của Tin Mừng là tình thương...
Lạy Chúa Giêsu, Luật của Chúa là luật tình thương, Luật vì con người. Xin cho mỗi chúng con biết yêu mến Luật Chúa, và khi thi hành, xin cho chúng con biết đem tình yêu lồng vào trong Luật đó. Có thế, Luật của Chúa mới giải thoát chúng con mà thôi. Amen.
Ngọc Biển SSP
29/10 Giờ của Chúa
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Giờ của Chúa.
Thứ Năm tuần 30 thường niên.
"Không lẽ một tiên tri phải giết chết ngoài thành Giêrusalem?"
Lời Chúa: Lc 13, 31-35
Trong ngày ấy, có mấy người biệt phái đến gần thưa Chúa Giêsu rằng: "Xin Thầy lên đường và đi khỏi đây, vì Hêrôđê toan giết Thầy".
Người trả lời: "Các ông hãy đi nói với con cáo đó rằng: "Đây Ta trừ quỷ và chữa lành bệnh tật hôm nay và ngày mai, rồi ngày thứ ba Ta hoàn tất cuộc đời. Nhưng hôm nay, ngày mai và ngày hôm sau nữa, Ta còn phải đi đường, vì không lẽ một tiên tri bị giết chết ngoài thành Giêrusalem".
"Ôi Giêrusalem, Giêrusalem! Ngươi giết hại các tiên tri và ném đá những người đã được sai đến cùng ngươi. Đã bao lần Ta muốn tụ họp con cái ngươi, như gà mẹ ấp ủ gà con dưới cánh, thế mà ngươi đã không muốn. Thì đây, nhà các ngươi sẽ bị bỏ hoang vu. Nhưng Ta bảo cho các ngươi hay: Các ngươi sẽ không còn xem thấy Ta, cho đến khi các ngươi sẽ nói rằng: "Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến!"
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Hôm nay, ngày mai
Suy niệm:
Sống là bước đi mỗi ngày trong cuộc hành trình, phiêu lưu.
Hơn ai hết Đức Giêsu đã sống phận người của mình như thế.
Cuộc sống nay đây mai đó, không chỗ tựa đầu.
Cuộc sống bấp bênh, sống nhờ lòng tốt của người khác.
Hơn thế nữa, cuộc sống này còn bị đe dọa bởi quyền bính đạo đời.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, vài người Pharisêu báo tin cho Đức Giêsu
về việc tiểu vương Hêrôđê muốn giết Ngài (c. 31).
Họ khuyên Ngài nên ra khỏi vùng đất dưới quyền của Hêrôđê,
vì chính ông này đã giết ngôn sứ Gioan Tẩy giả.
Đức Giêsu lộ vẻ ung dung, không sợ hãi gì.
Ngài gọi Hêrôđê là con cáo, một con vật ranh mãnh quỷ quyệt (c. 32).
Đe dọa của ông ta không làm Ngài chùn bước.
Ngài vẫn tiếp tục làm điều đã làm như trừ quỷ và chữa bệnh.
Hôm nay, ngày mai, ngày mốt vẫn cứ như thế.
“Tôi phải tiếp tục đi” (c. 33).
Đức Giêsu biết rất rõ mình đang đi đâu và đến đâu.
Ngài sẽ tiếp tục lên đường, không phải vì sợ quyền lực của Hêrôđê,
nhưng vì Ngài chấp nhận ở dưới quyền của Thiên Chúa.
Ngài hướng tới Giêrusalem, nơi nhiều ngôn sứ đã chịu bách hại.
Đức Giêsu ý thức mình là một ngôn sứ của Thiên Chúa.
Số phận của Ngài cũng chẳng hơn gì bao ngôn sứ khác.
Cái chết đang chờ đợi Ngài ở Giêrusalem.
Giêrusalem là nơi đáng sợ, nhưng cũng là nơi đáng thương.
Đức Giêsu đã âu yếm gọi hai lần: “Giêrusalem, Giêrusalem!”
Ngài tự ví mình như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh.
“Đã bao lần Ta muốn… nhưng các ngươi lại không muốn” (c. 34).
Một tình yêu bị từ chối nên thốt lên những lời thở than.
Vị ngôn sứ Giêsu phải dừng bước khi con người khép lòng mình lại.
Án phạt đến từ thái độ từ khước của con người,
giống như đàn gà con không để cho gà mẹ chở che dẫn dắt.
“Nhà các ngươi sẽ bị bỏ mặc cho các ngươi” (c. 35).
Thiên Chúa bỏ đền thờ, bỏ thành thánh Giêrusalem mà đi,
để mặc cho quân thù vây hãm và tiêu hủy.
Nhưng rồi sẽ đến ngày Đức Giêsu trở lại trong vinh quang.
Lúc ấy mọi người sẽ tung hô: Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến.
Chúng ta cũng có sứ mạng làm ngôn sứ như Đức Giêsu.
Những đe dọa, đụng chạm đến an toàn là điều không tránh khỏi.
Nhưng chúng ta vẫn được mời gọi đi đến cùng con đường của mình,
với một tinh thần bất khuất, không gì lay chuyển.
Vẫn phải trung thành với việc được Thiên Chúa giao,
dù điều đó dẫn ta đến với cái chết.
Trước một Giêrusalem thù nghịch, xin có được đảm lược của Giêsu.
Trước một Giêrusalem từ khước, xin có được lòng nhân hậu.
Để trái tim chúng ta biết kết hợp đảm lược với lòng nhân.
Cầu nguyện:
Lạy các thánh tử đạo Việt Nam,
các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu
trong một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm.
Sự hy sinh của các ngài
cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết
và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt.
Dù mang phận người yếu đuối,
nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng,
các ngài đã chiến thắng khải hoàn.
Xin cầu cho chúng con là con cháu các ngài
biết can trường sống đức tin của bậc cha anh
trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa,
biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu
bằng một đời hiến thân phục vụ.
Ước gì ngọn lửa đức tin
mà các ngài đã thắp lên
bằng cuộc sống và cái chết,
được bừng tỏa trên Tổ quốc Việt Nam.
Ước gì máu thắm của các ngài
thấm vào mảnh đất quê hương
để công cuộc truyền giáo sinh nhiều hoa trái.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy Niệm 2: TÌNH YÊU CHIẾN THẮNG
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa Giê-su tiến hành cuộc chiến chống ma quỉ, xác thịt, thế gian. Ma quỉ, xác thịt, thế gian cũng toa rập nhau chống lại Chúa. Nhưng Chúa không sợ hãi. Vì tình Chúa yêu thương con người quá lớn lao. Chúa muốn giang rộng vòng tay ôm ấp che chở con người: “Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi! Đã bao lần Ta muốn tập họp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu”. Dù bị các thế lực ma quỉ âm mưu giết chết, Chúa vẫn không sợ hãi. Với tình yêu lớn lao, Chúa quan tâm lo lắng cho con người hơn cho sinh mạng của riêng mình: “Hôm nay và ngày mai tôi trừ quỷ và chữa lành bệnh tật, và ngày thứ ba tôi hoàn tất. Tuy nhiê, hôm nay, ngày mai và ngày mốt, tôi phải tiếp tục đi, vì một ngôn sứ mà chết ngoài thành Giê-ru-sa-lem thì không được”.
Hôm nay con cái Chúa vẫn phải tiếp tục tiến hành cuộc chiến. Ma quỉ, xác thịt, thế gian vẫn toa rập nhau đàn áp con cái Chúa. Nhưng thánh Phao-lô khích lệ ta đừng sợ vì chúng ta sẽ thắng nhờ tình yêu Chúa Ki-tô. Tình yêu Chúa sẽ ở với chúng ta, nâng đỡ chúng ta. “Đúng thế, tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thụ tạo nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta” (năm lẻ).
Cuộc chiến rất khốc liệt vì chúng ta phải chiến đấu với loài quỷ dữ. Nhưng thánh nhân khuyên nhủ ta đừng sợ. Hãy mang lấy vũ khí của Thiên Chúa, Ta chắc sẽ thắng. “Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao. Bởi đó, anh em hãy nhận lấy toàn bộ binh giáp vũ khỉ của Thiên Chúa; như thế, anh em có thể vận dụng toàn lực để đối phó và đứng vững trong ngày đen tối”. Vù khí đó là “lưng thắt đai chân lý, mình mặc áo giáp là sự công chính, chân đi gày là lòng hăng say loan báo Tin Mừng bình an; hãy luôn cầm khiên mộc là đức tin, nhờ đó anh em sẽ có thể dập tắt mọi tên lửa của ác thần. Sau cùng, hãy đội mũ chiến là ơn cứu độ và cầm gươm của Thần Khí ban cho, tức là Lời Thiên Chúa” (năm chẵn).
Tạ ơn Chúa vì yêu thương con mà sẵn sàng chịu chết. Xin cho con tin vào tình yêu của Chúa để đứng vững trong cuộc chiến với bóng đêm tội lỗi.
Suy Niệm 3: Giờ Chúa Viếng Thăm
Một diễn giả thuyết trình cho các bậc phụ huynh về thái độ phải luôn thông cảm với con cái, nhất là khi chúng còn nhỏ. Diễn giả vừa dứt lời, thì có một người mẹ phát biểu ý kiến: "Trong bài thuyết trình, ông đã nhiều lần nhắc đến những sai sót của cha mẹ không đủ kiên nhẫn để tỏ ra thông cảm với con cái. Phần tôi thì có kinh nghiệm ngược lại: tôi luôn luôn tìm cách thông cảm với con cái, nhưng chẳng những chúng không nghe lời tôi, mà còn chống lại tôi. Xin ông vui lòng cho chúng tôi biết phải làm gì nữa để con cái nghe lời chúng tôi".
Kinh nghiệm của người mẹ trên đây có thể giúp chúng ta hiểu thêm phần nào tâm tình của Chúa Giêsu đối với người Do thái và, đối với thành Giêrusalem như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay. Ðó là tâm tình yêu thương của Chúa trước sự khước từ của dân Chúa. Tác giả Gioan đã đưa ra nhận định chung về cuộc đời của Chúa Giêsu: "Ngài đã đến nơi nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận". Con người là tạo vật của Thiên Chúa, nhưng lại có quyền tự do từ chối Ngài, đó là cái bi thảm của cuộc đời.
Chúng ta sẽ càng cảm thông với những tâm tình của Chúa Giêsu, khi chúng ta biết rằng lúc đó Ngài đang tiến về Giêrusalem, tiến đến gần giây phút thực hiện cuộc Vượt qua của Ngài để đem ơn cứu rỗi cho mọi người, nhưng cũng chính lúc đó sự chống đối của các kẻ thù Chúa mỗi lúc một gia tăng. Những người Biệt phái, Luật sĩ, Tư tế trong dân, đang tìm cách loại trừ Chúa, ngay cả vua Hêrôđê Antipas cũng không ưa thích gì Ngài, chính ông ra lệnh chặt đầu Gioan Tẩy giả, đó là điềm không tốt cho Chúa Giêsu lúc đó đang có mặt trên phần đất thuộc thẩm quyền của ông.
Tuy nhiên, sự độc ác của con người không thể làm cho Thiên Chúa không yêu thương con người. Trái lại, Thiên Chúa đã chấp nhận trở nên yếu hèn, bị khinh chê, Ngài vẫn yêu thương con người và yêu thương cho đến chết trên Thập giá. Tuy nhiên, cái chết của Chúa Giêsu không phải là một chiến bại vĩnh viễn, bởi vì rồi đây con người sẽ trở lại nhìn nhận Thiên Chúa. Lời tiên báo của Chúa Giêsu hé mở cho chúng ta thấy viễn tượng hy vọng: "Các ngươi sẽ không còn thấy Ta nữa, cho đến lúc các ngươi nói: chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Chúa". Ðây không chỉ là lời tiên tri về cuộc khải hoàn của Ngài vào thành Giêrusalem, nhưng còn là lời tiên tri về cuộc chiến thắng cuối cùng của Ngài vào thời cánh chung, khi Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự.
Chúng ta hãy khiêm tốn nhận ra những giờ phút của ân sủng Chúa đến viếng thăm chúng ta. Ước gì chúng ta cảm nghiệm được tình yêu dịu dàng của Chúa để có thể nói lên lời tri ân chúc tụng Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Ý Định Của Thiên Chúa Bất Di Dịch
“Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem! ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi! Đã bao lần ta muốn tập họp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu.” (Lc. 13, 34)
Ngay từ đầu cuộc sống công khai của Đức Giêsu thành Na-gia-rét, người ta đã tìm cách giết Người. Giờ của Người chưa đến. Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Người đi qua đất của Hê-rô-đê mới giết Gio-an tẩy giả. Có mấy người báo cho Đức Giêsu phải nhanh chóng rời bỏ đây ngay vì Hê-rô-đê đang muốn giết Người.
Vua chúa thế gian chẳng thay đổi được gì
Dân Na-gia-rét cũng như Hê-rô-đê không thể giết được Đức Giêsu. Hôm nay và ngày mai là thời giờ bày tỏ quyền phép và tình yêu của Thiên Chúa. “Tôi trừ quỷ và chữa lành bệnh tật”, không gì có thể ngăn cản được Đức Giêsu thi hành thánh ý Thiên Chúa. Người đi theo con đường đưa tới cái chết hy sinh để hoàn tất nhiệm vụ của Người. Người không tìm cách trốn thoát, mà tự ý chấp nhận cái chết vì chính Người có quyền cho đi sự sống và lấy lại. Lời chứng của Người phải được loan truyền tới Giê-ru-sa-lem, vì Người là ngôn sứ và phải chịu chung số phận với các ngôn sứ. Hê-rô-đê không thể quyết định bắt Người chịu chết. Chính Người quyết định về ngày giờ. Sự đe dọa của Hê-rô-đê chỉ đáng giục sọt rác. “Các ngươi hãy đi nói với con cáo ấy!”
Giê-ru-sa-lem trung thành với cái bất trung
Lịch sử của Giê-ru-sa-lem là luôn luôn từ chối ý định của Thiên Chúa tới cùng. Dân Do thái đã bất trung với Thiên Chúa từ lâu đời. Các ngôn sứ đều cảnh cáo nhiều lần về sự bất trung đó và đều thất bại nặng nề. Nhiều lần Thiên Chúa đã phạt họ, từ bỏ đền thờ và trao nộp cho quân thù phá hủy.
Chính Đức Giêsu đã kêu gọi dân thành Giê-ru-sa-lem trở về kẻo không kịp. Họ vẫn bất trung, con tim họ chai đá và từ chối lắng nghe lời cảnh báo. Họ khinh chê quà tặng cứu độ, sự che chở và lòng thương xót của Thiên Chúa. Giờ đây, gần đến hồi kết thúc, Thiên Chúa sẽ bỏ mặc nhà Gia-cóp và dân Do thái không còn thấy Người nữa cho đến ngày phán xét. Ngày đó Ngài chỉ đón tiếp kẻ nào đến nhân danh Chúa Giêsu mà thôi.
RC
Suy Niệm 5: THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU (Lc 13, 31-35)
Khi được hỏi: Thiên Chúa là Đấng nào? Hẳn không có câu trả lời nào trọn vẹn và ý nghĩa cho bằng lời khẳng định của thánh Gioan: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4, 16).
Thật vậy, bản chất Thiên Chúa là tình yêu, vì thế, nhiều lần và nhiều cách, Thiên Chúa đã thể hiện tình yêu của Người cho nhân loại ngang qua sự chăm sóc, quan phòng của Người dành cho ta.
Có những lúc, Thiên Chúa được ví như người cha răn dạy con cái; như người mẹ yêu thương, an ủi, vỗ về; như người chồng yêu thương vợ; như người bạn luôn đồng hành...
Hôm nay, qua bài Tin Mừng, Đức Giêsu làm toát lên hình ảnh của một Vị Thiên Chúa yêu thương con người như: “Gà mẹ ấp ủ gà con dưới cánh”. Quả thật, Thiên Chúa luôn bao bọc chở che chúng ta dưới bóng cánh của Người lúc mưa, lúc nắng, khi bão tố, hay khi bị kẻ thù tấn công. Người yêu thương ta bằng một tình yêu trọn vẹn. Người đã cho đi tất cả, kể cả người Con Một duy nhất chính là Đức Giêsu. Khi Đức Giêsu đến, Ngài đã thi hành sứ vụ của Chúa Cha trong tình yêu. Ngài đã yêu thương họ đến cùng và đã chết vì yêu.
Tuy nhiên, vì hiềm khích, tham lam và kiêu ngạo, con người vẫn đắm chìm trong tội, nên không thể nhận ra tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình. Họ đã bị một lớp mây mù dày đặc của tội lỗi làm cho mắt họ không còn phân biệt được tốt - xấu. Hay đôi khi nhận ra, nhưng vì miếng cơm, manh áo, vì danh dự, vì chức quyền, họ đã nhắm mắt trước tình yêu của Ngài, và đã đi ngược lại với tiếng Lương Tâm.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống trong tâm tình của những người con đã được Thiên Chúa yêu thương. Nhận ra tình yêu của Người và chia sẻ tình yêu đó cho người khác. Khi đã lựa chọn Chúa là mục đích, lẽ sống, thì cũng đón nhận những lời giáo huấn dạy dỗ của Ngài như khuôn vàng thước ngọc, thi hành luật Chúa trong lòng mến. Tránh tình trạng như Hêrôđê luôn tìm cách loại trừ Đức Giêsu chỉ vì những điều tốt đẹp Ngài đã làm, hay như những người Pharisêu, vì sợ phiền hà, liên lụy, hay vì không chấp nhận chân lý của tình thương mà đã lợi gió bẻ măng, tiếp tay cho sự gian ác để đồng lõa loại bỏ Đức Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi chúng con biết cảm nghiệm được tình yêu mà Chúa dành cho chúng con. Đồng thời luôn sống trong tình yêu đó bằng việc đón nhận Chúa như lẽ sống của cuộc đời và chia sẻ tình yêu đó cho người khác. Amen.
Ngọc Biển SSP
28/10 Chọn Lựa Của Chúa.
- Viết bởi Lc 6, 12-19
Chọn Lựa Của Chúa.
Thứ Tư tuần 30 thường niên – THÁNH SIMON VÀ THÁNH GIUĐA TÔNG ĐỒ. Lễ kính.
“Người chọn mười hai vị mà Người gọi là tông đồ”.
* Tông đồ Simon có biệt danh là Nhiệt Thành, có lẽ vì người thuộc nhóm cực đoan, chống người Rôma. Người được xếp thứ mười một trong bản danh sách các Tông Đồ.
Còn thánh Giuđa, cũng được gọi là Ta-đê-ô, là người đã hỏi Chúa trong Bữa Ăn Tối: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình cho chúng con, mà không tỏ mình cho thế gian?”. Và ông đã nhận được lời Chúa hứa: “Ai yêu mến Thầy, thì Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”.
Lời Chúa: Lc 6, 12-19
Trong những ngày ấy Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, và suốt đêm Người cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Sáng ngày, Người gọi các môn đệ và chọn mười hai vị mà Người gọi là tông đồ: Đó là Simon mà Người đặt tên là Phêrô và em ông là Anrê, Giacôbê và Gioan, Philipphê và Bartôlômêô, Matthêu và Tôma, Giacôbê con ông Alphê và Simon cũng gọi là nhiệt thành, Giuđa con ông Giacôbê và Giuđa Iscariốt, kẻ phản bội.
Người đi xuống với các ông, và dừng lại trên một khoảng đất bằng phẳng, có nhóm đông môn đệ cùng đoàn lũ dân chúng đông đảo từ khắp xứ Giuđêa, Giêrusalem và miền duyên hải Tyrô và Siđôn đến nghe Người giảng và để được chữa lành mọi bệnh tật. Cả những người bị quỷ ô uế hành hạ cũng được chữa khỏi, và tất cả đám đông tìm cách chạm tới Người, vì tự nơi Người phát xuất một sức mạnh chữa lành mọi người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Gọi và chọn
(Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
Theo Tin Mừng Luca, Đức Giêsu thường cầu nguyện vào những thời điểm quan trọng.
Ngài cầu nguyện khi nhận phép rửa của Gioan Tẩy giả (3, 21).
Ngài cầu nguyện một mình trước khi loan báo cuộc khổ nạn (9, 18).
Khi đang cầu nguyện trên núi, Ngài được hiển dung (9, 29).
Khi đứng trước cái chết gần kề, Ngài cầu nguyện trong xao xuyến (22, 41).
Lúc bị treo trên thập giá, Ngài cũng cầu nguyện cho kẻ giết mình (23, 34).
Đức Giêsu suốt đời là con người cầu nguyện.
Cầu nguyện đối với Ngài đơn giản là một cuộc gặp gỡ Cha.
Ngài thích gặp Cha vì Ngài là người con thảo hiếu.
Ngài cần gặp Cha vì Ngài là người được Cha sai, để làm việc Cha giao.
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy một lần cầu nguyện đặc biệt của Ngài.
Đức Giêsu vẫn thích cầu nguyện trên núi.
Núi cao làm Ngài thấy nhẹ nhàng và gần Cha trên trời hơn.
Tối hôm nay, Ngài muốn dành nhiều giờ để gặp Cha
trước khi đi đến một quyết định quan trọng,
quyết định chọn những môn đệ thân tín nhất mà Ngài gọi là tông đồ,
để đi sát với Ngài hơn và cộng tác với Ngài trong sứ vụ.
Đức Giêsu không chọn theo ý mình.
Ngài muốn gặp Thiên Chúa là Cha của Ngài để hỏi ý (c. 12).
Tìm ý Cha, ngay cả đối với Đức Giêsu, cũng không phải là quá dễ dàng.
Ngài đã thức suốt một đêm để cầu nguyện,
để tìm xem Cha muốn Ngài chọn ai trong số những môn đệ ở đây.
“Những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian mà ban cho con…
Họ thuộc về Cha, Cha đã ban họ cho con…” (Ga 17, 6).
Đức Giêsu coi các tông đồ là một quà tặng của Cha.
Bởi đó, thật ra Ngài chỉ chọn những người Cha đã chọn,
Ngài chỉ muốn những người Ngài biết Cha muốn (Mc 3, 13).
Khi làm người ở đời, chúng ta cũng phải chọn như Đức Giêsu.
Cuộc đời là một chuỗi những chọn lựa.
Những chọn lựa nhỏ và lớn làm nên cuộc đời.
Chúng ta có thể chọn dựa trên ý thích hay phán đoán riêng của mình.
Nhưng chúng ta cũng có thể chọn dựa trên ý Đấng Tạo Hóa.
Điều này đòi chúng ta phải ra khỏi mình, không coi mình là trung tâm.
Thánh Inhaxiô mời người làm linh thao
“không ước muốn sức khỏe hơn bệnh tật, giàu sang hơn nghèo khổ,
danh vọng hơn nhục nhã, sống lâu hơn chết yểu,
và tương tự như thế đối với mọi sự khác.”
Khi có thái độ siêu thoát như trên, ta mới có thể chọn điều Chúa muốn.
Sau một đêm cầu nguyện, đến sáng Đức Giêsu mới quyết định.
Ngài gọi và chọn nhóm Mười Hai tông đồ theo ý Cha.
Chúng ta cũng được gọi và chọn, dù là giáo dân hay tu sĩ.
Chúng ta cũng rất khác nhau như mười hai khuôn mặt các vị tông đồ.
Chỉ mong chúng ta đừng dùng tự do mình để trở nên kẻ phản bội.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,
một người đánh cá ít học và đã lập gia đình,
để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong manh,
để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa, sống cho Chúa,
đặt Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chốiviện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn,
đến những nơi bất ngờ, vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon,
bỏ mái nhà êm ấm để lên đường,
hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.
SUY NIỆM 2: Chọn Lựa Của Chúa
Chúng ta nên nhớ thánh Simon này khác với Simon được Chúa Giêsu đặt tên là Phêrô và thánh Giuđa này khác với Giuđa Iscariốt. Phụng vụ trong ngày lễ mừng hai thánh Simon và Giuđa hôm nay, Chúa muốn cho chúng ta chứng kiến lại việc chọn các tông đồ.
Simon nhiệt thành và Giuđa mà chúng ta mừng kính hôm nay, không có những nét nổi bật như Simon Phêrô, Giacôbê và Gioan, và ngay cả Philipphê hay Batôlômêô mà cũng còn được nhắc đến thêm đôi ba lần nữa trong sách Tin Mừng, nhưng hai vị này thì chỉ nhìn thấy trong Nhóm Mười Hai, được Chúa Giêsu chọn sau khi Ngài đã trải qua một đêm cầu nguyện với Chúa Cha. Tuy nhiên cuộc sống và cái chết chứng tá của thánh Simon và thánh Giuđa sau này đủ để nói lên rằng các ngài đã sống trọn vẹn trong cung cách tông đồ của mình và xứng đáng với sự lựa chọn của Chúa.
Trọn vẹn trong phong cách tông đồ và xứng đáng với sự lựa chọn của Chúa, đó là điều mà ai ai cũng thế, khi đã theo Chúa thì chỉ ước mơ được như vậy. Ðã ước mơ thì phải cố gắng mà vươn tới để ước mơ được thành hiện thực. Mặc dù các sách Tin Mừng không nói nhiều về Simon nhiệt thành và Giuđa, nhưng chúng ta cứ nhìn vào các vị kia thì cũng biết được đôi chút về tính tình, về mong muốn, về cách sống của hai ông là bộc trực, tham vọng và cùng ăn cùng ở với Chúa Giêsu với hy vọng tìm được một địa vị xứng đáng hơn trong cuộc đời làm môn đệ.
Chúa Giêsu không chỉ nhìn thấy cái hiện trạng bất toàn đó của cả nhóm mà Ngài biết rằng với thời gian huấn luyện, với ơn Chúa Thánh Thần thì những con người ấy biết dùng ngay những bất toàn của mình vào trong công cuộc loan báo Tin Mừng và sẽ thành công. Vấn đề là làm sao để cho các ông nhận chân được mục đích của con đường mà các ông quyết định. Cũng với sự bộc trực ấy, cũng với những tham vọng ấy, cũng với những tình huynh đệ keo sơn ấy nhưng các ông không còn chỉ ước mơ danh vọng, địa vị tầm thường nữa mà khát vọng lan rộng biên giới Nước Trời, khát vọng cho mọi người nhận ra Thiên Chúa yêu thương họ. Nỗi niềm khát vọng ấy mãnh liệt đến độ đưa các ông là những con người sợ sóng gió, sợ quyền lực, sợ đủ mọi thứ đến chỗ gan dạ tột cùng của sự làm chứng, bằng lòng để bị treo như Thầy.
Lạy Cha,
Công trình của Cha vẫn nối tiếp cho đến thời sau hết với những con người mong manh thân phận nhưng kiên cường lập trường. Chúng con cảm tạ Cha vì gương sáng của hai vị tông đồ Simon nhiệt thành và Giuđa. Mừng kính hai ngài hôm nay, chúng con cũng muốn nói với chính mình rằng bởi sức riêng chúng con thật là vô ích, nhưng cùng với sức mạnh của Chúa Thánh Thần chúng con có thể làm được mọi sự. Giáo Hội đang nặng trĩu ưu tư cho công cuộc truyền giáo tại lục địa Á Châu to lớn, hai thánh tông đồ Simon và Giuđa sẽ là những khích lệ tuyệt vời cho những bước chân truyền giáo trên đất nước chúng con và trên lục địa Á Châu này.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 3: Thánh Simon và Giuđa.
Bí quyết cầu nguyện mà thánh Luca tường thuật lại mỗi khi có biến cố quan trọng xảy ra trên con đường truyền đạo của Đức Giêsu cho chúng ta thấy cuộc linh thao của Người đi sâu vào tình liên kết với Chúa Cha, một bí quyết liên kết độc nhất và siêu việt để cho chúng ta được thông hiệp với Người: “Thần khí làm cho anh em nên nghĩa tử khiến chúng ta được kêu lên: “Áp-ba! Cha ơi”. (Rm 8, 15). Nhưng lời cầu đó chẳng đáng gì vì lời cầu của Đức Giêsu bao bọc và gói gém mọi lời cầu của mọi người. Chỉ có Người mới có thể nói được: “Cha chúng con” với toàn diện sự thật. Chỉ có Người biết được Chúa Cha vì Người bởi Cha mà ra. Chỉ có Người sở hữu được thần khí vô lượng vô biên”. (Ga 3, 34)
Cầu nguyện
Sự liên kết độc nhất giữa Chúa Con với Chúa Cha là một sự cầu nguyện huyền nhiệm đã trở nên nền tảng cho mọi cầu nguyện khác. Chúng ta được nối kết với sự cầu nguyện ấy khi Đức Giêsu dạy chúng ta thưa: Lạy Cha! chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho đẹp lòng Chúa Cha, hay lại cầu nguyện sai lầm. Chúng ta phải nhớ rằng trung tâm của sự cầu nguyện chân chính là chính Đức Giêsu chứ không phải chúng ta. Chính Người đem lại ý nghĩa cầu nguyện cho chúng ta. Chính Con Người thâu nhận mọi lời than van kêu khấn của mọi người. Không phải vì độc đoán tự phụ cho riêng Người, nhưng là đem lời cầu nguyện của Đức Giêsu vào trong lòng chúng ta để chúng ta tiếp tục lời cầu nguyện của Người. Được như thế là vượt lên mọi cảm tình cá nhân, là từ bỏ mọi sự mà gắn bó với đức tin.
Tin
Tin là điều kiện độc nhất của lời cầu nguyện có giá trị. Chúa không đòi chúng ta phải lên hoàn hảo, Người chỉ đòi chúng ta tin vào Người. Nhiều người cầu nguyện nhiều, tuy không có gì trách mình, nhưng họ tưởng xin còn ít nên lời cầu của họ hình như không được nhận lơi. Họ tưởng họ tin nhiều, thực ra họ còn thiếu đức tin. Chúng ta tưởng chính ra phải được nếm thử sự đời đời trong lời cầu nguyện của chúng ta thì lại chỉ được nếm sự nghèo khó.
Hãy xem những người tội lỗi trong Tin Mừng đã được Chúa đoái thương vì họ có lòng tin. Niềm tin đó cho họ thấy họ chẳng đáng giá gì dưới đôi mắt của Đức Giêsu, nhưng họ chỉ tin vào giá máu của Người.
J.M
SUY NIỆM 4: Hai môn đệ trung kiên của Chúa
Ơn gọi là một cái gì huyền nhiệm. Bất cứ ai sinh ra trên thế giới này, một cách nào đó đều nghe được một tiếng mời gọi âm thầm nào đó trong cuộc đời của mình và rồi, con người đi theo tiếng gọi. Chúa Giêsu không chọn bất cứ ai mà không cầu nguyện lâu giờ và không đi vào cõi thâm sâu để hỏi ý Thiên Chúa Cha. Chúa cầu nguyện, chúng ta không biết Chúa nói gì, không biết Chúa trao đổi, bàn luận gì với Đức Chúa Cha, nhưng có một điều chúng ta nhận thấy Chúa luôn luôn làm theo ý Cha của Ngài. Thánh Simon và thánh Giuđa, tông đồ không nằm ngoài dự định của Chúa Giêsu. Ơn gọi của các Ngài cũng na ná trường hợp của các tông đồ khác. Chúa đi ngang nơi nào đó, Ngài kêu gọi, các tông đồ nhận ra tiếng gọi của Chúa và họ bỏ mọi sự để theo Đức Kitô.
Chúa tuyển chọn các Ngài và gọi các Ngài là “ Apostoloi “, nghĩa là người được sai đi. Nhưng, trước khi gọi các Ngài là Apostoloi, Chúa Giêsu đã cầu nguyện thâu đêm với Chúa Cha. Ngài chọn các tông đồ là do sự nhưng không, do ân huệ tuyệt vời của Ngài. Chúa không dựa trên những tiêu chuẩn mà người đời thường dùng để chọn hoặc cất nhắc một nhân vật nào đó như trình độ, tri thức, vóc dáng bề ngoài, cao, lớn, mập, gầy vv…Chúa tuyển chọn các tông đồ hoàn toàn do ý định của Ngài, không ai có quyền đòi Ngài phải chọn hay không chọn, Ngài tuyển chọn là do tình thương của Ngài.
Thánh Simon còn có biệt hiệu Simon người Cana, hay Simon nhiệt thành. Thánh Giuđa, có biệt danh là Tađêô, con của Giacôbê, anh em với Chúa Giêsu. Sở dĩ Hội Thánh mừng thánh Simon và Giuđa cùng một ngày là vì có sự trùng hợp trong việc loan báo Tin Mừng và trong việc tuyên xưng đức tin, đổ máu đào để làm chứng cho Chúa Giêsu. Và thực tế, thánh Simon người Cana hoàn toàn khác với thánh Simon Phêrô, vị tông đồ trưởng và là người làm đầu Giáo Hội tiên khởi. Theo thánh truyền, thánh Simon và thánh Giuđa đi truyền giáo ở hai nơi hoàn toàn khác nhau. Thánh Simon rao giảng, loan báo Đức Kitô tại Ai Cập, còn thánh Giuđa tại miền Mésopotamia. Được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, sau khi gặt hái được nhiều kết quả tốt đẹp trong việc rao giảng, hai thánh Simon và Giuđa đã cùng sang giảng đạo tại xứ Ba Tư. Chính tại nước Ba Tư, hai vị thánh này đã được phúc tử đạo làm chứng cho Chúa như các tông đồ khác.Thánh Giuđa rất trung thành với lời rao giảng, với lời Chúa nên Ngài không sợ hãi mà luôn chống lại những kẻ có thái độ khích bác Tin Mừng.
Hai thánh tông đồ Simon và Giuđa đã hiên ngang làm chứng cho Chúa phục sinh. Các Ngài đã lãnh triều thiên vinh quang Chúa dành cho những kẻ trung tín với Ngài.
Lạy thánh Simon và thánh Giuđa tông đồ, xin cầu bầu cùng Chúa cho chúng con để chúng con luôn hiên ngang làm chứng cho Chúa Kitô chịu đóng đinh thập giá và vinh quang sống lại. Amen.
SUY NIỆM 5: Có Chúa Giêsu mới sống thực
Hôm nay Hội Thánh kính hai thánh Tông Đồ Si-mon và Giu-đa. Ông Si-mon có biệt danh là Nhiệt Thành, có lẽ ông là người thuộc nhóm cực đoan, muốn dùng vũ lực chống Roma, còn ông Giu-đa cũng có tên là Ta-đê-ô, là tác giả thư cuối cùng trong bảy Thư Công Giáo. Ông là người hỏi Đức Giêsu trong bữa ăn tối: “Thưa Thầy, tại sao Thầy tỏ mình cho chúng con mà không tỏ cho thế gian”, và ông đã nhận được Lời Chúa hứa: “Ai yêu mến Thầy, thì Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,22-23).
Chưa bao giờ Đức Giêsu phải thức suốt đêm để cầu nguyện, ngoại trừ lúc Ngài chọn các môn đệ, để sai họ đi tiếp nối sứ mệnh của Ngài, hầu thâu họp muôn người về cho Chúa. Vì “ai có Chúa Giêsu thì sống, kẻ không có Chúa Giêsu là chết!” (1Ga 5,12). Do đó:
- Con người chỉ tồn tại nhờ được Chúa gọi tên (x Kn 11,25: Bản dịch Lm Nguyễn Thế Thuấn).
- Đụng chạm vào Chúa Giêsu chính là hiệp thông với Hội Thánh.
1/ Con người chỉ tồn tại nhờ được Chúa gọi tên (x Kn 11,25).
Thực vậy, trong danh sách 12 môn đệ Đức Giêsu chọn, họ là những người bình thường như bao người khác, thế nên danh sách Nhóm Mười Hai có tới ba cặp tên trùng nhau :
- Simon em của An-rê và Simon Nhiệt Thành.
- Giacôbê anh của Gioan và Giacôbê con của An-phê.
- Giuđa Nhiệt Thành và Giuđa Iscariot.
Sau khi Đức Giêsu cầu nguyện, sáng sớm Ngài gọi những người muốn chọn, họ có tên bình thường như bao người khác Xoài, Ổi, Mít, Chanh, Cam (x Lc 6,12-16)… Nếu Đức Giêsu không chọn gọi họ, thì nay “họ đã qua đi như không bao giờ có họ trên đời, bởi không người nào trên đời còn nhớ đến họ, họ xong đời là xong hẳn, và cả con cái họ sau này cũng thế thôi!” (Hc 44,9) Nhưng danh tính, sự nghiệp các môn đệ Đức Giêsu chọn vẫn còn lưu danh muôn thuở, chỉ vì Đức Giêsu đã gọi họ từ trong thế gian và họ không còn thuộc về thế gian nữa (x Ga 17,6.15), để rồi đi tập họp mọi sự về cho Chúa, như lời thánh Phao-lô nói: “Mọi sự thuộc về anh em, anh em thuộc về Chúa Ki-tô, Chúa Ki-tô thuộc về Chúa Cha” (1Cr 3,22-23).
2/ Đụng chạm vào Chúa Giêsu chính là hiệp thông với Hội Thánh.
Sau khi Đức Giêsu cầu nguyện để chọn các môn đệ và từ trên núi xuống, có cả đoàn lũ dân Do Thái miền Giu-đê, Giê-ru-sa-lem cùng với dân ngoại miền Tia và Xi-đôn, cả các bệnh nhân cũng lũ lượt kéo đến nghe Lời Đức Giêsu, và các bệnh nhân được chữa lành ; cả đến các người bị thần ô uế nhập, cũng tìm cách sờ vào Đức Giêsu, thì họ được lành mạnh ngay (x Lc 6,17-19: Tin Mừng). Hình ảnh này đã tiên báo về đời sống Hội Thánh Chúa Ki-tô, bởi vì từ núi Sọ, nơi Đức Giêsu bị đóng đinh, Ngài đã cầu nguyện cho cả kẻ hại Ngài được cứu độ, và từ cạnh sườn Ngài bị đâm, nước và máu đổ xuống phát sinh các Bí tích, đó chính là giờ phút Adam cuối cùng sinh Hội Thánh (x Ga 19). Như thế hình ảnh từ trên núi đi xuống trở thành dấu chỉ Đức Giêsu từ cõi chết sống lại, trước khi Ngài lên Trời, Ngài sai các môn đệ đi tập họp muôn dân bằng hai việc: ban Thánh Tẩy và dạy dân những Lời Đức Giêsu truyền (x Mt 28,19-20). Ai gia nhập Hội Thánh là người đó được Đức Giêsu chộp lấy (x Pl 3,12). Những ai thuộc về Hội Thánh Chúa Ki-tô thì thánh Tông Đồ nói: “Anh em không còn phải là người xa lạ, hay là người tạm trú, nhưng là người đồng hương với những người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa, bởi đã được xây dựng trên nền móng là các Tông Đồ và ngôn sứ, còn đá tảng góc tường là chính Chúa Ki-tô Giêsu. Trong Người toàn thể công trình xây dựng ăn khớp với nhau và vươn lên thành ngôi đền thánh trong Chúa. Trong Người, cả anh em nữa, cũng được xây dựng cùng với những người khác thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí” (Ep 2,19-20: Bài đọc).
Trong đoạn thư này thánh Phao-lô nhấn mạnh: người được Chúa chọn là người đồng hương, là người nhà của Thiên Chúa, là ông muốn cho các tín hữu hiểu rằng: Chúa sẽ ra sức bảo vệ mạng sống họ, đến nỗi sợi tóc trên đầu của họ cũng không bị mất! (x Mt 10,30) Điều này quan trọng hơn ông Phao-lô vốn dĩ là người Do Thái, nhưng để việc rao giảng Tin Mừng tránh người Do Thái trù dập tối đa, Phao-lô đã lấy được quốc tịch Roma để bảo vệ ông. Vì ai thuộc về công dân Roma, thì không người nào được quyền đánh họ trên 39 roi! Chính vì vậy mà năm lần ông bị người đồng chủng đánh không quá 39 trượng! Nhiều người Do Thái thấy thế thèm, nên hỏi ông Phao-lô: “Phải tốn bao nhiêu tiền mới có quốc tịch ấy?” (x Cv 22,28 ; 2Cr 11,24-25). Còn người Công Giáo chẳng mất xu nào mà có quốc tịch Nước Trời, để cùng với muôn tạo vật diễn tả vinh quang Thiên Chúa, đúng với lời kinh: “Tiếng các ngài đã vang dội khắp hoàn cầu”.
SUY NIỆM 6: Người chọn lấy mười hai ông
(Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc)
Bài Tin Mừng kể lại cho chúng ta ơn kêu gọi của các Tông Đồ, trong đó có thánh Simon Nhiệt Thành và thánh Giu-đa Ta-đê-ô mà chúng ta mừng kính hôm nay. Chiêm ngắm ơn gọi của các ngài, sẽ giúp chúng ta hiểu được ơn gọi của chính chúng ta; bởi vì ơn gọi của các Tông Đồ là khuôn mẫu của mọi ơn gọi; và mọi ơn gọi khơi nguồn từ ơn gọi của các Tông Đồ và tham dự vào ơn gọi của các Tông Đồ.
Đức Giê-su lên núi
“Trong những ngày ấy, Đức Giê-su đi ra núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa” (c. 12).
Trong lịch sử cứu độ, núi là biểu tượng của nơi Thiên Chúa hiện diện:
Lạy Chúa, ai được vào ngụ trong Nhà Chúa,
được ở trên núi thánh của Ngài. (Tv 15)
Con yêu mến Ngài Lạy Chúa, là sức mạnh của con,
Lạy Chúa là núi đá, là thành lũy, là Đấng giải thoát con. (Tv 18)
Với câu Thánh Vịnh được trích dẫn ở trên, núi còn là một tên gọi của Đức Chúa: “Người là Núi Đá”. Trong cuộc sống, chúng ta cũng cần một nơi diễn tả sự hiện diện của Thiên Chúa.
Trước đó, Đức Giêsu ở trong hội đường giảng dạy và chữa bệnh; bây giờ Ngài lên núi để cầu nguyện.
Đó chính là hai chiều kích làm nên chính cách sống của Đức Giê-su, chiều kích hoạt động (hay làm việc) và chiều kích cầu nguyện.
Và đó cũng là hai chiều kích làm nên đời sống của tất cả những ai đi theo Đức Giê-su trong ơn gọi gia đình, và nhất là trong ơn gọi dâng hiến, dù đan tu hay Tông Đồ. Và quả thực, hàng ngày chúng ta vẫn sống theo nhịp sống của Đức Giê-su: hoạt động và cầu nguyện đan xen nhau mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm, mỗi giai đoạn huấn luyện và cả đời sống Ki-tô hữu và đời sống dâng hiến của chúng ta.
Đôi khi, nhịp sống này đối với chúng ta trở thành nặng nề, nhất là cầu nguyện. Nhưng dưới ánh sáng cuộc đời của Đức Giê-su, chúng ta được mời gọi nhận ra đó là một ơn huệ, ơn huệ được trở nên giống Chúa ở mức độ đơn sơ nhưng thiết yếu nhất. Nhờ đó, chúng ta dễ dàng đi vào tâm tình tạ ơn và làm trổ sinh hoa trái trong đời sống của chúng ta.
Đức Giêsu chọn các Tông Đồ
Mỗi lần Đức Giê-su lên núi cầu nguyện và cầu nguyện suốt đêm, chính là để chuẩn bị làm một việc hệ trọng. Giống như chúng ta đi tĩnh tâm, trong những thời điểm quan trọng trong hành trình làm người và nhất là trong hành trình ơn gọi. Trước khi Đức Giê-su chọn mười hai vị mà Ngài gọi là Tông Đồ, có thể nói Người đã “tĩnh tâm” trước.
Điều này có nghĩa là, ơn gọi của các Tông Đồ và ơn gọi của chính chúng ta, không phải là một chuyện may rủi, hay do nỗ lực “trụ lại bằng mọi giá”, nhưng là một việc hệ trọng đối với Chúa, Chúa phải chuẩn bị bằng một đêm cầu nguyện trên núi với Thiên Chúa Cha. “Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại Giê-su gọi mười hai môn đệ lại và chọn lấy mười hai ông” (c. 13)
Như thế, ơn gọi đến từ chính ý muốn và tiếng gọi của Chúa.
Và ơn gọi của chúng ta cũng vậy, cho dù chúng ta đã đến với đời sống ơn gọi của chúng ta như thế nào, bởi những động lực hay lí do nào. Nhưng với thời gian, nhất là trong thời gian huấn luyện, chúng ta được mời gọi đặt đời sống ơn gọi của mình trên nền tảng tận cùng là “Ơn Được Gọi”. Nếu ơn gọi của chúng ta đặt trên một nền tảng khác, thì chắc chắn sẽ sụp đỗ, không sớm thì muộn; và sụp đổ ngay từ bên trong.
Nhưng Chúa muốn gọi chúng ta từ khi nào? Chúng ta nghe được tiếng gọi của Chúa vào một lúc nào đó trong cuộc đời; nhưng theo Thánh Phao-lô, Chúa đã gọi và chọn chúng ta ngay từ trong bụng mẹ và từ trước muôn đời. Xác tín này giúp chúng ta nhận ra rằng, ơn gọi là một ơn hoàn toàn nhưng không, chúng ta được Chúa tạo dựng là để sống ơn gọi mà chúng ta đang sống (Tv 139; Gl 1, 15). Và Chúa gọi đích danh từng người: Đó là ông Si-môn mà Người gọi là Phê-rô, rồi đến ông An-rê, anh của ông; sau đó là các ông Gia-cô-bê, Gio-an, Phi-líp-phê, Ba-tô-lô-mê-ô, Mát-thêu, Tô-ma, Gia-cô-bê con ông An-phê, Si-môn biệt danh là Quá Khích, Giu-đa con ông Gia-cô-bê, và Giu-đa Ít-ca-ri-ốt…(c. 14-15)
Cũng vậy, Chúa cũng gọi tên từng người chúng ta. Chúng ta hãy hình dung từng khuôn mặt ngang qua tên gọi: ngoại hình, nguồn gốc, tương quan, khuynh hướng, nghề nghiệp, thao thức… Như thế, các môn đệ được Chúa gọi, khi các ông vẫn còn đầy giới hạn, bất toàn như chúng ta. Bởi vì, tiếng gọi của Chúa là nhưng không, đặt hết lòng tin nơi người được gọi.
Ghi nhớ lòng tin “muôn ngàn đời” của Chúa đặt để nơi chúng ta, khi chúng ta chưa là gì và khi đã “là gì”, thì là gì một cách rất bất xứng và sẽ mãi mãi “là gì” rất bất xứng, sẽ khởi dậy nơi chúng ta lòng khát khao đáp trả cách quảng đại và nhưng không.
Đức Giêsu xuống núi cùng với các Tông Đồ
Các Tông Đồ được chọn ở trên núi, nhưng chính là để theo Đức Giê-su xuống núi, vì cả một nhân loại đông đúc đang mong chờ để nghe lời Đức Giê-su và để được chữa lành. Nhưng các ông chưa phải làm gì cả, chỉ lắng nghe Đức Giê-su giảng và nhìn ngắm Ngài chữa lành bệnh tật, nhất là nhìn ngắm sự kiện: Tất cả đám đông tìm cách đụng vào Ngài, vì có một năng lực tự nơi Ngài phát ra, chữa lành hết mọi người.(c. 19)
Các Tông Đồ và cả chúng ta nữa, sẽ được Đức Giê-su tin tưởng trao ban sứ mạng thực hiện cùng những gì mà Ngài đã làm, nghĩa là rao giảng Lời Chúa và phục vụ sự sống của nhiều người.
Nhưng dù chúng ta làm việc gì, có chức vụ gì, sứ mạng của chúng ta vẫn là giúp người ta “đụng chạm” cho được Đức Ki-tô.
Nhưng thật ra, Ngài vẫn đến “đụng chạm” chúng ta hằng ngày ngang qua Lời của Ngài và Thánh Thể của Ngài. Xin cho chúng ta biết để cho Chúa “đụng chạm”, như khi chúng ta còn nằm trong bụng mẹ (x. Tv 139, 13-16) và cảm nhận được, từ nơi Ngài, xuất phát một sức mạnh chữa lành tất cả và tái sinh chúng ta cho sự sống và cho Gia Đình Nhân Loại mới của Chúa.
27/10 Nước Thiên Chúa
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Nước Thiên Chúa.
Thứ Ba tuần 30 thường niên.
"Hạt cải mọc lên và trở thành một cây to".
Lời Chúa: Lc 13, 18-21
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Nước Thiên Chúa giống như cái gì? Và Ta sẽ so sánh nước đó với cái gì? Nước đó giống như hạt cải mà người kia lấy gieo trong vườn mình. Nó mọc lên và trở thành một cây to, và chim trời đến nương náu trên ngành nó".
Người lại phán rằng: "Ta sẽ so sánh Nước Thiên Chúa với cái gì? Nước đó giống như tấm men mà người đàn bà kia lấy bỏ vào ba đấu bột, cho tới khi tất cả khối đều dậy men".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Lớn lên và trở thành
Suy niệm:
Hai dụ ngôn trên đây tỏ ra lạc quan và hy vọng.
Nước Thiên Chúa đã được Đức Giêsu khai mở và loan báo.
Nước ấy cần có thời gian để lớn lên, để tác động trên con người.
Chắc chắn kết quả cuối cùng sẽ rất tốt đẹp.
Một người đàn ông ném vào khu vườn của mình một hạt cải nhỏ bé.
Ông có ước mơ mong mỏi gì không?
Vậy mà theo thời gian, hạt cải ấy đã lớn lên và trở thành một cây.
Cây vững đến nỗi chim trời đến làm tổ trên cành của nó được (c. 19).
Đức Giêsu muốn làm nổi bật sự phát triển mạnh mẽ của Nước Trời.
“Lớn lên và trở thành” là một tiến trình do Thiên Chúa dẫn dắt.
Bất chấp những khó khăn trong hiện tại, Nước Trời vẫn cứ lớn lên,
để rồi sẽ là nơi trú ngụ cho nhiều người ở khắp nơi tìm đến.
Một phụ nữ lấy men và vùi nó vào một lượng bột rất lớn.
Men không nhiều, lại được vùi sâu, nên có vẻ như không hiện hữu.
Nhưng trong thực tế, men đã có đó rồi và đang tác động trên bột.
Với thời gian, men làm cả khối bột dậy men.
Bấy giờ sức biến đổi của men mới được mọi người nhận biết.
Khối bột lên men đã sẵn sàng trở nên những ổ bánh ngon lành.
Đức Giêsu làm nổi bật sức mạnh của Nước Thiên Chúa
trong việc biến đổi thế giới này từ bên trong.
Chính sự tiếp xúc trực tiếp, sự thâm nhập của men vào bột
đã tạo ra sự biến đổi kỳ diệu ấy.
Những lời giảng của Đức Giêsu đã vang lên từ hai mươi thế kỷ.
Nước Thiên Chúa đã được Ngài khai mở và vun trồng mãi đến nay.
Kitô giáo vẫn là một tôn giáo lớn, chiếm một phần ba dân số thế giới.
Nhưng có những lúc chúng ta có cảm tưởng như nó bị chựng lại.
Khi có nhiều nhà thờ phải bán đi vì không có người đi lễ Chúa nhật,
khi các chủng viện hay dòng tu trở nên vắng vẻ, già nua,
khi ở nhiều nơi số linh mục thiếu một cách trầm trọng,
khi tỷ lệ tăng của Kitô hữu không bằng với tỷ lệ tăng của dân số thế giới.
Kitô giáo có tương lai không?Kitô giáo có thể bị tàn lụi không?
Những câu hỏi đó làm nhiều người bận tâm và lo lắng.
Hai dụ ngôn của Đức Giêsu hôm nay đem lại cho ta niềm lạc quan.
Nhưng đó không phải là thứ lạc quan vô trách nhiệm.
Làm cho Nước Thiên Chúa lớn lên và thâm nhập vào thế giới hôm nay,
đó không phải chỉ là chuyện của Thiên Chúa.
Đó là chuyện của từng Kitô hữu chúng ta.
Để hạt cải thành cây, cần một chút chăm bón.
Ai trong chúng ta cũng là một nhúm men nhỏ được vùi trong đống bột,
đống bột của trường học hay công ty, của một tập thể hay cộng đồng.
Làm sao để men của chúng ta tạo ra những tác dụng tốt?
Không cần phải làm những việc lớn lao để thay đổi bộ mặt thế giới.
Chỉ xin làm một nhúm men nhỏ để đến với những người tôi gặp hôm nay.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin thương nhìn đến Hội Thánh
là đàn chiên của Chúa.
Xin ban cho Hội Thánh
sự hiệp nhất và yêu thương,
để làm chứng cho Chúa
giữa một thế giới đầy chia rẽ.
Xin cho Hội Thánh
không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,
đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
Ước gì Hội Thánh trở nên men
được vùi sâu trong khối bột loài người
để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp
để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội Thánh
trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,
nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.
Cuối cùng xin cho chúng con
biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,
nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.
Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,
nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: HẠT CẢI VÀ NẮM MEN
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thật đời thường. Thật kỳ diệu. Nhưng cũng thật thâm sâu. Như hạt cải và nắm men Nước Trời khởi đầu thật bé nhỏ. Hạt cải li ti chẳng ai nhìn thấy. Nắm men nhỏ bé chẳng ai quan tâm. Hạt cải gieo xuống chìm sâu trong đất. Nắm men biến mất trong thúng bột khổng lồ. Tan biến đi. Nhưng không tàn lụi. Mà phát triển mạnh mẽ không ngờ. Cây cải mọc lên cao lớn. Chim chóc tìm đến trú ẩn. Cả thúng bột dậy men. Trở thành bánh thơm ngon cho người đời.
Có một biến đổi sâu xa. Nhỏ bé trở thành lớn lao. Yếu đuối trở thành mạnh mẽ. Có những đau xót âm thầm. Hạt cải vùi chôn và mục nát. Nắm men phân huỷ tan tành. Không còn là mình nữa.. Mất chính thân mình. Mất căn tính mình. Chẳng còn hiện diện. Không còn hạt cải. Không còn nắm men. Đem lại lợi ích lớn lao. Không cho mình nhưng cho tha nhân. Cho chim chóc đến trú ngụ. Cho người đời có bánh ăn.
Thư Rô-ma giải nghĩa hiện tượng chuyển hoá bằng thời kỳ người phụ nữ chuyển dạ. Cả thế giới đang chuyển dạ. Muôn vật đang rên siết đau đớn. Hạt cải và nắm men đang mục nát tan biến. Muôn loài phải trải qua kinh nghiệm hư vô. “Cho đến bây giờ, muôn loài htuj tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở. Không phải muôn loài mà thôi, cả chúng ta cũng rên siết trong lòng”. Hạt cải Thần Khí đã gieo vào lòng ta. Đã gieo vào lòng thế giới. Để con người xác thịt tan biến đi. Để thế giới được Thần Khí hoá. Đau đớn lắm. Nhưng thánh Phao-lô xác quyết “những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (năm lẻ). Qua đau khổ sẽ đến hạnh phúc. Qua tủi nhục sẽ hưởng vinh quang.
Từ bỏ chính mình vì người khác. Hạt cải tan biến để chim chóc có chỗ nương thân. Nắm men tan biến để con người có tấm bánh thơm ngon. Con người cũng phải sống mầu nhiệm Nước Trời. Huỷ mình vì người khác. “Người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt”. Đó là mầu nhiệm tự huỷ mà Chúa Giê-su đã làm gương. Chúa Giê-su đã là hạt cải gieo vào lòng đất. Đã là nắm men vùi vào thúng bột thế giới. Chúa đã trở nên bé nhỏ. Đã tan biến đi. Trở thành cây cao bóng cả cho chúng ta trú ngụ. Trở thành tấm bánh thơm ngon nuôi sống chúng ta (năm chẵn).
Chúng ta hãy đi theo con đường của Chúa. Hãy chịu rên siết đớn đau. Để sinh ra một thế giới mới. Để Nước Trời ngự trị. Đó là vinh quang ta hằng ngong ngóng đợi chờ.
Suy Niệm 3: Sức Mạnh Nội Tại Của Nước Chúa
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta suy niệm hai dụ ngôn về Nước Trời: hạt cải và nắm men. Cả hai dụ ngôn làm nổi bật khởi điểm khiêm tốn nhỏ bé của Nước Chúa so với sự hoàn thành cuối cùng.
Dụ ngôn hạt cải nhấn mạnh sự phát triển theo chiều rộng: từ hạt cải nhỏ bé trở thành cây to, đến độ chim trời có thể đến làm tổ được. Dụ ngôn nắm men được đem trộn vào bột nhấn mạnh đến chiều sâu, tức phẩm chất của Nước Chúa: từ một chút men có thể làm dậy cả khối bột. Cả hai dụ ngôn đều nhấn mạnh đến sức mạnh nội tại của Nước Chúa, một sức mạnh chỉ được nhìn thấy bằng đức tin mà thôi. Thật thế, khi kể hai dụ ngôn này, Chúa Giêsu không nhằm đến diễn tiến Nước Chúa đang xảy ra như thế nào trong lịch sử, mà chỉ nhằm nhấn mạnh đến tình trạng hoàn tất chung cuộc vào lúc cuối lịch sử: mặc cho những thử thách, những ngăn trở, Nước Chúa dù được bắt đầu một cách khiêm tốn nhỏ bé, nhưng chắc chắn sẽ đạt đến mức phát triển trọn vẹn.
Hai dụ ngôn: Hạt Cải và Nắm Men trong bột, gởi đến chúng ta một sứ điệp hy vọng, nhất là khi phải đương đầu với trở ngại, thử thách trong đời sống đức tin. Nhìn thấy những điều tiêu cực luôn xảy ra trong Giáo Hội và trên thế giới, chúng ta có thể tự hỏi: Những hạt cải giá trị Kitô liệu còn có thể mọc lên và phát triển trong một thế giới ngày càng bị tục hóa và bị nhiễm tinh thần đối nghịch với Thiên Chúa không? Một chút men Lời Chúa có đủ sức thu hút và biến đổi con người nên tốt hơn không? Ðã hơn 2.000 năm kể từ khi Con Thiên Chúa nhập thể làm người và thực hiện công cuộc cứu chuộc nhân loại qua cái chết trên Thập giá, nhưng thử hỏi nhân loại ngày nay có tốt đẹp hơn ngày xưa không?
Nếu suy nghĩ theo lý luận tự nhiên, chúng ta có thể dễ dàng rơi vào thất vọng. Tuy nhiên, những lời của Chúa Giêsu qua hai dụ ngôn trên đây không cho phép chúng ta bi quan ngã lòng. Chúng ta không nhìn thấy tương lai Nước Chúa sẽ như thế nào nhưng Chúa muốn chúng ta cộng tác vào đó, bằng sự cầu nguyện và dấn thân làm những gì có thể với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần.
Xin Chúa mở rộng con mắt đức tin chúng ta, để chúng ta nhìn thấy tác động âm thầm của tình yêu Chúa trong những biến cố hằng ngày. Xin cho chúng ta luôn kiên trì trong thử thách và luôn hy vọng vào Chúa trong mọi sự.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Sức Mạnh Của Nước Thiên Chúa
Hôm nay Giáo Hội chúng ta được mời gọi suy niệm các câu 18-21 của chương 13 Phúc Âm theo thánh Luca, kể lại hai dụ ngôn ngắn của Chúa Giêsu về Nước Trời giống như hạt cải và giống như men được trộn với bột. Cả hai dụ ngôn đều làm nổi bật điểm khởi đầu khiêm tốn nhỏ nhoi của Nước Chúa so với sự hoàn thành cuối cùng.
Dụ ngôn về hạt cải nhấn mạnh đến sự phát triển theo chiều ngang, theo thể lượng từ hạt cải nhỏ bé trở thành cây có cành lá to lớn đến nỗi chim trời có thể đến đậu vào được; và dụ ngôn thứ hai về chất men được đem trộn vào bột, nhấn mạnh đến chiều sâu, đến phẩm chất sâu xa của Nước Chúa từ chất men có thể làm dậy cả thúng bột.
Cả hai đều nhấn mạnh đến sức mạnh nội tại của Nước Chúa, một sức mạnh mà chúng ta nhìn thấy nhờ đức tin mà thôi. Không có đức tin chúng ta sẽ không vượt qua được những thử thách xem ra như đang cản trở sự phát triển của Nước Chúa trên trần gian này. Chúng ta cũng lưu ý thêm là khi kể hai dụ ngôn này, Chúa Giêsu không nhằm đến diễn tiến đang xảy ra của Nước Chúa như thế nào trong dòng lịch sử, mà chỉ nhằm nhấn mạnh đến tình trạng hoàn tất chung cuộc vào cuối cùng của lịch sử. Mặc cho những thử thách, những ngăn trở Nước Chúa dù được bắt đầu một cách hết sức khiêm tốn, nhỏ nhoi nhưng chắc chắn cuối cùng sẽ đạt đến mức phát triển trọn vẹn.
Hai dụ ngôn trên của Chúa Giêsu gởi đến mỗi người chúng ta một sứ điệp hy vọng, nhất là khi chúng ta phải đương đầu với những trở ngại, những thử thách trong đời sống đức tin, khi chúng ta nhìn thấy những điểm tiêu cực không ngừng xảy ra trong Giáo Hội, trong Nước Chúa.
Những hạt cải giá trị Kitô liệu còn có thể mọc lên và phát triển trong một thế giới càng ngày càng bị trần tục hóa, càng ngày càng nhiễm tinh thần đối nghịch với Thiên Chúa hay không? Chất men lời Chúa có đủ sức mạnh thu hút con người và biến đổi con người trở nên tốt hơn hay không? Gần hai ngàn năm rồi, kể từ khi Con Thiên Chúa xuống thế thực hiện công việc cứu chuộc nhân loại qua cái chết trên thập giá và sống lại nhưng thử hỏi, nhân loại ngày hôm nay có tốt hơn ngày xưa không? Nếu suy luận theo cái lý tự nhiên, theo những toan tính phàm trần có thể chúng ta sẽ dễ dàng rơi vào thất vọng. Nhưng lời dạy của Chúa Giêsu qua dụ ngôn trên không cho phép chúng ta bi quan ngã lòng, chúng ta không nhìn thấy tương lai Nước Chúa sẽ hoàn tất như thế nào nhưng hàng ngày chúng ta hãy lắng nghe lời Chúa dạy và cầu nguyện: "Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời". Chúng ta hãy cầu nguyện và dấn thân làm tất cả những điều mình có thể với ơn Chúa soi sáng.
Lạy Chúa,
Xin mở rộng đôi mắt niềm tin chúng con để chúng con được nhìn thấy những tác động âm thầm của tình yêu Chúa trong những biến cố hàng ngày. Xin thương ban cho chúng con được kiên trì trong những thử thách và luôn luôn hy vọng vào Chúa trong mọi sự.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Nước Trời Là Gì?
Nước Thiên Chúa giống như chuyện một hạt cải người nọ lấy gieo trong vườn mình. Nó lớn lên và trở thành cây, chim trời làm tổ trên cành được.
Người lại nói: “Tôi phải ví Nước Thiên Chúa với cái gì? Nước Thiên Chúa giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba đấu bột, cho đến khi tất cả bột dậy men.” (Lc. 13, 19-21)
Sau khi nói về ngày nước Thiên Chúa đến, Đức Giêsu muốn dân chúng hiểu rằng triều đại nước Chúa không phải là tai biến lớn của vũ trụ như các ngôn sứ loan báo. Ngày phán xét như Người đã nói trên, nhưng bắt đầu triều đại Thiên Chúa thì giác quan không thể thấy được. Đức Giêsu chỉ giới thiệu nước Thiên Chúa bằng những hành động chữa lành các bệnh tật và giải thoát khỏi thần dữ. Đó là những dấu chỉ nước trời. Qua dấu chỉ đó cho ta biết triều đại Thiên Chúa chính là sự sống đời đời trong con người và trong Giáo hội. Sự sống lành mạnh, không còn bệnh tật, đau khổ, chết chóc, sự sống thánh thiện, không còn dấu vết của sự dữ, của quỷ thần xấu xa tội lỗi.
Phát triển của sự sống nước trời
Hạt cải đen sấp sỉ lớn bằng đầu mũi kim khâu, ở bờ hồ Giê-nê-sa-rét. Cây nó cao lớn từ hai mét năm mươi đến ba mét (8-9 bộ). Lúc đầu, nó nhỏ nhất, bé bỏng nhất, lớn lên thật đáng ngạc nhiên, nếu vườn được trồng cấy quang đãng và tưới bón kỹ.
Đời sống đời đời trong mỗi Kitô hữu như hạt cải nhỏ bé được lớn lên nhờ ánh sáng lời Chúa, sức nóng ấm áp của tình yêu Thiên Chúa và nước hằng sống của Thánh Thần, như thế, nó có thể lớn lên tới mức cho “chim trời đến làm tổ trú ẩn”. Nghĩa là cho các nhân đức sinh sôi nảy nở, được chở che và nuôi sống.
Sự sống dậy men, lan rộng
Ban chiều, bà nội trợ lấy nắm men trộn vào ba mươi ký lô bột (ba đấu). Sáng hôm sau, tất cả khối bột đã dậy men và chuẩn bị đặt vào lò.
Hành động của Thiên Chúa trong Giáo hội cũng thế: Không thể thấy, không thể cảm được, lời Đức Giêsu thông ban sự sống cho mọi người qua nắm tay của các môn đệ cũng không thể thấy, không thể cảm được. Những người đó đang phát triển theo quyền năng biến đổi của men hằng sống và truyền thông sức mạnh đó sang người khác. Và cứ thế lan rộng, không gì có thể ngăn cản khối người đang phát triển đó. Chính vì thế, nước Thiên Chúa tiếp tục lớn mạnh, nhưng chẳng trông thấy sức sống mạnh mẽ đó từ khi khởi đầu cho đến tận thế. Chỉ có người đã nhận được sự khôn ngoan của Thiên Chúa nhờ đức tin, trong khiêm tốn và phó thác cho hành động của lời Chúa, mới có thể am tường được nước trời đã đến và ngày giờ đút lò sắp tới.
Suy Niệm 5: NHỎ MÀ VĨ ĐẠI (Lc 13, 18-21)
Xem thêm CN 11 TN B (Mc 4,26-34), thứ Sáu tuần 3 TN (Mt 13,31-32), Và thứ Hai tuần 17 TN
Ở đời, người ta thường xem nhẹ những điều nhỏ mọn và coi đó như là chuyện không cần bàn, vì thế cũng đâu cần quan tâm!
Tuy nhiên, những điều tưởng chừng như bé nhỏ ấy lại là nguyên nhân cần thiết để trở thành những điều lớn lao.
Thật vậy, nhà Phật có câu:
“Hãy nhìn một em bé
Xin người chớ xem thường
Trong em có chất liệu
Của một bậc đế vương”.
Hay là:
“Hãy nhìn một đốm lửa
Xin người chớ xem thường
Dù nhỏ bằng đầu đũa
Đốt cả rừng lẫn nương”.
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu muốn nói đến sự lớn mạnh của Nước Trời qua dụ ngôn hạt cải và nắm men.
Thật vậy, hạt cải của vùng Palestine là một loại hạt nhỏ bé nhất trong những loài thảo mộc, nhưng khi nó đã lớn, thân cây của chúng cao to, có thể là nơi chim trời về làm tổ trong những tán lá xum xuê. Còn khi nói Nước Trời như một nắm men, Đức Giêsu cho thấy Nước ấy cũng sẽ lớn mạnh như men làm cho bột dạy lên thế nào thì Đạo Thánh mà Ngài thiết lập cũng sẽ lan rộng như vậy.
Thật thế, ngày nay, nhìn ra thế giới, chúng ta nhận thấy rất rõ sự lớn mạnh này. Khởi đi từ một nhóm môn đệ ít ỏi và lại gặp biết bao thử thách từ trong trứng nước như: cấm cách, bắt bớ và giết chết bằng những hình thức hết sức tàn bạo, dã man... Tuy nhiên, càng thử thách bao nhiêu, càng phát triển bấy nhiêu, đôi khi có lúc âm thầm, nhưng như than hồng rực nóng hơn nhiều lần ngọn lửa thế nào thì Đạo của Chúa cũng mạnh mẽ và mãnh liệt như vậy. Lịch sử Giáo Hội Việt Nam của chúng ta cũng chứng minh rất rõ điều đó!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta biết cậy dựa và đặt niềm tin nơi Chúa. Tin tưởng rằng mình chẳng là gì, rất bé nhỏ, nhưng một khi đã gắn kết với Chúa trong sự khiêm tốn thì chắc chắc Chúa sẽ dùng vào những chuyện lớn lao cho chương trình của Ngài. Ví dụ như Phêrô; Phaolô; Âu tinh...
Khiêm tốn chính là vũ khí để chống lại những kẻ kiêu ngạo đang ngang ngược chống phá Giáo Hội. Chúng ta vững tin, sẽ có ngày chỉ một nắm men nhỏ, chúng ta sẽ làm cho cả khối bột dạy men nhờ ơn Chúa.
Điều quan trọng là hạt cải phải mục nát đi, men phải được hòa tan trong bột thế nào thì đời sống của người Kitô hữu cũng phải như vậy, tức là đời sống đạo của chúng ta phải chan chứa tình Chúa, tình người, sống công bằng, từ bi, nhân hậu, hiền hòa, nhẫn nại... Có thế, chúng ta mới làm cho hạt cải của niềm tin sống động làm chỗ dựa cho người khác. Làm cho men yêu thương lan tỏa để nhiều người yêu mến Chúa hơn.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết khiêm tốn và trung thành gắn bó với Chúa để can đảm ra đi làm chứng cho Chúa bằng khả năng nhỏ mọn đơn sơ nhưng chân thành. Xin Chúa đón nhận và làm cho đóng góp của chúng con được hữu hiệu trong tình yêu Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
26/10 Đừng giả hình.
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Đừng giả hình.
Thứ Hai tuần 30 thường niên.
"Chớ thì không nên tháo xiềng xích buộc người con gái của Abraham này trong ngày Sabbat sao?"
Lời Chúa: Lc 13, 10-17
Khi ấy, nhân ngày Sabbat, Chúa Giêsu giảng dạy trong một hội đường. Và đây có một người đàn bà bị quỷ ám làm cho bà đau yếu đã mười tám năm. Bà bị khòm lưng, hoàn toàn không thể trông lên được. Khi Chúa Giêsu xem thấy bà, Người liền gọi bà đến mà bảo rằng: "Hỡi bà kia, bà được khỏi tật của bà". Rồi Người đặt tay trên bà ấy, tức thì bà đứng thẳng lên và tôn vinh Thiên Chúa.
Nhưng viên trưởng hội đường tức giận, vì Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabbat, nên ông cất tiếng bảo dân chúng rằng: "Có sáu ngày người ta phải làm việc: vậy thì các người hãy đến xin chữa bệnh trong ngày đó, chớ đừng đến trong ngày Sabbat".
Chúa trả lời và bảo ông ta rằng: "Hỡi những kẻ giả hình, chớ thì trong ngày Sabbat, mỗi người trong các ông không thả bò hay lừa của mình ra khỏi chuồng mà dẫn nó đi uống nước sao? Phương chi người con gái của Abraham này, Satan cột trói nó đã mười tám năm nay, chớ thì không nên tháo xiềng xích buộc nó trong ngày Sabbat sao?" Khi Người nói thế, tất cả những kẻ chống đối Người đều hổ thẹn, và toàn dân vui mừng vì những việc lạ lùng Người đã thực hiện.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Đứng thẳng được
Suy niệm:
Trong dòng tiến hóa từ vượn lên đến người,
có một thay đổi bên ngoài khá rõ nét.
Càng tiến hóa thì lưng con vật càng thẳng hơn.
Khi con người có thể đứng thẳng, tầm nhìn sẽ rộng hơn, xa hơn.
Hai chi trước được tự do nên có thể làm được nhiều điều phức tạp.
Đứng thẳng đúng là một nét đặc trưng của con người
Người phụ nữ trong bài Tin Mừng hôm nay bị còng lưng đã lâu.
Mười tám năm không thể nào đứng thẳng lên được (c. 11).
Lưng bà còng hẳn xuống khiến tầm nhìn của bà bị giới hạn.
Có lẽ bà chỉ nhìn thấy mảnh đất nhỏ trước mặt hơn là thấy bầu trời cao.
Bệnh này thật khó chịu, khiến bà đi đứng khó khăn.
Vậy mà bà vẫn có mặt ở hội đường vào ngày sabát, khi Đức Giêsu giảng.
Dù bà thấp vì còng lưng, Ngài vẫn trông thấy bà.
Dù bà chẳng xin gì, Ngài vẫn chủ động gọi để gặp bà (c. 12).
Đức Giêsu nhìn thấy sự trói buộc do cơn bệnh dai dẳng.
“Này bà, bà đã được giải thoát khỏi tật nguyền.”
Chữa bệnh chính là đem lại giải thoát cho người phụ nữ.
Hơn nữa, Đức Giêsu còn đặt tay trên bà như một cử chỉ yêu thương.
Tức khắc bà còng lưng đã có thể đứng thẳng lên được.
Điều mơ ước từ mười tám năm, bỗng chốc thành hiện thực.
Bà có thể nhìn thấy bầu trời và cất lời tôn vinh Đấng ngự trên đó (c. 13).
Đức Giêsu coi bệnh của bà như một sự trói buộc của Xatan (c. 16).
Không phải chỉ là trói buộc bằng dây như người ta cột bò lừa (c. 15),
mà là trói buộc bằng xiềng xích.
Chính vào ngày sabát, Đức Giêsu đã cởi xiềng xích đó cho bà,
để bà được tự do, được đứng thẳng như một người bình thường.
Bà còng lưng bị trói buộc bởi gánh nặng của bệnh tật.
Nhưng có bao thứ trói buộc khác làm con người mất tự do.
Như người phụ nữ này, chúng ta muốn và cố làm cho mình đứng thẳng,
nhưng hoàn toàn bó tay từ nhiều năm qua.
Có những thứ trói buộc do tác động bên ngoài,
nhưng có thứ xiềng xích do chính chúng ta đúc nên để tự giam mình.
Tôi bị trói buộc bởi lòng ích kỷ, tham vọng, thèm muốn…
Chúng ta cần thú nhận mình không tự giải thoát mình được,
không tự đứng thẳng được, không tự cắt đứt những thứ trói buộc mình.
Chúng ta cần Đức Giêsu đặt tay của Ngài trên đời ta để ta được tự do.
Đâu phải chỉ người phụ nữ còng lưng mới bị trói buộc.
Tôi cũng bị trói buộc bởi những giá trị mập mờ của thế tục.
Làm sao để tôi được tự do với cái cell phone tôi đang dùng,
với những hình ảnh mà tôi tìm kiếm trên internet,
với lối sống mà ngày nay bao người coi là đáng ước mơ?
Xin cho tôi không chỉ cúi xuống nhìn thấy miếng đất be bé trước mặt,
nhưng có thể ngước lên để thấy bầu trời mênh mông trên cao.
Cầu nguyện:
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế Người là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi,
đến với Người trong mọi sự,
và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.
Chỉ mong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.
Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng còn gì,
nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người
và thực hiện ý Người trong suốt đời tôi. Amen
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: GIÊ-SU GIẢI THOÁT
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đời sống con người bị nhiều thứ trói buộc khiến ta trở thành nô lệ. Trong đó có ma quỉ, xác thịt, thế gian. Ta không thể tự cứu mình. Nhờ Chúa Giê-su ta được giải thoát.
Chúa giải thoát khỏi nô lệ ma quỉ. Xa-tan là một ách nô lệ thống trị. Người phụ nữ này bị trói buộc 18 năm rồi. Nhưng không thể thoát ra. Chúa đến. Chúa là sức mạnh vô biên. Xua đuổi ma quỉ. Giải thoát để người phụ nữ trở thành con Thiên Chúa
Chúa giải thoát khỏi nô lệ xác thịt thế gian. Người phụ nữ bị tật còng lưng. Bị trói buộc khom lưng cúi đầu. Bị ràng buộc vào mặt đất. Không vươn lên trời cao được. Phải cúi đầu trước sự dữ. Chúa giải thoát. Để bà có thể mở rộng tầm mắt nhìn lên trời xanh. Để đứng thẳng hiên ngang tràn đầy phẩm giá.
Chúa giải thoát khỏi nô lệ lề luật. Nô lệ lề luật tạo nên một tôn giáo phi nhân. Có thể cởi dây cho thú vật. Mà không dám cởi trói cho con người. Chúa đem đến một tôn giáo mới. Tự do phóng khoáng. Tràn đầy tình thương. Nâng cao con người.
Trong Người ta trở thành con Thiên Chúa. Không còn là nô lệ. Nhưng được tự do. Được gọi Thiên Chúa là “Abba”. “Anh em không lãnh nhận Thần KHí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử”. Vì thế sống đạo không còn phải là nô lệ lề luật. Nhưng là sống mối tình cha – con với Thiên Chúa. Tự do nhưng yêu thương và hiếu thảo. Như thế ta không còn sống theo xác thịt. Nhưng sống theo Thần Khí. Ta sẽ nên sung mãn. Vì được đồng thừa tự với Chúa Giê-su. Thừa kế di sản vô cùng phong phú, vô cùng quí giá trên thiên đàng (năm lẻ).
Trong Người ta trở thành anh em với nhau. Vì thế phải “đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau” (năm chẵn).
Hôm nay thế giới còn bị nhiều trói buộc. Xin Chúa giải thoát ta khỏi mọi nô lệ. Nô lệ thần tượng. Dục vọng. Tội lỗi. Ý riêng. Tự ái. Quan niệm. Đó là những gánh nặng kéo ta cúi xuống. Không đứng thẳng lên được.
Xin giải thoát con. Để con đến với Chúa trong tự do. Trong tình con thảo. Và đến với anh em trong tình huynh đệ. Đạo trở thành gia đình yêu thương. Luật trở thành tình yêu tự do. Người trở nên cao cả. Vì phẩm giá lớn lao.
Suy Niệm 3: Cốt Lõi Của Ðạo
Một đêm mùa Ðông lạnh như cắt, một vị ẩn sĩ không chịu nổi cái lạnh của sa mạc, đã tìm đến xin trú ẩn tại một ngôi chùa. Nhìn thấy gương mặt tiều tụy của vị ẩn sĩ, tu sĩ canh giữ ngôi chùa không nỡ để ông ta đứng mãi giữa trời. Vị tu sĩ cho ông vào, nhưng lại nói một cách cương quyết: "Ông có thể ngủ đêm trong chùa, nhưng chỉ một đêm thôi, ngày mai ông phải rời khỏi nơi này tức khắc, vì đây là nơi tu hành, chứ không phải là trại tế bần".
Giữa đêm, vị tu sĩ nghe thấy tiếng động kỳ lạ. Ông thức dậy và chứng kiến cảnh tượng khác thường: giữa ngôi chùa vị ẩn sĩ đang ngồi sưởi ấm bên một đống lửa cháy phừng. Nhìn lên bàn thờ, vị tu sĩ không còn thấy tượng Phật bằng gỗ nữa. Ông hỏi vị ẩn sĩ, vị này chỉ vào đống lửa điềm nhiên đáp: "Tôi không chịu nổi cái lạnh, nên đã dùng tượng Phật để nhóm lên đống lửa này". Nghe thế, vị tu sĩ quát lớn: "Ông khùng rồi sao? Ông có biết ông đã làm gì không? Ðây là tượng Phật, ông đã đốt cháy Ðức Thích Ca của chúng tôi".
Sáng hôm sau, vị tu sĩ trở lại để đuổi vị ẩn sĩ ra khỏi chùa; ông thấy vị ẩn sĩ đang bới đống tro như để tìm kiếm vật gì đó. Thấy vị tu sĩ thắc mắc, ông ta trả lời: "Tôi đang tìm kiếm những cái xương của Ðức Phật mà ngài bảo là tôi đã thiêu đốt tối hôm qua".
Về sau, vị tu sĩ canh giữ ngôi chùa kể lại câu truyện cho một Thiền sư, và Thiền sư đã trách ông như sau: "Ông là một tu sĩ xấu, bởi vì ông xem một tượng Phật chết trọng hơn một mạng người sống".
Một trong những nguyên nhân dẫn đến cái chết của Chúa Giêsu, chính là cuộc xung đột giữa Ngài và những người Biệt phái. Những người Biệt phái bám vào việc tuân giữ nghi thức và luật lệ đến độ dẫm lên trên cả mạng sống con người. Trong khi đó, đối với Chúa Giêsu, cốt lõi của đạo chính là tình yêu. Phân định về việc giữ ngày Hưu lễ, Chúa Giêsu tuyên bố dứt khoát: "Ngày Hưu lễ được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày Hưu lễ". Ngài đã giải thoát một người đàn bà khỏi bị còng lưng trong ngày Hưu lễ, để chứng tỏ sự sống của con người, giá trị của con người, hay đúng hơn, tình yêu thương cao cả hơn tất cả những nghi thức và việc tuân giữ bên ngoài.
Xin cho chúng ta hiểu rằng cái cốt lõi của đạo chính là tình thương. Xin cho những lời cầu kinh, những việc tuân giữ luật lệ không là những cái vỏ hình thức bên ngoài, mà phải dẫn chúng ta đến những hành động cụ thể của tình yêu. Xin cho chúng ta luôn xác tín rằng sống cho tình yêu là được sống trong Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Ngọn Lửa Nội Tâm
Thế vận hội năm 2000 dành cho những người khuyết tật đã kết thúc một cách tốt đẹp tại Sydney, Australia. Buổi lễ khai mạc hôm tối thứ Tư 18/10/2000 vẫn là biến cố được theo dõi nhiều nhất. Khi nữ lực sĩ ngồi xe lăn người Úc là cô Louis Xaviest châm ngọn đuốc vào vạc dầu nhỏ đặt giữa sân vận động, đám đông khán giả ngồi chật trong vận động trường đã đồng loạt đứng lên vỗ tay chào mừng. Louis Xaviest được chọn để châm ngọn lửa khai mạc thế vận hội gồm hơn bốn ngàn lực sĩ khuyết tật của một trăm hai mươi chín phái đoàn tham dự; ngọn lửa soi rọi vào tất cả mọi thành tích của những lực sĩ mà không gì có thể ngăn cản nổi quyết tâm thi đua của họ. Ðiểm xúc động nhất đối với mỗi người dĩ nhiên là hình ảnh của những con người ra sức chống chọi với mọi nghịch cảnh để thắng vượt chính mình.
Ngọn lửa nội tâm, chủ đề của đêm khai mạc thế vận hội dành cho người khuyết tật đã nói lên được tấm lòng hăng say và nhiệt tâm vươn lên ấy. Nét rạng rỡ hân hoan và đầy hưng phấn của hàng ngàn lực sĩ khuyết tật đã thể hiện được ý nghĩa của thế vận hội dành cho người khuyết tật lần thứ 11 vừa qua, đó là sự chiến thắng của ý chí con người.
Sự chiến thắng của ý chí con người chính là sứ điệp mà thế vận hội dành cho người khuyết tật muốn gởi đến cho thế giới. Nhưng cùng với sứ điệp ấy thế giới cũng đón nhận được một thông điệp khác không kém quan trọng, đó là sự tôn trọng và sự yêu mến cần phải có đối với người khuyết tật. Hàng ngàn lực sĩ được may mắn có mặt trong kỳ thi thế vận hội dành cho người khuyết tật là đại biểu của vô số những người khuyết tật trên khắp thế giới. Họ có thể là những người phải mang thương tật vì tai nạn. Nhưng có biết bao nhiêu người khuyết tật là nạn nhân của chính sự độc ác của con người, và nhất là đang đau khổ vì chính thái độ kỳ thị và dửng dưng của người đồng loại.
Tôn trọng và yêu thương những người anh chị em khuyết tật. Ðây là sứ điệp mà Tin Mừng hôm nay có thể gợi lên cho chúng ta để cùng đào sâu và sống. Chúa Giêsu luôn dành ưu ái cho những người nghèo khổ, những kẻ bé mọn, những người bị xã hội đẩy ra bên lề. Ðể đến với những người này, Ngài sẵn sàng vượt qua mọi thứ rào cản. Trong Tin Mừng hôm nay, để chữa bệnh cho một người phụ nữ bị còng lưng, Ngài đã vượt qua một trong những thứ rào cản gai góc nhất đối với người Do Thái là những cấm kỵ của ngày hưu lễ. Nhiều người Do Thái mà ông trưởng hội đường là điển hình nại đến những cấm kỵ của ngày hưu lễ để bắt bẻ Chúa Giêsu, nhưng Ngài đã vạch mặt chỉ tên những kẻ đạo đức giả. Ðạo đức giả là bởi vì họ vẫn lén lút làm việc xấu trong ngày hưu lễ nhưng lại ngăn cản không cho người khác được làm việc thiện trong ngày này.
Ðối với Chúa Giêsu, Lề Luật được làm ra vì và cho con người, chính vì thế mà Ngài đã khẳng định Lề Luật và sách các ngôn sứ đều qui về một mối duy nhất là yêu người. Vì yêu thương con người, Chúa Giêsu đã sẵn sàng vượt qua mọi thứ rào cản để đến với con người. Ngày nay, Ngài cũng mời gọi chúng ta bước theo Ngài, sẵn sàng vượt qua mọi chướng ngại và đạp rào cản trong cuộc sống để tìm đến với tha nhân, nhất là những kẻ bé mọn, những người bị đẩy ra bên lề cuộc sống do luật pháp và truyền thống của con người dựng lên nhưng cũng có vô số những rào cản do chính chúng ta dựng lên ngay trong tâm hồn và trong ánh mắt của chúng ta. Những rào cản đó là lòng hận thù, sự ích kỷ và nhất là thái độ dửng dưng của chúng ta trước nỗi khổ đau của người khác.
Nguyện xin Ðấng đã đến để xóa bỏ mọi ngăn cách giữa người với người và trở nên mọi sự cho mọi người, xóa bỏ mọi thứ rào cản trong tâm hồn chúng ta để chúng ta bước đi bước trước, tới với tha nhân, nhất là những kẻ bé mọn, những người bị đẩy ra bên lề cuộc sống.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Ngày Sabát, Ngày Làm Vinh Danh Chúa
Ngày sa bát Đức Giêsu giảng dạy trong một hội đường. Ở đó có một phụ nữ bị quỷ làm cho tàn tật đã mười tám năm. Lưng bà còng hẳn xuống và bà không thể nào đứng thẳng lên được. Trông thấy bà, Đức Giêsu gọi lại và bảo: “Này bà, bà đã được giải thoát khỏi tật nguyền!” (Lc. 13, 10-12)
Theo sách Thứ luật của Cựu ước, việc thánh hóa ngày thứ bảy (ngày Sa-bát) như là ngày của Chúa, để kỷ niệm ngày Chúa giải phóng dân Do thái khỏi nô lệ Ai cập. Ngày thứ bảy là dấu chỉ ngày dân Chúa được tự do. Tuy nhiên, nó đã trở thành ngày dân Do thái bị ràng buộc bởi rất nhiều giới luật cấm đoán hơn những ngày khác.
Đức Giêsu muốn phục hưng ý nghĩa chân thực của ngày Sa-bát, nó phải trở nên ngày con người thực hiện nhân phẩm và tự do của con cái Thiên Chúa và làm sáng danh Ngài.
Ngày giải phóng
Đức Giêsu đã chọn một dấu chỉ thế này: một người đàn bà bị quỷ ám từ mười tám năm, quỷ ngăn cản bà nhìn lên Thiên Chúa, hướng về trời, vì nó bắt bà phải còng lưng hẳn xuống, không thể nào đứng thẳng lên được. Bà không ngừng hy vọng được chữa lành, nhưng mọi phương thuốc loài người đều vô hiệu, không thể giải phóng bà khỏi tật gù lưng. Biết được nguyện vọng của bà, Đức Giêsu kêu gọi bà lại, đuổi quỷ ra, và đặt tay trên bà, tức khắc bà đứng thẳng lên được và tôn vinh Thiên Chúa. Ông trưởng hội đường tức tối vì Đức Giêsu đã chữa bệnh vào ngày Sa-bát, ông đã lên tiếng nói với đám đông rằng: “Đã có sáu ngày để làm việc, thì đến mà xin chữa bệnh vào những ngày đó, đừng đến xin vào ngày Sa-bát”.
Đức Giêsu đáp lại: “Thế ngày Sa-bát, ai trong các ngươi lại không cởi giây, dắt bò lừa rời khỏi máng cỏ đi xuống nước? Còn bà này là con cháu Áp-ra-ham, là con cái Thiên Chúa, bị sa-tan trói buộc đã mười tám năm nay, chẳng lẽ lại không được cởi xiềng xích đó trong ngày Sa-bát sao?”.
Ngày Sa-bát chính là ngày của Chúa đã giải phóng dân khỏi nô lệ thì bây giờ Ngài đã dùng quyền năng và lòng thương xót của Ngài mà cứu chữa bà này khỏi nô lệ sa-tan. Còn việc nào làm vinh danh Chúa hơn trong ngày Sa-bát, bằng việc chặt đứt cái giây buộc trói bà và cho bà thứ nước đức tin mà bà hằng cầu xin.
Ngày tạ ơn Thiên Chúa
Ngày Sa-bát là ngày tôn thờ, vâng phục Đấng toàn năng sáng tạo và ngợi khen cảm phục trước những công trình vĩ đại của Ngài, người đàn bà được giải thoát bắt đầu tôn vinh Thiên Chúa. “Còn dân chúng vui mừng vì những việc lạ lùng của Chúa”.
RC
Suy Niệm 6: ĐỪNG VÌ LUẬT MÀ BẤT NHÂN VỚI ANH EM! (Lc 13, 10-17)
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: vào một buổi chiều nọ tại một làng quê, người ta đem một người chết đi chôn. Trong khi chuẩn bị hạ huyệt, người nhà nghe thấy có tiếng động trong quan tài? Ngay lập tức, họ báo cho mọi người biết! Vì thế, người chủ sự lễ nghi truyền cho những người khiêng quan tài dừng lại và mở nắp quan tài ra. Mọi người ngỡ ngàng, xôn xao và sợ hãi vì thấy người chết ngồi dạy! Tuy nhiên, vị chủ sự nói với người trong quan tài rằng: “Thưa ông, theo nguyên tắc, việc ông chết đã được thông báo và chúng tôi đã có giấy báo tử của ông trong tay. Vì thế, cứ chiếu theo nguyên tắc, ông phải được chôn xuống. Vì thế, ông vui lòng để chúng tôi thi hành bổn phận”. Dứt lời, vị trưởng nghi truyền cho mọi người đóng nắp quan tài lại và tiếp tục lễ nghi, mặc cho lời van xin của người trong quan tài!
Trên đây chỉ là câu chuyện giả tưởng nhằm phê phán những người sống hình thức, vụ luật, bất nhân.
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Đức Giêsu lên tiếng chỉ trích rất nặng lời với những người sống vụ luật và bất nhân đối với người khác.
Câu chuyện được khởi đi từ việc Đức Giêsu chữa người đàn bà bị quỷ ám làm cho khòm lưng đã 18 năm vào đúng ngày Sabát. Thấy vậy, ông trưởng hội đường xem ra có vẻ khó chịu vì Đức Giêsu đã vi phạm luật ngày Sabát. Thấy vậy, Đức Giêsu đã lên tiếng nói: "Hỡi những kẻ giả hình, chớ thì trong ngày Sabát, mỗi người trong các ông không thả bò hay lừa của mình ra khỏi chuồng mà dẫn nó đi uống nước sao? Phương chi người con gái của Abraham này, Satan cột trói nó đã 18 năm nay, chớ thì không nên tháo xiềng xích buộc nó trong ngày Sabát sao?". Qua câu hỏi đó, Đức Giêsu mặc cho luật một tinh thần mới, đó là: yêu thương, liên đới và tha thứ. Đây chính là cốt lõi của luật. Luật mà không có tình yêu lồng vào thì đó là luật chết, vì nó giết chết con người cách khủng khiếp nhất.
Ngày nay, vẫn có nhiều người xem ra rất đạo đức như: đọc kinh, xem lễ hằng ngày; lần hạt thì hết chuỗi này đến chuỗi khác. Điều này rất tốt và ích lợi cho đời sống thiêng liêng nếu người đó biết thực hành những điều Chúa và Giáo Hội dạy ngang qua những việc đạo đức đó, tức là “Lời nói đi đôi với việc làm”.
Nhưng chớ trêu thay, vẫn còn đó những cái xác không hồn khi không biết sống yêu thương, không có tấm lòng bác ái, nhân từ, vẫn sống man trá, lọc lừa nhân danh thứ đạo đức dởm bề ngoài. Lại có nhiều người đi lễ đâu phải vì lòng mến Chúa, mà chủ yếu là khoe mẽ quần là áo lượt! Vì thế, khi thấy cha giảng hơi dài một chút là khó chịu, bực tức, hoặc khi cha dẫn giải Lời Chúa mà đụng chạm đến lòng tự ái của mình là đùng đùng nổi giận và chỉ trích cha thế này, cha thế kia...! Tệ hơn nữa là đi lễ chỉ vì luật, nên không thiếu gì những bạn trẻ đi lễ “ôm” hay thuộc đạo “gốc”; đạo “ngắm”; đạo “dòng”!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cần thoát ra khỏi những kiểu giữ đạo vì sợ điều này điều kia. Hay đi lễ nhà thờ chỉ vì thói quen, hoặc muốn chứng tỏ rằng mình đạo đức hơn người. Lời Chúa thôi thúc chúng ta rằng: khi giữ những luật lệ của đạo là điều cần thiết. Tuy nhiên, cần mặc cho nó một tình yêu. Nếu có tình yêu, chúng ta sẽ mến Chúa, yêu anh chị em mình cách chân tình. Luôn muốn và làm điều tốt nhất cho anh chị em chúng ta. Không còn chuyện bè phái, lươn lẹo, lật lường, nhưng ngay thẳng, chân thành và thánh thiện. Chỉ khi làm được chuyện đó, chúng ta mới thấy được luật của Chúa là luật làm cho con người được hạnh phúc, bình an và hoan lạc thực sự. Nếu không thì chỉ là chiếc xiềng quá nặng mà chúng ta vẫn cố đeo trên cổ đến nỗi bò lê lết để mang nó hằng ngày.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con yêu mến Luật Chúa; đồng thời, xin cũng cho chúng con biết đem luật yêu thương của Chúa ra thực hành trong cuộc sống nơi các mối tương quan. Amen.
Ngọc Biển SSP
25/10 Thi hành Ý Cha.
- Viết bởi Mt 22, 34-40
Thi hành Ý Cha.
Chúa Nhật 30 Thường Niên năm A.
"Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi".
Lời Chúa: Mt 22, 34-40
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, những người biệt phái nghe tiếng Chúa Giêsu đã làm cho những người Sađốc câm miệng, thì họp nhau lại, đoạn một người thông luật trong nhóm họ hỏi thử Người rằng: "Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?"
Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Xh. 22, 20-26; 1Tx. 1, 5c-10; Mt. 22, 34-40
1. Hai điều răn
(Trích trong ‘Manna’ - Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)
Suy Niệm
Chúng ta thường ngại xét mình trước khi xưng tội.
Nếu xét mình sơ sài dựa trên Mười Điều Răn,
có khi ta thấy mình chẳng có tội gì nghiêm trọng:
không trộm cắp, không tham lam, không giết người...
Thật ra xét mình không phải là làm bản tự kiểm
trước một danh sách những luật cấm và luật buộc,
cho bằng là đặt mình trước Thiên Chúa và tha nhân.
Tôi phải thành thật tự hỏi:
Tôi có thực sự yêu mến Thiên Chúa không?
Tôi có thực sự yêu mến anh chị em tôi không?
Tất cả điều răn được tóm trong một động từ: yêu.
Tình yêu là cốt lõi của đời sống Kitô hữu,
vì Thiên Chúa là Tình Yêu (1Ga 4,8).
Yêu là bước vào một đại dương mênh mông,
là dấn thân trên một con đường dài hun hút.
Chúng ta chẳng bao giờ thấy mình yêu đủ.
Tình yêu cứ vẫy gọi ở phía trước,
và mở ra những cánh cửa không ngờ.
Giới hạn tình yêu là bóp chết tình yêu.
Chẳng có động từ nào bị hiểu sai cho bằng động từ yêu.
Báo chí phim ảnh làm cho ta nghĩ rằng
yêu chỉ là chuyện quan hệ giữa hai cô cậu.
Hành vi chiếm đoạt theo bản năng lại được gọi là yêu.
Chúng ta cần trả lại ý nghĩa cao đẹp cho động từ này.
Yêu mến Thiên Chúa là điều răn số một.
Không phải chỉ dành cho Ngài phần lớn trái tim,
Ngài đòi tất cả trái tim của tôi, tất cả con người của tôi.
Hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn.
Ai trong chúng ta dám tự hào
mình đã sống trọn vẹn điều răn thứ nhất?
Càng lúc tôi càng thấy Chúa bị mất chỗ trong tim tôi.
Tôi không có giờ cầu nguyện và tĩnh tâm.
Chúa Nhật là ngày tranh thủ làm thêm.
Mối lo toan quá mức về cuộc sống vật chất
làm đời sống thiêng liêng bị sa sút.
Điều răn thứ hai cũng quan trọng không kém:
yêu người thân cận như chính mình.
Chúng ta yêu bản thân mình biết chừng nào!
Chúng ta chỉ muốn điều tốt cho mình
đến nỗi lắm khi làm điều xấu cho người khác.
Cần coi tha nhân như một cái tôi khác của mình.
Họ cũng cần được tôn trọng, cảm thông và yêu mến.
Có biết bao thiệt hại tôi đã gây cho anh em tôi.
Thái độ sống của tôi đã làm khổ bao người khác.
Hai điều răn trên không thể tách rời nhau.
Yêu Thiên Chúa chắc chắn dẫn đến yêu tha nhân.
Tình yêu tha nhân cần đặt nền trên Thiên Chúa.
Người Kitô đi từ nhà thờ ra chợ rồi lại từ chợ vào nhà thờ.
Ngoài chợ, họ gặp Chúa nơi anh em.
Trong nhà thờ, họ gặp anh em nơi Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
* Hai từ "Tình Yêu" đã bị lạm dụng. Theo ý bạn, một tình yêu thực sự phải có những nét gì?
* Trong kinh nghiệm sống đức tin của bạn, có khi nào bạn thấy mình bị giằng co giữa tình yêu đối với Chúa và tình yêu đối với tha nhân không? Bạn đã giải quyết ra sao?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
Lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau
để làm thành một vòng tròn khép kín.
Sau đó chúng con hiểu rằng cần phải buông tay nhau
để nhận những người bạn mới,
để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng
và trái tim được lớn lên mãi.
Lạy Chúa, chúng con biết rằng
cần phải nối vòng tay lớn xuyên qua các đại dương và lục địa.
vòng tay người nối với người,
vòng tay con người nối với Tạo Hoá.
Chúng con thích Chúa đứng chung một vòng tròn
với tất cả loài người chúng con,
nắm lấy tay chúng con và đưa chúng con lên cao.
Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá
giúp chúng con biết nắm lấy tay nhau và nhận nhau là anh em.
2. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Theo truyền thống hội đường Do thái, Luật gồm 613 điều răn.
365 điều cấm làm và 248 điều phải làm.
Giữa một rừng điều răn như thế, người thông luật đã hỏi Đức Giêsu:
“Điều răn nào trọng nhất trong Luật Môsê?” (c. 36).
Đức Giêsu đã trả lời bằng một câu trong kinh Shema,
kinh mà người Do thái phải đọc mỗi ngày.
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi,
với tất cả trái tim ngươi, tất cả linh hồn ngươi, tất cả trí khôn ngươi” (Tl 6, 5).
Và Ngài còn thêm một điều răn thứ hai nữa (c. 39).
“Ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình” (Lv 19, 18).
Tất cả Luật Môsê nằm trong hai điều răn đó.
Hai điều răn được gói trong một động từ yêu.
Mọi điều cấm làm và mọi điều buộc làm,
đều bắt nguồn từ và qui về tình yêu.
Các bạn trẻ thường nghĩ yêu là chuyện dễ.
Nhưng yêu với tất cả trái tim,
tất cả linh hồn, tất cả trí khôn, tất cả sức lực,
nghĩa là yêu với trọn cả con người mình,
thì điều đó không dễ.
Đối với người Do thái, trái tim là nơi phát sinh toàn bộ đời sống tinh thần.
Yêu mến Thiên Chúa bằng tất cả trái tim của mình
là để cho Ngài chi phối mọi tư tưởng, mọi ý muốn, mọi tình cảm.
Tất cả đều nhằm làm cho Ngài
được mọi người nhận biết và tôn vinh.
Yêu người thân cận như chính mình cũng là điều rất khó.
Có bao người làm chúng ta đau khổ và bị xúc phạm.
Yêu thương và tôn trọng họ
đòi một sự từ bỏ mình không nhỏ.
Nhưng chúng ta cũng dễ coi mình là trung tâm và qui tất cả về mình.
Chúng ta lạnh lùng trước nỗi đau,
thiếu sẻ chia và độc đoán, đôi khi dùng tha nhân
như phương tiện lót đường để ta tiến thân.
Nói chung, dù yêu Chúa hay yêu người,
chúng ta cũng phải ra khỏi mình, trao đi chính mình
và chấp nhận mọi hy sinh mà tình yêu đòi hỏi.
Đức Giêsu đã tóm Luật Môsê trong động từ yêu mến.
Và Ngài đã hoàn thiện Luật này bằng cách đẩy yêu mến đến cùng.
Kitô hữu chẳng những yêu mến Thiên Chúa với trọn con người mình,
mà còn được mời yêu mến Đức Giêsu trên mọi thụ tạo khác,
trên mọi của cải, trên những người ruột thịt, và trên cả mạng sống.
Kitô hữu là người mang mối tình sâu đậm với Đức Giêsu,
“Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20),
đến nỗi họ có thể tuyên xưng như Phêrô:
“Thầy biết con mến Thầy.”
Đức Giêsu cũng không chỉ đòi yêu tha nhân như chính mình.
Ngài còn đòi ta phải yêu như Ngài đã yêu (Ga 13, 34-35).
Một tình yêu tha thứ đến vô cùng,
một tình yêu đối với cả kẻ thù,
một tình yêu phục vụ như người tôi tớ,
một tình yêu dám hiến mạng.
Kitô hữu tự bản chất là người biết yêu
và cuộc đời chỉ là tình yêu.
Tình yêu đích thực với Thiên Chúa thì đưa tôi về với anh em.
Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên Chúa.
Chỉ mong đời tôi đong đưa giữa hai tình yêu đó,
để chúng nên một tình yêu.
Cầu nguyện:
Con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Ôi lạy Chúa là vẻ đẹp vừa cổ kính,
vừa luôn mới mẻ, con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Bấy giờ Chúa ở trong con mà con thì ở ngoài,
con cứ chạy đi tìm Chúa ở ngoài.
Con thật hư hỏng, khi chạy theo các thụ tạo xinh đẹp.
Bởi thế, bấy giờ Chúa ở với con mà con lại không ở với Chúa.
Các thụ tạo xinh đẹp kia cứ giữ con ở xa Chúa,
trong khi chúng hiện hữu được là nhờ Chúa.
Chúa đã gọi con, đã gọi to và phá tan sự điếc lác của con.
Chúa đã soi sáng và xua đi sự mù lòa của con.
Chúa đã tỏa hương thơm ngát để con được thưởng thức,
và giờ đây hối hả quay về với Chúa.
Con đã nếm thử Chúa và giờ đây con đói khát Người.
Chúa đã chạm đến con, nên giờ đây
con nóng lòng chạy đi tìm an bình nơi Chúa. (Thánh Âu-Tinh)
3. Mến Chúa và yêu người
Mẹ Têrêxa Calcutta kể: “Hôm ấy, một người lạ mặt đến nhà dòng, ông thấy một Sơ vừa đem về một người hấp hối, nằm bên ống cống, mình đầy giòi bọ rất hôi thối. Thế mà, Sơ rất nương nhẹ nhặt từng con bọ với vẻ mặt vui tươi, thanh thản đầy thương mến... Rồi người lạ đến gặp tôi nói: Thưa mẹ, khi con đến đây với lòng đầy căm hờn của một người vô tín ngưỡng. Nhưng bây giờ con ra về với một tâm hồn hoàn toàn đổi mới. Con bắt đầu tin Chúa, bởi vì con đã chứng kiến tình yêu của Chúa được diễn tả một cách cụ thể qua hành động và qua cách Sơ ấy đã đối xử với người hấp hối bẩn thỉu kia. Bây giờ con tin thật Chúa là tình yêu. Không có tình yêu Chúa trong tâm hồn, không thể nào có đủ nghị lực để yêu tha nhân được”.
Thực vậy, không mến Chúa, không thể yêu người vô vị lợi được. Vì thế Chúa Giêsu đã nhấn mạnh cho mọi người nhận biết hai giới răn quan trọng nhất là: “Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn ngươi... và điều thứ hai giống điều răn ấy: ngươi phải yêu người đồng loại như chính mình”
Lời tuyên bố đó, chấm dứt sự tranh luận của các phe phái Do thái về luật nào quan trọng nhất, giống như lời của bậc thầy chấm dứt cuộc tranh cãi của các học trò.
Tuy nhiên Chúa Giêsu không nói rõ lý do tại sao phải mến Chúa trên hết và thương người như chính mình. Thực ra lý do đã nằm sẵn trong lời tuyên bố của Chúa rồi.
Trước nhất tại sao phải mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn, thánh Marcô còn thêm: hết sức, vì tất cả sức lực thể xác, lòng muốn, trí khôn, linh hồn đều là của Thiên Chúa ban. Tất cả những khả năng ấy được có, được sinh hoạt, được phát triển và thăng tiến đều do bàn tay Chúa. Nếu chúng biết nhận ra Thiên Chúa là chủ của chúng, để nương tựa vào chủ, hướng về chủ, hoạt động theo chủ, thì chúng sẽ được chủ quý chuộng, tô điểm xinh đẹp và cho chúng sống muôn đời. Khi hoàn thành bức điêu khắc tượng Môisê, một kiệt tác thể hiện được hết tinh thần sống động của mình đến nỗi thiên tài Michel-Ange đã hét lớn vào tai tượng: Hãy nói đi. Thiên Chúa cũng đang hét lớn vào lòng trí, linh hồn của mỗi người chúng ta: Hãy yêu mến đi để ngươi nên giống Ta! Vì Ngài đã dựng nên ta, kiệt tác hơn muôn loài trong vũ trụ. Nhận biết mình được Thiên Chúa dựng nên lạ lùng như thế, Salomon đã cầu nguyện thế này: “Lạy Chúa, con sinh ra cốt cách tinh anh, được một hồn lương hảo, tốt lành, được vào một thân xác không tì ố, nhưng Thiên Chúa không ban, con không thể có được khôn ngoan... nên con thưa với Chúa và cầu xin Người hết lòng con” (Kn. 8, 19-21). “Như vậy, lạy Chúa, những đứa con mà Ngài yêu mến sẽ học biết rằng không phải các thứ hoa quả nuôi sống con người. Nhưng là lời Người bảo tồn những ai tin cậy vào Người” (Kn. 16, 26).
Thứ đến, tại sao phải yêu đồng loại như chính mình? Thưa vì đồng loại là những người có ruột thịt, máu mủ giống mình, là những người gần gũi mình, sống chung với mình, cùng loại với mình, cùng bản chất tinh thần và thân xác như mình. Cho nên, đã cùng loại với mình thì dù đó là người Samari hay Israel, Hy Lạp hay Do Thái, nô lệ hay tự do, chủ hay thợ, người sang hay hèn, mình phải yêu họ như chính mình. Tại sao khi thấy họ bị đánh nhừ tử nửa sống nửa chết lại bỏ tránh đi? Tại sao không biết lấy dầu, lấy rượu xoa bóp băng bó vết thương cho họ như người Samari nhân hậu. Chỉ những ai như người Samari biết thương xót người, thấy người khổ như mình khổ, cứu người đau như mình đau, mới được Chúa Giêsu đánh giá là yêu người như chính mình. Từ trên núi Sinai, Chúa đã truyền cho dân Israel phải thương mến giúp đỡ những người bị khinh bỉ, như mẹ góa con côi, những người nghèo đói, ngoại kiều, thì mới thật sự xứng đáng là dân riêng của Chúa (Bài đọc I – Xh. 22, 21-22)
Biết được những lý do tại sao phải mến Chúa và yêu người, ta còn phải biết mến Chúa và yêu người đến mức độ nào, mới thật là mến Chúa yêu người.
Mức độ Chúa Giêsu kêu gọi là: hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Đó là mức độ mến Chúa, còn yêu người đến mức độ như yêu chính mình. Nói khác đi, mến Chúa và yêu người phải tới độ tuyệt đối. Sau đây chúng ta thử xét xem lòng mến Chúa và yêu người của chúng ta đến mức độ nào?
Phần đông mến Chúa bằng làm những việc đạo như giữ mười điều răn, đi lễ Chủ nhật, xưng tội, rước lễ v.v… ở mức độ sợ tội, sợ mất linh hồn, sa hỏa ngục, nên chỉ cố gắng tránh những tội nặng, còn chửi tục, chửi nhau, bỏ học lời Chúa, bỏ lễ thường, lỗi bổn phận hàng ngày, phạm tội nhẹ như uống nước. Họ giống như đứa con sợ bố đánh mới nghe lời. Khi khuất mặt bố, nó không sợ nữa, nó đánh nhau, phá phách nghịch quấy, trộm vụng bất kể. Người mến Chúa chỉ lo sợ phạt chết đời đời cũng vậy. Họ chỉ yêu ai thân mình, chào kẻ chào mình, làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình “thì anh em còn được công chi?” (Mt. 5, 46).
Đó là hạng người mến Chúa yêu người vì lợi cho mình. Họ là những kẻ ích kỷ.
Một số mến Chúa vì thấy Chúa tốt lành, nhận ra những công ơn vô cùng của Chúa ban, nên họ cố gắng đền đáp; nhận ra lời Chúa là lời hằng sống, chân thật, thánh thiện, nên họ cố gắng thực thi. Họ như đứa con hiếu thảo thấy công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra vô tận, nên lo sống xứng đáng đẹp lòng cha mẹ. Vì thế họ cũng cố gắng noi gương nhân hậu của Chúa phần nào đó. Họ là những người tốt lành, cũng biết làm ơn giúp đỡ người khác, hy sinh chịu đựng tha thứ kẻ làm khổ mình. Lúc bình thường họ giống như các môn đệ Chúa, rất chịu khó đi công tác, làm việc tông đồ. Khi gặp thử thách nguy khốn như lúc Thầy bị bắt... thì bỏ trốn. Họ trốn tránh những việc khó khăn, gian lao, nguy hiểm. Họ mến Chúa và yêu người ở mức bình thường.
Một số rất ít họ là những người lành mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn nghĩa là mến Chúa trọn vẹn, sẵn sàng hy sinh mọi sự, kể cả mạng sống mình vì mến Chúa. Ở mức độ mến Chúa tuyệt vời này, họ thương yêu hết mọi người dù xa lạ, dù hèn mọn, dù là kẻ thù, họ thấy tất cả là chi thể của Đức Kitô, lúc sáng láng trên núi Tabo cũng như lúc ô nhục khốn cùng trên núi Sọ. Chỉ có các thánh đã mến Chúa và thương người được thế thôi, như thánh Phaolô nói: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo? như có lời chép: chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết. Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng, nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm. 8, 35-37).
Lạy Chúa Giêsu, xin thêm lòng mến cho con. Xin đốt lửa kính mến Chúa và yêu người trong trái tim con.
4. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ đề: Yêu thương là điều răn quan trọng nhất (Mt 22,36)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Thiên Chúa là tình yêu. Trong Thánh lễ này chúng ta hãy đến với Ngài để được Ngài châm thêm tình yêu vào lòng chúng ta, nhờ đó từ nay chúng ta sẽ mến Chúa và yêu người hơn.
II. Gợi ý sám hối
Xin Chúa tha thứ vì chúng con chưa mến Chúa đủ.
Xin Chúa tha thứ vì chúng con chưa yêu người đủ.
Xin Chúa tha thứ vì những lần chúng con hành động không theo sự hướng dẫn của tình yêu mà lại theo sự thúc đẩy của lòng giận ghét.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Xh 22,21-27)
Cựu Ước có nhiều khoản luật dạy người Do Thái phải yêu thương đồng bào mình. Tình yêu đó có tính cách cục bộ.
Ðoạn sách Xuất hành này cũng theo chiều hướng đó, nhấn mạnh đến việc phải yêu thương những người nghèo khó và góa bụa. Ngoài ra, điểm đặc biệt của đoạn sách này là dạy yêu thương cả những ngoại kiều đang sống trên đất nước mình nữa. Biên giới Tình yêu đã được nới rộng hơn.
2. Ðáp ca (Tv 17)
Ðây là lời cầu nguyện bày tỏ lòng yêu mến Chúa. Tác giả cũng coi Chúa là Ðá Tảng che chở mình, vì thế tác giả tin rằng khi mình bị áp bức mà biết kêu cầu Chúa thì sẽ được Ngài cứu giúp.
Một cách gián tiếp, Tv này tuyên xưng rằng Thiên Chúa đặc biệt yêu thương những người lâm cảnh khổ sở.
3. Tin Mừng (Mt 22,34-40)
Trong bài Tin Mừng tuần trước, những người thuộc hai nhóm Pharisêu và Hêrôđê liên minh nhau để gài bẫy Ðức Giêsu về vấn đề nộp thuế cho Xêda. Họ đã thất bại. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, nhóm Pharisêu chưa chịu thua, họ chọn trong nhóm ra một người thông luật để tranh luận với Ngài.
Câu hỏi là: "Trong lề luật, giới răn nào trọng nhất". Ðây là một câu hỏi hóc búa, bởi vì đạo Do Thái có rất nhiều khoản luật (365 luật buộc và 248 luật cấm), mà luật nào cũng đều quan trọng cả.
Câu trả lời của Ðức Giêsu rất xuất sắc: một là Ngài đã lọc ra được hai điều luật quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người; hai là Ngài liên kết hai điều đó lại: mến Chúa thì phải yêu người, và yêu người thì phải mến Chúa; ba là Ngài chỉ cho thấy hai điều ấy - mà thực ra còn có thể tóm lại thành một điều duy nhất là Yêu Thương - là cốt lỏi của tất cả mọi khoản luật khác.
4. Bài đọc II (1 Tx 1,5c-10) (Chủ đề phụ)
Giáo đoàn Thêxalônikê đã được Thánh Phaolô hết lời khen ngợi. Ðoạn thư này cho chúng ta thấy lý do họ được khen ngợi là vì họ đã nhận lãnh lời rao giảng Tin Mừng giữa bao gian truân khốn khó, và họ đã sống Tin Mừng ấy đến nỗi họ trở thành gương mẫu cho nhiều nơi khác noi theo.
IV. Gợi ý giảng
1. Một lời để ghi nhớ: ngươi phải yêu mến
Ðúng là hai điều răn: điều răn thứ nhất là điều răn lớn. Ðiều răn thứ hai cũng quan trọng không kém. Có nghĩa là hai giới răn ấy không cho phép ta tuỳ thích. Tình yêu mà những giới răn ấy nói tới, đối với Thiên Chúa cũng như đối với tha nhân, không phải là một thứ tình cảm trôi nổi tuỳ theo tính khí của ta. Tình yêu là một sự cam kết lớn lao, một sự dâng hiến chính mình, hiến mạng sống mình. Tình yêu không dừng lại ở nửa đường, mà đi cho tới cùng giống như đám lửa cháy. Giới răn ấy khơi dậy tình yêu khi mà thường tình và một cách tự nhiên lãnh đạm hay chối từ có nguy cơ thống trị. Giới răn ấy là như tia lửa làm bùng lên đám cháy. Giới răn ấy nâng đỡ tình yêu khi nỗi chán chường hay thói quen sẽ làm cho tình yêu ra nguội lạnh hoặc tàn lụi. Giới răn ấy làm bùng lên nhuệ khí khi tình yêu chân thực đòi hỏi nhiều hy sinh, quên mình... Nhờ tương phản và hỗ trợ giữa tình yêu và giới răn này mà đời sống ta được thăng tiến.
Giới răn yêu thương có hai mặt, hai mặt mà không tách biệt nhau như mu và lòng bàn tay. Ðiều răn thứ hai cũng giống, cũng quan trọng như điều răn thứ nhất, là "ngươi phải yêu người thân cận như chính mình". Chỉ có một mình Chúa là Ðấng ta phải yêu mến cách tuyệt đối, hơn cả chính mình ta, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ta. Khi yêu mến Chúa hết mình, vượt khỏi chính mình, ta được vào trong tình yêu Chúa ban tặng, được sống trong tình yêu của Người, lòng ta mở ra hướng về vô biên, bởi lẽ Thiên Chúa muốn thông phần sự sống của Người cho con người, muốn thần hóa con người! Còn về người thân cận, Ðức Giêsu truyền phải yêu người thân cận như chính mình. Ðây không phải là một sự so sánh bình thường, mà còn hơn thế nữa. Không phải chỉ đơn giản là muốn và làm cho người thân cận điều ta muốn cho ta. Ðức Giêsu đã đưa ra một điểm son, một khuôn vàng thước ngọc: "Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó" (Mt 7,12).
Giới răn thứ hai thật minh bạch và đi xa hơn. Giới răn ấy đòi ta yêu mến người thân cận như người ấy là chính ta, là ta đồng hóa với người ấy. Nó diễn tả một sự hiệp thông giữa hai hữu thể, giữa hai cuộc sống, giữa anh em trong một nhà, trong một gia đình Thiên Chúa. Nếu tôi không yêu mến người thân cận của tôi, Nếu tôi khinh chê người ấy, chính là tôi gây thiệt hại cho bản thân tôi. Yêu người thân cận như chính mình, chính là tôi dành cho tôi một tình yêu tuyệt vời... Thế nên, và nhất là có điều răn ấy, thật là điều hạnh phúc! Bởi lẽ khi tôi yêu mến người giống như tôi, người mà tôi nhận ra tôi nơi con người ấy, thì tôi cũng được người ấy đáp lại bằng lòng yêu mến tự nhiên, bằng mối thịnh tình theo nghĩa mạnh nhất; còn nếu theo bản năng tôi ngờ vực một người, thì người ấy có thể trở thành một đối thủ, một người cạnh tranh, một kẻ thù của tôi. Lịch sử từng minh chứng những biến cố thật lớn lao đượm tình huynh đệ, cũng như những cuộc bùng nổ dữ đội nhất từng châm ngòi cho thù hận giữa con người... Ðiều răn thứ hai quả là cần thiết, và rất cần thiết nên Ðức Giêsu mới dùng tất cả những lời lẽ trang trọng mà tuyên bố là điều răn ấy cũng giống như điều răn kia, cũng quan trọng không kém. Người đã đặt con người vào đúng tước vị của nó là hình ảnh và là con Thiên Chúa.
Quả thực đây cũng là điều đơn giản và chắc chắn Chúa muốn ta tham khảo.
Yêu mến thế nào, thường là điều phức tạp; bạn phải tìm kiếm, nhận thức rõ, kiểm soát những tình cảm tốt xấu của bạn, chứ không được miễn trừ. Bạn hãy luôn luôn phải tìm xem để yêu mến thế nào cho đúng sự thật; cần được học hỏi về điều này. Nhưng nếu bạn có một ý chí muốn yêu thương, nếu để cho ngọn lửa của Thánh Thần điều động cuộc đời bạn, thì bạn sẽ thấy con đường phải đi và phương cách để làm. Bạn hãy tìm kiếm hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn bạn. Bạn hãy tìm kiếm như cho chính mình. Thì bạn sẽ gặp ! (Giám mục L. Daloz. Trích dịch bởi Fiches dominicales, năm A, trang 332-334)
2. Một từ tóm tắt tất cả Phúc âm: Yêu mến
Khi nói đến yêu, tôi vốn thích dùng động từ Yêu mến, nó có tính cách chủ động và tích cực, hơn là dùng từ tình yêu, một từ rất đẹp nhưng cũng rất dễ bị phê phán.
Làm sao có thể là tín hữu mà lại không yêu mến? Làm sao có thể nhận biết Thiên Chúa của chúng ta nếu Người không phải là Ðấng yêu mến chúng ta?
Như vậy thì có nhiều cách yêu mến không? Chắc hẳn là có rồi. Nên trong vấn đề này, tôi vẫn theo gót nhà sư phạm trứ danh là thánh Augustinô. Ngài phân biệt ba trình độ trong hành vi yêu mến:
Trình độ thứ nhất, thấp nhất, không có ý nói là xấu nhất: thích được yêu (aimer être aimé). Bạn hãy nói cho tôi biết có ai mà không thích điều đó không? Phải là con người hư hỏng mới dám nói ngược lại. Mọi người đều như vậy thôi... Nhưng cuộc sống cũng đã dạy cho ta rằng tình yêu còn phải là cái gì khác hơn là niềm khoái chí (tự tôn kia).
Trình độ thứ hai: thích yêu (aimer aimer). Ta hãy tạm dịch ở đây là: lấy làm vui khi yêu mến người khác. Ở bậc này người ta có ra khỏi mình một chút, có quảng đại, có vị tha.
Chúa ơi, thật vui và đẹp biết bao khi làm được một việc thiện, khi xả thân, và đôi khi đi tới chỗ đóng vai con chim bồ nông tự để cho con rỉa thịt mình.
Ngay ở điểm này, ai lại không muốn nhận khen thưởng chứ? Bạn hãy nói cho tôi biết bạn có đủ can đảm để đi thăm một bệnh nhân nào đó, đi uỷ lạo một cảnh khốn này, chẳng tìm thấy được ở đó một điều gì khích lệ chăng? Nhưng bạn hãy coi chừng! Tất cả thái quá trong lãnh vực này - quảng đại thái quá - có lẽ là một hình thức tự tôn tự đại của lòng yêu mến chính mình đó thôi.
Còn trình độ thứ ba: Yêu (aimer), có thế thôi! Yêu mến người khác vì chính họ, không phải vì ta làm điều tốt cho họ, không phải vì làm cho nhân đức của ta lớn lên. Không phải thế, bởi lẽ xét cho cùng, người ta không yêu mến vì Ta yêu là yêu thôi. Ðó mới là đỉnh cao của "tình cho không biếu không".
Hãy nhìn nhận điều này: ta chẳng mấy khi đạt tới trình độ đó. Chỉ có một Vị đã hiến thân chỉ vì yêu mà thôi, một Ðức Giêsu ấy muốn lấy bản tính nhân loại của ta, một Ðức Giêsu ấy mới ban cho ta Thần linh tình yêu khi Người tắt thở, một Ðức Giêsu ấy mới có thể sáng nghĩ ra nhân vật Samaritanô nhân lành yêu thương mà không đòi đáp trả và hình dung ra một người cha đang mở rộng vòng tay đón nhận đứa con đi hoang trở về.
Nếu phải cần đến một từ để tóm tắt cả Phúc âm, đó là: Yêu mến.
(H. Denis. trích dịch bởi Fiches dominicales, năm A, trang 334-336)
3. Những chữ đi sau chữ "yêu"
Xem kỹ bản văn Tin Mừng, theo sau động từ yêu mến Chúa là những chữ "hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn"; đi sau động từ yêu thương kẻ khác là những chữ "như chính mình ngươi".
"Hết" là tất cả. Ngoài ra, trong ngôn ngữ Do Thái, người ta thường dùng một từ chỉ một phần để nói đến toàn thể: "lòng" cũng có nghĩa là cả con người, "linh hồn" và "trí khôn" cũng thế. Do đó câu nói trên có nghĩa là: "Hãy yêu mến Chúa với tất cả con người của mình, tất cả con người của mình, tất cả con người của mình." Một kiểu nói mạnh lặp lại tới ba lần. Cũng có thể hiểu là: "Hãy yêu mến Chúa với tất cả mọi chiều kích, mọi lãnh vực, mọi khả năng của mình".
"Như chính mình" nghĩa là không còn phân biệt chủ thể và đối tượng gì nữa. Hay nói cách khác cho dễ hiểu, không phân biệt tôi và anh, tôi và chị hoặc tôi và nó gì nữa. Chỉ còn là một thôi.
Tóm lại, những chữ đi sau động từ "yêu" nhằm diễn tả một tình yêu không biên giới, cả biên giới với Chúa lẫn biên giới với người khác. Tất cả đều yêu nhau. Cuộc sống chỉ là yêu.
4. Bắt đầu yêu mình trước
Trong bài Tin Mừng này, Ðức Giêsu bảo "Ngươi hãy yêu kẻ khác như chính mình ngươi". Có thể hiểu là: hãy biết yêu mình trước rồi mới có thể yêu kẻ khác.
Một cụ già đang ngồi trước cổng thành. Một người khách lạ đến hỏi:
- Dân trong thành này là người thế nào?
- Thế anh thấy dân của thành trước đây anh vừa ghé như thế nào?
- Họ rất tử tế và sẵn sàng giúp đỡ khi mình nhờ tới.
- Thế thì anh cũng sẽ gặp những người như vậy trong thành này.
Một lúc sau, một người khách khác tới và cũng hỏi:
- Dân trong thành này là người thế nào?
- Thế anh thấy dân của thành trước đây anh vừa ghé như thế nào?
- Họ rất khó ưa, ích kỷ và chẳng chịu giúp mình gì cả khi mình nhờ tới.
- Thế thì anh cũng sẽ gặp những người như vậy trong thành này.
Ý nghĩa câu chuyện này là tôi thường đánh giá người khác không theo lòng họ mà theo lòng mình. Nếu ta thấy người ta khó chịu, đó là dấu trong lòng ta đang khó chịu. Người nào bình an trong lòng thì lan tỏa bình an ấy ra ngoài và cảm thấy mọi người đều hiền hòa.
Bởi thế, ta phải học yêu bản thân mình trước rồi mới có thể yêu người khác. Nhưng thế nào là yêu mình? Là hãy ban cho lòng mình những tình cảm cao thượng, bình an, độ lượng.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý: Yêu mình một cách sai lạc thì không thể yêu người khác. Yêu mình sai lạc là thế nào? Là ích kỷ chỉ nghĩ tới mình, chỉ lo cho mình và dành hết mọi sự tốt cho mình. (Flor McCarthy, Love your neighbor as yourself)
5. Chuyện minh họa: Tin Mừng trọn vẹn
Vào thời có nhiều người thích ẩn tu trong sa mạc, có một Tu Sĩ nổi tiếng đạo đức tên là Môsê. Sắp đến lễ Phục sinh, tất cả các tu sĩ đều nhất trí sẽ không ăn gì cả suốt Tuần Thánh, mỗi người ở luôn trong phòng mình và chuyên chăm cầu nguyện.
Ðến giữa tuần, có hai khách lữ hành ghé thăm Thầy Môsê. Thấy họ đói quá, Thầy nấu cho họ một nồi súp. Và để họ không ngại, Thầy cũng ăn một ít trước mặt họ. Ðang lúc đó, các thầy khác thấy khói và mùi thức ăn từ phòng Thầy Môsê bay ra thì bực tức tới bắt lỗi:
- Thầy đã phạm luật!
Thầy Môsê khiêm tốn trả lời:
- Ðúng là tôi đã phạm luật của loài người. Nhưng đó là vì tôi giữ luật Chúa dạy phải yêu thương người khác.
Nghe thế, những thầy kia xấu hổ bỏ đi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Giêsu được yêu cầu nêu ra hai điều luật quan trọng nhất. Ngài đã nêu ra luật mến Chúa và luật yêu người. Ngài đã nối kết cả hai lại với nhau và xem chúng đều trọng như nhau. Thế nhưng loài người chúng ta thường tách hai điều đó khỏi nhau.
6. Mảnh suy tư
Tách rời hai khoản luật lớn của Chúa là một thảm kịch và rõ ràng đi ngược ý Chúa.
Thế nhưng việc này lại thường xảy ra.
Những kẻ lo mến Chúa thì thường không yêu người, và những kẻ lo yêu người lại không mến Chúa. Thế là Tin Mừng bị xé ra làm hai. (Flor McCarthy)
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Trong bữa Tiệc ly Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta một điều răn mới: "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em". Với quyết tâm sống bác ái như Chúa đã dạy, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1. Hội Thánh là dấu chỉ tình thương của Chúa đối với nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho tất cả mọi người trong đại gia đình Hội Thánh / luôn sống hòa thuận thương yêu nhau / và cư xử bác ái với những ai chưa nhận biết Chúa.
2. Lòng bác ái yêu thương không hề có biên giới / chủng tộc /; ngôn ngữ / địa vị xã hội / giầu nghèo / thông thái hay dốt nát / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu / biết cố gắng sống tinh thần quảng đại ấy.
3. Ngày nay / hận thù / bạo lực / khủng bố vẫn còn đang hoành hành dữ dội tại nhiều nơi trên thế giới / gây kinh hoàng cho biết bao người / đem tang tóc và đau khổ cho biết bao gia đình lương thiện / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho lòng bác ái yêu thương / ngự trị trong mọi sinh hoạt trên khắp hoàn cầu.
4. Chân thành yêu thương nhau / hết lòng tôn trọng nhau / và quảng đại giúp đỡ những ai thực sự đói nghèo / là bổn phận của mỗi kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng yêu thương nhau như Chúa đã dạy.
CT: Lạy Chúa, thánh Phaolô quả quyết "Sống bác ái yêu thương là chu toàn lề luật của Chúa". Xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con có thể hết lòng mến Chúa và tha thiết yêu người như Chúa đã dạy. Chúng con cầu xin...
VI. Trong Thánh Lễ
Trước kinh Lạy Cha: Trong kinh Lạy Cha, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta yêu mến Chúa là Cha chúng ta "hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn" ta, cũng như yêu thương tha nhân là anh em chúng ta "như chính mình" ta vậy.
Sau kinh Lạy Cha: "... xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Xin giúp chúng con luôn cố gắng thực thi điều răn quan trọng nhất là Yêu thương. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp..."
VII. Giải tán
Chúc anh em ra về và sống yêu thương trọn vẹn đối với Chúa cũng như đối với tất cả mọi người.
5. Mến Chúa yêu người
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay cho chúng ta thấy sự chống đối dai dẳng của bọn biệt phái đối với Chúa Giêsu. Họ không ngừng tìm cách giăng những cái bẫy để hại Ngài. Họ đã bắt lỗi Ngài trong các việc Ngài làm. Đồng thời họ còn muốn bắt lỗi Ngài trong các lời Ngài nói. Vì giáo huấn của Ngài luôn đi ngược lại với những điều họ giảng dạy, nên họ đã cố gắng tìm cách đưa Ngài trở về với con đường mòn họ đã vạch ra và muốn mọi người noi theo. Họ muốn Chúa Giêsu lặp lại chính những điều họ thường giảng dạy. Họ hỏi Ngài về điều răn trọng nhất. Làm sao có thể nói khác điều luật dạy: Yêu mến Thiên Chúa hết lòng. Nếu như Ngài dừng lại ở đây thì có lẽ họ đã toại nguyện, bởi vì Ngài dạy như họ đã dạy.
Thế nhưng, Chúa Giêsu không dừng lại ở đó mà Ngài còn nói thêm: Giới răn thứ hai cũng giống như giới răn thứ nhất. Giống ở đây không có nghĩa là hai giới răn là một và có thể hoán đổi cho nhau, mà muốn nói đến tầm quan trọng ngang nhau của hai giới răn. Giới răn thứ hai đó là ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi, nghĩa là yêu thương kẻ khác một cách trọn vẹn, một cách hết lòng. Đây chính là nét độc đáo của Chúa Giêsu. Điều Ngài muốn khẳng định ở đây không phải là việc mến Chúa và yêu người, bởi vì những tư tưởng này cũng khá quen thuộc trong Cựu Ước, nhưng chính là việc Ngài đặt hai giới răn này gắn chặt với nhau, cũng có một tầm quan trọng ngang nhau, và hơn thế nữa, theo Ngài thì toàn thể lề luật và sách các tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn này.
Giáo huấn của Chúa Giêsu hẳn đã làm cho kẻ thù của Ngài phải sửng sốt. Nhưng sự sửng sốt này, thay vì lay tỉnh họ, đặt họ trong tư thế sẵn sàng tìm hiểu cái mới trong giáo huấn của Chúa, thì đã làm cho họ thêm chai cứng và thêm quyết tâm trong ý định triệt hạ Ngài. Một cách nào đó có thể nói rằng tình yêu giữa con người với con người là công việc của con người, thế nhưng đây lại là một nỗi bận tâm lớn của Thiên Chúa, bởi vì chính Ngài đã đặt tình yêu này thành mệnh lệnh, thành giới răn và Ngài không ngần ngại tự đặt mình làm trọng tài lo việc thực thi giới răn này: Nếu các ngươi hà hiếp cô nhi quả phụ, làm phiền lòng khách ngoại kiều, bắt người nghèo khó vay tiền phải chịu lãi nặng, họ sẽ kêu thấu đến ta và chính ta sẽ nghe tiếng họ kêu van, sẽ nổi cơn thịnh nộ và sẽ dùng gươm giết chết các ngươi.
Người Kitô hữu vào mọi thời đã đón nhận giới luật yêu thương đồng loại như là một trong hai giới răn quan trọng nhất của Kitô giáo. Mến Chúa yêu người đó là tất cả chương trình sống của người tín hữu. Những công việc chúng ta quen gọi là bác ái từ thiện như giúp đỡ người tàn tật, bệnh hoạn hay gặp phải tai ương đã từng là những hình thức quen thuộc để thực thi giới luật yêu thương.
6. Điều răn trọng nhất
MINH HỌA LỜI CHÚA
1. Mến Chúa và yêu người
Một thanh niên bị công an tầm nả gắt gao. Trên đường tẩu thoát, anh xin tá túc trong một xóm đạo. Giáo dân che giấu anh tận tình. Nhưng thấy công an đến lục soát và hăm dọa nếu không bắt được người thanh niên đó, họ sẽ thiêu rụi xóm đạo và giết chết hết nên giáo dân sợ tìm đến hỏi ý kiến cha xứ. Cha vừa thương người thanh niên vừa sợ cho giáo dân nên không quyết định ngay được. Cha vào phòng đọc Kinh Thánh mong tìm được tìm giải pháp. Cha tìm thấy ông Caipha nói về cái chết của Chúa Giêsu: "Thà một người chết còn hơn cả một dân tộc bị tiêu diệt". Tin đó là Lời Chúa soi sáng, cha bảo giáo dân nộp người thanh niên cho công an và anh bị xử tử. Cái chết của anh thanh niên mà cha biết là vô tội đã dày vò tâm trí cha. Cha giam mình trong phòng để sám hối.
Một sứ thần đến tra vấn cha. Cha đáp:
- Tôi đã nộp người thanh niên đó cho kẻ thù.
Sứ thần tiết lộ cho cha biết:
- Người thanh niên đó chính là Chúa Giêsu.
Lời tiết lộ của sứ thần làm cho cha càng bối rối thêm. Thấy vậy, sứ thần dẫn giải:
- Phải chi thay vì đọc Kinh Thánh, ông đến thăm người thanh niên, và nhìn vào mắt anh, ông sẽ nhận ra ông ta là ai.
Phải chi thay vì đọc Kinh Thánh, ông đến thăm người thanh niên, và nhìn vào mắt anh, ông sẽ nhận ra ông ta là ai.
Chắc chắn anh ta là Chúa Giêsu, vì Chúa Giêsu đã chẳng đồng hóa với tha nhân đó sao?
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu bảo: "Người phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy, là ngươi hãy yêu người thân cận như chính mình" (Mt. 22, 37-39).
Mến Chúa là thương người. Thương người là mến Chúa, vì Chúa đã đồng hóa với tha nhân, và mỗi người là hình ảnh Chúa. Chính vì thế, thánh Gioan đã xác quyết: "Kẻ nào bảo mình mến Chúa mà không thương người là nói dối. Vì tha nhân mình thấy trước mắt mà không thương thì làm sao mến Chúa mình không thấy được" (1 Ga. 4,20).
Câu chuyện trên đây nhắc chúng ta hai giới răn chính yếu Chúa Giêsu dạy trong Tin Mừng hôm nay. Đó là "mến Chúa yêu người". Không thể kính mến Chúa mà ghét bỏ con người. Cũng không thể yêu mến con người mà từ bỏ Chúa.
Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Người, để con người nhận ra mình trong anh em và mến người anh em như chính mình. Như thế "mến Chúa yêu người là một giới răn duy nhất cao trội". Hễ kính mến Thiên Chúa là yêu thương anh em. Nếu không anh em thì không thể nhìn nhận Thiên Chúa và kính mến Người được. (Theo "Phút cầu nguyện cuối ngày", tập III).
2. Người ta thương yêu ông dường nào
Một cuốn phim nói về cậu bé 7 tuổi với ông nội giàu có và đang quản lý nhiều công nhân. Ông là con người ích kỷ, độc ác, bắt công nhân làm việc cực nhọc và nhiều giờ để trục lợi, mà trả lương rất kém. Những ai đã làm việc cho ông đều than phiền ông, nhưng vì không có việc làm nên đành phải chịu vậy.
Trong khi đó, cậu bé quá thần tượng ông mình, nên không nhận ra điều đó. Cậu lại nghĩ ông mình là người quảng đại nhân từ. Cậu thường nói với ông:
- Nội ơi! Người ta thương nội biết dường nào. Vì nội nhân từ quảng đại với họ. Con dám chắc người ta thương nội như con thương nội vậy.
Tình yêu và lời nhắc nhở của cậu bé lần hồi thay đổi được lòng ông lão. Ông đã trở nên người quảng đại nhân ái như đứa cháu ông nghĩ về ông.
Câu chuyện trên đây cho chúng ta thấy tình yêu của Chúa Giêsu có thể thay đổi tâm hồn chúng ta, và ban cho chúng ta sức mạnh thực thi bác ái đối với tha nhân và lòng mến đối với Thiên Chúa.
Việc làm biểu lộ tình yêu rõ rệt và cao cả nhất của Chúa Giêsu là chết treo trên khổ giá.
Trước hết, nó là dấu chỉ gây ấn tượng sâu sắc về tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta, vì "không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì bạn hữu mình" (Ga. 15,13).
Kế đến, việc Chúa Giêsu đóng đinh mời gọi chúng ta đến với tình yêu. Người bảo chúng ta: "Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con" (Ga. 15,12). Người dạy chúng ta biết: chúng ta có thể hy sinh giúp đỡ kẻ khác như người đã hiến mạng sống vì phần rỗi chúng ta.
Sau cùng, ngoài dấu chỉ tình yêu, lời mời gọi đến tình yêu, thập giá Chúa Giêsu còn mạc khải cho chúng ta biết tình thương kéo theo đau khổ: yêu thương giúp đỡ kẻ khác sẽ đem lại đau khổ mất mát cho chính mình, như Chúa Giêsu vì thương chúng ta, để cứu rỗi chúng ta phải chịu chết trên khổ giá.
Như thế, trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta biết điều răn trọng nhất trong đạo là "mến Chúa yêu người". Và Người mời gọi chúng ta thực thi điều răn đó, bằng cách nêu gương cho chúng ta khi Người chịu chết treo trên thập giá, để làm dấu chỉ tình yêu của Người, để mời gọi chúng ta đến tình yêu và mặc khải cho chúng ta biết tình yêu luôn luôn kéo theo đau khổ mất mát. (Theo "Sunday homilies").
3. Thị kiến hay phục vụ
Đã nhiều năm một vị tu sĩ cao tuổi cầu xin Chúa hiện ra củng cố niềm tin cho ông nhưng chưa được Chúa nhận lời. Trong lúc ông buồn phiền thất vọng thì Chúa hiện ra. Ông mừng quá, quỳ gối tiếp kiến Chúa!... Bỗng hồi chuông tu viện báo hiệu giờ phút phát chẩn cho người nghèo đã đến, và ông là người có trách nhiệm đó. Làm sao đây? Ở lại tiếp kiến Chúa hay đi giúp đỡ người nghèo? Ông suy nghĩ một lúc rồi xin phép Chúa đi làm bổn phận.
Khi làm xong bổn phận, ông trở về phòng, vẫn nuối tiếc vì không được diện kiến Chúa như lòng ước nguyện. Nhưng khi mở cửa phòng, ông không thể tin vào mắt mình: Chúa còn ở đó chờ ông, ông mừng rỡ quỳ xuống cảm tạ Chúa. Chúa liền nói:
- Nếu con không đi phát chẩn cho người nghèo. Ta không ở lại đây chờ con.
Câu chuyện trên đây minh họa tuyệt vời giáo huấn của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay: "Con hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của con hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn con, và hãy yêu người thân cận như chính mình con" (Mt. 22, 37-39). Vị tu sĩ lão thành trên đây đã làm đúng ý Chúa Giêsu. Ông đã học được phương thế tốt nhất để kính mến Chúa. Kính mến Chúa không nhất thiết phải từ bỏ mọi sự, phải quay lưng lại với tha nhân, mà thực hiện điều căn bản nhất là phục vụ tha nhân, nhất là những người nghèo khổ bất hạnh.
Một Kitô hữu vĩ đại thời nay là Albert Schweizer, người đã từ biệt những buổi hòa nhạc nổi tiếng ở Châu Âu đi làm bác ái thừa sai phục vụ người nghèo ở Phi Châu đã nói: "Tôi không biết bạn kính mến Chúa bao nhiêu. Tôi chỉ biết một điều là ai biết tìm và thấy cách thức phục vụ tha nhân thì mới thực sự kính mến Chúa như lời thánh Gioan khẳng định: "Nếu ai nói: tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối, vì ai không thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em mình" (1 Ga. 4, 20-21). (Theo "Thiên đàng là thế đó").
4. Mến Chúa trong tha nhân
Cách đây ít lâu, đài truyền hình Ý đã đưa ra một hình ảnh tra tấn dã man tại một số nhà tù ở Mỹ, là một nước tự hào là dân chủ tự do, tôn trọng nhân phẩm con người. Những hình ảnh tra tấn dã man đó là nguyên cớ sinh ra hận thù, bạo lực. Có sức mạnh nào thay đổi được thảm trạng hận thù bạo lực giữa con người không? Một linh mục đã từng bị tù ngục bất công trong nhiều năm kể lại: Trong thời gian bị giam, một đêm nọ tôi đau quá. Thấy người lính gác đi ngang qua, tôi liền nói:
- Này anh, anh thương cho tôi thuốc uống.
- Ở đây không có tình thương.
Đó là bầu không khí đè nặng chúng tôi trong tù ngục. Nhưng rồi một đêm lạnh quá, không ngủ được, tôi nghe có tiếng nhắc nhở tôi: "Tại sao con dại thế? Con còn giàu lắm! Con còn mang tình thương Chúa Giêsu trong lòng con. Hãy yêu thương họ như Chúa Giêsu thương yêu con..."
Thế là tôi bắt đầu yêu thương họ, yêu mến Chúa trong họ, tươi cười với họ, trao đổi với họ. Dần dần chúng tôi trở thành bạn thân. Bầu khí nhà giam thay đổi hẳn. Quan hệ giữa họ và tôi cũng bắt đầu tốt đẹp thân thiện. Từ đó tôi quyết tâm làm theo Lời Chúa Giêsu: "Điều gì con làm cho một người bé mọn nhất trong anh em con là làm cho chính ta".
Sự thay đổi bầu khí nhà tù và mối quan hệ thân thiện trong câu chuyện trên đây là do sức mạnh của tình yêu: yêu Chúa qua tha nhân. Quả thế ở đâu có tình thương, ở đó có an bình vui tươi và hạnh phúc vì có Chúa hiện diện và ngự trị, có ngôn ngữ của bác ái. Đức ái liên kết mọi người nên một, đạp đổ hận thù, nghi kỵ. Bác ái chính là chứng tích nhận ra chúng ta là môn đệ Chúa Kitô.
Bản tính con người hạn hẹp yếu đuối dễ sai lầm, và sai lầm nhiều nhất là không nhìn thấy Chúa trong tha nhân. Thế nên trong Tin Mừng hôm nay, nhân dịp một người trong nhóm Biệt Phái hỏi thử, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta điều răn trọng nhất, cốt yếu nhất, tóm lại tất cả lề luật và lời các ngôn sứ: đó là:
"Con phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của con, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn con...
Và phải thương người thân cận như chính mình con" (Mt. 22, 37-39).
Chúng ta hãy xin Chúa ban cho một trái tim như trái tim Chúa, để có thể kính mến Chúa tha thiết qua anh chị em, nhất là những anh chị em nghèo khổ bất hạnh. (Theo "Phút cầu nguyện cuối ngày", tập IV).
5. Yêu người không thấy mặt
Một trung úy Hải quân Hoa Kỳ thuật lại:
Qua mục "Tìm bạn bốn phương" trong báo chí, anh quen được một người con gái ở New York. Sau một thời gian thư từ qua lại, hai người yêu nhau. Nhưng có điều là chàng trung úy không vui là cô gái không bao giờ gởi hình cô cho anh, và anh muốn biết mặt cô. Cô giải thích:
- Nếu anh yêu em thực sự, thì diện mạo bên ngoài của em đâu phải là quan trọng. Giả như em đẹp, em sợ rằng anh yêu em chỉ vì sắc đẹp, đó là điều làm cho em thất vọng. Ngược lại nếu em xấu thì sao? Anh có yêu em không?...
Khi nào anh về New York, anh sẽ thấy em, và lúc đó anh sẽ quyết định.
Và họ hẹn gặp nhau tại ga xe lửa New York. Vừa đến điểm hẹn, chàng trung úy gặp ngay cô gái đang đứng chờ mình. Anh chưa kịp tự giới thiệu thì cô ta đã lên tiếng:
- Thưa ông, tôi không biết có chuyện gì giữa ông và cô gái đang đứng bên kia đường. Vừa thấy ông, cô ấy đã vội vã sang đó, và nhờ tôi gặp ông nói dùm: Cô ấy chờ ông ở trong quán bên kia đường.
Chàng trung úy vội vã sang bên kia đường, đến quán ăn nơi người yêu đang chờ đợi. Và họ đã gặp nhau vui mừng phở lở.
Câu chuyện trên đây nói lên tình yêu giữa người với người. Cuộc sống của người Kitô hữu chúng ta cũng như một cuộc tình, trong đó chúng ta yêu thương một người mà chúng ta chưa hề thấy mặt. Người tình không chân dung đó chính là Thiên Chúa. Trước khi chúng ta thấy mặt diện đối diện, trước khi cho chúng ta chiêm ngắm dung nhan Người, Thiên Chúa gặp gỡ chúng ta qua dung mạo của người anh em đồng loại chúng ta.
Do đó, cuộc sống của chúng ta tại thế cũng giống như cuộc tập dợt yêu thương từ một tình cảm vị kỷ, tình yêu của chúng ta ngày càng được thanh luyện để trở nên siêu nhiên hơn. Qua bao nhiêu người đồng loại chúng ta gặp mỗi ngày, Thiên Chúa không ngừng đến với chúng ta. Một tình yêu đích thực mà muốn chứng tỏ với Chúa sẽ được đo lường qua chính tình thương mà chúng ta thể hiện với tha nhân, nhất là qua những người mà tự nhiên không bao giờ chúng ta muốn tìm đến gặp gỡ.
Có thực hiện được như thế, chúng ta mới tuân giữ được giới răn trọng nhất mà Chúa Giêsu dạy chúng ta trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta hoàn thành bổn phận đối với Chúa và với đồng loại. Khi đó chúng ta mới xứng đáng lời Chúa Giêsu mời gọi: "Hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các con ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói các con đã cho ăn; Ta khát các con đã cho uống; Ta là khách lạ các con đã tiếp rước; Ta trần truồng các con đã cho mặc; Ta đau yếu các con đã chăm nom; Ta ngồi tù các con đã đến viếng" (Mt. 25, 34-36)
(Theo "Phút cầu nguyện cuối ngày", tập IV).
7. Tình Chúa tình người - AM Trần Bình An
Malala Yousafzai đã được trao giải Nobel Hòa Bình vào hôm thứ Sáu, ngày 10 tháng 10, 2014 cùng với ông Kailash Satyarthi cho những nỗ lực tranh đấu chống lại sự áp bức đối với trẻ em và quyền của giới trẻ, trong đó có quyền được giáo dục.
Malala Yousafzai, người Pakistan, năm nay 17 tuổi là người trẻ nhất trong lịch sử được vinh dự nhận giải Nobel Hòa Bình trong danh sách những người nhận giải nổi tiếng như Martin Luther King Jr., Nelson Mandela and Mẹ Teresa.
Hai năm trước đây Malala Yousafzai bị quân khủng bố cực đoan Taliban bắn vào đầu và cổ bởi vì những tranh đấu của cô đòi quyền được giáo dục cho các em gái nhỏ ở Pakistan. Sau khi hồi phục từ cuộc giải phẫu, Malala đã mở rộng phạm vi chiến dịch vận động ra thế giới bên ngoài và trở thành tiếng nói đi đầu cho quyền được giáo dục của các trẻ em phái nữ.
Từ khi mới 11 tuổi Malala Yousafzai đã bắt đầu có những buổi trả lời phỏng vấn và chuyển tải những thông điệp của cô về sự quan trọng của giáo dục đối với các bé gái. Lúc bấy giờ Taliban đã chiếm đóng thành phố của cô và đe dọa sẽ phá hủy toàn bộ những trường lớp dành cho nữ sinh và ngăn cấm các bé gái đến trường.
"Mặc dù tuổi còn rất trẻ, Malala Yousafzai đã tranh đấu trong nhiều năm cho quyền được đến trường của trẻ em gái. Cô là tấm gương chứng minh rằng trẻ em và thế hệ trẻ cũng có thể đóng góp để cải thiện hoàn cảnh của chính mình. Và Malala đã làm điều đó trong những điều kiện vô cùng nguy hiểm. Qua cuộc tranh đấu hào hùng của cô, cô đã trở thành phát ngôn viên hàng đầu cho quyền của trẻ em gái được học hành." Ủy ban Nobel đã tuyên bố.
Malala Yousafzai hiện đang theo học tại Birmingham, Anh Quốc và cô nhận được tin thắng giải Nobel Hòa Bình vào sáng thứ sáu khi đang ở trong lớp hóa học. Phát biểu cảm tưởng về giải thưởng, Malala nói rằng cô không tin là cô xứng đáng với giải Nobel Hòa Bình. Tuy nhiên, cô xem đây là một khích lệ lớn lao để cô tiếp tục và biết rằng cô không cô đơn trên con đường tranh đấu của cô.
"Đây chỉ là bước khởi đầu, trẻ em trên toàn thế giới cần đứng dậy cho những quyền của mình mà không phải chờ đợi ai khác," cô nói. (Theo CNN & USA Today)
Cô bé Malala Yousafzai tuy tuổi nhỏ nhưng đã chín chắn trưởng thành, ý thức tranh đấu cho nữ quyền, mặc dù nguy hiểm đe dọa tính mạng. Cô can đảm xả kỷ, xả thân cho lý tưởng phụ nữ bình quyền. Phải có một tình yêu tha nhân cháy bỏng, cô mới có thể kiên trì dấn thân. Điều không phải ai cũng dễ dàng làm được, dù có thừa lợi thế hơn cô bé.
Trình thuật Tin Mừng Thánh Matthêu hôm nay, Đức Giêsu tuyên bố hai giới răn quan trọng nhất. Đó là mến Chúa, yêu người. Tuy vắn tắt, đơn giản nhưng thực hiện không hề dễ.
Khi con người bị đột biến gien
Trong sáng, thành thật, dễ thương, trẻ thơ là hình ảnh Đức Giêsu muốn nhắn nhủ, gửi đến những ai mong được hưởng Ơn Cứu rỗi, được vào Nước Trời. Nhưng dù lên non tìm động hoa vàng đi nữa, chắc mấy ai có thể cải lão hoàn đồng, khi cái tâm vẫn còn lục dục, thất tình, tham sân si?
Vốn nhân chi sơ tính bản thiện, trẻ thơ sống hồn nhiên, vô tư, ngay lành trong tình yêu của ông bà, cha mẹ, anh chị em. Thiên Chúa đã đặt dấu ân Tình Yêu trên bản sao của Ngài.
Tiếc thay dấu ấn đó phai mờ dần, khi con người lớn lên, chịu ảnh hưởng thói xấu, gian trá, lưu manh, háo lợi, háo danh, háo chức, háo quyền lực của bá tánh, của môi trường xã hội.
Khi này lương tâm hạ cấp thê thảm. Lương tâm không bằng lương bổng! Thay vì làm con thơ yêu thương của Thiên Chúa, lại cam phận nô lệ cho ba thù, xác thịt, thế gian và ma quỷ, mà Thánh Phaolô đã phải chua xót thốt lên: “Họ chẳng phục vụ Đức Kitô, Chúa chúng ta, mà phục vụ chính cái bụng của mình!” (Rm 16, 18)
Tình yêu trong sáng chấp cánh bay đi, chỉ còn tình hận, tình phụ và tình thù. Con người bị đột biến gien, bị văn minh sự chết cấy sinh tử phù dở sống dở chết, cấy gien tự hoại, tự hủy, như Cty Monsanto cấy gien vô sinh vào hạt giống (GMO), để độc quyền cung cấp giống thực vật, động vật đã đăng ký bản quyền.
Khi Đấng Cứu Thế đến giải thoát con người
"Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em." (Ga 15, 12) Đây chính là lệnh truyền, cũng như điều răn của chính Đức Giêsu phán dạy. Ngôn hành hiệp nhất, Người đã yêu thương con người, đến giảng dạy và chứng mình lời nói bằng chính cuộc chịu nạn, chịu chết và sống lại để giài thoát con người khỏi kiếp nô lệ và cái chết đời đời.
Người đem Tình Yêu cao quý, sáng ngời, nóng bỏng, đến đốt cháy sự chết, gian tà, kiêu căng, hợm hĩnh, xa hoa, giả hình. Tình Yêu xóa tan hận thù, đố kỵ, chia rẽ, để tất cả thương yêu, hiệp nhất với nhau và với Người. “Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên một, như, lạy Cha, Cha ở trong con và con ở trong Cha, để họ cũng ở trong chúng ta.” (Ga 17, 20-21) Nên một với Đức Giêsu, nên đồng hình đồng dạng với Người, thì con người sẽ biết cách yêu thương nhau như Người đã yêu thương con người.
Khi con người biết yêu mến Thiên Chúa, tôn thờ, ngợi khen và cảm tạ, cũng là lúc biết sám hối, thành khẩn tìm về với Ngài, mong muốn Ngài luôn hiện diện trong thế giới đang ra sức chổi bỏ Ngài, từ khước và vô ơn bạc nghĩa với Ngài.
“Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.” (Mt 22, 39)
Thắm đậm Tình Yêu Thiên Chúa, con người mới mở rộng cõi lòng đến với tha nhân, mới có thể yêu tha nhân như chính mình. Mới biết đem đến tha nhân những tinh túy Tình Yêu, tình người, lòng bác ái, tình yêu thương, đùm bọc, che chở, chia sẻ và giúp đỡ tận tình.
“Vì yêu thương, ta sẵn sàng hy sinh tất cả: “Để thế gian biết Đức Chúa Cha yêu Thầy và Thầy yêu mến Đức Chúa Cha, chúng ta hãy chỗi dậy và ra đi.” (Đường Hy Vọng, số 159)
Lạy Chúa, xin gột rửa trái tim chúng con nên trong sạch, tẩy đi những dấu vết, hoen ố, tội lỗi, ích kỷ, kiêu căng, đam mê xác thịt, thế gian, để chúng con xứng đáng đón rước Tình Yêu đại lượng cao cả của Thiên Chúa. Xin Chúa cải hóa chúng con trở lại con người chân chính, nguyên thủy mà Chúa đã yêu thương tạo dựng, để chúng con luôn biết kính yêu Chúa, tôn thờ và cảm tạ Chúa mãi, cũng như biết yêu thương tha nhân chân tình.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dạy dỗ, nhắc nhủ chúng con ngày càng thêm mến Chúa, yêu Chúa qua những bổn phận và trách nhiệm hằng ngày, trở nên chứng nhân Tình Yêu Thiên Chúa giữa tha nhân. Kính xin Mẹ nâng đỡ, hướng dẫn chúng con yêu thương tha nhân như chính Chúa vậy. Amen.
8. Mến Chúa yêu người
Mở đầu đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Matthêu cho thấy một bầu khí tranh chấp và đố kỵ của người Do Thái. Kẻ thì theo nhóm biệt phái, người thì theo nhóm Sađốc. Bên này gài bẫy bên kia và hí hửng khi đối thủ lâm nạn. Từ lãnh vực chính trị xã hội cuộc tranh chấp lan sang phạm vi tôn giáo. Luật pháp có tới 613 khoản, gồm 248 lệnh truyền và 365 lệnh cấm. Những khoản nào là quan trọng nhất. Đó là một vấn đề nóng bỏng.
Tuỳ theo lập trường nghiêng về phụng vụ hay xã hội, đền thờ hay đền vua, mà người ta có thể biện minh cho thái độ của mình, biệt phái hay Sađốc, chống đối hay cộng tác với ngoại bang. Ai cũng muốn tranh thủ người khác về phe mình. Người ta muốn biết ý kiến của Chúa Giêsu, bởi vì lập trường của Ngài rất quan trọng, dân chúng sẽ tuỳ đó mà biểu lộ cảm tình của mình với phe nào, thế nhưng tuyên bố lập trường của mình cũng là điều nguy hiểm cho Ngài, bởi vì phe đối nghịch có thể dựa ào đó mà kết án Ngài.
Tuy nhiên, đó chỉ là những suy tính của người ta. Đã nhiều lần họ gài bẫy Ngài. Nhưng chẳng có lần nào họ đã thành công. Hôm nay cũng vậy. Được hỏi ý kiến về giới răn quan trọng nhất, Ngài đã trả lời như hết mọi người Do Thái đạo đức: Ngươi phải kính mến Thiên Chúa hết lòng. Thế nhưng không dừng lại ở đó mà Ngài còn nói tiếp: Giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất đó là ngươi phải thương yêu anh em như chính mình ngươi. Ngài không đồng hoá hai việc mến Chúa và yêu người. Hai việc đó vẫn khác nhau và vì thế không được xao lãng nhiệm vụ nào. Đó là nét độc đáo của Chúa Giêsu.
Người ta vẫn nói phải mến Chúa và yêu người, phải có thiên đạo và nhân đạo, nhưng bình thường người ta vẫn coi đó là những nhiệm vụ xa rời nhau, không liên hệ gì với nhau. Người ta có thể mến Chúa trong nhà thờ và không thương người ở ngoài xã hội. Hoặc thương người ở ngoài xã hội nhưng lại không mến Chúa ở trong nhà thờ. Hơn nữa, người ta coi việc thương người chỉ là thứ yếu sánh với việc mến Chúa. Đối với Chúa Giêsu thì khác. Phải mến Chúa cũng như yêu người. Ưu tiên là mến Chúa, nhưng đồng thời cũng phải yêu người. Hay như thánh Gioan đã viết: Không thể có lòng mến Chúa, Đấng vô hình, nếu không thương người. Và khi dạy phải yêu người như chính bản thân, thì Chúa Giêsu không có ý bảo phải thương mình trước. Câu nói của Chúa Giêsu có nghĩa là phải yêu người hết lòng cũng như phải kính mến Chúa hết lòng.
Cuối cùng một nét độc đáo khác nữa trong câu trả lời của Chúa Giêsu là tất cả luật pháp và các tiên tri đều quy về sự mến Chúa và yêu người. Như vậy, không những tất cả 613 khoản luật, mà toàn thể lời giáo huấn đều nhằm phát triển lòng mến Chúa yêu người. Như thế vấn đề tranh chấp đã được giải quyết. Chẳng phe nào thắng. Phe nào cũng phải nỗ lực hơn để giữ trọn lề luật. Phe nào cũng đã lầm lạc vì đã không cọi trọng hai nhiệm vụ mến Chúa yêu người như nhau, cho nên đã làm mất quân bình, gây ra những lệch lạc trong đời sống. Đức Kitô đã đến để mang lại ơn cứu độ. Ai đón nhận Ngài thì phải mến Chúa. Ai đã mến Chúa thì cũng phải yêu người.
9. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Sau khi thất bại Đức Giêsu với câu hỏi: “Có nên nộp thuế cho Cêsarê không?”(Mt 22,17) nhóm Biệt phái tiếp tục dùng chiêu khác để gài bẩy Ngài. Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết, họ sai một tiến sĩ luật đến hỏi thử Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất?”(Mt 22,34).
Câu hỏi không dễ trả lời. Bởi vì, thời Đức Giêsu, luật Do thái có 613 khoản, trong đó có 365 luật cấm và 248 luật buộc. Trong 613 khoản luật đó, chính nhóm Biệt phái và các phe nhóm khác vẫn chưa thống nhất với nhau điều nào trọng nhất: Nhóm thì điều luật này, nhóm thì điều luật kia. Nhóm nào cũng muốn giữ lập trường của mình. Trước tình trạng đó, họ muốn hỏi Đức Giêsu để gài bẩy Ngài. Nếu Đức Giêsu trả lời điều luật này trọng điều luật kia không thì Ngài rơi vào tình trạng ủng hộ quan điểm của nhóm này và phủ nhận quan điểm của các nhóm kia. Nên Ngài sẽ bị các nhóm kia chống đối. Nhưng Đức Giêsu không thể mắc bẩy của họ. Ngài luôn có câu trả lời khôn ngoan làm cho bọn họ phải “tâm phục khẩu phục”. Thật vậy, dựa vào sách Đnl 6,5 và sách Lêvi 19,18, Ngài đưa ra câu trả lời rằng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ðó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó”(Mt 22, 37-40). Câu trả lời của Đức Giêsu thật xuất sắc, khiến vị tiến sĩ luật không còn thắc mắc gì thêm nữa. Câu trả lời này cho chúng ta biết trong 613 khoản luật của Do thái tóm lại hai điều luật quan trọng là Mến Chúa – Yêu Người. Hai điều luật này khác nhau nhưng không tách rời. Hai điều luật này luôn đi đôi với nhau: Mến Chúa thì phải yêu người và yêu người thì phải mến Chúa. Chính Thánh Gioan Tông đồ cũng đã nói: “Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em thì đó là kẻ nói dối, bởi vì kẻ không yêu thương người anh em nó thấy trước mắt, tất không thể yêu mến Đấng nó không thấy.”(1 Ga 4,20). Nhưng chúng ta phải làm gì để yêu mến Chúa và tha nhân?
1. Chúng ta phải làm gì để yêu mến Chúa?
Có nhiều việc làm để yêu mến Chúa, xin được đơn cử một vài việc làm sau đây:
Thứ nhất, để yêu mến Chúa, chúng ta phải tuân giữ giáo huấn của Ngài. Đức Giêsu đã từng nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14,15). Nơi khác Ngài cũng nói: “Ai giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” (Ga 14,21). Các giáo huấn của Chúa được cụ thể hóa qua 10 điều răn. Các giáo huấn của Chúa được thể hiện qua: Lời của Ngài trong cuốn Kinh Thánh; Giáo huấn của Giáo hội; tiếng nói của lương tâm; các vị bề trên hợp pháp thay mặt Chúa để coi sóc, dạy bảo chúng ta... Tuân giữ giáo huấn của Chúa không chỉ chứng tỏ chúng ta yêu mến Chúa mà còn để chu toàn bổn phận của chúng ta đối với Ngài, giống như người con yêu mến cha mẹ thì luôn vâng lời cha mẹ.
Thứ hai, để yêu mến Chúa, chúng ra phải “ ước ao làm vui lòng Chúa” (Đức cha Arthur Tonne). Nhưng như thế nào là làm vui lòng Chúa? Sau đây là 8 cách làm vui lòng Chúa:
Chân thành: Hãy sống chân thành với chính mình và tha nhân. Dù khó khăn thế nào thì bạn cũng phải đối diện sự thật – hãy nhớ rằng bạn không lừa được Thiên Chúa, và đó là lừa chính mình. Thiên Chúa và bạn là những người duy nhất biết điều gì thực sự xảy ra, vì thế đừng nói dối Đấng đã hy sinh mạng sống vì bạn!
Khiêm nhường: Đừng bao giờ ưu tiên chính mình. Không thể đốt giai đoạn, hãy cứ duy trì mức đầu và cố gắng để đạt mức tốt nhất. Đừng quên: “Dục tốc bất đạt”.
Dành thời gian cho Chúa: Cố gắng dành thời gian cho Chúa: Tham dự Thánh lễ, tham dự phụng vụ, tham dự giờ kinh chung, cầu nguyện riêng,… Hãy dành thời gian thờ phượng bởi vì không có Thiên Chúa thì chúng ta không thể hiện hữu.
Hãy là chính mình: Bạn không cầu nguyện với gia đình hoặc bạn bè, do đó bạn không nên thay đổi chính mình theo ý họ. Đấng duy nhất mà bạn nên thay đổi theo ý Ngài chính là Thiên Chúa. Ngài muốn bạn là bản sao tuyệt vời nhất của Ngài. Đừng ảnh hưởng bất kỳ ai ở xung quanh bạn, hãy chỉ ảnh hưởng bởi Thiên Chúa mà thôi.
Bám sát giá trị của mình: Đừng mắc lừa cơn cám dỗ hoặc ma quỷ. Hãy nhớ rằng bạn có các giá trị luân lý phải bám sát. Hãy cố gắng hiểu sự khác nhau giữa thiện và ác, đúng và sai. Đừng ảo tưởng bám theo điều mà bạn không thể.
Sống mỗi ngày như ngày cuối cùng: Đừng lãng phí một giây phút nào trong ngày. Hãy sống mỗi ngày như thể là ngày cuối cùng của mình, vì Thiên Chúa luôn chúc lành cho những ai sống với gia đình và bạn bè. Cuộc sống không thể nói trước được điều gì, nhưng hãy chúc tụng và tạ ơn Chúa đã cho bạn có dịp sống với những mơ ước của mình.
Đặt người khác trước mặt mình: Thiên Chúa hy sinh chính mình để bạn có thể sống trọn vẹn. Thay vì sống với gia đình và bạn bè theo tính xác thịt, Ngài đã đặt khác trước Ngài. Hãy cố gắng sống như Ngài. Hãy giúp đỡ những người cần được giúp đỡ. Các thiện cử của bạn sẽ không lãng phí vì Thiên Chúa luôn ở trong bạn.
Tín thác vào Chúa: Thiên Chúa có lý do và kế hoạch cho mọi thứ. Dù hoàn cảnh khó khăn thế nào, bạn cũng phải tin vào Thiên Chúa. Ngài là Đấng duy nhất mà bạn phải tín thác.
(8 cách làm vui lòng Chúa, do Trầm Thiên Thu chuyển ngữ từ beliefnet.com)
2. Chúng ta phải làm gì để yêu thương tha nhân?
Cũng có nhiều việc làm để yêu thương tha nhân, xin được gợi ý vài việc làm sau đây:
Thứ nhất, yêu thương tha nhân là không muốn điều xấu cho họ. Ông Tôbia cha đã khuyên ông Tôbia con rằng: “Điều con không thích thì đừng làm cho người khác”(Tb 4,15a). Và Đức Khổng Tử cũng khuyên các đệ tử rằng: “Điều mình không muốn thì đừng làm cho kẻ khác”. Thánh Phaolô đã dạy rằng: “Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại;”(x. Rm 13,10). Bài đọc I hôm nay cũng dạy: không được làm hại cô nhi quả phụ; không được cho họ vay nặng lãi, hãy trả những của cầm cố của người nghèo trước khi mặt trời lặn…(x. Xh 22, 21-27).
Thứ hai, yêu thương tha nhân là muốn điều tốt cho họ. Đức Giêsu đã nói: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó”(Mt 7,12).
Muốn điều tốt cho tha nhân là phục vụ họ. Chính Đức Giêsu đã rửa chân cho các Tông đồ. Ngài còn quả quyết: “Ta đến không phải được phục vụ, nhưng để phục vụ và đem giá máu của mình để cứu chuộc muôn người” (Mt 20,28). Phục vụ thì đòi hỏi phải hy sinh, hy sinh cho tha nhân chính là tình yêu cao cả: “không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Muốn điều tốt cho tha nhân là phải biết giúp đỡ họ, giống như người Samaritanô nhân hậu (Lc 10, 29-37). Bởi vì, khi chúng ta giúp đỡ tha nhân là chúng ta giúp đỡ chính Chúa. Trong ngày phán xét chung, vị thẩm phán sẽ nói với những người lành rằng: “Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu các ngươi đã đến thăm, Ta bị tù đầy các ngươi đã đến với Ta... Những gì các ngươi làm cho một trong các anh em bé mọn của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25,36).
Lạy Chúa, hằng ngày chúng con vẫn đọc Kinh Kính Mến, vẫn thưa với Chúa rằng “chúng con kính mến Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình”, nhưng trong thực tế chúng con vẫn chưa thực hiện trọn vẹn lời kinh này. Xin Chúa tha thứ cho chúng con và giúp chúng con cố gắng từ nay biết thực hiện trọn vẹn lời kinh này. Amen.
10. Mến Chúa
Có một chứng bệnh mỗi ngày một trở nên trầm trọng trong xã hội ngày nay, đó là chứng bệnh cô đơn. Thực vậy, giữa thời buổi kinh tế thị trường, người ta đổ xô về thành phố. Thế nhưng, dân số thành phố càng gia tăng thì chứng bệnh cô đơn lại càng trầm trọng. Người ta sống cách nhau chỉ một bức tường mà không hề biết đến tên tuổi của nhau. Trong một chung cư, kẻ ở lầu trên, ra vào cùng một lối mà chẳng biết đến kẻ ở lầu dưới. Mỗi người trở thành như một hòn đảo, một pháo đài biệt lập. Đời sống càng xô bồ chen chúc, thì con người lài càng cảm thấy cô đơn. Mặt trời dường như mỗi ngày một thêm nóng bức và oi ả, mà lòng người thì mỗi ngày một thêm lạnh lùng và băng giá. Thiên hạ đối xử với nhau ngày càng thêm hờ hững và xa lạ. Vậy đâu là phương thuốc trị liệu cho chứng bệnh cô đơn này?
Theo tôi nghĩ chúng ta không có một phương thuốc nào hiệu nghiệm cho bằng hãy mến Chúa và yêu người. Hay như Chúa Giêsu đã phán qua đoạn Tin Mừng hôm nay: Giới răn thứ nhất là hãy kính mến Thiên Chúa hết lòng, còn giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là hãy yêu thương tha nhân như chính mình. Tuy nhiên, đây không phải là hai giới răn riêng biệt, nhưng chỉ là một giới răn duy nhất. Yêu người chỉ là sự biểu lộ và hậu quả tất nhiên của lòng mến Chúa. Có yêu người thì mới có thể mến Chúa. Và ngược lại, có mến Chúa thì mới có thể yêu người.
Từ đó chúng ta suy ra: nguyên nhân sâu xa nhất tạo nên chứng bệnh cô đơn, chínhy là vì con người đã xa lìa Thiên Chúa. Thực vậy, cùng với những thành quả của khoa học, con người đã muốn truất phế Thiên Chúa, họ muốn nói lên như dân Do Thái ngày xưa: Chúng tôi không muốn nó cai trị trên chúng tôi. Hẳn chúng ta còn nhớ khi phi thuyền Spoutnick được phóng lên không gian và trở về địa cầu, phi hành gia Gargarine đã tuyên bố với báo chí: Từ nay sẽ không còn ai dám nói rằng có một Thiên Chúa điều khiển trăng sao nữa. Thế nhưng, nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy dăm ba chiếc phi thuyền nhỏ xíu di chuyện trong một khoảng thời gian nào đó trên không trung, làm sao có thể sánh ví với hàng triệu triệu vì sao quay cuồng trên bầu trời, không bằng một hạt cát trong sa mạc, không bằng một giọt nữa giữa biển khơi. Chính vì thế, Carnégie đã nói: Về phương diện khoa học kỹ thuật, loài người đã tiến được những bước khá cao, nhưng về phương diện tinh thần và tôn giáo, họ vẫn còn dậm chân trong một tình trạng ấu trĩ. Chúng ta có tiền nhiều, có áo tốt, có nhà cao, có xe xịn…nhưng lại thiếu bồi dưỡng về tình thần vì con người thời nay đã mất niềm tin vào Thiên Chúa. Niềm tin sẽ là như khí trời, thiếu nó chúng ta sẽ bị ngột ngạt và căng thẳng. Không tin vào Thiên Chúa là nguồn mạch mọi tình thương, chúng ta cũng không thể nào tin vào tình người một cách chân thành và bền bỉ. Vì lòng yêu người chỉ là hoa trái của tình mến Chúa mà thôi.
Bởi đó, ngày nay hơn bao giờ hết, con người phải quay trở về cùng Thiên Chúa, như lời bác học Von Braun đã tuyên bố: Nhờ những hiểu biết về không gian, nhiều người ngày nay cho rằng chúng ta cần phải tin có Thiên Chúa hơn cả những người sống trong thời trung cổ. Bởi đó, những kẻ coi khoa học là chủ tể của con người, thì chỉ biểu lộ sự nông cạn, hẹp hòi của mình mà thôi. Chính vì thế, Pascal đã nói: Khoa học nông cạn làm cho con người xa lìa Thiên Chúa, nhưng khoa học khôn ngoan sẽ dẫn đưa con người tới gần Ngài.
Một khi đã trở về cùng Thiên Chúa, một khi đã tới gần Ngài, chúng ta sẽ không còn cô đơn và tuyệt vọng, nhưng sẽ tràn đầy niềm hy vọng như lời Thánh Vịnh 17 đã diễn tả: Dù có đi giữa bóng tối hãi hùng của sự chết, tôi không còn lo sợ, vì Chúa ở cùng tôi. Hơn thế nữa, một khi đã trở về cùng Thiên Chúa, một khi đã tới gần Ngài, chúng ta mới tìm thấy được cái nền tảng vững chắc, cũng như những giá trị siêu nhiên cho vệc yêu người. Thực vậy, tại sao chúng ta lại phải yêu thương người khác? Vì có chung một Thiên Chúa là Cha, nên chúng ta là anh em. Bởi đó phải yêu thương nhau. Ngoài ra những hành động bác ái và yêu thương còn có một giá trị vĩnh cửu, bởi vì khi giúp đỡ người khác là chúng ta đã giúp đỡ cho chính Chúa vậy. Trong ngày phán xét, Ngài sẽ tra hỏi chúng ta về vấn đề này, và rồi dựa vào đó mà ấn định số phận đời đời của mỗi người chúng ta.
11. Đôi cánh để bay lên - Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Các loại máy bay cần phải có hai cánh mới có thể bay lên không trung. Nếu máy bay bị hỏng mất một hoặc cả hai cánh thì tất nhiên phải nằm lì một chỗ, chẳng thể nào bay lên được.
Các loài chim cũng phải có cánh để bay. Nếu bị cắt mất một cánh, chúng không thể bay lên.
Tương tự như thế, con người muốn được “bay” về thiên đàng thì cũng phải có đủ hai cánh.
Vậy thì hai cánh mà mỗi người chúng ta cần phải có để bay lên tới thiên đàng là gì?
Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su cho biết hai cánh đó là lòng mến Chúa và yêu thương người. Ngài nói rõ điều này với người thông luật: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình" (Mt 22,37-39).
Và qua dụ ngôn về "cuộc phán xét cuối cùng", Chúa Giê-su dạy rằng những ai có lòng mến Chúa yêu người, được thể hiện qua việc quan tâm chăm sóc những người nghèo khổ chung quanh thì sẽ hưởng hạnh phúc đời đời trên thiên quốc; còn ai không có lòng mến Chúa yêu người, thể hiện qua việc thờ ơ, vô cảm trước những nỗi bất hạnh của người khác, thì phải bị sa vào chốn cực hình muôn đời muôn thuở (Mt 25, 35-36).
Như thế thì lòng mến Chúa yêu người chính là đôi cánh tối cần thiết đưa ta về cõi thiên đàng vinh hiển. Người nào không có hai cánh này, chẳng những không được hưởng phúc thiên đàng mà còn phải sa vào hoả ngục.
Ảo tưởng
Tuy nhiên, có một số người lầm tưởng rằng: chỉ cần thờ phượng Thiên Chúa, chủ yếu là tham dự Thánh lễ các ngày Chúa nhật và lễ trọng, cùng đọc kinh sáng tối… là đủ để lên thiên đàng.
Nhưng sống đạo như vậy thì chưa được, chưa làm đúng như Chúa yêu cầu. Thực hành như thế khác gì muốn bay lên thiên đàng mà chỉ cần có một cánh.
Đức thánh Cha Bê-nê-đích-tô nhắc nhở chúng ta phải thực hành đầy đủ hai phần: vừa thờ phượng Thiên Chúa vừa yêu thương mọi người và không thể thiếu một trong hai.
Ngài nói: “Việc thực thi bác ái đối với các goá phụ và trẻ mồ côi, với các tù nhân, với các bệnh nhân và người túng thiếu dưới mọi hình thức, thuộc về bản chất của Hội thánh cũng y như việc phục vụ bí tích và rao giảng Phúc âm. Hội thánh không thể lơ là trong việc thực thi bác ái cũng như lơ là trong việc ban các bí tích và Lời Chúa.[1]”
Máy bay muốn bay lên thì cần phải có hai cánh. Chúng ta muốn cất cánh bay về Thiên đàng thì cũng cần có hai cánh.
Theo lời dạy của Đức thánh Cha Bê-nê-đích-tô thì
- Cánh thứ nhất là thờ phượng Thiên Chúa qua việc cử hành hoặc tham dự Thánh lễ và loan truyền Lời Chúa.
- Cánh thứ hai là sống bác ái, yêu thương phục vụ mọi người.
Nếu chúng ta không thờ phượng Thiên Chúa, cũng không quan tâm săn sóc giúp đỡ những người bất hạnh chung quanh… thì chúng ta như máy bay không có cánh, chẳng thể bay lên.
Nếu chúng ta chỉ thờ phượng Thiên Chúa mà thờ ơ, vô cảm đối với những người bất hạnh… thì chúng ta chỉ như máy bay bị gãy mất một cánh, không thể bay tới thiên đàng.
Nếu chúng ta vừa siêng năng thờ phượng Thiên Chúa vừa yêu thương phục vụ những người bất hạnh chung quanh, thì chúng ta như là máy bay có đầy đủ hai cánh, chắc chắn sẽ “bay” lên tới thiên đàng.
Lạy Chúa Giê-su,
Thiên Chúa đã cho loài chim có đôi cánh để chúng có thể bay vút lên cao và tung cánh khắp bốn phương trời.
Chúa cũng cho mỗi người chúng con có đôi cánh tuyệt vời là quy luật mến Chúa yêu người để chúng con sử dụng mà bay lên thiên đàng hưởng phúc muôn đời với Chúa.
Xin cho chúng con đừng bao giờ cắt bỏ đôi cánh Chúa ban, vì khi làm như thế, chúng con không thể bay về với Chúa mà lại bị trầm luân trong cõi chết muôn đời.
-----------------------------
[1] Thông điệp “Thiên Chúa Là Tình Yêu” số 22 của Đức Giáo hoàng Bê-nê-đích-tô.
12. Giới răn tối thượng – Lm. Ignatiô Trần Ngà
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Người Do-Thái ngày xưa bị trói buộc bởi 613 khoản luật, gồm 365 luật buộc và 248 luật cấm. Tuân giữ bấy nhiêu khoản luật là một ách nặng không ai mang nổi, và giữa một rừng luật lệ như thế, việc tìm cho ra đâu là giới luật quan trọng hàng đầu mà mỗi người phải ưu tiên thực hiện là vấn đề không dễ. Đây cũng chính là vấn nạn mà một người thông luật đặt ra với Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?"
Chúa Giêsu đáp: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình."
1. Giới răn yêu thương, tuy hai mà một
Nhiều người vẫn tưởng rằng giới răn mến Chúa và giới răn yêu người là hai giới răn khác biệt, nhắm về hai đối tượng khác nhau: điều răn mến Chúa quy về Thiên Chúa và điều răn yêu người quy về con người.
Thực ra, hai giới răn nầy cùng đều quy về một mối: đó là yêu mến Thiên Chúa đang hiện diện nơi những con người đang sống chung quanh, hay nói khác đi, yêu thương phục vụ những người chung quanh là phụng sự Thiên Chúa.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu xác nhận hai giới răn nầy không khác biệt nhau khi Người nói: "điều răn thứ nhất là ngươi phải yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình" (Mt 22, 39).
Qua dụ ngôn về "cuộc phán xét cuối cùng", Chúa Giêsu đồng hoá giới răn yêu người với giới răn mến Chúa: những ai cho những kẻ đói khát vất vưởng đầu đường xó chợ một bữa ăn thì Chúa Giêsu nói là họ cho Người ăn; những ai cho những kẻ rách rưới hay mình trần một vài tấm áo thì Chúa Giêsu tuyên bố là họ đã cho Người mặc; những kẻ giúp đỡ những người phiêu cư, lang bạt không nhà có chỗ trọ qua đêm thì Chúa Giêsu gọi họ là đã cho Người trú ngụ... (Mt 25, 35-36) và những người đó được Chúa Giêsu khen ngợi là "những kẻ được Cha Ta chúc phúc" và được Người mời "đến thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho họ từ thuở tạo thiên lập địa" (Mt 25, 34).
Chúa Giêsu cũng long trọng khẳng định rằng khi người ta làm bất cứ điều gì cho những anh em chung quanh là làm cho chính Người. (Mt 25,40)
Thế nên, hai giới răn nầy không khác biệt nhau, vì thực thi giới răn yêu người (giới răn thứ hai) cũng là hoàn thành giới răn mến Chúa (giới răn thứ nhất). Vậy thì tuy được kể là hai, nhưng hai giới răn nầy cũng quy về một mối: tuy hai mà một.
Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô tái khẳng định điều đó: "Ai yêu thương người (điều răn thứ hai) thì đã chu toàn Lề Luật" (tức là đã giữ trọn tất cả các điều răn, kể cả điều răn thứ nhất là mến Chúa) (Rm 13, 8).
2. Giới răn yêu thương là trung tâm của các giới răn khác
Hai giới răn nầy là trung tâm của mọi giới răn, vì tất cả các giới răn khác đều quy hướng về hai giới răn quan trọng nầy; đồng thời đây cũng là giới răn tối thượng bao trùm hết mọi giới răn khác. Vì thế, ai giữ trọn giới răn nầy thì được xem là đã giữ tròn tất cả các điều răn khác.
Thánh Phao-lô khẳng định như thế trong thư gửi tín hữu Rô-ma: "Thật thế, các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời nầy: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy" (Rm 13, 9-10)
Và Chúa Giêsu, qua trang Tin Mừng hôm nay, cũng xác nhận như thế: "Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy". (Mt 22, 40)
* * *
Xưa kia, đang khi quân binh Israel và quân binh Phi-li-tinh giàn binh bố trận để giao chiến với nhau, thì Gô-li-át, một chiến sĩ khổng lồ vô địch trong hàng ngũ Phi-li-tinh đứng ra thách thức với toàn chiến binh Israel: "Các ngươi hãy chọn lấy người khoẻ nhất ra đây giao chiến tay đôi với ta, (không cần hai phe phải dốc toàn quân giao chiến làm gì cho hao binh tổn tướng). Nếu nó hạ được ta thì chúng tao sẽ làm nô lệ chúng bây. Còn nếu ta hạ được nó, thì chúng bây sẽ làm nô lệ hầu hạ chúng tao" (I Samuen 17, 9-10)
Sau đó, Đavít đã thay mặt toàn quân Israel chiến đấu tay đôi với Gô-li-át và đã hạ sát được y ngay từ phút đầu bằng một phát ná bắn đá rồi giật lấy gươm của y mà chặt đầu y.
Thắng được tên Gô-li-át là chiến thắng toàn thể quân binh Phi-li-tinh.
Sự kiện nầy minh họa cho vấn đề nầy là: nếu chúng ta chu toàn giới răn chủ chốt là giới răn yêu thương thì chúng ta đã giữ tròn các giới răn khác.
Muốn chế ngự rắn độc, phải cố tóm cho được cái đầu.
Muốn chinh phục toàn quân thì phải chiếm được bộ chỉ huy.
Muốn giữ tròn lề luật, hãy bắt đầu tuân giữ giới răn yêu người, vì "yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy" (Rm 13, 10).
13. Ý nghĩa ba chữ "Hết"
(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh, ofm)
Khi chúng ta dồn tâm gắng sức cho một công việc gì đó, như mua đất, xây nhà, lấy vợ, gả chồng…, ta mô tả: Tôi đã dành cho công việc đó biết bao thời gian, biết bao công sức, biết bao suy tư, biết bao tiền của…. Tức là nhiều lắm!
Rồi khi mô tả một người mệt quá sức, ta không chỉ nói mệt lắm. Nhưng có thể thêm: Ông ấy mệt thở chẳng ra hơi, nói không thành lời, tay giơ không nổi, chân động chẳng lay. Những kiểu mô tả đó nhằm nói lên một phó từ (trạng từ): lắm, rất, nhiều: rất mệt, gắng nhiều …
Khi Chúa Giêsu tóm tắt lề luật bằng một giới răn mà một trong hai, đó là “yêu Chúa thật nhiều” thì Kinh Thánh cũng dùng kiểu nói: “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi, hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết trí khôn ngươi.” Nhưng ba cái “hết” đó có phải chỉ là nhiều lắm, hay còn có ý nghĩa gì thêm? Chắc hẳn là có nhiều ý nghĩa hơn, nhất là khi được gắn với động từ “yêu.” Ta thử tìm hiểu ý nghĩa của ba cái “hết” đó.
Tôi tò mò mở lại vừa học vừa xem nguyên bản Kinh Thánh Do thái (Hipri) dùng 3 cái “hết” đó là những cái “hết” nào, còn Kinh Thánh Hi lạp thì dùng 3 cái “hết” nào.
Do Thái là Đông phương, thì: “hết trái tim, hết linh hồn, hết sức lực” (bơkôl lơbavơka, ubơkol nápơka, ubơkol mơôdeka).
Hy Lạp là Tây phương, viết: “hết lòng (kardia), hết linh hồn (shukhe), hết trí khôn (dianoia).
Người Tây phương nặng óc phân tích, nhất là người Hi Lạp. Thời kỳ khai nguyên Triết học Tây phương là thời đại của Hi lạp. Nói cách khác, Hi lạp là quê hương của các tổ sư Triết Tây, như Socrates, Platon, Aristote, Zénon, Héraclite…, cho nên thay vì như kiểu nói Do Thái: “hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực,” thì Hi Lạp đã chữa “hết sức lực” thành “hết trí khôn”. Tại sao?
Trong chương trình Triết lớp 12 trước đây, người ta chia sinh hoạt con người làm 3 lãnh vực: đời sống tình cảm, đời sống hoạt động và đời sống tri thức (lý trí).
Vì thế: hết lòng, hết trái tim: đời sống tình cảm
Hết linh hồn: tức hết ý chí: đời sống hoạt động
Và thay vì hết sức như Do Thái, Hilạp đổi thành hết trí khôn: tức là đời sống tri thức, lý trí.
Mỗi đời sống có thể lệ thuộc nhau, nhưng cũng có thể độc lập.
Kinh nghiệm hoặc những cảnh diễn ra trước mắt cho ta thấy:
Một người chồng có thể yêu một người khác (đ/s tình cảm). Người chồng này có thể nhớ nghĩ một người khác (đ/s tri thức), và hành động theo ý người vợ trước mặt (đ/s hoạt động). Nói đại như sau: Anh Khanh có thể yêu cô Thương, nhớ cô Tưởng, nhưng lại tuân lệnh bà Xã là vợ của anh đang ở trước mặt.
Có thể ba đối tượng của yêu, của nhớ, của hành động cũng là một, mà cũng có thể là ba đối tượng khác nhau, hoặc hai đối tượng khác nhau: yêu và nhớ một người, và hành động theo lệnh một người khác. Trong một tiểu thuyết của Quỳnh Dao tôi không nhớ rõ, có mô tả chàng kia hỏi nàng nọ “tim em đập làm sao, óc em nghĩ cái gì và hồn em thuộc về ai,” thì nàng đã trả lời “tim em đập hai tiếng Tâm Đan, óc em nghĩ tới hai chữ Tâm Đan và hồn em thuộc về chàng trai mang tên Tâm Đan.” Tâm Đan chính là tên của chàng kia hỏi nàng nọ. Thiên Chúa đòi chúng ta ba đối tượng đó phải là một: một Chúa.
Yêu Chúa hết lòng (đời sống tình cảm), nhớ Chúa không nguôi (đời sống tri thức) và làm theo ý Chúa mãi (đời sống hoạt động). Đó là ý nghĩa mệnh lệnh Chúa theo bản Kinh Thánh Hy Lạp: “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi, hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, hết trí khôn ngươi.” Các thánh giáo phụ, đặc biệt Augustinô giải thích thêm cho ta:
Yêu Chúa hết lòng tức không yêu ai, yêu gì bằng Chúa. Có một trái tim thì Chúa ngự trị trọn vẹn trong đó.
Yêu Chúa hết linh hồn tức là yêu hết ý chí mình, sẵn sàng vâng theo ý Ngài, dù có phải chết. Chúng ta nghe nói đến thôi miên. Người bị thôi miên là mất hồn, không còn ý chí nữa, mà hành động theo lệnh của người thôi miên mình. Yêu Chúa hết linh hồn là như vậy: bị Ngài thôi miên để lúc nào cũng làm theo ý của Ngài sai khiến.
Yêu Chúa hết trí khôn nghĩa là luôn nhớ tới Chúa, không lúc nào ngơi. Nói theo kiểu nói của ngôn ngữ computer, thì yêu Chúa hết bộ nhớ luôn. Yêu Ngài, là out of memory. Tràn bộ nhớ. Không có cái nào khác lọt vào nữa.
Dân Israel ngày xưa và ngay cả ngày nay khắc ghi mệnh lệnh này của Đức Chúa một cách tuyệt đối. Đây là kinh Sơ ma, “Kinh Hãy Nghe” của họ. Chúng ta nghe trọn vẹn lời kinh “Hãy Nghe” theo bản dịch Hi Lạp:
“Hãy nghe, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Thiên Chúa hết trái tim ngươi, hết linh hồn ngươi, hết trí khôn ngươi, những lời ta truyền cho ngươi hôm nay, ngươi phải ghi lòng tạc dạ và thuật lại cho con cháu. Ngươi hãy lập lại các lời ấy lúc ngồi ở nhà, lúc đi ngoài đường, khi nằm ngủ cũng như khi thức dậy. Ngươi phải buộc những lời ấy vào tay để làm dấu, mang trên trán làm phù hiệu. Phải viết lên khung cửa nhà và khung cửa thành của ngươi” (Đnl 6, 4-8).
Là người Do thái, Đức Giêsu ngay từ nhỏ đã thuộc nằm lòng Kinh Hãy Nghe này rồi. Vì thế mệnh lệnh “hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” phải là mệnh lệnh đệ nhất. Người Do Thái thời đó ai cũng biết, nên khi hỏi Đức Giêsu: Trong lề luật, điều nào trọng nhất? Ngài trả lời dễ dàng.
Nhưng cái hay, cái cả gan của Đức Giêsu là dám nói câu này: Còn một điều nữa cũng giống như vậy: Hãy yêu anh em. Đức Giêsu cả dám đặt “hãy yêu anh em” bằng, như “hãy yêu Chúa.” Đây là mảng đề tài lớn và phong phú mà chúng ta đã được giải thích và ngẫm nghĩ nhiều lần, nhiều cách. Hôm nay chúng ta không đả động gì tới điểm này. Chỉ xin nói một câu: Nếu Chúa Giêsu đã nói “toàn thể lề luật tóm lại trong hai giới răn đó” (mến Chúa, yêu người), thì chúng ta xin tóm tắt hai luật đó thành một: yêu người vì Chúa: ngươi hãy yêu mến anh em hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn vì Ta là Chúa. Bài đọc I rất thấm thía để minh hoạ thêm cho điều này. Chỉ trích tóm một câu: “Nếu các ngươi ức hiếp mẹ goá con côi, thì cơn giận Ta sẽ bốc lên chống lại các ngươi” (x. Xh 22, 21-23).
Để kết luận: Tại sao phải yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Thưa bởi vì Ngài yêu ta trước.
Trong cuốn “tự thuật”, một người cha ghi lại câu chuyện và ý nghĩ sau: một đêm kia trong lúc tôi đang đọc báo, tôi nghe đứa con gái bé nhỏ của tôi bảo: “Bố ơi, để con đếm xem trên trời có mấy ngôi sao?” Rồi tôi nghe nó đếm (1,2,3,…) trong khi tôi vẫn chăm chú đọc báo. Đến khi đọc xong bài báo tôi chú ý lắng nghe và tiếng đứa con gái vẫn tiếp tục 300, 301, 302…. Chợt nó dừng lại quay sang nói với tôi: Bố ơi con không dè trên trời lại có nhiều sao đến thế! Nghe con gái bình luận vậy, tôi chợt nhớ là thỉnh thoảng tôi cũng nói với Chúa “Chúa ơi để con thử đoán xem con đã nhận lãnh bao nhiêu ơn lành của Chúa? Và càng đếm trái tim tôi hình như càng cảm thấy thổn thức không phải vì âu sầu mà vì bị quá nhiều hồng ân Chúa đè nặng. Rồi tôi cũng thấy phải thốt lên như con gái của tôi: Lạy Chúa, con không dè đời con lại có quá nhiều hồng ân của Chúa đến thế!”
Anh chị em thân mến,
Chúng ta cứ thử đếm mà xem, tưởng ít mà hoá ra vô số các ân huệ của Chúa. Tôi có thể kể cả giờ những ý tứ của lời Kinh Cám Ơn “Tôi cám ơn Đức Chúa Trời là Chúa lòng lành… ,” lời kinh cho ta được một số ý niệm về ân huệ của Chúa.
“Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” vì Ngài yêu ta trước.
Mỗi thánh lễ là một lễ tế tạ ơn. Con người chúng ta tạ ơn không xứng. Ta phải hợp với Đức Chúa Con mà tạ ơn Đức Chúa Cha. Trước khi bước vào phần lễ tế tạ ơn, ta hãy tuyên xưng lòng tin của ta vào Đức Chúa.
14. Yêu thương - Con đường dẫn tới sự sống
(Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh)
Tin mừng Mt 22: 34-40: Qua đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe, chúng ta hiểu rằng nền tảng sống đức tin của chúng ta được xây dựng trên luật yêu thương mà Chúa Giêsu đã minh định với các luật sĩ và biệt phái. Quả thật, đức tin không có việc làm là đức tin chết.
Như bao cộng đồng xã hội khác, sau khi Dân Chúa hình thành một cộng đồng xã hội, một bộ luật cũng đã được ban hành để cộng đồng Dân Chúa duy trì được trật tự và phát triển. Tuy nhiên, đây là cộng đồng được Chúa chọn giữa muôn dân, nên bộ luật dành cho Dân Chúa được chi phối bởi niềm tin tôn giáo độc thần, tin vào một Thiên Chúa duy nhất, Đấng đã giải phóng Dân Do Thái ra khỏi Ai Cập, đã chăm sóc cho dân như người mục tử chăm lo cho đàn chiên, như người cha chăm lo cho con cái. Vì thế, bộ luật ban hành cho Dân Chúa được xây dựng trên nền tảng thuộc bản chất của Đấng được gọi là yêu thương, nền tảng đó được Đức Kitô chỉ rõ: Yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và thương yêu tha nhân như chính mình.
Trước tiên Chúa Giêsu nói đến tình yêu dành cho Thiên Chúa. Điều này có nghĩa là con người chỉ tìm thấy ý nghĩa đích thực về sự hiện hữu của mình khi nhận ra mình được Chúa yêu thương và bước theo đường lối của Người chỉ vẽ như người con thảo hiếu, hay như người vợ hiền luôn tín trung. Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI trong thông điệp Thiên Chúa là tình yêu đã minh định: “Lịch sử tình yêu của Thiên Chúa với Israel nằm trong chiều kích sâu thẳm ở chỗ, Người ban cho họ Torah (Lề luật) có nghĩa là mở mắt họ cho thấy rõ bản chất đích thực của con người và vạch cho họ con đường để trở thành con người đúng đắn. Lịch sử này bao gồm sự việc: con người khi sống trung tín với Thiên Chúa duy nhất, sẽ cảm nghiệm mình là người yêu của Thiên Chúa và tìm được niềm vui trong chân lý, trong công bình - niềm vui trong Thiên Chúa, niềm vui đó trở thành hạnh phúc thật của mình: "Con còn ai chốn trời xanh Ban Ngài thế sự thật tình chẳng ham.... Còn hạnh phức của con là ở kề bên Chúa (Tv 72) (số 9).
Vì thế việc yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự là hành vi cốt cán chi phối mọi hành động của cuộc sống. Quả thật, sự hiện hữu của con người bắt nguồn từ tình yêu của Thiên Chúa, nên tất cả mọi hoạt động của con người nếu muốn tồn tại cần phải qui hướng về tình yêu này. Lần đọc lại câu chuyện Ađam, nguyên tổ của con người, tác giả sách Sáng Thế đã cho biết, chỉ vì Nguyên tổ đã để cho lý trí và ý chí lệch hướng trong mối tương giao với Thiên Chúa mà con cháu phải chịu cảnh lầm than, không còn đặt Thiên Chúa là trọng tâm của cuộc sống, con người phải đối diện với sự hư vong. Thế giới hôm nay như đang đặt bước chân mình vào con đường của Nguyên Tổ đã trải qua, con đường khước từ Thiên Chúa để tìm vinh danh cho chính mình, và có thể nói thời đại hôm nay là thời đại mà con người quá đề cao chính mình và tỏ ra yêu mình quá mức. Từ thái độ đó, con người rơi vào vào cơn lốc hưởng thụ ích kỷ, đánh mất đi căn tính thần thiêng của mình, và càng ngày càng tục hoá lối sống. Từ thái độ đánh mất mối tâm giao với Thiên Chúa, con người rơi vào khủng hoảng của thất vọng, của sự sợ hãi, và hầu như bế tắc trong nỗ lực đi tìm một sự bình an thư thái. Đây là kinh nghiệm mà Dân Do Thái đã trải qua, bao lâu Dân Chúa đánh mất tình bằng hữu với Thiên Chúa, bấy lâu họ luôn gặp nguy khốn và mạng sống luôn bị đe doạ.
Vì thế luật yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, xét cho cùng chẳng vì thiện ích của Thiên Chúa, nhưng đó lại là phương thế để giúp con người đạt tới hạnh phúc và tìm được sự sống đích thực, vì như đã nói, Thiên Chúa là tình yêu, và chính từ suối nguồn yêu thương này mà sự sống được nẩy sinh. Do đó luật dạy yêu mến Thiên Chúa hết sức mình cũng có nghĩa là luật chỉ cho con người biết làm cho cuộc sống của mình luôn phong phú và được tồn tại. Ai luôn gắn bó với Thiên Chúa, người đó đang xây dựng cho cuộc đời mình một thành trì vững chắc và thù địch sẽ không thể xâm lấn được.
Sự sống đến từ Thiên Chúa luôn thể hiện đặc tính cộng đồng, bởi ngay chính nơi đời sống nội tại của Ngài, Ngài cũng không đơn độc trong một Ngôi vị duy nhất nhưng trong Ba Ngôi vị. Chính từ nơi các Ngôi vị này hình thành một mối dây hiệp thông làm nên một bản thể duy nhất, mối dây yêu thương, và từ đó Thiên Chúa được gọi là Thiên Chúa tình yêu. Vì thế, tất cả mọi tạo thành đều bắt nguồn tình suối nguồn tình yêu này đều mang lấy đặc tính cộng đồng nơi Thiên Chúa Ba Ngôi.
Tác giả sách Sáng Thế đã tường thuật cách tuyệt vời về việc tạo dựng con người, ban đầu chỉ có môt mình Ađam, cho dẫu ông được Chúa cho quyền thống trị trên mọi dã thú, chim trời, nhưng ông cũng chẳng vui, để rồi Chúa phải thốt lên: con người ở một mình không tốt”, Ngài đã tạo nên Eva, một trợ tá tương xứng, và chỉ từ khi đó Adam mới vui, mới cảm thấy hạnh phúc (x. St 2, 18-24). Như vậy Thánh Kinh đã minh nhiên khẳng định, cuộc sống của con người chỉ tròn đầy ý nghĩa khi cuộc sống đó được biểu tỏ trong mối tương giao với tha nhân.
Chính vì thế luật Thiên Chúa ban truyền được xây dựng trên nền tảng giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Hai chiều kích không song song với nhau nhưng kết nối với nhau một cách bất khả phân ly, để có thể quả quyết rằng: yêu người là một con đường dẫn đến gặp gỡ Thiên Chúa, và quay lưng lại với tha nhân sẽ làm cho chúng ta ra mù loà không gặp được Ngài. Chính vì sự nối kết này, luật yêu người không đơn thuần xuất phát từ một cảm tính “đồng loại”, nói như cha ông Việt Nam chúng ta: Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Luật yêu thương vượt xa cảm tính này, nó được xây dựng trên nền tảng đức tin. Đức Benêđictô XVI đã nói: “Tình yêu tha nhân cốt tại chính điều này là, trong Thiên Chúa và cùng với Thiên Chúa, tôi yêu người thân cận, cả khi tôi không thích hoặc không biết người đó. Điều này chỉ trở nên khả thể từ cuộc gặp gỡ thâm sâu với Thiên Chúa, một sự gặp gỡ trở thành hiệp thông ý muốn và thâm nhập vào trong tình cảm. Bấy giờ tôi học cách nhìn người khác không phải chi bằng con mắt và tình cảm của riêng tôi, nhưng từ nhãn giới của Đức Giêsu Kitô” (Thông điệp Thiên Chúa là tình yêu, số 18). Và Đức Phanxicô cũng đã diễn tả: tình yêu tha nhân là một con đường cụ thể, một con đường dẫn chúng ta tới chỗ ra khỏi chính mình để đi đến với những người khác. Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy rằng tình yêu của Thiên Chúa hiện thực trong tình yêu tha nhân. Cả hai đi với nhau. Các trang Tin Mừng tràn đầy tình yêu này: người trưởng thành, trẻ em, người thông thái, kẻ dốt nát, người giầu kẻ nghèo, người công chính, kẻ tội lỗi tất cả đều được tiếp đón trong trái tim của Chúa Kitô.
Qua đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe, chúng ta hiểu rằng nền tảng sống đức tin của chúng ta được xây dựng trên luật yêu thương mà Chúa Giêsu đã minh định với các luật sĩ và biệt phái. Quả thật, đức tin không có việc làm là đức tin chết (Gc 2, 14). Việc làm của đức tin chính là tuân giữ giới luật của Chúa. “Nếu ai giữ các giới răn của Thiên Chúa thì đó là dấu chỉ chúng ta đã nhận biết Thiên Chúa. Ai nói rằng mình biết Chúa mà không giữ các điều răn của Chúa đó là kẻ nói dối, và chân lý không có trong kẻ ấy” ( 1Ga 2: 3-4). Ước mong sao, từng ngườii Kitô hữu chúng ta không để cho ánh sáng đức tin bị vùi tắt trước lối sống thực dụng, hưởng thụ ích kỷ, những luôn cháy sáng lung linh được dệt lên từ một một cuộc sống ngạp tràn yêu thương, yêu Chúa và yêu tha nhân. Amen.
15. Vị thế tối thượng của tình yêu
(Suy niệm của Lm. Giorgio Zevini SDB – Trung Hoàn SDB chuyển ngữ)
Anh chị em thân mến,
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật 30 TN A xoáy vào chủ đề then chốt: vị thế tối thượng của tình yêu, con tim và cốt tủy của người kitô hữu. Chúng ta dừng lại chia sẻ về hai bài đọc để nhấn mạnh trọng tâm của giới răn Chúa, đó là Tình yêu.
Chúng ta cùng cầu xin ơn Chúa Thánh Thần soi dẫn chúng ta chiêm ngắm Lời Chúa: "Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết làm mọi sự bởi vì tình yêu. Chính Chúa Giêsu để lại cho chúng con sứ điệp Tin Mừng của Chúa Nhật tuần này xoay quanh người nghèo khổ, bé nhỏ, hèn mọn.... Xin ban cho chúng con trái tim tự do thoát khỏi mọi ngẫu tượng thế gian, thoát khỏi sự nặng nề cám dỗ thế giới để phụng thờ Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật và duy nhất nhằm phục vụ anh chị em đồng loại với tinh thần xả thân như chính Chúa Giêsu đã sống giữa chúng con. Đó là giới luật sống duy nhất mà Chúa chúng con muốn dấn thân. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con."
Chúng ta khởi đi từ bài trích thư thứ nhất của thánh Phaolo tông đồ gởi tín hữu Thesalonica. Ngay những câu đầu của chương thứ nhất (1Tx 1,5c-10), thánh Phaolô nhấn mạnh đến 3 điểm then chốt cho mọi cộng đoàn kitô hữu. Cha muốn cùng chúng con đọc lại lá thư mà chính thánh Phaolô gởi cho cộng đoàn Thesalonica, thánh nhân nói rằng: các tín hữu Thesalonica đã bắt chước Đức Kitô trở nên gương sáng cho các tín hữu thuộc cộng đoàn Makêđônia và Akhaia. Đó là ý tưởng đầu tiên về hiệu năng truyền giáo của cộng đoàn Thesalonica.
Ý tưởng thứ hai nói về gương sáng của các tín hữu Tx không chỉ cho 2 cộng đoàn Makêđônia và Akhaia mà thôi, mà chính đức tin vào Thiên Chúa của cộng đoàn đã vang dội khắp nơi. Thật là tốt đẹp khi cộng đoàn đặt lời Chúa vào trung tâm của cuộc sống cách sâu xa và lan tỏa Tin Mừng ra ngoài cộng đoàn.
Trong sứ điệp thứ 3 của lá thư, thánh Phaolô khen ngợi các tín hữu đã hoán cải từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa để phục thờ Thiên Chúa hằng sống và là Thiên Chúa thật. Sứ điệp thứ ba này nhấn mạnh đến sự hoán cải trở về sau khi từ bỏ ngẫu tượng.
Như vậy, qua bài trích thư ngắn, thánh Phaolô nhắn gởi chúng ta 3 sứ điệp quan trọng: sứ điệp về truyền giáo như trung tâm của đời sống kitô giáo, như thế cộng đoàn Thesalonica không phải là cộng đoàn đóng kín mình mà là mở ra cho các cộng đoàn khác thông truyền cho các cộng đoàn khác về đức tin sống động, đức tin xây dựng trên Lời Chúa. Thật vậy, Lời Chúa không chỉ làm phong phú cộng đoàn Tx mà lan tỏa đến các cộng đoàn khác; sứ điệp thứ 2 trình bày một cộng đoàn được sinh ra bởi nhờ Lời, cộng đoàn đã lắng nghe, được nuôi dưỡng và hiện thực hóa nhờ Lời, Lời không chỉ để nói mà là để làm chứng cho người khác; sứ điệp thứ 3 của đoạn trích thư chú tâm vào Lời Chúa tạo nên sự hoán cải dẫn đến sự từ bỏ ngẫu tượng và gắn kết cuộc đời chỉ với mình Thiên Chúa. Đây là sức mạnh phi thường của Lời tác động đến mọi cộng đoàn kitô hữu.
Giờ đây, cha mời gọi anh chị em đào sâu về sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay, Đoạn Tin Mừng Mt chương 22 mô tả đời sống của cộng đoàn Do thái - Kitô giáo đã thật sự biết sứ điệp của Thiên Chúa, đã sống kinh nghiệm đức tin vào Thiên Chúa. Đức tin của cộng đoàn được thêm xác tín khi chứng kiến một nhà thông luật tra hỏi Đức Giêsu. Cộng đoàn muốn sống thánh ý Chúa ngang qua câu trả lời của Đức Giêsu đối với nhà thông luật. Đâu là câu hỏi mà nhà thông luật đặt ra cho Ngài, câu hỏi rất đơn giản: "Thưa Thầy, trong sách luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?" Đức Giêsu trả lời, Ngài liệt kê hai điều răn, Ngài nói: yêu mến Thiên Chúa là điều răn đầu tiên và quan trọng nhất, kế đến là yêu mến tha nhân là điều răn thứ hai cũng quan trọng như điều răn thứ nhất. Như vậy, Đức Giêsu liên kết lại hai giới răn trọng đại yêu mến Thiên Chúa và yêu mến tha nhân. Do đó, chúng ta cùng nhau suy nghĩ về sứ điệp Tin Mừng.
Trước hết là sự gắn kết chặt chẽ hai giới răn: mến Chúa yêu người. sự gắn kết chặt chẽ này được đo lường bằng chính mệnh lệnh của Đức Giêsu "yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi" và rồi tình yêu dành cho tha nhân đồng loại được đo lường bằng chính tình yêu bản thân. Hai điều răn này không phải là chênh lệch hơn thấp mà chính điều răn thứ hai thật sự ngang bằng với điều răn thứ nhất. Tình yêu Thiên Chúa chỉ được minh chứng bằng tình yêu dành cho đồng loại cách thật tình, tình yêu mang chiều kích xã hội loài người diễn ra trong đời sống cộng đoàn diễn đạt đặc tính tình yêu mà người ta đang sống với Thiên Chúa. Sự ưu việt của tình yêu Thiên Chúa hiện thực hóa nơi sự ưu tiên tình yêu con người. Và đây, cha muốn gợi lên suy tư trong đời sống chúng ta: nhiêu khi chúng ta tách hai hình thái tình yêu, tình yêu Thiên Chúa và tha nhân trong một vài cách thế nào đó. Chúng ta nhấn mạnh tình yêu tối hậu nơi Thiên Chúa trong khung cảnh nhà đạo, qua kinh nguyện, qua kinh nghiệm với Ngài, qua tương quan đối thoại với Ngài và sự cùng với tâm tình sám hối... chỉ mang chiều kích thuần thiêng liêng mà quên đi tha nhân; hay nhiều khi ta chỉ thuần đề cao tương quan với thực trạng con người mang chiều kích nhân chủng học hay chính trị mà quên đi vị thế ưu việt của Thiên Chúa. Do đó, thái độ sống của người kitô hữu phải nghĩ đến sự công bình, cuộc chiến đấu cho một thế giới đích thực công bằng, đúng hơn cho một khuôn mẫu đúng đắn, là tự do sống hai giới răn.
Chúng ta thường gặp hai nguy cơ. Tin Mừng thúc đẩy chúng ta dấn thân cho con người mà không được quên vị trí tối thượng của Thiên Chúa. Chúng ta được mời gọi thăng trưởng chiều kích nhân loại cho công bằng, hòa bình, hòa giải cho mọi trạng huống con người mà không thể quên tính ưu việt của Thiên Chúa. Đồng thời, chúng ta phải luôn nói về Thiên Chúa mà không quên con người. Như vậy, chúng ta thấy rằng một kitô hữu đích thực là người luôn nói với Thiên Chúa về con người. Đó là điều hết sức căn bản. Thật vậy, Thiên Chúa nói rằng ngày sabát vì con người, chứ không phải con người vì ngày sabát. Do đó, chúng ta có thể nói rằng Thiên Chúa cho con người. Như vậy chúng ta được khích lệ bởi phụng vụ hôm nay trình bày thánh Phaolô nói cho các tín hữu Tx cũng là cho mỗi chúng ta cách rõ ràng rằng người kitô hữu phải dấn thân hai xác tín: mến Chúa yêu người. Một suy tư nền tảng của thánh Phaolô cho các tín hữu đã từ bỏ ngẫu thần để quay về phụng sự Thiên Chúa Hằng sống, là Thiên Chúa thật. Chúng ta phải phụng thờ Thiên Chúa và hoán cải để trở về cùng Người, xa rời mọi ngẫu tượng để phục vụ cho những giá trị nhân loại đưa ta đến với Thiên Chúa. Như thế, chúng ta phải dành chỗ ưu việt cho tình yêu nhằm thực hiện hai giới răn.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta dễ dàng nói yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, nhưng như thánh Gioan nói rằng, làm sao có thể yêu mến Thiên Chúa mà không yêu mến những người anh em mà chúng ta thấy. đó luôn là thực tế của con người, chúng ta kinh nghiêm Thiên Chúa ngang qua tình yêu nhân loại. Đó là hai điều gắn kết chặt chẽ và thâm sâu. chúng ta cùng khẩn khoản nài xin Thiên Chúa hồng ân để sống hai giới răn trọng đại này hầu nên chứng nhân cho nhân loại về giới răn của Thiên Chúa cho một thế giới công bằng, hòa bình và hòa giải cho người nghèo khổ. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
16. Tình yêu là lẽ sống – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Đã có lần Đức Cố Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận từng nói với Bill Gate rằng: "Sự văn minh đích thực là không để ai ở lại phía sau". Và Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phaolo II cũng nói: "Sự văn minh đích thực là phục vụ sự sống". Thế nhưng, "những điều trông thấy mà đau đớn lòng". Một thế giới quá chênh lệch giầu nghèo. Một thế giới quá đề cao đồng tiền mà quên cả lương tri con người. Một thế giới lấy kinh tế làm đầu nên đã làm đảo lộn biết bao thuần phong mỹ tục, và những giá trị đạo đức truyền thống của các tiền nhân. Khoa học tiến bộ, nhưng đạo đức và phong hoá xuống cấp trầm trọng. Sự tiến bộ của khoa học dường như đang giúp sức cho sự dữ gia tăng. Khoa học tiến bộ đang phục vụ cho văn hoá sự chết hơn là phục vụ cho văn hoá sự sống. Người ta tìm muôn nghìn cách thức để lừa đảo, gian manh và truỵ lạc. Đứng trước viễn cảnh đen tối của xã hội hôm nay, Sĩ Phu Bắc Hà đã đúc kết thành bốn câu thơ:
Nhân phẩm từ đây giảm giá rồi
Chỉ còn lương thực tăng giá thôi
Lương tâm bán rẻ hơn lương thực
Chân lý chân giò một giá thôi!
Một thế giới thượng vàng hạ cám đã làm lệch đi rất nhiều những giá trị của cuộc sống. Một thế giới xem ra những nghĩa cử yêu thương thật hiếm hoi. Đó chính là một thách đố cho người ky-tô hữu chúng ta. Liệu rằng chúng ta có dám sống triệt để giới răn mến Chúa yêu người giữa một xã hội loại trừ Thiên Chúa và thiếu thốn tình người hay không? Liệu rằng chúng ta có dám chịu thiệt thòi để người khác hưởng thụ trên lòng quảng đại của chúng ta hay không? Liệu rằng chúng ta có dám yêu người khi mà người ta đang chơi xấu, đang lợi dụng, đang làm hại chúng ta? Đây là một thách đố và cũng là đòi hỏi triệt để, vì căn tính của người môn đệ Chúa là "yêu mến tha nhân như chính mình". Vì tình yêu là lẽ sống, là hơi thở của người ky-tô hữu. Không có tình yêu thì sức sống của người tín hữu đã không còn. Không có lòng quảng đại thì không còn là nhân chứng cho Tin mừng Nước Trời của Chúa. Chúng ta không thể nói yêu Chúa mà trong lòng vẫn còn thù ghét anh em của mình. Chúng ta phải vượt lên trên lòng ích kỷ, sự hẹp hòi của nhân thế để làm chứng cho một tình yêu nhân ái, bao dung và vị tha.
Đây chính là sứ điệp mà Tin Mừng hôm nay muốn loan báo. Chúa mời gọi chúng ta hãy yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Đồng thời Ngài cũng đòi buộc chúng ta phải yêu mến tha nhân như chính mình. Chính Thầy Chí Thánh Giêsu đã làm gương cho chúng ta. Chính Ngài khi bị treo trên thập tự giá đã giới thiệu cho nhân thế một tinh yêu tinh ròng đến nỗi "dám chết cho người mình yêu". Ngài đã chọn thập tự giá làm biểu tượng cho tình yêu tự hiến của mình. Với thanh dọc, Chúa chấp nhận cực hình để tôn vinh Chúa Cha. Với thanh ngang, Ngài muốn ôm trọn nhân loại trong tình thương của Chúa. Người ky-tô cũng được mời gọi trở nên đồng hình đồng dạng với Thầy Giêsu khi chúng ta sống tôn vinh Chúa Cha, và yêu mến anh em như chính mình.
Chính tình yêu đó sẽ giúp chúng ta vượt thắng những tham lam bất chính, những thói hại người hại đời để tìm tư lợi riêng cho bản thân mà người đời vẫn đang sống. Có thể là người, chúng ta cần địa vị, cần danh vọng nhưng vì lòng yêu mến Chúa chúng ta không thể bán rẻ lương tậm, không làm hại đồng loại. Có thể chúng ta cũng cần của cải để sinh sống, nhưng vì Chúa, chúng ta biết sống quảng đại để mua lấy hạnh phúc Nước Trời. Có thể đồng loại, vẫn mưu toan làm hại chúng ta, nhưng vì Chúa chúng ta nhịn nhục và nhẫn nại với nhau trong yêu thương và tha thứ.
Như vậy, chỉ có ở trong tình yêu Chúa, chúng ta mới dám sống yêu thương đồng loại như chính mình. Chính nhờ tình yêu Chúa, sẽ giúp chúng ta trao ban sự sống sung mãn cho nhân thế qua những nghĩa cử yêu thương, bác ái và vị tha. Chính tình yêu đối với Chúa, sẽ giúp chúng ta sống nhân ái và bao dung với tha nhân là hình ảnh của Ngài.
Ước gì giữa một thế giới đang băng hoại về tình người, chúng ta hãy thắp lên ngọn lửa của yêu thương, để sưởi ấm cho những ai đang cô đơn, thất vọng vì thiếu vắng tình thương, sự cảm thông và nâng đỡ của anh em. Ước gì giữa một thế giới đang bán rẻ lương tri, người ky-tô hữu hãy biết sống tôn trọng lẫn nhau, biết sống cho tình người cao quý, hơn là những của cải vật chất tầm thường. Ước gì người ky-tô hữu chúng ta, đừng vì danh lợi thú mà đánh mất nhân phẩm con người là hình ảnh Thiên Chúa. Ước gì giữa một xã hội mà chân lý bị vùi giập, chúng ta dám sống cho sự thật, cho dẫu rằng, có bị nghi kỵ, hiểu lầm, kết án và tẩy chay. Giữa một thế giới mà người ta có thể nhân danh quyền lợi của mình để giết hại người khác một cách phi nhân, ác đức, đặc biệt là các thai nhi vô tội, chúng ta hãy sống theo gương Thầy Giêsu dám chết cho người minh yêu, dám sống mình vì mọi người, và dám trở nên mọi sự cho mọi người như Thầy Giêsu.
Nguyện xin Chúa là tình yêu, xin uốn lòng chúng con nên giống trái tim yêu thương của Chúa. Amen.
17. Thiên Chúa bảo vệ người nghèo
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Mến Chúa yêu người là giới răn nền tảng của Kitô giáo. Ước gì mỗi Kitô-hữu sống giới răn yêu thương này, để mỗi người được hạnh phúc từng ngày.
1. Mỗi người đều bình đẳng trước Thiên Chúa
Người đời có thể thiên tư tây vị, trọng người này khinh người kia, vì người này giầu người kia nghèo, vì người này đẹp người kia xấu, vì người này có tài còn người kia kém trí. Người đời có tiêu chuẩn của họ, còn đối với Thiên Chúa ai cũng là con Chúa, mọi người đều bình đẳng. Thiên Chúa tạo dựng tất cả và ban cho mỗi người nét đẹp riêng. Thiên Chúa tạo dựng con người với những khác biệt, người tài về điều này, người tài về điều kia. Ngài tạo dựng con người như ngón tay có ngón dài ngón ngắn, để con người có dịp giúp đỡ nhau, diễn tả tình tương thân tương ái.
Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ cho con người, Ngài muốn con người chinh phục vũ trụ này, để hưởng dùng và tôn vinh Thiên Chúa. Tài nguyên thiên nhiên cũng tương tự như của cải trần thế người cha người mẹ để lại cho con cái; người cha người mẹ muốn con cái dùng tài sản đó mưu hạnh phúc cho tất cả anh em, nếu một người nào đó ỷ vào sức mạnh hoặc tài khéo của mình mà lấy hết tài sản cha mẹ để lại cho tất cả anh em, thì chắc cha mẹ người đó rất buồn. Cũng tương tự vậy, tài nguyên trên thế giới, Thiên Chúa ban cho tất cả con người, và Ngài muốn con người dùng nó để phát triển tài năng Ngài ban, và giúp con người diễn tả tình yêu đối với nhau. Vũ trụ, là phương tiện Chúa ban giúp con người phát triển chính mình.
Con người là tạo vật tuyệt vời của Thiên Chúa. Qua mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, con người nhận ra con người có giá trị vô cùng đối với Thiên Chúa, vì yêu con người nên Lời Thiên Chúa đã nhập thể và vĩnh viễn làm người. Con người thường không nhận ra nét tuyệt vời của mình và của người khác, tuy nhiên nơi những người yêu nhau người này có thể nhận ra nét tuyệt vời của người kia, và nét đẹp này người khác không thể thay thế được.
2. Thiên Chúa yêu thương con người, cụ thể người nghèo
Thiên Chúa tạo dựng tất cả, Ngài là Cha tất cả mọi loài, và đặc biệt con người. Thiên Chúa yêu thương cả người giầu lẫn người nghèo, cả người thông minh lẫn người chậm hiểu. Tuy nhiên với những người nghèo, hoặc những người bị những người quyền thế khác áp bức, Ngài lưu tâm đến họ một cách đặc biệt. Qua việc Ngài để ý đến những người nghèo và cô thân cô thế, người ta nhận ra giá trị tuyệt vời của con người và hiểu biết hơn về Thiên Chúa.
Thiên Chúa rất quảng đại và công bằng, Ngài cho tất cả mọi người được chia sẻ sự sống vĩnh cửu với Ngài. Thiên Chúa tạo dựng mỗi người, để mỗi người tồn tại và hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài. Không gì bắt Thiên Chúa phải tạo dựng con người, nhưng chỉ vì yêu mà Ngài tạo dựng họ; cũng không gì bắt Thiên Chúa một khi tạo dựng con người thì phải chia sẻ sự sống vĩnh cửu với Ngài, thế nhưng Thiên Chúa đã cho con người được chia sẻ sự sống vĩnh cửu với Ngài. Một khi con người được tạo dựng, con người mãi mãi trường tồn. Mỗi một cá nhân thật mong manh và mỏng dòn, ấy thế nhưng lại là tạo vật đặc biệt, một tạo vật tồn tại vĩnh viễn và được yêu thương cách đặc biệt. Thiên Chúa là Đấng vô cùng tốt lành, nên mới tạo dựng và cho con người được những hồng ân đó.
Thiên Chúa yêu thương con người, nhưng đôi khi người ta nói Thiên Chúa trừng phạt con người. Thực ra Thiên Chúa là nguồn hạnh phúc, Ngài không muốn con người đau khổ nhưng chỉ muốn con người hạnh phúc; nếu Ngài để những gì như thể “hình phạt” xảy ra, thì cũng là để giúp con người “giác ngộ”, nhận ra sự thật và trở về với chân thiện mỹ, để con người được hạnh phúc thật sự. Thiên Chúa làm mọi sự vì yêu thương. Thiên Chúa là Tình Yêu.
3. Yêu Chúa yêu người
Đối với những bậc sinh thành ra mình, người ta phải thảo hiếu. Hạnh phúc đích thực chỉ đến với những người lương thiện. Với những người làm điều ác hoặc không lương thiện, họ có thể là người thành đạt và được thoả mãn về nhiều phương diện, nhưng dường như họ không hạnh phúc đích thực. Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên con người, nên con người phải có bổn phận yêu kính Ngài. Không tôn kính Thiên Chúa, cũng tương tự như một người không yêu kính cha mẹ mình, thì không thể sống hạnh phúc đích thực được. Tuy nhiên không phải chỉ có những người nói tin kính Thiên Chúa mới là những người thờ kính Thiên Chúa thật, một người vô thần cũng có thể là người thờ kính Thiên Chúa mà chính họ không biết, nếu họ làm những điều thiện và sống theo lương tâm họ; và ngược lại cũng có những người mang danh Kitô-hữu, nhưng nếu họ làm ác thì họ vẫn không phải là kẻ thờ kính Thiên Chúa thật cho dù họ vẫn thực hiện những hành vi thờ phượng bên ngoài.
Yêu Chúa và thờ phượng Ngài, đó là điều mỗi người biết Ngài đều phải thực hiện. Tuy nhiên nói yêu Thiên Chúa bằng môi miệng thôi thì chưa đủ. Ai yêu Thiên Chúa thì cũng phải yêu con người. “Nếu ai nói mình yêu Thiên Chúa mà ghét anh em mình, thì đó là kẻ nói dối.” Yêu là muốn điều tốt xảy tới cho người khác, là kính trọng, là nghĩ tốt cho họ, là giúp đỡ, là giúp họ triển nở và hạnh phúc hơn. Nếu ai đó để lòng ghét và thù hận, người đó không thể sống thanh thản hạnh phúc được. Lòng thù hận hoặc không tha thứ, làm người ta khổ. Yêu thương, vui khi thấy người khác hạnh phúc, làm con người bình an thanh thản hạnh phúc.
Ai sống yêu thương là đã có thiên đàng nơi lòng mình. Kinh Thánh cũng nói: Ai sống trong tình yêu là sống trong Thiên Chúa. Nếu một người từ chối “Thiên Chúa” mà sống yêu thương anh em mình thật, người đó vẫn thuộc về Thiên Chúa, và “Thiên Chúa” mà họ từ chối e rằng không phải là “Thiên Chúa” thật, có thể đó là những hình ảnh về Thiên Chúa mà người khác phóng chiếu lên, và với hình ảnh “Thiên Chúa” đó người ta không chấp nhận. Bất kỳ ai, hễ yêu thương anh em mình thật, thì đã chấp nhận Thiên Chúa một cách nào đó, và đang sống trong Thiên Chúa. Và ai đang sống trong yêu thương, Thiên Chúa đang ở với người đó, và người đó cảm nghiệm bình an hạnh phúc.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Xin bạn cho thấy bằng cớ Thiên Chúa cũng yêu thương cả người giầu nữa.
2. Theo bạn, tại sao Kinh Thánh nói rõ Thiên Chúa yêu thương bảo vệ người nghèo?
3. Theo bạn, liệu có thể yêu người mà không yêu Thiên Chúa không? Tại sao?
18. Điều răn trọng nhất
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Người Do thái có rất nhiều luật! Giữa bao nhiêu điều luật đó, điều luật nào trọng nhất? Yêu Thiên Chúa hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực; và yêu anh em như chính mình! Hai điều này không là điều mới, nó đã có trong bộ luật xa xưa, trong sách Thứ Luật và Lêvi (Tl. 6, 5 và Lv.19, 18).
1. Yêu Thiên Chúa hết linh hồn hết trí khôn hết sức lực ngươi
Người Do thái và đặc biệt là các biệt phái một phần nào biết nguồn gốc nhân loại của Đức Yêsu (con bác thợ mộc Yuse và bà Maria, ở Nadarét)- một người không được giáo dục ở trường lớp và không có nhiều kiến thức! Vì vậy, họ muốn thử Đức Yêsu: "Thưa thầy, giới răn nào trọng nhất?"
Đức Yêsu không nói gì mới, Ngài trích một câu sách Thứ Luật! Câu trả lời của Ngài ngắn gọn, nhưng rất chính xác!
Yêu Thiên Chúa, chọn Thiên Chúa trên hết mọi sự. Coi rằng được Thiên Chúa là được tất cả. Có Thiên Chúa là có tất cả! Mất Thiên Chúa là mất tất cả.
Hệ luận của điều này rất rõ ràng. Thiên Chúa là trên hết, đức tin là trên hết. Nếu điều nào làm một người mất đức tin, người ta sẽ bỏ điều đó. Nếu chọn Thiên Chúa mà phải mất nhiều điều, ngay cả mạng sống, thì họ cũng sẵn sàng mất (trường hợp những người tuyên xưng đức tin dù phải chết). Nếu người chồng ngoại đạo không cho người vợ sống đạo, Hội Thánh cho phép họ ly thân để sống đức tin.
Thà chết chứ không phạm một tội trọng, là trường hợp những người chọn Thiên Chúa trên tất cả.
2. Yêu anh em như chính mình
Sách Lêvi đã dạy điều này, nhưng sau này Đức Yêsu đã dạy: "anh em hãy yêu mến nhau như thày đã yêu mến anh em" (Ga.13, 34).
Từ "yêu người như yêu chính mình" (Lv.19, 18) đến "yêu nhau như Đức Yêsu yêu chúng ta" (Ga.13, 34), là một bước tiến rõ! Đức Yêsu đã yêu chúng ta đến độ tự hủy, chết để chúng ta được sống, cũng vậy chúng ta cũng phải yêu thương nhau và hiến mạng sống cho nhau.
Yêu như Chúa yêu!
3. Yêu nhau như thế nào?
Tôi mới dự buổi chia sẻ của một nhóm bạn sinh viên. Họ là một số bạn ở ký túc xá, và một số bạn cùng nhau thuê nhà trọ ở với nhau. Khi đọc đoạn tin mừng của Chúa Nhật này, có bạn đã chia sẻ: mình đã hy sinh nấu cơm cho các bạn cùng phòng ăn, quét dọn phòng, làm vệ sinh... (và một số bạn đó khá lười, chẳng để ý gì đến việc mình làm, không biết các bạn đó có cho mình là ngu không) để làm chứng bằng đời sống cho các bạn đó, hy vọng các bạn đó thấy điều tốt và các bạn đó tìm hiểu đạo chăng! Một bạn khác chia sẻ: cần phải tổ chức, phân công rõ ràng, chứ không nên hy sinh kiểu như vậy! Bạn sau này cho rằng, nếu chỉ làm thôi, mình sẽ bị dồn nén, mà cũng chẳng làm chứng được gì!
Như thế nào mới là đúng? Như thế nào là yêu thương thực sự? Phải chăng nên nhịn nhục, cam chịu và phục vụ? hay phải nói ra, phân công rạch ròi?
Yêu là muốn điều tốt cho người khác!
Làm sao để giúp tha nhân triển nở toàn diện, về thể xác về tinh thần!
Nếu hy sinh, mà giúp các bạn mình triển nở, trưởng thành, thì mình cần hy sinh phục vụ! Nhưng nếu điều đó làm cho các bạn ỷ lại, làm hư các bạn, thì đó không những không phải là hành vi bác ái, mà lại còn phản bác ái nữa. Cho nên, có khi nhịn nhục, hy sinh phục vụ, là yêu thương, là bác ái; và có lúc phải rạch ròi, phải đòi hỏi, phải cương quyết, mới là bác ái, mới là yêu thương thực!
Yêu thương là muốn điều tốt cho người khác, làm mọi cách để người khác tốt hơn, triển nở hơn, hạnh phúc hơn.
4. Truyền giáo
Khánh Nhật Truyền Giáo. Ngày Giáo Hội cầu nguyện cho việc truyền giáo, cho việc rao giảng Tin Mừng cho các dân tộc.
Chúng ta xin Chúa cho có nhiều vị quảng đại hiến thân cho công việc thánh thiện này.
Thời buổi này, người ta cần chứng nhân hơn người giảng dạy. Người ta được đánh động bởi những người có đời sống tốt, hơn là những người chỉ biết nói hay. Nếu chúng ta sống tốt, là chúng ta đã đang rao giảng về Thiên Chúa cho những người sống chung quanh chúng ta!
Sống Tin Mừng, đòi chúng ta phải vui tươi triển nở, bình an hạnh phúc. Nếu Tin Mừng không giúp chúng ta bình an hạnh phúc hơn, thì cuộc sống của chúng ta là một phản chứng. Một kitô-hữu, là người cũng chung thân phận với con người ngày nay, nhưng cũng là người được đức tin, được ánh sáng Tin Mừng soi chiếu, nên cuộc sống của họ khác với những người khác. Sống Tin Mừng, là sống giữa những thực tại trần gian, nhưng không thuộc về trần gian. Kitô-hữu, sống giữa lòng thế giới, nhưng như ngọn đèn soi sáng, để con người thời đại này được chỉ lối về với Thiên Chúa.
19. Điều răn quan trọng nhất
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Điều răn trọng nhất của Cựu Ước, thế còn Tân Ước thì sao?
“Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?” Câu hỏi người thông luật trong nhóm Pha-ri-sêu đặt ra cho Đức Giêsu không khó trả lời, cũng như câu trả lời của Đức Giêsu chẳng có gì mới lạ, vì tất cả đã được ghi rõ trong lề luật: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi (Đệ Nhị Luật 6:5)… Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình… (Lê-vi 19:18)”. Đối với những ai vốn thông hiểu luật như các Pha-ri-sêu thì câu trả lời của Đức Giêsu là quá hiển nhiên và đầy đủ lắm rồi, chẳng thêm thắt gì được nữa. Thế nhưng cũng qua câu giải đáp này, Đức Giêsu lại muốn xác định thêm một điều mà các sách luật chưa nêu rõ, đó là hai điều răn quan trọng nhất ấy có quan hệ mật thiết với nhau, và “tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”. Vậy thì, trong tâm tư của Người thật sự Đức Giêsu đang muốn khảng định điều gì? Tác giả Mát-thêu khi ghi nhận các điều này, chắc hẳn phải nhận thấy một điều gì đó quan trọng và mới mẻ lắm mà ông muốn truyền đạt tới các Ki-tô hữu tiên khởi gốc Do Thái của ông.
Quả vậy, khi nhóm Pha-ri-sêu đặt vấn nạn này cho Đức Giêsu, chắc hẳn họ đã ngầm nhận thấy trong sứ điệp Người rao giảng có một điều gì đó rất xa lạ đối với nội dung truyền thống của Luật Mô-sê mà họ đang trung thành nắm giữ. Câu trả lời của Đức Giêsu tự nó chẳng giải đáp gì cho thắc mắc họ muốn biết, vì họ thấy nó hoàn toàn đúng, căn cứ theo Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ Cựu Ước mà họ đã quá quen thuộc. Thế nhưng đối với các môn đệ của Đức Giêsu thì đây lại chính là chìa khóa để hiểu ‘điều răn mới’ Người đang muốn truyền đạt.
Bất cứ người Do Thái nào cũng đều biết là phải tôn thờ và yêu mến Đức Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn; lý do là vì chính cha ông họ đã ký kết bền chặt một giao ước với Đức Chúa để được Ngài cho hưởng mọi điều họ mong muốn. Điều kiện căn bản của khế ước này là họ phải hết lòng tôn thờ và yêu mến Đức Chúa ‘hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn’,trên hết mọi sự. Lịch sử đã chứng minh rằng mọi cái cha ông họ có được đều là nhờ Đức Chúa; Ngài đã giải cứu, đã cho cha ông họ được chiến thắng kẻ thù và được ban đất hứa làm gia nghiệp…; chính vì thế mà cha ông và chính họ có bổn phận phải yêu mến tôn thờ Ngài hết lòng. Đối với Đức Chúa đã là như thế thì đối với cận thân cũng phải vậy; yêu cận thân cũng phải sòng phẳng. Yêu người thân cận như yêu chính mình có nghĩa là làm ơn để được hàm ơn lại, còn gây oán sẽ bị báo oán. ‘Răng đền răng và mắt đền mắt’ là thế, là có đi có lại, là song phẳng! Đúng là hai giới luật này liên quan chặt chẽ với nhau, và toàn bộ Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều đặt nền trên giao ước sòng phẳng này trong tương quan của Dân Riêng cả với Đức Chúa lẫn với cận thân đồng bào.
Giao Ước mới mà Đức Giêsu rao giảng vượt xa cái giới hạn của Cựu Ước, khi mà Đức Chúa Mới không chỉ ban sự sống và ân huệ mà trao ban chính mình Người cho những ai trung thành với giao ước. Giao Ước mới hệ tại ở việc Thiên Chúa trao nộp chính Con Yêu Dấu Ngài cho loài người tội lỗi bất trung; giao ước mới đó không còn đặt nền trên công bằng ‘do ut det – hòn đất ném đi hòn chì ném lại’ mà là trên lòng nhân ái xót thương, vì Ngài ban ơn cứu độ cách nhưng không. Trong Tân Ước việc yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết sức sẽ không được coi như một bổn phận áp đặt ‘Ngươi phải yêu mến Đức Chúa…’, mà như một ân huệ đón nhận trong ân tình của người con ‘Ab-ba, Cha ơi!’. Cũng vậy, yêu người thân cận sẽ đi xa hơn rất nhiều cái tính toán của ‘thương người như thể thương thân’, trong đó tính sòng phẳng của ‘răng đền răng mắt đền mắt’ ‘hàm ơn trả oán’ là điều đương nhiên. Trong Tân Ước yêu cận thân sẽ trở thành ‘Hãy thương yêu nhau như chính Thầy yêu thương anh em’, ‘Yêu và làm ơn cho cả kẻ thù…, tha thứ cho kẻ xúc phạm tới mình đến bảy mươi lần bảy…’. Nếu đúng là trong Cựu Ước, toàn bộ Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều qui về hai giới luật ‘phải yêu mến Đức Chúa hết lòng… phải yêu người thân cận như chính mình’, thì trong Tân Ước điều răn ‘mến Chúa yêu người’ mới chỉ có thể hiểu được trong nội dung Thập Giá của Đức Ki-tô Giêsu mà thôi; vì chỉ nơi Thập Giá chứ không phải qua“Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ”, mới cho thấy được cái khác lạ đích thực và tính ưu việt vượt trội của tân giới luật tình yêu. Do đó chiêm ngắm và cử hành Thập Giá trở thành quan trọng bậc nhất trong Giao Ước Mới này. Chẳng trách gì mà Phao-lô mạnh dạn tuyên bố: ông chỉ muốn biết duy nhất có một Đức Giêsu Ki-tô Thập Giá mà thôi!
Và tôi, một linh mục của Giao Ước mới, tôi cần tự vấn xem mình vẫn rao giảng ‘mến Chúa yêu người’ trong nội dung luật Mô-sê và các sách ngôn sứ, hay trong nội dung của Thập Giá Đức Ki-tô tự hiến? Việc hàng ngày cử hành hy tế Thập Giá có giúp tôi và các tín hữu lãnh hội được Điều Răn Mới cách sâu xa hơn hay không, và thường ngày đem ra sống như nét độc đáo nhất của Tin Mừng chúng tôi muốn rao giảng cho hết mọi người?
Lạy Chúa, nếu không chiêm ngắm Thập Giá, con sẽ chẳng bao giờ có thể yêu mến với tâm tình con thảo như Chúa muốn, đồng thời yêu mến tha nhân của con cũng sẽ chỉ luẩn quẩn trong tính toán hơn thua hạn hẹp. Xin dạy con để mỗi khi cử hành Thánh Lễ, bài học yêu thương như chính Chúa đã yêu thương và tự hiến như chính Chúa đã tự hiến cho các tội nhân sẽ được con học thuộc và đem ra sống, để chính con cũng dần được biến đổi nên của lễ toàn thiêu dâng tiến Chúa. Amen.
20. Suy niệm và chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXX Thường Niên Năm A nhấn mạnh “Mến Chúa và Yêu Người là một”.
Xh 22: 20-26
Trong Bài Đọc I, trích từ “Bộ Luật Giao Ước” của sách Xuất Hành, Thiên Chúa đòi hỏi dân Ngài phải thực hành đức ái đối với những người khốn khổ nhất: ngoại kiều, mẹ góa con côi, người túng thiếu. Ngài tự đồng hóa mình với họ: “Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ”.
1Th 1: 5-10
Thánh Phao-lô khích lệ các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca và ca ngợi đức tin kiên vững của họ: dù chỉ vừa mới đón nhận Tin Mừng, họ đã phải chịu trăm chiều gian nan thử thách.
Mt 22: 34-40
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su hiệp nhất hai giới luật mến Chúa và yêu người làm một.
BÀI ĐỌC I (Xh 22: 21-27)
Bản văn nầy được trích từ “Bộ Luật Giao Ước” của sách Xuất Hành. Bộ luật nầy phản ảnh thời kỳ dân Do thái không còn sống cuộc đời du mục nữa, nhưng định cư lập nghiệp ở đất Ca-na-an. Vì thế, Người ta có thể ấn định niên biểu của bộ luật này vào thời hậu Mô-sê, chính xác hơn vào những giai đoạn đầu tiên của thời kỳ định cư, trước khi tổ chức thành một quốc gia, tức vào thời Thủ Lãnh, khoảng năm 1200 và 1030 trước Công Nguyên. Đây là luật của một xã hội chăn nuôi và nông nghiệp. Bộ luật được đặt vào trong bối cảnh “Trên núi Xi-nai, Chúa phán với dân Ít-ra-en”. Đây là hư cấu văn chương được dùng để nhấn mạnh rằng bộ luật nầy vẫn ở trong tinh thần Luật Mô-sê và chỉ là khai triển Luật Mô-sê.
Trên bình diện hình thức, “Bộ Luật Giao Ước” nầy có nhiều quan hệ thân cận với các luật của miền Cận Đông xưa như Bộ Luật Hammourabi, vua Ba-by-lon, vào năm 1700 trước Công Nguyên, trong đó luật cũng được diễn tả theo biểu thức điều kiện: “Nếu ngươi làm điều nầy, nếu người làm điều nọ”. Một biểu thức khác, hiếm hơn trong những bản văn luật thời xưa, nhưng thường gặp trong Cựu Ước, đó là biểu thức mệnh lệnh thường nhất được diễn tả theo hình thức lệnh cấm: “Ngươi không được…”, như trong Thập Giới (Xh 20: 3-17), trong đó chỉ có hai giới răn được diễn tả theo hình thức lệnh truyền: “Ngươi hãy…”. Trong bản văn của chúng ta, hình thức lệnh cấm cũng chiếm ưu thế.
Trên bình diện nội dung, Bộ Luật Giao Ước phân biệt rõ nét với các bộ luật ngoại quốc có cùng xuất xứ. Sự độc đáo của Bộ Luật Giao Ước ở chỗ chính Thiên Chúa đứng ra đảm bảo luật luân lý, vì thế vi phạm luật đồng nghĩa xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Đức Ái được đề cao như luật cốt yếu của cuộc sống xã hội, vì thế, hai giới luật: mến Chúa và yêu người, vốn đã được liên kết cùng nhau rồi.
1. “Người ngoại kiều”.
Ở Ít-ra-en, có nhiều quy chế liên quan đến ngoại kiều. Trước hết, “ngoại kiều cư trú” được hưởng một quy chế khá thuận lợi (nhất là người làm thuê ngụ ở nhà chủ mình). Đoạn, “ngoại kiều vãng lai” được hưởng truyền thống hiếu khách. Cuối cùng, “ngoại kiều nhập cư” phải chịu một quy chế khắc khe. Chính hoàn cảnh của “ngoại kiều nhập cư” nầy mà Bộ Luật Giao Ước lưu ý. Nguyên do được nêu lên là tính lịch sử: “vì chính các người đã là ngoại kiều ở Ai-cập”. Phải nhấn mạnh rằng các luật pháp của miền Cận Đông xưa không bao giờ nêu lên nguyên do của các luật lệ được ban hành. Vì thế, đây là nét đặc thù của Kinh Thánh.
2. “Mẹ góa con côi”.
Thân phận của người phụ nữ ở Ít-ra-en vào thời xưa là “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Vì thế, người phụ nữ góa chồng khó có thể tìm được nơi nương tựa. Nếu không có của cải, người phụ nữ nầy có thể lâm vào một cuộc sống khốn khổ, nhất là phải gánh vác trách nhiệm nuôi nấng con cái. Những cảnh ngộ thương tâm như thế rất thường trong những xã hội thời xưa. Thế nên, luật pháp quan tâm đến cảnh ngộ mẹ góa con côi nầy như phần kết của Bộ Luật Hammourabi: “Ta đã viết những lời nầy trên bia đá ngỏ hầu kẻ mạnh không ức hiếp người yếu và trả lại sự công bình cho mẹ góa con côi”.
Như chúng ta đã nói trên, nét độc đáo của luật Kinh Thánh chính là viện dẫn Thiên Chúa như Đấng bênh vực bảo vệ tình cảnh mẹ góa con côi. Thiên Chúa sẽ đích thân can thiệp và “sẽ cho gươm giết các ngươi”, nghĩa là các ngươi sẽ bị giết chết trong chiến tranh. Một cách nào đó, đây là luật “ân oán phân minh”, nghĩa là vợ con của họ cũng sẽ trở thành góa bụa đơn côi.
3. Cho vay nợ.
Mối quan hệ của mọi thành viên dân Thiên Chúa là cốt nhục tình thâm, vì thế không được để cho bất cứ một ai trong anh chị em mình phải sống trong cảnh nghèo khổ túng thiếu. Phải cho anh chị em vay mượn nhưng không đòi trả lãi.
Tại các dân tộc lân cận, người ta cho vay để lấy lãi. Bộ Luật Giao Ước cấm cho vay lấy lãi như thế. Việc vay lấy lãi được trình bày như đối lập với luật yêu thương anh chị em chủng tộc mình. Quả thật, sách Đệ Nhị Luật xác định: “Người nước ngoài, anh em được cho vay lấy lãi, còn người anh em của anh thì không được cho vay lấy lãi; như vậy, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh sẽ chúc phúc cho anh trong mọi công việc tay anh làm, trên đất anh sắp vào chiếm hữu” (Đnl 23: 20-21).
Đức Giê-su sẽ hủy bỏ quan niệm yêu thương bị giới hạn chỉ trong vòng anh em chủng tộc nầy. Phải nhận ra luật “Cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả” được mở rộng đến hết mọi người, bởi vì mọi người trong bốn bể đều là anh em.
Để tránh người vay lạm dụng, người cho vay có thể lấy áo choàng làm vật thế chấp. Bản văn đưa ra một ví dụ ý nhị. Người chăn chiên nằm ngủ ngoài trời cần chiếc áo choàng làm chăn đắp. “Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ”. Lại một lần nữa, bản văn khẳng định rằng Thiên Chúa bao hàm trong tình yêu tha nhân. Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su khẳng định mến Chúa và yêu người chỉ là một.
BÀI ĐỌC II (1Th 1: 5-10)
Chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca.
1. Tấm gương của những người loan báo Tin Mừng.
Thánh nhân nói đến cách sống của mình và của những người bạn đồng hành của mình là ông Xin-va-nô và ông Ti-mô-thê: “Anh em biết khi ở với anh em chúng tôi đã sống thế nào để mưu ích cho anh em”, mà không nêu ra bất kỳ một chi tiết cụ thể nào. Sau nầy, thánh nhân sẽ đề cập vấn đề nầy một cách cụ thể và rõ ràng hơn như tấm lòng ưu ái mà ngài dành cho họ. Trong đoạn trích dẫn hôm nay, thánh nhân ca ngợi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca vì “noi gương các vị mục tử của họ và bắt chước Chúa”.
Chúng ta đừng quên rằng lúc nầy thánh Phao-lô đang ở Cô-rin-tô, một cộng đoàn Ki-tô hữu mà ngài vừa mới thành lập. Sau nầy ngài viết cho các tín hữu Cô-rin-tô cùng một lời khuyên như vậy: “Anh em hãy bắt chước tôi như tôi bắt chước Chúa Kitô” (1Cr 11: 1) và cả cho các tín hữu Phi-líp nữa: “Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em.” (Pl 3: 17).
2. Tấm gương của các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca.
Những người loan báo Tin Mừng, dù đã phải kinh qua biết bao gian truân, họ vẫn cảm thấy niềm vui vì thấy thành quả của Tin Mừng ở nơi các tín hữu nhờ tác động của “Thánh Thần”. Quả thật, các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, dù đón nhận Tin Mừng trong một thời gian ngắn và phải chịu trăm chiều thử thách, trở nên tấm gương sáng chói cho mọi người:“Từ nơi anh em, Lời Chúa được vang ra; không những ở Ma-kê-đô-ni-a và A-khai-a, mà đâu đâu người ta cũng nghe biết lòng tin anh em đặt vào Thiên Chúa…”
3. Dân ngoại đón nhận đức tin.
Thánh Phao-lô diễn tả niềm vui của ngài vì dân ngoại mở rộng lòng đón nhận đức tin: “Anh em đã từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa như thế nào, để phụng sự Thiên Chúa hằng sống và chân thật”. Như các ngôn sứ thời xưa, thánh Phao-lô đối lập các ngẫu tượng có mắt có tai mà không nghe không thấy với Thiên Chúa hằng sống và chân thật. Thánh nhân ca ngợi họ đã hiểu ý nghĩa cuộc sống Ki-tô hữu: phụng sự Thiên Chúa hằng sống và chân thật và chờ đợi ngày quang lâm của Con Thiên Chúa, Đấng phục sinh từ cõi chết, cứu độ chúng ta và giải thoát chúng ta khỏi cơn thịnh nộ đang đến.
Ở đây, thánh nhân tóm gọn điều cốt yếu lời rao giảng của ngài. Lời rao giảng nầy theo cùng cung giọng với lời rao giảng của Giáo Hội tiên khởi, như chúng ta gặp thấy trong sách Công vụ.
TIN MỪNG (Mt 22: 34-40)
Câu chuyện nầy được cả ba Tin Mừng Nhất Lãm tường thuật. Tuy nhiên, chỉ một mình thánh Mát-thêu đặt câu chuyện nầy vào trong bối cảnh người Pha-ri-sêu tranh luận với Chúa Giê-su ngỏ hầu họ có thể hãm hại Ngài.
1. Vấn nạn nhóm Pha-ri-sêu nêu lên:
Theo thánh Mát-thêu, sau khi nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng về vấn đề kẻ chết sống lại, nhóm Pha-ri-sêu lại xuất hiện và bày mưu tính kế hãm hại Đức Giê-su. Trước đây, họ đã liên minh với nhóm Hê-rô-đê để giăng bẫy Ngài về vấn đề chính trị: “Có được phép nộp thuế cho Xê-da không?” (Mt 22: 15-22), nay về vấn đề tôn giáo: “Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, giới luật nào là giới luật quan trọng nhất?”. Quả thật, sách Luật Mô-sê, tức bộ Ngũ Thư, chứa đựng vô số những lệnh truyền và lệnh cấm, tổng cộng đến 613 điều phải tuân giữ. Làm thế nào nhận ra trong muôn vàn giới luật nầy giới luật nào quan trọng nhất để rồi từ đó chú tâm tuân giữ giới luật quan trọng bậc nhất này là có thể chu toàn các giới luật còn lại? Trong một thời gian dài từ thế hệ nầy đến thế hệ khác, các nhà thông luật tranh luận với nhau nhưng không đưa ra một giải pháp nào thỏa đáng cả. Vì thế, đây là một vấn đề có tính thời sự vào lúc đó, nhưng trong hoàn cảnh nầy, vấn đề được nêu ra là nhằm gài bẫy Đức Giê-su, điều đó cho thấy ác tâm của nhóm Pha-ri-sêu nầy.
2. Câu trả lời của Đức Giê-su.
Đức Giê-su không xuất thân từ trường lớp nào của các kinh sư. Ngài có thái độ khá tự do đối với các giới luật như Ngài sẵn sàng vi phạm huấn lệnh ngày sa-bát (huấn lệnh quan trọng, thậm chí rất quan trọng nữa) vì con người, Ngài và các môn đệ Ngài không thực hành việc rửa tay trước bữa ăn, cũng như Ngài giao du với những người tội lỗi mà người Pha-ri-sêu tránh tiếp xúc để giữ mình khỏi ô uế. Tuy nhiên, Đức Giê-su khẳng định rằng Ngài không đến để hủy bỏ Lề Luật và lời dạy của các ngôn sứ, nhưng đề xuất những quan niệm của riêng mình. Trước vấn nạn mà người Pha-ri-sêu nêu ra, Ngài sẽ trả lời như thế nào? Rốt cuộc, câu trả lời của Ngài sẽ cung cấp cho những con người ác tâm nầy lý do để buộc tội Ngài chứ?
Trước hết, Chúa Giê-su trả lời khi trích dẫn giới luật “mến Chúa” trong sách Đệ Nhị Luật: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em” (6: 4-5). Giới luật nầy trở thành kinh nguyện của người Do thái (được gọi là kinh Shema: “Nghe đây”), luôn luôn đứng hàng đầu trong các kinh nguyện Do thái, và được đọc mỗi ngày hai lần. Kinh nguyện nầy nói lên niềm hãnh diện của dân Ít-ra-en, qua đó họ khẳng định dân tộc của họ khác với các dân tộc khác: không chỉ thờ phượng Thiên Chúa duy nhất và hữu vị, nhưng còn yêu mến Ngài trọn cả tấm lòng của mình. Tiếp đó, Đức Giê-su trích dẫn giới luật “yêu người” trong sách Lê-vi: “Ngươi phải yêu thương người thân cận như chính mình” (19: 18). Chúa Giê-su đem đến cho vấn nạn mà người Pha-ri-sêu nêu lên một lời giải đáp thật sự mới mẽ:
Trước hết, giới luật yêu thương người thân cận được trích dẫn trong sách Lê-vi chỉ giới hạn ở nơi dân tộc Do thái, trong khi Đức Giê-su mở rộng ra với hết mọi người. Trong cùng một câu chuyện, thánh Lu-ca đã khai triển điểm mới mẽ nầy khi để cho thầy thông luật nêu lên vấn đề: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?” và Chúa Giê-su trả lời bằng dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành, người mà người Do thái xem là kẻ thù không đội trời chung, và cuối cùng mời gọi thầy thông luật nầy hãy làm như người Sa-ma-ri để được sự sống đời đời làm gia nghiệp (Lc 10: 29-37).
Thứ nữa, hai giới luật nầy được trích dẫn từ hai sách khác nhau: giới luật mến Chúa trong sách Đệ Nhị Luật (6: 4-5), còn luật yêu người thân cận trong sách Lê-vi (19: 18). Người Do thái cũng đã nhận biết giới luật yêu người thân cận là quan trọng vì đây là luật của Thiên Chúa, vì thế vi phạm giới luật nầy là xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Nhưng trong lời dạy của truyền thống kinh sư, luật mến Chúa được đặt lên hàng đầu, vì thế rất dễ bỏ qua hay thậm chí hy sinh luật “yêu người” vì “mến Chúa”, như những lời phê phán của Đức Giê-su trong những cuộc tranh luận của Ngài với những giai cấp lãnh đạo Do thái về ngày sa-bát. Nét độc đáo trong câu trả lời của Chúa Giê-su không chỉ vì Ngài trích dẫn hai giới luật nầy như là hai giới luật quan trọng bậc nhất, nhưng Ngài còn liên kết hai giới luật thành một.
3. Sự duy nhất của luật “mến Chúa và yêu người”.
Việc hiệp nhất hai giới luật mến Chúa và yêu người là nét đặc trưng của Kitô giáo: vì mỗi người đều được tạo dựng theo hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa (St 1: 26-27) mà Công Đồng Va-ti-can II gọi là “thiên chức toàn vẹn của con người” (“Niềm Vui và Hy Vọng”, 11). Hơn nữa, Đức Giê-su, Con Thiên Chúa làm người, tự đồng hóa mình với mỗi người, đặc biệt là những người nghèo khổ, những người thấp cổ bé miệng: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25: 40, 45). Như vậy, hai giới luật cùng nhau hình thành nên nền tảng cuộc sống của người Ki-tô hữu. Giới luật yêu người chỉ gặp thấy điểm quy chiếu và ý nghĩa trọn vẹn của nó chỉ trong giới luật mến Chúa. Trong toàn bộ Tân Ước, thánh Gioan cho chúng ta lời giải thích ngắn gọn nhất và dễ hiểu nhất về sự duy nhất của mến Chúa và yêu người:
“Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’
mà lại ghét anh em mình,
người ấy là kẻ nói dối;
vì ai không yêu thương
người anh em mà họ trông thấy,
thì không thể yêu mến Thiên Chúa
mà họ không trông thấy” (1Ga 4: 20).
21. Tình yêu là tất cả
(Suy niệm của Barbara E. Reid OP. – Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
“Thưa Thầy, giới răn nào trọng nhất” (Mt 22,36).
Khi tôi hướng dẫn các sinh viên làm luận văn tốt nghiệp, tôi luôn hỏi xem các em có thể tóm tắt bài luận văn bằng một câu đơn giản được không. Cũng tương tự, khi các sinh viên thuyết trình một đề tài gì, tôi luôn bắt các em phải tóm tắt đề tài đó bằng một câu ngắn. Nếu các em không làm được điều này, chứng tỏ các em chưa nắm bắt được nội dung những gì các em sẽ trình bày.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, những người Pharisiêu hỏi Đức Giêsu, trong lề luật giới răn nào quan trọng nhất. Họ muốn Đức Giêsu tóm tắt những điều luật bằng một câu giản đơn. Câu chuyện được thánh Matthêu kể lại hôm nay là giai thoại thứ ba trong bốn giai thoại được thánh ký ghi lại nơi chương 22. Những đầu mục Do Thái giáo đưa ra những cái bẫy nhằm bắt bẻ Đức Giêsu. Trình thuật này khác với những câu chuyện mà Luca hay Marcô ghi lại (xem Mc 12, 28-34; Lc 10, 25-28). Trong Luca hay Marcô, những câu hỏi đưa ra phát xuất từ sự chân thành chứ không phải mang tính gian dối hay giảo quyệt, và Chúa Giêsu đã trả lời với những huấn dụ rất khẳng quyết.
Nơi trình thuật Matthêu, câu hỏi mà những người biệt phái nêu ra để thử Đức Giêsu được diễn bày theo hai dạng thức. Dạng thức thứ nhất, các giới răn đều quan trọng và mọi người phải tuân giữ. Nếu Đức Giêsu chỉ nhấn mạnh đến một giới răn, và tỏ ra khinh suốt đối với những điều khoản khác, họ sẽ bắt bẻ Ngài. Vả lại, theo dạng thức thứ hai, những người biệt phái thử xem Chúa Giêsu có tài năng giống với những thầy dạy đương thời nổi tiếng khác hay không, bởi vì những kinh sư Do thái rất dễ tóm tắt các điều luật. Ví dụ, thầy Rabbi tên là Hillel, đã tóm tắt các giới răn như sau “Những gì bạn ghét bỏ, không muốn người ta làm cho mình, bạn cũng đừng làm cho người khác (Sabb 31a). Trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu cũng đưa ra một định thức tương tự để tóm kết các điều luật “Những gì anh em muốn người khác làm cho mình, anh em hãy làm cho họ, và đây là lề luật, là lời các ngôn sứ (Mt 7,12). Ở đây, Đức Giêsu cũng hé mở một khía cạnh khác của cùng một vấn đề: Đó là phải thực thi tình yêu dành trao cho Thiên Chúa.
Giới lệnh “Hãy yêu mến Thiên Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn, hết sức lực”, cũng đã được nói tới trong sách đệ nhị luật (Dnl 6, 4-9), tức sách Shema, mà những người Do Thái mỗi ngày vẫn phải đọc đi đọc lại hai lần. Phải yêu mến Thiên Chúa với trọn vẹn con người mình. Yêu mến với tất cả cõi lòng, tức là thể hiện những tình cảm sâu xa nhất. Yêu mến với hết linh hồn, tức là tình yêu phát nguồn từ căn rễ mọi sức sống nơi ta. Đồng thời cũng phải yêu mến với tất cả ý thức và sức lực của mỗi người. Giới lệnh yêu thương tha nhân cũng được trích dẫn từ sách Lêvi 19,18 nói về những điều luật thánh thiêng. Giới lệnh này muốn minh thị rằng cách biểu tỏ cụ thể tình yêu đối với Thiên Chúa chính là thương yêu đồng loại. Thực sự đây không phải là hai giới răn, nhưng chỉ là hai khía cạnh của một thực tại duy nhất: đó là Tình yêu.
Đoạn văn này không nói một cách minh nhiên, như nhiều đoạn văn khác trong Kinh Thánh, khi muốn nhấn mạnh rằng, tình yêu đối với Thiên Chúa luôn phải được đặt vào chỗ tối thượng nơi ta. Trước khi chúng ta có thể diễn bày tình yêu đối với Chúa, và tình yêu đối với cận nhân, thì chính Thiên Chúa đã đi bước trước, đã gợi lên sáng kiến để giúp ta am tường về tình yêu Ngài. Khi chúng ta trải lòng mình ra để đón nhận tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, sống thật sung mãn và ngập tràn tình yêu Ngài, thì đến lượt chúng ta, chúng ta cũng sẽ biết cách đáp trả tình yêu đó, và dàn trải tình yêu như thế cho mọi người. Khi tình yêu linh thánh của Thiên Chúa chiếm ngự nơi chúng ta, chúng ta dễ dàng quy phục Ngài và chúng ta sẽ tự hỏi giống như tác giả Thánh vịnh đã diễn tả “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ, vì mọi ơn lành Người đã ban cho?”(Tv 116,12). Câu trả lời rất giản đơn: Tình yêu. Tình yêu đáp trả tình yêu. Tình yêu đó hướng đến cả hai đối tượng bất khả phân: Thiên Chúa và tha nhân.
Ngày nay, với cảm thức sâu xa về một thế giới đại đồng rộng khắp, chúng ta xem tất cả mọi tạo vật chung quanh đều là những cận nhân cần được yêu mến. Chúng ta có thể gồm tóm ngay cả việc yêu thương chính mình vào phạm trù này, cho dù theo não trạng của thế giới Kinh thánh, điều đó khá xa lạ. Họ không hiểu yêu thương chính mình, theo cách diễn đạt ý niệm sống cá nhân chủ nghĩa, nhưng theo họ, ý niệm này trải rộng trước hết đến gia đình riêng của họ, đến một đoàn thể, hay một tổ chức tôn giáo nào đó mà họ tham gia. Họ luôn phải lệ thuộc vào người khác, trong khi vẫn luôn phải khẳng định chính mình. Chúng ta biết giới răn lớn nhất là yêu thương, nhưng trong thực tế, điều này không dễ dàng thực hiện. Thánh Augustinô đã khuyên mời chúng ta “Bạn hãy yêu mến đi, rồi bạn muốn làm gì thì làm – Ama et fac quod vis (Trích bài giảng thứ 7 về thơ thứ nhất của Thánh Gioan). Khi bị vặn hỏi về sự hiểu biết và thực hành giới răn của Thiên Chúa như thế nào, Đức Giêsu đã trả lời cho những biệt phái, để họ biết rằng giới răn đó không phải chỉ được Ngài công bố trên môi miệng một cách lý thuyết, nhưng đã được thực hiện trong suốt cuộc đời Ngài. Chúng ta cần phải sao chép lại cách thực hành đó trong cuộc sống chúng ta ngày hôm nay.
22. Lòng mến, luật trên mọi luật – Anmai, CssR
Trong mọi vấn đề của xã hội, từ tình cảm cho đến tất cả các tương quan trong cuộc sống, có thể nói ra hay không nói ra nhưng bên dưới tình cảm, tương quan nó có một khế ước nào đó. Có thể khế ước đó được nói lên chỉ bằng lời, bằng miệng thôi nhưng cũng có những khế ước được lập ra bằng văn tự hẳn hoi chứ nếu không thì người ta sẽ không lấy gì làm bằng chứng được khi một trong hai bên vi phạm cái khế ước được đưa ra.
Chúng ta thấy, từ thuở ban đầu khi tạo dựng trời đất và con người đầu tiên, ngầm bên dưới tình cảm của Thiên Chúa dành cho con người đó có một khế ước: "Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Ê-đen, để cày cấy và canh giữ đất đai. Đức Chúa là Thiên Chúa truyền lệnh cho con người rằng: "Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn; nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết." (Xh 1,14-17)
Cái gì cũng được ăn, được hưởng dùng cả nhưng trái của cây biết thiện ác thì không được ăn vì ăn vào thì sẽ chết! Ađam - Eva đã không giữ được cái khế ước đấy nên rồi đã bị Thiên Chúa trách phạt. Trớ trêu thay là tưởng chừng kinh nghiệm của ông bà nguyên tổ là kinh nghiệm cho con cháu nhưng chúng ta thấy sau này trong hành trình lịch sử cứu độ con người đã vi phạm không biết bao nhiêu là khế ước.
Sau đó, chúng ta thấy, qua Môsê cũng như các ngôn sứ, Chúa muốn nói cho con người quá nhiều điều, quá nhiều luật.
Khi thấy dân chúng sống trong cảnh lầm than, đô hộ, áp bức, Thiên Chúa chạnh lòng thương, đã không vô tâm vô tình để cho dân sống như vậy và Thiên Chúa qua bàn tay Môsê cứu dân. Sau khi cứu dân khỏi nô lệ thì Thiên Chúa qua Môsê đã ban giới luật cho dân như xưa với ông bà nguyên tổ vậy. Sau 3 tháng rời khỏi Ai cập, đến núi Sinai, Thiên Chúa đã gặp Môsê trên núi và báo cho ông chuẩn bị cho dân chúng để nhận khế ước giữa Thiên Chúa và dân. Không phải đón nhận một cách không không nhưng phải có một sự chuẩn bị hết sức nghiêm túc là: phải giữ cho khỏi nhiễm uế, quần áo phải giặt giũ cho sạch. Trong cuộc thần hiện trong tiếng sấm sét, tiếng tù và, ánh lửa và núi bốc khói Thiên Chúa đã ban thập điều cho dân.
Bên cạnh thập điều ấy còn có giải thích các luật về bàn thờ, về giết người, về đánh đập, gây thương tích, trộm thú vật và rồi đến luật về người ngoại kiều, về mẹ goá con côi như chúng ta vừa nghe trong bài đọc thứ nhất.
Sau đó, dân chúng tiếp tục cuộc lữ hành trong sa mạc tiến về đất hứa. Tưởng chừng có người đi theo kè kè bên cạch, làm trung gian với Thiên Chúa thì dân sẽ trung tín với những giao ước mà Thiên Chúa trao cho dân nhưng ngay tại núi Khô-rếp dân đã phạm luật. Môsê đã báo cho dân chúng biết rằng từ ngày ra khỏi Ai-cập thì dân đã phản nghịch chống lại Đức Chúa. Sự phản nghịch ấy đã làm cho Đức Chúa nổi giận muốn tiêu diệt dân nhưng Đức Chúa đã không nỡ làm điều ấy. Môsê đã van xin với Đức Chúa: "Lạy Chúa là ĐỨC CHÚA, xin đừng huỷ diệt dân Ngài, cơ nghiệp Ngài đã dùng sức mạnh lớn lao của Ngài để giải thoát, và đã ra tay uy quyền đưa ra khỏi Ai-cập. Xin nhớ đến các tôi tớ Ngài là ông Áp-ra-ham, ông I-xa-ác và ông Gia-cóp, xin đừng để ý đến sự ngoan cố, sự gian ác và tội của dân này (Xh 9,26.27)
Môsê vô cùng đau đớn, vô cùng bức xúc trước những tội lỗi, những sự thất tín bất trung của dân và ông đã phải thốt lên rằng: Giờ đây, hỡi Ít-ra-en, nào Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, có đòi hỏi anh em điều gì khác đâu, ngoài việc phải kính sợ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đi theo mọi đường lối của Người, yêu mến phụng thờ Người hết lòng, hết dạ, giữ các mệnh lệnh của Đức Chúa và các thánh chỉ của Người mà tôi truyền cho anh em hôm nay, để anh em được hạnh phúc? (Xh 10, 12.13)
Nhìn cách hành xử của dân, chúng ta thấy tội nghiệp cho cái thân già của ông Môsê. Nhiều lần và phải nói là quá nhiều lần mệt mỏi với cái dân cứng đầu cứng cổ nhưng vì ý thức vai trò và nhiệm vụ mà Thiên Chúa trao nên Môsê tiếp tục cuộc hành trình với đám dân cứng đầu cứng cổ này.
Đã hơn một lần, Môsê phải nài nỉ dân: "Những lời tôi nói đây, anh em phải ghi lòng tạc dạ, phải buộc vào tay làm dấu, mang trên trán làm phù hiệu. Anh em phải dạy những lời ấy cho con cái, mà nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy. Anh em phải viết lên khung cửa nhà anh em và lên cửa thành của anh em. Như vậy, bao lâu trời còn che đất, anh em và con cái anh em còn được sống trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã thề với cha ông anh em rằng Người sẽ ban cho các ngài. Nếu anh em cẩn thận giữ tất cả mệnh lệnh tôi truyền cho anh em đem ra thực hành, mà yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đi theo mọi đường lối của Người và gắn bó với Người, thì Đức Chúa sẽ trục xuất mọi dân tộc ấy cho khuất mắt anh em, và anh em sẽ trục xuất những dân tộc lớn và mạnh hơn anh em. Mọi nơi bàn chân anh em giẫm lên sẽ là của anh em: từ sa mạc và núi Li-băng, từ Sông Cả, là sông Êu-phơ-rát, cho đến Biển Tây, sẽ là lãnh thổ của anh em. Không ai sẽ đứng vững được trước mặt anh em; Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ làm cho tất cả miền đất anh em giẫm lên phải kinh khiếp sợ hãi anh em, như Người đã phán với anh em. Hãy xem, hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn: hoặc được chúc phúc hoặc bị nguyền rủa. Anh em sẽ được chúc phúc nếu vâng nghe những mệnh lệnh của Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, mà tôi truyền cho anh em hôm nay. Anh em sẽ bị nguyền rủa, nếu không vâng nghe những mệnh lệnh của Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, nếu anh em bỏ con đường hôm nay tôi truyền cho anh em phải đi, mà theo những thần khác anh em không biết. Khi Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã đưa anh em tới đất mà anh em đang vào chiếm hữu, anh em sẽ đặt lời chúc phúc trên núi Ga-ri-dim và lời nguyền rủa trên núi Ê-van. Những núi ấy ở bên kia sông Gio-đan, trên con đường phía tây, trong đất người Ca-na-an là người ở miền A-ra-va, đối diện với Ghin-gan, bên cạnh cụm sồi Mô-re. Thật vậy, anh em sắp sang sông Gio-đan để vào chiếm hữu đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, ban cho anh em. Anh em sẽ chiếm hữu và ở trong đất ấy. Vậy anh em phải lo đem ra thực hành mọi thánh chỉ và quyết định mà hôm nay tôi trình bày cho anh em". (Xh 11,18-32)
Tất cả những luật qua miệng Môsê và các vị trung gian của Thiên Chúa đưa ra đều nhắm một điều là đến quyền lợi của con người, tình thương cho con người. Chắc có lẽ Môsê thương dân nên ông đã truyền lại cũng như giải thích luật quá nhiều, luật nhiều quá đã làm cho con người phải học, phải nhớ vất vả.
Đó là thời Cựu Ước. Vào thời Tân Ước, Chúa Giêsu có khi gọi là Môsê mới, đấng trung gian giữa Thiên Chúa và con người thì lại khác. Thời Chúa Giêsu, Chúa Giêsu thấy các biệt phái, luật sĩ giữ những luật đó quá sức tỉ mỉ nhưng chỉ giữ bề ngoài chứ tinh thần và tinh tuý của luật thì lại không. Nhiều biệt phái, pharisêu, luật sĩ xét nét Chúa từng ly từng tý. Các ông đã canh chừng Chúa còn hơn là công an theo dõi Toà Giám Mục Hà Nội. Họ canh Chúa Giêsu nào là không chịu rửa tay trước khi dùng bữa, chữa bệnh trong ngày Sabát, các môn đệ bứt gié luá ăn ngày Hưu Lễ... và họ còn bắt bẻ Chúa nhiều điều: nào là "ông ấy là ai mà dám tha tội vì chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền tha tội"... Họ không nhận ra Chúa Giêsu là đấng trung gian mới, đấng sửa lại những lầm lỗi, những đổ nát giữa tình con người và tình Chúa. Hơn một lần, Chúa đã nói cho họ biết nhưng họ dường như không nghe, Chúa nói là Chúa không hề huỷ bỏ lề luật của Môsê nhưng là kiện toàn lề luật.
Trang Tin Mừng hôm nay nhiều người biệt phái và luật sĩ đến chất vấn Chúa về lề luật và Chúa nói thẳng vào mặt họ là tất cả các giới răn mà Môsê đưa ra thì giới răn trọng nhất đó là mến Chúa và yêu người. Đúng như vậy, tất cả các giới luật mà Môsê đưa ra đều nhắm vào Thiên Chúa và con người.
Thánh Giacôbê đã nhắc nhớ chúng ta: "Yêu thương là chu toàn lề luật". Thế đấy! Bao nhiêu lề luật đưa ra không luật nào quan trọng bằng luật của lòng mến. Thánh Phaolô cũng đã nhắc chúng ta: Hiện nay cả ba đức: đức tin, đức cậy và đức mến nhưng đức mến là quan trọng hơn cả.
Hôm nay, một lần nữa, Chúa Giêsu nói thẳng cho những người Pharisêu và những người thông luật cũng chính là Chúa nói với mỗi người chúng ta. Trong đời sống thường nhật, đôi khi chúng ta quá vụ vào các khoản luật nhưng đã đánh mất đi cái cốt lõi, cái tinh tuý, cái chất của luật đó chính là lòng mến, là tình yêu.
Ngày hôm nay, đời sống gia đình, đời sống xã hội người ta dùng quá nhiều luật mà quên đi cái luật lòng mến. Ra đường, lúc nào cũng kẹt xe. Tại sao? Tại ai ai cũng muốn mình được ưu tiên, mình đi nhanh hơn người khác để rồi lấn vạch, lấn tuyến, vượt đèn đỏ... cuối cùng kẹt xe. Quan trọng là họ đã không giữ được lòng mến, lòng bác ái với nhau nên nó mới xảy ra như vậy.
Gia đình cũng vậy, cộng đoàn cũng thế, người ta đưa ra quá nhiều luật với nhau. Bất cứ cái gì người ta cũng đưa ra luật nhưng người ta không chịu đưa ra lòng mến để cư xử với nhau.
Hơn thế nữa, Thánh Phaolô qua thư thứ nhất của Ngài gửi cộng đoàn Thessalônica cũng là gửi cho mỗi người chúng ta: "Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ. Ai ngủ, thì ngủ ban đêm; ai say sưa, thì say sưa ban đêm.Nhưng chúng ta, chúng ta thuộc về ban ngày, nên hãy sống tiết độ, mặc áo giáp là đức tin và đức mến, đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ" (1 Thes 1,5-8). Thế đấy! Ngài mời gọi chúng ta mặc lấy áo giáo là đức tin và đức mến. Trong tất cả mọi giới răn, tất cả mọi lề luật chẳng có luật nào cao trọng cho bằng luật của lòng mến.
Nguyện xin Chúa Giêsu là vua của tình yêu, của lòng mến đến và ở lại với mỗi người chúng ta để Ngài thêm tình thương, lòng mến trên mỗi người chúng ta để chúng ta là ánh sáng, là chứng nhân giữa cuộc đời đầy hơn thua, hận thù, ghen ghét này.
23. Yêu
Từ thời thuở bé tôi đã được mẹ dạy cho nằm lòng kinh Mười Điều Răn. Nhưng tôi cũng nhớ rất rõ tuy mười điều rõ ràng như thế nhưng cũng chỉ được gồm tóm lại trong hai điều là "Mến Chúa và Yêu Người". Đây là một giới răn được gồm tóm tất cả các giới răn trong đạo. Vì thế, khi đến trần gian, Chúa Giêsu không chỉ đến để giải thoát con người khỏi mọi tội lỗi mà thôi, nhưng Ngài muốn giải thoát con người một cách toàn diện, tức là khỏi mọi áp bức bất công, để mọi người được sống trong tình yêu của lề luật, hầu sống đúng với phẩm giá của mình là người Kitô hữu. Vào thời Chúa Giêsu, trong xã hội Do Thái bấy giờ, con người lúc nào cũng bị trói buộc bởi những lề luật. Vì sống quá khắc khe nên "Nhất cử nhất động", con người đều nằm trong mạng lưới chằng chịt của lề luật. Đó là điều làm cho con người lúc nào cũng mang tâm trạng lo âu, sợ sệt. Không biết tôi làm điều kia việc nọ có đúng luật không? Và nếu tôi sai luật thì tôi không phải là người công chính.
Thật vậy, nếu con người chỉ căn cứ vào những luật lệ bó buộc như vậy thì đó là một sai lầm, vì lấy lề luật làm nền tảng cho đời sống luân lý để đo mức độ công chính của đời sống con người. Bởi vậy, chúng ta không lạ gì thế giới có học của thời đại Do Thái bấy giờ, như các luật sĩ và biệt phái nhờ học biết luật và giữ luật nên họ cho là công chính, là thánh thiện, là hoàn hảo hơn người, đến độ trở nên kiêu căng, hách dịch với đại đa số dân chúng là những người không am tường lề luật để tuân giữ.
Khác với các biệt phái, Đức Giêsu không phá bỏ lề luật của cha ông mà Ngài kiện toàn nó trong tình yêu. Ngài đã phản đối những lề luật chẻ "cọng tóc ra làm tư" đó. Lề luật đặt ra để giúp cho con người, chứ không phải con người sinh ra để giữ lề luật. Vì thế, Chúa Giêsu đã đưa ra một giới luật yêu thương hết sức quan trọng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi". Đó là điều răn thứ nhất, và điều răn thứ hai cũng giống như điều răn thứ nhất là "ngươi hãy yêu thương anh em như chính mình ngươi". Thật ra, Chúa Giêsu không dạy làm điều chi mới lạ, vì hai điều răn đó đã có trong Cựu ước, trong sách Đệ Nhị Luật và Lêvi. Ngài chỉ lấy hai điều đó nhập lại làm một và đặt nó làm nền tảng cho đời sống con người chúng ta. Chúa Giêsu đã dạy cho con người biết Thiên Chúa là người Cha nhân từ. Trong lịch sử nhân loại, đây là lần đầu tiên qua lời dạy của Chúa Giêsu, con người gọi Thiên Chúa là Cha: "Lạy Cha chúng con ở trên trời". Một người con ngoan biết thương cha mến mẹ, khi làm một việc gì cần phải coi cha mẹ tôi có cấm cái này không? Có cho phép cái kia không?
Thánh Augustinô sau khi hiểu rõ lời dạy của Chúa Giêsu, ngài đã đưa ra một định luật táo bạo: "Hãy yêu đi rồi làm gì thì làm". Khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta đâu dám cả lòng cố tình làm mất lòng Thiên Chúa được. Khi chúng ta yêu mến anh chị em mình thật lòng, thì làm sao chúng ta dám nói xấu người khác được, làm sao chúng ta thấy người hoạn nạn mà mình vui được, làm sao chúng ta cố tình làm hại người khác được.
Để dễ thấy tầm quan trọng của hai điều răn "Mến Chúa và Yêu Người" trong đời sống, chúng ta hãy hình dung đó là hai chiều kích trong cuộc sống của người Kitô hữu chúng ta: Chiều dọc nối liên hệ với Thiên Chúa và chiều ngang nối liên hệ với tha nhân. Hai chiều kích đó hợp lại thành cây Thánh giá, đó là dấu hiệu của người Công giáo chúng ta. Hằng ngày chúng ta thấy hình ảnh của cây Thánh giá khắp nơi, trong nhà thờ, nơi nhà ở và chúng ta còn có những người luôn mang Thánh giá trong mình, bởi thế không ai có thể hình dung cây Thánh giá mà chỉ có một chiều hoặc dọc hoặc ngang mà thôi. Chính Chúa Giêsu đã nói: "Ai bảo mình mến Chúa mà không yêu thương anh em thì là kẻ nói dối". Bởi vậy mến Chúa và yêu người là hai chiều kích không thể thiếu trong cuộc sống.
Lạy Chúa, xin cho con biết sống yêu thương tất cả mọi người như chính Chúa đã yêu thương chúng con. Amen.
24. Đức ái - Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Người Kitô hữu phải luôn là người bước tới. Khi dừng chân là chúng ta đang tụt hậu và bị lỗi thời. Mọi sự trên trời, dưới đất đang di động và lòng người luôn đổi thay hướng tới. Cuộc sống sinh hoạt của con người trên thế giới không đồng đều như nhau. Sự khác biệt về gia cảnh giúp mọi người thể hiện lòng bác ái và nâng đỡ nhau trong đời sống. Ngày từ những buổi sơ khai, trong xã hội loài người đã có sự đối xử chênh lệch giữa kẻ giầu người nghèo, kẻ sướng người khổ và người làm chủ kẻ làm tôi. Tác giả sách Xuất Hành đã nói đến sự hỗ tương trong cuộc sống: Nếu ngươi cho người nghèo khó nào trong dân cùng định cư với ngươi mượn tiền, thì ngươi chớ hối thúc nó như kẻ đặt nợ ăn lãi quen làm và chớ bắt nó chịu lãi nặng (Xh 22, 24). Ngoài việc đối xử công bằng, con người cần có đức ái yêu thương chia sẻ với nhau. Vì trong cuộc sống của mỗi người có nhiều những éo le và sự cố khó lường. Người ta nói: Nghèo lại mắc cái eo. Đôi khi những sự khó xảy ra dồn dập, cái khó khăn này kéo theo cái khó khác, họa vô đơn chí là thế.
Đêm năm canh, ngày sáu khắc. Tạo Hóa đặt để sự liên đới giữa muôn vật trong thời gian và không gian. Đêm về mọi loài súc vật đồng hoang bắt đầu ra đi tìm kiếm của ăn. Khi ánh bình minh ló dạng, mọi loài thú vật rừng xanh lui vào hang hốc tìm nơi náu ẩn. Con người bắt đầu một ngày mới lo lao động kiếm sống. Trái đất vòng xoay đêm qua ngày tới, giúp mọi loài thụ tạo sinh sống hài hòa. Con người cũng tựa dựa vào khoảnh khắc thời gian để tập tành, lập công và đối nhân xử thế: Nếu ngươi nhận áo xống của người láng giềng cầm cố, ngươi hãy trả lại cho kẻ ấy trước khi mặt trời lặn (Xh 22, 25). Mặt trời lên hay mặt trời lặn là cách diễn tả bình dân của ngôn ngữ loài người. Với lý trí khôn ngoan hiểu biết, con người căn cứ vào sự di chuyển vòng xoay của mặt trời, mặt trăng và thời tiết để ấn định cuốn lịch tính đếm ngày giờ năm tháng. Dùng thời gian đo lường để con người tạo những hiệp định, giao kèo, khế ước, qui ước, hòa ước, giao ước hay thỏa thuận trao đổi của cải với nhau.
Ngày xưa, ngay trong những cộng đồng nho nhỏ đã có sự tín nhiệm nhau qua việc cầm cố và trao đổi để sinh lợi. Xã hội văn minh ngày nay, có rất nhiều nhìn thức kinh doanh kiếm lời qua việc cầm cố mượn nợ. Các chủ ngân hàng dùng việc vay mượn nợ hoặc cầm cố để kiếm lợi nhuận qua việc trả góp dần. Có thể trả nợ hàng tháng (mortgage) nhà cửa, xe cộ, tài sản hay trả nợ thẻ tín dụng. Còn có nhiều tiệm cầm đồ (Pawn hay pledge), nhận tiền thế chân trong một thời gian. Mọi thứ từ thượng vàng hạ cám, đều có thể mang đến tiệm cầm đồ để cầm cố kiếm tiền xài trước. Sự trao đổi hợp lệ có giấy chứng nhận và điều kiện trao trả đúng ngày tháng. Nếu quá thời gian qui định, chủ nhân món hàng có thể sẽ không nhận lại được món đồ đã đưa cầm cố. Ngoài ra, trong xóm làng, còn có kiểu mướn nóng (mượn nóng), người mượn phải chịu trả tiền lời cao hơn, có khi 20-30%. Đây là một cách cho vay nặng lãi kiếm lời dễ dàng của người đời. Là Kitô hữu, trong việc cầm cố, chúng ta cần đối xử với nhau khoan dung hơn, cần có sự công bằng và bác ái nữa.
Tạo Hóa yêu thương tất cả mọi loài thụ tạo, nhưng mức độ và cách diễn tả rất khác biệt. Qua việc nghiên cứu của khoa học, chúng ta có thể nhận biết phần nào sự bày tỏ tình cảm của các loài vật thấp kém tùy theo cấp bậc. Con người cao vượt trên mọi loài thụ tạo, bởi vì con người được tạo dựng do tình yêu và cho tình yêu. Vì có lý trí, tự do và tình cảm, nên con người có thể chọn lựa đối tượng yêu và thể hiện tình yêu một cách đặc thù. Bài phúc âm hôm nay, những người thông luật hỏi thử Chúa Giêsu: Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất (Mt 22, 36). Đã gọi là nhà thông luật thì đương nhiên họ phải hiểu được luật nào là trọng. Biết luật, hiểu luật và giữ luật mới là bước đầu, nhưng sống ý nghĩa thật của luật mới là điều quan trọng. Lề luật giúp người ta sống đạo với cái tâm chính thật. Luật lệ như cái khung, khuôn mẫu và dẫn đưa chúng ta vào đời sống tình yêu nội tâm. Chúa Giêsu muốn mọi người đi vào căn cốt của giới luật.
Trả lời câu hỏi của các nhà thông luật: Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: Người hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, hết lòng hết linh hồn và hết trí khôn ngươi (Mt 22, 37). Yêu mến Thiên Chúa toàn vẹn. Thiên Chúa là tình yêu tuyệt đối. Chúng ta tự vấn phải yêu mến Thiên Chúa thế nào khi chúng ta không thể hình dung, vì Thiên Chúa vô hình. Nhiều khi chúng ta chỉ mạnh miệng tuyên xưng và bày tỏ tình yêu qua ngôn ngữ và sự diễn tả bề ngoài, mà tấm lòng thì rỗng tuếch. Chúng ta có thực sự yêu mến Thiên Chúa không? Nhớ câu tuyện khi người ta bắt bẻ Chúa về việc giữ truyền thống rửa tay trước khi ăn, Chúa đã trả lời: Ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết: Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta (Mk 7, 6).
Yêu mến Thiên Chúa phải đi đôi với sự yêu mến tha nhân. Chúa Giêsu liên kết hai giới răn với nhau: Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Người hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi (Mt 22, 39). Yêu thương kẻ khác thật sự không dễ chút nào. Là con người, tuy rằng chúng ta cùng chủng loại. Nhưng chúng ta có quá nhiều sự khác biệt giữa nhau. Sự khác biệt về dòng giống, chủng tộc, tôn giáo, ngôn ngữ, mầu da, văn hóa, ý thức hệ … Làm sao chúng ta có thể nói yêu thương những người chúng ta chưa bao giờ gặp, không biết thân phận gia cảnh của họ và yêu cả những kẻ thù địch? Yêu thương kẻ khác như chính mình là một thách đố về đức ái vô giới hạn. Chúng ta phải cố gắng tiến tới không ngừng. Tình yêu tha nhân như bơi lội trong biển tình, chúng ta chẳng bao giờ yêu cho thỏa và không bao giờ có thể đáp ứng tròn đầy. Chúng ta thể hiện tình yêu tha nhân bằng tình yêu của Chúa Kitô là luôn tôn trọng, chia sẻ, từ bi, khoan dung, tha thứ cho những người chúng ta gặp gỡ và ước muốn điều lành cho hết mọi người.
Nhà truyền giáo sống tại New Guinea kể câu truyện. Một ông già mới tòng giáo, thường mỗi ngày đến bệnh viện để đọc phúc âm cho các bệnh nhân nghe. Vào một ngày kia, ông không thể đọc được nữa. Bác sĩ đã khám mắt và khám phá ra rằng tình trạng mắt của ông rất tồi tệ và rất có thể sẽ bị mù trong vòng một hay hai năm. Sau đó, trong một thời gian, ông biệt tăm không đến bệnh viện nữa. Không ai biết được điều gì đã xảy ra cho ông. May mắn, một người trẻ đã tìm thấy ông và đưa bác sĩ tới gặp ông. Ông già giải thích cho bác sĩ là ông đang bận rộn để học thuộc bản Kinh Thánh trong khi ông còn nhìn thấy. Ông nói: Để sớm khi tôi trở lại bệnh viện, tôi sẽ tiếp tục công việc của tôi là đọc phúc âm cho các bệnh nhân. Ông đã hiến tặng cái mà Chúa đã ban cho ông.
Yêu thương là cho đi. Yêu thương là chia sẻ. Ai cũng có trái tim yêu thương. Ai cũng có thể cho. Trái tim là biểu tượng của tình yêu. Càng yêu thì trái tim càng rộng mở. Trái tim yêu thương sẽ không có giới hạn. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta có một khả năng yêu thương. Yêu thương là chu toàn lề luật. Muốn sự lành và sự tốt cho người khác. Giúp họ tìm về đường ngay nẻo chính. Thánh Phaolô đã cố công lôi kéo nhiều người đến phụng thờ Thiên Chúa: Vì người ta thuật lại việc chúng tôi đã đến với anh em thế nào và anh em đã bỏ tà thần trở về với Thiên Chúa, làm sai để phụng thờ Thiên Chúa hằng sống và chân thật (1Thess 1, 9). Phaolô đã cho đi cả cuộc đời để phục vụ Chúa và tha nhân.
Lạy Chúa, Chúa là tình yêu. Thánh Augustinô dạy: Yêu đi, rồi làm. Xin cho chúng con được thấm nhuần tình yêu của Chúa để chúng con ra đi làm nhân chứng cho tình yêu. Yêu Chúa và yêu tha nhân như chính mình.
25. Giới răn yêu thương
Tuần báo Newsweek số ra ngày 10/8/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ tại Nhật, đó là "Sư máy". Vị sư máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực thụ: đầu cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp trên gương mặt cử động theo nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi đưa lên, một tay thì gõ mõ. Mỗi vị sư máy có thể cầu kinh không biết mỏi mệt, và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của mười giáo phái Phật giáo khác nhau tại Nhật. Sáng kiến này được đưa ra nhằm đáp ứng cho nhu cầu ơn gọi sư sãi ngày càng khan hiếm trong các Giáo hội Phật giáo tại Nhật. Tuy nhiên, như tác giả bài báo ghi nhận: những cái máy làm được mọi sự, duy chỉ một điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương.
Yêu thương là đặc điểm của con người. Thú vật có thể có cảm giác, nhưng đó không hẳn là yêu thương. Chỉ có con người được tạo dựng theo và giống hình ảnh Thiên Chúa tình yêu mới thực sự được mời gọi yêu thương mà thôi.
Tin Mừng hôm nay nhắc lại cho chúng ta ơn gọi cao cả của con người. Trả lời cho thắc mắc của luật sĩ, Chúa Giêsu đã thu tóm tất cả lề luật thành một giới răn duy nhất là mến Chúa và yêu người. Hai mệnh lệnh này là một giới răn duy nhất, bởi vì không thể kính mến Chúa mà lại ghét bỏ hình ảnh của Ngài là con người, cũng như không thể yêu thương con người mà lại không nhận ra và yêu mến Thiên Chúa là nguồn mạch tình yêu chân thật. Tách biệt hai mệnh lệnh ấy là chối bỏ tình yêu. Các luật sĩ và các biệt phái thời Chúa Giêsu quả là những người đạo đức: họ ăn chay, cầu nguyện và tỏ ra yêu mến Thiên Chúa hơn ai hết; thế nhưng Chúa Giêsu đã điểm mặt họ là những kẻ giả hình, bởi vì lòng yêu mến Chúa nơi họ không được thể hiện bằng tình yêu đối với tha nhân. Chúa Giêsu còn gọi họ là những mồ mả tô vôi, bên ngoài thì bóng loáng, nhưng bên trong thì thối rữa. Có thể so sánh thái độ giả hình ấy với một người máy: người máy có thể làm được nhiều cử chỉ ngoạn mục, nhưng không có một tâm hồn để yêu thương thực sự.
Yêu thương là kiện toàn lề luật; yêu thương là cốt lõi, là linh hồn của Đạo. Đi Đạo, sống Đạo, giữ Đạo, xét cho cùng chính là yêu thương; không yêu thương thì con người chỉ còn là một thứ người máy vô hồn. Thánh Gioan Tông đồ, người đã suốt đời sống và suy tư về tình yêu, vào cuối đời, ngài đã tóm gọn tất cả thành một công thức: "Thiên Chúa là Tình Yêu", và ngài dẫn giải: "Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em thì đó là kẻ nói dối, bởi vì kẻ không yêu thương người anh em nó thấy trước mắt, tất không thể yêu mến Đấng nó không thấy".
Nguyện xin cho cuộc sống của chúng ta ngày càng được thanh luyện và gần gũi hơn với cốt lõi của Đạo là Yêu Thương.
26. Phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Lại một bẫy khác do con người đặt ra để thử lòng Thiên Chúa. Thay vì một nhóm người như trước, họ chọn ra một đại diện cho cả nhóm. Vì muốn thử thách Chúa, họ chọn một vị thông luật, đã là thông luật nên chắc ông này phải thuộc nằm lòng 613 điều luật ghi trong sách Luật Do thái, trong đó 365 điều luật cấm và 248 điều luật truyền làm, chưa kẻ các điều luật phụ nữa. Ông cũng biết các điều trên được chia thành hai vế trọng luật và khinh luật. Phạm khinh luật thì chịu phạt đền tội, nhưng phạm trọng luật như giết người, thờ tà thần, gian dâm... thì bị tử hình. Vì là viên thông luật, hiển nhiên ông biết rõ mỗi nhóm thích giữ một điều luật và cho rằng điều ấy đối với họ là quan trọng hơn cả, có thể Chúa Giêsu đưa ra điều này trọng đối với nhóm này nhưng lại thường đối với nhóm kia, đó là lý do ông đặt ra câu hỏi với Chúa Giêsu hòng nắm chắc phần thắng về mình: “Thưa Thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất”?
Hai Điều răn
Thật không dễ để trả lời. Nếu Chúa trả lời điều luật này trọng, điều luật kia không trọng thì thế nào Người cũng bị qui lỗi là về phe nhóm này, chống nhóm kia, và như vậy Người sẽ mắc bãy của họ.
Chúa Giêsu là Thiên Chúa thấu hiểu lòng người, nhưng Chúa vẫn trả lời. Chúng ta cũng cám ơn vị thông luật này đã hỏi thử Chúa để chúng ta co được chỉ dẫn rõ ràng, xác thực về thứ tự các giới răn.
Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi" (Mt 22, 37). Câu luật này trích trong sách Đệ nhị luật 6,5 có đổi một chút, thay vì “hết sức” thì Chúa nói là “hết trí khôn”. Song cốt yếu không có gì đổi.
Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: "Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi" (Mt 22, 39). Luật này trích ở sách Lêvi 19,18 có khác ở chỗ thay vì yêu kẻ khác thì yêu đồng loại: "Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình".
Ba đối tượng yêu thương
Chúa Giêsu kết luận: "Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó" (Mt 22, 38). Điều răn thì có: thứ nhất mến Chúa, thứ hai yêu người, nhưng gồm ba đối tượng yêu thương: Thiên Chúa, kẻ khác và bản thân.
Đối tượng thứ nhất là Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn trọng nhất và điều răn thứ nhất" (Mt 22, 37-38).
Thiên Chúa không đòi hỏi chúng ta nhiều điều, bởi "yêu mến là chu toàn cả Lề luật" (Rm 13, 10). Nhưng tình yêu có hai vế: Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương kẻ khác... Khi dạy chúng ta yêu mến Thiên Chúa, Chúa đòi hỏi chúng ta phải yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Còn yêu thương kẻ khác, Chúa Giêsu không bảo ta phải yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn; nhưng "yêu kẻ khác như chính mình. Tại sao vậy? Vì Thiên Chúa "là dũng lực, là Đá Tảng, chiến luỹ, cứu tinh, là sơn động, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù chúng ta" (x. Tv 17, 2-3), nên chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa không những hết… mà còn trên hết mọi sự, hơn cả chính mình, vì theo lời Chúa Giêsu thì: "Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất" (Mt 22, 38).
Đối tượng thứ hai là "kẻ khác" Chúa phán: "Giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi" (Mt 22, 39).
Theo quan niệm của Người Do thái lúc bấy giờ thì "tha nhân" là những người đồng chủng, đồng hương, đồng xứ (x. Lv 19, 18). Còn “kẻ khác” được hiểu là hết mọi người, (x. Mt 25, 40). Khi Chúa Giêsu bảo người thông luật "hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi", Người có ý dạy phải thương yêu mọi người chứ không giới hạn trong những người đồng hương với nhau (Mt 25, 40), không những thế mà lại còn phải yêu thương cả địch thù nữa (Mt 5, 43), và yêu như thế nào? "Yêu như chính mình ngươi".
Chúa có truyền dạy chúng ta yêu chính mình không? Thưa: Thiên Chúa xét thấy không cần buộc con người phải yêu chính mình, vì không ai ghét mình bao giờ. Nhưng cũng có nhiều người tự đánh mất mình khi yêu mến sự ác.. Chúa dạy chúng ta yêu mến Thiên Chúa hết lòng, Người truyền cho chúng ta giới luật phải yêu chính mình. Chắc chắn ai trong chúng ta cũng muốn yêu mình. Thiên Chúa là Tình Yêu, chúng ta là kẻ có tình yêu. Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Thiên Chúa đã dành cho chúng ta một tình yêu khác với chúng ta nghĩ. Tình yêu ấy nuôi dưỡng và củng cố các mối quan hệ của tình yêu chúng ta dành cho bản thân và kẻ khác. Trong thực tế, chúng ta phải yêu bản thân mình trong tình yêu Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, và chúng ta có thể bước vào trong tình yêu. Vậy, hãy yêu mến Thiên Chúa hết mình, thì trong Thiên Chúa chúng ta sẽ tìm được chính mình, và tránh được nguy cơ tự đánh mất mình… Nên, theo nguyên tắc, ta yêu kẻ khác như chính mình, yêu Thiên Chúa hết mình và yêu chính mình.
Yêu kẻ khác như chính mình
Khi truyền dạy "Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình", Chúa Giêsu như đặt một tấm gương để tự chúng ta soi xem mình có yêu "kẻ khác" hay không? Chúa Giêsu xem tình yêu " kẻ khác " như "mệnh lệnh của Người," mệnh lệnh tóm tắt toàn thể lề luật. "Đây là mệnh lệnh của Thầy, là anh em hãy yêu nhau như Thầy đã yêu anh em" (Ga 15, 12). Nhiều người có khi đồng hóa toàn thể Kitô giáo với luật yêu người.
Chúng ta cố gắng đi xa hơn một chút bề mặt của nsự việc. Khi nói về tình yêu kẻ khác, người ta nghĩ ngay tới những "việc làm" như bác ái, hay "phải làm" cho kẻ khác như: cho họ ăn, uống, thăm viếng họ, nói tóm tắt là giúp đỡ kẻ khác. Nhưng đó là hậu quả của tình yêu, chứ chưa phải là tình yêu. Lòng từ tâm tới trước sự làm phúc. Trước khi làm phúc, người ta phải muốn làm phúc.
Thánh Phaolô nói rõ: Đức bác ái phải là "không giả vờ," tức là, phải chân thật, nghĩa đen, "không giả hình," (Rm 12, 9); người ta phải yêu "với một con tim trong sạch" (1 Pr 1, 22). Trên thực tế, người ta có thể làm việc bác ái và bố thí vì nhiều lý do không dính dáp gì với tình yêu: tô điểm chính mình, để ra vẻ là một người làm điều thiện, được lên thiên đàng, và có khi để trấn an một lương tâm xấu.
"Như chính mình" Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh người được yêu đồng hóa với người yêu, vì vậy, phải yêu thương kẻ khác bằng chính tình yêu đối với bản thân, nhưng tiên vàn phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Amen.
27. Con người hay Robot? – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Trong bài luận văn về bệnh vô cảm của em Phan Hoàng Yến, học sinh lớp 9A2 trường trung học Chu Văn An, Hà Nội, đã gây ấn tượng mạnh trong xã hội hôm nay. Bài văn được cô giáo cho 9,5 điểm với nhận xét: "Em có những phát hiện và suy nghĩ sâu sắc về hiện tượng đáng buồn này. Một người có trái tim nhân hậu, đa cảm và tư duy sắc sảo như em thật đáng quý."
Bài văn được viết như sau: “Có được một xã hội văn minh, hiện đại ngày nay một phần lớn cũng là do những phát minh vĩ đại của con người. Một trong số đó chính là sự sáng chế ra rô-bốt, và càng ngày, rô-bốt càng được cải tiến cao hơn, tỉ mỉ hơn làm sao cho thật giống con người để giúp con người được nhiều hơn trong các công việc khó nhọc, bộn bề của cuộc sống.Chỉ lạ một điều: Đó là trong khi các nhà khoa học đang "vò đầu bứt tóc" không biết làm sao có thể tạo ra một con chip "tình cảm" để khiến "những cỗ máy vô tình" biết yêu, biết ghét, biết thương, biết giận thì dường như con người lại đi ngược lại, càng ngày càng vô tình, thờ ơ với mọi sự xung quanh. Đó chính là căn bệnh nan y đang hoành hành rộng lớn không những chỉ dừng lại ở một cá nhân mà đang len lỏi vào mọi tầng lớp xã hội - bệnh vô cảm.Nhìn thấy cái xấu, cái ác mà không thấy bất bình, không căm tức, không phẫn nộ. Nhìn thấy cái đẹp mà không ngưỡng mộ, không say mê, không thích thú. Thấy cảnh tượng bi thương lại thờ ơ, không động lòng chua xót, không rung động tâm can. Vậy đó còn là con người không hay chỉ là cái xác khô của một cỗ máy?
Một tháng trước, tôi đọc được một bài báo trên mạng có đưa tin về vụ một đứa bé Trung Quốc hai tuổi bị xe tải cán.
Thương xót, đau lòng làm sao khi nhìn cô bé đau đớn nằm trên vũng máu mà không một người nào qua đường để ý, cuống cuồng gọi cấp cứu. Họ nhìn thấy rồi đấy nhưng họ lại cố tình như không thấy, đi vòng qua cô bé để tiếp tục con đường nhạt thếch, sáo mòn của mình. Càng chua xót, đau lòng, phẫn nộ hơn khi chiếc xe tải tiếp theo nhìn thấy cô bé nằm đó, vẫn thoi thóp thở, bám víu lấy cuộc đời lại vô tình chẹt cả bốn bánh xe nặng trịch đi qua người cô bé, thản nhiên đi tiếp. Người qua đường vẫn thế, vẫn bình thản như không có chuyện gì xảy ra.
Cô bé xấu số chỉ được cấp cứu khi một người phụ nữ nhặt rác đi qua, thấy cảm thông, đau lòng nên đã bế cô đi bệnh viện. Có những con người ích kỷ, vô tâm, tàn nhẫn như vậy đấy! Không những thế, bây giờ ra đường gặp người bị cướp, bị trấn lột, bị đuổi chém nhưng lại không thấy anh hùng nào ra can ngăn, cứu giúp hay chỉ một việc nhỏ nhoi thôi là báo công an. Đó là những con người "không dại gì" và cũng chính "nhờ" những người "không dại gì" đó mà xã hội ngày càng ác độc, hỗn loạn. Chính lẽ đó mà căn bệnh vô cảm càng được thể truyền nhiễm, lây lan.
Quả thực, nếu con người sống không có tình yêu thì cũng chỉ là một Robot cô độc lạnh lùng mà thôi. Nhân loại ngày nay có thể sáng chế ra Robot để làm thay con người nhưng đáng tiếc Robot thì không có tình yêu, vì nó chỉ là cái máy không hồn. Phải chăng nó cũng là phản ảnh lối sống vô cảm không hồn của con người thời đại hôm nay? Có mọi sự nhưng thiếu tình yêu.
Robot ngày nay có thể đọc kinh, hát thánh ca nhưng không có tình yêu trong hành động của mình.
Robot ngày nay có thể đi chợ, quét nhà, ru em nhưng vô cảm với công việc của mình.
Nói đúng hơn, Robot có thể nói, có thể làm nhưng vô hồn, vô cảm, lạnh lùng vì thiếu tình yêu.
Đạo Công Giáo đặt nền tảng trên tình yêu. Yêu Chúa, yêu người. Yêu Chúa không dừng lại ở việc máy móc đi lễ hay đọc kinh nhàn chán mà phải đặt tình yêu của mình vào hành vi thờ phượng Chúa hết lòng. Yêu người không dừng lại ở đầu môi chóp lưỡi mà phải biết chạnh lòng xót thương trước những đau thương mà anh chị em mình đang trải qua.
Như thế tình yêu là lẽ sống, là vẻ đẹp của đời ky-tô hữu. Không có tình yêu thì mọi hành vi thờ phượng của người tín hữu chỉ là Robot. Không có tình yêu thì người ky-tô không thể sống chứng nhân cho tình yêu của Chúa giữa dòng đời. Cuộc đời cần tình yêu như trái đất cần mặt trời để tạo nên vẻ đẹp của vạn vật muôn màu. Cuộc đời thiếu tình yêu như đêm tối lạnh lùng cô liêu. Cách đây mấy hôm tôi đi thăm một trại tâm thần. Tôi nghe thấy họ đang đọc kinh. Họ hát. Họ đứng yên lặng cả gần 200 con người mặc dù họ bị bệnh tâm thần. Tôi ngạc nhiên sao họ lại thuộc kinh đến thế! Nhưng nhìn kỹ tôi thấy họ vô hồn. Họ đứng đó môi mấp máy chỉ ú ớ theo lời kinh của máy ghi âm phát ra mà thôi!
Lời Chúa hôm nay nhấn mạnh với chúng ta phải mến Chúa trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình. Mến Chúa trên hết mọi sự là đặt việc thờ phượng Chúa và thi hành ý Chúa trên mọi giá trị của cuộc sống. Yêu tha nhân như chính mình là “nếu mình muốn người khác làm cho mình điều gì thì hãy làm cho họ như vậy”. Đây là hai mệnh đề trong một giới răn yêu thương mà Chúa đòi buộc chúng ta phải thi hành. Vì khi tạo dựng Chúa đã không tạo dựng chúng ta thành những Robot mà tạo dựng chúng ta có trái tim, có tự do để thăng tiến về hành vi yêu thương.
Xin cho chúng ta biết thăng tiến bản thân khi biết nồng vào những công việc của mình bằng tình yêu nồng nàn. Một tình yêu với Chúa nồng nàn để có thể kính mến Chúa trên hết mọi sự. Một tình yêu với tha nhân thẳm sâu để có thể chia sẻ, cảm thông với nhau trong mọi vui buồn. Amen.
28. Điều răn trọng nhất - Huệ Minh
Kính thưa cộng đoàn,
Lại một cái bẫy khác, do con người đặt ra để thử lòng Thiên Chúa. Thay vì đưa ra một nhóm người như những lần trước, thì lần này họ đưa ra một người đại diện trong nhóm thôi!
Vì muốn thử thách Chúa, họ đã đưa ra một người biết lề luật, và phải nói rằng người này là luật sĩ. Ông rất là thông luật.
Ông này thuộc lòng 613 luật phải ghi trong luật Do Thái. Và trong đó có 365 điều cấm, 248 điều luật truyền làm, chưa tính những cái luật phụ. Ông biết những cái luật này chia làm 2 vế trong Luật: về việc trọng luật và khinh luật.
Phạm khinh luật thì chịu phạt đền tội nhưng phạm trọng luật như: giết người, thờ Tà Thần, gian dâm thì bị tử hình. Bởi vì là người thông luật nên hiển nhiên rằng, ông biết rằng mỗi nhóm có giữ một điều luật và cho rằng điều ấy là quan trọng của họ. Và nếu mà Chúa Giêsu đưa ra cho mình cái luật nào hơn cái luật nhóm kia, thì Chúa Giêsu kẹt.
Và họ chất vấn rằng: Thưa thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất? Thì, chúng ta thấy họ gài bẫy. Chúa Giêsu đáp với người ta rằng: “Yêu mến Thiên Chúa hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức ngươi” nhưng mà, chúng ta thấy cái điều mới mẻ nhất đó là, Chúa nối kết một câu trích khác ở sách Lêvi 19, 18 dạy rằng: “Ngươi sẽ không báo oán, không cưu thù với con cái dân ngươi. Ngươi hãy yêu mến đồng loại ngươi như chính mình”
Trước Chúa Giêsu chúng ta thấy chưa ai đặc ngang hàng giữa luật yêu mến và đến Ngài Ngài đã hợp nhất thành luật mới đó là đặc điểm của Tin Mừng! Hơn nữa Chúa Giêsu còn tuyên bố rằng: Tất cả luật Môsê và sách ngôn sứ đều thuộc về hai điều này. Có nghĩa là hai điều răn này đã diễn tả trọn vẹn thánh ý của Thiên Chúa, và do đó hai điều răn này chứa đựng tất cả mọi điều răn khác. Hay là nói cách khác tất cả các điều răn khác quy về hai điều răn này! và rồi chúng ta thấy sau này Chúa Giêsu đi thêm một bước nữa khi mà Chúa Giêsu dạy người ta phải yêu mến Chúa và yêu thương an hem như Người đã yêu thương chúng ta. Chúng ta yêu mến Chúa và yêu người với chính tình yêu của Người, một tình yêu chấp nhận từ Chúa Cha và cái tình yêu đó thúc đẩy người ta đến độ, hiến thân mình hy sinh mạng sống mình, vì người mình yêu.
Hiến chế về mục vụ Giáo Hội Công giáo trên thế giới ngày hôm nay, chúng ta thấy có vài đoạn nói về hiện tượng vô thần.
Ngày hôm nay Giáo Hội lưu ý chúng ta, về một số trào lưu là nhân bản vô thần. Nghĩa là người ta nhân danh con người để khước từ Thiên Chúa.
Những người đó lý luận rằng: niềm tin vào Thiên Chúa và đời sống mai sau, hạnh phúc mai sau. Để rồi, người ta quên lãng cái cuộc sống trần thế, làm cho người ta vô cảm với người khác. Không có giúp đỡ người khác, và họ sống theo cái kiểu chờ thời, chờ lên thiên đàng.
Và rồi vì nhân danh lòng yêu mến con người mà họ đã khước từ Thiên Chúa, thì những người này thì lý luận cái cơ sở rằng là: nhân danh con người.
Bởi vì chính vì con người mà họ khước từ Thiên Chúa, là điều này không có, bởi vì trong lịch sử Thánh Kinh và trong đời sống Giáo Hội người ta nhấn lòng yêu mến Thiên Chúa mà quên đi tình thương với con người.
Chúa Giêsu đi rất sát với câu chuyện Tin Mừng ngày hôm nay. Những người đạo đức, những người thầy thông luật thì họ cái lời Kinh Sêma, cái lời Kinh Sêma là như thế này mà chúng ta nghe rất quen:
Hỡi Iraen! hãy nghe đây! Thiên Chúa, Chúa chúng ta là Thiên Chúa duy nhất và các ngươi phải yêu Thiên Chúa hết lòng, hết sức ngươi.
Và rồi chúng ta rất là buồn cười, những người đạo đức họ viết cái điều luật này vào trong tờ giấy và cho vào hộp, dán trên trán để khỏi quên.
Dán trên trán thì làm sao mà quên được, lúc nào cũng nhớ cả. Và chúng ta nhớ lại Cựu Ước đã có nhiều lần nói về Luật Yêu Thương:
“Ngươi không được trả thù, ngươi không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình.” (Lv 19, 18).
Nhấn mạnh đến việc mà yêu Chúa, yêu người hết lòng, hết trí khôn! Thì chúng ta lại thấy, thực tế về con người, nó rất là buồn cười: Con người, người ta mâu thuẫn khi mà Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabát thì họ phản đối và họ cắt nghĩa rằng là nếu con lừa rơi xuống hố thì họ có quyền kéo lên và nếu là con người thì không được!
Con người xét cho bằng cùng thì con người không bằng con lừa.
Và chúng ta thấy nhìn thấy cái mâu thuẫn đó để rồi cái dụ ngôn Samaria rất là thực tế.
Thầy tư tế, thầy Lêvi đi lên đền thờ, thấy có một người nằm sóng soài ở dưới đất, bị bỏ rơi chẳng ai coi sóc cả, bởi vì người ta đi lên đền thờ, người ta không muốn vấy vào người đó để bẩn tay. Và rồi người ta đã quên đi cái lòng thương xót, và người ta không nhìn tới những cái con người đau khổ. Họ cứ nghĩ rằng là họ đi lễ, đi đọc kinh, đi cầu nguyện làm tốt, nhưng rồi trong lời ăn tiếng nói, trong các cách hành xử của họ lại thiếu bác ái.
Người ta nhân danh Thiên Chúa để quên đi Thiên Chúa ngày hôm nay, mà người ta nhân danh con người. để rồi Cái thái cực mà nhân danh Thiên Chúa đó, để có thể quên đi Thiên Chúa.Và ngày hôm nay, nhân danh con người, người ta gạt Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của con người. Điều này rất là tinh tế, đã xuất hiện bằng nhiều cách khác nhau.
Liên quan trong cái đời sống thờ phượng, chúng ta có nghe rồi. Có những người lý luận rằng: cần gì đi nhà thờ Đọc kinh cầu nguyện làm gì? miễn là bác ái thôi!
Lý luận này xem ra cũng hay đó. Nhân danh lòng yêu mến mà con người đã gạt Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời mình. Thế nhưng mà rồi tinh tế hơn nữa, đó là: đời sống và luân lý đạo đức. Người ta nhân danh con người để loại trừ Thiên Chúa ra khỏi đời mình.
Ví dụ như: Một chàng trai mà lỡ cho cô gái con người ta có thai thì, biện pháp tốt nhất mà người ta dùng đó là đi phá thai thôi! Trong vòng mấy phút đồng hồ và tốn tiền thì coi như xong! Khỏi có áy náy, xã hội không còn lên án nữa! Và lúc đó cảm thấy là thương cô gái đó đó!
Nhưng mà, khi mà người ta làm như thế người ta nhân danh con người, người ta hủy hoại Thiên Chúa hủy hoại cuộc sống. Sự sống, mà mầm sống mà Thiên Chúa ban cho con người. Người ta loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời người ta, bởi vì chính Thiên Chúa mới là chủ cuộc đời của người ta thật.
Rồi ngày hôm nay ở Việt Nam thì chưa có, chứ ở nước ngoài thì người ta chủ trương “chết êm dịu”:
- Già rồi, gần chết rồi! chích một mũi thuốc đi “chết êm dịu”.
Mà rồi, Giáo Hội không chấp nhận điều đó. Nhưng khi người ta thấy Giáo Hội làm điều đó, người ta cho Giáo Hội là gian ác, Giáo Hội quay lưng với con người.
Rất tinh tế, người ta nhân danh con người, để loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của mình. Người ta mâu thuẫn, mà thật sự rằng, nếu mà thật sự như thế! thì rằng, người ta có yêu mến con người hay không?
Sau khi giúp một cô phá thai, người ta có xóa đi vết thương lòng của cô đó hay không? Hay cái nỗi dằn vặt “giết người con” của cô đó, đi theo cô đến chết! Có thật sự rằng, mình yêu mến cô ta thật sự! Hay mình hủy diệt cô ta cùng với đứa con của cô ta, đó là cái điều chất vấn chúng ta.
Trang Tin Mừng ngày hôm nay xem ra quen thuộc, và rất mới và rất gần với đời sống của chúng ta. Cái nét độc đáo của Chúa Giêsu là đã kết nối hai cái giới răn này thành một, và nếu như tách ra hai giới răn này thì không có gì mới nói cả!
Cựu Ứớc thì đã nói về yêu mến rồi, yêu con người thì không cần! Nhưng mà chúng ta thấy đó về phần mà tôn giáo thì người Việt Nam chúng ta vẫn thường nói là gì: “Yêu người, như thể thương thân”.
Cái nét mới của Chúa Giêsu là nối kết, nối kết cái ý thức đó chứ không có tách lìa.
Còn nói về yêu thương con người thì chả cần gì về Công giáo cả! Có khác nào là Chúa Giêsu. Cái nét mới của Chúa Giêsu là nối kết, giúp cho con người ta không gạt bỏ Thiên Chúa và cũng không gạt bỏ con người bên ngoài. Cái mới nằm ở chỗ đó đó!
Những cái lối sống thiếu bác ái, thiếu yêu thương, thì không thể nào nói rằng mình mến Chúa được! Và ngược lại nếu mình yêu Chúa thì mình cũng phải bác ái, yêu thương thôi!
Như Thánh Gioan tông đồ nói: - Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Chúa, mà lại ghét anh em mình là nói dối; vì ai không yêu thương anh em mình người mà họ trông thấy, mà họ yêu mến người không trông thấy đó là Thiên Chúa. (1 Ga 4:20).
Điều răn mà ta nhận ra từ ngài: “Ai yêu Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em”. (1 Ga 4:21)
Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta, đó là một người Cha yêu thương con cái, ngay khi mà đứa con đó còn ngỗ nghịch. Đồng thời Ngài mời gọi chúng ta nên trọn lành như Cha chúng ta trên trời. Nghĩa là yêu thương mọi người không trừ người nào.
Đó là giáo huấn của Chúa Giêsu, Ngài đến để nói với con người rằng: Thiên Chúa yêu thương và con người cũng hãy yêu thương nhau!
Chúng ta nhớ đến hình ảnh của thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu, khi đó Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu được giao phó trông coi một chị nữ tu lớn tuổi. Chị này nổi tiếng là khó tính trong nhà dòng. Đến giờ ăn, Têrêxa phải dìu chị xuống nhà ăn. Một cái thiếu sót nhỏ cũng đủ cho Têrêxa bị trách móc. Chị ấy bực bội không bằng lòng, nhưng Têrêsa thì ngược lại vẫn tỏ ra thái độ vui tươi và hồn nhiên và chịu đựng tất cả, vì đơn giản Thánh nữ Têrêsa yêu mến Chúa, vì tình yêu Chúa, thánh nữ yêu mến cả cái nữ tu đáng thương này.
Tình yêu đối với Thiên Chúa được tỏ ra bên ngoài là tình yêu đối với tha nhân. Chúng ta không chỉ chứng tỏ tình yêu đối với tha nhân, không chỉ bằng lời nói nhưng bằng hành động: sự nhẫn nhịn, sự thứ tha và cảm thông.
Khi mà Chúa Giêsu truyền dạy ngươi hãy yêu thương người khác như chính mình. Chúa Giêsu như đặt một tấm gương soi, chúng ta có yêu kẻ khác hay không? Chúa Giêsu xem tình yêu của kẻ khác trên mệnh lệnh của Người. Mệnh lệnh ấy tóm tắt về lề luật. Đây là giới răn của thầy: “Anh em hãy yêu nhau như thầy đã yêu thương anh em”.
Nhiều người có khi đồng hóa Kitô giáo với luật Yêu Người. Chúng ta cố gắng đi xa hơn một chút nữa, khi nói về tình yêu người khác, thì người ta nghĩ ngay tới việc làm như: bác ái phải làm cho kẻ khác. Cho kẻ đói ăn, kẻ khát uống, đi thăm viếng...nói tóm lại là giúp đỡ kẻ khác. Nhưng đó là hậu quả của tình yêu chứ chưa phải là yêu. Lòng từ tâm tới trước cái việc làm phúc. Trước khi làm phúc người ta phải muốn là một phúc.
Thánh Phaolô nói rõ với chúng ta: “Đức Bác ái không giả vờ.” Tức là phải chân thật, nghĩa đen là không giả hình. Người ta phải yêu thương với một con tim trong sạch.
Trên thực tế, ta có thể làm việc bác ái và bố thí nhiều, lý do không dính dáng gì tới tình yêu, bởi vì họ đã tô điểm chính mình, bởi vì họ làm cái vẻ đẹp, điều thiện, để được lên thiên đàng. Và có thể là để trấn an một cái lương tâm xấu, bởi vì họ đã không yêu thương thật lòng, như chính mình.
Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh người được yêu đồng hóa với người yêu. Và vì vậy: Hãy yêu thương kẻ khác bằng chính tình yêu của chính bản thân, nhưng tiên vàn phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự.
Ước gì mỗi người chúng ta, nhờ ơn của Chúa Thánh Thần. Sau khi thánh lễ này về, chúng ta sống với ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta ngày mỗi ngày: yêu Thiên Chúa, cũng như yêu mến anh chị em đồng loại; mà đặc biệt không phải chỉ trên môi, trên miệng, mà bằng trên hành động, trên việc làm của mỗi người chúng ta. Amen.
29. Suy niệm của Lm. Joshepus Quang
TRỌN TÌNH VỚI CHÚA VÀ VẸN NGHĨA VỚI NHAU
Là người lương dân hay Công giáo, ai cũng thuộc nhạc phẩm này: “Tình người ngoại đạo” của tác giả Phượng Linh, tác giả là một người ngoại đạo yêu một cô gái Công giáo mà không dám tỏ tình, một hôm ông đến Nhà thờ cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa con thương nàng đã lâu rồi. Thương thì nhiều nhưng con chưa dám nói. Con thương nàng đã lâu rồi mà chưa dám hé môi. Ngại ngùng không cùng tôn giáo thôi. Lạy Chúa con thuơng nàng rất ngoan đạo. Thương nàng thường hay luôn di xem lễ. Con thuơng nàng rất đơn sơ. Màu áo trắng đơn sơ, với nét môi cười nắng nghiêng nghiêng. Con yêu nàng, tình yêu rất chân thành. Tình yêu không lừa dối. Nhưng Chúa ơi, nàng đâu hay biết đâu một người ngoại đạo tha thiết yêu nàng. Tình yêu trái ngang. Lạy Chúa con xin nguyện Chúa trên trời. Cho trọn niềm tin ơn trên Thiên Chúa. Con xin đuợc sống bên nàng, nguời con nhớ con thương. Kính mến tôn thờ Chúa. Amen”.
Anh chàng ngoại Đạo yêu cô gái Công giáo cốt ở điểm nào? Thưa thứ nhất, cô thường đi dâng lễ, có nghĩa rằng giữ trọn tình mến Chúa. Thứ hai, cô này ngoan Đạo, yêu chàng một tình yêu chân tình, tình yêu không lừa dối, có nghĩa rằng cô yêu người như chính mình vậy. Vâng, tại sao, Cô này trọn tình với Chúa và vẹn nghĩa với người yêu bởi vì cô này đã sống Đạo tốt qua việc giữ điều răn lớn nhất và quan trọng rất của Đạo Công giáo là Mến Chúa, yêu người. Đó là điều răn mà Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu trả lời cho người thông luật: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi… Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình”.
Trong văn hoá Á Đông, người Việt nam luôn để cao cuộc sống hôn nhân gia đình luôn có tình và có nghĩa với nhau. Cho nên, là vợ chồng sống với nhau phải có tình có nghĩa. Khi bình thường, an vui cũng như sầu khổ, vợ chồng sống với nhau bằng “tình”. Khi một trong hai người bệnh hoạn tai ương, hoặc gây nên lầm lỗi, nếu tình yêu phôi pha hoặc không còn nữa, vợ chồng vẫn sống bên nhau bằng “nghĩa”. Nói cách khác, tình là phần việc của con tim (cảm xúc), nghĩa là phần việc của lý trí (trách nhiệm). Con tim và lý trí đi chung với nhau để cuộc sống vợ chồng bền chặt. Vì vậy, theo văn hoá Việt Nam, vợ chồng lấy nhau vì “tình”, chung sống vì “nghĩa”. Vì thế, chất keo gắn bó cuộc sống vợ chồng chung thuỷ với nhau suốt đời: “tình” và “nghĩa”. “Tình” để yêu thương nhau và “nghĩa” để chịu đựng nhau nâng đỡ, chăm sóc và phục vụ nhau. Mất đi một hợp chất, keo không còn dính nữa, khác gì xi măng không có nước.
Cũng vậy, người Kitô hữu luôn mang trên mình Thánh giá Chúa. Thanh dọc của cây Thánh giá muốn nói rằng, người tín hữu phải vươn lên cao tới Thiên Chúa, để yêu mến Người với tất cả trái tim, hết linh hồn và hết trí khôn. Thanh ngang của thánh giá là phải vươn đến với tất cả mọi người để yêu thương họ như chính mình, không loại trừ một ai, kể cả kẻ thù. Nếu có thanh dọc mà không có thanh ngang, thì đâu phải là Thánh giá. Nếu có mến Chúa mà không có yêu người, thì chưa phải là Kitô hữu. Cho nên chỉ khi sống trọn vẹn giới răn mến Chúa và yêu người, thì chúng ta mới đích danh là Kitô hữu, mới thật sự là trọn tình với Chúa và vẹn nghĩa với nhau trong cuộc sống này. Vì vậy, Chúa Giêsu nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em hãy giữ các điều răn của Thầy… Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy, mà ai yêu mến Thầy thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”(Ga 14,15-21.23). Và ngược lại, “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20).
Muốn mến yêu Chúa, chúng ta có muôn vàn cách để yêu mến Ngài nhưng theo Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh đến việc thực thi Lời Chúa, sống theo giới răn của Chúa. Ngày nay, có nhiều người nghĩ rằng Mến Chúa thì dễ quá. Tôi vẫn đọc kinh sáng tối, đi lễ cầu nguyện hàng ngày, năng tham dự các bí tích. Thực ra, Chúa đâu chỉ đòi hỏi có thế! Hãy nghe lại điều răn lớn nhất này: “Phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”. Trong điều răn có ba chữ hết, chúng ta đã yêu được mấy chữ hết đó. Thường chúng ta chỉ yêu Chúa nửa vời, yêu tùy hứng, yêu đại khái, yêu theo vụ mùa. Vì vậy, chúng ta chỉ yêu mến Chúa hết lòng khi chúng ta dám hy sinh thời giờ, công việc, lợi nhuận, để đi tham dự thánh lễ, các giờ cầu nguyện, các buổi tĩnh tâm, hầu nâng cao đời sống thiêng liêng. Chúng ta chỉ yêu mến Chúa hết linh hồn khi chúng ta dám từ bỏ danh vọng, lợi lộc, chức quyền để trung thành với Chúa và các giới răn của Người. Chúng ta chỉ yêu mến Chúa hết trí khôn khi chúng ta dám làm nhân chứng cho Người trước lương tâm, trước nguy cơ bách hại.
Bên cạnh mến Chúa, chúng ta còn phải yêu thân cận ngươi như chính mình. Nhưng ở đời đâu phải ai cũng dễ mến, dễ thương hết vì “chín người mười ý”, thượng vàng hạ cám, vàng thao lỗn lộn mà. Thế nhưng, chúng ta sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian, mến Chúa mà không yêu người thì là người đạo đức giả. Cho nên, nhà văn học Công giáo Mỹ Thomas Merton nói: “Không yêu thương và nhân từ với kẻ khác, thì tình yêu của chúng ta dành cho Đức Kitô chỉ là tưởng tượng”. Còn Lời Chúa nói: “Anh em hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa.
Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,7-8).
Đời sống Kitô hữu là cuộc tình của mình với Thiên Chúa. Cuộc sống con người chan chứa tình yêu và hiệp thông với Thiên Chúa đời đời. Vì thế, cuộc sống đức tin của chúng ta phải nỗ lực thực hiện cuộc cách mạng yêu thương để làm sao mình không phải là tâm điểm mà chính Chúa và tha nhân là tâm điểm, và mình phải xoay quanh chứ đừng bắt Chúa và tha nhân phải xoay quanh mình. Nhưng Chúa ở đâu bây giờ và lúc này? Ai là người thân cận của tôi? Đó chính là những người còn sống với tôi hay đã qua đời, vì vậy chỉ yêu tha nhân như chính mình khi chúng ta tránh hết sức không làm tổn thương đến nhân phẩm và quyền lợi của người khác; yêu người thân cận như chính mình khi chúng ta biết kính trọng người già yếu, an ủi người khổ đau, giúp đỡ những ai nghèo đói, bênh vực những kẻ cô thế, cô thân; yêu người thân cận như chính mình khi chúng ta biết quảng đại trao ban và xả thân phục vụ những ai đang cần sự trợ giúp và yêu tha nhân như chính mình khi chúng ta biết cầu nguyện cho những người thân yêu hay mọi người đã qua đời vì chưng sống chết đều có nhau như niềm tin chúng ta thường tuyên xưng: “Tôi tin các thánh thông công”.
Vì thế, ước gì qua Lời Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta yêu mến Chúa hết lòng hết sức không phải vì Chúa ban cho chúng ta lợi lộc này, lợi lộc nọ mà vì Thiên Chúa là Tình Yêu và Lẽ Sống, là Hơi Thở của chúng ta. Yêu mến Chúa cũng mời gọi chúng ta có lòng vị tha với tha nhân để yêu thương, phục vụ, hy sinh và cầu nguyện cho nhau hầu luôn giữ trọn tình với Chúa và vẹn nghĩa với nhau. Amen.
30. Giới luật tình yêu
Thiên Chúa là Tình Yêu và Ngài đã tỏ tình yêu đó cho con người qua chương trình cứu độ nhất là qua việc ban Con Một của mình là Đức Giêsu Kitô cho nhân loại. Ngài đến để làm chứng cho tình yêu nhưng không của Thiên Chúa. Chính Ngài đã dạy cho loài người biết giới luật quan trọng nhất là kính mến Chúa trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính bản thân mình.
Người Do thái có tới 613 điều luật, có 365 điều cấm và 248 điều truyền, các phe nhóm không thống nhất với nhau về việc coi giới luật nào là quan trọng nhất, nên họ giữ các điều luật gần như ngang nhau. Hôm nay họ hỏi Chúa Giêsu vừa để có ý thử Người. Nếu Chúa Giêsu nói điều này quan trọng, điều kia không thì thế nào cũng bị qui lỗi là về phe nhóm này, chống nhóm kia và như vậy Người thiên vị, không còn được kính nể nữa. Đối với họ thì câu này rất khó, nhưng Chúa Giêsu thấu biết mọi sự. Để trả lời họ, Chúa Giêsu đã trích dẫn ngay điều luật thứ nhất trong Thập giới mà Thiên Chúa đã truyền cho Môsê: "Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em" (Đnl 6,5). Chính người Do thái cũng đã thấy tầm quan trọng của điều luật này nên kết thành kinh để đọc một ngày 2 lần. Song song với Giới răn đó, Giới răn thứ hai cũng quan trọng không kém: hãy yêu tha nhân như chính mình. Tất nhiên xét về đối tượng thì việc yêu Chúa có giá trị hơn hẳn so với yêu tha nhân, nhưng lòng yêu tha nhân bắt nguồn từ lòng mến Chúa và cũng khẩn thiết như việc yêu mến Chúa vậy. Yêu tha nhân là dấu chứng tỏ chúng ta yêu mến Chúa và biết thi hành lời Chúa dạy. Chúng ta yêu tha nhân vì Chúa nhưng đồng thời tha nhân cũng là đối tượng để chúng ta yêu mến trong tinh thần huynh đệ có chung một người Cha.
Trước khi dạy cho con người giới luật yêu thương, Chúa đã tỏ lòng nhân ái trước, đã hứa ban ơn cứu độ, chuẩn bị dân Israel, và thể hiện tình yêu đối với loài người cách quyết liệt nơi Đức Giêsu Kitô. Thánh phaolô đã diễn tả tình yêu tự huỷ của Chúa Giêsu Kitô đối với loài người trong thư gởi tín hữu Philipphê như sau: Đức Giê-su Ki-tô vốn là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Đức Giê-su Ki-tô là Chúa". (Pl 2, 6-11) Đức Giêsu là một con người trong thế giới loài người được thiên chúa rước đưa vào vinh quang Thiên quốc trong danh dự của một Thiên Chúa. Ngài đã đem biết bao người phàm lên nơi Thiên Chúa ngự và được thông phần vinh quang của Thiên Chúa.
Thật hạnh phúc biết bao cho loài người chúng ta, được tạo dựng bởi vị Thiên Chúa đầy quyền năng, công bằng và nhân từ vô cùng. Ngài đối xử với con người quá khoan dung, nhân hậu. Đáp lại tình thương ấy, chúng con nguyện yêu mến Chúa hết lòng và thực thi giới luật Chúa với hết sức lực con, con sẽ đối xử tốt với anh em đồng loại như Chúa đã đối xử tốt với bản thân con.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con yêu mến Chúa, chúng con cảm tạ Chúa về tình yêu bao la của Ngài, về giới luật yêu thương của Ngài. Xin Chúa cho chúng con luôn biết sống cho tình yêu Chúa và thể hiện rõ bằng hành động cụ thể trong cuộc sống chúng con.
31. Làm sao để yêu thương tha nhân như chính mình
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
“Là Kitô hữu, chúng ta không ít lần được nghe diễn giải về giới luật yêu thương là mến Chúa và yêu người. Đã từng có nhiều vị, vì muốn nhấn mạnh đến mối liên hệ hổ tương giữa đạo mến Chúa và việc yêu thương tha nhân nên đã dùng hình ảnh hai mặt của một đồng tiền. Là hình ảnh minh hoạ dĩ nhiên vẫn có đó sự khập khiễng cần chấp nhận. Tuy nhiên cái hình ảnh hai mặt của một đồng xu xem ra không chỉ khập khiễng mà còn lệch chuẩn.
Chúa Kitô đã khẳng định: Người hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn trọng nhất và điều răn thứ nhất” ( Mt 22,38 ). Đã là điều răn đứng đầu và trọng nhất thì chỉ có một. Xét như loài thụ tạo thì nghĩa vụ thờ phượng Đấng tạo thành là nghĩa vụ hàng đầu và không có gì có thể thay thế. Nếu nhìn nhận mọi sự ta đang có, mọi sự đang là, đều do bởi lãnh nhận từ trên cao, thì việc thần phục đấng tạo Thành là chuyện mang tính sống còn. Nếu Chúa rút hơi lại thì không có loài nào được tồn tại.
Thiên Chúa ta thờ không chỉ là Đấng tạo thành mọi sự mà còn là Cha chí ái. Người không chỉ nhận ta làm con theo nghĩa được dựng nên giống hình ảnh của Người mà còn nhận chúng ta làm nghĩa tử trong Con Một chí ái của Người làm người là Đức Giêsu Kitô. Con người là chi mà Chúa đoái trông. Loài người là gì mà Chúa lại phó ban Con Một. Tất thảy chỉ vì Chúa muốn thông phần hạnh phúc cho chúng ta mà thôi. Như thế bổn phận yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực là bổn phận liên hệ đến phần phúc loài người chúng ta.
Điều răn thứ hai là yêu thương tha nhân như chính mình. Chúa Kitô nói điều răn thứ hai “cũng giống” điều răn thứ nhất. Cái từ “giống” rất dễ bị hiểu lầm là tương đương, là ngang bằng. Tuy nhiên khi nói đến trạng thái “giống” là nói đến một sự phản ánh có điểm quy chiếu. Người ta nói cái hình, cái ảnh giống với người, với vật, với cảnh, chứ không nói ngược lại rằng người, vật, cảnh giống với hình, với ảnh. Tương tự như thế, người ta nói đứa con giống người cha chứ không bao giờ nói người cha giống đứa con. Như thế người cha là nguồn, là điểm quy chiếu của sự được gọi là “giống”.
Với hệ luận như trên thì điều răn thứ nhất là yêu mến Thiên Chúa chính là nguồn, là điểm quy chiếu cho giới răn thứ hai là yêu người. Chính nhờ yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết trí khôn, vì Người là Cha toàn năng chí ái nên ta mới có thể yêu mến nhau như anh chị em. Trong tình yêu mến Thiên Chúa, nhờ lòng yêu mến Thiên Chúa và bởi việc yêu mến Thiên Chúa, chúng ta mớ có thể yêu thương tha nhân cho dù họ dễ thương hay đáng ghét, cho dù làm ơn, làm phước cho ta hay làm hại và thù ghét ta…( x. Mt 5,43-48 ).
Điều răn thứ nhất là nguồn, là nền tảng của điều răn thứ hai. Sư thường, trên nguồn đầy nước thì hạ lưu sẽ có nước chảy. Dòng sông không bị ngăn chặn, nếu hạ lưu không có nước chảy thì chắc chắc trên nguồn đang thiếu nước hay không có nước. Theo lôgich này thì ta hiểu được lời của Thánh Gioan Tông đồ: Khi ta không giữ giới răn thứ hai là yêu người thì chắc chắn ta không giữ giới răn thứ nhất là mến Chúa ( x.1Ga 4,20 ).
Có thể có nhiều người diễn giải rằng tuân giữ giới răn thứ nhất là mến Chúa thì dễ còn giữ giới răn thứ hai là yêu người thì rất khó. Một sự diễn giải như gần đời thường và có vẻ mang tình hiện sinh nhưng lại hơi lệch chuẩn. Sự lệch chuẩn ở đây là nơi cách hiểu về đạo mến Chúa, vì người ta những tưởng rằng tuân giữ một vài hành vi tế tự, một vài nghi lễ thờ phượng bên ngoài là giữ đạo mến Chúa. ( vd: đọc kinh, tham dự Thánh Lễ…)
Quả thật, trong thực tế, sống đạo yêu người không phải dễ dàng. Ta có thể không ngược đãi và áp bức khách ngoại kiều, mẹ goá, con côi. Ta có thể cho vay mượn mà không kiếm lãi. Ta có thể trả áo choàng người nghèo cầm cố trước khi đêm về để họ có cái mà đắp ấm. Ta cũng có thể gặt lúa, hái cà phê mà không mót phần rơi vải, nhằm để cho người nghèo mót lượm. Tuy nhiên, để yêu thương người không mấy dễ thương, yêu thương người hành khổ, thù ghét, làm hại chúng ta thì không dễ chút nào. Người ta độc chiếm quyền lực, nguời ta ra sức vơ vét của cải cách bất công, người ta không màng chi đến người nghèo, không nghĩ chi đến tương lai dân tộc, người ta lại còn gian xảo bôi nhọ các Đấng bậc trong Hội Thánh và qua đó phỉ báng đạo thánh Chúa…, thì làm sao ta có thể yêu thương họ như chính mình đây? Ngay cả những người cùng chung niềm tin, cùng một Hội Thánh mà vẫn không thiếu người thú nhận rằng đạo thì con giữ đạo nhưng con không thể làm hoà hay tha thứ cho mấy cái người làm hại con, làm hại gia đình con…Thử hỏi có bao nhiêu bà mẹ sẵn sàng nhận người giết con trai của mình làm con nuôi? Thử hỏi số vị thánh Tử đạo sẵn sàng cầu nguyện và chúc lành cho kẻ giết mình có đến con số một vài triệu? Vậy thì đại đa số người tín hữu Kitô có thực sự giữ giới răn thứ hai là yêu người chưa? Thật khó trả lời. Nhưng ta có thể khẳng định rằng nếu ta cố tâm giữ giới răn thứ nhất thì sẽ có khả năng thực thi giới răn thứ hai. Vấn đề là giữ giới răn thứ nhất như thế nào.
Thiên Chúa là Đấng không ai thấy bao giờ. Nhưng Người đã nên hữu hình nơi Đức Giêsu Kitô. Ai thấy Chúa Kitô là thấy Chúa Cha ( x. Ga 14,9 ). Và yêu mến Chúa Kitô là yêu mến Thiên Chúa. Yêu mến Chúa Kitô là hãy ở lại trong tình yêu của Người và hãy giữ giới răn của Người ( x. Ga 14 23-24 ).
Ở lại trong tình yêu của Chúa Kitô nghĩa là hãy để cho Chúa Kitô yêu thương ta. Ở lại trong tình yêu của Chúa Kitô là kết hiệp nên một với Người, là nên đồng hình đồng dạng với Người. Một trong những phương thế tuyệt hảo để ở lại trong tình yêu của Chúa Kitô đó là liên lĩ cầu nguyện. Cầu nguyện là nâng tâm hồn lên để kết hiệp với Chúa, nên một với Chúa, để nhận biết Chúa mà yêu mến Chúa, để biết thánh ý Chúa mà thực thi ý Người. Nên một với Chúa Kitô, nên đồng hình đồng dạng với Người thì ta sẽ biết cách yêu thương nhau như Người đã yêu thương chúng ta ( x. Ga 15,12 ). Và đây là giới răn mới mà Chúa Kitô đã truyền lại cho chúng ta ngay đêm Tiệc Ly, trước khi Người chịu khổ nạn.
Vì biết cùng chung cha mẹ nên người ta nhận nhau là anh chị em., chứ không phải vì đã nhận nhau làm anh chị em nên mới biết mình cùng chung một mẹ cha. Tuy nhiên trong tình yêu, nhiều điều như nghịch lý vẫn hiện hữu. Dù không thể đòi hỏi và không có quyền đòi hỏi rằng khi anh chị em thương nhau là đã yêu cha mẹ, nhưng chính cha mẹ tự nhận lấy việc con cái yêu thương nhau là cách thế tốt đẹp mà chúng tỏ bày lòng hiếu thảo với mình. Cũng thế, là Tình Yêu, Thiên Chúa đã nhận việc loài người chúng ta yêu thương nhau là một phương thế yêu thương Người cách tốt đẹp. Chúa Kitô đã nói rõ chân lý này trong dụ ngôn ngày cánh chung ( x. Mt 25,31-46 ).
Mến Chúa và yêu người là trọng tâm sứ điệp Kitô giáo. Là Kitô hữu, chúng ta thuộc lòng chân lý này. Tuy nhiên để thực thi đạo mến Chúa - yêu người thì cần phải biết Chúa, một sự “biết” theo nghĩa Thánh Kinh đó là gắn bó nên một với Chúa. Ngoài các giờ kinh nguyện, ngoài các buổi tham dự Phụng vụ, thì việc giữ tỉnh lặng khoảng năm, mười phút hay lâu hơn trong một ngày sẽ giúp ta can đảm và nhiệt thành mến Chúa trên hết mọi sự và yêu thương tha nhân như chính mình cách hữu hiệu.
32. Lý do của tình yêu
"Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi, và yêu người thân cận như chính mình".
Tác giả Lovasik trong quyển "Dụ ngôn đời thường" của Rev. Frank Mihalie - SVD có kể câu chuyện về đại văn hào người Nga Tolstoy như sau:
Nạn đói lan tràn lãnh thổ. Một người ăn xin nơi góc phố tiến tới gần Tolstoy. Tolstoy dừng lại, sờ khắp mọi túi nhưng không tìm được đồng nào. Thật lòng thương cảm, ông nói: "xin đừng giận tôi, người anh em ạ, tôi không có đồng nào ở đây". Người ăn xin ngước mặt đáp: "ông gọi tôi là người anh em thì cũng là món quà lớn lắm rồi".
Vâng, yêu thương không nhất thiết phải được đánh giá bằng những tài sản vật chất lớn lao mà hơn thế đó là lòng thương cảm của chúng ta dành cho nhau. Nhưng đôi lúc bạn sẽ hỏi - sao phải yêu thương người khác trong khi họ không có quan hệ thân thuộc nào với mình? Hay tại sao phải yêu? Chẳng phải đó là một trong những thất tình sao? Giữa một xã hội kim tiền này mà còn yêu hết lòng thì dễ bị thua thiệt lắm. Nghĩ như vậy quả là thiển cận. Tôi sẽ cho bạn thấy có hai lý do để chúng ta phải yêu thương nhau như bài học của đoạn Kinh Thánh hôm nay.
Thứ nhất, vì chúng ta là con người. Tình yêu chỉ có duy nhất nơi con người. Ở các loài động vật tất cả hoạt động của chúng là do bản năng. Hơn nữa, hành động gọi là yêu thương của chúng chỉ xảy ra ở những thời điểm nào đó. Khi nhìn thấy cảnh tượng gà mẹ ủ con mình dưới cánh rất mẫu tử ấy, nhưng chỉ một thời gian ngắn. khi gà con đã đủ lông đủ cánh thì đường mẹ, mẹ đi, đường con, con đi. Các loài khác thì cũng không có gì lạ hơn. Còn ở con người, tình yêu bao hàm nhiều góc độ và ngữ cảnh. Tình yêu gia đình, dân tộc, quê hương, vợ chồng, anh em, bạn hữu..., bao trùm lên tất cả các quan hệ tình cảm trên là tình yêu của con người dành cho nhau. Yêu tới cùng, yêu mãnh liệt, yêu đến hy sinh bản thân cho đối tượng yêu thương của mình. Đó là một tình yêu thật phát xuất từ khối óc có lý trí, biết suy tư, chọn lựa, từ trái tim biết rung cảm. Khi con người không còn biết yêu thương thì không còn là con người nữa. Chẳng vậy mà khi có ai đó làm chuyện bất nhân người ta kết luận "nó mất hết tính người". Chỉ nơi con người tình yêu mới được thực hiện phong phú nhất, đẹp nhất và trọn vẹn nhất. Cho nên, không sống yêu thương tức là phủ nhận nhân tính của mình.
Thứ hai, chúng ta phải yêu thương nhau vì "tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa" (1 Ga 4,7). Thiên Chúa đã yêu thương ta trước và tự trở nên gương mẫu của tình yêu cho chúng ta. Ngài đã để máu và nước từ cạnh sườn mình đổ ra để nuôi dưỡng tình yêu nơi trái tim con người, cũng như gội rửa hận thù nơi lương tâm nhân thế. "Thật vậy, chính Đức Giêsu là bình an của chúng ta. Người đã hy sinh thân mình để phá vỡ bức tường ngăn cách là sự thù ghét (Eph 2,14). Mong ước và hy vọng duy nhất của Đức Giêsu không gì khác hơn là "các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương"(Ga15,12). Khi sống yêu thương tức là chúng ta thực hiện chúc thư và nguyện ước ấy, là đáp trả lời mời gọi yêu thương của Ngài, là hoạ lại hình ảnh của Thiên Chúa nơi trần gian, "với dấu này mà người ta sẽ nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là các con hãy yêu thương nhau"(Ga 13,35), là bày tỏ lòng tin tưởng vào Thiên Chúa - là đường, là sự thật, và là sự sống.
Tóm lại, yêu thương là một hoạt động tự nhiên mà Thiên Chúa đã ban tặng cho con người, và nơi tình yêu ấy ta còn thấy đó là một huyền nhiệm. Bởi không ai có thể sống mà không yêu. Do vậy, khi sống yêu thương chính là lúc ta bày tỏ rực rỡ nhất nhân tính và phẩm giá của một người con Chúa - Đấng yêu thương.
33. Thừa tác viên - Lm. Vũ Đình Tường
Nhóm Pharisiêu phái người đến thử Đức Kitô hỏi người rằng: giới răn nào quan trọng nhất. Đức Kitô nói cho họ biết tất cả các giới răn lề luật dậy từ thời các tổ phụ cho đến các tiên tri đều tóm gọn trong hai điều. Đó là mến Chúa hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn và điều thứ hai sanh ra từ điều thứ nhất là yêu thương tha nhân chứ chính thân mình.
Hầu như trong chúng ta ai cũng biết làm thế nào để yêu Chúa hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn nhưng khi áp dụng điều thứ hai vào trong thực tế cuộc sống chúng ta lại gặp khó khăn. Câu chuyện về người giầu có trong phúc âm thánh Marcô 10,17-31 cho thấy rõ khó khăn trên. Chàng thanh niên giầu có mến Chúa với tất cả tấm lòng, giữ tất cả các luật lớn nhỏ. Anh gặp Đức Kitô và nói thế. Đức Kitô khen anh và thêm anh còn thiếu một điều cần phải làm đó là phục vụ tha nhân. Anh buồn rầu bỏ đi và ta không rõ số phận anh ta sau này ra sao. Yêu thương tha nhân đòi hỏi chúng ta phải làm gì cho tha nhân, không thể yêu bằng nói suông nhưng phải hành động thực tế. Tình yêu Thiên Chúa mở đường dẫn ta tới yêu tha nhân. Như thế yêu thương tha nhân chính là phục vụ tha nhân trong tình yêu Chúa. Phục vụ tha nhân trong cộng đoàn đức tin có tên gọi riêng. Tên đó là thừa tác viên. Họ là những người tình nguyện làm công việc chung trong cộng đoàn. Mỗi Kitô hữu cần trở thành một thừa tác viên trong cộng đoàn. Tuỳ hoàn cảnh và thời gian cũng như tài năng Chúa ban cho mỗi người mà trách nhiệm công việc thừa tác cho xứng với tài năng Chúa ban. Công việc phục vụ nào cũng quí, cũng trọng, cũng cao đẹp bởi vì chúng ta thực thi điều răn thứ Hai đó là thương yêu tha nhân qua hành động cụ thể. Chúng ta phục vụ không vì tư lợi hay bè phái mà phục vụ tha nhân, làm cho Danh Chúa cả sáng hơn. Số giờ, số lượng phục vụ rất quí nhưng phẩm chất phục vụ còn quan trọng hơn bởi nó nói lên tâm tình, lòng quí mến, và tình yêu phục vụ. Phục vụ khi có yêu cầu tại chỗ là điều tốt nhưng đó không phải là công việc thừa tác bởi thiếu chuẩn bị, thiếu hy sinh định từ trước. Công việc thừa tác có lịch trình biết trước, được chỉ định từ trước nên thừa tác viên trước khi đến cộng đoàn đã chuẩn bị tâm tình, tinh thần phục vụ trong khi đáp ứng nhu cầu tại chỗ thiếu những chuẩn bị trên, mặc dù người đó quen công việc làm thuần thục nhưng vẫn không thể coi là nhiệm vụ của thừa tác mà chỉ do lòng bác ái giúp khi được yêu cầu.
Cảm xúc của con tim dẫn đến hành động. Nếu tình yêu Chúa đầy ắp trong tim ta không thúc đẩy ta nhận một trách nhiệm nào đó trong cộng đoàn đức tin thì rõ ràng là có điều chi không ổn. Việc cần phải tìm hiểu là điều chi ngăn cản ta thực thi điều răn thứ hai đó là yêu tha nhân. Rất khó có thể biện hộ cho hành động thiếu yêu thương này bởi Kitô hữu tham dự bí tích Thánh Thể mà lại cô lập mình khỏi cộng đoàn đức tin thì không thể nào nói lên đầy đủ í nghĩa của Thánh Thể. Người ta có thể là Kitô hữu tốt nhưng không thể là môn đệ của Đức Kitô bởi là tông đồ là phục vụ mà thiếu phục vụ chính là Kitô hữu hữu danh, chưa chính thức là môn đệ Đức Kitô.
34. Giới răn mến Chúa và yêu người
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Trung Điểm)
Được một luật sĩ hỏi đâu là giới răn trọng nhất trong lề luật, Đức Giêsu trả lời: "Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình". Những lời nầy chúng ta đã biết đến từ nhỏ và được trích ra ở đầu bản luật Thiên Chúa đã ban cho toàn thể dân Do Thái (xem Đnl 6,5).
Đức Giêsu nói đến "lòng" theo nghĩa của Sách Thánh, như từ ngữ diễn tả thực tại sâu xa nhất của con người. "Yêu mến Chúa hết lòng" nghĩa là hướng toàn thể con người mình và hành động của mình về Thiên Chúa trong thái độ mến yêu.. Để giải thích rõ ràng hơn, Tin Mừng nhắc đến "hết linh hồn", nghĩa là với tất cả sự sống; "hết trí khôn" bao gồm tư tưởng và trí tuệ. Với những lời nầy, Tin Mừng không để ý đến những khả năng khác nhau của con người, cho bằng nhấn mạnh điều quan trọng duy nhất là yêu mến Chúa với toàn thể con người mình. Trong Sách Thánh, yêu mến Thiên Chúa không bao giờ được coi chỉ là một tình cảm hay một thực tại trừu tượng, mà có nghĩa là lắng nghe Chúa và đem thực hành lời Người dạy.
Khi trả lời cho vị kinh sư, Đức Giêsu tiếp tục nói là điều răn thứ hai là: "yêu mến người thân cận như chính mình". Điều răn ấy tóm tắt tất cả mọi điều răn khác. Như vậy, lòng yêu mến Chúa không kéo ta ra khỏi thế gian nầy, không cô lập ta trong sự sùng bái riêng tư. Hơn thế, lòng mến yêu ấy là nguồn liên tục và sức thúc đẩy ta yêu mến tất cả mọi người không trừ ai.
Chúng ta có khả năng yêu thương người khác như thế, chính vì chúng ta được Thiên Chúa yêu thương trước: "Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta" (Rm 5,5). Do đó, lòng mến Chúa và yêu người ấy là bảo đảm duy nhất để tạo nên một xã hội trong đó con người được tôn trọng thực sự. Thực thế, Thiên Chúa là Cha của tất cả chúng ta, và chúng ta là anh em với nhau. Người là nền tảng cho sự bình đẳng và phẩm giá của mỗi con người. Lấy đi nền tảng đó, nhân loại sẽ trở thành kỳ thị chủng tộc, con người sẽ bị chà đạp, cách nầy hay cách khác, nơi bản tính của mình; sẽ nẩy sinh sự oán ghét và chia rẽ thành người trên kẻ dưới, kẻ giàu kẻ nghèo, da trắng da đen, đàn ông đàn bà, người tự do người nô lệ, v.v... Trái lại, khi yêu mến Thiên Chúa, chúng ta cũng sẽ yêu mến cha mẹ mình, vì Chúa muốn như vậy. Nếu yêu mến Chúa, chúng ta sẽ yêu mến bè bạn hay những người cộng sự, bởi vì họ là những anh chị em Chúa đã đặt bên cạnh chúng ta.
Nếu yêu mến Chúa, chúng ta sẽ yêu mến nghề nghiệp, công ăn việc làm của mình, bởi vì chúng là con đường mà Thiên Chúa vì yêu thương đã chuẩn bị cho chúng ta. Nếu yêu mến Chúa, chúng ta cũng sẽ yêu mến việc học hành của mình, bởi vì chúng ta muốn chuẩn bị chu toàn dự định Chúa dành cho đời ta. Nếu yêu mến Chúa, chúng ta sẽ yêu mến thể thao hoặc những lúc nghỉ ngơi giải trí, bởi vì biết rằng Chúa muốn chúng ta chăm lo cho sức khỏe của mình... Chỉ khi nào yêu mến như vậy, tâm hồn chúng ta mới không bị chia sẻ và lòng yêu mến của chúng ta sẽ không nửa vời.
Qua bí tích Rửa Tội chúng ta được đón nhận vào tình yêu Thiên Chúa. Mỗi lần tham dự Thánh lễ, chúng ta lại được tham dự vào Mình Máu Thánh Đức Giêsu, tham dự vào tình yêu dâng hiến của Người. Được Thánh Thể nuôi dưỡng, chúng ta có khả năng sống yêu thương như Chúa Giêsu dạy.
35. Ba chiều kích trong tình yêu
(Văn Chính, SDB chuyển ngữ)
Một thơ sĩ người Anh tên là Leigh Hunt đã viết một bài thơ rất nổi tiếng về một người tên là Abou Ben Adhem như sau:
Một đêm kia, khi Abou Ben Adhem choàng tỉnh dậy, anh thấy trong phòng ngủ của anh một thiên thần nhỏ đang cắm cúi viết trên một cuốn sách bằng vàng tên của những người yêu mến Thiên Chúa. Anh rón rén lại gần và hỏi nhỏ: “Có tên của con trong sách đó không, thưa ngài?”. Vị thiên thần nhỏ lắc đầu: “Chẳng có tên của anh”. Abou nài nỉ: “Nếu thế, con xin ngài hãy ghi tên con là người biết yêu mến những người anh chị em của mình thôi”. Đêm hôm sau, vị thiên thần trở lại với danh sách của những người yêu mến Thiên Chúa. Lần này, tên của Abou Ben Adhem đứng ở đầu danh sách.
Bài thơ này cho thấy tình yêu đích thực dành cho Thiên Chúa và tình yêu dành cho tha nhân thì tựa như 2 mặt của một đồng tiền. Người ta không thể tách rời 2 thứ tình yêu này ra khỏi nhau được. Đó cũng chính là những gì mà Tin Mừng ngày hôm nay muốn nói với chúng ta. Khi người ta hỏi Đức Giêsu rằng đâu là giới răn quan trọng nhất trong lề luật, thì câu trả lời vẫn là giới luật về tình yêu đối với Thiên Chúa. Nhưng Đức Giêsu không chỉ dừng lại ở đó. Ngài tiếp tục đưa ra một câu trả lời thực tế hơn. Ngài trình bày cho chúng ta thấy mặt khác của đồng tiền: đó là tình yêu dành cho tha nhân. Tình yêu mến Thiên Chúa cách đích thực và tình yêu thương tha nhân chân thành chỉ là một. Đức Giêsu đã nói: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và là điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môi-sen và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”. (Mt 22, 37-40)
Ở đây, chúng ta thấy Đức Giêsu không chấp nhận lối hiểu tình yêu chỉ trong một chiều kích thôi. Đối với Ngài, tình yêu đích thực phải diễn tả trong 3 chiều kích, đó là (1) tình yêu đối với Thiên Chúa, (2) tình yêu đối với tha nhân, (3) và tình yêu đối với bản thân. Hai thứ tình yêu đầu được đòi hỏi cách tích cực, còn tình yêu thứ ba được đưa ra như một cơ sở của mọi tình yêu. Việc đòi hỏi yêu thương tha nhân như chính bản thân, đã giả định rằng bạn phải biết yêu thương chính mình.
Vì câu trả lời của Đức Giêsu đề cập tới cả 3 chiều kích của tình yêu, vậy đâu là điểm mà Đức Giêsu thực sự muốn nhấn mạnh?
Khi bạn hỏi ai đó một câu hỏi, và trong câu trả lời của người ấy, người ấy còn nói thêm một điều khác nữa mà bạn đã thực sự không muốn hỏi, thì hẳn rằng người ấy đang muốn bạn chú tâm đến yếu tố thêm vào đó. Tuần vừa qua, khi Đức Giêsu bị chất vấn về việc có phải nộp thuế cho hoàng đế Xê-da không, thì Ngài trả lời: “Của Xê-da, thì trả cho Xê-da;” và Ngài còn nói tiếp: “Của Thiên Chúa, thì trả cho Thiên Chúa”. Đó chính là điểm nhấn mạnh của Đức Giêsu khi được hỏi về việc nộp thuế cho Xê-da. Ngài không chỉ nói đến một điều xem ra hiển nhiên về quyền của Xê-da, nhưng còn nhấn mạnh đến quyền của Thiên Chúa mà con người vốn thờ ơ, không coi trọng. Cùng cách thế này, đứng trước vấn nạn đâu là giới răn quan trọng nhất trong lề luật, thì tình yêu đối với Thiên Chúa là chuyện hiển nhiên, nên điều nhấn mạnh của Đức Giêsu ở đây chính là tình yêu đối với tha nhân mà vốn bị con người không để ý tới hoặc coi thường.
Bạn nên nhớ việc bắt bớ Đức Giêsu và các môn đệ của Ngài là do chính những người lãnh đạo tôn giáo. Những kẻ này tưởng rằng họ làm thế để thể hiện lòng nhiệt thành và yêu mến Thiên Chúa của họ, để bảo vệ uy quyền tối cao của Thiên Chúa. Cũng những con người này khi hỏi Đức Giêsu đâu là giới răn quan trọng nhất, thì chính họ là những kẻ đang giăng bẫy nhằm giết Đức Giêsu. Họ rất ý thức về tình yêu phải dành cho Thiên Chúa, nhưng tại sao họ lại trở nên vô cảm trước tình yêu phải dành cho tha nhân? Sao-lê sau này trở thành Thánh Phao-lô, đã từng là một ví dụ điển hình về thứ quan niệm tôn giáo lệch lạc này. Đức Giêsu cũng nói tiên tri rằng: “Hơn nữa, sẽ đến giờ kẻ nào giết anh em cũng tưởng mình phụng thờ Thiên Chúa.” (Ga 16,2).
Điều sai lầm của những người Biệt phái ngày xưa có thể vẫn đang tồn tại nơi bản thân chúng ta. Vẫn có nhiều người Ki-tô hữu đang cố tách rời tình yêu đối với tha nhân ra khỏi tình yêu đối với Thiên Chúa. Sự dấn thân trong niềm tin của họ không bao hàm việc dấn thân cho những quyền lợi của tha nhân, cho sự công bằng và hòa bình.
Chúng ta hãy biết mau mắn đáp trả trước lời mời gọi của Đức Giêsu trong sứ điệp của Ngài ngày hôm nay: Tình yêu đích thực dành cho Thiên Chúa và tình yêu đích thực dành cho tha nhân là 2 mặt của một đồng tiền. Mọi cố gắng nhằm tách rời 2 điều này, sẽ làm sai lệch sứ điệp của Đức Giêsu. Thánh Gioan đã viết trong thư thứ nhất của ngài: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20).
36. Cốt lõi của Lề Luật
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Nhóm Pharisiêu liên minh với nhóm Hêrôđê gài bẫy Chúa Giêsu về vấn đề nộp thuế cho Cêsarê. Họ đã thất bại.
Nhóm Pharisiêu lại tiếp tục liên kết với nhóm Xađốc gài bẫy lần nữa: Có bảy anh em trai cùng lấy một người vợ, ngày tận thế khi sống lại, người đàn bà đó là vợ của ai trong bảy anh em?. Họ cũng thất bại.
Chưa chịu thua. Lần này, như bài Phúc Âm hôm nay thuật lại, họ chọn ra một người thông luật để tranh luận với Chúa Giêsu: Thưa Thầy, trong lề luật giới răn nào trọng nhất?. Đây là một câu hỏi hóc búa, bởi vì đạo Do thái có rất nhiều khoản luật mà luật nào cũng đều quan trọng cả. Luật Do thái có tất cả 613 điều luật khác nhau, trong đó có 365 điều luật cấm và 248 luật phải giữ. Điều răn nào quan trọng nhất? Sở dĩ họ đặt câu hỏi này với Chúa Giêsu là vì một phần vì họ không nhất trí đựơc với nhau, phần vì muốn thử Chúa Giêsu để mong đặt Người vào thế bí không thể giải quyết được.
Chúa Giêsu đã trả lời thật tuyệt vời: Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi hết lòng hết linh hồn hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và là điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn này là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.
Như thế trong 613 điều luật, Chúa Giêsu đã chọn lọc ra hai điều luật quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người từ sách Đệ Nhị Luật (Đnl 6,5) và sách Lêvi (Lv 19,18). Người liên kết hai điều đó lại: mến Chúa thì phải yêu người, yêu người thì phải mến Chúa. Cả hai điều ấy có thể tóm lại thành một điều duy nhất là yêu thương. Yêu thương là cốt lõi của tất cả mọi khoản luật khác.
Suốt cuộc đời, Chúa Giêsu đã làm chứng về sự quan trọng của hai luật đó. Người không chỉ làm chứng bằng lời giảng dạy mà còn bằng chính cuộc sống và cái chết của mình.
Yêu Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn. Lòng mến Chúa phải toàn diện, liên quan đến trái tim, linh hồn và cả khối óc của con người.Tình yêu ấy phải là động lực thúc đẩy tất cả mọi hoạt động tinh thần cũng như thể xác. Chúa Giêsu đã yêu mến Chúa Cha, luôn sống đẹp lòng Cha, luôn dành thời giờ cầu nguyện tâm sự với Cha. Chấp nhận cuộc khổ nạn và cái chết thập giá bởi lòng yêu mến Cha và yêu thương nhân loại.
Yêu người thân cận như chính mình. Điều răn này cũng quan trọng ngang với điều răn thứ nhất về lòng mến Chúa, vì lòng yêu người phát xuất từ lòng mến Chúa và cũng cần thiết như lòng mến Chúa vậy. Đọc Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu thể hiện lòng yêu mến đối với hết mọi người.
- Với người ngoại giáo Samaria, trước đây người Do thái xa lánh khinh khi, nay Chúa gần gũi trân trọng.
- Với người tội lỗi, trước đây người Do thái kết án loại trừ, nay Chúa liên kết tìm về.
- Với người thù địch, trước đây người Do thái báo oán tiêu diệt, nay Chúa cầu nguyện làm ơn.
- Với người nghèo, trước đây người Do thái dửng dưng coi thường, nay Chúa chăm sóc tôn trọng.
- Với người anh em, trước đây người Do thái vị kỷ nhỏ nhen, nay Chúa vị tha quảng đại.
Chúa Giêsu đã sống tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người thật tuyệt hảo. Người còn ban thêm điều răn mới: Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Yêu thương nhau như Thầy đã yêu. Yêu Chúa và yêu người có một động từ chung là yêu. Đối tượng của động từ yêu này có vẻ khác biệt nhưng lại không phân biệt. Hai điều răn ấy tuy hai mà một, giống như hai trang của cùng một tờ giấy, tuy hai mặt khác nhau nhưng cũng chỉ là một tờ giấy duy nhất. Yêu người là yêu Chúa và yêu Chúa là yêu người. Người Kitô hữu có đức tin sẽ nhìn thấy Thiên Chúa nơi anh chị em mà mình gặp gỡ hàng ngày, yêu Chúa nơi họ.
Hai điều răn mến Chúa, yêu người không thể tách rời nhau.Yêu Thiên Chúa chắc chắn dẫn đến yêu tha nhân.Tình yêu tha nhân cần đặt nền trên lòng yêu mến Thiên Chúa. Người Kitô hữu đi từ nhà thờ ra nơi cuộc sống rồi từ cuộc sống đi vào nhà thờ. Ngoài cuộc đời, họ gặp Chúa nơi anh em.Trong nhà thờ, họ gặp anh em nơi Chúa. Thánh Gioan đã nói: Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy (1Ga 4,20). Do đó, “Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình” (Ga 4,21).
Chủ đề Sứ điệp Truyền Giáo năm 2011 của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI là: “Hãy yêu người lân cận như chính mình” (Mt 23,39). Khi yêu thương người lân cận là chúng ta yêu thương Chúa. Yêu thương người lân cận là thước đo tình yêu của người tín hữu đối với Chúa. Sứ điệp viết: “Một trong các mục tiêu của Ngày Thế Giới Truyền Giáo là … giúp cải thiện cuộc sống cho những người đang sống trong các quốc gia nghèo khổ, đói kém, nhất là các trẻ em suy dinh dưỡng, bệnh tật, thiếu chăm sóc y tế và giáo dục là những công tác quan trọng nhất. Tất cả các công việc này đều đi kèm với sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội. Khi loan báo Tin Mừng, Giáo Hội sống gắn bó với cuộc sống con người theo nghĩa rộng nhất”.
Sứ điệp Truyền Giáo năm 2014, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi: “Niềm vui của Tin Mừng phát sinh từ việc gặp gỡ Đức Kitô và việc chia sẻ với người nghèo. Vì lý do này, tôi khuyến khích các cộng đoàn giáo xứ, các hội đoàn và các nhóm hãy sống một đời sống huynh đệ đậm đà, đặt nền trên tình yêu đối với Đức Kitô và quan tâm tới các nhu cầu của những người yếu thế nhất. Ở đâu có niềm vui, sự phấn khởi và ước muốn đem Đức Kitô đến với người khác, ở đấy sẽ phát sinh nhiều ơn gọi đích thực… loan báo Tin Mừng cho nhân loại cần dựa trên tình thương.” (Số 4 và 5).
Mẹ Têrêxa Calcutta đã sống lời Chúa Giêsu dạy: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,34). Mẹ Têrêxa đã thực thi lời Thánh Phaolô: ”Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái, vì ai yêu người thì đã chu toàn lề luật. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy”(Rm 13,8-10).
Mẹ Têrêxa đã sống điều răn yêu thương cách trọn vẹn. Mẹ nhìn thấy Chúa trong những người phong cùi. Mẹ gặp Chúa nơi những người bần cùng khốn khổ. Mẹ yêu Chúa trong những con người bất hạnh. Mẹ tận tình chăm sóc họ. Mẹ dạy các nữ tu: "Con thấy linh mục nâng niu trân trọng Mình Thánh Chúa trong thánh lễ ra sao thì con hãy làm như thế đối với người cùng khổ."
Mẹ Têrêxa yêu mến Chúa hịện diện trong những người nghèo khổ. Mẹ đã yêu Thiên Chúa trong con người. Tông huấn Giáo hội tại Á châu dạy: “ Việc công bình, bác ái và thương xót phải gắn bó mật thiết với đời sống cầu nguyện và chiêm niệm đích thực, và thật vậy, chính cũng một tu đức này là nguồn suối của mọi công trình rao giảng Tin mừng của chúng ta”. Mẹ Têrêxa là nhà truyền giáo “chiêm niệm trong hành động”.
Linh đạo truyền giáo của Mẹ Têrêxa chính là cầu nguyện và yêu thương. Nét đặc sắc của cuộc đời truyền giáo Mẹ Têrêxa là niềm vui nội tâm phát xuất từ đức tin thể hiện qua đời sống yêu thương phục vụ. Mẹ được Giáo hội phong Chân Phước. Mẹ là một vị thánh của thời đại. Mẹ được người đời xem là vĩ nhân. Mẹ được mọi người trên thế giới này yêu mến, cả những người Hồi giáo, Ấn giáo, Cộng sản…
Truyền giáo là nói về Chúa Giêsu cho người khác nghe; sống như Chúa Giêsu cho người khác thấy. Truyền giáo là giới thiệu Chúa Giêsu Kitô cho mọi người bằng chính cuộc sống phục vụ và yêu thương của chúng ta.
Truyền giáo là nói về Chúa Giêsu cho mọi người biết bằng chính cuộc sống yêu thương của mình. Truyền giáo khởi sự bằng cuộc sống và con tim. Cuộc sống và con tim đòi hỏi các môn đệ Chúa Kitô sống có tấm lòng “yêu người lân cận như chính mình”.
Sống linh đạo truyền giáo của Mẹ Têrêxa là yêu mến Thiên Chúa trong con người, chúng ta sẽ giới thiệu cho tha nhân Đạo Chúa là “Đạo những người yêu nhau”, một Đạo rất đẹp, rất bác ái.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho nhân loại hai giới răn quan trọng nhất là yêu Chúa và yêu người.
Xin dạy chúng con biết sống tâm tình biết ơn về những hồng ân Chúa ban, xin cho chúng con biết yêu mến và phụng sự Chúa trong mọi người. Xin dạy chúng con nhận ra hình ảnh Chúa nơi anh em để chúng con yêu Chúa và yêu người với tâm hồn bác ái rộng mở. Amen.
37. Mến Chúa và yêu người
Nhóm Sađốc chất vấn Chúa về sự sống lại đã bị Chúa bẻ gẫy không dám hỏi nữa. Nghe vậy bọn biệt phái muốn tấn công lại, cho nên một nhà thông luật đã đưa ra vấn đề để thử Chúa: Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất. Luật Do Thái gồm cả thảy 613 điều được chia thành 248 điều phải làm và 365 điều phải tránh. Đồng thời có những điều nặng và những điều nhẹ. Phạm những điều nhẹ thì chịu phạt đền tội, còn phạm những điều nặng, có thể bị án tử hình. Các nhà thông luật thường tranh luận với nhau xem điều luật nào quan trọng nhất.
Trước vấn nạn được đưa ra, Chúa Giêsu đã trả lời một cách rõ ràng và xác đáng: Ngươi hãy kính mến Chúa hết lòng. Đó là giới răn quan trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là yãy yêu thương anh em như chính mình. Chúa đem điều luật yêu người đặt ngang hàng với luật mến Chúa, đó là điểm đặc sắc trong những lời giảng của Người.
Lời xác quyết của Chúa thật minh bạch. Đi theo chiều hướng ấy, các tông đồ cũng nhấn mạnh, chẳng hạn thánh Gioan đã viết: Thiên Chúa là tình yêu. Ai ở trong tình yêu là ở trong Thiên Chúa. Rồi thánh Phaolô cũng căn dặn: Anh em hãy mặc lấy đức ái, đó là giềng mối của sự trọn lành. Như vậy mến Chúa hết lòng và yêu anh em như chính mình, đó là đỉnh cao của sự thánh thiện và đó cũng là việc chúng ta cần thực hiện trong cuộc sống trần gian.
Nên thánh không phải là làm phép lạ, vì có vị thánh suốt đời chẳng làm một phép lạ nào cả. Nên thánh cũng không phải là không phạm tội bao giờ, vì có nhiều vị thánh đã sa ngã nặng nề như thánh Phaolô, thánh Augustinô. Nên thánh cũng không phải chỉ là ăn chay đánh tội, thức khuya dậy sớm, làm mòn mỏi thân xác. Thực hiện được những hy sinh to lớn ấy là điều đáng khen, đáng ca ngợi, nhưng không phải là điều cốt yếu của sự thánh thiện. Nên thánh cũng không hệ tại việc đọc kinh dài, xem lễ rước lễ hằng ngày và cầu nguyện lâu giờ. Những việc đạo đức này thật tốt, song chỉ là những phương tiện giúp chúng ta nên thánh chứ không phải là bản chất của sự thánh thiện.
Vì thế, sự thánh thiện cốt tại lòng mến Chúa và yêu người. Bất kỳ những gì, dù nhỏ bé, kín đáo, tầm thường đến đâu, song được làm vì lòng mến Chúa và yêu người, thì nó sẽ trở nên thánh thiện cho chúng ta. Bởi vậy, thánh Augustinô đã nói: Ama et fac quod vis, hãy yêu mến rồi làm gì cũng được.
Rất tiếc có những người đã uổng công xây căn nhà đạo đức thánh thiện của mình không đúng cách vì không có được lòng mến Chúa yêu người làm nền tảng, cho nên không bao lâu chiếc mặt nạ đạo đức bị rớt xuống, và họ chỉ là những kẻ giả hình, gian dối mà thôi. Chúa không kể thời gian lâu mau. Chúa không xét việc làm to nhỏ. Chúa không coi việc làm vất vả hay nhẹ nhàng, nhưng Chúa đo mọi hành vi chúng ta làm bằng tình yêu, Người dùng mức độ tình yêu để đánh giá và ấn định công trạng đời sống chúng ta. Bởi đó, yêu nhiều là làm nhiều, và làm nên công nghiệp của mình trước mặt Thiên Chúa.
38. Giới luật trọng đại - Lm. Minh Vận, CRM
Những người thuộc đảng Herođê gài bẫy Chúa về việc nộp thuế; những người thuộc phái Sadoc chất vấn Chúa về sự sống lại, đều bị thất bại; hôm nay nhóm Pharisiêu, là những kẻ tự hào là những thầy thông luật, lại dùng luật để đặt vấn đề với Chúa và hy vọng sẽ thắng được Ngài; nhưng rồi chúng ta thấy khi đọc tiếp đoạn Tin Mừng này, là tất cả đều phải câm miệng trước sự khôn ngoan và tài đối đáp của Ngài; khiến bọn họ phải kinh sợ hơn nữa khi thấy Ngài thấu suốt tâm tư và vạch trần những âm mưu của họ.
I. GIỚI LUẬT TRỌNG ĐẠI NHẤT
Như chúng ta được biết, trong thời Chúa Kitô sống tại Palestine, bộ luật của Maisen mà người Do Thái phải tuân giữ gồm có 613 khoản: 365 khoản cấm không được làm và 248 khoản buộc phải làm.
Nhóm Biệt Phái và Pharisiêu sau khi bàn bạc kỹ lưỡng, họ sai một luật sĩ thượng thặng trong bọn, đến hỏi thử Chúa: "Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?" Chúa trả lời: "Ngươi hãy kính mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất". Rồi Chúa lại nói tiếp: "Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Người hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi". Sau cùng, Chúa đã quả quyết: "Toàn thể lề luật và các lời tiên tri đều gồm tóm trong hai giới răn đó". Cũng như chúng ta đọc trong kinh 10 Điều Răn: "Mười điều răn ấy tóm về 2 điều này mà chớ, trước kính mến một Đức Chúa Trời trên hết mọi sự, sau lại yêu người như mình ta vậy. Amen".
Tại sao Chúa lại nhấn mạnh đến giới răn thứ hai cũng giống như giới răn thứ nhất, là vì Chúa thừa biết họ là những người tự hào, huyênh hoang công phúc việc lành họ đã làm, để chứng minh họ là những kẻ phụng sự yêu mến Thiên Chúa; nhưng họ lại sống ngược với tinh thần của Chúa, như chúng ta vừa nghe lời Chúa truyền trong sách Xuất Hành: "Không được ức hiếp khách ngoại kiều, khinh dể và làm hại cô nhi quả phụ; đặt lời ăn lãi quá mức với kẻ túng nghèo thiếu thốn!"
II. BÁC ÁI LÀ THƯỚC ĐO LÒNG MẾN CHÚA
Thấu hiểu giáo huấn của Chúa, các nhà tu đức đã quả quyết rất đúng rằng: "Bác ái huynh đệ là thước đo lòng kính mến Chúa". Thánh Gioan đã chẳng quả quyết: "Những ai cho mình là kẻ kính mến Thiên Chúa, mà lại thù ghét anh chị em mình, đó chỉ là những kẻ nói dối". Vì ngài lý luận: "Không yêu thương anh chị em mình là những kẻ mình xem thấy, mà lại nói là kính mến Thiên Chúa, Đấng mình không xem thấy sao được?"
Chính Chúa Kitô cũng đã xác nhận giáo thuyết này khi Ngài quả quyết: "Bao lâu các con làm những việc thiện này cho một trong những người anh chị em hèn mọn này là các con làm cho chính Ta". Chúa lại hứa trọng thưởng trong ngày chung thẳm, cho những ai thương giúp tha nhân, cũng như họ đã thương giúp chính Chúa.
Trong cuốn John Brown's Body, tác giả Stephen Benet thuật truyện một Đại Úy của chiếc tầu chuyên chợ nô lệ. Stephen viết: "Đại Úy có vẻ sốt sắng và đạo đức. Ông đọc kinh mỗi ngày, nhưng ông lại không quan tâm gì về việc bán người nô lệ là một việc bất công". Nếu có dịp giao tiếp tại nhiều cộng đoàn hay Giáo Xứ, chúng ta sẽ thấy có rất nhiều người có vẻ rất sốt sắng, đạo đức còn hơn cả ông Đại Úy thuyền trưởng chuyên buôn bán người nô lệ chúng ta vừa nghe: Họ đọc kinh như pháo rang, không bỏ Thánh Lễ nào, có ngày Chúa Nhật dự cả 2, 3 lễ, các giờ chầu, các cuộc cung nghinh hay bất cứ một việc đạo đức nào không bao giờ thấy họ vắng mặt. Thế nhưng, ai lỡ làm điều gì phật lòng họ thì họ không thể tha thứ được, họ hờn giận từ năm này sang năm kia; ngay cả con cái trong nhà, họ cũng nguyền rủa, chửi bới và từ rẫy. Hễ thấy một chướng tái gai mắt nào, chẳng hạn thấy một cô, một cậu nào có vẻ cao bồi, áo quần "new way", tóc tai bù xù, là họ đã kết tội là: "Đồ mất dạy, đồ quỉ sứ, thế mà chúng nó còn dám lên rước Chúa à!"
III. MỘT TẤM GƯƠNG BÁC ÁI CAO CẢ
Maria Goretti sinh năm 1890 và chết vì bảo vệ đức trinh khiết năm lên 12 tuổi. Goretti là con thứ ba trong gia đình 7 anh chị em. Vì bố chết sớm, mẹ phải đi làm thuê để nuôi các con, Goretti mặc dầu mới lên 9 tuổi, đã phải săn sóc các em và dọn dẹp nhà cửa thay mẹ. Khi lên 11 tuổi, Goretti được chịu lễ lần đầu. Liền sau đó, Goretti phải trải qua một cơn thử thách vô cùng nặng nề về đức trinh khiết. Alexandro, một thanh niên hàng xóm, say mê sắc đẹp của Goretti và ép Goretti phạm tội. Vì Goretti yêu mến Chúa hết lòng, nên đã chống lại Alexandro và nói với y: "Không được làm thế, vì đó là tội trọng mất lòng Chúa". Alexandro nổi giận và đâm Goretti nhiều nhát dao khiến Goretti phải quần quoại trong vững máu. Goretti được cấp tốc đưa vào bệnh viện cấp cứu, và sau 24 giờ, Goretti đã từ trần trong hương thơm thánh thiện. Khi Goretti gần chết, Linh Mục đưa Mình Thánh Chúa đến cho em lãnh nhận như của Ăn Đàng. Ngài hỏi em cũng cùng một lời mẹ em đã hỏi trước: "Goretti, con có tha cho Alexandro, kẻ thù của con như Chúa đã tha thứ cho kẻ thù của Chúa trên Thánh Giá không?" Goretti thưa: "Thưa Cha, con đã tha cho Alexandro và con hứa sẽ cầu nguyện cho Alexandro được ơn ăn năn thống hối". Alexandro bị vào tù. Rồi sai khi tỏ dấu hối cải, anh đã được tha. Anh còn được một ơn cao cả hơn nữa, là anh đã xin vào giúp việc trong tu viện Dòng các Cha Capuscim cho đến chết. Đó là ơn mà Goretti, vị Thánh đã được Đức Thánh Cha Pio XII tôn phong lên Bậc Hiển Thánh của Giáo Hội năm 1950 cầu bầu cho.
Kết Luận
Chớ gì chúng ta không coi ai là kẻ thù, trái lại còn biết nhận thấy Chúa ở nơi tha nhân. Nếu tha nhân làm mích lòng chúng ta, chúng ta nhận ra đó là những phương tiện Chúa dùng để có dịp cho chúng ta lập công. Không những thế, chúng ta còn cầu nguyện, giúp đỡ, đoán ý lành, tha thứ và làm ơn cho những kẻ làm phiền lòng chúng ta theo gương Chúa, Đức Mẹ và các Thánh đã từng thương yêu và tha thứ cho những kẻ thù ghét làm khốn mình nữa.
Hơn nữa, chúng ta còn có nhiệm vụ rao giảng Đức Bác Ái thương yêu của Chúa cho kẻ khác, để chinh phục họ về cho Chúa bằng chính đời sống Bác Ái yêu thương của chúng ta, đúng như lời Chúa đã truyền dạy: "Các con hãy làm việc thiện để người ta thấy việc các con làm mà ngợi khen Cha chúng con trên trời" (Mt 5:16).
39. Mến Chúa và yêu người
(Suy niệm của Lm. VIKINI – Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Mẹ Têrêxa Calcutta kể: "Hôm ấy, một người lạ mặt đến nhà dòng, ông thấy một Sơ vừa đem về một người hấp hối, nằm bên ống cống, mình đầy giòi bọ rất hôi thối. Thế mà, Sơ rất nương nhẹ nhặt từng con bọ với vẻ mặt vui tươi, thanh thản đầy thương mến... Rồi người lạ đến gặp tôi nói: Thưa mẹ, khi con đến đây với lòng đầy căm hờn của một người vô tín ngưỡng. Nhưng bây giờ con ra về với một tâm hồn hoàn toàn đổi mới. Con bắt đầu tin Chúa, bởi vì con đã chứng kiến tình yêu của Chúa được diễn tả một cách cụ thể qua hành động và qua cách Sơ ấy đã đối xử với người hấp hối bẩn thỉu kia. Bây giờ con tin thật Chúa là tình yêu. Không có tình yêu Chúa trong tâm hồn, không thể nào có đủ nghị lực để yêu tha nhân được".
Thực vậy, không mến Chúa, không thể yêu người vô vị lợi được. Vì thế Chúa Giêsu đã nhấn mạnh cho mọi người nhận biết hai giới răn quan trọng nhất là: " Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn ngươi... và điều thứ hai giống điều răn ấy: ngươi phải yêu người đồng loại như chính mình".
Lời tuyên bố đó, chấm dứt sự tranh luận của các phe phái Do thái về luật nào quan trọng nhất, giống như lời của bậc thầy chấm dứt cuộc tranh cãi của các học trò.
Tuy nhiên Chúa Giêsu không nói rõ lý do tại sao phải mến Chúa trên hết và thương người như chính mình. Thực ra lý do đã nằm sẵn trong lời tuyên bố của Chúa rồi.
Trước nhất tại sao phải mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn, thánh Marcô còn thêm: hết sức, vì tất cả sức lực thể xác, lòng muốn, trí khôn, linh hồn đều là của Thiên Chúa ban. Tất cả những khả năng ấy được có, được sinh hoạt, được phát triển và thăng tiến đều do bàn tay Chúa. Nếu chúng biết nhận ra Thiên Chúa là chủ của chúng, để nương tựa vào chủ, hướng về chủ, hoạt động theo chủ, thì chúng sẽ được chủ quý chuộng, tô điểm xinh đẹp và cho chúng sống muôn đời. Khi hoàn thành bức điêu khắc tượng Môisê, một kiệt tác thể hiện được hết tinh thần sống động của mình đến nỗi thiên tài Michel-Ange đã hét lớn vào tai tượng: Hãy nói đi. Thiên Chúa cũng đang hét lớn vào lòng trí, linh hồn của mỗi người chúng ta: Hãy yêu mến đi để ngươi nên giống Ta! Vì Ngài đã dựng nên ta, kiệt tác hơn muôn loài trong vũ trụ. Nhận biết mình được Thiên Chúa dựng nên lạ lùng như thế, Salomon đã cầu nguyện thế này: "Lạy Chúa, con sinh ra cốt cách tinh anh, được một hồn lương hảo, tốt lành, được vào một thân xác không tì ố, nhưng Thiên Chúa không ban, con không thể có được khôn ngoan... nên con thưa với Chúa và cầu xin Người hết lòng con" (Kn. 8, 19-21). "Như vậy, lạy Chúa, những đứa con mà Ngài yêu mến sẽ học biết rằng không phải các thứ hoa quả nuôi sống con người. Nhưng là lời Người bảo tồn những ai tin cậy vào Người" (Kn. 16, 26).
Thứ đến, tại sao phải yêu đồng loại như chính mình? Thưa vì đồng loại là những người có ruột thịt, máu mủ giống mình, là những người gần gũi mình, sống chung với mình, cùng loại với mình, cùng bản chất tinh thần và thân xác như mình. Cho nên, đã cùng loại với mình thì dù đó là người Samari hay Israel, Hy Lạp hay Do Thái, nô lệ hay tự do, chủ hay thợ, người sang hay hèn, mình phải yêu họ như chính mình. Tại sao khi thấy họ bị đánh nhừ tử nửa sống nửa chết lại bỏ tránh đi? Tại sao không biết lấy dầu, lấy rượu xoa bóp băng bó vết thương cho họ như người Samari nhân hậu. Chỉ những ai như người Samari biết thương xót người, thấy người khổ như mình khổ, cứu người đau như mình đau, mới được Chúa Giêsu đánh giá là yêu người như chính mình. Từ trên núi Sinai, Chúa đã truyền cho dân Israel phải thương mến giúp đỡ những người bị khinh bỉ, như mẹ góa con côi, những người nghèo đói, ngoại kiều, thì mới thật sự xứng đáng là dân riêng của Chúa (Bài đọc I - Xh. 22, 21-22)
Biết được những lý do tại sao phải mến Chúa và yêu người, ta còn phải biết mến Chúa và yêu người đến mức độ nào, mới thật là mến Chúa yêu người.
Mức độ Chúa Giêsu kêu gọi là: hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Đó là mức độ mến Chúa, còn yêu người đến mức độ như yêu chính mình. Nói khác đi, mến Chúa và yêu người phải tới độ tuyệt đối. Sau đây chúng ta thử xét xem lòng mến Chúa và yêu người của chúng ta đến mức độ nào?
Phần đông mến Chúa bằng làm những việc đạo như giữ mười điều răn, đi lễ Chủ nhật, xưng tội, rước lễ v.v... ở mức độ sợ tội, sợ mất linh hồn, sa hỏa ngục, nên chỉ cố gắng tránh những tội nặng, còn chửi tục, chửi nhau, bỏ học lời Chúa, bỏ lễ thường, lỗi bổn phận hàng ngày, phạm tội nhẹ như uống nước. Họ giống như đứa con sợ bố đánh mới nghe lời. Khi khuất mặt bố, nó không sợ nữa, nó đánh nhau, phá phách nghịch quấy, trộm vụng bất kể. Người mến Chúa chỉ lo sợ phạt chết đời đời cũng vậy. Họ chỉ yêu ai thân mình, chào kẻ chào mình, làm ơn cho kẻ làm ơn cho mình " thì anh em còn được công chi?" (Mt. 5, 46).
Đó là hạng người mến Chúa yêu người vì lợi cho mình. Họ là những kẻ ích kỷ.
Một số mến Chúa vì thấy Chúa tốt lành, nhận ra những công ơn vô cùng của Chúa ban, nên họ cố gắng đền đáp; nhận ra lời Chúa là lời hằng sống, chân thật, thánh thiện, nên họ cố gắng thực thi. Họ như đứa con hiếu thảo thấy công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra vô tận, nên lo sống xứng đáng đẹp lòng cha mẹ. Vì thế họ cũng cố gắng noi gương nhân hậu của Chúa phần nào đó. Họ là những người tốt lành, cũng biết làm ơn giúp đỡ người khác, hy sinh chịu đựng tha thứ kẻ làm khổ mình. Lúc bình thường họ giống như các môn đệ Chúa, rất chịu khó đi công tác, làm việc tông đồ. Khi gặp thử thách nguy khốn như lúc Thầy bị bắt... thì bỏ trốn. Họ trốn tránh những việc khó khăn, gian lao, nguy hiểm. Họ mến Chúa và yêu người ở mức bình thường.
Một số rất ít họ là những người lành mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn nghĩa là mến Chúa trọn vẹn, sẵn sàng hy sinh mọi sự, kể cả mạng sống mình vì mến Chúa. Ở mức độ mến Chúa tuyệt vời này, họ thương yêu hết mọi người dù xa lạ, dù hèn mọn, dù là kẻ thù, họ thấy tất cả là chi thể của Đức Kitô, lúc sáng láng trên núi Tabo cũng như lúc ô nhục khốn cùng trên núi Sọ. Chỉ có các thánh đã mến Chúa và thương người được thế thôi, như thánh Phaolô nói: " Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo? như có lời chép: chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết. Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng, nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta" (Rm. 8, 35-37).
Lạy Chúa Giêsu, xin thêm lòng mến cho con. Xin đốt lửa kính mến Chúa và yêu người trong trái tim con.
40. Chúa là Thiên Chúa…
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, về nội dung, có thể nói làm sáng tỏ ý nghĩa của bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước. Đó là lý do, Giáo Hội không chọn đọc đoạn Phúc Âm tiếp ngay sau bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước về vấn đề kẻ chết sống lại để trả lời cho nhóm Sađucê, một vấn đề không trực tiếp liên quan đến ý nghĩa sâu xa của bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước và Chúa Nhật tuần này. Thật vậy, trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước Chúa Giêsu đã lợi dụng vấn đề “trả thuế cho Cêsa có hợp lý hay chăng?”, do nhóm đồ đề của phái Pharisiêu đặt ra để gài bẫy lời nói của Người, để kêu gọi chung tất cả mọi người và riêng thành phần chất vấn Người rằng: “Hãy trả cho Cêsa những gì của Cêsa và hãy trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”. Qua câu trả lời làm cho mọi người ngỡ ngàng này, Chúa Giêsu chẳng những đã kêu gọi riêng thành phần chất vấn Người và chung dân tộc Do Thái của họ là hãy vì Chúa mà nộp thuế cho Cêsa, tức hãy hàng phục Cêsa là nhân vật Thiên Chúa duy nhất của họ đã muốn dùng để kéo họ về với Ngài, vì thực tế họ đã không “trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa”, những gì Thiên Chúa muốn chứ không phải những gì họ nghĩ ra, những gì theo ý riêng của họ. Trong bài suy niệm Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước tôi đã chia sẻ vấn đề dân Do Thái này như sau:
“Thật vậy, vấn đề Chúa Giêsu trả lời cho vấn nạn có âm mưu của nhóm người Pharisiêu trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, nếu để ý, sẽ thấy có liên hệ đến ba dụ ngôn Người đã nói với thành phần lãnh đạo dân Do Thái trong Phúc Âm ba tuần trước. Ở chỗ, thành phần lãnh đạo Do Thái nói chung, trong đó có những người thuộc nhóm Pharisiêu, như Nicôđêmô chẳng hạn (x Jn 3:1), đã là người con chỉ làm theo ý mình, ‘vâng con đi’, mà thực tế không làm theo ý cha, tức họ đã không ‘trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa’; hay họ đã là bọn tá điền làm vườn nho cho chủ nhưng không sinh hoa lợi cho chủ như ý chủ muốn, lại còn sát hại các thừa sai của chủ, kể cả người con trai duy nhất của chủ, tức họ đã thực sự không ‘trả về cho Thiên Chúa nhưng gì của Thiên Chúa’; hoặc họ đã là những người được chính thức mời đến dự tiệc cưới của vua, song đã từ chối không chịu đến dự, thậm chí còn ra tay sát hại những đầy tớ của vua sai đi mời họ, tức là họ cũng đã không chịu ‘trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa’”.
Vậy, qua bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, Chúa Giêsu đã vạch rõ lý do tại sao họ đã không “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”, và đã xác định rõ cho chung con người, nhất là cho riêng dân Do Thái, biết những gì họ cần phải “trả về cho Thiên Chúa”, và họ phải “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa” bằng cách nào. Vấn đề của bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, qua câu trả lời của Chúa Giêsu cho nhóm Pharisiêu thông luật, đó là vấn đề kính mến Thiên Chúa hết bản thân mình và yêu thương nhau như bản thân mình, một vấn đề cốt lõi của tất cả lề luật và các lời tiên tri, như lời Chúa Giêsu khẳng định ở cuối bài Phúc Âm. Vậy nếu thành phần Pharisiêu nói riêng và dân Do Thái nói chung lại hết sức để ý đến lề luật và cặn kẽ tuân giữ từng điều luật của Thiên Chúa thì họ phải là những người đã kính mến Thiên Chúa hết bản thân của họ cũng như đã yêu thương tha nhân như bản thân của họ? Thế mà, theo Chúa Giêsu, Đấng thấu suốt lòng trí con người, họ chỉ là những kẻ tôn thờ Thiên Chúa bằng môi bằng miệng, còn lòng họ hoàn toàn xa cách Ngài (xem Mathêu 15:8), đúng như người con thưa với cha “vâng con đi” rồi lại không đi trong dụ ngôn cha kêu gọi hai con trai đi làm vườn nho cho ông. Điều Thiên Chúa muốn họ trả về cho Ngài đây không phải là môi miệng của họ, mà là tấm lòng của họ, không phải là việc làm bề ngoài của họ mà là lòng họ tin tưởng nhận biết Ngài, ở chỗ kính mến Ngài “hết lòng muốn, hết linh hồn, hết trí khôn”. Đó là lý do, trong bài đọc thứ hai Chúa Nhật tuần này, Thánh Phaolô đã nói đến việc “bỏ những ngẫu tượng mà quay về cùng Thiên Chúa, để phụng sự Ngài là Thiên Chúa hằng sống chân thật…”
Và chính vì họ không thực lòng kính mến “Chúa là Thiên Chúa” của họ như thế mà họ chẳng những đã không thể “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”, mà còn không thể “trả về cho Cêsa những gì của Cêsa” nữa. Tức là họ như tông đồ Phêrô nhìn tất cả mọi sự theo tự nhiên, theo phán đoán trần gian chứ không theo Thần Linh (xem Mathêu 16:23), và họ như tông đồ Gioan phản ứng hoàn toàn theo tự nhiên, những gì không hợp với họ (như đế quốc Rôma chẳng hạn) đều là kẻ thù của họ, cần phải loại trừ (xem Marco 9:38). Chẳng những thế, vì chỉ tìm mình hơn tìm Chúa, không “trả về cho Thiên Chúa” đúng như những gì của Thiên Chúa và như Thiên Chúa muốn, nên họ cũng đã không “trả về cho Cêsa những gì của Cêsa”, tức cho tha nhân những gì của tha nhân, trái lại, họ đã khinh thường, hà hiếp, bóc lột chính anh em mình, như trường hợp người Pharisiêu lên đền thờ cầu nguyện bộc phát đối với người thu thuế ở cuối đền thờ bấy giờ (xem Luca 18:11), những hành động được Sách Xuất Hành trong bài đọc thứ hai của Chúa Nhật tuần này liệt kê cấm không được làm. Có thể nói, nếu con người biết “trả về cho Cêsa những gì của Cêsa” là họ đồng thời cũng “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”. Hay nói cách khác, một khi họ yêu thương tha nhân như bản thân mình là chứng tỏ họ đã “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”, đã tỏ ra “yêu Chúa là Thiên Chúa hết lòng muốn, hết linh hồn và hết trí khôn” của họ.
Như thế, con người phải “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa” là chính tấm lòng của mình, và trả về cho Ngài bằng cách “yêu thương tha nhân như bản thân mình”. Thế nhưng, chỉ khi nào con người biết “kính mến Chúa là Thiên Chúa của mình hết lòng muốn, hết linh hồn và hết trí khôn” con người mới có thể vừa “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa” vừa “trả về cho Cêsa những gì của Cêsa” mà thôi. Thế nhưng, vấn đề ở đây là tại sao con người phải “trả về cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”? Hay tại sao con người phải “kính mến Chúa là Thiên Chúa của mình hết lòng muốn, hết linh hồm và hết trí khôn”? Nếu không phải tại vì “Chúa là Thiên Chúa”!
Đúng thế, theo tiến trình Mạc Khải Thần Linh trong Lịch Sử Cứu Độ của dân Do Thái thì vị “Thiên Chúa là Thần Linh” (Jn 4:24), “là Đấng vô hình” (Col 1:15), đã tự ý tỏ mình ra trong lịch sử loài người, cách riêng cho một dân tộc được Ngài tuyển chọn là dân Do Thái. Bằng cách đã tự động lập giao ước với tổ phụ của họ là Abraham và đã giữ trọn những gì Ngài đã hứa với con cháu của ông (xem Luca 1:55), một giao ước và lời hứa đã được nên trọn nơi Đức Kitô Thiên Sai Con Ngài (xem Heb 1:2), Người Con Ngài đã làm đám cưới cho, như dụ ngôn của bài Phúc Âm hai tuần trước. Phải, Người Con này “đã hóa thành nhục thể” (Jn 1:14), đã nên một với loài người, đã cưới lấy nhân tính loài người, như vợ chồng nên một thân thể với nhau, nhờ đó hết mọi người không trừ ai, kể cả Do Thái lẫn Dân Ngoại, đã được mời đến tham dự bữa Tiệc Cưới Thần Linh ấy, một Tiệc Cưới mà thực phẩm Tân Ước tuyệt hảo được thiết đãi nhưng không là chính Mình Máu của Con Thiên Chúa, làm cho khách dự tiệc “được sự sống và là một sự sống viên mãn hơn” (Jn 10:10). Chính vì Thiên Chúa đã yêu nhân loại chúng ta trước một cách nhưng không và vô cùng như vậy mà chúng ta phải kính mến Ngài (xem 1Jn 4:19), bằng chính tình Ngài yêu thương chúng ta. Vì “Chúa là Thiên Chúa” đã yêu thương chúng ta vô cùng bằng chính con tim nhân loại của Con Ngài, thì chúng ta cũng chỉ có thể trả lại cho vị “Thiên Chúa là tình yêu” (1Jn 4:8,16) toàn thiện toàn ái này một cách cân xứng bằng con tim nhân loại của Đấng đã dạy chung Giáo Hội Nhiệm Thể của Người cũng như riêng thành phần môn đệ của Người rằng “Các con hãy yêu nhau như Thày đã yêu các con” (Jn 13:34;15:12).
41. Trò chơi hòa bình
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Ngày kia, ông Macsa, một nhà văn người Nga, đi ngang qua một sân chơi, ông dừng lại quan sát một đám trẻ em trạc tuổi lên 6 lên 7 đang chơi với nhau. Thấy chúng chơi trò gì là lạ, ông cất tiếng hỏi:
- Này các cháu, các cháu đang chơi trò gì thế?
Đám trẻ nhốn nháo trả lời:
- Chúng cháu chơi trò đánh nhau.
Nghe thế ông Macsa hơi cau mày, rồi gọi các em đến, ông ôn tồn giải thích:
- Tại sao các cháu chỉ chơi trò đánh nhau mãi. Các cháu biết chứ, đánh nhau hay chiến tranh có gì là đẹp đâu. Các cháu hãy chơi trò hòa bình xem nào.
Ông vừa dứt lời, một em bé reo lên:
- Phải rồi, tụi mình thử chơi trò hòa bình một lần xem sao.
Thế là cả bọn kéo nhau ra sân, chụm đầu vào nhau bàn tán. Thấy chúng chấp nhận ý kiến của mình, nhà văn hài lòng mỉm cười tiếp tục đi. Nhưng chưa được mấy bước ông nghe có tiếng chân chạy theo. Và chưa kịp quay lại, ông đã nghe giọng của một em bé hỏi:
- Ông ơi, trò chơi hòa bình làm sao? Chúng cháu không biết.
Thưa anh chị em, làm sao trẻ em biết chơi trò hòa bình, khi người lớn cứ chơi trò chiến tranh? Làm sao trẻ em biết chơi hòa bình, khi trong nhà, cha mẹ, anh chị lớn bất hòa, cãi cọ… khi ngoài xóm ngõ người lớn chửi bới, đánh nhau…? Làm sao trẻ em biết chơi trò hòa bình, khi chúng vẫn thấy trên Tivi, báo chí, những cảnh chiến tranh khốc liệt, khủng bố và chém giết dã man?
Dường như thế giới ngày nay chỉ muốn giải quyết những tranh chấp, những xung đột lan tràn bằng bạo động, bằng vũ khí giết người. Mặc dù thế giới đang có trong tay sức mạnh vạn năng của tình yêu, nhưng chỉ một ít người biết sử dụng:
- Mục sư Luther King, người da đen, đã sử dụng khí giới của tình yêu. Ông đã ngã gục, nhưng hàng triệu người da đen đã được đưng lên làm người như những người da trắng.
- Đức Giám Mục Đêmông Tutu, người Nam Phi, cũng đã đi theo vết chân của Ganđi và Luther King.
- Mẹ Têrêsa thành Calcutta cũng đang dùng khí giới của tình yêu để những người không nhà không cửa, những người hấp dẫn hối đầu đường xó chợ được sống và chết như những con người.
Tất cả những tấm gương đó trên đây chỉ là phản bội của một Tình Yêu trọn vẹn hơn. Đó là tình yêu của Đấng đã chịu chết cho người mình yêu. Chính Ngài đã dạy chúng ta điều luật của trò chơi hòa bình. Đó là tình yêu: Yêu Chúa và yêu người. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đáp lại vấn nạn của nhà thông luật Pharisêu về điều luật trọng nhất, bằng cách ghép lại hai điều luật của tình yêu: “Yêu Chúa với tất cả trái tim (Đnl 6,5) và yêu người như yêu mình” (Lv 19,18). Chúa Giêsu đã không đưa ra một điều gì mới mẻ. Nhưng cái độc đáo của Ngài đã cho thấy đâu là cái cốt yếu, cái quan trọng nhất của Luật Môsê: yêu Chúa hết lòng và yêu người như chính mình, cả hai điều luật đều có tầm quan trọng như nhau. Như thế, Ngài đã giải phóng con người khỏi một khối lượng lớn các điều răn (613 điều: 365 điều cấm làm, 248 điều phải làm), để rồi tập trung vào việc tuân giữ hai điều luật chủ yếu: Mến Chúa- Yêu người. Giữ được hai điều luật ấy là chu toàn tất cả pháp luật. Yêu người là thước đo lòng yêu mến Chúa. “Ai không yêu người anh em mình thấy trước mắt, tất cả cũng không thể yêu mến Thiên Chúa mà mắt mình không thấy được” (1Ga 4,20).
Thế nhưng, trong thực tế hằng ngày, có lẽ chúng ta thường quen tách rời Thiên Chúa ra khỏi yêu người; coi như hai điều luật hoàn toàn không liên hệ gì với nhau. Do đó, chúng ta có thái độ mâu thuẫn rõ rệt: làm việc gọi là đạo đức để yêu mến Chúa, nhưng đồng thời cũng làm những việc ám hại tha nhân để trục lợi hoặc ít ra cũng dửng dưng với những nhu cầu cấp bách của người khác. Chúng ta chỉ chú trọng đến việc gọi là mến Chúa mà không tha thiết gì đến việc thương người. Có khi chỉ mến Chúa yêu người vì có thể trục lợi được, chứ không phải vì đó là ý Chúa muốn, là bổn phận của con cái Chúa và vì là anh em với nhau. Mến Chúa bằng cách yêu tha nhân, yêu tha nhân là cách thế tỏ lòng yêu mến Chúa, đó là đều chúng ta phải qua tâm và áp dụng thực hành.
Tuy nhiên, chúng ta đừng quên: “Tình yêu tha nhân phải được nền trên tình yêu Thiên Chúa. Khi trái tim tôi thuộc trọn về Thiên Chúa thì ngay lúc ấy nó cũng thuộc trọn về tha nhân. Người ta chỉ có khả năng yêu tha nhân đến vô cùng khi được tình yêu Chúa chiếm hữu” (Rm 5,5). Trong Chúa, tôi bắt gặp tha nhân là anh em tôi. Trong Chúa, tôi cảm nhận được phẩm giá đích thực và trọn vẹn của một con người, dù đó là một người bệnh tật hay già yếu, một phạm nhân, một người mất trí, một thai nhi còn trong bụng mẹ, một thiếu nữ lầm lỡ, một người mắc bệnh Sida… Trong Chúa, tôi yêu mến họ và nhận ra chính khuôn mặt của Chúa Giêsu đang đau khổ, đói khát, trần trụi, yếu đau, ở tù, cô thế cô thân… (x.Mt 25,35-36).
Tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa thì đưa tôi về với anh em. Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên Chúa, nguồn mạch tình yêu, để múc lấy ở đó sức mạnh hầu tiếp tục trao hiến. Đó là nhịp sống bình thường của người Kitô hữu: cứ đong đưa giữa hai tình yêu. Chính nhờ sự đong đưa này mà trái tim tôi được dần dần mở ra và trở nên giống như trái tim Chúa Giêsu trên Thập giá.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta chỉ là Kitô hữu đích thực khi sống bằng chính sức sống và tình yêu của Đấng đã sống và chết vì yêu thương ta. Chừng nào thế giới của người lớn chúng ta biết sống quảng đại yêu thương, biết giải quyết những tranh chấp không thể tránh được bằng đường lối ôn hòa, thông cảm và tha thứ, chừng đó thế giới trẻ thơ mới biết trò chơi hòa bình, mới triển nở được trong bầu khí hồn nhiên tươi sáng, hứa hẹn một tương lai huy hoàng cho gia đình, xã hội và thế giới.
42. Luật yêu mến. – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Người Do Thái có quá nhiều luật lệ. Họ lại có thái độ duy Lề Luật. Nên tỉ mỉ tuân giữ tất cả mọi điều. Không còn biết điều nào là chính điều nào là phụ nữa. Hôm nay, nhân một câu hỏi. Chúa Giêsu đã cho ta biết chỉ có một điều luật quan trọng: LUẬT YÊU MẾN. Luật này có 2 khía cạnh.
1) Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Nghĩa là yêu mến hết khả năng, hết sức lực. Ta phải yêu mến Chúa như thế thật hợp tình hợp lý.
Vì Chúa đáng yêu đáng mến vô cùng. Chúa là nguồn mạch mọi sự thiện hảo. Ngài là toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ. Nơi Ngài không có một tì vết, khuyết điểm nào. Trong đời sống ai cũng yêu thích những gì tốt đẹp. Chúa là Đấng vô cùng tốt đẹp. Yêu mến Ngài là điều tự nhiên. Ai hiểu biết cũng đều yêu mến Chúa.
Hơn nữa Chúa còn là Đấng sinh thành ra ta. Chính Chúa ban cho ta tất cả. Ta có mặt ở đời này là do ý định của Chúa. Tất cả nhừng gì chúng ta có và chúng ta là đều bởi Chúa. Chúa là vị ân nhân lớn nhất của ta. Yêu mến Chúa là việc làm không những tự nhiên mà còn là bổn phận nữa.
2) Yêu người thân cận như chính mình. Đó là điều răn thứ hai mà Chúa Giêsu nói cũng giống như điều răn thứ nhất. Thực ra đó chỉ là một điều răn vì những lý do sau:
Yêu Chúa và yêu người là hai khía cạnh của một tình yêu. Tình yêu chân thật là tình yêu không có giới hạn, không có loại trừ. Vì thế đã yêu Chúa thì phải yêu người. Nếu tình yêu bị giới hạn, có loại trừ thì sẽ trở thành giả tạo.
Tình yêu đối với tha nhân kiểm chứng tình yêu đối với Thiên Chúa. Thánh Gioan Tông đồ đã nói: “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta nhận được từ nơi Người: Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1Ga 4,20-21).
Còn hơn thế nữa. Ai yêu anh em là yêu chính Chúa. Vì Chúa ở trong anh em. Hơn thế nữa, Chúa ẩn thân trong những anh em bé mọn nhất. Vì thế trong ngày phán xét Chúa nói với ta rằng: “Ta bảo thật cho các người: mỗi lần các người làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các người đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25-40).
Tất cả mọi điều răn khác đều quy về hai điều răn này. Nếu ta giữ trọn vẹn giới răn này, không những ta chu toàn Lề Luật mà còn góp phần xây dựng một thế giới mới, thế giới chan hòa yêu thương, chan hòa tình người. Và đó chính là khởi điểm của thiên đàng mai sau.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Yêu mến Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn. Bạn thấy điều này có hợp tình hợp lý không?
2) Tại sao ta phải yêu tha nhân?
3) Bạn có cảm nghiệm được niềm vui khi ta yêu thương không?
4) Bạn nghĩ thế nào về một thế giới trong đó chỉ có những người yêu thương nhau.
43. Tại sao Thiên Chúa làm người – Achille Degeest
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Vào thời Chúa Giêsu có 2 phong trào đối địch cố gắng nắm lấy uy thế lãnh đạo dân Do thái, đó là phái sa-đốc và biệt phái. Những người sa-đốc đã bị Thày chí thánh khóa miệng, đến lượt những người Biệt phái tìm cách gây khó cho Ngài; nếu thành công họ sẽ được hai cái lợi: qua mặt người sa-đốc và tiêu hủy uy tín của Chúa Giêsu. Họ hội họp nhau trong ý định ấy và thỏa thuận gởi một người trong bọn họ, chuyên gia về Lề luật, đến gặp Chúa Giêsu để hỏi Người về vấn đề tranh luận bất tận trong giới ký lục và luật sĩ. Thực vậy họ đã mổ xẻ lề luật và đã chia lề luật làm 613 huấn giới, 365 điều cấm, 48 chỉ thị. Trước một toàn bộ như thế, một số người Do thái bỏ hết thời giờ xem xét cách sống của mình để sao cho phù hợp với lề luật, một số thì chịu. Do đó một số mới tự hào xem mình là công chính và một số khác sinh lo âu thấy mình là kẻ phạm luật. Cả 2 đều không biết đến sự tự do tinh thần của tình yêu. Vì thế hiểu được có nhu cầu tổng hợp và đơn giản hóa lề luật. Các người Biệt phái chất vấn Chúa Giêsu về vấn đề tế nhị này. Ngài tổng hợp ra sao, Ngài đơn giản theo nguyên tắc nào? Câu trả lời của Chúa Giêsu không muốn mới mẻ và đề ra cái độc đáo. Chỉ có thể nằm trong đường hướng nguyên thủy của một bản luật do Thiên Chúa ban truyền. Câu trả lời chỉ nhắc lại. Thái độ vụ luật tỉ mỉ chi li của người Biệt phái hay khiến họ quên điều chính yếu của lề luật: do Thiên Chúa ban truyền. Luật thánh nhằm nối kết con người với Thiên Chúa. Chúa Giêsu nhắc lại ngọn nguồn và ý nghĩa của lề luật là gì. Lề luật nhằm tạo tương quan yêu thương với Thiên Chúa là Tình thương; bởi đó tình yêu đồng đều Thiên Chúa ban phát cho mỗi người phải liên kết người ta lại với nhau bằng một phản ảnh của tình yêu ấy. Giới răn thứ nhất là kính mến Thiên Chúa và giới răn thứ hai giống như vậy yêu mến người lân cận.
1) Người ta có thể yêu mến Tuyệt đối được không? Có thể yêu mến Đấng xưng mình bằng danh “Ta có” không? Thờ phượng Ngài thì được, nhưng yêu mến Ngài? Thế nhưng tôn giáo Israel và Kinh thánh không ngừng diễn tả một tác động của tâm hồn phải gọi là tình yêu mến. Như vậy có nghĩa là mạc khải ban cho dân Thiên Chúa, khác hẳn các tôn giáo khác. Thông thường các dân chọn và tạo lấy cho mình các huyền thoại, các thần thánh. Trong trường hợp Israel, chúng ta thấy chính Thiên Chúa đã chọn lấy một dân, hành động khởi đầu do từ Thiên Chúa đến và là một hành động yêu mến. Israel được kêu mời yêu mến một Thiên Chúa không phải trừu tượng xa vời, nhưng là sống động và có mặt điều khiển lịch sử của dân. Hiểu cho đúng, lề luật đã khơi động tiềm lực của trái tim. Ta sẽ đặt Luật Ta vào đáy lòng chúng và sẽ viết lên trái tim chúng (Gr 31,33). Phải, người ta có thể yêu mến Tuyệt đối khi Tuyệt đối mang tên Thiên Chúa Israel. Do đó Chúa Giêsu quả quyết rằng giới răn thứ nhất là yêu mến Thiên Chúa.
2) Nhưng Thiên Chúa Israel đã có mặt và tích cực hoạt động trong lịch sử một dân tộc và trong tâm hồn các tín hữu, còn muốn hơn nữa, Con Thiên Chúa khi làm người ước ao được người ta yêu mến bằng tất cả tiềm năng của trái tim loài người. Yêu mến Đấng “Hằng có” được mạc khải cho Môi-sê là một giai đoạn đáng kể của quá trình nhân loại vươn lên tới Thiên Chúa, nhưng chưa phải là trình độ của Phúc âm. Từ Nhập thể Thiên Chúa đã làm người. Ngài có thể làm đối tượng cho toàn thể tác động thâm sâu bao gồm trí khôn, ý chí, cảm xúc, tóm gọn trong chữ “yêu mến” và tác động ấy đặt vào một ai có thể đến gần. Con Thiên Chúa đã đích thân đặt mình vào chỗ khả năng yêu mến của con người có thể tới. Một sự kiện đầy ý nghĩa. Chúng ta đều biết tầm quan trọng của tên người mà mình yêu trong khi yêu. Vậy mà Israel có lề luật tóm tắt trong việc yêu mến đã đánh mất cách đọc chân thật tên Thiên Chúa mình. Người ta không biết danh hiệu “Giavê” có phù hợp với cách đọc nguyên thủy của tên Thiên Chúa hay không. Từ Phúc âm thì không còn như thế nữa. Giáo hội (nghĩa là những người con ưu tú nhất của Giáo Hội) yêu mến Chúa mình là Đức Kitô đến nỗi sẽ không bao giờ quên Tên mà chỉ đọc lên đã làm vui thỏa các thánh. Tên cực trọng Giêsu.
44. Yêu như Chúa yêu
Dựa theo những điều Thiên Chúa truyền dạy trong sách Luật (Ngũ thư: Sáng Thế, Xuật hành, Dân số, Lêvi và Đệ Nhị Luật), những người lãnh đạo tôn giáo Do thái đã làm thành Bộ luật gồm 613 điều khoản và buộc mọi người phải tuân giữ. Vì thế, cuộc sống của người Do thái trở nên rất nặng nề. Họ cảm thấy như bị bao vây bởi "Bức tường luật" kiên cố. Đâu đâu cũng thấy sự ràng buộc mà không thấy sự cảm thông và tình yêu nâng đỡ. Từ đó, người ta bắt đầu có thái độ sống vị luật, sống giả hình. Một số người đem luật ra làm thước đo cho mọi chiều kích của con người trong cuộc sống. Ai giữ luật càng kỹ thì càng được coi là công chính.
Chúa Giêsu đã kịch liệt chỉ trích và lên án thái độ giả hình và vị luật của những người Biệt phái và những nhà thông luật. Bởi vì họ "đã chất lên vai người khác những bó nặng không thể vác nổi, còn họ thì không buồn đọng ngón tay vào lay thử".
Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu bị những người Biệt Phái âm mưu hại Ngài bằng việc họ đặt ra câu hỏi đâu là giới luật quan trọng nhất giữa một rừng luật như thế? Dù biết họ thử mình, nhưng Đức Giêsu vẫn trả lời cho họ để mở mắt cho họ thấy đâu là vấn đề quan trọng nhất cần phải làm để làm đẹp lòng Thiên Chúa và chu toàn Lề Luật của Chúa. Chúa nói: Toàn thể Lề luật và các tiên tri đều tóm trong hai giới răn này: Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu thương anh em như chính mình.
Chúa Giêsu đã làm một điều mới mẻ là Ngài đã nâng giới luật yêu người lên tầm mức quan trọng ngang bằng với việc yêu mến hiên Chúa: Yêu người là yêu Chúa, và yêu mến Chúa thì phải yêu anh em mình. Vì thế, Thánh Gioan tông đồ nói: "ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình thì đó là kẻ nói dối"; "ai yêu thương thì được Thiên Chúa sinh ra".
Làm sao biết được mình yêu mến Thiên Chúa nhiều hay ít? Làm sao biết mình yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự hay chưa? Chúa Giêsu đã cho chúng ta câu trả lời rất rõ ràng: "Ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy". Giữ lời Thiên Chúa là ghi nhớ, yêu mến và đem ra thực hành. Điều quan trọng là làm theo Lời Chúa dạy chứ không phải nói "Lạy Chúa, Lạy Chúa". Thi hành lời Chúa dạy là điều đòi hỏi con người phải có nhiều cố gắng, hy sinh và quên mình. Những điều Chúa truyền dạy xem ra rất khó thi hành và đi ngược lại với những gì là tính toán của con người. Sống giá trị của Tin Mừng đòi hỏi con người phải lột xác, chấp nhận trở thành kẻ khờ dại giữa thế gian này.
Nếu yêu mến Thiên Chúa đã khó như thế thì yêu người lại càng khó khăn hơn, nhất là khi Chúa dạy phải yêu thương kẻ thù của mình. Nhưng chúng ta cần nhớ rằng: Chúa không chơi xấu! Chúa không bao giờ bắt chúng ta làm điều gì quá sức mình. Vì thế, ở đâu khó thì ở đó có ơn Chúa. Điều quan trọng là chúng ta hãy cộng tác với ơn Chúa và hãy sống hết mình trong nỗ lực yêu thương con người.
"Yêu anh em như yêu chính mình". Không ai lại ghét mình bao giờ! Vì thế, nói yêu anh em mình thì hãy yêu cách chân tình, không yêu trên đầu môi chót lưỡi. Yêu thương thật sự là muốn điều tốt cho người mình yêu, là chia sẻ thật sự cho anh em mình ngay cả những gì mình yêu quí và gắn bó. Câu chuyện về hai vợ chống trẻ tỉ phú Bill Gate, người giàu nhất thế giới, đã làm cho mọi người kinh ngạc. Họ đã tự nguyện tặng 95% giá trị tài sản của họ để làm từ thiện. Ước tính khoảng hơn 43 tỷ USD được trao tặng và có khoảng 43 triệu trẻ em nghèo được hưởng lợi từ tấm lòng của những con người hảo tâm này. Giờ đây, có lẽ vợ chống Bill Gate không còn là người giàu nhất thế giới về tiền bạc nữa, nhưng họ sẽ là người giàu nhất thế giới về tấm lòng quảng đại và chia sẻ! Yêu thương là biết hành động theo điều thiện, là thật tình chia sẻ!
Chúng ta hãy tập yêu thương anh em mình bằng cách tập nghĩ tốt, nói tốt và làm những điều tốt cho họ. Đừng dừng lại ở việc cầu chúc những lời tốt cho người khác, nhưng hãy tiến tới hành động. Bởi lẽ, không ít những kẻ: "Miệng thì chúc phúc cầu an, mà lòng nguyền rủa chứa chan những lời". Con người phức tạp lắm! Chúng ta đừng đóng kịch với nhau trong cuộc sống. Bởi lẽ, không ai giữ được những điều giả dối suốt cuộc đời mình. Hơn nữa, chúng ta có thể qua mặt được hết mọi người, nhưng không thể qua mặt được lương tâm của mình và càng không thể qua mặt được Thiên Chúa. Thái độ giả hình luôn là điều mà Đức Giêsu lên án nặng nề nhất. Harret Beecher Stowe đã chia sẻ cho chúng ta một kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa quí báu như sau: "Tôi tìm kiếm linh hồn tôi nhưng tôi không thấy. Tôi tìm kiếm Thiên Chúa nhưng Ngài ở ngoài tầm tay tôi. Tôi tìm kiếm anh em và tôi gặp được cả ba". Quả thật, yêu người là yêu Chúa. Gặp được anh em mình chính là gặp được Chúa vậy!
45. Khi hai mặt của đồng tiền bằng nhau.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Nếu một cuộc trưng cầu dân ý được hỏi ý kiến của mọi người xem ai là người đá banh hay nhất trong mọi thời, hoặc ai là diễn viên giỏi nhất, hoặc ai là nhà soạn nhạc giỏi nhất, thì sẽ có rất nhiều ý kiến. Vì hôm nay những người đương thời với Chúa Giêsu đặt ra câu hỏi: điều nào trong lề luật là cao trọng nhất? Điều đó có một câu trả lời đơn giản hiển nhiên cho bất cứ một ngươi Do thái sốt sắng nào. Dù cho lề luật của người Do thái rất nhiều những không có gì ngạc nhiên khi Chúa Giêsu trả lời: “Các người hãy yêu mến Thiên Chúa là Thiên Chúa của các ngươi với hết tâm hồn, hết trái tim, hết trí khôn ngươi”. Những điều đáng ngạc nhiên là Chúa Giêsu đã nhấn mạnh thêm: “Các người sẽ yêu mến người láng giềng của các người như chính mình”. Câu hỏi: “Lề luật nào là cao trọng nhất?” chỉ có một câu trả lời: Chúa Giêsu đã cho hai câu:
- Câu trả lời đầu tiên được trích từ sách Đệ Nhị Luật đoạn 6 câu 2
- Câu trả lời thứ hai từ sách Lêvi đoạn 19 câu 18.
Chúa Giêsu không nói một điều gì mới. Sự góp phần độc nhất của Người là nối kết hai điều luật, trong hai sách tách biệt của Thánh Kinh và làm chúng nên một. Sự nhấn mạnh của người là không thể có tình yêu thật, tình yêu Thiên Chúa thật, nếu không có tình yêu người láng giềng, tình yêu tha nhân, và không có tình yêu tha nhân nếu không có tình yêu Thiên Chúa.
Hầu hết mọi người có ý ngay lành đều thường nghĩ dễ dàng hơn hoặc ít đòi hỏi hơn, để yêu mến Thiên Chúa thì dễ hơn yêu mến con người. Sau hết chúng ta biết rằng Thiên Chúa là hoàn hảo. Nếu như chúng ta cảm thấy rằng Thiên Chúa không làm đúng bằng chúng ta, thì những lỗi nằm trong sự thất bại của chúng ta, chúng ta dễ hiễu vì chúng ta không phải là Thiên Chúa. Không thể nói về sự liên hệ của chúng ta với con người cách tương tự. Ngay cả những người mà chúng ta yêu mến cũng có thể làm phiền chúng ta lúc chúng ta đang tìm kiếm một chút bình an và thinh lặng, cản trở chúng ta khi chúng ta đang nói chuyện, hoặc khi chúng ta đang dò các kênh của TV, để tìm một chương trình đặc biệt, lời lẽ hùng biện của chính trị có thể khiến chúng ta chống lại những người mẹ không kết hôn đang phải nhờ vào trợ cấp an ninh xã hội, hay là những người tự mãn có thể ảnh hưởng chúng ta trong việc coi rẽ, khinh thường, những người không có việc làm và những người vô gia cư, và ý kiến chung có thể chuyển chúng ta tới một sự coi thường nền tảng sự sống con người qua việc phá thai, chết êm dịu, án tử hình.
Nếu tôn giáo của chúng ta nhấn mạnh không gì hơn là đến nhà thờ cám ơn Chúa vì những đặc ân Ngài ban và để cầu nguyện xin Ngài trợ giúp, điều đó sẽ hầu như luôn luôn là một sự thích thú và một kinh nghiệm dễ dàng. Nhưng ngay trong thánh lễ, chúng ta được kêu gọi để diễn tả tình yêu của chúng ta cho anh em đồng loại thấp kém hơn.
Sau bài giảng chúng ta cất tiếng nài xin cho những dự định quảng đại được thực hiện. Chúng ta thường cầu nguyện cho những nhu cầu của Giáo hội, cho nhà cầm quyền, cho sự cứu độ của thế giới, cho những người bị bất công, bị cướp mất những nhu cầu, cho cộng đoàn địa phương của chúng ta. Lời cầu nguyện này là một phần hợp pháp trong sự thờ lạy Thiên Chúa giúp chúng ta làm viên mãn lề luật yêu thương tha nhân, chúng ta trao cho nhau những dấu chỉ chúc bình an, và điều này thật sự là một lời cầu nguyện khiến chúng ta có thể hoàn tất sự hợp nhất và bình an với những người khác mà Chúa Giêsu trong Thánh Thể đã dự định dành cho chúng ta.
Sự cám dỗ là tách biệt tình yêu Thiên Chúa ra khỏi tình yêu tha nhân. Chúa Giêsu sẽ không nghe những lời nguyện ấy. Lề luật yêu mến Thiên Chúa và lề luật yêu mến tha nhân tuy đã được giới thiệu trong hai sách riêng biệt của Thánh Kinh, nhưng chúng không được tách riêng trong trái tim của chúng ta, trong hành động của chúng ta.
46. Giới răn trọng nhất
Tại thành phố Miami, nước Mỹ, ngày 03/10/1970, cô Edwarda, mới 16 tuổi, đã lâm vào tình trạng hôn mê, do bệnh tiểu đường. Trước lúc sự việc xảy ra, cô quay sang mẹ nài nỉ: "Mẹ ơi, mẹ hứa đừng bao giờ bỏ con mẹ nhé!" Đến hôm nay, hơn 30 năm rồi, cô gái sống như "thực vật" không còn biết gì cả. Vậy mà bà Kaye O'Bara, mẹ cô, vẫn can đảm chăm sóc cho con. Cứ hai giờ là bà phải lấy máu để thử, đo độ đường trong máu, rồi tiêm insuline, hút đờm dãi, tắm rửa, cả cho con ăn nữa. Bà còn gội đầu, chải tóc, vuốt ve, thủ thỉ nói chuyện với con, dù con bà không hề trả lời. Thật là điều kỳ diệu của tình yêu. Khoa học không tài nào giải thích được sức mạnh này. Bà Kaye đã giữ đuợc lòng yêu thương hiếm thấy trên đời (Những điều kỳ diệu, D.P. Eich, trg. 80). Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa cũng nêu cho chúng ta rõ: điều răn của Thiên Chúa quan trọng chính là luật yêu thương. Kính mời anh chị em cùng suy niệm...
a/. Có vài điều chúng ta cần hiểu rõ:
* Người pharisêu hỏi Chúa: Trong luật Môisen, điều răn nào là quan trọng hơn hết? Luật cũ của người Do thái có rất nhiều điều: Bộ luật có tất cả 613 điều khác nhau, trong đó có 365 điều cấm và 248 luật phải giữ. Nhiều như thế, nên phân biệt khoảng nào chính, khoảng nào phụ là một điều khó. Sở dĩ họ đặt câu hỏi này với Chúa Giêsu, chính là vừa để thử Chúa, vừa là vì chính họ cũng không nhất trí với nhau khoảng luật nào là chính, là phụ nữa.
* Chúa trả lời: Phải yêu mến Thiên Chúa ngươi hết linh hồn, hết trí khôn... Đó là điều răn thứ nhất... Còn điều thứ hai cũng quan trọng: hãy yêu tha nhân như chính mình... Hai điều răn này Chúa trích từ sách Đệ nhị luật 6,5 và sách Lêvi 19,18. Chính Chúa Giêsu là người đầu tiên nối kết hai khoảng luật này lại với nhau. Người đặt: luật kính yêu Chúa trước tiên, sau đó là luật thương người. Vậy yêu thương chính là cốt lõi của mọi khoản luật khác và đối tượng của tình yêu chính là Thiên Chúa và anh em mình.
b/. Bài Tin mừng chúa nhật hôm nay muốn dạy cho chúng ta điều gì?
* Chúa Giêsu xác định: hai giới răn yêu mến Chúa và yêu thương tha nhân là gồm tóm hết mọi giới răn khác. Xem ra con người không còn phải bận tâm lo giữ cả 613 điều luật. Ai chu toàn hai giới răn này thì có thể tin mình đã chu toàn lề luật rồi. Thánh Phaolô giải thích ý của Chúa Giêsu trong thư Rôma như sau: "Ai yêu người là đã chu toàn Lề luật. Thật vậy, các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy." (Rm 13, 8-10).
* Giới luật yêu thuơng: Qua bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu xác định luật yêu thương là quan trọng. Lòng mến Thiên Chúa phải toàn diện liên quan đến trái tim, linh hồn, cả khối óc của con người nữa. Tình yêu này phải là động lực thúc đẩy mọi hoạt động tinh thần cũng như thể xác của chúng ta. Chính vì thế mà Chúa nói: tất cả luật Môisen và sách các ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều ấy.
Nói như thế, người ta sẽ hỏi lại: Tại sao luật yêu thương là trên hết và gồm tóm mọi lề luật? Thưa là vì: Thiên Chúa là Tình yêu và bản chất của Thiên Chúa chính là Tình yêu. Kinh thánh cũng đã dạy cho chúng ta biết: con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa; điều đó có nghĩa là con người được Thiên Chúa dựng nên chính là để yêu thương, và để yêu thương như Thiên Chúa. Bản chất Thiên Chúa chính là tình yêu, vì thế không thể nói Thiên Chúa không yêu thương, hay không thể nói Chúa dựng nên con người ta, mà Chúa lại không yêu họ; hay cũng không thể nói, con người được sinh ra lại không yêu thương Thiên Chúa và yêu thương nhau....
Chúa Giêsu chính là tấm gương cao cả về việc thực thi luật yêu thương. Người trước hết luôn yêu mến Chúa Cha, sống đẹp lòng Chúa, và vì vâng lời trọn hảo mà Chúa chấp nhận sinh làm người đền thay tội lỗi cho nhân loại chúng ta. Đọc qua Phúc âm, ta thấy Chúa Giêsu thể hiện lòng yêu thương bằng việc hoàn toàn vâng phục Ý Chúa Cha. Hơn thế nữa, Người tỏ ra lòng yếu mến Chúa Cha qua việc quan tâm yêu thương, cứu giúp hết mọi người, kể cả người tội lỗi, đỉ điếm, thu thuế, người ngoại giáo samaritanô, những người mà các kinh sư, biệt phái xa lánh, khinh thị. Lại nữa, Chúa yêu mến nhân loại không chỉ bằng lời nói thôi, nhưng bằng việc làm cụ thể là lễ tế trên thánh giá. Yêu mến là cho đi, là chết đi, là quên mình cho người khác. Vì thế cái chết của Chúa trên thánh giá chính là cái chết vì TÌNH YÊU.
Bà Keye O'Bara, trong câu chuyện kể trên, cũng là tấm gương cao cả của Tình Yêu...
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Tất cả mọi luật lệ đạo đời đều gồm tóm lại trong hai chữ yêu thương mà thôi. Là người kitô hữu, chúng ta nghĩ làm sao, bao lâu nay thực tâm khi giữ đạo chúng ta có thấy điều này là quan trọng, và mình có cố gắng sống điều răn này. Chính Chúa Giêsu còn dạy hãy yêu kẻ thù như chính mình nữa, chúng ta có tin không?
47. Yêu thương là đón nhận sự sống
Anh chị em thân mến.
Một lần tôi chứng kiến hai con gà đá nhau. Hai con gà vừa nhìn thấy nhau, chúng không thể chấp nhận nhau, chúng vươn những bộ lông của mình ra biểu lộ sự uy nghi trước đối phương, đôi mắt đỏ ngầu hướng về nhau. Chúng nhìn nhau tìm sơ hở của, bất ngờ chúng tung những cú đá, những cú cắn xé, dường như có mối thù truyền kiếp từ lúc nào. Bỗng có một con ngã lăn ra, nhưng vì không có trọng tài nên con kia vẫn còn hung hăng, chạy đến bên đối phương cho dù đã ngã quỵ, tiếp tục cho những ngọn đòn thù bằng chiếc mỏ sắc bén và đôi chân vững chắc của mình. Tôi chợt nhớ đến hình ảnh cảnh gà mẹ ấp ủ đàn con, sao êm đềm quá, thân thương quá. Biết đâu hai chú gà vừa một mất một còn với nhau đây, cũng đã từng được ấp ủ chung cùng một người mẹ. Nếu những chú gà biết yêu thương nhau, chúng lo bảo vệ cho nhau, như gà mẹ bảo vệ cho đàn con, thì chúng đâu tìm cách loại trừ nhau như thế. Một chú gà phải chết đi vì chúng không biết yêu thương nên muốn loại trừ nhau. Yêu thương là sống, còn không biết yêu thương thì không thể tồn tại được, chỉ có đi đến cái chết mà thôi.
Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn trọng nhất.
Ngươi phải yêu thương tha nhân như chính mình. Tất cả luật Môisen và sách các ngôn sứ đều tóm về hai giới răn đó.
Người ta đến hỏi Chúa Giêsu về giới răn để sống theo thánh ý Chúa, Ngài cũng trả lời thật sự cho họ như thế. Tất cả lề luật đều tóm trong giới răn Yêu Thương. Sống yêu thương là sống theo lề luật, vậy mà khi người ta đến hỏi về sự sống lại muốn đưa Chúa Giêsu vào con đường chết. Nhưng Ngài đưa con người đến sự sống, Ngài đưa con người đến nguồn yêu thương. Tất cả lề luật đều giúp cho con người sống, nên lề luật được gồm tóm trong luật yêu thương. Không biết yêu thương là không giữ tròn lề luật, nghĩa là không thể sống được.
Chúng ta là những người đang sống, những người đang được yêu thương và cũng là những người đang biết yêu thương. Hơn thế nữa, chúng ta còn là những người Công Giáo, chúng ta biết mình được Thiên Chúa yêu thương như thế nào, đồng thời chúng ta cũng biết mình phải yêu thương như thế nào cho hợp thánh ý Chúa. Nhưng rất nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta hành động giống như những luật sĩ và biệt phái của thời xưa, muốn đưa người khác vào con đường chết, muốn loại trừ người khác ra khỏi sự sống con người.
Trong cuộc sống đời thường có những lần con người không chấp nhận nhau được, vì người khác được ưu đãi, được hạnh phúc, được thành công hơn mình, nên tìm cách loại trừ để đưa người đó vào con đường chết. Khi đó nếu con người nhớ đến mình đã từng được yêu thương, được chăm sóc như bao người khác, tại sao mình không yêu thương, như đã từng được yêu thương. Khi đó chúng ta giống như hai chú gà đá nhau mà không cần biết mình đang làm gì và muốn gì. Không cần biết mình đang đi trên con đường sống hay đang bước đi trên con đường chết.
Nếu trong cuộc sống mà chúng ta biết đặt câu hỏi: mình đang yêu thương hay đang loại trừ, đang sống hay đang chết. Nếu câu hỏi đó thường xuyên có trong đời sống để biết trả lời thật chính đáng, thì thật là hạnh phúc cho chúng ta.
Nếu chúng ta nhìn thấy được người khác như là một con người thật sự đang hiện diện trước mắt, để biết đối xử cho xứng đáng với nhân phẩm của họ với tất cả những gì cần thiết có thể được. Khi đó chúng ta đang sống, vì biết dùng tình yêu thương. Nếu trong mỗi công việc mà nhớ đến lề luật Chúa Giêsu dạy, để biết thi hành cách chính đáng trong mọi trường hợp, thì thật là hạnh phúc cho chúng ta, vì chúng ta đang biết yêu thương và thi hành lề luật yêu thương. Nếu chúng ta chấp nhận được người khác với tất cả những gì là con người của người đó, để cùng nhau bước đi trên con đường yêu thương. Khi đó lề luật Chúa không phải chỉ ở trên môi miệng, nhưng nó là chính cuộc sống của con người, mà chúng ta đang sống, đang hành động.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa, đốt nóng tình yêu Chúa trong mỗi người, để biết yêu thương thật sự như Chúa đã yêu thương.
48. Suy niệm của Lm Augustine SJ.
Gương mến Chúa và yêu người sống động nơi trại tập trung Ðức Quốc Xã
Nhật báo Kitô hữu Chứng Nhân (Témoignage Chrétien) kể lại một câu chuyện thật cảm động xảy ra năm 1941 trong thế chiến thứ hai.
Có một vị linh mục bị Ðức Quốc Xã giam trong trại tập trung dành cho người gốc Do thái. Như bao người khác, cha bị hành hạ và ngược đãi tàn tệ, còn hơn cả súc vật. Thế nhưng vị linh mục này vẫn vui vẻ tìm cách giúp đỡ anh em đồng cảnh ngộ đang bị khủng hoảng và tuyệt vọng.
Chính cha xin với viên cai tù cho đi lao động thay thế những người đau yếu. Phần bánh mì ít ỏi của cha có khi được dành cho những người có nhu cầu hơn. Ðối với người vận đồ rách rưới, cha cũng chia sẻ những chiếc áo cũ tương đối còn lành lặn.
Trong hoàn cảnh đầy nguy hiểm, cha vẫn lặng lẽ giấu kín lý lịch bản thân là người Công Giáo, hơn nữa còn là một linh mục! Chỉ có một vài người rất thân thiết mới biết rõ ngài là ai.
Trong số những người được vị linh mục này giúp đỡ, có một cậu thiếu niên vốn là một kẻ bụi đời, lớn lên nơi đầu đường xó chợ, không tin bất cứ ai, lại còn ngang tàng trộm cắp để kiếm sống. Cả ở trong trại tập trung, cậu cũng luôn cướp giật, quấy nhiễu mọi người.
Vị linh mục khả ái đã từng bước, tìm cách tiếp cận, trò chuyện, giúp đỡ, khuyên răn, và cuối cùng đã hoán cải được con người tưởng đã trở nên chai lì và vô phương cứu chữa. Dẫu vậy, ngài thấy vẫn chưa đến lúc nói với kẻ mới hoán cải về Thiên Chúa.
Thế rồi, một hôm, cha được tin bản thân sẽ bị chuyển gấp tới trại Ao-sơ-vích (Auschwitz), một trại tập trung mà chỉ nghe danh xưng, trại viên cũng phải kinh hoàng khiếp sợ, vì đó là nơi hủy diệt con người bằng những hầm hơi ngạt và lò thiêu xác. Ngài cố giữ bình tĩnh khi vội vã chia tay mọi người. Ðứng trước mặt cậu thiếu niên vừa mới quyết định hoàn lương, ngài rất muốn giúp cậu hiểu biết về Chúa, tin Chúa và theo Chúa.
Cha nhìn thẳng vào mặt cậu, nhỏ nhẹ hỏi "Này, cháu yêu của bác, cháu có muốn tin vào một người tên là Giêsu không?" Cậu thiếu niên đứng thẳng người lên, trả lời cha bằng một câu hỏi chân thành: "Nhưng thưa bác, ông Giêsu là ai, để cháu có thể tin?" Biết mình không còn thời gian để cắt nghĩa Kinh Thánh và giới thiệu chi tiết về Ðức Giêsu, cha yên lặng một chút, ngẫm nghĩ rồi buột miệng nói với cậu: "Người đó giống như bác!" Cậu thiếu niên đăm đăm nhìn ngài rồi khẳng khái tuyên xưng: "Vâng, nếu ông Giêsu ấy là một người giống như bác, thì cháu tin!"
Sau thế chiến, người ta không còn gặp lại vị linh mục ấy nữa, nhưng chắc chắn một điều là câu chuyện này được một người sống sót, qua các trại tập trung thuật lại như một chứng từ sống động, người ấy chính là cậu thiếu niên năm xưa, giờ đã là một người tân tòng Công giáo.
Chúa Giêsu đưa hai điều răn ấy sống động nơi con tim con người
Câu chuyện có thực vừa kể giúp ta lãnh hội ý của Ðức Giêsu muốn nói với người thông luật là kẻ đã nêu vấn đề "Thưa Thầy, trong sách Luật Môsê, điều răn nào là điều răn lớn nhất?" (Mt 22,35). Ý của người thông luật này là muốn biết điều răn nào là điều răn lớn nhất trong toàn bộ Cựu Ước. Ðức Giêsu trả lời cho thấy không những điều răn lớn nhất là "Ngươi phải yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn ngươi" (Ðnl 6,5), nhưng còn cho thấy điều răn cũng giống điều răn ấy là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình (Lv 19,18). Ðiều khiến cho hai điều răn này giống nhau là ở tình yêu được thể hiện nơi con tim con người. Ngang qua con tim, người tin vào Giavê Thiên Chúa mà yêu mến Ngài "hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn người đó, thì cũng ngang qua con tim, người đó phải phải yêu người thân cận như chính mình".
Như vậy, Ðức Giêsu đưa người thông luật từ ý niệm trừu tượng về điều răn lớn nhất tới hành động cụ thể nơi con tim người tín hữu. Mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, thì trong cụ thể, cũng phải yêu thương người bên cạnh như chính mình. Sau này thư thứ nhất của Gioan sẽ nói: "Nếu ai nói tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy" (4,20).
Nhưng cần phải trở về với Cựu Ước là bối cảnh nơi người thông luật nêu vấn đề, trước khi bàn tới Tân Ước.
Mười điều răn được công bố trên núi Sinai, tóm tắt các trách nhiệm dân Thiên Chúa. Giavê Thiên Chúa ban mười điều răn này cho dân Giao Ước khoảng năm 1450 trước Công Nguyên. Mười điều răn này được ghi khắc trên hai bia đá sau được lưu giữ trong một chiếc hòm, gọi là hòm bia, như là những vật thánh thiêng nhất trong đạo của Cựu Ước.
Mười điều răn xuất hiện ở hai bản văn Cựu Ước (xh 20,2-17 và Ðnl 5,6-21). Mười điều răn này diễn tả cốt lõi của mối tương quan mà Giavê Thiên Chúa đòi hỏi dân Ngài phải duy trì đối với Ngài. Theo những điều Ngài đòi hỏi dân phải giữ, ta cũng biết được về chính bản thân Ngài. Vậy Mười điều răn không chỉ nói với dân Ítraen nhưng còn nói với cả loài người qua mọi thời về Thiên Chúa, Ðấng tạo thành nên mọi người và mọi sự. Các điều răn đều được lập lại dưới hình thức nào đó trong Tân Ước, với điều răn "giữ ngày sabát" trở thành điều răn "giữ ngày Chúa Nhật".
Có thể tóm tắt mười điều răn như sau:
Tấm bia thứ nhất dạy ta về tương quan đối với Thiên Chúa qua 4 điều răn là:
1. Không được thờ Thiên Chúa nào khác
2. Không được thờ ngẫu tượng.
3. Không được kêu tên Thiên Chúa vô cớ.
4. Phải giữ luật ngày Sabát.
Tấm bia thứ hai dạy ta về tương quan đối với đồng loại với 6 điều răn là:
5. Hiếu thảo đối với mẹ cha.
6. Không được giết người.
7. Không được phạm tội ngoại tình.
8. Không được lấy của người khác.
9. Không được làm chứng gian.
10. Không được ước ao của người khác.
Mười điều răn đều nhắm mục đích tích cực là hướng dân Thiên Chúa tới cuộc sống tròn đầy như được Thiên Chúa dựng nên, theo lời ông Môsê tuyên bố với dân: "Anh em hãy đi đúng con đường mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã truyền cho anh em, để anh em được sống, được hạnh phúc và được sống lâu trên mảnh đất mà anh em sẽ chiếm hữu" (Ðnl 5,33). Ai cũng cần được Thiên Chúa hướng dẫn hầu tránh những chọn lựa có hại cho bản thân và người khác, đồng thời hưởng được tình thương của Thiên Chúa.
Ðức Giêsu đến công bố Nước Thiên Chúa nhằm giúp người ta đạt tới các mối phúc thật (Mt 5,1-12). Các mối phúc thật này không dựa trên cơ sở một thứ tình yêu siêu việt trừu tượng. Con người hạnh phúc thật phải nghiệm thấy nơi con tim của mình sự tràn ngập do tình yêu Thiên Chúa, nhờ đó có sức mạnh để yêu tha nhân như chính mình.
Con đường của các mối phúc
Vậy mối phúc đích thực số một phải là sở hữu Nước Thiên Chúa. Con người nghèo tận căn sẽ "yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn "(Mt 22,37). Người đó không còn bị vướng mắc do đam mê nào, cho nên dễ dàng nhận ra mọi sự và cả tạo thành, đều do Thiên Chúa ban. Cho nên người đó, có thể nói, sở hữu được Nước Thiên Chúa như lời Chúa Giêsu dạy: "Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ" (Mt 5,3). Ðúng như lời người cha nhân hậu nói với con cả trong Tin Mừng Luca: "Con à, lúc nào cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con" (Lc 15,31).
Ðiều mà mối phúc thứ hai nhắm là "được đất Thiên Chúa hứa làm gia nghiệp" (Mt 5,4). Ðất hứa nói đây chính là Nước Thiên Chúa. Người thụ hưởng sẽ chẳng còn phải bon chen để tranh dành ảnh hưởng. Ngược lại, người đó chỉ còn sung sướng làm cho Nước đó được chan hoà dưới sự lãnh đạo của Ðấng kêu gọi mọi người học với Người để sống hiền hậu và khiêm nhường (x. Mt 11,29). Ðó là con đường tốt nhất để yêu tha nhân như chính mình.
Ðiều mà mối phúc thật thứ ba nhắm là được chính Thiên Chúa ủi an (Mt 5,5). Ðể được phúc lành đó, người thụ hưởng cần dựa vào sức mạnh của tình yêu của chính Thiên Chúa, để gánh vác trên vai biết bao hậu quả của tội đang hoành hành trên thế giới. Ðó thực sự là con đường thánh giá đưa tới vinh quang. Người đi trên con đường này, sẽ có thể yêu tha nhân như chính mình dưới sự lãnh đạo của Chúa Giêsu.
Ðó chính là con đường mà vị linh mục của trại tập trung Ðức Quốc Xã trong câu chuyện nói trên, đã đi và đã được chính Thiên Chúa ủi an trong Nước của Ngài.
49. Suy niệm của Lm Nguyễn Bình An
Vì yêu bà goá Simpson, Vua nước Anh Edward Đệ Bát đã bằng lòng bỏ ngai vàng để sống đời dân giả hạnh phúc với người yêu. Đây là cuộc tình lý tưởng và chân thật. Kẻ cho, người nhận thấu hiểu và thực thi lời Chúa Kitô dạy “tình cao thượng nhất là tình dám thí mạng cho người yêu” (Ga 15,13). Thế nào là thí mạng? Edward hy sinh và can đảm cởi bỏ vương miện và hoàng bào. Ông trả đời tiện nghi, rời cung điện, bằng lòng sống đơn giản và đạm bạc với người yêu. Nhiều người lắc đầu tắc lưỡi: “thằng khùng!” vì nhà cao bát vàng không hưởng. Nhưng Edward và Simpson đã hân hoan và sung sướng rũ sạch công danh và đời đời có nhau.
Chúa Kitô đã lấy thánh giá làm bằng chứng độc đáo nhất diễn tả tình của Ngài. Chúng ta sống trong hiểm họa và đang lao đầu vào cõi chết. Chúng ta thích thành công với danh, chức và tiên của. Chúng ta chen lấn, tranh giành, lật lọng, mưu mô và chà đạp trên mạng người. Chúng ta đánh giá tình bằng vẻ hào nhoáng và giả tạo bên ngoài. Chúng ta đang hôn mê trong bả phủ vân dẫn đến hư vô và tuyệt vọng. Các hình thức trên bộc lộ cái tình nhỏ bé, hạn hẹp, nông cạn một chiều và ích kỷ của nhân loại.
Chúa lấy thánh giá bắc qua miệng lửa, che đậy hố sâu nguy hiểm và thân thương dìu chúng ta bước qua hố an toàn. Chúa lấy máu và tình thương giập tắt ngọn lửa vô tình và bất nhân. Chúa dùng khổ đau đem lại sự thanh thản, an vui cho nhân loại. Một lần Chúa chết đi cho ức triệu người thoát vòng liên lụy và được giải thoát. Tình yêu cao vời này đã là nguyên nhân cảm hóa và dụ dẫn nhiều tâm hồn can đảm dấn thân theo Chúa. Họ kê vai san sớt gánh nặng và vui bước với Chúa. Họ là những chứng nhân sống, là hiện thân của Giêsu giữa đời. Họ đang nằm rên siết bên đường, đang hấp hối trong rừng sâu, đang thành công giữa đời và nhân ái trong mọi lãnh vực. Họ là những vị tử đạo vô tên tuổi và âm thầm hiến dâng. Nhờ họ mà đức tin được trưởng thành, tình yêu được thăng hoa và Lời Chúa được loan truyền.
Nhìn những người lính thủy quân lục chiến Hoa kỳ thực tập tại căn cứ 29 cây dừa (29 Palm), California: ngày ăn lương khô, uống nước lạnh, mặt mũi và áo quần dính đầy bụi, tay chân nứt nẻ, đêm nằm co ro trong túi ngủ trên bãi cát trong góc đá, và dưới đụm cây làm tôi cảm phục sự hy sinh cao độ của họ và chợt xót xa khi nghĩ đến cả trăm triệu người vô tình quên họ. Vì họ mà quốc gia này thành cường quốc. Vì họ mà dân chúng sống an ninh, tự do và độc lập. Vì họ mà trật tự thế giới được ổn định. Vì họ mà điện Capitol và Nhà Trắng tại Hoa thịnh Đốn thời danh và có thế giá trước Liên Hiệp Quốc và cộng đồng thế giới.
Người không có thánh giá là người chết. Người trốn chạy thánh giá là thiếu tài cao, đức trọng. Người rủa thánh giá là chưa hiểu ý nghĩa và mầu nhiệm thâm sâu của tình yêu. Người lợi dụng thánh giá là kẻ “đục nước béo cò” và “mượn đầu heo nấu cháo”. Họ giỏi khích lệ ai đó vác và vui chịu. Bản thân họ thì đong đưa ăn trên ngồi chốc. Tình chính chuyên và lý tưởng phải là tình như Đức Kitô, bằng lòng chết đi cho người mình yêu và trước khi vĩnh biệt còn gắng rán sức “tha cho họ, vì họ không ý thức việc họ làm.”
Phim “Người chết đang đi” (Dead-man walking) giới thiệu một nghĩa cử cao thương của chị dòng. Chị nhận diện Chúa trong tên tử tội. Chị chối bỏ thù oán của Cựu Ước và loan báo ơn tha thứ của Tân Ước. Chị cảm hóa được tù nhân và yêu cầu tử tội trước giờ thứ 24, nhìn vào chị, hiện thân của tình Chúa hầu an bình ra đi. Chị lên án chính sách giết người man rợ bằng ghế điện, hơi ngạt, thuốc độc và xử bắn. Theo chị, tình chân thật phải là tình tái sinh bằng mọi giá, như Chúa trên thập tự, đã thăng tiến và công chính hóa nhân loại thay vì kết án và nguyền rủa.
Như vậy tình “ông ăn chả, bà ăn nem” là tình ích kỷ. Tình “ong bướm” là tình tắc trách và trốn chạy. Tình “ly dị” là tình hèn nhát và thiếu thủy chung. Những mẫu tình này hình thành do sự bất toàn, đam mê, ích kỷ và hưởng thụ của con người. Đồng thời nó đang phá hủy tận gốc tình yêu cao đẹp Chúa đã khắc ghi trong tâm hồn. Bài học sống và chết cho tình yêu cần được mổ xẻ, phân tích, suy tư và thực hiện trong đời mỗi tín hữu. Nhờ đó mà tình của “cái thủa ban đầu lưu luyến ấy” sẽ “ngàn năm chưa dễ mấy ai quên”.
50. Yêu thương là truyền giáo
(Suy niệm của Lm JB. Nguyễn Minh Hùng)
"Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn ngươi. Và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi". Có bao giờ bạn tự hỏi xem, vì sao Chúa lại dạy phải yêu Chúa và yêu người? Lấy ví dụ: bạn có con đi học. Khi thấy nó lười học, thì nói với nó: "Con học bài đi, con phãi siêng học". Sở dĩ bạn bảo con mình chịu khó học là vì nó chưa chăm học. Chúa dạy loài người phải yêu Chúa yêu người vì loài người chưa yêu Chúa và cũng chưa yêu người. Hoặc chưa yêu một cách trọn vẹn như Chúa muốn. Yêu như Chúa muốn đó là: "Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khốn. Và yêu kẻ khác như yêu chính mình".
Yêu Chúa là phải yêu bằng cả tấm lòng, cả linh hồn, cả trí khôn. Tấm lòng, linh hồn, trí khôn là thành phần trọng yếu nhất của con người. Nếu thiếu tấm lòng, nghĩa là thiếu trái tim, con người chỉ là một cái xác. Nếu không có linh hồn, không phải là người nữa. Nếu thiếu trí khôn, dù mang hình dáng con người, người đó cũng trở nên ngu đần. Yêu Chúa bằng tất cả tấm lòng, cả linh hồn và trí khôn, yêu bằng tất cả thành phần chủ yếu của một con người là yêu vô cùng, yêu không tính toán, yêu Chúa một cách mạnh mẽ. Nhưng chỉ có lòng mến Chúa thôi, chưa đủ. Lòng yêu mến Chúa đòi phải có một giới răn khác bổ túc. Đó là yêu người. Yêu người cũng quan trọng không kém giới răn yêu Chúa. Chính Chúa Giêsu nói: "Giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất là: ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi". Yêu Chúa và yêu người luôn đi đôi với nhau. Nếu nói rằng yêu Chúa mà trong thực tế không yêu tha nhân, không giúp đỡ người khác, là nói dối.
Ngược lại, chính khi yêu thương và giúp đỡ người khác là bằng chứng chứng tỏ mình yêu mến Thiên Chúa.
Tuần trước chúng ta cử hành ngày thế giới truyền giáo. Nhưng tôi nghĩ, sẽ không có truyền giáo đúng nghĩa nếu không biết yêu thương. Lòng yêu thương anh em là phương thế truyền giáo hữu hiệu, vì nhân loại luôn luôn cần đến tình yêu. Chính vì đặt tình yêu lên trên mọi chuẩn mực của một hành vi đạo đức nào đó, nên đạo Công giáo cũng là đạo của tình yêu. Không thể nói với ai, rao giảng cho ai về tình yêu mà bản thân ta không hề biết yêu thương. Đó là sự mâu thuẫn lớn mà ta phải trút bỏ đi. Nếu ta không biết yêu thương thì cũng không thể truyền giáo. Ngược lại, ta có một đời sống yêu thương thật sự, tử tế, vui vẻ với mọi người, sẵn sàng giúp đỡ người khác, những việc làm tốt đó, tự bản thân nó đã chứng minh ta là người có đạo, đã là truyền giáo rồi.
Nhưng không thể lúc nào cũng có thể nói về Chúa được. Lấy ví dụ: một thầy cô giáo có đạo, đi dạy ở một trường học nào đó, chắc chắn thầy cô đó không thể vào lớp học để nói về đạo, về Chúa được. Nhưng điều mà người thầy hay cô đó có thể làm được là chứng minh đời sống đạo của mình như: vui vẻ với đồng nghiệp, yêu thương, độ lượng với học trò... Trong đời sống hằng ngày, mọi người có thể làm được những chuyện rất bình thường như: lượm một cục đá trên đường bỏ vào một nơi nào đó để các em nhỏ đi không bị vấp, các cụ già không bị té. Hoặc là ta biết giữ vệ sinh chung, đừng ném mọi thứ rác rưởi ra đường, ở nơi công cộng... tất cả những việc làm đó đều là những việc làm cụ thể, ai cũng làm được.
Với tất cả những phương thế thực hành vừa đề nghị bên trên, không phải là thể hiện lòng yêu Chúa, yêu tha nhân hay sao? Đó cũng không là phương thế truyền giáo hay sao? tin rằng bạn và tôi đều luôn là những người cố gắng sống tốt, để người ngoài nhìn vào có thể nói rằng: anh hay chị ấy sống tốt vì họ là người Công giáo.
51. Điều răn nào trọng nhất?
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật)
Điên rồ hay là đơn giản
Sau nhóm Xađốc, đến nhóm Pharisêu đặt câu hỏi với Đức Giêsu cũng với ý định bắt bẻ Người. Trước câu hỏi được nêu lên như một cái bẫy, Đức Giêsu đã trả lời ngay, không cần suy nghĩ. Chỉ trong một câu ngắn, Đức Giêsu đã rút gọn toàn bộ lề luật, đổng thời cho thấy tinh thần cũng như nét phong phú của luật pháp.
Xưa kia, bộ luật Do-thái gồm những quy định phức tạp, chặt chẽ với 613 điều -368 điều cấm và 245 điều phải làm, nay được Đức Giêsu đơn giản hoá thành 2 điều, hay đúng hơn chỉ là một: "yêu mến Thiên Chúa và người thân cận." Qua việc nối kết lòng yêu mến Thiên Chúa với tình yêu thương đồng loại, Đức Giêsu đã tóm tắt toàn bộ Kinh Thánh, coi đó như giá trị luân lý nền tảng hay quy tắc của đời sống. Khi tuyên bố điều răn thứ hai cũng quan trọng như điều răn thứ nhất, Đức Giêsu muốn cho thấy rằng tình yêu thương đồng loại có giá trị ngang hàng với lòng yêu mến Thiên Chúa.
Thế là từ nay, những khoản luật phức tạp, những chi tiết khắt khe đã được đơn giản hoá và trở nên thật dễ dàng. Tất cả bộ luật được thu tóm lại trong hai điều răn có liên hệ với nhau cách chặt chẽ. Nói cách khác, toàn bộ các điều răn khác được đặt nền trên hai điều răn này như là những điều cơ bản không thể thiếu, đồng thời cũng hướng tới hai điều răn này như là mục đích sau cùng, như tiêu chuẩn phán đoán. Tất cả những khoản luật đi ngược với tinh thần của hai điều răn này đều trở thành vô giá trị.
Như vậy, Đức Giêsu mở rộng cánh cửa hướng đến sự công chính. Luật pháp chỉ là phương tiện và chỉ có được ý nghĩa khi nó diễn tả được điều cốt yếu là sự thánh thiện nội tâm, là đức tin sống động, là tình yêu nổng nàn thúc đẩy mọi hoạt động.
Thế nhưng, chính tóm tắt có vẻ đơn giản và dễ dàng này lại buộc những người theo Đức Kitô phải sống tích cực hơn và mỗi ngày một hơn. Người ta sẽ không chỉ tuân thủ những chi tiết luật pháp, nhưng là tình yêu mến. Mà lòng yêu mến không thể bị giới hạn ở một mức độ nào đó. Đức Giêsu không nói: "Hãy yêu mến Thiên Chúa và người thân cận bao nhiêu có thể", nhưng Người đã trích dẫn luật Mô-sê: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi."Tại sao Thiên Chúa lại đòi buộc con người phải yêu mến "hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn"? Bản tính con người vốn yếu đuối, giới hạn và hay thay đỗi: điều này Người quá biết. Tại sao Người lại yêu cầu con người phải vượt quá khả năng của mình?
Thật ra, nếu đứng trên quan điểm sự khôn ngoan loài người, thì Tin Mừng toàn là những đòi hỏi vô lý, điên rổ. Những ai mong muốn tìm thấy trong Tin Mừng những câu châm ngôn hợp lý và dễ dàng, người ấy sẽ thất vọng. Quan niệm loài người sao có thể chấp nhận nỗi "Bài giảng trên núi", trong đó người nghèo được đề cao, người hèn kém được vào Nước Thiên Chúa, còn những người được coi là đạo đức lại bị loại trừ? Lý luận của con người làm sao có thể hiểu nỗi câu nói: "Ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ giữ lấy được". (Mt 10,39)? Và sau cùng, còn gì gây chướng kỳ hơn khi chứng kiến con người tự nhận là Đấng Cứu độ, Đấng ban sự sống, lại chịu treo trên thập giá? Toàn là những chuyện điên rồ!
Nên nhớ rằng, Kitô giáo không phải là một tôn giáo có thể lý luận được cách có hệ thống. Tinh thần Kitô giáo luôn hàm chứa một khả năng gây bất ngờ, và cả khó khăn nữa. Kitô giáo không phải là một thứ tôn giáo trong đó mọi sự được sắp xếp cách trật tự và hoàn hảo như một tài sản được quản lý tốt. Trái lại, Kitô giáo luôn là một sự hướng tới: hướng tới vô biên, tới Đấng mà "tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta."(Is 55,8). Đó là một sự điên rồ, điên rồ của tình yêu và đó cũng là tình yêu, tình yêu đối với Thiên Chúa và với đồng loại.
Từ "và" đến "trong"
Vào thời Đức Kitô và cả ngày nay nữa, vẫn có những trường phái tự cho rằng mình có quyền ưu tiên đưa ra giải thích đúng đắn về chân lý. Họ cho rằng quan niệm của mình là có lý còn của người khác thì sai lầm. Có lẽ con người ngày nay không cần quan tâm đến việc tìm hiểu những chi tiết trong các cuộc tranh luận của người Do-thái. Thế nhưng, khi suy niệm lời giải thích của Đức Giêsu, người ta sẽ thấy đòi hỏi luân lý được sáng tỏ và tìm ra được nét thống nhất cho mọi hoạt động và suy nghĩ của mình. Phải yêu mến Thiên Chúa "hay là" yêu mến người thân cận? Nên theo chủ trương chiều dọc "hay là" chiều ngang? Đó là những câu hỏi con người thời nay thường nêu lên. Với một số người, sự quan tâm đến những vấn đề cụ thể của con người có thể gây nguy hại cho lòng tin vào Thiên Chúa. Với những người khác, thời giờ dành cho Thiên Chúa có nguy cơ làm quên lãng người thân cận. Thật ra, ngày nay cũng như ngày xưa, Đức Giêsu luôn mời gọi và bó buộc phải vượt ra khỏi những song quan luận theo kiểu này. Chúng chỉ là những thứ mặt nạ che dấu thái độ từ khước cũng như những nỗi sợ hãi của con người. Trả lời cho nhà thông luật về điều răn trọng nhất, Đức Giêsu đã khẳng định đó là lòng yêu mến Thiên Chúa. Tuy vậy, Người còn đưa ra, hay đúng hơn, còn nối kết tình yêu thương đồng loại với lòng yêu mến Thiên Chúa, "cũng giống điều răn ấy".
Điều răn thứ hai này "cũng giống" điều răn thứ nhất, tức là cả hai đều quan trọng. Nói cách khác, điều răn thứ hai có bản chất và tầm quan trọng cũng "lớn" như điều răn thứ nhất. Dầu vậy, giống nhau chứ không phải là đồng nhất: hai việc đó vẫn khác nhau và có thứ tự trước sau, không thể đổi qua đổi lại với nhau như thể yêu đồng loại cũng là yêu mến Thiên Chúa, và yêu mến Thiên Chúa tức là yêu mến đồng loại: Thiên Chúa luôn ở phía chân trời và luôn mời gọi con người tiến xa hơn; đồng loại là thực tại gần gũi với những giới hạn cụ thể. Giáo huấn của Đức Giêsu có ý nhấn mạnh rằng yêu mến đồng loại cũng có tính cách khẩn thiết như là yêu mến Thiên Chúa, và không được xao lãng nhiệm vụ nào.
Do đó, không có vấn đề bên này hay bên kia. Không được quyền nói "hay là", nhưng phải nói "và". Một cách chính xác hơn: chỉ có thái độ mở ra với Thiên Chúa mới dẫn đến tình yêu thương đồng loại cách đích thực; và chỉ có thái độ sẵn sàng với người khác mới cho phép con người nói rằng mình yêu mến Thiên Chúa mà không dối trá. Sau đó, "và" sẽ biến thành "trong": con người yêu mến Thiên Chúa "trong" người thân cận, và yêu mến người thân cận "trong" Thiên Chúa. Huyền nhiệm và con người hành động không phải là kẻ thù của nhau, nhưng là anh em của nhau.
Bài học phải thuộc lòng
Bài Tin Mừng này con đã thuộc lòng con biết rất rõ điều răn phải yêu mến Thiên Chúa và người thân cận bắt nguồn từ một tâm tình duy nhất. Thế nhưng, hình như bản Tin Mừng chỉ là một thứ kỷ niệm, tựa những câu chuyện cổ tích thời thơ ấu, như một điều không có thực. Làm sao con có thể yêu nỗi mình và cả người khác đang vắng mặt?
Không, con chỉ mới thuộc mặt chữ, con quên rằng chính Thầy đang thì thầm trong hồn con, và đang thúc đẩy con ra khỏi mình. Con đã quên rằng lề luật không phải là nhà tù, cũng không phải là một sự sắp xếp. Trái lại, đó là một lời mời gọi hướng tới tình yêu, đó là lời kêu mời hãy nhận ra rằng: bàn tay con được dựng nên để nắm lấy, và trái tim con được dựng nên để thứ tha. Lắng nghe lời Thầy, con sẽ không cảm thấy gì khác hơn là con đang mang trong mình một khát vọng vô biên. Con nghĩ rằng mình thuộc lòng bài Tin Mừng, nhưng con đã không hiểu thấu Thầy là ai, cũng chẳng hiểu rõ các điều răn. Thầy là tình yêu, và con đã quên mất - Thầy đã đến gặp con để con được sinh ra, và cũng trở thành tình yêu. Thầy biết rõ con không hiểu về chính con, cũng không hiểu về người khác, về Thiên Chúa. Chính vì vậy, Thầy đã đến trần gian. Hãy đến và sống theo Thầy bấy giờ con sẽ thuộc và hiểu rõ về Tin Mừng.
52. Yêu như Chúa yêu
(Suy niệm của Lm. John Nguyễn Văn Tươi. Utica-NY)
Con người luôn khao khát và tìm kiếm hạnh phúc, vì hạnh phúc mang lại cho ta niềm vui, sức sống và nghị lực. Để hiểu thế nào là tình yêu và hạnh phúc, thì chúng ta cần phải biết yêu thương và sống cho tha nhân, đó cũng là giới luật yêu thương của Chúa Giê-su. Người ta không thể có tình yêu và hạnh phúc nếu người đó không biết yêu thương. Lời yêu thương luôn là lời êm đẹp, quyến rũ và hấp dẫn. Yêu và được yêu là niềm hạnh phúc nhất của con người.
Ngày nay, người ta nói rất nhiều về tình yêu, tình yêu được diễn tả trong thơ ca, trong âm nhạc, trong phim ảnh v.v. Tình yêu thì rất đẹp. Nhưng để hiểu và sống đúng với giá trị của tình yêu là điều mà chúng ta cần đáng quan tâm và chia sẻ với nhau qua thông điệp Lời Chúa hôm nay. Như nhà thông luật đặt ra câu hỏi với Chúa Giê-su:" Thưa Thầy, trong sách luật Mô-sê, điều răn nào là quan trọng nhất?" Đức Giê-su đáp:" Người phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng hết linh hồn và hết trí khôn người và yêu người thân cận như chính mình vậy." Lời Chúa Giê-su giải thích rất rõ ràng, yêu Chúa chính là yêu người. Yêu người chính là yêu Chúa. Vì người ta không thể yêu Chúa mà không yêu thương người anh em thân cận. Như lời Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô nói rằng, đạo đức không phải là một thứ sản phẩm để người ta quảng cáo, nhưng là để sống và thực hiện đời sống đức tin, nó được biểu hiện trong mối tương quan với tha nhân và Thiên Chúa.
Người ta có thể dễ dàng nói lời yêu với Chúa, nhưng lại rất khó nói lời yêu thương với một người phản bội, đối nghịch và là kẻ thù với mình. Hằng ngày, có những người hàng xóm đang sống chung quanh ta, họ đang làm cho ta phải sự ganh tỵ và ghen ghét vì họ giàu có, tài năng và hạnh phúc hơn ta. Những thứ cám dỗ đó làm cho ta nhìn người thân cận như là đối thủ cạnh tranh hơn là đón nhận và cảm phục họ, và tha nhân trở thành địa ngục cho mình. Hơn nữa, trong đời sống gia đình, có biết bao gia đình hôm nay đang tan vỡ và ly dị. Họ không có hạnh phúc vì có quá nhiều sự khác biệt trong cuộc sống hôn nhân. Họ không còn cảm nhận được tình yêu và hy sinh dành cho nhau, thì lời nói tha thứ, khoan dung lại càng trở nên khó khăn hơn. Họ phải sống trong đau khổ, uẩn ức và chịu đựng, đó là những nguyên nhân dẫn đến sự tan vỡ hạnh phúc trong đời sống gia đình. Cuộc sống gia đình hôm nay đang gặp phải những thách đố và khó khăn, vì họ có quá nhiều áp lực bởi sự so sánh giàu nghèo, tính toán hơn thua. Tình yêu được đặt trên cung bậc bởi sự đánh giá giàu nghèo và địa vị. Cho nên, con người luôn đi tìm hạnh phúc trong cái hoàn hảo, và kiếm tìm tình yêu trong ảo tưởng hơn là những gì họ đang có. Đó là thứ tình yêu "ảo" qua các trang mạng, sách báo và phim ảnh mà người ta cho đó là thật. Trong khi đó, gia đình mái ấm hạnh phúc thì lại coi thường và bị bỏ rơi. Người ta thường coi hạnh phúc là được hưởng thụ hơn là sự hy sinh. Thật sự, không có hạnh phúc tột đỉnh nào trên trần gian này lại phải không phải trả giá để đạt được nó.
Tình yêu chỉ có giá trị và mang lại hạnh phúc đích thực khi người ta biết chấp nhận và sống cho tình yêu. Như lời Chúa Giê-su dạy: " Không có tình yêu lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống mình vì người mình yêu." Chỉ có tình yêu nơi Đức Giê-su là tình yêu tuyệt đối. Tình yêu làm xóa tan hận thù. Tình yêu làm biến đổi thù thành bạn. Tình yêu là sự tha thứ cho kẻ đã giết mình. Tình yêu đã chữa lành biết bao con người tội lỗi quay trở về. Tình yêu Thiên Chúa vượt lên trên tất cả. Thiên Chúa yêu thương con người và muốn con người hạnh phúc, nên Ngài đã ban Con Một của Ngài là chính Đức Giê-su đã chết cho nhân loại và phục sinh để ban ơn cứu độ cho con người. Ai tin thì sẽ được sống và hạnh phúc đời đời.
Tóm lại, nếu chúng ta muốn được yêu và sống yêu thương như Chúa yêu, thì chúng ta hãy vượt lên trên chính mình, đi ra khỏi sự "cái tôi" thấp hèn và ích kỷ. Tình yêu là sống. Sống là để yêu. Tình yêu mang lại hạnh phúc, nhưng tình yêu phải được gắn liền với tình yêu thạp giá Chúa Ki-tô, thì mới đơm hoa kết trái của đức ái trọn hảo. Như Thánh Phao-lô viết: " Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả và chịu đựng tất cả".
Yêu như Chúa yêu. Tình yêu là không chỉ biết đón nhận mà còn phải biết cho đi. Cho và nhận là bản chất của tình yêu, như vị thánh Đức Giáo Hoàng Gioan PLII đã nói với kẻ đã sát hại ngài rằng: "Tôi luôn cầu nguyện cho người anh em đã bắn vào tôi, người tôi đã chân thành tha thứ". Vì lời tha thứ luôn là điều cao quý nhất làm xóa tan lòng hận thù và chữa lành vết thương tâm linh, để ta có sức mạnh tiếp tục yêu thương. Amen.
53. Suy niệm của ÐGM. Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Mọi người đều biết, các giới răn của đạo ta quy về hai việc mến Chúa và yêu người. Nhưng muốn biết phải mến Chúa thế nào và yêu người làm sao thì phải dựa vào Thánh Kinh. Những bài đọc Thánh Kinh hôm nay cũng nói về hai điều đó. Tuy là những bài viết ở những thời đại khác nhau và đã xưa rồi; nhưng suy nghĩ, chúng ta càng nhận thấy tính cách trường cửu của Lời Chúa.
Bài sách Xuất hành đưa chúng ta trở về thời Cựu Ước xa xưa. Chúng ta sẽ ngạc nhiên về tính cách nhân đạo của nếp sống đạo đức thời bấy giờ. Và chúng ta sẽ hiểu bối cảnh của bài Tin Mừng hơn để nhận ra uy tín của Ðức Kitô khi khẳng định về luật mến Chúa yêu người. Cuối cùng thư Phaolô sẽ cho chúng ta thấy gương sáng của một giáo đoàn biết đón nhận và thi hành Lời Chúa.
A. Trước Hết, Thời Xưa Ðã Có Nhân Ðạo
Chúng ta thường nghĩ rằng ngày xưa người ta chỉ biết lấy mắt trả mắt, răng đền răng. Hơn nữa chúng ta còn dám so sánh và cho rằng ở những thời đại xa xưa của Abraham, Môsê và Ðavít, người ta chỉ cư xử với nhau bằng luật rừng, chứ không thể cư xử với nhau theo tình bác ái. Bài sách Xuất hành hôm nay khiến chúng ta phải dè dặt hơn.
Dĩ nhiên đây không phải là những luật đã được ban bố vào thời Xuất hành. Người ta quen lấy những luật ở những thời đại về sau đem cắm vào những thời đại trước và đặt nơi môi miệng của nhà luật pháp trứ danh là Môsê để chúng được thêm uy tín. Tuy nhiên chúng vẫn căn cứ vào biến cố Xuất hành như ta thấy ở ngay câu đầu tiên trong bài đọc hôm nay.
Chúa truyền cho dân: "Khách cư ngụ, ngươi không được ngược đãi và áp bức nó, vì các ngươi đã là khách cư ngụ ở đất Aicập". Và Người dạy không được ức hiếp mẹ góa con côi, kẻo nó kêu lên Người thì khí nộ Người bốc lên làm cho người ta rơi vào cảnh vợ góa con côi.
Chúng ta thử đặt các lệnh truyền này vào thời đại của chúng cách đây ít nhất cũng phải gần 3,000 năm. Ðó không phải là nhân đạo và văn minh sao? Nhất là luật tiếp theo. Phải cho vay mà không được lấy lãi. Ðược giữ vật thế chân để tránh sự lạm dụng, nhưng những đồ cầm đó phải trả lại trước khi mặt trời lặn, kẻo đêm lạnh người nghèo không có áo làm mền.
Thật, ngày xưa đã có những luật không cho phép người ta bóc lột nhau. Nhưng ở đây không phải chỉ có vấn đề nhân đạo, mà còn có cơ sở đạo đức. Chúa dạy dân phải giữ các lệnh truyền bác ái, không phải vì mọi người là đồng loại, hoặc vì phải nhớ lại hồi trước dân đã từng là nạn nhân của nhiều sự bóc lột, nhưng nhất là vì Thiên Chúa là Ðấng lân tuất. Người luôn luôn xót thương và bênh vực những kẻ khó nghèo và yếu thế. Người chống lại bóc lột. Người đòi cho mọi người được bình đẳng vì tất cả đều là hình ảnh của Người. Người ta muốn đẹp lòng Người thì phải săn sóc đến tha nhân. Người không tách rời lòng đạo đức và tình đồng loại. Người không đồng hóa hai vấn đề mến Chúa và yêu người; nhưng Người chỉ chấp nhận những lòng mến Chúa đồng thời cũng thương người.
Ý định của Thiên Chúa thì rõ rệt như vậy; nhưng thường khi người ta lại không thi hành. Ngay ở trong Dân Chúa, bất công xã hội và bóc lột những kẻ yếu hèn là chuyện không hiếm hoi. Các tiên tri của Chúa phản ứng mạnh mẽ, nhưng cho đến thời Chúa Yêsu vẫn còn có những khuynh hướng pháp luật muốn tách rời hai nhiệm vụ mến Chúa và yêu người. Thậm chí người ta còn muốn căn cứ vào lòng mến Chúa để coi nhẹ bổn phận thương người. Ðọc kỹ bài Tin Mừng hôm nay chúng ta sẽ thấy như vậy.
B. Cả Hai Giới Răn Ðều Quan Trọng
Mở đầu, thánh Matthêô đã cho chúng ta thấy bầu khí tranh chấp đố kỵ của thời Ðức Yêsu. Người theo Biệt phái, kẻ theo Sađốc phái. Bên này gài bẫy bên kia và hí hửng khi đối thủ gặp nạn. Từ lãnh vực chính trị xã hội, cuộc tranh chấp lan sang phạm vi tôn giáo. Luật pháp có tới 613 khoản: 248 lệnh truyền và 365 điều cấm. Nhưng khoản nào trọng hơn khoản nào và khoản nào quan trọng hơn hết? Ðó là vấn đề sôi bỏng. Tùy theo người ta nghiêng về phụng vụ hay xã hội, về Ðền thờ hay về đền vua, mà người ta có thể biện minh cho thái độ Biệt phái hay Sađốc phái, thái độ dè dặt hay hợp tác với ngoại bang. Ai cũng muốn tranh thủ người khác về phe mình. Người ta muốn biết ý kiến của Ðức Yêsu. Lập trường của Người rất quan trọng, vì dân chúng sẽ tùy đó mà biểu lộ cảm tình với phe nào. Nhưng tuyên bố lập trường ấy ra cũng thật nguy hiểm cho Người. Phe đối địch sẽ có thêm chứng cớ để tiêu diệt Người.
Tuy nhiên đó chỉ là những suy tính của người ta. Ðã nhiều lần họ gài bẫy Người. Nhưng chẳng có lần nào họ đã thành công. Hôm nay cũng vậy. Ðược hỏi ý kiến về giới răn trọng nhất. Người trả lời như hết mọi người Dothái đạo đức: Ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, và hết lòng trí ngươi. Ðó là câu trong sách Thứ luật (6,5), là kinh nguyện hằng ngày của Dân Chúa. Nhưng Ðức Yêsu không dừng lại ở đó. Người còn nói tiếp: Ðó là giới răn thứ nhất. Thứ đến cũng quan trọng như vậy, là ngươi phải thương đồng loại như chính mình. Người không đồng hóa hai việc mên Chúa và yêu người. Hai việc đó vẫn khác nhau và có thứ tự trước sau, nhưng quan trọng như nhau; và vì thế không được sao nhãng nhiệm vụ nào. Nét độc đáo trong câu trả lời tức là lập trường của Ðức Kitô là ở chỗ đó. Người ta vẫn nói phải mến Chúa và thương người, phải có thiên đạo và nhân đạo. Nhưng thông thường người ta vẫn coi đó là những nhiệm vụ rời nhau, những bổn phận không liên lạc gì với nhau. Người ta có thể mến Chúa trong Ðền thờ và không thương người ngoài xã hội hoặc thương người nơi xã hội nhưng lại không mến Chúa trong Ðền thờ. Nhất là người ta quen coi thương người là thứ yếu sánh với nhiệm vụ phải mến Chúa.
Ðối với Ðức Kitô thì không được như vậy. Phải thương người cũng như mến Chúa. Ưu tiên là mến Chúa nhưng đồng thời cũng phải thương người. Sau này thánh Yoan sẽ giải thích: không thể có lòng mến Chúa vô hình nếu không thương người hữu hình (1Yn 4,20). Và khi dạy phải thương người như chính mình, Ðức Yêsu không có ý bảo phải thương mình trước, hay cũng phải thương cả tha nhân nữa. Câu nói của Người có nghĩa rằng: phải thương người hết mình như đã mến Chúa hết linh hồn.
Cuối cùng một nét độc đáo nữa trong câu trả lời của Ðức Yêsu là: tất cả Luật pháp và Tiên tri đều quy về hai giới răn mến Chúa và yêu người ấy. Và như vậy, không những tất cả 613 khoản luật, mà toàn thể mọi lời giáo huấn đều nhằm phát triển lòng mến Chúa và yêu người.
Vấn đề tranh chấp xưa nay giữa các phe nhóm đã được giải quyết. Chẳng phe nào thắng nhưng nhóm nào cũng phải nỗ lực hơn để giữ trọn Lề luật. Nói đúng ra phe nhóm nào cũng đã lầm lạc. Khi đã không coi trọng hai nhiệm vụ mến Chúa và thương người như nhau, người ta đã làm mất quân bình, gây ra lệch lạc trong đời sống. Ðức Yêsu đã mang ơn cứu độ đến. Ai đón nhận thì phải mến Chúa nhưng đồng thời cũng phải thương người. Thái độ đó, một phần nào chúng ta có thể nhìn thấy nơi giáo đoàn Thessalônikê của thánh Phaolô, mà bài thư hôm nay như muốn nói lên.
C. Một Gương Thực Hành
Có thể nói đây là những đoạn văn đầu tiên của bộ sách Tân Ước. Phaolô đã viết bức thư này trước hết vào khoảng năm 51, tại nhà Aquila sau khi Timôthê đã mang mực và da thuộc đến. Lần đầu tiên biên thư cho một giáo đoàn, nên Phaolô có một thái độ trịnh trọng đạo đức, và hầu như phụng vụ nữa.
Người tạ ơn Chúa vì sự sống đạo nơi giáo đoàn ấy. Giáo đoàn Thessalônikê vừa bắt chước Chúa vừa bắt chước các Tông đồ. Họ sống kết hợp với Chúa nhưng cũng kết hợp với các Tông đồ vì họ đã thấy các Tông đồ đến lo việc của Chúa ở nơi họ nhưng đồng thời đã tỏ ra đầy tinh thần phục vụ họ. Mến Chúa và yêu người không phải là hai phận sự tách biệt, nhưng cũng quan trọng như nhau và phải tiến hành đồng đều. Chính vì vậy mà tiếng tăm của giáo đoàn này đã bay đi khắp nơi và Thessalônikê đã trở thành giáo đoàn gương mẫu. Mọi nơi đều ca ngợi họ về hai điểm: đón nhận Lời Chúa cũng như đón nhận các Tông đồ. Họ vừa mến Chúa vừa thương người, vừa kết hợp với Chúa vừa hiệp nhất với nhau.
Cảm động và chân thật hơn nữa là thái độ đón nhận này quả thật rất siêu nhiên, vì là đón nhận giữa bao nỗi gian truân, nhưng lại hoan hỷ trong Thánh Thần. Ðiều này làm chứng Tin Mừng mà Phaolô đem đến không phải là lời của loài người nhưng là Lời của Thiên Chúa. Dân Thessalônikê đón nhận không phải vì thấy đó là lời lẽ khôn ngoan xác thịt, nhưng là Lời có sức mạnh của Thần Khí. Họ phải lướt thắng nhiều khó khăn để đón nhận và đón nhận vui vẻ. Thế nên họ thật đã tham dự vào mầu nhiệm tử nạn phục sinh của Chúa. Họ đã lãnh nhận được chính ơn cứu độ của mầu nhiệm thập giá. Phaolô đánh giá việc họ đón nhận là việc bắt chước Chúa Yêsu và các Tông đồ; bởi vì khi đón nhận Lời Chúa trong gian truân mà vui vẻ thì rõ ràng người ta đã bắt chước các Tông đồ trong việc dạn dĩ rao giảng Lời Chúa giữa ngăn cấm và đe dọa. Nói cách khác, lòng mến Chúa và thương người nơi giáo đoàn Thessalônikê không theo lẽ thế gian nhưng tựa vào sức mạnh của Thánh Thần. Ðó là nếp sống đạo chân thật vì hoàn toàn siêu nhiên. Phaolô có lý do để hãnh diện vì nếp sống đạo ấy. Người tạ ơn Chúa thật là phải lẽ. Và người không nói sai khi tuyên bố đó là nếp sống phải trở nên gương mẫu cho mọi giáo đoàn.
Chúng ta nghĩ sao về các lời Kinh Thánh ấy? Chúng ta đã thâm tín tất cả Luật pháp và Tiên tri đều quy về hai giới răn mến Chúa và yêu người. Ðó vẫn là hai việc khác nhau: không thể coi mến Chúa là thương người; và cũng không được coi thương người là mến Chúa. Nhưng đó là hai việc quan trọng như nhau; phải thi hành cả hai, phải quý cả hai như một; phải kết hiệp với Chúa và đồng thời cũng phải hợp nhất với mọi người.
Giáo xứ chúng ta có được như giáo đoàn Thessalônikê không? Gặp gian truân, khó khăn, chúng ta có "bắt chước" Chúa và các Tông đồ không? Có giữ đạo và đời không? Có vừa làm tốt đời và đẹp đạo không? Biết đâu những lời trong bài sách Xuất hành không đang còn có giá trị khẩn trương? Chung quanh chúng ta có những đồng bào mới đến. Những anh chị em ấy có được lập tức đón nhận như đồng bào ruột thịt không? Những cảnh mẹ góa con côi cũng không hiếm ở giữa chúng ta. Và chắc chắn nhiều người đang lâm cảnh vay mượn và cần giúp đỡ. Lòng nhân đạo khi gặp khó khăn có vươn lên được nhờ sự giúp đỡ của đức tin không?
Các tín hữu ở Thessalônikê đã nhờ việc "bắt chước" Ðức Kitô mà có một nếp sống đạo chân thực và tốt đẹp. Giờ đây, Ðức Kitô đến hiện diện trong mầu nhiệm tử nạn phục sinh nơi bàn thờ. Chúng ta muốn tham dự vào mầu nhiệm của Người. Nhưng việc tham dự này chỉ chân thật khi chúng ta quyết tâm bắt chước cuộc đời của Ðức Kitô. Chúng ta sẽ làm chứng mình đã tham dự thánh lễ chân thật, nếu sau khi về nhà, chúng ta sẽ sống tốt cả hai nhiệm vụ mến Chúa và yêu người. Chúng ta sẽ là Kitô hữu tốt khi chu toàn các bổn phận đối với cả đạo và đời. Xin Thiên Chúa giúp đỡ chúng ta.
54. Hàng ngàn giới răn?
Một lần nữa những người Pharisêu muốn giăng bẫy Chúa Giêsu, kiểm tra giáo lý của Ngài, dồn Ngài vào chân tường, dẫn Ngài vào trong sự rắc rối của hàng ngàn luật lệ. Người ta sắp thấy điều Ngài biết, sắp thấy Ngài có dạy dỗ tốt điều cần phải dạy dỗ hay không.
Chúa Giêsu thoát ra khỏi cái bẫy với một sự tự do, một sự trong sáng và một sức mạnh sáng tạo làm cho những người Pharisêu không nói được một lời nào. Ngài trích dẫn hai câu cổ điển: “Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa... Ngươi phải yêu thương anh em ngươi...”. Đây là câu trả lời đơn giản của học trò giỏi, nhưng Ngài rút ra từ đó hai điều mới lạ.
Điều thứ nhất, Ngài đưa hai điều luật tới gần nhau bằng cách cho hai điều luật đó có tầm quan trọng như nhau. Kể từ giây phút này tình yêu thương anh em được nâng lên gần với tình yêu thương Thiên Chúa và sẽ không rời ra nữa.
Điều thứ hai, Ngài làm cho viên ngọc duy nhất nay sáng lên bằng cách để cho nó ngự trị trên toàn bộ những điều chúng ta nghĩ và làm: tất cả đều tuỳ thuộc vào tình yêu. Việc kể ra nhiều những điều phải làm hoặc không được làm, làm phát sinh hàng ngàn câu trả lời cho một câu hỏi: tôi có thể yêu thương như thế nào?
Chúa Giêsu nói tất cả những gì chứa đựng trong Kinh Thánh, lề luật và các tiên tri, và do đó tất cả những gì Thiên Chúa chờ đợi nơi chúng ta, phát xuất từ hai điều răn gắn với nhau này. Những người chẻ sợi tóc làm tư đã hỏi Ngài nay bị buộc quay về điều cốt lõi: “Hãy yêu thương”.
Chúng ta cũng thế, chúng ta cảm thấy rằng tuân giữ hoàn toàn hai giới răn lớn này là một cách thức triệt để, nhưng có tính cách bó buộc đến nỗi chúng ta thích đi quanh co ở giữa hàng ngàn điều qui định. Đàng khác, những qui định này là cần thiết, “yêu thương” thì quá mơ hồ, phải hun đúc yêu thương bằng những bó buộc khác nhau. Tôi phải biết rằng tôi thật sự yêu mến Thiên Chúa và anh em của tôi nếu tôi làm điều này điều kia.
Nhưng thế rồi nổi lên một nguy cơ muôn đời: làm mất tác dụng sự bó buộc yêu thương bằng việc cứ nhắm mắt tuân thủ bó buộc đó. Với ít nhiều ý thức chúng ta lý luận theo cách này: nếu tôi làm tất cả những gì được yêu cầu thì đã yêu thương rồi đó. Không đâu. Điều đó chưa đúng, bởi vì điểm xuất phát thì xấu. Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng tất cả trước tiên tùy thuộc vào dự kiến triệt để đó là yêu thương. Chúng ta đừng bao giờ bắt đầu bằng hàng ngàn điều phải làm nhưng là bằng xác tín mà tất cả đều tuỳ thuộc vào đó: tôi phải yêu thương.
Theo Tin Mừng, bí mật của cuộc sống là: trước hết phải thực hành yêu thương điều gì đó một cách hoàn toàn vô điều kiện. Thế rồi ý thức muốn yêu thương này sẽ dần dần hóa thân vào trong tất cả các biến cố, các cuộc gặp gỡ và các sự tuân phục –nhưng không đắm chìm vào trong đó. Sẽ là bất hạnh nếu lại rơi vào trong sự âu lo và sự nô lệ hàng ngàn giới răn, sau khi đã nhận được từ Chúa điều răn ngắn nhất và tự do nhất trong số các điều răn của cuộc sống: Tôi có yêu thương hay không?
55. Điều cốt yếu
Các cuộc tranh luận giữa bọn Biệt Phái về phương diện Giáo lý, đã đi tới chỗ quyết liệt nhất là khi tìm xem điều gì cốt yếu.
“Giới luật nào quan trọng nhất?”. Bọn Biệt Phái hỏi Chúa như thế. Họ mong muốn Chúa sẽ trình bày luật pháp là tạm thời, rồi mưu mô đề cao lời của Ngài để nhờ đó, họ có thể công kích hoặc nói rằng Ngài chỉ nêu lên một điểm trong toàn bộ luật pháp, và vì thế họ cũng có thể làm Ngài thua cuộc. Nhưng Đức Kitô thấu triệt được thâm ý của họ. Ngài đi thẳng vào vấn đề: nghĩa là Ngài nêu lên điểm gì là quyết định, chủ yếu, đúng như lời Thiên Chúa đã dạy, tức là nêu lên một phương diện chung duy nhất đó là đức ái.
Mến Chúa là điều cốt yếu. Điều cốt yếu không phải chỉ là khúm núm sụp lạy Thiên Chúa tạo hóa, cũng không phải là lời tuyên xưng tội lỗi của tội nhân, cũng không là cách chiêm niệm siêu thoát của một người đặc biệt, cũng không là ơn xuất thần của một tâm hồn huyền bí. Nhưng điều cốt yếu là đức ái, tức là dòng nước tình ái giữa Chúa và ta. Đó là tình trạng hiệp nhất thâm sâu và nồng thắm, là ngọn lửa thánh thiện bừng cháy trong tâm hồn, là thái độ hiến thân trọn vẹn để được tan biến trong đấng duy nhất và oai nghiêm là Thiên Chúa. Yêu và được yêu là mầu nhiệm thâm sâu nhất của Tôn Giáo Chúa Giêsu. Ở đây không có vẻ rườm ra như một tôn giáo vị luật, nhưng Ngài chỉ quyết đáp một điểm về bản tính đích thực của luật. Tất cả những giới luật chi tiết khác phải hỗ trợ cho điểm trung tâm này. 10 giới răn chỉ là những đường hướng hoạt động khác biệt. Muốn tuân giữ các giới răn ấy, phải có một lòng mến trung thực thấm nhuần tâm hồn và cảm năng, nghĩa là tâm hồn được chìm đắm sâu xa trong vẻ cao trọng huyền nhiệm của Thiên Chúa.
56. Giới luật thứ nhất và trên hết – Lm. An Phong
Nếu tình cờ có ai hỏi: "Đối với bạn, điều gì quan trọng nhất?"; chắc hẳn sẽ có rất nhiều câu trả lời. Có người sẽ cho rằng đó là chu toàn trách nhiệm; vì ai sinh ra đời cũng đều lãnh nhận trách nhiệm, trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội.
Có người sẽ không ngần ngại trả lời: đó là sống trong sạch; vì quả thật, theo nhà phân tâm học Freud, chúng ta chào đời với đầy những ám ảnh về những cấm kỵ, những cám dỗ về điều răn thứ 6, tội dâm dục…
Người khác lại sẽ cho rằng đó là sự công bằng. Bởi lẽ phải có công bằng trước đã, rồi mới có thể nói đến bác ái, tình yêu. Một xã hội công bằng, đó đã là một điều tuyệt vời lắm rồi.
Và còn có thể có nhiều câu trả lời khác nữa cho câu hỏi này; cũng như người Do Thái khi xưa đã tranh luận mãi về một giới răn trọng nhất.
Đức Giêsu, Ngài tóm tắt điều quan trọng nhất trong một giới luật: "Mến Chúa, yêu người". Tất cả những câu trả lời khác đều tốt, nếu chúng thể hiện được lòng "mến Chúa yêu người"; và sẽ chẳng là gì nếu chúng không xuất phát từ lòng "mến Chúa yêu người". Có thể chúng ta đã coi trọng chuyện "nhà thờ nhà thánh" hơn là quan tâm đến một người hàng xóm đang gặp túng quẫn; có thể chúng ta giữ kỹ mọi lề luật, nhưng lại so đo tính toán với Chúa từng ly từng tí… như thế thì còn đâu là "mến Chúa yêu người" được.
Thái độ căn bản của tình yêu là cởi mở, đón nhận. Mở lòng ra với Thiên Chúa và quảng đại đón nhận anh chị em. Mở lòng ra với Chúa để chu toàn những luật lệ đòi buộc ta không làm như người nô lệ; quảng đại đón nhận anh chị em để mối tuơng quan con người với nhau không bị đổ vỡ, méo mó vì những chấp nhất, tỵ hiềm, ganh ghét.
Thánh Phaolô đã diễn tả tình yêu đó như sau: "Đức Mến thì nhẫn nhục, hiền hậu; không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng vui khi thấy sự ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả" (1Cr 13,4-7).
Chỉ có một điều quan trọng nhất là lòng Mến; nhưng lòng Mến lại được thể hiện trong muôn vàn cách thức khác nhau.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã yêu thương;
và vì tình yêu đó,
Chúa đã dám làm tất cả cho người Chúa yêu.
Xin cho chúng con
cũng được tràn đầy tình yêu như Chúa.
Xin cho chúng con cũng dám vì yêu thương
mà tận tâm phục vụ anh chị em của con.
57. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
GIỚI RĂN TRỌNG NHẤT
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Biệt phái tụ họp lại một chỗ": Kiểu nói được dùng ở đây (“sunôthêsan epi to auto") là một trích dẫn nguyên văn từ Thánh vịnh 2,2: "Vua chúa trần gian dấy binh khởi nghĩa, vương hầu liên minh một khối (dịch sát chữ: "tụ họp lại một chỗ" (sunêthôsan opi to auto) chống lại Giavê và Chúa Kitô của Ngài". Thế mà, trong 26, 3 Mt sẽ còn dùng lại cùng động từ ấy (ở cùng một cách, một thì, một ngôi) để diễn tả âm mưu tại nhà Caipha giữa các thượng tế và các kỳ lão nhằm giết Chúa Giêsu. Qua sự tương đồng ấy, Matthêu ngụ ý là những cuộc tranh chấp trong chương trình này chỉ là mào đầu cho cuộc đối đầu quyết liệt sẽ đưa Chúa Giêsu đến thập giá. Những cuộc tụ họp như vậy của các đầu mục trong dân hay được Matthêu nhắc lới (2, 4; 22, 41; 26, 3. 57; 27, 62; 28,12) và thường là điềm dữ.
"Để làm Người lúng túng": dịch sát chữ: "Để thử Người" Matthêu cũng dùng động từ này (pelrazein) ở 22, 18 nơi kể lại chuyện người ta "thử" Chúa Giêsu về vấn đề nộp thuế cho hoàng đế. Rõ ràng luôn luôn là dùng cạm bẫy trong cả đoạn.
"Giới răn nào lớn nhất trong Lề luật": Lời giải thích được yêu cầu thật đặc biệt quan trọng, vì đây không phải là giải thích một trường hợp cụ thể, đặc thù nhưng là làm sáng tỏ một đòi hỏi luân lý trong chính bản chất của nó. Bản văn hy ngữ dịch sát chữ như sau: Đâu là giới lăn lớn trong Lề luật. Nhưng hình thức nguyên cấp (positio của tĩnh từ lớn (megalê) có giá trị tuyệt đối cấp (superlatio, như thường thấy trong Hy ngữ bình dân (Koinè) và trong bản 70 chịu ảnh hưởng của Hy bá, nhất là nếu sau nó có một danh từ tập hợp, ở đây là Lề luật, hiểu theo nghĩa toàn bộ các giới răn.
"Ngươi phải yêu mến...". Trong việc triệt để hóa Lề luật này, không có vấn đề đơn giản hóa bằng cách loại bỏ những điều lệ phụ tùy (mà Chúa Giêsu lẫn môn đồ đều tuân giữ) cho bằng là nhắc lại ý nghĩa của các giới răn, và cho thấy chúng bắt nguồn từ trong ý định tối cao của Thiên Chúa. Còn về hình thức phát biểu của giới răn này, đừng tìm cách phân tích đâu là những phạm vi tương ứng của lòng, của linh hồn, của trí khôn: ý nghĩa trùng tích của các thành ngữ là: tình yêu phải có tính cách toàn diện, nghĩa là phải động viên tất cả con người; dầu sao, chỉ cần một từ ngữ thôi, như "lòng" chẳng hạn, cũng đủ để ám chỉ toàn thể con người; các tiếng khác thuộc về kiểu nói hùng biện; lòng và tư tưởng (hy lạp: dianoia) là tiếng dịch chữ lòng (hy bá: leb) của Cựu ước; không nên nghĩ đến một chức năng đặc biệt nào đó của trí tuệ suy luận; trí tuệ được vận dụng vì toàn thể con người dấn thân.
"Đó là giới răn lớn, giới răn đệ nhất": Chữ "và" nối liền hai tĩnh từ lớn và đệ nhất chắc có nghĩa giải thích hơn là có nghĩa cộng thêm: giới răn này đứng đầu hết vì nó quan trọng nhất xét về nội dung và ngược lại; tĩnh từ đệ nhất không muốn nói là giới răn đứng đầu nhiều giới răn khác nhưng là đứng đầu tất cả xét về phương diện ý nghĩa, vì chính nó đem lại ý nghĩa đích thực cho mọi giới răn. Bởi vậy kiểu nói thứ đến cũng giống như điều ấy chẳng có nghĩa là: ở hàng thứ hai xét về bậc quan trọng, nhưng là: cũng quan trọng như giới răn thứ nhất; giới răn thứ hai không thể so sánh, hay tương tự như giới răn thứ nhất, song là ngang hàng xét về tầm quan trọng cửa cái mà nó dạy truyền; tuy nhiên nó không đồng nhất theo nghĩa có thể chuyển hoán: tình yêu tha nhân chẳng được đồng hóa với lòng yêu mến Thiên Chúa, nhưng yêu mến tha nhân cũng khẩn thiết như mến yêu Thiên Chúa.
“Toàn thể Lề luật cùng các sứ ngôn": Chúa Giêsu hoàn toàn đứng trên lãnh vực các Sách thánh đã được ban cho tổ tiên dân Do thái. Người không phát minh điều gì; tầm quan trọng của hai giới răn này dựa trên sự kiện chúng tóm kết tất cả các Sách Thánh; nhưng đàng khác, Chúa Giêsu đã tái giải thích các Sách Thánh ấy khi mặc khải ý nghĩa thâm sâu của chúng ra (x Rm 13, 9).
KẾT LUẬN
Cái mang lại cho giới răn này uy tín và sự cao cả, chính là vì Chúa Giêsu đã phát biểu nó lên và cho nó là lớn lao, quan trọng. Người không mang đến (hay chưa mang đến) một giới răn mới mẻ, nhưng Người mặc cho giới răn cũ giá trị đích thực củ a nó. Câu trả lời của Chúa Giêsu không phải là câu trả lời của một ký lục, song là của Chủ lề luật. Chính người công bố nó và hoàn thành nó (5,17). Và chính việc người hoàn thành Lề luật đã đem lại cho Lề luật một tính cách mới mẻ thực sự. Tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân không phải chỉ là hai thái độ nhân loại được truyền làm; chúng được hiện thân trong con người của Chúa Giêsu. Chính vì đến để hoàn tất Lề luật và các ngôn sứ qua cuộc sống, cái chết và sự phục sinh, mà Người có thể tuyên bố với uy quyền rằng tất cả nội dung của Cựu ước đều được “quy về" giới răn mến Chúa và yêu người. Chính trong Người mà không những Lề luật dưới hình thức giới răn, nhưng cả lời hứa về ân sủng đã do các ngôn sứ loan báo, đều tìm được sự thành tựu.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Yêu tha nhân không có nghĩa là yêu họ chỉ vì Thiên Chúa đòi buộc, chỉ vì để vâng lời Ngài. Mối dây Chúa Giêsu thiết lập giữa hai giới răn chẳng phải là một mối dây ngoại tại, pháp lý, tự ý người bày ra, song là nằm trong lý luận của Thiên Chúa, trong chính bản chất của sự vật mà Ngài đã tạo dựng, rằng là ta không thể yêu Ngài mà yêu anh em. Và không phải làm như thể là vì anh em, mà trong thâm tâm lại làm vì Thiên Chúa. Thiên Chúa đích thực chẳng phải là sản phẩm của những ước vọng và những tưởng tượng đạo đức của con ngươi. Ngài đã đi vào trong lịch sử của chúng ta đã can thiệp vào đó bằng cách trở nên liên đối với con người. Ngài đồng hóa với con người (Cv 9, 5: "Ta là Giêsu người đang bắt bớ") đến nói từ đây ta không thể phân biệt Ngài khỏi con người nữa. Thành thử khi thực sự yêu tha nhân vì họ (như Thiên Chúa yêu họ vì họ chứ chẳng phải vì Ngài, vì tình yêu này không đem lại cho Ngài gì cả) ta sẽ yêu Thiên Chúa vì Ngài. Chỉ có một tình yêu, cũng như con người chỉ có một quả tim, một tấm lòng.
2. Một cách cụ thể, phải yêu tha nhân thế nào? Chẳng phải bằng tình cảm (vì có một vài thứ ác cảm tự nhiên hầu như không thể vượt qua) cho bằng là qua thái độ và hành động. Thánh Phaolô đã mô tả cho chúng ta lòng bác ái đích thực như sau: "Đức ái thì khoan dung, nhân hậu; đức ái không ghen tương; ba hoa, tự mãn, không khiếm nhã, không ích kỷ; không cáu kỉnh, không chấp nhất sự ác, không mừng trước sự bất công, nhưng biết chia vui cùng lẽ phải. Trong muôn sự, đức ái hết lòng bao dung, hết lòng kính tin, hết lòng trông cậy, hết lòng kiên nhẫn" (1Cr 13, 4-6). Khi tìm cách tha thứ lỗi lầm của tha nhân, khi luôn hy vọng họ trở nên tốt hơn cho dù bề ngoài thế nào chăng nữa, khi chấp nhận họ như họ đang là, lúc đó chúng ta mới thương yêu thực sự, lúc đó chúng ta mới thật là con cái của Thiên Chúa.
58. Chú giải theo Fiches Dominicales
VẤN ĐỀ GIỚI RĂN TRỌNG NHẤT
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Vấn đề cạm bẫy về “điều răn lớn nhất”
Ba dụ ngôn về xét xử mà chúng ta đã suy niệm trong các Chúa nhật 26, 27 và 28 đã chẳng làm cho các kẻ thù địch Chúa phải câm miệng, mà con châm ngòi một loạt các cuộc tranh cãi khác. Họ liên minh với nhau và lần lượt thử Chúa cốt làm cho Người phải rơi vào bẫy của vấn đề họ đặt ra. Trước hết -Phúc âm tuần rồi- là sự xoay sở của đám "môn đệ những người Pharisiêu cùng đi với những người phe Hêrôđê". Họ tới hỏi Chúa một câu, bấm bụng rằng bẫy đặt ra như vậy là không tài nào tránh thoát: "Xin Thầy cho biết ý kiến có được phép nộp thuế cho César hay không?”. Nhưng Đức Giêsu chẳng để mình bị kẹt chút nào trong thế lường đao của họ, mà đã chuyển hướng vấn đề, và nhìn vào hình tượng in trên đồng tiền mà họ đưa cho coi Người đã tuyên bố: "Của César, trả về César; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa". Một câu trả lời đã khiến cho đối phương của Người không nói thêm được câu nào nữa: “Họ ngạc nhiên, và để Người lại đó mà đi". Tiếp đến -đoạn chuyển tiếp không có trong sách Bài đọc năm A- là ngón xoay sở của những người "phe Sadducée”? nhóm này chủ trương "không có sự sống lại". Họ đem câu chuyện kỳ cục về một phụ nữ, có bảy đời chồng, hy vọng chế giễu chính Đức Giêsu, và lòng tin vào sự sống lại. Nhưng Đức Giêsu đã nhắc lại cho họ điều Thiên Chúa mạc khải trong câu chuyện về bụi gai rực cháy ở sách Xuất Hành 3,6: Đấng đã tỏ mình ra với ông Môsê như là "Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Jacob. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống. Khi nghe tin Đức Giêsu "đã làm cho nhóm Sadducée phải câm miệng", thì đến lượt những người Pharisiêu trở lại vào cuộc. Nhưng lần này là một nhóm; một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giêsu để "thử Người" rằng: "Thưa Thầy, trong sách luật Môsê, điều răn nào là điều răn lớn nhất”. Nên biết rằng, thời đó, sách Luật gồm, không hơn kém 613 điều răn; các kinh sư phân ra 365 điều cấm (bằng với số ngày trong năm) và 248 điều truyền (bằng với số bộ phận trong cơ thể con người). J.Potin giải thích: "Cuộc tranh luận về điều răn nào lớn nhất tạo nên mối xung khắc giữa những người Pharisiêu chủ trương 613 điều răn đều quan trọng như nhau, với những ai ước mong phải có tôn ti đẳng cấp, rõ hơn có thể giải thích cho người ngoài biết đâu là điều cốt yếu là bản chất của đạo”. (Đức Giêsu, lịch sử đích thực", NXB Centurion, 1994, trang 376).
2. Dẫn vào điểm cốt lõi của Tân Ước.
Đức Giêsu đã trả lời thật khôn khéo vấn đề của những người Pharisiêu về việc nộp thuế cho César - Người đã trích dẫn Lời Chúa để phá vỡ mưu đồ của những người phe Sadducée. Còn về giới răn lớn nhất, thì câu trả lời Người là thẳng thắn, không do dự, nhắm thẳng đích. Đức Giêsu không nhắc nhở họ về lời ban bố của sách xuất Hành, đoạn 20: Mười Điều răn Đức Chúa Trời. Người trích dẫn hay đúng hơn, Người đọc thuộc lòng lời tuyên xưng lòng tin của sách Đệ Nhị Luật 6,4-5 mà mọi người Do Thái vẫn đọc khi đi ngủ cũng như khi thức dậy; lời này được ghi trên các thẻ linh mà những người Pharisiêu vốn đeo trên trán là trên cánh tay một lời khẳng định tính cách duy nhất của Thiên Chúa mà theo sau là giới răn yêu mến Thiên Chúa, một tình yêu phải thấm nhập vào tận đáy lòng, sức lực và ý nghĩ: "Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng, hết dạ, hết sức anh em...” Nhưng điểm độc đáo của Đức Giêsu là Người gắn liền "điều răn thứ nhất" này với điều răn thứ hai: ‘cũng giống điều răn ấy’: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình" (Lv 16,18). Làm như vậy không những Người diễn tả được "Tất cả Luật Môsê và các sách Ngôn sứ nghĩa là tập trung tất cả vào hai giới răn đứng đầu này, không có vậy thì mọi điều răn khác đều mất hết ý nghĩa, nhưng Người còn tỏ cho thấy bí quyết của chính cuộc đời Người, một cuộc đời tự hiến vì yêu mến Cha và yêu thương các anh em của Người. Cl Tassin chú giải: "Hai điều răn này chi phối toàn bộ Kinh Thánh (Luật Môsê và sách Ngôn sứ) không phải để bãi bỏ Kinh Thánh, nhưng là để đọc Kinh Thánh mà thấy rõ hơn. Và, trong Kinh Thánh, lòng yêu mến không dính dáng gì với thứ tình cảnh bồng bột, đổi thay tuỳ cảm xúc; lòng yêu mến đây chính là sự quyết định gắn bó với một ai đó mà mình cho người ấy có quyền trên mình và là những hành động cụ thể nuôi dưỡng quyết định này... không bao lâu nữa Đức Giêsu sẽ dùng cuộc khổ nạn của Người "và chứng tỏ rằng Người là hiện thân chính lòng yêu mến Thiên Chúa là lòng yêu thương mọi người này" ("Phúc âm thánh Matthêu”, NXB Centurion, trang 236).
BÀI ĐỌC THÊM
1) “Một lời để ghi nhớ: Ngươi phải yêu mến” (Giám mục L. Daloz "Le Règne des Cieux sest approché". Desclée de Brouwer, trang 309-311).
Đúng là hai điều răn: điều răn thứ nhất là điều răn lớn. Điều răn thứ hai cũng quan trọng không kém. Có nghĩa là những giới răn ấy không cho phép ta tuỳ thích. Tình yêu mà những giới răn ấy nói tới, đối với Thiên Chúa cũng như đối với tha nhân không phải là một thứ tình cảm trôi nổi tuỳ theo tính khí của ta. Tình yêu là một sự cam kết lớn lao, một sự dâng hiến chính mình, hiến mạng sống mình. Tình yêu không dừng lại ở nửa đường, mà đi cho tới cùng giống như đám lửa cháy. Giới răn ấy khơi dậy tình yêu khi mà thường tình và một cách tự nhiên tính lãnh đạm hay chối từ có nguy cơ thống trị. Giới răn ấy là như tia lửa làm bùng lên đám cháy, giới răn ấy nâng đỡ tình yêu khi nỗi chán chường hay thói quen sẽ làm cho tình yêu ra nguội lạnh hoặc tàn lụi. Giới răn ấy làm bừng lên nhuệ khí khi tình yêu chân thực đòi hỏi nhiều hy sinh, quên mình. Nhờ tương phản và hỗ trợ giữa tình yêu và giới răn này mà đời sống ta được thăng tiến! Giới răn yêu thương có hai mặt hai mặt mà không tách biệt nhau như mu và lòng bàn tay: Điều răn thứ hai cũng giống, cũng quan trọng như điều răn thứ nhất, là: "ngươi phải yêu người thân cận, như chính mình". Chỉ có một mình Chúa là Đấng ta phải yêu mến cách tuyệt đối, hơn cả chính mình ta, hết lòng, hết linh hồn và hết tn khôn ta. Khi yêu mến Chúa hết mình, vượt khỏi chính mình, ta được vào trong tình yêu Chúa ban tặng, được sống trong tình yêu của Người, lòng ta mở ra hướng về vô biên, và con người được tạo nên cho cõi vô biên, bởi lẽ Thiên Chúa muốn thông phần sự sống của Người cho con người, muốn thần hoá con người! Còn về người thân cận, Đức Giêsu truyền phải yêu người thân cận, như chính mình. Đây không phải là một sự so sánh bình thường, mà còn hơn thế nữa. Không chỉ đơn giản là muốn và làm cho người thân cận điều ta muốn cho ta. Đức Giêsu đã đưa ra một điểm son, một khuôn vàng thước ngọc: "Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các Ngôn sứ là thế đó" (Mt 7,12). Giới răn thứ hai thật minh bạch và đi xa hơn. Giới răn ấy đòi ta yêu mến người thân cận như người ấy là chính ta, là ta đồng hoá với người ấy. Nó diễn tả một sự hiệp thông giữa hai hữu thể, giữa hai cuộc sống, giữa anh em trong một nhà, trong một gia đình Thiên Chúa. Nếu tôi không yêu mến người thân cận của tôi, nếu tôi khinh chê người ấy, chính là tôi gây thiệt hại cho bản thân tôi. Yêu người thân cận như chính mình, chính là tôi dành cho tôi một tình yêu tuyệt vời. Thế nên, và nhất là có điều răn ấy, thật là điều hạnh phúc! Bởi lẽ khi tôi yêu mến người giống như tôi, người mà tôi nhận ra tôi nơi con người ấy, thì tôi cũng được người ấy đáp lại bằng lòng yêu mến tự nhiên, bằng mối thịnh tình theo nghĩa mạnh nhất, còn nếu theo bản năng tôi ngờ vực một người, thì người ấy có thể trở thành một đối thủ, một người cạnh tranh, một kẻ thù của tôi. Lịch sử từng minh chứng những biến cố thật lớn lao đượm tình huynh đệ, cũng như những cuộc bùng nổ dữ dội nhất từng châm ngòi cho thù hận giữa con người.
Điều răn thứ hai quả là cần thiết, và rất cần thiết nên Đức Giêsu mới dùng tất cả những lời lẽ trang trọng mà tuyên bố là điều răn ấy cũng giống như điều răn kia, cũng quan trọng không kém. Người đã đặt con người vào đúng tước vị của nó là hình ảnh và là con Thiên Chúa? Quả thực, đây cũng là điều đơn giản và chắc chắn Chúa muốn ta tham khảo. Yêu mến thế nào, thường là điều phức tạp; bạn phải tìm kiến, nhận thức rõ, kiểm soát những tình cảm tốt xấu của bạn, chứ không được miễn trừ. Bạn hãy luôn luôn phải tìm xem để yêu mến thế nào cho đúng sự thật; cần được học hỏi về điều này. Nhưng nếu bạn có một ý chí muốn yêu thương, nếu để cho ngọn lửa của Thánh Linh điều động cuộc đời bạn, thì bạn sẽ thấy con đường phải đi và phương cách để làm. Bạn hãy tìm kiếm hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn bạn. Bạn hãy tìm kiếm như cho chính mình thì bạn sẽ gặp!
2. “Một từ tóm tắt tất cả Phúc Âm: yêu mến” (H. Denis "100 mots pour dire la coi" Desclée de Brouwer, trang 31-32).
Khi nói đến yêu, tôi vốn thích dùng động từ Yêu mến, nó có tính cách chủ động và tích cực, hơn là dùng từ Tình yêu một từ rất đẹp nhưng cũng rất dễ bị phê phán.
Làm sao có thể là tín hữu mà lại không yêu mến?
Làm sao có thể nhận biết Thiên Chúa của chúng ta nếu Người không phải là Đấng yêu mến chúng ta? Nhưng vậy thì có nhiều cách yêu mến 'không" Chắc hẳn là có rồi, nên trong vấn đế này, tôi vẫn cứ theo gót" nhà sư phạm trứ danh là thánh Augustino. Ngài phân biệt ba trình độ trong hành vi yêu mến.
Trình độ thứ nhất, thấp nhất, không có ý nói là xấu nhất: Thích được yêu (aimer tres aimé). Bạn hãy nói cho tôi hay, có ai mà lại không thích điều đó không? Phải là con người hư hỏng môi dám nói ngược lại. Mọi người đều như vậy thôi; nhưng cuộc sống cũng đã dạy cho ta rằng tình yêu còn phải là cái gì khác hơn là niềm khoái chí (tự tôn kia).
Trình độ thứ hai: Thích yêu (aimer aimer). Ta hãy tạm dịch ở đây là: lấy làm vui khi yêu mến người khác. Ở bậc này, người ta có ra khỏi mình một chút, có quảng đại có vị tha. Chúa ơi, thật vui và đẹp biết bao khi làm được một việc thêm khi xả thân, và đôi khi đi tới chỗ đóng vai con chim bố nông tự để cho con da thịt mình. Ngay ở điểm này, ai lại không muốn nhận khen thưởng chúng. Bạn hãy nói cho tôi hay bạn có đủ can đảm để đi thăm một 'bệnh nhân nào đó, di uỷ lạo một cảnh khốn này, chẳng tìm thấy được ở đó một điều gì khích lệ chăng? Nhưng bạn hãy coi chừng. Tất cả thái quá trong lãnh vực này - quảng đại thái quá - có lẽ là một hình thức tự tôn tự đại của lòng yêu mến chính mình đó thôi. Còn trình độ thứ ba: Yêu (aimer). Có thế thôi. Yêu mến người khác vì chính họ, không phải vì ta làm điều tốt cho họ, không phải vì làm cho nhân đức của ta lớn lên. Không phải thế, bởi lẽ xét cho cùng, người ta không yêu mến vì; ta yêu là yêu thôi. Đó mới là đỉnh cao của "tình cho không, biếu không". Hãy nhìn nhận điều này: Ta chẳng mấy khi đạt tới trình độ đó. Chỉ có một vị đã hiến thân chỉ vì yêu mà thôi, một Đức Giêsu ấy muốn lấy bản tính nhân loại của ta, một Đức Giêsu ấy mới ban cho ta Thần Linh tình yêu, khi Người tắt thở, một Đức Giêsu ấy mới có thể sáng nghĩ ra nhân vật Samaritano nhân lành yêu thương mà không đòi đáp trả và hình dung ra một người Cha đang mở rộng vòng tay đón nhận đứa con đi hoang trở về. Nếu phải cần đến một từ để tóm tắt cả Phúc âm, đó là: Yêu mến.
59. Mến Chúa yêu người
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy giới răn thứ nhất đó là hãy kính mến Thiên Chúa hết lòng. Còn giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là hãy yêu thương anh em như chính mình vậy.
Tuy nhiên đọc lại Phúc âm, chúng ta có cảm tưởng dường như Chúa Giêsu đặc biệt nhấn mạnh tới giới răn thứ hai. Ngài đã coi việc yêu người là cách thức để biểu lộ tình mến Chúa. Thực vậy có lần Ngài đã phán: Mỗi khi lên đền thờ dâng của lễ mà sực nhớ người anh em có điều chi bất bình với ngươi thì hãy để của lễ đó, trở về làm hoà với người anh em mình trước đã rồi mới tới mà dâng của lễ sau. Hơn nữa mỗi hành động bác ái yêu thương chúng ta thực hiện cho người anh em là chúng ta thực hiện cho chính Chúa. Thế nhưng đặc điểm của lòng yêu người là gì? Tôi xin thưa: đó là tinh thần phục vụ. Phục vụ một cách nhưng không, một cách vô vị lợi, không cần đền ơn báo đáp, không mưu cầu danh vọng địa vị hay được bù lỗ cách này cách khác. Chính Chúa Giêsu đã từng làm gương cho chúng ta: Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Tình yêu Ngài dành cho chúng ta thật cao cả, bởi vì Ngài đã hiến mạng sống Ngài cho chúng ta. Hơn thế nữa, Ngài còn đòi hỏi các môn đệ, những kẻ bước theo Ngài cũng phải sống tinh thần phục vụ như thế. Trong bữa Tiệc Ly, sau khi đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, thì Ngài đã nói với các ông: Nếu Thầy đã rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Từ những điều vừa trình bày chúng ta đi vào một vấn đề thời sự nóng bỏng trong giáo xứ, đó là vấn đề bầu ban hành giáo. Khi thi hành chức vụ của ban hành giáo, thì một trật chúng ta thể hiện tinh thần phục vụ đối với Chúa cũng như đối với người khác tại cộng đồng giáo xứ. Trong những ngày qua, tôi rất xúc động vì có những bà mẹ, những bà vợ, biết mình không thể ra ban hành giáo được, cho nên đã tích cực động viên chồng con của mình. Một bà vợ thì nói: Tôi rất mừng khi thấy ông ra ứng cử, bởi vì khi đã vào ban hành giáo, ông sẽ đạo đức hơn và chừa bỏ được những thói hư tật xấu của mình. Một bà mẹ thì bảo: Mẹ cho con ăn học và mong con sẽ làm được một cái gì lợi ích cho đời. Thế nhưng dưới một góc độ khác, chúng ta không khỏi lo âu và băn khoăn, vì suốt hơn hai tháng cổ động mà hiện giờ, khu vực Thánh đường Vô Nhiễm vẫn còn khiếm khuyết một ứng cử viên. Trong giáo xứ rất nhiều người hội đủ điều kiện, có dư thiện chí và tinh thần phục vụ, nhưng vì hoàn cảnh, vì lý do này lý do khác, đã không thể ra được. Chúng ta hoàn toàn thông cảm với những anh em có lý do chính đáng. Thế nhưng cũng có những người mạnh miệng tuyên bố, nhưng rồi khi đến việc lại chẳng thấy đâu, cho nên sự thể có những tên gọi vừa khôi hài lại vừa chua chát, chẳng hạn như: chánh lặn, chánh chuồn, chánh né… Như thế xem ra phục vụ bằng mồm thì dễ hơn phục vụ bằng hành động, bằng việc làm. Một trong những lý do thường được đưa ra để chuồn, để lặn, để né đó là bà xã. Thực sự thì hiện nay, gia đình nào mà chẳng có những khó khăn, đã ra gánh vác việc chung thì thế nào cũng phải chấp nhận hy sinh một phần công việc nhà. Mà các bà thì vốn tham lam, muốn độc quyền, không muốn ông xã của mình bị chia sẻ, bị hy sinh, cho nên đã ngáng chân, đã làm kỳ đà cản mũi, để ông xã đừng ra. Bởi vì nếu ông xã mà ra, sợ ông ấy quá siêng năng việc chung mà bê trễ việc riêng, nhất là những khi mùa màng dồn dập, cho nên khi có người đến vận động thì tay chân dãy lên đành đạch và miệng thì chối bai bải. Hành động như thế, chứng tỏ chúng ta thiếu tinh thần phục vụ, thiếu trách nhiệm chung, cũng như thiếu tin tưởng vào Chúa, bởi vì Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi những kẻ phục vụ Ngài. Bằng chứng cụ thể là rất nhiều vị chánh, vị phó, vị trùm, vị quản trong những năm phục vụ giáo xứ, kinh tế gia đình vẫn không bị suy giảm, mà hơn nữa lại còn tậu đất, sắm tivi cassette, mua máy bơm, máy suốt cũng như máy cày, như vậy cũng vẫn ăn nên làm ra, cả về tiền bạc cũng như về con cháu.
Để kết luận tôi xin mượn lời kinh hoà bình của thánh Phanxicô Assie: Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người.
60. Mến Chúa yêu tha nhân – Lm Louis Minh Nhiên
Một em bé tuyên bố em yêu mẹ em hết sức của em. Người bác hỏi xem em nói điều đó có ý nghĩa gì. Em trả lời: "Thưa Bác, cháu và mẹ cháu sống ở tầng lầu thứ ba trong khu nhà thuê. Nhà này không có thang máy, và đống củi thì để ở dưới hầm nhà, dưới basement. Mẹ cháu bận rộn suốt ngày và người cũng không được khoẻ cho lắm. Vì thể bổn phận và trách nhiệm của cháu là đem củi từ dưới hầm lên lò sưởi trên nhà. Cháu đã phải dùng hết sức của cháu để có thể bê củi lên đến tầng lầu thứ ba. Như vậy chẳng phải là cháu yêu mẹ cháu hết sức đó sao?"
Là Kitô hữu, chúng ta thường tự hỏi: Đâu là mức độ chúng ta phải yêu Thiên Chúa và tha nhân? Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay bảo chúng ta rằng, trước hết chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, và thứ hai là thương yêu tha nhân như chính mình.
Chúa Giêsu trích hai điều luật này trong sách thánh Cựu ước. Điều luật thứ nhất về yêu mến Thiên Chúa trích ở sách Đệ Nhị Luật (Đnl 6,5) và điều luật thứ hai về yêu thương tha nhân trích sách Lêvi (Lv 19,18).
Như chúng ta đã biết căn bản của đạo Do thái gồm tóm trong 10 giới răn Chúa trao cho ông Maisen. Từ những giới răn này, các thầy thông giáo đã thêm thắt thành 613 luật riêng rẽ, chia ra 248 luật phải giữ và 365 luật cấm. Vì vậy thật khó mà nhớ hết tất cả các luật đó để giữ và chu toàn một cách tỉ mỉ trong cuộc sống hằng ngày. Do đó việc nhận biết khoản luật nào quan trọng hơn mà giữ là điều cần thiết.
Khi Chúa Giêsu nối kết hai khoản luật thành một, Ngài có ý cho chúng ta hiểu rằng mến Chúa yêu người đó là hai mặt của một đồng tiền.
Trong những thế kỷ đầu của Kitô giáo, nhiều người đã bỏ thế gian, trở thành những thầy dòng khổ tu, sống hãm mình khắc khổ trong sa mạc. Một dịp mùa chay nọ, một nhóm thầy dòng cùng với Đức Viện phụ Maisen quyết định ăn chay tuần lễ thánh. Tuy nhiên, vào khoảng giữa tuần, một vài thầy dòng ở một tu viện khác đến thăm chòi của Đức Viện phụ Maisen. Thấy họ đói, Đức Viện phụ thương hại và nấu cho họ chút đồ ăn, và để cho họ khỏi nghĩ ngợi, Đức Viện phụ cũng dùng chút ít.
Trong khi đó, các thầy dòng khác thấy khói bốc lên từ chòi của Đức Viện phụ. Điều đó chỉ có nghĩa là Đức Viện phụ đã nấu đồ ăn. Nói một cách khác, ngài đã vi phạm luật giữ chay. Họ sửng sốt và thương hại cho sự yếu đuối của Đức Viện phụ.
Họ đến chất vấn ngài. Đức Viện phụ bước ra khỏi chòi và hỏi: " Tôi đã phạm tội gì mà các thầy nhìn tôi một cách khủng khiếp quá như vậy?". Họ trả lời: "Đức Viện phụ đã vi phạm luật chay mà chúng ta tình nguyện giữ vì yêu Chúa Kitô tử giá". Đức Viện phụ đáp: "Phải, tôi đã vi phạm luật giữ chay. Tôi đã không giữ luật của con người, nhưng trong khi chia sẻ đồ ăn với những thầy dòng nầy, tôi đã giữ luật của Thiên Chúa. Các thầy không nghĩ là Chúa Giêsu cũng làm như vậy sao? Các thầy ạ, các thầy đã xé tin mừng của Chúa ra làm hai. Có hai giới răn trọng, chứ không phải chỉ có một. Chúa Giêsu bảo chúng ta rằng phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, và yêu tha nhân như chính mình. Chúng ta không vào sa mạc để xa tránh nhân loại và để sống một mình với Chúa. Chúng ta đến đây để tìm kiếm tha nhân và yêu thương họ trong Thiên Chúa". Các thầy dòng ra về khiêm nhường và khôn ngoan hơn.
Có lẽ nếu không để ý chúng ta cũng đã phạm cùng một lầm lỗi các thầy dòng, các luật sĩ và biệt phái đã phạm, đó là nghĩ chỉ có một giới luật yêu mến Chúa. Chúng ta có thể chu toàn lề luật siêng năng đi lễ, ăn chay, đọc kinh cầu nguyện, đi hành hương Đất Thánh, hoặc nơi này nơi kia... mà quên đi giới luật yêu thương tha nhân.
Ngược lại, số người khác theo chủ thuyết duy nhân nhân bản, chú trọng giúp đỡ con người, nhưng lại không bao giờ nghĩ đến Thiên Chúa hay cầu nguyện với Ngài.
Thiên Chúa truyền dạy chúng ta yêu mến Chúa và yêu thương tha nhân. Yêu Chúa nhiều thì không dễ, và yêu tha nhân - những con người với nhiều khuyết điểm thiếu sót - lại càng không dễ hơn.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tự vấn lương tâm: Đạo chúng ta là đạo của tình thương, và phải chăng thước đo lòng đạo của chúng ta là những kinh kệ dài dòng và biểu dương tôn giáo, hay chính là tình yêu mà chúng ta thể hiện với tha nhân?
61. Yêu thương
Ngày xưa có một hoàng tử trẻ sống trong lâu đài tráng lệ. Vào một đêm mùa đông, một bà lão ăn xin lỡ đường, muốn trọ qua đêm, đã bị hoàng tử từ chối. Chẳng may, bà lão lại là một bà phù thủy. Để phạt tội hoàng tử không có lòng thương người, bà đã biến chàng thành một con mãnh thú, hình tượng xấu xí và hung dữ. Trước khi ra đi, bà cho con mãnh thú một lời hứa sẽ biến trở lại thành hoàng tử nếu có ai thực sự yêu thương mãnh thú.
Trong ngôi làng gần chỗ con mãnh thú ở, có một thiếu nữ xinh đẹp tên là Belle. Cô mồ côi mẹ, sống với cha già. Cha già con mọn bị đám thợ săn thường xuyên quấy phá. Một ngày nọ, cha cô vào rừng săn thú, đi lạc vào lâu đài, bị mãnh thú bắt giữ. Nhờ con ngựa khôn ngoan đã dẫn cô tìm được cha. Vì thương cha, cô chấp nhận đổi mạng, ở lại sống với con mãnh thú để người cha được tự do ra về.
Về đến nhà, người cha đã kết hợp với bọn thợ săn tìm cách giết con mãnh thú để cứu con gái. Trong khi đó cô gái bắt đầu quen thân, trò chuyện và đem lòng yêu mến mãnh thú, tuy rất đau khổ phải xa cách người cha. Còn mãnh thú vì yêu thương cô gái, không nỡ để cô sống trong đau khổ, nên đã đồng ý thả cô về nhà với cha. Chiến trận ác liệt đã xảy ra giữa bọn thợ săn và con mãnh thú. Đang khi giao chiến với bọn thợ săn, mãnh thú bị thương nặng. Sau khi về thăm cha già, cô gái thương nhớ con mãnh thú và quyết định trở lại tiếp cứu. Cô đến đúng khi mãnh thú bị thương, đang quằn quại trong đau đớn. Cô năn nỉ: “Không! Xin đừng chết! Mãnh thú ơi ta yêu mi!” Rồi cô ôm hôn lên mặt mãnh thú. Nhờ nụ hôn yêu thương đó, mãnh thú biến trở lại thành một hoàng tử khôi ngô tuấn tú như trước. Đó là câu chuyện tình đẹp đẽ được tóm lược trong cuốn phim hoạt hình “The Beauty and the Beast”, “Mãnh Thú và Giai Nhân”.
Câu chuyện trên nói lên sức mạnh cứu độ của tình yêu. Tình yêu có khả năng giải thoát và biến đổi con người. Thật vậy! Hầu hết những vấn đề rắc rối và thảm kịch xẩy ra trên thế giới đều do thiếu tình thương. Rất nhiều phạm nhân đã gây nên tội ác chỉ vì không thể ban tặng hay đón nhận tình yêu thương.
Điều mỗi con người đều khao khát, ước ao và cần đến là tình yêu. Thánh Kinh dạy rằng: “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Tình yêu là bản chất của Thiên Chúa. Và bởi con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, nên cũng luôn khát khao và tìm kiếm tình yêu. Dựa trên nhu cầu căn bản này của con người, trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đã dạy cho những người Biệt phái biết điều răn duy nhất của đức ái, sự viên mãn của lề luật: “Yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn…” Điều răn thứ hai là: “Yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”.
Câu chuyện được kể về một đôi vợ chồng tới gặp cha sở và nói: “Thưa cha, chúng con sắp ly dị, nhưng chúng con muốn xin cha cho chúng con biết ý kiến?” Cha sở suy nghĩ giây lát rồi quay sang hỏi người chồng: “Thánh Kinh dạy rằng con phải yêu thương vợ con như Chúa Giêsu Kitô đã yêu thương Hội Thánh. Con có thể thực hành được điều đó không?” Người chồng thưa: “Thưa không. Con không nghĩ con giữ được điều đó”. Cha sở nói: “Vậy thì con hãy bắt đầu ở mức độ thấp hơn vậy. Thánh Kinh dạy rằng con phải yêu thương người lân cận như yêu chính mình. Con có thể yêu thương vợ con một cách tối thiểu như vậy được không?” Người chồng nói, “Thưa cha không. Điều này cũng còn quá cao!” Một cách tuyệt vọng, sau cùng cha sở đành nói: “Thánh Kinh cũng dạy rằng, con hãy yêu thương kẻ thù của con, thôi con hãy về nhà và bắt đầu từ đó đi!”
Nhóm Biệt phái, đa số gồm các luật sĩ, chủ trương phải tuân giữ các luật lệ của Cựu Ước và cộng thêm khoảng 613 luật lệ do truyền thống của các thầy Rabbi. Còn nhóm Sađđucêô chỉ tin vào các luật lệ và các tiên tri mà thôi, không tin vào truyền thống của các thầy Rabbi. Câu hỏi được đặt ra cho Chúa Giêsu: “Trong luật lệ, giới răn nào quan trọng nhất?” đã được tranh cãi giữa những người Biệt phái và Sađđucêô. Âm mưu của nhóm người Biệt phái nhằm gài bẫy Chúa Giêsu vào những trường hợp xung khắc khó giải quyết giữa các phe nhóm tôn giáo và chính trị để tiêu diệt Ngài. Tâm hồn họ mang nặng thù hận và ích kỷ đang khi bề ngoài giả vờ bàn hỏi về những giới luật yêu thương!
Chàng ca sĩ nhạc pop, Cliff Richard sau một chuyến viếng thăm trại tị nạn Bihari ở Bangladesh trở về nhà đã kể lại một biến cố cảm động như sau: “Buổi sáng đầu tiên ở trại tị nạn, tôi phải rửa tay hàng chục lần. Tôi đã không dám đụng vào bất cứ cái gì, nhất là dân chúng. Mọi người ở trong những trại tị nạn đó đều bị ghẻ lở. Toàn thân đầy mụn nhọt. Tôi đang cúi xuống với một em bé gái, mục đích chính chỉ là chụp vài tấm hình để phô trương với bè bạn. Tôi đã cố gắng hết sức đừng cúi xuống quá gần kẻo đụng chạm vào người em. Ngay lúc ấy, một người nào đó tình cờ đạp lên những ngón chân của em. Bé gái hét lên, và như một phản xạ, tôi nắm lấy em, quên đi sự bẩn thỉu dơ dáy và đầy mụn nhọn trên người em. Tôi nhớ mãi một thân hình nhỏ bé và ấm áp bám chặt vào tôi, ngay lập tức tiếng khóc ngưng bặt. Từ đấy, tôi biết rằng tôi còn phải học hỏi rất nhiều điều thực tế về tình yêu Kitô giáo, nhưng tối thiểu gì tôi cũng đã bắt đầu.
Một nhà tâm lý học nổi tiếng đã đưa ra nhận xét rằng việc yêu thương một người khác là điều thử thách lớn nhất trong mọi sinh hoạt của con người, vì nó đòi hỏi phải hy sinh và từ bỏ bản thân mình. Chính vì những đòi hỏi này nên có nhiều người đã chưa bao giờ yêu người khác một cách thực sự. Hoặc có thể đã yêu, nhưng sau đó gặp đau khổ, họ đã tháo lui. Để thực sự yêu thương một người khác ở mức độ sâu xa, cần phải có sức mạnh để tiến tới việc chia sẻ chính cuộc sống của mình. Đó chính là tình yêu hướng về Thiên Chúa và tha nhân được Chúa Giêsu đề cập đến.
62. Giới răn trọng nhất - Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Tin mừng Mt 22, 34-40: Chúa Giêsu đã trả lời rằng: ”Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Còn giới răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là ngươi hãy yêu thương tha nhân như chính mình ngươi”...
Sau khi thất bại trong việc gài bẫy Chúa Giêsu trong việc nộp thuế cho vua César, nhóm biệt phái muốn tấn công Chúa Giêsu bằng một cú đòn khác. Họ sai một tiến sĩ luật đến hỏi Chúa Giêsu:
"Thưa Thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất”?
Sở dĩ đặt câu hỏi này là vì một đàng các phe nhóm không đồng ý với nhau về điều răn nào là quan trọng nhất, đàng khác họ muốn thử Chúa Giêsu để gài bẫy Ngài, vì nếu Ngài trả lời điều luật này trọng, điều luật kia không trọng thì chắc chắn Chúa sẽ bị một trong hai phe chống đối.
Nhưng Chúa Giêsu đã trả lời rằng: ”Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Còn giới răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là ngươi hãy yêu thương tha nhân như chính mình ngươi”.
Cả hai điều răn này đều được nói đến trong Lề Luật, và bất cứ người Israel nào cũng đều phải biết và ghi nhớ.
Đức Giêsu đã chỉ làm một việc là trích sách Đệ nhị luật (6,4-5) và Lêvi (19,18). Điều đặc biệt ở chỗ là Người đã đặt hai điều răn này ngang hàng với nhau. Có nghĩa là điều răn thứ hai cũng đáng được quan tâm tuân giữ như đối với điều răn thứ nhất, tức là Người nối kết hai điều răn với nhau và dành cho chúng vị trí cao nhất. Hơn nữa, Đức Giêsu còn tuyên bố rằng “tất cả Lề Luật và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”, có nghĩa là hai điều răn này diễn tả trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa trong Kinh Thánh, do đó hàm chứa tất cả mọi điều răn khác.
Phải nói đây là hai giới răn rất đặc biệt, bề ngoài như có vẻ là hai giới răn, nhưng thật ra chỉ là hai cách diễn tả của một giới răn duy nhất. Cả hai giới răn chỉ có một động từ duy nhất là “yêu”. Đối tượng của động từ “yêu” này có vẻ là hai đối tượng khác nhau: tuy có thể phân biệt rõ rệt trên lý thuyết, nhưng trên thực tế thì dường như không thể phân biệt, và không nên phân biệt. Vì thế, hai điều răn ấy “tuy hai mà một”, tương tự như hai mặt của một tờ giấy: tuy là hai mặt khác nhau, nhưng chỉ là một tờ giấy duy nhất. Chính vì thế, thánh Gioan mới nói: “Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20). Do đó, “Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình” (4,21)[1]
Vậy chúng ta đã thực hiện giới răn “Mến Chúa Yêu Người” như thế nào?
Có câu chuyện kể rằng: Trên một con đường vắng, một chiếc xe đang phóng nhanh chợt đột ngột thắng gấp và tấp vào lề đường. Ai đó vừa ném một viên đá vào cánh cửa chiếc xe. Bước ra khỏi xe, liếc nhìn chỗ xe bị ném, người lái xe bực tức chạy nhanh đến tóm ngay thằng bé đứng gần đó - chắc chắn nó là tác giả của vết trầy trên chiếc xe. Trước đó anh đã thấy nó vẫy xe, chắc là để đi nhờ.
"Không cho đi nhờ mà mày làm như vậy hả?"
Anh vừa gằn giọng vừa nắm chặt cổ áo đẩy cậu bé sát vào chiếc xe...
Cậu bé lắp bắp sợ hãi: "Em xin lỗi! Nhưng em ... em ... không biết làm cách nào khác. Nếu em không ném vào xe của anh thì anh đã không dừng lại...Nãy giờ em đã vẫy biết bao nhiêu xe mà không có ai chịu dừng".
Nói đến đó, nước mắt cậu bé lăn dài trên má. Cậu chỉ tay về vệ cỏ phía bên kia đường.
"Có một người... anh ấy bị ngã và chiếc xe lăn của anh ấy cũng ngã theo. Em tình cờ đi ngang qua thấy vậy nhưng không thể đỡ nổi anh ấy vì anh ấy nặng quá". Giọng ngắt quãng vì những tiếng nấc liên tục, cậu bé nài nỉ:
"Anh có thể giúp em đưa anh ấy lên chiếc xe lăn được không? Anh ấy ngã bị chảy máu, chắc là đau lắm.
Lời nói của cậu bé khiến anh thanh niên không thể thốt lên được lời nào. Anh thấy cổ mình như nghẹn lại vì xúc động. Anh đến đỡ người bị ngã lên chiếc xe lăn, băng vết thương và cùng cậu bé kéo xe lên đường.
Cậu bé tiếp tục đẩy chiếc xe lăn chở nạn nhân về nhà. Người thanh niên dõi mắt nhìn theo cho đến khi hình ảnh cậu bé và chiếc xe lăn khuất sau rặng cây đường làng.
Anh bước thật chậm về phía chiếc xe của mình. Sự giận dữ trong anh biến mất. Anh quyết định không sửa lại vết trầy trên xe. Anh muốn nó sẽ nhắc anh về câu chuyện xúc động hôm nay, về một điều mà trước nay anh không để ý đến và cũng không có thời gian để nghĩ đến. Anh đã không nhận ra, không có được lòng trắc ẩn như cậu bé.
Anh đã tiếc thời gian và đi quá nhanh đến nỗi phải có ai đó ném một viên đá vào xe mới làm anh dừng lại. Amen.
----------------------------
[1] JKN, CN 30A TN
63. Mến Chúa yêu người – Lm. Vũ Nghi
Vào thời Đệ Nhị Thế Chiến, tại San Francisco, có hai gia đình di dân sống gần nhau và thuộc cùng một xứ đạo: một gia đình người Nhật và một gia đình người Thụy sĩ. Sau nhiều năm làm việc khó nhọc, cả hai gia đình đã thành công trong nghề trồng hoa hồng. Đột nhiên, ngày 7 tháng 12 năm 1941, Nhật tấn công Trân Chân Cảng, và họ nghe đồn rằng những người Mỹ gốc Nhật sẽ bị bắt vào trại tập trung. Gia đình người Thụy Sĩ hứa sẽ tiếp tục săn sóc vườn hoa cho gia đình người Nhật, nếu thực sự họ bị bắt, vì đây là điều họ đã được Chúa dạy: "Các con hãy thương yêu nhau." (Ga 15,17). Và quả thật, gia đình người Nhật đã bị bắt. Một năm. Hai năm. Rồi ba năm qua đi, gia đình người Thụy Sĩ đã hy sinh thời giờ và sức lực để trồng cấy và đem hoa ra chợ bán thay cho gia đình người hàng xóm của mình. Khi chiến tranh chấm dứt, gia đình người Nhật được trả tự do, và họ đã được gia đình người Thụy Sĩ ra tận bến xe để đón về. Về đến nhà, họ thấy một vườn hoa xanh tươi, một căn nhà sạch sẽ tươm tất, và một món tiền, sinh lời được trong ba năm họ xa nhà.
Được lòng yêu mến Thiên Chúa thúc đẩy, gia đình người Thụy sĩ trên đây đã thực hành đúng lời Chúa đã truyền dạy: "Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết trí khôn... và hãy yêu thường anh em như chính mình."
Mến Chúa và yêu người, đó là hai khoản luật Thiên Chúa quan tâm chú trọng ngay từ những ngày đầu tiên con người xuất hiện trên trái đất, và cũng là hai khoản luật con người đã lỗi phạm ngay từ những trang sử đầu tiên của nhân loại.
Vì nguyên tổ đã không hết lòng tin tưởng ở Thiên Chúa, nên đã tin lời của ma quỉ; vì ghen tương, Cain đã giết chết em mình. Đến thời Xuất Hành, khi Thiên Chúa ban bộ luật cho dân Do thái, một lần nữa, hai khoản luật quan trọng vẫn là hết lòng tôn thờ một mình Thiên Chúa Giavê (Đnl 6,5), và yêu thương anh em đồng loại như chính mình, cách riêng những người nghèo hèn yếu thế (x Lv 19,18.33-34)
Dẫu vậy, khi Chúa Giêsu liên kết hai giới luật này, và coi hai điều này là giới luật cao trọng nhất trong toàn bộ lề luật, Chúa đã làm một điều mới lạ. Nhưng vấn đề ở đây là sao Chúa Giêsu lại làm như vậy.
Khi truyền dạy chúng ta "yêu mến Chúa hết lòng, hết sức, hết trí khôn", đó là Chúa dạy chúng ta hãy yêu mến Chúa với toàn diện con người của mình. Điều này có nghĩa là mọi việc chúng ta làm đều phải qui hướng về Chúa. Thiên Chúa có quyền đòi buộc điều này là vì chúng ta là thụ tạo của Người, và mọi cái chúng ta có đều là do Chúa ban cho. Chúng ta có thể tự tình phụng sự mến yêu Chúa và được hưởng hạnh phúc với Người; hay với sự tự do Chúa ban, chúng ta có thể từ chối phụng sự Chúa, và rồi sẽ phải lãnh chịu hiệu quả của quyết định đó.
Một khi chúng ta quyết định sống với Chúa trong tâm tình thờ kính mến yêu, chúng ta sẽ biết phải có tâm tình nào, hành động làm sao, nói năng thế nào, trong mỗi hoàn cảnh của cuộc sống. Các giới luật khác lúc đó không còn là gánh nặng, nhưng là những nhắc nhở cho chúng ta về bổn phận và trách nhiệm của mình đối với Chúa. Nhưng vì đối với Chúa, chúng ta không thấy, và cũng không cảm nghiệm được bằng giác quan, nên Chúa đã muốn chúng ta yêu mến Người qua các thụ tạo của Người. Theo lời Thánh Augustinô, "Vì chúng ta không nhìn thấy Chúa, nên Chúa đã muốn chúng ta thấy Chúa qua tha nhân. Vì khi yêu mến tha nhân, ánh nhìn của chúng ta được thanh tẩy nên trong sáng hơn để có thể nhìn thấy Thiên Chúa." Dĩ nhiên lòng mến yêu này không phải là tình yêu tự nhiên, hay yêu tha nhân là vì một lợi lộc cá nhân nào đó, nhưng phải là tình yêu được bắt nguồn và phản ảnh chính tình yêu thương của Chúa Kitô: Một tình yêu rộng mở đến mọi người không kể giai cấp, mầu da, chủng tộc; một tình yêu quảng đại quên mình; một tình yêu nhạy cảm, cách riêng đối với những nghèo khổ, bệnh tật, những người bị gạt ra ngoài lề của xã hội.
Chắc rằng cho dù gia đình người Thụy sĩ có yêu mến gia đình người hàng xóm đến đâu đi nữa. họ cũng không đủ sụ quảng đại và kiên nhẫn để tiếp tục công việc bác ái đó trong suốt 3 năm trường, nếu lòng yêu mến đó không được nâng đỡ và thúc đẩy bởi lòng yêu mến Thiên Chúa. Mến Chúa và yêu người do đó có một mối liên hệ thật mật thiết với nhau. Lòng mến Chúa cần được bày tỏ qua tình thương mến đối với tha nhân, và lòng yêu thương tha nhân chỉ bền vững và chân thành khi nó được nuôi dưỡng và nâng đỡ bởi tình yêu mến Thiên Chúa.
64. Yêu thương
Vào ngày kỷ niệm 25 năm thành hôn, Abigail Van Buren, đã xin đăng trên báo trong mục “Dear Abby” lá thư sau đây gửi cho chồng của bà: “Ngày 2 tháng 7 năm 1964. Anh Mort yêu quý, hôm nay là ngày rất đặc biệt đối với em. Đó là ngày kỷ niệm 25 năm thành hôn của em, và em có lời này để ngỏ cùng anh: em đã có một người mẹ và một người cha thực sự yêu thương nhau, do đó em biết được tình yêu là gì. Em đã làm việc rất chăm chỉ để nhìn thấy hai người con đang tuổi thanh xuân vượt qua thời niên thiếu đầy gian khổ một cách an toàn, do đó em biết được sự hài lòng là gì. Em đã cầu nguyện, và những lời cầu nguyện của em đã được lắng nghe, do đó em biết được đức tin là gì. Em đã có anh ở bên cạnh em, một con người tử tế nhất, dịu dàng nhất, đáng kể nhất trên đời, do đó em biết được niềm vui là gì. Em yêu anh”.
Tình yêu hướng về Thiên Chúa và tha nhân mang lại niềm vui. Một niềm vui không giống như khoái lạc, hay hạnh phúc. Một con người hư hỏng có thể tìm được khoái lạc trong những thoả mãn nhục dục. Hoặc một con người tầm thường cũng có những giây phút cảm thấy hạnh phúc trong đời. Nhưng niềm vui chân thật theo ý nghĩa của Thánh Kinh nói đến, chỉ phát xuất từ tình yêu biết hy sinh và quên mình vì Thiên Chúa và tha nhân.
Niềm vui đó cho phép chúng ta nhìn thế giới từ một viễn tượng đã được thăng hoa và phong phú dưới ánh sáng của Tin Mừng. Đó chính là biết “mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người” và trở nên một “khí cụ bình an của Chúa”. Đó chính là tìm an ủi, tìm hiểu biết, tìm yêu mến, hiến thân và quên mình như lời Kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô Assisi đã diễn tả.
Truyện cổ Đông Phương kể lại rằng ngày xưa có bốn chàng thanh niên thực hiện một cuộc du hành băng qua khu rừng. Thình lình, họ gặp một bức tường rất cao chận đứng trước mặt. Lập kế, họ bắc một cái thang dài để leo lên xem cái gì ở phía bên kia. Người thứ nhất leo lên tới đỉnh, nhìn xuống dưới và la lên trong khoái lạc cực độ. Ngay lập tức anh phóng mình xuống. Anh thứ hai cũng làm tương tự như vậy. Rồi anh thứ ba cũng thế. Sau cùng, anh thứ tư leo lên, chiêm ngắm một khung cảnh đầy hứng thú: cây cối xanh tươi, hoa trái muôn nghìn. Chưa bao giờ anh nhìn thấy cảnh tượng đẹp đẽ như vậy. Và, giống như những người khác, anh cũng bị cám dỗ nhẩy xuống đó. Nhưng anh kịp ngưng lại để suy nghĩ đôi chút, nghĩ đến gia đình, vợ con và bạn bè của mình. Sau đó anh đã vội vã leo xuống chân thang và bắt đầu đi rao giảng tin mừng về một khu vườn đẹp tuyệt trần cho những người khác biết.
Từng người một, ba chàng thanh niên đầu tiên đã nhìn thấy một vùng đất mới với những hứa hẹn tuyệt vời. Họ đã quyết định chiếm đoạt lấy cho riêng mình nên đã tự huỷ diệt. Chàng thanh niên thứ tư kịp suy nghĩ và muốn chia sẻ nó với những người khác, nên tồn tại. Cách chắc chắn nhất để làm phong phú cái nhìn nội tâm của chúng ta về tình yêu Thiên Chúa là chia sẻ tình yêu đó với những người khác.
Tôi rất thích bản dịch câu Kinh Thánh trích từ lá thư thứ nhất của thánh Gioan, đoạn 4, câu 7b, của học giả Thánh Kinh Công giáo, Edgar Bruns: “Phàm ai yêu thương, thì sinh ra Thiên Chúa”. Câu này được dịch đúng chữ như sau: “Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra”. Điều thực sự rằng tình yêu Kitô giáo luôn ở trong một tiến trình để Thiên Chúa được sinh ra, được chia sẻ với hết mọi người và lan rộng ra khắp nơi trên thế giới.
Thời Giáo Hội sơ khai, những người không phải Kitô hữu đã để tâm lưu ý đến những người Kitô hữu bằng cách: “Hãy nhìn xem họ yêu thương nhau là dường nào!” Theo một truyền thống của Thánh Gioan để lại, lúc đó ngài đã già yếu và bước đi rất khó khăn đến nhà thờ vào mỗi ngày Chúa nhật. Gioan phải nhờ những người bạn dìu đi. Khi Thánh lễ kết thúc, họ phải giúp cho Gioan đứng lên ban phép lành cho cộng đoàn và nói: “Các con thân mến, các con hãy yêu thương nhau”.
Một ngày nọ, một tín hữu đưa ý kiến rằng vị môn đệ già yếu đó lúc nào cũng nói y như vậy, giống như một cha sở cứ lập đi lập lại mãi một bài giảng. Nhưng vị trưởng lão Gioan đã trả lời rằng: “Không còn gì hơn để nói nữa. Đây là lời nói sau cùng. Nếu chúng ta yêu thương nhau, đó là tất cả mọi sự. Cuối cùng, người ta sẽ thực sự biết rằng chúng ta là những người Kitô hữu bằng tình yêu thương của chúng ta”.
“Lạy Chúa Giêsu, xin cho con toả hương thơm của Chúa đến mọi nơi con đi. Xin Chúa tràn ngập tâm hồn con bằng thần khí và sức sống của Chúa. Xin Chúa xâm chiếm toàn thân con để con chiếu toả sức sống của Chúa. Xin Chúa chiếu sáng qua con, để những người con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang sống và hiện diện trong con. Xin cho con biết rao giảng về Chúa, không bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa” (Lời cầu nguyện của Mẹ Têrêsa Calcutta).
65. Trên đỉnh yêu thương
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu” – Thiên Phúc)
Báo Tuổi trẻ có đăng bài “Phở nóng chiều mưa” của tác giả Bút Bi. Câu chuyện như sau: “Tiệm phở A (đường Kỳ Đồng)” chiều hôm kia mưa như trút nước. Một ông già khoảng 70 tuổi, tay lần dò chiếc gậy, tay xách chiếc gà men cũ kỹ lập cập bước vào quán, mua phở mang về. Lúc ông đang long lấy tiền – gói trong hai ba lớp bịch ni-lông – ra để trả, một trong hai thanh niên đang ngồi ăn phở ở chiếc bàn ngoài cùng bảo là đã trả tiền phở cho ông rồi. Ông già lãng tai ngớ ra không hiểu, người thanh niên vừa nói câu trên chỉ người bạn đang cắm cúi ăn: “Thằng này trả chứ không phải cháu đâu”. Rồi anh nói thêm có lẽ để câu chuyện được tự nhiên hơn: “Nó hỏi bác có con gái không?” Ông già dường như vẫn còn chưa hết ngạc nhiên thật thà nói “có”. Người thanh niên kia bật cười, bảo “nói chơi đó bác ơi”. Bút Bi tình cờ có mặt ở đó cũng bật cười. Mấy cô phục vụ trong quán cũng cười ầm lên. Ông già hiểu ra, hoạt bát hẳn lên, nói vài câu vui vẻ rồi chống gậy đi về.
Tò mò, Bút Bi nhìn hai người thanh niên. Họ ăn mặc giản dị, mang dép, đi chiếc Cub đời cũ, trông có lẽ là những người lao động làm lũ, và cử chỉ của họ thật dễ thương. Người già thường có cảm giác bị bỏ rơi, thèm sự hỏi han, chăm sóc. (Ông gìa phải tự chống gậy đi mua phở dù có con cái?). Chắc tối hôm ấy ông sẽ thấy vui lắm, chẳng những vậy có khi nó còn trở thành một kỷ niệm của ông, để ông đi kể lại với bà con, chòm xóm. Còn Bút Bi cũng thấy vui quá, bèn quyết định ăn luôn… hai tô phở!!
***
Nghe xong câu chuyện “Phở nóng chiều mưa” trên đây, chúng ta cảm thấy ấm áp lên tình con người. Một sự quan tâm tế nhị, một lời thăm hỏi chân thành, một nghĩa cử yêu thương thầm kín, đã làm cho mối quan hệ giữa người với người thân gần gũi hơn, thông cảm nhau hơn, và quí mến nhau hơn.
Điều cốt lõi của Kitô giáo chính là yêu thương. Giới răn lớn nhất của đạo cũng chỉ là “mến Chúa, yêu người”. Đó là sứ điệp mà Tin Mừng hôm nay muốn loan báo. Đức Giêsu trả lời cho người thông luật: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là ngươi phải yêu ngời thân cận như chính mình” (Mt 22, 37-39).
Người Kitô hữu, luôn mang trên mình cây thập giá. Cây thập giá ấy có một ý nghĩa rất cao đẹp: Thanh dọc của cây thập giá muốn nói rằng, người tín hữu phải vươn lên cao tới Thiên Chúa, để yêm mến Người với tất cả trái tim, với trọn vẹn con người. Thanh ngang của cây thập giá muốn nói với người tín hữu, phải vươn đến với tất cả mọi người, để yêu thương họ như chính mình, không loại trừ một ai, kể cả kẻ thù. Nếu có thanh dọc mà không có thanh ngang, thì đâu phải là cây thập giá. Nếu có “Mến Chúa” mà không có “yêu người”, thì chưa phải là Kitô hữu. Cũng như đồng tiền luôn có hai mặt, thì người Kitô hữu luôn phải sống trọn vẹn hai giới răn “Mến Chúa và yêu người” mới đích danh là Kitô hữu.
Có nhiều người nghĩ rằng “Mến Chúa” thì dễ quá. Tôi vẫn đọc kinh sáng tối, đi lễ cầu nguyện hang ngày, năng tham dự các bí tích, và họ bằng lòng với mức độ ấy. Thực ra, Chúa đâu chỉ đòi hỏi có thế! Hãy nghe lại điều răn lớn nhất này: “Phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”. Trong điều răn có ba chữ “hết”, chúng ta dã yêu được mấy chữ “hết” đó. Thường chúng ta chỉ yêu Chúa nửa vời, yêu tùy hứng, yêu đại khái, yêu theo vụ mùa.
Chúng ta chỉ yêu mến Chúa “hết lòng” khi chúng ta dám hy sinh thì giờ, công việc, lợi nhuận, để đi tham dự thánh lễ, các giờ cầu nguyện, hay các buổi tĩnh tâm, hầu nâng cao đời sống thiêng liêng.
Chúng ta chỉ yêu mến Chúa “hết linh hồn” khi chúng ta dám từ bỏ danh vọng, lợi lộc, chức quyền để trung thành với Chúa và các giới răn của Người.
Chúng ta chỉ yêu mến Chúa “hết trí khôn” khi chúng ta dám làm nhân chứng cho Người trước lương dân, trước kẻ bách hại, cho dù phải đe dọa đến cuộc sống và tính mạng.
“Mến Chúa” đã khó, “Yêu người” lại càng khó hơn. Vì người ta đâu phải ai cũng dễ mến, dễ thương. Với cái nhìn không thân thiện của chúng ta sẽ có rất nhiều người dễ ghét và đáng ghét. “Yêu người” như Chúa dạy là “Yêu như chính mình”. Có ai lại ghét mình bao giờ. Trái lại, người ta thường yêu mình quá độ.
Chúng ta chỉ có thể “yêu người thân cận như chính mình” khi chúng ta tránh hết sức không làm tổn thương đến nhân phẩm và quyền lợi của người khác.
Chúng ta chỉ có thể “yêu người thân cận như chính mình” khi chúng ta biết kính trọng người già yếu, an ủi người khổ đau, giúp đỡ những ai nghèo đói, bênh vực những kẻ cô thế, cô thân.
Chúng ta chỉ có thể “yêu người thân cận như chính mình” khi chúng ta biết quảng đại trao ban và xả thân phục vụ những ai đang cần sự trợ giúp.
Mauriao viết: “Ngày nào bạn không còn thắp sáng tình yêu, ngày đó nhiều người sẽ chết vì giá lạnh”.
***
Lạy Chúa, bác ái chính là đồng phục của người Kitô hữu. Nếu ngày nào chúng con yêu anh em mà con tim sẽ thắt, thì xin nhắc cho chúng con nhớ lại Lời Chúa: “Điều gì các con làm cho người bé nhỏ nhất là các con làm cho chính Ta”. Amen.
66. Luật thiện hảo - Trầm Thiên Thu
Thiên Chúa là Đấng tạo thành vũ trụ và ban hành luật pháp. Tác giả Thánh Vịnh cho biết kinh nghiệm: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19:8). Thánh Phaolô so sánh rất mạnh và độc đáo: “Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1 Cr 1:25). Phải thực sự có niềm tin vào Đức Kitô mới khả dĩ hiểu được lập luận này.
Công giáo mệnh danh là Đạo Yêu Thương, có luật gồm 10 điều khoản – gọi là Mười Điều Răn. Cả 10 điều trong Thánh Luật của Thiên Chúa đều liên quan tình yêu – đối với Thiên Chúa (đối thần) và đối với tha nhân (đối nhân). Mười điều nhưng tóm lại chỉ là hai điều: Mến Chúa và yêu người. Hai điều khoản ấy “rút gọn” chỉ còn một điều: YÊU. Nói ngắn gọn cho dễ hiểu và dễ nhớ: Luật Yêu, hoặc Luật Tình. Nói theo ngôn ngữ ngày nay là Luật hai-trong-một.
Ngoài Mười Điều Răn do Thiên Chúa ban qua Môi-sê, Giáo hội còn có Sáu Điều Răn. Cả 16 điều đều đồng quy về chữ YÊU. Trong Mười Điều Răn, ba điều trước là trách nhiệm đối với Thiên Chúa, bảy điều sau là bổn phận đối với mọi người. Có lẽ Thiên Chúa muốn cho chúng ta biết điều này: “Yêu người khó lắm”. Và Ngài muốn chúng ta thể hiện chi tiết đối với nhau, từ suy nghĩ tới lời nói, rồi biến thành việc làm cụ thể. Thánh Giacôbê so sánh: “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2:17 và 26). Còn Thánh Gioan gọi những người đó là “kẻ nói dối” (x. 1 Ga 2:4; 1 Ga 4:20). Yêu thương liên quan công lý.
Chỉ một chữ YÊU, rất ngắn gọn, không còn ngắn hơn được nữa, nhưng “xòe” chữ Yêu đó ra theo hình cánh quạt thì lại vô cùng bao la. Chữ Yêu đó “viết” theo dạng tương tự chữ Thập – Thập Giá. Yêu là Thập Giá, là chịu mọi đau khổ. Thánh Vincent de Paul đặt vấn đề: “Tôi yêu mến Chúa chưa đủ nếu tha nhân của tôi chưa yêu mến Ngài”. Người khác chưa thực sự yêu mến Chúa cũng có phần do lỗi của chúng ta, vì “tấm gương” của chúng ta chưa đủ lớn và chưa đủ sáng để người khác có thể soi vào! Chúa Giêsu “nhắc khéo” qua lời chúc: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa!” (Lc 11:28). Phúc này còn quan trọng hơn cả việc Đức Mẹ được cưu mang và cho Con Thiên Chúa bú mớm. Có yêu mến Thiên Chúa thì mới “lắng nghe và tuân giữ” lời Thiên Chúa.
Như đã nói, chữ Yêu tương quan chữ Thập. Chữ Thập có bốn hướng: Hướng lên trời là hướng đến với Thiên Chúa, hai hướng ngang là các hướng đến với tha nhân (cả người trên và dưới, lớn và nhỏ, sang và hèn, giàu và nghèo, giỏi và dốt,...), và hướng đến với các linh hồn. Tuyệt vời biết bao! Cũng vậy, chữ Yêu bắt đầu bằng mẫu tự Y, giống như một người đứng dang rộng đôi tay. Chỉ những ai có lòng yêu thương thực sự, biết động lòng trắc ẩn người khác, biết thương xót tha nhân thì mới có thể dang rộng vòng tay như vậy. Không ai có thể giả bộ được. Thiên Chúa đã quan phòng và tiền định cho Việt ngữ có dạng độc đáo lắm!
Luật vị nhân sinh. Luật vì con người, nghĩa là luật có sau con người. Tuy có trước luật, nhưng con người lộng hành, thế nên cần có luật để chấn chỉnh, luật như chiếc hàm thiếc kiềm chế ngựa chứng. Đất nước nào cũng có hiến pháp, quốc gia nào cũng có quốc pháp, nhà nào cũng có gia phong, dù chỉ một nhóm nhỏ cũng có luật, chí ít cũng là nội quy. Kitô giáo có Mười Điều Răn là Hiến Pháp Nước Trời. Thánh Phaolô nói: “Lề Luật đã thành người quản giáo dẫn chúng ta tới Đức Kitô, để chúng ta được nên công chính nhờ đức tin” (Gl 3:24).
Thời Cựu Ước, Thiên Chúa truyền nghiêm luật: “Người ngoại kiều, ngươi không được ngược đãi và áp bức, vì chính các ngươi đã là ngoại kiều ở đất Ai-cập. Mẹ goá con côi, các ngươi không được ức hiếp. Nếu ngươi ức hiếp mà nó kêu cứu Ta, ắt Ta sẽ nghe tiếng nó kêu cứu. Cơn giận Ta sẽ bốc lên, Ta sẽ cho gươm chém giết các ngươi: thế là vợ các ngươi sẽ thành goá bụa, và con các ngươi sẽ thành côi cút” (Xh 22:20-23).
Luật pháp phải bao hàm tình yêu thương, quyết bảo vệ và nâng đỡ người “nhỏ bé”, nhưng phải trừng phạt kẻ “lớn” mà ngông cuồng, hống hách. Luật pháp không thể theo kiểu “luật rừng”, mà phải nghiêm minh như quân luật: Quân pháp bất vị thân. Nói đầy đủ là: “Pháp bất vị thân, nghĩa bất dung tình” – nghĩa là Pháp Luật KHÔNG được thiên vị mà bênh vực người thân, và Nghĩa Lý KHÔNG được bao che bất cứ ai vì tình cảm. Không dễ đâu đấy! Ai làm được vậy mới đáng tâm phục khẩu phục, là đại nhân, là quân tử, là người thẳng thắn giống Đức Giêsu Kitô.
Luật Chúa rạch ròi đến từng chi tiết: “Nếu ngươi cho một người trong dân Ta, một người nghèo ở với ngươi vay tiền, thì ngươi không được xử với nó như chủ nợ, không được bắt nó trả lãi. Nếu ngươi giữ áo choàng của người khác làm đồ cầm, thì ngươi phải trả lại cho nó trước khi mặt trời lặn. Nó chỉ có cái đó để đắp, để làm áo che thân; nó sẽ lấy gì mà ngủ? Nó mà kêu cứu Ta, Ta sẽ nghe nó, vì Ta vốn nhân từ” (Xh 22:24-26). Thiên Chúa là Đấng luôn chạnh lòng thương người thấp cổ bé miệng nên Luật của Ngài là Công Luật, là Thiên Luật, là Thánh Luật, chứa đầy Lòng Thương Xót. Quả thật, Luật Chúa là luật thiện hảo vô cùng!
Được sống trong luật thiện hảo như vậy thì thật hạnh phúc. Vì thế, tác giả Thánh Vịnh phải thốt lên: “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con. Lạy Chúa là núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ” (Tv 18:2-3). Tác giả Thánh Vịnh xác nhận và chia sẻ: “Tôi kêu cầu Chúa là Đấng xứng muôn lời ngợi khen, và tôi được cứu thoát khỏi quân thù” (Tv 18:4).
Chúng ta cũng đã và đang nhận lãnh biết bao hồng ân của Thiên Chúa, nhưng chúng ta thường quên tạ ơn. Hãy cùng tác giả Thánh Vịnh xưng tụng Ngài khi chúng ta xác tín: “Đức Chúa vạn vạn tuế! Chúc tụng Người là núi đá cho tôi trú ẩn. Tôn vinh Thiên Chúa là Đấng cứu độ tôi, là Thượng Đế giúp tôi rửa sạch hận thù, bắt chư dân quy phục quyền tôi” (Tv 18:47-48). Nhờ đó, chắc chắn Thiên Chúa lập tức quên hết tội lỗi của chúng ta và âu yếm ôm chúng ta vào lòng, cho chúng ta cư ngụ trong Thánh Tâm Ngài.
Thánh Phaolô chia sẻ tâm sự: “Khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần, và một niềm xác tín sâu xa. Anh em biết, khi ở với anh em, chúng tôi đã sống thế nào để mưu ích cho anh em; còn anh em, anh em đã bắt chước chúng tôi và noi gương Chúa, khi đón nhận lời Chúa giữa bao nỗi gian truân với niềm vui do Thánh Thần ban: bởi vậy anh em đã nên gương cho mọi tín hữu ở miền Makêđônia và miền Akhaia” (1 Tx 1:5-7). Ước gì chúng ta luôn có thể nói với nhau như vậy, nhất là những người có chức có quyền, đừng ỷ thế cậy quyền mà “tự làm luật” (vừa “mới” vừa “lạ”) để rồi làm khổ người khác. Có “quyền” thì đừng “hành” người khác, mà phải phục vụ mới đúng luật (x. Mt 20:26-28; Mc 10:43-45).
Thánh Phaolô bộc bạch thêm: “Khi nói về chúng tôi, người ta kể lại chúng tôi đã được anh em tiếp đón làm sao, và anh em đã từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa thế nào, để phụng sự Thiên Chúa hằng sống, Thiên Chúa thật, và chờ đợi Con của Người từ trời ngự đến, người Con mà Thiên Chúa đã cho trỗi dậy từ cõi chết, là Đức Giêsu, Đấng cứu chúng ta thoát cơn thịnh nộ đang đến” (1 Tx 1:9-10). Vâng, được như vậy thì chẳng cần nói thêm gì nữa, như Thánh Phaolô cũng đã xác nhận trước đó: “Chúng tôi không cần phải nói gì thêm nữa” (1 Tx 1:8).
Trình thuật Tin Mừng hôm nay (Mt 22:34-40) nói về “điều răn trọng nhất” (tương tự Mc 12:28-34 và Lc 10:25-28) liên quan chữ YÊU. Tin Mừng ngắn gọn nhưng súc tích, làm nổi bật chữ YÊU.
Một hôm, khi nghe tin Đức Giêsu đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, những người Pharisêu họp nhau lại – nhóm này “không tin có sự sống lại” nên chuyên tìm cách “gài bẫy” Chúa Giêsu nhiều lần mà không được. Lần này, có một người thông luật trong nhóm hỏi để thử Đức Giêsu: “Thưa Thầy, trong sách Luật Môsê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?”. Đức Giêsu thản nhiên đáp: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy”. Kinh Thánh không cho biết sau đó thế nào, nhưng chắc chắn là nhóm Xa-đốc đành cắn răng và ngậm bồ hòn làm ngọt mà thôi!
Nói đi nói lại, nói tới nói lui, nói trước nói sau, nói ngang nói dọc,... nói kiểu nào hoặc theo hướng nào thì cũng chỉ để “diễn giải” chữ YÊU mà thôi. Thiên Chúa là tình yêu (1 Ga 4:8 và 16) nên luật của Ngài là Luật Yêu. Chúng ta chấp nhận theo Đức Kitô thì phải “giữ trọn vẹn lề luật” (Gl 5:3). Đó là lẽ tất nhiên, không yêu không được. Tại sao? Thánh Gioan cho biết: “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8). Thánh Phaolô giải thích và kết luận: “Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13:10).
Liên quan Luật Yêu, Thánh Bênađô nói: “Lý do yêu mến Thiên Chúa thì nên vì Thiên Chúa, mà mức độ yêu mến Thiên Chúa chính là không có mức độ”. Mức độ yêu là “yêu vô hạn” – không tính toán, không so đo, không phân bì, yêu như điên. Các thánh đều đã yêu “tới bến” và hóa điên rồ vì yêu Đức Kitô, vì các ngài biết chắc rằng Thiên Chúa không thể ngừng yêu thương. Muốn làm thánh, chúng ta cũng phải có “máu yêu” như vậy. Chỉ có các Kitô hữu “chính hiệu” mới có loại máu Y – loại máu này y học không hề biết vì không đủ trình độ để phát hiện.
Quả thật, còn hơn là sự liên tục của hơi thở giúp bảo vệ sự sống, Thiên Chúa không thể ngừng yêu. Thánh Tiến sĩ Tommaso d’Aquino (Tôma Aquinô) xác định: “Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta, khi chúng ta cho là mình cô độc thì Thiên Chúa vẫn ở bên chúng ta”.
Lạy Thiên Chúa, xin thương giúp chúng con chân nhận Ngài là Thiên Chúa duy nhất giàu lòng thương xót, xin giúp chúng con khả dĩ nhận biết chính mình để chúng con yêu mến Ngài hết lòng và yêu thương tha nhân thật lòng, bằng cả con người của chúng con. Xin hướng dẫn chúng con đi theo Đường Chân Lý của Ngài (Tv 25:5). Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
67. Luật trọng đại nhất
Hôm nay Chúa Nhật 30 Thường Niên, Chúa Giêsu và Mẹ Giáo Hội muốn nhắn gửi chúng ta một giới luật quan trọng nhất của người tín hữu Kitô, đó là giới răn "Mến Chúa và Yêu Người". Đây là một giới răn được gồm tóm tất cả các giới răn trong đạo. Vì thế, khi đến trần gian, Chúa Giêsu không chỉ đến để giải thoát con người khỏi mọi tội lỗi mà thôi, nhưng Ngài muốn giải thoát con người một cách toàn diện, tức là khỏi mọi áp bức bất công, khỏi mọi độc tài kìm kẹp, cốt để đem lại cho con người được tự do, hầu sống đúng với phẩm giá của mình là người Kitô hữu. Vào thời Chúa Giêsu, trong xã hội Do Thái bấy giờ, con người lúc nào cũng bị trói buộc bởi những lề luật. Bởi thế, người ta đếm được 248 điều dạy phải làm và 365 điều buộc phải tránh. ‘Nhất cử nhất động’ con người đều nằm trong mạng lưới chằng chịt của lề luật. Đó là điều làm cho con người lúc nào cũng mang tâm trạng lo âu, sợ sệt. Không biết tôi làm điều kia việc nọ có đúng luật không? Và nếu tôi sai luật thì tôi không phải là người công chính.
Thật vậy, nếu con người chỉ căn cứ vào những luật lệ bó buộc như vậy thì đó là một sai lầm, vì lấy lề luật làm nền tảng cho đời sống luân lý để đo mức độ công chính của đời sống con người. Bởi vậy, chúng ta không lạ gì thế giới có học của thời đại Do Thái bấy giờ, như các luật sĩ và biệt phái nhờ học biết luật và giữ luật nên họ cho là công chính, là thánh thiện, là hoàn hảo hơn người, đến độ trở nên kiêu căng, hách dịch với đại đa số dân chúng là những người không am tường lề luật để tuân giữ.
Nhưng Chúa Giêsu đến, Ngài đã đặt lại nền tảng sự công chính, đem đến sự sống đời đời trên tình yêu thương. Ngài đã phản đối những lề luật chẻ cọng tóc ra làm tư đó. Lề luật đặt ra để giúp cho con người, chứ không phải con người sinh ra để giữ lề luật. Vì thế, Chúa Giêsu đã đưa ra một giới luật yêu thương hết sức quan trọng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi". Đó là điều răn thứ nhất, và điều răn thứ hai cũng giống như điều răn thứ nhất là "ngươi hãy yêu thương anh em như chính mình ngươi". Thật ra, Chúa Giêsu không dạy làm điều chi mới lạ, vì hai điều răn đó đã có trong Cựu ước, trong sách Đệ Nhị Luật và Lêvi. Ngài chỉ lấy hai điều đó nhập lại làm một và đặt nó làm nền tảng cho đời sống con người chúng ta.
Chúa Giêsu đã dạy cho con người biết Thiên Chúa là người Cha nhân từ. Trong lịch sử nhân loại, đây là lần đầu tiên qua lời dạy của Chúa Giêsu, con người gọi Thiên Chúa là Cha: "Lạy Cha chúng con ở trên trời". Một người con ngoan biết thương cha mến mẹ, khi làm một việc gì không cần phải coi cha mẹ tôi có cấm cái này không? Có cho phép cái kia không?
Nếu có cấm thì cố tìm xem trong các lời cấm đó có câu nào, tiếng nào để có thể tìm ra một kẽ hở để lánh qua không? Nhưng một người con ngoan bao giờ cũng tự hỏi: "Tôi làm cái này, cha mẹ tôi có vui không? Và tôi chỉ thích làm cho cha mẹ tôi hài lòng mà thôi ".
Thánh Augustinô sau khi hiểu rõ lời dạy của Chúa Giêsu, ngài đã đưa ra một định luật táo bạo: "Hãy yêu đi rồi làm gì thì làm". Khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta đâu dám cả lòng cố tình làm mất lòng Thiên Chúa được. Khi chúng ta yêu mến anh chị em mình thật lòng, thì làm sao chúng ta dám nói xấu người khác được, làm sao chúng ta thấy người hoạn nạn mà mình vui được, làm sao chúng ta cố tình làm hại người khác được.
Để dễ thấy tầm quan trọng của hai điều răn "Mến Chúa và Yêu Người" trong đời sống, chúng ta hãy hình dung đó là hai chiều kích trong cuộc sống của người Kitô hữu chúng ta: Chiều dọc nối liên hệ với Thiên Chúa và chiều ngang nối liên hệ với tha nhân. Hai chiều kích đó hợp lại thành cây Thánh giá, đó là dấu hiệu của người Công giáo chúng ta. Hằng ngày chúng ta thấy hình ảnh của cây Thánh giá khắp nơi, trong nhà thờ, nơi nhà ở và chúng ta còn có những người luôn mang Thánh giá trong mình, bởi thế không ai có thể hình dung cây Thánh giá mà chỉ có một chiều hoặc dọc hoặc ngang mà thôi.
Tôi còn nhớ trong những năm chiến tranh ở Việt Nam, một đêm nọ họ đạo tôi bị pháo kích, sáng ra tôi đi thăm hỏi và an ủi kẻ đau khổ và thăm những người lớn tuổi để củng cố tinh thần của họ trong cảnh lo âu sợ hãi. Tôi ghé thăm một bà đạo đức nọ, bà đi lễ hằng ngày không bỏ sót một ngày nào hết; Chúa Nhật có hai lễ bà cũng đi dự cả hai Thánh lễ luôn. Nhưng khi tôi ghé vào thăm bà, bà nói với tôi rằng: "Thưa cha, thật Chúa thương con vô cùng, vì đêm rồi khi họ pháo kích vào làng, con cầu xin Chúa hết lòng hết sức và Chúa đã nhận lời con rõ ràng cha ơi. Bằng chứng là bao nhiêu bom đạn, pháo kích đều rơi ở xóm trên hết". Bấy giờ tôi nghĩ thầm trong lòng: "Chúa mà nhận lời bà kiểu đó, thì chết mẹ người ta hết rồi".
Vậy khi chúng ta chỉ mến Chúa mà quên yêu người thì cũng lố bịch và buồn cười như câu chuyện của bà già trên vậy thôi. Tình yêu đối với tha nhân phải là sự biểu lộ ra bên ngoài của tình yêu đối với Thiên Chúa. Tình yêu đối với Thiên Chúa hoàn thiện hoá đối với tha nhân, không thể tách rời hai tình yêu đó ra khỏi đời sống đạo của mình được.
Khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thật sự, tự nhiên chúng ta cảm thấy yêu mến tất cả anh em đồng loại của mình, và khi chúng ta yêu mến anh em đồng loại của mình đến nơi, đến chốn với tất cả lòng bác ái vị tha, tự nhiên tâm hồn chúng ta hướng về Thiên Chúa. Chúng ta nên nhớ kỹ hai điều này: "Ai bảo mình mến Chúa mà không yêu thương anh em thì là kẻ nói dối. Còn ai bảo mình yêu người mà không mến Chúa thì là sai lầm".
Xin Chúa cho tất cả chúng ta được mến Chúa hết tâm hồn, biết yêu thương anh em mình như chính mình vậy, để cho danh Chúa được cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
68. Giới răn trọng nhất - Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP.
Tình yêu! Một từ rất quen thuộc, ai cũng biết nhưng người ta chưa hiểu hết nội dung phong phú của nó, hoặc hiểu tình yêu một cách lệch lạc hoặc hiểu một cách phiến diện. Do đó, nhiều khi người ta đã làm mất ý nghĩa cao qúi của tình yêu, đồng hóa tình yêu với tình dục. Người ta chỉ biết dùng tình yêu để tìm đến những thú vui hạ đẳng mà không biết nâng cao tâm hồn lên.
Tình yêu mà phụng vụ đề cập đến hôm nay là một tình yêu hòan hảo, tinh tuyền, cao thượng, phổ quát và phong phú nhất. Tình yêu trong phụng vụ chính là Bác ái công giáo (Caritas). Bác ái là yêu thương một cách rộng rãi như thánh Augustinô đã nói:”Giới hạn của tình yêu là không có giới hạn nào”. Đó là tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với tha nhân. Hai tình yêu này khác nhau chăng? Thưa không. Chẳng những hai tình yêu này không tách rời nhau mà còn quyện lấy nhau: chỉ là một. Chính tình yêu này giúp chúng ta yêu mến Chúa và phục vụ tha nhân.
Người đời chê những người chỉ biết yêu trên lỗ miệng mà không bao giờ đem ra thực hành bằng những việc làm cụ thể và coi đó chỉ là tình yêu giả dối:
Thương miệng thương môi
Thương miếng xôi miếng thịt.
Theo Đức Cha Arthur Tonne thì yêu mến Chúa là “ao ước làm vui lòng Chúa” và yêu tha nhân là “làm điều thiện hảo cho họ”. Tình yêu đối với Chúa cũng như đối với tha nhân luôn phải kèm theo những đặc tính là hy sinh, phục vụ và dâng hiến. Bất cứ làm việc gì cũng phải được thực hiện trong tình yêu thì mới có giá trị:”Ama et fac quod agis”(Thánh Augustinô): yêu mến đi rồi làm gì thì làm.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Xh 22,21-27.
So sánh Cựu ước và Tân ước, ta thấy Cựu ước còn thô sơ, Tân ước mới hoàn chỉnh. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã nói:”Ta đến không phải để hủy bỏ lề luật và các tiên tri, nhưng để kiện toàn”. Chính vì vậy mà Cựu ước có nhiều điều luật dạy người Do thái phải yêu thương đồng bào mình. Nhưng tình yêu này có tính cách cục bộ.
Bài đọc 1 này trích từ sách Xuất hành nói rõ về đức bác ái và công bình đối với người Do thái với nhau, nhất là đối với những người yếu và kém may mắn nhất: người góa bụa, mồ côi và nghèo khó.
Điểm đặc biệt trong bài đọc hôm nay nói đến tình yêu đối với những người ngoại kiều đang sống trên đất nước mình nữa. Họ là những người đáng thương thiếu sự nâng đỡ và bảo đảm. Chúa đứng ra bênh vực cho họ. Nếu họ là nạn nhân của bất công, họ cứ kêu Chúa và Chúa sẽ đến giúp họ, trừng trị những kẻ nào cư xử xấu đối với họ.
+ Bài đọc 2: 1Tx 1,5c-10.
Trong thư gửi cho tín hữu Thessalonica, thánh Phaolô tỏ ra hết sức vui mừng và khen ngợi giáo đoàn vì họ đã mau mắn đón nhận Tin mừng Ngài rao giảng, và đã cố gắng sống Tin mừng ấy trong những hoàn cảnh thật khó khăn.
Thật vậy, dân Thessalonica đã trở nên gương mẫu cho thế giới Hy lạp: đức tin của họ sống động và sáng chói, đến nỗi họ trở thành gương mẫu cho nhiều nơi khác noi theo.
+ Bài Tin mừng: Mt 22,34-30.
Trong bài Tin mừng tuần lễ trước, nhóm biệt phái và Hêrôđê đã thất bại trong việc gài bẫy Chúa Giêsu về vấn đề nộp thuế cho vua César. Họ chưa chịu thua, lần này họ cử một tiến sĩ luật để tranh luận với Chúa Giêsu về vấn đề: điều răn nào trọng nhất trong sách Luật. Câu hỏi này không phải là dễ trả lời. Trong sách Luật Do thái có 613 điều luật, thật là một rừng luật vì còn nhiều điều luật phụ nữa. Mỗi nhóm thích giữ một điều luật và cho điều luật ấy là quan trọng hơn cả. Nếu Chúa Giêsu chọn một điều luật nào đó thì sẽ làm phật lòng các nhóm khác.
Nhưng Chúa Giêsu đã đưa ra một câu trả lời rất xuất sắc làm cho vị tiến sĩ luật không hỏi gì thêm nữa. Câu trả lời này vừa mới mẻ, lại vừa rộng rãi:
- Một là mến Chúa và yêu người rút ra từ các điều luật trong các sách Luật.
- Hai là liên kết hai luật ấy: điều luật đã mến Chúa thì phải yêu người, yêu người là yêu Chúa.
- Ba là có thể tóm gọn hai luật ấy bằng một luật duy nhất là luật yêu thương.
Như vậy, Yêu thương hay Bác ái là cốt lõi của mọi điều luật và nếu phải cần đến một từ để tóm tắt cả Phúc âm thì đó là yêu mến.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Mến Chúa yêu người
I. BỐI CẢNH CÂU TRUYỆN.
Sau khi thất bại trong việc gài bẫy Chúa Giêsu trong việc nộp thuế cho vua César, nhóm biệt phái muốn tấn công Chúa Giêsu bằng một đòn khác: họ sai một tiến sĩ luật đến hỏi thử Chúa Giêsu:”Thưa Thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất”?
Chữ “Lề luật” ở đây có ý chỉ toàn thể lề luật trong Cựu ước. Câu hỏi này không nhằm một trường hợp đặc biệt nào, nhưng muốn tìm biết điểm cốt yếu trong lề luật. Luật Do thái gồm 613 điều luật, trong đó có 365 điều luật cấm và 248 điều luật truyền làm. Các điều đó chia làm trọng luật và khinh luật. Phạm khinh luật thì chịu phạt đền tội, nhưng phạm trọng luật như giết người, thờ tà thần, gian dâm... thì bị tử hình.
Sở dĩ đặt câu hỏi này là vì một đàng các phe nhóm không đồng ý với nhau về điều răn nào là quan trọng nhất, đàng khác họ muốn thử Chúa Giêsu để gài bẫy Ngài, vì nếu Ngài trả lời điều luật này trọng, điều luật kia không trọng thì thế nào Ngài cũng bị qui lỗi là về phe nhóm này, chống nhóm kia, và như vậy Ngài thiên vị và không còn được kính nể nữa.
Chúa Giêsu đã trả lời một cách rất rõ ràng, rất hợp và xác đáng:”Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất”. Câu luật này trích trong sách Đệ nhị luật 6,5 có đổi một chút, thay vì “hết sức” thì Chúa nói là “hết trí”. Song cốt yếu không có gì đổi.
Chúa Giêsu còn thêm:”Nhưng điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy là ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”. Luật này trích ở sách Lêvi 19,18. Chúa đem điều luật yêu người này đặt ngang hàng với điều luật mến Thiên Chúa là một điểm đặc sắc của Chúa, làm cho đạo của Chúa vô cùng cao qúi và vô cùng hấp dẫn.
Tất cả mọi điểm khác trong luật hoặc các điều luật khác chỉ là để chú giải cắt nghĩa hai điều luật đó thôi.
Kẻ khác hay cũng gọi là tha nhân, theo quan niệm của người Do thái đương thời, thì tha nhân chỉ là những người đồng chủng, đồng hương, đồng xứ (Lv 19,18). Nhưng ở đây chữ “kẻ khác” Chúa có ý dạy phải thương yêu mọi người chứ không giới hạn trong những người đồng hương với nhau (Mt 25,40; Lc 5,43), không những thế mà lại còn phải yêu thương cả địch thù nữa (Mt 5,43). “Như chính mình”: Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh người được yêu đồng hóa với người yêu, vì vậy, phải yêu thương tha nhân cũng bằng chính tình yêu đối với bản thân mình.
II. NÓI VỄ CHỮ YÊU.
1. Chưa có một định nghĩa thoả đáng.
Người ta đã định nghĩa rất nhiều về tình yêu, nhưng chưa có một câu định nghĩa nào thoả đáng khiến cho mọi người chấp nhận. Ví dụ Thần học định nghĩa yêu là “diffusivum sui boni”: yêu là thông ban ra sự tốt lành của mình. Còn rất trừu tượng.
Thi sĩ Xuân Diệu cũng chịu, không định nghĩa nổi:
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu,
Nó đến với ta một buổi chiều.
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu.
Theo thánh Phaolô thì “Yêu là cho tất cả, nhận tất cả và chịu đựng tất cả” (x. 1Cr 13,7).
Thánh Gioan tông đồ thì nói:”Căn cứ vào điều này, chúng ta biết tình yêu là gì: đó là Đức Kitô đã phó mạng vì chúng ta”(1Ga 3,16).
Giới trẻ thì đưa ra nhiều định nghĩa tùy theo cái nhìn của mình. Đại khái:
* * Yêu là chết trong lòng một ít (cf Xuân Diệu).
* Yêu là đau khổ.
* Yêu là hy sinh (x. Mt 16,24; Mc 10,52).
* Yêu là phục vụ (x. Ga 13,4-11).
* Yêu là dâng hiến (x. 1Cr 13,7).
Từ ngữ YÊU ở đây không hẳn là AMOR, một thứ tình yêu còn mang tinh chất xác thịt mà người Hy lạp gọi là EROS (ái tình), mà đúng ra là CARITAS (Bác ái hay Đức Mến). Khi nói đến Tình yêu thì Giáo hội Kitô giáo dùng chữ CARITAS. Từ ngữ Caritas mang một âm thanh vô cùng khả ái đối với hết mọi người – bất kể sắc tộc, tôn giáo hay chính kiến – mỗi khi nghe đến, vì nó là biểu tượng cho tình yêu tha nhân phổ quát của Kitô giáo, một tình yêu bắt nguồn và luôn dựa trên nền tảng tình yêu Thiên Chúa (x. 1Ga 4,6).
Thánh Phaolô, khi nói đến tình yêu thì ngài dùng chữ Caritas (Đức mến). Trong thư gửi cho tín hữu Côrintô, ngài nói:”Đức mến (caritas) thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được… Hiện nay đức tin, cậy, mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến”(1Cr 13,1-13).
2. Yêu trong thực hành.
Chúng ta không muốn đưa ra những câu định nghĩa trừu tượng mà đi vào thực hành trong cuộc sống.
Chúng ta có thể nhận câu định nghĩa của Đức cha Arthur Tonne:”Yêu mến Chúa là gì? Yêu mến Chúa là ao ước làm vui lòng Chúa. Lệnh truyền của Chúa Kitô có thể đọc là:”Con hãy ao ước làm vui lòng Chúa”. Yêu mến tha nhân có nghĩa là ao ước làm điều thiện hảo cho họ. Chúng ta không thể “làm điều thiện hảo” cho Chúa, nhưng chúng ta có thể ao ước làm vui lòng Ngài. Chúng ta có thể và phải làm điều thiện hảo cho tha nhân. Một trong những cách tốt nhất để làm vui lòng Chúa là làm điều thiện hảo cho tha nhân. Đã có những lần Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng ai yêu mến Chúa thì tuân giữ giới răn của Ngài. Cách đây vài Chúa nhật, chúng ta đã thấy rằng giới răn của Chúa là bằng chứng tình yêu của Ngài đối với chúng ta. Tuân giữ điều răn Chúa là bằng chứng tình yêu của chúng ta đối với Ngài.
(GM Arthur Tonne, Bài giảng Tin mừng, năm A, tr 130).
III. ĐẶC TÍNH CỦA TÌNH YÊU.
1. Tình yêu và hy sinh.
Nhà đạo chúng ta sử dụng quen thuộc hai từ “hy tế” và “hy lễ”. Theo từ nguyên Hán thì HY là con trâu thui và SINH là con lợn luộc. Thời nhà Thang bên Trung quốc, người ta dùng hai lễ vật này để tế Trời ban cho mưa thuận gió hòa. Nếu dùng chữ “hy lễ” và “hy tế” thì chỉ là tế con trâu thui. Nếu dùng từ HY SINH thì có nghĩa là “tế lễ hy sinh”.
Vậy tình yêu và hy sinh phải đi đôi với nhau. Đã yêu thì phải hy sinh: yêu Chúa thì phải dâng lễ hy sinh cho Chúa. Cho nên, khi dùng từ “hy sinh” thì nó gồm cả: chết rong lòng một ít, đau khổ, phục vụ, dâng hiến...
Trên đường đời không có con đường nào bằng phẳng cả, nhất là con đường tình yêu. Tình yêu cũng có thử thách, gian nan, đau khổ. Nói chung nó đòi phải hy sinh. Mối tương quan sâu xa giữa tình yêu và hy sinh đau khổ đã là đề tài muôn thuở của thi ca và tiểu thuyết, cũng như nghệ thuật thứ bảy. Và người ta thường ví tình yêu và đau khổ cũng như hoa hồng với gai: không thể có hoa hồng mà không có gai. Mối tương quan có thể nói là “biện chứng” này được diễn tả gọn chỉ trong hai từ ghép lại thành một, đó là “yêu thương” hay là thương yêu: yêu thương cùng với đau thương một vần là thế.
(cf Thiện Cẩm, Suối nguồn tình yêu, tr 62).
2. Thánh giá là biểu tượng tình yêu.
Theo Phúc âm chữ “Yêu” liền với chữ “Thập” nhưng vẫn là yêu. Đó là tình yêu Thập giá. Việc chịu đóng đinh thập giá là DẤU CHỈ gây ấn tượng sâu sắc về tình yêu vĩ đại Chúa Giêsu dành cho chúng ta. Chúa Giêsu đã nói:”Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga 15,13). Tôi rất vui mừng vì Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta dấu chỉ vĩ đại ấy, chúng ta cần biết rằng mình đáng yêu vì nếu chúng ta không thấy mình đáng yêu, chúng ta không thể yêu mến kẻ khác được. Tại sao chúng ta không thể yêu nếu không thấy mình đáng yêu? Lý do đơn giản Tình yêu là một món quà tự hiến. Và nếu chúng ta không thấy mình là đáng yêu – và vì thế đáng giá – thì chúng ta sẽ không trao tặng chính mình cho kẻ khác được. Nói tóm lại, chẳng ai đem cho đồ rác rưởi cho kẻ mình khâm phục sâu xa. Vì thế điều đầu tiên mà sự đóng đinh thập giá đem lại chính là dấu chỉ tình yêu mà Chúa Giêsu dành cho chúng ta. Chúng ta đáng giá và đáng yêu mến đến mức Đức Giêsu tự hiến mạng vì chúng ta.
(M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm A, tr 307)
3. Tình yêu trong phục vụ.
Cây Thánh giá là biểu tượng của hai mối tình chí thiết: thanh dọc là bàn tay dâng lên Thiên Chúa, thanh ngang là vòng tay ôm lấy anh em. Thiên Chúa và anh em chỉ là một mối tình duy nhất đi về hai hướng. Đây chính là cốt lõi của mạc khải vậy. Người hành khất ngồi bên vệ đường run lập cập vì lạnh giá, được thánh Martinô thành Tour chia cho một nửa chiếc áo choàng phủ thân, chính là Ngài:”Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc, Ta đau yếu các ngươi đã đến thăm, Ta bị tù đầy các ngươi đã đến với Ta... Những gì các ngươi làm cho một trong các anh em bé mọn của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. (Mt 25,36).
Tình yêu phải được thực hiện trong tinh thần phục vụ. Chính Chúa Giêsu đã làm gương trong tinh thần ấy khi Ngài nói:”Ta đến không phải được phục vụ, nhưng để phục vụ và đem giá máu của mình để cứu chuộc muôn người”. Có rất nhiều gương sáng chói trong công cuộc phục vụ những người nghèo và nhất là những người bệnh nạn, đau khổ.
Truyện: Chị nữ tu phục vụ.
Mẹ Têrêsa Calcutta kể:”Hôm ấy, một người lạ mặt đến nhà dòng, ông thấy một Sơ vừa đem về một người hấp hối, nằm bên ống cống, mình mẩy giòi bọ rất hôi thối. Thế mà, Sơ rất nương nhẹ nhặt từng con bọ với vẻ mặt vui tươi, thanh thản đầy thương mến... Rồi người lạ đến gặp tôi nói:”Thưa mẹ, khi con đến đây với lòng đầy căm hờn của một người vô tín ngưỡng. Nhưng bây giờ con ra về với một tâm hồn hoàn toàn đổi mới. Con bắt đầu tin Chúa, bởi vì con đã chứng kiến tình yêu của Chúa được diễn tả một cách cụ thể qua hành động và qua cách Sơ ấy đối xử với người hấp hối bẩn thỉu kia. Bây giờ con tin thật Chúa là tình yêu. Không có tình yêu Chúa trong tâm hồn, không khi nào có đủ nghị lực để yêu tha nhân được”.
Thật vậy, không mến Chúa, không thể yêu người vô vị lợi được. Vì thế Chúa Giêsu đã nhấn mạnh cho mọi người nhận biết hai điều răn quan trọng nhất là “Mến Chúa yêu người”. Chính tình yêu Chúa đã làm cho người ta bỏ tính vị kỷ mà biết xả kỷ, thay vì chỉ biết lo cho bản thân mình lại biết mở lòng ra để lo cho người khác.
Chúa Giêsu là kiểu mẫu tuyệt hảo về lòng mến Chúa yêu người. Ngài để lại chúc thư:”Hãy yêu mến nhau như Thầy yêu mến các con” (Ga 15,34). Và Ngài đã yêu mến chúng ta đến mức chịu chết vì chúng ta. Có thực hy sinh cho nhau mới chứng thực là đã yêu nhau thật. Hãy tập một vài điều trong “Bài ca đức ái” của thánh Phaolô (1Cr 13,4-7): khoan dung, nhân hậu, không ghen tuông, không ba hoa, không tự mãn, không khiếm nhã, không ích kỷ, không cáu kỉnh, không chấp nhất sự dữ, không mừng trước sự bất công.
Thánh Phaolô tông đồ nhắc nhở cho tín hữu Rôma về trách nhiệm phải thực hành đức ái đối với nhau, không yêu nhau là mắc nợ với nhau vì đây là lệnh truyền của Chúa, Ngài nói:”Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái, vì ai yêu người thì đã chu toàn lề luật. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13,8-10).
Thánh Augustinô khuyên: ”Ama et fac quod agis”: yêu mến đi rồi làm gì thì làm.
Để kết thúc, chúng ta hãy cầu nguyện:
“Lạy Chúa, xin dạy chúng con yêu mến Ngài cho xứng đáng,
Xin dạy chúng con yêu tha nhân như Ngài yêu chúng con.
Xin dạy chúng con yêu cho dù yêu là đau khổ,
Bởi vì qua tình yêu chúng con tôn vinh Chúa,
Qua tình yêu chúng con mang hạnh phúc đến cho tha nhân,
Và qua tình yêu chúng con tìm được ý nghĩa của cuộc sống mình.
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.
69. Lạy Chúa, xin giúp con yêu mến Chúa
Có lẽ các bạn đã nghe bài thơ “Cây cối” kết thúc với những lời “Những bài thơ được làm do những người ngốc như tôi, nhưng chỉ Thiên Chúa có thể tạo dựng được một cây”. Tác giả của bài thơ đó theo đạo Công Giáo lúc 27 tuổi. Ông là một văn sĩ nhạy cảm, cởi mở và đơn sơ, lấy những vật thông thường như thảo mộc và nói lên vẻ đẹp của chúng. Ong tòng quân vào thời thế chiến thứ nhất và đã bị giết đi khi thi hành nghĩa vụ vào tuổi 32, để lại người vợ và gia đình. Tinh thần tôn giáo sâu sắc của Klmer đạt tới sung mãn trong đức tin công giáo. Ông yêu mến và sống đức tin ấy. Những bức thư ông gửi cho vợ, cũng là một thi sĩ, cho các con và bạn hữu đầy tràn những hiểu biết thiêng liêng. Trong một bức thư ông viết có một cái gì rất gần với Tin Mừng hôm nay: “Hãy cầu nguyện cho tôi được yêu mến Chúa hơn. Đối với tôi, nếu tôi có thể yêu mến Chúa mãnh liệt hơn, kiên trì hơn mà không sao nhãng thì thật không có gì khác đáng kể... Tôi đạt được niềm tin do cầu xin ơn ấy. Tôi hy vọng đạt được lòng yêu mến cũng bằng cách đó”.
Bao nhiêu người trong chúng ta đã xin Chúa giúp chúng ta yêu mến Ngài? Yêu mến là một hồng ân do chính Thiên Chúa. Có nhiều người nghĩ lầm rằng chúng ta có thể tiến triển trong lòng yêu mến Chúa do những nỗ lực của chính mình, rằng hoàn toàn tùy thuộc ở cách chúng ta học biết yêu mến Thiên Chúa. Chắc chắn là chúng ta cần làm mọi sự có thể để thực thi lệnh truyền Chúa Kitô: “Hãy kính mến Thiên Chúa là Chúa con”. Nhưng trên hết và vượt mọi nỗ lực của chúng ta, hồng ân này sẽ được ban cho chúng ta khi chúng ta cầu xin cùng cha chúng ta trên trời.
Chúng ta muốn ám chỉ điều gì khi nói “Yêu mến Chúa?” Đây là định nghĩa có giá trị giúp ta hiểu. Yêu mến Chúa nghĩa là ao ước làm vui lòng Chúa. Lệnh truyền của Chúa Kitô có thể đọc là: “Con hãy ao ước làm vui lòng Chúa”. Yêu mến tha nhân có nghĩa là ao ước làm điều thiện hảo cho họ. Chúng ta không thể “làm điều thiện hảo” cho Chúa, nhưng chúng ta có thể ao ước làm vui lòng Ngài. Chúng ta có thể và phải làm điều thiện hảo cho tha nhân. Một trong những cách tốt nhất để làm vui lòng Chúa là làm điều thiện hảo cho tha nhân. Đã có những lần Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: ai yêu mến Chúa thì tuân giữ giới răn của Ngài. Cách đây vài Chúa nhật, chúng ta đã thấy rằng giới răn của Chúa là bằng chứng tình yêu của chúng ta đối với Ngài.
Bạn đến tham dự Thánh lễ bởi vì Thiên Chúa được vui lòng khi bạn tôn thờ Ngài. Bạn năng rước lễ bởi vì Thiên Chúa muốn ở với bạn. Bạn cầu nguyện bởi vì Thiên Chúa được vui lòng khi bạn thưa chuyện với Ngài. Bạn tôn kính danh thánh Chúa bởi vì điều đó làm viu lòng Ngài. Bạn thảo kính cha mẹ bởi điều đó là vui lòng Chúa. Bạn tôn trọng sức khỏe và đời sống của tha nhân bởi vì điều đó làm vui lòng Chúa. Bạn tôn trọng năng lực của phái tính vì điều đó làm vui lòng Chúa. Bạn tôn trọng quyền lợi của tha nhân đối với của cải của họ, danh thơm tiếng tốt, vợ con họ, bởi vì điều đó làm vui lòng Chúa.
Thưc hiện những điều này là yêu mến Thiên Chúa. Và để thực hành những điều này, chúng ta cần đến sự trợ giúp của Thiên Chúa, chúng ta phải xin Ngài giúp đỡ như Kilmer đã làm, như các thánh đã làm. Bạn hãy cầu xin như trong lời nguyện nhập lễ: “Xin cho chúng con được thêm lòng tin cậy mến, và biết yêu chuộng những điều Chúa truyền dạy”.
Lạy Chúa, con muốn làm vui lòng Chúa. Xin Chúa giúp con làm vui lòng Chúa.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
70. Điều răn trọng nhất - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Theo tinh thần của Đức Giêsu, thì trong hai điều răn quan trọng nhất ấy, điều răn nào quan trọng hơn? Phải ưu tiên sống điều răn nào?
2. Tại sao thánh Phao-lô tóm toàn bộ lề luật vào một điều răn duy nhất: “Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13,8)? Ngài bỏ điều răn yêu Chúa sao?
3. Nếu bạn là một người cha đông con, đồng thời là người cha tốt lành không chút vị kỷ, bạn muốn con cái yêu thương mình bằng cách nào?
CHIA SẺ
1. Hai điều răn trọng nhất của Do Thái giáo và Kitô giáo
Người khôn ngoan thì trong mọi lãnh vực luôn luôn phân biệt điều chính và điều phụ, điều cốt lõi và điều “bì phu”, điều cần thiết và điều ích lợi, điều quan trọng và điều không quan trọng. Phân biệt như thế không phải để chỉ làm điều chính và bỏ điều phụ, mà để khi không thể làm được cả hai, thì phải ưu tiên cho điều chính. Vì điều chính là yếu tố quyết định thành công, không thực hiện nó thì chắc chắn sẽ thất bại. Còn điều phụ, nếu làm được thì rất tốt, rất ích lợi, có thể làm cho sự thành công rực rỡ hơn, nhưng không làm được thì cũng vẫn có thể thành công.
Trong việc giữ đạo và nên thánh, chúng ta cũng cần biết điều nào là cốt tủy, là quan trọng nhất; nếu không giữ điều này thì coi như chưa phải là giữ đạo, và không thể nên thánh, cho dù có giữ những điều phụ thuộc một cách thật hoàn hảo. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết, giữa biết bao giới răn, thì giới răn quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người. Đó là cốt tủy của lề luật: “Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy”. Nếu giữ đạo mà không phân biệt điều nào chính điều nào phụ, thì chúng ta dễ giữ đạo theo “kiểu Pha-ri-siêu” đã bị Đức Giêsu tố cáo: “Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng chân thành” (Mt 23,23); “Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà” (23,24). Hướng dẫn người khác giữ đạo và nên thánh mà không phân biệt chính phụ, thì dễ trở thành “những kẻ dẫn đường mù quáng” (23,16). Do đó, bài Tin Mừng hôm nay có tầm quan trọng đặc biệt cho mọi Kitô hữu muốn giữ đạo và nên thánh.
2. Hai điều răn tóm lại thành một điều răn: “yêu thương”
Cũng trong chiều hướng tìm cái chính yếu, ta có thể tiếp tục đặt vấn đề: trong hai điều răn ấy, điều răn nào quan trọng, chính yếu hơn?
Phải nói đây là hai giới răn rất đặc biệt, có vẻ là hai giới răn khác nhau, nhưng thật ra chỉ là hai cách diễn tả khác nhau của một giới răn duy nhất. Cả hai giới răn chỉ có một động từ duy nhất là “yêu”, đối tượng của động từ “yêu” này có vẻ là hai đối tượng khác biệt nhau: tuy có thể phân biệt rõ rệt trên lý thuyết, nhưng trên thực tế và thực hành thì dường như không thể phân biệt, và không nên phân biệt. Vì thế, hai điều răn ấy “tuy hai mà một”, tương tự như hai trang của cùng một tờ giấy: tuy là hai mặt khác nhau, nhưng chỉ là một tờ giấy duy nhất.
Thật vậy, rất nhiều lời trong Thánh Kinh cố tình đồng hóa Thiên Chúa với tha-nhân-của-chúng-ta. Cụ thể nhất là trong đoạn nói về cuộc phán xét cuối cùng (x. Mt 25,31-46), Đức Giêsu đồng hóa chính Ngài với tha nhân, đặc biệt những người đau khổ, nhỏ bé, bị khinh thường, áp bức: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta”, và “mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta”.
Tại sao thế? Vì con người là “hình ảnh của Thiên Chúa” (St 1,26-27; 9,6). Có ai yêu một người mà lại không yêu bức ảnh của người ấy không? Ta thấy những cặp tình nhân, khi không có mặt nhau, thường hôn lên ảnh của nhau. Hơn thế nữa, con người là con cái của Thiên Chúa: ngay khi được tạo dựng, con người đã được Thiên Chúa yêu thương và nâng lên hàng con cái Ngài (x. Kn 5,5; Lc 20,36; Ga 11,52; Rm 8,16). Và Ngài yêu quí con người đến mức, sau khi họ sa ngã, Ngài đã cho Con Độc Nhất của Ngài xuống trần, chịu đau khổ và chết để cứu chuộc họ (x. Ga 13,1; Rm 5,6-8; 14,15b; 1Cr 15,3; 2Cr 5,15; 1Tx 5,10; 1Pr 3,18). Do đó, ai yêu Thiên Chúa, tất nhiên cũng phải yêu con cái của Ngài, những người mà Ngài hết mực yêu thương: “ai yêu mến Đấng sinh thành, thì cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra” (1Ga 5,1).
Như vậy, tha nhân bên cạnh và chung quanh chúng ta chính là hiện thân cụ thể và gần gũi chúng ta nhất của chính Thiên Chúa. Vì thế, yêu những người ấy là yêu chính Thiên Chúa, và không yêu họ chính là không yêu Ngài. Người Kitô hữu có đức tin đích thực phải nhìn thấy chính Thiên Chúa ở nơi những người mình gặp hằng ngày, và yêu Ngài ở nơi họ. Không thể yêu Ngài ở nơi một ai khác chính đáng hơn nơi tha nhân. Chính vì thế, thánh Gio-an mới nói: “Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20). Do đó, “ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình” (4,21).
Quả thật, không phải là phi lý mà thánh Phao-lô và Gia-cô-bê đã tóm lại toàn bộ lề luật không còn vào hai giới răn, mà vào một giới răn duy nhất: “Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Kitô” (Gl 6,2); “Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13,8); “Các điều răn đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. (...) Yêu thương là chu toàn Lề Luật” (13,9-10); “Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là "Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình"“ (Gc 2,8). Không những ta phải yêu thương những người chung quanh mình, hy sinh cho họ, mà còn phải làm sao để họ cũng sống yêu thương và thúc đẩy nhau sống yêu thương nữa: “Chúng ta hãy để ý đến nhau, làm sao cho người này thúc đẩy người kia sống yêu thương và làm những việc tốt” (Dt 10,24).
3. Thực hiện việc yêu Thiên Chúa bằng việc yêu tha nhân
Để dễ hiểu những điều trên, ta hãy xét trường hợp của một người cha rất giàu có, rất khỏe mạnh, không thiếu thứ gì, cũng không cần thứ gì cả. Người cha ấy có một đàn con đông đảo, nhưng vì lỗi của chúng nên chúng trở nên nghèo nàn, đau khổ, thiếu thốn. Nguyên nhân gây nên tình trạng đau khổ ấy là chúng không biết yêu thương. Người cha ấy đã tìm đủ cách để đàn con hạnh phúc hơn, bằng cách giáo dục để chúng có nhiều tình thương hơn, vì một khi chúng biết yêu thương thì tất nhiên và tự nhiên hạnh phúc sẽ đến với chúng. Thử hỏi người cha ấy mong mỏi gì nơi đàn con? Chắc chắn là mong chúng yêu thương nhau (x. Ga 13,34-35).
Có một đứa con kia mong cha ban cho mình của này vật nọ, nên chỉ biết nghĩ đến cha, mong hầu hạ cha, lo cho cha từng chút, đang khi cha đã quá đầy đủ, chẳng cần ai lo cho mình một thứ gì. Ngược lại, đối với những anh em ruột thịt bên cạnh mình đang đau khổ và thiếu thốn, đang cần được chăm nom săn sóc, thì người ấy chẳng thèm đoái hoài đến. Thử hỏi người cha ấy có hài lòng về cách xử sự của người con ấy không? Cách xử sự như thế có hợp lý không? Nếu ta là người cha ấy, ta sẽ nghĩ gì về đứa con ấy, ta muốn nó xử sự thế nào?
Nếu ta là người cha ấy, chắc chắn điều ta mong mỏi nhất là thấy con cái mình yêu thương nhau, lo cho nhau, hy sinh cho nhau, và hễ chúng làm được điều ấy, thì ta sẽ hài lòng vô cùng, vì tình thương của chúng đối với nhau sẽ làm cho chúng hạnh phúc, là điều ta mong muốn nhất. Ta nghĩ rằng chính những đứa biết yêu thương anh em mình một cách vô vị lợi mới là những đứa con hiếu thảo, vì chúng có tình thương đích thực. Vì nếu anh em chúng nghèo khó và khó thương mà chúng còn thương được, ắt chúng phải thương yêu cha chúng hơn nhiều. Còn những đứa chỉ nghĩ tới cha mình giàu có, nên lo chăm chút cho cha đang khi cha chẳng cần điều đó, mà chẳng hề nghĩ đến anh em mình, thì tình thương của chúng đối với cha rất đáng nghi ngờ. Có thể chúng chỉ yêu bản thân chúng mà thôi, còn việc chúng chăm chút đến cha có thể chỉ là một chiến thuật cầu lợi theo sự khôn ngoan ích kỷ của chúng.
Minh họa trên cho thấy chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa bằng cách nào. Có thể nói điều răn quan trọng nhất chính là “yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn”. Nhưng phải thể hiện tình yêu ấy thế nào cho phù hợp với ý của Thiên Chúa? Qua giáo huấn của Đức Giêsu, ta thấy cách tốt nhất để thể hiện tình yêu của mình đối với Thiên Chúa chính là thực hiện điều răn thứ hai: “yêu người thân cận như chính mình”. Đức Giêsu đã làm gương về điều ấy. Ngài chết trên thập giá vì yêu thương con người, đồng loại của Ngài (với tư cách Ngài là một con người), nhưng cái chết ấy chính là lễ hy sinh để thờ phượng Thiên Chúa được Thiên Chúa đánh giá cao nhất. Vậy cách thờ phượng Thiên Chúa, yêu mến Thiên Chúa tốt nhất chính là yêu thương những người người chung quanh mình, những người mình gặp hằng ngày, và hy sinh bản thân mình cho họ.
Cầu nguyện
Tôi nghe Thiên Chúa nói với tôi: “Cha là Thiên Chúa, Cha không cần và không thiếu một thứ gì. Vậy thì con yêu Cha cách nào đây? Nếu con muốn yêu Cha cách thực tế, con hãy yêu Cha nơi những người sống chung quanh con, họ chính là hiện thân của Cha ở bên cạnh con. Con yêu họ, chính là con yêu Cha, và đó là cách tốt nhất để con tỏ lòng hiếu thảo đối với Cha”.
71. Để yêu Chúa và tha nhân, phải biết yêu mình
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Giới răn yêu thương của Thiên Chúa là một giới răn mà người tín hữu thường nghe và đọc đi đọc lại nhiều lần trong Thánh kinh, trong sách tu đức và trong các bài giảng giải. Đồng thời ta cũng nghe nói đến những câu chuyện về tình yêu trong tiểu thuyết, những loại phim ảnh về tình yêu và những mối tình lãng mạn của những cặp trai gái mới lớn lên. Do đó mà quan niệm về tình yêu trong Thánh kinh nơi loài người đã bị nhiễm độc bởi những quan niệm về tình yêu trong sách vở, báo chí và phim ảnh. Vì thế nhiều khi chữ yêu vọng lên như một lời nói trống rỗng bởi vì người ta nói về yêu mà không thực hành.
Còn tình yêu trong Thánh kinh không phải là trống rỗng và nông cạn. Đức Kitô đến diễn tả tình yêu bằng cách chết cho người yêu là nhân loại tội lỗi. Và tình yêu theo nghĩa Phúc âm đã trở thành một biến cố tử nạn trên thập giá. Trong Phúc âm hôm nay Chúa trích sách Đệ nhị Luật (Đnl 6:5) để trả lời người thông luật trong nhóm Pharisêu: Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi (Mt 22:37). Yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn.. là kiểu nói của người Do thái nói lên tính cách toàn diện và trọn vẹn của tình yêu và có nghĩa là yêu bằng toàn diện con người. Vì thế trong Phúc âm thánh sử Mác-cô có thêm hết sức (Mc 12:30) vào từ ngữ yêu mến, thì mức độ yêu mến mà Chúa đòi nơi loài người phải dành cho Chúa trong Phúc âm thánh sử Mát-thêu và thánh sử Mác-cô cũng vẫn như nhau, không hơn không kém.
Còn giới răn thứ hai được trích từ sách Lêvi (Lv 19:18) cũng giống giới răn thứ nhất là: Ngươi phải yêu cận nhân như chính mình (Mt 22:39). Mười Giới luật Thiên Chúa truyền cho Môsê trên núi Sinai (Xh 20) là những đòi hỏi tối thiểu mà người tin yêu và kính sợ Chúa phải thực hành. Những Giới luật này được các nhà lãnh đạo Do thái giáo phân chia thành 613 khoản luật khác nhau gồm 248 khoản truyền dạy và 365 khoản cấm đoán. Bây giờ Đức Kitô tóm tắt lại chỉ trong Hai Giới răn quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người hoặc có thể nói là một Giới răn Yêu thương kép. Câu trả lời của Chúa cho thấy Chúa trung thành với truyền thống và gia sản Do thái giáo. Đã yêu mến Chúa thì cũng phải yêu mến cận nhân, nhìn nhận cận nhân như chính mình. Yêu mến Chúa và yêu mến cận nhân là hai điều răn quan trọng nhất, gắn liền với nhau, không thể tách biệt như lời Chúa phán: Tất cả luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy (Mt 22:40). Thánh Gioan, người môn đệ được Chúa yêu nhắc nhở cho ta: Nếu ai nói họ yêu mến Chúa mà ghét tha nhân là người nói dối (1Ga 4:20-21).
Lý do ta phải yêu mến tha nhân vì tha nhân được tạo thành theo hình ảnh Thiên Chúa và được máu Con Thiên Chúa đổ ra để cứu chuộc. Yêu mến tha nhân có thể đi kèm với cảm giác, nhưng không phải là cảm giác. Yêu phải là việc cam kết và quyết định của lí trí. Ta có thể không có cảm tình với người nọ người kia vì tính tình, tập quán, cách nhìn đời cũng như cách nói năng hành động của họ khác biệt với ta. Đó là cảm giác, cảm tình của ta. Tuy nhiên ta phải làm quyết định không được ghét bỏ, ngược đãi và áp bức người tha nhân. Yêu tha nhân còn là cầu nguyện cho họ và giúp đỡ người cần cơm ăn, áo mặc và nhà ở như lời Chúa dạy trong sách Xuất hành hôm nay (Xh 22:20-25).
Chúa dạy ta phải yêu cận nhân như chính mình như thánh Phaolô vọng lại: Không ai ghét thân xác mình bao giờ (Eph 5:29). Yêu mình đây không hiểu theo nghĩa tự ái quá đáng. Yêu mình có nghĩa là biết đánh giá những gì Chúa ban. Yêu mình là bằng lòng với thân phận và số phận, chấp nhận mình, thoả mãn với những gì mình có: tài năng, sức khoẻ, của cải, nhan sắc. Yêu mình còn có nghĩa là biết tha thứ cho mình, sau khi mình đã làm lỗi. Người ta thường chỉ nghĩ đến việc tha thứ cho người khác, nhưng ít ai nghĩ đến chuyện phải tha thứ cho mình ngay cả sau khi xưng thú tội lỗi và được thứ tha. Sở dĩ người ta không nghĩ đến việc tha thứ cho mình, vì có những khi người ta muốn nuôi cảm tưởng trách mình sau khi đã làm lỗi và phạm tội hoặc vì không muốn nhận mình có lỗi.
Khi người ta không yêu mình, người ta cũng khó có thể thực sự yêu ai. Khi người ta không thoả hiệp với chính mình, với tài năng, của cải mình có, với tầm thước, vóc dáng, diện mạo và điệu bộ của mình, thì người ta khó có thể dành thời giờ lưu ý đến tha nhân. Khi người ta không bằng lòng với số phận hẩm hiu, hoặc số kiếp lầm than của mình, người ta có thể đóng khung trong những cảm tình thương hại mình. Khi người ta không bằng lòng với những sắc thái thuộc về mình hoặc những gì mình có, người ta sẽ bận tâm, áy náy và lo ngại về mình. Do đó người ta tìm cách biện hộ cho mình và phê bình chỉ trích người khác hầu che đậy những khuyết điểm của mình. Đọc văn chương Việt Nam ta thấy có những nhân vật không bằng lòng với số phận. Người có thiên hương quốc sắc như Vương Thúy Kiều nhưng lại gặp mệnh bạc. Người có tài làm thơ với lời thanh, nhưng hàm chứa hai ý: tục hoặc thanh như Hồ Xuân Hương, mà cứ phải làm kiếp vợ lẽ. Người ở trong hoàng cung nhưng không còn được vua đoái hoài đến như Cung oán Ngâm khúc.
Khi người ta phải mang những bệnh tật về thể xác và tinh thần lâu dài, người ta có thể phàn nàn, kêu trách và oán hận Chúa. Mà trách móc và oán hận Chúa thì không thể nói được rằng người ta yêu mến Chúa bằng một tình yêu thanh thoát và bình thản. Vậy thì bao lâu ta còn mang bệnh tật, khổ đau, thiệt thòi trong thân xác và tâm hồn mặc dầu đã đi nhà thương và cộng tác với bác sĩ y khoa hoặc bác sĩ tâm linh để điều trị, ta cầu xin Chúa cho được biết chịu đựng, vác thánh giá của bệnh tật, đau khổ vì yêu mến Chúa. Ta dâng lên Chúa bệnh tật, đau khổ ta đang phải chịu để được hòa lẫn với những hi sinh thánh giá của Chúa để đền bù tội lỗi mình và tội lỗi thế gian. Ta xin Chúa giúp để biết tìm ra ý nghĩa của thánh giá đau khổ. Chấp nhận đau khổ và thánh giá vì yêu, thánh giá và đau khổ mới có thể biến đổi tâm hồn và đời sống và trở thành phương thế cữu rỗi.
Lời cầu nguyện xin Chúa dạy cho biết yêu ba chiều:
Lạy Chúa, chúng con xin tạ ơn Chúa đã đến
dạy bảo loài người về hai giới răn quan trọng nhất
là mến Chúa và yêu người.
Xin dạy con biết sống trong tâm tình biết ơn
về những hồng ân Chúa ban: lớn hoặc nhỏ, ít hay nhiều.
Cũng xin dạy con nhận ra hình ảnh của Chúa nơi tha nhân.
Và xin cho con biết chấp nhận bản thân và hoàn cảnh,
biết bằng lòng với số phận và thoả hiệp với đời sống,
để con có thể yêu Chúa và tha nhân với tâm hồn rộng mở. Amen.
72. "Ngừng lại!"
Để làm cho mọi người chú ý, một nhà giảng thuyết thường hay bày ra nhiều kiểu cách có tính khôi hài trong khi ông giảng. Một lần kia, khi bắt đầu đọc kinh Lạy Cha, ông đọc to hai chữ đầu "Lạy Cha" rồi bất ngờ ông la to "Ngừng lại". Ngay lập tức ông vào bài giảng của ông. Điều ông làm đó gây cho dân chúng cảm thấy xấu hổ khi họ đọc tiếp kinh Lạy Cha, vì họ không hiểu ý nghĩa của nó.
Trong đoạn Phúc Âm hôm nay cũng có đoạn mà chúng ta không nên để cho nó thoáng qua khi nghe, nhưng chúng ta phải tìm hiểu thâm sâu về ý nghĩa của nó. Câu Phúc Âm đó như sau: "Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa ngươi." Chúng ta hãy ngừng tại đây để suy nghĩ. Giới luật này có ý ám chỉ về điều gì? Làm thế nào để chúng ta có thể bày tỏ lòng chúng ta yêu mến Thiên Chúa? Chúng ta đối thoại với Chúa qua việc chúng ta cầu nguyện. Chúng ta tôn thờ Chúa hiện diện nơi mỗi người chúng ta và chúng ta cám tạ Chúa vì Ngài thương yêu chúng ta. Chúng ta cám tạ Chúa vì Ngài ban sự sống cho chúng ta và tất cả mọi sự mà chúng ta đang hưởng dùng tại cõi đời này. Chúng ta cảm tạ Chúa vì qua Chúa Giêsu chúng ta biết được rằng Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta và còn ban nhiều ơn lành cho chúng ta khi chúng ta còn sống. Chúng ta có thể nói" Cám tạ Chúa, Cám tạ Chúa" triệu triệu lần nhưng chúng ta vẫn chưa hiểu ý nghĩ của nó ám chỉ về điều gì thì có ích gì cho chúng ta.
Giới luật mến Chúa mà chúng ta không thể hiểu thấu được vì chúng ta còn hay lỗi phạm đến giới luật "yêu mến kẻ khác." Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu được hỏi "Giới luật nào cao trọng nhất?" Ngài dùng một câu trong Cựu Ứơc để trả lời cho chúng ta. Thứ nhất, "Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa ngươi," thứ hai, "Ngươi phải yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi." Chúa Giêsu muốn chúng ta phải hiểu cao sâu hơn nữa về giới luật tình yêu trong mọi khía cạnh. Giới luật yêu mến Chúa và yêu mến kẻ khác không thể nào tách rời nhau được. Chúng ta không thể nói chúng ta yêu mến Thiên Chúa nhưng đồng thời lại ghét anh em mình.
Chúa Giêsu phán: "Ta ban cho các ngươi giới luật mới... Hãy yêu mến kẻ khác như Thầy đã yêu thương các con. Nếu các con yêu thương nhau, mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ Thầy" (Jn 14:34-35).
Chúng ta hãy bày tỏ lòng yêu mến Chúa tha thiết của chúng ta qua việc chúng ta yêu thương tha nhân. Nếu sự quan tâm của chúng ta nơi tha nhân quá nông cạn thì việc chúng ta yêu mến Chúa cũng nông cạn như vậy. Việc đến nhà thờ chỉ có ý nghĩa khi chúng ta thay đổi lối nhìn của chúng ta đối với tha nhân.
Một nhóm linh mục tu sĩ đã mời một nhà quảng cáo thật nổi tiếng đến để hướng dẫn họ biết làm cách nào để cho cộng đoàn của họ được tăng triển và mọi người trong cộng đoàn sống hăng hái hơn. Họ hy vọng có thể đạt được nhiều kết quả nơi vị thuyết trình này. Nhưng nhà thuyết trình này đã làm cho họ trở nên bỡ ngỡ giống như nhà giảng thuyết trong câu truyện trên. Ông ta không một lời chào hỏi hoặc giới thiệu. Ông ta nhập đề vào buổi thuyết trình với một câu như sau: "Nếu Thiên Chúa đã quên các bạn thì một người hèn kém như tôi thì có thể làm gì cho các bạn được đây? Các bạn có biết rằng sức mạnh nào đã làm cho các môn đệ Chúa Giêsu trở nên bạo dạn và thay đổi cả Tây phương như vậy không? Đó chính là sức mạnh của Đức tin và phép lạ." Sau đó ông ta kết thúc bài thuyết trình của ông ta như sau: "Bởi vì các bạn không còn niềm tin Chúa nơi các bạn nữa, các bạn đã tìm kiếm những sự khôn ngoan thầm kín để thay vào niềm tin đó. Khi các bạn làm như vậy thì các bạn đã tự đưa mình vào hố sâu không lối ra." Quả thật như vậy, trong đời sống mỗi người chúng ta ai cũng tìm cách nào đó để cho những sự khôn ngoan thế tục làm lu mờ niềm tin trong tâm hồn chúng ta. Do đó chúng ta khó lòng đáp trả tiếng nói của Đức tin, vì lòng tin của chúng ta về giới luật yêu thương của Chúa Giêsu đã không còn nơi chúng ta. Chúa Giêsu phán: Chúng ta sẽ được nhận biết chúng ta là con Thiên Chúa qua việc chúng ta thương yêu kẻ khác, nhưng chúng ta đã không chấp nhận điều đó. Chúng ta muốn yêu mến Thiên Chúa, nhưng chúng ta lại oán hận kẻ khác. Điều đó không thể nào xẩy ra được.
Chúng ta hãy ngừng lại, suy nghĩ và kiểm điểm cõi lòng nơi mỗi người chúng ta xem coi chúng ta đã hiểu được ý nghĩa thật sự về lòng yêu mến Chúa của chúng ta như thế nào. Chúng ta chân nhận rằng yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân là hai giới luật không bao giờ tách rời ra được.
73. Điều răn trọng nhất mến Chúa yêu người
Người ta hỏi Đức Giêsu điều răn nào trọng nhất. Ngoài việc tranh luận để tìm cách bắt bẻ Đức Giêsu họ còn lòi ra tính lười "muốn ít, càng ít càng tốt và tính nệ luật "làm đủ luật" là xong và bảo đảm, đủ luật, đủ bổn phận rồi thì yên tâm, khỏi lo. Cụ thể thì đỡ phải suy tính như phải làm việc lành nào đọc mấy kinh thì được bao nhiêu ân xá. Đức Giêsu không trả lời theo ý họ vì không đủ.
Vài điểm CHÚ GIẢI
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa.... hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi:”
Ba cái hết. Ngôn ngữ Do thái không có cách nói tuyệt đối, tối da (superlatif) mà nói ba lần. Ba cái hết là hết ráo trọi, hết trơn. Chỉ cần hết lòng. Chúa muốn tấm lòng. Tấm lòng là con người. Hết lòng là hết cả con người gồm luôn hết linh hồn và hết trí khôn. Việt Nam nói "yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự". Không nổi lắm. Nhưng tại sao, cách nào?
Điều răn thứ hai giống điều răn ấy là: Ngươi phải yêu người lân cận như chính mình: Người lân cận: Với Do thái là thân cận và là người Do thái. Còn với chúng ta là người lân cận, ở gần bên. Như chính mình: Muốn cái gì cho mình thì cũng hãy muốn cho người khác. Yêu thương còn nói nhiều hơn: hy sinh cho nguời khác.
Đức Giêsu chỉ lập lại công thức trong sách luật. Nhưng thêm làm thành khác biệt: điều răn thứ hai giống điều răn ấy. Là một, không tách biệt.
Tất cả luật Mosê và các tiên tri đều gồm trong ấy:
Tóm nhưng không gạt ra ngoài gì hết.
Nếu chỉ coi là vấn đề tranh luận, tìm cách làm khó thì không cần đi vào chi tiết nội dung. Văn mạch của Matthêu là vậy. Nhưng chúng ta cần làm rõ nội dung để thực hành cho có ích.
Tiếng Việt làm cho đơn giản, rất đơn giản là "mến Chúa yêu người". Đơn giản quá thì không chi tiết. Cũng như có câu kinh "Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến, xin cữu rỗi các linh hôn". Đọc hoài, ngon miệng nhưng chẳng biết là gì và cũng chẳng biết làm gì nên chẳng có gì.
Chúng ta cũng nói lai lải "mến Chúa yêu người" rồi kể là đủ. Phải giải thích chi tiết, thật chi tiết mới biết rõ để làm và phải làm đủ chi tiết mới gọi là đủ, mới có kết quả.
Mến Chúa hết lòng hoặc trên hết mọi sự: là làm đẹp lòng Chúa trong mọi sự. Không làm gì mất lòng Chúa. Quá mênh mông. Hết lòng là bằng cả tấm lòng. Chúa thấy tấm lòng chứ không thấy bề ngoài. Thường, người ta chỉ làm bề ngoài, không một chút tấm lòng nói chi hết lòng. Không biết làm sao là hết lòng. "Trên hết mọi sự" thì có mùi vật chất hơn dể hiểu hơn. Đặt Chúa trên hết mọi sự là không để bất cứ cái gì trên Chúa. Không dể tí nào và không mấy ai làm được nhưng lý thuyết thì được.
Có mến Chúa mới có yêu người. Yêu người vì là điều răn của Chúa, là luật buộc thì phải yêu. Không có Thiên Chúa thì cũng không có con người. Người ta loại bỏ Thiên Chúa thì trở thành độc ác đối với nhau. Hoàng Đế Julien (Julien le rénégat) của Rôma thấy người công giáo gây được ảnh hưởng lớn trong dân, người ta theo đạo nhiều mà không theo Hoàng Đế mặc dù ông có uy quyền tuyệt đối, sinh sát nắm trong tay. Ông ra lệnh làm việc bác ái hơn người công giáo vì ông có nhiều phương tiện hơn. Nhưng không kết quả vì thiếu tình thương. Không phải "mến Chúa yêu người".
Không phải là điều răn thứ hai mà là vế hai của một điều răn duy nhất. Người ta xin Đức Giêsu tóm tắt trong một điều răn trọng nhất, ắc và đủ. Người ta sợ nhiều. Ít thì khoẻ. Nên Đức Giêsu tóm tất cả trong "một" là mến Chúa yêu người. Rất gọn, rất ngắn. Nhưng lại mênh mong "tất cả luật Môsê và các tiên tri" đều gồm trong ấy.
Yêu người vì mến Chúa thì mới hết lòng. Yêu người vì mến Chúa thì làm trọn lề luật. Mến Chúa thì làm trọn mọi lề luật đối với Chúa. Yêu người thì làm trọn mọi lề luật đối với nhau. Yêu là nói tình cảm chứ không lý trí. Lý trí không "yêu" mà chỉ làm cái nầy cái nọ. Yêu mới hết lòng. Yêu là không tính toán đến nổi sẳn sàng hy sinh tới cả mạng sống.
Yêu người là mến Chúa. Không yêu người là không mến Chúa như Thánh Gioan nói "anh em mà ngươi thấy trước mắt mà không yêu lại nói yêu mến Thiên Chúa mà ngưoi không thấy là nói dối".
74. Điều răn trọng nhất – Lm PX. Vũ Phan Long
Sự liên kết giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với người thân cận, đồng thời sự khác biệt giữa hai tình yêu đó, giúp ngăn cản một sự tách biệt giữa tôn giáo và xã hội, giữa bản tính bên trong và đời sống bên ngoài.
1.- Ngữ cảnh
Trong cấu trúc văn chương của TM Mt, đoạn văn 22,34-40 phải được coi như một bài tường thuật về một cuộc tranh luận nữa của Đức Giêsu với các đối thủ, là các đại diện Do Thái giáo chính thức. Họ tìm cách gài bẫy Đức Giêsu bằng chính những lời nói của Người (cc. 15 và 35) về những vấn đề ngày càng thêm quan trọng: nộp thuế cho Xêda, là vấn đề đặt đối lập các nhóm Hêrôđê, Pharisêu và Nhiệt Thành (Quá Khích) với nhau; sự sống lại của kẻ chết, là vấn đề được phái Xađốc đặt ra; điều răn lớn nhất, là mối bận tâm của người Do Thái tuân thủ luật Môsê nghiêm nhặt, tức phái Pharisêu. Các vấn đề ấy được đặt ra cho một vị Rabbi: “Thưa Thầy” (didaskale; x. cc. 15.24.36); đây là danh hiệu cho thấy là họ hiểu Đức Giêsu đứng vào vị trí nào. Vấn đề cuối cùng được chính Đức Giêsu nêu ra sẽ là vấn đề “con vua Đavít” (22,41-46). Đây là bốn vấn đề thường được người Do Thái thời Đức Giêsu tranh luận nhiều nhất.
Có lẽ bản văn hôm nay cũng phác lại một cuộc gặp gỡ nào đó giữa Đức Giêsu và một vị tôn sư của Do Thái giáo; vị này hẳn là muốn làm sáng tỏ hoặc đào sâu các điều răn. Ở Mc 12,28-34 và Lc 10,25-28, ta không thấy có giọng điệu bút chiến như ở bản văn Mt (x. c. 34). Riêng trong bản văn Mt, vị thông luật hỏi là để “thử” Đức Giêsu.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Câu chuyển tiếp: Người Pharisêu quy tụ lại (22,34);
2) Câu hỏi về điều răn trọng nhất: mục tiêu và nội dung (22,35-36);
3) Câu trả lời của Đức Giêsu (22,37-40).
3.- Vài điểm chú giải
- Điều răn nào là điều răn trọng nhất (36): Do Thái giáo vẫn đang đi tìm một nguyên tắc thống nhất. Các kinh sư cũng tìm cách xác lập một hệ thống tổng hợp với các đường hướng chủ đạo: Đavít xác định mười một điều (Tv 15,2-5), Isaia sáu (Is 33,15), Mikha ba (Mk 6,8), Amốt hai (Am 5,4), và Khabacúc một (Kb 2,4). Đây là bản tóm lược của Rabbi Simbai (tk iii).
- yêu mến (37): Động từ Híp-ri ’âhav có một loạt ý nghĩa, từ tình yêu tính dục đến tình yêu đới với người trong gia đình, đối với bạn bè, sự trung thành trong đời sống chính trị đến tình yêu đối với Thiên Chúa. Theo cách giải thích của người Do Thái về Đnl 6,5, “tình yêu đối với Thiên Chúa” được diễn tả trước tiên bằng những hành vi vâng phục, trung thành với Torah. Yêu mến Thiên Chúa là hy sinh mạng sống vì các điều răn của Người.
- hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn (37): Theo nhân học Híp-ri, “trái tim” (lòng) là cơ sở của tình cảm; còn “linh hồn” là phương diện sinh lực của con người. “Trí khôn” (dianoia) là từ Hy Lạp cũng có ý nghĩa như “trái tim” theo ngôn ngữ Híp-ri. Tác giả Mt đã lấy từ Mc 12,30 (“lòng, linh hồn, trí khôn và sức lực”), nhưng bỏ “sức lực” và chọn giữ lại “trí khôn” để có bộ ba. Cả ba danh từ này được dùng theo nghĩa tổng hợp: tình yêu đối với Thiên Chúa phải trọn vẹn, huy động tất cả con người, thậm chí phải chết.
- yêu người thân cận (39): Ngữ cảnh của Lv 19,11-18 là như sau: Đây là những điều khoản luân lý căn bản của Thiên Chúa liên hệ đến người thân cận, kể cả người yếu thế về mặt xã hội hoặc một đối thủ tại tòa án. Song song với “yêu” là: không trộm cắp, cư xử sai lệch, nói dối, thề gian, lừa gạt, cướp đoạt, nguyền rủa, xét xử bất công, vu khống, thù ghét. Lv 19,34 thêm: không vi phạm quyền lợi của tha nhân.
- thân cận (39): Theo bản văn căn bản Lv 19,18 và theo hầu như cách giải thích Lv 19,18 của toàn thể Do Thái Paléttina, “thân cận” (đồng loại) đây là người Israel mà thôi, những người đã được Thiên Chúa ban Lề Luật cho. Chỉ những người ngoại quốc đang sống tại đất Israel, cũng đước áp dụng một nền công lý này, mới được kể vào số “người thân cận” (Lv 19,34); sau này, chỉ những người dự tòng mới được coi như thế. Đức Giêsu theo truyền thống Mt đã mở rộng nghĩa của từ ngữ này mà áp dụng cho tất cả mọi người (x. Mt 5,43-48; 7,12; 19,19).
- Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ (40): Đức Giêsu không chỉ đặt hai điều răn này đứng đầu 613 quy định của Luật Môsê, như thể ở bên cạnh các quy định ấy; Người còn làm thành một tổng hợp. “Luật và các Ngôn sứ” là cách gọi tên bộ Kinh Thánh Do Thái (tức Cựu Ước thu hẹp), cũng có thể hiểu là ý muốn của Thiên Chúa đã được ghi giữ trong Kinh Thánh.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Câu chuyển tiếp: Người Pharisêu quy tụ lại (34)
Bản văn hôm nay vẫn nằm trong chiều hướng các cuộc tranh luận các nhóm đại diện Do Thái giáo chính thức gây ra với Đức Giêsu. Tuy vậy, các hoàn cảnh tiêu cực này vẫn không ngăn cản Đức Giêsu cống hiến những mạc khải hoặc giáo huấn quan trọng.
Để đáp lại tin tức về sự thất bại của phái Xađốc, người Pharisêu đã họp nhau lại.
* Câu hỏi về điều răn trọng nhất (35-36)
Một người thông luật trong nhóm đã hỏi để “thử” (peirazôn) Người (c. 35), như họ đã từng làm (x. Mt 22,15.18). Tuy nhiên, câu hỏi này cũng có lý do của nó: các trường phái và các vị thầy Israel vẫn đang cống hiến những lối phân phối và giải thích Lề Luật (Torah) khác nhau. Họ đã phân tích Luật ra thành 613 điều khoản khác nhau. Các kinh sư đã chọn chủ trương giữ luật thật chi li (“vị luật”). Xu hướng vị luật tỉ mỉ này làm phát sinh khi thì niềm vui do tuân giữ được trọn vẹn các điều khoản, khi thì sự tự mãn kiểu Pharisêu (x. Lc 15,29), khi thì sự lo lắng vì không tuân giữ được tất cả (x. Mt 19,18). Dù sao, cần phải tìm ra một nguyên tắc thống nhất giúp người ta biết định hướng trong cuộc đời và nhất là biết cách quyết định trong các chọn lựa thực tiễn. Vì thế, câu hỏi của vị thông luật để “thử” Đức Giêsu có lý do: không chỉ là một tranh luận lý thuyết nhà trường, nhưng cũng có một nhu cầu thực tế. Bởi vì có khi họ đã phải chỉ cho biết những điều răn nào không được vi phạm, cho dù người ta có bị giết, hoặc phải dạy điều gì là quan trọng nhất đối với Lề Luật và các điều răn này dẫn xuất từ các điều răn khác thế nào. Vì vậy, họ có nói tới một kơlal (tiếng Híp-ri có nghĩa là phổ quát tính, nguyên tắc căn bản, tóm tắt, danh hiệu) và một guph (tiếng Híp-ri có nghĩa là phần thân, phần cốt yếu) trong Lề Luật.
* Câu trả lời của Đức Giêsu (37-40)
Câu trả lời của Đức Giêsu cũng chẳng độc đáo, dù là trong lời nhắc lại giới răn tình yêu đối với Thiên Chúa, hay trong lời nhắc nhớ về tình yêu đối với người thân cận. Cả hai điều răn này đều được nói đến trong Lề Luật, và bất cứ người Israel tốt lành nào cũng đều ghi nhớ mà tuân giữ. Đức Giêsu đã chỉ làm một việc là trích sách Đệ nhị luật (6,4-5) và Lêvi (19,18). Nếu có lạ là ở chỗ Người đã đặt hai điều răn này ngang hàng với nhau: “cũng giống” (homoia) có nghĩa là điều răn thứ hai cũng đáng được quan tâm tuân giữ như đối với điều răn thứ nhất, tức là Người nối kết hai điều răn với nhau và dành cho chúng vị trí cao nhất. Hơn nữa, Đức Giêsu còn tuyên bố rằng “tất cả Luật (Môsê) và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”, có nghĩa là hai điều răn này diễn tả trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa trong Kinh Thánh, do đó hàm chứa tất cả mọi điều răn khác, hay là tất cả các điều răn khác quy về hai điều răn này. Như thế yêu mến người thân cận có nghĩa là phải dành cho người thân cận một sự chăm sóc, một tình yêu y như dành cho Thiên Chúa. Nói cách khác, người thân cận cũng phải được yêu mến “hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn”. Không cần phải phân biệt giữa ba từ ngữ này, bởi vì hy-ngữ thường dùng hai từ “trái tim” và “trí khôn” để dịch từ lev Híp-ri (= trái tim). Câu văn có nghĩa là phải vận dụng tất cả bản thân mà yêu mến Thiên Chúa.
Như vậy, câu trả lời của Đức Giêsu đã rõ. Phải yêu mến người khác với trọn vẹn bản thân mình, tức là trong thực tế không chỉ bằng lời nói, còn về phương diện con người, bằng cách giúp đỡ tận tình, nồng nhiệt. Cách đặt ngang hàng hai điều răn như thế, chúng ta đã thấy trong Bài Giảng trên núi, trong đó Đức Giêsu mời gọi người ta làm hành vi phượng tự sau khi đã giao hòa với người anh em (5,23-24) và yêu mến cả kẻ thù như Thiên Chúa yêu họ (5,44-48).
Có thể nói ở c. 40, tác giả Mt tóm tắt cái nhìn của ngài về hai điều răn trọng nhất. Công thức “ Luật (Môsê) và các sách ngôn sứ” đưa chúng ta trở lại với hai đoạn trung tâm ở 5,17 và 7,12. Ở đó, bản văn nói rằng Đức Giêsu làm trọn Lề Luật và các ngôn sứ, và cả hai khối này tập trung vào hoàng kim quy tắc. Như vậy, c. 40 hàm ý là Lề Luật và các sách ngôn sứ được hoàn tất qua Đức Giêsu. Đồng từ “tùy thuộc vào” (kremannymi en) cho chúng ta biết quan niệm của tác giả Mt về Lề Luật. Hai điều răn này, cũng như hoàng kim quy tắc, chính là nguyên tắc căn bản hướng dẫn việc giải thích bài Giảng trên núi, cũng như Lề Luật và các sách ngôn sứ.
+ Kết luận
Câu trả lời của Đức Giêsu không phải là câu trả lời của một kinh sư, dù Người được các người Pharisêu coi như thế. Đây là câu trả lời của vị Chúa Tể Lề Luật. Chính Người công bố Luật và chính Người hoàn tất Luật (x. 5,17). Chính do sự kiện Đức Giêsu hoàn tất Luật mà Người mang lại cho Luật tính chất mới mẻ đích thật. Tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân không phải chỉ là những thái độ con người bị buộc phải có; hai tình yêu này nhập thể nơi bản thân Đức Giêsu. Chính vì Người đã đến dùng cuộc đời, cái chết và sự sống lại của Người mà hoàn tất “Luật và các Ngôn sứ”, mà Người có thể công bố với giọng uy quyền rằng toàn thể Giao ước cũ đều “tùy thuộc” vào việc yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Chính nơi Người mà không những Lề Luật, dưới dạng điều răn, mà cả lời hứa ân phúc, được các Ngôn sứ loan báo, đã được thực hiện trọn vẹn.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Khi tuyên bố về điều răn trọng nhất (“hai trong một”), Đức Giêsu đã công bố sự giải phóng tuyệt vời cho con người. Bây giờ, ta chỉ còn phải tuân giữ hai điều mà thôi. Người nào chu toàn thật sự những gì được yêu cầu trong hai điều răn này thì có thể chắc chắn là đã hoàn tất Lề Luật và thực hiện ý muốn của Thiên Chúa (x. Mt 7,12; Gl 5,14; Rm 13,8-10). Đây chính là điều Thiên Chúa nhắm khi tạo thành con người. Họ được tạo nên để vâng phục Thiên Chúa như chủ và chúa của mình, và cũng để yêu thương Người như cha của mình. Thế mà sự vâng phục chỉ nên trọn vẹn trong tình yêu mà thôi.
2. Người thân cận không phải chỉ là người thuộc về cùng một dân tộc, ở trong cùng một quốc gia, nói cùng một ngôn ngữ. Bất cứ ai cũng có thể là người thân cận của tôi, nhưng không phải lúc nào cũng thế. Tránh né luật yêu thương bằng cách nói đến những người thân cận ở xa, để lơ đi những người ở bên mình đang cần được mình quan tâm, là một cám dỗ dễ rơi vào. Chính tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa và tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta phải là mẫu mực cho tình yêu của con người đối với nhau.
3. Yêu thương anh em không phải chỉ bởi vì Thiên Chúa yêu cầu, để vâng lời Thiên Chúa. Liên hệ giữa hai tình yêu này không phải là một liên hệ pháp lý, võ đoán, mà là liên hệ nội tại: ta không thể yêu mến Thiên Chúa nếu không yêu thương anh em. Trong khi yêu thương người khác vì chính họ, ta yêu mến Thiên Chúa vì chính Người. Chỉ có một tình yêu duy nhất, vì con người chỉ có một con tim. Ta có thể suy ngẫm lại bài thánh ca đức mến của thánh Phaolô để thêm xác tín về điểm này (1 Cr 13,4-6).
4. Sự liên kết giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với người thân cận, đồng thời sự khác biệt giữa hai tình yêu đó, giúp ngăn cản một sự tách biệt giữa tôn giáo và xã hội, giữa bản tính bên trong và đời sống bên ngoài. Yêu mến bản thân mình có thể được nhờ tình yêu đối với Thiên Chúa; chính tình yêu đối với Thiên Chúa đưa tới chỗ không tuyệt đối hóa bản thân, mà lại có một sự nội tâm hóa mới, đồng thời có một tình yêu nồng nàn hơn đối với người thân cận.
75. Cốt lõi của luật là Lòng Mến
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Tin mừng Mt 22, 34-40: Hôm nay, Đức Giêsu nói đến một thứ tình yêu hoàn hảo và phong phú. Hoàn hảo là vì khi yêu mến Chúa trên hết mọi sự, thì chúng ta sẽ được kín múc nguồn lực để yêu mến tất cả mọi người không trừ ai. Phong phú vì: “Giới hạn của tình yêu là không có giới hạn nào” (thánh Augustinô)...
Khi nói về tình yêu, hẳn đã có quá nhiều người biết và định nghĩa về chúng. Tuy nhiên, khi sống căn tính về tình yêu, thì có lẽ không mấy người đạt được! Đôi khi còn hiểu sai hay hành động lệch lạc hoặc phiến diện. Vì thế, sự cao quý của nó đôi khi bị mất ý nghĩa...!
Tin Mừng hôm nay được Đức Giêsu nói đến là một thứ tình yêu hoàn hảo và phong phú. Hoàn hảo là vì khi yêu mến Chúa trên hết mọi sự, thì chúng ta sẽ được kín múc nguồn lực để yêu mến tất cả mọi người không trừ ai. Phong phú vì: “Giới hạn của tình yêu là không có giới hạn nào” (thánh Augustinô). Thật thế, mến Chúa và yêu người là hai mặt nhưng chỉ có một tình yêu. Vì thế, nó không thể tách rời nhau, mà là hòa quyện lại với nhau để làm nên điều thiện hảo.
1. Mến Chúa gắn liền với yêu người
Những người Biệt Phái vốn đã có sẵn sự hiềm khích với Đức Giêsu. Có lẽ, với người Biệt Phái, họ không mong muốn gì hơn là việc loại bỏ Đức Giêsu càng sớm càng tốt cho đỡ ngang tai trái mắt, bởi vì Đức Giêsu chẳng khác gì cái đó ngáng chỗ của họ. Vì Ngài, mà những người này đã phải mất ăn mất ngủ để tìm ra những mưu kế nhằm gài bẫy Đức Giêsu.
Hôm nay, vẫn nằm trong ý định đó, nên họ đã nhất trí với nhau là đề cử một người đại diện để đứng lên hỏi Đức Giêsu về điều răn nào là trọng nhất trong Sách Luật. Đây là câu hỏi khó, không dễ trả lời.
Tại sao họ lại hỏi câu nói đó? Thưa vì trong Sách Luật Môsê có tới 613 điều luật, được chia thành 248 điều phải làm và 365 điều phải tránh. Tuy nhiên, ngay trong các nhóm của họ cũng bất đồng với nhau: mỗi nhóm thích giữ một điều luật và cho điều luật ấy là quan trọng hơn cả. Như vậy, nếu Đức Giêsu nói điều này hơn điều kia, thì hẳn Ngài sẽ làm phật lòng các nhóm còn lại, và như thế, không có lợi gì cho Ngài.
Tuy nhiên, lại một lần nữa, Đức Giêsu đã làm cho mục đích của họ bại lộ và phải câm miệng như nhóm Sađốc. Ngài nói: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy". (Mt 22,37-40).
Khi nói "Điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy", Đức Giêsu muốn dạy cho họ một chân lý rằng: mến Chúa thì phải yêu thương anh chị em mình. Hai điều răn này luôn gắn liền với nhau. Kẻ nào mến Chúa mà không yêu người thì mâu thuẫn, hay yêu người mà không mến Chúa cũng chẳng khác gì “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.
Thánh Gioan cũng nói trong thư của ngài như sau: "Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4, 20).
Qua câu trả lời của Đức Giêsu, chúng ta thấy có sự mới mẻ và phổ quát, không hàm hồ mà thực tế. Bởi lẽ, câu trả lời này đều được rút ra từ chính trong sách Luật Môsê và nó có sự liên đới với nhau mật thiết đến độ không thể bỏ một lấy một hay coi trọng điều này mà giảm khinh điều kia.
Đây chính là điều răn mới và đây cũng chính là tiêu chuẩn để mặc khải dung mạo của một vị Thiên Chúa giàu tình thương, nhưng lại được hiện tại hóa nơi người loan truyền: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 13,34-35).
Thật vậy, tình yêu thương là quan trọng. Thiếu đi tình yêu thương, chúng ta đánh mất đi cốt lõi của luật. Vì thế, thánh Phaolô cũng quả quyết: “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1 Cr 13, 13).
2. Mến Chúa, yêu người gắn liền với lòng bác ái và hy sinh
Như vậy, chúng ta đã nhận ra điều quan trọng trong toàn bộ Lề Luật, đó là lòng mến. Lòng mến này được thể hiện qua đức ái. Nếu không có đức ái, thì tình yêu của chúng ta sẽ chẳng khác gì một sự lừa bịp. Hay như trò “khua chiêng gõ mõ”.
Khi nói về vấn đề này, thánh Phaolô đã giải thích như sau: "Dầu tôi nói được các thứ tiếng loài người và thiên sứ [...] Dầu tôi được ơn nói tiên tri, cùng biết đủ các sự mầu nhiệm, và mọi sự hay biết; dầu tôi có cả đức tin đến nỗi dời núi được,[...] Dầu tôi phân phát gia tài để nuôi kẻ nghèo khó, lại bỏ thân mình để chịu đốt, song không có tình yêu thương, thì điều đó chẳng ích chi cho tôi" (x. 1 Cr 13,1-3).
Như vậy, đối với chúng ta, những người Công Giáo, dấu chỉ để nhận biết chúng ta có yêu Chúa thật lòng hay không lại phụ thuộc vào tình yêu của chúng ta dành cho tha nhân. Và để nhận biết được tình yêu đó lớn hay nhỏ lại phụ thuộc vào đức ái được đặt để trong tình yêu. Thật vậy: “Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” (x. 1Cr 13,7).
Khi yêu thương anh chị em mình cách chân thành, đấy là dấu chỉ chúng ta đang thuộc về Chúa, vì: "Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy" (1 Ga 4,16), còn nếu: "Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu" (1 Ga 4,8).
Nói cách khác, chúng ta biết yêu và có động lực để yêu là vì chúng ta được Thiên Chúa yêu thương trước: "Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta" (Rm 5,5).
Như vậy, ta cũng có thể hiểu tình yêu được khơi nguồn từ chính Thiên Chúa, và ai có được tình yêu với tha nhân thì đã hội ngộ cùng Thiên Chúa và đã ở trong Ngài.
3. Sống sứ điệp Lời Chúa
Cả cuộc đời của Đức Giêsu là hiện thân của một cuộc tình giữa Thiên Chúa và loài người. Cuộc tình đó, Đức Giêsu là người đi bước trước để đến với loài người. Tình yêu của Ngài là một tình yêu hướng tha.
Khi khai mở một cuộc tình như thế, Đức Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta hãy đi trên lộ trình của cuộc tình như Ngài là chấp nhận hy sinh, phục vụ và hiến thân vì người mình yêu. Bởi vì: “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13).
Ngày nay, có rất nhiều người lầm tưởng và nghĩ rằng: muốn nên thánh thì phải làm được những chuyện lớn lao, vĩ đại, siêu quần bạt chúng; hay phải là một người đạo đức trổi vượt, ăn chay quanh năm suốt tháng, sáng lễ, chiều kinh, tối chầu; rồi luôn tham gia hết hội đoàn này đến hội đoàn kia; hoặc ở đâu có hành hương là đầu tư tiền bạc để đi cho kỳ được... Những việc làm này thật đáng ca ngợi, bởi vì một cách nào đó thể hiện sự anh hùng, trung thành, tin tưởng... Tuy nhiên, đây không phải là cốt lõi của Đạo, và đây cũng chưa hẳn là bản chất của sự thánh thiện...
Thật vậy, sự thánh thiện không hệ tại ở việc tuân giữ giới luật của Chúa bề ngoài. Bề ngoài thực sự chỉ có giá trị khi nó được thúc đẩy bởi lòng mến mà thôi. Nếu có lòng yêu mến Chúa và yêu thương anh chị em thực sự thì những việc ta làm ở trên mới có giá trị, bằng không nó sẽ vô nghĩa nếu không muốn nói là sẽ nguy hại cho linh hồn vì: chúng ta sẽ dễ rơi vào tình trạng như những người Biệt Phái, Luật Sĩ khi xưa là sống hình thức, giả hình bên ngoài.
Thiên Chúa sẽ không căn cứ vào chuyện ta làm được nhiều hay ít; đọc nhiều kinh; cầu nguyện lâu giờ cũng như đi hết nơi này nơi kia..., nhưng, Chúa sẽ dựa trên tình yêu ta đặt vào đó nhiều hay ít mà trọng thưởng chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu được rằng: mọi sự sẽ vô nghĩa nếu không có tình yêu. Xin Chúa ban cho chúng con luôn luôn lấy tình yêu làm căn cốt, để chúng con được ở trong tình yêu của Thiên Chúa. Amen.
76. Điều răn trọng nhất - JM. Lam Thy ĐVD.
Sau khi đám biệt phái Pha-ri-sêu gài bẫy Đức Giê-su về vụ “nộp thuế cho Xê-da” (CN.XXIX/TN-A) bị thất bại thê thảm, thì lại đến lượt đám Xa-đốc gài bẫy Người về vụ “Kẻ chết sông lại”. Đám Xa-đốc vốn không tin có sự sống lại, nên mới đưa ra trường hợp một người đàn bà liên tiếp sống với 7 đời chồng (là anh em ruột, cứ người anh chết đi thì lại lấy người em kế, cho đến khi cả 7 anh em đều chết hết). Sau đó người đàn bà cũng chết. Họ hỏi Đức Giê-su: “Vậy khi sống lại, thì bà ấy sẽ là vợ ai trong số 7 người chồng đó?” Thực tế, không thể và không hề có chuyện như vậy. Nhóm Xa-dốc phịa ra một câu chuyện không tưởng, mục đích chỉ để dồn Đức Giê-su vào thế bí, nhằm hạ nhục Người. Đức Giê-su đã giáng một đòn rất mạnh, khiến họ phải câm miệng: "Các ông lầm, vì không biết Kinh Thánh, cũng chẳng biết quyền năng Thiên Chúa. Quả thế, trong ngày sống lại, người ta chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời.” (Mt 22, 29-30).
Vì liên tiếp thất bại, nên “Khi nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, thì những người Pha-ri-sêu họp nhau lại.” (Mt 22, 34) tìm phương kế tiếp tục hành động ám muội của họ. Đó là đám người chuyên vỗ ngực tự cho mình là người thông luật và tự hào mình lúc nào cũng tuân thủ Lề Luật cách nghiêm chỉnh. Đáng tiếc là họ “nói mà không làm, bó những gánh nặng mà đặt lên vai người ta, còn chính họ lại không buồn động ngón tay vào”, và nhất là “họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy” (Mt 23, 3-5). Hơn thế nữa, họ vẫn cho rằng Đức Giê-su chống lại Lề Luật (cụ thể là luật Mô-sê), và họ đã liên tục đem Lề Luật ra gài bẫy Người (“các kinh sư và các người Pha-ri-sêu bắt đầu căm giận Người ra mặt, và vặn hỏi Người về nhiều chuyện, gài bẫy để xem có bắt được Người nói điều gì sai chăng.” – Lc 11, 53-54). Họ luôn tìm những chứng gian để có cớ xử án Người (“Còn các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng thì tìm chứng gian buộc tội Đức Giê-su để lên án tử hình” – Mt 26, 59).
Bài Tin Mừng hôm nay CN.XXX/TN-A – Mt 22, 34-40) trình thuật về vụ những “nhà thông luật” Pha-ri-sêu họp nhau lại bàn mưu tính kế, rồi đặt câu hỏi để thử xem Đức Giê-su có “thông luật” không? Họ hỏi: "Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?" Với bộ luật Mô-sê có tới 613 khoản (gồm 248 lệnh truyền và 365 điều cấm), nếu gặp phải tay mơ, thì “bí rị” là cái chắc; nhưng thật không ngờ Đức Giê-su trả lời một cách trơn tru: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy." (Mt 22, 36-40).
Mới thoạt nghe câu trả lời của Đức Giê-su (yêu Chúa và yêu người thân cận), ai cũng cho là hữu lý, vì nghĩ rằng Thiên Chúa là Cha thì yêu Người “hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn” là điều tất nhiên; còn người thân cận thì hẳn phải là những người máu mủ ruột thit (cha mẹ, anh chị em), yêu mến họ là phải đạo làm người. Nhưng chẳng lẽ Thiên Chúa yêu tất cả loài người, mà Người chỉ dạy yêu những người ruột thịt thôi sao? Thắc mắc này không được thánh Mat-thêu trình thuật, nhưng theo thánh Lu-ca thì đó cũng là thắc mắc của chính người đã hỏi Đức Giê-su về “Điều răn trọng nhất” (Lc 10, 29-37): Nhà thông luật “muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng Đức Giê-su rằng: "Nhưng ai là người thân cận của tôi?" Chỉ đến khi nghe hết “Dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành” (Lc 10, 30-37), nhà thông luật mới vỡ lẽ để hiểu ra rằng “người thân cận” không chỉ bó hẹp trong phạm vi gia đình ruột thịt, mà là tất cả “những người ta gặp trên đường” hay nói rõ hơn, đó là “người trong bốn bể đều là anh em” (“tứ hải giai huynh đệ”), vì tất cả đều là con cái của Người Cha duy nhất trên trời: “Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng ta”.
Tới đây thì mọi sự đã rõ ràng: “Thiên Chúa dựng nên loài người giống hình ảnh Người” (St 1, 27) thì tất cả những tha nhân bên cạnh và chung quanh chúng ta chính là hiện thân cụ thể và gần gũi chúng ta nhất, bởi tất cả đều giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng vô hình, mà lại dựng nên con người giống hình ảnh Người, vậy phải hiểu vấn đề như thế nào cho ổn? Vấn nạn này cũng đã gây nhiều tranh cãi, mãi đến Công Đồng Va-ti-ca-nô II, vấn đề mới sáng tỏ: “Mầu nhiệm về con người chỉ thật sự được sáng tỏ trong Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Thật vậy, A-đam, con người đầu tiên, chính là hình ảnh của Đấng sẽ đến, là Chúa Ki-tô. Chúa Ki-tô, A-đam Mới, trong khi mạc khải về Chúa Cha và tình yêu của Người, cũng giúp con người hiểu biết đầy đủ về chính mình và nhận ra ơn gọi vô cùng cao quý của mình. Là "hình ảnh của Thiên Chúa vô hình" (Cl 1, 15), chính Người là con người hoàn hảo đã trả lại cho con cháu của A-đam hình ảnh Thiên Chúa đã bị tội nguyên tổ làm sai lệch.” (Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội “Gaudium et Spes”, số 22).
Vì thế, yêu những người ấy là yêu chính Thiên Chúa, và không yêu họ chính là không yêu Người. Do đó, thánh sử Gio-an mới nói: “Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em mình” (1Ga 4, 20-21). Đó cũng chính là nguyên cớ khiến thánh Phao-lô và Gia-cô-bê đã tóm lại toàn bộ lề luật vào một giới răn duy nhất: “Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật; Các điều răn đều tóm lại trong lời này: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Yêu thương là chu toàn Lề Luật.” (Rm 13, 8-10); “Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.” (Gl 5, 14); “Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là "Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gc 2, 8).
Chính Con Người không những đã dạy bảo mà còn thực hành điều đó trên Thánh giá. Khi chiêm ngắm Thánh giá thì cũng chính là lúc người tín hữu được trực diện với hình ảnh Thiên Chúa Tình Yêu Giê-su Ki-tô đang dang rộng hai tay mời gọi mọi người hãy trở nên đồng hình đồng dạng với Người. Một cách cụ thể, Người đang muốn nói với tất cả chúng ta: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” – Mt 22, 37-39). Cây Thánh giá hình chữ thập chính là biểu tượng cho hai điều răn quan trọng nhất ấy: Cây gỗ dọc là thân mình của mỗi Ki-tô hữu đang đứng thẳng vươn tới Thiên Chúa, thanh gỗ ngang là hai cánh tay dang rộng ôm lấy anh em trong yêu thương đùm bọc nhau. Nói khác đi, Đạo (con đường) Ki-tô chỉ có 2 chiều: chiều thẳng đứng chỉ sự công minh chính trực của Thiên Chúa là điều phải vươn tới và chiều nằm ngang chỉ tình cảm thương yêu đối với tha nhân là điều phải thực hiện trong cuộc sống.
Rõ ràng 2 điều răn đã liên kết chặt chẽ với nhau trở nên một điều răn quan trọng nhất: “Mến Chúa yêu người”, cũng như 2 thanh gỗ đóng hình chữ thập nhuộm đỏ máu Chúa Ki-tô đã trở nên một Biểu-Tượng-Tinh-Yêu được cả thế giới công nhận và tín phục: HỒNG THẬP TỰ. Vâng, quả thực là Đạo Công Giáo chỉ sống và thực hành duy nhất một điều răn bao trùm lên tất cả: MẾN CHÚA YÊU NGƯỜI. Muốn “mến Chúa” thì tiên vàn phải biết “yêu người” (“đói cho ăn, khát cho uống, rách cho mặc, tiếp rước khi là khách lạ, viếng thăm khi bị cầm tù…”), vì chỉ có “yêu người” mới thực là “mến Chúa”, bởi "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" (Mt 25, 40).
Không cần phải nói ở đâu xa, cứ xem ngay từ hồi những hạt giống Tin Mừng đầu tiên được gieo trên mảnh đất chữ S này, những anh em không cùng tín ngưỡng, kể cả những người không tín ngưỡng (vô thần) đều gọi Ki-tô Giáo là Đạo Yêu Thương, Đạo Bác Ái. Ngày nay, chúng ta hãnh dịên vì điều đó, thì lại càng phải làm sao cho điều đó trường tồn và phát triển đến thiên thu vạn đại. Muốn được như vậy, hẳn nhiên là phải thực sự trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, cũng tức là phải làm thế nào cho mình trở nên một THẬP-TỰ-GIÊSU giữa đời. Viết tới đây, kẻ viết bài này bỗng liên tưởng tới một sự kiện cũng xảy ra tại Việt Nam vào cuối thập kỷ 80 thế kỷ XX: Đó là câu chuyện bộ phim “Chuyện Tử Tế” của nhà đạo diễn Trần Văn Thủy đã gây chấn động dư luận trong nước và cả thế giới.
Bộ phim được sản xuất và hoàn tất năm 1985, nhưng bị cấm phát hành, mãi đến năm 1987 mới được công chiếu. Bộ phim đã khắc họa hình ảnh của những người dân nghèo khổ dưới chế độ bao cấp của xã hội VN, để từ đó tìm ra lời giải đáp cho câu hỏi: "Thế nào là sự tử tế?" Tác phẩm sau đó đã giành giải Bồ Câu bạc tại Liên hoan phim Quốc tế Leipzig, được nhiều đài truyền hình mua bản quyền để phát lại. Khi phim “Chuyện Tử Tế” được trình chiếu trong liên hoan phim Đại Dương (Pháp), một phóng viên đã hỏi: “Người Ki-tô hữu Việt Nam có thể làm gì cho dân tộc mình?” Đạo diễn Trần Văn Thủy đã trả lời: “Với tôi, điều người ta mong đợi ở các Ki-tô hữu là niềm tin của họ và cách họ sống điều họ tin”. Chính điều này cho thấy tin Đạo là một chuyện, nhưng còn phải biến niềm tin ấy thành hành động sống Đạo giữa đời, đem đến cho đời những điều tốt lành của Đạo, hay nói cách khác là sống tốt Đạo đẹp đời. Chỉ có như thế mới xứng đáng với “Hình ảnh và danh hiệu của Thiên Chúa” ở ngay chính con người của mình: Ki-tô hữu.
Là Ki-tô hữu, tức là một Thập-tự-Kitô, phải chăng là đang thi hành sứ mệnh "Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em" (Mt 28, 19-20)? Câu trả lời thật hiển nhiên: “Vì sứ mệnh này tiếp diễn, và qua dòng lịch sử làm sáng tỏ sứ mệnh của chính Chúa Ki-tô, Ðấng đã được sai đến rao giảng Phúc Âm cho người nghèo khó, nên Giáo Hội được Thánh Thần Chúa Ki-tô thúc đẩy, cũng phải tiến bước trên chính con đường mà Chúa Ki-tô đã đi, là nghèo khó, vâng lời, phục vụ và tự hiến thân cho đến chết, để rồi toàn thắng nhờ sự sống lại của Người. Chính các Tông Ðồ trong niềm hy vọng cũng đã bước đi trên đường lối đó, đã chịu nhiều nghịch cảnh và đau khổ để hoàn tất những gì còn thiếu sót trong cuộc khổ nạn Chúa Ki-tô đã chịu vì thân thể Người là Giáo Hội. Nhiều khi máu các Ki-tô hữu còn là hạt giống nữa.” (SL Truyền Giáo “Ad Gentes”, số 5).
“Máu các Ki-tô hữu còn là hạt giống nữa” ư? Vậy thì máu Ki-tô hữu đổ ra nhuộm đỏ thân mình trở thành một Hồng-Thập-Tự-Kitô, há chẳng phải là ”hat giống Tin Mừng” đó sao? Chính những hạt giống Tin Mừng ấy sẽ trưởng thành và đơm bông kết trái trên cánh đồng TRUYỀN GIÁO vậy. Ôi! Lạy Chúa, xin soi sáng và thêm sức cho con nên một cành nho trổ sinh nhiều hoa trái, để con thực sự trở thành một HỒNG-THẬP-TỰ-KITÔ-HỮU giữa đời thường. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.
77. Luật của sự sống - P. Trần Đình Phan Tiến
Kinh thưa quý vị! Thiên Chúa là nguồn sống, nguồn sống vĩnh cửu, đích thực và duy nhất. Vì sự sống từ nơi Thiên Chúa phát xuất ra, chứ sự sống không do bởi con người. Vì thế, nguồn sống vĩnh hằng nơi Thiên Chúa là điều quan trọng nhất. Chủ đề Lời Chúa hôm nay, Chúa Nhật XXX TN (A), tuy không dài, nhưng thật quan trọng, thật cao siêu. Vì đây là tận cùng là mấu chốt của vấn đề Đức Tin Kitô giáo.
Vâng, tại sao vậy, thưa quý vị? Thưa, bởi vì, tất cả, chung quy, mọi sự rồi phải đến cùng đích đó là: “SỰ SỐNG VIÊN MÃN”. Từ đó, việc giữ đạo mới thật sự có giá trị.
Tại sao chúng ta nói: Thiên Chúa là tình yêu, vâng, quả thật là như thế. Bởi vì, Thiên Chúa là sự sống, là nguồn sống. Nếu như, Thiên Chúa không là tình yêu, thì tất không có sự sống. Chúng ta thấy, tại sao có ma quỷ? Bởi vì, nơi nó không có sự sống. Nó ghen ghét, nó có hận thù, nó là cho chết, tìm cách hãm hại. Thì chúng ta gọi đó là ma quỷ. Tại sao gọi là ma quỷ? Thưa, quỷ là kẻ đầu nêu, là kẻ gieo mầm sự chết. Tức satan, có nghĩa là kẻ phản nghịch, kẻ chống lại Thiên Chúa. Còn, ma là linh hồn người ta bị quỷ cám dỗ theo nó. Cho dù, linh hồn con người phạm tội chống lại Thiên Chúa, hay là quỷ đi nữa, thì Thiên Chúa cũng không tiêu diệt quỷ hay linh hồn đó. Bởi vì Nguồn sống bắt đầu từ Thiên Chúa, Đấng Tạo dựng. Thiên Chúa chỉ tạo dựng một lần và mãi mãi, không tạo dựng hai lần. Đó là nguyên lý nguồn sống từ Thiên Chúa, hay nói cách khác, ngoài Thiên Chúa thì không có nguồn sống. Từ chân lý nầy, chúng ta suy ra, sự sống của linh hồn và sự sống của thân xác. Sự sống của linh hồn tuy siêu nhiên, nhưng bất tử, vĩnh cửu, đời đời. Chúng ta không nhìn thấy sự sống của linh hồn bằng con mắt thể xác. Nhưng chúng ta có thể nhìn thấy sự sống của linh hồn qua con mắt đức tin. Bởi vì, điều gì nhìn thấy qua con mắt thể xác, thì điều ấy sẽ giới hạn. Vì vậy, qua sự sống hữu hạn, chúng ta được nhìn thấy sự sống vô hạn, đó là sự sống của linh hồn. Dù tin hay không, thì đây là chân lý.
Từ sự sống thể xác, chúng ta suy về sự sống của linh hồn, từ đó, chúng ta cần tìm kiếm và tôn thờ Thiên Chúa, Đấng là nguồn của sự sống vĩnh cửu và hữu hạn.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy luật của sự sống. Vâng, luật của sự sống đó là “YÊU THƯƠNG “. Vì tình yêu gắn liền với sự sống, cả nghĩa đen lẫn nghĩa siêu nhiên. Chúng ta tôn thờ Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta, hơn là quyền năng của Thiên Chúa. Vì quyền năng của Thiên Chúa làm cho chúng ta xúc phạm, còn tình yêu thương của Thiên Chúa, thì làm cho chúng ta được sống. Vâng, Thiên Chúa đã tỏ hiện tình yêu của Ngài qua Con Một- là Đức Giêsu –Kitô. Vì nếu chúng ta không đặt tình yêu Thiên Chúa lên trên tất cả, thì chúng ta không thể có sự sống vĩnh cửu được. Vì sự sống vĩnh cửu chỉ có ở một nơi duy nhất đó là Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta không thể vừa tôn thờ Thiên Chúa là tình yêu, mà chúng ta lại không trao ban tình yêu cho tha nhân. Trong đoạn Tin Mừng (Mt 22, 39 b) hôm nay, gọi là “người thân cận “: Người thân cận có nghĩa là: Cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh chị em, hàng xóm,tất cả những người chúng ta gặp hằng ngày, nơi công xưởng, đồng nghiệp, học đường, ngoài chợ, bạn hàng. Tóm lại là tất cả mọi người chúng ta gặp từ người thường xuyên gặp đến những người ít găp, mới gặp. Trong cộng đoàn dòng tu, anh em cùng dòng, bề trên, bạn hữu, tất cả những anh chị em khác dòng, những người giúp việc, tất cả mọi người chúng ta gặp trên đường đi. Cụ thể như trường hợp các thánh. Các thánh tu trì không sống trong môi trường gia đình theo huyết thống, nhưng trong một môi trường gia đình thiêng liêng. Các thánh sống trong bậc gia đình, thì chu toàn bổn phận vì yêu thương gia đình đúng cách. Yêu như chính bản thân mình, là biết “hy sinh” cho người thân cận.
Chúa Giêsu day cho chúng ta biết yêu thương tha nhân như chính mình, là dạy cho chúng ta biết yêu thương đúng cách. Để chu toàn luật yêu mến Thiên Chúa trên tất cả mọi sự. Hai điều nầy không mâu thuẫn với nhau, nên, gọi là một điều răn. Vì ai yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, thì tất không có lòng thù ghét người thân cận. Người thân cận, rất nhiều khi làm mất lòng chúng ta, làm cho chúng ta thiệt thòi về những điều cố tình hoặc vô ý. Chúng ta rất khó chịu, đó là sự sống thân xác. Nhưng, chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, thì đó là sự sống linh hồn, sự sống siêu nhiên. Theo đó, yêu mến và tôn thờ Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu thương người thận cận như chính mình, chính là một con người có thân xác và có linh hồn, như thế mới gọi là một con người sống có sự sống. Như vậy, gọi là “LUẬT CỦA SỰ SỐNG”. Vì nếu, chúng ta chỉ yêu mến và tôn thờ Thiên Chúa không thôi, thì chưa đúng như Lời Chúa dạy. Còn ngược lại, nếu chúng ta chỉ yêu người thân cận không thôi, thì làm sao chúng ta có sự sống đích thực là Thiên Chúa. Khi thân xác hữu hạn qua đi, chúng ta làm sao có sự sống vĩnh cửu là Thiên Chúa được. Vậy, chúng ta phải tìm lấy sự sống vĩnh cửu, để chu toàn sự sống hữu hạn nơi thân xác là yêu người thân cận như chính mình. Vì như thánh Phao-lô nói: “Yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 13, 8). Như vậy, cũng có thể gọi là “LUẬT CỦA SỰ SỐNG “. Khi chúng ta giết người, thì chắn chắc luật xã hội sẽ trừng trị chúng ta. Nhưng khi, chúng ta hận người trong lòng, thì luật tình yêu thương của Thiên Chúa sẽ lên án chúng ta. (vì luật xã hội không làm gì được chúng ta)
Tình yêu chính là sức mạnh, là động lực sống cho con người. Muốn làm được tất cả, trước tiên phải có tình yêu. Không phải chỉ có tình yêu đôi lứa, nam nữ giữa con người mà thôi. Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa, bởi vì: THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU. Tình yêu gắn kết đôi nam nữ và làm cho họ trở nên vợ chồng, như vậy hôn nhân cần có tình yêu. Nhưng, tình yêu của hôn nhân cần có tình dục để chu toàn trọn vẹn tình yêu. Hôn nhân gia đình, nếu thiếu hoặc mất đi hương vị của tình yêu, thì không còn hôn nhân nữa.
Nhưng tình yêu nơi Thiên Chúa là tình bạn hữu muôn đời không thay đổi, vì đó là sự sống thần linh. Chúa Giêsu nói: “ Thầy không gọi anh em là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì điều gì Thầy nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho anh em biết.” (Ga 15, 15).(Lc 12, 4)
Theo đó, Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một sự khôn ngoan đích thực hầu bảo đảm cho chúng ta một sự sống đời đời. Như thế, không phải là “luật của sự sống” hay sao? Lời Chúa cho chúng ta biết sống, sống đúng cách, và sống đời đời.
Thánh Vịnh 17 hôm nay khái dài, cho chúng ta biết:” Bài ca cảm tạ “ Thiên Chúa: Chúa là dũng lực. là thành lũy chở che con. Muôn đời con cảm tạ ơn Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy cho chúng con một điều răn quan trọng nhất, đó là luật mến Chúa trên hết mọi sự, và yêu thường người thân cân như chính mình con. Xin thương ban cho chúng con biết thực thi Lời dạy của Chúa để chúng con nhận được sự sống đích thực từ nơi Chúa là nguồn sống, vì đó chính là đích điểm của chúng con. Amen.
78. Đạo Yêu - vị tha hay vị kỷ
(Suy niệm của Lm. JP. Vũ Minh)
Phúc Âm Nhất Lãm có viết về Điều Răn Trọng Nhất (Mt 22:34-40; Mc 12:28-34; Lc 10:25-28) và bài Phúc Âm của chủ nhật này theo Thánh Mátthêu đã dựa vào bối cảnh của Phúc Âm theo Thánh Mátcô để diễn tả rằng Chúa Giêsu phải đối phó nhiều với các thượng tế, luật sĩ và người Pharisêu vì sau khi Ngài được đón rước vào Thành Thánh Giêrusalem một cách long trọng như một Vị Cứu Tinh nhưng những kẻ ghét Ngài đã quá thiển cận và mù quáng nên họ vẫn cứ gài bẫy, phản kháng và thách đố Chúa Giêsu để họ có thể tìm cách giết Ngài, và những cuộc đối chất này sẽ đưa đến hậu quả tối hậu là Ngài sẽ phải chết.
Trong phần đối chất theo bài Phúc Âm của chủ nhật này, một luật sĩ đã thử Chúa Giêsu với một câu hỏi rất thông thường trong Đạo Do Thái về lời Kinh Shema (như là Kinh Tin Kính) mà người Do Thái phải đọc mỗi ngày -- “Nghe đây, hỡi Ítsraen; ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất, hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em” (NL 6:4-5) -- để xét Ngài sẽ đáp lại thế nào về giới răn trọng đại nhất. Phúc Âm Thánh Mátthêu đã bầy tỏ rằng Chúa Giêsu đã biết ác ý của họ (Mt 22:18) nên Ngài đã dùng dịp này để đáp lại với một câu trả lời thật sâu xa: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai - cũng giống điều răn ấy - là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môisê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy” (Mt 22:37-40); rồi những người muốn tranh luận với Ngài đã phải câm miệng và rút lui.
Câu trả lời tinh tế này cũng là một lời cảnh tỉnh cho cả chúng ta nên ta hãy bàn thêm về câu nói này của Chúa Giêsu:
Yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn là một lẽ đương nhiên của những ai tin vào Thiên Chúa! Nhưng lời kinh này không phải chỉ được đọc suông như con vẹt vì người đọc lời kinh này phải chứng tỏ lòng tin đó qua cuộc sống của họ. Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu lại nói thêm vào lời kinh đó với câu nói: “Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ‘Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môisê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy’.” “Yêu người thân cận như chính mình” là bằng chứng cụ thể của người yêu Thiên Chúa một cách đích thực!
“Yêu người thân cận như chính mình” ám chỉ rằng lòng yêu người phải được nhấn mạnh về tình thương tha nhân trước hết... khi ta thấy nỗi đau của người khác chính là nỗi đau của mình và tìm mọi cách để đáp ứng thì mới chứng tỏ được tình yêu tha nhân của mình có tính cách vị tha; thay vì tình yêu theo tính vị kỷ của con người vì họ chỉ nghĩ đến mình trước khi nghĩ đến người khác. Ta hãy xét lại về tình thương của ta với Thiên Chúa hay tha nhân để xem tình thương của ta có tính cách vị tha hay vị kỷ. Đây chính là Đạo Yêu đích thực mà Chúa Giêsu muốn ở nơi ta!