Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
13/11 Sống trong ngày của Chúa.
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Sống trong ngày của Chúa.
Thứ Sáu tuần 32 thường niên.
"Cũng xảy ra như thế trong ngày Con Người xuất hiện".
Lời Chúa: Lc 17, 26-37
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Như sự kiện đã xảy ra thời Noe thế nào, thì trong ngày Con Người cũng xảy đến như vậy. Thiên hạ cứ ăn uống, cưới vợ gả chồng, mãi cho tới ngày Noe vào tầu, rồi nước lụt đến tiêu diệt mọi người.
"Lại cũng như đã xảy ra thời ông Lót: người ta ăn uống, mua bán, trồng tỉa, xây cất, nhưng ngày ông Lót ra khỏi thành Sôđôma, thì trời liền mưa lửa và sinh diêm, tiêu diệt mọi người. Cũng sẽ xảy như thế trong ngày Con Người xuất hiện.
"Trong ngày đó, ai ở trên mái nhà có đồ vật trong nhà, thì chớ xuống lấy đi; và ai ở ngoài đồng cũng đừng trở về. Các con hãy nhớ trường hợp vợ ông Lót. Ai lo cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đành mất sự sống mình thì giữ được nó.
"Thầy bảo các con: Trong đêm ấy sẽ có hai người trên một giường, thì một người bị đem đi, và người kia sẽ được để lại. Hai phụ nữ xay cùng một cối, thì một người sẽ bị đem đi, còn người kia sẽ được để lại. Hai người ở ngoài đồng, thì một người bị đem đi, và người kia được để lại".
Các môn đệ thưa Chúa rằng: "Lạy Thầy, chuyện đó ở đâu vậy?" Người phán bảo các ông: "Xác ở đâu thì diều hâu tựu lại đó".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Được đem đi, bị bỏ lại
Suy niệm:
Gần đây trong y học, người ta nói đến hội chứng Brugada.
Hội chứng này thường gặp ở nơi nam giới vùng Đông Nam Á.
Nó có thể gây tử vong bất thình lình và nhanh chóng,
cho một người khi ngủ vào ban đêm, dù trước đó anh vẫn khỏe mạnh.
Số người mắc hội chứng có tính di truyền này hiện đang gia tăng.
Đến nay người ta vẫn chưa giải thích được nguyên nhân gây bệnh.
Sống làm người ở đời, con người phải đương đầu với bao bất ngờ.
Những điều tưởng như không thể nào xảy ra được, lại xảy ra.
Những điều đã tính toán rất cẩn thận, lại xảy ra không như ý.
Bệnh tật, rủi ro, tai nạn, và sau cùng là cái chết.
Những cái bất ngờ đến nhanh quá khiến con người không kịp trở tay.
Làm sao ta có đủ bình tĩnh để đón lấy mọi cái bất ngờ trong cuộc sống?
Kitô giáo chờ đợi một bất ngờ,
vì biết bất ngờ đó thế nào cũng đến, chỉ không biết rõ khi nào thôi.
Đó là Ngày Chúa Giêsu trở lại trái đất này
trong tư cách là Vua xét xử cả nhân loại.
Vào buổi đầu, nhiều Kitô hữu tưởng là Ngài sẽ trở lại ngay lập tức.
Nhưng dần dần họ thấy rằng Giáo Hội phải kiên nhẫn chờ đợi.
Chỉ khi chờ đợi điều chắc chắn sẽ xảy ra, tuy không rõ khi nào,
người ta mới không bị hụt hẫng khi biến cố xảy đến.
Giáo Hội đã chờ hai ngàn năm và hôm nay vẫn đang chờ.
Chờ và chuẩn bị cho Ngày Quang Lâm làm nên sức sống của Giáo Hội.
Nhưng chờ đợi lâu dài cũng có thể làm người ta mỏi mòn.
Cuộc sống hàng ngày với nhịp điệu bình thường, đều đặn, êm ả,
có thể cuốn hút ta vào một vòng xoáy khó có lối ra.
Cơn hồng thủy đã bất ngờ ập xuống vào thời ông Nôê,
khi “họ đang ăn, họ đang uống, họ đang cưới vợ, họ đang lấy chồng.”
Dòng chảy tự nhiên ấy bị cắt đứt đột ngột bởi cơn hồng thủy.
Khi Thiên Chúa tiêu diệt thành Xơđôm bằng lửa bởi trời,
thì “họ đang ăn, họ đang uống, họ đang mua, họ đang bán,
họ đang trồng, họ đang xây” (c. 28).
Cuộc sống tưởng như cứ trôi đều, ai ngờ nó phải dừng lại.
Chuyện ăn uống, mua bán, lập gia đình, trồng trọt, xây cất
chẳng phải là điều xấu, cần phải tránh xa hay coi thường.
Nhưng chúng ta không để mình bị ru ngủ
bởi cái nhịp tự nhiên và quyến rũ của chúng.
Người Kitô hữu sống đời thường như mọi người một cách tỉnh táo.
Tận tụy nhưng lại không bị mất hút, hết mình nhưng lại còn chút e dè.
Sống tưng bừng giây phút hiện tại nhưng vẫn nhớ đến điểm tới.
Hai người nằm một giường, hai phụ nữ xay một cối (cc. 34-35),
nhưng số phận chung cuộc của họ lại khác nhau.
Có người được đem đi, có người bị bỏ lại.
Làm sao tôi đừng tiếc đồ đạc mà xuống lấy hay quay trở lại nhà (c. 31)?
Làm sao tôi đừng như vợ ông Lót quay nhìn lại và hóa thành cột muối?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã yêu trái đất này,
và đã sống trọn phận người ở đó.
Chúa đã nếm biết
nỗi khổ đau và hạnh phúc,
sự bi đát và cao cả của phận người.
Xin dạy chúng con biết đường lên trời,
nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.
Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu,
chúng con thấy mình được thêm sức mạnh
để xây dựng trái đất này,
và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên Chúa,
xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời
không làm chúng con quên trời cao;
và những vẻ đẹp của trần gian
không ngăn bước chân con tiến về bên Chúa.
Ước gì qua cuộc sống hằng ngày của chúng con,
mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.Amen
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ
Suy Niệm 2: CAO HƠN, XA HƠN, MẠNH HƠN
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Cùng thân phận. Cùng điều kiện. Cùng cảnh ngộ. Nhưng kết cục khác nhau. Hai người cùng nằm trên một giường. Hai phụ nữ cùng xay một cối bột. Hai người đàn ông cùng cày cuốc trên ruộng. Nhưng một người được đem đi. Người kia bị bỏ lại. Tại sao? Thưa hơn kém nhau do tầm nhìn cao hơn, xa hơn và do sức lực mạnh hơn.
Bà Lót có tầm nhìn thấp. Nhìn xuống thấp để luyến tiếc của cải đã bị thiêu rụi. Nhìn xuống thấp nên hành động theo xác thịt. Ông No-e có tầm nhìn cao. Nhìn lên Thiên Chúa. Làm theo ý Chúa.
Bà Lót có tầm nhìn gần. Nhìn những gì đã qua. Nhìn những gì trước mắt. Ông No-e, trái lại. Bỏ qua hiện tại để nhắm đến tương lai. Không nhìn bằng đôi mắt phàm trần những gì của trần gian. Nhưng nhìn bằng ánh mắt Thiên Chúa để thấy xa hơn những gì con người phàm tục có thể thấy.
Bà Lót thật yếu đuối. Không thoát khỏi trần gian và dục vọng. Ông No-e thật mạnh mẽ. Nên chiến thắng cả một thế hệ. Để đi vào thánh ý Thiên Chúa. Vì thế bà Lót bị bỏ lại. Ông No-e được đưa đi.
Sách Khôn ngoan gọi những người nhìn thấp và gần là ngu si. Vì họ chỉ dừng lại ở vật chất mà không vươn lên đến Chúa. “Những ai không chịu nhìn nhận Thiên Chúa, tự bản chất là những kẻ ngu si. Từ những vật hữu hình tốt đẹp, chúng không đủ khả năng nhận ra Đấng HIện Hữu, và khi chiêm ngắm bao công trình, chúng cũng không nhận biết Đấng Hoá Công”. Họ yếu đuối. Nhưng không thoát khỏi bị trừng phạt vì sai lầm đó. “Họ đã để cho cái vỏ bề ngoài mê hoặc…Tuy nhiên, không vì thế mà chúng được thứ tha”(năm lẻ).
Thư 2 Gio-an khuyên ta hãy tỉnh thức. Đừng bị thế gian và những lý lẽ của nó mê hoặc. Phải vượt qua thế gian để ở lại trong Chúa Ki-tô. Để được ở lại trong Chúa Cha. Đó là phần thưởng cao quí. “Vì có nhiều người mê hoặc đã lan tràn khắp thế gian…Đó là kẻ mê hoặc và là tên Phản Ki-tô. Anh em phải coi chừng để khỏi đánh mất những gì anh em đã làm được, nhưng để lãnh đầy đủ phần thưởng”(năm chẵn).
Đó thực là một cuộc chiến đấu. Đi ngược dòng đời. Ngược với thế gian. Và khó nhất là ngược với chính những dục vọng thấp hèn trong bản thân mình.
Suy Niệm 3: Thực tại cánh chung
Trong những cuốn phim giả tưởng do trung tâm điện ảnh Holywood sản xuất trong thời gian gần đây, gây nhiều ấn tượng nhất có lẽ là cuốn phim: "Ngày Tận Cùng Của Trái Ðất". Cũng giống như thời Noê, chỉ có 50 người chuẩn bị kịp, họ đã đi vào trong một phi thuyền đặc biệt và tránh được thiên tai xẩy ra cho trái đất, họ đã đi đến một hành tinh khác, và như vậy bảo đảm cho sự trường tồn của nhân loại. Với những xảo thuật tân tiến, cuốn phim đã có thể tạo ra những ấn tượng mạnh trên người xem.
Tuy nhiên, cũng như tất cả những lời đe dọa do nhiều giáo phái tung ra, những hình ảnh của cuốn phim dù khủng khiếp đến đâu, cũng chỉ là những hình ảnh, nghĩa là mời gọi người xem, suy nghĩ về một thực tại khác sâu xa hơn, thường được gọi là thực tại cánh chung. Kinh Thánh là Lời của Thiên Chúa nói với con người. Thiên Chúa không những nói về con người, mà còn nói với con người về chính con người. Kinh Thánh nói với con người: nó từ đâu đến? sẽ đi về đâu? Cứu cánh hay cùng đích của con người là một trong những mạc khải nền tảng của Kinh Thánh. Do đó, bằng một lối văn đặc biệt, Kinh Thánh thường dùng rất nhiều hình ảnh để nói về những thực tại cánh chung ấy.
Cũng theo truyền thống ấy, khi nói về những thực tại cánh chung, Chúa Giêsu đã dùng rất nhiều hình ảnh vốn quen thuộc với người Do thái, nhưng tựu trung chính cái bất ngờ vượt khỏi mọi phạm trù và trí tưởng tượng của con người vẫn là những nét chính của thực tại cánh chung ấy. Tất cả những hình ảnh và thí dụ được Chúa Giêsu sử dụng trong Tin Mừng hôm nay cho thấy rằng thực tại cánh chung, ngày tận thế, ngày của Chúa, vốn là một thực tại mà không ai biết trước được. Bằng nhiều hình ảnh và cách diễn tả khác nhau, Kinh Thánh luôn khẳng định tính bất ngờ của ngày thế mạt; do tính bất ngờ này, các Kitô hữu luôn được mời gọi để sống tỉnh thức.
Thật ra, ngày của Chúa hay thời cánh chung đã thực sự khởi đầu với chính cuộc Phục sinh của Chúa Giêsu. Chúng ta đang thực sự đi vào trong ngày ấy, nếu chúng ta sống kết hiệp với Ngài và trở thành nhân chứng của Ngài trong lịch sử. Chúa Giêsu đã đến để đổi mới mọi sự như thánh Gioan Tông đồ đã viết trong sách Khải huyền, hoặc như thánh Phaolô đã viết trong thư 2Cor: "Ai ở trong Chúa Kitô cũng đều trở thành một tạo vật mới, cái cũ đã qua và cái mới đã có đây rồi". Chúa Kitô Phục sinh đang có mặt và tác động trong lịch sử loài người; chính Ngài đang phơi bày sức mạnh của tội lỗi là hận thù, ích kỷ, bạo động, và khơi dậy cũng như nâng đỡ những sức mạnh của chân lý, công bằng, liên đới, yêu thương. Bất cứ ai sống theo Ngài, người đó sẽ cảm thấy mình là tạo vật mới có sức thắng vượt quyền lực của sự dữ và tăm tối.
Giáo Hội đang làm chứng cho thế giới thấy rằng Giáo Hội đang làm chứng cho thời cánh chung, nghĩa là sống trong ngày của Chúa. Dấu chứng ấy khả tín hay không là tùy ở cuộc sống có khả tín hay không của các Kitô hữu. Cuộc sống lương thiện, công bằng, yêu thương, phục vụ, quảng đại của các Kitô hữu chắc chắn sẽ tạo một dấu cho mọi người thấy rằng họ là những tạo vật mới, rằng Chúa Kitô Phục sinh đang sống trong họ.
Nguyện xin Chúa Kitô Phục sinh sống trong chúng ta và hướng dẫn mọi tâm tư hành động của chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Ngày Của Con Người
Ngay từ lúc chiếc phi cơ của hãng hàng không Singapore bắt đầu lăn bánh từ phi đạo của phi trường Tưởng Giới Thạch, Ðài Loan, vào một buổi tối thứ Ba trong tháng 11 năm 2000, bà Sally Walker đã có một cảm giác không ổn. Hai tay nắm chặt vào chỗ dựa tay của ghế ngồi trong phần đuôi của chiếc phi cơ chỉ có phân nữa hành khách, người phụ nữ Hoa Kỳ bốn mươi sáu tuổi này lo lắng nhìn giông tố đang thổi ào ào bên ngoài cửa sổ phi cơ. Vào lúc 11h48' tối, chiếc phi cơ di chuyển ra phi đạo để bay về Los Angeles, Hoa Kỳ, bà Walker, một giáo sư tại đại học Giorgie đã lầm thầm cầu nguyện khi nhìn thấy hai cánh phi cơ bị nghiêng ngả và thân phi cơ bị lắc mạnh. Khi chiếc phi cơ di chuyển ở vận tốc cất cánh với một cú sốc thật mạnh và rồi thêm một lần nữa, chiếc phi cơ bị giật dữ dội sang bên trái và nổ tung. Các quả cầu lửa bắn ra khi chiếc phi cơ bị bể làm ba phần, bay rít trên mặt đường nhựa của sân bay. Sau này, ngồi trên chiếc xe lăn bà Walker kể lại sự thoát chết từ chiếc phi cơ ngập lửa rằng: "Mọi thứ đều bị đốt cháy. Thật là một cơn ác mộng khủng khiếp". Bà Walker bị thương nhẹ ở chân là một trong những người rất may mắn. Hơn tám mươi người trong số một trăm bảy mươi chín hành khách của chuyến bay định mệnh đã chết trong tai nạn này. Một số người bị đốt cháy đến độ không còn có thể nhận diện được.
Tai nạn thảm khốc này xảy ra đúng một năm sau khi chiếc phi cơ của hãng hàng không Ai Cập bị rớt trên đường bay từ thủ đô Cairô đến New York, Hoa Kỳ, gây thiệt mạng cho hai trăm bảy mươi người. Nó xảy ra tại một trong những phi trường được xem là an toàn nhất thế giới, và được hoạt động bởi một trong những công ty an toàn nhất thế giới.
Dĩ nhiên, sau bất cứ một tai nạn nào, người ta cũng cố gắng tìm ra cho bằng được nguyên nhân, bởi vì không có tai nạn nào mà không có nguyên nhân, dù nguyên nhân ấy vẫn còn nằm trong vòng bí ẩn. Tựu trung, nguyên nhân nào cũng gắn liền với những giới hạn của con người. Khoa học, kỹ thuật dù có tiến bộ đến đâu cũng không thể xóa bỏ được những hàng rào dựng lên bởi chính thân phận bất toàn của con người. Ðây hẳn phải là chân lý có thể nuôi dưỡng những suy tư và cầu nguyện của các tín hữu Kitô chúng ta trong tháng cầu cho các đẳng linh hồn này.
Tin Mừng được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe trong những ngày cuối năm phụng vụ dường như cũng hướng tâm tư chúng ta về ý tưởng ấy và trong Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói đến ngày của Con Người. Ngày ấy có thể là ngày tận thế khi Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang. Ngày ấy có thể là ngày từ giã cõi đời của mỗi người chúng ta. Nhớ đến những người quá cố, suy tưởng về sự chết không hề là một thái độ bệnh hoạn hay bi quan mà là tư thế tỉnh thức tích cực của người môn đệ Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nói đến tính cách bất ngờ của ngày của Con Người để kêu gọi các môn đệ mặc lấy thái độ tỉnh thức. Thời ông Nôê, người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng mà không màng đến lời cảnh cáo của ông, đến khi đại nạn hồng thủy đến thì đã quá muộn.
Ý nghĩ về sự chết hướng con người đến cùng đích của mình để tìm kiếm ý nghĩa cho cuộc sống. Ý nghĩa ấy luôn gợi lên cho con người ý thức về thân phận mong manh bất toàn của kiếp người và mời gọi con người tìm kiếm những giá trị vĩnh cửu của Nước Trời. Với ý thức ấy, con người hướng về cùng đích của cuộc sống và tỉnh thức không những để chờ đợi Chúa đến vào ngày sau hết, hay để được đợi mong Ngài mau đến trong những khoảnh khắc của cuộc sống.
Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta lẽ khôn ngoan và tinh thần tỉnh thức đích thực ấy.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Luôn xảy ra như tàu Titanic
Và cũng như thời ông Nô-ê, sự việc đã xảy ra cách nào, thì trong những ngày của Con Người, sự việc cũng xảy ra như vậy, thiên hạ ăn uống cưới vợ lấy chồng, mãi cho đên ngày ông Nô-ê vào tàu, và nạn hồng thủy ập tới, tiêu diệt tất cả. (Lc. 17, 26-27)
Biết chắc phải chết, nhưng người ta vẫn thích ăn chơi cho đã đời. Ăn uống, cưới hỏi, mua bán, gieo gặt, xây cất … cuồng nhiệt hoạt động đến mức sống tràn trề thỏa mãn trước khi tận diệt.
Phải lo tiên liệu
Ngày Con Người đến không chỉ là ngày ân thưởng, mà còn là ngày đe dọa xao xuyến sợ hãi. Người ta không thấy hạn kỳ ấn định, không ai biết được mình còn sống, không biết được đời sống tương lai. Nó hoàn toàn tùy thuộc vào sự ăn năn sám hối và mong đợi Chúa đến hàng ngày của mình.
Vậy phải coi chừng lo chuẩn bị trước: lịch sử cứu độ để lại cho chúng ta ít nhất là hai biến cố đầy ấn tượng mạnh mẽ. Đại hồng thủy thời ông No-e và lửa sinh diêm đốt thành Sô-đô-ma. Nước và lửa ai cũng biết là sức mạnh tàn phá kinh khủng. Biết bao lần nước và lửa tiêu hủy một cách tàn bạo bất ngờ. Vậy phải luôn luôn tỉnh thức phòng cháy, thoát lụt.
Ai có thể được cứu thoát?
Ngày ấy, phải bỏ lại tất cả bất cứ cái gì dù cần thiết cho đời sống. Vợ ông Lót miễn cưỡng đi theo chồng, nhưng lòng luôn luyến tiếc những cái phải bỏ lại. Bà là thứ tâm hồn không có lòng tin. Bất cứ lúc nào, ai không có thể từ bỏ của cải vật chất đời này, chắc chắn hư mất đời đời.
Chỉ có một điều cần thiết cho ngày ấy để có thể đứng trước mặt Chúa trong ngày phán xét là những ai làm việc hàng ngày với con mắt hướng nhìn lên Chúa, “không nhìn lại đàng sau” như vợ ông Lót, mới “thích hợp với nước Thiên Chúa”. Kẻ ru ngủ mình trong chè chén say sưa, chỉ nghĩ tìm những điều theo dục vọng “thì sẽ mất”. Cũng vậy, người đàn bà xay bột chỉ nghĩ đến tấm bánh ngon, thì sẽ bị thiêu đốt.
Các môn đệ hỏi: “Lạy Chúa, ở đâu vậy?”, cũng giống như câu hỏi của biệt phái hỏi bao giờ triều đại nước Thiên Chúa đến. Đức Giêsu cũng trả lời các môn đệ tương tự như trả lời biệt phái.
Ngày đó sẽ là ngày phán xét tất cả. Tất cả vũ trụ sẽ bị phán xét và người ta không thể trốn đi bất cứ đâu được. Không còn phao, xuồng cấp cứu nữa!
RC
Suy Niệm 6: TỈNH THỨC TRONG NIỀM VUI (Lc 17, 26-37)
Xem CN 1 MV A
Mỗi khi nói đến ngày chung thẩm, ngày Chúa đến với mọi người, ngày phán xét, hẳn đã làm cho nhiều người lo sợ. Lo sợ vì họ đang sống trong cảnh sa đọa, nên ngày đó đến, họ sẽ gặp phải sự bất hạnh. Nhưng ngược lại, nhiều người lại hân hoan vui mừng. Tại sao vậy? Thưa những người vui mừng chính là họ đang sống hết mình với Chúa, với tha nhân: dám hy sinh tất cả dù phải mất cả mạng sống mình vì Nước Trời.
Tuy nhiên, muốn có được niềm vui thực sự, chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng vì không biết ngày nào, giờ nào Chúa đến. Giờ của Chúa có thể đến như kẻ trộm, như ông chủ đi xa về, như tia chớp từ trời xuống, như trận lụt thời ông Noe...
Ngày hôm nay, con người ưa sống trong cảnh nhung lụa, ăn chơi, trần tục. Họ luôn bám vào những giá trị trần gian mà quên đi thực tại Nước Trời với những giá trị của Nước này. Vì thế, chúng ta không lạ gì khi con người trong xã hội hôm nay vẫn nhởn nhơ và ung dung sống trong tội. Không màng chi đến công bằng, nhân ái và tình thương...
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy luôn sẵn sàng, hãy tỉnh thức trong tâm tình cầu nguyện và làm những việc lành, hy sinh và bác ái.
Luôn biết gắn bó cuộc đời của mình trong sự an bài quan phòng của Thiên Chúa. Thực thi Lời Chúa dạy trong cuộc sống hằng ngày. Nhất là luôn biết tỉnh thức trong đời sống cầu nguyện.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết gắn bó cuộc sống của chúng con với Chúa. Luôn sống trong tâm tình cầu nguyện để tìm gặp Chúa trong cõi sâu thẳm của lòng chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
12/11 Sống giây phút hiện tại
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Sống giây phút hiện tại.
Thứ Năm tuần 32 thường niên. – Thánh Giôsaphát, giám mục, tử đạo. Lễ nhớ.
"Nước Thiên Chúa ở giữa các ông".
* Thánh nhân sinh khoảng năm 1580 tại U-cơ-rai-na, trong một gia đình theo chính thống giáo. Nhưng người lại sớm gắn bó với giáo hội U-cơ-rai-na hiệp nhất với Rôma.
Năm 1617, người làm tổng giám mục Pô-lốc và dấn thân phục vụ dân tộc mình không so đo tính toán, nhất là cố gắng lo cho việc hiệp nhất Hội Thánh. Thành công trong hoạt động tông đồ của người đã khiến cho các kẻ thù của Hội Thánh công giáo căm ghét người. Người bị giết ở Vi-tép trong lúc đang viếng thăm các tín hữu, năm 1623.
Lời Chúa: Lc 17, 20-25
Khi ấy, những người biệt phái hỏi Chúa Giêsu "Khi nào nước Thiên Chúa đến", thì Người đáp lại rằng: "Nước Thiên Chúa không đến để cho người ta quan sát, và người ta sẽ không nói được: "Này nước trời ở đây hay ở kia". Vì nước Thiên Chúa ở giữa các ông".
Chúa lại phán cùng các môn đệ rằng: "Sẽ có ngày các con ước ao thấy được một ngày của Con Người mà không được thấy. Người ta sẽ bảo các con: "Này Người ở đây và này Người ở kia", các con chớ đi đến và đừng tìm kiếm. Vì như chớp sáng loè từ chân trời này đến phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng sẽ đến trong ngày của Người như vậy. Nhưng tiên vàn Người phải chịu đau khổ nhiều, và bị dòng dõi này xua đuổi".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Nước Thiên Chúa
Suy niệm:
Từ sau khi dân Israel định cư ở đất Canaan,
Thiên Chúa được họ coi như một vị Vua cai trị mọi dân tộc.
Đặc biệt Ngài là Vua ngự giữa dân Israel để lãnh đạo và chăm sóc họ.
Các vị vua trần thế đã xuất hiện trong dòng lịch sử của Israel
như những người phục vụ cho Đức Vua, cho Nước Thiên Chúa.
Tiếc thay có những vị vua đã không làm tròn sứ mạng.
Trải qua bao triều vua của nước Israel, bao thịnh suy của đất nước,
từ sau khi lưu đầy trở về, dân chúng chỉ còn biết chờ một Đấng Mêsia.
Họ tin Đấng ấy sẽ khai mở Nước Thiên Chúa.
“Nước Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (c. 21).
Đức Giêsu đã nói với các ông Pharisêu như vậy
khi họ hỏi Ngài khi nào Nước Thiên Chúa đến.
Nước ấy không đến một cách lộ liễu ở đây hay ở kia để kiểm tra (c. 20).
Người Pharisêu không nhận ra Nước ấy đang ở giữa họ.
Chỉ ai biết nhìn, mới nhận ra Nước ấy đang hiện diện và hoạt động
nơi lời giảng và các phép lạ của Đức Giêsu.
Khi bệnh được khỏi, khi quỷ bị trừ, khi tội được tha,
khi con người được biết hoán cải để sống những đòi hỏi của Đức Giêsu,
khi ấy Nước Thiên Chúa có mặt và tăng trưởng.
Đức Giêsu đã khai mở Nước Thiên Chúa.
Và Nước đó vẫn lớn lên từ từ qua dòng thời gian.
Như hạt giống được gieo trong đất, đêm hay ngày cũng cứ lớn lên,
như chút men làm dậy khối bột, như hạt cải thành cây cao rợp bóng,
Nước Thiên Chúa cũng cần thời gian để đạt đến chỗ viên mãn.
Hai ngàn năm trôi qua, Nước Thiên Chúa đã lớn lên về mọi mặt.
Nhưng Kitô hữu chúng ta vẫn thấy còn nhiều điều phải làm
để Nước đó được nhìn nhận bởi gần 7 tỷ người trên trái đất.
Ngày nào trên thế giới còn chiến tranh, bạo động, còn áp bức, bất công,
ngày nào nhân loại còn bệnh tật nghèo đói, còn nô lệ cho vật chất,
ngày ấy Nước Thiên Chúa chưa ngự trị trên địa cầu.
Nơi nào công lý và hòa bình, khoan dung và nhân hậu,
chi phối trái tim và cách hành xử giữa người với người,
nơi đó Nước Thiên Chúa đã đến gần hơn.
Chúng ta không chỉ cầu xin cho Nước Cha trị đến (Mt 6, 10).
Chúng ta biết mình được mời gọi để xây dựng Nước đó trên trần gian.
Để chuẩn bị cho Ngày Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang,
chúng ta còn bề bộn công việc phải làm.
Ngài phải có chỗ trong lòng dân tộc, giữa thế kỷ hai mươi mốt.
Nhưng trước hết Ngài phải có chỗ trong lòng chúng ta.
Xin được đón lấy Nước Thiên Chúa như trẻ thơ, như người nghèo tay trắng.
Xin được quảng đại bán tất cả để mua viên ngọc quý là Nước Trời.
Xin được chia sẻ cho Giêsu nơi những người anh em bé nhỏ nhất.
Vì Nước Thiên Chúa là một tiệc vui, quy tụ mọi người từ bốn phương,
xin được mở rộng vòng tay từ bây giờ để ôm lấy cả thế giới.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này
là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con mơ ước
không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng,
bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp,
không còn những cô gái đứng đường
hay những người ăn xin.
Con mơ ước
những ngưòi thợ được hưởng lương xứng đáng,
các ông chủ coi công nhân như anh em.
Con mơ ước
tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình,
các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.
Lạy Chúa của con,
con ước mơ một thế giới đầy màu xanh,
xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển,
và xanh của bao niềm hy vọng
nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.
Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ,
thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó.Amen
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: NƯỚC THIÊN CHÚA Ở GIỮA CÁC ÔNG
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Từ bao đời người Do thái luôn mong đợi “Bao giờ Triều Đại Thiên Chúa đến”. Họ vẫn tưởng Triều Đại Thiên Chúa đến rất hoành tráng. Một vị hoàng đế tài ba như Đa-vít sẽ xuất hiện. Đưa dân tộc lên đài vinh quang. Thống trị thế giới. Thật bất ngờ Chúa trả lời: “Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông”. Vừa gần gũi. Vừa ẩn giấu. Như kho tàng chôn giấu ngay trong ruộng nhà. Như hạt cải vùi chôn dưới đất. Như nắm men vùi trong thúng bột. Phải tinh tế lắm mới nhận ra. Khi nhận ra thì thật rõ ràng: “Vì như ánh chớp chói loà chiếu sáng từ phương trời này đến phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng sẽ như vậy trong ngày của Người. Nhưng trước đó, Người phải chịu đau khổ nhiều và bị thế hệ này loại bỏ”. Nhưng Triều Đại Thiên Chúa chỉ đến sau những gian nan đau khổ.
Để nhận ra Triều Đại Thiên Chúa đang ẩn giấu trong những gì bình thường của cuộc sống, cần có sự Khôn Ngoan. Nhưng Khôn Ngoan ở đây có ba bước tiến. Bước thứ nhất là nhìn thấu suốt sự vật. Xuyên thấu tâm can. Để khám phá ra những kho tàng chôn giấu. Những viên ngọc trong đá. Rồi đến bước thứ hai. Người thấm nhập Khôn Ngoan sẽ là hình ảnh Thiên Chúa nhân hậu từ bi. Rồi đến giai đoạn thứ ba. Người Khôn Ngoan trở thành bạn hữu của Thiên Chúa. Trở thành ngôn sứ của Thiên Chúa. Cộng tác với Thiên Chúa làm cho Triều Đại Thiên Chúa ngự trị. Nhưng như thế có nghĩa là phải cùng Thiên Chúa đi vào cuộc chiến đấu chống lại bóng tối. Người Khôn Ngoan sẽ sáng hơn ánh sáng. Vì ánh sáng phải rút lui khi bóng tối vây phủ. Trái lại Người Khôn Ngoan sẽ không lùi bước trước sự ác. Chính mỗi người phải hoạt động để làm cho Triều Đại Thiên Chúa hiển trị ngay trong đời mình (năm lẻ).
Thánh Phao-lô khuyên môn đệ Phi-lê-môn làm cho Triều Đại Thiên Chúa đến. Khi cho người nô lệ Ô-nê-xi-mô được tự do. Ô-nê-xi-mô là kho tàng giấu trong ruộng. Là viên ngọc nằm trong đá. Là tự do bị vùi chôn trong nô lệ. Anh đang ở giữa Phao-lô và Phi-lê-môn. Khi thánh Phao-lô bị tù. Phi-lê-môn gửi Ô-nê-xi-mô đến phục vụ. Và thánh Phao-lô đã cho anh được tự do. Ngài thuyết phục Phi-lê-môn hãy đồng ý điều này. Như thế là được chứ không mất. “Nó đã xa anh một thời gian, có lẽ chính là để anh được lại nó vĩnh viễn, không phải được lại một người nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ, thì được một người anh em rất thân mến”(năm chẵn).
Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa tôi. Tôi có đủ Khôn Ngoan để nhận ra. Và nhất là có đủ dũng khí đế thực hiện. Dù điều đó có hại vật chất. Để làm cho Triều Đại Thiên Chúa hiển hiện không?
Suy Niệm 3: Sống sung mãn giây phút hiện tại
Hiện nay, con số các nhóm khủng bố có mầu sắc tôn giáo đang gia tăng đáng kể. Năm 1968, không có hoạt động khủng bố nào liên hệ đến tôn giáo, nhưng ngày nay có rất nhiều nhóm tự xưng là Kitô giáo, Do thái giáo, Ấn giáo, Hồi giáo. Mẫu số chung của các nhóm này là niềm tin vào một ngày thế mạt, họ chủ trương bạo động, vì tin rằng nhờ cuộc chiến tranh ở qui mô thế giới, hay nhờ một thiên tai nào đó, họ sẽ được đưa vào Thiên Ðàng. Các giáo phái mong mỏi ngày thế mạt đã khởi sắc tại Hoa Kỳ từ thế kỷ 19 và hiện nay vẫn còn thu hút nhiều tín đồ. Tuy nhiên mới đây một số đã cáo chung vì bạo động: cách đây vài năm, một giáo phái tại Nam Hàn đã lôi kéo nhiều tín đồ đến chỗ tự vẫn và đã tự giải tán, vì ngày thế mạt họ chờ đợi đã không đến. Vụ phun hơi ngạt do giáo phái "Chân Lý Tối Thượng" chủ trương tại Nhật Bản dạo tháng 3/1995 cũng cho thấy sự khởi sắc bất ngờ của niềm tin vào ngày thế mạt nơi người Nhật bản.
Tin vào ngày thế mạt, tức ngày Chúa lại đến trong vinh quang cũng là một trong những điểm nòng cốt của Kitô giáo. Hàng ngày, trong Thánh Lễ, Giáo Hội không ngừng nhắc nhở các tín hữu khi tuyên xưng: "Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại, cho tới khi Chúa lại đến". "Chúa lại đến", đó là niềm xác tín của người Kitô hữu. Tuy nhiên, ngày đó có phải là năm 2000, năm 3000 hay một thời điểm nhất định nào không? Cái bí ẩn ấy không bao giờ được vén mở. Chúa Giêsu loan báo Ngài sẽ trở lại, nhưng không cho biết ngày giờ nào.
Chính vì tính cách bất ngờ của Ngày Chúa Ðến, các tín hữu phải luôn tỉnh thức. Tỉnh thức có nghĩa là dấn thân tích cực trong giây phút hiện tại, chứ không phải là ăn không ngồi rồi mà chờ đợi. Ðó cũng là giáo huấn của Chúa Giêsu mỗi khi Ngài nói đến Nước Thiên Chúa thời cánh chung: Nước Thiên Chúa sẽ thành tựu ở một thời điểm mà không ai biết trước được vào ngày Con Người sẽ quang lâm. Một trong những nét cao cả của con người chính là khả năng vượt qua thời gian, chỉ con người mới có thể hồi tưởng quá khứ và dự phóng tương lai, chỉ con người mới có khát vọng được trường sinh bất tử. Thiên Chúa quả thực đã đặt để trong lòng con người hạt giống của sự sống vĩnh cửu, hạt giống ấy chỉ có thể nẩy mầm trên thửa đất của hiện tại mà thôi: không thể đi vào vĩnh cửu mà không bước qua hiện tại, không thể yêu mến vĩnh cửu mà lại khước từ hiện tại.
Qua cuộc sống của Ngài, Chúa Giêsu đã vạch ra cho con người đường đi vào vĩnh cửu, đó là sống sung mãn trong từng giây phút hiện tại. Chính trong cuộc sống mỗi ngày mà con người phải tìm kiếm và xây dựng những giá trị vĩnh cửu. Sống như thế là sống tỉnh thức theo tinh thần mà Chúa Giêsu hằng nhắc nhở trong Tin Mừng của Ngài; sống như thế, con người mới có thể nhận ra ý nghĩa của cuộc sống. Một cuộc sống có đáng sống và có ý nghĩa hay không, là tùy ở thái độ trân trọng và tích cực của con người đối với mỗi giây phút hiện tại.
Nguyện xin Chúa ban thêm niềm tin để chúng ta không ngừng đón nhận Chúa qua từng biến cố và gặp gỡ mỗi ngày.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Mầu nhiệm Nước Chúa
Tìm kiếm Thiên Chúa vẫn luôn là thao thức của con người. Nhiều người Do Thái nôn nao chờ đợi Nước Thiên Chúa nhưng dù có thao thức, có chờ đợi họ cũng không gặp dẫu rằng Nước Thiên Chúa đang hiện diện giữa họ. Chúa Giêsu đã giải thích lý do: "Nước Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được". Tìm kiếm Thiên Chúa chỉ để thỏa mãn hay để biện minh cho hành động của mình thì chẳng bao giờ có thể gặp được Ngài.
Trọng tâm của bài giảng của Chúa Giêsu là mầu nhiệm nước Chúa. Mầu nhiệm ấy không thể nắm bắt được bằng mắt trần hay bằng lý luận của con người. Chúa Giêsu mời gọi mọi người đi vào mầu nhiệm Nước Chúa. Nước Chúa không ở chỗ này hay chỗ kia. Nước Chúa chỉ đến bằng cái chết của Chúa Giêsu mà thôi. Chúa Giêsu đã hé mở cho các môn đệ thấy cuộc khổ nạn của Ngài và các cuộc bách hại mà Giáo Hội sẽ trải qua. Chính qua các cuộc bách hại mà hạt giống đức tin được gieo vãi, Giáo Hội được thanh luyện, củng cố và lớn lên. Do đó, không phải cái vẻ hào nhoáng với các cơ cấu tổ chức và biểu dương bên ngoài rầm rộ của Giáo Hội thể hiện mầu nhiệm Nước Chúa, nhưng là chính ở sức mạnh tinh thần của niềm tin, một niềm tin sẵn sàng mất tất cả, ngay cả sự sống của mình để được trung thành với những giá trị của Tin Mừng. Chính niềm tin ấy mới thể hiện được mầu nhiệm thâm sâu của Nước Chúa.
Nguyện xin Chúa cho chúng ta biết cởi bỏ cái nhìn hẹp hòi ích kỷ để nhận ra Nước Thiên Chúa đang hiện diện giữa chúng ta. Xin cho chúng ta luôn tâm niệm rằng chúng ta chỉ gặp được Thiên Chúa trong yêu thương và phục vụ mà thôi.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Tin dổm về tận thế
Người Pha-ri-sêu hỏi Đức Giêsu bao giờ Triều Đại Thiên Chúa đến. Người trả lời: “Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được”. (Lc. 17, 20-21)
Ngay thời ngôn sứ Đa-ni-en, dân Do thái đã bàn tán về ngày nước Thiên Chúa đến và sự chờ đợi cuồng nhiệt lan tràn khắp nước Ít-ra-en. Người ta khảo sát các điềm trời và các tai họa xảy ra. Họ tính toán khá thông thái để tiên báo về ngày giờ tận thế. Đức Giêsu loan báo nước Thiên Chúa đã đến ngoài sức tính toán tự nhiên của con người, nên biệt phái muốn hỏi Đức Giêsu bao giờ triều đại Thiên Chúa đến.
Triều đại Thiên Chúa đã đến rất êm ái
Câu trả lời của Đức Giêsu làm sửng sốt: Nước Thiên Chúa đến không ai có thể quan sát được. Tất cả mọi dấu chỉ loan báo và tính toán đều vô giá trị. Nước ấy đã đến và biệt phái không nhận ra vì con tim và lỗ tai của họ đóng kín, câm lặng, chính hành động của Đức Giêsu cho thấy và cho hiểu về nước Chúa đã đến vì Người nhờ ngón tay Thiên Chúa để trừ quỷ, và lời Người đang sưởi nóng con tim của những kẻ khốn cùng. Thời cứu độ đã bắt đầu, nhưng ai không đón tiếp Đức Giêsu, không thể nhận biết được nước Thiên Chúa.
Khi trả lời những kẻ không tin, Đức Giêsu quay lại phía các môn đệ, các ông biết Đức Giêsu đã đến phục hưng lại nước Thiên Chúa và Người phải trở lại để hoàn tất mọi sự. Người đã tiên báo cho các ông rằng trước ngày quang lâm xảy ra những khốn khổ, những ngày khủng khiếp làm mọi người xao xuyến lo âu. Lúc đó, họ không còn kiên nhẫn chờ đợi ngày Con Người trở lại và họ sẽ bị thôi thúc tìm dấu chỉ và tin những tiên tri giả. Họ sống giữa những cảnh buồn sầu khổ sở lớn lao rồi lại để mình bị loại bỏ.
Người đến như ánh chớp chói lòa chiếu sáng.
Con Người đến trong vinh quang sáng chói hơn cả tia sáng bom nguyên tử, bom khinh khí và chiếu sáng khắp nơi không gì che lấp được. Con Người đến thình lình đột ngột như các tai họa đổ xuống loài người và luôn luôn sẵn sàng đến bất cứ lúc nào.
Trước khi biến cố này xảy đến, Đức Giêsu phải chịu xỉ vả, hạ nhục, phản bội bởi thế hệ này và các thế hệ kế tiếp. Tình yêu chắc chắn chiến thắng. Nhưng trước khi chiến thắng hận thù và chia rẽ, Người phải hành động để thuyết phục chứ không dùng bạo lực. Giáo hội cũng phải chịu khổ nhục một thời và các Kitô hữu phải biết kiên trì giữ vững đức tin luôn luôn sẵn sàng đón tiếp Con Người đến.
RC
Suy Niệm 6: HÃY SÁM HỐI ĐỂ GẶP ĐƯỢC CHÚA (Lc 17, 20-25)
Trong một lớp giáo lý dự tòng cho người lớn tuổi, một hôm, thầy giáo lý viên hỏi mọi người rằng: “Tại sao lại theo đạo Công Giáo?”. Lúc đó, có một chị đã trả lời: “Con theo đạo để xin Chúa cho con khỏi đau khổ, bệnh tật...!”. Thầy giáo đó trả lời: “Việc thoát khỏi đau khổ và bệnh tật không phải là lý do chính, việc quan trọng chính là bạn tin nhận Chúa làm chủ cuộc đời của mình, sống phó thác nơi Thiên Chúa và đón nhận cũng như khám phá ra ý nghĩa của đau khổ trong cuộc sống hiện tại, mặt khác, khi theo đạo, bạn được mời gọi bước theo Đức Giêsu trên con đường hy sinh, quên mình vì người khác, thực hành những điều Ngài dạy. Có thế, bạn mới được bình an thực sự”.
Ngày xưa, người Do thái đương thời với Đức Giêsu cũng luôn mong đợi một Đấng Thiên Sai oai phong lẫm liệt, Ngài đến để thiết lập một triều đại hùng cường, mở mang bờ cõi và đem lại cho dân tộc họ một cuộc sống ấm no, hạnh phúc theo kiểu bề ngoài.
Niềm hy vọng như thế đã làm chủ suy nghĩ của họ, nên khi Đức Giêsu đến, họ không nhận ra Ngài và khước từ những đặc tính của Nước Trời mà Đức Giêsu loan báo. Nguyên nhân sâu xa chính là lòng dạ sắt đá của họ. Sự cứng lòng tin đã làm cho tâm hồn họ trở nên u tối, mê muội, nên khó chấp nhận ánh sáng là chính Đức Giêsu. Vì thế, họ đã đang tay giết luôn cả Đấng mang Nước Trời đến cho mình.
Vì biết rõ tâm hồn họ, nên Đức Giêsu đã mời gọi: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng, vì Nước Trời đã gần đến". Nước Trời mà Đức Giêsu loan báo ở đây không thể hiểu theo nghĩa vật lý, tức là mắt thấy, tay sờ được... Nhưng Nước Trời ở đây là chính Ngài. Thực hành những lời Đức Giêsu dạy chính là đi vào mối tương quan thân tình với Ngài và được ở trong Ngài. Sống lời Ngài dạy và đem ra thực hành chính là làm cho Nước ấy được lan rộng.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta muốn được nhận ra Chúa thực sự thì phải trở nên nhỏ bé, khiêm nhường. Cần phải lột bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới với những suy nghĩ và hy vọng mới theo tinh thần Tin Mừng thì mới có thể gặp được Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết khiêm nhường, hiền hậu và yêu thương để được Nước Chúa làm gia nghiệp. Amen.
Ngọc Biển SSP
11/11 Biết Tạ Ơn Thiên Chúa
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Biết Tạ Ơn Thiên Chúa.
Thứ Tư tuần 32 thường niên. – Thánh Máctinô, giám mục. Lễ nhớ.
"Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này".
* Thánh nhân sinh khoảng năm 316 trong một gia đình ngoại giáo. Người lãnh nhận bí tích thánh tẩy, sau đó bỏ binh nghiệp. Trước tiên, người làm đồ đệ của thánh Hilariô, lập đan viện Liguygê, nước Pháp. Rồi khi được đặt làm giám mục giáo phận Tua (372), người thành lập nhóm đan sĩ truyền giáo. Cùng với họ, người đi giảng Tin Mừng ở các vùng quê thuộc miền Turen và các vùng phụ cận. Người qua đời năm 397.
Lời Chúa: Lc 17, 11-19
Khi Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, Người đi qua biên giới Samaria và Galilêa. Khi Người vào một làng kia thì gặp mười người phong cùi đang đứng ở đàng xa, họ cất tiếng thưa rằng: "Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi". Thấy họ, Người bảo họ rằng: "Các ngươi hãy đi trình diện với các tư tế". Trong lúc họ đi đường, họ được lành sạch.
Một người trong bọn họ thấy mình được lành sạch, liền quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người: Mà người ấy lại là người xứ Samaria. Nhưng Chúa Giêsu phán rằng: "Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại này". Rồi Người bảo kẻ ấy rằng: "Ngươi hãy đứng dậy mà về: vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Sấp mình tạ ơn
Giáo dục cho trẻ em về lòng biết ơn là điều quan trọng.
Cha mẹ thường dạy con cám ơn người làm ơn cho mình.
Cám ơn là đi từ món quà đến người trao tặng.
Mỗi người chúng ta đã nhận biết bao quà tặng trong đời,
nên chẳng ai là người trọn vẹn nếu không có lòng biết ơn.
Bản thân tôi là một quà tặng do nhiều người cho :
cha mẹ, ông bà tổ tiên, các anh hùng dân tộc…
Chỉ cần để lòng biết ơn đi lên mãi, lên tới nguồn,
tôi sẽ gặp được Thiên Chúa như Người Tặng Quà viết hoa.
Đức Giêsu đã làm bao điều tốt đẹp cho người thời của Ngài.
Nhưng ít khi Tân Ước nói đến chuyện họ cám ơn,
mà Đức Giêsu cũng chẳng bao giờ đòi ai cám ơn mình sau phép lạ.
Bởi đó bài Tin Mừng hôm nay thật độc đáo.
Mười người phong ở với nhau trong một ngôi làng.
Họ biết tiếng của Đức Giêsu và biết cả tên của Ngài.
Họ vui mừng thấy Ngài vào làng, nhưng họ chỉ được phép đứng xa xa.
Tiếng kêu của họ vừa bi ai, vừa đầy hy vọng được chữa lành:
“Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi!” (c. 13).
Đức Giêsu đã chẳng chữa lành cho họ ngay lập tức,
như từng làm với một người phong khác trước đây (Lc 5, 12-16).
Dù họ chưa được sạch, Ngài đã bảo họ đi trình diện với các tư tế
để cho thấy là mình đã khỏi rồi.
Họ đã tin tưởng, vâng phục, ra đi, và được khỏi bệnh.
Chỉ có một người, khi thấy mình được khỏi, liền quay lại.
Anh ấy lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa, và sấp mình tạ ơn Đức Giêsu.
Đó là một người Samaria, thời đó bị coi như người nước ngoài (c. 18).
Anh được ơn lành bệnh, và hơn nữa anh có lòng biết ơn.
Tôn vinh Thiên Chúa thì làm ở nơi nào cũng được.
Nhưng anh muốn trở lại để gặp người Thiên Chúa dùng để thi ân cho mình.
Cám ơn, biết ơn, tạ ơn, là mở ra một tương quan riêng tư mới mẻ.
Người phong xứ Samaria không chỉ được chữa lành.
Anh còn có kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa và người thi ân là Thầy Giêsu.
Ơn này còn lớn hơn ơn được khỏi bệnh.
Đức Giêsu có vẻ trách móc khi hỏi ba câu hỏi liên tiếp (cc. 17-18).
Ngài ngạc nhiên vì không thấy chín người Do thái kia trở lại cám ơn.
Đôi khi người Kitô hữu chúng ta cũng thiếu thái độ tạ ơn khi cầu nguyện.
Dường như chúng ta ít mãn nguyện với những ơn đã được tặng ban.
Chúng ta chỉ buồn Chúa về những ơn xin mãi mà không được.
Nhận ra ơn Chúa ban cho đời mình và biết tri ân: đó là một ơn lớn.
Người có lòng biết ơn bao giờ cũng vui.
Họ hạnh phúc với những gì Chúa ban mỗi ngày, vào giây phút hiện tại.
Biết ơn là con đường đơn sơ dẫn đến kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa.
Khi tôi biết đời tôi là một quà tặng nhận được,
thì tôi sẽ sống nó như một quà tặng để trao đi.
Cầu nguyện:
Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì những gì
Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết không ban
bởi lẽ điều đó có hại cho con,
hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì
Cha làm cho đời con.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ
Suy Niệm 2: TẠ ƠN
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Tạ ơn là một hành vi nhân văn cao đẹp. Phát xuất từ một nhận thức đúng đắn. Nhưng trong đời sống thiêng liêng tạ ơn còn đem đến ơn cứu độ. Nên hành vi tạ ơn còn cao sâu hơn nhiều. Phát xuất từ nhận thức nền tảng. Thiên Chúa là tất cả. Ta không là gì hết. Thiên Chúa có tất cả. Ta không có gì hết. Sự sống là món quà quí nhất Thiên Chúa ban cho con người. Có sự sống là có tất cả. Không có sự sống là không có gì hết. Hành vi tạ ơn vì thế vừa sâu xa vừa hân hoan vô vàn. Người bệnh phong ngoại đạo nhận thức được ân huệ lớn lao đó. Bệnh phong bị lên án tử. Sống cũng như chết. Được khỏi bệnh là được lại sự sống. Hơn nữa anh lại là người ngoại đạo. Nên hồng ân thật không kể xiết. Vì anh không xứng đáng. Nhưng lại được ơn trọng hậu. Một niềm vui khôn tả dâng lên trong tâm hồn. Anh vội vàng chạy lại tạ ơn. Anh phủ phục vì nhận thức Thiên Chúa mới có quyền ban sự sống. Nhận thức đó đưa anh đến một ân huệ lớn lao hơn. Được làm con Chúa. Được ơn cứu độ.
Được ơn Chúa phải biết tạ ơn. Phải biết sử dụng ơn Chúa xứng đáng. Đó là điều những người quyền thế trên trần gian thường quên lãng. Hay cậy quyền cậy thế. Hay tự cao tự đại. Hay áp bức bất công. Đó thực là thiếu khôn ngoan. Sách Khôn ngoan khuyên họ nên ý thức ân huệ Chúa ban. Chính họ phải tuân giữ luật Chúa. Để biết sử dụng quyền thế cho đúng thánh ý Chúa. Để phục vụ nhân loại. Vì cuối cùng họ sẽ bị xét xử nghiêm nhặt hơn thường dân vì quyền hành đã được trao cho họ. “Vậy, hỡi các bậc vua chúa quan quyền, những lời tôi nói đây, xin gửi tới chư vị để chư vị học biết lẽ khôn ngoan, mà khỏi phải sẩy chân trật bước. Ai sống thánh và tuân giữ luật thánh, thì được kể là bậc thánh nhân” (năm lẻ).
Thánh Phao-lô khuyên chúng ta phải tuân phục thế quyền. Vì đó là quyền Chúa ban. Nhưng trên hết phải tuân phục Thiên Chúa. Thánh nhân tạ ơn Chúa vì ân huệ sự sống thiêng liêng nhờ bí tích Rửa tội. Đó là ân huệ nhưng không. Nhưng lại vô cùng cao quí. Vì ban cho ta sự sống đời đời: “Không phải vì tự sức mình chúng ta đã làm nên những việc công chính, nhưng vì Người thương xót, nên Người đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới” (năm chẵn).
Ý thức hồng ân sự sống. Ý thức sự bất xứng bất toàn. Ý thức tình yêu thương vô cùng và vô vị lợi của Thiên Chúa. Lòng ta sẽ không ngừng dâng lời tạ ơn. Đó là hành vi phải lẽ. Đem lại niềm vui cho cuộc đời. Đem lại ơn cứu độ cho ta.
Suy Niệm 3: Thể Hiện Của Tự Do Thực Sự
Trong suốt nhiều thế kỷ, người Do thái đã phải còng lưng dưới sức nặng của lao động khổ sai bên Ai Cập. Dưới sự lãnh đạo của Môsê, Thiên Chúa đã giải phóng họ và đưa họ vào vùng đất tự do. Ðể đánh dấu cuộc giải phóng khỏi các thứ khổ sai đó, Thiên Chúa đã thiết lập một ngày trong tuần như ngày Hưu Lễ. Ðó là lý do tại sao người Do thái đã trân trọng tuân giữ ngày Hưu lễ. Nó chính là biểu trưng của tự do, bởi vì thời nô lệ, bẩy ngày trên bẩy ngày, người Do thái không thể có được một ngày nghỉ ngơi. Như vậy, nghỉ ngơi là dấu chỉ của tự do, và đó là ý nghĩa nguyên thủy của ngày Hưu lễ.
Thế nhưng, dần dà qua dòng thời gian các nhà thần học Do thái đã thay đổi ý nghĩa ấy của ngày Hưu lễ: thay vì là biểu tượng của tự do, họ đã biến ngày Hưu lễ thành một gánh nặng đầy đọa và trói buộc con người; họ đã kéo dài ngày Hưu lễ thành một bản kê khai tỉ mỉ những gì không được phép làm trong ngày Hưu lễ và như vậy dấu chỉ của tự do giờ đây chỉ còn là một hình thức nô lệ mới đối với người Do thái: thay vì là dấu chỉ của tự do đưa con người vào gặp gỡ với Thiên Chúa, ngày Hưu lễ đã trở thành một gánh nặng chồng chất trên vai con người, nhất là làm cho con người xa cách Thiên Chúa.
Ðó cũng là tình trạng của lề luật nói chung thời Chúa Giêsu. Luật lệ không còn là vì con người, nghĩa là giải phóng con người, mà trở thành gánh nặng đè bẹp con người và tách lìa con người khỏi Thiên Chúa; con người chú tâm thi hành lề luật hơn là yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Thái độ của 9 người phong cùi người Do thái trong Tin Mừng hôm nay phản ánh tâm thức chung của người Do thái thời đó. Chúa Giêsu chữa lành 10 người phong cùi, trong đó chỉ có một người Samari không phải tuân hành luật Do thái. Theo đúng đòi hỏi của lề luật, Chúa Giêsu đã yêu cầu 9 người Do thái đến trình diện các tư tế để được xác nhận là đã khỏi bệnh, riêng người Samari không phải tuân giữ điều đó, nhưng đây lại là người duy nhất trở lại cám ơn Chúa Giêsu và ngợi khen Thiên Chúa.
Câu truyện trên cho chúng ta thấy luật lệ đã cản trở con người đến gặp gỡ Chúa Giêsu và cảm tạ Thiên Chúa. Người Samari vì không bị chi phối bởi lề luật, nên đã được tự do để nói lên tình cảm chân thật của mình, người này gần với tôn giáo đích thực bởi vì ông có tự do hơn. Thiên Chúa thi ân một cách nhưng không thì con người cũng phải đáp trả một cách tự do. Một tương quan như thế không thể có được trong một xã hội lề luật, trong đó con người chỉ biết tính toán theo thứ công bình hoán đổi. Người Do thái vốn quen thuộc với tâm thức ấy, họ tính toán chi ly về công đức của mình, họ lượng giá phần thưởng dựa trên công nghiệp của mình. Chúa Giêsu đã đánh đổ một quan niệm như thế về tương quan giữa con người và Thiên Chúa: ơn cứu rỗi mà Ngài loan báo và thực hiện là ơn cứu rỗi nhưng không, đến độ con người chỉ được cứu độ nhờ lòng tin vào lòng từ bi của Thiên Chúa, đến độ những kẻ tội lỗi là những người đầu tiên được vào Nước Chúa.
Ngày nay, có lẽ nhiều người chúng ta cũng giống như 9 người phong cùi Do thái trong Tin Mừng hôm nay. Họ đã bị lề luật giam hãm trong Ðền thờ để không còn có thể nói lên lời tạ ơn đối với Ðấng đã thi ân cho mình; họ xem lề luật trọng hơn điều thiết yếu của niềm tin là lòng biết ơn và niềm tín thác. Cũng như họ, có lẽ chúng ta đã tỏ ra trung thành một cách chi ly với luật Hội Thánh, nhưng nhiều lúc chúng ta vẫn còn tự hỏi: Tôi phải đọc bao nhiêu kinh? Tôi phải lần bao nhiêu chuỗi? Tôi phải ăn chay bao nhiêu lần? Tôi phải bố thí cho bao nhiêu người nghèo khó? Tính toán như thế là quên rằng Thiên Chúa như Chúa Giêsu mạc khải là Thiên Chúa Tình Yêu. Ngài ban ơn cho chúng ta hơn cả những gì chúng ta chờ đợi và tính toán. Một Thiên Chúa như thế, con người không thể có một tâm tình nào xứng hợp hơn là lòng tri ân, niềm tín thác. Ðó là sự thể hiện của một tâm hồn tự do đích thực, nhờ đó con người có thể vượt qua bốn bức tường nhà thờ để không ngừng gặp gỡ Chúa trong cuộc sống mỗi ngày.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Dâng Lời Tạ Ơn
Chờ đợi Chúa đến là một trong những chủ đề trọng tâm của Kinh Thánh. Vì không nắm bắt và sống sứ điệp này nên chúng ta thường thiếu kiên nhẫn và do đó hầu hết những khó khăn của cuộc sống đều là kết quả của thái độ vội vã của chúng ta. Chúng ta thường không chờ đợi cho cây trái được chín muồi nhưng lại vội vã hái lấy khi nó còn xanh.
Chúng ta không thể chờ đợi sự đáp trả của Chúa cho lời cầu nguyện của chúng ta, bởi vì chúng ta quên rằng Chúa muốn chúng ta phải mất nhiều ơn thánh để chuẩn bị đón nhận ơn Ngài. Chúng ta được mời gọi để tiến bước với Chúa nhưng Chúa thường đi những bước rất chậm rãi. Thật ra, không phải chúng ta chờ đợi Chúa mà chính Chúa đang chờ đợi chúng ta. Lắm khi chúng ta không muốn đón nhận ơn Chúa đã dọn sẵn bởi vì chúng ta không muốn đến với Ngài. Có những lúc chúng ta phải sẵn sàng tiến tới với những bước đi đầy tin tưởng. Tất cả những lời hứa của Chúa đều có điều kiện. Chúa chờ đợi sự đáp trả của chúng ta. Chúng ta chỉ cần nhìn lại cuộc đời của tổ phụ Abraham để thấy rõ điều đó. Chúa đã hứa ban cho Abraham rất nhiều điều cả thể nhưng chắc chắn không một lời hứa nào sẽ được thực hiện nếu tổ phụ vẫn ở lại xứ Canđê. Abraham phải lên đường, ông phải bỏ lại đàng sau nhà cửa, bạn bè, xứ sở và dấn bước vào cuộc hành trình mà ông không thể nào lường trước được những gì có thể xảy ra. Hành trang duy nhất của tổ phụ Abraham là lời hứa của Chúa và lòng tin tưởng của ông.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta mặc lấy thái độ tin tưởng phó thác ấy của tổ phụ Abraham. Chúa Giêsu quả thật là người đã chữa trị cho mười người phong cùi, nhưng khác với những phép lạ khác, ở đây thay vì sờ vào những người phong cùi hoặc nói một lời, Chúa Giêsu sai họ đi trình diện với các tư tế theo như luật Môisen qui định. Thánh Luca ghi lại rõ ràng rằng trong khi họ đi, họ được lành sạch. Quả thật, nếu họ đứng yên tại chỗ để chờ đợi, họ sẽ chẳng bao giờ được lành bệnh. Chúa chờ đợi để chữa trị họ và chính lúc họ tin tưởng để ra đi, ơn Chúa mới đến. Chúa luôn chờ đợi lòng tin, sự kiên nhẫn và cả sự chờ đợi của chúng ta. Có khi ơn Ngài chỉ đến sau nhiều năm tháng chờ đợi và nhất là sau nhiều năm tháng chiến đấu hy sinh của chúng ta. Một sự thất bại, một nỗi mất mát lớn lao, một căn bệnh bất trị, bao nhiêu đau khổ là bấy nhiêu tiến tới và chờ đợi để ơn Chúa được chín muồi.
Thật ra, đối với những ai có lòng tin thì tất cả mọi sự đều là ân sủng của Chúa. Có điều gì thuộc về chúng ta mà không do Chúa ban tặng, có điều gì chúng ta làm được mà không là hồng ân của Chúa, và ngay cả những thất bại, rủi ro và đau khổ trong cuộc sống cũng đều là những cơ may của muôn ơn lành Chúa không ngừng tuôn đổ trên chúng ta. Con người vốn chỉ vô ơn bạc nghĩa. Trong mười người phong cùi được chữa lành chỉ có một người biết quay trở lại để cám ơn Chúa Giêsu. Biết ơn, xem ra không phải là điều tự nhiên của con người. Tâm tình ấy cần được dạy dỗ trau dồi ngay từ lúc con người vừa bập bẹ biết nói và nuôi dưỡng trong suốt cuộc sống. Tâm tình cảm mến tri ân cũng cần phải được trao dồi trong cuộc sống của người tín hữu Kitô. Trong một kinh Tiền Tụng, Giáo Hội dạy chúng ta cầu nguyện rằng: "Dâng lời tạ ơn Chúa cũng là một hồng ân Chúa ban tặng cho chúng ta". Cầu nguyện trong tin tưởng phó thác và không ngừng dâng lời tạ ơn, đó phải là tâm tình cơ bản và thường hằng của người tín hữu Kitô chúng ta.
Nguyện xin Chúa gìn giữ chúng ta luôn được sống trong tâm tình ấy.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Lòng tin chữa khỏi phong cùi
Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!” (Lc. 17, 12-13)
Vẫn còn trên đường đi Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu đi qua làng biên giới Sa-ma-ri, Người gặp những kẻ bị loại ra khỏi xã hội vì mắc bệnh ngoài da, người ta gọi là phong cùi.
Một thứ bệnh mất hết vẻ đẹp.
Những người cùi hủi đứng đàng xa đón gặp Người. Họ kêu lớn tiếng: “Lạy Thầy Giêsu”. Như thế họ đã nhận biết Đức Giêsu là Đấng tỏ quyền phép và lòng thương xót của Thiên Chúa. Họ xin Người thương xót. Người không thể từ chối trước lời van xin này, vì Người đến để giải thoát những kẻ bị ngược đãi, áp bức bởi bệnh tật và xã hội.
Đức Giêsu nhìn họ với ánh mắt bốc lửa tình yêu và đầy thương cảm. Người bảo họ: “Hãy đi trình diện với các tư tế, để chứng nhận cho họ đã sạch như luật buộc. Trong khi đi thì họ được lành bệnh”.
Chín người là Do thái, rất thỏa thích vì họ đã lại được thuộc về dân tuyển chọn của Thiên Chúa. Họ cho mình là đáng được Thiên Chúa trả công. Sự lành bệnh của họ đã trả lại quyền cho họ.Nhưng chỉ có một người được hưởng niềm vui nhất trong tâm hồn.
Chỉ có người thứ mười là dân Sa-ma-ri thấy mình được khỏi, là kẻ tội lỗi đáng thương, bị Do thái khinh tởm, anh thấy mình được lành sạch nhất là trong tâm hồn mình, anh ý thức Thiên Chúa đang ngự trong con tim anh, vì anh đã nhận được sứ điệp tình yêu của Đức Giêsu. Anh trở lại và sấp mình xuống chân Người mà tạ ơn, vì Thiên Chúa đang hiện diện trước mặt anh. Gặp gỡ được Thiên Chúa, lòng anh xúc động khôn tả, ăn sâu vào tận căn tính của anh, tận bản chất hữu thể của anh, anh chỉ có thể tôn vinh Thiên Chúa bằng cất cao lời xin thương xót tha thứ tội lỗi của anh với hết lòng khiêm tốn. Đó là một bài ca giải phóng, một bài ca trong sáng phát ra từ đáy con tim. “Anh đứng dậy đi về! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”. Lòng tin nhờ lời Người gọi anh, nhờ ánh mắt Người nhìn anh làm bừng dậy đức tin này. Đức tin này đã cứu chữa anh cả thân xác lẫn tâm hồn anh.
RC
Suy Niệm 6: HÃY TẠ ƠN CHÚA (Lc 17, 11 - 19)
Xem lại CN 28 TN C.
Nghệ sĩ Lê Vũ Cầu trước khi được lành bệnh, ông là một người ngoại đạo. Lúc thập tử nhất sinh, ông đã được giới nghệ sĩ chuẩn bị tang lễ cho ông cách chu đáo. Tuy nhiên, khi có người Công Giáo đến thăm và gợi ý đưa ông đến đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp của Dòng Chúa Cứu Thế để cầu khấn Đức Mẹ, ông đã đồng ý. Khi đến nơi, kỳ lạ thay, ông không xin cho mình được khỏi bệnh, nhưng ông lại xin đức tin. Thật nhiệm mầu, không những ông được ơn đức tin, mà ông còn được lành luôn căn bệnh xơ gan cổ trướng của mình. Sau đó, ông đã được đón nhận Bí tích Thánh Tẩy và dành thời gian còn lại để tạ ơn Chúa bằng việc sống đạo thật tốt, làm nhiều việc từ thiện bác ái.
Trong cuộc sống của chúng ta hôm nay, hẳn ít có ai dán can đảm để xin ơn đức tin như Lê Vũ Cầu! Bởi vì khi xin ơn đức tin, chúng ta phải thay đổi đời sống, dám chấp nhận lội ngược dòng để làm chứng cho đức tin mà mình đã lãnh nhận.
Ngược lại, chúng ta thường chạy đến với Chúa, Mẹ và các thánh để xin cho mình những ơn như: giàu sang, chức vị, sức khỏe... Xin những điều đó là tốt, tuy nhiên, xét về cấp độ trong ân sủng thì ơn đức tin là cao trọng nhất, vì nếu có đức tin, chúng ta dễ dàng an vui và hạnh phúc trong hoàn cảnh hiện tại, miễn sao danh Chúa được cả sáng và thánh ý Chúa được thực hiện.
Thật vậy, khi có đức tin, chúng ta sẽ nhận ra tất cả là hồng ân, vì thế, cần phải tạ ơn Chúa và yêu thương anh chị em mình.
Lời Chúa hôm nay trình thuật cho chúng ta thấy mẫu gương đức tin của người phong cùi xứ Samaria. Chính nhờ lòng tin mà ông được chữa lành. Cũng nhờ lòng tin mà tâm tình đầu tiên của ông là tạ ơn Chúa. Thái độ này của người Samaria ngược lại hẳn với 9 người cùng bị phong cùi Dothái. Họ đã được lành bệnh, nhưng không một ai quay lại để cám ơn Chúa!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cần có thái độ yêu mến Thiên Chúa, tin tưởng vào Ngài. Mặt khác, Lời Chúa còn nhắc nhở mỗi người chúng ta rằng: nếu những người trong Tin Mừng hôm nay đã mắc phải những căn bệnh ghê sợ là bệnh cùi, thì hẳn mỗi người chúng ta cũng có những căn bệnh cùi tâm linh đáng sợ hơn rất nhiều, vì cùi tâm linh nó có thể hủy diệt cả tâm hồn chúng ta. Tuy nhiên, nhờ đức tin, chúng ta có hy vọng được lòng nhân từ của Thiên Chúa chữa lành và ban ơn cứu độ cho chúng ta.
Tuy nhiên, khi được Thiên Chúa yêu thương, chúng ta phải biết cám ơn Ngài và thay đổi đời sống nhờ hồng ân đức tin soi dẫn.
Thực ra, Thiên Chúa đâu cần con người phải cám ơn thì Ngài mới được vinh dự, nhưng việc chúng ta tạ ơn Ngài lại đem lại ơn cứu độ cho mình và mọi người nữa. Đồng thời, khi cám ơn Chúa, chúng ta đón nhận được lòng khiêm tốn và tôn nhận Thiên Chúa là Đấng quyền năng. Như vậy, khi ta biết tỏ lòng tri ân Thiên Chúa thì “ơn lại thêm ơn”. Còn khi không biết cám ơn Chúa, thì “ngay cả cái đang có cũng sẽ bị lấy đi” vì đã không biết sử dụng ơn Chúa cho hữu ích...
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con. Xin cho chúng con ơn sám hối để đáng được Chúa chữa lành bệnh cùi tâm linh của chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
10/11 Đúng vị trí – làm điều phải làm.
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Đúng vị trí – làm điều phải làm.
Thứ Ba tuần 32 thường niên. – Thánh Lêô Cả, giáo hoàng, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Chúng tôi là đầy tớ vô dụng: vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm".
* Thánh nhân sinh tại Ê-tru-ri-a. Năm 440, người làm giáo hoàng. Với tầm nhìn xa trông rộng và nghị lực phi thường, người đã đương đầu với nguy cơ xâm lăng của dân man di và lạc giáo của Êu-ti-khê đang đe dọa niềm tin về mầu nhiệm Nhập Thể. Nhưng trong tư cách một mục tử, người ý thức sâu sắc trách nhiệm của mình và không ngừng nhắc nhở các tín hữu thể hiện đức tin trong cuộc sống hằng ngày. Người qua đời năm 461.
Lời Chúa: Lc 17, 7-10
Khi ấy, Chúa Giêsu phán: "Ai trong các con có người đầy tớ cày bừa hay chăn súc vật ngoài đồng trở về liền bảo nó rằng: "Mau lên, hãy vào bàn dùng bữa", mà trái lại không bảo nó rằng: "Hãy lo dọn bữa tối cho ta, hãy thắt lưng và hầu hạ ta cho đến khi ta ăn uống đã, sau đó ngươi mới ăn uống"? Chớ thì chủ nhà có phải mang ơn người đầy tớ, vì nó đã làm theo lệnh ông dạy không? Thầy nghĩ rằng không.
"Phần các con cũng vậy, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: "Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Đầy tớ vô dụng
Suy niệm:
Vào thời xưa, những tù binh bại trận phải làm nô lệ cho phe thắng.
Khi nhân phẩm của từng con người chưa được nhận ra
thì chuyện mua bán nô lệ là chuyện dễ hiểu (Xh 21, 21).
Dân Ítraen cũng có kinh nghiệm về việc bắt làm nô lệ ở Ai-cập,
và kinh nghiệm được Thiên Chúa giải phóng để trả lại tự do.
Những kinh nghiệm này khiến cho chế độ nô lệ ở Ítraen bớt tàn nhẫn.
Người chủ không có quyền bạc đãi nô lệ của mình (Xh 21, 26-27).
Có những nô lệ còn được trao trách nhiệm quản trị thay cho chủ.
Nếu nô lệ là người Do thái thì sau sáu năm phục vụ,
năm thứ bảy anh phải được trả tự do (Xh 21, 2).
Hơn nữa, sách Lêvi còn nói đến việc chuyển đổi biên chế
để một nô lệ Do thái trở thành người làm công trong nhà (25, 39-55).
Tin Mừng hôm nay là một dụ ngôn nói về chuyện một ông chủ.
Ông có một đầy tớ, hay đúng hơn ông sở hữu một anh nô lệ (doulos).
Có một sự khác biệt lớn giữa nô lệ và người làm công.
Anh nô lệ được mua về, và anh phải hoàn toàn lệ thuộc vào chủ.
Khác với người làm công, anh nô lệ không được đòi hỏi gì.
Người nô lệ phải làm mọi việc chủ bảo làm
mà không được đòi lương hay bất cứ ân huệ nào khác.
Đức Giêsu mời các môn đệ đặt mình vào hoàn cảnh của ông chủ.
Có thể ông chỉ có một anh nô lệ thôi,
nên anh vừa phải lo việc đồng áng, vừa phải lo việc cơm nước.
Khi anh từ ngoài đồng về, sau cả ngày làm việc,
sau khi đã vất vả đi cày hay đi chăn chiên (c. 7),
liệu ông chủ có mời anh ngồi vào bàn, ăn cơm tối cùng với mình không?
Câu trả lời vào thời đó dĩ nhiên là không.
Anh sẽ phải tiếp tục phục vụ chủ bằng cách vào bếp, dọn bữa tối.
Sau khi bữa tối được dọn xong, khi ông chủ ngồi ăn uống thảnh thơi,
thì anh nô lệ phải đứng hầu bàn,
thắt lưng gọn gàng trong tư thế của người đang làm việc (c. 8).
Chỉ khi ông chủ ăn uống xong, bấy giờ mới đến lúc anh ăn uống.
“Ông chủ có biết ơn anh nô lệ, vì anh đã làm theo lệnh truyền không?”
Câu trả lời vào thời đó dĩ nhiên là không.
Ông chủ chẳng phải trả công cho anh nô lệ.
Và anh cũng không chờ bất cứ một lời khen hay ân huệ nào từ ông chủ.
Anh hồn nhiên làm điều anh phải làm mỗi ngày, thế thôi.
Dụ ngôn này của Đức Giêsu gây sốc cho chúng ta ngày nay,
những người vất vả lo việc Chúa, những người ít khi được nghỉ.
Chúng ta cũng thuộc về Chúa tương tự như một nô lệ (Cv 4, 29).
Chúng ta làm điều phải làm (c. 10),
nhưng không như người làm công chờ lương,
cũng không đòi tiếng khen, quyền lợi, hay đặc ân nào khác từ chủ.
Người tông đồ giống như người đi cày (Lc 9, 62),
chăn chiên (Cv 20, 28), hay hầu bàn (Lc 22, 27).
Khi chu toàn mọi việc được giao, vẫn nhận mình là đầy tớ vô dụng,
không một chút kiêu hãnh, đòi hỏi công lao hay tự hào về thành quả.
Thanh thoát với chính những công việc lớn lao mình đã làm,
siêu thoát khỏi cái tôi muốn phình to bằng công đức,
đó là điều mà Đức Giêsu muốn nhắn nhủ cho những ai làm việc cho Chúa.
Dù sao ta không được phép nghĩ Thiên Chúa như một ông chủ tàn nhẫn.
Đức Giêsu đã mang lấy thân phận một nô lệ để cứu chúng ta (Ph 2, 7).
Ngài đã sống như người hầu bàn cho các môn đệ (Lc 22, 27).
Và Ngài sẽ cư xử như một người hầu bàn ăn cho ta
khi Ngài đến mà thấy ta vẫn tỉnh thức đợi chờ (Lc 12, 37).
Cầu nguyện:
Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa rất đáng mến,
xin dạy con biết sống quảng đại,
biết phụng sự Chúa cho xứng với uy linh Ngài,
biết cho đi mà không tính toán,
biết chiến đấu không ngại thương tích,
biết làm việc không tìm an nghỉ,
biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào
ngoài việc biết mình đã chu toàn Thánh Ý Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: TÔI TỚ VÔ DỤNG
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Vào thời Chúa Giê-su tồn tại chế độ nô lệ. Nô lệ không có quyền làm người. Không có quyền sống. Nô lệ được sống là nhờ chủ mua về. Vì thế anh thuộc về chủ. Biết ơn chủ ban cho sự sống. Và toàn tâm toàn ý phục vụ chủ. Vui mừng vì được phục vụ. Vì như thế anh được sống. Vì thế khi làm việc rồi anh không có gì tự hào. Đó là nhiệm vụ. Hơn nữa đó là sự sống của anh. Chỉ làm những việc phải làm thôi.
Con người phải tuỳ thuộc Thiên Chúa như thế. Vì chính Chúa ban sự sống cho con người. Và hơn nữa đã chuộc lại sự sống. Khi con người tội lỗi đánh mất sự sống. Mọi sự trong ta là của Chúa. Vì thế phải làm việc phụng sự Chúa là bổn phận của ta. Là vinh dự cho ta. Là sự sống cho ta.
Nhưng trần gian cho như thế là khờ dại. Sự khôn ngoan trần gian muốn tự khẳng định mình. Muốn chối bỏ Thiên Chúa. Muốn thoát khỏi ảnh hưởng của Thiên Chúa. Nên họ coi những kẻ phụng sự Thiên Chúa là khờ dại. Những người hiến dâng mạng sống cho Thiên Chúa là bị trừng phạt. Sách Khôn ngoan khuyên ta hãy kiên trì chịu gian khổ vì Thiên Chúa. Đó là những thử thách mau qua. Như lửa thử vàng. Rồi vàng ròng sẽ xuất hiện. Tôi trung của Thiên Chúa sẽ được vinh quang. “Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, họ sẽ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy. Họ sẽ xét xử muôn dân, và thống trị muôn nước. Và Đức Chúa sẽ là Vua của họ đến muôn đời” (năm lẻ).
Một trong những thử thách là bổn phận nhàm chán hằng ngày. Người tôi trung của Thiên Chúa phải biết kiên trì và khiêm nhường chu toàn bổn phận. “Các cụ ông phải tiết độ, đàng hoàng, chừng mực, vững mạnh trong đức tin, đức mến và đức nhẫn nại. Các cụ bà cũng vậy, phải ăn ở sao cho xứng là người thánh, không nói xấu, không rượu chè say sưa, nhưng biết dạy bảo điều lành”. “Vợ trẻ biết yêu chồng, thương con…Các thanh niên phải giữ chừng mực trong mọi sự…”. Sống như những người tôi trung. Vì Thiên Chúa sẽ ban ơn cứu độ cho ta. “Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Ki-tô Giê-su là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang” (năm chẵn).
Là tôi tớ. Nhưng chúng ta được yêu mến. Được có một định mệnh cao quí đang chờ đợi. Trong niềm hi vọng đó, hãy trung tín chu toàn bổn phận của ta.
Suy Niệm 3: Tinh Thần Phục Vụ Ðích Thực
Nhân vật nổi tiếng trong Giáo Hội hiện nay được thế giới nhắc nhớ và thương mến nhất, hẳn phải là Mẹ Terêsa Calcutta, một người đã được nhiều giải thưởng nhất: giải Magsaysay do chính phủ Phi Luật Tân dạo thập niên 60; đầu năm 1971, Mẹ lại được Ðức Phaolô VI trao giải Gioan XXIII vì hòa bình; giải thưởng Kenedy do chính phủ Hoa Kỳ tặng, tất cả số tiền nhận được, Mẹ đã dùng để xây dựng trung tâm Kenedy tại một khu ổ chuột ở ngoại ô Calcutta; tháng 12/1972 chính phủ Ấn nhìn nhận sự đóng góp của Mẹ và trao tặng Mẹ giải Nêru; nhưng đáng kể hơn nữa là giải Nobel Hoà bình năm 1979, đây là giải thưởng đã làm cho tên tuổi Mẹ Têrêsa được cả thế giới biết đến, cũng như những lần khác, khi một viên chức chính phủ Ấn gọi điện thoại để chúc mừng, Mẹ đã trả lời: "Tất cả vì vinh quang Chúa".
"Tất cả vì vinh quang Chúa", đó là động lực đã thúc đẩy Mẹ Têrêsa dấn thân phục vụ người nghèo trên khắp thế giới. Với bao nhiêu danh vọng và tiền bạc do các giải thưởng mang lại, Mẹ vẫn tiếp tục là một nữ tu khiêm tốn, nghèo khó, làm việc âm thầm giữa những người nghèo khổ nhất. Thông thường, các giải thưởng cho một người nào đó như một sự nhìn nhận vào cuối một cuộc đời phục vụ làm việc hay một công trình nghiên cứu; nhưng đối với Mẹ Têrêsa, mỗi giải thưởng là một bàn đạp mới, một khởi đầu cho một công trình phục vụ to lớn hơn và làm cho nhiều người biết đến và ngợi khen Thiên Chúa nhiều hơn.
Qua cuộc đời của Mẹ Têrêsa, chắc chắn thế giới sẽ hiểu hơn thế nào là tinh thần phục vụ đích thực trong Giáo Hội. Một Giáo Hội càng phục vụ thì bộ mặt của Chúa Kitô phục vụ càng sáng tỏ hơn; trái lại, khuôn mặt Chúa Kitô sẽ lu mờ đi, nếu Giáo Hội chưa thể hiện được tinh thần phục vụ đích thực của Ngài.
Tin Mừng mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay mời gọi chúng ta nhìn nhận những thiếu sót của chúng ta: có lẽ dung mạo của một Chúa Kitô phục vụ và phục vụ cho đến chết chưa được phản ảnh trên gương mặt của các Kitô hữu; tinh thần phục vụ đích thực của Kitô giáo vẫn chưa được sáng tỏ và thể hiện qua cách sống của các Kitô hữu. Chúa Giêsu đã khẳng định: "Khi làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi chỉ làm những việc bổn phận mà thôi". Ðầy tớ là người làm tất cả những mọi sự vì chủ, đầy tớ là người hoàn toàn sống cho chủ. Dĩ nhiên, ở đây, Chúa Giêsu không có ý đề cao quan hệ chủ tớ trong xã hội. Ngài đã xem quan hệ trong xã hội con người và Thiên Chúa như một quan hệ chủ tớ; Ngài đã chẳng mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa như một người Cha và mời gọi chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha đó sao?
Như vậy, ở đây, Chúa Giêsu chỉ muốn dùng hình ảnh người đầy tớ vốn có trước mắt người Do thái, để nói lên tương quan đích thực giữa con người và Thiên Chúa, đó là con người chỉ sống thực sự khi nó sống cho Thiên Chúa mà thôi. Cái nghịch lý lớn nhất mà Kitô giáo đề ra là càng tìm kiếm bản thân, càng sống cho riêng mình, con người càng đánh mất chính mình; trái lại, càng sống cho Thiên Chúa, càng tìm kiếm vinh danh Thiên Chúa, nghĩa là càng phục vụ vô vị lợi, con người càng lớn lên và càng tìm lại được bản thân; giá trị đích thực của con người như Chúa Giêsu đã dạy và đã sống chính là phục vụ một cách vô vị lợi. Công Ðồng Vaticanô II trong Hiến Chế "Vui Mừng và Hy Vọng" đã để lại một châm ngôn đáng được chúng ta suy niệm và đem ra thực hành: "Con người chỉ tìm gặp lại bản thân bằng sự hiến thân vô vị lợi mà thôi".
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại định hướng cơ bản trong cuộc sống chúng ta: đâu là mục đích và ý nghĩa cuộc sống chúng ta? đâu là giá trị đích thực mà chúng ta đang tìm kiếm và xây dựng trong cuộc sống hiện tại.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Nô lệ không đòi gì
“Đối với anh em cũng vậy: Khi đã làm tất cả theo lênh phải làm, thì hãy nói: Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm những việc bổn phận đấy thôi.” (Lc. 17, 10)
Đức Giêsu dùng nhiều thí dụ cụ thể trong đời sống thường ngày để loan báo sứ điệp của Người. Hôm nay Người tiếp tục giáo huấn về đức hạnh của các phần tử của Hội thánh.
Chỉ lo phục vụ chủ mình:
Biệt phái quan niệm giao ước như là một bản hợp đồng về những luật lệ của Thiên Chúa đối với con người. Khi người ta hoàn tất những giới răn như luật dạy, Thiên Chúa mắc nợ với con người: người ta có quyền đòi con nợ của mình. Quan niệm này là nền tảng cho kiêu ngạo và tự mãn của họ.
Trong khi dạy các phần tử của Hội thánh sống khiêm tốn và nương tựa hoàn toàn vào Thiên Chúa, Đức Giêsu đối lập lại với thái độ của biệt phái. Người kể gương người nông phu đã nêu cao tinh thần phục vụ lên hàng đầu, vừa đi cày về, còn mau mau dọn cơm cho chủ ăn. Ở đây, Đức Giêsu không muốn dạy bài học luân lý. Người muốn hơn nữa: không những vô vị lợi mà còn chỉ cho con người phải sống như đầy tớ của Thiên Chúa. Đấng sáng tạo vũ trụ vạn vật.
Người đầy tớ làm ruộng như một nông nô không có quyền gì với ông chủ của nó. Nó phải làm điều chủ đòi nó làm. Nó không được chờ đợi bất cứ điểm tốt nào hay bất cứ một lời cảm ơn gì. Cũng thế, con người ta là một đầy tớ cùng khốn đối với Thiên Chúa. Nó không được quyền gì để cho mình có giá trị. Thiên Chúa không phải trả công hay tưởng thưởng nó. Nó chẳng đáng gì, ngoài ra phải làm phận sự đầy tớ của mình, vì chính Thiên Chúa đã ban đời sống cho nó, gìn giữ nó sống và nâng cao đời sống nó lên.
Không một phần thưởng
Các tông đồ bỏ tất cả theo Đức Giêsu và chấp nhận mọi yêu sách cốt yếu nhất của Chúa. Như Phê-rô đã hỏi: “Vậy chúng con sẽ được gì?”. Cả các ông cũng chỉ là những đầy tớ vô dụng ư? Câu đáp của Đức Giêsu là các anh đã chỉ làm việc bổn phận mình thôi. Các anh không có quyền đòi cung cấp chi hết. Do lòng thương yêu của Chúa, Chúa đã tặng không mọi sự cho con người, con người phải làm vinh danh và nhớ ơn Thiên Chúa.
Giáo huấn của Đức Giêsu muốn duy trì sự bình an trong Giáo hội. Mỗi người là một đầy tớ vô dụng, được kêu gọi làm theo lệnh Chúa, với tinh thần hoàn toàn khiêm tốn. Không ai có thể dành riêng cho mình một địa vị ưu tiên nào, vì Thiên Chúa là chủ mọi ân huệ và phân phát cho ai tùy Ngài muốn.
RC
Suy Niệm 5: ĐẾN ĐỂ PHỤC VỤ (Lc 17, 7-10)
Xem thêm CN 27 TN C
Qua những nguồn tin trên các trang mạng, chúng ta thấy: Đức Thánh Cha Phanxicô đang được cả thế giới tôn vinh và khen ngợi. Nhân loại ca ngợi ngài không phải ở khả năng tri thức vượt trội, cũng không phải vì những triết thuyết cao siêu, hay uy tín vốn được gắn với tước vị Giáo hoàng từ bao đời...! Nhưng người ta kính nể vì Đức Giáo Hoàng là một con người bình dân. Ngài sẵn sàng xuống đường để ôm hôn một người dị tật, lắng nghe một em bé đang muốn tâm sự. Ngài cũng khước từ những điều sang trọng cần có đối với một vị lãnh tụ tinh thần của Giáo Hội. Ngài cũng không ngần ngại đứng xếp hàng để nhận cơm tại một quán ăn và cũng không có khoảng cách khi cùng ngồi ăn với những công nhân sửa ống nước tại Vatican. Ngài còn là một người sống tinh thần nghèo khó khi lựa chọn những phương tiện đơn giản nhất, hoặc công cộng để di chuyển...
Tất cả những điều đó cho thấy: Đức Giáo Hoàng Phanxicô không ưa được dành quyền đặc lợi cho mình, mà sẵn sàng trong thái độ của người phục vụ... Ngài đã làm những chuyện đó là vì ngài muốn làm mọi việc cho vinh quang Chúa chứ không phải cho mình được nổi trội.
Thực ra trong thế giới hôm nay, sự mong muốn được an thân, khao khát được sung sướng và thái độ cầu an cũng như mong muốn được phục vụ đang kéo dần người Kitô hữu đi theo như cơn lũ bão... Nhưng thử hỏi: liệu những cung cách đó có làm cho khuôn mặt của Đức Giêsu được sáng tỏ hay không? Phải chăng nó đã làm cho Ngài bị lu mờ qua những cái bóng của sự tự kiêu, ích kỷ...
Sứ điệp lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy cố gắng sống tốt đúng với tư cách là môn đệ của Chúa. Luôn noi gương Chúa đến để phục vụ chứ không phải để được người khác phục vụ. Luôn yêu mến đời sống đơn giản vì ích lợi cho mình và người khác. Luôn chu toàn bổn phận của mình trong tư cách là người tôi tớ.
Cần nhớ một điều rằng: chỉ khi nào chúng ta từ bỏ mình, sống tinh thần phục vụ, chúng ta mới trở nên mình hơn và giống hình ảnh của một vị Thiên Chúa đến để phục vụ vì ích lợi của con người.
Chính Công Đồng Vaticanô II trong Hiến chế "Vui mừng và hy vọng" đã để lại một châm ngôn đáng được chúng ta suy niệm và đem ra thực hành: “Con người chỉ tìm gặp lại bản thân bằng sự hiến thân vô vị lợi mà thôi”. Điều này cũng được thánh Phanxicô Assisi đã tâm nguyện qua kinh hòa bình: “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con ý thức được vai trò của người môn đệ, và xin cho chúng con biết can đảm lựa chọn trong tinh thần của người tôi tớ. Amen.
Ngọc Biển SSP
09/11 Ðền thờ mẹ của tất cả mọi nhà thờ.
- Viết bởi Ga 2, 13-22
Ðền thờ mẹ của tất cả mọi nhà thờ.
Thứ Hai tuần 32 thường niên – CUNG HIẾN THÁNH ĐƯỜNG LATÊRANÔ. Lễ kính.
"Người có ý nói đền thờ là thân thể Người".
* Thánh đường Latêranô là vương cung thánh đường của Đức Giáo Hoàng. Thánh đường này được hoàng đế Contantinô xây dựng năm 320. Vì thế, đây là thánh đường đầu tiên và danh dự, được mệnh danh “là đầu và là mẹ của mọi thánh đường”.
Ngày lễ này nhắc ta nhớ rằng thừa tác vụ của Đức Giáo Hoàng, người kế vị thánh Phêrô, là nguyên nhân và nền tảng hữu hình cho sự hiệp nhất trong Dân Thiên Chúa.
LỜI CHÚA: Ga 2, 13-22
Lễ Vượt Qua của dân Do-thái gần đến, Chúa Giêsu lên Giêrusa-lem; Người thấy ở trong đền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc. Người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ, Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ, và bảo những người bán chim câu rằng: "Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán".
Môn đệ liền nhớ lại câu Kinh Thánh: "Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi".
Bấy giờ người Do-thái bảo Người rằng: "Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy". Chúa Giêsu trả lời: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại". Người Do-thái đáp lại: "Phải bốn muơi sáu năm mới xây được đền thờ này mà ông, ông sẽ dựng lại trong ba ngày ư?" Nhưng Người, Người có ý nói đền thờ là thân thể Người. Vì thế, khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, các môn đệ mới nhớ lời đó, nên đã tin Kinh Thánh và tin lời Người đã nói.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Lễ CUNG HIẾN THÁNH ĐƯỜNG LATÊRANÔ
Lời Chúa: Ed 47,1-2.8-9.12; 1Cr 3,9c-11.16-17; Ga 2,13-22
SUY NIỆM 1: Tôi Sẽ Xây Dựng Lại
Hôm nay chúng ta mừng lễ cung hiến thánh đường Latêranô.
Ðây là vương cung thánh đường cổ kính nhất của Hội Thánh,
là nhà thờ chính toà của Ðức Thánh Cha, giám mục Rôma,
là Mẹ của mọi nhà thờ trên thế giới.
Cung hiến thánh đường là dâng cho Chúa một ngôi nhà
để dành riêng cho việc phụng tự.
Khi được cung hiến để trở thành nhà của Thiên Chúa,
thánh đường cũng trở nên nhà của các tín hữu.
Nơi Thiên Chúa hiện diện và thi ân
cũng là nơi con người họp nhau để tôn thờ, cảm tạ.
Dù nguy nga hay nhỏ bé, cổ kính hay hiện đại,
mọi nhà thờ đều là nơi Thiên Chúa hẹn gặp con người.
"Hãy phá hủy Ðền thờ này đi,
nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại."
Ðức Giêsu không có ý nói đến đền thờ Giêrusalem.
Ngài muốn nói đến chính thân thể Ngài,
thân thể bị phá hủy và được xây dựng lại,
thân thể bị giết chết và được phục sinh.
Ðức Giêsu phục sinh trở nên Ðền Thờ của Giao Ước mới.
Ai ai cũng được mời gọi bước vào Ðền Thờ này.
Chỉ nơi đây, con người mới gặp được Thiên Chúa.
Hội Thánh cũng được ví như một Ðền Thờ thiêng liêng,
mỗi tín hữu là một viên đá sống động (x. 1Pr 2, 4-8),
và Ðức Kitô là viên đá góc, là nền (x. 1Cr 3, 11).
Thánh Phaolô không ngần ngại khẳng định
"Ðền thờ của Thiên Chúa chính là anh em" (1Cr 3,17).
Hơn thế nữa, ngài còn nói:
"Thân xác anh em là Ðền Thờ của Thánh Thần" (1Cr 6,19)
Như thế cả Hội Thánh và từng Kitô hữu đều là Ðền Thờ.
Ðền Thờ chủ yếu lại không phải là những toà nhà
có thể bị thời gian bào mòn, bị chiến tranh phá hủy.
Ðền thờ là những con người sống động.
Ðền thờ quan trọng nhất là con người Ðức Giêsu phục sinh,
một con người đầy tràn sức sống của Thánh Thần.
Mọi Ðền thờ đều phải qui về Ðền thờ đó.
Không gắn bó với Ðấng phục sinh và Thánh Thần của Ngài,
chẳng Ðền thờ nào là Ðền thờ thực sự.
Khi thấy nhà Cha trở thành nơi buôn bán,
Ðức Giêsu đã nổi giận, vì nhiệt tâm đối với Cha.
Chúng ta thường thiếu một chút giận dữ hồn nhiên như vậy,
vì chúng ta yêu quá ít và sợ quá nhiều.
Chúng ta dửng dưng với những gì liên hệ đến Thiên Chúa.
Có nhiều nhà thờ, đền thờ cần tu bổ.
Nhà thờ đầu tiên là con người tôi.
Xin Ðức Giêsu cứ thanh tẩy chúng ta bằng Thánh Thần,
cứ tiếp tục lật đổ và trục xuất những gì ô uế.
Ước gì chúng ta cung hiến lại bản thân mình cho Chúa
để Hội Thánh thật sự là Ðền thờ,
nhờ đó cả thế giới cũng trở thành Ðền thờ của Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Thân xác là Ðền thờ của Thiên Chúa. Chưa bao giờ thân xác được chiều chuộng như bây giờ, và cũng chưa bao giờ thân xác bị coi rẻ như bây giờ. Theo bạn, đâu là những hình thức chiều chuộng thân xác quá đáng và đâu là những hình thức khinh miệt thân xác?
Bạn nghĩ gì về nhà thờ bạn thường đến dự lễ? Theo bạn, thế nào là một ngôi nhà thờ lý tưởng?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
xin thương nhìn đến Hội Thánh
là đàn chiên của Chúa.
Xin ban cho Hội Thánh
sự hiệp nhất và yêu thương,
để làm chứng cho Chúa
giữa một thế giới đầy chia rẽ.
Xin cho Hội Thánh
không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,
đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
Ước gì Hội Thánh trở nên men
được vùi sâu trong khối bột loài người
để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp
để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội Thánh
trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,
nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.
Cuối cùng xin cho chúng con
biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,
nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.
Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,
nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: Đền thờ mới
Theo tập tục của người Do Thái, thì những khách hành hương trở về đền thờ vào những dịp lễ lớn, thường phải dâng lễ vật và nộp thuế. Lễ vật có thể là chiên bò, cũng có thể là bồ câu tuỳ theo khả năng tài chánh của mình. Lễ vật có thể từ xa đem tới, nhưng để cho tiện, người ta đã tổ chức việc buôn bán các giống vật này ngay tại khuôn viên đền thờ. Mặt khác, người ta không thể dùng loại tiền của nhà nước đang lưu hành để mua các lễ vật hay để nộp thuế vì sợ ô uế, cho nên phải đổi ra những đồng tiền của đền thờ. Do đó việc buôn bán và đổi tiền ở đây đã trở thành một thứ dịch vụ phục vụ cho việc tế lễ.
Trước cảnh tượng ồn ào và huyên náo ấy Chúa Giêsu đã hành động và hành động của Ngài đã làm cho người Do Thái hết sức kinh ngạc. Thực vậy, Ngài đã đánh đuổi những người buôn bán bò chiên, bồ câu và những người ngồi đổi tiền. Không phải chỉ bằng những lời quát mắng mà bằng cả roi vọt. Ngài săn đuổi cả người lẫn vật ra khỏi đền thờ, lật đổ bàn ghế của những kẻ đổi tiền. Và Ngài đã xác định cho thấy ý nghĩa của việc Ngài đã làm: Hãy mang khỏi nơi đây những vật này. Đừng biến nhà Cha thành một cái chợ. Đồng thời Ngài cũng còn muốn nói lên rằng: Kiểu tế lễ của người Do Thái đã lỗi thời, đã mất hết ý nghĩa, và đã biến dạng thành một việc buôn bán để trục lợi. Như vậy thì đền thờ chỉ còn là một cái chợ không hơn không kém. Tình tạng này không thể được tiếp tục.
Người Do Thái có lẽ đã hiểu được dụng ý sâu xa của Chúa Giêsu, cho nên họ đã đòi Chúa Giêsu phải cung cấp cho họ một dấu chứng tỏ Ngài có quyền làm như vậy. Và Chúa Giêsu đã đưa ra một dấu chứng hoàn toàn mới lạ, mà người Do Thái không bao giờ ngờ tới, Ngài đã xác quyết: Đền thờ chính là thân xác của Ngài. Câu trả lời của Ngài chỉ có thể hiểu được dưới ánh sáng của sự chết và sống lại.
Thực vậy, được chứng kiến việc Chúa Giêsu chịu chết và sống lại, các tông đồ mới có thể xác quyết được rằng: Khi nói đến một đền thờ bị phá huỷ và được xây dựng lại ba ngày sau đó, Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến chính thân xác của Ngài. Qua câu trả lời, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy việc tế lễ theo kiểu cũ đã qua và với sự hiện diện của Ngài, thì đã bắt đầu một giai đoạn mới trong việc tôn thờ Thiên Chúa. Đền thờ là nơi con người thờ phượng Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng là nơi Thiên Chúa hiện diện giữa con người. Một sự hiện diện tạo hạnh phúc và cứu độ. Trong niềm tin của các tông đồ, chính Đức Kitô sống lại đã thể hiện đầy đủ ý nghĩa của đền thờ. Ngài chính là sự hiện diện của Thiên Chúa giữa con người. Đồng thời cũng là trung tâm thờ phượng trong tinh thần và chân lý. Bởi đó, mỗi người chúng ta cũng cần phải kiểm điểm lại quan niệm về đạo cũng như cách thức sống đạo của chúng ta. Để xem chúng ta đã thực sự đi đúng con đường mà Chúa muốn chúng ta bước đi hay chưa. Con đường dẫn chúng ta tới ơn cứu độ và tới niềm hạnh phúc Nước Trời.
Suy Niệm 3: Latêranô và những ngôi Đền Thờ
(Lm. Vũ Xuân Hạnh)
Kể từ sau khi Chúa Giêsu về trời, với việc các thánh tông đồ nói riêng, các Kitô hữu đầu tiên nói chung, ra đi truyền bá Tin Mừng, Hội Thánh bắt đầu hiện diện giữa lòng thế giới. Thay vì đón nhận sự hiện diện ấy, chính quyền đế quốc Rôma bắt đầu nghi kỵ và ác cảm. Gần 300 năm (từ những năm cuối thập niên 50 trải dài đến những năm 310), cuộc bắt đạo lần lượt qua mười triều đại hoàng đế (khởi đi từ Nero đến Diokletian). Thế nhưng, suốt 300 năm ròng rã phải sống chui nhủi trong những hang toại đạo, những hốc đá, rừng rậm… như một thứ “Hội Thánh hầm trú”, vậy mà không một sức mạnh của bạo quyền nào có thể đè bẹp đức tin, tưởng chừng quá non nớt, quá mới mẽ của các Kitô hữu tiên khởi.
Đức tin có sức mạnh riêng, có lý lẽ riêng, có sự sống riêng của nó. Sức mạnh, lý lẽ, cũng như sự sống riêng ấy là một khối tinh thần. Khối tinh thần ấy không thuộc về lý trí, hay trí tuệ, nhưng thuộc về huyền nhiệm thánh thiêng, một huyền nhiệm của trời cao (chứ không phải của con người). Đã là sức mạnh của cả một khối tinh thần thuộc về huyền nhiệm thánh thiêng, làm gì có bất cứ một sức mạnh nào khác có thể vượt qua!
Ngay từ khởi đầu của Hội Thánh, một đức tin xem ra chẳng đáng kể gì về bề dày thời gian, đã có thể lướt thắng mọi trở ngại. Bởi thế, mãi cho đến hôm nay, đức tin ấy, một khối tinh thần thuộc về huyền nhiệm thánh thiêng ấy, đã được tinh luyện hàng ngàn năm, chắc chắn không dễ gì lay chuyển. Lịch sử vẫn còn đó, như dấu tích, như bằng chứng, hơn nữa như bài học xác đáng cho con người thời đại…
Sau một thời gian quá dài, không sao đổi dời lòng tin của các Kitô hữu, đến năm 313, hoàng đế Constantin ký sắc lệnh Milan công nhận Kitô giáo là một tôn giáo hợp pháp trên đế quốc Lamã. Sau thời gian đó, hoàng đế tiếp tục thực hiện một nghĩa cử đáng trân trọng: Ông trao tặng Đức Thánh Cha Miltiad một cung điện lộng lẫy nằm trên đồi Coelius: cung điện Latêranô ngày nay. Một thời gian không lâu sau đó, Đức Thánh Cha đã cho xây bên cạnh cung điện này một Đại Thánh đường, đó là Đại Thánh đường Latêranô. Và ngày 9. 1. 324, Đức Sylvester đã long trọng cung hiến Đại Thánh đường này.
Ngay từ đầu, Thánh Đường Latêranô được dâng kính Đấng Cứu Thế, với tước hiệu Vương Cung Thánh đường Chúa Cứu Thế. Thế kỷ XII, nó cũng được dâng kính thánh Gioan Baotixita và thánh Gioan tông đồ. Đại thánh đường Latêranô được xem là “Mẹ và là Đầu của mọi nhà thờ trên thế giới”. Sở dĩ nhà thờ này có một chỗ đứng quan trọng trong Giáo Hội như thế là vì bốn lý do:
- Đây là ngôi thánh đường đầu tiên được công nhận trong đế quốc.
- Đây là nhà thờ đầu tiên trước mọi nhà thờ trong Giáo Hội. Một ngôi nhà thờ mang nhiều ý nghĩa lịch sử: Trong thời gian bị bắt đạo, Hội Thánh không thể xây một ngôi thánh đường nào. Các thánh lễ và các buổi tụ tập cầu nguyện đều lén lút tổ chức trong các nhà tư, trong các hang toại đạo, trên mộ các thánh Tử Đạo. Sau khi được chính quyền công nhận, các tín hữu, từ chỗ lén lút bước vào xã hội công khai, Đại Thánh đường đầu tiên này là nơi duy nhất và sang trọng nhất, để họ dâng kính Thiên Chúa việc thờ tự của mình.
- Đây là Vương Cung Thánh đường của giáo phận Rôma, có ngai tòa của Giáo hoàng.
- Hội Thánh chính là đền thờ của Thiên Chúa, mỗi Kitô hữu như những viên gạch sống động đắp xây ngôi Đền Thờ Hội Thánh. Vì ý nghĩa lịch sử lớn lao và có cả một bề dày hiện diện giữa lòng Hội Thánh, Đại Vương Cung Thánh đường Latêranô là ngôi Đền Thờ được Hội Thánh chấp nhận như một biểu trưng cho một ngôi Đền Thờ to lớn là chính Hội Thánh, nơi mà Thiên Chúa trao tặng hết tình yêu của Người và ưa thích ngự vào.
Ngoài chính bản thân ngôi Đền thờ Latêranô là Đại Thánh đường cổ xưa nhất, nơi đây còn có giếng rửa tội lâu đời nhất của Rôma. Tại giếng rửa tội này, hàng ngàn tân tòng đã đến đây lãnh phép rửa tội, nhất là trong các đêm vọng Phục Sinh. Cung điện Latêranô còn là nơi hội họp của 250 Công Đồng, trong đó có bốn Công Đồng chung. Các Đức Giáo hoàng đã cư ngụ tại đây trong hơn 1.000 năm, mãi cho đến thế kỷ XIV, Đức Nicôlas V mới dời Giáo Đô về Vatican, cạnh đền thờ thánh Phêrô.
Qua các trận hỏa hoạn, động đất và càn quét của man dân, của Đức, của Pháp… Đền thờ Latêranô phải tái thiết lại nhiều lần. Ngày 28. 4. 1726, sau một công trình tái thiết lớn, Đức Thánh Cha Bênêditô XIII đã thánh hiến lại và công nhận ngày 9. 11 hàng năm làm ngày lễ tưởng niệm cung hiến Đại Thánh đường Latêranô.
Nhưng trong thánh lễ kỷ niệm cung hiến Đền Thờ Latêranô hôm nay, Hội Thánh không dừng lại ở việc tưởng niệm một lịch sử đã qua đi từ lâu. Nhưng qua việc tưởng niệm này, Hội Thánh muốn chúng ta hướng tới sự tôn thờ một Ngôi Đền Thờ sang trọng, lớn lao, chất chứa mọi ngôi đền thờ, và vượt trên mọi ngôi đền thờ, và mọi ngôi đền thờ dù theo nghĩa hiện thực hoặc tinh thần, đều chỉ tìm thấy ý nghĩa của mình nơi Ngôi Đền Thờ ấy. Đó chính là Ngôi Đền Thờ mang tên Giêsu Kitô. Vì chỉ có Chúa Kitô mới là Đền Thờ đích thực như chính Người đã ám chỉ về mình trong bài Tin Mừng của lễ Cung Hiến Đền Thờ Latêranô: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi. Nội trong ba ngày, Ta sẽ xây dựng lại”. Và lời này được thánh Gioan Tông đồ giải thích ở cuối bài Tin Mừng: “Đền Thờ Chúa Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người”.
Mừng lễ cung hiến Đền Thờ Mẹ của mọi ngôi nhà thờ vật chất, ta hướng về Ngôi Đền Thờ Rất Thánh là Chúa Kitô, để nhận ra Người cũng chính là Ngôi Đền Thờ Mẹ của mọi ngôi đền thờ khác là chúng ta. Ngôi Đền Thờ Mẹ rất Thánh ấy đã chấp nhận “hủy mình ra không”. Và chấp nhận được “phá hủy” như thế, để nên nguồn lợi lớn lao cho mỗi ngôi đền thờ con của Ngôi Đền Thờ Mẹ, là chính chúng ta: Người mang ơn cứu độ, mang lại sự sống trường cửu cho ta.
Hiểu được ý nghĩa của bài học về sự tự hiến nơi Chúa Giêsu như thế, đến lượt mình, bạn và tôi cũng hãy là những người biết dùng tất cả tài năng, sức lực, sự khôn ngoan để chung tay xây dựng cuộc đời, xây dựng Hội Thánh. Nếu một ngôi đền thờ vật chất bị phá hủy, nó chỉ trơ lại một đống đổ nát. Nhưng nếu một ngôi đền thờ là chính mỗi con người biết “phá hủy” và chấp nhận để cuộc đời “phá hủy” mình, nghĩa là biết chấp nhận tự hiến, ngôi đền thờ ấy sẽ sinh ra không biết bao nhiêu lợi ích cho chính mình và cho muôn người.
Lạy Chúa, Chúa đã chọn chúng con như những ngôi đền thờ sống động, để cùng nhau xây nên một ngôi đền thánh vinh hiển là Hội Thánh của Chúa. Xin cho chúng con biết cho đi chính bản thân để phụng sự Chúa và phục vụ con người. Chỉ có cho đi trong tinh thần tự hủy, chúng con mới có thể làm rạng danh Chúa và xứng đáng là những ngôi đền thờ có Chúa ngự. Hay nói cho đúng, chỉ khi nào có Chúa ngự, con người chúng con mới xứng đáng gọi là đền thờ.
Suy Niệm 4: Cung Hiến Thánh Đường Latêranô Ga 2,13-22
(Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Thánh đường là nơi qui tụ dân Chúa, là nơi các tín hữu tới cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích. Thánh đường là nơi Chúa ngự, là nơi Mình Máu Thánh Chúa luôn hiện diện, là nơi dân Chúa lãnh nhận muôn vàn ơn huệ, muôn vàn hồng ân của Chúa.
ĐỀN THỜ LATÊRANÔ
Đền thờ Latêranô là nhà thờ chánh toà của Đức Giáo Hoàng. Đức Thánh Cha với tư cách là Giám Mục Roma, cũng đặt ngai tòa của mình tại nhà thờ chánh tòa. Đền thờ này được xây dựng vào năm 320 khi Giáo Hội Chúa Kitô, tượng trưng cho Tòa Thánh Roma vừa thoát qua khỏi một thời kỳ cấm cách, bắt bớ khủng khiếp. Đền thờ này do công của Hoàng đế Constantinô xây dựng để tôn vinh danh Chúa và để dân Chúa có nơi tụ tập, đọc kinh cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích. Đền thờ này đã được cung hiến vào khoảng thời gian nói trên.Lịch sử thuật lại rằng khi hoàn tất ngôi thánh đường này, nhiều đoàn người khắp trong thành phố Roma đã tuôn đến để dự lễ khánh thành và hiệp ý trong nghi lễ cung hiến ngôi thánh đường dùng đặt ngai tòa của Đức giáo hoàng, với tư cách là Giám Mục Roma. Ngôi đền thờ Latêranô đã trải qua biết bao nhiêu biến cố, biết bao nhiêu thăng trầm của đạo giáo, biết bao nhiêu thử thách, khó khăn của các thời Hoàng đế Roma trị vì. Biết bao nhiêu người đã tới thánh đường Latêranô để xin rửa tội, gia nhập dân thánh Chúa trong những đêm phục sinh và mừng lễ vượt qua tại đây.
ĐỀN THỜ LATÊRANÔ NGÀY NAY
Ngày nay, đền thờ Latêranô vẫn vút cao, vẫn đứng sững như muốn nói với mọi người Thiên Chúa luôn yêu thương dân người. Ngày nay, vẫn có đoàn đoàn lớp người tới dự thánh lễ và lãnh nhận các bí tích. Hàng năm, ngày thứ năm tuần thánh Đức Thánh Cha vẫn tới cử hành lễ với hàng linh mục Roma, với các Hồng y, Giám mục và Ngài diễn tả lại hành động, cử chỉ của Chúa Giêsu xưa nơi nhà tiệc ly là rửa chân cho các tông đồ.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết kính yêu Đức Giáo Hoàng, cầu nguyện cho Ngài và cho Giáo Hội luôn trung tín với sứ mạng rao giảng Tin Mừng.
Suy Niệm 5: Đền thờ tâm hồn
(Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Kỷ niệm ngày cung hiến Vương cung thánh đường Latêranô là dịp suy nghĩ về đền thờ đích thực, là chính thân thể Đức Giêsu Kitô (Ga 2,21). Chính nơi đền thờ này, Thiên Chúa đã thi thố tất cả quyền năng cứu độ nhân loại. Cũng chính nơi đền thờ này sự thờ phượng đích thực mới được dâng lên Thiên Chúa.
1. Giới thiệu Đền Thờ Latêranô
Vương cung Thánh Đường Thánh Gioan Latêranô là một trong những thánh đường đầu tiên được xây cất sau những cuộc bách đạo ban đầu. Thánh đường được Hoàng Đế Constantinô xây và được ĐTC Sylvester thánh hiến năm 324. Thánh Đường này tiếp tục là Nhà Thờ Chánh Tòa của Giám Mục Rôma, Đức Thánh Cha. Thánh Đường này được gọi là ‘Mater Ecclesiae Romae Urbis et Orbis’, Mẹ của tất cả các thánh đường ở Rôma và trên thế giới.
Năm 313, sau khi ra chiếu chỉ ở Milano cho Giáo hội được tự do hành đạo, Hoàng Đế Constantine cho xây đền thờ ở Laterano trong thời gian 313-318 để dâng kính Chúa Cứu Thế. Thời Đức Giáo Hoàng Gregorio I (590-604) đền thờ được dâng kính cả Thánh Gioan Tẩy Giả và Thánh Gioan Tông Đồ. ĐGH Lucio II đã ấn định tên đền thờ như hiện nay, Đền Thờ Thánh Gioan ở Laterano, năm 1144.Từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 14, đền thờ này là trung tâm của giáo hội Roma, trụ sở và biểu tượng của Đức Giáo Hoàng.
Như các đền thờ khác, Đền Thờ Thánh Gioan ở Laterano nhiều lần bị tàn phá, hỏa hoạn, hoang tàn sau hơn 73 năm vắng chủ khi giáo triều dời về Avignon, Pháp, đươc xây lại như ngày nay thời ĐGH Sisto V (1585-1590).
Thánh đường dài 130m, có 5 gian. Gian chính dài 87m, rộng 16m, có tượng 12 Thánh Tông Đồ bằng đá cẩm thạch trắng. Bước vào đền thờ, bên phải có đàn phong cầm vĩ đại với hai ngàn ống. Sau tòa giám quản cóGiếng Rửa Tội (theo truyền thuyết, chính Hoàng Đế Constantine được ĐGH Silvestro rửa tội nơi đây). Ngoài nhà thờ, bên hông trái, có tháp bút cao nhất (47m) và cổ kính nhất ở Roma bằng đá hoa cương đỏ của Ai Cập có từ thế kỷ 14 trước Chúa KiTô. Là Mẹ của các nhà thờ và là nhà thờ chánh tòa của giáo phận Roma, đền thờ Thánh Gioan ở Laterano nhắc nhở các tín hữu “hồng ân rửa tội” với tất cả ý nghĩa của ơn này và mời gọi các tín hữu cảm tạ Thiên Chúa bằng chính cuộc sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. (x.BGCN 2008).
2. Chúa Giêsu thánh tẩy đền thờ
Đối với Do thái giáo, Lễ Vượt Qua là một đại lễ, tưởng niệm cuộc vượt qua Biển Đỏ tiến về Đất Hứa. Lễ Vượt qua được tổ chức vào ngày 15 tháng Nissan, tức là tháng 4 dương lịch.
Mọi người trong đất nước Palestin đều về Giêrusalem dự lễ. Cả những người tản mác khắp thế giới không bao giờ quên tôn giáo, tổ tiên cũng về dự đại lễ quan trọng nhất này.
Dầu sống ở xứ nào, người Do thái vẫn ước mơ và hy vọng được dự lễ Vượt Qua tại Giêrusalem ít nhất là một lần trong đời.
Trong dịp này Chúa Giêsu cùng đi dự lễ Vượt qua với các môn đệ.
Thuế Đền Thờ là một sắc thuế mà mỗi người Do thái từ 9 tuổi trở lên đều phải đóng.Tiền thuế là ½ siếc-lơ, tương đương với 2 ngày công nhật.
Trong việc giao dịch thương mại, mọi loại tiền đều co giá trị tại Palestin. Nhưng tiền thuế Đền thờ phải nộp bằng đồng siếc-lơ Galilê hoặc siếc-lơ của Đền Thờ.
Khách hành hương đến Đền Thờ phải đổi tiền siếc-lơ. Vì vậy trong sân Đền Thờ có nhiều người làm nghề đổi tiền.Tiền huê hồng khi đổi là ¼ ngày công cho 1đồng. 4 đồng siếc-lơ thì người đổi được lợi một ngày công. Do đó số tiền thuế Đền thờ và lợi tức đổi tiền thật là lớn.
Điều khiến Chúa Giêsu nổi giận là khách hành hương phải chịu những tệ nạn của bọn đổi tiền bóc lột với giá cắt cổ.Thật là bất công và càng tệ hơn nữa khi người ta nhân danh Tôn giáo để trục lợi.
Bên cạnh bọn đổi tiền còn có một số người bán bò, chiên, bồ câu để khách hành hương mua làm lễ vật toàn thiêu. Điều hết sức tự nhiên và tiện lợi là có thể mua đựơc các con vật ở sân Đền Thờ. Luật quy định các con vật làm của lễ phải lành lặn không tỳ vết. Có những chức sắc kiểm tra khám xét con vật. Mỗi lần khám xét phải trả 1/12 siếc-lơ, không được mua vật ở ngoài Đền thờ. Khốn nổi, mỗi con vật mua trong đền thờ đắt gấp 15 lần ở bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bốc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật. Sự bất công này lại càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo.
Chính vì những điều ấy đã làm Chúa Giêsu bừng bừng nổi giận. Chúa lấy dây thừng bện thành roi đánh đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ;còn tiền của những người đổi bạc,Người đổ tung ra,và lật nhào bàn ghế của họ.
Trong Phúc âm hiếm khi ta thấy Chúa Giêsu nổi giận. Ngài bình thản đón lấy nụ hôn phản bội của Giuđa; lặng lẽ trước những lời cáo gian buộc tội; xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đóng đinh mình vì họ không biết việc họ làm. Chính Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta học lấy nơi Ngài bài học hiền lành và khiêm nhường. Vậy mà ở đây, Chúa đã nỗi giận đùng đùng, lật tung bàn ghế, lấy dây thừng làm roi xua đuổi tất cả.
Khung cảnh đền thờ phải là nơi yên tĩnh, thánh thiêng. Thế mà nay lại ồn ào huyên náo, mua bán đổi chác, tranh giành, cãi cọ, đôi co như là một cái chợ buôn bán sầm uất. "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây,đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán" (Ga 2,16). "Nhà của Ta là nhà cầu nguyện,còn các ngươi làm thành hang trộm cướp" ( Mt 21,12-13).Chúa Giêsu thất vọng biết bao trong tiếng than thở ấy."Nơi buôn bán", "Hang trộm cướp", Đền thờ nơi tôn nghiêm thờ phượng Đức Chúa, nay lại quá bất kính, quá bát nháo khiến Chúa Giêsu phải đau lòng. Lời ngôn sứ Giêrêmia quở trách dân Do thái xưa đã nên ứng nghiệm ( x Gr 7,11).
Thế là Chúa Giêsu thực hiện một cuộc thanh tẩy Đền thờ vì Ngài yêu mến Đền thờ.
"Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân" (Tv 69,10).Lòng nhiệt thành với Đền thờ sẽ dẫn Đức Giêsu đến chỗ bị người đời bách hại (x Ga 15,5).
3. Tại sao Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ?
- Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì nhà Thiên Chúa đã bị xúc phạm.
Trong sân đền thờ có thờ phượng mà không có lòng tôn kính.Thờ phượng mà không có lòng tôn kính là việc bất xứng.Đó là việc thờ phượng hình thức chiếu lệ. Trong sân Đền thờ người ta cãi vả về giá cả,tiếng ồn ào huyên náo tạo thành một cái chợ chứ không phải là Đền thờ.
- Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ để chứng minh rằng việc dâng thú vật làm lễ tế không còn thích đáng nữa.
Các ngôn sứ đã loan báo: “Đức Chúa phán, ngần ấy hy lễ của các ngươi đối với Ta nào có nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu,mỡ bê mập, Ta chán ngấy. Máu chiên dê Ta chẳng thèm.” (Is 1,11). "Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận" (Tv 50,16).
Thái độ thanh tẩy Đền thờ của Chúa Giêsu chứng tỏ Chúa đòi hỏi lòng thành kính.Lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa là tấm lòng chân thành.
- Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì "Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện"
Đền thờ là nơi Thánh, là chốn Thiên Chúa hiện diện tiếp nhận phụng tự của người dâng lễ và thông ban cho họ sự sống và các ân huệ của Người.
Các chức sắc Đền thờ,các con buôn người Do thái đã biến Đền thờ thành nơi huyên náo, nổi loạn. Tiếng bò rống, tiếng chiên kêu, tiếng rao hàng, lời qua tiếng lại mặc cả, cãi cọ mua bán làm cho khách hành hương không thể cầu nguyện được.
4. Xây dựng đền thờ tâm hồn.
Chúa Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem. Chúa muốn chúng ta thanh tẩy Đền thờ tâm hồn mình.
Đền thờ tâm hồn không xây dựng bằng vật liệu cao cấp của các thứ kim loại, bằng những loại gỗ quý giá. Đền thờ tâm hồn được xây bằng các bí tích, các việc lành thánh thiện, những hy sinh, lòng yêu mến Thiên Chúa.
Trong Đức Kitô, chúng ta đã trở nên đền thờ sống động và đã được cung hiến ngày lãnh nhận phép Thánh Tẩy. Thánh Phaolô minh định: “Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong đền thờ ấy”. Đó là một hồng ân cao cả mà Thiên Chúa dành cho mỗi tín hữu qua Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa yêu thích ngự nơi đền thờ tâm hồn chúng ta hơn là đền thờ bằng gỗ đá, dù là gỗ thơm đá quý. Bởi lẽ đền thờ bằng gỗ đá, dẫu có xinh đẹp và đồ sộ như đền thờ Latêranô đi chăng nữa thì một ngày kia, cũng sẽ tiêu tan. Không có đền thờ nào đẹp bằng đền thờ Giêrusalem. Một công trình nguy nga tráng lệ xây cất ròng rã 46 năm. Khi đi qua, các môn đệ tự hào chỉ cho Chúa Giêsu thấy sự huy hoàng của Đền thờ, nhưng Người lại nói rằng: sẽ có ngày không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Khi người Do thái chất vấn: Ông lấy quyền nào mà làm như vậy ? Chúa Giêsu bảo: cứ phá Đền thờ này đi,trong 3 ngày Ta sẽ xây dựng lại. Chúa ám chỉ đến cái chết và sự phục sinh của Người. Đền thờ ở đây chính là thân thể Đức Giêsu mà mỗi người Kitô hữu là một viên đá sống động xây dựng nên đền thờ ấy. Thân thể phục sinh của Chúa là đền thờ mới, nơi con người thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực, trong tinh thần và trong chân lý. Chỉ có Thân thể Chúa Kitô và tâm hồn chúng ta mới là đền thờ vững bền.
Kỷ niệm ngày cung hiến Vương cung thánh đường Latêranô là dịp suy nghĩ về đền thờ đích thực, là chính thân thể Đức Giêsu Kitô (Ga 2,21). Chính nơi đền thờ này, Thiên Chúa đã thi thố tất cả quyền năng cứu độ nhân loại. Cũng chính nơi đền thờ này sự thờ phượng đích thực mới được dâng lên Thiên Chúa. Quả thế, Thánh Linh đã phục sinh thân thể Đức Giêsu. Chúa Cha đã đặt Người làm Trung gian duy nhất để chuyển cầu cho nhân loại (x. 2 Tm 2:5; Dt 9:15; 12:24). Tất cả mọi giá trị và ý nghĩa của vương cung thánh đường Latêranô cũng như mọi thánh đường khác đều phải bắt nguồn từ đền thờ này. Thật vậy, “không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giêsu Kitô.” (1Cr 3,11). Máu và nước từ cạnh sườn Đức Giêsu tuôn chảy như giòng sông. “Sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống.” (Ed 47,9). Người được phúc đón nhận sự sống đó là Kitô hữu. Vì họ là “thân thể Đức Kitô.” (2 Cr 12, 27). Bởi đó, họ cũng là “Đền Thờ của Thiên Chúa.” (1 Cr 3,16).
Lạy Chúa Giêsu Kitô,
Chúa đã đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ vì họ đã đem đền thờ biến thành nơi buôn bán, đổi chác;
Xin Chúa xua đuổi nhưng thói hư tật xấu ra khỏi tâm hồn chúng con, để tâm hồn chúng con xứng đáng là đền thờ sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị. Amen.
Suy Niệm 6: Cung Hiến Thánh Đường Latêranô.
Trong những thế kỷ đầu, Hội thánh luôn bị bách hại nên không xây dựng được ngôi Thánh đường nào. Các cuộc lễ và cầu nguyện đều tổ chức trong các nhà tư hoặc trong các hang toại đạo, trên mộ các thánh tử đạo.
Mãi đến năm 324, Đức Giáo Hoàng Synvếttrô mới cung hiến cung điện Latêranô làm Đại Thánh Đường dâng kính Chúa Cứu Thế. Cung điện này do hoàng đế Côngtăntin nhường cho ngài làm nơi cư ngụ. Và ngài đã trú ngụ tại đây cho đến thế kỷ 14 mới dời về Vaticăn. Đây là ngôi Thánh Đường cổ kính nhất, được gọi là “Mẹ và Đầu của tất cả mọi Thánh đường trên thế giới”.
Thánh Đường Latêranô được gọi là mẹ tất cả các Thánh Đường vì là Thánh Đường đầu tiên được chính quyền công nhận trong đế quốc Lamã, và cũng vì đây là Vương Cung Thánh Đường của giáo phận Rôma, có ngai tòa của Đức Giáo Hoàng.
Thánh đường dài 130m, có 5 gian. Gian chính dài 87m, rộng 16m, có tượng 12 Thánh Tông Đồ bằng đá cẩm thạch trắng. Bước vào đền thờ, bên phải có đàn phong cầm vĩ đại với hai ngàn ống. Sau tòa giám quản có Giếng Rửa Tội (theo truyền thuyết, chính Hoàng Đế Côngtăntin được Đức Giáo Hoàng Synvếttrô rửa tội nơi đây). Ngoài nhà thờ, bên hông trái, có tháp bút cao nhất (47m) và cổ kính nhất ở Rôma bằng đá hoa cương đỏ của Ai Cập có từ thế kỷ 14 trước Chúa Kitô.
Để kỷ niệm ngày cung hiến Đại Thánh Đường này, Hội thánh tổ chức mừng lễ hôm nay. Ngày lễ này đáng chúng ta mừng kính, vì nó nhắc mọi người nhớ thánh đường là nhà cầu nguyện, là nhà của Thiên Chúa, là nơi Thánh và đáng kính sợ, là hình ảnh Giêrusalem trên trời và là cửa Thiên đàng. Tất cả các đồ dùng nơi đây đều được thánh hiến: giếng rửa tội là nơi chúng ta được tái sinh làm con Chúa, tòa cáo giải là nơi chúng ta được lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa, tòa giảng giúp chúng ta nghe Lời Chúa, bàn thờ nơi dâng hiến Chiên Thiên Chúa là Đấng xóa bỏ tội lỗi thế gian, nhà tạm là nơi Vua muôn vua ẩn mình… Kể cả những viên gạch xây dựng đền thờ cũng nhắc chúng ta nhớ tâm hồn mỗi người là những viên đá sống động của ngôi thánh đường thiêng liêng, như lời thánh Xêdariô nói: “Anh em rất thân mến, hôm nay nhờ ơn Chúa, chúng ta hân hoan cử hành ngày giáp năm của đền thờ này. Nhưng chính chúng ta phải là đền thờ đích thực và sống động của Thiên Chúa. Dĩ nhiên Kitô hữu có lý để lấy lòng tin mà tôn kính ngày trọng đại của Mẹ Hội thánh, vì họ biết nhờ Mẹ Hội thánh họ đã được tái sinh một cách thiêng liêng. Bởi vì khi sinh ra lần thứ nhất, chúng ta đã là đối tượng cho cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, còn nhờ cuộc tái sinh, chúng ta đã được trở nên đối tượng của lòng Người thương xót. Quả thế, lần sinh ra thứ nhất đưa tới sự chết, còn cuộc tái sinh gọi ta về sự sống thật…”
“Vì vậy anh em rất thân mến, nếu chúng ta muốn hân hoan cử hành ngày kỷ niệm cung hiến Đền thờ, chúng ta không được dùng những việc xấu xa phá đổ đền thờ sống động của Thiên Chúa nơi chúng ta. Nói thế là để mọi người hiểu rằng: Mỗi khi đến nhà thờ, chúng ta muốn thấy nhà thờ đó thế nào, thì ta cũng phải sửa soạn tâm hồn ta như thế”.
“Bạn muốn thấy Thánh đường sạch sẽ ư? Đừng làm linh hồn bạn nhơ nhớp vì dơ bẩn tội lỗi. Bạn muốn thấy Thánh đường trong sáng ư? Thì Thiên Chúa cũng muốn bạn đừng để tâm hồn tối tăm, nhưng hãy làm như lời Chúa nói, để ánh sáng việc lành chiếu sáng trong tâm hồn chúng ta, và Đấng ngự trên trời sẽ được hiển vinh. Bạn muốn vào nhà thờ thế nào, thì Thiên Chúa cũng muốn vào linh hồn bạn như thế, đúng như lời Người đã hứa: và Ta sẽ ở với chúng và đi lại với chúng”
+ Ghi nhớ
Hằng ngày tôi lo gìn giữ linh hồn sạch tội, trong sáng, để xứng đáng nên đền thờ Chúa ngự.
+ Lời nguyện
Lạy Chúa, Chúa đã chọn chúng con như những viên đá sống động để xây nên một ngôi đền thánh, nơi Chúa ngự muôn đời.
Xin cho Hội thánh là dân Chúa ngày càng thêm đông và dồi dào ân sủng, để trở nên thành thánh Giêrusalem trên trời.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
Suy Niệm 7: Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ
- Bối cảnh: Đoạn Tin Mừng của chúng ta có một giáo huấn rõ ràng và không thể nhầm lẫn của Chúa Giêsu trong Đền Thờ. Trước đây, ông Gioan Tẩy Giả đã được chứng kiến Chúa Giêsu nói rằng Người là Đấng Mêssia (1:29); các môn đệ đầu tiên, dựa trên biểu lộ của Gioan Tẩy Giả, đã công nhận Người là Chiên Thiên Chúa, Đấng Thiên Sai đích thực: để mở đầu cho một lễ Vượt Qua mới và một giao ước mới, để mang đến sự giải thoát cho nhân loại (Ga 1:35-51); tại Cana, Chúa Giêsu ban phép lạ đầu tiên để cho thấy vinh quang của Người (Ga 2:1-12): vinh quang sẽ được nhìn thấy, sự vinh quang có thể được dự liệu trước; do đó, tự nó biểu lộ. Đó là vinh quang của Chúa Cha hiện diện trong con người của Đức Giêsu và tự biểu lộ tại lúc khởi đầu hoạt động của Người, bằng cách này, dự đoán “giờ” của Người đã đến (17:1). Vinh quang của Chúa được thể hiện bằng cách nào? Thiên Chúa khôi phục lại mối quan hệ mới với nhân loại cách nhưng không; Người kết hợp mật thiết với loài người và ban cho họ có khả năng yêu thương như Ngài yêu thương, qua Chúa Thánh Thần, Đấng thanh tẩy tâm hồn loài người và làm cho loài người trở thành con Thiên Chúa. Tuy nhiên, thật là cần thiết để nhận thức được rằng tình yêu Thiên Chúa không thay đổi, được thể hiện trong Đức Giêsu, tương ứng với đức tin, với lòng gắn bó riêng.
- Chúa Giêsu và Đền Thờ: Giờ đây Chúa Giêsu đang ở tại Giêrusalem, trong Đền Thờ ứng nghiệm lời tiên Malakhi (Ml 3:1-3), Người công bố mình là Đấng Cứu Thế. Sự có mặt như thế của Chúa Giêsu thì đã tạo ra sự căng thẳng hơn cả những giáo lý của Người. Bây giờ, người đọc hiểu rằng làm thế nào mà các cuộc tranh chấp lớn với người Do Thái luôn luôn xảy ra trong Đền Thờ; ở nơi này, Chúa Giêsu đã nói lên lời tố giác đáng kể của mình; nhiệm vụ của Người là xua đuổi người ta ra khỏi Đền Thờ (2:15; 10:4). Trong trường hợp cuối cùng, Chúa Giêsu bị kết án bởi vì Người bị coi như là mối nguy hiểm cho Đền Thờ và cho người Do Thái. Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua của người Do Thái: đây là dịp Người biểu lộ công khai và mặc khải cho tất cả mọi người rằng chính Người là Đấng Cứu Thế. Trong dịp lễ, thành Giêrusalem đầy những khách hành hương đến từ tất cả các miền và do đó các hành động của Người sẽ có tác dụng lớn trong toàn cõi Paléstine. Khi đến Giêrusalem, Chúa lập tức được nhìn thấy trong Đền Thờ, nơi có một số người bán bò, cừu, và bồ câu và những người đổi tiền ngồi ở đó. Cuộc chạm trán trong Đền Thờ không phải với những người tìm kiếm Thiên Chúa mà với những kẻ buôn thần bán thánh: số tiền trả để mở một sạp bán hàng phải được nạp cho thày thượng tế. Chúa Giêsu dùng cơ hội này (Lễ Vượt Qua) tại nơi này (Đền Thờ) để ban cho một phép lạ. Người lấy dây roi, một dụng cụ biểu tượng của Đấng Mêssia, Đấng trừng phạt những tệ nạn và hành động tội lỗi, và Người xua đuổi tất cả mọi người ra khỏi Đền Thờ, cùng với chiên cũng như bò. Điều đáng ghi nhận là hành động của Người đối với những kẻ bán chim bồ câu (câu 15). Chim bồ câu là động vật được dùng cho của lễ toàn thiêu tạ tội (Lv 9:14-17), là phương tiện hy sinh đền tội và thanh tẩy (Lv 12:8; 15:14,29), đặc biệt là nếu người dâng của lễ là người nghèo (Lv 5:7; 14:22,30 và các câu tiếp theo). Những người bán chim bồ câu, có thể xem như là, đã buôn bán sự hòa giải với Thiên Chúa bằng tiền bạc.
- Nhà của Cha Ta. Câu nói muốn chỉ ra rằng Chúa Giêsu trong hành động của mình cư xử như một Người Con. Chúa đại diện cho Chúa Cha trên thế gian. Họ đã biến nơi thờ phượng Thiên Chúa thành nơi mua bán đổi chác. Đền Thờ không còn là nơi để gặp gỡ Thiên Chúa, mà là một cái chợ nơi mà sự hiện diện của tiền bạc đang làm chủ. Việc thờ phượng đã trở thánh cái cớ để trục lợi. Chúa Giêsu công kích vào cơ quan đầu não của người Do Thái là đền thờ: biểu tượng của dân chúng và của sự chọn lựa. Người tố cáo rằng Đền Thờ đã bị tước bỏ nhiệm vụ lịch sử của nó: là dấu chỉ nhà của Thiên Chúa ở giữa dân của Người. Phản ứng đầu tiên về hành động của Chúa Giêsu đến từ các môn đệ là những người liên đới đến Thánh Vịnh 69:10: “Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi”. Phản ứng thứ hai đến từ các thượng tế là những kẻ lợi dụng danh nghĩa của những người buôn bán trong Đền Thờ: “Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy?" (câu 18). Họ đòi hỏi Người tỏ ra một dấu chỉ; Người cho họ biết đó là cái chết của Người: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại" (câu 19). Chúa Giêsu là Đền Thờ bảo đảm sự hiện diện của Thiên Chúa trên thế gian, sự hiện diện tình yêu của Chúa; cái chết trên cây thập giá sẽ làm cho Người là Đền Thờ duy nhất và khẳng định của Thiên Chúa. Đền Thờ được tạo ra bởi bàn tay loài người đang bị mục nát; Đức Giêsu sẽ thay thế cho Đền Thờ ấy, bởi vì bây giờ Người là sự hiện hữu của Thiên Chúa trên thế gian này; Chúa Cha hiện diện trong Người.
3. Một vài câu hỏi cá nhân
- Bạn có hiểu rằng dấu hiệu tình yêu của Thiên Chúa dành cho bạn không còn là Đền Thờ nữa mà là một Người: Đức Giêsu bị đóng đinh không?
- Bạn có biết rằng dấu hiệu này được trao cho riêng bạn để mang lại sự giải thoát dứt khoát của bạn không?
Suy Niệm 8: Cung hiến Thánh Đường Latêranô
(Lm Hồ Thông)
Đại thánh đường La-tê-ra-nô được gọi “là Mẹ và là Đầu của mọi nhà thờ trên thế giới”, bởi vì đây là Đền Thờ đầu tiên được chính quyền hợp pháp công nhận trên đế quốc Rô-ma và cũng là nhà thờ chánh tòa của địa phận Rô-ma, nơi có ngai tòa Đức Giáo Hoàng.
Lễ Cung Hiến Thánh Đường La-tê-ra-nô được ghi nhận vào thế kỷ XI. Thánh đường này đã bị tàn phá, đoạn được tái thiết, được Đức Thánh Cha Benoit XIII vào năm 1726 cung hiến một cách long trọng và được xác định mừng lễ vào ngày 9 tháng 11.
Nhưng Giáo Hội không cử hành một hoài niệm, cho dù quan trọng đến mấy đi nữa. Khi tưởng niệm lễ Cung Hiến Thánh Đường La-tê-ra-nô, Giáo Hội muốn nhấn mạnh sự hiệp nhất của toàn thể Giáo Hội. Giáo Hội liên kết vào ngày lễ cung hiến nầy tất cả mọi thánh đường là Nhà Thiên Chúa và là nơi cầu nguyện. Hơn thế nữa, Giáo Hội cử hành Đền Thờ còn cao quý hơn nhiều, đó là Giáo Hội và tất cả thành viên của mình là những viên đá sống động. Thử hỏi có đền thờ nào, dù lớn lao đến mầy đi nữa cũng do bàn tay con người xây dựng nên, làm thế nào có thể so sánh với đền thờ là con người được Thiên Chúa tạo dựng theo hình ảnh và họa ảnh của Ngài? “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1Cr 3: 16).
Ed 47, 1-2, 8-9, 12
Bài Đọc I trích từ sách Ê-dê-ki-en. Đây là sứ điệp của ngôn sứ lưu đày ở Ba-by-lon gởi đến cho toàn thể dân Thiên Chúa. Trong thị kiến, ông đã miêu tả Đền Thờ lýý tưởng sẽ thay thế Đền Thờ của vua Sa-lô-mon bị đạo quân Ba-by-lon tàn phá. Ông thấy dòng nước không bao giờ cạn tuôn trào từ bên phải Đền Thờ. Dòng nước thần diệu nầy chảy đến đâu sức sống dâng trào đến đó.
1Cr 3, 9-11, 16-17
Trong thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô sánh ví cộng đồng Ki-tô hữu với Nhà Thiên Chúa mà nền móng là Đức Giê-su Ki-tô. Ngôi nhà nầy được xây dựng bằng cuộc sống của những người Kitô hữu, những viên đá sống động. Mỗi người Kitô hữu cũng là Đền Thờ Thiên Chúa, nơi Chúa Thánh Thần cư ngụ.
Ga 2, 13-22
Tin Mừng Gioan thuật lại sự kiện Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ. Qua đó, Đức Giê-su muốn cho hiểu rằng Đền Thờ đích thật sẽ là thân thể phục sinh của Ngài.
BÀI ĐỌC I (Ed 47: 1-2, 8-9, 12)
Trước tiên, sứ điệp của ngôn sứ Ê-dê-ki-en là sứ điệp của một vị ngôn sứ lưu đày. Sau khi Na-bu-cô-đô-nô-so, vua Ba-by-lon, đánh chiếm kinh thành Giê-ru-sa-lem vào năm 598 trước Công Nguyên, tư tế Ê-dê-ki-en là một trong số đoàn người đầu tiên bị phát lưu đến Ba-by-lon. Chính từ một ngôi làng Tel-Aviv nhở bé bên bờ sông Cơ-va bên Ba-by-lon, nơi ông sống và qua đời có lẽ vào năm 571 tCN, mà vị ngôn sứ ngỏ lời với toàn thể đồng bào của ông. Để tưởng nhớ ông, vị ngôn sứ tiên báo sự phục sinh của dân Ít-ra-en, người ta lấy tên Tel-Aviv đặt cho một thành phố hiện nay.
Sứ điệp của ngôn sứ Ê-dê-ki-en cũng là sứ điệp của một tư tế. Đã là tư tế trước khi Thiên Chúa gọi ông làm ngôn sứ của Ngài, ông có một tâm hồn tư tế, ưu tư về tính thánh thiện của phụng tự và tôn kính những định chế tôn giáo. Ông tiên báo Đền Thờ Giê-ru-sa-lem sẽ bị phá hủy thành bình địa. Trong lưu đày, ông biết rằng sấm ngôn của ông đã được ứng nghiệm, nhưng trong thị kiến, ông nhìn thấy một Đền Thờ Mới và miêu tả Đền Thờ này cách tỉ mỉ.
Sứ điệp của Ê-dê-ki-en cũng là sứ điệp của một nhà thị kiến, vì thế, chứa đựng biết bao những cuộc xuất thần. Bản văn được trích dẫn hôm nay kết thúc với việc mô tả Đền Thờ lý tưởng sẽ thay thế đền thờ Giê-ru-sa-lem bị phá hủy. Thị kiến của vị ngôn sứ trộn lẫn thực tại địa lýý với biểu tượng vườn địa đàng, nhưng mặc khải một ýnghĩa mới.
1. Thực tại địa lý.
Dòng nước chảy đến đâu đem lại màu xanh tươi cho đôi bờ sông đến đó: đủ loại cây trái mọc lên, cành lá sum sê, đơm bông kết trái quanh năm. Có thể thị kiến nầy diễn tả thực tại địa lýý miền Pa-lét-tin. Dòng suối Xê-đơ-ron, khi chảy đến chân đền thờ, nước dâng cao nhờ hợp lưu với dòng suối Ghi-bon (dòng suối nầy cung cấp nguồn nước chính cho thành thánh Giê-ru-sa-lem và hồ Si-lô-ê) và một con sông nhánh Ain Rogel. Nhờ yếu tố thiên nhiên nầy, vua Giô-si-gia (716-687 tCN) đã xây dựng hệ thống dẫn nước vào thành thánh Giê-ru-sa-lem. Cũng có thể Ê-dê-ki-en đã mượn hình ảnh mà ông thấy ở Ba-by-lon những hệ thống dẫn thủy nhập điền, nhờ đó đất khô cằn trở thành những cánh đồng màu mỡ xanh tươi.
2. Biểu tượng vườn địa đàng.
Nhưng thị kiến của ngôn sứ Ê-dê-ki-en trước hết là biểu tượng vườn địa đàng như được miêu tả trong St 2, theo đó có bốn dòng sông chảy bao quanh để nuôi dưỡng cây trái xanh tươi, biểu tượng sự phú túc tâm linh, đặc quyền của con người trước khi phạm tội.
Đền Thờ tương lai mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en miêu tả là dấu chỉ của việc Đức Chúa sẽ trở về và ngự trị giữa dân Ngài tại Giê-ru-sa-lem. Dân Ngài sẽ tìm lại sự thánh thiện và phong nhiêu tâm linh, được biểu tượng bởi dòng nước trào dâng từ thánh điện, nghĩa là Đức Chúa sẽ rộng lòng tha thứ cho dân và ban cho họ muôn vàn ân sủng.
Đức Giê-su sẽ hiện tại hóa sứ điệp nầy vào chính mình. Vào ngày bế mạc tuần lễ Lều, ngày người ta dâng hy lễ cầu xin mưa thuận gió hòa tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su cất tiếng kêu mời: “Ai khát, hãy đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống! Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống.” Đức Giê-su muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Thật thế, bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh” (Ga 7: 37-38).
Nước biểu tượng sự sống thần linh chạy xuyên suốt Cựu Ước. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en diễn tả sứ điệp của mình theo lối nói ngoa ngữ báo trước thể loại văn chương khải huyền. Quả thật, kiểu nói nầy tái xuất hiện trong các sách khải huyền Do thái (sách Kha-nốc), cũng như trong sách Khải Huyền của thánh Gioan: “Rồi thiên thần chỉ cho tôi thấy một con sông có nước trường sinh, sáng chói như pha lê, chảy ra từ ngai của Thiên Chúa và của Con Chiên. Ở giữa quảng trường của thành, giữa hai nhánh sông, có cây Sự Sống sinh trái mười lần, mỗi tháng một lần; lá cây dùng thuốc chữa lành các dân ngoại” (Kh 22: 2).
3. Bên phải Đền Thờ:
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en cũng nói về thần dược và thánh thánh Giê-ru-sa-len trên trời. Ngôn sứ xác định nước tuôn trào từ bên phải Đền Thờ. Bên phải là biểu tượng phía mặt trời mọc, phía ánh sáng và sự sống. Thật là ý nghĩa biết bao khi nghệ thuật Kitô giáo trong suốt nhiều thế kỷ trình bày Đức Giê-su trên thập giá mang lấy ở bên cạnh sườn phải của Ngài vết thương bị lưỡi đồng đâm thâu, từ đó máu và nước phun vọt ra, dấu chỉ bí tích Thánh Tẩy và bí tích Thánh Thể phát sinh sự sống đời đời.
4. Đền Thờ.
Vào Ngày lễ Cung Hiến Đền Thờ, phụng vụ mời gọi chúng ta suy niệm về Đền Thờ. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en là một tư tế, ông không thể quan niệm một tôn giáo của Đức Chúa mà không có một nơi được thánh hiến để dân Ngài có thể cùng nhau quy tụ lại để phụng sự Thiên Chúa của mình cho thật xứng hợp. Nói cách khác, với tư cách là một tư tế, ngôn sứ không thể nào quan niệm rằng cuộc sống đạo mà không có Đền Thờ được. Tuy nhiên, trong cảnh lưu đày, dân Ít-ra-en không có Đền Thờ, vì thế họ không thể dâng lên Thiên Chúa của mình những lời khẩn nguyện và những hy lễ. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en thực sự là một trong số những người sống trong cảnh ngộ nầy. Trong những cơn xuất thần của mình, ông thấy vinh quang Thiên Chúa rời bỏ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem (11: 32-33) đến bên bờ sông Cơ-va, nơi ông cùng với dân chúng đang sống cảnh lưu đày (1: 1). Lúc đó, vị ngôn sứ thoáng thấy hình thức phụng tự tinh thần. Đức Chúa đích thân hiện diện ở giữa dân Ngài, vì thế, ở đâu dân Ngài hiện diện ở đó Thiên Chúa đồng hiện diện với dân Ngài. Ngài đồng hiện diện giữa dân Ngài để cùng chia sẻ cảnh lưu đày khổ cực với dân Ngài. Dân Ngài thực sự là Đền Thờ của Thiên Chúa (ch. 37-38).
BÀI ĐỌC II (1Cr 3: 9b-11, 16-17)
Thánh Phao-lô đã thành lập Giáo Đoàn Cô-rin-tô vào những năm 50-52. Thánh nhân đã sống 18 tháng trong thành phố nầy. Sau ngài, các vị loan báo Tin Mừng khác đến tiếp nối công việc của thánh nhân.
Dân Cô-rin-tô, vốn ham mê tranh luận, thích những bài diễn thuyết lời hay ý đẹp. Vì thế, cộng đoàn Kitô hữu Cô-rin-tô cũng chia bè kết nhóm, mỗi nhóm ngưỡng mộ một nhà giảng thuyết: nhóm theo phe thánh Phao-lô, nhóm theo phe ông A-pô-lô, một nhà giảng thuyết có tài hùng biện, và nhóm trưng dẫn thánh Phê-rô. Thánh Phao-lô cực lực lên án thái độ chia bè kết nhóm nầy, bởi vì, chúng biến cộng đoàn Kitô hữu thành những trường phái khôn ngoan của các bậc hiền nhân Hy-lạp. Trong đoạn thư trích dẫn hôm nay, thánh Phao-lô bày tỏ những lời khiển trách và những lời khuyên nhủ như phần kết luận. Như thói quen của mình, thánh nhân đưa ra cuộc tranh luận và định nghĩa cộng đoàn Ki-tô hữu là gì.
1. Nhà Thiên Chúa.
Cộng đoàn Ki-tô hữu là Nhà Thiên Chúa. Dù các nhà loan báo Tin Mừng tiếp nối nhau để xây dựng toà nhà này là ai đi nữa, nền móng không ai khác chính Đức Giê-su Ki-tô. Nếu thánh Phao-lô đã đặt viên đá đầu tiên, thì mỗi nhà loan báo Tin Mừng khác lần lượt góp phần vào việc xây dựng công trình nầy theo cách thức của mình. Thánh nhân tự xem mình có trách nhiệm gìn giữ nền tảng vững chắc của tòa nhà cũng như nếp sống đạo hạnh của những người tiếp nối sứ mạng của ngài. Dù ám chỉ đến những bè phái của các Kitô hữu Cô-rin-tô, nhưng những lời khuyên này có giá trị đối với tất cả các cộng đoàn Kitô hữu ở khắp nơi và muôn thế hệ. Những lời khuyên của thánh Phao-lô thường hằng bảy tỏ nỗi bận lòng của thánh nhân về đức chính trực của những người loan báo Tin Mừng. Trong thư thứ nhất của mình, thánh Phê-rô cũng sử dụng cùng một hình ảnh: “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giê-su Kitô” (1P 2: 5).
2. Đền Thờ Thiên Chúa.
“Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?”. Chúng ta lưu ý rằng ở đây thánh Phao-lô không dùng từ “hieron” theo nghĩa đơn thuần “nơi thánh”, nhưng từ “naos” theo nghĩa “nơi cực thánh” của Đền Thờ, chúng ta có thể dịch “thánh điện” hay “cung thánh”. Cộng đoàn Kitô hữu đích thật là nơi cực thánh vì Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài và mỗi người Ki-tô hữu là “nơi cực thánh”, nơi Chúa Thánh Thần cư ngụ trong chúng ta.
Khái niệm “đền thánh tinh thần” thật ra có cội nguồn ở Cựu Ước, đặc biệt từ thời lưu đày Ba-by-lon. Những người bị phát lưu đã kinh qua một tôn giáo trơ trụi, không Đền Thờ, không hy lễ, một tôn giáo nội tâm. Vào lúc đó, ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã phác họa ý tưởng theo đó Đền Thờ đích thật của người tín hữu là chính Đức Chúa (Bài Đọc I).
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a, đương thời với ngôn sứ E-dê-ki-en, đã loan báo rằng sẽ đến một ngày Luật của Thiên Chúa sẽ không còn ghi khắc trên bia đá nhưng trong lòng của mỗi người, đó sẽ là dấu chỉ Giao Ước Mới (Gr 31: 31-33). Ngay trước thời Đức Ki-tô, phái Ét-xê-nô đã đoạn tuyệt với Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, không thừa nhận hy lễ và chuyên tâm vào đời sống cộng đoàn. Đối với họ, đền thờ đích thật đó là cộng đoàn Kum-ran trên bờ Biển Chết.
Sau cùng, không phải Đức Giê-su đã công bố rằng đền thờ đích thật chính là “thân thể Ngài” trong đoạn Tin Mừng Gioan hôm nay sao? Đó là Đền Thờ tinh thần mà thánh Phao-lô xác định. Vả lại ý tưởng này không xa lắm với khái niệm Giáo Hội là thân thể của Đức Ki-tô, mà thánh nhân sẽ khai triển sau nầy. Đó là đời sống thánh thiện của cộng đoàn Ki-tô hữu, vừa bao gồm toàn thể vừa mỗi một thành viên, ở đó Thánh Thần cư ngụ. Việc dẫn nhập những bè phái vào trong cộng đoàn Ki-tô hữu không gì khác hơn là hành động phá hoại Đền Thờ Thiên Chúa và là hành động tự hủy, vì “Đền Thờ nầy chính là anh em”. Thánh Phao-lô mạnh mẻ cảnh báo các Kitô hữu Cô-rin-tô bị phân năm xẻ bảy nầy.
TIN MỪNG (Ga 2: 13-25)
Sự kiện Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ được cả bốn Tin Mừng tường thuật. Ba Tin Mừng Nhất Lãm đặt sự kiện nầy vào tiền cảnh của biến cố Tử Nạn, vì thế, biến cố nầy được xem như giọt nước làm tràn ly phẩn nộ của giai cấp lãnh đạo Do thái giáo; trong khi thánh Gioan đặt sự kiện này vào đầu sứ vụ công khái của Đức Giê-su, ngay sau tiệc cưới Ca-na và sau thời gian lưu lại ít ngày ở Ca-phác-na-um.
Phần mở đầu của câu chuyện nầy xác định khung cảnh và địa điểm: “Gần đến lễ Vượt Qua của người Do thái”. Trong Tin Mừng Gioan, diễn ngữ nầy được lập đi lập lại đến ba lần (2: 13; 6: 4; 11: 5) xác định ba lần Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua, phù hợp với hai năm rưỡi đời sống công khai của Ngài.
Phản ứng của Đức Giê-su thật khác thường. Ngài lấy dây bện làm roi mà xua đuổi những người buôn bán, lật nhào bàn ghế, đổ tung tất cả tiền bạc của họ và giải thích hành động của mình: “Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”. Phải chăng qua hành động của mình, Đức Giê-su muốn nói rằng Ngài đến để phục hưng tôn giáo Ít-ra-en qua việc thanh tẩy Đền Thờ mà chẳng bao lâu sau sẽ bị phá hủy? Để hiểu trọn vẹn ýý nghĩa của sựu kiện quá đặc biệt nầy, trước hết phải đặt nó vào khung cảnh ngoại tại, đoạn vào khung cảnh tôn giáo, tức khung cảnh của lễ Vượt Qua, và sau cùng vào văn mạch của Tin Mừng Gioan.
1. Khung cảnh bên ngoài.
Đền Thờ tọa lạc trên một khuôn viên rộng lớn được bao quanh bởi những hàng hiên. Khi bước qua những dãy hàng hiên, người ta vào trong tiền sảnh được gọi “tiền sảnh dân ngoại”, vì lương dân được phép đến đây để cầu nguyện với Thiên Chúa của dân Do thái. Tiếng Hy lạp: “hieron”, được sử dụng ở đây phải được hiểu là “nơi thánh” hay “thánh địa” chứ không phải “naos” (nơi cực thánh) ở bên trong Đền Thờ. Tiếp đó, phạm vi thánh, nơi được dành riêng cho dân Do thái, được phân chia thành những tiền đình riêng biệt, tiền đình dành cho nữ giới và tiền đình dành cho nam giới, và cuối cùng tiền đình dành cho các tư tế.
Chính ở nơi “tiền sảnh dân ngoại” mà những người buôn bán súc vật dùng cho các hy lễ. Công việc buôn bán rất thịnh đạt. Có nhiều lý do để nghĩ rằng những vị tư tế cao cấp – đứng đầu là thượng tế - đã hưởng nhiều lợi nhuận ở đây. Những người đổi tiền cũng ở trên tiền sảnh nầy đáp ứng nhu cầu mộ đạo của các tín hữu, vì người Do thái không được phép dâng hiến cho Đền Thờ những hiện kim được xem đồng tiền “ô uế” do có đúc hình vị hoàng đế hay vị thần ngoại giáo nào đó (Mt 22: 15-21). Những người đổi tiền hưởng huê hồng. Phải nhận ra rằng sự hiện diện của những người buôn bán súc vật và những người đổi tiền đáp ứng nhu cầu cần thiết của khách hành hương từ xa lên Đền Thờ Giê-ru-sa-lem dâng hy lễ hay cúng tiền bạc cho Đẻn Thờ, đặc biệt vào những ngày đại lễ.
2. Khung cảnh lễ Vượt Qua.
Khung cảnh lễ Vượt Qua đem lại cho sự kiện nầy ý nghĩa sâu xa. Đức Giê-su đuổi những người buôn bán súc vật ra khỏi khuôn viên Đền Thờ, vì đây là thánh địa được dành riêng cho cầu nguyện. Nhưng hơn nữa, Ngài xua đuổi những súc vật dành cho các hy lễ, vì chính Ngài sẽ là “Con Chiên” sát tế, lễ tế đích thật của lễ Vượt Qua, lễ tế duy nhất nầy từ nay sẽ thay thế tất cả lễ tế khác. Như vậy, kiểu nói: “Gần đến lễ Vượt Qua của người Do thái” cũng ngụ ý rằng còn có một lễ Vượt Qua khác nữa, lễ Vượt Qua của người Ki-tô hữu mà con chiên bị sát tế là Đức Giê-su. Sau cùng, Đức Giê-su thanh tẩy “tiền sảnh dân ngoại”, vì từ nay Ngài đã phá hủy mọi hàng rào ngăn cách giữa Do thái và dân ngoại. Dân ngoại cũng được mời gọi dự phần vào cùng ơn cứu độ như dân Ít-ra-en.
3. Văn mạch của Tin Mừng Gioan.
Khi đặt biến cố nầy vào thời kỳ đầu sứ vụ công khai của Đức Giê-su, thánh kýý để lộ những ý định của mình: ông muốn dẫn đưa người đọc vào trong mầu nhiệm của Đức Giê-su: Đấng mà thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu là Đấng Mê-si-a, Đấng ấy ở Giê-ru-sa-lem hành xử như Con Thiên Chúa trong mối quan hệ mật thiết chưa từng có.
Trước hết, ở tiệc cưới Ca-na, Đức Giê-su đã ban rượu mới, tiên báo rượu sẽ là máu của Ngài. Ở Giê-ru-sa-lem, đáp lại việc người Do thái đòi hỏi dấu lạ, Đức Giê-su loan báo một đền thờ mới sẽ là thân thể của Ngài: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ nầy đi; nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”, ám chỉ đến cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Trong ba Tin Mừng nhất lãm, lời tuyên bố nầy của Đức Giê-su được các người làm chứng gian lập lại trong phiên toà của Thượng Hội Đồng, nhưng được sửa đổi với ác tâm, thay vì: “Các ông cứ phá hủy đền thờ nầy đi” thì lại: “Tôi có thể phá hủy…” (Mc 14: 58).
Ngoài ra, thánh Gioan chủ ý đặt lời nầy trên môi miệng của chính Đức Giê-su: “Nội ba ngày, tôi sẽ xây lại” để chỉ biến cố Phục Sinh của Ngài, như sau nầy Ngài tiên báo về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (Ga 10: 18).
Hơn nữa, trong cùng một câu chuyện, thánh Gioan có ý sử dụng từ “hieron” với nghĩa “nơi thánh” để chỉ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nhưng dành riêng từ“naos” với nghĩa “thánh điện” hay “cung thánh”, tức là nơi cực thánh nhất của Đền Thờ, để nói về Thân Thể của Ngài. Sau khi Đức Giê-su sống lại, các môn đệ nhớ lại những lời mà Đức Giê-su đã nói vào dịp nầy: “Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã nói”.
Tình tiết Đức Giê-su đuổi những người buôn bán ra khỏi Đền Thờ “gần đến lễ Vượt Qua của người Do thái” theo Tin Mừng Gioan chất chứa biết bao ý nghĩa.
Suy Niệm 9: Tẩy uế Đền Thờ
(Trích: tgpsaigon)
Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán (Ga 2,16)
Suy niệm:
Vào thời Đức Giêsu, lễ Vượt Qua là một trong ba đại lễ, buộc người Do Thái ở khắp nơi phải hành hương về Đền thánh Giêrusalem để sát tế và ăn bữa tiệc chiên Vượt Qua, kỷ niệm biến cố Xuất Hành, trong đó Đức Chúa đã dùng Môsê giải phóng con cháu Giacóp là dân Do Thái khỏi ách làm nô lệ cho dân Ai Cập.
Đền Thờ là dấu chỉ Đức Chúa hiện diện giữa dân Người. Không kể đền thờ tạm là Nhà Lều trong thời gian 40 năm dân Do Thái đi qua sa mạc, còn có ba Đền Thờ được xây dựng tại Giêrusalem là Đền Thờ Salômôn, Đền Thờ Sau Lưu Đầy và Đền Thờ thời vua Hêrôđê.
Sự bất kính do bọn con buôn gây ra đã khiến Đức Giêsu rất đau lòng. Người nổi cơn thịnh nộ và đã dùng dây thừng cột thú vật được ném bừa bãi ở đó, chắp lại thành roi rồi dùng mà đánh đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ.
“Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”: Nói câu này, Đức Giêsu tự xưng là Con Thiên Chúa. “Nơi buôn bán” hay “hang trộm cướp” là kiểu nói diễn tả tình trạng bất kính ở trong Đền Thờ, một nơi tôn nghiêm thờ phượng Đức Chúa. Thế là ứng nghiệm lời các ngôn sứ đã tuyên sấm quở trách dân Do Thái xưa (Gr 7,11).
“Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân”: “Sẽ phải thiệt thân” nghĩa là “sẽ phải chết”. Như vậy ý nghĩa lời Thánh Vịnh 69,10 như sau: lòng nhiệt thành với Đền Thờ sẽ dẫn Đức Giêsu đến chỗ Người sẽ bị người đời bách hại (Ga 15,5).
“Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?”: “Người Do Thái” trong câu này ám chỉ các chức sắc Đền Thờ là các Tư tế và thầy Lêvi. Họ bực tức khi thấy Đức Giêsu tự động đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ. Do đó họ hạch hỏi Đức Giêsu dựa vào dấu lạ nào để chứng minh mình có quyền làm như thế. Trước đây họ cũng nhiều lần đòi Đức Giêsu chứng minh do Thiên Chúa sai đến, bằng cách phải làm các phép lạ cho họ thấy mà tin (Mt 12,38 ; Mc 8,11 ; Lc 11,16).
“Các ông cứ phá Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”: Ở đây, Đức Giêsu cho họ một phép lạ làm chứng Người được Thiên Chúa sai đến, là phép lạ Người sẽ sống lại nội trong ba ngày. Tuy nhiên Đức Giêsu sử dụng kiểu nói dụ ngôn mà các ngôn sứ hay dùng là đã gọi thân thể của mình là Đền Thờ. Câu này có nghĩa là: Dù họ có giết chết Người thì cũng chỉ trong ba ngày Người sẽ sống lại.
Thế nhưng các đầu mục Do Thái đã hiểu sai ý của Đức Giêsu. Họ hiểu lời Người theo nghĩa đen nên mới nói về thời gian xây dựng Đền Thờ mất 46 năm (Khởi công năm 20 trước Công Nguyên và đến năm 26 sau Công nguyên mới tạm hoàn thành những công trình chính), đang khi ý Đức Giêsu ám chỉ Đền Thờ là Thân Thể của Người. Sau này khi Thượng Hội Đồng Do Thái xét xử Đức Giêsu dưới quyền chủ tọa của Caipha, có hai kẻ đã đứng ra cáo gian Người rằng: “Tên này đã nói: Tôi có thể phá Đền Thờ Thiên Chúa và nội trong ba ngày sẽ xây cất lại” (Mt 26,61). Họ còn nhắc lại lời tố cáo này khi lăng nhục Người trên thập giá (Mt 27,40). Nhưng Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người: Thân Thể Đức Giêsu phục sinh là nơi Thiên Chúa hiện diện và tỏ mình ra cho loài người (Ga 1,14). Thân thể ấy là Đền Thờ Mới, là nơi thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật (Ga 4,23-24).
Khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó: Chỉ dưới ánh sáng Phục Sinh và được ơn Thánh Thần tác động, các môn đệ mới hiểu chính xác về lời nói và việc làm của Đức Giêsu (Ga 12,16 ; 14,26).
Với lòng nhiệt thành yêu mến Thiên Chúa, Đức Giêsu không thể chấp nhận được cảnh tượng bát nháo diễn ra nơi Đền Thờ của Chúa Cha. Người đã biểu lộ uy quyền của Con Thiên Chúa bằng việc dùng roi xua đuổi bọn con buôn cùng với tiền bạc, chiên bò, chim câu của họ... ra khỏi Đền Thờ. Người tẩy uế Đền Thờ của Chúa Cha và khẳng định rằng: Từ nay việc thờ phượng đẹp lòng Thiên Chúa sẽ phải được cử hành mãi mãi trong Đền Thờ Mới là thân xác Phục Sinh của Người, thay cho sự thờ phượng tạm bợ trong Đền Thờ Giêrusalem bằng gỗ đá.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tỏ ra oai nghiêm và quyết liệt khi dùng roi xua đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ mà không ngại bị họ thù ghét, làm hại. Nếu Chúa sống trong thời đại của chúng con hôm nay, chắc hẳn Chúa cũng đã phải mạnh tay hơn để tẩy uế, khi nhiều ngôi Thánh Đường bị coi thường. Một số nhà thờ vì không có khuôn viên và chung quanh là đường đi, nên bị một số người thiếu ý thức đem rác đến đổ bừa bãi, biến sân nhà thờ trở thành một bãi rác công cộng, mất vẻ mỹ quan nơi Nhà Chúa. Rồi những phần tử bất hảo cũng kéo đến tổ chức ăn nhậu, bài bạc, hút chích...gây cảnh ồn ào náo loạn, làm mất sự trang nghiêm trật tự lẽ ra phải có ở nơi dành riêng cho việc thờ phượng. Xin cho chúng con can đảm đóng góp phần mình vào việc tẩy uế đền thờ bằng mọi phương cách. Nhất là xin cho chúng con biết quan tâm đến đền thờ tâm hồn nơi mỗi con người. Amen
Suy Niệm 10: Thanh tẩy
(Lm Trần Ngà)
Từ thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem...
Chúa Giêsu là Đấng rất hiền lành, và Ngài cũng là mẫu mực của sự hiền lành như lời Ngài dạy: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường...” ( Mt 11, 29 )
Khi Chúa Giêsu và các môn đệ bị người Samaria ngăn chặn không cho đi qua làng của họ mà tiến về Giêrusalem, Giacôbê và Gioan nổi giận đùng đùng, muốn khiến lửa trời xuống đốt, Chúa Giêsu quở trách Giacôbê và Gioan vì lối xử sự nóng nảy của các ông. (Lc 9, 54)
Khi có người cho Chúa là người mất trí (Mc 3, 21), là kẻ nói phạm thượng (Mt 9, 3), là người lấy phép của tướng quỷ mà trừ quỷ (Mt 9, 34), thậm chí là người bị quỷ ám (Ga 7, 20), là người dại dột... Chúa Giêsu cũng chẳng lấy làm điều.
Nhất là trong cuộc thương khó, người ta lăng nhục hành hạ Chúa đủ điều, Chúa vẫn nín thinh không nói một lời. Khi chịu treo trên thập giá đau đớn lại còn bị chế nhạo, Chúa Giêsu chẳng những không giận mà lại còn cầu xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ hành hạ lăng nhục Ngài. Nói chung, Chúa Giêsu là Đấng rất dịu hiền và rất bao dung khiến ta nghĩ rằng Ngài không hề biết giận là gì.
Vậy mà... khi Chúa Giêsu vào Đền Thờ Giêrusalem, thấy người ta làm ô uế đền thờ thì Ngài không thể nào chịu nổi. Ngài nổi giận thật sự. Tin Mừng Gioan ghi lại: Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.”
Thế là để thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem khỏi bị tục hoá, Chúa Giêsu phải dùng đến roi vọt, dùng đến biện pháp cứng rắn không ai ngờ như “đổ tung tiền của những người đổi bạc”, “lật nhào bàn ghế”, dùng roi để ‘xua đuổi tất cả bọn’ ra khỏi Đền Thờ!
Thật không thể ngờ được! Một Chúa Giêsu rất mực hiền lành khiêm nhượng, Đấng mà “cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi” ( Mt 12, 20 )... giờ đây phải dùng roi vọt và biện pháp cứng rắn đối với những người xúc phạm đến sự linh thánh của Đền Thờ Giêrusalem. Điều đó chứng tỏ cho thấy rằng việc làm ô uế Đền Thờ là một hành vi rất tai hại khiến Chúa Giêsu đau khổ và bất bình xiết bao!
Đến thanh tẩy đền thờ thân thể chúng ta
Thân thể chúng ta cũng là những Đền Thờ, xét ra còn cao trọng hơn Đền Thờ Giêrusalem xưa. Trong chương 3 của thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô, Thánh Phaolô dạy: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?” (1 Cr 3, 13) và qua chương 6, Thánh Phaolô tái khẳng định chân lý này: “Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao?” (1 Cr 6, 19)
Chúa Giêsu cũng dạy rằng có Thiên Chúa Ba Ngôi hằng ngự trị nơi những ai yêu mến và tuân giữ lời Ngài: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14, 23).
Bản thân chúng ta là những Đền Thờ cao quý hơn mọi thánh đường trên khắp thế gian, vì đây là những Đền Thờ sống động, có linh hồn, có trí khôn... chứ không phải bằng gỗ đá vàng bạc vô tri vô giác, được chính Ba Ngôi Thiên Chúa xây dựng nên theo hình ảnh Ngài, được Chúa Giêsu đổ Máu Thánh ra mà cứu chuộc, được Chúa Thánh Thần xức dầu thánh hiến trong ngày lãnh Bí Tích Rửa Tội và Thêm Sức, được Chúa Giêsu tô điểm và bồi bổ bằng lời hằng sống cũng như bằng chính Thịt Máu Ngài và nhất là mai sau được đưa lên cõi trời vinh hiển. Không một ngôi Thánh Đường vật chất nào trên thế gian có được những vinh dự lớn lao như thế.
Vậy nếu Chúa Giêsu yêu quý Đền Thờ Giêrusalem một thì Ngài còn yêu quý các Đền Thờ sống động này gấp trăm. Thế nên, Ngài đã không tiếc khi lấy chính Máu Thánh mình mà thanh tẩy chúng; không tiếc hiến mạng mình để chuộc lại chúng. Như thế thì bản thân mỗi người Ki-tô hữu là Đền Thờ vô giá!
Những người làm ô uế Đền Thờ Giêrusalem thì bị Chúa Giêsu đuổi đi bằng roi vọt; còn ai làm hư hại Đền Thờ thiêng liêng nơi người tín hữu thì bị Chúa đe phạt nặng nề hơn: “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn.” (Mc 9, 42) Có lẽ không còn răn đe nào nghiêm khắc hơn!
Xin hãy hồi tâm...
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy cảnh tỉnh nhìn lại mình, nhìn thật sâu vào nội tâm sâu thẳm của bản thân chúng ta là Đền Thờ Thiên Chúa để nhận ra những ý tưởng đen tối, những tham vọng xấu xa, những đam mê tội lỗi đang ẩn mình trong đó... để sớm quét sạch chúng đi. Chính mỗi người chúng ta là thủ phạm trực tiếp làm ô uế Đền Thờ thân thể mình chứ không ai khác. Vậy hãy liệu mà thanh tẩy kịp thời trước giờ Chúa Giêsu lại đến.
SUY NIỆM 11: Latêranô
Hôm nay chúng ta mừng kính ngày cung hiến đền thờ Latêranô, đền thờ đầu tiên của Giáo hội La mã, được coi như là mẹ của các đền thờ khác. Đền thờ Latêranô là nhà thờ chánh tòa của Đức Giáo Hoàng, với tư cách là Giám mục Rôma. Đền thờ này được hoàng đế Constantinople xây dựng vào năm 320, thời gian Giáo hội vừa thoát khỏi cơn bách hại tàn khốc để bước vào giai đoạn huy hoàng.
Trong tất cả các tôn giáo, đền thờ là nơi thánh thiêng, là nơi thần linh hiện diện với con người để tiếp nhận những sự thờ kính và cho họ thông phần vào các ân huệ và sự sống thần linh.
Chắc hẳn nơi cư ngụ của các thần linh không thuộc trần gian này, nhưng có thể nói, đền thờ đồng hóa với nơi cư ngụ ấy, nhờ đó con người giao tiếp được với thế giới của các thần linh. Chính trong chiều hướng này mà chúng ta tìm thấy những hình ảnh của đền thờ Giêrusalem.
Đền thờ Giêrusalem là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa loài người, nhưng đó mới là một dấu chỉ tạm thời, sẽ được thay thế bằng thân xác Đức Kitô với Giáo hội của Ngài, như là một đền thờ mới và có tính cách vĩnh cửu.
Vào thời các tổ phụ, người Do thái không biết đến đền thờ, cho dù họ vẫn có những nơi thánh để kêu cầu với Đức Giavê như Bêtal, như Sichem, như Sinai…Nhưng rồi sau đó, họ đã dùng một thánh điện lưu động, để Thiên Chúa có thể ngự trị thường xuyên giữa dân chúng đang được Ngài dẫn qua sa mạc. Đó là nhà tạm với hòm bia giao ước.
Sau khi người Do thái đã tiến vào miền đất hứa và lập thành vương quốc, bấy giờ Đavid mới nghĩ đến việc xây dựng đền thờ dâng kính Thiên Chúa. Ước mơ ấy được Salomon thực hiện. Ông đã xây dựng đền thờ Giêrusalem với tất vả vẻ huy hoàng của triều đại ông, và Thiên Chúa đã nhận đền thờ ấy như nơi cư ngụ của Ngài. Vì thế, đền thờ Giêrusalem trở nên trung tâm sinh hoạt chính trị về tôn giáo của người Do thái. Người ta từ khắp nơi hành hương về Giêrusalem vào những dịp lễ lớn để cầu nguyện, kết hiệp và tôn thờ Thiên Chúa.
Năm 587 trước công nguyên, đền thờ Giêrusalem bị vua Nabucodonosor phá hủy và bắt một số người Do thái phải lưu đày sang Babylon. Sống dưới ách nô lệ với những đau khổ và nặng nhọc, nhưng lòng họ vẫn hướng về đền thờ Giêrusalem. Thế nhưng, bây giờ đền thờ Giêrusalem đã bị đổ vỡ hoang tàn. Vì thế, họ đã tìm thấy một chiều hướng tôn thờ mới, đó là tôn thờ thiêng liêng, tôn thờ trong tâm hồn vì Thiên Chúa ở khắp mọi nơi.
Trong Tân ước, đền thờ chính là thân xác Đức Kitô: Đền thờ ấy bị phá hủy nhưng dã được xây dựng lại trong ba ngày. Đây mới chính là đền thờ vĩnh cửu, không do tay người trần thế làm nên, nhưng do chính Ngôi lời. Đền thờ ấy nói lên sự hiện diện thiết thực của Thiên Chúa ở giữa chúng ta.
Ngoài ra, các Kitô hữu còn ý thức rằng chính họ kết thành đền thờ mới, đền thờ thiêng liêng nơi thân thể Đức Kitô, đó chính là Giáo hội. Giáo hội là đền thờ của Thiên Chúa, thiết lập trên Đức Kitô. Ngài là nền móng, là đầu và là viên đá góc tường.
Còn chúng ta thì sao? Tâm hồn mỗi người cũng phải là một đền thờ cho Thiên Chúa ngự trị. Khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, vị linh mục đã nói với chúng ta: Hỡi thần ô uế, hãy xéo đi, hãy ra khỏi người này để nhường chỗ cho Thần Linh Thiên Chúa.
Bao lâu sạch tội trọng, bao lâu còn sống trong ân nghĩa Chúa thì linh hồn chúng ta chính là một ngôi đền thờ sống động cho Thiên Chúa. Trái lại, khi phạm tội trọng, chúng ta là những kẻ dám nói với Thiên Chúa như sau: Hỡi Thiên Chúa, xin Ngài hãy ra khỏi tâm hồn tôi để nhường chỗ cho ma quỷ.
Chúng ta hãy gìn giữ tâm hồn mình cho trong sạch, xứng đáng là nơi cho Chúa ngự trị, chứ đừng biến nó thành hang trộm cướp. Chúng ta hãy noi gương bắt chước ông Giakêu đã tiếp đón Chúa tại nhà mình. Chính sự hiện diện của Chúa đã đem lại cho ông niềm vui mừng và hy vọng, để rồi ông đã hoán cải bản thân, làm lại cuộc đời. Hãy sửa đổi những sau lỗi để tâm hồn chúng ta thực sự là một đền thờ được dâng hiến cho Thiên Chúa.
SUY NIỆM 12: Nhà thờ trở nên cộng đồng
Hai anh chị kia sắp cưới. Trong khi chuẩn bị hôn nhân, họ xin cha làm lễ cưới tại một cảnh thơ mộng trên núi. Họ ngạc nhiên thấy cha nói không được. Họ phải làm lễ cưới tại nhà thờ xứ của họ. Họ tỏ ra bất mãn. Cha cho biết đó là luật của địa phận nhưng họ thắc mắc làm sao đám cưới của họ mà họ không được làm nơi họ muốn?
Điều anh chị này thắc mắc có liên quan đến lễ chúng ta cử hành hôm nay, lễ kỷ niệm Dâng Hiến Thánh Đường Lateranô. Thánh đường này từ thế kỷ thứ 12 vẫn được coi là mẹ, là đầu của các nhà thờ. Thánh đường này cũng là nhà thờ chính toà của Đức Giáo Hoàng.
Lễ này cũng nhắc nhớ chúng ta nghĩ đến nhà thờ của giáo xứ, cộng đoàn chúng ta.
Nhà thờ tượng trưng cho thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô và mỗi Kitô hữu được kêu gọi để xây dựng thân thể mầu nhiệm này. Nhà thờ ví như bào thai cho ra đời những người con cùng một trí một lòng truyền tụng và phục vụ Nước Trời.
Để thực hiện điều đó, mỗi nhà thờ luôn thực hiện việc xây dựng cộng đồng. Như các đường chỉ được dệt với nhau thành tấm vải, mỗi người cũng có một sứ vụ hiệp thông trong trong chiều hướng để sứ vụ chung được kết quả tốt đẹp trong tinh thần Chúa Kitô.
Những người trong giáo xứ hoặc là lạnh nhạt với mọi người và điều đó không xứng với Kitô Giáo; hoặc mọi người tích cực liên hệ đến giáo xứ, kiến tạo một cộng đồng một trí một lòng.
Mỗi lần chúng ta tham dự vào một bí tích nhắc nhớ chúng ta mục đích của bí tích là xây dựng thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô, nuôi dưỡng tinh thần cộng đồng, liên kết chặt chẽ với nhau hơn trong sự dấn thân chung đó là hiệp thông và thi hành sứ mệnh. Vì thế bí tích được khuyến khích cử hành tại nhà thờ. Nhà thờ trở nên nơi liên kết, để tinh thần thân thiện được triển nở chứ không phải chỉ là nơi tụ họp của những muốn giữ thái độ xa lạ.
Chúng ta cố gắng làm cho giáo xứ chúng ta nên cơ hội thuận tiện cho tinh thần hợp nhất Chúa Kitô được phát triển. Chúng ta không thể chấp nhận thái độ chia rẽ, không thể đầu hàng trước các phe nhóm.
Giống như cặp anh chị sắp cưới được nói cho biết là họ cử hành bí tích hôn phối của họ nơi nhà thờ của họ. Cùng với những lý do khác, các giáo dân cùng cử hành với họ, dâng họ lên Chúa, cầu nguyện cho họ, và nâng đỡ họ trong suốt cuộc đời.
Để kết thúc, chúng ta đọc lại lời Thánh Phaolô trong bài đọc II: "Anh em không còn là người xa lạ, là khách ngoại bang. Anh em là công dân của các thánh, là phần tử nhà của Chúa."
Suy Niệm 13: Nhà thờ của giáo xứ
Hôm nay, chúng ta mừng kỷ niệm ngày cùng hiến đền thờ Latêranô. Đền thờ này vốn được coi như là nhà thờ chính tòa của Đức Giáo Hoàng, với tư cách là Giám Mục giáo phận Rôma. Nhân dịp này tôi muốn chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ về vai trò của nhà thờ, của thánh đường trong giáo xứ.
Khi một em nhỏ mở mắt chào đời, cha mẹ của em thường bàn bạc với nhau xem sẽ đặt tên gì cho em. Các ngài mở lịch và đặt cho em không những một tên gọi bình thường, mà còn chọn cho em một tên thánh nữa. Chẳng hạn như Maria, Giuse, Phêrô, Anna…
Vị thánh mà em nhỏ ấy mang tên sẽ là vị thánh bổn mạng, vị thánh quan thầy của em. Vì thánh ấy sẽ nâng đỡ và gìn giữ em trên vạn nẻo đường đời.
Cũng thế đối với ngôi nhà thờ của giáo xứ. Cụ thể là ngôi nhà thờ của giáo xứ An Sơn chúng ta, được đặt tên là nhà thờ Vô Nhiễm, vì được đặt dưới sự bảo trờ của Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội. Và rồi trong một năm, cứ đến ngày 8 tháng 12, tất cả chúng ta, những người con trong giáo xứ, đều mừng kính Mẹ như vị bổn mạng của mình. Chính vì thế, chúng ta hãy chạy đến kêu cầu để xin Mẹ luôn nâng đỡ và gìn giữ cộng đoàn chúng ta trong sự bình an, yêu thương và hợp nhất.
Chúng ta đã thấy trong thời gian chiến tranh, biết bao nhiêu ngôi nhà thờ đã đã bị tàn phá, đã bị sụp đổ do bom đạn của hận thù, để rồi chỉ còn là một đống gạch vụn. Chúng ta hãy cầu xin Mẹ che chở cho ngôi nhà thờ của giáo xứ, được luôn luôn an toàn.
Tới đây chúng ta nhắc cho anh chị em một sự thật: Giáo xứ là một gia đình. Chính tại gia đình này, chúng ta tìm thấy được một tình mến thương đậm đà và những kỷ niệm thật êm đềm và tươi đẹp.
Phải, giáo xứ chính là một gia đình và ngôi nhà thờ này chính là ngôi nhà tổ được dành cho mọi người.
Thực vậy, chính tại ngôi nhà thờ này, chúng ta đã được cha mẹ bồng ẵm tới, sau khi đã mở mắt chào đời, để lãnh nhân bí tích Rửa Tội, sinh chúng ta trong đời sống siêu nhiên của người con cái Thiên Chúa.
Chính tại ngôi nhà thờ này, chúng ta được lãnh nhận bí tích Thêm sức, giúp chúng ta trưởng thành trong đời sống đức tin, nhờ đó chúng ta trở thành những người lính can đảm, chiến đấu dưới bóng cờ của Đức Kitô.
Chính tại ngôi nhà thờ này, chúng ta được rẽ vào một khúc quanh mới của cuộc đời, khi chúng ta cùng với người chúng ta thương mến, tay trong tay tiến lên bàn thánh để cử hành bí tích Hôn phối.
Và sau cùng chính tại ngôi nhà thờ này, chúng ta sẽ từ giã mọi người để trở về nhà Cha sau cuộc hành trình dương thế, hầu đón nhận niềm hạnh phúc vĩnh cửu mà Thiên Chúa đã hứa ban cho những người tôi tớ trung thành phụng sự Ngài.
Và nhất là chính tại ngôi nhà thờ này, mỗi ngày đều diễn ra cái quang cảnh xum họp thật đầm ấm và dạt dào yêu thương. Thực vậy, trong một gia đình, cha mẹ và con cái thường quây quần bên mâm cơm nóng sốt, chứ không phải ngày nào cũng ăn cơm hộp hay giắt nhau ra hàng quán, ra tiệm ăn. Cũng vậy, chính tại ngôi nhà thờ nay, mỗi ngày chúng ta đều cùng nhau quây quần bên bàn tiệc Thánh Thể để chia sẻ với nhau một của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn, rồi từ đó, chúng ta sẽ có được những hành động bác ái và yêu thương, tha thứ và giúp đỡ cho những người chung quanh.
Tuy nhiên, chúng ta đã thực sự cư xử với nhau như những người con của gia đình giáo xứ hay chưa?
SUY NIỆM 14: Ðền thờ mẹ của tất cả mọi nhà thờ
Hôm nay, toàn thể Giáo Hội mừng lễ cung hiến đền thờ Latêranô. Ðền thờ xây cất với tư cách là nhà thờ của giáo phận Rôma, trọng tâm hiệp thông và hiệp nhất của toàn thể Giáo Hội công giáo.
Ðền thờ Latêranô được xem như là đền thờ mẹ của tất cả mọi nhà thờ của thành Rôma và của toàn thế giới. Toàn thể Giáo Hội công giáo mừng lễ kỷ niệm cung hiến đền thờ này để nói lên sự hiệp thông Giáo Hội. Giáo Hội Chúa hiện diện khắp nơi trên thế giới được hiệp nhất và hiệp thông với nhau. Như thế, đền thờ Latêranô còn là dấu hiệu mời gọi hiệp thông và hiệp nhất. Sự hiệp thông và hiệp nhất này đã được bắt đầu trước hết nơi tâm hồn con người đón nhận Tin Mừng của Chúa và tôn thờ Ngài trong sự thật và trong tinh thần. Ðền thờ bằng đá không còn ý nghĩa nếu không có đền thờ tinh thần nơi tâm hồn con người, nếu con người không biến tâm hồn mình làm đền thờ sống động cho Thiên Chúa ngự trị.
Con người mọi thời đại đều bị cám dỗ trần tục hóa đền thờ, trần tục hóa niềm tin tôn giáo như những kẻ buôn bán đổi tiền được nhắc đến trong Phúc Âm hôm nay. Mỗi người Kitô chúng ta từng xác tín điều này và góp phần của mình để giúp anh chị em chung quanh cũng được soi sáng hiểu như vậy. Ðây là một trong những trách nhiệm của từng người Kitô đối với anh chị em mình. Ðó là chỉ cho anh chị em mình phải biết tôn thờ Thiên Chúa như thế nào cho phải đạo.
Chiều kích mầu nhiệm của Giáo Hội vượt ra bên ngoài cơ cấu hữu hình và đồng thời nhắc nhở cho mỗi người chúng ta về bổn phận phải làm sao, hay làm chứng cho anh chị em được hiểu và trở thành kẻ thờ phượng Thiên Chúa đích thực trong Thánh Thần và trong sự thật. Ðây chính là ý nghĩa mà lễ mừng cung hiến đền thờ Latêranô nhắc lại cho mỗi người chúng ta hôm nay.
Lạy Chúa,
Xin biến đổi mỗi người chúng con trở thành đền thờ sống động của Chúa và trở thành những kẻ tôn thờ Chúa đích thực như lòng Chúa mong ước trong sự thật và trong Thánh Thần.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
08/11 Sẵn sàng và tỉnh thức
- Viết bởi Mt 25, 1-13
Sẵn sàng và tỉnh thức.
Chúa Nhật 32 Thường Niên năm A.
"Kìa chàng rể đến, hãy ra đón người".
Lời Chúa: Mt 25, 1-13
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: "Nước trời giống như mười trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể. Trong số đó có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan.
Năm cô khờ dại mang đèn mà không đem dầu theo; còn những cô khôn ngoan đã mang đèn lại đem dầu đầy bình.
Vì chàng rể đến chậm, nên các cô đều thiếp đi và ngủ cả. "Nửa đêm có tiếng hô to: Kìa chàng rể đến, hãy ra đón người.
Bấy giờ các trinh nữ đều chỗi dậy, sửa soạn đèn của mình. Những cô khờ dại nói với các cô khôn ngoan rằng: "Các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt cả". Các cô khôn ngoan đáp lại rằng: "E không đủ cho chúng em và các chị, các chị ra (nhà) hàng mà mua thì hơn". Song khi họ đang đi mua, thì chàng rể đến. Những trinh nữ đã sẵn sàng thì theo chàng rể cùng vào tiệc cưới, và cửa đóng lại.
Sau cùng các trinh nữ kia cũng đến và nói: "Thưa Ngài, xin mở cửa cho chúng tôi". Nhưng Người đáp lại: "Ta bảo thật các ngươi, ta không biết các ngươi".
"Vậy hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào, giờ nào".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Kn. 6, 12-16; 1Tx. 4, 13-18; Mt. 25, 1-13
1. Vừa mang đèn, vừa mang dầu
(‘Manna’)
Chẳng ai nghĩ đi ăn sinh nhật là để chết.
Chẳng ai nghĩ mình sẽ chết vào ngày sinh nhật của mình.
Vụ cháy ở nhà hàng Hoàng Hôn đường Điện Biên Phủ,
nhắc cho ta về sự bất ngờ của cái chết.
Cái chết đến khi mọi người đang say ngủ,
lúc 3 giờ sáng ngày 17-10, sau bữa tiệc sinh nhật.
Chín người chết vì không thể ra khỏi căn nhà bốc cháy.
Đoạn Tin Mừng hôm nay nhắc ta rằng Chúa đến bất ngờ,
như chú rể đến lúc nửa đêm.
Chúng ta phải sẵn sàng như năm cô phù dâu khôn ngoan,
hân hoan ra đón chú rể, tay cầm đèn thắp sáng.
Thật ra năm cô dại chẳng phải là hạng vô tích sự.
Chắc họ đã lo trang điểm cho mình.
Khi biết mình hết dầu, họ đã lo vay mượn.
Và khi bị từ chối, họ đã đi mua dầu giữa đêm khuya.
Lúc có đèn sáng, họ đã gõ cửa xin vào dự tiệc cưới. Nhưng muộn quá!
"Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!"
Chẳng nên đổ lỗi cho chú rể đến chậm, khiến đèn của mình hết dầu.
Chẳng nên trách móc các cô khôn ngoan,
vì họ cần có đủ dầu để thắp sáng cho tiệc cưới giữa đêm khuya.
Chỉ nên nhận mình đã chểnh mảng, không mang dầu dự trữ.
Có đèn. Không đủ!
Đèn cần phải sáng, sáng lúc Chúa đến bất ngờ.
Như thế cũng có nghĩa là phải luôn luôn sáng.
Mang danh là Kitô hữu. Không đủ!
Tham gia vào một số sinh hoạt tôn giáo. Không đủ!
Cần phải sống hết mình những đòi hỏi của Chúa.
Đòi hỏi lớn nhất là yêu thương.
Trong Hội Thánh, vẫn có những cô khôn và cô dại,
có những người đèn đã hết dầu từ lâu...
Cần chăm chút cho ngọn đèn đời mình.
Cần nuôi dưỡng nó bằng thứ dầu của tình yêu bao dung,
của niềm hy vọng vững vàng, của niềm tin sắt đá.
Cần châm thêm dầu mỗi ngày...
Hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.
Tỉnh thức không phải là không ngủ...
Cả mười cô trinh nữ phù dâu đều đã thiếp ngủ.
Tỉnh thức không phải là suốt ngày đọc Lời Chúa,
nhưng là để Lời Chúa chi phối mình suốt ngày.
Chẳng ai biết lúc nào tận thế.
Chẳng ai biết giờ chết của mình.
Chẳng ai biết hôm nay Chúa hẹn mình ở đâu,
trong biến cố nào, nơi con người nào.
Chính vì thế phải tỉnh thức luôn, cả trong giấc ngủ.
Người ta biết mình bắt đầu tỉnh thức,
khi nhận ra mình đã mê muội.
Gợi Ý Chia Sẻ
Nạn ma tuý đã đi vào trường học và tác hại trên người trẻ. Theo ý bạn, phải làm gì để ngăn chặn?
Nếu định nghĩa ma tuý là tất cả những chất gây nghiện, khiến con người có nhu cầu hưởng thụ ngày càng cao, không thể cưỡng lại được, thì theo ý bạn, đâu là những thứ ma tuý hiện nay đang mê hoặc giới trẻ? (rượu, cờ bạc, bạo lực, tình dục...)
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa quang lâm,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao điều khiếm khuyết, dở dang,
còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để hủy diệt,
Chúa đâu muốn mất một người nào...
Xin cho chúng con biết cộng tác với Chúa
xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng,
vui tươi và hạnh phúc,
để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn
cho mọi người và cho cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con niềm tin vững vàng và niềm hy vọng nồng cháy,
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
2. Khôn và dại - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Lời Chúa đề cập đến năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại. Thế nào là khôn ngoan và khờ dại?
Khôn ngoan theo Thánh kinh có hai chiều kích:
Theo chiều kích tự nhiên, khôn ngoan là một thứ nhận thức giỏi, thông minh, thận trọng và tài khéo để hướng dẫn cuộc sống đạt tới hạnh phúc chân thực. Đó là sự khôn ngoan của những nhà lãnh đạo có tài quản trị, những quân sư có tài giáo dục và thuyết phục, những hiền triết có tài lập ra những lý thuyết triết học, đạo đức, cũng như các nhà khoa học kỹ thuật có tài phát triển nền văn minh thế giới.
Tổ phụ Giuse vừa có tài kinh tế vừa có tài giải đáp những ước mơ của lòng người, đã được vua Ai cập chọn làm Thủ tướng. Môisê vừa có tài lãnh đạo vừa có tài thuyết phục kẻ thù cũng như đồng bào. Salomon được khen ngợi là “Người khôn ngoan hơn sự khôn ngoan của tất cả người Trung đông và Ai cập" (1V. 5, 9-14).
Theo chiều kích siêu nhiên, khôn ngoan là ân ban của Thiên Chúa. Daniel đã chúc tụng Thiên Chúa là “Đấng ban khôn ngoan cho hạng khôn ngoan, ban trí thức cho người hiểu biết" (Dn. 2, 21). Khi mười hai tông đồ triệu tập các tín hữu lại để chọn bảy phó tế, các ngài đã nói: "Hỡi anh em hãy xét và chọn lấy giữa anh em bảy người được tiếng tốt, đầy Thánh Thần và khôn ngoan" (Cv. 6, 3)
Sự khôn ngoan đích thực là sống theo luật Thiên Chúa "Luật Chúa làm cho Israel trở thành dân tộc khôn ngoan và thông thái" (Đnl. 4, 6). Ai yêu chuộng học hỏi và sống luật Chúa sẽ trở nên khôn ngoan: "Cố tổ tôi tên là Giêsu, hầu như hiến cả mạng sống vào việc đọc lề luật, các tiên tri cùng các sách của cha ông, đã nên quán xuyến, lão luyện và phát hứng biên soạn đôi điều liên quan đến giáo huấn và khôn ngoan" (Hc. 1, 7-12)
Luật Chúa chính là lời Chúa như mười giới răn Chúa ban trên núi Sinai. Chính lời Chúa mới là sự khôn ngoan và hạnh phúc thật. Tác giả Thánh vịnh 119 đã cảm thấy sự tuyệt diệu đó: “Lời Ngài là hạnh phúc đời con, lời Ngài là ánh sáng đời con, lời Ngài là chứa chan hy vọng, lời Ngài tôi quý hơn nghìn vàng muôn bạc, lời Ngài xin cứu sống tôi, lời Ngài là ơn cứu độ tôi" (Tv. 119, 72. 103-105. 154-155. 165). Lời khôn ngoan hạnh phúc chính là Ngôi Lời nhập thể, là Đức Giêsu Kitô (Ga 1. 1-14). Đức Giêsu đã xác nhận rõ mình là sự khôn ngoan tuyệt vời đó khi Ngài nói: "Trong cuộc phán xét nữ hoàng phương nam sẽ đứng lên cùng với những người thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Salomon, mà đây còn hơn vua Salomon nữa" (Lc. 11,31). Cho nên Bài đọc I đã hô hào ta khao khát yêu chuộng đức khôn ngoan. Thức khuya dậy sớm tìm kiếm, suy niệm đức khôn ngoan thì sẽ được chiêm ngưỡng, gặp gỡ đức khôn ngoan, sẽ được minh mẫn toàn hảo, được đức khôn ngoan niềm nở xuất hiện và sẽ hết mọi nhọc nhằn, trút hết mọi lo âu (Kn. 6, 12-16)
Bài Tin mừng cho thấy năm cô khôn ngoan. Các cô đã được theo chàng rể vào dự tiệc cưới. Đây là tiệc cưới nước Trời muôn ngàn vinh quang rực rỡ, và hạnh phúc vô cùng.
Các cô đáng được hưởng hạnh phúc vinh quang đó vì các cô khôn ngoan biết lo chu toàn nghĩa vụ của mình, đã sửa soạn đầy đủ đèn dầu thắp sáng cho đám tiệc được vui mừng rực rỡ. Các cô đã coi trọng nhiệm vụ mình để tôn trọng chú rể, mong đợi giờ phút chú rể đến, dù bất cứ lúc nào, các cô đã sẵn sàng tất cả mọi sự, các cô có thiếp ngủ, các cô vẫn an giấc, không còn lo âu, áy náy sợ chi nữa. Chỉ cần có tiếng hô to là các cô thức dậy theo chàng rể vào dự tiệc cưới. Thánh Phaolô thấy giáo hữu Thessalonica đã khôn ngoan sống theo lời Chúa, nên ngài đã an ủi họ đừng có buồn phiền về người an giấc ngàn thu như những người không tin tưởng, những người khờ dại. Vì chúng ta tin rằng Đức Giêsu đã chết và sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giêsu, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng với Chúa Giêsu... được ở cùng Chúa mãi mãi (Thes. 4, 13-18)
Trái lại, những kẻ khờ dại như năm cô đem đèn mà không có dầu. Những kẻ này quá tệ! Chúng lơ là lười biếng, thờ ơ nguội lạnh bỏ bê nhiệm vụ, chúng khinh thường những việc trọng đại như tiệc cưới, coi khinh chàng rể, xách đèn đi mà không coi gì tới đèn có dầu hay không. Sống quá bừa bãi, bê tha gì đâu đâu, còn chính nhiệm vụ quan trọng của mình lại không lo. Đối với hạng người bê bối này, chủ bảo: “Tôi bảo thật các cô, tôi không hề biết các cô là ai cả". Chúng đã không biết chủ, không kính trọng chủ, làm cho đám tiệc thiếu niềm vui vì thiếu ánh sáng, tối tăm, cho nên chúng đáng phải trong tối tăm. Khi tiếng Tổng lãnh Thiên thần ban ra và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, những người chết trong Chúa Kitô sẽ được sống lại trong vinh quang với Chúa (Thes. 4,16), còn "những kẻ đã không làm cho chính Ta, sẽ bị đuổi vào chốn cực hình muôn kiếp" (Mt. 25, 46).
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết khôn ngoan tỉnh thức, luôn luôn sẵn sàng lo chu toàn ý chủ, chu toàn thánh ý Chúa trong mọi việc Chúa trao phó. Như thế, chúng con đã chứng tỏ được lòng trung tín tôn thờ và kính mến Chúa hết lòng. Xin đừng bao giờ để con dám bỏ bê khinh thường việc chuẩn bị đi đón Ngài, kẻo bị loại ra khỏi tiệc cưới nước Trời.
3. Cẩn thận – Sẵn sàng
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Kính thưa quý ông bà anh chị em,
Khi rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu thường dùng những hình ảnh cụ thể thường ngày để giúp cho người ta dễ hiểu về mầu nhiệm Nưới Trời. Nước Trời như hạt cải, Nước Trời như chuyện mở tiệc cưới. Và hôm nay Đức Giêsu nói, Nước Trời giống như chuyện mười cô trinh nữ trong đám rước dâu. Vậy chúng ta tự hỏi : Bài dụ ngôn hôm nay muốn nói gì? Và qua dụ ngôn ấy, Đức Giêsu muốn nói gì với chúng ta?
Đọc dụ ngôn này chúng ta thấy có điều không ổn, bởi vì chàng rể đến chậm, nên các cô phù dâu ngủ cả. Một điều khác nữa chúng ta thấy là chàng rể trong dụ ngôn đã không cư xử như những chàng rể thông thường. Đây là một chàng rể đặc biệt và một tiệc cưới cũng đặc biệt, bởi trong tiệc cưới đó, mọi người phải tuân giữ những luật lệ khác với những luật lệ thông thường. Và điều khiến người ta thắc mắc và để ý hơn cả đó là đám cưới có bao điều cần thiết, chứ đâu chỉ cần mỗi người một đèn sáng trong tay là vào dự tiệc cưới, chàng rể đến cũng phải đem đèn đi theo chứ, vả lại năm cô có đèn mà đèn hết dầu thì vẫn còn năm cô kia, hai người một đèn không đủ sao? Mà cũng thật là thiếu bác ái trong nhóm phù dâu. Chỉ có mười cô cùng nhóm với nhau thôi mà cũng không chịu chia sẻ dầu cho nhau để tất cả có dầu đèn, cùng vào dự tiệc cưới thì vui biết mấy.
Năm cô có đèn nhưng lại hết dầu xin năm cô còn đèn thắp sáng, lại còn dầu dự trữ nữa, thế mà không san sẻ cho bạn. Không những thế, lại còn nói : “E không đủ cho chúng em và các chị, các chị ra hàng mà mua thì hơn” (Mt 25, 9). Tin Mừng kể lại, chính lúc năm cô đi mua thì chàng rể đến. Lúc có dầu có đèn thì chàng rể đã đến và cửa đã đóng. Các cô gõ cửa, chú rể đích thân ra, nhưng trả lời một cách khắc nghiệt : “Ta không biết các ngươi” (Mt 25, 12). Các cô là những người giúp việc nhà, là những người quen thuộc, mà chú rể nói rằng không quen, “không biết”. Hậu quả năm cô này được gọi là năm cô khờ dại, vì đã mang được đèn mà không mang dầu theo.
Chúng ta nên nhớ đây chỉ là một dụ ngôn thôi, chứ thực tế không có đám cưới nào hay đám rước dâu nào lại xảy ra như thế cả. Dù chàng rể có tới trễ, chắc chẳng ai ngủ được, phương chi các cô phù dâu, quần áo đầu tóc như thế làm sao mà ngủ nổi? Khi nói dụ ngôn này, Chúa Giêsu chỉ muốn dạy chúng ta một bài học là phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng.
Chàng rể đặc biệt đó chính là Chúa Giêsu, mười trinh nữ phụ dâu là toàn thể nhân loại, được Thiên Chúa yêu thương và đón mời về dự tiệc cưới Nước Trời. Dầu và đèn là các điều kiện cần có để được tham dự tiệc cưới ấy. Mười cô phù dâu, có năm cô khôn và năm cô dại. Đó là hình ảnh con người, có người dại người khôn. Khôn hay dại là căn cứ vào thái độ họ có biết sẵn sàng hay không. Chúng ta thấy mười trinh nữ phù dâu, các cô khôn, cô dại đều ngủ cả, chứ đâu phải chỉ có những cô dại mới ngủ. Nhưng cái làm cho mười cô trở thành khôn dại khác nhau, là ở chỗ cẩn thận và sẵn sàng. Năm cô khôn đã ngủ, nhưng ngủ trong thái độ sẵn sàng. Còn năm cô dại đã ngủ trong một thái độ chểnh mảng, tới đâu hay tới đó. Nhưng đến khi "hay" được thì đã quá muộn.
Còn việc chàng rể đến chậm, đến trễ, đến bất ngờ ám chỉ việc Chúa đến. Chắc chắn Chúa sẽ đến, nhưng hoàn toàn bất ngờ, đột xuất nên ai khôn thì sẵn sàng. Sẵn sàng chờ đón ngày chung cục của thế giới, ngày cánh chung, ngày tận thế, ngày Chúa phán xét toàn thể nhân loại. Ngày đó không ai biết trước được. Sẵn sàng đón nhận giờ chết, giờ bất ngờ, không ai biết trước được. Đòi hỏi mỗi người phải hết sức cẩn thận và sẵn sàng. Đây chính là bài học Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta.
Muốn đón Chúa chúng ta phải khôn ngoan, tỉnh thức, sẵn sàng và phải có đèn. Đèn ở đây là chính tình yêu, một lòng mến bình thường, không gây mỏi mệt và buồn chán. Đèn muốn hữu dụng phải có dầu. Dầu đốt mãi cũng phải hết. Vậy, chúng ta phải tích trữ dầu càng nhiều càng tốt. Từng giọt dầu nhỏ bé được thêm vào liên tục là những công việc nhỏ bé, tốt lành, thiện hảo trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Đó là những giọt dầu của tình yêu mến, giữ cho ngọn lửa đời sống đạo đức của chúng ta luôn cháy sáng như ngọn lửa hồng đầy sức sống. Với dầu cầu nguyện và việc lành, chúng ta sẽ giữ đèn của chúng ta luôn cháy sáng, và Người sẽ nhận ra chúng ta.
Dầu này là dầu không vay không mượn được như người ta tưởng, nên không thể nói đến chuyện thiếu bác ái ở đây. Nhân đức và cách sống không thể cho vay cho mượn để vào Nước Trời, mỗi người phải tự tích luỹ cho mình, nghĩa là phải trở nên người thực thi lời Chúa hơn là người chỉ biết nghe lời Chúa.
Chúng ta không biết ngày hay giờ nào Thiên Chúa đến, nên phải chuẩn bị để khi Người đến chúng ta có thể vào được Nước của Người. Tất cả những gì Chúa Giêsu nói trong bài dụ ngôn này được coi như là một lời cảnh báo yêu thương Chúa dành cho chúng ta, thức tỉnh tâm hồn ta sẵn sàng đón chờ Chúa đến.
Hãy nhớ rằng, một ngày nào đó, cuộc đời chúng ta sẽ chấm dứt, chúng ta không biết ngày đó là ngày nào. Vì thế, phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng, tức là chúng ta phải luôn sống tốt lành. Amen.
4. Sự khôn ngoan của người tín hữu hôm nay
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Ở đời, để thành công trong công việc làm ăn ai mà không trải qua những lần dại khôn hay vấp ngã trong cuộc đời? Nhưng sau mỗi lần vấp ngã, thất bại, khôn dại, con người ta rút ra bài học cho bản thân mình từ đó sẽ không còn gặp phải trường hợp tương tự sẽ có thể tự tin mà trở nên khôn và thành đạt. Thế nên nhà thơ Tố Hữu nói: “Ai chiến thắng mà không hề chiến bại - Ai nên khôn mà không dại đôi lần”. Còn nhà Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm nói: “Ở đời có dại mới có khôn. Khôn được ích mình, đừng để dại. Khôn mà hiểm độc là khôn dại. Dại ấy hiền lành, ấy dại khôn”. Như vậy, cái dại và cái khôn của con người không phải tính bằng việc hơn thua bao nhiêu tuổi mà ở nơi sự ứng xử để thành đạt tinh thần và vật chất trong cuộc sống.
Ngược lại, qua dụ ngôn 5 cô khôn ngoan và 5 cô khờ dại, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta là con cái Chúa, là Kitô hữu phải khôn và ngoan trong đời sống đức tin, đời sống tâm linh. Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu diễn tả cuộc hội ngộ cánh chung như cuộc hẹn của các trinh nữ đi đón vị Lang Quân là chính Ngài. Thế nhưng trong cuộc hẹn này, kẻ được gặp, người lại không! Yếu tố quyết định để gặp được Chàng Rể Giêsu chính là thái độ sống của mỗi người. Các cô được gọi là khôn, vì họ biết dự trữ dầu để giữ đèn sáng mãi. Thế nên cho dù Lang Quân có chậm đến, các cô vẫn sẵn sàng dầu đèn để đến gặp Ngài. Đấy là cái khôn của người môn đệ Chúa Kitô. Bởi vì cùng đích cuộc đời của mỗi chúng ta đều là được gặp Đức Lang Quân Giêsu.
Tháng cuối năm Phụng vụ, Giáo Hội mời chúng ta suy nghĩ về đích điểm đời mình để biết thay đổi đời sống tội lỗi, vô cảm của chúng ta với Chúa và tha nhân ngay từ bây giờ. Chẳng ai có thể sống thay cho chúng ta, nghĩ thay cho chúng ta hay hành động thay chúng ta… vì mỗi người có vị trí không thể thay thế và phải chịu trách nhiệm về chính cuộc đời mình ngay đời này và đời sau. Đó là chất dầu được chiết xuất từ chất sống của mỗi người trong từng ngày sống bằng cách quảng đại, thực thi công bằng, sống chân thật, khiêm tốn, an hoà, yêu thương, tha thứ, hy sinh, phục vụ và cầu nguyện cho hết mọi người còn sống hay đã qua đời, đặc biệt những người thân trong gia đình trong tháng báo hiếu này.
Khôn ngoan là ân ban của Thiên Chúa cho nên sự khôn ngoan đích thực là sống theo luật Thiên Chúa vì chưng Ngôn sứ Đaniel nói: "Luật Chúa làm cho Israel trở thành dân tộc khôn ngoan và thông thái" (Đnl. 4, 6). Vì vậy, ai yêu chuộng học hỏi và sống luật Chúa sẽ trở nên người khôn ngoan. Luật Chúa chính là Lời Chúa và chính lời Chúa mới là sự khôn ngoan và hạnh phúc thật. Tác giả Thánh vịnh 119 đã cảm thấy sự tuyệt diệu đó nên nói: "Lời Ngài là hạnh phúc đời con, lời Ngài là ánh sáng đời con, lời Ngài là chứa chan hy vọng, lời Ngài tôi quý hơn nghìn vàng muôn bạc, lời Ngài xin cứu sống tôi, lời Ngài là ơn cứu độ tôi" (Tv 119,72). Lời khôn ngoan hạnh phúc chính là Ngôi Lời nhập thể, là Đức Giêsu Kitô (Ga 1,1-14). Đức Giêsu đã xác nhận rõ mình là sự khôn ngoan tuyệt vời đó khi Ngài nói: "Trong cuộc phán xét nữ hoàng phương nam sẽ đứng lên cùng với những người thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Salomon, mà đây còn hơn vua Salomon nữa" (Lc 11,31). Cho nên Lời Chúa trong bài đọc I kêu gọi chúng ta hãy tìm kiếm và yêu chuộng đức khôn ngoan và rồi bài đọc 2, Thánh Phaolô mời gọi chúng ta hãy khôn ngoan làm cho đèn đức tin chúng ta luôn cháy sáng nhờ luôn có chất dầu: yêu thương, tha thứ, hy sinh… nhờ đó trong ngày sau hết “Khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng tổng lãnh thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Đức Ki-tô sẽ sống lại trước tiên; rồi đến chúng ta, là những người đang sống, chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây cùng với họ, để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi” (1Tx 4,16-17).
Như vậy, chúng ta trước hết hãy sống theo khôn ngoan của Thiên Chúa được được cả đời này và đời sau, đừng sống theo sự khôn ngoan của người đời. Vì vậy, Chúa Giêsu dạy: “Anh em hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được”( Lc 13, 24), nghĩa là đừng khôn ngoan theo người đời để đi tìm những của cải, danh vọng và vui thú trong tội lỗi ở đời này mà “hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi trộm cắp không bén bảng, mối mọt cũng không đục phá” ( Lc 12, 33). Sắm những báu vật ở trên trời, và quan tâm đúng mức đến phần rỗi của mình là sự khôn ngoan mà người tín hữu chúng ta phải kiếm tìm trên hết mọi sự ,vì “Nếu người nào được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống (mất linh hồn) thì nào có có lợ gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” ( Mt 16, 26). Đó là sự khôn ngoan mà Thiên Chúa muốn cho chúng ta tìm kiếm để sống niềm tin có Chúa, có hạnh phúc đời đời đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Chúa trên hết mọi sự trong trần thế này. Nói thế không có nghĩa là chúng ta không được phép tìm tiền bạc để chi dùng cho những nhu cầu chính đáng của thân xác như cơm ăn, áo mặc, nhà ở, phương tiện, sức khỏe cho mình và cho gia đình thân thuộc, chúng ta phải được phép chứ nhưng trong tinh thần của Lời Chúa và luật của Hội Thánh dạy.
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay, là người tín hữu sống trong một thế giới ngày một thêm tục hóa, phi nhân, vô cảm và vô luân, chúng ta hãy tránh xa sự khôn ngoan của người đời mà hãy sống sự khôn ngoan của Thiên Chúa để không những mưu ích cho phần rỗi của mình, cho tha nhân khi còn sống hay đã qua đời qua việc sống hết mình với Chúa, với các giới răn của Người và yêu thương tha nhân như chính mình qua việc cầu nguyện, bác ái, hy sinh và phục vụ ngõ hầu mai sau Chúa Giêsu sẽ đón rước chúng ta vào dự Tiệc Cưới như cô năm khôn ngoan hôm nay vì chúng ta là người luôn cầm đèn có dầu và cháy sáng mãi. Với niềm tin đó, mời ÔBACE đứng lên tuyên xứng Đức Tin….
5. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Chúng ta đang ở trong tháng 11, tháng cầu cho các Đẳng linh hồn. Trong thánh này, Giáo hội nhắc nhở chúng ta nhớ tới các linh hồn trong Luyện ngục. Đồng thời, đây là thời gian cuối năm phụng vụ.
Nếu để ý chúng ta sẽ thấy các bài Lời Chúa trong các ngày cuối năm phụng vụ này thường nói về sự chết, sự phán xét, về số phận đời sau, về sự tận cùng của vũ trụ. Cụ thể, đoạn Tin mừng Chúa nhật hôm nay, nói về sự Chúa đến bất ngờ qua hình ảnh chàng rể trong dụ ngôn Mười trinh nữ. Chính vì Chúa đến bất ngờ nên đòi buộc mọi người phải tỉnh thức và sẵn sàng như năm cô trinh nữ khôn ngoan. Thiết nghĩ, trong bối cảnh này và qua dụ ngôn Mười trinh nữ hôm nay mời gọi mọi người chúng ta suy niệm ba điểm sau đây:
Trên đây chỉ là một số thí dụ về những cái chết không theo qui luật thông thường. Nhưng dầu có theo qui luật thông thường đi nữa, thì con người cũng không thể biết mình chết lúc nào. Cho nên, cuối đoạn Tin mừng hôm nay Đức Giêsu đã cảnh giác chúng ta rằng: “Vậy hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào, giờ nào” (Mt 25,13). Nơi khác, Ngài nói: “Chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,44; Lc 12,40). Ngài còn dùng dụ ngôn “chủ nhà” để nhắc nhở mọi người tỉnh thức, đề phòng cái chết như đề phòng kẻ trộm (Mt 24,42). Thánh Phêrô và Thánh Phaolô cũng nhắc lại lời của Đức Giêsu rằng: “Ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm” (1 Tx 5,2; 2 Pr 3,10). Vì không biết chết lúc nào và vì cái chết đến bất ngờ nên đòi hỏi mọi người phải tỉnh thức và sẵn sàng.
1. Mọi người đều phải chết
Tần Thuỷ Hoàng là vị vua Trung Quốc, sống trước Chúa Giáng sinh khoảng 200 năm. Ông là người đã truyền xây Vạn Lý Trường Thành dài hơn 2000 dặm. Đó là kiến trúc duy nhất trên trái đất, mà các phi hành gia có thể nhìn thấy từ ngoài không gian. Theo tạp chí National Geographic, Tần Thuỷ Hoàng rất sợ chết, ông muốn được trường sinh bất tử, nên tìm đủ mọi cách để được cải lão hoàn đồng. Một ngày kia, các chiêm tinh gia kể cho ông nghe về một hòn đảo thần tiên ở biển đông, dân chúng ở đó đã khám phá ra bí quyết trường sinh. Tần Thuỷ Hoàng liền phái một số tàu thuyền chất đầy châu báu lên đường, hy vọng đổi được bí quyết trường sinh. Nhưng dân chúng không đổi cho ông bí quyết trường sinh của họ. Thế rồi ông lo xây nhà mồ như cung điện nguy nga rộng lớn, lấy châu ngọc làm tinh tú, lấy thuỷ tinh làm sông ngân hà, lấy vàng ngọc lát tường và chôn sống hàng trăm cung nữ trong đó, để kiếp sau được sống như thần tiên. Nhưng kẻ tàn bạo ham sống sợ chết ấy chỉ làm vua được hơn chục năm và sống trên năm mươi tuổi thì chết đi.
Thật vậy, “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử”: người ta xưa nay ai mà không chết? Sau khi nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa đã phán với Adong rằng: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất.” (x. St 3,19). Sau này, Thánh Phaolô cũng cho biết: “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội.” (Rm 5,12). Vì vậy, ai cũng chết: Có những người chết khi còn trong bụng mẹ; Có những người chết khi tuổi còn niên thiếu; Có những người chết khi tuổi con thanh niên; Có những người chết khi tuổi còn trung niên; Có những người chết già trăm tuổi hay hơn nữa như Kinh Thánh cho biết: ông Adong sống thọ 930 tuổi, ông Noe 950 tuổi, ông Mathusalem 969 tuổi. Nhưng, cho dù sống thọ đến trăm tuổi hay hơn nữa thì cũng phải chết. Đó là qui luật chung của hết thảy mọi người.
2. Không biết chết lúc nào
Mặc dầu biết chắc chắn rằng đã là con người thì ai cũng phải chết nhưng không ai biết mình chết lúc nào. Đây là một bí mật chỉ dành riêng cho Thiên Chúa. Theo qui luật thông thường thì con người được sinh ra, lớn lên, già yếu và chết: ông bà chết trước cha mẹ; cha mẹ chết trước con cái; con cái chết trước cháu chắt…Nhưng trong thực tế, qui luật đó không đúng với hết mọi người. Bởi vì có những bậc ông bà, cha mẹ phải khóc lóc tiễn đưa con cái, cháu chắt, như ca dao Việt nam có câu:
“Lá vàng còn ở trên cây
Lá xanh rụng xuống trời hay chăng trời.”
Cũng có những người con khi công thành danh toại muốn đền đáp công ơn sinh thành của cha mẹ, vậy mà cha mẹ chẳng còn (cha mẹ chết sớm hơn qui luật thông thường). Cái chết không theo qui luật thông thường chính là do bệnh tật, thiên tai, chiến tranh, khủng bố... Ở Việt Nam, mỗi năm có 94 000 người chết vì bệnh ung thư; ít nhất 15 000 người chết do tai nạn giao thông; khoảng 300 người chết và mất tích do thiên tai. Ngoài ra, còn có những người chết do chiến tranh, khủng bố…Chẳng hạn, ở Mỹ, vụ khủng bố 1/9/2001 làm 2996 người chết; vụ xả súng ở Las Vêgas ngày 01/10/2017 vừa qua làm chết 50 người; Vụ xả súng tại một nhà thờ Baptist nhỏ ở Texas hôm 5/11/2017, có ít nhất 26 người chết.
3. Tỉnh thức và sẵn sàng như thế nào?
Chúng ta cần tỉnh thức và sẵn sàng theo hai khía cạnh sau đây:
Theo khía cạnh tiêu cực: chúng ta phải cố gắng chu toàn các bổn phận bằng cách tuân giữ luật Chúa, luật Hội thánh và các nhiệm vụ được giao phó, không phạm tội, kể cả những tội nhẹ cố tình. Nếu lỡ sa ngã phạm tội cần phải sám hối ăn năn và lãnh nhận Bí tích Giao hòa.
Theo khía cạnh tích cực: không chỉ giữ mình sạch tội mà còn phải ra sức làm nhiều việc lành phúc đức như tham dự thánh lễ, lãnh nhận các Bí tích, đọc kinh lần hạt, làm việc bác ái, hy sinh hãm mình…tương tự như năm cô khôn ngoan luôn chuẩn bị đèn và dầu.
Một đề nghị khác của Thánh An-phong cho việc tỉnh thức và sẵn sàng, đó là: Thứ nhất, hãy làm ngay bây giờ những điều tôi phải làm trước khi chết; Thứ hai, hãy làm ngay bây giờ những điều mà trên giường chết tôi ước ao “phải chi mình đã làm”; Thứ ba, hãy làm ngay bây giờ những điều mà trên giường chết tôi không làm được.
Câu chuyện của Thánh Saviô sau đây cũng là bài học cho mỗi người chúng ta về sự tỉnh thức và sẵn sàng:
Một hôm, vào giờ chơi thể thao, Saviô đang chơi với chúng bạn ngoài sân. Cha Boscô bèn gọi thánh nhân ra hỏi: “Giả như 15 phút nữa Chúa gọi con về với Chúa, thì bây giờ con làm gì?”
Saviô trả lời rằng: “Con vẫn tiếp tục chơi!”
Cha Boscô hỏi tiếp: “Con không đi xưng tội hay cầu nguyện để dọn mình chết sao?”
Saviô trả lời rằng: “Bây giờ là giờ chơi, mọi người có bổn phận phải chơi để thân thể khỏe mạnh. Vì thế, con nghĩ cứ chơi là đẹp ý Chúa nhất. Dọn mình chết không gì tốt bằng làm điều đẹp lòng Chúa nhất. Vả lại, lúc nào tâm hồn con cũng sẵn sàng trở về với Chúa!”
Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn biết sống tinh thần của năm cô trinh nữ khôn ngoan để dù Chúa đến bất cứ lúc nào chúng con cũng sẵn sàng ra nghinh đón Chúa. Amen.
6. Khôn ngoan đích thực
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.)
Khôn ngoan cũng có nhiều loại. Có người khôn thành khôn dại, có người như thể dại mà thực sự lại là người khôn. Người khôn ngoan đích thực là người biết sống sao để luôn hạnh phúc, đời này lẫn đời sau.
1. Sự sống đời sau
Nhiều người cho rằng tiền bạc mang lại cho người ta hạnh phúc, và người ta miệt mài đi tìm tiền bạc, quên gia đình, quên cha mẹ con cái, quên cả hưởng thú vui mỗi ngày với những người thân. Nhiều người không thành công nên cả đời vất vả long đong mà cũng chẳng kiếm được nhiều tiền như họ mong ước, họ không hạnh phúc, và vẫn tưởng rằng có tiền là có hạnh phúc. Cũng có người may mắn hơn, kiếm được nhiều tiền nhưng khi đã có lắm tiền, đã có danh vọng chức quyền, họ cũng nghiệm ra tiền bạc danh vọng chức quyền cũng không mang lại cho họ hạnh phúc. Với những người này, kinh nghiệm đã dạy họ chân lý; bài học này đã tốn bao thời gian và đã phải trả một giá khá mắc.
Có người cho rằng nếu chết là hết, thì khi đang sống người ta phải tận hưởng thú vui bằng mọi giá. E rằng quan niệm này cũng không đúng vì nếu hiểu hưởng thụ theo nghĩa chơi bời phóng túng, thì cũng đâu làm cho người ta hạnh phúc. Tuy nhiên, một chân lý mọi người cần biết, đó là con người không chỉ có đời sống tại trần thế này. Chết chưa phải là hết đối với con người. Con người có đời sống mai hậu. Con người có hạnh phúc ở đời sống mai hậu hay không, tùy thuộc cách sống của họ ở đời này. Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu Thessalônica nhắc nhở các Kitô-hữu: sự sống đời sau đang chờ đợi họ.
Nếu chỉ có cuộc sống tại thế, Ngôi Lời Thiên Chúa chẳng cần phải nhập thể làm người. Nếu chỉ có cuộc sống tại thế này, Đức Yêsu phục sinh hay không, chẳng có nghĩa lý gì với con người. Mầu nhiệm nhập thể chỉ xảy ra, khi con người có sự sống đời sau; Đức Yêsu đã sống lại nên chết đâu phải là hết, vì nếu con người chết là hết thì Đức Yêsu không cần phải sống lại, vì lúc đó Ngài có sống lại hay không, với con người đâu có ích lợi gì.
2. Khôn ngoan và dại khờ
Những người dại, chỉ nghĩ đến giây phút này mà không biết nhìn xa hơn; còn những người khôn họ không chỉ nghĩ đến giây phút hiện tại mà còn biết nhìn cả đến tương lai nữa. Năm cô gái dại khờ hôm nay, không biết nhìn cho tương lai. Người ta mang đèn, năm cô cũng mang đèn; nhưng đèn để làm gì nếu không có dầu. Nếu một người chỉ mang danh Kitô-hữu, mà không sống theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần thì chẳng ích lợi gì cho họ. Họ chẳng được gì, họ cũng chẳng được vào dự tiệc cưới.
Người dại là người không biết mình sống để làm gì, không biết làm sao để hạnh phúc đích thực ở đời này và cả ở đời sau nữa. Họ lấy điều phụ làm điều chính, và điều chính lại cho là phụ. Có thể nói, những người chọn và miệt mài chỉ đi tìm tiền bạc, danh vọng chức quyền, là những người dại. Có thể những người này nghĩ rằng họ sẽ để lại cho con cái họ món tiền lớn, gia tài kếch xù, để con cái họ hưởng hạnh phúc. Nhưng kinh nghiệm cho thấy, có nhiều người con của những gia đình cha mẹ giầu có lại hư vì chính tiền của cha mẹ để lại cho, vì những người này ỷ lại vào số tiền đó, ăn chơi và không chịu học hành, nên không thành người lương thiện và hữu ích.
Những người khôn, là những người không chỉ nghĩ đến đời sau, nhưng còn để ý đến giây phút hiện tại nữa. Họ cố gắng sống hạnh phúc ngay ở giây phút này, trên đời này và lúc này. Họ muốn tìm bình an và hạnh phúc. Những người này nếu có đời sống gia đình, họ không chỉ lo đi làm kiếm tiền nuôi sống chính mình và gia đình, lo cho tương lai con cái, mà họ còn biết tận hưởng niềm vui mỗi ngày bên người bạn đời và bên con cái họ nữa. Thiên đàng đối với họ, không chỉ ở đời sau mà ngay tại đời này, trong đời sống mỗi ngày của họ.
3. Người khôn ngoan đích thực là người kính sợ Thiên Chúa
Khôn ngoan là điều ai cũng mong ước và tìm kiếm. Những người hiền triết là những người đi tìm khôn ngoan; họ nghĩ rằng họ biết được nguyên nhân và lý lẽ thâm sâu của sự vật, và họ để lại những lời dạy khôn ngoan cho thế hệ tương lai. Những người đi học, là những người muốn học những lý lẽ khôn ngoan của thế hệ đi trước truyền lại. Mỗi dân tộc đều có kho tàng văn chương khôn ngoan của riêng họ, để dạy lại cho con cháu. Dân tộc Việt Nam chúng ta cũng có kho tàng khôn ngoan phong phú. Ca dao tục ngữ là một phần của kho tàng này.
Dân tộc Do Thái cũng có kho tàng khôn ngoan của họ, và đối với họ người khôn ngoan là người kính sợ Thiên Chúa. Kính sợ Thiên Chúa, làm cho người ta trở thành người khôn. Vì một khi kính sợ Thiên Chúa, người ta không làm gì trái giới răn của Ngài; hơn nữa, người ta còn làm theo điều Thiên Chúa muốn và dạy dỗ, đó là yêu mến Thiên Chúa và tha nhân. Kính trọng tha nhân, tìm cách giúp đỡ tha nhân, sẽ làm con người dễ thương và được yêu thương nhiều hơn, và như vậy làm người ta hạnh phúc hơn từng ngày.
Thiên Chúa là Đấng Khôn Ngoan, Ngài là nguồn mọi khôn ngoan. Người sống theo lời Ngài dạy bảo là người khôn. Người sống theo lời dạy của Thiên Chúa, không chỉ tìm thấy niềm vui và hạnh phúc qua việc hưởng thụ, nhưng còn tìm được niềm vui và hạnh phúc nơi chính niềm vui và hạnh phúc của người khác nữa. Những người này tìm được niềm vui và hạnh phúc khi phục vụ con người; và với những người này không ai tước mất hạnh phúc của họ được. Đây là những người phó thác tất cả trong tay Thiên Chúa, vì họ tin rằng Thiên Chúa yêu thương họ, và Ngài sẽ làm tất cả những gì tốt lành cho họ. Họ hạnh phúc khi phục vụ con người, và hạnh phúc trong niềm tin tưởng phó thác tuyệt đối nơi Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Sự khôn ngoan đích thực hệ tại đâu?
2. Thiên Chúa có muốn con người có được sự khôn ngoan đích thực không? Tại sao?
3. Bạn đang đeo đuổi tìm kiếm điều gì? Điều đó có mang lại cho bạn hạnh phúc không?
7. Bắt hụt
Mười cô trinh nữ chuẩn bị đi đón chàng rể. Cả mười cô đều đã sẵn sàng. Ví như chàng rể đến đúng giờ, đúng với quan niệm của mọi người, đúng với lối suy nghĩ chắc chắn của các cô, thì hẳn không có chi để mà nói. Thế nhưng chàng rể lại đến trễ cho nên các cô đều thiếp đi và ngủ cả. Khi chàng rể đến, thì những cô đã sẵn sàng, theo chàng rể bước vào phòng tiệc. Và đến lúc bấy giờ, chúng ta mới nhận thấy rằng có năm cô chưa thật sự sẵn sàng và đã bắt hụt chàng rể.
Lịch sử các tôn giáo đã ghi lại lời biết bao nhiêu lần bắt hụt như thế. Chẳng hạn trong Cựu Ước, từ 700 năm trước Giáng sinh, hình ảnh Đấng Cứu Thế đã được loan báo và qua nhiều thế hệ, toàn thể dân Thiên Chúa, đặc biệt là các vị chức sắc trong đền thờ, có một quan niệm, một hình ảnh rõ ràng và chính xác về Đức Kitô dựa theo Kinh Thánh, để rồi họ đã yên chí ngủ thiếp đi trong ý niệm đó. Khi Đức Kitô đến họ đã bắt hụt Ngài bởi vì họ không thể nào chấp nhận một Đấng Cứu Thế khác với khái niệm mà họ đã có.
Còn Giáo Hội, có bao giờ Giáo Hội đã bắt hụt Đức Kitô không nhỉ? Cách đây hơn 20 năm, một linh mục dòng Chúa Cứu Thế đã kể lại câu chuyện bắt hụt của mình như sau: Từ Vườn Xoài về Phú Nhuận, ngài chứng kiến một tai nạn, người chết nằm cong queo, ngài thấy mình không còn gì để mà làm cho nạn nhân nữa. Đến ngã tư đèn đỏ, ngài quay lại và thấy một bà già tháo chiếc khăn quàng, cúi xuống và phủ lên mặt người xấu số. Cử chỉ đó làm cho vị linh mục giật thót người và ý thức rằng mình có thể là một nhà tu mà vẫn bắt hụt Đức Kitô trong những sự kiện cụ thể hằng ngày. Tôi rất cảm động trước chứng từ ấy và quyết sẽ không bao giờ vô tâm trước một người bị tai nạn như thế. Hai mươi năm qua, tôi chưa chứng kiến một tai nạn chết người nào, nhưng cách đây hơn một tháng có một học trò cũ đến thăm tôi. Thấy em buồn, tôi đã thao thao bất tuyệt nửa giờ để động viên em bằng những lời đạo đức đao to búa lớn. Vài ngày sau, tôi biết rằng em đến thăm tôi lần cuối trước khi tự tử. Nhưng rất may mà được cứu sống. Tôi bang hoàng nhận ra rằng nếu hôm đó tôi thức tỉnh lắng nghe hơn, thì hẳn đã giúp em bỏ đi được cái quyết định dại dội ấy. Thế đấy, một linh mục lo cho người sống đã bắt hụt Đức Kitô khi Ngài đến qua một người chết. Rút kinh nghiệm, tôi sẵn sàng đón tiếp Ngài qua một người chết, và tôi đã bắt hụt Ngài khi Ngài đến với tôi qua một người sống mà tôi suýt giết chết. Chúng ta đã có dịp nói nhiều về việc canh tân đổi mới, phải chăng đến lúc này thì ai ai cũng đã đổi mới rồi và bây giờ chúng ta có quyền ngủ yên bởi vì chúng ta đã thuộc kinh bổn, đã khám phá ra Đức Kitô, thế nhưng lời cảnh báo của Chúa Giêsu: Hãy tỉnh thức, vẫn còn mang tính chất thời sự nóng bỏng của nó.
8. Sẵn sàng
Cách đây 1900 năm, núi lửa Vesuve đã phun lên ở Ý. Toàn bộ thành phố Rompei đã bị chôn vùi dưới lớp phún xuất thạch dày tới 6 mét và giữ nguyên dạng như thế cho đến nay. Khi các nhà khảo cổ khai quật, mọi người đều ngạc nhiên và sửng sốt. Phún xuất thạch đã làm đông cứng tất cả trong tư thế đang có khi tai hoạ đổ xuống: Thân xác con người bị huỷ hoại, nhưng trong khi huỷ hoại, chúng đã để lại những lỗ trống trên lớp tro cứng. Người ta dùng thạch cao đổ vào những lỗ trống ấy và khôi phục lại được hình dạng của các nạn nhân. Chẳng hạn một người mẹ đang ôm chắt đứa con trong vòng tay của mình, một người lính Rôma đang đứng thẳng tại trạm gác với đầy đủ vũ khí, anh ta đã trung thành với bổn phận cho tới giây phút cuối cùng. Một người đàn ông tay cầm gươm, chân đạp trên đống vàng, rải rác chung quanh là năm xác chết, có lẽ là những kẻ định cướp số vàng trên.
Tất cả những hình ảnh này là một bức tranh sống động làm nổi bật chủ đề của thánh lễ hôm nay. Đó là ngày tận thế, ngày kết thúc vũ trụ vật chất này, ngày Chúa trở lại trong vinh quang chắc chắn sẽ xảy ra, nhưng lại xảy ra một cách bất ngờ, như tên trộm viếng thăm vào ban đêm, như chàng rể đến muộn khi các cô phù dâu đã thiếp ngủ. Chính vì thế mà mỗi người chúng ta phải chuẩn bị sẵn sàng, để chờ đón không phải chỉ ngày cuối cùng của vũ trụ, mà còn là ngày cuối cùng của đời mình, lúc chúng ta phải tính sổ với Chúa.
Vào giây phút trọng đại ấy, liệu chúng ta có sẵn sàng như những cô trinh nữ khôn ngoan, hay lại chẳng chuẩn bị gì cả như những cô trinh nữ dại khờ, để rồi sẽ phải nghe lời phán quyết lạnh lùng: Ta không biết các ngươi. Tất cả những ý nghĩ trên không phải là những điều chúng ta nghe qua rồi để ngoài tai, hay mặc cho nó chìm vào quên lãng. Trái lại phải trở nên như một tiếng chuông cảnh tỉnh Chúa gởi đến với mỗi người chúng ta, để thôi thúc và lôi kéo chúng ta ra khỏi một cuộc sống tội lỗi. Chúng ta là những người thật may mắn và diễm phúc, bởi vì Chúa còn dành cho chúng ta một khoảng thời gian. Khoảng thời gian này có thể là lâu hay mau, sáu bảy chục năm hay chỉ đôi ba ngày, chúng ta không được biết, nhưng khoảng thời gian này cũng đủ để chúng ta ăn năn sám hối, thay đổi nếp sống, làm lại cuộc và sắm sẵn cho mình những hành trang cần thiết, để bất kỳ lúc nào Chúa gõ cửa viếng thăm thì chúng ta luôn sẵn sàng thưa lên với Ngài: Lạy Chúa, này con xin đến.
9. Kẻ khờ dại đánh mất Nước Trời!
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một nhà phú hộ, đầy quyền thế danh vọng ở đời bỗng nhiên đột quỵ và qua đời. Gia nhân ai nấy đều xúc động, bỡ ngỡ. Người ta bàn tán xôn xao về cái chết đột tử của nhà phú hộ. Trong đó có một lời bàn gây nhiều tranh cãi từ một người quản gia của nhà phú hộ. Người quản gia nói rằng:
- Theo các anh thì ông chủ chúng ta sẽ đi về đâu?
Các gia nhân đáp:
- Ông ấy lên trời chứ đi đâu nữa.
Người quản gia nói:
- Không đâu. Tôi chắc chắn ông ta không lên trời.
Tất cả đều ngạc nhiên hỏi:
- Làm sao quản gia biết là ông chủ không lên trời?
Người quản gia nói:
- Thường thì đi đâu xa, chủ của chúng ta thường nói về nước sẽ đi đến và chuẩn bị rất là cẩn thận. Nước trời là cõi xa xôi, nhưng tôi không bao giờ thấy ông chủ của mình nói gì về nước đó, cũng không thấy ông ta chuẩn bị gì cả. Làm thế nào mà ông ta vào Nước Trời được!
Vâng, thái độ thiếu khôn ngoan của nhà phú hộ trên cũng có thể là thái độ của chính chúng ta! Chúng ta đã thiếu chuẩn bị cho một cuộc ra đi ắt phải có của kiếp người là rời bỏ chốn dương gian lắm tội tình. Ai trong chúng ta cũng tin rằng bên kia sự chết đó là cõi thiên thai, là thiên đàng cực lạc, là Nước Trời vĩnh cửu. Đó là nơi mà ai cũng ước mong sẽ được cư ngụ vĩnh viễn sau cuộc đời đầy khổ ải trần gian. Thế nhưng, nhiều người lại thiếu chuẩn bị một cách cẩn thận, kỹ lưỡng. Họ không bao giờ chuẩn bị một hành trang cần thiết nào cho cuộc sống đời sau. Họ sống như không bao giờ chết. Họ tiêu pha đời mình trong những đam mê trần tục. Họ ngụp lặn đời mình trong biển đời hư danh và truỵ lạc. Họ quên rằng trời cao mới là quê hương đích thực. Trần gian là tạm bợ. Thiên đàng mới là vĩnh cửu.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở về thái độ thiếu chuẩn bị cho cõi đời sau qua dụ ngôn 10 trinh nữ phụ dâu. Trong đó có 5 cô khờ dại. Họ được mời làm phụ dâu, đáng lẽ họ phải chuẩn bị thật kỹ càng để giúp cho tiệc cưới được chu đáo và long trọng. Thế nhưng, họ lại lười biếng và thiếu trách nhiệm. Họ lười biếng nên lăn quay ra ngủ. Họ thiếu trách nhiệm nên chẳng chuẩn bị chi cả. Dầu tượng trưng cho sức sống tươi trẻ, đầy năng động, tràn đầy nhựa sống nhưng đã cạn kiệt, không còn đủ sức tỏa sáng chung quanh. Nên khi cơ sự tới. Họ muốn thắp lên một ngọn đèn cũng không đủ khả năng. Họ cầu cứu người khác, nhưng thời gian đã không còn. Cơ hội để cùng tân lang vào dự tiệc đã vuột khỏi tầm tay của họ. Cánh cửa cuộc đời đã khép. Số phận của họ đã được định đoạt. Họ bị loại trừ trong thất vọng và khổ đau.
Có biết bao lần vì lười biếng mà ta đã đánh mất những cơ hội tốt đẹp trong cuộc đời. Có biết bao lần vì thiếu trách nhiệm mà ta đã hành xử một cách cẩu thả, cho qua lần chiếu lượt với những công việc được giao. Cơ hội vào Nước Trời sẽ không có trong tầm tay của những kẻ lười biếng và thiếu trách nhiệm với cuộc sống của mình. Vì con đường vào Nước trời là con đường hẹp đầy chông gai, sỏi đá. Con đường của hy sinh, của phấn đấu không ngừng vươn lên mỗi ngày, mới mong đạt tới vinh quang Nước Trời. Vì phương thế vào Nước trời là lối sống thực thi triệt để giới răn mến Chúa - yêu người, nên kẻ muốn vào Nước Trời phải chu toàn bổn phận đối với Chúa và tha nhân với đầy đủ ý thức và trách nhiệm. Lười biếng và thiếu trách nhiệm thường đi đôi với nhau. Kẻ lười biếng và thiếu trách nhiệm không những bị cha mẹ, anh em bè bạn loại trừ mà cả cánh cửa sự sống đời sau cũng khép lại và từ chối đón nhận họ.
- Có những kẻ lười biếng và thiếu trách nhiệm với vợ con nên tối ngày rượu chè, cờ bạc... gây khổ đau cho vợ con
- Có những người vợ biếng nhác việc nhà "đi vác tù và hàng tổng", họ tham gia rất nhiều hội đoàn nhưng lại thiếu trách nhiệm với tổ ấm của mình.
- Có những người con lười biếng chỉ biết ăn chơi, đua đòi nhưng lại thiếu trách nhiệm với chính bản thân của mình nên sa đà tội lỗi.
Họ là đại diện cho các cô phụ dâu thiếu chuẩn bị dầu nến bước vào đời sau. Vì ngày tân lang tới hay có thể nói là ngày chết của mỗi người chúng ta hoàn toàn bất ngờ. Chúng ta không ai biết trước được ngày ra đi. Không ai biết được cách thức ra đi. Do đó, sự khôn ngoan luôn đòi hỏi chúng ta phải tỉnh thức trong mọi sự. Phải chu toàn bổn phận của mình một cách chu đáo. Phải có trách nhiệm với cuộc sống để khi ra đi chúng ta luôn mang tâm trạng bình an. Chúng ta sẽ không hối tiếc vì để lịm tắt ngọn lửa yêu thương trong cuộc đời chúng ta.
Ước gì mỗi người chúng ta đừng vì lười biếng mà ru ngủ đời mình trong những đam mê yếu đuối, và lầm lạc. Ước gì bình dầu yêu thương trong tâm hồn chúng ta luôn đầy tràn chan chứa hầu có thể thắp sáng tình yêu Chúa trên muôn vạn nẻo đường chúng ta đi, và làm nóng lại tình yêu của Chúa giữa nhân gian tội tình hôm nay. Xin cho chúng ta luôn đủ khôn ngoan để chuẩn bị dầu đèn luôn cháy sáng là những hành vi bác ái đầy yêu thương thấm đượm tình Chúa, tình người. Amen.
10. Chú rể kia rồi, ra đón đi! – Lm. Trầm Phúc
Chúa Giêsu hay dùng hình ảnh tiệc cưới để chỉ Nước Trời.
“Thiên Chúa là Tình Yêu”, câu Kinh Thánh này đã được Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI làm tăng thêm giá trị khi chọn nó làm đề tài cho thông điệp đầu tay của Ngài.
Phải, “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Tất cả phải quy tụ về đó. Đó là Nguồn Gốc và là Nồng Cốt của đạo công giáo.
Chúa Giêsu nói đến tình yêu và đôi khi Ngài cũng xem mình như chàng rể trong tiệc cưới Nước Trời: “Bao lâu tân lang còn ở với họ, làm sao họ có thể ăn chay?” Trong dụ ngôn này, Ngài không nói rõ, nhưng chúng ta cũng có thể hiểu rằng, chàng rể mà chúng ta đang thức đêm chờ đợi, chính là Ngài.
Trước khi tìm hiểu nội dung của dụ ngôn, chúng ta hãy tìm hiểu nhanh một vài tập tục của dân Do Thái xưa mới có thể hiểu được Chúa muốn nói gì với chúng ta trong dụ ngôn.
Thời các tổ phụ, đám cưới thường được tổ chức suốt bảy ngày. Ví dụ như đám cưới của Sam-sơn (xem Tl 14,13tt). Các bạn bè đàng gái đến chung vui có cả Sam-sơn, và trong lúc uống rượu với nhau họ bày ra trò chơi câu đố. Sam-sơn được quyền ra câu đố trước. Chàng nói: “Trong bảy ngày tiệc, các anh giải được câu đố của tôi thì…”
Làm sao có thể đãi khách suốt bảy ngày như thế? Thời nay, đám cưới của các công chúa, hoàng tử thì có thể tổ chức suốt ba ngày, nhưng các đám cưới người dân chỉ tổ chức một ngày bên đàng gái, một ngày bên đàng trai là xong, không ai có giờ đi đám cưới, nếu kéo dài.
Thời các tổ phụ, sở dĩ người ta có thể tổ chức suốt bảy ngày, vì sáu ngày trước không phải là đám cưới mà chỉ là những ngày ăn uống vui chơi với người thân và bạn bè, chưa phải là ngày chánh lễ. Những người đến dự thường là bà con bạn bè, mang theo một món quà, một con chiên, con bò hay bình rượu…, nhà đám lấy đó đãi khách. Như thế, nhà đám dù nghèo cũng có thể đãi tiệc suốt bảy ngày mà không tốn kém bao nhiêu. Trong dụ ngôn, Chúa Giêsu chỉ nói đến ngày chánh lễ khi chàng rể đến rước cô dâu. Khách được mời phải đợi đến khi chú rể đến mới nhập tiệc. Trong số những người đợi chàng rể có mười cô trinh nữ cầm đèn múa hát để rước chàng rể.
Thời Chúa Giêsu, vẫn còn những tục lệ đó. Người ta thường tổ chức tiệc cưới vào ban đêm vì trời mát và người ta có thể vui chơi đến sáng hôm sau. Trong những dụ ngôn khác, Chúa Giêsu bảo chúng ta phải tỉnh thức như đầy tớ đợi chủ về, không biết giờ nào là như thế. Tiệc cưới tại Cana, Thánh Gioan không nói rõ là ban đêm hay ban ngày, chỉ nói đến vấn đề thiếu rượu, vì khách đông hơn dự tính và trong bảy ngày tiệc, đôi khi không mấy ai để ý đến việc tiếp tế rượu… Hơn nữa, trước khi rước chàng rể, hai họ còn phải thương lượng nhiều vấn đề, về những điều kiện cưới hỏi, của cải…Lắm lúc cuộc thương lượng kéo dài đến khuya, vì thế không thể hẹn trước giờ nào.
“Thiên Chúa là Tình Yêu”.
Thánh Kinh thường dùng ngôn ngữ của tình yêu để nói đến mối liên hệ sâu xa giữa Thiên Chúa và dân Người. Thiên Chúa yêu dân Người như một người chồng yêu vợ mình tha thiết. Vì thế, khi dân Do thái bỏ Chúa chạy theo các thần ngoại, là phạm tội ngoại tình. (Tiên tri Hô-sê, Giê-rê-mi-a, I-sa-i-a…).
Hình ảnh tiệc cưới được Chúa Giêsu sử dụng để chỉ Nước Trời vì đó là một tiệc vui của tình yêu. Nước Trời chính là niềm vui bắt nguồn từ tình yêu, và tất cả chúng ta đều được mời gọi tham dự, có thể với tư cách là phù dâu mang đèn đến đón chàng rể. Nhưng có thể chúng ta là cô dâu diễm phúc chăng? Nhưng phải chờ đợi.
Cả lịch sử dân Do thái là một chờ đợi tha thiết. Chàng rể là Đấng Cứu Độ chưa đến. Chúng ta cũng đang đợi chờ chàng rể thần linh.
Chúng ta có chờ đợi không? Sự chờ đợi của chúng ta có chứa đầy yêu thương hay chỉ chán buồn theo năm tháng? Chàng rể thần linh sẽ đến nhưng không biết lúc nào…
Mười cô trinh nữ thắp đèn chờ đợi. Giáo hội cũng thắp đèn chờ đợi. Trong Giáo Hội luôn có những người khôn ngoan và những người khờ dại vô lo…Thời gian chờ đợi kéo dài vô tận…Mọi người đều thiếp đi…
Nhưng giữa đêm khuya có tiếng réo gọi: “Này chàng rể đến! Hãy ra nghênh đón”. Các cô trinh nữ khôn ngoan đã sẵn sàng, đèn các cô cháy sáng, vì họ đã biết lo liệu, còn các cô kia thì…ôi thôi, đèn đã hết dầu!
Chúng ta kiểm tra xem đèn của chúng ta có đầy dầu không? Dầu của tình yêu, của vâng phục, và của trung thành…?
Các cô khờ dại nhận thấy rằng, mình đã quá hớ hênh, và giờ đây trễ rồi. Các cô khôn ngoan không thể cho mượn dầu vì dầu chỉ đủ cho mỗi người thôi. Các cô này không phải ích kỷ, nhưng vì không ai có thể cho mượn công đức của mình cũng như không thể vay mượn tình yêu.
Khôn ngoan là làm cho cuộc sống tràn trề tình yêu. Khôn ngoan là “xây nhà trên đá”, là tuân giữ lời đã được trao ban. Khờ dại là “xây nhà trên cát” hay chỉ biết nói “Lạy Chúa, lạy Chúa mà không thi hành”.
Chàng rể đến!
Đây là thời gian quan trọng nhất. Những ai đủ điều kiện sẽ vào bàn tiệc và cửa sẽ đóng lại.
Nước Trời là khoảnh khắc lượng giá cuộc sống. Tất cả được quy tụ nơi giây phút quyết định đó. Nếu chúng ta không sẵn sàng dầu đèn, không ai sẽ chấp nhận chúng ta: “Ta không biết các ngươi”.
Hãy nhớ rằng, một ngày nào đó, cuộc đời chúng ta sẽ kết thúc. Ngày Chúa đến không hẹn trước. Ngày đó sẽ quyết định hạnh phúc vĩnh cửu hay sự khốn khổ của mọi người.
“Thiên Chúa là Tình Yêu ”.
Tình yêu của Ngài không bao giờ sứt mẻ hay lụi tàn, dù những làn sóng hận thù hôm nay có vùi dập nó, muốn bôi xóa dấu vết của nó trong thế giới. Nhưng tình yêu đó vẫn sáng ngời trên biển hận thù gian ác.
Chúng ta là những người được gọi để thắp lên ngọn đèn tình yêu cho tiệc cưới Con Chiên. Chúng ta làm được gì bằng cuộc sống nhỏ bé của chúng ta? Chúa không đòi chúng ta làm gì cho Chúa. Chúa chỉ muốn chúng ta hạnh phúc. Hạnh phúc này chỉ có thể có được khi tình yêu trở thành điểm hẹn cho những người dám thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con đây”. Chúa gọi Ab-ra-ham, ông trả lời: “Con đây!” Chúa gọi Gia-cob, ông đáp: “Lạy Chúa, con đây!” Chúa gọi Mô-sê, ông cũng thưa: “Này, con đây!”
Chúng ta cũng sẽ được gọi dù trong đêm hay ban ngày, chúng ta sẵn sàng thưa vâng.
Hôm nay, chàng rể thần linh cũng đến, Ngài sẽ đưa chúng ta vào bàn tiệc yêu thương của Ngài. Bàn tiệc này sẽ là khởi điểm cho bàn tiệc trong Nước Trời mà mọi người được mời tham dự. Chúng ta đừng để lỡ cơ hội. Hãy thắp đèn sẵn chờ Ngài đến, như tân nương của sách Khải Huyền: “Xin Ngài ngự đến!”. “Đấng làm chứng cho những điều đó phán rằng: “Phải, chẳng bao lâu nữa, Ta sẽ đến”. Amen, lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến!” (Kh 22,17.20)
11. Cách thức chờ đợi - Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Chờ đợi là hai từ mà chúng ta vẫn nói trên môi. Chờ đợi một ai đó. Chờ đợi một chuyến đi. Chờ đợi một sự kiện. Một ngày có rất nhiều lần chúng ta phải chờ đợi. Nếu một chiều đứng lặng và quan sát nơi đường phố, chúng ta sẽ thấy những chiếc xe đẩy hàng rong chờ đợi người mua, những chiếc taxi xếp hàng dài chờ đón khách, những người đi lại chờ đèn để băng đường, những người ăn xin chờ đợi một tấm lòng, …
Chờ đợi có thể sẽ rất buồn và rất lâu nhưng cũng có thể chờ đợi là niềm vui và hạnh phúc vì người ta chờ đợi sẽ đến, việc ta mong sẽ thành. Ai đó từng nói rằng chờ đợi là hạnh phúc, nhưng cũng có người bảo rằng chờ đợi chỉ mang lại khổ đau. Song, không ai có thể trải qua cuộc sống này mà không một lần chờ đợi và đôi khi chúng ta cứ phải chờ, chờ rất nhiều, rất lâu đơn giản vì không thể nào làm khác được.
Có bài hát viết rằng: “Em vẫn từng đợi anh, như hoa từng đợi nắng, như gió tìm rặng phi lao, như trời cao mong mấy trắng.”. Sự chờ đợi đích thực không phải là không làm gì, là án binh bất động mà là tìm kiếm, là hành động để không bỏ lỡ cơ hội gặp lại người mình yêu.
Như vậy, chờ đợi để đón nhận một niềm vui, chờ đợi là để tiếp tục một công việc. Chờ đợi là nhịp cầu để chúng ta hoàn thành một công việc, hoàn thiện một ước mơ. Chờ đợi là một điểm nhấn cần có trong cuộc sống để chúng ta nắm bắt những cơ hội tốt hơn trong cuộc sống.
Chúa Giêsu nói rằng cuộc sống chúng ta cũng có một bến đợi. Nơi bến đợi đòi hỏi chúng ta phải làm việc. Bến đợi cuộc đời đòi buộc chúng ta phải tỉnh thức. Tỉnh thức để luôn chu toàn bổn phận. Tỉnh thức để luôn chuẩn bị đủ dầu thắp sáng giữa đêm tối đầy những cạm bãy rình chờ. Đừng như những trinh nữ khờ dại vì lười biếng mà bỏ lỡ cơ hội dự tiệc vui Nước Trời. Hãy sẵn sàng như các cô trinh nữ khôn ngoan luôn tỉnh thức để được cùng tân lang vào trong phòng tiệc.
Thật ra năm cô dại chẳng phải là hạng vô tích sự. Chắc họ đã lo trang điểm cho mình. Khi biết mình hết dầu, họ đã lo vay mượn. Và khi bị từ chối, họ đã đi mua dầu giữa đêm khuya. Lúc có đèn sáng, họ đã gõ cửa xin vào dự tiệc cưới. Nhưng muộn quá! "Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!".
Đáng tiếc cho các cô khờ dại là có đèn, nhưng đèn lại không đủ sáng khi Chúa đến, vì Chúa đến quá bất ngờ khiến dầu đã cạn, ánh sáng đã không còn.
Bài phúc âm hôm nay như nhắc nhở thái độ cần có nơi người ky-tô hữu chúng ta. Mang danh là Kitô hữu. Không đủ! Tham gia vào một số sinh hoạt tôn giáo. Không đủ! Cần phải sống hết mình những đòi hỏi của Chúa. Đòi hỏi lớn nhất là yêu thương. Yêu thương thì không có điểm dừng. Yêu thương thì luôn mãi. Yêu thương càng không có ranh giới. Yêu thương mọi người và mọi nơi. Khi chúng ta yêu thương là chúng ta đang thêm dầu vào cuộc đời để thắp sáng tình yêu cho thế gian. Nếu cuộc đời chúng ta không còn yêu thương thì lúc đó ánh đèn cuộc đời ta đã bị dập tắt và chắc chắn không còn đủ ánh sáng đi đón Chúa.
Cuộc đời sẽ kết thúc. Kết thúc lại bất ngờ. Không ai biết giờ chết của mình. Chẳng ai biết hôm nay Chúa hẹn mình ở đâu, trong biến cố nào, nơi con người nào. Chính vì thế phải tỉnh thức luôn, cả trong giấc ngủ.
Xin Chúa giúp cho chúng ta đừng bao giờ để mình bị ngụp lặn trong tội lỗi, nhưng luôn sống có mục đích, biết phấn đấu vươn lên không ngừng, biết tránh xa tội lỗi và chu toàn bổn phận của mình. Nhờ vậy, chúng ta mới là những trinh nữ khôn ngoan xứng đáng tham dự tiệc vui thiên quốc. Amen.
12. Trinh nữ khôn ngoan – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Đám cưới là một sinh hoạt bình thường của con người. Chúa đã dùng một sinh hoạt bình thường của xã hội để nói về Nước Trời cho mọi người dễ hiểu. Qua dụ ngôn này, Chúa sánh ví Nước Trời giống như một đám cưới. Chúa chính là chàng rể. Linh hồn là trinh nữ. Giờ Chúa đến là giờ ta từ giã đời này. Tiệc cưới là hạnh phúc Nước Trời. Bóng đêm là những thử thách ta gặp trên đường về Nước Trời. Chàng rể đến muộn nói lên tính cách bất ngờ của giờ chết. Qua dụ ngôn này, Chúa hé mở cho ta mấy chân lý về Nước Trời.
Hạnh phúc Nước Trời là được sống với Chúa. Hình ảnh con người sống với Thiên Chúa được diễn tả thật sinh động qua hình ảnh đám cưới. Cưới ai là cho người ấy được ngang hàng, được chung hưởng địa vị, chia sẻ quyền lợi. Chúa đến cưới lấy con người. Cho con người được vào sống trong nhà Chúa, được chia sẻ hạnh phúc với Chúa. Chúa là nguồn mạch hạnh phúc. Được sống với Chúa và được Chúa yêu thương, linh hồn sẽ không còn mơ ước điều gì hơn nữa.
Con người được Chúa trân trọng. Hình ảnh chàng rể đến giữa đêm khuya thật gợi ý. Chúa đến tận nơi tìm ta. Chúa không triệu ta đến như ông vua ra lệnh cho thần dân. Nhưng Chúa trân trọng đến đón rước linh hồn. Và để đến tìm ta, Chúa phải vượt suối băng ngàn, đi trong đêm hôm khuya khoắt. Chúa yêu thương ta biết bao.
Mọi người được mời gọi. Chúa mong ước mọi người được ơn cứu độ. Chúa mong ước cho ta được hạnh phúc. Dựng nên con người, Chúa muốn mọi người được chia sẻ hạnh phúc với Chúa. Nên cả mười cô trinh nữ đều được tuyển chọn để đi đón chàng rể. Cả mười cô được dự kiến sẽ vào dự tiệc vui với chú rể. Chàng rể đến mong cả mười cô đều tham dự vào đám rước dâu và vào dự tiệc cưới.
Nhưng ai có đủ điều kiện mới được vào. Điều kiện được diễn tả như ngọn đèn cháy sáng. Đi rước dâu đòi phải cầm đèn. Đèn ai sáng mới được dự vào đám rước. Đèn tắt bị loại ra ngoài. Những người cầm đèn sáng là những người tha thiết yêu mến Chúa nên chăm lo thực hành lời Chúa, biểu lộ lòng yêu mến Chúa bằng những việc làm cụ thể. Còn những người đèn tắt là những người tuy cũng muốn vào dự tiệc cưới nhưng không chịu chuẩn bị. Họ là những người tin theo phong trào, giữ đạo theo dư luận, có tên trong sổ rửa tội, nhưng đời sống hoàn toàn như người không có đức tin. Có đèn mà không có dầu. Có đèn mà đèn để tắt. Có đạo mà không giữ đạo. Biết luật Chúa nhưng không chịu thực hành.
Các con Thiếu Nhi Thánh Thể thân mến,
Thánh Thể vốn là một bữa tiệc Chúa Giêsu mời gọi ta vào dự. Được dự tiệc Thánh Thể là được đồng bàn với Chúa. Thánh Thể là bữa tiệc hạnh phúc vì trong Thánh Thể Chúa yêu thương hiến mình cho ta. Thánh Thể là bữa tiệc đem lại sự sống đời đời. Thánh Thể là bữa tiệc cưới trong đời ta được kết hiệp nên một với Chúa. Thật hạnh phúc cho ta.
Vì yêu thương, nên Chúa Giêsu cũng đã từ trời xuống thế tìm ta. Để được con người Chúa đã phải trải qua biết bao vất vả khó nhọc. Nhất là phải chịu nhục nhã và chịu chết nữa. Hôm nay Chúa vẫn ở trong nhà chầu chờ đợi ta.
Trong nhà thờ luôn có ngọn đèn chầu. Khi không có ai thờ phượng Chúa, thì có ngọn đèn chầu lúc nào cũng thắp sáng để thờ phượng Chúa. Thiếu Nhi Thánh Thể nguyện là những ngọn đèn chầu ơ bên cạnh Chúa. Mỗi khi các con đến viếng Chúa Giêsu Thánh Thể, các con trở nên những ngọn đèn chầu. Càng có nhiều ngọn đèn chầu và những ngọn đèn chầu càng sáng lâu thì trái tim Chúa càng được sưởi ấm.
Ngọn đèn chầu của các con được sáng lâu và sáng mạnh là nhờ các con sống bí tích Thánh Thể. Như Chúa Giêsu hiến mạng sống để tuân theo thánh ý Đức Chúa Cha, Thiếu Nhi Thánh Thể hãy luôn yêu mến và làm theo ý Chúa. Như Chúa Giêsu hiến mạng sống vì tha nhân. Thiếu Nhi Thánh Thể hãy biết yêu mến mọi người. Như Chúa Giêsu đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Thiếu Nhi Thánh Thể hãy biết khiêm tốn phục vụ mọi người. Như Chúa Giêsu đã là tấm bánh bẻ ra nuôi dưỡng mọi người. Thiếu Nhi Thánh Thể hãy biết chia sẻ cơm áo với những người nghèo, viếng thăm an ủi những người buồn khổ. Thực hành bí tích Thánh Thể là chất dầu giữ cho ngọn đèn tâm hồn các con luôn cháy sáng. Với ngọn đèn cháy sáng trên tay, các con sẽ an ủi Chúa Giêsu Thánh Thể và khi Chúa đến, các con sẽ cầm đèn cháy sáng cùng Chúa vào tham dự hạnh phúc Nước Trời.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Dụ ngôn 10 cô trinh nữ có ý nghĩa gì?
2- Bạn chuẩn bị thế nào để được vào dự tiệc Nước Trời?
3- Chúa đến bất ngờ. Điều này dạy ta phải làm gì để sẵn sàng đón Chúa.
13. Đón Chúa
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Nhận diện Chú Rể ngày cưới…
Dụ ngôn vẫn được quen gọi là ‘mười trinh nữ’ nằm trong số các dụ ngôn được tác giả Mát-thêu dồn vào hai chương 24 và 25 của sách Tin Mừng khi ngài đề cập tới thời đại cánh chung, đồng thời kêu gọi giữ thái độ luôn sẵn sàng. Sẵn sàng không chỉ như một tư thế chung chung, như khi chuẩn bị làm một công việc nào đó; ở đây nó được so sánh với chờ mong để nhận diện và đón tiếp một nhân vật. Nhân vật này, trong nhiều dụ ngôn khác, được sánh với ông chủ, ông vua, hay một bậc vị vọng quyền quí đi xa về, thì trong dụ ngôn này lại mang bộ mặt một chú rể. Mười trinh nữ cầm đèn sẵn sàng nhận diện chú rể trong ngày cưới (đúng hơn đêm cưới) hẳn phải hàm chứa một nội dung nào đó hết sức quan trọng: “Nước Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn đi đón chú rể”.
Như vậy chú rể chính là Con Người quang lâm trong ngày sau hết của Mt 24:37, có nghĩa là trong ngày quang lâm Con Người sẽ có khuôn mặt rạng rỡ của một chú rể ngày cưới. Khuôn mặt chú rể ngày cưới không thể mang bộ tịch của một ông hoàng thịnh nộ, không thể có điệu bộ nghiêm khắc của một quan tòa xét xử… Chú rể ngày cưới sẽ là khuôn mặt rạng rỡ yêu thương, thâm chí say đắm trong yêu đương, và Kitô hữu chúng ta phải là những người đầu tiên nhận diện được khuôn mặt đó. Ngọn đèn các trinh nữ cầm trong tay và thắp sáng lên chính là để làm công việc nhận diện này: giữa đêm tối, họ phải là những người đầu tiên nhận ra khuôn mặt say đắm yêu đương của Chú Rể, và soi cho mọi người được biết để cùng nhận ra, và tiến vào bữa tiệc cưới Nước Trời.
Trong ngày rửa tội ngọn đèn đức tin của mỗi tín hữu đã được thắp lên. Ngọn đèn này trước nhất phải soi sáng để chúng ta nhận ra dung mạo của một Thiên Chúa đầy tình yêu thương. Bí tích rửa tội Tân Ước không mang nội dung chính là dục lòng thống hối ăn năn để được xóa sạch mọi tội lỗi, nhưng là để nhận biết Thiên Chúa cứu độ và từ nhân. Rửa tội không chỉ biến tôi thành một trinh nữ, nhưng quan trọng hơn, trao cho tôi ngọn đèn thắp sáng để tôi tham gia vào cuộc đón rước Chú Rể. Bao lâu ngọn đèn còn cháy sáng, bấy lâu tôi còn có thể nhận diện được Người trong đêm tối. Chú Rể có thể đột ngột xuất hiện, Người có thể tới từ bất cứ đâu, vào bất cứ giờ giấc nào… “Chú rể kia rồi, ra đón đi”, thì tôi vẫn luôn luôn nhận ra Người với nét yêu thương không thể nhầm lẫn.
Thế nhưng ngọn đèn này vẫn có thể bị tắt ngúm bất cứ lúc nào vì cạn dầu. Cho dầu có là một Kitô hữu đạo đức tốt lành (như hình ảnh các trinh nữ đi đón chàng rể) tôi vẫn luôn có nguy cơ không nhận diện được Thiên Chúa tình yêu, Người Cha yêu thương khi Ngài đến. Tự nó, việc nhận ra một Thiên Chúa quyền phép, thánh thiện, cao sang sẽ không là quá khó. Cựu Ước và rất nhiều tôn giáo khác (như Hồi Giáo chẳng hạn, với sự tôn trọng tuyệt đối dành cho Đấng Allah), thậm chí một nền triết học thuần túy, cũng có thể đạt tới trình độ này. Cho dầu việc suy tôn đó có hoàn toàn đúng, thì diện mạo Thiên Chúa mà Đức Giêsu Kitô cất công xuống thế để loan truyền lại giống với dung mạo một chú rể hơn: Chú Rể rạng rỡ yêu đương. Kitô hữu phải là các trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể này. Thế nhưng éo le thay, ngọn đèn nào thì cũng có thể bị tắt, nhất là khi cạn dầu giữa đêm hôm; vậy thì dầu đó là gì, chúng ta tự hỏi? Tông đồ Phao-lô khảng định không có Thần Khí thì chẳng có nghĩa tử, thì chẳng ai có thể kêu lên với Thiên Chúa ‘Ab-ba, Cha ơi!’ (Rm 8:15-16). Như vậy có nghĩa là ngay cả các Kitô hữu có thể tay vẫn cầm ngọn đèn nhưng lửa thì đã tắt vì cạn dầu nên chính họ giữa đêm khuya không thể nhận ra dung mạo đúng của Chú Rể… Và rồi thì cánh cửa tiệc cưới yêu thương sẽ đóng lại, tiếng Chú Rể vọng ra “Tôi không biết các cô là ai cả!”, vì điều quan trọng hơn cả đối với các trinh nữ Kitô hữu này sẽ không là gì khác hơn nhận dạng ra, và đón tiếp Chú Rể của tiệc cưới yêu thương.
Câu chuyện dụ ngôn này đưa một Kitô hữu như tôi đi đến kết luận: sống như một trinh nữ (luân lý tốt lành, đạo hạnh) là điều tốt đẹp và cần thiết, nhưng chưa hẳn là chính yếu. Điều hệ trọng hơn cả vẫn luôn là “vừa mang đèn, vừa mang chai dầu theo” để duy trì nơi tôi khả năng nhận dạng Chú Rể và đón tiếp Người bất cứ lúc nào và nơi đâu Người đến. Hội Thánh qua các bí tích (nhất là bí tích Rửa tội, Giải Tội, Thánh Thể và Sức Dầu bệnh nhân…), không chỉ nhằn giúp tôi giữ cho mình được sống như một trinh nữ, nhưng quan trọng hơn là bảo đảm tuôn đổ dầu Thánh Thần trên tôi hầu có thể nhận ra diện mạo Chú Rể tiệc cưới. Và nếu Chú Rể có bất chợt tới giữa đêm khuya tăm tối đi nữa (và đêm khuya đó rất có thể là hình ảnh tình trạng tâm hồn tội lỗi của tôi và của nhân loại), đèn tôi vẫn chưa tắt vì còn đầy dầu Thánh Thần, điều làm tôi nhận ra ngay được dung mạo nhân từ của Người, và cùng “đi theo người vào dự tiệc cưới”.
Lạy Chúa là Chú Rể tiệc cưới Nước Trời, trong mọi biến cố cuộc sống, khi Chúa bất chợt đến dưới bất cứ hình thức nào và cả giữa đêm đen tối tăm nhất, xin cho con ơn luôn cầm trong tay ngọn đèn cháy sáng với dầu Thánh Thần để con nhận ra dung mạo Đấng Cứu Độ thân thương của con. Và nếu giờ chết bất chợt đến với con dưới bất cứ hình thức nào và trong trạng thái tâm hồn nào đi nữa, con chỉ xin Chúa cho con vẫn duy trì được khả năng nhận ra khuôn mặt đầy yêu thương của Chú Rể, và được theo vào gia nhập bàn tiệc cưới Nước Trời. Amen.
14. Tỉnh thức - Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Ơn khôn ngoan là ơn sủng của Chúa Thánh Thần. Ngày xưa, vua Sôlômon chỉ xin Thiên Chúa cho được ơn khôn ngoan để phân biệt phải, trái và xét xử dân cho công bằng chính trực. Chúa đã ban cho vua được ơn khôn ngoan và mọi ơn cần thiết nữa. Sách Khôn Ngoan diễn tả: Sự khôn ngoan sáng tỏ và không bao giờ lu mờ, những ai yêu mến nó, sẽ xem nó dễ dàng (Kn 6, 13). Người đời thường nói: Khôn cho người ta dái, dại cho người ta thương, dở dở ương ương cho người ta ghét. Người khôn ngoan là người học biết được lý lẽ ở đời. Biết đường đi nước bước. Biết sự giới hạn của mình. Càng hiểu biết về chính mình thì càng khôn. Chưa chắc người biết nhiều sự ở đời đã là người khôn. Người khôn là biết những gì mình cần phải biết, gọi là trí tuệ. Biết hướng nhìn lên trời cao, nhìn xuống và biết quan sát vạn vật chung quanh. Người khôn nhận biết được nguồn gốc, ý nghĩa và cùng đích của vũ trụ muôn loài và con người.
Sự khôn ngoan giúp chúng ta nhận biết mọi sự đang hiện hữu trong ý nghĩa đích thực của nó. Khôn ngoan cao siêu và sâu thẳm như tình yêu. Tình yêu không có giới hạn. Sự khôn ngoan thượng trí của Thiên Chúa cao vời tuyệt đối. Từ đời đời, Thiên Chúa đã tạo dựng muôn loài và quan phòng đặt để một trật tự lạ lùng trong vũ trụ. Một vũ trụ diễn tiến không ngừng trong không gian và thời gian. Mọi loài thụ tạo có sự sống đều có khả năng truyền sinh một cách độc đáo tuyệt vời. Khôn ngoan là một ơn và cũng là một nhân đức. Vậy tưởng nhớ đến nó là được khôn sáng vẹn toàn và ai tỉnh thức vì nó, sẽ chóng được an tâm (Kn 6, 15). Chúng ta cần cầu xin ơn khôn ngoan và cũng phải trau dồi học hỏi kinh nghiệm để học khôn. Ca dao Việt Nam có câu: Con ơi, hãy nhớ lời cha: Học khôn học khéo cho tầy người ta, con đừng học thói chua ngoa. Họ hàng ghét bỏ người ta chê cười.
Trong bài phúc âm hôm nay kể câu truyện năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan chuẩn bị đi đón chàng rể: Năm cô khờ dại mang đèn, mà không đem dầu theo. Còn những cô khôn ngoan đã mang đèn, lại đem dầu đầy bình (Mt 25, 3-4). Mỗi ngày, chúng ta gặp gỡ nhiều người. Có những người hiền lành, hòa ái và dễ thương. Có những người dễ tính, thiện cảm, vui vẻ và vồn vã. Có người cộc cằn, thô lỗ và khó chịu. Có người kiêu căng, tự phụ và hống hách, Cũng có những người trầm tư, ít nói và lặng lẽ. Có người sống thiên về lý trí, hiếu học và hiểu biết. Có kẻ sống tình cảm, ủy mị và hay cảm thương. Mỗi người một tính khí khác nhau. Trong câu chuyện có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan. Sự khờ dại đây không phải là bị chậm trí, kém thông minh mà là sự lơ đễnh, khinh thường và bất cẩn. Họ đã không biết nhìn xa trông rộng để dự liệu. Họ khờ vì họ bị thiển cận thiếu sự chuẩn bị.
Chờ đến phút cuối cùng, họ đã đi cầu cứu, nhưng giờ đã đến, các cô khác không thể giúp đỡ: Những cô khờ dại nói với những cô khôn ngoan rằng: Các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của các em đã tắt cả (Mt 25, 8). Giờ chàng rể đến thật bất ngờ, khi không chuẩn bị sẵn sàng, các cô sẽ không được vào dự tiệc cưới. Các cô khờ dại đã bị lỡ một cơ hội. Cơ hội này chỉ đến có một lần. Các cô khôn ngoan cầm đèn và có cả bình dầu mang theo. Các cô khôn đã kịp thời dầu đèn ra đón chàng rể và vào dự tiệc cưới. Sự khôn ngoan ở đời chính là sự tỉnh thức đón nhận mọi sự cố có thể xảy đến: Vậy hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào, giờ nào (Mt 25, 13). Hãy tỉnh thức như người lính canh hay như người đứng gác cửa để nhận biết những sự việc xảy ra chung quanh.
Có một câu truyện kể bởi một danh hài. Anh ta đã đạt tới đỉnh cao chuyên nghiệp. Anh ta rất giầu có và thành công trong đời. Ngay tới hôm nay, những danh hài chuyên nghiệp bắt chước ông ta. Nhưng lối sống của ông ta thường thấy mâu thuẫn với đời sống của phúc âm. Tuy nhiên khi về cuối đời, ông đã dùng nhiều thời giờ để đọc Kinh Thánh. Một vài người đã hỏi ông tại sao ông đã làm điều này và ông trả lời: Tôi đang đi tìm kiếm bất cứ lỗ hổng nào mà tôi có thể tìm. Tôi đã biết một hay hai người như thế, khi cuộc đời sắp mãn, họ để lại một món tiền lớn để xin các Thánh Lễ cho họ sau khi họ chết. Điều này sẽ rất hoài nghi, khi nhắm vào số tiền này như một loại bảo hiểm hỏa hoạn cho kiếp sống ngày sau? Chúng ta hãy nhớ rằng con đường lên thiên đàng là thiên dàng. Ngay bây giờ chúng ta có quyền tự do chọn lựa đi theo con đường này. Đừng chờ cho đến phút chót. E rằng chúng ta sẽ bị lỡ chuyến tầu.
Việc trì hoãn rất thường xảy ra trong đời sống hằng ngày. Chúng ta thường chờ nước tới chân rồi mới nhảy. Thường thì những phút cuối thì động lực làm việc mạnh hơn và dễ sinh hiệu qủa hơn. Trong đời sống đạo, chúng ta không cần phải chờ đến phút chót rồi mới ăn năn sám hối trở về cùng Chúa. Chẳng khác gì chúng ta đang đi tìm một lối tắt hay một lỗ hổng để bước vào thiên đàng. Nếu chúng ta muốn cuộc sống này có một cùng đích tốt, chúng ta phải chuẩn bị và sống tốt ngay từ bây giờ. Hãy vui hưởng hoa trái tốt lành và hoan lạc mà chúng ta đang có trong ngày hôm nay. Thời gian rất quí báu. Có biết bao nhiêu người đang phải phấn đấu từng giây phút để sống còn nơi các bệnh viện, bệnh xá và phòng cấp cứu. Người ta nói rằng còn nước còn tát để níu kéo sự sống.
Bất ngờ! Chẳng ai học được chữ ngờ. Luôn luôn có những sự bất ngờ xảy ra trong đời. Những sự cố xảy ra bất ngờ như sấm sét, mưa bão, động đất, sụt lở và sóng thần... Có những tai nạn xảy ra đột ngột do môi trường chung quanh. Có những cái chết bất ngờ trong chiến tranh, tai nạn và bệnh hoạn. Cái gì cũng có thể xảy ra trong mọi nơi và mọi lúc. Làm sao chúng ta có thể chuẩn bị trong tỉnh thức? Nói hay viết thì dễ, nhưng đi vào cuộc sống lại là một thách đố khó lường. Trong đời sống, ai ai cũng có những niềm hy vọng và ước muốn cho tương lai. Ai cũng có những dự tính gần hoặc xa. Chúng ta dễ dàng bị lo ra, thiếu xót và lỡ dở chần chừ trong nhiều công việc. Dù biết rằng thần chết có thể đến bất cứ lúc nào, nhưng chúng ta vẫn ỉ y và bình chân như vại. Tự vấn, nếu hôm nay Chúa gọi về, tôi đã chuẩn bị được gì? Con chưa sẵn sàng, Chúa ơi! Người khôn ngoan là người biết dự phòng, lo liệu và luôn sẵn sàng tỉnh thức trong mọi trạng huống cuộc đời.
Là Kitô hữu, chúng ta bước đi trong niềm tin. Niềm tin vào Chúa Kitô đã chết và sống lại, đó là chìa khóa và là bảo chứng ý nghĩa của cuộc đời. Vững tin vào Chúa Kitô là một mối lợi. Chúng ta dõi bước theo lối bước của Chúa sống đức tin mỗi ngày trong khi mong chờ Chúa lại đến. Thánh Phaolô khuyến khích rằng: Vì nếu chúng ta tin Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, thì cũng vậy, những người đã chết nhờ Đức Giêsu, Thiên Chúa sẽ đến đem họ làm một với Người (1Thess 4, 14). Vinh phúc bất diệt là sự liên kết với Đấng Trung Gian vạn vật. Ơn khôn ngoan giúp chúng ta nhận ra đối tượng tuyệt hảo và phó thác cuộc đời trong sự quan phòng của Chúa. Chúng ta không còn phải sợ hãi, lo âu hay quanh quẩn không cùng đích. Chúa Giêsu đi trước để chuẩn bị chỗ cho chúng ta. Tiệc cưới đã sẵn sàng. Chúng ta hãy cầm đèn cháy sáng trong tay để chung vui tiệc cưới Nước Trời.
Lạy Chúa, mỗi giây phút sống đều là hồng ân. Xin cho chúng con biết quý trọng từng phút giây trong cuộc đời. Cầu xin Chúa ban ơn khôn ngoan để chúng con biết nhận ra ý nghĩa đích thực của sự sống đời này và đời sau để được sống theo thánh ý Chúa.
15. Sẵn sàng – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Những cô khờ dại nói với các cô khôn ngoan rằng: 'Các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt cả' (Mt 25,8).
Khởi đầu sự sống, mỗi một loài thụ tạo chấp nhận một định mệnh riêng biệt và độc lập. Chúng ta không có quyền chọn lựa cho sự khởi đầu hiện hữu. Được sinh ra ở đời là một hồng ân cao cả. Bước vào cuộc sống đa dạng, chúng ta cùng đồng hành với tha nhân trên cùng một khoảng đường, theo một lý tưởng và bị giới hạn trong một thời gian và không gian. Số mệnh từng người gắn liền với cuộc sống ngay từ giây phút đầu tiên khi được thụ thai trong cung lòng mẹ. Trong sự hiện hữu đó đã có tiềm ẩn chất chứa mọi khả năng và vốn liếng để sinh hoa kết trái. Mới đây tôi được nhìn xem chùm ảnh của nhiếp ảnh gia Thụy Điển Lennart Nilsson, ông đã dành 12 năm để tìm chụp những bức ảnh về việc thụ thai và phát triển thai nhi trong tử cung người mẹ. Tôi không thể nào tưởng tượng được rằng cuộc sống của tôi đã trải qua những chu kỳ phát triển nhiệm mầu như thế. Không ai có thể giải thích tiến trình hình thành con người được.
Tin tưởng mọi sự đều nằm trong sự quan phòng của Tạo Hóa. Đôi khi tôi tự hỏi tại sao lại có người giầu, kẻ nghèo và người dại, người khôn? Khôn dại do bẩm sinh hay do thái độ chọn lựa? Suy gẫm bài Phúc âm về sự chuẩn bị của 10 cô trinh nữ, có 5 cô khờ dại và 5 cô khôn ngoan. Mỗi cô phù dâu đều có dầu đèn mang theo bên mình để soi lối cho chính mình. Các cô không thể dựa dẫm vào người khác để vay mượn và mỗi người có trách nhiệm giữ đèn cho sáng để canh thức đợi chờ. Nói đến đèn cháy sáng là nói đến biểu tượng của đức tin. Khi lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội, linh mục trao đèn sáng cho cha mẹ đỡ đầu và đọc lời nguyện: Ông bà anh chị, là những bậc cha mẹ và người đỡ đầu, ánh sáng này được trao phó cho anh chị em chăm nom, tức là lo lắng cho em nhỏ đã được Chúa Kitô soi sáng, luôn luôn sống như con cái sự sáng và bền vững trong đức tin, nhờ đó, khi Chúa đến, em được ra đón người với toàn thể các Thánh trên trời.
Mỗi người chúng ta đã được nhận lãnh ánh sáng đức tin. Đức tin cần được trau dồi, hun đúc và chăm nom bảo vệ như cô phù dâu lo lắng cho đèn dầu đầy đủ. Có đèn mà không dầu thì đèn trở thành vô ích. Cuộc sống đạo mà không có đức tin soi đường dẫn lối, thì chúng ta sẽ đi trong tối tăm và lạc hướng. Chúa ban cho mỗi người một khả năng để tự lo liệu. Chúng ta không thể dựa vào kết qủa lòng đạo của người khác khi ra trình diện trước mặt Chúa, như các cô khờ dại nói với các cô khôn ngoan: 'Các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt cả' (Mt 25,8). Không được. Đức tin không thể cho vay mượn được. Mỗi người phải sống và thực hành đức tin của mình. Đèn cần dầu, cuộc sống Kitô hữu cần có đức tin. Đức tin là nhân đức đối thần và là ân sủng Chúa ban. Các môn đệ của Chúa Giêsu vẫn cầu xin Chúa ban thêm đức tin: Các Tông Đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con."(Lc 17,5). Trước những việc lạ lùng của Chúa, các môn đồ nhận biết sự yếu kém đức tin của mình. Các ngài không thể hiểu và khó có thể lãnh hội những điều Chúa truyền dạy. Chúa Giêsu phán: Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: "Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc", nó cũng sẽ vâng lời anh em (Lc 17,6).
Tự vấn xem chúng ta thuộc vào nhóm các cô phù dâu khôn hay dại. Ai trong chúng ta cũng có đèn nhưng dầu dự trữ có được bao nhiêu. Xét mình trước mặt Chúa, chúng ta đã làm thế nào để chăm sóc, vun tưới và trau dồi cho đức tin của chúng ta? Chúng ta thường nhận lãnh các Bí Tích Hòa Giải và lãnh nhận lương thực bởi trời qua Bí Tích Thánh Thể, nhưng mấy khi chúng ta rà soát lại đèn dầu còn hay đã cạn. Theo Chúa là bước đi trong niềm tin phó thác. Chúng ta đừng tưởng lầm rằng mình đã gặp gỡ Thiên Chúa một cách hữu hình cụ thể nơi một vài sự kiện lạ hay hình thức lạ là đủ cho đời sống đạo. Sống đạo là hành trình của đức tin. Đôi khi chúng ta còn phải lần mò trong đêm tối. Chúa Giêsu đã chúc phúc cho những kẻ có niềm tin: Đức Giêsu bảo: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin! (Ga 20,29).
Tại sao trong mỗi thánh lễ Chúa Nhật, chúng ta phải tuyên xưng đức tin qua Kinh Tin Kính? Hoặc sau mỗi lần linh mục đọc lời truyền phép trên bánh và rượu đã xướng lên: Đây là mầu nhiệm đức tin. Đức tin là đèn soi và là chỗ tựa vững chắc. Đã nhiều lần Chúa Giêsu nhắc nhủ các môn đệ khi thuyền gặp cơn bão: Đức Giêsu nói: "Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng tin!". Rồi Người chỗi dậy, ngăm đe gió và biển: biển liền lặng như tờ (Mt 8,26). Các môn đệ lo lắng đủ điều trong cuộc sống mà quên sự quan phòng của Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã dậy: Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin!(Lc 12,28).
Đức tin sẽ dẫn dắt chúng ta vượt qua những khó khăn và gian truân của cuộc sống. Trong hoàn cảnh hiện tại, chúng ta đang sống giữa một xã hội đang chuyển mình đổi thay. Sự thay đổi quan niệm sống về mọi khía cạnh đạo lý, luân lý, triết lý và luân thường đạo lý. Văn hóa sự chết len lỏi vào mọi lãnh vực của đời sống. Ngay trong đời sống đạo cũng có những dành dật, lôi kéo, mơ hồ và đôi khi mê tín dị đoan chen lẫn. Không thiếu những mục tử giả dạng và dùng tài khéo để kéo lôi được nhiều người tin theo. Đối diện với trăm ngàn mối, chúng ta phải hết sức cẩn thận chọn lựa hướng đi cho mình. Nếu chúng ta sống trong sự thật và sống như con cái sự sáng giữa ban ngày, không ai có thể làm hại hay phê bình bắt bẻ chúng ta. Mọi cách thế áp dụng thực hành sống đạo cần minh bạch và rõ ràng. Chúng ta không cần biện minh tranh cãi mà cần sự tỉnh thức. Mỗi người có một cuộc sống và một đường để đi tới. Hãy giữ vững đức tin và chuẩn bị sẵn sàng: Vậy hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào, giờ nào. (Mt 25,13). Chúng ta không biết ngày giờ Chúa gọi, cách tốt nhất là đèn dầu sẵn sàng để khi Chúa đến, chúng ta cùng ra đón Ngài với đèn cháy sáng trong tay.
Mỗi ngày sống là một ngày mới hoàn toàn. Các bị bô lão hay những trẻ em đều có một ngày mới giống nhau. Ai cũng phải đối diện với cái đang và sẽ xảy đến. Chúng ta không thể nói rằng năm nay tôi đã 70 hay 80 tuổi, tôi không còn phải lo lắng hay chuẩn bị gì nữa. Dù là tuổi nào, chúng ta vẫn đang trên đường lữ hành. Có người yên trí hơn vì nghĩ rằng họ đã có bảo hiểm nhân thọ và các thứ bảo hiểm khác cho cuộc sống. Chúng ta biết dù có bảo hiểm gì đi nữa, mỗi tối trước khi đi ngủ, ai cũng phải xem xét cửa rả then cài, chốt khóa và điện ga bếp núc on/off cẩn thận. Công việc rất đơn giản nhưng là một sự chuẩn bị rất cần thiết trong cuộc sống đời thường. Có nghĩa là dù tuổi nào chúng ta cũng phải ở tư thế sẵn sàng.
Chỉ có một con đường dẫn tới quê thật mà Chúa Giêsu đã mở: Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy (Ga 14,6). Đi theo Chúa là đi vào con đường của sự thật. Chúa Giêsu đã nói với những người Do-thái và cả với chúng ta ngày nay: "Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga 8, 31-32). Điều mà mỗi người chúng ta phải luôn tỉnh thức là chúng ta đang ở đâu? Sống thế nào? Đặt niềm tin, niềm cậy và phó thác vào ai? Ai là Đấng mà chúng ta đang tôn thờ? Khốn khổ nhất là khi chúng ta mãn phần dưới thế và bước vào cuộc sống mai hậu, chúng ta đến trước tòa Chúa trình diện và xin Chúa mở cửa cho: Nhưng Người đáp lại: 'Ta bảo thật các ngươi, ta không biết các ngươi' (Mt 25,12). Vậy là bao công lao dã tràng và còn gì để nói. Chúng ta đã lỡ chuyến tầu.
Sự thật sẽ giải thoát chúng ta khỏi mọi ràng buộc của sự dối trá. Người ta nói: Cây ngay không sợ chết đứng. Chúng ta cũng hiểu: Sự thật thì mất lòng nhưng rồi nói phải củ cải cũng phải nghe. Chúng ta cẩn thận đừng chọn thần tượng nào trong cuộc sống đời này. Ai trong chúng ta cũng chỉ là con người yếu đuối, tội lỗi và phàm tục. Chúng ta không thể vay mượn hay dựa vào uy tín của ai khác để kể công trước mặt Chúa. Khi đến giờ đã định, mỗi người chúng ta phải tự đứng trên chân của mình và chịu trách nhiệm về đời mình. Chỉ có một Đấng có thể cứu độ linh hồn chúng ta, đó là Chúa Giêsu Kitô. Chính Ngài sẽ dẫn chúng ta đến nguồn sống tuyệt hảo là Chân Thiện Mỹ.
Lạy Chúa, xin thêm dầu đức tin để đèn của chúng con được luôn cháy sáng và giúp chúng con tiếp tục bước theo Chúa cho đến cùng. Xin Chúa đưa tay dẫn dắt chúng con về bến bình an.
16. Niềm hy vọng - Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Sáng hôm nay, tôi đi thăm một cụ bà tuổi đã ngoài 90 tuổi, tên bà là Margaret Grossenbacher. Trước khi rước Mình Thánh Chúa, bà thường xin xưng tội. Xong xuôi mọi nghi thức, cụ bà mời tôi ngồi và kể lể vài tâm sự. Bà sống một cuộc đời khá dài nhưng cũng hơi đơn côi. Bà không lập gia đình, nên không có chồng con chi cả. Ông bà nội ngoại chết trước khi bà sinh ra. Cha mẹ theo đạo Tin Lành và đã chết. Người thân còn lại là gia đình của người chị. Họ chỉ có một đứa con nuôi và vài đứa cháu. Bà trở lại đạo Công Giáo khi còn trẻ và cả đời làm cô giáo dạy học. Tuy 91 tuổi, bà còn rất tỉnh táo. Tính đếm tiền bạc để dâng cúng đều đặn cho nhà thờ và việc bác ái. Bà không sợ chết và luôn phấn chấn hy vọng vào sự sống ngày sau. Sáng nay bà nói: Đêm qua bà nằm mơ là sau khi chết, chẳng có gì ở thế giới bên kia. Bà hỏi tôi: Không biết giấc mơ có thật hay không? Tôi chỉ biết trả lời: Hãy tin vào Chúa Kitô phục sinh là hoa qủa đầu mùa của những kẻ yên giấc.
Niềm hy vọng vào sự sống đời sau là niềm hy vọng tuyệt đối. Đánh đổi bằng nhiều hy sinh của cuộc đời trên trần thế để mong đạt vinh quang sự sống lại. Trong sách Macabêô quyển thứ hai kể câu truyện bảy anh em bị bắt cùng với mẹ mình. Vua ép họ ăn thịt heo, lỗi phạm lề luật Thiên Chúa đã cấm. Từ anh lớn đến người em nhỏ đều khẳng khái trung kiên một lòng thà chết không hề lỗi luật. Động lực lớn nhất trong tâm trí là tin tưởng vào phần thưởng sự sống đời đời: Khi sắp trút hơi thở cuối cùng, anh nói: “Vua là một tên hung thần, vua khai trừ chúng tôi ra khỏi cuộc đời hiện tại, nhưng bởi lẽ chúng tôi chết vì luật pháp của vua vũ trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời” (2Mac 7, 9). Niềm tin tưởng tuyệt đối đánh đổi bằng cả mạng sống mình.
Chúng ta biết rằng người đời có thể dùng sức mạnh để hủy diệt mạng sống của nhau. Tổ chức xã hội con người có thể cầm tù, đánh đòn, làm khổ thân xác và khủng bố tinh thần nhưng họ không thể tước đoạt ý chí và sự tự do lương tâm của con người. Không ai có thể phủ nhận niềm tin trong tâm hồn người khác. Sức mạnh của niềm tin vững vàng nơi bảy anh em đã vượt trên sự đau khổ và sự chết: Khi sắp tắt thở, anh nói như sau: “Thà chết vì tay người đời đang khi dựa vào lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại. Còn vua, vua sẽ không được sống lại để hưởng sự sống đâu” (2Mac 7, 14). Cả bảy anh em can đảm đối diện với cái chết. Chết để được sống. Vui hưởng sự sống đời đời.
Câu truyện cưới vợ gả chồng của bảy người anh em trong bài phúc âm bàn về sự sống lại ngày sau. Các thầy Sa-đốc dựa vào lý luận của cuộc sống vợ chồng đời này để kết luận sự việc đời sau. Các thầy từ chối tin vào sự sống lại ngày sau. Chúa Giêsu giải thích rất rõ ràng:“Con cái đời này cưới vợ gả chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng” (Lc 20, 34-35). Không có một ai đang sống trên đời có kinh nghiệm hay sự hiểu biết gì về đời sau. Đây là vấn đề của niềm tin. Thiên Chúa đã từng bước mạc khải cho con người về mầu nhiệm sự sống và sự chết qua Chúa Giêsu Kitô. Đời sống con người có mục đích và có cùng đích. Sinh ra là khởi đầu. Sống là cuộc lữ hành. Chết là điểm đến.
Mỗi người có một cuộc đời dương thế. Khi đã kết thúc cuộc đời dương thế là bước sang một cuộc sống hoàn toàn khác biệt. Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta về điểm đến: Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại (Lc 20, 36). Những người đã chết, thân xác bị hủy diệt và linh hồn tiếp tục hiện hữu. Chúa Giêsu khai mở một chân lý vĩnh cửu là linh hồn hiện hữu ngang hàng với các thiên thần. Thiên thần hiện hữu nhưng vô hình. Đây là thế giới của những kẻ đã mãn cuộc đời dương thế. Thiên Chúa không sáng tạo vũ trụ con người để bị hủy diệt trở về hư không. Thiên Chúa là Chúa của sự sống. Chúa Giêsu xác tín về sự sống lại ngày sau: Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống (Lc 20, 38).
Người tôi tớ Chúa, Đức cố Hồng Y Phanxicô Saviê Nguyễn văn Thuận, là tấm gương sáng ngời cho những ai bị lung lạc niềm tin và sự hy vọng. Trong thời gian bị cải tạo tù đầy, niềm hy vọng vào Chúa Kitô phục sinh đã chiếm trọn trái tim của ngài. Dù trong tù, mỗi ngày ngài dâng thánh lễ tạ ơn. Ngài nêu gương hiền hòa và khiêm nhường. Không ai là kẻ thù trong tim ngài. Ngài dạy cho các anh cai tù học biết ngọai ngữ Anh và Pháp, dạy hát thánh ca bằng tiếng Latinh. Chính các cán bộ nhân viên cai tù hát kinh ‘Veni Creator’ của đạo Công Giáo. Người bị tù đã cải tạo những người cai tù bằng đức tin và niềm hy vọng. Nơi nhà giam, Đức Cố Hồng Y đã sống trong hy vọng và đã viết cuốn ‘Con Đường Hy Vọng’. Hy vọng là lối bước vào tương lai. Niềm hy vọng sẽ làm cho đời sống vui tươi, phấn khởi và an bình.
Khi tôi đang viết bài suy niệm này, có phôn reo. Người thơ ký báo là có hai người muốn gặp việc khẩn cấp. Tôi xuống văn phòng gặp một người đàn bà lớn tuổi và một ông trẻ hơn. Cả hai chị em đều là người công giáo. Bà bắt đầu khóc lóc và kể lể mọi khó khăn đang gặp phải. Bà đang đối diện với quá nhiều khổ đau chồng chất. Một người em và mẹ mới qua đời tuần qua. Người con gái mới bỏ nhà ra đi sống với bạn gái (Lesbian). Một đời chắt chiu tiền bạc của cải, giờ đây tất cả dũ cánh ra đi. Bà còn phải mang căn bệnh hiểm nghèo, lục phủ ngũ tạng đều nhiễm bệnh. Bà sợ phải mổ xẻ và sợ chết. Ngồi bên cạnh bà là người em 51 tuổi mới vừa trở về sau 31 năm ở trại tù giam. Bà nói rằng chú em mãn ở trong khám tù, nay lại vào khám lo. Bà đang mất niềm hy vọng. Không biết bám víu vào đâu. Sầu khổ, khóc lóc và sợ hãi tràn ngập tâm hồn. Bà đang tự đóng khung cuộc đời. Của cải niềm vui trần đời không thể cứu vãn. Một lời khuyên, chỉ có một lối thoát duy nhất là đặt niềm hy vọng vào Chúa Kitô phục sinh.
Thơ gởi cho giáo đoàn Thessalônica, thánh Phaolô nói đến niềm vui và niềm cậy trông vào Thiên Chúa. Mọi thú vui của thế gian rồi cũng sẽ trôi qua, chỉ có ân sủng của Chúa là niềm an ủi bất diệt: Xin chính Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô và xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, Đấng yêu thương chúng ta và đã dùng ân sủng mà ban cho chúng ta niềm an ủi bất diệt và niềm cậy trông tốt đẹp (2Thes 2, 16). Chúa Kitô đã phục sinh từ cõi chết, Ngài là trưởng tử của những kẻ yên giấc. Ngài đã sống lại và đã hiện ra nhiều lần với nhiều người. Người vẫn đang sống. Đây là niềm hy vọng tuyệt đối cho tâm hồn. Chúng ta tin tưởng vào Chúa Kitô. Chúng ta có Lời để sống, có đường để dõi theo, có cùng đích để hướng tới và có nhà để về. Chúa Giêsu phán rằng nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở, Chúa sẽ trở lại đón chúng ta về.
Muốn hưởng sự sống đời đời, chúng ta phải dõi bước theo Chúa Kitô và cùng chịu đựng với Ngài. Con đường duy nhất dẫn tới sự sống đời đời là con đường thập giá của Đức Kitô: Xin Chúa hướng dẫn tâm hồn anh em biết yêu mến Thiên Chúa và biết chịu đựng như Đức Kitô (2Thess 3, 5). Theo Chúa, vào qua cửa hẹp đòi hỏi sự hy sinh, từ bỏ và chịu thiệt thòi vì danh Chúa. Với tha nhân, thực hành bác ái yêu thương. Cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp ngày nay để mai sau cùng chung hưởng hạnh phúc muôn đời. Mỗi ngày nối kết bậc thang đi lên bằng những việc tốt và việc thiện nho nhỏ. Con đường lên thiên đàng là thiên đàng rồi.
Lạy Chúa, Chúa là sự sống lại và là sự sống. Chúa là Alpha và Ômega, là đầu và là cùng đích. Chúng con đặt trọn niềm hy vọng vào Chúa Kitô. Xin Chúa đón nhận chúng con vào Nước Chúa. Chúng con sẽ được ngang hàng với các thiên thần. Hạnh phúc ngàn đời bên Chúa.
17. Để tránh việc “quá trễ” – Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Dụ ngôn mười người trinh nữ mặc dầu rất phổ biến cũng là một trong những dụ ngôn khơi dậy nhiều biện giải thông thái nhất. Ở đây chúng ta giới hạn vào cách giải thích và vào một trong những suy tư rút từ truyền thống sống động của Giáo hội. Có phải Chúa dùng một việc thông thường làm căn bản cho dụ ngôn của Ngài hay không, một lễ cưới người ta có thể thấy luôn? Đúng, nhưng Ngài sắp đặt lại theo cách riêng để làm nổi bật điểm chính xác trong giáo huấn của Ngài: Mọi chi tiết trong dụ ngôn không tương ứng hẳn với cách cử hành các lễ người ta có thể thấy được, nhưng chúng được xếp đặt sao cho nổi bật sự cần thiết phải sẵn sàng để gặp gỡ Thiên Chúa. Bổn phận phải sẵn sàng có ý nghĩa gì và hậu quả ra sao?
1) Sẵn sàng có nghĩa là đã chuẩn bị đầy đủ. Nên lưu ý dụ ngôn không trách các cô đã ngủ, nhưng trách các cô đã không dự trù số dầu cho đủ. Các cô đã không chuẩn bị kỹ để ứng phó với tình thế. Áp dụng cho cuộc sống Kitô hữu, có thể nói việc chờ đợi Thiên Chúa (trong các ân huệ hàng ngày, hay khi Ngài đến ngày lâm tử) không đi đôi với sự chểnh mảng, nửa vời, đãng trí. Thiên Chúa luôn nhập bất thần vào cuộc đời chúng ta. Ngài đòi hỏi chúng ta phải giữ lòng ngay luôn sẵn sàng tiếp đón Ngài. Người ta sẽ thiệt hại rất nhiều nếu thiếp ngủ quên đi 1 thiếu sót về bác ái, một lầm lỗi của lương tâm, một khiếm khuyết trung thành. Cụ thể điều này kêu gọi chúng ta hãy sống mỗi giây phút cuộc đời với quyết tâm hết sức chu toàn tất cả bổn phận.
2) Sẵn sàng có nghĩa là lãnh trách nhiệm lo toan chứ không cậy dựa vào kẻ khác. Các cô khờ dại chắc có lẽ đã nghĩ, nếu thiếu dầu sẽ nhờ bạn các giúp. Trên bình diện Giáo hội, chúng ta phải giúp đỡ lẫn nhau, vì tình liên đới nối kết chúng ta. Nhưng có một mức độ cá nhân ở đó chúng ta là những kẻ duy nhất mang trách nhiệm về mình. Không ai có thể sớt cho chúng ta đức tin, đức cậy và đức mến mà chúng ta đã lơ là như các cô khôn ngoan ở vào hoàn cảnh không thể chia số dầu đem theo, không ai ở trong Giáo hội có thể san sẻ tương quan cá nhân riêng với Thiên Chúa. Sự trung thành của chúng ta đối với Thiên Chúa có thể được nâng đỡ nhiều trong việc các thánh thông công, nhưng các thánh không thể bổ khuyết trách nhiệm riêng của chúng ta.
3) Hậu quả những cố gắng trung thành của chúng ta rất lớn lao. Câu kết luận dụ ngôn thật đáng sợ: thật Ta nói cho các ngươi hay, Ta không biết các ngươi. Người ta vui mừng vì các trinh nữ sẵn sàng được vào phòng tiệc bao nhiêu, người ta lại sợ vì các cô đến chậm bị loại bấy nhiêu. Như thế có một cái “quá trễ” đè nặng trên định mệnh nhân loại. Nó nằm ở chỗ nào? Đây là một mầu nhiệm bất khả thấu. Chúng ta biết lòng nhân lành Chúa khôn cùng và dung thứ tự do nhân loại đến những giai đoạn cuối tận, nhưng có một lúc mọi sự đều chấm dứt. Chuẩn bị cho giờ phút mà chúng ta không biết, chúng ta cần sắp đặt sẵn sàng để đón tiếp Thiên Chúa tức thời, nếu Ngài đến tức thời và để chờ đợi Ngài nếu Ngài để chúng ta chờ đợi. Thiên Chúa đóng cửa không nhận con người sau những thiếu sót có hiểu biết và cố ý nào, chúng ta không cần phải tưởng tượng ra. Nhưng sự thực phải khiến chúng ta suy nghĩ. Điều ấy có thực.
18. Thức tỉnh
Tờ báo Digest thuật lại tai nạn xe hơi xảy ra trong dịp lễ Giáng Sinh năm 1994, nguyên do là cô Jacqueline 16 tuổi vừa nhận được bằng lái xe, nhân ngày nghỉ cô đã mời các bạn đi siêu thị, trong xe có 3 người bạn trai và một người bạn gái. Họ vui vẻ thuật lại cho nhau nghe về những thú vui của ngày lễ, vì quá vui nên Jacqueline đã để lạc tay lái, xe lao vào đường ngược chiều. Và bất ngờ một xe khác ngược chiều đã tông vào xe của cô, hậu quả là 4 người đều thiệt mạng.
Qua câu chuyện trên chúng ta thấy cái chết đến với cô Jacqueline và các bạn của cô rất bất ngờ. Họ không bao giờ nghĩ mình lên chiếc xe này rồi đi không bao giờ trở lại. Họ không ngờ Thiên Chúa đến với họ bất ngờ như vậy.
Thiên Chúa đã gọi cô Jacqueline và các bạn của cô đi cách rất bất ngờ, khi người ta không bao giờ nghĩ chuyện đó có thể xảy ra thì lại xảy ra. Cũng thế Thiên Chúa sẽ đến với mỗi người chúng ta cách bất ngờ như thế, vào lúc chúng ta không ngờ vào giờ chúng ta không biết. Do đó, mà hôm nay Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn mười cô trinh nữ để nói về việc thức tỉnh chờ ngày Chúa đến. Dụ ngôn này dựa theo phong tục cưới hỏi của người Palestin thờ Chúa Giêsu theo luật Môisen cưới hỏi không có tính cách tôn giáo như ngày hôm nay. Việc cưới hỏi thường làm về ban đêm. Năm bảy hôm trước ngày cưới, hai bên nhà trai nhà gái đãi tiệc bạn hữu của mình. Rồi ngày cưới hai họ nhập lại ăn uống ở bên nhà trai. Nghi thức quan trọng nhất là đêm rước dâu, chập tối chàng rể cúng các bạn phù rể, tay mang bó đuốc lên đường đi đến nhà gái, khi đó cô dâu và các bạn phù dâu sửa soạn đèn sẵn cho chàng rể đến. Khi mọi sự sẵn sàng đám rước dâu khởi hành. Về tới nhà trai là vào tiệc cưới ngay. Đèn các cô phù dâu phải đủ đốt chờ chàng rể đến, và phải thêm bình dầu để đốt khi ăn tiệc. Tại tiệc cưới đèn các cô phù dâu phải treo thành hình vòng hoa ánh sáng quanh cô dâu chú rể.
Qua dụ ngôn Chúa Giêsu ví mình như một chàng rể. Người sẽ đến lần thứ hai vào ngày phán xét để mở tiệc cưới và ban phúc thiên đàng cho loài người. Những người thức tỉnh và sẵn sàng sẽ được hưởng phúc. Những người chểnh mảng là những cô khờ dại sẽ bị loại ra ngoài. Thiết nghĩ qua dụ ngôn Chúa vẫn muốn mỗi người chúng ta là những người thức tỉnh và sẵn sàng. Nhưng để làm được điều đó, đòi hỏi chúg ta phải biết chuẩn bị như năm cô khôn ngoan bằng cách:
1. Làm tròn trách nhiệm trong cuộc sống.
Mỗi người đều được Thiên Chúa ban cho những nến bạc, nén bạc sức khỏe, nến bác thời giờ và Ngài cũng không quên trao cho trách nhiệm để cộng tác với Ngài trên cuộc đời lữ hành. Ở đây chúng ta cũng thấy Thiên Chúa đã ban cho các cô khờ dại cũng như các cô khôn ngoan. Nhưng kết quả cuối cùng thì trái ngược nhau, các cô khôn ngoan "được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới". Còn các cô khờ dại thì phải ở bên ngoài. Ở đây không muốn nói đến sự khôn ngoan thức tỉnh theo kiểu người đời, nhưng là sự khôn ngoan vì Nước Trời. Sự khôn ngoan được thể hiện bằng hành động cụ thể, với một quyết tâm và thao thức muốn đón Chúa, muốn đợi Chúa. Và luôn sẵ sàng trả lời "Lạy Chúa, con đây" bất cứ lúc nào Ngài muốn.
Sẵn sàng như thế đòi hỏi chúng ta phải làm tròn trách nhiệm với Chúa, với bề trên, với anh em và cả với bản thân nữa... Năm cô khờ dại hôm nay đã biết đốt đèn thì cần phải có dầu, nhưng lại thờ ơ không mang theo. Nếu xét về trách nhiệm thì các cô khờ dại đã không làm tròn bổn phận được giao. Nhìn lại đời sống chúng ta, mỗi người đều được Thiên Chúa giao cho công việc "cầm đèn ra đón chàng rể". Chắc chắn trong thâm tâm mỗi người đều muốn chuẩn bị, nhưng đôi khi ước muốn đó chỉ mới thể hiện ở lòng ao ước. Rồi ngày lại qua ngày, đến lúc "chàng rể đến" tôi vẫn không có dầu để đón chỉ vì tôi quá thờ ơ, vô tâm không chịu làm tròn trách nhiệm ngay ở giây phút hiện tại.
2. Sống trong ân sủng.
Các cô khôn ngoan đã đem dầu đầy đủ nên không cần phải lo sợ chàng rể đến cách bất ngờ nữa. Vì đả chuẩn bị đầy đủ và biết chắc chắn mình có đủ dầu. Ở đây muốn nói đến những người có đời sống đạo tốt thật sự, họ luôn sống trong ơn nghĩa Chúa để chờ ngày Chúa gọi về với Người. Một khi chúng đạt tới mức độ "ngụp lặn trong ân sủng" thì ngay cả cuộc sống đời này cũng không cảm thấy thiếu thốn, không thấy lo sợ va luôn được bìh an. Muốn được như vậy đòi mỗi người phải nỗ lực bản thân rất nhiều, đôi khi còn phải chấp nhận hy sinh từ bỏ để được sống trong ân sủng Chúa.
Lạy Chúa, trên cuộc sống lữ hành có rất nhiều chông gai ngăn cản con đến với Chúa, có nhiều quyến luyến cám dỗ làm con u mê. Xin Chúa cho con biết thức tỉnh để đón Chúa trong bất cứ giây phút nào trong đời con. Amen.
19. Ánh sáng không bao giờ bị dập tắt
(Suy niệm của Sr. Barbara E. Reid – Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
“Những ai đã sẵn sàng, vào tham dự tiệc cưới (Mt 25,10).
Mỗi khi xuất hành đi đâu, tôi luôn chuẩn bị chu đáo. Tôi cẩn thận mang theo những vật dụng cần thiết cho cá nhân cũng như cho cả những người cùng đi với tôi. Tôi xem đó như một công việc phải làm, tựa như các cô trinh nữ khôn ngoan trong bài Tin mừng hôm nay. Tuy nhiên, khi đọc lại dụ ngôn, tôi thấy có điều gì hơi trái khoáy. Những cô gái đã chuẩn bị dầu và đèn để canh thức đón chàng rể, là những cô khôn ngoan, nhưng lại tỏ ra ích kỷ, không biết chia sẻ, khi các bạn thực sự đang có nhu cầu, vì đèn của họ chẳng còn chút dầu nào. Thay vào đó, các cô gái lại khuyên các bạn làm một công việc xem ra có vẻ ngốc nghếch và khó khả thi. Họ nói với các bạn giữa đêm khuya hãy ra hàng mà mua dầu để thắp sáng những ngọn đèn của mình. Làm sao chúng ta có thể chấp nhận lối ứng xử, xem ra có vẻ ích kỷ và kỳ cục như vậy?
Tuy nhiên, nhiều nhà chú giải và bình luận Kinh Thánh nhắm đến một điều căn cơ khác quan trọng hơn. Sự ích kỷ không muốn chia sẻ của các trinh nữ khôn ngoan, không phải là một chi tiết quan trọng, cũng không phải là sứ điệp mà bài Tin mừng muốn nêu ra. Đây là dụ ngôn nói về ngày chung thẩm. Trong ngày đó, từng người sẽ bị xét định theo những việc làm tốt lành mà họ đã thực hiện hay đã sao lãng. Tương tự như thế, trong bài giảng trên núi, Đức Giêsu cũng đã nói “Anh em hãy chiếu sáng trước mặt mọi người, để họ thấy những việc tốt lành anh em làm và ngợi khen Thiên Chúa” (Mt 5,16). Trong trình thuật Tin mừng hôm nay, dầu để thắp sáng những ngọn đèn được sánh ví như những công việc ngay lành, mà chúng ta không thể sẻ chia cho bất cứ ai khác.
Dầu sao, dụ ngôn vẫn đưa ra cho chúng ta sự đối kháng, khiến chúng ta cảm thấy nhức nhối khi giám định lại lương tâm nơi mỗi người. Đó là sự đối kháng giữa các phạm trù: Người khôn ngoan và kẻ khờ dại, những người biết chuẩn bị sẵn sàng và những người lơ đễnh, người được đón mời vào tiệc cưới và người khác lại bị từ chối, khi cửa đã khóa kín. Thánh Matthêu cũng nhiều lần nhắc đến những cặp phạm trù tương phản khác giống như thế để chúng ta so chiếu, ví dụ “ lúa tốt và cỏ lùng, chiên và dê, nhà xây trên đá và nhà xây trên cát, kẻ khôn ngoan và người khờ dại…”. Trong cuộc sống thực tiễn hằng ngày, con người của chúng ta dường như vẫn đang ở lưng chừng giữa những thái cực này. Vẫn còn đó một ít khờ dại, khi chúng ta đang cố vươn đạt tới sự khôn ngoan. Hoặc có lẽ ai chúng ta cũng biết phải chuẩn bị sẵn sàng, nhưng sự sẵn sàng đó vẫn mãi chẳng bao giờ tròn vẹn.
Tuy nhiên, khi đọc lại đoạn văn trong bối cảnh của toàn thể Tin Mừng, chúng ta sẽ an tâm, không còn gì phải lo sợ. Bởi lẽ, dụ ngôn cũng đảm bảo cho chúng ta rằng, khi ta biết đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa để đón vị Tân Lang và đi vào sự kết hợp thân tình với Ngài, cho dầu còn những khiếm khuyết, chúng ta vẫn là những con người đang chuẩn bị cho giờ phút viên thành sau hết. Chúng ta chờ đợi phút giây chung thẩm mang tính quyết định, để đón gặp Đấng mà chúng ta yêu mến, bằng những quyết tâm mỗi ngày để vươn lên, hoặc để cố gắng sống một cách ngay lành. Mỗi lần chúng ta châm đầy dầu vào ngọn đèn của chúng ta, cho dù không đủ dầu dự trữ để sẻ chia cho người khác khi họ cần đến, thì ánh sáng của Đức Kitô vẫn có thể làm ngập tràn ngọn đèn nơi ta, và chúng ta vẫn có thể chia sẻ ánh sáng đó cho anh chị em của mình.
Khi nói với Giám mục Isaac Nineveh thuộc thế kỷ thứ 7, về sự khôn ngoan linh thánh trong Thánh Kinh, John Shea đã diễn tả như sau “Như một ngọn đèn nhỏ được thắp lên bằng dầu, đến khi dầu đã cạn và ngọn đèn sắp tắt, hoặc như một con suối nhận nước mưa từ trời, khi trời hết mưa và dòng suối trở nên cạn kiệt, thì vẫn còn đó một tình yêu bất tận, như mạch nước vọt trào từ lòng đất, mạch nước đó sẽ mãi mãi không bao giờ khô cạn”. Những con người khôn ngoan là những người luôn biết kết hiệp chặt chẽ với dòng sông tình yêu của Đức Kitô, một dòng sông chẳng khi nào cạn kiệt. Dầu nơi ngọn đèn của họ sẽ không bao giờ vơi, và ngọn lửa sẽ không bao giờ lịm tắt. Như bài đọc thứ nhất hôm nay nói tới: Khôn ngoan chính là chúng ta ý thức rằng sức lực con người vốn mong manh và yếu đuối. Những cố gắng của chúng ta không đủ làm cho ngọn đèn nơi ta được thắp sáng lên mãi. Song, sự Khôn ngoan tự nó là một nguồn sáng không bao giờ mù tối, và sự Khôn ngoan vĩnh hằng đó sẽ tìm đến với chúng ta. Những cô trinh nữ đã canh thức suốt đêm khuya, chìm lặng trong bóng tối. Họ sẽ vui mừng khi ánh bình minh tỏa sáng và Đấng Khôn Ngoan vĩnh hằng vẫn đang ngồi bên cổng để đợi, để chờ. Ngài vẫn luôn ngong ngóng chờ đợi chúng ta đến gặp gỡ Ngài. Vả lại, cánh cửa khép lại của phòng tiệc cưới không phải là một động thái cánh chung cuối cùng. Khi quyền năng của Thiên Chúa như một luồng sáng soi chiếu, phá tan phiến đá lấp che cửa mộ, thì Đấng Khôn Ngoan hằng hữu vẫn luôn luôn dùng tình yêu Ngài để mở toang cánh cửa tâm hồn chúng ta, biến ngọn đèn của chúng ta đang cạn dầu thành một ngọn đèn mãi luôn cháy sáng. Ngài sẽ dẫn đưa chúng ta đến dòng sông huyền nhiệm, trong đó luôn tuôn chảy dồi dào mạch nước. Đó chính là mạch nước của ánh sáng và tình yêu không bao giờ vơi cạn.
20. Hãy giữ đôi mắt của các bạn luôn mở rộng.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Chúa Giêsu rất thích những đám cưới, Người đã thực hiện phép lạ đầu tiên ở Cana, Người đã vui thích ám chỉ đến những bữa tiệc đám cưới như biểu hiệu của thiên đàng. Một trong những biếm hoạ về đám cưới thế tục là cô dâu đã đến trễ và để cho mọi người phải chờ đợi cô ta tại nhà thờ, nhưng trong dụ ngôn của Chúa Giêsu, chú rể là người đến trễ. Có một số điều buồn cười trong việc này, khi chúng ta thấy chú rể được giới thiệu đây chính là Chúa Giêsu. Chú rể đã đến trễ làm cho một nửa số cô phù dâu làm hết dầu của họ và chìm vào giấc ngủ. Chúng ta không biết họ suy nghĩ những gì, nhưng có vẻ là họ đã mất hết kiên nhẫn đối với chú rể, họ là những kẻ ngu đần. Những cô phù dâu khác thì không chỉ tỉnh thức mà họ còn mang theo đủ dầu cung cấp cho họ. Chúng ta có thể phỏng đoán rằng họ sẵn lòng chờ đợi chú rể bao lâu như chú rể muốn, họ là người khôn ngoan.
Bài Phúc Âm này giống như bao dụ ngôn khác là một bài Phúc Âm phức tạp trong chính ý nghĩa của nó. Khi chúng ta tiến gần tới cuối năm phụng vụ, sẽ kết thúc trong hai tuần tới, giải thích theo phụng vụ thì bài Phúc Âm là tận cùng của thời gian khi Đức Kitô sẽ đến một lần nữa trong vinh quang. Ngày đó không ai biết. Mọi thế hệ khôn ngoan của Kitô giáo, thánh Phaolô đã viết trong thư gởi tín hữu thành Thessalonica, đã giới thiệu một sự chờ đợi cuộc trở lại của Chúa Giêsu cách kiên nhẫn. Chính chúng ta trong mọi Thánh Lễ tuyên xưng sau kinh Lạy Cha rằng, chúng ta chờ đợi trong niềm hy vọng vui mừng “việc đến của Đấng cứu độ chúng ta là Đức Giêsu Kitô”.
Ngay trước khi rước lễ chúng ta nghe vị linh mục tuyên bố: “Phúc cho những ai được gọi đến dự tiệc bữa tối với Người”. Điều này không phải ám chỉ tới bữa tiệc ly trong quá khứ nhưng là bữa tiệc trên trời trong tương lai. Trích dẫn này được lấy trong sách Khải huyền đoạn 19 câu 9. Thánh Gioan trong một thị kiến đã thấy một đám cưới cao cả trên thiên đàng. Một thiên thần đã nói với ngài: “Hãy viết những điều này: phúc cho những ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”. Hãy chờ đợi cách kiên nhẫn bữa tối này, đó là sự khôn ngoan. Chúng ta được gọi là những người khôn ngoan trong khi chờ đợi việc ngự đến của Chúa. Bởi vì sự tận cùng của thời gian không còn bao xa. Có lẽ là đúng, có lẽ là không. Nếu Người không đến sớm, Thiên Chúa sẽ đến trong giờ chết của chúng ta. Đó là một khoảnh khắc nhìn hướng về phía trước với một niềm hy vọng vui mừng. Từ quan điểm của một con người và là điều khó để theo, tự nhiên chúng ta sợ sự chết và bám lấy cái sống và không giống như những cô phù dâu, chúng ta không vội vàng trong việc đợi chờ Chúa đến. “Thiên đàng có thể chờ đợi”, đó có thể là tâm tình của chúng ta. Chúng ta hãy chú ý tới điểm này của Phúc Âm đó là: chờ đợi, tỉnh thức sẵn sàng gặp Chúa khi nào Ngài đến.
Giáo Hội trong sách phụng vụ các giờ kinh đã khẩn nài chúng ta hãy sửa soạn cho cái chết vào mỗi đêm trước khi chúng ta đi ngủ. Và ngủ là một biểu tượng của sự chết. Như khi chúng ta đi ngủ, Giáo Hội đề nghị rằng chúng ta nên có tâm tình Chúa Giêsu khi Người sắp chết: “Lạy Cha con phó linh hồn con trong tay Cha”.
Sự hiệp lễ là một sửa soạn cho sự chết. Một người Công Giáo khi sắp chết được chuẩn bị và hướng dẫn để lãnh nhận sự rước lễ như “của ăn đàng”, là thực phẩm cho một hành trình từ đời này đến đời sau. Ngay cả khi chúng ta lãnh nhận Thánh Thể qua việc hiệp lễ trong Thánh Lễ chúng ta hãy để tâm nghĩ đến sự chết, nhưng luôn luôn tin vào sự sống lại từ cõi chết của chúng ta. Khi đứng để lãnh nhận Thánh Thể đó là một dấu hiệu của đức tin. Hành vi đạo đức đó là “hãy giữ đôi mắt các bạn mở rộng vì các bạn không biết ngày nào, giờ nào”.
21. Khôn ngoan và khờ dại
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Tháng 11, tháng cuối năm phụng vụ. Tại các nghĩa trang, người tín hữu thường đến thắp nhang, cắm cành hoa tươi, đọc kinh cầu nguyện trước phần mộ người đã qua đời.
Người còn sống cầu nguyện cho người đã chết. Người đã an giấc ngàn thu nhắn nhủ người đang sống về lý lẽ cuối cùng của cuộc sống làm người. Bầu khí phụng vụ tháng 11 hướng về cùng đích của cuộc sống làm người. Đó chính là Cánh Chung. Chúa Giêsu dùng hình ảnh đám cưới để nói về Cánh Chung. Đây là dịp của niềm vui chứ không phải là nổi buồn, hạnh phúc chứ không đau khổ.
Bài Tin mừng Chúa nhật hôm nay nói đến lễ cưới và các trinh nữ. Năm cô trinh nữ khôn ngoan với thái độ sẵn sàng và năm cô trinh nữ khờ dại với việc chểnh mảng ngu ngơ là những biểu tượng của những cách sống của con người (GLCG # 1950). Nếu ví cuộc đời là lữ quán thì chúng ta chỉ là những người khách trọ qua đường. Chúng ta phải có thái độ nào thích hợp đối với cuộc sống trần gian? (Lumen Gentium, 48, 50, 68; GLCG # 972).
Khôn ngoan hay khờ dại được đánh giá bằng việc con người có sẵn sàng và chuẩn bị hay không.
1. Khôn và dại theo Thánh kinh
Khôn ngoan theo Thánh kinh có hai chiều kích.
Tự nhiên: khôn ngoan là một thứ nhận thức giỏi, thông minh, thận trọng và tài khéo để hướng dẫn cuộc sống đạt tới hạnh phúc chân thực. Đó là sự khôn ngoan của những nhà lãnh đạo có tài quản trị, những quân sư có tài giáo dục và thuyết phục, những hiền triết có tài lập ra những lý thuyết triết học, đạo đức, cũng như các nhà khoa học kỹ thuật có tài phát triển nền văn minh thế giới.
Tổ phụ Giuse vừa có tài kinh tế vừa có tài giải đáp những ước mơ của lòng người, đã được vua Ai cập chọn làm Thủ tướng. Môisê vừa có tài lãnh đạo vừa có tài thuyết phục kẻ thù cũng như đồng bào. Salomon được khen ngợi là “Người khôn ngoan hơn sự khôn ngoan của tất cả người Trung đông và Ai cập" (1V 5, 9-14).
Siêu nhiên: khôn ngoan là ân ban của Thiên Chúa. Daniel đã chúc tụng Thiên Chúa là “Đấng ban khôn ngoan cho hạng khôn ngoan, ban trí thức cho người hiểu biết" (Dn 2, 21). Khi mười hai tông đồ triệu tập các tín hữu lại để chọn bảy phó tế, các ngài đã nói: "Hỡi anh em hãy xét và chọn lấy giữa anh em bảy người được tiếng tốt, đầy Thánh Thần và khôn ngoan" (Cv 6, 3)
Sự khôn ngoan đích thực là sống theo luật Thiên Chúa “Luật Chúa làm cho Israel trở thành dân tộc khôn ngoan và thông thái" (Đnl 4, 6). Ai yêu chuộng học hỏi và sống luật Chúa sẽ trở nên khôn ngoan: "Cố tổ tôi tên là Giêsu, hầu như hiến cả mạng sống vào việc đọc lề luật, các tiên tri cùng các sách của cha ông, đã nên quán xuyến, lão luyện và phát hứng biên soạn đôi điều liên quan đến giáo huấn và khôn ngoan" (Hc 1, 7-12)
Luật Chúa chính là lời Chúa như mười giới răn Chúa ban trên núi Sinai. Chính lời Chúa mới là sự khôn ngoan và hạnh phúc thật. Tác giả Thánh vịnh 119 đã cảm thấy sự tuyệt diệu đó: “Lời Ngài là hạnh phúc đời con, lời Ngài là ánh sáng đời con, lời Ngài là chứa chan hy vọng, lời Ngài tôi quý hơn nghìn vàng muôn bạc, lời Ngài xin cứu sống tôi, lời Ngài là ơn cứu độ tôi" (Tv 119, 72. 103-105. 154-155. 165). Lời khôn ngoan hạnh phúc chính là Ngôi Lời nhập thể, là Đức Giêsu Kitô (Ga 1, 1-14). Đức Giêsu đã xác nhận rõ mình là sự khôn ngoan tuyệt vời đó khi Ngài nói: "Trong cuộc phán xét nữ hoàng phương nam sẽ đứng lên cùng với những người thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Salomon, mà đây còn hơn vua Salomon nữa" (Lc 11,31).
Người khôn ngoan là người nghe và sống lời Chúa. Người dại khờ là người chỉ nghe mà không đem ra thực hành. Chúa Giêsu dạy: “Vậy phàm ai nghe các lời này của Ta và thi hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá... và phàm ai nghe các lời này của Ta mà không thi hành, thì ví được như người dại xây nhà trên cát." (Mt 7, 24. 26). Mạnh mẽ hơn, Chúa Giêsu còn khẳng định: "Không phải mọi kẻ nói với Ta: "Lạy Chúa, lạy Chúa" là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành ý Cha Ta, Đấng ngự trên trời." (Mt 7, 21)
2. Thái độ khôn ngoan.
Khôn ngoan là một ân ban Thiên Chúa trao tặng cho con người để họ biết cách sống theo đường lối của Ngài. Người khôn ngoan là biết sống theo sự hướng dẫn của Đấng Tối Cao (GLCG # 2500).
Năm cô trinh nữ khôn ngoan mang theo bình dầu, họ có chuẩn bị cho trường hợp chàng rể đến muộn. Họ luôn sẵn sàng chờ đón chàng rể đến. Chàng rể là hình ảnh Chúa Giêsu đến trần gian. Người đến nhiều lần với chúng ta trong cuộc đời và đến trong ngày sau hết của từng người. (x. 2 Tim 4,6; 2Pr 1,14).
Khôn ngoan là một ơn ban quý báu của Chúa. Nó giúp con người biết cách sống thế nào cho phải, biết tìm kiếm những gì đáng tìm, và biết học hỏi suy nghĩ những gì đáng học hỏi. Ơn khôn ngoan quý báu ấy, Chúa sẵn sàng ban cho những ai thao thức kiếm tìm. Bài đọc I mời gọi chúng ta hãy khao khát yêu chuộng đức khôn ngoan. Thức khuya dậy sớm tìm kiếm, suy niệm đức khôn ngoan thì sẽ được chiêm ngưỡng, gặp gỡ đức khôn ngoan, sẽ được minh mẫn toàn hảo, được đức khôn ngoan niềm nở xuất hiện và sẽ hết mọi nhọc nhằn, trút hết mọi lo âu. (Kn 6, 12-16).
Cuộc đời kitô hữu khác nào như một cuộc nghinh đón chàng rể và chàng rể đây chính là Đức Kitô, vị thẩm phán. Tin Mừng nói chàng rể sẽ “đến chậm”, nghĩa là đến vào lúc người ta không ngờ. Rồi khi chàng rể đến, chàng sẽ “đóng cửa lại”. Ý nghĩa thiêng liêng của câu nói là: người ta chỉ chết một lần, không có cơ hội làm lại cuộc đời nếu đã không có sự chuẩn bị, như năm cô trinh nữ khôn ngoan.
Sự khôn ngoan của các cô trinh nữ là luôn tỉnh thức, tay cầm đèn cháy sáng trong tay và mang theo dầu dự trữ. Ngày xưa, dân Chúa chuẩn bị vượt qua Biển Đỏ cũng có thái độ như thế. Có thể hiểu “đèn cháy sáng” là luôn sống dưới ánh sáng hướng dẫn của Chúa và “dầu dự trữ” là những việc lành phúc đức như “của gởi về đời sau”.
Văn sĩ E. Hemingway có viết một quyển tiểu thuyết, nhan đề “ngư ông và biển cả”, kể lại cuộc vật lộn uổng công của lão ngư phủ người Cuba tên là Xăngtiagô với biển khơi. Ông câu được một con cá kình, nhưng vì cá quá to, ông đành phải cột cá bên mạn thuyền để kéo vào bờ. Buồn thay, trên đường về, lũ cá mập đã đánh ra hơi và xúm vào rỉa thịt. Khi về tới bến, con cá to chỉ còn là bộ xương mà thôi.
3. Không thể nào trình diện Chúa với hai bàn tay trắng.
Thái độ khờ khạo.
Lễ cưới theo nghi thức Tây phương, cô dâu đóng vai trò quan trọng với nghi thức rước dâu. Khi cô dâu xuất hiện, mọi người đều hướng mắt về cô dâu lộng lẫy trong trang phục lễ cưới tiến lên bàn thờ với đoàn rước và tiếng nhạc hoan ca. Chú rể chỉ đứng chờ đợi sẵn trên cung thánh đón tiếp cô dâu.
Trong nghi thức đám cưới Do thái, chú rể là người quan trọng. Mọi người phải chờ đợi và đón chú rể. Nếu lễ cưới vào ban đêm, chú rể phải đi tới nhà cô dâu để thương lượng với người cha hay anh em của cô dâu về quà cáp, của hồi môn…vào lúc mặt trời lặn. Thời đó chưa có đồng hồ, nên không thể định rõ giờ giấc để đón rước chàng rể từ nhà cô dâu về nhà chú rể được. Hơn nữa, theo phong tục, chú rể thường cố ý trì hoãn và kéo dài cuộc thương lượng để cô dâu và những nàng phù dâu phải chờ đợi trong hồi hộp và ngạc nhiên. Vì suốt ngày tiệc tùng, dạ vũ, nên chờ đợi đến khuya thường mệt mỏi và buồn ngủ. Mười cô trinh nữ được mời tham dự có bổn phận phải chuẩn bị sẵn sàng đèn đuốc để thắp sáng đường đi rước chú rể, cô dâu và khách đến tiệc cưới. Đây là một vinh dự rất đặc biệt cho các cô trinh nữ được mời.
Các cô dại không hề chuẩn bị gì cho trường hợp đó. Theo tập tục cưới hỏi của người Do Thái, chú rể sẽ đến nhà cha cô dâu để đón cô về nhà mình. Những cô trinh nữ phù dâu có nhiệm vụ cầm đèn cùng với cô dâu đón chú rể, làm thành một đám rước cô dâu về nhà chú rể, và ở đó, một tiệc cưới linh đình sẽ được tổ chức. Một khi đã nhận nhiệm vụ, các cô trinh nữ đó có nhiệm vụ phải chuẩn bị mọi thứ cần thiết để thực hiện nhiệm vụ đó của mình.
Năm cô khờ dại chưa chuẩn bị sẵn sàng, không mang theo đủ dầu cần thiết, khi chú rể đến họ hết dầu. Các cô trinh nữ khờ dại, vì sự thiếu chuẩn bị đúng đắn của mình, đã bị loại khỏi niềm vui của tiệc cưới và không thể làm gì để thay đổi thực tế bi đát đó được nữa.
Giống như các cô trinh nữ khôn ngoan, các cô trinh nữ khờ dại cũng được mời gọi đi đón chàng rể rồi vào dự tiệc cưới. Các cô biết chàng rể chắc chắn sẽ đến. Các cô cũng tha thiết mong chờ chàng rể đến. Điều các cô thiếu là một sự chuẩn bị sãn sàng và đầy đủ những thực tại cần thiết để có thể thực hiện được lời mời gọi và nhiệm vụ dàng cho các cô và nhờ đó được thỏa lòng mong ước của mình. Các cô mang đèn nhưng không mang dầu theo. Sai lầm của các cô không phải ở chỗ các cô không hướng lòng về biến cố chàng rể đến, mà là ở chỗ các cô đã không có sự chuẩn bị phù hợp cho biến cố đó. Được mời gọi làm thành viên của đoàn đón chàng rể thôi, chưa đủ. Biết rằng chàng rể sẽ đến vào một lúc nào đó thôi, chưa đủ. Còn phải có sự chuẩn bị thích hợp nữa.
Hãy luôn chuẩn bị sẵn sàng.
Cuộc đời và thế giới này rồi sẽ chấm dứt. Chúa sẽ đến ngày kết thúc đời người và dẫn vào dự tiệc Nước Trời. Mỗi người đều có đèn trong tay. Quan trọng là mình có chuẩn bị để ngọn đèn ấy cháy sáng vào lúc chung cuộc không. Quá muộn nếu đến lúc ấy chúng ta mới vội vã đi mua dầu.
Thiên Chúa muốn đưa con người vào tiệc cưới Nước Trời. Con người cần phải chuẩn bị sẵn sàng. Mỗi người phải chịu trách nhiệm về số phận đời đời của mình. Không ai có thể làm thay cho mình được.
Giờ phút long trọng và quyết định, đó là lúc chàng rể xuất hiện, lúc ấy mỗi người chuẩn bị đèn cháy sáng của mình. Đến lúc này mới thấy là ai khôn và ai dại, ngọn đèn của các cô khôn ngoan vẫn còn cháy sáng còn ngọn đèn của các cô khờ dại đã tắt từ lâu. Vào phút giây long trọng ấy, không ai có thể giúp mình được. Các cô khờ dại không thể xin dầu của ai được. Người khôn ngoan biết xác định cùng đích cuộc đời của mình và chuẩn bị những gì cần thiết để đạt được cùng đích đó. Người khờ dại không biết phải chuẩn bị những gì.
Ai cũng phải đối diện với ngày cuối cùng cuộc đời là giờ chết, phút giây ấy không ai giúp ai. Mỗi người theo sự khôn ngoan hay khờ dại đón nhận số phận chung cuộc.
Người ta cứ tự hỏi: Bao giờ chàng rể đến? Bình dầu thì cứ vơi dần! Màn đêm buông xuống, đôi mắt cũng nặng trĩu theo! Chờ đợi bao giờ cũng mệt mỏi căng thẳng!
Biết rằng đèn cháy sáng thì dầu cạn dần. Tình yêu chờ đợi mãi cũng mòn mỏi. Lời kinh có khi cũng phôi pha. Cây đàn có lúc cũng quên mất nốt nhạc. Hãy kín múc dầu tình yêu nơi suối nguồn yêu thương chính là Bí tích Thánh Thể. Nơi đó, chúng ta không chỉ nhận được dầu tình yêu, dầu ân sủng, mà còn được trao ban chính mình Người làm của ăn, để chúng ta tỉnh thức mà chờ đợi Người dẫn đưa ta vào tiệc cưới Nước Trời.
22. Sống ngày cuối đời
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Mới đây, tại Thụy Sĩ, người ta đã dùng điện thoại để phỏng vấn 1200 người tại 20 thành phố khác nhau về việc chuẩn bị chết. Câu hỏi được đặt ra là: “Nếu bạn chỉ còn một ngày cuối cùng để sống, bạn sẽ làm gì?”. Kết quả của cuộc thăm dò cho thấy:
* 57% phụ nữ được hỏi cho biết họ sẽ sống ngày cuối cùng đó với gia đình.
* 42% các ông được hỏi cho biết họ cũng muốn sống ngày cuối cùng đó với gia đình.
* 32% các ông các bà đều muốn được sống với gia đình mình trong những giờ phúc cuối đời.
* chỉ có 12% các bà và 26% các ông thích ở một mình hoặc cùng với bạn bè trong ngày cuối cùng của cuộc sống.
Thưa anh chị em, những con số trên đây có lẽ không đại diện cho ước muốn hay suy nghĩ của tất cả mọi người. Tuy nhiên, xuyên qua kết quả của cuộc thăm dò này, chúng ta cũng có thể đọc được một tâm trạng chung của con người khi đứng trước cái chết; đó là nỗi sợ cô đơn. Cái chết là một cuộc ra đi đơn độc, một chia lìa vĩnh viễn, nhất là với những người thân yêu của chúng ta. Nếu câu hỏi trên đây được đặt cho chúng ta trong giờ phút này, chúng ta sẽ làm gì?
Có lẽ chúng ta còn nhớ câu chuyện của một vị thánh trẻ khi được hỏi về cách thế chuẩn bị chết:
Giữa một đám trẻ đang chơi đùa, viên giám thị đặt câu hỏi: “Nếu ngay bây giờ chúng con biết mình sắp chết, chúng con sẽ làm gì?”. Một số em bé trả lời: “Con sẽ vào nhà thờ cầu nguyện”. Một số em khác cho biết: “Con sẽ đi xưng tội để dọn mình chết lành…”. Chỉ có một cậu bé điềm nhiên trả lời: “Nếu trong giây lát con có chết, thì giờ này con vẫn tiếp tục cuộc chơi”. Đó là câu trả lời của thánh trẻ Luy Gonzaga. Và câu trả lời đó đã làm cho viên giám thị ưng ý nhất, bởi vì nếu giải trí lành mạnh là một bổn phận trong lúc này, thì việc thánh hóa trước tiên phải nằm trong bổn phận hằng ngày: giờ nào việc nấy.
Nếu chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa trong từng biến cố, nếu chúng ta biết gặp gỡ Chúa trong từng sinh hoạt, nếu chúng ta tiếp xúc với Chúa trong từng phút giây… thì cái chết chỉ là một nối dài của cuộc gặp gỡ thân tình này. Người luôn trung thành với những gặp gỡ trong giây phút hiện tại sẽ không phải sợ hãi trong cuộc gặp gỡ tối hậu là cái chết.
Vì thế, thưa anh chị em, qua câu chuyện dụ ngôn 10 cô phù dâu đi đón chàng rể trong Tin Mừng hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta phải tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng cho ngày giờ Chúa đến. Vì ngày giờ Chúa đến sẽ bất ngờ, không được báo trước. Dụ ngôn cho thấy có 5 cô khờ dại và 5 cô khôn ngoan. Có nhiều người bị trách là “khôn nhà dại chợ”. “Khôn” những chuyện vặt vãnh mà lại “khờ” những chuyện trọng đại. “Khôn” những chuyện nhất thời hôm nay để rồi “dại” những chuyện ngàn đời mai sau. Có lẽ 5 cô khờ dại này đến giờ chót mới khôn ra (khôn đột xuất) và chạy đi mua “khôn”thì không kịp nữa rồi! Vì thế, chúng ta phải biết khôn ngay đi! Tin Mừng hôm nay đã cảnh giác chúng ta tỏ tường rồi đấy!
Bài học về sự khôn ngoan đã được Chúa Giêsu nói đến trong ví dụ về người khôn xây nhà trên nền đá (Mt 7, 24). Đó là người “nghe và thi hành Lời Chúa”. Khôn là chuẩn bị sống ngày hôm nay không gì khác hơn là “nghe và thi hành Lời Chúa”. Trung thành sống điều này là ta đã xây dựng cho mình một nền tảng vững chắc để có thể đứng vững trong đêm tối âm u hay trong mưa sa bão táp. Ngược lại, không thi hành Lời Chúa, ta sẽ bị coi là kẻ khờ dại, vì đã xây nhà đời mình trên nền cát…
Năm cô khờ dại đã uổng công đi đón và mòn mỏi đợi chờ để rồi cứ phải ở bên ngoài phòng tiệc cưới. Vì thế, nghe và thi hành Lời Chúa là một thái độ sống khôn ngoan để dù thức hay ngủ, ta vẫn ở trong tư thế sẵn sàng. Việc Chúa đến sẽ không còn là chuyện bất ngờ nữa mà là một cuộc hẹn hò gặp gỡ đầy ý nghĩa đã được chờ đợi.
Đừng chậm trễ nữa, thưa anh em chị em, vì cửa Nước Trời chỉ mở ra cho những người hôm nay sẵn sàng dự tiệc, cho những người hôm nay mang canh cánh bên lòng nỗi ưu tư thi hành ý muốn của Chúa, chứ không dành cho những kẻ chỉ biết nói: “Lạy Chúa, lạy Chúa” ngoài môi miệng, để rồi phải nghe trả lời: “Ta không biết các ngươi!” câu trả lời này cũng là lời phán quyết của Thẩm Phán tối cao trong ngày phát xét cuối cùng.
Anh chị em thân mến, hôm nay vẫn còn thời giờ để chúng ta “khôn”, vẫn còn thời giờ để chúng ta đổ đầy dầu vào bình mà mang theo, vẫn còn thời giờ để xây dựng đời mình trên nền tảng thực thi Lời Chúa và Chàng Rể cũng đang đến loan báo niềm vui hội ngộ. Hãy sẵn sàng ra đón, để cùng Tân Lang vào dự tiệc Nước Trời hưởng niềm vui vô tận.
Đối với những ai đã sẵn sàng, đèn Tin-Yêu thắp sáng trong tay, họ sẽ được sung sướng gặp mặt Chúa: Thánh nữ Têrêxa Avila mấp máy nói lên với Chúa trước khi tắt thở: “Lạy Chúa Giêsu, này là giờ chúng ta gặp nhau”. Trong khi chị Thánh Têrêsa Giêsu Hài Đồng âu yếm thốt lên: “Lạy Chúa, con yêu mến Chúa”, đôi mắt xuất thần nhìn thẳng vào một điểm trên pho tượng Đức Mẹ, nét mặt tươi tắn, rồi nhắm mắt lại, ra đi nhẹ nhàng. Đồng hồ chỉ 7 giờ 20 phút, tối ngày 30 tháng 9 năm 1897.
Hai người trinh nữ khôn ngoan đã cầm đèn thắp sáng Tin Yêu ra đón Chúa và đã được gặp gỡ “Người Tình Lang” muôn thuở của mình.
Lạy Chúa Giêsu,
nếu ngày mai Chúa đến,
chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng…
Xin nuôi dưỡng nơi chúng con
niềm tin vững vàng
và niềm hy vọng nóng cháy
để tất cả những gì chúng con làm
đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
23. “Ta không biết các ngươi”
Bữa tiệc cưới kỳ lạ khởi đầu tốt đẹp: có đến mười cô phù dâu! Chúng ta nghĩ đến những chiếc áo dài đẹp và những nụ cười, chú rể hơi vụng về, cô dâu xinh xắn.
Có điều này phá tan sự thơ mộng: năm trong số mười cô này bị coi là “khờ dại”. Người ta chú ý đến họ và vạch ra sự thiếu lương tri của họ. Đặt ra những câu hỏi về năm cô “khôn ngoan” từ chối chia sẻ dầu trong đèn của họ là điều vô ích vì đây không phải là vấn đề. Một dự ngôn vạch ra đường lối của mình mà không quan tâm tới những yếu tố không phù hợp.
Cho nên chúng ta hãy thử đi thẳng vào bài học về dầu bị thiếu. Sự thiếu sót nào có nguy cơ làm cho chúng ta trở thành nhữngkẻ khờ dại?
Người khờ dại trong dụ ngôn chính là người Kitô hữu đã lên đường nhưng không chuẩn bị. Người đó tức khắc rơi vào trong một cuộc sống tầm thường, ít có tính cách Tin Mừng. Năm cô khờ dại biểu thị cho những kẻ ít can đảm, những kẻ bị tước vũ khí do sự chờ đợi và thời gian. Họ có nguy cơ bị giật mình khi nghe la lên: “Đây là chàng rể, đây là sự gặp gỡ Chúa!”
Tuy nhiên chúng ta nghĩ đến sự gặp gỡ cuối cùng. Chúng ta biết rằng để thành công thì phải gặp được Chúa Giêsu ở dưới thế gian này, trong Kinh nguyện, Thánh thể, Tin Mừng, bí tích người anh em (Mt 25,40). Nhưng tất cả những điều này phải trả giá và chúng ta làm chậm kỳ hạn: “Ngày mai, tôi sẽ bắt đầu”. Chúng ta làm như thể mình là chủ thời gian vậy!
Thậm chí khi đang tĩnh tâm, dưới cú sốc của một biến cố hoặc một chứng cứ gây xáo trộn, chúng ta gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô, thì chúng ta cũng không nghe được lời van xin lo lắng của Ngài, bởi vì Ngài biết rõ chúng ta: “Các con hãy luôn luôn tỉnh thức, vì các con không biết ngày nào giờ nào”.
Do đó phải nghĩ đến giờ phút này mà thôi hay sao? Không, sẵn sàng để nghe tiếng gọi này, chính là sống hết mình điều mà chúng ta đang sống. “Linh đạo hiện tại”, có nghĩa là sử dụng tốt cuộc sống hằng ngày, trở nên những ứng viên tốt nhất để gặp gỡ Chúa. Ý nghĩa có tính cách Tin Mừng của thời gian là: hôm nay phải chuẩn bị dầu cho ngày mai, đồng thời phải luôn luôn can đảm để sống Tin Mừng vào bất cứ lúc nào trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào.
Nếu không, sẽ phải đi đến cùng những bữa tiệc cưới buồn này, sẽ phải đứng ngoài cửa phòng tiệc và nghe những lời nặng nề hơn nữa, xoá tan mọi niềm hy vọng: “Ta không biết các ngươi”. Vào ngày tận thế Chúa Giêsu sẽ chỉ công nhận “những người của Ngài”, tức những kẻ đã cố gắng làm ánh sáng Tin Mừng không biết mệt mỏi bằng cách không ngừng dự trữ dầu.
Nếu câu nói dễ sợ “Ta không biết các ngươi” đập vào chúng ta như Chúa Giêsu muốn, chúng ta hãy suy niệm về hai cách xử sự: những cô khôn ngoan, những cô khờ dại. Còn chúng ta, cái đèn chúng ta ở đâu?
24. Suy niệm của Lm. John Trần Khả
Một trong những cái quan trọng khi chúng ta lái xe là phải có bánh xe xơ-cua để dự phòng cho những lúc không may bị nổ lốp hoặc xì hơi giữa đường. Đây là một sự khôn ngoan thông thường mà mọi người lái xe đều phải biết. Tuy nhiên đôi khi cũng xẩy ra cho một số người sau khi xe của họ bị bể bánh giữa đường và lúc đó mới khám phá ra là họ không có bánh xe xơ-cua hay bánh xe xơ-cua của họ đã bị xì hơi. Điều này càng làm cho họ bối rối, lo lắng và khó chịu khi nó lại xảy ra ban đêm giữa xa lộ hay ở những quãng đường hẻo lánh tối tăm và vắng vẻ. Nếu không may xảy ra chuyện như thế, thường thì chúng ta phải đi bộ một quãng thật xa để tìm người giúp đỡ. Hậu quả là sẽ bị trễ hẹn hay không đến được địa điểm đúng giờ dự định. Sau khi tìm được người giúp thì thường họ sẽ hỏi, "Tại sao không chịu kiểm soát trước khi lái xe xem bánh xe xơ-cua có ở đó, hay có còn tốt hay không?" Ai cũng biết đây là điều cần thiết mỗi khi lái xe, nhưng nhiều khi chúng ta coi thường không để ý.
Cảnh tỉnh
Đây cũng chính là điều mà Chúa Giêsu muốn nói đến trong dụ ngôn Mười Cô Trinh Nữ của bài Tin Mừng hôm nay. Những điểm chúng ta cần quan tâm chú ý:
- Tỉnh thức đợi chờ
- Chàng rể đến bất ngờ
- Phải có dầu đèn
Chúng ta luôn cần phải có thái độ tỉnh thức và chuẩn bị sẵn sàng để đón Chúa Kitô vào bất cứ ngày giờ nào. Những cô trinh nữ khôn ngoan đã biết lo liệu chuẩn bị cầm đèn và mang theo dầu do đó họ đã không trở nên nạn nhân của tình trạng bất ngờ. Những cô khác đã không biết lo liệu phòng xa; họ đã có thái độ ỷ y, dửng dưng coi thường, nghĩ rằng chàng rể còn lâu mới đến, nhưng giữa lúc đêm khuya, lúc mọi người tắt đèn đi ngủ thì không ngờ chàng rể đến. Chúa Giêsu nói rằng việc Ngài đến lần thứ hai cũng bất ngờ giống như thế. Ngài cảnh tỉnh chúng ta, “Hãy tỉnh thức vì các ngươi không biết ngày nào, hay giờ nào!" Các Kitô hữu đầu tiên cũng đã hy vọng Chúa đến vào thời điểm của họ; nhưng cho đến nay sau 20 thế kỷ, Ngài vẫn chưa đến. Con người chúng ta dễ cảm thấy tình trạng "thức lâu chầu mỏi." Chờ lâu quá không thấy Chúa đến, nhiều người đã coi thường, hay không tin là Ngài sẽ đến lần thứ hai. Họ bắt đầu ngủ thiếp đi trong những sinh hoạt của cuộc sống trần thế. Và Chúa Giêsu kết luận họ là những người khờ dại. Khờ dại chỉ vì không biết tỉnh thức và không biết lo liệu chuẩn bị sẵn sàng.
Khôn ngoan hay khờ dại?
Khi nói đến tinh thần và việc chuẩn bị đón Chúa Kitô đến lần thứ hai thì chúng ta một là người khôn ngoan, hai là kẻ khờ dại, một là sẵn sàng hai là không chứ sẽ không có sự dung hòa ở trung lập không khôn mà cũng không khờ. Theo như câu truyện dụ ngôn trong bài Tin Mừng thì có một nửa số người khôn ngoan, và một nửa số người khờ dại. Một nửa sẽ được vào Thiên Đàng để dự tiệc cưới với Chúa Kitô và một nửa sẽ không được vào. Một nửa sẽ được hưởng hạnh phúc và một nửa thì không. Chúng ta sẽ thuộc vào một trong hai nhóm này. Như vậy chúng ta thuộc vào loại nào? "Tôi, Ông, Bà, Anh, Chị, Em, chúng ta là người khôn ngoan hay người khờ dại? Là người thuộc thành phần được vào hay không được vào phòng tiệc với Chúa Kitô?"
Sự khờ dại đây không phải là vì trí khôn ngu dốt không biết, hay là bởi không có học thức, không có bằng này hay cấp nọ, hoặc vì sự quên sót không mang dầu đốt đèn. Sự khôn ngoan đây cũng không phải là vì trí khôn thông minh sáng suốt, học cao hiểu rộng, bằng này cấp kia. Điều chính yếu là có sống trong tinh thần tỉnh thức và tin tưởng đợi chờ hay không? Đèn của chúng ta có dầu hay không có dầu?
Gần đây có những người phao đồn tin sẽ có hiện tượng tối ba ngày ba đêm và rồi sẽ tận thế. Không biết nghe mặc khải nào hay lời khuyên của ai, nhiều người ở một số nơi đã lo đi mua mấy thùng nến và nhiều thùng chứa nước để nhờ các cha làm phép đem về phòng trữ ở trong nhà. Làm như thế không phải là sự khôn ngoan phòng xa mà Chúa Giêsu muốn nói đến trong dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay. Nến phép và nước phép đó không phải là dầu đèn của Kitô hữu chúng ta. Nếu ngày Chúa đến mà chỉ thấy chúng ta có nến phép và nước phép, thì nến phép và nước phép đó cũng không có sức mạnh để đưa chúng ta vào Thiên đàng với Thiên Chúa. Năm cô trinh nữ được gọi là khôn ngoan vì họ mang đèn và có mang theo dầu. Còn những cô khờ dại có mang đèn những không mang dầu theo.
Khủng hoảng hết dầu
Thế giới nếu không biết tự chế trong việc tiêu thụ năng lượng thì cũng có ngày bị khủng hoảng thiếu thốn dầu xăng. Trong đời sống tinh thần nếu chúng ta không cẩn thận và khôn ngoan thì chúng ta cũng sẽ rơi vào tình trạng bị khủng hoảng hết dầu thiêng liêng. Có dầu thiêng liêng hay hết dầu thiêng liêng chính là lý do phân cách giữa người khôn ngoan và người khờ dại. Người được vào phòng tiệc và người phải đứng ở ngoài. Các Kitô hữu chúng ta là đèn soi thế gian. Đèn đó chỉ được cháy sáng khi có dầu. Đức tin nơi Chúa Kitô chính là dầu làm cho đèn Kitô hữu được cháy sáng. Đức tin ấy chính là lý do quyết định được vào hay ở ngoài. Giữ tình liên hệ mật thiết với Chúa Kitô qua việc sống đức tin, việc học hỏi Kinh Thánh, tham dự và cử hành các bí tích, làm những việc đạo đức; những lời kinh nguyện sớm hôm; những việc hy sinh bác ái và tình yêu đối với tha nhân, nhất là những người nghèo khổ chính là những giếng dầu tiếp tế cho đèn chúng ta được tiếp tục cháy sáng để đón và đi theo Chúa Kitô vào trong nước hằng sống.
Đối với chúng ta, đây là một bài học rất rõ ràng. Chúng ta không phải là đang đối diện với một dịp dự tiệc cưới đặc biệt ở trần gian. Chúng ta cũng không phải là đang đối diện với tình trạng có bánh xe xơ-cua hay là không. Nhưng là sự cứu rỗi đời đời của linh hồn chúng ta. Khi bị bể bánh xe giữa đường mà không có bánh xe xơ-cua, chúng ta cảm thấy bức rứt khó chịu với chính mình. Chúng ta có thể bị trễ hẹn hay trễ công việc và làm cho một số người khác phải chờ đợi. Chúng ta trách mình tại sao lại lơ đễnh thiếu cẩn thận như thế. Tuy nhiên những phiền toái đó chỉ là những phiền toái tạm thời ở đời này. Nhưng khi đối diện với sự sống đời đời; đối diện với việc Chúa Kitô bất ngờ đến lần thứ hai, nếu chúng ta cũng vô tâm không sẵn sàng cho đèn có dầu để đốt cháy sáng thì sự phiền toái đó sẽ là sự phiền toái đời đời. Giống như năm cô trinh nữ khờ dại, chúng ta sẽ phải đứng ở ngoài và nghe tiếng nói nghiêm khắc từ bên trong vọng ra, "Ta không biết các ngươi là ai!"
Trên thực tế, thật buồn và đáng lo ngại. Nhiều khi chúng ta đã dại khờ lo lắng quan tâm cho thân xác mình và cho những nhu cầu đời này hơn là lo lắng quan tâm đến Nước Trời, đến nhu cầu của người khác và đến sự sống phần linh hồn của chính mình. Nhiều khi mối bận tâm của chúng ta không phải là lo khai thác các giếng dầu thiêng liêng, nhưng mà là lo khai thác mỏ tiền mỏ bạc trần thế; lo xây dựng sự nghiệp đời này, và chểnh mảng lơ là không hết tâm chu đáo chuẩn bị cho ngày đón chúa Kitô đến lần thứ hai. Nhiều khi việc làm, việc đi chơi, đi chợ, đi shoping, hay ngủ nghỉ, thể dục thể thao, kiêng cữ, vẽ mặt vẽ mày, sửa ngực sửa mũi làm đẹp thân xác được chúng ta coi là cần thiết và ưu tiên hơn là việc cầu nguyện, đọc kinh dâng lễ tu thân, tập luyện nhân đức, và làm việc lành. Cứ nhìn vào tất cả các sinh hoạt hàng ngày của chúng ta và kiểm điểm tâm tư cũng như cách hành xử của chúng ta thì chúng ta sẽ biết mình là người khôn ngoan hay khờ dại. Chúng ta là người có dầu sẵn trong đèn hay là người khủng hoảng thiếu dầu đức tin.
217 người trên chuyến bay của hãng EgypAir 990 khởi hành từ New York ngày 31 tháng 11 năm 1999 vừa qua đâu có ngờ đó là chuyến bay cuối cùng trong đời họ. Việc đó có thể xẩy ra cho bất cứ ai trong chúng ta. Và khi đó thì chúng ta sẵn sàng hay không sẵn sàng? Đèn chúng ta còn dầu để cháy sáng hay không? Nếu đèn có dầu thì chúng ta là những người khôn ngoan, nhưng nếu đèn hết dầu thì sẽ bị xếp vào loại những cô trinh nữ khờ dại. Chúa Giêsu dạy chúng ta dụ ngôn này là Ngài muốn tất cả chúng ta là những người khôn ngoan.
Một câu truyện
Trong triều đình có một quan hầu cận chuyên môn đi bên cạnh nhà vua để mua vui trong triều. Một hôm quan hầu cận nói đùa một câu rất ngớ ngẩn khờ dại khiến nhà vua không hài lòng lắm nên nhà vua đưa cho quan một cái gậy và nói, "Từ nay trở đi nhà ngươi phải giữ lấy cây gậy này như là một hình phạt. Ngươi phải giữ nó cho tới khi ngươi gặp một người nào đó khờ dại hơn ngươi thì lúc đó sẽ trao cây gậy cho người ấy!"
Ít năm sau nhà vua lâm bệnh nặng và nằm liệt trên giường. Vua cho triệu tập mọi người thân cận trong triều đến và dặn dò, "Trẫm sửa soạn lên đường. Trẫm sẽ đi đến một nơi rất xa; và trẫm sẽ không trở lại đây nữa; do đó trẫm muốn triệu tập mọi người trong triều đến để từ giã."
Nghe nhà vua nói như vậy, quan hầu cận hỏi nhà vua, "Tâu bệ hạ, thần xin được hỏi một điều. Thường thì khi đi đâu xa như thăm dân, đi họp ngoại giao hay đi thăm những nước láng giềng, Bệ hạ luôn cho người đi trước để dọn đường chuẩn bị. Thế thì lần này Bệ hạ đã có chuẩn bị cho chuyến đi xa quan trọng này chưa?"
Nhà vua trả lời, "Trong chuyến đi này, trẫm không có sự chuẩn bị gì cả."
Quan hầu cận liền nói, "Như thế thì xin trẫm nhận lại cây gậy này, bởi vì bây giờ khanh đã tìm được người ngố và khờ dại hơn khanh!"
(Paul J. Wharton, Stories and Parables for Preachers and Teachers. “Preparing for Death" p. 67).
25. Mười cô trinh nữ
Anh chị em thân mến,
Ông Baden Powell đã sáng lập phong trào Hướng đạo năm 1907. Đây là một sinh hoạt giới trẻ, mục đích để đào luyện thanh niên, nên người tốt cho bản thân mình và cho cả xã hội nữa. Đầu tiên là nhắm đến việc đào tạo thanh niên Âu châu, con nhà giàu, dư ăn, chỉ biết hưởng thụ. Sau vì thấy phong trào hoạt động có hiệu quả, nên nhiều nước đã du nhập phong trào. Châm ngôn của Hướng đạo sinh là: "sắp sẵn". Hai chữ này muốn nói lên hướng đạo sinh, dù ở hoàn cảnh nào, vẫn có thể sống được và sống tốt. Họ có thể sống chung với mọi người, có thể sống riêng rẽ một mình, ở giữa chợ hay cắm trại trong rừng sâu... Câu chuyện của bài Tin mừng hôm nay cùng nói lên một chủ đề như thế. Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a/. Lễ cưới của người Do thái: đây là dịp người do thái tổ chức lễ lạc linh đình. Nhà giàu hoặc có địa vị, lễ cưới sẽ kéo dài đến 7 ngày, có khi hơn nữa; nhà nghèo thì 3, 4 ngày... Câu chuyện tiệc cưới ở Cana, chỉ một mình thánh Gioan thuật lại, cũng cho thấy vì tiệc kéo dài nhiều ngày, nên họ đã tiêu thụ một lượng rượu rất lớn. Sáu chum đá, mỗi chum đựng được trên 80 lít; vậy vị chi ít nữa hơn 500 lít rượu, Chúa Giêsu đã làm cho số nước đó thành rượu; đó là chưa kể rượu gia chủ đã chuẩn bị trước. Xem ra người do thái uống rượu có thua ai đâu?...
Ta lại nói tới chuyện rước cô dâu, là chuyện chính của bài dụ ngôn hôm nay: hình như việc cô dâu đợi chàng rể đến rước về nhà mới, là một nghi lễ có phần cầu kỳ và trang trọng. Toàn thể dân làng được mời tham dự vào đoàn rước chú rễ. Họ đứng hai bên đường ca hát chúc tụng. Chú rễ có vai trò quan trọng, nên mọi người phải chờ đợi và đón chú rễ. Nếu lễ cưới vào ban đêm, chú rễ phải đến nhà gái buổi chiều để thương lượng về tiền bạc, quà cáp, của hồi môn...Việc rước cô dâu có thể vào ban đêm, nên cũng có thể chú rễ trì hoản giờ đón, để cho thêm hồi hộp. Vì không dự báo trước nên các người phù dâu phải ở trong tư thế thức tỉnh, chuẩn bị sẵn sàng....
b/.- Chúa muốn dạy chúng ta điều gì? Chúa thuật dụ ngôn mười cô trinh nữ, một câu chuyện khá sống động. Đọc qua, người ta có thể hiểu phần nào được nội dung Chúa muốn nói gì. Nhân vật chính trong câu chuyện, không phải cô dâu chú rễ, mà là mười cô phù dâu. Các cô trinh nữ này khi được mời làm phù dâu, họ lấy làm vinh hạnh lắm, vì thế không ai muốn việc làm của mình bị hỏng cả. Vậy mà trong tiệc cưới này, các cô lại sơ xuất chết người; vì chàng rễ đến quá trể, lại tiệc tùng suốt ngày, nên các cô thiếp đi rồi ngủ cả... Bất thần, chàng rễ đến, họ đi ngay phòng tiệc rồi đóng cữa lại. Năm cô khờ dại, đã bị từ chối không cho vào dự tiệc....
Chính thái độ của các cô khôn ngoan và của các cô không phòng xa, đó là điễm chính Chúa muốn nói: Hình ảnh các cô khôn ngoan biết tỉnh thức sẵn sàng, đồng thời cũng chuẩn bị hành trang, là đầu và đèn... Ngày Nước Trời đến lần cuối cùng, sẽ là ngày bất ngờ không ai biết trước được, nên mọi người phải sẵn sàng tỉnh thức, và mang đầy đủ hành trang, vì lúc đó chẳng ai có thì giờ để giúp đỡ ai được nữa... Nếu không tỉnh thức, không sẵn sàng, đợi đến khi sự việc ập đến, rõ ràng quá trễ; có hối tiếc cũng quá muộn rồi!
Câu chuyện: Con tàu Titanic, được coi là con tàu không thể chìm, đã rời cảng Queenstown, Anh quốc làm cuộc hải trình đầu tiên đi Nữu Ước, với 2.200 hành khách, ngày 10/04/1912. Ai nấy đều ca tụng con tàu, vừa sang trọng, vừa to lớn, còn cho là nó không thể chìm. Có người hớn hở nói: Thiên Chúa cũng không đánh bại được nó nữa...Vậy mà sau bốn ngày, vào đêm thứ 7, nó đụng phải một tảng băng khổng lồ, khiến tàu bể làm ba mảnh; lúc 2g 20 chiều Chúa Nhật, nó chìm hẳn, mang theo 1522 mạng. Số người sống sót hầu hết là đàn bà và trẻ con. Tàu Titanic bị chìm là do tính kiêu căng, cẩu thả, chạy theo lợi nhuận của chủ tàu và những người có trách nhiệm. Mới đây giở lại hồ sơ, người ta mới hiểu rõ, hơn 2000 hành khách, vậy mà chỉ có lối 400 áo phao cứu hộ. Võ tàu được làm mỏng hơn 2,54 cm và các đinh tán đóng thưa hơn 2cm (1/8 inch) theo bản thiết kế, để tàu nhẹ hơn 2500 tấn, và có thể chạy nhanh hơn các tàu khác, dù nó to lớn.... 1522 người đã chết, trong lúc họ không muốn chết, có phải đáng là bài học cho mỗi người kitô hữu chúng ta không? Phải biết sẵn sàng như cô dâu đón chàng rể, đến vào lúc họ không ngờ, vào giờ họ không không chuẩn bị. Câu chuyện này đáng là bài học cho ta suy ngẫm lời Chúa chúa nhật hôm nay.
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Trên đời này, ai biết chuẩn bị trước, biết tính toán kỷ lưỡng, biết đề phòng xa, họ sẽ có nhiều cơ may để thành công trong cuộc sống lắm. Về cuộc sống mai sau, ai biết tỉnh thức, biết chuẩn bị hành trang sẵn như mấy cô phù dâu đi đón chàng rể trong Tin mừng Chúa Nhật hôm nay, họ sẽ nhiều cơ may được vào Nước Trời. Phần chúng ta, chúng ta nghĩ làm sao đây?
26. Mười người trinh nữ
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – Radio Veritas Asia)
Tháng mười một là tháng dành riêng cho các linh hồn, nên chúng ta dừng lại để suy nghĩ một vài tư tưởng về cái chết. Chắc hẳn Chúa không muốn cho cuộc đời chúng ta chìm đắm trong một màu tang tóc và từng giây từng phút luôn nơm nớp lo sợ, nhưng Chúa muốn chúng ta sẵn sàng và nhìn vào cái chết với đôi mắt lạc quan tin tưởng và hy vọng.
Cái chết sẽ dạy cho chúng ta biết cuộc đời này tuy ngắn ngủi và chóng qua nhưng lại là một kho tàng quí giá, bởi vì nhờ nó chúng ta có thể chiếm được Nước Trời, và một khi nó đã qua đi thì không bao giờ trở lại. Bởi đó chúng ta hãy biết lợi dụng những năm tháng hiện tại để chuẩn bị cho mình những hành trang cần thiết, hầu sẵn sàng lên đường dấn thân vào một cuộc hành trình cô đơn và bi thảm nhất, đó là cái chết.
Thật là hạnh phúc và tốt đẹp nếu ta có được một linh hồn luôn chuẩn bị và sẵn sàng, nhưng cũng thật bẽ bàng và cay đắng nếu ta chết đi trong tình trạng tội lỗi và thù nghịch cùng Chúa. Lúc đó ta sẽ mất cả chì lẫn chài, cả vốn lẫn lời, cả đời này lẫn đời sau, cả thân xác lẫn linh hồn.
Trên bia mộ của những người thời xưa người ta thường thấy những chữ tuyệt vời trên đó: "Người này đã nghỉ yêu trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa". Hãy khử trừ tội lỗi và hãy thực thi bác ái yêu thương để dù Chúa có đến vào ngày chúng ta không ngờ, vào giờ chúng ta không biết, chúng ta vẫn sẵn sàng và vui mừng kêu lên: "Lạy Chúa, này con xin đến". Thế nhưng chúng ta đã chuẩn bị cho cuộc hành trình cuối cùng này chưa?
Trong cơn hấp hối người ta hỏi thánh nữ Magarita:
- Có cần gì nữa chăng?
Thánh nữ trả lời:
- Không, tôi đã sẵn sàng.
Nếu như đêm nay chúng ta phải đến trước tôn nhan Chúa, nếu như chút nữa đây Chúa gọi chúng ta, liệu chúng ta đã thu xếp xong mọi công việc hay chưa? Liệu chúng ta đã trả hết món nợ đối với Chúa và đối với anh chị em hay chưa? Liệu chúng ta đã tẩy xóa hết tội lỗi trong tâm hồn qua Bí Tích Giải Tội hay chưa? Nếu chúng ta biết chuẩn bị ngay từ bây giờ, nếu như mỗi khi chiều xuống chúng ta ngồi hồi tâm xét mình và chúng ta chỉ ngủ yên khi tâm hồn mình đã gội rửa tẩy sạch qua tâm tình sám hối ăn năn. Nếu chúng ta luôn giữ được tấm áo trắng trong ngày lãnh nhận Phép Rửa Tội, nếu ngọn nến đức tin vẫn còn cháy sáng trong cuộc đời, thì quả thật chúng ta là người có phúc và cái chết không còn là một giây phút kinh hoàng và khiếp hãi nữa.
Cuộc đời là một chuyến viễn du trong đêm tối, nhưng bên kia là bình minh ló hiện. Cuộc đời chúng ta là một hành trình trên mặt biển đầy sóng, nhưng bên kia là bến bờ hạnh phúc, ở đó Thiên Chúa đang mở rộng vòng tay để chờ đón chúng ta. Nếu bây giờ chúng ta đã chuẩn bị và sẵn sàng như năm cô trinh nữ khôn ngoan, thì khi Chúa đến chúng ta sẽ không chết nhưng thực sự bắt đầu sống, vì bấy giờ chúng ta được sinh ra cho cuộc sống mới, cuộc sống muôn đời.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết khử trừ tội lỗi trong tâm hồn và chất đầy trên đôi tay nhỏ bé những công việc sáng chói là những hành động bác ái yêu thương, để khi Chúa đến chúng con sẽ được Chúa đón nhận vào bàn tiệc Nước Trời. Amen.
27. Khôn và dại
Nước Trời là tiệc cưới. Ăn tiệc cưới thì phải có y phục lễ cưới xứng đáng. Nói khác hơn là trinh nữ khôn có đèn và dầu đầy bình "sẵn sàng" mọi lúc dù chàng rể đến muộn. Chúng ta hãy xem xét chi tiết của dụ ngôn các cô trinh nữ khôn và dại. Là trinh nữ chưa đủ còn phải khôn "có đèn có dầu". Sạch như trinh nữ còn cần phải có việc lành có thưởng.
Vài điểm chú giải
- Các cô dại có đèn mà không có dầu còn các cô khôn có đèn và dầu đầy đủ: đèn hết dầu đèn tắt, thiếu dầu thì không đồt đèn cho sáng được.
- Chàng rể đến muộn: Theo tục lệ Do thái rước dâu ban đêm vào lúc bên gái bất ngờ để có cớ chọc "quê" mà vào tiệc nhậu cho ngon rồi động phòng (nên đàng gái phải cho người cầm đèn chạy tới chạy lui ngoài đường luôn để "trinh sát" bên trai không thấy có bất ngờ).
- Các cô dại nói với các cô khôn rằng "xin cho chúng em chút dầu": Không được hiểu là chuyện đời thường "đèn đuốc rước dâu" mà là chuyện cánh chung, là ngày phán xét.
- E không đủ cho chúng em và các chị: Giờ phán xét mỗi người lo cho mình còn không xong, dư đâu mà cho. Những người đợi giờ chót mà xin thì hãy nhìn đây.
- Các chị ra hàng mà mua: dầu, áo cưới thì có thể ra hàng mà mua còn việc lành, bác ái thì đi đâu mà mua. Vả lại hết giờ rồi. Hối cũng không kịp.
-....Chàng rể đến, các cô sẵn sàng thì cùng vào phòng tiệc cưới và cửa đóng lại: Nước trời không có cửa. Ý nói hết giờ. Không còn làm gì được nữa.
- Thưa ngài xin mở cửa cho chúng tôi với, tôi không biết...: Các cô ấy không có đủ diện mạo để "được nhận biết" (thiếu dầu, đèn không cháy sáng, nhìn không thấy, không biết). Đi xuống luyện ngục mà luyện cho sáng rồi trở lại thì được vào.
- Vậy anh em hãy sẵn sàng vì anh em không biết ngày nào giờ nào: Lời căn dặn cuối cùng được lập lại như một "điệp khúc" không nhàm tai "sẵn sàng".
Giờ phán xét các cô "khôn" được theo chàng rể vào phòng ăn tiệc cưới. Các cô "khờ" bị không biết, bị bỏ ở ngoài.
Khôn là có đèn có dầu đầy đủ. Dại là có đèn mà không đủ dầu khi chàng rể đến, không đốt đèn sáng lên được, không được nhìn thấy, không được cho nhập đoàn rước vào nhà tiệc ăn cưới. Cách nói tượng trưng. Đủ là khôn, thiếu là dại.
Là sao? Trinh nữ là có đời sống trong sạch, không có tội. Có đèn, là tín hữu, là kẻ tin. Không có dầu là đức tin không có có việc làm như lời thánh Giacôbê. Việc làm cùa đức tin là làm những điều Đức Giêsu dạy. Chúa Nhật 31 chúng ta đã nghe Đức Giêsu dạy là khiêm tốn phục vụ. Chúng ta sẽ chịu phán xét về tình yêu (mẹ Têrêsa Calcutta).
Xin các chị cho chúng em chút dầu! Sao không chia sẻ, người một chút để đốt đèn lên cùng vào ăn tiệc cho vui cả nhà. Tới đó mà còn ích kỷ! Ích kỷ mà vào thiên đàng? Dạy người ta ích kỷ? ai nấy lo, đèn nhà ai nấy sáng? Những người không lo đợi nước tới trôn mới nhảy thì lý luận như vậy. Thưa không phải là chuyện "giờ đây" mà là chuyện giờ cánh chung, ngày phán xét, khi không còn làm được gì nữa. Hết giờ. Kẻng đã đổ. Mỗi người có đủ thời giờ và phương tiện Chúa ban để "có đủ dầu" mà hời hợt, ơ hờ, cả cố chấp, chỉ lo làm bậy, quýnh quá thì xin xỏ.
E không đủ cho các em và các chị. Giờ phán xét mỗi người lo cho bản thân còn chưa xong. Chỉ các thánh tử đạo là được "tuyển thẳng". Têrêsa Hài Dồng Giesu còn phải bay ngang luyện ngục, nếm thử hơi nóng của lửa rồi mới lên thiên đàng. Đừng đợi tới "bến" rồi xin. Những người "đợi giờ chót" mà xin Chúa hãy coi đây mà biết lo.
Đập cửa kêu xin thì chàng rể là Chúa Giêsu sẽ trả lời "lạnh ngắt" ta không biết là ai vì không có đèn sáng, tối thui làm sao thấy mà nhận cho ra. Còn một vài hạt bụi cũng không sáng đủ. Xuống luyện ngục mà thanh luyện cho trắng tinh rồi trở lại sẽ được nhận thấy.
Quá khắt khe, quá hẹp làm sao ai lên được! Có. Chúa ban cho tất cả đủ thời giờ và phương tiện. Khi cho thì Chúa vô cùng rộng rãi và Chúa phán xét theo như đã cho. Khi Chúa hỏi "sao bạn vào đây mà không có y phục lễ cưới" thì người ấy cứng họng". Hãy thực tế, đừng vớ vẩn. Chúa công bình, không hẹp hòi, không khắt khe. Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
Hãy nhớ đủ ba điều kiện: là Trinh nữ (trong sạch), có đèn (có đúc tin), có dầu đủ (đời sống bác ái phục vụ nhiệt tình). Tóm tắc là sẵn sàng. Giờ phán xét là vậy. Chỉ có sẵn sàng. Có bao nhiêu người sẵn sàng? 5/5? Không thấy ai sẵn sàng trừ một ít các thánh.
28. Chúa sẽ đến
Đối với mười cô trinh nữ, thì việc chàng rể sẽ đến là một xác tín mãnh liệt và hiển nhiên. Họ đã chuẩn bị đèn đuốc, đã đi nghênh đón và đợi chờ chàng rể tại một nơi đã được ấn định. Họ tin chắc chắn rằng chàng sẽ tới. Tin chắc đến độ không còn lo âu và băn khoăn trước sự chậm trễ của chàng. Họ đã thiếp đi và ngủ cả. Đó là dấu chỉ cho thấy tâm hồn họ thật bình thản. Còn đối với chúng ta thì sao?
Chúng ta cũng tin chắc chắn rằng Chúa sẽ đến. Tuy nhiên, đôi lần việc chờ đợi đã làm cho niềm tin ấy bị lu mời và phai nhạt. Ngài sẽ đến, nhưng xem ra mọi sự lại diễn ra một cách quá bình thường. Ngài sẽ đến, nhưng lại chẳng có dấu chỉ gì báo trước. Ngài sẽ đến, nhưng sao lại vẫn thinh lặng., một sự thinh lặng dễ sợ. Sự hao mòn của thời gian dễ dàng tàn phá lòng kiên nhẫn của chúng ta.
Những câu hỏi bắt đầu được đặt ra, rồi những nghi vấn được chen vào làm cho niềm xác tín bị lung lay. Thêm vào đó, những kiến thức hời hợt và nông cạn sẽ làm phut tắt ngọn đèn nội tâm của chúng ta và đặt trong chúng ta một tình trạng dửng dưng nào đó, bởi vì các biến cố đã được tiên báo xem ra thật đáng nghi ngờ. Bấy giờ, nếu thình lình xảy ra những tai ương hoạn nạn, thì sự chờ đợi có thể chìm sâu vào thất vọng và bị coi là hoàn toàn vô ích.
Chúa sẽ đến, đó là một điều chắc chắn và là một xác tín phải được củng cố trong suốt cuộc đời chúng ta. Đó không phải là một giả thuyết, nhưng là một thực tại hiển nhiên của tương lai. Và vì liên hệ tới tương lại, nên đó cũng chính là một viễn tượng duy nhất chắc chắn như cái chết phần xác của chúng ta. Ước gì niềm xác tín này làm cho cõi lòng chúng ta được tràn ngập an bình và tâm hồn chúng ta được hoàn toàn thanh thản.
Chúa sẽ đến và Ngài sẽ đến một cách bất ngờ. Đó là khía cạnh thứ hai trong câu chuyện mười cô trinh nữ. Vào nửa đêm, có tiếng hô to:
- Kìa chàng rể đến.
Như thế, việc chuyển sang một ngày mới cũng là việc chuyển đổi từ tình trạng này đến tình trạng kia. Bất ngờ và cưỡng chế, đó là đặc tính của việc Chúa đến trong Lời mà chúng ta đang nghe lúc này đây của thánh lễ. Đấy là như một dấu báo hiệu: Trước đó, nó đã cho thấy thật là phi lý nếu chúng ta tưởng rằng mình sẽ có đủ thời giờ để canh chừng. Không báo trước như một tiếng sét giữa bầu trời quang đãng, như một tiếng kèn bất chợt vang lên, hay như một con đường đi Đamas khiến cho Phaolô bị quật ngã, xem ra rất bình thường nhưng lại có tính cách quyết định cho số phận đời đời.
Cuộc viếng thăm trọng đại này sẽ áp đặt và mang đi tất cả, nhưng đồng thời cũng ban sự sống cho những gì phù hợp với nó và cho những ai đợi chờ nó.
Tuy nhiên, hăng hái trông mong và hăm hở đi đón mừng Chúa đến với một đức tin kiên vững mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải tích cực chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ định mệnh này, bằng cách tích lũy cho mình thật nhiều những việc lành phúc đức, thật nhiều những hành động bác ái yêu thương, thật nhiều những thái độ xả thân phục vụ những người hèn mọn chung quanh chúng ta. Chỉ một đời sống hoàn toàn dấn thân cho Chúa và cho anh em mới có thể rạng gnời như đèn sáng trong đêm tối trần gian và cho phép chúng ta được yên giấc ngàn thu vì biết rằng Chúa sẽ mở cho chúng ta cánh của phòng tiệc của Ngài.
29. Cho ngày hôm nay – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Trong mục “cửa sổ tâm hồn” của báo Tuổi trẻ có đăng một bài với tựa đề “cho ngày hôm nay” như sau:
Có hai ngày trong tuần chúng ta không nên lo lắng.
Một ngày là ngày hôm qua, với những sai lầm, những âu lo, những tội lỗi, những thiểu sót và những nỗi đau. Ngày hôm qua đã đi qua. Mọi tiền bạc trên đời này cũng không thể đem ngày hôm qua quay trở lại. Chúng ta không thể nào hủy bỏ một hành động mà chúng ta đã làm cũng như không thể nào xóa đi một ngôn từ mà chúng ta đã thốt ra. Ngày hôm qua đã đi xa rồi!
Còn một ngày nữa mà chúng ta không nên lo lắng, đó là ngày mai với những kẻ thù quá quắt, những gánh nặng cuộc sống, những hứa hẹn tràn trề. Mặt trời của ngày mai sẽ mọc lên hoặc là chói lọi hoặc là khuất sau đám mây, nhưng dù gì thì nó vẫn sẽ mọc lên. Và trước khi nó mọc lên, vào ngày mai chúng ta chẳng có mối đe dọa nào, bởi lẽ nó vẫn chưa được sinh ra.
Vì vậy chỉ còn một ngày duy nhất là ngày hôm nay. Bất cứ ai cũng đều phải đấu tranh để sống dù chỉ một ngày. Thật ra chẳng phải những gì trải qua ngày hôm nay khiến người ta phát điên rồi – mà đó chính là sự hối tiếc về những gì đã xảy ra ngày hôm qua và những lo sợ về những gì ngày mai có thể đem đến.
***
“Năm cô trinh nữ khôn ngoan” là những con người của ngày hôm nay. Các cô không hối tếc cho ngày hôm qua, cũng không lo lắng cho ngày mai, vì ngày hôm nay, các cô đang cầm đèn cháy sáng trong tay theo chú rể vào dự tiệc cưới.
“Năm cô trinh nữ khờ dại” mãi mãi là những con người của ngày hôm qua. Cho dù các cô có đi mua thêm dầu, rồi cầm đèn cháy sáng trong tay, nhưng đã quá muộn, vì cửa đã đóng. Ngày hôm qua đã đi xa rồi!
Cuộc đời người tín hữu Kitô lúc nào cũng phải được xem là ngày hôm nay, luôn sẵn sang chờ chàng rể đến, để vào dự tiếc cưới Nước Trời. Thế nào là người tín hữu luôn sẵn sang? Tin Mừng hôm nay chỉ rõ: “Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. Còn những cô khôn ngoan thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo” (Mt 25,4). Cốt lõi vấn đề là ở chỗ đó. Các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo, nên các cô sẽ mãi mãi là người đến sau, mãi mãi phải đứng bên ngoài, suốt đời hối tiếc. Vì ngày hôm qua đã đi xa rồi!
Trái lại, các cô khôn ngoan vừ amang đèn vừa mang theo chai dầu. Đèn chính là Ánh Sáng Đức Tin luôn chiếu tỏa từ này chịu phép rửa tội. Đã có đèn thì phải có dầu; đã thắp đèn thì phải hao dầu, hao dầu thì phải châm thêm mỗi ngày. Dầu ấy chính là dầu BÁc ái yêu thương. Chỉ có dầu Tình yêu mới thắp sáng được cây đèn Đức tin của người tín hữu. Thánh Gioan viết: “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8).
Ai vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo người đó được kể là người sẵn sàng và là thực khách danh dự của tiệc cưới Nước Trời. Thánh Matheu ghi rõ: “Những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới”. Vì thế, những người luôn sẵn sàng là những con người của ngày hôm nay, không hối tếc cho ngày hôm qua đã đi xa rồi, cũng chẳng lo lắng cho ngày mai chưa tới, nhưng chỉ “tỉnh thức” trong ngày hôm nay cho đèn luôn cháy sáng, cho dầu với lại đầy.
Người ta cứ tự hỏi: Bao giờ chàng rể đến? Bình dầu thì cứ vơi dần! Màn đêm buông xuống, đôi mắt cũng nặng trĩu theo! Chờ đợi bao giờ cũng mệt mỏi căng thẳng! – Biết rằng đèn cháy sáng thì dầu cũng cạn. Tình yêu chờ đợi mãi cũng mòn mỏi, lời kinh có khi cũng phôi pha, cây đàn có lúc cũng quên mất nốt nhạc. Hãy kín múc dầu tình yêu nơi Suối Nguồn Yêu Thương, chính là Bí tích Thánh Thể. Nơi đó, chúng ta không chỉ nhận được dầu tình yêu, dầu ân sủng, mà còn được trao ban chính mình Người làm của ăn, để chúng ta tỉnh thức mà chờ đợi Người dẫn đưa ta vào tiệc cưới Nước Trời.
***
Lạy Chúa, xin thương đổ tràn vào long chúng con dầu Tình yêu của Chúa, để chúng con thắp sáng mãi ngọn đèn Đức tin mà Chúa đã cho mỗi người chúng con.
Xin cho chúng con chỉ biết có một điều, là ngày hôm nay chúng con đang chờ đón Chúa đến trong cuộc đời chúng con. Amen.
30. Sẵn sàng
Theo tục lệ tại các nước Trung Đông, thì trong dịp đám cưới, nhà gái thường tổ chức những cuộc vui chơi suốt ngày. Thỉnh thoảng người ta lại loan báo cho biết:
- Chàng rể sắp đến.
Trong thực tế, nửa đêm vào lúc bất ngờ nhất, chàng rể mới xuất hiện. Chàng đến với đèn đuốc sáng trưng để đón cô dâu. Đáp lại, cô dâu cùng các cô phù dâu, cũng phải mang đèn đuốc sáng trưng để bắt đầu cuộc rước về nhà chồng.
Đoạn Tin mừng hôm nay cũng cho hay là chàng rể đến chậm. Sự chậm trễ này cũng là điều bình thường và phần lớn xảy ra là do nhà trai chưa đạt được thỏa thuận về các sính lễ phải đem sang nhà gái trước khi rước dâu.
Tục lệ này tương đương với việc “thách cưới” ở Việt Nam mà dân gian đã có những lời diễu cợt như sau:
- Em là con gái nhà giàu,
Mẹ cha thách cưới ra màu xinh sao.
Cưới em trăm tấm lụa đào,
Một trăm hòn ngọc, hai mươi tám ông sao trên trời.
Ở Trung Đông, tục lệ này còn nặng nề hơn nữa, đến nỗi cuộc rước dâu có thể bị đình hoãn tới đêm hôm sau do cuộc thương lượng và thỏa thuận kéo dài lê thê…
Vì thế không lạ gì khi thấy các cô phù dâu thiếp đi rồi ngủ cả. Các cô tuy không buộc phải tỉnh thức, nhưng buộc phải sẵn sàng để đón chàng rể với đèn cháy sáng cầm trên tay.
Câu chuyện trên được áp dụng vào hai lãnh vực. Lãnh vực nhân loại và lãnh vực cá nhân.
Trước hết là lãnh vực nhân loại. Như chúng ta đã biết chàng rể trong câu chuyện là hình ảnh tượng trưng cho Đức Kitô. Ngài sẽ đến viếng thăm nhân loại vào ngày cuối cùng của vũ trụ vật chất, để phán xét chung hết thảy mọi người.
Tuy nhiên quan trọng hơn đó là lãnh vực cá nhân. Ngài sẽ đến viếng thăm mỗi người chúng ta vào ngày sau hết của cuộc đời để phát xét riêng mỗi cá nhân và ấn định số phận đời đời của chúng ta.
Điều Ngài đòi hỏi nơi chúng ta không phải chỉ là tỉnh thức để biết được ngày giờ nào Ngài sẽ viếng thăm, nhưng cần thiết hơn, đó là thái độ sẵn sàng, để khi Ngài đến, chúng ta không bị bẽ bàng, hut hẫng và đắng cay vì sẽ bị loại trừ.
Vào năm 79 sau công nguyên, thành phố Pompei với trên 20.000 dân bất ưng bị một ngọn núi lửa vùi lấp dưới lớp tro bụi dày hơn 5 thước.
Các nhà khảo cổ đã đào bới và tìm thấy những bộ xương người mà thịt rữa được thay thế bằng những lớp tro chai cứng. Hay họ dùng thạch cao để đắp lại thành hình người theo dựa theo những bộ xương trong tư thế y hệt lúc xảy ra tai nạn núi lửa. Những khuôn đức ấy cho thấy hành vi cuối cùng của một số người trong thành.
Trước hết là một người mẹ trẻ đang ôm chặt đứa con trong vòng tay của mình. Tiếp đến là một người lính gác trong bộ áo giáp với vũ khí trong tay, vẫn đứng thẳng tại vị trí của mình, còn người khác thì tay cầm gươm, chân đạp trên đống vàng, bên cạnh là năm xác chết, có lẽ đó là những người đến để cướp bóc hay hôi của.
Nếu như hôm nay Chúa đến viếng thăm, liệu chúng ta có ở trong tư thế sẵn sàng với đôi tay chất đầy công nghiệp và một tâm hồn trong trắng, như năm cô trinh nữ khôn ngoan cầm đèn sáng đi đón chàng rể hay không?
31. Tỉnh thức
Vào thế kỷ thứ 19, một tác giả vô danh đã kể câu chuyện về một người Mỹ đi du lịch sang Ba Lan, đến thăm thầy Rabbi Hofetz Chaim là người đang được dân chúng kính trọng như một vị thánh rất khôn ngoan. Khi đến nơi cư ngụ của thầy Rabbi, người khách du lịch quá ngạc nhiên khám phá thấy rằng chỗ đó chỉ có một phòng duy nhất mà thôi. Sách vở xếp hàng dọc theo bờ tường; đồ đạc trong nhà chỉ có một cái bàn và một cái ghế. “Nhưng thưa thầy Rabbi”, người khách hỏi, “Đồ dùng của thầy ở đâu?” Thầy Rabbi trả lời bằng cách hỏi lại, “Thế đồ dùng của ông ở đâu?” “Đồ dùng của con?” người du khách lúng túng nói, “Con chỉ là một người khách đến đây, trọ qua đường”. “Tôi cũng thế” thầy Rabbi Hofetz Chaim trả lời, “tôi cũng là khách trọ qua đường vậy thôi”.
Bài Phúc âm hôm nay, thánh Matthêu diễn tả thái độ sẵn sàng của năm cô trinh nữ khôn ngoan và sự ngu xuẩn của năm cô trinh nữ khờ dại. Nếu ví cuộc đời là lữ quán thì chúng ta chỉ là những người khách trọ qua đường. Chúng ta phải có thái độ nào cho thích hợp đối với cuộc sống trần gian?
Sự khôn ngoan là một tặng phẩm được Thiên Chúa ban cho con người để biết cách sống thánh thiện theo đường lối của ngài. Sự khôn ngoan không thể bị nhầm lẫn với sự hiểu biết hay kiến thức của trí óc con người. Kiến thức của con người rất giới hạn, và cuộc sống lại đầy những huyền bí. Sự huyền bí tối cao là Thiên Chúa. Và người khôn ngoan là con người biết sống theo sự hướng dẫn của Đấng Tối Cao.
Năm cô trinh nữ khôn ngoan đã chuẩn bị sẵn sàng chờ đón chàng rể đến. Chàng rể là hình ảnh của Chúa Giêsu đến trần gian, cũng có thể cắt nghĩa đó là những lần Chúa Giêsu đến với chúng ta trong cuộc đời, và cũng có thể hiểu đó là lần chúng ta phải đối diện với Thiên Chúa qua cái chết.
Những du khách tới Paris và Rheims đã chiêm ngưỡng những bức tượng điêu khắc bằng đá từ thời Trung Cổ minh hoạ dụ ngôn hôm nay. Chúa Giêsu được đặt ở chính giữa giống như chú rể. Ở bên phải của Ngài là năm cô trinh nữ khôn ngoan dưới ánh đèn tươi sáng tượng trưng cho dân ngoại. Họ đứng vây quanh Đấng Thiên Sai. Ở bên trái là những cô trinh nữ khờ dại, những người Do thái, đang nhìn buồn bã vào những cái đèn dầu tối om. Họ bước đi trống rỗng và quay lưng lại với Đức Giêsu.
Thánh Bênêđictô đã muốn các tu sĩ trong nhà dòng của ngài mỗi ngày phải nghĩ về sự chết. Ngài đã dạy các tu sĩ rằng: “Hãy giữ cái chết trước mặt của các bạn hằng ngày”. Đây chính là truyền thống của sự khôn ngoan. Nếu chúng ta nhận ra rằng ngày hôm nay có thể là ngày cuối cùng của mình trên trái đất, chúng ta sẽ cố gắng làm những việc tốt đẹp, phải sống thế nào cho xứng đáng, không phải vì sợ, nhưng vì chúng ta muốn ra đi bằng an, muốn chết thánh thiện và thảnh thơi.
Tướng Baden Powell of Gilwell (1857-1941) của Anh Quốc, người sáng lập phong trào Hướng đạo đã để lại “Thông Điệp Cuối Cùng Của BiPi” cho các hướng đạo sinh như sau:
Các Hướng Đạo sinh thân mến.
Nếu các bạn đã có bao giờ xem vở kịch “Peter Pan” thì hẳn sẽ nhớ rằng lão tướng cướp đã luôn luôn làm sẵn bài diễn văn giã biệt cõi đời của mình vì e ngại rằng khi quỷ vô thường đến lão sẽ không có thì giờ để thực hiện điều ấy nữa. Đối với tôi cũng hầu như vậy, cho nên, mặc dầu chưa đến lúc, tôi cũng muốn làm như thế trong những ngày này và tôi xin gửi đến các bạn vài lời từ biệt.
Xin nhớ rằng đây là những lời cuối cùng của tôi – nên mong các bạn hãy để tâm suy nghĩ. Tôi đã có một cuộc đời hạnh phúc nhất và tôi mong muốn mỗi bạn cũng có một cuộc đời hạnh phúc như thế.
Tôi tin tưởng rằng Đấng Tạo Hóa đặt để chúng ta trong thế giới tươi vui này để được hạnh phúc và hưởng cuộc sống. Hạnh phúc không đến từ sự giàu sang, cũng chẳng phải nhờ thành công trong sự nghiệp, cũng không phải sự tự do buông thả. Một bước dẫn đến hạnh phúc là các bạn cần giữ mình khoẻ mạnh khi còn niên thiếu, như vậy các bạn sẽ trở nên hữu ích và có thể hưởng cuộc đời khi trưởng thành.
Việc học hỏi thiên nhiên sẽ cho các bạn thấy có biết bao nhiêu điều đẹp đẽ và kỳ diệu mà Đấng tạo Hoá đã lập ra thế giới này để các bạn thụ hưởng. Hãy thỏa mãn với những gì các bạn đã đạt được và hãy tận dụng nó. Hãy nhìn khía cạnh sáng sủa của sự vật thay vì mặt phía trái.
Nhưng con đường thật sự để được hạnh phúc là đem lại hạnh phúc cho tha nhân. Hãy cố gắng lưu lại cho thế giới này một chút gì đẹp hơn là các bạn đã tìm thấy và khi đến phiên các bạn từ giã cõi đời, các bạn có thể ra đi trong hạnh phúc với sự cảm thụ rằng với bất cứ giá nào, các bạn đã không phung phí thời gian và đã làm hết sức mình.
Hãy “sắp sẵn” trong lối này, là sống hạnh phúc và chết hạnh phúc. Hãy luôn luôn thực hành lời hứa hướng đạo ngay cả sau khi các bạn không còn là một thiếu niên và Thượng Đế giúp các bạn thực hiện điều đó. Bạn của các bạn.
Theo câu châm ngôn “sắp sẵn” của các hướng đạo sinh, chúng ta phải sống giống như những cô trinh nữ khôn ngoan, luôn luôn sẵn sàng đáp trả điều sẽ xảy ra trong cách tốt đẹp nhất và đem lại hạnh phúc cho tha nhân.
32. Hãy sẵn sàng vào dự tiệc Nước Trời
Chúa Giêsu là một vì Thiên Chúa cao trọng nhưng cũng là một Con Người bình dân, yêu mến quê hương. Ngài gắn bó với quê hương của Ngài nên Phúc âm hôm nay trình bày Ngài dùng một hình ảnh quen thuộc của quê hương, hình ảnh về cưới xin mà ai cũng có thể nhận ra bài học mà Ngài muốn nói đến. Bài học đó là chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến.
Thông thường trong một đám cưới, nhân vật chính là cô dâu và chú rể. Nhưng trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu lại đặt trọng tâm về phía các cô phù dâu, bởi vì chàng rể ở đây là Chúa Giêsu, mười trinh nữ phù dâu là toàn thể nhân loại.
Dụ ngôn này trước hết muốn nói đến tất cả mọi người phải sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến, nhưng ngày nào Chúa đến thì không ai biết được, chỉ cần biết rằng ngày đó rất bất ngờ. Hơn nữa, dụ ngôn này còn muốn nhắc tới ngày chết của mỗi người, ngày ấy đến bất ngờ, bất ngờ đến nỗi không ai không ai biết trước được. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường chứng kiến những cái chết, có người chết già là chuyện đương nhiên, nhưng cũng có nhiều người chết khi tuổi còn trẻ trung, cuộc đời họ lên như diều gắp gió. Cái chết không buông tha cho bất cứ một ai! Đời con người đã ngắn ngủi, lại có thể chết bất cứ lúc nào, cho nên đòi hỏi mỗi người phải cẩn thận và chuẩn bị sẵn sàng.
Việc chờ đợi sẵn sàng có tính cách bản thân cá nhân mỗi người, không ai làm thay ai được. Sự sẵn sàng này phải có luôn luôn, kéo dài mãi chứ không phải chỉ trong một thời gian nào thôi, vì Chúa đến bất ngờ, Chúa có thể gọi chúng ta ra khỏi đời này bất cứ lúc nào. Cho nên, như mười trinh nữ, sửa soạn có đèn mà thôi, đèn cháy mà thôi cũng chưa đủ, còn phải dự trữ dầu. Cũng vậy, chúng ta có đạo, có đức tin mà thôi chưa đủ mà còn phải thực hành đạo, sống đạo và ghi nhiều công phúc nữa. Dụ ngôn cho chúng ta thấy, trong mười cô phù dâu, có năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại. Đó là hình ảnh tượng trưng cho hai nhóm tín hữu khác nhau: một nhóm những người khôn ngoan và một nhóm những người khờ dại.
Khôn ngoan hay khờ dại là căn cứ vào cách sống của họ có biết sẵn sàng hay không? Có sống đạo và có công phúc hay không? Năm cô phù dâu khờ dại không chuẩn bị đủ dầu, đến giờ chót đi vay mượn và bị từ chối, có nghĩa là ơn Chúa ban cho người nào là của riêng người đó, không cho được, không vay mượn được. Chúng ta không thể nhường lại ơn Chúa cho ai khác và cũng không ai có thể nhường lại cho chúng ta được. Đàng khác, chúng ta cũng đừng nghĩ rằng: chỉ cần sắm sửa một ít dầu vào phút chót là được. Trái lại, phải sắm sửa cả đời và suốt đời. Sống đạo và ơn Chúa cần phải sắm sửa hằng ngày hằng giờ cho đến chết, vì không ai biết mình chết khi nào, đừng bao giờ nghĩ rằng mình còn lâu mới chết, vì sự chết không kiêng nể ai và cũng chẳng báo trước cho ai cả.
Năm cô khờ dại đã uổng công đi đón và mòn mỏi đợi chờ để rồi cứ phải đứng ở bên ngoài phòng tiệc cưới. Vì thế, nghe và thi hành Lời Chúa là một thái độ sống khôn ngoan để dù thức hay ngủ, ta vẫn trong tư thế sẵn sàng. Việc Chúa đến sẽ không còn là chuyện bất ngờ nữa mà là một cuộc hẹn hò gặp gỡ đầy ý nghĩa đã được chờ đợi.
Vì thế, qua bài Phúc âm hôm nay, chúng ta nghe Lời Chúa Giêsu dạy chúng ta: hãy khôn ngoan như năm cô trinh nữ đem đèn và trữ cả dầu. Chúng ta phải có đèn, đèn muốn hữu dụng phải có dầu, dầu đốt mãi cũng phải hết, do đó, chúng ta phải trữ dầu, trữ càng nhiều càng tốt. Dầu đây là đời sống thiện hảo của mình, là các việc lành, việc tốt, việc bác ái, việc thương người, việc chia xẻ cho những người thiếu thốn bất hạnh vv... Dụ ngôn mười cô trinh nữ, chúng ta thấy cả khôn cả dại đều ngủ, nhưng cái làm cho mười cô trở thành khôn dại khác nhau ở chỗ biết chuẩn bị sẵn sàng. Năm cô khôn đã ngủ nhưng ngủ trong sự sẵn sàng, còn năm cô dại đã ngủ trong một thái độ chểnh mảng, việc đâu hay đó, nhưng đến khi "hay" được thì đã quá muộn rồi.
Mỗi khi lên giường ngủ, chúng ta nên kết sổ cuộc đời chúng ta. Hãy Xét mình, sám hối, ăn năn tội cách trọn hằng ngày trước đi ngủ. Hãy tạ ơn Chúa, xin Chúa tha tội và phó dâng cuộc đời trong tay Chúa và Đức Mẹ. Hãy sám hối và phó thác cho Chúa, sẵn sàng vào tiệc cưới. Đừng chậm trễ nữa, vì cửa Nước Trời chỉ mở ra cho những người hôm nay sẵn sàng dự tiệc, cho những người hôm nay mang canh cánh bên lòng nỗi ưu tư thi hành ý muốn của Chúa, chứ không dành cho những kẻ chỉ biết nói: "Lạy Chúa, lạy Chúa" ngoài môi miệng, để rồi phải nghe trả lời: "Ta không biết các ngươi!" Câu trả lời này cũng là lời phán quyết của Thẩm Phán tối cao trong ngày phán xét cuối cùng.
Nếu chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa trong từng biến cố, nếu chúng ta biết gặp gỡ Chúa trong sinh hoạt, nếu chúng ta tiếp xúc với Chúa trong từng phút giây.., thì cái chết chỉ là một nối dài của cuộc gặp gỡ thân tình này. Người luôn trung thành với những gặp gỡ trong giây phút hiện tại sẽ không phải sợ hãi trong cuộc gặp gỡ tối hậu là cái chết.
Hôm nay vẫn còn thờ giờ để chúng ta "khôn", vẫn còn thờ giờ để chúng ta đổ đầy dầu vào bình mà mang theo, vẫn còn thờ giờ để xây dựng đời mình trên nền tảng thực thi Lời Chúa và Chàng Rễ cũng đang đến loan báo niềm vui hội ngộ. Hãy sẵn sàng ra đón, để cùng Tân Lang vào dự tiệc Nước Trời hưởng niềm vui vô tận.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết tỉnh thức và sẵn sàng, để khi Chúa đến, Chúa sẽ vui mừng khi thấy chúng con tỉnh thức, và Chúa sẽ đưa chúng con vào dự tiệc trong vương quốc vĩnh cửu của Chúa. Amen.
33. Chàng rể đến trễ
(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Ngữ cảnh của đoạn 25, 1-13 là Chúa Giêsu kêu gọi hãy luôn luôn tỉnh thức vì không ai biết ngày Người đến (24:36-25:46). Ý tưởng nầy được lập lại nhiều lần dưới nhiều dạng khác nhau (24:36.42.50; 25:13). Liên kết với hai dụ ngôn đi trước, đoạn 25:1-13 có chung một số từ ngữ như phronimos, “khôn ngoan” (24:45; 25:2), kurios, “Chúa”, “chủ” (24:42.45-50; 25:11), chronizò, “đến trễ” (24:48; 25:5), hetoimos, “sẵn sàng” (24:44; 25:10). Chủ đề của đoạn nầy tiếp tục là sự sẵn sàng để chờ đón Chúa đến.
Về bố cục có thể phân chia như sau: 1/ Dẫn nhập. Các trinh nữ và chàng rể (25:1-5); 2/ Hành động của các trinh nữ (25:6-9); 3/ Số phận khác nhau của các trinh nữ và kết luận (25:10-13). Cách phân chia nầy dựa trên sự xuất hiện và phân bố của động từ exerchomai (c. 1.6), aperchomai và eiserchomai (c. 10). Tất cả đều diễn tả hành động “đi” của các trinh nữ. Hai lần đầu (c. 1 và 6) họ cùng chung một hướng là đi đón chàng rể. Lần cuối cùng (c. 10) họ đã chia tay và đi hai hướng khác nhau. Năm cô khờ dại ra đi để mua dầu và sẽ đứng ngoài cửa, còn năm cô khôn ngoan đi vào phòng tiệc cưới với chàng rể.
Dẫn nhập. Các trinh nữ và chàng rể (cc. 1-5)
Matthêô lấy dụ ngôn sắp được kể để so sánh với Nước Trời. Đặc biệt ở đây Matthêô dùng động từ homoioò ở thì tương lai thụ động (x. 18:23; 22:2), “Nước Trời sẽ được ví như …”. Nước Trời không được so sánh như mười cô trinh nữ, nhưng như những gì sẽ xảy ra cho các cô ấy vào kết thúc dụ ngôn. Nước Trời sẽ đến một thời điểm quyết định: những ai sẵn sàng thì được vào, những ai không sẵn sàng thì phải đứng bên ngoài cửa.
Theo phong tục, vào ngày cưới chàng rể đi về nhà cha mẹ cô dâu để rước nàng. Rồi các trinh nữ rước đôi tân hôn về tận nhà chàng rể và ở đó họ tổ chức lễ cưới và tiệc cưới. Các trinh nữ phải mang theo đèn và dầu khi phải rước vào ban đêm. Mục đích của việc mang đèn theo là “đi ra đón chàng rể”. Ngoài bản văn nầy, nymphios, “chàng rể”, chỉ xuất hiện thêm một lần khác ở 9:15, và ám chỉ Chúa Giêsu.
Mười cô trinh nữ được chia làm hai nhóm: năm cô khờ dại tương phản với năm cô khôn ngoan (c. 3). Cặp “khờ dại” (7:26) và “khôn ngoan” (7:24) gặp lần đầu tiên ở dụ ngôn xây nhà. Và gần hơn Matthêô nói đến người đầy tớ khôn ngoan (24:45). “Khờ dại” hay “khôn ngoan”, không quy chiếu về các khả năng trí tuệ, nhưng hệ tại sự thận trọng và quyết định. Sự khôn ngoan hay khờ dại của các cô trinh nữ như là một tình trạng; động từ “là” ở thì quá khứ chưa hoàn thành (imperfect). Câu chuyện trong dụ ngôn nầy là một thí dụ điển hình: các cô khờ dại “không mang theo dầu”, trong khi các cô khôn ngoan “mang theo dầu” (c. 4).
Chàng rể đến chậm, trái với sự mong đợi của các trinh nữ; “de”, “nhưng” mang tính cách trái ngược (adversative). Không một lý do nào đưa ra giải thích sự chậm trễ nầy. Sự chậm trễ của chủ/Chúa cũng được nói đến trong dụ ngôn trước (24:48). Trong khi chàng rể chưa đến, các cô trinh nữ đều rơi vào tình trạng như nhau là buồn ngủ và ngủ thiếp đi. Không giống với dụ ngôn trước, người đầy tớ khôn ngoan là người phải thức tỉnh chờ đợi cho đến khi chủ về và mở cửa cho chủ. Vậy sự khác biệt giữa các cô trinh nữ là mang theo dầu cho đèn của mình hay không.
Hành động khác biệt của các trinh nữ (25:6-9)
Phần thứ hai mở đầu bằng tiếng kêu báo chàng rể đến lúc nửa đêm (c. 6). Đến “nửa đêm” là đến bất ngờ lúc mà các trinh nữ đều ngủ say. Điều nầy liên hệ đến câu kết là không ai biết “ngày và giờ” của Chúa đến (c. 13; x. 24:48.50.51). Bởi việc đến bất ngờ nầy mà sự khôn ngoan và khờ dại của các trinh nữ sẽ được tỏ lộ.
Lần cuối cùng nhắc đến hành động chung của họ là tất cả các trinh nữ đều “chỗi dậy và sửa soạn đèn của họ” (c. 7). Hai câu kế tiếp 8 và 9 là cuộc đối thoại giữa hai nhóm, và nội dung liên quan đến đèn và dầu của họ. Lúc nầy các động từ chuyển sang thì hiện tại diễn tả hành động đang diễn ra. Đèn của các trinh nữ khờ dại đang bị tắt, và họ xin các trinh nữ khôn ngoan dầu bằng một mệnh lệnh “Hãy cho chúng tôi dầu” (c. 8). Đáp lại các trinh nữ khôn ngoan dùng hai mệnh lệnh: “hãy ra đi” và “hãy mua” (c. 9). Bên sau hình ảnh đèn ngún tắt của các trinh nữ khờ dại là sách Châm ngôn 13:9; Gióp 18:5.
Số phận khác nhau của các trinh nữ và kết luận (25:10-13)
Sang phân đoạn cuối nầy các trinh nữ không còn đi chung một hướng và làm chung một hành động nữa; họ đã cùng đi ra, exerchomai, đón chàng rể (c. 1.6). Trong câu 10, động từ “đi” được dùng đến 3 lần để diễn tả những gì xảy ra cho các trinh nữ. Khi các trinh nữ khờ dại ra đi, aperchomai, chàng rể đến, erchomai, và các trinh nữ khôn ngoan đi vào, eiserchomai, dự tiệc cưới với chàng rể. Lúc nầy các trinh nữ khôn ngoan được gọi là những người đã chuẩn bị/sẵn sàng, hetoimos. Từ nầy được dùng trong dụ ngôn trước khi trong lời kêu gọi phải sẵn sàng vì không biết giờ nào Con Người sẽ đến (24:44). Vậy “khôn ngoan” có thể hiểu là “sẵn sàng/đã chuẩn bị” cho ngày giờ Chúa đến. Các trinh nữ khôn ngoan đã chuẩn bị cho việc chàng rể đến trễ. Hình ảnh “cửa đóng lại” nhấn mạnh sự kiện là người đứng ngoài không thể vào được hơn là những người đã vào dự tiệc cưới bên trong.
Câu 11 và 12 là cuộc đối thoại giữa chàng rể bên trong cửa và các trinh nữ khờ dại đứng bên ngoài. Một mẫu tương tự như thế tìm thấy trong Lc 13:25. Sự tương phản giữa các trinh nữ ở đây vẫn còn: trong khi cửa đóng lại với các trinh nữ khôn ngoan ở bên trong, còn các trinh nữ đứng bên ngoài thì xin mở cửa, “Hãy mở cửa cho chúng tôi!”. Họ đã bị từ chối. Chàng rể bây giờ được gọi là “Chúa”. Tiếng kêu của các trinh nữ khờ dại Kurie, kurie, “Lạy Chúa, lạy Chúa” lúc nầy là áp dụng cụ thể cho lời Chúa Giêsu đã nói trước về những người không thực hành ý muốn của Chúa (7:20-23). Những ai không thực hành ý Thiên Chúa thì không được Thiên Chúa nhận biết. Cũng thế, các trinh nữ khờ dại bị chàng rể tuyên bố là không biết họ, vì họ đã không quan tâm chuẩn bị cho mình để có thể đón rước chàng rể bất cứ tình huống nào.
Dụ ngôn kết thúc bằng một huấn dụ “Vậy hãy tỉnh thức…” (c. 13). Liên từ oun, “vậy”, chỉ huấn dụ nầy rút ra từ dụ ngôn trên. Động từ grègoreò, “tỉnh thức”, Matthêô chỉ dùng trong các dụ ngôn nói về việc Chúa đến vào ngày giờ không ai biết (24:42.43; 25:13) và trong đoạn Chúa Giêsu và các môn đệ trong vườn Cây Dầu (26:38.40.41). Trong cả hai trường hợp, “tỉnh thức” có nghĩa là “sẵn sàng”, như chủ nhà phải chuẩn bị nếu như biết kẻ trộm sẽ đào ngạch vào nhà, hay như các tông đồ phải sẵn sàng để trợ lực Chúa Giêsu khi Người đang “buồn sầu cho đến chết” (26:38), và để chống lại cám dỗ mà các ông rất dễ sa vào là bỏ rơi Chúa (c. 26:41). Vậy “tỉnh thức” có nghĩa là chuẩn bị sẵn sàng những gì cần thiết cho chính mình để có thể vào dự tiệc Nước Trời khi Chúa đến.
Khi viết dụ ngôn về các cô trinh nữ, Matthêô nhắm đến những người Kitô hữu. Họ như các trinh nữ đang cầm đèn đi đón Chúa Kitô. Họ có thể là những người khờ dại và khôn ngoan. Việc vào Nước Thiên Chúa còn tùy vào mỗi người. Khởi đầu ai cũng giống nhau, nhưng kết thúc có thể hoàn toàn khác. Sự khôn ngoan đích thực là chuẩn bị cho mình những điều Thiên Chúa mong muốn để có thể đón tiếp Người.
Mặc dù Chúa Giêsu vẫn mời gọi kiên trì trong việc cầu nguyện và gõ cửa, “ai gõ cửa sẽ được mở cho” (7:7), cửa sẽ không mở ra cho những ai đã không sẵn sàng.
34. Tỉnh thức
Chúa Giêsu hay nói về đám cưới, vì đám cưới của người Do Thái sống ở Palestine thời Chúa Giêsu là một cơ hội lễ lạc linh đình. Theo William Barclay, toàn thể dân làng được mời tham dự vào đoàn rước chú rể và cô dâu về nhà mới, họ đứng hai bên đường ca hát và chúc mừng những lời tốt đẹp nhất. Đôi tân hôn không đi xa để hưởng tuần trăng mật, nhưng ở tại nhà, suốt cả tuần lễ tiệc tùng, và được đối đãi quý trọng như hoàng tử và công chúa. Đây là tuần lễ quan trọng đáng ghi nhớ nhất trong đời của một người. Do đó, theo luật lệ của các thầy Rabbi, ngày lễ cưới là ngày hoan lạc vui tươi, tất cả khách đến tham dự được miễn trừ không phải giữ luật ăn chay.
Thánh lễ cưới theo nghi thức tây phương, cô dâu đóng vai trò quan trọng với nghi thức rước dâu. Khi cô dâu xuất hiện, mọi người đều đứng lên tập trung vào cô dâu đẹp đẽ trong y phục áo cưới tiến lên bàn thờ với đoàn rước và tiếng nhạc hoan ca. Còn chú rể chỉ đứng chờ đợi sẵn trên bàn thờ đón tiếp cô dâu.
Trái lại, trong nghi thức đám cưới Do Thái, chú rể là người quan trọng. Mọi người phải chờ đợi và đón chú rể. Trước hết, nếu lễ cưới vào ban đêm, chú rể phải đi tới nhà cô dâu để thương lượng với người cha hay anh em của cô dâu về tiền bạc, quà cáp, của hồi môn… vào lúc mặt trời lặn. Thời đó chưa có đồng hồ, nên không thể định rõ giờ giấc để đón rước chàng rể từ nhà cô dâu về nhà chú rể được. Hơn nữa, theo phong tục, chú rể thường cố ý trì hoãn và kéo dài cuộc thương lượng để cô dâu và những nàng phù dâu phải chờ đợi trong hồi hộp và ngạc nhiên. Vì suốt ngày tiệc tùng, dạ vũ, nên chờ đợi đến khuya thường mệt mỏi và buồn ngủ. Mười cô trinh nữ được mời tham dự có bổn phận phải chuẩn bị sẵn sàng đèn đuốc để thắp sáng đường đi rước chú rể, cô dâu và khách đến tiệc cưới. Đây là một vinh dự rất đặc biệt cho các cô trinh nữ được mời.
Tuy nhiên, theo bài Phúc âm diễn tả, năm cô khờ dại chưa chuẩn bị sẵn sàng, không mang theo đủ dầu cần thiết, khi chú rể đến thì họ lại hết dầu. Điểm rất quan trọng cần lưu ý ở đây là thời xưa không ai được phép ra đường vào ban đêm mà không có đèn, nhất là trinh nữ. Vì bóng đêm với đầy dẫy sự nguy hiểm của gian tà tội lỗi!
Thánh Augustinô đã chú giải như sau: “Năm cô trinh nữ khờ dại trong bài Phúc âm hôm nay thực sự là ngu xuẩn. Họ khờ dại vì đã chểnh mảng giữ giới răn dễ dàng hơn, đó là mến Chúa và yêu người, để liều lĩnh giữ giới răn về sự thanh khiết”. Họ phải yêu thương tha nhân bằng việc thắp đèn dầu của mình soi sáng đường đi cho mọi người đến đón chú rể. Họ ngu xuẩn vì họ đã bỏ qua giới răn quan trọng và dễ thi hành này, “mến Chúa và yêu người”, để giữ một giới răn khó khăn là sự trong sạch. Theo William Barclay, tiệc cưới là những ngày hội vui tươi và linh đình, kéo dài cả tuần lễ. Ăn uống, vui chơi, đàn ca và khiêu vũ không chỉ dành riêng cho đôi tân hôn, nhưng cả bạn bè và những người thân đều được mời tham dự. Do đó, những cô trinh nữ khờ dại đã bị loại ra, uổng mất cơ hội hoan lạc đáng kể này!
Những nhân viên sĩ quan và thủy thủ đoàn cấp cứu của con tàu Titanic rất giống với những cô trinh nữ khờ dại trong dụ ngôn của Chúa Giêsu. Họ đã không chuẩn bị đầy đủ cho điều có thể xảy ra vì họ tin rằng con tàu của mình không thể chìm nổi, nhưng trong một số trường hợp họ cũng không biết điều khiển máy móc làm cho những chiếc thuyền cấp cứu hạ thấp xuống nước nữa. Do đó, khi tai nạn xảy đến, tất cả chỉ là một đám đông hỗn độn: thủy thủ đoàn không được huấn luyện không biết phải làm gì. Và khi họ phát ra những chiếc phao cấp cứu, họ mới khám phá thấy rằng tất cả những dụng cụ cấp cứu và phao nổi đã quá ít so với số hành khách và thủy thủ đoàn.
Đừng bắt chước năm cô trinh nữ khờ dại. Họ nghĩ rằng có thể mượn được dầu từ người khác. Chúng ta cũng không thể nào vay mượn được đời sống tinh thần của người khác. Phải tự phát triển đời sống đạo đức của riêng mình. Không ai có thể sống dùm cho chúng ta. William Barclay ví von rằng, chúng ta không thể nào vay mượn được tính tình và nhân đức giống như vay tiền từ thẻ tín dụng! Năm cô trinh nữ khôn ngoan và năm cô trinh nữ khờ dại là những biểu tượng của những cách sống của con người. Xin Chúa Thánh Linh ban cho chúng ta ơn khôn ngoan để biết sống sẵn sàng vâng theo đường lối của Thiên Chúa.
35. Sẵn sàng
Bài Tin Mừng là một dụ ngôn của Chúa Giêsu, Chúa đã dùng một hình ảnh quen thuộc về cưới xin của quê hương Ngài để dạy chúng ta một bài học, là phải luôn luôn sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến. Trong một đám cưới, nhân vật chính là cô dâu và chú rể. Nhưng trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu lại đặt trọng tâm về phía các cô phù dâu, bởi vì chàng rể ở đây là Chúa Giêsu, mười trinh nữ phù dâu là toàn thể nhân loại.
Dụ ngôn này trước hết nói đến tất cả mọi người phải sẵn sàng chờ đợi ngày tận thế, ngày Chúa tái giáng để phán xét toàn thể nhân loại, ngày nào Chúa trở lại thì không ai biết được, chỉ cần nhớ rằng ngày đó rất bất ngờ. Đàng khác, dụ ngôn này cũng muốn nhắc tới ngày chết của mỗi người, ngày ấy cũng rất bất ngờ, không ai biết trước được. Đời con người đã ngắn ngủi, lại có thể chết bất cứ lúc nào, cho nên đòi hỏi mỗi người phải cẩn thận và sẵn sàng.
Việc chờ đợi sẵn sàng có tính cách bản thân cá nhân mỗi người, không ai làm thay ai được. Sự sẵn sàng này phải có luôn, kéo dài mãi chứ không phải chỉ trong một thời gian nào thôi, vì Chúa đến bất ưng, Chúa có thể gọi chúng ta ra khỏi đời này bất cứ lúc nào. Cho nên, như mười trinh nữ, sửa soạn có đèn mà thôi, đèn cháy mà thôi cũng chưa đủ, còn phải dự trữ dầu. Cũng vậy, có đạo, có đức tin mà thôi chưa đủ mà còn phải có sự nghiệp đức tin và công phúc nữa.
Dụ ngôn cho chúng ta thấy, trong mười cô phù dâu, có năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại. Đó là hình ảnh tượng trưng cho hai nhóm tín hữu khác nhau: một nhóm những người khôn ngoan và một nhóm những người khờ dại. Khôn ngoan hay khờ dại là căn cứ vào cách sống của họ có biết sẵn sàng hay không? Có sự nghiệp đức tin và công phúc hay không? Năm cô phù dâu khờ dại không chuẩn bị đủ dầu, đến giờ chót đi vay mượn và bị từ chối, có nghĩa là ơn cứu rỗi của mỗi người là tự mình sắm sửa lấy cho mình. Mỗi người phải có sự nghiệp đức tin riêng. Sự cứu rỗi là của riêng mỗi người, không vay mượn được. Chúng ta không thể nhường lại cho ai khác và cũng không ai có thể nhường lại cho chúng ta được. Đàng khác, chúng ta cũng đừng cho rằng: chỉ cần sắm sửa một ít dầu vào phút chót là được. Trái lại, phải sắm sửa cả đời và suốt đời. Sự nghiệp đức tin phải sắm sửa hằng ngày cho đến chết, vì không ai biết mình chết khi nào, đừng bao giờ nghĩ rằng mình còn lâu mới chết, vì sự chết không kiêng nể ai và cũng chẳng báo trước cho ai cả.
Vì thế, bổn phận của chúng ta là phải luôn sẵn sàng, lúc nào cũng chuẩn bị trước cho mình một sự nghiệp nước trời theo gương nhân vật trong câu chuyện sau: Bá tước Henri đơ Bavie, người sau này trở thành hoàng đế nước Đức, và Giáo Hội đã phong thánh cho ngài. Ngài thường cầu nguyện bên mộ thánh Uôngang. Một hôm thánh Uôngang hiện ra với ngài và chỉ cho ngài một dòng chữ viết trên mộ: “Sau sáu…” chỉ có hai chữ đó thôi, rồi thánh nhân biến đi. Henry suy nghĩ mãi, không hiểu “sau sáu…” nghĩa là gì? Ngài nghĩ rằng có lẽ Chúa muốn cho ngài biết sau sáu ngày nữa mình sẽ chết chăng? Ngài liền dọn mình chết cách nghiêm túc. Nhưng sau sáu ngày vẫn không có sự gì xảy ra. Ngài cho rằng: sau sáu tuần chăng? Ngài lại dọn mình chết trong sáu tuần. Sáu tuần lại qua đi vô sự. Ngài lại nghĩ sau sáu tháng chăng? Sáu tháng lại qua đi. Ngài lại nghĩ sau sáu năm chăng? Ngài kiên trì sống tốt lành, làm thật nhiều việc đạo đức. Sau sáu năm ngài được chọn làm hoàng đế. Dầu vậy, ngài vẫn không thay đổi cách sống, luôn chuẩn bị sẵn sàng chết. Vì thế, ngài đã trở thành một hoàng đế gương mẫu và hơn nữa là một vị thánh.
Chúa Giêsu ân cần nhắn nhủ chúng ta: hãy khôn ngoan như năm cô trinh nữ đem đèn và trữ cả dầu. Chúng ta phải có đèn, đèn muốn hữu dụng phải có dầu, dầu đốt mãi cũng phải hết, do đó, chúng ta phải trữ dầu, trữ càng nhiều càng tốt. Dầu đây là đời sống thiện hảo của mình, loại dầu này nếu có trữ lượng phong phú, việc phòng ngừa và cẩn thận của chúng ta mới thành hiện thực. Dụ ngôn mười cô trinh nữ, chúng ta thấy cả khôn và cả dại đều ngủ, đâu phải chỉ có những cô dại mới ngủ, nhưng cái làm cho mười cô trở thành khôn dại khác nhau ở chỗ biết chuẩn bị sẵn sàng. Năm khô khôn đã ngủ nhưng ngủ trong sự sẵn sàng, còn năm cô dại đã ngủ trong một thái độ chểnh mảng, việc đâu hay đó, nhưng đến khi “hay” được thì đã quá muộn.
Chúng ta hãy nhớ: một ngày nào đó cuộc đời chúng ta sẽ chấm dứt, chúng ta không biết ngày đó là ngày nào, nên chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng, chúng ta phải lo tính cho linh hồn mình, phải luôn sẵn sàng tối đa bằng cách luôn sống tốt lành. Bởi vì chỉ có những ai biết sống như thế mới bảo đảm được hạnh phúc đời đời.
36. Một chủ đề về sự chết và sự sống
Một tác giả trong thành phố Nữu Ước nói chuyện về tuổi thơ ấu của ông ta như sau: Trước ngày sinh nhật thứ mười của ông ta, gia đình ông đã đổi chỗ sinh sống tới mười lần. Kỷ niệm khó quên nhất của ông mỗi lần đến vùng đất mới là luôn luôn chứng kiến sự than khóc của người mẹ trong ngôi nhà mới. Ông đã nhớ lại sự khóc lóc đau khổ của người mẹ khi bà ta mở những thùng đồ ra. Ông cũng nhớ lại người cha của ông nói với ông, "Này con, mẹ con sẽ không sao. Mẹ chỉ chào tạm biệt những người bạn mà mẹ bỏ đi, thì mẹ có thể làm quen được với những người bạn mới ở đây. Vậy con phải chấp nhận sự đau khổ của mẹ."
Có một điều chủ yếu giá trị và sâu xa của Thánh Kinh nơi làm việc trong đoạn đơn giản này. Một trong những tường thuật rõ ràng nhất của chủ yếu này thì đã được tìm thấy trong Phúc Âm Thánh Gioan -- Phúc Âm của "Sự Sống Lại". Phúc Âm Thánh Gioan chia ra làm hai phần. Phần đầu, Gioan kể lại câu chuyện về sứ vụ công khai của Chúa Giêsu vòng quanh những dấu hiệu sống lại. Những dấu hiệu đầu tiên này xẩy ra khi Chúa biến nước thành rượu tại tiệc cưới Cana. Sự biến đổi mầu nhiệm nước thành rượu là một dấu hiệu của Chúa đang làm trong cuộc sống chúng ta đó là biến đổi đau buồn thành niềm vui, thất vọng thành hy vọng, sự chết thành sự sống. Trong bẩy chương đầu của Thánh Gioan, chúng ta tìm thấy sự tham khảo về sự sống lại được lập đi lập lại. Điểm cao nhất trong chương bẩy vẫn còn một dấu hiệu sống lại vĩ đại khác đó là sự sống lại của Lazarô từ cõi chết. Giữa đoạn này, Chúa Giêsu nói, "Ta là sự sống lại." Lúc đó, có một sự thay đổi: Từ chương mười hai trở đi các tông đồ kể về sự chết và sự sống lại của Chúa. Đặt giữa hai đoạn này của Phúc Âm giống như một hạt kim cươmg trong một khung cảnh đẹp, Chúa Giêsu đã nói một câu rất hợp với lẽ thường tình tự nhiên: "Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, nó chỉ trơ trọi một mỉnh, nhưng nếu nó chết đi, nó sẽ sinh được nhiều hoa trái" (Jn 12:24). Thiên nhiên làm chứng cho chu kỳ sáng tạo của sự chết và sự tái sinh. Chúa Giêsu, qua sự chết và sự sống lại, làm chứng cho sự hiện diện của chu kỳ này trong mỗi người chúng ta.
Vào mùa cắm trại hè, có chú bé đã đi tới bệnh xá rên rỉ vì bị cảm lạnh. Cô y tá nói với bé: "Cô sẽ cho em một viên thuốc cảm, em sẽ khỏi; đồng thời, cô cho em biết em có một hồ sơ tốt. Em đã không bao giờ bịnh trước đây." Cậu bé đó đã viết thơ về nhà: "Kính thưa ba má! Hôm nay con bị bệnh. Ba má đoán xem con bịnh gì! Cô y tá nói ngày giờ của con đã được ghi sổ." Thật ra, định mệnh của mỗi người đã được ghi sổ. Nhưng đối diện với thực tại đó Chúa đã có lời hứa lý thú cho chúng ta là từ thân xác hay chết này sẽ sống lại và tái sinh trong thân xác thiêng liêng sáng láng.
Lãnh vực nào trong cuộc sống của bạn nơi mà một vài người chết đang xẩy ra? Người đàn bà khóc lóc đau buồn mổi lần phải rời tới khu nhà mới trong câu chuyện trên là một thí dụ điển hình. Có thể vì cao niên mà những khả năng, sức mạnh, cảm tình đang bị chết dần. Cũng có thể là vì cắt đứt tình bạn hữu. Cũng có thể vì một vài tình trạng nơi làm việc hoặc hàng xóm. Dù bất cứ là cái gì và bất cứ ở đâu liên quan tới nó bây giờ và bắt đầu hiểu cái gì Chúa Giêsu đang nói với bạn rằng: "Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, nó chỉ trơ trọi một mình. Nhưng nếu nót thối đi, nó sẽ sinh nhiều hoa trái." Khi chúng ta nhận ra tiến trình này trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cần hiểu sự cần thiết của sự từ bỏ cái gì mà đang mất hoặc đã mất.
Nữ diễn viên nổi tiếng Helen Hayes nói rằng thời gian đau khổ nhất đến trong cuộc sống của cô là sau khi người con gái mười chín tuổi của cô chết vì bệnh bại liệt. Cô nói rằng thu thập mảnh vỡ của cuộc đời cô và tiến về phía trước là một điều đau đớn nhất cô đã từng làm, nhưng cô đã tìm cách giải quyết được nó, lấy lại nghề nghiệp, và đã làm những điều lạ lùng chống lại bệnh tê liệt. Một lần nọ bác sĩ Jonas Salk nói với cô, "Bạn là một vũ khí lợi hại nhất tôi có trong trận chiến chống lại thứ bịnh này." Một vài năm trước đây, cô Hayes đã thu tất cả gia tài của cô đem đi bán đấu giá và cho tất cả số tiền đó tới hội từ thiện. Khi người ta phỏng vấn, cô nói, "Tôi từ bỏ những thứ đó để tôi không bị vướng víu khi tôi hướng về trời." Từ bỏ! Không vướng víu! Hướng về trời! Sự chết và tái sinh!
Bất kể chúng ta thế nào, thì ngày giờ chúng ta cũng đã được ghi sổ. Giầu hay nghèo, nổi tiếng hay không. Không trừ một ai. Sự chết tuyên bố chiến thắng tất cả. Tuy nhiên trong sự chiến thắng hiện nay chúng ta phải vượt qua. Chúng ta chỉ học được cái gì để sống bởi sức mạnh của Thiên Chúa khải hoàn để có khả năng nói như Thánh Phaolô, "Ô sự chết, chiến thắng của ngươi ở đâu... Tạ ơn Chúa, Người đã cho chúng ta sự chiến thắng trong Đức Giêsu Kitô" (1 Cor 15:55,57). Trong sự liên kết với những người Kitô hữu trung thành của mọi thời đại chúng ta có thể tiếp tục cuộc hành trình, hy vọng nhắm tới sự chiến thắng của cuộc sống trong ngày hạnh phúc cuối đời.
Dụ ngôn trong bài Phúc Âm ngày hôm nay nói về ngày thế mạt liên quan đến sự biết trước được giờ nào chú rể đến tiệc cưới. Chúa Giêsu dùng hình ảnh này tượng trưng cho ngày giờ sắp đến của bữa tiệc đời đời của chúng ta là những người bạn thân vĩnh viễn của Ngài. Đây là cảnh tái sinh của chúng ta trong "trời mới và đất mới khi trời cũ, đất cũ đã qua đi" (Rev 21:1). "Vậy, hãy tỉnh thức" Chúa Giêsu khuyên, "vì các ngươi không biết ngày cũng chẳng rõ giờ" mà chú rể sẽ đến và bữa tiệc sẽ bắt đầu.
Những cây đèn bằng chứng của chúng ta đã đươc đổ đầy dầu hy vọng. Hãy vang dội lại những tiếng kèn reo mừng của các thánh và thiên thần, đóng dấu bằng máu tử đạo, và tin tưởng chắc chắn vào lời nói hy vọng này của Đấng Cứu Thế là ở giữa sự chết này chúng ta đang sống.
37. Sống khôn ngoan
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Dụ ngôn mười cô trinh nữ đi đón chàng rể, trong đó có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan là dụ ngôn có thể nói rất quen thuộc với Kitô hữu. Và chúng ta lại dễ dàng đón nhận bài học là phải tỉnh thức sẵn sàng một cách rất tự nhiên khi chúng ta đã nhìn nhận rằng không ai biết được “cái giờ Chúa đến” với mình, nghĩa là cái giờ mình phải giả từ trần gian. Tuy nhiên, thử hỏi thế nào là khôn ngoan thì hẳn không ít người phải chần chừ hoặc ngần ngại trả lời cách dứt khoát và rõ ràng.
Dưới cái nhìn nhân loại thì khôn ngoan là một nhân đức thuộc phạm trù lý trí. Theo viễn tượng này thì người khôn ngoan là người biết sử dụng trí khôn để phân biệt cái này với cái kia, sự vật này với sự vật khác, biết phân biệt điều đúng với điều sai, cái tốt với cái xấu, điều hơn với điều kém… Người khôn ngoan còn biết phân biệt đâu là nguyên nhân, đâu là kết quả, cái gì là bản chất, cái gì là hiện tượng… Sự khôn ngoan dưới góc nhìn này được thủ đắc bằng luyện tập và một vài môn học giúp rèn luyện khả năng phân biệt đó là môn toán học, môn luận lý học…
Vì là một nhân đức thuộc phạm trù lý trí, mà trí khôn con người xem ra bị điều kiện hoá bởi thời gian, tuổi tác. Qua cái ngưỡng cửa tuổi bảy mươi thì nói chung khả năng phân biệt, phán đoán của con người giảm dần. “Càng già, càng lẩn thẩn” là một hiện thực như tất yếu. Thế mà Kitô hữu chúng ta mỗi lần tham dự lễ an táng một người cao niên lại được nghe trích đọc bài trích sách Khôn ngoan: “Người đầu bạc thì khôn ngoan và tuổi già là một cuộc đời thanh sạch” (Kn 4,9) (*). Không thể hiểu sự khôn ngoan của câu trích Lời Chúa này theo nhãn quan nhân loại mà cần phải có cái nhìn khác.
Bài đọc thứ nhất của Chúa Nhật 32 TN A trình bày về Đức Khôn Ngoan như sau: “Đức Khôn Ngoan sáng chói, và không hề tàn tạ. Ai mến chuộng Đức Khôn Ngoan thì đức Khôn Ngoan dễ dàng cho chiêm ngưỡng. Ai tìm kiếm Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan cho gặp. Ai khao khát Đức Khôn Ngoan, thì Đức Khôn Ngoan đi bước trước mà tỏ mình cho biết…” (Kn 6,12 tt). Đức Khôn Ngoan ở đây như được nhân cách hoá. Nó không còn là một thuộc tính của trí khôn mà là một ai đó. Nếu ta thay cụm từ “Đức Khôn Ngoan” bằng cụm từ “Thiên Chúa” thì ý của đoạn văn sẽ rõ ràng và dễ hiểu. Như thế, dưới ánh sáng Lời mạc khải thì Đức Khôn Ngoan được đồng hoá với chính Thiên Chúa, Đấng Toàn Tri, Toàn Thiện, Toàn Ái. Đoạn trích sách Khôn ngoan còn tiếp rằng để đạt tới Đức Khôn Ngoan thì cần chú tâm tới lề luật của Đức Khôn Ngoan và yêu mến là tuân giữ lề luật (x.Kn 6, 17-18).
Như thế người khôn ngoan không chỉ là người biết phân biệt mà trên hết là người có tấm lòng biết yêu mến. Dưới cái nhìn này thì chúng ta mới hiểu được người đầu bạc là người khôn ngoan. Tuổi đời càng cao thì con tim người ta càng dễ mở rộng. Tấm lòng của các cụ ông, cụ bà dành cho cháu con thì hẳn ta đã rõ. Nhiều vị dường như chưa chịu nhắm mắt, xuôi tay, khi chưa thấy cháu con yên bề gia thất. Sốt sắng với việc Nhà Chúa thì ít ai bì với người cao tuổi. Quả thật, dù cho “đa thọ thì đa nhục”, nghĩa là tuổi đời càng chồng chất thì lỗi lầm càng thêm nhiều, nhưng chính khi biết lấy những gì bên trong ra mà phân phát thì mọi sự sẽ nên trong sạch cho chúng ta, chứ không phải do bởi lau chén dĩa bên ngoài (x.Lc 11,37-41).
Trở lại với năm cô trinh nữ khôn ngoan của bài dụ ngôn Chúa Giêsu kể. Các cô được gọi là khôn ngoan vì các cô có tấm lòng với cô dâu, chú rể, với dòng tộc hai họ. Đi đón chàng rể với đèn đầy dầu là một động thái của người có tấm lòng biết lo xa, liệu trước. Các cô tính trước, lo xa không phải vì mình mà vì chính cô dâu, chú rể…Trái lại, năm cô trinh nữ khờ dại là những cô phù dâu ít có tấm lòng với chú rể, cô dâu. Vẫn có đó nhiều cô phù dâu trong các tiệc cưới ngày nay chỉ lo “xoe xua” làm nổi cho bản thân mà chẳng để ý gì đến người khác. Quả là một sự khôn lanh theo kiểu thế gian là tìm mọi dịp để lăng xê chính bản thân mình.
Các nhà chú giải Thánh Kinh cho ta hay: “dầu đèn” theo văn hóa thời bấy giờ có ý nghĩa là những việc tốt, việc lành. Người đã có tấm lòng biết yêu mến thì không bỏ qua một cơ hội dù nhỏ, để làm điều tốt, việc lành cho tha nhân. Và những việc tốt, những việc lành chính là hành trang của người tỉnh thức sẵn sàng khi Chúa đến. Dù Chúa đến bất cứ giờ nào họ luôn có đủ đầy hành trang là các việc tốt để trình diện Vua các vua, Chúa các chúa, Đấng đến thế gian không phải để được hầu hạ nhưng để hầu hạ người ta và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.
Không ai muốn làm người ngu dại. Ai cũng thích được nhìn nhận là khôn ngoan. Tuy nhiên, điều quan trọng là biết sống khôn ngoan theo cái nhìn của Chúa, dĩ nhiên là để làm đẹp lòng Chúa và vì chính hạnh phúc đời đời của chúng ta.
-------------------
(*) Đoạn trích sách Khôn Ngoan 4,9 Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ dịch là: “Đối với con người, sự khôn ngoan còn quý hơn tóc bạc, sống không tì ố đã là sống thọ”.
Một vài bản văn Anh ngữ về đoạn trích Kn 4,9 như sau: “But wisdom is the gray hair unto men, and an unspotted life is old age.” Hoặc “But the understanding of a man is grey hairs. And a spotless life is old age.”
Một bản Pháp ngữ dịch: “Mais la prudence de l'homme lui tient lieu de cheveux blancs, et la longue vieillesse, c'est une vie sans tache.”
Bản dịch khác: “c'est cheveux blancs pour les hommes que l'intelligence, c'est un âge avancé qu'une vie sans tache.” (La Bible de Jérusalem)
Không biết nguyên bản thế nào, nhưng so với một vài bản văn Anh ngữ và Pháp ngữ trên đây thì nội dung đoạn trích Kn 4,9 của bản dịch đang dùng trong sách bài đọc hiện hành khá tương đồng với nhau hơn là bản văn dịch của nhóm Phụng Vụ Giờ Kinh.
38. Chuẩn bị sẵn sàng
Anh chị em thân mến.
Câu chuyện ngụ ngôn Con Ve và Con Kiến chắc chúng ta đã nghe và biết nhiều. Con ve làm việc suốt ngày không có thời gian nghĩ ngơi, nó ca hát suốt, nên nó cũng mệt mỏi sau một ngày làm việc. Nhưng nó chỉ làm vì hiện tại, làm những gì mình thích, làm mà không cần biết đến tương lai. Nó chỉ nhìn thấy những gì của hôm nay và chỉ có thế. Còn con kiến, nó cũng làm việc suốt ngày, nhưng dường như không ai biết, không ai nhìn thấy, không ai nghe được tiếng của nó. Sau một ngày làm việc có lẽ nó cũng mệt. Nhưng ngày hôm sau nó lại tiếp tục, nó biết chuẩn bị cho tương lai, nó mang về kho những gì cần thiết.
Mùa đông đến, khi mọi vật không thể làm việc được nữa, vì tất cả tìm nơi trú ẩn để trốn cái lạnh khắc nghiệt. Con kiến cũng không còn làm việc được, nó cũng trốn cái lạnh. Nhưng nó không lo lắng gì, vì đã có đủ thức ăn dự trử cho suốt cả mùa đông. Còn con ve, tội nghiệp thay, nó cũng chịu mùa đông lạnh giá như bao nhiêu thú vật khác. Nhưng những con khác lạnh mà không đói, vì chúng biết dự trữ, còn con ve vừa lạnh lại vừa đói, vì nó cũng làm việc nhưng không biết phòng xa, không biết chuẩn bị cho tương lai, nó chỉ làm những gì nó thích trong hiện tại mà thôi, nên giờ đây nó cũng đành chấp nhận số phận như thế.
Chúa Giêsu mời gọi mọi người suy nghĩ về dụ ngôn những trinh nữ đi đón chàng rể, trong số đó có những cô biết chuẩn bị chu đáo, còn có những cô chỉ lo những gì hào nhoáng bên ngoài. Tất cả các cô đều được mời gọi và chuẩn bị. Nhìn bên ngoài mọi người như nhau, mọi người đều lo công việc của mình, công việc đáp lại lời mời gọi. Nhưng để lời đáp có giá trị hay không, đến giờ phút quyết định thì mọi việc mới sáng tỏ. Trong giờ phút đó những người được gọi là khôn ngoan, là những người biết đáp lại lời mời cách trọn vẹn, họ biết chuẩn bị thật chu đáo cho lúc cần thiết. Còn những người bị gọi là khờ dạy, họ cũng chuẩn bị, nhưng chỉ chuẩn bị với hình thức bên ngoài, họ cũng lo lắng, cũng làm việc, nhưng chỉ làm những gì mà bao nhiêu người nhìn thấy, chỉ làm những gì mà họ thích, chứ không phải làm những gì cần thiết.
Ta bảo thật các ngươi, Ta không biết các ngươi là ai.
Lời nói lạnh lùng khô khan cho những người không biết chuẩn bị xứng đáng. Lời nói đó trong dụ ngôn mà Chúa Giêsu đã nói khi xưa, nhưng lời đó cũng là lời mà chúng ta vừa nghe. Chúa Giêsu không chỉ nói cho những người ngày xưa mà thôi, nhưng cho mọi người và mọi thời.
Chúng ta để một ít phút hồi tâm, nhìn lại con người của mình, nhìn lại lời mời gọi mà chúng ta đã lắng nghe từ khi lãnh Bí Tích Rửa Tội. Chúng ta cũng nhìn lại sự chuẩn bị của mỗi người cho đến ngày hôm nay như thế nào? Hằng ngày mỗi người làm việc không có thời gian nghĩ ngơi, làm việc thật vất vã. Mỗi người lo cho cuộc sống riêng tư, lo cho bản thân, còn lo cho gia đình, cho những người thân. Ngoài ra còn có lúc cũng lo giúp cho những người xa lạ, cũng có lúc làm những việc gọi là bác ái. Hơn thế nữa mỗi người đang là người Công Giáo, ngoài đời sống vật chất gia đình, còn phải có bổn phận với Chúa: dự lễ ngày Chúa nhật, cũng có xưng tội, rước lễ, cũng sống bình thường. Không có làm gì đáng trách, cũng không phiền hà trách móc người khác bao giờ. Nếu chỉ như thế, thì ngọn đèn cuộc đời của chúng ta giờ đây, cần cho cháy sáng, không biết nó sẽ ra sao? Vì nó chỉ là chiếc đèn, nhưng bên trong nó không có gì hết thì làm sao nó có thể cháy sáng được.
Nếu trong đời sống hằng ngày, chúng ta nhìn thấy được trách nhiệm thật sự của mình mà chu toàn, nếu chúng ta còn nhìn thấy được những cảnh thương tâm trước mắt mà con tim thổn thức, để rồi đôi tay phải hành động, đôi chân không thể ngồi yên vì đang có người cần đến chúng ta. Nếu chúng ta lắng nghe những tiếng thở than để an ủi, lắng nghe những lời phiền trách để biết sữa đỗi cho tốt hơn, lắng nghe những lời tốt đẹp để sống tốt hơn theo thánh ý Chúa; lúc đó chúng ta đang tìm chất dầu dự trử cho ngọn đèn cuộc đời của mình. Những lúc đó chúng ta làm việc như con kiến, không cần ai biết đến, nhưng đây là việc cần thiết phải làm. Như thế thì bất cứ giờ phút nào, chúng ta cũng không sợ hoàn cảnh bất ngờ xảy đến.
Xin Chúa ban sự khôn ngoan của Chúa cho mỗi người chúng con để biết chuẩn bị cho mình luôn cháy sáng trước mặt Chúa.
39. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Chúng ta là những người đang lữ hành tiến về Quê Trời, nhưng có bao giờ chúng ta đặt vấn đề về điều kiện không có không được để về được Quê Trời là gì không? Nếu không có điều kiện cần thiết ấy thì việc lữ hành vất vả của ta có ích lợi gì không? Vấn đề quan trọng như thế tại sao ta lại không quan tâm?
2. Nếu Thiên Chúa cho cả những người không có tình yêu, vẫn còn ích kỷ, ghen ghét, hận thù... vào Thiên Đàng, thì Thiên Đàng ấy có hạnh phúc được không? Thiên đàng ấy có khác gì trần gian không?
3. Đức tin hay tình yêu là “vé” để vào Nước Trời. Nhưng thứ đức tin không việc làm, chỉ được tuyên xưng ngoài miệng, thứ tình yêu không cụ thể, chỉ nói ngoài môi miệng, có thể dùng làm “vé” vào Nước Trời được không? Tại sao?
Suy tư gợi ý:
1. Mô tả lại dụ ngôn
Theo phong tục của các dân tộc, khi cô dâu về nhà chồng, cô thường kêu thêm những cô gái đồng trang lứa làm phù dâu, để cùng tiễn đưa cô về nhà chồng cho có bạn. Theo phong tục Do Thái, những cô phù dâu này ngoài việc trang điểm và mặc quần áo đẹp còn phải mang theo đèn, vì chàng rể thường đến đón dâu vào buổi tối, là đầu ngày (ngày của Do Thái bắt đầu từ 6 giờ tối). Các cô phù dâu sẽ cùng cô dâu đi về nhà chồng để dự tiệc cưới. Khi chàng rể đến, các cô sẽ cầm đèn thắp sáng trong suốt hành trình đi đến chỗ dự tiệc. Vì thế, đúng ra các cô hễ đã mang đèn thì phải lo liệu mang dầu đi. Khi nghe báo tin chàng rể đến, mấy cô không đem theo dầu mới khám phá ra đèn mình không có dầu, và phải ra tiệm mua dầu. Trong khi các cô ra đi thì chàng rể đến, năm cô đã sẵn sàng theo chú rể đi dự tiệc cưới. Khi các cô kia mua dầu về thì đã quá trễ. Các cô tới chỗ dự tiệc thì cửa đã đóng, không vào được nữa. Sự thường mà nói, mấy cô này quả thật là khờ dại: chỉ vì không biết lo liệu mà lỡ chuyện của mình. Công trang điểm, mặc quần áo đẹp, chờ đợi... trở thành “công cốc”!
2. Ý nghĩa dụ ngôn
Dụ ngôn trên là một minh họa nói về những người đang thực hiện một mục đích nào đó, nhưng không hề ý thức về những gì mà mục đích ấy đòi hỏi, nên cuối cùng trở thành “sôi hỏng bỏng không”, “nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì”. Dụ ngôn trên có khác gì chuyện một học sinh chuẩn bị đi thi mà không hề nghĩ tới chuyện phải chăm lo học hành, nên khi vào phòng thi chẳng có một kiến thức nào trong bụng. Hay như một người chuẩn bị nấu cơm mà không hề nghĩ đến chuyện phải có gạo mới nấu được, chỉ biết lo tìm củi lửa, nồi nấu... để rồi tới lúc phải nấu thì chẳng có gạo để nấu. Hay như người sắp lên máy bay để đi du hành mới khám phá ra mình quên mua vé. Dụ ngôn hay các minh họa trên có thể áp dụng cho việc nên thánh hay cho cuộc lữ hành về Nước Trời của chúng ta.
Rất nhiều Kitô hữu lúc nào cũng ngưỡng vọng về hạnh phúc đời sau, và thường cầu xin cho mình được “ái mộ những sự trên trời” (Kinh Môi Khôi). Họ khá ý thức rằng mình đang trên đường lữ hành về Quê Trời. Nhưng trong số những Kitô hữu ấy có được bao nhiêu người tự hỏi xem những điều kiện cốt yếu nhất để vào Nước Trời là gì, để rồi thực hiện cho bằng được những điều kiện ấy, hầu chắc chắn đạt được mục đích mình nhắm tới? Vì quả thật, có biết bao Kitô hữu đang cố gắng thực hiện đủ mọi thứ chuyện chẳng đâu vào đâu hầu vào được Nước Trời, mà chuyện cốt yếu nhất để có thể vào đấy thì lại chẳng làm! Họ có thể là những Kitô hữu được tiếng là đạo đức, vì họ ngày nào cũng đi dự thánh lễ, sáng tối nào cũng đọc kinh cầu nguyện, hội đoàn nào cũng tham gia, thậm chí họ bỏ cả bổn phận chính yếu nhất của mình để thực hiện những điều ấy! Vì thế, rất có thể vào ngày phán xét họ sẽ bật ngửa vì ngạc nhiên khi nghe Chúa phán: “Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!” (Mt 7, 23). Để tránh tình trạng đáng tiếc này xảy ra cho mình, chúng ta cần phải nắm thật vững những điều kiện cốt yếu không thể thiếu để vào Nước Trời là gì.
3. Nước Trời là một nơi hoàn toàn hạnh phúc chỉ dành cho những người biết yêu thương, sống vị tha
Nước Trời hay Thiên Đàng được định nghĩa là một tình trạng vĩnh cửu, hoàn toàn hạnh phúc, một nơi không còn đau khổ, được dành cho những người biết thật sự yêu thương: yêu Chúa thương người. Định nghĩa ấy rất hợp lý. Để hiểu sâu xa điều ấy, ta thử đặt vấn đề: khi về nơi lý tưởng ấy, liệu người ta có thể hoàn toàn hạnh phúc khi phải sống chung với những người ích kỷ, không biết yêu thương không? Nếu những người trên thiên đàng vẫn còn ích kỷ, còn ác ý, còn lãnh đạm, còn hẹp hòi, còn hay nghĩ xấu cho người khác, dù chỉ một chút xíu, thì họ có thể hoàn toàn hạnh phúc và làm cho những người chung quanh họ cũng hoàn toàn hạnh phúc cho đến đời đời, không hề gây ra một chút đau khổ nào không? Chưa hoàn hảo, chưa đủ khả năng yêu thương mà đã vào Thiên Đàng thì ta sẽ làm ô nhiễm cái hạnh phúc tinh tuyền - không vương chút đau khổ - của Thiên Đàng rồi, và biến Thiên Đàng trở thành một cái gì không còn là Thiên Đàng nữa. Do đó, Thiên Đàng đòi hỏi những người bước vào phải hoàn toàn vị tha, tràn đầy tình thương, sẵn sàng hy sinh cho tha nhân. Nếu còn chút gì là ích kỷ, ghen ghét, hận thù... thì chưa thể vào được, và cần phải được thanh luyện ở luyện ngục cho đến khi nào trở nên hoàn toàn vị tha, tràn đầy tình yêu thương với mọi người mới vào được Nước Trời.
4. “Đức tin đắt giá” và “đức tin rẻ tiền”
Theo Kinh Thánh, để vào được Nước Trời thì phải là người công chính. Mà người công chính là người có đức tin, vì “người ta được trở nên công chính nhờ đức tin” (Rm 3, 22); “Ápraham đã tin Thiên Chúa, và vì thế được kể là người công chính” (4, 3). Chúng ta, những Kitô hữu, đều được coi là đã tin vào Thiên Chúa, vậy có phải chúng ta đều là những người công chính không? Thưa không chắc, vì có hai loại đức tin. Theo thánh Giacôbê thì đó là “đức tin có việc làm” và “đức tin không việc làm”. Còn theo nhà thần học D. Bonhoeffer, thì đó là “đức tin đắt giá” và “đức tin rẻ tiền”.
“Đức tin đắt giá” là đức tin được chứng tỏ bằng hành động, là đức tin có việc làm. Đây mới chính là đức tin đích thực, mới làm cho người ta nên công chính. Gọi là “đắt giá” là vì để có được đức tin ấy, người ta phải trả một giá rất đắt là sự hy sinh bản thân, chấp nhận mất mát, không chỉ thời giờ, của cải hay những thứ ngoài mình, mà thậm chí cả mạng sống, hay bản thân mình nữa. Còn “đức tin rẻ tiền” là đức tin không phải trả giá bằng hành động, bằng việc làm, bằng sự hy sinh. Đó là thứ đức tin chỉ được tuyên xưng ngoài miệng, có thể được tuyên xưng hết sức mạnh mẽ, có vẻ như đầy xác tín, nhưng lại không được chứng tỏ bằng những hành động cụ thể. Thánh Gia-cô-bê nói về hai loại đức tin này như sau: “Có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,14.17). “Đức tin không có hành động là đức tin vô dụng” (2,20).
Đức tin đích thực phải được thể hiện thành tình yêu, thành những hành động yêu thương. Ngay cả tình yêu cũng có hai loại: “tình yêu đắt giá” và “tình yêu rẻ tiền”, nói cách khác: tình yêu có việc làm và tình yêu ngoài môi miệng. Thánh Giacôbê cũng nói về thứ tình yêu đãi bôi: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: "Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no", nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?” (Gc 2,15-16).
Tóm lại, để vào được Nước Trời, chúng ta cần tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu Kitô, nhưng phải tin bằng thứ đức tin đích thực, được chứng tỏ bằng việc làm, tức thứ “đức tin đắt giá”. Mà hễ đã là đức tin đích thực, tất nhiên nó sẽ phải được thể hiện thành tình yêu thương thật sự, bằng những hành động yêu thương cụ thể. Chính vì thế, tới ngày phán xét cuối cùng, Thiên Chúa chỉ phán xét về tình yêu đích thực của ta đối với tha nhân mà thôi (x. Mt 25,31-46). Vì tình yêu đích thực hay tình yêu được trả giá đắt đó chứng tỏ một đức tin đích thực. Không ai có thể thật sự tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu mà lại sống không có tình thương. Tại sao? vì kẻ tin Ngài thì ắt phải giống như Ngài, mà Ngài, tự bản chất, chính là tình yêu (x. 1Ga 4,8.16a).
Vậy cái “vé” cần thiết đến mức không có không được để vào Nước Trời chính là tình yêu đích thực. Không có tình yêu đích thực, chúng ta đừng mong vào được Nước Trời. Đó chính là “đèn có dầu” để chúng ta - những “cô phù dâu” - thắp sáng lên khi đón “chàng rể” - là Đức Kitô - vào “tiệc cưới Nước Trời”.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Cha chính là Tình Yêu. Vì thế, để kết hiệp với Cha, con cũng phải là tình yêu, là hiện thân của tình yêu, đặc biệt giữa những người sống chung quanh con. Nếu con không thể hiệp nhất với họ bằng tình yêu, làm sao con có thể hiệp nhất với Cha được? Nếu những người cùng bản chất với con mà con không hiệp nhất với họ được, làm sao con có thể hiệp nhất với Cha được? Xin Cha hãy tăng cường tình yêu nơi con, để con hiệp nhất được với mọi người. Amen.
40. Suy niệm của Lm. Vũ Thái Hòa.
CẢNH GIÁC VÀ SẴN SÀNG ĐÓN CHÚA
Khung cảnh lễ cưới trong dụ ngôn rất quen thuộc với thính giả của Chúa Giêsu: tại nhà cha mẹ mình, cô dâu chờ chú rể đến rước để làm lễ chúc lành và ăn tiệc cưới tại nhà trai. Khi chú rể và đoàn phù rể kéo đến đón cô dâu, đoàn phù dâu sẽ ra đón rước với đèn, đuốc sáng. Sở dĩ đám cưới làm vào ban tối vì ban ngày thời tiết rất oi bức. Trước đó, hai gia đình thương lượng với nhau, về của hồi môn chẳng hạn. Vì thế, nhà gái có thể chờ lâu, có khi đến nửa đêm.
Câu chuyện đám cưới tưởng sẽ diễn tiến tốt đẹp, không ngờ kết cuộc thật thảm hại, với những chi tiết rất khó tin: năm cô khôn ích kỷ không chịu chia sẻ dầu, bắt năm cô dại đi mua dầu lúc đêm khuya, về đến cửa phòng tiệc đóng kín, và thái độ của chú rể đối với các cô đến chậm.
Thực ra, đây chỉ là bài dụ ngôn, nên chúng ta phải tìm hiểu ý nghĩa tổng quát của nó. Để hiểu rõ hơn dụ ngôn hôm nay, chúng ta phải đặt dụ ngôn trong thời điểm Chúa Giêsu giảng dạy về ngày quang lâm của Người. Chúa Giêsu nhấn mạnh đến sự cần thiết của sự cảnh giác vì không ai biết ngày nào, giờ nào Người sẽ trở lại để phát xét chung. Không phải được chọn cầm đèn ra đón chú rể là tự động được vào dự tiệc cưới, cũng như không phải chỉ xưng mình là người Kitô hữu là được cứu rỗi! Giấy chứng chỉ rửa tội không phải là vé vào cửa miễn phí và tự động của Nước Trời đâu!
Trong dụ ngôn có năm trinh nữ được khen là khôn, không phải do sự khôn ngoan tự nhiên của mình, nhưng vì thông hiểu dự định của Thiên Chúa. Còn năm cô kia bị chê là dại, không phải do sự đãng trí và sơ suất của mình, nhưng do một thái độ tinh thần quên Chúa. Vấn đề quan trọng nhất là việc chú rể đến trễ. Qua dụ ngôn này, Chúa dạy chúng ta ý nghĩa của thời gian. Đó là một thử thách của đức tin. Sự cảnh giác và sẵn sàng là hai chữ quan trọng nhất trong dụ ngôn này. Chúng ta phải cảnh giác vì Chúa Kitô sẽ đến lúc mà không ai ngờ tới.
Mặc dù nói về sự trở lại của Chúa Kitô, dụ ngôn cũng cho chúng ta một bài học về lợi ích trước mắt và cụ thể, đó là giúp mỗi người chúng ta chuẩn bị cho cái chết của mình. Tháng 11, tháng cầu cho các linh hồn, nhắc nhở chúng ta phải luôn chuẩn bị: sự chuẩn bị cần phải tích cực và cá nhân.
- Chuẩn bị tích cực: được nhập vào đoàn rước chờ đợi hoặc mang đèn vẫn chưa đủ, mỗi người chúng ta cần phải tích trữ dầu, có nghĩa là phải luôn duy trì tinh thần và đức tin sống động, trong tình bác ái. Có như thế, sự chuẩn bị mới trọn vẹn.
- Chuẩn bị cá nhân: ngày đó, chúng ta tưởng có thể nhờ cậy vào người khác. Không! Người khác có thể giúp chúng ta, nhưng họ không thể thay thế chúng ta được. Sự tương trợ là điều trọng yếu trong đời sống Kitô giáo, nhưng mỗi người có trách nhiệm riêng của mình. Một số người cảm thấy khó chịu về tính ích kỷ của năm trinh nữ khôn ngoan. Họ không thể cho mượn dầu, vì có nhiều điều chúng ta không thể cho mượn được, tình yêu chẳng hạn. Chúng ta không thể thay thế lòng ước ao bằng đồ vật được! Chúa Giêsu nói: Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên! (Lc 12,49). Lửa tình yêu đó đã nung đốt chúng ta khi lãnh nhận bí tích thánh tẩy. Nhưng sau đó, chúng ta có gìn giữ cho ngọn lửa được sáng mãi hay không?
Câu kết luận của Chúa Giêsu Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào nhấn mạnh ý nghĩa của dụ ngôn. Sự mong đợi Chúa trở lại không phải là một thời gian trống rỗng nhưng là thời gian chuẩn bị tích cực. Lịch sử cứu độ vẫn tiếp diễn. Hãy tỉnh thức, hãy sẵn sàng! Đừng để lỡ ngày giờ đón rước Chúa Kitô khi Người trở lại, cũng như trong giờ sau hết của chúng ta. Chúng ta có hẹn với Chúa mọi lúc trong cuộc sống của chúng ta. Khi có chuyện vui, Chúa mời gọi chúng ta san sẻ niềm vui đó. Khi có chuyện buồn (bệnh tật, tang...), Chúa mời gọi chúng ta không sống khép kín, nhưng đến với những ai đang cùng chung hoàn cảnh. Họ cần được người khác hiểu, thông cảm, khuyến khích và song hành với họ. Như thế, trong mọi nơi và mọi lúc, chúng ta luôn cầm đèn sáng và làm chứng rằng Chúa Kitô là ánh sáng thế gian.
41. Suy niệm của Lm Augustine S.J.
Cô gái người Ðức, tên là Johanna, vừa tạ thế một cách bình thản lạ thường vào ngày 9 tháng 2 năm 1980 khi vừa tròn 24 tuổi, giữa lúc cuộc đời còn tràn đầy sức sống. Trước lúc từ trần, cô đã để lại những dòng chữ thật tuyệt vời trong quyển nhật ký của mình.
"Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích lợi cho những ai yêu mến Người." (Rm 8,28)
"Cách đây một năm, lúc đó tôi vừa phải dọn bài thi y khoa khá quan trọng, vừa cùng các bạn sửa soạn cho ra một tờ báo trẻ. Tôi cảm thấy mệt mỏi nên đã đi khám bệnh và phải trải qua nhiều cuộc xét nghiệm. Sau lần siêu âm đầu tiên, tôi biết chắc mình đã mắc một chứng bệnh khá trầm trọng. Tôi cảm thấy bất lực. Mọi việc tôi làm trở thành vô dụng và không còn gì đáng kể nữa. Mới được 22 tuổi, không nghĩ mình có thể chết trẻ như vậy được, tất cả con người tôi nổi dậy chống lại viễn cảnh đen tối ấy.
Ngày hôm sau bác sĩ đến cho biết tôi mắc bệnh Hodgkin, một chứng bệnh gây sưng lá lách, gan và thận. Tôi không cầm được nước mắt vì biết đó là một căn bệnh nan y. Nhưng ngay lúc đó tôi nhớ đến lời của thánh Phaolô: "Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích lợi cho những ai yêu mến Người" (Rm 8,28). Tôi cũng nghĩ đến Chúa Giêsu lúc Ngài phải vác thánh giá và xin vâng theo thánh ý Chúa Cha, tâm hồn tôi tràn ngập bình an.
Nhiều khi vừa học bài tôi vừa nghĩ: "Nhưng Chúa Giêsu sẽ hỏi mình điều gì trong kỳ thi cuối cùng? Ta đói và con đã cho ta ăn... Ðiều này đã giúp tôi không chú trọng vào chuyện thi cử, nhưng vào chuyện yêu thương người khác, sửa soạn một bữa điểm tâm chẳng hạn, hay làm bất cứ việc nhỏ nhặt nào với tình thương yêu.
Cô Johanna cầm đèn sáng đi đón chàng rể: "Tôi cố gắng biến đổi tất cả trong tình yêu"
Có lúc tôi muốn bỏ hẳn việc học hành vì có thể tôi sẽ chẳng bao giờ có dịp hành nghề. Nhưng tôi đã xua đuổi ý nghĩ này ngay, vì thánh ý của Chúa rất rõ với tôi trong phút hiện tại: tôi phải tiếp tục học. Học mà không cần nghĩ đến đậu hay rớt. Cứ thế tôi sửa soạn mỗi ngày cho cái chết của tôi: Vâng theo thánh ý Chúa, chẳng ai tự dưng mà nên thánh. Tôi cố gắng biến đổi tất cả trong tình yêu: việc học, cách cư xử với người khác, mọi chuyện lặt vặt, vì tôi không thể làm những việc lớn.
Tôi sẵn sàng đón nhận mọi sự, nhưng trước hết, tôi mong chờ tình thương yêu của Chúa như một chút mùi vị của Thiên Ðàng được nếm trước..." (trích theo Ðỗ Minh Trí, SJ., Ði Tìm Anh Em; trang 177-178)
Những dòng chữ trên đây của cô Johanna phần nào giúp ta dễ lãnh hội nội dung của bài Tin Mừng hôm nay, nhất là tinh thần sẵn sàng đón Chúa của người Kitô hữu.
Có một điều chắc chắn đó là ai cũng phải đối diện với cái chết một lần, nhưng điều này xảy ra vào lúc nào thì không ai lường trước được cả. Ðối diện với sự thật này, con người có những thái độ khác nhau. Có người thì sợ hãi đến nỗi tìm cách chối bỏ, coi như không có cái chết, bằng việc lao vào những thú vui xác thịt, thế trần... Nhưng cũng có người bình thản đón nhận cái chết y như ý Chúa muốn.
Niềm tin Kitô cho ta biết ý nghĩa của sự chết, đó chính là lúc Ðức Kitô trở lại để đem ta về với Ngài, để Ngài ở đâu thì ta cũng sẽ ở đó cùng Ngài (x. Ga 14,3). Ðó cũng là lúc Ngài cất khỏi lòng ta mọi buồn phiền lo lắng và ban cho ta niềm vui trọn vẹn (x.Ga 16,22).
Việc đón chờ Ðức Kitô của người Kitô hữu, được sánh với việc các cô trinh nữ cầm đèn sáng đi đón chàng rể trong dịp lễ cưới. Các cô là những người được tuyển chọn và được mời vào hưởng niềm vui của bàn tiệc. Như các cô trinh nữ trong dụ ngôn, người Kitô hữu cũng được tuyển chọn bởi Cha (x.Ga 17,6) và bởi Ðức Giêsu: "Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em" (Ga 15,16). Ðáp lại điều "được tuyển chọn", các cô trinh nữ phải chăm lo chu toàn bổn phận được trao phó cho mình, đó là sửa soạn dầu đèn cho chu đáo. Cũng vậy, người Kitô hữu đáp lại tình yêu Chúa dành cho mình, qua việc Ngài tuyển chọn mình, bằng nỗ lực chu toàn bổn phận của người môn đệ đi theo Ðức Kitô.
Ðức Kitô hằng vâng theo thánh ý Cha, bất chấp những đau khổ và cái chết mà Ngài phải nếm chịu, trải qua. Bước theo Ngài, người Kitô hữu cũng không ngần ngại trải qua nhiều đau khổ để học thưa tiếng xin vâng ý Cha như Ngài (x.Dt 5,8). Chỉ có những cô trinh nữ chu toàn bổn phận chăm lo đèn dầu đầy đủ mới được hưởng niềm vui của bàn tiệc cưới. Cũng vậy, chỉ có những Kitô hữu nào sống trọn tinh thần xin vâng ý Chúa như Thầy của mình mới được vui hưởng chính hạnh phúc Thiên Ðàng của Thầy (x. Ga 17,13).
Khi Thiên Chúa tuyển chọn một ai, Ngài không đòi người đó phải làm những điều lớn lao vượt sức mình; ngược lại, Ngài mời họ làm những công việc bổn phận bé nhỏ bằng một tình yêu vĩ đại. Làm việc vì yêu mến là cách thế tuyệt hảo của sự đáp trả trước sự kiện được tuyển chọn vì yêu. Người Kitô hữu biết chắc rằng, Ðức Kitô đang đợi chờ mình ở cuối đường đời, tựa như chàng rể sẽ có lúc gặp gỡ những cô trinh nữ đang cầm đèn cháy sáng, để chính Ngài ngỏ lời cùng họ: "Hỡi kẻ được Cha ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa..." (Mt 25,34). Hạnh phúc thay cho những ai đã không ngừng sống đời yêu mến, luôn thưa tiếng xin vâng ý Chúa! Họ quả thực là những cô trinh nữ khôn ngoan: luôn chăm lo cho bình dầu tình yêu hằng ở mức dư tràn, để lòng mình hằng hướng về việc đón chờ Chúa Kitô trở lại.
Giáo Hội nhắc nhở các Kitô hữu: Quê hương chúng ta ở trên trời (x. Pl 3,20)
Chúng ta đang sống trong những tuần lễ cuối năm phụng vụ. Khi sử dụng đoạn Mt 25,1-13 làm bài đọc Tin Mừng của Chúa Nhật 32 Thường Niên này, Giáo Hội muốn nhắc lại cho chúng ta đích điểm của đời mình là vui hưởng hạnh phúc Quê Trời. Như bao con người khác, người Kitô hữu chúng ta cũng có một lần giã biệt cõi đời. Thế nhưng đó không phải là điều kinh hoàng khiến ta hoảng sợ. Ngược lại, đó là ngày vui mừng khôn tả, ngày ta được trọn vẹn đi vào kết hiệp với Chúa. Thái độ của người Kitô hữu đứng trước cái chết phải là thái độ thanh thản, tin yêu và đợi chờ. Ðức Kitô chắc chắn sẽ trở lại để gặp gỡ mỗi người chúng ta trong giờ chết của mình. Vậy chúng ta cần nỗ lực chờ đợi Ngài với đôi tay luôn cầm đèn cháy sáng, đó chính là việc luôn chu toàn thánh ý Chúa bằng một tình yêu trổi vượt.
Như cô Johanna, cũng có lúc ta thấy mình ham sống và sợ chết, nhất là khi đời ta còn trẻ, việc ta còn nhiều... Cô Johanna đã biết nhìn lên Ðức Giêsu để học với Ngài thái độ vâng phục kế hoạch nhiệm mầu mà Chúa muốn dành cho cô. Cô cũng sẵn sàng để cho Lời Chúa dìu dắt mình đi, giữa lúc bản thân mình gần như bất lực. Cô đã tìm thấy sự bình an đích thực khi buông mình cho thánh ý Chúa, một sự bình an do chính Ðức Kitô ban tặng (x. Ga 14,27). Cô đã cảm nhận hạnh phúc Thiên Ðàng ngay khi còn tại thế. Gương sống của cô Johanna cũng là lời mời gọi cụ thể của Chúa muốn ngỏ cùng ta là những môn đệ của Ngài: Hãy phó thác trọn vẹn đời ta cho Chúa, đó là cách duy nhất ta đáp lại tình yêu Ngài. Sự phó thác trọn vẹn này phải được cụ thể hoá qua cách sống trọn vẹn giây phút hiện tại của ta trong tình yêu. Lòng ta chắc chắn sẽ cảm nhận niềm vui náo nức của Thiên Ðàng ngay tại thế, khi ta hướng trọn về Ðức Kitô, tựa như các cô trinh nữ đã sẵn sàng dầu đèn để đón chờ chàng rể đến, bất chấp sự trễ muộn.
Tình yêu Chúa nơi lòng ta cũng có thể bị tàn lụi khi ta không hâm nóng nó bằng những công việc phục vụ anh em mình. Cách tốt nhất để nuôi dưỡng tình yêu đó là sống tình yêu. Nhờ tình yêu mãnh liệt, người Kitô hữu can đảm sống đời mình từng ngày trong niềm hy vọng vui hưởng Nước Trời, đó là hạnh phúc bất tận mà Thiên Chúa hằng dọn sẵn cho những ai yêu mến Ngài.
42. Khôn ngoan và khờ dại – Lm. PX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Về phương diện văn chương và đề tài, “Dụ ngôn mười trinh nữ” (Mt 25,1-13)[1] được đặt trong ngữ cảnh là các chương 24–25. Các chương này thuộc về bài Diễn từ cuối cùng của TM I, ngay trước bài tường thuật về Thương Khó và Phục Sinh (ch. 26–28). Dụ ngôn thứ ba về tỉnh thức này được liên kết với hai dụ ngôn trước bằng các từ móc: “khôn ngoan” (phronimos: x. 24,45), “đến chậm” (chronizô: x. 24,48), “sẵn sàng” ([h]etoimos: x. 24,44), và “chủ/Chúa” (kyrios: x. 24,42.45-50).
Câu truyện có đề tài là một cuộc rước dâu, nhưng ta thấy các nhân vật chỉ có hai: mười trinh nữ và chú rể, giống như trong bài nói về ông chủ và tên đầy tớ (24,45-51), cũng như bài nói về người tôi tớ trung thành và người tôi tớ bất trung và ông chủ: chỉ có các tôi tớ và ông chủ (25,14-30). Trong cả ba bài, có một khoảng thời gian chia cách giữa các cuộc gặp gỡ, khoảng thời gian này được nêu bật do sự chậm trễ cố ý (24,48; 25,5) hoặc sự vắng mặt lâu dài (25,19) của ông chủ hoặc của người đóng vai trò đó.
Đọc từ chương 23 đến đây, chúng ta có thể thấy Mt xác định vị trí của các Kitô hữu ở ngay giữa thời gian Israel đã từ khước Đấng Mêsia và tiếp tục từ khước các sứ giả của Người (23,34) và thời gian chờ đợi Con Người ngự đến (24,4b-14).
2.- Bố cục
Khi đọc bản văn, chúng ta có thể nghĩ đến một vở kịch với hành động ngắn và nhanh, với những thay đổi thường xuyên và với một điểm mở nút xảy ra như hậu quả của một lỗi lúc đầu có vẻ chỉ là một lỗi nhỏ. Bản văn có thể chia làm năm “xen” (cảnh):
1) Cảnh 1: Đầu đề – Giới thiệu (25,1-4): các nhân vật (chú rể và các trinh nữ);
2) Cảnh 2: Hồi xen giữa(25,5): sự chậm trễ và giấc ngủ;
3) Cảnh 3: Điểm nút (25,6-9): lời loan báo và sự xung đột;
4) Cảnh 4: Điểm mở nút (25,10): những cô được vào và những cô không được vào;
5) Cảnh 5: Hồi cuối cùng (25,11-12): Sự từ chối;
* Kết luận (25,13).
Trạng từ “bấy giờ” cũng như c. 13 thuộc về “khung bên ngoài”.
3.- Vài điểm chú giải
- Bấy giờ, Nước Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ (1): Câu này không có nghĩa là Nước Trời giống như các trinh nữ, nhưng có nghĩa là “bấy giờ” (tote), khi Nước Trời tỏ hiện ra lần cuối, thì số phận của loài người cũng giống như số phận của các trinh nữ. “Bấy giờ” ở đây chính là “Khi Con Người đến trong vinh quang của Người” (25,31).
- trinh nữ (1): Đây là những thiếu nữ chưa lập gia đình, là bạn của cô dâu.
- dại … khôn (2): Phronimos, “khôn”, có nghĩa là một người có trái tim (phrên), nghĩa là thông minh. Ở Mt 7,24, người khôn là người biết “xây nhà trên đá”; ở 24,45, người khôn là người biết sẵn sàng theo lệnh của chủ. Còn môros, “dại”, là rỗng, phàm tục, ngu đần, thiếu phán đoán.
- đèn … dầu (3): Dầu và đèn không có ý nghĩa biểu tượng nào, mà chỉ là những chi tiết rất tự nhiên của truyện. Đèn ở đây có thể là những cái bình nhỏ bằng đất nung hoặc là những cây đuốc (một khúc gỗ rỗng, bên trong có một cái bấc nhúng vào dầu). Đây chỉ là những phụ tùng để soi sáng đoàn rước cho thêm phần trang trọng.
- vì chú rể đến chậm (5): Chú rể có thể đến chậm do phải điều đình vào phút chót về những điều khoản của khế ước hôn nhân và những món quà phải biếu cho cha mẹ cô dâu.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Cảnh 1: Đầu đề – Giới thiệu (1-4): các nhân vật (chú rể và các trinh nữ)
Ở đầu đề (c. 1), tác giả giới thiệu các nhân vật: chú rể, các thiếu nữ sẽ tháp tùng chàng trong cuộc rước; các cô phải có mặt lúc chàng đến, với đèn cháy sáng. Ở đây hẳn là Đức Giêsu đã lấy cảm hứng từ tập tục cưới hỏi Do Thái rồi sửa đổi để diễn tả giáo huấn của Người. Vào dịp lễ cưới, tập tục quy định rằng chàng rể đến đón cô dâu tại nhà cha cô rồi cả hai được một đoàn tùy tùng long trọng rước về nhà chú rể, tại đây lễ cưới sẽ được cử hành với một bữa tiệc. Cùng với cô dâu, các cô phù dâu chờ đợi chú rể đến. Các cô có nhiệm vụ cầm đèn hoặc đuốc mà tháp tùng đoàn rước ban đêm. Tuy nhiên, có những lúc do hoàn cảnh, chú rể có thể đến chậm. Ở trong bài này, tác giả không hề nói đến cô dâu, mà chỉ có một đoàn mười cô phù dâu. Chính họ chiếm chỗ của cô dâu và chờ đợi không phải là một chú rể, nhưng chú rể (của họ). Trong truyện này, vai cô dâu không cần thiết, bởi vì tác giả chỉ muốn khai thác bài học từ vai các cô phù dâu mang đèn mà thôi.
Vì đã nhận lời mời, các trinh nữ phải nghĩ đến mọi sự cần thiết để có thể chu toàn nhiệm vụ. Cho đến lúc này, mọi chuyện đều xảy ra như nhau cho cả mười cô trinh nữ. Nhưng các cô khác nhau ở điểm là có năm cô “khờ” (môrai), do không biết tiên liệu, các cô này mang đèn mà không có dầu dự trữ, và năm cô “khôn” (phronimoi), do biết tiên liệu, đã mang thêm dầu dự trữ. Độc giả nhớ lại là ở 7,24-27, cũng có nói đến những dung mạo tích cực và tiêu cực để họ có thể ướm cho mình.
* Cảnh 2: Hồi xen giữa (5): sự chậm trễ và giấc ngủ
Vì chàng rể đến chậm nên các cô đều ngủ cả. Trên sân khấu, chỉ có các cô mà thôi. Hầu như không có một hành động nào, hành động bị “treo” lại, không tiến tới. Sự chậm trễ của chú rễ đã khóa diễn tiến của vở kịch lại. Giấc ngủ càng nêu bật tình trạng thiếu vắng hành động. Chúng ta không biết các cô ngủ ở đâu, nhưng dựa theo tập tục cưới hỏi Do Thái, ta co thể nghĩ là tại nhà cô dâu. Như thế, những cô không có dầu đã không biết dùng thì giờ còn có để giải quyết thiếu sót. Sự chậm trễ của chàng rể lẽ ra phải là cơ may để họ chuẩn bị tốt hơn, nhưng lại không phải như thế.
* Cảnh 3: Điểm nút (6-9): lời loan báo và sự xung đột
Đến đây, phần giới thiệu đã xong, chúng ta đi vào cảnh trung tâm của vở kịch. Bất chợt mọi sự chuyển động. Một lời loan báo, một tiếng “hô” vang lên trong đêm đã thức tỉnh dòng chuyển của vở kịch. Tiếng hô bất ngờ vang lên trong đêm khuya khiến câu truyện đầy kịch tính. Thông thường, chàng rể đến giữa tiếng đàn ca, nên người ta có thể nghe được từ đàng xa. Đàng này, tiếng hô đột ngột kéo bật các thiếu nữ ra khỏi giấc ngủ. Hành động đến dồn dập, mười trinh nữ giật mình thức dậy. Các cô lóng cóng chuẩn bị đèn. Khoảnh khắc của sự thật đã đến. Chú rể sắp xuất hiện. Một chút nữa thôi, khi đèn đã được thắp, các cô sẽ đi vào tiệc cưới với chàng. Nhưng sự thiếu sót lúc đầu bây giờ trở nên hệ trọng: số dầu dự trữ không đủ cho cả mười chiếc đèn. Tình thế lưỡng nan thì thật đau đớn: chỉ người nào có đèn cháy sáng mới được theo đoàn rước và dự tiệc cưới; các cô khôn không thể nào hy sinh dầu nếu không muốn phải ở ngoài. Do đó câu trả lời duy nhất các cô có thể nói với các bạn là “không”. Bởi vì hoàn cảnh đang và cứ có tính xung đột, nên mẩu đối thoại cũng có tính xung đột. Các cô khôn không đồng ý, không phải là vì ích kỷ, thiếu thông cảm; câu trả lời của các cô diễn tả một tình trạng bất khả kháng thật sự; chính sự thiếu tiên liệu của các cô khờ đưa tới câu trả lời “không” của các bạn. Khi trả lời “không”, các cô khôn chỉ nêu bật một hoàn cảnh là hậu quả của thái độ thiếu tiên liệu. Bây giờ mọi sự đã quá muộn. Lời xin của các cô khờ đúng là cách giải quyết nhanh nhất cho bế tắc các cô đã rơi vào; nhưng câu trả lời của các cô khôn cũng là giải pháp duy nhất có cô có sẵn trong tầm tay.
* Cảnh 4: Điểm mở nút (10): những cô được vào và những cô không được vào
Các biến cố ào ào kéo đến. Các cô khờ theo gợi ý của các bạn, đi mua dầu. Trong khi đó, động cơ của bài tường thuật được thực hiện: chàng rể đến và đi vào lễ mừng đám cưới. Chỉ những cô đã sẵn sàng với đèn cháy sáng, mới được đi theo chú rể. Cửa được đóng lại. Ba hành động đi theo nhau: chú rể đến, các cô khôn đi vào và cửa đóng lại. Ta không thấy gợi ra một chọn lựa nào cả. Cửa đưa vào tiệc cưới không được mở ra nữa. Các cô khờ không còn có thể đi vào được.
* Cảnh 5: Hồi cuối cùng (11-12): sự từ chối
Sau đó, các cô khờ đến; các cô xin được vào trong phòng tiệc. Đây cũng là một đối thoại mang tính xung đột. Phải chăng các cô nại tới sự quen biết đã từng có với chú rể? Ta không thấy các cô viện tới lý do nào cả. Các cô có nói tới lý do đi mua dầu không? Ta cũng không biết. Các cô có nhận ra sai lầm của mình chăng? Ta cũng chẳng hay. Giọng các cô gọi cửa có nét bi thương; dường như các cô nại tới lòng từ bi thương xót của chú rể–chủ nhà. Nhưng chú rể từ khước; chàng nói rằng chàng không quen biết các cô. Hành động của vở kịch đưa tới một tai họa.
Lời các trinh nữ gọi: “Thưa Ngài! Thưa Ngài! Mở cửa cho chúng tôi với!” khiến chúng ta nhớ đến một đoạn trong Bài Giảng trên núi: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?’ Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!” (x. Mt 7,21-23). Trong dụ ngôn Tiệc cưới, chuyện được mời vẫn không tránh cho người kia khỏi bị trục xuất vì không có áo cưới (22,12-13); ở đây cũng thế, chuyện được chọn vào đoàn rước vẫn không đảm bảo cho mình được vào phòng tiệc khi đến trễ. Bây giờ chú rể lại trở thành người gác cửa cứng rắn, khẳng định là không biết họ là ai. Do chểnh mảng, các cô đã mất tư cách, các cô không còn thuộc phái đoàn của chàng rể nữa. Đi đến đây, dụ ngôn đã biến thành ẩn dụ. Chàng rể (nymphios) trở thành Đức Kitô; lời thưa gửi với chú rể cũng như lời chú rể trả lời cho thấy như thế (kyrios). Đây chính là Đức Kitô đang tuyên bố phán quyết cánh chung. Lời từ chối có tính dứt khoát, chứ không viện lý do nào cả. Chúng ta có thể giả thiết rằng lỗi của các cô khờ là đã không chu toàn nhiệm vụ tháp tùng đoàn rước, tức là vắng mặt vào lúc phải có mặt. Như thế, được vào/không được vào tiệc cưới là phần thưởng/hình phạt mà chú rể–chủ nhân dành cho người đã sẵn sàng/không sẵn sàng mà hoàn tất công tác được yêu cầu.
* Kết luận (13)
Câu kết “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào” (c. 13) tái khẳng định tầm mức của dụ ngôn. Có thể nói câu này đã xuất hiện ở 24,42. Trong dụ ngôn Mười trinh nữ, câu này có vẻ không hợp, bởi vì cả mười cô đều ngủ, vả lại câu truyện không trực tiếp dạy về canh thức, nhưng dạy về việc chuẩn bị dầu đèn sẵn sàng khi Chúa đến. Thật ra, sự canh thức ở đây chủ yếu hệ tại quyết định của các môn đệ là bền bỉ thi hành cụ thể những gì họ đã được kêu gọi thi hành.
+ Kết luận
Chắc chắn theo bản văn của Mt ở đây, chú rể tượng trưng cho Đức Kitô (cũng như ông chủ trong dụ ngôn Các yến bạc và vị vua trong dụ ngôn Phán xét cuối cùng). Mười trinh nữ là cộng đoàn Kitô hữu đang chờ đợi ngày Quang lâm của chủ mình. Cuộc Quang lâm sẽ chậm xảy ra, dù các Kitô hữu đã tưởng là gần kề. Dù được chờ đợi, Đức Kitô sẽ đến vào lúc không ai ngờ (Mt 24,44.50; x. Lc 12,40.46; Mc 13,33-37; 1 Tx 5,2); chẳng một phỏng đoán nào về ngày giờ Quang lâm có thể được coi là có cơ sở cả.
Thuộc về Nước Thiên Chúa không phải là chuyện tự nhiên. Điều này hàm ý có sự phát triển không đương nhiên là đồng đều với mỗi người. Để được như thế, mỗi người cần phải sống phù hợp, cương quyết, có chọn lựa. Với dụ ngôn Mười trinh nữ, Đức Giêsu cho thấy hành động khôn ngoan, biết tiên liệu và hợp lý có trước có sau là chuyện cần thiết đối với mỗi người. Người ta có thể đạt tới Nước Thiên Chúa nhờ sự khôn ngoan hoặc mất Nước Thiên Chúa do sự khờ dại.
Nếu trên trái đất này, cuộc sống là một cuộc chờ đợi, thì trong thế giới bên kia, cuộc sống là một bữa tiệc cưới, thậm chí là một lễ cưới. Để cho các hình ảnh được phi vật chất hóa, Đức Giêsu nói đến các trinh nữ thay vì các cô dâu tầm thường. Đời sống trên trời là một cuộc sống hiệp nhất với Thiên Chúa, nhưng trinh khiết (x. 19,12).
5.- Gợi ý suy niệm
1. Một nửa số thiếu nữ là khờ. Đây là một lời cảnh giác của tác giả: không phải cứ được gọi gia nhập vào cộng đoàn Kitô hữu là người ta đã có được mọi phẩm chất cần thiết. Các Kitô hữu phải biết đánh giá chính xác thực tại trong đó mình đang sống và có một ý chí cương quyết hành động cho phù hợp. Nếu không chịu áp dụng các giáo huấn của Đức Giêsu vào đời sống mình, mà tiên liệu mọi sự, có thể sẽ quá muộn. Đến khi ấy, có viện dẫn mọi lý do, mọi duyên cớ ra mà thanh minh, đều vô ích.
2. Kết thúc câu truyện hoàn toàn không phù hợp với một đám cưới. Trong một dịp cưới hỏi, hẳn là người ta chẳng để ý là đèn của một vài cô phù dâu bị tắt, với lại nếu thấy thì hẳn cũng chẳng than phiền gì. Hẳn là người ta cũng không từ chối mở cửa cho một vài người đến chậm. Còn chú rể, vì là nhân vật chính, phải lo mừng lễ, hẳn không còn tâm trí đâu mà nói những lời như bài Tin Mừng ghi lại. Bài Tin Mừng chúng ta đọc mang màu sắc cuộc Phán xét chung cuộc.
3. Phán quyết sau này trên cuộc đời ta không phải là chuyện may mắn hay rủi ro vô phương tiên liệu. Không phải là Thiên Chúa có một bản án chuẩn bị trước cho ta, nhưng chính ta thực hiện bản án đó bằng lối sống của mình. Do sự chểnh mảng, các trinh nữ khờ dại đã tự loại mình khỏi niềm vui. Phán quyết chỉ phê chuẩn lối sống này mà thôi.
4. Chúng ta không thể so đo tính toán hơn thiệt trong thời gian chờ đợi Chúa Kitô đến. Bởi vì không biết ngày giờ, chúng ta chỉ còn một việc là luôn luôn sẵn sàng, là vâng phục cho tới cùng và cứ càng lúc càng tha thiết hơn. Khi đó dầu sẽ không bao giờ thiếu trong đèn của chúng ta.
5. Mục tiêu của bài dụ ngôn này là cung cấp một giáo huấn cho Hội Thánh. Độc giả được biết rằng không phải tất cả những người được gọi đến với lễ cưới của chú rể sẽ thật sự được tham dự vào. Đến ngày phán xét cuối cùng, sẽ có một cuộc chia cắt xuyên qua khối các tín hữu để tách những người được chọn với những người được gọi (x. 22,14). Quan trọng không phải là được gọi nhưng là được thử thách, không phải là đèn nhưng là dầu, không phải là tư cách thành viên Hội Thánh nhưng là những việc làm.
43. Suy niệm của Mark Link
VÀO GIỜ ẤY CHÚNG TA ĐANG Ở TRONG TÌNH TRẠNG NÀO?
Chủ đề: Ngày cuối cùng sẽ đến bất ngờ, vì vậy hãy sẵn sàng.
1.900 năm trước đây, núi lửa Vesuvius đã phun lên ở Italy. Khi núi lửa ngưng phun lửa, thành phố Pompél đã bị chôn dưới lớp phún thạch dầy tới 18 bộ (gần 6mét). Thành phố vẫn giữ nguyên dạng như thế mãi đến thời gian gần dây, khi các nhà khảo cổ khai quật nó lên. Mọi người ai cũng phải ngạc nhiên về những điều họ khám phá được. Có những ổ bánh mì cháy thành than, trái cây vẫn còn bốc mùi, những trái ô liu vẫn còn nổi trong chảo dầu. Tuy nhiên, có những khám phá khiến người ta còn sửng sốt hơn. Phún thạch đã làm đông cứng mọi người ngay trong tư thế họ đang có khi cơn đại hoạ đổ xuống. Các thân xác người ta đều bị hư hoại. Trong khi hư hoại, chúng để lại những lỗ trống trong lớp tro cứng. Dùng cách đổ dung dịch thạch cao vào những lỗ trống, các nhà khảo cổ học có thể khôi phục lại hình các nạn nhân. Một số nạn nhân này đã gây xúc động. Chẳng hạn có một thiếu phụ đang quấn chặt đứa con trong đôi tay mình, hoặc một lính gác Roma đang đứng thẳng người tại trạm gác, trên người trang bị vũ khí đầy đủ. Anh ta vẫn trầm lặng trung tín với phận sự tới phút cuối cùng. Nạn nhân thứ ba là một người đàn ông tay cầm gươm đứng trong tư thế thẳng tắp, chân anh ta đang đặt trên một đống vàng và bạc Rải rác quanh anh ta là năm xác khác có lẽ là những kẻ dự định cướp của đã bị anh ta giết chết.
Những khuôn thạch cao trên minh hoạ sống động cho hai chủ đề trong các bài đọc hôm nay. Chủ đề thứ nhất là sự cố ngày tận thế và cuộc giáng lâm lần thứ hai của Chúa Giêsu sẽ xẩy đến bất ngờ. Hai biến có này sẽ đến mà không hề báo trước. "Như một tên trộm viếng vào ban đêm". (1 Tx 5: 2). Hai biến cố ấy đến bất chấp những kẻ được ái mộ, bất chấp chúng ta giàu hay nghèo, trẻ hay già, nổi danh hay vô danh, da trắng, da đen hay da nâu.
Hai biến cố ấy sẽ xảy đến thình lình với tất cả mọi người. Điều đó dẫn chúng ta đến chủ đề thứ hai của bài đọc hôm nay là chúng ta hãy sẵn sàng đón ngày cuối đời mình. khi giờ chết đến, chúng ta có sẵn sàng như các cô phù dâu khôn ngoan kia không? Hay giờ chúng ta chẳng chuẩn bị gì cả giống như các cô phù dâu khờ dại? Liệu chúng ta có sẽ phải nghe những lời kinh khiếp: "Ta không biết các ngươi". Như đám phù dâu khờ dại này đã được nghe khi họ gõ cửa không?
- Hay vào giờ cuối cùng chúng ta có giống anh chàng ở thành Poméi đang nắm chặt cây gươm đứng trên đống vàng bạc vô dụng không?
- Hay giờ ấy chúng ta sẽ giống như bà mẹ đang ôm chặt con mình một cách yêu thương chăng?
- Hay giờ ấy chúng ta giống như anh lính gác Roma đang trong tư thế trung thành với bổn phận của mình?
Hai chủ đề của các bài đọc hôm nay: một là ngày cuối cùng đến bất ngờ, và hai là bổn phận chúng ta phải sẵn sàng cho ngày ấy là hai chủ đề nghiêm chỉnh, đòi chúng ta phải đưa ra quyết định bởi vì đây là những chủ đề có thể đổi thay cuộc sống chúng ta. Đây không phải là những chủ đề mà chúng ta có thể lắng nghe một cách vô tư, cũng chẳng phải là những chủ đề mà chúng ta có thể tuỳ tiện bỏ mặc. Những chủ đề này hàm chứa sức mạnh của gươm hai lưỡi mà thư gởi tín hữu Do Thái đã đề cập tới; "Lời Chúa sắc bén hơn bất kỳ gươm hai lưỡi nào. Lời Ngài phân chia hồn, linh, cốt, tuỷ, xem xét tư tưởng và ý muốn trong lòng người. Chẳng có vật nào giấu kín được trước mặt Chúa, mọi sự đều trần trụi và phơi bày ra trước mặt Đấng mà chúng ta phải tự mình trả lẽ" (Dt 4: 12-13).
Các chủ đề hôm nay nói về sự bất ngờ và sự sẵn sàng là những chủ đề thích hợp mà Giáo Hội trình bày cho chúng ta vào những ngày cuối năm phụng vụ. Đây cũng là chính là hai chủ đề Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ vào lúc cuối đời Ngài. Các chủ đề hôm nay nói về sự bất ngờ và sự sẵn sàng mời gọi chúng ta tự vấn chúng ta sống giống như đám phù dâu khờ dại hay giống đám phù dâu khôn ngoan?
Nếu giống đám phù dâu khờ dại thì chúng ta không nên ngã lòng bởi vì vẫn còn thời gian để sửa đổi tình cảnh. Còn nếu giống đám phù dâu khôn ngoan thì chúng ta hãy cảm tạ Chúa về ân sủng và sự khôn ngoan đã giúp chúng ta nghe theo lời Ngài.
Chúng ta hãy kết thúc với mẫu chuyện sau. Mẫu chuyện này sẽ giúp minh hoạ cho những gì các bài đọc hôm nay đang mời gọi chúng ta thực hiện.
Cách đây nhiều năm, năm nghệ sĩ William Gargan khám phá mình mắc bệnh ung thư. Khôi hài thay, ngày vào lúc đó, chàng lại đang thủ vai một nạn nhân bị ung thư trong vở The Best man (người giỏi nhất). 36 tiếng đồng hồ sau khi phát hiện ra ung thư, Gargan đã được đem đi giãi phẫu. Khi nhìn lại 36 tiếng đồng hồ này, Gargan nói rằng chàng đã học được hai điều quan trọng về chính mình: thứ nhất chàng nhận thấy mình không hề sợ chết. Chàng đã chuẩn bị cho giờ chết đang khi còn sống bình thường. Thứ hai, chàng biết được Chúa Giêsu là bạn mình. Ngay từ hồi còn trẻ, Gargan đã có quen thưa chuyện với Chúa Giêsu hàng ngày. Chàng đã quen xử dụng những lời cầu nguyện đã thuộc nằm lòng. Giờ đây, trong giờ phút quan yếu này, những lời cầu nguyện ấy khiến chàng ý thức được mối thân tình với Chúa Giêsu mà những lời cầu nguyện ấy đã tạo cho chàng. Đó là những lời cầu nguyện quen thuộc mà có thể một số anh chị em vẫn đọc. Đó là "Lời cầu nguyện dâng lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh" thường đọc sau rước lễ: Lạy Đức Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường. Này con đang quì gối trước mặt Chúa, và hết lòng gắn bó nài xin Chúa: ban cho được lòng tin cho mạnh, lòng cậy cho bền, lòng kính mến cho sốt sắng, lòng ăn năn tội cho thật, lòng chừa cải cho vững. Đang khi con lo buồn đau đớn mà suy gẫm 5 dấu thánh Chúa, thì lòng con hằng nhớ lời vua thánh Đavid phán tiên tri về Chúa con rằng: "Quân dữ đã đâm thủng chân tay của tôi và phơi bày các xương tôi ra".
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen.
44. Chú giải của Noel Quesson
Trong tháng Mười một này, chúng ta đi dần đến lúc kết thúc của năm phụng vụ. Những chiếc lá mùa thu rơi rụng nhắc chúng ta rằng mọi sự sẽ đi đến một kết cuộc. Giáo Hội đề nghị chúng ta trong ba Chúa nhật cuối cùng này, ba đoạn văn Tin Mừng rõ ràng được trích từ bài giảng lớn sau cùng của Đúc Giêsu, trong đó Matthêu đã tập hợp những bài giảng về thời kỳ sau hết: loan báo việc Đền Thờ Giêrusalem bị phá hủy (Mt 24,1-25)... kêu gọi tỉnh thức chờ ngày Quang Lâm của Con Người (Mt 24,26-44)... ba dụ ngôn về sụ canh thức: Người đầy tớ chờ Chủ về, Mười cô trinh nữ, Những nén bạc (24,46 - 25,30)... Cuộc phán xét chung (Mt 25,31-46)...
Bấy giờ, Nước Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn của mình ra đón chú rể...
Ngay từ đầu câu chuyện, Đức Giêsu không ngần ngại cho chúng ta một hình ảnh của cái đẹp, của tuổi trẻ, của niềm vui: Mười trinh nữ, theo bản văn Hy Lạp là "parthènoi". Sự thanh lịch của các cô gái trẻ còn được nhấn mạnh bởi cử chỉ của họ: các cô tay cầm đèn trong đêm tối. Các cô là những khách mời cho một cuộc hẹn gặp. Có một người cưới vợ: chú rể đang chờ họ. Cựu ước đã trình bày Thiên Chúa như một chú rể của Israel.
Khi Matthêu viết lại câu chuyện này, hình ảnh hôn lễ đã được sống cách rõ ràng: Đức Giêsu trong ngôi vị của Người là chú rể... và Giáo Hội, mọi người chúng ta là người được yêu. Thánh Phaolô không cho là táo bạo đã dám viết rằng: "Tôi đã đính hôn anh em với một người độc nhất là Đức Kitô, để tiến dâng cho Người như một trinh nữ thanh khiết (2 Cr 11,2). Lễ đính hôn, Hôn lễ, Tình yêu những hình ảnh của cái đẹp, sự sống hạnh phúc. Do đó, dụ ngôn ngày hôm nay giúp chúng ta đi sâu vào tâm tình của Đức Giêsu: Người coi mình như một chú rể; Người yêu thương. Tính tượng trưng này, có nhiều trong Kinh Thánh và xuất hiện ở nhiều nơi trong Tin Mừng Máccô 2,19; Luca 5,34; Matthêu 9,15; Gioan 3,29. Đối với chúng ta, đời sống Kitô hữu có phải là như thế không? Phải chăng là đường đi của vị hôn thê đến gặp hôn phu của mình? Phải chăng đó là khát vọng mãnh liệt về một cuộc hẹn gặp của tình yêu.
Trong mười cô đó thì có năm cô dại và năm cô khôn. Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. Còn những cô khôn thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo.
Chúng ta biết rằng như thường lệ, Đức Giêsu không dùng lời chỉ để kể cho chúng ta một câu chuyện nhỏ hay hay. Chúng ta chớ quên rằng vào lúc Đức Giêsu kể lại dụ ngôn này bối cảnh thật bi đát, Đức Giêsu còn cách cái chết của Người có vài ngày, một cái chết tàn bạo.
Người vừa công kích, chửi mắng những người Pharisêu một cách mạnh mẽ (Mt 23,1-39)... Giờ đây "vụ án" của Đức Giêsu đã hình thành trong đầu óc các đối thủ của Người.. họ đã quyết định giết người, như họ đã giết mọi ngôn sứ (Mt 23, 34-37). Năm cô dại không đơn giản là các cô "lơ đễnh", dại dột, những người không tiên liệu. Một lần nữa, chữ Hy Lạp mạnh hơn nhiễu. Đây là một vấn đề người điên dại "môrai" và trong ý nghĩa Kinh Thánh “điên" không đơn giản là một người ngu ngốc, không có trí tuệ, mà là kẻ “nghếch đạo", kẻ vừa đủ điên để chống lai Thiên Chúa: Kẻ ngu si (môros) tự nhủ làm chi có Chúa 'Trời!” (Tv 14,1). Trong các sách Tin Mừng cũng từ đó được dùng để chỉ "người ngu dại xây nhà trên cát, không đem lời Đức Giêsu thực hành": (Mt 7,24) - "những người Pharisêu ngu si mù quáng (Mt 23,17). Vậy năm cô dại không đơn giản là những cô gái dễ thương ngốc nghếch, đầu óc trống rỗng hoặc lơ đễnh.
Đây là một thái độ tâm linh nền tảng có liên quan: kẻ khôn là người xây dựng cuộc đời mình trên Thiên Chúa… kẻ dại (điên) là người xây dựng cuộc đời mình trên những gì chỉ dựa vào con người. Phải! Đời sống rất nghiêm trọng: một chọn lựa được đặt ra... một sự "được thua" được chuẩn bị. Đức Giêsu nhắc chúng ta điều đó, nếu cần, bằng cách phác họa cho chúng ta thấy một bức tranh có năm thiếu nữ khôn ngoan và năm thiếu nữ khờ dại. Bạn, bạn đã chọn điều gì? Sự khôn ngoan của Thiên Chúa? hoặc sự điền rồ?
Vì chú rể đến chậm nên các cô thiếp đi rồi ngủ cả.
Nếu câu chuyện chỉ là một sự mô tả hôn lễ bình thường, chi tiết này xem ra không có thực. Nhưng rõ ràng chúng ta ở trong một ngôn ngữ biểu tượng. Trong "bài giảng thời cánh chung", những chi tiết này nổi bật một cách mạnh mẽ. Dụ ngôn này có cùng một ý tưởng với dụ ngôn "người đầy tớ chờ chủ”, người đầy tớ ấy trở thành hung dữ, say sưa vì thấy ông chủ về trễ (Mt 24,48-49).
Hãy chờ! Dù chờ một người đến trễ. Chúng ta đọc trong kinh Tin kính rằng chúng ta đang chờ Đức Giêsu trở lại: Người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết". Nhưng cuộc hẹn gặp ấy không thể dự kiến trước được. Và Đức Giêsu báo trước cho chúng ta nguy cơ là ngủ thiếp đi và quên lãng: đó là điều trầm trọng. Hình ảnh ngủ rất có tác dụng: ru ngủ đời sống Kitô hữu, thay vì sống đời sống ấy: Vì chờ đợi Thiên Chúa đến trễ, hẳn là còn ở xa; người ta bắt đầu chán nản, nguội lạnh, đi theo tập tục cũ kỹ và xơ cứng.
Nửa đêm, có tiếng la lên: “Kìa chú rể, ra đón đi!”
"Nửa đêm!” Thiên Chúa luôn luôn đến trong đêm (Lc 12,39-40; Mt 24,43-44; Lc. 12,20; Mc 13,35-36). "Ngày của Chúa đến sẽ như kẻ trộm ban đêm" (1 Tx 5,2). "Một tiếng la! Một tiếng la xé bóng đêm. Như thế, cảnh tượng đã cố ý bi thảm hóa. Tiếng la ấy làm giật mình mọi người: Thiên Chúa đến bất ngờ, vào giờ mà người ta không ngờ" (Mt 24,44), "lóe sáng như tia chớp" (Mt 24,27). Đối với mỗi người, giây phút này là giây phút duy nhất quan trọng: giây phút của Thiên Chúa... giây phút của cuộc gặp gỡ... giây phút mà, đối với mỗi người chúng ta, vĩnh cửu xuyên qua thời gian và xé rách thời gian thành một tiếng kêu thảng thốt.
Không một ai biết khi nào điều đó xảy ra. Hôm nay chăng? Ngày mai chăng? Một năm nữa chăng? Mười năm nữa chăng? Đức Giêsu báo cho chúng ta biết phải sẵn sàng cho lúc đó. Thế đấy, chúng ta được báo trước một lần mà thôi…
Trong lúc này, tôi có sẵn sàng chưa? Tiếng la sẽ xé rách bóng đêm của tôi có làm tôi giật mình không?
Bấy giờ tất cả các trinh nữ ấy đều thức dậy và sửa soạn đèn.
Trong câu chuyện của Đức Giêsu tất cả các cô đều ngủ: Khôn cũng như dại... Tất cả đều thiếu chờ đợi. Trong ngôn ngữ tượng trưng, tất cả đều đã bất trung. Lạy Chúa, Chúa biết rõ chúng con mà? Chúa không ngạc nhiên về sự yếu đuối của chúng con. Không Chúa chờ đợi gì nơi chúng con?
Chỉ cần chúng con giữ cho ngọn đèn của mình cháy sáng. Chúa không đòi hỏi điều không thể làm được: chỉ cần một chút tỉnh thức, một ngọn đèn nhỏ tiếp tục được thắp sáng trong lúc chúng con ngủ quên. Đó đã là ý định tế nhị của người hôn thê trong Diễm Ca (5,2). "Tôi ngủ, nhưng lòng tôi thức". Vâng, lạy Chúa, con biết rằng con không yêu mến Chúa cho đủ. Nhưng con muốn yêu mến Chúa nhiều hơn. Thông thường, con hay ngủ thiếp đi và không còn chờ đợi Chúa nữa. Lạy Chúa, xin hãy nhìn cái đèn nhỏ bé của con và phần dầu mang theo cho nó.
Các cô dại nói với các cô khôn rằng: "Xin các chị cho chúng em chút dầu của các chị, vì đèn của chúng em tắt mất rồi!” Các cô khôn đáp: Sợ không đủ cho chúng em và các chị đâu các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn".Đúng lúc các cô đi mua, thì chú rể tới..."
Vào đúng lúc này của câu chuyện, hẳn luôn luôn có người công phẫn trước thái độ ích kỷ của các cô được gọi là các trinh nữ khôn ngoan. Một lần nữa, có cần phải nói rằng phần nợ như thế là không biết về thể loại văn chương là dụ ngôn? Chúng ta thường ghi nhận rằng: mọi chi tiết không chứa đựng bài học.
Rõ ràng ở đây, Đức Giêsu không có ý muốn nói: anh em hãy chỉ nghĩ đến mình thôi... anh em hãy từ chối sự phục vụ mà người ta yêu cầu... anh em hãy giữ lại cho mình mọi sự giàu sang của mình! Trong những đoạn khác của Tin Mừng, Đức Giêsu đã nói khá nhiều điều ngược lại.
Nhưng Đức Giêsu hẳn muốn dạy một bài học cao cả vì đã đưa nó vào chi tiết xem ra không có thật, được phóng đại tùy thích cốt để cho người ta thấy rõ: các bạn hãy thử nghĩ xem! Những người bán dầu còn đứng sau quầy hàng lúc nửa đêm để chờ bán hàng cho các cô bị những người bạn gái ích kỷ từ chối không cho mượn dầu! Và khi các cô trinh nữ lơ đễnh. nnua xong hàng, họ lại trở về phòng tiệc? Hẳn là có nguyên do gì đây? Đức Giêsu muốn nói với chúng ta điều gì? Vậy chúng ta hãy nghe phần cuối của câu chuyện.
Những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới. Rồi người ta đóng cửa lại. Sau cùng, mấy trinh nữ kia cũng đến gọi: Thưa Ngài, thưa Ngài! Mở cửa cho chúng tôi với? Nhưng Người đáp: “Tôi bảo thật các cô tôi không biết các cô!”
Các cô trinh nữ điên dại đã không biết sẵn sàng. Như những người khác, họ chuốc sự cực nhọc vào thân, nhưng quá trễ! Như những người khác sau cùng họ cũng thắp lại đèn, nhưng quá trễ! Như những người khác, họ cũng đã về đến của phòng tiệc, nhưng quá trễ. Đó là điều mà Đức Giêsu muốn nói không phải chính chúng ta chọn giờ.
Rõ ràng đây không phải là một chú rể bình thường. Đây là vị Thẩm Phán ngày cánh chung mà người ta phải thưa bằng những từ mà người ta dùng để nói với Thiên Chúa: "Thưa Ngài, Thưa Đức Chúa!". Thế đấy không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! Lạy Chúa" là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời" (Mt 7, 21-23).
Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.
Câu nói khủng khiếp này làm nổi bật tính chất nghiêm trọng của tự do con người. Chúng ta được yêu thương không phải để mà cười. Theo ngôn ngữ Kinh Thánh, những cô điên dại bị đuổi ra khỏi phòng tiệc chỉ vì trước tiên họ đã xua đuổi Thiên Chúa. Sự phán xử mà Đức Giêsu đưa ra chỉ thể hiện điều mà các cô ấy xứng đáng bởi thái độ của chính họ. Các Pha-ri-sêu thời Đức Giêsu hẳn phải biết rất rõ. Nhưng giờ đây vấn đề liên quan đến chúng ta, đến tôi. Tôi đã sẵn sàng chưa? Tôi có canh thức không?
45. Dọn lòng đón Chúa
Cái chết làm loài người sợ hãi nhưng không tránh khỏi được. Nhiều người cố gắng kéo dài sự sống bằng nhiều phương pháp khác nhau để rồi cuối cùng cũng phải chấp nhận nó. Đối với người Kitô hữu, chết không phải là hết mà là đi vào một cuộc sống vĩnh cửu. Nếu chúng ta sống theo lời dạy của Thầy Giêsu Chí Thánh, đời đời chúng ta sẽ được một cuộc sống hạnh phúc vô vàn. Nếu chúng ta không tin giữ lời Đức Giêsu, mãi mãi chúng ta sẽ phải hối hận! Biết chắc điều đó sẽ đến, chúng ta hãy chuẩn bị sẵn sàng như năm cô trinh nữ khôn ngoan trong dụ ngôn để được nghênh đón Chúa Giêsu ngự đến và vui mừng nhận phần thưởng Chúa hứa ban cho những kẻ trung thành với Người.
Mười cô trinh nữ trong dụ ngôn đều biết mình đang chờ gặp chàng rễ và mong được vào dự tiệc với Người. Tuy nhiên, các cô không biết giờ chàng rễ đến, năm cô khôn ngoan biết chắc chàng rễ sẽ đến nên đã chuẩn bị sẵn sàng. Khi chàng rễ đến, tất cả đều muốn được đón chàng rễ vào dự tiệc. Thế nhưng, 5 cô khờ dại vì không chuẩn bị trước nên không có dầu thắp đèn để đón chàng rễ! Chúng ta biết cuộc đời này có hạn và chúng ta sẽ phải tiến đến đời sau, nhưng có một số người lại không lo chuẩn bị cho cuộc sống đời đời, chưa lo làm việc lành dù được Chúa nhắc nhở thường xuyên.
Nhiều người vì không muốn cực khổ nên không chịu học hỏi, không muốn phục vụ, không dệt nên một cuộc đời có ý nghĩa, không cố gắng sống tốt nên mất luôn cả đời này và đời sau. Để biết đúng hay sai, chúng ta hãy trở về với lòng mình mình và cầu nguyện với Chúa. Lúc đo, lương tâm chúng ta sẽ mách cho chúng ta biết mình như thế nào, đang được dồi dào ơn nghĩa Chúa hay đang sống èo uộc vì thiếu sót bổn phận với Chúa, với tha nhân hay với chính mình. Khi chúng ta không lo tròn bổn phận thì lương tâm trách móc, khi chúng ta làm điều lành thì tâm hồn bình an. Ai chểnh mảng bổn phận trong đời sống, thì trong giờ chết có đủ công phúc để vào nước Trời không? Vậy, chúng ta phải biết lắng nghe lời Chúa và thực hành đầy đủ, làm tròn mọi bổn phận trong cuộc sống trong niềm Tin Cậy Mến. Nếu Chúa có đến chậm thì chúng ta cũng hãy kiên tâm giữ đạo, không được buông lơi, nhưng biết lo làm việc lành phúc đức và việc bổn phận hàng ngày. Nếu chúng ta đã chuẩn bị sẵn sàng thì giờ Chúa đến bất ngờ cũng sao, vì chúng ta luôn luôn ở trong ân nghĩa Chúa.
Chúng ta đừng bắt chước năm cô khờ dại. Các cô này đã dại đến cả hai lần: từ đầu các cô đã không mang dầu theo và khi chàng rễ đến muộn cũng không biết lợi dụng thời gian chờ đợi để sắm sửa cho đủ dầu. Chính sự chểnh mảng không đem dầu theo đã khiến các cô bị loại trừ, không còn là người trong tiệc cưới với chàng rễ nữa. Những ai không sống đạo tốt và không lo cho phần rỗi đời sau của mình thì cũng vậy.
Thiên Chúa muốn chúng ta sống trong đợi chờ, cho đến giờ chết của chúng ta. Nhưng chúng ta không đợi chờ cách thụ động mà phải tranh thủ lập công, đền tội, luôn trung thành với ơn nghĩa Chúa. Đến lúc chết mới sám hối thì không còn kịp nữa! Khi cửa đã đóng lại thì muôn đời không vào được nữa, những lời van xin trong giờ phán xét là không còn giá trị và Chúa sẽ không đón nhận.
Chúng ta không biết ngày nào, giờ nào Chúa đến, vì thế chúng ta phải luôn tỉnh thức, trung thành sống trong ơn nghĩa Chúa và tin tưởng phó thác vào sự quan phòng và tình thương của Chúa.
46. Chú giải của Fiches Dominicales
DỤ NGÔN 10 CÔ TRINH NỮ ĐƯỢC MỜI DỰ TIỆC CƯỚI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Một dụ ngôn gởi đến những thính giả Do thái ngày xưa:
Bài Tin Mừng của ngày Chúa nhật thứ 32 hôm nay lấy trong diễn từ thứ 5 của Đức Giêsu, "diễn từ về thời cánh chung". Đức Giêsu đã từ chối trả lời câu hỏi của các môn đệ: "khi nào những sự việc ấy sẽ xảy ra. Bù lại, sau khi kể ra những dấu hiệu báo trước biến cố, Người ân cần giải thích cho họ phải chuẩn bị trước như thế nào: Năm dụ ngôn về sự tỉnh thức là những minh hoạ cho điều đó.
Trước hết, Chúa dùng câu chuyện lụt đại hồng thuỷ và ông Nôe để so sánh (Mt 24,37-42): "Họ không hay biết gì, cho đến khi nặn hồng thuỷ ập tới cuốn đi hết thảy. Ai nấy chỉ lo chuyện đời: "thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng", Họ không muốn biết rằng Thiên Chúa có thể thi hành việc xét xử ngay giữa cuộc sống hiện tại này. Một mình Nôe đã biết chuẩn bị cho tai hoạ sắp đến.
Tiếp đến, Chúa kể dụ ngôn về kẻ trộm đêm, Người quả quyết: "nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, nên ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Và kết luận: "Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến". Sau đó Chúa móc nối với dụ ngôn người đầy tớ trung tín để tuyên bố: "Phúc cho đầy tớ ấy nếu chủ về mà thấy anh ta đang làm như vậy!
Đức Giêsu tiếp tục kể tới dụ ngôn mười cô trinh nữ được mời dự tiệc cưới. Bối cảnh của câu chuyện chẳng xa lạ gì đối với các thính giả của nó: một tiệc cưới như thường xảy ra ở Palestine thời đó:
Như người ta thường biết, cô dâu phải ở tại nhà cha mẹ, chờ chú rể cùng với bạn bè đến rước.
Khi chú rể đến một cách long trọng để tìm đón cô dâu về nhà mình, nơi sẽ diễn ra nghi thức chúc hôn và tiệc cưới, có một đám rước tưng bừng ra đón chàng với đèn đuốc sáng trên tay, rồi sau đó cùng với chàng tiến vào tận phòng tần hôn. Dụ ngôn của Đức Giêsu được Matthêu thuật lại gồm 3 hồi và một màn kết:
Hồi l: màn mở với cảnh mười cô trinh nữ "được mời dự tiệc cưới". Cầm đèn "ra đi đón chú rể". Nhưng chú rể đến trễ, nên các cô "thiếp đi rồi ngủ cả".
Hồi 2: Câu chuyện đang mở màn một cách tốt đẹp, bỗng sang một khúc quanh bi đát, khi thình lình "nửa đêm có tiếng la lên: kìa chú rể, ra đón đi". Lúc này xảy ra một sự tách biệt giữa nội bộ các cô. Một bên, gồm năm cô được gọi nào là "biết phòng xa", "thận trọng", "khôn". Trong Thánh Kinh, đức tính này không chỉ sự khôn khéo theo kiểu người đời cho bằng một sự sáng suốt trong hành động, một cách thực tiễn, đối với ý định của Thiên Chúa. Được kể là "khôn" những ai ý thức được tính khẩn trương của ngày giờ, và biết ứng xử phù hợp. Năm cô gái này "vừa mang đèn, vừa mang dầu theo". Họ lập tức sẵn sàng, đèn trong tay cháy sáng, để nhập vào đám rước đi đón chú rể và đám bạn bè của mình. Bên kia là năm cô được gọi là "dại". Trong Thánh Kinh, tính từ này không chỉ sự bất cẩn, lơ đễnh, cho bằng một thái độ quên lãng đối với Thiên Chúa: được xem là "dại" kẻ nào lạc xa con đường của Thiên Chúa. Cả năm cô này mang đèn mà không mang dầu theo. Các cô nửa chừng bị thiếu dầu vì chú rể đến trễ và bất ngờ. Do không thể xin các chị em khác chia dầu cho, bởi chẳng ai có thể tỉnh thức dùm ai, nên họ phải nửa đêm đi đánh thức chủ tiệm dậy bán dầu cho. Nhưng đi rồi trở về thì đã quá trễ?
Hồi 3: Đám rước đã vào trong phòng cưới. Cửa đã đóng lại và sẽ không mở ra nữa. Các cô khi ấy mới năn nỉ: "Thưa ngài, thưa ngài! mở cửa cho chúng tôi' với!, nhưng vô ích. Chỉ có tiếng trả lời: "Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!. Thật trùng hợp lạ lùng với câu của Đức Giêsu trong Bài Giảng trên núi: "Đến ngày đó, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa... Bấy giờ thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các người” (Mt 7,22-23).
Màn kết: với lời khuyên: "Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào". Các thính giả của Đức Giêsu là những người rất rành Kinh Thánh, không thể lầm vào đâu được: dụ ngôn với bối cảnh một bữa tiệc cưới này gợi nhớ đến giao ước của Thiên Chúa với Dân Người (cf. Ed 16,l-43.49-63). Qua hình ảnh các trinh nữ này, J.Potin nhận định, Đức Giêsu nhắm đến tập thể những người Do Thái đang mong đợi Đấng Cứu Thế. Nhưng ơn cứu độ đòi phải chờ đợi Dân Chúa đã thiếp ngủ về một thiêng liêng. Nhưng này thời cứu thoát đã đến. Người ta phải mau chóng đáp lại lời loan báo Tin Mừng, phải nhập vào đám rước đang ngang qua. Để vài giờ nữa thì không thể kịp. Khi gởi gắm lời kêu gọi tối hậu của Thiên Chúa, Đức Giêsu muốn dành dân Israel, đám dân cũ ở Giêrusalem, các vị lãnh đạo tôn giáo. Nếu họ chối từ lời loan báo ơn cứu độ này họ sẽ không thể được gia nhập Nước Trời! Cả một tai hoạ nghiêm trọng sẽ dành cho họ trong tương lai (“Jésus l'histoire vraie”, Centurion, trang 383).
2. Một dụ ngôn gởi đến những Kitô hữu chúng ta hôm nay:
Dụ ngôn mà Đức Giêsu gợi ra cho các thính giả Do Thái của Người suy tư, vẫn có giá trị cho mỏi thời, cả cho thời chúng ta nữa. Được Matthêu đưa vào trong diễn từ dài sau cùng của Phúc âm ông, khi được gởi đến cho cộng đoàn Kitô hữu, nó trở thành một lời kêu gọi thôi thúc phải tỉnh thức, vì loài người chúng ta không thể biết trước "giờ" chú rể đến, "ngày" Chúa trở lại. Cl Tassin nhận xét: "Để được dự bữa tiệc có một không hai này, được mời mà thôi không đủ, còn phải chuẩn bị sẵn sàng nữa". Cũng như mười cô phù dâu ở đây, được mời không có nghĩa đương nhiên được vào dự tiệc cưới, thì tự xưng mình là Kitô hữu thôi cũng chưa đủ Do đó phải khẩn trương chuẩn bị đón Chúa trở lại. Đến ngày đó, Đức Giêsu chỉ "nhận ra" thuộc về Người những ai, trong lúc tích cực mong chờ Người, biết thi hành ý muốn của Chúa Cha; như thế mới là "người khôn", theo nghĩa của Kinh Thánh. Cl. Tassin viết tiếp: "Kitô hữu không phai là kẻ bị ám ảnh bởi ngày tận thế sắp đến. Bổn phận của họ là phải luôn sẵn sàng sống đức tin của mình giữa dòng thời gian, phân biệt với những kẻ chỉ biết có hiện tại trước mắt: chính đây là điểm mà trên đó Thiên Chúa sẽ phán xét loài người. Lối sống say sưa với hiện tại, kiếm dư thừa phải phiếm không cần biết trước sau đôi khi lại lấn át mà năng ý thức đúng đắn về hiện tại, biết rút ra những bài học từ quá khứ, biết sửa soạn cho tương lai. Hiểu như thế thì dụ ngôn mới thể hiện được hết sức tra vấn của nó.
Dụ ngôn về lụt đại hồng thuỷ trình bày cho thấy sự phán xét của Thiên Chúa ập xuống nghiệt ngã ngay giữa dòng đời thường của con người. Dụ ngôn kẻ trộm đêm kêu gọi phải tỉnh táo trước mọi thứ bất ngờ không hẹn trước. Và dụ ngôn về người đầy tớ trung tín nêu rõ tinh thần vâng phục chủ phải là hành hồn của thời gian đợi chờ. Hội Thánh sống với niềm mong đợi ngày cánh chúng ở cuối chân trời, nhưng cuộc phán xét đã bắt đầu hôm nay, trong những lựa chọn của đời sống hằng ngày" ("L'evangile de Matthieu”, Centunon, trang 259-260).
BÀI ĐỌC THÊM
1. “Hãy chong đèn sáng” (Mgr. L.Daloz, trong "Le Règne des cieux s'est approché, Desclee de Brouwer, trang 335- 336).
"Việc loan báo Chúa đến không có mục đích hù doạ chúng ta, hay bắt chúng ta phải chờ đợi trong sợ hãi kinh hoàng. Thiên Chúa đến trễ không có nghĩa Người tìm chích bắt chợp chúng ta. Người không rình mò bắt tội bắt lỗi con người để trừng phạt! Người là Cha, người Cha nhân từ chỉ muốn mọi người được cứu độ" (1Tm 2,4). Người ban cho chúng ta thì giờ vì lợi ích cho chúng ta, để chúng ta biết sử dụng cho nên. Thời gian cho sự kiên nhẫn đợi chờ của Thiên Chúa cũng là thời gian cho sự bền đỗ của chúng ta, thời gian của lịch sử chúng ta, là cơ hội cho chúng ta huấn cải đổi đời, sám hối trở về. Chúng ta phải biết cảm tạ Thiên Chúa về món quà thời gian ấy, và chính chúng ta cũng phải biết nhẫn nại đối với người khác như Thiên Chúa, cầu nguyện cho mọi người, để thông hiệp vào trong lòng nhân hậu và tình thương bao la của Thiên Chúa. Phải biết tận dụng thì giờ, phải hiểu lý do tại sao ông chủ về trễ! Chúng ta thấy các cô trinh nữ khôn ngoan, có vẻ ích kỷ quá: khi chú rễ đến, họ từ chối không chịu chia chút dầu cho các cô kia: "Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu, các chị ra hàng mà mua thì hơn”. Phải chăng họ quá khôn, quá thủ cho mình, y hệt như con kiến trong câu chuyện ngụ ngôn? Chúng ta đã biết rằng: dụ ngôn không phải là một câu chuyện dạy ăn ngay ở lành. Nó dùng sự so sánh lấy ra từ sinh hoạt hằng ngày, từ lối xử sự thông thường ở đời. Nó không có ý dưa ra một qui luật đạo đức, hay một mẫu mực nhất thiết phải theo... Người ta cũng có thể có nhận xét tương tự về thái độ quá ngờ vực hay quá cứng cỏi của chú rể đối với các cô khờ dại. Đúng là Đức Giêsu tự nhận mình là chú rể, nhưng điều đó không có nghĩa là Người xử sự theo kiểu chú rể trong dụ ngôn, xua đuổi những kẻ đến trễ: "Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô!". Giáo huấn của dụ ngôn được chính Đức Giêsu rút ra. Đó là thái độ luôn sẵn sàng để đáp lại tiếng gọi: "Kìa chú rể, ra đón đi! Cần phải cảnh giác, tỉnh táo, khôn ngoan, để nhận ra, phân biệt, biết cách đáp trả; Cần phải chong đèn cho sáng và dự trù trong mình lúc nào cũng đầy dầu Bác ái, để giữ cho ngọn lửa đừng tàn lụi; Cần phải có mặt ngay khi Chúa đến, và đừng đi đâu xao lãng việc gì... "Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào giờ nào..." Chúa không chỉ đến trong ngày tận thế. Nếu chúng ta chờ Người đến vào ngày tận thế, chúng ta sẽ thấy thời gian quá dài và chúng ta cũng sẽ thiếp đi rồi ngủ cả. Nếu biết rằng Người có thể đến trong mỗi phút giây của cuộc sống, chúng ta sẽ lo thắp sáng ngọn đèn đức tin, đổ đầy băng dầu đức ái, để mau ra nghênh đón Người không chút chậm trễ. Rồi sẽ đến một ngày, Người tỏ ra cho chúng ta biết Người là ai, và đã đến với chúng ta như thế nào: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các người đã làm cho chính Ta vậy" (25,40).
2. “Con ve và con kiến" (Bible du dimanche, trang 339-340).
“Một đám cưới to ở một làng quê Palestine: 10 cô phù dâu đến để tháp tùng chú rể đi đón cô dâu. Nhung chỉ có năm trong số các cô xứng đáng được vào phòng tiệc. Tại sao chú rể lại có thái độ có vẻ cứng cỏi như thế. Dường như tiêu chuẩn chàng đòi hỏi nơi các cô chính là sự "khôn ngoan”. Một khi đã quyết định đi theo chú rể (nói cách khác: một khi đã quyết định là Kitô hữu), phải hoàn toàn qui hướng về Đức Kitô, không được xao lãng tỉnh thức vì đủ ba mươi sáu thứ chuyện phù phiếm vô bổ ở đời. Phải biết chọn lựa, đó là một chuyện. Phải tận dụng mọi phương tiện cần thiết để trung thành với lựa chọn của mình và để đi đến cùng, đó là một chuyện khác nữa... và là chuyện quan trọng hơn cả.
Thánh Matthêu kể lại dụ ngôn này vào thời mà chắn chắn các Kitô hữu quá quen với đức tin của mình, và đang dần dần làm cho đức tin ấy chỉ còn là vâng theo Hội Thánh một cách máy móc mà thôi. Thời nào thì cũng thế, là những phương thế để tìm lại sức sống cho niềm tin cũng thế thôi".
47. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
DỤ NGÔN MƯỜI TRINH NỮ
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Bấy giờ về Nước Trời thì cũng in như mười thiếu nữ": Công thức nhập đề này, duy nhất trong Diễn từ cánh chung, nhắc lại công thức nhập đề của các dụ ngôn về Nước Trời ở chương 13; nó không muốn bảo: Nước Trời giống như mười thiếu nữ, nhưng là: bấy giờ, nghĩa là vào lúc Nước Trời tỏ hiện lần sau hết, có những người giống như các thiếu nữ trong dụ ngôn; tránh ra chữ bấy giờ có cùng một nghĩa với câu 31: "Khi Con Người đến trong vinh quang của Người... ".
"Đi đón lang quân": Lối so sánh Chúa Giêsu với lang quân chuẩn bị hôn lễ của mình và hình ảnh của chính lễ cưới rất quen thuộc dù ý niệm Messia-lang quân xa lạ với Do thái giáo thời suy đồi. Song tâm điểm của dụ ngôn nằm trong tầm quan trọng được gán cho lúc lang quân đến. Như dụ ngôn đi trước và dụ ngôn nén vâng tiếp liền sau, dụ ngôn mười trinh nữ phải được đọc và hiểu như là lời chú giải toàn bồ giáo huấn của các câu 36-42, chương 24.
"Các cô thiếp đi mà ngủ cả”. Các trinh nữ không bị khiển trách vì đã ngủ, bởi thời gian hoạt động đã qua đối với các cô, nhưng là vì đã chẳng chịu làm công việc phải làm (các cô khờ) ngay từ đầu lễ cưới (đem đủ dầu có nghĩa là trung thành). Bởi thế, lời khuyên hãy tỉnh thức của c.13 không mâu thuẫn với giấc ngủ đó của mười trinh nữ, vì nó được áp dụng vào thời gian trước khi cử hành lễ cưới. Phải tỉnh thức bây giờ để có thể bình thản mà ngủ, với số dầu đã dự tru, trong thời gian cuộc lễ.
"E không đủ cho cả chúng em và các chị": Toàn bộ ý nghĩa dụ ngôn kết tinh trong câu trả lời cứng rắn này đối với các trinh nữ khờ dại chẳng chịu phòng xa. Không còn vấn đề cho hay ngay cả cho mượn chính cái điều bảo đảm cho ta ơn cứu rỗi. Ta thình lình được đưa vào một bầu khí hết sức nghiêm khắc xa hẳn rọi thứ tình cảm, mọi thứ nhân đạo.
KẾT LUẬN
Phải tỉnh thức bây giờ, nghĩa là phải dự trữ đủ dầu, phải trung thành (24,45; 25,23) và phải làm các việc cần làm lập tức để khỏi phải "thức dậy" (sống lại) cách thình lình trong giờ Phán xét. Nếu biết giờ Phán xét hay biết các dấu hiệu tiên báo hiển nhiên, có lẽ con người sẽ trì hoàn việc sống trung thành; nhưng trong phần hai này của Diễn từ cánh chung, một nhấn mạnh sự vô tri của nhân loại về Giờ đó và vì thế, ông chẳng đề cập gì đến các dấu chỉ tiên báo ngày tận cùng nữa cả.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Chúa đến. Đối với mười trinh nữ, đó là một xác tín chắc chắn, hiển nhiên. Họ đã chuẩn bị đèn đuốc, đã đi nghênh đón và chờ đợi chàng rể tại nơi ấn định họ đã xác tín chàng sẽ tới đến độ không lo âu gì trước sự chậm trễ ấy. Họ đã thiếp đi và ngủ cả, đó là dấu hiệu họ đang bình thản tâm hồn.
Ta cũng tin Chúa đến. Tuy nhiên đôi lần việc chờ đợi làm ta bớt tin tưởng. Chắc chắn, Người đến, nhưng mọi sự xem ra quá bình lặng. Người đến, nhưng chẳng có dấu hiệu gì, người hình như bất động. Khi chẳng có gì xảy ra, khi không một dấu hiệu tiên báo nào xuất hiện, thì sự hao mòn của thời gian dễ tàn phá lòng kiên nhẫn của' ta, các câu hỏi bắt đầu nổi dậy, nghi ngại chen vào lung lay những xác tín chắc chắn nhất; dần dần chính sự mù mờ của kiến thức làm tắt ngủm ngọn đèn nội tâm của ta và đặt trong ta một thái độ dửng dưng nào đó, vì các biến cố đoan hứa xem ra đáng ngờ. Bấy giờ nếu thình lình xảy ra một tai biến, sự chờ đợi có thể chìm sâu vào thất vọng và bị coi như hoàn toàn vô ích. Chúa đến, đó là điều chắc chắn, là một xác tín bình thản phải được củng cố trong ta. Đó không phải là một giả thuyết, một khả hữu đơn thuần, mà là thực tại hiển nhiên của tương lai ta. Và vì liên hệ tới tương lai ta nên đó chính là viễn tượng duy nhất chắc chắn như cái chợt thể lý của ta. Ước gì niềm xác tín này làm lòng ta tràn ngập bình an, tinh thần ta hoàn toàn thanh thản.
2. Chúa đến, và đến bất ngờ. Đó là khía cạnh thứ hai trong câu chuyện mười trinh nữ. "Nửa đêm, có tiếng kêu..." như thể việc đi sang ngày mai ấy cũng là việc chuyển từ tình trạng này đến tình trạng kia. Bất ngờ và cưỡng chế, đó là đặc tính của việc Chúa đến trong Lời mà ta đang nghe lúc này đây của Thánh lễ. Đấy như là một dấu báo hiệu; trước đó nó đã cho thấy thật là phi lý khi ta trong mình sẽ có đủ giờ để canh chừng. Không báo trước như một tiếng sét giữa bầu trời quang đãng, như một tiếng kèn loa vang (1Tx 4, 16), như một "con đường Đamas" xem ra bình thường nhưng lại có tính cách quyết định, cuộc giá lâm ấy sẽ áp đặt sẽ mang đi tất cả, và sẽ ban sức sống cho những gì phù hợp với nó cho những ai đón chờ nó, và sẽ tiêu diệt những gì còn lại.
3. Nhưng hăng hái đi đón Chúa và chờ đợi Người đến trong một đức tin an tĩnh thì cũng chẳng đủ tí nào. Phải tích cực chuẩn bị cuộc gặp gỡ đố bằng cách dự trữ thật nhiều việc lành phúc đức, nhiều hành vi xả thân phục vụ các kẻ "bé mọn" quanh ta, nhiều trung tín đối với các công việc khác nhau thuộc bổn phận bậc sống ta. Chỉ có đời sống hoàn toàn tận hiến cho Chúa và cho anh em mới sẽ có thể rạng ngời như ánh sáng trong đêm tối trần gian và cho phép ta nghỉ yên giấc ngàn thu vì biết rằng Chúa sẽ mở rộng cho ta cánh cửa phòng tiệc của Người.
48. Dự liệu, phó thác và tỉnh thức – An Phong
Bài Tin mừng hôm nay là một dụ ngôn về 5 cô trinh nữ khờ dại và 5 cô trinh nữ khôn ngoan. Các cô khờ dại bị loại khỏi tiệc cưới, vì họ thờ ơ không chuẩn bị thích hợp. Còn các cô khôn ngoan thì được đón nhận vào tiệc cưới. Người kitô hữu cũng vậy, nếu thờ ơ không chuẩn bị thích hợp, họ cũng sẽ bị loại khỏi bữa tiệc cánh chung của Thiên Chúa.
Cuộc đời vốn là một hành trình đầy bất ngờ; bởi luôn có nhiều điều xảy ra ngoài dự kiến của ta. Sự bất ngờ đôi khi gây thú vị, nhưng cũng lắm lúc làm đớn đau, tan nát… và thường làm cho ta khó hoạch định tương lai một cách chắc chắn. Năm cô trinh nữ khôn ngoan đã biết dự phòng, bằng cách mang dầu theo với đèn; điều đó làm cho các cô có thể ứng xử đúng đắn khi điều bất ngờ xảy đến.
Cuộc đời là một hành trình và khôn ngoan là biết dự liệu tối đa.
Cuộc đời là một cuộc phiêu lưu, có niềm vui, có hạnh phúc; nhưng cũng không thiếu nỗi đau, bất hạnh. Những đau khổ và bất hạnh đó nhiều khi vùi dập con thuyền đời của ta, làm cho ta thất vọng, chán nản. Người kitô hữu cần phải luôn hy vọng đạt đến bến bờ hạnh phúc, để có đủ sức mạnh hoàn tất cuộc hành trình này. Khi nào chúng ta sẽ đạt đến bến bờ hạnh phúc? Chúng ta không biết, cũng như các cô trinh nữ không biết khi nào chàng rể đến. Nhưng chúng ta hy vọng sẽ có ngày toại nguyện, như các trinh nữ biết chắc chàng rể sẽ đến.
Cuộc đời vốn là một bến đợi, và khôn ngoan là biết sống trong hy vọng.
Cuộc đời có quá nhiều khó khăn sẽ dễ làm cho chúng ta chai lì; sự mong đợi lâu ngày có thể làm chúng ta dửng dưng với mọi sự; những khó khăn hằng ngày khiến chúng ta luôn phải tìm cách giải quyết những chuyện trước mắt; và cuối cùng chúng ta có thể lâm vào tình trạng chẳng còn biết mình trông đợi ai, mình hy vọng điều gì, mình sống trên đời để làm gì nữa. Lúc 5 cô khờ dại đi mua dầu, thì chàng rể đã đến; có thể Chúa đến đang lúc chúng ta bận tâm chuyện gì khác chăng?
Cuộc đời là bến mê; và khôn ngoan là biết tỉnh thức.
Để đón nhận Chúa, chúng ta cần biết dự liệu sẵn sàng biết kiên nhẫn hy vọng và biết tỉnh thức sáng suốt.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã đến với con trong bí tích tình yêu này
Và Chúa vẫn hằng đến với con trong từng bước cuộc đời của con.
Xin cho con biết tỉnh thức,
để nghe được tiếng bước chân của Ngài.
49. Người khôn kẻ dại – Lm. G. Nguyễn Cao Luật
Tỉnh thức trong tình yêu
Chắc chắn rằng dụ ngôn mười trinh nữ hướng tới thời cuối cùng, tương tự như các dụ ngôn trong đoạn trước và tiếp liền sau dụ ngôn này (chủ nhà, người đầy tớ trung tín, những nén vàng). Các dụ ngôn này có một ý nghĩa rõ ràng và được nhắc đi nhắc lại, đó là sự tỉnh thức. Người ta không biết giờ nào Chúa sẽ đến, và rất có thể Người sẽ "đến trễ", nên phải chuẩn bị sẵn sàng và kiên trì trước mọi tình huống.
Riêng về dụ ngôn mười trinh nữ, có lẽ không nên để ý đến những chi tiết có vẻ như giả tạo của câu chuyện: dụ ngôn không phải là một phóng sự hay một bài mô tả phong tục đám cưới, đúng và đủ mọi tình tiết. Trái lại, nên chú ý đến bài học của dụ ngôn, đó là sự khôn ngoan, biết phòng xa.
Điều dễ nhận thấy trong dụ ngôn này là bài học về sự "tỉnh thức". Bài học này làm người đọc liên tưởng đến lời cảnh giác của thánh Phao-lô: "ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm" (1 Tx 5,2). Trong mười trinh nữ đi đón chàng rể, có năm cô khôn và năm cô dại.
Các cô khôn là những người biết phòng xa và chuẩn bị đầy đủ, cũng giống như người xây nhà trên đá (Mt 7,24), hay người quản gia biết chăm sóc gia nhân lúc vắng chủ (Mt 24,45). Các cô là hình ảnh của những người biết "lắng nghe và thi hành" những lời Đức Giêsu nói, những người có óc phê phán đúng đắn và tế nhị về thực tại của cuộc sống, kèm theo một ý chí cương quyết hành động.
Ngược lại, các cô dại là những cô không biết dự trữ phòng xa, không biết trù liệu trước hoàn cảnh bất trắc. Các cô là hình ảnh tiêu biểu cho những người lơ là, thiếu đầu óc thực tế, thiếu phán đoán, gây ảnh hưởng tai hại đến cuộc sống, nhất là đời sống vĩnh cửu.
Quả thật, các cô khôn đã chuẩn bị dầu đèn đầy đủ, lại còn mang theo bình dầu dự trữ, đề phòng trường hợp phải chờ đợi lâu. Các cô đã được vào dự tiệc cưới, như là phần thưởng cho thái độ sẵn sàng của mình. Trong khi đó, các cô dại, đã không mang dầu, lại còn mất thời giờ chạy đi mua, nên trở về quá trễ và không được vào dự tiệc cưới. Các cô đã bị ngăn lại, vì đèn của các cô hết dầu, và các cô đến quá trễ: dựa theo lời thánh Âu-gút-ti-nô, các cô đã thiếu điều quan trọng là dấu chỉ tình yêu và đã không sẵn sàng đáp ứng trước tình yêu.
Người ta có thể ngạc nhiên và đặt câu hỏi: Tại sao các cô khôn lại xử sự có vẻ như thiếu đức ái, đó là không giúp đỡ chị em mình đang gặp khó khăn. Thật ra, ở đây không chú trọng đến đức bác ái, nhưng muốn nhấn mạnh đến ý nghĩa mỗi người phải chịu trách nhiệm về tự do và hạnh kiểm của mình, không được nông nỗi nhẹ dạ. Hơn nữa, sự kiện các cô trinh nữ phải chờ đợi lâu và chú rể chậm đến có thể cho thấy rằng lòng thương xót được gia hạn thêm một thời gian dài, rất dài, và đến một ngày, giai đoạn này sẽ chấm dứt. Thời gian chờ đợi có kéo dài thêm gợi lên tính cách nghiêm trọng của lời mời, đồng thời cũng bao hàm ý nghĩa: Đấng Cứu Thế không phải là sản phẩm theo sự suy đoán của con người. Đàng khác, nên hiểu thời gian này như một hồng ân được ban tặng để mỗi người kịp sửa chữa những thiếu sót và sai lầm của mình. Mỗi người đều có cơ hội để đáp ứng bằng chính tình yêu của mình.
Và như vậy, dụ ngôn không chỉ nói đến sự tỉnh thức. Hay nói cách khác, tỉnh thức chính là phải chuẩn bị đầy đủ cho cuộc lữ hành ""trên mặt đất đầy đau thương, bi tráng và kỳ diệu này"" (Chúc thư của ĐGH Phao-lô VI). Mỗi người phải mang theo đèn, và phải dự trữ dầu, nguổn đem lại ánh sáng, tức là phải có lòng hiếu khách, phải có tình yêu và niềm vui (ý nghĩa của dầu theo Kinh Thánh). Không có dầu, ngọn đèn sẽ tắt, người ta sẽ chìm trong tối tăm, và không được vào dự tiệc cưới.
Giữ ngọn đèn luôn cháy sáng
Nếu có ai được mời đi gặp một nhân vật họ vẫn mong đợi, hẳn là họ sẽ chuẩn bị rất kỹ càng, có khi tỏ ra nóng nảy, bồn chồn. Nếu họ vốn là người thờ ơ, hẳn họ sẽ phải thu xếp để có mặt đúng giờ, có khi còn đến sớm hơn giờ hẹn. Nếu nhân vật được mong đợi lại là người có khả năng làm thay đổi cuộc đời, thì người ta lại càng náo nức chờ đợi, và chuẩn bị kỹ lưỡng hơn.
Chàng rể trong dụ ngôn chính là Đức Giêsu. Với lòng yêu thương vô bờ, Thiên Chúa Cha đã trao phó cho Người trọn vẹn vận mạng của tất cả nhân loại cũng như của mỗi người. Người đã đến trần gian để dẫn đưa nhân loại đến tham dự sự sống và niềm vui vĩnh cửu trong Thiên Chúa. Chính Người đang đến gặp nhân loại và nhân loại phải tiến về với Người, bởi vì Người là sự sống, sự sống đời đời. ""Mà sự sống đời đời chính là nhận biết Cha, Đấng duy nhất là Thiên Chúa thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến là Giêsu Kitô."" (Ga 17,3)
Chàng rể có thể đến trễ, nhưng người ta vẫn phải chờ đợi, vẫn phải sẵn sàng. Ngọn đèn của mỗi người luôn phải có đủ dầu để đi đón chàng rể. Người ta có thể ngủ quên, nhưng vẫn có thái độ sẵn sàng: khi nghe tiếng kêu vào lúc nửa đêm, họ cũng đủ dầu đèn để đi đón chàng rể và dự tiệc cưới.
Như thế, dầu đèn chính là khát vọng tìm gặp Thiên Chúa. Khát vọng này cần được nuôi dưỡng để khỏi phai tàn trong cuộc chờ đợi. Các cô trinh nữ đi đón chàng rể, lúc khởi đầu tất cả đều vui mừng. Nhưng trong lúc chờ đợi, năm cô đã để cho lòng nhiệt thành của mình nguội dần, và khi chàng rể đến, các cô đâm bối rối, khát vọng của các cô đã tắt lịm. Có biết bao cuộc gặp gỡ đã bị vỡ tan bởi vì ngọn đèn khát vọng đã tắt ngúm.
Đúng vậy, đôi khi cuộc chờ đợi có thể kéo dài và biến thành một thử thách khắc nghiệt, nhất là với những người phải bước đi trong đêm tối, tiến bước rất lâu với cảm tưởng rằng không bao giờ gặp được chàng rể mình vẫn ước mong. Thật ra, tình trạng này là một dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa luôn khoét sâu tâm hồn con người, để rồi ngày mai hay một lúc nào đó, Người sẽ bước vào. Phần con người, họ phải nuôi dưỡng lòng nhiệt thành bằng lòng tin, bằng việc cầu nguyện. Thiên Chúa sẽ không để cho kẻ chờ đợi Người phải thất vọng.
Sự nghèo khó nội tâm
"Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào."
Đây là chủ đề được nhắc đi nhắc lại trong suốt diễn từ loan báo ngày Đức Kitô trở lại trong vinh quang. Ở đây, Đức Giêsu đã bày tỏ rõ ràng Người là Đấng Cứu Thế trước khi Người chịu khỗ nạn và phục sinh.
Người mong muốn chúng ta chờ đón Người, và không được bỏ cuộc; Người mong muốn chúng ta chuẩn bị dầu đèn để khi Người trở lại, mặc dù bất thình lình, và chúng ta đang thiếp ngủ, chúng ta sẵn sàng đến gặp Người như Người cũng nhận ra chúng ta.
Phải chuẩn bị dầu đèn! Đây là một trách nhiệm nhưng chúng ta hãy yên lòng: Nếu Thánh Thần sử dụng dầu, thì chính Người cũng sẽ quan tâm không để chúng ta thiếu dầu.
Chúng ta nhớ lại câu chuyện bà goá ở Xa-rơ-phát: "vò dầu đã chẳng cạn, đúng như lời Đức Chúa đã dùng ông Ê-li-a mà phán" (1 V 17,16). Bà goá này đã đặt tất cả niềm tin vào vị sứ giả của Thiên Chúa, nên vò dầu của bà đã không cạn.
Thật vậy, khi phục vụ Thiên Chúa và người khác, chúng ta vẫn phải khôn ngoan, dự phòng, nhưng cũng cần phải nhớ rằng sự khôn ngoan đích thực và cao cả nhất chính là sự nghèo khó trong tâm hồn, là lòng tin tuyệt đối, là xác tín rằng Thiên Chúa vẫn đang ở bên cạnh chúng ta và nâng đỡ sự yếu hèn, sự mỏi mệt của chúng ta. Chính Người vẫn bao bọc chúng ta trong tình yêu thương của Người để chúng ta luôn trở thành ánh sáng cho thế giới, thành anh em của mọi người, thành người cứu vớt những gì đã hư mất và thành chứng ta sống động của niềm vui.
Giếng nước trong khu vườn,
ngọn đèn tạo ánh sáng,
kho báu trong ngăn tủ,
Man-na trong Hòm Bia.
Lạy Chúa, Ngài là Chúa của con. H. Suso.
50. Khôn hay dại
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Chúng ta đang sống vào những tuần cuối cùng của năm phụng vụ, vì thế các bài Tin Mừng của những Chúa Nhật cuối năm, cụ thể như bài Tin Mừng hôm nay, đều hướng chúng ta về thời gian tận cùng, về cái chết. Khi nào, lúc nào sự kiện đó xảy đến? Không ai biết trước, cho nên, phải khôn ngoan tính toán, để luôn luôn sẵn sàng. Đó là điều Chúa Giêsu dạy chúng ta qua dụ ngôn mười cô trinh nữ phù dâu cầm đèn đi đón chàng rể.
Trước hết, chúng ta nên biết qua tục lệ của người Do Thái về vấn đề rước dâu. Tục lệ Do Thái thường rước dâu về ban đêm, trước khi rước dâu, hai họ đôi bên đã có những bữa tiệc linh đình khoản đãi bà con họ hàng. Rồi một ngày nào đó, đàng trai chọn một giờ tốt nhất từ sau khi hoàng hôn xuống, để đến rước cô dâu về. Khi đi rước, họ thường chọn con đường xa nhất để đi cho người ta biết mặt cô dâu, chú rể, và người ta có thể chúc mừng đôi tân hôn ngay trên đường đi. Nhóm phù rể mang đuốc soi đường, nhóm phù dâu cầm đèn soi mặt đôi tân hôn cho thêm lộng lẫy. Có khi có ban nhạc đi theo giúp vui ca hát lôi kéo sự chú ý của nhiều người. Tới nhà trai, mọi người vào dự tiệc cưới.
Trong dụ ngôn hôm nay, đặc biệt nhấn mạnh đến những cô phù dâu, đó là mười cô trinh nữ, đang cùng với cô dâu chờ nhà trai đến rước dâu về. Có năm cô khôn và năm cô dại. Chúng ta nên nhớ, đây chỉ là một dụ ngôn mà thôi, chứ làm gì lại có những cô phù dâu khờ dại đến thế: quần áo chỉnh tề và trang sức lộng lẫy, mà lại quên đổ dầu vào đèn, nhất là đang lúc vui vẻ như vậy mà lại ngủ mệt làm sao được? và giả như không có dầu thì đi chung dưới ánh sáng của những cô bạn khác, chứ ai lại khờ đến nỗi lúc đó còn đi mua dầu?
Cũng thế, làm gì có chuyện nhà trai chậm trễ đến nỗi mãi nửa đêm mới tới? Và khi tới chẳng lẽ không có tiếng kèn, tiếng hát, tiếng nói chuyện để làm cho nhà gái biết đã đến hay sao mà lại phải có tiếng kêu: “Kìa chàng rể đến, hãy ra đón”, rồi khi đã vào phòng tiệc, cần gì phải đóng cửa, và chú rể tỏ ra quá khắc nghiệt đối với các cô phù dâu đi mua dầu đến trễ? Xin nhớ, đây chỉ là một dụ ngôn, chứ không có đám cưới nào hay đám rước dâu nào như thế. Dụ ngôn dựa vào tục lệ cưới xin để diễn tả một chân lý hay để dạy một điều gì đó.
Thực vậy, ở đây Chúa Giêsu đã dùng một hình ảnh quen thụôc về cưới xin của quê hương Ngài để dạy một bài học là phải luôn sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến. Trong một đám cưới, nhân vật chính là cô dâu và chú rể, nhưng trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu lại đặt trọng tâm về phía các cô phù dâu, bởi vì chàng rể ở đây là Chúa Giêsu, mười trinh nữ phù dâu là toàn thể nhân loại.
Dụ ngôn này trước hết nói đến tất cả mọi người phải sẵn sàng chờ đón ngày chung cục của thế giới, ngày cánh chung, ngày tận thế, ngày Chúa tái giáng để phán xét toàn thể nhân loại. Ngày nào Chúa trở lại thì không ai biết được, chỉ cần biết rằng ngày đó rất bất ngờ. Đàng khác, dụ ngôn này cũng muốn nhắc tới ngày tận số, ngày chết của mỗi người, ngày ấy cũng rất bất ngờ, không ai biết trước được. Đời con người đã ngắn ngủi, lại có thể chết bất cứ lúc nào, cho nên, đòi hỏi mỗi người phải cẩn thận và sẵn sàng.
Nói rõ hơn, Kinh Thánh và giáo lý dạy cho chúng ta biết: mỗi người đều có hai kiếp phải sống và được sống: một đời sống tạm bợ và một đời sống vĩnh cửu, một đời sống hiện tại và một đời sống tương lai, một đời sống hành hương và một đời sống quê thật, một đời sống trần gian và một đời sống thiên đàng hay hỏa ngục. Từ kiếp sống này qua kiếp sống kia, mỗi người phải qua sự chết một lần, đó là điều tất nhiên, vì kiếp sống tạm bợ ở trần gian chỉ diễn ra một lần. Sự chết đến với mỗi người được Kinh Thánh gọi là Chúa đến, và việc Chúa đến này xảy ra bất ngờ, bí mật, trừ một vài trường hợp họa hiếm được Chúa cho biết trước ngày giờ chết, còn hầu hết đều không hay biết gì cả. Thiên Chúa muốn giữ bí mật như vậy để chúng ta luôn sẵn sàng, và do đó cố gắng sống tốt lành, thánh thiện.
Dụ ngôn cho chúng ta thấy trong mười cô phù dâu, có năm cô khôn và năm cô dại. Đó là hình ảnh tượng trưng cho hai nhóm tín hữu khác nhau: một nhóm những người khôn ngoan và một nhóm những người dại. Khôn hay dại là căn cứ vào cách sống của họ có biết sẵn sàng hay không? có sự nghiệp đức tin và công phúc hay không? năm cô phù dâu bị gọi là dại, vì đã không chuẩn bị đủ dầu, đến giờ chót đi vay mượn và bị từ chối, nghĩa là ơn cứu độ của mỗi người là tự mình sắm sửa lấy cho mình. Mỗi người phải có sự nghiệp đức tin riêng, sự cứu rỗi là của riêng mỗi người, không vay mượn được. Chúng ta không thể nhường lại cho ai khác và cũng không ai nhường lại cho chúng ta được. Đàng khác, chúng ta cũng đừng cho rằng: chỉ cần sắm sửa một ít dầu vào phút chót là được. Trái lại, phải sắm sửa cả đời và suốt đời, sự nghiệp đức tin phải sắm sửa hằng ngày cho đến chết, vì không ai biết mình chết khi nào.
Chúng ta đừng bao giờ nghĩ mình còn lâu mới chết: mình còn trẻ, mình khỏe mạnh, còn lâu mới chết, vì không thiếu gì trường hợp “lá vàng còn ở trên cây, lá xanh rụng xuống trời ơi hỡi trời ”, chẳng hạn trong vụ hỏa hoạn thảm khốc tại trung tâm thương mại quốc tế tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 29 tháng mười, hơn 50 người đã thiệt mạng, những người ấy có biết hôm ấy là ngày cuối cùng của mình không? Quả thực, không ai biết trước về ngày giờ chết của mình, không ai phỏng định được tuổi nao mình sẽ từ biệt cõi đời, đó là quyền phép trong tay Chúa. Vì thế, Chúa bảo chúng ta phải tỉnh thức và sẵn sàng. Chúng ta hãy nhớ: đời sống hiện nay, tuy là tạm bợ, nhưng sẽ quyết định đời sống mai sau của chúng ta. Chúng ta phải sống thế nào để đem lại cho mình hạnh phúc ở đời này và cả hạnh phúc đời sau. “Thiên đàng hỏa ngục hai quê. Ai khôn thì về ai dại thì xa”. Được bao nhiêu người khôn biết tìm về quê thật để hưởng hạnh phúc vĩnh cửu? Đồng thời cũng biết bao người dại đến nỗi phải sa hỏa ngục trầm luân muôn đời? Khôn hay dại là tùy mỗi người chúng ta.
51. Sẵn sàng
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Bài Tin Mừng là một dụ ngôn của Chúa Giêsu. Chúa đã dùng một hình ảnh quen thuộc về cưới xin của quê hương Ngài để dạy chúng ta một bài học, là phải luôn sẵn sàng chờ đợi ngày Chúa đến. Trong một đám cưới, nhân vật chính là cô dâu và chú rể. Nhưng trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu lại đặt trọng tâm về phía các cô phù dâu, bởi vì chàng rể ở đây là Chúa Giêsu, mười trinh nữ phù dâu là toàn thể nhân loại.
Dụ ngôn này trước hết nói đến tất cả mọi người phải sẵn sàng chờ đợi ngày tận thế, ngày Chúa tái giáng để phán xét toàn thể nhân loại, ngày nào Chúa trở lại thì không ai biết được, chỉ cần nhớ rằng ngày đó rất bất ngờ. Đàng khác, dụ ngôn này cũng muốn nhắc tới ngày chết của mỗi người, ngày ấy cũng rất bất ngờ, không ai biết trước được. Đời con người đã ngắn ngủi, lại có thể chết bất cứ lúc nào, cho nên đòi hỏi mỗi người phải cẩn thận và sẵn sàng.
Việc chờ đợi sẵn sàng có tính cách bản thân cá nhân mỗi người, không ai làm thay ai được. Sự sẵn sàng này phải có luôn, kéo dài mãi chứ không phải chỉ trong một thời gian nào thôi, vì Chúa đến bất ưng, Chúa có thể gọi chúng ta ra khỏi đời này bất cứ lúc nào. Cho nên, như 10 trinh nữ, sửa soạn có đèn mà thôi, đèn cháy mà thôi cũng chưa đủ, còn phải dự trữ dầu. Cũng vậy, có đạo, có đức tin mà thôi chưa đủ mà còn phải có sự nghiệp đức tin và công phúc nữa.
Dụ ngôn cho chúng ta thấy, trong mười cô phù dâu, có năm cô khôn ngoan và năm cô khờ dại. Đó là hình ảnh tượng trưng cho hai nhóm tín hữu khác nhau: một nhóm những người khôn ngoan và một nhóm những người khờ dại. Khôn ngoan hay khờ dại là căn cứ vào cách sống của họ có biết sẵn sàng hay không? Có sự nghiệp đức tin và công phúc hay không? Năm cô phù dâu khờ dại không chuẩn bị đủ dầu, đến giờ chót đi vay mượn và bị từ chối, có nghĩa là ơn cứu rỗi của mỗi người là tự mình sắm sửa lấy cho mình. Mỗi người phải có sự nghiệp đức tin riêng. Sự cứu rỗi là của riêng mỗi người, không vay mượn được. Chúng ta không thể nhường lại cho ai khác và cũng không ai có thể nhường lại cho chúng ta được. Đàng khác, chúng ta cũng đừng cho rằng: chỉ cần sắm sửa một ít dầu vào phút chót là được. Trái lại, phải sắm sửa cả đời và suốt đời. Sự nghiệp đức tin phải sắm sửa hằng ngày cho đến chết, vì không ai biết mình chết khi nào, đừng bao giờ nghĩ rằng mình còn lâu mới chết, vì sự chết không kiêng nể ai và cũng chẳng báo trước cho ai cả.
Vì thế, bổn phận của chúng ta là phải luôn sẵn sàng, lúc nào cũng chuẩn bị trước cho mình một sự nghiệp nước trời theo gương nhân vật trong câu chuyện sau: Bá tước Hen-ri-đơ Ba-vi-e, người sau này trở thành hoàng đế nước Đức, và Giáo Hội đã phong thánh cho ngài. Ngài thường cầu nguyện bên mộ thánh Uôn-gang. Một hôm thánh Uôn-gang hiện ra với ngài và chỉ cho ngài một dòng chữ viết trên mộ: "Sau sáu..." chỉ có hai chữ đó thôi, rồi thánh nhân biến đi. Hen-ri suy nghĩ mãi, không hiểu "Sau sáu..."nghĩa là gì? Ngài nghĩ rằng có lẽ Chúa muốn cho ngài biết sau sáu ngày nữa mình sẽ chết chăng? Ngài liền dọn mình chết cách nghiêm túc. Nhưng sau sáu ngày vẫn không có sự gì xảy ra. Ngài cho rằng: sau sáu tuần chăng? Ngài lại dọn mình chết trong sáu tuần. Sáu tuần lại qua đi vô sự. Ngài lại nghĩ sau sáu tháng chăng? Sáu tháng lại qua đi. Ngài lại nghĩ sau sáu năm chăng? Ngài kiên trì sống tốt lành, làm thật nhiều việc đạo đức. Sáu sáu năm ngài được chọn làm hoàng đế. Dầu vậy ngài vẫn không thay đổi cách sống, luôn chuẩn bị sẵn sàng chết. Vì thế, ngài đã trở thành một hoàng đế gương mẫu và hơn nữa là một vị thánh.
Chúa Giêsu ân cần nhắn nhủ chúng ta: hãy khôn ngoan như năm cô trinh nữ đem đèn và trữ cả dầu. Chúng ta phải có đèn, đèn muốn hữu dụng phải có dầu, dầu đốt mãi cũng phải hết, do đó, chúng ta phải trữ dầu, trữ càng nhiều càng tốt. Dầu đây là đời sống thiện hảo của mình, loại dầu này nếu có trữ lượng phong phú, việc phòng ngừa và cẩn thận của chúng ta mới thành hiện thực. Dụ ngôn 10 cô trinh nữ, chúng ta thấy cả khôn cả dại đều ngủ, đâu phải chỉ có những cô dại mới ngủ, nhưng cái làm cho 10 cô trở thành khôn dại khác nhau ở chỗ biết chuẩn bị sẵn sàng. Năm cô khôn đã ngủ nhưng ngủ trong sự sẵn sàng, còn năm cô dại đã ngủ trong một thái độ chểnh mảng, việc đâu hay đó, nhưng đến khi "hay" được thì đã quá muộn.
Chúng ta hãy nhớ: một ngày nào đó cuộc đời chúng ta sẽ chấm dứt, chúng ta không biết ngày đó là ngày nào, nên chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng, chúng ta phải lo tính cho linh hồn mình, phải luôn sẵn sàng tối đa bằng cách luôn sống tốt lành. Bởi vì chỉ có những ai biết sống như thế mới bảo đảm được hạnh phúc đời đời.
07/11 Trung tín việc nhỏ, trung tín trong việc lớn
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Trung tín việc nhỏ, trung tín trong việc lớn.
Thứ Bảy đầu tháng, tuần 31 thường niên.
"Nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao của chân thật cho các con".
Lời Chúa: Lc 16, 9-15
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời.
Ai trung tín trong việc nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai gian dối trong việc nhỏ, thì cũng gian dối trong việc lớn.
Vậy nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao phó của chân thật cho các con. "Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ.
Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được".
Những người biệt phái là những kẻ tham lam, nghe nói tất cả những điều đó, thì nhạo cười Người. Vậy Người bảo các ông rằng: "Chính các ông là những kẻ phô trương mình là công chính trước mặt người ta, nhưng Thiên Chúa biết lòng các ông; bởi chưng điều gì cao sang đối với người ta, thì lại là ghê tởm trước mặt Thiên Chúa".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Làm tôi tiền của
Suy niệm:
Khi muốn nói đến sức mạnh của đồng tiền
người ta thường nói: đồng tiền là tiên là phật…
Đức Giêsu còn nói mạnh hơn nữa:
đồng tiền còn có thể là chúa của con người, bắt con người làm tôi.
Ngay cả các Kitô hữu, những người đã thuộc về Thiên Chúa,
và chỉ muốn phụng sự một mình Ngài,
cũng bị cám dỗ để đi hàng hai, bắt cá hai tay.
Họ nghĩ mình có thể làm tôi đồng thời cả Thiên Chúa lẫn Tiền Của,
nhờ đó được cả đời sau lẫn đời này.
Đức Giêsu cho thấy điều đó chỉ là một ảo tưởng (c. 13).
Phải chọn một trong hai, vì không thể yêu và gắn bó với cả hai.
Tôi muốn phục vụ ai bây giờ? Thiên Chúa hay Tiền Của?
Lúc đầu hẳn nhiên tôi muốn Tiền Của phục vụ tôi.
Nhưng sau đó Tiền Của trở thành một vị chúa bắt tôi làm nô lệ.
Mamôn (Tiền Của) trong tiếng Do thái cổ
có thể có nghĩa là điều mà ta cậy dựa.
Khi Tiền Của trở thành chỗ dựa vững chắc và bảo đảm cho tôi,
nó sẽ chiếm lấy chỗ của Thiên Chúa.
Nếu chúng ta thực sự yêu mến và gắn bó với Thiên Chúa,
thế nào chúng ta cũng phải ghét bỏ và khinh dể Tiền Của (c. 13),
nghĩa là dứt khoát đặt nó dưới Thiên Chúa.
Thánh Phanxicô Assisi đã trả lại bộ quần áo đang mặc cho người cha.
Thánh Inhaxiô Loyola đã đổi bộ đồ quý phái cho một người ăn xin.
Bước đường theo Chúa của các bậc thánh nhân
thường bắt đầu bằng hành vi từ bỏ mọi vướng víu vật chất.
Người thanh niên giàu có cũng được mời bán tất cả để cho kẻ nghèo.
Thắng được cám dỗ của vật chất và tiền bạc, là một thách đố lớn
cho mọi cá nhân và tập thể, đạo cũng như đời.
Chúng ta vẫn có nguy cơ thờ lạy Mamôn, ngẫu tượng của mọi thời đại.
Làm sao để tiền của trở nên đầy tớ của chúng ta,
để ta có thể sử dụng nó như đường vào Nước Trời?
Bill Gates, người giàu nhất thế giới vào năm 2009 với tài sản 40 tỷ đô.
Ông đã nghỉ điều hành công ty Microsoft từ năm ngoái,
để cùng vợ dành nhiều thời gian hơn cho việc xây dựng quỹ từ thiện.
Quỹ hàng chục tỷ đô này đã giúp người nghèo, bệnh nhân ở khắp nơi,
và Bill Gates biết cách làm cho quỹ này lớn thêm mãi.
Dù không phải là một Kitô hữu đi lễ mỗi sáng Chúa Nhật,
nhưng ông cho ta hình ảnh của một người không quá bám vào của cải.
Kitô hữu không hẳn phải là người khố rách áo ôm,
nhưng chắc chắn phải là người siêu thoát với sức hấp dẫn của tiền bạc.
Trung tín trong việc rất nhỏ, và trong việc sử dụng của cải của tha nhân,
đó là điều Đức Giêsu nhắn nhủ ta khi sống trong nền kinh tế thị trường.
Làm sao để Thiên Chúa, chứ không phải Tiền Của, thực sự làm chủ đời ta?
Cầu nguyện:
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng
tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,
chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,
tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,
có bao điều con lãng phí
bên cạnh những Ladarô túng quẫn,
có bao điều con hưởng lợi
dựa trên nỗi đau của người khác,
có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.
Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công
chẳng ở đâu xa.
Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.
Con phải chịu trách nhiệm
về cảnh nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân,
vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó
là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.
Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,
vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.
Thế giới còn nhiều người đói nghèo
là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.
Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,
nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: CHÚA LÀ TẤT CẢ
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Sau cùng chỉ còn một cuộc chiến. Chỉ còn một đối thủ. Chỉ còn một lựa chọn. Thiên Chúa hay Tiền Tài. Với khẳng định này Chúa tóm tắt những gì cần phải nói về tiền bạc. Tiền bạc vốn chỉ là một phần trong đời sống. Chỉ là một tôi tớ. Một phương tiện phục vụ con người. Thường hay phản loạn. Cạnh tranh với Chúa. Chiếm vị thế của Chúa. Đó là điều rõ nét trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Tiền bạc chi phối tất cả sinh hoạt của con người. Tiền bạc thống trị thế giới. Tiền bạc lên tiếng mọi tiếng nói khác phải lặng im. Kể cả lương tâm. Kể cả đạo đức. Thật là đáng báo động,
Với khẳng định này Chúa cho biết Chúa là trên hết. Chúa là tất cả. Thực vậy có gì tôi có mà không phải do Chúa ban. Từ sự sống đến linh hồn. Từ thân xác đến trí khôn. Từ thời giờ đến sức khoẻ. Từ gia đình đến bạn hữu. Tất cả phải dâng lại cho Chúa. Tất cả là phương tiện Chúa ban giúp tôi đạt đến sự sống đời đời. Giúp tôi trở về với Chúa. “Hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè. Phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”.
Thánh Phao-lô làm gương cho ta về điều này. Sau khi được biết Chúa, ngài đã dùng tất cả cuộc đời để phục vụ Chúa. Phục vụ Tin Mừng. Kể cả những mối quen biết của ngài. Cuối bức thư Rô-ma ta thấy ngài gửi lời chào thăm rất nhiều người. Nhưng không phải vì cá nhân ngài. Chỉ vì Nước Trời. Chỉ vì lợi ích thiêng liêng. Và cuối cùng qui về Chúa: “Chỉ mình Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí. Kính dâng Người mọi vinh quang đến muôn thuở muôn đời, nhờ Đức Giê-su Ki-tô. Amen” (năm lẻ).
Biết dùng mọi phương tiện trần gian. Đặc biệt tiền của. Để tôn vinh Thiên Chúa. Tạo hạnh phúc vĩnh cửu. Ngài còn khích lệ các tín hữu hãy biết dùng tiền của vì Chúa và vì lợi ích thiêng liêng. Khi nhận được trợ giúp của giáo đoàn Phi-líp-phê, ngài cám ơn họ. Không phải vì ngài cần vật chất. Nhưng vì họ đã biết sống đức tin. Và Chúa sẽ trả công bội hậu cho họ. Ngài viết: “Bởi vì ngay khi tôi còn ở Thê-xa-lô-ni-ca, đôi lần anh em đã gửi cho tôi những gì tôi cần dùng. Điều tôi tìm kiếm không phải là quà tặng, mà là những gì sinh hoa kết quả dồi dào cho anh em.... Quà anh em tặng cho tôi đó, chẳng khác nào hương thơm, lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa và được Người chấp nhận. Thiên Chúa của tôi sẽ thoả mãn mọi nhu cầu của anh em một cách tuyệt vời, theo sự giàu sang của Người trong Đức Ki-tô Giê-su” (năm chẵn).
Tôi sử dụng tiền của hay để tiền của thống trị tôi?
Suy Niệm 3: Sử dụng tốt tiền của
Tham nhũng là cám dỗ xưa như cõi lòng tội lỗi của con người. Người tham nhũng là người chỉ nghĩ đến mình, bất chấp thiệt hại có thể gây ra cho người khác. Xúc phạm đến con người, tham nhũng rốt cuộc cũng là một xúc phạm đến Thiên Chúa.
Chính vì tính cách trầm trọng của tham nhũng, nên Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay đưa ra một đòi hỏi: "Hãy chọn lựa giữa Thiên Chúa và tiền của", bởi vì không ai có thể làm tôi hai chủ được. Tiền của tự nó không phải là điều xấu, nó chỉ xấu khi con người tôn thờ nó như cùng đích cuộc sống. Thật ra, không có tiền của xấu, mà chỉ có cách tìm kiếm, sử dụng xấu của con người mà thôi. Cách tìm kiếm, sử dụng trở thành xấu là khi con người bóp nghẹt tiếng nói lương tâm, chối bỏ chính mình, khước từ người anh em, chối bỏ Thiên Chúa. Kẻ tham lam là người ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình, nhưng thực ra, họ cũng là kẻ đang tự hủy, chối bỏ cùng đích của cuộc sống.
Tham nhũng và lừa đảo ở mọi qui mô trong xã hội chúng ta, đó là một kết luận hiển nhiên. Thế nhưng "thà đốt lên một ngọn nến, hơn là ngồi đó nguyền rủa bóng tối". Chúng ta hãy bắt đầu chống tham nhũng, lừa đảo, ích kỷ ngay trong con người của chúng ta. Chúa Giêsu nói với chúng ta: "Nếu các con không trung tín trong việc sử dụng tiền của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm và giao phó của cải chân thật cho các con?". Nếu chúng ta chưa loại được tham lam, lừa đảo trong những sinh hoạt hằng ngày, liệu chúng ta có thể chống tham nhũng ở qui mô lớn hơn không?
Tham nhũng đối với mỗi người chúng ta có thể mang nhiều tên gọi: ích kỷ, khước từ chia sẻ, liên đới, cảm thông. Xét cho cùng, của cải là đển mọi người cùng hưởng dùng; nếu tham nhũng, lừa đảo là chỉ muốn lấy của người để dành riêng cho mình, thì bất cứ hành động ích kỷ nào, bất cứ khước từ san sẻ nào cũng là một hình thức tham nhũng. "Không ai có thể làm tôi hai chủ": của cải vật chất chỉ là phương tiện giúp chúng ta thờ phượng người chủ duy nhất và đích thực là Thiên Chúa.
Trong khi mưu cầu cho cuộc sống, xin Chúa cho chúng ta biết tìm kiếm và xây dựng giá trị Nước Trời. Xin cho chúng ta biết nhìn xa hơn về của cải vật chất, biết ra khỏi chính mình để gặp Chúa qua những chia sẻ, cảm thông đối với tha nhân.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Giáo Huấn Của Chúa Giêsu
Có thể nói toàn chương thứ 16 Phúc Âm theo thánh Luca qui góp những lời dạy của Chúa Giêsu về việc sử dụng tốt những của cải cũng như về sự nô lệ cho tiền bạc. Ðoạn Phúc Âm chúng ta vừa đọc lại trên đây và muốn suy niệm hôm nay tiếp liền và bổ túc cho những gì Chúa Giêsu muốn nói qua dụ ngôn về những khách được mời dự tiệc nhưng từ chối không đến, vì lòng họ còn quá bám víu vào những lợi lộc riêng tư.
Chúng ta cũng nên lưu ý nơi đây trước khi suy niệm những lời Phúc Âm trên rằng Chúa Giêsu trình bày giáo huấn của Ngài cho tất cả mọi người, không phân biệt giầu nghèo. Việc sử dụng tốt tiền của hay việc lạm dụng sử dụng xấu tiền của không tùy thuộc vào số lượng ít nhiều, giầu nghèo nhưng tùy thuộc vào chính tâm hồn con người có thái độ như thế nào đối với tiền của. Nói cách khác, mọi người bất luận giàu hay nghèo đều có thể có thái độ sai lạc trước tiền của vật chất. Chúa Giêsu không lên án tiền của từ nơi chính nó nhưng Ngài cảnh tỉnh chúng ta về thái độ phải có trước tiền của.
Chúng ta hãy lưu ý đến câu nói của Chúa Giêsu: "Không ai có thể làm tôi cho hai chủ một lượt. Không thể nào phục vụ Chúa và làm tôi cho tiền của". Từ ngữ được dùng trong nguyên văn mà chúng ta dùng từ "làm tôi cho" hay "phục vụ" trong khung cảnh Kinh Thánh, có mang thêm một chút ý nghĩa của hành động phụng vụ tôn thờ. Như vậy, câu nói được hiểu như sau: "Không ai có thể tôn thờ hai chủ được. Các con không thể cúi mình thờ lạy Thiên Chúa và thờ lạy thần tiền tài một lượt được. Con người chúng ta chỉ tôn thờ, chỉ thờ lạy một mình Thiên Chúa mà thôi. Ai tôn thờ Thiên Chúa và yêu thương anh chị em mình thật sự, thì không thể nào tôn thờ tiền của, đặt tiền của như là mục đích cuối cùng của đời mình". Nếu tiền của không phục vụ cho chúng ta để có được những người bạn mới trong nước Trời, hay nói cách khác, nếu chúng ta không đặt tiền của vào việc phục vụ cho anh chị em thì tiền của sẽ trở nên thần tượng không thể nào dung hòa được với Thiên Chúa.
Lạy Chúa, Ðấng đã nhập thể làm người, sống khó nghèo, đã làm cho chúng con được giàu có sự sống của Chúa.
Xin giúp chúng con sống trung thành với ơn gọi trong cuộc sống hàng ngày, để chúng con đừng rơi vào cám dỗ, thờ lạy tiền của mà bỏ quên Chúa và anh chị em. Xin cho chúng con biết sử dụng đúng tiền của, làm vinh danh Chúa và tạo ra phúc lợi cho anh chị em.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Tích trữ tiền của thế nào?
Phần Thầy, Thầy bảo thật cho anh em biết: hãy dùng của cải bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi vĩnh cửu. Ai trung tín trong việc nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn; Ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn (Lc. 16, 9-10)
Lúc sáng tạo thế giới, Thiên Chúa đã thấy mọi thứ đều tốt để phục vụ con người, Đức Giêsu không kết án chống lại của cải bản chất, nhưng chỉ chống lại thói dùng của cải bất chính của con người. Người nói tiền của bất chính như một quyền lực nô lệ hóa con người, cám dỗ con người làm điều bất lương để kiếm hay tiêu xài tiền của và bắt con người phục dịch tiền của. Nhưng người ta có thể dùng tiền của để làm giàu trước mặt Thiên Chúa.
Thánh Phao-lô viết cho Ti-mô-thê đã khuyên những người giàu ở trần gian này như sau: “Họ đừng tự cao tự đại, cũng đừng đặt hy vọng vào của cải phù vân … Họ phải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ. Như vậy, họ tích trữ cho mình một vốn liếng vững chắc cho tương lai, để được sự sống thật” (1Tm. 6, 17a. 18. 19).
Thực hiện trung tín
Tiền của đời này phải phục tùng quyền quản lý của con người, yếu tố chính của người quản lý là trung tín. Tiền của đời này không phải là việc quan trọng mà Thiên Chúa trao phó cho con người. Đức Giêsu nói: “Đó là việc nhỏ. Nếu con người biết trung tín, tốt lành trong việc dùng tiền của, Thiên Chúa sẽ ủy thác cho họ quản lý việc lớn hơn là sự sống đời đời.
Để được quản lý việc quan trọng hơn
Sự sống đời đời là của chân thật, là sản vật ưu tiên hơn tất cả mọi vật. Chính khi quản lý tiền của bất chính, người ta tỏ ra trung tín vâng theo thánh ý Thiên Chúa, Ngài sẽ nói với họ: “Mọi sự của Cha là của con”. Nhưng Ngài chỉ có thể trao phó mọi sự của Ngài cho người quản lý nào đã được thử thách mà tỏ ra trung tín và công bằng.
Thực ra, tiền của chỉ là khách lạ đối với bản chất con người có tâm hồn cao thượng, có trí óc thông minh và thánh thiện.
Nếu con người chống cự lại sức cám dỗ của tiền của đã trao cho mình và không biến nó thành thần tượng, thì chứng tỏ mình có lòng trung thành với Thiên Chúa và chỉ tôn thờ một mình Ngài thôi.
Biệt phái mang tiếng tham lam tiền bạc vì họ coi nghèo khổ là sự chúc dữ. Họ tỏ vẻ ngạo mạn khinh bỉ Đức Giêsu, Đấng đã phá đổ sự an toàn dựa vào giàu có của họ, đồng thời Người tỏ cho thấy chỉ có lòng tin vững chắc được nên công chính trước mặt Thiên Chúa mới thực sự an toàn. Vinh quang trước mặt người đời là thứ gớm ghiếc trước mặt Thiên Chúa.
RC
Suy Niệm 6: KHÔNG ĐƯỢC LÀM TÔI HAI CHỦ (Lc 16,9-15)
Xem lại CN 25 TN C
Tham nhũng trong xã hội hôm nay đang là cái tật khó cắt bỏ. Nó được ví như căn bệnh ung thư hay Sida của thời đại này! Tham nhũng cũng là đầu mối gây nên những điều bất chính khác. Có thể nói: tham nhũng như là nguyên nhân đệ nhất trong mọi nguyên nhân tiêu cực.
Tại sao lại xảy ra như vậy? Thưa điều đơn giản là con người ngày nay chỉ biết nghĩ đến mình mà không biết cảm thương người khác. Chúa của họ là cái bụng, là đồng tiền, vì thế, họ tìm mọi cách để vươn lên chức nọ việc kia, hầu có cơ hội kiếm trác...
Hôm nay, Đức Giêsu thấy được sự nguy hại của đồng tiền trong tiến trình theo Chúa của người môn đệ, vì thế, Ngài đã nói: "Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được".
Thật là nguy hiểm cho đời môn đệ! Nếu vì tiền, hẳn người môn đệ sẽ không chu toàn bổn phận trong lòng mến; sẽ thượng tôn điều bất chính và tận dụng mọi cơ hội để khai thác nguồn lợi cho mình...; sẽ bất nhân với anh chị em; ích kỷ, kiêu ngạo và chối bỏ cùng đích của chính mình, thay vì tìm Nước Thiên Chúa và loan báo Tin Mừng cho người khác. Đồng tiền nó cũng rất dễ làm cho Lương Tâm bị chết nghẹt và đôi khi uốn nắn Thánh Ý của Thiên Chúa theo chủ đích của chính mình.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy khởi đi từ chính mình để biết sống ngay thẳng, biết đặt cùng đích của chúng ta là Nước Trời để hướng tới. Có thế, chúng ta mới trở thành người trung tín trong việc quản lý gia sản của Thiên Chúa qua vai trò là tôi tớ.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết khám phá ra giá trị của Nước Trời để biết sử dụng của cải theo ý Chúa, ngõ hầu chúng con sẽ trở thành những người tôi tớ trung tín và khôn ngoan. Amen.
Ngọc Biển SSP
06/11 Khôn ngoan để tích cực xây dựng Nước Trời
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Khôn ngoan để tích cực xây dựng Nước Trời.
Thứ Sáu đầu tháng, tuần 31 thường niên.
"Con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng".
Lời Chúa: Lc 16, 1-8
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Một người phú hộ kia có một người quản lý; và người này bị tố cáo đã phung phí của chủ. Ông chủ gọi người quản lý đến và bảo rằng: "Tôi nghe nói anh sao đó. Anh hãy tính sổ công việc quản lý của anh, vì từ nay anh không thể làm quản lý nữa". Người quản lý thầm nghĩ rằng: "Tôi phải làm thế nào, vì chủ tôi cất chức quản lý của tôi? Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Tôi biết phải liệu thế nào để khi mất chức quản lý thì sẽ có người đón tiếp tôi về nhà họ".
"Vậy anh gọi từng con nợ của chủ đến và hỏi người thứ nhất rằng: "Anh mắc nợ chủ tôi bao nhiêu?" Người ấy đáp: "Một trăm thùng dầu". Anh bảo người ấy rằng: "Anh hãy lấy văn tự, ngồi xuống mau mà viết lại năm mươi". Rồi anh hỏi người khác rằng: "Còn anh, anh mắc nợ bao nhiêu?" Người ấy đáp: "Một trăm giạ lúa miến". Anh bảo người ấy rằng: "Anh hãy lấy văn tự mà viết lại: tám mươi".
"Và chủ khen người quản lý bất lương đó đã hành động cách khôn khéo: vì con cái đời này, khi đối xử với đồng loại, thì khôn khéo hơn con cái sự sáng".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Hành động khôn khéo
Suy niệm
Bài Tin Mừng hôm nay gợi cho ta câu chuyện về Mạnh Thường Quân.
Ông là tướng quân của nước Tề vào thời Chiến Quốc.
Khi ông sai Phùng Huyên sang đất Tiết đòi nợ về cho mình,
Phùng Huyên lại đốt giấy nợ của nhiều người và tha luôn nợ cho họ.
Mạnh Thường Quân không hiểu hết được ý nghĩa việc làm này.
Một năm sau, khi không được vua Tề tin dùng nữa,
Mạnh Thường Quân phải lui về đất Tiết để cư ngụ.
Dân chúng đổ xô ra đón ông như một vị ân nhân đáng kính.
Bấy giờ ông mới hiểu việc làm khôn ngoan trước đây của Phùng Huyên.
Bài Tin Mừng hôm nay có thể làm chúng ta bối rối.
Người quản gia bị mang tiếng là phung phí tài sản của chủ.
Anh phải nghỉ việc, dù không rõ tiếng tiếng đồn ấy có đúng không.
Anh không được bào chữa gì cho chính mình.
Bây giờ anh chỉ lo chuyện tương lai, sau khi thất nghiệp.
Anh suy nghĩ như một độc thoại: “Mình sẽ làm gì đây?”
Và anh nhận ra những hạn chế của mình về thân xác và tâm lý.
“Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi” (c. 3).
Dường như một ý nghĩ đã lóe lên trong anh.
“Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản gia,
sẽ có người đón rước mình về nhà họ !” (c. 4).
Anh quản gia chỉ có một thời gian ngắn để thu xếp trước khi ra đi.
Anh đã gọi các con nợ của chủ đến,
và trong tư cách là người còn có quyền, anh cho họ tự tay viết lại giấy nợ.
Họ đều là người nợ ông chủ những số nợ lớn.
Số nợ này được giảm đáng kể, dưới sự gợi ý của anh quản gia.
Một trăm thùng dầu ôliu, nay chỉ còn nợ năm mươi thôi.
Một ngàn giạ lúa, bây giờ chỉ còn nợ năm trăm.
Dĩ nhiên đối với anh, tất cả đều phải theo nguyên tắc có qua có lại.
Anh đã cho họ được hưởng lợi vào lúc này,
thì hẳn họ sẽ phải nhớ đến anh lúc anh sa cơ lỡ vận (c. 4).
Ông chủ chắc đã biết trò gian xảo của anh.
Những lời đồn đãi trước đây quả không hoàn toàn vô căn cứ (c.1).
Đúng anh là một tên quản gia bất lương.
Vậy mà ông chủ đã khen anh, điều này làm chúng ta bị sốc.
Nhưng chủ không hề khen sự bất lương của anh.
Ông chỉ khen anh về cách hành động khôn khéo (c. 8).
Anh khôn khéo vì anh biết nghĩ ra cách để tìm được bảo đảm cho mình,
dù đó chỉ là thứ bảo đảm vật chất ở đời này có tính tạm bợ.
Đức Giêsu lấy làm tiếc vì con cái ánh sáng là chúng ta
lại không có được sự khôn ngoan như con cái đời này.
Người ngoài đời có nhiều bí quyết để làm giàu, để thành đạt.
Họ có đủ khôn khéo để công việc kinh doanh được trôi chảy.
Họ dám có sáng kiến và dám liều để đem ra thực hiện.
Ước gì chúng ta có sự khôn ngoan đích thực và ngay thẳng,
nghĩa là biết khéo tận dụng mọi sự mình có,
để được gặp Chúa ở đời này và được hạnh phúc ở đời sau.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Giàu sang, danh vọng, khoái lạc.
Là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con
Và không cho chúng con tự do ngước lên cao
Để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con
Khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
Nhờ cảm nghiệm được phần nào
Sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
Bán tất cả những gì chúng con có,
Để mua được viên ngọc quí là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
Trước những lời mời gọi của Chúa,
Không bao giờ ngoảnh mặt
Để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy Niệm 2: QUẢN GIA KHÔN NGOAN
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Người quản gia được ông chủ khen là khôn ngoan. Vì ông không có của cải nhưng đã biết lợi dụng của cải của chủ để làm lợi cho mình. Vì ông biết thời hạn làm quản gia của ông sắp hết nhưng ông biết chuẩn bị cho tương lai lâu dài. Vì ông biết mua chuộc bạn hữu để sau này họ đón tiếp khi ông hết thời. Ông đã làm ơn cho những người mắc nợ chủ. “Anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất: ‘Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy’? Người ấy đáp: ‘Một trăm thùng dầu ô-liu’. Anh ta bảo: ‘Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi’….Và ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo”. Và Chúa kết luận: “Quả thế, con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại”.
Chúng ta cũng là quản gia của Chúa. Thời hạn quản gia của chúng ta cũng có hạn. Hãy biết noi gương người quản gia kia. Biết dùng của Chúa mà mua lấy bạn hữu. Biết chuẩn bị để khi hết thời làm quản gia họ sẽ đón tiếp chúng ta.
Thánh Phao-lô là người quản gia khôn ngoan. Vì Thiên Chúa ban cho ngài ân sủng chuyên rao giảng Tin Mừng. Ngài đã sinh lợi là đưa nhiều người về cho Thiên Chúa. “Tôi viết thế là dựa vào ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi làm người phục vụ Đức Giê-su Ki-tô giữa các dân ngoại, lo việc tế tự là rao giảng Tin Mừng của Theien Chúa, để các dân ngoại được Thánh Thần thánh hoá mà trở nên một lễ phẩm đẹp lòng Thiên Chúa”. Ngài đã biết dùng ân sủng Thiên Chúa ban. Và ngài tự hào về điều đó. Những người nhận biết Thiên Chúa làm lợi cho Nước Chúa. Nhưng cũng là niềm tự hào của ngài. “Thật thế, tôi đâu dám nhắc đến chuyện nào khác, ngoài những gì Đức Ki-tô đã dùng tôi mà thực hiện để đưa các dân ngoại về phục vụ Thiên Chúa, thực hiện bằng lời nói, việc làm, bằng sức mạnh của những dấu lạ điềm thiêng, bằng quyền năng của Thánh Thần…Tôi đã làm tròn sứ mạng loan báo Tin Mừng Đức Ki-tô” (năm lẻ).
Ngài kêu gọi mọi người hãy noi gương bắt chước ngài. Hãy lo làm giàu ở trên trời. Vì cuối cùng Chúa sẽ biến đổi chúng ta. “Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em”. Ngài yêu mến họ và mong họ cùng ngài kết hợp với Chúa để cùng được hưởng niềm vui và hạnh phúc: “Hỡi anh em thân mến, lòng tôi hằng tưởng nhớ, anh em là niềm vui, là vinh dự của tôi. Anh em rất thân mến, anh em hãy kết hợp với Chúa mà sống vững vàng như vậy” (năm chẵn).
Suy Niệm 3: Hành xử khôn khéo
Một đạo sĩ đi ngang qua cây dừa, một chú khỉ hái dừa ném xuống đầu ông. Ðạo sĩ lẳng lặng bổ ra lấy nước uống rồi ăn luôn cùi dừa, còn lại vỏ dừa, ông làm thành chén ăn cơm. Nét điềm tĩnh của đạo sĩ là nắm lấy mọi cơ hội trong cuộc sống để mưu ích cho mình. Ông quên đi niềm đau trên đầu của mình cũng như sự tinh nghịch của chú khỉ, để sử dụng tối đa ích lợi của trái dừa.
Khôn ngoan để luôn luôn tích cực xây dựng Nước Trời, đó là lời Chúa Giêsu nhắn nhủ qua dụ ngôn người quản lý trong Tin Mừng hôm nay. Dụ ngôn có lẽ dựa trên một cuộc biển lận xẩy ra trong bất cứ xã hội nào. Chúa Giêsu không có ý tán thành hành vi biển lận của người quản lý; Ngài chỉ khen cung cách giải quyết vấn đề của ông: ông biết nhìn xa thấy rộng để tìm phương thế cho hoạn nạn sắp phủ xuống trên ông. Bài học có thể rút ra từ dụ ngôn chính là tận dụng thời gian, biết tất cả thành cơ may để gặp gỡ Chúa và xây dựng Nước Trời.
Thái độ của con người thường là nổi loạn, than trách, buông xuôi, bỏ cuộc. Chúa Giêsu khuyên chúng ta khôn ngoan điềm tĩnh để biến đau khổ thành cơ may đưa đến một ơn ích cao đẹp hơn. Ðạo sĩ trong câu truyện trên đây không dừng lại để rủa xả con khỉ, nhưng điềm nhiên sử dụng trọn vẹn trái dừa. Người điềm tĩnh khôn ngoan là người biết nhìn một cách lạc quan những thất bại, mất mát trong cuộc sống. Thánh Phaolô đã có cái nhìn lạc quan ấy, khi nói: "Ðối với những ai yêu mến Chúa, thì mọi sự đều dẫn về điều thiện".
Dưới cái nhìn của con người, loài người được xếp theo những hơn thua về tài năng, may mắn, thành công, thông minh, nhưng trong cái nhìn yêu thương của Chúa, tất cả đều là ân sủng. Chúng ta hãy tín thác cho Chúa, đón nhận mọi biến cố như lời mời gọi yêu thương, tin tưởng. Bên kia những gì chúng ta có thể ước đoán, tưởng tượng, Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta. Hãy xử thế như người quản lý trong dụ ngôn: biến tất cả thành cơ may để nhận ra tình yêu Chúa, để loan báo, chia sẻ tình yêu ấy với mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Kẻ bất lương
Ðể nói về mầu nhiệm của nước Trời, Chúa Giêsu không những dùng những hình ảnh, những câu chuyện, những nhân vật tốt mà Chúa còn dùng cả những câu chuyện nói được là không tốt gì cho lắm. Và khi dùng đến những câu chuyện, những hình ảnh, những nhân vật không tốt, Chúa Giêsu không cố ý cho các đồ đệ bắt chước sống theo thái độ xấu nhưng để làm nổi bật một đặc tính nào đó và khuyên các đồ đệ hãy làm điều tốt với cùng một đặc tính như vậy. Chẳng hạn nơi Mt 10,16 Chúa Giêsu đã dùng đến hình ảnh con rắn để khuyên các đồ đệ hãy khôn ngoan như con rắn; và trong Phúc Âm thánh Mátthêu chương 24, Chúa Giêsu so sánh mình với hình ảnh kẻ trộm đến ban đêm vào giờ chủ nhà không ngờ. Chúa không đề cao nếp sống của con rắn hay của tên ăn trộm, mà chỉ muốn nói đến đặc tính lanh lợi của con rắn để tránh những cạm bẫy và nhắc đến sự việc Chúa đến một cách bất ngờ như kẻ trộm, để kêu gọi các đồ đệ hãy tỉnh thức sẵn sàng luôn luôn.
Ðể hiểu thêm về dụ ngôn người quản lý gian ngoan này, chúng ta hãy nhớ rằng vào thời Chúa Giêsu, tại vùng đất Palestina, những người sống về nghề quản lý tài sản cho người giầu là những kẻ có toàn quyền sắp đặt việc kinh doanh tài sản của ông chủ, miễn sao được lợi cho ông chủ. Và người quản lý được chia phần trong khoản lời kiếm được. Do đó, trong dụ ngôn Chúa Giêsu kể trên đây, sau khi biết rõ là ông chủ sẽ sa thải mình do những lỗi lầm đã phạm, người quản lý dùng quyền của mình mà bớt xuống số nợ và dĩ nhiên, khi làm như thế anh sẽ chịu thiệt thòi, vì tiền lời không còn nhiều và sẽ được chia lời với ông chủ ít đi. Nhưng anh chấp nhận chịu thiệt thòi như vậy trong hiện tại để có lợi khác là tình bằng hữu của những người mắc nợ ông chủ. Họ sẽ giúp lại anh sau đó khi anh mất việc. Ðó là thái độ khôn ngoan của người đầy tớ bất trung. Và câu cuối cùng của dụ ngôn: "Con cái tối tăm khôn ngoan hơn con cái sự sáng" nhấn mạnh đến ý nghĩa chính của dụ ngôn. Chúa Giêsu không nhắm đề cao người quản lý gian ngoan sắp bị ông chủ cho nghỉ việc, nhưng chỉ nhắm nhấn mạnh đến những cố gắng toan tính của người quản lý sao cho có lợi cho cuộc sống vật chất của mình.
Áp dụng cho các đồ đệ của Chúa Giêsu, những con cái của sự sáng, Chúa Giêsu muốn sao cho các đồ đệ của Ngài cố gắng vận dụng hết khả năng trí khôn của mình để làm cho những nén bạc tài năng Chúa ban cho được trổ sinh những hoa trái tốt đẹp. Những kẻ xấu, những người ác mà còn biết ra sức vận dụng hết khả năng trí khôn của họ để làm chuyện xấu, nghịch luật Chúa, hại anh em. Trong khi đó, tại sao những người đồ đệ đích thực của Chúa Giêsu, những con cái sự sáng lại không dấn thân hết sức mình, không sử dụng hết khả năng trí tuệ của mình để làm điều tốt, bổ ích cho chính mình cũng như cho anh chị em chung quanh.
Người đồ đệ đích thực của Chúa không thể nào có một thái độ ỷ lại, lười biếng trong việc tốt và phải dấn thân tích cực hết sức lực mình. Con hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, nhưng cũng phải hết sức lực, với hết khả năng trí khôn Chúa ban cho.
Lạy Chúa
Xin thức tỉnh mỗi người chúng con khỏi sự ù lì, lười biếng tinh thần. Nước Chúa dành cho những kẻ mạnh, cho những ai dấn thân hết mình cho điều tốt. Xin thương ban cho chúng con nghị lực kiên trì trong việc tốt, đẹp lòng Chúa, bổ ích cho anh chị em chung quanh. Xin cho chúng con biết hăng say làm việc tốt mà không cần phần thưởng nào khác hơn là biết chúng con đang làm tròn ý Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Quản lý bất trung
Mình biết phải làm gì rồi! để sau khi mất chức quản gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ! Anh ta cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất: Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy?” Người ấy đáp: Một trăm thùng dầu ô-liu. Anh ta bảo: Bác cầm lấy biên lai này của bác đây ngồi xuống mau, viết năm chục thôi. Rồi anh ta hỏi người khác: Còn bác, bác nợ bao nhiêu vậy? Người ấy đáp: Một ngàn thùng lúa. Anh ta bảo: Bác cần lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm thôi.
Và ông chủ khen tên quản gia bất lương đó đã hành động khôn khéo. Quả thế! Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại. (Lc. 16, 4-8)
Trên đường đi Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu khi thì nói với biệt phái, lúc nói với dân chúng hay các môn đệ, Người muốn giáo huấn họ đặc biệt về trách nhiệm của họ như người quản lý của Thiên Chúa.
Người xảo quyệt của thế giới đen
Người quản lý bất lương thấy thế giới của hắn bỗng chốc sụp đổ. Ngày phán xét đến cũng bỗng chốc thế. Hắn mất địa vị và danh tiếng. Đời sống hiện tại vật chất cũng lâm nguy, nhưng chủ còn để hắn một ít lâu để tính sổ. Hắn tự nhủ và nhận thấy phải hành động mau chóng và liều lĩnh để bảo đảm nuôi thân sau này. Hắn tha cho những con nợ của chủ một số nợ bằng năm trăm ngày công. Như thế, hắn có thể bảo đảm đời sống sau khi mất chức quản lý. Đức Giêsu khen tên quản lý trộm cắp này vì đã hành động khôn khéo biết lo cho đời sống.
Sự khôn khéo đó đáng làm gương cho con cái ánh sáng
Đức Giêsu không ca ngợi tên quản lý quỷ quyệt hỗn láo đó. Nhưng sự khôn khéo của hắn đúng là dấu chỉ của thời đại. Hắn đã hết thời vào ngày chủ đòi hắn tính sổ. Điều Đức Giêsu muốn rút ra bài học là sự táo bạo của hắn, khiến hắn khai thác tối đa một ít thời giờ còn lại, đã giúp bảo đảm tương lai của hắn.
Cũng thế, môn đệ không biết khôn khéo khi Chúa đến và đòi tính sổ, các ông phải biết tha thứ tất cả những ai mắc nợ với mình để Chúa cũng tha nợ cho các ông. Các ông còn phải chăm sóc mọi gia nhân trong nhà chủ đã trao phó cho các ông. “Phúc cho đầy tớ ấy, khi chủ về thấy nó đang làm việc chu đáo”.
Đối với những công việc ở thế giới này, những người muốn bảo đảm được tương lai vật chất, phải tỏ ra rất khôn khéo. Họ đã khôn khéo xử đối với đồng loại mình, nhưng lại không khôn khéo với những công việc nước trời. Trái lại con cái ánh sáng, những người tin vào Đức Giêsu, Đấng là ánh sáng, lại không biết khôn ngoan để bảo đảm được ơn cứu độ. Họ phải cố gắng thực hiện được sự táo bạo và khôn khéo, và hành động khi còn thời giờ, như con cái của xã hội đen.
RC
Suy Niệm 6: HÃY KHÔN NGOAN THEO TIN MỪNG (Lc 16, 1-8)
Xem thêm CN 25 TN C
Khi nói đến Đức Giêsu, chúng ta biết Ngài là Đấng Chân Thật, vì thế, Ngài luôn bênh vực sự thật và tố cáo bất công, gian tham... Ấy vậy mà bài Tin Mừng hôm nay lại một lần nữa cho chúng ta ngỡ ngàng khi Đức Giêsu đề cao thái độ gian lận, giả dối của tên quản lý bất trung!
Tin Mừng kể lại: khi hắn biết chắc mình không còn được trọng dụng nữa vì những thất thoát mà hắn gây nên. Người quản gia này đã sử dụng mánh khóe theo kiểu: “Dùng phương tiện xấu để đạt được mục đích tốt”. Vì thế, anh ta đã gọi từng con nợ của chủ đến hỏi về số nợ, rồi lấy văn tự ra, viết giảm số nợ đi. Đây là một hình thức biển lận của chủ mà tên quản lý bất lương gỡ gạc vào những giờ phút chót trước khi bị xa thải.
Sau khi kể dụ ngôn này, nhiều người chưng hửng khi thấy ông chủ đã khen người quản lý bất lương đó khôn ngoan, nhanh nhạy khi hành động cách khôn khéo!
Tuy nhiên, Đức Giêsu không hề có thái độ tôn vinh hay chấp nhận hành vi bất chính của người quản gia này, nhưng ngang qua hành vi đó, Đức Giêsu muốn dạy các môn đệ và cho mỗi chúng ta rằng: phải khôn ngoan, biết nhìn xa trông rộng, biết tận dụng mọi cơ hội và biến cố để loan báo Tin Mừng, biết chuẩn bị cho tương lai, biến chúng thành những cơ may để gặp gỡ Chúa, ngõ hầu đạt được Nước Trời làm gia nghiệp.
Nếu người quản gia kia đã khôn khéo và mánh khóe thì mỗi chúng ta hôm nay cũng phải có sự khôn ngoan. Sự khôn ngoan ấy trước hết phải được thể hiện qua chính mục đích chúng ta đang theo đuổi trong cuộc sống.
Vậy đâu là mục đích và lẽ sống của chúng ta? Hẳn không phải là tiền của, quyền bính, danh vọng, lạc thú... Những thứ đó không phải là mục đích, điểm đến của người Kitô hữu. Nhưng mục đích tối hậu của chúng ta chính là Nước Trời. Vì thế, ngay giây phút này, mỗi chúng ta hãy biết tìm kiếm và xây dựng những giá trị vĩnh cửu mai ngày trên Thiên Quốc.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết chọn Chúa làm gia nghiệp của đời chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
05/11 Lòng thương xót vô biên của Chúa
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Lòng thương xót vô biên của Chúa.
Thứ Năm đầu tháng, tuần 31 thường niên.
"Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải".
Lời Chúa: Lc 15, 1-10
Khi ấy, những người thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy, những người Biệt phái và Luật sĩ lẩm bẩm rằng: "Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi, cùng ngồi ăn uống với chúng".
Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này: "Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc, cho đến khi tìm được sao? Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: "Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc!" Cũng vậy tôi bảo các ông: Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải.
"Hay là người đàn bà nào có mười đồng bạc, nếu mất một đồng, mà lại không đốt đèn, quét nhà và tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm thấy sao? Và khi đã tìm thấy, bà mời các chị em bạn và những người láng giềng đến mà rằng: "Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã mất". Cũng vậy, tôi bảo các ông: Các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Xin chung vui với tôi
Suy niệm:
Nhiều người nghĩ rằng Thiên Chúa là Đấng cao cả,
nhưng lại xa lạ và lạnh lùng với con người,
vì con người có là gì đâu trước mặt Thiên Chúa.
Thật ra con người là mối bận tâm lớn của Ba Ngôi,
đến độ ta dám nói rằng con người chiếm chỗ trong tâm trí Thiên Chúa.
Trước khi con người hướng về Thiên Chúa
thì Thiên Chúa đã đưa tay ra, hướng về con người.
“Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi.”
Đó là điều chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính.
Thiên Chúa Ba Ngôi sống cho nhau,
nhưng cũng sống vì con người và cho con người.
Hai dụ ngôn hôm nay cho thấy Thiên Chúa quý con người.
Mà con người ở đây lại không phải là những người thánh thiện.
Có những động từ được nhắc đến trong cả hai dụ ngôn:
có, mất, tìm, tìm được, chung vui, vui mừng.
Những động từ này nói lên tất cả tình cảm của Thiên Chúa.
Dụ ngôn về người đàn ông hay người phụ nữ
có một trăm con chiên hay mười đồng quan.
Vì lý do nào đó, một con chiên hay một đồng quan bị mất.
Sự mất mát này lớn lao đến nỗi người ta muốn tìm cho kỳ được.
Tìm cho kỳ được là tìm đến khi thấy mới thôi (cc. 4. 8).
Việc tìm kiếm này đòi phải hành động quyết liệt.
Người chăn chiên để chín mươi chín con ngoài đồng hoang,
người phụ nữ thắp đèn, quét nhà, moi móc mọi ngõ ngách.
Trong lo âu, người tìm kiếm chỉ nghĩ đến chuyện làm sao tìm lại được.
Chính vì thế niềm vui bùng lên khi tìm thấy điều đã mất.
Niềm vui không giữ lại cho riêng mình trong lòng.
Niềm vui đòi chia sẻ với bạn bè, với bà con lối xóm.
“Xin ông bà anh chị chung vui với tôi, vì tôi tìm thấy rồi” (cc. 5. 9).
Thiên đàng không cắt đứt với trần thế.
Các thiên thần của Thiên Chúa vui vì một người tội lỗi hối cải (c. 10).
Thiên Chúa mừng vui vì Ngài đã từng lo âu, đau khổ, tìm kiếm.
Mỗi tội nhân hoán cải là một thành tựu của Thiên Chúa.
Ngài quý từng con người được dựng nên theo hình ảnh Ngài.
Thái độ của Đức Giêsu đối với tội nhân cho thấy trái tim Thiên Chúa.
Trái tim ấy nghiêng chiều về những con người đã lạc đường.
Đồng quan không thể tự ý trốn đi, nhưng con người có tự do quay lưng.
Thiên Chúa đi tìm con người quay lưng ấy.
Với sự khiêm hạ, Ngài chinh phục trái tim con người.
Hãy để Ngài đi tìm bạn, và cho Ngài niềm vui khi tìm thấy người đã mất.
Nói cho cùng, Thiên Chúa đi tìm ta suốt đời,
trong một cuộc chơi năm mười kéo dài mà ta chủ yếu là người đi trốn.
Hãy cảm được sự tế nhị của Ngài khi cố tìm ta mà vẫn tôn trọng tự do.
Nếu ta chịu để Ngài tìm thấy, ta sẽ nếm được ngay niềm vui thiên đàng.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin đánh thức con.
Xin đưa con ra khỏi cơn mê
mà tự sức con không sao thoát ra được.
Xin đừng ngại đánh thức con
bằng những biến cố đôi khi mạnh mẽ,
nhưng xin cho con thấy bàn tay Chúa nhân từ
đang cắt tỉa con vì yêu con.
Ước gì con được tỉnh táo
để nhìn lại vẻ đẹp từng làm con say mê,
những chỗ dựa mà con tưởng là tuyệt đối.
Như ngọn đèn chầu trong nhà nguyện,
xin cho con thức luôn và sáng luôn,
trước nhan Chúa.Amen
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: TÌNH YÊU LÀ LỀ LUẬT
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đối với người Do thái Lề Luật là tất cả. Là lẽ sống. Là danh dự. Là trật tự. Là ơn cứu độ. Tất cả là Lề Luật. Nên khô cứng. Và không có tình người. Họ không giao du với người thu thuế. Vì người thu thuế không giữ Lề Luật. Giao du với họ là ô uế cũng lỗi Lề Luật. Chúa Giê-su dùng hai dụ ngôn “Con chiên lạc” và “Đồng tiền đánh mất” để cho họ biết rằng nếu Lề Luật là tất cả thì Tình Yêu chính là Lề Luật. Tình Yêu mới là tất cả.
Tình Yêu là Lề Luật vì chỉ có một luật quan trọng nhất là luật yêu thương. “Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là hãy yêu thương nhau”.
Tình Yêu thì không tính toán. Một con chiên lạc cũng quan trọng như 99 con không lạc. Nên người chăn chiên thao thức đi tìm cho đến khi tìm thấy. Một đồng bạc cũng quan trọng bằng 9 đồng không mất. Nên người phụ nữ phải quét nhà moi móc tìm cho ra. Cũng thế một người tội lỗi cũng quan trọng như tất cả mọi người. Cần cứu chữa đưa về.
Tình Yêu thì không loại trừ. Trái lại vì yêu thương nên những gì bé nhỏ, yếu ớt, kém cỏi lại càng cần được yêu thương hơn. Những tội nhân, những người xa lạc, giống như những người mang thương tích càng cần được chăm sóc, băng bó, chữa lành hơn. Cũng như trong một thân thể, chi thể nào càng đau yếu càng được nâng niu chăm sóc hơn.
Tình Yêu thì không xét đoán. Nếu có xét đoán cũng là trong tình yêu. Chúng ta sẽ bị xét đoán về tình yêu. Chỉ mình Chúa có quyền xét đoán. Vì thế ta đừng xét đoán anh em. Vì chính ta sẽ bị Chúa xét đoán. “Thế mà bạn, sao bạn lại xét đoán người anh em? Và bạn nữa, sao bạn khinh dể người anh em. Quả thế, tất cả chúng ta sẽ phải ra trước toà Thiên Chúa…mỗi người trong chúng ta sẽ phải trả lời về chính mình trước mặt Thiên Chúa” (năm lẻ).
Tình Yêu là Chúa Ki-tô. Chúa Ki-tô là tất cả. Là Tình Yêu. Là Lề Luật. Còn hơn thế nữa. Là Sự Sống. Là Hạnh Phúc. Là Tất Cả Ý Nghĩa Cuộc Đời. Vì thế thánh Phao-lô xưa kia cũng có địa vị trổi vượt, cũng hay xét đoán và tự cho mình quyền xét xử người khác, có nhiều ưu thế trong xã hội. Nhưng từ khi được biết Chúa Ki-tô ngài từ bỏ tất cả. Vì Chúa Ki-tô là tất cả. “Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì đức Ki-tô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đứuc Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi” (năm chẵn).
Suy Niệm 3: Con Chiên Lạc
Có một câu chuyện về cuộc đời của một thiếu nữ tên Liker với nội dung như sau:
Liker phục vụ trong quân đội Anh, nhưng hoàn cảnh đưa đẩy cô trở thành gái mãi dâm. Lúc thành phố Paris được giải phóng sau thế chiến thứ hai, không lâu sau đó, Liker phục vụ những khách hạng sang tại một trong những nơi ăn chơi nổi tiếng nhất của Paris do Patric làm chủ. Trong lúc tận tình giúp đỡ một thiếu nữ khác để khỏi rơi vào hoàn cảnh éo le của mình, Liker đã bắn chết Patric. Cô bị tống giam, nhưng trong cảnh ngục tù, Liker đã gặp các Nữ tu có tên gọi là các chị Bêtania, là Dòng chuyên nâng đỡ những cô gái sa cơ lỡ bước, những người nghiện ngập, những người sống đầu đường xó chợ. Vài nữ tu này trước kia cũng là nạn nhân của xã hội như những người họ đang phục vụ. Mãn hạn tù, Liker xin gia nhập dòng và trở thành một trong các chị Bêtania.
Nữ tu Liker trong câu truyện trên đây là tiêu biểu cho con chiên lạc mà Tin Mừng hôm nay đề cập đến. Nàng đã sa cơ lỡ bước, nhưng Thiên Chúa qua cử chỉ của các chị Bêtania đã đi tìm gặp chị và mời gọi chị trở nên bạn chí thiết của Ngài trong đời sống hiến dâng.
Hai dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay rất đơn sơ, nhưng mang đầy ý nghĩa. Vai chính là người chăn chiên và người phụ nữ. Những người chăn chiên thời Chúa Giêsu thường bị khinh miệt, vì họ là những người nghèo nàn, ít học, bị nghi ngờ gian lận, và vì phải luôn sống với đàn chiên ngoài đồng, nên họ không thể giữ luật ngày Hưu lễ cũng như không thể tham dự các giờ kinh trong Hội đường. Còn các phụ nữ là những công nhân hạng hai, theo tâm thức của Việt Nam ngày xưa: "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô", nhưng họ được Chúa Giêsu dùng làm hình ảnh để so sánh với chính Thiên Chúa.
Giá trị của những vật bị mất: một con chiên không có giá trị là bao so với đàn chiên; một đồng bạc cũng thế so với số còn lại; nhưng đối với người chăn chiên và người phụ nữ trong dụ ngôn, con chiên và đồng bạc có giá trị đặc biệt. Mỗi người chúng ta cũng thế, dù là những kẻ vô danh, một con số trong bảng thống kê nhưng lại có giá trị đặc biệt trước mặt Thiên Chúa.
Công khó đi tìm: không quản khó nhọc, không sợ nguy hiểm, người chăn chiên đã lặn lội đi tìm con chiên lạc; người phụ nữ cũng thế, đã thắp đèn quét dọn cho đến khi tìm được đồng bạc đã mất. Thiên Chúa cũng đối xử với các tội nhân như thế.
Niềm vui tìm được những vật đã mất: trên trời sẽ vui mừng và các thiên thần Chúa sẽ nhảy mừng, tượng trưng cho chính Thiên Chúa: Thiên Chúa vui mừng khi một tội nhân ăn năn hối cải.
Một Thiên Chúa sung sướng khi chúng ta sống đúng theo thánh ý Ngài. Một Thiên Chúa giầu lòng thương xót, vì tình thương vô biên của Ngài. Nữ tu Liker trong câu truyện trên đã cảm nghiệm về tình yêu Thiên Chúa, còn chúng ta, cho đến bao giờ mới có một kinh nghiệm như thế?
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa đã cho chúng ta được hiểu thêm lòng thương xót vô biên của Chúa. Xin cho chúng ta mau mắn chỗi dậy mỗi lần sa ngã, với niềm xác tín vào lòng nhân hậu vô bờ của Chúa luôn chờ đợi chúng ta trở về với Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Khía Cạnh Sâu Xa Của Tình Yêu
Trọng tâm của đoạn Tin Mừng hôm nay nêu bật khía cạnh sâu xa nhất của tình yêu đó là sự tha thứ, một sự tha thứ được gói trọn trong tình yêu khoan dung vì tình yêu này không đóng khung kẻ mình yêu trong những ngục tù của lỗi lầm, của quá khứ. Tình yêu này cũng không giới hạn kẻ làm ơn trong hiện tại đen tối của người ấy mà còn phóng tầm mắt nhìn về những điều họ có thể trở nên tốt hơn trong tương lai.
Trong cách hành xử của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Ngài sẵn sàng tha thứ để biểu lộ một tình yêu chân thành qua việc Ngài tiếp xúc với những người thu thuế, làm bạn với những người bị xã hội thời bấy giờ gán cho là kẻ tội lỗi. Ngài không ngăn cấm họ năng lui tới nơi Ngài giảng dạy, hơn nữa Ngài còn cùng ăn uống đồng bàn với họ. Những cuộc gặp gỡ giao tế này minh chứng rằng Chúa Giêsu nhìn những kẻ thu thuế và những người tội lỗi trong hai trạng thái: trạng thái hiện tại của họ và trạng thái họ có thể trở nên tốt lành hơn trong tương lai. Trong hiện tại, mặc dù đang sống trong tình trạng tội lỗi nhưng họ biết lắng nghe lời Chúa để khởi sự tiến những bước đầu tiên trên con đường hoán cải, và những điều họ có thể trở nên minh chứng qua những hành động cụ thể sau đó. Thí dụ như hành động dứt khoát với quá khứ tội lỗi để đi theo Chúa của ông Mátthêu. Là một người thu thuế, khi được Chúa gọi, ông đã bỏ bàn thu thuế đứng dậy và đi theo làm môn đệ Chúa. Hay qua sự hoán cải của một người thu thuế khác sau khi gặp gỡ Chúa và nghe Ngài dự định tới trọ nhà mình, ông Zakêu đã hứa là sẽ lấy nửa gia tài của mình mà phân phát cho những người nghèo và bồi thường gấp bốn cho những ai ông đã làm thiệt hại.
Chúa Giêsu ngày hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một Chúa Giêsu duy nhất không bao giờ thay đổi. Lòng nhân hậu vẫn khiến Ngài rảo bước đi tìm những con chiên lạc và khi gặp thấy thì mừng rỡ đặt nó lên vai mang về nhà và bảo người láng giềng: "Hãy chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên lạc". Như thế, đối với Chúa Giêsu, Ðấng đầy lòng khoan dung nhân hậu, không ai dại gì mà để cho con người phải chịu đóng dấu vào những vòng tội lỗi và rồi bị xếp loại vào những người bị kết án muôn đời.
Vậy, chúng ta đây còn chần chờ gì nữa. Hãy chỗi dậy kíp hoán cải để thống hối ăn năn thực lòng, để được Ngài âu yếm vỗ về và để cho các thánh trên trời đều reo vui như lời kết thúc của câu chuyện dụ ngôn của Chúa Giêsu: "Thật vậy, Ta bảo cho các ngươi rõ, các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn trở lại".
Lạy Chúa
Xin cho con được ý thức tình thương của Chúa trong đời sống con và luôn luôn quay trở về mỗi lần lầm lỗi.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Thiên Chúa lo cứu kẻ lạc
“Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác chiên lên vai.” Cũng thế tôi nói cho các ông hay: “Giữa triều thần Thiên Chúa, ai lấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc. 15, 4-5.10)
Trong đám đông dân chúng có nhiều người thu thuế và tội lỗi. Họ đã thấy việc Đức Giêsu làm và mau mắn đến nghe lời Người. Biệt phái và luật sĩ cậy mình là người công chính, họ rình xét Người và lẩm bẩm kêu: Ôi gương mù quá! Người nói nhân danh Thiên Chúa, lại đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với bọn ô uế.
Sáng kiến tìm chiên lạc:
Luôn luôn Thiên Chúa được giới thiệu như mục tử yêu mọi con chiên. Nếu lạc mất một con, mục tử để lại cả đoàn và đi tìm con chiên lạc với bất cứ giá nào và vác lên vai đưa về. Anh vui mừng biết bao và chia sẻ vui mừng với tất cả mọi người. Cũng vậy, một bà đánh mất một đồng bạc và hết sức quét nhà tìm cho được.
Đức Giêsu muốn chỉ cho thấy Thiên Chúa sáng kiến tìm đưa người tội lỗi về với Ngài trước, khi tìm được, Ngài tỏ lòng rất dịu dàng và thương xót an ủi họ. Trái lại, biệt phái loại họ khỏi cộng đồng hội thánh của Ít-ra-en, còn Thiên Chúa rất cảm động trước sự thống hối và tha thứ cho tội nhân, dẫn đưa họ về gia đình trong vui mừng.
Vui mừng tìm được chiên lạc
Niềm vui này, Thiên Chúa chia sẻ với mọi người, để họ nhận ra lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa, như Thiên Chúa đã nói qua ngôn sứ Ô-sê: “Tim Ta rạo rực trong Ta, cùng với lòng từ bi rung động … Vì Ta là Thiên Chúa, chứ không phải là người, Ta là Đấng Thánh ở giữa ngươi; Ta không đến với ngươi trong cơn thịnh nộ”. Chính vì Thiên Chúa không vứt bỏ những tội nhân, nhưng còn cảm thấy vui mừng lớn lao khi tha thứ cho họ, nên Đức Giêsu chăm lo cho họ và đồng bàn với họ. Những kẻ giả hình công chính phải lo ăn năn trở về, thay vì lẩm bẩm kêu trách. Như thế, họ sẽ không được chia sẻ sự vui mừng do lòng thương xót Chúa ban.
Dù ăn uống với những người tội lỗi, Người luôn luôn kêu gọi phải từ bỏ tội lỗi, ăn năn sám hối trở về, Người chỉ cho thấy ai đáp lại lời kêu gọi này thì không bị cơn giận của Thiên Chúa đổ xuống, nhưng được vui mừng hưởng lòng thương xót và ân phúc cứu độ của Ngài.
RC
Suy Niệm 6: THIÊN CHÚA LUÔN HƯỚNG TỚI TƯƠNG LAI (Lc 15,1-10)
Xem CN 24 TN C - Lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su năm C - thứ Ba tuần 2 MV và thứ Ba tuần 19 TN
Toàn bộ Tin Mừng của Đức Giêsu, chúng ta thấy từ hành động đến lời rao giảng, Ngài luôn nhấn mạnh đến sự tha thứ và tình thương cứu độ của Thiên Chúa.
Hai dụ ngôn chiên lạc và đồng bạc bị đánh mất hôm nay là điển hình của đặc tính ấy.
Thật vậy, bản chất Thiên Chúa là tình yêu, vì thế, Người không chấp tội của chúng ta, Người cũng không để ý, hay đóng khung trong quá khứ, nhưng luôn mở ra và hướng tới tương lai.
Với một lối nhìn nhân từ, bao dung, tha thứ, nên Đức Giêsu đã không ngần ngại xếp những người tội lỗi như thu thuế, gái điếm thành bạn hữu của Ngài, trong khi những hạng người này dưới con mắt của người thời đó là đáng bị khinh bỉ và nguyền rủa!
Điều quan trọng mà chúng ta cần khám phá ra và cũng là hành trình đức tin của mỗi người, đó là: khi được Chúa yêu thương, tha thứ và tạo cơ hội cho mình thì điều đầu tiên cần có là tâm tình tạ ơn, rồi đến sám hối, hoán cải và cuối cùng là thực thi Lời Chúa cách trung thành.
Qua hình ảnh vị Mục Tử nhân lành vác con chiên đã đi lạc lên vai sau khi tìm được và niềm vui của bà chủ khi tìm thấy đồng bạc bị đánh mất cho chúng ta thấy rõ ràng một Thiên Chúa luôn hướng tới tương lai, không hề có ý định đóng dấu tội lỗi trong quá khứ cho bất cứ ai, nhưng không ngừng đi tìm kiếm người tội lỗi và mong họ trở về.
Đây là niềm tự hào và an ủi cho người Kitô hữu, bởi chúng ta được thuộc về Thiên Chúa tình thương, đồng thời an ủi là vì mỗi người đều là tội nhân trước mặt Thiên Chúa, nhưng được Ngài yêu thương.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta hãy biết tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa, can đảm quay trở về với Người để được Người yêu thương. Đồng thời, noi gương Chúa, chúng ta không được coi thường, khinh bỉ người tội lỗi, bởi vì thánh nhân nào cũng có quá khứ, tội nhân nào cũng có tương lai. Thế nên, xin cho chúng ta hãy biết tha thứ và đối xử nhân hậu đối với những người tội lỗi như chính Chúa đã đối xử nhân hậu với chúng ta. Amen.
Ngọc Biển SSP
04/11 Dứt khoát đi theo Chúa.
- Viết bởi Ngọc Biển SSP
Dứt khoát đi theo Chúa.
Thứ Tư tuần 31 thường niên. – Thánh Carôlô Borômêô, giám mục. Lễ nhớ.
"Ai không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta".
* Thánh nhân sinh năm 1538 tại A-rô-na, miền Lom-ba-đi-a. Sau khi đã học xong luật đạo luật đời, người được cậu là đức giáo hoàng Pi-ô IV nhận vào hàng hồng y, rồi được đặt làm giám mục Mi-la-nô. Người ra sức thể hiện gương mẫu một giám mục như đã được Công Đồng Tren-tô nêu lên.
Người cố công cải tổ hàng giáo sĩ, lập các công đồng miền và các chủng viện. Người cũng canh tân phong hoá của các tín hữu bằng cách thăm viếng họ, trình bày cho họ biết thế nào là sống trung thành thật sự với Hội Thánh. Người qua đời ngày 3 tháng 11 năm 1584.
Lời Chúa: Lc 14, 25-33
Khi ấy, có nhiều đám đông cùng đi với Chúa Giêsu, Người ngoảnh lại bảo họ rằng: "Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta. Và có ai trong các ngươi muốn xây tháp mà trước tiên không ngồi tính toán phí tổn cần thiết, xem có đủ để hoàn tất không, kẻo đặt móng rồi mà không thể hoàn tất, thì mọi người xem thấy sẽ chế diễu người đó rằng: "Tên này khởi sự xây cất mà không hoàn thành nổi".
"Hoặc có vua nào sắp đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên không ngồi suy nghĩ xem mình có thể đem mười ngàn quân ra đương đầu với đối phương dẫn hai mươi ngàn quân tiến đánh mình chăng? Bằng chẳng nổi, thì khi đối phương còn ở xa, vua ấy sai một phái đoàn đến cầu hoà. Cũng thế, bất kỳ ai trong các ngươi không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Từ bỏ hết
Suy niệm:
Sống là chấp nhận từ bỏ.
Có những điều xấu phải từ bỏ
như tật nghiện thuốc lá, ma tuý, rượu chè, trụy lạc...
Cũng có điều tốt phải bỏ, để chọn một điều tốt hơn:
chọn nghề, chọn trường, chọn chỗ làm, chọn bậc sống...
Từ bỏ thường làm ta sợ và tiếc.
Bỏ chiếc giường êm để thức dậy đi lễ sáng.
Tắt tivi vì đến giờ đọc kinh tối gia đình.
Dành Chúa Nhật để học giáo lý và làm việc xã hội.
Nếu từ bỏ vì yêu, ta sẽ thấy nhẹ hơn, dễ hơn.
Người mẹ thức trắng đêm để đan nốt chiếc áo cho con.
Người mẹ “là mẹ hơn” qua những hy sinh vất vả.
Từ bỏ vì yêu chẳng bao giờ thiệt thòi, mất mát.
Cuộc sống văn minh cho ta nhiều chọn lựa.
Con người dễ chọn cái tầm thường hơn cái cao cả,
chọn khoái lạc phù du hơn hạnh phúc vững bền,
chọn lợi ích cho cá nhân tôi hơn là cho tập thể.
Xem ra con người thích cái dễ dãi hơn.
Kitô hữu là người đã chọn theo Ðức Giêsu.
Làm môn đệ Ngài là chọn đi vào đường hẹp, cửa hẹp.
Ngài đòi ta đặt tất cả dưới Ngài, yêu Ngài trên mọi sự,
trên những người thân yêu, trên của cải tinh thần, vật chất,
trên mạng sống mình, trên cả hiện tại tương lai.
Những thụ tạo trên thật đáng trân trọng,
nhưng chúng chỉ có giá trị tương đối
khi sánh với Ðức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người.
Kitô hữu là người sống từ bỏ như Ðức Giêsu.
Ngài đã bỏ vinh quang thần linh để làm người như ta,
đã sống và đã hiến mạng sống vì yêu Cha và nhân loại.
Từ bỏ là đi vào cửa hẹp cùng với Ðức Giêsu.
Phép Rửa đã cho chúng ta trở thành môn đệ Ðức Kitô.
Nhưng để là môn đệ đích thực của Ngài,
chúng ta cần từ bỏ mãi cho đến khi nhắm mắt.
Từ bỏ phải là thái độ nội tâm cần gìn giữ luôn.
Chúng ta dễ nghiêng như tháp Pisa.
Ðiều hôm nay chưa dính bén, mai đã thấy khó gỡ.
Ðiều đã bỏ từ lâu, nay lại bất ngờ hấp dẫn.
Từ bỏ điều tôi có, và cứ có thêm mỗi ngày
thật là một cuộc chiến lâu dài và gian khổ.
Chúng ta không được nửa vời, lừng khừng, thỏa hiệp.
Tháp đã bắt đầu xây, cuộc chiến đã khai mào.
Không còn là lúc ngồi xuống mà tính toán nữa.
Cần đầu tư để xây tháp, cần dồn sức để tiến quân.
Cần từ bỏ mọi vướng víu để tiếp tục trung tín.
Vẫn có những Kitô hữu chịu dở dang và bại trận,
vì họ không dám sống đến cùng ơn gọi làm môn đệ.
Từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu.
Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả.
Ước gì chúng ta vui khi gặp viên ngọc quý là Ðức Giêsu,
dám bán tất cả để thấy mình giàu có.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả
để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà
để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con
cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình,
ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan
để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng
trước khi con tập sống cho Chúa
và thuộc về Chúa
thì Chúa đã sống cho con
và thuộc về con từ lâu. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy Niệm 2: MẶC LẤY CHÚA KI-TÔ
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Là môn đệ không chỉ đơn thuần đi theo. Nhưng phải trở nên giống Thầy. Nên một với Thầy. Muốn thế phải từ bỏ chính mình. Từ bỏ hết những gì ngăn cản mình giống Thầy. Chỉ gắn bó với Thầy. Nên phải từ bỏ tất cả những tình cảm nào ngăn cản việc kết hợp với Thầy. Kể cả cha mẹ, anh chị em, vợ chồng, con cái. Thậm chí cả mạng sống nữa. Có thế mới nên một với Thầy.
Đó là một công cuộc lớn lao. Giống như xây một cây tháp cao tầng. Đây là cây tháp đời mình. Rất tốn kém. Phải đầu tư cả cuộc đời. Cả mạng sống. Cả tài năng sức lực. Phải hi sinh tất cả những gì mình có. Đây là một trận chiến lớn lao. Trận chiến suốt cả đời. Khó hơn cả vì là trận chiến với chính mình. Thắng mình khó hơn thắng vạn quân. Tự đánh mình rất khó. Ai đủ can đảm cơ chứ.
Nhưng tất cả sẽ trở nên có thể. Thậm chí còn dễ dàng và nhẹ nhàng. Nhờ một bí quyết. Đó là kết hợp với Chúa. Mặc lấy Chúa Ki-tô. Tất cả đều trở thành có thể.
Mặc lấy Chúa Ki-tô ta sẽ nên môn đệ thực thụ của Chúa. Và ta sẽ suy nghĩ như Chúa. Ăn nói như Chúa. Cư xử như Chúa. Yêu thương anh em trở thành dễ dàng. Vì tự nhiên. Ai yêu Chúa cũng yêu người. Ta sẽ mắc nợ yêu thương với anh em. Không thương không được. Đặc biệt những người nghèo khổ bất hạnh. Ta sẽ chu toàn mọi lề luật. “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật” (năm lẻ).
Khi hoàn toàn kết hợp với Chúa Ki-tô ta trở nên trong sạch. Trở nên những người con thực sự của Thiên Chúa: “Anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì, và sẽ trở nên những người con vẹn toàn của Thiên Chúa”. Khi hoàn toàn từ bỏ chính mình để kết hợp với Chúa Ki-tô ta trở nên chứng nhân giữa “thế hệ gian tà, sa đoạ. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời, là làm sáng tỏ Lời ban sự sống” (năm chẵn).
Khi hoàn toàn từ bỏ chính mình ta hoàn thành việc xây cây tháp cao cho đời mình. Ta chiến thắng trong trận chiến với chính mình. Khi mặc lấy Chúa Ki-tô, ta nên môn đệ thực sự của Người. Ta làm chứng cho Người. Ta trở thành viên đá sống động xây dựng Nước Trời.
Suy Niệm 3: Từ Bỏ Ðể Theo Chúa
Bài Tin Mừng hôm nay cho biết có rất nhiều người cùng đi với Chúa Giêsu. Tuy cùng hướng đi trên con đường dẫn đến Giêrusalem, nhưng đám đông không mang cùng một mục đích với Ngài. Trong khi Chúa Giêsu tiến về Giêrusalem để hoàn tất công cuộc cứu chuộc qua cái chết khổ nhục trên Thập giá, thì đám đông lại tưởng rằng Ngài lên Giêrusalem lần này để đánh đuổi ngoại xâm và tái lập vương quốc Israel.
Ðể đánh tan sự chờ đợi sai lầm này, Chúa Giêsu đưa ra lời mời gọi những kẻ theo Ngài hãy suy nghĩ đắn đo, tính toán kỹ lưỡng để xem có đủ nghị lực theo Ngài hay không: Ngài đòi buộc những kẻ muốn theo Ngài, hãy để cho Ngài chiếm chỗ đứng quan trọng nhất trong cuộc sống của mình: "Ai theo Tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ tôi được".
Việc theo Chúa là một việc khó nhọc, tiêu tốn nhiều sức lực như khi xây cất hay đánh giặc, do đó người môn đệ phải sẵn sàng dấn thân. Việc theo Chúa không thể tính toán bao nhiêu, bao lâu, hay bằng những việc gì, nhưng là thái độ quyết liệt, gạt ra một bên tất cả để bước theo Chúa, nghĩa là đi xây dựng Nước Trời, đi giao chiến với sự dữ và và cái chết để được chiến thắng hiển vinh. Người đi theo Chúa phải từ bỏ mọi của cải mình có. Từ bỏ ở đây không có nghĩa là chôn dấu đi hay sử dụng nó theo sở thích của mình, nhưng là làm ích cho người khác, nhất là cho những người nhỏ bé, nghèo hèn.
Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta được lòng can đảm, dứt khoát với tất cả những gì cản trở chúng ta trên bước đường theo Chúa. Xin cho chúng ta được thực tâm đi xây dựng Nước Trời và làm chứng tá tình yêu Chúa trước mặt mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Hy Sinh Từ Bỏ
Bài Phúc Âm hôm nay có thể được chúng ta đọc và suy niệm như là một sự giảng dạy thêm từ phía Chúa Giêsu, vừa là một sự lĩnh hội sâu xa thêm từ phía con người chúng ta. Mỗi người chúng ta được Chúa mời gọi hãy nghiêm chỉnh dấn thân theo Ngài với một tâm hồn đã được tự do khỏi mọi ràng buộc.
Liền sau những lời quả quyết về điều kiện căn bản cần có để theo Ngài: "Ai không vác thập giá mình mà đi theo Tôi thì không thể làm môn đệ Tôi", Chúa Giêsu kể thêm hai dụ ngôn mới để nhấn mạnh thêm với các môn đệ rằng đi theo Chúa không thể nào là một hành động nhẹ dạ, nhất thời, tùy hứng nhưng là một hành động, một quyết định nghiêm chỉnh với tinh thần trách nhiệm sau khi đã suy nghĩ kỹ lưỡng, giống như thể người muốn xây một ngọn tháp hay như nhà vua ra trận. Trên con đường từ bỏ này, chúng ta không lẻ loi một mình mà chúng ta đi theo Chúa. Có Chúa làm gương đi trước chúng ta. Và không phải chỉ làm gương đi trước chúng ta mà Ngài còn đến với chúng ta, sống với chúng ta, kết hợp với chúng ta, ban cho chúng ta sức mạnh của Ngài để có thể thực hiện việc hy sinh từ bỏ. "Không Thầy chúng con không thể làm chi được", hãy sống trong tình yêu Thầy như cành nho kết hiệp với cây nho để trổ sinh hoa trái.
Việc từ bỏ thập giá, đau khổ và cả cái chết nữa không phải là những giá trị riêng rẽ từ nơi chúng, mà là những phương thế để đạt đến mục đích để giúp ta trở nên giống Chúa mỗi ngày một hơn. Chúa Giêsu có quyền đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta và muốn mỗi người chúng ta đặt Ngài vào chỗ ưu tiên, đòi hỏi chúng ta yêu mến Ngài trên hết mọi sự và với hết sức lực của mình, trên cả tình thân gia đình. Và chỉ khi nào chúng ta dám từ bỏ mọi cản trở để yêu mến Ngài trên hết mọi sự, để được đồng hoá với Ngài cách trọn vẹn, thì khi đó chúng ta mới biết đặt những sự vật và con người vào vị trí đúng, biết tôn trọng và yêu thương những sự vật và con người một cách đúng thật trong tình yêu thánh thiện của Chúa.
Lạy Chúa là Ðấng đã kêu gọi chúng con theo Ngài qua con đường thanh luyện và hy sinh.
Xin ban ơn giải thoát chúng con khỏi những gì đang ngăn cản chúng con đến với Chúa. Xin dạy con theo Chúa mỗi ngày một trọn vẹn hơn, không chùn bước trước những thách thức và hy sinh. Xin cho con được cùng vác thập giá với Chúa để được chia sẻ vinh quang Phục Sinh của Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Muốn có huy chương vàng
Ai không vác thập giá mình mà theo tôi, thì không thể làm môn đệ của tôi được.
“Quả thế ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: “Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc. Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng? Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua ấy đã phải sai sứ đi cầu hòa. Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được.” (Lc. 14, 27-33)
Một đám đông dân chúng đi theo Đức Giêsu, Người muốn họ biết phải làm gì để đi theo Người. Nên Người quay lại giải thích cho họ về nước trời. Không phải là tòa nhà xổ số, nhưng là sân vận động Ô-lim-pic trao huy chương vàng cho vận động viên vô địch.
Phải hoàn toàn cố gắng hy sinh
Ai không sẵn sàng từ bỏ mọi sự để theo Đức Giêsu thì không thể làm môn đệ Người. Đức Giêsu vượt trên mọi sự, trên cả mối giây gia đình. Gia đình là chỗ an toàn, ở đó người ta yêu và được yêu. Đức Giêsu không bảo họ quay về chống đối gia đình, nhưng phải sẵn sàng phục vụ người không bị vướng mắc trở ngại gì, dù là người thân nhất. Lòng trung thành với Đức Giêsu phải đặt lên hàng đầu, trên cả mạng sống mình, Người đòi phải từ bỏ hoàn toàn. Do thái coi kẻ bị treo trên thập giá là kẻ bị chúc dữ. Để nên môn đệ Đức Giêsu, phải chấp nhận bị chúc dữ đó, từ bỏ tất cả, dù là gia đình mình, phải theo Người tới cùng; không thể hòa hoãn; đó là giá của vinh quang.
Phải nhận biết khả năng mình
Cần xem xét sáng suốt những khả năng của mình để biết có thể đi tới đích không. Trước cuộc mạo hiểm như xây tháp hay trận chiến, Đức Giêsu gợi ý cần ngồi lại suy nghĩ tính toán, phải trả giá bao nhiêu. Điều đó muốn nói rằng người ta phải xem xét chắc chắn và cần quyết tâm với hết sức mình để tới đích. Phải có thiện chí và đức tin giúp cho các phương tiện đạt tới đích.
Cũng cần xem xét đánh giá những khuynh hướng và tính tình của mình. Ta có phải chiến đấu sát cánh với Đức Giêsu không? Và đòi phải có quyết định sáng suốt sau khi đã xem xét cân nhắc tương quan về phương tiện, hoàn cảnh và thiện chí của mình.
Nhiều người không thể làm môn đệ của Người vì không sẵn sàng từ bỏ những mối giây ràng buộc và của cải để theo Người. Tuy nhiên, tất cả mọi người đều được kêu gọi trở về với Người, người ta có thể theo Người bằng nhiều cách khác nhau. Cách làm môn đệ đòi hỏi rất gắt gao và muốn được chọn, cần chính mình phải thực hiện lời khuyên trước và phải cân nhắc cẩn thận những điều thuận nghịch. Tốt hơn đừng thử đi theo rồi lại từ chối giữa đường.
RC
Suy Niệm 6: ĐIỀU KIỆN ĐỂ LÀM MÔN ĐỆ (Lc 14, 25-33)
Xem CN 23 TN C
“Ai đến với Ta mà không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình thì không xứng đáng làm môn đệ Ta”; hay: “Bất kỳ ai trong các ngươi không từ bỏ của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta được”; và: "Ai không vác thập giá mình mà đi theo Tôi, thì không thể làm môn đệ Tôi được".
Thoạt nghe, không ai trong chúng ta lại không cảm thấy “sốc” vì lời mời gọi này của Đức Giêsu xem ra có vẻ ngược đời và không thể chấp nhận được!
Tuy nhiên, dưới ánh sáng của mặc khải, chúng ta mới hiểu được thật chí lý khi Đức Giêsu đưa ra lời đề nghị này:
Trước tiên, Ngài muốn nói đến sự dứt khoát để đặt ý Thiên Chúa lên trên hết. Nếu vì lý do tình cảm mà mất ơn nghĩa hay hạnh phúc Nước Trời thì phải lựa chọn Chúa trước, còn mọi sự khác tính sau. Khi đã có tình yêu và được tình yêu của Chúa chi phối, hẳn sẽ bao trùm và định hướng tình cảm gia đình cũng như người thân...
Thứ hai, là sự thanh thoát. Đức Giêsu mời gọi những người muốn đi theo và làm môn đệ của Ngài, khi cần thiết phải từ bỏ ngay cả những gì là của mình, do mình làm ra và có khi phải từ bỏ ngay chính bản thân mình nữa... Bởi nếu không từ bỏ chính mình thì kể như những thứ ta bỏ trước trở thành vô ích, đây là điều khó khăn nhất đối với chúng ta!
Thứ ba, là phải vác thập giá mình mà theo. Đức Giêsu không bảo chúng ta vác thánh giá của Ngài, nhưng là thập giá của chính mình. Thập giá của chính mình là gì? Thưa có thể là người vợ lắm lời, ông chồng xay xỉn, bổn phận phải chu toàn... vác thập giá còn là từ bỏ ý riêng, là sống theo ý Chúa, tuân giữ luật Ngài trong lòng mến... Những thứ đó làm nên chất liệu quý và giá trị của người Kitô hữu.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sẵn sàng theo Chúa trong vai trò là người môn đệ. Tức là từ bỏ mọi sự, kể cả thứ tình cảm riêng tư, và ngay cả bản thân của mình để theo Chúa cho trọn vẹn...
Sống siêu thoát là giúp mình khỏi vướng bận vào của cải trần gian để tâm hồn được thanh thản hầu thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng được tốt hơn.
Sẵn sàng vác thập giá của mình cách yêu mến, chứ không chỉ tôn thờ thánh giá của Chúa mà thôi. Luôn chu toàn bổn phận hằng ngày cách trung thành. Tránh tình trạng vác thập giá cả làng nhưng thập giá của mình thì lại đè đầu cưỡi cổ người khác và bắt họ vác thay. Bởi vì chính Đức Giêsu đã cứu chuộc chúng ta bằng thập giá, vì thế, đời môn đệ mà thiếu vắng thập giá, thì hẳn sẽ mất hương vị và không phải cuộc sống của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được thanh thoát, biết đặt ý Chúa và sứ vụ của Ngài lên trên ý riêng cũng như tình cảm tự nhiên, biết từ bỏ chính mình và vác thập giá hằng ngày theo chân Chúa đến cùng. Amen.
Ngọc Biển SSP