Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
23/09 Câu hỏi về Chúa Giêsu
- Viết bởi Lc 9, 7-9
Câu hỏi về Chúa Giêsu.
Thứ Năm tuần 25 thường niên. Thánh Piô Pi-e-tren-ci-na, linh mục. Lễ nhớ.
“Ông Gioan đã bị trẫm chém đầu rồi, ông này là ai mà trẫm nghe đồn làm những điều như thế”.
Lời Chúa: Lc 9, 7-9
Khi ấy, quận vương Hêrôđê nghe biết tất cả các việc Chúa Giêsu đã làm thì phân vân, vì có kẻ nói rằng: “Ông Gioan đã từ cõi chết sống lại”; còn kẻ khác lại nói: “Ông Êlia đã hiện ra”; kẻ khác nữa nói rằng: “Một tiên tri thời xưa đã sống lại”.
Nhưng Hêrôđê thì nói: “Ông Gioan trẫm đã chém đầu rồi. Ông này là ai mà trẫm nghe đồn làm những điều như thế?” và vua tìm cách gặp Người.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Ông này là ai?
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Đức Giêsu với các môn đệ của Ngài đã nổi tiếng ở vùng Galilê,
qua các hoạt động rao giảng và chữa bệnh.
Tiếng đồn về Ngài ngày càng lan rộng (Lc 5, 15).
Điều đó hẳn đã đến tai của Hêrôđê (c. 7),
vị tiểu vương cai quản vùng Galilê trong hơn bốn mươi năm (Lc 3, 1).
Hêrôđê bối rối và lúng túng trước những tin mình nhận được.
Ông đã cho chém đầu Gioan Tẩy giả, kẻ được coi là ngôn sứ (c. 9).
Bây giờ lại nổi lên một người khác tên là Giêsu.
Người ta đồn đãi nhiều về nhân vật Giêsu này.
Có một số người nói ông này là Gioan bị chém đầu nay sống lại.
Có những người khác nói đó là ông Êlia tái giáng
sau khi đã được đưa về trời trong cơn gió lốc (2V 2, 11).
Cũng có những kẻ nói Giêsu là một ngôn sứ nào đó thời xưa sống lại.
Quả thật nhìn việc làm, lời giảng và lối sống của Giêsu,
người ta dễ thấy Ngài là một ngôn sứ (x. Lc 7, 16-17).
Mà chính Đức Giêsu cũng nhận mình là ngôn sứ (Lc 4, 24; 13, 33).
“Ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế?”
Hêrôđê tò mò muốn biết Ngài là ai.
Ông không tin Đức Giêsu là Gioan bị chém đầu, nay sống lại.
Và ông tìm cách gặp mặt Ngài (c. 9).
Hêrôđê đã được gặp Đức Giêsu trong cuộc Khổ Nạn (Lc 23, 6-12).
Lúc ấy Ngài xuất hiện trong tư cách một phạm nhân.
Dù vậy Hêrôđê cũng vui sướng vì ước ao của mình được thỏa nguyện.
Ông đã nghe Ngài làm được những phép lạ lớn lao,
nên ông ước mong được chứng kiến tận mắt một vài phép lạ.
Tiếc thay Đức Giêsu đã không muốn chiều Hêrôđê.
Ngài đã không trả lời ông, cũng chẳng làm một phép lạ nào.
Ngài thanh thản bình an trước những lời tố cáo của các thượng tế.
Ngài không muốn tránh cái chết mà Ngài biết nằm trong ý định của Cha.
“Ông này là ai?”, Hêrôđê đã tìm thấy câu trả lời khiến ông bị hụt hẫng.
Giêsu chỉ là một anh khờ dại, chỉ đáng bị khinh bỉ và chế giễu.
Cuộc tìm kiếm với nhiều tò mò của Hêrôđê kết thúc.
Ông chẳng bao giờ biết được Đức Giêsu thật sự là ai.
Nhiều người đã đặt câu hỏi: “Ông Giêsu này là ai?” (Lc 5,21; 7,49; 8,25).
Hôm nay nhân loại vẫn đặt câu hỏi quan trọng đó.
Để trả lời, phải bước vào một cuộc hành trình, bỏ lại những thành kiến.
Tò mò, thích những điều giật gân, muốn thấy những điều lạ thường:
tất cả những điều ấy không giúp ta khám phá mầu nhiệm một con người.
Sự thật về Giêsu có khi lại được nhận ra qua cái im lặng cam chịu,
qua sự bất lực đớn đau trên thập giá hơn là qua sự thi thố quyền năng.
Phải đổi toàn bộ cái nhìn của mình để nhận ra được Giêsu là ai,
để không vội vã đánh giá Ngài dựa trên tiêu chuẩn người đời.
Như Hêrôđê, chúng ta có thể có cơ hội gặp mặt Giêsu,
nhưng vẫn không biết Ngài là ai.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
khi đến với Chúa
con tháo bỏ đôi giày: những tham vọng của con
con cởi bỏ đồng hồ: thời khóa biểu của con,
con đóng lại bút viết: các quan điểm của con,
con bỏ xuống chìa khóa: sự an toàn của con,
để con được ở một mình với Ngài,
lạy Thiên Chúa duy nhất và chân thật.
Sau khi được ở với Ngài,
con sẽ xỏ giày vào
để đi theo đường của Chúa,
con sẽ đeo đồng hồ
để sống trong thời gian của Chúa,
con sẽ đeo kính vào
để nhìn thế giới của Chúa,
con sẽ mở bút ra
để viết những tư tưởng của Chúa,
con sẽ cầm chìa khóa lên
để mở những cánh cửa của Chúa. (Graham Kings)
Suy niệm 2: Phù vân chỉ là phù vân
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Nghe những lời đồn thổi về Chúa Giê-su, Hê-rô-đê lo sợ. Vì người ta cho rằng Gio-an Tẩy giả sống lại. Mà ông đã giết chết thánh Gio-an. Có quyền sinh sát. Nhưng ông không có quyền trên lương tâm. Tuy chẳng ai dám phản đối, nhưng lương tâm kêu trách ông. Ông là vua. Nhưng có Đấng cao cả hơn ông. Có quyền phán xét ông. Thưởng phạt ông. Nên ông phải phân vân về việc làm của mình. Ông giết thánh Gio-an Tẩy giả. Giờ đây tiếng máu vô tội giầy vò ông, chất vấn ông. Mọi biến cố đều qua đi. Nhưng cách ta ứng xử với mỗi biến cố lại tồn tại. Và trở thành lời phán xét ta. Vì trên quyền thế trần gian, vẫn còn có Chúa Tể Càn Khôn cầm cân nảy mực. “Ông Gio-an, chính ta đã chém đầu rồi! Vậy thì ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế?” Đầu chém rồi nhưng trách nhiệm chưa hết đâu!
Có những điều mau qua. Nhưng vẫn còn đó những giá trị vĩnh cửu. Ông Cô-he-lét nói: “Phù vân, quả là phù vân. Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân. Lợi lộc gì đâu khi con người phải chịu đựng bao gian lao vất vả dưới ánh nắng mặt trời? Thế hệ này đi, thế hệ kia đến, nhưng trái đất mãi mãi trường tồn”. Ông khám phá ra chân lý. Mọi sự đều hư ảo. Nhưng vẫn có thứ trường tồn. Đừng dại dột vất vả thu tích những gì hư ảo chóng qua như phù vân. Hẫy làm việc mà tìm kiếm điều vĩnh cửu (năm chẵn).
Ét-ra cho biết những gì ngoài Thiên Chúa đều vô ích vì mau qua và không kết quả. Chỉ khi nào ta tôn thờ Thiên Chúa làm mọi việc trong Thiên Chúa bấy giờ mọi thứ mới vững bền. Vì thế phải làm việc cho Thiên Chúa và trong Thiên Chúa. Nếu chỉ làm cho bản thân mọi sự sẽ suy tàn: “Các ngươi hãy để tâm suy cho kỹ về lối sống của các ngươi. Các ngươi gieo vãi nhiều, nhưng thu hoạch chẳng bao nhiêu. Các ngươi ăn mà không đủ no, uống không đủ say, mặc không đủ ấm. Đồng lương của người làm thuê lọt qua túi thủng. Đức Chúa các đạo binh phán thế này: Các ngươi hãy để tâm suy cho kỹ về lối sống của các ngươi. Hãy lên núi, đưa gỗ về tái thiết Đền Thờ cho Ta. Ta sẽ lấy làm vui và tỏ vinh quang Ta ở đó” (năm lẻ).
Khi có Chúa ở cùng mọi việc sẽ tốt đẹp. Đất sẽ trổ sinh hoa trái. Hãy ở trong Chúa. Hãy làm việc trong Chúa. Kết quả sẽ vững bền. Ngoài Chúa tất cả là hư vô. Là phù vân trên mọi phù vân.
Suy niệm 3: Dấu hỏi cho người khác
Trong những dòng cuối cùng của Thông điệp "Hòa Bình Dưới Thế", Ðức Gioan XXIII đã định nghĩa một người Kitô hữu chân chính: Mỗi người Kitô hữu trong thế giới phải là một mảnh sao băng chiếu sáng, là tụ điểm của tình yêu, là men sống động giữa anh em mình. Người Kitô hữu càng đóng trọn vai trò của mình, khi càng sống mật thiết với Chúa. Người Kitô hữu không sống cho mình, nhưng sống cho và vì người khác. Một mảnh sao băng chỉ chợt lóe lên rồi lịm tắt, nhưng cũng đủ thu hút con người về một góc trời nào đó; một chút men bé nhỏ trong khối bột, nhưng cũng đủ làm dậy cả khối bột. Như thế đó, sự hiện diện của người Kitô hữu, có sức thu hút, tạo chú ý, quấy rầy lương tâm người khác, nếu cuộc sống ấy là một cam kết, một dấn thân trọn vẹn.
Tin Mừng hôm nay cũng muốn nhắc nhở chúng ta về chân lý ấy. Qua lời nói, việc làm, và nhất là cuộc sống của Ngài, Chúa Giêsu đã không ngừng là một dấu hỏi cho người đương thời. Mỗi người một câu trả lời, nhưng bất cứ ai cũng được mời gọi để bày tỏ lập trường đối với con người của Chúa Giêsu. Riêng Vua Hêrôđê, ông tiến thêm một bước là muốn đến gặp Chúa Giêsu.
"Còn các con, các con bảo Thầy là ai?" Câu hỏi ấy, Chúa Giêsu không ngừng đặt ra cho chúng ta, và qua chúng ta, Ngài tiếp tục đặt ra cho mọi người. Qua cuộc sống của mình, người Kitô hữu cũng phải là một câu hỏi cho những người chung quanh; và dĩ nhiên câu hỏi càng trở nên dồn dập khi cuộc sống ấy là một hành trình đi ngược dòng đời.
Giữa một xã hội lấy bon chen làm khuôn vàng thước ngọc, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là một câu hỏi, nếu họ tiếp tục sống tinh thần nghèo khó. Giữa một xã hội lấy hận thù làm luật sống, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là một câu hỏi nếu họ vẫn tiếp tục yêu thương và tha thứ đến cùng. Giữa một xã hội mà nhiều người thường buông xuôi, thất vọng, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là câu hỏi, nếu họ tiếp tục sống lạc quan tin tưởng vào Ðấng luôn hiện diện trong lịch sử nhân loại. Giữa một xã hội mà sự tử tế đối với nhau đã thành một thứ xa xỉ phẩm, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là một câu hỏi, nếu họ tiếp tục sống tử tế với mọi người, ngay cả những người thù địch. Sống như thế quả là một đòi hỏi gay go, nhưng đó không chỉ là một cố gắng suông, mà là một thể hiện của một cuộc sống mật thiết với Chúa. Không có ơn Chúa, không sống kết hiệp với Chúa, người Kitô hữu không thể đi đến cùng những cam kết sống chứng nhân của họ.
Xin Chúa ban thêm sức mạnh, để trong cuộc sống chứng tá, chúng ta luôn xác tín rằng chúng ta đang sống nhờ Chúa, với Chúa và cho Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Kinh nghiệm của vua Hêrôđê
Bài Phúc Âm hôm nay nhắc chúng ta nhớ đến mối tương quan giữa Chúa Giêsu và vua Hêrôđê. Vua Hêrôđê là ai? Dựa theo vài chi tiết trong Phúc Âm, chúng ta có thể nói ông là một con người dám làm điều nghịch lại với lương tâm mình vì say mê quyền hành và danh vọng. Dĩ nhiên, ông biết rõ điều gì đúng và điều gì sai, ông biết rằng ông không nên sống với người đàn bà không phải là vợ của mình, ông biết rõ ông không nên chiều theo áp lực của những bạn bè, ông biết rõ ông không được giết người vì sự sống con người là thiêng thánh. Nhưng ông đã làm những điều xấu đó, ông đã hành động nghịch lại với lương tâm vì áp lực xã hội. Khuyết điểm khác nữa cũng của vua Hêrôđê là sau khi đã hành động nghịch lại lương tâm, ông muốn trấn an lương tâm và thuyết phục mình rằng không có gì sai quấy trong việc đã làm. Ông đã giết chết Gioan Tẩy Giả, nhưng khi ông thấy Chúa Giêsu Kitô thì ông tự nhủ là Gioan đã sống lại và như thế thì mình không có lỗi gì và rằng điều xấu ông đã làm đã được đền bù. Vua Hêrôđê đã hành động nghịch lại lương tâm và tệ hại nhất là việc ông không muốn đối diện với yêu cầu của lương tâm, ông đã hành động nghịch lại với lương tâm và muốn che đậy những gì mình đã làm.
Căn bệnh của vua Hêrôđê tiếp tục là căn bệnh của chúng ta. Nhiều người trong chúng ta hành động nghịch lại với lương tâm; chúng ta biết rõ điều gì nên làm nhưng chúng ta lại không làm điều đó, vì chúng ta sợ kẻ khác sẽ nói; chúng ta biết rõ điều gì nên làm nhưng chúng ta lại không làm, bởi vì chúng ta yêu thích những niềm vui nhục dục hơn mọi sự khác; chúng ta biết rõ điều gì nên làm, lương tâm chúng ta dạy chúng ta rằng chúng ta nên sống liêm chính, nhưng chúng ta vẫn gian lận với nhau và lường gạt những kẻ thân yêu nhất, bởi vì rất dễ làm như vậy. Ðiều tệ hại là sau khi đã hành động nghịch lại lương tâm chúng ta che đậy căn bệnh bằng miếng băng cứu thương và giả đò mọi sự vẫn như bình thường. Sau khi hành động nghịch lại lương tâm, chúng ta che đậy tội ác, dường như thể không có gì xảy ra cả.
Thật là khủng khiếp biết chừng nào việc chúng ta phạm tội rồi chối bỏ không nhận tội. Tội nặng nề nhất của thời đại chúng ta là việc chối bỏ điều tội trong chúng ta. Chúng ta hãy trở về lại nơi chúng ta cần phải làm, trở về lại với bản tính tự nhiên của mình. Có lúc vua Hêrôđê khao khát muốn gặp Chúa Giêsu, chúng ta không biết đây là vì tò mò hay là vì tiếng lương tâm thúc đẩy, vì trong nội tâm còn có chút khao khát muốn thoát ra khỏi vòng nô lệ của tội lỗi, nhưng khao khát của vua Hêrôđê có lẽ còn quá yếu ớt và có thể là vì những điều trần tục và những sự đam mê không được phép bóp chết đi.
Chúa Giêsu đã cho vua Hêrôđê được dịp gặp Ngài trong cuộc thương khó và chúng ta biết rõ vua Hêrôđê đã bỏ qua tất cả cơ hội để sống với thực thể thật của Chúa Giêsu, đã bỏ mất cơ hội canh tân đời sống mình. Chúng ta hãy học lấy kinh nghiệm của và từ vua Hêrôđê, ông đã hành động nghịch lại lương tâm và đã che giấu tội ác của mình.
Phần chúng ta, ước chi chúng ta không rơi vào cùng một lỗi lầm như vậy và cũng đừng bóp chết chút khao khát còn sót lại trong tâm hồn sau phút lầm lỗi, để khiêm tốn ăn năn thống hối trở về với tình yêu Thiên Chúa.
Lạy Chúa,
Xin thương hướng dẫn con trở về với Chúa mỗi lần con lầm lỗi, xúc phạm đến Chúa và anh chị em chung quanh. Xin cho con biết lắng nghe lương tâm và thực hành và thực hành điều lương tâm chỉ dạy.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Đức Giêsu gây nhiều câu hỏi
“Ông Gio-an ta đây đã chém đầu rồi! Vậy ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế?”Rồi vua tìm cách thấy mặt Đức Giêsu. (Lc. 9, 9)
Không phải quá khứ mới đặt câu hỏi về Người. Ngày nay vẫn còn nhiều câu hỏi lúng túng hơn xưa về Đức Giêsu. Lúc còn sinh thời, Người đã có vấn đề. Ông hoàng Hê-rô-đê xứ Galilê nghe tất cả những điều Người nói và làm. Ngay ở một thời, cả khối trung đông không cóvấn đề gì lớn,thế mà ông đã có những thông tín viên săn lùng tin tức cho ông. Tiếng tăm về Đức Kitô lan ra hầu khắp nơi. Những ý kiến về Người: tốt có, xấu có được loan truyền rộng rãi như trong thế giới chúng ta hiện nay.
Phải chọn lựa thế nào? làm sao biết được chính xác về nhân vật kỳ lạ nay?
Những người này coi Người là Gio-an Tẩy Giả đã sống lại. Những người khác cho là Ê-li-a tái xuất hiện. Nhiều kẻ nói: đây là một trong những tiên tri thời xưa sống lại. Họ đã có ý kiến khác xa nhau về cùng một vấn đề, quần chúng dễ tin và hầu như lúc nào cũng thèm khát những điều lạ lùng dễ cảm động. Đức Kitô, qua sứ điệp và cử chỉ cư xử của mình, đã nuôi nấng cái lòng ham thích lẫn lộn của những hạng người nhỏ bé chỉ biết hướng về cái trước mắt và tầm thường.
Hê-rô-đê bối rối về những tin đồn về Đức Giêsu, vì ông không bao giờ có lương tâm yên ổn. Ông không thể quên Gio-an đã bị ông ra lệnh chém đầu. Ông luôn tự vấn, nếu chém đầu một người vô tội và thánh thiện, sẽ bị công lý trừng phạt. Ông cũng muốn gặp Đức Giêsu. Ông mong có ngày sẽ gặp Người, nhưng như với Gio-an, ông sẽ bỏ qua một bên ơn phúc được ban cho ông.
Những người của thế kỷ chúng ta vẫn tiếp tục tra hỏi về Đức Kitô. Những người này khám phá thấy Người là con Thiên Chúa và con Đức Maria. Những người khác chẳng bao giờ đi đến cùng sự thật về căn tính của Người.
Bất hạnh thay! Tại sao thế? vì lý lẽ của họ giống như của Hê-rô-đê, không có lòng khiêm tốn cần thiết để chấp nhận những điều khó hiểu của đức tin và họ không có tinh thần từ bỏ mà đức tin yêu cầu. Sự thật về Đức Kitô, theo Tin Mừng của Người là một thách đố phiền phức. Chỉ có những người có tinh thần nghèo khó mới có thể được nâng lên tới đỉnh vinh quang.
GF
Suy niệm 6: Xin cho lương tâm được lên tiếng
Xem thêm thứ Bảy tuần 17 TN
Tin Mừng hôm nay cho thấy vua Hêrôđê hoang mang vì nghe người ta đồn Gioan Tẩy Giả đã chết mà nay sống lại. Ông lo lắng vì tin đồn này đã đụng đến tận căn hành vi tội ác của ông. Bởi vì ông là một người nhu nhược và ham mê sắc dục, nên đã đang tâm giết một người công chính là Gioan Tẩy Giả, chỉ vì ngài đã dám lên tiếng bênh vực sự thật và tố cáo hành vi sai quấy của ông.
Như vậy, hôm nay, một lần nữa hình ảnh vua Hêrôđê xuất hiện đã gợi lại cho chúng ta về bản chất của con người ác tâm, thất đức này. Tuy nhiên, căn bệnh của vua Hêrôđê cũng không khó kiếm trong xã hội của chúng ta, nhất là những người làm lớn.
Hằng ngày, chúng ta vẫn chứng kiến cảnh vì lợi ích của một người hay một nhóm người, mà gây nên biết bao oan sai, thất đức cho những người chân yếu tay mềm! Lại cũng vẫn còn đó những người chỉ vì miếng cơm manh áo mà chối bỏ lương tâm và thi hành những điều bất chính. Hay vì những thú vui xác thịt, chóng tàn, mau qua và đi đến chuyện giết người dã man, ghê rợn.
Thật vậy, căn bệnh của vua Hêrôđê cũng vẫn và sẽ tồn tại trong xã hội của chúng ta, nếu chúng ta không can đảm để tra tay cắt đi khối “ung nhọt” ghê tởm đó ra khỏi lương tâm, và không tìm cách để chữa trị bằng đời sống đạo đức, tôn trọng lẽ phải, công bằng và thực thi bác ái...
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta ý thức được con người của mình là yếu đuối, bất toàn, nên cần phải hồi tâm để kịp thời trở về với bản chất: “Nhân chi sơ, tính bổn thiện”. Không được vô cảm và phủi tay, hay gán ghép điều xấu cho người khác, để mình vô tội, rồi vô tư đến nỗi: “Bình chân như vại” như không có chuyện gì xảy ra!
Nếu chúng ta rơi vào tình trạng trên, hẳn chúng ta là một hạng người đê hèn và đáng trách, nhu nhược và đáng bị nguyền rủa. Cũng cần cảnh giác quan niệm chân lý thuộc về số nhiều mà chúng ta dễ bị “hiệu ứng đám đông” chi phối, làm cho chúng ta bị mập mờ không biết đâu là đúng, là sai, nhắm mắt đi theo những lời lẽ ngon ngọt của những kẻ nịnh bợ, rồi như một sự phát sinh tất yếu, chúng ta hành động chẳng khác gì những kẻ ác tâm, thất đức.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con trở nên những con người tốt và biết thi hành điều tốt cho anh chị em chúng con. Xin Chúa cũng tha thứ tội lỗi cho chúng con và ban cho chúng con ơn sám hối để trở về với Chúa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Vấn nạn cho người đương thời: Chúa Giêsu là ai?
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Tư tưởng và hành động của Chúa Giêsu đã tạo ra vấn nạn cho người đương thời: Chúa Giêsu là ai? Trải qua các thời đại, cho đến hôm nay, người ta vẫn không ngừng tìm hiểu về Ngài: Bởi vì con người Giêsu là một mầu nhiệm.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, những người Do thái đã gặp gỡ Chúa, đã sống với Chúa, nhưng họ vẫn không biết rõ về Chúa. Vua Hê-rô-đê đã nghe dư luận về Chúa và ông thắc mắc muốn tìm hiểu để biết Chúa là ai. Nhưng cuối cùng ông không được toại nguyện, vì ông chỉ muốn thoả mãn tính hiếu kỳ mà thôi.
Lời Chúa hôm nay nhắc con tự vấn thái độ của con qua những lần con gặp Chúa trong thánh lễ và các bí tích. Khi tìm hiểu lời nói, hành động của Chúa trong Tin Mừng, con ngỡ rằng đã hiểu Chúa nhiều hơn, nhưng thực ra nhiều lần con đã chẳng hiểu gì. Xin Chúa giúp con không bao giờ đóng khung khuôn mặt của Chúa trong những chữ viết, trong những thành kiến, nhưng biết khám phá khuôn mặt Chúa đang sống động trong cuộc đời con, nơi anh em con, nhất là nơi những người nghèo khổ và bất hạnh.
Lạy Chúa, không ai có thể khám phá khuôn mặt Chúa thay con được, nhưng chính con phải tự khám phá trong suốt cả cuộc đời. Xin Chúa giúp con luôn kiên nhẫn kiếm tìm. Xin ban cho con đôi mắt luôn trong sáng để nhận ra sự hiện diện của Chúa trong từng giây phút của cuộc sống. Xin ban cho con đôi tai luôn biết mở rộng để lắng nghe tiếng Chúa gọi mời. Xin giúp con sống điều Chúa dạy để người khác cũng nhận ra bóng dáng Chúa đáng yêu nơi chính cuộc đời con. Amen.
Ghi nhớ: “Ông Gioan đã bị trẫm chém đầu rồi, ông này là ai mà trẫm nghe đồn làm những điều như thế”.
Suy niệm 8: Chúa Giêsu, Ngài là ai?
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Lạ lùng vì được thụ thai trong lòng một bà già đã quá tuổi sinh con.
Lạ lùng vì khi đang còn ở trong bụng mẹ, đã được sạch tội tổ tông.
Lạ lùng vì khi đang còn thanh niên đã lên núi, sống cuộc đời thinh lặng và khắc khổ.
Lạ lùng vì khi được dân chúng hoan hô khen ngợi như Đấng Cứu Thế, thì vẫn khiêm nhượng xưng mình chỉ là kẻ dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến.
Lạ lùng vì cái chết đầy anh dũng để bảo vệ Luật Chúa: Chết vì bị các kẻ dâm ô chặt đầu bỏ trên đĩa để cười đùa.
Đó là Gioan Tẩy giả…
Suy niệm
Chúa Giêsu đã không ngừng là một dấu hỏi cho người đương thời, với những giáo huấn mới lạ đầy quyền uy, những phép lạ làm cho người câm nói được, người điếc được nghe, người mù thấy được, người què và bại liệt đi lại được, người bị quỷ ám được giải thoát…
Vua Hêrôđê phân vân trước những phản ứng của người đời nói về Đức Giêsu: Ngôn sứ Êlia, vị ngôn sứ phải đến chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế, hay Gioan Tẩy giả mà chính mình đã sát hại nay sống lại hay một ngôn sứ thời xưa đã sống lại… Hêrôđê đã tự đặt câu hỏi về Chúa Giêsu: “Ngài là ai?” Và ông đã tìm cách tiếp xúc với Ðức Giêsu để khám phá ra con người của Ngài. Tuy nhiên, Hêrôđê đã không được diện kiến Chúa Giêsu trong suốt thời gian Ngài đi công bố Tin Mừng vì ông muốn gặp Chúa Giêsu để thỏa mãn óc hiếu kỳ, sự tò mò... chứ không phải đi tìm kiếm chân lý với sự cảm phục yêu mến như Giakêu (x. Lc 19,3-4) đã được gặp Ngài và được ơn công chính… Hêrôđê không gặp được Ngài vì quyền năng của Thiên Chúa chưa muốn tỏ hiện: “Vì giờ của Con Người chưa đến” (Ga 7,30b). Chỉ khi giờ đến, những ngày cuối cùng của Chúa Giêsu: Philatô chuyển giao Ngài cho ông nên ông mới gặp được Chúa: “Hêrôđê mừng rỡ lắm, vì từ lâu vua muốn gặp Người” (Lc 23,8). Nhưng vua không nhận ra Ngài là ai. Cơ hội gần kề nhưng vua không tận dụng được cơ hội khám phá ra nguồn chân lý.
“Chúa Giêsu, Ngài là ai”. Mỗi người một câu trả lời, nhưng bất cứ ai cũng được mời gọi để bày tỏ lập trường đối với con người của Chúa Giêsu. Riêng vua Hêrôđê muốn đến gặp Chúa Giêsu vì tò mò. Chúng ta, những người Kitô hữu, biết hướng về Chúa, kiếm tìm và ao ước gặp Chúa trong cuộc sống vì Ngài “là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6).
Ý lực sống
Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài (Tv 25,4c.5a).
Suy niệm 9: Hêrôđê thắc mắc về Đức Giêsu
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Khi nghe biết những phép lạ, những việc làm đầy quyền năng của Đức Giêsu, Hêrôđê đã tự đặt câu hỏi về Ngài: Đức Giêsu là ai? Theo dư luận, người thì cho là Gioan Tẩy giả sống lại, người thì cho là Êlia hiện ra hay một tiên tri ngày xưa sống lại. Ông sợ vì nếu Gioan Tẩy giả sống lại thật thì ông sẽ bị Gioan hỏi tội, bởi ông đã ra lệnh chém đầu Gioan. Ông phân vân. Vì thế, ông tìm cách gặp Đức Giêsu để khám phá ra con người của Ngài.
Tin mừng hôm nay cho thấy vua Hêrôđê hoang mang vì nghe người ta đồn Gioan Tẩy giả đã chết mà nay đã sống lại. Ông lo lắng vì tin đồn này đã đụng đến tận căn hành vi tội ác của ông. Bởi vì ông là một người nhu nhược và ham mê sắc dục, nên đã đang tâm giết một người công chính là Gioan Tẩy giả, chỉ vì ngài đã dám lên tiếng bênh vực sự thật và tố cáo hành vi sai quấy của ông.
Như vậy, hôm nay, một lần nữa hình ảnh Hêrôđê xuất hiện đã gợi lại cho chúng ta về bản chất của con người ác tâm, thất đức này. Tuy nhiên, căn bệnh của vua Hêrôđê cũng không khó kiếm trong xã hội chúng ta, nhất là những người làm lớn.
Hêrôđê tìm Chúa vì phân vân
Những gì ghi nhận của mọi người về Đức Giêsu không phải là sai, nhưng chưa đủ, mà chỉ nói lên được một khía cạnh trong sự tròn đầy của khuôn mặt Đức Giêsu là Chúa: Êlia, Gioan Tẩy giả. Khi nghe những lời đồn đại về Đức Giêsu, quận vương Hêrôđê đã phân vân và tìm cách gặp Ngài. Có thể cuộc gặp này để kiểm chứng thực hư, nhưng tiếc là ông ta không có cơ hội, mà đến Ngày Chúa bị kết án thì ông mới được Philatô giải đến cho gặp.
Còn chúng ta? Có bao giờ chúng ta dành ra những phút hồi tâm suy nghĩ về Thiên Chúa hiện hữu và tác động trên đời ta, qua những dấu chỉ cuộc sống, qua những gương chứng nhân, qua phụng vụ bí tích, qua đời sống đạo... để rồi chúng ta đến gặp Chúa và tạ ơn Người không?
Hêrôđê tìm gặp Chúa vì lương tâm cắn rứt
Nói về lương tâm con người, dân gian có câu:
Hổ giết người hổ lăn ra ngủ, Người giết người thức đủ năm canh.
Thái độ thứ hai của Hêrôđê là hoang mang vì đã đổ máu người vô tội. Chính vì một chút sĩ diện và ham mê nhục dục mà ông đã ra tay giết hại thánh Gioan Tẩy giả. Bây giờ nghe dân chúng đồn đoán Gioan đã sống lại nơi Đức Giêsu thì ông hoang mang muốn gặp... Sự xuất hiện của Chúa đã làm phơi bày ra những tội ác của kẻ ác, và đặt mọi người vào thế đối diện với chính mình và phải tự vấn lương tâm. Điều này cho thấy, khi chúng ta hành động tội lỗi, thì lương tâm sẽ cắn rứt và làm cho chúng ta mất bình an (trừ khi lương tâm đã ra chai đá). Để tìm lại sự bình an, chúng ta hãy mau tìm đến gặp Chúa nơi Bí tích Giải tội, để được Chúa tha thứ và giúp chúng ta hoà giải với Chúa và tha nhân.
Hêrôđê tìm cách gặp Đức Giêsu có lẽ do một sự sợ hãi: hình ảnh Gioan Tẩy giả ông giết chết vẫn còn ám ảnh tâm trí ông. Người chết thì không làm hại. Nhưng nếu quả thật ông Giêsu hay làm phép lạ này chính là Gioan tái sinh thì ông không thể ăn ngon ngủ yên được. Nhất định ông phải gặp cho bằng được ông Giêsu đó thôi. Ông muốn gặp được Giêsu chỉ để chứng kiến một vài phép lạ, để kiểm chứng có thật Gioan tái sinh hay không. Thế rồi một ngày kia ông cũng được thỏa lòng mong đợi. Đức Giêsu bị bắt và Philatô giao nộp Người cho Hêrôđê. Hoá ra Giêsu đang đứng trước mặt ông đây, thân tàn ma dại như thế này thì có hòng làm hại nổi ai. Ông đã thấy Chúa và ru ngủ lương tâm của mình, nhưng rồi ông vẫn không hối cải. Rồi, “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”, Hêrôđê ông kết thân với Philatô, giao nộp Chúa cho ông này tuyên án tử hình cho Chúa (5 phút mỗi ngày).
Truyện: Cần làm chứng cho Chúa
Thế gian hôm nay đang cần những chứng nhân. Chúng ta hãy là những chứng nhân cho một Thiên Chúa đang sống cho thế giới hôm nay.
Sau đây là một cuộc đối thoại độc đáo giữa một người tân tòng Công giáo và một người vô thần.
- Anh đã theo đạo Công giáo rồi sao?
- Vâng, nói đúng và rõ hơn, tôi đã xin theo Đức Kitô.
- Thế thì chắc anh biết rất nhiều về ông ta, vậy anh hãy nói cho tôi biết ông ta sinh ra trong quốc gia nào?
- Tôi rất tiếc là tôi đã có học những chi tiết này trong một khoá giáo lý, nhưng tôi lại quên mất.
- Thế khi chết, ông ta được bao nhiêu tuổi?
- Tôi không nhớ rõ lắm nên cũng không dám nói.
- Vậy anh có biết ông ta đã thuyết giảng bao nhiêu bài, có bao nhiêu tác phẩm ông ta để lại, nói chung, về cuộc đời sự nghiệp của ông ta?
- Tôi không nhớ hết được.
- Như vậy, anh biết quá ít, quá mơ hồ để có thể quả quyết là anh đã thực sự theo ông Kitô.
- Anh chỉ nói đúng một phần. Tôi rất hổ thẹn vì mình đã biết quá ít về Đức Kitô. Thế nhưng, điều mà tôi biết rất rõ là thế này: ba năm trước, tôi là một tên nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, nợ lút đầu lút cổ. Gia đình tôi xuống dốc một cách kinh khủng. Mỗi tối khi trở về nhà, vợ và các con tôi đều tức giận và buồn tủi. Thế mà, bây giờ thì tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ nần, gia đình tôi đã tìm lại được hạnh phúc, các con tôi ngong ngóng chờ đợi tôi về nhà mỗi tối sau giờ làm ca. Tất cả những điều này, không ai khác hơn, chính Đức Kitô đã làm cho tôi. Và đó là tất cả những gì tôi biết về Ngài.
Suy niệm 10: Thắc mắc về Chúa trong cuộc sống
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Trước những dấu lạ Chúa Giêsu làm, Tiểu vương Hêrôđê thắc mắc về Ngài: Ông ấy là ai? Ít ra Hêrôđê cũng đang biết thắc mắc về Chúa.
Nhìn vào cuộc sống của rất nhiều người trên thế giới hôm nay kể cả những người có đạo, chúng ta nhận thấy có nhiều người tỏ ra dửng dưng trước những vấn đề có liên hệ đến vận mạng cuối cùng của cuộc đời. Đối với họ thì cái cần thiết bây giờ là những gì đang có ở trước mắt như cơm áo gạo tiền. Ngoài ra không có gì đáng kể.
Năm 1904, Hàn lâm viện Hoàng gia Anh đã tổ chức một cuộc triển lãm tranh, trong đó có trưng bày một bức họa tựa đề: “Người bị khinh chê chối bỏ”. Bức hoạ vẽ Chúa Giêsu đứng trước nhà thờ chính tóa Thánh Phaolô, trong một khu phố ở trung tâm thành phố Luân đôn. Đây là khu đông đúc dân cư nhưng không một ai để ý tới Ngài. Một người đàn ông vừa đi vừa đọc báo, suýt đâm thẳng vào Chúa. Một khoa học gia bận bịu với những ống nghiệm, không nhìn lên Chúa. Một chức sắc trong hàng giáo phẩm hiên ngang ngẩng đầu tiến bước, nhưng không thấy Chúa. Một nhà thần học đang hăng say thuyết giảng về Đức Kitô mà không nhìn thấy Ngài. Duy nhất chỉ có một nữ tu nhìn thấy Chúa, nhưng vẫn dửng dưng bước đi trên con đường của mình.
Ông William Barclay, một học giả Kinh Thánh nổi tiếng trong thành phố Luôn Đôn đã bình luận về bức họa như sau: “Hoàn cảnh này cũng thường xảy ra trong cuộc sống hôm nay. Nếu Đức Giêsu tái xuất hiện, có lẽ cũng chả ai chú ý tới Ngài. Người ta còn bận tâm về đủ thứ chuyện thực tế hơn là việc lưu tâm tới Chúa, chẳng ai thắc mắc “Đức Giêsu là ai?”
2. Khi người ta không còn lưu tâm, không còn thắc mắc về Thiên Chúa nữa thì điều gì sẽ xảy ra? Hãy nhìn vào phần lớn cuộc sống hôm nay, chúng ta sẽ có câu trả lời.
Đó là một cuộc sống không có, không cần Thiên Chúa. Con người tự cho mình quyền làm chủ cuộc đời mình và một khi con người tự cho mình có quyền như thế thì mọi sự kể cả những gì là ghê tởm nhất, độc ác nhất đều có thể xảy ra.
Một hôm thần dữ Satan triệu tập tất cả các sứ giả của mình lại để sai đến trần gian với sứ mạng duy nhất này là giải thích cho con người biết Thiên Chúa đã chết rồi.
Các sứ giả ra đi. Nhưng không bao lâu sau tất cả đều trở về. Thần dữ Satan ngạc nhiên hỏi:
- Tại sao các ngươi thực hiện công tác nhanh như thế? Hay là có chuyện gì trục trặc?
Các sứ giả đồng thanh đáp:
- Thưa Ngài, chúng tôi không còn việc gì để làm nữa. Bởi vì tất cả những nơi chúng tôi đi qua trên trần gian, nơi nào con người cũng sống như thể Thiên Chúa đã chết rồi. Họ hận thù, chém giết nhau, gian tham, trộm cắp. Không có gì xấu mà con người không làm. Dù nhiều người vẫn còn xưng mình là kẻ tin Thiên Chúa, nhưng cách sống của họ không hề biểu lộ niềm tin này mà ngược lại chẳng khác gì Thiên Chúa đã chết rồi. Như vậy, chúng ta đâu cần tốn công thuyết phục con người nữa.
3. Thế giới hôm nay đang cần những chứng nhân. Chúng ta hãy là những chứng nhân cho một Thiên Chúa đang sống để thế giới hôm nay:
Sau đây là một cuộc đối thoại độc đáo giữa một người tân tòng Công giáo và một người vô thần:
- Anh đã theo đạo Công giáo rồi sao?
- Vâng, nói đúng và rõ hơn, tôi đã xin theo Đức Kitô.
- Thế thì chắc anh biết rất nhiều về ông ta, vậy anh hãy nói cho tôi biết ông ta sinh ra trong quốc gia nào?
- Rất tiếc là tôi đã có học những chi tiết này trong một khóa giáo lý, nhưng tôi lại quên mất.
- Thế khi chết, ông ta được bao nhiêu tuổi?
- Tôi không nhớ rõ lắm nên cũng không dám nói.
- Vậy anh có biết ông ta đã thuyết giảng bao nhiêu bài, có bao nhiêu tác phẩm ông ta để lại, nói chung, về cuộc đời sự nghiệp của ông ta?
- Tôi không không nhớ hết được.
- Như vậy, anh biết quá ít, quá mơ hồ để có thể quả quyết là anh đã thực sự theo ông Kitô.
- Anh nói đúng một phần. Tôi rất hổ thẹn vì mình đã biết quá ít về Đức Kitô. Thế nhưng, điều mà tôi biết rất rõ là thế này: ba năm trước, tôi là một tên nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, nợ lút đầu lút cổ. Gia đình tôi xuống dốc một cách kinh khủng. Mỗi tối khi trở về nhà, vợ và các con tôi đều tức giận và buồn tủi. Thế mà, bây giờ thì tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ nần, gia đình tôi đã tìm lại được hạnh phúc, các con tôi ngong ngóng chờ đợi tôi về nhà mỗi tối sau giờ làm ca. Tất cả những điều này, không ai khác hơn, chính Đức Kitô đã làm cho tôi. Và đó là tất cả những gì tôi biết về Ngài.
Suy niệm 10: Chúa Giêsu thực sự là ai?
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Phản ứng của vua Hêrôđê trước dư luận về Chúa Giêsu:
- Những dư luận về Chúa Giêsu:
a/ Gioan tẩy giả sống lại,
b/ Êlia hiện ra,
c/ một tiên tri thời xưa sống lại.
- Phản ứng của Hêrôđê:
a/ Hơi sợ, vì nếu Gioan tẩy giả sống lại thật thì ông sẽ bị Gioan hỏi tội, bởi ông đã ra lệnh chém đầu Gioan;
b/ Mặt khác, vốn chịu ảnh hưởng văn hóa hy lạp, ông không tin vào việc sống lại, cho nên ông không nghĩ rằng Chúa Giêsu là Gioan, Êlia hay bất cứ một tiên tri nào khác sống lại;
c/ tuy nhiên ông không thể cắt nghĩa việc Chúa Giêsu làm những phép lạ. Tóm lại, ông phân vân. Vì thế ông tìm cách gặp Chúa Giêsu.
B.... nẩy mầm.
1. Ngày xưa có nhiều dư luận về Chúa Giêsu. Các tông đồ đã đi khắp nơi để làm chứng cho người ta hiểu đúng Chúa Giêsu thực sự là ai.
Ngày nay cũng có nhiều dư luận sai lạc về Chúa Giêsu. Người ta nghĩ Ngài là ai? (những người của các tôn giáo khác nghĩ gì? những người vô thần nghĩ gì? những người đầu óc nặng thành kiến khoa học, thực dụng nghĩ gì?…) Thực ra, Chúa Giêsu là Ai? Tôi phải làm chứng cho Ngài thế nào?
2. Hêrôđê tìm cách gặp Chúa Giêsu chỉ để giải đáp một thắc mắc và để thỏa mãn một sự tò mò. Phần tôi thì tìm gặp Chúa Giêsu để xin ơn. Như thế có đủ và đúng chưa?
3. Dù muốn hay không, người ngoài Giáo Hội vẫn đồng hóa Kitô hữu với Đức Kitô. Thấy kitô hữu thế nào thì họ nghĩ Đức Kitô thế ấy. Vì thế, dù muốn hay không, cách sống của kitô hữu cũng là một lời chứng về Đức Kitô. Làm chứng đúng hay sai, tốt hay xấu là trách nhiệm nặng nề của chúng ta.
4. Chúa Giêsu đã là một dấu hỏi cho những người thời Ngài. Mỗi người chúng ta cũng phải là một dấu hỏi cho những người thời nay. Một kiểu sống rập khuôn “ai sao tôi vậy”, một kiểu sống sợ bị người khác coi là khác thường… không phải là một dấu hỏi. Ta không chủ trương sống lập dị, nhưng ta không có quyền che dấu những nét đẹp độc đáo của niềm tin chúng ta.
5. Vua Hêrôđê nói: ‘Ông Gioan, ta đây đã cho chém đầu. Vậy ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế?’ Vua Hêrôđê tìm cách thấy mặt Chúa Giêsu” (Lc 9,9)
Khi nghe dư luận đồn về Chúa Giêsu: “Đó là Gioan từ cõi chết chỗi dậy” hay “Ông Êlia xuất hiện”… vua Hêrôđê tìm dịp gặp Chúa Giêsu để xem Ngài là ai.
Khác với Hêrôđê, để tìm gặp Chúa, Dakêu đã dấn bước lên đường. Ông leo cây và đã bắt gặp ánh mắt Chúa giữa đám đông. Ông đã biến đổi hoàn toàn. Còn Nicôđêmô lại tìm Chúa trong khung cảnh tĩnh mịch ban đêm.
Tôi cũng tìm Ngài trong cuộc đời, trong những giờ phút thinh lặng cầu nguyện, trong tiếng cười nói vui đùa của trẻ thơ, hay trong muốn người tôi gặp gỡ. Và tôi tin rằng Chúa sẽ không chối từ khi tôi biết mở lòng ra đón Ngài.
Lạy Chúa, niềm vui và hạnh phúc của con là được gặp Ngài trong cuộc đời. (Hosanna)
22/09 Sai 12 Tông Đồ đi rao giảng
- Viết bởi Lc 9, 1-6
Sai 12 Tông Đồ đi rao giảng.
Thứ Tư tuần 25 thường niên.
"Người sai các ông đi rao giảng nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân".
Lời Chúa: Lc 9, 1-6
Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai Tông đồ lại, ban cho các ông sức mạnh và quyền năng trên mọi ma quỷ và được chữa lành các bệnh tật.
Đoạn Người sai các ông đi rao giảng nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân. Người bảo các ông rằng: "Khi đi đàng, các con đừng mang gì cả, chớ mang gậy và bị, bánh và tiền, cũng đừng mặc hai áo. Các con vào nhà nào, thì hãy ở lại đó, và đừng rời khỏi nơi ấy. Những ai không tiếp đón các con, thì khi rời bỏ thành đó, các con hãy giũ cả bụi chân lại, để làm chứng tố cáo họ".
Các ông liền đi rảo khắp các làng mạc, rao giảng Tin Mừng, và chữa lành bệnh tật khắp nơi.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Đừng mang gì
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Sau một thời gian sống bên Thầy Giêsu,
thấy việc Thầy làm và nghe lời Thầy giảng,
giờ đây nhóm Mười Hai đã tương đối cứng cáp
để được chia sẻ chính công việc Thầy đã làm.
Đó là rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân (c. 2).
Nhưng trước khi được chia sẻ công việc,
họ được chia sẻ quyền trừ quỷ và chữa bệnh của Thầy (c. 1).
Sứ vụ họ sắp làm là một thực tập cho sứ vụ lớn sau này (Lc 24, 46-47).
Thầy Giêsu sai nhóm Mười Hai lên đường với những chỉ thị rõ rệt.
Không thấy Thầy bảo phải chuẩn bị hành trang.
Ngược lại, Thầy cấm không được mang theo gì cả.
“Đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, hai áo” (c. 3).
Ngay cả những người giảng rong theo phái Khắc Kỷ,
tuy rất khắc khổ, nhưng cũng được mang theo gậy và bị để ăn xin.
Thầy Giêsu muốn môn đệ của mình hoàn toàn cậy trông vào Thiên Chúa,
và hoàn toàn cậy trông vào lòng tốt của con người.
Họ phải tập chấp nhận sống bấp bênh và thiếu thốn trong bình an.
Không mang đồ dự trữ, không gậy để bảo vệ khi đi đường,
các môn đệ buộc phải mang theo lòng tín thác vô bờ nơi Thiên Chúa.
Thầy còn chỉ thị cho cả nhóm biết về chuyện ăn ở của họ.
Họ sẽ đến ở chung nhà với dân chúng, ăn uống những gì họ cho.
“Khi anh em vào bất cứ nhà nào, thì ở lại đó…” (c. 4).
Đừng đi từ nhà nọ sang nhà kia để tìm chỗ tiện nghi hơn.
Khi ăn ở nơi nhà dân, người tông đồ có cơ hội gần gũi với họ,
và chia sẻ cuộc sống thật của họ, để dễ loan báo Tin Mừng hơn.
Nhưng cũng phải bình an chấp nhận những từ khước (c. 5).
Có khi trong cả một thành, không tìm được một gia đình để trú chân.
Thái độ phủi bụi chân lại cho thấy một sự dứt khoát đoạn tuyệt,
không muốn dính dáng gì với những người ở đó nữa (x. Cv 13, 50).
Khuôn mặt của người được sai cách đây hai ngàn năm thật là đẹp.
Vừa quyền năng để trừ mọi thứ quỷ và bệnh tật,
vừa khiêm tốn cậy dựa vào lòng quảng đại của người khác.
Vừa có gì để cho, vừa có gì để nhận:
cho Tin Mừng cứu độ và sự chữa lành, nhận sự giúp đỡ vật chất.
Vừa gần gũi thân thiết với nỗi đau thân xác của con người,
với những lo âu rất đời thường trong một gia đình,
vừa thanh thoát với tiền bạc, không bị chi phối bởi nhu cầu vật chất.
Nhóm Mười Hai sẽ phải đối diện với sức mạnh của ác thần
đang tác oai tác quái trong đời nhiều người.
Họ sẽ phải dùng quyền Thầy trao để giải phóng con người khỏi nô lệ.
Nếu hôm nay Đức Giêsu sai chúng ta đi, Ngài sẽ bảo ta đừng đem gì?
Đâu là những nét đặc trưng của khuôn mặt người tông đồ thế kỷ 21?
Đâu là những bệnh tật và nô lệ của con người hôm nay?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin sai chúng con lên đường
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay vào những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm:
rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,
chữa lành những người ốm đau.
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng
đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ
của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu,
thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đường,
nhẹ nhàng và thanh thoát.
Suy niệm 2: Chúa là tất cả
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
“Anh em đừng mang gì đi đường”. Nước Thiên Chúa không phải là nước trần gian. Nước trần gian cần nhiều phương tiện như lãnh thổ, tài nguyên, quân đội. Nước Thiên Chúa chỉ cần có Thiên Chúa. Thiên Chúa là tất cả.
Sống đơn sơ khó nghèo, người môn đệ làm sáng lên sự hiện diện của Thiên Chúa cao cả. Không bám víu vào phương tiện trần gian, người môn đệ làm sáng lên sức mạnh của Thiên Chúa toàn năng. Hai bàn tay trắng người môn đệ làm chứng về niềm tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa và phó thác vận mệnh trong tay Người. Hành trang người môn đệ đơn sơ chỉ cần mang Thiên Chúa trong mình, đó là có tất cả.
Người môn đệ cậy dựa vào các phương tiện trần gian sẽ thất bại. Chỉ khi có Chúa việc tông đồ mới thành công. Ta hãy so sánh thời đại chúng ta với thời các tông đồ. Thời đó các ngài không có gì hết. Không cơ sở. Không nhân sự. Không tiền của. Bị bắt bớ. Thế mà việc truyền giáo phát triển với tốc độ vũ bão. Còn ngày nay ta có nhiều cơ sở hơn. Nhiều nhân sự hơn. Nhiều tiền của hơn. Ít bị bắt bớ hơn. Nhưng việc truyền giáo ì ạch. Lại còn có nhiều người bỏ đạo nữa.
Ta thất bại vì không có Chúa. Không có Chúa vì ta phạm tội. Ét-ra đau đớn nhận biết tội lỗi của cha ông đã quên Thiên Chúa, chỉ trông cậy vào thế lực trần gian nên đã bị trừng phạt nặng nề, bị lưu đày, bị làm nô lệ, bị tan nát, xấu hổ. “Từ thời tổ tiên chúng con cho đến ngày nay, vì chúng con đã mắc lỗi nặng và phạm tội, nên các vua và các tư tế của chúng con đã bị nộp vào tay vua chúa các nước ngoại bang”. Nay được Thiên Chúa thương đưa về quê nhà, ông xin nhất tâm xây dựng Đền Thờ để khuyến khích toàn dân thờ phượng Thiên Chúa là nguồn mạch sức mạnh, bình an và thịnh vượng. Tái thiết đền thờ chính là tái thiết con người. Ăn năn sám hối. Sống thánh thiện. Có Chúa ở cùng, sẽ có tất cả (năm lẻ).
Tác giả sách Châm ngôn cũng giúp ta ý thức điều này. Ông chỉ tha thiết được có Chúa. Vì Chúa là tất cả: “Mọi lời Thiên Chúa phán đều được chứng nghiệm, Người là khiên thuẫn cho ai tìm ẩn náu nơi Người”. Vì thế ông không dám xin Chúa sự gì nơi trần gian. Chỉ xin Chúa ban cho sống một đời sống đừng xa lìa Chúa, đừng lỗi phạm đến Chúa. Vì thế ông không xin sang giầu vì sợ sang giầu làm cho tâm hồn xa Chúa. Ông cũng xin Chúa đừng để ông nghèo đói vì sợ đói ăn vụng túng làm liều sẽ làm ô danh Chúa. Đây là một thái độ khôn ngoan chúng ta phải học hỏi và thực hành trong đời sống. Chỉ cần có Chúa. Lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Tránh xa những gì ngăn cách ta với Chúa. Có Chúa ở cùng ta sẽ có tất cả (năm chẵn).
Suy niệm 3: Huấn Lệnh Truyền Giáo
Ðược Chúa Giêsu tuyển chọn và sống với Chúa, các Tông đồ cũng đã nghe Chúa giảng dạy và chứng kiến những phép lạ Ngài làm. Trong bài Tin Mừng hôm nay, tác giả Luca thuật lại biến cố Chúa Giêsu sai các ông đi rao giảng Tin Mừng, Ngài nhắc nhở các ông phải sống khó nghèo và hoàn toàn tin tưởng vào Chúa quan phòng.
So với lần Chúa sai các môn đệ thì lần này có điểm khác biệt là thay vì được sai đi từng hai người, các Tông đồ được sai đi từng người một và được ban cho sức mạnh và quyền năng để trừ ma quỉ và chữa lành bệnh tật. Tuy nhiên, các ông cũng chỉ được sai đi trước để loan báo Ngài sắp đến. Huấn lệnh cho các Tông đồ trước khi lên đường có thể gồm 3 phần: Thứ nhất, trên đường đi các ông không được mang theo gì cả, mặc dù sứ vụ của các ông kéo dài một thời gian, chứ không phải chỉ có một vài ngày; điều đó có nghĩa là các ông phải hoàn toàn từ bỏ chính mình và chỉ tin vào sức mạnh của Lời Chúa. Thứ hai: khi tới nhà nào thì phải kiên trì, không được lùi bước; nói khác đi, các ông phải tin vào sứ mệnh của mình, tin vào sự quan phòng và chờ đợi thời giờ của Chúa. Thứ ba: các ông phải có can đảm trước sự cứng đầu của những kẻ chống đối các ông.
Mỗi thời đại có những cám dỗ riêng. Ma quỉ đã cám dỗ Chúa Giêsu từ bỏ sứ mệnh cứu thế, cũng như cám dỗ Ngài làm những việc lạ lùng, như hóa đá thành bánh, gieo mình xuống từ nóc Ðền thờ để mọi người thấy và tin. Ngày nay, không thiếu những người chỉ muốn dùng tiền bạc để giảng dạy hoặc dùng quyền bính để làm cho người khác kinh sợ. Một cám dỗ khác mà người Tông đồ thời nay thường mắc phải, đó là sự thiếu kiên nhẫn, chờ đợi thời giờ của Chúa. Họ dễ thoái lui rời bỏ nhiệm sở, thay đổi công việc. Cũng có những người Tông đồ không dám nói rõ những sai lầm của người khác cũng như những gì trái ngược với giá trị Tin Mừng. Thái độ chung của con người thời nay là ích kỷ và hưởng thụ, số người sẵn sàng để Chúa sai đi thật hiếm hoi, số các tệ nạn do sự sai lầm thiêng liêng ngày càng gia tăng, trong khi đó cái tôi tự do được thổi phồng.
Có lần nhà hiền triết Diogène đứng ở một góc đường và cười rã rượi như người điên loạn. Một khách bộ hành hỏi ông: "Có gì mà ông cười ngặt nghẽo như thế?" Ông đáp: "Anh có thấy tảng đá to ở giữa đường kia không? Từ khi tôi tới đây, đã có mười người vấp ngã vì nó và nguyền rủa nó, nhưng không ai quan tâm lấy nó đi để tránh cho người khác khỏi vấp ngã".
Có nhiều cách làm việc Tông đồ, nhưng hữu hiệu nhất là bằng chính đời sống tốt lành của mình. Xin Chúa giúp chúng ta đáp lại lời mời của Chúa và hăng say dấn thân phục vụ những người xung quanh vì Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Trung Thành Với Lệnh Truyền Của Chúa
Chúng ta vừa đọc lại bài tường thuật của thánh sử Luca nói về việc Chúa sai nhóm Mười Hai Tông Ðồ ra đi rao giảng Tin Mừng và chữa lành bệnh tật. Ðây là cuộc sai đi trước biến cố Phục Sinh để chuẩn bị cho cuộc sai đi quyết định sau Phục Sinh, khi đó Chúa sẽ nói với các ông một cách vĩnh viễn: "Mọi quyền hành trên trời dưới đất đã được trao ban cho Thầy. Vậy, các con hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con, và đây Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế".
Hai lần sai đi này, trước và sau Phục Sinh, trước và sau biến cố vượt qua của Chúa Giêsu, rất quan trọng và bổ túc cho nhau. Nếu lần sai đi thứ hai sau Phục Sinh, sau biến cố vượt qua mà không có lần sai đi thứ nhất trước Phục Sinh thì người ta sẽ dễ dàng rơi vào cám dỗ quả quyết rằng, những đồ đệ của Chúa Giêsu tự bày vẽ công việc cho mình để thành lập cộng đoàn Giáo Hội do theo sáng kiến riêng chứ không phải do ý muốn của Chúa Giêsu. Ngược lại, nếu lần sai đi thứ nhất trước Phục Sinh mà không có lần sai đi thứ hai sau Phục Sinh thì người ta cũng sẽ dễ dàng rơi vào cám dỗ khác nữa cho rằng, Chúa Giêsu đã thất bại trong dự án của Ngài sau khi bị giết chết trên thập giá. Nhưng các sách Phúc Âm đã ghi lại cho chúng ta hai lần sai đi trước và sau Phục Sinh, và điều này làm nổi bật ý định của Chúa Giêsu, một ý định vượt qua giới hạn thời gian, Chúa đã kêu gọi huấn luyện và sai các tông đồ ra đi rao giảng Tin Mừng, vì Chúa muốn rằng sứ mệnh rao giảng của Chúa cần được tiếp tục mãi trong thời gian từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nhờ qua những con người được mời gọi cộng tác với Chúa, làm công việc của Chúa với những quyền năng do Chúa ban cho.
Sự hiện diện và sứ mệnh của Giáo Hội qua các thời đại trong lịch sử nhân loại đều nằm trong chương trình của Chúa ngay từ đầu và do ý Chúa muốn, chứ không do sáng kiến của con người. Hơn nữa, chúng ta thấy tác giả Phúc Âm thánh Luca mô tả sứ mệnh của các tông đồ được Chúa sai đi bằng hai cụm từ rao giảng và chữa lành bệnh tật.
Nói theo ngôn ngữ ngày nay, chúng ta có thể nói rằng đây là sứ mệnh toàn diện ôm trọn cả con người xác hồn. Rao giảng và chữa lành, công bố sự thật ban ơn cứu rỗi của Chúa và chăm sóc cho cuộc sống phần xác được lành mạnh, đó là cứu rỗi và phát triển luôn đi đôi với nhau. Người đồ đệ của Chúa khi làm công việc của Chúa, công bố sự thật của Chúa, phân phát ơn cứu rỗi đã được Chúa thực hiện. Khi làm công việc này không thể nào lơ là hay đóng kín trước những việc phục vụ cho công cụ phát triển xã hội, phục vụ lợi ích tốt lành cho anh chị em chung quanh.
Nhà thờ để phụng thờ Thiên Chúa, nhà thương để chăm sóc bệnh nhân, nhà dưỡng lão để săn sóc người cao niên, nhà học tập dành cho người trẻ, nhà ở cho người nghèo, nhà cứu trợ cho anh chị em gặp nạn, đó là những nhà, những loại công tác nằm trong sứ mệnh của người đồ đệ của Chúa. Lịch sử hai ngàn năm qua của Giáo Hội cho thấy những đồ đệ của Chúa còn luôn trung thành với lệnh truyền của Chúa: rao giảng và chữa lành, mặc dù không thiếu những sơ sót lỗi lầm mà giờ đây những đồ đệ chân thật của Chúa không ngần ngại ăn năn xin tha thứ và dốc quyết thực hiện tốt đẹp hơn trong tương lai.
Lạy Chúa,
Xin thương ban cho chúng con quyền năng của Chúa để chúng con được canh tân và dấn thân nhiều hơn nữa, để chu toàn tốt hơn sứ mệnh Chúa đã trao phó cho trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Xin Chúa hãy thương hiện diện với chúng con và cùng hoạt động với chúng con luôn mãi.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Rao giảng và chữa bệnh
Đức Giêsu tập họp nhóm mười hai lại, ban cho các ông năng lực và quyền phép để trừ mọi thứ quỷ và chữa các bệnh tật. Người sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân.” (Lc. 9, 1-2)
Mục đích và điều kiện truyền giáo là mang sứ điệp của Đức Giêsu đến cho mọi người vẫn không thay đổi từ thời Giáo Hội sơ khai của các tông đồ cho đến nay đều theo mệnh lệnh của Thầy Chí Thánh.
Đức Kitô đã ban cho nhóm muời hai quyền đuổi quỷ, chữa lành các bệnh nhân và rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa. Tận nền tảng, vị truyền giáo không thể bằng lòng với lời nói, ông cần phải hành động yểm trợ cho lời nói, và lời nói cần giải nghĩa và soi sáng cho hành động. Từ nhiều năm nay có thể chúng ta đã vịn lý do chỉ cần những hành động công khai nên đã bỏ phần hỗ trợ thiết yếu của lời giảng, có khi còn loại bỏ lời nói để thay bằng lối sống chứng nhân cho Đức Giêsu Kitô. Đến một mức nào đó, chúng ta phải cảm phục một số những nhà hùng biện ngày nay có sức thuyết phục thính giả chịu nghe các ông nói hằng giờ.
Đức Kitô đã làm khác với chúng ta và những nhà hùng biện, Người không chỉ dùng lời nói,mà vừa rao giảng vừa hành động. Bằng lời nói và chữa bệnh, Đức Kitô qui tụ chung quanh mình hàng ngàn, hàng ngàn người dân. Ngày nay, Người vẫn còn nói bằng rất nhiều hành động từ thiện và nhiều cách khác nữa để nâng đỡ lời giảng dạy. Như vậy việc truyền giáo đòi có cả hai điều: Lời giảng và việc làm: “Lời nói đi đôi với việc làm”.
Thử nhìn chung quanh mình, sẽ thấy khá rõ có giáo phái dù nhỏ bé, họ biết khôn khéo lợi dụng mọi cách để truyền giáo.
Phải chăng, chúng ta kém khôn khéo khi rao truyền đức tin Kitô giáo?
Nghèo khó và từ bỏ vẫn còn hữu ích và hơn bao giờ hết là điều kiện cho việc truyền giáo thật sự tiến triển. Chúng ta dễ bị cám dỗ dùng những phương tiện to tát và hấp dẫn đầy ấn tượng để truyền giáo. Sự từ bỏ là một vẻ đẹp, ngày nay cần thiết phải thực hiện để giúp chúng ta không quên điều Đức Kitô đã dạy muời hai người đánh cá làm nền tảng xây lên Giáo Hội, và nhờ đó mà chinh phục được thế giới, nhất là sự từ bỏ trên thập giá. Lời Chúa sẽ mãi mãi là hạt cải nhỏ bé đã lớn lên thành cây vĩ đại cho muôn chim trời đến trú ngụ.
GF
Suy niệm 6: Giaỉ thoát con người cách toàn diện
Xem lại CN 15 TN B, thứ Năm tuần 4 TN và thứ Tư và thứ Năm tuần 14 TN
Thiên Chúa hằng chăm lo cho dân của Người. Vì thế, nhiều lần, nhiều cách, Thiên Chúa đã ban cho dân các Tổ phụ, rồi sai các Tiên tri, và thời sau cùng, Người trao ban chính Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Khi Đức Giêsu đến, Ngài đã kiện toàn tất cả những gì đã loan báo trước đó, đồng thời, Ngài không ngừng mời gọi những môn sinh của mình tiếp bước để cùng Ngài ra đi và tiếp nối sứ mạng cao quý là loan báo Tin Mừng đến tận cùng trái đất.
Để củng cố lời rao giảng, Đức Giêsu còn trao ban cho các ông sức mạnh và quyền năng trên ma quỷ và chữa lành các bệnh tật. Mặt khác, Đức Giêsu muốn các môn đệ thanh thoát, nhẹ nhàng, để chỉ chú tâm cho công cuộc loan báo Tin Mừng là việc chính yếu, Ngài đã truyền cho các ông: “Đừng mang gì cả, chớ mang gậy và bị, bánh và tiền, cũng đừng mặc hai áo”. Bên cạnh đó, Ngài còn hướng dẫn các ông về cung cách ứng xử khi thi hành sứ vụ: “Các con vào nhà nào, thì hãy ở lại đó, và đừng rời khỏi nơi ấy. Những ai không tiếp đón các con, thì khi rời bỏ thành đó, các con hãy giũ cả bụi chân lại, để làm chứng tố cáo họ".
Như vậy, nếu nhìn cách tổng thể, chúng ta thấy chính Đức Giêsu và sau đó là lệnh truyền của Ngài cho các môn đệ, làm toát lên sự thao thức và ý định muốn giải phóng con người toàn diện cả xác lẫn hồn.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy hân hoan đón nhận sứ vụ như là một hồng ân, dẫu rằng chúng ta không xứng đáng! Mặt khác, luôn sống trong sự phó thác nơi Chúa và đừng quá lo lắng về cơm áo gạo tiền trong khi thi hành sứ vụ. Bởi vì chính Đấng sai ta cũng đã sống cảnh: “Con cáo có hang, con chồn có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu”. Sự thanh thoát này giúp chúng ta không bị vướng bận vào những chuyện phụ thuộc nơi của cải vật chất, sự an tâm trần thế. Ngược lại, nhờ lối sống đơn giản, chúng ta được nâng đỡ tinh thần từ bỏ mình và tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa cách tốt đẹp hơn. Đức Giêsu cũng không quên nhắc các môn sinh của mình là không được dùng những hình thức khống chế, quyền lực để phụ trợ cho sứ mạng, ngược lại hãy dùng tình thương và gương sáng, tôn trọng tự do và ước muốn của người thụ huấn.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được thanh thoát và can đảm, tin tưởng và phó thác, vui mừng và hy vọng trong khi loan báo Tin Mừng tình yêu của Chúa cho anh chị em chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy niệm 7: Sai tông đồ rao giảng Nước Thiên Chúa
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu ban ơn để sai các tông đồ rao giảng Nước Thiên Chúa. Chúa căn dặn phải thực hiện sứ vụ của mình bằng một cuộc sống thanh thoát và bình dị.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trở nên người Kitô hữu là lãnh nhận ơn gọi sống cho Chúa và sống cho kẻ khác. Chúa ban cho con ơn thánh Chúa và sai con vào môi trường sống hằng ngày. Cuộc sống hằng ngày là môi trường để con tỏ bày ơn Chúa cho kẻ khác. Con muốn xác tín một lần nữa trước mặt Chúa để con thực sự là người Kitô hữu, là người môn đệ của Chúa giữa xã hội.
Mỗi người có thể có nhiều vai trò, nhiều địa vị trong tương giao với kẻ khác. Có thể là giám đốc, là công nhân, là thầy, là thợ, là cha mẹ, là vợ chồng, là con, là anh, chị, em… Những vai trò này xác định cách sống. Cũng vậy, con là người Kitô hữu, là môn đệ của Chúa, đặc tính căn bản này sẽ xác định cách sống của con, sẽ hướng dẫn con trong những tương giao đối với mọi người. Xin Chúa giúp con sống đúng phẩm giá và danh hiệu Kitô hữu của con.
Với tư cách là người Kitô hữu, nhiều lúc con cũng sẽ phải chấp nhận những hy sinh, thiệt thòi cho chính mình. Nhưng con biết rằng Chúa đã muốn điều đó. Chúa dạy con vui lòng chấp nhận những tiện ích vật chất vừa đủ cho cuộc sống. Chúa dạy con phải biết cho đi chứ không chỉ thu góp cho mình.
Lạy Chúa, một cuộc sống như vậy không phải chỉ dành riêng cho các nhà tu nhiệm nhặt sao? Không, Lời Chúa hôm nay nói với chính con trong tư cách là một Kitô hữu. Đó phải là cuộc sống của con. Xin Chúa giúp con. Amen.
Ghi nhớ: “Người sai các ông đi rao giảng nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân”.
Suy niệm 8: Rao giảng Tin Mừng
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Tuy là một nữ tu Dòng Kín, nhưng Têrêsa vẫn ao ước được làm linh mục để đi truyền giáo khắp nơi, làm cho dân ngoại trở lại. Và chị ao ước làm linh mục truyền giáo như thế cho đến tận thế. Chị luôn sống đời cầu nguyện và hy sinh cho các linh hồn được trở lại.
Cuộc đời cầu nguyện và hy sinh của chị Têrêsa, tuy rất ngắn ngủi vì qua đời lúc 24 tuổi (1873 - 1897), nhưng đã làm cho vô số người trở lại. Giáo hội phong tặng chị là Bổn Mạng các vị truyền giáo và các xứ truyền giáo.
Suy niệm
Chúa Giêsu sai mười hai tông đồ đi rao giảng nước Thiên Chúa. Tin Mừng Nhất Lãm ghi nhận gọi và chọn mười hai vị với tên tuổi rõ ràng (x. Mt 10,1-6; Mc 3,13-19; 6,7-13; Lc 6,12-16; 9,1-6).
Sau này, các Giám mục kế vị các tông đồ, với sự nối dài cộng tác là các linh mục, phó tế. Các tín hữu Chúa tham dự bởi bí tích Rửa Tội, mang sứ mạng loan báo Tin Mừng.
Người môn đệ được Chúa sai đi, hành trang duy nhất là sự nhiệt thành và lòng tin thác cậy trông, mang tâm tình của Đức Kitô truyền cho các môn đệ: “Đi đường, đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo. Người lại bảo: “Đến đâu, các con vào nhà nào, thì ở lại đó...”
Trên bước đường rao giảng, người môn đệ cũng như Thầy chí thánh luôn quan tâm đến người đau khổ, chữa lành bệnh tật, mang hạnh phúc cho mọi người. Thật thế, người môn đệ của Chúa luôn quan tâm đến những nhu cầu được chữa lành, chia sẻ cho anh em đồng loại như sau này Phaolô đã cảm nghiệm và chia sẻ: “Vui với người vui, khóc với người khóc…” (Rm 12,15), và ở Cửa Đẹp đền thờ thánh Phêrô thực hành lời dạy của Chúa và đã nói với người hành khất: “Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: nhân danh Đức Giêsu Kitô người Nadarét, anh đứng dậy mà đi!… anh trở nên cứng cáp” (Cv 3,6-7).
Lời mời gọi các môn đệ ra đi làm việc trên cánh đồng truyền giáo của Chúa Giêsu ngày xưa cũng là lời mời gọi dành cho mỗi người chúng ta trong cộng đoàn tín hữu và nếu tôi, bạn là người môn đệ đích thực của Chúa Kitô không có quyền từ chối lời mời gọi ấy nhưng đáp trả như Phaolô đã cảm nghiệm và sống sứ mạng: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16). Với ý thức đó, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II quả quyết: “Không một ai trong những người tin vào Đức Kitô, không một tổ chức nào trong Giáo hội được miễn khỏi trách vụ cao cả này: Đó là loan báo Đức Kitô cho mọi dân tộc”. Công đồng Vaticanô II khẳng định: “Tự bản tính, Giáo hội lữ hành phải truyền giáo”.
Ý lực sống:
“Các ngọn hải đăng không thổi còi ầm ĩ, chúng chỉ chiếu sáng” (Moody).
Suy niệm 9: Đức Giêsu sai các Tông đồ đi giảng
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Đức Giêsu sai mười hai Tông đồ đi rao giảng Tin mừng để các ông được tham gia vào sứ mạng của Ngài. Đức Giêsu đã ban cho các ông năng lực làm phép lạ, chữa bệnh và quyền phép để xua trừ ma quỉ. Ngài cũng căn dặn các ông nhiều điều trước khi lên đường.
Lời căn dặn của Đức Giêsu phải chăng muốn nói: khi rao giảng phải bỏ hết những đồ dùng, kể cả lương thực? Thưa không, Ngài chỉ muốn nhấn mạnh rằng, với sứ mệnh loan báo Tin mừng, đừng để vật chất, danh vọng, tình cảm làm chủ mình. Nhưng, phải cậy dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa và của Tin mừng thôi.
2. Thiên Chúa hằng chăm lo cho dân của Người. Vì thế, nhiều lần, nhiều cách, Thiên Chúa đã ban cho dân các Tổ phụ, rồi sai các Tiên tri, và thời sau cùng, Người trao ban chính Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Khi Đức Giêsu đến, Ngài đã kiện toàn tất cả những gì đã loan báo trước đó, đồng thời, Ngài không ngừng mời gọi những môn sinh của mình tiến bước để cùng Ngài ra đi và tiếp nối sứ mạng cao quý là loan báo Tin mừng đến tận cùng trái đất. Để củng cố lời rao giảng, Đức Giêsu còn trao ban cho các ông năng lực của chính Ngài, để thực hiện các phép là và ban quyền phép để xua trừ ma quỷ.
3. Trước khi đi rao giảng, Đức Giêsu dặn bảo các ông cần có tinh thần siêu thoát: “Anh em đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, cũng đừng có hai áo”. Theo đó, Đức Giêsu không bảo các ông phải vô sản, không chủ trương tìm sự thiếu thốn vật chất, nhưng có một giá trị nội tâm, nó giải thoát chúng ta khỏi mọi ràng buộc với của cải trần thế, và mở rộng lòng mình ra trước sự giàu có tinh thần. Đức Giêsu muốn nhấn mạnh rằng, đừng để cho vật chất, danh vọng, tình cảm làm chủ và chi phối mình.
Chúa muốn nhà truyền giáo phải dựa vào ơn Chúa trước khi dựa vào tiền bạc, hãy dựa vào sự trợ giúp của Chúa hơn là sự trợ giúp của phương tiện vật chất. Chính ơn Chúa mới đem lại sự bình an thanh thoát trong tâm hồn. Sự từ bỏ, quên mình hoàn toàn mới chu toàn được sứ vụ rao giảng. Đi truyền giáo mà với đầy rẫy những thứ cồng kềnh vướng bận, thì khó mà toàn tâm toàn ý lo cho sứ vụ, bon chen và ham mê công việc lấn át hết thời giờ cho Chúa (Hiền Lâm).
4. Lý do của việc truyền giáo. Hội thánh luôn nhận lấy bổn phận và nhiệt tình truyền giáo từ chính tình yêu Thiên Chúa đối với tất cả mọi người: “Vì tình yêu Đức Kitô thôi thúc tôi” (2Cr 5,14). Quả thế, “Thiên Chúa luôn cho mọi người được ơn cứu độ và đạt tới sự nhận biết chân lý” (1Tm 2,4). Thiên Chúa muốn tất cả mọi người được ơn cứu độ nhờ nhận biết chân lý. Trong chân lý có ơn cứu độ. Những ai để cho Thần Chân Lý thúc đẩy thì đã ở trên đường cứu độ. Vì đã được uỷ thác chân lý, Hội thánh phải nắm bắt khát vọng của con người để mang chân lý đến cho họ. Vì tin vào ý định cứu độ phổ quát của Thiên Chúa, nên Hội thánh phải truyền giáo.
5. Loan báo Tin mừng Nước trời là sứ mệnh hàng đầu của Đức Giêsu và của cả Giáo hội, Ngài đã đến trần gian và ở lại 33 năm là để thi hành sứ mệnh này. Kế tiếp Ngài, các người được Ngài mời gọi, đi theo, ở với và rồi được sai đi cũng mang trọng trách ấy cho đến “khi Chúa đến”. Trước tiên, loan báo Tin mừng hệ tại việc “đi”: đi vào giữa lòng đời và đi ra vùng ngoại biên. Loan báo còn là làm chứng, thực hiện những dấu chỉ, trong đó có dấu chỉ chữa trị những vết thương tinh thần và cả thể lý của những kẻ môn đệ Chúa Kitô được sai đến. Lời loan báo, giới thiệu Tin mừng được đón nhận dễ dàng hơn khi có các dấu chỉ yêu thương, hy sinh, quảng đại... kèm theo. Điều này đòi hỏi các môn đệ phải nỗ lực thích nghi, sáng kiến trong sứ vụ. Nói cách khác, để chu toàn sứ mệnh, người môn đệ không thể ở yên một chỗ, nhưng phải di chuyển và đưa ra những kế hoạch cụ thể, thích hợp (5 phút Lời Chúa).
6. Chúng ta có thể rao giảng Lời Chúa bằng lời nói, chữ viết, cử chỉ hay bất cứ phương tiện nào, nhưng phương tiện có tính thuyết phục nhất là đời sống thực tế của chúng ta, chính con người chúng ta là dấu ấn của Thiên Chúa, để người ta trông thấy chúng ta thì đồng thời cũng nhìn ra Chúa.
Trong việc phong thánh cho linh mục Gioan Vianney, cha sở xứ Ars, một nhà điều tra phong thánh có hỏi một người trong giáo xứ về đời sống của Ngài, thì người giáo dân ấy chỉ trả lời vỏn vẹn bằng mấy chữ: “Tôi đã trông thấy Thiên Chúa trong một con người”.
7. Truyện: Chúa sai tôi đi
Sau thế chiến thứ nhất, một linh mục trẻ người Pháp được bài sai đi coi xứ. Tay xách vali, cha mạnh dạn ra đi truyền giáo. Đến nơi chỉ thấy hầm với hố, tường thì đổ. Nhà thờ, nhà xứ, chỉ còn duy nhất một bức tường xiêu vẹo.
Không một chút sờn lòng, cha cùng với các tín hữu tích cực kiến thiết lại ngôi thánh đường đổ nát. Chẳng bao lâu sau, đền thờ vật chất đã hoàn thành khang trang đẹp đẽ. Giờ đây, cha lại tiếp tục xây dựng đền thờ tâm hồn. Nhờ đời sống gương mẫu, cha đã tu sửa lại lòng đạo đức của cả đoàn chiên.
Tuổi cha chưa cao nhưng đã kiệt sức, giữa lúc tình cha con đang mặn nồng, gắn bó. Dầu vậy, nằm trên giường bệnh, cha vẫn thản nhiên vui vẻ. Giờ hấp hối đến, cha nhỏ nhẹ nói với những người chung quanh cha rằng:
- Giờ đây tôi vui mừng vì đã trung thành giữ lời nhủ bảo của thân phụ tôi ngày tôi chịu chức linh mục: “Nay con đã là linh mục của Chúa, cha chỉ cầu mong con ba điều: Thứ nhất, lúc con chết đừng nợ ai xu nào. Thứ hai, khi qua đời con cũng chẳng còn xu nào. Thứ ba, lúc lâm chung con đừng vướng một chút tội nào với Chúa”.
Và thế rồi ngài an bình ra đi về với Đấng mình đã trọn đời dâng hiến.
Suy niệm 10: Chúa Giêsu sai nhóm 12 đi loan Tin Mừng
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Chúa Giêsu sai nhóm 12 đi loan Tin Mừng. Nói một cách cụ thể, Chúa sai các môn đệ đi truyền giáo. Và từ đó trở đi, việc truyền giáo đã trở thành sứ mạng của mọi người trong Giáo Hội.
Đây là lời của Công Đồng chung Vaticanô II trong Hiến Chế Truyền Giáo: “Như Chúa Cha sai Người thế nào, Chúa Con cũng sai các Tông Đồ như vậy (Ga 20, 21) khi Người phán: “Vậy các con hãy đi dạy dỗ muôn dân, thanh tẩy họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, hãy dạy dỗ họ vâng giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con. Và đây, Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20). Lệnh ấy, Chúa Kitô long trọng truyền lại, Giáo Hội đã nhận lãnh từ các Tông Đồ để chu toàn khắp cõi đất (Cv 1,8). Vì thế, Giáo Hội xem lời sau đây của Thánh Tông đồ như lời của mình: “Khốn thân tôi nếu tôi không giao giảng Tin Mừng” (1Cor 9,16), và vì thế, Giáo Hội không ngừng gửi sứ giả Tin Mừng cho đến khi các Giáo Hội trẻ được trưởng thành hoàn toàn và tự mình tiếp tục việc rao giảng Tin Mừng. Chúa Thánh Thần thúc đẩy Giáo Hội cộng tác với Ngài để hoàn tất trọn vẹn ý định của Thiên Chúa là Đấng đã đặt Chúa Kitô làm nguyên lý cứu độ cho tất cả thế giới. Bằng việc rao giảng Tin Mừng, Giáo Hội sửa soạn cho người nghe đón nhận và tuyên xưng đức tin, và chuẩn bị cho họ lãnh phép Rửa, đưa họ ra khỏi cảnh nô lệ của sự lầm lạc, tháp nhập họ vào thân.
2. Lý do của việc truyền giáo. Hội Thánh luôn nhận lấy bổn phận và nhiệt tình truyền giáo từ chính tình yêu Thiên Chúa đối với tất cả mọi người: “Vì tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi” (2Cr 5,l4). Quả thế, “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ và đạt tới sự nhận biết chân lý” (1Tm 2,4). Thiên Chúa muốn tất cả mọi người được cứu độ nhờ nhận biết chân lý. Trong chân lý có ơn cứu độ. Những ai để cho Thần Chân Lý thúc đẩy thì đã ở trên đường cứu độ. Vì đã được ủy thác chân lý, Hội Thánh phải nắm bắt khát vọng của con người để mang chân lý đến cho họ. Vì tin vào ý định cứu độ phổ quát của Thiên Chúa, nên Hội Thánh phải truyền giáo.
3. Những con đường truyền giáo. “Chúa Thánh Thần là người chủ xướng mọi công cuộc truyền giáo của Hội Thánh” (RM.2l), chính Người dìu dắt Hội Thánh trên các nẻo đường truyền giáo. “Hội Thánh tiếp tục và triển khai qua dòng lịch sử sứ mạng của chính Chúa Kitô, Đấng được cử đến rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó. Được Thánh Thần Chúa Kitô thúc đẩy, Hội Thánh cũng phải tiến bước trên chính con đường Chúa Kitô đã đi là nghèo khó, vâng lời, phục vụ và tự hiến cho đến chết, để rồi toàn thắng nhờ sự sống lại của Người” (AG 5). Chính như thế mà “máu các thánh tử đạo là hạt giống trổ sinh Kitô hữu” (Hộ Giáo 50).
Vào năm 1965, dư luận tại Italia ngỡ ngàng trước tin dược sư Marcello Candia, 59 tuổi, là giám đốc và là chủ nhân hai viện bào chế có tiếng ở Bắc Italia đã bán hết hai viện, nhà cửa, đất đai và tất cả sản nghiệp của mình rồi sau đó mang tiền sang miền Amazone Brazil, với sự đồng ý của Đức Tổng Giám mục Aristide Pirovano, giáo phận Maccapa thuộc Hiệp Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo Milano. Ông Candia đã xây cất một nhà thương gồm 120 giường để tiếp đón và chữa trị cho các người nghèo trong vùng. Nhiều người cho rằng ý định của vị mục sư là một việc làm điên rồ. Nhưng ông đã nói:
“Ngay từ thời gian còn ở trung học, tôi vẫn thường tiếp xúc với dân nghèo ở khu vực ngoại ô Milano dưới sự hướng dẫn của một vị linh mục dòng thánh Phanxicô Capuciano. Lòng yêu mến công tác truyền giáo đã nảy sinh trong tôi từ dạo đó. Một lần kia, thày Kecillio, người giữ cửa tu viện đã nhờ tôi giúp phân phát cháo cho người nghèo, tôi đã vui lòng nhận lời. Tại phòng khách nơi nhiều người đang chờ tới phiên mình, tôi nhìn thấy tấm hình của cha Damiane de Samarate, người đã chết vì bệnh cùi năm 1924 tại thành phố Belem bên Brazil, sau khi đã tận tụy chăm sóc các người bệnh tại đây và chính người cuối cùng đã lây bệnh, rồi chết. Mỗi lần nhìn lên tấm hình vị linh mục, tôi lại cảm thấy một lời mời gọi văng vẳng bên tai: “Tại sao mình lại không bán hết tài sản để phục vụ người nghèo?
Sau khi đã đến thăm miền Amazone, tôi đã quyết định bán tất cả sản nghiệp và đến làm việc tại đây để phục vụ và giúp đỡ những người nghèo.”
Lạy Chúa Giêsu,
xin sai chúng con lên đường
thật nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay vào những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với niềm vui của một người tìm được viên ngọc quý.
Lạy Chúa Giêsu,
thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm chặt lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đường. Amen (Rabboni)
Suy niệm 11: Loan báo Tin Mừng bằng chính cuộc sống
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu sai Nhóm 12 đi loan Tin Mừng và chỉ dẫn họ những điều cần thiết khi thi hành sứ mạng:
1. Sứ mạng:
- Họ sẽ được tham dự vào chính sứ mạng của Thầy mình, cho nên Chúa Giêsu ban cho họ năng lực, năng lực của chính Ngài, năng lực mà Ngài đã dùng để thực hiện các phép lạ mà chúng ta đã thấy ở các đoạn trước; Ngài cũng ban cho họ quyền phép, cũng là quyền phép của chính Ngài, quyền phép mà Ngài đã dùng để xua trừ ma quỷ mà chúng ta cũng đã thấy ở những đoạn trước.
- “Trừ mọi thứ quỷ và chữa các thứ bệnh”: người do thái quan niệm bệnh tật là dấu hiệu thống trị của Satan và tội lỗi. Vậy trừ quỷ và chữa lành bệnh đều có cùng một ý nghĩa là quyền lực Thiên Chúa đã chiến thắng Satan.
2. Những chỉ dẫn cần thiết:
- Chỉ dẫn thứ nhất là về lúc đi đường: đừng để mình bị quá vướng víu với những nhu cầu và phương tiện vật chất, nhờ thế mà sẽ biết phó thác vào sự Quan Phòng của Thiên Chúa hơn. Muốn thế người tông đồ phải: a/ “Đừng mang gì đi đường” để được thảnh thơi khỏi cồng kềnh; b/ “Đừng mang gậy”: gậy nhằm tự vệ khi bị kẻ ác tấn công dọc đường. Người tông đồ khỏi lo việc này vì chính Chúa Quan Phòng sẽ bảo vệ họ; c/ “Bao bị, lương thực, tiền bạc, cũng đừng có hai áo”: đó là những món có tính cách dự trữ, phòng xa cho những nhu cầu vật chất. Việc phòng xa này cũng không cần thiết vì Chúa Quan Phòng đã lo sẵn có những người dọc đường cung cấp các thứ cần thiết ấy cho người tông đồ.
- Chỉ dẫn thứ hai là về chỗ ở: Tông đồ không nên so đo chọn nơi ở sao cho vừa ý nhất, do so đo như vậy mà cứ đổi từ chỗ này sang chỗ khác cho dễ chịu hơn. Chúa Giêsu dặn phải chọn người xứng đáng ở trọ nhà họ rồi trọ luôn một chỗ đó. Cv 16,15 là một thí dụ minh họa cho điểm này.
- Chúa Giêsu cũng dự trù một trường hợp đặc biệt: có thể có nơi sẽ không chịu đón tiếp người tông đồ. Gặp trường hợp đó người tông đồ hãy "Ra khỏi thành và giũ sạch bụi chân để tỏ dấu phản đối họ": theo tục lệ do thái, cử chỉ này có nghĩa là đoạn tuyệt. Xứ nào không đón nhận Lời Chúa thì bị kể không phải là Đất Thánh, bụi của xứ đó đều là bụi dơ, phải phủi lại kẻo mang bụi dơ ấy sang những xứ biết đón nhận Lời Chúa. Cử chỉ phủi bụi chân và ra đi cũng có ý tuyên bố rằng từ nay người tông đồ không còn trách nhiệm với nơi đó nửa, trách nhiệm thuộc về chính nơi đó. Cv 13,51 cũng là một minh họa cho điểm này.
B.... nẩy mầm.
1. Đã lãnh nhận đức tin cách nhưng không thì chúng ta cũng có bổn phận truyền bá đức tin ấy cách nhưng không. Truyền giáo không phải là một việc “nhiệm ý làm thêm”, mà là một trách nhiệm của công bằng.
2. Dù không có sẵn bao bị, gậy, bánh, tiền… tức là những khả năng phương tiện, ta cũng đừng ngại thi hành bổn phận truyền giáo, bởi vì dù chúng ta có những thứ đó Chúa Giêsu cũng bảo chúng ta đừng mang theo. Chúng ta có được sự hỗ trợ đắc lực nhất là chính Chúa.
3. Truyền giáo trước tiên không phải là nhằm dạy cho người ta biết một số kiến thức về giáo lý mà là nhằm “xua trừ ma quỷ và chữa lành các bệnh tật”, nghĩa là đẩy lùi những sự dữ và sự xấu ra khỏi con người.
Có lẽ từ trước tới nay tôi chưa ý thức mục tiêu này.
4. “Ngài sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân. Các ông ra đi, rảo qua các làng mạc, loan báo Tin Mừng và chữa bệnh khắp nơi”.
Các môn đệ xưa là những người dân lương thiện, chất phát. Họ xuất thân từ nhiều tầng lớp khác nhau: trí thức có, bình dân có… tất cả đều được sai đi để loan báo Tin Mừng. Với cả sự nỗ lực và lòng nhiệt thành, họ đã ra đi loan báo Tin Mừng cứu độ.
Những người trẻ chúng ta cũng được mời gọi rao giảng Lời Chúa. Có thể chúng ta không phải đến những nơi xa xôi, mà ở đây, bằng chính cuộc sống của mỗi người nơi môi trường học đường, gia đình, làng xóm…
Lạy Chúa, xin ở bên con và bước đi cùng con (Hosanna)
21/09 Đứng dậy – đi theo Chúa
- Viết bởi Mt 9, 9-13
Đứng dậy – đi theo Chúa.
Thứ Ba tuần 25 thường niên – THÁNH MÁTTHÊU, TÔNG ĐỒ, TÁC GIẢ SÁCH TIN MỪNG. Lễ kính.
"Hãy theo Ta". - Và ông ấy đứng dậy đi theo Người.
* Thánh nhân là một nhân vật quen thuộc trong số các Tông Đồ. Câu chuyện người thu thuế ở Ca-phác-na-um là một trong những đoạn văn quen thuộc nhất trong phần nói về sứ vụ của Đức Giêsu ở Galilê. Người đã biên soạn sách Tin Mừng bằng tiếng Híp-ri.
Sách Tin Mừng hiện nay mang tên thánh nhân cho thấy sự liên tục giữa Cựu và Tân Ước. Tương truyền người đã đi giảng ở Đông Phương.
Lời Chúa: Mt 9, 9-13
Khi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua, thấy một người ngồi ở bàn thu thuế, tên là Matthêu. Người phán bảo ông: "Hãy theo Ta". Ông ấy đứng dậy đi theo Người.
Và xảy ra khi Người ngồi dùng bữa trong nhà, thì có nhiều người thu thuế và tội lỗi đến ngồi đồng bàn cùng Chúa Giêsu và các môn đệ của Người. Những người biệt phái thấy vậy, liền nói với các môn đệ Người rằng: "Tại sao Thầy các ông lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như vậy?"
Nghe vậy, Chúa Giêsu bảo rằng: "Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng là người đau yếu! Các ông hãy đi học xem lời này có ý nghĩa gì: Ta muốn lòng nhân từ, chớ không phải hy lễ. Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Đứng dậy đi theo
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Thầy Giêsu gọi bốn môn đệ đầu tiên khi họ đang làm việc.
Người thì đang quăng lưới ngoài khơi,
kẻ thì đang vá lưới trong thuyền (Mt 4, 18-22).
Khi Thầy gọi Matthêô, anh cũng đang làm việc ở trạm thu thuế.
Anh đang ngồi, vững vàng trong nghề nghiệp của mình,
dù nghề của anh thường bị coi là nghề rất xấu.
Thầy Giêsu như tình cờ đi ngang qua bàn làm việc của anh.
Ngài chỉ nói một câu rất ngắn: “Anh hãy theo tôi!”
Matthêô không đáp lại, nhưng anh trả lời bằng hành động.
Từ vị thế đang ngồi, anh bỏ dở công việc để đứng lên và theo Thầy.
Từ vị thế vững vàng, anh bắt đầu bước vào cuộc phiêu lưu bấp bênh.
Từ vị thế của tội nhân, anh trở thành người môn đệ thân thiết.
Matthêô nằm trong danh sách nhóm Mười Hai (Mt 10, 3).
Thầy Giêsu không sợ mất tiếng khi nhận anh vào nhóm.
Nhóm của Thầy không chỉ gồm những người thánh thiện,
nhưng có cả những tội nhân giàu lòng hoán cải.
Matthêô có đóng góp gì cho nhóm Mười Hai không?
Nghề thu thuế với giấy bút có giúp gì cho các ngư phủ ít học không?
Hôm nay chúng ta mừng lễ Tông đồ Matthêô,
người thu thuế trở nên Tác giả sách Tin Mừng.
Matthêô làm nghề bị đồng bào của ông khinh miệt,
vì nghề này dễ dẫn người ta đến chỗ lạm thu, bỏ tiền vào túi riêng.
Nghề này còn là một sỉ nhục vì cộng tác với ngoại bang bóc lột dân,
đụng chạm đến đồng tiền ô uế và tiếp xúc với dân ngoại.
Khi trở nên môn đệ của Thầy, Matthêô đã trở nên người phục vụ đồng bào.
Ông dùng khả năng của mình mà viết sách Tin Mừng.
Đây là Tin Mừng lớn mà ông loan báo: Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia.
Không phải chờ gì nữa, Đấng Mêsia đã đến rồi!
Ngài làm trọn những lời đã được loan báo trong Cựu Ước.
Matthêô đã tìm ra ngôn ngữ để nói với Dân Chúa, sao cho họ hiểu được.
Ông đã trình bày dung mạo Đức Giêsu cho người cùng thời với ông.
Chúng ta cũng phải có khả năng giới thiệu Đức Giêsu cho người thời nay,
nghĩa là biết, hiểu và nói được ngôn ngữ của thế giới,
để thế giới nghe và hiểu được.
Chúng ta vẫn phải tiếp tục viết các sách Tin Mừng cho thời đại hôm nay,
phù hợp với não trạng và tâm thức của họ, với nền văn hóa đương đại.
Đâu là khuôn mặt Đấng Cứu độ mà con người hôm nay ngóng chờ?
Con người thời nay khỏe mạnh về nhiều mặt,
nhưng vẫn là người đau ốm cần đến thầy thuốc (c. 12).
Họ mong mình được giải phóng khỏi điều gì?
Đức Giêsu Kitô có thể đáp ứng được những khao khát đó không?
Lời rao giảng và cuộc sống của chúng ta phải cho thấy
Đức Giêsu có thể chữa lành và đem lại một thế giới hạnh phúc.
Ước gì chúng ta có lòng nhân và sự bao dung như Đức Giêsu,
dám đồng bàn với con người hôm nay để dẫn họ đến bàn tiệc thiên quốc.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin sai chúng con lên đường
nhẹ nhàng và thanh thoát,
không chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay vào những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con làm được những gì Chúa đã làm:
rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ,
chữa lành những người ốm đau.
Xin cho chúng con biết chia sẻ Tin Mừng
với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý,
biết nói về Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng con khả năng
đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con lau khô những giọt lệ
của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu,
thế giới thật bao la
mà vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm lấy tay nhau
mà tin tưởng lên đường,
nhẹ nhàng và thanh thoát. Amen.
Suy niệm 2: Mát-Thêu là một ơn gọi riêng tư
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu đang trên đường tìm kiếm và kêu gọi từng người sống đời thánh thiện đạo đức. Ta hãy có thái độ sẵn sàng và mau mắn đáp lại lời kêu mời ấy.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, ơn gọi của thánh Mát-Thêu là một ơn gọi riêng tư. Giữa cảnh chợ đời, giữa bao huyên náo của xã hội, Chúa đã kêu mời chỉ mình ngài mà thôi. Chúa đã nhìn thấy và quý trọng tâm hồn Thánh Mát-Thêu, cho dù bề ngoài, Ngài chỉ là một kẻ bị xã hội loại trừ. Ơn gọi của thánh Mát-thêu cũng là ơn gọi của con hôm nay. Chúa đang kêu mời con đi theo Chúa, sống với Chúa, thực hiện những điều Chúa truyền dạy.
Lạy Chúa, khi được Chúa kêu mời, thánh Mát-thêu đã lập tức đứng dậy đi theo Chúa. Ngài đã bỏ lại sau lưng một quá khứ không mấy tốt đẹp để khởi đầu một cuộc đời mới với Chúa. Ngài không mặc cảm tội lỗi, nhưng một niềm tin tưởng vào lòng Chúa yêu thương. Xin Chúa giúp con biết can đảm dứt khoát với những thói hư tật xấu của con. Xin giúp con dứt khoát sống tốt hơn bằng cách làm những việc lành, bằng cách siêng năng gặp gỡ Chúa trong những giờ kinh nguyện, và đến với Chúa nơi mọi người anh em.
Và dù cuộc đời quá khứ của con vương mầu đen tối, Chúa cũng sẽ làm cho tâm hồn con trong sáng và mới vẻ hoàn toàn. Con chỉ xin được sẵn sàng và mau mắn đứng dậy bước theo Chúa. Xin Chúa thương ban ơn để con không mặc cảm tội lỗi, nhưng luôn tin tưởng vào lòng Chúa xót thương.
Lạy Chúa, vì yêu thương con, Chúa đã lên đường đến với con. Chúa đang đi tìm và kêu gọi con đi theo Chúa. Xin cho con trung thành bước theo Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Hãy theo Ta”. - Và ông ấy đứng dậy đi theo Người.
Suy niệm 3: Lễ thánh Mátthêu tông đồ
(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
Lời nguyện trong ngày ca tụng lòng “Nhân từ sâu thẳm” của Chúa đã chọn “Mátthêu người thu thuế đã làm thành tông đồ Chúa”. Trong phụng vụ bài đọc, thánh Bêđa khả kính nhận định rằng Chúa nhìn thấy Mátthêu ngồi bàn thu thuế “Không phải bằng con mắt phần xác cho bằng cái nhìn nội tâm của lòng thương xót”. Giải thích ơn gọi dành cho Lêvi, thánh nhân khẳng định ý nghĩa và bản chất lời gọi của Đức Kitô: “Khi yêu cầu ông theo Chúa, Chúa không kêu gọi ông đi theo Người cho bằng sống như Người”.
Lời nguyện trên lễ vật nhấn mạnh đề tài chính theo Phúc âm theo Mátthêu là Giáo hội: “Lạy Chúa xin yêu thương nhìn đến Giáo hội Chúa, vì Giáo hội đã được chính Chúa nuôi dưỡng đức tin bằng lời giảng dạy của các tông đồ”. Từ Giáo hội (Ekklèsia) được sử dụng từ một trăm lần trong Tân ước, đặc biệt là trong các thư thánh Phaolô, nhưng trong các Phúc âm chỉ ba lần, chỉ có trong Phúc âm Mátthêu (16,18; 18,17). Trong 16,18: “Con là Phêrô, trên đá này Thầy sẽ xây Hội thánh Thầy”. Từ Hội thánh ở đây chỉ cộng đồng Chúa sắp thành lập xây dựng trên Phêrô. Trong 18,18: “Nếu kẻ ấy chối không chịu nghe họ, hãy nói với Giáo hội”, ở đây từ Giáo hội chỉ nghị viện của các tín hữu tức là đoàn tông đồ. Giáo hội cũng là cộng đoàn mới do Chúa Giêsu thiết lập, được xây dựng quanh Phêrô và các tông đồ, được mời gọi rao giảng Phúc âm khắp thế giới (24,14; 26,13) và mọi dân tộc (28,19).
Nước trời (thành ngữ xuất hiện có tới năm mươi lần trong Mátthêu) là điều mới lạ do Chúa Giêsu lập nên. Đây là nước Thiên Chúa hiện hữu “Trên trời”, nhưng thực hiện ở trần gian bằng hình ảnh và việc tham dự, và sẽ kết thúc “Trên trời” vào ngày thế mạt. Hiến chương của Nước trời là “Bài giảng trên núi” (5,3-11).
Thánh Mátthêu vui mừng được đón Chúa vào nhà (lời nguyện tạ lễ) không ngần ngại mời nhiều bạn hữu, thu thuế, người tội lỗi cùng đến dự tiệc với Chúa Giêsu và các đồ đệ của Chúa (9,10). Trong thế giới Palestine, bữa ăn là giây phút cao điểm của lễ hội và gặp gỡ. Đức Giêsu khi nhận lời mời đến nhà một người “không sạch” muốn nhấn mạnh lời mời gọi nhân từ của Thiên Chúa đang mở cửa Vương Quốc của Chúa cho người tội lỗi.
Sau hết chúng ta hãy nhớ lời thánh Bêđa khả kính trong một bài giảng về thánh Mátthêu: “Đấng sau này sẽ là Tông đồ và thầy dạy lương dân, lúc cải hối, đã kéo theo mình, cả một đám đông những người tội lỗi trên đường cứu rỗi” (Phụng vụ bài đọc).
Suy niệm 4: Kêu gọi người tội lỗi
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Nhà điêu khắc Donattello, một hôm từ chối không sử dụng khối đá cẩm thạch cho việc điêu khắc vì nó rạn nứt. Người ta mang khối đá này cho điêu khắc gia nổi tiếng Michel-Ange. Xem xét khối đá, Michel Ange cũng thấy những vết rạn nứt đó. Nhưng ông lại coi đó là một thách thức cho tay nghề của mình. Ông nhận khối đá và ra công đẽo gọt. Nhờ đó mà thế giới mới có được bức tượng vua Đavít, một công trình nghệ thuật sáng giá nhất từ trước tới nay.
Suy niệm
Người thuế vụ trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu bị anh em đồng bào mình khinh miệt do các anh ăn chặn của dân, hơn nữa thuế vụ trong xã hội Do Thái là tay sai cho đế quốc Rôma để bóc lột dân mình. Họ là hình ảnh của những gì là xấu xa nhất, tội lỗi nhất, đáng khinh miệt nhất mà dân chúng coi đồng hạng với các kẻ cắp và các phụ nữ ngoại tình. Hơn nữa, những người Pharisiêu cho rằng: Một người Do Thái ngoan đạo, không được giao du với những người bị coi là tội lỗi. Vì thế chúng ta hiểu thêm tại sao người biệt phái cầu nguyện tách biệt và khinh chê người thu thuế, còn người thuế vụ thì không dám đến gần bàn thờ nơi Thiên Chúa ngự, vì sự bất xứng của mình, anh ta ở dưới cúi đầu, đấm ngực ăn năn (x. Lc 18,9-14).
Đã không nên ở gần, lại càng không bao giờ ăn uống cùng bàn với họ để khỏi bị lây nhiễm hoặc bị ô uế. Hôm nay, Chúa Giêsu lại gọi người thu thuế Matthêu theo Ngài để trở thành môn đệ, một hành động khiến người Do Thái không thể hiểu được. Thật lạ, một người xấu xa, dơ bẩn đó được đặt làm môn đệ, rồi chính Đức Giêsu lại đồng bàn với những kẻ thu thuế như là những người đồng hội, đồng thuyền với kẻ tội lỗi...: “Tại sao Thầy các ông lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như thế”. Theo phong tục Do Thái, khi cùng ăn uống với ai, đó là dấu hiệu một sự hiệp thông, một sự chia sẻ tư tưởng, tình cảm và là một cử chỉ thân thiết và quan tâm của mình đối với người được. Mời ai ăn cơm, là một vinh dự, tỏ ra muốn hòa bình, thân thiện, tin tưởng và tha thứ (2V 25,27-29). Cùng đồng bàn với người thu thuế, Đức Giêsu đã hòa mình với tội nhân để gắn bó sẻ chia... Ngài đã trở nên như tội nhân để đưa tội nhân vào sự cứu chuộc. Vâng, chính Ngài đã chết treo trên thập giá với thân phận của một tội nhân, đồng hạng với tội nhân để cứu chuộc tội nhân. Sứ mạng của Ngài là để cứu độ tất cả, chữa những người bất hạnh trong đó có cả những tội nhân. Tội nhân biết nhìn nhận tình trạng thiếu thốn, tình trạng tội lỗi, để Đức Kitô, vị thầy thuốc đến cứu chữa (x. Mt 9,12-13) như Ngài tuyên bố: “Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10). Chúng ta nhớ lại sắc màu tái tím cõi lòng của người thu thuế tại đền thờ, đã được Thiên Chúa cứu chữa và ông trở nên người công chính (x. Lc 18,9-14).
Chúng ta với thời gian bao nhiêu vết thương lòng, bao nhiêu khiếm khuyết bất toàn, bao nhiêu những yếu đuối tội lỗi, hãy chỉ cho Đức Kitô, để Ngài, vị thầy thuốc băng bó, chữa lành và làm cho công chính, lúc đó chúng ta cảm nghiệm được tại sao thánh Phaolô chia sẻ: ”Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,10). Nếu không có Ngài, vị thầy thuốc đến từ Thiên Chúa, chúng ta sẽ chết trong bệnh tật là tội lỗi, trong vết thương yếu đuối và khiếm khuyết của chính chúng ta như người Pharisiêu tự phụ tự cho mình là công chính không cần ân sủng nên vẫn sống trong sự tội lỗi (x. Ga 9,41).
Xin cho con học được nơi Chúa cái nhìn cảm thông, nâng đỡ đối với người anh em... Và xin cho nơi chính con biết nhìn nhận sự thật về mình, xin Đức Kitô đến cứu chữa...
Ý lực sống
“Ta không đến để kêu gọi người công chính, mà đến để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,13).
Suy niệm 5: Người thu thuế Lê-vi
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
Đọc trong Tin Mừng tôi thấy có hai câu truyện kể lại về người thu thuế mà tôi nhớ tới nhiều nhất. Đó là câu truyện về người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện cùng với người Biệt Phái, và truyện người thu thuế có tên là Levi. Người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện run rẩy như một tội nhân ra trước tòa, cảm thấy xấu hổ, đứng xa xa, đầu cúi xuống chẳng dám ngước lên, ông âm thầm khẩn khoản nài xin: “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13).
Người thu thuế thứ hai tên là Lêvi. Ông đang ngồi bên bàn thu thuế nơi phố chợ. Trong lúc ông đang làm việc thì Đức Giêsu đi ngang qua. Ngài đến bên cạnh ông. Ông nhìn Ngài. Ngài nhìn lại và gọi ông và ông đứng dậy bước đi theo Ngài (Lc.5,28). Đây chính là người đã ghi chép lại cuộc sống và những lời giảng dạy của Chúa Giêsu qua cái tên mới là Mát-thêu do chính thầy mình đặt cho. Người thu thuế này đã được Giáo Hội mừng kính vào ngày 21 tháng 9 mỗi năm.
Chúng ta hãy lần theo dấu vết của ông trong Kinh Thánh để biết thêm về ông, biết thêm về những năm tháng ông đi theo làm môn đệ của Chúa.
Mát-thêu sinh quán tại Capharnaum, là con của ông An-phê (Mc 2,14). Khi ông khôn lớn, ông đã bỏ tiền mua quyền được thu thuế. Một ngày kia, ngày “Hồng phúc” đã đến trong cuộc đời ông, đã chuyển hướng cuộc đời ông sang một ngã rẽ khác. Ngày đó Đức Giêsu trên đường đi từ một thành phố cảng nằm giáp miền đất Pê-ri-a, Ngài đi ngang qua chỗ ông đang làm việc, Ngài đến gần bàn làm việc của ông, Ngài nói với ông: “Hãy theo ta”. Ông bỏ tất cả, đứng dậy đi theo Ngài (Lc 5,28). Có lẽ chỉ một mình Đức Giêsu biết tại sao Ngài lại tuyển chọn Mát-thêu trong số đám đông có mặt tại đó, và cũng chỉ một mình Mát-thêu mới có thể cho chúng ta biết là ông đã nhận thấy điểm gì sáng ngời nơi Đức Giêsu đến nỗi ông đã lập tức rời bàn thu thuế để đi theo Chúa ngay.
Khi đứng dậy bước theo Chúa, lòng ông tràn ngập niềm vui. Để ghi nhớ và tạ ơn vì ngày ông được đổi đời, ông đã tổ chức một bữa tiệc tại nhà riêng và mời Đức Giêsu cùng bạn hữu đến tham dự (Lc 5,29), để cho mọi người được biết về ơn gọi, về niềm vui mới và nhất là về Thầy Giêsu, người Thầy mới mà ông đã bỏ công việc thu thuế béo bở, bỏ cuộc sống êm ấm giàu sang để đi theo Ngài (Mt 9,10-13).
Quả thật! Ơn gọi thật nhiệm mầu… Ơn gọi là tình yêu… Có lẽ Đức Giêsu gọi và chọn một người không phải vì người đó thánh thiện xứng đáng, nhưng Ngài gọi và chọn vì Ngài muốn bày tỏ tình yêu thương của Ngài đối với người đó.
Hồi còn sống Mẹ Têrêsa đã nhận được rất nhiều bức thư do các bạn trẻ gửi đến cho mẹ trong đó có một bức tâm thư của một thiếu nữ, nhà rất giàu có. Xin được trích một đoạn:
“Thưa Mẹ, đã nhiều lần con nghe thấy tiếng Chúa kêu gọi con tận hiến trót đời sống con cho Ngài qua đời sống tu trì. Con đã cầu nguyện nhiều, đã suy nghĩ kỹ và đã bàn hỏi với nhiều vị linh hướng xem Chúa muốn con vào dòng nào. Con thấy tại nhiều Tu Hội trong đời tu, họ không thiếu thốn gì những thứ mà con đã có và đang có trong gia đình và trong nếp sống trưởng giả của con. Con thầm nhủ: nếu con gia nhập những hội tu đó, thì con cũng chỉ tiếp tục nếp sống gia đình của con thôi, con đâu có phải từ bỏ gì nữa... Con muốn chọn tu hội của Mẹ để được dịp từ bỏ mọi sự giàu sang trần gian và ôm ấp một đời sống thật nghèo khó và hy sinh...”
* Mát-thêu đã cùng với Nhóm Mười Hai sống bên Đức Giêsu trong 3 năm khi Ngài đi rao giảng. Ông đã cùng ăn uống cùng nghỉ ngơi bên Chúa. Trong ba năm đó, ông đã được Ngài dạy dỗ biến đổi thành một người mới, ông được chứng kiến sự chết và sự phục sinh của Thầy chí thánh. Ngày lễ Ngũ Tuần, ông cùng với các bạn hữu trong nhóm được lãnh nhận sức mạnh từ Thánh Thần Thiên Chúa. Một lần nữa ông đứng dậy, một mình lên đường rao giảng và làm chứng về Đức Giêsu Kitô.
Truyền thống tin rằng Mát-thêu đã viết Phúc Âm thứ nhất, nguyên bản bằng tiếng Aramaic, nhưng sau đó đã được dịch sang tiếng Hy lạp. Chắc hẳn khi Mát-thêu ngồi viết, ông đã bồi hồi nhớ lại buổi đầu tiên gặp gỡ Đức Giêsu, nhớ lại những kỷ niệm sống bên cạnh thầy mình, những cử chỉ thân thương, những chân lý trong lời dạy dỗ chí tình của thầy mình…
Phần thưởng cho người môn đệ Đức Giêsu khi đi rao giảng và làm chứng cho thầy mình là được mất đi mạng sống của chính mình… Mát-thêu cũng không đi ra ngòai quy luật đó. Truyền thống đã kể lại rằng Mát-thêu đã chịu tử đạo trên đường đi rao giảng tại xứ Ba Tư.
Lạy Chúa, cuộc sống hằng ngày với biết bao ồn ào và bận rộn, với biết bao lời kêu mời réo gọi vang vọng bên tai con. Làm sao con có thể nghe được tiếng của Chúa? Làm sao con có thể nhận ra lời mời gọi của Ngài đây?
Lạy Chúa! Xin giúp con, xin cho con biết lắng nghe, biết phân biệt và nhận ra lời mời gọi của Ngài. Xin cho con biết noi gương bắt chước thánh Mát-thêu, biết đáp trả lời mời gọi của Chúa, biết đứng dậy và bước đi theo Ngài. Amen.
Suy niệm 6: Vị Thánh Là Ai?
Ngày kia một em bé được theo mẹ đi chợ. Từ nhà đến chợ, hai người phải đi qua một thánh đường nguy nga, to lớn. Em bé ngước mắt nhìn thánh đường, chợt em giơ tay chỉ cho mẹ và nói: "Mẹ xem kìa, những cửa kiếng màu bị đóng đầy bụi, xem thật dơ bẩn và không đẹp tí nào".
Bà mẹ không nói không rằng về nhận xét của con, nhưng tiếp tục nắm lấy tay dẫn em tiến vào bên trong nhà thờ. Tại đây, những cửa kiếng bên ngoài xem ra dơ bẩn, xấu xí lại trở nên sáng chói và rực rỡ nhiều màu sắc lộng lẫy.
Em bé ngạc nhiên mở to đôi mắt nhìn những cửa kiếng màu diễn tả nhiều hình ảnh đẹp mắt. Bỗng mắt em dừng lại ở cửa kiếng sau bàn thờ diễn tả hình của bốn thánh sử viết Phúc Âm trong lúc ánh mặt trời đang chiếu rọi qua. Em bé hỏi mẹ đó là những thánh nào và được mẹ giải thích vắn tắt về từng vị thánh.
Vài ngày sau, trong một lớp giáo lý, tình cờ giáo lý viên hỏi các em: "Này, trong các em có ai trả lời được: một vị thánh là ai?" Trước một câu hỏi có vẻ không có ý nghĩa, cả lớp giáo lý thinh lặng, chỉ có em bé được mẹ dẫn vào bên trong nhà thờ để nhìn ngắm các cửa kiếng giơ tay xin trả lời. Em nói: "Vị thánh là một người để cho ánh sáng mặt trời chiếu thấu qua".
Kinh nghiệm và câu trả lời của em bé trên có lẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn phần nào về cuộc đời của thánh Matthêu, vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay, trước và sau khi được Ðức Giêsu kêu gọi, như được chính thánh nhân vắn tắt thuật lại như sau: Ði khỏi đấy, Ðức Giêsu thấy một người ngồiở bàn thâu thuế, tên là Matthêu. Chúa bảo ông rằng: "Hãy theo Ta". Ông Matthêu liền đứng dậy và đi theo Chúa.
Một tiếng gọi và một hành động đáp trả được diễn tả vắn gọn trong những dòng trên đây có thể nói được chỉ là bề mặt của trận chiến nội tâm diễn ra từ lâu nơi ông Matthêu. Một trận chiến giằng co để suy tính thiệt hơn, để cân nhắc cái lợi và cái bất lợi, để đắn đo nhưng cái mình phải mất với những cái mình sẽ đạt được, khi ông bỏ mọi sự để theo Chúa:
- Ông phải mất một nghề hái ra bạc nhưng tìm được một số mệnh và sứ mệnh thật sự có giá trị vĩnh viễn.
- Ông phải mất một gia tài to lớn nhưng tìm lại được danh dự.
- Ông phải mất sự bảo đảm xây dựng trên của cải vật chất để đi theo Ðức Giêsu trong một cuộc hành trình dẫn đến sự sống mà trước đó ông chưa bao giờ mơ ước.
Về phần Ðức Giêsu, khi chọn lựa và kêu gọi ông Matthêu, một người hành nghề thâu thuế, bị các người đồng hương thời đó coi như là người phản quốc, nối giáo cho giặc, bóc lột đồng bào để làm lợi cho dân ngoại xâm, cũng như bị lên án là kẻ tội lỗi, biển thủ, gian lận và bị nhóm biệt phái kết án là kẻ tội lỗi, Ðức Giêsu không nhìn những lỗi lầm, những vết nhơ bên ngoài, nhưng Ngài nhìn sâu thẳm tận tâm hồn, nhìn tận bên trong và nhất là Ngài đã lấy ánh sáng của tình yêu thương, lòng nhân hậu, quảng đại và tha thứ của Thiên Chúa để chiếu sáng và chiếu thấu, biến ông Matthêu từ một người thâu thuế thành một tông đồ và một thánh sử viết Phúc Âm.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 7: Kêu gọi người tội lỗi
Người làm công lau kiếng mà chỉ nhận lau những tấm kiếng sạch thì quả là một người đãng trí, một cơ quan từ thiện bác ái mà chỉ đi giúp cho những người giàu có thì quả là một trò hề đáng trách; một nhà thương mà chỉ nhận săn sóc cho người mạnh khỏe thì quả thật là một nhà thương không thể nào chấp nhận được.
Bài Phúc Âm hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu kêu gọi người thu thuế tội lỗi tên là Lêvi (sau này là tông đồ Mátthêu) theo Chúa nhắc chúng ta nhớ lại sự thật: Chúa Giêsu không còn là Chúa, là Ðấng cứu thế nữa, nếu Ngài chỉ muốn tiếp xúc với những con người tự phụ cho mình là công chính không cần đến Thiên Chúa.
Lời xác nhận của Chúa Giêsu không ngừng vang dội và mang lại hy vọng cho con người. Ai là kẻ công chính hoàn toàn vô tội trước nhan Thiên Chúa đến độ không cần tới ân sủng của Thiên Chúa, không cần đến Thiên Chúa. Thiên Chúa là Ðấng nhân từ hay thương xót, giàu lòng từ ái, chậm bất bình và hết sức khoan dung nhưng chúng ta đừng vì đó mà lạm dụng và ngồi lì trong tật xấu, trong những tội lỗi của mình.
Chúa Giêsu kêu gọi người tội lỗi để chữa lành, để đưa họ ra khỏi cảnh nô lệ tội lỗi, được sống trong tự do thật của những con cái Thiên Chúa. Chỉ mình Chúa là Ðấng yêu thương vô cùng và quyền năng vô biên mới có thể đối xử đại lượng được như vậy với những tật xấu, những tội lỗi của con người.
Lạy Chúa,
Con cảm tạ Chúa vì đã thương con, đã cho con nhiều dịp canh tân đời sống. Xin cho con khiêm tốn mở rộng tâm hồn đón nhận sự tha thứ của Chúa và cũng đừng có thái độ giả hình hẹp hòi muốn Chúa trừng phạt thẳng tay những tội lỗi của anh chị em chung quanh, không phải vì con sốt sắng muốn bảo vệ Chúa nhưng có thể là vì con ganh tị muốn trả thù anh chị em, không muốn anh chị em được ơn ăn năn trở lại và nhận sự tha thứ của Chúa. Xin cho con có tâm hồn quảng đại như Chúa, biết vui mừng với Chúa vì người anh chị em đã xa lìa Chúa nay ăn năn trở về.
Lạy Chúa,
Xin tình thương đầy sức mạnh tha thứ của Chúa tác động nơi con và nơi mọi anh chị em.
Suy niệm 8: Hãy theo Ta: Thánh Matthêu Tông Đồ
Matthêu người thâu thuế. Một nghề mang tiếng xấu, người bị coi là ô uế, không nên lui tới.
Hãy theo Ta.
Đức Giê-su đã cắt đứt quan niệm xấu về một người: “Hãy theo Ta”. Người không quan tâm đến hình ảnh xã hội của ông. “Ông đứng dậy và đi theo Người”. Thế là Matthêu đã bỏ cuộc sống ngày thường và lao vào cuộc phiêu lưu theo Tin Mừng. Mạo hiểm thế nào: Đức Giê-su ăn uống với người tội lỗi. Do cách làm đó, Đức Giê-su làm cho những kẻ sống thủ cựu vấp phạm nhưng Người tuyên bố do đó có ơn tha thứ của Chúa Cha. Đức Giê-su đã làm đảo lộn thế gian, Đức Giê-su đã lật ngược những vị thế truyền thống của chúng ta. Đức Giê-su đổi mới tận gốc.
Hãy theo Ta.
Không bắt ép làm những việc lớn, mà chỉ mời theo ơn gọi khác thường. Rất giản dị, hãy chia cơm bánh với người khác, đem một chút niềm vui của tôi, một nụ cười, giải trí cho bầu không khí nơi làm việc, giúp tập một nghề cách lương thiện.
Đối với mỗi người chúng ta, cần thực hiện tiếng gọi tại địa chỉ của mình, nơi chúng ta ở, trong tình trạng của những người tội lỗi. Ngày nay, từng bước từng bước theo Đức Ki-tô như người ta đồng hành với bạn thân, rất đơn giản.
Hãy theo Ta.
Như một bạn hữu! không nói sẽ đi đến đâu, chỉ đề nghị ta đồng hành, không nói tại sao mời gọi ta hơn là người khác. Vâng! không cần biết vì chúng ta yêu mến Người! không cần biết vì chúng ta tín nhiệm Người, để chúng ta theo Người, để chúng ta đặt trọn đời sống chúng ta vào đời sống của Người, theo ân huệ của Người, vì Người đã thương gọi chúng ta, với niềm tin vững chắc chắn rằng Người yêu thương chúng ta!
Một cách rất thật nào đó, chúng ta dám nói với Đức Ki-tô rằng, xin theo con! chúng ta xin Người đồng hành với chúng ta, làm cho chúng ta tin cậy vào chúng ta như Đức Ki-tô đã làm thế từ mãi mãi cho đến nay rồi.
Tình bạn tươi sáng đòi hỏi tất cả, cho tất cả, dâng tất cả và nhận tất cả. Không phải thế sao? để đồng hành, nhưng cũng để tiến lên phía trước.
J.M
Suy niệm 9: Thánh Matthêu tông đồ, thánh sử
(Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Lêvi là tên gọi của thánh Matthêu tông đồ, thánh sử. Tin Mừng thuật lại khi Chúa Giêsu đi ngang qua bàn thuế, Người gọi Lêvi. Lêvi không chần chừ, không do dự, ông đứng dậy khỏi bàn thu thuế mà đi theo Chúa Giêsu. Ơn gọi của Lêvi thật là huyền diệu! Chúa Giêsu không nói nhiều, Người chỉ nói một câu vỏn vẹn, ngắn ngủi: "Hãy theo Ta".
Ðường Chúa chọn khác với cách cất nhắc của người đời thường làm. Chúa chọn ai tùy ý Người. Chúa cất nhắc ai là do ơn huệ nhưng không của Chúa. Không ai có quyền đòi Chúa phải thế này thế kia. Không ai được phép buộc Chúa phải gọi người này, không được gọi và chọn người khác. Ðó là mầu nhiệm đức tin. Con người phải có đôi mắt đức tin, con tim hiến tế mới nhận ra sự lạ lùng, kỳ diệu đó, vì ơn gọi của mỗi người là một mầu nhiệm.
Như mọi tông đồ khác trong nhóm 12 mà Chúa đã kêu mời. Chúa chỉ gọi họ, sau khi Chúa đã kết hiệp thân thân tình lâu giờ với Chúa Cha bằng lời cầu nguyện và sau khi Chúa đã hỏi ý Chúa Cha. Thái độ, cử chỉ, hành động của Chúa trong mọi lần mời gọi tông đồ đều làm nổi bật ý nghĩa quan trọng của mầu nhiệm ơn gọi. Lêvi, người thu thuế, một hạng người được coi làm tay sai cho ngoại bang, làm tay sai cho Ðế Quốc La Mã thời đó, một hạng người mang tiếng ăn bẩn, tội lỗi và không tốt. Chúa lại nghĩ khác vì Chúa thấu suốt tâm can của con người. Biệt phái, Pharisiêu, tư tế, thông luật luôn nghĩ xấu cho người khác. Chúa nói với họ: "Ta đến không để gọi những người công chính mà là gọi những người tội lỗi" (Mt 9, 13) và "Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần" (Mt 9, 12).
Chúa đã mời gọi các tông đồ. Chúa đã sai họ đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cứu độ. Các tông đồ của Chúa sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, đã trở thành những chứng nhân hiên ngang làm chứng cho Chúa. Tất cả các tông đồ đã nhất loạt giới thiệu Chúa Kitô cho mọi người, dù rằng họ phải trả giá rất đắt bằng chính mạng sống của họ cho việc làm chứng Chúa Kitô phục sinh. Thánh Matthêu đã không ra khỏi con đường này. Ngài đã đi truyền giáo ở Êthiopi, Ba Tư, Parthes. Ngài đã nói lên sự thực này: "Chúa Giêsu chính là Ðấng cứu thế mà Cựu Ước hằng mong đợi. Lời chứng của thánh nhân được coi là đầy đủ nhất trong Tin Mừng của Ngài. Ngài đã được phúc tử đạo tại Tarium nước Êthiopi. Chúa đã trao cho Ngài triều thiên công chính.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn bắt chước gương của Thánh Tông đồ: đón tiếp mọi người với tất cả tình thương mến.
Xin cho chúng con biết nhìn nhận tội lỗi của mình mà sớm trở về với Chúa.
Xin cho chúng con đừng bao giờ loại trừ bất cứ một ai.
Suy niệm 10: Thánh Mat-thêu tông đồ, thánh sử
(Lm. Phaolô Phạm Quốc Tuý)
Ít có ai chuộng người thu thuế. Vào thế kỷ thứ I tại Palestine điều này còn rõ hơn nữa, khi mà họ thủ lợi được nhờ dọa dẫm và gian dối. Nhưng dù có lương thiện đi nữa nhân viên thu thuế cũng không được cấp lãnh đạo Do thái chấp nhận vì họ làm việc cho lương dân. Họ là người nhơ uế theo luật pháp và bị loại khỏi xã hội. Khi nhận một người thu thuế vào môn đồ của Người, Chúa Giêsu quả đã khinh thường tiên kiến của dân chúng.
Điều cần ghi nhận là Matthêô không phải đi từ cửa nhà này tới cửa nhà khác để thu thuế. Ông có một văn phòng tại Capharnaum, thành phố quê hương của Phêrô và đại bản doanh của Chúa Giêsu khi thi hành sứ vụ tại Galilê.
Đi ngang qua, Ngài thấy Lêvi con của Alphê ngồi nơi sở thu thuế và Ngài nói: "Hãy theo Ta" và ông đứng dậy đi theo Ngài" ( Mc 2, 14).
Đó là lời mời gọi làm tông đồ, rất giống lời gọi dành cho Simon và Anrê (Mc 1, 16t). Dầu vậy Lêvi không có tên trong danh sách mười hai (Mc 3, 16; Mt 10, 3; Lc 6, 14t; Cv 113). Ơn gọi người thu thuế được ghi lại trong Tin Mừng thứ nhất, trong đó ông được gọi là Matthêô (Mt 9, 9t). Như vậy tông đồ đồng hoá mình với Matthêô có trong danh sách các tông đồ. Lời giải thích tự nhiên được tiếp nhận rộng rãi là Matthêo với Lêvi chỉ là một người với hai tên gọi khác nhau. (Chẳng hạn anh em Macabê, 1Mcb 2, 2-5). Cũng có thể chính Chúa Giêsu đã đặt tên cho Matthêô như đã đặt tên Phêrô cho Simon (Mattai theo tiếng Aramêô có nghĩa là ấn bản của Thiên Chúa).
Từ đó Matthêô bỏ sổ sách và học theo hoa đồng và chim trời, những thứ không thể tính toán cho đời sống mình (Mt 6, 25t). Chủ nhân của ông không còn là Antipas, con cáo gian xảo (Lc 13, 32) mà là một Đấng khác hẳn loài cáo, lại chẳng có lấy một căn nhà (Mt 8, 20). Sự thay đổi đã hủy diệt trọn tương lai trần gian của Matthêô. Simon và Andrê còn có thể trở lại với nghề chài lưới, còn Matthêô bị tống khứ khỏi nghề cũ và không thể trở lại được nữa. Trong cộng đoàn tông đồ không phải ông mà là Giuda giữ quĩ của nhóm (Ga 13, 29).
Sau khi được gọi, Matthêô biến dạng khỏi Tân ước và chỉ còn để lại tên trong danh sách các vị tông đồ. Ngài đã ra thế nào? Chúng ta có được một câu văn của Giám mục Papias trong cuốn giải thích Lời Chúa (khoảng năm 125):
"Matthêô viết một tường thuật có thứ tự về lời Chúa, theo năng khiếu của ngài" (Eusebiô lịch sử Giáo hội III, 39). Cuốn Tin Mừng Matthêô viết bằng tiếng Aramêô cho người Do thái trở lại. Khi thời thế đòi hỏi, con người Matthêô bị xã hội loại bỏ ấy đã cầm lấy viết để trước tác cuốn "Tin Mừng theo thánh Matthêô".
Theo bản văn tiếng Hy lạp còn lại, chúng ta thấy tính khí theo toán học với những con số rõ rệt: 7 dụ ngôn về nước trời, 7 lời nguyền rủa bọn biệt phái, 7 lời cầu trong kinh Lạy Cha và có lẽ 7 mối phúc thật. Cả con số 5 nữa: 5 cuộc tranh luận với biệt phái, 5 chiếc bánh, 5 lượng vàng, nhất là 5 phần của cuốn sách. Sau cùng như chúng ta mong đợi có dấu chỉ về sự hiểu biết tinh tường về phương diện tài chánh như đồng bạc nộp thuế thay vì đồng "denarius" trong Mc và Lc hay như thuế đền thờ, với những loại thuế gián thu, thuế phân...
Như vậy Matthêô đã chuyển nghề nghiệp cũ vào một việc phụng sự mới, từ người kế toán thành người viết Tin Mừng. Thật không ngạc nhiên gì khi một mình ngài ghi lại lời này của Chúa:
"Phàm ký lục nào đã được thụ giáo về nước Trời thì cũng giống như gia chủ biết rút từ trong kho của ông ra điều mới và điều cũ" (Mt 13, 52).
Không có khí cụ hèn hạ nào của chúng ta mà lại không được dùng một cách hoàn hảo và xứng đáng vào việc phụng sự Chúa.
Cuốn Tin Mừng thứ nhất là một kỷ vật của thánh Matthêô được Giáo hội ưa chuộng. Nhưng công cuộc tông đồ sau này của Ngài lại bị mai một. Ngài đã rao giảng Tin Mừng cho người Do thái tại Palestina có lẽ trong 15 năm (Eusebiô, Lịch sử Giáo hội III, 24, 265) nhưng sự lầm lẫn giữa tên Ngài với thánh Matthias (Cv 1, 26) làm chúng ta luõng lự giữa những truyền thống khác nhau. Ethiopia, Parthia, Macedonia và cả những xứ của những kẻ ăn thịt người đều được ghi nhận là nơi thánh nhân đã làm việc tông đồ.
Thường người ta cho rằng: Ngài chịu tử đạo, nhưng ý kiến cũng không được đồng nhất. Điều chắc chắn là ngài đã sống đời của một vị tử đạo và thế là đủ.
Đối với chúng ta ngài luôn luôn là một người đã biết được tiền của là gì, lẫn việc không có tiền của là gì.
Suy niệm 11: Thánh Matthêu tông đồ
(ditimchanly.org)
1) Lêvi là tên gọi của thánh Matthêu tông đồ, thánh sử. Tin Mừng thuật lại khi Chúa Giêsu đi ngang qua bàn thuế, Người gọi Lêvi. Lêvi không chần chừ, không do dự, ông đứng dậy khỏi bàn thu thuế mà đi theo Chúa Giêsu. Ơn gọi của Lêvi thật là huyền diệu! Chúa Giêsu không nói nhiều, Người chỉ nói một câu vỏn vẹn, ngắn ngủi: “ Hãy theo Ta ".
2) Ðường Chúa chọn khác với cách cất nhắc của người đời thường làm. Chúa chọn ai tùy ý Người. Chúa cất nhắc ai là do ơn huệ nhưng không của Chúa. Không ai có quyền đòi Chúa phải thế này thế kia. Không ai được phép buộc Chúa phải gọi người này, không được gọi và chọn người khác. Con người phải có đôi mắt đức tin, con tim hiến tế mới nhận ra sự lạ lùng, kỳ diệu đó, vì ơn gọi của mỗi người là một mầu nhiệm.
3) Như mọi tông đồ khác trong nhóm 12 mà Chúa đã kêu mời. Chúa chỉ gọi họ, sau khi Chúa đã kết hiệp thân thân tình lâu giờ với Chúa Cha bằng lời cầu nguyện và sau khi Chúa đã hỏi ý Chúa Cha.
4) Lêvi, người thu thuế, một hạng người được coi làm tay sai cho ngoại bang, làm tay sai cho Ðế Quốc La Mã thời đó, một hạng người mang tiếng ăn bẩn, tội lỗi và không tốt. Chúa lại nghĩ khác vì Chúa thấu suốt tâm can của con người. Biệt phái, Pharisiêu, tư tế, thông luật luôn nghĩ xấu cho người khác, nên Chúa nói với họ: “ Ta đến không để gọi những người công chính mà là gọi những người tội lỗi "(Mt 9, 13) và "Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần " (Mt 9, 12).
5) Chúa đã mời gọi các tông đồ. Chúa đã sai họ đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cứu độ. Các tông đồ của Chúa sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, đã trở thành những chứng nhân hiên ngang làm chứng cho Chúa. Tất cả các tông đồ đã nhất loạt giới thiệu Chúa Kitô cho mọi người, dù rằng họ phải trả giá rất đắt bằng chính mạng sống của họ cho việc làm chứng Chúa Kitô phục sinh.
6) Thánh Matthêu đã không ra khỏi con đường này. Ngài đã đi truyền giáo ở Êthiopi, Ba Tư, Parthes. Ngài đã nói lên sự thực này: “ Chúa Giêsu chính là Ðấng cứu thế mà Cựu Ước hằng mong đợi. Lời chứng của thánh nhân được coi là đầy đủ nhất trong Tin Mừng của Ngài. Ngài đã được phúc tử đạo tại Tarium nước Êthiopi. Chúa đã trao cho Ngài triều thiên công chính.
7) Thánh Matthêu sinh quán tại Capharnaum. Khi được Chúa gọi vào nhóm Mười Hai, ngài đang là một người thu thuế. Truyền thống tin rằng ngài đã viết Phúc Âm thứ nhất, nguyên bản tiếng Aramaic, nhưng sau đó đã được dịch sang tiếng Hy lạp. Thánh nhân đã chịu tử đạo tại Ba Tư.
8) Các thánh sử của Phúc Âm Nhất Lãm đều kể lại việc Chúa Giêsu kêu gọi thánh Matthêu xảy ra ngay sau khi Chúa chữa người bất toại tại Capharnaum. Khoảng một ngày sau phép lạ ấy, Chúa Giêsu đi dọc theo bờ biển, có đám đông dân chúng đi theo Người. Chúa đến đó từ một thành phố cảng nhỏ nằm giáp miền đất Perea, trên bờ bên kia sông Giođan. Trên đường, Chúa đã đi ngang qua bàn thu thuế của Matthêu.
9) Matthêu khi ấy đang làm việc trong ngành thuế vụ của vua Hêrôđê. Mặc dù không phải là một quan chức chính thức, nhưng ngài đã mua quyền được thu thuế. Chức vụ thu thuế không được người Do Thái kính nể, thậm chí còn bị nhiều người khinh bỉ. Tuy nhiên, đó lại là một chức vụ rất hấp dẫn, vì đem lại của cải giàu sang. Người thu thuế dường như có địa vị cao trong xã hội, vì khi Matthêu khoản đãi Chúa Giêsu trong nhà, có rất đông người thu thuế và những người vị vọng khác đến đồng bàn.
10) Chúa kêu gọi Matthêu làm môn đệ khi Người đi ngang qua bàn thu thuế của ông. Matthêu đã chỗi dậy và đi theo Người. Sự đáp ứng của Matthêu rất mau mắn và quảng đại. Có lẽ ngài đã nhiều lần được gặp Thầy Chí Thánh, và chỉ chờ đợi cơ hội quan trọng này mà thôi. Ngài đã không chần chừ trong việc từ bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu. Chỉ một mình Thiên Chúa biết tại sao Người lại tuyển chọn Matthêu, và cũng chỉ một mình thánh nhân mới có thể cho chúng ta biết ngài đã nhận thấy điểm gì nơi Chúa Giêsu đến nỗi đã lập tức rời bàn thu thuế để đi theo Người.
11) Thánh Matthêu trở thành một chứng nhân đặc biệt cho đời sống và cuộc tử nạn của Chúa Kitô. Ngài được tuyển chọn vào nhóm Mười Hai để theo Chúa đi khắp nơi. Ngài lắng nghe lời Thầy Chí Thánh, dõi theo sứ mạng của Người, và được tham dự bữa Tiệc Ly. Thánh nhân hiện diện khi Chúa lập bí tích Thánh Thể, đích thân được nghe Chúa tuyên bố về giới luật yêu thương, và đồng hành đến vườn Cây Dầu với Người. Cùng các Tông Đồ khác, ngài cũng đau khổ vì đã bỏ rơi Chúa trong hồi Thương Khó. Tuy nhiên, chỉ sau đó ít lâu, ngài đã cảm được niềm vui Chúa Phục Sinh. Trước khi Chúa thăng thiên, thánh Matthêu là một trong những người được nhận lệnh truyền đem Tin Mừng cho khắp trần thế. Cùng với Đức Maria, thánh nhân đã được đón nhận linh ân Chúa Thánh Thần trong ngày hiện xuống.
12) Chúa Giêsu đã đến nhà Matthêu dự tiệc. Có lẽ Chúa vui mừng và nhân dịp ấy muốn thu phục cả những bè bạn của người môn đệ mới của Người. Chúa Giêsu đã đáp lại lời phê bình của những người biệt phái một cách khôn ngoan mà giản dị: “Không phải những người khỏe mạnh cần đến thầy thuốc, nhưng là những người yếu bệnh”. Nhiều thực khách hôm ấy đã cảm thấy được Chúa thân ái đón nhận. Sau đó, chắc chắn họ đã được chịu phép rửa và trở nên những tín hữu trung thành.
13) Trong khi viết Phúc Âm, chắc chắn thánh Matthêu đã bồi hồi nhớ lại nhiều kỷ niệm được sống gần gũi bên Chúa Giêsu, bởi vì cuộc sống bên cạnh Chúa thật là cao quí. Giả như ngài đã ngồi lại tại chiếc bàn thu thuế, có lẽ đời ngài đã khác xa biết bao. Chúng ta biết rằng cuộc đời sẽ trở nên giá trị nếu chúng ta sống hợp nhất với Chúa Kitô và hằng ngày trung thành đáp lại ơn Người. Chúng ta cũng sẽ trở nên những chứng nhân đắc lực cho Chúa nếu chúng ta biết vui mừng và mau mắn đáp lại tiếng Người
14) Chúa dùng những đồng nghiệp, những liên hệ gia đình, hoặc các liên lạc xã hội để tỏ ra mục đích của Người. Cùng với ơn soi sáng cho chúng ta nhìn thấy ơn gọi, Chúa còn ban ơn sức mạnh giúp chúng ta mau mắn đáp lại và trung thành cho đến cùng. Nếu linh hồn không đáp lại tiếng Chúa mời gọi, có thể họ sẽ không còn một cơ hội nào khác nữa. Hơn nữa, có thể Chúa sẽ không trở lại gõ cửa lần thứ hai. Mọi sự lơ là với ân sủng đều làm cho tâm hồn ta ra chai đá.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn bắt chước gương của Thánh Tông đồ: đón tiếp mọi người với tất cả tình thương mến. Xin cho chúng con biết nhìn nhận tội lỗi của mình mà sớm trở về với Chúa. Xin cho chúng con đừng bao giờ nghĩ xấu và loại trừ bất cứ một ai. Amen
Suy niệm 12: Thánh Mat-thêu tông đồ
(https://tonggiaophanhanoi.org // Enzo Lodi)
1. Ghi nhận lịch sử - phụng vụ
Việc tôn kính thánh Matthêu ở Roma lên tới thế kỷ V. Hồi đó người ta mừng lễ Ngài trong nhà thờ lớn đường Merulana, và đến thế kỷ VIII lễ kính được thiết lập, có cả lễ vọng. Lễ ngày 21 tháng 9 như hiện nay là theo sổ tử đạo của thánh Jérôme, nhưng ở phương Đông mỗi nơi định mỗi khác tùy theo họ thuộc nghi lễ Byzance và Syrie (16 tháng 9) hay Coptes (9 tháng 9).
Các sách phúc âm trình bày thánh Matthêu như một nhân viên thuế vụ hay người thu thuế (Mt 9,9), con ông Alphée (Mc 2,14), có lẽ gốc người Capharnaum (Mc 27,14; Lc5,27) và là anh em với Giacôbê, vì ông này cũng là “Con ông Alphée”. Tên Matthêu (tiếng Hy lạp là Matthaios) có nguồn gốc Hébreu, có nghĩa là “Ơn của Chúa”. Ngài cũng được gọi là Lévi (Mc 2,14; Lc 5,27). Trong danh mục Nhóm Mười Hai, Ngài xếp thứ bảy hoặc thứ tám (Mc 3,18; Lc 6,15; Cv 1,13). Lời thú nhận của Mat-thêu trước khi được Đức Giêsu gọi, cho mình là một người “Không sạch”, bị phạt theo luật đạo Do Thái. Lời gọi của thầy, Đấng không đến kêu gọi người công chính, nhưng kêu mời người tội lỗi để họ cải hối (Lc 5,22) đã tạo nên nơi Lévi một câu trả lời tức thì và quảng đại: Bỏ tất cả, ông đứng dậy, đi theo thầy (Lc 5,28). Lòng quảng đại và lương thiện của người môn đồ mới được Luca đề cao:
Lévi dọn đại tiệc trong nhà để đãi Chúa Giêsu, tới dự có rất đông những người thuộc nhóm thuế vụ (5,29).
Đức giám mục Hiérapolis (ở Tiểu Á) tên là Papias, vào khoảng năm 125 kể lại rằng Matthêu đã xếp đặt các “ngôn từ” (Logia) của Chúa bằng thể ngữ Hébreu (tiếng Araméen) còn theo Eusêbe, Origène(+khoảng 254), xác nhận Matthêu là tác giả phúc âm thứ nhất, viết gửi đến những Kitô hữu gốc Do Thái. Thánh Irénée (tiền bán thế kỷ III) viết rằng Matthêu đã viết phúc âm nơi nhà những người Do Thái bằng ngôn ngữ của họ.
Theo một số truyền thuyết, thánh Matthêu đã rời Palestine sang truyền giáo nhiều miền khác nhau, ở Ba Tư, Syrie, Macédoine và Ethiopie, rồi tử đạo tại đây. Từ Éthiopie hài cốt Ngài được đưa về Paestum (Campanie), rồi Salerne, thế kỷ X, như Đức Giáo Hoàng Grégoire VII làm chứng, năm 1080. Theo một truyền thuyết khác, di hài Ngài được thánh nữ Hêlêna chuyển từ Jérusalem về Trèves (Đức) tại tu viện thánh Matthêu.
Ảnh tượng thường biểu diễn thánh Matthêu dưới dạng một thiên thần có cánh, tượng trưng cho phả hệ Đức Kitô ở đầu phúc âm Ngài. Các giai thoại về cuộc đời thánh Matthêu, ngoài những nơi khác, còn thấy nơi một loạt các bức họa của Caravage trong nhà thờ thánh Louis des Francais ở Roma.
2. Thông điệp và tính thời sự
Các kinh nguyện thánh lễ lấy từ sách lễ Paris năm 1738.
Lời nguyện trong ngày ca tụng lòng “Nhân từ sâu thẳm” của Chúa đã chọn “Matthêu người thu thuế đã làm thành tông đồ Chúa”. Trong phụng vụ bài đọc, thánh Bêđa khả kính nhận định rằng Chúa nhìn thấy Matthêu ngồi bàn thu thuế “Không phải bằng con mắt phần xác cho bằng cái nhìn nội tâm của lòng thương xót”. Giải thích ơn gọi dành cho Lévi, thánh nhân khẳng định ý nghĩa và bản chất lời gọi của Đức Kitô: “Khi yêu cầu ông theo Chúa, Chúa không kêu gọi ông đi theo Người cho bằng sống như Người”.
Lời nguyện trên lễ vật nhấn mạnh đề tài chính theo phúc âm Matthêu là Giáo hội: “Lạy Chúa xin yêu thương nhìn đến Giáo hội Chúa, vì Giáo hội đã được chính Chúa nuôi dưỡng đức tin bằng lời giảng dạy của các tông đồ”. Từ Giáo hội (Ekklèsia) được sử dụng từ một trăm lần trong Tân ước, đặc biệt là trong các thư thánh Phaolô, nhưng trong các phúc âm chỉ ba lần, chỉ có trong phúc âm Matthêu (16,18; 18,17). Trong 16,18: “Con là Phêrô, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh Thầy”. Từ Hội Thánh ở đây chỉ cộng đồng Chúa sắp thành lập xây dựng trên Phêrô. Trong 18,18: “Nếu kẻ ấy chối không chịu nghe họ, hãy nói với Giáo hội”, ở đây từ Giáo hội chỉ nghị viện của các tín hữu tức là đoàn tông đồ. Giáo hội cũng là cộng đoàn mới do Chúa Giêsu thiết lập, được xây dựng quanh Phêrô và các tông đồ, được mời gọi rao giảng phúc âm khắp thế giới (24,14; 26,13) và mọi dân tộc (28,19).
Nước Trời (thành ngữ xuất hiện có tới năm mươi lần trong Matthêu) là điều mới lạ do Chúa Giêsu lập nên. Đây là nước Thiên Chúa hiện hữu “Trên trời”, nhưng thực hiện ở trần gian bằng hình ảnh và việc tham dự, và sẽ kết thúc “Trên trời” vào ngày thế mạt. Hiến chương của Nước Trời là “Bài giảng trên núi” (5,3-11).
Thánh Matthêu vui mừng được đón Chúa vào nhà (lời nguyện tạ lễ) không ngần ngại mời nhiều bạn hữu, thu thuế, người tội lỗi cùng đến dự tiệc với Chúa Giêsu và các đồ đệ của Chúa (9,10). Trong thế giới Palestine, bữa ăn là giây phút cao điểm của lễ hội và gặp gỡ. Đức Giêsu khi nhận lời mời đến nhà một người “không sạch” muốn nhấn mạnh lời mời gọi nhân từ của Thiên Chúa đang mở cửa Vương Quốc của Chúa cho người tội lỗi.
Sau hết chúng ta hãy nhớ lời thánh Bêđa khả kính trong một bài giảng về thánh Matthêu: “Đấng sau này sẽ là Tông đồ và thầy dạy lương dân, lúc cải hối, đã kéo theo mình, cả một đám đông những người tội lỗi trên đường cứu rỗi” (Phụng vụ bài đọc).
Suy niệm 13: Thánh Mat-thêu Tông Đồ
Thánh Matthêu sinh quán tại Capharnaum. Khi được Chúa gọi vào nhóm Mười Hai, ngài đang là một người thu thuế. Truyền thống tin rằng ngài đã viết Phúc Âm thứ nhất, nguyên bản tiếng Aramaic, nhưng sau đó đã được dịch sang tiếng Hy lạp. Thánh nhân đã chịu tử đạo tại Ba Tư.
Thánh Matthêu đáp lại tiếng Chúa. Ơn gọi của chúng ta.
Các thánh sử của Phúc Âm Nhất Lãm đều kể lại việc Chúa Giêsu kêu gọi thánh Matthêu xảy ra ngay sau khi Chúa chữa người bất toại tại Capharnaum. Khoảng một ngày sau phép lạ ấy, Chúa Giêsu đi dọc theo bờ biển, có đám đông dân chúng đi theo Người. Chúa đến đó từ một thành phố cảng nhỏ nằm giáp miền đất Perea, trên bờ bên kia sông Giođan. Trên đường, Chúa đi ngang qua bàn thu thuế của Matthêu.
Matthêu khi ấy đang làm việc trong ngành thuế vụ của vua Hêrôđê. Mặc dù không phải là một quan chức chính thức, nhưng ngài đã mua quyền được thu thuế. Chức vụ thu thuế không được người Do Thái kính nể, thậm chí còn bị nhiều người khinh bỉ. Tuy nhiên, đó lại là một chức vụ rất hấp dẫn, vì đem lại của cải giàu sang. Người thu thuế dường như có địa vị cao trong xã hội, vì khi Matthêu khoản đãi Chúa Giêsu trong nhà, có rất đông người thu thuế và những người khác đến đồng bàn.
Chúa kêu gọi Matthêu làm môn đệ khi Người đi ngang qua bàn thu thuế của ông. Matthêu đã chỗi dậy và đi theo Người. Sự đáp ứng của Matthêu rất mau mắn và quảng đại. Có lẽ ngài đã nhiều lần được gặp Thầy Chí Thánh, và chỉ chờ đợi cơ hội quan trọng này mà thôi. Ngài đã không chần chừ trong việc từ bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu. Chỉ một mình Thiên Chúa biết tại sao Người lại tuyển chọn Matthêu, và cũng chỉ một mình thánh nhân mới có thể cho chúng ta biết ngài đã nhận thấy điểm gì nơi Chúa Giêsu đến nỗi đã lập tức rời bàn thu thuế để đi theo Người. Thánh Gioan Kim Khẩu nói, Chúng ta thấy vì sự vâng phục mau mắn và trọn vẹn mà Matthêu đã tức khắc từ bỏ tất cả tài sản thế gian để đi theo Chúa khi được kêu mời đúng lúc.
Thời gian và địa điểm Chúa lên tiếng mời chúng ta hiến thân trọn vẹn đã được Người quan phòng từ đời đời, vì thế thời gian và địa điểm ấy rất quan trọng. Nhiều người được Chúa mời gọi khi còn niên thiếu. Đối với những người ấy, đó là lúc thuận tiện nhất để đáp lại tiếng Chúa. Một số người được Chúa tỏ cho biết ơn gọi khi đã lớn khôn. Chúa dùng những đồng nghiệp, những liên hệ gia đình, hoặc các liên lạc xã hội để tỏ ra mục đích của Người. Cùng với ơn soi sáng cho chúng ta nhìn thấy ơn gọi, Chúa còn ban ơn sức mạnh giúp chúng ta mau mắn đáp lại và trung thành cho đến cùng. Nếu linh hồn không đáp lại tiếng Chúa mời gọi, có thể họ sẽ không còn một cơ hội nào khác. Hơn nữa, có thể Chúa sẽ không trở lại gõ cửa lần thứ hai. Mọi sự phản kháng ân sủng đều làm cho tâm hồn ra chai đá. Thánh Augustine đã mô tả rất súc tích sự khẩn thiết phải đáp lại ơn Chúa, khi Người đi ngang qua cuộc đời của chúng ta: Timeo Jesus praetereuntem et non redeuntem, ‘Tôi sợ Chúa Giêsu có thể đi qua và không quay lại nữa.’
Chúa Giêsu Kitô đến bên từng người chúng ta – cho dù chúng ta đang sống trong độ tuổi hoặc hoàn cảnh nào – và ánh nhìn của Chúa tiếp xúc với ánh mắt chúng ta một cách cá biệt. Người mời gọi chúng ta bước theo. Trong hầu hết các trường hợp, Chúa để chúng ta lại giữa trần gian, công việc, và gia đình. Hãy suy nghĩ về điều Chúa Thánh Thần đã phán, và hãy để bạn biết sợ hãi và tri ân: ‘Elegit nos ante mundi constitutionem’ – Người đã tuyển chọn chúng ta trước khi tạo dựng thế gian, ‘ut essemus sancta, in conspectu eius!’ – để chúng ta nên thánh thiện trước mặt Người.
Nên thánh thiện không phải là điều dễ, nhưng cũng chẳng quá khó. Nên thánh là sống đúng Kitô hữu, là nên giống Chúa Kitô. Ai càng nên giống Chúa Kitô, họ càng là Kitô hữu; ai càng thuộc về Chúa Kitô, họ càng thánh thiện.
Chúng ta có những phương thế gì để nên thánh? Chúng ta có những phương thế như các tín hữu thời sơ khai, khi họ đích thân tiếp xúc Chúa Giêsu hoặc thoáng nhận ra Người trong các lời giảng của các thánh Tông Đồ và các thánh sử.
Niềm vui trong ơn gọi.
Để ghi nhớ và tạ ơn vì được ơn gọi, Matthêu đã tổ chức một bữa tiệc và mời bạn hữu đến dự. Nhiều người trong số đó bị coi là hạng tội lỗi. Thái độ của vị tân Tông Đồ nói lên tấm lòng biết ơn của ngài vì nhận được ơn gọi. Ơn gọi là một hồng ân lớn lao, chúng ta cần phải luôn luôn cám tạ.
Chúng ta phải biết coi trọng những thành quả tuyệt vời Thiên Chúa sẽ thực hiện qua ơn thiên triệu Người ban cho chúng ta. Nếu chỉ nhìn phương diện từ bỏ mà lời mời gọi nào cũng đòi buộc, chúng ta sẽ buồn sầu như trường hợp người thanh niên giàu có không dám từ bỏ những của cải. Anh ta chỉ nghĩ đến những gì phải từ bỏ. Anh ta không hiểu được niềm hạnh phúc tuyệt vời được sống với Chúa Giêsu và trở nên công cụ của Người để thực hiện những việc lớn lao trên thế gian. Có thể hôm qua bạn vẫn là một trong số những người có các ý tưởng lầm lạc, những người bị tham vọng nhân loại đánh lừa. Nhưng hôm nay, vì Thiên Chúa đã đi vào cuộc sống của bạn – lạy Chúa, xin cám tạ Chúa! – bạn vui tươi, ca hát, và bạn đem nụ cười, tình yêu, và hạnh phúc của mình đến bất cứ nơi nào bạn đi qua.
Cuộc sống của người được mời gọi theo Chúa Kitô, như tất cả chúng ta đều thấy, không thể giống như cuộc sống của người anh trong dụ ngôn người con hoang đàng. Anh ta trung thành sống bên cha, làm việc chăm chỉ, và không phung phí tài sản của cha. Tuy nhiên, anh ta thiếu niềm vui và đức ái đối với em trai mới sám hối trở về của anh. Anh ta là biểu tượng rõ nét của loại người công chính nhưng không hiểu được niềm vui được sống bên Chúa và tình thân với tha nhân. Phụng sự Chúa tự thân là một phần thưởng đúng nghĩa, bởi vì phụng sự Chúa là được cùng Người cai trị. Thiên Chúa muốn chúng ta phụng sự trong vui tươi, chứ không miễn cưỡng, bởi vì Thiên Chúa yêu thương người hiến dâng vui tươi. Lúc nào cũng có rất nhiều lý do để vui tươi, tạ ơn và hạnh phúc khi chúng ta được hiến thân cho Chúa và tích cực đáp lại tiếng gọi của Người.
Thánh Matthêu trở thành một chứng nhân đặc biệt cho đời sống và cuộc tử nạn của Chúa Kitô. Ngài được tuyển chọn vào nhóm Mười Hai để theo Chúa đi khắp nơi. Ngài lắng nghe lời Thầy Chí Thánh, dõi theo sứ mạng của Người, và được tham dự bữa Tiệc Ly. Thánh nhân hiện diện khi Chúa lập bí tích Thánh Thể, đích thân được nghe Chúa tuyên bố về giới luật yêu thương, và đồng hành đến vườn Cây Dầu với Người. Cùng các Tông Đồ khác, ngài cũng đau khổ vì đã bỏ rơi Chúa trong hồi Thương Khó. Tuy nhiên, chỉ sau đó ít lâu, ngài đã cảm được niềm vui Chúa Phục Sinh. Trước khi Chúa thăng thiên, thánh Matthêu là một trong những người được nhận lệnh truyền đem Tin Mừng cho khắp trần thế. Cùng với Đức Maria, thánh nhân đã được đón nhận linh ân Chúa Thánh Thần trong ngày hiện xuống.
Trong khi viết Phúc Âm, chắc chắn thánh Matthêu đã bồi hồi nhớ lại nhiều kỷ niệm được sống gần gũi bên Chúa Giêsu, bởi vì cuộc sống bên cạnh Chúa thật là cao quí. Giả như ngài đã ngồi lại tại chiếc bàn thu thuế, có lẽ đời ngài đã khác xa biết bao. Chúng ta biết rằng cuộc đời sẽ trở nên giá trị nếu chúng ta sống hợp nhất với Chúa Kitô và hằng ngày trung thành đáp lại ơn Người. Chúng ta cũng sẽ trở nên những chứng nhân đắc lực cho Chúa nếu chúng ta biết vui mừng và mau mắn đáp lại tiếng Người.
Ơn gọi tông đồ của chúng ta.
Nhiều thân nhân bè bạn đã đến tham dự bữa tiệc của thánh Matthêu tổ chức để mừng Chúa. Trong số đó có một số người thu thuế, nên các ký lục và biệt phái đã xầm xì với nhau và thắc mắc với các môn đệ Chúa: Tại sao Thầy các ông lại ăn uống với bọn thu thuế và tội lỗi như thế? Thánh Jerome đã dí dỏm chú thích rằng đó là một bữa tiệc quây quần của những người tội lỗi!
Chúa Giêsu đã đến nhà Matthêu dự tiệc. Có lẽ Chúa vui mừng và nhân dịp ấy để thu phục cả những bè bạn của môn đệ mới của Người. Chúa Giêsu đã đáp lại lời phê bình của những người biệt phái một cách khôn ngoan mà giản dị: Không phải những người khỏe mạnh cần đến thầy thuốc, nhưng là những người yếu bệnh. Nhiều thực khách hôm ấy đã cảm thấy được Chúa thân ái đón nhận. Sau đó, chắc chắn họ đã được chịu phép rửa và trở nên những tín hữu trung thành.
Qua tấm gương ấy, Chúa dạy chúng ta biết rộng mở với mọi linh hồn. Như thế, chúng ta mới có thể đem nhiều người về với đức tin. Cuộc đối thoại về ơn cứu độ không dựa trên những công trạng hay những thành quả cá nhân. Chúa dạy: ‘Không phải những người khỏe mạnh cần đến thầy thuốc…’ Cuộc đối thoại về ơn cứu độ mở rộng cho mọi người, không phân biệt một ai. Tương tự, những cuộc đối thoại của chúng ta cũng hãy mở rộng và bao trọn mọi người… Chúng ta đừng lạnh nhạt với một ai. Một người càng cùng khốn, nỗ lực tông đồ của chúng ta phải càng lớn hơn, càng phải dùng những phương thế tự nhiên và siêu nhiên hầu truyền bá cái nhìn của đức tin. Trong giờ cầu nguyện, chúng ta hãy xét lại tính cách những tương giao xã hội của chúng ta. Chúng ta có đối xử với tha nhân - kể cả với những người dường như đã xa rời đức tin - bằng sự nồng nhiệt và cảm tình hay không?
Bạn có lý. Bạn đã viết cho tôi, ‘Những đỉnh cao xa xăm che khuất cả bầu trời miền quê, tuy nhiên không một đỉnh nào mà ta không nhìn thấy được,’ hết ngọn núi này đến ngọn núi kia. Nhiều khi, quang cảnh dường như đã rõ ràng, nhưng rồi sương mờ tan đi và hiện ra một rặng núi khác trước đó đã bị che khuất.’
Bầu trời tông đồ của bạn cũng như thế, và đúng ra phải như thế. Ta phải đi qua thế giới này. Nhưng không có những con đường làm sẵn cho bạn. Chính bạn sẽ phải làm ra con đường băng qua những dãy núi, san bằng chúng bằng những bước chân của chính bạn.
Suy niệm 14: Thánh Mat-thêu Tông Đồ
Ðây là sách Phúc Âm xuất hiện trước nhất, được viết khoảng giữa năm 70 và 75 sau công lịch. Thánh Matthêu có ý viết cho những người Do Thái trở lại để củng cố đức tin họ. Người nhấn mạnh rằng:
- Chúa Giêsu thực hiện nơi bản thân Chúa mọi lời tiên tri đã chép trong sách Cựu Ước. Người Do Thái trở lại đạo Chúa Kitô không phải từ bỏ kho tàng thiêng liêng của dân được chọn, người ấy vẫn tìm được trong Phúc Âm những gì làm cho mình thêm vinh quang, trong sạch và hoàn hảo.
1. Thánh Matthêu là ai?
- Matthêu là một trong nhóm 12 tông đồ. Ngài là nhân viên thu thuế, được Chúa Giêsu gọi lúc ngồi ở bàn thu thuế. Theo Pa-pi-as (Giám Mục thành Hieropôlis khoảng năm 138) thì Matthêu cũng được gọi là Lêvi, đã soạn Phúc Âm bằng tiếng Aram, nhưng bản đó đã bị thất lạc. Hiện người ta chỉ tìm được những bản bằng tiếng Hy Lạp.
2. Thánh Matthêu nhắm mục đích gì và nhắm vào thành phần thính giả nào khi viết Phúc Âm?
- Thánh Matthêu trích dẫn Cựu Ước rất nhiều trong Phúc Âm của ngài, nhằm mục đích chứng minh Chúa Giêsu Nagiarét chính là Ðấng Messia Thiên Chúa đã hứa: và như thế ngài nhắm vào số thính giả người Do Thái.
3. Phúc Âm của ngài được viết khoảng năm nào?
- Khoảng năm 75 sau Chúa Giáng Sinh.
4. Thánh Matthêu viết Phúc Âm tại đâu?
- Theo truyền tụng thì thánh Matthêu đã rao giảng và làm việc tại Antioch, có lẽ tại đây ngài đã soạn Phúc Âm.
5. Thánh Matthêu đã dùng Cựu Ước để minh chứng Ðức Giêsu là Ðấng Messia như thế nào?
- Ngài chứng minh Chúa Giêsu là con vua Ða-vít, thuộc dòng dõi Abraham, đến để tái lập vương quốc Ða-vít mà thánh vịnh 72 đề cập tới việc các vua chúa trần gian tới bái lạy Chúa Hài Ðồng. Mãi sau này, vào thế kỷ thứ 8 tên ba vị đó mới được xác định là Gasparê, Melchior và Balthazar.
- Gia đình thánh gia trốn qua Ai Cập để ứng nghiệm lời tiên tri Hôsêa: "Từ Ai Cập ta đã gọi con Ta về."
- Việc Giuđa ném trả 30 đồng tiền bán Chúa vào đền thờ, các thượng tế và niên trưởng đã lấy bạc ấy mà tậu ruộng của người thợ gốm, là ứng nghiệm lời ngôn sứ Giêrêmia: “Họ đã lượm lấy ba mươi đồng bạc, tức là cái giá mà một số con cái Itraen đã đặt khi đánh giá Người. Và họ lấy số bạc đó mà mua “Thửa Ruộng Ông Thợ Gốm”, theo những điều Đức Chúa đã truyền cho tôi.”
6. Trình bày vắn tắt bố cục nội dung Phúc Âm Thánh Matthêu?
- Phúc Âm Thánh Matthêu co thể được chia ra thành 4 phần:
- Chương 1-2 nói về Tin Mừng thời niên thiếu của Chúa Giêsu.
- Chương 3-18 đề cập tới sứ vụ của Chúa Giêsu tại Galilê.
- Chương 19-25 nói về sứ vụ của Chúa Giêsu tại Giêrusalem.
- Chương 26-28 tường thuật về cuộc thương khó và phục sinh của Chúa Giêsu.
7. Thánh Matthêu nói gì về cuộc thương khó và sống lại của Chúa Giêsu?
- Trong ba chương 26-28 ngài đề cập tới một số điểm riêng biệt như:
- Cái chết của Giuđa, môn đồ bội phản.
- Sự kiện vợ của tổng trấn Philatô can gián chồng trong việc kết án Chúa Giêsu.
- Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, nhiều vị thánh đã an nghỉ sống lại vào thành...
- Việc mua chuộc lính canh mộ...
8. Phúc Âm theo Thánh Matthêu có những đặc điểm nào?
- Ngài trình bày giáo huấn qua năm bài diễn từ.
- Ngài trình bày theo cặp ba và cặp bảy.
- Minh chứng những gì Cựu Ước đã nói đều được thực hiện.
- Phúc Âm ngài mang nhiều chiều kích Hội Thánh.
9. Kể 5 bài diễn từ của Chúa Giêsu mà Thánh Matthêu đã ghi lại?
- Bài giảng trên núi (chương 5-7)
- Sứ vụ trao cho 12 tông đồ (chương 10)
- Các dụ ngôn về nước trời (chương 13)
- Ðịa vị cao nhất và sự tha thứ (chương 18)
- Diễn từ chung luận (chương 24-25)
10. Lễ Thánh Matthêu được Giáo Hội mừng kính vào ngày nào?
- Ngày 21-9 dưới tước hiệu tông đồ thánh sử.
Suy niệm 15: Thánh Mat-thêu Tông Đồ
(Nhóm Châu Kiên Long)
Thánh Matthêu còn gọi là Lêvi, con ông Alphê. Một hôm đi qua sở quan thuế thành Capharnaum gần bờ hồ Tibêriat, Chúa Giêsu thấy Matthêu ngồi ở bàn thu thuế, Ngài liền bảo ông: "Hãy theo Ta". Không do dự, ông liền đứng lên, bỏ mọi sự mà theo Chúa. Và sau đó, ông thiết tiệc tại nhà để khoản đãi Chúa Giêsu, các môn đệ và các bạn hữu, trong số đó có cả những người biệt phái. Họ thắc mắc khi thấy Chúa hiện diện giữa những người mà họ cho là tội lỗi. Chúa Giêsu đã giải thích cho họ: "Ta không đến để gọi những người công chính nhưng để gọi người tội lỗi...".
Trước khi rời Giuđêa để đi giảng đạo, thánh Matthêu đã soạn thảo Phúc Âm đầu tiên bằng tiếng Do Thái vào khoảng năm 50. Vì viết cho người Do Thái nên ngài nhấn mạnh đến kiểu nói và quan niệm riêng họ. Ngài nhắc cho họ biết rằng: "Phúc Âm hoàn tất luật cũ". Ngài chứng minh Chúa Giêsu chính là Ðấng Cứu Thế mà Cựu Ước hằng mong đợi. Có thể nói Phúc Âm của ngài được coi là đầy đủ nhất.
Theo nhiều văn kiện lịch sử để lại thì thánh Matthêu đã đi truyền giáo ở Êthiopi, Ba Tư, Parthes và sau cùng ngài đã được lãnh phúc tử đạo tại Tarium thuộc Êthiopi.
Thánh Matthêu thường coi như vị thánh quan thầy của những nhà trí thức Công Giáo.
Suy niệm 16: Thánh Mat-thêu Tông Đồ
(http://giesu.net// Phó Tế JB Huỳnh Mai Trác)
“Bỏ nơi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua trạm thu thuế, thì thấy một người tên là Mát Thêu đang ngồi tại trạm. Người bảo ông: “Anh hãy theo tôi’’. Ông đứng dậy đi theo Người.”
Câu văn ngắn ngủi trên cho chúng ta biết về người môn đệ tên là Matthêu Thánh sử. Có phải thật Matthêu là người thu thuế như Thánh Marcô và Luca đã viết trong Tin Mừng không? Nếu đúng như vậy thì Matthêu chắc chắn bị những người Do thái khinh bỉ và ghét bỏ vì là người cộng tác với quân La Mã. Những người thu thuế là kẻ thù của nhân dân và là người tội lỗi mà họ oán trách Chúa Giêsu đã đi lại và dùng bữa với họ.
Dù sao đi nữa thì Matthêu đã bỏ dĩ vãng lại trong quá khứ mà đi theo Chúa Giêsu. Nhiều học giả nghi ngờ là sách Tin Mừng Matthêu có thể là do một trong những môn đồ của Chúa Giêsu vào cuối thế kỷ đầu tiên vì dường như là sách Tin Mừng Matthêu đưọc viết bởi một Kitô hữu Do thái thông thạo tiếng Hy lạp và quả quyết Chúa Giêsu là Đấng Messiah, Đấng đã hoàn tất những tiên báo trong Cựu Ước mang đến một luật lệ và một kỷ nguyên mới.
Dường như thánh Matthêu viết sách Tin Mừng dành nhiều cho người Do Thái và người giàu có. Phúc Âm thánh Matthêu ca ngợi sự nghèo khó và thuyết phục người đọc là ơn cứu độ tùy thuộc nhiều vào lòng thương xót những kẻ nghèo khó. Điều này nói lên lòng ăn năn hối cải của người thu thuế. Matthêu kể lại những lời giảng dạy của Chúa Kitô và tóm tắt điều căn bản trong Bài giảng trên Núi về các Mối Phúc Thật.
Matthêu ghi lại dụ nguôn về cuộc Phán Xét Cuối Cùng khi “Đức Chúa Con trở lại trong vinh quang” để tách ra “chiên và dê”. Chúa phán với những người được Chúa ân thưởng: “Vì khi Ta đói các người đã cho ăn, Ta khát các ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước, Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc, Ta đau ốm các ngươi dã thăm viếng, Ta ngồi tù các ngươi đã hỏi han.” Họ bèn hỏi: “Chúng tôi đã làm những việc ấy lúc nào? Chúa bèn phán: “Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.”
Thánh Matthêu là dấng phù trợ các sứ vụ của Giáo Hội. Được ơn gọi đi theo Chúa Giêsu, thánh Matthêu kết thúc Tin Mừng lời thúc dục người theo Chúa như sau: “Vậy anh em hãy ra đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ’’, và lời cuối cùng cho chúng ta và cho mọi thời đại: “Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”
*****************************************
Thứ Ba: Mc 10, 13-16
Thứ Ba 21/09/2021 – Đón nhận Nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ.
21/09 – Thứ Ba tuần 25 thường niên.
TẾT TRUNG THU. CẦU CHO THIẾU NHI.
“Người ôm các trẻ em vào lòng, và đặt tay ban phúc lành cho chúng”
Lời Chúa: Mc 10, 13-16
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Máccô.
Khi ấy, người ta đưa những trẻ nhỏ đến cùng Chúa Giêsu để Người đặt tay trên chúng, nhưng các môn đệ khiển trách họ.
Thấy vậy, Chúa Giêsu bất bình và bảo các ông rằng: “Hãy để các trẻ nhỏ đến cùng Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng. Thày bảo thật các con: “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, sẽ không được vào nước đó”. Rồi Người ôm chúng, đặt tay ban phép lành cho chúng.
Suy Niệm 1: Bài giảng Lễ Trung Thu
(Lm Joseph Tạ Duy Tuyền)
Ngày tết Trung thu, người ta hay nói về Chú Cuội ngồi gốc cây đa và ôm cả một mối lo. Như bài hát đã từng được nhiều người ưa thích: “Ánh trăng trắng ngà, có cây đa to, có thằng cuội già ôm một mối lo”. Vậy chú Cuội là ai?
Chú Cuội theo chuyện thần thoại của Trung Quốc, tên là Ngô Cương. Xưa kia Ngô Cương đã tu và đắc đạo thành tiên, nhưng sau vì làm nhiều điều xằng bậy trên thiên đình, đã bị Ngọc hoàng nổi giận, bắt đày xuống cung trăng, trao cho việc chặt và bóc vỏ cây quế đỏ. Thế nhưng cây quế đỏ này lại cứng như thép, nên Ngô Cương chặt mãi, bóc hoài cho đến bây giờ cũng chẳng xong. Vì vậy, mỗi đêm, nhìn lên mặt trăng, chúng ta mới thấy bóng Ngô Cương đang lúi húi ở dưới gốc cây quế.
Còn ở Việt chúng ta thì Ngô Cương lại chính là chú Cuội. Và cái bóng mà người Trung quốc gọi là cây quế đỏ, thì lại chính là cây đa thần. Vì thế mới có câu:
- Thằng cuội ngồi gốc cây đa,
Bỏ trâu ăn lúa, gọi cha ời ời.
Cha còn cắt cỏ trên trời,
Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời quan viên.
Chú Cuội, theo truyền thuyết, đó là một kẻ đi nói dối cha, về nhà nói dối chú. Suốt đời, đánh lừa mọi người. Hồi còn nhỏ, ngày kia vì cha mẹ đi vắng, chú phải coi nhà. Buồn tình, chú bỗng nghĩ ra một trò chơi, nên vội kêu la thất thanh: “Bớ làng nước ơi, cháy nhà, cháy nhà. Cứu tôi với.”
Mọi người hối hả mang chậu, xách thùng tới tiếp cứu. Thấy vậy, chú bèn cười ngặt nghẹo đến vãi cả nước mắt. Lần khác, chú ngồi thổi cơm, chẳng may để lửa bén vào đống rơm và căn nhà bốc cháy. Chú cũng kêu la thất thanh: “Bớ làng nước ơi, cháy nhà, cháy nhà. Cứu tôi với.”
Thế nhưng, lần này chẳng một ma dại nào đến tiếp cứu cho chú cả.
Vì thế, dân gian mới bảo:
- Bắc thang lên đến tận mây,
Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả đời.
Cuội nghe hỏi thế, Cuội cười,
Bởi hay nói dối nên ngồi ấp cây.
Cũng bởi hay cái tính táy máy này, mà chú Cuội bỗng trở thành hình ảnh tượng trưng cho những kẻ chuyên môn lừa gạt: nói dối như cuội. Hay nói một đàng làm một nẻo: hứa cuội có nghĩa là hứa lèo, hứa thì rất nhiều mà chẳng làm được đí gì sốt, đầu voi đuôi chuột, trăm voi không được một bát nước xáo.
Tại sao ngày tết Trung thu mà người ta lại kể chuyện về chú cuội, một đứa trẻ hư đốn trong ngày vui của các em? Có lẽ không phải tình cờ hay ngẫu nhiên, vì kho tàng văn học cổ tích là tiếng nói của khát vọng con người vươn tới sự hoàn thiện. Cha ông kể chuyện về chú cuội để răn đời, để dạy con cháu, đừng sống như chú cuội kẻo phải ôm gốc cây đa cả đời. Vì ngày tết Trung thu được xem là ngày tết của thiếu nhi, của tuổi thần tiên, nên cha ông ta đã dùng rất nhiều những câu chuyện thần tiên để hướng các em tới sự hoàn hảo nhất của con người.
Theo Tin mừng, Chúa Giêsu luôn yêu thích tâm hồn trẻ thơ. Ngài luôn tìm dịp để gần gũi các em. Ngài không chỉ yêu mến, chúc lành và bênh vực, mà hơn thế nữa, còn lấy trẻ nhỏ làm khuôn vàng thước ngọc cho người lớn phải noi theo:
- “Nếu các con không trở nên như trẻ nhỏ thì sẽ chẳng được vào Nước trời đâu.”
Nhìn vào trẻ nhỏ, chúng ta sẽ ghi nhận được biết bao nhiêu nhân đức cao đẹp.
Trước hết, nơi trẻ thơ, không có sự gian dối, chỉ có đơn sơ chân thành. Thực vậy, trẻ thơ cần phải luôn đơn sơ chân thành, không ăn gian nói dối như Cuội. Kinh nghiệm cha ông ta vẫn nói: “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ.”
Thế nhưng ngày nay, nhiều trẻ thơ đã nhiễm thói đời hay nói dối, nói quanh co, không dám nói sự thật. Điều đó đã làm cho các em đánh mất tuổi thơ của mình. Nếu một em bé đã nhiễm thói ăn gian nói dối, là tự mình đánh mất tuổi thơ, đánh mất vẻ hồn nhiên tươi vui sẽ làm cho con người ra già cỗi, và tự đầy đoạ mình như chú Cuội, suốt đời ôm một mối lo.
Thứ đến, nơi trẻ thơ không có hận thù, bạo lực, mà chỉ có một tình yêu thương dạt dào và không biên giới. Mẩu chuyện mang tựa đề “Đứa bé của hòa bình”, trong mục nghệ thuật sống của báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật, đã kể rằng:
“…Hôm ấy, tôi được trao nhiệm vụ đi thám thính cho bộ lạc của mình. Sau ba ngày đêm ròng rã, tôi phát hiện một túp lều của kẻ thù. Tôi bò từng bước đến gần và khoét một lỗ nhỏ bằng bàn tay trên vách. Nhìn vào trong, tôi thấy một đôi vợ chồng trẻ đang ngồi sưởi bên bếp lửa và một thằng bé chưa đầy hai tuổi đang chơi cạnh đó. Với bước chân đi chập chững, nó đứng dậy cầm chiếc thìa gỗ thọc sâu vào nồi xúp, rồi nó bắt chước người lớn khuấy đi khuấy lại nhiều lần. Bất thần đứa bé quay sang nhìn đúng ngay cái lỗ mà tôi đã khoét để ngó vào trong lều. Tôi hốt hoảng sợ bị phát giác. Nhưng đúng lúc bố mẹ của nó đang mải mê bên bếp lửa, đứa bé lại thọc cái thìa gỗ vào nồi, rồi múc lấy một ít xúp và đưa thẳng vào miệng tôi. Cứ thế, nó xúc cho tôi ăn liên tiếp nhiều lần mà bố mẹ nó vẫn không hề hay biết. Cuối cùng thì tôi quyết định phải rút lui và tìm đường trở về bộ lạc của mình. Nhiệm vụ đã hoàn tất, tôi đã tìm được vị trí đóng trại của kẻ thù…Tôi cắm cổ chạy trên tuyết cho tới khi đuối sức thì dừng lại…Hình ảnh và cử chỉ của thằng bé đã không buông tha tôi lấy một giây. Nó là ai? Tại sao nó lại can đảm múc xúp cho kẻ thù của bố mẹ, của cả bộ tộc nó? Sức mạnh thiêng liêng nào đã thúc đẩy nó làm như vậy? Cứ thế, tôi suy nghĩ miên man về thằng bé, nó phải được sống trong trận càn quét sắp tới. Tôi chợt nảy ra ý định phải quay trở lại tức khắc, bí mật giết chết bố mẹ thằng bé rồi bắt cóc nó đem về nuôi dạy theo phong tục của bộ lạc mình. Thế nhưng thú thật là tôi không thể làm như vậy vì thằng bé còn quá nhỏ, nó cần được chính bố mẹ nó nuôi nấng. Nghĩ như vậy, tôi quay trở lại túp lều, đi thẳng vào cửa trước. Bị bất ngờ, đôi vợ chồng trẻ kinh hoảng, nhưng tôi ra dấu trấn an họ ngay. Nhận thấy tôi không có ý gì đe dọa, họ đã vui vẻ mời tôi vào, ngồi bên bếp lửa. Người chồng chuẩn bị một tẩu thuốc, người vợ bưng xúp để mời khách, còn thằng bé thì mừng rỡ như nhận ra khuôn mặt quen thuộc của tôi. Và thế là nó lại lấy chiếc thìa gỗ xúc một ít xúp, phùng má thổi phù phù cho bớt nóng, rồi mới đưa vào tận miệng tôi. Tôi chậm rãi tiết lộ tông tích của mình và bảo họ: trước tiên vì sự hồn nhiên vô tư của thằng bé, kế đó vì lòng hiếu khách của anh chị, tôi sẽ không làm gì hại đến gia đình bé nhỏ này. Anh chị hãy mau mau lánh nạn đi ở chỗ khác. Không sớm thì muộn, bộ lạc chúng tôi cũng sẽ phát hiện nơi này, họ sẽ đến và chiến tranh hận thù sẽ xảy ra. Hình ảnh cuối cùng mà tôi còn giữ mãi, chính là hình ảnh thằng bé được mẹ địu trên lưng, tay vẫn múa may chiếc thìa gỗ và mỉm cười với tôi. Mùi tử khí trong tôi đã được thay thế bằng mùi xúp thơm phức mà thằng bé đã đưa tận miệng tôi. Tôi đã từ bỏ thói hung hăng hiếu chiến, lòng hận thù dai dẳng trong tôi cũng đã tắt ngấm. Càng có tuổi, tôi càng tin rằng tất cả chúng ta cần phải có một “đứa bé của hòa bình” như thế, mãi mãi ở giữa chúng ta”.
Vâng, hôm nay trẻ thơ đang bị đánh cắp tuổi thơ. Bạo lực xảy ra khắp nơi. Ngay ở gia đình là nôi hạnh phúc, cũng trở thành bãi chiến trường của cha, của mẹ. Trẻ thơ đã sớm thấy cảnh thượng cẳng chân, hạ cẳng tay của những người thân trong gia đình và nhất là trên truyền hình, thì lại càng đầy dẫy những cảnh bạo động với máu đổ lênh láng trên đường. Một thế giới đổ nát như thế làm sao dạy cho các em sống yêu thương và khao khát hoà bình? Đó chính là trách nhiệm của những người làm cha làm me, và các nhà giáo dục phải trả lời trước lương tâm của mình.
Hôm nay, ngày tết của tuổi thơ, chúng ta hãy cùng cầu nguyện cho các em thiếu nhi trong giáo xứ biết gìn giữ nét đẹp tuổi thơ của mình bằng việc luôn sống đơn sơ ngoan hiền, luôn vâng lời cha mẹ và sống chân thật để được Chúa luôn yêu thương, và chúc lành.
Chúng ta cũng cầu xin cho mọi người trên thế giới biết sống hoà thuận với nhau, để cùng nhau kiến tạo nền hoà bình trên địa cầu này, nhất là các bậc cha mẹ luôn biết sống yêu thương và sẵn lòng tha thứ cho nhau để tuổi thơ được an vui sống trong vòng tay yêu thương của cha, của mẹ. Amen
Suy Niệm 2: Trung thu dưới ánh sáng lời Chúa
Hc 42,15-26 ; Rm 8,14-17; Mc 10,13-16
Hôm nay, Tết Trung thu. Trong Thánh lễ Trung thu Giáo hội cho chúng ta nghe 3 Bài đọc.
- Bài đọc 1 trích sách Huấn ca, nhắc đến các công trình đầy vinh quang của Thiên Chúa.
- Bài đọc 2 trích thư thánh Phaolô gửi tín hữu Rôma. Trong đó, Thánh Phaolô cho chúng ta biết: Chúng ta được diễm phúc gọi Thiên Chúa là Cha. Chúng ta là con cái Ngài.
- Bài Tin mừng theo Thánh Marcô mô tả thái độ yêu mến của Chúa Giêsu đối với trẻ thơ. Chúa còn lấy trẻ thơ như mô hình cho người lớn bắt chước về tính đơn sơ, phó thác, khiêm nhương và trong trắng.
Thật vậy, không phải vô tình trong ngày Tết Trung thu Giáo hội cho chúng ta nghe bài trích sách Huấn ca. Trong đó, tác giả đã ca tụng những kỳ công đầy vinh quang của Thiên Chúa. Một trong những kỳ công đầy vinh quang của Thiên Chúa là vẻ đẹp, thơ mộng của đêm trăng Trung thu. Ðêm trăng Trung thu có ánh trăng vàng, dịu dàng. Trăng sáng, vằng vặc trong trời đêm. Dưới ánh trăng thu các em nhi đồng tha hồ vui đùa, rước đèn Trung thu, tung tăng đó đây với niềm vui hồn nhiên của tuổi thơ.
Nhưng theo Giáo lý Thánh kinh thì tất cả các công trình Thiên Chúa tạo dựng là để phục vụ cho con người. Con người được Thiên Chúa trao cho quyền cai quản vũ trụ này. Ðó là một vinh dự. Nhưng vinh dự này có là gì so với diễm phúc con người được Thiên Chúa nhận làm con cái và Ngài cho phép chúng ta gọi Ngài là Cha “Abba” như Thánh Phaolô đã nói trong bài thư hôm nay. Ðược vinh dự làm con cái Thiên Chúa thì phải sống tâm tình con thảo đối với Thiên Chúa là Cha. Nhưng do sự yếu hèn vì hậu quả của tội Tổ tông nên con người dễ bị lôi cuốn vào các tính xấu như kiêu ngạo, tự mãn, gian dối và lăng lòan… Vì thế, khi nhìn thấy lũ trẻ thơ hồn nhiên, đơn sơ phó thác, khiêm nhường và trong trắng thì Chúa Giêsu đem lòng yêu mến, trong khi các Tông đồ muốn xua đuổi chúng đi vì sợ Chúa bị quấy rầy. Chúa đã trách nhẹ các ngài và cho các trẻ thơ đến với Chúa. Hơn nữa, Chúa còn coi các đức tính nơi trẻ thơ như một mô hình cho người lớn noi theo như tính đơn sơ, phó thác, khiêm nhường và trong trắng. Ðây là những đức tinh cao qúy và cần thiết để được vào Nước Trời.
Thật vậy, trẻ thơ sống đơn sơ, phó thác vì nó cảm thấy mình nhỏ bé, hèn yếu và người lớn thì to cao và mạnh mẽ nên nó tin tưởng hòan tòan vào sự chở che của người lớn mặc dầu đôi khi người lớn đành chịu thua như đối đầu với một con hổ dữ, người lớn tay không, không thể bảo vệ mình và đứa trẻ.
Vậy sống tâm tình trẻ thơ đơn sơ, phó thác là chúng ta ý thức mình là một thụ tạo hèn yếu và mong manh trước những quyến dũ mạnh mẽ của thế gian, trước những cám dỗ hung hãn của ma quỷ, trước những nghiêng chiều vì yếu đưối của xác thịt để chúng ta hết lòng tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa tòan năng.
Trẻ thơ sống khiêm nhừơng, không cậy sức mình. Khi gặp vật cản đường, không thể xô đẩy hay nhấc ra chỗ khác, nó luồn cúi hay lách mình qua vì nó biết sức mình hèn yếu.
Sống tâm tình trẻ thơ khiêm nhường là chúng ta không cậy sức mình, kiêu căng, tự mãn, cậy quyền, cậy tiền, bất cần ai nhưng ý thức mình chẳng là gì trước mặt Thiên Chúa, hòan tòan lệ thuộc vào Chúa, ý thức mình khả năng có giới hạn nên cần liên đới với mọi người và đón nhận sự trợ giúp đa dạng của mọi người. Và nếu có gì tốt nơi chúng ta cũng nhờ bởi Chúa ban.
- Trẻ thơ trong trắng. Nó không biết phạm tội. Ðôi mắt ngây thơ vô tội phản ánh vẻ trong trắng tâm hồn nó.
- Sống tâm hồn trong sạch như tâm hồn trẻ thơ là chúng ta cố gắng tránh xa các dịp tội và dứt khóat thưa không với tội lỗi.
Thưa Quý ông bà anh chị em, Các em nhi đồng yêu quý !
Trăng thu đẹp và thơ mộng như tâm hồn trẻ thơ. Vậy để bảo vệ nét đẹp đáng yêu nơi tâm hồn trẻ thơ thì người lớn chúng ta có trách nhiệm lo cho trẻ thơ được sống tuổi thơ hạnh phúc, có trách nhiệm làm gương sáng, gương tốt cho trẻ thơ. Nếu không, chúng ta sẽ bị Chúa khiển trách nặng nề : “ Những ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin Thầy đây phải sa ngã, thì thà cột cối đá lớn vào cổ nó mà quăng xuống biển còn hơn” (Mt 18, 6-7).
Hơn nữa, Tết Trung thu đánh dấu mốc thời gian nửa năm mới. Các em nhi đồng sẽ được thêm nửa tuổi. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các em càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan và nhân đức trước mặt Thiên Chúa để các em giữ mãi vẻ đẹp tâm hồn tuổi thơ và nếu được như thế, các em nên như triều thiên cho chúng ta vậy.
Suy Niệm 3: Xin cho đời các em sáng đẹp tựa trăng rằm
(Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Các em thiếu nhi thân mến, lời đầu tiên cha cùng với các cụ chánh trương, trùm quản, các thấy cô giáo lý viên, các bậc phụ huynh, các anh các chị chúc mừng TẾT TRUNG THU của các em.
- Ngày xưa có đoàn em bé đùa vui bên Chúa Giêsu, các em có biết ai đã dẫn các em đó đến với Đức Giêsu không, và đến với Chúa để làm gì?
Đáp: Bố mẹ các em đã dẫn các em đến với Chúa Giêsu để xin Chúa đặt tay chúc lành cho các em ạ.
– Thế còn tối nay cũng có đàn em bé đến đây với Chúa Giêsu. Vậy, có ai dẫn các em đến đây không và đến để làm gì?
Đáp: Con có mẹ dẫn đi, và đến đây để dự lễ Tết Trung Thu ạ.
– À, ngoài cái gọi là Tết Trung Thu đó, chắc chắn bố mẹ, ông bà, thầy cô giáo lý viên, ban hành giáo còn muốn cho các em một điều quan trọng hơn cả, đó là gì, em nào biết?
Đáp: Xin phúc lành của Chúa Giêsu ạ.
– Chính xác, nhưng cha hỏi tiếp, tại sao mọi người lại quan tâm đến các em đến thế?
Đáp: Vì chúng con là trẻ con ạ.
– Trẻ con, nhưng các em trong tương lai sẽ là ai?
Đáp: là người lớn ạ.
– Đúng rồi, tương lai các em sẽ là những ông bố bà mẹ, những người lãnh đạo trong giáo xứ, mở rộng ra là đất nước và Giáo hội này đấy.
Như các em biết đấy, trẻ em hay bắng nhắng, quấy rầy, làm mất thời giờ của người lớn, nên hay bị coi nhẹ, lúc trước lễ, các ông, các anh các chị đã xua đuổi các em, mà ngay trong Tin Mừng hôm nay, chính các môn đệ đã xua đuổi chúng đi. Thấy vậy, Chúa Giêsu có bằng lòng không?
Không ạ. Ngài không hài lòng, Ngài bảo các ông đừng ngăn cản chúng. Ngài nói: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì Nước Trời thuộc về những ai giống như chúng” (Mc 10,14). Cái hình Chúa ôm các em vào lòng và đặt tay chúc lành cho chúng thật là đẹp.
Các em có hiểu tại sao Chúa Giêsu lại nói: “Vì Nước Trời là của những người giống như trẻ nhỏ” không?
Thưa, bởi vì trẻ nhỏ hoàn toàn tin tưởng và phó thác nơi cha mẹ. Trẻ nhỏ biết vâng lời cha mẹ, không cần lý luận xem tại sao cha mẹ bảo làm thế, trẻ nhỏ không so đo tính toán lời lỗ, hơn thiệt… Đối với trẻ nhỏ, cha mẹ là nhất, cha mẹ làm gì cũng đúng, nói gì cũng hay, nên các em an tâm lắm.
Ngoài ra, trẻ nhỏ còn đơn sơ thật thà, có sao nói vậy, không thêm bớt, không hằn thù, không mưu mô, không làm hại ai. Các em đã thực hiện lời Chúa nói: “đơn sơ như bồ câu” (Mt 10,16). Vì thế, người ta thường nói về sự đơn sơ thật thà của trẻ em qua kinh nghiệm hằng ngày: “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ” (Tục ngữ).
Suy Niệm 4: Bài học dịp Tết Trung Thu
(Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Hôm nay, nhìn lên bầu trời, chúng ta trông thấy trăng thanh gió mát. Trăng tròn và sáng nữa. Nên Giáo hội cầu nguyện “cho đời các em sáng đẹp tựa trăng rằm đấy, và không ngừng phản ánh Chúa Kitô là Mặt Trời công chính” (Lời nguyện hiệp lễ).
Trăng Tết Trung Thu sáng và tròn, nhưng vẫn có vầng xám, vẩn đục mà chúng ta quen gọi là cây đa với thằng Cuội.
Với bài hát: “Bóng trăng trắng ngà, có cây đa to, có thằng Cuội già, ôm một mối lo. Cuội ơi, ta nói Cuội nghe: Ở cung trăng mãi làm gì Cuội ơi”!
Tại sao các em lại nhìn lên ông trăng mà gọi thằng Cuội? Thằng Cuội là ai? Tại sao Cuội phải ngồi ôm gốc cây? Ở mãi cung trăng để làm gì?
Trong kho tàng ca dao tục ngữ, cha thấy có một câu thơ lục bát:
Thằng Cuội ngồi gốc cây đa,
Bỏ trâu ăn lúa, gọi cha ời ời.
Cha còn cắt cỏ trên đồi
Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời quan viên.
Dân gian vẫn thường hát:
Bắc thang lên đến tận mây
Hỏi sao Cuội phải ôm cây cả ngày?
Cuội nghe hỏi thế, Cuội cười:
Bởi hay nói dối nên ngồi ôm cây.
Hóa ra thằng Cuội trả lời là vì hay nói dối. Thảo nào, thiên hạ mới có câu tục ngữ rất quen: “Nói dối như Cuội”.
Nhân ngày Tết Trung thu, bài học là hãy sống đơn sơ thật thà như Chúa Giêsu đã dạy: “Hễ có thì nói có, không thì nói không” (Mt 5, 37; Gc 5, 12). Đừng có bao giờ nói dối.
*****************
Các bậc phụ huynh thân mến,
Hôm nay, ngày Tết Trung Thu của các em, ai trong chúng ta cũng không muốn trời mưa hay bầu trời nhiều mây vẩn đục che mất ánh trăng, làm cho Tết Trung Thu bớt vui. Trái lại, muốn cho trời tạnh ráo, trời trong thanh để con em chúng ta có thể ngắm trăng sáng vằng vặc trên bầu trời, ngắm thằng Cuội, lễ và rước đèn xong vừa ngắm trăng vừa nhâm nhi vài miếng bánh ngọt, xen lẫn tiếng cười vui là điều ai cũng mong muốn.
Nhưng tôi nghĩ rằng, bầu trời trong thanh không một gợn mây, là dấu chỉ không những các em mà cả chúng ta nữa phải có một tâm hồn trong sạch, đơn sơ, thật thà, dễ thương. Vì thế mà ý nguyện nhập lễ hôm này không chỉ xin cho các em, mà còn cho cả chúng ta nữa: “xin cho các em biết luôn giữ tâm hồn đơn sơ trong trắng và xin cho chúng con (tức là chúng ta những bậc làm cha mẹ và người lớn) được nên giống các em để mai sau được cùng về quê trời chiêm ngưỡng thánh nhan Chúa” (Lời nguyện nhập lễ).
Thật vậy, trẻ thơ luôn đơn sơ, thật thà, không ăn gian nói dối như thằng Cuội… Thế nhưng ngày nay, nhiều trẻ thơ đã bị những vẩn đục là người lớn như cây đa thằng Cuội che sáng vầng trăng, gây gương mù cho, làm cho các em trở nên ganh tị, ích kỷ, kéo quân, không biết nhín nhường anh chị em và các bạn… bị nhiễm thói đời hay nói dối, nói quanh co, không dám nói sự thật. Điều này Chúa Giêsu lên án rất gắt gao:
Ai nêu gương hại trẻ con
Đáng đeo cối đá thả lòng biển khơi.
Nếu chúng ta làm gương mù gương xấu cho con em, là chúng ta cướp đi tuổi thơ của các em. Chúa Giêsu dạy chúng ta:
Này Ta bảo thật các ngươi
Nếu không trở lại giống người tiểu nhi
Nước Trời đừng nói làm chi
Các người không thể có hy vọng vào.
Tết Trung Thu, cùng với Ban hành giáo, giáo lý viên, hết mọi người cầu chúc tất cả các em mạnh khỏe khôn ngoan, bước vào năm học mới với nhiều niềm vui và ơn thánh Chúa, để các em trở nên những trò giỏi con ngoan, thiếu nhi ngoan hiền của Chúa Giêsu, càng thêm thêm tuổi càng thêm khôn ngoan và ơn nghĩa Chúa, cũng như sự mến chuộng của mọi người.
Chúc các bậc phụ huynh ấm êm hạnh phúc, trở nên cha mẹ mẫu mực cho đàn con. Amen.
Suy Niệm 5: TẾT TRUNG THU (Hc 42,15-16; 43,1-2.6-10; Mc 10,13-16)
(Lm Nguyễn Trung Thành)
Hôm nay chúng ta dâng thánh lễ mừng Tết Trung Thu. Trung nghĩa là giữa, thu là mùa thu. Trung Thu là Tết giữa mùa thu. Mùa thu khí hậu mát mẻ hơn các mùa khác. Đa phần đất nước VN thuộc khí hậu miền nhiệt đới, chỉ có hai mùa : mùa nóng và mùa mưa, nên chúng ta khó thưởng thức được khí mát của mùa thu.
Thay vào đó chúng ta được ngắm trăng. Không có đêm nào trăng tròn bằng đêm trung thu, cũng như không có buổi trưa nào mặt trời đứng bóng bằng trưa tết Đoan Ngọ. Tết Trung Thu là tết ngắm trăng.
Ngày xưa ở bên Tầu, vua Đường Minh Hoàng ngồi ngắm trăng vào đêm Trung Thu. Trăng qúa đẹp. Vua đang say ngắm thì một ông tiên đầu râu tóc bạc đến hỏi : “Bệ hạ có muốn lên thăm cung trăng không ?” Vua sung sướng trả lời : “Dạ, có.” Thế là vị tiên ông đưa vua lên thăm cung trăng. Trên cung trăng, vua được ngắm từng đoàn tiên nữ múa với những điệu múa vô cùng đẹp. Sau khi thưởng thức, vua được đưa trở lại trần gian.
Trăng theo truyền thuyết chính là con thỏ. Vào một năm mất mùa. Ai cũng đói. Các loài vật đi tìm thức ăn. Nhiều khi tranh giành giết lẫn nhau. Chú thỏ bản tính sợ sệt, không dám ra ngoài kiếm ăn, suốt ngày ở trong lỗ. Có lần khí trời qúa rét, thấy đống lửa, thỏ ra ngoài, lại gần sưởi ấm. Các con vật khác cũng có mặt, nhưng con nào con nấy ốm o bụng đói. Có con ủ rũ như sắp chết. Thỏ động lòng thương. Thỏ nghĩ thà mình chết, còn hơn để người khác chết. Thế là thỏ nhảy vào đống lửa để tự thiêu, làm thức ăn cho các con vật khác. Ngọc Hoàng nghe biết lòng qủang đại hy sinh của thỏ, Ngài cầm mấy khúc xuơng thỏ còn lại biến thành mặt trăng, để người người ngắm noi gương thỏ.
Trên cung trăng có cuội và cây đa. Chúng ta thường hát :
Thằng cuội ngồi gốc cây đa
Bỏ trâu ăn lúa gọi cha ời ời
Cha còn cắt cỏ trên trời
Mẹ còn cỡi ngựa đi mời quan viên.
Cuội là người hay nói dối, đánh lừa người khác. Cuội nghe có một ông lão có cây đa thần. Lá cây đa chữa đủ thứ bệnh. Cuội đánh lừa ông lão để lấy cây đa đó. Ông lão dặn cuội : “Nếu trồng phía đông thì tưới phia tây. Nếu trồng phía tây thì tưới phía đông.” Vợ cuội đã được cuội dặn, nhưng quên. Cây trồng phía đông, vợ cuội đã tưới phía đông. Cây đa từ từ bật gốc bay lên trời. Trong nhà, trông thấy, cuội vội chạy ra, ôm gốc cây đa kéo xuống, nhưng cây đa đã kéo cuội lên theo. Từ đó mặt trăng có chú cuội và cây đa.
Tết Trung Thu người ta múa lân, rước đèn. Sự tích như sau :
Có một bà lão đi chợ sắm hoa trái để mừng Tết Trung Thu. Chợ xa, khi trời xẩm tối bà lão mới về. Bà phải đi qua một khu rừng có con sư tử chuyên ăn thịt người. Trên đường về, bà bị sư tử bắt. Bà xin sư tử cho bà được thưởng thức đêm Trung Thu, sau đó bà sẽ tới nộp mình. Sư tử đồng ý. Thưởng thức đêm Trung Thu xong, nhớ đến giây phút phải nộp mình, bà lão khóc nức nở. Tiếng khóc của bà thấu tới trời. Ngọc hoàng nghe xót thương, sai một con rết xuống trần bảo vệ bà mà bà không biết. Bà đến nộp mình cho sư tử. Con rết âm thầm theo sau. Khi sư tử đến gần vồ bà thì con rết cũng xông tới cắn sư tử chết. Dân làng biết bà thoát nạn, đã chặt đầu sư tử và rước con rết đi vòng quanh khắp làng.
Qua các tích truyện vừa kể, Tết Trung Thu là tết ngắm trăng và gẫm suy sự đời. Sự đời có gian dối như chú cuội, dữ dằn như sư tử; song cũng có thương yêu, thật thà như con thỏ, bà già, các thần tiên…
Lời Chúa trong thánh lễ hôm nay cũng nói lên điều đó.
Trước hết bài đọc 1 đọc trong sách Huấn Ca. Sách Huấn Ca ca ngợi Thiên Chúa sáng tạo bầu trời. Sách viết về mặt trăng như sau :
Cả vầng trăng cũng luôn đúng hẹn
Làm dấu hiệu muôn đời chỉ rõ thời gian
Trăng đánh dấu các thời kỳ đại lễ
Có khi khuyết, có lúc lại tròn.
Tác giả sách Huấn Ca đã nhìn trăng mà nhận ra Thiên Chúa sáng tạo.
Rồi bài Tin Mừng, thánh Mác-cô đã kể Chúa Giêsu yêu thương các thiếu nhi.
Người đời chưa biết Chúa, nên đã có những câu chuyện tưởng tượng để thỏa mãn lòng yêu mến thiên nhiên và Đấng Tạo Hóa. Còn chúng ta đã biết Chúa. Chúa dựng nên trăng sao tinh tú. Chúa yêu thương mọi người, đặc biệt là các thiếu nhi.
Ước chi thánh lễ Trung Thu hôm nay, mỗi thiếu nhi sống thật thà yêu thương, để được Thiên Chúa chúc phúc như xưa Chúa đã chúc phúc cho các thiếu nhi Do Thái.
Suy Niệm 6: LỄ TRUNG THU Hc 42,15-16;43,1-2.6-10; Mc 10,13-16
(Lm. Giuse Nguyễn Văn Toanh)
Hằng năm cứ vào ngày rằm tháng 8 Âm lịch, thiếu nhi lại có một ngày thật vui vẻ. Đó là ngày Tết Trung Thu. Nếu thời tiết đẹp và trời không mưa thì bầu trời đầy sao, trăng tròn vành vạnh, ánh sáng long lanh đổ đầy xuống mặt đất. Đến các điểm vui chơi trung thu, con sẽ thấy những chiếc đèn lồng, đèn ông sao, bóng bay đủ màu, và múa lân. Trong gia đình các con cũng thế: có bánh trung thu, có đèn lồng, đèn ông sao, các con có quần áo mới... Nhà thờ giáo xứ chúng ta hôm nay cũng được trang hoàng rất đặc biệt với bóng bay, đèn ngôi sao, đèn lồng…
Những gì các con thấy đặc biệt hôm nay cho thấy tình thương, sự quan tâm của người lớn dành cho các con. Từ ông bà, cha mẹ, anh chị em trong gia đình các con đến các cha, các sơ, các thầy, các anh chị giáo lý viên và huynh trưởng ở nhà thờ đều yêu thương các con, muốn cho các con có được một ngày tết thật vui vẻ. Các con này: trước khi ông bà, cha mẹ, anh chị em trong gia đình và các cha, các thầy, các sơ, anh chị giáo lý viên và huynh trưởng yêu thương các con, Thiên Chúa và Chúa Giêsu đã yêu các con rất nhiều rồi.
Các con à! Thật là như thế. Bài đọc một trích sách Huấn ca kể rằng Thiên Chúa đã dựng nên muôn loài. Ngài cho mặt trời tỏa sáng nhìn xuống muôn vật, cho bầu trời trong vắt cao xanh, cho hừng đông ló rạng, cho vầng trăng khi tỏ khi mờ, lúc trong lúc khuyết và luôn đúng hẹn làm dấu hiệu muôn đời chỉ rõ thời gian. Chúa còn dùng ánh trăng làm dấu các ngày lễ như hôm nay chẳng hạn: Tết Trung Thu, tết của thiếu nhi. Theo chu kỳ, Chúa cho trăng cứ tròn thêm mãi để đến rằm thánh 8 thì ánh trăng tròn vô cùng và có muôn vàn vì sao lấp lánh cùng với trăng tỏa sáng. Đấy Chúa yêu chúng ta là thế. Nếu không có bầu trời, không có ánh trăng và các ngôi sao thì liệu có Tết Trung Thu không các con nhỉ? Cha nghĩ chẳng có và dịp vui của các con hôm nay chẳng bao giờ có.
Bài Tin Mừng cũng nói cho chúng ta về tình thương tuyệt vời Chúa Giêsu dành cho thiếu nhi. Tin Mừng kể rằng khi Chúa đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi, có lúc trẻ nhỏ đến chơi với Chúa, quấy rầy làm phiền Chúa giống như thỉnh thoảng các con đi lễ ghé vào nhà xứ chơi vậy. Các môn đệ thấy thế thì khó chịu la rầy chúng. Thấy thái độ của các ông như thế không được, Chúa Giêsu đã bực mình và bảo rằng: “Cứ để trẻ nhỏ đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng.” Chúa Giêsu còn nói thêm: “Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào Nước Thiên Chúa.” Sau khi nói những lời đó xong, Chúa Giêsu ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho các em.
Thiên Chúa là Cha đã yêu thương các con vô ngần và Chúa Giêsu cũng vậy. Ngài ôm trẻ vào lòng và đặt tay chúc lành cho các em. Nếu Chúa đã yêu các con như vậy thì các con cũng phải làm gì đó để bày tỏ tình yêu với Chúa. Các con thử nghĩ coi, mình sẽ làm gì nào? Vui vẻ, đơn sơ, chăm ngoan ở trường, ở nhà và ở nhà thờ. Thế nào là đơn sơ? Thật thà có sao nói vậy, sống ngay thẳng với bạn bè, cha mẹ, thầy cô, không nói xấu bạn, không ganh tị, không đánh bạn…. Chăm ngoan là làm sao nào? Ở nhà biết vâng lời giúp đỡ cha mẹ, anh chị, các em. Ở trường vâng lời thầy cô học hành cho giỏi và sẵn sàng giúp đỡ bạn bè.
Các con thử hỏi lòng mình, mình có sống như thế bao giờ chưa? Cầu xin Chúa chúc lành cho các con hôm nay và mọi ngày sống của các con. Xin Chúa ban cho các con nhiều hồng ân để các con sống xứng đáng với tình yêu thương của Chúa, của cha mẹ, người thân và những người có trách nhiệm dạy dỗ các con. Amen.
Suy Niệm 7: VUI TẾT TRUNG THU_ĐƠN SƠ NHƯ BỒ CÂU
(Lm Giuse Đinh lập Liễm)
I. BÀI TIN MỪNG HÔM NAY
Khi ấy, người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giêsu, để Người đặt tay trên chúng. Nhưng các môn đệ la rầy chúng.
Thấy vậy, Người bực mình nói với các ông: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng. Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào”.
Rồi Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng (Mc 13-16).
Các con thân yêu,
Các con biết không, ngày xưa, người Do thái có thói quen dẫn trẻ em đến với những người có uy tín để được chúc lành. Chúa Giêsu là người đã nổi tiếng, lại dễ mến, dễ thương, dễ đến gần, nên người ta đem trẻ em đến cho Chúa chúc lành.
Nhưng, như chúng con biết, trẻ em hay bắng nhắng, quấy rầy, làm mất thời giờ của người lớn, nên các môn đệ xua đuổi chúng đi. Thấy vậy, Chúa Giêsu tỏ ý không bằng lòng và khuyên các ông đừng ngăn cản chúng. Ngài nói: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cản chúng, vì Nước Trời thuộc về những ai giống như chúng” (Mc 10,14). Rồi Ngài ôm lấy các em vào lòng và đặt tay chúc lành cho chúng.
Các con có hiểu tại sao Chúa Giêsu lại nói: “Vì Nước Trời là của những người giống như trẻ nhỏ” không? Thưa, bởi vì trẻ nhỏ hoàn toàn tin tưởng và phó thác nơi cha mẹ.
Trẻ nhỏ biết vâng lời cha mẹ, không cần lý luận xem tại sao cha mẹ bảo làm thế,
trẻ nhỏ không so đo tính toán lời lỗ, hơn thiệt…
Đối với trẻ nhỏ, cha mẹ là thần tượng, cha mẹ làm gì cũng đúng, nói gì cũng hay…
Ngoài ra, trẻ nhỏ thì đơn sơ thật thà, có sao nói vậy, không thêm bớt, không hằn thù, không mưu mô, không làm hại ai. Các em đã thực hiện lời Chúa nói: “Hãy khôn ngoan như con rắn và đơn sơ như bồ câu” (Mt 10,16).
Vì thế, người ta thường nói về sự đơn sơ thật thà của trẻ em qua kinh nghiệm hằng ngày: “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ” (Tục ngữ)
Có một em nhỏ nói với Chúa Giêsu một cách đơn sơ tự nhiên không đắn đo, nghĩ sao nói vậy. Em đã nói với Chúa: “Chúa ơi, chúng con đọc trong sách rằng ông Thomas Edison đã thắp sáng. Nhưng trong lớp giáo lý, chúng con học rằng Chúa đã dựng nên ánh sáng. Vì vậy, con nghĩ rằng ông ấy đã ăn cắp sáng kiến của Chúa”!
Nhưng chắc Chúa Giêsu sẽ trả lời cho em: “Ông ta không ăn cắp sáng kiến của Ta đâu. Ta đã vui lòng tặng cho ông ấy cái sáng kiến đó, và ông ấy đã chế ra bóng đèn để giúp ích cho nhân loại. Có nhiều điều Ta cũng ban cho con… mà càng lớn lên con càng thấy rõ. Hãy phát huy chúng vì ích lợi của mọi người. Con nhé”.
II. BÀI HỌC TRONG NGÀY TẾT TRUNG THU.
Hôm nay, nhìn lên bầu trời, các con thấy trời đẹp với trăng thanh gió mát. Các con đi múa lân trong khắp giáo xứ, tay cầm đèn ông sao, con cá con tôm, chân nhảy múa tưng bừng, miệng ca vang bài: “Bóng trăng trắng ngà, có cây đa to, có thằng Cuội già, ôm một mối lo. Cuội ơi, ta nói Cuội nghe: Ở cung trăng mãi làm chi”!
Tại sao các con lại nhìn lên ông trăng mà gọi thằng Cuội? Thằng Cuội là ai? Tại sao Cuội phải ngồi ôm gốc cây? Ở mãi cung trăng để làm gì? Hôm nay, cha sẽ kể cho các con nghe sự tích thằng Cuội ngồi ôm gốc cây đa nhé!
Trong kho tàng ca dao tục ngữ, cha thấy có một câu thơ lục bát:
Thằng Cuội ngồi gốc cây đa,
Bỏ trâu ăn lúa, gọi cha ời ời.
Cha còn cắt cỏ trên đồi
Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời quan viên.
Thằng Cuội, theo truyền thuyết, đó là một kẻ đi nói dối cha, về nhà nói dối chú. Suốt đời, đánh lừa mọi người. Hồi còn nhỏ, ngày kia vì cha mẹ đi vắng, nó phải coi nhà. Buồn tình, nó bỗng nghĩ ra một trò chơi, nên vội kêu la thất thanh: “Bớ làng nước ơi, cháy nhà, cháy nhà. Cứu tôi với”. Mọi người hối hả mang chậu, xách thùng tới tiếp cứu. Thấy vậy, nó bèn cười ngặt nghẽo đến vãi cả nước mắt ra.
Lần khác, nó ngồi thổi cơm, chẳng may để lửa bén vào đống rơm và căn nhà bốc cháy. Nó cũng kêu la thất thanh: “Bớ làng nước ơi, cháy nhà, cháy nhà. Cứu tôi với”. Thế nhưng, lần này chẳng ma nào đến tiếp cứu. Vì thế, dân gian mới bảo:
Bắc thang lên đến tận mây, Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả ngày?
Cuội nghe hỏi thế, Cuội cười: Bởi hay nói dối nên ngồi ấp cây.
Cũng bởi hay cái tính táy máy này, mà thằng Cuội trở thành hình ảnh tượng trưng cho những kẻ chuyên môn lừa gạt, nói dối. Do đó, thiên hạ mới có câu tục ngữ rất quen: “Nói dối như Cuội”.
Hay nói một đàng mà làm một nẻo thì người ta gọi là “Hứa Cuội”, có nghĩa là hứa thì rất nhiều mà chẳng làm được gì cả. Do đó, đưa đến một câu tục ngữ khác: “Mười voi không được một bát nước xáo”, có nghĩa là nói bậy bạ khuếch khoác, lời nói ấy cũng giống như làm thịt ba con voi mà chẳng được bát nước xáo. Lời nói vô bổ, không thể tin được.
Nhân ngày Tết Trung thu, cha muốn nói với các con về sự tích thằng Cuội và có lẽ các con sẽ thắc mắc rằng chúng con học được cái gì ở nơi thằng Cuội? Cha muốn nói với các con rằng trong kho tàng truyện cổ tích, truyện thần thoại hay ngụ ngôn, tác giả luôn nhằm mục đích giáo dục, muốn con người hướng thiện, muốn vươn lên theo khía cạnh tích cực hay tiêu cực, nghĩa là có những việc cần phải bắt chước, cũng có việc nên tránh. Trong trường hợp này là đừng nên giống thằng Cuội.
Như vậy, bài học mà các con có thể rút ra từ câu truyện thằng Cuội hôm nay đó là đừng bao giờ nói dối. Hay nói một cách tích cực là hãy sống đơn sơ thật thà, đơn sơ chất phác, đừng thêm thắt gì, có sao nói vậy, như Chúa Giêsu đã dạy: “Hễ có thì nói có, không thì nói không” (Mt 5,37; Gc 5,12).
III. LỜI CẦU XIN HÔM NAY
Chắc các con không muốn hôm nay trời mưa hay bầu trời nhiều mây vẩn đục, như thế làm cho buổi múa lân hôm nay mất vui. Trái lại, các con muốn cho trời tạnh ráo, trời trong thanh để các con có thể ngắm trăng sáng vằng vặc trên bầu trời, ngắm thằng Cuội, vừa ngắm trăng vừa nhâm nhi vài miếng bánh ngọt, xen lẫn tiếng cười dòn vang như pháo nổ. Như thế thì tuyệt cú mèo rồi!!!
Các con muốn cho trăng rằm tháng 8 năm nay phải rực rỡ trên bầu trời, phải có trăng thanh gió mát để các con được hưởng trọn vẹn một Tết Trung thu dành cho các con. Đó là điều ai cũng mong muốn. Nhưng cha nghĩ rằng, bầu trời trong thanh không một gợn mây, đó là dấu chỉ các con phải có một tâm hồn trong sạch, đơn sơ, thật thà, dễ thương.
Thật vậy, trẻ thơ cần phải luôn đơn sơ, thật thà, không ăn gian nói dối như thằng Cuội…
Thế nhưng ngày nay, nhiều trẻ thơ đã nhiễm thói đời hay nói dối, nói quanh co, không dám nói sự thật.
Điều đó đã làm cho các em đánh mất tuổi thơ của mình. Nếu một em bé đã nhiễm thói ăn gian nói dối, là tự mình đánh mất tuổi thơ, đánh mất vẻ hồn nhiên tươi vui sẽ làm cho con người ra già cỗi, và tự đầy đọa mình như thằng Cuội, suốt đời ôm một mối lo!
Truyện : Xin được trở lại chuồng ngựa
Ngày xưa bên Trung hoa có một ông vua văn chương rất dở mà lại thích làm thơ. Thỉnh thoảng vua hội các quan lại, rồi trao cho các ông đọc những bài thơ bát cú, tứ tuyệt, song thất lục bát mình đã sáng tác và hỏi ý kiến: ông mong được các quan ca tụng hơn là phê bình. Dĩ nhiên, quan nào cũng khen hay, tuyệt bút, hấp dẫn…
Một hôm, có một ông quan ở tỉnh xa về kinh có việc, được vua mời đến dự. Hôm đó, vua làm một bài thơ tả cảnh ngày xuân trong nước. Cũng như mọi lần, các quan triều tấm tắc khen ngợi, còn ông quan khách ngồi mà chẳng nói gì. Vua quay nhìn và hỏi ý kiến. Vị quan khách nhìn vua vừa đưa mắt trông các quan rồi mạnh bạo tâu rằng: “Theo thiển ý riêng của mình, thì bài thơ đó không có gì đáng kể”. Nghe câu nói táo bạo đó, các quan đều khiếp sợ và vua cũng xấu hổ và bực tức, liền dạy trói lại và đem để dưới chuồng ngựa.
Cách mấy hôm vua rán làm bài thơ khác khéo léo hơn, rồi trước mặt đông đủ các quan, ngài ngâm nga các bài thơ đặc sắc mới làm và tin chắc rằng bài thơ có một cái gì phi thường. Bài thơ được hết các quan vỗ tay khen ngợi.
Tưởng rằng lần này vị khách kia không thể không khen, và mình sẽ nhờ dịp đó trả lại tự do cho ông. Vua cho vời quan đó đến và trao cho xem bài thơ mới này. Cầm lấy đọc đi đọc lại mấy lần, quan đó đưa lên trả lại cho vua, và xin cho mình ngồi ở chuồng ngựa như trước.
Hiểu rằng ông quan này chê bài thơ của mình, song cũng nhận thấy ông là người chân thật, can đảm, mạnh bạo; không phỉnh phờ tơ tóc lấy lòng, mà cũng không sợ tù tội hay bị cất chức, một mến yêu sự thật, nói sự thật và bênh sự thật, cho nên thay vì bảo ông trở lại chuồng ngựa, vua kính phục khen ngợi, và phong ông lên làm cố vấn tối cao trong đền. Còn các quan kia vua tỏ ra khinh dể, không tin cẩn, và lần lượt đầy họ ra bên rìa.
Hôm nay, Tết Trung thu, ngày Tết của tuổi thơ, chúng ta cùng cảm tạ Chúa đã ban cho các em có dịp thuận tiện để vui cái Tết của mình. Chúng ta cũng hãy sốt sắng hiệp dâng Thánh lễ để xin Chúa ban cho các em thiếu nhi trong giáo xứ chúng ta biết giữ gìn nét đẹp tuổi thơ của mình bằng cách luôn sống đơn sơ ngoan hiền, luôn vâng lời cha mẹ và sống chân thật để được Chúa luôn yêu thương và chúc lành.
Một lần nữa, cha mong các con thực hiện lời Chúa đã dạy ở trên và thực hiện lời thánh Giacôbê dạy: “Đừng có thề, dù là lấy trời, lấy đất, hay lấy cái gì khác mà thề. Nhưng hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”, như thế, anh em sẽ không bị xét xử” (Gc 5,12).
20/09 Đèn sáng đặt đúng chỗ
- Viết bởi Lc 8, 16-18
Đèn sáng đặt đúng chỗ.
Thứ Hai tuần 25 thường niên. – Thánh Anrê Kim Têgon, Phaolô Chung Hasan và các bạn, tử đạo. Lễ nhớ.
“Đặt đèn trên giá đèn, để những ai đi vào đều thấy sự sáng”.
* Nhờ việc tông đồ của một số giáo dân, đức tin Kitô giáo đã đi vào Hàn Quốc đầu thế kỷ XVII. Dù thiếu các mục tử, giáo đoàn vẫn sống đức tin hăng say và mạnh mẽ. Cộng đoàn được hướng dẫn và xây dựng hầu như chỉ nhờ những người giáo dân, cho tới cuối năm 1836, khi những nhà truyền giáo đầu tiên người Pháp bí mật đến xứ này.
Giáo đoàn này, với những cuộc bách hại vào những năm 1839, 1846, 1866, 1867, đã sản sinh ra 103 thánh tử đạo, trong đó nổi bật là linh mục đầu tiên người Hàn Quốc, cha Anrê Kim Têgon. Cha là một mục tử hăng hái nhiệt thành. Kế đó là người tông đồ giáo dân, anh Phaolô Chung Hasan.
Còn những vị khác, đa số là giáo dân nam, nữ, độc thân, có gia đình, người già, thanh niên, thiếu nhi. Tất cả đều đã lấy máu mình để làm chứng cho Chúa Kitô, làm nên mùa xuân tươi đẹp của Giáo Hội Hàn Quốc.
Lời Chúa: Lc 8, 16-18
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: “Không ai thắp đèn rồi lấy hũ che lại, hay đặt dưới gầm giường: nhưng đặt nó trên giá đèn, để những ai đi vào đều thấy ánh sáng. Vì chẳng có gì kín nhiệm mà không bị tỏ ra, và không có gì ẩn giấu mà không bị lộ ra cho người ta biết. Vậy các ngươi hãy ý tứ xem các ngươi nghe thế nào! Vì ai có, sẽ được cho thêm; còn ai không có, cả điều mình tưởng có cũng sẽ bị lấy đi”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Cách thức anh em nghe
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Bài Tin Mừng hôm nay chỉ có ba câu có vẻ rời rạc.
Ba câu này thánh Luca đặt nằm ngay sau dụ ngôn về người gieo giống.
Vậy ta phải hiểu các câu này trong bối cảnh của dụ ngôn trên,
một dụ ngôn nói về việc đón nhận hạt giống Lời Chúa.
Sống Lời Chúa cách nghiêm túc là thắp lên một ngọn đèn (c. 16).
Vào thời xưa, người ta dùng đèn dầu, làm bằng đất nung.
Hẳn nhiên ý hướng của người thắp đèn là soi sáng.
Ngọn đèn sáng để soi đường cho “những kẻ khác” vào nhà,
những người chưa được biết các mầu nhiệm Nước Thiên Chúa (c. 10).
Vì thế thật vô lý nếu có ai sau khi thắp đèn, rồi lấy cái hũ mà đậy lại,
hay đặt ngọn đèn dưới gầm giường.
Dù có lúc ánh sáng đó như bị che khuất hay trở nên leo lét,
nhưng đời Kitô hữu vẫn mãi mãi là ngọn đèn sáng đặt trên giá đèn
cho một thế giới mà bóng tối không ngừng vây bủa tấn công.
“Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ,
để họ thấy những việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha trên trời.”
Dù có lúc họ phải sống ẩn núp trong hang toại đạo,
hay phải chịu sống như Giáo hội thầm lặng,
nhưng giữ bí mật hay che giấu lén lút
lại không phải là thái độ thường xuyên của người Kitô hữu (c. 17).
Rồi đến ngày cái bí mật phải được vén mở,
cái che giấu phải được đem ra ánh sáng công khai.
Chúng ta có những hiểu biết về Thiên Chúa, về thân phận con người,
về ý nghĩa của khổ đau và cái chết.
Chúng ta có đức tin và niềm hy vọng, có niềm vui và bình an.
Chúng ta biết mình từ đâu đến và đang đi về đâu.
Kitô hữu không thể cất giấu kho tàng đức tin của mình được.
Họ có nghĩa vụ phải chia sẻ cho một thế giới đang khát khao.
Lời Chúa như nén bạc không được phép chôn giấu.
“Vậy hãy để ý tới cách thức anh em nghe.” (c. 18).
Có cách nghe kiểu vệ đường, nước đổ lá khoai,
có cách nghe không bám rễ vì sỏi đá,
có cách nghe bị chết ngộp vì cái tâm đầy vọng động.
Nhưng cũng có cách nghe của người giữ chặt lấy Lời
trong trái tim tốt lành và nhẫn nại (c. 15).
Ai nghe Lời Chúa cách hữu ích, người đó sẽ được lợi ích thêm.
Khi ta mở rộng cửa cho Lời Chúa tác động,
Lời sẽ xâm nhập vào đời ta càng lúc càng mạnh mẽ.
Còn ai cứng cỏi từ khước, thì ngay từ đầu, họ đã mất cả chì lẫn chài.
Tin Mừng hôm nay đưa chúng ta vào thái độ tích cực, dấn thân.
Thái độ của Kitô hữu là đứng hẳn về phía ánh sáng.
Nhiệm vụ của chúng ta là thắp sáng, chiếu sáng và đem ra ánh sáng,
để những ngọn đèn nhỏ của ta dẫn nhân loại đến với Ánh Sáng Giêsu.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu
tạ ơn Chúa đã cho chúng con
ánh sáng mặt trời, mặt trăng,
và ánh sáng từ những nguồn năng lượng trên mặt đất.
Tạ ơn Chúa
vì Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng.
Đó là vinh dự
và cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Xin cho chúng con có khả năng đẩy lui bóng tối
của hận thù và bất công,
của buồn phiền và thất vọng.
Xin cho chúng con biết giữ gìn ngọn lửa
mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con,
và biết vâng theo những soi sáng của Chúa
qua từng phút giây của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu,
cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối
vẫn còn tiếp diễn
trên thế giới và trong lòng chúng con.
Ước gì chúng con
đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối,
nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa,
để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.
Suy niệm 2: Ai có sẽ cho thêm
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Lời Chúa là ngọn đèn. Đèn phải đặt trên cao để soi tỏ bước đi. Giống như ngọn hải đăng soi đường cho tầu bè đi trong đêm tối. Cũng vậy Lời Chúa phải hướng dẫn đời sống ta từ suy tưởng đến lời nói và đặc biệt trong việc làm. Lời Chúa phải trở thành châm ngôn, thành nguyên tắc, thành chỉ nam cho đời sống. Đời sống vốn tràn đầy bóng tối của ma quỉ, xác thịt, thế gian. Chỉ có Lời Chúa mới phá tan bóng tối, chỉ cho ta biết đi trên đường ngay thẳng.
Người sống và làm theo Lời Chúa dạy, dù có âm thầm thì rồi cũng sáng tỏ. Hữu xạ tự nhiên hương. Hương thơm nhân đức sẽ lan tỏa tới mọi người, sẽ ướp thơm xã hội, sẽ biến đổi môi trường sống. Và Lời Chúa sẽ được tôn vinh.
Người nghe và thực hành Lời Chúa giống như hạt giống gieo vào đất tốt. Sẽ sinh bông hạt trăm nghìn. Càng thực hành Lời Chúa cuộc sống càng phong phú. Càng lắng nghe Lời Chúa tâm hồn càng bén nhậy và càng được Chúa mặc khải những chân lý cao sâu. Càng đi vào mầu nhiệm Nước Trời, tâm hồn càng nếm cảm sự ngọt ngào của tình yêu Thiên Chúa. Cứ thế mùa gặt càng thêm phong phú.
Vua Ky-rô là mẫu gương của người nghe và thực hành Lời Chúa. Được Lời Chúa phán bảo, nhà vua tức khắc ra chỉ thị tái thiết Đền thờ Giê-ru-sa-lem. Kêu gọi người Ít-ra-en trở về xây dựng đền thờ. Chỉ thị cho mọi người trong đế quốc rộng rãi đóng góp vàng bạc, đồ vật quí giá và cả thực phẩm. Chỉ thị đó đem lại ánh sáng cho bao tâm hồn, từ người Do thái đến người dân ngoại, từ người ở Pa-lét-tin đến người đang lưu đầy xa xứ, từ bậc trưởng thượng đến hàng lê thứ. “Những người đứng đầu các gia tộc của Giu-đa và Ben-gia-min, các tư tế và các thầy Lê-vi, tất cả những người được Thiên Chúa tác động trên tâm trí, trỗi dậy để đi lên xây Nhà Đức Chúa ở Giê-ru-sa-lem. Mọi người hàng xóm láng giềng đều mạnh tay giúp họ: bạc, vàng, của cải, thú vật, những đồ vật có giá, không kể mọi lễ vật tự nguyện” (năm lẻ).
Trong đường hướng đó, sách Châm ngôn khuyên dậy ta hãy thực hành Lời Chúa, đặc biệt hãy làm điều lành cho tha nhân. Người thực hành Lời Chúa sẽ đi trên đường ngay thẳng, hành động chính trực công minh và được Chúa ban ngàn muôn phúc lành. Đặc biệt “những ai chính trực Người nhận làm bạn tâm giao…Đức Chúa tuổn đổ phúc lành trên nơi ở của những người chính trực công minh”. Được Chúa là được tất cả. Người được Chúa sẽ được hạnh phúc. Càng yêu mến và càng muốn nghe và thực hành Lời Chúa hơn. Đó là có lại cho thêm (năm chẵn).
Suy niệm 3: Ngọn Ðèn Ðức Tin
Bất cứ du khách nào sau một lần viếng thăm nước Mỹ, cũng đều phải thán phục tinh thần làm việc và óc thực dụng của người Mỹ: tất cả những nghiên cứu của đại học đều được kỹ nghệ đỡ đầu, tất cả những phát minh mới của khoa học đều tìm được ứng dụng trong kỹ nghệ. Người Kitô hữu có thể nhìn vào đó để rút ra bài học cho đời sống đức tin của mình không?
Thánh Giacôbê Tông đồ đã viết: "Một đức tin không có việc làm là đức tin chết". Một đức tin không được diễn đạt, không được ứng dụng trong đời sống hàng ngày phải chăng không là đức tin chết?
Trong Tin Mừng hôm nay, khi đưa ra hình ảnh chiếc đèn, Chúa Giêsu muốn nối lại truyền thống thực tiễn của Cựu Ước. Cựu Ước không thích những lý luận trừu tượng, uyên bác của Hy Lạp. Khi tuyên xưng Thiên Chúa là Ðấng chân thật, Cựu Ước không lý giải về những phẩm tính trừu tượng của Ngài, nhưng tìm cách đo lường sự trung thành của Ngài trong lịch sử nhân loại. Khi tuyên xưng Thiên Chúa là Ðấng chân thật, Cựu Ước luôn nói đến những can thiệp của Thiên Chúa trong lịch sử con người. Khi Thiên Chúa phán một lời, lời đó không phải là một lời nói suông, mà trở thành thực tế; Thiên Chúa không chỉ nói qua các tiên tri, nhưng cuối cùng Lời của Ngài đã thành xác phàm.
Chiếc đèn được đốt lên phải đặt trên cao để soi cho mọi người trong nhà. Ðây là hình ảnh cuộc sống đức tin của người Kitô hữu: cũng như chiếc đèn, đức tin cần phải được thắp lên và chiếu sáng; nó phải được đốt lên bằng những hành động cụ thể hằng ngày. Thiên Chúa là Ðấng chân thật, bởi vì sự chân thật ấy được thể hiện bằng một chuỗi những yêu thương đối với con người. Người Kitô hữu chỉ thực sự là Kitô hữu khi cuộc sống của họ thể hiện chính cuộc sống của Chúa, là yêu thương và phục vụ.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 4: Ánh Sáng Chúa Kitô
Chúa Giêsu Kitô là ánh sáng chiếu soi cho mọi người mặc dù ánh sáng đó đôi khi gặp phải sự khước từ của phần nhân loại không tin. Thánh Gioan, nơi đầu sách Tin Mừng của ngài đã nhận định như sau: "Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối và bóng tối đã không diệt được ánh sáng. Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người đến ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có nhưng lại không nhận biết Người". Chúa Kitô là ánh sáng chiếu soi mọi người mang đến ơn cứu rỗi cho mọi người, cho mọi người được chứa chan niềm vui khi họ mở rộng tâm hồn tin Người và chấp nhận những sự thật do Người mạc khải. Niềm vui vì biết được sự thật, niềm vui vì sống theo sự thật, niềm vui được biến đổi bởi ánh sáng Chúa Kitô và cũng được trở nên ánh sáng, niềm vui đó phản chiếu ánh sáng của Chúa Kitô. Ðây là căn bản của niềm hy vọng nơi mỗi người tin Chúa được trở nên ánh sáng trong Chúa, Ðấng là ánh sáng. Không phải chỉ có Chúa Kitô là ánh sáng mà thôi nhưng mọi đồ đệ Chúa cũng được biến đổi để trở thành ánh sáng. Nơi Phúc Âm thánh Mátthêu chương 5, câu 14 trở đi, chúng ta đọc được những lời xác quyết trực tiếp của Chúa Giêsu: "Chúng con là ánh sáng thế gian, ánh sáng chúng con phải chiếu sáng được trước mặt mọi người để họ nhờ những việc làm tốt của chúng con, mà ngợi khen Cha chúng con trên trời".
Trở nên ánh sáng, không phải là đặc ân của một nhóm nhỏ mà là ân ban cho tất cả mọi người chấp nhận tuân theo Chúa, chấp nhận ánh sáng của Chúa. Ðây là lời mời gọi dấn thân, lời nhắc nhở trách nhiệm của người Kitô: ánh sáng phải chiếu sáng, phải phục vụ. Người Kitô phải là ánh sáng cho anh chị em bằng những việc tốt như Chúa Kitô là ánh sáng: "Ta là ánh sáng thế gian, ai theo Ta sẽ không bước đi trong bóng tối, nhưng có ánh sáng ban sự sống". Ánh sáng của Chúa Kitô được trao ban cho chúng ta để được cháy sáng, được phát triển luôn mãi trên bình diện thiêng liêng. Có được ánh sáng Chúa Kitô, không phải là tình trạng thụ động, mà là tích cực sinh động, mỗi ngày cần được phát triển thêm: "Ai có thì sẽ được cho thêm, ai không có thì cái mình tưởng là có cũng sẽ bị lấy mất đi". Ai có kho tàng đức tin và tình thương, có thiện chí và sức mạnh làm việc tốt thì sẽ được Chúa ban cho thêm những ân lành nhiều hơn nữa để cháy sáng thêm nữa nhờ lắng nghe Lời Chúa; ngược lại ai không có tình thương và thiện chí, không lo thực hiện việc tốt thì cả đức tin được trao ban cho cũng sẽ bị mất đi, không còn có đức tin nữa. Người Kitô nào không thực hành đạo thì sớm muộn gì cũng sẽ mất luôn cả đức tin.
Ước chi lời Chúa hôm nay thức tỉnh chúng ta trước trách nhiệm sống đức tin, làm việc tốt để được luôn luôn lớn lên trong Chúa Kitô, trở thành ánh sáng trong ánh sáng Chúa Kitô.
Lạy Cha
Chúng con cảm tạ Cha vì đã ban cho chúng con Chúa Giêsu Kitô làm ánh sáng soi dẫn chúng con, và cho chính chúng con được biến đổi, được trở thành ánh sáng trong ánh sáng của Chúa giữa thế gian. Xin giải thoát chúng con khỏi những bóng tối tật xấu, tội lỗi, làm che mờ hình ảnh Chúa nơi chúng con; xin giúp chúng con thoát khỏi ảnh hưởng xấu của hận thù, mánh mung, láo khoét, buồn chán. Xin cho chúng con luôn bước đi trong ánh sáng của Chúa cho đến ngày chúng con được đạt đến vương quốc ánh sáng vĩnh viễn muôn đời, nơi chúng con sẽ được kết hợp với Chúa mãi mãi muôn đời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 5: Đèn sáng đặt đúng chỗ
“Chẳng có ai đốt đèn, rồi lấy hũ che đi hoặc đặt dưới gầm giường, nhưng đặt trên đế, để những ai đi vào thì nhìn thấy ánh sáng.” (Lc. 8, 16)
Chắc chắn không ai đốt đèn để đặt dưới gầm giường. Ai cũng biết thế. Nhưng nếu Đức Kitô phải khổ tâm nói với chúng ta điều đó, chính vì Người thấy có người làm như kẻ đốt đèn đem đặt dưới gầm giường.
Ai cũng biết đốt đèn rồi đặt trên đế để soi sáng cho mọi người đi lại trong nhà. Đối với Thánh Lu-ca, đèn đây hẳn là lời Chúa.
Trước hết chúng ta cần quan tâm tìm cách giúp mình thấm nhuần lời Chúa mới mong giúp người khác sống lời Chúa. Càng sãn sàng đón nhận lời Chúa, càng được ánh sáng thấu suốt, sưởi ấm và gieo rắc có hiệu quả.
Lời của chúng ta có thành ánh sáng chiếu soi ra chung quanh có được hay không tùy mức độ chúng phản ảnh ánh sáng của Chúa. Nói cách khác, lời của chúng ta như lệnh vỡ kêu lạc điệu, nó không thể là tiếng vang lọt tai người khác. Ánh sáng của nó chập chờn leo lét như bình điện chì sắp hết hơi. Nó như đứa trò hề khua chuông gõ mõ, lập đi lập lại lời Chúa một cách máy móc, vô hồn. Thế giới ngày nay lột mặt nạ nhanh chóng hạng giả hình và càng ngày càng ít mắc lừa.
Làm sáng tỏ không đủ, còn phải biết soi sáng vào đâu và cách nào nữa. Đức Kitô đã dạy rất hay về điều đó. Người vừa nói mạnh mẽ, vừa tỏ ra tôn trọng vô cùng đối với mọi người. Người ta không dùng võ lực hay cưỡng bách để đưa lời Chúa đến cho con tim và khối óc được. Cũng không chiếu đèn pha làm mù mắt người ta. Chỉ có ánh đèn vừa phải kín đáo và sàng lọc hợp với yêu cầu mới làm cho dễ đón nhận. Những mầu êm dịu nhiều khi có hiệu quả hơn những mầu quá sống.
Một chiếc đèn đặt ở vị trí tốt là cả một nghệ thuật!.
GF
Suy niệm 6: Cá con là ánh sáng thế gian
Xem lại CN 5 TN A - và xem thêm thứ Năm tuần 3 TN
Khi nói về đèn, người ta nghĩ ngay đến đặc tính của nó là: chiếu sáng và đẩy lui bóng tối. Mất đi yếu tố này, nó không còn phải là chính nó nữa. Có chăng, chỉ là vật trang trí.
Hôm nay, Đức Giêsu ví các môn đệ của Ngài như là cây đèn, và bổn phận của các ông là phải chiếu sáng: "Các con là ánh sáng thế gian". Khi nói như thế, Đức Giêsu có ý nhắc các ông rằng: nếu bản chất của đèn là chiếu sáng, thì đời sống của các ông cũng phải tỏa sáng như vậy.
Những ánh sáng của người môn đệ chính là đời sống nhân hiền, khiêm tốn, từ bi, hay thương xót, biết thông cảm, luôn đồng hành với những ai cần sự giúp đỡ, sẵn sàng bảo vệ cho công lý, sống chết cho sự thật toàn vẹn. Nếu người môn đệ đi ngược lại, thì chẳng khác gì có đèn mà không có dầu, hoặc có đèn nhưng thực tế đèn đã hư hỏng, không còn tác dụng nữa.
Tuy nhiên, muốn trở nên đèn sáng để soi chiếu trần gian, người môn đệ phải biết gắn bó đời mình với Đức Giêsu là nguồn Ánh Sáng. Luôn biết sẵn sàng để cho Lời Chúa soi chiếu cuộc đời của mình trước, rồi kế đó, người môn đệ sẽ chiếu tỏa cho anh chị em của mình những giá trị Tin Mừng.
Ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, mỗi người đều được đón nhận một cây nến cháy sáng qua lời mời gọi của vị chủ sự: “Hãy nhận lấy ánh sáng Chúa Kitô”. Như thế, chúng ta thuộc về Ánh Sáng, hay nói đúng hơn, chúng ta là ánh sáng và bổn phận phải chiếu tỏa ánh sáng cho mọi người xung quanh. Không bao giờ chúng ta được phép chỉ giữ ánh sáng cho riêng mình. Hoặc có khái niệm: “Đèn nhà ai nấy rạng”. Nếu chúng ta có chủ trương ích kỷ, hẳn là một điều vô lý, vì: "Không ai thắp đèn rồi lấy hũ che lại, hay đặt dưới gầm giường”.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho ngọn đèn cháy sáng trong ngày Rửa Tội luôn chiếu sáng trên cuộc đời chúng con, để cuộc đời chúng con luôn phản chiếu ánh sáng của Chúa cho anh chị em xung quanh. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Dụ ngôn cái đèn
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1.Qua hình ảnh chiếc đèn được đặt nơi cao chiếu ánh sáng, Đức Giêsu muốn khuyên tín hữu phải có một cuộc sống gương mẫu để chiếu sáng trước mặt người khác; Đức Giêsu đem Tin Mừng đến trần gian, giảng dạy về Nước Trời, thành lập Giáo hội. Ngài không muốn những điều trên dành riêng cho một nhóm người nào riêng biệt, nhưng muốn thông ban cho mọi người. Riêng các Kitô hữu, phải sống sao cho người ta nhìn vào mà nhận ra Tin Mừng Nước Trời. Họ đã được hưởng ánh sáng Tin Mừng thì họ đừng giữ cho riêng mình, đừng dập tắt; trái lại, phải tìm cách làm lan tỏa ánh sáng đó ra cho mọi người chung quanh.
2. Chiếc đèn được đốt lên phải được đặt trên cao để soi sáng cho mọi người trong nhà. Lý do hiện hữu của chiếc đèn là để soi sáng. Cũng thế, lý do hiện hữu của người Kitô hữu là phải tỏa sáng niềm tin của mình. Việc làm chứng cho đức tin trong cuộc sống hằng ngày của những Kitô hữu chúng ta, không phải là một việc làm có tính cách nhiệm ý, nghĩa là muốn hay không tùy ý, mà trái lại đó là một đòi hỏi tất yếu, bao trùm tất cả đời sống Kitô hữu chúng ta.
Chiếc đèn ấy được đốt lên bằng những hành động cụ thể hằng ngày. Thiên Chúa là Đấng chân thật, bởi vì sự chân thật ấy được thể hiện bằng một chuỗi những yêu thương đối với con người. Người Kitô hữu chỉ thực sự là Kitô hữu khi cuộc sống của họ thể hiện chính cuộc sống của Chúa, là yêu thương và phục vụ.
3. “Chẳng có ai đốt đèn, rồi lấy hũ che đi hoặc đặt dưới gầm giường” (Lc 8,18).
Ánh sáng có nhiều tên gọi khác nhau. Ánh sáng mặt trời được gọi là ánh nắng; ánh sáng mặt trăng là ánh trăng; ánh sáng đèn được gọi là ánh đèn... Trong đêm Vọng Phục Sinh, khi mọi sự đang chìm trong bóng tối, ngọn nến phục sinh được thắp lên và được khởi xướng: “Ánh sáng Chúa Kitô”. Ánh sáng ấy là chính Chúa Kitô, là Lời Chân lý. Người Kitô hữu đón nhận ánh sáng Phục Sinh trong ngày lãnh bí tích Thánh Tẩy, được mời gọi giữ cho ánh sáng chân lý ấy tỏa sáng mãi trong suốt cuộc đời, để những người lân cận cũng nhìn thấy ánh sáng ấy. Nghĩa là, bằng nhiều cách thế, những ai tiếp xúc,”đi vào nhà”, đều nhìn thấy ánh sáng Chúa Kitô đang được ta “đặt trên đế” – trong cuộc sống của mình. Khi ấy, bạn được gọi tên “Ánh sáng cho trần gian”(Mt 13,14) (5 phút mỗi ngày).
4. Quả thật, Lời Chúa luôn có sức chiếu sáng rất mạnh. Chỉ tiếc rằng Lời Chúa rót vào tai một số người giống như dầu châm vào những cây đèn mà chúng không chịu cháy, nên chúng cũng vô ích. Bà Chiara Lubich nói: “Chúng ta phải sống thế nào để cho dù các sách Tin Mừng trên thế giới có bị đốt hết đi thì người ta cũng vẫn có thể nhìn vào cuộc sống chúng ta mà chép lại Tin Mừng đúng từng câu, tững chữ”.
Đức Cha Jean Koret, vị Gám mục Tiệp Khắc đã từng phải sống lén lút ở chế độ Tiệp Khắc trước kia, tâm sự rằng: Ngài đã gặp gỡ được nhiều người tốt, lúc ngài phải đi làm việc như một công nhân, hơn là lúc ở trong tòa Giám mục. Tiết lộ trên đây của Đức cha Jean Koret, đã phản ánh trung thực điều Chúa Giêsu đã phán: “Có ai đốt đèn rồi đem để ở trong thùng hay dưới gầm giường không”?
5. Tuy nhiên, muốn trở nên đèn sáng để chiếu soi trần gian, người môn đệ phải biết gắn bó đời mình với Đức Giêsu là nguồn Ánh Sáng. Luôn biết sẵn sàng để cho Lời Chúa soi chiếu cuộc đời của mình trước, rồi kế đó, người môn đệ sẽ chiếu tỏa cho anh chị em của mình những giá trị Tin Mừng.
Ngày lãnh nhận bí tích Rửa tội, mỗi người đều được đón nhận một cây nến cháy sáng qua lời mời gọi của vị chủ sự: “Hãy nhận lấy ánh sáng Chúa Kitô”. Như thế, chúng ta thuộc về Ánh Sáng, hay nói đúng hơn, chúng ta là ánh sáng và bổn phận phải chiếu tỏa ánh sáng cho mọi người chung quanh. Không bao giờ chúng ta được phép chỉ giữ ánh sáng cho riêng mình. Hoặc có khái niệm: “Đèn nhà ai nấy rạng”. Nếu chúng ta có chủ trương ích kỷ, hẳn là một điều vô lý, vì: “Không ai thắp đèn rồi lấy hũ che lại, hay đặt dưới gầm giường”.
Chúng ta hãy cầu xin cho mọi Kitô hữu chúng ta, luôn ý thức tầm quan trọng của việc sống niềm tin trong cuộc sống và quyết tâm sống niềm tin ấy, để mỗi người trở thành những ngọn đèn được thắp sáng giữa môi trường mà chúng ta đang sống và cũng để cho cuộc sống của chúng ta đẹp hơn, có ý nghĩa hơn.
6. Truyện: Ngọn đèn tỏa sáng.
Vào buổi chiều nọ, một người lấy từ trong hộp một cây nến nhỏ và leo lên tầng tháp cao. Cây nến hỏi:
- Chúng ta đang đi đâu vậy?
- Đi lên cao hơn để chỉ đường cho tầu bè vào cảng.
- Nhưng tôi bé nhỏ thế này làm sao tầu bè thấy được?
- Chỉ cần ngươi cứ cháy sáng thôi, còn mọi việc để ta lo.
Tới đỉnh tháp, người ấy đặt cây nến vào trong một cái đèn có ghép những tấm kính phản quang. Nhờ đó, mà ánh sáng lan tỏa ra và mọi tầu bè có thể thấy được.
Suy Niệm 8: Lời Chúa là đèn sáng
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Qua hình ảnh chiếc đèn được đặt nơi cao tỏa chiếu ánh sáng, Chúa Giêsu muốn khuyên tín hữu phải có một cuộc sống gương mẫu để chiếu sáng trước mặt người khác: Chúa Giêsu đem Tin Mừng đến trần gian, giảng dạy về Nước Trời, thành lập Giáo hội. Ngài không muốn những điều trên dành riêng cho một nhóm người nào riêng biệt, nhưng muốn thông ban cho mọi người. Riêng các Kitô hữu, họ phải sống sao cho người ta nhìn vào mà nhận ra Tin Mừng Nước Trời. Họ đã được hưởng ánh sáng Tin Mừng thì họ đừng giữ cho riêng mình, đừng dập tắt, trái lại phải tìm cách làm lan tỏa ánh sáng đó ra chung quanh.
- “Chẳng có gì bí ẩn mà không trở nên hiển hiện, chẳng có gì che dấu mà người ta lại không biết và không bị đưa ra ánh sáng”: Những chữ “gì” này nói đến các mầu nhiệm Nước Chúa ấy. Trong thời kỳ của Chúa Giêsu thì chúng còn được che dấu, còn là bí ẩn. Nhưng đến thời các tông đồ và thời của Giáo Hội, chúng phải được loan truyền, tỏa lan rực rỡ như ánh sáng của ngọn đèn đặt trên nơi cao.
- “Vậy hãy để ý đến cách thức anh em nghe”: Do cách nghe lời Chúa mà lời đó có kết quả hay không.
- “Ai có thì sẽ được cho thêm, còn ai không có thì ngay cái họ tưởng có cũng sẽ bị lấy mất”: Câu này là một ngạn ngữ được Chúa Giêsu mượn dùng. Một kinh nghiệm ở đời là kẻ đã giàu thì ngày càng giàu thêm, còn người đã nghèo lại cứ nghèo thêm, bởi vì “vốn sinh lãi, nợ đẻ nợ”. Chúa Giêsu mượn kinh nghiệm này để khuyến khích người ta chăm chỉ lắng nghe Lời Chúa: càng thực thi Lời Chúa thì lại càng được hiểu Lời Chúa nhiều hơn.
B.... nẩy mầm.
1. Lời Chúa là chiếc đèn soi sáng cho tôi và cho mọi người. Mỗi ngày ngọn đèn Lời Chúa được thắp sáng trong Thánh lễ và lúc nguyện gẫm. Để đèn trên giá cao là tôi sống Lời Chúa và nói Lời Chúa cho nhiều người khác được nghe. Lấy hũ che đèn lại hoặc đặt đèn dưới gầm giường là nghe Lời Chúa xong rồi quên đi, suốt ngày không nghĩ tới và không nói tới nữa.
2. Thực tế của các kitô hữu Việt Nam là đọc kinh, dự lễ nhiều nhưng chưa có thói quen học hỏi và sống Lời Chúa.
3. Thánh Giacôbê đã viết: “Một đức tin không có việc làm là đức tin chết”. Một đức tin không được diễn đạt, không được ứng dụng trong đời sống hằng ngày phải chăng không là đức tin chết? ("Mỗi ngày một tin vui")
4. “Chẳng có gì bí ẩn mà không trở nên hiển hiện, chẳng có gì che dấu mà người ta lại không biết và không bị đưa ra ánh sáng” (Lc 8,17)
Với ước mong “làm được cái gì đó” cho những người dân quê, chúng ta lên đường tham gia chiến dịch Ánh sáng văn hóa hè ở biên giới Tây Ninh. Lòng nhiệt thành hăng say của tuổi trẻ khiến chúng tôi bị hụt hẫng khi nhận ra những giới hạn của mình. Chúng tôi muốn làm một điều gì đó thật lớn lao cho họ nhưng đành bất lực.
Xin cảm tạ Cha vì Ngài đã cho con biết rằng: không phải khi nào con làm được điều gì lớn lao mới là lúc con làm vinh danh Chúa, nhưng từ những hành vi dù rất nhỏ bé của con: kể một câu chuyện, tập hát cho lũ trẻ, nghe và chia sẻ cùng thanh niên, đi làm chung với những người già… thì hình ảnh của Cha cũng sẽ ngày càng lớn lên trong mọi người (Hosanna)
19/09 Người lớn nhất trong nước trời
- Viết bởi Mc 9, 29-36
Người lớn nhất trong nước trời.
CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN năm B.
"Con Người sẽ bị nộp. Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết".
Lời Chúa: Mc 9, 29-36
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ từ trên núi xuống, rồi đi ngang qua xứ Galilêa và Người không muốn cho ai biết. Vì Người dạy dỗ và bảo các ông rằng: "Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người sẽ sống lại". Nhưng các ông không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi Người. Các ngài tới Capharnaum.
Khi đã vào nhà, Người hỏi các ông: "Dọc đàng các con tranh luận gì thế?" Các ông làm thinh, vì dọc đàng các ông tranh luận xem ai là người lớn nhất.
Bấy giờ Người ngồi xuống, gọi mười hai ông lại và bảo các ông rằng: "Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người".
Rồi Người đem một em bé lại đặt giữa các ông, ôm nó mà nói với các ông rằng: "Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN – B
Lời Chúa: Kn 2,12.17-20; Gc 3,16-4,3; Mc 9,30-37
1. Phục vụ mọi người. ‘Manna’
Suy Niệm
Các kỷ lục thế giới cứ được nâng cao hoài,
vì ai cũng muốn phá kỷ lục để được đứng nhất:
chạy nhanh nhất, nhảy cao nhất, ném xa nhất...
Các đĩa nhạc chỉ muốn nằm mãi trong top-ten.
Các cuốn sách chỉ muốn là sách bán chạy nhất.
Đẹp nhất, giỏi nhất, giàu nhất, thế lực nhất...
Cuộc sống quả là một cuộc tranh đua không ngừng.
Các nhà tâm lý học coi những tranh đua đó
là cần thiết để hình thành nhân cách.
Các nhà xã hội học coi những tranh đua đó
là cần thiết cho sự tiến bộ của xã hội.
Tiếc thay, lắm khi người ta đã dùng bao mưu mô
để đạt được và giữ được vị trí hàng đầu.
Đôping trong thể thao chỉ là một thí dụ nhỏ.
Ngay trong Nhóm Mười Hai cũng có tranh chấp.
Sau khi Đức Giêsu loan báo con đường hẹp của khổ đau,
các môn đệ vẫn chưa ra khỏi được con đường của mình.
Đang lúc đi đường mà các ông cũng cãi nhau
xem ai là người lớn nhất trong nhóm.
Đức Giêsu tế nhị đợi về tới nhà mới hỏi
như thể Ngài không biết rõ đầu đuôi.
Các môn đệ làm thinh không trả lời.
Đức Giêsu tôn trọng khoảnh khắc lặng lẽ cần thiết ấy
để mỗi người trở về với bao thèm khát của lòng mình,
đối diện với bao tham vọng đang sôi sục.
Đức Giêsu ngồi xuống thư thái như một vị thầy.
Ngài chẳng nặng lời với các nhà lãnh đạo Hội Thánh tương lai.
Ngài dạy cho họ con đường trở nên lớn lao thực sự:
“Nếu ai muốn làm người đứng đầu,
thì phải làm người đứng cuối mọi người và phục vụ mọi người.”
Đức Giêsu đưa ra một cuộc cách mạng về quan điểm.
Người lớn nhất, người đứng đầu
không phải là người dùng quyền để lãnh đạo chỉ huy từ trên cao,
nhưng là người đến trước mọi người
và về sau mọi người, để phục vụ.
Khi phục vụ vô vị lợi, tôi được thực sự lớn lên
trước mặt Thiên Chúa, trước mặt anh em.
Người lớn nhất là người phục vụ hết mình nhất.
Chức vụ, chức vị, chức tước, chức quyền đều không phải là điều xấu,
nếu chúng được dùng như phương tiện để phục vụ.
Nếu người đứng đầu lại phải sống như người đứng cuối,
thì còn ai muốn đứng đầu nữa không?
Thế giới hôm nay rất cần những người muốn đứng đầu
theo kiểu Đức Giêsu, nghĩa là trong phục vụ khiêm hạ.
Ai trong chúng ta cũng có chút ít quyền hành,
cũng là người đứng đầu một tập thể nho nhỏ.
Ước gì chúng ta không để mình bị hư hỏng vì quyền hành,
nhưng biết dùng quyền hành để đem lại hạnh phúc cho tha nhân.
Gợi Ý Chia Sẻ
Cái chết của Mẹ Têrêxa Calcutta, một nữ tu âm thầm phục vụ, đã làm cả thế giới thương tiếc. Bạn thấy đời Mẹ Têrêxa có gần gũi với bài Tin Mừng hôm nay không?
Có khi nào bạn nghe người ta cãi nhau không? Thường cãi về vấn đề gì? Tại sao các cuộc tranh cãi thường chẳng đi tới đâu và lắm khi gây đổ vỡ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin
để nhận ra Chúa hôm nay và hàng ngày,
nơi khuôn mặt khốn khổ của tất cả những người bị thử thách:
những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn,
nhưng vì thiếu Lời Chúa;
những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,
nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật, công bằng và tình thương;
những kẻ vô gia cư, không chỉ tìm kiếm một mái nhà,
nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương;
những kẻ bệnh hoạn và hấp hối, không chỉ trong thân xác,
nhưng còn trong tinh thần nữa,
bằng cách thực thi lời hy vọng này:
“Điều mà ngươi làm cho người bé mọn nhất trong anh em
là làm cho chính Ta”.
2. Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy niệm:
Ngoài chuyện chậm tin, chậm hiểu,
các môn đệ còn có một điểm yếu là hay cãi nhau.
Họ cãi nhau xem ai là người lớn nhất trong nhóm.
Người ấy sẽ là người đứng đầu trong Nước sắp tới của Đấng Mêsia.
Tiếc thay trong bài Tin Mừng hôm nay,
họ lại cãi nhau khi đang đi ngoài đường (c. 33).
Tệ hơn nữa, họ cãi nhau ngay
sau khi Thầy Giêsu loan báo lần thứ hai
về cái chết và sự phục sinh sắp đến của mình (c. 31).
Hẳn Thầy Giêsu rất đau vì thấy học trò của mình khá trần tục.
Dù đang đi với Thầy trên cùng một con đường,
nhưng họ vẫn để lòng mình theo đuổi vinh quang thế gian.
Đức Giêsu quả là một bậc thầy về sự điềm đạm.
Ngài đợi tới khi về nhà ở Caphácnaum mới gợi lại chuyện trên đường.
Ngài làm như mình không rõ về đề tài câu chuyện:
“Dọc đường anh em đã bàn tán điều gì vậy?”
Khi các ông mắc cỡ làm thinh,
không dám nói ra chuyện cãi nhau (c. 34),
Thầy Giêsu cũng chẳng nỡ ép các ông phải nói.
Ngài ngồi xuống như một vị thầy bắt đầu giảng dạy (c. 35),
gọi Nhóm Mười Hai lại - nhóm các nhà lãnh đạo tương lai của Giáo Hội –
và đưa ra một nguyên tắc chi phối việc quản trị cộng đoàn:
“Nếu ai muốn làm người đứng đầu
thì phải làm người rốt hết của mọi người
và làm người phục vụ cho mọi người (c. 35).
Câu nói trên của Đức Giêsu mở ra
một cuộc cách mạng nơi tâm con người.
Đức Giêsu không dạy ta lật đổ người đứng đầu
để chiếm lấy quyền lực.
Ngài cũng không đòi ta bỏ ước mơ làm lớn.
Ngài dạy cho ta
cách trở nên lớn lao thực sự trước mặt Thiên Chúa.
Đó là trở nên người phục vụ mọi người,
sống như Ngài đã sống:
“Suốt đời Thầy đã sống giữa anh em
như một người phục vụ”(Lc 22, 27).
Nếu làm đầu mà phải phục vụ
thì có ai muốn làm người đứng đầu nữa không?
Lịch sử của nhân loại
là lịch sử của những cuộc cãi nhau không ngớt
giữa các quốc gia, các tôn giáo, các bộ tộc,
và ngay trong giáo xứ, gia đình.
Đề tài muôn thuở vẫn là quyền lực, chức tước, địa vị, tiếng tăm.
Ai cũng muốn làm đầu, làm lớn
để được phục vụ, để khỏi phải hầu bàn.
Ước gì chúng ta hiểu rằng quyền uy
chỉ là giấy phép để phục vụ.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin cất khỏi con mọi lo lắng bề ngoài.
Xin tha thứ cho con
vì đã quá bận tâm đến những điều mình nói,
đến ảnh hưởng của mình, đến những điều người ta nói và nghĩ về con.
Xin tha thứ cho con
vì muốn nên giống kẻ khác mà quên mất chính mình,
vì khao khát có được những đức tính của họ,
mà quên phát triển bản thân.
Xin tha thứ cho con
vì đã mất nhiều thời gian cho việc phô trương
hơn là cho việc xây dựng bản thân.
Xin cho con biết cởi mở với anh em;
nhờ đó, Chúa có thể đến với con như đến với một người bạn.
Và Chúa sẽ làm cho con trở nên
“người” mà Chúa mong muốn trong tình yêu của Ngài
vì con là con của Chúa
và là anh em của mọi người. (Michel Quoist).
3. Nền văn minh mới -- TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Vào năm 2000, hàng tỷ người trên thế giới say mê theo dõi những cuộc tranh tài giữa các vận động viên hàng đầu của hành tinh trong Đại hội Olympic Sydney. Điểm đặc biệt của Olympic cuối cùng của thiên niên kỷ này là có sự tham dự của các vận động viên phụ nữ. Đây là một điểm son không của riêng Olympic mà của cả nhân loại. Điều đó chứng tỏ phụ nữ đang được trân trọng. Càng ngày vị trí của người phụ nữ càng được nâng cao. Nữ giới đang đi vào bình đẳng với nam giới trên hầu hết mọi lãnh vực. Thế giới đang đi vào một nền văn minh mới mà Đức Giêsu tha thiết truyền dạy cho các môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay.
Thời xa xưa, khi còn sống hoang dã, con người ta đối xử với nhau thật tàn nhẫn. Người ta tranh giành thực phẩm. Người ta tranh chấp đất đai. Tất cả đều theo định luật cạnh tranh sinh tồn. Trong cuộc cạnh tranh thì dĩ nhiên mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé.
Khi con người đã biết tổ chức thành xã hội, sự cạnh tranh được định chế hóa trong giai cấp, quyền chức. Người có quyền có chức bao giờ cũng được lợi. Người dân đen thấp cổ bé miệng bao giờ cũng phải chịu thiệt thòi. Người nghèo không được có tiếng nói. Chính vì thế, ai cũng cố gắng vượt lên trên người khác hoặc bằng tiền bạc hoặc bằng chức quyền. Ai cũng muốn làm người đứng đầu. Ai cũng muốn làm lớn. Vì thế luôn luôn có sự cạnh tranh ngôi thứ. Trong cuộc cạnh tranh, người ta nhìn nhau như đối thủ cần phải chà đạp, cần phải loại trừ.
Hôm nay, khi thấy các môn đệ có dấu hiệu ham hố chức quyền, cạnh tranh ngôi thứ, Đức Giêsu đã nhân cơ hội dạy cho các ông biết tinh thần mới mà người môn đệ trong Nước Thiên Chúa phải có. Đó là: “Ai muốn làm đầu, thì phải làm người rốt hết và làm tôi tớ mọi người”.
Đây thật là một cuộc cách mạng. Vị trí trong xã hội bị đảo lộn. Người đứng đầu không còn phải để ra lệnh, nhưng để phục vụ. Người làm lớn không còn ăn trên ngồi trốc, nhưng chọn chỗ hèn mọn nhất. Người bé nhỏ nhất trở nên người lớn nhất. Người yếu đuối nhất trở nên người được trọng vọng nhất.
Đây là một cuộc cách mạng không đổ máu. Vì người đứng đầu trở thành người phục vụ không phải vì ép buộc nhưng do tự nguyện. Vì người làm lớn xuống chỗ hèn mọn nhất không buồn sầu nhưng trong niềm vui. Thế giới biến đổi không do những đấu tranh giành quyền lợi, nhưng do người có quyền tự nguyện từ bỏ đặc quyền đặc lợi.
Với lời dạy dỗ ấy, Đức Giêsu đã mở ra một nền văn minh mới. Trong nền văn minh mới này, người ta không còn nhìn nhau như những đối thủ phải loại trừ trong cuộc cạnh tranh. Người ta nhìn nhau như những người anh em phải yêu thương nâng đỡ. Sẽ không còn tranh giành. Sẽ không còn xâu xé, chà đạp nhau. Sẽ chỉ có yêu thương. Sẽ chỉ có quan tâm nâng đỡ. Người mạnh sẽ quan tâm dắt dìu người yếu. Người lớn sẽ cúi xuống bồng bế người bé. Chức quyền là để phục vụ lợi ích của mọi người. Địa vị chỉ là sự phân công hợp lý. Mỗi người một việc vì lợi ích của tập thể.
Để làm gương cho ta, chính Đức Giêsu đã tự hạ mình trước. Là Thiên Chúa, nhưng Người đã tự nguyện trở nên người phàm. Là Đấng cầm quyền, nhưng Người đã tự nguyện vâng lời. Là thầy nhưng Người đã tự nguyện phục vụ môn đệ. Là người lãnh đạo, nhưng Đức Giêsu không đòi hỏi đặc quyền đặc lợi, trái lại Người sẵn sàng hiến mạng sống để cứu chuộc nhân loại.
Người đã hóa thân làm một con người bé nhỏ, nghèo túng, hèn yếu nhất. Để từ nay, ai đón tiếp một người bé nhỏ nhất là đón tiếp chính Người. Ai giúp đỡ một người yếu hèn nhất là giúp đỡ chính Người. Ai yêu mến một người nghèo túng nhất là yêu mến chính Người.
Với sự hạ mình của Người, số phận con người từ nay thay đổi tận gốc rễ. Người bé nhỏ trở thành đối tượng được quan tâm phục vụ. Người yếu đuối được nâng niu chăm sóc. Người nghèo hèn được kính trọng yêu thương. Vì họ đã trở thành hình ảnh của chính Thiên Chúa.
Từ nay, nhân loại đi vào một nền văn minh mới, nền văn minh của tình thương. Nhân loại không còn tranh chấp nhau, nhưng trở nên anh em đoàn kết thương yêu nhau. Sức khỏe, của cải, chức quyền không phải là những phương tiện để chà đạp, nhưng là những phương tiện phục vụ. Lãnh đạo không còn là một quyền lợi, nhưng trở thành một nhiệm vụ nặng nề vì phải quan tâm phục vụ mọi người.
Suy gẫm Lời Chúa dạy hôm nay hẳn phải khiến ta giật mình lo lắng. Không những ta không đi vào con đường Chúa đã vạch ra, mà rất nhiều khi còn chống lại Lời Chúa dạy bảo. Ta vẫn nuôi những tham vọng thống trị người khác. Ta vẫn muốn chiếm giữ những địa vị quan trọng. Ta vẫn coi thường những người bé nhỏ, hèn yếu. Ta đang đi ngược trở lại thời tiền sử. Ta đang đi ngược lại con đường Chúa đã đi.
Hôm nay Chúa mời gọi ta hãy trở lại con đường của Chúa. Hãy tự nguyện trở thành người bé nhỏ khiêm nhường. Hãy biết nâng dậy những số phận hẩm hiu. Hãy biết kính trọng những mảnh đời nghiệt ngã. Hãy góp phần xây dựng nền văn minh mới, trong đó những người yếu đuối như phụ nữ và trẻ em được quan tâm và được kính trọng.
Lạy Trái Tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Ngày nay, trẻ em phụ nữ, những người bệnh tật được quan tâm hơn ngày xưa. Bạn có thấy đó là dấu hiệu Lời Chúa dạy đang được thực hiện không?
2) Tại sao Chúa Giêsu sinh làm một người bé nhỏ, nghèo hèn?
3) Tại sao con người không nên tranh chấp nhau nhưng phải yêu thương phục vụ nhau?
4. Theo Chúa phải khiêm nhường phục vụ -- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Sau khi thăm dò ý kiến dân chúng về chính con người của mình, Chúa Giêsu quay sang hỏi các môn đệ, và nhận được phản hồi từ Phêrô tuyên xưng: "Thầy là Đấng Kitô" (Mc 8, 29). Chúa Giêsu bắt đầu mạc khải cho các ông biết Người là "Người Tôi Tớ đau khổ" được Isaia loan báo cũng Đavít đã nói trong Thánh Vịnh 22 (21). Người Tôi Tớ ấy: "Sẽ phải chịu đau khổ nhiều…bị giết đi" (Mc 8, 31).
Các môn đệ kia không biết các ông có hiểu hay có ý kiến gì không, vì không thấy ai nói gì? Còn Phêrô, vì không chấp nhận mạc khải ấy nên đã bị khiển trách nặng nề: "Satan, hãy lui đi" (Mc 8, 33). Nhưng với tình thầy trò, Chúa Giêsu tiếp tục dạy dỗ các ông nhiều điều, dẫn các ông lên một ngọn núi cao và biến hình trước mặt các ông, để củng cố niềm tin của các ông trước cuộc Khổ Nạn sắp tới.
Bài học về sự phục vụ
Sau khi biến hình, thầy trò xuống núi, trở lại với các môn đệ kia, Chúa Giêsu lại tiếp dục dạy dỗ các ông lần thứ hai: "Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thứ ba, Người sẽ sống lại". Marcô ghi rõ: "Nhưng các ông không hiểu lời đó và sợ không dám hỏi Người" (Mc 9, 10), nghĩa là có Phêrô, Giacôbê và Gioan vừa chứng kiến cảnh Thầy biến hình, vậy mà các ông vẫn không hiểu, vì không hiểu nên các ông mới hỏi nhau: "Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?" (Mc 9,10) Và cũng từ sự không hiểu biết này dẫn đến cuộc cãi vã dọc đường (x. Mc 9, 34), tệ hơn nữa Giacôbê và Gioan đến xin Chúa Giêsu cho được một ngồi bên tả, một ngồi bên hữu Thầy (x. Mc 10, 35). Câu trả lời của Chúa Giêsu thật mạnh mẽ: "Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người" (Mc 9, 35); Và Người nói tiếp: "Cũng vậy, Con Người đến không phải để được người ta hầu hạ, nhưng để hầu hạ và hiến mạng sống cho nhiều người" (Mc 10, 45).
Bài học về sự khiêm nhường
Khiêm nhường đón tiếp cả trẻ nhỏ và trở nên người rốt hết phục vụ mọi người, là điều Chúa Giêsu muốn các môn đệ của mình phải noi theo. Kiêu ngạo sẽ biến người ta trở thành kẻ tự phụ, đề cao mình không đúng mức, hoặc khinh dể kẻ khác, tìm cách hạ người khác xuống để mình được tôn lên. Người kiêu ngạo hay khoe khoang và có thái độ tự đắc, rất ham thích địa vị và tiếng khen, muốn được phục vụ và không phục thiện. Ai không đồng ý kiến, hay nói lời khinh chê, thì họ tỏ thái độ buồn giận bực tức và tìm cách trả thù. Hậu quả là kẻ kiêu ngạo bị Thiên Chúa đối địch và người đời ghen ghét.
Kinh Thánh dạy rằng: “Thiên Chúa chống đối kẻ kiêu ngạo và ban ơn cho người khiêm tốn” (x. Gc 4,6). Kẻ kiêu ngạo không những bị Thiên Chúa đối địch mà còn bị người đời ghét bỏ và xa tránh. Bị người đời chống lại đã nguy hiểm, phương chi bị Thiên Chúa đối địch thì khủng khiếp biết bao, khốn nạn biết chừng nào. Có lời Chúa phán "Kẻ nào tự nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống, và kẻ nào tự hạ mình xuống sẽ được nhắc lên" (Mt 23,12)... Nếu như bạn có điều gì tốt, hãy nhận về bạn, nhưng đừng quên lỗi lầm của bạn; đừng thổi phồng những gì hôm nay bạn đã làm tốt, đừng loại sự xấu gần đây và trong quá khứ; nếu điều hiện tại mang lại cho bạn hư vinh, hãy nhớ quá khứ; đây là cách bạn nhận ra sự kém cỏi của mình!
Và nếu bạn thấy lỗi lầm của tha nhân, hãy thận trọng coi như lỗi này ở trong anh em, nhưng cũng phải suy nghĩ về những gì tốt anh em đang làm hoặc đã làm; nếu bạn duyệt toàn bộ cuộc sống của bạn và không tính toán chi li, thì theo lẽ thường, bạn sẽ khám phá ra điều tốt nơi mình. Thiên Chúa không để ý đến từng li từng tí của con người... chúng ta phải luôn nhắc nhủ nhau rằng, đừng có kiêu ngạo, hãy ăn ở khiêm hường và hạ mình xuống để được nhấc lên.
Chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, Đấng đã từ trời hạ mình xuống… Nhưng sau khi tự hạ, Người đã được tôn vinh, những người bị ngược đãi như các môn đệ đầu tiên, hay những người nghèo khổ, đói rách, trần truồng, đi khắp thế gian, không lời khôn ngoan, không đánh trống phô trương, nhưng nhiệt thành làm việc, lang thang trên đất và trên biển, bị đánh đập, bị ném đá, bị trục xuất và cuối cùng bị giết cũng được tôn vinh với Người.
Chúng ta cũng vậy, hãy bắt chước họ và bước theo để được vào nơi đầy ánh sáng và vinh quang đời đời, đây là món quà tốt hảo và chân thật Thiên Chúa dành cho những ai đi theo đường lối Người.
Lạy Chúa Giêsu khiêm nhường và hiền lành, xin giúp chúng con dẹp tính khoe khoang, cậy mình và năng nhớ lời Chúa dạy: "Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người" (Mc 9, 35). Amen.
5. Bước theo Chúa trong khiêm hạ
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Sau khi biến hình, Chúa Giêsu cùng với các môn đệ từ trên núi xuống tiến về Giêrusalem để sống Lễ Vượt Qua cái chết và sự phục sinh của Người. Trước thảm kịch đau thương đang chờ đợi và iết trước cái chết ở Giêrusalem, đối với các môn đệ, niềm tin cần phải được Chúa củng cổ, Người loan báo cuộc thương khó lần thứ hai cho các ông, nhưng Người nhấn mạnh hơn đến sự đánh bại thần chết vào sống lại vinh quang.
Nhưng các môn đệ nào đâu có hiều, dọc đường tới ở Capharnaum họ vẫn tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất. Câu trả lời của Đấng Cứu Thế từ đó đến nay vẫn làm chúng ta ngạc nhiên: "Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Thầy" (Mc 9,37). Như thế kẻ lớn nhất sẽ là người phục vụ mọi người và Nước Thiên Chúa dành cho những ai đón nhận các trẻ nhỏ.
Đoạn Tin Mừng này không phải hai phần khác biệt: phần thứ nhất Chúa Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn, phần thứ hai Chúa giáo huấn các môn đệ. Đây chỉ là một diễn từ chúng ta có thể gọi là: "Thập giá của Chúa Giêsu và hậu quả của các môn đệ". Trở thành đầy tớ, đón tiếp trẻ nhỏ nhân danh Chúa Giêsu là hai hành động mà Chúa Giêsu, nhẹ nhàng nhưng cương quyết dạy các môn đệ phải "thi hành" cùng lúc. Thi hành để bắt chước Chúa Kitô, theo Chúa đến chân Thập giá, và như Chúa, trở nên tôi tớ phục vụ mọi người, "Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người "(Mc 9, 35).
Từ ngày Con Thiên Chúa nhập thể bước vào lịch sử loài người sau một chặng đường dài, từ cái nôi Belem để "cái nôi" trên đồi Calvariô ở Giêrusalem, đỉnh cao là (cây Thập giá). Những tiêu chí để đánh giá giá trị và nhân phẩm của con người hoàn toàn đảo lộn: phẩm giá của một người không tùy thuộc vào vị trí người ấy đang có, hay chức vụ người ấy thi hành... Sự vĩ đại của con người không lệ thuộc vào cái làm cho người ta quan trọng, nhưng dựa trên sự phục vụ người ấy làm đối với Thiên Chúa và tha nhân để tỏ bày vinh quang, sự tốt lành và tình yêu của Chúa.
Đón nhận là một phương tiện làm thi hành việc phục vụ này. Thánh sử Marcô dùng động từ "đón nhận" vào những dịp khác nhau với cách thức khác nhau, nhưng tất cả đều qui về một mối. Thánh sử nói với chúng ta về thái độ đón nhận Lời Chúa (x. Mc 4,20), đón nhậ Nước Thiên Chúa (x. Mc 10,15). Đón nhận có nghĩa là lắng nghe, sẵn sàng, đón nhận Đấng Vô Cùng trở thành Hài Nhi, đón nhận các trẻ nhỏ còn trong nôi, phản ánh của trời cao.
Đem một em bé đặt giữa các môn đệ, ôm nó, Chúa Giêsu dạy các ông một bài học. Đứa trẻ Chúa ôm lấy là chính Người, vì Người là dấu chỉ Chúa Cha sai đến. Trẻ em là dấu chỉ lòng trắc ẩn của Thiên Chúa và sự vâng phục đầy tình con thảo đối với Con Một Chúa đã trở nên bé nhỏ vì yêu thương và chịu đóng đinh trong sự vâng phục giữa những kẻ gian ác. Hài Nhi ấy đến từ Thiên Chúa; những lời sau đây của Chúa Giêsu: ("Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Thầy"Mc 9,37) thật rõ ràng: đứa trẻ đặt giữa các ông là hình ảnh của Chúa Kitô, đồng thời cũng là hình ảnh của người kitô hữu, hơn nữa là hình ảnh của chính Thiên Chúa. Đón nhận trẻ nhỏ nhân danh Chúa Kitô là đón nhận mầu nhiệm của Thiên Chúa.
Tin Mừng hôm nay là một bài giáo lý nhấn mạnh đến nhân tính của Con Thiên Chúa: Chúa Giêsu là Con của loài người. Đó là lý do tại sao cái chết và sự phục sinh của Chúa là những điều cụ thể, có thật. Chúa không trách các môn đệ nhưng giải thích cho các ông về cách thức của người đứng đầu: đón nhận trẻ nhỏ là đón nhận chính Chúa và Chúa Cha (x. Mc 9,37).
Các môn đệ phải khó khăn lắm mới hiểu rằng bước theo Chúa Giêsu đồng nghĩa với việc từ bỏ mình vác thập giá mình mà bước, nên họ sợ. Chúng ta cũng thế, chúng ta sợ hiểu, không phải chúng ta không hiểu, nhưng vì chúng ta không muốn hiểu. Em bé được đặt giữa các môn đệ là dấu chỉ nhiệm mầu tự hủy của một vì Thiên Chúa nộp mình cho con người. Nghĩa cử đón nhận "trẻ nhỏ" chứng thực lòng mộ mến Đấng Vô Cùng đã trở nên Hài Nhi bé nhỏ cho chúng ta và vì chúng ta.
Trong cuộc Thương Khó chúng ta thấy có lòng thương xót. Không có tình yêu nào cao cả và lớn lao hơn là trở nên nhỏ bé và trao dâng chính mình vì bạn hữu, bước lên thập giá và tự hào, như thánh Tông Đồ Phaolô khao khát: "Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì ngoài thập giá của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta "(Gal 6,14). Nhưng khi nói đến thập giá, nó không chỉ là hai miếng gỗ, nhưng là toàn thể loài người. Chúng ta là thập giá của Chúa Giêsu, vì khi dang tay ra, con người được coi như là hình hài của cây thập. Trong thực tế, đó là tất cả tình yêu mà Chúa Giêsu đã chấp nhận khi đến với chúng ta, mang vào thân cho đủ mức để sinh ơn cứu độ đời đời cho chúng ta.
Vì thế, việc theo Chúa luôn đòi con người phải có sự hoán cải sâu xa, thay đổi lối sống và suy nghĩ, mở rộng con tim để lắng nghe và biến đổi nội tâm. Nơi Thiên Chúa không có sự kiêu ngạo, chỉ có yêu thương và ban sự sống. Con người tuy bé nhỏ, nhưng lại khao khát được coi là cao cả, được chiếm chỗ nhất, trong khi Thiên Chúa không do dự hạ mình xuống, trở nên người rốt cùng.
Lạy Mẹ Maria, chúng con tín thác khẩn cầu Mẹ là Ðấng hoàn toàn sống hợp với Thiên Chúa, xin dạy chúng con trung thành theo Chúa Giêsu trên con đường yêu thương và khiêm hạ.
6. Hình thành chính mình qua chọn lựa -- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.
Kẻ ác người lành, khác nhau một trời một vực, nhưng lành dữ là do quyết định chọn lựa của mỗi người. Chọn Thiên Chúa là chọn tha nhân và chính mình; chỉ chọn mình là hủy hoại tất cả.
1. Người công chính bị kẻ dữ ám hại
Sách Khôn Ngoan cho biết những người không tôn thờ Thiên Chúa tìm mưu bày kế hãm hại người công chính, vì người công chính chống lại cách sống của họ, khiển trách họ vi phạm lề luật, tố cáo họ gian dối kiếm lời. Cách sống của người không tôn thờ Thiên Chúa, đã không đặt Chân Thiện Mỹ làm tiêu chuẩn sống. Tiêu chuẩn sống của người không tôn thờ Thiên Chúa là lợi ích cho chính họ; họ không tôn trọng người khác và quyền lợi của những người này, thậm chí cả của những người thân. Những người không sống theo Chân Thiện Mỹ là những người ích kỷ: chỉ nghĩ đến họ, đến quyền lợi của họ.
Tiên tri Yêrêmia là người đã bị những người không thật sự tôn thờ Thiên Chúa thời đó hãm hại, vì tiên tri nói những gì Thiên Chúa đã truyền cho ông nói. Và vì nói những gì không hợp với ý muốn của những người lãnh đạo thời đó, nên tiên tri đã bị người ta ghét và muốn loại trừ ngài khỏi đất của kẻ sống. Tiên tri đã run sợ, và đã bỏ cuộc; nhưng Thiên Chúa đã giúp tiên tri trở lại với Ngài, và Thiên Chúa lại dùng tiên tri để nói cho dân ý định của Thiên Chúa.
Trong lịch sử nhân loại, bao nhiêu người lành bị kẻ dữ ghen ghét và hãm hại. Điều này đã xảy ra và sẽ còn xảy ra. Khi người ta sống theo đường ngay nẻo chính, khi người ta tôn trọng sự thật, tôn thờ Chân Thiện Mỹ, thì người ta tôn trọng phẩm giá con người, tôn trọng tha nhân và quyền lợi của họ; lúc đó, con người được bình an sâu thẩm trong tâm hồn, thế giới sống trong hòa bình, người người sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau, tương thân tương trợ; con người sống hạnh phúc. Nhược bằng nếu con người đặt mình và quyền lợi của mình trên tất cả, nếu người ta không sống theo Chân Thiện Mỹ, không tôn trọng người khác và quyền lợi của tha nhân, thì thế giới sẽ sống trong hỗn loạn; chiến tranh sẽ nổ ra để người ta giành giựt quyền lợi; chết chóc sẽ lan tràn; con người không bình an và hạnh phúc.
2. Đức Yêsu loan báo ba lần Ngài sẽ bị bắt bị hành hạ và bị giết
Đức Yêsu đã dạy con người những điều tốt lành, đã làm nhiều phép lạ để chữa bao người đau ốm. Tuy nhiên, nhiều người vẫn ghét Ngài, đặc biệt là những người có chức có quyền, bởi vì Ngài không đồng ý với suy nghĩ, cách sống, và cách hành xử của họ. Đức Yêsu mới chỉ đi rao giảng được ba năm, nhưng người ta đã ghét Ngài đến độ muốn loại Ngài khỏi đất kẻ sống.
Đức Yêsu báo cho các tông đồ biết Ngài sẽ bị bắt, bị hành hạ và bị giết, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại.Chính cách sống, cách hành xử, lời nói của Ngài đã làm một số người quyền thế ghét Ngài và muốn giết Ngài. Đức Yêsu biết điều này; Ngài biết Ngài khó có thể tránh cái chết vì những người ghen ghét muốn giết Ngài. Tuy nhiên Ngài tin rằng Thiên Chúa sẽ phục sinh Ngài, vì Thiên Chúa là Đấng Công Bình. Đức Yêsu tin điều đó là sự thật, nên Ngài đã báo cho các tông đồ biết điều này.
Đức Yêsu đã sống thân phận con người cho đến cùng. Ngài phải chết như bao con người. Là người, nghĩa là có thể bị những bất công, những sự dữ mà người khác gây ra cho mình. Đức Yêsu đã chấp nhận tất cả những cách đối xử bất công của con người thời đó đối với Ngài. Những gì con người gặp trong cuộc sống, chính Đức Yêsu cũng đã gặp. Cách hành xử khi gặp sự dữ của Đức Yêsu, trở thành mẫu mực hành xử cho tất cả mọi người.
3. Sự dữ từ lòng con người
Tại sao người ta muốn tru diệt người khác? Vì người đó làm nguy hại đến họ hay người khác, nhất là vi phạm đến quyền lợi của họ, đến tính “nhất” của họ. Ai cũng muốn mình là nhất, là người trổi trang và có quyền hành; nếu người khác có ảnh hưởng và người ta thấy uy quyền của họ bị đe dọa, thì người ta có khuynh hướng hủy diệt đối thủ cạnh tranh của mình. Đức Yêsu đã giảng dạy như một người có uy quyền; Ngài không phục tùng uy quyền của họ; Ngài phê bình cách sống quá nệ vào hình thức của họ; Ngài muốn dân chúng đến với Thiên Chúa bằng tất cả con người, chứ không chỉ là giữ một vài hình thức. Chính vì vậy những người có quyền đương thời đã quyết định giết Đức Yêsu.
Các tông đồ cũng là những người muốn có địa vị và quyền thống trị trên người khác. Các ngài khi được Thầy báo tin sẽ bị bắt bị giết, thì các ngài đã vội tranh cãi xem ai sẽ là người lớn nhất giữa họ. Đáng lẽ khi được báo tin thầy sẽ gặp cảnh tang thương như vậy, thì các ông phải buồn sầu, và phải quan tâm đến số phận của thầy; đằng này các ông lại tranh nhau xem ai là người lớn nhất. Đức Yêsu đã phải dạy các tông đồ bằng việc đặt một em bé ở giữa các ông, cho các ông biết ai đón tiếp một em bé là đón tiếp Ngài, ai muốn là đầu thì phải là người chót hết, là người phục vụ người khác. Và khi các ông vẫn chưa hiểu bài học Đức Yêsu dạy, thì Đức Yêsu đã phải rửa chân cho các ông để dạy các ông bài học phục vụ và khiêm tốn.
Từ các tông đồ đến các vị lãnh đạo dân Do Thái, tất cả đều có khuynh hướng muốn trổi trang, muốn có quyền hành; tuy nhiên mỗi người ra sao, thành người như thế nào là tùy chọn lựa của mỗi người. Khuynh hướng, như những cám dỗ, không là yếu tố quyết định hình thành nên con người; chính những chọn lựa mới làm nên chân tính của mỗi người. Nếu tôi luôn tôn thờ Thiên Chúa, nếu tôi luôn sống theo đường ngay lẽ phải, nếu tôi luôn theo những gì là chân thiện mỹ, nếu tôi luôn vâng phục lương tâm làm lành lánh dữ, thì tôi sẽ tôn trọng tha nhân và quyền lợi của họ, thì tôi sẽ sẵn sàng giúp đỡ tha nhân, quan tâm đến nỗi khổ của họ, thông cảm với những lo toan của họ, thì tôi sẽ là người tuyệt vời. Chính hành vi chọn lựa của tôi, làm tôi là người như thế nào.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo kinh nghiệm, hành vi nào hủy hoại nhân cách của bạn nhất? Xin giải thích.
2. Theo kinh nghiệm, hành vi làm tăng giá trị của bạn nhất? Xin chia sẻ.
3. Lý tưởng của bạn là gì? Bạn muốn trở thành người như thế nào?
7. Hình thành chính mình qua chọn lựa -- Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.
Kẻ ác người lành, khác nhau một trời một vực, nhưng lành dữ là do quyết định chọn lựa của mỗi người. Chọn Thiên Chúa là chọn tha nhân và chính mình; chỉ chọn mình là hủy hoại tất cả.
I. Người công chính bị kẻ dữ ám hại
Sách Khôn Ngoan cho biết những người không tôn thờ Thiên Chúa tìm mưu bày kế hãm hại người công chính, vì người công chính chống lại cách sống của họ, khiển trách họ vi phạm lề luật, tố cáo họ gian dối kiếm lời. Cách sống của người không tôn thờ Thiên Chúa, đã không đặt Chân Thiện Mỹ làm tiêu chuẩn sống. Tiêu chuẩn sống của người không tôn thờ Thiên Chúa là lợi ích cho chính họ; họ không tôn trọng người khác và quyền lợi của những người này, thậm chí cả của những người thân. Những người không sống theo Chân Thiện Mỹ là những người ích kỷ: chỉ nghĩ đến họ, đến quyền lợi của họ.
Tiên tri Yêrêmia là người đã bị những người không thật sự tôn thờ Thiên Chúa thời đó hãm hại, vì tiên tri nói những gì Thiên Chúa đã truyền cho ông nói. Và vì nói những gì không hợp với ý muốn của những người lãnh đạo thời đó, nên tiên tri đã bị người ta ghét và muốn loại trừ ngài khỏi đất của kẻ sống. Tiên tri đã run sợ, và đã bỏ cuộc; nhưng Thiên Chúa đã giúp tiên tri trở lại với Ngài, và Thiên Chúa lại dùng tiên tri để nói cho dân ý định của Thiên Chúa.
Trong lịch sử nhân loại, bao nhiêu người lành bị kẻ dữ ghen ghét và hãm hại. Điều này đã xảy ra và sẽ còn xảy ra. Khi người ta sống theo đường ngay nẻo chính, khi người ta tôn trọng sự thật, tôn thờ Chân Thiện Mỹ, thì người ta tôn trọng phẩm giá con người, tôn trọng tha nhân và quyền lợi của họ; lúc đó, con người được bình an sâu thẩm trong tâm hồn, thế giới sống trong hòa bình, người người sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau, tương thân tương trợ; con người sống hạnh phúc. Nhược bằng nếu con người đặt mình và quyền lợi của mình trên tất cả, nếu người ta không sống theo Chân Thiện Mỹ, không tôn trọng người khác và quyền lợi của tha nhân, thì thế giới sẽ sống trong hỗn loạn; chiến tranh sẽ nổ ra để người ta giành giựt quyền lợi; chết chóc sẽ lan tràn; con người không bình an và hạnh phúc.
II. Đức Giêsu loan báo ba lần Ngài sẽ bị bắt bị hành hạ và bị giết
Đức Giêsu đã dạy con người những điều tốt lành, đã làm nhiều phép lạ để chữa bao người đau ốm. Tuy nhiên, nhiều người vẫn ghét Ngài, đặc biệt là những người có chức có quyền, bởi vì Ngài không đồng ý với suy nghĩ, cách sống, và cách hành xử của họ. Đức Giêsu mới chỉ đi rao giảng được ba năm, nhưng người ta đã ghét Ngài đến độ muốn loại Ngài khỏi đất kẻ sống.
Đức Giêsu báo cho các tông đồ biết Ngài sẽ bị bắt, bị hành hạ và bị giết, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại.Chính cách sống, cách hành xử, lời nói của Ngài đã làm một số người quyền thế ghét Ngài và muốn giết Ngài. Đức Giêsu biết điều này; Ngài biết Ngài khó có thể tránh cái chết vì những người ghen ghét muốn giết Ngài. Tuy nhiên Ngài tin rằng Thiên Chúa sẽ phục sinh Ngài, vì Thiên Chúa là Đấng Công Bình. Đức Giêsu tin điều đó là sự thật, nên Ngài đã báo cho các tông đồ biết điều này.
Đức Giêsu đã sống thân phận con người cho đến cùng. Ngài phải chết như bao con người. Là người, nghĩa là có thể bị những bất công, những sự dữ mà người khác gây ra cho mình. Đức Giêsu đã chấp nhận tất cả những cách đối xử bất công của con người thời đó đối với Ngài. Những gì con người gặp trong cuộc sống, chính Đức Giêsu cũng đã gặp. Cách hành xử khi gặp sự dữ của Đức Giêsu, trở thành mẫu mực hành xử cho tất cả mọi người.
III. Sự dữ từ lòng con người
Tại sao người ta muốn tru diệt người khác? Vì người đó làm nguy hại đến họ hay người khác, nhất là vi phạm đến quyền lợi của họ, đến tính “nhất” của họ. Ai cũng muốn mình là nhất, là người trổi trang và có quyền hành; nếu người khác có ảnh hưởng và người ta thấy uy quyền của họ bị đe dọa, thì người ta có khuynh hướng hủy diệt đối thủ cạnh tranh của mình. Đức Giêsu đã giảng dạy như một người có uy quyền; Ngài không phục tùng uy quyền của họ; Ngài phê bình cách sống quá nệ vào hình thức của họ; Ngài muốn dân chúng đến với Thiên Chúa bằng tất cả con người, chứ không chỉ là giữ một vài hình thức. Chính vì vậy những người có quyền đương thời đã quyết định giết Đức Giêsu.
Các tông đồ cũng là những người muốn có địa vị và quyền thống trị trên người khác. Các ngài khi được Thầy báo tin sẽ bị bắt bị giết, thì các ngài đã vội tranh cãi xem ai sẽ là người lớn nhất giữa họ. Đáng lẽ khi được báo tin thầy sẽ gặp cảnh tang thương như vậy, thì các ông phải buồn sầu, và phải quan tâm đến số phận của thầy; đằng này các ông lại tranh nhau xem ai là người lớn nhất. Đức Giêsu đã phải dạy các tông đồ bằng việc đặt một em bé ở giữa các ông, cho các ông biết ai đón tiếp một em bé là đón tiếp Ngài, ai muốn là đầu thì phải là người chót hết, là người phục vụ người khác. Và khi các ông vẫn chưa hiểu bài học Đức Giêsu dạy, thì Đức Giêsu đã phải rửa chân cho các ông để dạy các ông bài học phục vụ và khiêm tốn.
Từ các tông đồ đến các vị lãnh đạo dân Do Thái, tất cả đều có khuynh hướng muốn trổi trang, muốn có quyền hành; tuy nhiên mỗi người ra sao, thành người như thế nào là tùy chọn lựa của mỗi người. Khuynh hướng, như những cám dỗ, không là yếu tố quyết định hình thành nên con người; chính những chọn lựa mới làm nên chân tính của mỗi người. Nếu tôi luôn tôn thờ Thiên Chúa, nếu tôi luôn sống theo đường ngay lẽ phải, nếu tôi luôn theo những gì là chân thiện mỹ, nếu tôi luôn vâng phục lương tâm làm lành lánh dữ, thì tôi sẽ tôn trọng tha nhân và quyền lợi của họ, thì tôi sẽ sẵn sàng giúp đỡ tha nhân, quan tâm đến nỗi khổ của họ, thông cảm với những lo toan của họ, thì tôi sẽ là người tuyệt vời. Chính hành vi chọn lựa của tôi, làm tôi là người như thế nào.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo kinh nghiệm, hành vi nào hủy hoại nhân cách của bạn nhất? Xin giải thích.
2. Theo kinh nghiệm, hành vi làm tăng giá trị của bạn nhất? Xin chia sẻ.
3. Lý tưởng của bạn là gì? Bạn muốn trở thành người như thế nào?
8. Phục vụ
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay đưa ra một sự trớ trêu và sự trớ trêu này lại do chính các môn đệ, là những người thân yêu của Chúa gây nên.
Thực vậy, một lần nữa Chúa Giêsu dạy riêng các môn đệ về con đường thực hiện sứ mạng của Ngài: Con Người sẽ bị giết chết nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Và lần này cũng như lần trước, các môn đệ đã tỏ ra không hiểu, thế nhưng rút kinh nghiệm lần trước, không một ai đã lên tiếng góp ý. Điều trớ trêu và mỉa mai ở đây đó là chính lúc Chúa Giêsu muốn cho các ông hiểu về con đường đau khổ và thập giá mà Ngài phải trải qua để tiến đến vinh quang phục sinh, thì các ông lại nghĩ đến địa vị, đến chỗ đứng. Các ông tranh luận với nhau xem ai lớn hơn ai.
Như những người Do Thái khác, các ông vẫn quan niệm về một vị cứu tinh trong phạm vi chính trị, sẽ lật đổ ách nô lệ của đế quốc Lamã, giải phóng dân tộc, đem lại tự do và sự phồn thịnh cho đất nước. Và nếu vị cứu tinh nhân dân đang mong đợi dó chính là Chúa Giêsu, bậc thầy của các ông, thì quả thật, các ông là những người may mắn, vì sẽ được ban cho những chỗ đứng, những địa vị cao trọng trong vương quốc của Ngài. Tin Mừng cho thấy là những cuộc tranh luận này, hay những vụ tranh giành ngôi thứ vẫn thường xảy ra giữa các môn đệ, cho tới ngày Chúa bị nộp và bị giết.
Trong bài học Chúa Giêsu dành cho các môn đệ, Ngài đã muốn đảo lộn cái nhìn và cách đánh giá của các ông. Trong cái nhìn và cách đánh giá của Chúa Giêsu, thì người lớn nhất lại không phải là người ngồi vào chỗ cao nhất, trên tất cả mọi người, nhưng là người rốt hết, là kẻ tôi đòi của mọi người. Như thế, con người được đánh giá không phải ở địa vị, ở quyền cao chức trọng mà là ở khả năng phục vụ. Và con đường dẫn tới vinh quang chính là con đường phục vụ mọi người.
Bài học đó, Chúa Giêsu đã thực hiện nơi chính bản thân của Ngài. Là Con Thiên Chúa, Ngài đã không dành chỗ nhất trong xã hội, nhưng Ngài đã chọn con đường yêu thương phục vụ, trở thành hữu ích đối với kẻ nghèo khổ, đói khát, bệnh tật và bị áp bức. Ngài trở nên hữu ích bằng cách chỉ cho họ tình thương của Chúa. Cứu chữa họ, giải phóng họ, trả lại cho họ quyền lợi và chỗ đứng trong xã hội và tôn giáo. Ngài đã đi cho đến cùng con đường yêu thương phục vụ của Ngài như lời Ngài đã phán. Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Cái chết và đau khổ chính là cái giá Ngài phải trả cho sự chọn lựa này.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có biết chấp nhận đau khổ và thập giá, nhất là chúng ta có hết can đảm bước vào con đường dấn thân và phục vụ anh em như Chúa Giêsu ngày xưa hay không?
9. Chọn lựa để phục vụ
Nơi nào có phục vụ, có chăm sóc, có chia sẻ không tính toán và cầu cạnh giữa con người với nhau, thì nơi đó người ta sẽ thấy được sự chân thực của tình yêu. Trái lại, khi con người cố gắng tìm kiếm những thành công thế tục, muốn có chức có danh, muốn mình phải được hơn kẻ khác, thì con người bắt đầu xa dần với ý định của Thiên Chúa.
Chả thế mà khi Chúa Giêsu bảo các môn đệ: Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Ngài nhưng ba ngày sau Ngài sẽ sống lại... thì các ông hiểu và không muốn hiểu. Các ông nghe mà chẳng muốn nghe, nhưng các ông cũng chẳng muốn hỏi Ngài xem lời đó có ý nghĩa gì. Các ông sợ và không muốn nghe những điều xui xẻo, cũng giống như bao nhiêu người khác đã không muốn nghe những sự chẳng lành xảy đến cho mình.
Thế nhưng, đó lại là chính sự mạc khải của tình yêu mà Thiên Chúa muốn tỏ bày cho con người, trước tiên là với các môn đệ, Chúa Giêsu không muốn điều xui xẻo xảy đến, Ngài không đi tìm cái khổ, cái mất; nhưng trong sự loan báo này có hàm chứa đựng một nội dung sâu xa của tình yêu. Thương là phải chịu vất vả, chịu thiệt thòi, dù là thiệt thòi ngay cả mạng đến sống mình, như dấu chỉ của một tình yêu tuyệt hảo nhất: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Nếu dọc đường các môn đệ đã tranh luận và cãi vã với nhau về chuyện ai sẽ là người làm lớn hơn cả, thì khi hiểu cái giá phải trả nơi tình yêu thương của Thầy, các ông sẽ thấy những toan tính của mình quá mong manh. Khi đi theo thầy, các ông đã thầm mong được vinh hoa phú quý. Thầm mong này sẽ chẳng bao giờ ăn khớp được với ý định của Thầy.
Chính vì thế, Chúa Giêsu đã nói với các ông: Ai muốn làm đầu thì phải là kẻ rốt hết và trở nên tôi tớ cho mọi người. Ai tiếp đón một trẻ nhỏ là tiếp đón Thầy. Từ đây, các ông thấy được việc đi theo Đức Kitô là sắm lấy cho mình một vị trí trong Nước Trời bằng tinh thần của một đời sống xả thân, khiêm tốn, vô vị lợi.
Khi ai đó xem vinh hoa trần tục như những giá trị để trau chuốt phải đạt tới bằng bất cứ giá nào, là người ấy đã xa lìa tinh thần của Chúa. Người của Tin Mừng phải là tôi tớ cho mọi người, phải biết phục vụ để mưu cầu lợi ích cho người khác, mà không được đặt mình trong một vai vế, trong một chức vụ, trong một địa vị nào cả. Chúa Giêsu đã lấy một em nhỏ làm khuôn mẫu cho Nước Trời. Có nghĩa là chúng ta phải trở nên như trẻ nhỏ, đồng thời phải quan tâm giúp đỡ những người rất tầm thường, bé nhỏ, không có gì trả lại hay đền ơn được cho chúng ta.
Đối chiếu lời Chúa dạy hôm nay với cuộc sống thực tế của bản thân, chúng ta cảm nhận được những gì? Sự dấn thân và phục vụ của chúng ta đã ở vào chừng mực nào và mục đích của nó là gì, giúp đỡ người khác hay mưu cầu danh lợi cho riêng bản thân mình.
10. Đầy tớ của mọi người.
Bác sĩ Mayo là người đã xây dựng một bệnh viện nổi tiếng trên thế giới tại bang Minnesota. Ngày kia có một đoàn chuyên viên từ Âu châu đến thăm. Và theo tập tục ở đó, thì ban tối, trước khi đi ngủ, khách sẽ để giày của mình ở ngoài cửa phòng và sẽ có người đến lấy để đánh bóng. Bác sĩ Mayo là người về sau cùng khi đêm đã khuya. Ông thấy các đôi giày để ở ngoài của phòng, nhưng ngần ngại không muốn đánh thức các người giúp việc. Ông thở dài rồi đem các đôi giày xuống bếp và tự tay ông, thức đến quá nửa đêm để đánh bóng những đôi giày của khách.
Câu chuyện trên làm cho chúng ta nhớ tới lời Chúa qua đoạn Tin Mừng sáng nay: Nếu ai muốn làm lớn, thì phải trở nên kẻ rốt hết. Cũng như các tông đồ, chúng ta thường hay tranh luận xem ai trong chúng ta là người lớn nhất. Và Chúa Giêsu đã trả lời: Người lớn nhất phải làm đầy tớ cho mọi người. Chính Chúa Giêsu đã làm gương trước cho chúng ta. Ngài phán: Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Và rồi trong bữa Tiệc ly, Ngài đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Ngài phán: Các con gọi Ta là Chúa và là Thầy thì phải lắm. Nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.
Vậy chúng ta phải làm gì để noi theo mẫu gương của Ngài về vấn đề phục vụ? Chúng ta đã giúp đỡ những người anh em như thế nào? Chúng ta đối xử với những người đã làm ơn cho chúng ta ra làm sao? Và thế nào là một người đầy tớ? Tôi xin thưa đó là một người được mướn để làm việc, đặc biệt là những việc trong nhà. Và theo một ý nghĩa rộng rãi hơn, thì người đầy tớ là một người hăng hái nhiệt tình với người khác bằng một mục đích, một niềm tin. Và phục vụ có nghĩa là làm một việc để giúp đỡ hay đem lại lợi ích cho người khác.
Trong chiều hướng đó thì tất cả chúng ta đều được mời gọi để trở nên những tôi tớ. Chẳng hạn: người mẹ trong gia đình thực sự là đầy tớ cho cả nhà, bởi vì mỗi chức vụ đều có những cơ may để phục vụ. Điều quan trọng là chúng ta đã thực hiện được tinh thần tôi tớ ấy hay chưa.
Đức Giáo Hoàng người đứng đầu Giáo Hội công giáo, nắm giữ một địa vị quan trọng nhất trên thế giới, thế mà ngài vẫn tự nhận cho mình là “servus servorum”, tôi tớ của các tôi tớ.
Để kết luận, chúng ta hãy đánh giá cao việc phục vụ của những người chung quanh chúng ta, chẳng hạn như người bán hàng, người hốt rác, người giảng dạy. Đồng thời trong giây phút này, chúng ta hãy phục vụ Thiên Chúa bằng việc dâng thánh lễ, như một đỉnh cao của tinh thần phục vụ. Rồi khi trở về với cuộc sống, chúng ta hãy biến cuộc sống trở thành một thánh lễ nối dài bằng chính tinh thần phục vụ của mình. Mỗi người chúng ta hãy tự vấn lương tâm xem: Trong hoàn cảnh của tôi, tôi phải làm những gì để phục vụ và giúp đỡ những người anh em của tôi.
11. Phục vụ.
Ai muốn làm lớn, hãy trở nên như tôi tớ cho mọi người. Như chúng ta đã biết, thánh Phanxicô Salêsiô là một giám mục nổi tiếng. Ngài có một người giúp việc, và người giúp việc này lại mắc phải cái tật nghiện rượu. Buổi tối khi công việc đã xong, anh thường hay xuống phố cùng với mấy người bạn nhậu lai rai nơi quán cóc.
Lần kia, anh ta nhậu ngoắc cần câu luôn, về tới nhà thì trời đã khuya. Vì xỉn, anh ta không biết lối vào nhà, thế là anh ta liền nằm trước cửa tòa giám mục mà ngủ. Lúc bấy giờ thánh Phanxicô Salêsiô vẫn còn thức, nghe tiếng động, ngài liền ra mở cửa và khi nhận ra anh giúp việc, ngài bèn bồng anh ta, đặt vào giường của mình để anh được nằm ngủ.
Buổi sáng thức dậy, anh giúp việc thấy mình nằm trong phòng của Đức giám mục, bèn nhớ tới bữa nhậu tối hôm trước và thế là anh vội quì xuống xin Đức giám mục tha thứ. Và cũng kể từ đó anh chừa bỏ được cái tật xuống phố nhậu lai rai với bè bạn nơi quán cóc.
Qua câu chuyện trên, chúng ta nhận thấy thái độ cư xử của thánh Phanxicô Salêsiô thật là đẹp đẽ. Là một vị giám mục nổi tiếng, thế mà ngài không ngần ngại cúi xuống, bồng ẵm người đầy tớ đang xỉn rượu, lại còn đem về phòng, đặt trên giường của mình cho người đầy tớ ấy được yên giấc. Còn mình thì phải đi tìm chỗ khác.
Thái độ ân cần ấy gợi lại cho chúng ta hình ảnh một người Samaria nhân từ trong Phúc âm, đồng thời cũng nhắc nhở cho chúng ta nhớ tới lời Chúa truyền dạy: Ai muốn làm lớn, hãy trở nên như tôi tớ cho mọi người.
Chính Chúa Giêsu cũng đã làm gương trước cho các môn đệ cũng như cho mỗi người chúng ta bắt chước, khi quì xuống rửa chân cho các ông trong buổi tối ngày Thứ năm Tuần thánh. Rồi Ngài cũng đã tâm sự với các ông: Nếu Ta là Chúa và là Thày mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.
Trong cuộc sống, chúng ta thường thấy người ta nhắc tới khẩu hiệu sau đây: Mình vì mọi người. Thế nhưng, rất ít người đã thực hiện được khẩu hiệu ấy. Đáng lẽ ra mình phải vì mọi người, thì họ lại muốn mọi người phải vì mình, có nghĩa là họ muốn mọi người phải để ý đến họ, mọi người phải ca tụng họ, mọi người phải nâng đỡ họ, mọi người phải phục vụ họ, mọi người phải đem lại lợi ích cho họ.
Cách sống trên hoàn toàn trái ngược với mẫu gương của Chúa: Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã thực hiện điều Chúa truyền dạy đó là dấn thân để phục vụ và giúp đỡ người khác hay chưa?
12. Con đường dẫn tới vinh quang -- Lm. Ignatiô Trần Ngà
Muốn làm lớn, muốn tỏ ra mình là người có giá trị, hay nói khác đi, muốn tự khẳng định mình là một nhu cầu hết sức quan trọng và được biểu hiện bằng nhiều hình thức trong cuộc sống.
Thời Chúa Giê-su, các vị kinh sư và các người biệt phái tự khẳng định mình bằng cách "đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là "ráp-bi". (Mt 23, 5-7)
Ngay cả các môn đệ Chúa Giê-su cũng hay tranh luận với nhau giữa họ ai là người lớn nhất. Điều nầy đã được ghi lại nhiều lần trong Tin Mừng (Mc 9, 33-34; Lc 9, 46; Mt 18,1; Lc 22, 24).
Có lần, hai môn đệ Gioan và Giacôbê cùng với mẹ mình đến xin Chúa Giê-su cho ngồi bên tả bên hữu Chúa khi đến thời Người được hiển vinh. Bấy giờ, mười môn đệ kia tỏ ra bất bình với Gioan và Giacôbê vì anh em nhà nầy muốn giành trước hai chiếc ghế mà họ đang ngấp nghé. (Mt 20, 20-24; Mc 10, 35-37)
Đó là khát vọng chung của con người. Ai cũng muốn nổi bật, ai cũng muốn vươn cao; không ai muốn bị lu mờ. Nói chung, ai cũng muốn làm gia tăng giá trị của mình.
Đây là một khao khát rất tự nhiên. Chính Thiên Chúa đã đặt vào tâm hồn con người khát vọng đó để thúc đẩy họ vươn lên thành những người cao cả. Chúa Giê-su cũng kêu gọi các môn đệ vươn tới đỉnh trọn lành: "Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện." (Mt 5, 48)
Làm thế nào để trở thành người cao cả thật sự
Có người cố làm tăng giá trị của mình bằng cách trang điểm thân xác. Tuy nhiên, người ta không thật sự trở nên cao cả nhờ nhan sắc, vì "tốt gỗ hơn tốt nước sơn, xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người".
Có người tìm cách làm gia tăng giá trị của mình bằng của cải vàng bạc, nhưng thực ra, "giá trị con người không hệ tại những gì người ta sở hữu".
Có người trau dồi và phát huy tài năng cho người ta nể phục, hoặc cố giành những địa vị cao trong xã hội để nâng giá trị mình lên.
Còn Chúa Giê-su, nhân cơ hội các môn đệ tranh cãi sôi nổi ai là người lớn nhất, Người chỉ cho họ một cách để thực sự trở thành cao cả: "Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người" (Mc 9,35)
Lời dạy của Chúa Giê-su xem ra trái nghịch với suy nghĩ của người đời. Thông thường, muốn làm lớn thì phải tôn mình lên để thống trị người khác; đằng nầy Chúa Giê-su dạy phải hạ mình xuống làm tôi tớ hầu hạ mọi người. Thật thế sao?
Ngày 5 tháng 9 năm 1997, cả thế giới xúc động, thương tiếc và bày tỏ lòng ngưỡng mộ sâu xa khi hay tin một nữ tu già nua, thấp bé mang danh Tê-rê-xa qua đời tại Calcutta, Ấn-độ ở tuổi 87. Nhà Nước Ấn-độ, một quốc gia phần đông theo Ấn-giáo, đã long trọng tổ chức quốc táng cho Mẹ Tê-rê-xa, một nữ tu khiêm tốn bình dị công giáo, người gốc An-ba-ni! Thật là điều không tưởng tượng nổi.
Tại sao Mẹ Tê-rê-xa lại được vinh dự lớn lao như thế?
Vì Mẹ đã thực hành đến mức hoàn hảo điều mà Chúa Giê-su truyền dạy cho các môn đệ Người trong Tin Mừng hôm nay. Đó là hạ mình làm tôi tớ hầu hạ phục dịch những con người nghèo thiếu và khốn khổ nhất thế gian với lòng yêu thương vô hạn.
Cuộc đời của Mẹ Tê-rê-xa Calcutta là một bằng chứng hùng hồn cho thấy rằng giáo huấn của Chúa Giê-su là xác đáng: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người" (Mc 9,35)
Như thế, phục vụ trong yêu thương và khiêm hạ chính là con đường đưa tới vinh quang.
13. Làm gia tăng giá trị của mình -- Lm. Ignatiô Trần Ngà
Đang lúc Chúa Giêsu nói về cái chết sắp đến của Ngài tại Giêrusalem thì các môn đệ của Ngài dường như không quan tâm, không hiểu gì, vì các ông còn bận tâm đến chuyện khác: tranh luận xem giữa các ông ai là người lớn nhất.
Muốn làm lớn, muốn tỏ ra mình là người có giá trị, hay nói khác đi, muốn tự khẳng định mình là một nhu cầu hết sức quan trọng và được biểu hiện bằng nhiều hình thức trong cuộc sống.
Thời Chúa Giêsu, các vị kinh sư và các người biệt phái tự khẳng định mình bằng cách “đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi”. (Mt 23, 5-7)
Ngay cả các môn đệ Chúa Giêsu cũng hay tranh luận với nhau giữa họ ai là người lớn nhất. Điều nầy đã được ghi lại nhiều lần trong Tin Mừng (Mc 9, 33-37; Lc 9, 46; Lc 22, 24)
Có lần Bà Giêbêđê đem hai người con là Gioan và Giacôbê đến gặp Chúa Giêsu và khẩn khoản nài xin Ngài cho hai con của Bà được ngồi bên hữu bên tả Chúa Giêsu khi Ngài được hiển trị trong Nước Ngài. Mười môn đệ khác đâm ra bất bình với hai anh em nầy, có thể là vì hai anh em nầy dám tranh giành trước hai chiếc ghế mà họ đã ngấp nghé từ lâu! Hoá ra ai cũng muốn tìm địa vị cao, ai cũng muốn làm gia tăng giá trị của mình. (Mt 20, 21-24)
Thời nay cũng vậy, người ta cố làm gia tăng giá trị của mình, khẳng định tài năng và bản lãnh của mình dưới mọi hình thức. Không ai muốn chìm lĩm giữa đám đông. Ai cũng muốn vươn tới những đỉnh cao.
Đây là một ao ước rất tự nhiên. Chính Thiên Chúa đã đặt vào lòng chúng ta khát vọng đó để thúc đẩy chúng ta vươn lên thành những con người cao cả. Chúa Giêsu cũng kêu gọi chúng ta đạt tới những giá trị cao vời: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5, 48)
Nhưng phải làm gì để trở thành người cao cả thật sự?
Có người cố làm tăng giá trị của mình bằng cách trang điểm thân xác. Tuy nhiên, người ta không thật sự nên cao cả nhờ nhan sắc, vì “tốt gỗ hơn tốt nước sơn, xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người”.
Người ta tìm cách làm gia tăng giá trị của mình bằng của cải vàng bạc, nhưng thực ra, “giá trị con người không hệ tại những gì người ta sở hữu”.
Có người làm tăng giá trị của mình bằng cách phát huy tài năng cho người ta nể phục, hoặc cố giành những địa vị cao trong xã hội để nâng cao giá trị mình lên.
Còn Chúa Giêsu, khi các môn đệ tranh cãi với nhau xem giữa họ ai là người lớn nhất, Ngài chỉ cho họ một giải pháp: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”.
Lời dạy của Chúa Giêsu xem ra trái nghịch với suy nghĩ của loài người. Thông thường, muốn làm lớn thì phải nâng mình lên để thống trị, đằng nầy Chúa Giêsu dạy phải hạ mình xuống làm tôi tớ hầu hạ mọi người.
Làm sao chấp nhận được giải pháp của Chúa Giêsu?
* * *
Trong thời đại chúng ta, chưa có ai được nhiều người yêu mến và cảm phục cho bằng Mẹ Tê-rê-xa Calcutta. Chưa bao giờ một phụ nữ già nua còm cõi thuộc giới bình dân, khi lìa đời lại được cả thế giới thương tiếc, ngưỡng mộ và được Nhà Nước Ấn-độ tổ chức quốc táng trọng thể như Mẹ Tê-rê-xa Calcutta. Mẹ là con người cao cả và vĩ đại thật sự. Giá trị của Mẹ không hệ tại ở sắc đẹp, giàu sang, tài năng hay quyền thế. Mẹ vĩ đại vì mẹ đã thực hiện lời Chúa Giêsu dạy: “làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”. Mẹ là người tôi tớ nhiệt thành phục vụ những con người hèn kém và đau khổ nhất thế gian nên Mẹ đã trở thành người phụ nữ cao cả và đáng ngưỡng mộ nhất.
Quả đúng như lời Chúa Giêsu, chỉ có sự phục vụ trong khiêm tốn mới là phương thế làm cho con người nên cao cả vĩ đại nhất.
14. Cuộc khổ nạn và tinh thần phục vụ -- Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng
Tin mừng Mc 9: 30-37: Lời Chúa trong Chúa nhật hôm nay mời gọi Kitô hữu cũng sống đời sống phục vụ, là cách thức thông phần vào cuộc Thương khó tử nạn của Chúa Giêsu.
Ơn cứu độ là ân huệ cao quý nhất mà Thiên Chúa ưu ái tặng ban cho nhân loại. Ngài tặng ban bằng chính sự hạ mình yêu thương phục vụ của Chúa Giêsu, Con Một Ngài. Lời Chúa trong Chúa nhật hôm nay mời gọi Kitô hữu cũng sống đời sống phục vụ, là cách thức thông phần vào cuộc Thương khó tử nạn của Chúa Giêsu.
I. KHÁM PHÁ SỨ ĐIỆP TIN MỪNG: Mc 9,30-37.
Bản văn Tin mừng Chúa nhật hôm nay bao gồm lời loan báo thứ hai về cuộc khổ nạn và phần đầu của một diễn từ kéo dài cho đến Mc 9,50, thâu tập các lời dạy của Chúa Giêsu về nhiều vấn đề từ tinh thần phục vụ, việc đón tiếp, sự hiệp nhất giữa những người cùng tin vào Chúa cho đến đời sống bác ái và làm gương sáng.
1. Lời loan báo thứ hai về cuộc khổ nạn: Lời loan báo này có điểm đặc biệt khác với lời loan báo đầu ở câu "bị nộp vào tay người ta". Thành ngữ "bị nộp" không xa lạ gì với Kinh thánh. Chúng ta bắt gặp từ ngữ này trong Thánh vịnh nói về nỗi khổ đau của người công chính kêu cầu được giải thoát khỏi tay kẻ bạo tàn (Tv 71,4 ; 140,5) ; trong Đaniel 7,25, nơi các Đấng Thánh của Chúa bị nộp vào tay vị Vua bách hại Antiôkô Êpiphan. Do đó, câu này mạc khải khía cạnh quan trọng của cuộc Thương khó và Tử nạn của Chúa Giêsu: Người thâu tóm và hoàn tất trọn vẹn mọi nỗi khổ đau của người công chính, sự bách hại các Tiên tri phải chịu và cái chết của các vị Tử đạo cùng với mọi nỗi khổ khác của đời người. Khi loan báo về cuộc khổ nạn như thế, Chúa Giêsu cho thấy cuộc khổ nạn của Người là biến cố trung tâm, đỉnh cao của công trình cứu độ.
2. Tinh thần phục vụ: Máccô trình bày khá độc đáo cuộc tranh luận của các môn đệ xem ai là người lớn nhất trong số họ. Cuộc tranh luận này có lẽ là dư âm của nhiều vấn đề trong cộng đoàn sơ khai về chức tước, địa vị của các Tông đồ (1Cr 1-4 ; Cv: Những đoạn về Phêrô và Gioan). Để giải quyết cuộc tranh luận này Chúa Giêsu không đề cập trực tiếp ai là người lớn nhất, nhưng Người khẳng định một chân lý, một nguyên tắc: "Ai muốn làm người lớn nhất thì tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người". Với Chúa Giêsu, sự lớn lao đích thực hê tại việc trở nên người tôi tớ phục vụ người khác. Mọi quyền bính đều nhắm mục đích phục vụ, nói cách khác, quyền bính chỉ có thể đến, danh vọng chỉ có thể có khi người ta biết tự hạ mình phục vụ anh chị em mình. Chính Chúa Giêsu đã thực hiện trọn hảo điều này và Người cũng đã khẳng định: Con Người đến để phục vụ chứ không phải để được người ta phục vụ.
3. Thái độ đón tiếp: Sự kiện Chúa Giêsu bồng một em bé đặt giữa các môn đệ và kêu gọi sự đón tiếp có lẽ không liền lạc với văn mạnh cũng như bối cảnh của đoạn trước. Dầu không liên lạc gì với phần trước nhưng cũng có giá trị mạc khải lớn lao. Sự lưu tâm của Chúa Giêsu đối với trẻ em là một nét đặc biệt nơi Người. Với xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu, trẻ em không được coi trọng, chúng không đáng kể, không đáng được lưu tâm trước mắt người lớn. Nói chung trẻ em cũng như những người thu thuế, gái điếm… là đại diện của tầng lớp bị bỏ rơi, bị chà đạp, bị khinh miệt. Do đó, việc Chúa Giêsu tiếp nhận trẻ em và mời gọi các môn đệ cũng tiếp đón chúng, và xa hơn nữa Người khẳng định ai đón tiếp chúng là đón tiếp Người, đón tiếp chính Đấng đã sai Người là Chúa Cha, đó là một mạc khải về tình yêu của Thiên Chúa. Một tình yêu không thiên tư, thiên vị, một tình yêu nhưng không dành cho tất cả mọi người.
II. CHIÊM NGẮM CHÚA GIÊSU:
Tin mừng hôm nay tiếp tục phác họa chân dung Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ. Người cứu độ nhân loại bằng cuộc Thương khó, Tử nạn là trung tâm, là đỉnh cao công trình cứu độ của Thiên Chúa. Ngay chính trong hành trình tiến tới cuộc khổ nạn, Chúa Giêsu qua lời giảng dạy, qua tình yêu dành cho trẻ em, cho những người bị bỏ rơi và cho những người tội lỗi còn cho thấy: Người đến là để phục vụ nhân loại này. Phục vụ bằng tất cả tình yêu dâng hiến của mình. Theo Người cũng đòi hỏi phải mang lấy tinh thần khiêm nhu phục vụ. Vác thập giá mình theo Người được cụ thể hóa bằng đời sống hy sinh phục vụ anh chị em.
III. GỢI Ý BÀI GIẢNG:
1. Khổ nạn và phục vụ:
Tin mừng hôm nay cho thấy có sự liên kết chặt chẽ giữa cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu và lời mời gọi trở nên tôi tớ phục vụ mọi người. Chúa Giêsu đã sống trọn hảo tinh thần tự hạ phục vụ này. Người là Chúa nhưng đã hạ mình làm người để chia sẻ mọi nỗi khốn cùng của kiếp người, đồng cam cộng khổ với mọi người qua hành trình rao giảng Tin mừng, yêu thương chữa lành bệnh nhân, xua trừ ma quỷ… Tất cả đều nhằm lợi ích cho tha nhân, phục vụ sự sống của mọi người. Đỉnh cao của tinh thần phục vụ nơi Người đó là sẵn sàng hiến thân chết để cho nhân loại được sống và sống dồi dào. Kitô hữu, môn đệ của Người cũng được mời gọi phải mang lấy tinh thần phục vụ của Người. Phải tự trở nên người đầy tớ phục vụ anh chị em mình. Đây chính là một nghịch lý cho đời Kitô hữu. Chấp nhận sống nghịch lý ấy đó chính là thái độ chấp nhận vác thập giá theo Thầy Chí Thánh của mình.
2. Quyền bính đến từ sự phục vụ:
Điều làm nên sự vĩ đại, tạo nên uy tín cho Giáo hội và cho mỗi Kitô hữu chính là đời sống phục vụ. Mọi quyền bính trong Giáo hội được trao ban chính là nhắm mục đích phục vụ, chứ không phải để thống trị. Lời Chúa Giêsu dạy: "Ai muốn làm người lớn nhất thì tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người" đã minh nhiên khẳng định phục vụ chính là con đường đưa tới danh vọng, uy quyền thực sự. Kitô hữu không đi tìm danh vọng, quyền chức trần thế, nhưng đi tìm con người và môi trường để phục vụ. Yêu thương, hy sinh, chia sẻ, bác ái, khoan dung, tha thứ… luôn là những việc phải làm của các Kitô hữu, những đầy tớ của anh chị em mình. q
IV. LỜI CẦU CHUNG:
Mở đầu: Anh chị em thân mến. Chúa Giêsu được sai đến trần gian để phục vụ sự sống nhân loại chúng ta bằng con đường Thương khó, Tử nạn. Người đã dâng hiến chính mình để phục vụ chúng ta. Trong tâm tình cảm tạ, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.
1. Giáo hội được mời gọi hãy trở nên rốt hết và làm đầy tớ mọi người. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Giáo hội, đặc biệt các bậc chủ chăn luôn hết mình yêu thương hy sinh phục vụ dân Chúa và lợi ích của cộng đồng nhân loại.
2. "Dọc đàng các con tranh luận gì thế?" câu hỏi của Chúa dành cho các môn đệ ngày xưa cũng đang là câu hỏi cho con người và thế giới hôm nay. Ngày nay biết bao quốc gia, thế lực, con người đang muốn củng cố danh vị và quyền lực của mình bằng bạo lực chiến tranh, bằng sức mạnh đồng tiền và nhiều cách bất chính khác. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo các quốc gia, những công bộc, đầy tớ của nhân dân biết quên mình phục vụ đời sống tự do, công bình và tình thương của dân nước.
3. "Ai đón tiếp một trong những trẻ nhỏ này là đón tiếp chính Thầy". Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta biết sống tinh thần phục vụ của Chúa Giêsu bằng lòng bao dung, yêu thương đón nhận giúp đỡ những anh chị em nghèo khổ, bất hạnh chung quanh.
Lời kết: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến trần gian để hy sinh phục vụ đến độ chấp nhận chết cho chúng con được sống và sống dồi dào. Xin cho chúng con, những môn đệ của Chúa cũng được như Chúa sống đời sống yêu thương phục vụ tha nhân, để xây dựng xã hội chúng con ngày càng có hòa bình, tự do và công lý. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
15. Người làm lớn
MINH HỌA LỜI CHÚA
1. Ngưới lớn nhất
Tại một vùng hoang dã, những tên giang hồ sống chung trong một căn trại, có một phụ nữ ở với họ. Phụ nữ này đã gian díu với một tên trong nhóm đó và đã có thai. Đến ngày sinh, chị yếu nhược quá nên đã chết, để lại đứa con còn non nớt. Từ ngày có đứa trẻ trong căn trại, đời sống của đám giang hồ đã thay đổi hẳn. Họ bỏ đánh bạc rượu chè ban đêm để cho đứa bé ngủ yên. Họ không dám nói tục tằn thô lỗ trước mặt nó …
2. Đầy tớ phục vụ
Một tu sĩ lớn tuổi đã nhiều lần cầu xin Chúa hiện ra củng cố niềm tin cho ông. Nhưng điều đó chưa bao giờ xảy ra. Và trong lúc ông không còn hy vọng điều đó xảy đến cho ông thì ngày nọ Chúa đã hiện ra. Ông hết sức vui mừng tiếp rước Chúa, nhưng ngay lúc đó một hồi chuông vang lên, báo hiệu đến giờ phát chẩn cho kẻ nghèo. Hôm nay lại đến phiên ông phát chẩn cho họ.
Vị tu sĩ bị xâu xé giữa nhiệm vụ và cuộc diện kiến với Chúa. Nhưng ông đã can đảm ngưng cuộc diện kiến, mặc dầu ông vô cùng tiếc nuối, để đi phát chẩn cho người nghèo. Vừa làm xong nhiệm vụ, ông chạy nhanh về phòng, và ông không thể tin mắt mình, ông thấy Chúa còn ở lại chờ ông. Ông quỳ xuống cảm tạ Chúa, Chúa liền nói với ông, “Nếu con không đi phát chẩn cho người nghèo, Ta đã không ở lại chờ con.”
3. Bị bắt vì giúp người nghèo
Tại Baltimore ờ Hoa Kỳ, cảnh sát đã bắt giữ một thanh niên vì có hành động lạ thường. Anh đã nhận được ột gia tài kếch sù. Anh quyết định phân phát cho người nghèo, nên anh đi từ nhà này đến nhà khác hỏi, “Ông bà có túng thiếu không? Nếu tôi cho tiền ông bà, ông bà có hứa sẽ sử dụng tiền đó vì ích lợi cho ông bà không?” Và như thế, ai đồng ý thì người thanh niên này trao cho một số tiền. Cảnh sát bắt giữ anh vì hành động lạ thường này. Nhưng sau khi điều tra kỹ lưỡng, họ không thấy anh có hành động phạm pháp nào, vì trong nước không có điều luật nào cấm công dân lấy tiền của mình giúp đỡ kẻ khác.
4. Tuổi thơ là mẫu mực
Nhà thần bí học nổi tiếng của Ấn Độ là Ramah Chrisna thường kể câu chuyện như sau. Ở ngôi làng hẻo lánh thuộc bang Bengala, một quả phụ nghèo có đứa con trai thơ ngày ngày phải băng qua một khu rừng để đi học. Một hôm em nói với mẹ, “Mẹ ơi! Con không dám đi qua khu rừng một mình nữa. Mẹ tìm người đi với con.”
Người mẹ nhìn con ái ngại nói, “con ơi! Nhà mình nghèo, làm sao thuê được người đưa đón con. Con hãy nói với ông Chrisna là thần của khu rừng đó giúp đưa đón con.” Tin lời mẹ, mỗi ngày đi học, cậu bé kêu thần Chrisna đưa đi rước về. Ngày nọ, nhân ngày sinh nhật của thầy giáo, thấy các bạn lớp chuẩn bị mua sắm quà cáp cho thầy, cậu bé cũng xin tiền mẹ mua quà cho thầy, nhưng bà than thở, “Con ơi! Nhà mình nghèo, đâu có tiền mua quà cho thầy. Con cứ xin thần Chrisna giúp con.”
Và theo lời nó xin, thần Chrisna đã cho nó món quà. Nó đem trao cho thầy giáo. Ông thầy thấy món quà của nó đơn sơ quá, không muốn mở ra, nên trao cho người làm bếp. Đó là một gói sữa tươi. Người đầu bếp mở gói ra, đổ sữa vào chai. Nhưng lạ thay, anh đổ đầy chai nầy đến chai khác mà gói sữa vẫn còn nguyên vẹn. Thầy giáo nghe biết thế thì hỏi nguyên do, cậu bé bảo là của thần Chrisna. Không tin việc lạ đó, thầy giáo bảo cậu dẫn đến gặp Chrisna. Nó liền đưa thầy giáo và các bạn đến khu rừng. Nó kêu gọi mãi mà chẳng thấy thần nào. Nó khóc òa lên nài nỉ, “Thần Chrisna ơi! Nếu thần không đến thì mọi người cho là con nói dối.”
Và nó nghe có tiếng vọng lại, “Con ơi! Ta không thể đến được. Ngày nào thầy giáo con có niềm tin và trái tim đơn sơ như con, Ta mới đến.”
5. Người đàn bà nổi tiếng
Thế giới hiện đang chú ý đến một người đàn bà nổi tiếng nhất của thế kỷ, đó là mẹ Têrêsa Calcutta mới qua đời ngày 5 tháng 9 năm 1997. Toàn thể nhân loại nhất là những người cùng khổ đều thương tiếc khi nghe tin mẹ qua đời. Tại sao cả thế giới chú ý đến mẹ Têrêsa nhiều đến thế? Vì mẹ đã trọn đời hy sinh phục vụ người nghèo khổ, bệnh tật, đau khổ.
Năm 1937, nữ tu Têrêsa được cử làm giám đốc một trường trung học dành riêng cho học sinh giàu tại Calcutta. Nữ tu còn nhớ rõ lời căn dặn của người mẹ, “Con hãy nhớ, con được gởi đến Ấn độ là để phục vụ người nghèo.”
Trước cảnh đói khổ của dân chúng, trước cảnh đau xót của các bệnh nhân, những người phong cùi, và nhất là các trẻ em và những người già yếu lê lết ngoài đường phố, nữ tu Têrêsa không thể an tâm tiếp tục làm giám đốc, nhất là giám đốc của một trường dành riêng cho học sinh giàu.
Năm 1946, nữ tu Têrêsa đang ngồi trên chiếc xe lửa chật chội gần bên những người cùng khổ, chị nghe như có tiếng thì thầm trong lòng, “Con hãy phục vụ người nghèo bằng cách đến sống với họ và như họ.”
Đây là lần thứ hai nữ tu nghe tiếng gọi như thế. Xác tín đây là tiếng Chúa gọi, chị đã trình lên bề trên, và đúng một năm sau, chị được bề trên và Đức Giám mục địa phương cho phép ra khỏi dòng để đến sống với những người nghèo khổ.
Cởi chiếc áo dòng của các nữ tu, chị Têrêsa choàng vào chiếc áo Sari cổ truyền Ấn độ, giống như người nghèo, phục vụ người nghèo, chia sẻ cuộc sống của người nghèo. Chị thực sự trở nên người nghèo giữa những người nghèo, nhất là chị “nhìn thấy Chúa trong những người nghèo.” Năm 1974, mẹ trả lời cho một cuộc phỏng vấn, “Tôi thấy Chúa trong mỗi người. Khi tôi rửa các vết thương cho người cùi, tôi nghe như tôi rửa cho chính Chúa Giêsu.”
6. Tôn Ngộ Không.
Trong phim truyện Tây Du Ký, vai trò nổi bật nhất là Ngộ Không. Ngộ Không bá chủ loài khỉ, chưa đủ, anh còn học 78 phép biến hoá, rồi đi thống trị các lân bang. Vẫn chưa hài lòng, Ngộ còn đòi lên trời làm Tề Thiên Đại Thánh: Tề Thiên là bằng Trời. Đại Thánh là cao sang vĩ đại nhất. Ngọc Hoàng Thượng Đế biết Ngộ ngạo mạn quá trớn phong cho Ngộ làm mã quan. Ngộ hý hửng tưởng bở, nhưng khi bị sai đi chăn ngựa, Ngộ mới hiểu mã quan là quan coi ngựa. Ngộ bực tức vì ngu mà bị mắc bẫy. Ngộ giận dữ phá phách, bị đại tướng nhà trời đánh đuổi rơi xuống đất bị đè bẹp dưới tảng đá lớn suốt 500 năm để thấy mình bất lực mà ăn năn cải thiện.
Khi đã cải thiện, Ngộ được cứu thoát và gia nhập phục vụ đoàn đi tìm chân lý. Khi Ngộ Không bất mãn, bất phục lệnh, Ngộ lại bị cái vòng kim cô xiết vào đầu làm Ngộ Không nhức óc kêu la thảm thiết. Khi biết tuân lệnh quay về đường phục vụ, thì Ngộ được lành mạnh, tài giỏi. Nhờ biết đi vào con đường phục vụ như tôi tớ, Ngộ Không đã tìm được chân lý và hạnh phúc, và giúp cho cả đoàn tới được chân lý.
Phim truyện có hai màn đối nghịch nhau. Màn đầu: diễn tả cảnh tranh bá đồ vương khủng khiếp của Ngộ Không. Màn sau: diễn tả những việc phục vụ rất đắc lực của Ngộ Không.
(Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, năm B, tr. 182)
Trong bài Tin Mừng hôm nay, các môn đệ tranh cãi nhau xem ai là người lớn nhất. Chuyện này chẳng tốt đẹp gì. Nó chứng tỏ các ông chưa học được bao nhiêu từ những giáo huấn của Đức Giêsu. Nó cho thấy các ông chả hiều gì về sứ mạng Đức Giêsu. Bởi đó, Đức Giêsu gọi các ông lại và dạy cho họ biết ý nghĩa của việc làm lớn.
Đức Giêsu không huỷ bỏ cao vọng, nhưng Ngài định nghĩa nó lại cho đúng. Thay vị cao vọng thống trị người khác, Ngài dạy họ phục vụ người khác. Thay vì cao vọng muốn người khác hầu hạ mình, Ngài dạy họ biết hầu hạ người khác. Như thế điều Ngài lên án không phải là cao vọng mà là cao vọng sai.
7. Nghị viên Paedateros.
Người Hy lạp có một câu truyện về một người ở thành Spartes tên gọi Paedateros là một ứng củ viên. Người ta chọn và bầu ra ba trăm người để cai trị thành Spartes. Paedateros là một ứng cử viên. Khi danh sách những người trúng cử được công bố, không có tên ông. Một bạn thân của ông ta nói:
- Tiếc thật, người ta không bầu cho anh, thiên hạ không biết nếu bầu cho anh , anh sẽ là một chính khách lỗi lạc đến thế nào”?
Nhưng Paedateros thản nhiên đáp:
- Trái lại, tôi rất vui vì trong xứ Spartes này còn có ba trăm người có tài, có đức hơn tôi.
Đây là một người đã đi vào truyền thuyết vì sẵn sàng nhường cho kẻ khác ngôi vị hàng đầu mà không hề tỏ ra cay đắng.
Nhà văn hào R. Tagore cũng có một lý tưởng cao đẹp như thế khi ông nói: ”Khi tôi ngủ, tôi mơ rằng cuộc đời là niềm vui. Lúc thức dậy, tôi thấy rằng cuộc đời là phục vụ. Khi phục vụ, tôi thấy rằng phục vụ là niềm vui”.
8. Chân phước Charles de Foucauld.
Cha Charles de Foucauld, biệt danh là người hùng sa mạc Sahara, trước đây là một viên thượng tá trong quân đội Pháp. Đã từng chỉ huy các đoàn kỵ binh anh dũng rong ruổi ngược xuôi trên lưng ngựa để phục vụ hoàng triều nước Pháp. Foucauld tưởng như vậy là thành công và oai hùng. Nhưng nắm trong tay những tấm huy chương chói lọi, và tai nghe tiếng vó ngựa vang trời, Foucauld vẫn cảm thấy sự trống vắng, vô nghĩa của cuộc đời ! Để cho đời mình có ý nghĩa tròn đầy, ông rời quân ngũ, xin vào phục vụ trong một tu viện ở làng Nazareth. Tại đây, Foucauld gánh nước cho từng nhà, nhất là những người già yếu bệnh tật. Rồi Chúa lại dẫn lối cho Foucauld đi tĩnh huấn trong sa mạc để đem Tin Mừng cho người Phi châu. Trong đời quân ngũ, Foucauld không chinh phục được ai, nhưng trong đời tu sĩ, ông đã đem nhiều linh hồn vê với Chúa.
9. Âm thầm phục vụ
Sáu trong số bảy anh em đi làm hàng ngày; người thứ bảy lo công việc nhà. Khi sáu anh em lao động mệt nhọc trở về nhà, họ thấy nhà gọn gàng và sạch sẽ, cơm đã sẵn, mọi thứ đều tốt đẹp và thoải mái. Họ biết ơn về điều này và khen người em út.
Nhưng một trong những anh em muốn tỏ ra khôn ngoan hơn những người khác. Anh cho là người em út lười biếng. Nó cũng nên có một việc để có cơm bánh hàng ngày. Những anh em khác cũng nghĩ thế. Nên họ nhất trí không cho người em út làm công việc trước đây.
Sáng hôm sau, họ bảo cậu cùng đi và tìm cho cậu một công việc. Tối đến, họ trở về nhà, mệt đói và bộ mặt cáu kỉnh.
Không ai chuẩn bị giường chiếu và lau nhà. Không có gì trên bàn ăn.
Họ nhận ra họ đã hành động ngu xuẩn khi ngăn cản người em út làm công việc phục vụ âm thầm.
Họ cảm thấy hối tiếc. Họ phục hồi công việc của người em út. Tình trạng êm ấm trước đây đã trở lại với gia đình
10. Bò và lừa.
Khi Đức Maria và Thánh Giuse đang trên đường đến Bêlem, thiên thần hiện ra với đàn súc vật để chọn lấy một con có thể giúp đỡ Thánh Gia. Sư tử tình nguyện trước. Nó nói: “Chỉ có tôi là chúa sơn lâm đáng phục vụ người cai trị thế giới. Tôi sẽ xé xác kẻ nào đến gần hài nhi.”
Thiên thần nói: “Bạn hùng hổ quá”.
Cáo tinh khôn theo dõi và với vẻ mặt vô hại, nó nói: “Tôi sẽ hết sức cung phụng trẻ Giêsu, mỗi sáng tôi sẽ bắt một con gà cho mẹ ngài”.
Thiên thần nói với cáo: “Bạn xảo quyệt quá”.
Rồi con công đến khoe màu sắc tuyệt vời của cái đuôi. Nó nói: “Tôi sẽ trang hoàng ngôi nhà nhỏ bé này đẹp hơn cả đền thờ Salômon”.
Thiên thần nói: “Bạn hão huyền quá”.
Nhiều con khác đến và cũng muốn giúp đỡ nhưng không con nào được chọn. Sau cùng, thiên thần rảo mắt nhìn quanh và thấy một con lừa và một con bò đang làm việc với một bác nông dân. Thiên thần gọi chúng lại và hỏi: “Các bạn có gì giúp đỡ Thánh Gia không?”.
Lừa cụp tai xuống trả lời: “Không có gì. Chúng tôi chả được học hành, càng cố học càng dốt, nhưng chúng tôi khiêm tốn và kiên nhẫn.” Bò ngượng ngùng tiếp lời: “Vâng, có lẽ chúng tôi chỉ có thể làm được một vài việc nhỏ như lấy đuôi đuổi ruồi thôi”
Thiên thần nói: “Được lắm, Tôi cần hai bạn.”
16. Người công chính bị bách hại -- Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
“Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời. Họ sẽ giết chết Người” (Mc 9,31)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến, Trong một thế giới còn nhiều sự dữ và nhiều người xấu, người sống công chính có thể chịu nhiều thiệt thòi vì bị người khác dèm pha, đố kỵ, hãm hại... Tuy nhiên, những khổ đau mà người công chính phải chịu lại sinh nhiều ơn ích cho chính những kẻ làm hại mình.
Kitô hữu chúng ta được kêu mời noi gương Ðức Giêsu sống công chính như thế đó. Tuy nhiên, nếu không được Chúa giúp sức thì chúng ta khó mà sống được như thế.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta can đảm sống theo gương Ngài.
II. Gợi ý sám hối
Nhiều lần chúng ta ganh ghét đố kỵ với những người tốt hơn chúng ta.
Nhiều lần vì sợ dư luận dèm pha, chúng ta không dám sống tốt như lý tưởng kitô giáo đòi hỏi.
Nhiều lần vì muốn yên thân, chúng ta không can đảm bênh vực những người vì làm tốt mà bị ganh ghét.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Kn 2,12.17-20)
Những lý do khiến phường vô đạo bách hại người công chính:
Người công chính chống lại những việc làm xấu xa của phường vô đạo;
Cách sống tốt của người công chính làm lộ rõ cách sống xấu xa của chúng;
Phường vô đạo bách hại người công chính để thử xem Thiên Chúa có bênh vực người công chính hay không.
2. Ðáp ca (Tv 53)
Mặc dù bị phường vô đạo chống đối và tìm hại mạng sống, nhưng người công chính vẫn trông cậy vào Chúa và kêu xin Chúa cứu giúp mình.
3. Tin Mừng (Mc 9,29-36)
1. Chính Ðức Giêsu mặc khải cho các môn đệ biết Ngài là ai: Ngài là Ðấng Messia đến cứu thoát loài người, nhưng cứu thoát qua con đường chịu nạn, chịu chết và sống lại.
2. Do đã quen với quan niệm về một Ðấng Messia vinh quang hiển hách, các môn đệ không hiểu gì cả. Nhưng không dám hỏi lại Ðức Giêsu. Và cũng vì đã quen với quan niệm thế tục ấy nên dọc đường các ông tranh luận xem ai sẽ là người lớn nhất trong Nước Trời mà Ðức Giêsu thành lập.
3. Ðức Giêsu sửa dạy các ông: trong Nước Trời, đừng ai để ý tới địa vị lớn hoặc nhỏ. Ðiều thứ nhất phải để ý là phục vụ: càng có chức vụ cao thì càng phải phục vụ nhiều (để nhấn mạnh ý tưởng phục vụ, Ðức Giêsu dùng hình ảnh người đầy tớ). Ðiều thứ hai phải để ý nữa là có thái độ tiếp đón mọi người không phân biệt gì cả, dù là một người hèn hạ, vô ích thì người môn đệ Chúa cũng phải tiếp đón (để nhấn mạnh ý tưởng tiếp đón, Ðức Giêsu dùng hình ảnh trẻ nhỏ, tức là một con người không mang lại lợi ích gì cho kẻ tiếp đón nó, mà còn mang tới phiền muộn).
4. Bài đọc II (Gc 3,16--4,3) (Chủ đề phụ)
Thánh Giacôbê thuyết phục tín hữu từ bỏ thói xấu ganh tị tranh chấp:
Ở đâu có ganh tị tranh chấp thì ở đó có xáo trộn và đủ thứ xấu xa;
Người xây dựng hòa bình sẽ thu hoạch hoa trái là sự công chính;
Xung đột và chiến tranh bắt nguồn từ những ham muốn bất chính của con người.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Người công chính bị bách hại
Elia Wiesel, một nhà văn Do Thái từng đoạt giải Nobel, kể câu chuyện sau đây:
Hồi đó ông đã bị quốc xã Ðức bắt giam trong trại tập trung Auschwitz. Ðây là một trại giam nổi tiếng là tàn bạo. Thỉnh thoảng bọn cai ngục bắt một số người đưa vào phòng hơi ngạt cho họ bị chết một cái chết rất khủng khiếp. Một hôm, có một đám trẻ Do Thái được chọn để hôm sau được đưa vào phòng hơi ngạt ấy. Nhìn thấy đám trẻ ngày mai phải chết, Elia Wiesel động lòng thương nên xin bọn cai tù cho phép ông được ở chung với bọn trẻ ấy một đêm. Thật là ngạc nhiên, bọn cai tù đồng ý ngay. Ðêm đó Elia Wiesel kể cho đám trẻ hết chuyện này đến chuyện khác, mong làm chúng được vui. Nhưng kết quả trái ngược hẳn, ông không làm chúng vui được mà chỉ làm cho chúng khóc, và chính ông cũng phải khóc theo. Sáng hôm sau, ông buồn bã tiễn chân đám trẻ vào phòng hơi ngạt rồi trở về phòng giam của mình, mặt mày tiu nghỉu. Bọn cai tù thấy thế thì cười ngặt nghẽo. Thật là vô tình và cũng thật tàn nhẫn.
Câu chuyện trên chứa đựng những ý tưởng chính của Lời Chúa hôm nay. Qua chuyện ấy, chúng ta thấy sự trơ tráo của những kẻ làm điều ác, người vô tội bị bách hại và chiến thắng của sự dữ (bài đọc I); chúng ta cũng thấy một tấm gương phục vụ những người bé mọn mà Ðức Giêsu đề cao trong bài Tin Mừng.
Trong hoàn cảnh càng tối tăm bi thảm thì hành động phục vụ những kẻ bé mọn càng chói sáng rực rỡ. Trong trại tù Auschwitz, tất cả những gì tốt lành và tử tế đều bị chà đạp, còn những gì là ích kỷ, tự tư tự lợi thì lại được coi là khôn ngoan. Lòng thương xót thì hiếm hoi như một cánh hoa giữa mùa đông giá lạnh.
Elia Wiesel đã vươn lên trên tất cả. Ông dám mạo hiểm cuộc sống để kết bạn với những đứa trẻ sắp bị xử tử. Thực ra ông chẳng có câu trả lời nào để giải đáp cho các em, cũng chẳng làm gì được để cứu các em. Tất cả những gì ông làm được chỉ là cùng sống với các em trong những giờ cuối cùng của cuộc sống, để các em không cô đơn trong đau khổ. Phần nào đó ông là hình ảnh của Ðức Kitô.
Ðức Kitô là một người công chính. Tuy nhiên Ngài cũng phải chịu khổ: suốt đời Ngài đã bị kẻ thù săn đuổi. Sở dĩ Ngài bị như thế là vì Ngài quá tốt lành, tốt quá nên những kẻ gian ác không chịu nổi. Sự tốt lành của Ngài vạch trần sự gian ác của họ, Ngài càng tốt lành thì sự gian ác của họ càng lộ rõ.
Ðức Kitô đã chiến thắng, chiến thắng không phải bằng cách đè bẹp sự gian ác hay trốn tránh sự gian ác, mà bằng cách đối diện với nó và vượt qua nó. Ngài ban can đảm và hy vọng cho tất cả những ai hy sinh bản thân cho tha nhân vì sự công chính. (Viết theo Flor McCarthy)
2. Bàn về cao vọng
Có cao vọng không phải là gì sai trái cả. Thực vậy, sống thì phải biết đặt mục tiêu cho đời mình, làm việc thì phải muốn thành công. Tuy nhiên cao vọng có thể vượt quá tầm kiểm soát của mình, khiến mình quên hết tất cả mọi sự khác để chỉ còn biết đeo đuổi điều mình ước vọng.
Bởi đó, chúng ta phải cẩn thận để ý xem những gì mình hy sinh khi theo đuổi cao vọng. Chúng ta có thể hy sinh cuộc sống gia đình, sự công bình, sự khả ái và thậm chí cả cuộc sống của mình nữa. Cao vọng có thể khiến người ta đối xử với người khác một cách bất công và tàn nhẫn. Thế nhưng, dù được lời lãi cả thế gian mà phải đánh mất chính mình thì nào có ích gì?
Trong bài Tin Mừng hôm nay, các môn đệ tranh cãi nhau xem ai là người lớn nhất. Chuyện này chẳng tốt đẹp gì. Nó chứng tỏ các ông chưa học được bao nhiêu từ những giáo huấn của Ðức Giêsu. Nó cho thấy các ông chả hiểu gì về sứ mạng Ðức Giêsu. Bởi đó, Ðức Giêsu gọi họ lại và dạy cho họ biết ý nghĩa của việc làm lớn.
Ðức Giêsu không huỷ bỏ cao vọng, nhưng Ngài định nghĩa nó lại cho đúng. Thay vì cao vọng thống trị người khác, Ngài dạy họ phục vụ người khác. Thay vì cao vọng muốn người khác hầu hạ mình, Ngài dạy họ biết hầu hạ người khác. Như thế điều Ngài lên án không phải là cao vọng mà là cao vọng sai.
Cao vọng sai làm hại cho sự hiệp nhất của cộng đoàn, nó biến thành ích kỷ và ganh ghét, và nó có thể sinh ra đủ thứ thái độ xấu xa đối với nhau.
3. Nghề nghiệp và địa vị
Khi Nelson Mandela còn là một sinh viên trường Luật ở Johannesburg, ông có một người bạn tên là Paul Mahabane, một thành viên của Hội nghị quốc gia Châu Phi và là một người có tiếng tăm. Một hôm, hai người đang đứng ngoài cổng Bưu điện thì gặp một công chức da trắng khoảng 60 tuổi. Ông này bảo Mahabane vào mua cho ông vài con tem. Thời đó việc một người da trắng sai bảo một người da đen làm một việc gì đó cho mình chẳng có gì lạ. Nhưng Paul Mahabane từ chối. Viên công chức rất giận, ông hỏi:
- Mày có biết tao là ai không?
Paul bình tĩnh trả lời:
- Tôi không cần biết ông là ai. Tôi chỉ biết ông là gì thôi.
Ông công chức da trắng hét lên: “Mày sẽ phải trả giá về việc này đó”. Rồi ông bỏ đi.
Người da trắng này nghĩ rằng phẩm giá của ông cao hơn Paul Mahabane chỉ vì ông là một công chức; và vì là công chức nên ông có quyền sai khiến kẻ khác, nhất là người da đen.
Chúng ta cũng có khuynh hướng đánh giá người khác theo địa vị và nghề nghiệp. Gặp một bác sĩ thì chúng ta kính trọng, còn gặp một người công nhân thì chúng ta coi thường. Nhưng như thế là vừa bất công vừa ngớ ngẩn, bởi vì cái làm nên một con người không phải là địa vị và nghề nghiệp mà chính là bản chất của người đó. (Viết theo Flor McCarthy)
4. Bài học bất ngờ về giá trị con người
Nếu muốn hiểu đoạn Tin Mừng này rõ hơn, chúng ta cần xác định thời điểm của nó: Khi ấy, Ðức Giêsu đã rao giảng được khoảng 3 năm., sắp tới lúc Ngài kết thúc sự nghiệp của mình ở trần gian, một kiểu kết thúc mà không ai có thể ngờ được, nghĩa là kết thúc bằng cái chết đớn đau tủi nhục trên Thập Giá. Chính vì đoán trước rằng không ai có thể ngờ được việc đó cho nên Ðức Giêsu phải nói trước cho các môn đệ mình hay, để khi sự việc xảy ra thì họ sẽ không quá ngỡ ngàng và hoang mang. Những lời báo trước về cuộc khổ nạn mà chúng ta vừa nghe trong đoạn Tin Mừng này là lần loan báo thứ 3 rồi đó. Dù vậy, các môn đệ vẫn không hiểu. Họ cũng đoán là Ðức Giêsu sắp kết thúc hoạt động rao giảng, nhưng kết thúc một cách huy hoàng bằng cách chiếm lấy quyền bính và lên ngôi vua. Chính vì nghĩ như vậy nên họ bắt đầu tranh dành nhau xem trong cái chính phủ mà Ðức Giêsu sắp lập ấy, ai trong nhóm họ sẽ được giữ địa vị nào.
Chính trong hoàn cảnh ấy, Ðức Giêsu dạy cho các môn đệ mình một bài học, bài học thật bất ngờ: Chúa nói: “Ai muốn làm lớn thì phải làm người rốt hết và làm tôi tớ mọi người”.
Bài học này rất bất ngờ. Bởi vì nó không giống quan niệm của người ta vẫn nghĩ từ xưa tới nay. Theo quan niệm cũ ấy thì ai là người lớn? Thưa là người ở địa vị cao, người được những kẻ khác hầu hạ. Còn ai là người nhỏ? Thưa là người ở địa vị thấp, người phải hầu hạ kẻ khác. Thí dụ như khi chúng ta thấy một chiếc xe du lịch, trong số có hai người ngồi: một người ăn mặc đàng hoàng sang trọng ngồi ở băng sau, và một người ăn mặc xuề xoà ngồi cầm lái phía trước. Tự nhiên ta biết trong hai người đó, ai lớn, ai nhỏ: người lớn chính là cái ông ăn mặc sang trọng đang ung dung ngồi phía sau, còn người nhỏ là kẻ ăn mặc xuề xoà phải lái xe cho ông kia. Hay khi chúng ta đang ngồi trong một phòng khách: có một người đang ngồi tiếp chuyện với ta, uống nước trà, ăn bánh, hút thuốc, và một người nữa lo bưng bánh, rót nước. Hỏi ai là người lớn? Dĩ nhiên là người đang ngồi. Còn ai là đầy tớ? Dĩ nhiên đó là người đang phục vụ.
Nhưng Ðức Giêsu thì dạy ngược lại,. Nếu Ðức Giêsu cũng chứng kiến những cảnh trên và ta hỏi Chúa: Thưa Chúa, trong chiếc xe du lịch ấy có hai người, ai lớn ai nhỏ? Ðức Giêsu sẽ trả lời ngay: cái ông ngồi phía sau là nhỏ, còn người tài xế là lớn. Nếu ta hỏi tiếp: còn trong phòng khách cũng có hai người, vậy thưa Chúa ai lớn ai nhỏ? Ðức Giêsu cũng trả lời không chần chừ: người đang ngồi là nhỏ, còn người đang phục vụ là lớn.
Tuy nhiên chúng ta đừng hiểu lầm, Ðức Giêsu không chủ trương đảo lộn tất cả, biến kẻ ở địa vị cao thành người nhỏ và cho kẻ ở địa vị thấp thành người lớn đâu. Tiêu chuẩn Chúa đưa ra để đánh giá một người, ấy là sự phục vụ. Như thế ai biết phục vụ thì là người lớn. Còn kẻ không phục vụ thì là người nhỏ. Người ở địa vị cao mà biết phục vụ thì vẫn là người lớn, còn kẻ ở địa vị thấp mà không phục vụ thì cũng vẫn là người nhỏ.
Nghĩa là: giá trị của một con người không phải do địa vị của người đó, mà tuỳ vào khả năng phục vụ và mức độ hữu ích của người đó.
Ðể minh hoạ cho bài học này, sau đó Ðức Giêsu đưa ra hình ảnh một em bé. Hình ảnh của một em bé đối với bất cứ người nào nhìn, cũng thấy là dễ thương. Cho nên khi thấy một em bé, ai cũng muốn bồng ẵm, muốn ôm hôn, muốn cho nó ăn bánh, ăn kẹo. Tại sao người ta thương em bé và muốn cho nó đủ thứ như vậy? Có phải tại nó giỏi giang, tại nó giúp cho người ta được việc này việc nọ không? Thưa hoàn toàn không, đứa bé còn quá nhỏ, chưa biết là gì, chưa giúp ích được gì. Nhưng người ta thương nói chỉ vì người ta thương nó, thế thôi. Một tình thương hoàn toàn vô vụ lợi. Người ta cho nó cái này cái nọ, cũng không phải để trả ơn nó hay để mong nó làm gì giúp mình. Cũng chỉ vì thương mà phục vụ thôi. Chúa dùng hình ảnh em bé để minh hoạ cho bài học phục vụ trên kia: chúng ta cũng phải cư xử với mọi người theo kiểu chúng ta cư xử với một em bé: hết lòng yêu thương phục vụ một cách hoàn toàn vô vụ lợi. Người nào biết phục vụ kẻ khác như thế thì là phục vụ Chúa, và mới xứng đáng làm môn đệ Chúa.
Chúng ta hãy nhớ bài học của Chúa: giá trị con người không tuỳ vào địa vị của người đó, mà tuỳ vào khả năng phục vụ và mức độ hữu ích của người đó.
- Trong một gia đình, ai là người lớn nhất? Có phải là người cha, người chồng không? Bề ngoài là như vậy. Nhưng đối với Chúa thì chưa chắc. Người cha ấy, người chồng ấy nếu chỉ biết có ra lệnh bảo người này người nọ làm mọi việc, nếu chỉ biết ngồi đó mà chê món ăn này dỡ, cái bàn này lau chưa sạch, nhà cửa này lộn xộn lung tung; nếu chỉ biết ăn no rồi đi chơi, chỉ biết có nhậu nhẹt và để mặc vợ con làm tất cả, thì đó chính là kẻ nhỏ nhất trong nhà, nhỏ hơn cả vợ mình, nhỏ hơn cả con mình. Bởi vì người chồng người cha ấy là một người vô ích.
- Trong một khu xóm cũng vậy, trong một cơ quan cũng vậy, trong một họ đạo cũng vậy. Nếu xét theo tiêu chuẩn của Chúa, thì kẻ lớn nhất không hẳn là người có địa vị cao nhất, không hẳn đó là ông trưởng xóm, không hẳn đó là ông giám đốc, không hẳn đó là ông Chủ Tịch Hội Ðồng Giáo Xứ. Mà rất có thể kẻ được Chúa xét là lớn lại chính là một người mà ít ai để ý tới, người đó không có chức có quyền nào, người đó âm thầm ít nói, nói ít mà làm nhiều; luôn luôn chu toàn nhiệm vụ mình, luôn tìm cách giúp ích cho người khác.
- Thí dụ như Linh mục Jean Marie Vianney. Cha là một người vừa kém thông minh và vừa có tư cách cục mịch như một người nhà quê. Sau nhiều năm học ở Chủng viện, Vianney thi không đủ điểm nên đáng lẽ bị loại. Nhưng người ta chỉ thương tình mà cho đậu vớt và được phong chức Linh mục. Vì thấy Cha quá kém cỏi. Ðức Giám Mục đưa Cha đi làm Cha sở một họ đạo nhỏ xíu ở miền quê mà giáo dân đã bỏ đạo gần hết, đó là họ Ars. Thế nhưng Cha Vianney đã tận dụng tất cả các khả năng và sức lực Chúa ban để hết lòng phục vụ họ đạo. Mỗi ngày Cha chỉ nghỉ ngơi 3,4 tiếng đồng hồ. Nhưng ngồi toà giải tội thì liên miên, có khi tới 16 tiếng đồng hồ mỗi ngày. Cha không có giờ nấu cơm, nên chỉ nấu một nồi khoai lớn để ăn dần cho suốt một tuần lễ. Dần dần cả họ Ars trở lại, thành một họ đạo sốt sống gương mẫu. Giáo dân từ các họ khác cũng đến đó để dự lễ, để nghe giảng, để xưng tội. Có cả các tu sĩ, các Linh mục, Giám mục từ khắp nơi đến để nhờ Cha giúp đỡ về mặt linh hồn. Sau này người viết tiểu sử của Cha đã nhận định: Nếu cả Giáo Hội Nước Pháp mà có được chỉ một vài Linh mục như Cha Vianney thôi thì cả nước Pháp đã nên Thánh,. Ðó mới là người lớn thật mặc dù chỉ là một Linh mục học kém, một Cha sở nhà quê, bởi vì sức phục vụ của Cha thật là lớn.
Bài học của CG hôm nay thật là dễ hiểu, nhưng lại khó thực hành.
Ai muốn làm lớn thì phải hạ mình phục vụ mọi người như một kẻ đầy tớ.
Giá trị của một con người không phải do địa vị của người đó, mà là do khả năng phục vụ và mức độ hữu ích của người đó.
Xin Chúa ban thêm cho chúng ta sự khiêm nhường và sự siêng năng, để chúng ta có thể thực hành bài học phục vụ mà Chúa dạy chúng ta hôm nay.
5. Tính ganh ghét
Trong lúc Ðức Giêsu gần tới giai đoạn quyết liệt nhất của cuộc đời là sắp bị bắt và chịu chết để chuộc tội loài người, thì các tông đồ lại còn ganh ghét nhau, tranh dành địa vị với nhau xem ai lớn ai nhỏ trong nước mà họ tưởng Chúa sẽ thành lập. Như thế đủ biết cái tính ganh ghét có thể xâm nhập vào bất cứ ai (kể cả các tông đồ), và bất cứ hoàn cảnh nào (kể cả lúc Ðức Giêsu sắp chịu chết). Cho nên ganh ghét được coi là một trong 7 mối tội đầu, mối thứ 3.
Trong bài Thánh Thư hôm nay, Thánh Giacôbê cũng bàn về tính ganh ghét này. Ngài nói “Ở đâu có ganh ghét và cải vả thì ở đó có hỗn độn và đủ thứ tệ đoan”. Thánh Giacôbê là một người thực tế, nhận xét này của Ngài cũng rất thực tế. Thật vậy chỗ nào có ganh ghét thì chỗ đó phát sinh đủ thứ tệ đoan:
a/ Gia đình chẳng hạn: lẽ ra đó phải là một tổ ấm hạnh phúc mà mọi người sống trong đó yêu thương, nâng đỡ, nhường nhịn, ủi an nhau. Nhưng nếu chẳng may trong gia đình có một người ganh ghét, thí dụ như một người chị ganh với một đứa em vì nó đẹp hơn, thông minh hơn, được mọi người thương mến hơn...thì trong nhà có những háy nguýt, phân bì, nói bóng nói gió, cải vả nhau, thậm chí xô xát nhau nữa... Gia đình hết là tổ ấm mà trở thành gần như hoả ngục.
b/ Ở sở làm cũng thế, nhất là những chỗ có nhiều đàn bà con gái. Nhiều chị em đã phải vất vả tốn công tốn của để tìm cho được một chỗ làm. Bắt đầu đi làm thì vui vẻ hăng hái lạc quan. Nhưng làm một thời gian rồi thì đụng phải sự ganh ghét của chị em đồng nghiệp, và khởi sự chán nản, buồn bả, bi quan, chỉ muốn thôi việc đi tìm chỗ khác.
c/ Ngay trong những nơi đạo đức như các dòng tu cũng thế. Lẽ ra chốn tu trì phải là nơi sốt sắng thánh thiện. Các Tu sĩ thương yêu nhau và giúp nhau nên thánh. Khi một người đi tu, họ tự nguyện từ bỏ mái ấm gia đình và chọn tu viện là gia đình mới, chọn các tu sĩ sống chung trong nhà là những người anh chị em mới. Lẽ ra họ sẽ được hưởng một thứ hạnh phúc siêu nhiên bù đắp cho thứ hạnh phúc tự nhiên mà họ đã tự nguyện từ bỏ. Nhưng nếu trong cộng đoàn có một vài người ganh ghét, thì chân tu viện trở thành ngột ngạt, đời sống cộng đoàn trở thành gánh nặng.
Quả thực thánh Giacôbê tông đồ đã nói rất đúng “Ở đâu có ganh ghét thì ở đó có đủ thứ tệ đoan”. Ta hãy phân tích thêm câu nói này. Ganh ghét đưa đến những tai hại như thế nào?
1/ Trước hết là hại cho chính bản thân người ganh ghét:
Người ganh ghét tự nung nấu ruột gan mình bằng ngọn lửa khó chịu âm ỉ mãi. Thấy người ta dở, người ta xấu, người ta làm sai làm quấy thì mình khó chịu đã đành; mà thấy người ta hay, người ta tốt, người ta thành công mình cũng khó chịu. Thành ra khi người ta vui thì mình buồn, người ta sung sướng thì mình đau khổ, người ta càng vui sướng chừng nào thì mình càng buồn khổ chừng nấy.
Hại hơn nữa là người ganh ghét tự làm giảm giá trị và tư cách của mình nữa. Ganh ghét với ai là tự đặt mình vào thế tranh đua với người đó. Mà trong cuộc tranh đua này, nếu mình cảm thấy khó chịu, bực tức khổ sở trước thành công của người khác, thì đó là dấu mình đã thua kém. Thua kém mà còn khó chịu bực tức thì cho thấy tư cách của mình cũng thấp kém nữa.
2/ Tai hại thứ 2 của tính ganh ghét là gây cho nạn nhân bị mình ganh ghét. Vì ganh ghét mà mình làm cho người ta buồn người ta khổ một cách hết sức bất công. Chứ nếu công bình mà xét thì người ta đều có gì để đáng phải buồn khổ như vậy. Chỉ vì người ta hay, người ta tốt, người ta giỏi mà người ta phải khổ. Lẽ ra người ta phải được khen thưởng, phải được mừng vui thì vì ganh ghét mà mình làm cho người ta khổ sở. Người bị ganh ghét như thế lâm vào một hoàn cảnh thật khó xử: một đàng là công việc phải làm, đã làm thì phải làm cho tốt, cho hay - mà càng tốt càng hay thì càng bị mỉa mai dằn vật. Biết xử thế nào bây giờ! Thật là khó. Thôi chỉ còn nước cứ tiếp tục làm và cắn răng, nuốt nước mắt mà chịu đựng những lời mỉa mai của kẻ ganh ghét.
3/ Sau cùng tính ganh ghét còn làm hại cho tập thể nữa. Người ganh ghét như một con sâu, một con vi trùng độc hại, âm thầm mà hiểm độc phá hoại tập thể, làm cho tập thể mất đoàn kết, mất bình an, mất hăng hái. Cho nên thật là tai hại cho tập thể nào có một vài người ganh ghét; và cũng thật là xui xẻo cho ai lỡ thuộc về tập thể có vài kẻ ganh ghét như thế.
Những tai hại vừa kể dẫu không nói ra thì ai cũng có thể nhận thấy. Nhưng có một điều khó nhận thấy là ít ai nhận thấy mình mang tính ganh ghét. Ai cũng có thể bị tính ganh ghét xâm nhập, nhưng ít ai biết mình đang có tính xấu ấy. Chị em có thể ganh ghét nhau mà không hay; bạn bè có thể ganh ghét nhau mà không biết; những người đồng lý tưởng có thể ganh ghét nhau làm hại nhau mà không ngờ. Các con của ông Giacóp ganh ghét đến nỗi bán em là Giuse mà vẫn thản nhiên; các tông đồ ganh ghét tranh dành địa vị với nhau đang lúc Ðức Giêsu sắp bị bắt bị giết mà vẫn không thấy là kỳ. Chúng ta cũng có thể đang ganh ghét với người đồng nghiệp của mình, với người hàng xóm của mình, với chính anh chị em bạn bè của mình mà vẫn không hay. Vì thế chúng ta phải hết sức khiêm nhường mỗi khi xét mình, kiểm điểm dời sống. Dấu hiệu rõ ràng nhất cho biết mình đang có tính ganh ghét là khi mình thấy người khác thành công, mình chẳng những không vui mừng với người ta mà còn bực bội khó chịu với họ, hay thấy người ta thất bại thì mình lại vui sướng.
Xin Chúa giúp chúng ta biết khiêm nhường nhìn đúng khả năng và giới hạn của mình. Và xin Chúa giúp chúng ta biết cố gắng vui với thành công của người khác, buồn với thất bại của người khác, và đoàn kết với nhau, giúp nhau càng ngày càng hay hơn, tốt hơn.
6. Người lớn nhất
Một linh mục kể lại câu chuyện đầy kịch tính sau đây:
Tại một vùng hoang dã, những tay giang hồ tứ chiếng tập trung trong một khu trại. Một phụ nữ duy nhất sống giữa đám đàn ông sa đọa. Ban ngày cuốc xới bới tìm, đêm về là rượu chè bài bạc. Người phụ nữ đã gian díu với một tay quái nào đó và đang mang thai. Ngày sinh con, chị suy nhược không chịu nổi phút thử thách đã chết trên giường sinh.
Biến cố này bắt những tay giang hồ phải suy nghĩ một cái gì khác hơn là chuyện tranh chấp vàng bạc, rượu chè. Thơ nhi được đặt nằm trên tấm ván cạnh xác người mẹ. Bên dưới người ta đặt một cái nón ngửa để nhận quà tặng. Chiếc nón đầy đồng hồ, dây chuyền, nhẫn cưới, đồng vàng. Tất cả quà tặng dùng để chôn xác người mẹ xấu số và nuôi đứa bé thơ dại. Một ông già tình nguyện lo cho cháu nhỏ.
Người ta vô cùng bỡ ngỡ là ngày góp mặt đứa bé trong trại, cuộc sống đám quái đã đổi hẳn. Họ bỏ đánh bạc đêm để cho em bé ngủ yên, dừng lại những câu tục tĩu khi ở trước mặt bé, những nụ hôn thắm thiết như mưa trên nét mặt vô tội.
Một hôm vỡ đê, nước cuồn cuộn tràn lều. Nhảy khỏi giường, ai cũng đến tìm bé. Không ngờ bé và cụ già bố nuôi đã bị cuốn trôi lúc nửa đêm. Hai tay bé vẫn níu chặt cổ bố. Ngày đào hố chôn hai xác thiên thần cũng là ngày những người trong trại giang hồ chôn hết quá khứ. Họ vẫy tay, từ giã nhau mỗi người về một nẻo. Có phải chính nét thơ ngây thiên thần kia làm cho khách giang hồ trực cảm được một ý nghĩa cao đẹp trong cuộc đời trôi nổi phi lý đó? Có phải chính ánh mắt, nụ cười, nét đẹp thiên thần đã khơi một hương sống mới lạc quan và tươi vui hơn.
****
“Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy là đón tiếp chính mình Thầy” (Mc.9,37).
“Trẻ nhỏ” ở đây được xem là những người không quan trọng, không đáng kể, không cần lưu ý; những người nghèo hèn, tàn tật, bị bỏ rơi. Ðức Giêsu muốn đồng hòa với những con người bất hạnh ấy, để khi đón tiếp họ, chúng ta hoàn toàn vô vị lợi, vì không mong chờ sự đáp trả của những kẻ khốn khổ ấy. Ðó chính là sứ điệp mà Ðức Giêsu muốn gởi tới chúng ta qua bài Tin mừng hôm nay.
Người còn khẳng định: “Ai muốn làm lớn nhất hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người” (Mc.9,35). Với tinh thần phục vụ vô vị lợi, chúng ta thực sự lớn lên trước mặt Thiên Chúa và anh em. “Người lớn nhất” là người phục vụ nhiều nhất, hăng say nhất. “Người lớn nhất” là người làm trước nhất và nghỉ sau cùng.
Ðó là một cuộc cách mạng về quan điểm “Người lớn nhất” nơi Ðức Giêsu. “Người lớn nhất” theo kiểu của Ðức Giêsu không dùng quyền để lãnh đạo, nhưng dùng đôi tay để phục vụ. “Người lớn nhất” không dùng sức mạnh để chỉ huy, nhưng dùng con tim để yêu thương. Thế giới ngày nay rất cần những người đứng đầu theo kiểu mẫu ấy: khiêm tốn, phục vụ, và yêu thương. Bourdaloue có nói: “Ðặt mình trên kẻ khác chính là tự buộc mình làm việc và phục vụ họ”. Nhà truyền giáo Albert Schweitzer nói: “Người hạnh phúc nhất trong anh em là người đã tìm thấy con đường hiến thân phục vụ”.
*****
Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng là người đứng đầu trong một tập thể nhỏ bé nào đó, xin cho chúng con biết dùng quyền hạn của mình để phục vụ những người Chúa giao phó cho chúng con. Nhất là xin cho chúng con luôn thao thức, làm cho họ ngày càng được an vui và hạnh phúc hơn. Amen.
(Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
7. Tiếp đón em nhỏ
“Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy là tiếp đón chính Thầy”.
Tôi thán phục giáo huấn của Ðức Giêsu về cách làm lớn, một giáo huấn rất ngược đời nên rất đặc biệt: “Ai muốn làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết và làm người phục vụ”. Nghĩa là làm lớn không phải để sai khiến người ta phục vụ mình, trái lại phải phục vụ người ta.
Nhưng tôi càng thán phục hơn vì Ðức Giêsu đã không nói phục vụ suông, Ngài còn chỉ rõ phải ưu tiên phục vụ những kẻ nhỏ nhất.
Gia đình bên cạnh nhà tôi có một người cha được con cái thương mến còn hơn thương mẹ chúng, bởi vì người cha này tự dành lấy trách nhiệm chăm sóc các con: chính tay ông tắm rửa cho các con; chính ông dỗ ngủ các con; ông bồng bế con nhiều hơn mẹ chúng. Ông là người lớn nhất trong nhà nên phục vụ nhiều nhất. Ông còn đặc biệt ở điểm này nữa là quan tâm chăm sóc đứa con nhỏ nhất hơn các đứa khác. Bởi vậy khi có thêm một đứa em chào đời, thì đứa anh hay chị gần nó nhất tự biết “thân phận” của mình, nhường cho em nhỏ được hưởng những chăm sóc ưu tiên của ba.
Tóm lại, bài học phục vụ đã hay, mà bài học ưu tiên phục vụ kẻ nhỏ nhất còn hay hơn.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Ðức Giêsu đã dạy: “Ai muốn làm đầu thì phải làm người rốt hết, và làm tôi tớ mọi người”, và chính Người đã thực hành điều Người dạy, là chịu tử hình thập giá để mọi người được cứu độ. Chúng ta hãy cảm tạ Chúa và dâng những lời nguyện sau đây:
1. Xin cho mọi giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân trong Hội thánh / biết loại bỏ mọi hình thức thống trị và chuyên chế / để trở thành người phục vụ theo gương Chúa Kitô.
2. Xin cho những người đang làm lớn trong xã hội / đừng lợi dụng chức quyền để tìm hiểu giàu sang danh vọng / nhưng biết quan tâm trước hết đến việc phục vụ đồng bào mình.
3. Xin cho những người nghèo đói, thất nghiệp, tị nạn, không nhà không cửa, bị xã hội bỏ rơi / được gặp những người biết quan tâm an ủi và giúp đỡ thật tình.
4. Xin cho mọi người trong họ đạo chúng ta biết chú ý đến những người gặp khó khăn thử thách / người ở trong họ đạo cũng như mọi người mình có thể gặp / để cùng nhau tìm cách phục vụ họ.
Chủ tế: Lạy Ðức Giêsu, Chúa đã làm gương và dạy chúng con phục vụ cho nhau, khi Chúa rửa chân cho các môn đệ, và nhất là khi Chúa hy sinh mạng sống chuộc tội chúng con; xin giúp chúng con luôn sẵn sàng phục vụ mọi người như Chúa đã dạy. Chúa là Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh lễ
- Sau kinh Lạy Cha: “Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin giải thoát chúng con khỏi những tính xấu ganh ghét, đố kỵ, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an ”
VII. Giải tán
Sống công chính theo gương Ðức Giêsu thật là khó. Nhưng đó là sứ mạng của người môn đệ Chúa. Với sự trợ giúp tích cực của Chúa, chúng ta hãy cố gắng sống công chính, cho dù có thể gặp những khó khăn, thiệt thòi.
17. Xin Cha tha cho họ vì họ lầm...
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Có người dí dỏm rằng mô-đen (mode) là sự tái hiện cái đã bị lịch sử đào thải. Hết kiểu tóc dài rồi lại tóc ngắn. Tóc ngắn một thời rồi người ta lại để tóc dài, và sau đó trở về tóc đầu đinh, kiểu húi cua hay láng bóng như chưa mọc tóc. Các kiểu mô-đen y phục cũng tương tự. Các kiểu dáng rộng hẹp, dài ngắn cứ luân phiên thay đổi nhau. Hình như ít có sự gì mới ở dưới trần gian này, nhất là những vấn nạn liên quan đến ý nghĩa cuộc đời con người. Một trong những vấn nạn ấy là nguồn gốc của các hiện hữu, cách riêng của loài người.
Những chuyện xem ra lạ đời như chuyện đồng tính luyến ái đang nở rộ đó đây, đặc biệt tại các nước ở phương trời Âu, Mỷ, thì vốn đã xuất hiện từ xa xưa mà câu chuyện hai thành Sôđôma và Gômôra là một minh chứng. Bàng bạc trong thuyết bất khả tri hay trong chủ nghĩa hoài nghi và rồi cách minh nhiên trong chủ thuyết vô thần, người ta chủ trương rằng các hiện hữu đời này là do bởi tự nhiên hay ngẫu nhiên. Tác giả sách Khôn ngoan xưa đã từng ghi lại nghĩ suy của “quân vô đạo” như sau: “Đời ta thật buồn sầu vắn vỏi: không thuốc nào chữa cho khỏi chết, chẳng ai biết có kẻ nào thoát được cõi âm ty. Bởi ngẫu nhiên ta đã ra đời, rồi lại như chưa hề có mặt…” (Kn 2,1-2). Với cái nhìn về cuộc đời như trên, người ta sẵn sàng hô hào: “Nào đến đây, hưởng lấy của đời này, tuổi còn trẻ, ta cố mà tận dụng hết những chi đang có sẵn trên trần… Ta hãy bức hiếp tên công chính nghèo hèn, kẻ góa bụa, ta đừng buông tha, bọn tóc bạc già nua, cũng chẳng nể. Sức mạnh ta phải là quy luật của công lý, vì yếu đuối chẳng làm nên chuyện gì…Nào ta kết án cho tên công chính chết nhục nhã, vì cứ như nó nói, nó sẽ được Thiên Chúa viếng thăm.” (Kn 2,6-20).
Thời Chúa Giêsu, nhóm Xađốc vốn thân chính quyền. Họ được hưởng nhiều lợi lộc mà dĩ nhiên trong đó, ít nhiều cũng có những lợi lộc bất chính, bất minh. Họ là những người đã chủ trương rằng không có đời sau. Trái lại nhóm Biệt phái thì tin có đời sau. Vấn đề đặt ra đó là vì người ta đã theo một vũ trụ quan hay nhân sinh quan nào đó và rồi cách sống của họ chỉ là hệ quả kéo theo hay là người ta dùng, đúng hơn là lợi dụng một cái nhìn, một quan điểm về thế giới, về con người để biện minh cho thái độ sống của mình? Chúng ta không thể tiên thiên khẳng định điều này hay điều kia đúng. Tuy nhiên với trường hợp của “quân vô đạo” mà sách Khôn ngoan đề cập thì có thể nói là đại đa số trong họ dùng lý lẽ này nọ để biện minh cho lối sống hưởng thụ, bất công, gian ác của mình.
Vậy thử hỏi rằng những người dùng những quan điểm nọ kia để biện minh cho lối sống thiếu lành mạnh, thiếu ngay thẳng của mình, họ có cảm thấy áy náy hay ngượng ngùng khi tuyên bố mọi sự hiện hữu là do ngẫu nhiên chăng? Theo thiển ý, chắc hẳn ít nhiều ngay từ đầu cũng vẫn có. Tuy nhiên với thời gian, khi thực tiển lại dường như ứng hợp với luận lý của họ một cách nào đó đã khiến họ vững tin vào cái nhìn của mình cũng như an tâm về lối sống của mình. Nếu chuyện ác giả-ác báo lại xảy ra cách nhãn tiền ở đời này, ngay trong quảng đời họ sống, thì chắc chắn những lý lẽ biện minh cho lối sống ích kỷ, hưởng thụ, bất công…sẽ chẳng có thể tồn tại.
Dưới chân thập giá cũng đã có người thách thức, chế giễu chúa Giêsu: “hắn cậy vào Thiên Chúa, thì bây giờ Người cứu hắn đi, nếu quả thật Người thương hắn! Vì hắn đã nói: “Ta là Con Thiên Chúa!” (Mt 27,43). Người công chính duy nhất đáng gọi là công chính để nhờ người mà ơn thứ tha được trao ban cho nhân trần cũng đã thốt lên trong cơn hấp hối: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15,34).
Ngoài một số lý do về niềm tin độc thần, về thái độ thượng tôn lề luật…các Thượng Tế, luật sĩ, biệt phái khi kết án Chúa Giêsu, họ không thể chối cãi lý do chính yếu ở đằng sau mà ngay cả Philatô cũng thừa biết, đó là: “chỉ vì ganh tị mà họ nộp Người” (Mt 27,18). Việc họ tìm nhân chứng gian để tố cáo Chúa Giêsu hay tìm cách xách động dân chúng để làm áp lực với Philatô và cắt cử quân linh canh mồ càng nói lên sự bất an của họ về việc họ đã làm (x.Mt 26,60; 28,62-66; Mc 15,11). Thế nhưng sự bất an của “quân vô đạo” dần dà qua đi khi những lời kêu van của người công chính trong Thánh Vịnh: “Lạy Thiên Chúa, xin đánh chúng bể miệng, gãy răng…” (Tv 58,7) chưa thấy được nhậm lời, và chuyện “người công chính sẽ thấy Chúa trả oán, họ sẽ rửa chân trong máu ác nhân” (Tv 58,11) là chuyện như của tương lai xa vời vợi hay là chuyện một đôi khi hiếm họa do sự trùng hợp ngẫu nhiên.
Đã và đang có nhiều người sống trong lầm lạc vì Chúa đã không nhổ cỏ lùng ra khỏi lúa tốt (x. Mt 13,24-30). Phút giây hấp hối trên thập giá, Chúa Giêsu đã cất lời cầu xin: “Lạy Cha, xin hãy tha cho họ, vì họ lầm chẳng biết” (Lc 23,34). Phải chăng lòng từ nhân của Thiên Chúa vô tình đã trở thành cớ cho người ta lầm lạc? Chắc chắn không thể quy kết một cách mạo phạm, bất kính như thế. Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, chậm bất bình và rất mực khoan dung. Người không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống. Chúa Giêsu không chỉ xin Chúa Cha tha cho những kẻ lầm lạc mà còn mở rộng Trái Tim cực thánh để tuôn ban Thánh Thần để mở mắt, mở lòng họ, giúp họ nhận biết sự thật (Ga 19,34). Viên sĩ quan bách quản hôm ấy đã đón nhận ánh sáng chân lý và tuyên xưng: “Quả thật, ông này là người công chính” (Lc 23,47).
Trước sự mê lầm của những người được xem như là “quân vô đạo” của mọi thời, mọi hoàn cảnh, là Kitô hữu, chúng ta nhiều khi còn phân vân tìm cách hành xử. Có người chủ trương là chấp nhân sự bất công và dâng lời cầu nguyện cho họ. Có người lại đề cao việc vạch trần, tố cáo sự giả dối, gian ác, bất công, để sự bất công, gian dối không còn đất sống. Theo thiển ý, chúng ta cần thực thi cả hai cách thế bằng một trái tim biết mở ra như Trái Tim cực thánh Đấng cứu độ, nghĩa là với một tình yêu đích thực muốn cho người cô thế, bị áp bức bất công được giải phóng và muốn cho cả “quân vô đạo” được giác ngộ, nghĩa là biết nhận ra chân lý, trở về với nẻo ngay mà được cứu độ.
18. Ai muốn làm lớn
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Mc 9: 30-37: Chúa Giêsu không những không chấp nhận khuynh hướng xấu của loài người là muốn thống trị, muốn ăn trên ngồi trước mà Ngài còn đưa ra một đề nghị thật khác thường: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết và phục vụ mọi người”.
Trong ba năm rao giảng của Chúa Giêsu, các sách Tin Mừng thuật lại ba lần Chúa Giêsu báo trước cuộc thương khó Ngài phải chịu ở Giêrusalem. Mỗi lần đều đặt trong một khung cảnh khác nhau và lời loan báo cũng khác nhau. Nhưng cũng như đại đa số người Do Thái, không hề có ý tưởng về một Vị Cứu Thế bị đau khổ, bị đóng đinh. Các tông đồ cũng vậy, không hiểu và cũng không muốn hiểu. Các ông chỉ mường tượng đến một nước trần gian vật chất, với danh vọng, uy quyền và giầu có. Mỗi lần nghe biết như vậy Chúa buồn lắm. Mà không buồn sao được, đang khi Chúa tiến về Giêrusalem để chịu chết, thì các môn đệ lại tranh cãi xem ai được quyền cao chức trọng hơn cả, đó là điều khiến Chúa Giêsu hết sức đau lòng. Dù vậy, tự thâm tâm, các môn đệ vẫn biết là mình sai quấy, nên khi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ đang cãi nhau về chuyện gì thì các môn đệ không trả lời. Họ im lặng vì xấu hổ.
Nhân dịp này Chúa dạy các ông:”Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết và phục vụ mọi người. Khi nói như thế, Chúa Giêsu muốn đảo ngược trật tự thông thường của phẩm trật nhân loại. Muốn làm đầu thì phải làm cuối mọi người, muốn chỉ huy thì phải làm “tôi tớ mọi người”.
Là Thủ Lãnh, Ngài đã đặt mình vào vị trí rốt hết để phục vụ mọi người. Và Chúa Giêsu tin rằng cần phải minh hoạ lời Ngài nói bằng một cử chỉ có ý nghĩa. Ngài đặt một em bé vào giữa họ rồi ôm lấy em. Cử chỉ này tạo ra một tác dụng bất ngờ. Dắt một em bé vào giữa đám môn đệ rồi ôm hôn nó: tất cả điều này đi ngược với tập tục đương thời.
Xã hội thời đó không quan tâm đến trẻ em.
Một đứa bé thì chẳng có ảnh hưởng gì, không thể giúp được ai thăng tiến trong sự nghiệp, nó cũng chẳng giúp thêm uy tín cho ai.
Một đứa bé chẳng làm gì cho chúng ta, trái lại nó luôn cần đến cái này, cái kia, người ta phải làm việc này, việc nọ cho nó.
Nó luôn tùy thuộc vào người lớn, luôn trông nhờ người lớn. Hơn nữa chúng chẳng biết nói năng, lý luận gì cả, thậm chí chúng thường bị xua đuổi, khai trừ khỏi cộng đồng tôn giáo vì cho rằng chúng ngu dốt không biết lề luật.
Như thế Chúa Giêsu đã thực hiện hành động phục hồi mang hai chiều kích (con người và tôn giáo) khi Ngài đặt đứa bé – tiêu biểu một hạng người bị khai trừ – vào giữa những bạn hữu Ngài. Và Ngài nhấn mạnh hành động này bằng một lời nói mang đầy ý nghĩa. Đây là câu trả lời đầy kinh ngạc Chúa Giêsu dùng để đáp lại câu hỏi mà các môn đệ tranh cãi nhau trong lúc đi đường: “Ai là kẻ cao trọng nhất?”.
Việc đua đòi danh vọng đã trở nên sỗ sàng đối với những kẻ bước theo Chúa Giêsu vào lúc Ngài đang đi trên con đường khổ giá, con đường dẫn đến Núi Sọ. Trở nên “tôi tớ” mọi người, mở rộng vòng đai khép kín của Giáo Hội đến tận những kẻ hèn mọn nhất, trơ trụi nhất chính là “sứ vụ” Chúa Giêsu uỷ thác cho các môn đệ.
Có câu chuyện kể rằng:
Một hôm, Hồ Khưu Trượng hỏi Tôn Thúc Ngao:“Có ba điều chuốc oán, ông đã biết chưa?”
Họ Tôn trả lời: “Tôi chưa được biết”.
Trượng Nhân nói: “Tước vị cao người ta ganh, quyền thế lớn người ta ghét, lợi lộc nhiều người ta oán”.
Tôn Thúc Ngao lắc đầu nói:“Không phải luôn luôn như thế, tước vị tôi càng cao tôi càng xử nhún nhường, quyền thế tôi càng lớn tôi càng ở khiêm cung, lợi lộc tôi càng nhiều tôi càng chia bớt cho những người chung quanh, như thế thì làm gì bị oán thù của thiên hạ”.
Đức Khổng Tử cũng đã dạy các đồ đệ của ông như vậy.
Một hôm, Khổng Tử tới thăm miếu vua Hoàn Công, thấy một chiếc lọ đứng nghiêng nghiêng, ngài hỏi, thì người giữ miếu cho biết: “Cái lọ này là một bảo vật, thuở trước nhà vua thường để bên ngai vàng hầu làm gương”.
Khổng Tử liền hỏi: “Ta vốn nghe đồn nhà vua có một bảo vật, bỏ không thì nghiêng, đổ nước vào vừa phải thì đứng thẳng, mà đổ nước đầy thì lại ngã, có phải là vật này chăng?”
Rồi ngài bảo các đồ đệ múc nước thí nghiệm, thì quả nhiên đúng như thế.
Bấy giờ ngài mới trịnh trọng giảng dạy: “Thông minh hiểu biết hơn người thì nên giữ bằng cách khiêm cung, sức khỏe hơn người thì nên giữ bằng cách nhút nhát, giàu có nhiều thì nên giữ bằng cách bố thí và tỏ ra nhún nhường. Đó là lối san sẻ bớt đi để khỏi đầy tràn mà sụp đổ vậy”.
Cũng thế, Chúa Giêsu không những không chấp nhận khuynh hướng xấu của loài người là muốn thống trị, muốn ăn trên ngồi trước mà Ngài còn đưa ra một đề nghị thật khác thường: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết và phục vụ mọi người”.
Đó là những điều mà Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay. Amen.
19. Đức Kitô, mẫu gương phục vụ -- Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP.
Phục vụ! Từ ngữ này nói lên tính cách khiêm nhường, lệ thuộc và hy sinh của người đầy tớ. Bình thường, không ai muốn làm đầy tớ mà chỉ muốn làm ông chủ để được hầu hạ. Ai cũng muốn ăn trên ngồi trước, muốn thống trị thiên hạ. Nhưng Đức Giêsu đã làm một cuộc cách mạng đổi ngược thứ tự này trong xã hội. Ngài tuy là Thiên Chúa mà đã trút bỏ mọi vinh quang của một vị Thiên Chúa, xuống trần làm một người đầy tớ rốt hết để phục vụ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Ngài là "ông chủ" đã tự nguyện biến thành "đầy tớ" khiêm hạ để phục vụ hạnh phúc cho muôn người.
Đã có lần tông đồ Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là "Đấng Kitô", nhưng theo sự hiểu biết của ông, đây là "Đấng Kitô vinh hiển", Đấng đến giải thoát dân tộc Do thái khỏi ách đô hộ của người Rôma và làm cho nước Do thái được hùng cường, bá chủ hoàn cầu. Nhưng thực sự, Đức Giêsu lại là "Đấng Kitô đau khổ" "bị loại bỏ, bị giết đi và sau ba ngày sẽ sống lại". Chính vì không hiểu rõ con người của Ngài, không hiểu được Lời của Ngài, nên các ông chỉ nghĩ đến địa vị thấp cao trong nước Ngài sắp thành lập và đã tranh cãi với nhau xem ai sẽ là người lớn nhất trong Nước đó.
Đức Giêsu muốn sửa đổi quan niệm sai lạc của các ông và vạch ra cho các ông một hướng đi mới khi Ngài nói: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người"(Mc 9,36). Sau này, các ông mới hiểu được Lời Chúa và đã đi rao giảng Tin mừng, làm chứng cho Chúa và đã hiến dâng mạng sống mình cho phần rỗi các linh hồn.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Kn 2,12-20.
Sách Khôn ngoan được viết vào thế kỷ I trước công nguyên bởi một người Do thái tại Alexandria, nơi cộng đoàn Do thái thịnh vượng. Nhiều người trong họ đã bị lây nhiễm những quyến rũ của nền văn minh phóng đãng, đã trở thành phường vô đạo. Do đó, mới có sự xung khắc giữa những người công chính và phường vô đạo.
Đây là những lý do khiến phường vô đạo bách hại người công chính:
- Việc làm của người công chính chống lại việc làm xấu xa của phường vô đạo.
- Cách sống tốt lành của người công chính tự nó vạch trần những việc xấu xa của phường vô đạo.
- Phường vô đạo bách hại người công chính để thử xem Thiên Chúa có đến bênh vực họ không?
Truyền thống Công giáo qua mọi thời vẫn nhận ra hình ảnh của Chúa Kitô nơi người công chính bị bắt bớ và nhiều chi tiết báo trước cuộc khổ nạn của Người.
+ Bài đọc 2: Gc 3,16-4,3.
Thánh Giacôbê là người rất thực tế. Đối với ngài, tiêu chuẩn của sự khôn ngoan là "lối sống tốt đẹp", nghĩa là lối sống thực hành đúng đắn điều răn yêu thương, nhất là thói xấu ganh tị tranh chấp.
Chúng ta có thể tóm lại đoạn thư của ngài bằng mấy ý tưởng sau đây:
- Ở đâu có ganh tị và tranh chấp thì ở đó có xáo trộn và đủ thứ xấu xa.
- Người xây dựng hoà bình sẽ thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hoà bình, đó là cuộc đời công chính.
- Đầu mối của sự xung đột và chiến tranh là lòng ham muốn vì lòng ham muốn thì vô đáy.
+ Bài Tin Mừng: Mc 9,30-37.
Bài Tin mừng hôm nay được chia thành hai phần:
1/ Đức Giêsu lần thứ hai loan báo cuộc Thương khó của Ngài cho các môn đệ, và từ nay Ngài chuyên lo việc đào tạo họ lần cuối. Nhưng Nhóm Mười Hai vẫn không hiểu gì hơn đám đông dân chúng về các điều kiện để đạt tới Nước Trời. Các ông vẫn quan niệm rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô theo nghĩa trần gian mang mầu sắc chính trị. Các ông không hiểu rằng Ngài là Đấng Kitô đau khổ, đến để phục vụ và đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Vì thế, trên đường đi các ông tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất trong nước Ngài sắp thành lập.
2/ Về đến nhà, Đức Giêsu ôn tồn nói cho các ông thái độ phải có trong Nước Ngài sắp thành lập:
- Phải biết phục vụ, đừng ai để ý đến địa vị lớn hay nhỏ để ganh đua.
- Người có chức vụ càng cao càng phải hạ mình xuống phục vụ như người đầy tớ.
- Phải tiếp đón mọi người, không phân biết già trẻ, sang hèn với tinh thần quảng đại.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Đức Giêsu, mẫu gương phục vụ.
I. LOAN BÁO CUỘC KHỔ NẠN.
Phát xuất từ vùng miền Bắc đi về Cêsarê Philipphê, Đức Giêsu tiền gần về Giêrusalem. Ngài băng qua xứ Galilê mà ở đó cách đây vài tháng Ngài đã rất thành công, nhưng một sự thành công không rõ rệt. Lần này Ngài không tìm dịp nói chuyện trước công chúng, Ngài chỉ nói với các m6n đệ là mầm mống Kitô hữu tương lai. Và những gì Ngài sắp nói với họ, là chính những luật lệ giúp họ sống trong cộng đoàn Giáo hội. Ngài đã nói với các ông rằng: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại".
Trước lời loan báo này, xem ra Đức Giêsu đã bị thất bại vì họ chưa hiểu được con người thật của Ngài. Trước đây, tuy ông Phêrô đã tuyên xưng Ngài là "Đấng Kitô" nhưng vẫn còn cái nhìn lệch lạc về Ngài. Đây là bằng chứng: khi Đức Giêsu loan báo lần nhất cuộc Thương khó và Phục sinh: “Con Người phải chịu đau khổ, bị các kỳ mục, thượng tế cùng luật sĩ loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sống lại"(Mc 8,31), Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người đến nỗi Đức Giêsu nặng lời quở trách ông: “Satan, lui lại đàng sau Thầy! vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người"(Mc 8,33).
Té ra, khi tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, tư tưởng của Phêrô và của Nhóm Mười Hai hướng tới một nhân vật nổi nang nào đó trong xã hội. Chẳng hạn một chính trị gia có khả năng giải phóng dân tộc khỏi bị lệ thuộc vào đế quốc Rôma. Do đó, huấn dụ của Đức Giêsu liền sau đó là "Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo"(Mc 8,34) làm cho các ông bỡ ngỡ và khó hiểu.
Lần thứ hai loan báo về cuộc Thương khó và Phục sinh, Đức Giêsu còn gặp một thất bại lớn hơn nữa. Ngài nói với các môn đệ: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, rồi sau ba ngày Người sẽ sống lại"(Mc 9,31). Nhưng các ông không hiểu lời đó và còn sợ không dám hỏi Người. Tại sao lời loan báo không lọt vào tai môn đệ? Điều xẩy ra liền sau đó giúp cắt nghĩa sự kiện. Marcô cho ta thấy các môn đệ bận tâm về điều ngược hẳn lại với cuộc Thương khó của Thầy các ông. Vì thế, trên đường đi Capharnaum, các ông đã tranh cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả trong Nước mà Đức Giêsu sắp thành lập (Mc 8,34).
II. BÀI HỌC ĐỨC GIÊSU MUỐN DẠY.
Marcô kể tiếp: "Khi về tới nhà, Đức Giêsu hỏi các ông: "Dọc đường, anh em đã tranh luận với nhau về chuyện gì vậy? Các ông làm thinh vì khi đi dọc đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả"(Mc 9,33-34)
Thật là hoàn toàn bất đồng ý kiến với Thầy của các ông! Chúa thì nghĩ đến cái chết của mình, còn các ông thì chỉ nghĩ đến "địa vị cao". Các ông vẫn một mực bám vào quan niệm sai lầm về Đấng Messia. Các ông vẫn tiếp tục mong chờ một "biến cố vẻ vang", chứng tỏ quyền năng của Đấng Messia, một vương quốc trần gian mà các ông đã tranh luận xem ai là người đứng đầu khi Chúa và các ông thắng thế.
Bị Chúa hỏi bất ngờ, các ông hổ thẹn không dám nói sự thật, các ông ngậm miệng làm thinh. Sau đó Người ngồi xuống với tư cách là một vị tôn sư, Người ôn tồn dạy bảo: “Ai muốn làm đầu, thì phải làm người rốt hết và làm tôi tớ mọi người"(Mc 9,35)
Trong xã hội và tập thể con người (và cũng là luật tự nhiên trong thế giới động vật), người ta thường tìm kiếm sức mạnh, sự kính nể, uy tín, danh dự và quyền lợi. Đức Giêsu lật đổ nhào tận gốc rễ thứ tự này: người "thứ nhất" trở thành "người sau rốt", "ông chu" trở nên "đầy tớ". Chắc chắn Đức Giêsu đã nói một cách có vẻ khiêu khích và cách mạng.
Nhưng một lần nữa, đó không phải là làm một cuộc "cách mạng" nghĩa là thay đổi "chủ" mà thôi! Ở đây, nhằm đưa ra giải pháp thực sự cho nội tâm con người, để "thống trị", để đoạt giầu sang, quyền thế, bằng cách đè bẹp người khác.
J. Hervieux giải thích thêm: “Chúa lấy người rốt hết để đối chọi với người đứng đầu, lấy người đầy tớ mọi người đối chọi với người cai quản. Điều nghịch lý này tất nhiên có nghĩa rõ rệt nhất khi nhìn cuộc đời Đức Giêsu, Đấng đã thực hiện trong bản thân và trong sứ mạng của Người. Người là Đấng cao cả hơn hết đã tự đặt mình vào chỗ rốt hết để phục vụ mọi người.
1. Theo khuynh hướng tự nhiên.
Trong xã hội ai cũng muốn cho thân mình được đề cao, được khen ngợi, được kính trọng. Ai lại không muốn ăn trên ngồi trước, không muốn cai trị người khác, không muốn được người ta hầu hạ? Nói chung, ai cũng muốn tranh dành quyền bính trong tay để bắt mọi người phục vụ mình.
Các màn kịch tranh giành quyền bính đã diễn ra từ xưa. Lúc mới dựng nên loài thiên thần, Luxiphe đã tranh ngôi bá chủ với Thiên Chúa. Thiên Chúa buộc lòng phải tống cổ hắn xuống làm bá chủ hoả ngục. Adong Evà cũng đòi đồng hàng với Thiên Chúa và cũng bị tống cổ ra khỏi vườn địa đàng, đến làm vua trái đất khô cằn và chết chóc.
Đến đây chúng ta phải giải đáp một thắc mắc: Người ta có được phép có CAO VỌNG không? Cao vọng là tốt hay xấu?
a) Cao vọng tự nhiên của con người.
Thực ra cao vọng không là gì sai trái cả. Người Anh có một câu tục ngữ: “My place is at the top": chỗ của tôi phải ở trên cao. Đấy là câu tâm niệm giúp kích thích mọi người phải biết sống vươn lên, không được sống tà tà trên ngọc cỏ, đáng cho các triết gia hiện sinh gán cho cái danh hiệu là "cuộc đời đáng nôn mửa".
Thực vậy, sống là phải biết đặt mục tiêu cho đời mình, làm việc thì phải muốn thành công. Tuy nhiên, cao vọng có thể vượt qua tầm kiểm soát của mình, khiến mình quên hết tất cả mọi sự khác để chỉ còn biết đeo đuổi điều mình mong ước.
Bởi đó, chúng ta phải cẩn thận để ý xem những gì mình hy sinh khi theo đuổi cao vọng. Chúng ta có thể hy sinh đời sống gia đình, sự công bình, sự khả ái và thậm chỉ cả cuộc sống của mình nữa. Cao vọng có thể khiến người ta đối xử với người khác một cách bất công và tàn nhẫn. Thế nhưng, dù được lời lãi cả thế gian mà phải đánh mất chính mình thì nào có ích gì?
Truyện: Tôn Ngộ Không.
Trong phim truyện Tây Du Ký, vai trò nổi bật nhất là Ngộ Không. Ngộ Không bá chủ loài khỉ, chưa đủ, anh còn học 78 phép biến hoá, rồi đi thống trị các lân bang. Vẫn chưa hài lòng, Ngộ còn đòi lên trời làm Tề Thiên Đại Thánh: Tề Thiên là bằng Trời. Đại Thánh là cao sang vĩ đại nhất. Ngọc Hoàng Thượng Đế biết Ngộ ngạo mạn quá trớn phong cho Ngộ làm mã quan. Ngộ hý hửng tưởng bở, nhưng khi bị sai đi chăn ngựa, Ngộ mới hiểu mã quan là quan coi ngựa. Ngộ bực tức vì ngu mà bị mắc bẫy. Ngộ giận dữ phá phách, bị đại tướng nhà trời đánh đuổi rơi xuống đất bị đè bẹp dưới tảng đá lớn suốt 500 năm để thấy mình bất lực mà ăn năn cải thiện.
Khi đã cải thiện, Ngộ được cứu thoát và gia nhập phục vụ đoàn đi tìm chân lý. Khi Ngộ Không bất mãn, bất phục lệnh, Ngộ lại bị cái vòng kim cô xiết vào đầu làm Ngộ Không nhức óc kêu la thảm thiết. Khi biết tuân lệnh quay về đường phục vụ, thì Ngộ được lành mạnh, tài giỏi. Nhờ biết đi vào con đường phục vụ như tôi tớ, Ngộ Không đã tìm được chân lý và hạnh phúc, và giúp cho cả đoàn tới được chân lý.
Phim truyện có hai màn đối nghịch nhau. Màn đầu: diễn tả cảnh tranh bá đồ vương khủng khiếp của Ngộ Không. Màn sau: diễn tả những việc phục vụ rất đắc lực của Ngộ Không.
(Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, năm B, tr. 182)
Trong bài Tin Mừng hôm nay, các môn đệ tranh cãi nhau xem ai là người lớn nhất. Chuyện này chẳng tốt đẹp gì. Nó chứng tỏ các ông chưa học được bao nhiêu từ những giáo huấn của Đức Giêsu. Nó cho thấy các ông chả hiều gì về sứ mạng Đức Giêsu. Bởi đó, Đức Giêsu gọi các ông lại và dạy cho họ biết ý nghĩa của việc làm lớn.
Đức Giêsu không huỷ bỏ cao vọng, nhưng Ngài định nghĩa nó lại cho đúng. Thay vị cao vọng thống trị người khác, Ngài dạy họ phục vụ người khác. Thay vì cao vọng muốn người khác hầu hạ mình, Ngài dạy họ biết hầu hạ người khác. Như thế điều Ngài lên án không phải là cao vọng mà là cao vọng sai.
b) Cao vọng của các vĩ nhân.
Những con người danh tiếng được gọi là vĩ nhân đều có một lý tưởng là phục vụ nhân quần xã hội. Đây không phải là một quan điểm lý tưởng không thể thực hiện, nhưng là quan điểm hết sức phù hợp với lương tri nhân loại. Những nhân vật thực sự vĩ đại, những con người luôn luôn được người đời nhớ ơn vì đã thực sự đóng góp cho đời, không phải là những người đã tự nhủ thầm "Ta có thể lợi dụng đất nước này, xã hội này để gây thêm uy tín cho riêng ta, thực hiện những tham vọng của riêng ta như thế nào đây" , nhưng tự hỏi "Ta phải dùng tài năng mình để phục vụ quốc gia dân tộc mình như thế nào"? Sự vĩ đại của một người không phải là việc người ấy leo được đến tột đỉnh các nấc thang của quốc gia, xã hội, nhưng ở trong sự kiện người ấy sẵn sàng phục vụ quốc gia dân tộc, xã hội, đồng bào mình bất cứ lúc nào và ở đâu.
Truyện: Nghị viên Paedateros.
Người Hy lạp có một câu truyện về một người ơ thành Spartes tên gọi Paedateros là một ứng củ viên. Người ta chọn và bầu ra ba trăm người để cai trị thành Spartes. Paedateros là một ứng cử viên. Khi danh sách những người trúng cử được công bố, không có tên ông. Một bạn thân của ông ta nói:
- Tiếc thật, người ta không bầu cho anh, thiên hạ không biết nếu bầu cho anh , anh sẽ là một chính khách lỗi lạc đến thế nào"?
Nhưng Paedateros thản nhiên đáp:
- Trái lại, tôi rất vui vì trong xứ Spartes này còn có ba trăm người có tài, có đức hơn tôi.
Đây là một người đã đi vào truyền thuyết vì sẵn sàng nhường cho kẻ khác ngôi vị hàng
đầu mà không hề tỏ ra cay đắng.
Nhà văn hào R. Tagore cũng có một lý tưởng cao đẹp như thế khi ông nói: “Khi tôi ngủ, tôi mơ rằng cuộc đời là niềm vui. Lúc thức dậy, tôi thấy rằng cuộc đời là phục vụ. Khi phục vụ, tôi thấy rằng phục vụ là niềm vui".
2. Theo tinh thần Kitô giáo.
Trong thư gửi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô đã làm một bài thánh ca để ca tụng tinh thần phục của Đức Giêsu:
Đức Giêsu Kitô
Vốn dĩ là Thiên Chúa
Mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
Địa vị ngang hàng với Thiên Chúa.
Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang,
Mặc lấy thân nô lệ,
Trở nên giống phàm nhân,
Sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình,
Vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
Chết trên cây thập tự…. (Pl 2,6-8).
Đức Giêsu đã có một tinh thần khác hẳn với tinh thần thấp kém của loài người. Bởi vì con người tự nhiên thích ngồi chỗ cao, thích được khen ngợi, thích làm lớn và ưa địa vị quan trọng. Đó là cái tật cố hữu của loài người từ ngày tạo thiên lập địa, chứ không phải chỉ là tật xấu của các môn đệ Đức Giêsu. Tật xấu này trái ngược với tinh thần Tin Mừng, Chúa bảo chúng ta phải loại bỏ, vì Tin Mừng chủ trương sống khiêm nhường, quên mình, quảng đại, coi mình không là gì hết, bởi vì hễ ai trở nên bé nhỏ trước mặt loài người, kẻ ấy sẽ được đề cao trước Thiên Chúa. Lòng khiêm nhượng ở đời này là điều kiện và là mức đo sự cao trọng trong Nước Trời.
Truyện: chân phước Charles de Foucauld.
Cha Charles de Foucauld, , biệt danh là người hùng sa mạc Sahara, trước đây là một viên thượng tá trong quân đội Pháp. Đã từng chỉ huy các đoàn kỵ binh anh dũng rong ruổi ngược xuôi trên lưng ngựa để phục vụ hoàng triều nước Pháp. Foucauld tưởng như vậy là thành công và oai hùng. Nhưng nắm trong tay những tấm huy chương chói lọi, và tai nghe tiếng vó ngựa vang trời, Foucauld vẫn cảm thấy sự trống vắng, vô nghĩa của cuộc đời! Để cho đời mình có ý nghĩa tròn đầy, ông rời quân ngũ, xin vào phục vụ trong một tu viện ở làng Nazareth. Tại đây, Foucauld gánh nước cho từng nhà, nhất là những người già yếu bệnh tật. Rồi Chúa lại dẫn lối cho Foucauld đi tĩnh huấn trong sa mạc để đem Tin Mừng cho người Phi châu. Trong đời quân ngũ, Foucauld không chinh phục được ai, nhưng trong đời tu sĩ, ông đã đem nhiều linh hồn vê với Chúa.
3. Thực hành trong cuộc sống.
Chúng ta sống sau những biến cố đau thương của Đức Giêsu, chúng ta suy niệm, học hỏi những biến cố đó. Thế nhưng sau đó chúng ta vẫn còn tranh giành địa vị lớn nhỏ: những chuyện tranh giành ngôi thứ trong các giáo xứ, tức là các môn đệ của Chúa Giêsu. Chúng ta thấy nhiều nơi còn phản ảnh tâm trạng của các môn đệ xưa kia. Chung qui cũng tại bản năng muốn ăn trên ngồi trước, muốn thống trị người khác mà thời đại nào cũng thế.
Đức Giêsu đã dạy chúng ta: “Hãy làm tôi tớ cho mọi ngườ"(Mc 9,35). Đã là tôi tớ thì phải hầu hạ, phục vụ, giúp đỡ. Giúp đỡ người khác chính là giúp đỡ chính mình. Đó cũng là khuôn vàng thước ngọc của Đức Giêsu: "Cho thì có phúc hơn nhận lãnh"(Cv 20,35). Bởi vì, cho tức là trao tặng cho chính mình.
Người Anh có một câu ngạn ngữ tương tự:
Điều tôi tiêu đi thì tôi có
Điều tôi giữ lại thì tôi mất
Điều tôi cho đi thì tôi được.
Đó là lý luận của tình yêu. Tình yêu lớn lên theo mức độ của sự trao ban. Có biết yêu thương con người mới thực sự triển nở và gặp lại chính mình. Có biết yêu thương thì con người mới tìm được hạnh phúc đích thật và một sự bình an trong cuộc sống:
Thành quả của sự thinh lặng là cầu nguyện,
Thành quả của sự cầu nguyện là yêu thương,
Thành quả của yêu thương là phục vụ,
Thành quả của phục vụ là bình an.
(Mẹ Têrêsa Calcutta)
Truyện: bác sĩ Mike.
Bác sĩ Mike trong phim "Vận mệnh" thấy đời mình thất bại nhiều, chồng chết… có ý định tự tử. Tình cờ đỡ đẻ cứu sống được cả mẹ con, lúc ấy Miki bừng tỉnh và thấy đời mình còn có ích cho người khác. Miki quyết định đến một hòn đảo xa phục vụ đồng bào với số ngày còn lại. Và Miki đã thực sự thấy mình được hạnh phúc trong phục vụ.
Để kết thúc, chúng ta hãy lắng nghe trong tinh thần cầu nguyện những lời của bác sĩ Albert Schweitzer, một Kitô hữu vĩ đại thời nay, người đã từ giã những phòng hoà nhạc Au châu để trở thành một bác sĩ thừa sai phục vụ cho người nghèo khổ ở Phi châu:
"Tôi không biết số phận bạn ra sao, chỉ biết một điều duy nhất là: “Trong các bạn, chỉ những ai biết tìm và tìm thấy cách thức phục vụ tha nhân thì mới thực sự được hạnh phúc".
20. Ai là người lớn nhất
(Suy niệm của Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)
Tin mừng Mc 9: 30-37: Con đường tự hạ làm người bé nhỏ và phục vụ anh em là con đường để trở nên vĩ đại, trở nên người lớn nhất, người đáng kể trước mặt Thiên Chúa.
Tin Mẹ Têrêxa thành Calcutta qua đời ngày 5/9/97 đã gây một chấn động lớn lao cho mọi từng lớp nhân dân trên thế giới, tiếp theo cái chết của Công Nương Diana. Nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới đã bày tỏ lòng thương tiếc vô hạn. Đức Giáo Hoàng đã làm lễ tưởng niệm Mẹ ngay tại biệt thự của Ngài ở Rôma. Tổng Thống Mỹ Bill Clinton đã nói: "Mẹ là người luôn gây kinh ngạc, một trong những bậc vĩ nhân của thời đại này". Còn Thủ Tướng Singapo, Goh Chok Tong nói: "Mẹ Têrêxa là một trong những người phụ nữ nổi bật nhất của thế kỷ 20". Tổng Thống Hàn Quốc, Kim Young Sam cũng nói: "Nhân loại sẽ mãi mãi ghi nhớ sự hy sinh cả cuộc đời của Mẹ Têrêxa cho những người bần cùng trên thế giới". Thủ Tướng Albani, Fatos Nano thì cho rằng: "Mẹ Têrêxa là con người nhỏ bé nhưng có một tâm hồn lớn lao cao cả" và ông đã muốn đưa thi hài Mẹ về an táng tại Albani, đất nước quê hương của Mẹ. Nhưng ý nguyện đó không thành. Riêng tại Ấn độ, hàng ngàn người dân thuộc mọi tầng lớp, bất chấp mưa gió, đã xếp hàng dài 3km trước trụ sở Dòng nữ tu Thừa Sai Bác Ái ở Calcutta để được vào viếng Mẹ lần cuối. Lễ quốc táng của Mẹ Têrêxa đã được cử hành ngày 13/9/87 tại sân vận động quốc gia New Delhi. Đức Giáo Hoàng đã cử Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh, Angelo Sodano đại diện Ngài đến chủ tế lễ an táng. Mười hai ngàn người gồm các nhà lãnh đạo, các chính khách, các nhân vật nổi tiếng trên thế giới cùng hàng triệu người khác đã đến tiễn đưa lần cuối Mẹ Têrêxa, "vị Thánh của những người cùng khổ".
Thưa anh chị em,
Tại sao Mẹ Têrêxa thành Calcutta, một nữ tu nhỏ bé lại trở nên một vĩ nhân như thế? Chính vì Mẹ đã khiêm tốn phục vụ những người nghèo khổ nhất. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã giải quyết cuộc tranh luận giữa các môn đệ: "Ai là người lớn nhất" khi Ngài tuyên bố: "Ai muốn làm đầu thì phải làm người rốt hết và làm tôi tớ mọi người", có nghĩa là ai muốn làm người lớn nhất thì phải làm người nhỏ nhất và phục vụ anh em. Sau lời tuyên bố vắn gọn đó, Chúa Giêsu làm một cử chỉ để giải thích: Ngài dẫn một em bé đến, đặt em đứng giữa các môn đệ và sau khi ôm em bé vào lòng, Ngài tuyên bố: "Ai tiếp đón một em bé như em này, vì danh Thầy, là tiếp đón Thầy, và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy".
Nhiều lần Chúa Giêsu tự đồng hóa với những người nhỏ bé, nghèo hèn. Ở đây Chúa Giêsu tự đồng hóa với một em bé, một con người chưa được kể là thành phần của xã hội Do Thái. - Trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu, đàn bà và trẻ em là những con người không đáng kể - Trẻ nhỏ là thành phần không có chỗ đứng trong xã hội. Ở đây, Chúa Giêsu ôm em bé vào lòng. Đó là một cử chỉ tiếp đón, chấp nhận, quý mến. "Ai tiếp đón một em bé như em bé này, vì danh Thầy, là tiếp đón Thầy". Tiếp đón một em bé như thế chắc chắn không phải để em bé đó hầu hạ mình, nhưng là hầu hạ em bé đó. Một người nhỏ bé, nghèo hèn nhất, không đáng kể trước mặt người đời cũng được Chúa Giêsu coi là hiện thân của Ngài, đón tiếp người ấy là đón tiếp Ngài và là đón tiếp chính Thiên Chúa Cha, Đấng đã sai Ngài.
Thiên Chúa đã tự liên đới với người nhỏ bé, nghèo hèn, không đáng kể nhất. Vậy thì chúng ta đừng sợ làm người rốt hết và làm tôi tớ mọi người. Phục vụ một người không đáng kể nhất, một người bị bỏ rơi, bị gạt ra ngoài lề xã hội là phục vụ chính Chúa Giêsu, phục vụ chính Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao trở nên người rốt hết và phục vụ mọi người lại làm cho Mẹ Têrêxa Calcutta thành người lớn nhất, được mọi người yêu mến, kính phục, ngưỡng mộ và thương tiếc. Cuộc đời của Mẹ Têrêxa là một câu chuyện rất đời thường và có ít tình tiết éo le để khán giả háo hức tò mò. Hầu như gần cả cuộc đời của Mẹ, nào có ống kính paparazzi - những người săn ảnh - nào bám theo Mẹ khi Mẹ khòm lưng trên những con đường tăm tối ở Calcutta để ôm vào lòng những con người đang chết đói, hay khi Mẹ băng bó vết thương lở lói của những người phong cùi, nghèo khổ, chán chường, những người bị bỏ rơi, cô độc. Khi Ủy ban Nobel Hòa Bình đem vinh quang đến cho Mẹ thì Mẹ đã viết gần trọn câu chuyện về cuộc đời mình, một cuộc đời âm thầm lặng lẽ theo đuổi con đường mà mình đã chọn: phục vụ những người nghèo khổ nhất. Trong suốt cuộc đời hoạt động từ thiện bác ái, Mẹ Têrêxa không muốn danh vọng mà chỉ làm việc vì tình yêu Thiên Chúa. Mẹ đã nói: "Tôi nhìn thấy Thiên Chúa nơi mỗi một người khi tôi rửa vết thương của người cùi, tôi cảm thấy như là tôi đang chăm sóc cho chính Chúa".
Anh chị em thân mến,
Con đường tự hạ làm người bé nhỏ và phục vụ anh em là con đường để trở nên vĩ đại, trở nên người lớn nhất, người đáng kể trước mặt Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Ngài đã làm người rốt hết, làm tôi tớ mọi người, đem chính mạng sống của Ngài mà phục vụ mọi người. Vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài đến tột đỉnh vinh quang, đã ban tặng Ngài một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu (x.Pl 2,5-11). Ai đi con đường khiêm tốn phục vụ như Ngài sẽ được Ngài đưa tới vinh quang tột đỉnh với Ngài.
Một khi Chúa Giêsu đã tự hạ làm người rốt hết và tự đồng hóa với cả những người mà thế gian coi như không có, thì mọi thái độ thống trị đã bị kết án rồi, vì thống trị, chà đạp bất cứ ai cũng là thống trị, chà đạp chính Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã nói: "Anh em biết: thủ lãnh các dân thì lấy quyền mà thống trị dân, những người làm lớn thì dùng uy mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người".
Mỗi người kitô hữu chúng ta hôm nay phải tự đặt câu hỏi: "Trong địa vị của tôi, tôi phải làm sao để thực sự phục vụ người khác?". Mẹ Têrêxa với hơn 4000 Nữ Tu Thừa Sai Bác Ái của Mẹ có mặt ở 250 cộng đoàn rải rác trên các nước là những mẫu gương phục vụ của thời đại chúng ta.
21. Người đứng đầu phục vụ mọi người
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Lần thứ hai Chúa Giêsu cho các môn đệ biết về số phận của Ngài: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết Người và ba ngày sau Người sẽ sống lại”.
Đây là lần thứ hai, Người đề cập đến vấn đề nầy. Thánh Maccô đã chú thích: Ngài nói không úp mở; nghĩa là rõ ràng. Nhưng lần này Thánh Maccô lại nói rõ: “Các môn đệ không hiểu Ngài muốn nói gì và các ông sợ không dám hỏi Người”.
Các môn đệ không hiểu, nhưng chúng ta có hiểu không?
Chúng ta đã nghe nhắc đi nhắc lại nhiều lần, nhiều hơn các môn đệ, nhưng hình như chúng ta cũng chẳng hiểu gì. Tâm trí chúng ta mù tối. Hình như Chúa Giêsu là một người xa lạ. Ngài sống hay chết, chúng ta cảm thấy như ngoại cuộc, người dưng nước lã.
Giữ đạo là gì?
Đâu phải chỉ là những nghi thức phải giữ, những lề luật phải tuân hành!
Giữ đạo chính là gắn bó với Chúa Giêsu đến nỗi thân phận của Ngài trở nên thân phận của chúng ta. Cái gì liên hệ đến Ngài là liên hệ đến chúng ta. Phải là một với Ngài như vợ chồng thương nhau.
Chúng ta có cảm thấy cuộc sống chúng ta liên hệ mật thiết với Ngài không?
Thánh Phaolô đã đạt đến mức độ đó: “Tôi sống nhưng không còn là tôi sống mà Chúa Kytô sống trong tôi”.
Tuy chúng ta chưa đạt đến mức độ thâm sâu đó, nhưng chúng ta có xem đó như mục tiêu chúng ta phải đạt đến không? Và từng ngày, chúng ta nhắm đích điểm đó để tiến tới. Tình yêu mới mang lại ý nghĩa cho cuộc sống. Không có tình yêu, tất cả chỉ là vô nghĩa. Tình yêu của Chúa Giêsu mới mang lại cho chúng ta lẽ sống và ý nghĩa tròn đầy của nó. Thánh Phaolô đã nói rõ điều đó: “Giả như tôi nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa…Giả như tôi được nói tiên tri và được biết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì”.
Các môn đệ không hiểu lời Chúa nói vì đó chỉ là tiên báo, còn chúng ta, đó không còn là tiên báo mà đã trở thành hiện thực rồi. Chúng ta chưa hiểu sao? Chúng ta không thấy tử tội trên thập giá hay sao? Sao chúng ta vẫn chưa hiểu? Ngài đã yêu thương chúng ta đến như thế, chúng ta vẫn dửng dưng, lòng trí chúng ta vẫn mù tối đến mức độ nào nữa?
Phải nhận chân rằng chúng ta vẫn chưa hiểu tình yêu của Ngài, làm sao có thể yêu Ngài như Ngài đáng được yêu?
Các môn đệ không thể hiểu vì việc đó chưa xảy ra, họ không thể nghĩ rằng số phận của Thầy bi đát đến thế. Còn chúng ta, chúng ta đã thấy, đã nghe, chúng ta vẫn không hiểu. Làm gì hơn nữa để chúng ta biết được rằng Ngài đã yêu chúng ta đến chết và chết trên thập giá? Tại sao Ngài phải lãnh nhận một thân phận đau đớn như thế?
Chúng ta chưa hiểu, nhưng chúng ta có cố gắng tìm hiểu hay không? Đó chính là vấn đề cần phải lưu tâm.
Khi về đến nhà, Chúa Giêsu hỏi ngay: “Dọc đường anh em bàn tán với nhau việc gì vậy?” Họ không trả lời vì dọc đàng, các ông đã cải nhau xem ai là người lớn hơn cả…”
Đây là một bài học khác mà Chúa Giêsu muốn dạy các ông. Ngài đã biết mọi sự, nhưng Ngài muốn các ông ý thức hơn.Vì thế Ngài nói ngay: “Ai muốn là người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết và làm người phục vụ mọi người”.
Thoạt nghe như thế, chúng ta tưởng như Chúa đảo lộn tất cả, nhưng Chúa chỉ nhắc lại một điều bình thường , chính chúng ta mới đảo ngược. Xin đan cử một ví dụ: cha mẹ là gì của con cái? Cha mẹ sinh ra con, đúng ra cha mẹ có quyền trên con mình; nhưng nghĩ cho cùng, cha mẹ chỉ là đầy tớ của con cái. Vậy là đúng với điều Chúa nói: “Ai muốn làm lớn, phải là người rốt hết…” Chính chúng ta đảo ngược chứ không phải Chúa.Thế gian không biết phục vụ. Người lớn cứ tưởng mình có quyền sai khiến người nhỏ hơn mình, buộc người dưới quyền phải phục vụ mình nhưng phải là người phục vụ mới đúng. Chúng ta cần thiết lập lại trật tự đầu tiên.
Chính Chúa Giêsu đã thiết lập lại những gì con người đã đảo lộn. Chính Ngài trở thành con người phục vụ: “Ở giữa chúng con, Thầy là tôi tớ”. Ngài là Thiên Chúa, Ngài biết quyền lực của Ngài, Ngài biết Ngài là Thiên Chúa toàn năng, thế nhưng Ngài đã “chọn chỗ rốt hết đến nỗi không ai giành được chỗ đó của Ngài”. Chúng ta nghĩ sao?
Các môn đệ tranh nhau chỗ cao nhất. Chúng ta nhớ câu chuyện của hai anh em con ông Giêbêđê: bà mẹ của hai anh em nầy đến xin Chúa Giêsu cho hai đứa con mình một đứa ngồi bên hữu, một đứa ngồi bên tả. Chúa Giêsu không trả lời mà chỉ mời gọi họ uống chén của Ngài. Uống chén tức là thông dự vào cuộc khổ nạn, chịu chết với Ngài.
Thiên Chúa là Tình Yêu. Ngài cho đi. Đó là định luật căn bản Ngài thiết lập khi tạo dựng con người. Chúa Giêsu là Tình Yêu, Ngài luôn giữ đúng định luật đó. Chúng ta thì không. Thế gian đã đảo ngược định luật của Ngài. Chúng ta cần trở về nguồn để tìm lại một nếp sống thực sự là Công giáo, tức là sống cho tình yêu, sống cho tha nhân chứ không chỉ sống cho bản thân mình. Lề lối thế gian đã ăn sâu vào trong chúng ta đến nỗi chúng ta không còn biết cho đi mà gom góp. Chúng ta không còn biết yêu thương là gì?. Hãy thành thật nhìn lại nếp sống của chúng ta, chúng ta đã sống cho ai? Chúa Giêsu đến, phá đổ thành trì ích kỷ của chúng ta, Ngài dẫn chúng ta đi vào con đường của Ngài và chúng ta la hoảng lên vì sợ người khác dẫm lên chúng ta. Chúng ta sợ thua kém người khác.Vậy bài học khiêm tốn của Chúa Giêsu, chúng ta đã để ở đâu?
Thiên Chúa là sự khiêm tốn. Cha Henri Varillon đã viết một quyển sách để chứng minh cho mọi người Thiên Chúa khiêm tốn như thế nào, chỉ vì Ngài là Tình Yêu. Chúng ta không thể đi con đường nào khác. Thế gian không biết yêu thương là gì, vì thế họ cũng không bao giờ biết khiêm tốn là gì. Chỉ có con người biết yêu thương mới khiêm tốn và ngược lại con người biết khiêm tốn mới biết yêu thương. Và khiêm tốn mới có thể phục vụ.Phục vụ mới đem đến hạnh phúc. Ông Gandhi, một vị anh hùng hiếm có trong thế giới đã nói rất chí lý:
“Đêm ngủ, tôi mơ thấy đời là hạnh phúc.
Khi tỉnh giấc, tôi thấy đời là phục vụ.
Khi phục vụ, tôi thấy đời là hạnh phúc”.
Một người không phải là công giáo đã tìm được con đường của Tin Mừng. Ông đã thuộc lòng sách Tin Mừng mặc dù ông không là người Công giáo. Thật đáng cho chúng ta khâm phục!
Tất cả những ai Giáo Hội tôn phong hiển thánh đều là nhưng con người phục vụ tối đa. Thánh Gioan Maria Vianney đã phục vụ các linh hồn trong công việc Mục vụ, nhứt trong Tòa giải tội. Thánh Gioan Boscô phục vụ các thanh thiếu niên bụi đời đến chết. Thánh Đamiên phục vụ những người cùi. Thánh Maximilianô Kolbê đã chết để cứu một người tù. Chúng ta đã phục vụ ai chưa? Phục vụ đến mức độ nào?
Trên hết, Chúa Giêsu đã phục vụ chúng ta đến chết trên thập giá, và giờ đây vẫn còn phục vụ chúng ta trong Bí Tích Thánh Thể. Nét phục vụ của Ngài không ai so sánh được, và Ngài đang mời gọi chúng ta làm như Ngài, trong thực tế của hôm nay. Hãy đi vào con đường của Ngài, chúng ta sẽ thấy cuộc sống chúng ta phong phú và tuyệt diệu.
22. Người làm lớn -- PM. Cao Huy Hoàng
Trong xã hội loài người, ít ai chọn cái cực khổ, bần hàn, thấp kém. Người ta lo tranh giành cái sung sướng, lợi lộc, vinh hoa. Ai lại thèm khát chức quyền là vì mưu cầu lợi ích quốc gia? Ai lại ra công tìm cho mình một chiếc ghế ông lớn vì mong muốn làm cho đất nước giàu mạnh? Ai lại dùng đủ mọi xảo thuật gian tà tranh giành một địa vị quan trọng vì nghĩ đến chuyện ấm no hạnh phúc của toàn dân?
Con số những người lãnh đạo đất nước giữ được lòng công chính may ra đếm được trên đầu ngón tay. Bởi vì, quyền lực và tài sản công của đất nước luôn cám dỗ đức công chính của người lãnh đạo. Điều đó càng hiển nhiên hơn trong những xã hội không muốn biết đến Thiên Chúa và Đức Công Chính của Người. Đức Công Chính của Thiên Chúa vẫn còn réo gọi trong lương tâm họ, nhưng họ không muốn nghe theo, vì nghe theo Đức Công Chính thì đành bỏ mất cơ hội kiếm chác – bất hợp pháp cách nào cũng làm cho thành hợp pháp!
Chuyện này không phải mới hôm nay, mà đã từ ngàn xa xưa trước, không chỉ ở đất nước này, mà là khắp nơi. Bất kỳ ai làm người cũng đều bị Satan cám dỗ thèm khát quyền lực, thèm khát bả vinh hoa phú quí. Nếu không chiến thắng nổi cơn cám dỗ ấy, có nghĩa là phải quy phục Satan, biến thành kẻ gian ác và làm theo lệnh của nó: chống lại, bức bách, hãm hại người công chính. Bởi vậy, sách Khôn Ngoan viết rằng: “Những kẻ gian ác nói: "Chúng ta hãy vây bắt kẻ công chính, vì nó không làm ích gì cho chúng ta, mà còn chống đối việc chúng ta làm, khiển trách chúng ta lỗi luật và tố cáo chúng ta vô kỷ luật” (Kn 2, 12).
Từ xưa đến nay, chuyện thanh trừng nhau giành chỗ ông lớn ngay trong một đảng phái chính trị không phải là hiếm hoi, nhưng lại là chuyện thường ngày như chuyện xử nhau của bọn giang hồ, dao búa, hoặc của những kẻ vô học, hoặc của những tên có chữ mà không có nghĩa! Chuyện hãm hại nhau trên thương trường cũng nhan nhãn đến mức giết người không gớm tay. Tất cả đều bắt nguồn từ tham vọng bảo vệ và phát triển cái vốn liếng bất lương mà ma quỷ đã ban cho. Chuyện thanh trừng nhau bỗng rộ lên từ bí mật đến công khai vào những lúc tranh sáng tranh tối, lúc một mất một còn của một chính thể. Thật đáng quí, đáng kính nể những người có lương tâm ngay thẳng, có tiếng nói thật thà, có ước nguyện đả phá cái bất công và xây dựng sự công chính ngay trong những guồng máy gian tà. Họ bị trù dập, cách chức hoặc bi hãm hại, bị ám sát vì lẽ công chính. Họ là người công chính, chung số phận với Chúa Giê-su như sách khôn khoan đã nói: “Chúng ta hãy nhục mạ và làm khổ nó, để thử xem nó có hiền lành và nhẫn nại không. Chúng ta hãy kết án cho nó chết cách nhục nhã, vì theo lời nó nói, thì người ta sẽ cứu nó” (Kn 2, 19 – 20).
Từ chuyện làm lớn trong xã hội, đến chuyện làm lớn trong làng xóm, trong gia đình cũng không khác là bao. Ai làm ông thôn, ông xóm, ai có tiền hơn, giàu có hơn, là có quyền thế hơn, “miệng có gang có thép” hơn, được nể nả hơn và có thể xem người khác chẳng ra gì. Vợ chồng tranh nhau quyền làm chủ gia đình. Ai làm ra kinh tế thì mặc nhiên có quyền bính hơn, coi thường lấn lướt người kia. Cả con cái, đến lúc ổn định cuộc sống rồi, khấm khá rồi, nên ông kia, nên bà nọ rồi, nhìn cha mẹ già như một gánh nặng, một món nợ đời. Ai phục vụ ai?
Có vẻ như người ta đang đánh mất dần ý nghĩa “Phục Vụ” nhau, mất dần “Đức Công Chính” trong cuộc sống hôm nay, từ trong gia đình đến xã hội, thậm chí cả trong các sinh hoạt của Giáo Hội!
Chúa Giêsu đến trong xã hội loài người để tái lập một nền Công Chính của Nước Thiên Chúa bằng việc Thiên Chúa nêu gương phục vụ cho con người, để con người biết phục vụ nhau cách trân trọng nhất.
Trong trang Tin Mừng hôm nay, các môn đệ, những người gần gũi nhất với Chúa Giêsu cũng không hiểu ý định yêu thương, khiêm tốn phục vụ, sống vì hạnh phúc tha nhân của Thiên Chúa qua Đức Giêsu. Những tưởng, theo ông Giêsu tài phép này chắc chắn cũng sẽ tìm được một chỗ đứng, một vị trí trên hàng chóp đỉnh quyền lực và danh vọng của đất nước Do Thái. Bởi vậy mới có chuyện họ tranh luận với nhau xem ai cao trọng hơn ai, ai làm lớn hơn ai, ai sẽ vào bộ chính trị, ai giữ bộ tài chính, ai nắm ngoại thương... Nhưng không ngờ Chúa Giêsu cảnh tỉnh họ hãy bỏ ngay cái ý tưởng ám muội của loài người ấy đi, vì đối với Thiên Chúa thì: "Ai muốn làm lớn nhất, hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người” (Mc 9, 35).
Chúa Giêsu đã dạy như thế và đã sống trọn cuộc đời như thế. Người đời, dùng chân lý này làm chiêu bài lừa bịp với khẩu hiệu rằng: “Lãnh đạo là đầy tớ nhân dân”, “Cán bộ là đầy tớ nhân dân”. Nói như thế, nhưng chẳng bao giờ làm như thế. Ai đầy tớ ai? Ai phục vụ ai?
Còn chúng ta thì sao?
"Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người" hẳn phải là kim chỉ nam cho tất cả mọi tín hữu trong đời sống Đức Tin và đời sống Giáo Hội, là kim chỉ nam cho mọi thành phần trong Giáo Hội. Trong chuyến viếng thăm Liban ngày 16-9-2012 vừa qua, Đức Thánh Cha Bênêdictô 16 nói: “Một đòi hỏi khẩn thiết đối với Giáo Hội là phục vụ và, đối với các tín hữu Kitô, là phải trở thành những người phục vụ đích thực theo hình ảnh Chúa Giêsu. Phục vụ là một yếu tố nền tảng trong căn tính các môn đệ của Chúa Kitô (Xc Ga 13,15-17)
Những con người bị cho là cùng đinh, thấp bé nhất dưới cái nhìn xã hội không thể cũng bị xem là cùng đinh thấp bé nhất dưới cái nhìn của Giáo Hội. Giáo Hội của Chúa Kitô nhìn loài người, nhìn vạn vật với con mắt Chúa Kitô. Bao lâu trong Giáo Hội chúng ta, kẻ bề trên bề dưới, nhìn nhau với con mắt xác thịt loài người, con mắt cao, con mắt thấp, thì bấy lâu, chưa thực sự là Giáo Hội Chúa Kitô. Tiếng nói của Dân Chúa chưa hẳn là tiếng nói của những người đại diện Dân Chúa, nếu những người đại diện ấy chưa muốn lắng nghe, chưa ghi nhận tiếng nói của những kẻ cùng đinh, thấp bé nhất, ít học nhất trong Giáo Hội để quan tâm đáp ứng.
Là Tín Hữu Chúa Giêsu, là môn đệ Chúa Giêsu hẳn phải là người chung số phận với Chúa Giêsu: số phận của người công chính, số phận của những đầy tớ phục vụ anh em, số phận những người nhẫn nai chịu nhục mạ, chịu kết án, chịu đóng đinh và chịu chết vì sự Công Chính của Nước Thiên Chúa. Như vậy, số phận của Kitô hữu đã đành rành: được sinh ra, sống yêu thương phục vụ mọi người, làm chứng cho Đức Công Chính của Thiên Chúa, cùng chết với Đức Kitô, cùng sống lại với Người.
Hãy cầu xin Chúa Thánh Thần gìn giữ chúng ta đừng bị vướng vào bẫy của Satan, để rồi tranh nhau cao thấp mà quên việc chính của chúng ta ở đời là phục vụ cách trân trọng nhất. Đừng vì muốn làm ông lớn mà “ganh tị và cãi vã, sinh ra hỗn độn và đủ thứ tệ đoan”, nhưng hãy làm người phục vụ như Chúa Giêsu đã yêu thương khiêm tốn phục vụ. Thánh Giacôbê nói, đó là “sự khôn ngoan từ Trời xuống, trước tiên là trong trắng, rồi ôn hoà, bao dung, nhu mì, hướng thiện, đầy lòng nhân từ và hoa quả tốt lành, không xét đoán thiên vị, không giả dối. Hoa quả của công chính được gieo vãi trong bình an cho những người xây đắp an bình” (Gc 3, 16 – 4, 3).
Lạy Chúa, xin cho Lời Ngài thức tỉnh những ai đang tranh giành quyền lực biết theo gương Ngài mà phục vụ nhân loại các chân thành. Xin cho mọi người trong Giáo Hội biết phục vụ nhau cách trân trọng nhất, nhất là đối với những người thấp bé cùng đinh. Amen.
23. Hãy cùng dìu nhau tiến bước -- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Tại thế vận hội đặc biệt Seattle (dành cho những người tàn tật) có chín vận động viên đều bị tổn thương về thể chất và tinh thần, cùng tập trung trước vạch xuất phát để tham dự cuộc đua 100m.
Khi súng hiệu nổ, tất cả đều lao đi với quyết tâm chiến thắng. Trừ một cậu bé. Cậu cứ bị vấp té liên tục trên đường đua. Và cậu bật khóc. Tám người kia nghe tiếng khóc, giảm tốc độ và quay lại nhìn. Rồi họ quay trở lại. Tất cả không trừ một ai! Một cô bé bị hội chứng Down dịu dàng cúi xuống hôn cậu bé:
- Như thế này em sẽ thấy tốt hơn.
Cô nói xong, cả chín người cùng khoác tay nhau sánh bước về vạch đích.
Khán giả trong sân vận động đồng loạt đứng dậy, những người chứng kiến vẫn còn truyền tai nhau câu chuyện cảm động này.
Cuộc đua nào cũng cần chiến thắng. Nhưng chiến thắng không phải là tất cả, mà ý nghĩa thật sự của cuộc sống là ở chỗ ta giúp đỡ người khác cùng vươn lên, dù ta phải chậm một bước. Bởi lẽ đó, nền văn minh thực sự chỉ có khi con người cùng dìu nhau tiến bước. Không để ai ở lại phía sau. Không đạp đổ ai ngã quỵ. Nhưng cùng nhau vun trồng cây tình thương giữa nền văn minh hôm nay. Cuộc đời sẽ không còn khoảng cách quá xa giữa người giầu và người nghèo, và phẩm giá con người được tôn trọng khi nhân loại biết xiết chặt vòng tay và dìu nhau tiến bước.
Nhưng đáng tiếc cho nhân loại chúng ta, có quá nhiều người tham quyền cố vị. Họ cần địa vị, cần có chức, có quyền để “ăn trên ngồi trốc” thiên hạ. Họ đua nhau leo lên đài cao danh vọng để hưởng những đặc quyền, đặc lợi mà chức tước sẽ mang lai cho họ. Vì quyền, vì lợi mà biết bao người đã chẳng ngại lừa thầy, phản bạn, sống vô ơn, phản phúc. Vì bổng lộc mà biết bao người đã chẳng sợ đánh mất nhân phẩm của mình để chà đạp người dưới và tâng bốc, luồn cúi cấp trên. Có mấy ai sống vị tha, sống quên mình vì lợi ích đồng loại?
Năm xưa, Chúa Giêsu đã rất đau buồn khi nghe các môn đệ thân tín của mình đang kèn cựa nhau địa vị và bổng lộc. Nỗi lòng của Thầy, các môn sinh đâu muốn chia sẻ. Chúa Giêsu thật cô đơn. Cô đơn vì chẳng ai hiểu mình. Cô đơn vì các môn sinh vẫn còn đó bản tính vụ lợi. Chẳng ai nên giống Thầy Chí Thánh. Thầy quên mình vì lợi ích nhân sinh. Trò lại lo vinh thân phì gia. Thầy đang đi dần đến đỉnh cao của hiến tế để cứu độ nhân loại, các môn sinh lại tìm kiếm vinh hoa phú qúy trần gian.
Chúa Giêsu đã không ngần ngại đặt thẳng vấn đề với các môn sinh: “Dọc đường anh em bàn tán điều gì vậy?”. Các ông im lặng làm thinh. Im lặng vì có mấy ai trong lòng không chứa đầy những toan tính vụ lợi. Có mấy ai thanh sạch lòng ngay trước danh vọng mà các ông tưởng chừng như sắp đến tay mình? Im lặng để lắng nghe. Lắng nghe lòng mình để thấy rằng tính tham sân si vẫn còn đó sau bao ngày tháng theo Thầy tầm đạo. Lắng nghe lời Thầy giáo huấn để sửa đổi và bước đi theo gương Thầy chí thánh đã đi.
Chúa buồn nhưng không trách mắng. Chúa kêu gọi các ông thay đổi cách suy nghĩ chứ không ra lệnh. Chúa mời gọi các ông: “ai làm lớn hãy hết mình phục vụ”. Phục vụ với thái độ như một người đầy tớ. Phục vụ không phân biệt sang hèn. Đỉnh cao của phục vụ là không toan tính theo kiểu “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”. Chúa Giêsu dùng hình ảnh trẻ nhỏ để tượng trưng cho những con người tay trắng, yếu đuối và chắc chắn không có gì để đền ơn đáp nghĩa. Họ mới cần chúng ta giúp đỡ. Họ mới thực sự có nhu cầu để van xin lòng tốt của chúng ta. Họ mới thực sự là đối tượng mà Chúa cần chúng ta rộng tay giúp đỡ. Chúa còn đồng hoá họ trở nên chính Chúa. Thế nên, ai tiếp đón họ là tiếp đón chính Chúa. Và ngược lại, ai từ chối họ là từ chối chính Chúa.
Đó chính là sứ điệp mà Chúa Giêsu hằng ao ứơc các môn sinh của mình phải suy đi nghĩ lại trong cuộc đời và đem ra thực hành với trọn lòng mến yêu. Đó chính là nét đẹp của người kytô hữu sống đạo theo gương Thầy chí thánh Giêsu. Chính Chúa đã từ bỏ địa vị ngang hàng với Thiên Chúa để mặc lấy thân phận con người như chúng ta, và qua đó thánh hoá chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa. Chính Chúa đã cúi xuống rửa chân cho các môn sinh để từ nay “kẻ làm lớn phải trở thành kẻ phục vụ như một đầy tớ” theo gương Thầy đã để lại.
Có lẽ cuộc đời sẽ hạnh phúc hơn khi mỗi người biết từ bỏ tham sân si, để sống bác ái vị tha. Cuộc đời sẽ hết khổ đau bởi ganh ghét, tị hiềm và nhân loại sẽ cùng đan tay nhau xây dựng một thế giới đầy yêu thương. Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết dùng khả năng, địa vị Chúa ban để phục vụ lẫn nhau trong yêu thương chân thành.
Nguyện xin Chúa là Đường dẫn đến sự thật và sự sống dẫn dắt chúng ta bước đi trên con người mà Chúa đã đi để mỗi ngày chúng ta được trở nên giống Chúa hơn.
24. Cũng một chữ ganh -- Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Ở đời tiến hay lùi cũng bởi một chữ “ganh”. Ganh đua sẽ giúp ta thăng tiến nhưng ganh tị sẽ hủy hoại danh dự của ta. Ganh đua là cạnh tranh để giành lấy phần thắng, phần hơn một cách lành mạnh và chính đáng. Ganh tị là cảm giác tức tối với người khác vì những gì họ có như tài sản, sự thịnh vượng, lợi thế v.v. nhưng không dừng lại ở cảm giác muốn được bằng người khác mà còn muốn đạp đổ của họ.
Xem ra ở đời người ta ganh tị với nhau nhiều hơn. Vì ganh tị mà người ta có thể làm hại lẫn nhau gây nên những bể dâu sóng gió cho cuộc đời. Ngay cả vườn địa đàng năm xưa đã không còn bình an khi lòng ganh tị xâm chiếm ông bà nguyên tổ. Họ không chỉ muốn bằng Thiên Chúa mà còn đòi loại trừ Thiên Chúa. Hậu quả là con người phải đau khổ và cái chết đã đến với kiếp người chúng ta. Sự ganh tị của ông bà đã để lại cho con cháu những bài học quý giá nhưng rồi dường như chẳng ai muốn học cả. Đơn giản bởi lẽ con người vẫn mãi mãi ganh tị lẫn nhau.
Điều đáng buồn là sự ganh tị lại xuất hiện ngay trong hàng ngũ những môn đệ của Chúa Giêsu. Trên đường đi loan báo Tin Mừng nhưng rồi các ông đã sống sai Tin Mừng và xa rời Tin Mừng yêu thương mà Thầy Giêsu đang muốn gửi đến cho nhân loại, và qua các ông để đến với muôn dân.
Theo lẽ thường, khi các môn đệ đã nhắm đến chỗ cao, chỗ hơn thì chính trong nội bộ đã gây chia rẽ với nhau rồi. Và khi nội bộ của những người loan báo Tin Mừng gây chia rẽ thì tiếng nói của Lời Chúa, những lời rao giảng về Chúa sẽ chẳng hoán cải được ai.
Có thể nói sự ganh đua và ganh tị vẫn song hành với nhau, và đôi khi hòa lẫn với nhau. Điều đó đã làm cho con người dễ nổi nóng với nhau hơn. Vì tham quyền cố vị mà ta biến đoàn hội, biến giáo xứ thành chiến trường tranh dành quyền lực và đồng tiền. Chính vì sự ganh tị mà người ta hành xử với nhau có khi không còn là tình người, là tính người mà chỉ còn sự loại trừ lẫn nhau.
Nhìn vào những gì đang diễn ra nơi cộng đoàn và giáo xứ chúng ta thấy có quá nhiều người tham quyền cố vị. Họ cần địa vị, cần có chức, có quyền để “ăn trên ngồi trốc” thiên hạ. Họ đua nhau leo lên đài cao danh vọng để hưởng những đặc quyền, đặc lợi mà chức tước sẽ mang lại cho họ. Vì quyền, vì lợi mà biết bao người đã chẳng ngại lừa thầy, phản bạn, sống vô ơn, phản phúc. Vì bổng lộc mà biết bao người đã chẳng sợ đánh mất nhân phẩm của mình để chà đạp người dưới và luồn cúi cấp trên. Có mấy ai sống vị tha, sống quên mình vì lợi ích đồng loại?
Năm xưa, Chúa Giêsu đã rất đau buồn khi nghe các môn đệ thân tín của mình kèn cựa nhau chỗ thấp chỗ cao. Nỗi lòng của Thầy, các môn sinh đâu muốn chia sẻ. Thầy quên mình vì lợi ích nhân sinh. Trò lại lo vinh thân phì gia. Thầy đang đi dần đến đỉnh cao của hiến tế để cứu độ nhân loại, các môn sinh lại tìm kiếm vinh hoa phú qúy trần gian.
Chúa Giêsu đã không ngần ngại đặt thẳng vấn đề với các môn sinh: “Dọc đường anh em bàn tán điều gì vậy?”. Các ông im lặng làm thinh. Im lặng vì có mấy ai trong lòng không chứa đầy những toan tính vụ lợi! Có mấy ai thanh sạch lòng ngay trước danh vọng mà các ông tưởng chừng như sắp đến tay mình? Im lặng để lắng nghe. Lắng nghe lòng mình để thấy rằng tính tham sân si vẫn còn đó sau bao ngày tháng theo Thầy tầm đạo. Lắng nghe lời Thầy giáo huấn để sửa đổi và bước đi theo gương Thầy chí thánh đã đi.
Chúa buồn nhưng không trách mắng. Chúa mời gọi các ông: “ai làm lớn hãy hết mình phục vụ”. Phục vụ với thái độ như một người đầy tớ. Phục vụ không phân biệt sang hèn. Đỉnh cao của phục vụ là không toan tính theo kiểu “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”. Chúa Giêsu dùng hình ảnh trẻ nhỏ để tượng trưng cho những con người tay trắng, yếu đuối và chắc chắn không có gì để đền ơn đáp nghĩa. Họ mới cần chúng ta giúp đỡ. Họ mới thực sự có nhu cầu để van xin lòng tốt của chúng ta. Chúa còn đồng hoá họ đến nỗi ai tiếp đón họ là tiếp đón chính Chúa. Và ngược lại, ai từ chối họ là từ chối chính Chúa.
Có lẽ cuộc đời sẽ hạnh phúc hơn khi mỗi người biết từ bỏ tham sân si, để sống bác ái vị tha. Cuộc đời sẽ hết khổ đau bởi ganh ghét, tị hiềm và nhân loại sẽ cùng đan tay nhau xây dựng một thế giới đầy yêu thương. Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết dùng khả năng, địa vị Chúa ban để phục vụ lẫn nhau trong yêu thương chân thành.
Nguyện xin Chúa là Đường dẫn dắt chúng ta bước đi trên con người mà Chúa đã đi để mỗi ngày chúng ta được trở nên giống Chúa hơn. Amen.
25. Máu làm quan – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Nếu hỏi một em bé: “con đi học để làm gì?” , thì đa số các em sẽ trả lời rằng: con đi học để làm ông này bà kia...; làm kỹ sư, làm bác sỹ, làm linh mục hay nữ tu...; Điểm chung về cái học luôn là một nỗ lực cần phải có để tiến thân, hay để có danh với đời như Nguyễn Công Trứ đã nói:
“Đã mang tiếng đứng trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”
Nhất là truyền thống dân tộc Việt Nam luôn trọng sự học. Và đương nhiên cũng rất trọng "cái danh"- làm quan. Cái danh ấy, không chỉ mang lại bổng lộc cho bản thân mà dường như còn cho cả gia tộc, vì “một người làm quan, cả họ được nhờ”.
Vì mong có cái danh mà vợ phải hy sinh cho chồng, cha mẹ hy sinh cho con cái. Họ chấp chận mọi đắng cay để gia đình có người làm quan như trong bài thơ “Trăng sáng vườn chè” diễn tả. Bài thơ này những bà mẹ thường kèm theo lời hát ru hời trong giấc ngủ của con:
Sáng trăng sáng cả vườn chè/ Một gian nhà nhỏ đi về có nhau/ Vì tằm tôi phải chạy dâu/ Vì chồng tôi phải qua cầu đắng cay/ Chồng tôi thi đỗ khoa này/ Bõ công kinh sử từ ngày lấy tôi...
Công bằng mà nói, máu làm quan là bản năng của con người. Khi bắt đầu có nhận thức về nhóm, về tập thể, cộng đồng và xã hội thì luôn có người muốn đứng trên mọi người! Con người luôn muốn thống lĩnh mọi người để được hưởng lợi. Con người đua nhau làm quan xem ra chỉ để được vinh thân phì gia, có mấy ai để xả thân cứu đời.
Dường như các môn đệ đi theo Chúa cũng muốn tìm cái danh. Ai cũng muốn làm người đứng đầu. Ai cũng muốn bổng lộc, sung sướng an nhàn. Họ cũng tranh dành nhau quyền lực. Họ cũng chèn cựa ganh tỵ với nhau để kiếm chỗ nhất trong anh em.
Hôm nay, Chúa Giê-su bảo người theo Chúa là để phục vụ, để hy sinh, để xả thân. Người theo Chúa không phải vinh thân phì gia mà để sống có ích cho đời, đem cái tài của mình để cống hiến cho nhân loại. Người theo Chúa phải bỏ lại ruộng vườn, thân nhân, gia tài để sống thanh thoát với đời. Người theo Chúa còn phải vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa. Như vậy, người có danh là để phục vụ, để cống hiến cho đời chứ không phải để hưởng lợi bổng lộc từ danh vọng.
Tinh thần phục vụ mà Chúa Giê-su đòi hỏi các môn đệ là vô điều kiện, là vô vị lợi. Tinh thần ấy sẵn lòng cúi xuống phục vụ mọi hạng người cho dù đó là trẻ em, là những phận người bé nhỏ nhất trong xã hội con người. Tinh thần ấy còn sẵn lòng đón nhận mọi khó khăn, thử thách để chu toàn sứ vụ được giao.
Cuộc đời con người ai cũng mong có được địa vị, có được danh vọng. Điều quan yếu là hãy dùng nén bạc Chúa trao ấy để sinh lợi cho Chúa. Xin đừng tìm kiếm danh vọng để vun quén cho bản thân, để vinh thân phì gia. Danh giá của con người không hẳn ở chức tước mà hệ tại việc mình quảng đại dấn thân cho đời. Đó mới là lý tưởng mà Chúa muốn người môn đệ cần phải theo.
Xin cho chúng ta luôn bé nhỏ để Chúa được lớn lên trong chúng ta. Xin đừng vì danh vọng mà sống ganh ghét, tỵ hiềm gây nên những tranh chấp hận thù đau thương. Nhưng xin cho chúng ta biết sẵn lòng đón nhận chức vụ với tấm lòng gánh lấy trọng trách Chúa trao để phục vụ lợi ích cho tha nhân. Amen.
26. Làm tôi tớ - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ – Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Trong phim truyện Tây Du Ký, vai trò nổi bật nhất là Ngộ Không. Ngộ Không bá chủ loài khỉ, chưa đủ, anh học 78 phép biến hóa, rồi đi thống trị các lân bang. Vẫn chưa hài lòng, Ngộ còn đòi lên trời làm Tề Thiên Đại Thánh: Tề Thiên là bằng Trời, Đại Thánh là cao sang vĩ đại nhất. Ngọc Hoàng Thượng Đế biết Ngộ ngạo mạn quá trớn phong cho Ngộ làm mã quan, Ngộ hý hửng tưởng bở, nhưng khi bị sai đi chăn ngựa, Ngộ mới hiểu mã quan là quan coi ngựa, Ngộ bực tức vì ngu mà mắc bẫy. Ngộ giận dữ phá phách, bị đại tướng nhà trời đánh đuổi rơi xuống đất bị đè bẹp dưới tảng đá lớn suốt 500 năm để thấy mình bất lực mà ăn năn cải thiện. Khi đã cải thiện, Ngộ được cứu thoát và gia nhập phục vụ đoàn đi tìm chân lý. Khi Ngộ bất mãn, bất phục lệnh, Ngộ lại bị cái vòng kim cô xiết vào đầu làm Ngộ Không nhức óc kêu la thảm thiết. Khi biết tuân lệnh quay về đường phục vụ, thì Ngộ được lành mạnh, tài giỏi. Nhờ biết đi vào con đường phục vụ như tôi tớ, Ngộ Không đã tìm được chân lý và hạnh phúc, và giúp cho cả đoàn tới được chân lý. Phim truyện có hai màn đối nghịch nhau:
Màn đầu: diễn tả cảnh tranh bá đồ vương khủng khiếp của Ngộ Không.
Màn sau: diễn tả những việc phục vụ rất đắc lực của Ngộ Không.
Lời Chúa hôm nay cũng diễn tả một vở kịch có hai cảnh mâu thuẫn nhau: một cảnh phục vụ, một cảnh tranh chấp.
Sau lời tuyên bố khai mạc của Đức Giêsu: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người và ba ngày sau Người sẽ sống lại”. Các môn đệ không hiểu lời tuyên bố đó, cũng chẳng hỏi xem Thầy muốn nói gì. Các ông cứ diễn đại cái màn kịch theo sở thích của mình. Ông nào cũng say sưa nhiệt liệt tranh giành cho mình được địa vị cao, lớn nhất, danh vọng nhất, vĩ đại nhất. Có lúc các ông cãi nhau to tiếng đến độ gây cấn mà cứ tưởng Thầy lủi thủi đi ở xa không biết. Khi vào tới nhà, ngồi bình tĩnh đàng hoàng, Thầy mới gọi các ông lại hỏi: Dọc đường các con tranh luận gì thế. Các ông cúi đầu làm thinh không dám trả lời, vì các ông đã tranh nhau quá lố về địa vị cá nhân, mong được chức quyền danh vọng vinh hoa, phú quý trong nước Thầy sắp thành lập.
Các màn kịch tranh giành quyền bính này đã diễn ra xưa hơn trái đất. Lúc mới dựng nên loài thiên thần, Luxiphe đã tranh ngôi bá chủ với Thiên Chúa. Thiên Chúa buộc lòng tống Luxiphe xuống làm bá chủ hỏa ngục. Ađam Evà cũng đòi đồng hàng với Thiên Chúa và cũng bị tống cổ khỏi vườn địa đàng, đến làm vua trái đất khô cằn cực khổ và chết chóc.
Đến đời con cháu vẫn ngoan cố diễn lại màn kịch bi thảm, chém giết lẫn nhau để tranh bá đồ vương. Cả đến anh đánh dậm kéo tép như Mặc đăng Dung, khi có cơ hội, cũng dám giết vua Chiêu Tôn để chiếm ngôi vua, đến khi quân Minh bên Tầu kéo sang đánh, Đăng Dung khiếp sợ, tự trói mình ra hàng nhục nhã (năm 1537).
Chúa Giêsu phải chạy trốn cái cảnh làm vua tranh giành danh lợi nhơ bẩn của loài người, nhưng Người không chạy trốn sự hy sinh phục vụ con người như một tôi tớ đắc lực.
Người là Thiên Chúa cao cả, nhưng lại trở nên tôi tớ mọi người. Người đã từ bỏ địa vị Thiên Chúa, nhận lấy thân phận tôi đòi (Phil. 2, 1). Làm tôi đòi với người thợ mộc làm thuê làm mướn. Khi rao giảng Tin mừng, Người hầu hạ chữa lành các bệnh nhân què, câm, điếc, mù, hủi, liệt, chết, Người không tự cao tự đại như một thầy dạy, hay một bác sĩ, mà chỉ khiêm tốn, hiền lành, âm thầm phục vụ như một tôi tớ bưng nước rửa chân cho môn đệ và mọi người. Chẳng những như tôi tớ mà còn như một nô lệ giơ mặt cho kẻ khạc nhổ, vả mắng, giật râu, phơi lưng cho kẻ đánh đòn, cúi mình xuống, vác thập giá, giang tay chân cho kẻ đóng đinh. Không một tôi tớ, không một nô lệ nào chịu cực khổ, cực hình như vậy, chỉ có Đức Giêsu, làm lớn nhất, đã trở nên bét nhất, như Người đã nói: “Ai muốn làm đầu thì phải làm người rốt hết, và làm tôi tớ mọi người”. Kế đó, Người dắt một em nhỏ đặt giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: Ai tiếp đón một em nhỏ như em này, vì danh Thầy, là tiếp đón Thầy … Tiếp đón một em nhỏ là tiếp đón kẻ hèn mọn, yếu đuối, vô danh, không có một chút quyền lực, không có một tấc đất nào. Mà ta lại làm tôi tớ phục vụ kẻ bé nhỏ đó, thì mới thật là môn đệ, là người tin theo Chúa, mới thực là người tôi tớ trung tín và khôn ngoan của Thầy và của Cha Thầy. Tôi tớ trung tín và khôn ngoan cần có tinh thần sau đây:
Một là không tranh giành địa vị, lợi lộc: Đức Giêsu đã đuổi satan đem bả vinh hoa của cải, địa vị cả thiên hạ đến cám dỗ Người. Người còn dạy: được lời lãi cả thế gian, mà mất mạng sống mình thì có ích gì? Người đã ngăn chận tức khắc thói ham danh lợi của môn đệ. Người đã dạy phải rửa chân cho nhau. Giuđa vì ham lợi mà mất mạng sống. Vì thế, tuy Phêrô đứng đầu Hội thánh, ông đã xin mọi người cầu nguyện để bầu một tông đồ thế cho Giuđa, các ông bầu chứ không tranh cử, cũng không dám tự ý đề cử hay ứng cử. Truyền thống này đã là kiểu mẫu bầu Giáo Hoàng, Giám mục cũng như Linh mục và giáo dân, loại bỏ mọi thói tranh giành địa vị lợi lộc.
Hai là hoàn toàn vâng lời: Không được tranh giành nhưng cũng không được từ chối, đó là tư cách của đầy tớ, khác với thế gian: có lợi thì tranh đấu cho được, có hại thì bỏ không dám hy sinh.
Đức Cha Lê hữu Từ đã kể lại trong Tuần giảng Tĩnh tâm cho Tiểu chủng viện Trung Linh, Bùi Chu năm 1952. Khi được sắc phong Giám mục, ngài run sợ, từ dòng Châu Sơn Thanh Hóa, đạp xe đạp cũ kỹ xuyên qua rừng núi hơn 400 km vào Huế, xin Đức Khâm sứ Tòa thánh ban cho được từ chức. Hầu hết các Đức Giáo hoàng và Giám mục đều muốn xin từ chức như vậy. Nhưng vẫn phải vâng theo ý Chúa như Đức Giêsu đã cầu nguyện trong giờ hấp hối: “Lạy Cha, xin cất chén đắng này đi, nhưng đừng theo ý Con, một theo ý Cha”.
Ba là hoàn toàn trung tín với nhiệm vụ được trao phó. Từ Giáo hoàng, Giám mục, Linh mục cũng như giáo dân đều phải lo chu toàn trách nhiệm: có trách nhiệm chung với mọi người, như phải sống công bình bác ái, tuân giữ giới răn Chúa, truyền giáo, rao giảng Tin mừng. Có trách nhiệm riêng theo chức phận mình, như nhiệm vụ Giáo hoàng, Giám mục, Linh mục, tu sĩ, quý Chức, cha mẹ, con cái, thầy dạy, học trò, công dân, tín hữu, làm vợ, làm chồng.
Lạy Chúa, Chúa đã thiết lập Giáo hội để tiếp tục công cuộc của Chúa phục vụ cứu độ con người, xin cho chúng con, dù ở địa vị nào, đều nhiệt tâm theo gương Chúa, trở thành những đầy tớ trung tín và khôn ngoan phục vụ mọi người.
Xin Chúa cải thiện các nhà cầm quyền trở nên chính quyền, biết chăm lo xây dựng xã hội tốt đẹp chứ không phải hạng tà quyền xảo quyệt, giành giựt danh lợi, vinh thân phì gia để khi chết, cho dòi bọ rúc rỉa thây ma.
27. Vô tư phục vụ -- Alphonse Marie Trần Bình An
Ngày 12 tháng 3, năm 1930, Mahatma Gandhi cùng 78 thành viên với y phục trắng cổ truyền bắt đầu đi bộ, phản đối đạo luật “Thuế Muối” của đế quốc Anh, cấm người Ấn Độ sản xuất và buôn bán muối, dành độc quyền cho chính phủ Anh bóc lột.
Đi tới đâu, ông đều diễn thuyết chỉ trích và lên án đạo luật phi nhân này. Dân chúng nồng nhiệt ủng hộ và tiếp tế rau quả, cùng gia nhập theo hành trình muối dài 386 cây số. Cả thế giới truyền thông đều hướng về “người đàn ông gầy gò nhỏ bé,” đang được một đoàn người dài 3 cây số nhập dòng, từ mỗi làng xã và mỗi ngày một tăng. Tay không, chân đất họ tiến về bờ biển Ấn Độ Dương.
Sau 23 ngày, đoàn người lên đến trên 50 000 người, đã đến bãi biển làng Dandi. Hôm sau, Gandhi bốc một nắm muối và công khai cùng với người dân Ấn, thể hiện hành động bất tuân đạo luật muối. Từ đó, Gandhi là ngọn cờ đầu, phục vụ cho công cuộc giành lại độc lập với chiến thuật bất bạo động và bất hợp tác.
Trình thuật Tin Mừng hôm nay có chủ để về phục vụ. Trước tiên Chúa Giêsu nói về sứ mạng của Người, cũng như phương cách phục vụ cho Ơn Cứu Độ. Nhưng thấy thái độ của các Tông đồ khá tiêu cực, Chúa bèn giảng dạy về ý nghĩa hai chữ Phục Vụ.
1) Phục vụ bản thân
Khuynh hướng con người luôn muốn vinh thân phì gia, quyền cao chức trọng. Các Tông đồ khi ấy cũng chưa thoát khỏi cái bả vinh hoa phù phiếm. Chỉ muốn lo cho thân phận, phục vụ bản thân, mới tranh giành nhau cái ghế lãnh đạo.”Khi về tới nhà, Đức Giêsu hỏi các ông: “Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy?” Các ông làm thinh, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả. (Mc 9, 33-34)
2) Phục vụ tha nhân
Chính vì xấu hổ, các Tông đồ mới đành phải lặng thinh, không dám tường trình lại cuộc bàn cãi sôi nổi tranh chấp ngôi thứ. Chúa Giêsu đã nghe và biết rõ, chẳng la mắng chi, mà chỉ ôn tồn dạy bảo: “Ai muốn đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người.”(Mc 9, 35)
Mahatma Gandhi đã đích thân đi bộ 386 cây số, khởi xướng cuộc hành trình muối. ĐTGM Yuse Ngô Quang Kiệt đã đích thân lội nước, đến thăm dân chúng bị lũ lụt tại Hà Nội. ĐGM Micae Hoàng Đức Oanh đã lặng lẽ nhặt rác, ngay sau thánh lễ tại linh địa Đức Mẹ Măng Đen, Kon Tum. Đó là những tấm gương của người lãnh đạo âm thầm phục vụ mọi người.
3) Phục vụ vô tư
Không chỉ dạy bảo những nhà lãnh đạo tương lai, phục vụ như thế nào, Chúa Giêsu còn dạy cho mọi người về thái độ phục vụ một cách vô tư.”Kế đó, Người đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó mà nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy.”(Mc 9, 37)
Khi tiếp đón em bé thì đâu có được trả ơn nghĩa gì, như người lớn. Đó chính là điều Chúa Giêsu muốn mọi người đón nhận nhau, hoàn toàn trong sáng vì danh Chúa. Vô điều kiện, vô vị lợi, vô tư, không mong đền ơn đáp nghĩa, hay nhằm mục đích nào khác, mà chỉ vì họ là hình bóng Thiên Chúa, vì yêu mến và vinh danh Thiên Chúa.
4) Phục vụ Ơn Cứu Độ
Phục vụ cao quý nhất là quy hướng vào Ơn Cứu Độ, Chúa Giêsu muốn mặc khải cho các Tông đồ, chuần bị tinh thần hiệp thông vào sứ vụ cao cả.”Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết Người sẽ sống lại.”(Mc 9, 31)
Tuy nhiên, các Tông đồ chưa sẵn sàng để chia sẻ, hơn nữa còn tỏ vẻ sợ hãi tránh né: “Nhưng các ông không hiểu lời đó, và các ông sợ, không dám hỏi lại Người.”(Mc 9, 32)
Lạy Chúa, xin dạy con biết cư xử tốt lành vô tư với mọi người vì danh Ngài, để có thể xứng đáng làm môn đệ Ngài.
Lạy Mẹ Maria, xin nhắc nhủ con luôn khiêm hạ, tận tụy giúp đỡ, chia sẻ với tha nhân vì lòng kính mến Chúa, để luôn được Mẹ che chở, chúc lành. Amen.
28. Tham vọng
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Môn đệ Đức Kitô trên đường đi tranh luận với nhau về việc ai sẽ là người lãnh đạo tương lai. Tranh luận xảy ra, ít là sau hai lần nghe Đức Kitô tâm sự Ngài sẽ bị các Thượng Tế và Biệt Phái bắt, bị kết án tử hình và sau ba ngày Ngài sẽ sống lại. Các ông không hiểu việc sống lại, việc Đức Kitô sẽ chịu đau khổ nhưng các ông hiểu trong tương lai gần Đức Kitô không còn hiện diện với các ông nữa nên việc tìm người lãnh đạo tương lai là việc các ông lo lắng. Điều các ông tranh luận cho biết dù Đức Kitô bị bắt các ông vẫn không tan hàng, bởi nếu giải tán thì đâu cần người lãnh đạo nhóm. Các ông có thể sống trong lo sợ, trốn chui, trốn nhủi, nhưng không tan hàng, rã đám. Cũng qua tranh luận chúng ta thấy có sự chia rẽ trong nhóm và biểu tỏ đức tin non kém của các ông vào Đức Kitô.
Nếu sự việc xảy ra cho chúng ta, chúng ta cũng hành động tương tự. Nếu muốn tiếp tục sinh hoạt chung với nhau, nếu muốn nhóm tồn tại, cần phải có người lãnh đạo, nhất là trong thời gian khó khăn trước mắt, càng cần người lãnh đạo tốt. Điều các ông bàn thảo không có gì sai, nhưng cách bàn thảo, phương pháp bàn thảo sai khiến cho sự việc trở nên phức tạp, mất tin tưởng nhau và gây chia rẽ nhóm. Trong quá khứ mỗi khi nghe Đức Kitô giảng cho đám đông, điều gì không hiểu các ông gặp riêng hỏi và Ngài chỉ dậy, hướng dẫn. Lần này các ông không làm thế, mặc dù Ngài đi cùng con đường, bước trước các ông ít bước nhưng các ông tự tin vào tài phán đoán riêng mình và không hỏi í kiến Đức Kitô.
Tranh giành chức tước là hình thức tham vọng trá hình. Điều này hoàn toàn trái ngược với đức khiêm nhường của Kitô hữu. Ước mong được làm người lãnh tụ, được người khác phục vụ, không phải lãnh đạo để phục vụ người khác. Khao khát ước mơ đạt điều mong muốn, không phải thoả mãn thiết yếu nhu cầu cho cuộc sống. Đói khát quyền hành, tiền của và danh tiếng. Thư thánh Giacôbê tông đồ 3,16 cảnh tỉnh như sau tham lam và ích kỉ mở đường, dẫn lối đón chào bất ổn và hành động bất chính. Tham vọng dẫn đến cãi cọ, tranh luận to tiếng và đả kích kịch liệt trong nhóm. Các ông tin vào sự khôn ngoan trần thế và coi như Đức Kitô không còn là người lãnh đạo nhóm và các ông cần một người lãnh đạo khác.
Tham vọng cá nhân trở thành lực cản, ngăn cản thành công hơn là dẫn đến thành công và tham vọng của nhóm dẫn đến chia rẽ, bè phái, đả kích, dèm pha và có thể đi đến thù địch. Thế giới thương mại cho biết kẻ có chức cao trong công ti nhờ vào sự tin tưởng, tích cực hăng say làm việc của thuộc cấp mà thành công. Thiếu tích cực, chân thành cộng tác của thuộc cấp là lãnh đạo tồi và công ti tuột dốc. Nếu chủ nhân chỉ muốn ngồi trên đầu trên cổ công nhân thì công nhân sẽ không phục và không tận tuỵ phục vụ vì thế muốn cho mình leo lên, hãy giúp người khác cùng leo lên như thế mới tạo sự công bằng. Nói cách khác giúp người khác tiến thân chính là làm cho mình thăng tiến và đây cũng là điều Đức Kitô dậy.
Nhà lãnh đạo không yên tâm trong vị thế của mình thì còn giờ đâu làm việc tốt cho tha nhân, ngoài việc tự lo cho cái ghế của mình đứng vững.
29. Miếng tiếng - Lm. Vũ Đình Tường
Miếng và tiếng không mấy khi sống đời độc thân. Người ta luôn tìm cách cho chúng kết hôn. Đủ miếng ăn rồi, cần phải có chút danh phận với đời. Miếng và danh thứ nào đến trước cũng được miễn là chúng chung đôi. Có miếng mà thiếu tiếng không mấy ai hài lòng. Chính vì thế khi ăn uống không còn là mối lo, người ta kiếm danh. Có kẻ hám danh, thèm tiếng đến độ nhịn ăn, dành tiền, mua sắm, chưng diện, mong có tiếng.
Hám danh là nguyên nhân của nhiều sự tội, đầu mối của tranh chấp, bất hoà. Mọi tai tiếng đều bởi đó sinh ra. Có danh phận vẫn chưa xong, còn phải học cách ăn uống, sinh hoạt xã hội hợp với danh phận. Mấy ai vào đường ăn chơi tránh khỏi truỵ lạc.
Kẻ thực tài, sống chân thành phát triển tài năng Chúa ban. Không mong danh, danh vẫn đến và danh tồn tại lâu dài. Kẻ hám danh, nếu có cũng chỉ vang bóng một thời. Thời vang bóng nhập nhóm có danh phận. Đổi đời. Không bao lâu sau, tiếng vang chìm vào dĩ vãng. Bóng lập loè qua đi. Đời đã lỡ hoá thân, đổi kiếp, giờ mất hết phẩm chất, cả tiếng lẫn miếng. Danh mất, phận không còn. Trở về tình trạng khố rách, áo ôm, tệ hơn thời chưa nổi tiếng. Nhận ra chân lí, khi đời đã tàn, sức đã kiệt.
Tai tiếng
Tư tưởng muốn được lừng danh, muốn được mọi người biết đến nảy sinh khi có của ăn, của để. Đã không tạ ơn Chúa, thương người nghèo. Trái lại mong lột xác, chào tạm biệt giai cấp trước. Học làm trưởng giả, tập làm sang bằng cách dán vào mình nhiều nhãn hiệu mới. Thay đổi nhãn hiệu bên ngoài thì dễ; xoá nhoà thực chất bên trong mới khó. Xưa có tình trạng mua quan, bán tước. Nay, mấy ai bán danh tiếng. Giả như có cũng chỉ mua được ‘tiếng hám danh’, không mua được tiếng tốt.
Để có tiếng, phải đeo sắt đá. Làm đẹp cho xã hội hay tự nhận sống đời lệ thuộc. Hám danh lệ thuộc miệng lưỡi thiên hạ. Vui khi được khen. Buồn bực khi bị bình phẩm. Cũng từ miệng đến tai, nhưng là miệng thiên hạ, tai mình. Rõ khổ. Đã mất của lại thiếu tự do. Không sống cho mình, vì mình. Sống vui nhờ lời khen.
Vòng danh lợi
Xã hội hưởng thụ ca tụng kẻ biết cách phơi bày sắc đẹp. Lanh lẹ, lợi khẩu để nổi danh, bất kể, lành mạnh hay sa đoạ. Thành công trên thương trường, sáng tác nghệ thuật, nổi tiếng nhờ khám phá khoa học, kĩ thuật vẫn đi sau làn son, lớp phấn. Thời buổi nhung lụa, son phấn dẫn đầu. Thành tài nhờ lươn lẹo cũng là một cách, miễn sao qua mặt được luật pháp. Có trường sở dậy cách mau thành công, chóng nổi tiếng. Đời sống đạo, đức hạnh, việc lành, bác ái bị coi là thứ yếu. Các tông đồ của Chúa cũng không bị gạt khỏi cái vòng danh lợi. Đi theo Thầy các ông không sợ đói khát. Không phải lo miếng ăn, các ông manh nha tìm chút tiếng tăm.
Đường lối Chúa
Dọc dường các ông tranh biện với nhau ai sẽ là người nổi tiếng hơn ai.
Về đến nơi Đức Kitô hỏi dọc đường các ông tranh luận gì sôi nổi thế?
Các ông nhìn nhau, mắc cở, thẹn thùng không dám nói.
Hám danh còn biết mắc cở vẫn còn thuốc chữa. Đức Kitô dậy. Đường lối Chúa là chọn sống khiêm nhường. Hạ mình xuống phục vụ. Muốn làm đầu hãy học làm bề tôi trước. Muốn được phục vụ thì hãy đi phục vụ. Hãy trở nên giống như Ngài trong lời nói, hành động. Ngài mong các môn đệ bắt chước, thực hành, sống khiêm nhường, không phải một ngày mà mọi ngày trong đời.
Nguyên nhân
Hám danh, ham của vì nội tâm trống rỗng. Một tâm hồn trống rỗng, nghèo đói giá trị tinh thần. Không sai lầm nào nguy hại hơn là chọn lối sống ảo vọng, theo hình, bắt bóng. Danh lợi, vật chất không thoả mãn cơn đói tâm linh. Đời trống vắng vì giá trị đời người nương nhờ vào vật chất. Vật đổi, sao dời đời hụt hẫng. Dùng Lời Chúa nuôi dưỡng tâm linh. Dựa vào Bí Tích, các nhân đức là sống khôn ngoan trong Chúa.
Chúa ban cho mỗi người, từ lúc tạo dựng, một giá trị cao quí, độc nhất vô nhị. Kẻ danh chính ngôn thuận đâu cần đeo vào mình đá quí, kim cương, cẩm thạch mà vẫn nổi danh. Vấn đề là biết phát triển tài năng Chúa ban, bắt chúng sinh hoa, kết trái. Làm giầu đời sống thiêng liêng bằng thực hành bác ái, yêu thương. Chính những giá trị chân truyền này mang lại niềm vui thật, niềm vui nội tâm, lâu bền; cần chi đến niềm vui giả tạo tiếng đời ban cho.
Gặp gỡ Đức Kitô
Bình an thật, niềm hoan lạc vững bền phát xuất từ tâm tình phục vụ với lòng yêu mến. Kẻ sống khiêm nhường an thân vì không ai tranh sống khiêm nhường. Trái lại tiếng và miếng có lắm kẻ giành, nhiều người giật. Ngày đêm sống bất an. Lúc nào cũng sợ mất tiếng và miếng.
Nghèo tinh thần nên nương nhờ vật chất. Dùng tiền của che đậy cái nghèo nội tâm. Dùng quyền lực che đậy thế đứng bấp bênh. Nhờ nịnh nọt, tâng bốc mong khoả lấp khát khao tình yêu thật. Đeo đuổi lợi danh là chọn sống đời lục bình. Sống nhờ biết nương sóng, đón gió.
Gặp gỡ Đức Kitô để được biến đổi, được thánh hoá, được trở nên tốt lành. Muốn được em nhỏ đón nhận hãy trở nên giống, đơn sơ như em. Hiểu em, cảm thông với em sẽ được em cảm thông, đón nhận.
Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là đón tiếp Thầy; và ai đón tiếp Thầy thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy. (Mc 9,37)
30. Lãnh đạo là người phục vụ -- Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Tin mừng Mc 9: 30-37: Trang Tin mừng Chúa nhật hôm nay đánh dấu một giai đoạn quan trọng. Chúa Giêsu rời vùng đất phía Bắc tiến về Giêrusalem, nơi đó thập giá đang đợi chờ Người...
Trang Tin mừng Chúa nhật hôm nay đánh dấu một giai đoạn quan trọng.Chúa Giêsu rời vùng đất phía Bắc tiến về Giêrusalem, nơi đó thập giá đang đợi chờ Người.
Trên hành trình đó đã ba lần Chúa mạc khải cho các môn đệ biết: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người và Người bị giết chết, rồi sau ba ngày Người sẽ sống lại” (x. Mc 8,31-10,34). “Các môn đệ không hiểu và cũng không dám hỏi lại” (Mc 9, 32).Họ đang sôi nổi tranh luận về vương quốc mà Thầy sẽ thiết lập. Ai là thượng thư, ai là bộ trưởng trong vương quốc ấy!Thầy đang hướng về thập giá, khổ nạn. Các môn đệ lại tranh cải xem ai được quyền cao chức trọng hơn cả (x. Lc 22, 24-27; Mc 10,35-40).Chúa đã phải đau lòng biết bao!
Vì thế, để sửa dạy uốn nắn lối suy nghĩ các môn đệ,Chúa hỏi: “Dọc đường anh em bàn tán điều gì vậy?”.Chúa hỏi là ‘bàn tán’ cho nó nhẹ nhàng thôi, chứ thực ra Chúa biết các môn đệ vừa cãi nhau nảy lửa.Các ông im lặng vì xấu hổ về những gì đang tranh luận.Rồi Chúa dạy cho các môn đệ bài học, người lớn nhất là người khiêm tốn phục vụ anh em.
1. Nền văn minh mới
Chúa Giêsu “ngồi xuống và gọi các môn đệ tới”. Một Rabbi dạy bảo học trò, hay tuyên bố một điều gì quan trọng thì luôn luôn ở tư thế ngồi để giảng dạy. Chúa ngồi xuống thư thái và dạy rằng: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết và làm người phục vụ mọi người”. Bằng hình ảnh cụ thể, Chúa đem một em bé đặt giữa các học trò, ôm lấy nó và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”. Lời dạy của Chúa Giêsu thật dễ hiểu mà thật khó thực hành.”Yêu thương phục vụ” là môn học khó nhất nhưng lại là môn học phổ thông nhất. Môn học này người môn đệ phải học cả đời mà không có ngày ra trường, học tới chết mà vẫn chưa xong.
Người lớn nhất, người đứng đầu là người phục vụ hết mình.Chức tước, chức vụ, chức vị, chức quyền chỉ là phương tiện để phục vụ.Ai sống tinh thần phục vụ đó là người lớn nhất. Ai không biết phục vụ thì là người nhỏ nhất. Giá trị của một con người không do địa vị chức tước mà tuỳ vào khả năng phục vụ và mức độ hữu ích của người đó. Chúa Giêsu mở ra một nền văn minh mới.Người lớn nhất không dùng quyền để lãnh đạo, nhưng dùng khả năng để phục vụ. Người lớn nhất không dùng sức mạnh để chỉ huy, nhưng dùng tráitim để yêu thương.
2. Lãnh đạo là người có uy tín
Người lãnh đạo phải là người có uy.Đó là uy tín và uy quyền.Thông thường, người lãnh đạo tự khẳng định được uy tín thì tự nhiên có uy quyền một cách thực thụ nhờ niềm tin của lòng dân.Khi lãnh đạo phải dùng uy quyền thay cho uy tín thì họ tự tạo ra nguyên cớ của sự xung đột.
Dân chúng nể trọng uy tín của người lãnh đạo nhưng họ lại sợ uy quyền.Uy quyền, cường quyền càng dấn lên tới mức cao thì sinh ra thói độc đoán chuyên quyền dẫn đến độc tài.Khi người lãnh đạo đã mất hết uy tín, lẽ ra nên tự biết mà từ chức thì còn vớt vát được chút danh dự. Nhưng khi đã không còn uy tín mà lại gia tăng uy quyền thì chỉ có hại cho xã hội, căng thẳng cho cộng đồng, họ trở thành lố bịch và làm trò cười cho thiên hạ.
Không ai có thể tự vỗ ngực là “ta uy tín nhất”, bởi vì uy tín của cá nhân nằm trong lòng người khác, tùy thuộc sự ghi nhận và đánh giá của cộng đồng xã hội một cách khách quan.Uy tínphải được minh chứng qua quan điểm, tư tưởng, động cơ làm việc, đạo đức, lối sống và chất lượng thực hiện chức trách, nhiệm vụ. Có những người có chức cao quyền trọng nhưng khi làm việc cụ thể và trong cuộc sống chẳng có uy tín gì, chỉ để lại sự trách cứ, chê cười, đàm tiếu. Có uy tín, tự khắc có uy quyền, một uy quyền tự thân, không phải thứ uy quyền lên gân. Không có uy tín, nhưng vì muốn thể hiện uy quyền nên thường gây hậu họa, làm hỏng cho công việc chung và tác hại khôn lường đối với xã hội và đất nước khi người này thuộc tầng lớp lãnh đạo ở tầm vĩ mô.Trên thực tế không ít người, khicó quyền thì đụng chút việc là dùng quyền uy, hống hách, quan liêu, mệnh lệnh.
Người thích uy quyền thường dùng quyền hành và quyền lực, kể cả quyền lực của đồng tiền.Họ sẽ đưa ra những khả năng đe dọa, mua chuộc như thăng giáng chức tước, lên lương, bố trí, sắp xếp chỗ này, vị trí kia, vừa câu móc, vừa hăm dọa hay cô lập đối tượng khi không “tranh thủ” được. Nếu ai đó làm phật lòng trái ý, hoặc có nguy cơ làm ảnh hưởng uy quyền thì sẽ bị trù úm, bày kế, lậpmưu kỷ luật hay ép đương sự xin chuyển đổi công tác hay về “hưu non”.
Người dùng uy lực đồng tiền thường đi kèm lòng tham, tính toán cánhân vị kỷ, vơ vét và thu vén. Cho nên, những kẻ bất tài, vô dụng, thất đức có đủ thứ thủ đoạn, mánh khóe để khi đã nắm được quyền thì dùng uy quyền trấn áp thiên hạ, “cả vú lấp miệng em”, kéo bè, kết vây cánh...hình thành nhóm lợi ích. Từ tuyển dụng, bổ nhiệm, giao chức cũng chọn trong những người thân trong gia đình, dòng tộc, huyết thống, cùng mục đích, cùng động cơ, cùng mặt bằng “quan trí”, cốt sao thế lực của mình ngày càng được cũng cố và khuynh loát. Sự cố tình tâng bốc nhau, bao che, tung hứng cho nhau, hùa nhau lập mưu kế phạm pháp, tìm mọi mánh khóe, thủ đoạn đục khoét của công, thu lợi bất chính cũng từ đó mà ra.
Khi đã không đủ uy tín mà phải dùng uy quyền đến mức độc đoán, chuyên quyền, người ta sẵn sàng trừ khử, sát phạt, làm hại người khác có đối trọng (kể cả đồng chí, bạn hữu, người thân), mua bán chức quyền, dùng đủ mánh lới tinh vi để giữ ghế, tiến thân, che lấp khuyết điểm, tích lũy của cải bất minh, vùi dập chân lý, phủ nhận lẽ phải một cách khôn lanh và rất ma mãnh!
Thế nhưng, như người đời đã đúc kết: “Uy tín trường tồn, uy quyền đoản vị” - người có uy tín sẽ để lại tiếng thơm lâu dài, người khônguy tín mà thích dùng uy quyền thay cho uy tín chỉ được nhất thời, gây thù chuốc oán, tự làm mất hậu phúc, có chăng chỉ được một vài việc trước mắt, không thểcó sức bền. Cho nên, làm lãnh đạo cần nâng cao uy tín, phải thu phục được nhân tâm, không nên lộng hành, lạm dụng uy quyền để tự đề cao cá nhân, quên cả lợi ích quốc gia, dân tộc, quên nhân dân, chỉ biết vun xén cho cá nhân, gia đình và nhóm lợi ích gây hậu quả khôn lường cho đất nước và nhân dân. (x. buivanbong.blogspot.com).
3. Lãnh đạo là người phục vụ
Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ con đường trở nên lớn lao thật sự. Đó là con đường phục vụ. Con đường phục vụ thay thế cho tham vọng thống trị. Giúp đỡ tha nhân thay cho tham vọng bắt người khác phục vụ chính mình.Chức quyền là để phục vụ lợi ích của mọi người.Địa vị chỉ là sự phân công hợp lý.Mỗi người một việc vì lợi ích của tập thể.
Để làm gương cho các môn đệ,Chúa Giêsu đã tự hạ mình: “không phải để được phục vụ mà đếnđể phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc nhiều người” (Mt 20,25-28).Là Thầy nhưng Người đã tự nguyện phục vụ môn đệ. Là lãnh đạo nhưng Người sẵn sàng hiến mạng sống “để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Tinh thần phục vụ của Chúa Giêsu được thể hiện rõ nét nhất trong cử chỉ rửa chân “Nếu Thầy là Chúa mà còn rửa chân cho anh em thì anh em phải rửa chân cho nhau”. (Ga 13,14-15). “Ta ở giữa các con như một người phục vụ” (Lc 22,27).Phục vụ lên đến tuyệt đỉnh trong hành vi tự hiến “không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga 15,13).
Quyền bính và phục vụ gắn liền với nhau làm nên bản chất người môn đệ Chúa Giêsu.Người lãnh đạo theo gương Chúa Giêsu là người có tâm, có tầm, có đức và có tài để phục vụ tha nhân theo tinh thầnđức ái mục tử.Mục tửrao giảng chân lý và dám sống chân lý ấy cho dù phải hy sinh tính mạng.
Thánh Phêrô đã thấm nhuần lời dạy của Thầy Chí Thánh nên sau này ngài viết những lời tâm huyết cho các mục tử: “Cùng các bậc kỳ mục trong anh em, tôi xin có mấy lời khuyên nhủ, vì tôi cũng thuộc hàng kỳ mục, lại là chứng nhân những đau khổ của Đức Kitô và được dự phần vinh quang sắp tỏ hiện trong tương lai. Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi ích thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt tình tận tụy. Đừng lấy quyền mà thống trị những người mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên” (1 Pr 5,1-4).Thánh Phêrôcũng khuyên các tín hữu: “Ơn riêng của Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. Ai có nói, thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban.” (1Pr 4, 8-11).
Quyền bính đòi chiếm hữu và kiểm soát.Nhưngtrong Giáo hội,quyền bính được xây trên nền tảng tình yêu Chúa. Chính vì thế, Chúa Giêsu mới cần Phêrô xác quyết tới ba lần: “Thầy biết con yêu mến Thầy.” (Ga 21,15-17). Quyền bính được xây dựng trên tình yêu nên người mục tử luôn khiêm tốn phục vụ tha nhân.
Lời dạy của Chúa Giêsu đưa nhân loại đi vào nền văn minh của tình thương.Và kể từ đó, hàng triệu vị Thánh được tôn vinh như là những chứng từ sống động cho hình ảnh “Người lớn nhất” trong nền văn minh mới của Tin Mừng. Mẹ Têrêxa Calcutta trở thành vĩ nhân của thời đại bằng con đường yêu thương và phục vụ người nghèo. Phục vụ luôn gắnliền với yêu thương.Thánh Augustinô nhận định: Trong đời sống người kitô hữu, có một cuộc chiến đấu giữa hai thứ tình yêu: yêu Thiên Chúa cho đến từ bỏ bản thân mình và yêu bản thân cho đến nỗi chối bỏ Thiên Chúa.
Người thành công nhất là người phục vụ cho đồng loại nhiều nhất.Một vĩ nhân không hệ tại ở địa vị xã hội của người ấy mà là sự cống hiến cuộc đời cho sự phát triển của nhân loại. Giáo hội tuyên phong một người lên bậc hiển thánh chung quy cũng là tuyên dương tinh thần phục vụ của người ấy vì Nước Chúa. Phục vụ để trở nên phong phú, có giá trị, nên hoàn thiện và trở nên gần Chúa Giêsu hơn.
“Nghệ thuật làm lớn” của Chúa Giêsu chính là khiêm tốn phục vụ.Người thật sự cao cả là người dâng đời mình cho lợi ích của cộng đoàn.Thiên Chúa đã tự liên đới với người nhỏ bé, nghèo hèn, không đáng kể nhất. Phục vụ một người không đáng kể nhất cũng là phục vụ chính Thiên Chúa. Con đường tự hạ, làm người bé nhỏ và phục vụ anh em là con đường để trở nên vĩ đại, trở nên người lớn nhất trước mặt Chúa.
31. Đời tôi tiến bước như một con lừa
(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào)
Nhà văn Bossuet đã viết: “Ai trong chúng ta không có thói tự kiêu, người đó là thượng đế”. Câu nói của nhà văn ngụ ý rằng, tự bản chất con người chúng ta ai cũng có cái tôi ích kỷ, thích được người khác nể trọng và thán phục. Trong xã hội ngày nay, chúng ta thấy nhan nhản những khẩu hiệu, như “ Cán bộ là đầy tớ của nhân dân” hoặc sống “Yêu thương để phục vụ”... nhưng trong thực tế, nhiều khi đó chỉ là những khẩu hiệu lý thuyết, và lắm lúc những khẩu hiệu xem ra đao to búa lớn ấy chỉ là những sáo ngữ rỗng tuếch. Tuy nhiên, nếu can đảm và thẳng thắn nhìn lại cách sống của chính chúng ta là các Kitô hữu, đặc biệt nơi các anh em linh mục, chúng ta sẽ thấy rất rõ cái tôi của mình, qua cung cách trịch thượng hoặc qua lối hành xử hách dịch mà chúng ta rất hay biểu tỏ ra bên ngoài.
Lời Chúa hôm nay nhắc lại cho chúng ta tiêu chí căn bản để trở nên môn đệ Đức Giêsu: “Ai muốn làm đầu phải làm người rốt hết, và làm kẻ phục vụ mọi người” (Mc 9,35). Khiêm tốn để phục vụ là bài học căn bản mà chúng ta phải học, học mãi, học cho tới suốt đời, để sao chép lại cách sống của chính Đức Giêsu như Ngài đã từng nói: “Anh em hãy học nơi tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11, 29).
Khiêm nhường, khởi đầu của mọi nhân đức.
Thánh Tôma Aquinô diễn tả có vẻ hơi cường điệu. Ngài nói: “Khi chúng ta chết đi, cái tôi của chúng ta sau 15 phút mới chết hẳn”. Cái tôi ích kỷ và kiêu căng vẫn luôn đeo bám dai dẳng nơi tất cả mọi người. Tội đứng đầu trong bảy mối tội chính là tính kiêu ngạo. Đây chính là tội đầu tiên đã du nhập vào trần gian, và đó cũng là tội mà Thiên Chúa ghét bỏ nhất. Adam đã sa ngã vì kiêu ngạo muốn trở nên ngang bằng với Thiên Chúa. Tháp Babel cũng là biểu tượng của sự kiêu căng khi con người muốn nổi loạn chống lại Thiên Chúa. Luxiphe là một thiên thần biến chất cũng chỉ vì quá tự phụ. Quả thật, khuynh hướng kiêu ngạo đã ăn sâu nơi bản tính con người, và trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta luôn phải đấu tranh liên lỉ để vượt thắng. Trong thư gửi giáo đoàn Rôma, thánh Phaolô đã viết: “Vì một người duy nhất đã không vâng phục Thiên Chúa mà muôn người trở nên tội nhân” (Rm 5, 19). Con người đó chính là Adam. Tội Adam hay gọi là tội nguyên tổ, khởi đầu của các giống tội, chính là kiêu ngạo và bất tuân. Tính kiêu ngạo đã ăn sâu vào bản tính nhân loại nơi chúng ta.
Có một câu ngạn ngữ tây phương đã viết: “Cái tôi thì đáng ghét” (le moi est haissable). Ai trong chúng ta cũng biết điều này, nhưng không phải giản đơn nếu chúng ta muốn khuất phục cái tôi đáng ghét đó. Thánh Phêrô cũng khuyên dạy các tín hữu: “Anh em hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho ai khiêm nhường. Vậy anh em hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa (1P 5,5-6). Quả thật, khiêm nhường chính là cửa ngõ dẫn đưa chúng ta đi vào sự thánh thiện, bởi vì khiêm nhường chính là mẹ sản sinh các nhân đức khác (tư tưởng của Tennyson).
Khiêm nhường: linh đạo Thập giá.
Sự khiêm nhường mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta trong bài Tin mừng hôm nay không chỉ đơn thuần là một đức tính nhân bản, nhưng đây chính là linh đạo Thập giá. Đó là con đường trọn lành mà Đức Giêsu đã gợi mở để mời gọi chúng ta dấn bước vào: “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình vác thập giá mình mà theo” (Mc 8,34).
Hai ngàn năm trước, Đức Giêsu đã đến trần gian để thực hiện sứ mạng cứu thế. Ngài đã khởi đầu cuộc hành trình tại máng cỏ Bêlem và kết thúc sứ mạng nơi đỉnh cao Thập giá. Bêlem và Golgôtha là hai thông số của một thực tại duy nhất: Tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. Để diễn bày tình yêu, Thiên Chúa cao cả đã tự nguyện mang lấy kiếp người hèn hạ. Một Thiên Chúa đầy uy quyền và dũng lực lại ẩn dấu trong dáng dấp của một bé thơ mỏng manh và yếu ớt. Một đứa trẻ mới sinh ra chưa có thể làm được điều gì. Nó cần đến vòng tay che chở của cha, cần những giọt sữa yêu thương của mẹ để được lớn lên. Trẻ Giêsu còn cần đến cả những hơi thở của những con bò con lừa giữa đêm khuya lạnh giá. Vì thế, trong bài Tin mừng hôm nay, để nói về sự khiêm tốn, Chúa mượn lại hình ảnh của một đứa bé như một chuẩn mẫu: “Ai tiếp đón một em bé như em này vì danh thầy, là tiếp đón chính thầy” (c.37). Một đứa trẻ trong xã hội Do thái khi xưa hoàn toàn không có một giá trị gì về mặt xã hội. Nhưng Đức Giêsu luôn yêu quý trẻ thơ. Ngài còn đề cao các em nhỏ và mời gọi các môn đệ phải nên giống trẻ thơ.” Thầy bảo thật anh em, nếu anh em không trở nên như trẻ thơ, thì sẽ chẳng được vào nước trời. Vậy ai tự hạ và nên như trẻ nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất trong nước trời” (Mt 18,2-4). Đứa bé còn là hình mẫu về sự nghèo khó mà Chúa nói đến. Một đứa con nít không có vị thế gì trong xã hội. Chúng chẳng bao giờ dám mơ tưởng sẽ làm ông này hay bà nọ. Chúng cũng nghèo xác nghèo xơ, không có tài sản hay tiền bạc trong túi. Tinh thần nghèo khó chính là mối phúc đầu tiên trong tám mối phúc mà Chúa Giêsu đã công bố trong bài giảng trên núi, và đây cũng chính là linh đạo thập giá, đi đôi với sự khiêm tốn nội tâm mà Chúa nói tới trong Tin mừng hôm nay.
Viễn ảnh thập giá xem ra rất mù tối đối với các học trò của Chúa Giêsu. “Con người sẽ bị nộp vào tay người đời. Họ sẽ giết chết Người, và sau ba ngày Người sẽ sống lại”. Thánh Marcô xác nhận: “Các ông không hiểu lời nói đó (Mc 9,32), bởi vì con đường theo Đức Giêsu còn rất nhiều trầy truột và gian nan. Đối diện trước cái chết, Đức Giêsu đã bị người đời chửi rủa, mạt sát, và coi khinh. Ngài vẫn không cự cãi một tiếng, không chống trả một câu. Sự thinh lặng của Ngài không phải là một sự câm nín thụ động, nhưng đó là ngôn ngữ phong phú nhất để dạy chúng ta bài học khiêm tốn. Trong bài đọc thứ nhất, tác giả sách Khôn ngoan cũng phác vẽ trước viễn ảnh Thập giá này: “Ta sẽ hạ nhục nó và tra tấn nó để biết nó hiền hòa làm sao, và để xem nó nhẫn nhục tới mức nào. Nào ta sẽ kết án cho nó chết một cách nhục nhã” (Kn 2, 19-20). Mầu nhiệm Thập giá hàm ngậm sự tự hủy luôn luôn là một thách đố đối với các học trò của Chúa Giêsu năm xưa cũng như đối với mọi người chúng ta hôm nay. Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Philip cũng vạch dẫn con đường này, và Ngài mời gọi chúng ta nhìn vào linh đạo Thập giá như là khung căn bản định hình sự khiêm tốn nội tâm: “Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên Thập tự (Phil 2, 6-8).
Vì vậy, sự khiêm tốn không chỉ đơn thuần là một đức tính nhân bản, nhưng chính là linh đạo Thập giá. Chúng ta học sống khiêm nhường không phải theo gương của vị vĩ nhân này hay lối sống của nhà hiền triết nọ, nhưng chúng ta được mời gọi nhìn vào chính Đức Giêsu chịu đóng đinh để sao chép lại lối sống và tiếp bước dấu chân của Ngài. “Anh em hãy học nơi tôi, vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.
Đời tôi tiến bước như một con lừa.
Đây là tựa đề một quyển sách Đức Hồng y Etchegarey đã viết khi suy tư về hành trình ơn gọi của mình. Ngài vay mượn hình tượng một con lừa để mô tả. Người đời vẫn thường nói: “Ngu như bò và dốt như lừa”. Nhưng bò và lừa lại là hai vị thượng khách được ưu tuyển để đến cung chiêm Vua Trời đất khi Ngài mới hạ sinh. Đức Hồng y cũng mượn lại hình ảnh con lừa chở Chúa tiến vào Giêrusalem để nói về hành trình ơn gọi của Ngài. Người dân hai bên đường vỗ tay reo hò, trải áo và cầm cành lá trên tay để nghinh đón. Con lừa vẫn không vênh mặt lên để tự mãn, vì những lời tung hô đó dành cho Chúa chứ không phải cho nó. Nó mãi mãi cũng chỉ là một con lừa mà thôi. Đường vào Giêrusalem đầy sỏi đá làm chân nó đau nhức, nó vẫn không một lời kêu than. Con lừa vẫn cứ âm thầm lặng lẽ mang Chúa trên vai, và tiến bước một cách ngoan thuần. Nó khiêm tốn bước đi để Chúa hướng dẫn, và suốt đời nó mãi mãi vẫn chỉ là một con lừa mà thôi. Cuộc hành trình ơn gọi của mỗi người chúng ta cũng phải giống như vậy. “Đời tôi tiến bước như một con lừa” chính là như thế. Thái độ căn bản chúng ta cần phải có là khiêm tốn để Đức Giêsu hướng dẫn đời mình. Chính Đức Giêsu đã nêu gương cho chúng ta, như Ngài đã thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, này con xin đến để thi hành thánh ý Cha”. Khi đi vào trần gian, Ngài đã đến “ không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến ban mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người” (Mt 20,28).
Chủ nghĩa ‘cha chú’ (paternalism)
Thánh Phanxicô Assisi là gương mẫu cho chúng ta về tinh thần khiêm tốn và nếp sống khó nghèo. Ông Stalin, một lãnh tụ vô thần, cho dù không tin vào Thiên Chúa, nhưng khi đọc tiểu sử của thánh nhân đã thốt lên: “Nếu tôi có trong tay 10 người như Phanxicô, tôi sẽ làm thay đổi cả bộ mặt thế giới”. Con người chúng ta ít nhiều ai cũng có bệnh sỹ diện, thích phô trương cái tôi của mình. Căn bệnh trầm kha này không phải chỉ có nơi giáo dân, nơi các ông trương ông trùm, nhưng có ngay cả nơi các anh em linh mục. Một Cha già đã chia sẻ rằng, khi các linh mục được mọi người kính trọng và gọi bằng cha, rất dễ quên đi ơn gọi làm con nơi mình. Ngài nói tiếp “Nhiều cha lại cứ thích ‘chơi cha’ thiên hạ, qua lối hành xử trịch thượng và hống hách, thậm chí còn dùng tòa giảng để chửi bới giáo dân. Đó là lối sống theo chủ nghĩa cha chú (paternalism) mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã kết án rất mạnh mẽ khi Ngài nói với giáo triều Rôma dịp Noel năm ngoái (ngày 22/12/2014). Điều nhận xét trên không phải mang tính cách vơ đũa cả nắm, nhưng rất cần thiết cho mọi người, nhất là các anh em linh mục, để chúng ta biết can đảm và thẳng thắn nhìn lại chính mình khi thi hành tính năng mục tử.
Kết luận: Tôi tớ của các tôi tớ
Sau hết, chúng ta hãy nhìn lên Đức Maria như là khuôn mẫu nội tâm để chúng ta học nơi Ngài bài học khiêm nhu. Mẹ vẫn luôn coi mình chỉ là “tôi tớ” của Thiên Chúa. Bí quyết duy nhất của Đức Maria khi thực hành sự khiêm tốn và vâng phục là luôn thưa lời “xin vâng”, tuyệt đối để Thiên Chúa hướng dẫn đời mình. Mẹ đã cảm nghiệm rất sâu lắngsự khiêm tốn ấy khi cất lên bài ca Magnificat: “Chúa hạ bệ những kẻ kiêu căng, Người nâng dậy những ai khiêm nhu”. Bắt chước Đức Maria, người nữ tỳ (serva) của Thiên Chúa, Đức Thánh Cha Gioan 23 và Đức Phaolô đệ lục khi chuẩn nhận các văn kiện công đồng Vatican II luôn luôn đặt bút ký tên của mình với hàng chữ “ servus servorum” (tôi tớ của các tôi tớ). Còn các Kitô hữu, cách riêng các anh em linh mục, chúng ta đã hành xử và thực thi quyền bính được trao phó cho chúng ta, “những tôi tớ của các tôi tớ” như thế nào?
32. Ai tiếp đón một em nhỏ
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Aylan Kurdi, em bé trai 3 tuổi bị chết đuối dạt vào bờ biển Thổ Nhĩ Kỳ và đã được chôn ở Kobane, Syria ngày thứ năm 4 tháng 9/2015. Mẹ và anh trai của em cũng được chôn cùng ngày. Đức Giám mục de Dinechin viết: “Các hình ảnh của em bé đã gợi lên nỗi thương cảm sâu đậm. Anh trai 5 tuổi, mẹ của hai em và 11 người khác đã bị chết trong vụ đắm thuyền này”. Ngài cũng nhắc lại, “nỗi xúc động này cũng là nỗi xúc động khi nghe tin hàng ngàn người chết trên đường đi tìm một thế giới tốt hơn.” “Tháng 7, 2013 khi nghe tin thảm kịch đắm tàu ở Lampedusa, Ý, Đức Phanxicô đã đến đây “để thức tỉnh lương tâm chúng ta, để những việc tương tự như thế sẽ không xảy ra nữa. Nhưng ngày hôm nay sự việc này lại xảy ra…”, Đức Giám mục nhấn mạnh.
Ngài nói tiếp: “Chúng ta biết việc này rất phức tạp vì các quốc gia có quyền và có bổn phận điều hợp làn sóng di dân ở xứ họ. Tuy nhiên trong lần đọc diễn văn trước Nghị viện Âu Châu tháng 11-2014, Đức Phanxicô nhắc Hội đồng Âu Châu phải “giúp đỡ và đón nhận” người di dân chui tràn đến biên giới họ. Phải có thêm phương tiện, phải có những hành động mới để vượt lên tính ích kỷ và nỗi sợ đang trải rộng ra trên bình diện Âu Châu.” Vì thế Hội đồng Giám mục Pháp có nhiệm vụ nhắc “tất cả các người Công giáo có thiện tâm phải giúp đỡ và mở lòng ra với người anh em để con đường đi đến một nơi có đời sống tốt hơn không dẫn họ đến cõi chết.”
Theo Đức Giám mục de Dinechin, “hình ảnh của em Aylan làm cho chúng ta có ý thức hơn về thảm kịch mà người di dân đang sống” và “Chúa nói với chúng ta qua các biến cố này để thức tỉnh lương tâm chúng ta. Trong lời cầu nguyện, chúng ta phải tìm ra ý nghĩa này.” Ngài cũng cho biết vào chúa nhật 6 tháng 9, nhiều nhà thờ Công giáo sẽ cầu nguyện. Biến cố buồn thảm này cho thấy “tính ích kỷ, mong manh và hỗn loạn của xã hội chúng ta,” ngài hy vọng đây là biến cố sẽ làm cho tâm thức cá nhân cũng như tập thể sẽ giật mình. “Chính việc tiếp đón người yếu đuối nhất, những người di dân, những người nghèo nhất sẽ cứu xã hội chúng ta,” ngài nhấn mạnh.
Đức Giám mục Jean-Michel Di Falco, địa phận Gap đã công bố một bản tin nói mình đã cảm thấy “nhục” khi nhìn bức hình của em bé Aylan nằm chết trên bãi biển và khi thấy phản ứng của “báo chí Pháp, ngược với báo chí Âu Châu, đã phớt lờ tấm hình này.” Đức Giám mục Di Falco phẫn nộ, ngài nói mình cảm thấy nhục khi phải “hét lên tiếng kêu này, để không đồng lõa với sự im lặng nặng nề này” và “thế hệ này đã từ chối không thừa nhận rằng, châu lục chúng ta hôm nay đang gặt những gì mình đã gieo hôm qua!” (Các Giám mục Pháp hy vọng cái chết của em Aylan sẽ thức tỉnh lương tâm chúng ta, la-croix.com, Jos Nguyễn Tùng Lâm dịch)
Trong Tin Mừng Thánh Máccô hôm nay, Đức Giêsu phán dạy: “Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.” Nhưng ngày nay, thiên hạ đang mãi nhẫn tâm quay lưng với Thiên Chúa, với tha nhân, với những người di dân khốn khó, mới xảy ra những cái chết thảm thương, như cậu bé Aylan Kurdi chết đuối nằm trên bờ biển Bordun, Thổ Nhĩ Kỳ. Nhờ bùng nổ hình ảnh xót xa của bé Aylan trên truyền thông, một dấu chỉ thời đại, lương tâm người dân Âu Châu mới được thêm dịp thức tỉnh.
Ngoài việc yêu thương, quan tâm, giúp đỡ trẻ thơ, đón nhận, cưu mang người khốn khổ, di dân, hôm nay Đức Giêsu còn giảng dạy về nhân cách người Kitô hữu trước địa vị, chức tước, phẩm trật.
Khiêm hạ
“Dọc đàng các con tranh luận gì thế?” Trên đường đi, các môn đệ chí chóe cãi nhau, kịch liệt tranh ngôi giành chức, sỗ sàng ngay sau lưng Đức Giêsu. Người lẳng lặng, lắng nghe, biết hết, nhưng làm bộ tảng lờ như chẳng biết gì cả, mới điềm tĩnh hỏi lại các ông, một khi đã vào nhà trọ ở Capharnaum. Các ông mắc cở, “làm thinh, vì dọc đàng các ông tranh luận xem ai là người lớn nhất.”
Bất cứ ai cũng có một chỗ đứng trong đời. Là con cháu, cha mẹ, ông bà, lính tráng, công chức, nhân viên, quản đốc, giám đốc, quan chức, lãnh đạo,… tất cả đều có địa vị, đều đáng chấp nhận và tôn trọng. Nhưng thiên hạ thường tự tôn, tự cao, tự đại muốn thống trị người khác. Đức Giêsu không đả kích, tẩy chay, phế bỏ chức vị, Người kêu gọi canh tân ý thức bổn phận, trách nhiệm liên đới.
Trong gia đình và xã hội, đều có những địa vị cụ thể do Thiên Chúa an bài, sắp đặt. Ngài đã chuyển giao cho mỗi người một hay nhiều địa vị tùy nơi, tùy lúc và tùy hoàn cảnh. Khi bà vợ ông Giêbêđê, thân mẫu hai ông Giacôbê và Gioan đến cầu cạnh cho hai con mình, được đứng bên tả và đứng bên hữu, Đức Giêsu thẳng tay lắc đầu từ chối, vì đó là quyền năng Thiên Chúa ấn định, ban cho mỗi người.(Mt 20, 20-23)Nếu cứlàm tròn bổn phận và trách nhiệm, thì địa vị nào cũng đều xứng đáng, quý hóa và trân trọng.
Chu toàn bổn phận, chính là sống theo Thánh Ý Chúa trong phút giây hiện tại. (Đường Hy Vọng, số 17) Bởi vì địa vị do chính Thiên Chúa trao ban, nên chấp nhận và chu đáo bổn phận, cũng chính là phục tùng, làm theo ý muốn của Ngài. “Chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời, mới được vào (Nước Trời) mà thôi.” (Mt 7, 21).
Như thế, đối với Thiên Chúa, chẳng có địa vị nào cao hay thấp, sang hèn, mà chỉ có bổn phận chu đáo hay bất toàn mà thôi. Chỉ có hai thái độ hoàn toàn đối nghịch, một là khả ái “Xin Vâng” như Mẹ Maria, hai là bất hiếu, kiêu ngạo theo Satan. Người có địa vị cao mà ngạo nghễ thì sẽ bị Chúa hạ xuống. Người có địa vị thấp mà chấp nhận, khiêm hạ thì lại được nâng lên. “Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, đập tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.” (Magnificat)
Yêu thương
Trên đỉnh cao quyền lực, những nhà lãnh đạo độc tài luôn bị ám ảnh bởi sự truất phế, hạ bệ, ám sát, trả thù. Ngày đêm khối óc, tâm hồn luôn căng thẳng, nhìn đâu cũng lo lắng, sợ hãi cạm bẫy, nhìn ai cũng nghi ngờ ngấm ngầm phản bội, nên sẵn sàng thẳng tay đàn áp dã man bất kỳ ai có ý đồ chống đối, tỏ vẻ thiếu tôn trọng. Quyền lực và tham vọng đã cầm tù, trói chặt vị hôn quân trong tháp ngà vinh quang, chịu bế tắc không thể nào thoát ra.
Nay Đức Giêsu đến giải thoát cho những ai toan tính làm thủ lãnh, mà không muốn bị cầm tù bới chính mình: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết.” Vậy muốn được thong dong, an nhiên tự tại, người cầm đầu cần ẩn mình đi, tự nguyện đứng sau mọi người, bỏ đi tánh kiêu ngạo, không coi mình tài giỏi như thần thánh, cũng chẳng miệt thị thiên hạ hèn kém như rác rưởi.
Nếu gột bỏ được thái độ vị kỷ, kiêu căng, tự cao, tự mãn, ngạo mạn, vênh váo, hỗn hào, láo xược, thì con người mới có khả năng nhận biết được cuộc đời còn nhiều éo le, mới biết rung động con tim, cảm thông tình người, nhân hậu, khi nhìn đến tha nhân, không còn kỳ thị, không phân biệt địa vị cao thấp, kẻ sang hèn, giầu nghèo, no đói, khỏe mạnh hay bệnh hoạn, thảy mọi người đều được niềm nở tiếp đón, an ủi, chia sẻ và giúp đỡ. Nhân ái, nhân hòa chính là biểu tượng của tình yêu. Thánh Augustin khuyên nhủ: “Hãy yêu đi rồi làm gì thì làm”(ama et fac quod vis). Tình yêu chính là thần dược chữa lành và hóa giải giai cấp bất đồng, bất bình đẳng. Đến với nhau bằng tình yêu mới có thể thật sự hòa hợp và hiệp nhất.
Chẳng còn xa cách trên dưới, chẳng còn khinh khi, ghét bỏ, mà chỉ còn đồng cảm, chan hòa tình bằng hữu, chỉ còn duy nhất nợ nhau tình yêu, mà yêu thương là đã chu toàn Lề Luật, theo như Thánh Phaolô dạy: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân, tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật… Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy.” (Rm 13, 8-10)
Phục vụ
Để minh họa cụ thể sự khiêm hạ, yêu thương và phục vụ của người lãnh đạo, Đức Giêsu ôm một cháu bé vào lòng, triển khai giáo huấn kỹ hơn, sâu sắc hơn nữa: “Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.”
Trẻ thơ thuở ấy ở Israel bị coi là tầm thường nhất, khinh rẻ nhất, thế mà Đức Giêsu lại đề cao như chính Người. Vì Người muốn mọi người ở bất kể địa vị nào, cũng đều cần quan tâm, bao bọc lấy những thân phận bé nhỏ, yếu đuối, không có khả năng đáp nghĩa, đền ơn. Đón tiếp và phục vụ vô tư, vô vị lợi những người nhỏ mọn đó chính là tiếp đón Thiên Chúa.
Bởi trẻ em chẳng có gì đáp lại ngoài tình yêu trong sáng, hồn nhiên, nhân chi sơ tánh bổn thiện, nên người lớn, người quyền cao chức trọng chẳng lợi dụng được gì ngoài tánh bổn thiện đó. Tuy vậy, muốn đón nhận được trẻ thơ, thì đòi hỏi người ta phải tự cải hóa, tái sinh, trẻ hóa, trở nên trong trắng, ôn hòa, bao dung, nhu mì, nhân ái như trẻ thơ. Chính là điều mà Đức Giêsu từng luôn mời gọi con người cải biến: “Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.” (Mt 18, 3)
Điều quan trọng cuối cùng dành cho ai muốn lãnh đạo, đó là phục vụ. “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người.” Khiêm nhường, trở nên trẻ thơ và yêu người mà thôi thì chưa đủ, mà còn phải thành người đầy tớ phục vụ tất cả những ai bần cùng, đau khổ, côi cút, đau yếu, cô đơn,.. Biến tình yêu thành hành động cụ thể. Nếu không chỉ là môi mép, giả mạo và lừa đảo mà thôi. Chính Đức Giêsu đã làm tấm gương phục vụ sáng chói. “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người.”(Mt 20, 28)
Đức Giêsu yêu thương con người bằng cách vâng theo Thánh Ý Đức Chúa Cha, xuống thế làm người, phục vụ rao giảng, chịu nạn, chịu chết và sống lại, để giải thoát con người khỏi vong thân, được tự do khỏi nô lệ xác thịt, thế gian, khỏi xiềng xích cám dỗ; nhất là giải phóng khỏi cái chết muôn đời. Vậy người lãnh đạo càng cần theo gương Đức Giêsu, tích cực yêu thương và phục vụ tha nhân, để làm chứng nhân, làm gương sáng cho mọi người: “Thưa anh em, anh em được gọi để hưởng tự do. Có điều là đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt, nhưng hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau.” (Gl 13, 13)
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin tri ân, cảm tạ và ngợi khen Chúa, đã ban cho chúng con mỗi người một địa vị, dù cao hay thấp trong đời. Hết thảy đều rất tốt đẹp, giá trị, đạo đức và hữu ích với tha nhân, khi được Chúa thương xót giải thoát chúng con, cất đi những tham vọng vị kỷ, cao vọng bất nhân, ảo vọng tự đắc, tự mãn, ngay trong tâm tư, hành động và lời nói của chúng con.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy chúng con ở bất cứ địa vị, chức tước nào, cũng đều cố gắng noi gương Mẹ, sống khiêm nhường, nhân từ, chân tình yêu thương và dấn thân phục vụ mọi lúc, mọi nơi những người bé nhỏ, tầm thường, đau khổ và khốn khó. Amen.
33. Suy niệm của Lm. Anfonso
Tin mừng Mc 9: 30-37: Chúa Giêsu còn minh họa rõ nét và ý nghĩa hơn cho lời dạy của Người bằng cử chỉ đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy đứa bé và nói: "Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy. Và ai tiếp đón Thầy thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”...
Suy niệm:
Đối với thế giới loài vật cũng như xã hội loài người, tính tự nhiên của quy luật sinh tồn khiến phần tử nào cũng muốn chiếm được vị trí hàng đầu để có được sự kính nể, uy tín, danh dự và quyền lợi. Vị trí ấy nhiều lúc được chiếm bằng luật rừng, nơi quyền lực thuộc về tay kẻ mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé.
Thêm nữa, cũng chính vì thấy mình thua thiệt kẻ khác, hay thấy người khác hơn mình về một số phương diện mà sinh ra đố kỵ, mưu toan tìm cách hạ bệ, tranh giành quyền lực với nhau. Đó cũng là điều mà thánh Giacôbê Tông đồ trong bài đọc II đã cảnh báo: “Ở đâu có ganh tị và cãi vã, ở đó có hỗn độn và đủ thứ tệ đoan”.
Sự tham vọng và tánh ganh tỵ cũng không tránh khỏi nơi người môn đệ Chúa Giêsu. Trong trang Tin mừng hôm nay, thánh sử Marcô cho biết là đang khi đi đường, các môn đệ đã tranh cãi với nhau xem ai là người lớn nhất. Chúng ta có thể tưởng tượng ra khung cảnh cuộc tranh luận ấy: Phêrô thì nghĩ mình chiếm vị trí nhất vì được Chúa đặt là tông đồ trưởng; Gioan tự hào mình là người được Chúa yêu mến nhất; Anrê thì cho rằng mình mới đúng vì là người môn đệ mà Gioan Tiền Hô giới thiệu cho Chúa; còn Giacôbê cho rằng mình có lợi thế vì là bà con thân thiết; Philipphê thì bảo ông quan trọng vì khi thấy nhóm người đông đảo kéo đến nghe Chúa giảng đến quên ăn uống, Chúa đã nhờ ông tư vấn để xem mua đâu ra bánh cho họ ăn; Bartôlômêô lại cho rằng Chúa quan tâm tới ông khi ông còn ngồi ở dưới gốc cây vả nữa là; Matthêu thì nghĩ mình mới đúng vì mình bỏ hết sự nghiệp để theo Chúa ngay, còn Giuđa Iscariot lại vỗ ngực rằng mình quan trọng vì được Chúa tin tưởng giao cho giữ túi tiền; và các môn đệ khác nữa cũng không ngoại lệ...
Vì thế, khi Chúa Giêsu hỏi tới cuộc tranh luận của họ thì họ làm thinh vì cảm thấy xấu hổ. Họ không dám thú nhận là đang lo tranh giành địa vị trong lúc Thầy mình đang tiến về Giêrusalem để chịu khổ giá trong khiêm hạ. Chúa Giêsu biết điều họ đang bận tâm chứ, nhưng “có gì trong nhà từ từ dạy nhau”. Người đợi khi về tới nhà rồi mới chỉ dạy cách riêng. Vì các môn đệ chính là nhân tố, nền móng cho cộng đoàn Kitô hữu sơ khai, nên Người huấn dụ cho họ luật lệ giúp sống cộng đoàn với nhau.
Tính phân biệt sang-hèn, bà con-người ngoài, giáo sĩ-giáo dân, công chính-tội lỗi... đều không xứng hợp với những người lãnh đạo. Cho nên, Chúa Giêsu đã đảo ngược khuynh hướng tự nhiên của con người. Trình thuật cho thấy Chúa Giêsu muốn các môn đệ khắt cốt ghi tâm với lời dạy của Người, qua cử chỉ Người ngồi xuống, gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: "Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người". Chúa Giêsu không ngăn cản người ta làm lớn. Cần có những người nắm giữ địa để điều hành trong cơ cấu Giáo hội và xã hội. Nhưng Người đã đề nghị với họ giải pháp mới cho người muốn làm môn đệ Chúa: đó là người lãnh đạo tự nguyện làm đầy tớ phục vụ mọi người.
Nhà chú giải J. Hervieux giải thích: Chúa lấy 'người rốt hết' đối chọi với 'người đứng đầu', lấy 'người đầy tớ mọi người' đối chọi với 'người cai quản'. Điều nghịch lý này có nghĩa rõ nhất khi nhìn vào cuộc đời Chúa Giêsu, Đấng Thánh thiện cao cả đã tự đặt mình vào chỗ rốt hết để phục vụ mọi người, Người sẵn sàng làm một tôi tớ, cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Vâng, nếu người bị trị làm cuộc cách mạng trở thành kẻ thống trị chỉ để đổi chủ mà thôi và chẳng giúp cho xã hội văn minh phát triển, thì nhiều khi lại trở thành nỗi ám ảnh cho những người sống trong xã hội, cộng đoàn ấy. Kinh nghiệm lịch sử nhân loại nơi này nơi kia trên thế giới đã minh chứng điều đó.
Vì thế, Chúa Giêsu còn minh họa rõ nét và ý nghĩa hơn cho lời dạy của Người bằng cử chỉ đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy đứa bé và nói: "Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy. Và ai tiếp đón Thầy thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”. Trẻ em thường bị xem là người bé mọn, yếu ớt cả về thân xác lẫn địa vị, tiếng nói chẳng có giá trị, lại không có khả năng tự vệ, có khi còn bị người ta loại bỏ bất kể phạm pháp như sát hại ngay khi còn trong bào thai. Vì thế thật phúc cho người làm lãnh đạo, đứng đầu mà lại sống khiêm nhường, phục vụ, sống đơn sơ hiền hòa như thiếu nhi, sẵn sàng đón nhận lời góp ý. Khiêm nhường không phải là yếu đuối hay mặc cảm tự ti. Người khiêm nhường biết mình là ai, trách nhiệm mình ở đâu, và khi được nhờ đứng ra lãnh đạo thì cũng sẵn sàng với tinh thần phục vụ. Nhờ tập sống khiêm nhường, chúng ta sẽ tránh được mối tội đầu là kiêu ngạo, tự xem mình hơn kẻ khác, ganh ghét gièm pha khi thấy người khác hơn mình, vì ý thức tất cả những gì mình có đều đến từ Thiên Chúa.
Lạy Chúa, con chỉ tìm được sự bình an và hạnh phúc thực sự khi biết sống khiêm tốn, phục vụ tha nhân cách vô vị lợi. Nhưng nhân đức Kitô giáo này lại là một nghịch lý trong xã hội, nơi mà người ta luôn muốn thể hiện bằng quyền lực. Xin Chúa giúp con can đảm để dấn thân không mệt mỏi trong việc phục vụ anh chị em, vì người mạnh chính là người đỡ người khác trên vai mình chứ không phải là người giẫm đạp trên vai kẻ khác để đứng lên. Amen.
34. Người lớn hơn cả là ai?
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Thời gian gần đây tôi thường hay phải đi bệnh viện. Những ngày sống trong đó, như bao bệnh nhân khác, tôi đúng là yếu đuối và hoàn toàn lệ thuộc vào sự giúp đỡ của các điều dưỡng, y tá, bác sĩ và những người thân phục vụ… Dưới con mắt của xã hội bệnh viện, tôi đột nhiên biến thành một người rốt hết và yếu hèn nhất. Chính trong bối cảnh đó, cuộc cãi vã giữa các môn đệ khi đi đường ‘xem ai là người lớn hơn cả’, cùng với các ý tưởng Đức Giêsu đã dùng để giải trình vấn nạn đó, đã chiếu một luồng sáng rất mới và rất Tin Mừng vào suy nghĩ của tôi về, thế nào là giá trị đích thực của kiếp sống con người, không những của con người nhân loại mà còn cả của chính Thiên Chúa nữa.
Khi Đức Giêsu cố gắng giải thích cho các môn đệ hiểu rằng, sự vĩ đại đích thực của Thiên Chúa chính là lúc ‘Con Người bị nộp vào tay người đời…’, các ông đã không tài nào nắm bắt được. Cái lô-gích này là hoàn toàn vô lý; làm sao sự khôn ngoan của một Đức Chúa vĩ đại và cao cả lại có thể biểu lộ qua sự thấp hèn và yếu đuối được? Nghịch lý lớn tới độ các môn đệ đâm ra hoảng sợ ‘không dám hỏi lại Người’, và cũng không dám, không muốn tin rằng điều đó thực sự có thể xảy ra (xem Mt 16:21-23). Kitô hữu chúng ta ngày nay cũng thế! Ngay cả khi đã biết tường tận về biến cố Thập Giá và Phục Sinh, chúng ta vẫn luôn có khuynh hướng tách hai biến cố này rời khỏi nhau. Thập giá thường được coi chỉ là giai đoạn tạm bợ để Đức Kitô có thể đạt tới vinh quang đích thực; và vinh quang này chỉ có khi Người sống lại và lên trời vinh hiển. Ngược hẳn với quan niệm đó, khi đề cập tới giờ tử nạn sắp xảy ra, Đức Giêsu đã có suy nghĩ hoàn toàn khác; Người gọi đó chính là thời điểm (Kairos) mà Con Người được tôn vinh; “Giờ đây Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người” (Ga 13:31-32). Như vậy, theo Đức Giêsu, chính trong cái chết thập giá nhuốc khổ mà Thiên Chúa tỏ lộ vinh quang vĩ đại nhất của mình, vinh quang của một thứ tình yêu tự hiến và xót thương; Phục Sinh chỉ là dấu ấn của vinh quang đó, chứ không phải là cùng đích của nó. Có lẽ chính vì thế mà, khi tường thuật về các biến cố phục sinh, cả bốn sách Tin Mừng đã không hề có một lời mô tả nào về Đức Kitô sống lại (kể cả việc Người lên trời vinh hiển, như chúng ta quen nói) như một nhân vật vinh quang khải hoàn đầy uy quyền thống trị.
Vì không vào được tư tưởng của Đức Giêsu nên mà ít ai trong chúng ta có thể hiểu ra rằng, người ‘đứng đầu’ hay ‘làm lớn nhất’ lại phải chính là người ‘rốt hết’, là người cúi mình xuống ‘phục vụ’. Để dễ chập nhận cách lô-gích hơn, chúng ta thường lập luận như sau: để được làm lớn, trước hết ta phải cam lòng phục vụ mọi người, đó là lối sử thế khôn ngoan phổ biến mà dân gian gọi là ‘chịu đấm ăn sôi’, hay ‘luồn cúi cầu vinh’. Chắc hẳn Đức Giêsu đã không suy nghĩ theo thói khôn ngoan người đời như thế (‘cam lòng chịu chết’ ‘Per Crucem ad Lucem’ như chúng ta vẫn quen nói). Tông đồ Phao-lô, một khi đã hiểu biết được phần nào Đức Kitô, đã phải lên tiếng giải thích điều nghịch lý này như sau: “Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1 Cr 1:25). Ông khảng định, khi Đức Giêsu tuyên bố: ‘người đứng đầu phải là kẻ rốt hết, người lớn nhất phải là kẻ phục vụ’, Người đang đưa ra một định luật tuyệt đối cách mạng. Đây không thể là một lý luận tầm thường, mà chính là mạc khải về giá trị đích thực của Thiên Chúa trước hết, rồi sau đó của mỗi môn đệ Kitô chúng ta theo chuẩn mực Tin Mừng.
Rồi khi Đức Giêsu ‘đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó…’ người không chỉ đơn thuần có ý khuyên các môn đệ hãy phục vụ trẻ nhỏ, hạng người được coi là rốt hết trong xã hội Do Thái. Tác giả Mát-thêu trong đoạn song hành đã cho thấy, hàm ý của Người còn thâm sâu hơn nhiều; “Thưa Thầy, ai là người lớn nhất trong Nước Trời? Đức Giêsu liền gọi một em nhỏ đến, đặt vào giữa các ông, và bảo: Thầy bảo thật anh em, nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Tròi… Ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy là kẻ lớn nhất Nước Trời” (Mt 18:1-4). Vậy thì ai phục vụ một trẻ nhỏ hay một kẻ nghèo hèn thì không chỉ phục vụ một Đức Kitô uy quyền tạm ẩn dấu dưới hình hài hèn hạ, mà là phục vụ một Đức Kitô thực sự vinh quang trong sự bé nhỏ, nghèo hèn và tự hủy. Qua việc phục vụ đó, họ đang tham dự vào sự vĩ đại cao sang nhất của Thiên Chúa xót thương và tự hiến; vì đối với một Thiên Chúa cứu độ và tự hiến thì vinh quang lớn nhất chính là lúc Người trở nên rốt hết và cúi xuống phục vụ mọi người.
Trong bài ca Ngợi Khen (Magnificat), đức Ma-ri-a một khi nhìn nhận phận hèn của mình thì đồng thời cũng khám phá ra sự cao cả vĩ đại vô song của kiếp sống mình. Mẹ là người đầu tiên đã nhận thức được, sự cao cả của Thiên Chúa luôn đối nghịch với những gì là ‘biểu dương sức mạnh, quyền thế, giầu có…’, và gần gũi hơn với những gì là ‘khiêm nhu, nghèo đói, thấp kém…’ Lý do duy nhất được đưa ra là, chỉ vì Người là đấng giầu lòng xót thương (Lc 1:46-55). Phao-lô cũng nhìn nhận sức mạnh của mình nằm trong chính sự yếu đuối mình cảm nghiệm, “Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”, tới độ ông còn vui mừng khi phát hiện ra rằng mình yếu đuối, “tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi” (2 Cr 12:9-10). Khi các ngài khảng định như vậy chắc hẳn phải dựa trên một nguyên lý hiện sinh vững chắc lắm, chứ không chỉ trên một thái độ khiêm cung nhất thời.
Là linh mục của Chúa Kitô Thập Giá, mỗi lần cử hành Thánh Lễ, tôi luôn được nhắc nhở rằng, Thiên Chúa là Đấng cao sang và vĩ đại nhất chính vì Người đã cúi xuống, tự hủy và trở nên rốt hết! Tư tưởng này phải là định hướng cho toàn bộ đời sống thiêng liêng và họat động mục vụ của tôi.
Lạy Thiên Chúa bé nhỏ và mọn hèn! Chỉ khi nào nghiệm thấy được lòng nhân ái và dịu hiền của Chúa, con mới thấu hiểu được thế nào là vĩ đại và vinh quang đích thực, và cũng chỉ khi đó con mới có thể khảng định rằng, mình đã thực sự hiểu biết về Thiên Chúa. Xin cảm tạ Chúa đã ban cho con ơn gọi Kitô hữu để con có thể khám phá ra sự khôn ngoan này. Xin cho con tiếp tục tiến bước trên con đường Tin Mừng phong phú dường bao, khác xa với lối sống tự nhiên của loài người, kể cả những người tốt lành thánh thiện nhất. Amen.
35. Phục vụ trong khiêm tốn
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Khi Chân Phước Mẹ Têrêxa Calcutta đoạt giải Nobel hòa bình, ai ai cũng chạy đến chúc mừng. Có một nhà báo đến phỏng vấn Mẹ. Ông ta hỏi rằng: “Bây giờ Mẹ đã có đầy đủ tiền bạc, danh dự, Mẹ muốn làm gì nữa không? Mẹ trả lời: I am a little pencil in my God, tôi chỉ là cây bút chì nhỏ bé trong tay Thiên Chúa”. Vâng, ở đời có ít người như Mẹ Têrêxa Calcutta, người ta thường nói “được voi đòi tiên”, cho nên một khi đã thành đạt, thì tỏ ra người có chức, tỏ vẻ uy quyền, khoe danh, ăn trên ngồi trốc để người ta thấy mà “lé mắt, kính nể”. Vì thế người đời thường tranh dành, chiến tranh, ganh đua… để có được những thứ đó. Nói đâu xa, thánh Giacôbê trong bài đọc hai nói rằng: “Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em? Chẳng phải là bởi chính những khoái lạc của anh em đang gây chiến trong con người anh em đó sao? Thật vậy, anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét cũng chẳng được gì, nên anh em xung đột với nhau, gây chiến với nhau” (Gc 4,1-2).
Bài Tin Mừng thuật lại các môn đệ của Chúa Giêsu cãi nhau chí chóe vì tranh dành địa vị, quyền lợi và muốn làm lớn đến nỗi chẳng màn chi đến lời mời gọi của Chúa Giêsu: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. Vì được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì người ta nào có lợi gì?” (Mc 8,34-36). Con đường thập giá đó chính là khiêm nhường phục vụ trong yêu thương, quên mình, coi mình không là gì hết. Chân Phước Mẹ Têrêxa Calculta làm nhiều điều đến nỗi cả thế giới nghiên mình kính phục ấy thế mà Mẹ chỉ coi mình là cây bút chì nhỏ bé, tức là loại cây bút các em, hay các ông thợ mộc dùng hết còn có chút chun, bỏ đi cũng chẳng tiếc!
Chính Chúa Giêsu là Ngôi Hai Thiên Chúa, là Chúa đã khiêm tốn tự hạ mình trước. Là Thiên Chúa, nhưng Người đã tự nguyện trở nên người phàm. Là Đấng cầm quyền, nhưng Người đã tự nguyện vâng lời. Là thầy nhưng Người đã tự nguyện phục vụ môn đệ. Là người lãnh đạo, nhưng Đức Giêsu không đòi hỏi đặc quyền đặc lợi, trái lại Người sẵn sàng hiến mạng sống để cứu chuộc nhân loại. Vì vậy, “Người để lại mẫu gương cho chúng ta dõi bước theo, vì Người không hề phạm tội, chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. Bị nguyền rủa Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà không hề ngăm đe, nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công minh” (1Pr 2,21-23).
Ở đời này, ai ai cũng có cao vọng làm lớn, muốn có uy quyền, có tiền… điều đó không sai trái, nhưng chúng ta có được những thứ đó không phải bằng những hành vi giang hồ mà bằng nỗ lực chân chính của mình. Và khi ta có chúng, chúng ta sử dụng chúng đúng với mục tiêu xứng hợp với nhân phẩm của mình, đúng với luật tự nhiên và luật Chúa. Đừng vì chúng mà tranh cãi nhau, xâu xé nhau, đối xử với nhau một cách bất công và tàn nhẫn. Chúa Giêsu không hủy bỏ cao vọng của con người nhưng khẳng định rằng cao vọng không phải là thống trị, đàn áp người khác nhưng là hạ mình phục vụ Chúa và tha nhân. Cho nên, trong bài đọc 2, Thánh Giacôbê dạy: “Đức khôn ngoan Chúa ban làm cho con người trở nên trước là thanh khiết, sau là hiếu hoà, khoan dung, mềm dẻo, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình” (Gc 3,16-17).
Chúa Giêsu hôm nay dạy người lớn nhất, người đứng đầu không phải là người dùng quyền để lãnh đạo chỉ huy từ trên cao, nhưng là người đến trước mọi người và về sau mọi người, để phục vụ. Vì thế, khi phục vụ vô vị lợi, tôi được thực sự lớn lên trước mặt Thiên Chúa, trước mặt anh em. Thế giới hôm nay rất cần những người muốn đứng đầu theo kiểu Đức Giêsu, nghĩa là trong phục vụ khiêm hạ. Cho nên, trong Thư Mục Vụ gửi cộng đồng dân Chúa năm Tân Phúc Âm Hóa Đời Sống Các Giáo Xứ và Các Cộng Đoàn Sống Đời Thánh Hiến, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam mời gọi mọi thành phần trong giáo xứ hay cộng đoàn “Hãy luôn luôn hiệp thông với nhau. Sự hiệp thông trong cộng đoàn được thể hiện qua sự tôn trọng, cộng tác và chia sẻ. Thật vậy, trên nền tảng bí tích Rửa Tội, mọi tín hữu đều bình đẳng với nhau về phẩm giá, cho nên phải tôn trọng lẫn nhau, tránh mọi hình thức phân biệt đối xử. Đồng thời phải cộng tác và chia sẻ với nhau để cùng xây dựng ngôi nhà chung là giáo xứ và thi hành sứ mạng chung là loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Các thành viên Hội đồng Giáo xứ là những cộng sự viên gần gũi của các linh mục trong việc điều hành giáo xứ, vì thế các vị cần hiểu biết về trách nhiệm và quyền hạn của mình, và cộng tác với các linh mục trong tinh thần phục vụ để mang lại kết quả tốt đẹp nhất cho giáo xứ. Tình hiệp thông đó còn được mở rộng ra bên ngoài qua việc cộng tác với mọi người thiện chí để thực hiện những việc đem lại phúc lợi chung” (số 4).
Ước gì, Lời Chúa dạy cung cách sống làm người và làm con Chúa hôm nay, xin cho chúng ta biết quyết tâm sống phục vụ Chúa và tha nhân hết tình, hết mình trong khiêm tốn. Đồng thời biết nhìn ra và dứt bỏ tội ganh ghét, tự cao tự đại để luôn thanh thản, bình an và chan hòa sống với mọi người. Amen.
36. Phục vụ là ơn gọi của người môn đệ Chúa Kitô -- Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
Trên đường đến Capharnaum, Chúa Giêsu đã công khai loan báo cuộc thương khó và phục sinh của Ngài lần thứ 2. Lần này Ngài đi thẳng vào vấn đề chứ không rào đón như lần trước. Thế nhưng trước những lời loan báo ấy, thái độ của các mộ đệ thế nào? Xem ra cả hai lần loan báo của Chúa Giêsu không có tác dụng gì đối với tâm thức của các ông cả, chẳng khác nào “nước đổ đầu vịt”. Theo những gì Tin Mừng thuật lại, ta thấy dường như các ông không hiểu gì hết. Không hiểu, một phần vì các ông không muốn hiểu. Không hiểu, một phần vì các ông vẫn còn bám vào quan niệm về một Đấng Kitô theo kiểu phàm trần.
Mặc dù không hiểu, đúng hơn là “khó hiểu” nhưng các ông lại không dám hỏi. Sống với Thầy gần ba năm rồi, tự dưng hôm nay thấy Thầy “khó gần” quá đỗi. Thế mới hay! Đây cũng là một nghịch lý “khó ưa” nơi các môn đệ. Kỳ thực vì các ông sợ. Sợ điều gì? Sợ hiểu rõ điều các ông không muốn hiểu. Sợ biết rõ sự thật các ông không muốn biết. Và nhất là sợ bị Chúa Giêsu cho “ăn đòn” như thánh Phêrô hôm trước.
Hậu quả là khi khư khư giữ lấy quan niệm về một Đấng Cứu Thế mang tính chính trị, ô-tô-ma-tíc các ông đã sa vào cơn cám dỗ kinh điển của con người: tranh giành địa vị, quyền lực. Trong thâm tâm các ông vẫn luôn nghĩ rằng Chúa Giêsu sẽ làm một cuộc cách mạng lật đổ ách thống trị của Đế Quốc La Mã và tái lập một vương quốc Israel hùng mạnh. Lúc bấy giờ, chắc chắn các ông, chứ không ai khác, sẽ được tân vương Giêsu bổ nhiệm vào 12 chức vụ quan trọng trong điều đình. Vì mang não trạng như thế, nên không lạ gì dọc đường các ông đã “giành ghế” với nhau. Ai sẽ là tể tướng? Ai sẽ là Quân sư? Ai sẽ là Phò mã? v.v... Quả đúng, quyền lực luôn là vấn đề muôn thuở của con người, ngay cả những người đi theo Chúa. Chiến tranh, chia rẽ, xung đột, đau khổ… cũng từ đó mà ra!
Chúa Giêsu đã sửa sai quan niệm và thái độ của các ông ra sao? Chúa Giêsu đã nêu cao tinh thần phục vụ cho các môn đệ của Ngài. Ngài đã, đang và sẽ phục vụ với tư cách là người rốt hết và là người tôi tớ của mọi người: “Ai muốn làm người đứng đầu thì thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9,35); “Nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13,14). Chúa Giêsu muốn các môn đệ học lấy bài học này, bài học mà chính Ngài đã “trả giùm” học phí cho họ bằng cái giá đắt đỏ nhất, là máu châu báu của Ngài trên thập tự. Tuy nhiên, đây cũng là bài học “khó xơi” nhất mà có khi các môn đệ phải vật lộn cả đời mới thấy thấm nghiệm.
Rõ ràng ơn gọi của người môn đệ Chúa Kitô là phục vụ, phục vụ theo gương mẫu của Chúa Kitô. Phục vụ chứ không phải là thống trị, và phục vụ đến độ sẵn sàng hi sinh cả mạng sống mình: “Ta đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hy sinh mạng sống mình làm giá chuộc nhiều người” (Mc 10,45). Ngài còn đồng hoá mình với các trẻ nhỏ, đồng hoá mình với những người bé mọn: “Ai đón tiếp trẻ nhỏ này vì danh Thầy, là đón tiếp chính Thầy” (Mc 9,37).
Tắt một lời, khi ta chỉ lo tìm kiếm địa vị danh vọng và tranh giành quyền lực hơn thua là ta đang sống theo tinh thần thế tục. Ngược lại, khi ta sống tinh thần khiêm nhường phục vụ là ta đang sống ơn gọi làm người môn đệ đích thực của Chúa Kitô.
Có một giai thoại lý thú về bác sĩ Charles Mayo, người thường được nhắc tới với cái biệt hiệu là “bác sĩ giám đốc đánh giày”. Cùng với cha và người em của mình, bác sĩ Charles Mayo đã xây dựng bệnh viện Mayo nổi tiếng trên thế giới tại thành phố Rochester, bang Minnnesota, Hoa Kỳ.
Lần kia, một phái đoàn y khoa được cử đến thăm bệnh viện. Theo truyền thống của bệnh viện, quý khách sẽ để giày trước cửa phòng riêng của mình, và bệnh viện sẽ bố trí nhân viên đến đánh bóng các đôi giày ấy. Tối hôm đó, bác sĩ Charles Mayo làm việc trễ và là người về phòng sau cùng. Ông thấy các đôi giày ở trước các phòng của khách vẫn chưa được nhân viên phụ trách đánh bóng! Có thể họ đã quên làm việc này chăng? Ông liền đi kiếm xi và bản chải, rồi lần lượt đến trước mỗi phòng đánh bóng các đôi giày của khách. Khi nhân viên phụ trách đánh giày hôm đó làm nhiệm vụ lúc nửa đêm, anh rất ngạc nhiên khi thấy vị bác sĩ giám đốc bệnh viện vẫn đang loay hoay đánh những chiếc giày cuối cùng cho các khách quý.
Câu chuyện bác sĩ giám đốc đánh giày này đã trở thành một huyền thoại! Bác sĩ Charles Mayo được ca tụng không những vì có tài chữa bệnh, hay vì những công trình y khoa to lớn đem lại nhiều lợi ích cho nhân loại, mà còn vì đời sống khiêm nhường phục vụ của ông. Ông không nề hà làm bất cứ việc gì phục vụ tha nhân, dù việc ấy không xứng với địa vị của ông.
Chúng ta không biết bác sĩ Charles Mayo có thấm nhuần giáo huấn của Đức Kitô hay không, nhưng những việc phục vụ mà ông đã là đúng theo tinh thần của người môn đệ Đức Kitô: càng làm lớn càng phải phục vụ mọi người.
Phẩm giá của người môn đệ Chúa Kitô không được đo bằng chứ này chức nọ trong Giáo Hội hay xã hội, mà được đo bằng chính phẩm chất của việc phục vụ anh chị em đồng loại. Vậy ta đã sống tinh thần phục vụ thế nào? Thường thì ta vẫn thích sai khiến, thích thống trị kẻ khác hơn là phục tùng và phục vụ, và nếu có phục vụ đi nữa, ta chỉ thích phục vụ những kẻ giàu sang quyền thế, hay những kẻ trên mình. Ít khi ta tự nguyện hạ mình phục vụ những kẻ nghèo khó thấp hèn; trong khi đó Chúa lại dạy rằng khi ta phục vụ những kẻ bé mọn là ta đang phục vụ chính Chúa. Mà được phục vụ chính Chúa thì còn vinh phúc nào bằng! Vậy thử hỏi bao nhiêu lần ta đã đánh mất cái phúc vinh lớn lao này vì đã từ chối phục vụ Chúa trong những người anh em bé mọn?
Lạy Chúa, chắc là nhiều nhiều lắm, con đếm không nổi rồi Chúa ơi!!!
37. Thiên vị – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Sống chung trong một xã hội, con người không tránh khỏi những va chạm, ganh tị và cãi vã. Con người mang tính ích kỷ trong mình và luôn mong muốn được hơn người khác. Người ta bon chen đua đòi hơn thua về mọi khía cạnh cuộc sống cả về tinh thần lẫn thể xác. Tranh dành về quyền thế, địa vị, danh vọng, tiền bạc và về thành quả công ăn việc làm. Điều gì tốt đẹp và có lợi ích cũng có kẻ ham muốn chiếm đoạt. Sách Khôn Ngoan đã cảnh báo: Ta hãy gài bẫy hại tên công chính, vì nó chỉ làm vướng chân ta, nó chống lại các việc ta làm, trách ta vi phạm lề luật, và tố cáo ta không tuân hành lễ giáo (Kn 2, 12). Kẻ sống trong lầm lạc, tự do và bất công thì thù ghét những người công chính và ngay thẳng. Họ ghen tị người khác chỉ vì họ yêu thích lối sống tầm thường theo bản năng.
Nhiều người chạy theo những đòi hỏi tạm thời mau qua chóng hết để thỏa mãn cuộc sống. Họ sống buông thả đi ngược lại với luân thường đạo lý. Họ ghét bỏ những người dám lên tiếng trách cứ hành động sai trái và lầm lạc của họ. Những người sống vô kỷ luật thì không muốn nhắc đến luật lệ vì lương tâm của họ có thể sẽ bị cắn rứt nhức nhối. Họ cũng không muốn ai nhắc bảo điều hơn lẽ thiệt vì có thể sẽ mất đi những hương vị ngọt ngào và dễ dãi của kiểu sống hưởng thụ. Tâm hồn của những kẻ gian ác chứa đầy những mầm mống của thù hận, ghen ghét và hủy hoại. Nếu không biết thức tỉnh, những sự thôi thúc nội tâm của bản năng thú tính sẽ đưa đẩy và kéo lôi con người vào sự dữ. Chúng ta không thể tưởng tuợng sự hung dữ cực kỳ của con người có máu lạnh.
Theo lời dạy của thánh Giacôbê tông đồ: Thật vậy, ở đâu có ghen tương và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa (Giac 3, 16). Trong thế giới, xã hội con người đã trải qua những cuộc tàn phá diệt chủng khủng khiếp ở Đức Quốc, Rwanda và Căm-bốt… Khi cái ác chiếm ngự tâm hồn thì con người giống như những con quái vật. Họ mất đi tính người mà hành động theo thú tính, thực tình mà nói dữ hơn thú dữ. Chúng ta không thể hiểu điều gì đã thôi thúc cháy lửa trong lòng để họ phải hành động dã man như thế. Người ta gọi họ là những người say máu hay khát máu. Khi lương tâm một người bị cuồng say và sa đọa, người đó có thể làm bất cứ điều gì. Sự thiện và sự ác, tình yêu cũng như hận thù, nếu không được khơi dậy, dưỡng nuôi và chăm tưới, nó sẽ lụi tàn. Càng gây hận thù thì lửa hờn ghen báo thù càng mạnh. Chúng ta đừng thêm dầu vào lửa.
Sự ghen tương và tranh quyền đạt lợi đã dẫn đến những cuộc chiến tranh thảm khốc gây nên sự chết chóc, chia ly và phá hủy. Tất cả là do lòng tham sân si của con người. Hai bên thiện ác luôn đối nghịch trong cuộc sống của con người xã hội. Sự ác dữ và sự sai trái có một hấp lực thu hút con người cách mạnh mẽ như nam châm. Tội ác làm chúng ta mê lầm và mù quáng khi xét đoán: Chúng suy tính như vậy thật sai lầm, vì ác độc mà chúng ra mù quáng (Kn 2, 21). Người gian ác chỉ muốn tiêu diệt và phá hủy. Người ác tìm cách giết hại những người công chính. Tác giả sách Khôn Ngoan muốn ám chỉ về Con Thiên Chúa. Như một lời tiên báo Con Người sẽ phải bị kết án và chết cách nào:Nào ta kết án cho nó chết nhục nhã, vì cứ như nó nói, nó sẽ được Thiên Chúa viếng thăm.”(Kn 2, 20).
Chúa Giêsu dám đối diện với sự thật vì chỉ có sự thật mới có thể giải thoát. Chúa đã từ từ mạc khải cho các môn đệ về đường đi lối bước của Chúa. Chúa chọn con đường khởi từ thấp đi lên và con đường chông gai khổ đau để đạt tới vinh quang. Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ một cách rất chân tình:Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại (Mc 9, 31). Đối diện cái chết, thường thì ai cũng tránh né và sợ hãi. Mấy ai dám nói đến sự chết của riêng mình. Vua chúa trần gian tìm mọi cách để bảo vệ sự sống và vương quốc của riêng mình. Họ lo xây dựng và tìm đạt vinh quang qua sự hy sinh của thuộc hạ và toàn dân. Trong khi Chúa Giêsu chọn một con đường khác biệt, con đường thánh giá. Không mấy ai muốn hiến thân đi vào con đường này.
Con đường Chúa đi là con đường đi lên Núi Sọ. Con đường của hiến thân phục vụ và hy sinh mạng sống vì anh chị em. Các tông đồ dù đã đi theo Chúa nhiều ngày, nhiều tháng những vẫn chưa hiểu được ý nghĩa thâm sâu của mầu nhiệm thập giá. Các tông đồ vẫn còn não trạng của con người trần thế tìm đạt vinh quang mau qua chóng hết. Các ngài tranh luận với nhau và tranh dành chỗ đứng trong anh em. Chúa Giêsu mở một đường sống mới: Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người (Mc 9, 35). Làm đầu là để phục vụ. Đây là một tư tưởng hoàn toàn mới lạ đối với các tông đồ và chúng ta. Chúa Giêsu dẫn các tông đồ vào con đường hẹp của thập giá.
Chúa lại chọn con đường khiêm hạ và đau khổ thập giá để đến với nhân loại. Chúa đi con đường khổ hẹp cốt để thuyết phục nhân tâm. Chúa đã hạ mình xuống tận đáy vực thẳm để cảm thông những cùng cực của kiếp người. Chúa dẫn dắt con người vào chính lộ của niềm vui phục vụ và bác ái. Niềm vui tự tại trong tâm hồn. Muốn theo Chúa, chúng ta phải vác thánh giá hằng ngày mà theo. Thánh giá chính là những sự vui buồn và sướng khổ của cuộc sống. Chúng ta vui nhận cuộc sống vô thường này với tất cả ý thức và sự trân qúi. Không có điều gì tốt lành mà chúng ta đã thực hiện mà không sinh ích. Việc tốt sẽ sinh trái tốt. Chấp nhận mọi sự cố xảy đến trong đời với sự bình tâm và thanh thản. Chọn lựa thái độ sống là của chúng ta và không có sự gì có thể làm khó chúng ta.
Thánh Giacôbê khuyên dạy chúng ta hãy có thái độ khôn ngoan: Đức khôn ngoan Chúa ban làm cho con người trở nên trước là thanh khiết, sau là hiếu hoà, khoan dung, mềm dẻo, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình (Giac 3, 17). Hoa trái của sự khôn ngoan là sự hài hòa, tha thứ, bao dung và hợp nhất. Người ta thường nói: Người đầu bạc thì khôn ngoan. Muốn nên hoàn thiện, chúng ta phải kinh qua thử thách như lửa thử vàng, gian nan thử đức. Càng trải nghiệm qua nhiều đau khổ, chúng ta càng có nhiều kinh nghiệm sống và khôn ngoan đối xử. Gian khổ là nấc thang giúp chúng ta bước lên, tiến tới, gạn bỏ đi những lầm lỗi và nết hư tật xấu. Bất cứ nhân đức nào cũng cần phải tu luyện, tập tành và bồi dưỡng hằng ngày.
Chúa Giêsu đã loan báo sự đau khổ, sự chết và sống lại. Chúa đã từng trải tất cả những biến cố đau thương và chết cách nhục nhã trên thánh giá. Từ trên thánh giá nguồn ơn phúc đổ tràn. Chúa tha tội cho mọi người xúc phạm đến Chúa. Chúa mở cửa thiên đàng đón nhận kẻ biết ăn năn hối cải. Chúa giao hòa giữa Thiên Chúa Cha và loài người cùng ban ơn cúu độ cho nhiều người. Thánh giá đã trổ hoa.
Lạy Chúa, Chúa đã đi qua tất cả các chặng đường khổ đau qua sự chết tới sự sống lại. Xin cho chúng con biết kết hợp những sầu khổ vào thánh giá của Chúa, để những khổ đau biến thành những hoa trái của niềm hoan lạc và hạnh phúc muôn đời.
38. Chất người trong tôi - Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
“Ở đâu có ghen tương, tranh chấp, ở đó có hỗn độn và các thứ tệ đoan… Chinh chiến tự đâu? Đấu tranh tự đâu? Nếu không phải là tại các đam mê dục tình hằng làm giặc nơi chi thể anh em đó sao? Anh em ham muốn mà không được, nên anh em giết nhau. Anh em ghen tương mà không được, nên anh em đấu tranh, chinh chiến và cãi vã” (Gc 3:16-4:2).
Lời chất vấn và khiển trách của Thánh Giacôbê tông đồ khiến tôi nghĩ đến một câu chuyện.
Có một chàng thương gia nọ rất sùng đạo; mặc dầu lo làm ăn vất vả nhưng dường như anh ta không bao giờ bỏ việc khấn vái với thần thánh. Gặp phải thời kỳ có cạnh tranh trong công ăn việc làm, anh ta càng khẩn cầu tha thiết hơn. Động lòng trắc ẩn, một hôm thần tiên đâu đó hiện ra với anh và phán: “Thấy nhà ngươi cứ thành tâm cầu xin nên ta không nỡ làm ngơ. Bây giờ hãy cho ta biết ước muốn của ngươi. Điều gì ta cũng ban cho. Đồng thời để tỏ cho thế nhân biết được lòng quảng đại của ta thì hễ thứ gì đã ban cho ngươi thì ta cũng sẽ ban cho tha nhân, đồng nghiệp của ngươi như thế và có khi gấp đôi luôn.”
Nghe thần phán, lòng anh thương gia chuyển từ vui mừng sung sướng qua ưu tư lo buồn. Anh tự nhủ: “Nếu bây giờ mình xin cho được một chiếc xe Lexus thì mấy người bạn, chúng nó sẽ được hai chiếc. Ái dà, không được đâu! Nhưng nếu xin cho được trúng số một triệu thì mấy nhà xung quanh, họ sẽ được tới hai triệu mất. Thế thì không ổn!”
Anh tiếp tục suy nghĩ: “Nếu mình xin cho có vợ đẹp con khôn, thì rồi đồng nghiệp của ta, chúng sẽ có vợ đẹp gấp đôi vợ mình, con khôn và giỏi gấp đôi con mình. Thế thì lại càng không ổn… Đó là chưa nói tới chuyện chúng có tới hai vợ trong khi mình chỉ được một. Trong thời buổi cạnh tranh như thế này thì phải làm sao cho hơn người chứ. Nhưng nếu xin theo kiểu này thì thật là thất sách vô cùng!”
Chàng thương gia đắn đo không biết nên xin cái gì. Sau một hồi lâu ưu tư, anh ta chợt reo lên như vừa tìm thấy điều chi hay lắm. Anh thành kính quì xuống thưa với thần: “Lạy Ngài, xin cho con đui một con mắt.”
Không xin cho được khá giả may mắn vì sợ người khác sẽ được hơn, nhưng lại xin cho bị rủi ro thiệt hại một tí để kẻ khác bị khốn đốn bất hạnh nhiều hơn. Xin cho mình đui một con mắt để người khác bị mù cả hai quả là quá tiểu nhân và quá dã tâm. Một tâm địa xấu xa nhỏ nhen! Thế nhưng nếu thành thật rà soát lại lòng mình thì không chừng cái chất tiểu nhân kia-những so sánh hơn thua, những đố kỵ ghen ghét-cũng đang ẩn nấp đâu đó trong hồn tôi. Để rồi nếu được thành công, may mắn, xinh đẹp… hơn người, thì nó sẽ nằm yên bất động. Còn như kẻ khác trổi vượt, thì chất tiểu tâm và lòng dã nhân kia sẽ bùng lên với những gì là khó chịu và đắng cay. Thế rồi những xung khắc cay chua, những tổn thương tình người, những xúc phạm nhân phẩm cứ từ đó mà phát sinh và lan đi.
Trong Thánh Kinh không thiếu những câu chuyện như trên. Chẳng hạn trường hợp 12 môn đệ thân tín của Chúa Giêsu. Bỏ tất cả mọi sự đi theo Ngài, bất chấp nắng mưa, cực nhọc, túng thiếu. Ăn ở với nhau rất đề huề vui vẻ. Nhưng rồi một ngày kia, một người đàn bà xuất hiện, xin cho hai anh Gioan và Giacôbê được ngồi bên hữu, bên tả Đức Giêsu sau khi Ngài khải hoàn vinh quang.
Thế là sinh chuyện! Kinh Thánh nói rõ: mười môn đệ kia phẫn uất với hai anh em con nhà Zêbêđê. Không biết chiến tranh nóng lạnh giữa các tông đồ đi đến mức độ nào, chỉ biết rằng sau đó, Chúa Giêsu phải can thiệp và dạy cho các ông một bài học của khiêm nhường, quên mình, thí mạng để làm giá chuộc thay cho nhiều người.
Một ví dụ khác là câu chuyện Người Con Hoang Đàng: Một ông chủ có hai con trai. Đứa em thì ăn chơi phung phí, phá tan sản nghiệp gia đình, làm bại hoại gia phong, giao du với quân đàng điếm. Người anh dường như chẳng care, không quan tâm. Nó đi bụi đời, sống chết mặc nó. Đời mình cứ vậy mà êm trôi. Thế nhưng bất ngờ đứa em trở về và được đón tiếp linh đình. Tức thì anh ta lồng lộn lên. Lòng ghen tuông gia tăng khiến anh cắt đứt luôn những quan hệ cha con anh em khi tuyên bố “thằng con của ông.” chứ không phải “đứa em của tôi”. Tình người bị cắt đứt!
Và khi tình người bị cắt đứt thì còn đâu chuyện thương cảm, lắng lo cho nhau khi gặp rủi ro, sa cơ, hay vui mừng chia sẻ với nhau khi gặp may mắn, hạnh phúc.
Nhưng tại sao người ta lại thiếu tình người? Phải chăng vì họ đã không nhận ra tình Chúa-khi vô tình thì cũng dễ vô ơn và vô tâm? Phải chăng người ta không nhận ra chân lý trong Tin Mừng của Đức Kitô: chỉ là người hơn khi tự làm rốt hết và trở nên tôi tớ mọi người.
Thật lạ kỳ! Thói thường, nhân thế hay tìm đến với danh vị, lợi lộc, quyền uy, kết thân với chốn cao sang để mưu cầu ảnh hưởng. Phần Đức Kitô, Ngài lại dạy người ta tìm đến với những ai hèn kém, nghèo khổ, đơn côi, những kẻ mà xét theo khách quan, chỉ biết đón nhận chứ không thể cho đi. Thế nhưng chính khi trao ban cho những người như thế lại là đang tiếp cận với Đức Giêsu và đón nhận chính Ngài. Bởi lẽ “những gì các ngươi làm cho một trong các anh em hèn mọn nhất của Ta, là các ngươi đang làm cho chính mình Ta” (Mt 25:40).
Càng chân thành trao ban cho các “anh em hèn mọn,” tôi càng làm phong phú chất người trong tôi và tăng thêm sức sống cho đời. Giá trị và mức độ của chất người và sức sống đó lại không tùy thuộc vào chất lượng hay số lượng của vật được cho đi, song là tùy thuộc vào thái độ của việc trao ban. “Để vinh Danh Chúa hay hiển danh tôi?” “Để tỏ mình là người quảng đại hay để ‘anh em hèn mọn’ có được cơ may hạnh phúc?” Đó là những câu hỏi mà tôi phải dùng để tự vấn thường xuyên.
Trở nên đầy tớ mọi người, để mang hạnh phúc cho đời, vui trong niềm vui của người, xót cho nỗi đau của đời. Tập sống như thế là tôi đang trở thành môn đệ đích thật của Đức Kitô vậy.
39. Người lớn và trẻ em
(Suy niệm của Lm Anphong Trần Đức Phương)
Có lần trong một cuộc hội thảo với Hội Các Bà Mẹ Công Giáo về vấn đề giáo dục con cái tại Hoa Kỳ, nhiều bà đã tỏ ra lo lắng vì trong xã hội hiện nay, trẻ em thích sống tự lập, thích thoát khỏi sự che chở và giáo dục của cha mẹ; em nào cũng chỉ mong mau đến ngày sinh nhật thứ 18 (18 tuổi), trở thành người lớn để được sống tự do, thoải mái, ngoài sự kiểm soát của cha mẹ!
Thật ra, tâm trạng chung là chúng ta ai cũng muốn làm ‘Người Lớn’, ai cũng muốn là người quan trọng đáng được chú ý hơn người khác. Bài Phúc Âm hôm nay (Matcô 9: 30-37) cho chúng ta thấy đó cũng là tâm trạng của nhóm 12 Tông đồ của Chúa, nên ngay khi Chúa Giêsu báo trước về cuộc khổ nạn của Ngài, thì mấy ông lại tranh luận với nhau về ai là người ‘lớn nhất’ trong nhóm các ông. Nhưng Chúa Giêsu đã để một em nhỏ đứng giữa các ông, chúc lành cho em, rồi dạy các ông bài học phục vụ trong khiêm tốn: “Ai muốn làm ‘người lớn nhất’, thì hãy hạ mình làm ‘người nhỏ nhất’ và phục vụ mọi người!” Theo Phúc Âm của Thánh Matthêu, Chúa Giêsu còn nhấn mạnh: “Nếu anh em không trở nên như trẻ nhỏ, anh em không thể vào được Nước Trời…” (Mt 18, 1-4).
Chính vì “ai cũng muốn làm lớn hơn người khác, mà sinh ra đủ thứ tranh chấp, hỗn độn và đủ thứ tệ đoan…” như Thánh Giacôbê đã nói trong Bài Đọc II hôm nay (Giac 3,16-4,3). Từ đó nảy sinh ra gièm pha, thù hận, làm hại lẫn nhau.
Những tranh chấp này đưa đến chiến tranh, loạn lạc khắp nơi trên thế giới. Trong phạm vi gia đình, cũng vì những ham muốn ‘làm lớn’, mà gây ra những tranh chấp giữa vợ chồng, rồi đưa đến những đổ vỡ rất đáng tiếc trong một số gia đình hiện nay.
Chúa Giêsu khi xuống thế làm người, Ngài đã không sinh xuống trong cảnh vương giả, giầu sang, nhưng đã chọn nơi hèn mọn, khó nghèo là hang bò lừa để sinh ra và Ngài đã lớn lên trong gia đình Nagiaret bần hàn. Hơn nữa, dù là Thiên Chúa thật, Ngài có thể làm cho người chết sống lại, người mù được thấy…, nhưng Ngài đã không dùng quyền lực Thiên Chúa để giải thoát con người, mà là chọn con đường khổ giá (Philiphê 2:6-8). Chính tên trộm bị treo trên thập tự giá cũng đã mỉa mai Ngài: “Nếu ông là con Thiên Chúa, sao không tự mình xuống khỏi thập giá để cứu mình và cứu chúng tôi với!” (Lc 23,39). Đó là những lời lộng ngôn của những kẻ cao ngạo như đoạn Sách Khôn Ngoan (2, 12. 17-20) trong Bài Đọc I hôm nay ghi lại: “Chúng ta hãy kết án cho nó chết cách nhục nhã. Nếu nó thật là Con Thiên Chúa, Chúa sẽ bênh vực nó… Nhưng những kẻ cao ngạo đó đã trở nên mù quáng, không nhận ra thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa!”
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta biết suy gẫm cuộc đời của Chúa từ lúc giáng sinh trong hang đá bò lừa, lớn lên trong gia đình khó nghèo Nagiaret, sống cuộc đời nghèo khổ (“Con cáo có hang, con chim có tổ, Con Người không có chỗ dựa đầu”). Cả cuộc đời chỉ lo rao giảng Phúc Âm tình thương, phục vụ mọi người, và sau cùng là chấp nhận vác Thánh giá và chết khổ nhục trên Thánh giá để chuộc tội nhân loại (Mt 20,28)
Khi cuộc đời của Chúa có ảnh hưởng mạnh trong tâm hồn chúng ta, chúng ta sẽ dễ dàng sống khiêm tốn và hòa hợp yêu thương (Mt 11, 28-29). Chúng ta sẽ chung tay xây dựng được những gia đình đầm ấm, tránh được những đổ vỡ đáng tiếc. Xây dựng được những ‘gia đình hòa bình’ là chúng ta đã đã góp được phần vào việc xây dựng hòa bình thế giới. Vì “sự khôn ngoan từ trời xuống thì trước tiên là trong sạch, ôn hòa, bao dung, mềm dẻo, hướng thiện, đầy lòng nhân từ và hoa quả tốt lành, không xét đoán thiên vị, không giả dối. Hoa quả của công chính được gieo rắc trong bình an cho những ai xây đắp hòa bình.” (Giac 3, 17-18).
Xin Mẹ Maria và các Thánh đã sống cuộc đời đau khổ trần gian, nhưng luôn biết yêu thương và phục vụ, nay đã được hưởng phúc trường sinh trên Nước Hằng Sống, nâng đỡ chúng ta trong cuộc sống hàng ngày. Xin cho chúng ta luôn biết sống khiêm tốn, tôn trọng mọi người, để xây dựng sự an vui, hòa hợp trong gia đình, nơi sở làm và trong mọi môi trường sống hàng ngày của chúng ta. Trong “Năm Linh Mục” này, chúng cũng hãy tiếp tục cầu nguyện cho các Chủ Chăn, các Linh Mục, như những sứ giả tình thương của Chúa, luôn biết noi gương Chúa Giêsu, yêu thương, khiêm tốn và vui vẻ phục vụ mọi người.
40. Suy niệm của Jean-Pierre Camerelain.
“Những Kitô Hữu Này Thật Là Điên”
Ở mọi thời, những chứng nhân đích thực của Thiên Chúa đều bị coi là điên. Người ta đã chế giễu, bách hại, đôi khi giết họ nữa. Chính Chúa Giêsu đã trải qua một kinh nghiệm như thế. Nhưng sự sống đã tuôn trào từ sự điên rồ kia.
Ngày xưa có một cộng đoàn Do Thái thiểu số nhưng sốt sắng. Người ta có khuynh hướng khinh dể cộng đoàn này. Những cách hành xử của họ, niềm tin của họ làm cho thành phố Alexandria nơi họ sống, phải ngạc nhiên. Các thành viên của cộng đoàn này ngưng làm việc ngày thứ bảy, tụ họp lại xung quanh những cuộn giấy cũ được cất giữ cẩn thận từ nhiều thế kỷ, kiêng ăn thịt heo. Để nâng đỡ cộng đoàn này, một trong những thành viên của cộng đoàn đã viết một quyển sách rất hay. Một quyển sách gọi là Khôn Ngoan trong đó tác giả nhắc lại cho những kẻ cùng tôn giáo với mình rằng người công chính bao giờ cũng bị bách hại, nhưng Thiên Chúa chẳng khi nào bỏ rơi họ. Tác giả nhắc lại những vị anh hùng của lịch sử dân tộc đã chịu một số phận như thế. Chính từ quyển sách này mà hôm nay chúng ta đã nghe một đoạn trích. Tại sao những người công chính lại bị kẻ khác bách hại như thế? Bài đọc hai trích thư thánh Giacôbê sẽ trả lời cho chúng ta.
Sự ghen tương muôn thuở.
Có hai con đường cho nhân loại: Con đường dễ dãi, tìm kiếm của cải để thỏa mãn bản năng của mình, và con đường của sự khôn ngoan, chính trực, hòa bình. Bao giờ cũng sẽ có một sự tranh chấp giữa những kẻ chọn con đường này và những kẻ dấn thân vào con đường kia, giữa những kẻ tìm kiếm quyền uy, sở hữu của cải vật chất, và những người sống theo tinh thần hòa bình, khoan dung, thông cảm. Vào thế kỷ thứ I, kỷ nguyên chúng ta (lúc thánh Giacôbê viết thư của người) cũng như cũng như vào thế kỷ thứ nhất trước công nguyên (thời đại của sách Khôn Ngoan), đã có sự tranh chấp này rồi, vậy ta không nên ngạc nhiên khi thấy nó xuất hiện vào thời Chúa Giêsu hoặc cả thời đại chúng ta nữa!
Ông Giêsu này thật là điên!
Chính Chúa Giêsu cũng bị coi là điên. Một người tự xưng là phát ngôn viên của Thiên Chúa và bị các ký lục và biệt phái thù ghét, đã tự cho mình được tự do đối với luật sabat và nhiều tập tục thiết thân đối với những người đạo đức của dân Ngài, điều này không thể chấp nhận được. Chúa Giêsu biết mình bị thù ghét. Lúc đó Ngài bắt đầu nói về những nỗi đau khổ mà Ngài sắp phải chịu về việc Ngài bị các nhà chức trách của dân tộc ruồng bỏ và thậm chí về cái chết của Ngài nữa. Phêrô không thể chấp nhận được những chuyện như thế. Nhưng khi ông trách móc Ngài thì Chúa Giêsu đã vạch mặt Satan là kẻ ẩn nấp trong sự can thiệp của Phêrô. Hơn nữa, Chúa Giêsu còn nói với các môn đệ là chính các ông nữa cũng sẽ phải chịu một số phận như Ngài!
Bước theo Chúa Giêsu trong việc tử đạo của cái thường nhật.
Vác thập giá của mình không chỉ “vào giờ chết” mà thôi nhưng “ngay từ bây giờ”. Trong cái “ngay bây giờ” của những mối tương quan giữa con người với nhau. Không những dấn thân vì chính nghĩa lớn lao như việc cứu rỗi thế giới hoặc phát huy nhân phẩm, nhưng sống hằng ngày với việc mang niềm vui đến cho những kẻ vì đau khổ mà trở nên gắt gỏng với những người chung quanh, nâng đỡ những người thiếu tình yêu thương, giúp những kẻ bị ruồng rẫy, bị bỏ rơi tìm lại được phẩm giá của họ.
Trở thành đầy tớ của những kẻ bé mọn nhất như Chúa Giêsu đã làm dù có nguy cơ sẽ không được những kẻ đương thời hiểu. Làm sao chúng ta có thể là môn đệ Chúa Giêsu nếu chúng ta chỉ đón tiếp những ai suy nghĩ như chúng ta, những kẻ “trong tình trạng hợp lệ”, những kẻ đã thuộc lòng tất cả bộ kinh tin kính hoặc đã tham dự tất cả những buổi họp được yêu cầu để chuẩn bị các bí tích? Chúng ta có hiểu rằng khi đã chấp nhận làm đầy tớ thì phải bỏ đi não trạng làm thầy, dù là thầy dạy suy tư chăng?
Khiêm tốn thật.
Có lẽ đó là khiêm tốn thật. Nhìn nhận rằng dù có đạo từ lâu, thậm chí còn dấn thân trong Giáo Hội nữa, với tất cả lòng thành, ta vẫn còn phải khám phá nơi kẻ bé mọn nhất một cái gì đó phát xuất từ Thiên Chúa. Phải tìm lại cho mình thái độ của đứa trẻ luôn luôn có khả năng ngưỡng mộ trước những con người và sự vật.
Trẻ con ngược hẳn với kẻ chán chường, kẻ biết mọi sự, kẻ đã thấy mọi sự. Trẻ con là kẻ, dù cao niên, vẫn biết thán phục, cởi mở đối với Thánh Linh, Đấng muốn thổi đâu thì thổi và thường gây phiền hà cho chúng ta.
Không phải vô cớ mà Chúa Giêsu đưa một trẻ nhỏ làm gương mẫu cho các tông đồ của Ngài, khi Ngài đòi các ông phải phục vụ theo hình ảnh của trẻ thơ. Ngài muốn các ông trở thành như trẻ nhỏ, có khả năng đón nhận không hậu ý, không nhỏ nhen, không tìm lợi lộc cho riêng mình. Đó là sự cao cả thật sự mà Chúa Giêsu muốn cho những kẻ thuộc về Ngài: sự cao cả của lòng khiêm tốn, sự cao cả của tinh thần phục vụ.
Thánh Phaolô nói: Dù là Con, Chúa Giêsu đã không sợ hạ mình mang thân phận người phàm, Ngài đã khiêm tốn thẳm sâu đến nỗi để cho mình bị kẻ khác ruồng bỏ và chết trên cây thập giá. Tuy nhiên, nhờ vậy mà Ngài đã Phục Sinh và sống muôn đời. Có thể nào khác hơn được đối với các môn đệ của Ngài chăng?
41. Hiểu lầm – Lm Gioan B. M.
Có người du khách kia kể lại rằng vào tờ mờ buổi sáng, khi anh lái xe qua miền rừng núi quanh co ở Pêru thì có một người từ trong rừng chạy ra, đầu đội chiếc mũ đen trùm kín cả mặt, tay cầm vật gì đó vừa vẫy tay vừa hô to. Vì không hiểu tiếng nói, nên anh sợ hết hồn tưởng là tên cướp trong rừng cầm khí giới mò ra kiếm ăn. Khi thấy người ấy chạy nhanh về phía mình. Anh chốt cửa xe, và dọt lẹ tiến lên phía trước. Nhưng ông ta đổi hướng chạy đường tắt đón đường. Anh cố nhấn ga chạy thoát thân thì người đó đã tới gần bên vệ đường, lột mũ ra và tay cầm một con cá lớn, ông ta mới bắt được ở hồ gần đó và muốn bán cho khách qua đường. Nhưng anh lại hiểu lầm cho là tên cướp cầm khí giới ra chặn đường.
Có lẽ, nhiều lần ta cũng hiểu lầm người khác khi ta chỉ nhìn họ theo dáng vẻ bên ngoài, hoặc chỉ nghe qua tai mà không hiểu lời họ muốn nói. Tin Mừng cho thấy nhiều lần các môn đệ cũng đã hiểu lầm lời Chúa Giêsu. Nhiều khi các ông hiểu ngược hẳn lại với những điều Chúa Giêsu muốn dạy. Có lần Chúa bảo các ông hãy coi chừng men bọn Pharisiêu thì các ông lại nghĩ chắc mình quên mang bánh, nhưng Chúa không có ý nói về men trong bánh mà Ngài có ý nói về cách sống giả hình, cách giữ đạo vụ vào hình thức của người Pharisiêu và Ngài lên tiếng cảnh giác các ông đừng để mình bị sa lầy vào lối sống ấy. Tin Mừng theo thánh Marcô hôm nay tường thuật việc Chúa Giêsu đã
tiên báo cho các môn đệ Ngài: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta, họ sẽ giết Ngài và ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại” (Mc 9,31). Mặc dầu đã nghe Chúa nói nhiều lần nhưng các ông vẫn còn chưa hiểu. Ngài lại dạy: “Ai muốn làm đầu thì phải làm đầy tớ, ai muôn làm lớn thì phải là kẻ rốt hết” (Mc 9: 31) thì đâu các ông đã hiểu được ý nghĩa. Vì thế khi đi đường các ông đã tranh luận xem ai là kẻ cả trong nước Ngài thiết lập, và tranh nhau cho được địa vị đó.
Nếu kiểm điểm cuộc sống của mỗi người, nhiều lần ta cũng đã hiểu lầm Chúa Giêsu và hiểu sai lời Ngài. Mặc dầu là Kitô hữu, là người đã theo Chúa, chắc gì mấy ai đã hiểu được lời Chúa dạy trên đây. Chúa còn quả quyết: “Ai bỏ mọi sự mà theo Thầy thì sẽ được gấp trăm ở đời này và được sống đời đời” (Mt 19: 29). Nhiều khi ta cũng hiểu lầm Chúa như các môn đệ xưa. Ta tưởng đã theo Chúa thì mình phải được quyền ưu tiên trong mọi sự. Ưu tiên trước mặt Chúa, xin gì Chúa cũng phải cho, phải chiều theo ý của ta. Ưu tiên trước người đời, phải được mọi người nể vì, tôn trọng, phải được hưởng cuộc sống vật chất thoải mái, phải được các người hữu trách ưu đãi, mà nếu không được như ý là thôi Chúa, thôi nhà thờ luôn. Như thế là ta theo Chúa như kiểu đi đạo lấy gạo mà ăn. Đó là sự hiểu lầm tai hại.
Nhưng vì đâu lại có sự hiểu lầm? Hiển nhiên người du khách trên đã hiểu lầm người lương thiện vì thiếu hai yếu tố:
1/ Yếu tố thứ nhất là tại thiếu ánh sáng, vì trời chưa sáng tỏ, còn lờ mờ nên không nhìn thấy rõ, tay ông ta cầm con cá mà anh tưởng là khí giới.
2/ Yếu tố thứ hai là thiếu chuẩn bị ngôn ngữ, không học tiếng Pêru, nên không hiểu tiếng nói, do đó, ông ta càng gọi to nói lớn thì anh càng sợ.
Khi ta không hiểu Chúa hay hiểu lầm Chúa ít nhất cũng tại thiếu hai yếu tố:
1/ Yếu tố thứ nhất là tại thiếu ánh sáng của Chúa Thánh Thần soi sáng. Chúa Giêsu đã nói với các Tông đồ: “Đấng Bảo Trợ là Thần Chân Lý Cha sai đến Ngài sẽ dạy cho các con mọi điều và làm cho các con nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với các con” (Jn 14: 26). Và qủa thực, sau ngày lễ Ngũ Tuần khi các tông đồ được tràn đầy ánh sáng của Chúa Thánh Thần thấm nhập, các ngài đã hiểu Thánh Kinh, đã hiểu lời Chúa và đã can
đảm hăng hái dấn thân phục vụ làm nhân chứng cho Tin Mừng Cứu độ.
2/ Yếu tố thứ hai là tại thiếu chuẩn bị ngôn ngữ là khiêm tốn cầu nguyện. Để có thể hiểu Lời Chúa thì cần phải cầu nguyện với tâm hồn đơn thành khiêm tốn. Đó là thứ ngôn ngữ cần thiết để trao đổi, thông đạt, và nói với Thiên Chúa. Vì Lời Ngài đã tự hạ, bỏ trời đến với con người, tỏ mình ra cho con người dưới hình một hài nhi nhỏ bé tí ti, thì con người cũng phải dùng thứ ngôn ngữ đó mới gặp gỡ và hiểu được Chúa.
Tóm lại, để hiểu rõ lời Chúa và ý định của Ngài về mỗi người chúng ta, thì yếu tố quan trọng nhất là khiêm tốn cầu nguyện và mở lòng mình ra để Chúa Thánh Thần hoạt động, như các Tông Đồ xưa đã quây quần bên Mẹ Maria sốt sắng cầu nguyện khi ấy CTT đã ngự xuống trên từng vị và đã biến đổi các ngài, làm cho các ngài hiểu rõ Lời Chúa và can đảm dấn thân phục vụ các linh hồn.
42. Hãy nhận biết giá trị nguồn mạch của chúng ta.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Tôi giả thiết rằng tất cả chúng ta đều thích thú với khoảnh khắc khi một người nào đó trong chúng ta nói một điều gì mà chủ ý không muốn cho người khác nghe. Điều đó xảy ra với các môn đệ một ngày kia trong khi có sư hiện diện của Chúa Giêsu. Đó là Giuđa đã nói với các bạn đồng hành của mình: “Tôi thì muốn ốm và mệt mỏi với sự thánh thiện của Người hơn là thái độ của các anh”. Không! Đó là một cuộc tranh luận đã xảy ra giữa các tông đồ. Họ đã tranh luận ai là người quan trọng nhất. Ngay tức khắc họ nhận ra điều cãi cọ của họ đã trở thành lố bịch khi Chúa Giêsu hỏi họ đang tranh luận điều gì thế, họ liền im lặng.
Điều đang kinh ngạc nơi cuộc tranh luận của họ là Chúa Giêsu đã dạy họ Ngài sẽ bị nộp cho những người kết án tử Ngài. Như một tôi tớ của Cha, Người sẵn lòng trải qua cái chết và để đối đầu với những kẻ chỉ nghĩ rằng phải nổi dậy với sự xuất chúng và quyền năng. Ngài nói với các môn đồ: “Bất cứ ai muốn ngồi chỗ nhất phải trở nên người rốt hết trong tất cả mọi người và là tôi tớ của mọi người”.
Các môn đệ đã không thể hiểu được những lời của Chúa Giêsu, điều đó không có gì ngạc nhiên. Những giá trị của Thiên Chúa thì quá cao xa đối với những tiêu chuẩn mà con người có thể nghĩ đến. Chúa Giêsu đã đưa ra một thí dụ mà Ngài rất thích thú. Trong một cảnh cảm động, Ngài kéo một đứa trẻ vào lòng, dùng tay quàng lấy đứa trẻ và nói: “Bất cứ ai tiếp đón đứa trẻ này vì Ta là tiếp đón Ta”. Đứa trẻ là gương mẫu sống động của sự khiêm tốn và đơn sơ mà chúng ta được kêu gọi để thực hành điều đó. Đó là lứa tuổi mà sự khiêm nhường và đơn sơ dẫn dắt hầu hết những trẻ nhỏ. Thường ở tuổi này chúng chưa được đến trường, chưa bước vào thế giới cạnh tranh. Sự thật đáng buồn là ở nơi các trường học những trẻ đã mất đi sự tin tưởng ở chính mình. Chúng trông đợi sự nuông chiều, được học một lớp tốt, có lẽ một đứa con gái nhỏ sẽ nghe: “Vì sao con lại muốn trở nên giống bạn con?”. Sự cạnh tranh làm cho nó nghi ngờ chính mình. Một cậu trai chơi cho đội thiếu nhi League, cậu chỉ được ngồi ở ghế dự bị, trên đường về nhà ngoài sự im lặng chỉ còn vang lên tiếng nức nở của cậu bé, cậu ta hoàn toàn thất vọng, tâm trí của cậu ta thì đầy những nghi ngờ, đứa trẻ này nghĩ rằng giá trị của nó thì tùy thuộc vào thành công nhưng những cha mẹ tốt yêu con cái mình không phải vì chúng có gì hay vì những gì mà chúng đã hoàn thành.
Một trong các tông đồ là thánh Giacôbê dần dần đã học được bài học này về sự quan trọng của khiêm nhường, thánh nhân đã viết trong thư của ngài, bất cứ ở đâu có ganh tỵ và tranh chấp, cãi cọ thì ở đó bất ổn và có đủ mọi loại cư xử xấu. Ngài tiếp tục nói về sự cãi cọ và xung đột sẽ đến từ những thèm muốn bên trong. Những khao khát bên trong là những ước muốn đầu tiên trở nên tốt hơn những người khác, trở nên nhất hay thuộc loại “Top Ten”.
Có nhiều người trưởng thành cũng có những khao khát này, họ nghĩ rằng giá trị của họ tùy thuộc vào sự thành công của họ. Có lẽ đó là lý do vì sao họ muốn được nhìn và cảm thấy mình quan trọng. Dĩ nhiên nếu bạn muốn đứng đầu, muốn có một công việc tốt hoặc là được trả lương nhiều bạn phải tỏ ra hoặc chấp nhận một sự cạnh tranh. Bạn phải chứng minh chính mình và sẽ phải làm tốt hơn những người khác.
Bất cứ trong trường hợp nào của sự cạnh tranh, chúng ta phải dám “ăn to nói lớn”, chúng ta cần nhận biết hệ thống những giá trị của Thiên Chúa. Chúng ta phải nhớ rằng, chúng ta là những đứa trẻ, là con cái của Người Cha hoàn thiện ở trên trời, Đấng đã yêu thương chúng ta vì chúng ta là con cái của Ngài. Chúng ta đừng bao giờ nghi ngờ tình yêu của Ngài dành cho chúng ta, đó là nguồn mạch của giá trị và đáng giá của chúng ta.
43. Phục vụ cách không ham lợi.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest).
Một lần nữa, Chúa Giêsu tiên báo cuộc Khổ nạn và sự Phục sinh của Người. Về sự Phục sinh, các môn đệ dường như chẳng có ý niệm gì. Cuộc Khổ nạn là điều xa lạ nhất đối với cách họ nghĩ về Đấng Cứu thế. Chúa nhắc lại lời tiên báo lúc lên đường đi Giêrusalem. Lộ trình Chúa chọn đi ngang qua xứ Galilêa. Chúa và các môn đệ dừng chân ở Capharnaum. Các môn đệ hy vọng vào một Đấng Cứu thế sẽ hiển trị ngay đời này. Họ bám quá chặt vào hy vọng đó, thậm trí dọc đường tranh luận với nhau về vấn đề ngôi thứ bậc nhất trong Vương quốc họ mong đợi. Lời tiên báo của Chúa không thấm nhập họ được. Các môn đệ không hiểu, có vẻ ương gàn không chịu tìm hiểu. Thế giới tinh thần của họ cho rằng Đấng Cứu thế sẽ ngự đến để phục hưng Vương quốc Israen, và họ tự tìm một địa vị trong triều đại quang phục đó. Chúa hiểu biết họ. Người tỏ ra khoan dung vì biết rằng, sau khi Người sống lại, Chúa Thánh Thần sẽ đến mở rộng tâm hồn các môn đệ. Trong khi chờ đợi, Chúa sẽ ban cho họ một điều giáo huấn quan trọng bậc nhất. Dùng một bài học cách trí, Chúa sắp dạy cho các môn đệ phải suy tưởng thế nào để có thể sẵn sàng nghênh tiếp Đức Kitô hiện thực.
Giáo huấn của Chúa dựa trên hai điểm:
a/ Muốn được xứng đáng Nước Trời, phải có tâm hồn của kẻ phục vụ.
b/ Càng khiêm hạ bao nhiêu, càng là kẻ phục vụ xứng đáng bấy nhiêu.
1) Phải có tâm hồn của kẻ phục vụ. Trong các xã hội loài người, những chức vụ được ưa chuộng nhất là những chức vụ đem lại trọng vọng, uy thế, vinh dự, quyền lợi. Cách này hay cách khác, về phương diện vật chất hay tinh thần, con người có khuynh hướng tự đề cao bằng hoạt động, bằng địa vị, bằng sự giúp đỡ người khác. Tất cả chúng ta đều có một bản tính ích kỷ sâu kín khiến chúng ta thích tìm những lời khen ngợi của người khác. Do đó, xảy ra những xung đột vì hư danh, tư lợi, ham thích được trọng nể. Các môn đệ không tránh được thói thường đó.
Trước khi Chúa tự nguyện làm gương mẫu cho các môn đệ, Người phán rằng điều quan trọng cho con người là phải xem mình là kẻ phục vụ anh em không mang tư lợi. Đối với Cha, kẻ trên hết là tìm cách đứng sau chót bằng đường lối vô tư, trong sạch, bình thản, sẵn sàng phục vụ anh em.
2) Xuyên qua một bài học cách trí, Chúa dạy các môn đệ phải phục vụ như thế nào. Chúa lấy ví dụ một em nhỏ. Thời đó trong xã hội Do thái, đứa trẻ đứng sau chót ở bậc thang địa vị. Theo lời giảng dạy của Chúa, kẻ nào vì tự nhận là môn đệ Đức Kitô, cho nên phục vụ người có địa vị thấp kém nhất, ít được trọng vọng nhất giống như trẻ nhỏ, kẻ ấy nghênh đón chính Chúa Giêsu và Cha Người là Thiên Chúa.
Ngoài tình quyến luyến ra, đứa trẻ chẳng có gì để đền đáp kẻ phục vụ nó, đón nhận nó bằng tấm lòng yêu quý không vụ lợi. Kẻ nào tìm cách phục vụ như vậy, sẽ được Chúa hiện diện trong tâm hồn.
Một câu hỏi: Giữa những anh em đồng đạo đang cùng với ta tìm cách theo, và phục vụ Đức Giêsu Kitô, chúng ta chọn lấy vị trí nào?
44. Hãy làm người rốt hết
(Suy niệm của Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
Tuần rồi Hội Thánh mừng lễ Suy tôn Thánh Giá Chúa Giêsu. Nói cho cùng, trước mắt mọi người, cây thập giá mà ta gọi là Thánh Giá ấy, cũng chỉ là hai thanh gỗ mang hình thập giá và cũng chỉ là phương tiện người ta dùng để giết người. Chỉ duy nhất một điều cho ta nhìn nhận cây thập giá là Thánh Giá đó chính là đức tin. Chính trong đức tin, ta biết: “Đức Giêsu Kitô vốn vĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (Philip 2, 6- 7).
Một vì Thiên Chúa cao sang là thế, quyền năng là thế, vô biên là thế, đã trút bỏ mọi vinh quang để làm người. Không dừng ở đó, Đấng là Thiên Chúa làm người ấy, lại còn trở nên một người rốt hết, hóa thân chia sẻ đến tận cùng cái kiếp người, để cùng được nghèo, cùng đói, cùng rét, cùng tha hương, cùng bị nguyền rủa, bị chống đối, cô đơn, tủi nhục… với tất cả những ai thấp bé, long đong, những ai bị cuộc đời chối bỏ, bị vùi giập…
Nhưng tất cả những điều đó chưa là điểm kết, Chúa Kitô “lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Philip 2, 8), chết đớn đau, chết nhục nhã và oan nghiệt…
Thiên Chúa làm người đã là một điều không thể tưởng tượng. Vậy mà Thiên Chúa làm người lại lặn sâu trong kiếp người để đồng hóa mình với mọi người, vì thế càng kỳ diệu quá đỗi. Nhưng Thiên Chúa làm người lại còn chấp nhận một cái chết thê thảm, đứng chung với hàng ngũ tử tội, thì tình yêu của Thiên Chúa đã đạt tới đỉnh điểm và bước tới mức độ tuyệt đối.
Chiêm ngắm mầu nhiệm tự hạ quá lớn lao của Chúa Kitô, chúng ta chỉ còn biết lặn đi để những gì Người đã sống có cơ hội thẩm thấu trong tâm hồn, để ta càng ngày càng rập theo những gì Người đã noi gương để từng lúc từng lúc một, ta nên giống Người hơn.
Chúa Kitô đã tự hạ để phục vụ đến cùng như thế, cho nên Người có quyền đòi ta cũng biết hạ mình, trở nên nhỏ bé và có ích cho anh chị em như Người.
Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa nhắc lại đòi hỏi này: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người” (Mc 9, 35).
Nhưng trước khi mời gọi như thế, ChúaKitô đã nói về chính bản thân mình, không phải để tự đề cao, tự ca tụng, hay nói về những gì mình đã làm. Hoàn toàn không phải thế. Để cho lời mời gọi đạt hiệu quả, Chúa Kitô đã mạc khải về sự bắt bớ, bách hại, chịu đau khổ, chịu chết và sống lại: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta và họ sẽ giết Người. Khi đã bị giết, ngày thức ba, Người sẽ sống lại” (Mc 9, 31).
Cuối cùng để cụ thể lời mời gọi, Chúa dạy một bài học mà có lẽ cả các tông đồ lẫn chúng ta, chẳng bao giờ suy nghĩ được như thế. Đó là bài học của trẻ thơ, và trở nên trẻ thơ. Còn hơn nữa, Chúa Kitô không chỉ dạy ta sống khiêm hạ, nhưng chính Thiên Chúa đã đồng hóa mình với trẻ thơ. Một sự tự đồng hóa trở nên bé nhỏ hoàn toàn: “Ai đón nhận một trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (Mc 9, 37).
Nhiều lần Tin Mừng cho biết Chúa Giêsu tự đồng hóa mình với những người bé nhỏ nghèo hèn. Nhất là phụ nữ và trẻ con, đối với xã hội Do thái thời Chúa Giêsu là những thành phần không đáng kể, không có chỗ đứng trong xã hội. Vậy mà không những Chúa đã đặt trẻ con làm mẫu mực để dạy chúng ta về bài học của lòng khiêm hạ, Người còn ôm lấy đứa bé vào lòng. Thánh Marcô thật tinh tế khi không bỏ qua chi tiết này.
Bạn ạ, con đường tự hạ làm người bé nhỏ là con đường trở nên người lớn nhất, và là người đáng kể trước mặt Chúa. Ngày 19.10.2003, chỉ sáu năm, sau khi Mẹ Têrêsa thành Calcutta qua đời, Mẹ đã được phong chân phước. Đó là thời gian kỷ lục, bởi từ trước cho đến khi Mẹ Têrêsa được nâng lên bàn thờ Hội Thánh, chưa có vị thánh nào được tuyên phong nhanh như thế. Qua việc tuyên phong nhanh chóng này, chúng ta thấy, Hội Thánh dành cho Mẹ sự quý mến, yêu thương, cũng như qua Mẹ, Hội Thánh dạy chúng ta những bài học lớn bằng chính tấm gương thánh thiện của Mẹ.
Ngày 5. 9. 1997, ngay sau khi tin Mẹ Têrêsa qua đời được loan đi, đã gây một chấn động lớn cho toàn thế giới. Cũng từ ngày đó, người ta đã nghĩ ngay đến việc phong thánh cho Mẹ. Nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới đã bày tỏ lòng thương tiếc vô hạn. Lập tức Đức Gioan Phaolô II đã làm lễ tưởng niệm Mẹ ngay tại biệt thự của mình. Tổng thống Bill Clinton xúc động nói: “Mẹ là người luôn gây kinh ngạc, một trong những bậc vĩ nhân của thời đại này”. Tổng thống Hàn Quốc Kim Young Sam ghi nhận: “Nhân loại sẽ mãi mãi ghi nhớ sự hy sinh cả cuộc đời của Mẹ Têrêsa cho những người bần cùng trên thế giới”. Và còn nữa, còn rất nhiều những lời chia buồn của các vị nguyên thủ trên khắp thế giới.
Mẹ Têrêsa là ai mà quang trọng quá vậy? Đó chỉ là một nữ tu người Albani, rất bình thường. Mẹ sang Ấn độ lập dòng nữ tu Thừa Sai Bác Ái.
Điều đáng chú ý nơi người nữ tu bé nhỏ này là một tâm hồn vĩ đại, một tâm hồn dạt dào lòng yêu thương không nhỏ chút nào. Mẹ đã dành cả đời mình để lo cho những anh chị em cùng khổ. Mẹ đã cúi xuống để đưa người đói rét, bệnh tật, bị bỏ rơi… về lại với cuộc sống con người. Mẹ đã đưa người hấp hối bên lề đường, phố chợ về lại một mái nhà để họ được yêu thương vỗ về và được chết như một con người. Mẹ đã cúi xuống để trả lại hy vọng cho những ai mất hết lòng tin trong cuộc đời. Mẹ đã đưa bàn tay, dẫu đã già nua, nhưng tràn đầy sức mạnh của tình yêu để nâng đỡ bất cứ ai bạc nhược, cô thân, và bất cứ ai đói khát tình người, đói khát yêu thương…
Chính vì vậy, trước dong linh Mẹ, Thủ tướng Albani, Fatos Nano đã bày tỏ nỗi lòng: “Mẹ Têrêsa là con người nhỏ bé nhưng có một tâm hồn lớn lao cao cả”. Chính ông đã muốn đưa thi hài của Mẹ về nước an táng, nhưng không thành vì Mẹ là ân nhân của nhân dân Ấn độ.
Chính quyền Ấn độ đã tuyên bố lễ tang của Mẹ là quốc tang. Hàng ngàn người Ấn độ và nhiều người thuộc nhiều quốc tịch, thuộc mọi tầng lớp, bất chấp mưa gió, nối nhau xếp hàng dài hàng cây số trước trụ sở dòng Thừa Sai Bác Ái ở Calcutta để được viếng xác và để nhìn thấy lần cuối cùng gương mặt người nữ tu vô cùng khả ái ấy.
Quả thật Mẹ Têrêsa là tấm gương của thời hiện đại cho những ai muốn sống đời khiêm nhu tự hạ và phụ vụ. Chỉ khi nào đã trở nên người nhỏ bé, ta mới thật là một vĩ nhân. Bây giờ mẹ Têrêsa còn hơn một vĩ nhân: Mẹ trở thành thánh nhân. Gương nhân đức của Mẹ chiếu sáng lấp lánh cho cả loài người.
Chính Chúa Giêsu đã tự hạ đến tột cùng nên Người được Thiên Chúa tôn vinh đến tột đỉnh vinh quang. Vì thế, ai đi con đường khiêm tốn và tự hạ như Chúa, Người ấy cũng sẽ được đưa tới vinh quang tột đỉnh.
Mẹ Têrêsa là một bằng chứng lớn. Ơn gọi nên thánh là ơn gọi dành cho từng người không trừ ai. Để đạt tới sự thánh thiện như Mẹ Têrêsa, chúng ta hãy khắc sâu Lời Chúa dạy trong hồn mình, để mỗi một ngày một sống lời dạy ấy cách tốt hơn, xứng đáng hơn: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người”.
45. Nên thánh trong phục vụ – Lm. Vũ Xuân Hạnh
Trong Tin Mừng, có lần Chúa mời gọi: Hãy nên thánh thiện như Cha trên trời là Đấng Thánh. Bởi thế, ơn gọi nên thánh là ơn gọi dành cho từng người không trừ ai. Dù vậy không ai được quyên rằng, cuộc sống hôm nay của ta có một giá trị vĩnh cửu. Vì thế, nếu tội lỗi hôm nay sẽ theo ta đi vào vĩnh cửu thì giá trị của việc lành cũng đưa ta tiến về hạnh phúc vĩnh cửu. Ơn gọi nên thánh là ơn gọi bao hàm lời răn dạy hãy tránh xa sự xấu, và thực hiện những việc lành, để ngày càng tiến đến sự thánh thiện hoàn hảo. Một trong rất nhiều ơn lành mà hôm nay Chúa mời gọi, đó là sự phục vụ: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người”. Chính khi hạ mình làm đầy tớ, nghĩa là hạ mình để phục vụ với tất cả lòng mến, với hết khả năng của bản thân, chính là lúc ta tiến đến sự thánh thánh thiện hoàn hảo như Chúa mời gọi.
Có hai lý do cho biết phục vụ sẽ đưa ta đạt đến đỉnh cao của sự nên thánh:
Lý do 1: Dựa trên Chính lời dạy của Chúa Giêsu: Ai phục vụ, dù là phục vụ những người mang thân phận nhỏ bé nhất, người ấy thật vinh dự, thật cao cả vì được phục vụ chính Chúa Giêsu, qua đó cũng sẽ là người phục vụ chính Thiên Chúa. Bài Tin Mừng hôm nay cho biết điều đó: “Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón nhận chính mình Thầy. Và ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”.
Lý do 2: Khi sống đời phục vụ, ta nên giống Chúa Kitô. Người xuống thế làm người, không ngoài một lý do này là: “Đến không phải để được phục vụ nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc cho muôn người”. Vì thế, cả cuộc đời Chúa Giêsu, sinh ra, sống, chết, sống lại chỉ nhằm một lý do quan trọng: chuộc lại cho ta ơn thánh thiện hoàn hảo mà Thiên Chúa đã tặng ban từ nguyên khởi. Chúa đã dạy và đã nêu gương để xây dựng thành một bằng chứng hùng hồn, một bài học lớn lao và quý giá. Vì thế, đến lượt mình, ta cũng phải học lấy tinh thầy khiêm nhu, yêu thương và phục vụ như Người.
Có một tấm gương lừng danh trong thời đại chúng ta, mà khi nhắc tới, hiếm có người nào không biết, cũng không ai là không ngưỡng mộ, yêu mến và nể phục. Tôi muốn nói đến tấm gương của Mẹ Têrêsa thành Calcutta. Mẹ đã sống trọn vẹn lời mời gọi của chúa Kitô, vì thế, đến lúc kết thúc cuộc đời, Mẹ đã có thể đến trước Thánh Nhan bằng một niềm hạnh phúc tuyệt diệu, vì cả một đời, Mẹ đã nên giống Chúa Kitô trong tình yêu hiến thân và phục vụ.
Ngày 19.10.2003, Mẹ Têrêsa thành Calcutta đã được Giáo Hội phong chân phước. Thời gian điều tra và chuẩn bị án phong chân phước cho Mẹ chỉ mất có sáu năm. Một thời gian ngắn như thế, lúc đó là một kỷ lục mà Giáo Hội yêu thương dành cho Mẹ, cũng như qua Mẹ, Giáo Hội dạy chúng ta những bài học lớn bằng chính tấm gương thánh thiện của Mẹ.
Ngày 5. 9. 1997, ngay sau khi tin Mẹ Têrêsa qua đời được loan đi, đã gây một chấn động lớn cho toàn thế giới. Cũng từ ngày đó, người ta đã nghĩ ngay đến việc phong thánh cho Mẹ. Nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới đã bày tỏ lòng thương tiếc vô hạn. Lập tức Đức Gioan Phaolô II đã làm lễ tưởng niệm Mẹ ngay tại biệt thự của mình. Tổng thống Bill Clinton xúc động nói: “Mẹ là người luôn gây kinh ngạc, một trong những bậc vĩ nhân của thời đại này”. Tổng thống Hàn Quốc Kim Young Sam ghi nhận: “Nhân loại sẽ mãi mãi ghi nhớ sự hy sinh cả cuộc đời của Mẹ Têrêsa cho những người bần cùng trên thế giới”. Còn thủ tướng Singapo, Goh chok Tong thì mói: “Mẹ Têrêsa là một trong những người nổi bậc nhất của thế kỷ 20”. Và còn nữa, còn rất nhiều những lời chia buồn của các vị nguyên thủ trên khắp thế giới.
Mẹ Têrêsa là ai mà quang trọng quá vậy? Mẹ chỉ là một nữ tu người Albani, rất bình thường. Mẹ sang Aán độ lập dòng nữ tu Thừa Sai Bác Aùi. Điều đáng chú ý nơi người nữ tu bé nhỏ này là một tâm hồn vĩ đại, một tâm hồn dạt dào lòng yêu thương không nhỏ chút nào. Mẹ đã dành cả đời mình để lo cho những anh chị em cùng khổ. Mẹ đã cúi xuống để đưa người đói rét, bệnh tật, bị bỏ rơi… về lại với cuộc sống con người. Mẹ đã đưa người hấp hối bên lề đường, phố chợ về lại một mái nhà để họ được yêu thương vỗ về và được chết như một con người. Mẹ đã cúi xuống để trả lại hy vọng cho những ai mất hết lòng tin trong cuộc đời. Mẹ đã đưa bàn tay, dẫu đã già nua, nhưng tràn đầy sức mạnh của tình yêu để nâng đỡ bất cứ ai bạc nhược, cô thân, và bất cứ ai đói khát tình người, đói khát yêu thương…
Chính vì vậy, trước dong linh Mẹ, Thủ tướng Albani, Fatos Nano đã bày tỏ nỗi lòng: “Mẹ Têrêsa là con người nhỏ bé nhưng có một tâm hồn lớn lao cao cả”. Chính ông đã muốn đưa thi hài của Mẹ về nước an táng, nhưng không thành vì Mẹ là ân nhân của nhân dân Aán độ. Chính quyền Aán độ đã tuyên bố lễ tang của Mẹ là quốc tang. Hàng ngàn người Aán độ và nhiều người thuộc nhiều quốc tịch, thuộc mọi tầng lớp, bất chấp mưa gió, nối nhau xếp hàng dài hàng cây số trước trụ sở dòng Thừa Sai Bác Aùi ở Calcutta để được viếng xác và để nhìn thấy lần cuối cùng gương mặt người nữ tu vô cùng khả ái ấy. Quả thật Mẹ Têrêsa là tấm gương của thời hiện đại cho những ai muốn sống đời khiêm nhu tự hạ và phụ vụ. Chỉ khi nào đã trở nên người nhỏ bé, ta mới thật là một vĩ nhân. Bây giờ mẹ Têrêsa còn hơn một vĩ nhân: Mẹ trở thành thánh nhân. Gương nhân đức của Mẹ chiếu sáng lấp lánh cho cả loài người.
Chính Chúa Giêsu đã tự hạ đến tột cùng nên Người được Thiên Chúa tôn vinh đến tột đỉnh vinh quang. Vì thế, ai đi con đường khiêm tốn và tự hạ như Chúa, Người ấy cũng sẽ được đưa tới vinh quang tột đỉnh.
Đức Maria, Mẹ Têrêsa, và các thánh là những tấm gương trên mọi tấm ghương về nhân đức và sự thánh thiện. Để đạt tới sự thánh thiện như các ngài, chúng ta hãy khắc sâu Lời Chúa dạy trong hồn mình, để mỗi một ngày một sống lời dạy ấy cách tốt hơn, xứng đáng hơn: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người”.
Ước gì lời dạy của Chúa Kitô và tấm gương yêu thương, phục vụ của Người thấm đẫm tâm hồn ta, giống như Mẹ Têrêsa, và các thánh, để nhờ đó ta luôn ý thức sứ mạng Chúa trao là phục vụ anh chị em mình, trong cuộc sống đời thường và trong chức vụ mà mình đang mang, đang gánh như: là một người cha, người mẹ, là bổn phận làm con, bổn phận đào tạo con người, hoặc mình là người buôn bán, làm thuê độ nhật, hay trong vai trò của người nghiên cứu, học tập… Nhờ ý thức như thế, ta sẽ ra sức chu toàn bằng tất cả tài năng, sức lực, suy nghĩ, hành động của bản thân. Vì khi chu toàn ơn gọi Chúa trao là lúc ta nên thánh trong chính ơn gọi của mình.
46. Người lớn nhất? -- Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Thế vận hội Olmpic Sydney 2000 đã long trọng khai mạc vào ngày 15/9. Buổi lễ khai mạc đã diễn ra tưng bừng vĩ đại nhất thế kỷ. Vận động viên các nước về đây tham dự, ai cũng muốn phá kỷ lục thế giới, để được đứng hạng nhất, đoạt được huy chương vàng. “Nhanh nhất, cao nhất, xa nhất” vẫn luôn là khẩu hiệu của Olympic. Thế nhưng ai là người lớn nhất? Đó là vấn đề tranh cãi giữa các môn đệ của Chúa Giêsu. Cuộc tranh cãi còn kéo dài mãi đến nỗi trong bữa Tiệc ly Chúa Giêsu đã phải quỳ xuống rửa chân cho các ông để dạy một bài học khiêm tốn phục vụ.
Theo cái nhìn thông thương, người lớn nhất là người có địa vị cao, có quyền lực, có nhiều tiền… Và nếu đã là người lớn nhất thì chắc chắn phải được kính nẻ, tôn trọng, phục dịch, được nhiều quyền lợi hơn.
Chúa Giêsu đã đảo ngược cách nhìn thường tình đó để thay thế bằng một thang giá trị mới của Nước Thiên Chúa: Trong Nước Thiên Chúa, người trước hết trở nên sau hết, người sau hết trở nên trước hết. Người cao nhất có thể không bằng người thấp nhất, và người thấp nhất lại được kính trọng hơn người cao nhất. Điều quan trọng đối với Chúa Giêsu không phải là làm gì, nhưng là làm như thế nào, với tinh thần nào, vì mục đích gì? Và cái cao nhất cũng như cái thấp nhất không nắm trong ngôi thứ bên ngoài nhưng tuỳ vào tinh thần bên trong.
Sự đảo lộn các giá trị nói trên cũng làm đảo lộn theo cách sống và cách cư xử với tha nhân. Đối với Chúa Giêsu, người lớn nhất phải là người khiêm tốn nhất, sẵn lòng phục vụ nhất, sẵn sàng chịu thiệt thòi nhất. Lòng khiêm tốn, thái độ vị tha, tinh thần phục vụ chính là thước đo giá trị của mỗi người trong Nước Thiên Chúa. Và trong Nước Thiên Chúa chỉ dùng thước đo duy nhất đó thôi, không dùng thước đo nào khác. “Ai muốn làm đâu thì phải làm hầu thiên hạ. Ai muốn làm người lớn nhất thì phải làm người nhỏ nhất và phục vụ mọi người”.
“Nghệ thuật làm lớn” của Chúa Giêsu được đúc kết trong lời khẳng định: “Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Tất cả cuộc sống của Ngài mình hoạ rõ nét chân lý đó. Biểu hiện rõ nhất của hiến thân và phụ vụ là thập giá và cái chết trên thập giá của Chúa Giêsu. Chính khi hiến thân và phục vụ như vậy, Ngài càng trở nên cao cả và đáng suy tôn là “Đức Chúa”. Đó là gương phục vụ trọn vẹn. Thiên Chúa phục vụ con người để con người phục vụ nhau vì Thiên Chúa.
Bài đọc 1 hôm nay nói đến “Người Tôi Tớ đau khổ”, một danh xưng đã được Ngôn Sứ Isaia sử dụng để tiên báo Đấng Cứu Thế và đã được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu, Đấng đã trở thành Tôi Tớ của mọi người bằng cuộc sống phục vụ đến hiến mạng sống cho mọi người. Theo nghĩa thích hợp nhất: Chúa Giêsu là Tôi Tớ của mọi người.
Thưa anh chị em,
Chúa Giêsu đã đưa một em bé ra đây để dạy các môn đệ: “Ai tiếp đón một em bé như em bé này là tiếp đón Thầy. Và ai tiếp đón Thầy thì không phải là tiếp đón Thầy, mà là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”. nhiều lần Chúa Giêsu đồng hoá với những người nhỏ bé, nghèo hèn. Ở đây Chúa Giêsu đồng hoá với một em bé, một thành phần không có chỗ đứng trong xã hội Do Thái. Một người nhỏ bé, nghèo hèn nhất, không đáng kể trước mặt người đời, cũng được Chúa Giêsu coi là hiện thân của Ngài. Đón nhận người ấy là đón nhận Ngài và là đón nhận Ngài và là đón nhận chính Thiên Chúa Cha, Đấng đã sai Ngài.
Nếu Thiên Chúa đã tự liên đới với người nhỏ bé, nghèo hèn, không đáng kể nhất, thì chúng ta còn sợ gì mà không dám làm người rốt hết và làm tôi tớ mọi người. Phục vụ một người không đáng kể nhất cũng là phục vụ chính Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao trở nên người rốt hết và phục vụ mọi người lại là người lớn nhất.
Một hoàng đế, một Giáo Hoàng, một tổng thống, một chủ tịch có phải là người lớn nhất hay không, đó còn tuỳ ở chỗ những người ấy có thật sự là “đầy tớ của nhân dân” hay không, có thật sự là “tôi tớ của các tôi tớ” hay không?
Anh chị em thân mến,
Con đường tự hạ, làm người bé nhỏ và phục vụ anh em là con đường để trở nên vĩ đại, trở nên người lớn nhất trước mặt Chúa. Chính Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, Ngài đã làm người rốt hết, làm người tôi tớ mọi người, đem chính mạng sống của Ngài mà phục vụ mọi người. “Ngài đã vâng phục đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thập giá, chính vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài đến tột đỉnh vinh quang; “Đức Chúa” (x.Pl 2,5-11). Ai đi con đường đó với Ngài sẽ được Ngài đưa tới vinh quang tột đỉnh với Ngài.
Một khi Chúa Giêsu đã tự hạ làm người rốt hết và đồng hoá với cả những người mà thế gian coi như không có, thì mọi thái độ thống trị đã bị kết án rồi, vì thống trị, cha đạp bất cứ ai cũng là thống trị, chà đạp Thiên Chúa vậy.
47. Đầy tớ của mọi người - Gm. Arthur Tonne.
Bác sĩ Charles Mayo cùng với cha và người em xây dựng bệnh viện Mayo nổi tiếng trên thế giới tại Rochester thuộc bang Minnnesota. Một lần có phái đoàn chuyên viên y khoa từ Âu Châu được mời đến nhà bác sĩ Charles Mayo. Theo tục lệ ở đó, khách sẽ để giầy ở ngoài cửa phòng ngủ để ban đêm có người đánh bóng.
Bác sĩ Charles Mayo về sau cùng. Khi về phòng, ông thấy các đôi giầy để đó và đã quá khuya, ông không muốn đánh thức người giúp việc. Ông thở dài, rồi đem các đôi giầy xuống bếp, tự tay ông, thức hết nửa đêm để đánh bóng các đôi giầy của khách.
Đây là một tấm gương Chúa Giêsu nói với bạn và tôi trong Tin Mừng hôm nay: “Nếu ai muốn làm lớn, phải nên kẻ hèn nhất và làm đầy tớ cho mọi người”. Cũng như các Tông đồ chúng ta thường tranh luận ai trong chúng ta là người lớn nhất. Đức Kitô trả lời chúng ta: “Người lớn nhất phải làm đầy tớ cho mọi người”. Bác sĩ Charles Mayo là một trong những bác sĩ nổi tiếng trên thế giới. Thế nhưng ông đã đánh giầy cho khách của ông.
Xin nhắc lại Chúa Giêsu rửa chân cho các Tông đồ trong đêm trước khi Ngài chịu chết vì chúng ta.
Bài đọc I hôm nay liên quan đến: “Người tôi tớ đau khổ”, một danh xưng và đặc tính của Tiên tri Isaia (40,55) đã tiên báo và được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu, Đấng đã trở thành đầy tớ của mọi người bằng cái chết. Tước hiệu “Đầy tớ” này được chỉ về Chúa Giêsu trong sứ vụ các Tông đồ. Theo những nghĩa thích hợp nhất: Chúa Giêsu là đầy tớ của mọi người. Chúng ta làm thế nào để theo kịp Chúa Giêsu trong vấn đề phục vụ? Chúng ta phục vụ anh em thế nào? Chúng ta đối xử thế nào với những người phục vụ chúng ta?
Người đầy tớ là gì? Là một người được mướn để làm việc, đặc biệt là làm việc trong nhà. Với một ý nghĩa khác: Người đầy tớ được hiểu như một người hăng hái nhiệt tình với người khác, với một mục đích hay với một niềm tin, phục vụ có nghĩa là làm một việc để giúp đỡ, để có lợi hoặc tình nghĩa cho người khác.
Tất cả chúng ta được gọi để làm tôi tớ, ngay cả nhà giải phẫu tài giỏi nhất. Bác sĩ Mayo phục vụ nhân loại không chỉ bằng việc giải phẫu mà còn bằng việc đánh giầy cho khách.
Người mẹ trong gia đình thật sự là người đầy tớ cho cả gia đình. Mỗi một nghề đều có cơ may để phục vụ.
Chú ý đến việc của bạn để làm tốt cho người khác. Nếu không bạn không thể chu toàn tốt công việc của bạn và bạn sẽ mất mục đích của việc làm. Chân lý Chúa Giêsu công bố hôm nay là: “Bạn sẽ không quan trọng nếu bạn không cố gắng phục vụ mọi người”.
Đức Giáo Hoàng, đầu của Giáo Hội Công giáo, một địa vị quan trọng nhất trong thế giới, nhận tước hiệu: “Tôi tớ của các tôi tớ của Chúa”.
Điều này dẫn chúng ta chú ý đến hình thức cao nhất của việc phục vụ: Phục vụ Chúa qua phượng tự và làm việc thiện. Trong giờ này chúng ta phục vụ Chúa bằng cách cùng dâng Thánh Lễ, hình thức cao nhất của việc phục vụ. Đồng thời chúng ta cũng phải đánh giá cao việc phục vụ chúng ta của người hàng xóm, của người hốt rác, của người phát thơ, của người mẹ, của mọi người phục vụ chúng ta.
Mỗi người theo Chúa Kitô phải đặt câu hỏi: “Trong địa vị của tôi, tôi có phải làm sao để thực sự phục vụ người khác.
Xin Chúa chúc lành bạn.
48. Suy niệm của Noel Quesson.
AI MUỐN LÀM ĐẦU, HÃY LÀM ĐẦY TỚ MỌI NGƯỜI.
Cùng với ông bố và người em, bác sĩ Sa-ri May-ô (Charies Mayo) đã xây bệnh viện May-ô nổi tiếng ở Rochester, thuộc tiểu bang Minnesota, Hoa Kỳ.
Lần kia, một phái đoàn y khoa tới thăm bệnh viện. Theo tục lệ ở đó, các người khách để giày của mình trước cửa phòng và ban đêm sẽ có người đánh bóng các đôi giày ấy. Tối hôm đó, bác sĩ May-ô làm việc muộn và về phòng sau cùng. Ông thấy các đôi giày của khách để ở cửa chưa được đánh bóng, các người giúp việc đều ngủ cả. Ông tự mình kiếm xi và bàn chải rồi ngồi đánh bóng hết các đôi giày của khách.
Câu chuyện nhỏ này đã thành huyền thoại. Bác sĩ May-ô được ca tụng vì tài năng, vì những công trình y khoa vĩ đại, mà cũng vì nếp sống khiêm nhu bình dị.
Theo Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu huấn luyện nhóm tông đồ Người đã chọn. Chúa Giêsu xuống thế, cốt dạy nhân loại về một Thiên Chúa tình yêu. Thiên Chúa như một người cha nhân từ, sẵn sàng hy sinh tất cả cho chúng ta, giúp đở chúng ta tận tình, tới mức hầu hạ chúng ta vì yêu thương. Những tư tưởng này còn lâu các Tông đồ mới làm quen được, hoặc có thể nói được như Thánh Phaolô: “Hãy sống trong tình yêu như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta và cống hiến chính thân mình Người”.
Trong các đức tính cần có, thì đức khiêm tốn có lẽ là xa lạ, khó chấp nhận nhất đối với tính tự nhiên con người. Các Tông đồ không muốn nghe tới sự thua thiệt của Chúa Giêsu. Trong lúc Chúa nói về sự tự hạ, về tình yêu biểu lộ trong hy sinh đau khổ, về phục vụ, tự hiến cho anh em, cho những người cần tỏ tình yêu thương... thì các ông hy vọng chiếm được khi Chúa trở thành người quyền cao chức trọng.
Chúa Giêsu hiểu tâm trạng các Tông đồ, và Chúa dùng kiểu nói cụ thể hơn để diễn tả tư tưởng Người. Dĩ nhiên một tổ chức ở trần gian thì phải có người trên kẻ trước, phải có người lãnh đạo, chỉ huy. Nhưng trong tổ chức của Chúa, thì những người giữ địa vị cao phải ý thức mình là rốt hết, ở thứ hạng sau cùng. Người lãnh đạo phải nên tôi tớ cho mọi người: “Ai muốn làm đầu thì hãy ở cuối hết và hầu hạ mọi người”. Chúa nói thế và Người đã làm thế, làm thực sự chứ không chỉ nói bằng lý thuyết. “Các con gọi Thầy là Thầy và là Chúa thì đúng lắm. Vậy mà Thầy đã rửa chân cho các con. Các con cũng hãy rửa chân cho nhau” (Ga 13,13).
Lạy Chúa, xin giúp chúng con hiểu lời Chúa dạy, cho chúng con thực thi điều Chúa muốn, là phục vụ mọi người trong tin yêu và khiêm tốn.
49. Muốn làm đầu thì phải phục vụ trong khiêm hạ.
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Trong Thánh kinh Cựu ước, nhiều lời tiên tri về Đấng cứu thế đề cập đến một vương quốc phổ quát có tính cách hoàn cầu. Theo lời các ngôn sứ, thì đến một thời gian nào đó, tất cả các dân tộc đều qui phục dòng dõi Đavít, và các chư dân sẽ hướng về Giêrusalem. Tuy nhiên các ngôn sứ nói về một vương quốc thiêng liêng mà Đấng cứu thế sẽ thiết lập.
Mặc dù một lần nữa trong Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu báo trước việc Người sẽ phải chịu khổ nạn và tử hình, rồi được phục sinh, các tông đồ vẫn không nhận thức được ý nghĩa của lời Người giảng dạy. Họ vẫn còn nuôi hi vọng Thầy mình sẽ thiết lập một vương quốc trần gian. Vì thế dọc đường, họ tranh luận với nhau xem ai sẽ là người quan trọng nhất trong vương quốc của Chúa.
Để loại trừ quan niệm sai lầm về Đấng cứu thế, Chúa Giêsu lập tức triệt hạ tính tự kiêu tự đại của họ, bằng cách dạy họ về đức khiêm tốn: Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết và làm người phục vụ mọi người (Mc 9,35). Theo lời Chúa dạy thì tính tự kiêu tự đại là một nết xấu mà người môn đệ Chúa phải xa tránh và loại trừ để luyện tập nhân đức khiêm tốn để làm người rốt hết. Một vài hậu quả của tính tự kiêu mà ta đọc thấy trong thánh kinh là các thần dữ, vì không vâng lời phụng sự Thiên Chúa, nên đã bị đày ải xuống âm phủ. A-đam và E-và đã bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, cũng vì nghĩ rằng mình có thể trở nên ngang hàng với Thiên Chúa, khi ăn trái cấm. Cội rễ của sự dữ là ghen tương và kiêu ngạo như trong bài trích sách Khôn ngoan hôm nay nêu ra những ý định cuả người kiêu ngạo định làm để gài bẫy, nhục mạ, tra tấn và lên án người công chính. (Kn 2,1-20). Đó cũng là điều mà thánh Giacôbê tông đồ nhận xét trong thư gủi giáo đoàn: Ở đâu có ghen tương và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi việc xấu xa (Gc 3,16).
Phúc âm hôm nay đưa ra hình ảnh của trẻ em để dạy ta bài học về đức khiêm tốn. Quan sát người ta thấy những đặc tính của con trẻ là tín nhiệm, đơn sơ và chân thành. Trẻ con thường không có tham vọng và không tự phụ. Đón nhận trẻ em có nghĩa là đón nhận những người giống như trẻ con: người khiêm tốn, người thấp hèn, người nghèo đói, người đau yếu, người yếu thế, người bị bỏ rơi.. Nếu phân tích, ta thấy người khiêm tốn có nhiều đức tính của trẻ con. Người khiêm tốn là ngưòi biết nhận ra mình yếu hèn, tội lỗi và tuỳ thuộc vào Chúa trong mọi sự, và hành động theo sự xác tín của mình: không giả tạo, không đóng kịch. Người khiêm tốn là người biết tuỳ thuộc vào quyền năng của Chúa, vào ơn khôn ngoan và chương trình quan phòng của Chúa.
Trinh nữ Maria nêu gương mẫu cho ta về đức khiêm tốn. Trinh nữ không mơ ước địa vị làm mẹ Đấng cứu thế như giới phụ nữ Do thái thời bấy giờ. Thiên Chúa nhìn thấy lòng khiêm tốn của trinh nữ Maria nên đã chọn trinh nữ làm mẹ Đấng cứu thế. Khiêm tốn thực sự là sống trung thực với lòng mình và nhìn nhận sự thực về mình: ưu điểm cũng như khuyết điểm. Vì nhìn nhận sự thực về mình nên trinh nữ Maria đã cất tiếng ca tụng Thiên Chúa về những việc trọng đại Người đã thực hiện nơi mình trong kinh Ngợi Khen (Magnificat). Chính Chúa Giêsu đã đến để dạy ta bài học phục vụ trong khiêm tốn. Người là Thiên Chúa nhưng đã hạ mình xuống, mặc lấy thân xác yếu hèn của loài người, sinh sống giữa nhân loại. Trong bữa tiệc li, Chúa nêu gương phục vụ trong khiêm tốn bằng cách rửa chân cho các tông đồ và dạy ta rửa chân cho nhau nghĩa là phục vụ lẫn nhau. Như vậy ta thấy Chúa Giêsu đến để đổi ngược lại những giá trị của loài người. Theo lời Chúa dạy thì người ta không bao giờ thỏa mãn trong việc tìm kiếm địa vị và vinh dự, nếu chỉ vì ham muốn vinh dự và địa vị.
Nói như vậy không có nghĩa là Chúa Giêsu ngăn cản người ta làm lớn. Trong xã hội cũng như trong Giáo hội phải có những người làm lớn, những người nắm giữ địa vị nọ kia để điều hành guồng máy tổ chức trong Giáo hội và xã hội. Tuy nhiên Chúa bảo làm lớn là để phục vụ chứ không phải chỉ vì ham chức tước. Làm lớn còn có nhiều cơ hội và phương tiện để phục vụ như có ngân khoản, có người thừa hành. Chúa bảo ta chỉ tìm được sự bình an và hạnh phúc thực sự khi sống trong gương mẫu khiêm tốn phục vụ. Chúa chỉ cho ta thấy việc làm vĩ đại thật, không phải là việc phô trương cho người khác biết đến, nhưng được tìm thấy trong việc quên mình để phục vụ tha nhân. Và đó là một nghịch lý của Kitô giáo. Để nhắc nhở cho mình và cho hàng giáo sĩ và giáo dân lời Chúa dạy về việc khiêm tốn phục vụ, các Đức giáo hoàng thường thêm châm ngôn La tinh Servus servorum, có nghĩa là đầy tớ của các đầy tớ vào trước chữ kí tên.
Lời cầu nguyện xin cho được noi gương khiêm tốn phục vụ: Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và là Chúa.
Chúa đã đến thế gian làm người để dạy bảo nhân loại
bài học phục vụ trong khiêm hạ.
Xin tha thứ những lần con tỏ ra tự kiêu, tự đại và tự phụ
với những người anh chị em con.
Xin dạy con biết nhận ra sự hiện diện của Chúa
nơi người anh chị em con,
những người đau khổ, bất hạnh về thể xác và tinh thần
để con biết phục vụ trong khiêm tốn. Amen.
50. Phục vụ.
Có một vị tu sĩ già, đã nhiều năm cầu nguyện xin Chúa hiện ra để củng cố niềm tin của mình, nhưng điều đó lại chẳng bao giờ xảy ra. Thế rồi, khi ông hoàn toàn tuyệt vọng, thì một ngày nọ Chúa lại hiện ra với ông. Vị tu sĩ già vui mừng hớn hở. Tuy nhiên, giữa lúc ông đang tâm sự với Chúa thì một hồi chuông vang lên báo hiệu giờ phát gạo cho những người nghèo và hôm nay lại chính là phiên trực của ông. Nếu ông không đến thì những kẻ nghèo khổ kia sẽ bị đói suốt cả một ngày. Ông bị giằng co giữa Chúa và đám dân nghèo. Cuối cùng ông đã quyết định tạm ngưng cuộc gặp gỡ với Chúa để đi phát gạo cho đám dân túng cực.
Sau hơn một tiếng đồng hồ làm việc, ông trở về phòng và khi mở cửa, ông không thể nào tin vào mắt mình, bởi vì Chúa đang ở đó và chờ ông. Thế là ông quỳ gối xuống và cảm tạ Ngài. Bấy giờ Chúa nói với ông:
- Giả như con không chịu đi phát cơm gạo cho đám dân nghèo thì Ta cũng chẳng ở lại đây chờ con đâu.
Từ câu chuyện trên, chúng ta nhận thấy phương cách tốt nhất để phụng sự Chúa, không nhất thiết là phải từ bỏ mọi sự, không nhất thiết là quay lưng lại với thế gian, không nhất thiết là phải ẩn mình vào một tu viện nào đó, không nhất thiết là phải quỳ gối cầu nguyện lâu giờ, không nhất thiết là phải làm nên những công việc kỳ diệu.
Trái lại, phương cách tốt nhất để phụng sự Chúa, đó chính là phục vụ anh chị em của chúng ta, đặc biệt là những người bất hạnh và thiếu may mắn, bởi vì phục vụ anh em là phục vụ cho chính Chúa. Đây cũng là điều Ngài không ngừng xác quyết trong Phúc âm, nhất là qua đoạn Tin Mừng hôm nay.
Ngài nói: - Ai muốn là người đứng đầu, thì phải là kẻ rốt hết và làm việc để phục vụ mọi người.
Nơi khác, Ngài lại còn xác quyết mạnh mẽ hơn:
- Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Chính vì thế, trong bữa tiệc ly, Ngài đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ để dạy cho các ông bài học về tinh thần khiêm nhường và phục vụ:
- Các con gọi Ta là Chúa và là Thầy thì phải lắm. Thế nhưng, nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn quỳ xuống rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau…
Những Việt kiều khi về thăm quê hương, thường cho biết: tình hình đạo đức bên Tây phương có phần sa sút, người ta ít đi nhà thờ, ít lãnh nhận các bí tích. Thế nhưng về tinh thần bác ái và phục vụ thì họ lại hơn hẳn. Có những gia đình Mỹ, sẵn sàng đón nhận những người Việt Nam thất nghiệp, cho ở và nuôi ăn trong nhà mình. Chắc hẳn chúng ta khó mà thực hiện được như vậy.
Người Việt Nam chúng ta thường tự hào là đạo đức, vì rất siêng năng tham dự thánh lễ, tổ chức rước kiệu, dâng hoa kính Đức Mẹ, thế nhưng đó chưa phải là dấu hiệu để thiên hạ nhận biết người môn đệ của Chúa, vì:
- Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau.
Nếu như bây giờ chúng ta tạm gác bỏ những hình thức đạo đức bên ngoài ra một bên, để chỉ căn cứ vào tinh thần phục vụ, vào những hành động bác ái yêu thương, thì liệu chúng ta có còn là những môn đệ của Chúa nữa hay không?
51. Một ly nước lã
Một cậu bé nghèo làm nghề bán hàng rong để kiếm tiền ăn học. Một ngày nọ, cậu bé chỉ còn một hào trong túi, mà bụng thì đang đói, cậu ta đi đến nhà bên cạnh để xin ăn. Một phụ nữ trẻ đẹp ra mở cửa, nhìn thấy cậu bé. Cô ta đoán là cậu đang đói bèn mang cho cậu một ly sữa lớn. Cậu chầm chậm nhấp từng ngụm sữa rồi hỏi: Cháu phải trả cô bao nhiêu ạ? Người phụ nữ trả lời: Cháu không nợ cô cái gì cả. Mẹ cô đã dạy không bao giờ nhận tiền trả cho lòng tốt. Cậu bé cảm kích đáp: Cháu sẽ biết ơn cô từ sâu thẳm trái tim cháu. Khi ra đi, cậu cảm thấy khỏe khoắn hơn và niềm tin của cậu vào con người càng mãnh liệt hơn. Trước đó, cậu như muốn đầu hàng với số phận.
Nhiều năm sau, người phụ nữ bị ốm nặng. Các bác sĩ địa phương không chữa khỏi. Họ chuyển bà đến thành phố lớn để các chuyên gia nghiên cứu căn bệnh lạ lùng này. Tiến sĩ Howard Kelly được mời đến tham vấn. Ngay lập tức, ông khoác áo choàng và đi đến phòng bệnh của người phụ nữ nọ. Ông nhận ra ngay người ân nhân của mình năm xưa. Quay về phòng hội chuẩn, ông quyết định sẽ dốc hết sức lực để cứu sống bệnh nhân này.
Sau đó, tiến sĩ Howard Kelly đề nghị phòng y vụ chuyển cho ông hóa đơn viện phí của ân nhân để xem lại. Ông viết vài chữ và chuyển nó đến người phụ nữ. Bà nhìn tờ hóa đơn thầm nghĩ rằng, bà phải thanh toán nó cho đến hết đời cũng chưa xong. Bỗng nhiên, có gì đó khác thường khi bà nhìn thấy ngay dòng chữ: “Trị giá hóa đơn = một ly sữa”. ( trích câu chuyện tiến sỹ Howard Kelly).
Khi đọc câu chuyện này, chúng ta nhận ra được giá trị của việc làm phúc đức, bác ái dù nó là một ly sữa thôi, nhưng đã cứu cả mạng sống của một con người. Việc làm đó được ghi rõ trong Tin mừng của thánh Mác-cô: “ Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Ki-tô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”. Một chỗ khác Chúa Giê-su bảo: “ Khi Ta đói các người không cho ăn. Ta khát các người không cho uống...” Rõ ràng, điều kiện tiên quyết để được vào Nước Trời là thể hiện lòng bác ái, yêu thương tha nhân.
Thế nhưng, nhìn xung quanh ta, còn có biết bao người đang sống cảnh lầm than, đói khát, kiếm từng hạt cơm qua ngày. Người bán hàng rong, kẻ làm thuê, trẻ em đi bán vé xố... Sau một ngày vất vả, họ lại trở về trú ẩn trong mái nhà dột nát, khi gặp trời mưa, bão tố thì không có chỗ để che thân. Trong khi đó, có những kẻ thì dư thừa phung phí, họ vẫn dửng dưng trước những con người đang từng ngày từng giờ đi tìm miếng ăn dư thừa của kẻ giàu sang.
“Nếu anh em làm cớ cho kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển. Nếu tay anh em làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn có hai mắt mà bị ném vào hỏa ngục, nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề tắt”.
Khi nghe những lời răn đè này, chúng ta có suy nghĩ gì về số phận của con người?. Nếu hiểu theo nghĩa đen thì chắc hẳn con người trên thế gian này toàn là những người khuyết tật, bị cụt tay, què chân, mù mắt. Khi con người ta đang chạy theo sự văn minh của nhân loại, nhu cầu đời sống hưởng thụ càng ngày càng cao, thì con người ta lại đang mất dần niềm tin, họ không cần đến Chúa. Ngay cả những bậc làm cha mẹ cũng quên nhiệm vụ truyền đức tin cho con cái mình. Họ không còn thời gian để đến nhà thờ, đọc kinh dự lễ. Phải chăng đó là cái cớ cho kẻ khác vấp phạm! Có thể chúng ta không mù về thể lý, nhưng một cách nào đó chúng ta cũng đang bị mù tâm linh mới là điều đáng sợ nhất. Khi làm điều gian ác, nhưng người ta vẫn không cảm thấy là tội. Khi thấy người ta gặp tai nạn, nhưng ta vẫn đứng cười một cách vô tư. Một thái độ, một trái tim vô cảm thật là đáng sợ.
Nếu nói cái tay, cái chân, cái miệng và con mắt làm nên dịp tội, thì tội đó được xuất phát từ bên trong con người chúng ta. Theo lời của thánh Gia-cô-bê nói rất rõ: “Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em? Chẳng phải là bởi khoái lạc của anh em đang gây ra trong con người anh em đó sao?. Thật vây, anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết và ganh ghét; anh em xin mà không được vì anh em xin với tà ý”. Cho nên, chúng ta chỉ có thể chữa lành vết thương tâm hồn khi chúng ta ý thức được mình là kẻ có tội, cần được Chúa thứ tha với thật lòng ăn năn và sám hối thì mới có thể làm những việc lành và là tấm gương sáng cho người khác. Người ta không thể cho những cái mình không có. Chúng ta có thể rút lấy kinh nghiệm của thánh Augustino, ngài nói: “ Lòng con khuâng buâng khắc khoải đến khi nào được nghỉ yên trong Chúa”. Chính kinh nghiệm quá khứ tội lỗi của Augustino đã dạy cho ngài bài học quý giá của sự sám hối và trở về với Chúa. Vì Chúa cần chúng ta biết quay trở về cùng Chúa sau những lần lầm lỡ, nhờ đó, chúng ta biết cảm thông và chia sẻ nỗi khổ đau và bất hạnh của anh chị em đang cần lòng quảng đại của chúng ta.
Một ly sữa đã đổi lấy mạng sống một con người, thì ly nước lã dù cho người anh em uống thì cũng chẳng mất đâu. Đó là hứa của Chúa Giêsu cho những ai đặt niềm tin vào sự sống mai sau.
Lạy Chúa, đã biết bao lần tay con không biết nắm lấy một cụ già cần con dắt qua đường; đã biết bao lần chân con đi lạc bước vào những nơi tội lỗi xấu xa, và làm điều gian ác hại đến tha nhân; đã bao lần đôi mắt con thấy người ăn xin ven đường, nhưng chẳng biết xót thương. Thế là Chúa vẫn nói với con rằng: “Chỉ một ly nước lã thôi!”.
52. Khiêm tốn.
Khi người ta hỏi thánh Bernard về bốn nhân đức căn bản, thánh nhân trả lời: “Khiêm nhường, khiêm nhường, khiêm nhường và khiêm nhường”.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, trên đường đi đến Ca-pha-na-um, các môn đệ của Chúa Giêsu đang tranh luận với nhau để xem ai là người lớn nhất. Các môn đệ vẫn còn chưa rõ ngọn ngành về Chúa Giêsu và sứ vụ của Người. Ngay cả khi Chúa tiên báo lần thứ hai về việc Người sẽ bị phản bội và cái chết đang chờ Người ở Giêrusalem thì họ vẫn tiếp tục mơ mộng sẽ được chia sẻ vinh quang của Người, khi Người tuyên bố mình là Đấng Mêsia trong Thánh Kinh. Trong bài giảng của mình, cha Joseph Donders đã tưởng tượng về cuộc tranh luận giữa các môn đệ như sau: “Ông Phêrô nói đầu tiên: “Dĩ nhiên, không còn nghi ngờ gì nữa, tôi là nhân vật quan trọng nhất. Thầy đã chẳng gọi tôi là Đá Tảng, và Thầy sẽ xây Giáo hội của Thầy trên Đá này hay sao?”
Ông Gioan không chịu nên nói: “Tôi xin lỗi anh. Điều anh vừa nói thì có đấy. Nhưng vấn đề không thuộc lãnh vực quản trị hành chánh. Dù anh là người quản trị giỏi, nhưng không có nghĩa là anh trở thành nhân vật quan trọng nhất đối với những người khác. Anh phải nhìn ra một điều khác còn quan trọng hơn nữa. Đó là tình yêu của Thầy. Tôi là người được Thầy yêu mến nhất đấy”. Ông Giuđa Iscariot nói: “Nhân vật quan trọng nhất trong nhóm phải là người thủ quỹ. Thế giới này được điều khiển bằng tiền bạc. Thế nhưng, ai là người được Thầy tín nhiệm giao cho giữ túi tiền?”
Ông Philipphê nói: “Các anh có nhớ câu chuyện khi Thầy phải lo bánh ăn cho đám đông dân chúng trong hoang địa hay không? Hàng ngàn người theo Thầy, hăm hở chờ đợi những lời khôn ngoan của Thầy. Không ai biết phải làm gì. Lúc đó, Thầy đã quay sang tôi để hỏi ý kiến. Tôi xin lỗi các anh, nhưng thật sự Thầy đã hỏi ý kiến của tôi!”
Trong thời đại của chúng ta, khiêm nhường là nhân đức bị hiểu lầm nhiều nhất. Khiêm nhường bị coi như là sự yếu đuối. Sống khiêm nhường không có nghĩa là để thuộc cấp chèn ép hay sống theo mặc cảm tự ti. Khiêm nhường không phải là như thế. Con người khiêm nhường biết chỗ đứng của mình và đứng vào chỗ đó. Nếu người khiêm nhường được yêu cầu đứng ra điều khiển, cai trị, họ sẽ làm việc đó. Khi họ được yêu cầu phục vụ kẻ khác, họ sẽ phục vụ. Nhưng cả trong những ngày giờ huy hoàng nhất, người khiêm nhường luôn nhớ rằng tất cả những gì mình là, hay mình có đều đến từ Thiên Chúa.
Nhưng vì tự ái kiêu căng, nên rất ít người tập được nhân đức khiêm nhường. Thánh Phanxicô Salêsiô đã nói: “Mười lăm phút sau khi bạn đã chết, thì tính kiêu ngạo mới chết”.
Lạy Chúa, xin ban cho con đức khiêm nhường để con luôn bước đi bên Chúa và có Chúa ra tay bảo vệ con trong những lúc ngặt nghèo.
53. Phục vụ.
Trong ba năm giảng dạy công khai của Chúa Giêsu, các sách Tin Mừng thuật lại ba lần Chúa Giêsu báo trước cuộc thương khó Ngài phải chịu ở Giêrusalem. Mỗi lần đều đặt trong một khung cảnh khác nhau và lời loan báo cũng hơi khác nhau. Nhưng cũng như đại đa số người Do Thái không hiểu, không hề có ý tưởng về một vị cứu thế bị đau khổ, bị đóng đinh, các tông đồ cũng vậy, không hiểu và nhất là không muốn tin. Các ông chỉ mường tượng đến một nước trần gian vật chất, danh vọng, uy quyền, giầu có, nhiều lần các ông đã bộc lộ niềm mơ ước đó. Mỗi lần nghe biết như vậy Chúa buồn lắm, nhưng Ngài kiên nhẫn cải chính quan niệm sai lầm của các ông, đồng thời Ngài nhắc lại cho các ông bài học cốt tử mà Ngài đã dạy dưới nhiều hình thức khác nhau, đó là bài học khiêm nhường và phục vụ. Cụ thể như bài Tin Mừng hôm nay: ngay sau khi Chúa báo trước về cuộc khổ nạn của Ngài, các tông đồ không hiểu, lại tranh cãi nhau về ngôi thứ, cấp bậc. Nhân dịp này Chúa dạy các ông: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết và phục vụ mọi người. Rõ ràng Chúa muốn dạy về sự khiêm nhường và phục vụ. Chúng ta hãy tìm hiểu thêm.
Một hôm, Hồ Khưu Trượng hỏi Tôn Thúc Ngao: “Có ba điều chuốc oán, ông đã biết chưa?”. Họ Tôn trả lời: “Tôi chưa được biết”. Trượng Nhân nói: “Tước vị cao người ta ganh, quyền thế lớn người ta ghét, lợi lộc nhiều người ta oán”. Tôn Thúc Ngao lắc đầu nói: “Không phải luôn luôn như thế, tước vị tôi càng cao tôi càng xử nhún nhường, quyền thế tôi càng lớn tôi càng ở khiêm cung, lợi lộc tôi càng nhiều tôi càng chia bớt cho những người chung quanh, như thế thì làm gì bị oán thù của thiên hạ”. Rất đúng.
Đức Khổng Tử cũng đã dạy các đồ đệ của ông như vậy. Một hôm, Khổng Tử tới thăm miếu vua Hoàn Công, thấy một chiếc lọ đứng nghiêng nghiêng, ngài hỏi, thì người giữ miếu cho biết: “Cái lọ này là một bảo vật, thuở trước nhà vua thường để bên ngai vàng hầu làm gương”. Khổng Tử liền hỏi: “Ta vốn nghe đồn nhà vua có một bảo vật, bỏ không thì nghiêng, đổ nước vào vừa phải thì đứng thẳng, mà đổ nước đầy thì lại ngã, có phải là vật này chăng?”. Rồi ngài bảo các đồ đệ múc nước thí nghiệm, thì quả nhiên đúng như thế. Bấy giờ ngài mới trịnh trọng giảng dạy: “Thông minh hiểu biết hơn người thì nên giữ bằng cách khiêm cung, sức khỏe hơn người thì nên giữ bằng cách nhút nhát, giàu có nhiều thì nên giữ bằng cách bố thí và tỏ ra nhún nhường. Đó là lối san sẻ bớt đi để khỏi đầy tràn mà sụp đổ vậy”.
Cũng thế, Chúa Giêsu không những không chấp nhận khuynh hướng xấu của loài người là muốn thống trị, muốn ăn trên ngồi trước mà Ngài còn đưa ra một đề nghị thật khác thường: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết và phục vụ mọi người”. Sau lời dạy bảo ngắn gọn này, Ngài gọi một em nhỏ đến, đặt em đứng giữa các môn đệ, và sau khi ôm em vào lòng, Ngài nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy là tiếp đón chính Thầy”.
Chúa Giêsu đưa em nhỏ ra đây để tượng trưng cho cái gì? Và tiếp đón ở đây nghĩa là gì? Chúng ta biết: trong xã hội Do Thái, đàn bà và trẻ em bị coi là không đáng kể, trẻ nhỏ là thành phần không có chỗ đứng trong xã hội. Chúa Giêsu ôm em nhỏ vào lòng, đó là một cử chỉ chứng tỏ sự quý mến, tiếp nhận. Tiếp nhận một em nhỏ như thế chắc chắn không phải để em nhỏ đó phục vụ mình, nhưng là phục vụ em nhỏ đó. Em nhỏ đây là hình ảnh tượng trưng cho những người tầm thường, nghèo hèn, thấp cổ bé họng, không đáng kể trước mặt người đời. Nhưng một người như thế được Chúa Giêsu coi là chính Ngài, đón tiếp người ấy là đón tiếp Ngài. Hơn nữa, giúp đỡ và yêu thương những người như thế là giúp đỡ và yêu thương chính Ngài. Điều này chúng ta thấy rõ ràng hơn trong đoạn Tin Mừng Chúa Giêsu nói về ngày chung thẩm. Chúa đánh giá rất cao những người thể hiện tình yêu thương giúp đỡ người khác, và Chúa căn cứ vào đó để thưởng hay phạt. Vậy đừng sợ làm người rốt hết và làm người phục vụ mọi người, nhất là những người bé nhỏ, tầm thường, nghèo hèn, bởi vì phục vụ một người như thế là phục vụ Chúa Giêsu và phục vụ chính Thiên Chúa.
Thực vậy, đối với Chúa, người làm lớn sẽ là người phục vụ người khác, và đối tượng được phục vụ là những người nhỏ nhất, tức là những người hèn kém, những người nghèo khổ, và phục vụ họ là phục vụ Chúa. Như vậy, chúng ta có phục vụ ai chính là vì chúng ta muốn phục vụ Chúa Giêsu trong họ, và chúng ta có được ai phục vụ thì cũng chỉ vì họ đang phục vụ Chúa Giêsu nơi chúng ta. Cho nên, điều quan trọng không phải là làm lớn hay làm nhỏ mà là chúng ta có phục vụ không và phục vụ với tinh thần như thế nào?
Tóm lại, Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy sống khiêm nhường và sẵn sàng phục vụ lẫn nhau, nhất là những người hèn kém, nghèo khổ, bất hạnh. Chúng ta hãy nhớ: tất cả chúng ta đang sống là để phục vụ nhau, cuộc sống chỉ đáng sống khi sống để phục vụ người khác, và như thế cũng là đang phục vụ Thiên Chúa. Một cuộc sống như thế cao đẹp và có ý nghĩa biết bao. Xin Chúa cho chúng ta luôn có tinh thần khiêm nhường và phục vụ như thế.
54. Đường lối Chúa.
Trong Cựu ước, có lần Thiên Chúa đã xác quyết:
- Tư tưởng và đường nẻo của Ta không giống với tư tưởng và đường nẻo của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu, thì tư tưởng và đường nẻo của Ta cũng cao hơn tư tưởng và đường nẻo của các ngươi bấy nhiêu.
Lời xác quyết này được chứng thực qua đoạn Tin Mừng hôm nay. Một bên là đường nẻo của các môn đệ, những người đã bước theo Chúa. Còn một bên là đường nẻo của Chúa, vị Thầy của các ông.
Trước hết là đường nẻo của các môn đệ.
Mặc dù các ông đã mau mắn đáp trả lời mời gọi của Chúa, bằng cách từ bỏ ghe thuyền, chài lưới, nghề nghiệp và những người thân yêu… Thế nhưng, đầu óc của các ông vẫn còn mang nặng tinh thần thế gian.
Các ông mơ tưởng Chúa chính là vị cứu tinh, nhưng lại là một vị cứu tinh trong phạm vi chính trị và xã hội. Vị cứu tinh ấy phải mạnh mẽ như Đavid với binh đội hùng hậu và chiến xa ngập trời. Vị cứu tinh ấy sẽ đến để giải thoát dân tộc họ khỏi ách thống trị của đế quốc La mã và dẫn đưa đất nước họ bước vào một thời đại hoàng kim khiến cho muôn dân phải suy phục họ.
Lúc bấy giờ, các ông sẽ được chia chác phần bổng lộc và chiếm giữ những địa vị quan trọng trong vương quốc của Chúa.
Vì thế, hôm nay cũng như nhiều lần khác, các ông đã tranh cãi xem ai là sẽ là người làm lớn và chiếm chỗ nhất. Thậm chí có lần Giacôbê và Gioan đã nhờ người mẹ đến xin cho được ngồi bên tả và bên hữu trong vương quốc của Chúa.
Đang khi đó, lập trường của Chúa Giêsu thì hoàn toàn trái ngược.
Ngài là vị cứu tinh trong phạm vi thiêng liêng. Ngài đến để giải thoát con người khỏi án phạt của tội lỗi bằng chính cái chết của Ngài trên thập giá. Chính vì thế, qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Ngài đã tiên báo cho các môn đệ:
- Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Ngài và ba ngày sau Ngài sẽ sống lại.
Lần khác Ngài đã xác quyết:
- Con Người đến không phải để được phục vụ nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Ngài đã nói và đã làm như vậy. Trong bữa Tiệc ly, Ngài đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ và nói với các ông:
- Nếu Ta là Thầy và là Chúa mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.
Rồi ngày hôm sau, trên đỉnh đồi Canvê, Ngài đã chịu đóng đinh vào thập giá và đã đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng để lập nên kho tàng ơn cứu độ như lời Ngài đã phán hứa.
Chúa Giêsu đã đi con đường phục vụ. Và cao điểm của con đường này chính là cái chết trên thập giá, bởi vì không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Với chúng ta cũng vậy, để trở thành môn đệ của Chúa, chúng ta không có một con đường nào khác, ngoài con đường phục vụ, ngoài con đường thập giá.
Để kết luận, chúng ta hãy ghi nhớ và thực thi lời Chúa: Ai muốn làm đầu thì phải làm kẻ rốt hết và trở nên tôi tớ Phục vụ cho mọi người.
55. Đầy tớ.
Bài Tin Mừng này có ba phần nhưng chỉ diễn tả một vấn đề, một bài học, đó là hãy sống khiêm nhường phục vụ mọi người với tinh thần chí công vô tư.
Trước hết, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết về cuộc khổ nạn của Ngài. Trong ba năm giảng dạy, Chúa Giêsu đã nói trước về vấn đề này ba lần. Bài Tin Mừng này là lần thứ hai. Chúng ta thấy các môn đệ không muốn nghe, lại còn vô tâm tranh giành với nhau ngôi thứ xem ai sẽ làm lớn hơn. Đó là hai thái độ trái ngược rõ rệt: Chúa Giêsu thì quyết tâm đi vào con đường từ bỏ, khổ giá, chịu xỉ nhục để phục vụ và hiến cả mạng sống cho mọi người. Ngược lại, các môn đệ lại sợ khổ, sợ khó, không muốn phục vụ anh em mà chỉ thích làm lớn, muốn địa vị cao… Thấy tâm trạng các môn đệ chưa ổn, chỉ hám danh, ham nổi, Chúa phải họp các ông lại trong vòng thân mật và giải thích thêm: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”.
Chúa đã khẳng định: có quyền hành là có cơ hội, có phương tiện phục vụ tốt hơn, rộng rãi hơn và đạt tới nhiều người hơn, chứ không phải chỉ để tô điểm cho cá nhân thêm tự đắc, tự phụ, bắt người khác kính nể và phục dịch mình; hoặc dùng người dưới như phương tiện để củng cố địa vị vàlợi lộc cho mình. Vậy, càng làm lớn, càng ở địa vị cao, càng có trách nhiệm thì càng phải phục vụ và lo cho người khác nhiều hơn.
Rồi, để cho các môn đệ hiểu rõ hơn và nhớ kỹ hơn, Chúa Giêsu gọi một em nhỏ đến, đặt em giữa các ông, sau khi ôm em vào lòng, Chúa nói: “Quả thật, Thầy bảo các con, nếu các con không thay đổi và trở nên như những trẻ nhỏ, thì các con chẳng được vào nước trời”. Qua em nhỏ này Chúa muốn chỉ cho các môn đệ thấy hình ảnh đáng yêu và cảm động nhất của sự quên mình, của lòng khiêm nhường và tùng phục, nghĩa là Chúa bảo: nếu chúng ta không trở nên đơn sơ, khiêm nhường, không chút tham vọng, tự đắc như bản tính trẻ em, thì không những chúng ta sẽ mất chỗ nhất trong nước trời mà còn không được vào nữa.
Sau đó, Chúa còn dạy về tình bác ái huynh đệ. Thay vì nghĩ đến mình, thay vì qui mọi sự về mình, chúng ta hãy nghĩ đến kẻ khác, hãy giúp đỡ người khác, vì Chúa coi tất cả những gì chúng ta làm cho người khác là làm cho Chúa. Lời nhắn nhủ này đưa chúng ta tới những cử chỉ cao đẹp: yêu mà không mong được yêu lại, hy sinh mà không cần ai biết đến. Đó mới là tình thương chân thực, cao thượng và vô vị lợi: chí công vô tư.
Bài học Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta thật rõ ràng: thích ngồi chỗ cao, thích được khen ngợi, thích làm lớn và ưa địa vị quan trọng. Đó là cái tật cố hữu của loài người từ ngày tạo thiên lập địa, chứ không phải chỉ là tật xấu của các môn đệ Chúa Giêsu. Tật xấu này trái ngược với tinh thần Tin Mừng, Chúa bảo chúng ta phải loại bỏ, vì Tin Mừng chủ trương sống khiêm nhường, quên mình, quảng đại, coi mình không là gì hết, bởi vì hễ ai trở nên bé nhỏ trước mặt loài người, kẻ ấy sẽ được đề cao trước Thiên Chúa. Lòng khiêm nhường ở đời này là điều kiện và là mức đo sự cao trọng trong nước trời.
Chúng ta sống sau những biến cố đau thương của Chúa, chúng ta suy niệm, học hỏi những biến cố đó. Thế nhưng sau đó chúng ta vẫn còn tranh giành địa vị lớn nhỏ: những chuyện tranh giành ngôi thứ trong các giáo xứ, trong các đoàn thể, mệnh danh là thuộc Kitô giáo, tức là các môn đệ của Chúa Kitô. Chúng ta thấy nhiều nơi còn phản ảnh tâm trạng của các môn đệ xưa kia. Chung qui cũng tại bản năng muốn ăn trên ngồi trước, muốn thống trị người khác mà thời đại nào cũng thế. Có điều cần lưu ý và cũng đáng khiển trách là ngày nay, sau khi đã được thấm nhuần ơn cứu chuộc, đã được ơn Chúa Thánh Thần trợ lực… điều mà xưa kia, lúc Chúa Giêsu báo trước cuộc tử nạn, các môn đệ chưa được, thì đáng lẽ ra chúng ta phải sống đúng tinh thần của Chúa hơn mới hợp lý. Nhưng đâu vẫn còn đó: những kẻ muốn làm lớn thì nhiều vô số, còn những kẻ bằng lòng thực hiện theo đường lối của Chúa là làm đầy tớ mọi người thì rất ít.
Quả thực, Chúa Giêsu không những không chấp nhận khuynh hướng xấu của loài người là muốn thống trị, muốn ăn trên ngồi trước, mà Ngài còn đưa ra một đề nghị thật chói tai: “Hãy làm đầy tớ mọi người”. Chúa đã dạy một điều rất hợp tình, hợp lý và nhất là hợp với tinh thần siêu nhiên: hợp tình, vì tất cả mọi người đều mến thương những ai có địa vị, có quyền hành mà đồng thời lại có tinh thần phục vụ. Ngược lại, ai cũng ghét những kẻ hách dịch, kiêu ngạo. Hợp lý, vì danh và gánh nặng trách nhiệm hay bổn phận phải đi đôi với nhau: “Càng cao danh vọng càng dày gian lao”. Hợp tinh thần siêu nhiên, vì Chúa Kitô là Thầy và là Chúa đã chủ trương, đã khuyên nhủ và thực sự đã sống như người phục vụ mọi người, thì các môn đệ của Chúa không thể sống khác được, nếu không muốn trở thành một bằng chứng phản lại Chúa.
56. Tham vọng.
Không có gì sai trái nếu người ta có tham vọng. Dĩ nhiên, có tham vọng, có những mục tiêu, những ước muốn tốt, hành động tốt để thành công là điều đáng khuyến khích. Nhưng tham vọng có thể không còn được kiểm soát. Nó có thể làm cho chúng ta quên đi mọi việc khác đang lúc theo đuổi sự thành công trong việc kinh doanh hoặc nghề nghiệp.
Tuy nhiên, chúng ta phải cẩn thận với những gì mà chúng ta hy sinh khi theo đuổi những mục tiêu của mình. Chúng ta có thể hy sinh đời sống gia đình, lòng nhân ái và cả chính đời sống. Xu thế và tham vọng có thể khiến người ta đối xử với những người khác một cách hung dữ và bất công. Nếu chúng ta được cả thế giới mà làm mất chính mình nào có ích lợi gì?
Trong Tin Mừng, chúng ta thấy các tông đồ cãi nhau xem ai là người đứng nhất trong vương quốc của Đức Giêsu. Cảnh tượng ấy không có tính xây dựng. Việc họ vẫn còn xu thế ích kỷ và tham vọng sai lầm chứng tỏ họ học tập nơi Đức Giêsu còn quá ít. Điều đó cho thấy sự hiểu lầm của họ về sứ mạng của Người còn nghèo nàn biết bao. Đức Giêsu kêu gọi họ hãy cùng nhau ngồi lại và cho họ một cách hiểu về ý nghĩa thật của sự cao cả.
Đức Giêsu đã không phá bỏ tham vọng. Đúng ra, Người định nghĩa nó lại. Người lấy tham vọng phục vụ người khác thay cho tham vọng thống trị họ. Người lấy tham vọng làm việc cho người khác thay cho tham vọng bắt người khác làm việc cho mình. Vì thế Người không lên án chính tham vọng mà lên án tham vọng sai lầm.
Tham vọng sai lầm thì rất tai hại cho sự đoàn kết của cộng đoàn. Nó bắt nguồn từ tính ganh tỵ và ích kỷ. Và kết quả của nó là mọi thứ hành động xấu xa. Cũng như bạo lực và xấu xa trong xã hội chúng ta là kết của của tham lam và ích kỷ. Tự tư, tự lợi gây ra xung đột và thường dẫn đến những sự chia rẽ đau đớn.
Có một hình thức tốt đẹp của tham vọng mà các Kitô hữu không nên tránh xa. Đức Giêsu không nói với các tông đồ rằng họ không nên tìm kiếm sự cao trọng trong vương quốc của Người. Người chỉ cho họ thấy phải tìm sự cao trọng thật ở đâu. Người ta không tìm thấy sự cao trọng thật bằng cách làm ông chủ của người khác, nhưng đúng hơn làm tôi tớ cho mọi người, đặc biệt cho những thành viên yếu ớt hơn trong cộng đoàn.
Phục vụ cho người cao trọng dễ dàng hơn, vì chúng ta cảm thấy vinh dự qua việc hợp tác với họ, và có nhiều cơ hội tốt hơn được tưởng thưởng. Nhưng thử thách thật sự là phục vụ người hèn mọn, những người mà chúng ta không thể chờ đợi bất cứ sự trưởng thành nào. Đức Giêsu nói “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy là tiếp đón chính Thầy…” “Tiếp đón” ở đây có nghĩa là phục vụ với lòng yêu thương. Và “em nhỏ” này có nghĩa là những thành viên yếu ớt nhất của cộng đoàn, những người nghèo túng nhất. Sự phục vụ đem lại cho người bé mọn nhất là tốt hơn cả. Chúng ta cũng có những lời như thế trong cảnh phán xét cuối cùng: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”.
Đức Giêsu đã tự mình làm gương. Dù Người có quyền bính từ Thiên Chúa, Người không bao giờ sử dụng quyền bính ấy để thống trị những người khác. Trái lại, Người đã dùng nó để phục vụ những người khác. Và sự phục vụ này được hướng đến người nghèo, người bệnh hoạn, người tàn tật, người bị gạt ra bên lề xã hội…
Người thật sự cao cả, được người ta nhớ lại một cách trìu mến, không phải là những người đề cao chính mình hoặc lợi ích của mình nhiều hơn, nhưng đúng hơn là những người hiến dâng chính mình và xúc tiến những lợi ích của cộng đoàn.
Sự phục vụ này hàm ý rằng bạn không ở đó vì chính bạn. Bạn ở đó vì người khác. Để phục vụ, người ta phải từ bỏ chính mình rất nhiều. Một người phục vụ phải coi việc mình phải phục vụ người khác là một việc đương nhiên không cần bàn cãi.
57. Người nào.
Khi Nelson Mandela là một sinh viên luật ở Johannes bourg, ông có một người bạn tên Paul Mahabane. Ông này là thành viên của hội đồng Quốc gia Châu Phi (ANC), và nổi tiếng là một người cấp tiến. Một ngày nọ khi hai người bạn đứng bên ngoài một bưu điện thì một ông quan tòa địa phương, một người da trắng ngoài sáu mươi đến gần Mahabane yêu cầu ông đi vào bên trong bưu điện mua giùm ông ít con tem. Hồi đó, việc một người da trắng gọi một người da đen lại để làm một việc vặt là chuyện bình thường. Paul từ chối. Ông quan tòa bị tổn thương.
“Mày có biết tao là ai không?” Ông nói, mặt đỏ lên và giận dữ.
“Tôi không cần biết ông là ai “. Mahabane đáp lại. “Tôi biết ông là gì”.
Ông quan tòa lồng lộn lên và nói: “Mày phải trả giá đắt về việc này”. Nói xong ông ta bỏ đi.
Người da trắng ấy tin chắc rằng mình có địa vị cao hơn Mahabane chỉ vì ông là quan tòa. Và rõ ràng điều đó đã trở thành bản tính thứ hai của ông khi ông chờ đợi những người khác phục vụ ông, đặc biệt khi họ là da đen.
Chúng ta thường xác định và đánh giá người khác bằng những từ ngữ chỉ công việc họ làm. Vì thế, nếu chúng ta biết rằng một người là bác sĩ, sự đánh giá của chúng ta về người ấy sẽ bay bổng lên. Nhưng nếu chúng ta biết rằng một người chỉ là công nhân bình thường, sự đánh giá của chúng ta hạ xuống đất đen. Điều này đã không công bằng mà còn ngớ ngẩn. Có một điều quan trọng hơn cả công việc tức là đằng sau công việc, một người là loại người nào.
Các tông đồ đã mắc sai lầm là đặt nặng vào công việc hoặc vào địa vị trước tiên. Trong mắt họ, người lớn nhất là người có địa vị cao nhất ở giữa họ. Rõ ràng họ đã nghĩ rằng Đức Giêsu sẽ thiết lập một vương quốc ở trần gian và vì thế mỗi người muốn có được vị trí cao nhất trong vương quốc của Người.
Nhưng Đức Giêsu đã nói với họ rằng vương quốc của Người không phải là để tìm kiếm danh dự và vinh quang cho mình mà là để phục vụ người khác. Nếu họ sẵn sàng phục vụ người khác, thì chắc chắn họ có thể ở một vị trí cao nhất trong vương quốc của Người. Nhưng họ không nên ngồi ngất ngưởng trên ghế nệm. Họ nên quỳ gối, một tay bưng chậu nước, tay kia cầm khăn để rửa chân cho “những người nhỏ bé nhất”. (Những thành viên yếu ớt nhất của cộng đoàn).
Điều quan trọng không phải là chúng ta làm gì mà chúng ta là gì? Giá trị bản thân của một người không lệ thuộc vào công việc mà người ấy làm. Có thể có một thái độ về giá trị bản thân và sự thành tựu bất chấp người ta làm gì để sinh sống.
Ngày nay, người ta nói nhiều về lòng tự trọng. Và thật vậy bởi vì đó là một điều khá căn bản. Nhưng nếu chúng ta muốn cảm thấy tự hào về mình, chúng ta phải làm những việc đáng để tự hào. Cảm nhận phải theo sau hành động. Vậy phải là những loại hành động nào. Đức Giêsu nói rõ với chúng ta. Đó là những hành động yêu thương và phục vụ. Người đã đem chính mình để làm gương. Người đã hiến dâng mạng sống mình để phục vụ những người khác. Không một ai có thể cao cả hơn thế. Người là Đấng cao cả nhất (Đấng Tối Cao) trong Nước Trời.
58. Người lớn nhất – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Một linh mục kể lại câu chuyện đầy kịch tính sau đây:
Tại một vùng hoang dã, những tay giang hồ tứ chiếng tập trung trong một khu trại. Một phụ nữ duy nhất sống giữa đám đàn ông sa đọa. Ban ngày cuốc xới bới tìm, đêm về là rượu chè bài bạc. Người phụ nữ đã gian díu với một tay quái nào đó và đang mang thai. Ngày sinh con, chị suy nhược không chịu nổi phút thử thách đã chết trên giường sinh.
Biến cố này bắt những tay giang hồ phải suy nghĩ một cái gì khác hơn là chuyện tranh chấp vàng bạc, rượu chè. Thơ nhi được đặt nằm trên tấm ván cạnh xác người mẹ. Bên dưới người ta đặt một cái nón ngửa để nhận quà tặng. Chiếc nón đầy đồng hồ, dây chuyền, nhẫn cưới, đồng vàng. Tất cả quà tặng dùng để chôn xác người mẹ xấu số và nuôi đứa bé thơ dại. Một ông già tình nguyện lo cho cháu nhỏ.
Người ta vô cùng bỡ ngỡ là ngày góp mặt đứa bé trong trại, cuộc sống đám quái đã đổi hẳn. Họ bỏ đánh bạc đêm để cho em bé ngủ yên, dừng lại những câu tục tĩu khi ở trước mặt bé, những nụ hôn thắm thiết như mưa trên nét mặt vô tội.
Một hôm vỡ đê, nước cuồn cuộn tràn lều. Nhảy khỏi giường, ai cũng đến tìm bé. Không ngờ bé và cụ già bố nuôi đã bị cuốn trôi lúc nửa đêm. Hai tay bé vẫn níu chặt cổ bố. Ngày đào hố chôn hai xác thiên thần cũng là ngày những người trong trại giang hồ chôn hết quá khứ. Họ vẫy tay, từ giã nhau mỗi người về một nẻo. Có phải chính nét thơ ngây thiên thần kia làm cho khách giang hồ trực cảm được một ý nghĩa cao đẹp trong cuộc đời trôi nổi phi lý đó? Có phải chính ánh mắt, nụ cười, nét đẹp thiên thần đã khơi một hương sống mới lạc quan và tươi vui hơn.
***
“Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy là đón tiếp chính mình Thầy” (Mc.9,37).
“Trẻ nhỏ” ở đây được xem là những người không quan trọng, không đáng kể, không cần lưu ý; những người nghèo hèn, tàn tật, bị bỏ rơi. Đức Giêsu muốn đồng hòa với những con người bất hạnh ấy, để khi đón tiếp họ, chúng ta hoàn toàn vô vị lợi, vì không mong chờ sự đáp trả của những kẻ khốn khổ ấy. Đó chính là sứ điệp mà Đức Giêsu muốn gởi tới chúng ta qua bài Tin mừng hôm nay.
Người còn khẳng định: “Ai muốn làm lớn nhất hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người” (Mc.9,35). Với tinh thần phục vụ vô vị lợi, chúng ta thực sự lớn lên trước mặt Thiên Chúa và anh em. “Người lớn nhất” là người phục vụ nhiều nhất, hăng say nhất. “Người lớn nhất” là người làm trước nhất và nghỉ sau cùng.
Đó là một cuộc cách mạng về quan điểm “Người lớn nhất” nơi Đức Giêsu. “Người lớn nhất” theo kiểu của Đức Giêsu không dùng quyền để lãnh đạo, nhưng dùng đôi tay để phục vụ. “Người lớn nhất” không dùng sức mạnh để chỉ huy, nhưng dùng con tim để yêu thương. Thế giới ngày nay rất cần những người đứng đầu theo kiểu mẫu ấy: khiêm tốn, phục vụ, và yêu thương. Bourdaloue có nói: “Đặt mình trên kẻ khác chính là tự buộc mình làm việc và phục vụ họ”. Nhà truyền giáo Albert Schweitzer nói: “Người hạnh phúc nhất trong anh em là người đã tìm thấy con đường hiến thân phục vụ”.
Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng là người đứng đầu trong một tập thể nhỏ bé nào đó, xin cho chúng con biết dùng quyền hạn của mình để phục vụ những người Chúa giao phó cho chúng con. Nhất là xin cho chúng con luôn thao thức, làm cho họ ngày càng được an vui và hạnh phúc hơn. Amen.
59. Bách hại.
Dân Thiên Chúa luôn luôn phải chịu đau khổ bởi bàn tay bọn người xấu. Họ đau khổ bởi vì đời sống vô tội của họ là một lời trách mắng kẻ xấu. Họ làm cho những kẻ xấu bị phiền nhiễu bằng những lời nói chống lại bất công và tội lỗi, và một đôi khi chỉ vì lòng nhân ái và chính trực trong đời sống của họ. Rõ ràng họ đau khổ chỉ vì họ tốt lành.
Elie Wiesel (nhà văn Do thái và là người được giải thưởng Nobel về hòa bình) kể lại một câu chuyện làm người ta rất lo âu trong một cuốn sách của ông. Một lần nọ, sau khi ra về từ một buổi thuyết trình ở New York, ông gặp một người đàn ông có vẻ quen quen. Ông liền tự hỏi người đàn ông này là ai và trước đây họ gặp nhau ở đâu. Bấy giờ ông nhớ lại. Ông đã biết ông ấy ở Auschwitz. Thình lình một biến cố có liên quan đến người đàn ông ấy hiện về với ông.
Ngay sau khi những trẻ em được xe lửa đưa đến trại tập trung Auschwitz cùng với những người già và người bệnh. Lập tức các em được chọn lựa để đưa vào phòng hơi ngạt. Trong một lần kia, một nhóm các em được hoãn việc hành hình qua hôm sau. Người đàn ông này đã xin lính gác cho ông được ở lại với các em đó trọn đêm cuối cùng của chúng trên cõi đời này. Những lính gác ngạc nhiên nhưng chấp thuận lời thỉnh cầu. Đêm cuối cùng ấy trôi qua như thế nào? Ông bắt đầu kể cho các em nghe những câu chuyện, cố làm cho chúng vui vẻ lên. Tuy nhiên thay vì làm chúng vui lên, ông chỉ có thể làm cho chúng kêu khóc. Vậy, ông và chúng đã làm gì? Ông và bọn trẻ cùng nhau khóc cho tới khi trời sáng. Lúc đó ông tiễn đưa những con người nhỏ bé đến phòng hơi ngạt. Sau đó, ông quay về sân nhà tù để báo cáo công việc khi những người lính gác thấy ông, họ phá ra cười.
Câu chuyện này đóng góp nhiều cho các bài đọc của chúng ta. Chúng ta thấy trong đó sự vô liêm sỉ của kẻ làm ác, sự bách hại người vô tội, và chiến thắng bề ngoài của điều ác, đây là chủ đề của bài đọc 1. Câu chuyện cũng đưa ra một tấm gương tuyệt vời về phục vụ dành cho những người bé mọn, điều này Đức Giêsu đánh giá cao và được Tin Mừng làm nổi bật.
Hành động phục vụ anh dũng của người đàn ông đối với những người bé mọn tỏa ra mọi vẻ rực rỡ của nó trên một hậu cảnh tối đen. Ở Auschwitz, mọi điều gì tốt đẹp và tử tế đều bị chà đạp dưới đất. Ở đó, lợi ích của chính mình là tên gọi của trò chơi. Lòng thương xót hiếm hoi như một cánh hoa ở giữa mùa đông.
Tuy nhiên, người đàn ông ấy vượt lên trên mọi điều đó. Ông đánh liều mạng sống mình để giúp đỡ những người bé mọn như những bạn bè. Ông không có một lời giải đáp nào cho họ, không đem đến cho họ một sự cứu thoát nào. Tất cả những gì ông có thể làm là ở cùng bọn trẻ trong những giờ cuối cùng để bọn trẻ không chịu đau khổ một mình.
Ông là một người giống Đức Kitô. Ông không tham gia vào điều xấu. Ông cũng không đứng yên và nhìn người khác đau khổ mà không cố gắng làm dịu bớt những đau khổ của họ. Dù rằng ông chỉ là một tù nhân bình thường, không địa vị, không quyền thế, nhưng không chút nghi ngờ, ông là người cao trọng nhất trong nơi buồn thảm ấy vào thời điểm buồn thảm ấy. Điều làm cho ông vĩ đại, chính là lòng nhân hậu của ông.
Đức Kitô đúng là Đấng cao cả nhất. Dù vậy Người cũng đã đau khổ. Suốt trong sứ vụ công khai, Người bị những kẻ thù săn đuổi. Sở dĩ như thế vì Người quá tốt lành, quá công chính đến nỗi họ nhìn thấy rõ. Nhưng đặc biệt khi ở trên thập giá, Người đã chịu đau khổ vì những lời chửi rủa của những kẻ thù và những kẻ vô thần.
Đức Kitô đã chiến thắng, không phải bằng cách tránh né điều xấu, nhưng bằng cách đối đầu nó và vượt qua nó. Người đã đem lại lòng can đảm và hy vọng cho tất cả những người hiến dâng chính mình cho người khác vì một lý do chính đáng.
Sự bách hại luôn luôn là số phận của những người ngay thẳng trung trực. Tuy nhiên, nó cho họ cơ hội để biểu lộ lòng can đảm của họ. Mặt khác, người công chính biết rằng Thiên Chúa ở bên cạnh họ. Kinh tin kính của người chính trực là niềm tin không lay chuyển của họ vào tình yêu mà Thiên Chúa cho họ. Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi người chính trực, nhưng là phần thưởng của họ ở trong cuộc sống mai sau.
“Ngày thứ ba, Người sẽ chỗi dậy”. Sự sống lại bảo đảm cho chúng ta chiến thắng sau cùng của điều thiện trên điều ác, của sự sống trên sự chết.
60. Tính ganh ghét.
Trong lúc Đức Giêsu gần tới giai đoạn quyết liệt nhất của cuộc đời là sắp bị bắt và chịu chết để chuộc tội loài người, thì các tông đồ lại còn ganh ghét nhau, tranh giành địa vị với nhau xem ai lớn ai nhỏ trong nước mà họ tưởng Chúa sẽ thành lập. Như thế đủ biết cái tính ganh ghét có thể xâm nhập vào bất cứ ai (kể cả các tông đồ), và bất cứ hoàn cảnh nào (kể cả lúc Đức Giêsu sắp chịu chết). Cho nên ganh ghét được coi là một trong 7 mối tội đầu, mối thứ 3.
- Gia đình chẳng hạn: lẽ ra đó phải là một tổ ấm hạnh phúc mà mọi người sống trong đó yêu thương, nâng đỡ, nhường nhịn, ủi an nhau. Nhưng nếu chẳng may trong gia đình có một người ganh ghét, thí dụ như một người chị ganh với một đứa em vì nó đẹp hơn, thông minh hơn, được mọi người thương mến hơn… thì trong nhà có những lườm nguýt, phân bì, nói bóng nói gió, cãi vã nhau, thậm chí xô xát nhau nữa… Gia đình hết là tổ ấm mà trở thành gần như hỏa ngục.
- Ở sở làm cũng thế, nhất là những chỗ có nhiều đàn bà con gái. Nhiều chị em đã phải vất vả tốn công tốn của để tìm cho được một chỗ làm. Bắt đầu đi làm thì vui vẻ hăng hái lạc quan. Nhưng làm một thời gian rồi thì đụng phải sự ganh ghét của chị em đồng nghiệp, và khởi sự chán nản, buồn bã, bi quan, chỉ muốn thôi việc đi tìm chỗ khác. Ganh ghét đưa đến những tai hại như thế nào?
1. Trước hết là hại cho chính bản thân người ganh ghét:
. Người ganh ghét tự nung nấu ruột gan mình bằng ngọn lửa khó chịu âm ỉ mãi. Thấy người ta dở, người ta xấu, người ta làm sai làm quấy thì mình khó chịu đã đành; mà thấy người ta hay, người ta tốt, người ta thành công mình cũng khó chịu. Thành ra khi người ta vui thì mình buồn, người ta sung sướng thì mình đau khổ, người ta càng vui sướng chừng nào thì mình càng buồn khổ chừng nấy.
. Hại hơn nữa là người ganh ghét tự làm giảm giá trị và tư cách của mình nữa. Ganh ghét với ai là tự đặt mình vào thế tranh đua với người đó. Mà trong cuộc tranh đua này, nếu mình cảm thấy khó chịu, bực tức khổ sở trước thành công của người khác, thì đó là dấu mình đã thua kém. Thua kém mà còn khó chịu bực tức thì cho thấy tư cách của mình cũng thấp kém nữa.
2. Tai hại thứ hai của tính ganh ghét là gây cho nạn nhân bị mình ganh ghét.
Vì ganh ghét mà mình làm cho người ta buồn người ta khổ một cách hết sức bất công. Chứ nếu công bình mà xét thì người ta đâu có gì để đáng phải buồn khổ như vậy. Chỉ vì người ta hay, người ta tốt, người ta giỏi mà người ta phải khổ. Lẽ ra người ta phải được khen thưởng, phải được mừng vui thì vì ganh ghét mà mình làm cho người ta khổ sở. Người bị ganh ghét như thế lâm vào một hoàn cảnh thật khó xử: một đàng là công việc phải làm, đã làm thì phải làm cho tốt, cho hay – mà càng tốt càng hay thì càng bị mỉa mai dằn vặt. Biết xử thế nào bây giờ! Thật là khó. Thôi chỉ còn nước cứ tiếp tục làm và cắn răng, nuốt nước mắt mà chịu đựng những lời mỉa mai của kẻ ganh ghét.
3. Sau cùng tính ganh ghét còn làm hại cho tập thể nữa.
Người ganh ghét như một con sâu, một con vi trùng độc hại, âm thầm mà hiểm độc phá hoại tập thể, làm cho tập thể mất đoàn kết, mất bình an, mất hăng hái. Cho nên thật là tai hại cho tập thể nào có một vài người ganh ghét; và cũng thật là xui xẻo cho ai lỡ thuộc về tập thể có vài kẻ ganh ghét như thế. Những tai hại vừa kể dẫu không nói ra thì ai cũng có thể nhận thấy. Nhưng có một điều khó nhận thấy là ít ai nhận thấy mình mang tính ganh ghét. Ai cũng có thể bị tính ganh ghét xâm nhập, nhưng ít ai biết mình đang có tính xấu ấy. Chị em có thể ganh ghét nhau mà không hay; bạn bè có thể ganh ghét nhau mà không biết; những người đồng lý tưởng có thể ganh ghét nhau làm hại nhau mà không ngờ. Các con của ông Giacóp ganh ghét đến nỗi bán em là Giuse mà vẫn thản nhiên; các tông đồ ganh ghét tranh giành địa vị với nhau đang lúc Đức Giêsu sắp bị bắt giết mà vẫn không thấy là kỳ. Chúng ta cũng có thể đang ganh ghét với người đồng nghiệp của mình, với người hàng xóm của mình, với chính anh chị em bạn bè của mình mà vẫn không hay. Vì thế chúng ta phải hết sức khiêm nhường mỗi khi xét mình, kiểm điểm đời sống. Dấu hiệu rõ ràng nhất cho biết mình đang có tính ganh ghét là khi mình thấy người khác thành công, mình chẳng những không vui mừng với người ta mà còn bực bội khó chịu với họ, hay thấy người ta thất bại thì mình lại vui sướng.
61. Suy niệm của Fx. Đỗ Công Minh.
Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết (Mc 9, 35).
Bài Tin mừng hôm nay Thánh Maccô tường thuật chuyện Chúa mạc khải cho các môn đệ về con đường khổ giá Người phải trải qua trước khi bước vào vinh quang phục sinh: “Con người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết Người sẽ sống lại”, nhưng các ông không hiểu lời đó và các ông sợ không dám hỏi lại Người. Các ông lúc ấy chỉ chăm chăm vào vị trí của từng người trong cộng đòan. Thánh Maccô mô tả “khi đi đường các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả”.
Chúa Giêsu đã biết rõ lòng các ông. Chúa thấu hiểu tâm lý con người trần gian là ai cũng muốn có vị trí cao hơn người trong một tập thể, trong xã hội lòai người. Ý tưởng muốn “làm lớn” cũng là tâm trạng bình thường trong xã hội có tổ chức, có sự phân công. Nhưng quan niệm làm lớn để làm gì thì lại không đơn giản. Người mong được làm lớn để thể hiện quyền lực với người khác, với bề dưới. Cũng có người có thiện ý là mong có vị trí cao để phát huy năng lực của mình, thể hiện tài năng của mình trong môi trường được giao. Nhưng đa phần thì mong có quyền cao chức trọng là để thỏa mãn cái tôi, để được thụ hưởng quyền lợi lớn lao về tiền tài, nhà cửa, phương tiện do chức vụ, vị trí đem lại. Có người mong có danh vị theo suy nghĩ “một người làm quan cả họ được nhờ”, thích đi đến đâu cũng được người khác chào đón tung hô, tùng phục, kiêng nể, kính sợ.
Đức Giêsu trong Tin Mừng hôm nay có cái nhìn khác, Người là Thầy dạy của các môn đệ lúc đó đã ngồi xuống, gọi nhóm Mười Hai lại mà nói: “Ai muốn làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”, và chính Người đã làm như vậy với các ông. Một quan niệm xem ra trái ngược với suy nghĩ của con người mọi thời mọi lúc. Làm việc, học hỏi, nghiên cứu... tốn không biết bao nhiêu công sức, thời gian, tiền bạc bỏ ra để mong có ngày được cất nhắc lên vị trí cao hơn như tổ trưởng, trưởng khoa, trưởng phòng, quản đốc rồi lên phó giám đốc, giám đốc... của một đơn vị, một công ty, một cơ quan, một ngành, sở mà Chúa lại dạy phải sống như người rốt hết, phải phục vụ mọi người thì dại gì mà phấn đấu, dại gì mà hăng say. Làm sao lại phải khép mình sống nghịch lại lẽ thường như vậy? Thế mà Đức Kitô lại dạy như thế ai nghe cho lọt. Và để minh họa rõ thêm, Người đã dùng một em nhỏ đặt giữa các ông, ôm lấy em và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy”.
Sống trong xã hội hay trong Giáo hội vẫn có sự sắp xếp, phân công. Cần những người có khả năng, đáp ứng một số điều kiện sẽ được điều động cất nhắc, không vì lợi ích của bản thân họ, nhưng vì lợi ích của cộng đồng, mưu ích cho nhiều người. Người được cất nhắc tất nhiên có quyền lợi chính đáng nhưng đồng thời có trách nhiệm lớn lao đối với công việc đảm nhận. Có quyền hạn để thực thi chức trách của mình. Nhưng quan trọng hơn cả là thái độ và tinh thần phục vụ, phải tận tụy, hy sinh cho tập thể, cho lợi ích chung chứ không theo quyền lợi cá nhân, riêng tư theo kiểu lợi ích nhóm. Thực hiện chức trách theo đúng bổn phận, quyền hạn như đón tiếp một trẻ thơ, không đòi hỏi nơi các em sự hầu hạ mà sẵn sàng hạ mình đáp ứng nhu cầu của em bé ngây thơ, trong trắng. Phục vụ trong Giáo hội cũng như vậy.
Lạy Chúa,
Xin cho con biết nhìn lại mình với vai trò người cha, người mẹ trong gia đình; người anh, người chị; người đội trưởng, đoàn trưởng các đòan thể trong giáo xứ. Người trưởng khu giáo, hay trong Hội đồng mục vụ giáo xứ...Là người có địa vị nào đó trong xã hội, con đã thể hiện vai trò đó ra sao? Có trở nên người phục vụ mọi người, hay đòi hỏi người khác phải qui phục, phải phục vụ con?
Xin cho con biết: “Phục vụ là hy sinh, phục vụ là quên mình. Phục vụ không đòi đền đáp, phục vụ ơn nghĩa không màng. Phục vụ là hy sinh, phục vụ vì Chúa Kytô” (Bài ca phục vụ).
62. Giá trị.
Giá trị của một con người không phải do địa vị của người đó, mà tùy vào khả năng phục vụ và mức độ hữu ích của người đó.
Để minh họa cho bài học này, sau đó Đức Giêsu đưa ra hình ảnh một em bé. Hình ảnh của một em bé đối với bất cứ người nào nhìn, cũng thấy dễ thương. Cho nên khi thấy một em bé, ai cũng muốn bồng ẵm, muốn ôm hôn, muốn cho nó ăn bánh, ăn kẹo. Tại sao người ta thương em bé và muốn cho nó đủ thứ như vậy? Có phải tại nó giỏi giang, tại nó giúp cho người ta được việc này việc nọ không? Thưa hoàn toàn không, đứa bé còn quá nhỏ, chưa biết là gì, chưa giúp ích được gì. Nhưng người ta thường nói chỉ vì người ta thương nó, thế thôi. Một tình thương hoàn toàn vô vụ lợi. Người ta cho nó cái này cái nọ, cũng không phải để trả ơn nó hay để mong nó làm gì giúp mình. Cũng chỉ vì thương mà phục vụ thôi. Chúa dùng hình ảnh em bé để minh họa cho bài học phục vụ trên kia: chúng ta cũng phải cư xử với mọi người theo kiểu chúng ta cư xử với một em bé: hết lòng yêu thương phục vụ một cách hoàn toàn vô vụ lợi. Người nào biết phục vụ kẻ khác như thế thì là phục vụ Chúa, và mới xứng đáng làm môn đệ Chúa.
Chúng ta hãy nhớ bài học của Chúa: giá trị con người không tùy vào địa vị của người đó, mà tùy vào khả năng phục vụ và mức độ hữu ích của người đó.
- Trong một gia đình, ai là người lớn nhất? Có phải là người cha, người chồng không? Bề ngoài là như vậy. Nhưng đối với Chúa thì chưa chắc. Người cha ấy, người chồng ấy nếu chỉ biết có ra lệnh bảo người này người nọ làm mọi việc, nếu chỉ biết ngồi đó mà chê món này dở, cái bàn này lau chưa sạch, nhà cửa này lộn xộn lung tung;
Nếu chỉ biết ăn no rồi đi chơi, chỉ biết có nhậu nhẹt và để mặc vợ con làm tất cả, thì đó chính là kẻ nhỏ nhất trong nhà, nhỏ hơn cả vợ mình, nhỏ hơn cả con mình. Bởi vì người chồng người cha ấy là một người vô ích.
- Trong một khu xóm cũng vậy, trong một cơ quan cũng vậy, trong một họ đạo cũng vậy. Nếu xét theo tiêu chuẩn của Chúa, thì kẻ lớn nhất không hẳn là người có địa vị cao nhất, không hẳn đó là ông trưởng xóm, không hẳn đó là ông giám đốc, không hẳn đó là ông chủ tịch Hội đồng Giáo xứ. Mà rất có thể kẻ được Chúa xét là lớn lại chính là một người mà ít ai để ý tới, người đó không có chức có quyền nào, người đó âm thầm ít nói, nói ít mà làm nhiều; luôn luôn chu toàn nhiệm vụ mình, luôn tìm cách giúp ích cho người khác.
- Thí dụ như linh mục Jean Marie Vianney. Cha là một người vừa kém thông minh và vừa có tư cách cục mịch như một người nhà quê. Sau nhiều năm học ở chủng viện, Vianney thi không đủ điểm nên đáng lẽ bị loại. Nhưng người ta chỉ thương tình mà cho đậu vớt và được phong chức linh mục. Vì thấy cha quá kém cõi. Đức Giám mục đưa cha đi làm cha sở một họ đạo nhỏ xíu ở miền quê mà giáo dân đã bỏ đạo gần hết, đó là họ Ars. Thế nhưng cha Vianney đã tận dụng tất cả các khả năng và sức lực Chúa ban để hết lòng phục vụ họ đạo. Mỗi ngày cha chỉ nghỉ ngơi 3, 4 tiếng đồng hồ. Nhưng ngồi tòa giải tội thì liên miên, có khi tới 16 tiếng đồng hồ mỗi ngày. Cha không có giờ nấu cơm, nên chỉ nấu một nồi khoai lớn để ăn dần cho suốt một tuần lễ. Dần dần cả họ Ars trở lại, thành một họ đạo sốt sắng sống gương mẫu. Giáo dân từ các họ khác cũng đến đó để dự lễ, để nghe giảng, để xưng tội. Có cả các tu sĩ, các linh mục, Giám mục từ khắp nơi đến để nhờ cha giúp đỡ về mặt linh hồn. Sau này người viết tiểu sử của cha đã nhận định: Nếu cả Giáo Hội nước Pháp mà có được chỉ một vài linh mục như cha Vianney thôi thì cả nước Pháp đã nên thánh. Đó mới là người lớn thật mặc dù chỉ là một linh mục học kém, một cha sở nhà quê, bởi vì sức phục vụ của cha thật là lớn.
Bài học của Chúa Giêsu hôm nay thật là dễ hiểu, nhưng lại khó thực hành.
Ai muốn làm lớn thì phải hạ mình phục vụ mọi người như một kẻ đầy tớ.
Giá trị của một con người không phải do địa vị của người đó, mà là do khả năng phục vụ và mức độ hữu ích của người đó.
63. Những khuôn mặt rực rỡ.
Một em học sinh đã viết về việc em đã đóng vai người Samarita như sau: “Vào mùa hè trước khi tôi nhập trung học, giáo xứ chúng tôi có tổ chức một ngày đi thăm các người già và bệnh tật tại một nhà thương gần đó. Nhìn thấy muôn vàn chiếc xe lăn và người bệnh, em cảm thấy rất kinh ngạc, nhất là khi có một người đang ngồi trên một chiếc xe lăn cứ nhìn đăm đăm vào đôi chân của em. Sau đó, em bắt đầu nhìn thấy rất nhiều bệnh nhân, cụt què, tê bại, những người bị bỏ rơi, những trẻ em bị tàn tật. Tất cả mọi người bệnh đều như đang kiếm tìm xem có ai sẽ đến thăm họ hay không. Em cảm thấy hơi thở của em ngột ngạt; và em bỏ trốn.
“Em đã ra ngoài sân cỏ và ngồi ở đó khoảng một giờ đồng hồ. Em cảm thấy tức tối với Chúa, bởi vì em cảm thấy hoàn toàn không hiểu nổi tại sao Chúa lại để cho nhiều sự đau khổ như thế ở nơi đây. Em cảm thấy rất cô đơn, cô đơn hơn cả những bệnh nhân. Em là người cần phải được giúp đỡ, chứ không phải là những bệnh nhân trong kia.
“Nhưng sau một lúc, em trở lại trong nhà thương nơi mà bao nhiêu người đau khổ phần hồn phần xác đang tụ tập. Em bắt tay vào công việc để giúp đỡ những người đó lấy lại niềm vui bao nhiêu có thể. Thí dụ như em đi lấy nước uống cho họ và nói chuyện với họ. Buổi chiều hôm đó, em đã làm cho bao nhiêu khuôn mặt rực rỡ.
“Nhưng trong tất cả những khuôn mặt rực rỡ đó, khuôn mặt rực rỡ hơn hết mà em không bao giờ quên được đó chính là khuôn mặt của em. Em cảm thấy rất hạnh phúc và sung sướng.
Câu truyện trên đây thật thích hợp với bài Phúc Âm hôm nay. Đặc biệt là nó thích hợp khi diễn tả lời nói của Chúa Giêsu với các môn đệ Ngài về vấn đề các môn đệ tranh cãi xem ai là người làm lớn nhất. Chúa Giêsu nói: “Nếu trong các ngươi, ai muốn làm lớn, thì hãy làm đầy tớ mọi người.” Chúa Giêsu đã dùng cơ hội này để nhấn mạnh về một chủ đề quan trọng: giúp đỡ người khác, đặc biệt là những người cùng khốn.
Chúng ta hãy tìm hiểu về đề tài giúp đỡ người khác, đặc biệt là những người cùng khốn dưới hai khía cạnh: khía cạnh của những người cần giúp đỡ và khía cạnh của những người giúp đỡ kẻ khác.
Thứ nhất, đối với những người đau khổ, bệnh tật rất dễ xuống tinh thần. Sự tận tình giúp đỡ người khác làm cho họ thấy vui hơn, cảm thấy mình còn có giá trị, và được yêu thương.
Thứ hai, sự phục vụ người khác làm cho người phục vụ càng được vui sướng hơn là những người được phục vụ. Lý do mà người phục vụ lại được vui hơn rất đơn giản. Đó là bởi vì trong khi họ giúp đỡ người khác, họ nhận ra hình ảnh của Chúa Giêsu ở trong thế giới ngày nay. Chính Ngài đang hiện diện ở trong đám người nghèo khổ.
Chính Chúa Giêsu đã nói: “Vì xưa Ta đói mà các ngươi đã cho Ta ăn, Ta khát mà các ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ mà các ngươi đã tiếp rước... Những gì các ngươi đã làm cho một người trong các anh em hèn mọn nhất của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta” (Mt 25:35-36, 40).
Để kết thúc, chúng ta nhắc lại lời của Albert, người đã từ bỏ việc biểu diễn âm nhạc cho những người giàu có ở Âu Châu và trở thành một bác sĩ truyền giáo tại Phi Châu: “Tôi biết một điều: đó là chỉ có những người biết phục vụ người khác mới tìm được hạnh phúc.”
64. Nghĩ đến cùng đích
(Suy niệm của Lm. Louis M. Nhiên, CRM)
Cách đây khá lâu trên con đường từ Calif trở về nhà Dòng ở Missouri, trước khi lên máy bay tôi mua một tờ nhật báo USA Today chính là để theo dõi phần thể thao. Tình cờ tôi đọc được một bài báo của tác giả Michael Levine, một bình luận gia ở thành phố Los Angeles, trong đó ông viết: Nếu ông được làm vua ở xứ này thì việc đầu tiên ông sẽ làm đóa là ông sẽ ra chiếu chỉ buộc mọi người từ 40 tuổi trở xuống kể cả đàn ông đàn bà cùng con nít phải đi tham dự đám tang, lễ an táng người chết, của ai cũng được nhưng một năm ít nhất là một lần.
Chúng ta thắc mắc là tại sao việc đầu tiên ông không làm là ví dụ như sửa sang lại Toà Bạch Ốc thành cung điện nguy nga tráng lệ, hay bãi bỏ thuế má này nọ kia hoặc ân xá tha thứ cho các tù nhân, nhưng lại buộc phải tham dự lễ an táng người chết một năm một lần.
Ông trả lời sở dĩ ông có ý tưởng như vậy là do một lần ông tham dự lễ an táng thân phụ của người bạn của ông. Ông thú nhận ông chưa gặp mặt vị này lần nào, và ông tham dự nghi lễ chỉ để bày tỏ lòng kính trọng với người quá cố và vì lịch sự xã giao với người bạn. Nhưng những gì ông học được trong ngày hôm đó thật quan trọng.
Ông nhận thấy rằng tất cả những người đọc điếu văn cũng như vị linh mục giảng thuyết ở nghi lễ này đều đề cập đến sự tử tế, lòng thương yêu, sự tế nhị của ông dành cho gia đình và bạn bè cùng tất cả những người sống chung quanh. Ngay cả đến những bạn cùng làm chung trong ngành thương mại, làm ăn buôn bán với ông cũng không đề cập nhắc nhở gì đến các sự nghiệp thành công cũng như địa vị bằng cấp, chức tước của ông đã đạt được trong khi ông còn sống, nhưng tất cả đều chú trọng đến con người của ông, con người họ đã biết và đã yêu.
Nhấn mạnh đến tư cách, đến đức tính con người đó là điều trái ngược với xã hội thường chú ý đến. Xã hội hôm nay cũng như các thời đại khác thường đề cao chú trọng đến bằng cấp, địa vị, coi trọng tiền tài danh giá.
Chúng ta thường cho những kẻ tu hành những kẻ theo Chúa là những người khiêm nhường chẳng còn thiết gì đến danh giá chức quyền, nhưng Lời Chúa hôm nay cho thấy các môn đệ là những người đã từ bỏ mọi sự để theo Chúa, đã được Chúa trực tiếp huấn luyện nhưng, một chữ nhưng thật quan trọng, nhưng các các ngài vẫn còn là con người. Đối với các ngài địa vị vẫn quan trọng. Dưới con mắt của các ngài, người lớn nhất chính là người có địa vị cao nhất. Được ngồi bên cạnh ông vua là điều ai nấy đều mong muốn. Họ muốn được điạ vị cao nhất với nhữnglý do thấp kém nhất. Họ là nạn nhân của tham vọng đầy ích kỷ ghen tương.
Tuy nhiên điều Chúa muốn dạy các môn đệ và chúng ta hôm nay một bài học đó là: Vinh quan trần thế sẽ qua mau, chỉ duy có sự khiêm nhường phục vụ yêu thương, hy sinh cho tha nhân mới là điều đáng kể.
Nói một cách tổng quát, ước muốn ước vọngtham vọng là điều tốt vì nó là động lực thúc đẩy con người cố gắng tiến hơn trên đường sự nghiệp, giúp thành công trên đường đời. Ví dụ, ước muốn làm linh mục, bác sĩ, nha sĩ, kỹ sư, khoa học gia… sẽ thúc đẩy các bạn trẻ cố gắng hơn trong việc học hành, dấn thân hơn trong việc phục vụ Giáo Hội và xã hội. Tuy nhiên, nó trở nên xấu khi có những ước vọng tham vọng quá đáng và vượt quá khả năng giới hạn của mình. Tôi còn nhớ khi còn nhỏ đọc được câu chuyện ngụ ngôn giữa con nhái và con bò.
Con nhái nom thấy con bò,
Hình dung đẹp đẽ, mình to béo tròn.
Nhái bằng quả trứng tí hon,
Lại toan cố sức bằng con bò vàng,
Ngậm hơi, cổ bạnh, bụng trương;
Kêu: chị em đến xem tường cho ta.
Đã bằng chưa, chị trông, nà!
Bạn rằng: còn kém. Nhái đà phồng thêm;
Hỏi rằng: được chửa, chị em?
Bạn rằng: Chưa được; Phồng thêm ít nhiều.
Chị ơi! Còn kém bao nhiêu?
Bạn rằng: Còn phai phồng nhiều. Kém xa!
Tức mình, chị nhái oắt ta,
Lại phồng bụng quá vỡ ra chết liền.
Ở đời lắm kẻ thật điên,
Sức hèn lại muốn tranh tiên với người.
Dại thay những thói đua đòi.
Vinh gì cuộc rượu trận cười mà ganh.
Người ta kể rằng vua A-lịch-sơn đại đến, một vị vua lừng danh bách chiến bách thắng, trước khi chết đã truyền là khi chôn cất ông bỏ hai tay của ông ra ngoài quan tài với mục đích để cho mọi người hiểu được rằng: vua A-lịch sơn khi vào đời với hai bàn tay trắng và dù trong cuộc sống có đạt được danh vọng giầu sang phú quí, thì khi ra khỏi đời này cũng vẫn chỉ với hai bàn tay trắng.
Nếu trước cái chết, một số người đã cảm thấy ân hận vì quá muộn mới nhận ra được rằng danh vọng vinh quang trần gian này mau qua, chỉ duy có sự khiêm nhượng phục vụ, bác ái yêu thương tha nhân mới là điều đáng kể, còn chúng ta? Chúng ta được mời gọi suy nghĩ nhiều về giá trị đích thực của cuộc sống hôm nay, để ngày mai khi giờ chết đến, chúng ta không phải ân hận vì cũng đã quá muộn đối với chúng ta.
65. Danh lợi – Trầm Thiên Thu
Cái vòng danh lợi cong cong
Kẻ hòng ra khỏi, người mong bước vào
Đó là cái vòng luẩn quẩn cuộc đời. Với bản chất con người, ai cũng “máu” lắm (nhiều loại máu), thả ra cũng chẳng ai vừa: “Kẻ tám lạng, người nửa cân”. Thật vậy, ai cũng thích được khen chứ chẳng ai thích bị chê. Nghĩa là con người rất thích có DANH, gọi là “háo danh”, như Nguyễn Công Trứ (*) xác định: “Làm trai đứng ở trong trời đất, Phải có danh gì với núi sông”. Chữ DANH với nam giới lại càng “to” hơn nhiều.
DANH và LỢI có quan hệ “thân thiết” với nhau. Chưa có cái “danh” thì tìm cách có, có “danh” rồi thì tìm cái “lợi”. Có những người mê “danh” đến nỗi sẵn sàng bỏ ra số tiền lớn để “chạy” bằng cấp, chức tước, địa vị,… Thậm chí có người còn dám bán rẻ lương tâm để mua lấy cái “danh”, ngay cả tình nghĩa trong các mối quan hệ cũng chỉ là “chuyện nhỏ”, như người ta “đùa mà thật” khi nói: “Tình cảm là chín (chính), tiền bạc là mười”. Đó là điều tất yếu? Vì “con gà còn tức nhau tiếng gáy” kia mà! Có lẽ dày dạn kinh nghiệm nên hiền sĩ Nguyễn Công Trứ mới chua chát nhận định: “Thế thái nhân tình gớm chết thay, Lạt nồng coi chiếc túi vơi đầy”, hoặc: “Tiền tài hai chữ son khuyên ngược, Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi”.
Tiền chẳng là gì, chỉ là những tờ giấy có cấp độ giá trị khác nhau theo những con số mà con người quy ước. Nhưng người ta coi “tiền là tiên, là Phật, là sức bật của con người, là nụ cười của tuổi trẻ, là sức khỏe của người già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng để che thân, là cán cân của công lý” thế nên nó có thể thay trắng đổi đen mọi thứ. Kinh khủng quá! Chiến tranh tàn khốc xảy ra cũng vì cái “danh” và “lợi”. Cái lưỡi không xương, nhiều đường lắt léo, thế nên: Thật thà bị ghét bỏ, nghèo khó bị rẻ khinh, thông minh bị trù dập. Đời là thế! It’s life! C’est la vie! Ôi, chuyện đời cười ra nước mắt!
Những người dã tâm hùa nhau: “Ta hãy gài bẫy hại tên công chính, vì nó chỉ làm vướng chân ta, nó chống lại các việc ta làm, trách ta vi phạm lề luật, và tố cáo ta không tuân hành lễ giáo” (Kn 2:12). Họ ranh mãnh và mỉa mai: “Ta hãy coi những lời nó nói có thật không, và nghiệm xem kết cục đời nó sẽ thế nào” (Kn 2:17). Người chính trực luôn bị ghét, người theo Chúa cũng bị “dè chừng”, thậm chí còn bị sát hại. Kẻ xấu toan tính: “Nếu tên công chính là con Thiên Chúa, hẳn Người sẽ phù hộ và cứu nó khỏi tay địch thù. Ta hãy hạ nhục và tra tấn nó, để biết nó hiền hoà làm sao, và thử xem nó nhẫn nhục đến mức nào” (Kn 2:18-19). Cuối cùng họ quyết định: “Nào ta kết án cho nó chết nhục nhã, vì cứ như nó nói, nó sẽ được Thiên Chúa viếng thăm” (Kn 2:20a). Nhưng đó chỉ là “sai lầm của phường vô đạo” (Kn 2:20b).
Người công minh chính trực thì chẳng sợ gì. Cây ngay không sợ chết đứng như Từ Hải, và luôn vững tin vào Chúa: “Lạy Thiên Chúa, xin dùng uy danh mà cứu độ, lấy quyền năng Ngài mà xử cho con. Lạy Thiên Chúa, xin nghe con nguyện cầu, lắng tai nghe lời con thưa gửi” (Tv 54:3-4). Phường kiêu ngạo có nổi lên chống đối, hay bọn hung tàn tìm hại mạng sống người công chính, dù chúng không kể gì đến Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vẫn luôn độ trì và nâng đỡ những tôi trung và hiền tử của Ngài, vì Ngài là Thiên Chúa đời đời thành tín.
Dù vui hay buồn, dù sướng hay khổ, dù hạnh phúc hay bất hạnh, người thật lòng theo Chúa vẫn một lòng một dạ chân thành thân thưa: “Con tự nguyện dâng Ngài lễ tế, lạy Chúa, con xưng tụng danh Ngài, thật danh Ngài thiện hảo” (Tv 54:8). Đó là cách sống của những người thực sự trưởng thành tâm linh. Ước gì mọi người đều biết sống như vậy!
Thánh Giacôbê phân tích: “Ở đâu có ghen tương và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa” (Gc 3:6). Một cách suy luận lô-gích và minh nhiên. Thánh nhân kết luận: “Đức khôn ngoan Chúa ban làm cho con người trở nên trước là thanh khiết, sau là hiếu hoà, khoan dung, mềm dẻo, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình. Người xây dựng hoà bình thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hoà bình, là cuộc đời công chính” (Gc 3:17-18). Phàm nhân chúng ta gọi đó là “luật nhân quả”, gieo gì gặt nấy: Tư tưởng à ước muốn à hành động à thói quen à tính cách à số phận.
Thánh Giacôbê đặt vấn đề: “Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em? Chẳng phải là bởi chính những khoái lạc của anh em đang gây chiến trong con người anh em đó sao?” (Gc 4:1). Và rồi thánh nhân đúc kết một cách vô cùng thẳng thắn: “Anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét cũng chẳng được gì, nên anh em xung đột với nhau, gây chiến với nhau. Anh em không có, là vì anh em không xin; anh em xin mà không được, là vì anh em xin với tà ý, để lãng phí trong việc hưởng lạc” (Gc 4:2-3).
Nhận xét của Thánh Giacôbê “chạm” đến bất kỳ ai, đến bất kỳ cương vị nào, đến tận mọi ngõ ngách sâu thẳm nhất của lòng dạ và tư tưởng con người. Thật vậy, đôi khi chúng ta ích kỷ ngay trong lời cầu nguyện của mình, thậm chí còn dám “ngã giá” và “ra điều kiện” với chính Thiên Chúa mà cứ tưởng là mình… đạo đức và thánh thiện. Nguy hiểm quá!
Một lần nọ, Đức Giêsu và các môn đệ đi băng qua miền Galilê, nhưng Ngài không muốn cho ai biết, vì Ngài đang dạy các môn đệ rằng: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Ngài, và ba ngày sau khi bị giết chết, Ngài sẽ sống lại” (Mc 9:31). Nhưng các ông không hiểu lời đó, vả lại các ông sợ nên không dám hỏi lại Ngài. Theo Thầy đi khắp mọi nơi, tới từng hang cùng ngõ hẻm, ăn dầm nằm dề với Thầy, thế mà các môn đệ vẫn “như người trên cung trăng”, lơ ngơ mà chẳng hiểu Sư phụ nói gì. Không hiểu mà lại không dám hỏi. Lạ thật! Nhưng phàm phu tục tử là thế, chúng ta cũng vậy, chẳng hơn gì ai! Chúa biết thừa, nhưng Ngài vẫn thông cảm và lại càng thương các “ngu đệ” hơn.
Sau đó, Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Ca-phác-na-um. Khi về tới nhà, Đức Giêsu hỏi các ông: “Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy?” (Mc 9:33). Hỏi để mà hỏi, hỏi cho có chuyện, hỏi để các môn đệ bớt… run. Chứ Ngài biết tỏng, biết rõ mười mươi như “đi guốc trong bụng” từng người! Nhưng các ông nín thinh như ngậm tăm, vì Thầy nói trúng phoóc tim đen. Rõ ràng khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả. Tranh giành địa vị, tranh chấp ngôi thứ, tranh nhau cái DANH cốt để mong có cái LỢI. Không thể nào biện hộ, dù chỉ nửa lời!
Biết các môn đệ chưa thể “thoát tục”, Đức Giêsu ngồi xuống và gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9:35). Kế đó, Người đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy” (Mc 9:37). Một cách so sánh đầy triết lý và thần học. Tiếp nhận trẻ nhỏ à tiếp nhận Chúa Giêsu à tiếp nhận Chúa Cha. Hay quá! Nhưng có lẽ chúng ta chưa thể hiểu đúng, hoặc không dám hiểu, thậm chí không muốn hiểu. Nhưng nên nhớ rằng Chúa Giêsu luôn thực tế, mạch lạc, rất hiếm khi bóng gió xa xôi. Và vì thế mà chúng ta khó lĩnh hội thấu đáo để có thể thực hành bài học “đơn giản” của Ngài là sống Yêu thương và Phục vụ: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28).
Muốn thoát vòng danh lợi và vòng kiềm tỏa của nó, chúng ta phải theo “mẹo” của Chúa Giêsu: “Nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18:3). Danh lợi chỉ là thứ tạm bợ, chóng qua, thế mà người ta vẫn tìm mọi thủ đoạn để giành giật bằng mọi giá. Đó là loại “giàu” khiến người ta khó vào Nước Trời nhất. Cụ Nguyễn Công Trứ nhận định: “Ra trường danh lợi vinh liền nhục, Vào cuộc trần ai khóc trước cười”. Chí lý lắm thay!
Lạy Chúa, xin biến đổi tâm hồn chúng con từng giây phút, để chúng con đừng giành nhau những thứ không phù hợp với Luật Chúa, trái ngược với Nước Trời. Xin giúp chúng con không ngừng biết YÊU THƯƠNG và PHỤC VỤ đúng như Tôn Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
***
(*) Nguyễn Công Trứ (chữ Hán: 阮公著, 1778 – 1858) tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hy Văn, là một nhà quân sự, một nhà kinh tế và một nhà thơ lỗi lạc trong lịch sử Việt Nam cận đại.
66. Nhân Danh – Trầm Thiên Thu
Hằng ngày, các tín hữu Công giáo làm dấu Thánh Giá nhiều lần: “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần”. Một tín hữu bình thường thì người ta làm dấu khi thức dậy, khi tham dự Thánh Lễ, khi cầu nguyện, khi đọc kinh, khi ăn (cơm, phở, bánh,…), khi đi ngủ. Một tín hữu biết mình yếu đuối thì họ còn làm dấu khi uống nước, khi ăn vặt, khi chạy xe, khi làm thơ, khi viết nhạc, khi viết bài, khi dịch thuật,… Nói chung, bất cứ làm gì, chúng ta đều làm nhân danh Thiên Chúa chứ không nhân danh bất cứ ai hoặc thứ gì khác, như Thánh Phaolô khuyên: “Dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1 Cr 10:31), và “Hãy làm mọi sự vì đức ái” (1 Cr 16:14).
Khi nói đến “nhân danh”, chúng ta nhớ tới Tổng lãnh Thiên thần Micae – một đại anh hùng chiến đấu để bênh vực Chân Lý và Công Lý, nhân danh Thiên Chúa. Ngài là người thách đố: “Ai bằng Thiên Chúa?”.
Khi nhân danh người nào hoặc điều gì, cũng có những người “mạo danh” để làm điều sai trái, thay vì làm điều nhân nghĩa. Đó là “nhân danh” cái ác, một dạng giả hình mà chúng ta cần cảnh giác cao độ – cảnh giác với người khác và với chính mình. Thực tế đã và đang cho chúng ta thấy có những kẻ “mạo danh” để trục lợi cá nhân – ngoài đời cũng có đầy mà trong tôn giáo cũng chẳng thiếu.
Thời Cựu Ước, những kẻ xấu đã “nhân danh” sự ác mà vào hùa với nhau: “Ta hãy gài bẫy hại tên công chính, vì nó chỉ làm vướng chân ta, nó chống lại các việc ta làm, trách ta vi phạm lề luật, và tố cáo ta không tuân hành lễ giáo” (Kn 2:12). Khi nhân danh điều gì, đôi khi người ta cũng dễ bị ảo tưởng hoặc suy nghĩ lệch lạc. Gọi là nhân danh điều tốt này hoặc sự thiện kia, nhưng thực chất có thể chỉ là nhân danh mình – tức là muốn chứng tỏ “bản lĩnh” của mình mà thôi. Dạng này rất tinh vi, chúng ta phải thực sự cảnh giác kẻo “sập bẫy” mưu ma chước quỷ!
Tư tưởng xấu sinh ra ước muốn xấu, ước muốn xấu sinh ra hành động xấu, hành động xấu là nhân danh cái ác. Những kẻ xấu cũng tưởng người khác cũng xấu như mình nên họ nghi ngờ người khác. Họ lý luận: “Ta hãy coi những lời nó nói có thật không, và nghiệm xem kết cục đời nó sẽ thế nào. Nếu tên công chính là con Thiên Chúa, hẳn Người sẽ phù hộ và cứu nó khỏi tay địch thù. Ta hãy hạ nhục và tra tấn nó, để biết nó hiền hoà làm sao, và thử xem nó nhẫn nhục đến mức nào. Nào ta kết án cho nó chết nhục nhã, vì cứ như nó nói, nó sẽ được Thiên Chúa viếng thăm” (Kn 2:17-20). Chính Chúa Giêsu cũng đã bị những kẻ xấu thách thức tương tự!
Những người công chính, tâm địa ngay thẳng, nhưng đôi khi vẫn gặp tai ương. Không phải là Thiên Chúa không biết hoặc làm ngơ, nhưng Ngài tôn trọng luật tự nhiên. Khi thực sự cần thiết thì Ngài mới ra tay. Những người tín thác vào Thiên Chúa thì luôn chân thành khấn cầu: “Lạy Thiên Chúa, xin dùng uy danh mà cứu độ, lấy quyền năng Ngài mà xử cho con. Lạy Thiên Chúa, xin nghe con nguyện cầu, lắng tai nghe lời con thưa gửi. Phường kiêu ngạo nổi lên chống đối, bọn hung tàn tìm hại mạng sống con, chúng không kể gì đến Thiên Chúa. Nhưng này có Thiên Chúa phù trì, thân con đây, Chúa hằng nâng đỡ” (Tv 54:3-6).
Quả thật như vậy, vì Ngài biết rõ ai như thế nào, mạnh hay yếu, và Ngài không bắt chúng ta chịu đựng quá sức mình. Vấn đề quan trọng là chúng ta phải biết nhận ra ơn độ trì của Thiên Chúa, như tác giả Thánh Vịnh thầm hứa: “Con tự nguyện dâng Ngài lễ tế, lạy Chúa, con xưng tụng danh Ngài, thật danh Ngài thiện hảo!” (Tv 54:8).
Ai tin tưởng và hành động nhân danh Thiên Chúa thì chắc chắn sẽ không lầm đường lạc lối, vì Chúa Giêsu đã xác định: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8:12).
Cụ thi hào Nguyễn Du đã nhận định và so sánh: “Chữ TÂM kia mới bằng ba chữ TÀI” (Truyện Kiều). Cái “tâm” vô cùng quan trọng trong đời sống con người. Ai cũng có lương tâm, nhưng vấn đề là lương tâm đó đúng đắn hay lệch lạc. Thánh Giacôbê đặt vấn đề: “Ở đâu có ghen tương và tranh chấp, ở đấy có xáo trộn và đủ mọi thứ việc xấu xa. Đức khôn ngoan Chúa ban làm cho con người trở nên trước là thanh khiết, sau là hiếu hoà, khoan dung, mềm dẻo, đầy từ bi và sinh nhiều hoa thơm trái tốt, không thiên vị, cũng chẳng giả hình. Người xây dựng hoà bình thu hoạch được hoa trái đã gieo trong hoà bình, là cuộc đời công chính” (Gc 3:16-18).
Chắc chắn ai cũng biết lợi ích của cái tâm chân chính, nhưng biết là biết vậy, cố gắng áp dụng hay không lại là chuyện khác. Cổ nhân nói: “Tâm phẫn xí tắc bất đắc kỳ chính”. Từ cái tâm sẽ sinh ra nhiều hệ lụy khác, thậm chí ảnh hưởng cả sức khỏe thể lý.
Thánh Giacôbê tiếp tục phân tích: “Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em? Chẳng phải là bởi chính những khoái lạc của anh em đang gây chiến trong con người anh em đó sao? Thật vậy, anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét cũng chẳng được gì, nên anh em xung đột với nhau, gây chiến với nhau. Anh em không có, là vì anh em không xin; anh em xin mà không được, là vì anh em xin với tà ý, để lãng phí trong việc hưởng lạc” (Gc 4:1-3). Hệ lụy rạch ròi, tất yếu. Đúng là “lỗi tại tôi mọi đàng” chứ chẳng lỗi tại ai ráo trọi!
Cái thiện ý hoặc thiện tâm rất quan trọng, ngược lại thì rất nguy hiểm với ác ý hoặc dã tâm: “Thiện ý một câu ấm ba đông, lời ác lạnh người sáu tháng ròng”. Trong đêm Con Thiên Chúa giáng sinh, đạo binh chư thần đã đồng ca: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 1:14). Điều đó cho thấy sự thiện tâm là điều kiện tất yếu để được Thiên Chúa yêu thương, nhờ đó mà quyết tâm chỉ nhân danh sự thiện mà thôi.
Trình thuật Mc 9:30-36 cho chúng ta biết về hai vấn đề quan yếu mà chính Chúa Giêsu muốn giáo huấn mỗi chúng ta: Lớn – nhỏ, và thuận – nghịch.
Một lần nọ, Chúa Giêsu và các môn đệ đi băng qua miền Galilê. Ngài không muốn cho ai biết, vì Ngài đang “bật mí” cho các môn đệ biết chuyện hệ trọng: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại”. Tuy nhiên, các ông y như vịt nghe sấm, chẳng hiểu gì cả. Vả lại, các ông vừa sợ vừa ngại nên không dám hỏi lại Sư Phụ.
Sau đó, Thầy và trò cùng đến thành Ca-phác-na-um. Khi về tới nhà, Ngài hỏi các ông: “Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy?”. Ui da! Rỉ tai nhau thế mà Thầy cũng cũng biết. Chết thật! Vì thế, các ông nhìn nhau nhưng im thin thít, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả. Thánh sử Mác-cô cho biết rõ là các môn đệ “cãi nhau”, chứng tỏ vấn đề nghiêm trọng chứ không đơn giản. Họ tranh giành về chuyện “cao – thấp”, về chức quyền. Vấn đề này cũng vẫn thường xảy ra trong chúng ta ngày nay.
Ngài ngồi xuống, có lẽ Ngài rất buồn khi thấy các đệ tử vẫn tục lụy, vẫn hám danh và mê lợi như vậy, rồi Ngài gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: “Ai muốn làm người đứng đầu thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”. Đó là đức khiêm nhường. Ý tưởng của Ngài hoàn toàn trái ngược với chúng ta. Kế đó, Ngài đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”. Một chuỗi hệ lụy kỳ diệu quá!
Đó là vấn đề thứ nhất: Vấn đề lớn – nhỏ, cao – thấp. Vấn đề thứ nhì là thuận – nghịch. Khi đó, ông Gioan nói với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta”. Nghe vậy, Ngài liền khoát tay và nói ngay: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta”.
Động thái của Chàng trai trẻ Gioan nhắc nhở chúng ta một điều: Đừng tưởng mình ngon người khác, đừng tưởng mình có quyền hơn người khác. Vì thế mà coi thường người khác, khinh miệt hoặc ghét bỏ người khác. Từ hệ lụy này sinh ra hệ lụy khác. Cứ “tưởng rằng” như vậy là mạo nhận, là ảo tưởng, là kiêu ngạo! Tương tự, TIN mình được Chúa yêu thì không là kiêu ngạo, nhưng TƯỞNG mình được Chúa yêu thì lại là kiêu ngạo. Cái “khoảng cách” giữa TIN và TƯỞNG rất mong manh.
Kiêu ngạo là đối lập với Đức Kitô, vì Ngài là Đấng có “lòng hiều hậu và khiêm nhường” (Mt 11:29). Đồng thời hãy nhớ lại lời Kinh Ngợi Khen (Magnificat) của Đức Maria: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1:52).
Ước gì mỗi khi gặp nhau, dù là bất kỳ ai, chúng ta có thể chân thành nói với nhau: “Chúng tôi chúc lành cho anh em nhân danh Chúa” (Tv 129:8).
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con luôn biết nhân danh Ngài mà thực hiện bất cứ điều gì, từ suy nghĩ tới hành động, từ chuyện nhỏ tới chuyện lớn. Vâng, lạy Thiên Chúa, con thật lòng ước muốn và cố gắng thực hiện như vậy. Xin Ngài hướng dẫn con mọi nơi và mọi lúc. Xin Tổng lãnh Thiên thần Micae nguyện giúp cầu thay. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
67. Quyền bính là để phục vụ
(Suy niệm của Đs. Montfort Nguyễn Xuân Pháp O.Cist)
1. Tóm Lược
Bài Đọc 1: Kn 2, 12. 17- 20
Người gian ác tìm cách gài bẫy người công chính, vì họ thường tố cáo lối sống không tuân hành lễ giáo và vi phạm lề luật. Hơn nữa, người gian ác mưu hại người công chính là để thấy cuộc đời họ kết thúc ra sao, vì nếu người công chính là con Thiên Chúa thì Người sẽ phù hộ và cứu thoát khỏi tay địch thù.
Bài Đọc 2: Gc 3, 16; 4, 3
Ở đâu có ghen tương, tranh chấp thì ở đấy có xáo trộn và mọi thứ xấu xa. Sở dĩ có xung đột giữa anh em là vì khoái lạc đã gây nên chiến tranh, ganh ghét và chém giết lẫn nhau. Còn đức khôn ngoan Thiên Chúa là thanh khiết, hiếu hòa, khoan dung, từ bi, không thiên vị, không giả hình.
Bài Tin Mừng: Mc 9, 30- 37
Mặc dầu Đức Giêsu loan báo cuộc thương khó lần thứ hai, nhưng các môn đệ vẫn không hiểu những lời đó, lại còn tranh dành ai là người lớn hơn cả. Thấy vậy, Đức Giêsu liền nói: “Ai làm người đứng đầu phải làm người rốt hết và làm người phục vụ mọi người”. Người còn đặt một em nhỏ vào giữa các ông và nói: Ai tiếp đón một em nhỏ vì danh Thầy là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy là tiếp đón Đấng đã sai Thầy.
2. Suy Niệm
Khi đề cập tới quyền bính, nhiều người cảm thấy e ngại, né tránh. Bởi chưng giữa cảnh đời tranh đua xua nịnh, quyền bính là phương tiện hữu hiệu để ra lệnh, chỉ đạo, cai trị, lấn át người dưới và trục lợi cho bản thân. Cách hành xử của người nắm quyền thường mang tính áp đặt, “cả vú lấp miệng em” nhằm đạt được danh vọng, vinh thân phì da và củng cố địa vị. Sự thánh thiêng của quyền bính đã bị bào mòn khi đồng hoá nó với uy danh của cái tôi và nhắm tới quyền lợi người trên. Thay vì trở nên cách thế phục vụ và bảo vệ kẻ thấp cổ bé miệng, nó lại chất lên vai những gánh nặng mà chính người nắm quyền không thèm đụng ngón tay.
Còn theo Chúa Giêsu, quyền bính là để phục vụ; người đứng đầu là người có khả năng dấn thân phục vụ và mở ra chiều kích sứ vụ nhiều hơn. Chúa Giêsu đã nói: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” (Mc 9, 36). Ở đây, Đức Kitô không đề ra xu hướng loại trừ quyền bính. Cũng như đồng tiền, quyền bính tự nó là tốt và cần thiết cho sự phát triển và an sinh xã hội. Vấn đề không hệ tại quyền bính mà ở cách sử dụng chúng và hướng đích mà người nắm quyền muốn nhắm tới. Chúa Giêsu đưa ra một phương cách hành quyền khác giúp các môn đệ tránh những cám dỗ mà quyền bính có thể mang lại: Người làm lớn là người phục vụ anh em, sẵn sàng rửa chân cho nhau và hiến dâng mạng sống vì lợi ích tha nhân.
Như vậy, Chúa Giêsu đòi hỏi người nắm quyền chấp nhận phần thua thiệt, tiêu hao chính mình để người khác được lớn lên trong ân sủng và tình yêu. Đồng thời, luôn sống chiều kích vâng phục như chính Ngài “đã vâng lời cho đến chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 8). Chính Ngài đã nêu gương cho các môn đệ: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy và hoàn tất công trình của Ngài” (Ga 4, 34). Sống chiều kích vâng phục giúp người nắm quyền thi hành chức vụ bằng tinh thần của Chúa: yêu thương, cảm thông, tha thứ và phục vụ. Họ không tìm ưu đãi cho bản thân hay nhằm thăng tiến địa vị, nhưng luôn nhắm tới người bé mọn và nghèo khổ là thành phần cần được bảo vệ và ưu đãi trong cộng đoàn (x. Mt 18, 1- 4).
Có thể nói, quyền bính là lối ngõ dẫn người khác tới gặp Thiên Chúa và tha nhân. Ngang qua quyền bính, con người khám phá ra tình yêu, sự tin tưởng và tình liên đới, cũng như tìm được chìa khoá mở ra những chân trời tươi sáng và hy vọng. Bởi vì, nó làm cho con người sống xứng với nhân phẩm của mình và không ngừng lớn lên. Nói cách khác, người nắm quyền là người có khả năng bắt nhịp cuộc sống người khác: “Vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12, 15), “trở nên tất cả cho mọi người” (1Cr 9, 22) để mưu ích cho anh chị em mình (x. 1Tx 1, 5), sinh hoa kết quả cho Thiên Chúa (x. Rm 7, 4) và xây dựng Hội Thánh (x. 1Cr 14, 26).
Điều này đòi hỏi người lãnh đạo cần trang bị cho mình những đức tính cần thiết như: Tiết độ, chừng mực, nhã nhặn, cởi mở, hiếu khách, hiền hoà và có khả năng giảng dạy (x. 1Tx 3, 2- 4; 1Tm 6, 11; 1Tt 1, 6- 9). Họ phải nêu gương mẫu cho người khác về lời ăn tiếng nói, cách cư xử, đức ái, đức tin và lòng trong sạch (x. 1Tm 4, 12; 2Tm 2, 22); thái độ dịu dàng với mọi người và biết chịu đựng những thử thách, đau khổ (x. 1Tm 2, 24). Người nắm quyền phải xác tín rằng quyền bính Chúa ban để xây dựng và củng cố, chứ không phải để phá đổ (x. 2Cr 13, 16). Thánh Phaolô đưa ra khuân mẫu cho người nắm quyền bính: Xem người dưới như ruột thịt và đối xử trọn tâm tình của người cha (x. 1Cr 4, 14; 2Cr 3, 16; 1Tx 2, 11), hay như sự dịu dàng của người mẹ hiền (x. 1Tx 2, 7; Gl 4, 19).
Với thánh Phaolô, điều có sức chinh phục người khác không phải là quyền- luật cho bằng một trái tim biết rộng mở và cùng đồng hành với những nỗi thăng trầm của họ. Hơn ai hết, chính thánh nhân là mẫu gương tuyệt hảo cho những ai hành quyền: “Khi ở giữa anh em, chúng tôi đã cư xử thật dịu dàng, chẳng khác nào mẹ hiền ấp ủ con thơ. Chúng tôi quí mến anh em, đến nỗi sẵn sàng hiến cho anh em, không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà cả mạng sống của chúng tôi nữa” (1Tx 2, 7- 8). Ở đây, cách hành quyền không mang màu sắc áp đặt. Trái lại, luôn kêu gọi và mở ngỏ cho người khác đáp lại với tất cả tự do: “Chúng tôi khuyên nhủ, khích lệ, van nài anh em sống xứng đáng với Thiên Chúa, Đấng đã kêu gọi anh vào nước của Người và chia sẻ vinh quang với Người” (1Tx 2, 11- 12).
Chúng ta cùng cầu xin Chúa ban cho những người đang hướng dẫn chúng ta được khôn ngoan, bác ái, từ tâm, hiền lành và dạt dào hồng ân Chúa, để các ngài dẫn dắt đoàn chiên Chúa tín trao luôn an hòa và thăng tiến như Thiên Chúa muốn.
68. Suy niệm của JKN.
VÌ THĂNG TIẾN BẢN THÂN HAY VÌ ĐẠI CUỘC NƯỚC TRỜI?
Câu hỏi gợi ý:
1. Các môn đệ Đức Giêsu hy vọng gì nơi Đức Giêsu? Các ông phản ứng thế nào khi Ngài báo trước rằng Ngài sẽ bị giết chết? Việc tiên báo cái chết của Ngài ảnh hưởng gì đến niềm hy vọng của các ông?
2. Trước sứ mạng của Đức Giêsu, não trạng của Ngài khác với các môn đệ chỗ nào? Tâm trí các môn đệ bị thu hút bởi đại cuộc của Thiên Chúa hay bởi sự thăng tiến bản thân của các ông?
3. Những người mang danh theo Chúa mà coi trọng việc thăng tiến bản thân hơn đại cuộc của Thiên Chúa thì Giáo Hội Chúa sẽ ra sao? sẽ phát triển hay bị trì trệ? Tại sao?
CHIA SẺ
1. Bối cảnh của bài Tin Mừng
Đức Giêsu và các môn đệ đi băng qua miền Galilê một cách âm thầm không cho ai biết. Ngài muốn tạm gác việc loan báo Tin Mừng, giảng dạy và chữa bệnh cho dân chúng qua một bên để có thì giờ dạy dỗ các môn đệ, đặc biệt báo cho các ông biết một viễn cảnh sắp xảy ra mà các ông khó có thể hiểu và chấp nhận. Đó là «Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người…». Phải báo trước viễn cảnh ấy để chuẩn bị tinh thần cho các ông, để các ông không quá ngỡ ngàng và thất vọng khi nó xảy đến, mà sẵn sàng đón nhận nó. Đây không phải lần đầu tiên Ngài nói với các môn đệ điều này, Ngài đã từng «nói rõ điều ấy không úp mở» với các ông trước đó không lâu (x. Mc 8,31-33), nhưng lúc đó các ông tỏ ra không thể chấp nhận được. Thái độ không chấp nhận này đã bị Đức Giêsu quở trách rất nặng lời, đến nỗi Ngài đã gọi Phêrô là: «Xatan!» khi ông muốn can Ngài. Chính vì lần trước các ông bị quở trách nặng nề như thế, nên lần này bài Tin Mừng cho biết: «Các ông sợ không dám hỏi lại Người».
Các môn đệ Đức Giêsu quan niệm rằng Thầy mình đến để giải phóng dân Do-thái về mặt chính trị, và Ngài sẽ làm vua. Điều các ông hằng mơ tưởng bấy lâu nay là: mai mốt khi Thầy mình làm vua thì mình cũng sẽ làm quan, nắm những chức vụ chủ chốt trong triều đình của Ngài. Nhưng những chức vụ chủ chốt ấy dẫu sao vẫn có chức lớn hơn chức nhỏ hơn, thế là các ông bàn tán với nhau xem ai là người được Đức Giêsu giao cho chức vụ lớn nhất. Nhưng thực tế không xảy ra như các ông nghĩ. Cách suy nghĩ của Thiên Chúa khác hẳn với cách suy nghĩ của con người. Sở dĩ các ông không thể chấp nhận việc Ngài chết, vì nếu Ngài chết thì những mơ tưởng đẹp đẽ của các ông sẽ biến thành mây khói, và các ông sẽ lại trở về với những thực tại tầm thường của mình.
2. Hai não trạng: một vì đại cuộc, một vì thăng tiến bản thân
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy hai quan niệm, hai não trạng khác nhau giữa Đức Giêsu và các môn đệ Ngài. Đức Giêsu thì quan tâm tới đại cuộc của Thiên Chúa, và sẵn sàng hy sinh tất cả cho đại cuộc ấy. Còn các môn đệ thì lòng trí đang bị thu hút vào việc thăng tiến bản thân, coi việc được làm môn đệ Đức Giêsu như một cơ hội hết sức thuận lợi cho việc thăng tiến ấy. Các ông chưa nghĩ gì tới đại cuộc cũng như việc hy sinh cho đại cuộc cả. Não trạng của các môn đệ cũng là não trạng của tuyệt đại đa số Kitô hữu chúng ta. Nhưng muốn thật sự theo Đức Giêsu, tất cả chúng ta đều cần phải sửa đổi lại cách suy nghĩ của mình, đồng thời mặc lấy cách quan niệm và suy nghĩ của Ngài, là Thầy của chúng ta.
Thực ra, quan tâm hay lo lắng cho việc thăng tiến bản thân tự nó là điều rất tốt, đó là một động lực hợp pháp và tốt lành đã tạo nên biết bao nỗ lực hay công việc tốt đẹp ở trần gian này. Tuy nhiên, đối với những tâm hồn thiếu tình thương, ích kỷ, thiếu đạo đức, việc thăng tiến bản thân cũng là động lực làm nên bao tội ác. Biết bao người sẵn sàng đạp trên đầu trên cổ người khác, sẵn sàng âm mưu thâm độc, bỉ ổi, hèn hạ để hại người, giết người, hầu bước lên những địa vị cao cả ngoài xã hội cũng như trong Giáo Hội. Vì thế, lòng ham muốn thăng tiến bản thân là một con dao hai lưỡi: nó có thể tốt mà cũng có thể xấu. Nó chỉ tốt khi nào ta đặt nó dưới sự chỉ đạo của Luật Chúa, của tình thương, của lương tâm.
Đối với những người thật sự muốn theo Chúa và tiến tới trên con đường nhân đức, thánh thiện, thì cần phải coi rất nhẹ việc thăng tiến bản thân để có thể hết mình với đại cuộc của Thiên Chúa. Để sẵn sàng hy sinh tất cả, dẫu là những cơ hội thăng tiến bản thân, thậm chí cả mạng sống mình, cho đại cuộc của Thiên Chúa. Đại cuộc của Thiên Chúa chính là kế hoạch cứu độ nhân loại, thăng tiến tâm linh con người, thực hiện Nước Trời không chỉ trong thế giới mai hậu mà còn ở ngay trần gian này.
Nói thế không có nghĩa là người theo Chúa phải luôn luôn khước từ mọi cơ hội thăng tiến bản thân, từ bỏ mọi địa vị hay quyền lực. Người thật sự hiến mình cho đại cuộc chỉ coi địa vị, quyền lực, danh vọng như những phương tiện để thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa, để phục vụ con người, và coi bản thân mình chỉ là dụng cụ mà Thiên Chúa dùng để thực hiện kế hoạch của Ngài mà thôi. Thái độ của họ đối với địa vị, quyền lực, danh vọng là không ham muốn cũng không tránh né: sẵn sàng đảm nhận khi thấy đó là một phương tiện để phục vụ tốt, nhưng cũng sẵn sàng từ khước khi thấy mình bất xứng hay khi có người khác xứng đáng hơn…
Một số khá đông người trong Giáo Hội - từ giáo dân cho đến giáo sĩ - coi việc làm tông đồ, đời tu trì… như những cơ hội hay môi trường thuận lợi để thăng tiến bản thân mình. Họ cũng tỏ ra rất hăng hái nhiệt thành trong công việc của Chúa, nhưng động cơ thúc đẩy lại mang tính vị kỷ chứ không phải vị tha. Khi đã đạt được những chức vị cao trong Giáo Hội theo khả năng của mình, họ trở nên ù lỳ, ngại dấn thân, thích hưởng thụ… vì mục tiêu đã đạt được, không cần phải phấn đấu để lên cao hơn nữa… Nếu những cấp lãnh đạo Giáo Hội gồm toàn những hạng người này, thì Giáo Hội sẽ bị trì trệ, không phát triển được, nhất là khi Giáo Hội gặp phải những giai đoạn khó khăn, bị bách hại, đòi hỏi các cấp lãnh đạo phải dấn thân, phải thật sự hy sinh và quảng đại cho Giáo Hội.
3. Người làm lớn phải có tinh thần phục vụ cao
Bất kỳ tập thể nào - trong Giáo Hội hay ngoài xã hội - muốn thăng tiến cũng đều cần có những người tài đức biết quên mình để phục vụ cho sự phát triển và thăng tiến của tập thể. Nhưng những người phục vụ cho sự phát triển tập thể có thể được thúc đẩy bởi một trong hai động lực trái ngược nhau. Một đằng thật sự vì đại cuộc, vì ích lợi chung của tập thể. Và một đằng vì sự thăng tiến của bản thân (để đạt được những chức vụ cao, để nắm quyền hành trong tay, để được nổi tiếng, được ca tụng, tung hô, nể phục, để thỏa mãn nhu cầu «phình to bản ngã», để hưởng thụ cuộc đời). Người thật sự vì đại cuộc có thể hy sinh tất cả cho đại cuộc, còn người vì sự thăng tiến bản thân thì lại sẵn sàng hy sinh đại cuộc cho sự thăng tiến của mình. Hạng này coi đại cuộc như một phương tiện hữu hiệu để mình tiến thân.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, trước tinh thần vì sự thăng tiến bản thân hơn là vì đại cuộc của các môn đệ, Đức Giêsu đưa ra nguyên tắc cho Nước Trời và Giáo Hội của Ngài: «Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người». Ngài muốn khuyên những ai đang muốn thăng tiến bản thân hãy từ bỏ ý hướng vị kỷ ấy để hướng lòng về đại cuộc, về hạnh phúc chung của tất cả mọi người. Chỉ những người có tinh thần cao cả như thế mới xứng đáng làm lớn, giữ địa vị lãnh đạo. Và chỉ khi những người này nắm quyền lãnh đạo, Giáo Hội hay xã hội mới thật sự thăng tiến và phát triển.
Để cụ thể hóa tinh thần ấy, «Người đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”» Ngài muốn nói: người làm lớn phải coi trọng và phục vụ tất cả mọi người, dù là người bé mọn nhất trong xã hội hay Giáo Hội. Tính phân biệt giầu nghèo, sang hèn, thánh phàm, giáo sĩ giáo dân… đều không xứng hợp với những người lãnh đạo trong Giáo Hội hay trong Nước Trời. Khi đối xử tốt với một người giàu có hay có chức vị lớn, rất có thể ta làm vì một ý đồ ích kỷ. Nhưng khi đối xử tốt với một người nghèo hay một kẻ bé mọn, một trẻ em, thì việc đối xử ấy thường không vì một ý đồ ích kỷ mà vì tình thương. Đó cũng chính là làm cho Thiên Chúa hay Đức Giêsu. Cách hành động vị tha như thế phải là hành động của những người làm lớn trong Giáo Hội: luôn luôn hành động vì ích lợi hay hạnh phúc của mọi người chứ không vì sự thăng tiến hay hạnh phúc của mình.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con biết nghĩ đến đại cuộc của Thiên Chúa. Xin mở lòng con ra để có thể ôm cả thế giới vào lòng. Đừng để lòng con chật hẹp khiến con chỉ biết nghĩ đến mình, đến hạnh phúc hay đau khổ của mình, đến sự thăng tiến của riêng mình. Xin ban cho con một tâm hồn vị tha, biết quên mình trước những nhu cầu của tha nhân.
69. Khuôn mặt rạng rỡ - Lm. Mark Link SJ.
Một thầy giáo ra bài làm ở nhà cho các học sinh: "Hãy viết lại quãng thời gian trong cuộc đời mà em là 'một người Samari tốt lành' đối với ai đó." Một trong các học sinh đã viết bài ấy như sau:
"Vào mùa hè trước khi tôi lên trung học, giáo xứ chúng tôi tổ chức một ngày đi thăm người già và người tàn tật ở một bệnh viện gần đó. Cả một dẫy xe lăn và bệnh nhân làm tôi choáng váng. Lúc đầu tôi chỉ nhìn thấy xe lăn.
"Sau đó tôi nhận thấy có người ngồi xe lăn nhìn chăm chăm vào đôi chân của tôi.
"Chỉ có thế. Bấy giờ tôi không chỉ nhìn đến xe lăn và tôi bắt đầu nhìn thấy người ngồi trong đó. Tôi thấy các bà tàn tật, những cựu chiến binh bị tê liệt, những ông già không ai chăm sóc, các em nhỏ thật mảnh khảnh. Tất cả đang chờ đợi xem có ai đó để ý đến họ. Tôi ngột ngạt; vội vàng bước đi.
"Tôi rảo bước quanh bệnh viện có đến một giờ đồng hồ. Tôi cảm thấy tức giận Thiên Chúa và hoàn toàn hoang mang khi thấy quá nhiều sự đau khổ trong một nơi chốn. Tôi cảm thấy cô đơn hơn bất cứ bệnh nhân nào. Tôi là người cần sự giúp đỡ, chứ không phải họ.
"Nhưng một lúc sau, vị Thiên Chúa mà tôi trút sự giận dữ lên Người bỗng dưng trở nên thực tế hơn bao giờ hết trong cuộc đời. Tôi cảm thấy Thiên Chúa đã yêu thương những người này một cách đặc biệt.
"Đó là một cảm nghiệm kỳ lạ; bỗng dưng đức tin sút giảm và bỗng dưng đức tin gia tăng--tất cả xảy ra trong khoảng khắc.
"Tôi trở lại nơi có những người già và tàn tật. Và tôi bắt đầu làm bất cứ gì có thể để làm họ vui: lấy cho họ ly nước ngọt và chỉ nói chuyện với họ. Tôi làm cho gương mặt họ sáng lên vào buổi chiều hôm ấy.
"Nhưng trong tất cả các khuôn mặt rạng rỡ hôm ấy, một khuôn mặt nổi bật hơn tất cả. Tôi không bao giờ quên được khuôn mặt ấy. Đó là khuôn mặt của chính tôi. Chưa bao giờ tôi cảm thấy mình tốt lành đến thế; chưa bao giờ tôi cảm thấy vui như vậy."
Câu chuyện này thích hợp với bài đọc ngày hôm nay. Đặc biệt, nó thích hợp với điều mà Chúa Giêsu nói với các môn đệ sau khi họ cãi nhau xem ai là người lớn nhất.
Chúa Giêsu nói, "Ai muốn là người đầu thì phải tự đặt mình chót hết và trở thành người phục vụ tất cả" (Mc 9:35).
Và vì vậy Chúa Giêsu đã dùng cơ hội này để nhấn mạnh đến một chủ đề nổi bật trong phúc âm: giúp đỡ người khác, nhất là người có nhu cầu. Chúng ta hãy xem xét chủ đề này kỹ hơn.
Hãy nhìn đến chủ đề từ hai quan điểm. Trước hết, hãy nhìn nó dưới quan điểm của người có nhu cầu. Thứ hai, hãy nhìn nó dưới quan điểm của những người giúp đỡ.
Trong cuốn sách Majority of One, tác giả Sydney Harris đã diễn tả quãng thời gian ông bị gẫy xương ở bàn chân, khiến ông phải chống gậy đi khập khiễng trong vài ngày. Về cảm nghiệm này, ông viết:
"Điều khoan khoái về cảm nghiệm này mà nếu không có nó sẽ thật đau lòng là phương cách người ta đối xử với tôi. Họ mở cửa cho tôi, giúp tôi bước lên xe taxi, nhường chỗ cho tôi trong thang máy. Tinh thần tôi phấn khởi khi được đối xử như vậy."
Nhận xét của ông Harris cho thấy sự phục vụ đã làm gì theo quan điểm của người có nhu cầu. Nó đã làm cho khuôn mặt họ rạng rỡ. Nó làm họ cảm thấy có người lo lắng đến họ. Nó làm họ cảm thấy có người thương mến họ.
Điều này đưa chúng ta đến quan điểm thứ hai: sự phục vụ làm gì cho những người giúp đỡ. Không có gì tốt hơn để minh họa bằng nhận xét của em học sinh trên, khi em nói:
"Tôi làm cho gương mặt họ sáng lên vào buổi chiều hôm ấy. Nhưng trong tất cả các khuôn mặt rạng rỡ hôm ấy, một khuôn mặt nổi bật hơn tất cả. Tôi không bao giờ quên được khuôn mặt ấy. Đó là khuôn mặt của chính tôi. Chưa bao giờ tôi cảm thấy mình tốt lành đến thế; chưa bao giờ tôi cảm thấy vui như vậy."
Sự nhận xét của em minh họa điều mà sự phục vụ đã làm cho những người giúp đỡ. Nó làm cho gương mặt họ rạng rỡ hơn cả khuôn mặt của những người được sự giúp đỡ.
Và tôi nghĩ lý do của điều này thật đơn giản. Nó phát xuất từ điều mà chúng ta quên. Nó xuất phát từ điều mà chúng ta không thấy. Nó phát xuất từ điều mà chúng ta cần được nhắc nhở luôn luôn. Để tôi minh hoạ bằng một câu chuyện.
Có một bức tranh thời thế kỷ 19 vẽ một hàng dài những người nghèo trong một khu tồi tàn của thành phố, họ đang đứng đợi trước một nhà phát chẩn.
Đó là một bức tranh đáng chú ý. Nhưng điều đáng chú ý nhất trong bức tranh là một trong những người nghèo đứng xếp hàng. Ông ta có vòng hào quang trên đầu. Nhìn kỹ lại thì đó là Chúa Giêsu. Và điều này cho chúng ta thấy lý do mà khuôn mặt những người giúp đỡ lại rực rỡ hơn những người được giúp đỡ. Chính vì khi giúp đỡ người nghèo, họ khám phá ra Chúa Giêsu trong thế giới ngày nay. Người ở ngay trong những người có nhu cầu.
Đây là điều chúng ta quên. Đây là điều chúng ta không thấy. Đây là điều chúng ta cần được nhắc đi nhắc lại.
Vì không ai khác hơn là chính Chúa Giêsu đã nói: "Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han… mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy!" (Mt 25:35-36, 40).
Chúng ta hãy chấm dứt bằng sự thành khẩn lắng nghe lời mạnh mẽ của Albert Schweitzer, một trong những Kitô Hữu vĩ đại trong thế kỷ của chúng ta.
Vào lúc 30 tuổi, ông hy sinh sự nghiệp của một nghệ sĩ trình tấu cho những người nhà giầu ở Âu Châu và trở nên một bác sĩ đi truyền giáo và chăm sóc người nghèo ở Phi Châu. Khi về già, ông nói:
"Tôi không biết định mệnh của bạn ra sao, nhưng tôi biết chắc một điều: chỉ có người thực sự hạnh phúc là người tìm cách phục vụ người khác."
Chúng ta hãy lập lại những lời này một lần nữa vì chúng thật quan trọng.
"Tôi không biết định mệnh của bạn ra sao, nhưng tôi biết chắc một điều: chỉ có người thực sự hạnh phúc là người tìm cách phục vụ người khác."
70. Phục vụ tha nhân - Lm. Thu Băng.
Thánh Mathêu tông đồ thánh sử là một thanh niên yêu đời. Chàng lại có địa vị trong xã hội (làm đầu bọn thâu thuế), bao nhiêu người nhòm ngó và ai cũng biết đến tên tuổi. Thế mà sau tiếng gọi nhiệm mầu của Chúa, chàng đã từ bỏ mọi danh vọng, và hăng hái từ bỏ mọi sang trọng đời này, bán tất cả đãi tiệc bạn bè rồi đi theo Chúa Kitô, làm môn đệ trung kiên của Thầy. Ngài đã viết lại cuộc đời của Thầy một cách tỷ mỷ và tường tận trong Phúc Âm thứ nhất của ngài. Ngài còn đi giảng đạo tại Palestine và đổ máu đào mình ra sau khi Chúa về trời để minh chứng Đức Kitô thật là Thiên Chúa hằng sống đã từ trời xuống thế mặc thân phận người tôi tớ: “Con người sẽ bị nộp để những ai muốn làm lớn thì hãy tự nên kẻ rốt hết phục vụ anh chị em mình” (9:29-36).
Cũng như câu chuyện: Một tu sĩ già cầu xin Chúa hiện ra để củng cố niềm tin của ông, nhưng điều đó chẳng xẩy ra, thế rồi ngày nọ Chúa lại hiện ra với ông. Vị tu sĩ già vui mừng quá đỗi, nhưng ngay lúc đó chuông tu viện vang lên báo hiệu giờ phát chẩn cho người nghèo. Khổ nỗi hôm nay lại đến phiên tu sĩ già phát chẩn cho họ, nên ông không chậm trễ lặng lẽ rời bỏ cuộc nói chuyễn với Chúa đi phát chẩn cho dân. Gần một giờ đồng hồ, ông trở lại phòng mình: Chúa đang chờ ông ỏ đó. Thế là vị tu sĩ già liền cảm tạ Chúa, nhưng Chúa trả lời ông: “Giả như con không chịu đi giúp người nghèo, thì Ta đã không ỏ lại đây đâu”.
Câu chuyện thánh Mathêu và tu sĩ già làm sáng tỏ lời dạy của Chúa Kitô trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ai đón nhận một trong những kẻ bé mọn vị danh Thầy, là đón tiếp chính Thầy. Ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”. Các ngài đã học được rằng: Phụng sự Chúa không nhất thiết là phải cầu nguyện lâu giờ, không nhất thiết là thị kiến chính Chúa, mà là phục vụ anh chị em, đặc biệt là những người ít may mắn. Chúa Giêsu vào đời đã dạy các môn đệ Ngài bài học này: “Ai muốn nên kẻ cao trọng nhất, thì hãy làm người thấp nhất để phục vụ anh chị em ngươi”.
Điều này gợi lên một vấn đề quan trọng: Làm sao có thể thực hiện được lời dạy của Chúa Giêsu? Mỗi người đều có câu trả lời thiết thực khác nhau: Tôi quen thân với một người bị liệt mất một bên chân phải vì bịnh tiểu đường cách đây đã 10 năm trời, nhưng anh cố ngồi xe lăn, lê chân đôi chân đến an ủi những người bạn khác mới bị lần đầu. Sau đó tôi lại thấy một người cụt mất cả bàn chân, đi bằng chân sắt giả bình thường như những người khác. Anh ta là thợ điện trong nhà thương. Anh vạch chân sắt cho tôi xem và khích lệ: “Người ta què một chân thì đã kêu khó kêu nhọc khi phải què chân, tôi đây bị cưa cả bàn chân mà tôi vẫn đi đứng, làm lụng được như thường, chỉ vì mình có chí khí khuất phục nó. Bạn hãy lấy ý chí mà vượt thắng mình sẽ qua cơn khó khăn này thôi”. Trong chúng ta ít người có chí khí và khích lệ bạn bè như trường hợp hai người què trên. Tuy nhiên, tôi vẫn tự hỏi được mấy người trong chúng ta biết lợi dụng những đặc ân, những hoàn cảnh khó mà khích lệ anh chị em chúng ta?
Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta xét lại cuộc sống: Ngay lúc này, chúng ta đã làm được việc gì với tinh thần phục vụ tha nhân, cho dầu chúng ta là những người lanh lặn và hoàn bị trong nghĩa vụ?
Để kết thúc, chúng ta nhắc lại lời nhắc bảo của Chúa cứu thế: “Ai muốn làm lớn, thì hãy tự hạ mình làm người tôi tớ anh em. Chỉ có những ai biết tìm đến phục vụ tha nhân thì mới thực sự được hạnh phúc”.
71. Thu góp kim cương - Lm. Cao Vũ Nghi.
Người ta kể chuyện về Rabbi Menachem Sche-neerson, dù đã hơn 80 tuổi, nhưng ngày ngày vẫn đứng hằng giờ trên đường phố New York tiếp đón bất cứ ai đến với ông, để xin ông cầu nguyện, chúc lành cho họ, hay để xin ông giúp ý kiến về mọi khúc mắc trong cuộc sống. Ngày nọ, một người đã hỏi ông làm sao với tuổi già sức yếu, mà ông không tỏ ra mệt mỏi sau khi đứng nhiều giờ như vậy. Ông đã trả lời, “Khi người ta đếm kim cương, người ta đâu cảm thấy mệt.”
Trong đoạn Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Thánh Marcô thuật lại 2 mẩu truyện: Chúa tiên báo về cuộc khổ nạn của Chúa, và các môn đệ tranh luận xem ai là người lớn nhất. Điều có lẽ làm chúng ta hơi lạ là tại sao Chúa vừa tiên báo là Chúa sẽ phải chết, một tin quan trọng như vậy, thì cho dù các môn đệ không dám hỏi Chúa, ít ra, cái tin Chúa sẽ chết phải là đề tài cho các vị bàn luận với nhau. Thế nhưng các vị lại bàn tán xem ai là người cao trọng nhất. Dù sao, Chúa đã dùng cơ hội này để dạy các môn đệ một bài học về vai trò phục vụ trong Nước Chúa: “Ai muốn làm lớn nhất, thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người... Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy.”
Đối với xã hội Do thái, một trẻ nhỏ được đặt ngang hàng với một người nô lệ, và chỉ sau khi đến tuổi trưởng thành, người đó mới trở thành người tự do và được quyền hưởng gia tài cha mẹ để lại. Nên khi Chúa dậy các môn đệ đón tiếp cả các trẻ nhỏ, những người bị coi là hèn kém nhất trong xã hội, đó là Chúa dậy các môn đệ phục vụ mọi người, không trừ một ai.
Khi Mẹ Têrêsa qua đời ngày 5 tháng 9 năm 1997, Mẹ đã sống gần 50 năm giữa những người nghèo nhất trong những người nghèo trên thế giới. Mẹ đã tận tâm hy sinh phục vụ những người nghèo đói, bệnh tật, sắp chết, què quặt, những người thiếu tình thương. Mẹ cho họ nơi ăn chỗ ở, băng bó vết thương cho họ, và nhất là Mẹ ban cho họ tình thương, giúp họ lấy lại được nhân phẩm mà họ đã mất đi vì tình trạng túng bấn của họ. Chắc chắn không phải dễ gì mà Mẹ Têrêsa đã kiên trì làm việc này trong một thời gian lâu dài như vậy. Mẹ đã tìm được nghị lực để làm được điều đó nơi Chúa Giêsu, Đấng Mẹ đã hằng suy ngắm và cố gắng noi gương bắt chước.
“Con Người đến không để được phục vụ, nhưng để phục vụ...” (Mt 20:28), Chúa Giêsu đã dạy và Chúa đã thực hiện đúng như vậy. Chúa đã hạ mình xuống để rửa chân cho các môn đệ, cả kẻ rồi đây sẽ nộp Chúa, và Chúa đã dạy các môn đệ: “Ta là Chúa và là Thầy mà đã rửa chân cho các con, các con hãy rửa chân cho nhau” (Jn 13:14). Và rõ ràng hơn cả, là Chúa đã chịu khổ nạn và chịu chết để mua chuộc ơn cứu độ cho con người. Đó là tột đỉnh của sự phục vụ, dám hy sinh mạng sống vì người mình yêu (xem Jn 15:13).
Dám xả thân hy sinh phục vụ tha nhân, có lẽ đó là một đức tính thiếu vắng nơi con người ngày nay. Trong gia đình, khi phải phục vụ, đó cũng chỉ là miễn cưỡng phải làm; còn khi có thể, thì chỉ tay năm ngón, mắt dính vào TV hay tờ báo, tay cầm ly cà-phê, ngồi thảnh thơi trong chiếc ghế bành. Khi ra ngoài xã hội, nếu khi nào có ra tay nghĩa hiệp, cũng chỉ là để thu hoạch những lợi ích cá nhân. Thực ra, cũng có những người hoàn toàn quên mình để phục vụ người khác theo gương Chúa Giêsu. Họ phục vụ trong yêu thương. Họ phục vụ vì nhận ra hình ảnh Chúa Giêsu nơi tha nhân, nơi những người mà Chúa đã ban cho làm bạn đồng hành với họ trong cuộc sống, cho dù người đó là một người thân yêu trong gia đình, trong cùng giáo xứ hay cộng đoàn, trong cùng xưởng thợ, hay một người cần đến bàn tay yêu thương của họ.
Rabbi Menachem Scheneerson đã coi việc giúp đỡ những người bộ hành trên đường phố tìm ra được một chút ý nghĩa cho cuộc sống là đang đếm kim cương. Mẹ Têrêsa coi việc giúp đỡ những người cùng khốn nhất trong xã hội là đang phục vụ chính Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã hy sinh chính bản thân mình để đem lại sự sống mới cho toàn thể loài người. Đó là những mẫu gương đáng cho chúng ta noi theo bắt chước.
72. Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
TĂM TỐI TỬ GIÁ BỪNG LÊN ÁNH SÁNG SỰ SỐNG PHỤC SINH!
Bài Phúc Âm Chúa Nhật XXV Thường Niên Năm B tuần này, tương tự như trường hợp của bài Phúc Âm tuần trước, cũng không phải là bài Phúc Âm tiếp ngay sau bài Phúc Âm được Thánh Ký Marcô trình thuật, nhưng ý nghĩa lại gắn liền với bài Phúc Âm tuần trước. Đúng thế, cách bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước và bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này là những đoạn Phúc Âm Giáo Hội bỏ qua không sử dụng, thứ tự là đoạn về biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi rồi đến đoạn Người trừ quỉ ám câm điếc ra khỏi đứa con trai. Giáo Hội đã lấy đoạn Phúc Âm về lời Chúa Giêsu tiên báo lần thứ hai liên quan đến cuộc Vượt Qua của Người cũng như về lời Người dạy các tông đồ cách tiếp nhận Người là Đức Kitô. Đó là lý do, như trên đã nhận định, bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước và bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này tuy cách nhau hai đoạn Phúc Âm kể trên, song vẫn ăn khớp với nhau về ý nghĩa. Và như bài chia sẻ tuần trước đã nhận định, bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này sẽ cho thấy lý do tại sao các tông đồ dù đã tuyên nhận “Thày là Đức Kitô” song vẫn vấp phạm trước sự thật này.
Như Thánh Ký Marcô ghi nhận trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này về thái độ của các tông đồ sau khi nghe Chúa Giêsu mạc khải cho biết lần thứ hai về cuộc Vượt Qua của Người như sau: “Mặc dù không hiểu được lời lẽ của Người, song các vị sợ không dám hỏi Người”. Không biết có phải “các vị sợ không dám hỏi Người” là vì không muốn bị Người quở cho như trường hợp tông đồ Phêrô trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước hay chăng, nhưng chắc chắn một điều là các vị chưa hoàn toàn theo Đức Kitô của Thiên Chúa, một Đức Kitô “đến không phải để được phục vụ mà là để phục vụ, để hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người” (Mt 20:28), mà là theo một Đức Kitô chính trị, một Đức Kitô đầy quyền lực, chẳng những trên thần ô uế, trên thiên nhiên tạo vật, trên tật nguyền bệnh hoạn, mà còn trên cả đế quốc Rôma nữa. Bởi thế, thậm chí cho đến ngay trước khi Chúa Giêsu về trời, các vị còn tỏ ra ngớ ngẩn hỏi Người “phải chăng Thày sắp khôi phục lại nước Do Thái?” (Acts 1:6). Đó là lý do, với tâm trạng trần tục như thế, làm sao các tông đồ hiểu được và chấp nhận được sự thật hoàn toàn thua bại của Thày mình, và làm sao các vị lại không tranh giành ngôi thứ, như bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này cho thấy. Bởi vậy, Chúa Giêsu phải dạy cho các vị biết đường lối của Người, đường lối của một Đức Kitô Vượt Qua chư không phải một Đức Kitô chính trị, đường lối phải bỏ mình đi và vác thập giá mình mà theo Người, như Người đã khuyên giục ở cuối bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần trước, đường lối làm đầu là làm cuối, làm đầy tớ mọi người.
Tuy nhiên, trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, ở phần cuối có một chi tiết rất lạ và khó hiểu, hình như chẳng có liên quan gì đến những lời Chúa Giêsu đang nói và đến những tác động Người đang làm bấy giờ, đó là, sau khi khuyên bảo các tông đồ về đường lối ngược đời của mình, làm đầu là làm cuối, lãnh đạo là làm tôi, Chúa Giêsu liền đưa một em bé vào ở giữa các vị, rồi vòng tay ôm lấy em mà nói cùng các vị rằng: “Ai vì Thày đón nhận một con trẻ nào như em nhỏ này là đón nhận Thày. Và ai đón nhận Thày thì không phải là đón nhận Thày mà là đón nhận Đấng đã sai Thày”. Như thế nghĩa là gì? Phúc Âm không thuật lại cho chúng ta biết bấy giờ Chúa Giêsu chỉ nói riêng với các tông đồ thôi hay có cả dân chúng ở đấy nữa. Theo mạch văn thì Người chỉ nói riêng với các tông đồ thôi, vì Thánh Ký Marcô viết: “Các vị trở về Caphanaum và khi đã vào nhà rồi, Chúa Giêsu bắt đầu hỏi các vị ‘dọc đường các con đã bàn cãi với nhau điều gì vậy?’ Mà nếu chỉ có các tông đồ thôi thì đứa bé ở đâu ra? Phải chăng là đứa con của chủ nhà? Hay đứa nhỏ Chúa dẫn theo Người? Chỉ biết rằng, Người rất yêu thích em, đến nỗi, như Thánh Ký Marcô tỉ mỉ thuật lại cử chỉ Người “vòng tay ôm lấy em”. Và sở dĩ em được Chúa Giêsu cho xuất hiện ở đây, ngay giữa người lớn, giữa các vị tông đồ là thành phần sau này là nền tảng của Giáo Hội (x Eph 2:20), vì em là chìa khóa được Chúa Kitô sử dụng để mở cửa mầu nhiệm Chúa Kitô Vượt Qua cho các vị có thể tiến vào.
Đúng thế, “ai vì Thày đón nhận một con trẻ nào như em nhỏ này là đón nhận Thày” nghĩa là gì, nếu không phải ai hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ mới được vào Nước Thiên Chúa (x. Mt 18:3), tức mới thấu triệt được mầu nhiệm Nước Trời (x Mt 11:25,27; Lk 10:21-22), thấu hiểu được sự thật về Con Người Giêsu Nazarét là Đức Kitô Vượt Qua. Bằng không, không hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ, trái lại, chỉ thích làm đầu cho oai, như trường hợp các tông đồ trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, sẽ chẳng bao giờ hiểu được Mầu Nhiệm Nước Trời, chẳng bao giờ có thể chấp nhận được một Đức Kitô Vượt Qua. Và, như bài chia sẻ tuần trước đã nhận định, khi Chúa Giêsu chứng thực mình là Đức Kitô đồng thời Người cũng tỏ Cha của Người ra, chính lúc Người chứng tỏ Người là Đấng Thiên Sai là Người đồng thời cũng chứng thực Cha Người là Đấng đã sai Người. Bởi thế, trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này, ngay sau khi khẳng định “ai vì Thày đón nhận một con trẻ nào như em nhỏ này là đón nhận Thày”, Người liền thêm: “Và ai đón nhận Thày thì không phải là đón nhận Thày mà là đón nhận Đấng đã sai Thày”. Và chỉ khi nào biết đón nhận Thày, đón nhận Chúa Kitô Vượt Qua, như một trẻ nhỏ, đơn sơ khiêm hạ như thế, con người mới không ham thích làm đầu, mà nếu cần phải làm đầu theo ý Chúa, họ sẽ chỉ làm theo ý Ngài, chứ không làm theo ý mình, chỉ tìm lợi ích cho chủ nhân ông của mình là Thiên Chúa, với tư cách là một tôi tớ hay quản lý, phục vụ những người trong nhà của chủ.
Tinh thần phục vụ của Kitô giáo hoàn toàn ngược lại với đường hướng của Khổng giáo. Nếu Khổng giáo chủ trương quân, sư, phụ, đến nỗi người dưới phải hết mình hy sinh cho người trên, cho dù có phải bỏ mạng sống mình, thì tinh thần của Kitô giáo, tinh thần của một Đức Kitô Vượt Qua, tinh thần của một Vị Mục Tử Nhân lành đến hiến mạng sống mình vì chiên (x Jn 10:10), là người trên phải hy sinh cho người dưới, phải phục vụ người dưới, phải quì xuống rửa chân và lau chân cho người dưới (x Jn 13:4-5). Nếu không có dân sẽ không còn xã hội thì quả thực người làm đầu phải hy sinh cho dân mới đúng, thiểu số hy sinh cho đa số để bảo tồn đa số, chứ đa số không thể hy sinh cho thiểu số, để thiểu số tồn tại. Vua không dân, thày không trò, cha không con, đâu còn là nước, là trường, là nhà nữa. Nếu các chính trị gia và thể chế xã hội loài người theo tinh thần phục vụ này thì thế gian đâu có chiến tranh liên lỉ từ khi lịch sử loài người bắt đầu cho tới nay. Tại sao Giáo Hội Chúa Kitô theo chế độ quân chủ mà vẫn tồn tại bền vững hơn các chế độ quân chủ dân sự, một thứ chế độ quân chủ đã bị lỗi thời từ Cách mạng Pháp 1789? Và tại sao chế độ dân chủ dân sự hiện đại trên thế giới vẫn không mang lại cho xã hội loài người phúc hạnh chân thật và vĩnh viễn, trái lại, càng văn minh, cáng nhân bản càng lộn xộn và hỗn loạn, đến nỗi ý dân là ý trời, ly dị là ý trời, phá thai là ý trời, đồng tính hôn nhân là ý trời, tạo sinh ngoại nhiên là ý trời? Phải chăng vì tinh thần của chế độ quân chủ trước đây cũng như của chế độ dân chủ hiện nay đều là những gì tương phản xung khắc với tinh thần phục vụ của Chúa Kitô? Mầu nhiệm Đức Kitô Vượt Qua chẳng những liên quan đến tinh thần phục vụ mà còn đến cả đau khổ nữa. Vấn đề cứu độ nơi Kitô giáo không phải chỉ là việc cứu con người cho khỏi đau khổ, như chủ trương “đời là bể khổ” của Phật giáo, mà là việc không sợ đau khổ, trái lại, chấp nhận đau khổ, đối đầu với đau khổ, biến đau khổ thành phương tiện cứu độ, thành đường lối chứng tỏ tình yêu tuyệt hảo. Kitô giáo cứu độ không phải chỉ là việc “ánh sáng (Nhập Thể) chiếu trong tăm tối” (Jn 1:5), mà còn là việc tăm tối Tử Giá bừng lên ánh sáng sự sống Phục Sinh!
73. Thủ lãnh là người tôi tớ - Lm. Minh Vận, CRM
Bác sĩ Charles Mayo đã sáng lập một bệnh viện mang tên Mayo Hospital tại Rochester Minnesota. Đây là một bệnh viện nổi tiếng vào bậc nhất tại Mỹ Quốc nói riêng và thế giới nói chung. Một ngày kia có một nhóm chuyên viên từ Âu Châu tới thăm viếng và nghiên cứu tại bệnh viện này, rồi ngủ đêm tại tư dinh của bác sĩ Mayo. Theo tục lệ của xứ sở này, trước khi đi ngủ, những người khách để tất cả giầy dép của họ ngoài cửa phòng, để ban đêm chủ nhà sai các tôi tớ lau chùi và đánh bóng tất cả cho họ. Hôm đó, bác sĩ Mayo vì bận rộn tiếp khách, ông đi ngủ sau hết mọi người, khi đi ngang qua các phòng ngủ của khách, thấy những đôi giầy của khách để cả ngoài cửa; chính ông đã thu tất cả các đôi giầy của họ, đem vào bếp một mình cặm cụi lau chùi, đánh bóng... Xong việc, ông mới nhìn đồng hồ để đi ngủ thì té ra đã gần sáng.
I. MỘT BÀI HỌC CẦN THIẾT
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa và các môn đệ Người đang từ trên núi xuống, đi ngang qua xứ Galilêa về Caphanaum. Dọc đường, Thầy trò trao đổi tâm tình về việc Chúa sẽ bị nộp và bị giết chết, rồi ngày thứ ba Người sẽ sống lại... Khi về tới Caphanaum, theo tục lệ thường quen lúc vừa vào trong nhà, Thầy trò lại ngồi quây quần bên nhau tâm sự sau một cuộc hành trình mệt mỏi.
Chúa hỏi: “Hôm nay, dọc đường các con tranh luận với nhau điều gì vậy?” (Mc 9:30-37)
Các ông làm thinh, không dám hở miệng. Quả thực, với một quan niệm quá trần gian và tâm trí quá phàm tục, giống như hầu hết những người Do Thái thời đó, họ mơ tưởng rằng: Chúa Kitô đến trần gian là để giải thoát dân tộc Do Thái khỏi ách đô hộ người Roma, biến Do Thái thành một vương quốc uy hùng bá chủ hoàn cầu. Vì thế, các môn đệ đã nuôi một tham vọng được giữ các chức vị quan trọng trong triều đình, chung quanh Thầy mình là Vua trên muôn vua... Mặc dầu nhiều lần Chúa đã tỏ cho các ông biết những đau khổ và cái chết của Ngài sẽ phải chịu, mà tâm trí phàm tục của các ông vẫn chưa hiểu. Nhân dịp này, Chúa muốn dạy cho các môn đệ một bài học.
Chúa nói với các ông: “Ai trong các con muốn làm Thủ Lãnh, thì hãy tự làm người rốt hết và làm tôi tớ mọi người” (Mc 9:34).
II. MỘT MẪU GƯƠNG CAO CẢ CỦA CHÚA
Sau lời giáo huấn đó, Chúa còn dùng một hình ảnh cụ thể sống động để nêu cho các ông một tấm gương, khi gọi một em bé tới, đặt giữa các ông, ôm nó vào lòng và nói với các ông: “Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ này vì danh Thầy, tức là đón tiếp chính mình Thầy. Ai đón tiếp Thầy, thực ra không phải đón tiếp Thầy, nhưng là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”. Khi dạy những lời này, Chúa có ý đồng hóa con trẻ với chính mình Ngài, để dập tắt cái tham vọng kiêu căng và mở trí lòng các ông dễ dàng đón nhận mẫu gương cao cả Ngài sắp mạc khải cho các ông.
Nhiều lần trong Tin Mừng, Chúa đã tha thiết bày tỏ tâm tình với các môn đệ: “Các con gọi Thầy là Chúa và là Thầy, điều đó rất thật. Thầy thật có như thế. Dầu vậy, Thầy ở giữa các con như kẻ tôi tớ, như người hầu hạ”. Chúa còn quả quyết: “Thầy đến trần gian không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ kẻ khác và nên giá cứu chuộc cho nhiều người”. Sau những lời tâm huyết đó, Chúa kết luận: “Vậy Thầy đã làm gương cho các con, các con cũng hãy bắt chước và làm như Thầy đã làm”.
III. ÁP DỤNG VÀO CUỘC SỐNG
Bài Tin Mừng hôm nay nói đến người Tôi Tớ Thiên Chúa, như chính tiên tri Isaia thường dùng để chỉ về Chúa Kitô, vì Người là Chúa mà đã trở nên thân phận tôi đòi của mọi người để cứu rỗi mọi người (Is 40:55) và (Act 3:13. 3:26. 4:27-30).
Chúa muốn chúng ta cũng hãy noi gương Chúa, trở nên tôi tớ phục vụ anh chị em, phục vụ các linh hồn theo nghĩa vụ và sứ mạng Chúa đã ủy thác cho mỗi người, để cứu rỗi và thánh hóa mọi người như Chúa đã làm gương.
Tuân theo giáo huấn và noi gương mẫu của Thầy Chí Thánh, Giáo Hội hằng cố gắng áp dụng vào cuộc sống hằng ngày, để thực thi các nghĩa vụ Chúa trao phó trong tinh thần phục vụ cách khiêm nhu; vì thế, chúng ta thường thấy: Các Đức Giáo Hoàng luôn tự xưng: “Tôi tớ của các tôi tớ Chúa”. Các Thánh cũng đều theo gương Chúa và trong khi thi hành sứ vụ tông đồ, các ngài cố gắng trở nên tôi tớ phục vụ mọi người, để chinh phục họ về với Chúa. Còn chúng ta, nếu chúng ta là những bậc phụ huynh, với tinh thần Đức Tin nhìn nhận con cái chúng ta là ân huệ Thiên Chúa trao ban, chúng ta hãy phục vụ con cái bằng một tình yêu thương của Thiên Chúa, chắc chắn con cái chúng ta sẽ trở nên người tốt, vì được truyền thụ bởi gương mẫu tốt lành, lòng đạo đức và khiêm nhu của cha mẹ.
Kết Luận
Vậy mỗi người chúng ta cũng hãy thực thi bài học Chúa dạy và cố gắng noi theo mẫu gương Chúa đã để lại cho chúng ta hôm này, để mỗi người chúng ta hãy cố gắng tự trở nên tôi tớ của tha nhân, tùy theo nghĩa vụ của mỗi người để chinh phục họ về cho Chúa.
74. Con Người bị nộp vào tay người đời -- Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Ở Mc 9,31, chúng ta có một bản văn lặp lại lời loan báo Thương Khó ở 8,31. Tác giả cũng nhắc lại tình trạng không hiểu biết của các môn đệ, mà ta đã thấy được tỏ lộ nơi phản ứng của Phêrô trên núi (9,5; x. 10,32). Ghi chú về địa lý của chuyến băng ngang miền Galilê nhằm nhắc nhớ rằng kể từ 8,27, Đức Giêsu không quay trở lại miền này nữa; Người đang trên đường đi lên Giêrusalem. Đức Giêsu không muốn bị níu kéo vô ích trong cuộc hành trình này. Quả đúng là theo 9,33, Người lại có mặt ở Caphácnaum, nhưng ta không thể nói về một hoạt động mới ở Galilê nữa. Những gì xảy ra ở Caphácnaum chỉ liên hệ đến các môn đệ mà thôi.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia thành hai phần:
1) Loan báo Thương Khó lần thứ hai (9,30-32);
2) Giáo huấn về đời môn đệ (9,33-37).
Phần hai là khởi đầu của một bài diễn từ đa tạp kéo dài tới c. 50. Khối này, dường như có trước TM Mc được đặt trong Diễn từ về Đời sống cộng đoàn trong TM Mt (ch. 18). Mc tìm cách tạo sự thống nhất cho đoạn này bằng cách ghép vào một vài ghi chú tiêu biểu của ngài (c. 30: bí mật; c. 31: dạy; c. 32: các môn đệ không hiểu và sợ; c. 35: “nhà” đối lại với “đường”; c. 34: cãi nhau).
3.- Vài điểm chú giải
- băng qua (30): Động từ paraporeuomai là một từ được tác giả ưa chuộng, bởi vì động từ này được dùng 5 lần trong Tân Ước, thì 4 lần ở trong TM II.
- Bị nộp (31): Ta có thể nghĩ đến ngôn sứ Giêrêmia (Gr 26,24), đến những Thánh vịnh về người trung hiếu đau khổ (Tv 70/71,4; Tv 139/140,5) và đến “các thánh của Đấng Tối Cao bị nộp” vào tay vua Antiôkhô Êpiphanê (Đn 7,22-25). Vậy cuộc Thương Khó của Đức Giêsu sẽ cô đọng và thể hiện trọn vẹn sự đau khổ của những người công chính, thân phận bị bách hại của các ngôn sứ, cái chết của những vị tử đạo.
Động từ nộp (paradidômi) là động từ chuyên môn để nói về sự phản bội (Giuđa “nộp” Đức Giêsu cho các thượng tế: 14,10; các vị này “nộp” Người cho Philatô: 15,1.10; ông này lại “nộp” Người cho lính: 15,15). Đức Giêsu liên tiếp bị chuyển cho quyền hành của mọi lực lượng gian ác: “bàn tay” là biểu tượng của quyền hành, quyền lực, (x. 9,13 nói về Êlia-Gioan Tẩy Giả, nhưng cũng là báo trước số phận của chính Người). Lời loan báo thứ ba sẽ nói chi tiết; và đây là một chướng kỳ quá lớn: một người Do Thái bị những người Do Thái nộp cho Dân ngoại, một sứ giả của Thiên Chúa bị nộp cho người ngoại giáo!
Cho đến lúc này, người ta vẫn có thể hiểu lời loan báo này liên hệ đến những sáng kiến và những trách nhiệm của loài người (Mc 14,21; x. Ga 19,11). Thế nhưng lời nói ở thái bị động (paradidotai, “sẽ bị nộp”) còn là một kiểu nói quanh để chỉ hành động của Thiên Chúa. Nếu vậy: “Thiên Chúa sẽ nộp Con Người vào tay loài người”, không phải là sự gian ác đang hoành hành và thắng thế, nhưng là chính chương trình của Thiên Chúa đang được thực thi xuyên qua sự ngang trái (x. Ga 3,16; Rm 8,32)! Đức Giêsu ý thức Người đang đi vào cuộc Thương Khó như biến cố trung tâm của chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
- Khi về tới nhà (33): Để các ông có thể trở thành môn đệ thực sự, cần phải có một sự dẫn nhập. Chủ đề “ngôi nhà” có mục tiêu ấy. Thường thường, Mc không xác định ngôi nhà ở đâu, nhưng xác định chức năng của ngôi nhà: nơi Đức Giêsu quy tụ môn đệ (3,20.31-35), những cuộc trò chuyện riêng tư và những giải thích dành riêng (7,17; 9,28; 10,10; x. 4,10.34), xa cách đám đông và các đối thủ. Thế nhưng lần này tác giả xác định ngôi nhà ở Caphácnaum: phải chăng là nhà Simôn (1,21-29; 2,1), là biểu tượng của cộng đoàn Giáo Hội?
- Đức Giêsu ngồi xuống, gọi Nhóm Mười Hai lại (35): “Ngồi” là tư thế của vị thầy khi giảng dạy (x. c. 35; 4,1; Mt 5,1; Lc 4,20; 5,3;...); Người sẽ chỉ trỗi dậy khi xong câu truyện (10,1: anastas). Chi tiết “gọi Nhóm Mười Hai lại” không hợp lý, khi mà Đức Giêsu đã đang ở trong nhà với các ông. Nhưng cử chỉ ra lệnh này rất có thể nhằm nêu bật tầm quan trọng của lời giáo huấn.
- Ai muốn làm người đứng đầu … làm người phục vụ (diakonos) mọi người: Xem 10,43-44. Đức Giêsu không loại bỏ ý muốn là người đứng đầu, nhưng Người chỉ cho thấy con đường đúng đắn đưa tới đó. Lý tưởng về lãnh đạo như là phục vụ sẽ được Đức Giêsu nêu gương trong phần Tin Mừng còn lại. Khi nói đến “diakonos”, Người xác định kiểu phục vụ. Người không nhắm đến việc phục vụ cưỡng chế của người nô lệ (doulos) mà là việc phục vụ tự do của người tôi tớ, do chính người này muốn và thích; công việc này đòi hỏi sự chú tâm trọn vẹn và tất cả các khả năng của người ấy để mưu ích cho người khác.
- một em nhỏ (36): Em nhỏ ở đây không phải là biểu tượng của sự vô tội hoặc khiêm nhường, nhưng là biểu tượng của một người không có quy chế pháp lý nên không được trợ giúp (yếu thế). Đứa bé không thể làm gì cho người môn đệ. Đón tiếp một em nhỏ là làm một việc tốt cho một con người không đáng kể, mà không mong được đền đáp. Đây không phải là cho một món bố thí rồi bảo họ đi, nhưng là săn sóc và chịu trách nhiệm về họ.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Loan báo Thương Khó lần thứ hai (30-32)
So sánh với Mc 8,31 và 10,32-34, ta thấy Lời loan báo thứ hai này ít chính xác hơn cả, lại ngắn hơn, nên rất có thể là lời ở tại gốc. Hơn nữa, câu này còn có kiểu chơi chữ “Con Người/người” và kiểu nói quanh theo thái bị động để diễn tả hành động của Thiên Chúa (“bị nộp”). Tất cả những chi tiết đó chứng tỏ câu này có một nguồn gốc A-ram.
Với lời tiên báo thứ hai này về Thương Khó, tác giả Mc có thể quy hướng hoạt động của Đức Giêsu về Giêrusalem cách dứt khoát hơn. Galilê không còn có thể cầm giữ Đức Giêsu nữa. Các môn đệ đi theo Thầy trên đường Người đi. Ai bịt tai lại thì sẽ không nắm bắt được các đòi hỏi tương lai.
* Giáo huấn về đời môn đệ (33-37)
Phân đoạn này bắt đầu với một xác định chính xác về địa điểm: Caphácnaum. Tuy nhiên, những gì tiếp đó không được liên kết với nơi ấy, mà có thể được nói ở bất cứ nơi đâu. Chi tiết địa lý này nhằm tạo cơ hội để Đức Giêsu ban cho các môn đệ một bài học tại địa điểm quen thuộc nhất của miền Galilê.
Đức Giêsu đã chọn ví dụ về phục vụ này vì vào thời của Người, các trẻ em bị coi như là những kẻ thấp bé nhất và bị khinh thường; với ví dụ về em bé, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ thấy rằng các ông phải phục vụ cả những người thấp bé cùng rốt nhất. Người đã thiết lập một tiêu chuẩn tổng quát để phân biệt điều thất sự quan trọng và đúng đắn trong đời sống và trong lối cử xử của con người.
Các môn đệ phải tiếp đón Nước Thiên Chúa như các trẻ em, có nghĩa là các ông không thể đi vào đó bằng sức lực riêng. Cũng như các em bé, các ông phải cảm thấy mình được tình yêu của Thiên Chúa che chở, bảo vệ, và phải để cho mình được Thiên Chúa lấp đầy bằng những ân huệ. Chính Đức Giêsu vẫn quay về với Thiên Chúa như về với Người Cha đầy tình yêu thương (Abba) (14,36) và biết rằng Người được Cha che chở bằng tình yêu của Cha.
+ Kết luận
Chỉ có Mc mới đặt ba lời loan báo Thương Khó và Phục Sinh “trên đường”, trong khung cảnh một cuộc hành trình đưa Đức Giêsu cùng với các môn đệ khởi hành từ Xêdarê Philípphê đến tận vùng cực bắc, xuyên qua miền Galilê, đến tận Giêrusalem qua nẻo Giêrikhô. Rõ ràng ngài muốn dạy chúng ta rằng kể từ lời tuyên xưng của Phêrô, Đức Giêsu chính thức đi vào bước thực hiện kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa và mạc khải dứt khoát về bản thân Người cũng như công việc của Người, bằng cách dấn vào một nẻo đường mới sẽ đưa Người đến cái chết. Nẻo đường của Con Người, nẻo đường Khổ Nạn, là một nghịch lý huyền bí chỉ được vén mở trong sự kín đáo.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu muốn lôi kéo tất cả những bạn đường của Người đi trên con đường này. Đến lời loan báo thứ ba, ta thấy Người đi đầu, một mình, còn các môn đệ đi theo sau, kinh hoàng. Chính Người hỏi đầu tiên, nhưng họ thì im lặng. Rõ ràng họ thật vất vả khi phải theo Người trên nẻo đường này. Con đường là khung cảnh giúp hiểu sự cương quyết của Đức Giêsu đi thi hành thánh ý Chúa Cha, cho thấy sự cách biệt giữa Đức Giêsu và các môn đệ cũng như tâm trạng thực của các ông. Như các môn đệ của Đức Giêsu, chúng ta sợ hãi khi Người cho chúng ta thấy Người là “người tôi tớ” hiến mạng sống vì chúng ta; vì chúng ta muốn tiếp tục yên ổn đọc kinh và làm các nghi thức thay vì suy nghĩ và dấn thân theo các đòi hỏi của Tin Mừng.
2. Người môn đệ được khai tâm để có phong cách người tôi tớ trong và do cộng đoàn: tại đó, người ấy sẽ học thay thế mối bận tâm về chỗ nhất gây chia rẽ và đối lập, bằng nỗ lực tìm kiếm chỗ chót, như phương thế duy nhất để kiến tạo được sự hoà thuận khắp nơi (x. 9,50). Như thế, người ấy sẽ có thể thật sự bước theo Đức Giêsu trên nẻo đường tiến về Giêrusalem. Sự cao cả được đo lường không phải bằng thành công và danh tiếng, nhưng bằng giá trị của công việc phục vụ ta cống hiến.
3. Các trẻ em có thể được coi như một địa chấn đồ (sismographes) của xã hội loài người. Nếu các em phát triển bình thường, điều đó chứng tỏ tương quan giữa những người lớn đang lành mạnh; nếu các em trở nên bất bình thường, điều đó cho thấy lối sống của người lớn có gì sai trái, méo mó. Thật ra, tất cả những gì gây tổn hại cho các trẻ em thì cũng chẳng xây dựng gì cho người lớn.
4. Bằng cách lấy một em bé làm điển hình, Đức Giêsu muốn tất cả chúng ta hiểu rằng cộng đoàn Kitô hữu phải đặt những người không đáng kể, những người nghèo nhất, tại trung tâm của các mối quan tâm của họ, của sự bạn tâm của họ. Chúng ta có thể yêu thương, “ôm lấy” những con người bị loại trừ, như thánh Phanxicô Assisi ngày xưa đã ôm hôn người phong cùi chăng?
75. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.
LẦN THỨ HAI LOAN BÁO VỀ CUỘC KHỔ NẠN (9,29-32)
Điểm khởi hành của Chúa Giêsu không được xác định rõ. Tuy nhiên ghi chú địa lý lần trước cho thấy Ngài đang hiện đang ở miền cực bắc xứ Phalestin tức miền Cêsarê Phillipphê (8,27). Như thế là Chúa Giêsu băng ngang khắp miền Gialilê với các môn đệ Ngài (c. 30a) theo hướng bắc – nam. Ngài đang thực hiện điều mà người ta thường gọi là “cuộc tiến về Giêrusalem”. Giống như Matthêu và Luca, Maccô chỉ ghi nhận một hành trình duy nhất của Chúa Giêsu tiến về Giuđê và thủ đô Israel (9.30-11,1). Cuộc hành trình tối hậu này sẽ dẫn Chúa Giêsu tới định mệnh đẫm máu của Ngài. Nhưng Ngài “không muốn cho thiên hạ biết” (c.30b). Luôn luôn quy luật “bí mật Mêsia” được nêu ra. Quần chúng Galilê đã nhận được từ Chúa Giêsu những lời nói và phép lạ minh chứng đầy đủ về sứ mệnh Mêsia của Ngài. Thế mà họ đã không hoán cải. Giờ đây Chúa Giêsu phải cống hiến hoàn toàn cho việc dạy dỗ các môn đệ Ngài để, nếu có thể, dẫn dắt họ đón nhận viễn cảnh một Đấng Mêsia bị dân tộc mình ruồng bỏ (c.31a).
Đây là lần thứ hai Chúa Giêsu loan báo cho các bạn hữu mình về cuộc khổ nạn. Ngài sử dụng lại các từ ngữ hầu như y hệt lần trước (x. 8,31). “Con Người” sẽ bị “nộp vào tay người ta. Động từ “nộp” dùng ở đây có nghĩa rất mạnh. Ngài sẽ bị ai nộp? Về sau Maccô sẽ xác nhận rõ những người nào sẽ bị nộp Chúa Giêsu để đưa Ngài đến cái chết: đó là Giuđa (14,10), các thượng tế (15,1) và Philatô (15,15). Tuy nhiên, ở đây hình thức động từ nằm ở thể thụ động: Chúa Giêsu sẽ “bị nộp”. Đây là một cách thức rất thông dụng dân Do Thái thường dùng để chỉ Thiên Chúa là tác nhân mà tránh không nêu danh Người ra vì lòng tôn kính. Cần phải nhớ kỹ rằng: Cái chết của Chúa Giêsu có thể quy trách cho những kẻ tội lỗi gây ra trong lịch sử. Các Kitô hữu cắt nghĩa “điều chướng kỳ” này bằng cách cho thấy nó nằm trong ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa. Đây là điều mà công thức đột ngột được dùng trong lần loan báo đầu tiên muốn đề cập: con người “phải” chịu khổ và chết (8,31). Cũng như lần trước, lần này lời hứa Phục sinh thêm vào ngay sau đó (c.31b) cũng chẳng an ủi được các môn đệ trước viễn cảnh đớn đau của cái chết. Các bạn hữu của Chúa Giêsu vẫn khư khư chẳng hiểu gì lời giáo huấn của Thày mình (c. 32). Đây là chủ đề về “sự ngu muội” của các môn đệ trước nỗ lực liên lỷ của Chúa Giêsu nhằm dẫn dắt họ hiểu ra được định mệnh của Ngài. Như chúng ta từng thấy, Phêrô đã biểu lộ sự phản kháng thực sự trước lời loan báo về cái chết của Chúa Giêsu (x. 8,32). Lần này, sự “khép lòng” của các môn đệ được ghi nhận qua nỗi sợ hãi không dám “hỏi Ngài”, họ tránh né mọi cuộc trao đổi với Ngài về những thử thách đang chờ đợi Ngài. Như thế, độc giả có thể hiểu được rằng quả thực là khó khăn khi phải trực diện với cái chết.
VẤN ĐỀ ĐỊA LÝ TRONG PHÚC ÂM MACCÔ
Tác giả Phúc Âm đã đóng khung cuộc đời Chúa Giêsu trong môt ranh giới rất đơn giản ở đó người ta thấy lộ rõ ra hai cực: Galilê và Giêrusalem. Thực thế, sau khi chịu phép rửa ở sông Giođan (1,9). Chúa Giêsu đã thi hành sứ vụ của mình ở Galilê, nằm ở mạn bắc xứ Palestin (1,14-9,29). Chỉ mãi về sau Ngài mới băng ngang Galiê theo hướng nam để “lên” Giêrusalem, thủ phủ xứ Giuđêa (9,30). Chính ở đó Ngài sẽ đương đầu với các nhà cầm quyền tôn giáo của dân tộc mình để rồi trải qua cuộc khổ nạn và Phục Sinh (11,10-16,8).
Lộ trình theo sát đường kẻ kiểu này chắc chắn là sản phẩm của một sự “khái quát hóa”, bởi vì theo như Phúc Âm của Gioan cho biết, sứ vụ của Đấng Mêsia trải dài trên hoặc ba năm. Chắc hẳn Chúa Giêsu đã lên Giêrusalem nhiều lần theo như tập tục vào các dịp lễ của người Do Thái (x. Ga 5,1; 7,2; 10,22; 12,12).
Như thế, nơi Phúc Âm Maccô, địa lý đã được dùng để “phục vụ” cho một ý đồ cao siêu. Quả thực đối với Maccô, Galilê và Giêrusalem là hai địa danh đối kháng nhau, mỗi nơi mang một ý nghĩa riêng biệt. Galilê là nơi Chúa mở đầu sứ vụ và đồng thời là nơi Chúa thi hành sứ vụ, rao giảng cho dân ngoại. Từ thời Cựu Ước, thành phố mạn bắc này từng chịu nhiều cuộc xâm lăng của ngoại bang. Chỉ danh xưng của nó cũng nói lên được điều này: đây là một “khu vực thuộc các dân tộc” chen vai thích cánh với nhau (Is 8,23). Vậy mà chính tại Galilê Chúa Giêsu đã được dưỡng nuôi (ở Nadaret: Lc 4,16). Tại đây Ngài đã khai mạc sứ vụ (1,14). Ngài đã thiết lập ở Caphanaum và bên bờ hồ Tibêria, căn cứ hoạt động và giảng dạy của Ngài (1,16; 2,1.13; 4,1). Ở phần đầu Phúc Âm, người ta thấy đoàn lũ dân chúng Galilê hồ hởi đón nghe và theo dõi các phép lạ Chúa Giêsu ban phát cho họ.
Tuy nhiên, từ chỗ đó, Chúa Giêsu đã đưa các môn đệ Ngài vượt qua các biên giới. Ngài cùng họ vượt hồ Tibêria, từ bờ bên mạn tây thuộc Do Thái đi qua bờ mạn đông thuộc dân ngoại. Với hành vi lặp đi lặp lại này, Ngài không ngừng kêu mời họ mở rộng tầm nhìn để mang Tin Mừng đến với đám dân ngoại (xem toàn bộ từ 4,35-5,20). Càng bành trướng sứ vụ Chúa Giêsu càng gia tăng việc di chuyển đến những vùng không thuộc dân Do Thái chẳng hạn vùng Phênixi (hiện là Liban), vùng Tirô và Siđon (7,24.31a) hay vùng Thập Tỉnh, hiện nay là Giocđani (7,31b).
Qua việc thực hiện các chuyến đi ngắn hoặc dài nơi vùng đất dân ngoại, Chúa Giêsu muốn tập cho các bạn hữu mình quen với tư tưởng rằng Ngài không chỉ là Đấng Mêsia của dân Do Thái mà còn của dân ngoại nữa. Các vị hữu trách tương lai của Giáo Hội phải ý thức rằng Chúa Giêsu mang đến ơn cứu độ phổ quát. Đây chính là ý nghĩa lần hóa bánh ra nhiều lần thứ hai được Chúa Giêsu thực hiện ở mạn đông sông Giocđan (8,1-9), nơi đây Chúa Giêsu đã mở ra bàn tiệc Lời Ngài và ân sủng Ngài cho một dân tộc bên ngoài dân riêng của Chúa. Cũng không phải tình cờ mà ngay tại Betsaiđa, vùng đất dân ngoại, Chúa Giêsu đã mở mắt cho một người mù (8,22-26), hành vi này được ví như khúc nhạc dạo đầu cho sự khám phá ra thân thế Ngài (điều này được thực hiện ở Cêsarê Philipphê, giữa vùng đất dân ngoại: 8,27-29). Như thế không nên ngạc nhiên tại sao ngay khi vừa sống lại, Chúa Giêsu đã bảo các bạn hữu mình đến gặp Ngài “ở Galilê” là nơi Ngài đang chờ họ để sai họ theo chân Ngài ra đi mang Tin Mừng cho toàn thế giới (16,7-8.15).
Đối nghịch với Galilê, Maccô đã biến Giêrusalem, thủ đô của Do Thái, thành một cực khép kín và chống lại Chúa Giêsu. Ngay từ lúc Chúa Giêsu bắt đầu thi hành sứ vụ, nhóm luật sĩ và Biệt phái “đến từ Giêrusalem” đã tố cáo là Ngài bị Satan nhập (3,22) nào là Ngài để các môn đệ mình vi phạm các truyền thống cổ xưa (7,1). Chính tại Giêrusalem, trung tâm đức tin Do Thái Chúa Giêsu sắp phải đương đầu gay gắt nhất với đám thủ lĩnh tôn giáo của dân riêng Chúa (11,1-12,40). Cũng chính ở đó Ngài sẽ bị bắt, bị xét xử, bị kết án tử hình và bị hành hình do lời xúi giục của các vị cầm quyền Do Thái cao cấp nhất (14,1-15,47).
Như thế vấn đề địa lý trong Phúc Âm Maccô chứa đựng một bài học sâu sắc: là người theo Chúa Giêsu, các Kitô hữu không được để cho Phúc Âm bị đóng khung trong bất cứ loại thành “Giêrusalem” nào! Họ phải luôn luôn liên kết với Đấng Phục Sinh là Đấng từ bờ hồ Tibêria đã mời gọi họ “ra khơi”. Bởi vì “trong Chúa Kitô không còn phân biệt ai là Do Thái, ai là Hy Lạp nữa” (Thư Phaolô gởi tín hữu Galat 3,28). Ơn cứu độ phải được mang đi từ Giêrusalem và từ Galilê đến tận cùng thế giới.
THEO CHÚA GIÊSU NHƯ THẾ NÀO: CƯ XỬ VỚI TRẺ EM (9,33-37)
Mỗi lần Chúa Giêsu loan báo rõ ràng về cuộc khổ nạn của Ngài (8,31; 9,31) Maccô đều nhấn mạnh đến sự “ngu muội” không hiểu của các môn đệ (8,32; 9,32). Sau đó, Maccô cho thấy Chúa Giêsu cố gắng nhồi nhét vào đầu óc của bạn hữu mình một bài học thích hợp với chủ đề Ngài nêu: muốn bước theo Ngài họ phải trung thành tự hạ như Ngài. Chúa Giêsu đã thực hiện việc dạy dỗ họ về chủ đề này sau lần loan báo thứ nhất về cái chết của Ngài (x.8,34-9,1). Và giờ đây Ngài lại tiếp tục dạy dỗ họ sau lần loan báo thứ hai.
Tác giả Phúc Âm gợi cho thấy đây là thời gian được chọn lựa đặc biệt để thầy trò trao đổi (c.33). Chúa Giêsu và các bạn Ngài về lại khu vực khởi đầu công việc dạy dỗ, ở tại Caphanaum và tại căn nhà cũ (x.2,1-2). Đây là nơi lý tưởng để tiến hành việc dạy dỗ riêng các môn đệ, xa đám đông ồn ào, về chủ đề mới mẻ nhưng khó khăn liên quan đến Đấng Mêsia “Tôi Tớ”. Với tư cách vị Đạo Sư sành sỏi, Chúa Giêsu khởi đầu bằng việc hỏi các môn đệ về đối tượng những “cuộc tranh luận” của họ trong lúc đi đường. Người ta đều biết rằng trong lối giáo dục của các kinh sư Do Thái, việc tranh luận đóng một vai trò quan trọng. Điều mà trong lúc đi đường các môn đệ tranh luận với nhau mang nhiều ý nghĩa. Nghe Chúa Giêsu hỏi, họ im lặng không trả lời. Thực ra họ đã tranh nhau xem ai là người “lớn” nhất (c.34). Maccô thú nhận là các vị này cảm thấy xấu hổ. Họ không dám thú nhận là đang lo tranh giành nhau danh vọng trong lúc Thầy mình thì đang tiến về một tương lai đầy khiêm hạ. Quả là tương phản rõ ràng!
Chúa Giêsu thấy mình có bổn phận can thiệp để tránh cho các môn đệ mình khuynh hướng đua đòi chay theo quyền lực. Ngài cho họ một bài học sống động (c.35a). Maccô diễn tả cho thấy Chúa Giêsu ngồi xuống để biểu lộ cung cách một vị Sư Phụ mà các đệ tử phải chú tâm lắng nghe. Đây là tư thế của người giảng dạy đầy uy quyền (x.4,1). Ngài quy tụ “ nhóm Mười Hai” lại. Lối nói này hiếm khi được Maccô sử dụng(3,14; 6,7). Và khi sử dụng nó Maccô muốn nói rằng các tông đồ là những vị hữu trách tương lai của Giáo Hội. Chúa Giêsu nói với họ một cách hoàn toàn rõ ràng (c.35b). Đại khái trong lời ngỏ với các vị thủ lãnh tương lai của dân Chúa, Chúa Giêsu đã đảo ngược trật tự thông thường của phẩm trật nhân loại. Muốn làm đầu thì phải làm cuối mọi người, muốn chỉ huy thì phải làm “tôi tớ tất cả”. Nghịch lý này rõ ràng chỉ có ý nghĩa qua tấm gương Chúa Giêsu biểu lộ nơi thân thể và sứ mệnh của Ngài. Là Đấng Thủ Lãnh, Ngài đã đặt mình vào vị trí rốt hết để phục vụ mọi người. Sứ điệp của Ngài liệu có được người ta nghe không? Chúa Giêsu tin rằng cần phải minh hoạ lời Ngài nói bằng một cử chỉ có ý nghĩa. Ngài đặt một em bé vào giữa họ rồi ôm lấy em (c.36a). cử chỉ này tạo ra một ảnh hưởng bất ngờ. Dắt một em bé vào giữa đám môn đệ rồi ôm hôn nó: tất cả điều này đi ngược với tập tục đương thời. Xã hội thời xưa không quan tâm đặc biệt đến trẻ em. Ngược lại, trẻ em không được người lớn đối xử như là những “nhân vật” còn non trẻ, người ta thường xem chúng là những sinh vật vô nghĩa. Chúng mà biết nói năng, lý luận gì cho ra trò. Thậm chí họ còn thường xua đuổi, khai trừ chúng ra khỏi cộng đồng tôn giáo vì cho rằng chúng ngu dốt không biết lề luật.
Như thế Chúa Giêsu đã thực hiện hành động phục hồi mang hai chiều kích (con người và tôn giáo) khi Ngài đặt đứa bé – tiêu biểu một hạng người bị khai trừ – vào giữa đám bạn hữu Ngài. Và Ngài nhấn mạnh hành động này bằng một lời nói nặng trĩu ý nghĩa (c.37a). Cộng đoàn Kitô hữu sẽ phải nhớ tới lời này. Nhân danh Chúa Giêsu tiếp nhận một đứa trẻ – ở đây tượng trưng cho kẻ nghèo khó vào mọi kẻ bị khai trừ – chính là tiếp nhận chính Chúa Giêsu. Đây là câu trả lời đầy kinh ngạc Chúa Giêsu dùng để đáp lại câu hỏi được các môn đệ tranh cãi nhau trong lúc đi đường: “Ai là kẻ cao trọng nhất?”. Việc đua đòi danh vọng đã trở nên sỗ sàng đối với những kẻ bước theo Chúa Giêsu vào lúc Ngài đang đi trên con đường khiêm hạ dẫn đến đau khổ và cái chết. Trở nên “tôi tớ” mọi người, mở rộng vòng đai khép kín của Giáo Hội đến tận những kẻ hèn mọn nhất, trơ trụi nhất chính là “sứ vụ” Chúa Giêsu uỷ thác cho các môn đệ Ngài. Để nhấn mạnh thêm bài học trang trọng này Chúa Giêsu đã kết luận bằng một từ nói về “Sự tiếp đón” (c.37b): Chúa Giêsu chính là sứ giả của Thiên Chúa. Đón nhận Ngài trong bản thân những kẻ bé nhỏ chính là đón nhận chính Thiên Chúa. Thiên Chúa mang khuôn mặt một con trẻ, đó là sứ điệp bất ngờ, rất tân kỳ của trang Phúc Âm khả ái này.
76. Chú giải của Noel Quesson.
Đức Giêsu và các môn đệ ra khỏi đó, đi băng qua miền Galilê. Nhưng Đức Giêsu không muốn cho ai biết.
Một lần nữa, chúng ta lặp lại đề tài Chúa muốn ẩn thân. Đức Giêsu không được người ta hiểu, bị đám đông dân chúng bỏ rơi, bây giờ hoàn toàn chỉ chăm lo cách riêng vào việc đào tạo một số môn đệ của Người.
Phát xuất từ những vùng miền Bắc đi về miền Xêxarê Phi-líp-phê, ở nguồn sông Giođan, Đức Giêsu tiến gần về Giê-ru-sa-lem. Người băng qua xứ Galilê mà ở đó cách đây vài tháng Người đã rất thành công, nhưng một sự thành công không rõ rệt. Lần này Người không tìm dịp nói chuyện trước công chúng. Người chỉ nói với các tông đồ, là mầm mống của cộng đoàn Kitô hữu tương lai và những gì Người sắp nói với họ, là chính những luật lệ giúp họ sống trong cộng đoàn Giáo Hội.
Vì Người đang dạy các môn đệ rằng: “Con người sẽ bị nộp vào tay người đời”.
Trong khi Đức Giêsu không muốn người ta dùng tước vị “Con Thiên Chúa”. Người luôn đúng, nhất là trong giai đoạn thứ hai đời sống tác vụ của Người, tước vị “Con Người”. Ngược lại những gì thoạt tiên chúng ta có thể nghĩ, đây không phải là việc nhấn mạnh đến nhân tính của Đức Giêsu. Thực tế, những Kitô hữu đầu tiên, phát xuất từ đạo Do Thái đã gán cho tước vị này một ý nghĩa sâu đậm: Đối với họ, tước vị này ám chỉ Đấng Mêsia do ngôn sứ Đanien đã báo trước (7,13-14). “Con Người” này có nguồn cội từ trời, Người từ trên mây trời mà xuống... Người đến nhân danh Thiên Chúa để hoàn tất công trình của Chúa.
Chúng ta thấy cách nói của Đức Giêsu muốn điều chỉnh lại ý niệm mà các tông đồ đã có về Đấng Mêsia. “Con Người Thần Thánh” từ trên mây trời hiện đến cách vinh quang mà các bạn đang mơ ước, thì Đấng đó sẽ bị giao nộp không chút tự vệ “vào tay loài người”. Các bạn chớ nhầm lẫn Đấng Mêsia, chớ nhầm lẫn Thiên Chúa! Đức Giêsu thực sự do Thiên Chúa mà đến, nhưng không phải là Đấng mà loài người thường tưởng nghĩ.
Bị giao nộp.
Một Thiên Chúa ‘bị giao nộp’, một Thiên Chúa được ‘tăng ban’, một Thiên Chúa ‘Tình yêu’ chứ không phải một Thiên Chúa toàn năng, toàn quyền. Chúng ta tin không phải ở một Thiên Chúa toàn năng, nhưng là một Người Cha Toàn Năng, tin ở Đấng đã trao hiến hết mình, Đấng đã giao nộp mình vì chúng ta, mà Thập giá của Đức Giêsu là “mạc khải” rõ ràng và dứt khoát.
Cụm từ “bị giao nộp vì chúng ta” là những từ chủ yếu trong khoa thần học ban sơ. “Bị giao nộp vì tội lỗi chúng ta, và đã được Thiên Chúa làm cho sống lại để chúng ta được nên công chính” (Rm 4,25).
“Người đã không tha chính con của Người, mà đã giao nộp cho tất cả chúng ta” (Rm 8,32).
“Người đã thương yêu và thí mạng vì tôi” (Gl 2,20).
“Anh em hãy sống trong tình bác ái như Chúa Kitô đã thương yêu chúng ta và đã nộp mình” (Ep 5,2).
“Chúa đã giao nộp Người vì tội của chúng ta” (Is 53,2).
Chứng từ này được nhắc lại cho chúng ta mỗi khi cử hành Thánh Thể; “Đây là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con”.
Họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau, Người sẽ sống lại.
Kể từ lúc Thánh Phêrô tuyên xưng đức tin tại Xêxarê Phi-líp-phê, thì đây là việc loan báo lần thứ hai về cuộc thương khó. Toàn thể Tin Mừng của Maccô dẫn đưa chúng ta đến chóp đỉnh này: Sự tử nạn và Phục sinh. Đó là trọng tâm kinh Tin kính của chúng ta: Hai biến cố lịch sử. Đây thật là tiểu sử lạ lùng của một con người. Không phải sự sống của Người là quan trọng mà là “cái chết” của Người và việc Người “sống mãi”. Chúng ta không thể không lưu ý con người đó luôn luôn báo trước, cùng một lúc và một cách bình tĩnh rằng, Người sẽ “sống lại” sau khi chết. Đó cũng như Người coi cuộc sống thứ nhất của Người ở Palestine thời đó, không phải là cuộc sống quan trọng nhất.
Ngày nay, chúng ta có thực sự tin rằng Đức Giêsu vẫn đang sống không?
Mầu nhiệm Phục sinh là cốt yếu của Đức tin chúng ta. Và đó là đặc quyền duy nhất và căn cốt của Đức Giêsu. Không có một vĩ nhân nào khác dám tự phụ giải phóng được con người, khỏi định mệnh cuối cùng, là cái chết. Cả Đức Phật và Mahômét hay bất cứ một chủ thuyết nhân bản nào khác, cũng không đưa ra được một giải pháp trước thái độ lo âu lớn lao của con người luôn biết mình sẽ phải chết. Chỉ có Đức Giêsu, một cách bình tĩnh và chân thành đã dám nói: “Họ sẽ giết Tôi, nhưng Tôi sẽ sống lại”.
Đó là ánh sáng chủ yếu Chúa đã soi chiếu trên cái chết: Đức Giêsu biết rằng đó không phải là chấm dứt tất cả. Người biết những gì đang chờ đợi Người. Khi trải qua giây phút bi thảm của “hơi thở cuối cùng”, Đức Giêsu biết rằng Người không rơi vào hố đen của hư vô, nhưng vào vòng tay của Chúa Cha. Và điều đó đã dệt nên bài ca hy vọng của người Kitô hữu trong nghi thức từ biệt cuối cùng với người chết: “Chúa Cha đợi bạn, và cánh tay của Thiên Chúa sẽ mở ra đón bạn”.
Chúng ta cứ tin chắc rằng cái chết là như vậy không? Đây là sứ điệp của mọi người tử vì đạo. Đó là niềm tin vững chắc của những tín hữu đích thực. Nhưng các môn đệ không hiểu lời ấy, lại sợ không dám hỏi Chúa. Tin Mừng không hề tô vẽ cho các tông đồ. Đó cũng là những con người đáng thương như chúng ta. Thánh Maccô không những nhấn mạnh đến trí óc trì trệ, nông cạn, hẹp hòi của các ông. “Họ không hiểu”(Mc 6,52; 8,17; 8,21; 9,32). Do đó nhóm Mười Hai là một tiêu biểu cho những con người thông thường, trung bình. Người ta tự hỏi làm sao Giáo Hội và suốt dòng lịch sử vĩ đại của Giáo Hội, lại phát sinh từ những tưởng tượng và dự án của các tông đồ được. Quả thực các ông đã được một biến cố thay đổi. Các ông đã được nâng lên cao khỏi chính mình, và được một sức mạnh mới bao bọc. Và luôn diễn ra như thế đối với Giáo Hội.
Nếu chỉ là một Giáo Hội của loài người, thì Giáo Hội đã bị tiêu diệt từ lâu bởi những khiếm khuyết và tội lỗi của các nhà lãnh đạo và thành phần của Giáo Hội. Nhưng chúng ta có nên xét đoán Giáo Hội đơn thuần theo quan điểm của con người không?
Trong lúc này, các tông đồ đã sợ Đức Giêsu và họ giữ một thứ im lặng đến khó chịu “họ đã sợ không dám hỏi Chúa”.
Đức Giêsu và các môn đệ đến thành phố Caphácnaum. Khi về tới nhà, Đức Giêsu hỏi các ông: “Dọc đường, anh em đã tranh luận với nhau về chuyện gì vậy?”. Các ông làm thinh.
Các ông chưa nói được lời nào. Các ông giữ im lặng trước câu hỏi của Chúa. Sự “lúng túng” giữa họ trở nên nặng nề như trong một nhóm mà người ta không còn đồng ý với nhau nữa.
Các ông làm thinh, vì khi đi đường, các ông đã cãi nhau về chuyện ai là người lớn hơn cả.
Thật là hoàn toàn bất đồng ý kiến với Thầy của họ!
Chúa thì nghĩ đến cái chết của mình, khiến Người “giao nộp” mạng sống. Còn các ông thì chỉ nghĩ đến những “địa vị cao”. Các ông vẫn một mực bám vào quan niệm sai lầm về Đấng Mêsia, và về Thiên Chúa. Các ông vẫn tiếp tục mong chờ một “biến cố vẻ vang”, chứng tỏ quyền năng của Đấng Mêsia, một vương quốc trần gian, mà các ông đã tranh luận xem ai là “thủ tướng” khi Chúa và các ông thắng thế.
Nhưng xin các bạn đừng quá nghiêm khắc xét đoán việc các Ngài không hiểu vai trò của Chúa Giêsu. Mặc dù đã được soi dẫn với ánh sáng Phục sinh, ngày nay, chúng ta có thể nói rằng mình chấp nhận sự vắng mặt hiển nhiên của Thiên Chúa, sự im lặng của Người, sự thất bại của Thập giá không? Chúng ta không tiếp tục xin Chúa can thiệp để chiến thắng sao?
Rồi Đức Giêsu ngồi xuống, gọi mười hai môn đệ lại mà nói: “Ai muốn làm đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm tôi tớ mọi người”.
Trong cuộc thương khó mà Chúa vừa loan báo, Chúa Giêsu đã tự hạ thành “kẻ sau rốt và là “đầy tớ” của mọi người. Thực sự, Thiên Chúa là như thế. Tại sao lời khẳng định này lại có vẻ như một cậu phạm thượng đối với một số người? Đúng ra, Thiên Chúa là Đấng trên hết, cao cả nhất, nhưng Chúa cũng là “Người đứng đầu trong phục vụ”, Người đứng đầu trong tình yêu.
Các con gọi Ta là Thầy, là Chúa và điều đó phải lắm, vì Ta đúng là như thế, thế mà Ta đã rửa chân cho các con, như một người đầy tớ” (Ga 13,13). Thiên Chúa thực sự là Đấng Toàn Năng, nhưng là Toàn Năng để “phục vụ đến cùng”. “Ta ở giữa các con như một người phục vụ” (Lc 22,27). “Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng làm giá cứu chuộc muôn người” (Mc 10,42-45).
Trong xã hội và tập thể con người (và cũng là luật tự nhiên trong thế giới động vật), người ta thường tìm kiếm sức mạnh, sự kính nể, uy tín, danh dự và quyền lợi. Đức Giêsu lật đổ nhào tận gốc rễ thứ trật tự này: Người “thứ nhất” trở thành “người sau rốt”, “ông chủ” trở nên “đầy tớ”. Chắc chắn Đức Giêsu đã nói một cách có vẻ khiêu khích và cách mạng.
Nhưng một lần nữa, đó không phải là để làm một cuộc “cách mạng” nghĩa là thay đổi “chữ” mà thôi! ở đây, nhằm đưa ra giải pháp thực sự cho nội tâm con người, giúp chế ngự xu hướng tranh đấu không ngừng giữa loài người, để thống trị để đoạt giầu sang, quyền thế, bằng cách đè bẹp người khác.
Người dắt một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: “Ai đón tiếp một em nhỏ như em này, vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”.
Trong những tập thể chúng ta sống, trong lòng chúng ta và trên thế giới, bạo lực không ngớt gia tăng. Trong cơn thủy triều đen tối đang dâng lên như thế, Đức Giêsu đề nghị cách tượng trưng sự yếu đuối của đứa trẻ như một lý tưởng. Đứa trẻ là sinh vật nhỏ bé trong xã hội, ít được kính nể, và người ta gạt bỏ nó dễ dàng, kể cả bằng cách tội lỗi mà lại hợp pháp. Đứa trẻ đúng là kẻ “nghèo hèn”, không tự vệ được, “bị giao nộp” cho những kẻ mạnh mẽ quyền thế hơn nó. Nhưng Chúa lật ngược những tiêu chuẩn xã hội về quan niệm ngôi thứ: Người ta nói, kẻ sau rốt là kẻ đứng đầu. Bây giờ Người nói tiếp, dưới mắt Thiên Chúa kẻ nhỏ bé lại là người lớn nhất. Đức Giêsu đặt đứa trẻ ở giữa cộng đoàn Kitô hữu.
Tôi dành ít thời giờ để niệm tưởng hình ảnh Đức Giêsu đang vuốt ve và ôm ấp đứa bé này. Sự cao cả của Kitô hữu được đo nghiệm theo phẩm chất của việc phục vụ những người “thấp hèn” nhất, những kẻ kém may mắn nhất. Chúng ta sẽ bị xét đoán theo tiêu chuẩn đó (Mt (25,31). Vả lại, đây không phải là một sự “nô lệ”, vì chúng ta phục vụ Đức Giêsu khi chúng ta phục vụ những kẻ thấp hèn. Và qua Đức Giêsu, chúng ta phục vụ chính “Đấng” đã tạo nên thế gian và đã trao ban Con Một của Người.
77. Chú giải của Fiches Dominicales.
‘TRÊN ĐƯỜNG’, MỘT LỜI LOAN BÁO LÀM HOANG MANG – ‘Ở NHÀ’, MỘT LỜI DẠY GÂY KINH NGẠC
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. ‘Trên đường’, một lời loan báo làm hoang mang.
Ngay sau khi Phêrô tuyên tín ở miền Xê-sa-rê Phi-lip-phê, lần đầu tiên, Đức Giêsu loan báo cuộc thương khó và sống lại của Người (Mc 8,27-31). Sau cuộc hiển dung trên núi cao (9,2-8), Chúa đang băng qua miền Galilê cùng môn đệ. “Người không muốn cho ai biết, thánh sử ghi rõ, bởi vì từ này Người muốn dùng thời gian để huấn luyện các môn đệ. Người cố gắng hướng dẫn các ông chấp nhận cái viễn tượng đảo lộn hướng tư duy là: một Đấng Mêsia bị chính dân Người ruồng bỏ.
‘Trên đường’ (câu 33), địa điểm tượng trưng cho cuộc hành trình về Giêrusalem, Người giáo huấn họ bằng cách nhắc lại lời loan báo lần trước: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại” Từ ngữ Chúa dùng hầu như giống hệt lần trước.
Cũng như ở câu 8,31, Đức Giêsu nói về chính mình bằng cụm từ “Con Người”, một nhân vật bí nhiệm và uy quyền, mà ngày tận thế sẽ đến trên đám mây để phán xét loài người (Đn 7,1 3-14).
- Nhưng khác lần trước, lần đó, Chúa loan báo Người sẽ phải “chịu đau khổ nhiều” “bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ”, còn ở đây, Người chỉ nói “bị nộp vào tay người đời”, giống những vị tử đạo trong Cựu ước bị nộp vào tay quân bách hại (Gr 26,24; Tv 71,4; Tv 1401 Đn 7,22).
Khi áp dụng cách nói này cho chính mình, Đức Giêsu coi cuộc khổ nạn của Người giống với cuộc bách hại các ngôn sứ và người công chính trong Cựu ước phải chịu; và Người cũng như bước trên con đường trung tín với Thiên Chúa đến tận cái chết.
“Bị nộp”. Đức Giêsu quả thật đã bị Giuđa nộp cho các thượng tế (14,10): bị các thượng tế nộp cho Philatô (15,10) và sau cùng bị Philatô giao nộp cho lý hình (15,15).
Một chi tiết đáng ngạc nhiên: Đức Giêsu nói về cuộc khổ nạn của Người thì hiện tại: Con Người bị nộp vào tay người đời”. Chắc chắn thánh sử muốn chỉ một tương lai gần, khi dùng thì hiện tại. Nhưng cũng có thể ông muốn nói rằng kế hoạch cứu độ: của Chúa Cha đã bắt đầu được thực hiện, tuy không thấy nhưng cũng không thể đảo ngược.
Các môn đệ vẫn một mực nghe mà không hiểu. Hervieux giải thích: Vẫn là vấn đề không hiểu của các môn-đệ trước những cố gắng của Đức Giêsu, khi Người muốn đưa các ông vào mầu nhiệm cuộc đời Người. Như ta đã thấy, Phêrô đã tỏ thái độ phản loạn đích thực khi nghe loan báo về cái chết của Chúa (8, 32) Còn lần nầy, tâm trí kín mít của các môn đệ được tỏ rõ bằng cách các ông không dám hỏi Thầy, không dám bàn tiếp với những thử thách đang chờ đợi Thầy. Qua đó, chúng ta thấy rằng trực diện với cái chết khó chừng nào! (“L'evangile de Marc”, Centurion, trang 133).
2. ‘Ở nhà’, lời dạy gây kinh ngạc.
Giờ đây chúng ta ở Ca-phác-na-um tức là “ở nhà”, địa điểm tượng trưng cho những cuộc trò chuyện kín đáo, chủ ý dạy dỗ các với cương vị một tôn sư dầy dạn kinh nghiệm, Người hỏi các môn đệ về đề tài mà trên đường các ông đã tranh luận sôi nổi, những cuộc tranh luận mà người ta thường coi là quan trọng trong quá trình huấn luyện của các vị tôn sư. Các ông không dám nói sự thật nên ngậm miệng làm thinh. Bởi vì trong khi Thầy mình loan báo về con đường khổ nạn sắp tới, thì các ông chỉ tranh luận về ngôi thứ, về vinh dự: “Các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả “.
Rồi, Đức Giêsu ngồi xuống gọi “Mười Hai ông lại”. “Mười Hai ông” một danh xưng hiếm thấy nơi Máccô (3,14; 6,7), điều đó nghĩa là giáo huấn mà Chúa sắp nói đây nhằm nhóm các Tông đồ, những người nắm giừ trọng trách trong Giáo Hội tương lai. Giáo huấn này đảo lộn ngôi thứ thường tình trong phẩm trật nhân loại: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người”.
J. Hervieux giải thích: Chúa lấy ‘người rốt hết’ đối chọi với ‘người đứng đầu’, lấy ‘người đầy tớ mọi người’ đối chọi với ‘người cai quản’. Điều nghịch lý này tất nhiên có nghĩa rõ rệt nhất khi nhìn cuộc đời Đức Giêsu, Đấng đã thực hiện trong bản thân và trong sứ mạng của Người. Người là Đấng cao cả hơn hết đã tự đặt mình vào chỗ rốt hết để phục vụ mọi người (Sđd, trang 35).
- Và để biết chắc mọi môn đệ đều hiểu, Chúa đã soi sáng lời nói bằng một cử chỉ đầy ý nghĩa. Thời đó người ta coi trẻ nhỏ là “đồ bỏ” vậy mà Đức Giêsu đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy. Và ai tiếp đón Thầy thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy.
J. Hervieux giải thích tiếp: Cử chỉ này có một tầm quan trọng không ngờ. Đem một em nhỏ đặt vào giữa nhóm môn đệ và ôm hôn nó: các cử chỉ này đều đi ngược phong tục hồi đó. Xã hội cổ đại không quan tâm tới trẻ em. Trái lại, thay vì đối xử với chúng như những người sẽ lớn, người ta coi chúng như “vô giá trị”, như đồ bỏ. Tục lệ còn dạy người ta loại bỏ, khai trừ chúng ra khỏi cộng đoàn tôn giáo vì chúng không hiểu biết Lề Luật (Sđd, trang 135- 136).
Như vậy, đặt một em nhỏ vào giữa nhóm môn đệ, em nhỏ ở đây tượng trưng cho những người nghèo, những người bị loại trừ, Đức Giêsu đã trả lời rõ ràng cho vấn đề các ông tranh cãi lúc đi đường: “Ai là người lớn nhất?” - “Tìm kiếm vinh dự là điều trơ trẽn nơi những người theo Đức Giêsu, lúc người đang bước vào con đường khổ nhục của cái chết. Làm “đầy tớ “ mọi người mở cửa pháo đài Hội Thánh cho những người hèn kém nhất, những người nghèo đói nhất, đó là “dịch vụ” mà Đức Giêsu truyền cho các môn đệ phải thi hành. Để thêm trọng lượng cho giáo huấn này, Đức Giêsu kết luận bằng từ “đón nhận”: Người là Đấng Chúa Cha sai đến. Đón nhận Người qua những ai nhỏ bé là đón nhận chính Chúa. Thiên Chúa mặc hình dáng một trẻ nhỏ đó là một sứ điệp bất ngờ, rất độc đáo của trang Tin Mừng đẹp đẽ hôm nay (Sđd trang 136).
BÀI ĐỌC THÊM
1. Thang giá trị mới
(Đức Cha L. Daloz trong “Qui don est-il?”, DDB, trang 55-56).
Đây là lần thứ hai Đức Giêsu loan báo cho môn đệ điều sẽ xảy đến cho Người. Người biết mình sẽ đi về đâu và người nói không úp mở về cái chết gần kề và sự sống lại của Người. Phải chăng Người đã phải chịu nỗi lo âu về cuộc khổ nạn: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho Con khỏi uống chén này?”. Người còn lo lắng hơn không hiểu gì và họ sợ không dám hỏi Người. Phải chăng họ cũng tiên cảm được mối nguy đang rình chờ? Chúng ta đôi khi cũng không hiểu Đức Giêsu nói gì. Có lẽ vì ta sợ phải hiểu chăng? Qua im lặng, các môn đệ bình thản ở lại trong sai lầm: Nước Trời mà họ mơ tưởng là nước mà ở đó họ đóng vai ông lớn, là nơi mà họ tranh cãi xem ai trong nhóm họ là người lớn nhất. Khi Đức Giêsu hỏi họ: “Lúc đi đường các anh đã tranh luận gì thế?”, họ làm thinh. May thay, Đức Giêsu dịu dàng và kiên nhẫn loại bỏ sự im lặng và suy nghĩ sai lầm của họ. Vương quốc của Chúa là vương quốc của người phục vụ, là nơi người trước hết trở nên rốt hết, người nhỏ bé nhất trở nên người lớn nhất. Đức Giêsu hiểu rất rõ bản tính con người. Người không cho phép các môn đệ giam mình trong sự thinh lặng để che giấu nỗi sợ hãi và tham vọng. Người đi bước đầu, loan báo, chất vấn, giải thích. Rồi Người đặt một em bé ở giữa các ông, để tỏ cho các ông thang giá trị mới, nó bắt nguồn từ tình yêu đối với Chúa Cha”.
2. “Ai là người lớn nhất?”
(Noel Quesson, trong “Les entretiens du Dimanche. Année B”, Droguet & Ardant, trang 194-195).
“Trong xã hội loài người, tự nhiên ai cũng muốn chiếm được vị trí quan trọng. Đó cũng là luật lệ của thế giới loài vật, một thế giới rất có phẩm trật: luật rừng xanh, nơi kẻ mạnh đè bẹp kẻ yếu, nơi người lớn thống trị người bé. Nhưng Đức Giêsu đến đảo ngược lô-gic đó: “Ai muốn làm đầu thì hãy làm người rốt hết. Ai muốn làm người lớn thì hãy làm đầy tớ mọi người”.
Những câu nói khiêu khích, cách mạng này không do các tông đồ sáng chế ra đâu, vì chính họ là người mong chiếm được địa vị cao. Nhưng chính Đức Giêsu đã đảo ngược khuynh hướng tự nhiên của con người. Nếu chỉ đổi chủ mà thôi thì không hơn gì: nếu người bị thống trị lại trở thành người thống trị, nào có thay đổi gì. Vậy mà lịch sử loài người lại đầy dẫy những cuộc nguỵ cách mạng, những người hò hét “đả đảo quân bóc lột” lại trở thành nỗi kinh hoàng cho những người thấp cổ bé miệng.
Đức Giêsu đề nghị một giải pháp khác: ông chủ tự nguyện đầy tớ mọi người. Đây là một cuộc cách mạng diễn ra trong nội tâm con người: một cuộc đổi mới tâm hồn, một sự từ bỏ truyền thống trị người khác.
Để làm điều đó Đức Giêsu nêu ra một minh hoạ: đứa bé. Trẻ em là một sinh vật nhỏ bé, không được trọng vọng loài xã hội, không có khả năng tự vệ, lại dễ bị người ta loại bỏ, cả bằng cách phạm pháp, như giết nó ngay khi còn trong bào thai nghĩa là vào lúc nó không có một chút khả năng nào để tự vệ. Đứa bé là một kẻ nghèo hèn đúng nghĩa nhất vì nó chẳng có quyền gì. Lúc nào và ở đâu, người ta cũng có thể trao nó vào tay kẻ mạnh, kẻ có quyền lực.
Vào những ngày này, khi bắt đầu các hoạt động, chúng ta tự hỏi xem mình sẽ phục vụ ở đâu?.
78. Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
CON NGƯỜI BỊ NỘP TRONG TAY NGƯỜI ĐỜI
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Ngày nay ai dám nghiêm trang tuyên bố rằng mình chỉ có một tham vọng là sống một đời sống thánh thiện, phù hợp với thánh ý Thiên Chúa với bất cứ giá nào Mọi người sẽ cười vào mặt, sẽ cho là điên và rồi thương hại kẻ đó. Muốn hướng đời ta vào sự hiền lành, nhưng không, tha thứ, khiêm tốn, lưu tâm đến tha nhân và thánh ý Chúa, chính là dấn thân đi ngược dòng, chính là trở nên khiêu khích và sẽ bị chống đối từ phía những người mà thái độ này là một lời tố cáo họ. Hiện tượng này không chỉ xảy ra vào thời đại ta: ở Giêrusalem vào thời Chúa Giêsu, ở Alexandria vào thế kỷ I trước Chúa Giêsu cũng đã như vậy. Và trong Hội Thánh, sẽ luôn có hiện tượng này. Nhưng đó lại là chính từ, đôi khi rất anh hùng, mà mỗi tín hữu chân chính phải có. Cần phải sống cái thế giới mới trước khi rao giảng nó. Cần phải sống nó để thế giới mới trở thành thực tại, với bất cứ giá nào.
2) Chúa Giêsu được sai đến để tái tạo vũ trụ như ngày đầu tiên từ tay Thiên Chúa. Người đến không phải để thay đổi các cơ cầu xã hội đương thời, nhưng dể chiến thắng trên một bình diện sâu xa và nội tâm hơn. Người đến để chỉ cho ta con đường giải thoát khỏi những ham muốn, vị kỷ, ghen tương. Con đường đó chính là con đường thập giá, con đường đi ngược chiều với chuyển động tự nhiên của ta. Tất cả chúng ta dầu muốn làm lớn, không chỉ làm lớn, mà còn lớn hơn, lớn hơn xứ nọ, lớn hơn người kia. Bằng một giọng vừa dịu dàng nhưng cương quyết, Chúa Giêsu nói: Nếu ai muốn làm lớn, hãy làm người nhỏ nhất. Để được vậy, cần phải có một tâm hồn thanh thoát, vô vị lợi. Ta thường có khuynh hướng đón tiếp, thân cận với những ai có thể giúp ích cho ta tiến lên địa vị xã hội. Chúa Giêsu lại nói: Hãy đón tiếp các trẻ em. Đón tiếp trẻ em là một việc làm vô vị lợi, vì thường chúng chẳng đem lại lợi ích cho ta. Chúa Giêsu nói đó là con đường giải thoát nội tâm và là con đường xây dựng một thế giới mới phải hợp với chương trình của Chúa.
3) Chúng ta không luôn luôn thấy rõ đức tin sẽ dẫn ta đến chỗ nào, nhưng chúng ta vẫn đi theo, không dám hỏi Chúa hoặc cố gắng đào sâu; đó là thái độ của các môn đồ khi Chúa nói với họ những lời khó nghe, khó chấp nhận. Đối với chúng ta ngày hôm nay, có nhiều biến cố trong đời ta hoặc đời kẻ khác mà ta thấy khó hiểu, khó chấp nhận. Ta không thấy Thiên Chúa muốn dẫn ta đi đâu, đâu là những nẻo đường mà Ngài đang muốn ta phải trải vượt. Đời sống Kitô hữu là thế: có lúc là một đại lộ thẳng tắp với đèn báo hiệu dọc đường, nhưng thường là một ngõ hẹp quanh co mà ta không biết sẽ dẫn tới chỗ nào cả. Nhưng dù có bao nhiêu chướng ngại khó khăn, ta vẫn được bảo đảm rằng có một con đường và con đường đó dẫn đến một cùng đích: “Ta là đường đi”.
4) Tụ họp lại để cùng dâng lễ, ta hãy để cộng đoàn và Lời Chúa chất vấn về cái làm nên cuộc sống của ta. Bởi vì đế việc dâng Thánh lễ có ý nghĩa đích thực, ta phải khởi hành từ đời sống của ta. Trước khi đặt một dấu chỉ hữu hình giữa các môn đồ, Chúa Giêsu đã chất vấn và mời gọi họ hãy vượt thắng mình, hãy hồi tâm trở lại: “Đang khi đi đường, các ngươi đã tranh luận gì với nhau thế?”. Ở giữa cộng đoàn, ta cũng được mời gọi nhìn lại cuộc đời ta với những cái tốt và không tốt, và rồi Lời Chúa sẽ làm sáng tỏ cuộc đời ta. Bao giờ mối dây mật thiết này không có giữa cuộc đời ta và việc dâng lễ, Thánh Thể sẽ mất tất cả ý nghĩa của nó.
5) Chúng ta phải vượt qua các phản ứng nhân loại, các tranh chấp của ta, để đón nhận Chúa vào cuộc đời ta, và đón nhận anh em ta nhân danh Người, như người ta đón nhận một trẻ nhỏ. Chính lúc chúngs ta để mình bị Lời Thiên Chúa chất vấn, chúng ta mới có thể đón nhận dấu chỉ của Chúa ban cho ta: đối với các môn đồ, đó là một đứa trẻ; đối với chúng ta hôm nay, đó là chiếc bánh được bẻ ra. Để đón nhận các dấu chỉ của vương quốc Thiên Chúa hôm nay, cần có một sự hồi tâm, một cuộc đoạn tuyệt. Chúng ta được kêu mời tự chất vấn về cách thức chúng ta đón nhận kẻ khác, với tất cả bản tính của họ, với những mối ưu tư, công việc, sáng kiến, ý tưởng của họ. Tất cả những điều ấy thật là cụ thể và tầm thường... nhưng chính giữa cái tầm thường ấy mà Chúa tỏ mình ra cho ta chính trong mức độ ta niềm nở với tha nhân mà ta có thể thực sự tiếp đón Chúa.
79. Chú giải mục vụ của William Barclay.
ĐỐI DIỆN VỚI MỤC ĐÍCH (9,30-32)
Đoạn Tin Mừng này đánh dấu một giai đoạn quan trọng. Bây giờ Chúa Giêsu đã lìa khỏi vùng đất phía Bắc là nơi Ngài được an toàn để đi những bước đầu tiên về Giêrusalem và thập giá đang chờ Ngài tại đó. Lần đầu tiên, Ngài không muốn có đám dân đông đảo chung quanh mình. Chúa Giêsu biết rõ Ngài sẽ thất bại, trừ khi Ngài viết được thông điệp của mình trong những người Ngài đã chọn. Bất kỳ một Rabbi nào cũng để lại cho hậu thế một loạt các lời tuyên bố. Nhưng Chúa Giêsu biết chỉ có vậy thì chưa đủ. Ngài phải để lại sau lưng mình một đoàn người mà những lời tuyên bố của Ngài được ghi khắc trên họ. Ngài phải chắc chắn rằng sau khi thân xác Ngài rời bỏ thế gian này, vẫn còn một số người hiểu –dầu chỉ lờ mờ- những gì Ngài từng phán dạy. Lần này, lời cảnh cáo của Ngài gặp thất bại bi thảm, đau lòng hơn. Nếu đối chiếu đoạn này với đoạn trước đây, trong đó Ngài báo trước sự chết của Ngài (Mc 8,31), chúng ta thấy có câu duy nhất này được thêm vào “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời”. Trong nhóm người ít ỏi đó, Ngài vẫn nhìn thấu suốt cách thức mà Giuđa vận dụng tâm trí. Ngài biết rõ hơn Giuđa biết chính mình. Vì thế, khi Ngài phán “Con Người sẽ bị nộp trong tay người đời” chẳng những Ngài thông báo một sự kiện, đưa ra một lời cảnh cáo, mà Ngài còn thực hiện một lời kêu gọi cuối cùng đối với kẻ mưu tình một kế hoạch phản bội Ngài.
Thế nhưng cho đến lúc đó, các môn đệ vẫn chưa hiểu. Điều họ không hiểu nổi là mấy tiếng ngắn ngủi đề cập sự sống lại. Bấy giờ họ đã ý thức được bầu không khí của tấm thảm kịch, nhưng cho đến tận những ngày chót, họ vẫn không nắm được thật chắc chắn sự Phục Sinh. Đây là một việc kỳ diệu quá lớn lao đối với họ, một việc kỳ diệu mà họ chỉ lãnh hội được khi nào nó trở thành một sự kiện đã hoàn tất.
Khi đã không hiểu thì họ cũng không dám hỏi gì thêm. Họ như những kẻ đã biết quá nhiều rồi, nên sợ biết nhiều hơn nữa. Một người có thể nhận được sự chẩn đoán bệnh tình của mình từ bác sĩ, có thể người ấy nghĩ rằng nội dung tổng quát của sự chẩn đoán ấy không được sáng sủa lắm, nhưng không hiểu hết mọi chi tiết, mà lại sợ không dám hỏi gì thêm, đơn giản chỉ vì người ấy sợ không muốn biết thêm. Các môn đệ của Chúa đang lâm vào tình trạng như vậy.
Lắm lúc chúng ta ngạc nhiên, không hiểu tại sao các môn đệ của Chúa lại không lãnh hội được một việc đã được Chúa nói rõ ra như vậy. Tâm trí con người vốn có năng khiếu lạ lùng để loại bỏ điều họ không muốn thấy. Chúng ta có khác gì họ đâu? Bao nhiêu lần chúng ta đã nghe thông điệp Kitô giáo. Chúng ta vẫn biết, tiếp nhận nó là phước hạnh, là vinh quang, cũng biết rằng khước từ nó là thảm họa, nhưng nhiều người trong chúng ta vẫn xa tránh thông điệp ấy không chịu tuân phục hoàn toàn cũng như không chịu uốn nắn cuộc sống chúng ta cho phù hợp với nó. Nhân loại chỉ tiếp nhận phần nào mình thích và phù hợp với mình và từ chối không chịu hiểu phần còn lại.
CAO VỌNG CHÂN CHÍNH (9,33-35)
Không có việc nào cho thấy rõ các môn đệ nhận thức đến đâu về ý nghĩa đích thực của sứ vụ Mêsia bằng sự việc ở đây. Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại với họ những gì đang chờ đợi Ngài tại Giêrusalem. Thế nhưng, họ cứ nghĩ vương quốc của Chúa Giêsu là một vương quốc trên thế gian này và chính họ là các thượng thư, bộ trưởng trong vương quốc ấy. Ý nghĩ của Chúa Giêsu đang tiến về thập giá, còn các môn đệ lại tranh cãi xem ai được quyền cao chức trọng hơn cả. Là một cái gì khiến Chúa hết sức đau lòng. Dù vậy, tự thâm tâm, họ vẫn biết là họ đã sai quấy. Khi Chúa Giêsu hỏi họ đang cãi nhau về chuyện gì thì họ chẳng trả lời. Đó là im lặng vì xấu hổ. Họ không có lý do gì để bào chữa. Thật lạ lùng khi một việc được bày tỏ dưới mắt Chúa Giêsu thì sẽ đâu ra đấy, đồng thời cũng bộc lộ rõ tính chất của chúng. Bao lâu họ nghĩ Chúa Giêsu chẳng lắng nghe, chẳng nhìn thấy thì cuộc cãi nhau về ai lớn nhất nghe có vẻ hay ho, nhưng khi phải tranh luận trước mặt Ngài, họ thấy mọi sự thật vô nghĩa. Nếu chúng ta đem mọi sự đặt dưới mắt Chúa Giêsu, đời sống chúng ta trên thế gian này sẽ trở thành khác hẳn. Nếu trong mọi việc chúng ta đều đặt câu hỏi “Tôi có thể làm việc này dưới con mắt theo dõi của Chúa Giêsu không?”. Nếu trong mọi lời nói, chúng ta đều đặt câu hỏi “Tôi có thể tiếp tục nói thế này nếu Chúa Giêsu đang lắng nghe tôi không”“. Hẳn chúng ta sẽ tránh được vô số việc làm, nhiều lời nói đáng tiếc. Vấn đề là không có chữ “nếu” trong niềm tin Kitô giáo. Mọi việc chúng ta làm, mọi lời chúng ta nói, đếu phơi bày trước mặt Chúa Giêsu. Nguyện Chúa gìn giữ chúng ta khỏi những việc làm, những lời nói khiến chúng ta phải xấu hổ, khi biết Ngài đang nghe và thấy.
Chúa Giêsu đã giải quyết sự việc này thật nghiêm chính. Kinh Thánh chép “Ngài ngồi lại và gọi nhóm Mười Hai đến”. Khi một Rabbi thật sự dạy dỗ với tư cách Rabbi, như một bậc thầy dạy bảo học trò, khi ông muốn tuyên bố một điều quan trọng, vị Rabbi ấy luôn luôn ở tư thế ngồi để giảng dạy. Trước khi ngỏ lời với họ, Chúa Giêsu đặt mình vào tư thế của một Rabbi dạy dỗ học trò. Ngài bảo họ, nếu muốn làm lớn trong Nước Trời thì sẽ được chức vị cao trọng ấy, không phải bằng cách làm sao để đứng đầu, nhưng phải tìm cách làm kẻ đứng sau rốt, không phải tìm cách làm chủ, nhưng phải làm tôi tớ mọi người. Nói thế không phải là Chúa Giêsu xóa bỏ cao vọng, nhưng Ngài chỉ muốn tái tạo và thăng hoa cao vọng. Ngài đã đem cao vọng giúp đờ tha nhân thay thế cho tham vọng bắt người khác phục vụ chính mình.
Đây không phải là một quan điểm lý tưởng không thể thực hiện, nhưng là một quan điểm hết sức phù hợp. Những nhân vật thực sự vĩ đại, những con người luôn luôn được người ta nhớ ơn vì đã thực sự đóng góp cho đời, không phải là những người vẫn tự nhủ thầm “Ta có thể lợi dụng đất nước này, xã hội này để gây thêm uy tín cho riêng ta, thực hiện những tham vọng của riêng ta như thế nào đây?”. Nhưng tự hỏi “ta phải dùng tài năng mình để phục vụ quốc gia dân tộc như nào?”. Sự vĩ đại của một người không phải là việc người ấy leo được đến tột đỉnh các nấc thang của quốc gia, xã hội nhưng ở trong sự kiện người ấy sẵn sàng phục vụ quốc gia, đồng bào mình bất cứ lúc nào, ở đâu.
Người thật sự không vị kỷ rất ít, nên có người như thế được mọi người ghi nhớ mãi. Người Hy Lạp có một câu chuyện về một người ở Sparta tên gọi Paedaretos. Người ta chọn và bầu ra 300 người để cai trị xứ Sparta. Paedaretos là một ứng cử viên. Khi danh sách những người trúng cử được công bố, không có tên ông. Một bạn thân của ông ta nói: “Tiếc thật, người ta đã không bầu cho anh, thiên hạ không biết nếu bầu cho anh, anh sẽ là một chính khách lỗi lạc đến thế nào”. Nhưng Paedaretos thản nhiên đáp “Trái lại, tôi rất vui vì trong xứ Sparta này còn có 300 người có tài, có đức hơn tôi”. Đây là một người đã đi vào truyền thuyết vì sẵn sàng nhường cho kẻ khác ngôi vị hàng đầu mà không hề tỏ ra cay đắng.
Một vấn đề kinh tế có thể giải quyết nếu mọi người đều sống vì những gì mình có thể làm cho tha nhân, chứ không phải vì những gì họ có thể thâu góp, vơ vét cho chính mình. Và mọi vấn đề về chính trị có thể được giải quyết nếu mọi người luôn luôn có cao vọng chỉ muốn phục vụ quốc gia chứ không phải chỉ lăm le gây uy tín cho riêng mình. Những chia rẽ, tranh giành xâu xé trong Hội Thánh từ bên trong, phần lớn sẽ chẳng bao giờ xảy ra nếu ước vọng duy nhất của Hội Thánh và của các cấp lãnh đạo Hội Thánh là phục vụ Hội Thánh chứ không phải lo củng cố địa vị của mình. Khi Chúa Giêsu đề cập đến tính cách vĩ đại và giá trị tối cao của một người có cao vọng làm tôi tớ kẻ khác là Ngài thiết lập một trong những chân lý thực tiễn quan trọng nhất về cách sống ở đời.
GIÚP ĐỠ NGƯỜI VÔ VỌNG (9,36-37)
Nên nhớ là ở đây, Chúa Giêsu vẫn còn đề cập đến vấn đề cao vọng xứng đáng và tham vọng bất chính. Ngài đem một đứa trẻ đặt ở giữa họ. Một đứa bé thì chẳng có ảnh hưởng gì, không thể giúp được ai thăng tiến trong sự nghiệp hoặc tăng thêm uy tín. Một đứa bé chẳng có gì để cho chúng ta cả, trái lại thì đúng hơn. Một đứa bé cần đến cái này, cái kia, người ta phải làm việc này, việc nọ cho nó. Vì thế Chúa Giêsu phán “Nếu ai tiếp rước kẻ nghèo khó, người tầm thường, những người chẳng có danh tiếng, của cải hoặc quyền thế, những kẻ cần được các người giúp cho việc này việc nọ, ấy là các ngươi đã tiếp đãi Ta. Hơn thế nữa, chính các ngươi đã tiếp đãi Chúa vậy”. Đứa trẻ tiêu biểu cho người có nhu cầu, gặp thiếu thốn, và chính cộng đồng của những người có nhu cầu mà chúng ta phải tìm đến.
Ở đây có một lời cảnh cáo. Thật dễ làm bạn với người có thể giúp đỡ chúng ta, những người mà tiếng tăm của họ có lợi cho ta. Cũng rất dễ cho chúng ta tìm cách xa tránh những người đang sa cơ thất thế, cần được chúng ta giúp đờ. Thật dễ cho chúng ta làm ơn, ưu đãi những người có quyền thế, có địa vị, và xao lãng những ai chất phác, khiêm hạ, tầm thường. Thật dễ cho chúng ta tìm để làm quen với những người được mọi người tôn trọng và tránh những người nghèo khổ, chẳng ai thèm lưu ý. Thật ra, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta không nên tìm cách kết thân với những người có thể giúp đỡ chúng ta việc này, việc nọ, những nên kết thân kết thân với những ai cần được chúng ta giúp đỡ, vì làm thế, là chúng ta tìm cách kết thân với chính Ngài. “Ai làm một việc mọn cho một trong những người nhỏ mọn nhất trong anh em Ta, tức là đã làm việc đó cho Ta vậy”.
80. Não trạng đại gia - JM. Lam Thy ĐVD.
Hiểu rõ các môn đệ với tâm trạng hoài nghi, chưa thật sự tin vào Lời Người giảng dạy trong hội đường ở Ca-phác-na-um, nên mới có cảnh “Nghe rồi, nhiều môn đệ của Người liền nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6, 60); và vì thế, Đức Giê-su muốn tạm gác việc rao giảng Tin Mừng và chữa bệnh cho dân chúng qua một bên, để có thì giờ dạy dỗ các môn đệ, đặc biệt báo cho các ông biết một viễn cảnh sắp xảy ra mà các ông khó có thể hiểu và chấp nhận. Đó là cảnh “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người, và ba ngày sau khi bị giết chết, Người sẽ sống lại.” (Mc 9, 31). Sở dĩ Người làm vậy là có ý giúp các môn đệ chuẩn bị tinh thần, để các ông không quá ngỡ ngàng và thất vọng khi biến cố xảy ra, mà sẵn sàng đón nhận nó.
Đây không phải lần đầu tiên Người nói việc ấy với các môn đệ, Người đã từng nói rõ với các ông trước đó không lâu (“Rồi Người bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết.” – Mc 8, 31), nhưng lúc đó các ông tỏ ra ngán ngại, không tin rằng Thầy mình – một “Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền” (Mc 1, 22) – lại có thể phải chịu đau khổ đến như vậy. Thái độ không chấp nhận này biểu lộ rõ rệt nhất ở Phê-rô, khi ông “kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!”, khiến Đức Giê-su quở trách rất nặng lời: “Xa-tan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” (Mc 8, 31-33). Chính vì lần trước các ông bị quở trách nặng nề như thế, nên lần này “các ông sợ không dám hỏi lại Người” (Mc 9, 32).
Các môn đệ không dám hỏi lại Thầy về cuộc thương khó Người sắp phải chịu vì sợ bị khiển trách, nhưng trong lòng vẫn nghĩ khi Thầy chết rồi thì ai trong nhóm 12 sẽ lên thay, ai sẽ là người lớn nhất? Ấy thế là “cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả” (Mc 9, 34). Đức Kitô dư biết các môn đệ bàn tán điều gì, nhưng khi tới thành Ca-phac-na-um, Người vẫn hỏi: “Dọc đường, anh em đã bàn tán điều gì vậy?” Các môn đệ chỉ còn nước ngậm miệng làm thinh. Cũng chính vì thế nên Đức Kitô mới gọi nhóm Mười Hai mà nói: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người.” Kế đó, Người đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: “Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy.” (Mc 9, 33-37).
Vấn đề làm lớn, làm bé vẫn là vấn đề muôn thuở của con người. Thường ở đời, con người ai cũng thích làm lớn, thích “ăn trên ngồi trốc”, chớ chẳng ai muốn làm bé và thích ngồi ở dưới. Cái “miếng đinh chung” luôn luôn và mãi mãi là cái hấp lực vô cùng mạnh mẽ. Quan nịêm “một miếng giữa làng hơn một sàng xó bếp” đã trở nên như một phong tục tập quán khiến cho giấc mộng “sống ở làng, sang ở nước” luôn ám ảnh con người. Ngày nay, hủ tục mua quan bán tước hay khao vọng đình đám tuy không còn ồn ào như ngày xưa, nhưng vẫn diễn ra bằng nhiều kiểu, nhiều cách, với đủ thứ mưu ma chước quỷ để tranh bá đồ vương, tiếm quyền tiếm chức, tranh danh đoạt lợi, hầu mong được nổi danh nổi tiếng, tiền hô hậu ủng, xe hơi nhà lầu, võng lọng xênh xang. Tâm lý chung của con người ai chẳng muốn chọn cho mình phần tốt nhất, ai chẳng muốn làm “đại gia” đi ăn tiệc được ngồi vào “cỗ nhất”. Cái não trạng “đại gia” đã ăn sâu vào tiềm thức con người, khiến nhiều khi nó trở nên như một bản năng cố hữu.
Chính vì thế, nên các Tông đồ ở cận kề với Người Thầy luôn dạy dỗ môn đệ phải khiêm nhường, vậy mà cũng có hai người con ông Dê-bê-đê là Gia-cô-bê và Gio-an muốn được “một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang.” (Mc 10, 37). Tin tưởng khi Thầy mình được vinh quang sẽ làm Vua, mà lại xin được ngồi bên tả và bên hữu Người, thì chẳng phải đó là muốn được ngồi “cỗ nhất”, được hưởng “miếng đinh chung” bảnh nhất là “Tả hữu Thừa tướng” đó sao? Không phải chỉ có 2 môn đệ này đâu, mà các môn đệ khác cũng tỏ ra tức tối (“Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Gia-cô-bê và ông Gio-an.” – Mc 10, 41). Tức tối tức là ghen tị, là mong muốn mình phải được coi trọng hơn, và “chiến tranh nóng, chiến tranh lạnh” xảy ra cũng là điều tất nhiên (“Bởi đâu có chiến tranh, bởi đâu có xung đột giữa anh em? Chẳng phải là bởi chính những khoái lạc của anh em đang gây chiến trong con người anh em đó sao? Thật vậy, anh em ham muốn mà không có, nên anh em chém giết; anh em ganh ghét cũng chẳng được gì, nên anh em xung đột với nhau, gây chiến với nhau.” – Gc 4, 1-3)
Rõ ràng Đức Kitô “nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi” (Lc 14, 7). Vì thế, nên Người mới dạy: “Khi anh được mời đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: “Xin ông nhường chỗ cho vị này. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống ngồi chỗ cuối.” (Lc 14, 8-9). Người còn chỉ rõ những người ham ngồi “cỗ nhất”, đó là “những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được chào hỏi ở những nơi công cộng, ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc.” (Lc 20, 46). Ngay đến cả việc đãi khách, mời khách dự tiệc, Người cũng dạy trái ngược với thông lệ của người đời: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có… Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù…” (Lc 14, 12-13).
Lời dạy của Đức Kitô mới thoạt nghe sẽ thấy là mâu thuẫn, khó chấp nhận được, chẳng hạn như Người muốn ai đi theo Người thì phải từ bỏ tất cả, từ của cải vật chất đến cha mẹ anh em họ hàng, kể cả từ bỏ chính mình. Trong khi đó, Người lại dạy phải yêu thương mọi người như yêu thương chính bản thân mình, thậm chí còn yêu thương cả kẻ thù của mình nữa (Mt 5, 44). Tuy nhiên, suy nghĩ cho thấu đáo, thì thấy Đức Kitô chuyên dùng dụ ngôn với những cách nói tương phản, phản đề, cốt ý nhấn mạnh để nêu bật ý chính (chủ đề). Như Lời dạy trên (Lc 14, 12-13), nếu trích đầy đủ, sẽ là: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại.” (Lc 14, 12-14). Và như vậy, mục đích nhắm tới của Lời dạy là “… ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại.” Rõ ràng Đức Giê-su chỉ luôn mong muốn Lời dạy của Người có tác động mạnh mẽ, làm cho người nghe hiểu được ý nghĩa sâu xa và cái mục đích tối hậu cần đạt tới.
Trở lại với bài Tin Mừng hôm nay, cũng vì thấu hiểu được tâm địa con người như vậy, nên Đức Kitô mới dạy: “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người.” (Mc 9, 35). Người chỉ muốn dạy môn đệ đức tính khiêm nhu tự hạ. Và nếu anh biết khiêm nhường chịu lụy, anh sẽ được mời lên ngồi “cỗ nhất”. Anh đừng nghĩ khi được ngồi cỗ nhất là anh sẽ được kẻ hầu người hạ, anh sẽ vênh vang nhìn đời bằng nửa con mắt. Trái lại, “Càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa.” (Hc 3, 18), “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người.” (Mt 20, 43-44).
Khiêm nhường cũng có nhiều cách thể hiện, có thể thực lòng và cũng có thể màu mè bên ngoài, thậm chí còn có trường hợp giả bộ khiêm nhường để bóng gió móc họng nhau nữa. Và cũng vì thế nên Đức Giê-su Thiên Chúa đã vâng lời Chúa Cha xuống thế làm người khó nghèo và dùng chính cuộc sống của Người minh hoạ cho những Lời dạy dỗ chân tình về đức khiêm nhường. Người đã khiêm nhường vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu để cái tính kiêu ngạo của loài người hành hạ, đánh đòn, sỉ nhục, đóng đinh Người vào thập giá. Người đã thức tỉnh nhân loại bằng cách hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người. Tuy nhiên, cho đến ngày nay, phỏng đã được bao nhiêu người ý thức được tội kiêu ngạo đứng hàng đầu trong 7 mối tội đầu, hiểu được chính tội kiêu ngạo đã đóng đinh Chúa Giê-su vào thập giá? Và chẳng hiểu có được bao nhiêu con người dám hy sinh chỗ ngồi “cỗ nhất” (chưa dám nói hy sinh mạng sống mình) cho anh em, cho đồng loại, để sẵn sàng xuống ngồi “chỗ cuối” mà phục vụ mọi người? Quả thực “Kẻ kiêu ngạo lâm cảnh khốn cùng thì vô phương cứu chữa, vì sự xấu xa đã ăn sâu mọc rễ trong nó.” (Hc 3, 28).
Ôi! Lạy Chúa! Cúi xin Chúa luôn soi sáng và hướng dẫn con, để con đừng bao giờ quên dụ ngôn “Người Pha-ri-sêu và người thu thuế” (Lc 18, 9-14). Cũng bởi vì đến ngay như việc thờ phượng Thiên Chúa, con cũng cách này cách khác làm như anh chàng Pha-ri-sêu lên tận cung thánh khoe hết thành tích nọ đến chiến công kia (“Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.”). Và nếu không tìm ra được chiến công, thành tích (kiểu như rủ nhau đóng góp mua một vài thùng mì tôm, đôi ba bao gạo mốc, năm ba túi quần áo rách, rồi trương biểu ngữ thật hoành tráng đi làm chuyện tế bần, từ thiện), con cũng cố gắng tìm những việc làm thường nhật (đi lễ, đọc kinh sớm tối, bỏ tiền lẻ vào túi kín, hay vênh vang ném từng đồng xu cho những hành khất...) để kể công với Chúa hệt như anh chàng Pha-ri-sêu thủa xưa. Con đã kênh kiệu nhắm tít mắt mà không quay nhìn lại dưới cuốí nhà thờ đang có những “người thu thuế” chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” (Lc 18, 13).
Ôi! “Lạy Chúa! Con là kẻ có tội!” Con biết tội con nặng lắm rồi, vì chỉ thích làm đại gia chớ không thích làm nguời bé mọn, chỉ thích đứng đầu, ăn “cỗ nhất” chớ không thích ngồi sau, ăn cơm thừa canh cặn. Con biết những hành động trên của con đã hàng ngày hàng giờ đóng đinh Chúa, đâm thâu vào Trái Tim Chúa. Cúi xin Chúa không chỉ dạy con mà luôn đồng hành với con để con sẵn sàng thể hiện bằng hành động, bằng chính cuộc sống của con như những kẻ bé mọn, như những “người thu thuế”, như những “bà goá nghèo”, như những “người rốt hết”, để đến ngày sau hết, con được Chúa cho đứng bên phải Ngài. Ôi! Lạy Chúa! Con hết lòng cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
18/09 Dụ Ngôn Người Gieo Giống
- Viết bởi Lc 8, 4-15
Dụ Ngôn Người Gieo Giống.
Thứ Bảy tuần 24 thường niên.
"Hạt rơi trong đất tốt, là những người giữ lấy lời và nhờ kiên nhẫn, họ sinh được hoa trái".
Lời Chúa: Lc 8, 4-15
Khi ấy, có đông dân chúng tụ họp lại, và người ta từ các thị trấn đến cùng Chúa Giêsu. Người dùng dụ ngôn mà nói rằng: "Người gieo hạt giống ra đi gieo hạt giống mình. Và đang khi gieo, có hạt rơi xuống bên vệ đường, bị người ta chà đạp và chim trời đến ăn đi. Hạt khác rơi trên đá sỏi, vừa mọc lên liền héo đi, vì không có đất ẩm. Hạt khác rơi vào bụi gai, và gai góc cùng mọc lên, bóp nghẹt nó. Hạt khác rơi vào đất tốt, đã mọc lên và kết quả gấp trăm".
Khi nói những lời đó, Người kêu lên rằng: "Ai có tai để nghe thì hãy nghe!". Bấy giờ các môn đệ hỏi Người dụ ngôn đó ý nghĩa thế nào. Người nói rằng: "Phần các con, thì cho các con biết những mầu nhiệm Nước Thiên Chúa; đối với người khác, thì dùng dụ ngôn, để chúng xem mà không thấy, nghe mà không hiểu. Dụ ngôn đó có nghĩa thế này: Hạt giống là lời Thiên Chúa. Những hạt rơi bên vệ đường, tức là những người đã nghe, nhưng rồi quỷ tới và cướp lời khỏi lòng họ, kẻo họ tin mà được cứu độ. Những hạt rơi trên đá sỏi là những người, khi nghe thì vui vẻ đón nhận lời Chúa, nhưng họ không đâm rễ, họ chỉ tin tưởng nhất thời, và khi đến giờ thử thách, thì tháo lui. Hạt rơi vào bụi gai, là những người đã nghe, nhưng khi đi đường, những mối lo nghĩ, sự giàu có và thú vui của đời sống bóp nghẹt và họ không sinh hoa kết quả. Còn như hạt rơi trong đất tốt, là những người nghe lời với tấm lòng tốt lành và thiện hảo, họ giữ lấy và nhờ kiên nhẫn, họ sinh được hoa trái".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Với tấm lòng cao thượng
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Đức Kitô hào phóng gieo vãi lời của Thiên Chúa khắp nơi.
Ngài như người gieo hạt giống, tung gieo trong gió,
có vẻ như chẳng để ý đến chuyện có hạt rơi vào đất cằn khô,
và một số hạt không bao giờ sinh huê lợi.
Các Kitô hữu sơ khai đã đọc dụ ngôn này và thấy nơi đó một lời nhắn nhủ.
Họ thấy mình chính là người đã nhận được hạt giống lời Chúa.
Nhưng không phải hạt giống nào cũng thành cây lúa trĩu hạt.
Có những hạt giống bị thui chột bởi những lý do bên ngoài và bên trong.
Làm sao để mọi hạt giống được gieo trong tim ta, đều sinh hoa trái?
Câu hỏi của Giáo hội sơ khai cũng là câu hỏi của Giáo hội bây giờ.
Thửa đất là trái tim con người xưa nay vẫn thế.
Hạt giống Lời Chúa hôm xưa và hôm nay cũng vẫn là một.
Cả bốn hạng người trong dụ ngôn đều đã nghe (cc. 12. 13. 14. 15),
nghĩa là đều đã đón nhận Lời Chúa vào trái tim, vào trung tâm đời mình.
Nhưng có Lời bị đánh cắp.
Quỷ đến và lấy Lời đã gieo ra khỏi trái tim người nghe
vì sợ họ tin mà được cứu độ (c. 12).
Quỷ giống như chim trời đến ăn mất hạt giống rơi xuống vệ đường (c. 5).
Tại quỷ hay tại trái tim con người như đất vệ đường quá cứng?
Hạt giống nằm chơ vơ, trở thành mồi ngon cho bao tấn công đe dọa.
Nhưng có Lời không mọc rễ.
Nghe Lời và vui vẻ đón nhận vẫn chưa đủ.
Hạt giống cần có nhiều đất để mọc rễ nuôi sống cây.
Đất nhiều sỏi đá chỉ cho một lòng tin nhất thời, khi mọi sự dễ dàng,
nhưng không đủ sức đứng vững khi thử thách ập tới.
Đã và đang có những Kitô hữu quỵ ngã trước những thách đố cam go,
vì Lời Chúa chưa bao giờ mọc rễ trong tim họ.
Thử thách của đời Kitô hữu làm lộ ra tình trạng “không rễ” của ta,
và đòi ta tránh gặp gỡ Lời Chúa một cách hời hợt, nông cạn.
Nhưng có Lời bị chết ngộp.
Ngộp vì những thứ trói buộc của cuộc đời phù vân này,
những lo âu trăn trở, những thèm muốn khoái lạc, giàu sang.
Cây lúa có mọc lên cũng bị chết ngộp bởi bụi gai ở ngay nơi tim tôi.
Cuối cùng có Lời được nắm giữ.
Dù thửa đất tốt là trái tim cao thượng và quảng đại,
Nhưng nắm giữ Lời Chúa cũng đòi một nỗ lực không ngừng.
Bất chấp những tấn công từ bên ngoài, hay thèm muốn bên trong,
cần có thái độ kiên trì để vượt qua những khủng hoảng không tránh khỏi.
Xin được trân trọng nghe Lời Chúa trong thánh đường và trong cuộc sống.
Xin được khiêm tốn nghe Lời Chúa qua các bậc thầy và qua trẻ thơ.
Ước gì Lời Chúa giúp ta làm cho đất của tim mình xốp hơn và mềm lại,
bớt đá sỏi, thêm đất màu, bớt bụi gai, thêm ẩm ướt.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin chiếu tỏa trên con ánh sáng của Chúa
và dạy con bước đi
ngay trong đêm tối cũng như giữa ban ngày.
Xin truyền cho con sức mạnh của Người.
Ước gì những cánh tay rã rời vì thất bại của con
tìm lại được sức trẻ
để gieo trồng hàng ngàn cây xanh
cho một thế giới mới
Ước gì mồ hôi con
pha lẫn mồ hôi của Chúa trong Vườn Cây Dầu.
Ước gì máu con
hòa lẫn với Máu Chúa trên Núi Sọ
để tưới gội cho mảnh đất đã bị khô cằn
vì bất công và ích kỷ.
Chúc tụng Chúa là Cha,
đã dẫn con đi đến cùng,
đến tận Emmaus, nơi Chúa hiển dung
với tràn trề bình an và niềm vui. (ĐHY Roger Etchegaray)
Suy Niệm 2: Gieo và gặt
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thật lạ lùng quá trình gieo và gặt. Quá trình mất và được. Từ bỏ và lấy lại. Chết và sống. Quá trình nảy sinh sự sống. Sự sống mới. Phong phú dồi dào. Và cao vượt. Mầu nhiệm sự sống tự nhiên đã kỳ diệu. Mầu nhiệm sự sống siêu nhiên còn kỳ diệu gấp bội.
Chúa Giê-su là người đi gieo Tin mừng. Thiên Chúa kiên trì gieo Lời Người xuống trần gian. Trải qua bao đời. Qua bao thất bại. Đến lúc phải gieo chính Ngôi Lời. Chúa Giê-su gieo chính mình. Người trở thành hạt giống. Mục nát đi để trổ sinh một mùa gặt mênh mông. Một nhân loại mới mọc lên từ Người. Giống như Người.
Nhưng để trở thành mùa gặt con người phải trở thành đất tốt. Phải cầy bừa con đường đi đã chai cứng. Phải nhặt đá sỏi. Phải nhổ bụi gai. Phải từ bỏ con người cũ. Con người của xác thịt. Con người của hời hợt nông cạn. Con người của dục vọng đam mê. Để sống theo Thần Khí. Phải gieo chính mình như Chúa Giê-su.
Đó là điều thánh Phao-lô mời gọi ta trong thư Cô-rin-tô. Ta cũng phải gieo chính mình. Phải trở thành hạt giống mục nát như Chúa. Phải từ bỏ con người cũ. Ta sẽ sống lại thành con người mới. Ta sẽ có mùa gặt mới: “Gieo xuống thì hư nát, mà trỗi dậy thì bất diệt; gieo xuống thì hèn hạ, mà trỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà trỗi dậy thì mạnh mẽ, gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có thần khí”. Và thánh nhân giải nghĩa con người có sinh khí là con người của A-đam, con người theo xác thịt. Con người có thần khí là con người giống A-đam mới, là Chúa Ki-tô: “Những kẻ thuộc về đất thì giống như kẻ bởi đất mà ra; còn những kẻ thuộc về trời thì giống như Đấng từ trời mà đến” (năm chẵn).
Đây là một quá trình khó khăn. Phải mục nát đi. Phải từ bỏ chính mình. Vì thế phải quảng đại và kiên trì như lời Chúa giải thích: “Hạt rơi vào đất tốt: đó là những kẻ nghe Lời với tấm lòng cao thượng và quảng đại, rồi nắm giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả”. Theo thánh Phao-lô từ bỏ và kiên trì đó là: “hãy tuân giữ điều răn của Chúa mà sống cho tinh tuyền, không chi đáng trách, cho đến ngày đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, xuất hiện” (năm lẻ).
Mùa gieo hạt như thế sẽ kéo dài suốt cả cuộc đời. Ta còn phải cầy bừa những con đường. Nhặt đá sỏi nông nổi hời hợt. Nhổ bụi gai đam mê xác thịt. Để hoàn toàn chết đi cho con người mới. Rồi mới có mùa gặt trong Chúa Ki-tô.
Suy Niệm 3: Dụ Ngôn Người Gieo Giống
Dụ ngôn, theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là so sánh, là thí dụ. Trong Tin Mừng, là những câu truyện Chúa Giêsu đưa ra dựa trên những hình ảnh quen thuộc trong đời sống hằng ngày của người nghe, để giúp họ hiểu ý nghĩa những sự thật có liên quan đến niềm tin mà Ngài muốn trình bày.
Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta dụ ngôn về người gieo giống.
Trước hết, cần lưu ý đến sự khác biệt giữa dụ ngôn và những lời giải thích dụ ngôn. Khi kể dụ ngôn, Chúa Giêsu xem ra nhấn mạnh đến sự hiệu nghiệm của hạt giống hay đúng hơn sự thành công của người gieo giống: có hạt rơi bên vệ đường, có hạt rơi trên đá, có hạt rơi vào bụi gai, nhưng cũng có hạt rơi trên đất tốt và sinh hoa kết quả gấp trăm. Còn khi giải thích dụ ngôn cho các môn đệ, Chúa Giêsu như muốn nhấn mạnh đến thái độ cộng tác của con người để làm cho Lời Chúa được sinh hoa kết quả. Thật ra, hai khía cạnh này không đối nghịch nhau, nhưng được tổng hợp để diễn tả thực tại phong phú của mầu nhiệm Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa chắc chắn được phát triển, nhưng phần cộng tác của con người trong việc phát triển Nước Chúa cũng không thể bỏ qua được.
Hạt giống Lời Chúa là yếu tố chính của dụ ngôn. Hạt giống này tự nó có sức trổ sinh hoa trái, nhưng khi được gieo vãi thì gặp những hoàn cảnh đối nghịch tùy vào thái độ chấp nhận cộng tác của con người lãnh nhận Lời Chúa. Người gieo giống ở đây là chính Thiên Chúa, Ngài gieo vãi khắp nơi, trao ban nhưng không ơn cứu rỗi cho mọi người. Thiên Chúa có sáng kiến trước, nhưng con người cũng cần cộng tác vào: hai yếu tố này không thể bỏ qua được.
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta canh tân đời sống, cộng tác với ơn Chúa ban để trở thành những mảnh đất tốt đón nhận và làm phát triển hạt giống Lời Chúa. Xin Chúa củng cố chúng ta trong niềm xác tín đó.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Mảnh Ðất Tốt
Mỗi người đồ đệ cần phải cộng tác vào việc làm cho Nước Chúa được ngự đến, và trước hết là nơi chính bản thân mình. Chúa Giêsu giảng giải điều này cho các môn đệ qua dụ ngôn về người gieo giống được Giáo Hội nhắc lại trong ngày hôm nay.
Chúng ta có thể lưu ý đến một chút khác biệt giữa dụ ngôn và những lời giải thích về dụ ngôn. Khi kể về dụ ngôn Chúa Giêsu xem ra như nhấn mạnh tới sự hiệu nghiệm của hạt giống hay đúng hơn sự thành công của người gieo giống chắc chắn thu được thành quả. Có hạt rơi bên vệ đường, có hạt rơi trên đá, có hạt rơi trong bụi gai, nhưng có những hạt rơi trên đất tốt và trổ sinh hoa trái gấp trăm. Còn khi giải thích dụ ngôn cho các môn đệ thì xem ra như Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến thái độ cộng tác của con người để làm cho Lời Chúa sinh hoa trái tốt. Thật ra hai khía cạnh này không đối nghịch nhau mà ngược lại cả hai cùng được tổng hợp để diễn tả thực tại phong phú của mầu nhiệm Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa chắc chắn được phát triển nhưng phần cộng tác của con người trong việc phát triển Nước Chúa cũng không thể nào bỏ qua được.
Chính hạt giống Lời Chúa là yếu tố chính của dụ ngôn, hạt giống Lời Chúa này tự nó có sức mạnh để trổ sinh hoa trái, nhưng khi được gieo vãi, được rao giảng cho mọi người thì liền gặp phải hoàn cảnh đối nghịch, gai góc, đá sỏi tùy thuộc vào thái độ chấp nhận cộng tác của người lãnh nhận Lời Chúa. Người gieo giống ở đây được hiểu là chính Thiên Chúa. Ngài gieo vãi khắp nơi, trao ban nhưng không cho tất cả mọi người ơn cứu rỗi.
Thiên Chúa đã có sáng kiến ứng trước cho con người nhưng phần con người thì cũng cần cộng tác đáp lại. Hai yếu tố không thể bỏ qua được. Thiên Chúa không áp đặt nhưng kính trọng tự do của con người. Những trở ngại không cho hạt giống Lời Chúa sinh hoa trái là thái độ hời hợt, xu thời, không kiên trì, lo lắng tích trữ giàu sang vật chất, say mê đi tìm thú vui.
Mỗi người chúng ta cần canh tân đời sống cộng tác với ơn Chúa ban, cố gắng sao để trở thành mảnh đất tốt đón nhận hạt giống Lời Chúa. Một tâm hồn cao thượng, quảng đại và kiên trì giữa những gian nan thử thách của cuộc đời, đó là điều Thiên Chúa hằng mong ước gặp được nơi mọi người đồ đệ của Ngài, nơi mỗi người chúng ta hôm nay.
Lạy Chúa,
Xin ban cho con được trở nên mảnh đất tốt hàng ngày đón nhận và suy niệm Lời Chúa cũng như sống thực hành những gì Chúa truyền dạy.
Lạy Chúa, xin hãy phán, này tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Sinh hoa kết quả nhờ kiên trì
“Người gieo giống ra đi gieo hạt giống của mình, trong khi người ấy gieo, thì có hạt rơi xuống vệ đường, người ta giẫm lên và chim trời ăn mất. Hạt khác rơi trên đá, và khi mọc lên, lại héo đi vì thiếu ẩm ướt. Có hạt rơi vào giữa bụi gai, gai cũng mọc lên làm nó chết nghẹt. Có hạt lại rơi nhằm đất tốt, và khi mọc lên, nó sinh hoa kết quả gấp trăm. Nói xong, Người hô lên rằng: “Ai có tai nghe thì nghe”
Các môn đệ hỏi Người dụ ngôn ấy có ý nghĩa gì. Người đáp: “Anh em thì được ơn hiểu biết các mầu njiệm Nước Thiên Chúa; còn đối với người khác, thì dùng dụ ngôn, để chúng xem mà không thấy, nghe mà không hiểu” (Lc. 8, 5-9)
Chức vụ Đức Kitô ở Galilê đến hồi kết thúc. Người muốn cho đông đảo dân chúng tụ họp chung quanh hiểu về mầu nhiệm nước trời bằng một dụ ngôn mang ý nghĩa vừa cụ thể vừa cao siêu. Dụ ngôn không có sức gắn liền với trí tuệ, tự nó không bao giờ minh hiển. Nó dự báo chân lý và phải nhờ đường lối của Thiên Chúa mới làm cho tâm hồn nắm bắt được chân lý và trở về với chân lý.
Pascal đã viết: trong tư tưởng của Chúa “Có đủ rõ ràng để soi cho những người được tuyển chọn, và khá tối tăm để giúp họ khiêm hạ. Có đủ tối tăm để làm kẻ thách thức mù quáng, và khá rõ ràng để kết án họ và làm cho họ không thể chối cãi”. Những dụ ngôn của Đức Giêsu chứa đựng vừa sáng vừa tối để họ không thể chiến thắng bằng sức riêng của mình, nhưng cũng để tôn trọng tự do của mỗi người. Đối với dụ ngôn người gieo giống trong Tin Mừng hôm nay cũng thế.
Người gieo ra đi gieo giống, cũng gặp nhiều tai họa: có hạt rơi trên vệ đường bị người và vật dày đạp và sau cùng bị chim trời đến ăn. Có hạt chết khô đét trên đá vì thiếu ẩm ướt. Có hạt bị chết nghẹt trong bụi gai không vươn lên được. Sau cùng rơi vào đất tốt sinh hoa kết quả.
Ai có tai thì hãy nghe.
Sứ điệp Tin Mừng trải qua bao nhiêu thời gian đã bị rơi vào những con tim tin ma thờ quấy, hay nông nổi nhất thời hay ham mê danh lợi thú. Chỉ có những con tim chân thành, khiêm tốn, kiên trì, cao thượng mới sinh hoa kết quả cho những mùa gặt phong phú. Lòng yêu mến của họ sẽ giúp họ nắm giữ và thực hành được lời Chúa, dầu gặp những thất bại, thử thách, đau khổ, chống đối, bắt bớ và phải chết, họ vẫn an tâm vững chí kiên trì cho đến tận cùng. Ngày qua ngày, khiêm tốn họ sống thực hiện những điều đã khám phá do Thiên Chúa ban ơn, họ dần dần đi vào cuộc sống thân mật của Thiên Chúa.
GF
Suy Niệm 6: Mở rộng tâm hồn... như thửa đất tốt
Xem lại CN 15 TN A - và thứ Tư tuần 16 TN
Nói đến gieo giống, người ta nghĩ ngay đến ai là người gieo? Gieo gì? Và gieo vào đâu? Hạt giống mọc lên ra sao? Sinh hoa kết quả thế nào...?
Hôm nay Đức Giêsu đã kể dụ ngôn người gieo giống và mặc khải cho biết: người gieo giống là Thiên Chúa. Hạt giống là Lời của Người qua các tổ phụ, tiên tri và sau hết là chính Đức Giêsu. Tuy nhiên, thân phận hạt giống thì khác nhau, vì thế, có hạt bị quên lãng, bỏ ngoài tai hay vô tâm, chỉ ¼ là được đón nhận. Lý do thân phận của hạt giống bị hư hoại nhiều là vì sự chai cứng trên lối mòn hay bởi gai góc, đá sỏi cằn khô. Chỉ một ¼ số hạt gieo vãi được may mắn rơi vào đất tốt, đủ điều kiện để hạt giống nảy mầm, đơm bông kết trái.
Hình ảnh này cho thấy thực trạng của xã hội chúng ta hôm nay cũng đang bị đủ thứ gai góc, sỏi đá và lối mòn đe dọa đến hạt giống của Lời Chúa.
Những thứ đó là: lối sống sa đọa, nhu nhược, vô luân, không có tự trọng... tham nhũng, bóc lột, lừa gạt, dẫn đến tình trạng: “Ai làm sao, tôi làm vậy. Ai làm bậy, tôi cũng làm theo”, nên Lời Chúa không sinh ích cho người đón nhận.
Thực vậy, biết bao con người hôm nay cứ trố mắt và lao mình vào những con đường tội lỗi mà không hề có chút ưu tư. Họ sống như không có gì xảy ra vậy.
Nơi giới trẻ ngày nay, tình trạng thượng tôn tình dục, văn hóa đồi trụy đang là mốt rất “hót”, dẫu vẫn biết rằng văn hóa phẩm đồi trụy là nguyên nhân nguy hiểm, tác hại khôn lường đến đời sống đạo đức gia đình, xã hội và làm băng hoại Lương Tâm, dẫn đến tình trạng mù quáng và đi vào con đường chết! Nhưng vì đồng tiền và bản năng “hạ đẳng” của con người, họ vẫn ngang nhiên cung cấp và thỏa sức sử dụng... như loài không có lương tri, không có linh hồn...!
Quả thật, những người đó, và đôi khi có cả chúng ta, là những người có tai mà không nghe, có mắt mà không thấy. Lời Chúa đến với họ chẳng khác gì "đàn gảy tai trâu" hay như "nước đổ đầu vịt, lá khoai".
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết lắng nghe Lời Chúa, sống Lời Chúa, và trung thành với giáo huấn của Chúa, ngõ hầu như hạt giống tốt gặp được thửa đất màu mỡ là tâm hồn ngay thẳng để trổ sinh nhiều bông hạt tốt tươi.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con là thửa đất tốt để hạt giống của Lời Chúa luôn triển nở trong tâm hồn chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Lời Chúa là hạt giống
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Lời Chúa như hạt giống, lòng người như thửa ruộng. Hãy cầy xới mảnh đất tâm hồn để hạt giống Lời Chúa phát triển và sinh ra những hoa trái thánh thiện.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đang gieo hạt Lời Chúa vào lòng con. Con có nhiệm vụ vun xới cho Lời Chúa nảy mầm, bám rễ vào lòng con. Chúa tin tưởng con, trao phó cho nhiệm vụ vun trồng cây đức tin và hằng ngày đợi chờ con dâng về Chúa những hoa trái việc lành phúc đức.
Con quyết không để lòng mình như vệ đường chai cứng. Con sẽ nghe theo tiếng lương tâm, sống theo lẽ phải. Con sẽ học hỏi Lời Chúa và giáo lý để luyện lương tâm con ngay thẳng, để Lời Chúa nảy mầm nơi tâm hồn con.
Xin cho lòng con đừng trở nên sỏi đá. Có nhiều lúc con muốn thực thi Lời Chúa nhưng lại ngại khó. Xin cho con đừng bỏ cuộc khi Tin Mừng đòi con cố gắng.
Xin cho con biết khai quang tâm hồn con khỏi những bụi gai thói hư tật xấu vốn phát triển nhanh theo tính tự nhiên. Cả những công ăn việc làm, cả những giải trí vui chơi khi đã trở nên đam mê, cũng là bụi gai bóp nghẹt Lời Chúa nơi con. Xin cho lòng con biết hướng về Chúa và vươn tới những điều cao đẹp.
Xin cho con biết siêng năng lãnh nhận các bí tích, nhất là bí tích Giao Hòa và bí tích Thánh Thể, để tâm hồn con trở thành mảnh đất tốt thích hợp cho Lời Chúa trổ sinh hoa trái thánh thiện trong đời sống con. Amen.
Ghi nhớ: “Hạt rơi trong đất tốt, là những người giữ lấy lời và nhờ kiên nhẫn, họ sinh được hoa trái”.
Suy Niệm 8: Để Lời Chúa sinh hoa kết quả
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Nhờ nghe Lời Chúa, dân thành Ninivê ăn năn trở lại và được cứu rỗi.
Nhờ nghe Lời Chúa, vua Đavít bắt đầu nhận thấy tội lỗi nặng nề của mình và ăn năn thống hối, trở thành một vị vua thánh thiện.
Nhờ nghe Lời Chúa, Augustinô bắt đầu xấu hổ về những tội mình đã phạm hồi còn trẻ, ăn năn hối cải, trở lại với Chúa, và trở thành một vị giám mục thông thái, thánh thiện.
Nhờ nghe Lời Chúa, Phanxicô Xaviê đã từ bỏ những đeo đuổi vinh sang trần tục, ra đi làm việc tông đồ để trở thành một trong những nhà truyền giáo danh tiếng nhất của Giáo hội.
Suy niệm
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu trình bày giáo huấn nước Thiên Chúa qua dụ ngôn về người gieo giống và giải thích dụ ngôn đó. Tuy nhiên, có sự khác biệt giữa dụ ngôn và những lời giải thích dụ ngôn.
Khi trình bày dụ ngôn, Chúa nhấn mạnh đến sự hiệu nghiệm của hạt giống, dù có hạt rơi bên vệ đường, có hạt rơi trên đá, có hạt rơi vào bụi gai, nhưng cũng có hạt rơi trên đất tốt và sinh hoa kết quả gấp trăm. Thiên Chúa là người gieo hạt giống đã làm tất cả để hạt Lời Ngài giảng dạy nảy sinh mầm.
Khi giải thích dụ ngôn cho các môn đệ, Chúa Giêsu như muốn nhấn mạnh đến sự cộng tác của con người để làm cho Lời Chúa được sinh hoa kết quả. Hạt giống Lời Chúa sinh hoa trái, nhưng còn phụ thuộc vào mảnh đất có được canh tác tốt. Mảnh đất phải được dọn cỏ, phải được nhặt những viên đá để hạt giống Chúa được tự do tăng trưởng, được sinh hoa kết trái mang lại lợi ích thiêng liêng cho cuộc sống.
Dẫu biết rằng tâm hồn mình còn nhiều sỏi đá, cỏ lùng, đừng thất vọng mà để hoang tàn, nhưng xin vẫn cứ chăm chỉ: Chăm chỉ nhặt sỏi, chăm chỉ nhổ cỏ, vun trồng chuẩn bị tốt cho mảnh đất của đời mình để sẵn sàng đón nhận hạt giống được gieo trong mùa màng hồng ân. Khi mùa gặt tới, mong rằng, mảnh đất đời tôi, đời bạn nuôi dưỡng giống, ít nhất cho những hạt sinh được ba mươi…
Ý lực sống
“Chúa đã viếng thăm ruộng đất và tưới dội: Ngài làm cho đất trở nên phong phú bội phần” (Tv 64,10).
Suy Niệm 9: Dụ ngôn người gieo giống
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Khi đi truyền giáo, Đức Giêsu đi rao giảng về Nước Thiên Chúa hay Nước trời. Đây là những ý tưởng quá trừu tượng mà thính giả phần lớn là dân quê, ít học, ngay các Tông đồ nòng cốt cũng ở trong tình trạng đó. Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu dùng dụ ngôn người gieo giống đi gieo lúa để nói về hạt giống Lời Chúa. Theo đó, Lời Chúa như hạt giống được gieo vào lòng mọi người, để có thể phát triển và sinh hoa kết quả tùy theo thái độ đón nhận của từng người: có người không chấp nhận, có người chấp nhận với thái độ ơ hờ lạnh nhạt, có người đón nhận với lòng thành để Lời Chúa có thể sinh hoa kết quả dồi dào gấp 30, 60 hay 100 lần.
Để dễ hiểu dụ ngôn này, chúng ta cần biết phương pháp gieo giống của người Do thái thời Đức Giêsu. Theo kỹ thuật canh tác thông thường, người nông dân cày xới đất trước, rồi mới gieo vãi hạt giống. Nhưng vào thời Đức Giêsu, người nông dân Palestina xem ra đảo ngược phương pháp canh tác ấy khi họ gieo vãi rồi mới cày xới. Với kỹ thuật canh tác này dĩ nhiên người nông dân xem ra không nhọc công nhưng lại phí phạm rất nhiều hạt giống. Vì vậy, người nông dân không tính toán, không loại trừ. Cả mảnh đất màu mỡ lẫn mảnh đất sỏi đá, gai góc cũng được hưởng ơn mưa móc. Cả đến lối mòn có bước chân người cũng không bị lãng quên. Người đi gieo không bỏ rơi mảnh đất nào, một ngõ ngách nào. Ông luôn muốn cho hạt giống được gieo vãi khắp mọi nơi.
Hôm nay Đức Giêsu kể dụ ngôn người gieo giống và mạc khải cho biết: người gieo giống là Thiên Chúa. Hạt giống là Lời của Người qua các tổ phụ, tiên tri và sau hết là chính Đức Giêsu. Tuy nhiên, thân phận hạt giống thì khác nhau, vì thế, có hạt bị quên lãng, bỏ ngoài tai và vô tâm, chỉ 1/4 là được đón nhận. Lý do thân phận của hạt giống bị hư hoại nhiều, là vì sự chai cứng trên lối mòn hay bởi gai góc, đá sỏi cằn khô. Chỉ 1/4 số hạt gieo vãi được may mắn rơi vào đất tốt, đủ điều kiện để hạt giống nảy mầm, đơm bông kết trái. Hình ảnh này cho thấy thực trạng của xã hội chúng ta hôm nay cũng đang bị đủ thứ gai góc, sỏi đá và lối mòn đe dọa đến hạt giống của Lời Chúa (Ngọc Biển).
Tâm hồn mỗi người là một thửa ruộng, và không có thửa ruộng nào vô ích. Thiên Chúa sẽ gieo hạt giống Lời Chúa vào mỗi tâm hồn không loại trừ. Việc gieo Lời Chúa lúc nào cũng dồi dào phong phú, còn phía chúng ta, chúng ta sẽ đón nhận Lời Chúa với thái độ nào? Theo bài Tin mừng, Đức Giêsu đã phân chia thành 4 loại đất mà người nông phu gieo hạt giống. Bốn loại đất ấy tiêu biểu cho 4 thái độ của con người trước Lời Thiên Chúa:
* Đất vệ đường: những kẻ chẳng tha thiết gì đến Lời Chúa. Lời gieo xuống đó chẳng bao lâu thì bị quỷ dữ cướp đi.
* Đất lẫn sỏi đá: những người mau mắn đón nhận Lời Chúa nhưng không quý chuộng bao nhiêu. Khi gặp chút gian khó là bỏ cuộc.
* Đất có nhiều gai: những người cũng đón nhận Lời Chúa, nhưng điều họ quan tâm hơn là những đam mê, vui thú, của cải... Các thứ sau này như gai góc um tùm dần dần làm cho Lời Chúa bị chết nghẹt.
* Đất tốt: những người sốt sắng đón nghe Lời Chúa, ghi sâu vào trong tâm hồn và quảng đại đem ra thi hành trong cuộc sống.
Hạt giống nào cũng ẩn chứa những hy vọng; bông hoa nào cũng mang đến những niềm vui. Dẫu biết rằng có những hạt giống bị hư hao do các loại tâm hồn vệ đường, đá sỏi, bụi gai, nhưng người gieo giống – hình tượng của Thiên Chúa – vẫn lạc quan, vì hy vọng sẽ có những hạt rơi vào tâm hồn đất tốt, để rồi sinh hoa kết hạt bội thu. Có vẻ như thất bại của các hạt giống càng lúc càng gia tăng: hạt giống chưa kịp nảy mầm bị chim trời ăn mất, hạt giống đã nảy mầm nhưng bị chết héo, hạt giống đã thành cây con nhưng bị chết ngạt. Thế nhưng, chỉ cần vài hạt giống rơi vào đất tốt, hạt gấp trăm, chẳng những bù đắp những hư hao, và còn dư dật phong phú. Dụ ngôn cho ta cái nhìn lạc quan về Nước trời, về việc nên thánh của người con cái Chúa (5 phút Lời Chúa).
Truyện: Hạt giống bông lau
Trong số những vị anh hùng xây dựng Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ, phải kể đến Benjamin Franklin, tạ thế năm 1790. Ông là một văn sĩ, nhà ấn loát và xuất bản; lại còn là một nhà phát minh, một khoa học gia, thương gia và nhà ngoại giao. Một hôm, ông nhận được món quà từ Ấn độ. Đó là một cây chổi bông lau. Nhìn cây chổi, ông thấy có vài hạt còn dính lại ở đó, ông đã nhặt ra và lấy đem gieo, thế là hạt giống nảy mầm, sinh hoa kết hạt. Tới mùa gặt, ông lại lấy những hạt giống đó đem phân phát cho các bạn bè xóm ngõ. Tất cả đều đem gieo, và chẳng bao lâu, Hoa Kỳ đã có một kỹ nghệ làm chổi bông lau phát đạt rải rác khắp nơi trong quốc gia. Đó cũng là nhờ Benjamin đã có sáng kiến, biết lợi dụng vài hạt giống nhỏ mọn.
Chúng ta có thể rút ra được bài học qua kinh nghiệm này: sau khi đã tìm hiểu Lời Chúa, chúng ta phải quyết tâm lắng nghe, thực hành và phổ biến Lời Chúa cho người khác. Muốn cho cuộc đời chúng ta sinh hoa kết quả, muốn cho bản thân thành đạt trên đường đời, hãy kiểm tra ruộng lúa tâm hồn thường xuyên và kỹ lưỡng như người nông phu luôn biết săn sóc ruộng sạ của mình. Càng vất vả cày bừa, diệt cỏ, càng can đảm diệt tính hư nết xấu, Lời Chúa gieo xuống, càng đem lợi ích cho cuộc đời chúng ta.
Suy Niệm 10: Dụ ngôn người gieo giống
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Dụ ngôn người gieo giống:
- Hãy để ý đến sự rộng rãi đến nỗi như hoang phí của người gieo giống: gieo cả trên vệ đường và nhiều nơi mà hy vọng nẩy mầm rất ít.
- Cũng hãy để ý đến những loại đất xấu: a/ Đất vệ đường là người quá hời hợt, vừa nghe là quên ngay; b/ Đất sỏi đá là người không kiên trì trong gian nan thử thách; c/ đất đầy gai là người chất chứa trong lòng nhiều lo toan việc đời.
- Đất tốt là “những người nghe lời với tấm lòng tốt lành và thiện hảo, họ giữ lấy lời, và nhờ kiên nhẫn, họ sinh được hoa trái”
B.... nẩy mầm.
1. Tôi phải học tính quảng đại và lạc quan của người gieo giống trong dụ ngôn này: không nên tiếc công gieo Lời Chúa, cũng không nản lòng khi thấy Lời Chúa không sinh kết quả nơi một số người. Cứ lạc quan hăng hái chu toàn nhiệm vụ của mình, như Thánh Phaolô: “Tôi trồng, Apollo tưới, Thiên Chúa cho mọc lên”.
2. Hãy suy gẫm kỹ những điều kiện làm cho hạt giống nẩy mầm:
- “Nghe Lời với tấm lòng tốt lành và thiện hảo”: lắng nghe với thiện chí muốn tìm ánh sáng hướng dẫn đời mình.
- “Giữ lấy Lời một cách kiên nhẫn”: không bỏ cuộc dù thời gian kéo dài, dù gian truân thử thách; không để mình bị phân tâm vì những lo toan và đam mê việc đời.
3. Mỗi ngày Chúa dọn cho tôi hai bàn tiệc: bàn tiệc Thánh Thể và bàn tiệc Lời Chúa. Bàn tiệc Lời Chúa được dọn sẵn không phải chỉ trong Thánh lễ, mà còn lúc nguyện gẫm, lúc đọc Thánh Kinh…
4. Một ông vua nọ có thói quen mỗi ngày nghe một đoạn trong kinh Bagayad Gita. Người phụ trách việc đọc kinh này là một nhà sư đạo đức, thông thái. Cứ mỗi lần đọc xong một đoạn kinh, ông lại dùng đến kiến thức uyên bác của mình để giải thích cho vua nghe. Và ngày nào ông cũng đặt câu hỏi ”Bệ hạ có hiểu những gì thần vừa dẫn giải không?”. Nhưng lần nào nhà vua cũng chỉ trả lời ”Khanh nên hỏi điều đó với khanh trước đã”...
Ngày nọ, giữa lúc đọc kinh, ông bỗng được giác ngộ và nhận ra tất cả mọi sự đều là hão huyền. Thế là nhà sư quyết từ bỏ mọi sự và lên đường bắt đầu cuộc sống của một người hành khất.
Trước khi ra đi, ông nói với nhà vua ”Tâu bệ hạ, thế là cuối cùng hạ thần đã hiểu được”...
Giác ngô đích thực, hiểu biết chân lý chính là thực thi chân lý”. (Góp nhặt)
Suy Niệm 11: Hạt giống Lời Chúa và mảnh đất cuộc sống tôi
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Một lần nữa chúng ta đọc dụ ngôn người gieo giống:
Người gieo giống trong dụ ngôn hôm nay là một người hết sức hào phóng, hào phóng đến mức độ có thể coi là hoang phí. Ông gieo hạt giống cả trên những vệ đường, vào những nơi mà hy vọng nảy mầm rất ít.
Và chúng ta cũng hãy để ý đến những loại đất người gieo giống gieo vãi hạt giống trên đó. Rõ ràng là có cả đất xấu lẫn đất tốt.
a/ Đất vệ đường ám chỉ loại người quá hời hợt, vừa nghe là quên ngay;
b/ Đất đá sỏi là người không kiên trì trong gian nan thử thách;
c/ Đất đầy gai là người chất chứa trong lòng nhiều lo toan việc đời.
d/ Đất tốt là “những người nghe với tấm lòng tốt lành và thiện hảo, họ giữ lấy lời, và nhờ kiên nhẫn, họ sinh được hoa trái”.
Mỗi lần đọc lại dụ ngôn người gieo giống và suy gẫm, lòng tôi cảm thấy không yên. Khi nghe Chúa Giêsu cắt nghĩa dụ ngôn đó, tôi lại càng có cảm tưởng như một lời trách móc.
Lời Chúa là hạt giống và cuộc sống của tôi là mảnh đất.
Cho đến hôm nay, Chúa đã gieo vào tai tôi, lòng tôi bao nhiêu hạt giống: hãy tha thứ, hãy sống khoan dung, hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, đừng lên án, hãy sống quảng đại... Nhưng thử hỏi đã có được bao nhiêu hạt giống mọc lên trong tâm hồn cũng như trong cuộc sống của tôi? Khi đối chiếu cuộc sống của mình với Lời Chúa, tự nhiên tôi cảm thấy sợ. Mảnh đất của đời tôi, đứng xa mà nhìn thấy xanh tươi, nhưng lại gần, nhìn kỹ thì thấy màu xanh đó là màu xanh của cỏ dại. Thế mà tôi cứ sống an tâm với thửa đất đầy cỏ dại đó, đầy thói hư nết xấu đó, một thửa đất được ngụy trang bằng một màu xanh đạo đức bề ngoài.
Chúng ta hãy xin Chúa điều chỉnh lại cuộc sống của mỗi người chúng ta, để chúng ta biết luôn sống thế nào cho đẹp lòng Chúa.
2. Hạt rơi vào đất tốt: đó là những kẻ nghe Lời với tấm lòng cao thượng và quảng đại, rồi nắm giữ và nhờ kiên trì mà sinh hoa kết quả.
Trong lời nhắn nhủ, rõ ràng Chúa đã muốn nói đến hai yếu tố quan trọng để trở thành mảnh đất tốt: nghe Lời Chúa với lòng quảng đại và quyết tâm nắm giữ với sự kiên trì.
Thường thì phần đông chúng ta nghe Lời Chúa một cách thờ ơ, ra khỏi nhà thờ là quên rồi!
Một số ít sẵn sàng chú ý nghe Lời Chúa, nhưng thiếu quyết tâm nắm giữ và thiếu kiên trì, nên cũng không đưa đến hoa trái nào cả.
Có những hạt rơi vào chỗ đất tốt, nảy mầm, mọc lên, sinh hoa kết quả: hạt được 30, hạt được 60, hạt được 100…..
Bà Scaggs, một giáo sĩ thuộc một giáo phái Tin lành ở Nigeria, châu Phi, đã kể lại một câu chuyện thật cảm động sau đây:
“Một ngày kia tôi được mời đến dự lễ Giáng Sinh tại Grace Camp, một trung tâm điều trị bệnh cùi. Lần đầu tiên tôi được chứng kiến một số người cùi đông như vậy dâng lễ. Buổi lễ được tổ chức ngoài trời. Nhìn chỗ nào tôi cũng thấy người ngồi dự lễ. Gốc cây, ụ đất, bãi cỏ... chỗ nào cũng đông nghẹt người. Tôi thấy họ thật đáng thương, Mặc dù bị bệnh tật gậm nhấm và thân thể họ bị hủy hoại dần dần, nhưng khuôn mặt người nào người nấy lúc nào cũng biểu lộ niềm vui khó tả. Mắt họ sáng ngời khi hát lên những bài thánh ca Giáng Sinh.
Đến phần công bố Lời Chúa, mục sư mời một người bị bệnh cùi ăn mất hết mấy ngón tay lên đọc Sách Thánh. Ông ta phải lật các trang sách bằng một cái que buộc vào cổ tay. Sau bài giảng, mục sư mời mọi người đó chia sẻ về những ân phúc Chúa đã ban cho mình, người bệnh cùi vừa đọc sách thánh giơ bàn tay không còn ngón và đứng lên nhỏ nhẹ nói:
- Tôi muốn cảm ơn Đức Chúa Trời vì Ngài đã cho tôi bị cùi.
Tôi - bà Scaggs - lấy làm lạ, nói với người thông dịch cho tôi rằng, anh ta đã dịch sai. Không ai lại có thể cám ơn Chúa vì “được cùi” bao giờ. Người thông dịch như không để ý đến những gì tôi vừa nói. Anh tiếp tục dịch lại lời người bệnh đang giải thích. Người đó nói đến nguyên do khiến anh ta nói như thế:
- Nếu tôi không bị cùi, có thể tôi đã không bao giờ được biết Chúa Giêsu, không bao giờ cảm nghiệm được tình yêu của Chúa dành cho tôi sâu xa đến thế. Còn thực tế là bây giờ tôi đang bị bệnh cùi, có thể tôi sẽ không bao giờ được chữa lành, nhưng tôi lại cảm nghiệm được tình yêu của Chúa luôn đổ tràn trên tôi, qua biết bao người đang săn sóc trợ giúp tôi!
Lạy Cha là người chủ ruộng tốt lành,
Xin Cha gieo vào lòng các bạn trẻ hôm nay
những ước mơ lớn lao, những lý tưởng cao cả.
Xin cho họ biết quên hạnh phúc và tương lai của mình
để yêu tha nhân bằng trái tim rộng mở. Amen.
16/09 Yêu mến nhiều, tha thứ nhiều
- Viết bởi Lc 7, 36-50
Yêu mến nhiều, tha thứ nhiều.
Thứ Năm tuần 24 thường niên. – Thánh Cornêliô, giáo hoàng, và thánh Cyprianô, giám mục, tử đạo. Lễ nhớ.
"Tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều".
* Thánh Cornêliô làm giám mục giáo phận Rôma năm 251. Người đã chống lại giáo phái Novaxianô. Chưa được bao lâu, người bị hoàng đế Ganlô bắt đi đầy ở Xivitavéckia và đã qua đời ở đây (253). Người đã được thánh Síprianô kính trọng và quý mến. Chính vì thế, ngay từ thế kỷ IV, Hội Thánh Rôma đã mừng lễ thánh Conêliô trong chính hang mộ của người vào ngày lễ thánh Síprianô.
Thánh Xíprianô sinh tại Cácthagô quãng năm 210, trong một gia đình ngoại giáo. Người lãnh nhận đức tin, làm linh mục, rồi làm giám mục năm 249. Trong cuộc bách hại dưới thời hoàng đế Valêrianô, người bị lưu đày, rồi ngày 14 tháng 9 năm 258, người chịu chết để làm chứng cho Chúa Kitô. Các thư từ và các tác phẩm của người viết ra cho thấy người có tâm hồn của một vị mục tử đích thực, luôn đứng ở chỗ nguy hiểm nhất để nâng đỡ các anh em đang phải chịu bách hại và để duy trì sự hiệp nhất trong Hội Thánh. Trong mọi việc, người lo nêu gương sáng về lòng trung thành với Chúa Giêsu Kitô.
Lời Chúa: Lc 7, 36-50
Khi ấy, có một người biệt phái kia mời Chúa Giêsu đến dùng bữa với mình; Người vào nhà người biệt phái và vào bàn ăn.
Chợt có một người đàn bà tội lỗi trong thành, nghe biết Người đang dùng bữa trong nhà người biệt phái, liền mang đến một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm. Bấy giờ bà đứng phía chân Người, khóc nức nở, nước mắt ướt đẫm chân Người, bà lấy tóc lau, rồi hôn chân và xức thuốc thơm.
Thấy thế, người biệt phái đã mời Người, tự nghĩ rằng: "Nếu ông này là tiên tri thì phải biết người đàn bà đang động đến mình là ai, và thuộc hạng người nào chứ: là một đứa tội lỗi (mà)!" Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo ông rằng: "Hỡi Simon, Tôi có điều muốn nói với ông". Simon thưa: "Xin Thầy cứ nói".
"Một người chủ nợ có hai con nợ, một người nợ năm trăm đồng, người kia nợ năm mươi. Vì cả hai không có gì trả, nên chủ nợ tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, người nào sẽ yêu chủ nợ nhiều hơn?" Simon đáp: "Tôi nghĩ là kẻ đã được tha nhiều hơn". Chúa Giêsu bảo ông: "Ông đã xét đoán đúng". Và quay lại phía người đàn bà, Người bảo Simon: "Ông thấy người đàn bà này chứ? Tôi đã vào nhà ông, ông đã không đổ nước rửa chân Tôi, còn bà này đã lấy nước mắt rửa chân Tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã không hôn chào Tôi, còn bà này từ lúc vào không ngớt hôn chân Tôi. Ông đã không xức dầu trên đầu Tôi, còn bà này đã lấy thuốc thơm xức chân Tôi. Vì vậy, Tôi bảo ông, tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều. Kẻ được tha ít, thì yêu mến ít". Rồi Người bảo người đàn bà: "Tội con đã được tha rồi". Những người đồng bàn liền nghĩ trong lòng rằng: "Ông này là ai mà lại tha tội được?" Và Người nói với người đàn bà: "Đức tin con đã cứu con, con hãy về bình an".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Chị hãy đi bình an
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Chỉ Luca mới nói đến chuyện các người Pharisêu mời Đức Giêsu dùng bữa.
Họ mời Đức Giêsu dự tiệc ba lần (7, 36; 11, 37; 14, 1).
Họ còn báo cho ngài biết về việc Hêrôđê toan ám hại ngài (13, 31).
Xem ra không phải mọi người Pharisêu đều có ác cảm với Đức Giêsu.
Hôm nay Đức Giêsu là khách mời của ông Simon.
Ngài chẳng ngại đáp lại lời mời của một người thuộc phái Pharisêu,
cũng như ngài đã chẳng sợ làm bạn với người thu thuế và tội lỗi (Lc 7, 34).
Khi ăn tiệc lớn ở xứ Palestine thời đó,
các vị khách thường ngả người nằm trên những chiếc ghế dài, có gối,
chân đưa ra ngoài, tay trái dùng để tựa, còn tay phải để lấy thức ăn.
Khi nhà có đại tiệc, người ngoài được tự do ra vào.
Bất ngờ có một phụ nữ mạnh dạn bước vào phòng tiệc.
Người ta nhận ra chị là một người tội lỗi sống trong thành phố,
nhưng không chắc chị có phải là một cô gái điếm không.
Chị cố ý đến đây vì biết Đức Giêsu đang có mặt trong bữa tiệc.
Đây là người mà chị đã từng gặp và đã nhận được ơn tha thứ.
Chị đã chuẩn bị khá kỹ và biết rất rõ việc mình sắp làm cho Ngài.
Chị đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm (c. 37).
Đứng ở gần chân Đức Giêsu, chị bật khóc nức nở.
Nước mắt chị làm ướt chân Ngài.
Những giọt nước mắt ăn năn vì tội lỗi quá khứ,
hay vui sướng vì biết mình đã đựoc thứ tha?
Sau đó chị cởi khăn choàng đầu và xõa tóc để lau khô chân Đức Giêsu.
Cuối cùng, chị còn hôn lên chân và xức dầu thơm nữa.
Nói chung, những cử chỉ táo bạo của chị thật hết sức chướng mắt
đối với những người dự tiệc trong xã hội thời đó (và bây giờ cũng vậy!).
Xõa tóc trước công chúng là điều phụ nữ Do Thái không được phép làm,
vuốt ve và hôn chân một người đàn ông hẳn là những cử chỉ khêu gợi.
Hơn nữa, chị lại là một người tội lỗi có tiếng trong thành.
Một con người nhơ uế như chị khi đụng chạm sẽ làm người khác nhơ uế.
Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy ông Simon nghĩ thầm:
“Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn ông phải biết
người phụ nữ đang đụng vào mình là ai, vì chị ta là một người tội lỗi.”
Đức Giêsu có biết không? Nếu không, thì Ngài không phải là ngôn sứ.
Nhưng nếu Ngài biết, mà ngài lại cứ để chị làm như vậy,
thì còn gì là danh dự của ông Simon và của chính Ngài nữa!
Đức Giêsu biết chị là ai, biết cả điều Simon thầm nghĩ (x. 5, 21-22; 6, 7-8).
Ngài không phản ứng gì vì ngài hiểu ý nghĩa điều chị làm.
Đó không phải là cử chỉ khêu gợi của một cô gái làng chơi,
nhưng là những hành vi diễn tả lòng biết ơn của người được tha thứ.
Đức Giêsu hiểu những giọt nước mắt của chị, vừa hối hận, vừa hạnh phúc.
Ngài hiểu cả những cử chỉ có vẻ quyến rũ của chị trên đôi chân mình:
rửa chân bằng nước mắt, lau chân bằng tóc, hôn chân và xức dầu thơm.
Ngài đọc thấy trong đó lòng trân trọng và biết ơn.
Đó là sự trào dâng không thể cưỡng lại được của tâm tình yêu mến.
Tuyệt đối không có chút nhơ uế nào nơi những cử chỉ ấy.
Và Đức Giêsu đã đón nhận tất cả với trái tim thanh khiết của mình.
Để soi sáng cho ông Simon hiểu về hành động của người phụ nữ,
Đức Giêsu kể cho ông nghe một dụ ngôn kèm theo một câu hỏi (cc. 41-42)
Hai người cùng mắc nợ, một người 500 quan tiền, một người 50.
cả hai cùng được chủ nợ tha vì họ không có gì để trả.
“Vậy trong hai người đó, ai sẽ yêu mến chủ nợ hơn?”
Câu hỏi chẳng có gì khó đối với Simon và ông đã trả lời đúng.
Ta nên lưu ý: yêu mến ở đây có nghĩa là biết ơn.
Tự nhiên người được tha nhiều thì sẽ biết ơn nhiều, kẻ được tha ít sẽ biết ơn ít.
Dụ ngôn đơn giản của Đức Giêsu được áp dụng vào thực tế.
Rõ ràng là chị phụ nữ đã yêu mến Đức Giêsu hơn ông Simon.
Đức Giêsu làm một so sánh giữa cách tiếp đón của hai người (cc.44-46).
Simon đã chẳng cho Ngài nước để rửa chân, chẳng hôn, chẳng xức dầu trên đầu.
Dĩ nhiên đó chẳng phải là những đòi hỏi bắt buộc khi tiếp khách,
nhưng dù sao cách tiếp khách của Simon cũng nhạt nhẽo hơn so với chị kia.
Câu 47 là một câu quan trọng để hiểu đúng ý của đoạn Tin Mừng này.
Câu này trước đây thường được dịch như sau:
“Tội của chị ấy tuy nhiều, nhưng đã được tha, vì (hoti) chị đã yêu mến nhiều.
Còn ai được tha ít thì yêu mến ít,”
Dịch như thế dễ gây hiểu lầm rằng vì yêu nhiều nên chị được tha nhiều.
Thật ra phải hiểu ngược lại mới đúng.
Chính vì chị được tha nhiều nên chị mới yêu mến biết ơn nhiều.
Lòng yêu mến là kết quả, chứ không phải là nguyên nhân của sự tha thứ.
Lòng biết ơn đến sau khi nhận ơn.
Hiểu như thế sẽ hợp với ý nghĩa của dụ ngôn (cc. 41-42),
và hợp với vế sau của câu 47: còn ai được tha ít thì yêu mến ít.
Chẳng rõ ông Simon có nhận ra mình là ai chưa.
Ông đúng là người yêu ít hơn chị phụ nữ tội lỗi kia,
vì ông được tha ít hơn, vì ông có ít tội hơn!!!
Nhưng có thật ông ít tội hơn người phụ nữ tội lỗi này không?
Hay vì tự hào mà ông không thấy cần đến sự tha thứ của Thiên Chúa?
Tự hào về đạo đức vẫn là một vật cản khiến người ta khép lại và vô ơn.
Người phụ nữ tội lỗi là người yêu hơn (c. 42) và yêu nhiều (c. 47).
Tội quá khứ, khi được tha, lại tạo nên một hứng khởi mới để người ta yêu hơn.
Những vấp ngã khi được chữa lành lại trở nên một khởi đầu cho cuộc sống mới,
can đảm hơn, quảng đại hơn và nồng cháy hơn.
Cuối cùng, Đức Giêsu đã quay lại nói chuyện với người phụ nữ.
Ngài khẳng định lại ơn mà chị đã lãnh nhận trước khi chị bước vào phòng tiệc:
“Tội của chị đã được tha rồi”, Ngài nhắc cho mọi người biết chuyện đó.
Như thế Đức Giêsu không phải chỉ là một ngôn sứ như Simon nghĩ.
Ngài còn lớn hơn một ngôn sứ nữa khi dám tha tội cho chị.
Cuối cùng, Đức Giêsu lại ca ngợi lòng tin của chị.
Lòng tin thắm đượm tình yêu, hay tình yêu thắm đượm lòng tin.
Cả hai quyện vào nhau giúp chị đón lấy ơn cứu độ, ơn bình an:
“Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an” (c. 50).
Chúng ta có thể học được nhiều điều nơi người phụ nữ:
lòng tin mãnh liệt vào sự tha thứ, lòng mến táo bạo của sự biết ơn,
Chúng ta cũng cảm nghiệm được sức mạnh của ơn tha thứ của Thiên Chúa.
Sức mạnh ấy có thể làm mới lại cuộc đời một phụ nữ hư hỏng,
và dạy chị biết yêu như yêu lần đầu.
Chẳng rõ ông Simon có học được điều gì từ biến cố này không?
Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện:
Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi
mọi biển lận tầm thường.
Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên
để gánh chịu mọi buồn vui.
Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang
để đem tình yêu gánh vác việc đời.
Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường
để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó,
hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy.
Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai
để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày.
Và cho tôi sức mạnh tràn trề
để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn. (R. Tagore)
Suy Niệm 2: Nội dung và hình thức
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Ông Si-mon, một thủ lãnh Pha-ri-sêu, một trí thức phải tâm phục khẩu phục thái độ và lời giải thích của Chúa Giê-su. Tuy hai hướng nhìn khác nhau. Ông nhìn bề ngoài. Chúa nhìn bề trong. Ông nhìn hình thức. Chúa nhìn nội dung.
Về hình thức xã hội thì ông Si-mon hơn hẳn người phụ nữ. Ông trí thức. Người phụ nữ bình dân. Ông nghiêm chỉnh giữ Lề Luật. Người phụ nữ lỗi lề luật. Ông thuộc tầng lớp lãnh đạo, dạy dỗ người khác. Người phụ nữ thuộc tầng lớp cần được dạy dỗ. Ông được mọi người kính trọng. Còn người phụ nữ bị mọi người khinh miệt.
Nhưng thật bất ngờ khi Chúa Giê-su đánh giá người phụ nữ cao hơn ông Si-mon. Vì “chị yêu mến nhiều”. Đạo không phải là bề ngoài nhưng là bề trong. Đạo không là hình thức nhưng là nội dung. Và thật lạ lùng: đạo không là lề luật nhưng là tình yêu.
Thánh Phao-lô là người cảm nghiệm được điều đó. Ông được tha nhiều. Nên ông yêu mến nhiều: “Thật vậy, tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa. Nhưng tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu; trái lại, tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác, nhưng không phải tôi, mà là ơn Thiên Chúa cùng với tôi” (năm chẵn).
Vì thế thánh Phao-lô khuyên người môn đệ Ti-mô-thê-ô đừng chú ý đến hình thức. Hãy chú ý đến nội dung. Đừng chú ý đến bề ngoài. Hãy chú ý đến bề trong. Về hình thức bề ngoài thì Ti-mô-thê-ô kém cạnh. Vì ông còn quá trẻ so với chức vị giám mục. Thánh Phao-lô khuyên nhủ người con thiêng liêng hãy vượt qua bằng trau dồi nội dung bên trong. “Hãy chuyên cần đọc Sách Thánh trong các buổi họp. Đừng thờ ơ với đặc sủng đang có nơi anh, đặc sủng Thiên Chúa đã ban cho anh nhờ lời ngôn sứ, khi hàng kỳ mục đặt tay trên anh. Anh hãy tha thiết với những điều đó, chuyên chú vào đó, để mọi người nhận thấy những tiến bộ của anh” (năm lẻ).
Đó cũng là lời khuyên dành cho tôi. Để tôi chăm lo trau dồi nội dung tình yêu bên trong hơn là chú ý đến hình thức chức vị bên ngoài. Để tôi yêu thật nhiều. Và làm tất cả vì tình yêu. Đó là cốt lõi của đạo. Đó cũng là bí quyết giúp tôi thăng tiến về Chúa Ki-tô. Và được hạnh phúc nơi Người.
Suy Niệm 3: Lòng Sám Hối
Tin Mừng hôm nay ghi lại một phiên tòa; phiên tòa này không có luật sư biện hộ, không có bản án được đọc lên, nhưng kẻ được ân xá ra về với bình an trong tâm hồn.
Có được bình an trong tâm hồn là điều quí giá nhất Chúa Giêsu mang lại cho con người. Nhưng để có được bình an ấy, điều kiện tiên quyết là con người phải có lòng sám hối. Sám hối vốn là nội dung chủ yếu trong sứ điệp của Chúa Giêsu. Lời đầu tiên của Ngài khi bắt đầu sứ vụ công khai là: "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng". Ngài đến là để khơi dậy lòng sám hối của con người; Ngài đến là để hòa giải tội nhân với Thiên Chúa. Cái chết của Ngài trên Thập giá không phải là cái chết của nhà cách mạng hay chính trị gia, mà thiết yếu là để đền bù tội lỗi con người.
Người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay đã nhận ra sự cần thiết của sám hối. Bất chấp những lời dị nghị, bất chấp sự khinh bỉ của người xung quanh, bà đã thể hiện một cách chân thành và trọn vẹn lòng sám hối của mình. Chúa Giêsu đã nói lên ý nghĩa hành động của người phụ nữ này như sau: "Bà đã được tha nhiều, vì bà đã yêu mến nhiều". Càng cảm nhận được ơn tha thứ, con người càng được thôi thúc thể hiện lòng yêu mến nhiều hơn.
Lịch sử Giáo Hội được tô điểm bằng lòng sám hối thể hiện qua tình mến. Cuộc đời của bất cứ vị thánh nào cũng đều bắt đầu bằng lòng sám hối, nghĩa là ý thức sâu xa về tội lỗi của mình. Nhưng sám hối không chỉ là ý thức về tội lỗi của mình. Có lẽ không ai ý thức được hành động phản bội của mình cho bằng Yuđa, nhưng ý thức ấy chưa hẳn là sám hối. Phêrô cũng đã chối Thầy, nhưng nơi ngài lòng sám hối không chỉ dừng lại ở ý thức tội lỗi, nhưng đã biến thành tình yêu thương; Phêrô đã nói lên lòng sám hối bằng ba lần thưa với Chúa: "Lạy Chúa, Chúa biết con yêu mến Chúa".
Người ta thường nói đến cuộc khủng hoảng về đức tin. Trong thực tế, khủng hoảng đức tin cũng chính là khủng hoảng về lòng sám hối. Khi con người đánh mất ý thức về tội lỗi, con người cũng không còn cảm nhận được thế nào là ơn tha thứ của Chúa, và dĩ nhiên cũng đánh mất sự cảm thông và tha thứ đối với người khác. Thái độ khoan nhượng của con người chỉ xuất phát từ ý thức về nỗi bất toàn và sự tha thứ mà mình cảm nhận được. Xét cho cùng, bác ái chính là hoa trái của lòng sám hối: càng cảm thấy mình được yêu thương và tha thứ, con người càng được thúc đẩy để tha thứ và yêu thương.
Nguyện xin Chúa nung nấu tâm tình sám hối đích thực nơi chúng ta và ban cho chúng ta niềm an bình nội tâm, để chúng ta cũng biết chia sẻ niềm an bình ấy với mọi người bằng cảm thông, tha thứ, và những thể hiện của bác ái.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Tinh Thần Khoan Nhượng
Tin Mừng hôm nay có thể gợi lên cho chúng ta một vài suy nghĩ về tinh thần khoan nhượng đích thực. Chúa Giêsu là hiện thân của tinh thần ấy. Trong những quan hệ xã hội của Ngài, Ngài vốn dành ưu tiên cho người nghèo, những người tội lỗi, những kẻ bị xã hội đẩy ra bên lề. Ngài tìm đến với họ và nhất là ngồi đồng bàn để ăn uống với họ, nhưng Chúa Giêsu không khơi dậy cuộc đấu tranh giai cấp. Ngài không bao giờ đi với người nghèo để kêu gọi chống lại những người giàu có. Ngài đến với những người nghèo và những kẻ tội lỗi nhưng không loại trừ những người giàu có và những người đạo đức thánh thiện. Ngài chia sẻ cơm bánh với những người tội lỗi nhưng cũng không ngại ngồi đồng bàn với những người công chính. Người biệt phái Simon được Tin Mừng hôm nay nhắc tên là một người giàu có và đạo đức, ông có thể là đại biểu cho những người giàu có và thánh thiện mà Chúa Giêsu không hề muốn loại trừ ra khỏi những quan hệ xã hội của Ngài. Chúa Giêsu kết thân với những người nghèo khổ và tội lỗi nhưng không xa cách những người giàu có và đạo đức.
Cuộc gặp gỡ được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay là điển hình của thái độ khoan nhượng của Chúa Giêsu. Chính trong một bữa tiệc được một người giàu có và đạo đức khoản đãi mà Chúa Giêsu đã gặp gỡ một người đàn bà tội lỗi nổi tiếng trong thành phố, Ngài luôn có thái độ khoan nhượng đối với mọi người.
Sự khoan nhượng là thái độ cần thiết cho mọi người bởi vì xã hội nào cũng gồm những thành phần khác biệt nhau bởi vì nhân loại gồm những con người khác biệt mà họ cần đối xử với nhau bằng thái độ khoan nhượng. Hai chìa khóa để mở cánh cửa của khoan nhượng là sự chấp nhận và cảm thông. Chấp nhận thường đi trước sự cảm thông. Chấp nhận sự khác biệt nơi người khác để dễ dàng cảm thông với họ hơn, nhưng dĩ nhiên khoan nhượng không hề đồng nghĩa với đồng lõa. Chúa Giêsu tỏ ra cảm thông và tha thứ với những người tội lỗi nhưng Ngài không bao giờ nhân nhượng trước tội lỗi; Ngài khoan dung tha thứ bao nhiêu với tội nhân thì lại càng cương quyết bấy nhiêu với tội lỗi. Chính vì thế mà sự tha thứ của Ngài luôn đi kèm với mệnh lệnh: "Con hãy đi về và đừng phạm tội nữa". Với người biệt phái tên là Simon, Ngài đã kêu gọi với thái độ khoan nhượng khi để cho người đàn bà tội lỗi đến thể hiện lòng sám hối của mình bằng việc xức dầu thơm cho Ngài. Với người đàn bà tội lỗi, Ngài cho cảm nhận được ơn tha thứ. Ngài kêu gọi chúng ta: "Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng". Lời ấy bảo đảm cho chúng ta ơn tha thứ và sự bình an của Ngài, đồng thời cũng mời gọi chúng ta hãy sống khoan nhượng và tha thứ đối với mọi người.
Ước gì chúng ta luôn cảm nhận được ánh mắt nhân từ tha thứ của Chúa để cũng biết sống cảm thông và tha thứ với mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Yêu nhiều, được tha nhiều
Vì thế tôi nói cho ông hay: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít.”Rồi Đức Giêsu nói với người phụ nữ: “Tội của chị đã được tha rồi.” (Lc. 7, 47-48)
Lòng quảng đại không phải là một nhân đức ai cũng có thể biết được và luyện tập được. Nó cũng chính thứ tình yêu, không thể đặt giới hạn và thời hạn vì nó quá mạnh. Đức Kitô đã thực hiện tình yêu này không ngừng và Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một gương sáng trong nhiều gương khác.
Đức Giêsu đang dự tiệc tại nhà một người biệt phái đã mời Người đồng bàn, Thánh Lu-ca nói đến ba lần những người biệt phái tiếp đón Người tại nhà họ. Chứng tỏ có những người biệt phái ít hiềm khích Người, họ cũng mong hiểu biết Người hơn.
Đang bữa ăn, một đàn bà tội lỗi trong thành bước vào. Cô mang theo một bình dầu thơm quý giá và khóc nức nở quì xuống lấy nước mắt tưới ướt chân Người, lấy tóc mình mà lau chân Người và xức dầu thơm vào chân Người. Trước cảnh tượng chướng tai gai mắt này, người biệt phái cảm thấy tức giận và xúc phạm nặng nề, ông nói thầm trong lòng rằng: “Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai!”. Nếu biết rõ nó, Giêsu không được ngây ngất như thế.
Đức Kitô biết ý nghĩ của chủ nhà và đề cập đến một dụ ngôn nhỏ để biến đổi con tim của ông: “Một chủ nợ có hai con nợ, một kẻ nợ năm trăm quan tiền, một kẻ nợ năm mươi. Vì họ không có gì trả nên chủ nợ thương tình đã tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó ai mến chủ nợ hơn? Ông Simon đáp: Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn. Đức Giêsu bảo: Ông suy xét đúng lắm”. Giữa biệt phái trong sạch và bà này, nhơ bẩn chất chứa tội lỗi chắc là không giống nhau: tội bà này chất đống nhiều hơn, biẹt phái ít hơn, nhẹ hơn. Vậy rõ ràng bà được tha thứ nhiều hơn biệt phái. Đức Giêsu kết luận: điều đáng kể đối với tôi không nhất thiết là tội lỗi nhưng chính là tình yêu để được ơn thương xót: “Tội của chị rất nhiều, nhưng được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều!”.
Ồ vâng, yêu đi thì không còn phạm tội nữa!
GF
Suy Niệm 6: Yêu mến nhiều vì được tha thứ nhiều
Xem lại CN 11 TN C
Đoạn Tin Mừng hôm nay trình thuật việc cô Mađalêna xức dầu thơm cho Đức Giêsu và lấy tóc mình mà lau. Sự trở lại của cô đã làm cho nhiều người kinh ngạc và hành động của cô cũng gây nên không ít sự tò mò cho mọi người xung quanh!
Tưởng cũng nên nhắc lại, Mađalêna là một cô gái điếm chuyên nghề, nhưng cô đã được Đức Giêsu giải cứu khỏi cái chết trước sự hằm hằm của các người Pharisêu khi họ dẫn giải cô đến để xin Ngài xét xử.
Cô đã được quý nhân phù trợ, Đức Giêsu đã giải thoát cô khỏi chết và phục hồi tinh thần cho cô bằng tình thương xót của Ngài.
Vì thế, cuộc đời của Mađalêna đã thay đổi từ đó.
Nếu trước kia đôi mắt của cô là đôi mắt đa tình, thì nay đôi mắt đó đã đẫm lệ ăn năn.
Nếu trước kia mái tóc là vật để trang điểm thân xác và tạo sự chú ý của các chàng trai khát tình, thì giờ đây đã dùng để lau chân Chúa.
Nếu đôi môi là nơi diễn ra những nụ hôn nồng thắm phục vụ cho những cuộc ăn chơi trác táng, thì giờ đây cô đã dùng vào việc hôn chân Chúa.
Nếu trước kia dầu thơm là mồi câu khách làng chơi, thì giờ đây, cô đã dùng vào việc xức chân Chúa.
Tất cả những hành vi đó của cô đã biểu lộ một đức tin tuyệt đối và lòng yêu mến nồng nàn với Đức Giêsu, Đấng đã giải thoát cô khỏi tội lỗi và khỏi chết.
Thật vậy, cuộc đời của mỗi con người đều có một quá khứ và tương lai, các thánh là những người cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó! Điển hình là Mađalêna, cuộc đời của ngài từ tội nhân trở thành thánh nhân nhờ ân sủng và lòng thương xót của Thiên Chúa. Từ lòng bao dung tha thứ của Đức Giêsu, Mađalêna đã được phục hồi giá trị làm người và làm con Thiên Chúa. Bây giờ cô có quyền ra đi trong cuộc sống với một tâm hồn bình an vì đã yêu nhiều nên được tha nhiều.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy chạy đến với lòng thương xót của Thiên Chúa trong tâm tình thống hối ăn năn.
Hãy tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa. Vì tội chúng ta có đỏ như son, có thẫm tựa vải điều, thì Thiên Chúa cũng tẩy cho trắng như bông, sạch như tuyết.
Muốn đạt được điều đó, chúng ta phải quay trở về với Chúa trong sự khiêm tốn, ăn năn, tin tưởng. Tất cả được xây dựng trên lòng mến.
Lạy Chúa Giêsu, xin cứu chúng con khỏi tội lỗi, và ban ơn giúp sức để chúng con được ơn trở về với Chúa cách trọn vẹn và trung thành như thánh nữ Mađalêna khi xưa. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Ăn năn thống hối thực lòng
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Thái độ ăn năn thống hối thực lòng của người phụ nữ tội lỗi đã được Chúa thương xót. Ai tin tưởng vào tình yêu Chúa, sẽ được cứu độ và được bình an.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu là Đấng hiền từ và hay thương xót, tấm lòng bao dung của Chúa là nơi nương tựa cho con là kẻ tội lỗi. Nhờ lòng thương xót của Chúa, một người dù tội lỗi đến đâu, cũng vẫn có cơ may làm lại cuộc đời. Bởi lẽ, Chúa không đánh giá chúng con theo vẻ bên ngoài hoặc dựa vào công nghiệp của chúng con. Trái lại, Chúa xét xử con người theo những tâm tình, suy tưởng sâu kín trong lòng, Chúa thấu suốt tâm tình sám hối chân thành phát xuất từ lòng yêu mến.
Phủ phục dưới chân Chúa, người phụ nữ tội lỗi không nói gì mà chỉ biết khóc. Chị khóc cho tội lỗi của mình, những giọt nước mắt của lòng sám hối ăn năn.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con thấy được sự nặng nề của tội con đã xúc phạm đến tình yêu Chúa. Xin cho con được lòng yêu Chúa để biết khóc tội lỗi mình. Xin đừng để lòng con chai đá, nhưng giúp con biết chân thành sám hối.
Lạy Chúa, Chúa đã tha, đang tha, và mãi mãi tha hết những lỗi lầm con xúc phạm đến Chúa. Chúa yêu con vô bờ. Xin cho con luôn tin tưởng vững vàng và cậy trông vào Chúa, cho con biết siêng năng đến với Chúa nơi bí tích Hòa Giải, để con được giao hoà lại với Chúa và anh em. Chỉ có Chúa mới có thể làm cho con được tái sinh và có sức mạnh đổi mới đời sống. Chỉ trong Chúa con mới tìm lại được bình an và được sống trong tình yêu. Con được tha nhiều, con sẽ yêu mến Chúa nhiều hơn. Amen.
Ghi nhớ: “Tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều”.
Suy Niệm 8: Yêu nhiều, được thứ tha nhiều
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Người Hồi giáo có chuyện sau đây: Đức Ala truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem có điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời. Sứ thần đáp xuống ngay một chiến trường nơi máu của các vị anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít máu mang về cho Đức Ala. Nhưng xem ra Đức Ala không hài lòng. Ngài bảo: “Máu đổ ra cho Tổ quốc và tôn giáo là một điều quý giá nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian”.
Sứ thần đành phải giáng thế một lần nữa. Lần này ngài gặp đám tang của một người giàu có nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo sau quan tài, vừa đi vừa khóc vừa xông hương để tỏ lòng biết ơn đối với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm mang về trời. Lần này Đức Ala mỉm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng, Ngài nói: “Dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những điều hiếm có và tốt đẹp nơi trần gian. Nhưng Ta nghĩ rằng còn có một cái gì tốt đẹp hơn.”
Lại một lần nữa sứ thần đành phải vâng lệnh. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp bốn phương, một buổi chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường, Ngài bỗng thấy một người đang khóc sướt mướt. Trước những câu hỏi đầy ngạc nhiên của sứ thần, người ấy giải thích: “Tôi đã chiều theo cơn cám dỗ mà phạm tội. Giờ đây nước mắt là lương thực hằng ngày của tôi”. Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng cánh bay về trời.
Đức Ala chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười nói: “Thế là ngươi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quả thật dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối, bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp của tình yêu (Trích “Món quà giáng sinh”).
Suy niệm
Người phụ nữ đến bên Chúa Giêsu là một người tội lỗi, trong thành ai cũng biết. Theo luật Do Thái thì người tội lỗi không được phép tiếp xúc với người bình thường (thanh sạch), vì nếu tiếp xúc sẽ làm lây lan tội lỗi cho người thanh sạch.
Chị bất chấp những lời dị nghị, bất chấp sự khinh bỉ của người xung quanh, bất chấp cả luật cấm, có thể khiến chị bị ném đá, để thể hiện một cách chân thành và trọn vẹn lòng sám hối của mình: Đến quỳ dưới chân Đức Giêsu, vị Thầy rao giảng tình thương, bao dung với người tội lỗi. Chị khóc nức nở, lấy nước mắt rửa chân, lấy tóc mà lau và hôn chân Ngài và không tiếc bình dầu thơm quý giá (khoảng 300 đồng, tương đương với 10 tháng lương) xức chân Ngài...
Một hình ảnh khác cũng giống như chị, người thu thuế là một dạng tội nhân công khai khác (x. Lc 7,29), đã nhìn nhận tội lỗi và tin rằng Thiên Chúa công chính, anh ta cũng nhận được ơn tha thứ của Người.
Trước niềm tin mạnh mẽ và tình yêu mến chân thành, chị đã được Chúa tha thứ dù tội chị rất nhiều, vì sự sám hối và tình yêu tỏ lộ. Ngài nhấn mạnh ý nghĩa hành động của người phụ nữ: “Bà đã được tha nhiều, vì bà đã yêu mến nhiều”. Như vậy niềm tin và lòng yêu mến là điều kiện cần thiết để được ơn tha thứ và cứu độ.
Xin Chúa cho chúng ta biết đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa là Ðấng bao dung và luôn yêu thương khi nhìn nhận ra tội lỗi của mình mà ăn năn hối cải. Dù tội của chúng ta có thẫm như vải điều, Thiên Chúa vẫn làm cho trắng tinh như tuyết.
Ý lực sống:
“Ai yêu mến nhiều thì được thứ tha nhiều!” (Lc 7,47).
Suy Niệm 9: Người phụ nữ sám hối
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Hôm nay một người biệt phái tên là Simon mời Đức Giêsu đến dùng bữa. Tình cờ có một phụ nữ tội lỗi khét tiếng trong thành đến phục dưới chân Chúa khóc lóc tỏ dấu ăn năn qua một số việc chị làm cho Chúa. Người phụ nữ này tuy có tội nặng hơn mọi người, nhưng chị biết lỗi và tin tưởng vào Đức Giêsu. Chị bất chấp cái nhìn khinh miệt của mọi người để tìm đến với Đức Giêsu. Trước niềm tin mạnh mẽ và lòng mến chân thành, dù tội chị rất nhiều, nhưng chị đã được tha tất cả. Như vậy, niềm tin và lòng yêu mến là điều kiện cần thiết để chúng ta được ơn tha thứ và cứu độ.
Thường người biệt phái không ưa Đức Giêsu và chỉ tìm cách gài bẫy để ám hại Ngài. Tuy thế, thánh Luca cho chúng ta biết cũng có một thứ biệt phái lễ độ hơn, vẫn có cảm tình với Ngài, họ dám mời Ngài đến nhà dùng bữa. Hôm nay, thánh Luca thuật lại cho chúng ta việc ông Simon, một người biệt phái, mời Đức Giêsu đến dùng bữa tại nhà ông.
Theo phong tục của Phương Đông, khi nhà có tiệc tùng thì cửa thường bỏ ngỏ, kẻ ra người vào tấp nập. Một người đàn bà, ai cũng biết thường tội lỗi lẻn vào đứng đàng sau đám thực khách. Bà mang theo một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm. Rồi quỳ xuống dưới chân Chúa, vì lúc ấy Chúa đang nằm trên đi văng để ăn theo thói quen các thực khách. Bà khóc nức nở, xức dầu thơm, hôn bàn chân ướt đẵm nước mắt và lấy tóc mà lau. Mọi người trố mắt nhìn cho là một việc quái gở, nhất là ông chủ nhà Simon... Nhưng Đức Giêsu coi như không để ý đến những người chung quanh mà chỉ nói với cô ta: “Tội chị rất nhiều, nhưng đã được tha rồi, vì chị đã yêu mến nhiều”.
Tin mừng hôm nay ghi lại một phiên tòa, phiên tòa không có luật sư bảo hộ, không có bản án được đọc lên, nhưng kẻ được ân xá ra về với bình an trong tâm hồn.
Có được bình an trong tâm hồn là điều quý giá nhất Đức Giêsu mang lại cho con người. Nhưng để có được bình an ấy, điều kiện tiên quyết là con người phải có lòng sám hối. Sám hối vốn là nội dung chủ yếu trong sứ điệp của Đức Giêsu. Người phụ nữ trong Tin mừng hôm nay đã nhận ra sự cần thiết của sám hối. Bất chấp những lời dị nghị, bất chấp sự khinh bỉ của người chung quanh, bà đã thể hiện một cách chân thành và trọn vẹn lòng sám hối của mình. Đức Giêsu đã nói lên ý nghĩa hành động của người phụ nữ này như sau: “Bà đã được tha nhiều, vì bà đã yêu mến nhiều”. Càng cảm nhận được ơn tha thứ, con người càng được thôi thúc thể hiện lòng yêu mến nhiều hơn.
Người ta thường nói đến cuộc khủng hoảng về đức tin. Trong thực tế, khủng hoảng đức tin cũng chính là khủng hoảng về lòng sám hối. Khi con người đánh mất ý thức về tội lỗi, con người cũng không còn cảm nhận được thế nào là ơn tha thứ của Chúa, và dĩ nhiên cũng đánh mất sự cảm thông và tha thứ đối với người khác. Thái độ khoan nhượng của con người chỉ xuất hiện từ ý thức về nỗi bất toàn và sự tha thứ mà mình cảm nhận được. Xét cho cùng, bác ái chính là hoa trái của lòng sám hối: càng cảm thấy mình được yêu thương và tha thứ, con người càng được thúc đẩy để tha thứ và yêu thương (Mỗi ngày một tin vui).
Bài Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta phải có cái nhìn đúng về người và về mình, nghĩa là chúng ta đừng xét đoán người khác dựa trên những tiêu chuẩn của luật lệ, phong tục, và lối sống của chúng ta (Gl 6,4; Rm 2,17-24). Người ta thường nói “Xanh vỏ đỏ lòng”, câu tục ngữ có ý dạy chúng ta phải lưu ý trong việc đánh giá một người hay một sự việc. Nhiều khi bề ngoài là xấu nhưng từ bản chất là tốt. Nếu chỉ đánh giá theo cái vỏ bên ngoài thì sẽ sai lầm.
Trong bài Tin mừng, người biệt phái, cùng những người khách khác ở bàn tiệc, đã không thể nhìn vào người phụ nữ như Đức Giêsu đã nhìn. Những phong tục, luật lệ, thiên kiến và lối sống đã giới hạn họ. Họ đã xếp loại người phụ nữ này là người tội lỗi. Họ đã tự nghĩ rằng bản thân mình tốt hơn người phụ nữ này nhiều.
Truyện: Chiếc đèn cũ kỹ
Một đêm nọ trong lúc bị cúp điện, một người đàn ông tìm được một cây đèn cũ đốt bằng mỡ từ trên tầng gác để đồ cũ. Tình trạng của đèn thật thảm hại, bóng đèn nứt và đen thui. Dù sao, ông cũng đốt lên và nó tỏa ra ánh sáng yếu ớt. Đã vậy, bấc đèn bốc khói toả ra một mùi khét lẹt.Thật là quá mức đối với một người thích mọi vật hoàn hảo như ông: “Cái đèn này thật vô dụng nên vứt nó đi”, ông nói với vợ ông. Nói xong ông tắt đèn dầu, lấy nến ra đốt.
Ba tuần sau, lại cúp điện. Lần này, vợ ông đem lại ánh sáng. Bà lấy ra một cái đèn dầu đẹp, đốt lên. Một ánh sáng màu hồng toả ra làm cả nhà thích thú. Ông chồng nói:
- Cái đèn này thật tuyệt. Bà mua nó ở đâu?
Bà đáp:
- Đó là cái đèn mà ông muốn vứt đi đấy!
Sau khi đến thật gần để xem xét, ông nói:
- Chắc tốn khá nhiều tiền để tân trang nó như thế này?
Bà đáp:
- Thật ra chẳng tốn gì mấy. Tôi chỉ mua một cái bấc mới và một cái bóng. Nhưng tôi phải bỏ nhiều thời gian và công sức để lau chùi và đánh bóng nó. Tôi đã nhận thấy dưới lớp bụi bẩn là một cái đèn đẹp. Và ông không thấy rằng tôi có lý sao?
Ông đáp:
- Tôi hoàn toàn đồng ý với bà.
Suy Niệm 10: Người phụ nữ sám hối
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Chuyện người đàn bà tội lỗi lau chân Chúa Giêsu:
- Nàng là một người tội lỗi nổi tiếng, “trong thành ai cũng biết”
- Nàng bày tỏ lòng sám hối rất công khai: a/ trong một bữa tiệc, trước mặt nhiều người; b/ không tiếc bình dầu thơm quý giá (khoảng 300 đồng, tương đương với 10 tháng lương); c/ quì gối dưới chân Chúa Giêsu, khóc nức nở, xổ tóc ra (một cử chỉ có thể bị kết án là tự làm ô nhục), lấy tóc lau chân Chúa.
Câu nói của Chúa Giêsu có thể dùng tóm lược chính xác câu chuyện đời nàng: “tội nàng nhiều nhưng được tha hết vì nàng yêu mến nhiều”
B.... nẩy mầm.
1. Cô gái này dạy tôi nhiều điều về sự sám hối:
- sám hối không phải chỉ là một tâm tình kín đáo che dấu bên trong không cho ai biết. Đôi khi, nếu cần, cũng phải bày tỏ ra bên ngoài.
- khi bày tỏ, không nên ngại xấu hổ, sợ dư luận, sợ tốn kém… những xấu hổ, dư luận và tốn kém ấy cũng là cách tôi phải chịu đề đền tội.
2. Có thể nói “nhờ” phạm nhiều tội lỗi, nên nàng đã yêu mến Chúa nhiều, đã sám hối chân thành và được tha thứ nhiều. Phụng vụ gọi đây là “tội hồng phúc” (felix culpa).
Xin cho ý thức bề những tội của con là động cơ khiến con càng yêu mến Chúa nhiều hơn.
3. Nàng được tha nhiều nên sau đó nàng càng yêu mến Chúa nhiều hơn. Ước gì đây cũng là tâm tình của tôi mỗi khi tôi lãnh nhận ơn tha thứ qua bí tích hòa giải.
Yêu nhiều thì được tha nhiều: Yêu là nguyên nhân của tha thứ; được tha nhiều thì càng yêu nhiều: yêu là kết quả của tha thứ.
4. Chuyện này cho tôi thấy được sự liên hệ kỳ diệu giữa tội lỗi / tình yêu / và tha thứ. Tôi là xấu nhưng trở thành tốt khi được đặt trong liên hệ kỳ diệu ấy.
5. “Tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít” (Lc 7,47)
Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã để lại cho các tông đồ và cũng là cho tôi một kỷ niệm là Thập giá Tình yêu. Vâng, chính Thập giá của Đức Kitô đã xóa muôn vàn tội lỗi của tôi và của bạn, và mở ra cho một cuộc sống mới, cuộc sống Phục sinh.
Hình ảnh người phụ nữ tội lỗi được Chúa tha thứ hết nhắc nhở tôi rằng: Thiên Chúa không chỉ có Tình yêu mà Ngài là Tình yêu.
Càng sống yêu thương, tôi càng dễ nhận ra Chúa hiện diện trong tôi. Những lúc từ chối tình yêu, tâm hồn tôi trở nên trống vắng và cô đơn, tôi trở nên ích kỷ, xa rời Thiên Chúa và mọi người.
Lạy Chúa tình yêu, xin cho con không chỉ biết khóc lóc ăn năn tội lỗi của mình, mà còn biết bù đắp lại bằng chính tình yêu của con. (Hosanna)
Suy Niệm 11: Cảm nhận tình Chúa để yêu Chúa nhiều
(Lm Giuse Đinh Tất Quý)
1. Câu chuyện chúng ta vừa nghe thật hết sức sống động.
Những việc Luca ghi lại diễn ra trong sân nhà ông Simon, một đạo sĩ của người Do Thái. Chúng ta nên biết: Nhà cửa của giới giàu có thời đó thường có khu sân rộng, có khi rộng như một công viên. Trong sân thường có vườn cây và giếng nước. Vào mùa nóng nực người ta thường bày bàn ăn tại đây.
Ở xứ Palestine mỗi khi có một Rabbit đến nhà nào đó dự tiệc, thì mọi người đều được tự do đến nghe những lời khôn ngoan do Rabbit ấy dạy. Thói quen đó giải thích cho chúng ta biết sự có mặt của người đàn bà này trong nhà Simon là một việc bình thường.
2. Khi có khách đến nhà, người ta thường làm ba việc sau đây:
- Trước hết chủ nhà đặt tay lên vai khách và tặng vị khách một cái hôn hòa bình. Đó là dấu hiệu của lòng tôn kính, nhất là trong trường hợp gặp một Rabbit danh tiếng.
- Vì đường sá đầy cát bụi và giày chỉ là những đôi dép đơn giản, nên người ta đổ nước lạnh lên bàn chân khách để rửa sạch bụi và làm mát chân cho khách.
- Và cuối cùng người ta đốt lên một nhúm hương liệu hoặc đổ một giọt dầu hoa hồng lên đầu khách cho thơm.
Những việc đó luôn được coi như là những đòi hỏi của phép lịch sự. Thế nhưng ở đây chúng ta thấy chủ nhà hôm đó đã không làm những việc này.
3. Cũng nên biết điều này: Bên Do Thái khi ăn, thực khách không ngồi, nhưng nằm nghiêng quanh bàn tiệc, hai chân khách duỗi thẳng về phía sau và không mang dép. Họ dựa người trên những gối thấp, chống trên khuỷu tay trái, còn tay mặt thì tự do lấy đồ ăn. Với tư thế nằm ăn như vậy thì người đàn bà mới có thể đứng gần chân Chúa Giêsu.
Simon là một đạo sĩ Do Thái, một trong những người thuộc nhóm biệt phái.
Chúng ta không hiểu tại sao một một người như vậy lại dám mời Chúa Giêsu tới nhà mình?
- Có người cho rằng, rất có thể ông là người có lòng mến phục Chúa Giêsu. Nhưng khi nhìn lại bầu không khí thiếu lịch sự của ông Simon, thì người ta không thể chấp nhận ý kiến này được.
- Cũng có thể Simon mời Chúa Giêsu vào nhà mình để gài bẫy ngài, mong bắt gặp một câu nói hay một hành động nào đó để có cớ buộc tội Ngài. Nhưng giả thiết như thế cũng không ổn vì câu 40 trong Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy ông đã tôn tặng Chúa Giêsu danh hiệu Rabbit.
- Rất có thể Simon là người thích nổi tiếng. Với thái độ nửa trọng nửa khinh, ông đã mời “chàng thanh niên kỳ lạ này” đến ăn tiệc tại nhà mình. Giả thiết như thế, ta mới hiểu tại sao lại có sự pha trộn giữa thái độ vừa có vẻ tôn kính lại vừa có thái độ khinh khi đối với Chúa khi ông cố tình bỏ qua phép lịch sự đáng ra phải giữ đối với Ngài. Như vậy chúng ta có thể thấy rõ ràng Simon là một người có thái độ kẻ cả đối với Chúa Giêsu.
Khi Chúa Giêsu đang dùng bữa, thì có một phụ nữ bỗng nhiên vào nhà, dù bà ta không phải là khách được mời. Chắc hẳn người phụ nữ này đã có dịp được biết Chúa. Bà muốn xức dầu cho Chúa như một cử chỉ biểu lộ lòng tôn trọng của bà. Vì quá xúc động, bà đã khóc. Nước mắt đã làm ướt cả bàn chân Chúa trong tư thế đôi chân đang duỗi dài ra, lúc nằm chống tay để dùng bữa theo phong tục Do Thái. Rồi bà xõa tóc ra lau chân và hôn chân Ngài như một dấu hiệu của sự tôn trọng và lòng biết ơn sâu xa. Những hành động như thế thường người ta không làm giữa nơi công cộng.
Thấy như thế, ông Simon đã thầm trách Chúa. Ông nghĩ nếu Chúa thực là một tiên tri thì hẳn Ngài phải nhận biết đây là một phụ nữ như thế nào chứ: một người tội lỗi, cần phải lánh xa.
Chúa biết ý của Simon, nên Ngài mới kể câu chuyện về hai người mắc nợ, ngầm cắt nghĩa cho ông Simon biết lý do nào người phụ nữ này đã hành động như thế và đồng thời, cũng cho ông Simon biết dù ông là người đã mời Chúa nhưng ông đã không đón tiếp Chúa cho phải phép và đã không rộng lòng với Chúa như người đàn bà này.
Câu chuyện kết thúc bằng lời của Chúa nói với người phụ nữ:
- Hãy đi bình an.
Chúa luôn quan tâm đối với những kẻ đặt lòng tin cậy nơi Ngài. Trong câu chuyện những người mắc nợ Chúa Giêsu kể, chúng ta thấy tình yêu thương và sự tha thứ gắn liền với nhau. Nếu chưa bao giờ chúng ta cảm nhận được một cách sâu xa rằng mình cần được Chúa tha thứ thì chúng ta sẽ không thể nào yêu mến Chúa hoặc biết ơn Ngài được. Chúng ta chỉ thật sự yêu Chúa khi nhận ra tình yêu của Ngài dành cho và nhờ đó chúng ta được tha thứ. Đây chính là điều Gioan đã nói: “Chúng ta yêu Chúa vì ngài đã yêu chúng ta trước” (1Ga 4,19).
Nguyện Chúa cho chúng ta cảm nhận được tình Chúa yêu để có thể yêu Ngài nhiều hơn. Amen.
15/09 Đứng gần thập giá
- Viết bởi Lc 2, 33-35
Đứng gần thập giá.
Thứ Tư tuần 24 thường niên – Đức Mẹ sầu bi. Lễ nhớ.
"Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà".
* Đức Maria đã hiệp thông sâu xa với cuộc thương khó của Chúa Con. Vì thế, Mẹ cũng được liên kết một cách độc nhất vô nhị với cuộc phục sinh của Người. Chính vì thế, sau ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá, chúng ta mừng lễ Đức Maria cùng chia sẻ cuộc thương khó của Đức Giêsu.
Lễ này nhắc cho chúng ta nhớ rằng: dưới chân thánh giá, tình mẫu tử của Đức Maria đã trải rộng ra khắp Thân Thể nhiệm mầu của Chúa Kitô, tức là Hội Thánh.
Lời Chúa: Lc 2, 33-35
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca.
Khi ấy, cha và mẹ Chúa Giêsu đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà, và nói với Maria Mẹ Người rằng: "Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối.
Về phần Bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà, để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Đứng gần thập giá
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Chúng ta thường suy ngắm bảy nỗi đau của Đức Mẹ,
khi Mẹ nghe lời tiên tri của cụ Simêôn về Con, đưa Con trốn qua Ai Cập,
mất Con nơi Đền thờ, cùng Con lên đỉnh Canvê,
khi đứng bên Con chịu đóng đinh, hạ xác Con xuống khỏi thập giá,
và chôn táng Con trong mộ.
Những nỗi đau này đi dọc theo đời của người đã thưa tiếng Xin Vâng.
Những nỗi đau trong lòng người Mẹ, đau vì Con và với Con.
Ngoài bảy nỗi đau này, còn có bao nỗi đau khác không được kể tới.
Chỉ ai yêu mới biết đau.
Khi vẽ hay điêu khắc hình Đức Mẹ,
các nghệ sĩ thường trình bày một Đức Mẹ với khuôn mặt rất vui tươi.
Lễ Đức Mẹ sầu bi nhắc cho ta thấy đời Mẹ cũng có khi buồn.
Vui buồn ở đời là chuyện mấy ai tránh khỏi.
Cần ngắm nhìn khuôn mặt lo lắng của Mẹ khi mất Con hay đem con đi trốn.
Cần chứng kiến khuôn mặt đớn đau của Mẹ khi đứng bên Con trên núi Sọ.
Chính khuôn mặt buồn khổ của Mẹ lại làm chúng ta thấy gần Mẹ hơn.
Khi chia sẻ mọi đau khổ của kiếp người long đong,
Mẹ cảm thông với cái nặng nề của phận người mà ta gánh chịu.
Chúng ta vẫn thường nghĩ đau khổ là hậu quả của tội lỗi.
Điều đó đúng, nhưng không luôn luôn đúng.
Mẹ được Thiên Chúa gìn giữ khỏi vết nhơ của tội nguyên tổ,
và Mẹ đã đáp lại ơn Chúa bằng việc luôn trung tín, vẹn tuyền.
Nhưng điều đó không làm Mẹ tránh được mọi đau khổ.
Thánh giá đã phủ bóng trên đời Mẹ ngay từ tiếng Xin Vâng đầu tiên.
Khi chấp nhận làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Mẹ đã bắt đầu phải trả giá.
Mẹ yêu mến Người Con mà Thiên Chúa ban cho mình,
nhưng đôi tay Mẹ không đủ sức giữ kho tàng quý giá ấy.
Mẹ hy sinh để Con Mẹ bước đi trên con đường khúc khuỷu gập ghềnh.
Nhưng trong đau khổ của hy sinh, Mẹ bình an vì biết mình sống theo ý Chúa.
Hãy đến với Núi Sọ chiều hôm ấy để thấy Mẹ đứng gần thập giá treo Con.
Mẹ đã có mặt trong tiệc cưới Cana khi Con khởi đầu sứ vụ (Ga 2, 1-12).
Bây giờ Mẹ lại có mặt khi Con hoàn tất sứ vụ ấy (Ga 19, 30).
Dù không theo Đức Giêsu trên mọi nẻo đường loan báo Tin Mừng,
nhưng Mẹ là môn đệ của Ngài còn hơn những môn đệ khác.
Mẹ không chạy trốn, nhưng muốn nếm trọn nỗi đau của Con để sẻ chia.
Chính vào giây phút này, Đức Giêsu hấp hối làm điều không ai ngờ.
Ngài nối kết Mẹ Ngài và người môn đệ Ngài dấu yêu,
đặt Mẹ làm mẹ người môn đệ ấy: Thưa Bà, đây là con của Bà (c. 26).
và muốn người môn đệ ấy làm con của Mẹ: Đây là mẹ của anh (c. 27).
Chính dưới chân thập giá, Đức Giêsu đã lập một gia đình mới.
Mẹ là Mẹ của Đức Giêsu ở Cana, bây giờ thành Mẹ của người môn đệ.
Nơi người môn đệ này, các Kitô hữu thấy hình ảnh của chính mình.
Chúng ta cũng muốn đón Mẹ về nhà và nhận Mẹ làm Mẹ.
Mẹ sẽ là người lo cho chúng ta trong ngôi nhà của gia đình mới.
Cầu nguyện:
Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm,
lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu.
Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi
âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,
từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con
đừng sợ lên đường mỗi ngày,
đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa
dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu
để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ
đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.
Suy Niệm 2: Ðức Mẹ Sầu Bi
(GM Gioan Baotixita Bùi Tuần)
Trong tháng 9 có lễ kính Đức Mẹ sầu bi (15/9).
Dịp này Hội Thánh nhắc cho chúng ta nhớ vai trò của đau khổ trong cuộc đời Đức Mẹ, để chúng ta cũng hiểu vai trò của đau khổ trong cuộc đời chúng ta.
I. Vai trò của đau khổ trong cuộc đời Đức Mẹ
Đức Mẹ phải đau khổ. Đau khổ vì con mình là Chúa Giêsu. Đau khổ vì nhân loại là đàn chiên Chúa muốn cứu chuộc.
Thực vậy, Chúa Giêsu là Tin Mừng đặc biệt cho Đức Mẹ. Nhưng Người cũng là nguyên nhân khiến Đức Mẹ phải đau đớn. Đau đớn vì cảnh nghèo nàn thiếu thốn, khi sinh con trong hang đá Bêlem. Đau đớn vì cảnh đi trốn nhọc nhằn, khi đem con lánh nạn sang Ai Cập. Đau đớn vì cảnh lạc mất con, khi từ đền thánh trở về. Đau đớn vì cảnh lao động lầm than mấy chục năm giữa xóm nghèo ở Nadarét. Đau đớn vì cảnh Chúa Giêsu bị bắt bớ và bị tử hình trên thánh giá ở núi Golgôta.
Những đau đớn đó phải được cắt nghĩa vì lý do cứu chuộc nhân loại. Nhân loại được Chúa đoái thương cứu chuộc. Nhiều người đã đón nhận ơn đó. Nhưng nhiều người đã từ chối ơn đó. Không những thế, họ còn xỉ vả, bắt bớ và kết án chính Đấng Cứu chuộc.
Khi thấy như thế, Đức Mẹ rất đau lòng. Mẹ nhận ra lời tiên tri Simêon xưa đã ứng nghiệm. Chúa Giêsu vừa là duyên cớ cho nhiều người được chỗi dậy, và cũng là duyên cớ cho nhiều người phải vấp ngã (x. Lc 2,34).
Đức Mẹ đã đau đớn thế nào? Tiên tri Simêon tả đau đớn đó bằng một câu rất tượng hình: "Còn chính Bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà" (Lc 2,35).
Khi trái tim bị gươm vật chất đâm thâu, người ta cảm thấy đau đớn như phải chết dữ dằn. Khi tâm hồn bị gươm vô hình đâm thâu, người ta cảm thấy đau khổ cũng như một thứ chết khốn cực.
Để có một cái nhìn đúng đắn về đau khổ nơi Đức Mẹ, chúng ta nên nhớ mấy điều sau đây:
a) Đau khổ của Đức Mẹ là tiếng nói sâu thẳm của tình yêu
Tâm hồn nào càng mến Chúa nhiều, càng cảm thấy đau nhiều, khi thấy tình yêu Chúa bị xúc phạm. Tâm hồn nào càng yêu người nhiều, càng cảm thấy khổ nhiều, khi thấy người khác rơi vào cõi khổ.
Đức Mẹ mến Chúa hết tâm hồn, và yêu thương nhân loại hết lòng. Nên Đức Mẹ dễ nhạy cảm trước bất cứ sự gì xúc phạm đến Chúa và làm hại cho phần rỗi loài người.
Nhạy cảm, nhạy bén là đặc tính cao độ của trái tim Mẹ. Lúc đó, đau khổ nơi Mẹ sầu bi là một tiếng nói sâu thẳm nhất của tình yêu.
Được mến yêu Chúa nhờ ơn Chúa ban, Đức Mẹ cảm thấy một thế giới mới. Xưa thánh Phaolô quả quyết: "Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Kitô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi" (Pl 3,7-8).
Thánh Phaolô còn cảm thấy thế. Phương chi Đức Mẹ. Đức Mẹ được ơn hiểu thế nào là tình yêu thương xót Chúa, nên Đức Mẹ sẽ rất đau khổ, khi thấy tình yêu thương xót ấy bị người ta dửng dưng, xa tránh, chối từ, chống đối.
b) Đau khổ của Đức Mẹ là tiếng nói của người được ơn hiểu biết ý nghĩa sự tội
Sẽ là ảo tưởng, nếu nghĩ rằng học hỏi giáo lý về tội, nghiên cứu các sứ điệp về sám hối của những lần Đức Mẹ hiện ra, là sẽ hiểu biết thấu đáo ý nghĩa sự tội. Không đâu, ý nghĩa về tội sẽ chỉ hiểu được sâu sắc nhờ ơn Chúa ban, do cầu nguyện, tĩnh tâm, đổi mới tâm hồn thực sự. Thánh Gioan Baotixita xưa đã dành cả đời rao giảng về sự sám hối. Ngài nói: "Anh em hãy sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối" (Lc 3,8). Ngài đã răn đe những ai coi thường tội lỗi. Vì Ngài hiểu biết rất rõ tội lỗi sẽ đưa con người xuống cõi khổ cực ghê gớm đời sau.
Chắc chắn Đức Mẹ còn hơn thánh Gioan Tiền Hô, nên Người phải rất đau đớn khi thấy bao người nhởn nhơ đi vào đàng tội.
c) Đau khổ của Đức Mẹ là tiếng nói của người biết sự quan trọng trong tuyệt đối của phần rỗi
Xưa cũng như nay, nhân loại để sự tự do lôi kéo mình vào những gì nguy hiểm cho phần rỗi. Phần rỗi không phải là một hạnh phúc trả bằng giá rẻ. Nhưng thực tế cho thấy vô số người không quan tâm đủ đến phần rỗi. Trước cảnh đó, Chúa Giêsu đã cảnh cáo: "Nếu người ta được cả thế gian, mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?" (Mt 16,26).
Với cái nhìn đó, Chúa Giêsu khuyên người có trách nhiệm hãy cố gắng đi tìm một con chiên lạc, hơn là quây quần với 99 con chiên ngoan (x. Mt 16,12-14).
Đức Mẹ rất hiểu thế nào là thiệt mất phần rỗi, nên Người đã rất đau khổ trước cảnh bao người không quan tâm đến phần rỗi.
Như thế, nói chung, đau khổ nơi Đức Mẹ đã giữ một vai trò hết sức quan trọng, đó là làm chứng cho tình yêu xót thương của Chúa. Đức Mẹ sầu bi vì thế sẽ là một an ủi lớn cho chúng ta, khi chính chúng ta cũng bị đau khổ trong cuộc đời.
II. Vai trò của đau khổ trong cuộc đời chúng ta
Đời là bể khổ. Riêng những người con Chúa sẽ gặp trong đời mình không thiếu nỗi đau như gươm đâm thấu tâm hồn mình.
Ở đây, tôi chỉ xin chia sẻ đôi chút kinh nghiệm.
Tiên vàn, chúng ta phải có một ý hướng tốt lành này về những đau khổ của ta. Ý hướng tốt lành đó là muốn những đau khổ ta chịu sẽ có sức làm chứng cho tình yêu Chúa.
Để được như vậy, hằng ngày chúng ta dâng mọi thứ đau khổ của ta cho Đức Mẹ sầu bi, xin những đau khổ của Mẹ thanh luyện những đau khổ của ta. Bởi vì rất nhiều đau khổ của ta phát xuất từ tính kiêu ngạo, ghen tương, ham hố và ích kỷ muốn theo ý riêng mình.
Khi đau khổ, chúng ta dễ có khuynh hướng đổ trách nhiệm cho người khác. Nên coi đó là nghịch với đức ái khiêm nhường, tự nó lại gây đau khổ cho chính mình và cho người khác. Ở đây xin phép nhắc lại ba lời khuyên của thánh Augustinô:
a) Chớ tự coi mình là quan toà xét xử kẻ khác.
b) Xét đoán tội người khác thì phải khiêm tốn và trọng sự thật. Rất nhiều lần ta đổ cho người khác những lỗi lầm người ta thực sự không có.
c) Nếu người ta có tội, thì cũng nên nhận người ta có thể có nhiều công phúc, công khai và âm thầm.
Để đào tạo thường xuyên trái tim ta, ta nên để ý xét mình về việc ta có chia sẻ những đau khổ đủ thứ xảy đến cho đồng bào xung quanh không? Nhất là ta có hỏi Chúa về việc Chúa cùng đau khổ với bao người. Chúa đau khổ với họ, mà ta không để ý.
Đức Mẹ sầu bi sẽ cho ta thấy: Thánh giá là duyên cớ của sự vấp ngã, nhưng cũng là căn nguyên của sự vinh quang. Mẹ sầu bi sẽ làm cho những vết thương lòng của ta trở thành dòng sông thiêng liêng chuyển ơn cứu độ đến các linh hồn.
Suy Niệm 3: Ðây sẽ là niềm an ủi của con
Một trong những hình ảnh thánh thiện nhất về đời sống Kitô có lẽ là hình ảnh của những người hấp hối trên tay cầm thánh giá.
Người ta kể về một người đạo đức nọ như sau: Trong một cơn bệnh thập tử nhất sinh, chỉ còn một phương thế duy nhất có thể hy vọng cứu sống bà đó là tiến hành cuộc giải phẫu. Người đàn bà chấp nhận cuộc giải phẫu, bà yêu cầu cho con trai bà được chứng kiến giờ phút đau khổ của bà. Vào thời buổi mà thuốc tê mê chưa có, thì bệnh nhân thường phải trải qua những cơn đau khủng khiếp. Mặc dù đau đớn vô cùng, nhưng người đàn bà vẫn cứ cắn răng chịu đựng. Nhưng đến cuối giờ mổ, khi các y sĩ chạm đến gần tim, người đàn bà rùng mình kêu lên: "Lạy Chúa tôi". Chứng kiến cảnh đau đớn của người mẹ, người con trai không làm chủ được những cảm xúc, anh đã buột miệng thốt lên những lời phàn nàn phạm đến Chúa. Lúc bấy giờ người mẹ liền nghiêm nghị bảo con: "Con ơi, con hãy im đi, con làm mẹ đau đớn hơn các bác sĩ này nhiều. Con đã làm sỉ nhục Ðấng đã ban sức mạnh và an ủi mẹ". Nói xong, bà ta mở bàn tay ra, và giơ cho mọi người xem một tượng chuộc tội nhỏ bà nắm chặt trong tay suốt giờ mổ. Và đó chính là thứ thuốc tê mê đã xoa dịu cơn đau đớn của bà.
Sau mấy tháng quằn quại trong đớn đau, người đàn bà đã yên nghỉ trong Chúa. Trước khi lìa đời, bà đã trao lại cho cậu con trai tượng ảnh chuộc tội và căn dặn: "Con hãy giữ lấy tượng chuộc tội này. Ðây sẽ là niềm an ủi của con".
Hôm nay Giáo Hội kính nhớ Ðức Mẹ Ðau Khổ, hay cũng thường được gọi là 7 sự thương khó của Ðức Mẹ.
Suốt cuộc đời trần thế, Mẹ Maria quả thực là một người đàn bà đau khổ. Nhưng cũng giống như người đàn bà can đảm trong câu chuyện trên đây, Mẹ luôn có Chúa bên cạnh. Còn nỗi đớn đau nào bằng khi ôm lấy xác Chúa được tháo gỡ từ thập giá? Nhưng đó cũng là bí quyết của Mẹ. Mẹ luôn có Chúa trong lòng, từ lúc cất giữ mọi sự trong lòng để suy niệm cho đến lúc ôm lấy xác Chúa: từng phút giây của cuộc sống, Mẹ đau khổ nhưng luôn có Chúa trong lòng. Sự hiện diện của Chúa trong lòng đã giúp Mẹ đi hết cuộc hành trình Ðức Tin.
Là mẫu mực trong cuộc hành trình Ðức Tin, Mẹ cũng muốn trao gởi Ðấng Cứu Thế cho mỗi người chúng ta. Mang lấy Ðức Kitô chịu đóng đinh trong mình, chúng ta sẽ cảm thấy được sự nâng đỡ trong muôn nghìn thử thách đớn đau trong cuộc sống.
Mẹ Maria đã đảm bảo cho chúng ta điều đó. Chúng ta hãy kết hiệp với thập giá của Ðức Kitô. Trong mọi đau khổ, chúng ta hãy ngước nhìn lên thập giá của Ngài. Chúng ta hãy thốt lên như thánh Phaolô: "Tôi chỉ biết có mỗi Ðức Kitô chịu đóng đinh".
(Trích trong ‘Lẽ Sống’)
Suy Niệm 4: Ðức Mẹ Sầu Bi
Liền sau lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa được mừng hàng năm vào ngày (14/09) là lễ kính Ðức Mẹ Sầu Bi (15/09), chúng ta không thể nào tách rời Mẹ Maria ra khỏi thập giá Chúa. Danh gọi lễ kính Ðức Mẹ Sầu Bi có thể làm chúng ta dễ hiểu lầm chỉ nghĩ đến khía cạnh sầu bị, đau buồn mà quên đi khía cạnh tích cực được tham dự vào sự đau khổ có sức mạnh cứu rỗi của Thiên Chúa. Mẹ Maria âm thầm dâng hiến chính mình cùng với hy tế của Con, được lãnh nhận đặc ân là tham dự vào cuộc cứu rỗi trở nên người Mẹ của toàn thể nhân loại.
Ðoạn Phúc Âm hôm nay nhắc chúng ta nhớ đến khía cạnh Mẹ Maria đứng bên thập giá Chúa và lãnh nhận lời Chúa trăn trối làm Mẹ của Gioan, làm Mẹ của toàn thể nhân loại. Ðoạn Phúc Âm không nhắc tới nỗi sầu bi của Mẹ khi đứng dưới chân thập giá Chúa. Trong số các sách Phúc Âm thì chỉ có Phúc Âm theo thánh Luca có nhắc tới lời loan báo trước của cụ già Simêon, nói về một lưỡi gươm sẽ đâm thâu qua tâm hồn Mẹ (Lc 2,35). Chắc lúc đứng dưới chân thập giá Chúa hơn mọi lúc khác Mẹ Maria đã đau khổ, niềm đau của một người mẹ nhìn thấy con mình đang hấp hối sau khi đã phải chịu những tra tấn, khổ hình và sỉ nhục. Thái độ của Mẹ đáng chúng ta bắt chước. Mẹ đã không tự ý đi tìm vinh quang được ngồi bên hữu bên tả Chúa như một người nọ đã đón đường Chúa lên Giêrusalem để xin đặc ân này cho hai người con của mình. Mẹ Maria không tránh né đau khổ nhưng sẵn sàng đứng bên cạnh con cùng dâng hiến với con trong âm thầm và như vậy được thông phần vào ơn cứu rỗi. Mẹ đã âm thầm nhưng rất mực trung thành hành trình bên cạnh Con Mẹ luôn luôn trong mọi lúc, lúc Con Mẹ mới bắt đầu công việc rao giảng, trong khi rao giảng Tin Mừng và giờ đây kết thúc quan trọng trên thập giá, trên đồi Golgotha.
Lạy Mẹ Maria,
Xin Mẹ hãy đồng hành bên cạnh con như Mẹ hiện diện bên cạnh Con Mẹ. Chúng con cần đến Mẹ nhất là khi gặp những gian nan thử thách. Xin Mẹ giúp chúng con trung thành với ơn gọi và với Chúa Giêsu Con Mẹ.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Đức Mẹ đau khổ
Mẹ đứng kề Thánh Giá! Mẹ đứng đó với Gioan và với cả hai tên trộm cướp! Mẹ đứng đó, trên đồi Gôlgôtha, không xa mấy, dưới chân đồi, đám dân, những người tò mò, những người vô can, những người kêu khóc, những người sợ hãi đang đứng dưới bóng cây thánh giá, bóng Đức Mẹ và Con Ngài, họ cảm thấy mình hoàn toàn không chịu trách nhiệm về cái chết này. Còn những kẻ thi hành án và những kẻ có quyền thì sao? Họ không cúi đầu, lại chê cười thất vọng và chua chát!
Đứng kề!
Đức Mẹ không lo nghĩ đến bị rơi vào bất tỉnh trước những sỉ nhục, những kết tội của kẻ thù, những la ó, Mẹ đứng đó, đứng thẳng! Điều quan trọng hơn đối với Mẹ là Con Ngài là xương là thịt của xương thịt Ngài, Kìa đang bị treo trên thánh giá, Người là sự hy vọng cùng đích bảo đảm cho tất cả, nhờ sự hiện diện của Mẹ, nhờ bà Mẹ này, mọi sự ước muốn và yêu dấu được toại nguyện!
Mẹ đứng đó, đứng thẳng vững chắc, trong thái độ xin vâng! Mẹ luôn luôn sẵn sàng tiếp tục ơn gọi suốt đường đời, ơn gọi tới tận chân thánh giá. Chỉ một mình Thiên Chúa xứng đáng trọn đời trên thập giá! vượt trên mọi lượng định nhân loại của Đức Mẹ. Mẹ không được chọn vì cây thập giá, nhưng được chọn cùng với các con cháu loài người để đón nhận vào cuộc sống của Mẹ như bình thánh đựng máu tình yêu của con Ngài mới có sức tắm rửa, thanh tẩy và làm sống lại.
Chăm chú
Đức Mẹ dâng tiến lên Thiên Chúa và cho thế nhân con của Mẹ, đồng thời Mẹ chăm chú lắng nghe con Ngài, Mẹ chú ý lắng nghe tiếng con Mẹ và đã nghe thấy nguyện vọng sau cùng của Người thốt lên.
Ma-ri-a lúc truyền tin, đã chú ý lắng nghe Đấng Messia của Israel, và đã thành bà mẹ.
Bây giờ Mẹ đang chú ý! Mẹ đoán mọi sự chưa hoàn tất đối với Mẹ! Ước chi cuộc sống Mẹ còn tiếp tục! Mẹ sẽ nhận được lời nguyện cuối cùng của Con Mẹ, Mẹ bắt đầu lắng nghe mọi người bởi vì Mẹ đang lắng nghe Thiên Chúa!
Là chứng nhân về tình yêu Con Mẹ, Mẹ được chia sẻ với Người sống đến tột đỉnh của đức tin.
J.M.
Suy Niệm 6: Lễ Đức Mẹ sầu bi
Chúng ta đặc biệt tưởng nhớ bảy niềm đau lớn lao trong cuộc đời của Mẹ. Niềm đau thứ nhất là khi Mẹ dâng Chúa Hài Nhi Giêsu trong đền thánh. Tại đây, cụ tiên tri Simêon nói với Mẹ rằng một lưỡi gươm đau khổ sẽ đâm thấu tâm hồn của Mẹ.
Vì là Mẹ của Đức Chúa Giêsu, Mẹ Maria có rất nhiều niềm vui nhưng Mẹ cũng phải chịu nhiều đau khổ. Tình yêu quảng đại đối với Con chí thánh đã khiến Mẹ Maria phải đau khổ khi nhìn thấy Đức Chúa Giêsu bị các kẻ thù đối xử tàn bạo. Mẹ là Nữ Vương các thánh tử đạo vì Mẹ đã trải qua những đau khổ tinh thần mà những đau khổ này khủng khiếp hơn rất nhiều so với những khổ hình thể xác của các thánh tử đạo. Trái tim Mẹ ví tựa bàn thờ khi Mẹ dâng Con yêu quý của Mẹ là Đức Chúa Giêsu để cứu độ chúng ta trên ngọn đồi Canvê. Thật là đau khổ biết bao khi một người mẹ rất mực đáng yêu phải chứng kiến cảnh tượng con mình chịu chết trên thập giá.
Chúng ta đặc biệt tưởng nhớ bảy niềm đau lớn lao trong cuộc đời của Mẹ. Niềm đau thứ nhất là khi Mẹ dâng Chúa Hài Nhi Giêsu trong đền thánh. Tại đây, cụ tiên tri Simêon nói với Mẹ rằng một lưỡi gươm đau khổ sẽ đâm thấu tâm hồn của Mẹ. Việc đó sẽ xảy ra khi Đức Chúa Giêsu bị lên án tử. Niềm đau thứ hai là Đức Mẹ và thánh Giuse phải chạy trốn sang Ai Cập với Đức Chúa Giêsu vì quân lính của vua Hêrôđê đang tìm giết Người. Niềm đau thứ ba xảy ra lúc Đức Mẹ tìm kiếm Đức Chúa Giêsu suốt ba ngày tại đền thánh Giêrusalem. Sau cùng, Mẹ đã tìm thấy Chúa trong đền thờ. Niềm đau thứ tư của Mẹ là khi Đức Chúa Giêsu bị quân dữ đánh đòn và đội mão gai. Niềm đau thứ năm là khi Mẹ xem thấy Đức Chúa Giêsu bị treo trên cây thập giá, nơi Chúa tắt thở sau ba giờ hấp hối. Niềm đau thứ sáu của Mẹ là lúc thân xác bất động của Đức Chúa Giêsu được trao phó trong vòng tay Mẹ. Và niềm đau thứ bảy mà Mẹ phải chịu là lúc Đức Chúa Giêsu chịu mai táng trong mồ.
Mẹ Maria đã chẳng hối tiếc hay phàn nàn gì khi phải chịu đau khổ quá nhiều trong suốt cuộc đời Mẹ. Thay vào đó, Mẹ dâng lên Thiên Chúa những thống khổ của Mẹ vì chúng ta. Mẹ chính là Mẹ thật của mỗi người chúng ta. Bởi quá yêu thương chúng ta, Mẹ đã vui sướng cùng chịu đau khổ với Đức Chúa Giêsu Con Mẹ để một ngày kia chúng ta cũng được chia sẻ niềm vui của Mẹ cùng với Đức Chúa Giêsu trên thiên đàng.
Để tỏ lòng tôn kính Đức Mẹ sầu bi, hôm nay chúng ta hãy dâng lên Mẹ vài hy sinh nhỏ mà không phàn nàn chi. Chúng ta cũng hãy suy ngắm từng niềm đau của Mẹ và cảm ơn Mẹ về tình yêu cao cả mà Mẹ đã dành cho mỗi người chúng ta.
Suy Niệm 7: Đứng gần thập giá Đức Giê-su, có Thân Mẫu Người
(Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, SJ.)
1. Đức Mẹ Sầu Bi
Hôm nay, chúng ta cử hành lễ nhớ “Đức Mẹ Sầu Bi”. Như thế, trong đời sống của Đức Mẹ, cũng có những điều sầu bi, như trong đời sống của tất cả mọi người chúng ta. Trong suốt năm phụng vụ, chúng ta có nhiều lễ tôn vinh Đức Maria, Mẹ của chúng ta, nhưng hầu như luôn luôn là vì những ân huệ lớn lao Thiên Chúa ban cho Mẹ (chẳng hạn ơn vô nhiễm, ơn lên trời, ơn làm Nữ Vương…), hay là vì những biến cố đặc biệt trong cuộc đời của Mẹ (chẳng hạn Sinh Nhật, Truyền Tin, Thăm Viếng…). Chính vì thế mà, lễ Đức Mẹ Sầu Bi là một ngày lễ rất đặc biệt, bởi vì lễ này mời gọi chúng ta tôn vinh Đức Mẹ, với một khuôn mặt rất đời thường, và vì thế rất gần gũi với chúng ta: Đức Mẹ Sầu Bi, và chúng ta cũng sầu bi, không phải một lần, nhưng nhiều lần trong cuộc đời!
Vậy chúng ta đã có và đang có những sầu bi nào? Tuy nhiên, trong ngày lễ hôm nay, chúng ta được mời gọi hướng về Đức Mẹ và “suy chiêm” những đau khổ của Mẹ. Bởi vì, những đau khổ của Mẹ sẽ làm cho chúng ta hiểu biết Mẹ hơn và như thế, yêu mến Mẹ nhiều hơn. Ngoài ra, những đau khổ của Mẹ còn soi sáng và dẫn dắt chúng ta trong cuộc sống đầy khổ đau này.
2. Bảy sự đau khổ của Đức Mẹ
Như chúng ta đều đã biết, Truyền Thống của Giáo Hội thích dựa vào các Tin Mừng, để kể ra những đau khổ của Đức Mẹ, và Giáo Hội kể ra được bảy đau khổ; vì thế, ngày lễ hôm nay, còn được gọi là lễ “Đức Mẹ Bảy Sự”. Con số “bảy” cũng thật là ý nghĩa, bởi vì số 7 đối với người Do Thái, là con số hoàn hảo, cũng giống như số 9 đối với chúng ta. Điều này làm cho chúng ta nhớ lại các con số bảy của bài một Tin Mừng theo thánh Mát-thêu: bảy lần; bảy mươi lần bảy (x. Mt 18, 21-35); bảy giỏ (x. Mc 8, 8). Sau đây là “bảy sự” của Đức Mẹ:
Lời của cụ ngôn sứ Simêon về Đức Maria (Lc 2, 25-35), là bài Tin Mừng chúng ta có thể đọc trong ngày lễ hôm nay, theo sách Phụng Vụ các bài đọc.
Trốn sang Ai-cập (Mt 2,13-15)
Lạc mất Đức Giê-su (Lc 2,41-52)
Đức Mẹ nhìn Đức Giê-su vác thập giá (Lc 23,27)
Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá (Ga 19,25-27), là bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay.
Đức Mẹ đón nhận thân xác đã chết của Đức Giê-su (Ga 19,38-40)
Đức Mẹ ở bên mộ Đức Giê-su (Ga 19,41-42)
Điều phải đánh động chúng ta, khi đọc qua danh sách bảy sự đau khổ của Đức Mẹ, đó là mọi sự đau khổ của mẹ đều có liên quan đến Đức Giê-su, con của Mẹ; một cách cụ thể, những đau khổ của Mẹ đến từ biến cố Giáng Sinh, đến từ đời sống ẩn dật, đến từ sứ mạng rao giảng Nước Trời, đến từ cuộc Thương Khó, đến từ Thập Giá, và sau cùng đến từ cái chết của Ngài.
Như thế, chính khi Đức Mẹ thưa “xin vâng”, đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, để đón nhận Đức Giê-su, Con Thiên Chúa vào trong cuộc đời của mình, và chính khi Đức Mẹ sống lời xin vâng của mình mỗi ngày và sống cho đến cùng, đến tận chân Thập Giá và cho đến hết cuộc đời, thì tất yếu đau khổ xẩy ra cho Mẹ. Bởi vì, như chúng ta có thể nhận ra trong bảy đau khổ của Mẹ: Đức Mẹ sinh ra Đức Giê-su, nhưng Đức Mẹ lại được mời gọi không nuôi nấng và dưỡng dục Ngài theo ý riêng của mình, theo chương trình hay kế hoạch riêng của mình, nhưng là để cho Ngài lớn lên theo chương trình của Thiên Chúa; Đức Mẹ đón nhận Đức Giê-su vào cung lòng và vào cuộc đời mình, nhưng Mẹ lại được mời gọi, như tất cả chúng ta cũng được mời gọi, đi theo Đức Giê-su trên con đường của Ngài; mà con đường của Đức Giê-su là con đường dẫn đến Thánh Giá.
Những đau khổ của Mẹ đến từ việc Mẹ đi theo Đức Ki-tô, Mẹ gắn bó thiết thân với Đức Ki-tô, Mẹ trở nên một với Đức Ki-tô, nhất là với “Đức Ki-tô chịu đóng đinh”. Và tất cả chúng ta đều có cùng một kinh nghiệm này, giống như Đức Mẹ. Thật vậy, từ khi chúng ta trở thành Ki-tô hữu, và nhất là từ khi chúng ta đáp lại tiếng gọi đi theo Đức Ki-tô trong ơn gọi gia đình hay trong ơn gọi dâng hiến, và cố gắng sống ơn gọi của chúng ta mỗi ngày, chúng ta phải cho đi chính mình, cho đi thời gian, cho đi tất cả những gì rất thiết thân đối với chúng ta, đó là quyền làm chủ, giới tính và tình cảm, ý muốn… , thì tất yếu sẽ có nhiều đau khổ. Nhưng tại sao chúng ta lại mang vào mình những đau khổ, nếu không phải là muốn noi gương Đức Mẹ?
Thật vậy, như Đức Mẹ, vì tình yêu đối với Đức Ki-tô, chúng ta ước ao trở nên nữ tì, trở nên tôi tớ của Ngài, chúng ta ước ao sống theo Lời của Ngài. Và chính tình yêu và lòng ước ao này làm cho chúng ta hạnh phúc bất chấp những đau khổ, và ngay trong những đau khổ, bởi vì có một niềm hạnh phúc đặc biệt, đó là hạnh phúc đau khổ vì tình yêu. Như thánh Augustino nói: “Trong tình yêu không có đau khổ, và nếu có đau khổ, thì đau khổ này đã được yêu rồi”.
3. Đau khổ thứ năm: Đức Mẹ đứng dưới chân thập giá
Hình ảnh Đức Mẹ đứng dưới chân Thập Giá, mà bài Tin Mừng mời gọi chúng ta chiêm ngắm trong ngày lễ hôm nay, nói lên sự nghịch lí này của Tin Mừng và của mầu nhiệm Vượt Qua.
Dưới chân thập giá, Mẹ sầu bi, nhưng Mẹ vẫn đứng vững chứ không ngã quị. Chúng ta nên đi lại hành trình của Mẹ Maria, từ biến cố truyền tin, để hiểu được tại sao Mẹ đứng vững. Chúng ta cũng cần đi theo Đức Kitô như Mẹ, để có thể đứng vững dưới chân thập giá. Và không cần phải đợi đến biến cố phục sinh, nhưng ở tột đỉnh của sự trao ban, nghĩa là trao ban đến không còn gì, chúng ta được mời gọi nhận ra sự sống mới phát sinh, phát sinh thật đồi dào, phát sinh từ Lời sự sống của Đức Giêsu được thốt lên ngay nơi chết chóc và lúc Ngài đang chết đi. Thật vậy, ngay trong đau khổ của sự chết, một Gia Đình mới phát sinh: Đức Giê-su, nhìn Mẹ, và nói: Thưa Bà, đây là con của Bà. (c. 19, 26)
Như thế, chính lúc Mẹ đang mất đi người con này, mẹ trở thành Mẹ của người con khác; và từ người con này, dưới sức mạnh của Đấng Phục Sinh, sẽ trở thành đông đúc, trong đó có cả con trai lẫn con gái. Chính lúc Mẹ bình an dâng hiến người con Duy Nhất, Mẹ nhận lại gấp trăm, nơi Người Môn Đệ Đức Giê-su thương mến. Và Mẹ cũng không mất đi Người Con Duy Nhất của Mẹ, vì Ngài sẽ hiện diện ở nơi anh chị em mới của Ngài.
Từ hi sinh thập giá, giữa cơn thử thách, ngay trong sự chết, một nhân loại mới phát sinh: những gì của con là của Mẹ; những gì của Thầy là của anh. Cái chết của Đức Giêsu đã làm phát sinh sự sống: Mẹ trở thành Mẹ của Người Môn Đệ Đức Giêsu yêu mến, đại diện cho tất cả các môn đệ thuộc mọi thời; khi dâng hiến người con duy nhất, Mẹ không mất đi, nhưng nhận lại Ngài nơi các môn đệ, nơi cả một đàn con đông đúc. Bởi vì, Đức Giêsu sẽ đi vào sự sống mới và hiện diện bên cạnh, ở giữa và bên trong các môn đệ nam nữ.
Xin Chúa cũng ban cho chúng ta có cùng một kinh nghiệm của Đức Mẹ: dưới chân thập giá đau thương của cuộc đời, của hành trình ơn gọi, xin chúng ta cảm nhận với niềm vui và hạnh phúc, sự sống mới của Đức Ki-tô đang phát sinh ngay hôm nay, và phát sinh thật dồi dào.
Suy Niệm 8: Đức Mẹ sầu bi
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
A. Hôm qua chúng ta mừng lễ Suy tôn Thánh Giá Chúa Giêsu. Hôm nay chúng ta mừng lễ “Mẹ Sầu Bi” Mẹ đau khổ với Chúa Giêsu con của Mẹ. Khi cho con cái mình mừng lễ này, Giáo Hội cho chúng ta thấy có một sự liên kết hết sức chặt chẽ giữa những sự đau khổ của Đức Maria và đau khổ của Chúa Giêsu trên cây Thánh Giá. Việc làm như thế cũng là một điều dễ hiểu. Chính vì thế mà ngày xưa người ta mừng lễ Đức Mẹ Sầu Bi vào thứ sáu trước lễ Lá. Hai cuộc đau khổ phải được nối kết với nhau cách chặt chẽ; cũng như cuộc đau khổ của chúng ta cũng phải được nối kết với đau thương của Chúa Giêsu.
Bảy sự đau thương của Đức Mẹ được liệt kê theo bản văn phụng vụ như sau:
1. Lời tiên báo của ông Simêon (Lc 2,3435)
2. Trốn sang Ai Cập (Mt 2,1315)
3. Ba ngày đi tìm Chúa trong Đền Thờ (Lc 2,4152)
4. Con đường lên Golgotha
5. Cuộc đóng đinh
6. Hạ xác Chúa xuống
7. Chôn xác Chúa trong mồ. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
B. Khi mô tả Đức Mẹ dưới chân Thánh Giá Chúa Giêsu, Thánh Gioan viết: Mẹ đứng sát cạnh cây Thánh Giá.
Mẹ không rũ rượi như những người mẹ khác khi thấy con mình đang chết đau đớn, nhưng người “đứng”, trong một tư thế rất kiên vững. Thế “đứng” của Đức Mẹ đã là đề tài cho bao người chiêm ngưỡng và suy gẫm: Stabat Mater dolorosa!
Đức Mẹ dưới chân Thập giá để được đồng công cứu chuộc, có nghĩa là Mẹ kết hợp với những đau khổ của Chúa Giêsu con Mẹ để trở thành nguồn ơn cứu chuộc cho loài người.
Đức Mẹ đứng gần bên thánh giá. Cuộc tử đạo này của Đức Trinh Nữ Maria đã được báo trước nhờ lời tiên báo của ông già Simêôn, cũng như chính bài tường thuật cuộc Thương Khó của Chúa. Về Hài Nhi Giêsu, ông già nói rằng: "Cháu sẽ là dấu hiệu bị người đời chống báng, còn bà - ông nói với Đức Maria - bà sẽ bị nát ruột nát gan như bị lưỡi gươm đâm thâu" (Lc 2,34-35).
Vâng! Một lưỡi gươm đã đâm thâu lòng Mẹ. Lưỡi gươm ấy không thể đâm vào thân con của Mẹ mà một trật không đâm thâu lòng Mẹ. Thật đúng như vậy, Chúa Giêsu, Con của Mẹ tuy là của tất cả mọi người, nhưng đặc biệt là riêng của Mẹ. Lưỡi gươm đó không tha cho một người đã chết mà nó không còn làm hại được nữa, nhưng nó đã mở sườn Người ra; và chính lúc đó, nó lại đâm thâu lòng Mẹ. Lòng Mẹ đã bị đau khổ đâm thâu, vì vậy, chúng ta thật có lý mà tuyên bố rằng Mẹ còn hơn cả vị tử đạo, bởi vì nỗi đau do việc Mẹ cùng chịu khổ chắc chắn đã vượt quá sự đau khổ trong thân xác.
Thánh Bênađô viện phụ nói: "Thưa anh em, anh em đừng ngạc nhiên khi Đức Maria được gọi là vị tử đạo trong tâm hồn. Có ngạc nhiên chăng là kẻ đã quên lời thánh Phaolô nói rằng, một trong những tội tày trời của dân ngoại là vô tâm bạc tình. Một tội như thế thật xa lạ đối với lòng dạ Đức Maria. Ước gì tội đó cũng xa lạ đối với lòng dạ các tôi tớ mọn hèn của Mẹ.
Biết đâu lại có kẻ chẳng nói: Nào Mẹ lại không biết trước Chúa Giêsu phải chết sao? – Dĩ nhiên là biết. Nào Mẹ chẳng hy vọng Người sẽ sống lại ngay sao? – Dĩ nhiên, với tất cả lòng tin. Và dù vậy, Người cũng đau khổ khi thấy Con mình bị đóng đinh, phải thế không? – Phải, và đau khổ ghê gớm. Này người anh em, bạn là ai? Khôn ngoan của bạn ở đâu mà bạn lại ngạc nhiên vì Đức Maria cùng chịu thương khó hơn là vì Đức Giêsu, Con của Người chịu thương khó? Về phần xác, Con của Mẹ đã chết, còn Mẹ, Mẹ đã chẳng chết trong tâm hồn với Con sao? Chính tình thương đã khiến Chúa Kitô chịu thương khó, và không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của Người. Và kể từ đây, không có tình thương nào sánh nổi với tình thương đã khiến Đức Maria cùng chịu thương khó với Con của Người."
Nino Salvaneshi đã thật có lý khi viết “Sung sướng kéo tâm hồn xuống đất, khổ đau nâng tâm hồn lên trời”
Hãy tin tưởng nơi Mẹ. Mẹ đã cùng đồng công cứu chuộc với Chúa Giêsu thì hôm nay trên Thiên Đàng chắc chắn Mẹ cũng được chia sẻ vinh quang quyền uy với Chúa Giêsu con của Mẹ.
Mẹ Têrêsa kể: "Khi hội dòng Thừa Sai Bác ái vừa được thành lập, chúng tôi khẩn thiết cần một ngôi nhà để làm nhà mẹ, thế là tôi khấn xin Đức Trinh Nữ một căn nhà và hứa sẽ dâng cho Đức Mẹ 85.000 kinh Hãy Nhớ:
Lạy Thánh Nữ Đồng Trinh Maria, là Mẹ rất nhân từ, xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người này chạy đến cùng Đức Mẹ, xin bầu chữa cứu giúp, mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời. Nhân vì sự ấy con lấy lòng trông cậy than van chạy đến sấp mình xuống dưới chân Đức Mẹ, là nữ đồng trinh trên hết các kẻ đồng trinh. Xin Đức Mẹ đoái đến con, là kẻ tội lỗi. Lạy Mẹ là Mẹ Chúa cứu Thế, xin chớ bỏ lời con kêu xin, một rủ lòng thương và nhận lời con cùng. Amen.
Hồi ấy con số các dì chưa đông. Làm sao để trả nợ cho Mẹ Maria đây?
Cuối cùng tôi nghĩ ra cách: tập trung tất cả các trẻ em và những người đau yếu, chúng tôi đang chăm sóc tại Nirmal Hriday và Shishu Bhavan. Tôi dạy họ kinh Hãy Nhớ đó và tất cả chúng tôi cùng hứa đọc.
Chẳng bao lâu tòa nhà trở thành của chúng tôi.
14/09 Phải được giương cao
- Viết bởi Ga 3, 13-17
Phải được giương cao.
Thứ Ba tuần 24 thường niên – SUY TÔN THÁNH GIÁ. Lễ kính.
“Con Người phải bị treo lên”.
* Lễ Suy Tôn Thánh Giá được cử hành sau lễ Cung Hiến Thánh Đường Phục Sinh, được xây ở Giê-ru-sa-lem trên mồ thánh (335). Từ cõi chết phục sinh, Chúa Kitô đã chiến thắng sự chết.
Thánh giá của Người tiêu biểu cho cuộc chiến thắng này. Truyền thống còn thấy ở đây dấu chỉ của Con Người, Đấng sẽ xuất hiện trên trời để loan báo ngày Người trở lại.
Lời Chúa: Ga 3, 13-17
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng Nicôđêmô rằng: “Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời. Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời.
“Quả thật, Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người, để tất cả những ai tin vào Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Ng ười giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Phải được giương cao
(‘Manna’)
Nhiều người ngoài Kitô giáo cảm thấy sợ khi vào nhà thờ,
nhìn lên thánh giá, thấy một người bị đóng đinh, máu chảy đầm đìa.
Tại sao lại thờ một người khủng khiếp như vậy?
Một số nơi đã đặt tượng Chúa Phục Sinh trên thánh giá.
Hẳn nhà thờ sẽ tươi hơn, ít gây sốc hơn, mầu nhiệm phục sinh được nổi bật hơn...
Nhưng chúng ta vẫn không được quên Chúa chịu đóng đinh.
Không có cái chết ấy thì cũng chẳng có ơn cứu độ.
Không có thánh giá thì cũng chẳng có phục sinh.
Khi suy tôn thánh giá, chúng ta không suy tôn hai thanh gỗ xếp hình chữ thập.
Chúng ta suy tôn chính Đấng đi đóng đinh vào thánh giá.
Ngài là Đấng vô tội, là Con Thiên Chúa làm người,
là "Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi" (Gl 2, 20).
Chúng ta cũng không suy tôn đau khổ và cái chết,
nhưng chúng ta suy tôn Tình Yêu:
Tình Yêu của Cha dám trao cho thế gian người Con Một,
Tình Yêu của Con dám sống hết mình cho Cha và anh em.
Đau khổ và cái chết là cái giá phải trả cho một tình yêu.
Tình yêu lớn nhất là tình yêu hiến mạng.
Thập giá là một thất bại của Tình Yêu.
Quà tặng của Cha bị loài người từ khước:
Người Con yêu dấu bị làm nhục và đóng đinh.
Quà tặng của Con bị loài người rẻ rúng:
Con chẳng đáng giá bằng tên sát nhân Baraba.
Thiên Chúa thất bại vì Ngài khiêm tốn.
Ngài để cho con người có tự do chối từ.
Ngài đau đớn lặng thinh khi Con Ngài hấp hối...
Nhưng thập giá lại là một thành công của Tình Yêu.
Nơi thập giá, tội ác con người lên đến cao điểm.
Cũng nơi thập giá, Tình Yêu Thiên Chúa lên đến tột cùng.
Và Tình Yêu đã thắng tội ác, sự sống thắng sự chết,
ánh sáng thắng bóng tối, tha thứ thắng hận thù.
Cha không đưa Đức Giêsu xuống khỏi thập giá,
nhưng đưa Ngài ra khỏi nấm mồ hiu quạnh.
Thất bại của thập giá đã biến thành chiến thắng.
Thập giá trở thành Thánh Giá đem lại sự sống đời đời.
Thánh Giá đã trở nên biểu tượng của Kitô giáo.
Thánh Giá có mặt cả trên nến phục sinh.
Thánh Giá ở trên thân xác ta, mỗi lần ta làm dấu,
nhưng Thánh Giá còn ở với người Kitô hữu suốt đời:
"Ai muốn theo Tôi hãy vác thánh giá mình mà theo Tôi".
Đừng sợ hãi tránh né dù đau đớn xót xa.
Đừng kéo lê, bạn sẽ thấy thánh giá nhẹ hơn và sinh trái.
Hãy hôn kính Thánh Giá của mình, của quê hương, của Giáo Hội,
dù chúng ta chẳng bao giờ hiểu hết được mầu nhiệm.
Ước gì chúng ta thấy được ý nghĩa của khổ đau nhờ tin tưởng nhìn lên Thánh Giá Chúa Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đứng trước những thất bại và khổ đau trong cuộc sống, bạn thường có thái độ nào (chán nản, bực tức, nổi loạn, đón nhận, phấn đấu vượt qua...)? Có khi nào nhờ thất bại và khổ đau mà bạn thấy mình lớn lên không?
Có khi nào bạn chấp nhận một chút hy sinh, một chút đau khổ, để người khác được hạnh phúc không?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, xin ban cho con điều khó hơn cả,
đó là ơn nhận ra Thánh Giá của Con Cha trong mọi nỗi khổ đau của đời con,
và ơn bước theo Con Cha trên đường Thánh Giá, bao lâu tuỳ ý Cha định liệu.
Xin đừng để con trở nên chua chát
nhưng được trưởng thành nhờ đón nhận đau khổ với sự kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ
và lòng khát khao nóng bỏng có ngày sẽ được ở nơi không còn khổ đau.
Ngày đó, Cha sẽ lau khô mọi giọt lệ của những người đã yêu mến Cha,
đã tin vào tình yêu Cha giữa nỗi thống khổ, tin vào ánh sáng của Cha giữa đêm đen.
Nhờ Cha, ước gì đau khổ của con nói lên lòng tin của con vào những lời hứa của Cha,
lòng cậy của con vào tình yêu trung tín của Cha, và lòng mến mà con dành cho Cha.
Lạy Cha, xin cho con yêu Cha hơn yêu bản thân, và yêu Cha chỉ vì Cha,
chứ không mong phần thưởng.
Ước gì Thánh Giá trở nên mẫu gương cho con, là ánh sáng cho đêm tăm tối,
nhờ đó con không còn coi khổ đau như một tai họa hay một điều vô lý,
nhưng như một dấu chỉ cho thấy con đang thuộc về Cha mãi mãi. (Karl Rahner)
Suy Niệm 2: Ý nghĩa mới của Thập giá
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Thập giá là biểu tượng của thất bại và sự chết. Nhưng khi được giương cao trên thập giá, Chúa Giêsu đã mang lại cho thập giá một ý nghĩa mới: Thập giá trở thành vinh quang của Thiên Chúa và ban ơn cứu độ cho loài người.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, nhìn lên thập giá Chúa, con hiểu được phần nào tình Chúa yêu con. Vì tình yêu mà Chúa chấp nhận khổ hình thập giá: Thập giá đồng nghĩa với tình yêu, đường tình yêu cũng là đường thánh giá.
Lạy Chúa, thập giá đời con có thể là những giờ phút tâm hồn khô khan chán chường. Thập giá đời con có thể là bổn phận nặng nề vất vả. Thập giá đời con có thể là sức khỏe suy nhược, công việc thất bại. Thập giá đời con có thể là những người trong cùng một mái gia đình: vợ, chồng, cha mẹ, con cái trở thành gánh nặng cho nhau. Thập giá là đau khổ muôn hình vạn trạng.
Lạy Chúa, con không chối từ những thập giá ấy, nhưng vui lòng chấp nhận, vì con tin rằng: con đường thập giá không phải là đường cùng, nhưng hướng mở tới một chân trời mới. Thập giá nặng nề và vướng mắc chông gai, nhưng thập giá luôn loan báo một cuộc đổi mới. Chúa đã dẫn con đến sự sống, nhưng bắt đầu khởi hành từ thập giá. Xin Chúa gắn chặt thập giá đời con vào thánh giá Chúa, để con biết yêu mến thánh giá Chúa trong đời thường. Xin Chúa giúp con luôn tin tưởng nơi thánh giá Chúa, và xin giúp con can đảm nhận lấy những thánh giá trong cuộc đời. Xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách con phải gánh chịu mỗi ngày, thành cơ hội giúp con thăng tiến và trở nên giống Chúa hơn.
Lạy Chúa, xin ban cho con tình yêu nhiều hơn nữa để con đủ sức vác thánh giá đến cuối đường con đã chọn, vì thánh giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu, hy vọng và sự sống. Amen.
Ghi nhớ: “Con Người phải bị treo lên”.
Suy Niệm 3: Lễ Suy tôn Thánh giá
(Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
Lòng mến mộ và tôn kính Thánh Giá đã có từ lâu đời trong Kitô Giáo. Cụ thể, khi đề cập đến Giáo hội từ thời sơ khởi, vào thế kỷ đầu của ngàn năm thứ nhất, nhiều chuyên gia về giáo sử, đặc biệt như Giáo phụ Tertuliano, đều cho biết: “Bất kỳ làm một việc gì có ý nghĩa, người Kitô hữu đều làm dấu Thánh Giá”. Thậm chí người Kitô hữu có thói quen làm dấu Thánh Giá trên người và vật như dấu chỉ sự chúc lành. Nhưng, phải đến thế kỷ thứ 4 trở đi mới có ngày lễ dành để tôn vinh Thánh Giá.
Đầu tiên, khi tìm được di tích Thánh Giá vào năm 326, bà Helena cho xây cất hai đền thờ, một tại núi Calvario và một tại Mộ Thánh ở Thánh Địa. Lễ khánh thành và cung hiến hai đền thờ này được tổ chức trọng thể tại Giêrusalem vào hai ngày 13 và 14 tháng 9 để mừng Đền thờ Calvario và Mộ Thánh. Năm 335, ngày 14 tháng 9 cũng mừng kính ngày tìm được Thánh Giá thực vào 14 tháng 9 năm 326. Vì gỗ Thánh Giá thực rất quý, nên được phân ra nhiều phần rất nhỏ, chia cho các Giáo hội tại mỗi nơi. Thành Constantinopoli được phần Gỗ Thánh lớn hơn và phần còn lại được lưu niệm tại Giêrusalem. Từ đó, ở Giêrusalem lễ tìm được Thánh Giá mừng kính trọng thể vào ngày 14 tháng 9.
Tiếp đến, Lễ Suy Tôn Thánh Giá được thiết lập tại Giêrusalem vào 14/9/629 như chứng tích sau:
Thế kỷ thứ 6, khi giặc giã nổi lên, vua Ba Tư Khosroès 1 (531–579), đem quân đến Cận Đông và đánh thắng quân của đế quốc Roma ở Phương Đông, chiếm đóng và tàn phá Thánh Địa, rồi cướp luôn cả Thánh Giá thực ở Giêrusalem. May thay, lúc ấy có ông Heraclius (575–641), vị tướng tài giỏi mới 35 tuổi, con của tổng trấn thành Carthage, đã lật đổ bạo chúa Phocas, rồi lên nắm quyền ở Constantinopoli ngày 3/10/610, và làm hoàng đế Byzantin, lấy hiệu là vua Heraclius 1 (610–641). Ông đã anh dũng điều khiển trận đánh và chiến thắng đầu tiên ngày 12/12/627. Ông rượt đuổi vua Khosroès 1 đến Ctésiphon, và tại đây, con trai của Khosroès là Siroes Shirva đã giết cha và giao nộp Thánh Giá thực lại cho vua Heraclius 1.
Năm 629, Thánh Giá được kiệu về Constantinopoli, rồi từ đó rước khải hoàn về Giêrusalem. Vua Heraclius muốn vác Thập Giá vào đền thờ để tạ ơn Chúa. Ông mặc vương phục và đội mũ hoàng đế. Nhưng khi vác Thánh Giá lên vai, ông thấy quá nặng. Tức thì, Đức Zacharias, Giáo chủ Giêrusalem, liền nói với vua: “Xin hoàng đế thận trọng, vì với mũ miện và y phục vương quyền mà ngài đang mặc, ngài không hợp để vác Thập Giá giống như thân phận khó nghèo, khiêm tốn của Chúa Giêsu Kitô”.
Nhà vua nghe theo lời Đức Giáo chủ, bỏ hết mũ miện, vương phục. Tức thì gỗ Thập Giá trở nên nhẹ nhàng và Heraclius 1 vác Thập giá gỗ vào đền thờ. Với gỗ Thập Giá Thánh, Thiên Chúa còn ban nhiều phép lạ, trong số có một người chết được sống lại; bốn người bất toại được lành bệnh; mười người phong cùi được trở nên sạch sẽ, bình phục; mười lăm người mù được sáng mắt; vô số người bị quỷ ám được giải thoát...” (Theo nghiên cứu của Abbé L. Jaud, Vie des Saints, 1950)
Suy Niệm 4: Treo cao trên thập tự
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Trong truyền thuyết Hy Lạp cổ xưa, thần chữa bệnh có tên là Asklepios được biểu trưng bằng con rắn, chính vì lý do này, ngày nay hình con rắn được dùng để làm biểu tượng cho ngành Dược và ngành Y là những ngành khoa học nghiên cứu và chữa trị con người thoát khỏi bệnh tật.
Hơn nữa, con rắn đồng được giương cao trong Kinh Thánh mang ý nghĩa: Thiên Chúa cứu độ con người.
Ý nghĩa cứu độ được bắt đầu bằng những biến cố của dân Chúa khi thoát khỏi Ai Cập, thoát khỏi ách nô lệ đi vào đời tự do. Chính trong sự tự do suốt bốn mươi năm ròng rã nơi hoang địa, họ gặp nhiều thử thách tranh đấu. Bị thử thách, họ đã oán trách Thiên Chúa, vì thế cơn thịnh nộ của Chúa đã để cho rắn độc trong sa mạc cắn chết nhiều người. Dân Chúa biết tội và nhìn nhận tội lỗi của mình. Chúa đã đoái thương nỗi thống khổ của họ. Người truyền cho Môisê làm một con rắn bằng đồng, treo lên cây, để bất cứ ai bị rắn cắn, nếu nhìn lên con rắn đồng sẽ được cứu (x. Ds 21,4-9).
Suy niệm
“Xưa Môisê treo con rắn trong sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, hầu cho mọi kẻ tin kính Ngài khỏi hư đi nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,14-15).
Sự giương cao của con Thiên Chúa qua cái chết trên thập tự để toàn thể nhân loại nhìn vào với niềm tin thì sẽ được cứu độ. Thật thế, nhân loại trải qua dòng lịch sử, cũng bất trung, nổi loạn khi sống song hành với bóng tối, từ lúc nguyên tổ khước từ quyền sống trong sự bao bọc tình yêu của Thiên Chúa khi nghe theo sự nổi loạn của Satan. Thiên Chúa không bỏ rơi con người, tình thương của Ngài hứa cứu độ và ơn cứu độ được thực hiện trong Đức Giêsu.
Con người giương cao chính là Con Thiên Chúa đã được chính Thiên Chúa hứa ban cho thế gian. Con Một của Ngài đến, không phải để lên án, nhưng dẫn nhân loại đến đời sống vĩnh cửu: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Tình yêu vĩ đại của Thiên Chúa cho nhân loại, chính tình yêu này là căn bản của công trình cứu độ xuất phát từ cung lòng Ngài, cung lòng tình yêu luôn trao ban dù rằng con người đã bất trung.
Con Một của Thiên Chúa - Đức Kitô chết giương cao để cho con người được cứu chuộc và được sống. Thánh Phaolô luôn ghi tạc trong tâm khảm đức tin hình ảnh Con Thiên Chúa giương cao trên thập giá: “Tôi không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài một Giêsu chịu đóng đinh vào thập giá” (1Cr 2,2), để rồi sự sống của Thiên Chúa tỏ hiện trong cuộc sống của vị tông đồ dân ngoại: “Tôi mang trong thân mình cuộc tử nạn của Ngài, ngõ hầu sự sống của Chúa Giêsu cũng được tỏ hiện nơi thân xác chết dở của tôi” (2Cr 4,10).
Nhân loại muốn đạt được ơn cứu độ phải đi theo con đường tin vào thập giá, nơi giương cao Đức Giêsu - Con Thiên Chúa: “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3,18). Tin tưởng vào Thiên Chúa và ơn cứu độ của Ngài dành cho qua cái chết của con Ngài trên thập tự, nhân loại sẽ được cứu rỗi.
Cuộc sống hàng ngày vốn bị chi phối bởi tội lỗi, bởi bóng tối của sự dữ. Chúng ta ngước nhìn lên Đức Kitô bị treo trên thánh giá. Ngài chiếu tỏa xua đuổi bóng tối trong cuộc đời chúng ta, đi theo ánh sáng của niềm tin vào Đấng được giương cao, như chính Đức Giêsu đã nói: “Những kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: Các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa” (Ga 3,21).
Mong sao mỗi người chúng ta cảm nghiệm được sức mạnh từ thập giá khi ngước mắt nhìn với niềm tin: Đức Giêsu được “giương cao trên thập giá”, và cũng được “đưa lên” ngự bên hữu Chúa Cha nhờ cuộc phục sinh và lên trời (x. Ga 3,14; 8,28; 12,32-34). Người tin và đi trên đường của Ngài, cũng sẽ được như Ngài, vì lời Ngài hứa: “Khi nào Ta được đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta” (Ga 12,32),
Ý lực sống:
“Tôi mang trong thân mình cuộc tử nạn của Ngài, ngõ hầu sự sống của Chúa Giêsu cũng được tỏ hiện nơi thân xác chết dở của tôi” (2Cr 4,10).
Suy Niệm 5: Bài học của Thánh Giá
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
A. LỊCH SỬ
Chúng ta hết thảy đều biết, hôm Đức Giêsu chịu chết trên Thập giá, chỉ có mấy bạn hữu nghĩa thiết của Người đứng gần. Họ là những người yếu đuối nghèo khó. Chẳng ai biết phải làm gì! May có các ông Giuse và Nicôđêmô đi xin Philatô cho phép hạ xác Chúa xuống và đem an táng trong huyệt. Còn thập giá của Người thì chẳng ai để ý đến.
Sau ngày Phục sinh, các môn đệ cũng bận bịu với việc Chúa sống lại. Mừng quá cho nên các ngài cũng chẳng ai còn để ý tới cây Thánh Giá của Chúa Giêsu.
Rồi sau đó với ơn trợ giúp của Thánh Thần, họ bắt đầu đi rao giảng ở mọi nơi. Điều mà người ta quan tâm đến nhất trong thời kỳ này là xây dựng các giáo đoàn và lo nhớ lại giáo huấn cũng như cuộc đời của Chúa Giêsu còn những di vật và kỷ niệm vật chất của Ngài, thì không ai để ý.
Mãi cho đến khi có nhiều người ở xa Đất Thánh đã tòng giáo và muốn hành hương đến những nơi Chúa đã sinh sống, thì lúc đó việc thu lượm những di vật kỷ niệm về Chúa mới trở thành một cuộc săn tìm. Chính trong hoàn cảnh này mà người ta đã đi tìm cây Thập Giá mà Chúa đã vác và đã nằm trên đó khi bị đóng đinh.
Và ngay lập tức hình cụ ấy đã trở thành vật Thánh; thập giá trở thành Thánh Giá, và người ta suy tôn kính mến.
Lễ hôm nay muốn nhắc lại kỷ niệm này. Hội Thánh thúc giục con cái đến với Thánh Giá, bắt chước các tín hữu khi mới tìm lại được cây gỗ trên đó Chúa Giêsu đã bị đóng đinh, để khám phá lại những giá trị quí giá cao cả của cây Thánh giá.
B. BÀI HỌC
1. Có thể nói bài học đẹp nhất mà cây Thánh Giá dạy cho chúng ta đó là bài học về lòng yêu thương.
Thường thì khi muốn biết được một ai đó là người như thế nào thì người ta có thể căn cứ vào những lời nói cuối cùng của người đó ma đánh giá. Bởi vì trước khi chết, thường thì người ta chỉ nói những gì mình tha thiết nhất, chỉ nói những lời xuất phát từ tận đáy lòng. Nếu đúng như vậy, chúng ta hãy tìm hiểu những lời cuối cùng của Đức Giêsu trước lúc tắt hơi trên Thập Giá, chúng ta sẽ hiểu rõ con người của Đức Giêsu hơn.
Triết gia Sénèque nói về tâm lý của những người bị xử tử như sau: thường là họ chửi rủa: chửi rủa những kẻ đang giết mình, chửi rủa những kẻ đứng xem, có người còn nguyền rủa thân phận xấu số của mình, nguyền rủa ngày mình sinh ra, nguyền rủa chính người mẹ đã sinh ra mình. Bởi thế, như văn hào Cicéron cho biết thêm, trong những cuộc xử tử ở đế quốc Rôma, khi thấy tên tử tội nào hung dữ, người ta thường cắt lưỡi hắn trước, để khỏi phải nghe những tiếng chửi rủa. Và trong cuộc xử tử chiều thứ sáu tuần thánh ấy, chúng ta cũng đã thấy có một tên trộm bị đóng đinh chung với Đức Giêsu chửi rủa lung tung, chửi cả Đức Giêsu là người chẳng thù oán gì với hắn.
Chiều hôm đó, có lẽ mọi người cũng đang chờ nghe những lời chửi rủa của Đức Giêsu: những tên lý hình chờ, vì họ là những người đang trực tiếp hành hình Ngài. Các tư tế và biệt phái chờ, vì họ là những kẻ đầu xỏ vận động kết án xử tử Ngài. Dân chúng đứng phía dưới thập giá chờ vì họ đoán rằng Ngài rất tức giận họ bởi họ đã từng chịu ơn rất nhiều của Ngài mà bây giờ quay ra chống lại Ngài. Tất cả mọi người đều chờ, họ sẵn sàng nghe chửi rủa. Họ tin. Chắc rằng cái tên Giêsu ấy, cái người đã từng rao giảng rằng: Hãy thương yêu kẻ thù... Hãy làm ơn cho kẻ ghen ghét mình” giờ đây sắp nổi khùng, sẽ quên hết những giáo huấn Tin Mừng kia mà thay vào đó bằng những lời chửi rủa thậm tệ.
Thế nhưng khi Đức Giêsu lên tiếng, thì ai nấy đều ngạc nhiên sửng sờ. Không phải những lời chửi rủa, mà là những câu dịu dàng yêu thương. Câu thứ nhất: “Lạy Cha, xin Cha tha cho họ (Lc 23,34); câu thứ hai “Tôi hứa thật với anh, ngay hôm nay anh sẽ được lên nơi vui vẻ cùng tôi”(Lc 23,43); và câu nói thứ ba: “Thưa Bà này là con Bà”(Ga 19,26).
Ngoài giọng điệu dịu dàng và nội dung chan chứa lời yêu thương, thì khôg có gì hết.
Tình thương đó dành cho ai? Trước hết là cho kẻ thù, kế đến cho người tội lỗi, và thứ ba là cho kẻ thánh thiện. Con người là đức Giêsu là như thế.
2. Bài học thứ hai.
Sự chiến thắng của cây Thập Giá.
Năm 1825 một trận bão lớn đã xảy ra tại thành phố Macao, nhà thờ Chánh tòa nguy nga nhìn xuống hải cảng được người Bồ Đào Nha xây cất đã bị trận bão làm đổ nát hoang tàn. Tuy nhiên, như một phép lạ, mặt tiền của ngôi thánh đường vẫn còn nguyên vẹn và cây Thánh Giá bằng đồng vẫn còn đứng vững. Khi ông John Browin toàn quyền Hồng Kông đến thăm viếng cảnh tượng, ông phải sửng sốt khi nhận ra điều đó. Tối hôm ấy, ông đã ghi lại những dòng sau đây: “Tôi được vinh dự trông thấy Thập Giá Chúa Kitô, Thập Giá vẫn đứng vững qua mọi đỗ vỡ của thời gian. Tất cả ánh sáng của lịch sử đều qui tụ nơi Thập Giá vinh quang”.
Đã gần hai ngàn năm qua, kể từ khi lính Rôma cưỡng bách Chúa Giêsu vác Thập giá đi xuyên qua những con đường chật hẹp ở Giêrusalem; cũng như khi Ngài bị vấp ngã, làm họ phải cưỡng bách một người qua đường vác đỡ Thánh Giá với Ngài, giúp Ngài tiến tới một nơi gọi là Núi sọ, thì từ lúc đó Thập Giá đã trở thành biểu tượng của một tôn giáo có hơn một tỷ rưỡi tín đồ: có mặt trên 220 xứ sở và lãnh thổ trên khắp mặt đất này.
Dựa theo những dữ kiện được ghi lại trong sách Tin Mừng, Bác sĩ Wiham Eswori tại bệnh viện Midio bên Hoa kỳ đã nghiên cứu về hình phạt Thập giá. Cuộc nghiên cứu đã cho ông thấy rằng người Rôma không phải là người đã phát minh ra hình phạt Thập giá đầu tiên. Thật ra tử hình Thập Giá đã được người Assiry đã dùng vào thế kỷ VII trước Công nguyên, nhưng người Rôma đã có công hoàn thiện nó để nó trở thành một hình thức tra tấn xử tử có sức tạo ra một cái chết chậm rãi đớn đau nhất. Thập giá chỉ dành để xử tử những người nô lệ ngoại quốc và những người dám chống lại đế quốc cũng như những người phạm trọng tội nơi các miền đất mà những người Roma cai trị. Luật Rôma thường bảo vệ những người công dân của họ khỏi bị hình phạt Thập giá.
Nạn nhân bị đóng đinh treo trên Thập giá thường chết vì nghẹt thở. Đây hẳn phải là cách xử tử dã man nhất trong nhân loại.
Thế nhưng, thật là kỳ diệu! Khi Chúa Giêsu nằm trên cây Thập Giá thì Ngài đã biến Thập giá thành biểu tượng tình yêu của Ngài đối với nhân loại.
Khi đón nhận Thập giá ấy, Chúa Giêsu đón nhận ý của Thiên Chúa Cha để thể hiện tình yêu của Người dành cho loài người. Chỉ có tình yêu mới có thể lý giải được ý nghĩa của sự hy sinh và hy sinh cho đến cùng dành cho con người.
Như vậy suy tôn Thập giá không có nghĩa là đề cao một hình phạt hay vui thỏa một cách bệnh hoạn ở nơi những trong khổ đau Chúa phải chịu, mà chính là ca ngợi tình yêu của Đấng đã hy sinh vì người mình yêu. Nơi Thập giá không những tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện một cách trọn vẹn, mà nơi Thập giá chân lý về con người còn được tỏ bày một cách trong sáng nhất để rồi chính từ trên Thập giá mà Chúa đã đi đến chiến thắng oai hùng nhất. “Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33)
Thập giá là chân lý của chúng ta, Thập giá là lẽ khôn ngoan của chúng ta, Thập giá là lẽ sống của chúng ta, Thập giá là sức mạnh của chúng ta. Nguyện xin Chúa hướng dẫn chúng ta đi trên con đường Thập giá của Ngài. Amen.
Suy Niệm 6: Ba cuộc đời - ba cách chết
(Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Trên đồi Golgotha cách đây hơn hai ngàn năm, có 3 tử tội trên thập giá. Ba con người đều chết trên thập giá với ba thái độ khác nhau. Đó chính là Thầy Giêsu ở giữa. Một người bên hữu được gọi là trộm lành. Một người bên tả truyền thống vẫn gọi là trộm dữ. Tại sao cùng một hoàn cảnh mà cách thức đón nhận lại khác nhau? Đâu là điểm khác biệt giữa ba con người?
Trước hết đó là Thầy Giêsu, một con người đã tự nguyện vác thập giá để cứu độ chúng sinh. Ngài chấp nhận đi vào cái chết không phải do tội của mình mà vì tội của nhân gian. Ngài đã chết để thí mạng vì bạn hữu. Cả cuộc đời của Ngài đã sống vì người khác. Ngài đã sống một cuộc đời để yêu thương và yêu thương cho đến cùng. Ngài đã đi đến tận cùng của yêu thương là thí mạng mình vì bạn hữu. Cái chết của Ngài là bằng chứng cho tình yêu. Đau khổ Ngài chịu cũng vì yêu thương nên Ngài không than vãn, không uất hận vì đời đen bạc. Không nguyền rủa cuộc đời vì những gánh nặng đang đè trên vai. Vì yêu đối với ngài không chỉ là tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, mà còn dám chết cho người mình yêu được sống và sống dồi dào. Thế nên, đau khổ đối với Ngài là niềm vui. Và ngài đã đi vào cái chết trong thanh thản vì đã hoàn thành sứ mạng đời mình: "yêu thương và phục vụ cho" người mình yêu. Ngài không hối tiếc về cuộc sống đã qua. Ngài không hối hận vì việc mình đã làm. Ngài rất vui vì đã đi trọn con đường của tình yêu. Ngài đã trút hơi thở cuối cùng trong an bình khi Ngài nói cùng nhân loại "mọi sự đã hoàn tất" và nói cùng Chúa Cha "Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn trong tay Cha".
Người thứ hai là anh trộm lành. Anh là một tội nhân. Anh đón nhận hình phạt và cái chết vì chính tội của mình. Nhưng anh là một con người biết phải trái. Anh biết việc mình làm là đáng tội, là đáng phải chịu hình phạt. Cuộc đời anh chưa làm điều gì tốt cho tha nhân. Anh đã sống một cuộc đời chỉ làm hại người khác. Thế nên, anh đã nói với Chúa: "Tôi đã bị như thế này là xứng đáng với tội của tôi". Anh đón nhận thập giá để đền bù những lầm lỗi đã qua. Anh chấp nhận cái chết nhục nhã như là hình phạt đích đáng vì tội của mình. Anh đã tìm được bình an trong giờ phút cuối cùng của đời người. Anh cũng biết rằng anh không xứng đáng chung phần hạnh phúc thiên đàng với Thầy Giêsu, anh chỉ mơ ước Thầy Giêsu nhớ tới anh khi Thầy về thiên đàng. Đối với anh thập giá là cơ hội để anh để anh đền bù lầm lỗi. Thập giá là nhịp cầu đưa anh vào thiên đàng. Thế nên, anh đón nhận thập giá với lời xin vâng theo mệnh trời. Anh không oán trời, oán đất. Anh đi vào cái chết với tâm hồn thanh thản vì anh đã đền bù những lầm lỗi của quá khứ cuộc đời.
Người thứ ba là anh trộm dữ. Anh lao vào cuộc đời như con thú đang tìm mồi. Cuộc đời anh chỉ tìm hưởng thụ cho bản thân. Vì ham muốn danh lợi thú anh đã sẵn sàng hạ thấp nhân phẩm mình và chà đạp phẩm giá của tha nhân. Anh đang có nhiều toan tính để hưởng thụ. Thế nên, anh không chấp nhận thập giá trên vai anh. Anh không chấp nhận kết thúc cuộc đời bằng cái chết bi thảm trên thập giá. Anh đòi quyền sống. Sống để hưởng thụ. Anh nổi loạn vì đời anh còn quá trẻ, còn quá nhiều tham vọng nên anh không thể chấp nhận cái chết đến với mình. Thế nhưng, anh vẫn phải chịu hình phạt vì tội của mình. Công lý đòi buộc anh phải thi hành, dầu anh không muốn. Thập giá làm cho anh đau khổ. Cái chết làm cho anh nổi loạn. Anh nguyền rủa trời, nguyền rủa đất và xúc phạm cả đến Thầy Giêsu, một con người đang phải chịu cái chết vì đã liên đới với anh. Anh đã chết trong sự hoảng loạn và khổ đau.
Mỗi người chúng ta đang sống một cuộc đời cho chính mình. Mỗi người chúng ta đang đón nhận thập giá với thái độ khác nhau. Có người chấp nhận thập giá để đền tội. Có người chấp nhận thập giá vì lòng yêu mến tha nhân. Và cũng có người đang từ chối thập gía trong cuộc đời. Hạnh phúc hay đau khổ tuỳ thuộc vào việc chọn lựa sống của chúng ta. Nhưng dù con người có muốn hay không? Thập giá vẫn hiện diện. Thập giá của bổn phận. Thập giá của hy sinh từ bỏ những tham lam bất chính, những ham muốn tội lỗi, những ích kỷ tầm thường. Đón nhận thập giá sẽ mang lại cho ta tâm hồn bình an vì đã sống đúng với bổn phận làm người. Đón nhận thập giá còn là cơ hội để ta đền bù những thiếu sót trong cuộc sống của mình và của tha nhân. Đón nhận thập giá còn là cơ hội để ta tiến tới vinh quang phục sinh với Chúa trên thiên đàng.
Nguyện xin Chúa là Đấng đã vui lòng đón nhận thập giá vì chúng ta, nâng đỡ và giúp chúng ta vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa. Xin giúp chúng ta biết sống một cuộc đời hy sinh cao thượng để chúng ta không hối hận vì quá khứ, nhưng luôn bình an vì đã sống chu toàn bổn phận của mình với lòng mến Chúa, yêu người. Amen.
Suy Niệm 7: Suy tôn Thánh Giá
(‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – Radio Veritas Asia)
Tuần báo Thế Kỷ Kitô, xuất bản bên Hoa Kỳ có kể lại kinh nghiệm sau đây của một vị linh mục công giáo tại bang Carolina vào Tuần Thánh.
Để giúp các tín hữu trong giáo xứ suy niệm về mầu nhiệm thập giá, linh mục này cho dựng một cây thập giá cao to, bằng gỗ sơn đen ngay trong sân nhà thờ. Chẳng may trong ngày hôm đó, có người xưng mình là đại diện cho hãng du lịch trong vùng gọi điện thoại đến khiếu nại. Lý do như sau: khách du lịch đi qua trước nhà thờ không thích nhìn thấy cây thập giá đen thui này, họ muốn xem những gì vui tươi hơn. Đó là câu chuyện của đời này ở bên Hoa Kỳ. Nhiều người đã quên hay cố quên mầu nhiệm thập giá trong đời sống đức tin, nhưng không phải chỉ là chuyện đời này mà thôi, ngay từ thời xa xưa, thời các thánh tông đồ cũng đã xảy ra như thế. Thánh Phaolô đã thốt lên rằng: "Nhiều người sống nghịch lại thập giá Chúa. Họ chỉ sống theo cái bụng, chạy theo lợi lộc, ham vui". Thập giá Chúa còn có ý nghĩa gì đối với người Kitô hôm nay chăng?
Trước khi mạc khải về ý nghĩa của mầu nhiệm thập giá, Chúa Giêsu nhắc lại cho ông Nicôđêmô về nguồn gốc thần linh từ trời xuống của chính mình như là Con Thiên Chúa: "Không ai đã lên trời, ngoài trừ Con Người, Đấng từ trời xuống". Tự nó, thập giá là chặng dưới đất và thực tại đau buồn do con người tạo ra, nhưng để hiểu trọn vẹn ý nghĩa của nó thì cần phải đóng đinh Con Thiên Chúa vào đó, cần phải hiểu mầu nhiệm thập giá trong cái nhìn từ trên cao, trong cái nhìn của Thiên Chúa, Đấng muốn và đã sai Con Một mình xuống trần gian và chịu chết treo trên thập giá, để biến dấu chỉ của sự trừng phạt trở thành dấu chỉ của tình yêu cứu rỗi. "Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, như con rắn đồng của Môsê, để ai tin vào Con Người thì được sống muôn đời". Chúa muốn ông Nicôđêmô nhìn về thập giá từ trên cao theo cái nhìn của chính Chúa, và lúc đó con người sẽ khám phá ra rằng Thiên Chúa dùng thập giá để mạc khải tình yêu thần linh, để hòa giải con người với Thiên Chúa và với nhau.
Như lời mời gọi của Chúa cho ông Nicôđêmô, cần phải đặt Con Thiên Chúa vào thập giá, cần phải treo Con Thiên Chúa lên thập giá, con người chúng ta có hiểu được ý nghĩa của thập giá? Thập giá mạc khải cho con người biết tình yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa, nhưng đồng thời cũng là dấu chỉ của sự khước từ của con người đối với Thiên Chúa, là dấu chỉ của sự thù ghét của con người đối với con người, của con người say mê quyền hành và danh vọng, muốn làm mọi cách để loại bỏ đối thủ của mình như những người biệt phái Pharisiêu ngày xưa đã dùng thập giá để loại bỏ Chúa Giêsu, Đấng đang lôi kéo dân chúng bỏ họ mà theo Chúa.
Mỗi người Kitô chúng ta hôm nay, nhân ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá, hãy kiểm điểm lại thái độ của mình đối với thập giá Chúa. Phải chăng thập giá Chúa đã bị tục hóa, bị chúng ta biến trở thành món trang sức để khoe của, để củng cố địa vị, để lường gạt anh chị em? Chúng ta làm dấu thánh giá trên mình, chúng ta mang dấu thánh giá trên áo, trên cổ nhưng chúng ta đã sống ý nghĩa của thập giá như Chúa đã mạc khải như thế nào?
Lạy Chúa,
Xin thương dạy con hiểu biết, đón nhận và sống mầu nhiệm thập giá trong chính đời sống của con. Xin cho con một tâm hồn quảng đại, không chạy trốn trước lời mời gọi của thập giá Chúa, nhưng sẵn sàng để cho cuộc đời con được đóng đinh vào thập giá với Chúa, trở thành của lễ hy sinh, giúp anh chị em nhận ra tình yêu Chúa.
Suy Niệm 8: Học yêu Thánh Giá
(Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Tình cờ tôi nghe bài hát “học yêu Thánh Giá”, từ web: mp3.zing.vn/bai-hat/Hoc-yeu-Thanh-Gia.
Lời ca ngắn gọn mà sâu sắc, giai điệu nhẹ nhàng cho tôi cảm nhận sâu lắng về tình yêu Thánh Giá Chúa Giêsu.
Thánh Giá là chữ T.
Người nằm giang tay chữ Y.
Là tình yêu, yêu đến tận cùng.
Yêu nhân gian chiều ngang.
Yêu đời mình chiều sâu.
Yêu Chúa là chiều cao.
Để tình yêu luôn mãi nhiệm mầu.
Thập giá là chữ T được tạo nên do hai thanh gỗ. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự yếu đuối trải rộng. Thanh đứng tượng trưng cho sự sống vươn cao. Ý mụốn của con người là thanh nằm. Ý muốn của Thiên Chúa là thanh đứng. Trên thập giá, Chúa Kitô chịu đóng đinh dang tay thành chữ Y. Tình yêu là điểm giao thoa giữa thanh nằm của sự chết và thanh đứng của sự sống. Cả ba chiều kích ngang, sâu, cao của thập giá đều quy tụ nơi tình yêu của Đấng chịu đóng đinh. Chúa Kitô đã đón nhận cái chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại.
Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu coi cái chết của mình như là một sự tôn vinh. Tôn vinh Tình Yêu của Chúa Cha, một Tình Yêu vô bờ bến, một Tình Yêu mãnh liệt đến nỗi Chúa Cha “đã ban Con Một cho thế gian, để những ai tin vào Người Con thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Ga 3,16). Đồng thời cũng là tôn vinh Tình Yêu của Chúa Giêsu, một Tình Yêu đã hy sinh mạng sống vì những người mình yêu, là một hy lễ dâng lên Chúa Cha, cũng là sự tự hiến cho loài người trở nên lương thực nuôi sống chúng ta.
Thánh Phaolô nhấn mạnh sự tương phản chưa từng thấy trong mầu nhiệm Thập giá. Sự hạ mình sâu thẳm của Đức Giêsu Kitô “Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa, đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn Người, tặng ban Danh hiệu vượt trên mọi Danh hiệu. Và khi nghe Danh Thánh Chúa Giêsu, mọi gối phải bái quỳ để tôn vinh Chúa Cha và tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa” ( Pl 2,6-11).
Theo cái nhìn của Phaolô cũng như của Gioan, Chúa Giêsu chịu đóng đinh cũng chính là Chúa Giêsu được tôn vinh. Đó là sự tôn vinh Tình Yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa, và Tình Yêu ấy đã biểu lộ rõ ràng nhất nơi Thập giá Chúa Kitô. Không nơi nào Tình Yêu của Thiên Chúa được biểu lộ trọn vẹn như nơi “con người Chúa Giêsu chịu đóng đinh”.
Ca nhập lễ ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá đã mượn lời của Thánh Phaolô trong thư Galat 6,14 để hân hoan hát lên: “Niềm vinh dự của chúng ta chính là Thập Giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nhờ Người, chúng ta được cứu độ, được sống và được phục sinh; chính Người cứu độ và giải thoát chúng ta”.
Kinh Tiền Tụng đã chú giải: “Thật vậy, xưa vì cây trái cấm, loài người chúng con phải tử vong, nay nhờ cây thập giá lại được sống muôn đời; và ma quỷ xưa chiến thắng nhờ cây trái cấm nay thảm bại vì cây thập giá của Đức Kitô, Chúa chúng con”.
Thánh Bonaventura viết: “Thánh Giá là cây tòan hảo, được thánh hóa bởi Máu Chúa Kitô, mang đầy trái thơm ngon“. Cây Thánh giá còn được phong phú hóa như là một loài cây quý hiếm và tươi thắm diễm lệ, hoa trái tràn đầy trong lời trong kinh ‘A Rất Thánh Giá’: “Khen cây thánh giá ở giữa rừng phàm, nên giống báu lành, nên cây sang trọng, nên đơn linh nghiệm, nên tàu vượt qua biển hiểm thế nầy….Cây thánh giá tốt lành rất mực dìm dà êm mát, bóng che thiên hạ khỏi chốn hỏa hình. Cội rễ, nhành lá, búp bông, hoa quả. Từ xưa đến nay, cây nào dám ví bằng cây thánh giá, từ cây thánh giá chở mình Chúa Cả đóng đinh trên cây thánh giá”.
Tại bãi biển Copacabana tối thứ sáu 26-7-2013 đi Đàng Thánh Giá, Đức Thánh Cha Phanxicô diễn giảng Thập giá là: “Một tình yêu tuyệt vời khi đi vào tội lỗi của chúng ta và tha thứ cho nó, đi vào đau khổ của chúng ta và cho chúng ta sức mạnh để chịu đựng. Đó là một tình yêu đi vào cái chết để chiến thắng nó và cứu vớt chúng ta. Thập giá của Chúa Kitô chất chứa tất cả tình yêu của Thiên Chúa, lòng thương xót vô biên của Ngài. Đây là một tình yêu mà chúng ta có thể đặt vào đó tất cả niềm tin của chúng ta, nơi chúng ta có thể tin tưởng. Các bạn trẻ thân mến, chúng ta hãy phó thác cho Chúa Giêsu, chúng ta hãy phó thác vào Người một cách trọn vẹn! (x. Ánh Sáng Đức Tin, 16). Chỉ trong Chúa Kitô chịu đóng đinh và phục sinh, chúng ta mới có thể tìm thấy phần rỗi và ơn cứu độ. Với Ngài, sự dữ sự đau khổ và cái chết không còn quyền thế, bởi vì Ngài cho chúng ta hy vọng và sự sống: Ngài đã biến Thập giá từ một công cụ của sự thù ghét, sự thất bại và sự chết thành một dấu chứng của tình yêu, sự khải hoàn và sự sống”.
Đức Thánh Cha nhắc lại sự kiện vào cuối Năm Thánh Cứu Độ 1984, Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã muốn tín thác Thập Giá Chúa cho người trẻ và ngài nói: “Các con hãy đem Thánh Giá vào trong thế giới như dấu chỉ tình yêu thương của Chúa Giêsu đối với nhân loại, và loan báo cho tất cả mọi người rằng chỉ nơi Chúa Kitô chết và phục sinh, mới có sự cứu rỗi và ơn cứu độ” (Diễn văn với giới trẻ, 22 tháng 4 năm 1984). Kể từ đó, Thập Giá đã rong ruổi qua mọi đại lục, và đi qua các thế giới khác nhau nhất của cuộc sống con người, hầu như được thấm nhập bởi các tình trạng sống của biết bao nhiêu người trẻ đã trông thấy và đã mang Thập Giá đó. Không có ai đụng tới Thập Giá Chúa Giêsu mà không để lại một cái gì đó của chính mình, và không đem một cái gì đó của Thập Giá Chúa Giêsu vào trong cuộc sống của mình.
Thánh Giá là sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa. Bởi vì “Sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người” (1Cr 1, 24 -25). Thánh Giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu hy vọng và sự sống. Thánh Giá là biểu tượng của Tình Yêu cứu độ. Thánh giá là niềm tự hào và vinh quang của người tín hữu.Thánh Phaolô có một ước muốn: “Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô” (Gl 6,14).
Chúa Giêsu chết trên thập giá, muốn minh chứng rằng Người yêu thế gian hơn yêu chính mình. Nơi thập giá, Chúa Giêsu chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta là một tình yêu ở dạng thức cao nhất: Tình Yêu đến mức tận cùng, một Tình Yêu tự hiến trọn vẹn của Thiên Chúa. Yêu là hiến tế, là hy sinh chính mình. Hiến dâng chính mình vì thiện ích của kẻ khác. Chúa Giêsu hiến dâng chính mình trên thập giá như là sự đền bù vì ơn cứu độ nhân loại.
Thánh Giá đã in sâu và gắn chặt với Chúa Giêsu Kitô. Ngay cả sau khi Chúa sống lại vinh quang, các vết thương khổ nạn thập giá vẫn hiển hiện, vẫn không bị xóa nhòa. Thánh Giá Chúa Kitô xuyên qua thời gian và hiện diện trong mỗi giây phút cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện ấy làm thay đổi tất cả.
Chúng ta yêu mến, tôn thờ Chúa Giêsu trên Thánh Giá.Trong xã hội tiêu thụ và hưởng thụ ngày nay, bóng tối của quyền lực, tiền của, danh vọng, lạc thú đang che mờ bóng thánh giá. Con người đang lao mình vào bóng tối bằng mọi giá. Xã hội hôm nay cần phải được ánh sáng của Thánh Giá soi dẫn. Từ Thánh Giá Đức Kitô, tình thương chúc phúc thế gian, sự sống chan chứa cho lòng người. Suy tôn Thánh Giá chính là suy tôn tình yêu, sự sống của Chúa Kitô.
Suy Niệm 9: Cuốn sách hay nhất
(GM. Phaolô M. Cao Đình Thuyên)
Một nhà thông thái nằm mơ thấy mình để cả cuộc đời đi tìm một cuốn sách hay nhất gồm tóm mọi sự trên đời, cuốn sách đó chỉ tóm gọn trong một trang hay nhất, rồi trang ấy gồm trong một dòng hay nhất, rồi dòng ấy trong một chữ hay nhất. Ông giật mình tỉnh dậy, trên bàn ông có một chữ to tướng: Crux, Thánh Giá.
Phải, Thánh Giá là chữ hay nhất gồm tóm những bài học hay nhất, của một dòng chữ hay nhất, của một trang hay nhất, của một cuốn sách hay nhất. Vậy Thánh Giá là gì? Chắc chắn ta không nhìn và giải thích về mặt thể lý: 2 thanh gỗ, sắt, đồng, chì, vàng, bạc đóng vào nhau thành hình chữ thập, dù có gắn ảnh chuộc tội hay không.
Thánh Giá là tình thương vô biên của Thiên Chúa qua Chúa Kitô, đã tỏ cho loài người bằng cách hứng chịu mọi đau khổ trên thập giá để cứu độ chúng ta, và ngược lại, Chúa muốn chúng ta cũng qua Thánh Giá đóng góp phần mình vào ơn cứu độ để cứu mình và anh em, để tất cả được sống lại vinh quang với Chúa. Chỉ một vài dòng đơn sơ, nhưng nói đến Thánh Giá là động chạm đến bao vấn đề hết sức quan trọng và sâu sắc.
Trước hết, Thánh Giá là tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Thánh Gioan viết: “Tình yêu Thiên Chúa cốt tại điều này là không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa trước nhưng chính là Thiên Chúa đã yêu chúng ta trước. Tình yêu của Thiên Chúa biểu hiện qua việc Ngài đã sai Con Một Ngài vào trong thế gian để làm của lễ đền tội chúng ta”. Như thế, tình yêu Thiên Chúa là một tình yêu nhưng không, vô vị lợi. Chúa yêu chúng ta không phải vì chúng ta tốt hay vì Ngài cần chúng ta, nhưng chỉ vì Chúa tốt lành vô song. Tiên tri Giêrêmia đã nói rất cảm động: “Ta đã yêu con bằng tình yêu muôn đời, bởi thế Ta đã giữ bền ân nghĩa với con” (Giêrêmia 31,3). Thánh Augustin cũng nói: “Nguồn nước có được lợi gì khi kẻ khát nước đến uống ở đó, mặt trời có lợi gì khi con mắt được ánh sáng chiếu tới”. Nhà thần học Don Scot dòng Phanxicô, vào thế kỷ 14 còn nói mạnh hơn: “Giả thiết loài người không phạm tội thì vì yêu ta Chúa cũng có thể làm người và chịu nạn chịu chết”. Giả thiết vậy để kích thích ta thêm lòng đạo đức, đào sâu thêm huyền nhiệm tình yêu, chứ thực tế loài người đã phạm tội và Chúa đã sai con Ngài xuống thế gian thật để cứu chúng ta bằng cả cuộc sống của Ngài, mà cao điểm là cuộc khổ nạn và chết trên thập giá. Trước một tình yêu cao cả và vô vị lợi như thế sao ta lại dễ thất vọng chán nản mỗi khi gặp thử thách? Là con cái Chúa, là tu sỹ, nhất là tu sỹ Mến Thánh Giá lại ngã lòng mỗi khi Chúa muốn chúng ta chia sẻ Thánh Giá với Ngài? Phải chăng ta còn quá ích kỷ trong việc mến yêu Chúa? Ta yêu Ngài chỉ vì ta cần đến Ngài chẳng khác gì coi Ngài như cái vòi nước, khi cần thì đến vặn dùng, xong lại đóng sập lại ngay.
Một nhà mục sư Tin Lành giảng về câu Kinh Thánh của Thánh Gioan trên rất hay: 2 gia đình, 1 Công giáo, 1 Tin lành đi lại với nhau rất thân, gia đình Công giáo có 5 người con, ông bà Tin lành đã già mà không có con. Họ quý mến nhau lắm và mọi sự thông cảm chia sẻ với nhau rất quảng đại. Một hôm ông bà Tin lành mạnh dạn nói với ông bà Công giáo: Cả 2 ta cùng thờ một Chúa Giavê, một Chúa Kitô, tuy là 2 Hội Thánh nhưng chúng ta vẫn quý mến nhau vì cũng gặp ở một Chúa. Chúa cho gia đình bác nhiều cô cậu, còn tôi trong cảnh già nua buồn bã, tôi muốn xin bác cho chúng tôi 1 cô hoặc 1 cậu để ông bà làm vui. Tôi hứa sẽ yêu thương giáo dục cháu hết sức! Ông bà Công giáo cảm động quá về bàn với nhau xem nên cho đứa nào.
- Con cả là một cậu trai tuấn tú, thông minh, ngoan ngoãn, nhất định không được. Vả ai lại cho trưởng nam đi.
- Con thứ là một cô gái xinh đẹp đạo đức lại vừa đính hôn với một thanh niên xứ bạn, ai lại cho đi đứa con chỉ vài ba tháng nữa sẽ về nhà chồng.
- Con thứ ba là cậu trai tàn tật, què chân. Hai vợ chồng buồn bã cho số phận hẩm hiu của con nên càng đem lòng ưu ái con để bù thiệt cho nó, thì sao có thể cho nó đi và lại cho bạn một đứa con tàn tật, làm sao coi được.
- Con thứ tư là một cô thiếu nữ 10 tuổi. Vừa nói tới bà đã khóc tru trếu vì bà coi cô như hòn ngọc. Bà coi cô là hình ảnh sống động của mình vì lời ăn tiếng nói, nụ cười, cả dáng đi đều giống hệt như bà.
- Con thứ 5 là cậu trai út, 4 tuổi, suốt ngày nói nói cười cười, khi ngồi trên gối mẹ, lúc lại nằm trên tay cha. Đi nhà thờ, đi dạo chơi luôn kèm theo mẹ cha sao có thể rời được. Rút cuộc đành phải báo lại cho ông bạn Tin lành là không thể cho ông bạn được đứa nào cả
Nhà mục sư cao giọng: Con người thân thiết nhau đến thế mà người có 5 con không thể cho ông bạn 1 đứa. Thế mà Thiên Chúa và nhân loại có thân thiết nhau được như thế không? Tội lỗi đã làm con người nên tử thần với Chúa, Chúa Cha lại chỉ có 1 người con vô cùng quý hóa, ấy mà Ngài lại cho con mình xuống trần gian tội lỗi chịu trăm ngàn đau khổ mà cao điểm là Thánh Giá để loài người được an vui.
Chúng ta nghĩ sao về tình yêu Chúa đối với ta và tình mến ta với Chúa. Lạy Chúa, xin tha thứ cho nỗi vong ân bội nghĩa của chúng con!
Cũng vì thế mà đứng trước Thánh Giá chúng con vẫn không một chút mủi lòng. Vì không cảm hết được tình yêu Chúa đã tự triệt tiêu mình vì chúng con. Chúng con mang Thánh Giá trong mình mà chúng con lại mau mắn xua đuổi Thánh Giá đi xa dù chỉ là một Thánh Giá nhỏ nhẹ – một chút nhức đầu sổ mũi, một lời nói đùa cợt, một sự góp ý xây dựng đã đủ làm con phản ứng gay gắt, đỏ mày đỏ mặt, cử chỉ thô bạo, lắm lúc còn ấm ức tìm cách báo thù.
Ôi thật là lạ lùng! Thế mà con còn dám hãnh diện vì mình là người yêu Thánh Giá. Lạy Chúa, nghĩ lại chúng con thật đáng xấu hổ thẹn thùng. Thật đáng Chúa quở trách: Bọn này thờ ta bằng môi bằng miệng. Chúng con thật đáng liệt vào hạng ngoại giáo, thu thuế và bọn Biệt phái trong Phúc Âm.
Cũng vì không cảm hết được tình Chúa yêu con đến triệt tiêu mình cho con, nên con thường mắc bệnh chủ quan và luôn nhìn và phóng đại đau khổ mình mà không biết nhìn đến những thánh giá kẻ khác. Đau khổ mình thì dùng kính hiển vi mà phóng đại để tủi thân, để phàn nàn, để than trách. Còn đau khổ kẻ khác thì lại coi nhẹ, cho là việc nhà giàu đứt tay, không đáng kể. Ôi thật là ích kỷ! Sao con không nhìn lên Thánh Giá với những đau khổ dữ dằn hồn xác của Chúa đã gánh chịu cho con và cho tha nhân con. Tự hào là những người yêu Thánh Giá hơn ai, mến Chúa hơn ai mà con lại không biến cải những Thánh Giá chúng con thành những cây Thánh Giá để nên giống Chúa, để biểu lộ tình yêu Chúa yêu tha nhân? Thánh Têrêxa Avila thì nói: “Hoặc đau khổ hoặc chết”. Thánh Mađalêna de Passi: “Không chết nhưng xin đau khổ mãi mãi”. Thánh Rosa Lima: “Lấy vòng gai có mũi nhọn đội lên đầu, vác cây khổ giá nặng lâu giờ trong một ngày, ban đêm tự treo 2 tay lên khổ giá để kết hợp với Chúa hấp hối trên thánh giá xưa. Thế mà con, tu sỹ Thánh Giá thì lại khiếp sợ Thánh Giá, chê chối tránh né Thánh Giá. Thật dân này chỉ mến ta bằng môi bằng miệng. Nhà văn Montalenebat viết trong cuốn “Các đan sỹ Phơng Tây” miêu tả lời than của cây gỗ Thánh Giá rất cảm động như sau: Từ năm xửa năm xưa, lâu lắm rồi, tôi không còn nhớ nữa, lúc đó tôi mọc ở khu rừng, họ đã hạ tôi xuống đất, cưa chặt và mang tôi đi. Những kẻ thù thô lỗ đã chiếm lấy tôi để thành một trò hề. Họ đem tôi lên một ngọn núi và chôn tôi xuống đất. Ở đó tôi thấy Chúa tể loài người trong uy quyền đi tới trèo lên tôi. Để khỏi bất tuân với người tôi không dám gẫy cũng không dám cong, tôi cảm thấy đất run rẩy dưới chân tôi. Tôi cũng run khi thấy vị anh hùng ôm lên lấy tôi, nhưng tôi không dám cúi mình xuống, cũng không dám lún sâu xuống đất. Dù sao tôi cũng phải đứng thẳng và vươn lên để dương cao trên dân chúng Đấng là vua cao cả, là Chúa trời đất. Họ xuyên thủng tôi bằng những cái đinh màu xám, những vết thương còn biểu hiện trên mình tôi ngày nay. Cả Ngài lẫn tôi đều bị chửi rủa. Máu từ cạnh sườn Ngài loang đổ trên mình tôi. Mặt trời tối sẫm, cả vũ trụ than khóc vua họ bị ngã xuống. Trong cuộc thương khó trên Núi Sọ, cây gỗ giá đã đồng hóa mình với Chúa Giêsu, đã góp phần vào ơn cứu chuộc – Cây gỗ giá đã tuyên bố không dám gãy không dám cong mà cứ đứng thẳng và vươn lên. Còn ta, những người tự hào mình là kẻ hợp tác với ơn cứu độ, chuyền thông ơn cứu độ lại không dám đồng hóa với Chúa Kitô, không dám vươn lên, không dám vươn cao cho thế giới biết Đấng chịu đóng đinh là Chúa Trời Đất yêu thương ta vô cùng sao? Lạy Chúa, xin cho con can đảm như Cha Charle de Foucauld: Khi tôi ôm lấy Thánh Giá thì một trật tôi ôm lấy Chúa Kitô chịu đóng đinh vào đó.
Suy Niệm 10: Sùng kính hay là vác thập giá
Tôi không rõ việc sùng kính thập giá Đức Kitô khởi sự từ đâu và vào thời gian nào, nhưng chắc chắn việc đó phải có từ thời hoàng đế Constantin, hay nói rõ hơn từ năm 335 là năm mà truyền thuyết cho rằng đã tìm lại được thập giá Đức Kitô; và nhân biến cố đó, hoàng đế đã cho xây một thánh đường ngay chính nơi mộ Đức Kitô, ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá 14 tháng 9 là để kỷ niệm ngày cung hiến ngôi thánh đường này.
Như vậy, việc sùng kính thập giá quả đã có từ lâu đời, nhưng cũng không phải là một truyền thống có từ ban đầu. Vậy thì từ ban đầu thập giá có ý nghĩa gì?
Tôi xin thưa, ngay từ ban đầu thập giá đã là dấu chỉ của hồng ân cứu độ:
- Như Maisen treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Ngài thì được sống đời đời.
Đồng thời thập giá còn là dấu chỉ của một tình yêu to lớn mà Thiên Chúa đã dành cho nhân loại:
- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Cũng như thập giá là dấu chỉ của người môn đệ Chúa:
- Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Đối với người môn đệ Đức Kitô thì không có gì là vinh dự ngoài thập giá, bởi vì nhờ thập giá mà chúng ta được giải thoát, được cứu độ. Nhưng vinh dự vì thập giá nghĩa là gì? Phải chăng, là vì chúng ta có thập giá như là một kỷ vật châu báu, quí giá hơn vàng bạc. Nếu thế thì chẳng lẽ Đức Kitô lại làm giàu cho chúng ta với cây thập giá của Ngài sao?
Hẳn là không. Nhưng phải nhìn nhận rằng, chúng ta nhiều khi đã lợi dụng thập giá Chúa để làm giàu. Thánh giá trở nên một đồ vật cho người ta buôn bán: Nào thánh giá vàng, thánh giá bạc và như thế thánh giá trở thành phương tiện để người ta khoe khoang, vinh dự khi ấy không còn là vinh dự được Đức Kitô cứu chuộc bằng giá máu của Ngài. Làm như thế thánh giá trở nên một đồ vật quí giá chứ không phải là một kỷ vật nhắc nhở cái chết của Chúa. Và kẻ đeo thánh giá đó không cần phải tin Đức Kitô, lại càng không thể làm môn đệ của Ngài vì người môn đệ chân chính của Ngài là phải luôn vác thập giá trên vai, và nhất là phải chịu đóng đinh vào đó vì yêu thương và yêu thương cho đến cùng.
Đã hơn hai ngàn năm nay, người ta đã tạo ra biết bao kiểu thánh giá, to có nhỏ có và thánh giá đã có mặt ở khắp mọi nơi, nhưng càng ngày càng ít người chịu vác thánh giá trên vai và càng ít người hơn nữa chịu đóng đinh vào đó. Đáng buồn nhất là có những kẻ không ngần ngại đóng đinh người khác hay bắt kẻ khác vác những thánh giá nặng nề, đang khi chính mình vẫn đưa miệng hôn kính thánh giá.
Đức Kitô mời gọi chúng ta tình nguyện vác thập giá đi theo Ngài, nhưng chính Ngài cũng vác thập giá của mình mà đi trước chúng ta. Không bao giờ Ngài chất thập giá trên vai kẻ khác. Còn chúng ta, nhiều khi đã không chịu vác thập giá của mình thì chớ, mà lại còn chồng chất trên vai những người nghèo khổ và bé mọn, những người mà bình thường thập giá của họ đã nặng nề, mà không một ai giúp đỡ như Simong, mà không ai lau mặt cho như Veronica thuở trước.
Nay đã đến lúc phải đặt thập giá vào đúng vị trí của nó, nghĩa là trên vai mỗi người chúng ta. Bởi đó, việc hôn kính thánh giá không quan trọng bằng việc vác thập giá, và việc suy tôn thánh giá cũng chẳng lợi ích gì nếu không sẵn sàng chịu đóng đinh mình vào thập giá.
Suy Niệm 11: Thập Giá, con đường về trời
Chúa ban cho chúng ta mỗi người một khuôn mặt, bất kỳ lúc nào cũng có thể ngước nhìn lên trời. Khi thức cũng như khi ngủ, và ngay cả khi đã bị chôn vùi trong lòng đất, mặt chúng ta cũng vẫn còn hướng lên trời. Vậy hướng lên trời để làm gì? Tôi xin thưa là để chúng ta nhớ rằng chúng ta còn có một người Cha đang mong chờ chúng ta, cũng như để chúng ta xác tín rằng Nước Trời mới chính là quê hương đích thực của chúng ta. Vậy thì để tìm về với Chúa, để đạt tới quê hương Nước Trời, chúng ta phải làm gì?
Hẳn chúng ta còn nhớ có lần Chúa đã xác quyết: Ta là đường, là sự thật và là sự sống. Thế nhưng con đường ấy như thế nào? Phải chăng là một con đường ngợp những cánh hoa. Tôi xin thưa không phải là như thế, nhưng là một con đường vừa khúc khuỷ, vừa nhỏ bé mà ít người muốn đặt chân vào. Và cụ thể hơn nữa, đó là con đường đau khổ, con đường thập giá như lời Người đã xác quyết: Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Đó là con đường duy nhất, rẽ ngang vào một lối khác, chắc chắn thế nào chúng ta cũng bị lạc.
Thực vậy, muốn được vào Nước Trời, chúng ta phải có công nghiệp, mà muốn có công nghiệp, chúng ta phải vác lấy thập giá mình. Công nghiệp của chúng ta mặc dù là nhỏ bé nhưng lại là một sự cộng tác cần thiết cho chính bản thân chúng ta được cứu rỗi. Bởi đó chúng ta đừng vội lẩm bẩm kêu trách mỗi khi gặp phải những gian nguy thử thách. Trái lại hãy coi đó là một diễm phúc vì được làm chính việc của Chúa, vì được cộng tác với Chúa trong chương trình cứu độ. Hơn nữa những khổ đau chúng ta phải chịu trong cuộc sống hiện tại, sẽ không thể nào sánh ví được với hạnh phúc trường tồn vĩnh cửu mà chúng ta sẽ được đón nhận trên quê hương Nước Trời.
Có một vị ẩn sĩ sống trong một khu rừng vắng, ngày đêm không lúc nào ra khỏi chiếc lều ẩm thấp và chật hẹp. Ấy là chưa kể đến những hình khổ mà thầy dùng để đánh tội. Ngày kia có mấy người quý phái đến thăm, họ hết sức ngạc nhiên khi thấy thầy hãm mình một cách nghiêm ngặt. Họ hỏi thầy làm sao mà thầy có thể chịu đựng nổi. Thầy bèn chỉ vào một kẽ nứt bằng bàn tay trên vách núi và nói: Chính cái đó đã giúp đỡ tôi. Vì mỗi khi thân xác tôi muốn nổi loạn, thì qua kẽ nứt ấy tôi nhìn thấy bầu trời, và qua bầu trời tôi nhớ tới quê hương vĩnh cửu và đích thật của tôi.
Thực vậy, những giọt nước mắt ngày hôm nay nhỏ xuống, thì ngày mai sẽ kết thành những trái chín của hạnh phúc Nước Trời, bởi vì nhờ những giọt nước mắt khổ đau ấy mà chúng ta trở nên giống Đức Kitô. Hay như lời thánh Phaolô đã nói: Nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô thì chúng ta cũng sẽ được sống lại với Người. Bởi vì chính Ngài đã long trọng công bố: Phúc cho những ai than khóc, vì họ sẽ được ủi an.
Suy Niệm 12: Thập Giá và cuộc sống
Thập giá nắm giữ vai trò nào trong cuộc sống mỗi người chúng ta?
Chúng ta thường thấy: nơi bản thân, Thập giá được dùng làm đồ trang sức chúng ta đeo trên tai, trên cổ. Trong mỗi gia đình đều có một bàn thờ. Và trên bàn thờ ấy, chính giữa thường là cây thập giá, vì đó là vị trí chúng ta lấy làm ưng ý nhất. Tại giáo xứ, chúng ta nhìn thấy thập giá trên tháp chuông, trên cung thánh hay trên những phần mộ.
Thập giá đã quá quen thuộc với chúng ta ngày từ hồi còn tấm bé. Chúng ta không thể diễn tả niềm tin Kitô giáo mà không cần đến cây Thập giá. Thế nhưng, còn trong cuộc sống thì sao?
Phải thành thật mà nói: nhiều khi Thập giá đã làm cho chúng ta run sợ và chúng ta đã tìm mọi cách để lẩn tránh. Thập giá dường như đã trở nên một cái gì thù địch, trái ngược với bản tính và niềm hạnh phúc của chúng ta.
Thế nhưng, kinh nghiệm cho thấy: chúng ta không thể nào lẩn tránh khỏi Thập giá, bởi vì Thập giá là một cái gì nằm sẵn trong thân phận con người. Sự chọn lựa của chúng ta không phải là có hay không có Thập giá, nhưng là có biết vác Thập giá mình cho nên hay không mà thôi. Bởi vì Thập giá sẽ đem lại nhiều lợi ích nếu chúng ta biết vác lấy vì lòng yêu mến Chúa.
Thực vậy, đứng trước thập giá, Chúa Giêsu đã có một thái độ hoàn toàn khác biệt với chúng ta. Phúc âm kể lại rằng:
Bấy giờ Chúa Giêsu và các môn đệ đang ở Giêricô, cách thủ đô Giêrusalem khoảng bốn mươi cây số, mà ngày lễ Vượt qua thì lại sắp tới, từng đoàn người hành hương hát vang những câu thánh vịnh. Và rồi một lần nữa Chúa Giêsu nói trước cho các ông về cuộc tử nạn của Ngài:
- Này Ta lên Giêrusalem, Con người sẽ bị nộp trong tay kẻ ngoại. Họ sẽ khạc nhổ, đánh đòn và sẽ giết chết Ngài.
Các môn đệ không muốn tin vào điều ấy. Lên Giêrusalem giữa một tình hình căng thẳng như lúc này, thì quả là một việc điên khùng và dại dột, nếu không muốn nói đó là một hành động tự sát, bởi vì đã từ lâu, bọn biệt phái và luật sĩ tại đó đã quyết định giết Chúa Giêsu.
Thế nhưng, các ông lại không đủ can đảm can ngăn Chúa Giêsu, bởi vì đã một lần Phêrô lên tiếng:
- Ước gì Thày không phải như vậy đâu.
Và ông đã bị Ngài quở trách nặng lời:
- Hỡi Satan hãy xéo đi, vì ngươi chỉ biết những việc thuộc về thế gian, mà chẳng biết chi đến những việc thuộc về Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã nhìn thấy trước những khổ đau và cái chết nhục nhã Ngài sẽ phải chịu, thế mà Ngài vẫn cương quyết đi lên Giêrusalem.
Cuộc hành trình đi lên Giêrusalem phải chăng chính là hình ảnh cuộc đời chúng ta. Còn thái độ của các môn đệ, phải chăng cũng chính là thái độ của chúng ta.
Thực vậy, cuộc đời chúng ta thì chất đầy những khổ đau và lo lắng: nào đau ốm bệnh tật, nào hận thù chiến tranh, nào nghèo túng khổ cực… Chúng ta cảm thấy như bất lực, không thể nào giải quyết được. Trong khi đó, Chúa Giêsu đã can đảm bước đi và Ngài đã bước đi cho tới cùng, bởi vì sau thập giá sẽ là vinh quang phục sinh.
Có hai bà già mắc bệnh lao, nằm bên cạnh nhau trong một căn phòng bệnh viện. Họ biết rằng cơn bệnh của họ không còn phương cách nào cứu chữa, chỉ còn chờ ngày được nghỉ yên dưới lòng đất lạnh mà thôi.
Một bà thì cô độc, chỉ có một mình, bởi vì gia đình và những người thân đều đã chết vì trúng đạn pháo kích. Còn bà kia thì đã có chồng, nhưng ông chồng này đã bỏ bà từ lâu và hiện đang sống với người vợ lẽ. Bà biết rõ điều ấy.
Trước những nỗi đớn đau và bất hạnh như thế, mọi lời an ủi và khích lệ dường như đã trở nên thừa thải, nếu không muốn nói là đã trở nên lẩm cẩm và ngu ngốc. Thế nhưng, mỗi lần viếng thăm, tôi đều thấy hai bà cầm cây Thánh giá và nói với tôi:
- Cuối cùng chỉ còn lại cây Thập giá. Bởi vì chính tại Thập giá, Chúa Giêsu đã đau khổ trước chúng tôi và hơn chúng tôi bội phần. Cây Thập giá của Chúa đã nói với chúng tôi nhiều điều và đã đem lại cho chúng tôi niềm an ủi tuyệt vời nhất giữa những đắng cay chua xót của cuộc đời.
Hôm nay, chúng ta không phải chỉ suy tôn Thánh giá trong lời kinh tiếng hát hay trong những nghi thức phụng vụ, mà còn phải biết suy tôn Thánh gía trong chính cuộc sống chúng ta, bằng cách chấp nhận những hy sinh gian khổ mà chúng ta gặp phải vì lòng yêu mến Chúa, bởi vì đó chính là cây thập giá đời thường Ngài muốn chúng ta vác lấy để bước theo Ngài.
Bên trên những gai nhọn là cánh hồng nở thắm. Bên trên thập giá đời đời thường là vinh quang phục sinh chờ đón.
Suy Niệm 13: Thập giá: Quyển sách cao siêu nhất
Người ta thường mượn câu chuyện sau đây để nói đến tinh thần hy sinh, chấp nhận trong cuộc sống.
Có một người kia cứ phàn nàn trách Chúa vì đã gửi đến cho mình một thập giá quá nặng... Chúa bèn đưa người đó đến một cửa hàng có các thập giá đủ cỡ để người đó chọn lựa. Người đó hăm hở bước vào cửa hàng và dựng cây thập giá của mình vào tường. Người đó tự nhủ trong lòng: "Đây là chuyện cả đời người, ta phải hết sức cẩn thận". Thế là anh ta đi rảo khắp hết mọi lối đi của cửa hàng và thử hết cây thập giá này đến cây thập giá khác.
Nhưng không có một cây nào làm anh vừa lòng. Cây thì quá dài, cây thì quá ngắn. Cây thì quá nhẹ, cây thì quá nặng... Anh lại tiếp tục tìm kiếm. Cuối cùng, anh đã tìm được cây thập giá mà anh cho là ưng ý nhất. Anh mang đến với Chúa và nở nụ cười mãn nguyện: "Lạy Chúa, đây chính là cây thập giá mà con hằng tìm kiếm. Con xin vác lấy". Khi anh vừa hí hửng ra khỏi cửa hàng, thì Chúa mỉm cười nói với anh: "Ta rất vui mừng vì con đã chấp nhận cây thập giá. Đây cũng chính là cây thập giá mà con đã vác vào và dựng ở tường của cửa hàng".
Hôm nay Lễ Suy Tôn Thánh Giá, Giáo Hội mời gọi chúng ta đào sâu Mầu Nhiệm Thập Giá trong đời sống Đức Tin của chúng ta.
Thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars bên Pháp, đã nói: "Thập giá là quyển sách cao siêu nhất... Chỉ có những ai yêu mến, nghiền ngẫm quyển sách này, những người đó mới thật sự là người thông thái".
Thập giá Chúa Giêsu là quyển sách cao siêu nhất, bởi vì, đó là dấu chứng cao cả nhất của Tình Yêu. "Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người thí mạng vì người mình yêu".
Từ một khí cụ độc ác đê hèn nhất của con người đã có thể nghĩ ra để hành hạ người khác, Chúa Giêsu đã biến nó thành dấu chứng của Tình Yêu: Tình Yêu vâng phục đối với Chúa Cha và Tình Yêu dâng hiến cho nhân loại...
Suy tôn Thánh Giá Chúa, chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì đã cho chúng ta được đi vào Mầu Nhiệm Tình Yêu của Chúa. Trong Mầu Nhiệm ấy, cuộc sống của chúng ta không còn bị đè bẹp dưới sức nặng của những đau khổ nữa, nhưng luôn mang lấy một ý nghĩa: đó là ý nghĩa của Tình Yêu.
Suy Niệm 14: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một
Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh hoạ Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ XVII đó là bức tranh “Ba thập giá.” Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu trổi lên một cách ngạo nghễ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét. Tác giả như muốn nói rằng không trừ một người nào mà không dính líu vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.
Nhìn kỹ vào đám đông, người ta thấy có một gương mặt gần như mất hút trong bóng tối, nhưng một vài nét cũng đủ để cho các nhà chuyên môn đoán rằng đó chính là khuôn mặt của danh hoạ Rembrandt.
Tại sao giữa đám đông của những kẻ đang đằng đằng sát khí khi tham dự vào cuộc thảm sát Chúa Giêsu, Rembrandt lại chen vào khuôn mặt của mình? Câu trả lời duy nhất mà người ta có thể đưa ra để giải thích về sự hiện diện của tác giả giữa đám người lý hình: đó là ý thức tội lỗi của chính ông.
Rembrandt muốn thú nhận rằng chính tội lỗi của ông đã đóng góp vào việc treo Chúa Giêsu lên thập giá. Và qua sự có mặt của ông, tác giả cũng muốn nói với mỗi người chiêm ngắm bức tranh rằng, họ cũng dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một:
Loài người càng tội lỗi Chúa càng yêu thương, yêu thương đến nỗi trao ban hết những gì thuộc về mình là Người Con duy nhất. Tình thương ấy được cụ thể hóa bằng việc Chúa Giêsu đã chịu treo trên thập giá. Trên thập giá Chúa đã giải nghĩa yêu thương. Một tình yêu quá cao vời vượt quá sức mường tượng của con người. Thế nên chỉ có hành động, những hy sinh cụ thể mới cảm hóa được lòng người hầu mong cứu họ thoát khỏi cảnh tội lỗi. Chính vì thế, thập giá đã trở thành Thánh Giá; Thánh Giá trở thành biểu tượng tình yêu cứu độ, biểu tượng của sự sống, của vinh quang. Vì thập giá được đón nhận trong tình yêu thì thập giá sẽ trở thành Thánh Giá.
Mừng lễ Suy Tôn Thánh Giá là dịp nhắc nhớ mỗi chúng ta hãy tạ ơn tình Chúa cao vời. Đồng thời nhắc chúng ta cũng biết sống hy sinh cho tha nhân, hy sinh vì những lý tưởng cao đẹp, hy sinh chịu thiệt thân để bảo vệ đức tin. Và nhất là hãy biết yêu người như Chúa yêu ta.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xưa Chúa đã dùng thập giá để cứu chuộc chúng con. Chúa cũng có thể cứu chúng con bằng những phương thế khác. Nhưng Chúa đã không chọn cách nào khác ngoài việc chết trên thập giá. Và như thế chúng con mới hiểu được Chúa yêu chúng con đến cùng. Chúa đã mang lại cho thập giá một ý nghĩa mới: ý nghĩa của tình yêu trọn hảo. Xin Chúa giúp mỗi người chúng con cũng biết đón nhận thập giá của bản thân với tron vẹn tâm tình yêu thương: Yêu Chúa và yêu mọi người, để tình Chúa luôn mãi ở trong con. Và cuộc đời con luôn diễn tả tình yêu Chúa. Amen.
Suy Niệm 15: Lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa Giêsu
(GM Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Chúng ta hết thảy đều biết, hôm Ðức Giêsu chịu chết trên Thập giá, chỉ có mấy bạn hữu nghĩa thiết của Người đứng gần. Họ là những người yếu đuối nghèo khó. Chẳng ai biết phải làm gì! May thay có các ông Giuse và Nicôđêmô đi xin Philatô cho phép hạ xác Chúa xuống và táng trong huyệt. Còn thập giá của Người thì chẳng ai để ý đến. Sau ngày Phục sinh, các môn đệ cũng chỉ bận đầu với việc Chúa sống lại. Và với ơn trợ giúp của Thánh Thần, họ bắt đầu đi rao giảng ở mọi nơi. Người ta quan tâm đến việc xây dựng các giáo đoàn và lo nhớ lại giáo huấn cũng như cuộc đời của Chúa Giêsu chứ những di vật và kỷ niệm vật chất của Người, không ai để ý.
Cho đến khi có nhiều người ở xa Ðất Thánh đã tòng giáo và muốn cũng như có điều kiện hành hương những nơi Chúa đã sinh sống, việc thu lượm những di vật kỷ niệm về Chúa trở thành một cuộc săn tìm. Chính trong hoàn cảnh ấy người ta nghĩ rằng đã tìm lại được cây Thập giá mà Chúa đã vác và đã nằm trên khi bị đóng đinh. Lập tức hình cụ ấy đã trở thành vật thánh; thập giá trở thành Thánh giá; và người ta suy tôn kính mến.
Lễ hôm nay muốn nhắc lại kỷ niệm này. Hội Thánh thúc giục con cái đến với Thánh giá, bắt chước các tín hữu khi mới tìm lại được cây gỗ đã đóng đinh Chúa Giêsu, để nơi cây Thánh giá mà hằng ngày vì quá quen không còn ý nghĩa bao nhiêu, chúng ta được dịp khám phá lại giá trị vinh quang cao cả của nó. Phụng vụ giúp chúng ta ba bài đọc để suy nghĩ. Ba bài thường thôi nhưng hàm chứa biết bao sự thật!
A. Câu Truyện Rắn Ðồng
Bài sách Dân số kể lại một câu truyện, mà nếu không có bài Tin Mừng hôm nay, thì hầu chắc đã chẳng được mấy ai để ý. Ðó là truyện con cái Israel hồi đó đang đi loanh quanh trong sa mạc để hướng về Ðất Hứa. Một hôm họ bị rắn lửa cắn quá nhiều; Môsê theo lệnh Chúa dựng lên một con rắng đồng để chữa họ.
Câu truyện vắn tắt quá! Ai tin thì nghĩ đây là một phép lạ. Còn ai không tin, có thể cho rằng tác giả sách Thánh đã bịa đặt. Nhưng một chữ viết ở thời xưa vẫn có giá trị. Và thường ý nghĩa của nó không hiện ra tức khắc. Các khoa học lịch sử, địa dư, văn minh, tôn giáo có thể cung cấp cho chúng ta ngày nay nhiều yếu tố quý giá để hiểu câu truyện này.
Việc có nhiều rắn lửa trong sa mạc là điều có thật. Ðó là loại rắn độc cắn chết người. Nhưng đồng thời ở các mỏ đồng gần đó, người ta cũng bới tìm được nhiều hình rắn đồng. Ðó là hình ảnh một vị thần của dân ngoại, nổi tiếng có sức chữa lành bệnh tật. Như vậy chắc chắn ngày xưa khi bị rắn lửa cắn, người ta đã khẩn cầu vị thần này, cũng như ngày nay khi mắc bệnh người ta đi tìm dược liệu; và nhiều tiệm bào chế vẫn trình bày hình một con rắn.
Môsê dẫn con cái Israel đi qua nhiều dân ngoại. Chắc chắn họ đã thấy các dân này thờ thần rắn để được khỏi bệnh. Và chắc chắn khi bị đau yếu con cái Israel cũng bị cám dỗ chạy đến với vị thần nổi tiếng này. Môsê coi đó như là một nguy hiểm cho tôn giáo độc thần. Ông thấy có bổn phận phải mở mắt và dạy dỗ Dân. Có lẽ khi nhiều người trong họ bị rắn lửa cắn là dịp để ông giải quyết vấn đề.
Chúng ta hãy đọc câu truyện của bài sách Dân số trong viễn tượng ấy. Rõ ràng có nhiều bài học tôn giáo trong câu truyện này. Và phải nói đây là Lời Chúa dạy dỗ Dân về mặt đạo đức đi từ một câu truyện chứ không phải là bài chỉ muốn tường thuật câu truyện ấy.
Trước hết chúng ta được biết vì sao con cái Israel bị rắn lửa cắn. Họ muốn bỏ Chúa, bỏ con đường đi tới tự do để trở về mảnh đất nô lệ. Họ phàn nàn đã nghe Môsê và Chúa để đi tìm Ðất Hứa. Giả như họ cứ ở lại Aicập thì làm gì phải cảnh ngộ này: gối mỏi chân chồn, nước uống thiếu hụt, thức ăn chán ngấy! Họ đã quên ơn giải phóng, tỏ ra bạc nhược trước khó khăn và bất trung, thất tín đối với Giao ước. Ðã đành có khó khăn, vất vả; nhưng Chúa không toàn năng và đáng tin tưởng sao? Vì sao không phấn đấu để cứ tin Người và Môsê, vị Ngôn sứ của Người? Phàn nàn, trách móc là điều không tốt; muốn bỏ Chúa để trở về đời sống cũ là phản bội. Rắn lửa bò ra cắn những kẻ kêu trách là hình phạt Chúa gửi đến. Bệnh tật và các sự dữ ở đời đều do tội lỗi: Ðó là bài học thứ nhất của câu truyện hôm nay.
Nhưng tội lỗi và sự chết không có tiếng nói cuối cùng. Con cái Israel đã nhận ra bài học Chúa dạy. Họ đến với Môsê, thú nhận tội lỗi và nhờ ông khẩn cầu lòng Chúa tha thứ. Họ để lại cho hậu thế bài học sám hối ăn năn.
Chúa rộng lòng tha thứ, dạy Môsê làm hình một con rắn đồng treo lên một cây sào để ai bị rắn cắn, nhìn vào sẽ được khỏi. Như vậy rắn đồng không phải là thần thánh mà chỉ là dấu hiệu hoặc khí cụ Thiên Chúa dùng. Chính Người chữa lành người ta, khi họ ăn năn hối cải trở về với Người.
Con cái Israel đã hiểu như vậy. Về sau mỗi lần có khốn khó ập tới, các ngôn sứ của Chúa chỉ cần kêu gọi thống hối ăn năn, chứ không cần treo lên một dấu hiệu nào nữa. Chẳng bao giờ người Dothái thờ thần Rắn như nhiều lân bang. Câu truyện con rắn đồng hầu như không còn được nói đến nữa. Ngược lại dần dần người ta cảm thấy rằng chẳng có gì có thể chữa dứt được thứ bệnh của con cái Israel, thứ bệnh "tội lỗi" mà các ngôn sứ làm cách nào cũng không ngăn ngừa nổi. Các lễ thiêu và kinh nguyện sáng chiều không sao rửa sạch tội lỗi của Dân cứng đầu hay kêu trách. Cuối cùng người ta chỉ còn biết đợi cánh tay uy hùng của Chúa. Chính Người phải ra tay cứu độ mới được. Bất cứ người Dothái đạo đức nào cũng nghĩ như vậy. Và Nicôđêmô, khi đến với Ðức Giêsu ban đêm, cũng chỉ muốn được hiểu biết thêm về kế hoạch cứu độ này. Chúng ta hãy nghe Chúa dạy dỗ trong bài Tin Mừng.
B. Ý Tưởng Về Thập Giá
Nicôđêmô là một Biệt phái. Ông còn là một đầu mục trong Dân, tức là có chân trong Hội đồng tối cao. Nhưng ông không nghĩ như đồng bạn về Ðức Giêsu. Ðối với Người, ông có lòng tôn kính và muốn được Người chỉ dẫn đường lối cứu độ. Người bảo ông: muốn nhìn thấy Nước Thiên Chúa, người ta phải sinh lại. Ông bỡ ngỡ và lo sợ. Già như ông làm sao có thể sinh lại được? Thấy vậy Ðức Giêsu phải cắt nghĩa rõ hơn cho ông về đường lối cứu độ của Thiên Chúa.
Người nói: "Như Môsê giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ bị giương cao như vậy". Có thể Nicôđêmô đã bắt được ý của Chúa, ông là người học rộng biết nhiều. Ông là bậc làm thầy của Israel, nên không những ông đã biết câu truyện Rắn đồng trong sách Dân số, mà có thể ông còn nhớ cả lời bàn của sách Khôn ngoan về câu truyện ấy (16,6-10). Sách viết: kẻ nào quay lại nhìn thì được cứu, không phải nhờ điều nó thấy nhưng là nhờ Người là Ðấng cứu chữa mọi người. Phải, ơn cứu độ thì bởi Chúa, nhưng con rắn đồng kia cũng là dấu hiệu độ sinh. Dấu hiệu này, bây giờ Ðức Giêsu nói, sẽ là Con Người khi bị giương cao. Và đó là mạc khải hôm nay Người ban cho Nicôđêmô.
Chắc chắn ông đã không thắc mắc gì về từ ngữ "Con Người". Ðã nhiều lần Ðức Giêsu dùng kiểu nói ấy để ám chỉ mình. Nhưng việc Con Người sẽ bị giương cao là điều mới lạ hoàn toàn đối với ông. Nó còn là điều mầu nhiệm nữa. Chúng ta có thể chắc chắn rằng: hôm đó ra về ông đã chẳng hiểu bao nhiêu. Và luôn luôn nó sẽ là một tư tưởng ám ảnh ông cho đến ngày sự thật ấy xảy ra.
Quả vậy, cho dù ông thông thạo Kinh Thánh và biết những đoạn Isaia về Người Tôi Tớ đau khổ, hoặc lời sấm của Zacarya viết rằng: chúng sẽ nhìn lên Người chúng đã đâm, hôm nói chuyện với Ðức Giêsu, Nicôđêmô vẫn chưa hình dung được sự thật. Còn Ðức Giêsu, Người đã không tiếc lời với ông. Người đã gieo vào lòng ông những điều cần thiết để sau này sẽ giúp ông hiểu.
Người muốn nói với ông rằng: dấu hiệu độ sinh sau này sẽ là Con Người khi bị treo trên Thập giá. Nhưng ông chưa mang nổi một sự thật như vậy; giống như Phêrô khi nghe nói cũng không chịu được và xin Chúa từ nay đừng nói như vậy nữa. Tuy nhiên đó vẫn là sự thật cứu độ, sự thật duy nhất có thể cứu độ người ta. Ðức Giêsu đã phải làm cho mọi người hiểu. Và hôm nay Người cố gắng giúp Nicôđêmô. Người cho ông biết: đứng trước Thập giá của Người sau này chỉ ai tin mới được sự sống đời đời. Không gì có thể giải thích được đường lối cứu độ của Thiên Chúa đâu! Chỉ có lòng tin mà thôi. Lòng tin sẽ là ánh mắt nhìn vào dấu hiệu độ sinh. Không có lòng tin này, người Dothái đi qua sẽ thấy Thập giá là cớ vấp phạm và người Hylạp sẽ bảo là điên rồ; duy đối với ai được kêu gọi thì đó là khôn ngoan của Thiên Chúa (1C 1,23).
Quả vậy, đức tin sẽ bảo cho người ta biết: Thiên Chúa đã yêu mến thế gian như thế đó, đến nỗi đã thí ban Con Một Người để ai tin vào Ngài... được có sự sống đời đời. Vì Thiên Chúa đã không sai Con của Người đến để xử án thế gian nhưng để cứu độ. Người ta đừng chờ Con của Người đến lẫm liệt oai phong khiến mọi người phải sợ hãi. Vì thế đừng ai hiểu việc Con của Người được giương cao theo nghĩa được hiển vinh ở đời này và theo cách thức trần gian. Ngài đến để cứu sống nên muốn được giương cao lên như rắn đồng nơi sa mạc. Lúc đó mọi người sẽ thấy quả thật Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi thí ban Con Một Người chịu chết đền tội chúng ta. Ðó là dấu hiệu của tình yêu lớn nhất, mà không tình yêu nào sánh được. Ðó là dấu chỉ Thiên Chúa đã yêu thương thì Người muốn yêu thương chúng ta đến cùng. Mầu nhiệm cứu độ là mầu nhiệm yêu thương. Yêu thương sẽ sáng chói trong hy sinh đổ máu. Thế thì Con Người trên Thập giá vừa bị giương cao vừa được lên cao. Thập giá của Ðức Kitô chỉ bị ô nhục bề ngoài; chứ bên trong, quả là khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa. Ðó là cây gỗ Chúa leo lên để làm sáng chói tình yêu lớn nhất. Các vết thương của Người đầy vinh quang. Ai tin thì thấy đó là dấu hiệu độ sinh và Thập giá đã trở nên Thánh giá.
Hôm nay, một cách đặc biệt chúng ta tin như vậy, thì phụng vụ mời chúng ta tung hô Thánh giá theo bài thư Phaolô dưới đây:
C. Ca Tụng Thánh Giá Chúa Giêsu
Có lẽ Thánh Tông đồ đã chỉ có công chép lại một ca vãn lưu hành trong các cộng đồng Kitô giáo thời bấy giờ. Nó là đức tin của Hội Thánh ở trước Thánh giá Chúa Giêsu. Ðức tin ấy tuyên xưng rằng: Ðấng nằm trên cây gỗ là một vị Thiên Chúa; Ngài không nghĩ phải đòi cho được tôn trọng đồng hàng cùng Thiên Chúa; nhưng Ngài đã muốn hủy mình ra không, tức là lột bỏ những vẻ uy nghi cao cả, để mặc lấy thân phận và hình thức tôi đòi; vì quả thực Ngài đã sống rất bình dị ở giữa mọi người và có khi còn muốn đóng vai trò người tôi tớ. Ðặc biệt trong cuộc tử nạn, Ngài đã hạ mình thấp hèn vâng phục ý định của Thiên Chúa cho đến chết và chết trên Thập giá!
Nhưng chính vì vậy, Thiên Chúa đã suy tôn Ngài trong việc phục sinh, đặt Ngài làm Chúa để bất cứ thụ tạo nào cũng phải quỳ gối bái lạy...
Hôm nay chúng ta cũng đặc biệt bái lạy Thánh giá Chúa Giêsu; Chúng ta sẵn sàng tuyên xưng niềm tin của tất cả Hội Thánh như các tín hữu tiên khởi đã viết ra trong bài thánh ca này.
Nhưng nếu chỉ có thế thì vẫn chưa đạt được ý của thánh Phaolô. Người đã chép lại bài thánh ca để gửi cho giáo dân Philip. Họ đang có nhiều bất hòa và cãi cọ, mà nguyên nhân là những sự kèn cựa không chịu nhịn nhục nhau. Thế nên, chép bài thánh ca gửi cho họ, thánh Phaolô muốn họ nhìn vào gương Chúa Giêsu mà đừng ganh tị vì hư danh nữa, nhưng hãy khiêm nhượng và vâng lời.
Lời khuyên này đối với chúng ta nhiều khi hãy còn thức thời và thiết thực. Nếu chúng ta muốn cho các tương quan xã hội tốt đẹp hơn, há chẳng phải trở về gương Chúa Giêsu trên Thập giá sao? Hơn nữa mỗi khi muốn tiếp tục công việc cứu thế, thiết tưởng chúng ta phải trở về với Thánh giá Chúa Giêsu. Ðó là dấu hiệu độ sinh duy nhất đã được Thiên Chúa mạc khải từ đầu trong sách Dân số cũng như các sách Tiên tri. Chúng ta phải nhìn vào với lòng tin. Chúng ta phải nhìn vào để bắt chước. Chắc chắn chúng ta sẽ được cứu độ và có thể cứu thế.
Mầu nhiệm Thánh giá giờ đây được cử hành trong Thánh lễ. Ðức Giêsu không nghĩ phải giằng cho được vinh dự của một Thiên Chúa. Người chấp nhận hình bánh rượu tầm thường để nên lương thực nuôi sống chúng ta. Người dùng hình thức thập giá này để thông ban tinh thần của Người cho chúng ta.
Ðó là tinh thần yêu mến vâng phục Thiên Chúa; nhưng đồng thời cũng là tinh thần yêu thương đồng loại cho đến cùng đến nỗi thí ban cả mạng sống mình để mọi người được cứu độ. Chúng ta hãy học và đem ra thi hành trong đời sống cả hai mặt của tinh thần yêu thương đó, tức là vừa mến Chúa vừa thương người, không phải chỉ bằng tư tưởng hay môi miệng nhưng bằng cả việc làm và sự sống. Chắc chắn như vậy có khổ, có thiệt thì cũng chỉ là những hy sinh vinh quang nói lên mầu nhiệm Thánh giá là dấu hiệu độ sinh, mà chúng ta suy tôn hôm nay.
Suy Niệm 16: Lễ suy tôn Thánh Giá
(Lm. Trần Bình Trọng)
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Suy tôn Thánh giá. Thánh giá là một nghịch lý trong đạo Thiên Chúa giáo nói chung và đạo công giáo nói riêng. Một đàng thánh giá là nguyên nhân thất vọng, tai họa và sự chết. Ðàng khác Thánh giá mang lại nguồn hy vọng, toàn thắng và sự sống. Trước khi Ðấng Cứu thế đến, thánh giá là hình phạt khiếp sợ cho tội nhân. Bị coi là một tội nhân nên Ðức Giêsu phải chịu đóng đinh trên thánh giá với hai người trộm cướp. Ngày nay Thánh giá đã trở nên dấu hi vọng và toàn thắng cho người Kitô giáo. Ðó chính là điều mà thánh Phaolô đã khẳng định: Rao giảng Ðức Kitô chịu đóng đanh, điều mà người Do thái coi là ô nhục, không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hi lạp, Ðấng ấy chính là Ðức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa (1Cr 1,23-24).
Phúc âm hôm nay nhắc đến một việc khủng khiếp xẩy ra cho dân Chúa trong sa mạc trên đường tìm về đất hứa. Khi dân chúng phàn nàn, kêu trách Chúa vì họ thiếu đồ ăn, nước uống, Chúa phạt họ bằng cách cho rắn độc đến cắn. Rồi với lòng thương xót, Chúa lại truyền cho ông Môsê làm cây gậy đồng để cứu chữa họ. Bất cứ khi nào ai bị rắn cắn, mà nhìn lên con rắn đồng thì được chữa khỏi (Ds 21,4b-9). Ðức Giêsu coi việc treo con rắn đồng trong sa mạc là dấu chỉ Người sẽ bị treo trên thập giá để những ai tin vào Người thì được sống muôn đời (Ga 3,15). Thánh Phaolô cũng đã rao giảng về Ðức Kitô chịu đónh đanh cho tín hữu Phi-líp-phê: Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự (Pl 2,8).
Như vậy theo Thánh kinh thì ơn cứu độ đến với loài người qua thánh giá và phục sinh. Thánh giá và phục sinh của Ðức Kitô không thể nào tách rời được. Không có thánh giá, không thể có phục sinh. Không có phục sinh, không thể có sự sống vĩnh cửu. Ðó là lý do tại sao Giáo Hội có thể nói đến sự toàn thắng của thánh giá trong nền tảng thần học của thánh giá.
Người Kitô giáo không thể tin vào Ðức Kitô mà lại chối bỏ thánh giá. Người Kitô giáo không thể chối bỏ thánh giá, mà phải tôn vinh Thánh giá như phương tiện cứu rỗi. Họ phải hãnh diện về biểu hiệu của Thánh giá. Tuy nhiên họ không được dừng lại ở thánh giá mà phải vượt qua thánh giá và tìm cho ra ý nghĩa của việc mang vác thánh giá. Vì có sự liên hệ giữa thánh giá và phục sinh mà Ðức Giêsu mời gọi người môn đệ vác lấy thánh giá để theo Người (Mt 16,24; Mc 8,34; Lc 9,23). Tại một một tiểu chủng viện kia trong quá khứ, các chủng sinh được ban giáo sư tập cho thói quen đặt thánh giá bên gối đầu giường để khi chưa ngủ được thì suy niệm về mầu nhiệm tử nạn và phục sinh. Sau khi chịu chức linh mục, có linh mục kia vẫn giữ thói quen để thánh giá bên gối đầu giường. Khi không thấy thánh giá, linh mục đó cảm thấy như thiếu thốn một báu vật gì khiến cho linh mục đó cảm thấy khó ngủ.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay nhắc nhở người tín hữu về nền tảng của đức tin: qua thánh giá thì có triều thiên, triều thiên cứu rỗi, triều thiên đợi chờ những ai chạy tới cùng đích. Ðối với người tín hữu, Thánh giá đã trở nên biểu hiệu của tình yêu thương bao la mà Thiên Chúa dành cho loài người. Do đó mà thánh Gioan Newman đã có thể đặt bút viết: Thập giá Chúa Kitô đã khiến cho những giá trị nhân bản phải được xét lại, bằng cách bầy tỏ một tình yêu mạnh đến nỗi đã san bằng hố sâu giữa sự sống và chết.
Nhìn quanh, người ta thấy biết bao người đang phải mang vác thánh giá về đau yếu, bệnh hoạn và tật nguyền về thể lý, tâm lý và tinh thần. Có những người uống thuốc chữa trị nhiều năm mà bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Có những người đi bác sĩ, nằm nhà thương liên tiếp, mà bệnh tật vẫn còn đó. Nhiều người phải mang vác thánh giá của cảnh băn khoăn, lo âu, sợ hãi và hiểu lầm trong suốt cả cuộc sống.
Nhiều người còn phải mang vác thánh giá của cảnh nghèo túng và đói khát, ta cầu xin Chúa cho đất đai của họ trở nên mầu mỡ để họ có thể sản xuất thực phẩm. Nhiều người phải mang vác thánh giá của cảnh kì thị, ta cầu xin Chúa là sức mạnh và nguồn hi vọng của họ. Nhiều người phải mang vác thánh giá của cảnh bách hại vì tin vào Chúa ngay cả trong thời đại ta đang sống ở những miền đất khác nhau trên thế giới, ta cầu xin Chúa là nguồn an ủi và là sức mạnh của họ, ban chọ họ lòng can đảm, cậy trông. Nhiều người phải mang vác thánh giá của cảnh chia li, ta cầu xin Chúa cho họ được đoàn tụ với người thân yêu. Nhiều người khác phải mang vác thánh giá của cảnh li dị, ta cầu xin Chúa hàn gắn những vết thương lòng của họ.
Cuối cùng ta cầu xin Chúa ban sức mạnh và lòng can đảm cho những người phải mang vác những thánh giá khác nhau của cuộc sống để họ có thể biến đổi thánh giá thành dụng cụ của sự toàn thắng và ơn cứu độ.
Lời cầu nguyện cho những ai đang phải mang vác thánh giá của cuộc sống:
Lậy Ðức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người!
Vì yêu thương nhân loại,
Chúa đã chịu đau khổ và vác thánh giá vì tội lỗi loài người
gồm tội lỗi của chính con.
Xin Chúa ban sức mạnh và niềm an ủi cho những ai
đang phải vác thánh giá của cuộc sống
về bệnh tật, đau khổ phần hồn, phần xác và tinh thần.
Xin Chúa làm vơi nhẹ những thánh giá của họ
và biến đổi thánh giá của họ thành dụng cụ cứu rỗi. Amen.
Suy Niệm 17: Suy tôn Thánh Giá
Thập giá nhắc đến một nghịch lý này: Chính lúc hạ mình xuống cùng cực, Con Người được nâng lên, được tôn vinh. Lúc Người bị kết án tử hình, thế gian lại được cứu độ.
Bài ca của Thánh Phaolô
Thập giá tới độ thấp nhất trong âm điệu của bài ca trong thơ gởi giáo đoàn Philíphê. Âm điệu của Con Thiên Chúa đời đời tự hạ mình xuống làm người, rồi lại tiến hành được tôn vinh trở về với vinh quang Thiên Chúa. Trung tâm thập giá là phụng vụ, khổ hình là dụng cụ tối cao đem ơn cứu chuộc đến cho loài người. Thập gía mang nặng ý nghĩa sự dữ cùng cực của chúng ta và vì Đức Giê-su đã chịu treo vào nó là dấu chỉ ơn cứu độ chúng ta.
Tôn vinh
Thánh Gioan dùng hình ảnh con rắn đồng Môsê treo lên, những ai bị rắn độc cắn nhìn lên rắn đồng sẽ được chữa khỏi. Đức Ki-tô bị treo lên thánh giá đem lại ơn cứu độ cho những người nhìn lên Người với lòng cậy trông, sẽ nhận biết Người là con Thiên Chúa. Người trộm lành, môn đệ Gioan, viên sĩ quan Rôma, ông biệt phái Nicôđêmô, ông Giuse Arimathia, nghị viện hội đồng, đây là những vị được vây quanh Thánh Giá Đức Giê-su, mọi sự đã lìa những vị này, chỉ có một người liên kết với các vị ấy là Đức Giê-su trên thập giá.
Chúng ta sẽ không bao giờ hiểu hết những mầu nhiệm của Thiên Chúa: Đức Giê-su là Người tôi tớ đã chiếu tỏa vinh quang Thiên Chúa. Vinh quang xuất hiện từ thập giá, một nghịch lý của mặc khải Kitô giáo tại thế này. Thiên Chúa đã hạ mình thấp hèn trong Đức Giê-su, để mặc khải những sự lạ lùng hơn tất cả mọi quyền năng của thế gian này và nhờ thế đã giải thoát chúng ta khỏi thế gian này.
Trong khi nhìn lên thánh giá, chúng ta cảm tạ Chúa Cha, Ngài đã ban Con Ngài cho chúng ta, và chúng ta nhận ra ý nghĩa đời sống của chúng ta:
Mỗi lần chúng ta cầu nguyện, chúng ta biết đặt mình trước mặt Đức Ki-tô trên thánh giá. Chúng ta muốn chiêm ngắm Chúa, thì hãy nhìn lên thánh giá, Ngài sẽ hiện ra cho chúng ta nhìn ngắm, nhờ cái nhìn này chúng ta được cứu độ.
J.M
Suy Niệm 18: Từ thập giá đến Thánh Giá
(Lm Vũ Xuân Hạnh)
Suy niệm lễ Suy tôn Thánh Giá, tôi nghe Chúa nói với tôi: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta” (Mc 8, 34). Thập giá đâu phải chuyện đùa, đâu phải cứ muốn vác là kê vai vác. Muốn vác phải bỏ mình! Chính vì thế, lời ấy trở thành một thử thách, còn hơn thế, là một thách thức lớn trong đời ta. Từ bỏ đã khó, từ bỏ chính mình lại càng khó. Nhưng Chúa không dừng ở đó, Người mời gọi ta đi xa hơn để theo Người: Từ bỏ chính mình vác thập giá. Lời Chúa quả là một đòi hỏi quyết liệt.
Suy nghĩ về lời mời gọi “Ai muốn theo Ta…” như thế, tôi lại đọc sứ điệp Giới trẻ lần thứ XV. Ngay từ đầu số 1 của sứ điệp, bằng những lời lẽ của một người cha đầy tình cảm, thân thiện và trìu mến, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II viết cho các bạn trẻ: “Các bạn trẻ thân mến, cách đây 15 năm (trong những ngày Đại Hội Giới Trẻ lần thứ I năm 1985), cha đã trao cho các con cây Thánh Giá lớn bằng gỗ và mời gọi các con đem đi khắp thế giới như DẤU CHỈ TÌNH YÊU của Chúa Giêsu đối với nhân loại, và để loan báo cho mọi người rằng chỉ nơi Đức Giêsu tử nạn và phục sinh mới có ơn cứu độ và cứu chuộc, kể từ ngày đó, nhờ những cánh tay và những tâm hồn quảng đại, cây Thánh Giá này đã trải qua một cuộc hành hương dài không ngưng nghỉ qua các lục địa, hầu chứng tỏ rằng Thánh Giá luôn đồng hành với người trẻ và người trẻ luôn đồng hành với Thánh Giá”.
“DẤU CHỈ TÌNH YÊU”! Đúng vậy, có hình tượng nào là biểu tượng của tình yêu lớn lao bằng Thánh Giá, có lý lẽ nào là bằng chứng hùng hồn của tình yêu cho bằng Thánh Giá. Chỉ có Thánh Giá mới là dấu chỉ tình yêu đúng nghĩa nhất, trọn vẹn nhất: Tình yêu của một người chết thay cho muôn người qua muôn thế hệ. Hơn thế nữa, tình yêu của một vì Thiên Chúa quyền năng đã làm người chết thay cho loài người.
Vì thế, chỉ có thánh giá mới là lẽ sống và hướng sống mà con người phải học lấy để sống và yêu. Cũng chính vì thế, chỉ có Thánh Giá, không chỉ cây Thánh Giá của Đức Thánh Cha trao - đúng hơn, cây Thánh Giá ấy là biểu trưng cho một tình yêu Thánh Giá mà Chúa Kitô thắp lên trong lòng người - mới xứng đáng được các bạn trẻ lãnh nhận và mang đi khắp thế giới, loan báo cho mọi người: “Chỉ nơi Chúa Kitô Tử nạn và Phục sinh mới có ơn cứu độ và cứu chuộc”.
Cũng vậy, chỉ có Thánh Giá Chúa Kitô, chỉ có tình yêu Thánh Giá Chúa Kitô thắp trong tâm hồn, mới đồng hành với người trẻ trên mọi nẻo đường cuộc sống, và người trẻ đồng hành với Thánh Giá để hô to trên khắp trần gian về một tình yêu Thánh Giá bằng lời và bằng đời chứng tá, thậm chí cả mạng sống để làm chứng tá. Hiểu lời Đức Thánh Cha như thế, tôi cũng muốn ngỏ với bạn dù ở lứa tuổi nào: Tình yêu Thánh Giá là một tình yêu mà chúng ta có được nhờ lãnh nhận từ nơi Chúa Kitô. Tình yêu ấy phải được thắp trong cuộc đời bằng cả cuộc đời của bạn, của tôi. Nếu được Thánh Giá đồng hành, can đảm chấp nhận để Thánh Giá đồng hành và cùng đồng hành với Thánh Giá, ấy chính là lúc bạn và tôi đang hướng về Chúa Kitô để làm trọn lời mời gọi: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta”.
Bởi vậy, dẫu Lời Chúa là một đòi hỏi quyết liệt, và quyết liệt đến mức tưởng như vượt quá sức, thì Giáo Hội một khi lãnh nhận Lời ấy, qua vị Cha chung, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, vẫn tiếp tục mời gọi ta tháp nhập thập giá cuộc đời mình vào Tình yêu của Thánh Giá Chúa Kitô để không chỉ Thánh Giá Chúa Kitô, mà chính ta từ nay phải là dấu chỉ của tình yêu Thánh Giá sau khi được tình yêu Thánh Giá Chúa Kitô thánh hóa. Trở nên dấu chỉ, ta sẽ nói cho mọi người rằng: Dẫu lời mời gọi bước theo Chúa có quyết liệt đến đâu, ta vẫn có thể vượt qua, vẫn có thể trung thành, miễn là ta chấp nhận đức tin, chấp nhận phó thác chính mình nơi tình yêu Thánh Giá Chúa Kitô. Chỉ có đức tin mới làm cho ta đủ sức gánh lấy thập giá cả đời mình. Đức tin chính là đôi mắt của tâm hồn để nhìn Chúa Kitô đi trước trên đường thập giá mà bước theo sau.
Nếu hiểu thập giá là nỗi chông chênh, là nước mắt, là bệnh tật, là đớn đau trong đời, là tình yêu vắng bóng và cô đơn, buốt giá lên ngôi…, thì dẫu cho người có đức tin hay không có đức tin, đều phải chấp nhận vác lấy trong từng ngày sống của mình. Nhưng nếu tôi tin, tôi sẽ yêu mến cây thập giá của đời mình hơn. Đức tin sẽ cho tôi cảm nhận thập giá dễ chịu hơn , vừa sức hơn. Nếu tôi tin, tôi sẽ hiểu rất rõ rằng, cùng với Chúa Kitô, Đấng đã dùng Thánh Giá để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa, sẽ làm cho thập giá đời tôi thành Thánh Giá. Và thập giá cuộc đời chỉ là giới hạn, sẽ được tình yêu Thánh Giá của Chúa Kitô thánh hóa, để những gì chỉ là giới hạn trong cuộc đời mang lấy giá trị vĩnh cửu. Khi tin vững như thế, khi yêu mến Thánh Giá Chúa Kitô, và chấp nhận bước theo Người như thế, thái độ chấp nhận ấy, chính là câu trả lời cho lời mời gọi: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình…”.
Tắt một lời: Khi chấp nhận đồng hành cùng Thánh Giá, là đang hướng tới lời mời gọi của Chúa: “Ai muốn theo Ta...”. Nhưng khi lòng chấp nhận tin nơi tình yêu Thánh Giá và dám phó thác cho tình yêu Thánh Giá Chúa Kitô, để từng ngày sống ta bước đi với Người, để tình yêu Thánh Giá của Người thánh hóa thập giá đời ta, biến thập giá ấy thành Thánh Giá mang ơn cứu độ và cứu chuộc, lúc ấy ta không chỉ hướng tới lời mời gọi của Chúa nhưng là đang thực thi lời mời gọi ấy. Vì lúc ấy chính là lúc ta chấp nhận vác Thánh Giá với Người cách dứt khoát nhất. Và khi chấp nhận vác Thánh Giá như thế, cũng chính là lúc ta chấp nhận từ bỏ mình cách triệt để nhất.
Suy Niệm 19: Nhờ Thánh Giá hướng dẫn.
Phi trường mới ở Pittsburgh, Penssylvania, là một trong những phi trường lớn nhất và được trang bị đầy đủ nhất ở Hoa Kỳ. Chỉ một vài giây trong thời gian bay từ phi trường là nhà thờ Hiệp Nhất, trên đường thẳng với một trong những đường bay bận rộn nhất của phi trường. Một vài phản lực cơ bay quá thấp trên nhà thờ đến nỗi giáo dân sợ ngọn tháp nhà thờ bay đi mất. Người ta quyết định đặt một Thánh giá cao 3m bằng đèn điện quang ngay ở ngọn tháp là điểm cao nhất của khu vực.
Một phi công đã nhìn nhận rằng: “Hầu hết chúng tôi đều dùng ánh sáng Thánh giá làm biển chỉ đường tới phi trường”.
Hôm nay, chúng ta cử hành điều được gọi là chiến thắng của Thánh giá. Hãy lưu ý là chúng ta tôn vinh Thánh giá hơn là tượng chiụ nạn. Thánh giá không còn thân xác Chúa Kitô treo trên đó, còn tượng chịu nạn thì có mang thân xác Ngài. Tại sao chúng ta tôn vinh thánh giá hơn là tượng chịu nạn? Bởi vì các Kitô hữu tiên khởi chỉ tôn vinh thánh giá, họ muốn đưa ra chân lý cao cả là Chúa Kitô đã chiến thắng nhờ thánh giá, Ngài không còn bị đóng đinh vào đó nữa, bởi sự phục sinh, không những Ngài chỗi dậy khỏi mồ mà còn làm cho thánh giá thành dấu chỉ chiến thắng.
Trong năm thế kỷ đầu của Kitô giáo, Chúa Kitô rất ít được tiêu biểu trên thánh giá, và không còn đau khổ, chết chóc và thất bại, nhưng là chiến thăng, sinh động, vinh quang. Cánh tay Ngài giang rộng ra, nhưng không còn đinh sắt để mời gọi mọi người, và cầu nguyện cho tất cả chúng ta.
Còn lý do khác nữa chúng ta tôn vinh thánh giá là các Kitô hữu tiên khởi quay mặt về hướng Đông khi cầu nguyện, vì đó là hướng mà họ mong đơi Chúa Kitô trở lại. Dần dần thay vì quay mặt về hướng đông, họ quay về thánh giá là biễu tượng ơn cứu độ chúng ta, và họ cảm thấy là họ quay về đúng hứơng. Và họ thực hành như vậy.
Thánh giá là cột trụ chỉ dẫn cho họ và cũng là cho chúng ta. Thánh giá chiếu sáng của ngọn tháp nhà thờ Hiệp Nhất ở Pittsburgh là cột trụ hứơng dẫn cho các phi công khởi hành và trở lại phi trường. Thánh giá cũng hứơng dẫn cho bạn và cho tôi khi chúng ta khởi sự và hoàn tất bất cứ côngviệc nào dù nhỏ hay lớn.
Khi thánh giá hứơng dẫn chúng ta, thì chúng ta có thể chắc chắn là mình ở trên đường ngay thẳng, để chúng ta thật là đang “ở trên con tàu thiêng liêng”. Hãy khởi sự và kết thúc mọi công việc với Thánh gía chiến thắng và rồi mỗi phận sự sẽ là một chiến thắng, thành công. Chúng ta bắt đầu Thánh lễ này với dấu thánh giá, chúng ta sẽ kết thúc thánh lễ này với dấu thánh giá. Chúng ta dâng lên Thiên Chúa mọi sự chúng ta làm trong và nhờ lễ vật hiến tế này của Chúa Kitô. Ngài đã chiến thắng nhờ thánh giá đó. Chúng ta sẽ chiến thắng nhờ thánh giá đó, biểu tượng vẻ vang cho những thành công của chúng ta hôm nay và vào ngày tận cùng.
Đó là tinh thần của các Kitô hữu tiên khởi, tinh thần của công đồng Vatican II, mà muốn chúng ta làm nổi bật sự phục sinh. Trong tinh thần đó, chúng ta có thể làm mọi sự. Chúa Kitô chiến thắng ở với chúng ta.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
Suy Niệm 20: Ý nghĩa của việc suy tôn Thánh Giá Chúa
(Antôn Hoàng Văn Phúc, OP)
Nếu chữ Vạn được xem như là biểu tượng của Phật giáo, thì Thánh Giá chính là biểu tượng của Kitô giáo. Vì sao? Ắt hẳn đó không phải vì vẻ đẹp của biểu tượng này, cũng không phải vì sự đơn giản của nó, nhưng chính vì Đấng nằm trên cây gỗ đó đã dang rộng vòng tay để cứu chuộc nhân loại khỏi mọi tội lỗi. Nói cách khác, vì giờ đây “Thánh Giá trở thành biểu tượng của chính Đức Kitô”.
Như vậy, chính nhờ Đức Kitô mà cây Thánh Giá đã trở nên một biểu tượng linh thánh và là một phương dược linh nghiệm cho người Kitô hữu, như Công Đồng Vatican II đã nói “Nhờ Chúa Kitô, Thiên Chúa đã hoàn toàn nguôi lòng để chúng ta được giao hoà với Ngài và cho chúng ta được phụng thờ Ngài một cách hoàn bị.” Nói như thế để thấy được rằng Thánh Giá là một cái gì đó rất thiêng liêng và quan trọng đối với người Kitô hữu vì sự quy hướng về Đức Kitô. Để biểu thị sự thiêng liêng và tầm quan trọng của Thánh Giá, Hội Thánh không ngừng nhắc nhở con cái mình trân trọng và yêu mến Thánh Giá, đặc biệt qua các nghi thức Phụng vụ. Cụ thể Giáo Hội dành ngày 14 tháng 9 hàng năm để cử hành Thánh lễ Suy tôn Thánh Giá và cách riêng cử hành nghi thức suy tôn Thánh Giá vào chiều Thứ Sáu Tuần Thánh. Vậy suy tôn Thánh Giá là gì và có ý nghĩa như thế nào?
Theo tác giả Dom Robert Le Gall, suy tôn Thánh Giá là “việc tôn kính Thánh Giá, khí cụ đem lại ơn cứu độ và tôn vinh Đức Kitô”. Bên cạnh đó, Ban Từ vựng Công Giáo trực thuộc Uỷ ban Giáo lý Đức tin của Hội đồng Giám mục Việt Nam cũng đưa ra một định nghĩa xem ra đầy đủ và chính xác hơn “Suy tôn Thánh Giá là nghi thức thờ lạy và hôn kính Thánh Giá vào chiều thứ Sáu Tuần Thánh nhằm tưởng niệm cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu.” Như vậy, với định nghĩa này ít nhiều chúng ta cũng đã hiểu được ý nghĩa của việc suy tôn Thánh Giá.
Thực thế, việc suy tôn Thánh Giá không đơn thuần chỉ là một nghi thức Phụng vụ được Giáo Hội cử hành hàng năm vào ngày 14/9 hay chiều thứ Sáu Tuần Thánh, nhưng ẩn sâu trong đó là cả một ý nghĩa thánh. Quả thật, trong ngày lễ suy tôn Thánh Giá, ca nhập lễ được cất lên như sau “Chúng ta phải hãnh diện về Thập Giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nơi Người, ta được giải thoát, được sống và được sống lại. Chính Người giải thoát và cứu độ ta.” Như vậy, việc suy tôn Thánh Giá là một sự hãnh diện và là một lời tuyên xưng của người Kitô hữu vào Thánh Giá. Hãnh diện và tuyên xưng vào Thánh Giá vì giờ đây Thánh Giá là “một sự khẳng định về cuộc chiến thắng của Đức Giêsu Kitô”. Cuộc chiến thắng mà Ngài đã dành được trước quyền lực sự dữ.
Nếu như hình phạt đóng đinh vào thập giá là dấu chấm hết cho một sự sống, cho một tình yêu thì giờ đây Đức Giêsu đảo ngược hoàn toàn giá trị ấy. Ngài biến cây thập giá khổ hình thành cây mang lại sự sống. Ngài biến cây thập giá hận thù thành cây mang lại tình yêu vĩnh cửu. Thế nên Thánh Giá đã trở thành dấu chỉ của tình yêu và sự sống. Thánh Giá trở thành biểu tượng của Tình Yêu cứu độ. Như vậy suy tôn Thánh Giá còn có ý nghĩa là suy tôn một tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho con người qua Đức Giêsu Kitô.
Với cái chết của Đức Giêsu trên Thánh Giá, loài người giờ đây được giao hoà với Thiên Chúa. Với cách hiểu này, một cách nào đó chúng ta có thể nói nếu không có cái chết của Đức Giêsu thì loài người vẫn đang mãi xa cách Thiên Chúa, chưa được giao hoà với Người. Như vậy việc suy tôn Thánh Giá là một hành động nói lên lòng biết ơn của chúng ta đối với Chúa Giêsu, vì Ngài đã chịu chết và đã mở cho ta con đường dẫn tới sự sống đời đời. Không những thế hành động suy tôn Thánh Giá còn là một sự biểu lộ niềm tin của chúng ta vào Chúa Giêsu Kitô, và cũng là dịp để bày tỏ mối thân tình, sự khăng khít của ta với Ngài.
Đức Giêsu đã dùng cây Thánh Giá để kéo nhân loại lên với Thiên Chúa, như lời Ngài nói “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi.” Như vậy, nếu năm xưa nhờ cây Thánh Giá, Chúa Giêsu đã kéo mọi người lên với Thiên Chúa thì nay suy tôn Thánh Giá như là hành động để quy tụ mọi người tản mác khắp nơi về dưới chân Thánh Giá trong cùng một niềm tin vào sự phục sinh của Ngài.
Bên cạnh đó, lời tuyên bố của chủ sự và lời đáp của cộng đoàn trong nghi thức Suy Tôn Thánh Giá vào chiều thứ Sáu Tuần Thánh: “Đây là cây Thánh Giá, nơi treo Đấng Cứu Độ trần gian” – “Chúng ta hãy đến thờ lạy” cũng cho ta một ý nghĩa thâm sâu về việc suy tôn Thánh Giá. Lời tuyên bố của chủ sự “Đây là cây” như muốn nói lên sự đau đớn tàn bạo và là một hình phạt ghê sợ nhất cho kẻ trọng tội. Qua đó, việc suy tôn Thánh Giá nhằm cho mọi người thấy một cách công khai, rõ ràng rằng Đức Giêsu đã chấp nhận chịu những đớn đau và hình phạt dù rằng Ngài không phạm tội gì. Thế nhưng, Giáo Hội không dừng lại ở đó. Giáo Hội muốn mọi người thấy rằng cây gỗ, “nơi treo Đấng Cứu Độ trần gian” giờ đây đã trở thành biểu tượng chiến thắng, biểu tượng cứu độ. Giáo Hội như muốn nhấn mạnh thêm ý nghĩa chiến thắng khi mời gọi mọi người: “Chúng ta hãy đến thờ lạy”.
Trên đây là ý nghĩa của việc suy tôn Thánh Giá. Có thể với nhiều người, việc tôn thờ Thánh Giá là một việc làm ngu xuẩn và điên rồ, như thánh Phaolô đã từng nói về người Do thái và dân ngoại.
Trái lại, với người Kitô hữu, đó lại là một hành động thánh, một hành động diễn tả đức tin. Và với người Kitô hữu, thiết nghĩ cuộc sống chỉ thực sự ý nghĩa khi hành động thánh này không bị giới hạn chỉ trong ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá hay trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh nhưng được cử hành liên tục trong suốt cuộc đời.
Suy Niệm 21: Con Người cũng phải bị treo lên
Thập giá đã từng là hình phạt, là thứ khổ hình dành cho các nô lệ hay tử tội nguy hiểm. Hình phạt Thập giá không những đem đến một cái chết thảm khốc cho tử tội, mà còn là một sự hổ thẹn và nhục nhã nhất cho người bị kết án. Thế nhưng, Đức Giêsu Kitô, Con Chúa Trời hằng sống đã chịu đóng đinh và chịu chết trên Thập Giá. Thập Giá giờ đây không còn là một sự nhục nhã nữa, nhưng trở thành một phương thế cứu chuộc con người cách hữu hiệu, trở thành một đòi buộc cho những ai muốn bước vào cõi sống vinh quang theo gương Thầy Chí Thánh Giêsu. Thập giá giờ đây trở thành vinh quang và niềm tự hào cho những người Kitô hữu đích thật.
Trong Tin Mừng hôm nay, Thánh Gioan cho chúng ta thấy Thập giá không phải là một đau khổ hay nhục nhã mà là vinh quang của Thiên Chúa đã đến. Khi nói đến Thập Giá, Thánh Gioan luôn gợi lên sự vinh quang của Đức Giêsu chiến thắng. “Khi nào các ông giương cao Con Người lên” (Ga 8, 28) đã ám chỉ việc tôn vinh Đức Giêsu trên trời. Gỗ
Thánh giá và cây Thánh giá trở thành cây sự sống (x. Kh 22, 2.14). Mỗi khi chiêm ngắm thập giá Đức Kitô, chúng ta cần nhận ra rằng: Thập giá là phương thế cứu độ tuyệt vời cho con người. Thập giá chính là sự khôn ngoan của Thiên Chúa trong chương trình cứu độ mà Ngài đã thực hiện vì yêu thương cho con người. Thập giá phải trở thành niềm tự hào của những người tín hữu đích thực của Đức Kitô. Thập giá là chìa khóa mở cửa Thiên đàng cho những ai trung thành bước theo Đức Kitô trên con đường tiến về Quê trời.
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa, xưa Chúa đã dùng thập giá để cứu chuộc chúng con. Chúa cũng có thể cứu chúng con bằng những phương thế khác. Nhưng Chúa đã không chọn cách nào khác ngoài việc chết trên thập giá. Và như thế chúng con mới hiểu được Chúa yêu chúng con đến cùng. Chúa đã mang lại cho thập giá một ý nghĩa mới: ý nghĩa của tình yêu trọn hảo. Xin Chúa giúp mỗi người chúng con cũng biết đón nhận thập giá của bản thân với tron vẹn tâm tình yêu thương. Yêu Chúa và yêu mọi người, để tình Chúa luôn mãi ở trong con. Và cuộc đời con luôn diễn tả tình yêu Chúa. Amen.
Suy Niệm 22: Lạy Chúa, Chúng Con Tôn Thờ Thánh Giá Chúa
(Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Phụng vụ Giáo hội hàng năm, dành ngày 14 tháng 9 để mời gọi con cái mình cử hành lễ Suy Tôn Thánh Giá Chúa Giêsu với niềm vui vì được ơn cứu độ. Ngày này, Thánh Giá được trình bày không phải dưới khía cạnh khổ đau, hay nặng nề thiết yếu của cuộc sống cần phải vác theo Đức Kitô, nhưng dưới khía cạnh vinh quang, như cái cớ để những người tin vào Chúa Giêsu tự hào và không có khóc lóc.
Cử Hành Với Niềm Vui
Thánh Giá, một khí cụ man rợ và khủng khiếp nhất trong lịch sử nhân loại người Do thái dùng làm hình khổ để đóng đanh Chúa Giêsu, nhưng Người đã biến nó thành phương thế để cứu độ thế gian. Từ đó, Thánh Giá trở nên Niềm Hy Vọng độc nhất trong Vinh Quang toàn thắng của Đức Kitô, ban tặng cho con ngươi hồng ân tha thứ và mọi phúc lành. Vì thế, “chúng ta phải hãnh diện về thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nơi Người, ta được giải thoát, được sống và được sống lại; chính Người giải thoát và cứu độ ta” (Ca nhập lễ).
Điều này được phản ánh trong các bài đọc. Thánh Phaolô coi Thánh Giá là động lực lớn lao để “tán dương” Chúa Giêsu: “Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu” (Pl 2, 8-11). Còn theo thánh Gioan thì Thánh Giá như là khí cụ để cứu độ con người: “Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời” (Ga 3, 14). Nên hôm nay Giáo hội cử hành lễ suy tôn Thánh Giá với niềm vui vì được ơn cứu độ.
Nhìn ngắm Thánh Giá, chúng ta sẽ khám phá ra câu chuyện của tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại nói chung và cách riêng mỗi người chúng ta.
Câu chuyện tình yêu
Khi suy tôn Thánh Giá, Giáo hội, Hiền Thê yêu dấu nhìn lên Thánh Giá nơi treo Chúa Giêsu vị Phu Quân của mình, chân tay đanh nhọn đâm thâu, cạnh sườn lưỡi đòng đâm thủng, máu cùng nước chảy ra làm cho Giáo hội nhớ đến ngày mình được sinh ra từ cạnh sườn Chúa với tất cả tình yêu, lúc Chúa ngủ trên Thánh Giá. Bởi theo thánh Ambrosiô, lúc Ađam đang ngủ Thiên Chúa đã lấy xương sườn của ông để tạo dựng Evà thế nào, thì lúc Chúa Giêsu chết nằm trên Thánh Giá, Giáo hội cũng được sinh ra từ Trái Tim bị đâm thủng của Chúa Giêsu như vậy, và Giáo hội tưởng nhớ đến tình yêu dâng trào ấy.
Thật không thể hiểu nổi Thiên Chúa yêu thương chúng ta biết chừng nào: “Yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một” (Ga 3,16), mặc dù biết trước Con mình sẽ bị đóng đinh, được giương lên cao khỏi đất như “Con Rắn Đồng” trong sa mạc. Thật là một sự hy sinh lạ lùng, không thể nào hiểu thấu, mà thánh Phaolô phải diễn tả bằng một cách khác để bổ sung: “Thiên Chúa đã không tha cho chính Con Một của mình, nhưng phó nộp Người vì chúng ta hết thảy." (Rm 8,32). Người đã yêu chúng ta bằng tình yêu vô bờ bến, tình yêu thương xót và thứ tha, khi “sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ con của Người mà được cứu độ” (Ga 3,17).
Đây chính là câu chuyện về ơn cứu độ của chúng ta, câu chuyện tình của Chúa Cha, chuyện tình của Chúa Con, câu chuyện của Thánh Giá. Giảng trong Thánh lễ sáng thứ ba ngày 15/03/2016, tại nguyện đường Thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: "Nếu muốn biết ‘câu chuyện tình’ mà Thiên Chúa dành cho nhân loại, chúng ta phải ngắm nhìn Thánh Giá, nơi ấy có một vị Thiên Chúa đã hoàn toàn ‘trút bỏ vinh quang’, sẵn sàng bị ‘vấy bẩn’ bởi tội lỗi con người để cứu con người khỏi chết. Vị Thiên Chúa ấy sẽ hủy diệt vĩnh viễn cái tên xấu xa đích thực của sự dữ mà Sách Khải huyền gọi là ‘con rắn xưa’. Tội lỗi là việc làm của Satan. Nhưng Đức Giêsu đã chiến thắng Satan. Ngài đã tự hạ mình xuống, trở thành hiện thân của tội để nâng con người lên".
Mầu nhiệm Thánh Giá diễn tả tình yêu vô bờ bến, tình yêu không thể nào mô tả được của Thiên Chúa đối với nhân loại. Trong lịch sử cứu độ, con rắn được nhắc đến lần đâu tiên trong Sách Sáng Thế và lần cuối cùng là trong Sách Khải Huyền. Rắn là loài vật mà theo Kinh Thánh mang một biểu tượng mạnh mẽ của sự nguyền rủa, của tội lỗi (x.St 2,) và một cách mầu nhiệm cũng là biểu tượng của sự cứu chuộc. Trong hành trình sa mạc. Dân chúng không muốn đi trong cảnh lương thực ít ỏi như thế nữa. Họ kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê. Chúa cho rắn bò ra làm hại những kẻ cứng lòng không tin, để gieo rắc sự sợ hãi và cái chết cho đến khi dân chúng biết chạy đến nài xin Môsê sự tha thứ. Thiên Chúa lại truyền cho Môsê đúc một con rắn đồng treo lên cây gỗ, để tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống. Thật là mầu nhiệm, mầu nhiệm ở chỗ: Khi dân hối hận, Thiên Chúa không giết chết các con rắn, nhưng Ngài để chúng đó. Nếu có con rắn nào làm hại dân chúng, chỉ cần họ nhìn lên con rắn đồng thì sẽ được cứu. Giương cao con rắn lên.
Con rắn tượng trưng cho tội lỗi. Con rắn giết hại người ta nhưng nó cũng chữa lành. Và đó chính là mầu nhiệm của Đức Kitô. Thánh Phaolô nói: "Đức Giêsu là Đấng chẳng biết tội là gì, thì Thiên Chúa lại biến Người thành hiện thân của tội." Như vậy cách nào đó, Đức Giêsu chính là con rắn được giương cao lên. Bài đọc I ngày lễ chất chứa cái nhìn có tính tiên tri: Chúa Giêsu như là hình ảnh con rắn," hiện thân của tội lỗi", đã được giương cao lên để cứu độ con người. (x. Trích bài giảng lễ thứ ba n 15/03/2016, tại nguyện đường Thánh Marta, Đức Thánh Cha Phanxicô).
Lạy Chúa Giêsu Kitô, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa, vì Chúa đã dùng Thánh Giá mà cứu chuộc trần gian. Amen.
Suy Niệm 23: Thánh Giá Chúa
(Lm. Hiền Lâm)
Triết học cổ đại Hi-lạp, đặc biệt Socrate, Platon và Aristote, thường sử dụng lối văn đối thoại để chuyển tải tư tưởng. Tin Mừng Gioan cũng từng sử dụng lối văn đối thoại này, khi kể lại cuộc trò chuyện giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô, hầu chuyển tải ý nghĩa về ơn cứu độ.
“Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ”. Sứ mạng thiên sai của Chúa Giêsu đến là để dùng thập giá mà cứu chuộc thế gian:
* Phải bị “giương cao lên”.
Điều Chúa Giêsu mặc khải thật rõ ràng: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời”.
Có lẽ đây là nét độc đáo nhất chỉ gặp thấy nơi Tin Mừng thứ IV, con đường linh đạo này có một mức độ quyết liệt hơn, vì trong khi 3 Tin Mừng Nhất Lãm nói đến việc muốn đạt đến Ơn Cứu Độ phải vác lấy thập giá, còn đối với Tin Mừng thứ IV đòi phải được “giương cao lên” nghĩa là không chỉ vác mà còn phải bị treo lên, chịu đóng đinh vào khổ giá.
Khác với ba lần nơi các Tin Mừng Nhất Lãm tiên báo cái chết một cách rõ ràng là Chúa Giêsu sẽ lên Giêrusalem chịu khổ nạn, thì Tin Mừng Thứ IV cũng tiên báo ba lần với cách nói: “Con Người được “giương cao lên” (x.Ga 3,14; 8,28; 12,32).
Con Người được giương cao lên, nghĩa là Chúa Giêsu sẽ phải bị treo lên trên thập giá, để nhờ công ơn Cứu Chuộc qua khổ giá, mà Người nâng mọi người lên cao khỏi thế gian, nâng cao lên cõi Trời với Người.
Theo chiều ngang, với cách nói nơi Tin Mừng Nhất Lãm rằng ai muốn theo Chúa thì hãy bỏ mình, vác thập giá mà theo. Còn theo chiều dọc, Tin Mừng Thứ IV lại nói theo chiều đi lên, không chỉ vác mà còn phải được treo lên, nghĩa là phải cùng đóng đinh chính mình vào thập giá như Chúa Giêsu.
Như vậy, dù “đi theo” hay “treo lên”, thì Kitô hữu cũng chung một phương thế duy nhất là phải qua thập giá mới đạt đến Ơn Cứu Độ.
* Luận phạt hay cứu độ?
Trong cách nhìn nhân loại, ai trong chúng ta nếu chỉ có một đứa con trai duy nhất, thì chúng ta sẽ coi nó như là tất cả của đời mình, của cả cuộc sống mình, của cả giống nòi mình, nên chúng ta sẽ hết sức cung phụng nâng niu, bằng mọi giá phải bảo vệ nó, và chỉ chấp nhận san sẻ khi cho đứa con xây dựng gia đình với một người con gái để duy trì dòng tộc.
Trong mầu nhiệm Thiên Chúa: Chúa Cha đã đản sinh ra Chúa Con, và Chúa Con là đứa Con Duy Nhất của Chúa Cha từ đời đời. Vì yêu thương con người, Chúa Cha đã cho đứa Con Duy Nhất của mình đến với thế gian. Trong ý nghĩa này, chúng ta có thể hiểu được “văn Chương Gioan” coi Chúa Giêsu như là Tân Lang và Giáo Hội là hiền thê của Người, bởi Chúa Giê-su qua công trình cứu chuộc đã cưới “cô dâu nhân loại” về cho Thiên Chúa Cha.
Nhân loại là con Thiên Chúa theo nghĩa sáng tạo, chứ không theo tử hệ đản sinh như Chúa Con. Nhân loại đó đã ra hư hỏng, nên Chúa Cha đã sai Con mình đến để cứu chứ không phải đến để phạt.
“Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ”. Thật vậy, sứ mạng thiên sai của Chúa Giêsu đến là để dùng thập giá mà cứu chuộc thế gian. Đó là niềm hy vọng lớn lao của nhân loại.
Trong Tin Mừng Gioan, ngay từ đầu đã nhắc tới “Đấng xoá tội trần gian” (Ga 1,29). Trần gian hay thế gian được nói tới ở đây có thể là toàn thể tạo thành, mà tạo thành thì tốt bởi vì là công trình của Thiên Chúa. Nhưng trọng tâm của công trình này là con người – đã trót đặt mình dưới ảnh hưởng của Satan (x.Ga 8,34.44); nghĩa là một sự xuống cấp sa đoạ, con người chịu ảnh hưởng của cái xấu, cái tội, bị cái xấu lợi dụng và làm biến dạng đi. Do đó mà Thiên Chúa “sai Con của Người đến để thế gian được cứu độ”.
Con đường cứu độ của Con Thiên Chúa là thập giá, nên ai muốn được cứu độ thì cũng phải chấp nhận “được treo lên” trên thập giá với Chúa Giêsu. Thế nhưng, giống như hai người con, một người lo làm việc vì yêu thương bố, một người bất đắc dĩ phải làm cho bố vì sợ bố đánh, kết quả là một người đạt được niềm vui nhẹ nhàng còn người kia cảm thấy nặng nề chán nản. Cũng thế, khi đón nhận thánh giá Chúa vì niềm tin vào Ơn Cứu Độ thì thánh giá sẽ trở nên nhẹ nhàng và con người vui vẻ vác đi theo Chúa; ngược lại, nếu ai vác thánh giá vì sợ luận phạt thì thánh giá sẽ nên nặng nề và tuyệt vọng.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa được sai đến thế gian là để cứu độ thế gian chứ không phải lên án thế gian, xin cũng sai chúng con đến với mọi người, đem đến cho họ sự cứu vớt, chứ không phải đến để lên án đồng loại. Xin cho chúng con biết chấp nhận được “giương cao lên”, là chấp nhận đóng con người tội lỗi của mình vào thập giá Chúa, để sau khi chết đi cho tội lỗi, chúng con được trở nên con người mới. Amen.
13/09 Niềm tin vững mạnh
- Viết bởi Lc 7, 1-10
Niềm tin vững mạnh.
Thứ Hai tuần 24 thường niên. – Thánh Gioan Kim Khẩu, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
“Cả trong dân Israel, Ta cũng chẳng thấy lòng tin mạnh mẽ như vậy”.
* Thánh nhân sinh quãng năm 349 tại An-ti-ô-khi-a. Người học cao hiểu rộng, cuộc sống khắc khổ. Sau khi làm linh mục, người nhận nhiệm vụ giảng thuyết, thu hoạch được kết quả khả quan. Năm 397, người được chọn làm giám mục Công-tăng-ti-nốp. Người là mục tử tận tụy, lo chấn chỉnh phong hóa cho giáo sĩ và giáo dân. Vì can đảm làm chứng cho Tin Mừng và bênh vực người nghèo trước cảnh xa hoa vô tâm của người giàu, người đã bị hoàng gia ghen ghét và hai lần bị đi đày, rồi chết ở Cô-ma-na, Pon-tô nơi lưu đày, ngày 14 tháng 9 năm 407. Người đã giảng dạy nhiều và viết nhiều tác phẩm để giải thích giáo lý công giáo và huấn luyện đời sống Kitô hữu. Vì thế người được mệnh danh là “Kim Khẩu”.
Lời Chúa: Lc 7, 1-10
Khi ấy, lúc Chúa Giêsu đã nói với dân chúng xong, Người vào Capharnaum.
Bấy giờ một viên sĩ quan có tên đầy tớ thân tín bị bệnh gần chết. Nghe nói về Chúa Giêsu, ông sai vài người kỳ lão Do-thái đi xin Người đến cứu chữa đầy tớ ông. Họ đến gần Chúa Giêsu và van xin Người rằng: “Ông ta đáng được Thầy ban cho ơn đó, vì thật ông yêu mến dân ta, và chính ông đã xây cất hội đường cho chúng ta”.
Chúa Giêsu đi với họ, và khi Người còn cách nhà viên sĩ quan không bao xa, thì ông này sai mấy người bạn đến thưa Người rằng: “Lạy Thầy, không dám phiền Thầy hơn nữa, vì tôi không xứng đáng được Thầy vào nhà tôi, cũng như tôi nghĩ tôi không xứng đáng đi mời Thầy, nhưng xin Thầy phán một lời, thì đầy tớ tôi được lành mạnh. Vì tôi cũng chỉ là một sĩ quan cấp dưới, (tuy nhiên) tôi có những lính dưới quyền tôi, tôi bảo người này đi, thì nó đi; bảo người khác lại, thì nó lại; và bảo đầy tớ tôi làm cái này, thì nó làm”.
Nghe nói thế, Chúa Giêsu ngạc nhiên và quay lại nói với đám đông theo Người rằng: “Ta nói thật với các ngươi, cả trong dân Israel, Ta cũng chẳng thấy lòng tin mạnh mẽ như vậy”. Và những người được sai đi, khi về tới nhà, thấy tên đầy tớ lành mạnh.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy Niệm 1: Cứ nói một lời
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Viên đại đội trưởng ở đây là người coi một trăm quân.
Ông đã nghe đồn về khả năng chữa bệnh của Đức Giêsu.
Nhưng ông chẳng hề dám gặp mặt Ngài,
vì ông biết mình là dân ngoại, bị người Do Thái coi là nhơ uế.
Bởi tình thương đối với anh nô lệ mà ông yêu quý,
ông đã mạnh dạn nhờ các kỳ mục Do Thái xin Đức Giêsu đến nhà ông
để cứu sống anh nô lệ đang bệnh nặng gần chết (cc. 2-3).
Sau khi nghe kể lại những điều tốt đẹp viên sĩ quan Rôma này đã làm,
Đức Giêsu liền lên đường đến nhà ông ấy để chữa bệnh (cc. 4-6).
Khi Đức Giêsu còn trên đường, vị sĩ quan này đã suy nghĩ và đổi ý.
Ông chẳng những thấy mình không đáng đến gặp mặt Ngài
mà còn không đáng đón Ngài vào nhà mình nữa,
căn nhà vẫn bị coi là ô uế của một người dân ngoại (c. 6).
Ông muốn ngăn Ngài lại trước khi Ngài đến nhà ông,
nên đã sai một số bạn hữu ra gặp Ngài trên đường (c. 6).
Nơi ông bùng cháy một niềm tin mạnh mẽ.
Ông tin rằng chẳng cần Ngài vào nhà ông và gặp anh nô lệ sắp chết.
Chỉ cần Ngài nói một lời cũng đủ làm cho anh ta lành mạnh (c. 7).
Viên đại đội trưởng tin vào sức mạnh của lời Đức Giêsu.
Đối với ông, lời ấy có uy lực như một mệnh lệnh.
Là một sĩ quan trong quân đội Rôma
ông hiểu thế nào là sự phục tùng của lính tráng dưới quyền.
“Tôi bảo người này: “Đi!” là nó đi; bảo người kia: “Đến!” là nó đến;
và bảo người nô lệ của tôi: “Làm cái này!” là nó làm.” (c. 8).
Lệnh được ban ra là phải thi hành.
Viên đại đội trưởng tin rằng lời của Đức Giêsu cũng thế.
Chỉ cần một lời cũng đủ làm cơn bệnh nguy tử phải thoái lui.
Đức Giêsu ngỡ ngàng trước một lòng tin mạnh mẽ như vậy.
Khó lòng tìm thấy lòng tin đó nơi cộng đoàn dân Ítraen (c. 9).
Ngài đã không đến nhà viên sĩ quan,
chẳng gặp mặt ông, cũng chẳng nói lời nào.
Chỉ biết là sau đó anh nô lệ đã được khỏi (c. 10).
Ở đâu ta cũng gặp những người như viên sĩ quan Rôma.
Họ có thể là mẫu mực cho các Kitô hữu về sự khiêm hạ và tín thác.
Nhiều con người hôm nay, có tấm lòng thật tốt như viên sĩ quan,
nhưng vẫn ngại chưa dám mời Chúa vào nhà,
chưa dám trực tiếp gặp mặt Chúa,
chỉ dám nói chuyện với Ngài qua trung gian.
Nhưng họ có thể đã mang trong mình một niềm tin kiên vững
và đã có kinh nghiệm về sự chữa lành kỳ diệu của Ngài.
“Tôi không đáng được Ngài vào nhà tôi, chỉ xin Ngài nói một lời…”
Có khi chúng ta đã đánh mất ý thức về sự linh thánh khi rước Chúa.
Có khi chúng ta chẳng tin mấy vào quyền năng của Lời Ngài.
Xin có được lòng tin đơn sơ như một người dân ngoại.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,
để con làm bật rễ khỏi lòng con
những ích kỷ và khép kín.
Xin cho con đức tin can đảm
để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,
chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.
Xin cho con đức tin sáng suốt
để con thấy được thế giới
mà mắt phàm không thấy,
thấy được Đấng Vô hình,
nhưng rất gần gũi thân thương,
thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ.
Xin cho con đức tin liều lĩnh,
dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,
dám tiến bước trong bóng đêm
chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,
dám lội ngược dòng với thế gian
và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.
Xin cho con đức tin vui tươi,
hạnh phúc vì biết những gì
đang chờ mình ở cuối đường,
sung sướng vì biết mình được yêu
ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp
qua những cọ xát đau thuong của phận người,
để dù bao thăng trầm dâu bể,
con cũng không để tàn lụi niềm tin
vào Thiên Chúa và vào con người.
Suy Niệm 2: Đức tin mãnh liệt
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thật đáng ngưỡng mộ đức tin của viên đại đội trưởng ngoại đạo. Đức tin tinh tuyền và nguyên sơ nhận Chúa là Chúa tể muôn loài. Các vị thần thánh khác chỉ có thể hầu cận phụng lệnh Người. Chúa toàn năng, chỉ cần “phán một lời” mọi thần thánh phải tuân hành và mọi sự đều hoàn thành. Đức tin sống động và cụ thể. Ngoại đạo nhưng ông giúp xây hội đường cho người Do Thái. Đức tin biểu lộ trong đức bác ái hoàn hảo. Ông yêu quí người nô lệ. Thật đặc biệt. Vào thời đó người ta coi nô lệ như súc vật, chỉ có việc phục dịch, như món hàng để mua bán, miễn có tiền là có quyền trên nô lệ, như dụng cụ, hư hỏng là vứt bỏ, thậm chí có quyền hành hạ và giết chết mà không có tội trước pháp luật. Thế mà ông yêu quí người nô lệ. Yêu quí đến nỗi phải đi cầu xin Chúa chữa cho nó. Đức tin cư xử tế nhị. Không phiền Chúa bước vào nhà ông, người ngoại. Vì sẽ bị ô uế. Đức tin của ông quả thật đáng cho ta noi gương bắt chước.
Thánh Phao-lô khuyên nhủ ta hãy noi gương đức tin của ông. Tin Chúa có quyền tuyệt đối trên vua chúa trần gian. Tin Chúa nên hãy cầu nguyện cho mọi người. Và chính Chúa sẽ cho vua chúa trần gian được biết xây dựng hòa bình và người dân được an cư lạc nghiệp. Cầu nguyện cho vua chúa được noi gương viên sĩ quan ngoại đạo. Biết thương dân. Biết lo cho dân. Biết xây dựng đoàn kết. Phần chúng ta, nếu chúng ta có đức tin, siêng năng cầu nguyện thì tâm hồn ta sẽ có đức bác ái “tay giơ lên trời, tâm hồn thánh thiện, không giận hờn, không xung khắc” (năm lẻ).
Ngài than phiền giáo dân Cô-rin-tô vì họ thiếu đức tin. Đến dự tiệc Thánh Thể mà không nhìn thấy Chúa. Đến dự tiệc Thánh Thể mà không cảm nhận mình được hiệp thông với Mình Máu Chúa, chỉ nghĩ rằng đi ăn tiệc vật chất. Vì thiếu đức tin nên họ cũng thiếu đức bác ái. Đi dự tiệc Thánh Thể nhưng chỉ biết phần ai nấy dùng và vì thế nhiều anh em bị đói bụng ra về. Ước gì giáo dân Cô-rin-tô biết noi gương viên sĩ quan ngoại đạo. Biết quan tâm đến người yếu kém. Biết tế nhị đừng sỉ nhục người nghèo. Biết chia sẻ bữa tiệc thánh. Nhất là biết cử hành Thánh Thể với đức tin. Tin Chúa hiện diện trong Thánh Thể thì họ sẽ biết kính trọng người khác. Sống bí tích Thánh Thể thì họ sẽ biết chia sẻ như Chúa. Và sẽ biết yêu thương hợp nhất. Vì Chúa chết để qui tụ muôn người (năm chẵn).
Vậy mỗi khi đọc lời kinh của viên đại đội trưởng ngoại đạo: “Lạy Chúa con chẳng đáng…” ta hãy bắt chước ông có một đức tin sâu xa, tin Chúa trong bí tích Thánh Thể. Chính đức tin chân chính sẽ mở tâm hồn ra trong đức bác ái, để ta biết yêu thương mọi người, từ quan quyền tới người nghèo khổ, và nhất là biết chia sẻ với mọi người.
Suy Niệm 3: Sức Mạnh Của Lời Chúa
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta suy niệm về lời quyền năng của Chúa. Thông thường, Chúa Giêsu chữa trị bằng cách đặt tay hoặc sờ đến bệnh nhân. Cũng có trường hợp Ngài làm một cử chỉ hay chỉ nói một lời, như được ghi lại trong trình thuật chữa bệnh cho người đầy tớ của viên bách quản.
"Xin Ngài chỉ nói một lời". Lời thỉnh cầu của viên bách quản gợi lại câu Thánh vịnh 106: "Thiên Chúa sai lời của Ngài đi chữa trị". Qua lời thỉnh cầu này, viên bách quản mặc nhiên nhìn nhận Chúa Giêsu thực sự đến từ Thiên Chúa và lời của Ngài là lời quyền năng và hữu hiệu. Lời thỉnh cầu của viên bách quản thể hiện một niềm tin sâu sắc, đến độ đã được Giáo Hội lặp lại mỗi ngày trong Thánh lễ, để nhắc nhở chúng ta về sức mạnh của lời Chúa, cũng như bổn phận rao truyền lời Chúa trong cuộc sống chúng ta.
Thế giới ngày nay đang bước vào kỷ nguyên của thông tin. Lời nói xem chừng tràn ngập khắp nơi, nhưng liệu con người có nghe được lời quyền năng có sức chữa trị và giải phóng con người không? Các phương tiện truyền thông đại chúng càng gia tăng và tinh vi, thì lời nói càng được tung ra, nhưng tác hại không kém. Có những lời đường mật dụ dỗ người trẻ sa vòng trụy lạc, nô lệ; có những lời dối trá của chính trị gia; có những lời thất vọng, chán chường của những tiên tri chỉ biết loan báo thảm trạng. Ngược lại, cũng không thiếu những hình thức tước đoạt quyền tự do tư tưởng và phát biểu của con người.
Trong một hoàn cảnh như thế, những người mà niềm tin được xây dựng trên lời quyền năng của Thiên Chúa, hẳn phải nói lên lời của Ngài hơn bao giờ hết. Ngày nay, có biết bao viên bách quản đang chờ đợi một lời nói can đảm, chân thật và hữu hiệu từ các Kitô hữu. Trong một xã hội chỉ có những lời của hận thù, đố kỵ, thì lời của các Kitô hữu phải là lời của yêu thương, hòa giải và tha thứ. Lời của Chúa là lời chân thật và hữu hiệu, lời ấy không chỉ được các Kitô hữu nói bằng môi miệng, mà còn phải được nhập thể vào cuộc sống của họ.
Nguyện xin Chúa, Ðấng nói một lời thì linh hồn chúng ta được lành mạnh, ban sức mạnh, để chúng ta can đảm sống và nói lời Ngài, nhờ đó những người xung quanh nhận ra phép lạ của Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 4: Sức Mạnh Của Niềm Tin
Năm 2002, trước khi Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận qua đời, trong thời gian ngài bị bệnh, không riêng gì người công giáo Việt Nam mà có lẽ cả thế giới công giáo đều quan tâm theo dõi và cầu nguyện cho sức khỏe của Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận, Chủ tịch hội đồng Tòa Thánh Công Lý Hòa Bình. Trước khi lên bàn mổ lần thứ hai, Ðức cố hồng y đã đi hành hương đến mồ thánh Piô năm dấu, người vừa được Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II tôn phong hiển thánh ngày 16/6/2002. Phép lạ về phương diện y khoa cho tới giờ phút này vẫn chưa xảy ra nhưng nụ cười vẫn không bao giờ tắt trên môi Ðức hồng y, đó là điều mà nhiều người xem như một phép lạ. Ðức cố hồng y xem những tháng ngày trên giường bệnh là một ơn đặc biệt Chúa ban cho ngài. Phải chăng đây không là sự hoàn tất của con đường thập giá mà Ðức Mẹ đã báo trước cho ngài? Ðức cố Hồng y Phanxicô X. Nguyễn Văn Thuận không những đã làm vẻ vang Giáo Hội và dân tộc Việt Nam mà ngài còn là một mẫu mực đức tin cho chúng ta. Ðức tin, đó là ơn trọng đại nhất mà chúng ta phải không ngừng cầu xin.
Trong câu chuyện phép lạ được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đề cao lòng tin của viên sĩ quan người La Mã. Người sĩ quan này không đòi hỏi Chúa Giêsu phải đến tận nhà ông mà chỉ xin Chúa phán một lời thì cũng đủ sức chữa lành người đầy tớ của ông. Lời của viên sĩ quan này biểu lộ một niềm tin sâu sắc đến độ đã được Giáo Hội mượn làm lời tuyên xưng của chúng ta trước khi đến rước Chúa vào lòng.
Quả thật, chúng ta cần được Chúa chữa trị tâm hồn. Sức khỏe phần xác là điều cần thiết cho cuộc sống nhưng sức khỏe của linh hồn mới là điều quan trọng hơn. Có tất cả mọi sự, có sức khỏe thể xác nhưng linh hồn bại hoại thì được ích gì.
Nguyện xin Chúa cứu chữa tâm hồn chúng ta để giữa bệnh tật khổ đau và mất mát trong cuộc sống chúng ta vẫn một lòng tin tưởng nơi tình yêu quan phòng của Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy Niệm 5: Một đức tin lạ lùng
Một viên đại đội trưởng kia có một người nô lệ bệnh nặng gần chết. Ông ta yêu quý người ấy lắm. Khi nghe đồn về Đức Giêsu, ông cho mấy kỳ mục của người Do-thái đi xin Người đến cứu sống người nô lệ của ông. (Lc. 7, 2-3)
Đây không chỉ là một đức tin tuyệt vời mà Đức Kitô gặp thấy ở vị đại úy xin Người cứu chữa kẻ nô lệ của ông, đây còn là một đức tin lạ lùng làm kinh ngạc chúng ta khiến chúng ta phải thán phục chừng nào.
Vì thế Đức Giêsu đã quả quyết Người chưa gặp thấy lòng tin nào mạnh như thế, ngay cả trong dân Is-ra-el. Một đại úy của đế quốc Rô-ma có một kẻ nô lệ đau nặng, ông nghe đồn về một Đức Giêsu đầy quyền năng và lòng nhân hậu. Ông không dám đến gặp Người, hẳn ông ý thức rõ về địa vị của ông trong đế quốc đang thống trị dân Do-thái, không đáng đón nhận một ân huệ cho những kẻ thuộc quyền ông, dù Người cởi mở và hiếu khách. Nghĩ thế, nên ông đã nhờ những kỳ mục Do-thái làm trung gian dễ gần gũi Đức Kitô hơn. Các ông này có địa vị khá cao nên đến xin Đức Giêsu nhận lời xin của vị đại úy là người yêu quý dân Do-thái, chính ông đã xây hội đường Ca-pha-na-um bằng chính tiền của ông.
Chúa không từ chối lời cầu. Lập tức, Người lên đường. Người không kỳ thị dân tộc. Người làm ơn cho hết mọi dân tộc. Người sẽ đến đó để giúp đỡ và lắng nghe. Lúc đó lại xảy ra một biến cố đáng ngạc nhiên: viên đại úy nhờ các bạn hữu của ông đến thưa với Chúa: “Thưa Ngài, không dám phiền Ngài quá như vậy, vì tôi không đáng rước Ngài vào nhà tôi. Đó là lý do tôi nghĩ mình không xứng đáng đến gặp Ngài, nhưng xin Ngài cứ phán một lời thì đầy tớ tôi được khỏi”.
Câu nói vắn gọn lạ lùng đó, chúng ta đã lập lại mỗi khi lên rước Mình Thánh Chúa Giêsu, có làm cho chúng ta tin mạnh mẽ sâu thẳm như vị đại úy đó không? Ông không ở gần Đức Giêsu, nhưng ngay lập tức ông đã tin mạnh mẽ lạ lùng. Đức Giêsu đã ngây ngất thán phục trước đức tin của ông và đón nhận ông như môn đệ của Người.
Còn chúng ta, có thực, đức tin có liên kết chúng ta với Đức Kitô không? có thực, đức tin có giúp chúng ta tận hiến cho Người không?
GF
Suy Niệm 6: Đức tin của người dân ngoại
Xem lại CN 9 TN C - thứ Hai tuần 4 MV và tuần 4 MC - thứ Bảy tuần 12 TN
Tại các trung tâm hành hương, chúng ta vẫn thấy đây đó các bảng ghi ơn của những người ngoài Công Giáo như sau: “Con là kẻ ngoại đạo, con xin tạ ơn Chúa ... ”; “Tạ ơn Chúa... đã cứu giúp con, mặc dù con là người lương dân”. Điều này được thấy rất rõ ở trung tâm hành hương cha F.x. Trương Bửu Diệp tại Giáo phận Cần Thơ hay đền cha thánh Phêrô Lê Tùy thuộc Giáo phận Hà Nội.
Thật vậy, vẫn còn đó những người lương dân, đôi khi lại có niềm tin mạnh hơn cả những người Công Giáo. Đây là điều chúng ta nên hồi tâm và suy nghĩ lại về đời sống đức tin của mình với Thiên Chúa!
Hôm nay, Đức Giêsu cũng khen ngợi đức tin của một viên sĩ quan ngoại giáo ở Rôma.
Khi nghe tin quyền năng và tốt lành của Đức Giêsu, ông đã truyền lệnh cho mấy trưởng tế đến để cầu cứu Đức Giêsu chữa lành cho người đầy tớ của mình đang đau nặng. Khi được tin, Đức Giêsu muốn đích thân đến để cứu giúp đầy tớ của ông. Tuy nhiên, ông không dám mời Ngài về nhà mình, vì lý do nhận thấy mình không xứng đáng để được Đức Giêsu đến nhà. Ông chỉ dám xin Ngài phán một lời thôi thì đầy tớ ông sẽ được bình phục. Thấy được đức tin của ông mạnh và sự khiêm nhường thẳm sâu của ông, nên Đức Giêsu đã ra tay cứu giúp cho người đầy tớ thân tín của ông.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có lòng thương xót như Đức Giêsu. Sẵn sàng giúp đỡ những người đang cần đến chúng ta, mặc cho họ là ai, cùng niềm tin với mình hay không...! Mặt khác, sự xuất hiện và hành động của viên sĩ quan trong bài Tin Mừng hôm nay cũng nhắc ta bài học về tình yêu không biên giới, đã thương xót thì không phân biệt chủ - tôi, giai cấp... Đồng thời cũng mời gọi chúng ta hãy đặt niềm tin tưởng tuyệt đối nơi Thiên Chúa trong sự khiêm nhường, tín thác.
Sự khiêm nhường, tin tưởng tuyệt đối của viên sĩ quan khi xưa, nay đã trở thành mẫu mực cho mọi người chúng ta, đến nỗi trong phụng vụ thánh lễ đã lấy lại lời này như một tâm tình của con cái Giáo Hội khi chuẩn bị đón nhận Mình Thánh Chúa vào trong tâm hồn của mình: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh”.
Mong sao lời tuyên tín này mang lại cho chúng ta sự khiêm tốn, tin tưởng, bình an, hạnh phúc đích thực chứ không chỉ là một công thức phải đọc như một thói quen mà thôi.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin, sự khiêm tốn và lòng bao dung cho chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Tôi không đáng rước Ngài
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Nghe tin Chúa Giêsu vào thành Capharnaum, một sĩ quan ngoại giáo liền cậy nhờ những người làm lớn trong dân Do thái đế xin Chúa chữa đầy tớ yêu quí của ông đang hấp hối. Và các ông đã đến trình cho Chúa biết lai lịch của viên sĩ quan này. Tuy ông là người ngoại đạo, nhưng ông rất có thiện cảm với đạo giáo. Rồi các ông nài xin Chúa đến cứu chữa đầy tớ của ông. Chúa nhận lời.
Người còn đi dọc đường thì viên sĩ quan nhờ bạn hữu đến thưa không dám rước Người về nhà, chỉ xin Người phán một lời cho người bệnh được khỏi, như ông sai bảo binh lính và đầy tớ làm gì là họ làm theo. Chúa thấy viên sĩ quan này có đức tin mạnh mẽ và lòng khiêm nhường như thế thì khen ngợi, và đã làm phép lạ cho đầy tớ ông được khỏi bệnh.
2. Trong Tin Mừng, ít khi chúng ta gặp thấy Chúa Giêsu khen, nhất là khi lời khen dành riêng cho một ai đó. Hôm nay, Chúa Giêsu khen ngợi niềm tin của một sĩ quan Rôma, lời khen thiết thực đến mức có sức chữa lành một người tôi tớ của vị sĩ quan này. Điều lạ ở đây là người được Chúa Giêsu ca ngợi về niềm tin, không phải là một chức sắc tôn giáo Do thái, cũng không phải là một đạo hữu Do thái mà là một kẻ ngoại đạo cầm quyền đô hộ dân Người.
Với những gì thánh Luca tường thuật, chúng ta dễ nhận ra rằng, Chúa Giêsu không quá phân biệt người có đạo hay kẻ ngoại, mà Chúa nhìn thấy tâm hồn của mỗi người... Điều mà Chúa khen tặng và sẵn sàng chữa lành hôm nay, chính là lòng tin, sự khiêm nhường cùng một số các đức tính khác mà chúng ta sẽ triển khai dưới đây.
3. Niềm tin của vị sĩ quan.
Lời của viên sĩ quan: “Vì tôi chỉ là một sĩ quan cấp dưới, (tuy nhiên) tôi cùng có lính dưới quyền tôi, tôi bảo người này đi, thì nó đi; tôi bảo nguòi khác lại, thì nó lại; và bảo đầy tớ tôi làm cái này, thì nó làm”(Lc 7,8).
Đây là một lời tuyên xưng đức tin cao độ. Với cách so sánh, ông tuy là quan nhỏ, nhưng cũng có cấp dưới và họ phải vâng lệnh ông, từ đó ông tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, có quyền trên mọi quyền lực thần thiêng, có quyền trên mọi bệnh tật và tất cả đều phải vâng lệnh Người (quan niệm của người Do thái tin bệnh tật là do tà thần và sự sữ).
Điều đáng nói ở đây nữa là, một sĩ quan thường ỷ thế vào quyền lực và tiền bạc để lo lắng cho người đầy tớ, nhưng không, ông tin Chúa Giêsu mới có thể chữa lành và niềm tin của ông đã được đền đáp (Hiền Lâm).
4. Lòng thương người của vị sĩ quan.
Ông thương bằng cách sẵn sàng chịu cực đủ thứ để mong cứu nó. Theo luật pháp Rôma, một “nô lệ” được định nghĩa một “đồ dùng”, không có quyền pháp định nào. Chủ nhân có quyền tự do sinh sát đối với người nô lệ của mình. Một văn sĩ Rôma chuyên về quản lý gia cư có lời khuyên những chủ trại mỗi năm nên kiểm kê các vật dụng và cũng khuyên họ ném bỏ bớt những món gì cũ kỹ, bể nát, “kể cả” những nô lệ già yếu không sử dụng được nữa. Có biết được như thế, chúng ta mới thấy thái độ của viên sĩ quan Rôma này đối với nô lệ là quá phi thường.
5. Sự khiêm nhường của vị sĩ quan.
Xét về thế giá và địa vị, viên sĩ quan đến xin Chúa chữa bệnh cho người tôi tớ hôm nay có quyền lực đại diện cho đế quốc Rôma để cai trị một vùng của người Do thái, ông có lính tráng và kẻ hầu người hạ, thậm chí xét về mặt chính trị, ông còn có quyền bắt, trục xuất hoặc ngăn cấm Chúa Giêsu truyền đạo.
Thế nhưng, ông nhận ra nơi con người Chúa Giêsu không đơn thuần là một thầy dạy như các luật sĩ, mà là một vị tiên tri của Thiên Chúa, nên ông cảm thấy bất xứng trước mặt Ngài. Ông nhìn nhận mọi chức vụ và địa vị đều dưới quyền của Thiên Chúa, và ông đã khiêm tốn nói lên: “Lạy Thầy, không dám phiền Thầy hơn nũa, vì tôi không xứng đáng được Thầy vào nhà tôi, cũng như tôi nghĩ tôi không xứng đáng đi mời Thầy, nhưng xin Thầy phán một lời, thì đầy tớ tôi được lành mạnh” (Lc 7,7).
6. Truyện: Hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
Một hôm, Dương Chu sang nước Tống, vào ở trọ một nhà kia. Người chủ nhà trọ có hai nàng hầu, một nàng đẹp, một nàng thì xấu. Để ý quan sát, Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quí trọng người thiếp xấu mà khinh rẻ người thiếp đẹp. Lấy làm lạ, không hiểu nổi, Dương Chu mới hỏi thằng bé trong nhà trọ. Thằng bé tiết lộ:
- Người thiếp đẹp, tự cho mình là đẹp nên mất đẹp. Chúng tôi chẳng ai nhìn ra cái đẹp của nàng cả. Trái lại người thiếp xấu, tự biết mình là xấu, mà quên xấu, không còn ai nhìn thấy cái xấu của nàng nữa.
Dương Chu liền gọi học trò đến, dặn:
- Các con nhớ ghi lấy: giỏi mà bỏ được cái thói tự cao mình là giỏi, thì đi đâu mà chẳng được người yêu quí tôn trọng.
Suy Niệm 8: Đức tin của một sĩ quan ngoại đạo
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu chữa bệnh cho đầy tớ một sĩ quan ngoại đạo:
- Ông này có lòng thương người: đầy tớ của ông bệnh mà ông lo lắng như cho con ruột; ông là người rôma nhưng xây cất hội đường cho người do thái.
- Ông cũng khiêm tốn: dù là giới cai trị, ông không ngại hạ mình đến xin Chúa Giêsu là người dân bị trị giúp đỡ mình; ông lại còn nói ông không xứng đáng cho Chúa Giêsu vào nhà ông.
- Đức tin của ông rất mạnh vì ông tin Chúa Giêsu chẳng cần đến nhà ông, chỉ ở xa phán một lời là đầy tớ ông sẽ khỏi.
B.... nẩy mầm.
1. Chúa Giêsu sẵn sàng ban ơn cho mọi người dù có đạo hay ngoại đạo, miễn là người đó có lòng tin. Thực tế ngày nay có nhiều người lương tin Chúa và Đức Mẹ, đã xin ơn và được ban cho.
Phần tôi, lắm khi tôi vừa xin vừa hồ nghi không biết sẽ được Chúa ban ơn hay không. Từ nay khi xin ơn Chúa, tôi phải xin với hết lòng tin tưởng.
2. Người sĩ quan này cũng làm gương cho ta về lòng nhân ái: yêu thương đầy tớ, yêu thương người bị trị. Xin cho con biết yêu thương những kẻ dưới quyền, những người kém thế hơn con.
3. Lời ông nói với Chúa Giêsu lại là một tấm gương khác về cách cầu nguyện khiêm tốn. Khi tôi cầu nguyện cùng Chúa, tôi phải bắt chước ông mà nói rằng “Con chẳng đáng”.
4. Chuyện này cũng phải khiến ta ý thức về sức mạnh của Lời Chúa. Khi tạo dựng vũ trụ, Thiên Chúa chỉ phán một lời thì liền có những gì Ngài muốn. Chúa Giêsu chỉ ở xa phán một lời thì người đầy tớ kia hết bệnh.
Xin cho Lời Chúa mà con nghe mỗi ngày trở thành thần dược chữa trị mọi bệnh tật linh hồn con.
5. “Tôi không đáng rước Ngài vào nhà tôi…” (Lc 7,6)
“Lạy Chúa, con không đáng Chúa ngự vào lòng con. Nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh”.
Lời này khơi lên trong lòng tôi niềm mơ ước được rước Chúa. Dù biết mình không trong sạch, nhưng khi Ngài ngự vào linh hồn, tôi lại cảm thấy vững vàng trong đời sống. Sự hiện diện thực sự của Ngài trong Thánh Thể khiến tôi vững tin hơn để chống lại những cám dỗ thường ngày.
Không như người sĩ quan xưa, tôi biết mình có tội nhưng vẫn cầu xin Chúa thường ngự đến cùng tôi. Vì chỉ có Ngài mới là nguồn động viên an ủi nâng đỡ tôi trong từng phút giây.
Lạy Chúa, Ngài biết rõ mọi tật xấu, nhưng Ngài cũng thấu suốt mọi cố gắng từng ngày của con. Xin Ngài rộng lòng thương rửa sạch và ban bình an cho tâm hồn con. (Hosanna)