Suy Niệm Lời Chúa
Suy Niệm Lời Chúa
24/08 Ðến Mà Xem
- Viết bởi Ga 1, 45-51
Ðến Mà Xem.
Thứ Ba tuần 21 thường niên – THÁNH BATÔLÔMÊÔ, TÔNG ĐỒ. Lễ kính.
“Đây thật là người Israel, nơi ông không có gì gian dối “.
* Thánh nhân còn được gọi là Na-tha-na-en, quê ở Ca-na. Chính tông đồ Phi-líp-phê là người đã giới thiệu thánh nhân với Chúa Giêsu ở bờ sông Gio-đan. Người nhập nhóm các môn đệ đầu tiên được Chúa kêu gọi. Người ta không biết đích xác về hoạt động tông đồ của người sau lễ Hiện Xuống. Tương truyền rằng người đã loan báo Tin Mừng ở Ấn Độ và đã chịu tử đạo ở đó.
Lời Chúa: Ga 1, 45-51
Khi ấy, Philipphê gặp Nathanael và nói với ông: “Đấng đã được Môsê ghi trong Luật và các tiên tri nói đến, chúng tôi đã gặp rồi: đó là Giêsu con ông Giuse, người thành Nadarét”. Nathanael đáp: “Bởi Nadarét nào có cái chi hay?” Philipphê nói: “Hãy đến mà xem”.
Chúa Giêsu thấy Nathanael đi tới Mình, thì nói về ông: “Đây thật là người Israel, nơi ông không có gì gian dối”. Nathanael đáp: “Sao Ngài biết tôi?” Chúa Giêsu trả lời rằng: “Trước khi Philipphê gọi ngươi, lúc ngươi còn ở dưới cây vả, thì Ta đã thấy ngươi”. Nathanael thưa lại rằng: “Lạy Thầy, Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua Israel”. Chúa Giêsu trả lời: “Vì Ta đã nói với ngươi rằng: Ta đã thấy ngươi dưới cây vả, nên ngươi tin, ngươi sẽ thấy việc cao trọng hơn thế nữa”. Và Người nói với ông: “Thật, Ta nói thật với các ngươi, các ngươi sẽ thấy trời mở ra, và các Thiên Thần Chúa lên xuống trên Con Người”.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Suy niệm 1: Cứ đến mà xem
Suy niệm :
Thầy Giêsu là người tìm thấy Philípphê và gọi anh đi theo (Ga 1, 43).
Sau khi gặp Thầy, Philípphê đi tìm Nathanaen.
Ông rủ bạn mình đến gặp Thầy Giêsu.
Nathanaen không được nhắc tên trong mọi danh sách nhóm Mười Hai.
Vào thế kỷ thứ 9, có người coi Nathanaen là Batôlômêô,
lý do vì trong mọi danh sách, Batôlômêô là tên luôn đi ngay sau Philípphê.
Chúng ta không chắc Nathanaen có phải là Batôlômêô không.
Nhưng điều đó không quan trọng mấy.
Dù sao Nathanaen cũng là một người môn đệ đã theo Thầy Giêsu,
và đã có mặt trong nhóm gặp Đấng phục sinh bên bờ hồ (Ga 21, 2).
Bài Tin Mừng hôm nay cũng có thể cho ta thấy ít nhiều
về khuôn mặt của vị tông đồ mà chúng ta mừng kính.
Sau khi được Thầy Giêsu tìm thấy và mời: “Anh hãy theo tôi” (c. 43).
Philípphê đã theo Thầy và hẳn đã ở lại với Thầy một thời gian.
Chính sự gần gũi và quen biết này
đã khiến ông tin Thầy là Đấng được tất cả Sách Thánh nói tới (c. 45).
Trong niềm vui sướng, Philípphê tìm thấy Nathanaen, và khoe:
“Chúng tôi đã tìm thấy Đấng mà sách Luật Môsê và các ngôn sứ nói tới.”
Đấng ấy có tên là Giêsu, có cha là Giuse, có quê ở Nadarét.
Với một chút thành kiến, Nathanaen đã không thể tin được chuyện này.
Một ngôi làng vô danh như Nadarét, làm sao có thể sinh ra điều tốt được?
Nhưng Philípphê không chịu bỏ cuộc, ông tiếp tục mời gọi bạn mình,
như Đức Giêsu đã mời hai môn đệ đầu tiên: “Hãy đến mà xem” (cc. 39. 46).
Cuối cùng Nathanaen đã nhận lời, đã đến và đã xem thấy.
Cuộc hạnh ngộ diễn ra giữa Thầy Giêsu với Nathanaen.
Bằng cái nhìn thấu suốt, Thầy nhận ra cái tốt đẹp nơi con người anh:
“Đây là một người Israel đích thật, nơi anh không có gì gian dối” (c. 47).
Quả là một lời khen bất ngờ đối với Nathanaen, người mới gặp Thầy lần đầu.
Anh ngỡ ngàng khi thấy Thầy biết rõ bề sâu của lòng mình.
“Làm sao Ngài lại biết tôi?” (c. 48).
Làm sao Ngài biết tôi là người không thích quanh co, gian dối ?
Đức Giêsu bảo Ngài đã thấy anh dưới cây vả, trước khi Philípphê gọi anh.
Nathanaen nhanh chóng tuyên xưng niềm tin vào Thầy Giêsu (c. 49).
Và Thầy hứa sẽ cho anh thấy trời mở ra để trò chuyện với con người.
Thầy như cái thang bắc từ trời, để các thiên thần lên xuống (c. 51),
để Thiên Chúa và con người gặp nhau.
Như Nathanaen, chúng ta cũng trở nên môn đệ nhờ có người giới thiệu.
Chỉ ai đã thực sự gặp mới hăng hái đi giới thiệu Chúa với người khác.
Chúa Giêsu hôm nay vẫn qua người khác mà gọi tôi theo Ngài.
Nhưng cuối cùng chính tôi vẫn phải gặp mặt Ngài và để Ngài chinh phục.
Dần dần Ngài dắt tôi vào mầu nhiệm của con người Ngài.
Ngài là Giêsu Nadarét, con ông Giuse, và là chính Con Thiên Chúa
Ngài là chiếc thang đưa tôi từ đất lên mà gặp gỡ trời cao.
Cầu nguyện :
Lạy Chúa,
khi đến với Chúa
con tháo bỏ đôi giày: những tham vọng của con
con cởi bỏ đồng hồ: thời khóa biểu của con,
con đóng lại bút viết: các quan điểm của con,
con bỏ xuống chìa khóa: sự an toàn của con,
để con được ở một mình với Ngài,
lạy Thiên Chúa duy nhất và chân thật.
Sau khi được ở với Ngài,
con sẽ xỏ giày vào
để đi theo đường của Chúa,
con sẽ đeo đồng hồ
để sống trong thời gian của Chúa,
con sẽ đeo kính vào
để nhìn thế giới của Chúa,
con sẽ mở bút ra
để viết những tư tưởng của Chúa,
con sẽ cầm chìa khóa lên
để mở những cánh cửa của Chúa. (Graham Kings)
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
Suy niệm 2: Chúa biết và yêu Na-tha-na-en trước
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Chúa Giêsu kêu gọi ông Na-tha-na-en làm tông đồ. Ông đã đến tìm hiểu và theo Chúa. Nhưng thật ra chính Chúa đã biết ông và yêu ông trước.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, trong câu chuyện Chúa gọi ông Na-tha-na-en là thánh Ba-tô-lô-mê-ô tông đồ, con thấy một điều rất cảm kích: trước khi ông gặp và thưa chuyện với Chúa, thì Chúa đã thấy ông ở dưới cây vả. Chúa còn hiểu rõ tấm lòng ngay chính của ông và nói điều đó khi ông vừa đến gặp Chúa. Nhưng thật sự chính Chúa đã để ý đến ông, biết ông và yêu ông trước. Chúa chọn gọi những kẻ Chúa muốn.
Ơn gọi Kitô hữu của con không do con chọn trước mà là hồng ân Chúa ban cách nhưng không. Từng bước theo thời gian, con nhận ra và đáp trả như đáp lại một ân huệ lớn lao. Đó là phần phúc cho con, vì khi tin vào Chúa, con sẽ thấy được các sự lạ lùng Chúa làm, thấy được vinh quang của Chúa. Con cảm tạ Chúa. Xin Chúa củng cố niềm tin nơi con như đã củng cố cho ông Na-tha-na-en để con thuộc trọn về Chúa.
Lạy Chúa, ngày hôm nay để được thuộc trọn về Chúa, con vẫn nghe Chúa mời gọi con nơi bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể. Vâng, con sẽ cung kính lắng nghe Lời Chúa và lãnh nhận bánh Thánh Thể với lòng tin yêu thực sự.
Và lạy Chúa, Chúa còn muốn con cộng tác trong việc truyền giáo. Con xin sẵn sàng quảng đại đáp lại lệnh truyền của Chúa để danh thánh Chúa được hiển trị. Amen.
Ghi nhớ: “Ðây thật là người Israel, nơi ông không có gì gian dối”.
Suy niệm 3: Cảm nghiệm gặp gỡ Chúa
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Cha S. Hodden thấy một đại úy đến xin học đạo. Khi ngài hỏi lý do, ông trả lời như sau:
“Trong đại đội tôi, có một binh nhì là Kitô hữu. Đêm nọ, anh đi gác về, mình mẩy ướt nhẹp, nhưng trước khi ngủ, anh còn quỳ gối đọc kinh. Ngứa mắt, tôi đá cho anh một cú vào đầu, ngã lăn ra. Nhưng anh ngồi dậy, không nói gì và tiếp tục cầu nguyện. Sáng hôm sau, tôi thấy đôi giày mà tối qua tôi đá anh được đánh bóng láng và xếp ngay ngắn bên giường ngủ. Điều đó làm tôi sững sờ, hổ thẹn và vì thế tôi quyết tâm học đạo”.
Suy niệm
Philipphê cùng quê quán với hai anh em Phêrô và Anrê, ở làng chài Bétsaiđa bên bờ biển Tibêriát. Ông là một trong những vị tông đồ đầu tiên được gọi theo Chúa như Tin Mừng Gioan ghi nhận ngay ở chương đầu (x. Ga 1,43-44).
Philipphê gặp Nathanaen cũng thường gọi Batôlômêô, giới thiệu về thầy của mình – Đức Giêsu: “Chúng tôi đã gặp thấy Con Người mà luật Môisê và các tiên tri đã nói đến: Đó chính là Giêsu, con trai ông Giuse làng Nadarét”. Cùng với Betsaiđa, Cana, Nadarét chỉ là những thị trấn nhỏ vùng quê. Trong Cựu ước không có một ngôn sứ nào nhắc đến Nadarét. Vì thế, Nathanaen, người Cana, nghi ngờ rằng thân thế của Thầy Giêsu: “Từ Nadarét làm sao có cái gì hay được”. Philipphê không cần mất thời giờ để tranh luận, nhưng thuyết phục bạn mình đến gặp Đức Giêsu để chính Nathanen tự mình khám phá ra Ngài: “Hãy đến mà xem”. Chỉ kinh nghiệm gặp và sống với Chúa Giêsu mới có thể giúp Nathanaen vượt qua được những giới hạn trần tục, che kín mầu nhiệm Con Thiên Chúa nhập thể. “Hãy đến mà xem”, là câu trả lời của Chúa Giêsu, khi hai ông Andrê và Gioan, những môn đệ của ông Gioan Tẩy giả hỏi Ngài: “Thưa Thầy, Thầy ở đâu ?” Chúa trả lời: “Hãy đến mà xem... đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người…” (Ga 1,35-42).
Vừa gặp Chúa Giêsu, Ngài đã nhận định về ông như một người Israel đích thực: “Lòng dạ không có gì gian dối”. Ông đã kinh ngạc trước nhận xét của Đức Giêsu, Đấng thấu suốt lòng dạ con người. Đức Giêsu biết rõ Nathanaen đang khao khát hiểu biết về Thiên Chúa, đang muốn gặp Thiên Chúa. Người đã đặt vào lòng Nathanaen lòng khao khát Đấng đã dựng nên con người vì tình yêu: “Trước khi Philipphê gặp anh, Thầy đã thấy anh dưới cây vả”. Nathanaen đã đến và nghe lời Chúa Cứu Thế, ông đã hết sức cảm phục” (x. Ga 1,43-51).
Từ đời đời, Thiên Chúa đã biết ta trong mọi bí ẩn của tâm hồn. Chúa dò thấu tường tận. Không có gì kín nhiệm mà Chúa không thông suốt. Chúa biết rõ tất cả nơi chúng ta.
Qua cuộc gặp gỡ Chúa đã biến đổi Nathanaen, tình gắn bó với Thầy bền vững. Cũng thế, người đến gặp gỡ Thiên Chúa là thân thiết với Ngài, là biết Người một cách thâm sâu hơn, là “kiểm nghiệm bằng mắt thấy tai nghe, bằng con người xương thịt, cái thực tại lịch sử sẽ làm nền tảng cho đức tin”(x: P.E Jacquemin, “Assemblées du Seigneur”, số 33, tr.57)
Ý lực sống
“Thiên Chúa đã muốn cho họ được biết bí nhiệm này phong phú và hiển hách biết bao giữa các dân ngoại: đó là chính Đức Kitô đang ở giữa anh em, Đấng ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang” (Cl 1,26-27).
Suy niệm 4: Người Israel lòng dạ ngay thẳng
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
Trong Tân Ước, Thánh Batôlômêô chỉ được nhắc đến trong danh sách các tông đồ. Một số học giả cho rằng ngài là Natanien, người Cana xứ Galilê được Philípphê mời đến gặp Ðức Giêsu. Và Ðức Giêsu đã khen ông: "Ðây đích thực là người Israel. Lòng dạ ngay thẳng" (Ga 1,47b). Khi Natanien hỏi Ðức Giêsu làm sao Ngài biết ông, Ðức Giêsu trả lời "Tôi thấy anh ở dưới cây vả" (Ga 1,48b). Ðiều tiết lộ kinh ngạc này đã khiến Natanien phải kêu lên, "Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa; chính Thầy là Vua Israel" (Ga 1,49b). Nhưng Ðức Giêsu đã phản ứng lại, "Có phải anh tin vì tôi nói với anh là tôi thấy anh dưới cây vả? Anh sẽ được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa!" (Ga 1,50)
Theo truyền thuyết truyền lại, thì thánh nhân là người có tầm vóc trung bình với mái tóc đen, nước da trắng trẻo, và đôi mắt tròn, lớn ẩn sâu trong hai con mắt hơi rộng, ngày ngày Ngài đọc kinh có tới trăm lần. Giọng nói của Ngài sang sảng và có sức thu hút lạ thường. Vẻ mặt Ngài luôn luôn vui tươi, Ngài cũng được ơn nói nhiều thứ tiếng và biết mọi sự tương lai. Với những ơn đặc biệt ấy, danh tiếng Ngài chả mấy chốc lừng lẫy như sóng cồn, khiến bao nhiêu con bệnh cũng như bao nhiêu người mắc cơn nguy biến đều tìm đến xin thánh nhân cứu chữa. Bấy giờ vua Pôlêmon (Polemon) có một công chúa bị quỷ ám. Vua đã nhờ các quỷ khác trừ nhưng vô hiệu quả, nghe nói thánh nhân có uy quyền trừ được tà ma, đầu tiên nhà vua không tin, nhưng phần tin công chúa, phần muốn thử tài của Ngài nên vua cho mời thánh nhân tới. Sau khi cầu nguyện sốt sắng, thánh nhân đã trừ quỷ và chữa cho công Chúa khỏi. Trước phép lạ nhãn tiền này, nhà vua cho người mang vàng bạc hậu tạ thánh nhân, nhưng Ngài một mực khước từ. Một đêm kia vua Polêmon chiêm bao thấy thánh nhân hiện đến và nói với nhà vua rằng: “Tôi đến đây không phải để gầy dựng gia nghiệp, thu tích vàng bạc nhưng để cứu rỗi các linh hồn, giải phóng người ta khỏi ách lầm than của ma quỷ. Đồng thời vua cũng được thánh nhân giảng cho biết qua về Chúa Giêsu và hứa sẽ chỉ tên vạch mặt quỷ Atarôt, bằng cách bắt nó tuyên xưng Chúa Kitô rồi mới trục xuất nó ra một lần nữa. Sự việc xẩy ra y như vua đã chiêm bao: một ngày kia trước mặt vua và cả triều đình thánh nhân công khai bắt tên quỷ Atarôt thú nhận nó là tên lừa bịp dân chúng và là tên phản tặc đối với Thiên Chúa. Đồng thời nó tuyên xưng thánh nhân là tông đồ Thiên Chúa sai đến để truyền bá Phúc âm. Thánh nhân ra lệnh cho nó phải cút khỏi vùng này và cấm từ nay không được lai vãng đến hại dân. Tên quỷ vâng lệnh và “cúp đuôi” biến mất. Bấy giờ dân chúng hết lời ca tụng thánh nhân và đập phá tượng quỷ đang thờ. Chứng kiến phép lạ nhãn tiền này, cả triều vua xin học đạo và chịu phép rửa tội.
Ma quỷ căm giận vì thất bại nên tìm cách trả thù. Chúng xúi giục một số viên chức nổi lên chống đối lại thánh nhân và coi Ngài như kẻ thù phá hoại chùa miếu đền thờ, phá rối an ninh. Rồi tiếng đồn thổi vu cáo thánh nhân mỗi ngày một lan rộng.
Lần kia một số công chức âm mưu đến vu cáo với vua Atigiê (Attiges) em vua Polemê (Polemes) rằng: thánh nhân đã phá hủy đền chùa của họ. Tức giận, Atigiê truyền đưa thánh nhân tới. Trước sân rồng lộng lẫy, thánh nhân đàng hoàng tiến lên tâu trình mọi việc với nhà vua. Đang khi nhà vua sỉ nhục thánh nhân thì tất cả các tượng bụt trong đền vua tự nhiên đổ tan tành, nhà vua nổi nóng hạ lệnh lột da rồi thiêu sinh thánh nhân. Nhưng Chúa toàn năng đã tỏ uy quyền của Ngài để mở mắt cho những kẻ mù tối: qua hai cuộc hành hình thánh nhân vẫn còn sống. Sau cùng thánh nhân bị trảm quyết, ngày 24 tháng 8 năm 52.
Nghe tin thánh nhân bị trảm quyết, cả triều vua Pôlômon vội vã sang xin xác thánh Ngài và an táng rất trọng thế. Để thưởng công vua Pôlômon, sau 30 ngày các vị tông đồ đã truy phong nhà vua lên chức giám mục. Còn vua Atigiê và những kẻ đã nhúng tay hành quyết thánh nhân đều bị bệnh quỷ ám và chết một cách khốn nạn.
Sau khi an táng xác thánh nhân, dân chúng tấp nập đến kính viếng và được hưởng nhiều phép lạ. Nhiều người lương dân thấy vậy đâm ghen tương. Họ bí mật quật mộ và quẳng quan tài Ngài xuống biển. Nhưng Chúa quan phòng đã làm phép lạ khiến tấm quan tài bằng chì của thánh nhân nổi lềnh đềnh trên mặt biển và được sóng biển đưa tới hòn đảo Lipari gần Xixin (Cicile). Tín hữu miền này rước quan tài thánh nhân về miền Bênêven và xây cất đền thờ kính Ngài. Với những phép lạ thời danh Ngài làm, chẳng bao lâu nơi đây trở thành đất hành hương danh tiếng. Năm 983 dưới thời Đức giáo hoàng Grêgôriô V, xác thánh Ngài được di chuyển vể La-mã nằm bên cạnh các Tông đồ khác.
Sổ Tử Ðạo Rôma viết rằng Thánh Batôlômêô đã rao giảng ở Ấn và Armenia, là nơi ngài bị lột da và bị chém đầu bởi vua Astyages.
Suy niệm 5: Không biết không yêu
(nhathothaiha.net)
Dường như mọi người chẳng hay biết tí gì đến Nick Vujicic, một người đàn ông có số phận đáng thương, cho đến khi mọi người biết được câu chuyện cuộc đời của anh. Một người không có tay, không có chân, có thể bước đi hiên ngang giữa cuộc đời với niềm hạnh phúc lớn lao. Anh trở thành một hiện tượng hay thần tường được yêu mến của mọi người, đặc biệt là người trẻ, với ý chí quyết tâm vươn lên nghịch cảnh.
Ông Nathanaen, còn được gọi là Batôlômêô, có lẽ sẽ không yêu mến Chúa nếu như ông không “đến mà xem” như lời mời gọi. Nếu ông chỉ dừng lại với những hiểu biết đóng khung của mình thì Đức Giêsu sẽ chẳng là gì trong tâm trí của ông. Được kêu mời đến mà xem, ông đã nhận ra người mà ông đang mong chờ, biết được người mà ông đang mong chờ, biết được người mà ông muốn gắn kết cuộc đời, và yêu được người mà ông tôn thờ.
Sự hiểu biết không chỉ đến nhờ lý trí, nhưng còn được khai mở nhờ đức tin. Lý trí cho ta biết cách thức thông truyền tình yêu, còn đức tin giúp ta biết mức độ của tình yêu. Lý trí giúp ta hiểu lúc nào có tình yêu, còn đức tin giúp ta vững tin vào tình yêu luôn mãi.
Cầu nguyện: Xin Chúa giúp chúng con biết mở lòng mở trí để có thể hiểu biết Chúa và yêu mến Chúa nhiều hơn. Amen.
Suy niệm 6: Ðến mà xem
“Từ Nazareth làm sao có cái gì hay được”. Nathanael lặp lại một thành kiến không tốt về Nazareth, về quê hương của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nhận định về ông như một người Israel đích thực: “Lòng dạ không có gì gian dối”. Nhân vô thập toàn, không ai là hoàn toàn tốt và cũng không ai là hoàn toàn xấu. Nathanael là con người tốt, nhưng cũng có khuyết điểm sống theo dư luận không có quan niệm tốt về Nazareth: “Từ Nazareth làm sao có cái gì hay được”.
Chứng tá đầy xác tín của Philipphê đã giúp đưa Nathanael ra khỏi sự mù quáng tinh thần: “Cứ đến mà xem, Ðấng mà sách Luật Môsê và các ngôn sứ đã nói tới, chúng tôi đã gặp, đó là ông Giêsu, con ông Giuse, người Nazareth”. Chỉ kinh nghiệm sống trực tiếp với Chúa Giêsu mới có thể giúp các tông đồ, những kẻ đầu tiên được gọi theo Chúa Giêsu, vượt qua được những giới hạn trần tục, che kín mầu nhiệm Con Thiên Chúa nhập thể.
Tác giả Phúc Âm theo thánh Gioan đã mô tả ơn gọi sống như Chúa Giêsu như là một cuộc gặp gỡ trực tiếp giữa Chúa và người được gọi. Và khi đã được gặp gỡ trực tiếp với Chúa Giêsu rồi, người được gọi mới vượt qua được những thành kiến tự nhiên đối với Chúa, và cảm thấy được thôi thúc chia sẻ kinh nghiệm gặp Chúa cho anh chị em chung quanh. Kinh nghiệm sống của Philipphê được chia sẻ cho Nathanael: “Ðấng mà sách Luật Môsê và các ngôn sứ đã nói đến, chúng tôi đã gặp, đó là ông Giêsu, con ông Giuse, người Nazareth”. Có thể nói đây là kiểu mẫu cho điều chúng ta gọi là việc tông đồ, là thông truyền và chia sẻ kinh nghiệm sống của chính bản thân về Chúa Giêsu cho anh chị em chung quanh, đây cũng là phương thế duy nhất giúp anh chị em vượt qua được những thành kiến không tốt về Thiên Chúa, để cùng chúng ta tôn thờ và yêu mến Ngài. Chỉ nhờ đã gặp được Chúa trước rồi chúng ta mới có thể trở nên phương tiện để giúp anh chị em đến gặp Chúa: “Cứ đến mà xem”.
Ước chi đời sống chúng ta là một lời mời gọi liên lỉ anh chị em đến với Chúa.
Lạy Chúa,
Nhờ công nghiệp và lời chuyển cầu của thánh tông đồ Nathanael Batolomeo, mà chúng con mừng lễ hôm nay, xin Chúa thương giải thoát con khỏi những thành kiến ngăn cách con với Chúa, cũng như ngăn cách con với anh chị em. Xin thương mời gọi con đến với Chúa và củng cố đức tin còn non yếu của con.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Suy niệm 7: Một người Israel đích thật
Chúa đã đích thân chiêu mộ các tông đồ trong giới hạng trung bình, giới thợ thuyền, công chức, thủ trưởng đoàn đội v.v... họ thuộc giới có đủ thời giờ lo lắng cho nước trời, vì công việc không làm họ u tối, trí độn. Họ không phải hạng người vô học, dốt nát. Họ là hạng người Do Thái đang mong đợi Đấng thiên sai Cứu Thế. Họ biết khá khá Kinh Thánh để đoán được thời giờ đã gần tới.
Họ có những ước đoán của lớp trung bình. Họ có thể hình dung một nhân vật lực lưỡng như rôbốt, mới chắc là Đấng Messia, Đấng Messia phải đáp ứng được những nét đặc trưng, nên không thể xuất thân “Từ Nadarét đâu có gì hay được”.
Đích thật....
Một kiểu người thuộc giới trung bình, Nathanael. Trước hết, ông nghi ngờ, rồi lắng nghe rồi đi đến cảm phục. Ông không khó tin, không khó đi theo Đức Giê-su, nhưng lòng nhiệt tình hăng say chốc lát biến đi, chỉ còn lại một con người chân thành! ông đã gặp Đức Ki-tô, Đấng Messia, ông không thể không hợp đoàn với Người.
Hạng trưởng giả
Nguy hiểm của hạng trưởng giả nhỏ (không xét đến lợi tức) đây chỉ xét đến khía cạnh đức tin, họ là thứ công tử bột, họ không như biệt phái, luật sĩ. Hạng trưởng giả này thoải mái hơn, dễ chịu hơn, ngay cả niềm tin cũng đỡ. Họ không lo lắng chuyện gì quá. Trời của họ khá được đảm bảo.
Hạng giầu thật, trong xã hội hơn là giầu niềm tin, là hạng trên mức đa số, họ được người ta cầu cạnh, kính nể, đáng chuộng: nhưng lối sống tiện nghi đừng để đến thái quá.
Người ta còn biết đến “hạng trưởng giả thánh” chính là hạng tri túc, tri thường. Các Tông Đồ đã chứng tỏ như thế. Dù sống thân mật với Đức Giê-su, họ chũng có vẻ trưởng giả gồm cả những tính xấu và tính tốt. Nhưng Thiên Chúa yêu họ. Chính là vì họ là trưởng giả nhỏ nên đã được Chúa chinh phục, được Phúc Âm kêu gọi.
Như thế đó! được chinh phục!
Sống với lòng xác tín của mình!
Sống với đức tin vủa mình.
J.M.
Suy niệm 8: Thánh Barthôlômêô, Tông Đồ
Mỗi người đều có một lối sống, mỗi người đều có một phong cách khác nhau. Các thánh cũng vậy. Cuộc sống của các thánh luôn có một mẫu số chung: sống giống Ðức Kitô. Thánh Bathôlômêô, tông đồ, Giáo Hội tôn kính hôm nay cũng không nằm ngoài định luật muôn thuở: họa lại hình ảnh thật nhất của Chúa Giêsu Cứu Thế.
Barthôlômêô được tuyển chọn làm tông đồ
Philipphê gặp ông Nathanaen và nói: “Ðấng mà sách Luật Môsê và các ngôn sứ nói tới,chúng tôi đã gặp: đó là ông Giêsu, con ông Giuse,người Nagiarét”. Ông Nathanaen liền bảo: “Từ Nagiarét, làm sao có cái gì hay được?”. Ông Philipphê trả lời: “Cứ đến mà xem” (Ga 1,45-46).
Cứ đến mà xem là lời mời gọi ông Nathanaen trở thành tông đồ đích thực của Chúa Giêsu. Sự kỳ diệu và hết sức lạ lùng là khi Chúa Giêsu vừa thấy Nathanaen, Người đã nói: “Ðây đích thật là một người Israel, lòng dạ không có gì gian dối” (Ga 1, 47). Việc Chúa gọi Nathanaen tức Barthôlômêô thật là huyền nhiệm vì chính Chúa đã thấy, đã biết ông khi ông đang ở dưới cây vả (Ga 1,48). Chúa nói: “lòng dạ của Nathanaen không có gì gian dối”. Ðiều này nói lên hồng phúc của Barthôlômêô vì tâm hồn mới là quan trọng. Người ta thường ví von: “Hữu ư trung xuất hình ư ngoại” (trong có gì thì biểu lộ ra bên ngoài). Chính lúc, Na-tha-na-en tuyên xưng: “Thưa Thầy, chính Thầy là con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Israel” (Ga 1, 49). Chúa Giêsu đã tuyển chọn Na-tha-na-en làm “Apostoloi”, nghĩa là tông đồ. Ðó là giờ cứu độ, giờ hồng phúc của Barthôlômêô, giờ Barthôlômêô được lột xác trở nên hoàn toàn tùy thuộc vào Chúa. Làm tông đồ nghĩa là thuộc trọn vẹn về Chúa.
Như mọi tông đồ, Bathôlômêô được sai ra khơi (duc in altum) thả lưới
Thả lưới nghĩa là phải ra xa bờ, chọn chỗ nhiều cá. Ra khơi có nghĩa là tin vào Chúa vì có thể trong cuộc hải hành sẽ gặp sóng to, gió lớn, sẽ gặp nhiều chuyện trục trặc, nhưng tin, cậy vào Chúa sẽ được Chúa giải thoát. Barthôlômêô đã cùng với các bạn trong nhóm 12, theo Chúa Giêsu trên khắp các nẻo đường truyền giáo, theo Thầy làm chứng có nước trời, có Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Theo Thầy để học hỏi những kinh nghiệm của Thầy, lãnh nhận những tư tưởng, chân lý và Tin Mừng, giáo lý của Thầy hầu chuẩn bị cho việc ra khơi mai sau. Theo Thầy để lãnh nhận quyền và sự thật mà Thầy sẽ trao phó cho: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Và, sau khi Chúa về trời,các tông đồ lãnh nhận Chúa Thánh Thần, Barthôlômêô được sai đi loan báo Tin Mừng tại Ấn Ðộ, vùng Lycôni và Arménie. Thánh Bar-thô-lô-mê-ô đã làm chứng cho Chúa phục sinh bằng gương sáng đời sống thánh thiện, đạo đức của Ngài, bằng những lời chân thật, tài lợi khẩu, hoạt bát và những phép lạ Chúa ban cho, thánh nhân đã đưa được biết bao người ngoại giáo trở về. Thánh nhân đã trở nên giống Chúa Kitô như thánh Phaolô nói: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà là Ðức Kitô sống trong tôi” và “Tôi có thể làm được mọi sự trong Ðấng ban sức mạnh cho tôi”. Chính tình yêu Chúa Kitô thúc bách thánh nhân.
Barthôlômêô đã thực hiện việc rao giảng bằng chính cuộc đời của Ngài: từ bỏ, hy sinh và hết lòng trở nên giống Chúa Kitô. Thánh nhân đã trừ quỷ cho công chúa của vua Polêmon và nhiều người khác, đặc biệt Ngài đã hoán cải và đưa cả gia đình nhà vua polêmon trở lại đạo công giáo.
Thánh nhân đã làm chứng cho Chúa bằng chính mạng sống của mình đúng như lời Chúa phán: “Tôi tớ không hơn chủ”. Vì ghen tức thánh nhân, các sư sãi và các quan chức triều đình đã vu cáo, khai gian cho thánh nhân đủ điều và Ngài đã bị vua Attiges bắt, bỏ tù, hành hạ đủ mọi cực hình và lãnh án trảm quyết cho tới hơi thở cuối cùng vào năm 52.
Lạy thánh Barthôlômêô, tông đồ xin đến giúp chúng con để chúng con có lửa nhiệt thành như thánh nhân hầu làm chứng cho Chúa sống lại.
Xin cho chúng con ơn can đảm để chúng con luôn biết lướt thắg mọi thử thách chông gai của cuộc đời.
Xin thêm đức tin cho chúng con để chúng con chỉ biết cậy trông vào Chúa.
(Lm Nguyễn Hưng Lợi)
Suy niệm 9: Thánh Barthôlômêô tông đồ
Các sách Tin Mừng nhất lãm và sách công vụ tông đồ ghi nhận thánh Bartôlômêô là một trong nhóm 12, nhưng lại không biết thêm gì về Ngài, ngoài việc liên kết tên Ngài với Philipphê.
Tin Mừng thứ tư không có danh sách các tông đồ, nhưng có nhắc phần lớn tên các tông đồ thuộc nhóm 12, sách Tin Mừng này không nói gì tới Bartôlômêô, nhưng lại chỉ ghi nhận tên Nathanael, liên hệ với Philipphê (Ga 43-51), cũng như kết nhóm với các tông đồ khác sau phục sinh (Ga 21,1-14). Từ thế kỷ 16, nhiều học giả đã đồng hóa Nathanael với Bartôlômêô và gọi tên Bartôlômêô là tên của Nathanael. Như vậy chính Narthanael là con (bar) của ông Tolmai hay có thể Ptoleemy (Tlômêô), sinh tại Cana (Ga 21,2).
Nếu sự đồng hoá là đúng, chúng ta biết được nhiều chi tiết về ơn gọi của thánh tông đồ hơn là của các tông đồ khác (Lc 5,4-10 dường như là phó bản của Ga 21,4-17). Trước khi được chính thức kêu gọi, đã có một cuộc gặp gỡ thú vị: Philipphê giới thiệu với Bartôlômêô: - Đấng mà Môsê trong lề luật cùng các tiên tri chép đến, chúng tôi đã gặp rồi, Người là đức Giêsu con ông Giuse người Nazareth.
Bartôlômêô đáp lại, với óc khinh miệt của những dân làng lân cận: - Từ Nazareth thì có thể xảy ra điều gì tốt được.
Tuy nhiên đáp lại lời mời “thì hãy đến mà xem”, vị tông đồ đã gặp một Chúa Giêsu thấu suốt lòng mọi người: - Này đây đích thực là một người Israel, trong mình không có gì gian dối.
Bartôlômêô đã nhận ra nguồn gốc thiên sai của Chúa Giêsu nhờ cuộc gặp gỡ ấy. Rồi đây Ngài còn khám phá ra sư thật cao cả hơn nữa về con người Chúa Giêsu. Ngài luôn chen vai sát cánh với các bạn tông đồ (Ga 21,1-14).
Sau khi đón nhận Chúa Thánh Thần trong ngày lễ Ngũ tuần, thánh Bartôlômêô ra đi truyền giáo. Có nhiều truyền thống cung ứng các chi tiết khác nhau về đời truyền giáo của Ngài tại Tiểu Á, Armennia, Mosopotamia, Persia, Ấn Độ và Ai cập. Tuy nhiên giai thoại ở Armenia được chấp nhận nhiều hơn cả. Thánh nhân được tôn kính như thánh tông đồ của miền này.
Người ta kể rằng: khi thánh tông đồ đến Armenia, tại chính nơi vua Polimio và triều đình cư ngụ, quỷ thần Atarốt ở đấy câmhọng. Ngài khua trừ ma quỉ. Giải thoát cho nhiều người khỏi bị quỉ ám. Trong số này có cả nàng công chúa. Ngài liền được triêu vời đến triều đình. Trước mặt vua Ngài truyền quỉ thần phải nói sự thật bỉ ổivề số phận đời đời của nó. Nhà vua cảm động ban tặng tiền bạc cho tông đồ, nhưng Ngài từ khước và chỉ mong mọi người nhận biết và thờ phượng Chúa.
Dĩ nhiên các tư tế thờ ma quỉ tức giận, họ xúi giục dân chúng nổi dậy chống lại thánh tông đồ. Attiges em vua Polimiô bắt Ngài tống ngục. Ong nổi giận ra lệnh lột da rồi thiêu sống thánh nhân. Nhưng nhờ quyền năng Chúa, Ngài vẫn được cứu sống. Người ta dựa vào sự kiện này để vẽ hình thánh nhân nằm cạnh con dao và miếng da như biểu tượng đời Ngài. Cuối cùng Ngài bị trảm quyết.
Tương truyền rằng: xác Ngài được chuyển về Beneventô. Vào thế kỷ X, không rõ các di tích của Ngài có được vua Ottô III đưa về và còn được lưu giữ tại thánh đường thánh Bartôlômêô ở Tiber không?
(Trích trong “Theo Vết Chân Người” - Chân dung các thánh nhân)
Suy niệm 10: Thánh Barthôlômêô tông đồ
Thuộc dòng dõi vua Tolmai (2 Sam 3:3). Vua Geshu con của Maacah, mẹ của Absalong sanh ra vua David. Đàng khác Bartholomew họ hàng với Ptolemy vua nước Ai Cập. Ông có bộ tóc đen quăn dài phủ tai, da trắng, mắt to, mũi thẳng, râu rậm chen lẫn những chùm râu trắng, người cao trung bình. Ảnh hưởng bởi dòng dõi quý tộc và phong cách con nhà quyền quý ông thích mặc áo chùng màu trắng kèm theo những giải màu tím. Áo choàng ngoài cũng màu trắng thêu màu tím bốn góc. Là một người thông thái, thông thạo nhiều ngôn ngữ, tính tình nhân hậu, vui vẻ và chuyên cần cầu nguyện ngày đêm. Tuy dòng dõi hoàng gia nhưng ông hội nhập vui sống với những ngư phủ, thứ dân, ngôn từ bình dị, không hề than thở hay tỏ ra cao ngạo.
Phúc âm Matthew, Marcô và Luca luôn nhắc đến Philip và Barthôlômêo. Phúc âm Gioan nhắc Philip giới thiệu Nathanael cho Chúa Yêsu nên có nhiều học giả cho là Barthôlômêo và Nathanael là một.
Barthôlômêo giảng đạo tại Ấn Độ với tông đồ Phillip và miền Tiểu Á (Thổ Nhĩ Kì). Hành trang giảng đạo vỏn vẹn có cuốn sách Phúc Âm thánh Mathêu viết bằng tiếng Hy Bá. Vợ quan toàn quyền Astyages được ơn lạ. Thánh nhân cứu sống qua cơn bệnh ngặt nghèo. Bà tin theo đạo và trở thành người giúp việc tận tình cho việc truyền giáo. Số người trở lại tin theo lên đến nhiều ngàn. Làn sóng người tin đạo gây một phản ứng ngược mạnh mẽ trong giới lãnh đạo. Trước áp lực của các quan cận thần và sợ tiếng quở trách của hoàng đế Rôma. Toàn quyền Astyages ra lệnh ngăn cấm dân chúng không được theo đạo. Lệnh cấm không làm giảm niềm tin; trái lại số người tin theo tăng ngày một nhiều. Giải pháp duy nhất Astyages thực hiện là bắt các tông đồ tống ngục. Việc làm gây tiếng vang giữa các tín hữu. Người tin theo càng can đảm hơn. Họ lầm lí luận xử tử các ngài đạo sẽ tan. Họ không biết các ngài chỉ là công cụ của Thiên Chúa. Ngoài xã hội, giết kẻ lãnh đạo đoàn thể đó tan. Lãnh đạo trong Giáo Hội là Chúa. Đức Kitô đi rao giảng bây giờ trở thành kẻ được rao giảng.
Bị bắt chung với Philip, quan tòa ra lệnh tha Bartholomew, còn Philip thì bị án tử. Lính được lệnh treo ngài vào thập tự không phải đóng bằng đinh nhưng dùng giáo đâm lủng hai đùi, xỏ giây qua treo ngược trên thập tự. Bartholomew được tự do có lẽ do sự can thiệp của vợ quan toàn quyền, cũng có thể do chính vị chánh án xử cũng tin theo Chúa và nhận được ơn nên ông ra lệnh tha Bartholomew.
Chứng kiến cảnh Philip tử đạo, Bartholomew sang Armenia (quê hương mẹ Têrêsa). Ngày nay phần đất này nằm giữa biên cương Irăn và Sô Viết. Bartholomew là thánh bổn mạng của quốc gia này. Thực ra Bartholomew không phải là nhà truyền giáo đầu tiên trên phần đất này. Trước đó vào các năm 43-66, thánh Tông Đồ Thađêô đến Armenia giảng đạo. Barthôlômêô có mặt vào khỏang năm 66-68. Như thế hạt giống Tin Mừng đức tin được thánh tông đồ Thađêô gieo rắc một thời gian dài là 23 năm trước đó. Hai năm 66-68, Bartholomew là người tưới cho hạt giống đức tin nảy mầm và mọc xanh tốt.
Bartholomew không trú ngụ hẳn tại Liên Sô hay Armenia nhưng thường xuyên đi lại giữa hai nước. Tại Armenia, Bartholomew đặt tay cầu nguyện cứu sống con gái vua. Việc tốt lành này làm nổi giận các đạo sĩ hầu cận nhà vua vì họ mất sủng ái. Gia đình tiểu vương tin theo Chúa nhưng các đạo sĩ trong cung điện mua chuộc anh vua. Nhóm này âm thầm ngầm bắt Bartholomew lột da sống rồi đóng đinh ngược tại Bashlake năm 68. Nay là thành phố Derbend. Đây là một hải cảng dân chúng sống nghề buôn bán ngựa cho chiến tranh.
Trong quá khứ các nhà địa lí dường như không phân biệt rõ ràng, mạch lạc như chúng ta hiểu ngày nay. Trong thời buổi hỗn mang đó, nhiều vua lắm chúa, bá tước và đại điền chủ đều xưng vương xưng bá, quyền hành như vua con một cõi nên việc phân biệt địa danh quả là có nhiều vấn đề. Thời đó Ấn Độ được hiểu là một trong các miền ở các vùng Ả Rập, Ethiôpia, Libya, Parthia, Persia, Medes và một phần Ấn Độ ngày nay.
Bước chân truyền giáo của các tông đồ rất khó xác định vì các ngài ra đi tự do, không người chỉ định. Sau ngày lễ Ngũ Tuần các ngài hăng hái ra đi về một phương trời vô định. Đến nơi này thấy có người đang truyền giáo các ngài bỏ đi nơi khác, thực hành câu sai đi rao giảng Tin Mừng đến khắp cùng bờ cõi. Vì quan niệm tứ hải đều là nhà nên nơi nào chấp nhận hạt giống đức tin; nơi đó các ngài cư ngụ. Nơi nào xua đuổi các ngài âm thầm ra đi. Sau này tin tức truyền giáo viết phỏng theo lời tường thuật của dân địa phương, truyền khẩu, nhớ đến đâu kể đến đó. Các sử gia cố gắng kiểm chứng, dò theo từng vết chân, bút tích, nhân chứng. Căn cứ vào thánh đường, thánh tích, lời truyền nếu các chi tiết đó ăn khớp với nhau coi như tin đó chính xác, đáng tin.
Dẫu thế mức độ chính xác cũng chỉ tương đối. Thứ nhất là chiến tranh, thứ hai là các tôn giáo bạn, nhóm nào cũng nhận đóng góp ít nhiều trong việc giúp các tông đồ. Chính vì thế mà khi đọc về lịch sử truyền giáo, các sử gia thường phải đối chiếu nhiều tài liệu khác nhau: lịch sử dân tộc, lịch sử công giáo, chính thống, địa phương sử và chiến sử rồi so sánh, gạn lọc truyền thống có nhiều bằng chứng nhất giữ lại. Truyền thống thần bí chờ nghiên cứu thêm.
Vấn đề ngôn ngữ là yếu tố khác. Có bản viết bằng tiếng La Tinh, bản khác tiếng Hy lạp cổ, tiếng thổ dân nên cần rất nhiều công tra cứu để đọc và hiểu rõ tác giả muốn viết gì. Da thuộc hiếm và đắt nên đắn đo từng chữ trước khi viết.
Ngày nay xác thánh Bartholomew được cất giữ ở nhiều nơi khác nhau. 508 vua Anastasius giữ xác thánh tại Duras, Mesopotamia. Thế kỉ thứ 6 thánh Gregory de Tours chuyển xác về Sicily. Năm 809 xác được chuyển sang Benevento. Năm 983, vua Otto đệ tam chuyển sang Roma.
Hiện nay một phần thánh tích chôn cất dưới thánh đường Bartholomew. Một xương cánh tay chuyển về Benevento và giám mục Edward tặng thánh đường Canterbury.
Tóm lược trong tài liệu:
1.The Search for the Twelve Apostles của W. McBirnie
2. The Twelve Apostles của R. Brownrigg
(Lm Vũ đình Tường, Vietcatholic News)
Suy niệm 11: Thánh Barthôlômêô, Tông Đồ
Trong danh sách các Tông Đồ, Thánh Ba-tô-lô-mê-ô thường được 3 Phúc Âm Nhất Lãm nhắc đến (Mt 10,3 ; Mc gọi Ngài là Bar-Tolmai ; ngài được Phúc Âm Gioan gọi là Natanael (Ga 1,45-51). Người ta đoán rằng Nathanael là một thầy thông luật hay đệ tử của trường phái luật sĩ.
Theo truyền thuyết, Natanael rao giảng ở Ấn Độ, Mésopotamie và nhất là ở Arménie, cuối cùng chịu tử đạo tại đây. Di hài của ngài sau đó được chuyển về đảo Lipara và về Benevent. Hoàng đế Otto III cho chuyển về Rôma và đặt ở một cồn nhỏ trên sông Tibre. Trong Tin Mừng Gioan, Natanael là người môn đệ thứ tư được Chúa Giêsu kêu gọi.
- Khi Philipphê nói với Natanael rằng Đức Giêsu chính là Đấng Messia, Natanael tỏ vẻ hoài nghi, bởi vì theo ông, Đấng Messia không thể xuất thân từ một nơi mà Thánh Kinh không bao giờ nói tới như Nagiarét. Quả thực, sự tương phản giữa quan niệm về một Đấng Messia vinh quang với nguồn gốc hèn hạ của Đức Giêsu chính là một sự vấp phạm của mầu nhiệm nhập thể. Đức tin phải vượt qua cớ vấp phạm này để nhận ra Đức Giêsu xuất thân từ Nagiarét tầm thường ấy chính là Đấng Messia. Một số người do thái đã không thể vượt qua như vậy, họ nói : “Ông này không phải là con của Giuse đấy ư ? Chúng ta há không biết cha mẹ của ông ta sao ? Thế mà tại sao bây giờ ông ta lại tuyên bố rằng ta từ trời xuống ? (6,42)
- Đức Giêsu nói với Natanaen “Trước khi Philipphê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh” : Trong Ga, Đức Giêsu thường tỏ ra am tường các biến cố và các con người (2,25 6,61 13,1). Hình ảnh cây vả hơi mơ hồ : có người hiểu đó là nơi các rabbi thích ngồi để nghiên cứu Thánh Kinh ; có người nghĩ đến cây biết tốt xấu trong vườn diệu quang. Có lẽ ý nghĩa ở đây là : Natanaen là người thích suy gẫm Thánh Kinh để biết về Đấng Messia, và Đức Giêsu cho ông hay rằng những lời tiên báo về Đấng Messia ấy đã được thực hiện nơi Ngài.
- Lời của Đức Giêsu khiến Natanaen xúc động đến nỗi ông gọi Ngài bằng 2 tước hiệu “Con Thiên Chúa” và “Vua Israel”.
a/ Trong Ga, tước hiệu “Vua Israel” đồng nghĩa với tước hiệu Messia nhưng ít màu sắc chính trị hơn tước hiệu “Vua dân do thái” được nhắc tới trong cuộc chịu nạn của Ngài (18,33.39 19,3 19,21). Khi Ngài vào thành Giêrusalem, dân chúng cũng tung hô Ngài bằng tước hiệu “Vua Israel” (12,13).
b/ Còn tước hiệu “Con Thiên Chúa” chính là tước hiệu được gán cho Ngài khi Ngài đăng quang làm Messia (x. 2Sm 7,14).
- Nathanaen sẽ “được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa” : bây giờ Đức Giêsu chỉ mới mạc khải với ông bằng lời, sau này Ngài sẽ còn dùng dấu chỉ để loan báo tương lai, nhất là dấu chỉ Cana trong đó Ngài sẽ “biểu lộ vinh quang của Ngài”.
- Đức Giêsu có nhắc tới việc “thiên thần Chúa lên xuống”. Có thể có liên hệ với chiếc thang Giacóp trong St 28,12 “Này đây được dựng từ đất một chiếc thang mà đầu cuối chạm tới trời ; các thiên sứ lên xuống trên thang đó”. Như thế, chi tiết này muốn nói rằng trong tư cách là “Con Người”, Đức Giêsu chính là nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa và loài người, giữa trời và đất.
Suy niệm 12: Chân dung Thánh Barthôlômêô, Tông Đồ
Trong Tân ước, Thánh Batôlômêô chỉ được nhắc đến trong danh sách các tông đồ. Một số học giả xác định ngài với Nathanael (còn viết là Nathaniel), một đàn ông người Cana ở Galilê đã được Philipphê nói cho biết về Chúa Giêsu.
Giáo hội mừng kính Thánh Batôlômêô vào ngày 24-8 hàng năm. Ngày này là ngày các hội chợ truyền thống, như Hội chợ Batôlômêô ở Smithfield (London, Anh quốc) xuất hiện từ thời Trung Cổ, có diễn hài kịch của Ben Jonson.
Thánh Batôlômêô được liệt kê thuộc Nhóm Mười Hai trong các Phúc Âm nhất lãm (Mt 10:1-4; Mc 3:13-19; Lc 6:12-16), và ngài là một trong ba nhân chứng khi Chúa Giêsu lên trời (Cv 1:4, 12-13). Trong Ga 1:45-51, ông Nathanael được giới thiệu là bạn của ông Philipphê. Ông được mô tả là người nghi ngờ về Đấng Mêsia đến từ Nadarét khi nói: “Từ Nadarét, làm sao có cái gì hay được?”, nhưng sau khi ông Philipphê nói: “Cứ đến mà xem!”, ông đã đến gặp Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã khen ông: “Đây đích thật là một người Ít-ra-en, lòng dạ không có gì gian dối” (Ga 1:47). Khi Nathanael hỏi tại sao Chúa Giêsu biết ông, Chúa Giêsu nói: “Trước khi Philípphê gọi anh, lúc anh đang ở dưới cây vả, tôi đã thấy anh rồi” (Ga 1:48). Điều mặc khải lạ lùng là Nathanael tuyên xưng: “Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Ít-ra-en!” (Ga 1:49). Chúa Giêsu nói: “Vì tôi nói với anh là tôi đã thấy anh ở dưới cây vả, nên anh tin! Anh sẽ còn được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa” (Ga 1:50).
Quả thật, Nathanael đã thấy những điều lớn lao hơn. Ngài là một trong các tông đồ được Chúa Giêsu hiện ra trên bờ biển Tibêria sau khi Ngài phục sinh (x. Ga 21:1-14). Lúc đó, họ đã đánh cá suốt đêm mà vô ích. Đến sáng, họ thấy một người đứng trên bờ nhưng không ai biết đó là Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu đã bảo họ thả lưới, họ làm theo và đánh được rất nhiều cá. Rồi Gioan nói với Phêrô: “Chúa đó” (Ga 21:7).
Truyền thống cho biết rằng Thánh Batôlômêô đi truyền giáo ở Ấn Độ, và đã để lại đây cuốn Phúc Âm theo Thánh Matthêu. Các truyền thống khác nói ngài đi truyền giáo ở Ethiopia, Mesopotamia, Parthia và Lycaonia. Ngài tử đạo tại Albanopolis, thuộc Armenia. Truyền thống nói ngài bị chém đầu, nhưng phổ biến hơn là truyền thống nói ngài bị lột da rồi bị đóng đinh ngược. Truyền thống còn cho biết rằng ngài đã hoán cải Polymius, vua của Armenia. Chính người anh em của Polymius là Astyages đã ra lệnh xử tử Thánh Batôlômêô.
Một tu viện nổi tiếng tại Armenia là Tu viện Thánh Batôlômêô có từ thế kỷ 13, được xây dựng ngay tại nơi Thánh Batôlômêô chịu tử đạo là tỉnh Vaspurakan, thuộc Armenia (nay thuộc Đông Nam Thổ Nhĩ Kỳ).
Nghiên cứu của LM A.C Perumalil (Dòng Tên) và Moraes cho thấy rằng miền Bombay thuộc duyên hải Konkan, có thể đây là thành phố cổ Kalyan, là vùng hoạt động truyền giáo của Thánh Batôlômêô. Tác giả Theodorus Lector (thế kỷ 6), xác nhận rằng khoảng năm 507, Hoàng đế Anastasius đã giao hài cốt Thánh Batôlômêô cho thành phố Dura-Europos sau khi được tái phát hiện.
Năm 803, hài cốt ngài được đặt tại Giáo đường Thánh Batôlômêô tại Lipari, một đảo nhỏ thuộc duyên hải Sicily, do Constantinople kiểm soát. Năm 803, hài cốt ngài lại được chuyển tới Beneventum; rồi năm 980, Hoàng đế Otto II của Tòa Thánh đã chuyển hài cốt ngài tới Rôma, lưu giữ tại Giáo đường San Bartolomeo all’Isola. Một phần sọ của Thánh Batôlômêô được chuyển tới Giáo đường Frankfurt, còn một cánh tay của ngài được tôn kính tại Giáo đường Canterbury ngày nay.
Có nhiều phép lạ của Thánh Batôlômêô đã xảy ra trước và sau khi ngài chết, hai phép lạ nổi tiếng xảy ra cho dân thành phố nhỏ tại đảo Lipari.
Theo truyền thống, dân đảo Lipari rước tượng ngài bằng vàng và bằng bạc từ Giáo đường Thánh Batôlômêô đi khắp thành phố. Một lần nọ, khi đưa tượng ngài từ trên đồi xuống thành phố, bỗng dưng tượng ngài trở nên nặng trĩu, không thể đưa đi nơi khác, người ta cố đưa tượng đi nhưng tượng càng nặng hơn, thế là người ta phải đặt tượng ngài tại đó. Hồi thế chiến II, chế độ Phát-xít (Đức/Ý) tìm cách quản lý các hoạt động. Lệnh truyền phải đưa tượng Thánh Batôlômêô đi chỗ khác, tượng lại trở nên nặng hơn. Người ta đành “bó tay”!
Lạy Thánh Batôlômêô, xin cầu thay nguyện giúp. Amen.
(Trầm Thiên Thu)
23/08 Khốn cho các ngươi
- Viết bởi Mt 23, 13-22
Khốn cho các ngươi, …
Thứ Hai tuần 21 thường niên.
"Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ dẫn đường đui mù".
Lời Chúa: Mt 23, 13-22
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi đóng cửa nước trời không cho người ta vào: vì các ngươi không vào, mà kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào.
"Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi đọc kinh cho dài để nuốt tài sản của các bà goá, bởi thế, các ngươi sẽ chịu phán xét nặng hơn.
"Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi rảo khắp biển khơi và lục địa, để tìm cho được một người tòng giáo, nhưng khi đã cho người đó tòng giáo, các ngươi làm cho nó trở thành con cái hoả ngục gấp hai lần các ngươi.
"Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ dẫn đường đui mù! Vì các ngươi nói rằng: Ai lấy đền thờ mà thề, thì không có giá trị gì, nhưng ai lấy vàng trong đền thờ mà thề, thì mắc lời thề. Hỡi kẻ ngu ngốc và đui mù, chớ thì vàng hay là đền thờ thánh hoá vàng, cái nào trọng hơn? Các ngươi còn bảo rằng: Ai lấy bàn thờ mà thề, thì không giá trị gì, nhưng ai lấy của lễ để trên bàn thờ mà thề, thì mắc lời thề. Hỡi những kẻ đui mù, chớ thì của lễ hay là bàn thờ thánh hoá của lễ, cái nào trọng hơn?
"Vậy ai lấy bàn thờ mà thề, thì lấy cả bàn thờ và mọi sự để trên bàn thờ mà thề. Kẻ nào lấy đền thờ mà thề, thì lấy cả đền thờ và Ðấng ngự trong đền thờ mà thề. Và kẻ nào lấy trời mà thề, thì lấy ngai toà Thiên Chúa và Ðấng ngự trên ngai toà ấy mà thề".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Đạo đức giả
Suy niệm:
Trong Bài Giảng trên núi, Đức Giêsu đã nói đến Các Mối Phúc.
Ngài chúc mừng những ai thuộc về Nước Trời bằng các lời Phúc cho.
Còn trong chương 23 của Tin Mừng Mátthêu,
Đức Giêsu lại 7 lần dùng lối nói Khốn cho,
khi nói với giới lãnh đạo Do Thái giáo là các kinh sư và nhóm Pharisêu.
Đức Giêsu không phải là người đầu tiên dùng lối nói khó chịu này.
Các ngôn sứ thời xưa như Amốt hay Isaia (Am 6, 1; Is 5, 8-24)
cũng đã lắm khi dùng lối nói này để tố cáo những người quyền thế.
Mục đích của các ngôn sứ là vạch trần những sai phạm của họ,
và cảnh báo cho mọi người biết mà tránh xa.
Đức Giêsu đã nói như một vị ngôn sứ.
Khi nói khốn cho, Ngài không có ý nguyền rủa hay kết án ai,
cho bằng nói lên sự đau xót, thậm chí giận dữ đến độ trách phạt.
“Khốn cho ngươi, hỡi Khoradin! khốn cho ngươi, hỡi Bétsaiđa!”
Đức Giêsu đã nói như thế với các thành phố từ chối Ngài (Mt 11, 21).
“Khốn cho kẻ nào nộp Con Người, thà nó đừng sinh ra thì hơn” (Mt 26, 24).
Đây không phải là một lời chúc dữ cho Giuđa,
hay kết án anh phải đời đời hư mất.
Đúng hơn đây diễn tả một tiếc nuối xót xa về tội của người môn đệ.
Vào thời thánh Mátthêu viết sách Tin Mừng, từ sau năm 70,
có một sự xung đột nghiêm trọng giữa các Kitô hữu gốc Do Thái
với những nhà lãnh đạo Do Thái giáo lúc bấy giờ.
Bài Tin Mừng hôm nay phản ánh sự căng thẳng đó.
Các vị kinh sư và những người pharisêu đầy quyền lực
không muốn đồng bào của mình tin vào một ông Giêsu bị đóng đinh.
Ai tin sẽ bị trục xuất khỏi hội đường (x. Ga 9, 22).
Như thế họ đã khóa cửa Nước Trời để chẳng ai vào được, kể cả họ (c. 13).
Các vị kinh sư và nhóm Pharisêu hăng say trong việc truyền giáo.
Họ muốn làm cho dân ngoại trở thành Dân Chúa.
Tiếc thay, sau khi đã vào đạo rồi, những người tân tòng này
có thể trở nên cứng nhắc vì nệ luật, và rơi vào thói giả hình.
Họ “trở thành con cái của hỏa ngục gấp đôi các ông” (c. 15).
Đức Giêsu cũng tố cáo sự phân biệt quá chi li về giá trị những lời thề.
Đối với Ngài, thề nhân danh Đền thờ hay vàng trong Đền thờ,
nhân danh bàn thờ hay lễ vật trên bàn thờ (cc. 16-20),
thì cũng chẳng khác gì thề nhân danh chính Thiên Chúa (cc. 21-22).
Tất cả lời thề đều phải được giữ như nhau, đều ràng buộc như nhau.
Những lời tố giác của Đức Giêsu đối với giới lãnh đạo Do Thái giáo
vẫn đặt câu hỏi cho chúng ta thời nay.
Làm sao để tôn giáo mở đường cho con người gặp gỡ Thiên Chúa,
chứ không khép lại hay gây cản trở?
Làm sao để người tân tòng thực sự trở thành con cái Nước Trời?
Làm sao để chúng ta khỏi sa vào những chi li thái quá của luật lệ?
Những lời của Đức Giêsu mời gọi chúng ta nhìn lại mình và thay đổi.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
khi đến với nhau,
chúng con thường mang những mặt nạ.
Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình.
Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt
dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.
Khi đến với Chúa,
chúng con cũng thường mang mặt nạ.
Có những hành vi đạo đức bên ngoài
để che giấu cái trống rỗng bên trong.
Có những lời kinh đọc trên môi,
nhưng không có chỗ trong tâm hồn,
và ngược hẳn với cuộc sống thực tế.
Lạy Chúa Giêsu,
chúng con cũng thường ngắm mình trong gương,
tự ru ngủ và đánh lừa mình,
mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn.
Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ,
đã ăn sâu vào da thịt chúng con,
để chúng con thôi đánh lừa nhau,
đánh lừa Chúa và chính mình.
Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành,
để chúng con được lớn lên trong bình an.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: Lãnh đạo sáng suốt
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Vận mệnh một cộng đoàn tùy thuộc rất nhiều vào lãnh đạo. Lãnh đạo sáng suốt sẽ giúp cộng đoàn phát triển. Lãnh đạo sai lầm sẽ tàn phá cộng đoàn nhanh chóng. Chúa Giêsu chê trách người Pha-ri-sêu vì họ đưa dân vào chỗ sai lạc, chết chóc.
Họ sai lạc vì giữ tín đồ lại cho mình, chứ không dẫn đưa kẻ tin đến với Chúa. Tự giam hãm, trói buộc mình trong những mớ luật lệ tỉ mỉ, phức tạp làm thui chột sức sống, họ không chịu vào Nước Trời mà còn ngăn cản không cho người khác vào.
Họ sai lạc vì dẫn đưa người khác đến chỗ chết, xô đẩy họ vào hỏa ngục khi loan truyền một thứ đạo không mến Chúa, cũng chẳng yêu người.
Họ sai lạc quá xa khi đưa ra một thứ đạo dừng lại ở vật chất, hình thức bên ngoài. Thề thốt và tin rằng những vật chất quí giá là vàng bạc và lễ vật có thể chứng giám lời thề. Nhưng không đặt mình trước mặt Chúa, thiếu đức tin vào Chúa. Đạo không có Chúa chỉ là trống rỗng. Thờ phượng chỉ dừng lại ở vật chất và lễ nghi chỉ là lừa bịp. Sống đạo chỉ vụ lề luật là một thứ vong thân, tha hóa khiến ta thành nô lệ.
Thánh Phao-lô tỏ ra là người dẫn đường sáng suốt khi không biến mình thành ngẫu tượng. Tuy được dân đón nhận, tin yêu, thánh nhân không bắt họ dừng lại nơi mình, nhưng đã dẫn họ đến với Chúa. Ngài biết rằng tín hữu có niềm tin không phải nhờ tiếng nói của ngài nhưng “còn có quyền năng của Thánh Thần” (năm lẻ).
Ngài khen ngợi dân thành Thessalonica vì họ đã biết “từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với thiên Chúa để phụng thờ Thiên Chúa hằng sống, Thiên Chúa thật”. Hơn nữa họ đã vượt qua những khó khăn thử thách mà vẫn vững tin vào Chúa, vẫn yêu mến Chúa và nhất là vẫn trông cậy, chờ đợi Chúa Giêsu Kito, Đấng Cứu Độ ngự đến.
Ngài mặc khải cho họ biết đạo Chúa là đạo tình yêu. Ngài chúc mừng tín hữu Thessalonica vì họ “là những người được Thiên Chúa thương mến, chúng tôi biết rằng Thiên Chúa đã chọn anh em”. Vì thế đạo không phải là một khái niệm trừu tượng hay một mớ luật lệ vô hồn. Vì trong đạo họ được sống trong tự do, được gặp gỡ Thiên Chúa sống đọng trong một tương quan liên chủ thể.
Với người lãnh đạo sáng suốt, dân Chúa được dẫn đưa trên đường ngay nẻo chính, được gặp Chúa. Và được sống. “Như thế, danh của Chúa chúng ta là Đức Giêsu, sẽ được tôn vinh nơi anh em, và anh em được tôn vinh nơi Người” (năm chẵn).
SUY NIỆM 3: Kết Án Tội Mù Quáng
Toàn chương 23 Phúc Âm thánh Mátthêu ghi lại những lời kết án của Chúa Giêsu đối với các Luật sĩ và Biệt phái. Nhưng trước khi công bố 7 lời kết án đó, tác giả Mátthêu ghi lại nhận định chung của Chúa Giêsu (c.1-12). Chúa Giêsu, Ngài đề ra luật sống mới cho tất cả những ai muốn theo Ngài, Ngài là vị thầy duy nhất thay thế Môsê và các vị thầy nhân loại khác, Ngài muốn cho các môn đệ đừng rơi vào thái độ của những Luật sĩ và Biệt phái: mù quáng, giả hình, vụ hình thức, chú trọng đến cái phụ thuộc mà bỏ quên giáo lý làm linh hồn cho những hình thức bên ngoài.
Ba lời lên án của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay có cùng một điểm chung là sự mù quáng. Vì mù quáng, các Luật sĩ và Biệt phái chẳng những không được vào Nước Trời, mà còn cản trở những ai muốn vào đó; vì mù quáng, họ chỉ muốn khoe khoang lòng nhiệt thành tông đồ của họ, chứ không thực sự nhằm đến ơn cứu rỗi của những người họ muốn đưa về cùng Chúa; vì mù quáng, họ thay đổi luật Chúa theo ý riêng để có lợi cho cá nhân, chứ không thực sự màng đến luật Chúa.
Ðó là ba lời kết án của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã tự ví mình như người chăn chiên nhân lành đi tìm chiên lạc, như thầy thuốc cần cho bệnh nhân, như một Vị Thiên Chúa quyền năng sẵn sàng tha thứ và giải phóng con người tội lỗi. Thế nhưng, Ngài đã không sợ đưa ra những lời kết án mạnh mẽ, thẳng thắn: "Khốn cho các ngươi", không phải vì Ngài không còn lòng nhân từ và tha thứ, nhưng vì sự cứng lòng chai đá của con người đã đến mức tột cùng; không hoán cải khỏi thái độ giả hình, mù quáng, lạm dụng tôn giáo, con người không thể hưởng được tình yêu thương nhân từ của Thiên Chúa.
Ước gì Lời Chúa hôm nay thức tỉnh chúng ta khỏi thái độ mù quáng, khép kín, tư lợi, và cho chúng ta biết sống khiêm tốn, chân thành trước mặt Chúa và đối với anh em, để chúng ta xứng đáng hưởng chúc lành của Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Lắng Nghe Tiếng Nói Của Lương Tri (Mt 23,13-22)
Những lời "khốn cho các ngươi" được lập lại nhiều lần tương ứng với những điều chướng tai gai mắt cũng là những tội của các kinh sư và biệt phái. Họ đã cố tình làm những điều phi lý, khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào, nuốt hết tài sản của các bà góa, rảo khắp các biển cả đất liền rủ cho được một người theo đạo, nhưng khi họ theo rồi thì lại làm cho họ đáng xuống hỏa ngục hơn. Chúa Giêsu đã gọi các kinh sư và biệt phái là những người sống mù quáng. Ðiều đáng nói ở đây là các kinh sư và biệt phái cố tình chia lìa trong lỗi lầm của mình, họ thích danh vọng và chạy theo những bả vinh hoa, vì vậy họ cố gắng tìm mọi cách để đạt đến nó bằng bất cứ cách nào. Có thể nói đây là những người chủ trương lấy cứu cánh biện minh cho phương tiện. Cứu cánh của họ đã không công minh, chính trực và phương tiện lại còn đê hèn hơn, nên họ đã lợi dụng những dân đen, là những người thấp cổ bé họng, không có khả năng tự bảo vệ mình.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy lắng nghe tiếng nói của lương tri, là lời của Chúa muốn dạy chúng ta cách cụ thể trong từng trường hợp của đời sống ta.
Lạy Chúa,
Xin Chúa ban cho mỗi chúng con luôn biết xa tránh những điều xấu xa và tìm đến nguồn mạch ân sủng là Lời Chúa, nhờ đó lương tâm của chúng con mãi trong sáng để rọi lên hình ảnh sống động của Chúa và thánh ý Ngài trong mỗi giây phút của cuộc sống chúng con.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 5: Khốn cho kẻ giả hình.
Đức Giêsu nói: “Khốn cho các ngươi, những kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! các ngươi khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! các ngươi đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng không để họ vào.” (Mt. 23, 13)
Nếu có ai hỏi sao một người hiền lành, dịu ngọt nhất như Đức Giêsu lại có những lời như xẻ cưa, lửa đốt như vậy trong Tin Mừng của Người khi Người khiển trách những kẻ giả hình và những kẻ làm gương mù? Vì lợi ích tương lai của công trình Người, Người phải lột mặt nạ tập đoàn kinh sư lợi dụng quyền thế tách rời Người ra khỏi những người thường dân bé nhỏ. Hôm nay, Người nói rõ sự thật về họ một cách trịnh trọng:
Những kẻ giả hình xưa:
Tiếng kêu: “Khốn cho” kẻ giả hình, họ giả hình vì chỉ thực hành những nghi thức tôn giáo hoàn toàn hình thức bên ngoài, khác xa với lòng đạo đức chân thực sống động bên trong con người. Kẻ giả hình luôn lợi dụng việc thờ phượng Thiên Chúa hằng sống để thượng tôn pháp luật và nghi lễ bên ngoài một cách xảo quyệt. Chính ra việc phụng sự Thiên Chúa phải thành thực và sống động bởi lòng yêu mến chân chính.
Những lời khiển trách của Chúa còn tới chúng ta ngày nay không?
Kẻ giả hình ngày nay.
Chúng ta có là kẻ giả hình không? Không nên khóc thương những kẻ giả hình khốn khổ xưa, cũng không xét đoán ai. Nhưng chính mình chúng ta có sống chân thật không? Trong đời sống chúng ta? trong lúc hành đạo? có thể chúng ta có nhiều thái độ giả hình được biện minh nhân danh phục vụ, cần cho hợp thời dựa vào sự đổi mới của Công đồng Va-ti-can 2 hay liệng bỏ lời Giáo Hội là Thầy dạy.
Chúng ta giầu và phong phú lắm. Phải, đúng là chúng ta rất phong phú về lễ nghi. Nhưng chúng ta có biết tự hạ mình xuống giúp những kẻ không có gì chăng? có lẽ chúng ta cầu nguyện nhiều, nhưng có vừa đủ để cho người khác cầu nguyện không? và có khi họ cầu nguyện còn thành thực hơn chúng ta nhiều.
CG
SUY NIỆM 6: LỜI RAO GIẢNG PHẢI ĐI ĐÔI VỚI HÀNH ĐỘNG
Mahatma Gandhi là anh hùng dân tộc Ấn Độ, ông đã chỉ đạo cuộc kháng chiến chống chế độ thực dân của Đế quốc Anh và giành độc lập cho Ấn Độ với sự ủng hộ nhiệt liệt của hàng triệu người dân.
Lúc còn là sinh viên, ông say mê đọc Kinh Thánh và có ý định gia nhập đạo Công Giáo vì ông thấy giáo lý của Đức Giêsu về “đạo yêu thương” quá tuyệt vời! Nhưng vào một lần, ông đi đến nhà thờ của người da trắng để dự lễ, ngay lập tức, ông bị ngăn lại và được mời đến nhà thờ của người da đen, vì nơi đây không phải là nhà thờ của người da đen. Mahatma Gandhi ra về trong thất vọng. Kể từ đó, ông không bao giờ đến nhà thờ và quyết liệt từ bỏ ý định trở thành người Công Giáo vì hành động phản yêu thương của những người da trắng.
Thật vậy, trong xã hội ngày nay, vẫn còn đó những hình ảnh, cử chỉ của người Công Giáo như những người da trắng trong câu chuyện trên. Họ là những người giả hình “hạng ưu”!
Tại sao vậy? Thưa! Ấy là lúc chúng ta nói những lời tốt đẹp, khuyên người ta ăn ngay ở lành. Nào là: phải bao dung, tha thứ; phải nâng đỡ những cô nhi quả phụ; phải đứng về phía người nghèo; phải khước từ bóc lột, áp bức... Những lời khuyên như vậy rất “kêu”, rất “trội” và rất “thánh”...
Tuy nhiên, khi chính bản thân phải đối diện thì hẳn chúng ta lại là những người “sụt hố” đầu tiên chỉ vì một điều đơn giản là: “Nói mà không làm. Hăng say chất những gánh nặng lên vai người khác, nhưng chính mình thì lại không buồn động ngón tay vào”. Tệ hơn nữa lại tìm cơ hội để trả thù nhân danh đạo đức, lề luật...!
Những lúc như thế, chúng ta đâu có khác gì những Kinh Sư và Pharisêu mà trong bài Tin Mừng hôm nay đã bị Đức Giêsu vạch trần tội ác của họ?
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy trở nên chứng nhân cho Chúa qua hành động tốt của mình. Nói cách khác, muốn dạy người khác điều gì, chính chúng ta phải là những người đã sống và cảm nghiệm trước khi khuyên bảo người khác. Làm tất cả vì vinh danh Chúa, chứ không phải lấy Chúa làm “bình phong” để “tô son chát phấn” nhằm đề cao danh dự, tiếng tăm cho bản thân mình.
Có thế, chúng ta mới là người mang trong mình và giới thiệu một vị Thiên Chúa là Cha yêu thương. Một Vị Thiên Chúa được hiện tại hóa qua đời sống chứng nhân và lời rao giảng cũng như cảm nghiệm của chính chúng ta. Nếu không thì mọi việc chúng ta làm chỉ là hành vi của kẻ “phá hoại” sứ điệp “yêu thương” của Thiên Chúa mà thôi. Và nguy hiểm hơn nữa là “mù dắt mù cả hai cùng xuống hố”. Tyu nhiên, để làm được điều đó không phải là chuyện dễ dàng. Vì thế, rất cần lời cầu nguyện và ơn Chúa trợ giúp.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết trở nên những người loan báo Lời Chúa bằng chính đời sống của mình. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Chúa khiển trách các luật sĩ và biệt phái
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Bài Tin Mừng hôm nay nghe thật nặng nề, vì lời lẽ Chúa Giêsu nặng lời lên án những người thuộc nhóm biệt phái sống giả hình. Thế nhưng, suy rộng ra, cách sống của họ không là cá biệt mà nó phản ánh chính cuộc sống của không ít chúng ta ngày hôm nay. Chúng ta cũng nhìn lại và suy gẫm về chính cuộc đời mỗi chúng ta lần lượt qua từng câu trong đoạn Tin Mừng hôm nay.
2. Hôm nay chúng ta thấy, Chúa Giêsu đã mạnh mẽ lên án những tội của luật sĩ và biệt phái: giải thích lề luật một cách tỉ mỉ khiến không ai có thể giữ được; chất gánh nặng trên vai người khác, mà chính mình không muốn giơ ngón tay lay thử; làm bộ đọc kinh cho nhiều, nhưng lại toan tính nuốt cả tài sản người khác; tìm hư danh ngay cả trong việc truyền đạo; cắt nghĩa lời thề bằng những giải thích hoàn toàn có lợi cho mình, nhưng đó chỉ là cách giải thích tùy tiện theo ý loài người, chứ không tuân giữ lời Chúa.
3. Ta có thể nhận thấy Chúa Giêsu lên án 5 cung cách đạo đức giả nơi người luật sĩ như sau: một là không muốn ai tiếp cận chân lý (c.13); hai là biến các tân tòng thành con cái hỏa ngục, qui về mình hơn là về Chúa (c.15); ba là an tâm tự tại với một số đồ dâng cúng mà bỏ qua những điều cần phải tuân giữ cho đẹp lòng Chúa (cc 16-19); bốn là nộp mọi thứ thuế, nhưng lại bỏ qua những điều quan trọng hơn là công lý, lòng nhân lành và thành tín (cc.23-24); năm là chú trọng nghi thức thanh tẩy bên ngoài, mà bên trong đầy chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ (cc.25-26).
Sở dĩ các luật sĩ có những cung cách đạo đức giả đáng ghét này vì họ muốn trục lợi vật chất, thích phô trương thanh thế, tôn thờ mình thay vì thật sự thờ phượng Chúa. Họ biết thế, nhưng họ không muốn làm theo điều mình lẽ ra phải làm, mà vẫn khư khư ôm chặt cái lợi về mình nên bị Chúa quở trách là giả hình, giả hiệu (5 phút Lời Chúa).
4. Các nhà sinh vật học đã tìm ra một loài bướm có đôi cánh rất lạ. Khi chúng bay, cánh có mầu sắc rất sặc sỡ, nhưng khi chúng đậu, cánh lại có mầu giống như chiếc lá khô. Nhờ sự thay đổi mầu sắc ấy, loài bướm này dễ dàng đánh lừa kẻ thù và ít bị tấn công.
Trong thế giới tự nhiên có những loài vật biết ngụy trang và thay đổi bề ngoài để đánh lừa loài khác. Trong thế giới con người, cũng có những kẻ giả hình để lừa gạt người khác như vậy.
Đức Giêsu lên án gay gắt những kẻ giả hình. Họ là những người đứng đầu, lãnh đạo và đại diện cho dân, nhưng lại bị Ngài lên án vì lối sống giả tạo của họ. Sau lời chúc dữ, Đức Giêsu vạch trần lối sống giả hình của họ. Qua đó, Ngài muốn thức tỉnh họ, cũng như chúng ta hôm nay, hãy biết thay đổi mà sống chân thật với mình, và với Chúa (Học viện Đa Minh).
5. Nói chung, các luật sĩ và biệt phái kiêu căng, háo danh, giả hình, ưa chuộng hình thức bên ngoài mà tâm hỗn rỗng tuếch, nói và làm không đi đôi với nhau, như tục ngữ Việt nam nói: “Khẩu phật tâm xà” hay “Miệng thơn thớt, dạ ớt ngâm” để diễn tả những người mang mặt nạ giả danh đạo đức tốt lành bên ngoài với dụng ý che giấu lòng dạ hiểm độc bên trong: “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”.
6. Chúng ta hãy sống với Chúa như con đối với cha, đừng quá chú trọng đến lề luật. Mỗi khi làm một điều gì, câu hỏi trước tiên của chúng ta phải là: “Tôi làm như thế có đẹp lòng Chúa không”?, chứ không phải là “Tôi làm như thế có đúng luật không”? Luật lệ chỉ là thước giữ cho con người khỏi đi quá trớn, chứ không phải để đo mức thánh thiện đạo đức của con người.
Xin Chúa cho chúng ta biết sống chân thành với Chúa, với tha nhân, với chính bản thân, để cuộc sống chúng ta thực sự phản ánh tình yêu Chúa qua những hành vi yêu thương phục vụ của chúng ta.
7. Truyện: Nhà tu hành bất đắc dĩ.
Trong kho tàng truyện cổ của Ấn độ, có câu chuyện này: Một nhà phú hộ kia có một hồ cá rất lớn. Ông cho thả rất nhiều cá ở đó. Một đêm kia có một tên ngư phủ nghèo lén vào trong hồ cá của ông để thả lưới tính bắt trộm cá. Thế nhưng, chưa kịp kéo lưới thì người giầu đã phát hiện ra có người đang tính bắt trộm cá của ông. Ông cho gia nhân của ông bổ đi khắp nơi, quanh cái hồ mênh mông của mình để tìm cho bằng được tên trộm.
Đám gia nhân đốt đuốc đi tìm khắp nơi mà không thấy bóng dáng tên trộm đâu cả.
Trong khi đó thì anh ngư phủ nghèo lấy tro rắc lên đầy mình và đến ngồi dưới một gốc cây gần đó, y hệt một nhà hiền triết hay một đạo sĩ.
Sau nhiều giờ tìm kiếm, đám gia nhân không thấy kẻ trộm đâu mà chỉ thấy một đạo sĩ ngồi dưới gốc cây đang đắm mình suy tư và cầu nguyện.
Chỉ một ngày hôm sau, tiếng đồn đã vang đi khắp nơi rằng, có một đạo sĩ đang tu luyện dưới gốc cây bên bờ hồ của nhà phú hộ.
Thế là thiện nam tín nữ từ các ngả đường đổ xô đến gốc cây để chiêm ngưỡng vị tu hành. Người thì mang hoa quả, kẻ thì mang tiền bạc. Không mấy chốc mà quà cáp đổ tràn lan chung quanh nhà tu hành bất đắc dĩ.
Nhà tu hành mới nhủ thầm trong bụng: thà đánh lừa bà con để sống còn hơn là đánh cá suốt ngày mà chẳng được gì. Nghĩ như thế rồi, ông ta tiếp tục đóng vai tu hành, ngày đêm tụng niệm và chờ đợi sự tiếp tế của dân làng.
Người đánh cá bất đắc dĩ phải trở thành vị tu hành trên đây cũng có thể là một hình ảnh không xa lạ bao nhiêu đối với chúng ta. Một cách nào đó, có khi chúng ta cũng tự sơn vẽ cho mình một chiếc áo đạo đức để đánh lừa bà con và đánh lừa chính mình.
Suy Niệm 8: Khiển trách luật sĩ và biệt phái
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Tin Mừng của 3 ngày liên tiếp (hôm nay, thứ ba và thứ tư) ghi 7 lời khiển trách nặng nề của Chúa Giêsu nhắm vào giới luật sĩ và biệt phái vì thói giả hình của họ. Đoạn hôm nay gồm 3 lời:
1. Khóa cửa Nước Trời (c13)
- “Các ngươi khóa cửa Nước Trời… Các ngươi đã không vào, mà những kẻ muốn vào các ngươi cũng không cho vào”: các kinh sư và pharisêu là những người hiểu luật và giải thích luật nên thực sự họ là những người nắm giữ chìa khóa “Nước Trời”. “Nước Trời” ở đây có thể hiểu theo 2 nghĩa: a/ Đó là Giáo Hội thập niên 80: nhiều người do thái muốn gia nhập Giáo Hội nhưng bị các kinh sư và pharisêu ngăn cấm; b/ đó là Giáo Hội cách chung: những luật lệ do các kinh sư và pharisêu đặt ra quá khắt khe tỉ mỉ làm cho người ta khó mà giữ nổi nên không thể vào Giáo Hội (CGKPV). Chính họ không muốn vào Giáo Hội, còn những người khác muốn vào thì họ cũng ngăn cản không cho.
2. Làm hại việc Truyền giáo (c 15)
- “Khốn… Các ngươi rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo; nhưng khi họ theo rồi các ngươi lại làm cho họ đáng xuống hoả ngục gấp đôi các ngươi”: những người do thái, đặc biệt là các kinh sư và pharisêu, rất nhiệt thành truyền giáo. Nhưng họ không đưa người tân tòng đến với Thiên Chúa mà lại đưa vào não trạng hẹp hòi và lối sống hình thức của họ.
3. Dẫn đường mù quáng (cc 16-22)
- “Khốn… những kẻ dẫn đường mù quáng…”: Những người do thái lo cho đám dân ngoại trở lại tự cho mình là “kẻ hướng dẫn những người mù” (x. Rm 2,19). Chúa Giêsu nói chính họ cũng mù không kém gì những người ngoại mới trở lại ấy. Họ là những người mù dắt người mù ! Để lấy một bằng chứng về sự dẫn đường mù quáng, Chúa Giêsu đề cập đến các lời khấn hứa có kèm theo lời thề. Những kẻ hướng dẫn ấy bám lấy những lời thề. Mà những thứ lời thề này đã bị bài giảng trên núi bác bỏ (x. 5,33-37). Hơn nữa, do bị thúc đẩy bởi lợi nhuận của hệ thống kinh tài Đền thờ, họ lại đưa ra nhiều cách giải thích theo ý muốn của họ. Vì thế chuyện thực hiện và giữ những lời khấn hứa trở thành một thứ đạo đức giả. Chính những người dẫn đường mà đã đi lạc như tế thì những kẻ được họ hướng dẫn cũng sẽ lạc theo.
B.... nẩy mầm.
1. Khóa cửa Nước Trời: Luật của Chúa Giêsu thì êm ái và nhẹ nhàng vì cốt lõi là tình thương. Thế nhưng nếu kẻ có quyền mà không có tình thương khi áp dụng luật thì thay vì luật dẫn người ta đến gần Chúa, lại đẩy người ta xa Chúa.
Ta hãy cầu nguyện cho những người lãnh đạo trong Giáo Hội và trong cộng đoàn chúng ta…
2. Truyền giáo là một việc khó, nhưng giữ những người tòng giáo trong nhiệt tình theo Chúa là việc khó hơn nhiều. Nhiều người lương hăng hái theo đạo vì thấy đạo dạy bác ái yêu thương. Nhiều người gia nhập cộng đoàn vì nghĩ cộng đoàn có tình yêu thương huynh đệ. Nhưng khi đã vào Giáo Hội hoặc cộng đoàn rồi, nhiều người ê chề thất vọng vì thấy thực tế ngược hẳn những điều họ đã nghe “quảng cáo”.
3. Dẫn đường mù quáng: con đường chính của Đạo là mến Chúa yêu người. Thế nhưng nhiều người không lưu ý tới điều đó mà chỉ chăm chú vào những nố tỉ mỉ của luật. Chẳng hạn khi ăn chay kiêng thịt thì món nào được ăn, món nào không được; trước giờ dự lễ, lỡ uống nước trà có được rước lễ không v.v. Nhiều người khác còn giải thích đạo một cách mê tín dị đoan…
4. Sau khi li hôn, người chồng dọn đồ đạc ra khỏi nhà. Đứa con gái hỏi mẹ
- Sao mẹ đuổi bố?
- Tại bố hư.
Để nó khỏi vặn vẹo lôi thôi, người mẹ mua cho nó cái bánh. Thằng anh từ đâu phóng tới bẻ của em một miếng bánh bỏ ngay vào mồm. Con bé khóc thét bắt đền. Người mẹ dỗ:
- Anh con hư quá. Nhưng thôi nín đi con, bỏ qua cho anh một lần đi.
Đứa bé phụng phịu:
- Thế mẹ có bỏ qua cho bố đâu?
Người mẹ nhìn xa xăm:
- … Ừ, mẹ cũng hư… (Góp nhặt)
5. “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình ! Các ngươi khoá cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào ! Các ngươi đã không vào, mà những kẻ muốn vào các ngươi cũng không để họ vào.” (Mt 23,13)
Chúa muốn con yêu mến mọi người mà không giữ lấy riêng ai... Chúa muốn con nắm chặt bàn tay thân tình mà không giật lại cho mình.
Thế mà hình như con lại toàn làm những điều ngược lại. Con có thể yêu người khác và sẵn sàng làm tất cả cho họ; thế nhưng kèm theo đó là gì?
- Là những đòi hỏi, những điều kiện mà con muốn người khác phải trả cho con xứng với cái mà con đã cho họ. Hoặc giả như có một ai khác đến và chiếm lấy chỗ đứng của con trong tâm hồn họ, thì con lại tỏ ra ganh tỵ, hiếm khích và hơn thế nữa con có thể nêu tiếng xấu cho người đã cướp đi vị trí của con.
Vâng, con là thế đó. Con thường nghe người ta nói: mình không ăn được thì nên phá đi, đừng để kẻ khác chiếm lấy. Và con cũng thế.
Lạy Chúa, xin cho con biết mở rộng cõi lòng vá nắm chặt bàn tay thân tình, để con được đón nhận và cho đi những gì có thể. (Hosanna)
22/08 Lời ban sự sống
- Viết bởi Ga 6, 61-70
Lời ban sự sống.
CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN năm B.
"Chúng con sẽ đi đến với ai? Thầy mới có những lời ban sự sống".
Lời Chúa: Ga 6, 61-70
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, có nhiều môn đệ của Chúa Giêsu nói rằng: "Lời này chói tai quá! Ai nghe được!" Tự biết rằng các môn đệ đang lẩm bẩm về chuyện ấy, Chúa Giêsu nói với họ: "Điều đó làm các con khó chịu ư? Vậy nếu các con thấy Con Người lên nơi đã ở trước thì sao? Chính thần trí mới làm cho sống, chứ xác thịt nào có ích gì? Nhưng lời Ta nói với các con là thần trí và là sự sống. Nhưng trong các con có một số không tin".
Vì từ đầu Chúa Giêsu đã biết ai là những kẻ không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. Và Người nói: "Bởi đó, Ta bảo các con rằng: Không ai có thể đến với Ta, nếu không được Cha Ta ban cho".
Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa. Chúa Giêsu liền nói với nhóm Mười Hai rằng: "Cả các con, các con có muốn bỏ đi không?"
Simon Phêrô thưa Người: "Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN – B
Lời Chúa: Gs 24,1-2a.15-17.18b; Ep 5,21-32; Ga 6, 54a. 60-69
1. Lời ban sự sống.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Chẳng nên ngạc nhiên nếu có lúc đức tin gặp khủng hoảng.
Cả lịch sử Cựu Ước đong đưa giữa tin và không tin.
Khi Đức Giêsu đến, người ta phải đứng trước một lựa chọn:
tin hay không tin vào Lời Ngài, vào con người Ngài.
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy
một kinh nghiệm về khủng hoảng đức tin nơi chính các môn đệ.
Kinh nghiệm ấy thật gần gũi với con người hôm nay.
Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?
Đó là phản ứng của các môn đệ ngày xưa
khi nghe Thầy Giêsu vén mở căn tính của Thầy.
Thầy khẳng định mình từ trời mà xuống (Ga 6,38),
và Thầy sẽ trở lại nơi Thầy đã ở trước kia (c.62),
sau khi hiến mình chịu chết cho nhân loại (c.51)
và nuôi nhân loại bằng chính máu thịt mình (c.53).
Hôm nay chúng ta vẫn có thể thấy chúng chướng tai.
Mầu nhiệm Nhập thể, mầu nhiệm Tử nạn của Con Thiên Chúa,
bí tích Thánh Thể, mầu nhiệm Chúa về trời:
đó vẫn là và mãi mãi là những mầu nhiệm khôn dò.
Phải yêu mến mới hiểu được, mới chấp nhận được.
Hôm nay vẫn có câu Lời Chúa bất ngờ làm ta choáng váng,
vì chướng tai, chướng cả với suy nghĩ và tình cảm của ta.
Lời Chúa đòi tôi đi xa hơn
và bắt tôi điều chỉnh lại mối tương quan đã có với Chúa.
Nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Ngài nữa.
Họ đã đi với Ngài một thời gian,
đã tin và đã trở thành môn đệ.
Nhưng họ không thể đi tới cùng cuộc phiêu lưu này.
Trở nên môn đệ hay trở nên một Kitô hữu
không phải là một bảo đảm chắc chắn mình sẽ trung tín mãi mãi với Đức Kitô.
Trở nên môn đệ là bước vào cuộc phiêu lưu,
là khám phá ra một Đức Kitô luôn luôn mới,
là để Ngài từ từ đưa ta đi sâu vào mầu nhiệm hơn.
Cuộc phiêu lưu nào cũng có chút rủi ro,
cũng đòi chút liều lĩnh,
vì đây là cuộc phiêu lưu của tình yêu, của lòng tin.
Đã có những môn đệ không tin và bỏ đi.
Ngay trong nhóm ở lại cũng có kẻ phản bội.
Để khỏi bỏ cuộc, cần bỏ mình...
Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai?
Đại diện Nhóm Mười Hai, Phêrô bày tỏ thái độ ở lại.
Không phải vì ông và các bạn hiểu được lời Thầy Giêsu,
nhưng vì họ tin vào con người của Thầy,
tin Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa,
Đấng đã cho dân ăn no nê, Đấng đã đi trên biển.
Lòng tin này khiến họ chấp nhận cả những lời chướng tai.
Lời chướng tai là lời đem lại sự sống đời đời.
Nhiều bạn trẻ hôm nay cô đơn, nhưng không biết đến với ai.
Hãy cùng nhau đến với và ở lại bên Thầy Giêsu,
Ngài sẽ không làm chúng ta thất vọng.
Gợi Ý Chia Sẻ
"Giới trẻ hôm nay khó tin vào Thiên Chúa, vào Đức Kitô, vào tương lai tươi sáng, vào tình bạn bền lâu, vào tình yêu chung thủy..." Bạn nghĩ gì về nhận xét này? Nhận xét này có đúng cho giới trẻ ở Việt Nam không?
Ở một số nước phương Tây, đang rộ lên cả ngàn giáo phái. Người trẻ bị mê hoặc đến độ cuồng tín bởi các vị tự xưng là giáo chủ. Bạn nghĩ gì về hiện tượng này? Đâu là nguyên nhân và cách giải quyết?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả
để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà
để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con
cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình,
ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan
để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng
trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa
thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen.
2. Hành trình đức tin
(TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đức tin là một con đường: con đường dẫn ta tới Chúa. Đây là một con đường dài. Vì ta sẽ phải đi suốt cuộc đời mới hết. Đường đức tin có những quãng đầy hoa thơm cỏ lạ và tiếng chim hót véo von. Đó là những khi niềm tin dâng đầy. Ta cảm thấy phấn khởi vì được gặp gỡ Chúa, được Chúa an ủi, mọi sự diễn ra êm xuôi tốt đẹp. Nhưng đức tin sẽ phải trải qua những quãng đường gian nan đầy chông gai sỏi đá. Ta gặp khó khăn thử thách. Ta gặp đau khổ thất bại. Ta không tìm đâu ra lối thoát. Ta như chìm trong đêm tối mênh mông chẳng có ánh sáng nào soi đường dẫn lối. Đó là khi niềm tin bị thử thách, bị nghiêng ngả chao đảo. Ta cảm thấy mệt mỏi chán chường. Ta muốn bỏ cuộc, rẽ sang đường khác. Ta bị cám dỗ tìm con đường dễ dàng hơn, rộng rãi hơn, thoải mái hơn.
Đó là trường hợp của những người Do Thái và một số môn đệ hôm nay.
Khi Đức Giêsu hoá bánh và cá ra nhiều nuôi năm nghìn người, niềm tin của đám đông dâng lên cao vời vợi. Họ phấn khởi mừng vui. Họ tin tuyệt đối rằng Người chính là Đấng Cứu Thế đến cứu dân tộc Do Thái. Niềm tin của họ mạnh mẽ đến nỗi khi Đức Giêsu trốn đi, họ vẫn đuổi theo sát nút với ý định tôn Người lên làm vua cai trị họ.
Thế mà hôm nay, khi Đức Giêsu tuyên bố: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời”, đám đông đã bỏ Chúa. Một số môn đệ cũng bỏ Chúa mà đi. Đức tin bồng bột tưởng chừng như không gì dập tắt nổi của những ngày hôm trước nay đã tan tành như mây khói. Sự gắn bó tưởng chừng như không gì chia cắt nổi bỗng trở nên nhạt nhẽo lạnh lùng. Đức tin gặp thử thách và họ đã không đủ mạnh tin để vượt qua thử thách. Họ đã thất vọng bỏ cuộc. Nhưng Đức Giêsu vẫn bình tĩnh chấp nhận sự quay lưng trở gót của những người thân tín. Người không vì thế mà nói những lời nhẹ nhàng hơn. Đức tin phải trải qua thử thách. Lửa thử vàng, gian nan thử lòng trung tín. Chỉ có những người bạn trung thành qua những khó khăn mới là những người bạn đích thực. Chỉ có niềm tin kiên vững bất chấp mọi thử thách mới là niềm tin đúng nghĩa.
Giữa cơn khủng hoảng ấy, thánh Phêrô đã đại diện nhóm 12 tuyên xưng niềm tin sắt đá vào Đức Kitô. Dù chưa hiểu những điều Đức Giêsu nói, nhưng các ông vẫn đặt trọn niềm tin vào Người. Thế mới gọi là tin. Vì chưa thấy nên mới cần tin. Đã thấy rõ, đã biết rõ thì đâu cần tin nữa. Tuy nhiên niềm tin không phải là cái gì vô lý. Sau khi thấy Đức Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều và sau khi chứng kiến Người đi trên mặt nuớc, các ông hoàn toàn có cơ sở để đặt niềm tin nơi Người. Đó là hai khía cạnh trái ngược của niềm tin. Tin là một ngọn đèn soi cho ta bước đi trong đêm tối. Ngọn đèn chỉ sáng đủ cho ta bước đi từng bước nhỏ trong niềm tin. Nhưng màn đêm vẫn tăm tối đủ cho ta nghi ngại. Chính vì thế mà niềm tin mới có giá trị và cần thiết.
Lời tuyên xưng của thánh Phêrô lại càng có giá trị trong lúc mọi người gặp khủng hoảng và bỏ Chúa. Tin tưởng khi thời cơ thuận lợi thì thật dễ dàng. Nhưng vẫn tin tưởng gắn bó với Chúa trong những lúc gặp khó khăn thử thách đó mới thật sự là niềm tin chân chính.
Hành trình đức tin của chúng ta chắc chắn sẽ không khác hành trình đức tin của các Tông đồ. Có những thời gian thuận lợi, ta thấy niềm tin dâng cao mãnh liệt. Khi ấy Lời Chúa là những lời êm ái ngọt ngào làm phấn chấn lòng ta. Lời Chúa mang đến cho ta niềm vui, niềm bình an, niềm hy vọng. Lời Chúa đem đến cả thành công và may mắn nữa.
Nhưng rồi tới những ngày u ám tăm tối, ta cảm thấy niềm tin lung lay chao đảo. Đó là khi ta gặp khó khăn thử thách. Lúc ấy Lời Chúa làm cho cuộc đời ta mất bình an. Lời Chúa gõ vào tính tự ái, tự cao, tự đại của ta. Lời Chúa gõ vào sức khoẻ ta. Lời Chúa gõ vào gia sản ta. Lời Chúa như lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn ta, tạo ra những vết thương sâu thẳm không bao giờ ngưng rỉ máu. Những lúc ấy, ta dễ bị cám dỗ từ bỏ Chúa như những người Do Thái trong bài Tin Mừng hôm nay.
Trong những giờ phút gặp gian nan thử thách như thế, ta hãy nhớ đên những lời tuyên xưng của thánh Phêrô. Niềm tin tuyên xưng trong đau đớn thử thách mới là niềm tin đúng nghĩa. Sự trung tín vượt qua được những cơn khủng hoảng mới minh chứng một tình yêu chân thực.
Trong những giờ phút tăm tối nhất, hãy mạnh dạn thưa với Chúa như thánh Phêrô: “Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết đi theo ai. Chỉ có Thầy mới có lời ban sự sống đời đời”. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Đã có khi nào bạn cảm thấy niềm tin chao đảo, lung lay? Bạn đã làm gì để vượt qua những giờ phút khó khăn đó?
2- Lửa thử vàng, gian nan thử đức. Bạn có xác tín điều đó không?
3- Sau khi những khó khăn qua đi, bạn nhìn thấy tất cả đều là ơn Chúa. Bạn có kinh nghiệm đó không?
3. Lời Chúa là Lời Hằng Sống
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Từ xưa đến nay, sống trường thọ luôn là mơ ước của toàn nhân loại. Không hiếm các bậc đế vương trong lịch sử hao công tốn của đi tìm kiếm. Hiện nay, dù cho khoa học có rất nhiều tiến bộ, đời sống con người ngày càng phát triển, chất lượng cuộc sống cũng như tuổi thọ được nâng cao, nhưng cái đích cuộc sống bất tử có lẽ còn rất xa con người hay bất cứ ai muốn đạt được điều kỳ diệu ấy. Bất tử, đồng nghĩa với không phải chết, hay sống đời đời.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay chỉ cho chúng ta một bí quyết, chọn Chúa thì sẽ được sống tự do, sống vui và sống sống hạnh phục (x. Gs 24, 1-2a. 15-17. 18b), theo Chúa, kết hợp với Chúa thì sẽ được sống đời đời, lời thánh Phêrô khẳng định, "chỉ có Chúa mới có những lời đem lại sự sống đời đời" (x. Ga 6,68).
Chọn Chúa để được sống
Sinh ra sống ở trên đời, con người được đặt trước những lựa chọn. Chọn cho mình một lý tưởng, một hướng đi là điều rất quan trọng nhất, chọn đúng thì hạnh phúc, chọn sai sẽ có điều ngược lại. Ai trong chúng ta cũng phải đối diện với sự chọn lựa ấy, dân Do thái thời được Giôsuê đặt trước những chọn lựa: " Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Thiên Chúa, thì hôm nay anh em cứ tùy ý chọn thần mà thờ…”. Dân đáp lại: "Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Thiên Chúa, mà phụng thờ các thần khác. Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông của chúng tôi lên từ đất Ai Cập, từ nhà nô lệ…" (Gs 24, 15-17). Dân đã chọn Chúa để được sống trong tự do làm con cái Chúa là Chúa sự sống.
Chọn Giêsu Bánh Hằng Sống
Đoạn Tin Mừng hôm nay dẫn chúng ta về Capharnaum, nơi có rất nhiều người theo Chúa Giêsu vì họ đã thấy phép lạ Chúa làm, đặc biệt sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng. Về phương diện xã hội, chính tại nơi đây Chúa Giêsu có nguy cơ "chết vì thành công", như Tin Mừng mô tả, họ muốn tôn Người lên làm vua (x. Ga 6, 15). Đây là thời điểm quan trọng trong cuộc đời rao giảng của Chúa Kitô. Chính thời điểm này, Người bắt đầu mạc khải rõ nét về về Bánh Hằng Sống là chính Người với những lời xác quyết về sự sống siêu nhiên qua điệp của Người.
Khát vọng của con người là được sống trường sinh. Ngay từ thủa ban đầu, Adam va Evà đã hái và ăn trái cấm, vì tin rằng trái này sẽ làm cho mình sống mãi, không phải chết. Bất tử trên đời này là một điều thú vị và ai cũng khao khát, nhưng xem ra không tìm thấy ở trần gian này.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta ăn và uống chính thịt và máu Người để được sống đời đời. Điều này có nghĩa là chúng ta được mời gọi “ăn” và “uống” không phải một sự vật, nhưng là “ăn thịt và uống máu con người có tên Giêsu” một ngôi vị sống động. Người tha thiết mời gọi chúng ta đến với Người, tin vào Người, ở lại trong Người như thánh Phaolô: "Không còn là tôi sống, nhưng Đức Kitô sống trong tôi" (), nghĩa là ai đón rược Chúa vào trong cuộc đời, được Chúa trở thành xương thịt, thành sự sống cho người ấy. Chẳng những thịt máu Chúa nuôi sống mà Lời Chúa cũng mang lại cho chúng ta sự sống đời đời cho những kẻ nghe Người. Thế nhưng không phải ai cũng có thể lĩnh hội được.
Lời từ miệng Chúa phán ra với đám đông dân chúng khiến Chúa gặp rắc rối với họ, đến nhóm môn đệ Chúa cũng còn nói: "Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?" (Ga 6, 60).
Một ai đó nói rằng, trong lịch sử Giáo hội, những người vĩ đại giống như những những cây cột không thể phá hủy khi đổ xuống: "Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui không còn theo Người nữa" (Ga 6,66). Chúng ta có thể gục ngã, "bỏ qua", ra đi, chỉ trích, hay tiếp thu những Lời Chúa Giêsu nói trên vào trong tâm trí chúng ta. Với sự khiêm nhường và tin tưởng, chúng ta hãy thưa với Chúa Giêsu rằng, lạy Chúa chúng con muốn trung thành với Chúa hôm nay, mai ngày và mãi mãi. Xin Chúa giúp chúng ta hiểu rằng thật vô ích khi tranh luận về lời giảng dạy của Thiên Chúa hay Giáo hội nên chúng ta nói với nhau rằng "Tôi không hiểu"; "Lạy Thầy, chúng ta sẽ đi theo ai?" (Ga 6,68). Chúng ta nên xin một ơn phân định siêu nhiên hơn. Chỉ trong Thiên Chúa và Giáo hội chúng ta sẽ tìm thấy Lời ban sự sống đời đời: "Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời" (Ga 6,68).
Lời Đức Kitô mang lại sự sống đời đời
Giống như Phêrô, chúng ta biết rằng Chúa Giêsu nói với chúng ta bằng ngôn ngữ siêu nhiên, một ngôn ngữ mà chúng ta phải đồng ý và đồng hóa để hiểu ý nghĩa, nếu không chúng ta chỉ nghe thấy những tiếng ồn không mạch lạc và khó chịu. Giống như Phêrô, trong đời sống Kitô hữu chúng ta có những khoảnh khắc, chúng ta phải tự làm mới và bày tỏ chính mình với Chúa Giêsu để thưa với Chúa rằng chúng con ở với Chúa và chúng con muốn tiếp tục theo Chúa. Phêrô yêu mến Chúa Giêsu, và đó là lý do tại sao ông ở lại với Chúa, những người khác yêu Chúa chỉ vì cơm bánh, trẻ em theo Chúa vì "kẹo", số người khác vì lý do chính trị đã bỏ rơi Chúa. Bí mật của lòng trung thành là tình yêu và sự tin tưởng.
Chúng ta hãy xin Đức Maria là Đức Nữ trung tín thật thà giúp chúng ta từ bây giờ trung thành với Chúa và với Giáo hội.
4. Hãy làm điều có thể
Có một chàng thanh niên xa rời Giáo Hội. Chàng không đi lễ, không chịu các bí tích nữa. Thế rồi chàng phải lên đường thi hành nghĩa vụ quân sự. Mẹ chàng băn khoăn lo lắng và tự hỏi: Nếu chẳng may chàng chết thì sao? Bởi đó, vào buổi tối trước khi chàng lên đường, người mẹ ấy đã nói với chàng: Con ơi, mẹ muốn con làm cho mẹ một điều. Chàng hỏi lại: Điều gì vậy? Người mẹ trả lời: Mẹ muốn con mỗi ngày hãy đọc một kinh Kính Mừng mà thôi. Chàng do dự nhưng cũng đã nhận lời. Trải qua năm tháng, những bức thư chàng gởi về gia đình cứ thưa dần, rồi một ngày kia bức điện tín ngắn ngủi được trao cho người mẹ: Con bị thương nặng và đã chịu các bí tích. Rất may chàng được bình phục. Trong một dịp về thăm gia đình, chàng đã nói với mẹ: Điều mẹ căn dặn, con đã làm, nhờ đó mà con đã trở về với Chúa.
Từ câu chuyện trên tôi nhận thấy: Một tâm hồn trôi dạt xa lìa Chúa, nhưng nếu họ còn giữ được một liên hệ nào đó với Ngài, dù chỉ là một kinh Kính Mừng mỗi ngày, họ vẫn có hy vọng và có cơ may tìm thấy con đường trở về với Ngài. Như rất nhiều người Công giáo, chàng đã bắt chước các môn đệ trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay: Lìa bỏ Chúa mà đi. Những môn đệ ấy từ chối, không muốn tin rằng: Đức Kitô có thể lấy thịt Ngài cho họ ăn và máu Ngài cho họ uống. Dẫu rằng họ đã chứng kiến phép lạ năm chiếc bánh hoá nhiều làm cho năm ngàn người được no nê.
Hầu hết những lý do khiến người Công giáo xa lìa Giáo Hội đều liên quan tới vấn đề này. Chẳng hạn như: Thánh lễ không liên hệ gì đến tôi. Họ muốn nói rằng thánh lễ không đem lại cho họ một rung động, một cảm xúc nào cả. Và họ cũng chẳng làm gì để thay vào đó. Kinh nghiệm cho thấy những người như vậy thường không đọc lấy một câu kinh. Điều đó cũng dễ hiểu bởi vì đối với việc quan trọng nhất là bí tích Thánh Thể mà họ còn đối xử như vậy, huống nữa là những phương tiện đạo đức khác.
Trong khi đó, tôi nghĩ rằng mỗi người cần phải làm một cái gì có thể làm được. Chính việc làm nhỏ bé này sẽ đem lại ơn trợ giúp của Chúa. Chẳng hạn như đọc một kinh Lạy Cha, một kinh Kính Mừng, hay cầu nguyện bằng chính ngôn ngữ riêng tư của mình: Lạy Chúa, xin giúp con làm vui lòng Chúa. Đó chính là khởi điểm cho một sự trở về. Cũng giống như một viên bi rơi trên một triền dốc, nếu không chặn lại, nó cứ lăn mãi lăn hoài cho đến tận cùng con dốc mới thôi. Người khô khan nguội lạnh, bỏ dần những việc đạo đức thì rồi, một lúc nào đó họ sẽ bỏ tất cả. Coi thường một giới răn thì rồi một lúc nào đó họ sẽ gác bỏ tất cả những giới răn khác.
Hãy gượng dậy từ một cố gắng. Hãy khởi đầu đi từ một việc làm nhỏ bé và rồi Chúa sẽ nâng đỡ phù trợ. Hay như một câu danh ngôn đã nói: Thà thắp lên một ngọn nến, còn hơn ngồi đó mà rủa xả bóng tối. Hãy làm những gì mình có thể và rồi hãy thưa lên cùng Chúa như Phêrô ngày xưa: Bỏ Thầy con biết theo ai, vì chỉ mình Thầy mới có lời ban sự sống.
5. Thử thách
Một chiếc tàu đánh cá Xô Viết được đưa vào sửa chữa bên cạnh tàu tuần dương hạm của Hoa Kỳ tại bờ biển New England. Các quan chức Mỹ-Xô cùng ngồi trên chiếc tàu Nga bàn luận sôi nổi về kỹ thuật đánh cá. Câu chuyện và mối liên hệ của họ thật tốt đẹp cho đến một đêm nọ một thuỷ thủ người Nga tên là Kudirka lẻn ra khỏi tàu Xô Viết, nhảy xuống biển và bơi qua tàu Mỹ, năn nỉ xin được tị nạn chính trị. Thế nhưng, vị chỉ huy tàu Mỹ đã từ chối. Quyết định này về sau đã bị các thượng cấp quở trách. Chàng thuỷ thủ bị trao lại cho nhà cầm quyền Xô Viết, và bị giam vào ngục. Thời gian ở tù chàng đã nhiều lần tuyệt vọng, nhưng nhờ người bạn đã dạy cho chàng một bài thơ, chính những vần thơ này đã giúp chàng đương đầu với hiện tại và hy vọng tiến đến tương lai. Bài thơ ấy như thế này: Nếu giành được chiến thắng hay gặp phải thất bại mà con vẫn xử sự như nhau. Nếu sự thật con nói ra bị vu khống là gian dối mà con vẫn tỏ ra bình thản. Nếu toàn bộ sự nghiệp đời con tan vỡ, mà con vẫn kiên trì xây dựng lại. Phải, nếu con làm được như thế, thì trái đất và mọi sự trên đó sẽ thuộc về con. Và hơn thế nữa, hỡi con, con sẽ là một con người đích thực.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Trong cuộc đời, có những lúc chúng ta dường như sắp sửa mất tất cả, thì điều quan trọng đó là chúng ta cần phải được giúp đỡ để không thất vọng và nản chí. Các môn đệ cũng vậy, niềm tin của các ông đang bị thử thách. Trước lời xác quyết của Chúa: Thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống, thì một số môn đệ đã bỏ Chúa mà đi, vì không thể nào chấp nhận được lời giảng dạy ấy. Số còn lại thì vẫn trung thành với Chúa và Phêrô đã thay mặt cho nhóm còn lại ấy tuyên xưng: Bỏ Thầy chúng con biết theo ai vì chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.
Bị dồn vào chân tường, nhóm còn lại vẫn tin tưởng vào Chúa, trong khi đó, nhóm thứ nhất thì chỉ biết chú tâm vào vấn đề của họ mà thôi: Tại sao ông này lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn? Như thế, một đàng biết chú tâm vào Chúa, còn một đàng chỉ biết chú tâm vào mình. Hai hình ảnh này một lần nữa được diễn tả qua đoạn Tin Mừng kể lại: Đêm khuya, sóng biển nổi lên Chúa Giêsu đi trên mặt nước tiến lại thuyền các môn đệ khiến họ hoảng sợ vì tưởng là ma. Thấy vậy Chúa Giêsu lên tiếng trấn an: Thầy đây, đừng sợ. Phêrô xin Chúa cho mình cũng được đi trên mặt nước tiến đến với Ngài. Thế nhưng khi ông bắt đầu nghi ngờ, thì lập tức ông bị chìm xuống. Lập tức Chúa Giêsu nắm lấy ông vào nói: Sao đức tin của con kém thế. Tại sao con lại hồ nghi? Như thế bao lâu Phêrô biết vững tâm nhìn vào Chúa Giêsu, thì ông được an lành. Nhưng khi ông rời khỏi Người và bắt đầu chú tâm lo vấn đề của riêng mình, thì lập tức ông lâm vào tình trạng nguy hiểm.
Giữa những cơn gian nguy thử thách, giữa những lúc khổ đau cay đắng, hãy tin tưởng vào Chúa để cuộc đời chúng ta tìm thấy được sự bình an và hạnh phúc.
6. Niềm xác tín
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Đề cập đức tin – một trong ba đức đối thần, Thánh LM TS Tôma Aquinô (1225-1274) phân tích: “Mặc dù cái nhìn chúng ta bị giới hạn và mờ nhạt về những sự rất linh thánh, nhưng chỉ thoáng thấy những sự ấy cũng đã là hoan lạc lắm rồi. Có ba điều cần thiết cho phần rỗi con người: hiểu biết điều nào PHẢI TIN; hiểu biết điều nào PHẢI ƯỚC AO; và hiểu biết điều nào PHẢI THỰC HIỆN. Có những điều ta phải nắm giữ bằng ĐỨC TIN, nhưng lý trí vẫn có thể tìm hiểu; nhờ đó, mọi người đều có thể chia sẻ tri thức về Thiên Chúa một cách dễ dàng, không hoài nghi và lầm lạc”.
Cũng liên quan đức tin, Chân phước LM Charles Eugène de Foucauld (1858-1916) cho biết: “Giây phút tôi nhận biết Thiên Chúa hiện hữu, tôi biết tôi không thể làm gì khác hơn ngoài việc sống cho một mình Người. ĐỨC TIN tước lột mặt nạ khỏi thế giới này và tỏ ra Thiên Chúa trong mọi sự. ĐỨC TIN làm cho không còn sự gì là không thể, làm cho những từ ngữ như lo lắng, nguy hiểm và sợ hãi trở nên vô nghĩa. Nhờ đó, tín hữu sống cuộc đời yên hàn thanh thản, với một niềm tin sâu xa – như một con trẻ được mẹ cầm tay”.
Đặc biệt là Thánh GH Gioan XXIII (1881-1963) đã từng nhắn nhủ riêng với Giáo Hội Việt Nam: “Xin mượn lời Thánh Phaolô để nhắn nhủ rằng: ‘Các con hãy tỉnh thức, hãy vững vàng trong đức tin, hãy can trường và mạnh mẽ’ (1 Cr 16:13). Và để biểu dương hơn nữa lòng thương yêu, săn sóc và cảm phục, cha nhắc lại đây lời Thánh Phaolô: ‘Hằng ngày, cha phải cám ơn Thiên Chúa vì các con. Thực thế, đức tin các con mãnh liệt thêm mãi, tình thân ái của các con với tha nhân mỗi ngày một dồi dào, khiến Cha được hãnh diện vì chúng con trước mặt Giáo hội của Chúa, hãnh diện vì các con bền chí, vững lòng tin trong mọi cơn bách hại, trong những giờ gian lao khốn khó: như thế mới xứng đáng vào nước Thiên Chúa, chính vì Ngài mà các con đã chịu đau khổ’ (2 Tx 1:3-5)”.
Đức tin trừu tượng, không thể sờ được, nhưng có thể cảm nhận một cách cụ thể. Thật lạ! Tin hay không tin là “chấp nhận” hoặc “từ chối”. Một “biên độ” rất mong manh. Rất đơn giản, nhưng cũng rất phức tạp. Sự giằng co đó luôn xảy ra, thế nên cần phải có lòng can đảm để có thể đứt khoát mau mắn. Chỉ trong tích tắc mà các vị tử đạo dám dứt khoát khước từ sự sống để bước theo Đức Kitô. Các ngài đã can đảm, và một niềm xác tín rằng “chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa” (Ep 4:5). Bổn phận của chúng ta – Kitô hữu Công giáo – là TIN YÊU và THỜ KÍNH chỉ MỘT THIÊN CHÚA mà thôi, chứ không có bất cứ một thần linh nào khác!
Chúng ta diễm phúc là nhận biết Chúa và tin theo Ngài, nhưng đức tin đó phải được chứng tỏ. Giáo lý Công giáo dạy: “Làm dấu Thánh Giá là tuyên xưng Thiên Chúa”. Đó là đức tin của Giáo hội và của mỗi chúng ta. Hằng ngày chúng ta thể hiện đức tin nhiều lần bằng cách làm dấu: “Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần”. Cũng cần lưu ý là chúng ta “làm dấu” chứ không “làm giấu” (phát âm gần giống nhau nhưng ý nghĩa hoàn toàn khác nhau). Tuyên tín một cách đơn giản là “làm dấu Thánh Giá”, thế mà đôi khi chúng ta làm cho xong lần, vội vã như “phù phép”, thậm chí có khi tay “vẽ dấu Thánh Giá” mà miệng còn càm ràm hoặc lầm bầm điều gì đó. Ôi thôi!
Biết rằng con người yếu đuối, dễ thay lòng đổi dạ, nhưng không thể cứ viện cớ đó để tự biện hộ. Miệng thì nói tin Chúa nhưng lại hành động khác, chắc hẳn nên xét lại lắm. Ngày xưa, ông Giôsuê đã quy tụ ở Sikhem mọi chi tộc Israel và triệu tập các kỳ mục Israel, các thủ lãnh, thẩm phán và ký lục. Họ đứng trước nhan Thiên Chúa. Ông Giôsuê nói với toàn dân về lời tuyên phán của Đức Chúa, Thiên Chúa của Israel: “Thuở xưa, khi còn ở bên kia Sông Cả, cha ông các ngươi, cho đến Terác là cha của Ápraham và của Nakho, đã phụng thờ các thần khác” (Gs 24:2). Ngày nay, chúng ta gọi họ là những kẻ phản bội hoặc bội bạc, nhưng ngày nay chúng ta cũng có hơn họ, bởi vì chúng ta cũng đã bao lần phạm tội phản nghịch với Thiên Chúa nhân hậu.
Tuy nhiên, ông Giôsuê vẫn không ép buộc mà cho họ tự do chọn lựa: “Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Đức Chúa thì hôm nay anh em CỨ TUỲ Ý chọn thần mà thờ hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người Emôri mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa” (Gs 24:15). Nghe vậy mà họ thấy “rét”. Họ được “đánh động” nên cảm thấy hối hận, và họ đáp lại: “Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác! Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai-cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao đó, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc chúng tôi đã đi ngang qua. Đức Chúa đã đuổi cho khuất mắt chúng tôi mọi dân tộc cũng như người Emôri ở trong xứ. Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi” (Gs 24:16-18).
Cũng là phàm nhân với nhau nên cũng giống nhau y chang. Nghĩa là chúng ta cũng đã và đang yếu đuối, nói một đàng làm một nẻo, cứ liên tục qụy ngã rồi lại té lên té xuống, vậy mà vẫn chưa thực sự “nên người”. Chúng ta yếu đuối nhưng không được thất vọng, vì chúng ta may mắn có “sức mạnh vô song của Đức Kitô”. Tội lỗi tày trời, tội lỗi ngập đầu, tội lỗi đỏ như máu, thế mà chúng ta vẫn được Thiên Chúa xót thương mà tha thứ tất cả, không chỉ vậy mà chúng ta còn được phục hồi nguyên trạng cương vị người con. Vì thế, chúng ta phải tự hứa: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Ngài chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên” (Tv 34:2-3). Bất kỳ ai cũng phải “làm lành lánh dữ, tìm kiếm bình an, ăn ở thuận hoà” (Tv 34:15). Đó là sống theo huấn lệnh của Thiên Chúa, cũng có nghĩa là chúng ta đã xác tín là tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất.
Tuyệt đối Thiên Chúa là Đấng nhân lành (x. Ga 10:11 & 14), và chỉ có Ngài là Đấng nhân lành (Mt 19:17), vì thế Ngài “đối đầu với quân gian ác, xoá nhoà tên tuổi chúng trên đời”, nhưng Ngài vẫn luôn “để mắt nhìn người chính trực và lắng tai nghe tiếng họ kêu” (Tv 34:16-17). Thật vậy, “họ kêu xin, và Chúa đã nhận lời, giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn” (Tv 34:18). Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót nên Ngài luôn “gần gũi những tấm lòng tan vỡ, cứu những tâm thần thất vọng ê chề. Người công chính gặp nhiều nỗi gian truân, nhưng Chúa giúp họ luôn thoát khỏi” (Tv 34:19-21). Đặc biệt là “xương cốt họ đều được Chúa giữ gìn, dầu một khúc cũng không giập gãy” (Tv 34:21). Đó là cách quan phòng và tiền định của Thiên Chúa.
Phàm nhân là loài yếu đuối, chúng ta là phàm nhân nên chúng ta cũng yếu đuối, mà càng yếu đuối thì càng cần có đức tin, và chính đức tin làm cho chúng ta nên vững mạnh. Đức tin và đức ái liên quan tinh thần phục vụ – sống cho và sống vì nhau – khởi đầu từ gia đình. Thánh Phaolô nói: “Vì lòng kính sợ Đức Kitô, anh em hãy TÙNG PHỤC LẪN NHAU” (Ep 5:21).
Tùng phục nhau bằng cách nào? Thánh nhân giải thích “dài hơi” một chút: “Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Kitô là đầu của Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Người. Và như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy. Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh” (Ep 5:22-25). Như vậy là chính Đức Kitô “thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng NƯỚC và LỜI hằng sống, để trước mặt Ngài, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền” (Ep 5:26-27). Thiên Chúa là Đấng chí thánh nên những gì thuộc về Ngài đều phải là thánh.
Tương tự, “chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình” (Ep 5:28). Rất hợp lý, bởi vì vợ chồng “tuy hai mà một”, trở nên “một” qua bí tích Hôn phối. Nên một thì không thể là hai hoặc ba, nghĩa là “người này cũng là người kia”. Chẳng có ai ghét thân xác mình bao giờ, chỉ có kẻ ngu xuẩn mới hành hạ chính mình, nhưng “người ta NUÔI NẤNG và CHĂM SÓC thân xác mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Ngài” (Ep 5:29-30). Sách Thánh xác định rạch ròi: “Chính vì thế, người đàn ông sẽ LÌA cha mẹ mà GẮN BÓ với vợ mình, và cả hai sẽ thành MỘT XƯƠNG MỘT THỊT” (Ep 5:31). Và Thánh Phaolô minh định: “Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh” (Ep 5:32). Hình ảnh phu thê là hình ảnh Đức Kitô và Giáo Hội – và ngược lại. Do đó, những người sống đời hôn nhân phải cố gắng thể hiện đức tin qua ơn gọi hôn nhân của mình. Hôn nhân là bí tích do Thiên Chúa thiết lập chứ không phải do loài người tạo nên. Thế nên không thể “vui ở, buồn đi” theo ý mình.
Cái gì cũng có tính liên đới, dù đó là điều tốt hay xấu. Tương tự, đức tin cũng có nhiều hệ lụy. Tất cả đều liên kết với nhau một cách mạch lạc và rất kỳ diệu. Thân xác không hơi thở là xác chết – bởi vì “Chúa lấy sinh khí lại, chúng tắt thở ngay” (Tv 104:29), và “đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2:17 & 26). Đó là hai cái chết: chết thể lý và chết tinh thần. Cái chết nào cũng đáng sợ!
Hôm đó, khi Chúa Giêsu giảng dạy trong hội đường ở Ca-phác-na-um, Ngài nói: “Ai ăn thịt và uống máu tôi thì được sống muôn đời” (Ga 6:54). Nghe vậy, nhiều môn đệ của Ngài cũng cảm thấy “nóng gáy” nên nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6:60). Các “đệ tử ruột” mà còn phát biểu vậy đó! Ngài biết tỏng các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy, nên Ngài bảo họ: “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống. Nhưng trong anh em có những kẻ KHÔNG TIN” (Ga 6:61-64). Quả thật, vấn đề đức tin là vấn đề thực sự quan trọng. Không phải cứ nói tin là tin, vì lời nói đó có thể chỉ là “hàng giả” – giả vờ vậy thôi. Cách xác tín cho biết “sức khỏe tâm linh” của chúng ta ra sao, khỏe hay yếu, hoặc cứ làng xàng – chẳng khỏe cũng chẳng yếu.
Thật vậy, ngay từ lúc đầu, Chúa Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Ngài. Thế nên Ngài cho biết: “Vì thế, Thầy đã bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho” (Ga 6:65). Từ lúc đó, nhiều môn đệ đã “bỏ của chạy lấy người”, không còn đi theo Ngài nữa. Thấy vậy, Ngài hỏi Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga 6:67). Nhưng ngư phủ Simôn Phêrô nói ngay: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6:68). Thật tuyệt vời! Ngư phủ Phêrô lâu lâu nói một câu nghe “quá đã”, đúng là “trên cả tuyệt vời”. Ông không dám bỏ Sư phụ Giêsu vì ông đã xác tín. Thật vậy, chính ông đã công khai tuyên tín: “Phần chúng con, chúng con ĐÃ TIN và NHẬN BIẾT chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6:69).
Ôi, lão ngư Phêrô ơi! Xin giúp chúng con cũng được sáng con-mắt-đức-tin để có thể chân nhận Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa, là Đấng cứu độ duy nhất, và luôn biết tín thác vào chính Thiên-Chúa-Con-Người ấy.
Cũng liên quan đức tin, Thánh LM Piô Năm Dấu (1887-1968) cho biết: “Thiên Chúa muốn kết ước với linh hồn TRONG ĐỨC TIN, linh hồn nào muốn cử hành hôn lễ thiên đàng ấy phải bước đi TRONG ĐỨC TIN tinh ròng, đó là phương thế duy nhất thích hợp cho sự kết hợp tình yêu”.
Lạy Thiên Chúa duy nhất và toàn năng, xin thắp lên ánh sáng đức tin trong mỗi chúng con, xin nâng đỡ để chúng con hãnh diện tuyên tín qua từng ánh mắt và mọi động thái, xứng đáng là môn đệ của Đức Giêsu Kitô, Con Yêu Dấu của Ngài, và tất cả chỉ vì Thánh Danh Ngài mà thôi. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
7. Vấn đề đức tin
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Tin hay không tin là “chấp nhận” hoặc “từ chối”. Một “biên độ” rất mong manh. Rất đơn giản, nhưng cũng rất phức tạp. Sự giằng co đó luôn xảy ra, thế nên cần phải đứt khoát mau mắn. Chỉ trong tích tắc mà các vị tử đạo dám dứt khoát khước từ sự sống để bước theo Đức Kitô. Bởi vì “chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa” (Ep 4:5). Bổn phận của chúng ta là TIN YÊU và THỜ KÍNH chỉ MỘT THIÊN CHÚA mà thôi!
Giáo lý Công giáo dạy: “Làm dấu Thánh Giá là tuyên xưng Thiên Chúa”. Đó là đức tin của Giáo hội và của mỗi chúng ta. Hằng ngày chúng ta thể hiện đức tin nhiều lần bằng cách làm dấu: “Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần”. Cũng cần lưu ý là chúng ta “làm dấu” chứ không “làm giấu” (phát âm gần giống nhau nhưng ý nghĩa hoàn toàn khác nhau).
Con người yếu đuối nên dễ thay lòng đổi dạ. Miệng thì nói tin Chúa nhưng lại hành động khác. Ông Giôsuê quy tụ ở Sikhem mọi chi tộc Ítraen và triệu tập các kỳ mục Ítraen, các thủ lãnh, thẩm phán và ký lục. Họ đứng trước nhan Thiên Chúa. Ông Giôsuê nói với toàn dân: “Đức Chúa, Thiên Chúa của Ítraen, phán thế này: “Thuở xưa, khi còn ở bên kia Sông Cả, cha ông các ngươi, cho đến Terác là cha của Ápraham và của Nakho, đã phụng thờ các thần khác” (Gs 24:2).
Ông Giôsuê không ép buộc mà cho họ tự do chọn lựa: “Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Đức Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người Emôri mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa” (Gs 24:15). Họ được “đánh động” nên cảm thấy hối hận, và họ đáp lại: “Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác! Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai-cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao đó, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc chúng tôi đã đi ngang qua. Đức Chúa đã đuổi cho khuất mắt chúng tôi mọi dân tộc cũng như người Emôri ở trong xứ. Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi” (Gs 24:16-18).
Chúng ta cũng đã và đang yếu đuối, nói một đàng làm một nẻo, cứ liên tục qụy ngã rồi lại té lên té xuống, vậy mà vẫn chưa nên người. Chúng ta yếu đuối nhưng không được thất vọng, vì chúng ta may mắn có “sức mạnh vô song của Đức Kitô”. Tội lỗi tày trời, tội lỗi ngập đầu, tội lỗi đỏ như máu, thế mà chúng ta vẫn được Thiên Chúa xót thương mà tha thứ tất cả, không chỉ vậy mà chúng ta còn được phục hồi nguyên trạng cương vị người con. Vì thế, chúng ta phải tự hứa: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Ngài chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên” [Tv 33 (34):2-3]. Bất kỳ ai cũng phải “làm lành lánh dữ, tìm kiếm bình an, ăn ở thuận hoà” [Tv 33 (34):15].
Thiên Chúa là Đấng nhân lành (x. Ga 10:11 & 14), vì thế Ngài “đối đầu với quân gian ác, xoá nhoà tên tuổi chúng trên đời”, nhưng Ngài luôn “để mắt nhìn người chính trực và lắng tai nghe tiếng họ kêu” [Tv 33 (34):16-17]. Thật vậy, “họ kêu xin, và Chúa đã nhận lời, giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn” [Tv 33 (34):18]. Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót nên Ngài luôn “gần gũi những tấm lòng tan vỡ, cứu những tâm thần thất vọng ê chề. Người công chính gặp nhiều nỗi gian truân, nhưng Chúa giúp họ luôn thoát khỏi” [Tv 33 (34):19-21]. Đặc biệt là “xương cốt họ đều được Chúa giữ gìn, dầu một khúc cũng không giập gãy” [Tv 33 (34):21].
Chúng ta càng yếu đuối càng cần có đức tin. Thánh Phaolô nói: “Vì lòng kính sợ Đức Kitô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau” (Ep 5:21). Tùng phục nhau bằng cách nào? Thánh nhân “dài hơi” giải thích: “Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Kitô là đầu của Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Người. Và như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy. Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh” (Ep 5:22-25). Như vậy là chính Đức Kitô “thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt Ngài, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền” (Ep 5:26-27).
Cũng thế, “chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình” (Ep 5:28). Rất lô-gích, vợ chồng “tuy hai mà một”, nên một qua bí tích Hôn phối. Mà là một thì “người này là người kia”. Chẳng có ai ghét thân xác mình bao giờ, mà “người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Ngài” (Ep 5:29-30). Sách Thánh có lời chép: “Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt” (Ep 5:31). Thánh Phaolô xác định: “Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh” (Ep 5:32). Hình ảnh phu thê là hình ảnh Đức Kitô và Giáo hội, và ngược lại. Do đó, những người sống đời hôn nhân phải cố gằng thể hiện đức tin qua ơn gọi hôn nhân của mình.
Đức tin có nhiều hệ lụy. Tất cả đều liên kết với nhau một cách mạch lạc và rất kỳ diệu. Thân xác không hơi thở là xác chết, và “đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2:17&26).
Khi giảng dạy trong hội đường ở Ca-phác-na-um, Chúa Giêsu có nói: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (Ga 6:54). Nghe vậy, nhiều môn đệ của Ngài cũng “nóng gáy” nên liền nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6:60). Các “đệ tử ruột” mà còn phát biểu vậy đó! Ngài biết tỏng các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy, Ngài bảo các ông: “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống. Nhưng trong anh em có những kẻ không tin” (Ga 6:61-64).
Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Ngài. Và Ngài nói tiếp: “Vì thế, Thầy đã bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho” (Ga 6:65). Từ lúc đó, nhiều môn đệ đã “bỏ của chạy lấy người”, không còn đi theo Ngài nữa. Thấy vậy, Ngài hỏi Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga 6:67). Ông Simôn Phêrô liền đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6:68). Ngư phủ Phêrô lâu lâu nói một câu nghe “quá đã”, đúng là “trên cả tuyệt vời”. Ông không dám bỏ Sư phụ Giêsu vì ông đã tin. Thật vậy, ông liền tuyên tín: “Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6:69).
Lão ngư Phêrô ơi! Xin giúp chúng con cũng được sáng con-mắt-đức-tin để có thể chân nhận Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa và luôn biết tín thác vào Người Con ấy.
Lạy Thiên Chúa chí minh và chí thiện, xin thêm đức tin cho chúng con và xin nâng đỡ chúng con để chúng con can đảm thể hiện đức tin qua từng ánh mắt, lời nói, cử chỉ, động thái,... Nhờ đó mà chúng con xứng đáng là môn đệ của Con Thiên Chúa. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
8. Theo ai?
Cứ nhìn vào các nhà thờ đông nghẹt người xem lễ, thì ai cũng nói lòng đạo đức của người tín hữu hôm nay thật là lớn. Tuy nhiên, cuộc sống của họ có đúng là đạo đức hay không? Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay sẽ giúp chúng ta xác định xem mình đang theo Chúa hay là đã xa lìa Ngài?
Thực vậy, nếu chúng ta chỉ dừng lại ở bí tích Thánh Thể mà thôi thì chưa đủ theo đòi hỏi của Tin Mừng. Bởi vì Lời Chúa phải được đem ra thực hiện thì mới trở thành bánh trường sinh được và mầu nhiệm Mình Máu Thánh Chúa càng sâu sắc hơn nếu mỗi người biết chia sẻ cho nhau không những của cải vật chất mà còn cả tình thương trong cuộc sống.
Vẫn còn có nhiều người quan niệm đi lễ, giữ chay, đọc kinh, giữ luật đạo, lâu lâu bố thí cho kẻ nghèo hay dâng cúng cho nhà thờ, thì đã thể hiện được lòng đạo đức của mình. Còn ngay trong cuộc sống hằng ngày, họ không cần biết đến người láng giềng đang sống như thế nào? Không cần biết đến xóm làng đang có những vấn đề gì? Họ không cần để ý đến tình người ngay trong mối quan hệ bình thường với kẻ khác. Và như thế vô tình họ đã khoanh vùng hoạt động cho Chúa ở trong nhà thờ mà thôi, họ chưa đưa Chúa vào trong cuộc đời, đang lúc Chúa Giêsu lại sinh hoạt ngay giữa lòng xã hội loài người. Nếu sống đạo như thế, thì làm sao lời Chúa trở thành bán ban sự sống cho được?
Không ít người đã theo Chúa Giêsu chỉ vì phép lạ bánh hoá nhiều, nhưng rồi họ lại vội vã bỏ Chúa mà đi vì lời Ngài thật chướng tai, không thể chấp nhận được. Chỉ riêng nhóm 12 là đã xác tín rằng: Chỉ mình Chúa mới có Lời ban sự sống. Điều xác tín này đã rõ nét trong khi xây dựng cộng đoàn tiên khởi: mọi người bỏ của chung, chăm lo cho nhau và ai cũng no đủ, hạnh phúc.
Giáo Hội kết hợp với Đức Kitô, không chỉ trong các nghi lễ phụng tự mà mỗi người trong Giáo Hội phải sống với tinh thần của Ngài ngay trong cuộc sống hằng ngày. Xã hội vẫn còn những kẻ thiếu ăn, vẫn còn những bất công và áp bức, thì Giáo Hội vẫn còn có những vấn đề được đặt ra cho mình. Làm thế nào để ngày càng đẩy lùi những bất công, đói khổ và lạc hậu. Điều đó đồng nghĩa với làm thế nào để tỏ lộ khuôn mặt Đức Kitô một cách rõ nét nhất trong cuộc sống hiện tại.
Thiên Chúa không thích những của lễ, nhưng Ngài cần lòng nhân ái. Lễ vật nào có ích gì khi sự thù hận đố kỵ vẫn còn trong người tín hữu hay vẫn còn những kẻ đói khổ đau đớn bên cạnh mình. Xác tín đi theo Chúa trên con đường cứu độ là phải mang lấy nỗi ưu tư, ray rứt về một xã hội chưa được an vui hạnh phúc.
Vậy thì chúng ta đã theo Chúa như thế nào và đã thực hiện lời Chúa ra làm sao để lời Chúa thực sự đem lại cho chúng ta sự sống vĩnh cửu?
9. Lời ban sự sống – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Bảo rằng lương thực hằng ngày như cơm, như bánh có thể mang lại cho con người sự sống tạm bợ đời nầy là điều dễ chấp nhận, vì rõ ràng nhờ cơm bánh mà chúng ta có thêm sức mạnh để lao động hằng ngày.
Bảo rằng thuốc men và các chất bổ dưỡng làm gia tăng sinh lực cho con người thì cũng dễ hiểu thôi, vì chúng ta có thể cảm nhận hiệu quả ấy trước mắt.
Thế nhưng Lời tuyên xưng của thánh Phê-rô trong Tin Mừng hôm nay: "Thầy có những lời đem lại sự sống đời đời" là những lời khó thuyết phục, vì lời nói thoảng bay trong gió, chứ có phải là lương thực, là thuốc men đâu mà có sức kéo dài tuổi thọ của con người.
Thiên Chúa dùng Lời để tác tạo vũ trụ và thông ban sự sống.
Từ nguyên thuỷ, khi tất cả còn hư vô trống rỗng, Thiên Chúa đã dùng Lời mà tác thành vũ trụ và sáng tạo muôn loài. Mọi sự sống trong hoàn vũ, từ sự sống của các loài sinh vật đơn giản cho đến sự sống của loài người đều do Lời Chúa phán mà ra.
Sáng thế ký chương I viết: “Thiên Chúa phán: "Nước phải sinh ra đầy dẫy những sinh vật lúc nhúc,... liền có như vậy."
Thiên Chúa phán: "Đất phải sinh ra các sinh vật tuỳ theo loại: gia súc, loài bò sát và dã thú tuỳ theo loại." Liền có như vậy.
Thiên Chúa phán: "Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta..." Và từ Lời thần thiêng đó, con người đã được tạo thành và được thông ban sự sống. (Stk 1, 20.24.26)
Lời Chúa hồi sinh kẻ chết
Khi xuống thế làm người, Chúa Giêsu cũng dùng Lời thần thiêng của mình để phục hồi sự sống cho những kẻ chết.
Hôm ấy, khi Chúa Giêsu thấy người ta khiêng cậu con trai duy nhất của một bà goá ở thành Na-im đi chôn, người mẹ theo sau xác con gào khóc thảm thiết. Động lòng thương, Chúa truyền cho người khiêng đứng lại và Người dùng Lời của mình ban lại sự sống cho người thanh niên: "Hỡi thanh niên, Ta truyền cho anh hãy chổi dậy" (Lc 7,14), lập tức người chết được hồi sinh.
Rồi đến lượt La-da-rô đã chết đến bốn ngày, xác đã nặng mùi, thế mà Chúa Giêsu cũng chỉ dùng Lời của mình ban lại sự sống cho anh. "La-da-rô, hãy ra ngoài!". Vừa nghe lời quyền năng đó, người chết đội mồ sống lại. (Gioan 11, 43)
Thế thì rõ ràng là Chúa Giêsu có những Lời truyền ban sự sống, nhưng không chỉ thông ban sự sống sinh vật tạm thời mà còn đem lại sự sống vĩnh cửu trên thiên quốc.
Khi giảng tại Hội Đường Ca-phác-na-um, Chúa Giêsu khẳng định Người chính là Bánh hằng sống, ai ăn thịt và uống máu Người sẽ được sống đời đời. Lời đó khiến dân chúng và các môn đệ bị sốc, không chấp nhận và tuần tự bỏ đi. Dầu vậy, thánh Phê-rô vẫn kiên vững tuyên xưng: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời." (Ga 6, 68)
Chúa Giêsu được mệnh danh là Ngôi Lời, đã hiện hữu từ trước muôn đời, "nhờ Người vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành" (Gioan 1, 1-3) thì chắc chắn Người có đủ quyền năng ban sự sống đời đời cho những ai tin nhận Người.
Nếu hôm nay trên thị trường có thuốc trường sinh, chắc chắn sẽ có nhiều người xô đẩy nhau quyết tìm mua bằng mọi giá. Thế mà nay Chúa Giêsu tặng ban miễn phí những Lời đem lại sự sống đời đời cho nhận loại, lẽ nào chúng ta lại thờ ơ.
Vậy thì cùng với thánh Phê-rô, chúng ta hãy tuyên xưng với tất cả lòng tin: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời".
Cùng với Mẹ Maria là Đấng hằng ghi nhớ và suy niệm Lời Chúa trong lòng, chúng ta hãy hấp thụ Lời Chúa vào tâm hồn, để Lời Chúa sinh hoa kết quả trong cuộc sống hằng ngày, nhờ đó mỗi người chúng ta được hưởng sự sống hoan lạc đời nầy và sự sống vĩnh cửu mai sau.
10. Lời Hằng Sống
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Trong suốt bốn tuần qua, Giáo Hội giúp chúng ta suy nghĩ chương 6 của Tin Mừng Gioan: diễn từ về bánh trường sinh. Trọng tâm là câu mà chúng ta vừa nghe đọc: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi, Tôi sẽ cho người ấy sống lại ngày sau hết”.
Diễn từ xoay quanh vấn đề bánh hằng sống từ trời xuống. Bánh đó chính là thịt máu Ngài.
Hôm nay cùng với Giáo Hội, chúng ta suy niệm đoạn cuối của chương này.
Tất cả kết thúc trong sự thất bại. Không ai chấp nhận, không ai muốn hiểu những gì Chúa Giêsu nói và mọi người đều bỏ Ngài, kể cả một số môn đệ, chỉ còn lại nhóm Mười Hai đang ngơ ngác nhìn mọi người bỏ đi.
“Lời này chói tai quá! Ai mà nghe được?”
Sao họ nhẹ dạ thế? Sao họ không thấy rằng với năm chiếc bánh và hai con cá, Ngài đã nuôi năm ngàn người trong hoang địa? Sao họ không nhìn thấy quyền lực lạ lùng của người đã làm được một việc phi thường như thế? Con người chỉ có ăn là đủ sao?
Nhiều người trong chúng ta cũng vậy. Chỉ cần có lợi cho mình, mọi sự khác không cần nghĩ đến, sống chết mặc ai.
Chúa Giêsu hỏi các môn đệ, những người đang xầm xì về những điều Ngài vừa nói: “Điều đó anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?”
Như thế, Ngài tỏ cho họ biết nguồn gốc thần linh của Ngài. Ngài từ trời xuống. Bánh hằng sống Ngài ban cũng từ trời. Những lời Ngài nói là lời của Thiên Chúa chứ không phải của người phàm. Thế nhưng Ngài chỉ gặp thấy những tâm hồn khép kín, không thể chấp nhận những gì khác hơn là những gì họ nghĩ. Nhưng với đầu óc chắc nịch những vật chất, làm sao họ có thể đón nhận những hồng ân tuyệt diệu của Ngài?
Chúng ta hãy xét lại bản thân. Chúng ta đang sống cho cái gì? Chúng ta đang đi về đâu? Tương lai của chúng ta là gì?
Nếu chúng ta chỉ lo nghĩ đến tiền bạc, của cải, lợi lộc trần gian mà thôi, chúng ta sẽ thất vọng. Chính Chúa nói: “Xác thịt chẳng có ích gì”.Vì nó sẽ tan biến trong giây lát. “Chỉ có Thần Khí mới làm cho sống” Thần Khí mới mở mắt chúng ta vào chân trời của Chúa: “Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống”. Ngài mời gọi chúng ta vượt lên trên thế giới vật chất để tìm được những thực tại thiêng liêng, mang lại cho chúng ta sự sống đích thực.
Câu chuyện người đàn bà Samari bên bờ giếng Giacob cũng là một bài học cho chúng ta thấy vũ trụ vật chất chỉ là phương tiện để nhờ đó, chúng ta đạt đến những thực tại thiêng liêng, đạt đến mục đích tối hậu mà chúng ta phải hướng đến.
Từ một miếng nước vật chất đơn thường, Ngài dẫn bà ấy đến nguồn nước trường sinh. Ngài cũng muốn hướng đám dân đang theo Ngài từ bánh trần gian đến bánh hằng sống, nhưng họ không muốn hiểu. Cả những môn đệ cũng không tin và rút lui. Cha trên trời mới có thể đưa họ đến với Ngài khi họ chấp nhận tìm kiếm.
Mọi người đều đả đảo Ngài chỉ còn Nhóm Mười Hai đang ngơ ngác chưa biết nên rút lui hay ở lại.
Ngài hỏi: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”
Một câu hỏi đau lòng!
Ngài không cần một ai. Ngài có thể biến đổi mọi sự theo ý Ngài, nhưng Ngài không muốn ép buộc ai. Ngài là Đấng vô biên không ai dò thấu.
Câu hỏi của Ngài như một cầu cứu khẩn thiết, làm như Ngài mất tất cả. Ngài nắm mọi sự trong tay, nhưng Ngài đã trở nên người ở giữa sa mạc. Ngài đã cho không cuộc đời, nhưng con người vẫn không đón nhận.
Câu hỏi này tiên báo cảnh vườn Ghetxêmani: “Linh hồn Thầy buồn đến chết được. Hãy thức với Thầy”. Ngài vẫn cô đơn giữa đám đông, giữa các môn đệ. Con đường Ngài đi, Ngài chỉ cô độc một mình. Nhưng “khi Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi người đến với Ta”. Chỉ lúc bị treo lên mà thôi. Giờ này, Ngài vẫn một mình. Ngài báo trước hồng ân tuyệt diệu Ngài ban tặng, nhưng mọi người đều cho rằng: “Khó nghe quá!”
Nhưng may mắn thay! Phêrô đã đại diện cho anh em Nhóm Mười Hai đang lưỡng lự, đã trả lời, một câu trả lời chân thật, rõ rệt, không úp mở, không chịu ảnh hưởng của một yếu tố ngoại lai nào, cũng không do một áp lực nào, có thể nói là hoàn toàn chân thành. Kết quả của một quá trình chung sống gần ba năm đáp: “Bỏ Thầy chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”. Những lời Thầy vừa nói mà người ta cho là chướng tai là những lời mang lại sự sống đời đời. Chính Thầy là bánh trường sinh. Ngoài Thầy ra, không còn ai khác.
Chúng ta hãy cùng với Phêrô nói lên tiếng lòng của chúng ta. Không có Thầy, chúng con bám víu vào ai đây? Chung quanh chúng con là một đống đổ nát hoang tàn. Con người đang tận diệt nhau. Bạo lực lan tràn. Tội ác ngập tràn như nước lũ.
Chúng ta không bi quan. Sự thật đã quá rõ ràng không thể chối cải. Thế giới này đang đổ nát. Tương lai của con người đang mịt mờ đen tối. Chỉ có Thầy là ánh sáng duy nhất đang mời gọi.
Hôm qua, Ngài hỏi các môn đệ và cũng chính là câu hỏi cho mỗi người chúng ta hôm nay: “Chúng con cũng bỏ Thầy nữa sao?”
Chúng ta sẽ trả lời sao?
Chắc chắn, chúng ta sẽ cam kết sống chết với Thầy như Phêrô: “Con dám liều mạng cho Thầy!”
Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
Lời tuyên xưng này nhắc lại lời tuyên xưng ở Xêdarê-Philipphê: “Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống”.
Đúng thế! Chúng ta chỉ có Ngài thôi. Gắn bó với Ngài sâu đậm hơn và nhất là ăn lấy Ngài để làm một với Ngài. Đó là ước mong duy nhất của Ngài. Ngài dám trở thành tấm bánh cho chúng ta, nơi đó Ngài chứng tỏ cho chúng ta thấy Ngài yêu chúng ta đến mức độ nào. Chúng ta có thấy được không?
Ngài hiến dâng tất cả cho chúng ta, chúng ta sẽ dâng cho Ngài cái gì? Tất cả hay chỉ một phần nào đó? Tình yêu không chấp nhận sự tính toán, nửa vời. Yêu phải là trọn vẹn. Ngài đã cho chúng ta tất cả, Ngài muốn chúng ta hoàn toàn là của Ngài.
Hãy cho Ngài một miền đất thênh thang để Ngài tự do hoạt động, và chúng ta cũng trở nên tình yêu như Ngài.
11. Chọn lựa.
Cả chúng con nữa, chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi hay không?
Câu hỏi Chúa Giêsu đưa ra đòi buộc các môn đệ phải chọn lựa, phải dứt khoát lập trường. Đây không phải là một việc dễ dàng, vì ngay trước đó đã có nhiều môn đệ rút lui, bởi điều Ngài xác quyết một cách mạnh mẽ về thứ lương thực thiêng liêng nuôi sống linh hồn, thật là chói tai không thể nào chấp nhận được theo lẽ tự nhiên: Thịt Ngài là của ăn và Máu Ngài là của uống mang lại cho chúng ta sự sống đời đời.
Với lời tuyên bố ấy, chúng ta có thể nghĩ tới bí tích Thánh Thể, chúng ta đã cử hành trong suốt cả cuộc đời người công giáo, mà chẳng có lấy một chút băn khoăn hay do dự. Chúng ta cũng đã từng đón nhận Mình và Máu thánh Ngài một cách quen thuộc theo nghi lễ và chúng ta không còn nhận ra tính cách chói tai và những khó khăn mà các môn đệ đã găp phải.
Sự tuyên xưng của các ông chính là một sự dấn thân, một hành đông liên quan tới vận mạng của một con người. Tuy nhiên, điều đáng cho chúng ta suy nghĩ hơn cả, đó là mặc dầu chúng ta tin tưởng vững chắc vào lời xác quyết của Chúa: Thịt Máu Ngài chính là lương thực nuôi dưỡng tâm hồn và đem đến cho chúng ta sự sống vĩnh cửu, nhưng trong thực tế, chúng ta lại sống, lại hành động trái ngược với niềm tin tưởng ấy.
Đúng thế, có những người công giáo vốn tự xưng là đạo dòng, đạo gốc… Thế mà cả chục năm không rước Chúa lấy được một lần. Có những người khác, ngày Chúa nhật cũng đến nhà thờ nhưng cho qua lần đoạn lượt mà thôi. Họ đứng ở ngoài sân, vừa nói chuyện, vừa phì phèo điếu thuốc lá và vừa tham dự thánh lễ. Mình không tham dự đã đành, mà còn cả trở và làm cho người khác lo ra, chia trí.
Hơn thế nữa, phần đông chúng ta lại tách biệt thánh lễ ra khỏi cuộc sống.
Chúng ta giữ đạo ở trong nhà thờ như một người công chức tới giờ đến sở làm việc. Có nghĩa là khi đến nhà thờ, chúng ta trang nghiêm sốt sắng. Nhưng khi thánh lễ kết thúc, cửa nhà thờ đóng lại và chúng ta trở về với cuộc sống thường ngày. Lúc bấy giờ chúng ta lại vội vã gian than, độc ác và bất công. Trong nhà thờ chúng ta là những con chiên ngoan, nhưng giữa lòng cuộc đời, chúng ta lại hoá kiếp thành một loài sói dữ. Như vậy, thánh lễ cũng chỉ là một chiếc ngăn kéo rất nhỏ bé giữa những ngăn kéo biệt lập khác của cuộc sống.
Thế nhưng, với những người có đức tin thì khác, cuộc sống phải trờ thành thánh lễ, hay nói cách khác, tinh thần thánh lễ phải thấm sâu vào cuộc sống của họ. Có nghĩa là chúng ta phải biến đổi đời sống chúng ta thành một thánh lễ nối dài, bằng cách thực thi tinh thần yêu thương và hợp nhất, giúp đỡ những người chung quanh, như một bài hát quen thuộc: Ta về thôi khi thánh lễ đã hết, nhưng đời ta là thánh lễ nối dài, đem tình thương Thiên Chúa đến mọi nơi, ta sống sao để làm chứng nhân.
Hãy góp nhặt những hy sinh rải rắc trong đời thường, để làm nên tấm bánh và chén rượu, như những của lễ chúng ta dâng lên Chúa. Từ đó chúng ta đi đến một câu hỏi, một kết luận, đó là chúng ta đã thực sự sống tinh thần thánh lễ giữa lòng cuộc đời của chúng ta hay chưa?
12. Trong anh em có những kẻ không tin
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Lời mời gọi tiếp nhận ‘bánh hằng sống’, hay đúng hơn ‘ăn thịt và uống máu’ của Đức Giêsu, đã bị đám thính giả Do Thái nói chung, thậm chí cả một số môn đệ nói riêng, khước từ; “Lời này chướng tai quá, ai mà nghe cho nổi!... Từ lúc đó nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa”. Chắc chắn không phải vì họ không muốn có bánh ăn là thứ mà họ đang kiếm tìm, nhưng họ khước từ ‘ăn thịt và uống máu’ vì là hình thức ghê tởm đối với bất kỳ ai. Điều đó thật ra cũng dễ hiểu thôi, và chẳng có gì đáng chê trách! Tuy nhiên điều làm chúng ta suy nghĩ chính là, từ sự ghê tởm tự nhiên đó, họ đã không còn tin vào Đức Giêsu nữa, “Trong anh em có những kẻ không tin”… và nhiều người quyết định lìa bỏ Người.
Nếu chỉ là vì hình thức ‘ăn thịt và uống máu’ làm họ ghê tởm, thì cách giải quyết cũng nhẹ nhàng thôi: chỉ cần trao bánh và rượu, rồi nói: “này là thịt và máu Ta”, như Người sẽ làm trong bữa ăn ly biệt, là sẽ dễ dàng được chấp nhận ngay. Thế nhưng, trong nhận thức của Đức Giêsu, thì rõ ràng đó không phải là lý do đáng quan tâm nhất để họ từ khước. Đối với Người, các môn đệ đang cần củng cố một điều gì còn thâm sâu hơn nhiều mà Người gọi là đức tin nhờ Thần Khí; “Thần Khí mới làm cho sống chứ xác thịt chẳng có ích gì”, vì cũng chỉ có Thần Khí mới có thể mở miệng Phê-rô thốt lên lời tuyên xưng: “Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa!”
Ngày nay trong số các Kitô hữu cũng có nhiều kẻ không tin, nhưng vấn đề chúng ta phải giáp mặt có lẽ lại trái ngược hẳn với các môn đệ Do Thái thời xưa. Khi giảng giải về Thánh Thể, người ta nhấn mạnh, bánh và rượu thật là ‘mình và máu’ Chúa (cũng có thể là do phản ứng của Công Giáo trước việc anh em Tin Lành chối bỏ học thuyết ‘biến thể’ transubstantiation). Điều này ngày nay không quá khó chấp nhận, ngay cả đối với các dự tòng, chỉ cần đưa ra một lý luận đơn giản: có điều gì mà Thiên Chúa không làm được? Cũng vậy khi tiến lên rước lễ, chẳng ai trong chúng ta còn có cái cảm giác ghê tởm của ‘ăn thịt và uống máu’. Thế nhưng, như đã từng xẩy ra cho các môn đệ xưa, vấn đề chính của chúng ta sẽ là: tôi có thật sự ‘tin và theo Thầy’ cách triệt để hay không? ‘Uống nước hằng sống’ và ‘ăn bánh trường sinh’ thực chất chỉ là những kiểu nói tượng hình để diễn đạt một điều hệ trọng hơn nhiều. Môn đệ Phê-rô đã biểu lộ niềm tin này qua lời tuyên xưng chân thành: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6:68).Chính Đức Giêsu cũng chỉ rõ: “… Trong anh em có những kẻ không tin… Vì thế, Thầy bảo anh em: không ai đến với Thầy được nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho”. Tác giả Gio-an hình như cũng có cùng một nhận định khi nói về các môn đệ: “Quả thực ngay từ đầu đức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp người”. Như vậy ‘tin Đức Giêsu’ có nghĩa là lấy cái chết tự hiến thập giá của Người làm sức sống cho đời mình, làm con đường duy nhất dẫn đến Chúa Cha – sự sống vĩnh cửu; “Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?” Chỉ ai tin như thế (= ăn thịt và uống máu) mới bảo đảm cho mình được sống muôn đời; “Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”.
Xác tín điều này, tôi không hề có ý hạ thấp tầm quan trọng của bí tích Thánh Thể trong nội dung triết học và thần học; ngược lại là đàng khác. Khi cử hành Thánh Thể, thay vì chỉ suy nghĩ rằng mình đang làm một việc đạo đức tốt lành và thánh thiện bậc nhất (hàng đầu trong số các bí tích hay phụng vụ), tôi cần minh định rõ rằng mình đang tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô cách long trọng nhất, cũng như đang đón nhận ơn cứu độ cách thâm sâu nhất. Đức tin của tôi không đơn thuần chỉ là xác tín bánh và rượu đã trở thành Mình và Máu Thánh Chúa Kitô. Đức tin phải đưa tôi tới việc đón nhận Đấng đã hiến dâng mình trên thập giá để tôi được thông phần vào sự sống từ ái vô biên của Chúa Cha… Và điều này thiết thực tới độ, cho dầu tôi, nếu có chết trước cả khi có dịp ‘ăn thịt và uống máu’ Người nơi bí tích Thánh Thể, và nếu tôi đã từng hết lòng ‘ăn bánh trường sinh’ trong niềm tin phó thác thâm sâu nhất đó, thì chính niềm tin này mới đảm bảo cho tôi “không còn chết nữa, nhưng được sống muôn đời”.
Điều tối quan trọng là đôi lúc tôi cần thật sự duyệt lại niềm tin của mình đạt nơi bí tích Thánh Thể, nhất là trong Thánh Lễ tôi cử hành hàng ngày
Lạy Cha chí ái, mỗi ngày khi con cử hành Thánh Thể, cho dầu có là một thói quen như hầu hết các linh mục khác, xin Cha luôn làm con ý thức rằng, đây chính là lời tuyên xưng đức tin thâm sâu nhất của con. Thánh Thể khi đó sẽ diễn đạt việc con đón nhận ơn cứu độ vô giá của thập giá Chúa Kitô cách trọn vẹn nhất, sẽ trở thành con đường để con đi vào sức sống vô biên của Chúa Cha, và bảo đảm cho con cuộc sống vĩnh hằng. Xin Cha giúp con luôn cử hành Thánh Lễ trong niềm tin như vậy. Amen.
13. Tình đời thay trắng đổi đen!
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Con người thường đổi trắng thay đen. Lòng người thường thay lòng đổi dạ khiến cho nhiều người đã chua chát nhìn đời mà bảo rằng:
"Còn tiền còn bạc còn đầy tớ.
Hết tiền hết bạc hết ông tôi".
Người ta gắn bó với nhau thường là vì tình, vì tiền và quyền lợi. Và một khi quyền lợi của mình bị lung lay, họ liền thay lòng đổi dạ để rồi "gió chiều nào xuôi theo chiều đó" để được an toàn bản thân. Xem ra tình cảm giữa con người với nhau thật mong manh. Mọi quan hệ đều được liên kết với nhau bằng những quyền lợi và nghĩa vụ phải thi hành với nhau. Tình đời thường thay trắng đổi đen nên mới có chuyện "ông ăn chả bà ăn nem". Bất trung và phản bội với lời đoan hứa thường là sự mất tín nhiệm nơi nhau và hậu quả là chẳng ai tin ai, ai cũng lo cho chính mình để khỏi bị thiệt hại bản thân.
Lịch sử cứu độ là một chuỗi dài sự tha thứ của Thiên Chúa và sự bất trung, phản bội của dân tộc được tuyển chọn. Họ hứa rồi quên. Họ đứng lên rồi lại ngã qụy. Dân Do Thái đã từng hứa trung thành với Giavê Thiên Chúa, nhưng rồi họ lại tin thờ thần ngoại bang. Mặc dầu Thiên Chúa luôn bảo vệ họ, chăm sóc họ như tình phụ tử dành cho con cái. Ngược lại, họ thường lãng quên ân huệ của Thiên Chúa. Họ năm lần bảy lượt quay lưng lại với tình yêu mà Thiên Chúa dành cho họ.
Lời Chúa trong bài đọc thứ nhất là bằng chứng về quá khứ đầy thất trung của dân tộc được tuyển chọn. Cha ông họ đã từng thờ thần ngoại bang. Hôm nay họ tuyên hứa chỉ tôn thờ một mình Thiên Chúa Giavê duy nhất, nhưng rồi lời hứa lại đi vào quên lãng chỉ còn lại những thất tín, bội thề. Thiên Chúa đối với họ như là một kho ơn, chỉ đề rút tỉa và một khi không đáp ứng nguyện vọng là họ lại tìm kiếm nơi các thần ngoại bang. Thế nhưng, Thiên Chúa là Đấng tín trung với lời giao ước. Ngài chỉ giận, giận trong giây lát nhưng yêu thương, yêu thương trọn đời.
Hôm nay, Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ một chọn lựa. Chọn gắn bó với Chúa hay chạy theo thói đời của thế gian "hạnh phúc thì xum vầy, gian nan thì bỏ chạy". Chúa đòi các môn đệ không lấp lửng, lập lờ "làm tôi hai chủ", mà phải tỏ rõ lập trường. Bỏ đi hay ở lại. Chọn sự sống đời đời hay sự sống chóng qua đời này. Các môn đệ đã gắn bó với Chúa bao lâu nay nhưng liệu rằng bằng đó thời gian có đủ để niềm tin các ông trưởng thành và có thể nhận ra Thầy là Chúa, là Đấng ban sự sống hay chưa? Trước câu hỏi: "cả anh em, anh em cũng muốn bỏ Thầy đi sao?". Nhiều môn đệ đã bỏ đi. Và chắc chắn ngay trong số 12 vẫn còn có kẻ muốn bỏ đi. Số còn lại do dự, im lặng, chỉ có một mình Phêrô đã mạnh dạn thưa lên rằng: "bỏ Thầy chúng con biết theo ai? Vì chỉ có Thầy mới có lời ban lại sự sống đời đời". Thánh Phêrô đã ở lại với Thầy, vì ông tin vào Thầy mình là Đấng Thánh của Thiên Chúa. Ông ở lại với Thầy vì chỉ có Thầy mới mang lại sự sống đời đời.
Người xưa thường nói: "Qua gian nan mới biết ai là bạn, là thù". Chúa Giêsu biết rõ một trong nhóm sẽ nộp mình. Ngài cũng Phêrô sẽ ba lần chối Thầy và đa số sẽ bỏ Thầy cho người ta hành hạ và treo lên thập tự giá, nhưng Ngài vẫn yêu thương. Ngài vẫn tìm mọi cách cho các môn đệ ở lại mãi trong tình yêu của Ngài. Tình yêu của Thiên Chúa đời đời vẫn thế. Tựa như tình yêu của cha của mẹ sẽ không bao giờ bỏ rơi con cái. Tình yêu của Thiên Chúa vẫn mãi mãi trung thành với tình yêu ban đầu. Ngài vẫn hằng tha thiết mời gọi con người hãy ở lại trong tình yêu của Ngài. Dù rằng đó là đứa ngỗ nghịch, dù rằng đó là đứa thường phạm sai lầm, đôi khi còn bất hiếu bất trung. Ngài vẫn yêu thương và yêu thương cho đến cùng.
Ngày hôm nay, Thiên Chúa vẫn hỏi chúng ta "phần các con có muốn bỏ Thầy không?". Chúng ta có dám ở lại với Thầy khi mà nhiều người đã không còn tin có thế giới thần linh? Chúng ta có dám gắn bó với Người khi mà cả khối đông nhân loại đang bỏ đi để chạy theo ma lực của đồng tiền và địa vị? Có lẽ phần nhiều chúng ta do dự, phần nhiều chúng ta im lặng. Vì biết bao lần chúng ta cũng bị cám dỗ bỏ đạo để được tiến thân trên đài cao danh vọng. Vì biết bao lần đồng tiền đã làm mờ con mắt, khiến chúng ta chao đảo đức tin, muốn buông xuôi theo thói gian dối của thế gian để tìm mối lợi cho bản thân của mình. Có thể chúng ta đang đóng vai trò một Giuđa vẫn ở xen lẫn với nhóm 12 nhưng chỉ chờ cơ hội để bán đứng Thầy và bán đứng anh em.
Nguyện xin Thiên Chúa tình yêu tha thứ những yếu đuối, nhỏ nhen đầy ích kỷ của chúng con. Xin Mình Máu Thánh Ngài nâng đỡ chúng con thoát khỏi những cám dỗ trần thế để mãi mãi con có thể nói như thánh Phêrô ngày nào: "Bỏ Ngài chúng con biết đến với ai. Thầy mới có Lời ban sự sống đời đời". Amen.
14. Bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai?
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Ga 6: 60-69: Thánh Phêrô đã thay mặt cho cả Nhóm nói lên thái độ của họ: ”Lạy Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa “...
Bốn bài giảng liên tiếp về Bánh Hằng Sống của Đức Giêsu đã tạo ra nhiều phản ứng nơi những cử tọa Do Thái.
- Khi Chúa Giêsu tiết lộ cho họ biết Ngài có Bánh hằng sống, ăn vào sẽ không đói khát nữa, họ bèn xin Ngài cho họ thứ bánh đó.
- Tiến thêm một bước, Ngài cho họ biết Bánh đó chính là Ngài từ trời xuống, họ có phản ứng chống lại ngay vì họ cho rằng Ngài chỉ là con ông Giuse, một bác thợ mộc ở Nazareth, làm sao lại có chuyện đó được?
- Rồi trước lời tuyên bố của Đức Giêsu:”Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống” thì không những đám dân chúng mà nhiều người trong số các môn đệ đã phản ứng như những người Do Thái: ”Lời này chướng tai quá ! Ai mà nghe nổi”(Ga 6,60)?
Cho nên nhiều môn đệ, tuy được sống gần Ngài một thời gian, cũng rút lui, từ giã Chúa như Phúc Âm đã ghi lại: ”Từ bấy giờ, có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Chúa Giêsu nữa”(Ga 6,66).
Họ đã theo Ngài một thời gian, đã tin, đã trở thành môn đệ, nhưng họ không thể đi tới cùng, vì lời nói của Ngài: ”Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống”.
Đứng trước sự tan rã bi đát đó, Chúa Giêsu quay về Nhóm Mười Hai, những người được coi là thân tín nhất, Ngài nói: ”Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ đi không”?
Thánh Phêrô đã thay mặt cho cả Nhóm nói lên thái độ của họ: ”Lạy Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa “ (Ga 6 , 70).
Đây là cách Gioan nhắc lại lời của Phêrô tại Xêdarê Philipphê (Mc 8,27; Mt 16,13; Lc 9,18). Chính trong một hoàn cảnh như thế, người ta đã thấy lòng trung thành của Phêrô. Đối với Phêrô, có một điều thật đơn giản là chẳng còn có ai đáng cho ông đi theo hơn là Chúa Giêsu. Với ông, chỉ có Ngài mới có lời đem lại sự sống đời đời.
Lòng trung thành của Phêrô căn cứ trên mối liên hệ cá nhân với Chúa Giêsu Kitô. Có nhiều điều Phêrô không hiểu, ông cũng bối rối, lạc lõng như bất cứ ai khác. Nhưng nơi Chúa Giêsu có một cái gì khiến ông sẵn sàng hy sinh tính mạng.
Lạy Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai?
Cha Thành Tâm đã suy diễn câu nói bất hủ của thánh Phêrô thành một bài thánh ca:
“Bỏ Ngài con biết theo ai” với những lời lẽ như sau:
- Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cách chim bơ vơ trong khung trời lộng gió.
- Bỏ Ngài con sẽ theo ai, đời lộng gió cánh chim ngàn khơi.
- Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một con thuyền lao đao trên biển cả mênh mông.
- Bỏ Ngài con biết theo ai, thuyền buông lái biết trôi về đâu?
- Bỏ Ngài con biết theo ai, trên đời kia tương lai khuất mờ.
- Và bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cuộc hành trình cô đơn, buồn bã.
Quả thực, không có Chúa, cuộc đời chúng ta sẽ như một con thuyền lênh đênh trên biển cả. Không có Chúa, cuộc đời chúng ta sẽ cô đơn buồn chán.
Trong lúc cô đơn buồn chán, chúng ta thường chạy đến với người này người nọ, nhưng cũng chẳng giải quyết được gì để rồi cuối cùng đưa chúng ta đến thất vọng. Thất vọng lại càng làm cho chúng ta cô đơn buồn chán hơn.
Chắc chắn chúng ta chúng ta cứ phải loay hoay mãi trong cô đơn, buồn chán và thất vọng
bao lâu chúng ta chưa chạy đến với Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thánh Thể.
Nhưng đến với Ngài bằng cách nào đây?
Nói tới đây tôi xin chia sẻ một kinh nghiệm trong đời sống thiêng liêng: Khi còn ở tiểu chủng viện, trong kỳ hè, được cha linh hướng nhắc nhở. Mỗi ngày phải chầu Thánh Thể ít nhất 30 phút.
Quả thực ban đầu khi bước vào nhà thờ là ngó đồng hồ ngay. 30 phút sao mà nó lâu thế. Rồi cứ thế, kỳ hè qua đi, rồi lại một kỳ hè nữa lại tới.
Cứ cố gắng tập dợt, để rồi tới một ngày nào đó nó đã trở thành những giây phút cần thiết cho cuộc sống. Có lần tự nhiên trước khi đi ngủ sực nhớ lại hình như mình còn quên một điều gì đó, thì ra chính là chưa dành 30 phút trước Chúa Giêsu Thánh Thể.
Nhờ những giây phút như thế tâm hồn tôi luôn được nâng đỡ, ủi an để vượt qua được những quãng đời gian khổ trong cuộc sống.
Ước gì trong cuộc sống, chúng ta luôn lập lại lời của thánh Phêrô:
”Lạy Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai?
Vì Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Amen.
15. Lòng trung thành
(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
Mỗi lần tham dự Thánh lễ hôn phối, ta được nghe từng lời của chú rể: Anh... nhận em... làm vợ và hứa sẽ giữ lòng trung thành với em, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như khi mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng em suốt đời anh. Đáp lại, cô dâu cũng nói lên lòng trung thành với chồng của cô.
Lòng trung thành dường như là điều cần thiết cho cuộc sống chung. Trong mọi tương quan, trong mọi bậc sống đều cần lòng trung thành, sự chung thủy với nhau. Bạn bè chơi với nhau cần trung thành để không phản bội nhau. Vợ chồng cần trung thành để không có lỗi với nhau. Thầy trò cần lòng trung thành để gắn bó mật thiết với nhau... Và như vậy, chúng ta thấy lòng chung thủy, sự trung thành luôn là điều mà mọi người chúng ta phải gìn giữ trong mọi mối tương quan với nhau.
Nhưng xem ra xã hội chạy theo lợi nhuận đã khiến con người khó giữ lời hứa trung thành. Vì lợi nhuận có người đã thay đổi công ty mỗi năm vài lần, cho dù đó là những ông chủ đã từng cưu mang họ lúc khó khăn. Bạn bè chơi với nhau ngày hôm nay cũng thế! Rất khó kiếm được bạn tri kỷ như thế hệ cha anh. Họ chơi với nhau nhưng dễ dàng đạp đổ nhau vì cái lợi cá nhân, vì công danh của họ. Ngày hôm nay càng khó kiếm những đứa học trò về thăm thầy cô sau khi công thành danh toại, đôi khi còn phản thầy, phản bạn và vu khống nhau...
Điều báo động là lòng trung thành, sự chung thủy trong hôn nhân hôm nay cũng đang bị phá hủy một cách đáng báo động. Ở những thành phố lớn như Sài Gòn người ta tính cứ 3 đôi kết hôn thì 1 đôi không trung thành với nhau trọn đời. Và theo thống kê tại nơi thử máu AND để xác định cha con ruột với nhau thì cứ 10 trường hợp thì có 3 trường hợp nuôi con hàng xóm...
Quả thực, lòng trung thành nói thì dễ nhưng giữ lại chẳng dễ chút nào. Ngay trong tôn giáo có mấy người thực sự giữ lòng trung thành với Thiên Chúa? Ở Việt Nam vào thập niên 1980-1990 của thế kỷ trước rất nhiều người đã ghi vào lý lịch bản thân là không tôn giáo để tìm kiếm công danh cho dễ. Ở đâu đó ta vẫn thấy người Công Giáo nhưng không trung thành giữ luật Chúa, họ vẫn tham ô, lừa gạt, sống thiếu yêu thương...
Lời Chúa hôm nay, ta cũng nghe lời hết sức tình cảm từ môi miệng của Simon Phêrô: "Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời ". Nhưng Phê-rô thực sự đã không giữ lời hứa. Ông đã ngã đi ngã lại tới 3 lần và cuối cùng bỏ chạy biệt tăm trên đường thập giá mà Chúa phải đi một mình!
Cuộc đời mỗi người chúng ta dường như cũng có nét gì đó giống Simon Phêrô xưa. Nói yêu Chúa thì dễ nhưng khi phải làm chứng thì lại chạy xa. Đi lễ thì đông nhưng giữ trọn luật Chúa còn mấy ai? Ngày nay không còn có những cuộc bách hại đạo tàn khốc nhưng cuộc cạnh tranh cơm áo gạo tiền đã khiến bao người đánh mất lòng trung thành với Thiên Chúa. Và lòng trung thành với nhau của vợ chồng, của bạn bè , của đối tác làm ăn càng khó giữ vì lợi nhuận mà người ta dễ dàng phản bội nhau.
Chúa Giêsu hôm nay nói với các môn đệ và cũng là chúng ta muốn trung thành với Chúa và với nhau không thể dựa vào bản thân mà hãy dựa vào chính Chúa. Chính ơn ban của Chúa Cha mới giúp chúng ta sống trung thành với lời hứa. Thế nên, chúng ta cần khiêm tốn nhìn nhận sự yếu đuối của mình để trông cậy với ơn Chúa. Hãy gia tăng cầu nguyện, hãy phó thác vào Chúa để Ngài nâng đỡ sự yếu đuối của chúng ta và hoàn thiện chúng ta nên tốt hơn.
Xin ơn Chúa giúp chúng ta giữ lòng trung thành với Chúa và với nhau. Nhất là luôn nhận ra Chúa mới là nguồn sống trường sinh để biết chọn Chúa hơn là của cải trần gian mau qua. Amen.
16. Trung thành hay phản bội
(Suy niệm của Lm. GB. Văn Hào SDB)
Người ta vẫn thường nói, trên đời này không có gì ghê tởm và đáng cho chúng ta khinh bỉ cho bằng sự phản bội. Trò phản thầy. Con cái phản bội công ơn cha mẹ, nhất là vợ chồng phản bội nhau trong nghĩa tình phu thê,.. tất cả đều đáng bị nguyền rủa và coi khinh. Tuy nhiên, trong đời sống đức tin, đặc biệt trong ơn gọi thánh hiến, chúng ta cũng có nguy cơ dễ rơi vào sự bội phản này. Lời tuyên tín của thánh Phêrô trong trình thuật tin mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta phải luôn canh tân lòng trung thành và bền bỉ theo Chúa Giêsu từng ngày: “ Bỏ Thầy chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.” (Ga 6,68)
Nghịch lý của Lời
Sau khi Đức Giêsu tuyên bố: “ Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì được sống muôn đời”, nhiều môn đệ dị ứng và ngán ngẩm bỏ đi. Có lẽ họ đã theo Chúa một thời gian khá lâu với những động cơ khác nhau, nhưng cuối cùng hầu hết đã thoái lui và đầu hàng vô điều kiện. “Lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi”(c.60). Họ bỏ của chạy lấy người, vì không thể chấp nhận nghịch lý theo suy luận tự nhiên nơi đầu óc của họ. Lời Đức Giêsu tuyên bố làm sụp đổ hoàn toàn những toan tính trần thế mà họ vẫn đeo bám khi đến với Đức Giêsu. Quả thật, Đức Giêsu vẫn luôn là một mầu nhiệm ẩn kín và khó hiểu. Mầu nhiệm về Ngài và những lời Ngài nói luôn hàm ngậm một nghịch lý, và cao điểm của nghịch lý này là cái chết trên Thập giá. Một con người mà họ mơ tưởng sẽ trở thành thủ lãnh chính trị, khai lập một vương quốc mới đầy oai phong, lại bị kết án như một tên tội phạm, và bị treo thân cách nhục nhã giống hệt một tên cướp đáng sợ. Một số môn đệ bỏ đi cũng dễ hiểu. Lời Đức Giêsu nói ra nghe thật chói tai và nhức nhối. Giả như chúng ta ở vào hoàn cảnh đó, có lẽ chúng ta cũng sẽ hành xử giống như họ. Khi tuyên bố như thế, ông Giêsu đúng là một con người điên điên khùng khùng chẳng giống ai. Ngay cả các thân nhân đồng hương với Chúa cũng đã có lần phải lắc đầu và ngao ngán thốt lên “Ông ấy đã mất trí rồi” ( Mc 3,21).
Nhưng nếu tìm hiểu căn nguyên một cách sâu xa hơn, một số môn đệ bỏ đi, bởi vì họ đã chưa thực sự cắm sâu vào mầu nhiệm Đức Giêsu. Họ chỉ nghe Chúa nói bên ngoài, nhưng bên trong, tâm hồn họ vẫn hoàn toàn đóng khép. Con tim họ chưa mở toang ra để lời Chúa có thể thẩm thấu vào sâu tận nơi con người họ. Thánh Biển Đức cũng dạy các con cái Ngài: “ Chúng con phải siêng năng lắng nghe lời Chúa, nhưng không phải nghe với đôi tai của thân xác mà với đôi tai của cõi lòng”.
Tự bản chất, Đức Giêsu chính là Lời hằng sống được hiến trao cho nhân loại. “ Lời đã trở nên xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Lời Thiên Chúa không phải là một hệ thống những triết ngôn, hay những tư tưởng khuyến thiện để răn đời. Lời Chúa ở trên một mức độ khác cao cả hơn rất nhiều, bởi vì Lời Chúa và duy nhất chỉ có Lời của Thiên Chúa mới đem lại sự sống đời đời cho chúng ta. Đây là lời tuyên tín của Thánh Phêrô, được khởi hứng bởi Thần khí, đồng thời cũng là một mặc khải sâu xa Thiên Chúa ngỏ trao. Những kiến thức khoa học, chúng ta có thể nghiên cứu để sở đắc. Những chân lý triết học, chúng ta có thể dùng lý luận để suy tư. Nhưng lời Chúa không phải là một mớ kiến thức để nhồi nhét, nhằm thỏa mãn sự tò mò nơi đầu óc con người. Muốn đón nhận lời của Chúa để được sống luôn mãi, thái độ căn bản cần phải có chính là “tin” vào Ngài. Trong diễn từ về bánh nơi chương 6 trong Tin mừng Gioan, Đức Giêsu nói khá nhiều về thái độ căn bản này: “Ai tin vào tôi sẽ được sống muôn đời”. Lời khuyến mời của Đức Giêsu cũng tương thích với lời tuyên tín của thánh Phêrô. “ Chỉ Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”. Ăn thịt và uống máu Chúa, cũng như mở lòng đón nhận nhận Lời của Thiên Chúa sẽ được trường sinh. Đây là hai cách thái giống hệt nhau biểu tỏ một thực tại duy nhất: Tin vào Đức Giêsu.
Canh tân lòng trung thành
Lời của Chúa là nghịch lý luôn hàm ngậm mầu nhiệm tự hủy. Thánh giáo phụ Grêgoriô thành Nysse đã quảng diễn nghịch lý đức tin này khi Ngài viết: “Hành trình đức tin của chúng ta đến với Chúa giống như chúng ta đang dấn bước tìm đến một khoảng tối đầy ánh sáng”. Ánh sáng và bóng tối, sự sống và sự chết, ân sủng và tội lỗi.... là những cặp phàm trù tương phản và đối kháng nhau ẩn chứa nơi nghịch lý của Lời, cũng như trong nghịch lý của mầu nhiệm Đức Giêsu. Trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta phải liều lĩnh dấn bước vào bóng tối để tiến đến ánh sáng, phải chấp nhận đi qua Thập giá và cái chết để tiến nhận sự sống và vinh quang. Đối diện trước nghịch lý này, chúng ta sẽ phải chạm mặt với những cám dỗ muốn thoái lui và không muốn chấp nhận điều nghịch thường đó.Vì thế, chúng ta cần phải canh tân lòng trung thành mỗi ngày. Đức tin không phải chỉ đón nhận một lần là xong. Thánh Phaolô cũng đã căn dặn giáo đoàn Rôma: “ Những người có đức tin vững mạnh phải nâng đỡ những người yếu đuối không có niềm tin vững mạnh” (Rm 15,1).
Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng đã từng cảnh báo chúng ta về ba nguy cơ gây xói mòn đức tin và làm suy giảm căn tính đích thực nơi mọi Kitô hữu, đó là sống theo chủ nghĩa duy vật (materialism), sống theo chủ nghĩa hưởng thụ (consumerism) và sống theo chủ nghĩa tục hóa (secularism). Là môn đệ Đức Giêsu, chúng ta phải đặt Thiên Chúa vào chỗ tối thượng (in primacy). Điều này ai cũng biết trên lý thuyết, nhưng trong thực tế, chúng ta lại hay sống theo kiểu khác. Khi chúng ta thượng tôn tiền bạc, đặt tiền bạc làm thước đo mọi giá trị theo kiểu sống duy vật, thì đó chính là một sự phản bội. Khi chúng ta chủ trương sống an nhàn với những tiện nghi vật chất để thỏa mãn nhu cầu thể xác theo kiểu sống hưởng thụ, đó cũng là một sự phản bội. Đặc biệt, khi chúng ta mất dần cảm thức linh thánh, không còn thiết tha đến việc cầu nguyện và rơi vào nếp sống tục hóa, thì chắc chắn đó cũng chính là con đường phản bội mà chúng ta đang từ từ đi vào. Chúng ta phải can đảm đạp đổ những “con bò vàng” giống như con bò vàng của những người Do thái năm xưa trong sa mạc Sinai, để từng giờ từng phút, chúng ta luôn lặp lại quyết tâm sống trung thành.
Nguy cơ phản bội
Một đứa bé 12 tuổi ngồi tham dự phiên tòa xét xử vụ án ly dị của bố mẹ, đã viết lại những dòng tâm sự đầy nước mắt sau đây:
“Con nhớ mãi buổi chiều thu ấy, lá rơi nhiều. Bên ngoài trời mưa tầm tã. Bố đến hôn con, một nụ hôn cay đắng và nghiệt ngã. Tâm hồn con tan nát và chết lặng.
Bố ơi, sao bố dùng cái hôn ấy để xé nát gia đình chúng ta. Sao bố dùng nụ hôn giả dối ấy để trao cho con thay vì hôn trên đôi môi của mẹ. Chữ ký ngày xưa trên bàn thờ Chúa ngày bố mẹ thành hôn nay trở thành những nét chữ không hồn.
Mẹ ơi, sao mẹ không đến nhận nụ hôn thay cho con, nụ hôn ngày xưa mẹ đã hạnh phúc lãnh nhận trước bàn thờ Chúa. Sao mẹ vẫn lạnh lùng đứng đó như một kẻ xa lạ nhìn bố hôn con, một nụ hôn như mũi dao nhọn đâm nát trái tim bé bỏng nơi con.
Bố ơi, mẹ ơi, con phải trung thành với ai đây khi con sẽ đứng nhìn những nụ hôn bố trao cho mẹ ghẻ, mẹ sẽ trao cho một người đàn ông khác hoàn toàn xa lạ.
Chúa ơi, con còn quá nhỏ bé, sao Chúa để con phải nhận những nụ hôn Giuđa này?”
Đúng vậy, trên đời này không có gì đáng chúng ta ghê tởm cho bằng sự phản bội.
Nhưng, những nụ hôn Giuđa hình như vẫn đang được lặp lại trong cuộc sống mỗi người chúng ta, qua nhiều dạng thức khác nhau, đặc biệt trong đời sống đức tin, nhất là trong đời sống thánh hiến.
Kết luận
Cha Matthêu King, một linh mục dòng Salêdiêng DonBosco đã qua đời cách đây hơn 7 năm. Ngài được Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II mời sang Rôma để làm cố vấn đặc biệt cho giáo triều về những vấn đề của Trung quốc. Trong những năm tháng cuối đời nằm trên giường bệnh quặn đau với căn bệnh ung thư, Ngài vẫn thường nói: “ Tôi luôn cám ơn Chúa về ba hồng ân Chúa đã ban cho tôi. Trước hết, tôi được biết Chúa và trở nên môn đệ Đức Giêsu ngày tôi lãnh nhận bí tích Thánh tẩy. Thứ đến, Chúa đã chọn tôi trong ơn gọi Salêdiêng và trở nên một linh mục phục vụ Giáo hội. Cuối cùng, Chúa đã gửi đến cho tôi căn bệnh đau đớn này để tôi được thông dự vào những khổ đau với Chúa Giêsu trên Thánh giá. Tôi luôn cảm tạ Chúa vì ba ân huệ quý giá này”. Ngài cũng luôn nói với những ai đến thăm Ngài: “Xin anh em cầu nguyện cho tôi, để tôi được mãi trung thành”.
Đức tin không phải chiếm được một lần là xong. Chúng ta còn phải chiến đấu mãi, phải luôn bươn chải mãi, để với ơn Chúa, chúng ta có thể trung thành đến cùng.
17. Bỏ Thầy, Con Sẽ Theo Ai?
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã ban cho loài người được tự do lựa chọn: hoặc chấp nhận hay khước từ ơn Chúa. Sau khi chu toàn sứ mệnh Môsê trao phó để đưa dân Chúa chọn vào miền đất hứa, ông Giôsuê đã triệu tập các vị đại diện dân chúng tại Si-khem để khẳng định lại niềm tin vào Chúa. Ông nói với họ rằng: Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Thiên Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ... Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Thiên Chúa (Gs 24:15). Dân Ít-ra-en cũng đã lựa chọn. Họ quyết định phụng thờ Thiên Chúa vì Người đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ bên Ai cập, đã làm những việc kỳ diệu và dẫn đưa họ vào miền đất hứa.
Tuy nhiên khi gặp khó khăn và thử thách trong sa mạc, họ lại bất trung, phản nghịch cùng Chúa. Và mỗi lần họ ăn năn sám hối thì Chúa lại giang tay đón nhận họ trở về với lòng bao dung tha thứ. Trong Phúc âm tuần trước, Đức Giêsu dạy họ về việc ăn bánh hằng sống là thịt và uống máu Người thì mới có sự sống muôn đời. Người Do thái liền tranh luận hỏi nhau: làm sao ông này có thể cho họ ăn thịt Người được (Ga 6:52)?
Lớp thính giả thứ hai trong Phúc âm hôm nay là các môn đệ khi nghe Đức Giêsu giảng dạy về việc ăn thịt và uống máu Người để được sống muôn đời, cũng lẩm bẩm cho rằng lời nói thật là chướng tai (Ga 6:60). Và theo Phúc âm thuật lại: Nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa (Ga 6:66). Từ ngữ môn đệ được hiểu là người theo Đức Giêsu và con số được ghi là bảy mươi hai môn đệ. Và khi có những môn đệ bỏ cuộc, Đức Giêsu không ngạc nhiên, cũng không buồn giận, và không thay đổi lập trường. Người không giải thích, cũng không rút lại lời giảng dạy để mong bắt được mẻ cá lớn là các môn đệ.
Đến lượt lớp thính giả thứ ba là các tông đồ thì Đức Giêsu còn thách đố các ông thêm nữa. Người đòi hỏi nơi các tông đồ một đức tin không dè dặt, không lưỡng lự. Đức Giêsu gần làm hoảng hồn các tông đồ, khi Người hỏi thêm các ông: Còn chúng con, chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi không (Ga 6:67)? Hoặc ở lại hay bỏ đi, một câu hỏi mà họ không thể nào tránh né được. Để trả lời câu hỏi, ông Phêrô tiến lên, đóng vai trò lãnh đạo, đáp lại: Thưa Thầy, nếu bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời (Ga 6:68). Ông muốn nói là không có ai khác để mà theo cả. Đức Giêsu đòi hỏi một quyết định nơi các tông đồ. Và Người đã nhận được lời cam kết của thánh Phêrô. Một lời cam kết đã làm tiêu tan những nghi ngờ của các tông đồ khác.
Cũng vậy, tất cả những người đã quyết định theo Chúa qua Bí tích Rửa tội và Thêm sức đều phải đương đầu với những thử thách về đức tin. Hằng ngày ta gặp nhiều cám dỗ để chối bỏ đức tin công giáo tông truyền. Ta gặp nhiều tiếng gọi dụ dỗ bảo ta điều gì phải tin, điều gì không cần tin, việc gì phải làm, việc gì không nên làm, điều gì cần phải được xét lại. Ta bị cám dỗ để giữ đạo theo xu hướng nhất thời, tuỳ theo hứng khởi: vui thì đi lễ thờ phượng, không thì ở nhà. Ta bị cám dỗ chỉ giữ đạo nếu Giáo hội thay đổi lập trường về một vài nguyên tắc luân lý nào đó, nếu Giáo hội chiều theo ước muốn của ta.
Ta bị cám dỗ chối bỏ đức tin vào sự hiện diện của Chúa trong Bí tích Thánh thể vì không hiểu sao bánh rượu sau khi linh mục đọc lời truyền phép vẫn giống bánh rượu trước khi truyền phép? Và đó chính là mầu nhiệm trong đạo mà loài người không thể dùng lí trí để giải thích và hiểu được. Nếu người ta có thể hiểu được mầu nhiệm trong đạo, thì cái được gọi là mầu nhiệm, không còn phải là mầu nhiệm nữa, mà chỉ là một triết thuyết hay một hệ thống khoa học. Vì thế mầu nhiệm vẫn mãi mãi là mầu nhiệm, nếu không thì đức tin không còn phải là đức tin nữa, mà chỉ là sự hiểu biết thôi. Tuy nhiên, nếu không hiểu, tại sao lại tin? Tin là chấp nhận dựa trên lời nói hay thế giá của người khác. Các tông đồ không hiểu, nhưng vẫn tin vì dựa trên lời nói của Thầy mình.
Khi cảm thấy khó chấp nhận về đường lối giáo huấn chính thức của Giáo hội, là phản ảnh của đường lối Phúc âm, về một vài vấn đề như tính dục, ly dị, phá thai..., đó là lúc mà câu hỏi Chúa đặt ra cho các tông đồ sẽ lại vọng lên bên tai ta: Còn con, con có muốn lìa bỏ Giáo hội mà Thầy đã thiết lập trên nền tảng các tông đồ không? Khi bất đồng ý kiến với Giáo hội về một số chính sách của Toà Thánh Vatican, đó là lúc mà một câu hỏi tương tự sẽ vọng lên bên tai ta: Còn con, con có muốn chấp nhận đường lối của Giáo hội mà Thầy thiết lập không? Khi thấy những gương xấu xẩy ra ngay trong hàng giáo sĩ, câu hỏi khác sẽ vọng lên: Còn con, con có muốn ở lại trong Giáo hội để cầu nguyện và xây dựng Giáo hội của Thầy không?
Khi phải đối chất với những lời giảng dậy chướng tai (Ga 6:60) trong đạo, hoặc giáo lí khó khăn của đạo thì người theo đạo nửa mùa, hoặc mạo nhận theo đạo, toan cắt nghĩa sao cho phiên phiến đi, để cho trở nên dễ dãi, hoặc thay đổi lẽ đạo sao cho phù hợp với ước muốn và quan niệm của họ cũng như của quần chúng. Thính giả trong Phúc âm hôm nay hiểu rõ lời Đức Giêsu giảng dạy, hiểu ý Người muốn nói gì nên mới cho là chướng tai đấy. Vậy mà Chúa cũng không cải chính về sự chướng tai đó đâu. Họ hiểu Chúa không nói đến việc ăn thịt và uống máu theo nghĩa tượng trưng thôi đâu. Khi cảm thấy Chúa mà mình tôn thờ, sao mà khó thế nếu so sánh với những chúa và thần của những đạo khác, đó là lúc mà câu hỏi giả sử của ông Giôsuê cũng vọng bên tai ta: Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Thiên Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ (Js 24:15).
Phúc thay cho những gia đình, cộng đoàn giáo xứ và trong Giáo hội mà có được những người nói được những lời bất hủ để bầy tỏ đức tin quả quyết như Thánh Phêrô và ông Giôsuê hầu giúp củng cố đức tin của người khác trong gia đình, trong cộng đoàn giáo xứ và trong cả Giáo hội.
Lời cầu nguyện xin cho được giữ vững niềm tin vào Bí tích Thánh Thể:
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể.
Con xin cảm tạ Chúa đã lập Phép Thánh Thể
để làm của ăn uống thiêng liêng cho loài người.
Xin Chúa làm no thoả những đói khát của con
khi con lãnh nhận Mình Thánh Chúa
Và xin cho con giữ vững lời Chúa.
Đừng để con nghe theo lời quyến rũ rỉ tai
mà chối bỏ đức tin và xa lìa Chúa. Amen.
18. Lạy Thầy, chỉ Thầy mới có Lời Hằng Sống - ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Lịch sử ca tụng Hội nghị Diên Hồng thời vua Trần nhân Tông. Vua đặt ra trước mắt toàn thể bô lão, khanh tướng và dân chúng một sự lựa chọn quyết liệt: Nên hòa hay chiến? Toàn dân hô: Chiến, chiến, chiến. Nhờ đó đã tạo được một sự đoàn kết có một sức mạnh phi thường, đã đánh bại quân Mông Cổ hùng mạnh đã từng bách chiến bách thắng chiếm cả Châu Á và một nửa Châu Âu, thống trị nước Tầu vĩ đại, còn muốn xơi ngon nước Việt nhỏ bé.
Cách đây gần ba ngàn năm, Giosuê đã bảo toàn dân phải dứt khoát chọn lựa: Hôm nay các ngươi hãy chọn hoặc thờ các thần, hoặc thờ Thiên Chúa. Còn tôi và gia đình, chúng tôi chọn thờ Thiên Chúa. Toàn dân thưa: Không đời nào chúng tôi bỏ Thiên Chúa mà đi thờ các thần khác. Vì Thiên Chúa chúng tôi, chính Người đã đưa chúng tôi và cha ông chúng tôi khỏi nô lệ Ai cập, chính Người đã thực hiện trước mắt chúng tôi những dấu lạ vĩ đại, gìn giữ chúng tôi trên khắp nẻo đường.
Vinh phúc cho dân Do thái thời Giosuê và cho dân Việt thời vua Trần nhân Tông đã biết chọn lựa đúng, nên đã cứu cả dân tộc thoát khỏi nô lệ và khỏi chết nhục nhã.
Đức Giêsu từ trời xuống thế, đã ban phát một của ăn nuôi sống đời đời. Phúc cho ai biết chọn lấy lương thực trường sinh ấy, họ sẽ được sống vinh phúc đời đời.
Để người ta chọn đúng, Đức Giêsu đã phân biệt cho họ biết đâu là của ăn hư nát, đâu là của ăn hằng sống. Người Do thái chỉ biết có hai loại của ăn: một là loại của ăn hằng ngày, hai là loại của ăn lạ thường. Của ăn thường ngày là do hoa mầu ruộng đất và lao công loài người gieo trồng, chăm bón, chăn nuôi để nuôi sống thể xác. Để có của ăn này, con người phải đổ mồ hôi, sôi nước mắt, tận tâm, tận lực làm việc cực khổ hơn muôn loài mới có của ăn. Nhưng dù có ăn bao nhiêu vẫn còn đói. Họ rất sợ đói. Cái đói đã giết chết hàng triệu người trên thế giới này, mặc dầu Thiên Chúa quan phòng đã dựng nên một vũ trụ phong phú cho loài người. Nếu họ biết khai thác, phát triển và chia sẻ cho nhau, thì chắc chắn chẳng ai bị chết đói. Chiến tranh thế giới thứ hai, người ta đã đổ hàng triệu tấn lương thực xuống biển, trong khi đó có hàng triệu người chết đói. Ở Việt Nam cũng có gần triệu người miền Bắc chết đói, lúc đó ở miền Nam, Phát xít Nhật đốt cháy hàng ngàn tấn lúa gạo.
Của ăn lạ thường do Thiên Chúa làm phép lạ như man-na hay bánh hóa nhiều trong những trường hợp đặc biệt. Bánh man-na đã được Thiên Chúa ban cho tổ tiên Do thái xưa đã biết nghe lời Chúa, từ bỏ Ai Cập, vượt qua sa mạc, trở về Đất Hứa để tôn thờ Thiên Chúa. Đức Giêsu cũng ban bánh hóa ra nhiều cho cả chục ngàn người ăn, vì họ đã sẵn sàng chịu đói để kiên trì theo Chúa đến nơi hoang vắng nhiều ngày.
Người Do thái đã kêu xin Chúa ban cho họ hai thứ của ăn đó, để họ không còn đói, và khỏi phải khổ cực làm ăn. Nhưng Đức Giêsu đã giải thích cho họ thấy: Đó là của ăn hay hư nát. Họ ăn bao nhiêu vẫn còn đói và còn chết, như cha ông họ đã ăn man-na và đã chết.
Đức Giêsu muốn ban cho họ thứ của ăn hằng sống: Đó là lời hằng sống và bánh hằng sống. Lời hằng sống là những giới răn giáo dục con người yêu mến Thiên Chúa, yêu thương nhau và xây dựng đời sống con người tồn tại vĩnh cửu như xây nhà trên đá. Muốn nên người, con cái cần cha mẹ dạy dỗ như thế nào, thì muốn trở nên con Thiên Chúa hằng sống, con người rất cần lời Chúa dạy dỗ như vậy.
Lời hằng sống là hạnh phúc trường sinh khi con người thực hiện được tám mối phúc thật. Lời hằng sống mặc khải cho ta thấy những mầu nhiệm Nước Trời vinh quang, như tiệc cưới hoàng tử, thấy Nước Trời phát triển mạnh mẽ như hạt cải nhỏ bé mọc lên thành cây lớn cho muôn chim trời trú ẩn, thấy tình thương vô biên của Thiên Chúa như người cha hiền đón mừng đứa con phung phá, như mục tử nhân lành đi tìm chiên lạc, như người bạn thí mạng sống cho người mình yêu.
Lời hằng sống còn biểu lộ bằng hành động ban sự sống. Đức Giêsu chỉ phán một lời bão biển phải im lặng để cứu sống các môn đệ. Người chỉ phán một lời, hàng đoàn quỷ phải xuất ra khỏi con người và nhào xuống biển chết. Người chỉ phán một lời đem sự sống cho bao nhiêu bệnh nhân, tội nhân và kẻ chết.
Lời Người đã làm cho nước biến thành rượu, bánh hóa nhiều và nhất là bánh rượu trở nên Mình Máu Người để nuôi sống các linh hồn muôn thuở.
Tại sao lời Đức Giêsu có sức sống quyền năng vô cùng như thế? Người đã giải thích: “Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và Sự sống”. Lời Người bởi chính tim, óc, máu, thịt Người, bởi Ngôi Lời từ trời xuống. Lời hằng sống đó là tiếng hô hào vang dội dọn đường trực tiếp đón rước Người: “Kẻ ăn Tôi sẽ sống nhờ Tôi, cũng như Tôi sống nhờ Cha Tôi là Đấng Hằng Sống... Ai ăn Thịt Tôi và uống Máu Tôi thì được sống muôn đời … Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống”.
Dù Đức Giêsu đã thương yêu họ, ban cho họ lời hằng sống và Bánh hằng sống, để làm của nuôi sống họ đời đời, nhưng người Do thái chưa có kinh nghiệm gì về Lời Hằng Sống và Bánh Hằng Sống. Họ chỉ biết có hai thứ bánh là của ăn hằng ngày và bánh như man-na và bánh hóa nhiều. Cho nên, ngay từ đầu Đức Giêsu đòi họ phải tin vào Người: “Việc của Thiên Chúa muốn cho các ông làm là tin vào Đấng Ngài sai đến” (Ga. 6, 29). Vì thế bắt buộc con người phải lựa chọn, phải tỏ lập trường: tin theo Đức Giêsu hoặc không tin và bỏ đi.
“Cả anh em nữa, cũng muốn bỏ đi sao?”. Một câu hỏi dứt khoát quyết liệt, không phải thách đố, nhưng có mục đích làm sống lại sự cương quyết của bản thân mỗi người phải cam kết gắn bó với Đức Giêsu. Bởi bài giảng này mặc khải về phép Thánh Thể là một hồng ân đặc biệt của Đức Giêsu về bánh hằng sống: Bánh Thịt Máu Người từ trời xuống. Loài người không thể nào cứ sống theo lối sống vật chất hay hư nát, Đức Giêsu nhất quyết nâng con người lên tầm mức siêu việt theo lối sống con cái Thiên Chúa. Vì thế mỗi người phải tự quyết định lấy một là tin vào Đức Giêsu để được sống vinh phúc muôn đời, hai là bỏ đi sống theo lối xác thịt hư nát để phải chết đời đời.
Trước giờ phút long trọng cam kết và quyết liệt này nhiều người đã bỏ đi, Đức Giêsu nhìn sang nhóm mười hai hỏi: “Cả anh em nữa, cũng bỏ đi sao?”. Bầu khí thật ngột ngạt, nặng nề. Nhưng hạnh phúc thay cho Phêrô, ông đã đại diện cho anh em quả quyết đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đến với ai bây giờ? Thầy mới có lời hằng sống. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
Trước mỗi Thánh lễ, chúng ta cũng được nghe lời hằng sống của Chúa, lời đó cũng hỏi mỗi người chúng ta: Cả anh chị em nữa, cũng muốn bỏ đi hay sao? Nhiều người đã bỏ đi, không muốn đi dâng lễ. Một số người đã đến nghe lời Chúa, nhưng có tin và sống thực thi lời Chúa, hay cũng như dân Do thái thấy chướng tai rồi bỏ đi?
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết quyết tâm mau mắn đáp như thánh Phêrô, và bước lên cung thánh đón rước bánh hằng sống để chúng ta được sống muôn đời.
19. Bỏ Thầy con biết theo ai? – Thiên Phúc
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Trong cuốn Eucharistic Miracles của Carroll Cruz có viết một tích truyện về Bí tích Thánh Thể như sau:
Năm 700, tại tu viện Thánh Lougino ở Lanciano bên Italia, có một linh mục tên là Basilio hoài nghi về mầu nhiệm Chúa hiện diện trong hình bánh rượu. Chúa đã làm phép lạ cả thể còn được lưu niệm cho đến ngày nay, như một minh chứng vĩ đại về Phép Thánh Thể, được gọi là phép lạ Lanciano.
Vừa khi linh mục ấy truyền phép, bánh đã trở nên thịt và rượu đã trở nên máu. Thịt Máu Chúa đó còn được cô đọng đến ngày nay. Năm 1713 bửu Huyết Chúa đã được lưu giữ trong Hào Quang quí giá gọi là Hào Quang phép lạ Thánh Thể Lanciano. Năm 1971, cuộc khảo cứu khoa học đã cho biết Thịt đó là một thớ thịt từ trái tim, và Máu đỏ là máu của con người, thuộc nhóm máu AB (vết máu trên chiếc khăn liệm Turin cũng thuộc nhóm máu AB).
Ngày nay, Thịt và Máu Chúa hiện đang được lưu giữ trong nhà thờ thánh Phanxicô, là trung tâm hành hương nổi tiếng của cả thế giới.
****
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy các môn đệ cũng rơi vào kinh nghiệm khủng hoảng đức tin ấy. Khi Ðức Giêsu tuyên bố, Người sẽ hiến chính thịt máu mình cho họ ăn, thì lập tức nhiều môn đệ đã phản ứng lại: "Lời này chói tai quá, ai mà nghe được" (Ga.6,60). Thánh Gioan còn ghi lại: "Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa" (Ga.6,66). Họ đã theo Người một thời gian, đã tin và đã trở thành môn đệ. Nhưng họ không thể đi tới cùng.
Tận hiến cho Ðức Kitô không phải là sự lựa chọn một lần, đó là thách thức từng ngày. Trở nên một tín hữu Kitô không là bảo đảm sẽ trung tín đến cùng. Bước theo Ðức Giêsu là bước vào một cuộc mạo hiểm: mạo hiểm của tình yêu, mạo hiểm của lòng tin. Ðã có những môn đệ không tin và bỏ đi. Ngay trong nhóm ở lại, cũng có kẻ không theo được tới cùng.
Tạo sao nhóm thứ nhất bỏ đi, còn nhóm thứ hai lại trung kiên đến cùng? Tại sao nhóm thứ nhất thất bại, còn nhóm thứ hai lại thành công? Có thể nói "để khỏi bỏ cuộc, người ta cần phải bỏ mình". Ðể theo Ðức Giêsu, cần phải chú tâm đến Người hơn là bận tâm về chính mình. Thánh Phêrô đã làm được điều đó khi Ngài nói: "Bỏ Thầy chúng con biết theo ai?". (Ga.6,68)
Ðứng trước lời tuyên bố của Ðức Giêsu xem ra có vẻ "chói tai" thì Phêrô đại diện Nhóm Mười Hai vẫn không tỏ ra nao núng, vì ngài chỉ nhìn thẳng vào Ðức Giêsu.
Ðứng trước cuộc thử thách, ngài vẫn một niềm tin tưởng, vì ngài chỉ chú tâm vào Chúa: "Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa" (Ga.6,69).
Trái lại, nhóm thứ nhất sở dĩ bỏ cuộc, vì họ chỉ loay hoay bận tâm với những ý nghĩ của mình: "Sao ông này lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn?" (Ga.6,52).
Hôm nay vẫn có những câu Lời Chúa bất ngờ làm ta choáng váng, vẫn có những giây phút thử thách làm ta chao đảo, vẫn có những cơn cám dỗ làm ta bỏ cuộc. Hãy đưa mắt nhìn vào Chúa, hãy xác tín lại niềm tin vào Người như Thánh Phêrô đã làm:
****
Lạy Chúa, Chúa có lời ban sự sống đời đời. Chúng con tin... Người là Ðấng Thánh của Thiên Chúa. Amen.
20. Trung thành đi theo Chúa
(Suy niệm của Lm Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc)
Ga 6: 60-69: Chúa muốn chúng ta trung thành và chúng ta cũng muốn trung thành. Nhưng trung thành bước theo Chúa không phải là điều dễ dàng. Quả vậy, có những lúc ta cảm thấy mình quá yếu đuối, tầm thường,quá bé nhỏ mỏng manh trước sức tấn công của thử thách, của cám dỗ, của tiện nghi vật chất, tiền bạc, thú vui, sắc dục, danh vọng, quyền lực…
Cha Maurice Zundel đã kể một câu chuyện: Trong căn phòng chỉ còn lại hai người: linh mục phụ trách tu viện và viên sĩ quan Xô Viết. Viên sĩ quan nói: Hiện giờ chỉ có hai chúng ta. Ông và tôi, không một ai chứng kiến. Vậy ông hãy nói sự thật, đừng sợ gì cả. Hãy nói cho tôi biết là ông không tin vào tất cả những chuyện về Chúa, Mẹ, trong tôn giáo mà ông vẫn tuyên xưng phải không?
Linh mục đáp: Có, tôi tin chứ!
Viên sĩ quan rút súng ra dí vào đầu linh mục: Nếu ông không chịu nói là ông không tin gì cả, tôi sẽ nổ súng.
Tưởng chừng như trước cái chết, con người sẽ phải khuất phục mọi sự. Nhưng không, linh mục vẫn thanh thản trả lời: Tôi tin chứ!
Viên sĩ quan buông súng xuống, ôm chầm lấy người linh mục. Ông reo lên: Quả thật, đây là điều tôi trông đợi. Đây là người tôi tìm kiếm. Vâng, thưa cha, bây giờ thì tôi cũng thế: Tôi tin Chúa Giêsu.
Anh chị em thân mến,
Có lẽ vị linh mục trong tu viện đó đã từng xác định sự chọn lựa đi theo Chúa của mình, nên cha mới có được một phản ứng dứt khoát, kiên trung, điềm nhiên đến như thế. Lời Chúa hôm nay cũng mời gọi chúng ta xác định lại sự chọn lựa của chúng ta.
Bài đọc 1 đã cho ta thấy, bốn mươi năm về trước, dân Do Thái đã cam kết chọn Thiên Chúa trong Giao ước tại núi Sinai. Nhưng hôm nay họ đã đặt chân vào Đất Hứa, những năm tháng rong ruổi trong sa mạc đã qua, những ngày tháng đói khát thiếu thốn đã chấm dứt, và từ nay họ bắt đầu cuộc sống định cư, đất đai phì nhiêu, cuộc sống thoải mái. Trước hoàn cảnh mới này, niềm tin của họ có còn mạnh mẽ sốt sắng như xưa hay đã sớm bỏ quên Chúa để chạy theo các thần địa phương. Ông Giôsuê đã triệu tập đại hội ở Sikem để yêu cầu họ xác định lập trường. Và thật là cảm động, không phải chỉ có gia đình ông Giôsuê, mà cả toàn dân đã nói lên sự chọn lựa dứt khoát: "Không đời nào chúng tôi bỏ Đức Chúa mà đi thờ những thần khác".
Khi Chúa Giêsu làm phép lạ bánh hóa nhiều, dân chúng theo Chúa rất đông. Nhưng từ phép lạ ấy, Chúa dẫn họ đến lương thực hằng sống: "Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời". Nhưng họ cho rằng "lời này chói tai quá, ai mà nghe được". Nên từ lúc đó, có nhiều người rút lui không còn đi theo Chúa nữa. Bấy giờ Chúa đặt thẳng vấn đề với Nhóm Mười Hai: "Cả anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?" Nhưng Phêrô đã đại diện các tông đồ xác định sự chọn lựa của mình: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai bây giờ? Thầy mới có những lời ban phúc trường sinh".
Thưa anh chị em,
Sống trong một thế giới đổi thay không ngừng, con người dễ bị lôi kéo vào thái độ thay lòng đổi dạ. Ngày nay con người gặp nhiều thứ khủng hoảng, trong đó khủng hoảng về lòng trung thành là một vấn đề nghiêm trọng. Các hợp đồng kinh tế bị vi phạm, giao ước hôn nhân bị đổ vỡ, tình bạn bị phản bội. Ngay cả các kitô hữu nhiều lúc cũng bị cám dỗ bỏ Chúa hoặc không sống đúng ơn gọi của mình, nhất là khi đứng trước một biến cố hay một hoàn cảnh; một thử thách hay một cám dỗ; một nỗi buồn hay một niềm vui… Xã hội Việt Nam hôm nay đổi thay từng ngày, và sự đổi thay nhanh chóng ấy đang tác động mạnh trên đời sống đức tin của các kitô hữu. Ảnh hưởng tích cực có, mà tiêu cực cũng nhiều. Khá nhiều kitô hữu trước kia là những người đạo đức, nhưng nay không còn đứng vững trước sức tấn công của nền kinh tế thị trường, của tiền bạc, lạc thú, công việc kinh doanh. Có những người đang từ nghèo thành giàu mà quên Chúa. Và ngược lại, một số khác đang từ giàu thành nghèo cũng bỏ Chúa. Nhiều người không còn muốn bước theo Chúa vì không thể chấp nhận được những nổi ô nhục của thập giá trong đời mình. Cũng như những người không còn muốn trung thành với giáo huấn của Hội Thánh vì "lời này chói tai quá, ai mà nghe cho nổi?" Người môn đệ Chúa Kitô cần xác định lại để trung thành bước theo Chúa.
Từ lòng trung thành với Chúa sẽ dẫn đưa con người đến lòng trung thành với nhau, nhất là trong đời sống gia đình. Đời sống gia đình hôm nay cũng đang gặp khủng hoảng. Người ta cam kết thề hứa trung thành suốt đời, nhưng chỉ đi với nhau một đoạn đường ngắn để rồi sau đó chia tay nhau. Thánh Phaolô hôm nay mời gọi các bậc vợ chồng ngước nhìn lên mầu nhiệm Chúa Kitô yêu thương Hội Thánh để trung thành trong tình yêu hôn nhân.
Anh chị em thân mến,
Chúa muốn chúng ta trung thành và chúng ta cũng muốn trung thành. Nhưng trung thành bước theo Chúa không phải là điều dễ dàng. Quả vậy, có những lúc ta cảm thấy mình quá yếu đuối, tầm thường,quá bé nhỏ mỏng manh trước sức tấn công của thử thách, của cám dỗ, của tiện nghi vật chất, tiền bạc, thú vui, sắc dục, danh vọng, quyền lực… Chỉ có ơn Chúa mới có thể giúp ta trung thành đi theo Chúa: "Thần Khí mới làm cho sống, chứ huyết nhục chẳng có ích gì… Không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho". Thánh Phêrô đã nhìn lên Chúa, để tiếp tục chọn lựa đi theo Chúa: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đi theo ai bây giờ? Thầy mới có những lời ban phúc trường sinh". Quả thực, thánh Phêrô đã cảm nghiệm được Lời Chúa là ánh sáng, là niềm vui, là sự sống và Ngài đã an tâm tín nhiệm vào Chúa. Cũng thế, ở đại hội Sikem, dân Do Thái kiên quyết chọn Chúa vì đã nhận biết những việc kỳ diệu Chúa đã làm khi giải phóng họ khỏi ách nô lệ Ai Cập và đưa về Đất Hứa.
Mỗi người chúng ta hôm nay phải đích thân nói lên lời cam kết trong ơn gọi kitô hữu, ơn gọi hôn nhân hay ơn gọi dâng hiến. Chúng ta muốn chọn lựa một cách dứt khoát và vĩnh viễn, dù hôm nay ta chưa biết hết được những gì sẽ đến trong ngày mai. Sự chọn lựa ấy đòi ta tín trung. Và để tín trung trong ơn gọi, ta cần bắt đầu lại mỗi ngày, chỗi dậy mỗi ngày để "trung thành với tình yêu ban đầu" (Kh 2,4).
Chúa Giêsu Thánh Thể tự hiến trên bàn thờ và ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế chính là bằng chứng của tình yêu trung thành. Chúa là nguồn sự sống luôn tươi mới và là nguồn động lực để ta mãi mãi trung thành đi theo Chúa.
21. Mầu nhiệm Giêsu
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Đức Giêsu là một thực tại. Ngài hiện hữu như một sự kiện lịch sử. Ngài là người không dễ hiểu tuy dù người ta biết cha mẹ và dòng tộc Ngài. Ngài đã có những lời mà người đương thời không hiểu được, nhưng qua đó những người tin vào Ngài biết rằng Ngài có nguồn gốc thần linh: Ngài là Con Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa nhập thể.
I. Lời nói của Đức Giêsu khó hiểu
“Mình Ta là thật của ăn, máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, sẽ được sống đời đời”. Làm sao chấp nhận được câu nói này, khi người ta biết Ngài từ nhỏ đã sống ở Nadarét, khi người ta biết cha mẹ Ngài là Yuse và Maria! Ngài không được học hành gì, không có gì trổi trang hơn người khác khi sống tại Nadarét. Không thể chấp nhận được lời nói này của Ngài, đó là chuyện thường tình. Kể cả một số môn đệ, những người đã từng thán phục lời giảng của Ngài trước đó, cũng không thể chấp nhận lời này: “lời chi sống sượng thế, ai nghe cho nổi”. Họ đã bỏ đi, không muốn làm môn đệ của Ngài nữa.
Đức Giêsu nói với nhóm 12: cả các anh nữa, các anh có muốn bỏ đi không? Phêrô được một ơn riêng nên trả lời: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đi theo ai. Thầy có lời ban sự sống đời đời. Thầy là Đấng thánh của Thiên Chúa”. Để chấp nhận lời của Đức Giêsu về chính Ngài, con người phải có ơn đặc biệt từ trên, vì những gì Ngài nói vượt trên cái bình thường. Đức Giêsu cũng biết điều này: “Không ai đến được với Ta, trừ phi được Cha Ta ban ơn đó”. Ngài cũng biết những gì Ngài nói không phải chuyện “thuộc hạ giới”.
Những biểu lộ bên ngoài diễn tả điều gì sâu kín bên trong. Lời nói diễn tả nội tâm và bản tính mỗi người. Đức Giêsu không chỉ là một con người; qua lời Ngài, người ta nhận ra còn cái gì rất đặc biệt nơi Ngài. Làm sao lý giải những gì Đức Giêsu nói về chính Ngài, khi những lời này cho thấy như thể Ngài còn hơn là một con người? Chỉ một mình Thiên Chúa có quyền tha tội, thế mà Ngài lại nói: “Tội con đã được tha” (Mc.2, 7); Abraham là ông tổ của cả dân Do Thái, thế mà Đức Giêsu lại nói: “trước khi có Abraham, Ta là Ta” (Ga.8, 58); Thiên Chúa là Đấng vượt trên tất cả, thế mà có lúc Đức Giêsu lại nói: “Ta và Cha Ta là một” (Ga.10, 30). Nếu không phải là người mất trí, thì ắt hẳn còn một điều gì đó mà người ta chưa hiểu về con người Đức Giêsu.
II. Đức Giêsu là một sự kiện khó lý giải
Biến cố Đức Giêsu phục sinh, giúp những người thân thiết với Đức Giêsu, cụ thể là các tông đồ, hiểu hơn về Đức Giêsu. Nếu Ngài thuộc loại gian dối, phạm thượng, thì Thiên Chúa đâu có phục sinh Ngài. Nếu Ngài được phục sinh, ắt hẳn những gì Ngài nói về Ngài phải là sự thật. Vậy Đức Giêsu là ai? Tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa như thế nào? Đức Giêsu là một vấn đề cho con người thời đó, và cho cả con người thời nay nữa.
Với những người đơn thuần nghĩ Ngài là người phạm thượng, cái án tử hình dành cho Ngài thật là chính đáng. Nhưng biến cố phục sinh cho thấy cách nghĩ như vậy là không thỏa đáng và sai lầm. Vậy Ngài là ai? Các môn đệ thân tín, nhóm 12, có câu trả lời về người thầy thân yêu của họ. Ngài là tiên tri và còn hơn một tiên tri, Ngài là Đấng Kitô và còn hơn một Đấng Kitô, Ngài là con Thiên Chúa và còn hơn là con Thiên Chúa như những người công chính từng được gọi là con Thiên Chúa. Vậy Ngài là ai?
Tin Mừng Gioan diễn tả Ngài là Lời đã thành xác phàm (Ga.1, 14). Một số người diễn tả Ngài là con Thiên Chúa theo một nghĩa rất đặc biệt. Đức Giêsu cũng thắc mắc về điều người ta nói về Ngài: “người ta bảo Con Người là ai?” Đức Giêsu có vẻ hài lòng với câu trả lời của Phêrô: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Tuy nhiên, điều này cũng không rõ ràng lắm với con người ngày nay, vì có nhiều Đức Kitô, nghĩa là nhiều người được xức dầu, nhiều người là Đấng Thiên Sai, chẳng hạn Môsê, Đavít. Cũng có nhiều người được gọi là con Thiên Chúa, chẳng hạn các thiên thần, những người công chính, các vị vua. Công Đồng Chung Nicea sau này (năm 325) xác định, Ngài là con đồng bản tính với Thiên Chúa. Công Đồng Chung Chalcedoine xác định Ngài có hai bản tính: bản tính Thiên Chúa và bản tính con người, Ngài thực sự là người và thực sự là Thiên Chúa. Công Đồng Chung Epheso xác định Ngài là một ngôi vị Thiên Chúa trong hai bản tính. Dù thế nào chăng nữa, những tín điều về Đức Giêsu Kitô của Hội Thánh sau này, là để giúp các tín hữu hiểu đúng những mặc khải đã được tỏ lộ cho các tông đồ. Đức tin của Giáo Hội tựa trên nền tảng các tông đồ. Đức tin của các Kitô hữu, là đức tin tông truyền.
III. Mở lòng đón nhận sự kiện Giêsu Kitô
“Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời”. Không thể hiểu lời này, vì xưa nay chưa có lương thực nào cho con người sự sống vĩnh cửu. Vậy làm sao có thể chấp nhận lời nói này! Hơn nữa, con người Giêsu cũng mong manh như bao người, vậy Giêsu lấy gì để bảo đảm cho lời nói của Ngài là đáng tin, là sự thật?
Đức Giêsu là một sự kiện, một biến cố, và là một mầu nhiệm. Những từ ngữ và lý giải, là để hiểu đúng và hiểu hơn về Đức Giêsu Kitô. Người ta chưa hiểu hết về Ngài, người ta đang cố gắng hiểu và diễn tả về Ngài. Có thể, mỗi một diễn tả giúp con người hiểu hơn về mầu nhiệm Giêsu; và có thể, cũng che khuất Ngài dưới một khía cạnh nào đó. Một điều đáng mừng là ngày nay người ta vẫn còn đang truy tìm về Đức Giêsu Kitô, người ta đang cố gắng diễn tả về Đức Giêsu Kitô với hy vọng giúp con người ngày nay hiểu và chấp nhận Đức Giêsu Kitô hơn. Tất cả những điều này cho thấy, Thánh Thần Thiên Chúa vẫn đang hoạt động nơi con người ngày hôm nay một cách rất sống động.
Xin cho con người ngày nay biết mở lòng và đón nhận mầu nhiệm Giêsu Kitô, và xin cho mầu nhiệm Giêsu Kitô soi sáng mầu nhiệm con người, giúp con người sống an bình và hạnh phúc trên đường trần gian này.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có câu hỏi hoặc thao thức gì về Đức Giêsu?
2. Đức Giêsu có ảnh hưởng nhiều trên đời bạn không? Xin bạn cho biết điều đó.
22. Chọn lựa đi theo Chúa
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Ở đời có nhiều cuộc tan rồi hợp và hợp rồi tan: đến với nhau, sống với nhau, rồi bỏ nhau. Nhiều tín hữu cũng đối xử với Chúa như thế: theo Ngài rồi bỏ Ngài. Có lẽ chúng ta đây cũng nhiều lần bị cám dỗ bỏ Chúa.
Hôm nay chúng ta hãy suy nghĩ lại cuộc hành trình đi theo Chúa, và chúng ta tha thiết xin Chúa đừng để chúng ta bỏ Chúa bao giờ, bởi vì, như lời Thánh Phêrô tuyên xưng: "Bỏ Thầy con biết theo ai, vì Thầy có Lời ban sự sống"
II. Gợi ý sám hối
Nhiều lần chúng con đã bỏ Chúa để chạy theo lạc thú thế gian.
Nhiều lần chúng con đã bỏ Chúa vì không muốn vác Thánh giá Chúa trao.
Nhiều lần chúng con có ý muốn bỏ Chúa để tự do sống theo ý riêng của chúng con.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Gs 24,1-2a.15-17.18b)
Khi Môsê qua đời, Giôsuê tiếp tục sứ mạng dẫn dân Do thái về Ðất Hứa. Sau khi đã hoàn toàn chinh phục Ðất Hứa và chia phần cho các chi tộc, Giôsuê triệu tập tất cả 12 chi tộc tại Sikhem. Ông nhắc lại tất cả những điều mà Thiên Chúa đã làm cho họ, và kêu gọi họ hãy chọn lựa dứt khoát: Từ nay nếu họ chọn Chúa thì phải hoàn toàn trung thành với Ngài, từ bỏ mọi tà thần khác.
2. Ðáp ca (Tv 33)
Những lời ca tụng lòng nhân lành Chúa rất hợp với tâm tình của dân Israel sau khi họ đã được Thiên Chúa giải thoát khỏi bao nỗi gian nguy để cuối cùng được sống trong Ðất Hứa.
3. Tin Mừng (Ga 6,54a.60-69)
Kết quả của bài giảng về Thánh Thể:
Nhiều người cho là chói tai, bỏ đi, trong số đó có cả các môn đệ: "Từ hôm đó, có nhiều môn đệ rút lui không theo Ngài nữa".
Ðức Giêsu hỏi Nhóm 12. Phêrô thay mặt nhóm tuyên xưng "Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai. Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời"
4. Bài đọc II (Êp 5,21-32) (Chủ đề phụ)
Giáo huấn của Thánh Phaolô về đạo vợ chồng: (1) Vợ phải phục tùng chồng như Hội Thánh tùng phục Ðức Kitô; (2) Chồng phải yêu thương vợ như Ðức Kitô yêu thương Hội Thánh và như người ta yêu thương thân xác mình.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Sống là chọn lựa
Trong bài Tin mừng hôm nay, có một câu nói của Thánh Phêrô đã trở thành bất hủ. Phêrô đã thưa với Ðức Giêsu: "Thưa Thầy, Bỏ Thầy thì con biết theo ai, vì Thầy có Lời ban sự sống". Phêrô đã nói lên câu đó trong một tình thế dằng co: khi ấy người ta đi theo Ðức Giêsu rất đông vì Chúa đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho họ ăn no nê, họ đi theo Chúa để mong lại được cho ăn no như thế mãi. Nhưng rồi Ðức Giêsu đột ngột chuyển hướng: Ngài hứa ban cho họ một thứ bánh khác, đó là Thịt và Máu Ngài. Làm cho dân chúng như bị hổng chân: họ đang mong được ăn bánh phần xác, thì Ðức Giêsu lại hứa cho họ thứ bánh tinh thần. Thành ra nhiều người chán, bỏ Chúa mà đi, họ đã ra đi gần hết. Bấy giờ Chúa mới hỏi nhóm môn đệ thân cận của mình "Còn các con, các con có muốn bỏ Thầy mà đi nữa không?" Lập tức, Phêrô đã nói lên câu nói bất hủ trên. Ông nhất quyết không bỏ Thầy, ông hứa sẽ mãi mãi theo Thầy. Nghĩa là Phêrô đã làm một sự lựa chọn.
Cuộc đời là một chuỗi những sự lựa chọn. Có lẽ chỉ trừ việc sinh ra và cái chết là người ta không lựa chọn được (không ai tự do lựa chọn xem có muốn được sinh ra hay không; cũng không ai được tự do lựa chọn xem có muốn chết hay không, và chết kiểu nào, lúc nào), còn tất cả mọi việc khác thì người ta phải lựa chọn. Và chính những sự lựa chọn này sẽ định hướng và đánh giá cuộc đời của mình. Nghĩa là nếu chọn đúng, chọn khéo thì đời mình sẽ tốt, sẽ hạnh phúc; còn nếu chọn ẩu, chọn sai thì cuộc đời sẽ xấu, sẽ bất hạnh.
Ðời sống là như thế, sống là phải lựa chọn luôn. Chúa cũng muốn chúng ta luôn lựa chọn. Các bài đọc khác trong Thánh Lễ hôm nay cũng nói đến vấn đề lựa chọn: Bài trích sách Giôsuê thuật chuyện ông Giôsuê bảo dân phải lựa chọn một là thờ Chúa hai là thờ các thần tượng khác, chứ không được làm tôi hai chủ, không được bắt cá hai tay. Còn trong thư gởi tín hữu Êphêsô, Thánh Phaolô khuyên các đôi vợ chồng một khi đã chọn nhau làm bạn đời thì phải suốt đời trung thành với sự lựa chọn đó, nghĩa là phải thuỷ chung, phải tùng phục nhau, và phải hoà thuận với nhau.
Còn nếu nói theo từ ngữ phật giáo, thì chúng ta cũng phải luôn luôn lựa chọn một bên là tham sân si, và một bên là lý tưởng đạo đức của mình. Mỗi ngày chúng ta phải đứng trước biết bao sự lựa chọn như thế:
Một người đến đề nghị cho chúng ta một kiểu làm ăn gian lận, tiền sẽ có nhiều nhưng lại trái đức công bình: ta phải chọn hoặc là lòng tham hay là đức công bình.
Rồi một người hàng xóm làm một điều gì đó không vừa ý ta, ta phải lựa chọn hoặc là buông theo tính nóng của mình để chửi rủa người ta (Phật giáo gọi là cái Sân), hay là nhịn nhục tha thứ.
Và rất nhiều khi ta đứng trước những cơn cám dỗ, buông mình theo nó là buông theo cái Si, hay là phải biết tự chủ kềm chế mình.
Ai chọn lựa tham sân si là chọn sai, cuộc đời sẽ trở thành xấu. Còn ai chọn công bình, bác ái, tự chủ tức là chọn lấy cái tốt, chọn con đường Chúa đã vạch ra.
Nếu ta chọn Chúa thì sẽ ra sao? và nếu ta bỏ Chúa thì sẽ ra sao? Linh mục nhạc sĩ Thành tâm đã suy diễn câu nói bất hủ của Thánh Phêrô thành một bài thánh ca rất ý nghĩa như sau: "Bỏ Ngài con biết theo ai?
Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cánh chim bơ vơ trong khung trời lộng gió
"Bỏ Ngài con biết theo ai, đời lộng gió cánh chim ngàn khơi".
Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một con thuyền lao đao trên biển cả mênh mông.
"Bỏ Ngài con biết theo ai thuyền buông lái biết trôi về đâu?"
Bỏ Ngài thì đời con sẽ mờ mịt trước tương lai mơ hồ.
"Bỏ Ngài con biết theo ai, trên đời kia tương lai khuất mờ.
Và bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cuộc hành trình cô đơn, buồn bã.
"Bước đi không Ngài, đời con buồn tênh".
Còn nếu chọn Ngài, thì cuộc đời của chúng ta tuy cũng vẫn là một cuộc hành trình, cũng vẫn như cánh chim bay trong khung trời lộng gió, cũng như con thuyền giữa biển cả mênh mông, nhưng trong cuộc hành trình ấy, đã có Chúa đồng hành, cánh chim đã biết hướng mà bay, con thuyền đã có người lèo lái và như thế sẽ bảo đảm đi tới bến đò bình an.
Trên đây là một vài gợi ý về những sự lựa chọn trong cuộc đời.
Nhưng điều quan trọng là chính chúng ta phải biết lựa chọn như thế nào trước những hoàn cảnh riêng của cuộc đời mình. Cầu mong cho mỗi người chúng ta biết lựa chọn đúng và lựa chọn tốt.
* 2. Bỏ Thầy con biết theo ai?
Trong cuốn Eucharistic Miracles của Carroll Cruz có viết một tích truyện về Bí tích Thánh Thể như sau:
Năm 700, tại tu viện Thánh Lougino ở Lanciano bên Italia, có một linh mục tên là Basilio hoài nghi về mầu nhiệm Chúa hiện diện trong hình bánh rượu. Chúa đã làm phép lạ cả thể còn được lưu niệm cho đến ngày nay, như một minh chứng vĩ đại về Phép Thánh Thể, được gọi là phép lạ Lanciano.
Vừa khi linh mục ấy truyền phép, bánh đã trở nên thịt và rượu đã trở nên máu. Thịt Máu Chúa đó còn được cô đọng đến ngày nay. Năm 1713 bửu Huyết Chúa đã được lưu giữ trong Hào Quang quí giá gọi là Hào Quang phép lạ Thánh Thể Lanciano. Năm 1971, cuộc khảo cứu khoa học đã cho biết Thịt đó là một thớ thịt từ trái tim, và Máu đỏ là máu của con người, thuộc nhóm máu AB (vết máu trên chiếc khăn liệm Turin cũng thuộc nhóm máu AB).
Ngày nay, Thịt và Máu Chúa hiện đang được lưu giữ trong nhà thờ thánh Phanxicô, là trung tâm hành hương nổi tiếng của cả thế giới.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy các môn đệ cũng rơi vào kinh nghiệm khủng hoảng đức tin ấy. Khi Ðức Giêsu tuyên bố, Người sẽ hiến chính thịt máu mình cho họ ăn, thì lập tức nhiều môn đệ đã phản ứng lại: "Lời này chói tai quá, ai mà nghe được" (Ga.6,60). Thánh Gioan còn ghi lại: "Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa" (Ga.6,66). Họ đã theo Người một thời gian, đã tin và đã trở thành môn đệ. Nhưng họ không thể đi tới cùng.
Tận hiến cho Ðức Kitô không phải là sự lựa chọn một lần, đó là thách thức từng ngày. Trở nên một tín hữu Kitô không là bảo đảm sẽ trung tín đến cùng. Bước theo Ðức Giêsu là bước vào một cuộc mạo hiểm: mạo hiểm của tình yêu, mạo hiểm của lòng tin. Ðã có những môn đệ không tin và bỏ đi. Ngay trong nhóm ở lại, cũng có kẻ không theo được tới cùng.
Tạo sao nhóm thứ nhất bỏ đi, còn nhóm thứ hai lại trung kiên đến cùng? Tại sao nhóm thứ nhất thất bại, còn nhóm thứ hai lại thành công? Có thể nói "để khỏi bỏ cuộc, người ta cần phải bỏ mình". Ðể theo Ðức Giêsu, cần phải chú tâm đến Người hơn là bận tâm về chính mình. Thánh Phêrô đã làm được điều đó khi Ngài nói: "Bỏ Thầy chúng con biết theo ai?". (Ga.6,68)
Ðứng trước lời tuyên bố của Ðức Giêsu xem ra có vẻ "chói tai" thì Phêrô đại diện Nhóm Mười Hai vẫn không tỏ ra nao núng, vì ngài chỉ nhìn thẳng vào Ðức Giêsu.
Ðứng trước cuộc thử thách, ngài vẫn một niềm tin tưởng, vì ngài chỉ chú tâm vào Chúa: "Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa" (Ga.6,69).
Trái lại, nhóm thứ nhất sở dĩ bỏ cuộc, vì họ chỉ loay hoay bận tâm với những ý nghĩ của mình: "Sao ông này lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn?" (Ga.6,52).
Hôm nay vẫn có những câu Lời Chúa bất ngờ làm ta choáng váng, vẫn có những giây phút thử thách làm ta chao đảo, vẫn có những cơn cám dỗ làm ta bỏ cuộc. Hãy đưa mắt nhìn vào Chúa, hãy xác tín lại niềm tin vào Người như Thánh Phêrô đã làm:
*******
Lạy Chúa, Chúa có lời ban sự sống đời đời. Chúng con tin... Người là Ðấng Thánh của Thiên Chúa. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 3. Ðức tin "nghĩa địa"
Một món đồ còn mới thì được gọi là đồ "gin", còn một món đồ đã có người xài trước rồi bán lại thì được gọi là đồ nghĩa địa (tiếng anh gọi là second-hand). Có một người kia một hôm bị rơi vào một tâm trạng vô cùng chán chường vì chợt nhận ra rằng đức tin của anh chỉ là một đức tin "nghĩa địa".
Anh vừa sinh ra thì đã được rửa tội. Lớn lên một chút anh đến nhà thờ học giáo lý và lần lượt được Rước lễ, Thêm sức và các bí tích khác. Hàng tuần anh đến nhà thờ tham dự Thánh lễ và nghe giảng. Ở nhà anh được cha mẹ và ông bà dạy dỗ cặn kẽ về cách sống đạo. Từ trước tới nay anh vẫn an tâm trong đức tin êm đềm như thế. Nhưng hôm đó anh chợt nhận ra rằng tất cả nội dung đức tin ấy đều là của người khác. Anh nghĩ rằng đức tin của anh giống như chiếc áo cũ mà người anh mặc chật nên chuyển lại cho người em. Một thứ đồ second-hand.
Anh nghĩ rằng bây giờ mình đã trưởng thành, mình phải suy nghĩ về đức tin để có những xác tín của riêng mình; mình cần có những cơ hội thử thách để có những chọn lựa của riêng mình.
Cơn khủng hoảng đức tin của người thanh niên trên hẳn là ray rứt lắm, nhưng thực rất cần thiết. Sinh ra trong đức tin thì chưa đủ, cần phải sinh lại trong đức tin nữa. Có một đức tin "nghĩa địa" cũng chưa đủ, mà cần có đức tin do chính mình xác tín. Chỉ có một đức tin do chính mình xác tín mới có thể giúp ta chọn cho mình một lập trường khi đứng trước những tình thế phải chọn lựa. Như thánh Phêrô trong bài Tin Mừng hôm nay đã mạnh dạn chọn Ðức Giêsu đang khi nhiều người khác bỏ Chúa mà đi: "Lạy Thầy, bỏ thầy thì con biết theo ai, vì chỉ có Thầy mới có những lời hằng sống" (Viết theo Flor McCarthy)
* 4. Chúng con cũng bỏ Thầy mà đi chăng?
Cách đây không lâu vào ngày 6 tháng 3, 1997, một vụ ly dị ở thành phố Bửu Tân (Brockton), bang Mã Sơn Xét (Massachusettes) của Hoa Kỳ gây nên một cảnh tượng hết sức đau lòng. Hai vợ chồng ông Ðặng Danh Mừng (Dana Raymond) và bà Giang thị Dương (Jeanne Ardizoni) đưa nhau ra toà để ly dị, mà cả hai đều không chịu nuôi hai con của họ, khiến cuối cùng toà phải xử cho hai đứa con vào viện mồ côi! Khi toà phán quyết, người ta nghe tiếng khóc nức nở của hai đứa bé tội nghiệp. Thế mà hai bố mẹ vẫn dửng dưng! Cảnh sát được lệnh toà "bắt" hai đứa bé lên xe chở tới viện mồ côi. Chúng vùng vẫy kêu "Cha", kêu "Mẹ", nhưng cha và mẹ đều không buồn ngó ngàng tới hai đứa con của mình!
Bài Tin Mừng hôm nay cũng để lộ ra một cảnh thương tâm theo bề sâu, mặc dầu bề ngoài xem ra chỉ là chuyện trò bỏ thầy vì giáo thuyết thầy dạy không lọt được vào tai trò.
Rabbi Giêsu đâu phải như các bậc thầy khác trong đạo Do Thái. Tác giả Tin Mừng thứ bốn, kể như người môn đệ thân thiết nhất của Ðức Giêsu, trong lời tựa đã giới thiệu Người là Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa "và Ngôi Lời là Thiên Chúa" (Ga 1,1) Nhờ Ngôi Lời mà vạn vật được tạo thành và "không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành" (c.3). Và "Ngôi Lời ấy đã trở thành người phàm và cư ngụ giữa chúng ta." (c.14).
Khi Người xuất hiện ở sông Giođan thì chính ông Gioan Tẩy Giả làm chứng về Người rằng "Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Nhưng chính Ðấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: "Ngươi thấy thần khí xuống ngự trên ai, thì người đó chính là Ðấng làm phép rửa trong Thánh Thần." (cc.32-33).
Người đã đến nhà mình mà người nhà chẳng chịu đón nhận!
Chính ông Gioan Tẩy Giả là người giới thiệu hai trong số môn đệ của ông đến nhận Ðức Giêsu làm thầy (c.37). Nhưng với Ðức Giêsu, ai đó trở nên môn đệ của Người phải được chính Người gọi (xem Mc 1,16-20). Giữa đám đông môn đệ, Người đã chọn và thiết lập nên Nhóm Mười Hai, để họ ở lại với Người và để Người sai họ đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa (xem Mc 3,13-15). Nhưng họ vẫn luôn có tự do nhận hoặc khước từ Ðức Giêsu. Ðiều đó được nói lên ngay ở lời tựa của Tin Mừng Gioan: "Người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào Danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa." (Ga 1,10-12).
Niềm tin nơi các môn đệ cũng giống như sức khoẻ, cần được bồi dưỡng và triển nở. Tại tiệc cưới Cana, khi Ðức Giêsu hoá nước lã thành rượu ngon, các môn đệ đã tin vào Người (2,11). Nhưng tại Giêrusalem, khi nghe Ðức Giêsu tuyên bố với người Do Thái: "Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi; nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại", các môn đệ không hiểu lời đó. Khi Ðức Giêsu từ cõi chết sống lại, các ông mới nhớ lại lời đó và mới tin vào Kinh Thánh và lời Ðức Giêsu đã nói (20-32). Cả lời tuyên bố của Ðức Giêsu với ông Nicôđêmô rằng "Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời" (3,14-15), lời tuyên bố ấy vẫn còn là điều bí nhiệm đối với các môn đệ.
Riêng với Tin Mừng Máccô, các môn đệ khi được loan báo về cuộc thương khó và phục sinh lần thứ hai, các ông không những không hiểu lời đó mà còn sợ không dám hỏi lại Người (xem Mc 9,30-32). Hơn nữa, các ông còn hành xử một cách hoàn toàn không xứng hợp chút nào với cuộc thương khó vừa được loan báo là dọc đường các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả! (Mc 9,34).
Ðức Giêsu vẫn muốn các môn đệ được tự do nói lên chọn lựa của mình.
Xuyên qua Tin Mừng Gioan chương 6, ta liên tiếp thấy diễn ra cảnh thương tâm là Ngôi Lời làm người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người!
Vậy trước hết ta có đông đảo dân chúng một bên và các môn đệ một bên. Dân chúng mặc dầu được ăn bánh no nê nhờ phép lạ hoá bánh ra nhiều, đã từ khước việc nhìn nhận Ðức Giêsu làm mục tử nhân hậu đến chăm sóc họ. Người biết họ sắp đến bắt Người đem đi và tôn lên làm vua, nên Người lánh mặt đi lên núi một mình (c.15). Còn các môn đệ ở lại trên thuyền như Nhóm Mười Hai được Người thiết lập, thì Người đã đi trên mặt nước mà đến với các ông: ngay lúc ấy Người còn cho thuyền các ông lập tức cập bến Caphácnaum, nơi các ông định đến (c.21).
Kế đến, vào ngày hôm sau, đám đông dân chúng lại tìm đến với Ðức Giêsu tại Caphácnaum. Ðức Giêsu bỏ qua sự cố ngày hôm trước là họ đã muốn bắt Người để tôn làm vua, Người khơi dậy nơi họ ý muốn làm công việc Thiên Chúa muốn họ làm, là tin vào Ðấng Thiên Chúa sai đến (c.29), tức là đón nhận Người mang đến cho họ bánh của Ðức Khôn Ngoan là Lời Chúa. Vậy Người nói với họ: "Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ" (c.35). Ðó là lúc người Do Thái xầm xì phản đối vì họ không chấp nhận Người là bánh từ trời xuống, mà chỉ kể Người là ông Giêsu, con ông Giuse mà thôi (cc.41-42).
Căng thẳng lên tới tột đỉnh với lời Ðức Giêsu tuyên bố "Bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống" (c.51). Thịt nói đây là "sarx" trong Hy ngữ, cũng được dùng trong câu "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta" (Ga 1,14). Tức là trọn con người cụ thể của Ðức Giêsu được ban cho thế gian để thế gian được sống. Nhưng khi giảng dạy trong hội đường, Caphácnaum, Ðức Giêsu lại còn nói: "Nếu các ông không ăn thịt Con Người các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy" (cc.53-56)
Chưa nói gì đến dân chúng, ngay giữa các môn đệ của Ðức Giêsu đã xảy ra một phân rẽ giữa kẻ không tin và người tin. Một bên nhiều môn đệ phản ứng: "Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?" (c.60). Nhưng Ðức Giêsu vẫn kiên nhẫn khơi dậy nơi họ niềm tin mà họ cần đặt nơi Người là Ðấng từ Thiên Chúa mà đến: "Thế thì anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là sự sống" (cc.62-63). Ðáp lại là cả một bi kịch. Nhiều môn đệ đã rút lui, không còn đi với Người nữa.
Còn bên kia là Nhóm Mười Hai, tức Nhóm chính Ðức Giêsu đã thiết lập để họ ở lại với Người. Với họ nữa, Ðức Giêsu vẫn muốn họ được tự do nói lên chọn lựa của mình. Cho nên Người đã nêu thẳng vấn đề là: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?" Ông Simon Phêrô liền đáp: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Ðấng Thánh của Thiên Chúa" (cc.67-69). Nhưng cả giữa nhóm thân cận nhất này của Ðức Giêsu, vẫn không vắng bóng kẻ nộp Chúa, để nhắc nhở loài người phải biết luôn thức tỉnh, "vì ma quỉ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé." (1P 5,8) (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, sau khi Ðức Giêsu mặc khải Người là Bánh ban sự sống muôn đời, Người đòi hỏi mỗi người phải có thái độ dứt khoát, tin hay không tin. Chúng ta cùng càu xin với lòng tin tưởng:
1. Hội thánh hôm nay gặp nhiều khó khăn và thách đố / Xin Chúa cho mọi thành phần trong Hội thánh luôn tin tưởng và nghe theo Chúa Thánh Thần hướng dẫn.
2. Thế giới hôm nay đang phải chọn lựa giữa chiến tranh và hòa bình, giữa vật chất và tinh thần, giữa hận thù và yêu thương / xin Chúa cho mọi nhà cầm quyền biết chọn lựa đường lối nào đem lại tự do và hạnh phúc thật cho mọi người.
3. Nhiều người đã dứt khoát từ bỏ Chúa / nhiều người còn dửng dưng không cần quan tâm đến Chúa / Xin Chúa cho họ được ánh sáng dẫn đường đẻ tìm về với Chúa là lẽ sống của mọi người.
4. Nhiều anh chị em trong họ đạo chúng ta đã biết Chúa mà còn thờ tiền bạc và ham mê đời sống vật chất đời này. / Xin Chúa cho họ được thức tỉnh và trở về với Chúa là Ðấng ban sự sống hạnh phúc muôn đời.
Chủ tế: Lạy Ðức Giêsu, bỏ Chúa thì chúng con biết theo ai bây giờ, vì chỉ một mình Chúa có lời ban phúc trường sinh; xin cho chúng con luôn vững tin nơi Chúa để giúp mọi người khác cũng tin theo Chúa. Chúa là Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh lễ
- Trước lúc rước lễ: Ðức Giêsu đã dạy "Ai ăn thịt Ta và uống Máu Ta thì sẽ được sống muôn đời". Chúng ta hãy dọn mình cho xứng đáng để rước lấy Mình Thánh Chúa.
VII. Giải tán
Sau khi đã được nuôi dưỡng bằng chính Mình Thánh Chúa và Lời hằng sống của Ngài, chúng ta hãy trung thành theo Chúa suốt đời.
23. Tin hay không là đón nhận hay từ chối
(Suy niệm của Lm Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Tin mừng Ga 6: 60-69: Khi nghe Chúa Giêsu giảng bài giảng về Bánh Hằng Sống, nhiều môn đệ đã khó chịu vì cho rằng: "Những lời này chói tai quá! Ai nghe được". Chói tai không phải vì khó hiểu mà vì khó nuốt, khó chấp nhận được...
Bài giảng về Bánh Hằng Sống đưa tới kết luận đòi người ta phải tin hay không tin, chấp nhận hay từ chối. Và cũng đưa tới cao điểm của một cuộc khủng hoảng, từ đó phát sinh cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Không chỉ là một sự chống đối chóng qua, nhưng là cả một số đông người từ chối đi theo Chúa, một sự từ chối quyết liệt của những người không tin, sự phản bội của Giuđa và những âm mưu chống lại Chúa.
I. KHÁM PHÁ SỨ ĐIỆP TIN MỪNG: Ga 6,61-70
1. Nghi vấn của niềm tin: Khi nghe Chúa Giêsu giảng bài giảng về Bánh Hằng Sống, nhiều môn đệ đã khó chịu vì cho rằng: "Những lời này chói tai quá! Ai nghe được". Chói tai không phải vì khó hiểu mà vì khó nuốt, khó chấp nhận được. Đấy là não trạng của những người không tin, không thể nào chấp nhận Chúa Giêsu, Đấng từ trời xuống. Họ không tin, thấy chói tai vì họ không hiểu lời Chúa trong Thần Khí, họ dùng trí khôn loài người, những quan niệm trần thế và tập tục của cha ông để xét đoán lời Chúa. Kết cục là từ chối sứ điệp lời Chúa, từ chối chính Người.
2. Cuộc khủng hoảng niềm tin: Vì không thể nào hiểu được lời Chúa bởi sự cứng lòng của mình, nên kết cục hiển nhiên đã dẫn tới việc nhiều môn đệ rút lui không còn theo Người nữa. Đây quả là một cuộc khủng hoảng niềm tin, cũng như sự kiện Chúa Giêsu bị từ khước tại chính Nagiarét, quê hương của Người. Dầu vậy, Chúa Giêsu vẫn kiên định với chân lý mình mạc khải. Người biết ai tin, ai không tin. Trước con mắt người đời xem ra: Chúa Giêsu như bị thất bại. Chúa Giêsu không nhượng bộ, Người đòi hỏi mạnh mẽ và dứt khoát. Người sẵn sàng đau lòng nhìn cảnh các môn đệ bỏ đi. Đối với Người trung tín với Chúa Cha, kiên định theo đuờng lối của Chúa Cha là trên hết, cho dù có phải bị phản bội, bị bỏ rơi và bị giết chết.
3. "Còn các con, các con có muốn bỏ đi không?" Trước sự từ chối bỏ đi của một số đông các môn đệ, Chúa Giêsu đã hỏi Nhóm Mười hai. Chắc chắn không phải Chúa hỏi để gỡ lại sĩ diện cho mình. Người đặt một câu hỏi để các ông xác định lập trường của mình. Phêrô đã đại diện anh em của mình để trả lời Chúa, để nói lên chọn lựa của mình: "Lạy Thầy!, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời". Các ông đã xác định 'đi' theo Chúa ngược lại với những người bỏ Chúa. Nhóm Mười hai đã quyết định dấn thân theo Thầy Chí Thánh của mình. Vì các ông đã tin và đã nhận ra: Chỉ có Thầy mới có những lời ban sự sống. Bỏ Thầy rồi thì đi với ai để có được sự sống đây. Từ đó, các ông còn tiến xa hơn nữa trên hành trình niềm tin của mình, không chỉ có những lời ban sự sống, mà Thầy của mình còn là: "Đấng Kitô, Con Thiên Chúa". Đấy mới là cốt lõi của niềm tin. Phải tin Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa mới có thể hiểu nổi Người là Bánh ban sự sống như thế nào, mới có thể hiểu và đón nhận Mình Máu Người làm của ăn, của uống mang lại sự sống đời đời.
II. CHIÊM NGẮM CHÚA GIÊSU:
Dầu bị nhiều môn đệ cảm thấy chói tai trước lời giảng của mình, từ chối bỏ đi, Chúa Giêsu vẫn kiên định trong đường lối của Chúa Cha, Người không nhân nhượng, không nhượng bộ, không thỏa hiệp. Sau này cho dù bị bắt bớ, đánh đập và bị giết, Chúa Giêsu vẫn một lòng trung thành theo thánh ý Chúa Cha. Đó chính là phẩm chất của vị Thiên Sai, người tôi trung của Thiên Chúa. Người quả thực là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa. Chiêm ngắm Chúa Giêsu, Người Con luôn trung thành theo thánh ý Chúa Cha, mỗi Kitô hữu chúng ta cũng quyết tâm sống trung thành với đức tin, quyết tâm thực thi thánh ý Chúa trong mọi biến cố của cuộc sống.
III. GỢI Ý BÀI GIẢNG:
1. Quyết định của đức tin: Kết thúc của bài giảng về Bánh Hằng Sống đưa người nghe đến một thái độ chọn lựa dứt khoát: Tin hay không tin vào Chúa Giêsu; theo hay không theo Người. Đây là một sự chọn lựa dứt khoát. Một số đông đã cảm thấy chói tai trước những gì Người giảng và đã bỏ đi. Nhưng vẫn còn có nhiều người tin và đi theo Người như Nhóm Mười hai. Phêrô đã đại diện cho những người tin theo Người xác tín: "Bỏ Thầy chúng con biết đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống. Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa". Ông đã có một chọn lựa dứt khoát, mạnh mẽ dựa vào chính niềm tin của mình. Những người từ chối là vì họ không biết, không tin Giêsu Nagiarét trước mặt họ là Con Thiên Chúa, là Đấng đến để lấy máu thịt mình làm lương thực ban sự sống đời đời cho họ.
2. Tin mừng cũng đặt ra cho Kitô hữu một sự chọn lựa dứt khoát: Tin hay không tin, đón nhận hay từ chối? Đây là một quyết định của niềm tin, không thể chỉ dựa trên cảm tính hay dựa trên một lý luận con người để có thể quyết định cách chính xác. Cần phải có tinh thần yêu mến, khiêm tốn và cầu nguyện mới có thể đi đến quyết định theo Chúa rõ ràng, mạnh mẽ và dứt khoát. Còn không sẽ chỉ là thái độ theo Chúa nửa vời, vô tín và từ chối hoàn toàn.
3. Tin theo Chúa Giêsu, Đấng có lời ban sự sống: Trọng tâm của bài giảng về Bánh Hằng Sống là mạc khải: Chúa Giêsu Đấng ban sự sống, Người ban sự sống cho nhân loại bằng chính mình máu Người được hiến dâng làm của ăn, của uống. Thịt máu của Người là chính Người. Đón nhận máu thịt Người là đón nhận Người trọn vẹn cả nhân tính lẫn thiên tính. Do đó, lời khẳng định của Phêrô: "Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời" là lời đã cách nào đó hiểu được sứ điệp Chúa Giêsu loan báo. Ông không tuyên xưng cách ngẫu hứng hay để làm vui lòng Thầy mình trước một số anh em từ chối bỏ đi. Ông tuyên xưng vì ông hiểu và ông yêu mến đón nhận sứ điệp của Chúa. Một sứ điệp mang lại cho ông và các Tông đồ cũng như những ai tin sức sống mới, sức sống mang lại niềm hy vọng, mang lại lòng can đảm dấn thân.
Cùng đích của cuộc đời theo Chúa Giêsu chính là ơn cứu độ. là nên thánh, nghĩa là được sống sự sống đời đời của Thiên Chúa. Sự sống ấy Thiên Chúa đã và đang quảng đại trao ban cho nhân loại nơi Người Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô. Tin và theo Chúa Giêsu Kitô bằng nỗ lực sống thực thi lời Người, chính là con đường đi tới sự sống của Thiên Chúa.
IV. LỜI CẦU CHUNG:
Mở đầu: Anh chị em thân mến. Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta tin theo Chúa Giêsu Kitô, Đấng có lời ban sự sống đời đời. Trong niềm tin tưởng chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.
1. Hội thánh ngày nay đang tiếp nối sứ mạng loan báo cho con người và thế giới biết: Chúa Giêsu là Đấng ban sự sống. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Hội thánh luôn trung kiên với đức tin của mình vào Chúa Giêsu Kitô.
2. Ngày nay, biết bao nhiêu trào lưu tư tưởng, lối sống vô tín, hưởng thụ vật chất đang làm cho nhiều người trở nên khô khan nguội lạnh; nhiều người không còn khao khát đi tìm chân lý, tìm Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho những anh chị em ấy tìm được ý nghĩa cuộc đời đúng đắn nhờ đời sống lương tâm công chính và nhờ gặp được nhiều gương sáng dấn thân trong cuộc sống.
3. "Bỏ Thầy chúng con biết theo ai?" Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn có được một đức tin vững vàng để can đảm, dứt khoát chọn theo Chúa trong mọi nghịch cảnh của cuộc sống.
Lời kết: Lạy Chúa Giêsu, Đấng ban sự sống đời đời. Chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương hiến ban chính mình làm lương thực mang lại sự sống vĩnh cửu cho chúng con. Xin cho chúng con khi đón nhận Mình Máu Thánh Chúa, biết làm cho sự sống của Chúa phát triển nơi cuộc đời chúng con bằng nỗ lực thực thi lời Chúa, dấn thân yêu thương, hy sinh phục vụ mọi người với tất cả đức tin vững vàng. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
24. Bỏ Thầy con biết theo ai?
Ga 6: 60-69: Ngày hôm nay, Thiên Chúa vẫn hỏi chúng ta “phần các con có muốn bỏ Thầy không?”. Chúng ta có dám ở lại với Thầy khi mà nhiều người đã không còn tin có thế giới thần linh?...
Trong cuộc đời, ai cũng có những thử thách của riêng mình. Các môn đệ cũng vậy, niềm tin của các ông đang bị thử thách. Trước lời xác quyết của Chúa: Thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống, thì một số môn đệ đã bỏ Chúa mà đi, vì không thể nào chấp nhận được lời giảng dạy ấy. Số còn lại thì vẫn trung thành với Chúa và Phêrô đã thay mặt cho nhóm còn lại ấy tuyên xưng: Bỏ Thầy chúng con biết theo ai vì chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.
Không ít người đã theo Chúa Giêsu chỉ vì phép lạ bánh hoá nhiều, nhưng rồi họ lại vội vã bỏ Chúa mà đi vì lời Ngài thật chướng tai, không thể chấp nhận được. Chỉ riêng nhóm 12 là đã xác tín rằng: Chỉ mình Chúa mới có Lời ban sự sống. Điều xác tín này đã rõ nét trong khi xây dựng cộng đoàn tiên khởi: mọi người bỏ của chung, chăm lo cho nhau và ai cũng no đủ, hạnh phúc.
Chúa Giêsu hóa bánh và cá ra nhiều nuôi năm nghìn người, niềm tin của đám đông dâng lên cao vời vợi. Họ phấn khởi và mừng vui. Họ tin Người chính là Đấng Cứu thế đến cứu dân tộc Do Thái. Thế nhưng khi Đức Giêsu tuyên bố: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời”, khi nghe nói như thế thì đám đông và một số môn đệ bỏ Chúa mà đi. Đức tin tưởng chừng như không gì dập tắt nổi của những ngày hôm trước, nay đã tan biến. Đức tin gặp thử thách và họ không thể vượt qua. Họ đã thất vọng bỏ cuộc. Nhưng Đức Giêsu vẫn bình tĩnh chấp nhận sự quay lưng trở gót của những người thân tín.
Chúa Giêsu đã mạc khải về bánh ban sư sống bởi trời là thịt và máu Chúa, có nhiều người khó chịu về giáo lý này. Họ nói rằng: Lời này chói tai qúa! Ai nghe được. Chúa Giêsu biết rõ lòng họ nhưng Chúa không rút lại lời đã nói. Chúa không ngại để họ được tự do ra đi. Ngay cả các tông đồ, Chúa đã hỏi: Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ đi không? Phêrô thưa: Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai. Chúa không muốn mị dân để làm vừa lòng mọi người. Chúa cho chúng ta được tự do chọn lựa thái độ. Chúng ta không thể đi nước đôi theo kiểu bắt cá hai tay.
Chúa Giêsu đặt ra cho các môn đệ một chọn lựa. Chọn gắn bó với Chúa hay chạy theo thói đời của thế gian “hạnh phúc thì xum vầy, gian nan thì bỏ chạy”. Chúa đòi các môn đệ không lấp lửng, lập lờ “làm tôi hai chủ”, mà phải tỏ rõ lập trường. Bỏ đi hay ở lại. Chọn sự sống đời đời hay sự sống chóng qua đời này. Các môn đệ đã gắn bó với Chúa bao lâu nay nhưng liệu rằng bằng đó thời gian có đủ để niềm tin các ông trưởng thành và có thể nhận ra Thầy là Chúa, là Đấng ban sự sống hay chưa? Trước câu hỏi: “cả anh em, anh em cũng muốn bỏ Thầy đi sao?”.
Chúa Giêsu nói với nhóm 12: cả các anh nữa, các anh có muốn bỏ đi không? Phêrô được một ơn riêng nên trả lời: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đi theo ai. Thầy có lời ban sự sống đời đời. Thầy là Đấng thánh của Thiên Chúa”. Để chấp nhận lời của Đức Giêsu về chính Ngài, con người phải có ơn đặc biệt từ trên, vì những gì Ngài nói vượt trên cái bình thường. Đức Giêsu cũng biết điều này: “Không ai đến được với Ta, trừ phi được Cha Ta ban ơn đó”. Ngài cũng biết những gì Ngài nói không phải chuyện “thuộc hạ giới”.
Những người còn ở lại với Chúa vì đã chấp nhận Lời Chúa và tin vào sự hiện diện đích thực của Người trong “bánh hằng sống”. Họ đã hiểu Lời Chúa dưới lăng kính Thần khí. “Ai không có Thần Khí của Đức Kitô, thì không thuộc về Đức Kitô.” (Rm 8:9) Đó là lý do tại sao “nhiều môn đệ rút lui” (Ga 6:66) và nhiều người “lấy làm chướng” và “xầm xì về vấn đề ấy.” (Ga 6:61) Thần Khí sẽ làm im bặt mọi tiếng xầm xì và nghi hoặc, vì Người chính là sức mạnh của Chúa Cha kéo ta lại gần Đức Kitô. Thần Khí không pha chút vẩn đục mới thấy hết được chiều sâu Lời Chúa. Xác thịt không có độ trong suốt đó để thấy tất cả sự thật. Thách đố chính là cuộc đối đầu giữa Thần Khí và xác thịt. Người môn đệ Đức Giêsu luôn bị đặt trước sự lựa chọn.
Cuộc đời con người là một chuỗi dài những sự chọn lựa. Có lẽ chỉ trừ việc sinh ra và cái chết là người ta không có quyền lựa chọn, còn tất cả mọi việc khác thì người ta phải lựa chọn. Nếu chọn đúng, thì đời mình sẽ tốt đẹp và hạnh phúc, còn nếu chọn sai thi đời sẽ bất hạnh. Sống là phải lựa chọn luôn. Đời là vậy. Chúa cũng muốn chúng ta luôn lựa chọn.
Giáo Hội kết hợp với Đức Kitô, không chỉ trong các nghi lễ phụng tự mà mỗi người trong Giáo Hội phải sống với tinh thần của Ngài ngay trong cuộc sống hằng ngày. Xã hội vẫn còn những kẻ thiếu ăn, vẫn còn những bất công và áp bức, thì Giáo Hội vẫn còn có những vấn đề được đặt ra cho mình. Làm thế nào để ngày càng đẩy lùi những bất công, đói khổ và lạc hậu. Điều đó đồng nghĩa với làm thế nào để tỏ lộ khuôn mặt Đức Kitô một cách rõ nét nhất trong cuộc sống hiện tại.
Thiên Chúa không thích những của lễ, nhưng Ngài cần lòng nhân ái. Lễ vật nào có ích gì khi sự thù hận đố kỵ vẫn còn trong người tín hữu hay vẫn còn những kẻ đói khổ đau đớn bên cạnh mình. Xác tín đi theo Chúa trên con đường cứu độ là phải mang lấy nỗi ưu tư, ray rứt về một xã hội chưa được an vui hạnh phúc.
Khi giảng tại Hội Đường Ca-phác-na-um, Chúa Giêsu khẳng định Người chính là Bánh hằng sống, ai ăn thịt và uống máu Người sẽ được sống đời đời. Lời đó khiến dân chúng và các môn đệ bị sốc, không chấp nhận và tuần tự bỏ đi. Dầu vậy, thánh Phê-rô vẫn kiên vững tuyên xưng: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.” (Ga 6, 68)
Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã ban cho loài người được tự do lựa chọn: hoặc chấp nhận hay khước từ ơn Chúa. Sau khi chu toàn sứ mệnh Môsê trao phó để đưa dân Chúa chọn vào miền đất hứa, ông Giôsuê đã triệu tập các vị đại diện dân chúng tại Si-khem để khẳng định lại niềm tin vào Chúa. Ông nói với họ rằng: Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Thiên Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ… Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Thiên Chúa (Gs 24:15). Dân Ít-ra-en cũng đã lựa chọn. Họ quyết định phụng thờ Thiên Chúa vì Người đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ bên Ai cập, đã làm những việc kỳ diệu và dẫn đưa họ vào miền đất hứa.
Ngày hôm nay, Thiên Chúa vẫn hỏi chúng ta “phần các con có muốn bỏ Thầy không?”. Chúng ta có dám ở lại với Thầy khi mà nhiều người đã không còn tin có thế giới thần linh? Chúng ta có dám gắn bó với Người khi mà cả khối đông nhân loại đang bỏ đi để chạy theo ma lực của đồng tiền và địa vị? Có lẽ phần nhiều chúng ta do dự, phần nhiều chúng ta im lặng. Vì biết bao lần chúng ta cũng bị cám dỗ bỏ đạo để được tiến thân trên đài cao danh vọng. Vì biết bao lần đồng tiền đã làm mờ con mắt, khiến chúng ta chao đảo đức tin, muốn buông xuôi theo thói gian dối của thế gian để tìm mối lợi cho bản thân của mình. Có thể chúng ta đang đóng vai trò một Giuđa vẫn ở xen lẫn với nhóm 12 nhưng chỉ chờ cơ hội để bán đứng Thầy và bán đứng anh em.
Chúa Giêsu được mệnh danh là Ngôi Lời, đã hiện hữu từ trước muôn đời, “nhờ Người vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành” (Gioan 1, 1-3) thì chắc chắn Người có đủ quyền năng ban sự sống đời đời cho những ai tin nhận Người.
Với những người có đức tin thì khác, cuộc sống phải trờ thành thánh lễ, hay nói cách khác, tinh thần thánh lễ phải thấm sâu vào cuộc sống của họ. Có nghĩa là chúng ta phải biến đổi đời sống chúng ta thành một thánh lễ nối dài, bằng cách thực thi tinh thần yêu thương và hợp nhất, giúp đỡ những người chung quanh, như một bài hát quen thuộc: Ta về thôi khi thánh lễ đã hết, nhưng đời ta là thánh lễ nối dài, đem tình thương Thiên Chúa đến mọi nơi, ta sống sao để làm chứng nhân.
Là người Công Giáo, khi lãnh Bí Tích Rửa Tội, chúng ta quyết định chọn Chúa và đi theo Chúa, chúng ta tôn nhận Chúa là Thiên Chúa và chỉ tôn thờ, phụng sự, yêu mến duy một mình Người. Đó chỉ là sự chọn lựa của đức tin. Tuy nhiên, trong cuộc sống của mình, chúng ta đứng trước nhiều cơ hội để chọn lựa hơn nữa, để sống và làm chứng cho đức tin. Chúng ta hãy triệt để thi hành những điều phù hợp với ý Chúa, đó là cách chọn lựa thích hợp nhất theo bản vẽ mà Chúa đã thiết kế cho đời chúng ta. Vì thế, chọn sống theo ý Chúa và thực hành theo đức tin là một việc làm liên tục, thường xuyên cho đến chết. Đó là một đòi hỏi của đức tin.
25. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt.
QUYẾT ĐỊNH CỦA ĐỨC TIN
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Giai thoại này có tầm quan trong thế nào trong đời Chúa Giêsu và trong viễn tượng thần học của Gioan?
2. Câu 62 ám chỉ cái gì bí mật?
3. Nếu "xác thịt không ích gì”, thì xác thịt của Con Người mà ta phải ăn để được sự sống vĩnh cửu có ích gì không? Phải chăng có mâu thuẫn?
1. Diễn từ về Bánh sự sống là nguồn gốc của một cuộc khủng hoảng sứ vụ tại Galilê.
Các Tin Mừng Nhất lãm cũng nhận rằng một khủng hoảng như thế đã được khai mào trong quê hương Chúa Giêsu ngay giữa bà con Người, sau khi Người giảng dạy trong các hội đường của họ (Mt 13-54; Mc 6,1; Lc 4,15). Ở đó cũng vậy, bác luận căn bản phát xuất từ chỗ người ta biết quá rõ nguồn gốc của Người (6,42).
Gioan đã mô tả khủng hoảng này cho đến cao điểm của nó. Ông thấy trong đó không phải chỉ là một sự chống đối thoáng qua. Luôn luôn cái trước trình thuật, ông rút ra từ hoàn cảnh đang mô tả những triệu chứng của sự chối từ quyết liệt, của sự bội phản Giuđa và của âm mưu người Do thái. Con Người đến loan báo thời đại cánh chung, nên thái độ người ta đối với Người mang một giá trị vĩnh cửu. Ngay từ giai đoạn hôm nay, các lập trường đã có tính cách quyết định và Tin Mừng, một cách nào đó, có thể trực tiếp nhảy qua chương 13, qua chứng từ về "Giờ"nhưng chương ở giữa 7-12. chỉ đề cập đến những giờ cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu là Chúa Giêsu quá biết rõ là việc mặc khải của mình cho người Do thái hầu như sẽ vô ích (9,4; 11,9; 12.35). Căn cứ vào những điều đã nhận xét, Người có thể lên án người Do thái ngay bây giờ (8,26.50). Sở dĩ Người không làm chuyện đó và vẫn tiếp tục công việc mặc khải, ấy chỉ vì ngày giờ của Người đã được ấn định bởi Chúa Cha. Dân cứng tin sẽ chỉ bị phán xét khi nào giờ của Người đến (12,31). Trên nguyên tắc, bản án đã được tuyên bố rồi, song chưa có uy lực quyết tụng (9,39). Việc mặc khải của Con Người, đáng lẽ phải là một sự trao ban sự sống vĩnh cữu, thì thực tế lại trở nên một phán quyết truất hữu, không xâm nhập được vào tận đầu óc của người Do thái luôn khép kín trước mặc khải thần linh và cánh chung đó. Thế mà sự từ chối mặc khải cánh chung tất yếu bao hàm một phán quyết cánh chung. Do đấy, nảy sinh một sự mâu thuẫn: một đàng, đây là cơ may cuối cùng của người Do thái, đàng khác hạn kỳ để chọn lựa sẽ chỉ hết vào Giờ Chúa Giêsu.
2. Chúa Giêsu chẳng cần phải nghe những gì người Do thái và các môn đồ giả nói mới biết (x. 5,6) họ không đồng ý với Người. Phải chăng việc ám chỉ đến cái chết của Người và đến ý nghĩa cứu chuộc của cái chết ấy làm cho họ vấp phạm?
Đúng! Sau này cũng vậy, mặc dù đã được báo trước (16,1), họ vẫn coi cái chết của Người là một cớ vấp phạm (Mc 14,27; Mt 26,31). Chúa Giêsu đã làm gì với mức độ phát triển của đức tin họ như thế? Người có tìm cách trấn an họ bằng cách giải thích sao cho vấn đề trở nên dễ chấp nhận hơn chăng? Chắc chắn đó không phải là thói quen hành động của Chúa Giêsu trong Tin mừng thứ tư. Trái lại, đứng trước thính giả không hiểu lời Người, Chúa Giêsu thường phản ứng bằng cách ám chỉ đến một mặc khải quan trọng hơn là mặc khải về tận cùng của cuộc sống bản thân. Trước đó, trong diễn từ về bánh, người ta cũng đã tìm được một ám chỉ về cái chết của Người (6,51) và chính lời ám chỉ này đã gây nên cuộc bàn cãi dẳng dai giữa người Do thái. Lời ám chỉ thứ hai chỉ là để xác nhận lời ám chỉ thứ nhất. Không rút lời lại, cũng chẳng nhượng bộ trước bác luận của họ, Chúa Giêsu đưa ra một ám chỉ mới liên quan đến một giai thoại cuối đời Người: Thăng thiên. Và lời ám chỉ này nặc khải yếu tố thần linh mà ta phải giả thiết là có nếu muốn hiểu ý nghĩa cứu sống của cái chết Chúa Giêsu. Như thế, hai khía cạnh của Giờ được đưa ra ánh sáng: khía cạnh mặc khải cũng như khía cạnh cứu chuộc (3, 13-15). Và đồng thời cái lý do cuối cùng của việc "từ trời xuống" cũng được giải bày minh bạch trong chương 6 Gioan. Bởi vì việc lên trời mang lại mặc khải hoàn toàn về Con người xuống thế là về nguồn gốc thần linh của Người: vào lúc đó Chúa Giêsu mới đảm nhận chức vụ Con Người, lúc đó nguồn gốc thiên giới của người mới hoàn toàn tỏ lộ. Vì Người lại lên nơi đã ở từ trước. Như vậy Thăng Thiên vừa là mặc khải về Con Người (1,51; 3,13; 6,62) vừa là mặc khải về Con (20, 17). Đối với Phaolô cũng vậy: giây phút cuối đời Chúa Giêsu, hay đúng hơn sự Phục sinh của Người, là lúc mà Chúa Giêsu trở nên hay lại trở nên thực sự chính Người: bấy giờ Người trở nên Chúa, Con Thiên Chúa quyền năng (Rm 1,4) thu hồi lại những ưu phẩm của thần tính Người (Pl 2,6-11) Sự cứu rỗi là nhận biết Chúa Giêsu ấy (2Cr 5,16). Việc giải thích các câu 53-63 như vậy thật rất chặt chẽ.
Một vài nhà chú giải đã tìm cách giải thích các câu này theo một đường hướng khác bằng cách xem mấy chữ "Và khi các ngươi thấy Con Người lên nơi Người đã ở trước" như một lời tiên báo việc đóng đinh trên thập giá (Cyrille, Maldonat, Tolet, Schanz) vì xét rằng, đối với Gioan. Giờ của Chúa Giêsu là giờ Người bị nâng cao trên thập giá và được vinh hiển. Nhưng ở đây, lối giải thích này ít xác đáng vì hai lý do:
1/ Động từ amabainein "lên" không bao giờ tương đương với động từ hupsôthênai "giương cao" trong Tin mừng thứ tư cả (3,14; 12,32-34)
2/ Việc gương cao trên thập giá không đặt Chúa Giêsu vào nơi mà Người đã ở trước. Vì thế, hình như bắt buộc phải hiểu nghĩa Thăng thiên.
Ý kiến này được đa số chấp nhận. Người ta cỏn có thể tranh luận về cách thức bổ túc câu này, là câu chưa chấm dứt và do đó có vẻ tối nghĩa, có lẽ do chủ ý. Nhưng dầu sao, chính mầu nhiệm Thăng Thiên sẽ đưa ra giải đáp đúng nhất cho các khó khăn.
3. “Thần khí mới tác sinh, xác thịt thì không ích gì" (c 63)
Phải chăng những lời này muốt bảo: chỉ có Thần khí mới ban sự sống còn xác thịt của Con Người thì không có ích chi? Thế tại sao lại nhấn mạnh đến việc cần thiết phải ăn thịt ấy trong diễn từ về bánh? Câu này thật là một skandalon, một chướng ngại cho nhiều nhà chú giải.
Người ta năng gặp cách chú giải câu đó như sau: "Xác thịt không ích gì" có nghĩa là xác thịt vật chất của Chúa Giêsu sẽ chẳng có một công hiệu cứu rỗi nào nếu không có "thần khí tác sinh"; điều này giả thiết sự sống lại của Chúa Giêsu, việc Người vượt qua tình trạng vinh hiển và thiêng liêng, và việc Thần khí can thiệp trên các yếu tố được thánh thể hóa để làm thành thịt và máu của Đấng Sống lại. Nhưng lối giải thích này không lưu ý đến sự mạch lạc toàn bộ của diễn từ. Thật vậy từ c.53 đến 56, Chúa Giêsu nói về thịt Người hoặc thịt của Con Người một cách rất minh nhiên và quả quyết không chút dè dặt rằng đó thật là một của ăn (c.55) cung cấp sự sống vĩnh cửu (c 54). Người ta khó mà hiểu làm sao nơt c.63a, Người nhắc lại cùng một thực tại ấy khi nói về thịt mà chẳng xác định là thịt Người, và liều mình tương đối hóa lời tuyên bố của Người trước đó mấy câu. Sau hết, ngay tiếp theo c.63a Người bảo: "Lời Ta đã nói với các ngươi là Thần khí và là sự sống''. Câu này cho thấy rõ ràng quyền lực Chúa Giêsu đang có khi Người tuyên bố nó ra. hình như không chắc là ở đây Người bảo thịt Người chẳng lợi ích gì cả, vì như thế thì không còn mạch lạc giữa lời nầy với các lời trước.
Thật ra, hợp lý hơn khi giả thiết rằng trong c.63, không còn vấn đề thịt Chúa Giêsu, thịt được hy tế cho chúng ta, dấu chỉ hữu hiệu của tình thương Người và lương thực nuôi sống chúng ta nữa, nhưng là xác thịt nói chung, là nhân tính chúng ta, nhân tính bất lực trong việc cứu rỗi chính mình cũng như đón nhận ơn cứu rỗi và chân lý do Chúa Giêsu mang đến (x. Mt 16;17). Bản văn không bàn tới sự đối nghịch giữa "Thịt Ta -Thần Khí", nhưng tới sự đối nghịch, theo quan niệm sêmita, giữa Thần khí - xác thịt là ngày nay ta đến tả dưới hai ý niệm nhân loại thần linh (x. 3,6). Các người Do thái bực tức trước những lời nói của Chúa Giêsu. Vì, noi theo người đại tiện nổi tiếng của họ là Nicôđêmô, họ chỉ xét mọi sự dưới khía cạnh phàm trần mà không để ý gì đến những khả hữu tính thần linh. Khi phê phán những lời của Chúa Giêsu trong ý nghĩa nguyên thủy của chúng cũng như trong lối giải thích của Gioan trên những nền tảng nhân loại, thì những lời nói ấy hiển nhiên là phi lý. Nhưng đọc những lời nói đến sự sống vĩnh cửu trong một viễn tượng nhân loại thì lại còn phi lý hơn.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Nhiều môn đồ nói..."
Tiếng Hy lạp pelloi có thể hiểu là ‘nhiều' hay ‘khá nhiều’, nghĩa đầu mạnh hơn nghĩa sau; ở đây cũng như ở chỗ khác, không thể nào xác định được. Cũng chẳng rõ là số "môn đồ'' ấy có bao hàm nhóm Mười hai hay không. Tuy nhiên, dựa vào việc Phêrô xem ra nhân danh nhóm Mười hai để minh định lập trường, nên có lẽ không được liệt nhóm Mười hai vào số các môn đồ lẩm bẩm kêu ca Chúa Giêsu, ngoại trừ Giuđa, vì Chúa Giêsu đã gọi y là "quỷ sứ" (6,70).
"Lời chi mà sống sượng thế"
Không phải là khó hiểu, nhưng đúng hơn là khó nuốt, khó chấp nhận.
"Vì chưng ngay từ đầu, Chúa Giêsu đã biết kẻ sẽ nộp Người là ai"
Không chắc Gioan muốn nói với độc giả là Chúa Giêsu đã biết sự bội phản tương lai của Giuđa ngay khi Người gọi ông làm sứ đồ. Tiếng từ đầu không buộc phải hiểu như vậy; hơn nữa một sự hiểu biết như thế của Chúa Giêsu sẽ khiến việc chọn Giuđa thành khó giải thích, đó là chưa kể nó không mấy phù hợp với bản tính nhân loại thực sự của Chúa Giêsu. Nếu cho rằng Chúa Giêsu chỉ khám phá ra là Giuđa không đáng tin cậy sau khi đã sống thân mật với ông một thời gian, thì tiếng ngay từ đầu mới có thể biện minh được.
"Từ đó"
Thành ngữ ektoutou, ngoài nghĩa thời gian, còn có thể có nghĩa nguyên nhân (như trong các chỉ cảo): Gioan muốn bảo rằng sự đào ngũ đông đảo mà ông đang đề cập có nguyên nhân trực tiếp là giáo thuyết mà Chúa Giêsu vừa đề ra.
"Ngài có những lời đem đến sự sống đời đời"
Nói cho đúng, phải dịch câu này như sau: "Ngài có nhiều lời ban sự sống đời đời" (TOB). Nhưng ở đây, như thường thấy trong Gioan, việc thiếu quán từ có lẽ là do ảnh hưởng của căn ngữ sêmita. Do đó, cách dịch của BJ có thể bào chữa được.
KẾT LUẬN
Các lập trường đã chọn lựa xong, các phe nhóm đã phân chia rõ ràng. Giuđa và người do thái có thể chuẩn bị vụ án Chúa Giêsu. Thật ra, chính Con người sắp xử án dân bị loại bỏ của Thiên Chúa, giữa niềm vui của ngày lễ Lều Trại và lễ Đền thờ là hai đại lễ của dân "được tập họp" của Thiên Chúa (Ga 7-10).
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Phần kết luận của diễn từ về bánh sự sống dẫn đưa chúng ta tới cao điểm của cơn khủng hoảng từ đó phát sinh cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu. Chúa đã hỏi một số lời bắt người ta phải chọn lựa: hoặc tin vào Người, hoặc từ chối không tin.
2. Sở dĩ một số môn đồ kêu ca khó chịu và từ chối tin, là vì họ có một cách thức hiểu lời Chúa Giêsu. Hoặc họ từ chối, hoặc đối với một vài kẻ, chưa đến giờ tin, tất cả là vì họ không hiểu lời Chúa Giêsu trong Thần khí. Họ chẳng chịu vượt qua sự hiểu biết vật chất và xác thịt về những lời của Người. Tại sao vậy? Vì tâm hồn họ không ở trong tình trạng đón tiếp. Tâm trí họ đóng kín trước điều mới mẻ. Họ giam mình trong thế giới vật chất mà họ coi là dễ chấp nhận hơn. Điều Chúa Giêsu nói không thể nào có được xét theo con người, thành thử họ loại bỏ. Điều bất hạnh cho họ nằm trong câu hỏi: Điều gì không thể được đối với Thiên Chúa? Ở đây, họ tỏ ra thiển cận, chỉ muốn phê phán điều có thể và không có thể; họ chẳng có ý định đi tìm quan điểm mà từ đó một số tâm hồn đơn sơ tự nhiên thấy được lối vào trong cái vô biên của thực tại, thực tại Thiên Chúa. Chúng ta đang đứng trước một trường hợp điển hình của sự tự mãn ngoan cố và hẹp hòi của trí tuệ con người chỉ muốn phủ nhận cái bên kia những chân trời của nó. Các sứ đồ dã có được phản xạ cứu thoát họ. Được ân sủng bên trong của Thần khí trợ giúp, họ đã vượt thắng được sự khó hiểu bằng cách trung thành với Chúa Giêsu chỉ Người là "Đấng Thánh của Thiên Chúa".
3. "Nhưng trong các ngươi, có những kẻ không tin". Hãy tự vấn xem câu này có liên can đến chúng ta, là những tín hữu của thế kỷ XX không? Việc đọc và nghe lời Chúa Giêsu làm chúng ta đặt lại vấn đề. Chúng ta có cho những lời ấy là quan trọng, có thực sự muốn lao công vì "lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống đời đời" (6,27), có muốn tiếp nhận lương thực ấy bằng cách ăn uống Thịt Máu của con Người và thông hiệp vào cuộc khổ nạn của Người không? Nếu không, chúng ta hãy thành thật thú nhận: "Lời chi mà sống sượng thế ”. Ai nghe được (c 60) và hãy rút ra những hậu quả. Chúng ta đừng hy vọng đánh tráo: "Bởi chưng ngay từ đầu Chúa Giêsu đã biết ai là những kẻ không tin và ai là kẻ sẽ nộp Người. Và Người nói: Vì thế Ta đã bảo các ngươi: không ai có thể đến với Ta trừ phi là đã được Cha ban cho". Lúc chúng ta quyết định, thì Chúa Giêsu nhắc lại rằng rốt cuộc đức tin của chúng ta không thể căn cứ vào những nhận xét, những suy diễn hoặc những cảnh tượng chủ quan, những căn cứ vào mặc khải mà Thiên Chúa ban cho chúng ta về nhân cách đích thực của Chúa Giêsu và về tương quan giữa ta với Người.
4. Thánh Thể là bí tích và là chiến thắng của sự bé nhỏ Tin Mừng: trong Thánh Thể chúng ta là con và lại được trở thành con cái Thiên Chúa. Vì để tin rằng Thiên Chúa đến với chúng ta dưới hình bánh, thì phải có một tâm hồn của trẻ nhỏ, cởi mở đón nhận những điều diệu kỳ của Thiên Chúa. Hãy nhớ lại câu nói rất mạnh của thánh Tôma: "Chúng ta luôn luôn như là đứa bé trong lòng mẹ trên trần gian này". Chúng ta đang ở vào thời gian con nhộng. Trong thế giới bên kia, con bướm sẽ ra khỏi bóng tối của nó và sẽ triển nở trong ánh sáng chan hòa.
26. Lòng trung thành – Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
Chúng ta vẫn thường hay nghe nói người này hứa dỏm, người kia hứa lèo. Chính bản thân nhiều khi cũng tỏ ra bực mình vì ai đó không giữ đúng lời hứa. Từ những chuyện nhỏ nhất, tầm thường nhất của cuộc sống, đến những vấn đề quan trọng nhất, người ta đều có thể bất trung thất tín. Ví dụ: Ai cũng biết, hôn nhân là mối dây ràng buộc chặt, nhưng người ta vẫn phản bội nhau. Một hợp đồng kinh tế vừa mới ký xong, có thể vì lợi lộc riêng tư, người ta vẫn phản bội hợp đồng đó. Một hiệp ước hòa bình giữa hai đảng phái đã được ký kết để đừng chém giết nhau nữa, thì cũng không ai dám tin chắc rằng, hai đảng phái đó hoàn toàn tuân theo hiệp ước, dù nó là hiệp ước quốc tế đi nữa. Vậy là chiến tranh nổ ra, chém giết vẫn còn, những cái chết oan uổng vẫn không ngừng tiếp diễn. Nhìn vào thực tế của đời sống như thế, nhiều lúc ta như chán nản, bật thốt lên: Người đời là vậy! Họ phản bội nhau, bất trung với nhau, không cần đếm xỉa gì đến hậu quả.
Đối với nhau đã vậy, đối với Thiên Chúa, con người cũng phản bội, cũng bất trung không kém. Từ thuở bình minh của nhân loại, thế giới, theo Thánh Kinh diễn tả, chỉ có hai người: Ađam, Eva. Tưởng chừng cả hai sẽ an phận trong hạnh phúc tuyệt đối Chúa đã an bài. Nhưng không, lòng tham, sự kiêu ngạo đã làm hai ông bà không chấp nhận hạnh phúc đó, mà lại muốn bằng Thiên Chúa. Để bằng Thiên Chúa, chỉ còn cách không vâng lời, chống lại Thiên Chúa, bất trung với Người. Vì tội chống Thiên Chúa một cách tày trời, đã gây ra hậu quả không lường: cả loài người cùng bị vạ lây trong tội nguyên tổ.
Bất trung của Ađam và Eva là mở đầu cho vô vàn những bất trung mà con người phản bội Thiên Chúa. Chẳng hạn, thời gian dài dân Chúa phải lang thang trong sa mạc là một bằng chứng. Bốn mươi năm trường nếm đủ mùi vị của khổ đau: nào là đói, rét, khát, rắn độc cắn…, đã làm cho dân của Chúa mất kiên nhẫn, nhiều lần lên tiếng trách móc ông Môsê và ông Aaron. Không dừng ở đó, họ còn oán trách nặng lời đối với Thiên Chúa của họ. Họ nghi ngờ lòng thương xót của Chúa: không biết Chúa có thương mình không, hay Thiên Chúa đem họ ra khỏi Aicập để mượn nỗi khổ gay gắt của sa mạc để giết chết họ? Lòng dân nổi loạn đến mức, có lần ông Môsê thất vọng cùng cực, than thở với Chúa: Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài? Tại sao con không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên vai con? Có phải con đã cưu mang dân này đâu?... Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con. Nếu Ngài xử với con như vậy, thì thà giết con đi còn hơn…” (Ds 11, 12tt). Trong sa mạc, lòng dân quên mất tình yêu của Chúa, vì thế đã không biết ơn Thiên Chúa của mình, ngược lại, nhiều lần họ đi từ thái độ bất trung đến đối nghịch Thiên Chúa.
Hôm nay bài đọc một là một phần của câu chuyện dài về lòng thương xót của Thiên Chúa và sự bất trung của dân Người. Sau những năm tháng lang thang rày đây mai đó trong sa mạc, bây giờ sắp định cư trong đất hứa, hạnh phúc chỉ còn là một bước nhảy về phía trước. Trong hoàn cảnh này, dân Chúa phải xác định lại lập trường của mình: Họ có muốn trung thành theo Chúa, thờ phượng Chúa nữa hay không? Dẫu hôm nay, họ dỏng dạc tuyên bố sự chọn lựa của mình: “Không đời nào chúng tôi bỏ Đức Chúa mà đi thờ các thần khác”, và dù cho lý do buộc họ phải xác định lại đức tin của mình là bởi đã quá nhiều lần họ bất trung với Chúa, thì không phải vì thế, mà từ nay về sau họ không còn bất trung. Lời quyết tâm trung thành hứa trước nhan Chúa vẫn còn đó, nhưng lòng dân thì hay thay đổi. Suốt dọc dài của lịch sử, sự phản bội ngấm ngầm hay ra mặt đã làm cho dân của Chúa nhiều lần bước ra khỏi tình yêu của Người, sống cách xa Thiên Chúa. Chính sự bất trung liên tục mà dân Chúa đã bao lần chuốc lấy cơn phẫn nộ của Người. Nhưng nổi bậc lên trên tất cả, lớn hơn cả những lần phẫn nộ, lớn hơn cả sự phản bội của dân vẫn là tình yêu khoan dung, và tha thứ mà Thiên Chúa dành cho họ. Đọc Thánh Kinh ta có cảm tưởng như Thánh Kinh hình thành bởi một công thức gồm ba động từ: phản bội – nổi giận – tha thứ. Dân không ngừng phản bội, nhiều lần Thiên Chúa nổi giận, sau đó lại xót thương và tha thứ. Suốt chiều dài của lịch sử mà Thánh Kinh diễn tả cứ lặp đi lặp lại y như thế.
Đó là bài đọc I trích trong sách Giosuê. Trong bài Tin Mừng, một lần nữa, ta lại thấy lời khẳng định về lòng trung thành một cách dứt khoát của thánh Phêrô: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa”. Dù khẳng khái là thế, nhưng không phải mọi lúc Phêrô đều cứng rắn và hết lòng trung thành. Vì khi Thầy Giêsu của mình lâm nguy trong cuộc tử nạn, có lẽ chính là lúc Thầy cần Phêrô nhất: cần một sự đồng cảm, cần một sự chia sẻ nào đó, cần lắm một thái độ, ít nữa là một ánh mắt tin tưởng để Thầy bớt cô đơn trên mỗi bước đường thập giá… Chính những giờ phút quan trọng ấy, những giờ phút cần thiết ấy, Phêrô lại quên mất lời tuyên xưng mới đó, tính cho đến thời điểm diễn ra cuộc thương khó của Thầy, chưa được bao lâu. Vì một chút sợ hãi và yếu lòng, Phêrô đã chối Thầy, không phải một lần, mà là ba lần, không phải trong ba năm, nhưng chỉ cách nhau có hai canh gà!
Ôn lại những gì dân Chúa đã sống ngày xưa, và nhìn lại lời tuyên xưng cũng như lỗi lầm của thánh Phêrô nhân dịp Hội Thánh mời gọi ta suy niệm các bài Kinh Thánh nói về lòng trung thành trong ngày Chúa nhật XXI, bạn và tôi, một lần nữa, hãy thâm tín một cách chắc chắn rằng, Chúa vẫn yêu chúng ta, yêu từng người một. Dẫu ta có lỗi lầm bao nhiêu, có bất trung cách mấy, Chúa vẫn một lòng khoan dung tha thứ. Chúa đã chấp nhận nguyên tổ ngay cả khi nguyên tổ chống đối Chúa; Người cũng không vì lỗi lầm của dân riêng mà khước từ tình yêu đối với họ, cũng không phải vì Phêrô yếu đuối mà Chúa tước quyền làm tông đồ trưởng, hơn nữa làm giáo hoàng tiên khởi của Hội Thánh, thì hôm nay bạn và tôi vẫn có quyền hy vọng. Chúa vẫn thế, vẫn mãi mãi là Thiên Chúa của lòng trung thành, của tình yêu và tha thứ, chỉ sợ chúng ta không hy vọng nữa mà thôi. Ta bất trung với Chúa nhiều lần, đó là sự thật. Nhưng còn một sự thật khác lớn hơn nhiều: Tình yêu của Chúa lớn hơn mọi tội lỗi của ta. Bởi thế, biết mình yếu đuối, lỗi lầm bao nhiêu, ta càng vững tin vào Chúa bấy nhiêu. Nếu lỡ có lần nào vấp ngã, ta nhanh chóng đứng lên và chạy về phía Chúa. Bí tích giải tội là cách tốt nhất để ta lấy lại bình an, lấy lại lòng trung thành cùng Chúa mà chính mình đã đánh mất.
27. Suy niệm của Lm. Anfonso
Tin mừng Ga 6: 60-69: Chúa Giêsu cũng chấp nhận sự thật phủ phàng ấy, Người liền nói với nhóm Mười Hai rằng: "Cả các con, các con có muốn bỏ đi không?" Chúa Giêsu không muốn kéo số đông về mình vì chân lý không thuộc về số đông...
Suy niệm
Rất thường trong cuộc sống, chúng ta nghe người ta quan niệm rằng “Đạo nào cũng là đạo, đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành”. Thưa như thế là đang nói về phương diện đời sống luân lý của đạo. Việc “đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành” là hệ quả của của lòng tin. Đó là phương tiện để nâng con người lên. Nhưng để có thể ý thức ăn ngay ở lành thì điều quan trọng là cần có phương diện tâm linh, có tin thì mới sống được.
Cốt lõi của niềm tin Kitô giáo dạy về một Thiên Chúa yêu thương trao ban tất cả cho con người, thậm chí cả mạng sống mình. Nhưng cũng chính điều ấy lại trở nên nguyên cớ cho người ta tỏ vẻ khó chịu: “Lời này chói tai quá, ai mà tin được”. Điều này đã khiến một số người quay lưng lại với Chúa.
Và Chúa Giêsu cũng chấp nhận sự thật phủ phàng ấy, Người liền nói với nhóm Mười Hai rằng: "Cả các con, các con có muốn bỏ đi không?" Chúa Giêsu không muốn kéo số đông về mình vì chân lý không thuộc về số đông. Người không muốn dùng quyền lực và vị thế mình để ảnh hưởng trên sự chọn lựa của người khác. Người để cho từng người tự chất vấn lương tâm mình, để sự chọn lựa riêng theo tự do mới là sự lựa chọn trưởng thành. Và Phêrô đại diện nhóm Mười Hai thưa Người: "Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời".
Vâng, sẽ có lúc trong cuộc sống, ở những ngã rẽ, chúng ta phải thực hiện cho mình những chọn lựa. Lựa chọn ấy quyết định hướng đi, hành động và lối sống của mình. Và sự chọn lựa đẹp nhất, đáng trân trọng nhất lại chính là sự chọn lựa trong những giờ phút cực kỳ khó khăn, tăm tối và gian khổ. Cũng vậy, trong khi người này người kia bỏ Chúa, quay lưng lại với Chúa, trong khi niềm tin của các môn đệ đang bị thử thách mà các ngài vẫn chọn Thầy và tin rằng “Thầy là Ðấng Kitô Con Thiên Chúa” thì chính sự lựa chọn này sẽ nâng đỡ niềm tin cho các môn đệ.
Ngạn ngữ có câu: “Người bạn chân thành nhất là người bạn bên cạnh trong lúc hoạn nạn của bạn mình”. Chính khi các môn đệ chọn Chúa làm bạn mình thì rồi trong những khó khăn, các ngài sẽ cảm nghiệm được sự đồng hành của Chúa. Việc chọn lựa ấy còn nói lên sự trưởng thành trong đức tin, nhờ đó các ngài mới có thể được nâng đỡ và vượt qua những lúc khó khăn nhất trong cuộc sống. Cũng chính sự lựa chọn quyết liệt ấy mới cho các ngài có đủ sức mạnh bước theo Thầy đến giây phút tàn hơi.
Gần đây, một số bài báo trên truyền thông đưa tin giật gân về việc Hoa Kỳ đang bị những tai tiếng khiến nhiều người tỏ ra thất vọng về Giáo hội. Dẫu vậy, cùng lúc ấy, cũng xuất hiện những dòng bình luận trên internet như sau: “Bạn nghĩ bạn muốn chạy trốn khỏi Giáo Hội. Bạn nghĩ bạn sẽ tìm được một nơi không còn giả hình, không tội lụy à? Tôi không chắc bạn sẽ tìm ra được một nơi như thế. Nhưng điều chắc chắn rằng bạn sẽ không tìm được ở đấy một vị Thiên Chúa khóc lóc, chảy máu và chịu chết, Đấng đã nhận lấy tội lỗi vào cõi lòng Người, nuốt nó trọn khối, để nó bừng bừng trong dạ cho đến khi cháy tàn mới thôi. Bạn chỉ tìm thấy một Thiên Chúa như thế trong Thánh Hội Công Giáo Rôma. Giáo hội không thối rữa đến tận trái tim vì Chúa Giêsu là trái tim nó”.
Vâng, chính khi chúng ta đặt niềm tin tưởng vào Chúa với lời tuyên xưng khẳng khái như Phêrô, vị Tông đồ Cả rằng “Thầy là Ðấng Kitô Con Thiên Chúa”, đức tin ấy giúp biện chứng cho việc Thiên Chúa có khả năng khơi lên ngọn lửa từ đống tro tàn, Ngài có khả năng biến sự dữ thành sự lành, biến cuộc khổ nạn với thập giá trên đồi Calvariô trở nên Thánh giá cứu đời. Và cũng bởi tin vào một Thiên Chúa duy nhất và quyền năng, chúng ta mới có được sự sống đời đời, sự sống Thiên Chúa trao ban cho con người, như thánh Irênê giáo phụ đã cho biết và được Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo số 460 trích lại: “Đây là lý do tại sao Ngôi Lời đã làm người, và Con Thiên Chúa đã trở thành Con Người: để con người, qua việc bước vào sự hiệp thông với Ngôi Lời và nhờ đó nhận được quyền làm con Thiên Chúa, có thể trở thành một người con của Thiên Chúa” (Adversus haereses, 3,19,1: PG 7,939; x. GLHTCG, 460).
Lạy Chúa, xin cho con cũng mạnh mẽ trong quyết định của mình khi trở nên một Kitô hữu, khi chọn Chúa làm cùng đích đời con, vì con tin rằng chỉ ở nơi Chúa, con mới có được sự sống đời đời. Amen.
28. Lời Hằng Sống – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Sau khi ông Môisen qua đời, ông Joshua, con của ông Nun, lên kế vị dẫn dân Do-thái vượt qua sông Jordan vào miền Đất Hứa. Toàn dân và gia đình ông Joshua đến trước Thiên Chúa ở giữa công đường, ông Joshua gợi ý cho dân chọn lựa tôn thờ Thiên Chúa hay tôn thờ các thần dân ngoại:Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Thiên Chúa, thì hôm nay anh em cứ tuỳ ý chọn thần mà thờ hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người E-mô-ri mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Thiên Chúa (Jos 24, 15). Dân chúng và gia đình ông Joshua đã chọn Thiên Chúa làm phần gia nghiệp. Ông Joshua đã trở thành người lãnh đạo tín trung và can đảm dẫn đưa dân vào miền đất chảy sữa và mật như lời đã hứa.
Dân Do-thái đã chọn đi theo Chúa tiến vào miền Đất Hứa nhưng rồi chẳng được bao lâu, dân chúng quên lời đã thề hứa. Họ bỏ Chúa, chạy theo các thú vui trần thế, tôn thờ các tà thần và sống theo thói tục của dân ngoại. Chúa phạt tội lỗi của họ, nhưng rồi Chúa lại tha thứ. Lịch sử cứu độ cứ thế lập đi lập lại với hết dòng dõi này sang dòng dõi khác. Thiên Chúa vẫn luôn kiên nhẫn đợi chờ. Qua các thử thách, Thiên Chúa hé mở những mầu nhiệm cao siêu trong cuộc sống bình thường. Từ những biến cố xảy ra hằng ngày, Thiên Chúa lại mở thêm những cánh cửa để dẫn con dân đi tìm về nguồn yêu thương. Không có một sự cố nào xảy ra mà không ghi dấu ấn tình yêu thương vô bờ của Thiên Chúa. Con đường cứu độ là con đường tình yêu và tha thứ. Yêu thương là ban tặng và dâng hiến. Thiên Chúa trao cho nhân loại bánh hằng sống, chính là Con Một của Thiên Chúa.
Sau khi Chúa Giêsu đã mạc khải về bánh ban sư sống bởi trời là thịt và máu Chúa, có nhiều người khó chịu về giáo lý này. Họ nói rằng: Lời này chói tai qúa! Ai nghe được. Chúa Giêsu biết rõ lòng họ nhưng Chúa không rút lại lời đã nói. Chúa không ngại để họ được tự do ra đi. Ngay cả các tông đồ, Chúa đã hỏi: Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ đi không? Phêrô thưa: Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai. Chúa không muốn mị dân để làm vừa lòng mọi người. Chúa cho chúng ta được tự do chọn lựa thái độ. Chúng ta không thể đi nước đôi theo kiểu bắt cá hai tay. Tông đồ Phêrô đại diện cho anh em tuyên xưng niềm tin một cách xác tín: Thầy mới có lời ban sự sống đời đời.
Thái độ của Chúa Giêsu khác biệt thái độ của nhiều nhà lãnh đạo. Các lãnh tụ thế gian muốn mình trở thành số một, có quyền hành và muốn được người khác phục vụ. Người cầm quyền dùng nhiều thủ đoạn tìm vinh quang và thu gom cho mình mọi thứ ở trần gian. Họ thường dùng những lời hứa suông vượt trên khả năng và quyền hạn của họ để bảo đảm sự an toàn cho người khác. Họ muốn giới hạn tự do và ngay cả quyền thiêng liêng của con người để phục vụ cho chính sách và đường lối chính trị của phe nhóm họ. Trái lại, Chúa Giêsu không tìm vinh quang cho chính mình. Ngài qui mọi vinh quang và danh dự về Chúa Cha.
Khi Chúa chữa lành cho người phung hủi. Chúa nói với anh: "Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết (Mc 1, 44). Chúa chối từ sự tôn vinh của người đời. Khi Chúa hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng ăn no nê, họ muốn tôn Chúa làm vua, Chúa đã từ chối. Chúa Giêsu từ trời hạ sinh làm người, nhưng Chúa lại chọn con đường phục vụ từ dưới thấp đi lên. Chúa khiêm hạ trong phục vụ. Chúa cúi xuống rửa chân cho các tông đồ. Khi Chúa xua đuổi qủy ám ra khỏi người đàn ông Gerasene, ông ta muốn ở lại với Chúa: Nhưng Chúa không cho phép, Người bảo: "Anh cứ về nhà với thân nhân, và thuật lại cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương anh như thế nào (Mc 5, 19). Chúa mời gọi mọi người đi theo Chúa để được lãnh nhận ơn cứu độ, nhưng Chúa không ép buộc hay cưỡng bức. Chúa để họ được hoàn toàn tự do lựa chọn.
Chúa Giêsu là thủ lãnh, là chủ chiên tốt lành và là Chúa đầy lòng xót thương. Chúa đã thí mạng sống vì đàn chiên. Trong vườn Cây Dầu, trước lúc bị bắt trói và dẫn đi, Chúa đã yêu cầu quân lính cho các tông đồ được tự do.Đức Giêsu nói: "Tôi đã bảo các anh là chính tôi đây. Vậy, nếu các anh tìm bắt tôi, thì hãy để cho những người này đi (Ga 18, 8). Chúa còn có những sứ mệnh khác cho các tông đồ. Các Ngài sẽ nên nhân chứng cho sự đau khổ, sự chết và sự sống lại của Thầy. Chúa không hứa một cuộc sống sung túc, đầy đủ, an bình và hưởng lạc, nhưng là con đường thánh giá có nhiều chông gai. Chúa đáp lời môn đệ muốn đi theo: Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu (Lc 9, 58).
Lời Chúa là thần trí và là sự sống. Tác giả thơ Do-thái đã viết: Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử (Dt 1, 1-2). Qua Thánh Tử Giêsu, Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta về tình yêu của ơn cứu độ. Lời của Chúa Giêsu là lời hằng sống. Lời Chúa có uy quyền tác động biến đổi và có hiệu qủa ngay: Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy (Ga 6, 56). Chúa Giêsu đã từng chữa lành các bệnh nhân qua lời của Ngài.Người bảo anh bại tay: "Anh giơ tay ra! " Người ấy giơ ra, và tay liền trở lại bình thường (Mc 3, 5). Khi Chúa Giêsu đang ngủ trên tàu gặp sóng gió:Người thức dậy, ngăm đe gió, và truyền cho biển: "Im đi! Câm đi! " Gió liền tắt, và biển lặng như tờ (Mc 4, 39). Thánh Phêrô chỉ cho chúng tabiết rằng Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.
Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu Êphêsô đã khuyên dạy chúng ta: Anh em hay phục tùng nhau trong sự kính sợ Thiên Chúa (Eph 5, 21). Phaolô dùng hình ảnh của Chúa Kitô yêu thương Giáo Hội để nói về việc vợ chồng phục tùng lẫn nhau trong đời sống hôn nhân gia đình:Và như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy (Eph 5, 25). Giáo Hội luôn gắn kết với Chúa Kitô là đầu. Lời Chúa là kim chỉ nam và là nguồn sống của Giáo Hội. Thánh Kinh và Thánh Truyền là hai nguồn bảo chứng giúp Giáo Hội tồn tại.Giáo Hội tin tưởng vào quyền năng thánh hóa qua lời hằng sống:Người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống (Eph 5, 26).
Chúng ta lắng nghe, học hiểu, nhận biết và thực hành lời Chúa. Lời Chúa là lời quyền năng giúp chúng ta biến đổi nội tâm. Chúng ta cần học hỏi để có những kiến thức về đạo, nhưng điều quan trọng là tri và hành. Giống như chúng ta cầm được tấm bản đồ, chúng ta học biết các vị thế và nơi chốn nhưng chúng ta chỉ ngồi một chỗ thì sẽ chẳng bao giờ tới nơi. Lời của Chúa Giêsu mở cửa tâm hồn dẫn chúng ta đến hạnh phúc. Thực thi lời Chúa là chúng ta đang đi trên con đường chính thật. Chúng ta không thể đốt giai đoạn, mà hãy suy niệm và sống lời Chúa trong từng giây phút và qua từng cách ăn nết ở trong cuộc sống hằng ngày. Dấu chỉ của người môn đệ của Chúa là:Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau (Ga 13, 35).
Lạy Chúa, bỏ Chúa, chúng con biết theo ai. Chỉ có Chúa là Đấng Cứu Độ và là nguồn an lạc cho đời chúng con. Chúng con xin chọn Chúa làm gia nghiệp và là nơi chúng con nương náu ẩn thân. Chúng con xin chúc tụng và ngợi khen danh Chúa đến muôn ngàn đời.
29. Vừa vừa thôi chứ! – Guy Morin.
Đó là tiếng kêu người ta thốt ra khi không còn kiên nhẫn được nữa. Hồi nhỏ, khi chúng ta cãi lộn nhau dữ dội, cha mẹ chúng ta hết kiên nhẫn nổi và quát: “vừa vừa thôi chứ!”. Những lời như thể biểu lộ sự phản đối. Người ta cảm thấy bị tấn công bởi những điều thái quá nơi kẻ khác như nói năng, hoạt động, đòi hỏi quá mức. Đây là dấu hiệu cho hay đã tới cùng tận chịu đựng rồi, gần giống như phải chịu những tiếng ồn làm nức tai nhức óc. Trong Tin Mừng, các môn đệ nói một câu tương tự: “Lời này chướng tai quá!”. Các ông bực bội, bị tấn công bởi điều các ông xem như là thái quá trong lời lẽ của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đối diện với những hạn chế.
Sau diễn từ về Bánh hằng sống, trong đó Chúa Giêsu tuyên bố Ngài từ trời mà đến và Ngài sẽ ban thịt Ngài làm của ăn, nhiều môn đệ thấy những lời này là không thể chịu nổi. Vì, vốn là con ông Giuse, mà Ngài tự xưng mình từ trời xuống. Điều này vượt quá mức chịu đựng. Các ông không dám la hét phản đối, nhưng các ông lẩm bẩm chống lại Ngài. Chúa Giêsu đã đẩy họ đến mức tận cùng của sự chịu đựng. Có một giới hạn cho những gì các ông có thể chấp nhận được.
Chúa Giêsu sẽ phản ứng thế nào? Ngài có giữ vững lập trường hay là Ngài sẽ tìm cách giảm nhẹ lời nói của mình khi bảo rằng người ta đã hiểu lầm Ngài? Câu trả lời của Ngài thật tế nhị: Ngài không rút lại những lời Ngài đã nói, nhưng Ngài mời gọi các môn đệ của Ngài nhìn xa hơn và cho các ông thấy thái độ cần phải có. Ngài nói về việc Ngài lên trời: “Và nếu các con thấy Con Người lên nơi Ngài ở trước kia thì sao?”. Như thể Ngài muốn nói: “Khi các con nhìn thấy Ta lên Trời lúc đó các con sẽ hiểu rằng Ta từ trời xuống và điều đó sẽ không còn là cớ vấp phạm cho các con nữa”. Ngài yêu cầu các ông nhìn xa hơn tình hình hiện tại đang thử thách các ông và làm cho các ông vấp ngã. Sau đó, Chúa Giêsu gợi ý cho các ông về cách giải quyết: Đừng xét đoán Ngài theo xác thịt, theo dáng vẻ bên ngoài và những tiêu chuẩn của loài người, nhưng theo Thần Khí, tức là tin vào lời Ngài nói: “Những lời Thầy nói với các con là Thần Khí và sự sống”. Từ những dấu chỉ mà họ đã nhìn thấy: Phép lạ hóa bánh, việc đi trên mặt biển, Chúa Giêsu thúc giục các môn đệ tin lời Ngài cách vô điều kiện. Thật quá tầm mức các ông. Các ông quyết định không đi theo Ngài nữa.
Nhóm Mười Hai vô điều kiện.
“Các con cũng muốn bỏ đi nữa không?”. Chúa Giêsu không muốn gây áp lực trên Nhóm Mười Hai hoặc thu hút lòng thương hại của các ông. Chúa đòi hỏi nơi các ông một quyết định của ý chí, một lời tuyên xưng ý định của các ông. Phêrô nhân danh những anh em khác trả lời một cách vô điều kiện, không đặt một giới hạn nào cho sự gắn bó của mình: “Bỏ Thầy chúng con biết đi với ai?”. Câu hỏi này là một sự khẳng định mạnh mẽ niềm thán phục của ông đối với Chúa Giêsu: “Chúng con không có ai xứng đáng hơn Thầy để theo cả. Không có sự lựa chọn nào khác đáng giá cả. Chỉ mình Thầy mới mang lại cho cuộc đời chúng con một ý nghĩa mà thôi”.
Phêrô đưa ra những lý do của việc lựa chọn vô điều kiện này, đó là lời của Chúa Giêsu và căn tính của Ngài. Quả thật, nếu Nhóm Mười Hai gắn bó với Ngài, là vì Ngài có những lời ban sự sống đời đời. Những môn đệ bỏ đi nhận thấy những lời này quá đòi hỏi và các ông cảm thấy không thể sống nhờ chúng được. Tuân giữ những lời này sẽ thực sự khó mà sống được. Đối với Nhóm Mười Hai thì ngược hẳn lại. Hơn nữa, nhờ lắng nghe Chúa Giêsu các ông mới nhận ra được căn tính của Ngài, các ông đã nhận ra được Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa: “Về phần chúng con, chúng con tin và chúng con đã biết…”. Đức tin đi trước việc hiểu biết. Các ông tin để hiểu, trong lúc những người bỏ đi muốn hiểu trước đã, vì họ không tin tưởng nơi Chúa Giêsu. Như vậy, Nhóm Mười Hai đã nhận ra nơi Chúa Giêsu một con người mà Thiên Chúa đã thánh hóa để thi hành một sứ vụ như các ngôn sứ ở Israel, trong lúc những người kia chỉ nhìn thấy nơi Ngài “Con ông Giuse mà chúng tôi biết cha mẹ” (c.42). Đức tin dẫn đưa Nhóm Mười Hai đến chỗ nhận ra ý định của Thiên Chúa được biểu lộ nơi Chúa Giêsu.
Trở thành những kẻ vô điều kiện.
Cũng như các môn đệ, chúng ta có thể trải qua thử thách về đức tin. Cuộc sống sẽ mang đến cho ta những thử thách này: “Thất bại cá nhân, bệnh tật, bất công, vấn đề đói kém. Thiên Chúa làm gì vậy? Chúng ta không hiểu và chúng ta bị cám dỗ buông thả hết. Chúa Giêsu nhắc lại với chúng ta “Các con có muốn bỏ đi không?”. Lúc đó chúng ta được mời gọi trở thành những kẻ vô điều kiện của Chúa Giêsu, làm một bước nhảy vọt trong đức tin.
Thánh Thể tưởng niệm Chúa Giêsu trong tư cách là Đấng vô điều kiện của Chúa Cha: “Không theo ý con, nhưng theo ý Cha”. Theo mức độ chúng ta tin vô điều kiện, Thánh Thể cũng tưởng niệm chúng ta nữa.
30. Chọn Chúa là gia nghiệp đời tôi
Cuộc đời con người là một chuỗi dài những sự chọn lựa. Có lẽ chỉ trừ việc sinh ra và cái chết là người ta không có quyền lựa chọn, còn tất cả mọi việc khác thì người ta phải lựa chọn. Nếu chọn đúng, thì đời mình sẽ tốt đẹp và hạnh phúc, còn nếu chọn sai thi đời sẽ bất hạnh. Sống là phải lựa chọn luôn. Đời là vậy. Chúa cũng muốn chúng ta luôn lựa chọn.
Trong bài đọc I hôm nay, chúng ta nghe ông Giôsuê triệu tập toàn thể dân chúng lại, truyền cho họ đứng trước nhan Chúa, rồi ông nói với họ: "Hôm nay, các ngươi hãy tùy ý chọn lựa phải tôn thờ ai, Thiên Chúa hay các tà thần?". Dân Do Thái hồi tưởng lại biết bao ơn lành Chúa đã ban cho họ, đã cứu họ thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập. Mặc dù họ phản bội, Chúa vẫn luôn rộng lòng tha thứ, yêu thương chờ đợi họ trở lại phụng thờ Ngài. Toàn dân đã biết hối cải, chừa bỏ tội lỗi và đã đồng thanh quyết định chọn Thiên Chúa để tôn thờ Ngài. Họ thưa với Giôsuê: "Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Thiên Chúa mà tôn thờ những thần ngoại lai, vì Chúa là Thiên Chúa chúng tôi". Đó là một sự lựa chọn của dân Do Thái quyết tâm theo Chúa Giavê.
Trong Bài Phúc âm hôm nay kể lại việc sau khi dân chúng được ăn no nê, họ được Chúa giảng về Bánh Hằng Sống và lương thực bởi trời; Ngài tự xưng mình là Bánh Hằng Sống và quả quyết với họ rằng: "ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời". Đứng trước lời mời gọi này có những kết quả chọn lựa khác nhau, có nhiều người chọn giải pháp không đi theo Ngài nữa và cũng nhóm những tâm hồn thành tâm thiện chí chọn đi theo Chúa Giêsu. Nhiều người cho rằng "lời gì mà nghe chói tai quá" và họ quyết định không đi theo.
Vì thế, sau khi họ bỏ Chúa Giêsu ra đi, Ngài quay lại hỏi các Tông Đồ: "Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ Thầy ra đi không?" Thánh Phêrô đại diện các Tông Đồ thưa với Chúa rằng: "Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời". Đó là sự chọn lựa của Phêrô. Như thế, dân Do Thái chọn bỏ Chúa còn Phêrô thì chọn theo Chúa Giêsu, chọn Chúa Giêsu là gia nghiệp đời mình.
Là người Công Giáo, khi lãnh Bí Tích Rửa Tội, chúng ta quyết định chọn Chúa và đi theo Chúa, chúng ta tôn nhận Chúa là Thiên Chúa và chỉ tôn thờ, phụng sự, yêu mến duy một mình Người. Đó chỉ là sự chọn lựa của đức tin. Tuy nhiên, trong cuộc sống của mình, chúng ta đứng trước nhiều cơ hội để chọn lựa hơn nữa, để sống và làm chứng cho đức tin. Chúng ta hãy triệt để thi hành những điều phù hợp với ý Chúa, đó là cách chọn lựa thích hợp nhất theo bản vẽ mà Chúa đã thiết kế cho đời chúng ta. Vì thế, chọn sống theo ý Chúa và thực hành theo đức tin là một việc làm liên tục, thường xuyên cho đến chết. Đó là một đòi hỏi của đức tin.
Vì thế, đức tin này là một con đường dẫn ta tới Chúa. Đây là một con đường dài mà ta sẽ phải đi suốt cuộc đời. Con Đường đức tin có những quãng đầy hoa thơm cỏ lạ, ta cảm thấy phấn khởi vì được gặp gỡ Chúa, được Chúa an ủi, mọi sự diễn ra êm xuôi tốt đẹp. Nhưng đức tin sẽ phải trải qua những quãng đường gian nan đầy sóng gió không còn êm trôi. Có khi ta gặp khó khăn thử thách, gặp đau khổ, thất bại. Đôi khi chúng ta không tìm đâu ra lối thoát như chìm trong đêm tối mênh mông chẳng có ánh sáng nào soi đường dẫn lối. Lúc đó, chúng ta sẽ cảm thấy mệt mỏi chán chường, muốn bỏ cuộc, rẽ sang đường khác, bị cám dỗ tìm con đường dễ dàng hơn, rộng rãi hơn, thoải mái hơn. Đó là trường hợp của những người Do Thái và một số môn đệ hôm nay.
Thật thế, Khi Đức Giêsu hóa bánh và cá ra nhiều nuôi năm nghìn người, niềm tin của đám đông dâng lên cao vời vợi. Họ phấn khởi và mừng vui. Họ tin Người chính là Đấng Cứu thế đến cứu dân tộc Do Thái. Thế nhưng khi Đức Giêsu tuyên bố: "Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời", khi nghe nói như thế thì đám đông và một số môn đệ bỏ Chúa mà đi. Đức tin tưởng chừng như không gì dập tắt nổi của những ngày hôm trước, nay đã tan biến. Đức tin gặp thử thách và họ không thể vượt qua. Họ đã thất vọng bỏ cuộc. Nhưng Đức Giêsu vẫn bình tĩnh chấp nhận sự quay lưng trở gót của những người thân tín.
Đức tin phải trải qua thử thách. Chỉ có những người bạn trung thành qua những khó khăn mới là những người bạn đích thực. Chỉ có niềm tin kiên vững bất chấp mọi thử thách mới là niềm tin đúng nghĩa. Giữa cơn khủng hoảng ấy, thánh Phêrô đã đại diện nhóm 12 tuyên xưng niềm tin sắt đá vào Đức Kitô. Dù chưa hiểu những điều Đức Giêsu nói, nhưng các ông vẫn đặt trọn niềm tin vào Người. Sau khi thấy Đức Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều và sau khi chứng kiến Người đi trên mặt nước, các môn đệ có cơ sở để đặt niềm tin nơi Người. Lời tuyên xưng của thánh Phêrô lại càng có giá trị trong lúc mọi người gặp khủng hoảng và bỏ Chúa. Tin tưởng khi thời cơ thuận lợi thì thật dễ dàng. Nhưng vẫn gắn bó với Chúa trong những lúc gặp khó khăn thử thách.
Hành trình đức tin và sự chọn lựa của chúng ta chắc chắn sẽ không khác của các tông đồ. Có những lúc thuận lợi, ta thấy niềm tin dâng cao mãnh liệt. Khi đó Lời Chúa êm ái ngọt ngào. Lời Chúa mang đến cho ta niềm vui, niềm bình an, niềm hy vọng. Lời Chúa đem đến cả thành công và may mắn nữa, chúng ta dễ dàng chọn Chúa. Nhưng rồi tới những ngày tăm tối, ta cảm thấy niềm tin lung lay chao đảo. Đó là khi ta gặp khó khăn thử thách. Lúc ấy lời Chúa làm cho ta mất bình an. Lời Chúa đánh vào tính tự ái, tự cao, tự đại của ta. Lời Chúa như lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn ta, tạo ra những vết thương sâu thẳm không bao giờ ngưng rỉ máu. Những lúc ấy, ta dễ bị cám dỗ từ bỏ Chúa như những người Do Thái trong bài Phúc âm hôm nay, không còn muốn chọn Chúa nữa. Vì thế, trong những giờ phút gặp gian nan thử thách như thế, ta hãy nhớ đến lời tuyên xưng của thánh Phêrô. Niềm tin tuyên xưng trong đau đớn thử thách mới là niềm tin đúng nghĩa. Sự trung tín vượt qua được những cơn khủng hoảng mới minh chứng một tình yêu chân thực. Trong những giờ phút tăm tối nhất, hãy mạnh dạn thưa với Chúa như thánh Phêrô: "Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết đi theo ai. Chỉ có Thầy mới có lời ban sự sống đời đời". Đó là cách chọn lựa phù hợp ý Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con khôn ngoan và sáng suốt để biết chọn Chúa là gia nghiệp đời mình. Cho dù chọn Chúa thì chúng con phải can đảm sống đức tin, biết theo Chúa, phụng sự Chúa suốt cuộc đời con. Tuy nhiên, đó là cách chọn lựa bảo đảm sự sống đời đời cho chúng con. Xin cho chúng con biết đáp trả bước đi theo Chúa suốt cuộc đời chúng con. Amen.
31. Chúa Nhật 21 Thường Niên.
Anh chị em thân mến.
Trong thời gian gần đây, nếu anh chị em có dịp đi đến Châu đốc để vía bà, hay đi Cà Mau viếng mộ Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp. Quang cảnh của những nơi đó hết sức tưng bừng náo nhiệt, người tới lui tấp nập. Đi vòng quanh, có nhiều bia tạ ơn, bông hoa, nhan, đèn không bao giờ ngớt. Nhìn lại thì thấy đủ mọi hạng người, thuộc đủ mọi thành phần, đủ mọi tôn giáo. Họ đến đây vì nhu cầu riêng tư của cuộc sống: kẻ đã được đáp ứng, đến để tạ ơn, kẻ khác thì đến van xin. Nhìn lại, tất cả đều vì mối lợi riêng tư cho bản thân, vì cuộc sống riêng của mình.
Tôi suy nghĩ: nếu một người nào đã đi đến đó hai, ba lần mà nhu cầu của họ không được đáp ứng, thử hỏi họ có còn can đảm để đến thăm viếng và cầu xin nữa không. Tất cả chỉ vì nhu cầu của cuộc sống, vì quyền lợi riêng tư. Một khi quyền lợi bị đụng chạm, hay nhu cầu không còn cần thiết nữa thì chắc là họ sẽ không đến đó nữa.
Những người Do Thái, đi theo Chúa Giêsu vì Ngài đã đáp ứng nhu cầu của họ. Ngài cho họ ăn, giảng dạy, nói những lời mới lạ họ thích nghe. Nhưng khi Ngài nói những lời không hợp ý họ, họ liền chống đối và rời xa Ngài. Kể cả những người thân tín, những kẻ được gọi là môn đệ cũng bỏ Ngài. Còn lại nhóm 12, Chúa Giêsu đưa mắt nhìn và hỏi:" Còn các con, các con có muốn bỏ đi không?"
"Lạy Thầy, chúng con biết đi theo ai, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời".
Phêrô đại diện cho cả nhóm nói lên như thế. Ông nhìn thấy được sự sống thật trong vị Thầy mà ông đang theo, ông nhìn thấy được sự cần thiết khi có Thầy bên cạnh. Chính vì thế các ông đã theo Thầy cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời, các ông đã đạt được sự sống đời đời.
"Còn các con, các con có muốn bỏ đi không?"
Chúa Giêsu cũng hỏi từng người trong chúng ta như thế. Không phải chỉ một lần, nhưng rất nhiều lần trong cuộc sống. Nhưng nào chúng ta có nghe thấy gì đâu để mà trả lời cho Ngài, vì chúng ta đã bỏ đi trước khi nghe Ngài hỏi như thế. Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta chán nản thất vọng, không kiên nhẫn đủ để chờ đợi Thiên Chúa ban ơn cho mình. Chúng ta quay ra phiền trách Thiên Chúa, vì Ngài không phục vụ cho nhu cầu riêng tư, phục vụ cho lợi ích cá nhân của mình. Chúng ta cầu xin, đòi hỏi, nhưng ít khi nào suy nghĩ rằng: điều mình cầu xin có thật sự cần thiết và hợp thánh Ý Thiên chúa không? Nếu đó là điều tốt đẹp, thì Thiên Chúa của chúng ta có bị bắt buộc phải vâng lời và thi hành ngay những điều chúng ta đòi hỏi hay không. Thiên Chúa nhìn thấy và Ngài cũng biết trước chúng ta đang nghĩ gì và làm gì. Thế là chúng ta rời bỏ Thiên Chúa của mình vì không đủ kiên nhẫn chờ đợi, hay đúng hơn là không có một con tim chân thành để theo Ngài.
Có khi nào trong cuộc sống, chúng ta lắng nghe và trả lời như Phêrô: "Chúng con biết đi theo ai, Thầy mới có những Lời ban sự sống đời đời". Nói được như thế là khi chúng ta biết để cho Thiên Chúa làm chủ cuộc sống của mình. Còn phần chúng ta biết lắng nghe và vâng theo những gì Ngài đặt để cho chúng ta trong cuộc sống. Chúng ta biết chấp nhận và chu toàn cách tốt đẹp hoàn cảnh sống của mình. Đó là sống kề cận bên Chúa và đó cũng là sự sống đích thực mà Thiên chúa ban cho những kẻ thành tâm theo Ngài.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết lắng nghe và luôn sống kề cận bên Chúa, để xứng đáng là môn đệ trung thành của Ngài.
32. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Kết thúc bài giảng về bánh trường sinh, Chúa Giêsu mời gọi ta: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6:56). Lời mời gọi này đòi người ta phài dứt khoát quyết định: hoặc bỏ Người mà đi, hoặc trung thành theo Người. Đó là đề tài của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay được quảng diễn qua sự kiện dân Chúa trong Cựu Ước quyết tâm phụng thờ Đức Chúa và sự kiện các Tông đồ trung thành làm môn đệ của Chúa Giêsu. Bài học trung thành ấy được áp dụng vào mối quan hệ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội.
1. Dân Ít-ra-en quyết tâm trung thành với Chúa (bài đọc Cựu Ước – Gs 24:1-2a.15-17.18b)
Sau khi hoàn tất nhiệm vụ đưa dân Chúa vào đất hứa và nhận thấy ngày cuối đời đã gần kề, ông Giô-suê triệu tập đại hội toàn dân tại Si-khem. Nói với họ, ông nhắc lại những điều Thiên Chúa thực hiện cho Ít-ra-en, kể từ thời các tổ phụ tới thời gian sống nhờ bên Ai-cập, cuộc giải phóng khỏi ách nô lệ của Pha-ra-ô và trở về đất hứa. Rồi ông yêu cầu họ dứt khoát quyết định phụng thờ Chúa hay phụng thờ các thần ngoại. Ông cũng không ngại cho dân chúng biết ông và gia đình nhất quyết phụng thờ Thiên Chúa. Toàn dân đồng thanh đáp lời kêu gọi của ông: “Chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi” (Gs 24:18b).
Quả thực đây là một trang sử đẹp của dân Ít-ra-en. Cảm nghiệm về quyền năng của Thiên Chúa còn đậm nét và những biến cố lịch sử mới xảy ra không lâu đã giúp cho họ dễ dàng nhận ra “Người là Thiên Chúa” thật của họ và họ quyết tâm phụng thờ Người. Nhưng lịch sử dân Ít-ra-en lại hầu như đầy dẫy những bất trung của họ trong quan hệ với Chúa. Họ bị lôi cuốn theo lối sống của dân ngoại thay vì theo Lề Luật. Họ đã lấy các thần ngoại để thay thế chỗ đứng của Thiên Chúa, thí dụ như “các thần cha ông họ đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc các thần của người E-mô-ri” (Gs 24:15). Câu truyện cha ông họ đúc con bê bằng vàng để tôn thờ (Xh 32) cũng chỉ là một trong rất nhiều câu truyện được ghi lại trong Cựu Ước về sự bất trung của Ít-ra-en. Trong tình huống này, “ông Mô-sê đứng ở cổng trại và hô: “Ai thờ Đức Chúa thì theo tôi!” Tất cả con cái ông Lê-vi đều tập họp bên ông Mô-sê” (Xh 32:26).
Dân Chúa bất trung như thế đó, vậy mà ngược lại, Thiên Chúa luôn trung thành với dân Người. Người tìm đủ mọi cách để giúp họ thức tỉnh và sám hối sau những sa ngã tày trời ấy. Khi thì Người dùng hình phạt, chiến tranh, lưu đày để làm cho họ gắn bó với Người. Khi khác Người thiếu điều “năn nỉ ỉ ôi”, nhắc lại những việc tốt lành Người đã thực hiện cho họ, để xin họ hãy trung thành với Người. Câu truyện hôn nhân của ngôn sứ Hô-sê (Hs 1-3) là một biểu tượng sống động diễn tả sự quan tâm và lòng trung thành của Thiên Chúa dành cho Ít-ra-en. Cho dù Thiên Chúa có phải dùng đến hình phạt để đưa họ về đường ngay nẻo chính thì cũng là yêu cho roi cho vọt mà thôi, giống như cha mẹ một tay đánh con, một tay gạt nước mắt.
Lịch sử bất trung của Ít-ra-en tuy là một sự kiện cụ thể, nhưng cũng là lịch sử tái diễn nơi tâm hồn ta. Nhìn vào cuộc sống thiêng liêng của ta, ta dễ dàng nhận thấy những bất trung lớn có, nhỏ có, trong mối quan hệ với Chúa. Những lúc quyết tâm phụng thờ Chúa thật quá ít so với những lỗi lầm ta xúc phạm đến Chúa và anh chị em. Vậy mà Chúa vẫn một lòng yêu thương ta, như Chúa Kitô đã yêu thương những người tội lỗi và khốn khổ, hoặc như suy niệm của thánh Phao-lô qua bài đọc thứ hai về lòng yêu thương và chăm sóc của Chúa Kitô đối với Giáo Hội.
2. Kitô hữu quyết tâm trung thành làm môn đệ Chúa Kitô (bài Tin Mừng – Gio-an 6:54a.60-69)
Bài Tin Mừng ghi lại phản ứng của những người nghe Chúa giảng về Bí tích Thánh Thể và lời mời gọi “chướng tai” của Người. Lời ấy là: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (Ga 6:54a). Nghe thế, có nhiều môn đệ không tin và bỏ đi, mặc dù Người đã giải thích: “Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống” (Ga 6:63). Giải thích như vậy, Chúa Giêsu muốn nhắc lại sứ mệnh của Người. Người là Ngôi Lời nhập thể để trở nên thần khí và sự sống đời đời cho ta nếu ta tiếp nhận Người.
Tuy nhiên điều mà bài Tin Mừng muốn nhắm đến hôm nay là sự kiện các Tông đồ đã quyết tâm ở lại với Chúa Giêsu, cho dù nhiều môn đệ và dân chúng đã bỏ Người. Ông Phê-rô thay mặt anh em, tuyên bố một câu bất hủ: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6:68). Đúng là cùng một niềm tin, cùng một sự trung thành giống như ông Mô-sê và ông Giô-suê. Trước hết, ông Phê-rô tuyên xưng sự độc tôn đối với Chúa Giêsu. Dân Ít-ra-en đã thề hứa trước mặt ông Giô-suê là họ sẽ phụng thờ duy một Đức Chúa mà thôi. Cũng vậy, Phê-rô muốn phát biểu rằng Chúa Giêsu là Đấng duy nhất ta phải đến, phải gặp gỡ, phải để cho Người biến đổi cuộc sống ta. Ông đã nhìn nhận chân lý: chỉ có Chúa Giêsu mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Sứ mệnh và vai trò của Chúa Giêsu thật vô cùng quan trọng đối với tương lai của nhân loại. Sau khi nói lên chỗ đứng không thể thay thế của Chúa Giêsu, Phê-rô nói về chính mình và các bạn: “Phần chúng con, chúng con tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6:69).
Ta nhận ra sự xác tín của ông Phê-rô, sự xác tín mạnh mẽ giữa lúc bị giao động do việc bỏ đi của những người khác. So sánh với việc tuyên xưng đức tin của ông tại Xê-da-rê Phi-líp-phê, là tuyên xưng theo sự mặc khải của Thiên Chúa (Mt 16:13-20), thì lần tuyên xưng này mới thực sự là những lời phát ra từ đáy lòng của những người quyết tâm làm môn đệ Chúa. Ông nhấn mạnh đến hành vi “tin” và “nhận biết” rằng Chúa Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa.
Kết thúc câu truyện bài giảng về Bí tích Thánh Thể của Chúa Giêsu dầu sao cũng là kết thúc có hậu. Ít ra còn có những người quyết tâm theo Chúa và gắn bó với Người giống như ông Phê-rô và các bạn Tông đồ đã làm. Tuy nhiên kết thúc ấy cũng là lời mời gọi hoặc thách thức Kitô hữu mọi thời hãy đáp lại lời tha thiết của Chúa Giêsu “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời”.
3. Chúa Kitô luôn trung thành với ta như Người trung thành với Giáo Hội (bài đọc Tân Ước – Ê-phê-xô 5:21-32)
Ta được kêu gọi hãy tiếp nhận Chúa Kitô và trung thành theo Người. Đó là để đáp lại lòng trung thành yêu thương của Chúa Kitô dành cho ta. Thánh Phao-lô đã cho ta những dòng suy niệm rất sâu xa về lòng trung thành yêu thương và chăm sóc của Chúa Giêsu đối với Giáo Hội.
Thực ra trong đoạn thư gửi tín hữu Ê-phê-xô 5:21-32, thánh Phao-lô bàn về những cách cư xử trong đời sống gia đình của Kitô hữu. Ngài đem mẫu gương Chúa Giêsu yêu thương và chăm sóc Giáo Hội áp dụng vào đời sống gia đình, đặc biệt là cách vợ chồng đối xử với nhau. Vậy thánh Tông đồ đã nhấn mạnh đến những điểm nào trong cách Chúa Kitô đối xử với Giáo Hội? Ở đây, ta đọc được nhiều điều Chúa Kitô đã và đang làm cho Giáo Hội. Người đã “cứu chuộc Hội Thánh” (câu 23), “yêu thương và hiến mình vì Hội Thánh” (c. 25), “thánh hóa và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước (Bí tích Rửa tội) và lời hằng sống” (c, 26), làm cho Hội Thánh “xinh đẹp lộng lẫy..., thánh thiện và tinh tuyền” (c. 26), “nuôi nấng (Bí tích Thánh Thể) và chăm sóc Hội Thánh” (c. 29). Tất cả những nghĩa cử này của Chúa Giêsu chứng tỏ lòng trung thành yêu thương của Người đối với Giáo Hội. Mà Kitô hữu là chi thể của Nhiệm Thể Chúa Kitô, được bao bọc bằng tình yêu của Đầu là Chúa Kitô, nên ta phải trung thành theo Chúa, tùng phục Người, “như Hội Thành tùng phục Đức Kitô” (c. 24).
Qua lịch sử Giáo Hội, mặc dù có những giai đoạn đen tối, ta vẫn thấy thái độ căn bản của Giáo Hội đối với Chúa Kitô, đó là sự tùng phục và trung thành. Thái độ ấy không hẳn chỉ được biểu lộ qua những công thức tuyên tín hoặc những văn kiện chính thức của Giáo Hội, nhưng còn phải là lòng trung thành của mỗi phần tử trong Giáo Hội, cố gắng sống đúng với căn tính Kitô và với niềm xác tín: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời”. Niềm xác tín ấy không phải chỉ của riêng Phê-rô, nhưng cũng phải là xác tín của mỗi người Kitô hữu nữa.
4. Sống Lời Chúa
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nhấn mạnh đến lòng trung thành theo Chúa. Theo Chúa là điều không dễ dàng, như Chúa Giêsu đã nói: “Không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho”. Quả thực, khi ban cho ta Con Một để chứng tỏ lòng yêu thương ta, thì Thiên Chúa Cha đã ban cho ta ơn đến với Đức Kitô rồi. Vậy ý thức chân lý yêu thương ầy và xác tín vai trò “lời đem lại sự sống đời đời” của Chúa Giêsu, ta hãy mạnh dạn đến với Người và nhất là trung thành đi theo làm môn đệ Người.
Suy nghĩ: “Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa”. Điều này có bao giờ xảy ra cho tôi không? “Lúc đó” là những hoàn cảnh nào trong đời tôi? Tôi đã xử trí như thế nào? Kinh nghiệm “rút lui” dạy tôi bài học nào và có giúp tôi trung thành hơn không?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, chỉ có Chúa mới làm cho chùng con nên một lòng một ý; xin cho tất cả chúng con biết yêu luật Chúa truyền và mong điều Chúa hứa, để dầu sống giữa cảnh thế sự thăng trầm, chúng con vẫn một lòng thiết tha với cõi phúc chân thật. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 21 mùa Thường niên).
33. Lội ngược dòng – Lm. Phêrô Hồng Phúc
"Đối với loài người thì không có thể,
nhưng đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể".
Chúa Giêsu đã đưa ra mô hình sau để chúng ta kiểm nghiệm: Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa.
Chúa Giêsu không lên án những người giàu, bởi vì giàu có hay nghèo khó đều là của cải Chúa ban trên mặt đất này. Bản thân của cải chưa nói lên điều gì, sở hữu của cải cũng chưa phải là tội hay là phúc. Điều quan trọng, người ta dùng của cải để giúp đỡ anh em hay là họ ham mê của cải đến mức độ tích trữ, thậm chí tìm mọi cách tham lam mưu mô để chiếm đoạt của cải của người khác. Tội hay phúc từ đó mới phát sinh.
Những người mà lòng tham vô đáy, tìm mọi mưu mô và chiếm đoạt của mọi người, để làm giàu cho mình dù là họ không đạt được ý nguyện, có khi trong tay cũng chẳng có tiền của nữa nhưng lòng tham vẫn là lòng tham, giàu có vẫn là giàu có. Những hạng như vậy: con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn những người giàu có kiểu đó mà vào được Nước Trời.
Có những người của cải Chúa ban có thể họ được rất nhiều nhưng họ có cơ hội để giúp đỡ anh em, chị em, hoặc là những công việc từ thiện, những công việc truyền giáo, họ có rất nhiều tiền của mà họ vẫn là những người có tinh thần nghèo khó.
Như vậy Chúa Giêsu đề cao tinh thần nghèo khó và Chúa kết án lòng tham vô độ của con người khi chỉ muốn hưởng thụ và đam mê đời này. Một kiểm nghiệm trên để cho chúng ta thấy rằng tiền của hay thế giới vật chất chưa phải là điểm đến của chúng ta, lời mời gọi mà Chúa Giêsu dành cho chúng ta cao hơn, xa hơn và vì thế khi Phêrô hỏi Chúa Giêsu: "Chúng con đã bỏ mọi sự mà đi theo Thầy, chúng con được gì". Đức Giêsu không ngần ngại cho chúng ta thấy một hoa trái thật là lớn lao: "Thầy nói thật với các con: không ai đã bỏ cha mẹ vợ con ruộng nương vì Thầy, vì Phúc âm mà không được gấp trăm ngay ở đời này và ngày sau được ngự trên tòa xét xử mười hai chi tộc Israel"(Mt 19,29); Khi Giacôbê và Gioan xin được ngồi bên tả bên hữu trong Nước Thầy, Chúa Giêsu từ chối. Thế nhưng hôm nay Chúa Giêsu lại hứa cho tất cả những ai từ bỏ mọi sự mà theo Chúa sẽ được ngồi trên tòa xét xử mười hai chi tộc Israel, tức là ở nơi vinh dự cao sang, nhưng đó là vinh dự cao sang của Nước Trời, mặc dầu thế, ngay ở đời này họ cũng được gấp trăm. Chúa không nói ai bỏ ra một nghìn đồng Chúa sẽ cho một trăm nghìn đồng, ai bỏ ra một triệu đồng Chúa sẽ cho trăm triệu đồng. Nhưng Chúa nói gấp trăm về nhiều phương diện: sự bình an, niềm vui, hạnh phúc... Họ là những người được chúc phúc ngay ở đời này, họ cảm thấy về ý nghĩa đời sống, về sự may lành, về những gì mà Thiên Chúa gìn giữ yêu thương quan phòng dẫn dắt họ, nghĩa là họ đi trong ánh sáng, trong niềm vui, những điều đó gấp trăm gấp nghìn lần những gì mà của cải hứa hẹn hưởng thụ trong mệt mỏi, trong rã rời, trong âu lo thậm chí trong chán nản và thất vọng.
Hôm nay, với mô hình Chúa đưa ra để cho chúng ta lựa chọn và rõ ràng là có những người đã lựa chọn sai cho nên có những kẻ trước hết danh vọng, chức quyền, của cải ngất trời ở đời này thì lại lên sau hết. Còn có những người đã dám hy sinh từ bỏ đến cả mạng sống của mình, từ bỏ của cải, từ bỏ đam mê, từ bỏ hưởng thụ, họ là những người nghèo khó, thậm chí là những người hành khất, họ nên giống Chúa Giêsu lang thang nhưng họ sẽ là những người ở đời này là bé mọn là rốt hết sẽ lên trước nhất.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đưa ra mô hình mà chúng con thấy khó thực hiện quá!
Tất cả đều là đảo ngược so với những suy nghĩ,
những bước đi tự nhiên của chúng con.
Nhưng chúng con đã thấy các thánh là những người thực hiện
theo những bước đi lội ngược dòng mà Chúa đề ra.
Các thánh đã đạt tới đỉnh điểm của hạnh phúc,
Các thánh đã đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu của Nước Trời.
Xin cho chúng con ngày hôm nay dám từ bỏ,
dám lội ngược dòng để chúng con là những người rốt hết,
sẽ được nên những người trước nhất trong ngày sau hết.
Xin đừng để chúng con leo lên bậc trước nhất
để rồi ngày sau hết ngã xuống bậc rốt hết.
Chúa gọi chúng con đi ngược dòng
chính là trở về với cội nguồn ơn cứu độ.
Xin Chúa ban ơn để chúng con đạt tới ơn cứu độ đời đời. Amen.
34. Kiên quyết theo Chúa
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Cả bốn bài Tin Mừng của bốn Chúa nhật trước đây và cả bài Tin Mừng hôm nay, đã kể lại bài giảng của Chúa Giêsu về bánh ban sự sống đời đời; đồng thời cũng lần lượt cho biết thái độ và phản ứng của các thính giả. Riêng bài Tin Mừng hôm nay cho biết phản ứng của các môn đệ nói chung và của Nhóm Mười Hai nói riêng. Mỗi phản ứng lại được Chúa Giêsu bình luận và giài thích thêm.
Suốt cuộc nói chuyện, hay đúng hơn, suốt bài giảng của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Chúa không ngừng mời gọi người ta đến với Ngài, tin vào Ngài, đón nhận Ngài làm của ăn thức uống. Nhưng không những dân chúng mà nhiều người trong số các môn đệ cũng đã phản ứng như những người Do thái khác: "Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi". Họ lẩm bẩm với nhau như thế. Nhưng Chúa Giêsu không cần nghe cũng biết họ đang khó chịu. Chúa giải thích thêm cho họ hiểu và mời gọi họ hãy nhìn sâu hơn vào bản thân và sứ mạng của Ngài. Ngài nói Ngài lên nơi Ngài đã ở trước, nghĩa là lên cùng Chúa Cha, vào trong vinh quang của Chúa Cha, vinh quang mà Chúa Cha đã ban cho Chúa Con từ muôn thuở.
Khi nghe Chúa nói như vậy, nhiều môn đệ rút lui, không đi với Chúa nữa. Như vậy, không những dân chúng chán ngán mà cả đến các môn đệ cũng bị khủng hoảng, nhiều người bỏ Ngài. Đứng trước sự tan rã bi đát này, Chúa Giêsu quay về phía nhóm mười hai tông đồ, những người được coi là thân tín nhất của Chúa. Phản ứng của họ thế nào? Thánh Phêrô đã thay mặt cho cả nhóm nói lên thái độ của họ: họ không bỏ Ngài, họ không đi theo ai khác, họ tin Ngài là Đức Kitô, Ngài có những lời ban sự sống đời đời. Như vậy, thánh Phêrô đã đại diện cho anh em nói lên một lời tuyên xưng rất trọn vẹn và đầy đủ: tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, tin vào sứ mạng của Ngài: Ngài có những lời đem lại sự sống đời đời. Do đó, những lời tuyên bố, quả quyết và khẳng định trong bài giảng về bánh hằng sống này thực sự là theo nghĩa đen thông thường nói về phép Thánh Thể.
Nhìn về chúng ta, đối diện với Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta đều phải đích thân chọn lựa đứng lại với Chúa hay không? Đứng lại với Chúa không phải chỉ vì thấy người khác còn đứng lại hay vì chưa gặp dịp thuận tiện để tháo lui. Nhưng đứng lại với Chúa vì tin rằng Ngài là Đấng có lời ban sự sống đời đời, không còn ai khác để mình đi theo.
Chúng ta là Kitô hữu, tức là chúng ta là người chấp nhận đi theo Chúa Giêsu, là Đấng không những ban cho chúng ta sự sống đời này mà còn ban cho chúng ta sự sống đời đời nữa. Sống ở đời, ai cũng có niềm tin, và bởi thế, có nhiều thứ niềm tin khác nhau, chẳng hạn các vận đông viên thể thao tin ở sức mạnh của bắp thịt và sự dẻo dai của họ. Các chính trị gia đặt tất cả niềm tin nơi đảng phái của họ. Những người hoạt động theo một ý thức hệ cũng tin tưởng ở sự toàn thắng của lý tưởng mà họ đang theo đuổi...
Ngay trong cuộc sống thường ngày, chúng ta cũng bị bắt buộc phải có niềm tin, chẳng hạn: đau bệnh, chúng ta tìm đến thầy thuốc, chúng ta đặt niềm tin nơi khả năng và thiện chí của thầy thuốc. Đi mua hàng, chúng ta cũng phải tin tưởng nơi người bán hàng. Giao tiếp với nhau, chúng ta cũng phải tin tưởng nhau...Đối với chúng ta, những người Kitô hữu, chúng ta không những có niềm tin vào cuộc sống mà chúng ta còn có đức tin nữa. Làm sao có được đức tin? Triết gia Pát-can nói: "Nếu bạn muốn có đức tin, bạn hãy quỳ gối xuống và cầu nguyện".
Mẹ Têrêxa cũng nói như thế. Người ta kể rằng: một lần kia, Mẹ Têrêxa nói với một phóng viên báo chí: "Tôi nghĩ rằng ông nên có đức tin". Người ấy hỏi: "Tôi phải làm gì để có đức tin?". Mẹ Têrêxa đáp: "Ông hãy cầu nguyện". Người ấy nói: "Tôi không biết và không thể cầu nguyện". Mẹ Têrêxa nói: "Tôi sẽ cầu nguyện cho ông, phần ông, ông hãy cố gắng mỉm cười với những người chung quanh. Một nụ cười có thể đánh động người khác. Một nụ cười có thể cho người ta cảm nghiệm được Thiên Chúa trong cuộc sống".
Chúng ta lãnh nhận được đức tin khi chịu phép rửa tội. Như vậy, tất cả chúng ta đều đã có đức tin. Nhưng cũng như mọi thứ tài năng khác nơi con người, đức tin cần phải được triển nở, cần phải được nuôi dưỡng. Một tài năng không được nuôi dưỡng sẽ mai một với thời gain. Một đức tin không được vun trồng cũng sẽ chết dần chết mòn. Chúng ta cầu nguyện, chúng ta làm những việc đạo đức là chúng ta nuôi dưỡng đức tin của mình. Ngoài ra, cả cách sống quảng đại, vị tha và yêu thương cũng là cách để nuôi dưỡng đức tin như lời Mẹ Têrêxa khuyên trên đây: mỉm cười với mọi người. Một nụ cười có thể cho người ta cảm nghiệm được Thiên Chúa trong cuộc sống. Một nụ cười còn có giá trị như thế phương chi những lời nói, những việc làm còn giá trị hơn biết bao.
35. Thách đố lớn nhất – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Trên bước đường theo Chúa, các môn đệ gặp rất nhiều thách đố từ ngoại cảnh hay nội tâm. Có bao giờ họ có thể tưởng tượng chính Chúa lại trở thành thách đố lớn nhất? Thế mà hôm nay, khi lên tiếng đòi hỏi một niềm tin lớn lao về quyền năng Thiên Chúa, chính bản thân Đức Giêsu đã trở thành một vấn đề khó vượt nhất, vấn đề có tính cách quyết định cho cả định mệnh con người, vì liên quan tới chính sự sống nhân loại.
Nguồn sống
Trước bao nhiêu đe dọa mạng sống, con người cảm thấy bất lực. Những sản phẩm tử thần phơi bày nhan nhản khắp nơi. Trươc tình cảnh ấy, Đức Giêsu xuất hiện như một nguồn sống: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì được sống muôn đời.” (Ga 6:54a) Lời đề nghị vô cùng lạ lùng, chưa từng nghe thấy bao giờ. “Nghe vậy nhiều môn đệ của Người liền nói: ‘Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6:60) Người trở thành đối tượng của lời xầm xì. Kết quả nhiều môn đệ đã theo Người lâu năm, cũng đành giũ áo ra đi (x. Ga 6:66). Tưởng việc ra đi đó sẽ khiến Người đổi thái độ. Nhưng không, Người vẫn không hề nao núng, dù chỉ còn ít người ở lại: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga 6:67) Thật là căng thẳng! Thật là một thách đố lớn!
Trước sự im lặng đến ngộp thở, ông Phêrô lên tiếng: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.” (Ga 6: 68-69) Chính Chúa Cha đã mạc khải tất cả sự thật về Chúa Con. Thật vậy, “Không ai đến được với Thầy, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho.” (Ga 6:65) Bởi đó, niềm tin là một ân sủng vô cùng cao quí. Đến với Đức Giêsu tưởng như một hành vi đơn giản. Thực tế phải có một sức mạnh nội tại phát xuất từ Thiên Chúa, chúng ta mới có thể tin vào Lời Chúa và sự hiện diện đích thực của Chúa nơi con người Đức Giêsu và nhất là trong bí tích Thánh Thể.
Đức Giêsu hiện diện thật trong bí tích Thánh Thể. Nhưng sự hiện diện đó vẫn khác với sự hiện diện trong thân xác tại thế của Đức Giêsu. Nói khác, “thịt và máu” chỉ hiện diện một cách bí tích trong “bánh hằng sống”. Đây là một sự hiện diện sâu xa và đích thực. Bên ngoài chỉ là một tấm bánh hay một chén rượu. Nhưng dấu chỉ bên ngoài đó nói lên sự thật lớn lao bên trong. Đức Giêsu trở thành của ăn thức uống nuôi sống muôn dân khỏi cơn đói khát thiêng liêng. Bởi đó lấy sự hiểu biết bình thường để đo thực tại Thiên Chúa, con người sẽ bất lực. Trái lại phải có sức mạnh Thần khí mới có thể hiểu nổi Lời Chúa. Thực vậy, “Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống.” (Ga 6:63) Bản chất Lời Chúa là thần khí mà lại lấy con mắt xác thịt để nhìn, thật là không cân xứng. Xác thịt chỉ dẫn đến xác thịt, hoàn toàn bất lực trước những đòi hỏi của Thần khí. “Vì chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống.” (2 Cr 3:6)
Những người còn ở lại với Chúa vì đã chấp nhận Lời Chúa và tin vào sự hiện diện đích thực của Người trong “bánh hằng sống”. Họ đã hiểu Lời Chúa dưới lăng kính Thần khí. “Ai không có Thần Khí của Đức Kitô, thì không thuộc về Đức Kitô.” (Rm 8:9) Đó là lý do tại sao “nhiều môn đệ rút lui” (Ga 6:66) và nhiều người “lấy làm chướng” và “xầm xì về vấn đề ấy.” (Ga 6:61) Thần Khí sẽ làm im bặt mọi tiếng xầm xì và nghi hoặc, vì Người chính là sức mạnh của Chúa Cha kéo ta lại gần Đức Kitô. Thần Khí không pha chút vẩn đục mới thấy hết được chiều sâu Lời Chúa. Xác thịt không có độ trong suốt đó để thấy tất cả sự thật. Thách đố chính là cuộc đối đầu giữa Thần Khí và xác thịt. Người môn đệ Đức Giêsu luôn bị đặt trước sự lựa chọn.
Ngày xưa, dân Do thái cũng đứng trước lựa chọn lớn lao đó. Ông Giôsuê đã lên tiếng trước toàn dân: “Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Đức Chúa, thì hôm nay anh em cứ tùy ý chọn thần mà thờ... Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa.” (Gs 24:15) Giữa bao nhiêu cám dỗ, dân Do thái đã có lúc nghiêng ngả. Đã đến lúc họ phải dứt khoát. Oâng Giôsuê “đã cho họ một cơ hội để canh tân giao ước Sinai (Xh 19-24)” (Faley 1994:557) Họ đã nhớ lại tất cả sự nghiệp hiển hách Chúa đã làm trên đường về Đất Hứa. Tất cả đều lặp lại lời tuyên xưng đức tin như ông Giôsuê: “Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi.” (Gs 24:18b) Tất cả lịch sử Do thái đều xây trên lời tuyên tín này. Như vậy ông Giôsuê đã chinh phục được toàn dân về cho Chúa. Nhưng suốt lịch sử không phải lúc nào niềm tin cũng trong sáng như vậy. Cuộc thách đố không bao giờ chỉ đến một lần. Trái lại, cuộc phấn đấu dai dẳng suốt bốn mươi năm trên sa mạc là cuộc phấn đấu với niềm tin.
Những sự kiện trái ngược
Các môn đệ Đức Giêsu còn phải phấn đấu cam go hơn nữa khi Đức Giêsu đòi hỏi phải tin “ai ăn thịt tôi và uống máu tôi...” (Ga 6:54) Ngày xưa, sau khi Người công bố về bánh hằng sống, “nhiều môn đệ rút lui.” (Ga 6:66) Đức Giêsu đã dám đánh đổi cả sự nghiệp lấy niềm tin đó. Giả sử lúc đó Chúa cũng chiều theo thị hiếu quần chúng, thử hỏi hôm nay Người còn độ hấp dẫn không?
Chính vì niềm xác tín lớn lao đó, ngày nay Giáo hội vẫn còn là điểm thu hút giới trẻ về với Đức Giêsu. Bằng chứng gần 3 triệu bạn trẻ khắp thế giới đã tề tựu về Roma trong ngày Quốc Tế Giới Trẻ từ ngày 15 đến 20 tháng 8 năm 2000 để lắng nghe Lời Chúa và tìm kiếm Đức Giêsu. Một biến cố lớn lao vượt ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Các bạn trẻ đã tuốn về Roma với niềm phấn khởi hân hoan. Họ đã đi bộ hằng chục cây số để vác tượng thánh giá theo gót Đức Giêsu. Họ đã quì gối giữa phố xá để cùng đọc kinh Truyền tin lúc 12 giờ trưa giữa những tiếng chuông nhịp nhàng nơi kinh thành ánh sáng đó. Để chuẩn bị cho ngày Đại Hội, hằng chục ngàn bạn trẻ đã phải làm việc mệt nhọc hằng tháng hay hằng năm trước. Các bạn trẻ hoàn toàn thoải mái vì được ăn uống ngủ nghỉ hoàn toàn miễn phí. Đại hội đã chuẩn bị 9 triệu bữa ăn cho các bạn trẻ. Có đủ dịch vụ y tế và vệ sinh đáp ứng nhu cầu của các bạn. Các nhà dân chúng ở Roma đã mở rộng cửa đón tiếp các bạn. Cả Đức Giáo Hoàng cũng đón tiếp 15 bạn trẻ vào ở chung với Người. Nhiều bạn trẻ thuộc thế giới thứ ba đã được bao vé máy bay về Roma. Các ân nhân đã đóng góp 3.5 triệu đô la giúp đỡ các bạn trẻ. Thật là một ngày vui lớn có tầm mức quốc tế. Niềm vui có thể đo lường được bằng những màn hội diễn văn nghệ, nhảy múa, ca hát. Tất cả đều tìm thấy nhau trong niềm vui hòa hợp với nhau và nhất là với Thiên Chúa. Có khoảng 2.000 linh mục sẵn sàng đáp ứng nhu cầu hòa giải nơi 300 tòa cáo giải ngay tại quảng trường Colossê.
Cũng trên chính quảng trường đó, trước đó hơn một tháng, nghĩa là ngày 8 tháng 7 năm 2000, một cảnh tượng trái ngược đã diễn ra. Cũng một Đại Hội Giới Trẻ. Cũng vào đầu thế kỷ 21. Những chuẩn bị cũng rất công phu. Ước vọng cũng rất lớn. Người ta hi vọng một triệu người trẻ đồng tính luyến ái sẽ qui tụ về Roma để biểu tình phản đối Tòa Thánh Vatican. Kết quả sau những ngày kêu gọi ầm ĩ và chuẩn bị rầm rộ, chỉ non 7000 bạn trẻ tham dự. Còn đâu hứa hẹn tự do đáp ứng mọi nhu cầu ăn chơi của tuổi trẻ bằng thế giới những người đồng tính luyến ái? Các bạn trẻ không nghe thấy tiếng kêu gào của những người tổ chức hay sao? Trong khi đó, một tiếng kêu gọi của một cụ già 80 tuổi đã được các bạn trẻ đón nhận nồng nhiệt. Gần 3 triệu bạn trẻ nghe tiếng nói của lẽ phải. Chưa tới 7000 nghe theo những hò hét điên cuồng. Nguyên con số cũng cho thấy thất vọng về tuổi trẻ là một sai lầm. Tuổi trẻ là niềm hi vọng lớn lao!!!
36. Một quyết định quan trọng cho thời khóa biểu.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng” - Charles E. Miller).
Những quyết định hằng ngày là một phần của đời sống: như mặc đồ thế nào, ăn cái gì và khi nào thì đi ngủ. Với những vấn đề này, những quyết định của chúng ta thì thường thay đổi nhưng có một số quyết định mà bản tính của chúng kéo dài mãi đến đời đời. Những chọn lựa căn bản mà chúng ta đã làm bằng chính ý chí tự do của chúng ta, một thí dụ tuyệt hảo cho vấn đề này đó là quyết định kết hôn. Hôn nhân là một Giao Ước vĩnh viễn, một quan hệ tình yêu và trung thành giữa một người nam và một người nữ, để họ trở nên một.
Thiên Chúa đã mời gọi dân của Người trong Cựu Ước trở thành bạn tình của Người, bằng một Giao Ước mang hình thức của hôn nhân thiêng liêng. Giosuê là một người lãnh đạo của dân Thiên Chúa sau cái chết của Môisê, đã hiểu được tầm quan trọng của Giao Ước này. Ông đã thách thức dân chúng: “Nếu các ngươi không hài lòng phục vụ Chúa thì hãy quyết định trong ngày hôm nay, các người sẽ phục vụ ai, còn tôi và người nhà của tôi sẽ phục vụ Thiên Chúa” Giosuê đã làm một quyết định với chính mình.
Những thế kỷ sau, Chúa Giêsu đã đối đầu với những kẻ đã nghe người rao giảng. Người thách thức họ làm một quyết định về chính Người. Ngài đã tuyên bố một giáo lý mà họ có thể hiểu một cách rõ ràng: “Bánh mà Ta sẽ ban chính là Thịt Ta để cho thế gian được sống. Những ai đã ăn Thịt của Ta và uống Máu Ta sẽ được sống đời đời và Ta sẽ cho nó sống lại ngày sau hết”. Họ hiểu điều Chúa Giêsu nói nhưng họ đã chối bỏ: “Những lời này nghe chói tai quá, ai mà nghe cho được”.
Họ đã hiểu một cách chính xác những gì mà Chúa Giêsu đòi hỏi. Khi họ từ bỏ và quay lưng với Ngài để bỏ đi, Ngài đã để cho họ đi. Đó là một ngày quyết định. Không thể tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu mà cùng lúc đó lại chối bỏ lời hứa của Ngài về bí tích Thánh Thể. Tiếp đó, Chúa Giêsu đã thách thức những người thân cận nhất của Ngài với nhóm 12: “Các ngươi có muốn rời bỏ Ta luôn không?” Phêrô đã tuyên xưng lòng trung thành mà lời đó đã được lặp lại qua muôn thế hệ bởi những người nam và những người nữ sống theo đức tin: “Lạy Chúa, bỏ Ngài con biết theo ai? Chỉ có Ngài mới có Lời ban sự sống đời đời. Chúng con tin rằng Người là Con Thiên Chúa, Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
Lời tuyên xưng đức tin của thánh Phêrô thì không hề bị cưỡng bách, ngài đã nhận được ân sủng mà ân sủng đó không giống như là một đề nghị kết hôn. Ân sủng này Ngài được tự do đáp trả. Ngài đã làm một quyết định nối kết thân mật chính Ngài với Đức Kitô, mặc dù sau đó ngài đã bị sa ngã, nhưng ngài luôn luôn trung thành đức tin với Đức Kitô. Thật vậy, ngài nói rằng, ngài muốn bước vào mối quan hệ yêu thương và vĩnh viễn trung thành với Đức Kitô.
Chúng ta có cùng ân sủng, điều đó có nghĩa là chúng ta cũng có cùng thách đố, có cũng những quyết định phải làm. Đức Kitô làm cho đức tin vào Thánh Thể của chúng ta như là một thử thách tuyệt đối của đức tin vào chính Người. Nhận biết Thánh Thể là một bí tích của Giao Ước mới đời đời. Sẵn sàng yêu mến bí tích Thánh Thể và cử hành bí tích này tại trung tâm điểm cuộc sống của chúng ta, là thi hành mối quan hệ yêu thương và vĩnh viễn, làm cho Đức Kitô và chúng ta là hai trở nên một xác thịt.
Vì sao chúng ta tin vào bí tích Thánh Thể? Vì sao chúng ta lại thấy bí tích này một bí tích tuyệt diệu? Vì sao Thánh Lễ là diễn tả cao nhất của sự thờ phượng Công giáo? Bởi vì Đức Kitô là Lời có sự sống đời đời mà chúng ta tin rằng Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa.
37. Theo Chúa cũng lắm hạng người
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Chúa Giêsu xuất hiện rao giảng Tin Mừng, làm các phép lạ và dân chúng lũ lượt đi theo Ngài. Thế nhưng những kẻ đi theo Ngài là một đám đông ô hợp, đủ hạng người. Tin Mừng cho chúng ta thấy ít là có 4 hạng người đi theo Chúa.
- Hạng người theo Chúa vì tính hiếu kỳ:
Thấy Chúa Giêsu giảng dạy lôi cuốn, giáo lý mới mẻ hấp dẫn, nhất là được chứng kiến một loạt các phép lạ lớn lao phi thường, họ đi theo. Đây là hạng người theo Chúa chỉ vì tính hiếu kỳ của mình: "Dập dìu người đi, tớ cũng đi"; "Thấy hay thì vỗ tay vào". Chính vì thế khi nghe Chúa Giêsu nói những lời chói tai, khó hiểu, họ đã nghi ngờ không biết ông Giêsu này có thật là Đấng Tiên Tri phải đến hay không; hay ông ta chỉ là người hâm hẩm. Thậm chí có lần người nhà đã từng cho rằng Ngài bị mất trí, nên đi tìm đẩ bắt ngài về. Và một khi lòng hiếu kỳ bị thương tổn, họ đã bỏ Chúa mà không một chút luyến tiếc.
- Hạng người theo Chúa vì mục đích kinh tế:
Đây là những người có lối sống thực dụng. Mối quan tâm của họ chỉ là cơm áo gạo tiền và những nhu cầu đời tạm này, một hình thức "đạo gạo" của thập niên 60, 70 tại Việt Nam chúng ta. Đối với họ, Chúa Giêsu xuất hiện như một vị cứu tinh với vai trò giải thoát chúng sinh khỏi đau khổ và nghèo đói của kiếp người, qua những phép lạ: hoá bánh ra nhiều, làm nên những mẻ cá lạ lùng, tay không chữa bệnh, phục sinh kẻ chết... Điều này lý giải tại sao họ đã ùn ùn đi theo Chúa Giêsu tựa đàn kiến phát hiện được con mồi. Đơn giản vì theo Chúa Giêsu, họ sẽ không lo vất vả làm lụng, không sợ hạn hán lụt lội, hay kinh tế khủng hoảng,... Theo Chúa Giêsu, họ sẽ có bảo hiểm y tế cả đời. Dịch cúm H1N1 cũng chẳng ngán, nan y Siđa cũng chẳng tè, v.v... Cứ trực chỉ lương y Giêsu là được chữa lành hết, chẳng phải tốn một đồng nào. Tắt một lời, Giêsu đem lại cho họ qúa nhiều lợi lộc về mặt kinh tế.
Thế nhưng, cũng chính vì "Chúa tể họ thờ là cái bụng", nên khi thấy Đức Giêsu suốt ngày chỉ nói đến một thứ lương thực thiêng liêng trừu tượng, đến một thứ của ăn linh hồn đâu đâu, họ đành phải ngậm ngùi giã từ Ngài. Giã từ Ngài để trở về với "án phạt của tổ tông xưa": đổ mồ hôi sôi nước mắt hầu có của nuôi thân. Lơ tơ mơ, vợ con ở nhà chết đói như chơi!
- Hạng người theo Chúa vì động cơ chính trị:
Danh vọng, quyền lực trần thế là điểm nhắm của những người này khi men theo dấu chân của Đức Giêsu. Bởi đó, khi thấy Đức Gêsu ban đầu xuất hiện như một Mêsia trần thế, làm nhiều điều hiển hách phi thường, họ tưởng Ngài sẽ làm một cuộc đại cách mạng lật đổ thế lực Rôma ngoại bang, đem lại hưng thịnh cho đất nước. Dù chưa dám nói ra, nhưng trong lòng họ vẫn nuôi hy vọng một ngày nào đó họ sẽ được đổi đời, sẽ thoát khỏi cái kiếp làm "phó thường dân" dài dài, nhờ vào cái ô dù to tướng của ông Giêsu này. Nói cách khác, đi theo Chúa Giêsu, chắc chắn sẽ kiếm được một chổ đứng, một địa vị nào đó để lên hương với đời và lên mặt với người.
Tuy nhiên, khi nghe Chúa Giêsu chỉ thao thao diễn giải về một thứ đạo lí phục vụ hi sinh, hiến thân quên mình..., họ cảm thấy thất vọng và đành rút lui trong trật tự.
- Hạng người theo Chúa vì xác tín rằng Chúa mới có Lời ban sự sống đời đời:
Tiêu biểu cho hạng người này là Nhóm Mười Hai. Dẫu rằng ban đầu, động cơ đi theo Chúa cũng còn rất trần tục: họ muốn kiếm "chút cháo" cho gia đình và "chút công danh sự nghiệp" cho bản thân... Nhưng khi được Chúa Giêsu thanh tẩy, gạn lọc, họ đã dần xác tín vào Ngài và đã đón nhận mạc khải của Ngài với trọn cả tâm hồn. Họ đã nhận ra Lời của Chúa Giêsu có khả năng mang lại sự sống đời đời và họ cũng tin nhận nguồn gốc thần linh của Chúa Giêsu, qua vị đại diện là Phêrô: "Bỏ Thầy con biết theo ai. Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Chính Thầy là Đấng thánh của Thiên Chúa." Và từ niềm xác tín đó, các ông đã chân thành tín thác đi theo Chúa trọn đời dù có phải chịu nhiều thử thách gian truân trong cuộc đời. Tất nhiên vòng nguyệt quế mà Chúa Giêsu hứa ban cho người chiến thắng đã thuộc về họ. Sự sống đời đời chính là phần thưởng lớn lao mà họ đã giành được nhờ Đấng đã ban sức mạnh cho họ.
Phần tôi thì sao? Tôi có được niềm xác tín như các tông đồ là "Bỏ Thầy con biết theo ai. Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời" hay không?
Thực tế, nhiều người đã tự nguyện bỏ Chúa, bỏ ngày Chúa Nhật để đi theo tiếng gọi của tình ái, tiếng gọi của tiền tài, tiếng gọi của đủ thứ thú vui hưởng thụ... Hậu quả là một khi bỏ Chúa thì đời họ sẽ bơ vơ như cánh chim trong khung trời lộng gió. Một khi bỏ Chúa thì đời họ sẽ như chiếc thuyền dật dờ trên biển cả mêng mông. Một khi bỏ Chúa thì tương lai đời họ sẽ trở nên mịt mờ vô định. Và một khi bỏ Chúa thì đời họ sẽ như một cuộc hành trình cô đơn buồn bã.
Chớ gì trong mọi hoàn cảnh, chúng ta luôn chọn Chúa, chọn Chúa làm gia nghiệp đời mình. Để cuộc đời mình dẫu vẫn là một cuộc hành trình dài, vẫn là cánh chim trong khung trời lộng gió, vẫn như chiếc thuyền giữa biển cả mêng mông; nhưng trong cuộc hành trình đó, đã có Đức Giêsu Kitô đồng hành, cánh chim biết hướng bay, con thuyền có người lèo lái và cuộc đời chúng ta chắc chắn sẽ về tới bến bờ bình an hạnh phúc.
38. Lời ban lại sự sống
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Ai ai cũng công nhận lương thực hằng ngày: cơm, như bánh mang lại cho con người sự sống đời nầy. Thuốc men và các chất bổ dưỡng làm gia tăng sinh lực cho con người, kéo dài sự sống này đó là chuyện thường tình. Thế nhưng Lời tuyên xưng của thánh Phê-rô trong Tin Mừng hôm nay: "Thầy có những lời đem lại sự sống đời đời” nghe có vẻ khó thuyết phục, vì lời nói gió bay, chứ có phải là lương thực, là thuốc men đâu mà đem lại sự sống đời đời.
Người ta nói ‘Có lửa mới có khói. Có tích mới dịch ra tuồng chứ’. Cho nên, chắc chắn Phêrô đã thấy, đã biết rõ Chúa Giêsu là con người như thế nào! Lời của Ngài có năng quyền như thế nào vì vậy NgàI mới tuyên bố nây ửa như thế chứ? Qủa thế, Lời Chúa thực sự là những Lời quyền năng, có sức sáng tạo và mang lại sự sống cho muôn vật muôn loài đời này và đời sau nữa. Cụ thể:
Sách Sáng Thế kể: từ nguyên thuỷ, khi tất cả còn hư vô trống rỗng, Thiên Chúa đã dùng Lời để tác thành vũ trụ và sáng tạo muôn vật muôn loài (St 1,1-28). Rõ ràng, mọi sự sống trong hoàn vũ, từ sự sống của các loài sinh vật đơn giản cho đến sự sống loài người đều do Lời Chúa tác thành. Rồi khi xuống thế làm người, Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa cũng đã dùng lời quyền năng của Người mà trục xuất ma quỷ ra khỏi những người bị ám hại (Mc 5,8), khiến cho bão tố dữ dội phải lặng yên (Mc 4, 39), chữa lành nhiều kẻ ốm đau bệnh tật (Lc 4,40). Chúa Giê-su còn dùng Lời để cho kẻ người đã chết sống lại, như: Con trái duy nhất của bà góa Na-im đang đi chôn (Lc 7,14), Anh Ladarô đả chết bốn ngày (Gioan 11, 43). Rồi trên cây thánh giá, Chúa ban Lời để anh trộm lành được sống vĩnh hằng với Ngài trên thiên đàng "Ngay hôm nay anh ở trên thiên đàng với tôi" (Lc 23,43).
Hôm nay trên thị trường có những món ăn được xếp hạng “cao cấp”, ăn vào sẽ giúp khỏe mạnh, thậm chí trẻ ra và kéo dài tuổi thọ, cho nên nhiều người sẵn sàng bỏ tiền triệu để mua cho được, ăn cho được. Chẳng hạn, ngươi ta đau nhau mua con cua hoàng đế 5 triệu-1O triệu vì cua này chỉ sống ở những vùng biển nước rất lạnh và sâu từ 200-400 m. Đây là loại cua hiếm có, ăn con cua này sẽ khỏe mạnh cường tráng. Rồi người ta bỏ ra 20 triệu mua một ký yến hay nhung hươu ăn kéo dài tuổi thọ. Nhưng thử hỏi có thọ thiệt không? Hay là tiền mất và thiệt thân.
Hôm nay Chúa Giê-su tặng ban miễn phí cho chúng ta những Lời ngài chỉ cần chúng ta nghe và tuân giữ Lời ấy thôi cũng đảm bảo cho chúng được sự sống đời đời lẽ nào chúng ta lại thờ ơ. Chúng ta phải cùng với thánh Phê-rô, mà tuyên xưng với tất cả lòng tin rằng: "Thưa Chúa, bỏ Chúa thì chúng con biết đến với ai? Chúa mới có những lời đem lại sự sống đời đời". Làm thế nào chúng ta sống điều xác tín như thế? Bài đọc I: ông Giôsuê trả lời tự do chọn lựa, mà đã chọn thì phải theo quyết liệt, gắn bó với Thiên Chúa. Vì Chúa luôn hiện diện với chúng ta trong tất cả thăng trầm của cuộc sống, Ngài gìn giữ, che chở và bao vệ ta. Cho nên, Giôsuê tuyên bố tôi và gia đình tôi dứt khóat theo Chúa, trung tín và nghe theo Lời Chúa vì có Lời Chúa là khiêng che thuận đỡ cho đời ta, ta không bao giờ nao núng.
Phần chúng ta, chúng ta ý thức sống được bao nhiêu phần trăm lời tuyên xưng của mình: bỏ Chúa bỏ và Giáo Hội tôi biết theo ai? Trong khi đó, cuộc sống chông chênh, thay đổi chóng mặt: kinh tế càng ngày đi xuống khó khăn, vàng, xăng dâu mỗi ngày tăng nhanh như chớp. Còn thân phận con người quá bấp bênh đảo lộn tứ tung: những người nghèo giờ trở nên giàu, người tri thức hay người giàu có đều có những vụ làm ăn trái lương tâm. Vậy, với cuộc sống chông chênh thế đó, ai có thể nắm chắc về hành vi luân lý của mình hay gia đình mình. Vâng, chỉ có Chúa và Lời của Ngài là điểm tựa vững chắc nhất để chúng ta sống theo trong kiên nhẫn, can trường và trung kiên. Và chỉ khi sống Lời Chúa, mỗi người chúng ta và gia đình và giáo xứ chúng ta mới thật sự trở nên xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền.
Vì thế, trong Hiến Chế tín lý về mạc khải của Thiên Chúa Dei Verbum số 21, Công Ðồng Chung Vaticanô II dạy Giáo Hội luôn tôn kính Lời Chúa như chính Thân Thể Chúa, nhất là trong Phụng Vụ Thánh, Giáo Hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như từ bàn tiệc Mình Chúa Kitô để ban phát cho các tín hữu. Lời Chúa đã và đang được Giáo Hội xem như là quy luật tối cao hướng dẫn đức tin, được Thiên Chúa linh ứng và đã được ghi chép một lần cho muôn đời. Lời Chúa có một sức mạnh và quyền năng có thể nâng đỡ và tăng cường Giáo Hội, ban sức mạnh đức tin cho con cái Giáo Hội, là lương thực linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho con cái Giáo Hội.
Nhà bác học Galilê nói rằng: Thánh Kinh không dạy chúng ta biết trái đất xoay vần thế nào mà dạy chúng ta biết làm thế nào để lên trời”. Ước gì Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta thấm nhuần Lời Chúa và phải sống Lời Chúa một cách triệt để hằng ngày để nên hoàn thiện ở đời này và sống vĩnh hằng đời sau.
39. Lời ban sự sống đời đời
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Khởi đi từ tình mục tử ấp ủ đoàn chiên bơ vơ không người chăn dắt (x. Mc 6, 30-34), Chúa Giêsu đã "chạnh lòng thương", làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng (x. Ga 6, 1-15). Từ của ăn vật chất, Chúa gợi lên nơi họ khát vọng sống trường sinh, muốn được họ phải đi tìm Chúa, tin vào Chúa, ăn chính thịt và uống máu Chúa là bánh hằng sống từ Trời xuống (x. Ga 6, 16-60).
Với diễn từ của Chúa Giêsu về bánh hằng sống tại Hội đường Do thái ở Capharnaum, nhiều người bỏ Chúa, còn các môn đệ không chấp nhận điều ấy, họ nói: "Lời này chói tai quá! Ai nghe được!" (Ga 6, 60) Tại sao họ lại có thái độ khước từ Chúa đến như vậy? Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao?
Có người khước từ
Vấn đề ở đây là "ăn thịt và uống máu" (Ga 6,54) một con người có tên là Giêsu, đồng hương với họ để được sống đời đời. Chúa Giêsu cố tình nói như thế, đây là một vấn đề rất cam go, một khúc quanh trong cuộc đời công khai của Chúa. Dân chúng và cả các môn đệ trước đây rất phấn khởi đi theo Chúa, thấy Chúa làm phép lạ; cả việc hóa bánh ra nhiều cũng là một mạc khải về Ðấng Messia, khiến họ muốn tung hô và tôn Chúa Giêsu làm vua Israel, nhưng chắc chắn ý Chúa Giêsu không như vậy. Với diễn từ dài, Chúa làm dịu bớt sự phấn khởi trong dân và tạo nên sự bất đồng nơi nhiều người. Chúa giải thích hình ảnh bánh ấy chính là Chúa và khẳng định Người đã được Chúa Cha sai đến để hiến mạng sống, ai muốn theo Người, thì phải kết hiệp mật thiết với Người, và tham gia vào hy tế tình thương của Người.
Khi nghe những lời ấy, dân chúng hiểu rằng ông Giêsu này không phải là Đấng Messia như họ tưởng. Người không tìm kiếm sự đồng thuận để chinh phục thành Giêrusalem; trái lại, Người muốn vào Thành để chia sẻ số phận của các vị ngôn sứ: hiến mạng sống trở nên tấm bánh vì Thiên Chúa và cho loài người. Những tấm bánh đó, được bẻ ra cho hàng ngàn người, không muốn khơi lên một hành trình đắc thắng, nhưng tiên báo hy tế trên Thập Giá, trong đó Chúa Giêsu trở thành Bánh được bẻ ra nuôi nhiều người, trở thành mình và máu được dâng hiến để đền tội cho thế gian được sống. Chúa muốn đám đông dân chúng tỉnh ngộ, nhất là khơi lên nơi các môn đệ một quyết định. Và thực tế là: "Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa " (Ga 6, 66)
Có người quyết tâm theo Chúa
Nếu có môn đệ nói: "Lời này chói tai quá! Ai nghe được!" (Ga 6, 60) trước sự hiến thân trọn vẹn của Chúa, là vì họ không muốn từ bỏ bản thân, để cho mình tham dự và biến đổi đến độ sống nhờ Chúa khi đón nhận hồng ân nay.
"Lời này chói tai quá! Ai nghe được!" (Ga 6, 60), khó nghe vì người ta lẫn lộn tự do với không bị ràng buộc, coi Thiên Chúa như một giới hạn tự do, gạt bỏ Thiên Chúa ra ngoài. Chính ảo tưởng này tạo ra lo âu sợ hãi và dẫn tới sự tiếc nuối quá khứ. Người Do thái trong sa mạc đã nói: "Ước gì chúng tôi được chết vì tay Chúa ở đất Ai Cập..." (Xh 16, 3); còn Êlia thì thưa: "Lạy Chúa, đã đủ rồi, xin cất mạng sống con đi: vì con chẳng hơn gì các tổ phụ con" (1V 19, 4).
Tại thung lũng Sikhem, nơi tổ phụ Abraham và Xara trú ngụ. Giôsua kêu mời dân ra đứng trước tôn nhan Thiên Chúa và làm một quyết định dứt khoát: "Nếu các người không muốn tôn thờ Thiên Chúa, thì cho các ngươi lựa chọn … tôn thờ ai hơn: hoặc là các thần cha ông đã tôn thờ…hoặc các thần của người xứ Amôrê, nơi các ngươi đang ở, về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ tôn thờ Chúa". Dân trả lời "Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Chúa mà tôn thờ những thần Ngoại, Chúa là Thiên Chúa chúng tôi" (x. Jos 24, 15-17).
Bài Tin Mừng hôm nay cũng đòi hỏi thính giả của Chúa Giêsu làm một quyết định tương tự sau khi nghe giảng về Bánh hằng Sống là máu thịt Chúa. Nhưng vì lời chướng tai của mình, họ đã bỏ đi, chỉ còn lại Phêrô và nhóm Mười hai. Phêrô mạnh dạn thưa: "Lạy Thầy chúng con biết sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời" (Ga 6, 68).
Hôm nay, chúng ta thưa với Chúa Giêsu rằng, lạy Chúa, trong sự khiêm nhường thẳm sâu, tin tưởng vào Chúa là Lời cuối cùng và chung kết của Thiên Chúa nhập thể, đến gặp gỡ chúng con. Chúa là Lời vĩnh cửu, trở thành manna đích thực, là bánh sự sống (x. Ga 6,32-35), chúng con muốn trung thành với Chúa bây giờ và mãi mãi, cũng như Phêrô: "Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời" (Ga 6, 68).
Chúa có lời ban sự sống
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II dạy: Những ai ăn Đức Kitô trong Thánh Thể không cần phải chờ đến đời sau mới đón nhận được sự sống vĩnh cửu, nhưng họ đã chiếm hữu sự sống đó ngay đời này, như những hoa quả đầu tiên của sự viên mãn mai sau, sự viên mãn liên quan đến toàn thể con người. Trong Thánh Thể, chúng ta cũng nhận được bảo đảm là thân xác chúng ta sẽ được sống lại trong ngày tận thế: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết" (Ga 6,54). Sự bảo đảm này về sự sống lại mai sau bắt nguồn từ sự kiện thân xác của Con Người, được trao ban làm của ăn, là chính thân xác trong tình trạng vinh hiển sau khi sống lại. Với Thánh Thể, chúng ta như thể biết được "bí mật" của sự sống lại. Vì thế, Thánh Inhatiô thành Antiokia đã định nghĩa cách xác đáng Bánh Thánh như là "linh dược đem lại sự bất tử, một phương thuốc diệt trừ sự chết".
Chiều hướng cánh chung được gợi lên trong Thánh Thể…Khi cử hành hy tế của Con chiên, chúng ta được liên kết với "phụng vụ" trên trời và trở nên thành phần của một đoàn người đông đảo lớn tiếng tung hô: "Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta" (Kh 7,10). Thánh Thể quả thật là một thoáng hiện của thiên đàng trên trái đất. Thánh Thể là một tia sáng huy hoàng của Giêrusalem thiên quốc xuyên qua lớp mây mù của lịch sử chúng ta và soi sáng cho cuộc hành trình của chúng ta. (Trích Thông Điệp Ecclesia De Eucharistia số 18-19).
40. Não trạng chúng ta thế nào?
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest).
Đoạn kết diễn từ của Chúa về Bánh ban sự sống dẫn ta tới đỉnh cuộc khủng hoảng, mà từ đó, sự Thương khó Đức Kitô sau này sẽ diễn ra. Chúa đã phán ra tất cả những lời buộc chúng ta phải chọn lựa, hoặc tin vào Người hoặc từ chối theo Người. Đoạn Phúc âm rất phong phú này đưa ta đến hai suy tư (trong các suy tư khác):
1) Tiếng xầm xì của một số môn đệ, sự vấp phạm, sự từ chối không tin của họ, được giải thích ở đây qua lý do cách thức họ hiểu Lời Chúa Giêsu. Dầu là họ từ chối không tin hay là đối với một số người ‘giờ’ chưa đến, họ cũng là những kẻ không hiểu được Lời Chúa trong Thánh Linh. Họ không vượt quá lên được một sự hiểu biết vật chất và xác thịt về các Lời đó. Tại sao? Tại vì lòng họ chưa ở trong tình trạng sẵn sàng đón nhận. Trí óc họ đóng cửa lại trước những gì mới lạ. Họ tự giam mình trong thế giới các sự việc ‘có thể’ đối với họ. Điều mà Chúa Giêsu nói đối với họ là ‘không có thể được’, nên họ gạt bỏ. Điều bất hạnh cho họ nằm ở trong một câu hỏi: có gì là ‘không thể được’ đối với Thiên Chúa? Ở đây, họ tỏ ra thiển cận, tự mình xét đoán lấy việc có thể hay không có thể. Họ không có được ý kiến phải tìm hiểu quan điểm người khác, những người thật đơn sơ thôi, song tức khắc đã nhận ra lối thoát đưa tới miền vô biên của thực tại, thực tại của Thiên Chúa. Nơi họ, chúng ta tìm thấy một trường hợp điển hình của óc tự mãn ngoan cố, hẹp hòi, xuất phát từ chối không muốn biết đến ‘bên kia’ của chân trời thấy được.
Các Tông đồ may mắn có thứ phản ứng đã cứu thoát họ. Được ân sủng bên trong của Thánh Linh hỗ trợ, họ khắc phục mọi khó khăn về hiểu biết bằng đức tin trung kiên của họ đối với Chúa Giêsu, bởi lẽ Chúa Giêsu là ‘Đấng Thánh của Thiên Chúa’.
2) Thái độ của phần đông các môn đệ đã bỏ Chúa, gợi lên cho chúng ta một vấn đề. Người ta đã nói rất nhiều đến não trạng ‘giảm thiểu’ về việc cắt nghĩa Thánh kinh hay kinh Tin Kính của Giáo hội. Nhất là sự hiện diện của Đức Kitô trong Thánh Thể lại là đối tượng của nhiều suy diễn đưa tới sự từ chối không nhận sự hiện diện đích thực của Chúa Giêsu.
Trong các loại suy diễn ấy, người ta gặp lại đúng cái não trạng của các môn đệ đã bỏ Chúa, vì họ cho rằng những điều Chúa nói là không thể nào quan niệm được. Não trạng ấy khổ sở vì sự bất lục không ra khỏi được những vùng của những cái gọi là có thể đối với con người, để tiến vào những vùng cao trọng hơn của những cái gọi là có thể đối với Thiên Chúa. Do đó, có những nỗ lực hăng say để ‘giảm thiểu’ sự hiện diện của Đức Kitô trong phép Thánh Thể thành một thứ gì mù mờ bao bọc bằng uy tín của các đại danh từ triết học.
Phần chúng ta, chúng ta thử ở lại bình tĩnh và cương quyết trong đức tin của chúng ta. Điều cần thiết là chúng ta phải biết tìm cách soi sáng đức tin ấy và phát biểu nó ra bằng thứ ngôn ngữ hiện đại. Nhưng sự thể là cuối cùng, chúng ta phải đi tới cho chấp nhận giáo huấn rất cương nghị của Giáo Hội và chúng ta chỉ có thể thực hiện điều này nếu chúng ta đón nhận giáo huấn ấy ‘trong Thánh Linh’, ở trình độ mà quan niệm nhân sinh cho là ‘không thể được’...
41. Trung thành theo Chúa.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Cha Maurice Zundel đã kể một câu chuyện: Trong căn phòng chỉ còn lại hai người: linh mục phụ trách tu viện và viên sĩ quan Xô Viết. Viên sĩ quan nói: Hiện giờ chỉ có hai chúng ta. Ông và tôi, không một ai chứng kiến. Vậy ông hãy nói sự thật, đừng sợ gì cả. Hãy nói cho tôi biết là ông không tin vào tất cả những chuyện về Chúa, Mẹ, trong tôn giáo mà ông vẫn tuyên xưng phải không?
Linh mục đáp: Có, tôi tin chứ!
Viên sĩ quan buông súng xuống, ôm chầm lấy người linh mục. Ông reo lên: Quả thật, đây là điều tôi trông đợi. Đây là người tìm kiếm. Vâng, thưa cha, bây giờ thì tôi cũng thế: Tôi tin Chúa Giêsu.
Anh chị em thân mến,
Có lẽ vị linh mục trong tu viện đó đã từng xác định sự chọn lựa đi theo Chúa của mình, nên cha mới có được một phản ứng dứt khoát, kiên trung, điềm nhiên đến như thế. Lời Chúa hôm nay cũng mời gọi chúng ta xác định lại sự chọn lựa của chúng ta.
Bài đọc 1 đã cho ta thấy, bốn mươi năm về trước, dân Do Thái đã cam kết chọn Thiên Chúa trong Giao Ước tại núi Sinai. Nhưng hôm nay họ đã đặt chân và Đất Hứa, nhưng năm tháng rong ruổi trong sa mạc đã qua, những ngày tháng đói khát thiếu thốn đã chấm dứt, và từ nay họ bắt đầu cuộc sống định cư, đất đai phì nhiêu, cuộc sống thoải mái. Trước hoàn cảnh mới này, niềm tin của họ có còn mạnh mẽ sốt sắng như xưa hay đã sớm bỏ quên Chúa để chạy theo các thần địa phương. Ông Giôsê, mà cả toàn dân đã nói lên sự chọn lựa dứt khoát: “Không đời nào chúng tôi bỏ Đức Chúa mà đi thờ những thần khác”.
Khi Chúa Giêsu làm phép lạ bánh hoá nhiều, dân chúng theo Chúa rất đông. Nhưng từ phép lạ ấy, Chúa dẫn họ đến lương thực hằng sống: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời”. Nhưng họ cho rằng “lời này chói tai quá, ai mà nghe được”. Nên từ lúc đó, có nhiều người rút lui không còn theo Chúa nữa. Bấy giờ Chúa đặt thẳng vấn đề với nhóm Mười Hai: “Cả anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”. Nhưng Phêrô đã đại diện các Tông Đồ xác định sự chọn lựa của mình: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết theo ai bây giờ? Thầy mới có những lời ban phúc trường sinh”.
Thưa anh chị em,
Sống trong một thế giới đổi thay không ngừng, con người dễ bị lôi kéo vào thái độ thay lòng đổi dạ. Ngày nay con người gặp nhiều thứ khủng hoảng, trong đó khủng hoảng về lòng trung thành là một vấn đề quan trọng. Các hợp đồng kinh tế bị vi phạm, giao ước hôn nhân bị đổ vỡ, tình bạn bị phản bội. Ngay cả các Kitô hữu nhiều lúc cũng bị cám dỗ bỏ Chúa hoặc không sống đúng ơn gọi của mình, nhất là khi đứng trước một biến cố hay một hoàn cảnh; một thử thách hay một cám dỗ; một nỗi buồn hay một niềm vui… Xã hội Việt Nam hôm nay đổi thay từng ngày, và sự đổi thay nhanh chóng ấy đang tác động mạnh trên đời sống đức tin của các Kitô hữu. Ảnh hưởng tích cực có, mà tiêu cực cũng nhiều. Khá nhiều Kitô hữu trước kia là những người đạo đức, nhưng nay không còn đứng vững trước sức tấn công của nền kinh tế thị trường, của tiền bạc, lạc thú, công việc kinh doanh. Có những người đang từ nghèo thành giàu mà quên Chúa. Và ngược lại, một số khác đang từ giàu thành nghèo cũng bỏ Chúa. Nhiều người không còn muốn bước theo Chúa vì không thể chấp nhận được những nỗi ô nhục của thập giá trong đời mình. Cũng như những người không còn muốn trung thành với giáo huấn của Hội Thánh vì “lời này chói tai quá, ai mà nghe cho nổi?” Người môn đệ Chúa Kitô cần xác định lại để trung thành bước theo Chúa.
Từ lòng trung thành với Chúa sẽ dẫn đưa con người đến lòng trung thành với nhau, nhất là trong đời sống gia đình. Đời sống gia đình hôm nay của đang gặp khủng hoảng. Người ta cam kết thề hứa trung thành suốt đời, nhưng chỉ đi với nhau một đoạn đường ngắn để rồi sau đó chia tay nhau. Thánh Phaolô hôm nay mời gọi các bậc vợ chồng ngước nhìn lên mầu nhiệm Chúa Kitô yêu thương Hội Thánh để trung thành trong tình yêu hôn nhân.
Anh chị em thân mến,
Chúa muốn chúng ta trung thành và chúng ta cũng muốn trung thành. Nhưng trung thành bước theo Chúa không phải là điều dễ dàng. Quả vậy, có những lúc ta cảm thấy mình quá yếu đuối, tầm thường, quá bé nhỏ mỏng manh trước sức tấn công của thử thách, của cám dỗ, của tiện nghi vật chất, tiền bạc, thú vui sắc dục, danh vọng, quyền lực…. Chỉ có ơn Chúa mới có thể giúp ta trung thành đi theo Chúa: “Thần Khí mới làm cho sống, chứ huyết nhục chẳng có ích gì… không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơi ấy cho”. Thánh Phêrô đã nhìn lên Chúa, để tiếp tục chọn lựa đi theo Chúa: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đi theo ai bây giờ? Thầy mới có những lời ban phúc trường sinh” Quả thực, Thánh Phêrô đã cảm nhiệm được Lời Chúa là ánh sáng, là niềm vui, là sự sống và Ngài đã an tâm tín nhiệm vào Chúa. Cũng thế, ở đại hội Sikem, dân Do Thái kiên quyết chọn Chúa vì đã nhận biết những việc kỳ diều Chúa đã làm khi giải phóng họ khỏi nô lệ Ai Cập và đưa về Đất Hứa.
Mỗi người chúng ta hôm nay phải đích thân nói lên lời cam kết trong ơn gọi Kitô hữu, ơn gọi hôn nhân hay ơn gọi dâng hiến. Chúng ta muốn chọn lựa một cách dứt khoát và vĩnh viễn, dù hôm nay ta chưa biết hết được những gì sẽ đến trong ngày mai. Sự chọn lựa ấy đòi ta tín trung. Và để tín trung trong ơn gọi, ta cần bắt đầu lại mỗi ngày, chỗi dậy mỗi ngày để “trung thành với tình yêu ban đầu” (Kh 2,4).
Chúa Giêsu Thánh Thể tự hiến trên bàn thờ và ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế chính là bằng chứng của tình yêu trung thành. Chúa là nguồn sự sống luôn luôn tươi mới và là nguồn động lực để ta mãi mãi trung thành đi theo Chúa.
42. Hãy làm điều bạn có thể – Gm. Arthur Tone.
John là một người thanh niên, chàng lần lần rời xa Giáo Hội. Chàng không đi lễ nữa, không chịu các bí tích. Trong thế chiến thứ hai, khi chàng đăng ký nhập ngũ, sự lo âu của mẹ chàng tăng thêm: Nếu chàng bị chết thì sao? Linh hồn chàng sẽ ra sao? Khi chàng chuẩn bị lên đường. Mẹ chàng nói với chàng: “John ơi, mẹ muốn con làm cho mẹ một việc”. John hỏi: “Cái gì đó, mẹ?”. “Mẹ muốn con đọc ít nhất mỗi ngày 1 lần kinh Kính Mừng. Hãy đọc, bất kể con bận hay con mệt tới mức nào”. Một chút do dự, John đã hứa.
Trải qua năm, tháng. Những bức thơ của John thưa dần. Một ngày kia một bức thơ của cha tuyên úy cho hay John bị thương nặng và chàng đã xin chịu các phép bí tích. May mắn, John bình phục. Trong bức thơ đầu về nhà, chàng viết: “Mẹ ơi, cám ơn mẹ đã bảo con làm lời hứa ấy. Con đã giữ. Mỗi lần có dịp con đi lễ và rước lễ”.
Mỗi vị linh mục đều đã nghe những câu chuyện như thế. Nó làm tôi nghĩ ngay: Dẫu một linh hồn trôi dạt xa Chúa bao xa. Nếu họ giữ một liên hệ nào đó với Chúa dù chỉ một kinh Kính Mừng một ngày, có hy vọng và có cơ may linh hồn ấy sẽ dần tìm đường trở về với Chúa.
Như rất nhiều người Công giáo ngày nay, John đã bắt chước những người môn đệ trong Tin Mừng hôm nay: Họ không đến với Chúa nữa. Những môn đệ ấy từ chối tin rằng Đức Kitô có thể lấy thịt sống của riêng Ngài cho họ ăn, Máu Ngài cho họ uống. Dẫu rằng họ đã thấy với 5 cái bánh, Đức Giêsu đã làm cho 5.000 người ăn no và họ đã thấy Người đi trên mặt nước.
Hầu hết những lý do người Công giáo xa lìa Giáo Hội có liên quan tới điều này. Thí dụ: “Thánh Lễ không liên hệ đến tôi”. Họ muốn nói Thánh Lễ không cho họ một rung động thể lý hay xúc cảm. Họ làm gì thay vào đó? Không làm gì cả. Kinh nghiệm cho thấy những người như vậy thường không đọc lấy một kinh, điều đó không lạ. Họ phải nói điều các Tông đồ đã nói với Chúa Giêsu: “Chúng con biết theo ai?”. Điều này áp dụng đặc biệt cho người Công giáo kết hôn ngoài Giáo Hội, và họ không thể lãnh các bí tích. Hầu hết mọi nơi, họ chẳng làm gì cả.
Quan điểm của tôi là người ta phải làm cái gì họ có thể làm được, điều này đem lại sự nâng đỡ và ơn của Chúa.
Đây là mấy đề nghị: Hãy đọc kinh “Lạy Cha”, kinh “Kính Mừng”. Hãy cầu nguyện bằng ngôn ngữ của riêng bạn như: “Lạy Chúa, xin giúp con làm mọi cái con có thể, để làm vui lòng Chúa”.
Bạn để ý cho con em của bạn để chỉ dạy về tôn giáo. Chính bạn phải dạy chúng. Hãy tham gia công việc của họ đạo. Bố thí cho người nghèo, người túng thiếu. Hãy giữ luật Chúa, những luật bạn có thể giữ được.
Rất thường xảy ra là một người Công giáo, khi họ nghĩ họ không thể giữ một giới răn nào đó của Chúa, họ sẽ gác bỏ tất cả mọi giới răn của Chúa qua một bên.
Bạn hãy làm những gì bạn có thể làm được, nhất là cố gắng tham dự Thánh Lễ mỗi ngày Chúa Nhật. Nếu bạn không thể rước lễ, bạn hãy rước lễ thiêng liêng. Nghĩa là bạn hãy thưa với Chúa Giêsu rằng bạn muốn rước Người vào trái tim bạn. Hãy thưa với Người rằng bạn hối hận vì tội lỗi của bạn, bạn ước ao Người đến với bạn một cách thiêng liêng. Bạn đón tiếp Người.
John trong câu chuyện chỉ làm một việc rất nhỏ là đọc mỗi ngày một kinh Kính Mừng. Chúa đã thưởng anh. Bạn hãy làm những gì bạn có thể làm được. Chúa sẽ thưởng bạn.
Xin Chúa chúc lành bạn.
43. Lời Chúa là thần trí và là sự sống – Noel Quesson.
Một người vô tín ngưỡng dừng chân ở một nông trại bên Hòa Lan, anh lớn giọng với ông chủ trại:
- Chẳng bao giờ tôi tin điều gì tôi không hiểu.
Ông chủ nông trại nói:
- Điều này khó đấy. Này nhé, thí dụ trong trại này, cậu có thấy đống cỏ không? Ngựa của tôi ăn cỏ, lớn lên lông nó mọc khắp mình. Con cừu ăn cỏ, thế là nó có len. Con ngỗng của tôi ăn cỏ, cả mình nó đầy lông vũ. Cậu có hiểu tại sao không nào?
Thực vậy, cho dù thông minh uyên bác đến mấy, người ta cũng không thể hiểu rõ toàn bộ những hiện tượng xảy ra trong thiên nhiên. Một số kiến thức khoa học, chúng ta cũng chỉ nghe nói lại chứ đâu phải ta đích thân thí nghiệm và biết cặn kẽ chính xác. Vậy mà chúng ta vẫn tin. Chúng ta tin có vi trùng, tin trái đất tròn, tin nước gồm hai thành phần khí hợp lại…
Từ lãnh vực tự nhiên bước sang siêu nhiên cũng vậy. Không ai hiểu được các mầu nhiệm trong đạo. Chúng ta tin là vì Chúa dạy, vì Chúa thấu suốt mọi sự và cũng vì yêu thương ta, Chúa đã tỏ bày cho chúng ta. Đó là căn bản của mọi niềm tin.
Mầu nhiệm Thánh Thể là mầu nhiệm mà Chúa Giêsu đích thân dạy dỗ. Thánh Gioan đã nghe và tường thuật cho chúng ta khá đầy đủ. Nhưng chính Gioan cũng như đa số người nghe Chúa, không ai hiểu hết được. Họ đã chia ra làm hai phe. Một phe tỏ ra khó chịu, cho rằng những lời này làm chói tai, họ đã bỏ đi. Một phe thiểu số còn lại cũng không hiểu gì mấy, nhưng vẫn tin vào Chúa vì tin Ngài là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa hằng sống. Chúa biết trình độ hiểu biết hữu hạn của con người, kể cả những nhà hiền triết Đông Tây, nên Chúa đòi hỏi phải có lòng tin, tin vào Lời Ngài.
Thầy nhiều người bỏ đi, Chúa buồn lắm, nhưng Chúa không rút lại lời đã khẳng định. Chúa cũng không níu kéo họ, vì lòng tin phải được biểu lộ hoàn toàn tự do. Niềm tin đòi hỏi ta vượt trên ánh sáng khoa học. Không phải chỉ học hỏi về lòng tin mà là dấn thân, là thực hành trong cầu nguyện, trong việc đón nhận lời mạc khải từ Thiên Chúa. Lắng nghe Lời Chúa và làm theo Lời Chúa dạy, từ đó sẽ có lòng tin, một lòng tin chính Chúa ban tặng cho. Lòng tin vào Thánh Thể, có thể nói được là lòng tin trung tâm của đời sống Kitô hữu đến nỗi người ta thường gọi người giữ đạo là những người có đi lễ. Lòng tin vào Thánh Thể gồm hai khía cạnh rõ rệt: thứ nhất là ăn bánh sự sống; thứ hai là chia sẻ sự sống Đức Kitô, Ngài là tình yêu hiện thực.
Lòng tin như thế, nhất thiết phải xây dựng trên Lời Chúa, phải tiếp nhận Lời Chúa với lòng mến yêu tôn kính. Vì “Lời Chúa là Thần Trí và là Sự Sống”. Đó là một tâm tình cần phải có khi đọc Tin Mừng. Chúa Giêsu thường được kể là một vĩ nhân, một học giả, một ngôn sứ, một nhà giải phóng… Nhưng còn hơn thế nữa, Chúa là Thiên Chúa yêu thương.
Lạy Chúa, bỏ Ngài, chúng con biết theo ai? Vì Ngài có những lời hằng sống. Chúng con tin nhận Ngài là Đức Kitô Con Thiên Chúa. Xin thêm lòng tin cho chúng con và giúp chúng con chia sẻ tình thương Chúa cho mọi người trong cuộc sống bác ái hôm nay.
44. Ai đi? Ai ở?
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP)
* Biết theo ai bây giờ?
Trong phần cuối diễn từ về bánh trường sinh, Ðức Giêsu vẫn tiếp tục khẳng định: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời" (Ga 6,54; x. 6,55-58). Câu nói này không chỉ làm cho người Do-thái bực mình, mà ngay cả các môn đệ cũng cảm thấy bối rối. Các ông sửng sốt vì lời tuyên bố của Ðức Giêsu. Các ông cũng lấy làm chướng tai, và các ông cũng phản đối. Một số người không muốn nghe những lời như thế nữa, họ rút lui.
Tại sao thế?
Ðiều này cũng dễ hiểu. Từ lâu họ vẫn hy vọng sẽ được chứng kiến những giây phút vinh quang của Thầy lẫn trò, nhưng Ðức Giêsu đã bỏ qua cơ hội ấy. Ðang khi dân chúng vui mừng vì được ăn bánh no nê và muốn tôn Người làm vua, Ðức Giêsu đã chẳng lợi dụng lòng nhiệt thành ấy để đăng quang: Người đã giải tán dân chúng và cả các môn đệ nữa.
Lúc này, câu nói của Ðức Giêsu tạo nên phản ứng không chỉ nơi dân chúng mà cả các môn đệ nữa. Các ông có cảm tưởng như gió đã xoay chiều, và các ông cảm thấy chán nản.
Về phần Ðức Giêsu, Người vẫn kiên định với những điều Người vừa tuyên bố. Người hỏi những người thân đang vây quanh: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?"
Ðức Giêsu là ai mà vẫn cương quyết không lùi bước ngay cả khi nhìn thấy sự cô đơn hoàn toàn, tức là thất bại?
Trước câu hỏi của Ðức Giêsu, ông Phê-rô đã thay mặt cho Nhóm Mười Hai để trả lời: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai?" Câu trả lời này chẳng làm sáng tỏ thêm mầu nhiệm sâu xa vừa được tỏ bày. Có thể coi câu trả lời ấy diễn tả rõ thái độ bối rối. Nếu như giữa Ðức Giêsu và các tông đồ không có những tương giao vốn được kiến tạo dần dần, thử hỏi rằng câu trả lời ấy còn cho thấy tình trạng bi đát như thế nào?
Tuy vậy, câu trả lời của ông Phê-rô cũng xuất phát từ lòng khiêm tốn, nên do đó còn là tiếng nói của lòng tin. Ðây không phải là lòng tin mù quáng vì dựa trên xác tín những lời của Ðức Giêsu phải có một ý nghĩa nào đó, mặc dù người nghe chưa hiểu. Thế nhưng lòng tin này phải lần lần bước trong bóng tối, phải trải qua những thử thách mới đạt tới mức hoàn hảo.
Như thế, ngày nay cũng như ngày xưa, con người luôn có những lý do để nghi ngờ, để đặt thành vấn đề. Ðối với những ai Người muốn lôi kéo về phía mình, Thiên Chúa không bao giờ làm cho con đường trở thành dễ dàng hơn. Ai muốn viện cớ những khó khăn để trốn tránh, để che giấu chính mình, người ấy làm một điều vô ích. Nhưng liệu mỗi người, với những kinh nghiệm đã trải qua, có thể nói lên như ông Phê-rô: "Chúng con biết theo ai bây giờ? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời."
* Sự chọn lựa gay gắt
"Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui không còn theo Người nữa."
Lạ lùng quá! Tại sao Ðức Giêsu lại nói với đám đông những lời lẽ như thế? Hôm qua, họ là năm ngàn người, họ sẵn sàng làm thành một đạo binh đi theo Người. Còn Người lại nói cho họ rằng thân xác Người là của ăn và máu Người là của uống. Chẳng lẽ Người coi họ là những kẻ ăn thịt người?
"Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?"
Thái độ của Ðức Giêsu lạ quá! Người đến để loan báo lời ban sự sống, và Người nói lên như một lời mời. Vậy mà những kẻ thân cận với Người lại không hiểu được lời ấy, và những ai nghĩ rằng Người là Ðấng Mê-si-a, là Ðấng cứu độ Ít-ra-en lại lấy làm chướng tai.
Hôm trước, Người đã làm cho bánh hoá ra nhiều. Một hành động rất lạ, đám đông chưa bao giờ được chứng kiến. Tất cả đám đông được ăn no. Họ không rời bỏ Người, cứ bám riết lấy Người. Người đi đâu, họ đi theo đó. Nếu ngày nào Người cũng làm như thế thì tuyệt biết mấy. Phải rồi, Người là Vua.
Thế nhưng, vương quyền của Ðức Ki-tô khác hẳn điều họ vẫn mong ước: "Thật tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi... vì các ông được ăn bánh no nê." Người có ý nói: bánh tôi đem đến là điều gì khác chứ không phải thứ bánh các ông ăn hôm qua. Lời Người nói làm một số người tức giận, số khác lại thất vọng. Tuy vậy, lời của Người buộc họ phải đáp trả, phải chọn lựa, hoặc là "tôi không tin và tôi bỏ đi", hay là "tôi tin và tôi ở lại!"
Một số môn đệ đã bỏ đi, Nhóm Mười Hai ở lại. Các ông ở lại, nhưng phải chăng các ông đã hiểu được Ðức Giêsu và lời Người nói? Có thể các ông không hiểu, nhưng ít là các ông cảm thấy vấn đề Ðức Ki-tô nêu lên thật thiết yếu. Sau này, vấn đề trên sẽ được đặt ra lại theo một hình thức khác: "Phần anh em, anh em bảo Thầy là ai?" Khi đó ông Phê-rô đã nhân danh những người khác thưa lại: "Thầy là Ðấng Ki-tô Con Thiên Chúa hằng sống."
Ðức Giêsu vẫn tiếp tục nêu lên câu hỏi ấy với mỗi người: Anh em có ở lại không? Anh em sẽ đi đâu? Anh em chọn bánh đem lại sự sống hay chọn bánh lúa mì?
Chọn lựa này chính là cao điểm trong cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và loài người. Họ đã đọc Tin Mừng, nhưng liệu họ có sẵn sàng mở rộng tâm hồn để Thần Khí làm cho sống? Họ biết rằng con đường phải đi qua thập giá, phải xuyên qua việc trao tặng cuộc sống của chính mình trong suốt mọi ngày. Họ cũng biết rằng con đường ấy bao hàm nhiều niềm vui đồng thời cũng đòi buộc nhiều từ bỏ. Nhưng họ có dám bước đi trên con đường đó?
Thật không gì rõ ràng hơn! Quả là một thử thách lớn chứ không phải chỉ là chấp nhận ở đầu môi mà không liều mạng. Câu hỏi Ðức Ki-tô nêu lên thật cấp thiết. Câu hỏi ấy đã làm cho một số môn đệ rút lui. Câu trả lời của mỗi người cũng rất quyết liệt: nó đưa cả cuộc sống của mỗi người vào đó.
* Vẫn có những khoảng tối
Nói cho cùng, Ðức Giêsu quả là một vị Thầy làm cho các môn đệ phải lúng túng. Từ trước đến giờ, Người đặt tất cả lý lẽ trên từ ngữ "thịt". Phải ăn thịt Người mới được sống đời đời. Lúc này, Người lại kết luận: "Chính tinh thần mới làm cho sống, xác không ích lợi gì." Rồi cả xác thịt lẫn máu huyết cũng không thể đưa đến lời tuyên xưng: "Thầy là Ðấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16,16).
Như thế, phải đợi đến khi Ðức Giêsu phục sinh, thịt và máu mới đạt được ý nghĩa chung cuộc, mới được đón nhận trong lòng tin dứt khoát, "khi anh em thấy Con Người ngự trên nơi Người vẫn ngự trước kia..."
Vì vậy, chúng ta phải đối diện với mầu nhiệm lớn lao này. Tất cả đều tùy thuộc vào lòng tin của chúng ta, vào thái độ của chúng ta đối với Tin Mừng cũng như vào cuộc chiến đấu của chúng ta chống lại những thói quen, những xơ cứng trước bí tích thịt và máu Ðức Giêsu. Nếu không ý thức, cuộc gặp gỡ của chúng ta với Ðức Giêsu sẽ rất nhạt nhẽo, vô vị, và chúng ta sẽ cảm thấy ngại ngùng trước những lời tuyên bố của Ðức Giêsu.
Chấp nhận làm môn đệ Ðức Giêsu là chấp nhận đi trong lòng tin. Chấp nhận Mình và Máu Ðức Giêsu là chấp nhận đi theo Ðức Kitô, trong khi vẫn được bổ dưỡng nhờ bánh Người ban tặng, và chỉ nương tựa vào một mình Người. Mỗi người Ki-tô hữu vẫn có những khoảng tối, nhưng đó lại là một tiếng kêu hướng lên Chúa Cha, là một lần xác tín vào Ðức Giêsu, Ðấng có lời "đem lại sự sống đời đời."
45. Thách đố lớn nhất
(Suy niệm của Như Hạ, OP)
Trên bước đường theo Chúa, các môn đệ gặp rất nhiều thách đố từ ngoại cảnh hay nội tâm. Có bao giờ họ có thể tưởng tượng chính Chúa lại trở thành thách đố lớn nhất? Thế mà hôm nay, khi lên tiếng đòi hỏi một niềm tin lớn lao về quyền năng Thiên Chúa, chính bản thân Ðức Giêsu đã trở thành một vấn đề khó vượt nhất, vấn đề có tính cách quyết định cho cả định mệnh con người, vì liên quan tới chính sự sống nhân loại.
NGUỒN SỐNG
Trước bao nhiêu đe dọa mạng sống, con người cảm thấy bất lực. Những sản phẩm tử thần phơi bày nhan nhản khắp nơi. Trươc tình cảnh ấy, Ðức Giêsu xuất hiện như một nguồn sống: "Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì được sống muôn đời." (Ga 6:54a) Lời đề nghị vô cùng lạ lùng, chưa từng nghe thấy bao giờ. "Nghe vậy nhiều môn đệ của Người liền nói: 'Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?" (Ga 6:60) Người trở thành đối tượng của lời xầm xì. Kết quả nhiều môn đệ đã theo Người lâu năm, cũng đành giũ áo ra đi (x. Ga 6:66). Tưởng việc ra đi đó sẽ khiến Người đổi thái độ. Nhưng không, Người vẫn không hề nao núng, dù chỉ còn ít người ở lại: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?" (Ga 6:67) Thật là căng thẳng! Thật là một thách đố lớn!
Trước sự im lặng đến ngộp thở, ông Phêrô lên tiếng: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Ðấng Thánh của Thiên Chúa." (Ga 6: 68-69) Chính Chúa Cha đã mạc khải tất cả sự thật về Chúa Con. Thật vậy, "Không ai đến được với Thầy, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho." (Ga 6:65) Bởi đó, niềm tin là một ân sủng vô cùng cao quí. Ðến với Ðức Giêsu tưởng như một hành vi đơn giản. Thực tế phải có một sức mạnh nội tại phát xuất từ Thiên Chúa, chúng ta mới có thể tin vào Lời Chúa và sự hiện diện đích thực của Chúa nơi con người Ðức Giêsu và nhất là trong bí tích Thánh Thể.
Ðức Giêsu hiện diện thật trong bí tích Thánh Thể. Nhưng sự hiện diện đó vẫn khác với sự hiện diện trong thân xác tại thế của Ðức Giêsu. Nói khác, "thịt và máu" chỉ hiện diện một cách bí tích trong "bánh hằng sống". Ðây là một sự hiện diện sâu xa và đích thực. Bên ngoài chỉ là một tấm bánh hay một chén rượu. Nhưng dấu chỉ bên ngoài đó nói lên sự thật lớn lao bên trong. Ðức Giêsu trở thành của ăn thức uống nuôi sống muôn dân khỏi cơn đói khát thiêng liêng. Bởi đó lấy sự hiểu biết bình thường để đo thực tại Thiên Chúa, con người sẽ bất lực. Trái lại phải có sức mạnh Thần khí mới có thể hiểu nổi Lời Chúa. Thực vậy, "Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống." (Ga 6:63) Bản chất Lời Chúa là thần khí mà lại lấy con mắt xác thịt để nhìn, thật là không cân xứng. Xác thịt chỉ dẫn đến xác thịt, hoàn toàn bất lực trước những đòi hỏi của Thần khí. "Vì chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống." (2 Cr 3:6)
Những người còn ở lại với Chúa vì đã chấp nhận Lời Chúa và tin vào sự hiện diện đích thực của Người trong "bánh hằng sống". Họ đã hiểu Lời Chúa dưới lăng kính Thần khí. "Ai không có Thần Khí của Ðức Kitô, thì không thuộc về Ðức Kitô." (Rm 8:9) Ðó là lý do tại sao "nhiều môn đệ rút lui" (Ga 6:66) và nhiều người "lấy làm chướng" và "xầm xì về vấn đề ấy." (Ga 6:61) Thần Khí sẽ làm im bặt mọi tiếng xầm xì và nghi hoặc, vì Người chính là sức mạnh của Chúa Cha kéo ta lại gần Ðức Kitô. Thần Khí không pha chút vẩn đục mới thấy hết được chiều sâu Lời Chúa. Xác thịt không có độ trong suốt đó để thấy tất cả sự thật. Thách đố chính là cuộc đối đầu giữa Thần Khí và xác thịt. Người môn đệ Ðức Giêsu luôn bị đặt trước sự lựa chọn.
Ngày xưa, dân Do thái cũng đứng trước lựa chọn lớn lao đó. Ông Giôsuê đã lên tiếng trước toàn dân: "Nếu anh em không bằng lòng phụng thờ Ðức Chúa, thì hôm nay anh em cứ tùy ý chọn thần mà thờ... Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Ðức Chúa." (Gs 24:15) Giữa bao nhiêu cám dỗ, dân Do thái đã có lúc nghiêng ngả. Ðã đến lúc họ phải dứt khoát. Ông Giôsuê "đã cho họ một cơ hội để canh tân giao ước Sinai (Xh 19-24)" (Faley 1994:557) Họ đã nhớ lại tất cả sự nghiệp hiển hách Chúa đã làm trên đường về Ðất Hứa. Tất cả đều lặp lại lời tuyên xưng đức tin như ông Giôsuê: "Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Ðức Chúa, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi." (Gs 24:18b) Tất cả lịch sử Do thái đều xây trên lời tuyên tín này. Như vậy ông Giôsuê đã chinh phục được toàn dân về cho Chúa. Nhưng suốt lịch sử không phải lúc nào niềm tin cũng trong sáng như vậy. Cuộc thách đố không bao giờ chỉ đến một lần. Trái lại, cuộc phấn đấu dai dẳng suốt bốn mươi năm trên sa mạc là cuộc phấn đấu với niềm tin.
NHỮNG SỰ KIỆN TRÁI NGƯỢC
Các môn đệ Ðức Giêsu còn phải phấn đấu cam go hơn nữa khi Ðức Giêsu đòi hỏi phải tin "ai ăn thịt tôi và uống máu tôi..." (Ga 6:54) Ngày xưa, sau khi Người công bố về bánh hằng sống, "nhiều môn đệ rút lui." (Ga 6:66) Ðức Giêsu đã dám đánh đổi cả sự nghiệp lấy niềm tin đó. Giả sử lúc đó Chúa cũng chiều theo thị hiếu quần chúng, thử hỏi hôm nay Người còn độ hấp dẫn không?
Chính vì niềm xác tín lớn lao đó, ngày nay Giáo hội vẫn còn là điểm thu hút giới trẻ về với Ðức Giêsu. Bằng chứng gần 3 triệu bạn trẻ khắp thế giới đã tề tựu về Roma trong ngày Quốc Tế Giới Trẻ từ ngày 15 đến 20 tháng 8 năm 2000 để lắng nghe Lời Chúa và tìm kiếm Ðức Giêsu. Một biến cố lớn lao vượt ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Các bạn trẻ đã tuốn về Roma với niềm phấn khởi hân hoan. Họ đã đi bộ hằng chục cây số để vác tượng thánh giá theo gót Ðức Giêsu. Họ đã quì gối giữa phố xá để cùng đọc kinh Truyền tin lúc 12 giờ trưa giữa những tiếng chuông nhịp nhàng nơi kinh thành ánh sáng đó. Ðể chuẩn bị cho ngày Ðại Hội, hằng chục ngàn bạn trẻ đã phải làm việc mệt nhọc hằng tháng hay hằng năm trước. Các bạn trẻ hoàn toàn thoải mái vì được ăn uống ngủ nghỉ hoàn toàn miễn phí. Ðại hội đã chuẩn bị 9 triệu bữa ăn cho các bạn trẻ. Có đủ dịch vụ y tế và vệ sinh đáp ứng nhu cầu của các bạn. Các nhà dân chúng ở Roma đã mở rộng cửa đón tiếp các bạn. Cả Ðức Giáo Hoàng cũng đón tiếp 15 bạn trẻ vào ở chung với Người. Nhiều bạn trẻ thuộc thế giới thứ ba đã được bao vé máy bay về Roma. Các ân nhân đã đóng góp 3.5 triệu đô la giúp đỡ các bạn trẻ. Thật là một ngày vui lớn có tầm mức quốc tế. Niềm vui có thể đo lường được bằng những màn hội diễn văn nghệ, nhảy múa, ca hát. Tất cả đều tìm thấy nhau trong niềm vui hòa hợp với nhau và nhất là với Thiên Chúa. Có khoảng 2.000 linh mục sẵn sàng đáp ứng nhu cầu hòa giải nơi 300 tòa cáo giải ngay tại quảng trường Colossê.
Cũng trên chính quảng trường đó, trước đó hơn một tháng, nghĩa là ngày 8 tháng 7 năm 2000, một cảnh tượng trái ngược đã diễn ra. Cũng một Ðại Hội Giới Trẻ. Cũng vào đầu thế kỷ 21. Những chuẩn bị cũng rất công phu. Ước vọng cũng rất lớn. Người ta hi vọng một triệu người trẻ đồng tính luyến ái sẽ qui tụ về Roma để biểu tình phản đối Tòa Thánh Vatican. Kết quả sau những ngày kêu gọi ầm ĩ và chuẩn bị rầm rộ, chỉ non 7000 bạn trẻ tham dự. Còn đâu hứa hẹn tự do đáp ứng mọi nhu cầu ăn chơi của tuổi trẻ bằng thế giới những người đồng tính luyến ái? Các bạn trẻ không nghe thấy tiếng kêu gào của những người tổ chức hay sao? Trong khi đó, một tiếng kêu gọi của một cụ già 80 tuổi đã được các bạn trẻ đón nhận nồng nhiệt. Gần 3 triệu bạn trẻ nghe tiếng nói của lẽ phải. Chưa tới 7000 nghe theo những hò hét điên cuồng. Nguyên con số cũng cho thấy thất vọng về tuổi trẻ là một sai lầm. Tuổi trẻ là niềm hi vọng lớn lao!!!
46. Quyết bước theo Chúa
(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP
Bốn bài giảng liên tiếp về Bánh Hằng Sống của Đức Giêsu đã tạo ra nhiều phản ứng nơi những cử toạ Do thái. Khi Ngài tiết lộ cho họ biết Ngài có Bánh hằng sống, ăn vào sẽ không đói khát nữa, họ bèn xin Ngài cho họ thứ bánh đó. Tiến thêm một bước, Ngài cho họ biết Bánh đó chính là Ngài từ trời xuống, họ có phản ứng chống lại ngay vì họ cho rằng Ngài chỉ là con bác thợ mộc Giuse ở Nazareth, làm sao lại có chuyện đó được? Nhưng khi Đức Giêsu cho họ biết Bánh Hằng sống đó chính là thịt máu Ngài, phải ăn thì mới có sự sống trong mình, thì họ có phản ứng kịch liệt vì họ cho đây là một việc tởm gớm, không thể chấp nhận được. Thậm chí cả một số môn đệ cũng có phản ứng tương tự: ”Lời này chướng tai quá, ai mà nghe được”. Kết quả là một số môn đệ bỏ đi, không theo Ngài nữa.
Sau thất bại tàn tệ đó, Đức Giêsu quay sang nhóm Mười Hai, là những người thân tín nhất, xem họ có thái độ thế nào? Rất may, ông Phêrô đã thay mặt cho nhóm Mười Hai thưa ngay với Ngài rằng:”Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”. Như vậy, các Tông đồ đã tin vào lời Chúa và quyết tâm theo Ngài.
Ngày nay, trước mầu nhiệm Thánh Thể, vẫn còn có những người có thái độ như dân Do thái và một số môn đệ xưa: họ không tin nhận phép Thánh Thể vì họ cho là một việc phi lý, một sự bầy đặt. Còn chúng ta, chúng ta hãy học theo gương thánh Phêrô và các Tông đồ mà tuyên xưng đức tin và quyết tâm theo Chúa đến cùng, mặc dầu việc tin theo đó đòi hỏi nơi chúng ta nhiều từ bỏ, nhiều hy sinh.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Gs 24,1-18.
Sau khi ông Maisen qua đời, ông Giosuê lãnh nhận trách nhiệm lãnh đạo dân chúng và đưa họ vào Đất Hứa. Sau khi chinh phục được Đất Hứa và chia phần đất cho từng chi tộc, ông Giosuê tập họp dân chúng lại tại Sikem và đòi họ phải tuyên bố dứt khoát lập trường: tin theo Đức Chúa và trung thành với Giáo ước của Ngài hay tin theo các thần của dân ngoại ở Babylon hay các thần của xứ sở mà họ vừa chiếm cứ?
Toàn dân dứt khoát và đồng bộ chọn Thiên Chúa, Đấng đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai cập. Từ nay họ sẽ trở thành dân riêng của Đức Chúa, trung thành thi hành giao uớc đã ký kết với Ngài; và từ nay sự hiệp nhất sẽ phát xuất từ một niềm tin chung vào Giavê Thiên Chúa.
+ Bài đọc 2: Ep 5,21-32.
Bài đọc hai chỉ là đề tài phụ nhưng nói lên mối dây chặt chẽ giữa các tín hữu với Chúa Kitô. Chắc chắn thánh Phaolô biết đề tài Kinh Thánh về lễ cưới giữa Thiên Chúa và dân Ngài, và một cách tự nhiên, ngài nói sang hôn lễ giữa Đức Kitô và Hội thánh để nhấn mạnh rằng chính nơi Đức Kitô mà tình yêu Thiên Chúa đối với dân Ngài đã đến mức viên mãn.
Theo đó, giáo huấn của thánh Phaolô về đạo vợ chồng có 2 điểm:
a) Vợ phải phục tùng chồng như Hội thánh tùng phục Đức Kitô.
b) Chồng phải yêu thương vợ như Đức Kitô thương yêu Hội thánh và như người ta yêu thương thân xác mình.
Kiểu nói của thánh Tông đồ Dân ngoại có thể gây ngỡ ngàng cho người nghe, nhưng sẽ không gây khó chịu và có thể chấp nhận được khi qui chiếu về Tình yêu giữa Chúa Kitô và Hội thánh.
+ Bài Tin mừng: Ga 6,60-69.
Sau bài giảng về Bánh Hằng Sống với lời khẳng định quyết liệt của Đức Giêsu: ”Thịt Ta thật là của ăn và Máu Ta thật là của uống”(Ga 6,55), sự cứng lòng tin của người Do thái lây sang cả nhóm các môn đệ. Họ cảm thấy chướng tai vì những lời quá táo bạo, đảo lộn hết cả mọi quan niệm của họ từ trước đến giờ.
Bị đặt trước giờ phút phải lựa chọn: tin hay không tin, theo hay rời bỏ? Nhiều người Do thái không tin và cùng với một số môn đệ cũng rời bỏ Ngài. Nhưng Đức Giêsu không rút lại điều gì trong lời khẳng định của Ngài.
Nhưng một câu hỏi được đặt ra một cách đột ngột cho các Tông đồ: ”Cả các con nữa, các con cũng muốn bỏ đi hay sao” (Ga 6,67)? Thánh Phêrô đã đại diện cho nhóm Mười Hai tuyên xưng đức tin một cách tuyệt vời: ”Lạy Thấy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”(Ga 6,68).
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Bỏ Ngài con biết theo ai?
Cả bốn bài Tin mừng của bốn Chúa nhật trước và bài Tin mừng hôm nay là phần cuối bài giảng của Đức Giêsu về Bánh hằng sống. Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết thái độ và phản ứng của các thính giả, cách riêng của các môn đệ và đặc biệt của các Tông đồ.
I. CÂU CHUYỆN LỰA CHỌN.
1. Dân Do thái chọn Thiên Chúa.
Bài đọc 1 hôm nay thuật lại cho chúng ta biết: vào khoảng năm 1200 trước kỷ nguyên, dân Do thái đã vượt qua sông Giorđan để vào đất hứa dưới sự hướng dẫn của ông Giosuê. Sau khi chia đất đai cho các chi tộc, ông cảm thấy phải đau lòng truớc sự ngỗ nghịch phản bội của dân Do thái, ông đã triệu tập toàn thể dân chúng lại, truyền cho các kỳ lão, thủ lãnh các gia tộc, các quan án, các sĩ quan đến trước tôn nhan Chúa, rồi ông nói với họ: ”Hôm nay, các ngươi hãy tùy ý chọn lựa phải tôn thờ ai, Thiên Chúa hay các tà thần”? Toàn dân đã biết hối cải, chừa bỏ tội lỗi và đồng thanh quyết định chọn Thiên Chúa để tôn thờ Ngài, khi thưa với ông Giosuê: ”Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Thiên Chúa mà tôn thờ những thần ngoại lai, vì Chúa là Thiên Chúa chúng tôi”.
Dân Do thái hồi tưởng lại biết bao ơn lành Chúa đã ban cho họ, đã cứu họ thoát ách nô lệ Ai cập. Ngài đã làm biết bao việc kỳ diệu, những phép lạ do cánh tay hùng mạnh của Ngài; Ngài đã thi thố biết bao ơn phúc khi dẫn đưa dân tộc họ vào Đất hứa, đất chảy sữa và mật mà Chúa đã hứa với cha ông họ. Mặc dầu họ phản bội, Chúa vẫn luôn rộng lòng tha thứ, yêu thương chờ đợi họ trở lại để tôn thờ Ngài. Chúa đã chấp nhận lòng sám hối của họ khi họ đồng tâm từ bỏ tà thần, trở lại chọn Chúa để tôn thờ Ngài. Dân Do thái đã quyết định và lựa chọn đúng.. Nhưng thực sự, dân Do thái có trung thành với lời giao ước mà họ đã ký kết khi quyết định chọn Chúa để tôn thờ Ngài hay không? Lịch sử dân Do thái đã trả lời cho câu trả lời này.
2. Lựa chọn và tin theo Đức Giêsu.
a) Thái độ của dân Do thái.
Trong suốt bài giảng Đức Giêsu nói về Bánh hằng sống, chúng ta thấy các thính giả có những phản ứng như sau:
- Khi Đức Giêsu nói với họ phải tin vào Ngài thì dân chúng thưa với Ngài: ”Vậy thì ông làm dấu gì cho chúng tôi thấy mà tin ông? Ông làm gì nào” (Ga 6,30).
- Khi Ngài hứa ban bánh sự sống thì dân chúng thưa Ngài: ”Thưa Ngài, hãy luôn luôn cho chúng tôi bánh ấy”(Ga 6,34).
- Khi Ngài tự xưng là Bánh bởi trời thì họ kêu ca: ”Ông ấy lại không phải là Giêsu con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết ! Làm sao bây giờ ông ấy dám nói: Ta từ trời xuống”(Ga 6,40-42)?
- Khi Ngài phán: ”Bánh Ta sẽ ban, chính là thịt mình Ta”. Lúc này người Do thái mới la lối rùm beng lên: ”Làm sao ông ấy có thể cho chúng ta ăn thịt mình được”(Ga 6,52).
Đọc tất cả những cảm nghĩ đó ta thấy rằng trong giới thính giả, một số người lưỡng lự, một số dứt khoát bỏ Chúa, không nghe Ngài nữa (Trần văn Khả).
b) Thái độ của các môn đệ.
Trước lời tuyên bố của Đức Giêsu: ”Thịt Ta là của ăn, máu Ta là của uống” thì không những đám dân chúng mà nhiều trong số các môn đệ đã phản ứng như những người Do thái khác:”Lời này chướng tai quá ! Ai mà nghe nổi”(Ga 6,60)? Khi nghe Đức Giêsu nói vậy, nhiều môn đệ, tuy được sống gần Ngài một thời gian, cũng rút lui, từ giã Ngài: ”Từ bấy giờ, có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Ngài nữa”(Ga 6,66). Họ đã theo Ngài một thời gian, đã tin, đã trở thành môn đệ, nhưng họ không thể đi tới cùng.
c) Thái độ của Nhóm Mười Hai.
Đứng trước sự tan rã bi đát này, Đức Giêsu quay về Nhóm Mười Hai, những người được coi là thân tín nhất của Ngài. Vậy phản ứng của họ thế nào trước câu hỏi của Đức Giêsu: ”Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ đi không”? Thánh Phêrô đã thay mặt cho cả Nhóm nói lên thái độ của họ: ”Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa “ (Ga 6, 70).
Như vậy, thánh Phêrô đã đại diện cho anh em nói lên một lời tuyên xưng rất trọn vẹn và đầy đủ, Ngài có những lời ban sự sống đời đời. Do đó, những lời tuyên bố, quả quyết và khẳng định trong bài giảng về Bánh Hằng Sống này thực sự là theo nghĩa đen thông thường nói về phép Thánh Thể.
II. LỰA CHỌN VÀ TIN THEO.
1. Nói về sự lựa chọn.
Ngày nay người ta nói nhiều đến dân thân. Dấn thân, nhập cuộc là thân phận của con người. Sống là lựa chọn. Mà chọn lựa là liều lĩnh, vì không bao giờ ta nắm chắc được một cách rành rọt như 2 với 2 là 4 tất cả những lý do lựa chọn và những điều tương lai dành cho sự lựa chọn của ta. Nhưng không vì thế mà ta không dám liều mình. Khi đã dùng trí khôn suy nghĩ, cân nhắc theo như ta có thể, rồi ta cứ tiến bước.
Cuộc đời là một chuỗi những sự lựa chọn. Có lẽ chỉ trừ việc sinh ra và cái chết là người ta không lựa chọn được, còn tất cả mọi việc khác thì người ta phải lựa chọn. Và chính sự lựa chọn này sẽ định hướng và đánh giá cuộc đời của mình. Nghĩa là nếu chọn đúng, chọn khéo thì đời mình sẽ tốt, sẽ hạnh phúc; còn nếu chọn ẩu, chọn sai thì cuộc đời sẽ xấu, sẽ bất hạnh.
Nói đến lựa chọn là giả thiết phải có sự tự do trong đó. Nếu ai bị ép buộc phải làm một việc gì ngoài ý muốn thì không còn là tự do lựa chọn nữa, mà là sự bó buộc. Chính sự tự do trong lựa chọn làm cho chúng ta phải suy nghĩ, phải day dứt vì phải có trách nhiệm trong việc lựa chọn, phải nhận lấy hậu quả của việc lựa chọn ấy.
Truyện: thần Hercule.
Theo truyện thần thoại của Hy lạp, Hercule là một vị thần, một lần đứng giữa ngã ba đường và tự hỏi xem đi về đâu. Hai người chỉ đường đến với ông. Một người nói:
- Hãy theo tôi, đây là con đường thoải mái, hạnh phúc và lối đi dễ dàng.
Người thứ hai nói:
- Đây là con đường cố gắng, nỗ lực, khó khăn. Tuy là đường khó khăn, nhưng đưa tới hạnh phúc.
Hercule đã chọn con đường khó khăn và quả thực ông khôn ngoan, ông đã thành công.
Bất cứ cách nào, lựa chọn là phải liều, phải chấp nhận một tương lai bấp bênh, phải chấp nhận hậu quả của việc lựa chọn ấy, mặc dầu phải hy sinh rất nhiều. Trong chọn lựa việc kết hôn, chúng ta sẽ thấy rõ đặc tính của sự lựa chọn ấy:
Nhà anh chẳng chiếu chẳng giường,
Chỉ ấm ổ ra, nàng thương chăng là?
- Yêu nhau chẳng quản cửa nhà,
Chuồng chim cũng lấy, chuồng gà cũng theo.
2. Chúng ta chọn Đức Giêsu.
Đức Gioan Phaolô II thường khuyên những người đến với Ngài rằng: Chúng con phải lựa chọn. Chọn là một quyết định lớn và quan trọng của đời người. Chúng ta đã chọn. Và chúng ta còn phải tiếp tục chọn, vì đời là một tiến trình, đời là một cuộc đổi mới không ngừng nghỉ. Khẩu hiệu của Đức Gioan 23 là: Giờ đây tôi mới khởi sự. Mỗi ngày chúng ta phải khởi đầu với sự lựa chọn.
Mà sự lựa chọn căn bản và quan trọng nhất của cuộc sống là chọn Đấng chúng ta tôn thờ. Chúng ta phải chọn Chúa là thần tượng vì Ngài là một vị thần siêu việt, tuyệt đối đáng tôn thờ. Ta không được bắt chước dân Do thái xưa thờ con bò vàng thay vì Ngài. Chính Đức Giêsu cũng khuyên: ”Không ai có thể làm tôi hai chủ... Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được”(Mt 6, 24).
Nhưng Thiên Chúa là Đấng vô hình, ta không thể tiếp cận với Ngài, ta cần phải có một thần tượng nào gần chúng ta hơn, vị thần ấy đã nói: ”Ai thấy Thầy là thấy Cha” và Đấng ấy đã nói: ”Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”(Ga 14,6).
Có một người suốt 2000 năm đã được bao nhiêu người hâm mộ tin theo, thậm chí còn nhận lấy cái chết để tỏ ra trung thành với vị thần ấy !
Vị thần đó là ai?
Đó là Đức Giêsu Kitô.
Sự lựa chọn của chúng ta sẽ mang lại phần thưởng mà thánh Phêrô và các tông đồ xưa đã nhận lãnh, đó là được chia sẻ tấm bánh hằng sống, Mình và Máu Đức Kitô. Được chết đi với Chúa mỗi ngày để được sống lại với Chúa trong hạnh phúc và vinh quang. Đó là niềm vui của mỗi chúng ta. Đây là một lựa chọn quan trọng có liên quan đến cuộc đời mai hậu của ta.
3. Chúng ta tin theo Đức Giêsu.
Chúng ta đã chọn Đức Giêsu làm thần tượng, làm Chúa của mình, điều đó chứng tỏ không những chúng ta phải có niềm tin và còn hơn nữa chúng ta phải có đức tin. Mà giả như chúng ta chưa có đức tin cho đủ thì hãy theo lời khuyên của triết gia Blaise Pascal: ”Nếu bạn muốn có đức tin, hãy qùi xuống và cầu nguyện”.
Sống theo đức tin là đi trong đêm tối, vì đức tin là “khước từ cách hiểu biết thông thường, nhờ giác quan và lý trí, lý luận“ để “tin vào một người khác”, đó là tin mà không thấy, như thánh Gioan sẽ nói rất nhiều lần.
Đối với Đức Giêsu, như chúng ta đã thấy, luôn gây đụng chạm ! Đức tin không hẳn nhiên là thế. Đức tin luôn luôn cho ta thấy chướng. “Đức tin” không phải là một bài học được lặp đi lặp lại “nhưng” là một “dấn thân” trong cuộc sống, là một thôi thúc phải chấp nhận từ bỏ ánh sáng riêng của mình, được coi là có tính khoa học, để đón nhận mạc khải của một người khác mà không thể kiểm chứng được bằng những phương thế nhân loại. Chính Thánh Thể là cớ vấp phạm cho các môn đệ khiến họ từ bỏ Chúa, và ngày nay cũng có những người không chấp nhận được mầu nhiệm này.
Đức tin cũng đòi hỏi phải có thử thách. Qua câu chuyện được kể trong bài Tin mừng hôm nay, tức câu chuyện Đức Giêsu nói với các môn đệ Ngài về bí tích Thánh Thể. Trong cuộc sống cũng sẽ có những giây phút chúng ta cũng bị thách đố như các môn đệ, và có thể chúng ta cũng bị cám dỗ từ bỏ Chúa, không theo Ngài nữa. Những lúc đó, chúng ta đừng để mình vấp phạm những lỗi lầm giống như các môn đệ xưa đã vấp phải, nghĩa là đừng chỉ lo chú tâm đến những vấn đề xẩy đến cho chúng ta, mà hãy đưa mắt nhìn vào Đức Giêsu, chúng ta hãy xác nhận lại niềm tin vào Ngài như thánh Phêrô đã làm: ”Lạy Thầy, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin Thầy là Đấng thánh của Thiên Chúa”.
III. TRUNG THÀNH VỚI SỰ LỰA CHỌN.
Trong ngày chịu phép Rửa tội, Linh mục hỏi chúng ta có từ bỏ ma qủi và những việc làm của chúng không? Cha mẹ chúng ta hay chính chúng ta đã quả quyết thưa từ bỏ. Ta lại còn tuyên xưng và tin theo Chúa Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần. Chúng ta đã chọn Thiên Chúa là gia nghiệp của mình. Rồi trong mỗi dịp lễ Phục sinh, từng người chúng ta lại có dịp bầy tỏ sự lựa chọn của mình một lần nữa khi tuyên xưng đức tin và lại tuyên bố từ bỏ ma qủi và các việc của của chúng.
Chúng ta đã chọn Chúa và chỉ chọn một mình Chúa chứ không thể chọn cả hai, không được thờ hai chủ. Lựa chọn một lần chưa đủ, còn phải lặp đi lặp lại nhiều lần, nó phải được thể hiện qua những lựa chọn nho nhỏ trong mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút trong cuộc sống của chúng ta. Chúng ta chỉ có một sự lựa chọn duy nhất: chọn Chúa. Chọn lựa đúng thì được sống và chọn lựa sai thì chết.
Ở đô thị Jaffa xứ Palestina, có một khu đất gọi là khu đất quyết định. Các sông ngòi chảy vào khu đất ấy lưỡng lữ một lúc rồi mới chảy sang một trong hai hướng. Những sông ngòi theo một hướng thì chảy vào khu vườn Sharon xinh đẹp. Còn những sông ngoài theo hướng kia thì chảy vào Biển Chết, biển này không có một sinh vật nào sống nổi. Cuộc đời chúng ta cũng thế. Chúng ta phải chọn một hướng, không ai có thể làm tôi hai chủ:
Một nhà hai chủ không hoà,
Hai vua một nuớc ắt là không yên.
Chọn lựa tự do, nhưng chọn lựa lại là giới hạn. Khi đã có một chọn lựa là chúng ta phải biết tự giới hạn mình. Chính Đức Giêsu khi chọn con đường cứu độ nhân loại, Ngài cũng đã phải chấp nhận thân phận giới hạn con người, và cả cái chết nhục nhã trên thập giá như lời thánh Phaolô trong bài đọc 2: ”Đức Kitô yêu thương Hội thánh, và phó mình vì Hội thánh, để thánh hóa Hội thánh,... ngõ hầu bầy tỏ cho mình một Hội thánh vinh quang, không vết nhơ, không nhăn nheo..., nhưng thánh thiện và tinh tuyền”.
Phải chăng chọn Chúa và theo Chúa là một nghịch ly vì Chúa chỉ hứa cho những sự mất mát? Người ta thuật lại câu chuyện của một ông tướng kỳ lạ, đó là đại tướng Garibaldi. Một ngày kia, ông nhóm họp quân đội ăn mặc rách rưới mà hiểu dụ rằng: ”Ta cho các ngươi sự đói khát, lạnh lẽo, thương tích và chết trận. Ai vui lòng nhận các điều ấy thì hãy theo ta”. Kết quả: chẳng ai chịu rời bỏ hàng ngũ của mình.
Chúng ta nghĩ thế nào về câu nói của vị đại tướng ấy? Có kỳ lạ không? Có vô lý không? Có điên khùng không? Và chúng ta nghĩ thế nào về câu nói của Đức Giêsu: ”Ai gìn giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai vì Ta mà mất mạng sống mình thì lại tìm lại được”(Mt 10,39)?
Và để kết thúc, chúng ta phải đặt ra câu hỏi: Nếu ta chọn Chúa thì sẽ ra sao? Và nếu ta bỏ Chúa thì sẽ ra sao? Linh mục nhạc sĩ Thành Tâm đã suy diễn câu hỏi bất hủ của thánh Phêrô thành một bài thánh ca rất ý nghĩa như sau:
“Bỏ Ngài con biết theo ai”
- Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cách chim bơ vơ trong khung trời lộng gió.
- Bỏ Ngài con sẽ theo ai, đời lộng gió cánh chim ngàn khơi.
- Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một con tuyền lao đao trên biển cả mênh mông.
- Bỏ Ngài con biết theo ai, thuyền buông lái biết trôi về đâu?
- Bỏ Ngài con biết theo ai, trên đời kia tương lai khuất mờ.
- Và bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cuộc hành trình cô đơn, buồn bã.
Bước đi không Ngài, đời con buồn tênh.
Còn nếu chọn Ngài, thì cuộc đời của chúng ta tuy cũng vẫn là một cuộc hành trình, cũng vẫn như cánh chim bay trong khung trời lộng gió, cũng như một con thuyền giữa biển cả mênh mông, nhưng trong cuộc hành trình ấy, đã có Chúa đồng hành, cánh chim đã biết hướng mà bay, con thuyền đã có người lèo lái và như thế sẽ bảo đảm đi tới bến đò bình an (Lm Carolô, Sợi chỉ đỏ, năm B, tr 606-607)
Chọn Chúa, đi theo Chúa, trước mắt là một sự hy sinh, một sự mất mát và bị người đời coi như một sự điên rồ, nhưng như thánh Phaolô nói thì đó là sự khôn ngoan trước mặt Chúa. Có lẽ người ta nói đúng: ”Khôn thế gian làm quan địa ngục, dại thế gian làm quan thiên đàng” !
Truyện: vua Charles V.
Vua Charles một lần kêu hoàng tử đến và cho hoàng tử được chọn. Trên bàn vua đặt một thanh kiếm và một vương miện (Triều thiên), Vua nói:
- Con chọn cái nào?
Ngần ngừ một lúc hoàng tử cầm lấy thanh kiếm.
Vua cha hỏi:
- Sao con lại chọn thanh kiếm?
Hoàng tử cầm thanh kiếm chỉ vào vương miện đáp:
- Nhờ thanh kiếm này, con sẽ được vương miện kia.
Chúng ta đã quen với khẩu hiệu: ”Per crucem ad lucem”: qua thập giá để tới vinh quang. Bước theo Chúa là phải đi vào con đường khổ giá, phải qua cửa hẹp, nhưng chính con đường hẹp hòi khắc khổ lại đem đến vinh quang. Theo gương hoàng tử, chúng ta cũng phải nhờ thanh kiếm đau khổ để có thể chiếm được triều thiên vinh phúc muôn đời, thánh giá phải đi trước triều thiên
Xả thân nếu muốn theo Thầy,
Vác cây khổ giá hằng ngày mà theo. (Mt 16,24)
47. Lúc này và ở đây
(Suy niệm của Giuse Nguyễn Văn Hội)
Kính thưa cộng đoàn,
Mỗi lần được tham dự thánh lễ cùng với cộng đoàn, đặc biệt trong những ngày lễ trọng như Giáng Sinh, Phục Sinh, tôi thầm cám ơn Chúa. Cám ơn Chúa vì Người vẫn hằng thúc giục bao tâm hồn đến cùng Người. Có thể nói, tại Việt Nam ta, số người đến với Chúa vẫn luôn đông đảo. Trong khi tại các nước phương tây như Pháp, Canada, những nước được xếp vào hàng cha mẹ hay ông bà của chúng ta vế số tuổi nhận biết đạo thánh Chúa, thì các nhà Dòng cũng như nhà thờ chẳng còn được mấy người lui tới, có chăng một số rất nhỏ các cụ già.
Nhưng tôi cũng phải cám ơn Chúa vì sự lựa chọn của chính ông bà, anh chị em. Vì có ai trong chúng ta khi chọn đến đây đã không phải hy sinh hay từ bỏ điều gì? Chắc hẳn là không. Từ những hy sinh nhỏ bé tưởng như không đáng kể, không là gì như giấc ngủ, xem phim, đi chơi,… đến những hy sinh như công việc, nghề nghiệp, tình cảm. Bởi theo tôi được biết, rất nhiều người đã sẵn sàng chọn công việc tầm thường hơn, lương tháng ít hơn, để có được ngày chủ nhật tương đối rảnh rỗi mà đến vơi Chúa; có nhiều bạn trẻ cũng đã mạnh mẽ dám khước từ lời mời gọi của tình yêu khi người bạn của mình không chấp nhận việc tin nhận Chúa.
Kính thưa cộng đoàn, dường như mỗi người, trên mỗi bước đường đời, đều được đặt trước một sự chọn lựa, một ngã ba đường. Có khi chọn lựa ấy là nhẹ nhàng, đơn giản. Có khi chọn lựa ấy là phức tạp, khó quyết. Có khi chọn lựa ấy đem lại hạnh phúc, nhưng có khi chọn lựa ấy đem lại khốn cùng. Có khi chọn lựa ấy như lẽ đương nhiên của một giai đoạn, nhưng có khi chọn lựa ấy lại nghiêm trọng liên quan đến sinh mệnh của đời người. Người ta phải luôn chọn lựa và đôi khi nếu không chọn lựa và quyết định, người ta chỉ có một con đường chết.
Nói đến đây tôi nhớ câu chuyện trong kho tàng chuyện cười dân gian Việt Nam. Chuyện kể rằng:
Tại một khúc sông nọ, quang cảnh thơ mộng, hai bên bờ sông có hai ngôi chùa, các sư sãi trong chùa có cuộc sống khá sung túc. Cũng tại khúc sông ấy, có một con chó, nó không thuộc chùa bên này cũng chẳng thuộc chùa bên kia. Bởi mỗi khi nghe tiếng chuông nhà cơm bên chùa nào vang lên nó lại bơi sang chùa đó để đánh chén no nê. Rồi đến ngày kia, có lẽ là ngày rằm, người ta trẩy đến chùa rất đông, mang theo đủ thứ lễ cúng. Chó ta bắt đầu chảy nước miếng. Giờ cơm hôm đó như dài hơn. Cuối cùng thì tiêng chuông cũng vang lên. Con chó vội nhảy xuống sông và bơi sang chùa có tiếng chuông. Nhưng khi nó vừa bơi đến giữa sông thì tiếng chuông chùa bên này cũng đã điểm. Con chó phân vân: Thôi ta quay lại, vì có lẽ cơm bên chùa này nhiều món ăn ngon hơn. Và nó quyết định bơi trở lại. Bơi được một đoạn, nó lại tự nhủ: biết đâu chùa bên kia có nhiều món ăn ngon hơn thì sao. Và nó lại quay đầu bơi sang chùa bên kia. Nhưng cũng bơi được một đoạn, nó lại tự hỏi: nếu chùa bên này có nhiều món ăn lạ hơn thì tiếc lắm. Và nó lại bơi trở lại. Cứ thế, con chó bơi trở đi trở lại không biết bao lần, cho đến khi không còn bơi được nữa vì kiệt sức, và nó bị dòng nước cuốn đi.
Hai bài đọc hôm nay đều hướng chúng ta đến hay đúng hơn đặt chúng ta trước một chọn lựa, một quyết định. Trong bài đọc thứ nhất, chúng ta nghe ông Giô-suê nói với toàn dân và ông đưa ra cho họ những chọn lựa: Các ngươi không bằng lòng chọn Gia-vê thì hôm nay cứ chọn lấy ai mà thờ, hoặc là những thần tổ tiên các ngươi đã phụng thờ bên kia sông cả; hoặc là các thần của dân Amori… Phần ta và cả nhà ta, chúng ta sẽ phụng thờ Gia-vê…
Còn trong bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Giêsu hỏi nhóm mười hai: Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao? Ông Phê-rô đã nhanh nhẹn đại diện cho cả nhóm thưa: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai, Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời".
Sự chọn lựa và quyết định luôn là vấn đề hiện tại, lúc này và ở đây. Tuy nhiên, sự chọn lựa lại thường được nương vào quá khứ, lấy sự kiện quá khứ làm nền cho chọn lựa hiện tại. Dân Ít-ra-en xưa, trước câu hỏi của Giô-suê, đã trả lời: Quái gở thay nếu chúng tôi từ bỏ Gia-vê để phụng thờ những thần khác. Và họ đưa ra những lý do: Vì Gia-vê đã đem chúng tôi cùng cha ông lên khỏi đất Ai Cập; Vì Gia-vê đã gìn giữ chúng tôi trên đường đi, vì đã đuổi đằng trước chúng tôi hết mọi dân, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi.
Còn Phê-rô, tại sao ông lại có thể đáp lại Chúa cách tức thời như thế? Như ta đã nghe trong các chúa nhật vừa qua, Phê-rô và các môn đệ đặc biệt là nhóm 12, đã luôn đi sát Chúa, cùng ăn cùng uống với Chúa, đã chứng kiến phép lạ Chúa hoá bánh ra nhiều, Chúa đi trên mặt biển, cùng những lời giảng dạy đầy uy quyền của Chúa. Vậy cứ theo lẽ thường, ông có đủ cơ sở để tiếp tục đi theo Ðức Kitô. Ông đã có một chọn lựa và quyết định dựa vào quá khứ.
Tuy nhiên ta có thể đặt câu hỏi tại sao nhiều môn đệ đã cùng đi với người từ lúc đầu, cũng chứng kiến tất cả những việc Chúa làm mà sao họ lại bỏ Chúa mà đi, sao họ không có cùng chọn lựa như nhóm 12? Một sự thật đau đớn như lời thánh Gio-an ghi lại:Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người.
Tuần trước ta đã nghe người Do Thái tranh luận sôi nổi với nhau "Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được", khi họ nghe Ðức Giêsu nói: Bánh tôi ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống. Người Do Thái tranh luận sôi nổi, còn các môn đệ hôm nay có phản ứng liền: Lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi. Quả thật, có lẽ ta cũng phải thừa nhận rằng lời của Ðức Giêsu quá "sống sượng", quá chướng tai, bởi từ trước đến nay có ai dám nói với môn đệ và người ta rằng: hãy ăn thịt và uống máu tôi để được sống. Tuy rằng trong truyền thuyết hay trong thực tế cũng có những trường hợp lấy thịt hay máu của mình mà cho người thân ăn hay uống, như trong chuyện Thoại Khanh Châu Tuấn: Thoại Khanh vì hiếu thảo với mẹ chồng, nên khi mẹ muốn ăn thịt mà không kiếm đâu ra, nàng đã cắt thịt của mình mà nấu cho mẹ ăn. Hay trường hợp của một người mẹ, tôi không nhớ rõ đã đọc trên số báo nào, khi bị kẹt trong một căn nhà cùng đứa con nhỏ do động đất, sau mấy ngày không còn thức ăn nước uống, đứa bé khóc vì khát, vì đói, người mẹ vì thương con đã lấy mảnh chai cắt tay mình cho con mút, cũng may nhân viên cứu hộ đã tìm thấy kịp thời và cứu sống được cả hai mẹ con.
Nhưng đó là những trường hợp hy hữu. Ðàng này, Ðức Giêsu cứ thẳng thắn nói đi nói lại rằng hãy ăn thịt và uống máu Ngài, Ngài còn như đe doạ rằng nếu không sẽ không có sự sống, trong khi Ngài vẫn sống sờ sờ ra đấy. Những kinh nghiệm quá khứ đã không đủ mạnh, không đủ căn cứ để cho nhiều môn đệ có một sự chọn lựa và quyết định trước một sự thật quá phũ phàng, một sự thật mà các ông không thể chấp nhận được. Nhiều môn đệ đã bỏ đi, chỉ còn lại nhóm 12, và Ðức Giêsu đã buộc các ông phải có một thái độ dứt khoát trong chọn lựa.
Ta hãy trở lại câu hỏi trên kia: tại sao nhiều môn đệ cũng đã từng chứng kiến bao việc Chúa làm mà lại không có cùng quyết định như nhóm 12? Nhóm 12 đã có chọn lựa và quyết định dựa vào những sự kiện đã qua, dựa vào những lời nói và những việc Ðức Giêsu làm. Nhưng ta cũng có thể nói rằng kinh nghiệm của các ông có lẽ không đủ mạnh khiến các ông có một chọn lựa và quyết định dứt khoát như thế, khi vừa nghe những lời sống sượng và chói tai. Ðiều quan trọng hơn và có tính quyết định trong chọn lựa của các ông, đó là việc các ông nhận ra Ðức Giêsu là Ðấng thánh của Thiên Chúa, đó là điều do chính Ðức Giêsu nói ra: Thầy đã bảo anh em, không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho. Như thế việc chọn lựa và quyết định đi theo Ðức Giêsu là một ơn ban nhưng không, một ơn ban không dựa vào hiện tại, quá khứ hay tương lai.
Nhưng phải chăng tất cả các môn đệ không được cùng ban ơn ấy? Nếu có thì nhiều môn đệ đã không bỏ Chúa mà đi! Mỗi người đều được ban ơn ấy, vì chắc chắn Thiên Chúa không thiên vị khi ban ơn có sức cứu độ người ta. Nhưng nhiều môn đệ đã bỏ đi, và ta có thể nói, họ bỏ đi vì họ muốn thế, họ tự quyết như thế. Họ dùng tự do mà quyết định. Chắc chắn Chúa rất đau lòng khi phải chứng kiến bao môn đệ đã từng theo Người bấy lâu nay bỏ Người mà đi. Nhưng Người vẫn tôn trọng quyết định và chọn lựa của họ. Bởi chỉ trong tự do, con người mới có thể đi vào trong mối tương quan tình yêu với Người. Ta không dám lên án hay phán xét những môn đệ bỏ Chúa mà đi, nhưng có lẽ họ đã có một quyết định, một chọn lựa dẫn đến cõi chết.
Mong sao mỗi người chúng ta luôn có được những quyết định sáng suốt trên mỗi bước đường, và trong từng giây phút. Mong sao quyết định đi theo Ðức Kitô sẽ luôn là điểm qui chiếu của mọi quyết định và chọn lựa của ta trong đời sống. Và mong sao khi đứng trước một vấn đề gì, dù vượt quá tầm trí hiểu và có sức lôi cuốn ta bỏ Chúa thì lời thánh Phê-rô hôm nay lại vang lên trong mỗi người chúng ta: "Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai, Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Amen.
48. Bàn tay Chúa dẫn dắt ta trên mọi nẻo đường
(Suy niệm của GB. Nguyễn Tuấn Dũng, OP)
Hành trình của mỗi con người luôn chất chứa những điều kỳ diệu. Từ khi sinh ra cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay, con người luôn hướng đến điều hạnh phúc. Ngay khi lọt lòng mẹ, em bé đã được yêu thương bồng ẵm, chăm sóc của người mẹ, người cha. Và bé được cưu mang trong vòng tay ấm êm của gia đình. Lớn lên em đến với trường lớp, nơi ấy có thầy cô, bạn bè quan tâm, nâng đỡ. Khi trưởng thành, người thanh niên, thanh nữ ấy hội nhập với xã hội, với con người, với môi trường sống vươn tới những ước mơ của cuộc đời, cho đến lúc trở về với cát bụi.
Nếu chỉ dừng lại cuộc sống ở đời này thì điều đó thật vô nghĩa. Con người cũng như cỏ cây, những loài thảo mộc, những loài động vật vô tri khác… Niềm tin của người Ki-tô hữu trả lời cho thế giới về một niềm hy vọng, đó là niềm tin vào Thiên Chúa yêu thương con người, ban cho con người những hồng ân đặc biệt hơn các loại thụ tạo khác. Và như vậy, người Ki-tô hữu tin tưởng, phó thác cuộc đời trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Cả cuộc hành trình nơi dương thế này họ luôn được bàn tay Chúa dẫn dắt, đưa đường.
Tin mừng theo Thánh Gioan chúng ta vừa nghe đưa chúng ta vào câu chuyện giữa Đức Giêsu và các môn đệ. Các môn đệ hãnh diện và an tâm về Thầy của mình. Các ông đã dám bỏ mọi sự để theo Người – Một Con Người không có nơi gối đầu. Các ông đi theo Chúa để lắng nghe, để được cùng sống với Người. Các ông nở mày nở mặt với mọi người khi vị Thầy của mình làm nhiều dấu lạ: chữa lành người bệnh tật, đau yếu, người què đi được, người phong hủi được sạch, người mù được thấy, người chết sống lại… Các môn đệ theo chân Chúa Giêsu cũng với nhiều mục đích, trong đó hẳn là các ông đi theo Chúa để tìm được hạnh phúc, trước hết ở đời này. Chúa Giêsu quả là vui khi có nhiều môn đệ theo Người, chưa kể đến nhóm Mười Hai mà Người đã chọn gọi.
Nhưng không phải lúc nào niềm vui ấy cũng được tràn trề. Các môn đệ theo Chúa không hẳn lúc nào cũng tìm thấy được sự bình an, niềm vui nơi vị Thầy của mình. Bằng chứng rằng khi Đức Giêsu tuyên bố: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (Ga 6, 54a) đã có nhiều môn đệ không chịu nổi khi nghe những lời nói ấy của Đức Giêsu. Đối với họ, lời nói đó thật chướng tai, không thể tưởng tượng nổi.
Các môn đệ đã cảm thấy bị sốc khi đón nhận một lời giảng dạy thật mới mẻ, vượt ra ngoài những suy nghĩ đơn giản của họ. Họ không thể chấp nhận! Có lẽ mỗi người chúng ta nhiều khi vẫn cảm thấy ngỡ ngàng, chưa thật sự vững tin khi đứng trước Mầu Nhiệm Thánh Thể. Có thể cũng như các môn để xưa kia, chúng ta sẽ rút lui, thiếu niềm tin vào Chúa. Nhiều lúc trên bước đường trần gian, ta cảm thấy lạc lõng, gặp thử thách gian truân ta ngã lòng, không còn theo Chúa nữa. Một cơn bạo bệnh; một tai nạn bất ngờ; Hoặc công ăn việc làm không thuận buồm xuôi gió; Có khi gặp lừa đảo, gian dối nơi thương trường… Lúc ấy, dường như ta chẳng thấy bàn tay Chúa đâu cả. Làm sao để ta luôn có được một niềm tin vững mạnh như Thánh Tông đồ Phê-rô: “Bỏ Thầy chúng con biết đến với ai?”. Rồi mạnh dạn tuyên xưng: Lạy Chúa, chỉ có Chúa mới có những lời ban phúc trường sinh. Xin cho chúng ta biết một lòng khiêm tốn, để đón nhận ân sủng Chúa Cha ban cho hầu có thể đến được với Thầy Giêsu Chí Thánh.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin nhìn đến chúng con là những Ki-tô hữu yếu đuối và hèn kém trong đức tin, chưa vững vàng trong đức cậy, và lửa mến còn leo lét. Xin tuôn đổ muôn ơn thiêng dạt dào, thấm đượm tâm hồn, thể xác chúng con, để chúng con có được sức mạnh đích thực của Chúa, dám thưa rằng: Chỉ có Ngài mới đem lại sự sống đời đời – là gia nghiệp chúng con mãi mãi.
Ước gì nơi Lương thực thần lương Chúa mà chúng con rước lấy mỗi ngày, bổ dưỡng linh hồn chúng con. Để nhờ Thần lương trợ lực giúp chúng con kiên vững trên đường trần dù gặp thử thách, gian truân.
Lạy Chúa, xin dẫn chúng con đi theo Đường Chân lý của Ngài. (Tv 24, 5) Amen.
49. Dứt khoát theo Chúa.
Sau khi rao giảng về Bí tích Thánh Thể, dân chúng và ngay cả một số đông môn đệ đã lấy làm chướng tai gai mắt và khó nghe, nên đã lìa bỏ Chúa. Thấy vậy, Chúa bèn quay về với nhóm Mười Hai. Ngài đòi các ông phải có thái độ và lập trường dứt khoát, Ngài hỏi các ông:
- Còn chúng con, chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi hay không?
Và như thế chúng ta đã thấy, Phêrô thay mặt cho tất cả anh em trong nhóm đã thưa lên cùng Chúa:
- Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết theo ai, vì chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.
Hẳn chúng ta còn nhớ, một lần khác, khi thầy trò tới địa hạt xứ Cêsarêa Philipphê, Chúa Giêsu đã hỏi các môn đệ:
- Người ta bảo con người là ai?
Các ông đã lượm lặt dư luận đó đây và thưa lên cùng Chúa:
- Người thì bảo là Êlia, người thì bảo là Giêrêmia, người thì bảo là một tiên tri nào đó và kẻ khác lại nói là Gioan tẩy giả.
Có lẽ lúc bấy giờ, Chúa Giêsu đã nhìn các ông và đặt một câu hỏi nòng cốt, đòi các ông phải bày tỏ lập trường:
- Còn các con, các con bảo Thầy là ai?
Và Phêrô cũng thay mặt cho anh em trong nhóm tuyên xưng đức tin:
- Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống.
Xuyên qua những lời giảng dạy, Chúa Giêsu bao giờ cũng đòi hỏi nơi những người muốn bước theo Ngài một thái độ dứt khoát, một lập trừờng rõ rệt. Ngài bảo:
- Ai yêu thương cha mẹ, vợ con, tiền bạc nhà cửa hơn Ta, thì không xứng đáng làm môn đệ Ta. Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì nếu yêu chủ này thì sẽ ghét chủ kia, cũng vậy không thể làm tôi vừa Thiên Chúa vừa tiền bạc. Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Sở dĩ như vậy là vì tinh thần của Chúa thì trái với tinh thần của thế gian như lửa với nước, như ánh sáng và bóng tối. Theo Chúa là theo trót cả tâm hồn, chứ không thể trung lập, lửng lơ, đi nước đôi và bắt cá hai tay.
Cựu ước có kể lại một mẩu chuyện như sau: Ngày ấy, Giosuê triệu tập tất cả các chi tộc lại ở Sikem và ông nói với họ:
- Hôm nay các ngươi hãy lựa chọn, một là thờ phượng Đức Giavê, hai là thờ phượng các thần của dân ngoại. Riêng phần tôi và gia đình, chúng tôi nhất quyết chỉ thờ phượng một mình Đức Giavê mà thôi.
Bấy giờ dân chúng trả lời rằng:
- Không hề có chuyện chúng tôi lìa bỏ Đức Giavê mà tôn thờ những thần dân ngoại. Đức Giavê là Thiên Chúa của chúng tôi, chính Ngài đã dẫn chúng tôi ra khỏi đất Ai Cập, đã làm những việc kỳ diệu trước mặt chúng tôi và đã gìn giữ chúng tôi suốt những con đường chúng tôi đã đi qua. Chúng tôi chỉ phụng thờ Đức Giavê vì chỉ mình Ngài là Thiên Chúa chúng tôi.
Có lẽ giờ đây Chúa Giêsu cũng nhìn mỗi người chúng ta và muốn chúng ta tỏ bày cái thái độ dứt khoát. Thế nhưng, có lẽ chúng ta đã phải cúi mặt xuống, bởi vì mặc dù mang tiếng là người có đạo, là kẻ đã tin theo Chúa, nhưng cuộc đời chúng ta vẫn còn chồng chất quá nhiều tội lỗi, bản thân chúng ta vẫn thường xuyên nhượng bộ cho những cám dỗ, những khuynh hướng xấu xa. Chúng ta vừa muốn phụng thờ Chúa, vừa muốn phụng thờ ma quỷ. Vừa muốn bước theo Chúa lại vừa muốn phạm tội.
Chúng ta giống như người tân tòng khi được ghìm xuống nước để lãnh nhận Bí tích Rửa tội, thì ông cứ giơ một bàn tay lên cao. Vị linh mục bèn hỏi tại sao, thì ông trả lời:
- Con muốn tin theo Chúa thật đấy, nhưng lại muốn dành bàn tay này cho tội lỗi, để khi bàn tay này ăn trộm ăn cắp, gây gỗ đánh lộn thì nó không thuộc về Chúa.
Hãy có một thái độ và một lập trường dứt khoát. Hãy dâng hiến cho Chúa trọn vẹn cả tâm hồn lẫn thể xác bởi vì nếu chúng ta nói rằng mình yêu mến Chúa, mà còn giữ lại một xó góc con tim cho tội lỗi, dù là một xó góc nhỏ bé nhất, thì đó là một dấu chỉ chắc chắn nhất chứng tỏ chúng ta chưa hề yêu mến Chúa.
50. Thầy mới có lời ban sự sống đời đời
MINH HỌA LỜI CHÚA
1. Tướng Turenne cố chấp
Trong các tướng lãnh phục vụ Vua Louis XIV của Pháp, có tướng Turenne là can đảm nhất và được mọi người trong triều đình kính nể. Tuy nhiên ông theo phái Calvin. Vua và vị giám mục hùng biện là Bossuet đều khuyên bảo, nhưng ông nhất định không hồi tâm hối cải. Ông còn có nhiều thành kiến chống Giáo hội. Đặc biệt ông chống lại việc Chúa Giêsu hiện diện trong bí tích Thánh Thể. Ông cho là không thể tin được, dù ông công nhận niềm tin nầy đẹp và an ủi những người có lòng tin. Ông thường nói:
- Nếu ai làm cho tôi tin vào sự hiện diện gủa Chúa Giêsu trong Thánh thể, thì có phải quỳ xuống đất để tôn thờ, tôi cũng quỳ.
Dầu tướng Turenne cố chấp như thế, Đức Cha Bossuet vẫn kiên trì, khuyên bảo ông về niềm tin này. Với mục đích ấy, hai vị thường gặp nhau trong lâu đài Louvre, nơi triển lãm nghệ thuật. Một trong những lần gặp nhau, một phòng triển lãm bị cháy. Lửa đe dọa tàn phá hết các tác phẩm nghệ thuật. Turenne vội vàng chạy tới điều khiển công việc dập tắt, nhưng mọi cố gắng đều vô ích. Đức Cha thấy sức lửa quá mạnh, và như có sự thúc giục của Chúa, ngài hới hả chạy vào nhà nguyện gần đó, lấy bình thánh đựng Mình Thánh mang đến lâu đài. Ngàu tới ngọn lửa, đọc lời chúc lành. Ngay lập tức, ngọn lửa dịu xuống và rồi tắt hẳn. Xúc động trước phép lạ cả thể, các công nhân chữa lửa đều quỳ xuống hát kinh tạ ơn Chúa. Tướng Turenne cũng quỳ gối thờ lạy Thánh Thể.
Và từ đó đến lúc qua đời, ông vẫn hết lòng tin kính mến yêu Chúa cứu thế hiện diện trong Thánh Thể. (“Những phép lạ Thánh Thể”).
2. Bỏ Thầy, con biết theo ai?
Năm 700, tại tu viện thánh Lougino ở Lanciano nước Ý, có một linh mục tên Basiliô hoài nghi về Chúa Giêsu hiện diện trong hình bánh rượu. Chúa đã lám một phép lạ cả thể còn được lưu niệm cho đến nay.
Vừa khi linh mục ấy truyền phép, bánh đã trở nên thịt và rượu đã trở nên máu. Thịt máu Chúa đó còn được lưu giữ trong hào quang quý giá, gọi là hào quang phép lạ Thánh Thể Lancianô.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy một số môn đệ rơi váo cơn khủng hảng đức tin về việc Chúa Giêsu tuyên bố Thịt Máu Người là của ăn của uống ban sự sống muôn đời, các môn đệ đó phản ứng: “Lời nầy chói tai quá, ai mà nghe được … và từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa” (Ga 6:60-66). Họ đã tin Chúa Giêsu và theo Người một thời gian, nhưng họ không thể đi tới cùng!
Dấn than theo Chúa Giêsu là phải chịu thách thức từng ngày. Trở nên tín hửu Kitô không phải được bảo đảm sẽ trung tín đến cùng. Đây là cuộc mạo hiểm: mạo hiểm của tình yêu, mạo hiểm của lòng tin. Đã có những môn đệ không tin được nữa và bỏ đi. Ngay trong nhóm còn ở lại, cũng có kẻ không tin theo được đến cùng.
Tại sao nhóm thứ nhất bỏ đi, còn nhóm thứ hai trung tín đến cùng? Có thể nói: để khỏi bỏ đi, cần phải bỏ mình. Để theo Đức Giêsu, cần phải chú tâm đến Ngài hơn là bận tâm về chính mình. Cần nhìn Ngài hơn là nhìn lại bản thân. Thánh Phêrô đã làm được điều đó khi ông nói “Bỏ thầy, chúng con biết theo ai. Thầy mới có lời ban phúc trường sinh.” Do đó khi đứng trước thử thách là “lời nói chói tai” của Chúa Giêsu, ông vẩn một niềm tin kiên vững, vì ông chỉ chú tâm vào Chúa, “Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.”
Trái lại, nhóm thứ nhất bỏ cuộc rút lui, vì họ mãi loay hoay bận tâm với những ý nghĩ về mình “Sao ông nầy lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn?” Ngày nay vẫn có những Lời Chúa làm chúng ta choáng váng, vẫn có những thử thách làm đức tin chúng ta chao đảo, vẫn có những cơn cám dỗ làm chúng ta có thể bỏ cuộc rút lui. Hãy đưa mắt nhìn vào Chúa. Hãy sác tín vào Ngài như Thánh Phêrô (Trích “Như Thầy đã yêu”).
3. Chỉ chú tâm vào Chúa Giêsu
Một chiếc tàu đánh cá Liên Xô được đưa vào sửa chữa bên cạnh chiếc tàu tuần dương Hoa Kỳ tại bờ biển New England. Một thủy thủ người Nga tên Simas Kudirka lén lút đến tàu Mỹ xin được tỵ nạn chính trị. Các viên chức Mỹ từ chối. Và người thủy thủ nầy đã bị giao lại cho nhà cầm quyền Xô Viết, và bị cầm tù.
Trong lúc bị thử thách như thế, Kudirka buồn sầu tuyệt vọng, không còn muốn sống nữa. Một tù nhân khác thấy anh chán nản quá như thế thì dạy cho anh những vầng thơ của thi sĩ Ruydyard Kipling, để giúp anh lấy lại tinh thần và can đảm đương đầu với thử thách gian lao, cương quyết làm lại cuộc đời. Trong những vần thơ đó có câu, “Nếu nhìn thấy toàn bộ sự nghiệp đời mình tan vỡ, và con vẫn bình tâm tin tưởng xây dựng lại, thì trái đất và mọi sự trên đó sẽ thuộc về con, và con sẽ là con người đích thực.”
Câu chuyện trên cho chúng ta thấy rõ điểm trọng yếu trong Tin mừng hôm nay. Có những lúc cuộc sống chúng ta như bị dồn vào chân tường như các môn đệ Chúa Giêsu. Niềm tin của các ông bị thử thách vì Lời Chúa, “Ai ăn thịt và uống máu Tôi thì được sống muôn đời.” Có số trong các ông cho rằng “lời đó chói tai quá, làm sao nghe được,” và họ đã rút lui, không tin theo Chúa nữa. Nhóm còn lại thắng được thử thách, nên trung thàng tin theo Chúa.
Nhờ đâu mà nhóm nầy đã thắng được thử thách? Câu trả lời do thánh Phêrô nói thay cho cả nhóm, “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai. Thầy mới có những lời ban phúc trường sinh … Chúng con tin và nhận biết chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.” Những lời Chúa Giêsu nói không làm cho nhóm nầy chao đảo, vì họ tin tưởng Chúa, dán mắt vào Chúa. Còn nhóm kia thì ngược lại, họ chỉ chú tâm vào vấn đề của họ, thắc mắc của họ, “Sao ông nầy lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn?” Thế nên đức tin của họ chao đảo và tất nhiên họ bỏ Chúa dễ dàng.
Trong cuộc sống, chắc chắn có những lúc chúng ta bị thách thức như các môn đệ, và chúng ta bị cám dỗ lìa bỏ Chúa, không tin tưởng Chúa. Những lúc đó, chúng ta đừng lầm lạc như số các môn đệ đã mất niềm tin vì chỉ nghĩ về mình, về những vấn đề của mình. Trái lại, chúng ta hãy nhìn Chúa Giêsu, tin tưởng Người, phó thác vào Người, xác nhận lại lòng tin như thánh Phêrô, “Chúng con tin Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Theo “Sunday homilies”).
4. Theo Chúa là sống nhờ Người
Một vị khổ tu sống rất nhiệm nhặt, hằng ngày ông ra sức chiến đấu chống lại tình dục và mọi thói hư tật xấu. Có thể nói suốt đời ông luôn chống trả các chước cám dỗ của ma quỷ xác thịt thế gian là ba kẻ thù của tín hữu Chúa.
Đến tuổi già, ông phải nhắm mắt lìa đời như mọi người. Cái chết của ông khiến mọi người thương tiếc, nhưng cũng an ủi vì tin chắc rằng ông sẽ được Chúa thưởng. Và một đệ tử của ông không chịu nổi sự ra đi của ông nên cũng ngã bệnh và chết theo ông.
Bên kia thế giới, người đệ tử nầy chứng kiến cảnh tượng rất hài lòng. Anh thấy bên cạnh thầy đáng kính có người đàn bà tuyệt vời. Anh tin thầy mình đã được Chúa thưởng xứng đáng, vì những chay tịnh và việc kiên tâm chống lại các chước cám dỗ lúc còn sống. Anh mon men đến gần thầy chúc mừng:
- Thưa Thầy, thật Chúa là Đấng công minh chính trực. Người đã thưởng công Thầy xứng với công lao Thầy đã lập lúc còn sống ở thế gian.
Thế nhưng anh ngạc nhiên thấy thầy không lộ chút vui mừng nào, mà còn buồn bả thốt lên:
- Đây không phải là thiên đàng. Ta chưa được thưởng. Và người đàn bà nầy cũng bị trầm luân như ta.
Câu chuyện trên đây do nhà tu đức học người Ấn độ là cha Anthony de Mello kể. Ý cha muốn nói sự thánh thiện không hệ ở lối sống khắc khổ bề ngoài. Đạo chúng ta cốt yếu là một Con Người. Con Người đó chính là Chúa Giêsu. Đó là sức sống và là sức sống muôn đời cho những ai tin theo Người.
Chính trong Tin mừng hôm nay, Người đã tuyên bố rõ, “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời … Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và sự sống.” Đối lại với việc giữ đạo hình thức của người Do thái nhất là các biệt phái xưa, Chúa Giêsu đã chỉ dạy cách sống đạo đích thực. Sống đạo đích thực không phải chỉ chu toàn lề luật, nhưng cốt yếu là tin theo Chúa Giêsu. Tin theo Chúa trước hết là sống siêu thoát như Người. Tin theo Chúa là sống phó thác như Người, sẵn sàng đón nhận và thực thi ý Chúa Cha trong từng biến cố của cuộc sống, dù phải trăm chiều gian lao thử thách và cả phải chết đi. Tin theo Chúa cũng có nghĩa là sống bằng sức sống của Người ban, qua Lời Người và Thịt Máu Thánh Người. Cần học hỏi thực hiện Lời Người, cần siêng năng dọn mình rước lấy Thánh Thể Người (theo “Truyện vui suy niệm”).
5. Lời Chúa là ngọn đèn soi bước
Khắp nước Phi Luât Tân, đâu đâu bạn cũng thấy những dòng chữ nói về Chúa, đặc biệt những câu trích nguyên văn Lời Chúa trong Tinh mừng, nhắc nhở mọi người sống và thực hành Lời Chúa trong đời sống hằng ngày. Có thể nhờ đó mà chín mươi phần trăm người Phi Luật Tân đã tin thờ Chúa. Những Lời Chúa khắp nơi đó khích lệ, động viên, nhắc nhở, cảnh tỉnh mọi người can đảm hướng thiện hành thiện trong mọi hoàn cảnh và từng giây phút trong cuộc sống. Lời Chúa là sức mạnh cải biến con người, phát sinh hiệu quả như ngôn sứ Isaia xác quyết:
“Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời, không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn. Lời Ta cũng thế, một khi phát xuất từ miệng Ta sẽ không trở về với Ta, nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.”
Khắp nước Phi Luât Tân, đâu đâu bạn cũng thấy những dòng chữ nói về Chúa, đặc biệt những câu trích nguyên văn Lời Chúa trong Tinh mừng, nhắc nhở mọi người sống và thực hành Lời Chúa trong đời sống hằng ngày. Có thể nhờ đó mà chin mươi phần trăm người Phi Luật Tân đã tin thờ Chúa. Những Lời Chúa khắp nơi đó khích lệ, động viên, nhắc nhở, cảnh tỉnh mọi người can đảm hướng thiện hành thiện trong mọi hoàn cảnh và từng giây phút trong cuộc sống. Lời Chúa là sức mạnh cải biến con người, phát sinh hiệu quả như ngôn sứ Isaia xác quyết:
“Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời, không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn. Lời Ta cũng thế, một khi phát xuất từ miệng Ta sẽ không trở về với Ta, nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.”
51. Bánh Thánh Thể.
Ba bài Tin Mừng của ba Chúa nhật trước đã thuật lại bài giảng của Chúa Giêsu về bánh ban sự sống và cho biết thái độ cũng như phản ứng của dân chúng. Mặc dầu được thấy các sự lạ, được ăn bánh hóa nhiều, nhưng khi nghe Chúa nói Ngài là manna mới, là bánh bởi trời đích thực, Ngài bởi trời xuống, thịt Ngài thật là của ăn, máu Ngài thật là của uống, ai ăn thịt Ngài và uống máu Ngài thì sẽ được sự sống đời đời… họ lẩm bẩm với nhau, xô xát nhau và phản đối Chúa dữ dội, họ đã hiểu lời Chúa theo nghĩa đen và cũng chính là ý nghĩa mà Chúa muốn nói, nên chẳng những Chúa không cải chính mà còn giải thích rõ hơn và nhấn mạnh hơn, nên có nhiều người đã bỏ đi không nghe Chúa nói nữa.
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại phản ứng của các môn đệ nói chung và của nhóm 12 tông đồ nói riêng, mỗi phản ứng lại được Chúa Giêsu bình luận và giải thích thêm. Trước hết, nhiều người trong số các môn đệ cũng đã phản ứng như những người Do Thái khác: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi”, họ lẩm bẩm với nhau như thế. Chúa Giêsu không cần nghe cũng biết họ đang khó chịu. Chúa giải thích thêm cho họ hiểu và mời gọi họ hãy nhìn sâu xa hơn vào bản thân và sứ mạng của Ngài. Nhưng có nhiều môn đệ đã rút lui không đi theo Chúa nữa. Như vậy, không những dân chúng chán ngán vì những lời Chúa Giêsu tuyên bố với họ, mà cả các môn đệ cũng bị khủng hoảng, nhiều người bỏ Ngài. Đứng trước sự tan rã bi đát này, Chúa Giêsu quay về phía nhóm 12, những người được coi là thân tín nhất của Chúa. Những người này đã có thái độ thế nào hay phản ứng của họ ra sao? Ông Phêrô đã thay mặt cho cả nhóm nói lên thái độ của họ: Họ không bỏ Ngài, họ không đi theo ai khác, họ tin Ngài là Đức Kitô, Ngài có những lời ban sự sống đời đời. Như vậy, ông Phêrô đã đại diện cho anh em nói lên lời tuyên xưng rất trọn vẹn và đầy đủ: tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, tin vào sứ mạng của Ngài, Ngài có những lời đem đến sự sống đời đời.
Như vậy, qua bài giảng về Bánh Hằng Sống, chúng ta thấy đám đông dân chúng vì thấy Chúa không đáp ứng nguyện vọng của họ, nên lẩm bẩm, không tin và bỏ đi. Ngay cả các môn đệ cũng bỏ Ngài, vì không chấp nhận nổi những lời tuyên bố của Ngài, họ cũng thất vọng và bỏ đi. Tuy nhiên, Chúa Giêsu vẫn còn một niềm an ủi, đó là các tông đồ thân tín, vẫn cương quyết đi theo Ngài và tin vào lời Ngài.
Nhìn về chúng ta, đối diện với Chúa Giêsu, mỗi người phải đích thân chọn lựa. Đành rằng cộng đoàn đức tin nâng đỡ mỗi người sống đức tin, nhưng mỗi người phải đích thân dứt khoát: đứng lại với Chúa không phải chỉ vì thấy người khác còn đứng lại hay vì chưa gặp dịp thuận tiện để tháo lui. Nhưng đứng lại với Chúa vì tin rằng Ngài là Đấng có lời ban sự sống đời đời, không còn ai khác để mình đi theo, tức là đòi hỏi chúng ta phải luôn trung thành với Chúa dù gặp hoàn cảnh nào cũng vậy, chẳng hạn như ông Ma-ranh trong câu chuyện sau:
Thời vua Ga-liên bách hại đạo, trong quân đội Rôma có một sĩ quan tên là Ma-ranh, xuất sắc, lừng danh, bách chiến bách thắng. Ai cũng biết Ma-ranh sắp được thăng đại tướng, chính ông cũng rất hy vọng như thế. Nhưng Ma-ranh là người Công giáo tốt, suốt đời ông chỉ xin ơn trung thành với lời hứa ngày chịu phép Rửa tội. Khi ấy, một trong các đại tướng Rôma chết bất ưng. Hôm sau, vị toàn quyền mời Ma-ranh đến vui vẻ nói: “Tôi vừa được lệnh nhà vua gọi ngài lên chức đại tướng, và tôi được hân hạnh trao quyền tổng chỉ huy cho ngài, nhưng nghe đâu ngài là người Công giáo, mà nhà vua thì không chịu để một người Công giáo nào trong sĩ quan quân đội hoàng gia, vậy xin ngài nói cho biết ngài có phải là người Công giáo không?”. Ma-ranh quả quyết: “Thưa, đúng thế, tôi là người Công giáo”. Viên toàn quyền nghiêm nghị nói: “Tôi cho ngài ba tiếng đồng hồ để nghĩ lại, nếu chối Giêsu thì làm đại tướng, nếu không ngài phải chết”. Ma-ranh ra về, đến gặp vị giám mục và kể lại đầu đuôi câu chuyện. Vị giám mục cầm tay Ma-ranh đưa vào nhà thờ, dẫn lên cung thánh, là chính nơi ngày xưa Ma-ranh đã thề trọn đời trung thành với Chúa Kitô. Rồi vị giám mục rút thanh gươm bên hông của Ma-ranh đặt bên cạnh sách Tin Mừng trên bàn thờ và nói: “Này ông Ma-ranh, dễ giải quyết lắm, phải chọn một trong hai, xin ông nhớ lại ngày rửa tội, rồi tùy ý ông”. Ma-ranh mạnh mẽ cầm sách Tin Mừng nói: “Con thề trung thành với Chúa, con xin trung thành”. Vị giám mục âu yếm nhìn Ma-ranh nói: Con hãy đi bình an, ngày hôm nay sẽ là ngày vinh quang của đời con, ngày hôm nay là ngày con đại thắng”. Và ngày hôm đó, Ma-ranh đã đổ máu vì đức tin Công giáo.
Trong những thế kỷ đầu của Giáo hội, dân ngoại bỡ ngỡ khi thấy người có đạo anh dũng chịu chết vì Chúa. Đâu là lý do của sự can đảm lạ lùng ấy? Thánh Síp-ri-a-nô trả lời: “Chính nhờ Mình Thánh Chúa gìn giữ mà người có đạo mới ra pháp trường một cách anh dũng như vậy”. Đời vua Tự Đức, tổ tiên chúng ta cũng không thua kém các vị tử đạo đầu tiên ở Rôma, nhờ đâu? Nhờ rước Mình thánh Chúa, trong một sắc lệnh cấm đạo của vua Tự Đức có một điều sau: “Không được để cho người ta đem đến cho kẻ có đạo một thứ bánh mầu nhiệm gì đó, vì thứ bánh ấy làm cho họ không biết sợ và vui vẻ chịu chết”.
Trong cuộc sống, có thể chúng ta không phải lựa chọn như ông Ma-ranh hay không bị bách hại như các vị tử đạo, nhưng rất có thể có nhiều lựa chọn khác hay những thử thách khác, đòi hỏi chúng ta phải sống ngay thẳng, công bình, bác ái. Xin Mình Thánh Chúa mà chúng ta rước lấy, tăng thêm sức mạnh để chúng ta vượt qua những khó khăn, thử thách ở đời này, nhất là về phương diện đức tin.
52. Theo Chúa.
Bài Tin mừng hôm nay cho biết phản ứng của các môn đệ nói chung và của nhóm mười hai nói riêng. Mỗi phản ứng lại được Chúa Giêsu bình luận và giả thích thêm. Suốt cuộc nói chuyện, chúng ta thấy Chúa không ngừng mời gọi người ta đến với Ngài, đón nhận Ngài làm của ăn thức uống. Nhưng không những dân chúng mà nhiều người trong số các môn đệ cũng đã phản ứng như những người Do Thái khác: Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe cho nổi. Họ lẩm bẩm với nhau như thế. Chúa Giêsu không cần nghe cũng biết họ đang khó chịu. Chúa giải thích cho họ hiểu và mời gọi họ hãy nhìn sâu hơn vào bản thân và sứ mạng của Ngài. Ngài nói Ngài lên nơi Ngài đã ở trước, nghĩa là lên cùng Chúa Cha, vào trong vinh quang của Chúa Cha, vinh quang mà Chúa Cha đã ban cho Ngài từ muôn thưở.
Khi nghe Chúa nói như vậy, nhiều môn đệ rút lui, không đi với Chúa nữa. Không những dân chúng chán ngán mà cả đến các môn đệ cũng bị khủng hoảng, nhiều người bỏ Ngài. Đứng trước sự tan rã bi đát này, Chúa Giêsu quay về phía nhóm mười hai tông đồ, những người được coi là thân tín nhất của Chúa. Phản ứng của họ thế nào? Phêrô đã thay mặt cho cả nhóm nói lên thái độ của họ: họ không bỏ Ngài, họ không đi theo ai khác, họ tin Ngài là Đức Kitô, Ngài có những lời ban sự sống đời đời. Như vậy Phêrô đã đại diện cho anh em nói lên lời tuyên xưng rất trọn vẹn và đầy đủ: Ngài là con Thiên Chúa.
Còn chúng ta thì sao? Đối diện với Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta đều phải đích thân chọn lựa Chúa. Là Kitô hữu, tức là chấp nhận đi theo Chúa, Đấng không những ban cho chúng ta sự sống đời này, mà còn ban cho chúng ta sự sống đời đời nữa.
Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta phải có niềm tin. Chẳng hạn đau bệnh, chúng ta tìm đến thày thuốc, chúng ta đặt niềm tin nơi khả năng và thiện chí của ông ta… Là Kitô hữu, chúng ta không những có niềm tin vào cuộc sống mà còn phải có đức tin nữa. Vậy làm sao có được đức tin? Pascal nói: Muốn có đức tin, bạn phải quì gối xuống và cầu nguyện.
Mẹ Têrêsa cũng nói như thế. Người ta kể lại rằng: lần kia mẹ nói với một phóng viên báo chí: tôi nghĩ rằng ông nên có đức tin. Người ấy hỏi: tôi phải làm gì để có được đức tin? Mẹ đáp: ông hãy cầu nguyện. Người ấy nói: tôi không thể cầu nguyện. Mẹ bảo: tôi sẽ cầu nguyện cho ông, phần ông, hãy cố gắng mỉm cười với những người chung quanh. Một nụ cười có thể đánh động người khác. Một nụ cười có thể cho người ta cảm nghiệm được Thiên Chúa trong cuộc sống.
Chúng ta nhận được đức tin khi chịu phép rửa tội. Nhưng cũng như mọi thứ tài năng khác nơi con người, đức tin cần phải được nuôi dưỡng. Một tài năng không được nuôi dưỡng sẽ mai một với thời gian. Một đức tin không được vun trồng cũng sẽ chết dần chết mòn. Chúng ta cầu nguyện, chúng ta làm những việc đạo đức là chúng ta nuôi dưỡng đức tin của mình. Ngoài ra, cả cách sống quảng đại, vị tha và yêu thương cũng là cách nuôi dưỡng đức tin như lời mẹ Têrêsa đã khuyên trên đây: Mỉm cười với mọi người. Một nụ cười có thể cho người ta cảm nghiệm được Thiên Chúa trong cuộc sống. Một nụ cười còn có giá trị như thế, phương chi là những lời nói, những việc làm còn có giá trị hơn biết bao.
53. Sống Lời Chúa.
Chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.
Hẳn chúng ta còn nhớ, Chúa Giêsu vào trong hoang địa và bị cám dỗ. Lúc bấy giờ ma quỉ hiện ra và nói với Ngài:
- Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy biến những hòn đá này trở nên bánh mà ăn.
Sở dĩ ma quỉ cám dỗ Ngài như thế là vì nó biết sau 40 ngày đêm ăn chay cầu nguyện, hẳn Ngài phải đói. Thế nhưng, Ngài đã thẳng thắn trả lời ma quỉ:
- Con người ta không phải chỉ sống bởi bánh, mà còn sống bởi những lời từ miệng Thiên Chúa phán ra.
Và qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cũng đã thấy: Sau phép lạ bánh hóa nhiều nuôi năm ngàn người trong hoang địa, lợi dụng biến cố đó, Chúa Giêsu đã giới thiệu với họ một thứ lương thực thiêng liêng bổ dưỡng cho tâm hồn, đó là Mình Máu Thánh Ngài như lời Ngài đã phán:
- Thịt Ta thật là của ăn và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta sẽ không phải chết nhưng sẽ được sống đời đời và Ta, ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết.
Trước những lời giới thiệu đầy trang trọng ấy, một số các môn đệ đã lấy làm chướng tai, không thể chấp nhận được, và thế là họ đã bỏ Chúa mà đi. Bấy giờ Chúa Giêsu quay lại vànói với nhóm mười hai:
- Còn các con, các con không bỏ Thầy mà đi hay sao?
Phêrô bèn thay mặt cho nhóm nhỏ ấy mà tuyên xưng:
- Lạy Thầy, bỏ Thầy, chúng con biết theo ai, vì chỉ mình Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời.
Tuân giữ và thực thi lời Chúa truyền dạy là điều Ngài luôn luôn nhấn mạnh và đòi buộc mỗi người chúng ta. Thực vậy, có lần Ngài đã phán:
- Không phải những kẻ nói rằng Lạy Chúa tôi mà được vào nước trời, nhưng là những người tuân giữ những điều Ta truyền dạy.
Trước khi về trời, Ngài cũng đã căn dặn các môn đệ:
- Các con hãy đi giảng cho muôn dân, dạy họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho các con và đây Thầy ở cùng các con cho đến tận thế.
Sở dĩ, lời Chúa dẫn chúng ta tới cuộc sống vĩnh cửu vì lời Chúa vạch ra cho chúng ta con đường phải đi và chính con đường ấy sẽ dẫn đưa chúng ta trở về với Chúa. Như thế, việc tuân giữ lời Chúa sẽ là một bảo đảm chắc chắn nhất cho chúng ta ơn cứu rỗi, cũng như niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
Để kết luận, tôi xin kể lại một mẩu chuyện nho nhỏ:
Trong một xưởng thợ, người ta bàn tán và cho rằng tôn giáo, nhất là Thiên Chúa giáo làm mê muội trí khôn, bức hiếp lẽ phải và làm sai lạc phán đoán.Một anh công nhân nghe thế bèn góp ý:
- Đúng thế, đạo Chúa và lời Ngài đã làm cho tôi mất đi tất cả.
Mọi người ngạc nhiên, sững sờ đưa mắt nhìn anh. Anh nói tiếp:
- Các bạn có biết không, tôi là người rượu chè be bét, nhưng đạo Chúa và lời Ngài giúp tôi chừa bỏ được rượu. Tôi là người thích cờ bạc, nhưng đạo Chúa và lời Ngài giúp tôi xa tránh được tật này. Xưa kia gia đình tôi luôn cãi vã xô xát nhau, nhưng đạo Chúa và lời Ngài, làm tôi mất đi cái địa ngục ấy và đem vào đó một bầu khí cảm thông và hạnh phúc. Và còn nhiều thứ khác nữa, đạo Chúa và lời Ngài đã làm mất đi nơi tôi và gia đình tôi. Các bạn hãy thực hành lời Ngài và sống đức tin của mình chắc chắn, các bạn sẽ không bao giờ phải hối hận đâu.
Hãy lắng nghe Lời Chúa, hãy suy gẫm Lời Chúa và nhất là hãy sống Lời Chúa, nhờ đó chúng ta sẽ đạt tới niềm hạnh phúc Nước Trời.
54. Lời ban sự sống.
Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu không phải chỉ chữa lành và nuôi dưỡng phần xác, nhưng quan tâm chính của Ngài là nuôi dưỡng và chữa lành tâm hồn họ. Đó chính là điều mà Phêrô đã gọi một cách thật thích đáng: Lời đem lại sự sống đời đời. Lời của Ngài thật sự đem lại sự sống. Chúng ta sẽ đưa ra một vài thí dụ về những lời Ngài đã nói.
Con hãy đi bình an, tội con đã được tha. Với lời này, Ngài trả lại tự do cho bệnh nhân. Thày đây, anh em đừng sợ. Với lời này, Ngài trán an nỗi sợ hãi của các tông đồ khi họ nghĩ rằng mình sáp chết đuối. Ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát. Với lời này, Ngài làm dịu đi cơn khát trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Ai ăn bánh này sẽ được sống muôn đời. Với lời này, Ngài làm cho tâm hồn chúng ta được no thỏa. Tôi là ánh sáng thế gian, ai theo tôi sẽ không còn bức đi trong bóng tối, nhưng sẽ luôn có ánh sáng sự sống. Với lời này, ánh sáng của Ngài không những không có bóng tốt, mà còn không có cả sự chết, bởi vì chính Ngài đã chiến thắng sự chết. Tôi là mục tử tốt lành, tôi biết chiên tôi và chúng biết tôi, tôi cho chúng sự sống đời đời. Với lời này, Ngài khuyến khích chúng ta bước theo Ngài để tiến tới đồng cỏ Nước trời. Tôi là sự sống lại và là sự sống, ai tin tôi sẽ không chết muôn đời. Với lời này, Ngài an ủi chúng ta khi gặp phải những khổ đau buồn phiền. Anh em đừng sợ hãi, Thày đi để dọn chỗ cho anh em. Với lời này Ngài khích lệ chúng ta khi gặp phải những băn khoan lo lắng trên đường đời.
Có lần các nhà lãnh đạo tôn giáo sai các vệ binh trong đền thờ đến bắt Ngài, nhưng họ không bao giờ đặt tay lên Ngài được. Trái lại, họ say mê giáo huấn của Ngài. Họ thừa nhận rằng lời Ngài giảng dạy thật lạ lùng, họ trở về với các ông chủ của họ và nói: Không có ai giảng dạy giống như Ngài. Quả thật, Chúa Giêsu có lời đem lại sự sống đời đời. Và những lời của Ngài được gìn giữ cho chúng ta trong Tin mừng.
Anh em cũng muốn bỏ đi sao? Giờ đây, Ngài cũng muốn nói với mỗi người chúng ta như thế. Không phải Ngài lìa bỏ chúng ta, nhưng chúng ta có thể lìa bỏ Ngài. Và qua dòng thời gian, nhiều người đã làm như thế. Chúng ta cần tuyên xưng lại lời tuyên xưng đang của thánh Phêrô: Bỏ Thày chúng con biết theo ai. Thày mới có lời đem lại sự sống đời đời.
Liệu chúng ta đã thực sự tuyên xưng và sống lời tuyên xưng của mình như vậy hay chưa?
55. Tự do lựa chọn.
Trong những năm gần đây, chúng ta thấy xuất hiện nhiều giáo phái. Một trong những điều gây xáo trộn nhiều nhất của các giáo phái là ảnh hưởng chúng gây ra cho những người đi theo chúng. Các thủ lãnh luôn là những kẻ có tham vọng khống chế người khác. Và các thành viên thường là những người sợ hãi, dao động và nhu nhược, dễ làm mồi cho những lãnh tụ như thế.
Có một sự khác biệt lớn giữa cách giao tiếp của Đức Kitô và của các thủ lãnh giáo phái. Thực vậy, trong các giáo phái chúng ta thấy có sự tôn vinh cá nhân lãnh tụ. Còn Đức Kitô không bao giờ tìm kiếm vinh quang cho chính mình. Ngài quy hướng mọi việc về Chúa Cha, bởi vì Ngài đến để thi hành thánh ý Cha Ngài. Ngài làm cho mình trở thành tôi tớ của mọi người. Các tiên tri giả thường hứa hẹn cho các môn đệ một thiên đàng trần gian dưới một hình thức nào đó. Điều này trở thành một cách chiêu dụ. Đức Kitô không hứa hẹn như thế cho các môn đệ. Trái lại, Ngài nói với họ rằng họ phải vác thập giá và chịu bách hại khi bước theo Ngài.
Khi các lãnh tụ giáo phái nhìn thấy con tàu đang chìm, họ thường cố gắng bảo đảm rằng phi hành đoàn sẽ chết theo tàu. Trong khi đó, Đức Kitô, vị mục tử nhân lành, đã hiến mạng sống mình để cứu đoàn chiên.
Bằng việc kết hợp chiêu dụ với truyền thụ, những thành viên mới của giáo phái không khác gì những con ruồi bị mắc vào lưới nhện. Tự do của họ hoàn toàn bị lấy mất. Nhưng tự do lại là điều cao quí nhất mà chúng ta có được. Điều duy nhất có giá trị đạo đức và giúp chúng ta trưởng thành phải được thực hiện một cách tự do. Đức Kitô không cưỡng bách một ai đi theo Ngài. Chúng ta có một thí dụ rõ ràng về điều đó trong Tin mừng hôm nay.
Thập giá bắt đầu phủ bóng lên Ngài. Các môn đệ của Ngài phải đối diện trước một quyết định: Ở lại với Ngài hay lìa bỏ Ngài. Có những người ở lại với Ngài khi nào việc giảng dạy của Ngài còn tiến triển, nhưng ngay khi thấy bóng dáng của thập giá, họ liền lìa bỏ Ngài. Có những người đến với Ngài để được Ngài ban cho một ơn huệ nào đó, nhưng khi phải chịu đau khổ với Ngài và hiến thân cho người khác, họ liền bỏ đi. Dù khó tin, nhưng một trong nhóm mười hai đã âm thầm nuôi ý định phản bội Ngài.
Thế nhưng, có một số người còn ở lại với Chúa Giêsu, Phêrộ đã nói thay cho họ. Quyết định ở lại của ông dựa trên lòng trung tín của bản thân ông đối với Đức Kitô. Kế đến dựa trên giáo huấn của Ngài. Mặc dù có nhiều điều ông chưa hiểu, nhưng ông biết rằng Đức Kitô có những lời đem lại sự sống đời đời.
Nếu chúng ta đi theo Đức Kitô, chúng ta được tự do, không phải khi chúng ta làm bất cứ điều gì chúng ta thích, nhưng khi chúng ta làm điều phải. Bấy giờ, chúng ta giống như một dụng cụ được dùng đúng vai trò, đúng công việc mà mình phải thực hiện.
56. Tự do.
Trước khi đặt chân vào miền đất hứa, ông Giôsuê đã kêu gọi dân Do thái phải có một chọn lựa dứt khoát: phục vụ Thiên Chúa của cha ông họ hay phục vụ những thần tượng gỉa tạo khác. Ông đưa ra một lời cảnh cáo nghiêm trọng: nếu họ chọn đi theo những thần tượng giả tạo, họ sẽ bị chúc dữ. Còn nếu họ chọn Thiên Chúa, họ sẽ được chúc lành. Đây là một chọn lựa nghiêm túc và quả quyết, đúng hơn nó biểu hiện một nền đạo đức cấm đoán. Chúa Giêsu đã đưa ra một viễn cảnh khác: vâng lời không phải dưới sự đe dọa bị trừng phạt, nhưng xuất phát từ tình yêu. Dẫu sao các chi tộc Israen cũng đã tuyên bố: chúng tôi sẽ phụ vụ Thiên Chúa.
Một trong những quà tặng cao quí mà Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta, đó là tự do lựa chọn. Chắc chắn chúng ta sẽ có một đời sống dễ dàng hơn nếu Thiên Chúa điều hành mọi sự, nhưng bấy giờ chúng ta chỉ là những con rối bị giật dây. Dù chúng ta chỉ có những chọn lựa đúng, nhưng điều đó biến chúng ta trở thành nhưng người máy. Tội lỗi không thể có được, nhưng đồng thời đức hạnh cũng chẳng phát sinh.
Sự kiện Thiên Chúa tôn trọng tự do của chúng ta là một dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Thiên Chúa khg chiếm hữu và cố tình làm chủ chúng ta. Ngài cho chúng ta được tự do lựa chọn giữa tốt và xấu, tự do lựa chọn cái này hoặc cái kia.
Dầu chúng ta không vâng theo những giới răn của Ngài, Ngài vẫn không ngừng yêu thương chúng ta. Nhưng điều đó không có nghĩa là Ngài dễ dãi. Vấn đề ở đây không phải là chúng ta làm gì, mà là một số phận đáng sợ đang chờ đón. Thiên Chúa nhìn thấy mỗi người hành động. Ngài không bỏ qua tội lỗi và những việc làm sai trái.
Khi chúng ta tự do, chúng ta có trách nhiệm về sự lựa chọn của mình cũng như về những hậu quả của sự lựa chọn ấy. Tuy nhiên, Thiên Chúa không để chúng ta phải xoay xở một mình. Ngài ban cho chúng ta ơn sủng để giúp chúng ta thực hiện những chọn lựa đúng.
57. Tuyên xưng lòng tin bằng cả cuộc sống
Cùng với Giáo hội, hôm nay chúng ta suy niệm đoạn tin mừng cuối chương 6 Tin mừng theo thánh Gioan. Sau một diễn từ dài về Bánh Hằng Sống kết quả từ hơn năm ngàn người theo Chúa Giêsu giờ đây chỉ còn lại nhóm Mười Hai.
Những người bỏ đi cho rằng: "Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?" (Ga 6, 60) vì tại hội đường Capharnaum Chúa Giêsu đã tuyên bố: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống" (Ga 6, 54 - 55)
Có thể, nói những cố gắng của Chúa Giêsu như đổ sông đổ biển. Người muốn dân chúng đến với Người bằng cả lòng tin hơn là bằng thái độ thực dụng. Tiếc thay, động cơ theo Chúa của họ chưa được tinh ròng.
May mắn là còn lại nhóm Mười Hai. Chúa Giêsu hỏi họ: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?" (Ga 6, 60). Phêrô thay mặt anh em trả lời: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa." (Ga 6, 68 - 69). Một lời tuyên xưng đức tin một cách mạnh mẽ.
Lời tuyên xưng này không phải có giá trị ngay hôm nay nhưng sẽ có giá trị trong suốt cuộc đời của các ông. Thật vậy, sau biến cố Phục sinh của Chúa Giêsu các ông đã sống triệt để lời tuyên xưng này. Mỗi người làm chứng cho Chúa bằng cả mạng sống của mình mà chẳng sợ nguy hiểm hay bắt bớ.
Nhân dịp này mỗi người chúng ta nhìn lại đời sống đức tin của mình. Chúng ta đã đón nhận hồng ân đức tin ngày chịu phép Rửa tội nhưng chúng ta có sống tốt đức tin của mình chưa.
Trong khung cảnh năm giáo dục gia đình những bậc phụ huynh nhìn lại đời sống đức tin của mình có làm gương sáng cho con cái mình chưa. Nếu tôi nhớ không lầm sau khi Đức Cố Giáo Hoàng Gioan 23 được bầu làm Giáo Hoàng, ngài trở về nhà và khoe với mẹ của mình về chiếc nhẫn Giáo hoàng của mình. Mẹ của ngài liền đưa tay của bà lên và nói: không có chiếc nhẫn này làm sao có chiếc nhẫn đó.Nghĩa là nhờ đời sống đức tin của bà mà ngài mới có được như ngày hôm đó.
Chúng ta cũng vừa cùng với toàn thể Giáo hội mừng trọng thể lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên trời - một trong 4 đặc ân cao cả mà Thiên Chúa đã ban cho Mẹ. Chắc chắn Mẹ đã được thừa hưởng đời sống đức tin từ Thánh Gioakim và Thánh Anna nên đời sống đức tin của Mẹ mới được mạnh mẽ như thế. Nhờ đời sống đức tin mạnh mẽ mặc dù gặp không biết bao nhiêu khó khăn thử thách nên Mẹ mới được trọng thưởng như thế.
Hãy noi gương các Tông đồ và Mẹ Maria sống đức tin trong đời sống của mình. Nhất là các bậc phụ huynh hãy tích cực sống đức tin để làm gương sáng cho con cái của mình.
58. Chọn lựa.
Nhìn thấy một số môn đệ bỏ đi, Chúa Giêsu liền hỏi nhóm mười hai: còn các con, các con có muốn bỏ Thày mà đi nữa không? Lập tức Phêrô đã trả lời: Thưa Thày, bỏ Thày chúng con biết theo ai, vì chì mình Thày mới có Lời ban sự sống đời đời. Qua câu trả lời này, ông đã nhất quyết không bỏ Thày, ông hứa sẽ mãi mãi theo thày, nghĩa là ông đã làm một sự chọn lựa.
Cuộc đời chúng ta là một chuỗi những sự chọn lựa. Có lẽ chỉ trừ việc sinh ra và cái chết là người ta không lựa chọn được, còn tất cả mọi việc khác thì người ta phải lựa chọn. Và chính những sự lựa chọn này sẽ định hướng và đánh giá cuộc đời mình. Nghĩa là nếu chọn đúng, chọn khéo thì đời mình sẽ tốt đẹp và hạnh phúc. Còn nếu chọn ẩu, chọn sai thì đời sẽ xấu xa và bất hạnh. Sống là phải lựa chọn luôn. Đời là vậy. Chúa cũng muốn chúng ta luôn lựa chọn. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cũng nói đến vấn đề lựa chọn. Trong bài đọc một ông Giôsuê đã bảo dân Do Thái phải chọn lựa: thờ Thiên Chúa hay thờ các thần tượng khác. Trong bài đọc hai, thánh Phaolô khuyên các đôi vợ chồng một khi đã chọn nhau làm bạn đườn, thì phải suốt đời trung thành với sự lựa chọn ấy,nghĩa là phải thủy chung, phải tùng phục và phải hòa thuận với nhau.
Còn nếu nói theo từ ngữ Phật giáo, thì chúng ta cũng phải luôn lựa chọn một bên là tham sân si và một bên là lý tưởng đạo đức của mình. Mỗi ngày chúng ta phải đứng trước biết bao sự lựa chọn như thế. Một người đến đề nghị cho chúng ta một kiểu làm ăn gian lận, tiền sẽ có nhiều nhưng lại trái đức công bình: chúng ta phải chọn lòng tham hay là đức công bình. Rồi một người hàng xóm làm điều gì đó không vừa ý chúng ta, chúng ta phải lựa chọn buông theo tính nóng của mình hay nhịn nhục tha thứ. Ai chọn lựa tham sân si là chọn sai, cuộc đời sẽ trở thành xấu xa. Còn ai chọn công bình, bác ái, tự chủ là chọn lấy cái tốt, chọn con đường Chúa đã vạch ra.
Nếu chúng ta chọn Chúa thì sẽ ra sao? Và nếu chúng ta bỏ Chúa thì sẽ ra sao. Linh mục nhạc sĩ Thành Tâm đã suy diễn câu nói bất hủ của thánh Phêrô thành một bài thánh ca rất ý nghĩa như sau: Bỏ Ngài con biết theo ai, đời lộng gió cánh chim ngàn khơi? Bỏ Ngài con biết theo ai, thuyền không lái biết trôi về đâu? Bỏ Ngài con biết theo ai, trên đời kia tương lai khuất mờ? Bước đi không Ngài, đời con buồn tênh.
Còn nếu chọn Ngài, thì cuộc đời của chúng ta tuy vẫn là một cuộc hành trình, cũng vẫn như cánh chịm bay trong khung trời lộng gió, cũng vẫn như con thuyền giữa biển cả mênh mông, nhưng trong cuộc hành trình aấy, đã có Chúa đồng hành, cánh chim đã biết hướng mà bay, con thuyền đã có người lèo lái và như thế sẽ bảo đảm tới bến bình an. Trên đây là một vài gợi ý về sự lựa chọn trong cuộc đời. Điều quan trọng đó là chúng ta phải biết chọn lựa như thế nào trước những hoàn cảnh riêng của cuộc đời mình. Cầu mong mỗi người chúng ta biết chọn lựa đúng và chọn lựa tốt.
59. Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh
Chắc bạn vẫn nghe thường xuyên về người này hứa dỏm, người kia hứa lèo. Hoặc chính bản thân nhều khi cũng tỏ ra bực mình vì ai đó không giữ đúng lời hứa. Từ những chuyện nhỏ nhất, tầm thường nhất của cuộc sống đến những vấn đề quan trọng nhất, người ta đều cóp thể thất trung, bất tín. Ví dụ: Ai cũng biết, hôn nhân là mối giây ràng buộc chặt, nhưng người ta vẫn phản bội nhau. Một hợp đồng kinh tế vừa mới ký xong, có thể vì lợi lộc riêng tư, người ta vẫn phản bội hợp đồng đó. Một hiệp ước hòa bình giữa hai đảng phái đã được ký kết để đừng chém giết nhau nữa, thì cũng không ai dám tin chắc rằng, hai đảng phái đó hoàn toàn tuân theo hiệp ước, dù nó là hiệp ước quốc tế đi nữa. Vậy là chiến tranh nổ ra, chém giết vẫn còn, những cái chết oan uổng vẫn không ngừng tiếp diễn từng ngày. Nhìn vào thực tế của đời sống như thế, nhiều lúc ta như chán nản, bật thốt lên: Người đời là vậy! Họ phản bội nhau, bất trung với nhau, không cần đếm xỉa gì đến hậu quả của nó.
Đối với nhau đã vậy, đối với Thiên Chúa, con người cũng phản bội, cũng bất trung không kém. Từ thủơ bình minh của nhân loại, thế giới theo Thánh Kinh diễn tả, chỉ có hai người thôi: Ađam, Eva. Tưởng chừng cả hai sẽ an phận trong hạnh phúc tuyệt đối Chúa đã an bài, nhưng không, lòng tham, sự kiêu ngạo đã làm ông bà không chấp nhận hạnh phúc đó mà lại muốn bằng Thiên Chúa. Để bằng Thiên Chúa, chỉ còn cách không vâng lời, chống lại Thiên Chúa, bất trung với Người. Vì tội chống lại Thiên Chúa một cách tày trời, đã gây ra hậu quả không lường hết được: cả loài người cùng bị vạ lây trong tội nguyên tổ.
Bất trung của Ađam và Eva là mở đầu cho vô vàn những bất trung mà con người phản bội Thiên Chúa. Chẳng hạn, thời gian dài dân Chúa phải lang thang trong sa mạc là một bằng chứng. Bốn mươi năm trường, nếm đủ mùi vị của khổ đau: nào là đói, rét, khát, rắn độc cắn..., đã làm cho dân của Chúa mất kiên nhẫn, nhiều lần lên tiếng trách móc ông Môsê và ông Aaron đã vậy, họ còn oán trách nặng lời đối với Thiên Chúa của họ. Họ nghi ngờ lòng thương xót của Chúa: không biết Chúa có thương mình không, hay Thiên Chúa đem họ ra khỏi Aicập để mượn nỗi khổ gay gắt của sa mạc giết chết họ? Lòng dân nổi loạn đến mức, có lần ông Môsê thất vọng cùng cực, than thở với Chúa: " Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài? Tại sao con không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên vai con? Có phải con đã cưu mang dân này đâu, có phải con sinh ra nó đâu?... Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con. Nếu Ngài xử với con như vậy, thì thà giết con đi còn hơn..." (Ds 11, 12 tt). Trong sa mạc, lòng dân quyên mất tình yêu của Chúa, vì thế đã không biết ơn Thiên Chúa của mình, ngược lại nhiều lần đi từ thái độ bất trung đến đối nghịch Thiên Chúa.
Hôm nay bài đọc một là một phần của câu chuyện dài về sự bất trung và lòng thương xót ấy. Sau những năm tháng lang thang rày đây mai đó trong sa mạc, bây giờ sắp định cư trong đất hứa, hạnh phúc chỉ còn là một bước nhảy về phía trước. Trong hoàn cảnh này, dân Chúa phải xác định lại lập trường của mình: Họ có muốn trung thành theo Chúa, thờ phượng Chúa nữa hay không? Dẫu hôm nay, họ dỏng dạc tuyên bố sự chọn lựa của mình: " Không đời nào chúng tôi bỏ Đức Chúa mà đi thờ những thần khác", và dù cho lý do buộc họ phải xác định lại đức tin của mình là bởi đã quá nhiều lần họ bất trung với Chúa, thì không phải vì thế, mà từ nay về sau họ không còn bất trung. Lời quyết tâm trung thành hứa trước nhan Chúa vẫn còn đó, nhưng lòng dân thì hay thay đổi. Suốt dọc dài của lịch sử, sự phản bội ngấm ngầm hay ra mặt đã làm cho dân của Chúa nhiều lần bước ra khỏi tình yêu của Người, sống cách xa Thiên Chúa. Chính vì sự bất trung liên tục mà dân Chúa đã bao lần phải chuốc lấy cơn phẫn nộ của Người. Nhưng nổi bật lên trên tất cả, lớn hơn cả những lần phẫn nộ, lớn hơn cả sự phản bội của dân vẫn là tình yêu khoang dung, và tha thứ mà Thiên Chúa dành cho họ. Đọc Thánh Kinh ta có cảm tưởng như Thánh Kinh hình thành bởi một công thức gồm ba động từ: phản bội - nổi giận - tha thứ. Dân không ngừng phản bội, nhiều lần Thiên Chúa nổi giận, sau đó lại xót thương và tha thứ. Suốt chiều dài của lịch sử mà Thánh Kinh diễn tả cứ lặp đi lặp lại y như thế.
Đó là bài đọc I trích sách Giosuê. Trong bài Tin Mừng, một lần nữa, ta lại thấy lời khẳng định về lòng trung thành một cách dứt khoát của thánh Phêrô: "Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa". Dù khẳng khái là thế, nhưng không phải mọi lúc Phêrô đều cứng rắn và hết lòng trung thành. Vì khi Thầy Giêsu của mình lâm nguy trong cuộc tử nạn, có lẽ chính là lúc Thầy cần Phêrô nhất: cần một sự đồng cảm, cần một sự chia sẻ nào đó, cần lắm một thái độ, ít nữa là một ánh mắt tin tưởng để Thầy bớt cô đơn trên mỗi bước đường thập giá... Chính những giờ phút quan trọng ấy, những giờ phút cần thiết ấy, Phêrô lại quyên mất lời tuyên xưng mới đó, tính cho đến nay chưa được bao lâu. Vì một chúc sợ hãi và yếu lòng, Phêrô đã chối Thầy, không phải một lần, mà là ba lần, không phải trong ba năm, nhưng chỉ cách nhau có hai canh gà!
Ôn lại những gì dân Chúa đã sống ngày xưa, và nhìn lại lời tuyên xưng cũng như lỗi lầm của thánh Phêrô nhân dịp Giáo Hội mời gọi ta suy niệm các bài Kinh Thánh nói về lòng trung thành của ngày Chúa nhật XXI, bạn và tôi, một lần nữa, hãy thâm tín một cách chắc chắn rằng, Chúa vẫn yêu chúng ta, yêu từng người một. Dẫu ta có lỗi lầm bao nhiêu, có bất trung cách mấy, Chúa vẫn một lòng khoang dung tha thứ. Chúa đã chấp nhận nguyên tổ ngay cả khi nguyên tổ chống đối Chúa; Người cũng không vì lỗi lầm của dân riêng mà khước từ tình yêu đối với họ, cũng không phải vì Phêrô yếu đuối mà Chúa tước quyền làm tông đồ trưởng, hơn nữa làm giáo hoàng tiên khởi của Hội Thánh, thì hôm nay bạn và tôi vẫ có quyền hy vọng. Chúa vẫn thế, vẫn mãi mãi là Thiên Chúa của lòng trung thành, của tình yêu và tha thứ, chỉ sợ chúng ta không còn hy vọng nữa mà thôi. Ta bất trung với Chúa nhiều lần, đó là sự thật. Nhưng còn một sự thật khác lớn hơn nhiều: Tình yêu của Chúa lớn hơn mọi tội lỗi của ta. Bởi thế, biết mình yếu đuối, lỗi lầm bao nhiêu, ta càng vững tin vào Chúa bấy nhiêu. Nếu lỡ có lần nào vấp ngã, ta nhanh chóng đứng lên và chạy về phía Chúa. Bí tích giải tội là cách tốt nhất để ta lấy lại bình an, lấy lại lòng trung thành cùng Chúa mà chính mình đã đánh mất.
60. Bỏ Thầy con biết theo ai? – Lm. Giacôbê Tạ Chúc
Đời người là một chuỗi liên kết giữa những chọn lựa và quyết định. Chọn lựa luôn đi kèm theo một trách nhiệm, sự liên đới với những người khác. Chọn lựa đúng, đời sẽ hạnh phúc, nếu không sẽ là bất hạnh. Những người Do Thái không chọn Chúa, vì họ không tin Ngài. Các môn đệ cũng vậy, một số bỏ đi khi Chúa nói về Bí Tích Thánh Thể. Chỉ một số ở lại, vì họ tin Chúa Giêsu có Lời ban sự sống.
Thử thách trong chọn lựa
Có một chủ nông trại nọ thuê một người thanh niên đến nhặt khoai tây cho nông trại. Công việc hết sức đơn giản, hằng ngày anh này chỉ có một việc là ngồi phân loại các củ khoai tây và cho vào sọt. Lớn theo lớn, trung bình theo trung bình và nhỏ theo nhỏ. Sau một thời gian, anh thanh niên đến gặp ông chủ và xin nghỉ việc. Được hỏi lý do, anh ta giải thích: công việc ông giao phó không phải là công việc nặng nhọc, nhưng điều làm cho tôi nhức óc đó là phải chọn lựa.
Dân Do Thái chọn Chúa
Cách đây gần ba ngàn năm, Giôsuê cũng bảo tòan dân Israel phải dứt khóat chọn lựa: Hôm nay các ngươi phải chọn, hoặc thờ các thần, họăc thờ Thiên Chúa (Gs 24,15). Thú vật dường như không có chọn lựa và quyết định, chúng chỉ sống theo bản năng. Con người có lý trí và tự do, nhất là con người biết chọn lựa hướng đi cho cuộc đời của mình. Thánh Phêrô là người đã mạnh mẽ nói lên chọn lựa căn bản và dứt khóat của mình: "Ông Si-mon Phêrô liền đáp: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời" (Ga 6,68). Quả vậy, sai lầm lớn lao của con người là thay vì chọn Thiên Chúa để tôn thờ, họ lại đi chọn các thụ tạo để suy tôn. Danh vọng, tiền tài, lạc thú, chúng chỉ là những phương tiện, giúp cho con người hoàn thành sứ mạng của mình trên trần gian này. Chúng không phải là cứu cánh, càng không phải là đích điểm của cuộc đời.
Con người chọn lựa
Chọn lựa bao giờ cũng phải mất mát và hy sinh.Khi tôi quyết định chọn cuộc đời sống độc thân để tôn thờ Thiên Chúa, và phụng sự anh em, thì đồng thời tôi phải hy sinh cả một đời sống gia đình bình thường như bao người khác. Hoặc khi anh chọn một người phụ nữ làm vợ mình thì anh phải dứt khóat với những người đàn bà khác, nếu không gia đình sẽ tan vỡ và hôn nhân trở thành đại họa. Thiên Chúa ban cho con người có tự do, chính vì điều đó mà con người có quyền chọn thiên đàng hay hỏa ngục. Một khi khước từ Thiên Chúa, con người sẽ không còn xem người khác là anh em mình.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết chọn Chúa làm gia nghiệp của đời mình. Chọn Chúa chứ không phải là công việc hằng ngày. Bởi nếu chọn công việc của Chúa thì lúc thất bại con sẽ dễ dàng bỏ Chúa. Còn khi con chọn Chúa, thì không gì có thể làm con xao động. Mục vụ thì đầy ắp những công việc, bề bộn những chương trình, kế họach thì đan kín thời gian. Sẽ là vô ích, nếu như con không nhận ra thánh ý Ngài là tất cả, có Ngài đời sẽ tràn trề niềm hoan lạc tuổi xuân. Như các môn đệ không bỏ ra đi, con cũng xin thân thưa cùng Chúa: "Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa" (Ga. 6, 68-69).
61. Suy niệm của Lm Minh Vận.
Trong đời sống con người trên trần gian, chúng ta thấy có biết bao thứ phải lựa chọn. Ngoài những lựa chọn thông thường hằng ngày như lựa chọn đồ dùng tốt xấu, nơi ăn chốn ngủ, xe cộ, áo quần... Còn có những thứ lựa chọn liên hệ đến cả vận mệnh của một dân tộc, làm đảo lộn lịch sử các quốc gia. Chẳng hạn Napoléon, vị tướng lãnh tài ba của Pháp Quốc, có lần phải mất năm phút để lựa chọn gấp rút nên tiến quân hay rút quân. Ông đã quyết định tiến quân và ông đã chiến thắng. Tổng Thống Lincoln đã phải chiến đấu để thắng chính bản ngã riêng tư của ông, để trả tự do cho người nô lệ. Ông đã quyết định hợp lý. Lịch sử đã tặng cho ông danh hiệu người giải phóng nô lệ. Người dân Nga Sô, dân Trung Hoa và các nước chư hầu của Nga Sô và Trung Hoa đã lầm lẫn khi lựa chọn theo thuyết cộng sản vô thần như một quốc sách, nên đã làm cho các dân tộc của họ ngày càng lùi dần về thời ăn lông ở lỗ, nghèo túng, đói rét, lạc hậu và cái mộng ước thiên đàng trần gian của chủ thuyết Kart Mark, Lénine đã trở thành mây khói hão huyền, gây nên bao đau thương đổ nát và tuyệt vọng.
Còn có thứ lựa chọn quan trọng và cần thiết hơn bội phần, như lựa chọn ơn gọi, sống Bậc Hôn Nhân giữa trần gian hay sống Bậc Thánh Hiến phụng sự Chúa trong đời sống tu trì; hoặc phải lựa chọn giữa điều thiện và điều ác, lựa chọn lên Thiên Đàng hay xuống hỏa ngục... Những lựa chọn này rất quan trọng vì nó không những chỉ liên quan đến hạnh phúc của cuộc sống trần gian mà còn liên hệ tới cứu cánh của cuộc sống vĩnh cửu trong đời sống mai hậu. Henry VIII, vua Anh Quốc đã chọn một người đàn bà bất hợp pháp làm vợ, tạo nên Anh Giáo, một giáo phái ly khai với Giáo Hội Công Giáo... Trước những lưỡng lự, ngã ba, ngã tư của cuộc đời, con người cần phải biết khôn ngoan lựa chọn và quyết định thế nào cho hợp với thánh ý Thiên Chúa. Có thể nói: Hạnh phúc cho những ai biết quyết định và lựa chọn đúng với thánh ý Thiên Chúa; nhưng trái lại, vô phúc cho những ai quyết định và lựa chọn phản lại thánh ý Ngài.
I. DÂN DO THÁI ĐÃ CHỌN CHÚA GIAVÊ
Bài đọc I hôm nay thuật lại việc ông Giosuê phải đau lòng trước sự ngỗ nghịch phản bội của dân Do Thái, ông đã triệu tập toàn thể dân chúng lại, truyền cho các kỳ lão, thủ lãnh các gia tộc, các quan án, các sĩ quan đến đứng trước nhan Chúa, rồi ông nói với họ: "Hôm nay, các ngươi hãy tùy ý chọn lựa phải tôn thờ ai, Thiên Chúa hay các tà thần?" Toàn dân đã biết hối cải, chừa bỏ tội lỗi và đã đồng thanh quyết định chọn Thiên Chúa để tôn thờ Ngài, khi thưa với ông Giosuê: "Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Thiên Chúa mà tôn thờ những thần ngoại lai, vì Chúa là Thiên Chúa chúng tôi".
Dân Do Thái hồi tưởng lại biết bao ơn lành Chúa đã ban cho họ, đã cứu họ thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập. Ngài đã làm biết bao việc kỳ diệu, những phép lạ do cánh tay hùng mạnh của Ngài; Ngài đã thi thố biết bao ơn phúc khi dẫn đưa dân tộc họ vào Đất Hứa, đất chảy sữa và mật mà Chúa đã hứa với cha ông của họ. Mặc dầu họ phản bội, Chúa vẫn luôn rộng lòng tha thứ, yêu thương chờ đợi họ trở lại phụng thờ Ngài. Chúa đã chấp nhận lòng sám hối của họ khi họ đồng tâm từ bỏ tà thần, trở lại chọn Chúa để tôn thờ Ngài. Dân Do Thái đã quyết định và lựa chọn đúng. Nhưng thực sự, dân Do Thái có trung thành với lời giao ước mà họ đã ký kết khi quyết định chọn Chúa để tôn thờ Ngài hay không? Lịch sử dân Do Thái đã đủ chứng minh cho câu trả lời này.
II. GIÁO HUẤN CỦA THÁNH PHAOLÔ
Thánh Phaolô đã dùng một hình ảnh cụ thể trong đời sống hôn nhân, với một tình yêu thương khắng khít và sự lệ thuộc giữa vợ chồng, để dạy cho chúng ta một bài học, nói lên sự lệ thuộc và tình yêu mến chúng ta phải có đối với Thiên Chúa. Đồng thời, ngài cũng nhắc chúng ta tưởng nhớ lại biết bao ơn phúc Chúa đã ban cho chúng ta, khi nói đến tình Chúa yêu thương Hội Thánh, đã hiến thân chịu chết vì Hội Thánh là thân mình mầu nhiệm của Chúa. Mỗi người chúng ta là phần tử làm nên Hội Thánh là Nhiệm Thể của Chúa Kitô, chúng ta cũng phải hoàn toàn sống cho Chúa, chỉ chọn Chúa và tôn thờ Người, tuyệt đối lệ thuộc vào Chúa và hết lòng phụng sự Người.
Thánh Phaolô đã kết luận: "Bởi thế, người ta lià bỏ cha mẹ để kết hợp với bạn mình và cả hai nên một huyết nhục. Mầu nhiệm này thật lớn lao, tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh". Còn chúng ta, chúng ta có từ bỏ mọi sự để kết hợp nên một với Chúa, hết lòng yêu mến, phụng sự, tôn thờ Người không?
III. CHÚA LÀ MỌI SỰ CỦA CON
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại: Sau khi Chúa giảng cho dân chúng về Bánh Hằng Sống và lương thực bởi trời; Ngài tự xưng mình là Bánh Hằng Sống và quả quyết với họ rằng: "Đây là ý muốn của Chúa Cha, Đấng đã sai Ta: Hễ ai xem thấy Chúa Con và tin kính Ngài, sẽ được đời đời hằng sống và Ta sẽ khiến kẻ ấy được sống lại trong ngày sau hết" (Jn 6:40). Người còn quả quyết: "Thật vậy, Ta nói thật với các ngươi; kẻ tin kính Ta sẽ được sống đời đời. Ta là Bánh Hằng Sống" (Jn 6:47).
Có nhiều môn đệ khi nghe lời quả quyết đó, họ cho là chói tai, khiến họ tức giận từ bỏ Chúa ra đi. Chúa biết truyện đó, nên hỏi họ: "Điều đó làm các ngươi khó chịu ư? Vậy nếu các ngươi thấy Con Người lên nơi đã ở trước thì sao? Chính Thần Trí mới làm cho sống, chứ xác thịt nào có ích gì? Những lời Ta nói với các ngươi là Thần Trí và Sự Sống. Nhưng trong các ngươi có một số kẻ không tin"... Sau khi họ bỏ Chúa ra đi, Chúa quay lại hỏi các Tông Đồ: "Cả chúng con, chúng con có muốn bỏ Thầy ra đi không?" Thánh Phêrô đại diện các Tông Đồ thưa với Chúa rằng: "Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời".
Ngày chúng ta lãnh Bí Tích Thánh Tẩy, chúng ta tuyên thệ từ bỏ Satan, từ bỏ tội lỗi, từ bỏ mọi sự thuộc về Satan và tội lỗi... Chúng ta tôn nhận Chúa là Thiên Chúa và chỉ tôn thờ, phụng sự, yêu mến duy một mình Người.
Hơn nữa, ngày chúng ta tuyên lời khấn, thánh hiến chọn cuộc đời cho Chúa, tự nguyện tuân giữ ba lời khuyên của Tin Mừng, chúng ta đã tôn nhận Chúa làm gia nghiệp đời đời, làm Bạn Tâm Phúc của chúng ta, là chúng ta làm mới lại, thêm xác tín vững mạnh hơn, thêm thánh thiện hơn lời chúng ta đã long trọng tuyên thệ ngày chúng ta lãnh Bí Tích Thánh Tẩy, tôn nhận Chúa và chỉ phụng sự yêu mến duy một mình Ngài.
Kết Luận
Không như dân Do Thái chọn Chúa, nhưng lại đã bất trung với lời giao ước, phản bội Chúa, không tôn thờ Ngài; còn chúng ta, chúng ta có trung thành với lời tuyên thệ chọn Chúa, tôn thờ, phụng sự, yêu mến Chúa là cùng đích, là hạnh phúc, là gia nghiệp đời đời của chúng ta chưa? Vì, được Chúa là được mọi sự, mất Chúa là mất tất cả.
62. Suy niệm của JKN.
Câu hỏi gợi ý:
1. Câu Đức Giêsu nói: "Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời" có lạ tai không? Câu nói trên cần phải hiểu theo nghĩa tâm linh hay theo nghĩa vật chất? Sau khi câu nói câu ấy, Đức Giêsu có nói câu nào để hướng dẫn người nghe phải hiểu theo nghĩa tâm linh không? Ngài nói gì?
2. Nếu bạn là các môn đệ Ngài hồi ấy, khi nghe lời ấy, bạn sẽ phản ứng thế nào? bỏ Ngài và rút lui, hay theo Ngài tới cùng như Phêrô?
3. Trước hai phản ứng khác nhau của các môn đệ, ta rút ra bài học gì? Có nên tin vào lý trí của mình hơn tin vào Thầy mình, hay vào Thánh Thần chăng?
Suy tư gợi ý:
1. «Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?»
Khi nghe Đức Giêsu nói: «Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời», chẳng những người Do-thái nghe không lọt tai, mà ngay cả các môn đệ cũng có những người không chấp nhận được. Họ đã hiểu câu Ngài nói theo nghĩa vật chất, theo mặt chữ, mà không chịu hiểu theo nghĩa tâm linh, theo Thần Khí. Thế là «nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa». Ngài đã để mặc họ bỏ Ngài, vì thấy họ không thích hợp với công việc của Ngài, vốn mang nhiều tính chất «thần khí» hay tâm linh.
a) «Ai có tai thì nghe!» hay «ai hiểu được thì hiểu!»
Trong Tin Mừng có nhiều trường hợp tương tự như trường hợp này. Nhiều lần, Đức Giêsu nói xong, người ta không hiểu, Ngài chẳng những không giải thích thêm, lại còn nói: «Ai có tai thì nghe» (nghĩa là ai hiểu được thì hiểu) (Mt 11,15; 13,9; 13,43; Mc 4,9; 4,23; 7,16; Lc 8,8). Vì chân lý không phải là ai cũng có thể hiểu và sẵn sàng đón nhận, như Ngài đã nói: «Thế là đối với họ, lời sấm của ngôn sứ Isaia đã ứng nghiệm: Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy, vì lòng dân này đã ra chai đá» (Mt 13,14). Một hình thức của chai đá tâm trí là chỉ hiểu được lời Chúa theo nghĩa vật chất mà không thể hiểu theo nghĩa tâm linh, chỉ biết chấp vào lời mà không chịu hiểu ý, nhất là khi lời đó diễn tả những chân lý thâm sâu về Thiên Chúa và đời sống tâm linh.
b) Đừng hiểu theo nghĩa vật chất, mà theo nghĩa tâm linh
Khi thấy có những môn đệ không chấp nhận vì hiểu sai, Ngài đã soi sáng thêm: «Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?» Ngài gợi ý cho họ thấy hai cách hiện hữu của Ngài: cách hiện tại là hiện hữu trong xác thịt, còn cách hiện hữu trước kia là hiện hữu trong thần khí. Nhắc tới hai cách hiện hữu ấy, Ngài gợi ý cho các ông hiểu rằng: lời của Ngài cần hiểu theo nghĩa tâm linh, chứ không thể hiểu theo nghĩa thể chất. Câu nói kế tiếp của Ngài lại càng khai sáng vấn đề hơn: «Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống». Lời Ngài nói là thần khí chứ không phải xác thịt, nên phải hiểu theo nghĩa tâm linh chứ không phải nghĩa thể chất. Hiểu theo nghĩa thể chất thì những từ «thịt» và «máu» Ngài vừa nói chính là thịt và máu vật chất, tức xác thịt. Ngài đã loại bỏ cách hiểu này: «Xác thịt chẳng có ích gì». Ngài đề cao cách hiểu theo nghĩa tâm linh qua câu: «Thần khí mới làm cho sống».
Thánh Phaolô cũng so sánh hai cách hiểu ấy: «Giao Ước Mới không phải là Giao Ước căn cứ trên chữ viết, nhưng dựa vào Thần Khí. Vì chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống» (2Cr 3,6). Chữ viết là vật chất, ai chỉ biết hiểu lời Chúa theo nghĩa vật chất của chữ viết, thì cách hiểu ấy sẽ giết chết tâm linh của người ấy. Lời Chúa cần được hiểu theo nghĩa tâm linh, nghĩa là «dựa vào Thần Khí», cách hiểu này mới «ban sự sống». Sự sống ở đây là sự sống tâm linh chứ không phải thể chất. Về vấn đề giữ luật, thậm chí luật cắt bì là một luật hết sức quan trọng trong Cựu Ước, thánh Phaolô chủ trương phải giữ theo tinh thần của lề luật chứ không phải theo chữ viết: «Phép cắt bì chính hiệu là phép cắt bì trong tâm hồn, theo tinh thần của Lề Luật chứ không phải theo chữ viết của Lề Luật» (Rm 2,29). Vậy, khi đọc Kinh Thánh, đặc biệt sách Khải Huyền, những chân lý thâm sâu cần được hiểu theo nghĩa tâm linh. Hiểu theo nghĩa vật chất nhiều khi dẫn tới sự phi lý và không đem lại «sự sống» hay lợi ích thực tế.
2. Hai phản ứng khác nhau của các môn đệ
Khi nghe Đức Giêsu nói câu khó hiểu, thậm chí có vẻ phi lý và chướng tai ấy, tôi nghĩ, chắc hẳn ngay lúc ấy chẳng ai trong các môn đệ đủ trình độ để hiểu được ý nghĩa lời của Ngài. Nhưng các môn đệ đã phản ứng theo hai cách: một số rút lui và số còn lại vẫn trung thành theo Ngài.
a) Đừng quá cố chấp vào những hiểu biết mình đang có:
Những môn đệ từ bỏ Ngài, không chịu làm môn đệ Ngài nữa, là vì họ nghe Ngài nói điều mà họ thấy là phi lý không thể chấp nhận được. Họ hoàn toàn có lý của họ. Nhưng phải nói họ là những người đã bị chai đá về mặt lý trí. Hễ điều gì họ đã cho là đúng, mà có ai nói ngược lại, nói những điều không lọt tai họ, thì họ tiên thiên cho là sai, và không thèm nghe, suy nghĩ hay tìm hiểu thêm. Những người này sẽ không bao giờ tiếp nhận được những kiến thức mới, những khám phá mới về chân lý. Vì chân lý thì vô tận, con người khám phá không ngừng và không bao giờ hết. Những khám phá mới nhiều khi phủ nhận hoặc vượt qua những khám phá cũ. Chẳng hạn nếu các em học sinh cấp I cứ chấp cứng vào kiến thức mà các em thu thập được ở trường lớp là: không được lấy số lớn trừ số nhỏ vì đó là một sự phi lý, thì các em sẽ cho các thầy dạy cấp II là dạy bậy. Vì ở cấp II, việc lấy số nhỏ trừ số lớn để ra một số âm là chuyện bình thường. Hay ở cấp II và III, việc đặt số âm trong một căn hiệu là phi lý, nhưng ở đại học, khi học về số ảo, thì một số âm vẫn luôn luôn có căn số.
Đức Phật có đưa ra một minh họa về vấn đề này: Một người có duy nhất một đứa con mà ông rất thương yêu. Khi ông đi vắng để đứa con ở nhà thì kẻ cướp đến đốt làng cướp bóc và bắt con ông đi. Khi về, ông thấy thi hài một đứa bé cháy đen bên căn nhà mình. Ông tin ngay là con mình và chôn cất trong sự thương tiếc. Mấy tháng sau, con ông tìm cách thoát được bọn cướp, tìm về đến nhà lúc nửa đêm và gõ cửa xin vào. Nhưng ông không chịu ra mở cửa vì cứ nhất định là con ông đã chết rồi, và cho rằng đứa gõ cửa là một thằng mất dạy nào đó trêu chọc ông. Rồi ông nhất quyết không nhận nó là con, bất chấp những bằng chứng hợp lý trước mắt.
Người ta nói: «Khoa học là mồ chôn những giả thuyết», vì giả thuyết mới phủ nhận giả thuyết cũ. Sự vật thì không thay đổi, nhưng khi ta biết 10 điều, ta nghĩ về sự vật thế này. Khi biết 100 điều, ta lại nghĩ thế khác. Khi biết 1000 điều, ta lại nghĩ hoàn toàn khác nữa. Ta nên tiếp tục nghĩ rằng khi biết 2000, 3000… điều, ta cũng sẽ tiếp tục nghĩ khác. Vậy trong đời sống tâm linh, hãy luôn luôn tỉnh thức để đón nhận những đổi mới của Thánh Thần trong cả cách nhìn về Thiên Chúa và về những chân lý cao sâu. Các tư tế và kinh sư Do-thái chính vì chấp vào những hiểu biết dựa trên Kinh Thánh và thần học của họ mà đã lên án và giết Đức Giêsu!
b) Hãy tin tưởng vào sự hướng dẫn của Thánh Thần:
Còn những môn đệ khác mà điển hình là Phêrô, tuy cũng thấy phi lý và chói tai, nhưng nghĩ rằng mình chưa hiểu được hết ý của Ngài. Qua những sự kiện thấy được nơi Đức Giêsu, họ tin Ngài là người nắm được những chân lý cao siêu, là «Đấng Thánh của Thiên Chúa». Vì thế, dù Ngài nói điều gì nghe không lọt tai, họ vẫn tạm chấp nhận để tiếp tục theo Ngài, mong có cơ hội sau này hiểu được điều ấy. Và đương nhiên sau này họ đều hiểu. Đó là thái độ khiêm nhường nhưng rất hợp lý: cho rằng khả năng hiểu biết mình còn non kém thì đúng hơn là cho rằng Thầy mình nói sai.
Tất cả những hiểu biết của nhân loại - kể cả của Giáo Hội - đều là những hiểu biết tương đối, phù hợp với số lượng những khám phá của họ. Khi khám phá ra nhiều sự kiện hơn nữa, ắt nhiên mọi người sẽ phải thay đổi quan niệm hay hiểu biết của mình. Trong đời sống tôn giáo hay tâm linh, điều quan trọng là chúng ta phải sẵn sàng đổi mới quan niệm và sẵn sàng từ bỏ những kiến thức cũ của mình thì mới theo kịp Thánh Thần. Ngài là Đấng luôn luôn «đổi mới mặt đất này» (Tv 104,30) và sẽ dẫn chúng ta «tới sự thật toàn vẹn» (Ga 16,13). Nên nhớ cách hành động của Thiên Chúa là: «Khi Thiên Chúa nói đến Giao Ước Mới, Người làm cho giao ước thứ nhất hoá ra giao ước cũ; và cái gì cũ kỹ, lỗi, thì sẽ tan biến đi» (Dt 8,13). Nếu ta cứ chấp vào giao ước cũ, làm sao ta đón nhận được giao ước mới? Nên nhớ, chỉ một mình Thiên Chúa là không thay đổi, còn mọi hiểu biết của con người về Thiên Chúa thì phải thay đổi theo trình độ trí thức và tâm linh con người. Cứ chấp vào hiểu biết cũ làm sao đón nhận những hiểu biết mới?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, Thánh Thần của Cha luôn luôn đổi mới mọi sự trong thế gian này. Xin cho chúng con biết thích ứng với Thánh Thần, sẵn sàng từ bỏ quan niệm cũ, cách hiểu biết cũ để theo quan niệm và cách hiểu biết mới mà Thánh Thần hướng dẫn. Đừng để chúng con đi vào bánh xe đã đổ của các kinh sư Do-thái: cứ chấp vào hiểu biết cũ nên không theo kịp cái mới của Thánh Thần, để cuối cùng bị đào thải về mặt tôn giáo. Amen.
63. Chọn lựa: một hành vi không dễ
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Cả anh em nữa, anh em có muốn bỏ Thầy mà đi không? Chúa Giêsu không hỏi: anh em có tiếp tục theo Thầy không mà lại hỏi thẳng thừng: anh em có muốn bỏ Thầy mà đi không. Một câu hỏi không thuộc dạng mời gọi như trước đây mà là đặt vấn đề chọn lựa rõ ràng, dứt khoát.
Kitô hữu chúng ta theo đạo không phải là theo một học thuyết mang tính triết lý hay thần học nào đó, nhưng là theo một "con người", theo một "ai đó", một "Đấng nào đó". Đấng hay con người mà chúng ta lựa chọn đi theo, lựa chọn để gắn bó, đó là Đức Giêsu Kitô. Phụng Vụ Lời Chúa ngày Chúa nhật XXI TN B đặc biệt lưu ý chúng ta đến hành vi lựa chọn. Chọn lựa một công việc để làm kế sinh nhai quả không mấy dễ. Chọn lựa một bậc sống thật lắm phân vân đủ bề. Chọn lựa một con người để làm bạn đời trăm năm cũng lắm sự nhiêu khê. Và chọn lựa Đấng để trao gửi hạnh phúc hôm nay và vĩnh cửu chắc chắn sẽ khó khăn hơn nhiều. Vì thế, khi phải chọn lựa trong một vấn đề quan trọng, chúng ta cần có đủ cơ sở một cách nào đó.
Sau khi nhắc lại cho dân tình yêu của Thiên Chúa qua các kỳ công Người đã thực hiện để bảo vệ dân, Giosuê khẳng khái trước toàn dân rằng: "Về phần tôi và gia đình tôi, chúng tôi sẽ phụng thờ Đức Chúa" (Gs 24,15). Và dân đã đáp lại rằng họ không hề có ý định bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác! Họ sẽ thờ phụng Thiên Chúa, vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của họ dùng quyền năng thực hiện những dấu lạ lớn lao để đem họ cùng với cha ông họ ra khỏi đất Ai Cập, khỏi nhà nô lệ mà vào đất hứa. Như thế, cơ sở để dân Chúa xưa chọn thờ phụng Người đó là vì Người quyền năng đã đưa họ ra khỏi nhà nô lệ.
Trước câu hỏi của Chúa Giêsu, một kiểu đặt vấn đề đòi hỏi có sự chọn lựa dứt khoát thì Phêrô đã thay mặt nhóm Mười Hai trả lời: " Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời" (Ga 6,68). Không kể trường hợp một phần tử trong nhóm không tin, thì câu trả lời của Phêrô nói lên sự chọn lựa của cả nhóm Tông Đồ. Và sự chọn lựa ấy đặt cơ sở trên điều này: vì Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Để nói lên được những lời này, chắc chắn cùng với các bạn, Phêrô đã từng chứng kiến uy quyền của Thầy khi khiến nước lã hóa thành rượu ngon (x.Ga 2,1-12). Các vị đã từng nghe Thầy nói với viên sĩ quan cận vệ nhà vua rằng: "Ông cứ về đi, con ông sống" và đứa con trai của ông ta đang đang hấp hói đã đuợc cứu sống (x. Ga 4,46-54). Và các ngài chưa thể quên lời tạ ơn mới đây của Thầy đã giúp cho năm ngàn người đàn ông chưa kể đàn bà và con trẻ no nê chỉ từ năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá (x. Ga 6,1-15).
Không ai tự nguyện dấn thân theo một lý tưởng, thực hiện một trách vụ hay gắn bó với một con người mà không ấp ủ một hoài bão, một ước mơ hay niềm hy vọng nào đó. Xưa, dân Do Thái chọn tôn thờ Thiên Chúa là để một mặt khỏi bị Người giáng họa, trừng phạt, mà trái lại sẽ được Người chúc phúc và che chở trước các "kẻ thù" lân bang (Gs 24,19-20).
Cái hoài bão, uớc mơ, đúng hơn là cái mục đích việc Phêrô thay mặt anh em chọn gắn bó với Thầy đó là vì "Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời". Sự sống đời đời là một ước mơ của con người, mọi thời và mọi nơi. Dù đủ đầy của cải vật chất, dù nắm trong tay quyền sinh sát của bậc đế vương thì con người vẫn cảm nhận cái hữu hạn của cuộc sống đời này. Danh vọng quyền lực, của cải hay tiền tài không thể giúp ta kéo dài cuộc sống đến vô tận. Một thanh niên có nhiều sản nghiệp đã đến tham vấn Chúa Giêsu: Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt để được hưởng sự sống đời đời? Sau khi biểu anh ta giữ các giới răn, Chúa Giêsu đã mời gọi anh ta hãy bán của cải, phân phát cho người nghèo rồi đến mà theo Người (x. Mt 19,16-22; Mc 10,17-22; Lc 18,28-30).
Chọn lựa là hy sinh. Một câu nói cho thấy một lẽ tất yếu của việc chọn lựa, Chọn ra đi thì phải hy sinh chuyện không ở lại, chọn việc cất tiếng nói thì đương nhiên phải mất thái độ giữ im lặng, đã chọn tôn thờ Thiên Chúa thì phải bỏ các thần của dân ngoại (x. Gs 24,23)... Tuy nhiên sự hy sinh trong việc chọn lựa không chỉ dừng lại ở các nội dung xem như đối lập của sự chọn lựa mà còn có đó sự hy sinh ngay trong chính hành vi chọn lựa. Sự hy sinh ở đây được hiểu như một sự đánh cược, một sự dân thân, một sự "liều lĩnh" nào đó. Vì chưng, chúng ta vốn khó có được các cở sở một cách chắc chắn kiểu trăm phần trăm khi chọn lựa một điều gì đó. Chúng ta dễ nhận ra ngay hiện thực này qua việc các bạn thanh niên nam nữ chọn bạn đời hay chọn ơn gọi tu trì. Như thế, sự hy sinh ở đây có thể hiếu như sự can đảm dấn thân, chấp nhận nhiều "cái giá" phải trả khi chọn lựa.
Cái giá mà chúng ta phải trả khi chọn lựa đi theo Chúa Giêsu, gắn bó với Người đó chính là "vác thập giá". "Ai không các thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được" (Lc 14,27). Cái giá mà Phêrô sẽ phải trả được Đấng Phúc sinh báo trước: "Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tùy ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đế nơi anh chẳng muốn. Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi Người bảo ông: "Hãy theo Thầy" (Ga 21,18-19).
"Thiên Chúa dựng nên tôi không cần có tôi, nhưng Người không thể cứu tôi mà cần có tôi" (thánh Augustinô). Tự do là một quà tặng cao quý Chúa ban cho loài người, loài cao trọng nhất trong các loài hữu hình Người dựng nên. Tự do là một ân ban cao quý và cũng là một thử thách ắt có của tình yêu. Được sống đời đời hay phải chết đời đời có nghĩa là được hạnh phúc bất diệt hay bị trầm luân mãi mãi, các khả thể này đang tùy ở sự lựa chọn của chúng ta. Ai lại không muốn được sự sống đời đời, được hạnh phúc bất diệt, nhưng vấn nạn khó vượt qua đó là chúng ta thường e ngại phải trả giá.
64. Suy niệm của Lm. Thu Băng, CRM
Anh Vũ Thành Tâm là một thanh niên tuổi quân dịch. Anh đã bỏ nhà thờ từ lâu. Anh chẳng còn đi lễ, chẳng còn chịu các phép Bí Tích nữa. Khi nhập ngũ, Mẹ anh lo lắm. Mẹ anh sợ anh bị chết ngoài trận chiến bất kỳ lúc nào. Vì thế trước khi lên đường, mẹ anh soăn xúyt bên con, vồn vã nói với con: "Tâm con, mẹ muốn con làm cho mẹ một điều". "Điều gì đó mẹ?" Anh hỏi lại. Con đi xa nhà, đời binh nghiệp trôi nổi bôn ba, cái chết như tầu lá rơi trước gió, vì thế mẹ muốn con hứa với mẹ: Dù con có bận bịu mệt mã đến đâu đi nữa, mỗi ngày con hãy đọc một kinh kính mừng dâng phó linh hồn con cho Đức Mẹ. Có được không? Tâm suy đi nghĩ lại, lời mẹ như đưa chàng vào thế kẹt: Mình đã bỏ đạo từ lâu rồi nên không chấp nhận. Nhưng mình là người con có hiếu chả lẽ từ chối! Thôi thì chấp nhận cho mẹ vui. Tấm tức giữa hai ngả. Sau cùng Tâm chấp nhận sẽ làm như mẹ xin. "Con làm sao bỏ được lời mẹ trối". Mấy năm trời trôi qua. Tâm bận bịu với việc quân ngũ nên cũng chẳng biên thư về nhà. Rồi một hôm, mẹ anh nhận được thư cha Tuyên Úy cho biết anh bị trọng thương và đã xin chịu các phép Bí Tích. Ít lâu sau anh Tâm bình phục và viết thư về cho mẹ: "Mẹ ơi, con cám ơn mẹ đã bảo con hứa với mẹ là sẽ đọc một kinh kính mừng mỗi ngày. Con đã giữ lời hứa đó và nay con đã bắt đầu đi lễ và chịu lễ mỗi chúa nhật".
Bài Tin Mừng ngày hôm nay cũng là một thách đố cho các môn đệ. Niềm tin của các ngài cũng bị thử thách trầm trọng vì trong bài giảng ngài nói: "Ngài sẽ hiến chính thịt máu mình cho họ ăn". Có nhóm không chấp nhận được lời Chúa Giêsu tuyên bố cũng như anh Tâm đã bỏ Chúa lâu rồi làm sao có thể chấp nhận đọc kinh được. Nhưng nhóm còn lại chấp nhận thử thách và trung thành với Chúa Giêsu "Bỏ thầy con biết theo ai. Thầy mới có lời hằng sống". Như anh Vũ thành Tâm trung thành với lời "Con làm sao bỏ được lời mẹ trối".
Chúng ta có thể tin rằng một linh hồn dù có xa Chúa đến mấy đi nữa mà còn giữ được một cái gì nối kết với Chúa, dù cái đó chỉ là một câu kinh lạy Cha, kinh kính mừng mỗi ngày thì vẫn còn hy vọng sẽ tìm lại được đường về. Anh Tâm cũng như rất nhiều người công giáo đã bắt chước các môn đệ thành tâm trong bài tin mừng hôm nay. Họ không thể tin Chúa Giêsu có thể cho họ Mình và Máu Ngài để họ ăn và uống. Nhưng ít là họ đã chứng kiến việc Chúa dùng 5 cái bánh và 2 con cá để nuôi 5000 người ăn no. Nhiều người thường lấy lý do "Đi dự lễ không thấy phấn khởi, đọc một câu kinh không thấy được ơn ích gì..." Nhưng họ làm ít ra còn tin vào lời Chúa nói. Cứ làm đi rồi Chúa sẽ hỗ trợ, sẽ ban ơn.
Như Anh Vũ Thành Tâm trong câu chuyện, mỗi người chúng ta hãy cố làm những gì có thể được, càng nhiều càng tốt để đáng được Chúa thương cứu giúp.
65. Suy niệm của Lm Vũ Xuân Hạnh.
Chắc bạn vẫn nghe thường xuyên về người này hứa dỏm, người kia hứa lèo. Hoặc chính bản thân nhều khi cũng tỏ ra bực mình vì ai đó không giữ đúng lời hứa. Từ những chuyện nhỏ nhất, tầm thường nhất của cuộc sống đến những vấn đề quan trọng nhất, người ta đều cóp thể thất trung, bất tín. Ví dụ: Ai cũng biết, hôn nhân là mối giây ràng buộc chặt, nhưng người ta vẫn phản bội nhau. Một hợp đồng kinh tế vừa mới ký xong, có thể vì lợi lộc riêng tư, người ta vẫn phản bội hợp đồng đó. Một hiệp ước hòa bình giữa hai đảng phái đã được ký kết để đừng chém giết nhau nữa, thì cũng không ai dám tin chắc rằng, hai đảng phái đó hoàn toàn tuân theo hiệp ước, dù nó là hiệp ước quốc tế đi nữa. Vậy là chiến tranh nổ ra, chém giết vẫn còn, những cái chết oan uổng vẫn không ngừng tiếp diễn từng ngày. Nhìn vào thực tế của đời sống như thế, nhiều lúc ta như chán nản, bật thốt lên: Người đời là vậy! Họ phản bội nhau, bất trung với nhau, không cần đếm xỉa gì đến hậu quả của nó.
Đối với nhau đã vậy, đối với Thiên Chúa, con người cũng phản bội, cũng bất trung không kém. Từ thuở bình minh của nhân loại, thế giới theo Thánh Kinh diễn tả, chỉ có hai người thôi: Ađam, Eva. Tưởng chừng cả hai sẽ an phận trong hạnh phúc tuyệt đối Chúa đã an bài, nhưng không, lòng tham, sự kiêu ngạo đã làm ông bà không chấp nhận hạnh phúc đó mà lại muốn bằng Thiên Chúa. Để bằng Thiên Chúa, chỉ còn cách không vâng lời, chống lại Thiên Chúa, bất trung với Người. Vì tội chống lại Thiên Chúa một cách tày trời, đã gây ra hậu quả không lường hết được: cả loài người cùng bị vạ lây trong tội nguyên tổ.
Bất trung của Ađam và Eva là mở đầu cho vô vàn những bất trung mà con người phản bội Thiên Chúa. Chẳng hạn, thời gian dài dân Chúa phải lang thang trong sa mạc là một bằng chứng. Bốn mươi năm trường, nếm đủ mùi vị của khổ đau: nào là đói, rét, khát, rắn độc cắn…, đã làm cho dân của Chúa mất kiên nhẫn, nhiều lần lên tiếng trách móc ông Môsê và ông Aaron đã vậy, họ còn oán trách nặng lời đối với Thiên Chúa của họ. Họ nghi ngờ lòng thương xót của Chúa: không biết Chúa có thương mình không, hay Thiên Chúa đem họ ra khỏi Aicập để mượn nỗi khổ gay gắt của sa mạc giết chết họ? Lòng dân nổi loạn đến mức, có lần ông Môsê thất vọng cùng cực, than thở với Chúa: “Sao Ngài lại làm khổ tôi tớ Ngài? Tại sao con không đẹp lòng Ngài, khiến Ngài đặt gánh nặng tất cả dân này lên vai con? Có phải con đã cưu mang dân này đâu, có phải con sinh ra nó đâu?… Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa, vì nó nặng quá sức con. Nếu Ngài xử với con như vậy, thì thà giết con đi còn hơn…” (Ds 11, 12 tt). Trong sa mạc, lòng dân quyên mất tình yêu của Chúa, vì thế đã không biết ơn Thiên Chúa của mình, ngược lại nhiều lần đi từ thái độ bất trung đến đối nghịch Thiên Chúa.
Hôm nay bài đọc một là một phần của câu chuyện dài về sự bất trung và lòng thương xót ấy. Sau những năm tháng lang thang rày đây mai đó trong sa mạc, bây giờ sắp định cư trong đất hứa, hạnh phúc chỉ còn là một bước nhảy về phía trước. Trong hoàn cảnh này, dân Chúa phải xác định lại lập trường của mình: Họ có muốn trung thành theo Chúa, thờ phượng Chúa nữa hay không? Dẫu hôm nay, họ dỏng dạc tuyên bố sự chọn lựa của mình: “Không đời nào chúng tôi bỏ Đức Chúa mà đi thờ những thần khác”, và dù cho lý do buộc họ phải xác định lại đức tin của mình là bởi đã quá nhiều lần họ bất trung với Chúa, thì không phải vì thế, mà từ nay về sau họ không còn bất trung. Lời quyết tâm trung thành hứa trước nhan Chúa vẫn còn đó, nhưng lòng dân thì hay thay đổi. Suốt dọc dài của lịch sử, sự phản bội ngấm ngầm hay ra mặt đã làm cho dân của Chúa nhiều lần bước ra khỏi tình yêu của Người, sống cách xa Thiên Chúa. Chính vì sự bất trung liên tục mà dân Chúa đã bao lần phải chuốc lấy cơn phẫn nộ của Người. Nhưng nổi bật lên trên tất cả, lớn hơn cả những lần phẫn nộ, lớn hơn cả sự phản bội của dân vẫn là tình yêu khoang dung, và tha thứ mà Thiên Chúa dành cho họ. Đọc Thánh Kinh ta có cảm tưởng như Thánh Kinh hình thành bởi một công thức gồm ba động từ: phản bội - nổi giận - tha thứ. Dân không ngừng phản bội, nhiều lần Thiên Chúa nổi giận, sau đó lại xót thương và tha thứ. Suốt chiều dài của lịch sử mà Thánh Kinh diễn tả cứ lặp đi lặp lại y như thế.
Đó là bài đọc I trích sách Giosuê. Trong bài Tin Mừng, một lần nữa, ta lại thấy lời khẳng định về lòng trung thành một cách dứt khoát của thánh Phêrô: “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai? Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa”. Dù khẳng khái là thế, nhưng không phải mọi lúc Phêrô đều cứng rắn và hết lòng trung thành. Vì khi Thầy Giêsu của mình lâm nguy trong cuộc tử nạn, có lẽ chính là lúc Thầy cần Phêrô nhất: cần một sự đồng cảm, cần một sự chia sẻ nào đó, cần lắm một thái độ, ít nữa là một ánh mắt tin tưởng để Thầy bớt cô đơn trên mỗi bước đường thập giá… Chính những giờ phút quan trọng ấy, những giờ phút cần thiết ấy, Phêrô lại quyên mất lời tuyên xưng mới đó, tính cho đến nay chưa được bao lâu. Vì một chúc sợ hãi và yếu lòng, Phêrô đã chối Thầy, không phải một lần, mà là ba lần, không phải trong ba năm, nhưng chỉ cách nhau có hai canh gà!
Ôn lại những gì dân Chúa đã sống ngày xưa, và nhìn lại lời tuyên xưng cũng như lỗi lầm của thánh Phêrô nhân dịp Giáo Hội mời gọi ta suy niệm các bài Kinh Thánh nói về lòng trung thành của ngày Chúa nhật XXI, bạn và tôi, một lần nữa, hãy thâm tín một cách chắc chắn rằng, Chúa vẫn yêu chúng ta, yêu từng người một. Dẫu ta có lỗi lầm bao nhiêu, có bất trung cách mấy, Chúa vẫn một lòng khoang dung tha thứ. Chúa đã chấp nhận nguyên tổ ngay cả khi nguyên tổ chống đối Chúa; Người cũng không vì lỗi lầm của dân riêng mà khước từ tình yêu đối với họ, cũng không phải vì Phêrô yếu đuối mà Chúa tước quyền làm tông đồ trưởng, hơn nữa làm giáo hoàng tiên khởi của Hội Thánh, thì hôm nay bạn và tôi vẫ có quyền hy vọng. Chúa vẫn thế, vẫn mãi mãi là Thiên Chúa của lòng trung thành, của tình yêu và tha thứ, chỉ sợ chúng ta không còn hy vọng nữa mà thôi. Ta bất trung với Chúa nhiều lần, đó là sự thật. Nhưng còn một sự thật khác lớn hơn nhiều: Tình yêu của Chúa lớn hơn mọi tội lỗi của ta. Bởi thế, biết mình yếu đuối, lỗi lầm bao nhiêu, ta càng vững tin vào Chúa bấy nhiêu. Nếu lỡ có lần nào vấp ngã, ta nhanh chóng đứng lên và chạy về phía Chúa. Bí tích giải tội là cách tốt nhất để ta lấy lại bình an, lấy lại lòng trung thành cùng Chúa mà chính mình đã đánh mất.
66. Bỏ đi hoặc ở lại – Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Với bản văn hôm nay, độc giả đi tới đỉnh cao của Diễn từ về Bánh trường sinh, đỉnh cao của cuộc “khủng hoảng” báo trước cuộc Thương Khó của Đức Giêsu: các thính giả phản ứng lại các lời của Đức Giêsu; họ bị đặt trước một chọn lựa là tin hoặc không tin vào Người.
Thứ lương thực lạ lùng và Bài Diễn từ về Bánh khác các dấu lạ và các diễn từ khác của Đức Giêsu do sự kiện là trong vấn đề này, các môn đệ lấy lập trường. Tại đây Đức Giêsu đã mạc khải các ân ban đặc biệt của Người và các ân ban này chính là thịt máu của Người. Các môn đệ của Người chia rẽ về điểm này: bỏ đi vì không thể chấp nhận các lời Đức Giêsu nói, hoặc ở lại với Người, vì tin rằng chỉ Người mới có “những lời đem lại sự sống đời đời”.
2.- Bố cục
Bản văn phụng vụ có thể chia thành ba phần:
1) Một câu tóm nội dung bài giảng về Bánh hằng sống (6,54a);
2) Những môn đệ bỏ đi (6,60-66);
3) Nhóm Mười Hai ở lại (6,67-69).
3.- Vài điểm chú giải
- Nghe rồi, […]: "Ai mà nghe nổi? (60): Động từ “nghe” (akouein) được dùng hai lần với nghĩa khác nhau: lần đầu, từ này có nghĩa là “nghe” mà không có sắc thái một sự chấp thuận; lần sau, có nghĩa là “nghe” với sự chấp thuận.
- nhiều môn đệ của Người (60): Bản văn không nói là các “môn đệ” này có hàm chứa cả Nhóm Mười Hai hay không. Tuy nhiên, vì Phêrô đã lấy lập trường mà nói nhân danh Nhóm Mười Hai, rất có thể Nhóm Mười Hai không được kể vào số các “môn đệ” càm ràm, xầm xì này (có lẽ ngoại trừ Giuđa, vì Đức Giêsu gọi ông là “quỷ”, x. c. 70).
- lên nơi đã ở trước kia (62): tức lên với Chúa Cha (x. Ga 17,5).
- Lời Thầy nói với anh em (63): dịch cho nổi bật các sắc thái là: “Những lời mà Thầy đây, Thầy đã nói với anh em”. Chủ từ egô được viết ra trong bản văn để tạo sự cường điệu.
- là Thần Khí và là sự sống (63): Đây là một “phép thế đôi”[1], nên cần dịch diễn ra là “lời Thầy nói với anh em là Thần Khí ban sự sống”.
- Nhóm Mười Hai (67): Ga 6,67-71 là nơi duy nhất trong TM IV mà tác giả minh nhiên nói đến Nhóm Mười Hai (ngoại trừ một hoạt cảnh khác chỉ được nhắc tới trong TM này, ở Ga 20,24). Hai lần nhắc tới “Nhóm Mười Hai” (hoi dodeka) ở cc. 67 và 71 “đóng khung” phân đoạn ngắn này thành một đơn vị văn chương. Tác giả ghi nhận rằng Nhóm Mười Hai đã được Đức Giêsu chọn (Ga 6,70), dù không cho biết vào dịp nào và trong những hoàn cảnh nào. Do sự trung tín của họ với Đức Giêsu, Nhóm Mười Hai ở vào thế tương phản với những môn đệ đã sa sút. Không giống với các môn đệ đã bỏ đi, Nhóm Mười Hai ở lại với Đức Giêsu. Đối với các ông, các ông không còn chỗ nào khác mà đi. Phêrô đã nói thay anh em: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68).
Đoạn Ga 6,67-71 là nơi duy nhất trong TM mà tác giả minh nhiên nói đến Nhóm Mười Hai (ngoại trừ một hoạt cảnh khác chỉ được nhắc tới trong TM IV, ở Ga 20,24). Hai lần nhắc tới “Nhóm Mười Hai” (hoi dodeka) ở cc. 67 và 71 “đóng khung” phân đoạn ngắn này thành một đơn vị văn chương.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Một câu tóm nội dung bài giảng về Bánh hằng sống (54a)
Sau các vòng giới thiệu, đây là khẳng định tối hậu Đức Giêsu nêu ra về mầu nhiệm bản thân Người: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì được sống muôn đời” (c. 54a). Các động từ được chọn để diễn tả tính hiện thực của ân ban là thịt máu Đức Giêsu đã đạt mục tiêu: các môn đệ sẽ phản ứng.
* Những môn đệ bỏ đi (60-66)
Phần lớn các môn đệ không thể chấp nhận được các lời Đức Giêsu đã nói, đến mức không còn có thể lắng nghe được nữa. Và thật sự các lời của Đức Giêsu không thể chịu nổi, nếu Người chỉ là một người phàm. Các lời Đức Giêsu đã nói quả không thể chấp nhận được, nếu người ta chỉ đón nhận theo cảm xúc và hời hợt, nếu người ta chỉ để ý đến các chi tiết chứ không thấy bối cảnh tổng quát. Đức Giêsu tìm cách cung cấp cho các môn đệ một điểm hỗ trợ hầu có thể hiểu, nhưng Người cũng nói rõ ra lý do đích thực của phản ứng khó chịu của họ: họ thiếu đức tin. Trước hết, Người nhắc các môn đệ nhớ rằng Người không nói như một người thường, nhưng như là Con Người, đã từ Thiên Chúa mà đến và sẽ quay về với Thiên Chúa. Trong bài Diễn từ về Bánh trường sinh, Đức Giêsu đã nhiều lần nêu bật điều này là Người được Thiên Chúa cử đến và có sự sống phát xuất từ Thiên Chúa (x. Ga 6,27.57). Điều kiện tiên quyết để hiểu được các lời của Đức Giêsu, đó là hiểu và nhìn nhận bản thân Người.
Thế rồi Đức Giêsu đi vào một điểm đặc biệt trong Bài Diễn từ. Các môn đệ dường như cảm thấy bị vấp phạm nhất về sự kiện Người ban thịt làm của ăn và máu làm thức uống. Đức Giêsu đảm bảo với họ rằng nếu đi từ “thịt” hiểu là con người phàm trần – kể cả nhân tính của Đức Giêsu – người ta chẳng có gì để mong đợi, vì “thịt” thì hư hoại và tiến về cái chết; đi từ “thịt”, ta không thể chờ đợi sự sống bất hoại. Sự sống này chỉ đến từ Thánh Thần, từ quyền lực không bao giờ cạn kiệt ban sự sống của Thiên Chúa (x. Ga 3,6). Nhưng Đức Giêsu cũng nhấn mạnh rằng toàn thể các lời Người là Thần Khí và sự sống. Người không chỉ trình bày một vài suy tư về Thánh Thần và sự sống, về quyền lực không bao giờ cạn kiệt ban sự sống của Thiên Chúa và về sự sống bất hoại, nhưng Thần Khí và sự sống hiện diện trong chính các lời nói của Người và Người cho một chứng minh rõ ràng nhất về điểm này. Kể cả các lời Người nói về thịt và máu Người là Thần Khí và là sự sống, theo nghĩa là các lời ấy nói về Đấng không chỉ là thịt, mà là Ngôi Lời trở thành xác thịt (x. 1,14). Người ta chỉ hiểu Đức Giêsu đúng đắn nếu để ý đến chuyện Người là ai và bản chất các lời Người nói là thế nào. Nhưng người ta lại đáp lại bằng sự thiếu lòng tin, sự từ khước, sự ngờ vực đối với Người và đối với lời Người. Đức tin là một ân ban của Thiên Chúa (x. 6,37-44); nhưng đồng thời vẫn còn nguyên trách nhiệm của những người không tin và xa lìa Đức Giêsu. Nhiều môn đệ lãnh trách nhiệm này khi “rút lui, không còn ở với Người nữa” (c. 66).
* Nhóm Mười Hai ở lại (67-69)
Mẩu đối thoại của Đức Giêsu với nhiều môn đệ đã khởi đầu bằng lời phản đối của họ và bằng cách họ đánh giá các lời của Người theo cảm xúc. Bây giờ Đức Giêsu ngỏ lời với nhóm thứ ba bên trong đám đông, Nhóm Mười Hai, một nhóm rất gần gũi với Người, nhưng cũng bị cám dỗ, bị lay động, bị thách thức bởi những lời đòi hỏi của Người. Mẩu đối thoại của Người với Nhóm Mười Hai bắt đầu bằng một câu hỏi Người đặt ra: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga 6,67). Câu hỏi này không hề có đặc tính gây hấn, như thể Đức Giêsu muốn nói: “Anh em cứ việc bỏ đi!”, trái lại câu hỏi này hàm chứa một lời mời ở lại. Đức Giêsu đặt câu hỏi và để cho các môn đệ tự do quyết định. Nhưng Người không rút lại bất cứ điều gì Người đã nói. Simôn Phêrô đã nhân danh nhóm (“chúng con”) nói lên một câu trả lời có suy ngẫm và nêu ra ba lý do khiến các ông ở lại với Đức Giêsu chứ không đi theo đa số: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69).
Lý do thứ nhất là một suy tư sáng suốt: ‘Chúng con không thể bỏ đi kiểu mù quáng. Khi bỏ đi, chúng con cần phải biết chúng con muốn bỏ ai, và gặp được điều gì tốt hơn và thuyết phục hơn nơi người nào. Chỉ đơn giản bỏ đi thì không có ý nghĩa’. Suy tư này giúp tránh những quyết định vội vã, theo tình cảm. Bởi vì không tìm được một vị thầy nào dứt khoát khá hơn, thì khôn ngoan là ở lại với Đức Giêsu.
Lý do thứ hai nhắc đến đặc tính của các lời Đức Giêsu. Chính Người đã nói: “Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là sự sống” (6,63). Bây giờ Phêrô chấp nhận điều ấy: “Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (c. 68). Ông đã hiểu rằng ân ban cao trọng nhất của Đức Giêsu là sự sống đời đời và nhận biết rằng Đức Giêsu nói về điều đó trong tư cách đáng tin nhất; Đức Giêsu không chỉ nói về điều đó, Người còn mang sứ điệp chắc chắn về sự sống đời đời và mở đường vào sự sống đó.
Lý do thứ ba liên hệ đến việc nhận biết bản thân Đức Giêsu. Phêrô nói về con đường giúp nhận biết như thế và nói về nội dung của nhận thức này. Nhóm Mười Hai đã ký thác và tín nhiệm hoàn toàn vào Đức Giêsu. Trên nền tảng của thái độ này, các ông đã hiểu và nhận biết rằng Đức Giêsu là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (c. 69). “Thánh” chính là điều thuộc về Thiên Chúa. Nếu Đức Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa, điều này có nghĩa là Người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và được kết nối với Thiên Chúa trọn vẹn. Chính vì Đức Giêsu có một tương quan đặc biệt với Thiên Chúa, Người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, mà Người có những lời ban sự sống vĩnh cửu, và do đó, thật là điên rồ nếu xa lánh Người.
Qua câu trả lời ấy của ông, Phêrô đề cập đến ba chủ đề lớn của TM IV: (1) “sự sống đời đời” (36 lần; các TMNL: 14 lần); (2) “tin” (98 lần; toàn bộ Tân Ước còn lại: 145 lần); (3) “[nhận] biết”(56 lần; các TMNL: 58 lần). Lời tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu cũng chính là lời tuyên xưng tình yêu đối với Người.
+ Kết luận
Các lập trường đã rõ, các phe đã được xác định. Giuđa và những người Do-thái có thể chuẩn bị vụ xét xử Đức Giêsu. Trong thực tế, chính Con Người mới sắp xử dân bị Thiên Chúa loại trừ, ngay giữa niềm hân hoan của Lễ Lều và lễ Cung hiến Đền Thờ, là hai ngày lễ quy tụ Dân Thiên Chúa (Ga 7–10). Các môn đệ của Đức Giêsu cũng sẽ “bị xét xử”: các hoàn cảnh sống của Đức Giêsu buộc các ông phải chọn lựa dứt khoát. Chỉ có một trong hai cách: bỏ đi hoặc ở lại với Đức Giêsu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Khi suy niệm bản văn Ga 6,60-69, người tín hữu hôm nay không được phép bằng lòng với việc trách móc nhóm môn đệ đã bỏ đi hoặc khen ngợi Nhóm Mười Hai vẫn còn ở lại. Làm như thế là quên mất rằng chính mình cũng là một môn đệ, là một trong Nhóm Mười Hai. Do đó, họ phải tự hỏi: Quan niệm của tôi về Đức Giêsu lâu nay như thế nào? Tôi đang đặt những niềm chờ mong gì nơi Người? Tại sao tôi còn ở lại với Người? Những câu hỏi này bắt tôi phải ra khỏi tình trạng nửa vời để dứt khoát chọn Đức Giêsu.
2. Người ta không thể nhận biết Đức Giêsu từ xa, nhưng chỉ khi ở gần; và người ta cũng không thể nhận biết Đức Giêsu khi dựa trên sự lãnh đạm, sự chỉ trích và kiêu ngạo, nhưng chỉ nhờ tin tưởng hoàn toàn vào Người. Phêrô không nhắc lại một trong cách danh hiệu quen thuộc của Đức Giêsu; ông không nhấn mạnh trên tầm quan trọng của Người đối với loài người, nhưng ông xác định được về Người nhờ dựa trên tương quan của Người với Chúa Cha.
3. Chúng ta không được lãnh nhận Đức Kitô trong bí tích Thánh Thể rồi lại đi tìm các thú vui riêng cho mình; nếu chúng ta chỉ nghĩ đến mình, chúng ta không thật sự tin vào Đức Kitô. Đức Giêsu biết khó khăn này, nên Người mời chúng ta đi vào thế giới của Thánh Thần. Nếu chúng ta đặt sự chọn lựa của chúng ta trên nền tảng là lô-gích người phàm, chúng ta sẽ thất vọng. Chỉ khi nào chúng ta có thể lắng nghe tiếng gọi của Chúa Cha, khi nào chúng ta để cho Thần Khí thúc đẩy, chúng ta mới có thể hiểu và chọn Đức Kitô.
4. Có thể nói hoạt cảnh ngắn trong đó Phêrô xuất hiện ra như là người phát ngôn của Nhóm Mười Hai là phương tiện giúp tác giả suy tư về Nhóm Mười Hai. Tác giả ghi nhận rằng Nhóm Mười Hai đã được Đức Giêsu chọn (Ga 6,70), dù không cho biết vào dịp nào và trong những hoàn cảnh nào. Do sự trung tín của họ với Đức Giêsu, Nhóm Mười Hai ở vào thế tương phản với những môn đệ đã sa sút. Không giống với các môn đệ đã bỏ đi, Nhóm Mười Hai ở lại với Đức Giêsu. Tuy nhiên, tương lai còn đó để Nhóm Mười Hai xác nhận sự chọn lựa của các ông: cuộc Thương Khó của Đức Giêsu sẽ là biến cố tối hậu bắt các ông phải minh định lập trường của mình.
67. Chú giải của Noel Quesson.
BÁNH HẰNG SỐNG
Đức Giêsu đã nói khi giảng dạy trong hội đường, ở Ca-phác-na-um: “Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời... Nghe rồi, nhiều môn đệ của Người liền nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi”.
Chúng ta đã đọc đến đoạn cuối của diễn từ “Bánh hằng sống". Chúng ta sẽ tìm hiểu hiệu quả bài giảng của Đức Giêsu đối với thính giả, qua ngòi bút của một nhân chứng đã đích thân tham dự buổi diễn giảng này. Có hai hiệu quả:
Đó là sự vấp phạm và khước từ của đa số cử tọa.
Nhưng cũng là sự trung thành, khiêm tốn đầy tin cậy của nhóm nhân tố "Mười Hai".
Ở đây chúng ta có chứng tích lịch sử bậc nhất về cuộc sống của Đức Giêsu. Ba thánh sử kia cũng đã ghi lại rõ ràng khúc quanh quan trọng này trong sứ vụ của vị tiên tri làng Nagiaret: Đó là cơn khủng hoảng! Cho tới bây giờ, đám đông đã đi theo và tìm kiếm Người: Ở đây Gioan đã gọi họ là "môn đệ". Nhưng các "môn đệ" này, những người đã bắt đầu đi một đoạn đường với Đức Giêsu, đang từ bỏ Người. Sự mạc khải mầu nhiệm Thánh Thể bắt đầu làm cho đa số thính giả chán ngán vào cuối chương này, chúng ta có thể đếm số môn đệ nhỏ nhoi còn lại.
Tin Mừng đã thẳng thắn không che giấu chúng ta rằng Chúa đã thất bại trong ý định giúp ta hiểu về "bánh" của Người, "Bánh đích thực". Bởi vì nói cho cùng thì ai có thể hơn Đức Giêsu để giải thích cho chúng ta vấn đề này? Hai mươi thế kỷ qua đi, chúng ta vẫn tiếp tục ngạc nhiên khi thấy những con người nam nữ già trẻ từ chối bước theo Đức Giêsu để "nhận lấy mà ăn bánh và cầm lấy mà uống rượu của Người, và như Người tuyên bố thì đó là thịt và máu của Người". Và có thể chúng ta vẫn lên án Giáo Hội về điểm đó: "ôi giá kể Giáo Hội đã không thay đổi nhanh hơn... ôi, nếu Giáo Hội có lập trường như lập trường của tôi".
Thực ra chính "đức tin" là nguyên nhân của sự việc này, chứ không phải là một truyền thống phụng vụ, văn hóa, xã hội nào đó, và Đức Giêsu sẽ nói lại điều này với chúng ta một cách rõ ràng, không chút nhượng bộ.
Nhưng Đức Giêsu tự mình biết được là các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy.
Các bạn thấy không? Đức Giêsu không cần nghe những lời lẩm bẩm đó. Người biết trước, Người không ngạc nhiên, Người đang chờ đợi những lời đó. "Đức tin" khó khăn biết bao! Vì đức tin là "khước từ cách hiểu biết thông thường, nhờ giác quan và lý trí, lý luận" để "tin vào một người khác" đó là "tin mà không thấy", như Thánh Gioan sẽ nói rất nhiều lần.
Người bảo các ông: "Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư?".
Vâng lạy Thầy, điều đó làm chúng con vấp phạm. Và Thầy biết rõ như thế. Từ Hy Lạp là động từ "Scandahzô" Ở đây dịch là vấp phạm, có nghĩa là điều đó làm các ngươi bất bình, các ngươi vấp phải ta như vấp phải một hòn đá chướng ngại. Chúng ta thường có khuynh hướng làm cho đức tin trở thành một thứ giáo huấn. Nếu giảng hay, những người trẻ sẽ đi dự lễ. Họ sẽ hiểu, họ không còn "biết" gì thêm nữa. Nhưng đối với Đức Giêsu, như chúng ta đã thấy đức tin luôn gây đụng chạm! Đức tin không hẳn nhiên là thế? Đức tin luôn luôn cho ta thấy chướng. "Đức tin" không phải là một bài học được lặp đi lặp lại, "nhưng" là một dấn thân trong cuộc sống". Đức tin là một "thực hành có hiệu quả". Đức tin là một sự "thúc hối" phải chấp nhận từ bỏ ánh sáng riêng của mình, được coi là có tính khoa học, để đón nhận mạc khải của một người khác mà không thể kiểm chứng được bằng những phương thế nhân loại. “Tuyên xưng đức tin" thực sự, không phải là đọc kinh Tin kính hay một "công thức" nào hay nhất do bộ óc văn minh của chúng ta, mà là thực hành không gì Chúa đã dạy. Mầu nhiệm trung tâm của đức tin, chắc chắn là Bí tích Thánh Thể. Khi ta nói "Người Kitô hữu là người đi dự lễ", thì ta chưa nói hết. Nhưng ta đã nói một phần nào cốt yếu, nếu ta hiểu Thánh lễ như chúng ta đang cố cử hành với chính Chúa Giêsu. Đức tin đó là một "quyết định". Quyết định này bao gồm hai khía cạnh:
1 “An bánh hằng sống”.
2. "Sống đời mình bằng yêu thương hữu ích".
Thế khi anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?
Làm sao người này có thể cho thịt của mình để chúng ta ăn? Chính vì người này không chỉ là một con người. Đức Giêsu, thay vì rút lại lời khẳng định của mình hay là giải thích hoặc làm giảm nhẹ chúng, Người lại nhấn mạnh bằng cách gợi cho chúng ta một "mầu nhiệm" khác mà mầu nhiệm Thánh Thể chỉ là sự diễn dịch. Chúng ta đang thực sự ở trong đề tài Nhập Thể của Thiên Chúa. "Thần Khí" trở thành xác phàm.
Đây thực là một mầu nhiệm "thần linh" (không ai đã thấy Chúa) và vì thế con người không thể tự sức riêng mà hiểu được. Đức Giêsu ám chỉ rõ ràng "hữu thể thần linh của Người". Người nói Người sẽ trở về nơi mà trước kia Người đã ở. Chúng ta hãy lưu ý tới giọng nói hạch hỏi của Đức Giêsu này. Câu nói của Người hầu như chưa dứt: "Và khi anh em sẽ thấy Con Người lên nơi mà Người đã ở trước thì sao?".
Vâng, xuyên qua sự tối tăm, vẻ tầm thường, sự thân mật nơi thân phận con người hiện tại của Đức Giêsu, cần phải tiến đến sự khám phá vinh quang của Chúa Ba Ngôi. Người ngự bên hữu Đức Chúa Cha, trong sự sống động của Thần Khí, mà Người đã lãnh nhận từ Chúa Cha. "Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai Tôi và Tôi sống nhờ Chúa Cha, thế nào thì kẻ ăn Tôi cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy".
Thực sự chúng ta không biết sự sống là gì: sự sống bình thường của thảo mộc, cũng như động vật, không ai, không một nhà bác học nào đã có thể nói sự sống là gì?
Vậy thì “sự sống" của Thiên Chúa thì sao? Những phương tiện để hiểu biết mà con người có được đều bất lực, không thể giúp hiểu mầu nhiệm này. Người ta không thể giải thích Bí tích Thánh Thể chỉ bằng lý trí con người: Mầu nhiệm này thật vĩ đại, khôn dò, đó là mầu nhiệm đức tin.
Thần khí mới làm cho sống, chứ huyết nhục chẳng có ích gì
Lạy Chúa, xin lặp lại cho con những lời đó. Ước chi những lời này không làm cớ cho con vấp phạm và nghi ngờ.
Những lời Thầy nói với anh em là Thần khí và là sự sống. Nhưng trong anh em có những kẻ không tin. Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người.
Hơn mọi lời khác, lời Chúa, nói về phép Thánh Thể, đã giả định trước tác động của Chúa thánh Thần. Chúng ta thực sự đang ở trung tâm điểm của Tin Mừng. Làm sao có thể giản lược Tin Mừng vào những giải thích luân lý: Đức Giêsu con người vĩ đại nhất, nhà hiền triết, vị ngôn sứ nhà cách mạng, là phong trào xã hội, là giải phóng... tất cả đều đúng, nhưng không phải là bản chất riêng của Chúa. Có một khía cạnh nổi bật khác, không thể thu nhỏ được mà chúng ta gọi là thần linh! Tức là vô hình, vượt trên tất cả. Chúng ta chỉ thấy được một phần nào siêu việt qua con người hữu thể của Người, mà phải mất một chút đoán nhận ra "ngang qua xác thể" nhưng đó vẫn thuộc về trật tự Thần khí và Sự sống.
Người nói: "Vì thế, Thầy đã bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho".
Chúng ta đang ở trong mầu nhiệm sự sống của Thiên Chúa, sự sống của Ba Ngôi. Hình trạng Chúa Ba Ngôi của Rublev đã diễn tả mầu nhiệm này cách kỳ diệu.
Ba nhân vật ngồi chung quanh một “cái bàn" và chỉ dùng một "chén". Tam vị nhất thể được tiếng trưng bằng một vòng tròn mà chu vi bên ngoài của ba ngôi vẽ nên cách ăn khớp tuyệt hảo. Là 3 hình nhưng để tạo nên một vòng duy nhất. Đó là một vòng tròn sống động luôn vận chuyển. Chúa Cha chủ tọa bên kia bàn. Người nhìn bằng cái nhìn tình yêu xuyên suốt trái tim, lồng ngực của Chúa Con. Còn Chúa Con lại nhìn sang Chúa Thánh Thần. Nhưng ta hãy nhìn kỹ dung mạo của Ngôi Ba và cử động bàn tay phải của người: Cả mặt và tay hướng xuống đất! Hình tròn được mở về phía chúng ta là những người đang đứng phía trước bàn, để ngắm nhìn "hình" này. Vâng, sự sống của Ba Ngôi được ban cho chúng ta, tại chiếc bàn này: Thần khí là sự sống được ban cho chúng ta, được dâng tặng cho chúng ta. Thiên Chúa, vì là Tình yêu, nên rõ ràng Người không thể ép buộc ai.
Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa. Nên Đức Giêsu mới hỏi Nhóm Mười Hai: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?".
Dường như Chúa nói': "Tôi không giữ anh em, anh em được tự do”. Trong cuộc xung đột đang xảy ra giữa những "môn đệ ra đi" và những người ở lại với Chúa, trong cuộc xung đột giữa cha mẹ và con cái chẳng hạn... chúng ta hãy nhớ lời của Chúa: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao? “ông Simon Phêrô liền đáp: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai bây giờ? Thầy mới có những lời ban phúc trường sinh, phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa".
Đây là những lời đầy khiêm hạ và đơn thành: "Bỏ Thầy, thì chúng con biết đến với ai bây giờ". Lời nói chứa chan tình yêu và sự phó thác, vì đối với họ, Đức Giêsu là Đấng "không ai có thể thay thế được". Tuy nhiên chúng ta nên ghi nhớ, Nhóm Mười Hai đêm trước đã có một kinh nghiệm có thể soi sáng cho họ: Giữa phép lạ hóa bánh ra nhiều và diễn từ về Bánh hằng sống là thịt của Người các ông đã thấy thân thể đó "bước đi trên mặt nước hồ đang nổi sóng dữ dội trong cơn bão tố" (Ga 6,16-21). Thân thể này không có trọng lượng như chúng ta. Đó là Thánh Thể Đấng Thánh của Thiên Chúa. Tại sao chúng ta lại giới hạn Thiên Chúa vào trong khả năng hiểu biết của chúng ta? Thiên Chúa vượt mọi khả năng của chúng ta. Điều đó thật hiển nhiên!
68. Chú giải của William Barclay.
THẦN KHÍ TỐI QUAN TRỌNG (Ga 6,59-65)
Chúng ta không mấy ngạc nhiên khi thấy các môn đệ cho rằng bài giảng của Chúa Giêsu thật khó lãnh hội. Từ Hy Lạp skleros không có nghĩa là khó hiểu, nhưng có nghĩa là khó chấp nhận. Các môn đệ biết rất rõ Chúa Giêsu tự xưng là sự sống từ Thiên Chúa đến trần gian. Chẳng có ai có thể sống hoặc đối diện với cõi đời đời nếu không tin nhận và tùng phục Ngài.
Đến đây chúng ta gặp một chân lý nổi bật trong mọi thời đại. Nhiều khi người ta khước từ Chúa Kitô vì không đáp ứng nổi tiêu chuẩn đạo đức mà Ngài đòi hỏi, chứ chẳng phải vì không biết Ngài. Khi thành thật suy nghĩ về vấn đề này, chúng ta bắt buộc nhìn nhận lại tâm điểm của mọi tôn giáo đều phải có mầu nhiệm, lý do đơn giản vì trung tâm của mọi tôn giáo đều có Thiên Chúa. Tâm trí loài người chẳng bao giờ hiểu được đầy đủ trọn vẹn về Thiên Chúa. Bất cứ một nhà tư tưởng chân chính nào cũng phải chấp nhận mầu nhiệm.
Chỗ khó thật sự của Kitô giáo gồm hai phương diện: Một là đòi hỏi tùng phục Chúa Kitô, nhận Ngài có quyền uy tối hậu, hai là đòi hỏi tiêu chuẩn đạo đức cao nhất. Các môn đệ vốn hiểu rất rõ Chúa Giêsu tự xưng chính Ngài là sự sống, là thần trí của Thiên Chúa xuống thế gian. Cái khó của họ là chấp nhận điều đó là đúng, với tất cả những gì tiềm ẩn trong đó. Đến nay có nhiều người chấp nhận giáo lý, nhưng có những người lại không theo nổi tiêu chuẩn sống của Ngài.
Cho nên Chúa Giêsu tiếp tục –không nhằm cố gắng chứng minh cho lời tự xưng của Ngài- mà Ngài nói rõ sẽ có ngày các biến cố xảy ra chứng minh điều đó. Ngài nói: “Các ngươi thấy khó tin Ta là bánh, là phần thiết yếu cho sự sống, từ trời xuống. Rồi các ngươi không còn thấy khó tin nữa, khi chứng kiến Ta trở lên trời”.
Đây là lời báo trước sự thăng thiên. Điều đó có nghĩa là Phục Sinh bảo đảm cho tất cả các lời tuyên bố của Ngài. Chúa Giêsu không phải là một người sống cao quý và chết dũng cảm cho một chính nghĩa bị thất bại. Ngài là Đấng mà những lời tự xưng được ứng nghiệm bởi sự kiện Ngài chết rồi sống lại. Chúa Giêsu tiếp tục dạy rằng điều tối quan trọng là quyền ban sự sống của Thần Khí, xác thịt chẳng ích gì cả. Thật đơn giản để hiểu phần nào ý nghĩa của nó – điều quan trọng hơn hết, đó là tinh thần ở trong mọi hành động. Giá trị của bất cứ vật gì là tùy ở mục đích của nó. Nếu chỉ ăn để mà ăn thì chúng ta trở thành kẻ tham ăn, như thế có hại hơn là lợi. Nếu chúng ta ăn để bảo tồn sự sống, để làm việc tốt hơn, để giúp thân thể thích ứng với đỉnh cao nhất của nó thì thức ăn mới có ý nghĩa đích thực. Nếu một người dành thì giờ để chơi thể thao chỉ vì thể thao mà thôi, thì trong phạm vi nào đó anh ta đã phí thời giờ của mình. Nhưng nếu người ấy chơi thể thao để thân thể tráng kiện, nhờ đó, có thể phục vụ Thiên Chúa và loài người đắc lực hơn thì thể thao lại trở thành quan trọng. Mọi điều liên hệ đến xác thịt có giá trị hay không tùy thuộc vào tinh thần nó được thực hiện.
Chúa Giêsu tiếp: “Lời Ta là Thần Khí và là sự sống”. Chỉ một mình Chúa Kitô cho chúng ta biết sự sống là gì, đặt trong chúng ta phần tinh thần hướng dẫn cuộc đời và ban cho chúng ta năng lực để sống cuộc đời ấy. Sự sống có giá trị hay không là tùy chủ đích, mục tiêu nó nhắm tới. Chỉ một mình Chúa Kitô định cho chúng ta mục địch, chủ đích thực của đời sống, và cũng chỉ một mình Ngài ban cho chúng ta năng lực để thực hiện mục đích ấy, chống lại những nghịch cảnh bên ngoài.
Nhưng Chúa Giêsu biết rõ nhiều người không chỉ khước từ suông lời đề nghị của Ngài, mà còn chối bỏ với lòng đố kỵ, thù ghét nữa. Không ai có thể tin nhận Chúa Giêsu trừ phi được Thánh Thần tác động. Nhưng con người cũng có thể chống lại Thánh Thần cho đến ngày cuối cùng. Một người như thế không phải bị Thiên Chúa loại ra, nhưng chính người ấy đã tự loại mình ra.
NHỮNG THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI CHÚA KITÔ (Ga 6,66-71)
Đoạn này được viết theo linh tính về thảm họa sắp xảy ra, vì đây là phần bắt đầu của giai đoạn cuối cùng. Nhiều người kéo đến theo Chúa Giêsu, lúc Ngài dự lễ Vượt Qua tại Giêrusalem. Họ đã thấy các phép lạ Ngài làm và tin danh Ngài, số người kéo đến xin các môn đệ làm phép rửa thì đông, không kể xiết (2,23; 4,1-3). Tại Samari, nhiều việc lớn đã xảy ra (4,1.39.45). Tại Galilê, mới ngày hôm trước dân chúng hãy còn kéo theo Ngài rất đông (6,2), nhưng bây giờ giọng văn mô tả đã thay đổi. Từ nay trở đi, sự oán ghét ngày càng chồng chất cho đến khi đạt đến tột đỉnh là thập giá. Gioan đã hé mở màn cuối của thảm kịch. Chính trong những hoàn cảnh này, người ta mới thấy rõ lòng người và hiểu được bộ mặt thật của họ. Và trong những hoàn cảnh như thế, đã có ba thái độ khác nhau đối với Chúa Giêsu.
1. Có sự bỏ cuộc. Nhiều người quay lưng lại, không đi theo Ngài nữa. Họ bỏ đi vì nhiều lý do. Một số người trong đám đông họ đã thấy rõ Chúa Giêsu đi về đâu. Không thể thách thức giới caầm quyền như Ngài đã làm mà tránh khỏi hậu hoạn. Chúa Giêsu đang đi vào thảm họa và họ đã rút lui kịp thời, họ là hạng người tùy thời. Người ta bảo muốn thử một đạo quân, hãy xem cách đạo quân ấy đánh giặc khi mọi người đều mỏi mệt. Nếu sự nghiệp Chúa Giêsu cứ đi lên, chắc những người kia chưa quay lưng, nhưng ngay khi nhìn thấy bóng thập giá, họ liền bỏ Ngài. Có một số người khác bỏ Chúa vì trốn tránh thách thức của Ngài. Quan điểm cơ bản của họ là theo Chúa để được một cái gì đó, nên khi phải chịu khổ vì Ngài, phải mất một chút gì đó cho Ngài là họ bỏ đi ngay.
Nếu theo Ngài mà thơ mộng, huy hoàng, chắc họ bám sát Ngài, nhưng khi đường đi trở thành khó khăn, theo Ngài đòi hỏi một điều khó làm thì họ bỏ Ngài. Việc họ tìm thầy học đạo hoàn toàn do những động lực ích kỷ. Thật ra chẳng có ai ban cho chúng ta nhiều hơn Chúa Giêsu. Nhưng nếu chúng ta chỉ đến với Ngài nhằm mục đích thu vào chứ chẳng cho ra, chắc chắn chúng ta phải trở lui. Những ai muốn theo Chúa Giêsu phải nhớ đường theo Ngài là thập giá.
2. Có sự suy thoái. Chúng ta thấy điều này nơi Giuđa rõ hơn hết. Chúa Giêsu đã thấy ông là người có thể dùng cho chủ đích của Ngài. Nhưng thay vì trở thành anh hùng, Giuđa lại trở nên tên vô lại, và đáng lẽ là thánh nhưng lại là một tên ô nhục. Câu chuyện của họa sĩ vẽ bức tranh Bữa Tiệc Ly là một kinh nghiệm đáng sợ. Đó là một bức tranh khổng lồ, đòi hỏi họa sĩ phải mất nhiều năm để vẽ. Tìm một người mẫu để vẽ Chúa Giêsu, ông gặp một thanh niên có gương mặt đẹp đẽ, thuần khiết và siêu thoát, ông thuê chàng làm người mẫu. Bức tranh cứ được bổ túc, ông vẽ hết môn đệ này đến môn đệ nọ, một ngày kia, ông cần một người để vẽ Giuđa, mà ông có ý để vẽ sau cùng. Ông đi ra, tìm trong số người hèn hạ nhất trong thành phố, đến cả nơi hang ổ những kẻ xấu xa nhất. Cuối cùng ông gặp được một người, bộ mặt in hằn dấu vết một kẻ trụy lạc vô cùng xấu xa. Ông thuê người này là mẫu. Khi bức tranh hoàn tất, người mẫu nói với họa sĩ: “Trước đây đã có lần ông vẽ tôi rồi”. Họa sĩ đáp: “Chắc chắn là không”. Người nọ bảo: “Ồ có mà, lần trước ông đã vẽ tôi, ông dùng tôi làm mẫu để vẽ Chúa Giêsu”. Năm tháng đã tạo nên sự suy thoái khủng khiếp. Thời gian thật bạo tàn, nó có thể cướp đi những lý tưởng, những hăng say, những mơ ước và sự trung thành của chúng ta, có thể để lại nơi chúng ta một đời sống ngày càng nhỏ nhoi thay vì càng cao đẹp. Nó có thể lưu lại cho chúng ta một tấm lòng đã chai lỳ thay vì được rộng mở trong tình thương của Chúa Giêsu. Cuộc đời có thể làm mất đi vẻ đẹp đáng yêu của chúng ta. Nguyện xin Chúa cứu chúng ta ra khỏi tình trạng đó.
3. Có sự quyết định. Đây là cách Gioan viết lại lời xưng nhận quan trọng của Phêrô tại Xêdarê Philipphê (Mc 8,27; Mt 16,13; Lc 9,18). Chính trong một hoàn cảnh như thế, người ta đã thấy lòng trung thành của Phêrô. Đối với Phêrô, có một điều thật đơn giản là chẳng còn có ai đang cho ông đi theo hơn là Chúa Giêsu. Với ông, chỉ có Ngài mới có lời đem lại sự sống đời đời.
Lòng trung thành của Phêrô căn cứ trên mối liên hệ cá nhân với Chúa Giêsu Kitô. Có nhiều điều Phêrô không hiểu, ông cũng bối rối, lạc lõng như bất cứ ai khác. Nhưng nơi Chúa Giêsu có một cái gì khiến ông sẵn sàng hy sinh tính mạng. Nói cho cùng, Kitô hữu không phải là một triết lý mà chúng ta chấp nhận hoặc một lý thuyết buộc chúng ta phải trung thành. Nó là sự đáp ứng cá nhân với Chúa Giêsu Kitô. Đó là lòng trung thành và tình yêu mà một người hiến dâng, vì tấm lòng người ấy không cho phép người ấy làm gì khác hơn nữa.
69. Vừa vừa thôi chứ.
- Tiếng kêu người ta thốt ra khi không còn kiên nhẫn được nữa
1* Mấy đứa con cái cãi nhau: cha mẹ không còn kiên nhẫn được, nổi giận la rầy: “Vừa vừa thôi chứ” (biểu lộ một phản đối). 2* Một ai đó cảm thấy mình bị tấn công bởi nhiều điều thái quá do kẻ khác gây ra như nói năng, đòi hỏi quá mức “Vừa vừa thôi chứ” (biểu lộ đã tới cùng tận mức chịu đựng rồi) 3* Một ai đó gây ra tiếng ồn quá mức, ta không chịu đựng nổi “Vừa vừa thôi chứ ---- Các môn đệ Chúa “Lời này chướng tai quá”! Các ông bực bội vì các ông coi như bị Chúa tấn công bởi Chúa tuyên bố điều thái quá
Chúa Giêsu đối diện với những hạn chế: Sau diễn từ về Bánh Hằng Sống, trong đó Chúa Giêsu tuyên bố Ngài từ trời mà đến và Ngài ban thịt máu mình làm của ăn. Các môn đệ thấy những lời này không thể chịu nổi. Vì, Chúa Giêsu là con ông Giuse thế mà dám tự xưng mình từ trời xuống. ‘Quá sức chịu đựng, các ông không dám la hét phản đối, nhưng lẩm bẩm chống lại’. Chúa Giêsu đã đẩy họ tới mức tận cùng của sự chịu đựng.
Chúa Giêsu phản ứng thế nào? Có giữ vững lập trường khg? Ngài có làm giảm nhẹ lời nói của mình khg? Thí dụ như bảo họ rằng: họ đã hiểu lầm lời Ngài? Câu trả lời của Chúa Giêsu thật tế nhị: Ngài khg rút lại lời Ngài đã nói nhưng MỜI GỌI CÁC ÔNG ĐI XA HƠN và chỉ cho các ông THÁI ĐỘ CẦN PHẢI CÓ. “Nếu các con thấy Con Người lên nơi Ngài đã ở trước kia thì sao?”. Ngài muốn nói: Khi các con nhìn thấy Ta lên trời lúc đó các con sẽ hiểu rằng Ta từ trời xuống và điều đó sẽ không còn là cớ vấp phạm cho các con nữa. Ngài mời các ông nhìn xa hơn tình hình hiện tại đang thử thách các ông và làm cho các ông vấp ngã. Ngài đưa ra cho các ông cách giải quyết: Đừng xét đoán Ngài theo xác thịt, theo dáng bề ngoài, theo tiêu chuẩn của loài người. Nhưng hãy theo Thần Khí tức là tin vào lời Ngài nói: “Những lời Thầy nói với các con là Thần Khí và là Sự Sống”. Từ nhữg dấu chỉ mà họ nhìn thấy: Phép lạ bánh hoá nhiều, đi trên mặt biển, Chúa thúc các ông tin lời Ngài một cách vô điều kiện. Điều này vượt tầm mức của các ông. Một số quyết định: không theo Ngài nữa. Còn NHÓM MƯỜI HAI: “Các con có muốn bỏ đi khôg?”. Chúa Giêsu không muốn gây áp lực trên nhóm 12 hoặc thu hút lòng thương hại của các ông. Chúa đòi các ông đưa ra một quyết định, một quyết định của ý chí, một sự tuyên xưng. Pet nhân danh nhóm đáp trả một cách vô điều kiện, không giới hạn: MUỐN GẮN BÓ VỚI THẦY. “Bỏ Thầy…”. Câu nói này khẳng định mạnh mẽ sự thán phục của ông đvới Chúa Giêsu: “Chúng con không có ai xứng đáng hơn Thầy để theo cả. Không có sự chọn lựa nào khác. Chỉ nơi Thầy, cuộc đời chúng con mới có ý nghĩa.
Phêrô đưa ra lý do của việc chọn lựa vô điều kiện này: “Lời Chúa Giêsu và căn tính của Chúa Giêsu. 1) Nhóm 12 gắn bó với Chúa vì Chúa mới có những lời ban sự sốg đời đời. Nhữg mdệ bỏ đi vì những lời này quá đòi hỏi và các ông cảm thấy không thể sống nhờ chúng được. Tuân giữ nhữg lời này sẽ thực sự khó mà sống được. Đvới nhóm 12 thì ngược hẳn lại. 2) Nhờ lắng nghe lời Chúa mà các ông nhận ra căn tính của Chúa. Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa. “Về phần chúng con, chúng con tin ….”. ĐỨC TIN đi trước việc HIỂU BIẾT. Các ông TIN ĐỂ HIỂU, trong lúc nhữg người bỏ đi thì muốn HIỂU trước đã, vì họ khôg tin Chúa. Như vậy, nhóm 12 đã nhận ra nơi Chúa Giêsu một con người mà Thiên Chúa đã thánh hoá để thi hành sứ vụ cứu độ nhân loại. Trong lúc nhữg người kia chỉ nhìn thấy nơi Chúa Giêsu là “con ông Giuse mà chúg tôi biết rõ cha mẹ”.
NƠI CHÚNG TA: Chúg ta cũng trải qua những thử thách về đức tin. Cuộc sống mang đến cho chgta thử thách này: thất bại, bệnh tật, bất công, hiểu lầm, nghi kỵ, đói kém, khỗ đau. Thiên Chúa đang làm gì? Chúg ta khg hiểu, chgta bị cám dỗ buông thả. Chúa Giêsu nhắc chúng ta: “Các con có muốn bỏ đi khg? Lúc đó chgta phải đáp trả. Đáp trả ra sao?
Theo gương Chúa Giêsu: “Không theo ý con, nhưng theo ý Cha”. Chta hãy đáp trả theo hướng đó.
70. Chúa Nhật 21 Thường Niên - Lm. Đan Vinh
Câu chuyện: Một vụ thảm sát tại nhà trường
Cách đây ít lâu, một vụ thảm sát ở tiểu ban Côlôrađô Hoa kỳ không những làm người Mỹ, mà còn làm cho cả thế giới phải sửng sốt bàng hoàng. Bàng hoàng vì đây không phải là vụ thảm sát đầu tiên xảy ra như thế tại một trường học ở Mỹ, mà trong mấy năm qua, các vụ bạo động tại trường học đã từng xảy ra nhiều lần. Riêng trong vụ này, hai cậu học sinh trung học đã có thể tính toán trước các chi tiết về diễn tiến của vụ thảm sát này. Một điều tồi tệ hơn nữa là thái độ của hai tên sát nhân: Trước khi bị bắt, hai tên này đã dùng súng tiểu liên điên cuồng bóp cò, nhắm vào các thầy cô giáo trong lớp và các bạn học sinh cùng trường. Bọn chúng đã tỏ ra lạnh lùng, dửng dưng trước thảm trạng chết chóc do chúng gây ra.
Suy niệm:
+ Trong bức thư chung Mùa Chay năm 1994, Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đã lên tiếng báo động về một nền văn hoá bạo động kích dục, được khuyến khích bằng các phương tiện truyền thông như các phim ảnh đồi trụy kích động bạo lực, được trình chiếu trên các kênh truyền hình, các băng đĩa và sách báo khiêu dâm bày bán công khai tại các nơi công cộng mà giới thanh thiếu niên dễ dàng mua ở bất cứ nơi nào trên đất Mỹ. Quả thật, nhân loại ngày nay đang đứng trước nguy cơ diệt vong, khi họ chọn lựa phương pháp một cuộc chiến tranh bạo động vì thiếu lòng khoan dung tha thứ. Thay vì phải ngồi vào bàn hội nghị để thương thảo bình tĩnh ôn hoà, thì người ta lại thích sử dụng bạo lực để giải quyết các mâu thuẫn và tranh chấp về tài sản, đất đai... do sự khác biệt nhau về trình độ văn hoá, về sắc tộc, màu da, giai cấp hay tôn giáo...
+ Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta về sự khủng hoảng đức tin, không những nơi các môn đệ Chúa thời xưa, mà ngay cả nơi các tín hữu chúng ta hôm nay. Nhiều môn đệ Chúa đã bị giao động đức tin, trở nên nghi ngờ Đức Giêsu khi nghe Người giảng về bản thể Thần Linh của Người: "Đấng từ Trời mà xuống" (x Ga 6,38), và sẽ lên nơi đã ở trước kia (x Ga 6,62), sau khi đã chịu chết đền tội thay cho nhân loại (x Ga 6,51), và sẽ ban Bánh Trường Sinh là máu Thịt Người để nuôi dưỡng đức tin của chúng ta (x Ga 6,53). Một số khá đông các môn đệ Chúa đã xì xầm phản đối: "Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?" và đã rút lui không đi theo Người nữa. Họ là những người trước đó đã đi theo Thầy một thời gian, trở thành Môn Đệ của Người. Nhưng khi gặp khủng hoảng, họ đã ngã lòng và bỏ cuộc nửa chừng. Sự khủng hoảng đức tin thể hiện qua thái độ thiếu dứt khoát, chọn làm điều xấu hơn là điều tốt, lười biếng trong công tác phục vụ công ích, làm ngơ trước những người nghèo khổ bất hạnh, những người thấp cổ bé miệng và cô thế cô thân...
+ Nguyên việc chịu phép Rửa tội để trở nên tín hữu hay môn đệ Đức Giêsu cũng không đảm bảo là ta sẽ trung thành với Chúa mãi mãi. Muốn trung thành với niềm tin của mình thì trước hết phải tìm kiếm Đức Kitô, và để Người dẫn ta đi sâu vào mầu nhiệm Khổ Nạn và Phục Sinh của Người. Đã có nhiều môn đệ Đức Kitô bị khủng hoảng đức tin khi họ không tin Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, không tin nhận lời dạy của Người liên quan đến mầu nhiệm Thánh Thể, và cuối cùng đã không theo làm môn đệ của Người. Ngay trong Nhóm Mười Hai Tông Đồ chấp nhận ở lại, vẫn còn một Giuđa phản bội: Vì không tin Thầy là Đấng Thiên Sai theo quan niệm trần gian và nhất là cảm thấy nguy cơ Thầy sắp thất bại hoàn toàn: sắp sửa bị bắt và chịu khổ nạn như đã tiên báo, nên anh ta đã chọn thái độ khôn ngoan theo thế gian, là bí mật liên lạc với các đầu mục Do Thái để bán nộp Thầy! Làm như vậy, Giuđa vừa có lợi là có ba mươi quan tiền, lại vừa tránh khỏi bị bắt chung với Thầy!
Đặt vấn đề: Còn chúng ta, hôm nay chúng ta phải làm gì để đức tin của chúng ta được củng cố vững chắc và ngày một lớn lên? Nhờ đức tin, chúng ta có quyết tâm trung thành với Đức Giêsu và bước theo chân Người, cùng chịu đau khổ và chịu chết với Người, hy vọng sẽ được phục sinh với Người đời sau hay không?
Đáp: Muốn cho đức tin vào Đức Giêsu được củng cố và lớn lên, mỗi người chúng ta phải thực hành mấy điều sau: Một là phải cầu xin Chúa ban ơn có đức tin vững mạnh, noi gương các Tông Đồ xưa đã cầu nguyện: "Xin Thầy hãy củng cố đức tin yếu kém của chúng con"; Hai là lắng nghe Lời Chúa, suy nghĩ tìm hiểu ý Chúa và quyết tâm thực thi ý Chúa; ba là sẵn sàng từ bỏ ý riêng, vác thập giá mình là chu toàn bổn phận hằng ngày mà theo chân Chúa; Bốn là luôn chọn đi theo đường hẹp, leo dốc là chặng đàng Thánh Giá, chấp nhận hy sinh và âm thầm phục vụ tha nhân, quảng đại chia sẻ tình thương, cụ thể là giúp đỡ tinh thần vật chất cho những người đói khát cơm ăn áo mặc, bị tật bệnh và cô thế cô thân...
Câu chuyện: Dân Ítraen chọn tin theo Đức Chúa:
Bài đọc một trong sách Gio-su-ê là một bản tường thuật với nhiều ý nghĩa quan trọng. Vào khoảng năm 1200 trước Công Nguyên, Dân Do Thái đã được Môsê đưa dẫn qua sa mạc và đã đến bờ sông Giôđan, giáp ranh giới xứ Ca-na-an là Miền Đất Thiên Chúa đã hứa ban cho Ap-ram và dòng dõi ông đến muôn đời. Sau đó, Môsê trao quyền cho Gio-suê lãnh đạo dân tiếp tục đánh chiếm xứ chiếm xứ Ca-na-an. Được Đức Chúa ban ơn hổ trợ, dân Ítraen đã chiếm được miền đất này. Cuối cùng, Gio-su-ê đã triệu tập các chi tộc Ítraen và các đầu mục trong một Đại Hội tại Si-khem. Ong cho dân được tự do chọn lựa: Hoặc là tôn thờ yêu mến Một Đức Chúa duy nhất; Hoặc tin theo các tà thần của chư dân. Dân được tự do chấp nhận hay từ chối Lề Luật; Được chọn trung thành hay chống lại Giao Ước mà họ đã ký với Đức Chúa tại núi Khô-rép vùng Si-nai... Bấy giờ toàn dân thưa lại rằng: "Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác! Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai Cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc mà chúng tôi đi ngang qua. Đức Chúa đã đuổi cho khuất mắt chúng tôi mọi dân tộc cũng như người E-mo-ri" (x. Gs 24,16-18).
Suy niệm:
+ Như dân Ítraen xưa, hôm nay các tín hữu chúng ta cũng có tự do lựa chọn khi chịu phép Thánh Tẩy. Bấy giờ, vị Chủ Lễ hỏi các dự tòng rằng: "Anh chị em có từ bỏ ma quỉ không? Có tin vào Thiên Chúa toàn năng không?...Với lời tuyên bố từ bỏ ma quỉ, tuyên xưng đức tin vào mọi chân lý mà Giáo Hội dạy trong kinh tin kính, các dự tòng sẽ được đổ nước trên đầu hoặc được bước vào giếng dìm mình trong nước Rửa Tội, như xưa dân Do Thái đã vượt qua nước sông Giôđan để vào Đất Hứa là xứ Ca-na-an.
+ Trong đời sống thường ngày, cũng như dân Ítraen xưa, các tín hữu chúng ta cần năng nhắc lại lễ Giao Ước với Thiên Chúa và cần xác tín khi thưa với Chúa rằng: "Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Đức Chúa, mà tôn thờ các tà thần của dân ngoại". Sự lựa chọn này đòi hỏi dân Ítraen phải hồi tâm sám hối không ngừng.
+ Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đòi Nhóm Mười Hai Tông Đồ phải dứt khoát lập trường đối với mầu nhiệm Thánh Thể: "Thịt Tôi thật là của ăn và máu Tôi thật là của uống!". Phêrô đã đại diện anh em tuyên xưng đức tin vào Người như sau: "Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa". Phêrô xác tín như vậy không phải vì ông đã hiểu được lời giảng của Thầy, nhưng vì ông đã tin vào con người của Thầy. Ong tin Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa, Đấng đã cho dân ăn no nê, Đấng đã từng đi trên mặt biển. Chính nhờ có lòng tin này mà Phêrô và các bạn trong Nhóm Mười Hai đã chấp nhận cả những Lời chướng tai, vì tin rằng Lời ấy sẽ đem lại hiệu quả là sự sống đời đời.
Quyết tâm: Nhiều người trong chúng ta hôm nay cũng rơi vào tình trạng buồn sầu cô đơn, nhưng lại không biết chạy đến với ai để được giúp đỡ cụ thể. Qua bài Tin Mừng hôm nay, thánh Phêrô đã làm gương và chỉ dạy chúng ta là: hãy dứt khoát lựa chọn làm môn đệ Đức Giêsu, để được người nâng đỡ, ủi an và bổ sức cho. Vì "Chỉ mình Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời" (Ga 6,68). Nhất là các bạn trẻ, các bạn hãy đến gặp gỡ Đức Giêsu và ở lại bên Người. Chắc chắn Người sẽ không để chúng ta phải thất vọng hổ ngươi bao giờ. Hãy đặt trọn niềm tin vào Chúa. Hãy dâng cho Chúa tất cả những khó khăn của cuộc sống, và xin Người soi sáng mở lòng cho biết ta phải làm gì trong từng hoàn cảnh cụ thể? Mỗi lần không biết mình phải làm gì, bạn hãy mở Kinh Thánh và chắc sẽ tìm thấy lời Chúa dạy dỗ ta phải làm gì?
HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa Giêsu. Khi Chúa làm phép lạ nhân bánh ra nhiều nuôi sống phần xác thì dân chúng lũ lượt rủ nhau đi theo Chúa. Nhưng Chúa đến trần gian đâu phải chỉ để giải quyết vấn đề cơm bánh thể xác, mà để "ban ơn cứu rỗi chúng con", giúp chúng con khỏi những bất hạnh và đau khổ do ma quỷ và tội lỗi gây ra. Chúa có ban bánh và cá nuôi sống thể xác thì cũng chỉ là để có dịp mời gọi chúng con đến lãnh nhận Bánh Trường Sinh là Thánh Thể nuôi dưỡng linh hồn chúng con.
Lạy Chúa Giêsu, dân Do Thái xưa theo Chúa khi được ban bánh nuôi xác, và đã bỏ Chúa khi Chúa hứa ban cho họ Bánh Hằng Sống nuôi sống linh hồn. Lạy Chúa, loài người chúng con là như thế đó: tìm kiếm thoả mãn cái đói thể xác bao nhiêu, thì lại dửng dưng coi thường sự thiếu thốn tinh thần bấy nhiêu. Hôm nay xin Chúa giúp con sẵn sàng từ bỏ những đam mê tội lỗi, những quyến luyến đối với của cải vật chất ở đời này, để nhìn lên Chúa, nhận ra những giá trị của những của cải thiêng liêng đời sau, để con luôn chọn theo Chúa, sống lời dạy của Chúa, dù lời đó khó nghe, không đáp ứng những ước mong đời thường trong con, để con thực sự trở thành môn đệ của Chúa.
X. Hiệp cùng Mẹ Maria.
Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con
2) Lạy Mẹ Maria, trong việc thực thi đức tin, con thấy mình còn rất nhiều sai sót trên con đường theo làm môn đệ của Chúa: Khi cầu nguyện, con hay xin Mẹ và các thánh cầu bầu cùng Chúa ban cho chúng con giải quyết những khó khăn trong chuyện làm ăn sinh sống như: Xin được buôn may bán đắt, xin có công ăn việc làm, xin thi đậu, xin được khỏi bệnh... Chẳng mấy khi con cầu xin những ơn phần hồn như xin chừa các thói hư tật xấu, xin cho các tội nhân được sớm ăn năn trở về cùng Chúa, xin cho gia đình được hoà thuận thương yêu nhau, xin cho Nước Cha mau trị đến trên quê hương con...
Lạy Mẹ Maria, nhiều lần khi cầu xin mà chưa được Chúa nhậm lời, con thường nản lòng thất vọng, bỏ đi dự lễ, chẳng còn tin vào Chúa nữa. Bấy giờ con dễ dàng làm theo lời mách bảo của người khác, để đến với thầy bói, thầy bùa ngải, đồng cốt và làm những điều mê tín khác... Lạy Mẹ, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa đã ngán ngẩm trước thái độ theo Chúa chỉ vì vụ lợi của đám đông dân chúng và các môn đệ: Theo Chúa khi được ăn bánh no nê và thất vọng bỏ Chúa ra đi khi không được toại ý. Có lẽ hôm nay Chúa cũng đang ngán ngẩm khi thấy con chỉ bận tâm tìm kiếm của ăn phần xác, còn phần hồn là điều Chúa quan tâm thì con lại dửng dưng hững hờ. Vậy xin Mẹ giúp con biết: Ưu tiên tìm kiến Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn mọi sự khác như ăn gì mặc gì thì tin tưởng Chúa sẽ thêm cho.
X. Hiệp cùng Mẹ Maria.
Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.
71. Suy niệm của Lm. Đan Vinh
Chọn tin và sống theo Lời Chúa về bí tích Thánh Thể
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Sau khi nghe Đức Giê-su giảng về Bánh Hằng Sống, là bí tích Thánh Thể mà Người sẽ ban, thì thính giả chia thành hai phe: Một số khá đông, trong đó có cả các môn đệ của Người, cho rằng lời ấy chói tai, không thể chấp nhận được và đã bỏ không còn đi theo Người nữa (c. 66). Riêng Nhóm 12, khi được hỏi ông Si-mon Phê-rô đã đại diện Nhóm tuyên xưng đức tin: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời” (c. 68).
CHÚ THÍCH:
- C 54a.60: + Ai ăn Thịt Tôi và uống Máu Tôi thì được sống muôn đời: “Thịt và Máu” Đức Giê-su là Bánh Thánh Thể sẽ được Người ban trong bữa tiệc Vượt Qua (x Mt 26,26). Do đó Thịt và Máu Đức Giê-su nói đây chính là Thánh Thể của Người, sẽ trải qua cuộc khổ nạn và phục sinh, như một hy lễ đền tội để ban sự sống cho trần gian. + Nhiều môn đệ của Người: Môn đệ là những người nhận Đức Giê-su làm Thầy (Ráp-bi), nghe và thực hành Lời Chúa, tích cực cộng tác với Người thi hành sứ vụ tông đồ. Đức Giê-su có hai nhóm môn đệ là nhóm bảy mươi hai (x. Lc 10,1) và Nhóm mười hai (x Ga 6,66). + “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?”: Khi nghe Đức Giê-su nói sẽ lấy Thịt Máu mình cho người ta ăn uống, thì các môn đệ cũng như đám đông dân Do Thái không chấp nhận. Phần vì không ai xẻ thịt mình ra cho người khác ăn, hay lấy máu mình cho người khác uống! Đàng khác, Luật Mô-sê cấm ăn máu huyết, vì máu được coi là sinh khí tụ lại, được dành riêng cho chủ tể của sự sống là Đức Chúa như Luật Mô-sê: “Các ngươi không được ăn máu huyết của bất cứ xác thịt nào, vì mạng sống của mọi xác thịt là máu của nó. Bất cứ ai ăn máu huyết sẽ bị khai trừ” (x. Lv 17,14).
- C 61-62: + Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư?: Ba điều người Do Thái và môn đệ xầm xì không chấp nhận: Một là Đức Giê-su tự nhận mình là Bánh hằng sống, đang khi cha ông họ xưa dù đã ăn Man-na mà vẫn phải chết (x. Ga 6,49). Hai là Người tuyên bố mình từ trời mà đến, đang khi họ biết rõ tông tích của Người (x Ga 6,42). Ba là Người khẳng định: “Thịt Tôi thật là của ăn và Máu Tôi thật là của uống” (Ga 6,55), đang khi luật Mô-sê cấm uống máu và ăn thịt các con vật chết ngạt, vì còn có máu trong thịt (x. Lv 17,10). + Thế thì anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?: Đức Giê-su cho các môn đệ bằng chứng để tin Người là Đấng Thiên Sai và tin lời Người giảng là sự thật. Bằng chứng ấy là Người sẽ từ cõi chết sống lại và lên trời ngự bên hữu Chúa Cha (x. Ga 3,13), như thị kiến về vai trò và sứ mệnh của Con Người trong sách Ngôn Sứ Đa-ni-en (x. Đn 7,13).
- C 63-64): + Thần khí: Là một từ ngữ mang nhiều ý nghĩa như sau: Một là gió, với đặc tính vô hình (x Ga 3,8). Gió có khi trở thành bão để Đức Chúa trút cơn lôi đình hủy diệt những kẻ gian ác (x. Ed 13,13). Hai là hơi thở: Tuy yếu ớt, nhưng lại là sức mạnh nâng đỡ và là điều kiện giúp thân xác sống động. Con người sẽ chết khi không còn hơi thở do Thiên Chúa phú ban (x. St 2,7; 6,3). Ba là linh hồn: Bao lâu Thần khí còn ở với con người, nó biến xác thịt bất động thành sống động, Thần Khí ấy gọi là linh hồn (x. St 2,7). Chết là khi con người trút hơi thở trả linh hồn về cho Thiên Chúa (x. Tv 31,6; Lc 23,46). Bốn là một đặc tình của Thiên Chúa: “Thiên Chúa là Thần Khí” (Ga 4,24) nên người ta phải thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí và Sự Thật (x. Ga 4,24). + Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì!: Việc tạo dựng con người đã được sách Sáng Thế thuật lại như sau: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật” (St 2,7). Như vậy xác thịt chỉ là bụi đất, không thể sống động nếu không được Thiiên Chúa phú ban thần khí là linh hồn. Chính thần khí ấy mới làm cho con người sống động. Khi thân xác ngừng thở là lúc thần khí xuất ra khỏi thân xác, và khi ấy thân xác trở thành xác chết, nên chẳng còn ích gì! + Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là Sự Sống: Lời Chúa chính là Thần Khí thiêng liêng, là Lời phát xuất từ Thiên Chúa, nhằm mặc khải các mầu nhiệm và các việc làm của Thiên Chúa cho loài người (x. Xh 20,2), các giới răn và các điều sắp xảy đến (x. St 15,13-16). Lời Chúa sẽ ban Sự Sống đời đời cho con người (x. Ga 6,68), nếu họ biết lắng nghe (x. Mt 13,23), tìm hiểu và xin vâng (x. Lc 1,34.38), tuân giữ (x. Lc 8,15), và nhất là đem ra thực hành (x. Lc 6,47.49). + Ngay từ đầu, Đức Giê-su đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người: Ngay từ đầu, Đức Giê-su đã có cái nhìn tiên tri và thấy trước sự bất tín của Giu-đa (x. Mt 26,14-16). Tin mừng Gio-an viết như sau: “Người biết ai sẽ nộp Người, nên mới nói “Không phải tất cả anh em đều sạch” (Ga 13,11).
- C 65-66: + Không ai đến với Thầy được nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho: Đức tin là một ơn do Thiên Chúa ban cho loài người, để họ tin Đức Giê-su là “Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa Hằng Sống” (x. Mt 16,16), lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy để được vào Nước Trời và sẽ được sống muôn đời (x Ga 6,44.47). + Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa: Lý do nhiều môn đệ bỏ Đức Giê-su là do họ không tin Người là Đấng Thiên Sai (x. Ga 6,29.40), không tin Người là Bánh Trường Sinh từ trời mà đến (x. Ga 6,32-38), không chấp nhận lời tuyên bố Người sẽ lấy Thịt mình cho họ ăn (x. Ga 6,52). + Nhóm Mười Hai: Đức Giê-su đã lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn (x. Mc 3,13) Sau khi cầu nguyện suốt đêm, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ (x. Lc 6,12-13). Nhóm Mười Hai này tượng trưng cho mười hai chi tộc dân Ít-ra-en Mới là Hội Thánh. Sau này các ông sẽ được ngồi trên mười hai tòa, mà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en (x. Mt 19,28). Các ông sẽ được sự sống đời đời (x Mt 19,29), được “quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 10,1; Lc 9,1), “Người sai các ông đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân” (Lc 9,2).
- C 67-69: + Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?: Trước mặc khải về bí tích Thánh Thể, Đức Giê-su đòi Nhóm Mười Hai phải tỏ thái độ dứt khoát: Tin hay không tin, thể hiện qua việc tự do chọn ở lại với Thầy hay bỏ đi. + Ông Si-mon Phê-rô liền đáp: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời”: Dù chưa hiểu hết ý nghĩa của Lời Chúa, nhưng Si-mon vẫn đại diện Nhóm 12 chọn ở lại làm môn đệ Thầy và khẳng định niềm tin Lời Thầy là sự thật và sẽ mang lại sự sống đời đời cho những ai đón nhận (x. Ga 5,24). + “Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”: Trước đó, Si-mon đã tuyên xưng: “Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Ở đây, Si-mon lại công nhận Đức Giê-su là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (x Ga 6,69) giống như sứ thần Gap-ri-en khi truyền tin đã cho Đức Ma-ri-a biết về trẻ Giê-su như sau: “Vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ là thánh, sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35).
5. CÂU HỎI: 1) Tại sao dân Do thái và một số khá đông môn đệ đã bỏ không đi theo Đức Giê-su nữa? 2) Môn đệ là những ai và Đức Giê-su có bao nhiêu môn đệ? Tông đồ là ai và khác với môn đệ thế nào? 3) Người Do thái và các môn đệ lấy làm gai chướng không chấp nhận ba điều nào của Đức Giê-su? 4) Đức Giê-su đưa ra bằng chứng nào cho thấy Người có quyền nói ra những điều mầu nhiệm ấy? 5) Trong Kinh thánh, thần khí mang bốn ý nghĩa nào? 6) Đức Giê-su đã nói gì về thần khí và xác thịt nơi mỗi con người? 7) Tại sao Đức Giê-su lại nói Lời Người chính là Thần khí và là Sự sống? 8) Đức Giê-su biết rõ ai trong Nhóm Mười Hai là người không tin và sẽ phản nộp Người? 9) Đức Giê-su chó biết đức Tin phát xuất từ đâu? Ta phải làm gì để giúp người khác tin vào các mầu nhiệm được mặc khải? 10) Lý do nào khiến nhiều môn đệ đã bỏ không còn theo Đức Giê-su? 11) Nhóm 12 Tông đồ do Đức Giê-su tuyển chọn từ Nhóm nào? Nhóm Tông đồ được Người hứa ban các quyền lợi nào và phải chu toàn sứ mệnh gì? 12) Si-mon Phê-rô đại diện Nhóm Mười Hai trả lời thế nào khi được Đức Giê-su hòi có muốn bỏ đi hay không? Ý nghĩa của câu trả lời đó thế nào? 13) Si-mon đã tuyên xưng Đức Giê-su là ai?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Ông Si-mon Phê-rô liền đáp: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (x. Ga 6,68):
2. CÂU CHUYỆN:
1) Dân Ítraen đã chọn tin vào Đức Chúa và tuân giữ lề luật của Ngài:
Bài đọc một trong sách Gio-su-ê là một bản tường thuật mang nhiều ý nghĩa quan trọng.
- Vào khoảng năm 1200 trước Công Nguyên, con cháu Gia-cóp đã được Mô-sê cứu khỏi ách nô lệ cho người Ai Cập để vào sa mạc tiến về hứa địa. Họ đã được Đức Chúa thanh luyện từ một dòng tộc con cháu Gia-cóp trở thành một dân tộc Ít-ra-en, ký kết giao ước với Đức Chúa.
- Sau 40 năm lưu lạc trong hoang địa, dân Ít-ra-en đã đến được sông Giô-đan, giáp ranh xứ Ca-na-an; Đây là Hứa Địa, được Đức Chúa hứa ban cho Áp-ra-ham và dòng dõi đến muôn đời. Mô-sê trao cho Gio-su-ê quyền lãnh đạo dân Chúa để đánh chiếm lại Hứa Địa Ca-na-an. Được Đức Chúa hỗ trợ, dân Ít-ra-en đã chinh phục được các dân địa phương và chiếm được Hứa Địa.
- Cuối cùng, Gio-su-ê đã triệu tập các chi tộc Ít-ra-en và các đầu mục trong Đại Hội tại Si-khem. Ông cho dân Ít-ra-en tự do chọn lựa: Hoặc là tôn thờ Một Đức Chúa duy nhất, hoặc tin theo các tà thần của chư dân. Dân cũng được tự do chấp nhận hay từ chối Lề Luật, được chọn trung thành hay chống lại Giao Ước mà họ đã ký với Đức Chúa tại núi Khô-rép miền Si-nai...
- Bấy giờ toàn dân thưa lại rằng: “Chúng tôi không hề có ý lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác! Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai-Cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc mà chúng tôi đi ngang qua. Đức Chúa đã đuổi cho khuất mắt chúng tôi mọi dân tộc cũng như người E-mo-ri” (x Gs 24,14-28).
2) Sẵn sàng chấp nhận cái chết để bày tỏ lòng trung thành với đức tin:
Thời vua Ga-liên bách hại đạo, trong quân đội Rôma có một sĩ quan xuất sắc lừng danh là MA-RANH, bách chiến bách thắng. Ai cũng biết Ma-ranh sắp được thăng đại tướng và chính ông cũng nghĩ như thế. Nhưng Ma-ranh là một người Công giáo có đức tin vững mạnh. Ông luôn xin Chúa ban ơn trung thành với đức tin khi chịu phép rửa tội. Lúc đó, có một viên đại tướng của quân đội Rô-ma bị chết bất ưng. Hôm sau, vị toàn quyền cho mời Ma-ranh đến và nói: "Tôi vừa được lệnh nhà vua để gọi ngài lên chức đại tướng, và tôi được hân hạnh trao quyền tổng chỉ huy cho ngài, nhưng có người cho biết ngài là người Công giáo, mà nhà vua thì không muốn để bất cứ người Công giáo nào trong hàng ngũ sĩ quan quân đội hoàng gia. Vậy xin ngài cho biết ngài có phải là người Công giáo không?". Ma-ranh đã khẳng định: "Thưa ngài, đúng thế, tôi là người Công giáo". Viên toàn quyền nghiêm nghị nói: "Tôi cho ngài ba tiếng đồng hồ để nghĩ lại, nếu chối Giê-su thì ngài sẽ làm đại tướng. Bằng không ngài sẽ phải chết". Ma-ranh ra về, đến gặp vị giám mục và kể lại đầu đuôi câu chuyện. Vị giám mục cầm tay Ma-ranh đưa vào nhà thờ, dẫn lên cung thánh, là chính nơi ngày xưa Ma-ranh đã thề trọn đời trung thành với Chúa Ki-tô. Rồi vị giám mục rút thanh gươm bên hông của Ma-ranh đặt bên cạnh sách Tin Mừng trên bàn thờ và nói: "Này Ma-ranh, dễ giải quyết lắm, ông phải chọn một trong hai. Xin ông nhớ lại ngày rửa tội, rồi tùy ý ông quyết định". Ma-ranh can đảm chọn cầm sách Tin Mừng và nói: "Con xin thề trung thành với Chúa". Vị giám mục âu yếm nhìn Ma-ranh và nói: Con hãy đi bình an, ngày hôm nay sẽ là ngày vinh quang của đời con, ngày hôm nay là ngày con đại thắng". Và hôm đó, Ma-ranh đã bị đổ máu vì đức tin Công giáo.
Trong cuộc sống, có thể chúng ta không phải lựa chọn như ông Ma-ranh hay không bị bách hại như các vị tử đạo, nhưng rất có thể chúng ta phải chọn giữa nhiều thử thách, đòi chúng ta phải sống ngay thẳng, công bình, bác ái. Xin Mình Thánh Chúa mà chúng ta rước lấy, tăng thêm sức mạnh để chúng ta vượt qua những khó khăn thử thách ở đời này, nhất là về đức tin.
3) Gương tín thác và vâng lời Cha:
Ngày xưa có một ông vua, ông có hai người con. Ông muốn thử xem con nào là đứa con khôn để ông trao lại quyền cai trị của ông sau khi ông qua đời. Ông lấy một viên kim cương thật quí gói trong một chiếc túi giấy xấu - còn viên kim cương giả bằng thủy tinh thì ông bỏ vào một cái hộp trang trí rực rỡ. Sau đó ông cho gọi 2 đứa con lại. Ông cho người con cả chọn trước, cậu con cả nhìn hai gói, thấy túi giấy xấu nên đã bỏ qua và chọn cái hộp đẹp.
Sau đó đến phiên người con út. Anh ta quan sát hai món đồ. Sau một phút suy nghĩ anh nhìn cha và nói: “Thưa cha, xin cha lựa giúp con”. Và đức vua đã tìm ra người sẽ kế vị mình. Sau đó đức vua đã truyền mở gói quà được bọc trong túi giấy xấu ra khiến mọi người đều ngỡ ngàng. Sau đó đức vua truyền cho thợ kim hoàn thiết kế một mũ triều thiên thật đẹp và viên kim cương thật đã được đính lên mũ triều thiên đó. Rồi đức vua cho chiếc triều thiên này vào một chiếc hộp bằng vàng đẹp hơn chiếc hộp kia ngàn lần. Cuối cùng đức vua đã tuyên bố với thần dân rằng: “Mai sau con út trẫm sẽ lên nối ngôi trẫm và trong ngày đăng quang sẽ đội chiếc vương miện quý giá này”. Sở dĩ người em được chọn vì anh ta đã biết tín thác vào cha và luôn làm theo ý cha.
4) Phép lạ Bí tích Thánh Thể ở Lanxianô:
Năm 700, tại tu viện Thánh Lou-gi-no ở Lan-xi-a-nô bên I-ta-li-a, có một linh mục tên là BA-SI-LI-Ô hoài nghi về mầu nhiệm Chúa Giê-su hiện diện thực sự dưới hình bánh rượu sau lời truyền phép trong thánh lễ. Chúa Giê-su Thánh Thể đã làm một phép lạ lớn lao còn lưu truyền đến ngày nay, như một bằng chứng hùng hồn về bí tích Thánh Thể. Đó là phép lạ LAN-XI-A-NÔ. Hôm ấy sau khi linh mục Ba-si-li-ô đọc lời truyền phép trong thánh lễ, tấm bánh miến liền biến thành Thịt Chúa và rượu nho trong chén thánh liền biến thành Máu Chúa Giê-su Vào năm 1713. Từ đó đến nay Thịt Máu Chúa vẫn luôn tồn tại. Thịt Máu Chúa đã được lưu giữ trong một chiếc Hào Quang quí giá gọi là Hào Quang Thánh Thể Lan-xi-a-nô. Đến năm 1971, tòa thánh đã cho phép các nhà khoa học được xét nghiệm phép lạ này. Kết quả xét nghiệm cho thấy Thịt đó là một thớ thịt trái tim, và Máu đó là máu người nhóm AB. Nên nhớ vết máu trên chiếc khăn liệm thành Tu-ri-nô cũng thuộc về nhóm máu AB. Ngày nay, Thịt và Máu Chúa tiếp tục được lưu giữ trong nhà tạm tại nhà thờ thánh Phan-xi-cô, một trung tâm hành hương nổi tiếng của thế giới.
Trong Tin Mừng hôm nay, sở dĩ nhóm môn đệ thứ nhất đã bỏ đi không còn theo Thầy vì chỉ nghĩ đến bản thân: “Sao ông này lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn?”(Ga 6,52), đang khi nhóm Tông Đồ chỉ nghĩ đến Chúa qua lời tông đồ Phê-rô: “Bỏ Thầy chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68).
3. THẢO LUẬN: 1) Người ta thường bị khủng hoảng đức tin là do những nguyên nhân nào? 2) Một tín hữu bị khủng hoảng về đức Tin sẽ biểu lộ qua những thái độ và hành vi nào? 3) Chúng ta phải làm gì để giúp một người đang bị khủng hoảng đức Tin sớm lấy lại đức Tin vào Chúa và Hội Thánh?
4. SUY NIỆM:
1) Tự do chọn “tin hay không tin”:
Như dân Ít-ra-en xưa, ngày nay mỗi tín hữu chúng ta cũng có quyền tự do chọn tin hay không tin vào Đức Giê-su để đức tin có giá trị giúp đón nhận ơn cứu độ của Chúa. Khi chịu phép Thánh Tẩy, các dự tòng cũng phải công khai chọn thái độ từ bỏ ma quỉ tội lỗi và tuyên xưng đức tin vào các chân lý đức tin như Hội Thánh dạy, trước khi được chủ sự đổ nước trên đầu hoặc dìm mình họ trong giếng nước rửa tội để được Thánh Thần tái sinh làm con Thiên Chúa.
Trong đời sống thường ngày, các tín hữu chúng ta cũng cần khẳng định đức tin như dân Ít-ra-en xưa đã khẳng định niềm tin vào Đức Chúa: “Không thể có chuyện chúng tôi bỏ Đức Chúa, mà tôn thờ các tà thần của dân ngoại”. Sự chọn lựa tin theo Chúa đòi các tín hữu chúng ta không ngừng hồi tâm sám hối để thanh luyện đức tin của mình.
2) Cần dứt khoát chọn tin theo Chúa:
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su cũng đòi Nhóm Mười Hai Tông đồ phải dứt khoát chọn tin hay không khi đối diện với bí tích Thánh Thể do Người thiết lập: “Thịt Tôi thật là của ăn và Máu Tôi thật là của uống!”. Khi nghe mầu nhiệm này, nhiều môn đệ đã phản đối và rút lui không còn đi theo Người nữa. Riêng ông Phê-rô khi được Thầy hỏi, đã đại diện Nhóm Mười Hai tông đồ tuyên xưng đức tin: “Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng: Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Qua câu này, ông Phê-rô đã mạnh dạn tuyên xưng đức tin dù ông chưa hiểu rõ nội dung mầu nhiệm bí tích Thánh Thể Thầy vừa mặc khải. Ông tin vì dựa vào Lời Thầy và vào thế giá của Thầy.
Hôm nay, Chúa Giê-su cũng đòi chúng ta khẳng định lập trường tin Chúa hay không? Chúng ta có chọn ở lại với Thầy đang khi nhiều bạn bè khác bỏ Chúa qua việc không đến nhà thờ dự lễ Chúa Nhật, hành xử theo ý riêng mình chứ không theo Lời Chúa và lề luật Hội Thánh? Chúng ta có trung thành chọn làm điều tốt trong khi đại đa số bạn bè chọn theo lối sống dễ dãi phù hợp với tính xác thịt và làm theo các đam mê lạc thú bất chính, chọn chối bỏ Chúa trong lý lịch để hy vọng được hưởng các đặc quyền đặc lợi và địa vị xã hội? Có lẽ phần đông chúng ta đã chọn thái độ lim lặng. Phải chăng thái độ đó đồng nghĩa với sự phản bội của Giu-đa, được Tin Mừng Gio-an cho biết: “Quả thật ngay từ đầu, Đức Giê-su đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người” (Ga 6,64b). Tuy trong thâm tâm Giu-đa đã không tin Thầy và quyết tâm phản Thầy, nhưng vẫn ở lại Nhóm Mười Hai là để chờ cơ hội! (x. Ga 13,21-27; Mt 26,14-16).
3) Đức tin vào bí tích Thánh Thể phải dựa trên Lời Chúa:
Khi tuyên xưng đức tin thì không phải ông Phê-rô đã hiểu biết mầu nhiệm bí tích Thánh Thể, nhưng chỉ vì ông đã tin “Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”, tin Thầy là Đấng quyền năng đã từng nhân bánh ra nhiều cho dân chúng ăn no; Đã từng đi trên mặt biển và phán một lời là dẹp yên sóng gió; Đã từng xua trừ ma quỷ ra khỏi nhiều người bị ám; Đã từng đặt tay chữa lành nhiều bệnh nhân và phán một lời là kẻ chết sống lại… Chính nhờ đức tin vào quyền năng của Chúa, mà Phê-rô và Nhóm Mười Hai đã tin cả những điều khó nghe, khó hiểu và khó chấp nhận về bí tích Thánh Thể:“Ai ăn thịt và uống máu Tôi sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,54a).
4) Cần làm gì để tin vào bí tích Thánh Thể?:
“Đây là mầu nhiệm đức tin”, vượt trên sự hiểu biết khả giác của lòai người, nên để tin vào bí tích này, mỗi tín hữu chúng ta cần có ba điều kiện như sau:
- Một là phải lắng nghe và suy niệm Lời Chúa như tông đồ Phao-lô dạy: “Có đức Tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố Lời Đức Ki-tô” (Rm 10,17). Do đó, để tin vào mầu nhiệm bí tích Thánh Thể, chúng ta cần lắng nghe Lời Chúa khi tham dự thánh lễ hoặc dự các buổi họp nhóm học sống Lời Chúa, rồi còn phải “suy niệm Lời Chúa trong lòng” noi gương Mẹ Ma-ri-a xưa (x Lc 2,51).
- Hai là phải xác tín vào Lời Chúa Giê-su như ông Phê-rô đã thưa với Chúa:“Bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những Lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng: Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69).
- Ba là phải ý thức đức tin là do ơn Chúa ban như lời Đức Giê-su: “Không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho” (Ga 6,65). Do đó, để tin vào mầu nhiệm Chúa Giê-su hiện diện trong bí tích Thánh Thể, chúng ta cần năng cầu xin Chúa Giê-su ban thêm đức tin cho mình, như lời cầu của người cha có con bị quỷ ám:"Tôi tin! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi” (Mc 9,24).
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giêsu. Nhiều lần khi xin các ơn phần xác mà chưa được nhậm lời, con đã nản lòng thất vọng, thể hiện qua việc bỏ dự lễ Chúa Nhật và không còn tin tưởng cầu xin Chúa nữa, mà chạy đến với thầy bùa thầy ngải của lương dân. Tin mừng hôm nay cho thấy: Chúa đã ngán ngẩm trước đức tin vụ lợi của đám đông dân chúng và các môn đệ. Có lẽ hôm nay Chúa cũng đang ngán ngẩm khi thấy con cũng chỉ biết lo tìm kiếm lợi lộc tiền bạc vật chất, và dửng dưng trước những ơn ích thiêng liêng phần hồn. Xin Chúa giúp con thực thi theo Lời Chúa dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33).
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. – Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
72. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour.
ĐỨC TIN VÀ SỰ TỪ KHƯỚC NƠI CÁC MÔN ĐỆ (cc. 60-71)
Phản ứng:
+ Nhiều môn đệ liền nói: không thể tiếp tục nghe Người (c. 60).
+ Nhiều môn đệ rút lui và không còn đi với Người nữa (c. 66).
+ Chúa Giêsu hỏi nhóm Mười Hai: Anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?
+ Thưa Thầy, chúng con biết đến với ai?
+ Thầy có những lời đem lại sự sống đời đời.
+ Phần chúng con, chúng con tin và nhận biết.
+ Thầy là Đấng Thánh, vị Thánh của Thiên Chúa.
+ Chúa Giêsu đáp: Thế mà một người trong anh em lại là quỷ.
Trong tiểu đoạn này xuất hiện những kết quả thảm khốc, từ bài diễn từ của Chúa Giêsu: không phải là những người Do Thái xa rời Chúa Giêsu nữa, mà là các môn đệ chính hiệu; và có đến hai lần, có “nhiều” môn đệ không đi theo Chúa Giêsu nữa. Một cuộc khủng hoảng như thế trong mối tương quan giữa Chúa Giêsu và các môn đệ được cả bốn sách Tin Mừng nhắc đến. Các sách Nhất Lãm đặt cuộc khủng hoảng này vào lúc Phêrô tuyên xưng đức tin ở Xêdarê (Mc 8, 27-33). Trên thực tế cả hai cảnh huống đều có điểm chung với nhau. Gioan, vẫn theo thói quen, trình bày cảnh huống cách thoải mái hơn. Trong khi sử dụng từ “môn đệ”, thánh sử muốn nhắc đến hoàn cảnh khủng hoảng tại cộng đoàn của ông. Tuy nhiên ông cũng tạo điều kiện cho mỗi độc giả, một khi được mời gọi trở thành môn đệ, nên lượng định những yêu sách của đức tin và vị trí trung tâm của Thánh Thể trong thời điểm của Giáo Hội.
Việc nhấn mạnh vào thực Thánh Thể được nhắc đến trong tiểu đoạn 53-59 không nên hiểu theo cách giải thích phù phép của bí tích: “Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì” (c. 63). Sự hiệp thông do bí tích có mục tiêu cuối cùng đưa đến sự hiệp thông với Chúa Giêsu.
Trong sự thử thách vì lẽ phải khiến nhiều người bỏ đi, Chúa Giêsu yêu cầu những kẻ thân cận nhất của Người thực hiện lại việc lựa chọn của mình ông Simon Phêrô, người phát ngôn của nhóm Mười Hai, công bố sự gắn bó của mình bằng đại từ ở ngôi thứ nhất số nhiều: “Thưa Thầy, chúng con biết đến với ai? – Cùng với các đồng nghiệp của mình, ông ở lại bởi vì Chúa Giêsu có “những lời đem lại sự sống đời đời”. Nhờ ông, nhóm Mười Hai long trọng tuyên xưng đức tin của mình, qua một tước hiệu chưa được nói đến: “Đấng Thánh của Thiên Chúa”, có nghĩa là Đấng chiếm hữu chính sự thánh thiện của Thiên Chúa. Thế nhưng bài trần thuật lại kết thúc bằng việc nhắc đến kẻ phản bội. Như vậy, chương 6 quan trọng này chấm dứt bằng một báo hiệu bi thảm, để hiểu rằng không bao giờ chiếm hữu được sự trung thành, cũng như sự trung thành có thể ngã nhào trong sự phản bội.
73. Chú giải của Fiches Dominicales.
THẦY CÓ NHỮNG LỜI BAN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Khi mọi người đã bỏ đi, Đức Giêsu lại đặt một câu hỏi hết sức quyết liệt
Ở Capharnaum, diễn từ về bánh hằng sống kết thúc bằng sự khủng hoảng công khai. Sau “người Do thái" là những người đầu tiên bỏ đi, đến lượt “nhiều môn đệ" của Đức Giêsu xầm xì và đả kích Ngài giống như con cái Israel trong thời kỳ băng qua sa mạc (vào đất hứa). Họ nói: “Lời này chướng tai quá, ai mà tiếp tục nghe nổi?”.
Không làm dịu bớt bầu không khí căng thẳng, Đức Giêsu còn đặt ra cho những người nghe mình một câu khó trả lời. Sau khi đã loan báo cái chết của mình là nguồn mạch sự sống cho thế gian, bây giờ Ngài đề cập đến việc Ngài trở về với Cha. Ngài nói với họ: "Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Thế thì anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?”.
Lần này thì quá lắm rồi! Tác giả Tin Mừng viết tiếp: “Từ lúc đó rất nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa”.
- Chính lúc đó, lúc mà hầu như mọi người bỏ rơi mình, Đức Giêsu quay sang “nhóm mười hai” (hạt nhân của một dân mới) là tên mà Tin Mừng thứ bốn gọi lần đầu tiên. Ngài nói với họ, thúc ép họ phải có một chọn lựa dứt khoát: hoặc bỏ đi hoặc ở lại và theo Ngài cho tới Lễ Vượt Qua của Ngài, như Ngài đã hỏi họ tại miền Cêsarê Philipphê (Mt 16,15; Mc 6,14-15; Lc 9,7-8): “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi sao? "
2. Và lời tuyên xưng đức tin của Simon Phêrô:
Simon-Phêrô nhân danh “nhóm mười hai" (ông xưng hô ở ngôi nhất số nhiều) tuyên bố sự gắn bó của các ông với Đức Giêsu: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đi với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”
+ Thánh Phêrô bắt đầu: “Chúng con biết đi với ai?”. Tác giả Tin Mừng đặt trên môi Phêrô động từ “đi" là động từ đã được dùng trước đó để chỉ sự “rất nhiều môn đệ" bỏ rơi Thầy.
Rõ ràng, ngược lại với đám đông môn đệ đó, “nhóm mười hai” đã dấn thân theo Thầy.
+ Chính việc mạnh mẽ tuyên xưng đức tin đã làm tan biến mọi do dự; tuyên xưng đức tin không phải là gắn bó với những chân lý trừu tượng, nhưng với con người Đức Giêsu: “Thầy có…Thầy là”. X. Léon-Dufour chú giải: Lời tuyên xưng đức tin của “Phêrô vọng lại điều Đức Giêsu vừa mạc khải: Lời Ngài là “sự sống đời đời". Phêrô mặc nhiên hoàn toàn chấp nhận tất cả nội dung của diễn từ mà các môn đệ khác xét là không thể nhận được. Chắc chắn, theo tình hình câu chuyện được kể lại trong Tin Mừng, ông vẫn chưa hiểu hết ý nghĩa trọn vẹn những lời Đức Giêsu, nhưng ông đã tin tưởng vào điều chính yếu nhất, đó là sứ điệp của Đức Giêsu đem đến sự sống đời đời. ("Lecture de Evangile selon Jean", tập 2, Seuil, tr. 1 88)
Và trong lời tuyên xưng đức tin, Phêrô đã dành cho Đức Giêsu một danh hiệu chưa từng có: “Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa", nghĩa là Đấng mang trong chính mình một cái gì thánh thiện của chính Thiên Chúa.
X Léon-dufour đặt câu hỏi: “Đấng Thánh của Thiên Chúa nói lên điều gì? Đây là một tên gọi hãn hữu, khó giải thích. Phêrô không dừng lại một tên nào mà Đức Giêsu đà sử dụng trong diễn từ để chỉ chính Ngài (Con, Bánh trường sinh, Đấng Thiên sai, Con Người); thậm chí ông cũng không dùng một danh hiệu truyền thống nào về sự mong đợi Đấng Cứu Thế trong đạo Do thái... Điều đặc biệt ở đây là Phêrô đã diễn tả Đức Giêsu là ai theo cách của riêng ông. Phải chăng ông lập lại danh hiệu này theo thánh vịnh 16, trong đó có nói đến danh hiệu “Đấng Thánh của Ngài", theo bản dịch Bảy mươi? (xem Tông đồ công vụ 2,27). Thánh vịnh này ca tụng tình thân mật sâu xa giữa Thiên Chúa và người cầu nguyện; phải chăng Phêrô cũng muốn nói đến tình thân mật sâu xa giữa Đức Giêsu với Thiên Chúa? Đức Giêsu đã công bố sự kết hợp giữa Ngài với Chúa Cha (5, 19-30), sau đó, Ngài còn loan báo mình đã được “Thiên Chúa thánh hiến" (10,6; 17,19). Danh hiệu “Đấng Thánh Của Thiên Chúa" cao vượt hơn danh hiệu "Thiên Sai” rất nhiều và thích hợp với danh hiệu “Con Thiên Chúa" mà Simon-Phêrô tuyên xưng trong Mátthêu 16, 16" (Sách đã dẫn, tr. 189)
- Trong cơn khủng hoảng Giáo hội hiện phải đương đầu, các Kitô hữu ngày nay cũng đang đứng trước câu hỏi cốt yếu xưa kia Đức Giêsu đã đặt ra cho các môn đệ Ngài: câu hỏi về căn tính con người của Ngài, về sứ vụ của Ngài và về sứ vụ của Giáo Hội. Dựa trên đức tin của Simon-Phêrô và nhóm Mười Hai, chúng ta có cương quyết chọn đi theo Đức Giêsu để trở nên nhân chứng cho Tin Mừng mà thế giới đang mong đợi không?
BÀI ĐỌC THÊM
1. Đức tin: một cuộc mạo hiểm
(H.Vulliez, "Thiên Chúa rất gần, năm B”, DDE3, tr.141-142)
“Cuộc khủng hoảng rất trầm trọng. Nó lan tới cả những người thân cận với Đức Giêsu. Đây là một khủng hoảng về niềm tin đưa đến mọi đổ vỡ. “Diễn từ bánh trường sinh”, một trong những đỉnh cao của sứ điệp, mang dáng dấp một thất bại thảm não. Đủ rồi! không hiểu biết, thất vọng, bối rối vọng lên từ những tiếng xầm xì... Trước đám người lạc hướng hoặc thù nghịch này, sao Đức Giêsu không bớt giọng một chút? Ngài có thể nắm họ trong tay nếu làm họ cảm động. Nhưng không thế! Không có một nhượng bộ nào! Không có một dễ dãi nào để người ta dễ tin vào chân lý hơn.
Đức Giêsu thậm chí đã sẵn sàng để nhìn cảnh các tông đồ bỏ đi Đối với Ngài, trung tín với Chúa Cha, với Lời, nguồn mạch của tất cả hiện hữu, là trên hết. Chính Ngài là Ngôi Lời trở thành xác thể; là Lời Thiên Chúa hiện thân trong xác phàm. Rõ ràng chính đó mới là điều không thể chấp nhận được.
“Còn anh em, anh em có muốn bỏ đi không?" Bỏ đi, không ở lại là một tình huống rất có thể xảy ra, ngay cả đối với những người bạn thân nhất. Ngài còn đưa ra câu hỏi lấp lửng như thế chất vấn thính giả của mình: “Thế thì khi anh em thấy Con người lên nơi ở trước kia thì sao?"
Nicôđêmô đã không còn chỗ bám víu để rồi cuối cùng hiểu được ông phải “sinh lại" cách nào. Ông đã tin. Chỉ có Đức tin mới soi sáng cho chúng ta hiểu xa hơn những gì từ ngữ nói lên, những gì chúng ta nghĩ rằng mình đã hiểu, những gì chúng ta tưởng tượng, kể cả những gì chúng ta tin rằng mình đã tin. Xa hơn? 'Người ta ngừng bước... hãy đi xa hơn. Người ta ngừng bước khi không còn lắng tai nghe... hãy vượt xa hơn. Người ta bám lấy những ý kiến riêng, kể cả những thành kiến riêng. Người ta từ chối không chịu nhúc nhích, không chịu để mình bị thúc ép.
Tin, chính là nhận ra ánh sáng le lói bên kia những từ ngữ, bên kia những nghi lễ. Tin cũng còn là ‘cảm’ Lời và được nuôi dưỡng bằng Lời.
2. Tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến và bước theo Ngài
(J. Guillet. trong "Đức Giêsu trong niềm tin của những môn đệ đầu tiên", Desclée de Brouwer. 1995, tr.82-84).
“Giữa sự tuyên xưng đức tin tại Capharnaum và tại Cêsarê có những điểm giống nhau lạ lùng, tuy nhiên giống về hoàn cảnh và nội dung hơn là ngôn từ (...) Đó là lúc khủng hoảng, là giây phút chọn lựa (...)
Chịu ảnh hưởng của Maccô nên ngay khi bắt đầu câu chuyện, các tác giả Tin Mừng nhất lãm đã cho thấy một câu hỏi nổi cộm về nhân vật Giêsu. Đứng trước uy thế phát xuất từ lời Người nói, sức mạnh từ các phép lạ Người làm, và nhất là lời Người khẳng định mình là Bánh Hằng Sống, mọi người thắc mắc hỏi nhau: Đức Giêsu là ai? Câu hỏi này có liên quan trực tiếp đến số phận của dân Do thái và số phận của chính Đức Giêsu, bởi vì sự chúc phúc mà Abraham lãnh nhận đã gắn liền số phận của Israel với số phận của tất cả mọi dân tộc. Đó là vấn đề phần rỗi của cả nhân loại. Trung tâm của vấn đề trọng đại và lớn rộng này là nhân vật Giêsu và sự đón tiếp Người. Đây cũng là vấn đề đức tin: dưới ánh sáng của Thiên Chúa, các tác giả Tin Mừng nhất lãm trình bày làm thế nào Phêrô là người đầu tiên đã biết trả lời cho Đức Giêsu và nhờ đó dẫn Giáo Hội vào con đường cứu rỗi.
Nơi Gioan. với cách trình bày khác, câu trả lời của Phêrô chứa đựng cùng một nội dung và phát xuất từ cùng một niềm tin: Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa, Thầy từ Thiên Chúa mà đến, Thầy thuộc về một thế giới mà loài thụ tạo không thể tiếp được thế giới của mọi ước vọng, thế giới của Thiên Chúa Cực Thánh. Tất cả mọi hình thức đức tin đều giống nhau về điểm này. Nhưng theo cách riêng của mình, Tin Mừng Gioan đã đem đến cho lời tuyên xưng đức tin này một tầm mức hết sức quan trọng. Lời tuyên xưng đó được đặt vào một bối cảnh hết sức rộng lớn. Bối cảnh đó là số phận dân Israel và lịch sử của họ. Suốt chương VI, rất nhiều chi tiết cho thấy những diễn tiến từ lúc Đức Giêsu sang bờ bên kia biển hồ Galilê (6, 1) cho đến lúc Phêrô tuyên xưng đức tin và Đức Giêsu khen ông đều diễn ra song hành với những biến cố lớn của sách Xuất hành diễn tả sự ra đời của dân tộc Israel.
Những điểm tương cận đó mang một ý định rõ rệt. Đàng sau những trùng hợp này, Gioan lưu ý đến mối liên hệ sâu xa giữa biến cố Xuất Hành, giải phóng dân riêng, vượt biển Đỏ, băng qua sa mạc, và kinh nghiệm mà Đức Giêsu muốn các môn đệ Người trải qua. Theo Môsê ngày xưa và theo Đức Giêsu hôm nay tự căn bản, tiến trình cũng là một. Giữa những đồng bào thù nghịch và trong một tương lai đen tối, vấn đề là nhận ra, nơi con Người mà bề ngoài như bất lực kia, sự hiện diện của Thiên Chúa và quyền năng Người, cũng như nhận ra sự đảm bảo một tương lai hạnh phúc. Vấn đề cũng là bước theo Người, và sống niềm tin như Abraham xưa kia và Đức Giêsu Kitô ngày nay.
3. Trở thành môn đệ và chứng nhân cho Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô.
(Thư Hội Đồng Giám Mục gởi cho người công giáo Nước Pháp, Cerf, tr. 19-21)
"Vào cuối thế kỷ XX này, người công giáo Pháp ý thức rằng mình đang phải đối đầu với một tình thế nghiêm trọng. Triệu chứng của tình thế này thì nhiều và đôi khi đáng ngại. Dĩ nhiên, không được quá thổi phồng cơn khủng hoảng hiện nay: báo cáo của Hội đồng Giám mục về "trình bày đức tin cho thế giới hôm nay" cho thấy ngay giữa những khó khăn, nhiều tín hữu đã đương đầu với thử thách đức tin. Họ là những người đã tìm thấy nơi Giáo hội những lý do để tin, để đối đầu với những khó khăn trong cuộc sống, và để dấn thân lãnh nhận trách nhiệm trong đời sống xã hội.
Nhưng không phải vì thế mà chúng ta bưng bít những dấu hiệu đáng lo, đó là số người đi lễ nhà thờ giảm sút, ký ức Kitô giáo phần nào mất đi, và sự phục hồi khó khăn. Ngày nay, trong xã hội chúng ta, chính chỗ đứng và tương lai của đức tin bị đặt thành vấn đề.
Chính trong bối cảnh xã hội này, từ Tin Mừng, chúng ta có thể chọn lựa những gì phù hợp để giúp thế giới phát triển, nhưng cũng không quên Tin Mừng có thể phản bác lại trật tự của thế giới và xã hội khi trật tự này trở nên vô nhân.
Tóm lại, chúng tôi nghĩ rằng thời buổi hiện tại không bất lợi cho việc loan báo tin Mừng hơn những thời kỳ trước đây. Trái lại, tình thế nghiêm trọng hiện nay càng thúc đẩy chúng ta trở về nguồn của đức tin cũng như thúc đẩy chúng ta trở nên những môn đệ và chứng nhân cho Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô một cách cương quyết hơn và dứt khoát hơn".
21/08 Luật sĩ và biệt phái giả hình.
- Viết bởi Mt 23, 1-12
Luật sĩ và biệt phái giả hình.
Thứ Bảy tuần 20 thường niên. – Thánh Piô 10, giáo hoàng. Lễ nhớ.
"Họ nói mà không làm".
* Thánh nhân sinh năm 1835 tại Ri-ê-sê, nước Ý. Sau khi làm linh mục, người dấn thân thi hành việc mục vụ. Người làm giám mục Man-tô-va, rồi làm thượng phụ giáo chủ Vê-nê-xi-a và cuối cùng, năm 1903, được chọn làm giáo hoàng. Người chu toàn bổn phận của mình theo khẩu hiệu người đã chọn: “Canh tân mọi sự trong Chúa Kitô” với lòng đơn sơ, đời sống thanh bần và can đảm. Cùng với những đức tính ấy, người đã giúp các tín hữu sống đạo nhiệt thành và đối phó với những sai lầm đang lan tràn trong Hội Thánh. Người qua đời ngày 20 tháng 08 năm 1914.
Lời Chúa: Mt 23, 1-12
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng và các môn đệ rằng: "Các Luật sĩ và các người biệt phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ: vì họ nói mà không làm.
Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta: còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử. Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy: vì thế họ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là "Thầy". Phần các ngươi, các ngươi đừng muốn được người ta gọi là "Thầy", vì các ngươi chỉ có một Thầy, còn tất cả các ngươi đều là anh em với nhau. Và các ngươi cũng đừng gọi ai dưới đất là "cha", vì các ngươi chỉ có một Cha, Người ngự trên trời. Các ngươi cũng đừng bắt người ta gọi là "người chỉ đạo": vì các ngươi có một người chỉ đạo, đó là Đức Kitô.
Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi.
Hễ ai tự nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống, sẽ được nâng lên".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Là anh em với nhau
Suy niệm:
Nửa sau của bài Tin Mừng hôm nay
có thể làm chúng ta bị sốc.
Ðức Giêsu bảo ta đừng để ai gọi mình là thầy,
vì chỉ có một Thầy, một vị lãnh đạo là chính Ngài;
cũng đừng gọi ai là cha,
vì chỉ có một Cha là Thiên Chúa trên trời.
Vậy mà chúng ta vẫn gọi nhiều vị trong Hội Thánh
là cha, là Ðức Thánh Cha,
là giáo phụ, thượng phụ, viện phụ...
Chúng ta có làm sai lời Chúa dạy không?
Ta có phải hiểu theo nghĩa đen lời của Ðức Giêsu không?
Hội Thánh sơ khai đã không hề hiểu theo nghĩa đen.
Thánh Phaolô đã coi mình là cha sinh ra các tín hữu,
đã gọi họ là con (1Cr 4,14-17; Gl 4,19).
Hội Thánh cũng có những thầy dạy (Cv 13,1; 1Cr 12,28),
và những vị lãnh đạo (Cv 15,22; Rm 12,8)
Vậy đâu là điều Ðức Giêsu muốn nhắn nhủ chúng ta?
Chắc chắn Ngài không hề muốn phá bỏ
những cơ cấu cần thiết cho thân thể Hội Thánh,
Ngài cũng không loại bỏ phẩm trật và quyền hành.
Ngài chỉ muốn chúng ta đừng quên:
mọi quyền bính trong Hội Thánh
đều bắt nguồn từ Thiên Chúa và phải quy về Thiên Chúa.
Nếu có ai làm thầy, làm người lãnh đạo,
thì vì họ được chia sẻ quyền làm Thầy của Ðức Giêsu.
Nếu họ được gọi là cha,
thì vì họ được chia sẻ quyền làm Cha của Thiên Chúa.
Dù có chức vụ hay chức vị gì trong Hội Thánh,
tôi cũng không được quên chân lý này:
còn tất cả anh em đều là anh em với nhau,
con một Cha trên trời.
Chỉ có một vị Thầy là Ðức Giêsu.
Nhưng Thầy Giêsu lại sống như bạn của các môn đệ,
như anh em với họ (Ga 15,14; Mt 12,49-50),
và nhất là như tôi tớ phục vụ họ (Mt 20,28).
Ðức Giêsu mãi mãi là gương cho các nhà lãnh đạo.
Quyền lãnh đạo chính là để phục vụ con người.
Phần đầu của bài Tin Mừng cho thấy sự giả hình
của một số người pharisêu, có quyền giảng dạy Lề Luật.
Giả hình là không làm điều mình dạy người khác,
là dễ dãi với chính mình,
nhưng khắt khe với tha nhân.
Giả hình là biến việc thờ phượng Chúa thành thờ mình,
làm việc tốt để người ta thấy và thán phục.
Khi nhìn khuôn mặt của người pharisêu giả hình,
tôi thấy tôi: háo danh, khoa trương, ích kỷ,
dám “đốc” chứ không dám làm...
Có những đoạn Tin Mừng làm chúng ta nhức nhối,
vì mở cho chúng ta những chân trời xa,
cho chúng ta thấy những điều cần làm, phải làm,
nhưng chưa làm.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
khi đến với nhau,
chúng con thường mang những mặt nạ.
Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình.
Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt
dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.
Khi đến với Chúa,
chúng con cũng thường mang mặt nạ.
Có những hành vi đạo đức bên ngoài
để che giấu cái trống rỗng bên trong.
Có những lời kinh đọc trên môi,
nhưng không có chỗ trong tâm hồn,
và ngược hẳn với cuộc sống thực tế.
Lạy Chúa Giêsu,
chúng con cũng thường ngắm mình trong gương,
tự ru ngủ và đánh lừa mình,
mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn.
Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ,
đã ăn sâu vào da thịt chúng con,
để chúng con thôi đánh lừa nhau,
đánh lừa Chúa và chính mình.
Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành,
để chúng con được lớn lên trong bình an.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: Tôn lên và hạ xuống
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Ai cũng muốn được tôn lên. Ai cũng tránh bị hạ xuống. Nhưng vấn đề là ai có thể tôn ta lên hay hạ ta xuống. Sống ở đời ta thường tìm những gì trước mắt, muốn được tôn lên trước mặt người đời và muốn được người đời tôn lên. Nhưng đó lại là những gì phù phiếm mau qua. Chỉ những ai được Thiên Chúa tôn lên mới có giá trị vì đó là danh giá thật và tồn tại vĩnh viễn. Vì Thiên Chúa mới thực là chủ nhân của thế giới, thế giới hiện tại và nhất là thế giới tương lai. Đó chính là nguyên lý nền tảng mà ta phải ghi nhớ. Nhìn nhận Thiên Chúa là chủ, là tất cả, ta sẽ biết khiêm nhường sống trước mặt Chúa. Trước mặt Chúa ta chỉ là hư vô, phàm hèn, bất xứng. Khi biết sống sự thực về mình ta được Thiên Chúa yêu thương và nâng lên. Tất cả là do tình thương của Chúa, ta không có gì xứng đáng.
Bà Rút là người biết thân phận của mình. Bà biết mình là người yếu kém chẳng có giá trị gì. Vì bà là người góa bụa chẳng có ai bênh vực. Hơn nữa bà là ngoại kiều chẳng có quyền lợi gì. Thế nên bà không dám tự tôn mình lên. Càng không dám mong chờ mình được người khác tôn lên. Thế mà bà vẫn không ngần ngại gắn bó với bà mẹ chồng. Bà mẹ chồng Nao-mi vốn là một người nghèo, lại góa bụa nên sẽ chẳng có thể giúp gì cho bà Rút. Nhưng bà Rút chỉ vì yêu thương đã dám chấp nhận mọi liều lĩnh, nguy cơ vì yêu mẹ chồng và vì chọn Chúa. Trước mặt Bo-at bà Rút đã tự hạ mình, phủ phục và tự xưng là ngoại kiều nghèo hèn.
Nhưng Chúa đã nâng bà lên. Nâng lên trong địa vị xã hội khi cho bà kết hôn với Bo-át. Hơn nữa lại cho bà có con trai. Nhưng tuyệt vời trên cả ước mơ, Chúa nâng bà lên trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, cho bà sinh ra ông nội của vua Đa-vít, và nhất là cho bà được tham dự vào mầu nhiệm cứu độ, trở nên tổ phụ của Chúa Giê-su nhập thể. Không còn vinh dự nào hơn. Không còn hạnh phúc nào sánh bằng. Quả thật ai hạ mình xuống sẽ được Thiên Chúa tôn lên. Tôn lên đến một chiều cao bất ngờ. Và nhất là tôn lên trong địa vị vĩnh viễn không bao giờ bị ai lấy mất(năm lẻ).
Ê dê kien đã thấy điều đó trong thị kiến khi tiên báo Ít-ra-en sẽ thoát cảnh lưu đầy. Và khi trở về quê hương sẽ tập trung vào việc thờ phượng Chúa. Mọi sinh hoạt của dân Ít-ra-en mới sẽ tập trung quanh Đền Thờ. Và Thiên Chúa sẽ chúc phúc cho họ. Vinh quang Thiên Chúa tràn ngập Đền Thờ. Đó sẽ là vinh quang của Ít-ra-en. Như thế Ít-ra-en kính sợ Chúa sẽ được Chúa tôn vinh. Ít-ra-en bị hạ nhục làm nô lệ sẽ được Chúa nâng lên địa vị dân ưu tuyển, sẽ chiếu tỏa vinh quang Đức Chúa cho muôn dân.
SUY NIỆM 3: Ðề phòng thái độ giả hình
Theo các văn thư của Ðức Giáo Hoàng Innocentê để lại, thì thời của Ngài, tức thế kỷ 12, là một trong những thời kỳ suy thoái nhất của giáo huấn về đức tin và luân lý: tệ đoan lan tràn khắp nơi, các phe phái quá khích nổi lên, nhiều người phê bình chỉ trích các vị lãnh đạo Giáo Hội vì cuộc sống phản chứng của các ngài.
Lúc đó thánh Phanxicô Assisiô xuất hiện, ngài không chỉ trích ai, nhưng ý thức rằng kẻ phải ăn năn sám hối trước tiên là chính ngài; ngài không khoe khoang, không tham lam, không giả hình, nhưng cố gắng sống đạo một cách nghiêm túc; ngài đi cho đến tận cùng trọng cuộc sống nghèo khó, bác ái, phục vụ, khoan dung. Lý tưởng của thánh Phanxicô chẳng mấy chốc đã được nhiều người chia sẻ, Giáo Hội được hồi sinh, nhiều tâm hồn được đổi mới, mùa xuân thiêng liêng được nở rộ nhiều thế kỷ liên tiếp.
Trong giai đoạn hiện nay, mẫu gương của thánh Phanxicô Assisiô thôi thúc chúng ta hơn bao giờ hết.
Tin Mừng hôm nay không phải là một bản án trút xuống một vài thành phần nào đó trong Giáo Hội, mà phải là một lời mời gọi sám hối cho mọi người. Quả thật, Chúa Giêsu không chỉ kết án thái độ giả hình của những biệt phái, mà còn kêu gọi mọi người hãy đề phòng thái độ giả hình ấy. Giả hình là căn bệnh chung của tất cả những ai mang danh Kitô. Thật thế, nếu giả hình là tách biệt giữa niềm tin và cuộc sống, thì có ai trong chúng ta dám tự phụ mình không rơi vào một thái độ như thế? Giả hình vẫn là cơn cám dỗ cơ bản và triền miên trong cuộc sống người Kitô hữu. Khi căn tính Kitô chỉ là một danh xưng mà không được thể hiện trong cuộc sống hàng ngày, khi sinh hoạt tôn giáo chỉ đóng khung trong bốn bức tường nhà thờ, khi lòng đạo đức được thúc đẩy bởi khoe khoang, tự phụ, khi cuộc sống đạo không là lối sống về niềm tin, mà là trở ngại cho nhiều người đến với Chúa và Giáo Hội, phải chăng đó không là một cuộc sống giả hình?
Câu hỏi mà chúng ta không ngừng đặt ra là cuộc sống đạo của tôi có thực sự là một đóng góp vào việc cải tạo một xã hội đang băng hoại về đạo đức và những giá trị tinh thần không? Giáo Hội mà tôi là thành phần, có xứng đáng là điểm tựa đạo đức cho nhiều người không?
Xin Chúa soi sáng hướng dẫn chúng ta để chúng ta không ngừng nhìn lại bản thân và nhận ra những thiếu sót lầm lỡ trong cuộc sống đạo, ngõ hầu từ đó chúng ta quyết tâm vươn lên mỗi ngày trên đường theo Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Trung Thực Với Lời Nói
Những lời khiển trách của Chúa Giêsu đối với các kinh sư, những nhà thông thái Kinh Thánh biết rõ về Luật Môsê để giảng dạy cho dân chúng được hướng tới hai tật xấu quan trọng là giả hình và khoe khoang. Giả hình vì nếp sống cụ thể của họ không phù hợp với những gì họ giảng dạy cho dân chúng. Họ nói mà không làm, họ giải thích Luật Môsê cách tỉ mỉ nhưng là để cho kẻ khác tuân giữ còn họ thì không thèm động ngón tay vào đó. Thật ra không phải là họ không tuân giữ, vì họ luôn ăn chay, bố thí cho đền thờ, họ cầu nguyện, họ đọc Kinh Thánh. Nhưng họ làm tất cả những điều này để làm cho người ta trông thấy, để được khen thưởng, được danh lợi. Họ làm những điều tốt lành đó là để khoe khoang, là để được người khác nhìn thấy, là để được tranh hơn thiệt, để được chỗ ngồi danh dự, để được gọi là thầy, đó là họ thực hành những hình thức bên ngoài và không có tinh thần tôn thờ và yêu mến Chúa nơi chính họ. Chúa Giêsu trách những kinh sư và biệt phái như thế là để cảnh tỉnh các môn đệ đừng đi vào con đường không tốt.
Việc người thì sáng, việc mình thì quáng. Chúng ta dễ dàng nhìn thấy và phơi bày những tật xấu của anh chị em nhưng lại làm ngơ hoặc che dấu những tật xấu của chính mình. Trước đó, Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh các môn đệ Người như sau: "Nếu sự công chính của các con không hơn sự công chính của các kinh sư và những biệt phái, thì các con sẽ không được vào Nước Trời; các con đừng để ai gọi mình là Thầy, vì chỉ có một Thầy, còn tất cả các con là anh chị em với nhau". Cộng đoàn các môn đệ chỉ có một Chúa Giêsu là Thầy và một Thiên Chúa là Cha. Chúng ta nên lưu ý đoạn Tin Mừng này không có ý chối bỏ quyền hành trong cộng đoàn những đồ đệ, nhưng chỉ chống lại lòng ham quyền, ham danh, lạm dụng địa vị để phục vụ cho cái tôi cao ngạo của mình. Những con người ham quyền ham danh như vậy muốn chiếm chỗ của Thiên Chúa trong tâm hồn anh chị em.
Chúa Giêsu không loại bỏ tác vụ phục vụ cộng đoàn để hướng dẫn cộng đoàn: "Ai nghe các con là nghe Thầy", nhưng Chúa muốn lưu ý rằng những thừa tác viên của Chúa có trách nhiệm đối với cộng đoàn cần sống nêu gương cho anh chị em, thực hành trung thực những gì mình rao giảng.
"Ai làm lớn trong các con phải là kẻ phục vụ cho tất cả". Quyền hành trong cộng đoàn những kẻ tin Chúa là quyền thừa tác nhân danh Chúa và phục vụ anh chị em, giúp anh chị em đến với Chúa chứ không phải là để cho quyền hưởng lợi cá nhân. Tất cả mọi thành phần trong cộng đoàn, những đồ đệ đều phải hướng về cùng một điểm trung tâm duy nhất là Thiên Chúa Cha và sống hiệp nhất, hiệp thông với nhau trong Chúa Kitô.
Lạy Chúa,
Xin giải thoát các con khỏi cám dỗ sống giả hình, khoe khoang. Xin thương củng cố chúng con tất cả trong ơn gọi và sứ mạng riêng biệt của mình nơi cộng đoàn dân Chúa. Xin đổ tràn ơn Chúa Thánh Thần xuống trên các con, giúp các con hiểu biết và yêu mến Chúa hết lòng và dấn thân hết sức mình phục vụ lẫn nhau vì yêu mến Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 5: Phục Vụ Người Khác.
Bấy giờ Đức Giêsu nói với đám đông và các môn đệ Người rằng: “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên tòa ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ; nhưng đừng theo hành động của họ của họ mà làm, vì họ nói mà không làm.
Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên. (Mt. 23, 1-3. 12)
Chúa nhấn mạnh: “Người lớn hơn cả phải là người phục vụ anh em” lần thứ nhất, Người nói với các môn đệ: “Ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ này, là người lớn nhất trong Nước Trời” (Mt. 18, 4) Khi Phê-rô lên tiếng thay cho các tông đồ hỏi: “Chúng con sẽ được gì?” Đức Giêsu đáp: “Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, nhiều kẻ đứng hàng chót sẽ được lên đầu.” (Mt. 19, 30). Rồi Người kết thúc dụ ngôn thợ làm vườn nho thế này: “Thế là kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và những kẻ đứng hàng đầu sẽ đứng chót.” (Mt. 20, 16). Sau đó một chút, Đức Giêsu còn nhắc lại: “… Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải là người phục vụ anh em. Ai muốn làm đầu giữa anh em, thì phải là người phục vụ anh em. Ai muốn làm đầu giữa anh em, thì phải làm đầy tớ anh em” (Mt. 20, 26-27) Chúa lên Giê-ru-sa-lem lần cuối cùng, người lại kêu gọi các tông đồ: Ai giầu có về tài năng, về sáng kiến, về thông minh, về tấm lòng, phải làm đầy tớ! vì chính con người, đứng hàng đầu phải làm người đứng chót! “Chính con người đến để phục vụ, chứ không để được phục vụ, và thí mạng sống mình” (Mt. 20, 28).
Chỉ cho tiền …
Đức Giêsu khiển trách Pha-ri-sêu và luật sĩ thời đó, và cả thời chúng ta nữa: không giúp đỡ anh em! càng giầu, người ta càng phải cho đi! cho đi tiền của có thể là một lăng nhục, nếu người ta chỉ vì cậy có tiền.
Tiền không diễn tả được sự hy sinh hiến thân, tiền của giầu sang không làm cho ai hài lòng, bởi vì khi cho tiền, họ lại trở nên kẻ biển lận mà họ có.
Chúng ta cần lưu ý Chúa luôn luôn nói với những người giầu: chính họ cần thiết phải sống theo Tin Mừng … Vậy người ta có can đảm dùng mọi của cải giầu có, dùng mọi quyền thế đề phục vụ người nghèo vì thực thi Tin Mừng không?
J.M
SUY NIỆM 6: HÃY TRỞ NÊN CHỨNG NHÂN (Mt 23, 1-12)
Xem lại CN 31 TN A, thứ Ba tuần 2 MC.
Đức cố Giáo hoàng Phaolô VI đã nói như sau: “Người thời nay sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là thầy dạy và người ta có nghe theo thầy dạy là vì thầy dạy cũng là chứng nhân" (Thông điệp "Evangelii Nuntiandi" số 41).
Còn thánh Augustinô thì nói: “Chúng ta là tiếng, Đức Giêsu là Lời, là nội dung của tiếng, của âm thanh”.
Như vậy, người rao giảng Lời Chúa, phải là người trung thành. Trung thành với Lời Chúa và sứ điệp của Ngài. Trung thành với sứ vụ qua lời loan báo. Trung thành với nội dung Tin Mừng. Không thể chấp nhận người tông đồ ra đi loan báo Lời Chân Lý, mà họ lại thuộc về thành phần: “Ngôn hành bất nhất”, tức là không thật, hai lòng, nói một đàng, làm một nẻo.
Sự giả tạo này được Đức Giêsu cho thấy qua hình ảnh những người Pharisêu: “Họ là những người nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ lại không buồn động ngón tay vào”; mặt khác, họ còn là những người thích sống hình thức đến độ: “Nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là ‘Thầy’. Đức Giêsu không muốn để các môn đệ của mình rơi vào tình trạng như vậy, nên Ngài quay sang các ông và nói: “Phần các con thì không được vậy…”.
Vì thế, người tông đồ phải là người: “Nhất ngôn, nhất hành”, nếu không, thay vì làm chứng, chúng ta lại rơi vào tình trạng phản chứng.
Thoạt nghe, chúng ta có thể dè lưỡi, bữu môi khinh chê những người Kinh Sư và Pharisêu! Nhưng thực ra, nếu lắng đọng lại một chút thì hẳn lời trách móc của Đức Giêsu khi xưa lại là lời cảnh tỉnh cho chính chúng ta hôm nay.
Thật vậy, đã biết bao lần chúng ta sống trong cung cách của những kẻ bất nhân. Không khoan nhượng. Không cảm thông. Sống xa hoa, hình thức, kỳ thị, ích kỷ, kiêu căng, trác táng, ngông nghênh, ngạo nghễ và xét đoán...
Những lúc như thế, ấy là lúc nhãn hiệu Kinh Sư và Pharisêu vẫn lủng lẳng quanh cổ chúng ta! Và như một hệ lụy, chúng ta nói về Chúa là đấng nhân từ, hiền hậu, khiêm nhường và yêu thương làm sao khi hình ảnh của Ngài đang méo mó nơi hành động xấu xa, lời nói chua chát, lối sống buông thả... của ta! Như vậy, chúng ta trở thành những người đang phá hoại sứ điệp yêu thương của Chúa.
Lời Chúa hôm nay nhắn gửi chúng ta cần phải tránh những thứ xa hoa, diêm dúa bên ngoài. Hãy tập trung vào cốt lõi của Tin Mừng là yêu thương, chứ đừng giả dối như những Kinh Sư và người Pharisêu khi xưa.
Lạy Chúa Giêsu, nhiều khi chúng con tìm mọi cách để uốn nắn ý của Chúa theo ý chúng con. Nhiều khi chúng con tìm vinh dự và muốn được trọng vọng bản thân thay vì làm vinh danh Chúa. Những lúc đó, chúng con đã đi sai đường, trệch lối theo tinh thần của Chúa, xin Chúa tha thứ tội lỗi cho chúng con. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Các luật sĩ và biệt phái giả hình
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
1. Chúa Giêsu bảo cho dân chúng hãy nghe những lời luật sĩ và biệt phái dạy dỗ, nhưng đừng bắt chước những việc họ làm. Họ chất lên vai người ta những bó nặng mà chính họ không muốn động ngón tay vào. Họ là những người giả hình. Họ giảng đạo lý, nhưng đời sống của họ đầy ích kỷ, tự cao và thiếu công bình bác ái. Đạo lý của Chúa là đạo yêu thương, quảng đại và phục vụ anh em trong sự khiêm tốn, không dành phần vinh quang cho mình nhưng luôn biết qui hướng về Chúa.
2. Các luật sĩ là những người không chỉ hiểu biết mà còn chú giải luật Maisen cho dân chúng áp dụng vào đời sống hằng ngày. Còn người biệt phái là những con người trí thức đạo đức, họ sống nghiêm nhặt, nhất là trong việc tuân giữ lề luật. Có thể nói, nhìn bề ngoài các luật sĩ và người biệt phái là những người đạo đức, thế nhưng Chúa Giêsu lại lên án họ là những con người giả hình. Bởi vì họ chỉ thích được khoe khoang việc giữ luật và việc đạo đức của mình để cho người ta khen ngợi. Hay nói đúng hơn, họ chỉ thích những hình thức bên ngoài, còn tâm hồn thì trống rỗng.
Do đó, Chúa cảnh cáo chúng ta hãy đề phòng những con người như thế, và mời gọi chúng ta hãy sống trung thực, nhất là trong cách giữ luật Chúa. Chúng ta giữ luật Chúa không chỉ vì luật nhưng điều quan trọng hơn đó là vì yêu mến Chúa. Được như thế, chúng ta mới có thể đến với anh chị em bằng lòng bác ái chân thật.
3. Họ bị Chúa Giêsu chỉ trích và lên án vì họ giả hình và tự tôn: các người biệt phái với áo vàng mũ miện đai nịt mầu mè, nhưng tâm hồn đầy những đam mê và suy nghĩ xấu xa. Họ sống đóng kịch và khoe khoang khi muốn tỏ ra cho những người chung quanh thấy những việc làm của họ để được ca tụng. Người biệt phái thích chỗ nhất nơi công cộng, họ bắt người ta bái chào kính trọng họ ngoài đường phố, họ tự tôn, tự đại, tìm giá trị, danh giá bên ngoài mà bên trong thì đáng chê trách vì cuộc sống thiếu đạo đức đích thực.
4. Chúa còn chỉ trích họ sống theo kiểu “Mồm miệng đỡ chân tay”, nói mà không làm. Lời nhận xét dành cho người thông luật là: “Họ chất trên vai kẻ khác những gánh nặng không thể gánh nổi, còn chính các người, thì dù một ngón tay cũng không động vào”. Thật vậy, nhiều tiến sĩ luật Do thái ưa nói về luật cách tỉ mỉ, nhưng lời nói của họ không đi đôi với việc làm, nói một đàng làm một nẻo, lo tô vẽ cho cái bề ngoài nhằm che đậy sự xấu xa lợi dụng trong lòng họ. Họ dạy luật thì để cho dân giữ, còn chính họ lại không làm gương, họ dùng luật làm thứ bình phong che chắn và làm lợi cho họ, còn dân chúng thì cảm thấy nặng nề, để rồi thay vì yêu mến và tự nguyện, họ chỉ giữ vì buộc phải giữ và luật trở thành gánh nặng đè trên vai họ.
5. Chẳng ai mang nơi mình một chức vụ nào khi sinh ra. Trái lại, mọi quyền bính là do Thiên Chúa. Mà đối với Đức Kitô, quyền bính được trao ban không phải là để được ăn trên ngồi trốc, không phải để được “ngồi chỗ danh dự trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường...”, mà là để phục vụ. Ngay cả Chúa Giêsu, mặc dù là Thiên Chúa, khi nhập thể làm người đã không đòi cho mình quyền ngang hàng với Thiên Chúa, mà đã trút bỏ vinh quang để trở nên người phục vụ (x.Pl 2,1-11). Càng phục vụ, Đức Giêsu càng chứng tỏ Ngài đích thực là Con Thiên Chúa. Quyền làm Con Thiên Chúa đó, Ngài chia sẻ với chúng ta: “Thầy đã được trao toàn quyền ở trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ (Mt 28,18-19) (5 phút Lời Chúa).
6. Chúa Giêsu lên án thứ tôn giáo vụ hình thức, giả hình, tính toán của những người biệt phái. Tương quan của họ với Chúa chỉ là một mớ tính toán so đo: họ gia tăng các việc lành phúc đức cốt để được Thiên Chúa thưởng công và người đời khen tặng. Đối lại với tâm thức đó, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ Ngài sống phó thác, khiêm tốn, phục vụ. Ở đây, chúng ta gặp lại cái nghịch lý của Kitô giáo: Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. Càng nhỏ bé lại trong tín thác, con người càng lớn lên. Càng tiêu hao trong phục vụ và quên mình, con người càng gặp lại chính bản thân mình (Mỗi ngày một tin vui).
7. Truyện: Bé cái lầm.
Có một thi sĩ kia sáng tác được một số bài thơ, bắt đầu nổi tiếng. Một buổi chiều ra công viên thành phố đi dạo, rồi ngồi nghỉ trên ghế đá kê sát vào tường. Ông hết sức ngạc nhiên và rồi lại tỏ ra hãnh diện sung sướng khi thấy nhiều người đi qua trước mặt ông đã ngả mũ cúi chào. Trong khi còn nghĩ ngợi, thắc mắc thì có một bà già cũng đến trước mặt ông. Sau khi cúi chào, bà đã nhìn lên và miệng lâm râm nhiều lời mà ông nghe không rõ. Thế rồi bà cũng đi. Lúc ấy ông mới quay lại và nhìn lên theo hướng bà già kia đã nhìn. Ông nhận ra rằng ngay sau lưng và phía trên đầu ông có một cây thánh giá đã được dựng lên ở đó. Và ông xấu hổ bỏ đi nơi khác.
Chúng ta cũng thường lầm lẫn như thế. Lời Chúa muốn giải thoát chúng ta khỏi những danh lợi hão huyền và rất đáng hổ thẹn của thế gian. Bởi vì, thật là dại dột và lố bịch khi con người không biết rõ giá trị của mình, lại thích chiếm được địa vị cao, ham được những ưu đãi. Những ham ước ấy chỉ khiến họ bị lợi dụng và trở nên trò cười cho thiên hạ. Có khi còn gây nhiều tai họa cho người khác nữa (báo CG và dân tộc, Giáng sinh 1995, tr 281).
Suy Niệm 8: Gương xấu luật sĩ và biệt phái
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu nói với các môn đệ Ngài về các luật sĩ và biệt phái:
1. Vì họ “ngồi tòa Môsê”, nghĩa là nắm quyền giảng dạy, cho nên “những gì họ nói, các con hãy làm và tuân giữ”.
2. “Nhưng đừng noi theo hành vi của họ, vì họ nói mà không làm”. Những gương xấu của họ là:
- Ra luật cho người khác giữ, còn bản thân không giữ.
- Làm những việc đạo đức chỉ cốt cho người ta thấy mà khen.
- Ham danh vọng: ngồi chỗ nhất, thích được chào nơi công cộng, thích được gọi là Rabbi.
B.... nẩy mầm.
1. Hầu hết những lời Chúa Giêsu kết án các biệt phái ngày xưa đều đúng cho tôi ngày nay:
- Trong cương vị lãnh đạo, phải chăng tôi cũng thường “chỉ tay năm ngón”, bảo người khác làm còn mình thì không làm?
- Đạo đức bề ngoài: người ta tưởng tôi đạo đức, nhưng trước mặt Chúa tôi có đạo đức thật không?
- Tôi cũng ham danh vọng và địa vị?
2. “Tất cả chúng con đều là anh em với nhau”: người có quyền và người không có quyền, người bề trên và người bề dưới cũng đều ngang nhau trước mặt Chúa. Quyền và chức chỉ là những phương tiện để phục vụ anh em. “Trong chúng con, ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ chúng con”.
3. “Ai tự nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống sẽ được nâng lên”: các động từ ở thể thụ động “bị hạ xuống” và “được nâng lên” ám chỉ kẻ hạ xuống và nâng lên là chính Thiên Chúa. Đã đành ai ai cũng ghét kẻ kiêu căng và mến người khiêm tốn. Nhưng quan trọng hơn nữa là chính Thiên Chúa cũng hạ kẻ kiêu căng và nâng cao người khiêm tốn.
4. Vào thế kỷ thứ 12, tệ đoan lan tràn khắp nơi, các phe phái quá khích nổi lên, nhiều người phê bình chỉ trích các nhà lãnh đạo Giáo Hội vì cuộc sống phản chứng của các ngài. Lúc đó Thánh Phanxicô Assisiô xuất hiện. Ngài không chỉ trích ai, nhưng ý thức rằng kẻ phải ăn năn sám hối trước tiên là chính ngài. Ngài không khoe khoang, không tham lam, không giả hình, nhưng cố gắng sống nghèo khó, bác ái, phục vụ, khoan dung. Lý tưởng của thánh Phanxicô chẳng mấy chốc đã được nhiều người chia sẻ. Giáo Hội được hồi sinh, nhiều tâm hồn được đổi mới, mùa xuân thiêng liêng được nở rộ nhiều thế kỷ liên tiếp. ("Mỗi ngày một tin vui")
20/08 Giới răn trọng nhất
- Viết bởi Mt 22, 34-40
Giới răn trọng nhất.
Thứ Sáu tuần 20 thường niên. – Thánh Bênađô, viện phụ, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.
"Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi".
* Thánh nhân sinh năm 1090 gần Đi-giông, nước Pháp. Được giáo dục theo nếp sống đạo đức, năm 1111, người nhập dòng các đan sĩ Xitô. Ít lâu sau, người được chọn làm viện phụ. Người đã dùng hoạt động và gương sáng để hướng dẫn các đan sĩ tập luyện các nhân đức. Vì có sự phân ly trong Hội Thánh, người đã đi khắp châu Âu để lo vãn hồi sự hòa bình và hiệp nhất. Người đã biên soạn nhiều tác phẩm thần học và tu đức. Người qua đời năm 1153.
Lời Chúa: Mt 22, 34-40
Khi ấy, những người biệt phái nghe tiếng Chúa Giêsu đã làm cho những người Sađốc câm miệng, thì họp nhau lại. Đoạn một người thông luật trong nhóm họ hỏi thử Người rằng: "Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?"
Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất.
Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy, là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể lề luật và sách các tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Điều răn trọng nhất
Suy niệm
Theo truyền thống hội đường Do-thái, Luật gồm 613 điều răn.
365 điều cấm làm và 248 điều phải làm.
Giữa một rừng điều răn như thế, người thông luật đã hỏi Đức Giêsu:
“Điều răn nào trọng nhất trong Luật Môsê?” (c. 36).
Đức Giêsu đã trả lời bằng một câu trong kinh Shema,
kinh mà người Do-thái phải đọc mỗi ngày.
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi,
với tất cả trái tim ngươi, tất cả linh hồn ngươi, tất cả trí khôn ngươi” (Tl 6, 5).
Và Ngài còn thêm một điều răn thứ hai nữa (c. 39).
“Ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình” (Lv 19, 18).
Tất cả Luật Môsê nằm trong hai điều răn đó.
Hai điều răn được gói trong một động từ yêu.
Mọi điều cấm làm và mọi điều buộc làm, đều bắt nguồn từ và qui về tình yêu.
Các bạn trẻ thường nghĩ yêu là chuyện dễ.
Nhưng yêu với tất cả trái tim, tất cả linh hồn, tất cả trí khôn, tất cả sức lực,
nghĩa là yêu với trọn cả con người mình, thì điều đó không dễ.
Đối với người Do-thái, trái tim là nơi phát sinh toàn bộ đời sống tinh thần.
Yêu mến Thiên Chúa bằng tất cả trái tim của mình
là để cho Ngài chi phối mọi tư tưởng, mọi ý muốn, mọi tình cảm.
Tất cả đều nhằm làm cho Ngài được mọi người nhận biết và tôn vinh.
Yêu người thân cận như chính mình cũng là điều rất khó.
Có bao người làm chúng ta đau khổ và bị xúc phạm.
Yêu thương và tôn trọng họ đòi một sự từ bỏ mình không nhỏ.
Nhưng chúng ta cũng dễ coi mình là trung tâm và qui tất cả về mình.
Chúng ta lạnh lùng trước nỗi đau, thiếu sẻ chia và độc đoán,
đôi khi dùng tha nhân như phương tiện lót đường để ta tiến thân.
Nói chung, dù yêu Chúa hay yêu người, chúng ta cũng phải ra khỏi mình,
trao đi chính mình và chấp nhận mọi hy sinh mà tình yêu đòi hỏi.
Đức Giêsu đã tóm Luật Môsê trong động từ yêu mến.
Và Ngài đã hoàn thiện Luật này bằng cách đẩy yêu mến đến cùng.
Kitô hữu chẳng những yêu mến Thiên Chúa với trọn con người mình,
mà còn được mời yêu mến Đức Giêsu trên mọi thụ tạo khác,
trên mọi của cải, trên những người ruột thịt, và trên cả mạng sống.
Kitô hữu là người mang mối tình sâu đậm với Đức Giêsu,
“Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20),
đến nỗi họ có thể tuyên xưng như Phêrô: “Thầy biết con mến Thầy.”
Đức Giêsu cũng không chỉ đòi yêu tha nhân như chính mình.
Ngài còn đòi ta phải yêu như Ngài đã yêu (Ga 13, 34-35).
Một tình yêu tha thứ đến vô cùng, một tình yêu đối với cả kẻ thù,
một tình yêu phục vụ như người tôi tớ, một tình yêu dám hiến mạng.
Kitô hữu tự bản chất là người biết yêu và cuộc đời chỉ là tình yêu.
Tình yêu đích thực với Thiên Chúa thì đưa tôi về với anh em.
Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên Chúa.
Chỉ mong đời tôi đong đưa giữa hai tình yêu đó, để chúng nên một tình yêu.
Cầu nguyện
Con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Ôi lạy Chúa là vẻ đẹp vừa cổ kính,
vừa luôn mới mẻ,
con đã yêu Chúa quá muộn màng!
Bấy giờ Chúa ở trong con
mà con thì ở ngoài,
con cứ chạy đi tìm Chúa ở ngoài.
Con thật hư hỏng,
khi chạy theo các thụ tạo xinh đẹp.
Bởi thế, bấy giờ Chúa ở với con
mà con lại không ở với Chúa.
Các thụ tạo xinh đẹp kia cứ giữ con ở xa Chúa,
trong khi chúng hiện hữu được là nhờ Chúa.
Chúa đã gọi con, đã gọi to
và phá tan sự điếc lác của con.
Chúa đã soi sáng
và xua đi sự mù lòa của con.
Chúa đã tỏa hương thơm ngát
để con được thưởng thức,
và giờ đây hối hả quay về với Chúa.
Con đã nếm thử Chúa
và giờ đây con đói khát Người.
Chúa đã chạm đến con,
nên giờ đây con nóng lòng
chạy đi tìm anh bình nơi Chúa. (Thánh Âu Tinh)
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
SUY NIỆM 2: Tình yêu là lẽ sống
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Người Do thái tôn sùng lề luật. Họ say mê lề luật. Họ tuyệt đối tin lề luật. Nên họ câu nệ lề luật. Vì thế họ bị lạc trong rừng lề luật. Không còn biết lối ra. Không biết đâu là luật chính đâu là luật phụ. Họ đi vào ngõ cụt. Đạo Do thái đi vào cái chết. Hôm nay Chúa Giê-su chỉ cho họ điều luật quan trọng nhất. Điều luật chính yếu. Tóm tắt tất cả lề luật. Đó là Mến Chúa Yêu Người. Chúa mở ra một con đường. Con đường tình yêu. Chúa mở ra sự sống. Tình yêu là lẽ sống. Thiên Chúa là tình yêu. Ai ở trong tình yêu là ở trong Thiên Chúa. Thiên Chúa là sự sống. Ai ở trong Thiên Chúa là ở trong sự sống.
Bà Rút tuy là dân ngoại nhưng đã sống trong Chúa. Vì bà sống trong tình yêu. Chồng đã chết bà chẳng còn gì ràng buộc với gia đình nhà chồng. Bà đi theo mẹ chồng chỉ vì tình yêu. Thương bà mẹ già không ai đỡ đần. Nên tình nguyện đi theo mẹ và hợp nhất với mẹ: “Mẹ đi đâu, con đi đó. Mẹ ở đâu, con ở đó. Dân của mẹ là dân của con. Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con”. Đúng là yêu nhau yêu cả đường đi. Vì thế bà xứng đáng được trở thành tổ phụ sinh ra vua Đa-vít. Là dòng dõi sinh ra Chúa Cứu Thế (năm lẻ).
Đó là đời sống theo Thần Khí chứ không theo xác thịt. Thần Khí ban sự sống. Đó là điều Ê-dê-ki-en được thấy trong thị kiến những bộ xương khô. Những người phản bội Thiên Chúa, sống theo xác thịt đã chết thành những bộ xương khô. Nhưng khi có Thần Khí lập tức những bộ xương khô mặc lấy da thịt. Xác chết sống lại. Thiên Chúa yêu thương phục hồi con người. Những ai yêu mến trong Thiên Chúa không còn là xác thịt. Nhưng là Thần Khí. Họ sẽ có sự sống (năm chẵn).
Lời Chúa hôm nay chất vấn chúng ta. Chúng ta giữ quá nhiều lề luật. Nhưng lại quên điều luật quan trọng nhất. Chúng ta sống theo lý trí quá nhiều. Nên quên mất tình yêu. Chúng ta lo làm những việc lớn lao. Nhưng không nhìn đến những người bé nhỏ nhất ngay bên cạnh chúng ta. Bà Rút không làm gì lớn lao. Bà đi mót lúa. Chỉ để nâng đỡ bà mẹ già. Chẳng phải một mệnh phụ phu nhân. Nhưng là một bà goá nghèo hèn. Đó là tình yêu.
Không có tình yêu ta chỉ là những bộ xương khô chết choc. Có tình yêu ta sẽ có da có thịt. Có sự sống. Sống cho bản thân. Sống cho những người chung quanh. Sống cho thế giới.
SUY NIỆM 3: Giới Răn Yêu Thương
Tuần báo Newsweek số ra ngày 10/8/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ tại Nhật, đó là "Sư máy". Vị sư máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực thụ: đầu cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp trên gương mặt cử động theo nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi đưa lên, một tay thì gõ mõ. Mỗi vị sư máy có thể cầu kinh không biết mỏi mệt, và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của mười giáo phái Phật giáo khác nhau tại Nhật. Sáng kiến này được đưa ra nhằm đáp ứng cho nhu cầu ơn gọi sư sãi ngày càng khan hiếm trong các Giáo hội Phật giáo tại Nhật. Tuy nhiên, như tác giả bài báo ghi nhận: những cái máy làm được mọi sự, duy chỉ một điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương.
Yêu thương là đặc điểm của con người. Thú vật có thể có cảm giác, nhưng đó không hẳn là yêu thương. Chỉ có con người được tạo dựng theo và giống hình ảnh Thiên Chúa tình yêu mới thực sự được mời gọi yêu thương mà thôi.
Tin Mừng hôm nay nhắc lại cho chúng ta ơn gọi cao cả của con người. Trả lời cho thắc mắc của luật sĩ, Chúa Giêsu đã thu tóm tất cả lề luật thành một giới răn duy nhất là mến Chúa và yêu người. Hai mệnh lệnh này là một giới răn duy nhất, bởi vì không thể kính mến Chúa mà lại ghét bỏ hình ảnh của Ngài là con người, cũng như không thể yêu thương con người mà lại không nhận ra và yêu mến Thiên Chúa là nguồn mạch tình yêu chân thật. Tách biệt hai mệnh lệnh ấy là chối bỏ tình yêu. Các luật sĩ và các biệt phái thời Chúa Giêsu quả là những người đạo đức: họ ăn chay, cầu nguyện và tỏ ra yêu mến Thiên Chúa hơn ai hết; thế nhưng Chúa Giêsu đã điểm mặt họ là những kẻ giả hình, bởi vì lòng yêu mến Chúa nơi họ không được thể hiện bằng tình yêu đối với tha nhân. Chúa Giêsu còn gọi họ là những mồ mả tô vôi, bên ngoài thì bóng loáng, nhưng bên trong thì thối rữa. Có thể so sánh thái độ giả hình ấy với một người máy: người máy có thể làm được nhiều cử chỉ ngoạn mục, nhưng không có một tâm hồn để yêu thương thực sự.
Yêu thương là kiện toàn lề luật; yêu thương là cốt lõi, là linh hồn của Ðạo. Ði Ðạo, sống Ðạo, giữ Ðạo, xét cho cùng chính là yêu thương; không yêu thương thì con người chỉ còn là một thứ người máy vô hồn. Thánh Gioan Tông đồ, người đã suốt đời sống và suy tư về tình yêu, vào cuối đời, ngài đã tóm gọn tất cả thành một công thức: "Thiên Chúa là Tình Yêu", và ngài dẫn giải: "Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em thì đó là kẻ nói dối, bởi vì kẻ không yêu thương người anh em nó thấy trước mắt, tất không thể yêu mến Ðấng nó không thấy".
Nguyện xin cho cuộc sống của chúng ta ngày càng được thanh luyện và gần gũi hơn với cốt lõi của Ðạo là Yêu Thương.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Ý Nghĩa Ðích Thực Trong Cuộc Sống
Những người theo phái Pharisiêu và phái Sađốc là hai nhóm người luôn đối nghịch với Chúa Giêsu vì Ngài đã nhiều lần mạnh mẽ lên tiếng khiển trách thái độ kiêu căng tự mãn và đạo đức giả của họ. Trước đó, Chúa Giêsu đã tranh luận với nhóm người Sađốc về sự sống lại của những người chết; theo đó thì người Sađốc không tin có sự sống lại ở đời sau, họ cũng không tin vào sự bất diệt của linh hồn cũng như vào sự vĩnh cửu của Nước Thiên Chúa. Chúa Giêsu, qua sự khôn ngoan và tài hùng biện xuất chúng đã chứng minh về sự sống lại ở đời sau và sự bất tử của linh hồn khi Ngài bảo với họ: "Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của những kẻ chết, mà là của kẻ sống" khiến họ phải im miệng. Thấy vậy, những người Pharisiêu thừa cơ hội này mà trách móc Chúa Giêsu với chủ ý tìm ra kẽ hở để buộc tội Ngài bằng cách hỏi Ngài các lề luật của Thiên Chúa, để xem Ngài có hiểu tường tận về lề luật hay không hay cũng chỉ lập lại với những giới răn của Thiên Chúa, bởi vì những người Pharisiêu luôn tự mãn cho rằng họ hiểu rõ lề luật và các tập tục lễ nghi tôn giáo của dân Do Thái. Họ đã bỏ ra nhiều năm trời để học hỏi sáu trăm mười ba điều răn trong Cựu Ước và vô số điều luật khác. Trước câu hỏi của người luật sĩ về điều răn nào lớn hơn hết, Chúa Giêsu đã không trích dẫn một điều răn nào trong Mười Ðiều Răn mà Thiên Chúa đã mạc khải với ngôn sứ Môsê trên núi Sinai, mà chỉ tóm lược tất cả trong một điều răn lớn nhất là điều răn yêu thương: "Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi, và ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình".
Qua câu trả lời này, Chúa Giêsu thay vì trích dẫn Mười Ðiều Răn trên núi Sinai, là một loạt những điều cấm đoán làm những việc tội lỗi với mục đích giữ dân Do Thái sống trong hồng ân của Ngài, thì Chúa Giêsu lại đưa ra một điều răn mới tích cực và có sức tác động hơn đó là yêu thương bằng với tất cả tâm hồn khiêm tốn. Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy biết yêu mến Thiên Chúa với tất cả tâm hồn vì Thiên Chúa là Ðấng tạo dựng vũ trụ. Ngài là sự toàn thiện và cội nguồn của tình yêu. Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại trước hết và tình yêu mến của chúng ta đối với Ngài là tất cả lời tích cực nhất về những hồng ân cao cả và lòng quảng đại bao la của Ngài. Tình yêu thương đối với những người thân cận vì thế cũng bắt rễ từ tình yêu Thiên Chúa.
Tất cả các giới răn của Chúa Giêsu trong toàn bộ Tân Ước cũng chỉ xoay quanh theo chiều hướng lòng yêu mến những người thân cận không thể nào tách rời khỏi tình yêu mến đối với Thiên Chúa, vì khi yêu mến người anh em là những người mà Thiên Chúa yêu thương có nghĩa là chúng ta thực sự yêu mến Thiên Chúa; ngược lại, thù ghét người anh em là chúng ta thù ghét và đối nghịch lại với Thiên Chúa. Khi chúng ta thực sự yêu mến người anh em của mình, tức là chúng ta sống trong tình yêu mến của Thiên Chúa và như thế tình yêu của Thiên Chúa trở nên toàn thiện trong chúng ta.
Lời răn yêu thương trong Phúc Âm hôm nay giúp chúng ta tìm thấy ý nghĩa đích thực trong cuộc sống, đó là trở nên toàn thiện trong tình yêu thương và trong sự hiệp nhất của Thiên Chúa. Ðây chính là lý tưởng sống cao cả của người tín hữu Kitô. Thêm vào đó, đức tin và lòng hy vọng vào tình yêu và lời hứa cứu rỗi của Chúa Giêsu là những động lực làm tăng trưởng tình yêu mến trong tâm hồn chúng ta, giúp chúng ta luôn sống hiệp nhất với người anh em và với Thiên Chúa. Khi chúng ta càng hiểu biết về Thiên Chúa, thì chúng ta càng yêu mến Ngài nhiều hơn. Thiên Chúa thông qua hồng ân của Chúa Thánh Linh ban cho chúng ta sự tự do đích thực để yêu thương như Ngài yêu thương, như thánh Phaolô tông đồ nói trong thư gửi tín hữu thành Rôma: "Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta".
Lạy Chúa,
Vì tình yêu của Chúa vượt lên trên hết mọi sự trên thế gian này, xin hãy đổ tràn tình yêu của Chúa vào trong con tim chúng con cũng như Chúa cho đức tin và lòng hy vọng trong chúng con thêm lớn mạnh. Xin dạy cho chúng con biết quảng đại hiến mình trong các công việc từ thiện và cho những người anh em khác như Chúa đã hy sinh vì chúng con.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 5: Yêu Mến, Vâng Lời.
Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng: “Thưa Thầy, trong sách luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn lớn nhất?” Đức Giêsu đáp: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa Trời, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.” (Mt. 22, 35. 36-39)
Mọi nỗ lực của con người đều khởi động từ cùng một nguồn gốc và hướng về một mục đích độc nhất là tình yêu. Con người không chỉ được dựng nên để vâng lời Thiên Chúa. Như vâng lời ông chủ, ông Chúa, nhưng con người còn được dựng nên để yêu mến Thiên Chúa như cha mẹ mình. Vâng lời chân thật khi yêu mến. Thiên Chúa không muốn có những kẻ nô lệ đầy sợ hãi, Ngài muốn có những người con tự do, tự nguyện. Tình yêu Thiên Chúa phải là trung tâm và nguồn mọi hiếu thảo.
Tình yêu của mọi người cũng phát xuất từ cùng nguồn mạch này. Mọi người đều có thể là người lân cận của tôi nhưng thực tế họ không cần thiết gần gũi tôi. Họ có lẽ ở rất xa, nhưng vẫn là đối tượng của tình yêu chân thật. Người lân cận là bất cứ ai được tôi liên hệ với họ một cách hữu hiệu và cụ thể. Tình yêu của môn đệ Đức Giêsu không có biên giới. Gương mẫu của họ là tình yêu Cha trên trời hằng làm cho mặt trời mọc lên soi sáng cho kẻ lành người dữ, ban mưa xuống cho người công chính cũng như kẻ bất lương. Mọi tương quan với người khác phải theo luật đồng đều: đó là tình yêu tạo nên sức mạnh hấp dẫn và đưa lại mối tương quan chân thật giữa người với người.
Thái độ duy nhất.
Chỉ có một sự đáng kể đối với người môn đệ của Đức Giêsu là thái độ yêu mến thâm sâu. Thật dễ hiểu, theo bản văn này. Người ta không bao giờ bị bó buộc đi tìm một câu đáp bất định cho một trường hợp cụ thể, ý Thiên Chúa luôn được sáng tỏ nhất định bởi tình yêu lớn lao nhất.
Hai tình yêu?
Có hai hướng khác nhau về tình yêu chăng? Một hướng về Thiên Chúa, một hướng về người ta. Tình yêu khác nhau cho trường hợp này và cho trường hợp kia ư? Chúa chỉ cho chúng ta qua đời sống của Người: Đâu là tương quan giữa hai tình yêu này. Trong đời sống của Đức Giêsu, sự chu toàn thánh ý Thiên Chúa và tình yêu phục vụ mọi người được thể hiện duy nhất trong một thực thể độc nhất. Thực hiển nhiên vì tình yêu đối với loài người mà Chúa đã chu toàn công cuộc cứu độ, nhưng tình yêu này không hề tách rời khỏi tình yêu của Thiên Chúa, cũng chính là thánh ý của Thiên Chúa.
J.M
SUY NIỆM 6: “MẾN CHÚA VÀ YÊU NGƯỜI” (Mt 22, 34-40)
Xem lại CN 15 TN C, CN 30 TN A, CN 31 TN B,
thứ Sáu tuần 3 MC, thứ Năm tuần 9 TN, Và thứ 2 tuần 27 TN.
Hôm nay thánh Mátthêu trình thuật việc Đức Giêsu và các môn đệ tiến vào thành Gêrusalem. Trên hành trình ấy, Ðức Giêsu đã làm cho nhóm Xađốc phải câm miệng khi họ hỏi Đức Giêsu về chuyện kẻ chết sống lại. Thấy vậy, nhóm Pharisêu vào cuộc bằng việc họp nhau lại và cử một người đại diện tiến đến nhằm thử Đức Giêsu để tìm cớ tố cáo Ngài, nhà luật sĩ hỏi Ngài: "Trong các điều răn, điều nào trọng nhất?" Đức Giêsu đáp: "Yêu mến Thiên Chúa hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức ngươi". Nhân đây, Đức Giêsu giúp họ nhớ lại một điều luật đã được nhắc đến trong sách Lêvi: “Ngươi phải yêu mến đồng loại ngươi như chính mình”
Tại sao Ngài lại nhắc lại khoản luật đó?
Thưa, bởi vì những người Pharisêu, họ chỉ giữ Luật hình thức bên ngoài, mà bên trong thì hoàn toàn trống rỗng. Họ không yêu thương anh em mình cách thật lòng. Vì thế, chính việc giữ Luật của họ đã phá vỡ đi ý nghĩa, cốt lõi tinh thần của Luật.
Với Đức Giêsu, khi Ngài đến, sứ vụ của Ngài là kiện toàn Lề Luật và làm cho chúng trở nên trong sáng. Đồng thời, Ngài muốn cho các môn đệ, những người sống cùng thời và nhất là giới lãnh đạo... ngày càng sống đúng cốt lõi của Luật hơn. Tinh thần và nội dung của Luật chính là: “Mến Chúa và yêu người”. Vì thế, với Đức Giêsu, yêu thương anh em là tuân giữ Lời Ngài. Không yêu thương anh em là không tuân giữ Lời Ngài. Nói mến Chúa mà không yêu anh em là kẻ nói dối. Thật vậy, nên đã có lần Đức Giêsu nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của Thầy, đó là các con yêu thương nhau”.
Đây không chỉ là lời khuyên, mà còn là một lệnh truyền, một sứ mạng đòi buộc các môn đệ và tất cả chúng ta là những Kitô hữu phải thi hành.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta rằng: mến Chúa và yêu người phải là cốt lõi của Luật. Thiếu một trong hai thì chẳng những không giữ đúng tinh thần của Chúa mà còn có nguy cơ bóp méo Luật của Ngài và mặc cho nó sự bất nhân trong khi thi hành Luật.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con mến yêu Luật Chúa và biết thi hành Luật Chúa cách trung thành. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Giữ luật vì tình yêu
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Cốt lõi của giới luật là yêu thương. Yêu mến Thiên Chúa không thể tách rời khỏi việc yêu thương tha nhân. Chúa mời gọi ta hãy tuân giữ lề luật vì tình yêu mến.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, người biệt phái thời xưa giữ lề luật thật cặn kẽ. Họ phân tích tỉ mỉ từng lề luật để tuân thủ. Nhưng Chúa chê trách họ giả hình. Chúa thấy rõ họ thích cầu nguyện ở nơi công cộng cốt để lãnh nhận tiếng khen, còn tâm hồn họ thiếu vắng lòng yêu mến Chúa. Họ mang Lời Chúa bên mình, nhưng cũng chỉ để phô trương. Họ tuân giữ ngày Sa-bát nhưng lại từ chối thực hiện việc bác ái yêu thương.
Hôm nay, Lời Chúa dạy con thật rõ: cốt lõi của lề luật là lòng yêu mến, chứ không chỉ giữ luật vì lề luật. Và con không thể tách rời việc yêu mến Chúa với việc yêu người.
Lạy Chúa, nhìn lại đời sống, con thấy mình vẫn còn những khuynh hướng sống đạo không phù hợp với Phúc Âm. Con đã lãnh nhận bí tích, đã đi dâng lễ chỉ vì luật buộc, hoặc vì sức ép của gia đình, vì sợ người khác chê bai, vì thói quen. Con tuân giữ lề luật vì nhiều lý do, nhưng lại thiếu điều cốt lõi cần thiết là lòng yêu mến.
Con cũng nhận thấy rằng nhiều khi con đã cố gắng yêu mến Chúa, nhưng lại coi nhẹ việc yêu thương người khác. Rất nhiều lúc lòng con trở nên hẹp hòi, khép kín, lạnh lùng chai đá. Con đã xúc phạm đến tha nhân, đã kết án nhau, đã bỏ rơi những người cần giúp đỡ, đã gây đau khổ cho người khác. Lạy Chúa, xin tha thứ cho con. Xin ban cho con biết yêu người như yêu chính mình, yêu người như yêu Chúa, và yêu người như Chúa yêu. Amen.
Ghi nhớ: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”.
Suy Niệm 8: Sức mạnh của lòng yêu mến Chúa
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Vị linh mục trẻ người Pháp Cassaigne đến Sài Gòn năm 1926, được bài sai đi nhận thí điểm truyền giáo vùng Di Linh có trại phong. Ngài tiếp xúc với anh em dân tộc Thượng, học tiếng của họ, dạy học và chữa bệnh cho những người Thượng bị phong, đó là những công việc thường ngày của cha Cassaigne.
Ngày 24/2/1941, cha Cassaigne nhận được quyết định bổ nhiệm ngài làm người kế vị Đức cha Dumortier trong sứ vụ Giám mục Sài Gòn. Xa rời đàn con bất hạnh của ngài trong hơn 14 năm qua ngày đêm ngài hằng nhớ tới họ... và hình như ngài chỉ mong sao có ngày được đoàn tụ lại với họ.
Từ đầu năm 1947, sức khỏe của Đức cha Cassaigne xấu đi rõ rệt. Thêm vào đó là bệnh sốt rét cũ và chứng suy gan của ngài, sự giảm chất vôi cột sống rất đau đớn; và trên tất cả còn có một mối đe dọa khác: Năm 1943, người ta đã tìm thấy trong cơ thể của ngài có “vi trùng Hansen”.
Ngày 15/7/1955 Đức cha xin từ nhiệm và về hưu tại làng cùi Di Linh, tại đó ngài còn có thể phục vụ và tự chữa bệnh. Ngày 31/10/1973, ngài trút hơi thở cuối cùng giữa những con cái phong cùi của ngài như ngài đã ước nguyện. Ngài đã được mai táng bên cạnh ngôi nhà nguyện của người phong cùi, để họ có ngài ở với họ luôn mãi.
Lòng yêu mến Chúa là sức mạnh thôi thúc vị Giám mục Cassaigne hiến thân phục vụ anh chị em mình, dù là những người con bị bệnh cùi hủi.
Suy niệm
“Phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi… ngươi hãy yêu người thân cận như chính mình” (Mt 22:37-39). Đó là hai giới răn trọng nhất trong niềm tin được Đức Giêsu trích dẫn từ sách Đệ Nhị Luật 6,5 và sách Lêvi 19,18 trong 613 điều răn trong luật của Do Thái. Các thầy rabbi thường tranh luận với nhau về tầm mức quan trọng của mỗi luật để chia ra thành điều răn “lớn” và điều răn “nhỏ”. Đệ Nhị Luật 6,5 là điều răn căn bản và chính yếu của Do Thái giáo. Điều răn này luôn được dùng để mở đầu cho mỗi buổi lễ của người Do Thái, và đây cũng là luật đầu tiên các trẻ em Do Thái phải nhớ. Lòng kính yêu Thiên Chúa phải là hoàn toàn, bao gồm mọi suy xét, cảm kích và là động lực cho cuộc sống. Đức Giêsu liên kết hai điều răn này với nhau và Ngài đặt kính yêu Thiên Chúa trước tiên, sau đó là thương người. Sự liên hệ gắn bó giữa hai giới răn này: Tình yêu tha nhân càng sâu sắc khi chúng ta kính yêu Thiên Chúa.
Tình yêu với Đấng tối cao: “Hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi…” là đưa cuộc sống ta theo sự dẫn dắt của Ngài. Với người Do Thái, tình yêu tha nhân được định hướng theo sách Lêvi 19,18 viết: “Ngươi phải yêu mến người lân cận như chính mình ngươi”. Nhãn quan Kitô giáo lại đặt tình yêu tha nhân vào địa vị trung tâm, then chốt chủ yếu trong sự gắn bó với Thiên Chúa: “Ai không yêu anh em mình là kẻ mình thấy, thì sẽ không yêu được Thiên Chúa, Ðấng mình chẳng thấy. Khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta yêu mến con cái Chúa” (1Ga 4,20; 5,2). Tình yêu của Thiên Chúa là mô phạm cho các hành động yêu thương nhân loại: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu các con” (Ga 13,34). Yêu thương nhau trong Chúa là dấu chỉ thuộc về Thiên Chúa: “Cứ dấu này mọi người sẽ nhận ra các con là môn đệ Thầy: Đó là tình yêu các con trao cho nhau” (Ga 13,35). Yêu Chúa và yêu người là hai giới răn gắn bó chặt chẽ với nhau đến nỗi thánh Gioan tông đồ tuyên bố yêu Chúa mà không yêu tha nhân là kẻ nói láo (x. 1Ga 4,20).
Chính Thiên Chúa khởi xướng việc tỏ tình thương: “Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, chúng ta phải yêu thương nhau” (1Ga 4,11; x. Ml 2,10; 1Cr 8,11-13; 1Ga 3,16). Tình yêu khuyến khích hiến thân phục vụ (x. 1Tx 2,8; Cn 17,17; 2Cr 12,15; Gl 4,13; Pl 2,30; 4,10; 1Tx 1,9).
Như thế, tình yêu thường dành cho nhau, trong nhãn quan Kitô giáo, gắn chắc với tình yêu Thiên Chúa (x.1Ga 4,20; 5,2), với Lề Luật Thánh: “Yêu thương là chu toàn Lề Luật” (Rm 13,10; x. 1Pr 1,22; 2,17; 1Ga 3,23. 4,22; 2Ga 5; 1Tx 4,9; Dt 13,1; Gc 2,8).
Ý lực sống:
Khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta yêu mến con cái Chúa (x. 1Ga 4,20; 5,2).
Suy Niệm 9: Điều răn trọng nhất (Mt 22,34-40)
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Người Do thái có quá nhiều luật, đến độ họ không hiểu khoản luật nào là cốt yếu. Vì thế họ đưa vấn đề ra để thử Chúa Giêsu. Câu trả lời của Chúa Giêsu vừa gọn gàng, minh bạch, vừa súc tích. Chúa Giêsu vạch ra cho họ thấy cái mấu chốt, điều cốt lõi của lề luật, đồng thời Người nâng cao khoản luật “Yêu tha nhân” tiếp ngay sau luật “Kính Thiên Chúa”. Kính Chúa yêu người là hai giới răn phải luôn đi đôi với nhau, như thánh Gioan đã khẳng định: “Kẻ nói kính Chúa mà không yêu người là kẻ nói dối”.
Tuần báo Newsweek số ra ngày 10/8/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ tại Nhật, đó là “Sư máy”. Vị sư máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực thụ: đầu cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp đến gương mặt cử động theo nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi đưa lên một tay thì gõ mõ. Mỗi vị sư máy có thể cầu kinh không biết mỏi mệt, và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của mười giáo phái Phật giáo khác nhau tại Nhật. Sáng kiến này được đưa ra nhằm đáp ứng nhu cầu ơn gọi sư sãi ngày càng khan hiếm trong các Giáo hội Phật giáo tại Nhật. Tuy nhiên như tác giả bài báo ghi nhận: những cái máy làm được mọi sự, duy chỉ một điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương.
Trong bài Tin mừng hôm nay, khi trả lời cho nhà thông luật, Chúa Giêsu cũng tóm lược giáo huấn yêu thương của Ngài: “Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?” Câu nói mà người thông luật đặt ra cho Chúa Giêsu vừa là cái bẫy gài Ngài, vừa phản ánh tâm thức vụ hình thức của họ. Họ tuân giữ mọi lề luật, họ phân chia bậc thang giá trị của mỗi lề luật, họ đánh giá con người theo sự trung thành của người đó đối với lề luật, họ sẵn sàng hy sinh tất cả để trung thành với từng chi tiết của lề luật, thế nhưng họ lại không màng đến cái cốt lõi của lề luật là tình yêu thương.
Trả lời cho người thông luật, Chúa Giêsu nói: “Tất cả lề luật và lời các tiên tri đều qui về hai giới răn: mến Chúa và yêu người”. Điều đó có nghĩa là nếu loại bỏ tình thương ra khỏi lề luật, thì toàn bộ lâu đài của lề luật sẽ sụp đổ. Người thông luật và những Biệt phái hẳn phải ngạc nhiên về giáo huấn của Chúa Giêsu. Đối với họ, điều quan trọng là tuân giữ lề luật, chứ không phải sống theo tinh thần của lề luật là tình thương: họ sẵn sàng loại bỏ và khước từ tình thương đối với tha nhân để trung thành với lề luật, cụ thể là giữ ngày hưu lễ. Chúa Giêsu gọi giáo huấn của Ngài là một điều răn mới: mới vì Ngài đặt tình thương vào trọng tâm của lề luật, mới vì Ngài xem tình yêu đối với tha nhân như một thể hiện của lòng mến Chúa (Mỗi ngày một tin vui).
Yêu thương là kiện toàn lề luật; yêu thương là cốt lõi của Đạo. Đi Đạo, sống Đạo, giữ Đạo, xét cho cùng chính là yêu thương, không yêu thương thì con người chỉ còn là một thứ người máy vô hồn. Thánh Gioan Tông đồ, người đã suốt đời sống và suy tư về tình yêu, vào cuối đời, ngài đã tóm tắt tất cả thành một công thức: “Thiên Chúa là Tình yêu”, và ngài dẫn giải: “Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em thì đó là kẻ nói dối, bởi vì kẻ không yêu thương người anh em nó thấy trước mắt, tất không thể yêu mến Đấng nó không thấy”.
Trong thực hành, chúng ta không muốn đưa ra những câu định nghĩa trừu tượng về tình yêu Chúa và tha nhân, mà chỉ muốn đi vào thực hành trong cuộc sống.
Chúng ta có thể nhận định về câu nói của Đức cha Arthur Tonne: Yêu Chúa là gì? Yêu mến Chúa là “ao ước làm vui lòng Chúa”. Lệnh truyền của Chúa Kitô có thể đọc là: “Con hãy ao ước làm vui lòng Chúa”
Yêu tha nhân có nghĩa là “ao ước làm điều thiện hảo cho họ”. Chúng ta không thể “làm điều thiện hảo cho Chúa”, nhưng chúng ta có thể ao ước làm vui lòng Ngài. Chúng ta có thể và phải làm điều thiện hảo cho tha nhân. Một trong những cách tốt nhất để làm vui lòng Chúa là làm điều thiện hảo cho tha nhân. Đã có những lần Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng ai yêu mến Chúa thì tuân giữ giới răn của Ngài. Cách đây vài Chúa nhật, chúng ta đã thấy rằng giới răn của Chúa là bằng chứng tình yêu của Ngài đối với chúng ta. Tuân giữ điều răn Chúa là bằng chứng tình yêu của chúng ta đối với Ngài (Gm. Arthur Tonne, Bài giảng Tin mừng, năm A, tr 130).
Truyện: Đi tìm chén thánh
Có một câu chuyện huyền thoại về “người Samaritanô tốt lành” có tên là Sir Launfal, một hiệp sĩ trẻ hào hùng. Một ngày nọ chàng hiệp sĩ lên đường đi truy tìm chiếc chén thánh, mà Chúa Giêsu đã sử dụng trong bữa Tiệc ly. Khi chàng bắt đầu rời khỏi thành phố ra đi thì gặp ngay một người cùi đang ngồi ăn xin bên vệ đường. Chạnh lòng thương, chàng đã giúp cho người cùi một đồng, rồi ra đi. Chàng tìm mãi chẳng thấy chén thánh đâu! Thất bại, chàng hiệp sĩ bèn lên ngựa quay trở về nhà. Lúc này chàng đã già hơn xưa, sau cuộc hành trình tìm kiếm thật gian khổ.
Còn người cùi vẫn ngồi ăn xin ở chỗ cũ. Chàng hiệp sĩ chẳng còn tiền bạc gì nữa để cho, anh chia sẻ với người cùi mảnh bánh vụn còn lại trong cuộc đời. Ăn xong họ chẳng có gì để uống. Chàng hiệp sĩ bèn lấy cái tô của người cùi đi tìm nước cho người cùi uống. Khi chàng bưng tô nước quay trở lại đưa cho người cùi thì người cùi đã biến thành Chúa Giêsu và tô nước hoá nên chén thánh mà chàng đang đi tìm kiếm.
Suy Niệm 10: Tình yêu thúc đẩy
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
1. Trả lời cho một số luật sĩ hỏi “Giới răn nào là trọng nhất?”, Chúa Giêsu đưa ra hai giới răn mến Chúa và yêu người.
Đặc biệt, Ngài nói “Giới răn thứ hai cũng giống như giới răn thứ nhất”, và “Toàn thể lề luật và các sách tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó” (Mt 22,39).
Những luật sĩ Do Thái rất thuộc luật và giữ luật rất kỹ, nhưng họ không biết đến cốt lõi của những khoản luật đã được ban bố: Đó là tình yêu.
Có người nói yêu người khó hơn mến Chúa. Dĩ nhiên, vì con người không dễ thương bằng Chúa. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã coi giới răn thứ hai cũng ngang hàng với giới răn thứ nhất.
Thánh Gioan quả quyết: “Nếu ai nói tôi yêu mến Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối, vì ai không yêu thương anh em mà họ trông thấy thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn chúng ta đã nhận được từ Ngài: ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em mình” (1Ga 4,20-21).
Mùa đông vừa qua đi, tuyết tan làm cho con sông Inn ở Thụy Sĩ dâng cao, mực nước tràn sang hai bờ, gây ra nạn lụt tàn phá dữ dội các ngôi làng quanh đó.
Các tổ chức từ thiện ngay sau đó đã đứng ra lạc quyên cứu trợ. Có một nhóm lạc quyên khi đi ngang qua nhà một gia đình bà góa nọ, đứng lại ngoài cửa rồi ngần ngại bảo nhau:
- Thôi, chúng ta sang quyên góp nhà khác, gia đình này vốn đã quá nghèo rồi.
Thế nhưng, bà góa ở trong nhà thoáng nghe biết, đã vội chạy ra, giữ đoàn quyên góp lại, lần mãi trong chiếc ví cũ rách để đưa cho họ một đồng 20 xu. Bà nói một cách chân thành:
- Xin quí vị cho tôi được đóng góp chút ít, vì dẫu sao tôi cũng còn có được một mái nhà tranh, còn có giường gỗ cho các con tôi nằm trong khi những người bị nạn lụt thì chẳng còn gì cả.
Nhóm đi lạc quyên xúc động, nhận đồng 20 xu, trân trọng bỏ vào thùng, và không quên cám ơn bà. Họ vừa định quay gót thì một bé gái trong nhà vội chạy theo và nói:
- Các bác ơi, chị em chúng cháu vừa tìm ra thêm một đồng 10 xu để dành đã lâu, các bác cho chúng cháu gởi tặng những bạn nhỏ xấu số của chúng cháu nhé.
Mọi người không cầm được nước mắt trước tấm lòng giàu tình nhân ái của cả một gia đình nghèo
2. “Còn một điều răn thứ hai cũng giống như điều răn ấy là: phải yêu thương người lân cận như chính mình” (Mt 22,39).
Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu được mẹ bề trên giao cho một chị nữ tu lớn tuổi để chị trông coi chăm sóc. Chị này nổi tiếng là khó tính trong nhà dòng. Đến giờ ăn, Têrêsa phải dìu chị xuống nhà ăn. Một thiếu sót nhỏ cũng đủ để cho Têrêsa bị trách móc. Chị ấy bực bội, không bằng lòng, nhưng Têrêsa vẫn luôn tỏ ra vui tươi hồn nhiên và chịu đựng tất cả vì lòng yêu mến Chúa; và vì tình yêu Chúa, thánh nữ yêu mến nữ tu đáng thương này.
Tình yêu đối với Thiên Chúa phải được tỏ hiện ra bên ngoài đó là tình yêu đối với tha nhân. Và chúng ta chứng tỏ tình yêu đối với tha nhân không phải chỉ bằng lời nói nhưng còn bằng hành động, bằng sự nhẫn nhục, tha thứ và cảm thông nữa.
Để kết thúc tôi xin đọc lại lá thư của Đức Giáo Hòang Gioan XXIII hồi Ngài còn là một thầy Đại chủng sinh gửi về cho gia đình:
Đại chủng viện Rôma, ngày 16 tháng giêng năm 1901.
“Trọng kính thăm ba má, bác hai, cậu và anh chị. Khi thư này đến nhà, chắc cả nhà đang sốt sắng dự tuần đại phúc mở tại họ đạo; và con mong rằng tất cả đã sốt sắng lo việc phần hồn, xây dựng hạnh phúc vĩnh cửu.
Con không cầu cho gia đình được giàu sang, chỉ xin cho mọi người trở nên Kitô hữu tốt, sống nghèo khó, bằng an, phó thác trong tay Chúa quan phòng.
Con lấy làm vinh dự được sống trong cảnh nghèo của gia đình mình, không bánh mì, chỉ ăn cháo, không bao giờ biết đến thịt, có chăng là đôi ba dịp trong năm. Lễ giáng sinh thì được một thẻo bánh, má tự làm. Tuy nhiều dù có đến gần 20 đứa lớn bé đang chờ chực dĩa cháo, nhưng nếu có người đến ăn xin, má vẫn mời họ ngồi vào bàn chia bữa ăn với chúng con...
Xin ba má tha cho những kẻ đã và đang làm hại gia đình mình. Biết đâu trước mặt Chúa, họ tốt hơn mình...
Chúa muốn con làm linh mục không vì giàu sang. Nếu thế thì thật là khốn nạn. Con sẽ làm linh mục để phục vụ người nghèo.
Con: Angelo.
Đó là bức thư thầy Angelo Roncalli sau này là Giáo Hoàng Gioan XXIII gửi thăm ba má.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
xin hãy nhắc cho con nhớ rằng
chúng con đều là con cái Chúa
đừng để con quên Lời Chúa:
“Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất
là chúng con làm cho chính Ta.”
Suy Niệm 11: Giới răn nào trọng nhất?
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Trả lời cho một luật sĩ hỏi “Giới răn nào trọng nhất?”, Chúa Giêsu đưa ra hai giới răn mến Chúa và yêu người.
Đặc biệt, Ngài nói “Giới răn thứ hai cũng giống giới răn thứ nhất”, và “Toàn thể lề luật và các sách tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó”.
B.... nẩy mầm.
1. Những luật sĩ do thái rất thuộc luật và giữ luật rất kỹ, nhưng họ không biết đến cốt lõi của mọi khoản luật là yêu thương. Có thể chúng ta cũng thế: hằng ngày chăm chỉ giữ luật Giáo Hội và luật cộng đoàn, nhưng không có tình mến Chúa và yêu người. Nếu thế thì tất cả đều vô ích.
2. Có người nói yêu người khó hơn mến Chúa. Dĩ nhiên, vì con người không dễ thương bằng Chúa. Thế nhưng Chúa Giêsu đã coi giới răn thứ hai cũng bằng giới răn thứ nhất.
3. “Nếu ai nói ‘tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối, vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy thì không tể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Ngài: ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu thương anh em mình” (1 Ga 4,20-21)
4. Có một tác giả tưởng tượng câu chuyện sau:
Trên đường đi đến miền đất Chúa hứa, Abraham dựng một cái lều để nghỉ chân. Vừa ra khỏi lều, ngài thấy một người hành khất xin giúp đỡ. Động lòng thương, ngài mời người đó vào và làm tiệc thiết đãi. Trước khi ăn tiệc, ngài mời người hành khất cùng dâng lời chúc tụng cảm tạ Chúa. Nhưng vừa nghe thấy tiếng “Chúa”, người ăn mày liền nói lộng ngôn xúc phạm đến Chúa. Abraham nổi giận đuổi người đó ra khỏi lều. Đêm đó, khi Abraham quì cầu nguyện, ngài nghe có tiếng Chúa nói như sau: “Này Abraham, ngươi có biết người ăn mày đó đã nhục mạ Ta 50 năm qua không? Thế mà mỗi ngày Ta vẫn ban lương thực cho nó. Ngươi không yêu thương cho nó một bữa ăn sao?”.
Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mặc khải là một người cha yêu thương mọi con cái, ngay cả những đứa con bất hiếu ngỗ nghịch. Đồng thời Ngài mời gọi chúng ta hãy nên trọn lành như Cha trên trời, nghĩa là yêu thương mọi người không loại trừ người nào. Đó là tất cả giáo huấn của Chúa Giêsu: Ngài đến để nói với con người rằng Thiên Chúa yêu thương con người và con người cũng hãy yêu thương nhau. ("Mỗi ngày một tin vui")
5. “Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu thương lân cận như chính mình” (Mt 22,39)
Thánh nữ Têrêxa hài đồng Giêsu được giao phó trông coi một chị nữ tu lớn tuổi. Chị này nổi tiếng là khó tính trong nhà dòng. Đến giờ ăn, Têrêxa phải dìu chị đi xuống nhà ăn. Một thiếu sót nhỏ cũng đủ cho Têrêxa bị trách móc. Chị ấy bực bội, không bằng lòng, nhưng Têrêxa vẫn luôn tỏ ra vui tươi hồn nhiên và chịu đựng tất cả vì thánh nữ yêu mến Chúa; và vì tình yêu Chúa, thánh nữ yêu mến người nữ tu đáng thương này.
Tình yêu đối với Chúa phải được tỏ hiện qua dấu hiệu bên ngoài là tình yêu đối với tha nhân. Và chúng ta phải chứng tỏ tình yêu đối với tha nhân không những bằng lời nói nhưng còn bằng hành động, bằng sự nhẫn nhục, tha thứ và cảm thông.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết yêu thương tha nhân, nhất là những người thân, sống trong gia đình chúng con. (Hosanna)
19/08 Tiệc cưới Nước Trời
- Viết bởi Mt 22, 1-14
Tiệc cưới Nước Trời.
Thứ Năm tuần 20 thường niên.
"Các ngươi gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới".
Lời Chúa: Mt 22, 1-14
Khi ấy, Chúa Giêsu lại phán cùng các đầu mục tư tế và kỳ lão trong dân những dụ ngôn này rằng: "Nước Trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. Vua lại sai các đầy tớ khác mà rằng: "Hãy nói cùng những người đã được mời rằng: Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới". Nhưng những người ấy đã không đếm xỉa gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán, những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi. Khi vua nghe biết, liền nổi cơn thịnh nộ, sai binh lính đi tru diệt bọn sát nhân đó, và thiêu huỷ thành phố của chúng. Bấy giờ vua nói với các đầy tớ rằng: "Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới". Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất luận tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự tiệc.
Đoạn vua đi vào quan sát những người dự tiệc, và thấy ở đó một người không mặc y phục lễ cưới. Vua liền nói với người ấy rằng: "Này bạn, sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?" Người ấy lặng thinh. Bấy giờ vua truyền cho các đầy tớ rằng: "Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng!" Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Tiệc cưới đã sẵn sàng
Suy niệm:
Dụ ngôn hôm nay nói về một tình yêu bị từ chối.
Chẳng có gì long trọng và tưng bừng cho bằng tiệc cưới của hoàng tử.
Tiệc cưới này do chính nhà vua khoản đãi với sự chuẩn bị chu đáo.
Vua đã mời các quan khách từ trước, và còn mời nhiều lần sau đó.
Trước những lời mời trân trọng của nhà vua, họ đã chối từ.
Thái độ của quan khách thật không sao hiểu nổi.
Họ chẳng sợ xúc phạm đến nhà vua khi coi chuyện đi buôn và chăn nuôi
quan trọng hơn chuyện dự tiệc cưới hoàng tử (c. 5).
Thậm chí có kẻ còn bắt các đầy tớ, hành hạ và giết đi (c. 6).
Những khách quý bây giờ trở thành kẻ sát nhân.
Họ sẽ phải chịu cơn thịnh nộ ghê gớm của nhà vua về sự xúc phạm đó.
Như thế tiệc cưới cho hoàng tử sẽ đi về đâu?
Ai là người sẽ được mời tiếp theo, khi những người trước tỏ ra bất xứng?
Nhà vua đã đưa ra một quyết định rất bất ngờ.
“Hãy đi ra các ngả đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới” (c. 9).
Như thế phòng tiệc bây giờ vẫn đầy người được mời, có cả tốt lẫn xấu.
Dụ ngôn trên đây lại được kết nối với một dụ ngôn khác.
Chúng ta ngạc nhiên khi thấy nhà vua đi vào phòng tiệc
để quan sát cách ăn mặc của những vị khách đến từ đường phố (c. 11).
Có người không mặc y phục lễ cưới và đã bị trừng phạt nặng nề (c. 13).
Tại sao lại phạt anh, khi anh bất ngờ được đưa vào ăn cưới?
Nhưng đừng quên các người khác đều mang y phục lễ cưới đầy đủ,
nên anh chẳng nói được gì để tự biện minh (c. 12).
Lịch sự với Thiên Chúa là điều ta dễ quên.
Ngài vẫn trân trọng mời ta dự tiệc chung vui với Ngài, với Con của Ngài.
“Mọi sự đã sẵn, mời quý vị đến dự tiệc cưới” (c. 4).
Đối với Ngài, sự hiện diện của chúng ta đem lại niềm vui lớn.
Khi đa số dân Do thái, những khách quý được mời trước, từ chối Ngài,
Ngài đã không muốn phòng tiệc bị trống, tiệc cưới bị đình hoãn.
Thiên Chúa chấp nhận mở cửa phòng tiệc cho mọi người.
Họ đến từ muôn phương, có người tốt người xấu, để làm nên Giáo hội.
Giáo hội gồm những người được mời và được gọi một cách nhưng không.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần lịch sự với Thiên Chúa, người chủ tiệc,
cần mặc y phục lễ cưới một cách đàng hoàng.
Y phục ấy chính là một đời sống nghiêm túc theo giáo huấn của Đức Giêsu.
Các Kitô hữu chúng ta đã được ngồi trong phòng tiệc của Thiên Chúa.
Chúng ta đã được mời và được gọi để sống trong Giáo hội,
nhưng chưa chắc chúng ta nằm trong số những người được tuyển chọn.
Số người được chọn bao giờ cũng ít hơn số người được gọi.
Để vào số những người được chọn, chúng ta phải biết trân trọng ơn ban.
Có khi chúng ta cũng coi chuyện buôn bán làm ăn của mình
quan trọng hơn những lời mời khẩn thiết đến từ Thiên Chúa.
Làm thế nào để chúng ta giữ được ơn cứu độ Chúa đang ban hôm nay?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin thương nhìn đến Hội Thánh là đàn chiên của Chúa.
Xin ban cho Hội Thánh sự hiệp nhất và yêu thương,
để làm chứng cho Chúa giữa một thế giới đầy chia rẽ.
Xin cho Hội Thánh không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,
đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
Ước gì Hội Thánh trở nên men
được vùi sâu trong khối bột loài người
để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp
để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội Thánh trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,
nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.
Cuối cùng xin cho chúng con
biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,
nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.
Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,
nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: Mặc áo cưới
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thiên Chúa yêu thương luôn ngỏ lời với con người, kết ước với con người. Con người lại luôn phản bội, làm ngơ trước lời mời gọi yêu thương của Chúa. Nhưng Thiên Chúa không thể ngừng yêu thương, nên cuối cùng đã sai Con Một xuống trần gian để mời con người vào dự tiệc tình yêu hạnh phúc với Chúa.
Bữa tiệc cưới hết sức yêu thương vì Chúa Giêsu, Con Một yêu dấu của Chúa Cha đã xuống trần ở với nhân loại, mặc lấy thân xác nhân loại, kết duyên với nhân loại. Hai bản tính hòa hợp làm một trong Chúa Giêsu. Đó là bữa tiệc cưới hạnh phúc. Thế nhưng dân nhiều người chối từ tình yêu của Thiên Chúa vì say mê trần gian. “Kẻ thì đi thăm nông trại, người thì đi buôn, còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà hành hạ và giết chết”.
Chúa đành phải từ bỏ khách mời cũ để dành chỗ cho những khách mời mới, thuộc đủ mọi chủng tộc, mầu da, ngôn ngữ, giai cấp khác nhau. Chỉ với một điều kiện: Phải mặc áo cưới. Vào dự tiệc cưới thì phải mặc áo cưới. Đó là tự nhiên và hợp lý. Áo cưới là gì? Là con người mới. Là từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa.
Thủ lãnh Ghíp-tắc đã là người mặc áo cưới. Ở nhà thân phụ, ông là con một khách làng chơi. Khi thân phụ qua đời, ông bị các anh em loại trừ. Khi Ít-ra-en bị quân Am-mon đàn áp, Ghíp tắc nhận lời lãnh đạo kháng chiến với điều kiện “Chúa ở với ông”. Chúa đã ở với ông, và ông trở thành một người mới. Ông chiến thắng quân Am-mon. Và hơn thế nữa, ông giữ lời đã thề hứa với Chúa là dâng chính con một của mình cho Chúa. Ông đã trở thành người lãnh đạo nêu gương cho dân vì trung tín giữ lời giao ước. Ghíp-tắc đã bị loại trừ nay lại được mời gọi vào Nước Chúa. Vì ông bỏ ý riêng và trung tín làm theo ý Chúa.
Tiên tri Ê-de-kien cho biết con người mới mặc áo cưới là con người có trái tim mới, một trái tim bằng thịt biết rung động trước tình yêu của Chúa, chứ không còn là trái tim chai đá chỉ biết chạy theo những gian dối của trần gian. Trái tim mới cũng là trái tim trong sạch vì được tẩy rửa trong nước thánh, sạch mọi thần tượng trần gian ô uế và gian tà để xứng đáng đón tiếp tình yêu của Chúa. Trái tim mới là trái tim sống theo Thần Khí, biết đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Chúa và đem ra thực hành. Chứ không còn sống theo xác thịt với những đam mê dục vọng của nó.
Con người mới có trái tim mới đó chính là con người mặc áo cưới mới, xứng đáng với bàn tiệc hạnh phúc Chúa dọn cho nhân loại.
SUY NIỆM 3: Tiệc Cưới, Áo Cưới
Dụ ngôn tiệc cưới và chiếc áo cưới trong Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta mặc lấy một trong những tâm tình cơ bản nhất của Kitô giáo, đó là hân hoan, vui mừng. Kitô giáo thiết yếu là đạo của Tin Mừng.
Trong rất nhiều sinh hoạt và hình ảnh của cuộc sống, Chúa Giêsu đã chọn bữa ăn như dấu chỉ ưu việt nhất để rao giảng Tin Mừng của Ngài. Nước Trời giống như một tiệc cưới, đây là một trong những hình ảnh được Chúa Giêsu sử dụng nhiều nhất để nói lên niềm vui của Nước Trời. Chúa Giêsu cũng mặc cho bữa tiệc của Ngài một ý nghĩa tượng trưng đặc biệt. Chúng ta chỉ cần nhớ lại tiệc cưới Cana, trong đó Chúa Giêsu đã biến nước thành rượu để khách dự tiệc được tiếp tục cuộc vui. Ngài dự tiệc do Lêvi, do Zakêu và rất nhiều người thu thuế khoản đãi; Ngài đồng bàn với họ, chia sẻ một tấm bánh và uống một chén rượu với họ.
Không những đồng bàn với những người tội lỗi, Chúa Giêsu cũng không từ chối lời mời của những người Biệt phái, những người giàu có. Ngài chia sẻ bữa ăn thân thiết với gia đình Marta, Maria và Lazarô tại Bêtania. Ngài thiết lập Bí Tích Thánh Thể trong bữa ăn cuối cùng của Ngài với các môn đệ. Sau khi sống lại, Ngài ngồi đồng bàn với hai môn đệ trên đường Emmau. Ngài hiện ra trên bờ hồ và chuẩn bị bữa ăn cho các môn đệ, rồi Ngài cùng ăn cùng uống với các ông.
Bữa ăn là nơi thể hiện của những giá trị cao quí nhất trong cuộc sống của con người, như gặp gỡ, hiệp thông, trao ban, chia sẻ, hân hoan. Chính vì ý nghĩa cao quí ấy, Chúa Giêsu đã mượn hình ảnh bữa tiệc để nói lên những thực tại Nước Trời. Ðến đây, chúng ta hiểu được ý nghĩa của hình ảnh chiếc áo cưới mà thực khách phải mặc vào khi dự tiệc cưới. Chiếc áo cưới ấy chính là tâm tình gặp gỡ, chia sẻ, trao ban, hân hoan mà con người phải mặc lấy để thuộc về Nước Trời.
Có người đã tưởng tượng ra Thiên đàng, hỏa ngục như hai bàn tiệc. Bàn tiệc dưới hỏa ngục cũng mâm cao cỗ đầy, thế nhưng khách dự tiệc thì ngồi ủ rũ buồn thiu, bởi vì mỗi người đều cầm trong tay một đôi đũa dài đến độ thức ăn thì gắp được, nhưng không thể đưa thức ăn vào miệng. Bàn tiệc trên Thiên đàng cũng y hệt, nhưng khác một điều, là thay vì gắp thức ăn cho vào miệng mình, người ta lại gắp thức ăn và đưa vào miệng người đối diện, thế là vui vẻ cả, vì ai cũng được ăn uống no nê.
Ước gì niềm vui bàn tiệc thánh mà chúng ta tham dự cũng được tiếp tục thể hiện trong đời thường của chúng ta. Ước gì cả cuộc sống chúng ta luôn được diễn ra trong gặp gỡ, chia sẻ, trao ban, vui tươi, nhờ đó chúng ta cảm nhận được niềm vui đích thực của Nước Trời và thắng vượt được mọi khó khăn thử thách trong cuộc sống.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Mặc Áo Cưới
Thiên Chúa ban ơn và mời gọi mọi người đến lãnh nhận ơn cứu rỗi để được hưởng hạnh phúc đời đời, điều này được diễn tả qua hình ảnh bữa tiệc cưới được dọn ra cho con người nhưng những kẻ được mời đã không đến dự. Con người tìm hạnh phúc ở nơi khác ngoài Thiên Chúa, ngoài chương trình Thiên Chúa mong muốn. Sự chối từ của con người không làm cho Thiên Chúa bỏ dở công cuộc của Ngài, Ngài tiếp tục mời gọi con người đến với Ngài. Nhưng có một chi tiết đáng lưu ý, những kẻ bước vào dự tiệc phải giữ điều tối thiểu đó là mặc áo cưới. Các nhà chú giải hiểu việc mặc áo cưới như là mặc lấy Chúa Kitô và được thánh Phaolô tông đồ giải thích nơi thư Êphêsô như sau: "Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa kia, là con người phải hư nát vì những ham muốn lừa lọc. Anh em phải để Thánh Thần đổi mới tâm trí anh em và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thực sự sống công chính và thánh thiện". Ðể vào Nước Thiên Chúa theo lời mời gọi của Chúa, mọi người phải mặc áo cưới, tức là mặc lấy Chúa Kitô, sống thánh thiện, từ bỏ những hành vi xấu xa tội lỗi. Thiên Chúa luôn ban ơn nhưng con người cần cộng tác với ơn Chúa. Chúng ta đừng tìm lý do trì hoãn sự dấn thân đáp trả lời mời gọi của Chúa.
Lạy Chúa
Chúng con chúc tụng lòng nhân từ của Chúa muốn ban ơn cứu rỗi cho tất cả mọi người. Xin giúp chúng con mau mắn đáp lại tiếng Chúa kêu mời, luôn canh tân đời sống, mặc lấy Chúa Kitô để thực sự vui hưởng hạnh phúc muôn đời với Chúa, cùng hiệp an với các thánh nhân trên trời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 5: Cơ Hội Cho Kẻ Giàu
Đức Giêsu lại dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng: “Nước Trời cũng giống như vua kia mở tiệc cưới cho con mình. Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến.”
Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách.
Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy đó có một người không mặc y phục lễ cưới. (Mt. 22, 1-3, 10-11)
Người ta cho rằng dụ ngôn này ám chỉ người Do-thái trước hết. Chính họ là những người nghe đầu tiên, thế mà khi nói với họ, Người lại bị họ theo dõi… truy lùng…. Họ là những người giầu trong Nước Trời. họ được đặc quyền sống với Thiên Chúa từ bao thế kỷ rồi.
Khách mời của Chúa.
Luôn luôn có nhiều người giầu trên thế giới. Nước Trời được dâng biếu cho họ trước hết. Đúng vì họ giầu, họ có thể giúp đỡ người nghèo. Họ có thể hiến thân. Nếu họ đi sai, có phải chính vì họ không nghe tiếng Chúa không?
Để dự tiệc cưới…
Không thiếu những kẻ muốn dự tiệc cưới. Không phải chỉ vì họ không có gì tặng, nhưng chỉ vì họ không chịu mặc áo cưới: đó là điều kiện độc nhất như luật tiệc cưới buộc. Ngạc nhiên ư? nếu người ta chấp nhận thì phải mặc trang phục tiệc cưới để vào ăn cưới theo tục lệ thời đó. Thế mà vào dự tiệc, chúng ta lại quá tự do, tự diễn không theo ý chủ mời nên mới phải chịu trách nhiệm! Đàng khác, chúng ta được lựa chọn, có thể từ chối. Nhiều người đã xin lỗi từ chối. Ngày nay, người ta lấy cớ giữ giới răn thì cổ lỗ chừng nào. Giáo lý của Giáo Hội nhất là về công bằng, bác ái thì lạc hậu biết bao!
Người ta thỏa mãn với nhiều thần tượng khác, người ta sống trong giầu có dư thừa và độc lập tự mãn; tại sao tự khép kín, tự tôn mình làm Thiên Chúa như thế?
Vua sai đầy tớ đi thỉnh khách đã được mời trước, nhưng họ từ chối. Chúng ta từ chối, chúng ta phải hứng chịu những hậu quả ghê gớm mai ngày sau cái chết, và ngay ngày hôm nay chúng ta đang sống. Những giới răn của Thiên Chúa không còn giá trị nữa sao? Chúng ta đã thay thế giới răn đó bằng thứ gì? Người ta từ chối dự tiệc Nước Trời để được tự do: như đứa con hoang đàng, chúng ta bằng lòng dự tiệc với đồ ăn của heo sao?
Nhưng Cha trên trời đang ở đó để chờ đợi chúng ta luôn luôn! chúng ta không chỉ là khách được mời, chúng ta còn là con Cha nữa.
J.M
SUY NIỆM 6: Y PHỤC LỄ CƯỚI (Mt 22, 1-14)
Xem lại CN 28 TNA, Thứ Ba tuần 31 TN.
Hôm nay, Tin Mừng trình thuật việc Đức Giêsu lấy hình ảnh hôn lễ để nói về Nước Trời. Ông Vua chính là Thiên Chúa Cha. Hoàng Tử là Đức Giêsu. Hôn Thê là Giáo Hội. Khách được mời là dân Dothái, nhưng họ đã khước từ, vì thế khách được mời là hết mọi người, không phân biệt. Ngày cưới là ngày chung cuộc, ngày phán xét, ngày Vua tập hợp tất cả mọi người trên mọi nẻo đường, mọi thành phần tốt cũng như xấu, và đến giờ, nhà vua mới tiến vào và phán xét mọi người để phân biệt đâu là chiên và đâu là dê!
Tiêu chuẩn để không bị xét xử là phải mặc y phục lễ cưới. Nếu không sẽ bị đuổi ra ngoài.
Y phục mà Đức Giêsu muốn nói đến ở đây là gì? Thưa! Đó là sự đổi mới. Đổi mới là từ bỏ lòng ích kỷ cá nhân để mặc vào lòng bác ái vị tha. Từ bỏ sự hiềm khích, vô ơn, bất chính, để mặc vào tình yêu thương chân chính và lòng biết ơn. Từ bỏ sự hờ hững, vô tâm để mặc lấy lòng nhiệt thành, liên đới, cảm thông.
Vì thế, mặc y phục lễ cưới là mặc lấy tinh thần mới, lối nhìn mới và cách sống mới. Tiếc thay, điều kiện của Vua thì rất là dễ, nhưng lại trở thành quá khó đối với một số người cố thủ trong ích kỷ, biếng nhác, tham lam và ghen ghét. Vì thế, họ bị đuổi ra ngoài.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ý thức lại việc mình được mời đến dự tiệc Thánh Thể và Lời Chúa hằng ngày. Tuy nhiên, chúng ta đã đáp trả như thế nào? Thờ ơ lãnh đạm như dân Dothái xưa không đi dự tiệc vì quá nhiều bận rộn trong đời sống, hay chúng ta đi dự tiệc mà không mặc y phục lễ cưới là phẩm hạnh của bàn tiệc mà Đức Giêsu đòi hỏi như: y phục của lòng tin, cậy, mến; y phục của lòng ăn năn sám hối và sự kính trọng đối với Thiên Chúa; y phục của tình yêu thương, liên đới và chia sẻ với người nghèo!
Mong thay, mỗi người chúng ta, khi được tham dự bàn tiệc Thánh Thể và Lời Chúa thì cũng được biến đổi, để ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô và đủ điều kiện để một ngày kia tham dự vào bàn tiệc Thiên Quốc. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Bữa tiệc Nước Trời mở rộng và mời đón
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Nước Trời rộng mở để đón mời tất cả mọi người vào. Nhưng khi đã vào, cần phải sống theo lòng tin thì mới được ơn cứu độ, được ở lại trong Nước Trời.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, đa số người Do Thái từ chối tin vào Chúa. Họ không muốn lưu tâm tới, lại còn giết hại các tiên tri và giết luôn cả Chúa.
Dưới con mắt người đời, chương trình của Thiên Chúa tưởng chừng bị phá hủy. Nhưng trái lại Tin Mừng ấy, bữa tiệc Nước Trời ấy lại được mở rộng và mời đón hết mọi người khắp nơi vào dự tiệc. Và chính con cũng đang được hưởng tình thương và ân sủng vô giới hạn của Chúa. Con được gia nhập vào Hội Thánh, được trở thành con cái Thiên Chúa nhờ bí tích Thánh Tẩy. Con được giữ tiệc Nước Chúa hằng ngày mỗi khi dự thánh lễ. Ngay cả khi trở về đời sống thường nhật cũng là lúc con đang sống bữa tiệc ấy. Chúa muốn niềm tin của con phải bao trùm trọn cả đời sống con. Chiếc áo cưới mà Chúa trao cho con khi rửa tội thật đẹp, thật tinh tuyền. Chúa muốn con sống đức tin và gìn giữ chiếc áo cưới để con mặc ra đón Chúa trong ngày Chúa đến.
Nhưng lạy Chúa, chốn trần gian lắm phong ba. Bụi trần gian đã đóng một lớp dày vào áo cưới, làm cho chiếc áo bị hoen ố, bị sờn rách. Con ở trong Hội Thánh, nhưng lại không sống theo đức tin.
Lạy Chúa, xin thương xót con, xin đừng đuổi con ra khỏi phòng tiệc trong ngày Chúa đến. Xin Chúa giúp con làm tròn trách nhiệm sống đức tin trong Giáo Hội để con được vào sự sống đời đời. Xin Máu Thánh Chúa gội rửa áo cưới của con cho tinh tuyền để con được dự tiệc Nước Trời. Amen.
Ghi nhớ: “Các ngươi gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới”.
Suy Niệm 8: Bữa tiệc cho mọi người
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Trong dân gian Việt Nam, cưới xin là một trong ba việc trọng đại nhất đời, ba việc đó là ổn định nghề nghiệp, lập gia thất và xây cất ngôi nhà nơi cư ngụ vững bền, vì thế có câu:
“Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà
Trong ba việc ấy lọ là khó thay”.
Dù ở bất cứ nền văn hóa nào tiệc cưới luôn mang sắc thái tươi vui biểu lộ hạnh phúc của đôi tân lang, tân nương và của gia đình, từ tầng lớp thượng lưu trí thức vương giả đến tầng lớp bình dân nghèo khó, tiệc cưới là dịp trọng đại để gia đình bạn bè họp mặt chúc phúc cho đôi tân hôn. Khách hãnh diện vì được gia chủ mời đến chung vui trong dịp trọng đại, gia chủ cũng vinh dự vì được bạn bè chiếu cố bỏ thời gian vàng ngọc đến chia sẻ niềm hạnh phúc của gia đình. Tân lang, tân nương mang những bộ quần áo đẹp nhất theo văn hóa dân tộc về cưới hỏi để nói lên rằng đây là ngày hạnh phúc nhất đời của đôi bạn và mong bạn bè chúc phúc. Khách tham dự cũng mang những y phục đẹp nhất để biểu lộ niềm vui với cô dâu chú rể.
Suy niệm
Trong dụ ngôn “vua làm tiệc cưới cho hoàng tử”, những kẻ được mời chính thức thì từ chối tham dự bữa tiệc: Những quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: kẻ thì thăm trại, người thì đi buôn, còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết. Khước từ đến dự tiệc, đối xử bất công với các đầy tớ được sai đi mời tiệc, là một sự sỉ nhục đối với vua, là từ chối tham dự vào bữa tiệc, khách mời không xứng đáng với tình bằng hữu. Với hình ảnh đó, Đức Kitô nhấn mạnh dân tộc Do Thái, dân tuyển chọn được mời dự tiệc mà Thiên Chúa đã sai đến với họ bằng ngôn sứ. Nhưng họ đã khước từ và đã giết ngôn sứ.
Bữa tiệc linh đình vốn dành cho khách quý nay trở thành bữa tiệc cho mọi người: “Từ phương Đông, phương Tây, nhiều người sẽ dự tiệc cùng tổ phụ Abraham, Isaác và Giacóp…” (Mt 8,11). Tiệc cưới được dọn sẵn cho dân tuyển chọn nay lại được dọn cho các khách mời khác nơi khắp nẻo đường. Các đầy tớ thi hành lệnh vua, gặp ai “bất luận tốt hay xấu” cũng tập hợp lại. Suy từ sự mời gọi này thánh Matura nhận định: “Cách diễn tả này chứng tỏ rằng: Thiên Chúa yêu thương hết mọi người, Người lựa chọn mà không đòi hỏi, nhưng chỉ vì lòng thương xót”. Thế chỗ cho các dân tộc được kêu gọi trước nhất, những kẻ được mời gọi ở đây, chính là những người của mọi dân tộc, họ ở trên các công trường, tại những ngã ba, ngã tư đường. Không còn nữa những chiếc ghế được dành riêng cho những ai: “Gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới”.
Dụ ngôn “vua làm tiệc cưới cho hoàng tử” đặt trong ngữ cảnh văn hóa Do Thái. Phong tục đám cưới của người Do Thái có hai giai đoạn. Lời mời gọi được gửi đi trước, nhưng không nói rõ ngày và giờ của tiệc cưới. Khi chủ nhà chuẩn bị xong, mới sai đầy tớ đi mời khách dự tiệc cưới vào. Những người khách khôn ngoan tắm rửa sạch sẽ, sẵn sàng áo cưới và chờ đợi ngay cửa triều đình, khi có lệnh thì nhập vào tiệc cưới ngay. Những người khách ngu dại nghĩ rằng phải chờ đợi rất lâu mới có tiệc, nên họ vẫn đi lao động ngoài đồng ruộng, nơi lò gốm… Thình lình lệnh vua mời vào dự tiệc cưới, họ không mặc áo cưới, nên bị loại ra ngoài phòng tiệc... (Trích chú giải áo cưới). Cho nên, trong dụ ngôn, người không mặc y phục cưới, bị vua loại bỏ ra khỏi tiệc cưới.
Tham dự tiệc cưới thì phải mặc áo cưới. Để được dự tiệc cưới trong nước Thiên Chúa phải mang y phục lễ cưới, chính là điều kiện tối thiểu như dụ ngôn đã nhấn mạnh. Theo ý kiến của một số Giáo phụ, chiếc áo cưới ám chỉ đức ái, tối thiểu là cuộc sống ăn ngay ở lành. Còn theo ý kiến của các nhà chú giải Kinh Thánh hiện đại, thì chiếc áo cưới ám chỉ sự hoán cải hay sự trở về, tức là tinh thần sám hối chân thật (Theo Lm Giuse Đinh Lập Liễm, “Tiệc cưới nước Trời”) như Kinh Thánh nhấn mạnh lòng sám hối bằng hình ảnh: “giặt áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7,9-17) mới có thể đứng vững trước ngai Con Chiên trong ngày lễ cưới (x. Kh 19,6-8)… Tất cả ý nghĩa của áo cưới được nêu trên đều mang ý nghĩa đạt được ơn cứu độ mà ngôn sứ Isaia đã loan báo: Để đi vào nước Trời, cần phải mặc “áo cứu độ” (x. Is 61,10). Áo cứu độ, không bao giờ tự động có được nhưng phải “đáp ứng” lời mời gọi của Thiên Chúa bằng sự biến đổi chính mình, phải “mặc lấy con người mới”, con người mới trong Chúa Kitô (x. Gl 3,27; Ep 4,24; Cl 3,10). Mặc lấy Chúa Kitô cũng là mặc lấy con người mới theo hình ảnh của Thiên Chúa công chính và thánh thiện (x. Ep 4,24)…
Xin cho con mang tâm tình: “Ước gì con biết nhận từ Chúa tất cả những gì xảy đến cho con và biết chọn theo chân Chúa luôn” (Thánh Augustinô). Đó là áo cưới được mặc trong Chúa Kitô.
Ý lực sống:
“Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa
Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời”. (Thánh Augustinô)
Suy Niệm 9: Dụ ngôn tiệc cưới (Mt 22,1-14)
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Hôm nay bài Tin mừng nói về dụ ngôn tiệc cưới. Chúa ví Nước trời như vua kia dọn tiệc cưới cho con trai. Vua sai đầy tớ đi nhắc khách đã được mời đến ăn tiệc, nhưng không ai tới. Vua sai đầy tớ khác đi nữa, và dặn nói với khách là tiệc đã dọn sẵn rồi, hãy tới dự: nhưng họ cũng chẳng tới, vì kẻ thì đi thăm ruộng, người thì lo buôn bán, có kẻ lại bắt đầy tớ vua mà hành hạ, giết chết nữa... Vua nổi giận sai quân lính đi sát phạt họ, rồi bảo đầy tớ ra đường gặp ai thì kéo vào dự tiệc... Thế là phòng tiệc đầy khách. Bấy giờ vua vào phòng tiệc, thấy có người không mặc y phục lễ cưới thì quở trách và tống giam vào ngục.
Bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu ví Nước trời giống như một bữa tiệc. Ban đầu Thiên Chúa đã sai các tiên tri mời gọi dân Do thái vào hưởng ơn cứu độ của Đức Kitô là đón nhận Tin mừng để được sống đời đời, nhưng họ đã khước từ; rồi đến các Tông đồ cũng được sai trước hết phải rao giảng cho dân Do thái, nhưng chính họ đã từ chối (họ đã không xứng đáng dự tiệc cưới). Cuối cùng, Tin mừng đã được loan giảng cho bất kỳ ai khắp năm châu bốn bể (khắp ngả đường không phân biệt giàu nghèo tàn tật) mời gọi vào Hội thánh của Chúa và hưởng Nước trời.
“Một vua kia mở tiệc cưới cho con mình”
Đây không phải là lời mời tới dự một đám tiệc thông thường nào đó, mà là đám tiệc cưới của một đức vua tổ chức cho con trai mình.
Cựu ước đã từng hứa hẹn hôn lễ giữa Thiên Chúa và dân Người. Đồng thời Tin mừng đã trình bày Đức Giêsu là vị hôn phu của đám tiệc cưới được mong (Mt 9,15).
Những chi tiết trên đây giúp chúng ta nhận ra: Thời đại Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế đến để cứu chuộc nhân loại là một bữa tiệc lớn, Thiên Chúa Cha đã tổ chức để mời gọi chúng ta vào dự tiệc cưới, bằng cách gia nhập vào Hội thánh của Chúa. Được sống trong Hội thánh để được chăm sóc và chuẩn bị vào tiệc cưới Nước trời quả là một niềm vui và hạnh phúc lớn lao cho chúng ta (Lm. Trần Hữu Thành).
“Thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới”
Chi tiết này làm chúng ta khó hiểu, bởi vì nhà vua cho đầy tớ ra đường gặp bất cứ ai đều được mời vào dự tiệc cưới. Ở giữa ngã ba đường cái thì làm gì có áo cưới? Trả lời cho thắc mắc đó, ta để ý: người đó không chữa tội gì cả, là dấu anh ta có lỗi, không cần biết nguyên do. Theo thói quen, thời xưa khách qua cửa đã có người trao áo cho, không biết người Do thái có thói quen nào? Có áo mà không mặc là lỗi tại mình, vì thế nên không mở miệng chữa tội được câu nào.
Theo ý kiến của một số giáo phụ xưa kia, chiếc áo cưới ám chỉ đức ái, tối thiểu là cuộc sống ăn ngay ở lành. Còn theo ý kiến của các nhà chú giải Kinh thánh hiện đại, thì chiếc áo cưới ám chỉ sự hoán cải hay sự trở về, tức là tinh thần sám hối chân thật.
Qua việc ám chỉ dân Do thái tự phụ là những người biết Thiên Chúa trước, nhưng rồi chính họ lại tự đánh mất cơ hội nhận ra Tin mừng nơi Người. Chúa Giêsu muốn chúng ta đừng bao giờ ỷ lại, hay chểnh mảng trong nhiệm vụ, nhưng phải luôn hy sinh cố gắng và kiên trì trên bước đường theo Chúa. Ở đời tốt xấu trở như bàn tay. Có khi trước đây họ là người tội lỗi xấu xa, nhưng giờ họ lại ăn năn hối lỗi và có đời sống đạo đức tốt lành. Trái lại, có những người trước đây là tốt lành thánh thiện, nhưng giờ họ lại bê trễ, tội lỗi, xấu xa.
Chúng ta đã nhận lời mời của Chúa vào dự tiệc Nước trời. Đây là một vinh dự lớn lao Chúa dành cho ta. Nhưng vinh dự ấy đòi hỏi chúng ta phải vươn lên bằng một đời sống lành thánh, một đời sống kết hợp với Chúa, để có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi”. Trách nhiệm của chúng ta là phải giữ mình, không để cho vật dục hay của cải trần gian lôi kéo xuống như con vật, ngược lại phải vươn lên làm con cái ánh sáng để xứng đáng là công dân Nước trời.
Truyện: Đại bàng con
Chuyện kể rằng: Có một con gà rừng đang ấp trứng, nhưng lẫn trong ổ của nó một trứng đại bàng. Đúng ngày giờ, trứng nở thành con. Đại bàng con nô đùa vui vẻ bên đàn gà rừng như anh chị em ruột.
Một ngày kia, đang bưới móc kiếm ăn cùng đàn gà rừng, đại bàng con bỗng thấy một con đại bàng lớn bay lượn trên không trung thật oai phong và đẹp mắt. Cậu liền hỏi gà mẹ:
- Mẹ ơi, sao mình không bay như chim kia trên trời?
- Chúng ta đâu phải đại bàng mà bay được!
- Thế chúng ta là ai?
- Chúng ta là gà rừng.
Bỗng một ngày, đang khi bươi móc kiếm ăn trên đống rác, cậu thấy đại bàng mẹ bay lượn trên đầu gọi:
- Bay lên con ơi, bay lên đại bàng con của mẹ. Thế giới của con là trời cao đất rộng, chứ không phải là đống rác này. Bay lên đi con!
Cậu cố bay lên, nhưng lại rơi xuống. Trong khi các chú gà rừng cười cợt chế nhạo:
- Chúng ta là gà rừng, làm sao mà bay được.
Cậu suy nghĩ, nếu ta là gà rừng, sao đại bàng kia cứ bảo ta là đại bàng con. Và khi bay lên ta thấy cũng đâu có khó khăn gì, có lẽ chưa quen thôi. Nào hãy thử lần nữa xem.
Thế là cậu đại bàng đủ lông đủ cánh bay lên, và bay lên mãi. Cậu bay theo mẹ về một chân trời mới. Lần đầu tiên trong đời, cậu được nhìn thế giới từ trên cao, lòng cậu mênh mang, hạnh phúc ngập tràn.
Kitô hữu là người được Thiên Chúa chọn, làm con cái của Ngài. Họ là những con đại bàng, luôn ngước mắt nhìn cao, mong bay lên cùng Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương. Họ luôn sống trong tâm tình của thánh Augustinô: ”Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa. Tâm hồn con luôn thao thức cho tới khi nào được nghỉ yên trong Chúa”.
Suy Niệm 10: Khách được mời dự tiệc cưới
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
Thiên Chúa dựng nên con người để họ được hưởng hạnh phúc với Ngài. Điều này được diễn tả qua hình ảnh tiệc cưới được dọn ra cho con người. Tuy nhiên, những kẻ được mời không đến dự. Con người muốn đi tìm hạnh phúc của mình ở ngoài Thiên Chúa. Dù vậy, Thiên Chúa vẫn không bỏ dở công trình của Ngài, Ngài tiếp tục mời gọi.
“Những khách được mời” ở đây là người Do Thái, còn “những khách khác” là dân ngoại. Người Do Thái thì từ chối, còn dân ngoại thì vui lòng đáp lại nhưng không phải là tất cả. Một người được mời nhưng lại không tuân thủ nghi thức căn bản của bữa tiệc. Đáp lại lời chưa đủ, còn cần phải ăn mặc chỉnh tề nữa. Các nhà chú giải đã giải thích việc mặc áo cưới như việc mặc lấy Chúa Kitô dựa theo tư tưởng của thánh Phaolô nơi thư Galata và Êphêsô: “Bất cứ ai được thanh tẩy để thuộc về Chúa Kitô, đều mặc lấy Chúa Kitô” (Gl 3,27). “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa..., và phải mặc lấy con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, để thực sự sống công chính và thánh thiện (Ep 4,24).
Để vào Nước Trời, phải mặc lấy Chúa Kitô. Ơn cứu rỗi của Thiên Chúa được ban cho mọi người, nhưng con người phải cộng tác với lời mời gọi và mặc lấy áo cưới, mặc lấy Chúa Kitô để bước vào dự tiệc cưới Nước Trời.
Lễ cung hiến đền thờ vừa mới xây xong, Đức Giám Mục chủ sự nêu đích danh từng người đã cộng tác cách này hay cách khác vào công việc chung. Khi Ngài vừa dứt lời và sắp ban phép lành, thì một em bé đứng gần bên nói lớn:
- Thưa Đức cha, con cũng góp phần xây cất đền thờ này.
Bình tĩnh, Đức Giám Mục hướng về em hỏi:
- Con đã đóng góp bằng cách nào?
Được khuyến khích bởi sự chú ý của Đức Giám Mục, em bé mạnh dạn trả lời:
- Thưa Đức cha, mỗi buổi trưa con đều đem cơm cho ba con xây đền thờ này.
Đức Giám Mục và toàn thể cộng đoàn vỗ tay hoan hô sự đơn sơ và ý nghĩa ngộ nghĩnh của em. Rồi cộng đoàn đồng ý là em cũng góp phần vào việc chung, dù không phải là công việc quan trọng và cực nhọc, nhưng với hạn tuổi cho phép, em đã góp phần của mình và đáng được ghi danh cám ơn như những người khác.
Nguyện xin Chúa giúp chúng ta biết thay đổi đời sống và mặc lấy Chúa Kitô, để chung hưởng niềm hạnh phúc Chúa ban.
Suy Niệm 10: Dụ ngôn tiệc cưới
(Lm Carôlô Hố Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Dụ ngôn tiệc cưới:
- Tiệc cưới là Nước Trời
- Những khách được mới đợt đầu nhưng từ chối là dân do thái
- Những khách được mời đợt sau là chư dân
Trong dụ ngôn này có hai chi tiết hơi khó hiểu là:
- Vua ra lệnh phá huỷ thành phố của những người không đáp lời mời: ám chỉ việc thành Giêrusalem bị phá huỷ năm 70.
- Một người vào dự tiệc mà không mặc áo cưới nên bị phạt: áo cưới chỉ nếp sống mới. Được gia nhập Nước Trời mà không có một nếp sống mới thì cũng sẽ bị phạt trong ngày phán xét.
B.... nẩy mầm.
1. So với dân Do thái, chúng ta chính là những người tốt có xấu có vất vơ ở các ngã ba đường nhưng được Chúa mời vào Giáo Hội. Hãy tạ ơn Chúa.
2. Câu chuyện người không mặc áo cưới là một lời cảnh giác chúng ta: để xứng đáng với tấm lòng của Chúa, chúng ta phải cố gắng hoán cải, có một nếp sống mới. Không phải nguyên việc ở trong Giáo Hội là bảo đảm cho ơn cứu độ đâu. Thánh Phaolô đã kêu gọi hãy từ bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới.
3. Tiệc cưới và áo cưới tượng trưng cho những tâm tình cơ bản mà người kitô hữu phải luôn có, đó là hân hoan, vui mừng và yêu thương.
Có người đã tưởng tượng ra thiên đàng và hoả ngục như hai bàn tiệc. Bàn tiệc dưới hoả ngục cũng mâm cao cỗ đầy, thế nhưng khách dự tiệc thì ngồi ủ rũ buồn thiu, bởi vì mỗi người đều cầm một đôi đũa dài đến độ thức ăn thì gắp được nhưng không thể nào đưa vào miệng. Bàn tiệc trên thiên đàng thì cũng y hệt, nhưng khác một điều là thay vì gắp thức ăn cho vào miệng mình, người ta lại gắp thức ăn đưa vào miệng người đối diện. Thế là vui vẻ cả, vì ai cũng được ăn no nê. ("Mỗi ngày một tin vui")
4. Ngày nay chúng ta có thể “đọc lại” (relecture) dụ ngôn này và hiểu đợt khách được mời đợt thứ nhất là chính chúng ta
- “Mọi sự đã sẵn, xin mời đến dự tiệc”: Chúa dọn sẵn cho ta hai bàn tiệc là Thánh Thể và Lời Chúa. Đến đó, chúng ta sẽ được bồi dưỡng mọi thứ cần thiết. Thế nhưng rất nhiều lần chúng ta từ chối.
- Cũng như những người trong dụ ngôn, chúng ta coi việc “đi thăm trại” và “buôn bán” (những việc làm ăn, vui chơi) trọng hơn bàn tiệc của Chúa.
5. “Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời không xứng đáng. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, mời ai cũng mời hết vào tiệc cưới.” (Mt 22,89)
... Và tiếng còi của trọng tài đã vang lên, kết thúc trận đấu chung kết của khoa.
Và đó cũng là tiếng còi khai mạc cho những tràng vỗ tay, những niềm vui hân hoan của những cổ động viên (là những thành viên trong lớp tôi)
Trước đây tinh thần này không thấy được trong lớp tôi, các bạn trong lớp chia băng, kết bè ít quan tâm tới việc lớp, chuyện của bạn... mỗi người theo chủ nghĩa “Mackeno” (“mặc kệ nó”)
Đội bóng lớp tôi đã đạt được chức vô địch khoa. Nhưng cao quý hơn nữa là mỗi người đã phá vỡ cái tôi, bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới, con người của sự yêu thương, chăm sóc, con người của tình đoàn kết, hoà đồng.
Lạy Chúa, xin cho con biết đến với anh em, xóa bỏ mặc cảm tự ti, để có thể hoà nhịp với dòng người vào tiệc cưới trong nhà Cha. (Hosanna)
6. Nhà vua sai những đầy tớ khác đi và dặn họ: “Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng này cỗ bàn ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn sàng. Mời quý vị đến dự tiệc cưới. Nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới lại bỏ đi...” (Mt 24,4-5)
Kết thúc cuộc chiến, một người lính trẻ đã viết thư về cho cha mẹ báo tin ngày về: “Thưa cha mẹ, con có người bạn từng chiến đấu sống chết với con, nay đã thành kẻ tàn phế. Chiến tranh cướp đi người bạn con đôi tay. Con muốn anh ta sống chung với gia đình mình để con có thêm người bạn.” Người cha đã hồi âm: “Không được con ơi, một người tàn phế như vậy thì có ích gì!” Nhận được thư, người con đã quyết định không bao giờ trở về bởi vì con người tàn phế đó không ai khác, chính là anh!
Khác xa người cha trong câu chuyện, Chúa chẳng bao giờ chối bỏ con. Trái lại, Chúa vẫn tiếp tục gõ cửa nhà từng người chúng con để mời gọi chúng con dự phần vào sự sống và niềm vui của Chúa, nhưng nhiều khi chúng con đã khước từ. Xin tha thứ và cho chúng con luôn biết đến với Chúa với tấm lòng của người con thảo. (Hosanna).
18/08 Lòng nhân lành của Chúa.
- Viết bởi Mt 20, 1-16a
Lòng nhân lành của Chúa.
Thứ Tư tuần 20 thường niên.
"Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng".
Lời Chúa: Mt 20, 1-16a
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Nước Trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình. Khi đã thoả thuận với những người làm thuê về tiền công nhật là một đồng, ông sai họ đến vườn của ông.
"Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác đứng không ngoài chợ, ông bảo họ rằng: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng". Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín, ông cũng trở ra và làm như vậy.
"Đến khoảng giờ thứ mười một ông lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo họ rằng: "Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?" Họ thưa rằng: "Vì không có ai thuê chúng tôi". Ông bảo họ rằng: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta".
"Đến chiều chủ vườn nho bảo người quản lý rằng: "Hãy gọi những kẻ làm thuê mà trả tiền công cho họ, từ người đến sau hết tới người đến trước hết". Vậy những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng. Tới phiên những người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn; nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi người một đồng. Đang khi lãnh tiền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: "Những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao?" Chủ nhà trả lời với một kẻ trong nhóm họ rằng: "Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?"
"Như thế, kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Vì tôi tốt bụng
Suy niệm
Sau khi anh thanh niên giàu có từ chối lời mời của Đức Giê-su,
ông Phêrô đã đại diện anh em hỏi Thầy:
“Chúng con đã bỏ mọi sự và theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì ?”
Thầy Giêsu đã đáp lại bằng một câu trả lời khá dài.
Họ sẽ được xét xử các chi tộc Ít raen, được gấp trăm về mọi sự,
và nhất là được hưởng sự sống đời đời (Mt 19, 27-30).
Như thế ở đây Nước Trời được coi như một phần thưởng,
một sự trả công Chúa dành cho những ai dám từ bỏ hy sinh.
Các môn đệ cho đi, và rồi họ sẽ được lại.
Bài Tin Mừng hôm nay nằm ngay sau câu chuyện trên.
Dưới một góc độ nào đó thì cả hai có nội dung rất khác nhau,
nhưng bổ túc cho nhau, để ta có một cái nhìn quân bình về Thiên Chúa.
Thiên Chúa không phải chỉ là Đấng công bằng,
thưởng công cho những gì chúng ta đã vất vả cố gắng.
Người còn là Đấng quảng đại, tốt lành và giàu lòng xót thương.
Dụ ngôn về “người thợ giờ thứ mười một” cho thấy điều đó.
Thật ra phải gọi dụ ngôn này là dụ ngôn về “Ong chủ độ lượng”.
Trong thế giới thời Đức Gíê-su, người ta mướn thợ buổi sáng
và trả công cho thợ buổi chiều theo lề luật (Lv 19,13; Đnl 24, 14-15).
Lương công nhật là một quan tiền (denarius),
tiền này tạm đủ để nuôi gia đình ở mức căn bản.
Dụ ngôn hôm nay có nhiều nét khác thường mà không có lời giải thích.
Ong chủ vườn nho tự mình ra chợ mướn người, thay vì viên quản lý.
Những người thợ đứng suốt ngày ngoài chợ (c.6)
lại không được ông chủ thấy và mướn từ đầu, dù ông ra chợ nhiều lần.
Chỉ nhóm thợ đầu tiên mới được thuê với tiền công rõ ràng,
còn ba nhóm sau chỉ được hứa sẽ trả “hợp lẽ công bằng” (c.4).
Cuối cùng ba nhóm giữa bị bỏ rơi, để chỉ tập trung vào nhóm đầu và cuối.
Dụ ngôn này trở nên hết sức khác thường
với việc ông chủ ra lệnh trả công cho người làm cuối trước.
Những người thợ giờ thứ mười một (5 giờ chiều)
cả ngày làm có một tiếng, được trả một quan tiền.
Điều này hẳn tạo ra niềm hy vọng cho những ai đã làm từ sáng sớm,
“đã làm việc nặng nhọc cả ngày, lại bị nắng nôi thiêu đốt” (c.12).
Nhưng rốt cuộc những người thợ đầu tiên cũng chỉ được một quan tiền.
Chúng ta cần phải đứng trong hoàn cảnh của họ
để xem họ sẽ sửng sốt, thất vọng, buồn bực, tức giận và cằn nhằn ra sao.
Có lẽ chúng ta cũng phản ứng tương tự khi gặp chuyện như vậy.
Phản ứng này cũng là phản ứng giận dữ của người anh cả
khi biết cha mình đã tiếp đón linh đình sự trở về của đứa con hư hỏng.
Đối với những người thợ, đây rõ ràng là một sự bất công.
Bất công nằm ở chỗ làm nhiều. làm ít, nhận lương như nhau.
Nhưng ông chủ không cho đây là một sự bất công,
vì ông đã trả cho nhóm thợ làm sớm nhất đúng như đã thỏa thuận.
Những câu cuối của dụ ngôn là những câu đẹp nhất,
những câu nói lên bản chất sâu xa của tấm lòng Thiên Chúa.
“Tôi muốn cho người làm cuối này như tôi cho anh” (c. 14).
Tôi muốn cho họ nhiều như tôi đã cho anh, tôi muốn họ bằng anh:
đó là ước muốn, là chọn lựa của Thiên Chúa.
Tình thương của Người phá vỡ sự phân biệt người đầu, người cuối,
người làm nhiều, làm ít, công nhiều, công ít.
“Chẳng lẽ tôi không được phép làm điều tôi muốn
với tài sản của tôi sao?” (c. 15).
Thiên Chúa giàu sang nên có quyền rộng rãi thi ân cho kẻ Người muốn.
Chẳng ai có thể bắt Người phải đối xử công bình theo kiểu con người.
Chẳng ai có quyền hạch hỏi Người vì Người quá sức độ lượng (c.12).
“Hay mắt của anh xấu xa vì tôi tốt lành” (c. 15).
Con mắt xấu xa là con mắt khó chịu vì kẻ khác bằng mình, dù không đáng,
ghen tỵ với may mắn và hạnh phúc bất ngờ của người khác.
Đức Giêsu khẳng định mình là người tốt lành,
đặc biệt trong cách cư xử của Người đối với những tội nhân.
Anh trộm lành trên thập giá cũng là người thợ giờ thứ mười một.
Anh được hưởng những gì mà người khác phải nỗ lực cả đời.
Nói cho cùng, vấn đề không phải là đáng hay không đáng.
Chẳng ai xứng đáng để vào thiên đàng, kể cả các thánh.
Hạnh phúc Nước Trời là một ơn ban
hơn là một sự trả công hay phần thưởng.
Thiên Chúa vượt lên trên sự sòng phẳng có tính mua bán của con người.
Người không phải là nhà buôn, nhưng là người cha tốt lành.
Cha thương cả hai con, cả đứa ở nhà phục vụ lẫn đứa bỏ đi bụi đời.
Thậm chí đứa hư hỏng hay tật nguyền lại được quan tâm hơn.
Ông chủ vườn nho thương cả những người
đứng ngoài chợ suốt ngày mà không được ai mướn.
Có thể vì họ kém khả năng, kém may mắn hơn những người khác chăng?
Người thợ giờ thứ mười một đã làm được gì cho vườn nho của ông chủ?
Chắc chẳng được bao nhiêu.
Nhưng anh ấy đã đứng chờ suốt ngày.
Thế giới này lúc nào cũng có những người thợ giờ thứ mười một,
“những người không được ai mướn” (c.7),
những người cứ đứng chờ vậy thôi, suốt ngày, suốt đời,
những người được nhận trễ, chẳng biết mình sẽ được trả lương ra sao.
chỉ biết phó thác cho lòng tốt của ông chủ.
Những người này khác với những người làm từ sáng,
biết chắc mình sẽ được trả công một quan tiền.
Dụ ngôn không nói đến việc người làm cuối reo lên vì được trả công hậu hỹ.
Nhưng chắc là đã có những tiếng reo.
Thiên đàng đầy ắp những tiếng reo như thế,
kinh ngạc, ngỡ ngàng, thán phục, tri ân…
Chẳng có ai vào thiên đàng mà lại không reo lên
vì thấy những gì gọi là công đức của mình chỉ là chuyện nhỏ,
quá nhỏ để có thể mua được một vé vào thiên đàng.
Người ta cũng sẽ reo lên vì thấy sự có mặt của những người
mà ta tưởng chẳng bao giờ có thể lên thiên đàng được.
Thiên Chúa không chỉ thấy thời gian làm việc trong vườn nho.
Người còn thấy cả thời gian chờ.
Nhiều khi chờ còn mệt hơn làm việc.
Đừng cằn nhằn! hãy vui với niềm vui của Thiên Chúa,
Đấng hạnh phúc khi thấy người ta ngỡ ngàng vì những ơn bất ngờ,
vì lòng tốt của Ngi không sao hiểu được.
Hãy vui với những người được Chúa yêu, bất chấp quá khứ của họ.
Chúng ta không có quyền buồn như người con cả, khi cha đang vui.
Hãy đổi cái nhìn của mình về Thiên Chúa.
Như thế chúng ta cũng sẽ thay đổi cách cư xử với anh em.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu, con Thiên Chúa,
Chúa đã làm người như chúng con,
Nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.
Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc
Mà con người lại yếu đuối mong manh.
Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt,
Và giữa ánh sáng,
Cũng có những bóng mờ đe dọa.
Lạy Chúa Giêsu,
Nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến,
Xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu
Chúa đã buồn muốn chết được.
Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây,
Xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá
Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?
Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.
Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.
Xin cho con yêu đời luôn
Dù đời chẳng luôn đáng yêu.
Xin cho con can đảm
Đối diện với những thách đố
Vì biết rằng cuối cùng
Chiến thắng thuộc về người
Có niềm hy vọng lớn hơn. Amen
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
SUY NIỆM 2: Ông chủ tốt bụng
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Con người thường dùng quyền lực để áp bức. Vì quyền lực A-vi-me-lec không ngần ngại giết 70 người anh em trong gia đình. Vì lợi, người dân Si-khem không ngần ngại chọn A-vi-me-lec chỉ với lý do đây là người thân (năm lẻ). Nhưng rồi quyền lợi sẽ mâu thuẫn nhau. Người ham quyền ham lợi sẽ bóc lột dân như lời E-dê-kien: “Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt các ngươi làm thịt; nhưng các ngươi lại không lo chăn dắt đàn chiên… Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc” (năm chẵn). Giống như Gio-tham mô tả trong ngụ ngôn chống lại A-vi-me-lec: “Bụi gai trả lời cây cối: Nếu quả thật các ngươi xức dầu phong ta làm vua cai trị các ngươi, thì hãy tới nương náu dưới bóng ta; bằng không, lửa sẽ bốc ra từ bụi gai và sẽ thiêu rụi các cây bá hương Li-băng”(năm lẻ).
Chỉ có Chúa là ông chủ tốt bụng, không đến để khai thác sức lao động của công nhân, nhưng chăm lo cho đời sống của từng người.
Thiên Chúa là ông chủ tốt bụng quan tâm tới từng người, đặc biệt là người bị bỏ rơi. Người thợ không có ai thuê là người kém may mắn trong xã hội. Bị xã hội gạt ra ngoài lề. Chỉ có Thiên Chúa mới quan tâm, mời họ vào làm vườn nho cho Chúa.
Thiên Chúa là ông chủ tốt bụng, không chỉ có công bình mà còn có tình thương. Công bình tuyệt đối chỉ có trong hỏa ngục. Xã hội không tình thương không thể sống được. Xã hội là một toàn thể, là một gia đình Thiên Chúa. Trong một toàn thể, cần phải có sự hài hòa trong tổng thể. Ta liên đới với người khác. Ta không thể hạnh phúc một mình. Người đau khổ là lời chất vấn lương tâm trách nhiệm của ta. Thiên Chúa dậy ta hãy quan tâm tới anh em bé nhỏ khi trả cho người thợ chỉ làm 1 giờ số lương đủ sống cho cả gia đình.
Thiên Chúa là ông chủ tốt bụng, không nhìn con người theo hiệu năng công việc nhưng nhìn theo tình người. Xã hội hôm nay nhìn con người theo hiệu năng. Nên những người già cả, ốm yếu bị loại trừ. Trong mắt Thiên Chúa, con người không những là nhân vị đáng kính trọng mà còn là những người con đáng yêu mến. Theo nhãn quan thiêng liêng, những người bất hạnh, đau khổ là nguồn ơn phúc cho chúng ta vì những đau khổ của họ thông phần vào sự đau khổ của Chúa Giêsu.
Xin cho chúng ta biết chọn ông chủ tốt bụng để chúng ta được quan tâm khi đau yếu, tha thứ khi lỗi phạm và luôn được chia sẻ hạnh phúc với Thiên Chúa, Đấng yêu thương chúng ta bằng tình yêu thương vượt tất cả mọi tình yêu thương.
SUY NIỆM 3: Lòng Quảng Ðại Của Thiên Chúa
Dụ ngôn Chúa Giêsu dùng để trình bày giáo lý của Ngài cho dân chúng được các nhà chú giải xếp thành hai loại: tỷ dụ và dụ ngôn. Loại tỷ dụ là thể văn mà toàn bộ những chi tiết đều mang ý nghĩa nòng cốt, còn các chi tiết phụ chỉ làm cho câu truyện thêm thú vị và khiến người đọc quan tâm chú ý đến ý chính mà thôi.
Câu truyện về những người thợ vào làm vườn nho của chủ là một dụ ngôn. Chủ đề chính của dụ ngôn là mối liên hệ của con người với Thiên Chúa trên bình diện ân sủng.
Trong lúc các Rabbi Do thái thường tính toán phần thưởng Thiên Chúa ban cho mọi việc lành, thì cách tính toán sòng phẳng theo công bình giao hoán này hoàn toàn bị dụ ngôn làm đảo lộn, vì nếu chúng ta tính với Chúa, Ngài sẽ tính với chúng ta, và chắc chắn số tội của chúng ta sẽ nhiều hơn công phúc và chúng ta sẽ là kẻ thiệt thòi.
Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn để cảnh cáo người Do thái không nên so đo, phân bì với người tội lỗi hay người ngoại giáo được ơn Chúa trở lại và thừa hưởng Nước Trời, bởi vì Nước Trời là phần thưởng nhưng không do lòng quảng đại của Chúa, chứ không do lòng đạo đức hay công nghiệp của con người. Câu trả lời của Chúa Giêsu cho những kẻ phàn nàn kêu trách nêu bật lòng quảng đại của Thiên Chúa: "Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi một quan sao; cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn, tôi không có quyền được tùy ý sử dụng của cải tôi sao?". Thiên Chúa đối xử tốt với mọi người, Ngài ban ơn cho mọi người chỉ vì lòng thương của Ngài mà thôi. Còn con người thì dễ bị cám dỗ, ghen tỵ, hẹp hòi, muốn giới hạn hành động yêu thương của Thiên Chúa.
Chúng ta hãy xét xem mình đã có thái độ nào đối với người khác, nhất là khi thấy họ được sự lành? Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi tính ghen tỵ và cho chúng ta sống quảng đại với mọi người.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Giá Trị Và Nhân Phẩm Con Người (Mt 20,1-16a)
Qua câu chuyện ngụ ngôn về người chủ vườn và các công nhân làm vườn nho, Chúa Giêsu đã diễn tả lòng quảng đại và lòng bác ái vô biên của Thiên Chúa đối với nhân loại. Ngài đã dùng một thực tại rất gần gũi với đời sống xã hội của người Do Thái đương thời là vào thời ấy các công nhân thường hay đứng đợi ở những nơi công cộng như chợ búa chẳng hạn, để chờ các chủ nhân đến mướn làm việc. Thường là những công việc làm ngắn hạn, có khi chỉ là một ngày công mà thôi cho nên nếu ngày nào mà có những công nhân đó không có việc làm có nghĩa là ngày ấy thiếu những bát cơm nóng trên bàn ăn của gia đình.
Trong chuyện ngụ ngôn hôm nay, người chủ nhân đã gọi các công nhân làm việc vào giờ cuối cùng nhưng đã rộng lượng trả tiền thù lao cho họ ngang bằng với tiền trả cho những người làm việc cả ngày. Qua lối nói ẩn dụ này Chúa Giêsu cho thấy lòng nhân ái của Chúa Cha đối với nhân loại, nhất là đối với những kẻ tội lỗi, những người bị áp bức và bị đẩy ra bên lề của xã hội phong kiến thời ấy. Có những người thất nghiệp không phải vì họ lười biếng không chịu làm việc mà vì hệ thống kinh tế thời đó không tạo ra công ăn việc làm cho người dân. Người chủ nhân mướn và trả công thật hậu cho những người làm việc vào giờ chót, cho thấy tấm lòng quảng đại bao la của ông, vì nếu ông chỉ trả lương đúng theo số giờ họ đã làm việc thì chắc chắn là gia đình của những người này sẽ thiếu ăn trong ngày hôm đó.
Thiên Chúa chính là vị chủ nhân tốt lành và quảng đại với tất cả tạo vật của Ngài. Ngài luôn quan tâm và thương xót nhân loại, nhất là đối với những người đau khổ về mặt vật chất lẫn tinh thần như lời Ngài nói: "Tất cả những ai mang gánh nặng nề hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng". Như thế, người chủ nhân đã rộng lòng trả tiền lương cho tất cả các công nhân ngang bằng nhau, không kể họ làm việc vào giờ nào, điều đó không phải là sự bất công. Người chủ vườn là Thiên Chúa luôn công bằng với các tạo vật của Ngài, ai làm việc nhiều giờ hay ít giờ đối với Ngài không là việc thiết yếu; điều quan trọng là ý định và thái độ làm việc của các công nhân.
Thiên Chúa yêu mến những ai phục vụ Ngài bằng với tinh thần yêu thương và hân hoan chứ không làm việc vì muốn được hưởng công hậu hay vì mục đích tham vọng cá nhân. Sự làm việc có một giá trị thiêng liêng đối với con người vì qua sự làm việc, con người làm vinh danh Thiên Chúa và cộng tác vào công trình sáng tạo và cứu độ của Ngài. Qua công việc làm, con người trở nên hữu ích và góp phần vào công việc xây dựng và làm thăng tiến xã hội, và cũng qua đó tìm thấy giá trị và nhân phẩm của mình.
Qua chuyện ngụ ngôn hôm nay những công nhân được mướn làm giờ đầu tiên ám chỉ đến dân tộc Israel, là dân tộc đã được Thiên Chúa chọn làm dân riêng và được Ngài mạc khải chương trình cứu độ, nhưng dân Do Thái đã từ khước Thiên Chúa lại còn giết hại Con Một do Ngài sai tới để cứu chuộc thế gian. Nhưng tình yêu thương được thể hiện qua công trình cứu độ của Thiên Chúa không giới hạn trong quốc gia Do Thái mà còn mở rộng đến mọi dân tộc trên thế gian.
Các công nhân được gọi làm việc trong vườn nho vào giờ cuối cùng là hình ảnh tiêu biểu cho tất cả các dân ngoại đã từng hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa như Ngài đã ban ơn cho dân Do Thái.
Lạy Chúa,
Xin dạy cho chúng con biết phục vụ Chúa và những anh chị em khác với lòng quảng đại và niềm hân hoan. Xin cho chúng con biết dâng hiến nhiều hơn là cầu xin cho sự ích lợi của riêng mình.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 5: Sống Hằng Ngày Với Ý Hướng Đời Đời
“Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình.
Chiều đến ông bảo người quản lý: Anh gọi thợ lại và trả công cho họ, bắt đầu từ người vào làm sau chót tới người làm trước nhất.”
Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: “Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt.”
Thế là những kẻ đứng sau chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót. [Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.] (Mt. 20, 1.8.11.12.16)
Người ta cho rằng: “Sự giải thích thực tế của cổ truyền không được nhất trí về chủ đề của dụ ngôn này” Xin cho phép tôi diễn tả ý tưởng của riêng tôi như sau.
Tình yêu đối với kẻ đứng chót.
Tình yêu Thiên Chúa đối với kẻ đứng chót là tình yêu vô cùng, vô cùng đối với tất cả và từng người. Mỗi người nhận được tình yêu vô cùng này tùy theo khả năng yêu mến của mình.
Tình yêu Thiên Chúa là ân huệ cho không, nhưng có tính cách như một nghĩa vụ, Thiên Chúa yêu ta nhưng không, như cha thương con của Ngài, chúng ta được quyền đó. Đức Kitô không chết để tô điểm cho tình yêu thêm bóng bẩy, Người chết vì vâng lời Chúa Cha. Sự vâng phục của Đức Kitô cho chúng ta thêm khả năng yêu mến Thiên Chúa như chúng ta ước muốn. Cái chết của Đức Kitô nhắc nhở chúng ta nhớ đến tình yêu của Thiên Chúa vô cùng, đời đời. Ngài là chủ nhà, là cha trong gia đình. Ngài ban tình yêu của Ngài cho từng đức con mộtc cách trọn tình. Chúng ta phải đáp lại tình yêu của Ngài, phải làm sống lại tình yêu của Ngài.
Luôn luôn làm việc hết mình.
Đừng nghĩ rằng những giờ trong ngày làm việc là những khoảng khắc thời gian đồng hồ! Tôi xin gợi ý rằng cần phải biết giá trị thời gian này là kỳ hạn của đời người, của những thái độ chúng ta trước dung nhan Thiên Chúa. Sáng sớm chủ đi, mướn tất cả thợ mà ông gặp, nhưng đến giờ chót vẫn còn một số thợ.
Phần đông chúng ta cũng là số thợ được tình yêu vô cùng của Chúa vào giờ chót. Vì thế chúng ta phải có ý thức hăng hái làm việc hết mình để đáp lại tình yêu vô bờ bến ấy. Những thợ giờ chót không phải là những kẻ chậm trễ, nhưng là những kẻ sống hằng ngày với ý hướng đời đời rồi.
Được Chúa tiếp nhận, được tình yêu lạ lùng của Thiên Chúa đối với con người. Những người thợ này hiến thân hết lòng đối với tình yêu đã an ủi họ.
Hơn nữa, những kẻ trở về, đừng nghĩ chuộc lại thời gian đã mất, nhưng hãy kính mến Chúa hết lòng vì Người đã mong chờ mình mọi ngày như người cha chờ mong đứa con phung phá trở về.
J.M
SUY NIỆM 6: HÃY ĐI VÀ LÀM VƯỜN NHO CHO CHÚA (Mt 20, 1-16a)
Xem lại CN 25 TN A.
“Hãy đi và làm vườn nho cho Chúa”. Đây là lời mời gọi của Đức Giêsu cho mỗi người chúng ta.
Vườn nho được hiểu là Giáo Hội. Người mời gọi là chính Thiên Chúa. Đi làm vườn nho được hiểu là công tác truyền giáo. Việc Thiên Chúa trả lương cách hậu hĩnh và công bằng muốn diễn tả Người là Đấng Giàu Lòng Thương Xót.
Vì thế, lời mời gọi đi làm vườn nho không có nghĩa là một bản hợp đồng lao động, và việc nhận lương không căn cứ vào thời gian hay công việc. Điều Đức Giêsu muốn nói ở đây chính là: “Thiên Chúa để ý đến tinh thần của người tham gia vào công việc của vườn nho”.
Qua Lời Chúa hôm nay, Đức Giêsu không muốn ai phải thất vọng, mọi người đều có chỗ đứng trong Giáo Hội. Thật vậy, Đức Giêsu muốn nói đến tính phổ quát của của ơn cứu độ, vì Thiên Chúa không chỉ dành ơn cứu độ cho dân Dothái, cho người Công Giáo, nhưng là cho muôn dân muôn nước không trừ ai. Đồng thời Đức Giêsu cũng mặc khải về lòng bao dung, quảng đại và thương xót của Người.
Như vậy, ta có thể hiểu rằng: mỗi người, Chúa đều trao cho những nén bạc và tùy khả năng để sinh lời. Phần thưởng dựa vào tiêu chuẩn là người đó có thực sự cố gắng và chu toàn hay không mà thôi.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy can đảm, trung thành, yêu mến và dấn thân vào làm vườn nho của Chúa, bằng cách sống tốt và chu toàn bổn phận của mình theo thánh ý Chúa dựa trên tình yêu.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết yêu mến Chúa tha thiết, biết gắn bó với Giáo Hội và trung thành với bổn phận của mình. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Lòng quảng đại nhân lành
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Thiên Chúa đối xử với mọi người bằng tình thương. Đó là đức công minh của Ngài. Thái độ kể công làm ta không thể nhận ra tình thương phổ quát của Chúa đối với mọi người.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, tiêu chuẩn của người đời chúng con là “ăn cho đều, kêu cho sòng”, nên con hiểu và thông cảm thái độ khó chịu, cằn nhằn, của anh thợ làm việc vất vả suốt ngày.
Đôi khi con cũng hay phân bì cả với Chúa nữa. Có người suốt đời sống xa Chúa, thế mà trước giờ chết ăn năn trở lại, thì được Chúa đón về thiên đàng. Con phân bì vì nghĩ rằng mình bị thiệt thòi, nghĩ rằng mình đã vất vả giữ đạo từ bé cũng chẳng hơn gì.
Lạy Chúa, con đã muốn Chúa cư xử với mọi người một cách sòng phẳng, nhưng Chúa không muốn cư xử như vậy. Chúa không muốn con nghĩ về Chúa như vậy. Chúa không phải là ông chủ tính sổ trên sức lao động của người khác, Chúa cũng không nhìn chúng con như một người lao công. Chúa đã cư xử với mọi người chúng con bằng tình thương, bằng tấm lòng quảng đại. Tất cả đều là hồng ân, tất cả đều là tình thương, tất cả chỉ vì lợi ích cho chúng con. Chúa chỉ cần thiện chí của chúng con. Đó là tiêu chuẩn hành động của Chúa, đó là tấm lòng Chúa dành cho con. Bởi vì con làm việc từ sáng sớm, vất vả suốt ngày, cũng không xứng đáng lãnh nhận một đồng tiền công. Và nếu con chỉ được làm việc vào giờ cuối cùng, con cũng không được thất vọng, nhưng vẫn hy vọng vào lòng nhân hậu của Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con nhận ra tình thương nhân hậu của Chúa để cuộc sống của con tỏ hiện tình thương đối với mọi người. Xin giúp con sống với nhau đừng theo kiểu tính toán chi ly hơn thiệt, nhưng theo kiểu quảng đại của Chúa. Amen.
Ghi nhớ: “Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng”.
Suy Niệm 8: Vườn nho của Chúa
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Vườn nho là hình ảnh thân thương đối với dân Do Thái. Chủ đề vườn nho là một trong những chủ đề phong phú nhất của cả Cựu ước, thường được liên kết với chủ đề tình yêu và vườn nho trở nên biểu tượng của “Dân Thiên Chúa” (x. Is 5,1-7; Gr 2,21; Ed 17,6; Hs 10,1; Tv 78,9-16).
Ngôn sứ Isaia đã phác họa hình ảnh vườn nho được chăm sóc để làm nổi bật Thiên Chúa đã yêu thương, chăm sóc dân “tuyển chọn” rất ân cần chu đáo qua nhân vật chủ vườn nho: “Anh ra tay cuốc đất nhặt đá, giống nho quý đem trồng, giữa vườn anh xây một vọng gác, rồi khoét bồn đạp nho” (Is 5,2a). Người chủ quý vườn nho đến nỗi anh có thể làm tất cả cho sự trù phú của nho: “Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm ?” (Is 5,4). Với sự chăm sóc ân cần cho vườn nho - dân tuyển chọn của Thiên Chúa, người chủ vườn mong những cây nho thân yêu của mình sinh ra những trái nho ngon ngọt...
Suy niệm
Theo ý nghĩa của Kinh Thánh, vườn nho là nơi hạnh phúc, nơi Giao ước với Thiên Chúa, nơi mà Thiên Chúa không ngừng mời gọi chúng ta bước vào như Chúa Giêsu mời gọi: “Hãy đi vào vườn nho của tôi... Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” (x. Mt 25:21-23).
Chúa Giêsu là ông chủ vườn nho, Ngài gọi mọi người đi làm vườn nho cho Ngài vào giờ thứ ba, thứ sáu, thứ chín và thứ mười một. Người Do Thái khi xưa chia một ngày ra tám phần, bốn phần cho ban đêm gọi là canh, và bốn phần cho ban ngày gọi là giờ - giờ thứ nhất, giờ thứ ba, thứ sáu và thứ chín. Với thời gian hôm nay giờ thứ nhất bắt đầu vào rạng đông tức khoảng 6 giờ sáng, giờ thứ ba tương ứng với 9 giờ, giờ thứ sáu là 12 giờ trưa, giờ thứ chín tức 15 giờ và giờ thứ mười một tương đương lúc 17 giờ và ngày làm việc chấm dứt lúc giờ thứ mười hai tức là 18 giờ.
Giờ thứ mười hai là giờ chủ trả công cho mọi người một đồng, một đồng là một số lương với giá trị tối thiểu cho một gia đình sống qua ngày. Chờ đến giờ thứ mười một là những người rất khao khát và cần làm việc kiếm tiền nuôi gia đình. Tất cả đều được trả công một đồng. Người làm sớm cằn nhằn, lẩm bẩm vì ông chủ trả hậu hĩ cho người mới làm một tiếng cũng được một đồng. Bản văn Hy Lạp dùng một chữ có nghĩa chính xác: “Họ lẩm bẩm”. Đó là từ ngữ trong Kinh Thánh nói về những tiếng lẩm bẩm, cằn nhằn của dân Israel trong sa mạc (x. Xh 16,9; Tv l06,25). Những kẻ lẩm bẩm, cằn nhằn ấy trong Tân ước thường thấy nơi các kinh sư và biệt phái, họ không ngừng lẩm bẩm chống lại Đức Giêsu khi Người tiếp đón những “kẻ thu thuế, kẻ tội lỗi và gái điếm” (x. Mt 9,11; Mc 2,16).
Qua dụ ngôn “làm vườn nho”, Đức Giêsu mời chúng ta thay đổi cái nhìn về Thiên Chúa. Ngài công bình, nhưng không cứng nhắc trong luật lệ. Ngài còn là Thiên Chúa của tình yêu (x. 1Ga 4,16), Thiên Chúa của người trộm lành (x. Lc 23,41-43). Qua đó chứng thực sấm ngôn của Isaia: Tư tưởng của Chúa khác hẳn tư tưởng của con người (x. Is 55,8-9). Cách cư xử của nước Trời khác hẳn cách cư xử của nước trần gian. Lý luận của Chúa khác hẳn lý luận của người đời. Ngài không trọng sang khinh hèn, nhưng yêu thương giúp đỡ những người kém may mắn, bị bỏ rơi trong xã hội. Ngài không dùng lý lẽ của lý trí nhưng dùng lý lẽ của con tim luôn yêu thương, luôn mong muốn hạnh phúc cho mọi người.
Phần chúng ta, theo Chúa không cần một sự thỏa thuận được thua hơn kém, theo Chúa là vào làm việc cho vườn nho của Ngài là tin tưởng vào sự công bình và quảng đại của chủ vườn nho. Tình thương của Thiên Chúa khiến chúng ta nhớ đến người trộm lành trên đồi Canvê là người được gọi làm vườn nho vào giờ thứ mười một của nước Thiên Chúa, anh chỉ tín thác “khi về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi”, trong khi đó bạn anh lên tiếng trước “...” đòi hỏi thỏa thuận “nếu ... thì” (x. Lc 23,39-43).
Ước gì con sẽ “không lẩm bẩm” với Chúa, con cũng chẳng “hãnh diện so sánh hơn thiệt” với anh em. Đi vào vườn nho Giáo hội, con không đặt điều kiện đòi hỏi nơi Ngài mình sẽ được gì, nhưng luôn tin và tín thác vào Ngài và cố gắng làm vườn nho.
Ý lực sống
“Người ta được nên công chính vì tin…” (Rm 3,30).
Suy Niệm 9: Dụ ngôn thợ làm vườn nho (Mt 20,1-16a)
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Nước trời giống như chủ nhà kia sáng sớm đi mướn người làm vườn nho mình. Ông định cho họ mỗi ngày một quan tiền. Và họ làm việc. Đến 9 giờ và đến trưa ông thấy còn có người ở không, nên cũng gọi họ vào làm. Chiều đến, ông phát lương cho họ: mấy người vào làm sau hết được lãnh mỗi người một quan tiền. Thấy vậy, những người vào làm trước hết tưởng mình sẽ được lãnh nhiều hơn, nhưng rốt cuộc họ cũng chỉ lành được một quan tiền, nên họ phàn nàn trách móc ông chủ bất công. Ông liền nói với họ: các anh đã đồng ý giá mỗi ngày một quan tiền, tôi đã trả đủ cho các anh. Còn những người vào làm sau, tôi cũng cho bằng các anh là tuỳ lòng tốt của tôi.
Ý nghĩa dụ ngôn
Trước hết, dụ ngôn muốn nói lên lòng quảng đại của Thiên Chúa (ông chủ) đối với dân ngoại, những kẻ được gọi vào Hội thánh (vườn nho) vào giờ sau hết (17 giờ). Đối với những người này Thiên Chúa cũng ban cho họ mọi quyền lợi và đặc ân như người Do thái, những kẻ đã được gọi từ đầu (họ được thuê từ sáng).
Cách đối xử khoan dung và quảng đại này làm cho những người Do thái bực bội, vì họ tưởng bị thiệt thòi, thua kém dân ngoại. Được chọn trước dân ngoại, người Do thái đã tưởng rằng Thiên Chúa phải mắc nợ họ. Những thái độ của những người cằn nhằn ông chủ, cũng giống như thái độ của người biệt phái lên đền thờ cầu nguyện.
Chuyện này còn ngụ ý rằng Thiên Chúa làm gì cho ai, cũng là bởi tình thương mà thôi: “Tôi muốn cho người vào làm sau chót được bằng bạn...”, người ta phải tôn trọng trong cách xử sự của Người: “Chẳng lẽ tôi lại không có quyền được tuỳ ý sử dụng của cải tôi sao ?” Kẻ không chấp nhận việc người tỏ tình thương như thế, kẻ ấy mắc tội ghen tỵ. Khi người ta đặt nặng các ơn ban hơn là tình yêu ban ơn, cũng là hơn chính Đấng thương yêu, thì người ta không yêu mến mà chỉ ích kỷ thôi! (Lm. Trần Hữu Thành).
Bao Công ngày xưa nổi tiếng là vị quan xử án công bằng, “thiết diện vô tư”, không kiêng nể người phạm tội là ai. Cho dù đó là hoàng thân quốc thích như phò mã Trần Thế Mỹ hay cháu quan thái sư Bàng Đức... ông đều xử rất công bằng, đúng người đúng tội, không thiên vị một ai. Đây là sự công bằng của con người.
Sự công bằng của Thiên Chúa thì khác. Dụ ngôn ông chủ và người làm công cho thấy rõ điều này. Trong dụ ngôn, ông chủ ám chỉ Thiên Chúa, còn những người làm công là chúng ta. Theo lối nhìn của người trần gian, những người vào làm từ sáng sớm sẽ được nhiều tiền hơn những người vào làm việc từ lúc 17 giờ. Nhưng Thiên Chúa không nhìn theo lối nhìn này.
Đối với Chúa, mọi người cần được thương yêu, chăm sóc, đều có những nhu cầu cần được đáp ứng. Vì thế, Người rộng ban cho chúng ta mọi ơn lành theo như nhu cầu chúng ta cần, chứ không theo như cộng trạng của chúng ta.
Qua dụ ngôn người làm vườn nho chúng ta thấy rằng: Thiên Chúa không chỉ công bằng, vì Ngài đã trả công đúng như đã thoả thuận, nhưng còn rất giàu lòng yêu thương (1Ga 4,16). Ngài yêu thương và quan tâm đến con người, đặc biệt là những người có hoàn cảnh khó khăn, kém may mắn. Hay nói đúng hơn, Thiên Chúa mong muốn tất cả mọi người đều làm việc trong vườn nho của Chúa, để được hưởng hạnh phúc Nước trời.
Phần chúng ta, chúng ta theo Chúa không phải vì sự thoả thuận hay được trả công nhiều hay ít. Nhưng theo Chúa là vào làm vườn nho cho Chúa, là tin tưởng vào sự công bằng và tình thương của Ngài, để rồi trong đời sống chúng ta biết cố gắng hằng ngày làm việc cho vườn nho của Chúa.
Muốn nên giống Chúa Kitô, chúng ta phải sống theo tinh thần Tân ước, không chỉ chú ý đến công bằng mà nhất là chú ý đến bác ái. Đối với Chúa, đức công bằng chưa đủ, vì như thế chúng ta còn đang sống trong tinh thần Cựu ước, vì Cựu ước chưa được hoàn hảo. Chính vì vậy mà dụ ngôn hôm nay nhắc nhở chúng ta là phải chú trọng tới tình yêu đối với Chúa và đối với tha nhân. Từ nay chúng ta đừng phân bì với nhau, mà hãy để cho Chúa hành động theo ý Ngài.
Truyện: Cha Sở và Cha Phó
Tại một xứ đạo kia số dân khá đông, có cha Sở và Cha Phó. Một số giáo dân, vì cuộc sống bác ái chưa trưởng thành, nên có hai nhóm xung khắc nhau. Một nhóm quí Cha Sở, nhóm kia quí Cha Phó, vì ngài còn trẻ và năng nổ.
Một hôm nhóm ủng hộ Cha Sở đến trao đổi tâm tình với ngài:
- Thưa cha, cha ở đây đã lâu năm, công dày, đức cao, sao cha để Cha Phó thay đổi nề nếp giáo xứ minh, bỏ đi công lao cha xây dựng ? Và đám thanh niên cùng một số lớn giáo dân có vẻ nghiêng cảm tình về Cha Phó. Xin cha ngăn cản đi.
Cha Sở bình tĩnh trả lời:
- Giữa tôi và Cha Phó ai vất vả hơn ?
- Cha Phó.
Cha Sở chậm rãi nói tiếp:
- Ngài còn trẻ, còn có sức hoạt động, phải dấn thân nhiều, và Chúa cũng lo liệu và trợ giúp ngài bằng cách cho những tâm hồn biết thông cảm, cộng tác. Đó là điều công bằng, điều tốt đẹp, sao các ông bà so bì với tôi, một người đáng lẽ đã về hưu ?
Nghe Cha Sở nói sai tần số với mình, nhóm kia chống chế:
- Cha cũng đã từng hoạt động dấn thân, có khi còn hơn cả Cha Phó bây giờ.
Cha Sở nói tiếp:
- Và tôi cũng đã được người ta quí mến, ủng hộ. Và biết đâu còn hơn Cha Phó. Vì bây giờ Cha Phó vẫn còn một số người thiếu thông cảm, muốn hạ thấp.
Đám người kia ra về, họ cảm phục Cha Sở “đức cao” và cảm thấy tâm hồn, cõi lòng mình sao nhỏ nhen, trần thế quá! Từ đó nạn “bè phái” bớt nhiều.
Suy Niệm 10: Dụ ngôn những người thợ làm vườn nho
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
1. Dụ ngôn những người thợ làm vườn nho.
Điểm nhấn mạnh của dụ ngôn này là 2 lối suy nghĩ khác nhau về cách trả lương của ông chủ:
Lối suy nghĩ của một số người thợ làm việc nhiều giờ: làm nhiều thì phải được trả công nhiều.
Lối suy nghĩ của ông chủ: Ông trả công vì thương (nhưng không lỗi đức công bình), cho nên kẻ làm ít giờ cũng được trả nhiều bằng kẻ làm suốt ngày.
Hai cách suy nghĩ trên phản ánh hai quan niệm khác nhau của người Do Thái và của Chúa Giêsu:
Người Do Thái làm việc đạo đức để tính công với Chúa. Họ nghĩ, họ làm nhiều thì Chúa phải ban ơn cho họ nhiều.
Đối với Chúa Giêsu: Thiên Chúa ban ơn cho ta không phải vì công lao của ta mà vì tình thương của Ngài.
2. “Mấy người sau chót làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ làm ngang hàng với chúng tôi, là những người đã làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt” (Mt 20,12).
Đó là lý lẽ của sự công bằng. Còn lý lẽ của tình thương thì khác. Lý lẽ của tình thương thường vượt xa lý lẽ của công bằng. Trong gia đình, cha mẹ lo cho con cái không phải vì lý lẽ công bằng, theo đúng công lao của chúng, nhưng theo lý lẽ tình thương. Có thể một đứa con bệnh tật yếu đuối chẳng làm gì được cho gia đình nhưng lại được chăm sóc nhiều hơn. Nếu cha mẹ trong gia đình lại cư xử với con cái theo lý lẽ công bằng thì không biết con cái sẽ ra sao ?
Chúa cũng cư xử với chúng ta như thế. Nếu Chúa xử theo công bằng thì không biết chúng ta sẽ ra sao ?
Nếu chúng ta là người thợ làm từ giờ thứ nhất, thì chúng ta không nên ganh tỵ với người làm từ giờ thứ 11 (thí dụ như những người bên lương trở lại, những người hấp hối mới ăn năn tội). Trái lại, chúng ta phải nghĩ rằng, mình hạnh phúc hơn họ vì đã được biết Chúa, ở với Chúa và làm việc cho Chúa lâu hơn họ.
Mỗi khi chúng ta bị cám dỗ viện lẽ công bình để ganh tỵ với người khác, thì chúng ta hãy nghĩ đến câu thánh vịnh “Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được!” (Tv 130,3). Nhờ Chúa cư xử bằng tình thương chứ không theo công bằng mà chúng ta mới có thể đứng vững. Chúng ta phải xin Chúa giúp chúng ta đừng cư xử với mọi người theo lẽ công bình, nhưng biết vươn tới tình thương.
Có một câu chuyện dụ ngôn như sau:
Ngày nọ, Thiên Chúa ngạc nhiên khám phá ra rằng, tất cả mọi người đều được vào Thiên Đàng mà không ai phải sa hỏa ngục. Ngài suy nghĩ phải chăng Ngài không là Đấng công bằng sao.
Ngài cho gọi sứ thần Gabriel lại và ra lệnh: “Ngươi hãy tập trung tất cả mọi người lại trước mặt Ta và đọc cho họ nghe mười giới răn của Ta”.
Tất cả mọi người đều đến trình diện trước tòa Chúa. Sứ thần Gabriel đọc giới răn thứ nhất và Chúa lên tiếng phán bảo: “Tất cả những ai đã phạm giới răn thứ nhất hãy xéo ra khỏi mặt Ta và đi vào hỏa ngục ngay”.
Một số người từ từ tách ra khỏi đám đông và buồn bã đi vào hỏa ngục.
Sứ thần Gabriel tiếp tục đọc các giới răn khác. Cứ sau mỗi giới răn thì lại có một số người rời bỏ đám đông để đi vào hỏa ngục. Sau khi sứ thần Gabriel đọc giới răn thứ sáu, thì tất cả đám đông buồn bã ra đi…. xuống hỏa ngục, chỉ trừ một vị ẩn sĩ già.
Thiên Chúa đưa mắt nhìn sứ thần Gabriel rồi hỏi: “Phải chăng chỉ có người này được vào Thiên Đàng ? Nếu vậy thì ông ta sẽ cô độc lẻ loi lắm”.
Nói xong, Ngài truyền lệnh cho sứ thần Gabriel gọi đám đông lại và cho họ trở vào Thiên Đàng.
Nhìn thấy đám đông tội lỗi xấu xa bỗng dưng được tha thứ và được trở lại Thiên Đàng, vị ẩn sĩ nổi giận và hằn học nói với Chúa: “Chúa không phải là Đấng công bằng. Tại sao Chúa không cho con biết trước điều đó ?”.
Vâng, cách tính toán của vị ẩn sĩ trong câu chuyện chúng ta vừa nghe chẳng khác gì cách tính toán của những người thợ trong Tin Mừng hôm nay. Ông ta tưởng rằng, ông đã giữ đủ mọi thứ thì chỉ có ông mới xứng đáng với những phần thưởng của Chúa, còn những người khác thì không. Đó là cách nghĩ của con người. Nếu không coi chừng thì có thể chúng ta cũng nghĩ như thế.
Giữa một thế giới
đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi người như anh em.
Xin cho các Kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết quảng đại cho đi
và khiêm nhường nhận lãnh. Amen.
Suy Niệm 12: Lý lẽ của tình thương
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Dụ ngôn những thợ làm vườn nho. Điểm nhấn mạnh của dụ ngôn này là 2 lối suy nghĩ khác nhau về cách trả lương của ông chủ :
- Lối suy nghĩ của một số thợ làm nhiều giờ : làm nhiều thì phải được trả công nhiều.
- Lối suy nghĩ của ông chủ : ông trả công vì thương (nhưng không hại đức công bình), cho nên kẻ làm ít giờ cũng được trả nhiều bằng kẻ làm suốt ngày.
Hai cách suy nghĩ trên phản ánh hai quan niệm khác nhau của người do thái và của Chúa Giêsu :
- Người do thái làm việc đạo đức đề tính công với Chúa. Họ nghĩ họ làm càng nhiều thì Chúa phải ban ơn cho họ càng nhiều.
- Đối với Chúa Giêsu : Thiên Chúa ban ơn cho ta không phải vì công lao của ta mà vì tình thương của Ngài.
B.... nẩy mầm.
1. Lý lẽ của tình thương nhiều khi không song hành với lý lẽ của công bằng. Trong gia đình, cha mẹ lo cho con cái không phải theo lý lẽ công bằng, theo đúng công lao của chúng, nhưng theo lý lẽ tình thương. Có thể một đứa con bệnh tật yếu đuối chẳng làm gì được cho gia đình nhưng lại được chăm sóc nhiều hơn. Nếu cha mẹ trong gia đình mà cư xử với con cái theo lý lẽ của công bình thì không biết con cái sẽ ra sao ?
Chúa cũng cư xử với chúng ta như thế. Nếu Chúa xử theo công bình thì không biết chúng ta sẽ ra sao ?
2. Nếu tôi là người thợ làm từ giờ thứ nhất, tôi không nên ganh tị với những người làm từ giờ thứ 11 (những người lương trở lại sau, những người hấp hối mới ăn năn tội). Trái lại tôi phải nghĩ rằng mình hạnh phúc hơn họ vì đã được biết Chúa, ở với Chúa và làm việc cho Chúa lâu hơn họ.
3. Mỗi khi tôi bị cám dỗ viện lẽ công bình để ganh tị với người khác, tôi hãy nghĩ đến câu Thánh vịnh “Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vũng được !”. Nhờ Chúa cư xử bằng tình thương chứ không cư xử theo công bình mà tôi mới có thể đứng vững. Tôi phải xin Chúa giúp tôi cư xử với mọi người hơn lẽ công bình, vươn tới tình thương.
4. Một người do thái nọ qua đời. Sau khi khám nghiệm, các bác sĩ xác nhận người đó đã thực sự chết theo đúng nghĩa y học, và đã cấp giấy chứng thực để chôn cất. Giữa lúc chuẩn bị hạ huyệt, người ta bỗng nghe có tiếng kêu trong quan tài. Mở nắp quan tài ra, người ta rất đỗi ngạc nhiên khi thấy kẻ chết sống lại. Thế nhưng vị chủ trì nói với kẻ chết sống lại như sau : “Chúng tôi không biết rõ ông đang sống hay chết. Nhưng căn cứ theo giấy chứng thực của các bác sĩ, ông quả thực là người chết. Vậy chúng tôi cứ thi hành theo đúng nhận định của bác sĩ.” Nói xong ông truyền đóng nắp quan tài lại và tiếp tục chôn.
Câu chuyện trên đây có lẽ muốn chế diễu tính máy móc, cứng nhắc của nhiều người khi tuân giữ các lể luật tôn giáo cũng như khi cư xử với nhau. ("Mỗi ngày một tin vui")
5. “Mấy người sau chót làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi, là những người đã làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt” (Mt 20,12)
Trời quá oi bức, cái quạt bàn trong nhà thờ hôm nay lại trục trặc rồi. Nó vẫn quạt mát nhưng lại đứng lì một chỗ mà không quay xung quanh được.
Một người lên xoay nó về phía mình. Chưa đầy hai phút một người khác chạy lên, và tiếp tục xoay nó. Thế rồi một lúc sau một người khác nữa lại chạy lên. Bây giờ tiếng xầm xì nổi lên và người ta bắt đầu tranh chấp. Bỗng từ phía dưới một người lên tiếng : “Tốt hơn, hãy tắt cái quạt máy đi !” Và họ chỉ yên lặng sau khi quạt máy đã tắt hẳn.
Tôi suy nghĩ và tự hỏi : Tại sao đến với Chúa mà người ta vẫn còn tranh chấp, ganh tị ? Nhưng dường như cuộc sống con người thường như vậy. Khi tính ích kỷ đã lấn át, cái tôi ngự trị, người ta chỉ còn nghĩ đến mình, thu vén mọi lợi ích cho mình mà quên đi nhu cầu của tha nhân.
Lạy Chúa, Tình yêu Chúa vượt qua mọi tính toán, xin cho con có một tình yêu như Ngài, để con không dừng lại ở quyền lợi, nhưng dừng ở chính những con người để biết yêu thương. (Hosanna)
17/08 Đường vào Nước Trời
- Viết bởi Mt 19, 23-30
Đường vào Nước Trời.
Thứ Ba tuần 20 thường niên.
"Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời".
Lời Chúa: Mt 19, 23-30
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy bảo thật các con: Người giàu có thật khó mà vào Nước Trời. Thầy còn bảo các con rằng: Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời".
Các môn đệ nghe vậy thì bỡ ngỡ quá mà thưa rằng: "Vậy thì ai có thể được cứu độ?" Chúa Giêsu nhìn các ông mà phán rằng: "Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được".
Bấy giờ Phêrô thưa Người rằng: "Này đây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy chúng con sẽ được gì?"
Chúa Giêsu bảo các ông rằng: "Thầy bảo thật các con: Các con đã theo Thầy, thì trong ngày tái sinh, khi Con Người ngự trên toà vinh hiển, các con cũng sẽ ngồi trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Israel. Và tất cả những ai bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, vợ con, ruộng nương vì danh Thầy, thì sẽ được gấp trăm và được sự sống đời đời. Nhưng có nhiều kẻ trước hết sẽ nên sau hết, và kẻ sau hết sẽ nên trước hết".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Lạc đà qua lỗ kim
Suy niệm:
Người thanh niên giàu có đã bỏ đi
khi Thầy Giêsu mời anh bán tài sản và cho người nghèo.
Của cải đã trói buộc anh, dù anh là người có thiện chí.
Anh tìm sự sống đời sau, nhưng lại bị vướng bởi vật chất đời này.
“Người giàu có thật khó vào Nước Trời” (c. 23).
Câu nói này của Thầy Giêsu khiến các môn đệ rất đỗi ngạc nhiên (c. 25),
vì vào thời đó, giàu sang thường được coi là dấu hiệu Chúa chúc lành.
Thầy Giêsu dùng một hình ảnh ngoa dụ, cường điệu,
để diễn tả việc người giàu khó vào Nước Trời,
khó hơn con lạc đà rất to chui qua lỗ kim rất nhỏ.
Dĩ nhiên lạc đà thì chẳng thể nào chui qua lỗ kim được,
nhưng người giàu thì vẫn có thể được vào Nước Trời, dù rất khó khăn,
“vì đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được” (c. 26).
Đã có những người giàu tốt bụng đi theo Thầy Giêsu.
Họ là Giuse Arimathia, Nicôđêmô, Dakêu, là các phụ nữ.
Giuse và Nicôđêmô đã lo mộ phần và việc tẩm liệm Thầy Giêsu.
Dakêu đã tự nguyện chia nửa phần tài sản mình cho người nghèo khó.
Các phụ nữ theo Thầy từ Galilê đã giúp đỡ vật chất cho Thầy (Lc 8, 3).
Có vẻ họ được tự do với của cải trần thế.
Của cải không ngăn cản họ trở thành người môn đệ Thầy Giêsu.
Nhưng cũng phải nhìn nhận của cải vật chất có sức mạnh của nó.
Như người ta hay nói: có tiền mua tiên cũng được.
Tiền bạc của cải có vẻ đem lại chỗ dựa vững chắc cho chủ nhân,
chính vì thế người ta thích thu tích của cải một cách vô độ (Lc 12, 21).
Của cải làm chúng ta phải bận tâm:
“Kho tàng anh em ở đâu, trái tim anh em ở đó” (Mt 6, 21),
kho tàng dưới đất sẽ giữ tim ta dưới đất.
Ham mê của cải có thể bóp nghẹt hạt giống lời Chúa trong tim ta (Mt 13, 22).
Nó làm chúng ta dễ trở nên nô lệ:
“Anh em không thể làm tôi hai chủ, vì sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia…
Anh em không thể làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền tài” (Mt 6, 24).
Như thế nó có khả năng đẩy Thiên Chúa xuống hàng thứ yếu.
Quả thực của cải dễ làm ta khép lòng lại trước Thiên Chúa và tha nhân,
và làm cái tôi của ta trở nên cứng cỏi, tự mãn.
Khác với anh thanh niên giàu có, nhóm Mười Hai đã bỏ mọi sự mà theo Thầy.
“Vậy chúng con sẽ được gì ?”, họ đã hỏi Thầy Giêsu như vậy.
Thầy hứa sẽ cho họ được cùng Thầy xét xử Israel trong ngày tận thế.
Hơn nữa, Thầy còn hứa bất cứ ai chịu mất mát về gia đình, cơ nghiệp,
đều được đền bù gấp trăm, và nhất là được sự sống đời đời (c. 29).
Hôm nay chúng ta cũng hỏi Ngài như vậy, về cái được, cái mất.
Chúng ta có thể bỏ mất nhiều điều mà thiên hạ coi là giá trị,
như một đời sống tiện nghi, một chỗ làm ổn định, hay một chút tiếng tăm.
Chỉ mong được tấm lòng luôn an vui, hạnh phúc,
vì biết mình được Đức Kitô và ở lại trong Ngài (Pl 3, 8-9).
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả
để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà
để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con
cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình,
ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan
để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng
trước khi con tập sống cho Chúa
và thuộc về Chúa
thì Chúa đã sống cho con
và thuộc về con từ lâu. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: Đứng đầu và đứng chót
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Chúa hay làm những chuyện ngược đời: “Nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, và nhiều kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu”. Ghít-ôn là người nhỏ nhất trong một chi tộc nhỏ nhất lại được Chúa chọn làm Thủ lãnh của dân Chúa (năm lẻ). Người thanh niên đạo đức và giầu có, về phương diện xã hội vượt trội hẳn Phê-rô, nhưng chắc chắn sẽ trở thành kẻ đứng chót vì anh ta chối từ lời mời gọi của Chúa. Còn Phê-rô, người ngư phủ nghèo hèn thất học lại trở thành người lãnh đạo Giáo hội. Thành Tia giầu có và kiêu hãnh sẽ bị Chúa cho ngoại bang đến tàn phá, cả đến mạng sống cũng không giữ được (năm chẵn).
Chẳng thể giải thích được nếu không trở lại nguyên lý nền tảng: Chúa là tất cả, con người là hư vô. Có Chúa là có tất cả. Không có Chúa là không có gì hết.
Người giầu sang phú quí dễ gắn bó với tiền bạc hơn với Chúa và dễ cậy dựa vào thế lực đời này hơn là cậy dựa vào Chúa. Và vì thế dễ tin tưởng vào tiền bạc hơn tin Chúa. Đối với họ, tiền bạc có thể giải quyết tất cả. Chả thế mà thành Tia đã tự coi mình như vị thần ngang hàng với Chúa. Chả thế mà người thanh niên giầu có đã quay lưng trước lời mời gọi của Chúa. Còn người nghèo khó thì không có gì để mất nên dễ yêu mến Chúa. Không có thế lực nào để cậy dựa nên dễ cậy dựa vào Chúa. Chẳng thể tin tưởng vào đâu nên chỉ còn biết tin tưởng vào Chúa. Chẳng còn gì nên dễ nhận ra Chúa là tất cả, là gia nghiệp, là kho tàng, là nguồn mạch mọi sự. Và quả thực chỉ có Chúa mới giải quyết được tất cả mọi vấn đề của con người.
Đặc biệt khi người như thánh Phê-rô, tự trở nên nghèo vì Chúa, vì Chúa mà bỏ tất cả mọi sự, dù là những sự chẳng đáng giá gì như manh lưới rách, chiếc thuyền mục, thì Chúa hứa trả lại gấp bội. Nhưng phần thưởng cao quí nhất là chính Chúa. Người nghèo nhất, chẳng còn gì cho mình đã trở nên nhỏ bé để có thể chui qua lỗ kim. Nhưng rồi được Chúa lại có tất cả.
Giá trị của người theo Chúa không tính bằng thời gian, số lượng công việc nhưng tính bằng tình yêu. Người yêu ít thì trở thành đứng chót. Người yêu nhiều sẽ đứng đầu. Kẻ yêu nhiều nhất là dám bỏ tất cả chỉ để được một mình Chúa.
Hãy noi gương thánh Phê-rô, từ bỏ manh lưới rách, chiếc thuyền mục, căn nhà cũ và gia đình nghèo. Vậy mà có khi ta chỉ gắn bó với những cái cũ kỹ, rách nát chẳng có giá trị gì đấy. Hãy sáng suốt nhận định để từ bỏ những thứ vô dụng để được Chúa là tất cả của ta.
SUY NIỆM 3: Giáo Hội Của Người Nghèo
"Giáo Hội của người nghèo", "Ưu tiên phục vụ người nghèo", đó là những khẩu hiệu đã trở thành thời trang trong Giáo Hội kể từ vài thập niên qua. Bất cứ ai có ý thức về công bằng xã hội hoặc đôi chút trăn trở về Giáo Hội trong thế giới ngày nay, cũng đều thốt lên những khẩu hiệu ấy. Nhưng Giáo Hội có thực sự là Giáo Hội của đại đa số dân nghèo khổ chưa?
Sự hiện diện của người nghèo quả là một thách đố lớn cho Giáo Hội. Ngày nay, tiếng kêu than của họ luôn là một nhắc nhớ cho Giáo Hội về bản chất và sứ mệnh của mình trong thế giới. Cuộc trở lại của Hoàng đế Constantinople vào thế kỷ thứ 4 đã chấm dứt những cuộc bách hại đẫm máu và đã biến Tây Phương thành thế giới Kitô giáo, nhưng không chừng đã làm Giáo Hội quên đi bản chất đích thực của mình. Sự tương nhập giữa thế quyền và giáo quyền đã biến Giáo Hội thành một thế lực chính trị, và các vị lãnh đạo Giáo Hội thành những vua chúa trần gian. Nhiều người đã có lý để nói rằng nhờ những lay động của Karl Marx mà Giáo Hội đã lắng nghe được tiếng kêu than của người nghèo, đồng thời ý thức được vai trò và sứ mệnh của mình trong thế giới ngày nay.
Ngay từ khi mới khai sinh, cộng đoàn Kitô tiên khởi đã ý thức được vấn đề ấy. Tin Mừng hôm nay là một phản ánh về những trăn trở của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, cách riêng cộng đoàn Giêrusalem là cộng đoàn gồm toàn những người nghèo trong xã hội thời bấy giờ. Ðọc lại giáo huấn của Chúa Giêsu về thái độ của Kitô hữu đối với tiền bạc của cải, cộng đoàn tiên khởi đặt lại vấn đề về sự hiện diện của người giầu trong Giáo Hội. Theo quan niệm quen thuộc của người Do thái, thì sự giầu sang phú quí là một chúc lành của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đánh đổ quan niệm sai lầm ấy, khi nói rằng: "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó", và rằng sự nghèo khó là điều kiện thiết yếu để vào Nước Trời.
Giáo Hội của người nghèo, điều đó có nghĩa là trước tiên tất cả những ai thuộc về Giáo Hội đều phải có tinh thần nghèo khó đích thực, họ phải sống phó thác và quảng đại chia sẻ cho nhau. Các Kitô hữu tiên khởi đã hiểu được điều ấy: họ để chung của cải lại, chia sẻ với nhau và yêu thương đùm bọc nhau như trong cùng một gia đình. Giáo Hội của người nghèo, điều đó cũng có nghĩa là các tín hữu phải lấy sự phục vụ người nghèo làm ưu tiên hàng đầu. Bản sắc của người Kitô hữu do đó được xác nhận bằng chính tương quan với người nghèo.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta duyệt xét lại cách sống đạo của chúng ta. Thách đố của Giáo Hội hiện nay cũng chính là thách đố của mỗi người chúng ta. Nếu những người cùng khổ chưa phải là thao thức trăn trở của chúng ta, thì có lẽ chúng ta còn quá xa với Giáo Hội Chúa Kitô. Nếu cuộc sống chúng ta chưa phải là cuộc sống liên đới chia sẻ với người khốn khổ, thì có lẽ chúng ta chỉ là những Kitô hữu hữu danh vô thực.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Chiến Thắng Mọi Cám Dỗ (Mt 19,23-30)
Sự ham tiền và bám víu vào tiền của làm cho con người trở nên mù quáng và cản bước con người trên con đường theo Chúa. Bài Phúc Âm hôm qua mô tả thái độ của chàng thanh niên buồn rầu bỏ cuộc, không muốn theo Chúa nữa vì anh ta có nhiều của cải. Chúa Giêsu rút ra bài học cho các môn đệ như sau: "Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên Chúa". Câu kết luận xem ra thật khắt khe, nhưng đây là một lối nói phóng đại của vùng Cận Ðông nhằm đánh động người nghe, khơi lên ý thức về một sự thật quan trọng. Trong đời thường, có bao giờ con lạc đà có thể chui qua lỗ kim nhỏ xíu được. Thế nhưng, giả như có thể có trường hợp này thì nó cũng còn dễ dàng hơn việc người giàu có vào nước Thiên Chúa. Và cách nói qua hai lần phủ định cho rằng không thể được đã nói lên sự thật quan trọng.
Chúng ta không nên hiểu lầm phán quyết khắt khe của Chúa Giêsu về thái độ bám víu của cải và quí trọng của hơn là con người. Chàng thanh niên rút lui vì có nhiều của cải, không phải chỉ có mà thôi nhưng còn bám víu vào đó.
Lời cảnh tỉnh của Chúa Giêsu không phải chỉ áp dụng cho những ai sắp dấn thân bước theo Chúa cách đặc biệt mà thôi, nhưng còn cho tất cả những ai đang theo Chúa nữa. Cám dỗ của quyền lực và tiền của là cám dỗ trường kỳ của thân phận làm người. Thoát ra khỏi cám dỗ này không phải là việc dễ dàng, vì thế Phêrô vội vàng hỏi Chúa Giêsu: "Vậy thì ai có thể được rỗi?" Ðáp lại, Chúa Giêsu mạc khải bí quyết sống cho các môn đệ và cũng là trấn an các ngài: "Ðối với con người thì điều đó không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể".
Thiên Chúa có thể làm được mọi sự, con người cần tin tưởng phó thác vào Người. Bí quyết của Chúa Giêsu đề ra qua câu nói trên là bí quyết sống kết hiệp với Chúa để nhờ sức mạnh của Người mà chiến thắng cơn cám dỗ và thoát khỏi những cản trở không cho ta gặp Chúa. Sự bám víu vào của cải là dấu chỉ của người đồ đệ chưa phát triển được mối tương quan thân tình với Chúa. Chúng ta đang ở mức độ nào đây?
Lạy Chúa
Xin thương giúp con phát triển mối thân tình. Xin giúp con tăng sự sống kết hiệp với Thiên Chúa để trổ sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy chúng con không làm chi được.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 5: Từ Bỏ Tất Cả
Bấy giờ Đức Giêsu nói với các môn đệ của Người: “Thầy bảo thật anh em, người giầu có khó vào Nước Trời. Thầy còn nói cho anh em biết: Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu có vào Nước Thiên Chúa.” (Mt. 19, 23-24)
Của giầu mà cậy chi giầu…
Hiển nhiên là đống vàng chẳng tạo ra được liêm chính hay bất chính. Kẻ tôn thờ của cải chẳng khá bao giờ, mà còn bị lòng tham và tính hà tiện dày vò; Người giầu trong đoạn Tin Mừng này chắc chắn là người có gia tài kếch sù và đối với nó có gí trị sinh sống.
Tất nhiên, Đức Giêsu biết tài sản sở hữu không phải là không có giá trị, nó là loại khá quan trọng như tiền bạc, bất động sản, nữ trang. Nó giúp cho có đủ khả năng chính đáng khi người ta biết dùng của cải để thương giúp người khác. Không ai phủ nhận những việc làm tốt lành đó, nếu họ không hoàn toàn từ bỏ Thiên Chúa.
Những kẻ đứng đầu những kẻ rốt hết…
Phê-rô phản ứng đúng theo những ước muốn của chúng ta, những đòi hỏi của chúng ta, cũng là bầy tỏ lòng chân thành. Như hầu hết chúng ta, Phê-rô không ngại phát biểu: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy…” Bỏ ai, bỏ gì? truyền thống cho biết phải có gia đình, có nhà cửa ở Ca-phát-na-um, gần biển hồ, có thuyền chài lưới. Ông chưa bỏ nhà cửa, thuyền lưới, người ta thấy ông nhiều lần đem thuyền đi đánh cá. Thế mà ông quả quyết: Chúng con bỏ mọi sự. Chúa đã không trách chi, trái lại Chúa nói: “Anh em hãy theo Thầy.”
Đó là lời mời gọi tiến hơn nữa để yêu mến Chúa. Một tình yêu độc nhất phải từ bỏ tất cả. Người không muốn các ông dựa vào ai nữa.
Người luôn luôn nhắc nhở chúng ta: càng trơ trọi càng gần Thiên Chúa. Càng nghèo khó, càng cố kết với Thiên Chúa. Trong nhiều dụ ngôn Chúa đã nói như thế. Giờ đây chúng ta chọn Chúa hay chọn Mammon (thần tài)?
J.M
SUY NIỆM 6: TẠI SAO GIÀU CÓ LẠI KHÓ VÀO NƯỚC TRỜI? (Mt 19, 23-30)
Xem lại CN 28 TN. Thứ Ba tuần 8 TN.
Bài Tin Mừng hôm nay tiếp nối trình thuật hôm qua về chuyện một thanh niên đến xin Đức Giêsu chỉ giáo để làm sao đạt được sự sống đời đời. Vì thế, Đức Giêsu đã bảo anh ta về bán tất cả của cải để bố thí cho người nghèo thì sẽ được sự sống viên mãn như anh mong muốn. Tuy nhiên anh ta đã buồn rầu và bỏ đi vì lòng anh đã bị đồng tiền che lấp mục đích đời đời.
Khi thấy như thế, Đức Giêsu quay sang các môn đệ và dạy cho các ông bài học về tác hại đồng tiền nếu coi đó là mục đích, là ông chủ. Ngài nói: "Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời".
Thực ra thì Đức Giêsu dùng lối nói ngoa ngữ để cho người nghe thấy được sự nguy hiểm của đồng tiền nếu làm sai mục đích.
Thật vậy, vào được Nước Trời thế nào được khi đồng tiền đó là quà hối lộ; là của cướp giật; là đâm thuê chém mướn; là cờ bạc...! Tệ hơn nữa, vì không phải là đồng tiền của mình làm ra bằng mồ hôi nước mắt, bằng công lao vất vả, nên lại dùng đồng tiền bất chính đã chiếm đoạt được để làm những chuyện bất chính khác ...!
Chỉ cần suy tư một chút thôi thì cũng đủ thấy sự nguy hiểm của đồng tiền khi đặt nó sai vị trí và sử dụng không đúng mục đích.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta bài học:
Hãy dùng của cải để xây dựng hạnh phúc cho mọi người, từ trong gia đình đến xã hội cũng như lo việc bác ái, truyền giáo và xây dựng Giáo Hội.
Được như thế, ấy là chúng ta đã nghe theo Chúa và đi trên con đường hoàn thiện mà Chúa muốn chúng ta đi. Như vậy, sự bình an, hạnh phúc chính là phần thưởng Chúa dành cho những ai trung tín và khôn ngoan khi biết quản lý và biết sinh lợi nén bạc Chúa trao theo thánh ý Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết chọn Chúa là lẽ sống và gia nghiệp của mình. Như thế, xin cho chúng con biết coi mọi sự chỉ là phù du, phương tiện để đạt được hạnh phúc. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Con lạc đà chui qua lỗ kim
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Giàu có làm cho lòng người khó tin vào Chúa và đi theo Chúa. Phải biết sẵn sàng từ bỏ tất cả với niềm tin tưởng rằng Chúa sẽ đền bù gấp bội những điều ta từ bỏ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, người đời coi của cải là nơi nương tựa, là phương tiện sống hạnh phúc và là chỗ phòng thân. Vì thế, họ thường tìm kiếm nó bằng mọi giá, thậm chí bán rẻ lương tâm Kitô hữu, bán rẻ nhân phẩm và ngay cả linh hồn mình. Và khi có được của cải, người ta dễ an tâm vì tưởng rằng nó sẽ là chỗ cậy dựa trong tương lai. Của cải làm lòng người khó lắng nghe Lời Chúa mời gọi, và vì thế dễ quên Chúa và dễ đánh mất Nước Trời.
Con cảm thấy các tông đồ có thái độ khác. Các ngài đã mau mắn đáp lại lời mời gọi của Chúa, đã sẵn sàng từ bỏ hạnh phúc nhỏ nhoi để được hạnh phúc đời đời, đã đổi nơi nương tựa tạm bợ để tựa nương vào Chúa. Thật hạnh phúc khi ở trần gian, các ngài đã được ở với Chúa, được sống trong sự yêu thương bao bọc của Chúa, được biết bao hồng ân to lớn và giá trị hơn những gì các ngài đã từ bỏ. Các ngài đã được cả một gia sản là Nước Trời và được sống hạnh phúc đời đời trong Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con nhận ra rằng của cải trần gian này dù cần thiết đến đâu, cũng vẫn chỉ là tạm bợ. Xin đừng để con bám víu vào nó. Xin cho con nhận ra lòng quảng đại bao la của Chúa, để sẵn sàng bước đi theo lời mời gọi của Chúa và tin tưởng rằng, Chúa sẽ đền bù cho con gấp bội. Xin đừng để con vì quá ham mê của cải trần thế mà đánh mất hạnh phúc đời đời. Amen.
Ghi nhớ: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời”.
Suy Niệm 8: Nô lệ cho của cải
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Trong toán học, chúng ta đã biết tầm quan trọng của vị trí con số “không” trong tương quan với dấu chấm thập phân: Số “một” càng bị nhiều số “không” ngăn cách nó xa dấu chấm thập phân thì giá trị của nó càng thấp. Thí dụ: 000,000,1.
Tuy nhiên, nếu số một đứng đầu thì sau đó càng có nhiều số “không” chừng nào thì giá trị của nó càng cao chừng nấy. Thí dụ: 1,000.000.
Chúa chính là số một. Khi ta đặt Chúa hàng đầu trước những công việc của ta thì ta càng làm nhiều chừng nào, giá trị chúng càng cao chừng nấy. Ngược lại, Chúa càng xa tâm trí ta chừng nào thì công việc ta làm càng ít giá trị chừng nấy (Theo Frank Mihalic).
Suy niệm
Anh chàng thanh niên thánh thiện giàu có trước lời khuyên đưa anh đến sự trọn lành: Chia sẻ của cải cho người nghèo. Anh chỉ muốn giữ lưu lại các tài sản. Cho nên, anh rời bỏ con đường trọn lành, Chúa Giêsu đưa ra nhận định: “Người giàu có khó vào được nước Trời” bằng hình ảnh so sánh: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Trời”. “Khó vào” chứ không phải là không vào được.
Khi nhận xét về sự từ bỏ con đường theo Chúa của anh thanh niên giàu có đạo đức, thánh Gioan Chrysostome, nhận định: “Chúa Giêsu không kết án sự giàu có, nhưng kết án những ai làm nô lệ cho chúng… Nhưng tại sao Chúa Giêsu lại nói về sự khó khăn của những người giàu có khó đi vào nước Trời, cho các môn đệ và những người nghèo không có gì sở hữu ? Ngài muốn giáo huấn họ đừng có hổ thẹn về sự thanh bần của mình và Ngài giải thích cho họ biết lý do Ngài đề nghị họ không nên có gì để sở hữu” (Homélie LXIII 2). Như Ðức Giêsu sống thanh thoát mà Ngài đã tuyên bố với những người muốn theo Ngài: “Con chồn có hang, chim trời có tổ nhưng con người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9,58).
Trong tương quan với cuộc sống, tiền của luôn là phương tiện cho cuộc sống, nhưng nếu để của cải chi phối nó trở nên mục đích và cứu cánh, trở thành chủ chi phối cuộc sống của mình và mình trở thành nô lệ chúng, Chúa Giêsu cảnh báo: “Không được làm tôi hai chủ…” (x. Mt 6,24; Lc 16,13).
Xin đừng để tiền bạc làm mờ tối tâm hồn chúng con, cho chúng con biết dùng của cải mà mua nước Trời. Chúng con chỉ tùy thuộc vào Chúa…
Ý lực sống:
“Thương xót kẻ khó nghèo là cho Đức Chúa vay mượn,
Người sẽ đáp trả xứng đáng việc đã làm” (Cn 19,17).
Suy Niệm 9: Người giàu khó vào Nước trời (Mt 19,23-30)
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Sau câu chuyện người thanh niên buồn rầu bỏ đi, Chúa Giêsu tiếp tục nói chuyện với các môn đệ. Ngài phán: “Người giàu khó mà vào Nước trời”. Câu tuyên bố này làm các môn đệ hết sức bỡ ngỡ nên đã nói: “Vậy thì ai mới có thể được cứu độ ?” Nhưng Chúa Giêsu an ủi: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được”.
Sau đó Chúa hứa phần thưởng cho các môn đệ đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Ngài: họ sẽ được gấp trăm và được sự sống đời đời. Nên lưu ý: người thanh niên giàu có cũng muốn được sự sống đời đời, nhưng vì anh không chịu từ bỏ, nên Chúa không hứa gì với anh. Bây giờ các môn đệ đã từ bỏ mọi sự, nên Chúa hứa ban cho họ sự sống đời đời.
Bài Tin mừng hôm nay tiếp nối trình thuật hôm qua về chuyện một thanh niên đến xin Chúa Giêsu chỉ giáo làm sao đạt được sự sống đời đời. Vì thế, Chúa Giêsu đã bảo anh ta về bán tất cả của cải để bố thí cho kẻ khó nghèo, thì sẽ được sự sống đời đời như anh mong muốn. Tuy nhiên anh ta đã buồn rầu bỏ đi, vì lòng anh đã bị đồng tiền che lấp mục đích đời đời.
Khi thấy như thế, Chúa Giêsu quay sang các môn đệ và dạy cho các ông một bài học về tác hại của đồng tiền nếu coi nó là mục đích, là ông chủ, Ngài nói: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước trời”.
Thực ra, Chúa Giêsu dùng kiểu nói ngoa ngữ, phóng đại để cho người nghe thấy được sự nguy hiểm của tiền bạc nếu làm sai mục đích.
“Con lạc đà chui qua lỗ kim...”
Hình ảnh con lạc đà chui qua lỗ kim là một kiểu nói mạnh theo lối Do thái; nhưng rất điển hình để diễn tả điều Chúa muốn nói: tin là ơn siêu nhiên Thiên Chúa ban (Ga 6,40): việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm là tin vào Đấng Người đã sai đến; chỉ ai sẵn sàng nên khó nghèo về bản thân và của cải vật chất mới biết đón nhận ơn đó.
Người ham hố của cải vật chất cũng như tinh thần, làm ngăn cản lòng tin tưởng, trông cậy và yêu mến Chúa, vì thế rất khó được vào Nước trời. Người tông đồ không được dính bén về sự ham hố của cải vật chất, kẻo làm ngăn cản cho ý hướng, tâm tình và công việc tông đồ (Lm. Trần Hữu Thành).
Sống trên đời ai cũng muốn mình được giàu có, để cuộc sống được đầy đủ và nâng cao. Thế nhưng, tại sao Chúa Giêsu lại nói: “Người giàu khó vào Nước trời”.
Người giàu ở đây không chỉ nói giầu về của cải vật chất, mà còn là giàu về địa vị, tài năng, kiến thức... Thật ra, tất cả những thứ ấy không phải là điều xấu, nhưng nó trở nên xấu khi con người biến những thứ ấy thành cứu cánh của đời mình và không còn xem trọng các giá trị của Nước trời. Khi đó, họ luôn sống trong tình trạng đầy đủ, không cần đến ai giúp, cũng như không muốn giúp ai. Do đó, họ chỉ biết sống cho riêng mình và làm theo ý riêng, dù nó đi ngược với thánh ý của Chúa. Và như vậy, họ khó có thể vào Nước trời.
Được cứu rỗi là ưu tiên hàng đầu và chính đáng của bất cứ ai biết quan tâm đến số phận đời mình, đặc biệt là các môn đệ của Chúa Giêsu. Thế nhưng, một cản trở rất lớn cho ơn cứu rỗi ấy là lòng ham muốn của cải trần thế quá mức khiến ta quay lưng với các đòi hỏi của Tin mừng: lòng nhân nghĩa, sự công bằng và tinh thần phó thác. Không phải hễ giàu là xuống hỏa ngục, nhưng chỉ những người giàu ích kỷ như ông phú hộ đối với anh Lazarô trong Lc 16,19-31 mới bị trừng phạt. Còn giàu có như thánh nữ Elizabeth nước Hungari, dùng của cải giúp người nghèo, sống như người nghèo, lại có cơ hội không thể tốt hơn để được vào Nước Thiên Chúa (5 phút Lời Chúa).
Phần thưởng cho những người từ bỏ
Khi nói hai chữ “từ bỏ” tức là không còn, hoặc mất đi một cái gì đó mà trước đây mình đã có hay đã sở hữu. Tâm lý con người thường không chịu thua thiệt, luôn luôn đòi hỏi sự cân xứng, hoặc “có đi có lại mới toại lòng nhau”. Thánh Phêrô đã hỏi thay cho chúng ta: Từ bỏ mọi sự, theo Ngài chúng con sẽ được gì ? Nhìn chung khi bất cứ làm việc gì có thể là tốt, có thể là xấu điều đầu tiên mà ai cũng nhằm đến, đó là phải có lợi, có lời.
Sau khi đưa ra một loạt những việc từ bỏ: cha mẹ, anh em, ruộng vườn, nhà cửa... Chúa Giêsu khẳng định sẽ trọng thưởng gấp bội nhất là được sự sống đời đời mai ngày. Phần thưởng gấp bội ở đây phải hiểu theo nghĩa là sẽ nhận được những giá trị khác quý giá gấp trăm lần. Phần thưởng sự sống đời đời mai sau là phần thưởng vô cùng to lớn, không gì có thể đánh đổi được giá trị của sự sống hạnh phúc đời sau.
Truyện: Hãy tránh sự tham lam
Người kia mua mảnh đất của người láng giềng. Khi đào đất để đổ nền nhà, anh tìm được hũ vàng. Vốn là người lương thiện và thành thật, anh mang hũ vàng qua nhà người láng giềng và nói: “Đây là hũ vàng tôi tìm thấy trong mảnh đất ông đã bán. Tôi mua đất chứ không mua hũ vàng. Vậy tôi xin trả lại hũ vàng cho ông”. Người láng giềng cũng lương thiện không kém. Ông không nhận hũ vàng và giải thích như sau: “Khi bán miếng đất, tôi đã có ý định bán tất cả những gì chứa trong đó. Vậy hũ vàng là của anh”. Hai bên cứ nhường nhau mãi cho đến tối, mà không ai chịu nhận hũ vàng. Rốt cuộc cả hai đồng ý tạm ngưng tranh luận, hẹn hôm sau sẽ bàn tiếp.
Nhưng qua một đêm trằn trọc suy nghĩ, họ đã bị con quỷ tham lam nhập vào lúc nào không hay. Sáng hôm sau hai người gặp lại. Người mua đất liền nói: “Tôi đã suy nghĩ kỹ lại thì thấy lời ông nói hôm qua quả là chí lý: Tôi đã mua đất của ông, tất nhiên mọi sự trong mảnh đất ấy đều thuộc về tôi”. Người láng giềng cãi: “Không phải thế. Hôm nay tôi đã xét kỹ thì thấy lời hôm qua rất xác đáng: anh không thể nào mua món đồ nào mà chính anh không có ý định mua. Anh chỉ mua đất chứ không mua vàng, anh hãy trả lại hũ vàng cho tôi”.
Hai người cãi nhau dữ dội. Từ đó họ không còn là láng giềng tốt của nhau mà trở thành thù địch của nhau.
Suy Niệm 10: Sử dụng của cải cách hữu ích
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
1. Chúng ta vừa nghe một bài Tin Mừng có liên quan đến vấn đề của cải vật chất. Của cải vật chất tự nó không xấu. Nó chỉ trở thành xấu khi người ta không biết sử dụng nó hay khi vì ham thích nó quá mà người ta đã tán tận lương tâm, đôi khi có người dám hy sinh cả Đức Tin để chiếm hữu cho được nó. Chúng ta thấy chẳng thiếu gì những người chỉ vì một chút của cải vật chất mà đánh mất cả tình nghĩa, cả lương tâm của mình.
Người kia mua của người láng giềng một mảnh đất. Khi đào đất để đổ nền nhà, người đó tìm được một hũ vàng. Vốn là người lương thiện và thành thật, anh mang hũ vàng qua nhà người láng giềng và nói: - Đây là hũ vàng tôi tìm thấy trong mảnh đất ông đã bán cho tôi. Tôi mua đất chứ không mua hũ vàng. Vậy tôi xin trả lại hũ vàng cho ông.
Người láng giềng cũng là người lương thiện không kém nên ông không nhận hũ vàng với những lời giải thích như sau: - Khi bán miếng đất cho anh, tôi đã có ý định bán tất cả những gì chứa trong đó. Vậy hũ vàng là của anh.
Hai bên cứ nhường nhau mãi cho đến tối mà vẫn chưa có ai chịu nhận hũ vàng. Rốt cuộc cả hai đồng ý tạm ngưng tranh luận, hẹn hôm sau bàn tiếp.
Nhưng qua một đêm trằn trọc suy nghĩ, họ đã bị con quỷ tham lam nhập vào lúc nào không hay. Sáng hôm sau hai người gặp lại. Người mua đất liền nói: - Tôi đã suy nghĩ kỹ lại thì thấy lời ông nói hôm qua quả là chí lý: Tôi đã mua đất của ông, tất nhiên mọi sự trong mảnh đất ấy đều thuộc về tôi.
Người láng giềng cãi: - Không phải thế. Hôm nay tôi đã xét kỹ thì thấy lời hôm qua anh nói với tôi rất xác đáng: anh không thể nào mua món đồ nào mà chính anh không có ý định mua. Anh chỉ mua đất chứ không mua vàng, anh hãy trả lại hũ vàng cho tôi.
Hai người cãi nhau dữ dội. Từ đó họ không còn là láng giềng tốt của nhau mà trở thành thù địch của nhau.
Một nhà triết học người Đức có lần đã nói với các đồ đệ của mình như thế này: “Nếu các bạn xem đồng tiền là thượng đế thì có ngày nó sẽ trở thành con quỷ dày vò các bạn”.
2. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã nói một cách hết sức cường điệu nhưng cũng không kém vẻ nghiêm trọng như sau “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào được Nước Trời” (Mt 19,24).
Một em bé thọc tay vào trong một chiếc bình cổ quí giá rồi không rút tay ra được. Thế là em khóc. Cha mẹ của em chạy tới làm hết cách để kéo tay em ra, nhưng đều vô ích. Cuối cùng, họ đành quyết định đập bể chiếc bình cổ quí kia để cứu con.
Nhưng có lẽ vì còn tiếc chiếc bình cổ, nên trước khi đập bể chiếc bình, người cha bảo con:
- Con hãy cố gắng lần cuối cùng nữa xem sao. Bây giờ con hãy làm theo ba chỉ nhá. Con hãy duỗi thẳng những ngón tay của con ra, con chụm chúng lại, rồi con thử rút ra xem có được không.
Người cha đứa bé vừa nói, vừa làm mẫu để cho con bắt chước.
Nhưng đứa bé vừa nghe thấy ba nó nói thế liền phản đối:
- Thưa ba, làm như thế thì rơi mất đồng tiền con cầm ở trong tay còn gì ?
Bấy giờ cả nhà mới vỡ lẽ ra là, sở dĩ em bé đã không rút tay ra khỏi chiếc bình chỉ vì em vẫn nắm chặt đồng tiền trong tay em. Thì ra chỉ vì đồng tiền mà em bé kia đã bị kẹt tay trong chiếc bình cổ.
Vâng, nếu chúng ta không coi chừng thì chúng ta cũng bị lòng ham mê tiền bạc của cải ràng buộc chúng ta vào những cạm bẫy vô cùng nguy hiểm tương tự như thế.
Người giàu có khó vào Nước Trời không phải vì những của cải người đó có mà thường là vì những người giàu có ít biết chia sẻ, ít biết nghĩ đến người khác nhất là những người nghèo khổ quanh mình.
Nhưng cũng phải coi chừng đừng tưởng cứ nghèo khó là đương nhiên được vào Nước Trời!
Nghèo mà lại để cho cái nghèo bóp nghẹt tiếng lương tâm, để rồi sau đó mắc vào đủ mọi thứ tệ nạn như giành giật, chà đạp, đàn áp lẫn nhau thì cái nghèo đó chẳng phải là cái nghèo được Chúa chúc phúc.
Trái lại nghèo mà lòng vẫn trong sạch, tâm trí luôn hướng đến những giá trị của Tin Mừng thì mới thực là người được Chúa chúc phúc.
Xin Chúa giúp cho chúng ta biết sử dụng của cải Chúa ban cho một cách hữu ích để chúng ta xứng đáng được gọi là “những người nghèo của Thiên Chúa”.
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng
tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,
chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,
tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Xin Cha cho chúng con biết chia sẻ những gì Chúa cho nhau. Amen.
Suy Niệm 11: Phần thưởng người từ bỏ để theo Chúa
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Cuộc nói chuyện của Chúa Giêsu với các môn đệ sau câu chuyện người thanh niên nhà giàu:
- Chúa Giêsu tuyên bố: “Người giàu thật khó mà vào Nước Trời”
- Các môn đệ quá bỡ ngỡ nên than: “Vậy thì ai mà có thể được cứu độ !”
- Chúa Giêsu an ủi: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được”
Sau đó Chúa hứa phần thưởng cho các môn đệ đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Ngài: họ sẽ được gấp trăm và được sự sống đời đời. Nên chú ý: người thanh niên nhà giàu cũng muốn được sự sống đời đời, nhưng vì anh không chịu từ bỏ nên Chúa không hứa gì với anh. Bây giờ các môn đệ đã từ bỏ mọi sự nên Chúa hứa ban cho họ sự sống đời đời ấy.
B.... nẩy mầm.
1. “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Trời”: của cải vật chất tuy rất hữu ích cho sự sống đời này, nhưng hoàn toàn vô ích cho sự sống đời đời, có thể còn là một cản trở rất lớn.
2. “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được”: hãy trình bày với Chúa điều gì hiện tôi không thể làm được, và xin Chúa giúp ta làm điều đó.
3. Người kia mua của người láng giềng một mảnh đất. Khi đào đất để đổ nền nhà, người đó tìm được một hũ vàng. Vốn là người lương thiện và thành thật, anh mang ngay hũ vàng qua nhà người láng giếng và nói: “Đây là hũ vàng tôi tìm thấy trong mãnh đất ông đã bán cho tôi. Tôi mua đất chứ không mua hũ vàng. Vậy tôi xin trả lại hũ vàng cho ông”. Người láng giềng cũng lương thiện không kém. Ông không nhận hũ vàng và giải thích như sau: “Khi bán miếng đất cho anh, tôi đã có ý định bán tất cả những gì chứa đựng trong đó. Vậy hũ vàng là của anh”. Hai bên cứ nhường nhau mãi cho đến tối mà chưa ai chịu nhận hũ vàng. Rốt cuộc cả hai đồng ý tạm ngưng tranh luận, hẹn hôm sau bàn tiếp.
Nhưng qua một đêm trằn trọc suy nghĩ, họ đã bị con quỷ tham lam nhập vào lúc nào không hay. Sáng hôm sau hai người gặp lại. Người mua đất liền nói: “Tôi đã suy nghĩ kỹ lại thì thấy lời ông nói hôm qua quả là chí lý: tôi đã mua đất của ông, tất nhiên mọi sự có trong mảnh đất ấy đều thuộc về tôi”. Người láng giếng cãi: “Không phải thế. Hôm nay tôi đã xét kỹ thì thấy lời anh nói hôm qua rất xác đáng: anh không thể nào mua một món đồ mà chính anh không có ý mua. Anh chỉ mua đất chứ không mua vàng. Anh hãy trả lại hũ vàng cho tôi.”
Hai người cãi nhau dữ dội. Từ đó họ không còn là láng giềng tốt của nhau mà trở thành thù địch.
4. “Phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống đời đời làm gia nghiệp.” (Mt 19,29)
Abraham, tổ phụ chúng ta, đã vâng lời Thiên Chúa. Ông đã đem Isaac - con trai độc nhất của mình - mà tế lễ cho Ngài. Còn gì đau khổ bằng chính người cha phải đem giết con trai mình vì bất cứ lý do gì. Thế nhưng, Abraham đã làm được điều đó. Ông đã hy sinh cái quý giá nhất của mình cho Chúa. Thiên Chúa đã thấu hiểu lòng trung thành của ông và Ngài đã ban cho ông không những một người con mà có cả một dòng dõi đông đúc.
Để tỏ lòng trung thành với Chúa, Abraham tổ phụ đã dâng Isaac; còn chúng con, chúng con đã hy sinh được gì ? Xin Chúa giúp sức cho chúng con để chúng con biết trung thành với Chúa, và sống hy sinh vì Chúa. (Hosanna)
16/08 Sống trọn lành
- Viết bởi Mt 19, 16-22
Sống trọn lành.
Thứ Hai tuần 20 thường niên.
"Nếu ngươi muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải ngươi có, thì ngươi sẽ được kho tàng trên trời".
Lời Chúa: Mt 19, 16-22
Khi ấy, có một người đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm việc lành gì để được sống đời đời?"
Người bảo kẻ ấy rằng: "Sao ngươi hỏi Ta về việc lành? Chỉ có một Ðấng nhân lành là Thiên Chúa. Nếu ngươi muốn vào nơi hằng sống, ngươi hãy tuân giữ các giới răn". Người ấy hỏi rằng: "Những giới răn nào?" Chúa Giêsu đáp: "Ngươi chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng dối. Hãy thảo kính cha mẹ, và yêu thương kẻ khác như chính mình".
Người thanh niên thưa lại rằng: "Tất cả những điều đó tôi đã giữ từ khi còn niên thiếu, vậy tôi còn thiếu sót gì nữa chăng?
Chúa Giêsu bảo anh: "Nếu ngươi muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải ngươi có và bố thí cho người nghèo khó, thì ngươi sẽ được kho tàng trên trời, rồi đến mà theo Ta".
Khi người thanh niên nghe lời đó thì buồn rầu bỏ đi, vì anh có nhiều sản nghiệp.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM 1: Tôi còn thiếu điều gì?
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay gồm sáu câu đối thoại qua lại
giữa Đức Giêsu với một anh thanh niên giàu có.
Hẳn anh ấy là một người có thiện chí, khi anh đến gặp Đức Giêsu
để hỏi về chuyện phải làm điều tốt nào để có sự sống đời đời (c. 16).
Như thế sự sống đời đời là điều anh quan tâm,
và anh thực sự muốn biết cách hành động để đạt đến sự sống ấy.
Thầy Giêsu đã cho anh một câu trả lời đơn giản: hãy giữ các điều răn.
Thầy đã kể cho anh sáu điều răn (cc. 18-19),
bốn điều cấm làm và hai điều phải làm, tất cả đều liên quan đến tha nhân.
Anh cho biết mình đã sống mọi điều răn đó.
Dù vậy, anh vẫn mang trong mình một thao thức.
Chính thao thức ấy đã đưa anh đến với Thầy Giêsu để hỏi:
“Tôi còn thiếu điều gì?” (c. 20).
Anh chờ mong một câu trả lời từ vị Thầy mà anh quý mến.
Anh muốn làm một cái gì đó, muốn biết điều mình còn thiếu.
Câu trả lời của Thầy làm anh chưng hửng.
“Nếu anh muốn nên hoàn thiện, hãy đi, bán tài sản của anh,
cho người nghèo, anh sẽ có một kho tàng trên trời, và đến, theo tôi.”
Như thế khi anh xin có sự sống đời đời, xin được kho tàng trên trời,
thì Thầy Giêsu đòi anh bán kho tàng dưới đất anh đang có.
Bán xong, hãy tặng cho người nghèo để chẳng mong lấy lại.
Thầy mời anh trở nên tay trắng, rồi đến và theo Thầy.
Nhưng Thầy Giêsu không đòi mọi người phải làm y như anh thanh niên,
bán hết tài sản và cho người nghèo.
Ngài cũng không đòi mọi người phải bỏ vợ con để theo Ngài y như Phêrô.
Nhưng Ngài muốn mọi người nên hoàn thiện và có sự sống đời đời.
Ngài kêu gọi mọi người làm môn đệ, theo Ngài trong hoàn cảnh của mình.
Như thế ai cũng có cái phải bỏ, phải bán, phải cho không…
Ai cũng có thể hỏi Ngài như anh thanh niên: Tôi còn thiếu điều gì nữa?
Anh thanh niên giàu có đã phấn khởi đến với Thầy Giêsu (c. 22).
bây giờ anh lại buồn rầu bỏ đi.
Anh buồn vì không muốn mất một chỗ dựa vững chắc là của cải.
Thực ra anh buồn vì không đủ tự do để đáp lại một tiếng gọi đẹp quá.
Anh muốn sự sống đời đời, nhưng không dám chọn con đường tốt nhất.
Anh muốn làm môn đệ Thầy Giêsu, nhưng tình yêu của cải lại mạnh hơn.
Nếu anh chịu tự giải phóng mình khỏi trói buộc của vật chất,
khi trở lại gặp Thầy, anh sẽ thấy mình nhẹ hơn và giàu có hơn nhiều.
Nếu hôm nay, Thầy Giêsu gặp tôi, Thầy sẽ bảo tôi còn thiếu điều gì.
Điều gì đang ràng buộc tôi khiến tôi muốn quay lưng bỏ đi ?
Xin cho tôi dám chọn Giêsu, dám mất những điều quý giá vì Giêsu,
vì có Giêsu là có tất cả.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
nhiều bạn trẻ đã không ngần ngại
chọn những cầu thủ bóng đá,
những tài tử điện ảnh
làm thần tượng cho đời mình.
Hôm nay
Chúa cũng muốn biết chúng con chọn ai,
và chúng con thật sự đắn đo
trước khi chọn Chúa.
Bởi chúng con biết rằng
chọn Chúa là lội ngược dòng,
theo Chúa là bước vào con đường hẹp:
con đường nghèo khó và khiêm nhu,
con đường từ bỏ và phục vụ.
Hôm nay, chúng con chọn Chúa
không phải vì Chúa giàu có,
tài năng hay nổi tiếng,
nhưng vì Chúa là Thiên Chúa làm người.
Chẳng ai đáng chúng con yêu mến bằng Chúa.
Chẳng ai hoàn hảo như Chúa.
Ước gì chúng con can đảm chọn Chúa
nhiều lần trong ngày,
qua những chọn lựa nhỏ bé,
để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc sống chúng con,
và để chúng con
thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa. Amen.
Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.
SUY NIỆM 2: Thanh luyện tâm hồn
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thiên Chúa yêu thương muốn nâng con người lên. Từ bùn đất thành người. Từ con người thành con Chúa. Nhưng ma quỉ xác thịt thế gian cứ kéo ghì con người xuống. Thiên Chúa rất kiên trì thanh luyện con người khỏi những nhơ uế bùn đất xác thịt.
Khi tuyển chọn dân riêng, Thiên Chúa ra công thanh luyện con người khỏi thói dân ngoại, tôn thờ bụt thần ma quỉ. “Họ đã lìa bỏ Đức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên, Đấng đã đưa họ ra khỏi đất Ai-cập,…Họ đã lìa bỏ Đức Chúa để làm tôi thần Ba-an và các nữ thần Át-tô-rét”. Đó là những thần nông nghiệp và trù phú. Vừa theo dân ngoại vừa phù hợp với thú tính. Chúa trừng phạt. Họ kêu xin. Chúa lại gửi các thủ lãnh để giải thoát họ. “Nhưng sau khi vị thủ lãnh qua đời thì họ lại ra hư đốn hơn cả cha ông họ”. Thật đáng buồn (năm lẻ).
Đến thời các tiên tri, họ không thờ ngẫu tượng nữa, nhưng lại chạy theo thói thế gian. Ham mê tìm vui thú xác thịt và của cải vật chất. Chúa lại dùng các tiên tri để thanh tẩy họ. Các tiên tri trở nên những tấm gương vừa cảnh tỉnh họ vừa để họ noi gương bắt chước. Để cảnh tỉnh dân, chính tiên tri được Chúa mời gọi sống trước sứ điệp họ loan truyền. Chúa truyền cho Ê-dê-kiên: “Hỡi con người, này Ta sẽ bất thần cất khỏi ngươi niềm vui của mắt ngươi. Nhưng ngươi không được thương tiếc người chết, không được khóc lóc, không được để nước mắt trào ra. Hãy rên rỉ âm thầm, đừng làm đám tang cho người chết, hãy đội khăn, đi dép, không được che râu ria, không được ăn bánh người ta đưa đến” (năm chẵn).
Đến thời Chúa Giê-su, Chúa muốn thanh luyện trái tim con người để họ hoàn toàn thuộc về Chúa. Chàng thanh niên giầu có đạo đức thật hoàn hảo. Nhưng Chúa nhìn thấu rõ đáy lòng anh. Chúa muốn thanh luyện anh. Đưa anh vào một lựa chọn quyết liệt. Chỉ chọn một mình Chúa mà thôi. Dù anh đã tốt lành. Nhưng vẫn còn gắn bó với tiền bạc hơn Chúa. Chưa đủ yêu Chúa nên không thể theo Chúa mà không được tiền bạc. Chưa đủ tin Chúa nên không thể gắn bó với kho tàng trên trời. Tiền bạc vẫn là một thứ ngẫu tượng. Vẫn là thói đời. Vẫn là cái bẫy ma quỉ xác thịt thế gian giăng ra để nhốt kín con người.
Xin Chúa thanh tẩy con sạch mọi thứ ngẫu tượng. Cho con hoàn toàn từ bỏ mọi dính bén thế gian. Cho linh hồn con hoàn toàn trong sạch. Cho con hoàn toàn chết cho thế gian. Để con chỉ còn một mình Chúa thôi.
SUY NIỆM 3: Ðường Ðến Sự Sống Ðời Ðời
Tin Mừng hôm nay ghi lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người thanh niên giàu có. Người thanh niên đến gặp và xin Chúa Giêsu chỉ con đường dẫn đến sự sống đời đời, đó là một ý nghĩ khôn ngoan. Tuy nhiên, thái độ của anh đáp ứng Lời Chúa Giêsu chứng tỏ anh mới chỉ có ý nghĩ một chút về sự khôn ngoan. Anh thoáng thấy của cải không phải là hạnh phúc đích thực, vì thế, anh đến với Chúa để tìm sự khôn ngoan. Khốn nỗi, con đường khôn ngoan mới vạch ra đã bị của cải cản lối khiến anh không nhận ra được rằng sự sống đời đời mới là của cải quí giá nhất mà anh phải tìm kiếm.
Người thanh niên tìm đến với Chúa Giêsu, vì nhận thấy Ngài là một tôn sư có gì khôn ngoan hơn những bậc thầy trong dân Israel mà anh thường gặp. Anh chưa nhận ra Chúa Giêsu chẳng những là tôn sư dạy sự khôn ngoan, mà còn là chính sự khôn ngoan; Ngài không chỉ đưa ra một lời dạy khôn, mà còn là lời ban sự sống đời đời; ai đón nhận và thực hiện lời Ngài sẽ được sống đời đời. Chính vì thế, anh đã sầm nét mặt, buồn sầu bỏ đi khi Chúa Giêsu bảo anh: Hãy về bán hết của cải, rồi đến theo Ngài. Anh yêu của cải hơn sự sống và hạnh phúc đời đời. Anh tưởng Lời Chúa chỉ là một trong những lời chỉ giáo muôn mặt của các bậc thầy trong Israel, có theo hay không cũng chẳng sao, cứ nắm giữ lề luật cha ông truyền lại đã đủ chiếm được Nước Trời. Do đó, anh làm sao hiểu được lời này: "Anh chỉ còn thiếu một điều".
Anh đã thực hiện những gì ghi trong lề luật, nhưng anh còn thiếu một điều, mà thiếu điều đó, những gì anh đã nắm giữ mới chỉ là thứ công chính của Biệt phái không thể vào Nước Trời được. Ðiều anh còn thiếu chính là tin nhận Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là liên kết với Ngài và thực hiện Lời Ngài. Vì Lời Ngài là lời thần linh làm cho việc tuân giữ giới răn trở thành sức sống trong tâm hồn con người.
Thật ra, tự nó, của cải không cản trở người ta vào Nước Trời, nhưng thái độ ham mê của cải cản trở người ta yêu mến Thiên Chúa và Chúa Kitô.
Cần phải có tinh thần sẵn sàng từ bỏ mọi của cải, mọi đam mê, để được tự do nghe tiếng Chúa dạy dỗ trong tâm hồn. Thái độ từ bỏ của cải và đam mê, không nhất thiết bắt người ta trở thành nghèo mạt, bởi vì từ bỏ mọi sự vì Chúa và vì Tin Mừng, chẳng những không làm người ta bị thiệt thòi, mà còn mở rộng tương giao xã hội của họ, vì họ sẽ được đại gia đình nhân loại, và rồi với những thử thách đã vượt qua, họ sẽ được hưởng sự sống đời đời.
Nguyện xin Chúa kiện toàn nơi chúng ta những gì Ngài đã khởi sự, và cho chúng ta đạt tới lý tưởng là sống theo Chúa, Ðấng là đường, là sự thật và là sự sống đời đời.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 4: Chàng Thanh Niên Nhiều Của (Mt 19,16-22)
Bài Phúc Âm hôm nay nhắc chúng ta xét đến thái độ sống của mình. Chúng ta hiện đang tôn thờ Thiên Chúa hết lòng, hết sức, trên hết mọi sự, hay chúng ta đang tôn thờ một thần tượng trần tục nào đó, như danh vọng, quyền hành, tiền bạc?
Tâm hồn tốt lành, tuân giữ luật Chúa và khát vọng cuộc sống đời đời, đó là những yếu tố đã thôi thúc chàng thanh niên đến gặp Chúa Giêsu. Nhưng cuộc gặp gỡ đã không đưa đến kết quả tích cực, vì chàng thanh niên chưa hoàn toàn tự do khỏi mọi bám víu trần tục. Anh ta buồn rầu bỏ đi vì anh ta có nhiều của cải.
Giữa việc tuân giữ Lề Luật và thật sự yêu mến Chúa và anh chị em bằng những cử chỉ cụ thể, chàng thanh niên bắt đầu cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu cách tốt đẹp với những phẩm tính tốt như ước muốn làm điều tốt, cố gắng tìm hiểu xem phải làm gì để trọn hảo hơn và tuân giữ những giới răn Chúa truyền dạy. Nhưng không thể dừng lại mãi nơi điểm khởi đầu này, người đồ đệ của Chúa phải tiến lên, phải thực hiện lý tưởng và đạt cho được cùng đích là Chúa Giêsu Kitô, sống với Người, được trở nên giống như Người mỗi ngày một hơn: "Nếu con muốn nên hoàn thiện, hãy bán đi tất cả những gì con có đem cho kẻ nghèo, rồi đến theo Ta".
Mỗi người chúng ta hãy tự vấn lương tâm mình: tôi có thật sự muốn hay không? Trong những giây phút cầu nguyện sốt sắng, ta có thể hỏi Chúa điều này mà không nhất quyết thực hiện bước thứ hai là làm điều Chúa soi sáng cho.
Ơn Chúa không bao giờ thiếu, nhưng chính chúng ta lại thiếu can đảm, thiếu nhất quyết, thiếu cộng tác với ơn soi sáng của Chúa. Như chàng thanh niên trong Phúc Âm, chúng ta còn bám víu nhiều điều và đã bỏ mất nhiều cơ hội để được trưởng thành trong đời sống thiêng liêng và được theo Chúa trọn vẹn hơn.
Lạy Chúa, Con muốn theo Chúa trọn vẹn cho đến cùng. Xin thương ban ơn trợ giúp cho sự yếu đuối của con người con. Xin hãy kiện toàn nơi con điều Chúa đã khởi sự.
Lạy Chúa, Xin hãy phán dạy, này con đang lắng nghe và sẵn sàng thực hiện điều Chúa muốn.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
SUY NIỆM 5: Thanh thoát để theo Chúa
Và kìa có một người đến thưa Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, tôi phải làm điều gì tốt, để được hưởng sự sống đời đời?”
Đức Giêsu đáp: “Nếu anh muốn lên hoàn thiện, thì hãy đi bán hết tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” Nghe lời đó người thanh niên buồn rầu bỏ đi, vì anh có nhiều của cải. (Mt. 19, 16. 21-22)
Để trả lời người thanh niên, Đức Giêsu không nói tới ba giới răn đầu về kính mến Thiên Chúa. Người chỉ kể đến các giới răn liên hệ đến người ta để người ta hiểu rằng muốn được hưởng sự sống đời đời, phải lo làm điều tốt cho người khác. Ai lo tìm đường tới sự sống đời đời, hoàn toàn phải biết vâng lời Thiên Chúa, nhưng họ luôn luôn phải nhớ rõ rằng họ phải thực hiện sự vâng lời Ngài dạy phải yêu người.
Tôi còn thiếu gì nữa?
Như hầu hết mọi người, chúng ta cũng có thể nói như người thanh niên giầu có rằng: “Tất cả những điều đó tôi đã tuân giữ.” Nhưng cố gắng, sống theo giới răn đó, chưa đạt tới hoàn thiện. Phải tiến xa hơn giáo huấn cổ truyền.
Nếu anh em muốn nên hoàn thiện.
Chúng ta phải nên hoàn hảo, như Cha là Đấng hoàn hảo. Nhận biết và làm đầy đủ như giới răn dạy, chưa đủ, phải nên hoàn thiện. Hoàn thiện, hoàn thiện không phải là một lời khuyên, nhưng là một yêu cầu căn bản. Là Kitô hữu không phải lo giữ giới răn, mà chính là hiến toàn thân và yêu thương vô biên.
Đó là Tin Mừng này nói về sự hoàn thiện tổng quát cho tất cả mọi người không phân biệt ai, tuy trực tiếp nói cho người thanh niên, nhưng mọi người cũng phải dùng của cải mình có mà giúp đỡ người nghèo khó.
Trước hết, bất cứ môn đệ nào nghe thấy lời thực hiện theo yêu cầu cụ thể trong hoàn cảnh của mình. Vấn đề ở đây không phải là lo trao nộp tất cả của cải, nhưng là để mình được tự do phục vụ Thiên Chúa theo khả năng của mình có.
Chúng ta phải biết vâng theo Đức Giêsu điều ưu tiên hàng đầu, như bản văn Tin Mừng kêu gọi, là sẵn sàng chịu khổ nạn, tham dự vào sự thương khó của Người.
SUY NIỆM 6: TIỀN CÓ MUA ĐƯỢC NƯỚC TRỜI KHÔNG? (Mt 19, 16-22)
Chúng ta không lạ gì câu nói: “Có tiền mua tiên cũng được”. Tuy nhiên, trong cuộc sống, sự thật không phải như vậy! Vì hiển nhiên vẫn còn đó những thứ có tiền mà không mua được. Điển hình như: sức khỏe, thời gian và sự sống… Chả thế mà người ta vẫn thường nói: “ Tiền có thể mua được một chiếc đồng hồ nhưng không mua được thời gian”; “Tiền có thể mua được thuốc để chữa bệnh, nhưng không thể mua được sự sống...”. Điều quan trọng là chúng ta biết sử dụng đồng tiền như thế nào cho có ích. Sử dụng nó như đầy tớ hay ông chủ? Đồng tiền có phải là mục đích cuối cùng, hay nó chỉ là một phương tiện để giúp con người đạt được hạnh phúc và mục đích tối hậu của mình?
Tin Mừng hôm trình thuật một thanh niên đến xin Đức Giêsu chỉ giáo để anh tiến bước hầu hy vọng đạt được sự sống đời đời làm gia nghiệp. Nghe anh nói xong, Đức Giêsu đã phán: "Nếu ngươi muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải ngươi có và bố thí cho người nghèo khó, thì ngươi sẽ được kho tàng trên trời, rồi đến mà theo Ta". Nhưng thật buồn, người thanh niên này đã lặng lẽ rút lui chỉ vì anh ta có nhiều tiền của.
Thật vậy, đồng tiền liền với khúc ruột. Đồng tiền gắn liền với cuộc sống. Đồng tiền đôi khi trở thành ông chủ tồi. Và như thế, nó đã là rào cản số một cho những ai muốn tiến xa, tiến sâu trên con đường nhân đức.
Dẫu vẫn biết trước những tai hại của nó, nhưng thực ra không ít người đã vì tiền mà bán rẻ lương tâm khi sẵn sàng trà đạp lên chân lý để đạt được mục đích “rẻ tiền”. Không thiếu người bán cả danh dự, nhân phẩm bản thân trong nghề mại dâm chỉ vì đồng tiền. Cũng không lạ gì những chuyện đâm thuê chém mướn, thay trắng đổi đen và vô luân, phi đạo đức cũng chỉ vì đồng tiền!
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết dùng của cải như là phương tiện để xây dựng tình bác ái huynh đệ và cùng nhau xây dựng Nước Trời. Bởi vì Nước Trời là kho tàng, đồng tiền chỉ là thứ trợ giúp để ta mua được kho tàng chứ nó không phải kho tàng.
Vì thế, nếu chúng ta cứ bám vào của cải vật chất quá đáng, trái tim của chúng ta sẽ bị kìm chặt nơi thế gian. Của cải thế gian sẽ đóng kín cánh cửa tâm hồn và chúng ta trở thành nô lệ của nó. Như vậy, Chúa không còn chỗ nào trong trái tim, lương tâm và cõi lòng của chúng ta, và, như một lẽ tất yếu: Nước Trời không có chỗ cho những người coi đồng tiền là ông chủ và sống ích kỷ.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con khám phá và thi hành chân lý mà hôm nay Chúa dạy chúng con. Chân lý đó chính là chọn Chúa là gia nghiệp, là sự sống vĩnh cửu thì sẽ được hạnh phúc. Xin Chúa ban cho chúng con một tấm lòng quảng đại, ngõ hầu chúng con biết sử dụng đồng tiền mau hư chóng hết ở đời này để mua lấy Nước Trời qua sự bác ái. Amen.
Ngọc Biển SSP
Suy Niệm 7: Ràng buộc của cải vật chất
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Con đường hoàn thiện dẫn tới sự sống đời đời không hệ tại ở việc người ta làm, nhưng là tin theo Chúa Giêsu.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, trong hoàn cảnh kinh tế thị trường, nhiều người đang làm giàu, nhiều người đang chạy đôn chạy đáo để kiếm công ăn việc làm. Lời Tin Mừng hôm nay quả là khó chấp nhận. Dù nhiều hay ít, dù có hay không, thì tiền bạc của cải vẫn là cơn cám dỗ mãnh liệt cho con người, bởi nó đụng đến sự sống còn, là chỗ dựa an toàn, là phương tiện cần thiết để phát triển sự sống. Cũng chính vì thế mà tiền bạc của cải là nguyên nhân gây ra biết bao thảm họa cho con người, khi người ta tôn thờ và làm nô lệ cho nó.
Lạy Chúa, tuy con chẳng được giàu có như người thanh niên, nhưng nhiều lúc con cảm thấy của cải trói buộc con, cản trở con đi theo Chúa và tín thác vào Chúa, cản trở con mở rộng lòng với tha nhân. Con vẫn còn quá nhiều bận tâm lo lắng, dùng hết thời giờ, sức khỏe, để đi tìm kiếm giàu sang hưởng thụ hơn là kiếm tìm kho tàng trên trời.
Lạy Chúa, xin giải thoát con khỏi những ràng buộc của những của cải vật chất. Xin đừng để con bị mê hoặc bởi những sự mau qua dưới đất. Xin giúp con cảm nghiệm được sự cao cả của kho tàng trên trời, nhờ đó con biết từ bỏ tất cả những gì là tạm bợ, phù phiếm, để con quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa và hân hoan bước theo Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đòi hỏi anh thanh niên phải tin theo Chúa. Đó là điều anh phải thực hiện. Đó cũng là điều Chúa muốn con phải làm. Tin theo Chúa là điều trước hết và quan trọng nhất. Nếu thiếu niềm tin vào Chúa thì mọi việc con làm đều vô ích. Xin giúp con biết tin theo Chúa cách vô điều kiện. Amen.
Ghi nhớ: “Nếu ngươi muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải ngươi có, thì ngươi sẽ được kho tàng trên trời”.
Suy Niệm 8: Tiến bước theo Chúa Giêsu
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
Một người giàu có thường xuyên đến xưng tội với thánh Philipphê Nêri. Ông có nhiều tiền của, có thiện chí, nhưng ông vẫn cảm thấy mình không đạt được sự tiến bộ nào trên đường thiêng liêng. Từ chán nản đến thất vọng, cuối cùng ông bỏ cuộc và không trở lại xưng tội với ngài nữa.
Thấy ông đã lâu không đến xưng tội, ngài tìm đến nhà ông để gặp ông. Sau một hồi trò truyện, ngài nhìn lên cây Thánh giá trên tường, ngài cân nhắc độ cao của Thánh giá rồi đề nghị với người đàn ông giàu có: “Ông là người cao lớn, ông thử với coi có tới Thánh giá không”. Ông đứng dậy giơ cánh tay lên cố với nhưng không thể nào chạm tới Chúa Giêsu trên Thánh giá.
Bấy giờ thánh Philipphê dùng hết sức đẩy cái hòm tiền của ông đến bên cạnh ông và bảo ông hãy đứng lên trên cái hòm tiền để với tới cây Thánh giá. Ông làm theo ý ngài và sờ được Chúa Giêsu trên Thánh giá. Sau đó, ngài nói với ông: “Để có thể nắm lấy được Chúa Giêsu, để có thể tiến bộ trên đường thiêng liêng, chúng ta cần phải đứng trên tiền bạc của cải”.
Suy niệm
Có người thanh niên chạy đến thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy nhân lành...”, từ “nhân lành” thường được áp dụng cho Thiên Chúa ở trong Cựu ước (x. Tv 117/118,1; 1Sb 16,34; 2Sb 5,13), chỉ có Thiên Chúa mới xứng đáng được coi là “nhân lành”, còn không ai khác là “tốt” cả (x. Rm 7,18). Anh nói lên sự mong muốn của mình: “Tôi phải làm việc lành gì để được sự sống đời đời”. Mong muốn của anh là phải làm gì để thủ đắc “sự sống đời đời” đồng nghĩa với được “nước Thiên Chúa” (x. Mc 9,43-47).
Ngài truyền cho anh: Đừng giết người, đừng ngoại tình, đừng trộm cướp, đừng làm chứng gian, đừng lừa dối ai, hãy thảo kính cha mẹ. Đây là các điều răn trong bài phần lớn được rút từ phần hai của Thập Điều (x. Xh 20,12-17; Đnl 5,16-21). Giữ các giới răn là phương thế rất phổ thông và truyền thống trong đạo Do Thái. Anh thanh niên rất hài lòng về câu trả lời của Chúa, và hãnh diện thưa với Chúa là mình đã tuân giữ các điều răn ngay từ nhỏ. Thấy anh chân thành nỗ lực tìm cách quan hệ với Thiên Chúa nên đã tận tình giữ các điều răn, Ngài gọi anh tiến lên bước nữa là trở nên môn đệ Ngài: “Hãy về bán hết của cải ngươi có và bố thí cho người nghèo khó, thì ngươi sẽ được kho tàng trên trời, rồi đến mà theo Ta”. Một thách đố Đức Giêsu đề ra cho người đi theo Chúa theo nghĩa hẹp, một bậc sống đạo cao hơn, tư cách của người môn sinh, hơn là một nguyên tắc chung của đời sống Kitô hữu. Đức Giêsu yêu cầu anh bỏ hết mọi điểm tựa an toàn của trần gian để tín nhiệm vào bản thân và sứ vụ của Người, điểm tựa và mục đích của người môn sinh: “Rồi đến mà theo ta”. Nhưng anh sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải (x. Mt 19:22).
Thánh Augustinô có nhận định sâu sắc về lời mời gọi của Chúa chia sẻ với người anh em nghèo: “Nếu Chúa Giêsu đã nói với chàng thanh niên: “Mất tất cả”, chúng ta hiểu về sự thất vọng của anh, nhưng Ngài nói với anh: “Anh sẽ có kho tàng ở trên trời”. Nếu Ngài nói: “Hãy giao tiền của ngươi cho Ta, Ta sẽ giữ gìn”, anh sẽ chắc chắn tin và giao phó cho Ngài. Nhưng Ngài nói với anh: “Cho tất cả người nghèo”, và anh ta buồn rầu. Tuy nhiên, khi phân chia của cải cho anh em nghèo khó theo lệnh của Thiên Chúa. Người nghèo đó là chính Ngài khi chính anh tặng ban. Đó là người nghèo xin và được bố thí, và người giàu, người được nhận khi anh cho đi với sự chủ tâm chia sẻ” (Sermon LXXXVI 2 & 3).
Cho nên, chúng ta noi gương Ðức Giêsu sống thanh thoát: “Con chồn có hang, chim trời có tổ nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9,58) và hãy sống như Tin Mừng dạy: Đức bác ái yêu thương chia sẻ sẽ đưa chúng ta vào nước Chúa (x. Mt 25:31-46).
Ý lực sống:
“Không được làm tôi hai chủ ...” (Mt 6,24; Lc 16,13).
Suy Niệm 9: Người thanh niên giàu có (Mt 19,16-22)
(Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
Thái độ hiền lành, hoà nhã của Đức Giêsu đã thu hút được đủ mọi hạng người. Một chàng thanh niên giàu có, Luca gọi là “Thủ lãnh” (Lc 18,18-23), đến hỏi Đức Giêsu về điều kiện phải có để được sống đời đời... Qua đối thoại với Chúa Giêsu, anh còn cho biết anh đã tuân giữ tất cả giới răn từ thuở nhỏ. Thấy thiện chí của anh, Chúa Giêsu mời anh tiến một bước xa hơn nữa: bán tài sản, bố thí cho người nghèo, rồi trở lại theo làm môn đệ của Ngài. Điều này đòi hỏi một sự từ bỏ lớn lao. Anh không thể đáp ứng được, vì anh có nhiều của cải. Vì thế anh đã buồn rầu bỏ đi.
Mặc dầu anh thanh niên này là một người tốt. Nhưng xét cho cùng, anh ta còn ích kỷ, anh chỉ nghĩ đến thu vào, anh đã có nhiều thứ và anh chỉ muốn có thêm, chứ không muốn mất đi. Khi đến hỏi Chúa Giêsu, anh muốn được thêm sự sống đời đời nghĩa là anh muốn được cả đời này lẫn đời sau.
Giữa việc tuân giữ Lề luật và thật sự yêu mến Chúa và anh chị em bằng những cử chỉ cụ thể, chàng thanh niên bắt đầu cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu cách tốt đẹp với những phẩm tính tốt, như ước muốn làm điều tốt, cố gắng tìm hiểu xem phải làm gì để trọn hảo hơn và tuân giữ những giới răn Chúa truyền dạy. Nhưng không thể dừng lại mãi nơi điểm khởi đầu, người môn đệ của Chúa phải tiến lên, phải thực hiện lý tưởng và đạt cho được cùng đích là Chúa Giêsu Kitô, sống với Người, được trở nên giống như Người mỗi ngày một hơn: “Nếu con muốn nên hoàn thiện, hãy bán đi tất cả những gì con có đem cho kẻ nghèo, rồi đến theo Ta” (R.Veritas)
Chúng ta nên lưu ý, Chúa Giêsu không đến để bần cùng hóa nhân loại, Ngài đến là để con người được sống và sống sung mãn, và cuộc sống sung mãn trong nhân cách dĩ nhiên không hề đồng nghĩa với bần cùng. Của cải vật chất là phương tiện cần thiết để sống. Tuy nhiên, khi sinh ra và lớn lên trong nghèo khó, Chúa Giêsu muốn chứng minh rằng: con người có thể sống sung mãn, mà vẫn không phụ thuộc của cải vật chất. Đối với Chúa Giêsu, siêu thoát đối với của cải vật chất là điều kiện tiên quyết để vào Nước trời. Đây là lý do tại sao tám mối phúc thật đầu tiên và cơ bản bao gồm các mối phúc khác chính là: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó”.
Thật ra, tự nó, của cải không ngăn trở người ta vào Nước trời, nhưng thái độ ham mê của cải cản trở người ta yêu mến Thiên Chúa và Chúa Kitô. Cần phải có tinh thần sẵn sàng từ bỏ mọi của cải, mọi đam mê, để được tự do nghe tiếng Chúa dạy dỗ trong tâm hồn. Thái độ từ bỏ của cải và đam mê, không nhất thiết bắt người ta trở thành nghèo mạt, bởi vì từ bỏ mọi sự vì Chúa và vì Tin mừng, chẳng những không làm người ta bị thiệt thòi, mà còn mở rộng tương giao xã hội của nó, vì họ sẽ được đại gia đình nhân loại, và rồi với những thử thách đã vượt qua, họ sẽ được hưởng sự sống đời đời (Mỗi ngày một tin vui).
Qua câu chuyện anh thanh niên với Chúa Giêsu, ta thấy con đường nên hoàn thiện phải gồm hai điều: trước hết là phải ước muốn: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện...”. Không thể đạt được điều gì chính đương sự không muốn, không tha thiết. Hễ muốn ta có thể đạt được, như câu ngạn ngữ Pháp: “Muốn là có thể”; thứ đến, sự hoàn thiện không hệ tại những việc lành làm được, mà ở tại việc đi theo Chúa, gắn bó với Chúa: “Hãy đến theo tôi”. Những việc tốt lành làm được chỉ mới là một phần thiện, còn phải trở nên một với Đấng là “Chân, Thiện, Mỹ” nữa thì mới gọi được là hoàn thiện.
Người thanh niên đã giữ giới răn, đã làm những việc tốt, nhưng điều anh thiếu là chính Chúa. Vì thế phải cảnh giác với thái độ tự mãn rằng: khi giữ những giới răn của Chúa và Giáo hội là tôi đã hoàn thiện rồi, trong khi thực ra “Không có Thầy, các con không thể làm được gì”. Một đời sống không gắn bó với chính Đấng nguồn mạch sự thiện, thì chưa phải là hoàn thiện (5 phút Lời Chúa).
Truyện: Chúa phải là trọng tâm
Một trong những tác phẩm nổi tiếng của Leonardo da Vinci phải là bức tranh bữa Tiệc ly của Chúa Giêsu. Trong đó nhân vật chính là Chúa Giêsu được vây quanh bởi 12 Tông đồ.
Khi đem bức tranh ra triển lãm, Leonardo da Vinci đã kín đáo đứng trong góc phòng, để quan sát cách thưởng thức tranh của quan khách. Ông ngạc nhiên vô cùng khi thấy điểm thu hút trong bức tranh không phải là gương mặt Chúa Giêsu, mà là một cánh hoa nhỏ mà ông đã vẽ trong góc của bức tranh theo thói quen của thời đại đó. Leonardo nhận thức được tức khắc rằng: mình đã phạm một lỗi lầm rất lớn, đó là đã thêm vào một cánh hoa đẹp, để lôi kéo sự chú ý ra khỏi trọng tâm của bức tranh.
Ý thức được như thế, cho nên khi quan khách đã ra về, Leonardo da Vinci dùng cọ để bôi cánh hoa trong góc của bức tranh. Ngày hôm sau, ông cảm thấy sung sướng vô cùng, khi tất cả mọi con mắt quan khách đều gắn chặt vào gương mặt của Đấng Cứu Thế.
Suy Niệm 10: Cảnh giác về của cải
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
1. Người thanh niên này đã khá tốt lành. Mặc dù anh là một người tốt, nhưng xét cho cùng anh vẫn còn ích kỷ. Anh chỉ nghĩ đến thu vào. Anh đã có nhiều thứ và anh chỉ muốn có thêm chứ không muốn mất đi. Khi đến hỏi Chúa Giêsu, anh muốn được thêm sự sống đời đời nghĩa là anh muốn được cả đời này lẫn đời sau. Khi Chúa Giêsu đề nghị anh từ bỏ tài sản thì anh từ chối.
Khi bảo người thanh niên hãy bán hết những gì anh có đi, Chúa Giêsu không có ý khinh thường của cải trần gian, mà Ngài chỉ cảnh giác rằng, của cải, sự giàu sang, có thể là một chướng ngại đáng kể cho ơn cứu độ.
Của cải tự nó không xấu, nhưng nó sẽ trở thành xấu khi nó nhốt con tim và tâm trí của chúng ta vào ngục tù của ích kỷ, của hưởng thụ. Nó sẽ trở thành xấu khi nó ngăn cản không cho chúng ta sống yêu thương quảng đại đối với người khác. Nó sẽ trở thành xấu khi nó không cho phép chúng ta sống một cuộc sống tự do.
Thực vậy, khi của cải không được dùng để phục vụ thì nó sẽ trở thành một yếu tố gia tăng cuộc sống ích kỷ của những người có nó. Lúc đó, nó sẽ trở thành nguồn gốc của bất công, của phô trương, của hưởng thụ.
Ngược lại, nếu của cải được sử dụng đúng với mục đích của nó thì nó sẽ đem lại rất nhiều sự tốt lành.
2. “Tôi phải làm việc lành gì để được hưởng sự sống đời đời ?” (Mt 19,16)
Người thanh niên này nghĩ sự sống đời đời là tiền công cho những việc lành của anh ta. Chúa Giêsu sửa lại cách suy nghĩ đó: “Sao anh hỏi tôi về việc lành ? Chỉ có một Thiên Chúa là Đấng tốt lành”(Mt 19,17). Theo Chúa Giêsu, điều ta phải nhắm là Thiên Chúa tốt lành chứ không phải những việc lành. Làm việc lành mà nghĩ đến mình, mong cho mình được thưởng là nghĩ lệch hướng. Nhắm đúng hướng là làm mọi việc chỉ vì lòng yêu mến Chúa. Kitô giáo không phải là đạo nhắm đến những công việc, mà nhắm đến một Thiên Chúa.
Sapaco Hara là một cô gái Công giáo người Nhật. Gia đình cô rất giàu có. Một ngày nọ, tình cờ cô đến thăm một làng ở ngoại ô thành phố Tokyo. Làng này đuợc gọi là LÀNG KIẾN. Sở dĩ có tên này là vì dân làng này là dân lao động nghèo, sống chen chúc nhau như bầy kiến. Trẻ em trong làng thì bẩn thỉu, lem luốc, ăn mặc rách rưới. Chúng lê la suốt ngày ở đầu làng cuối xóm mà không được ai săn sóc dạy dỗ cả.
Trước cảnh sống bần cùng của dân LÀNG KIẾN. Sapaco Hara nhận ra một tiếng gọi vang vọng tận đáy lòng cô. Mặc dù cha mẹ và bà con họ hàng hết sức khuyên nhủ, cản ngăn, nhưng Sapaco Hara cứ nhất định dọn đến sống chung trong một xóm của LÀNG KIẾN, để phục vụ dân làng trong công tác bác ái.
Sau 8 năm sống đời phục vụ và hy sinh tận tình, chịu đựng mọi đau khổ vì bị hiểu lầm, Sapaco mắc bệnh lao phổi và qua đời năm mới 28 tuổi.
Người ta cứ tưởng cuộc đời phục vụ ngắn ngủi của Sapaco là uổng công vô ích, thế nhưng không, sau cái chết của Sapaco, toàn thể dân LÀNG KIẾN đã xin theo đạo.
Ông “xếp” của LÀNG KIẾN, người đã chống đối và gây nhiều khó khăn, làm cho Sapaco đau khổ nhất, sau đã sáng tác thơ và viết sách kể lại cuộc đời Sapaco. Một nhà đạo diễn Nhật, đã dựa vào những tài liệu này để dựng thành một cuốn phim về Sapaco. Phim có tựa đề là “Maria của LÀNG KIẾN”.
Thái độ sống của Sapaco Hara mà chúng ta vừa nói đến trên đây trái ngược hẳn lại với thái độ sống của người thanh niên trong bài Tin Mừng hôm nay. Một bên đã tìm thấy được ý nghĩa cho cuộc đời của mình còn một bên thì không!
Trong một bài huấn dụ các chị em trong dòng, Mẹ Têrêsa đã nói như thế này: “Như người nghèo cứ tiếp tục nghèo hơn, chúng ta hãy vui mừng hơn nữa về sự nghèo nàn của cộng đoàn chúng ta. Người nghèo bị thiếu thốn quá nhiều những nhu cầu cuộc sống hằng ngày. Chúng ta hãy lưu ý hơn về cách dùng của cải để có thể chia sẻ những khốn quẫn của họ trong phần lương thực, áo quần, nước, xà bông và điện sinh hoạt.”
Thế giới của chúng ta chắc chắn sẽ tốt đẹp hơn nếu mọi người biết để ý đến nhau. Cuộc sống của chúng ta sẽ có ý nghĩa hơn khi chúng ta dám thoát ra khỏi cái vòng kiềm tỏa của ích kỷ để biết sống chia sẻ với mọi người.
Mẹ Têrêsa nói: “Chúng ta có quyền được hạnh phúc và bình an. Chúng ta được dựng nên vì điều này, được sinh ra để hạnh phúc và chúng ta chỉ có thể tìm thấy hạnh phúc thật và bình an thật khi gắn bó cuộc đời mình với Thiên Chúa”.
Nếu Thiên Chúa cho bạn sự giàu sang, thì hãy dùng nó mà giúp đỡ người khác.
Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu được điều đó để chúng con xứng đáng là môn đệ của Chúa. Amen.
Suy Niệm 11: Một ơn gọi thất bại
(Lm Carôlô Hồ Bạc Xái)
A. Hạt giống...
Chuyện một ơn gọi thất bại:
- Đối tượng là một thanh niên giàu thiện chí. Vì thiện chí, anh tự tìm đến với Chúa Giêsu để hỏi cách cho được sự sống đời đời. Qua đối thoại với Chúa Giêsu, anh còn cho biết anh đã tuân giữ tất cả giới răn từ thuở nhỏ.
- Thấy thiện chí của anh, Chúa Giêsu mời anh tiến một bước xa hơn nữa: bán tài sản, bố thí cho người nghèo, rồi trở lại theo làm môn đệ Ngài.
- Điều này đòi hỏi một sự từ bỏ lớn lao. Anh không thể đáp ứng được, nên anh buồn rầu bỏ đi.
B.... nẩy mầm.
1. Mặc dù thanh niên này là một người tốt, nhưng xét cho cùng, anh còn ích kỷ, anh chỉ nghĩ tới thu vào, anh đã có nhiều thứ và còn muốn được thêm chứ không dám mất đi. Khi đến hỏi Chúa Giêsu, anh muốn được thêm sự sống đời đời (nghĩa là anh muốn được cả đời này lẫn đời sau). Khi Chúa Giêsu đề nghị anh bỏ tài sản thì anh từ chối.
Đối với Chúa, nhiều khi phải dám mất thì mới được: mất vật chất để được tinh thần, mất về đời này để được đời sau.
2. “Tôi phải làm việc lành gì để được sự sống đời đời ?”: Người thanh niên này nghĩ sự sống đời đời là tiền công cho những việc lành. Chúa Giêsu sửa lại cách nghĩ đó: “Sao anh hỏi tôi về việc lành ? Chỉ có một Thiên Chúa là Đấng tốt lành”. Theo Chúa Giêsu, điều ta phải nhắm là Thiên Chúa tốt lành chứ không phải những việc lành. Làm việc lành mà nghĩ đến mình, mong cho mình được thưởng thì là lệch hướng. Nhắm đúng hướng là làm mọi việc chỉ vì lòng yêu mến Chúa. Kitô giáo không phải là đạo nhằm đến những công việc, mà nhắm đến một Người là Thiên Chúa.
3. Người thanh niên này đã khá tốt lành, nhưng nếu anh muốn trọn lành thì hãy từ bỏ của cải. Từ đó ta có thể suy ra 2 ý tưởng:
- Sự dính bén với của cải là một cản trở cho việc trở nên tốt lành hơn.
- Sự từ bỏ của cải giúp người ta trọn lành.
4. Có một vị khổ tu Hồi giáo nọ sống rất gương mẫu. Suốt đời ông chỉ có một thao thức là ra sức chống lại tình dục. Khi ông chết, nhiều người thương tiếc, trong số đó có một đệ tử của ông vì thương tiếc quá nên ngã bệnh và cũng qua đời. Khi tới thế giới bên kia, anh chứng kiến một cảnh tượng làm anh rất hài lòng, đó là có những đàn bà đẹp ở với thầy. Anh chợt nghĩ rằng thầy mình xứng đáng được thưởng như vậy, và anh đến chúc mừng thầy. Thế nhưng vị khổ tu quay lại nhìn anh và nói “Ngươi là một thằng điên. Ta không được thưởng công gì cả. Đây không phải là thiên đàng. Những người đàn bà này cũng đang bị trầm luân như ta mà thôi.
Câu chuyện tưởng tượng trên đây muốn nói với chúng ta rằng sự thánh thiện đích thực không hệ tại lối sống khắc khổ hay tuân giữ một cách nhiệm nhặt những qui định của đạo như ăn chay, hãm mình, đọc kinh, bố thí. Đạo của chúng ta không chỉ là hệ thống luân lý gồm những điều phải làm và những điều phải tránh. Sống đạo không phải là một cuộc thao luyện của ý chí. Đạo của chúng ta là một con người, đó là Chúa Giêsu Kitô. ("Mỗi ngày một tin vui")
5. Đoạn Tin Mừng này đặc biệt muốn nói với những người hiến thân cho lý tưởng tu trì: sự ham mê và quyến luyến của cải rất không hợp với lý tưởng họ đang theo.
6. Chúa Giêsu trả lời người thanh niên giàu có: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy theo tôi”. (Mt 19,21)
Hồi còn học cấp III, tôi khao khát nên hoàn thiện, và cố gắng thực hiện biết bao “nguyên tắc” do ba má, thầy cô, bạn bè, sách vở... chỉ dẫn. Sau mấy năm nhọc công, tôi được nhiều người khen ngợi, quý mến và kết thân. Với chính mình, tôi cũng cảm thấy hài lòng hơn. Nhưng tự thâm tâm, tôi đã bắt đầu mệt mỏi trước những đòi hỏi của sự hoàn thiện, nhất là những yêu sách của Phúc Âm: toàn là những cái làm và phải làm. Giữa lúc chán ngán đến mệt nhoài, tôi có dịp đọc lại bài Phúc Âm người thanh niên giàu có. giữa anh thanh niên và tôi, hình như có cái gì rất chung...
Vâng, tôi cũng cần bán tất cả, cần quên đi tất cả những cái tôi làm và phải làm. Điều chính yếu, tôi chỉ cần bước theo Giêsu, Đấng hoàn thiện và để Người chiếm trọn đời tôi. Như thế, con đường nên hoàn thiện ngắn nhất là bám chặt vào Đấng hoàn thiện và để Người chiếm trọn cuộc đời.
Lạy Chúa, chỉ mong Ngài lấy đi. Mong chẳng còn gì gọi là con, nhờ thế, con được gọi Ngài là tất cả của con... (Rabindranath Tagore). (Hosanna)
15/08 Ngợi khen và hoan hỉ trong Chúa
- Viết bởi Lc 1, 39-56
Ngợi khen và hoan hỉ trong Chúa.
CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN năm B. – ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI. Lễ trọng. Lễ HỌ. Cầu cho giáo dân.
"Đấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại: Người nâng cao những người phận nhỏ".
* “Kết thúc cuộc đời dương thế, Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội là Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, đã được đưa lên hưởng vinh quang thiên quốc cả hồn lẫn xác”. Với những lời đó, năm 1950 đức giáo hoàng Piô 12 đã xác định tín điều Đức Maria hồn xác lên trời.
Đặc ân này xuất phát từ ơn được làm Đức Mẹ Chúa Trời và là hy vọng chắc chắn cho toàn thể nhân loại, là lời hứa cho toàn thể nhân loại sẽ được phục sinh.
Lời Chúa: Lc 1, 39-56
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Trong những ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Elisabeth, và khi bà Elisabeth nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Elisabeth được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện".
Và Maria nói: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi, vì Chúa đã đoái nhìn đến phận hèn tớ nữ của Chúa.
Này từ nay muôn thế hệ sẽ khen tôi có phước, vì Đấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại, và Danh Ngài là thánh.
Lòng thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những người kính sợ Chúa. Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai thần trí kiêu căng. Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng và nâng cao những người phận nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay không.
Chúa săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng thương xót của Ngài. Như Chúa đã phán cùng các tổ phụ chúng tôi, cho Abraham và dòng dõi người đến muôn đời".
Maria ở lại với bà Elisabeth độ ba tháng, đoạn Người trở về nhà Mình.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
SUY NIỆM LỄ ĐỨC MẸ LÊN TRỜI
Lời Chúa: Kh 11,19a.12,1-6a.10ab; 1Cr 15,20-27a; Lc 1,39-56
Suy niệm 1: Em thật có phúc
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Trong ngày mừng lễ Đức Maria được đưa lên trời cả hồn lẫn xác,
phụng vụ lại cho chúng ta chiêm ngắm một Đức Maria trong đời thường.
Lúc ấy Mẹ là một cô thiếu nữ, vượt đoạn đường dài hơn 100 cây số,
đi từ Galilê lên Giuđê, để thăm bà chị họ cao niên đang mang thai.
Bầu khí gặp gỡ là bầu khí của niềm vui.
Maria là người cất tiếng chào trước.
Tiếng chào ấy đã làm thai nhi Gioan nhảy mừng trong lòng mẹ (c. 44)
và làm bà Êlisabét ngỡ ngàng chúc tụng tán dương (cc. 42-45).
Maria cũng hân hoan cất lời ngợi khen Thiên Chúa (cc. 46-47).
Bầu khí gặp gỡ là bầu khí của Thánh Thần.
Maria đầy Thánh Thần từ khi cưu mang Đức Giêsu (Lc 1, 35).
Êlisabét đầy Thánh Thần từ khi nghe Maria chào (Lc 1, 41).
Nhờ Thánh Thần, bà Êlisabét đã khám phá ra bí mật của cô em.
Cô có phúc hơn mọi phụ nữ, vì cưu mang người Con tuyệt vời (c. 42).
Cô còn có phúc vì dám tin điều Thiên Chúa nói (c. 45).
Chính Mẹ cũng nhận mình là người diễm phúc vì được muôn hồng ân (c. 48).
Đem Đức Giêsu đến nhà, thăm viếng, chào hỏi, ở lại, phục vụ:
đó là những điều Mẹ Maria đã làm cho bà chị họ ngày xưa,
và vẫn còn làm cho chúng ta hôm nay trên trời.
Mẹ được tôn vinh không phải để xa cách, mà để gần gũi với con người.
Đấng tự xưng là nữ tỳ của Chúa thì đã sống như nữ tỳ của nhân loại.
Lễ Đức Mẹ được đưa lên trời cả hồn lẫn xác, nhắc chúng ta nhiều điều.
Lễ này nhắc chúng ta về thế giới của Thiên Chúa, về quê hương vĩnh cửu.
Chúng ta dễ bị hút xuống thế giới này, với vẻ đẹp và nỗi khốn cùng của nó.
Chúng ta loay hoay giải quyết không xong những vấn đề của trái đất,
vì quên nhìn nó từ trên cao và hướng nó về trời cao.
Lễ này cũng nhắc chúng ta về giá trị cao quý của thân xác.
Thân xác đi với ta suốt cả cuộc đời, chịu gian khổ và được tôn vinh với ta.
Chẳng thân xác nào gần Đức Giêsu bằng thân xác của Mẹ.
“Phúc cho người phụ nữ đã cưu mang Thầy và cho Thầy bú mớm.”
Tay Mẹ đã bồng ẵm Con từ Bêlem, qua Ai Cập, lên Đền thờ.
Tay Mẹ cũng đã ôm xác Con mình, được đưa xuống từ thập tự giá.
Mẹ sống bên Giêsu gấp mười lần thời gian các tông đồ sống bên Ngài.
“Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (Ga 12, 26).
Hơn ai hết Mẹ là người đã gắn bó phục vụ Đức Giêsu bằng cả cuộc đời.
Hơn ai hết Mẹ xứng đáng được ở bên Con cả hồn lẫn xác.
Lễ Mẹ Lên Trời là lễ của niềm hy vọng cho cả nhân loại.
Người Kitô hữu thêm xác tín về nơi mình sẽ đến.
Mẹ là người được hưởng trước những gì chúng ta sẽ được hưởng.
Dù cuộc đời người theo Chúa lắm gian truân và hy sinh,
nhưng kết thúc lại rất tươi và có hậu.
Lễ Mẹ Lên Trời, chỉ xin được yêu mến những sự bền vững trên trời,
và bớt bị mê hoặc bởi những điều chóng qua dưới đất.
Cầu nguyện :
Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm,
lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu.
Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ.
Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana.
Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng.
Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi
âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,
từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con
đừng sợ lên đường mỗi ngày,
đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa
dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu
để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ
đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.
Suy niệm 2: Mừng Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời
(Suy niệm của ĐGM. GB. Bùi Tuần)
Lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời là một tiếng gọi, Chúa gọi chúng ta, Đức Mẹ gọi chúng ta, những tiếng gọi này có thể rất đa dạng như.
Hãy tạ ơn Chúa vì đã ban cho Đức Mẹ ơn được lên trời cả hồn lẫn xác.
Hoặc: hãy xin Đức Mẹ cầu bầu cho ta cũng được theo Mẹ lên trời.
Hoặc: Hãy nhớ lại muôn vàn ơn Đức Mẹ đã ban cho ta, hiện nay và từ trước, để ta biết đi vào đúng đường lên trời.
Trong những tiếng gọi khác nhau, tôi thấy có tiếng gọi tôi cho là khẩn cấp. Tiếng gọi đó được diễn tả trong lời sau đây của thánh Phaolô: “Các con hãy biết run sợ lo sao cho mình được cứu độ” ( Pl 2, 12).
Được cứu độ là việc không dễ dàng. Vì thế, nếu chúng ta “biết run sợ lo cho mình” được cứu độ, thì thái độ của chúng ta là rất đúng. Bởi vì Chúa Giêsu khẳng định: “Được mọi sự thế gian, mà phải mất linh hồn mình, thì nào có lợi gì “ ( Lc 9, 25).
Trong niềm tin đó, và với sự run sợ lo cho phần rỗi của mình, tôi xin chia sẻ mấy thực tế, mà tôi thiết nghĩ là rất cần cho phần rỗi.
Những thực tế mà tôi coi là cần cho phần rỗi, sẽ không phải là tránh tội này tội tọ, nhưng là hãy có những lối sống đạo đức. Chúa Giêsu đã truyền dạy một cách rõ ràng về một số lối sống đạo đức, mà Người cho là cần cho phần rỗi.
1/ Sống tu thân
Chúa Giêsu dạy: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” ( Mt 7, 13- 14)
Với lời cảnh báo trên, Chúa Giêsu đã đề cập đến vấn đề tu thân. Tu thân là sống theo cửa hẹp. Cửa hẹp là những kỷ luật trong thái độ sống, trong cách suy nghĩ, trong cách dùng thời giờ, của cải, sức khỏe và những phương tiện xác hồn, nhất là trong sự vâng lời và trong xét đoán.
Tu thân như thế là một bổn phận đối với mọi người.
Riêng đối với những ai muốn trở thành môn đệ Chúa, thì tu thân phải đi xa, đi sâu hơn nữa. Chúa Giêsu phán: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình theo” ( Mt 16, 24).
Trong một thế giới hưởng thụ, tu thân là một nét đẹp của nền giáo dục.
Đi vào đường hẹp, chính là đi vào đường phát triển con người, vừa theo hướng đi lên với Chúa, vừa theo hướng gặp gỡ con người.
Nó là một nghệ thuật để giới thiệu các giá trị đạo đức.
Nó khẳng định một nền đạo đức sâu sắc đi đôi với việc được sai vào đời, để loan báo Tin Mừng.
Nhất là nó phản ánh phần nào Đức Kitô thành Nadarét. Người đã sống hoàn toàn tự do, nhưng khi lựa chọn đường hẹp tu thân, Người đã cho thấy đường hẹp tu thân là cách mở rộng chân trời cứu độ.
2. Sống thực thi ý Chúa.
Chúa Giêsu phán: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào thôi”
“Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: “Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi chẳng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao? Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi. Xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác.
“Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá…Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát“ ( Mt 7, 21-26).
Những lời Chúa phán trên đây dạy ta hai điều:
Một là thực hành lời Chúa mới có giá trị, chứ không phải chỉ học hiểu lời Chúa suông đủ.
Hai là khi thực hành lời Chúa, thì phải để ý thi hành đúng ý Chúa. Đúng ý Chúa là làm đúng việc, đúng cách, đúng lúc, đúng tâm tình Chúa muốn có và đúng ý hướng trong sạch trước mặt Chúa.
Đức Kitô diễn tả tình yêu Chúa Cha bằng nhiều cách khác nhau, tuỳ từng giai đoạn. Ba mươi năm ỏ Nadarét thì Người âm thầm. Ba năm đi đây đi đó thì Người công khai làm phép lạ và rao giảng. Tuần lễ cuối đời thì Người tự ý nộp mình chịu mọi đau đớn, nhục nhã.
Đức Mẹ hầu suốt đời nâng đỡ Con mình một cách lặng lẽ.
Như vậy, thực hành đúng ý Chúa đòi phải gắn bó mật thiết với Chúa, để có thể biết được ý Chúa và co sức thực thi ý Chúa.
Thực tế cho chúng ta thấy rằng: Thực hành đúng ý Chúa không phải chỉ do thiện chí của ta, mà ta cũng phải biết rõ việc ta được sai đi. Ai sai ta? Sai đến nơi đâu? Phải đến lúc nào? Nên làm gì ở đó? Chỉ hiểu sơ thế thôi, cũng thấy việc thực thi ý Chúa là việc không dễ dàng. Nhất là thời nay đang xuất hiện nhiều loại thông tin, đúng có sai có; thêm vào đó là nhiều loại ý kiến, tốt có xấu có, nguy hiểm nhất là phát sinh nhiều thứ áp lực, trong ta và ngoài ta. Ai không có bản lãnh và tiêu chuẩn đạo đức vững, sẽ dễ bị choáng váng chao đảo, lạc vào những nẻo đường đưa tới tuyệt vọng.
3/ Sống tin vào Đức Giêsu Kitô.
Cách sống theo Đức Giêsu Kitô trước hết là tin Đức Giêsu là chân lý. Người phán: “Chính Thầy là đường đi, là chân lý và là sự sống” (Ga 14, 6). Tin vào Người như thế là tin Người chính là Ngôi Hai Thiên Chúa, nói tắt là Đức Giêsu Kitô chính là Thiên Chúa.
Vì thế, ta tin mọi điều Người truyền dạy là chân lý cứu độ: “Anh em hãy tin vào Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy… Thật, Thầy bảo thật các anh em ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm” (Ga 14, 11-12)
Từ đó, tin vào Đức Giêsu Kitô là giữ lời Người và yêu mến Người: “Ai giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy” ( Ga 14, 21)
Chúa Giêsu còn đưa người đó tới Chúa Cha “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy” (Ga 14, 23).
Khi niềm tin đó đi sâu hơn nữa, người ta được mời gọi gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu như cành với cây. Chúa phán: “Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, các con chẳng làm gì được” (Ga 15, 5).
Như vậy, tin Chúa Giêsu là giữ lời Người, là yêu mến Người, là gắn bó mật thiết với Người. Niềm tin đó đặt Chúa Giêsu là nền tảng. Ta tin và thực hành điều gì, là vì Chúa Giêsu đã dạy. niềm tin này sẽ cứu ta khỏi những hoang mang thắc mắc, do áp lực dư luận, các nền văn hoá và các phong trào thế tục đặt ra. Nó cũng cứu ta khỏi những hoang tưởng kiêu căng.
Chúng ta vừa điểm qua ba lối sống:
- Sống tu thần
- Sống thực thi ý Chúa.
- Sống tin vào Đức Giêsu Kitô.
Ba lối sống này là những gì Chúa đã nhấn mạnh. Ai giữ ba lối sống đó sẽ cộng tác với ơn Chúa ban cho mình để được cứu rỗi.
Ta có ý thức về ba lối sống đó không? Ta có thường ngày giữ ba lối sống đó một cách nghiêm túc không?
Khi xét minh để trả lời những câu hỏi đó, chúng ta có thể lo sợ. Nhưng chính sự lo sợ ấy sẽ giúp chúng ta khiêm nhường, để sửa mình. Như thế, chúng ta sẽ đáp lại tiếng gọi của Chúa, của Đức Mẹ và của Hội Thánh một cách chân thành. Thiết tưởng đó là một chuẩn bị tốt để mừng lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời.
Suy niệm 3: Nữ tỳ hèn mọn
(TGM Giuse Nguyễn Năng)
Sứ điệp: Mẹ Maria ý thức mình chỉ là nữ tỳ hèn mọn của Thiên Chúa, nên hoàn toàn tín thác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Vì vậy, Mẹ đã trở thành người có phúc và được Thiên Chúa nâng cao: cho lên trời cả hồn lẫn xác.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, hợp tiếng với Đức Mẹ, con dâng lời ngợi khen Chúa. Cuộc đời Mẹ là một chuỗi những hồng ân cao cả và kỳ diệu.
Phần Mẹ, Mẹ luôn nhìn nhận Mẹ chỉ là nữ tỳ hèn mọn. Mẹ không bao giờ để cho lòng ngờ vực cản trở chương trình của Chúa. Trái lại, Mẹ nhận ra thân phận nhỏ bé của mình, nên hoàn toàn tín thác vào chương trình cứu độ của Chúa. Mẹ chỉ biết buông theo ân sủng, sẵn sàng để cho Chúa dẫn đi. Vì thế, Mẹ rất xứng đáng với lời ca ngợi của bà Ê-li-sa-bét: Mẹ là người có phúc vì Mẹ đã tin. Nhờ lòng tin mà Mẹ đã đón nhận bao phúc lành của Chúa. Nhờ lòng tin mà trong cuộc đời Mẹ, hồng ân nối tiếp hồng ân.
Lạy Chúa, nhìn lại cuộc đời con, con cũng nhận ra tất cả đều là hồng ân của Chúa. Tuy nhiên, Chúa không thể dẫn con đi xa hơn và lên cao hơn được vì con chưa vững tin vào chương trình cứu độ của Chúa. Đã nhiều lần con đã để cho cái lợi trước mắt và lòng ngờ vực cản trở công việc Chúa làm nơi con.
Nhờ gương mẫu và lời chuyển cầu của Đức Mẹ, xin Chúa giúp con nhận ra những hồng ân kỳ diệu Chúa thực hiện trong đời con. Xin cho con vững tin vào Chúa, dám chìa tay ra để Chúa nắm lấy và dẫn đi theo con đường Chúa muốn. Amen.
Ghi nhớ: “Ðấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại: Người nâng cao những người phận nhỏ”.
Suy niệm 4: Theo Đức Mẹ lên trời
(GM GB. Bùi Tuần)
Sắp đến lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời. Lên Trời là lên thiên đàng. Mẹ Maria lên trời là một sự kiện đầy hân hoan. Sự kiện vui mừng này gợi lên trong chúng ta khát vọng chính chúng ta cũng được lên trời.
Nhưng, để theo Đức Mẹ lên trời, ta không thể tự mình lên được. Ta phải tuân theo chỉ dẫn của Mẹ. Chỉ dẫn của Mẹ rất đơn sơ: Hãy sống vâng phục thánh ý Chúa (Lc 1,18). Thánh ý Chúa về ta là thế nào? Tôi thiết nghĩ: Trong một nơi đặt truyền giáo là ưu tiên như tại đây, thì thánh ý Chúa về ta là lời Chúa Giêsu truyền dạy các môn đệ Người, trước khi Người về trời:“Các con hãy là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem… cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).
Lời truyền dạy đó phải được coi là rất cần hiện nay. Nó phải được áp dụng một cách sống động. Nghĩa là đối với mỗi người chúng ta, ai cũng phải làm chứng về Chúa tại nơi mình đang sống, trong những hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống mình. Làm chứng cho Chúa tại nơi mình sống phải được coi như một nhiệm vụ sống còn. Vì thế tôi thường nghĩ: “Làm chứng cho Chúa” tại đây lúc này là con đường tôi phải đi, để được lên trời với Đức Mẹ.
Với ý nghĩ đó, tôi xin phép chia sẻ vài suy tư, để xét mình, nhân dịp mừng lễ Mẹ lên trời.
Làm chứng cho Chúa
Làm chứng cho Chúa là làm chứng cho Chúa Giêsu. Chúa Giêsu phán: “Các con hãy là chứng nhân của Thầy” (Cv 1,8). Làm chứng cho Chúa Giêsu là làm chứng Người là Đấng Cứu thế. Người cứu độ nhân loại bằng chịu khổ hình và sống lại. Phúc Âm ghi rõ nội dung làm chứng: “Bấy giờ Người mở trí cho các môn đệ hiểu Kinh Thánh, và bảo: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính các con là chứng nhân của những điều này” (Lc 24,45-48).
Chắc chắn chúng ta có làm chứng cho Chúa Giêsu theo chứng từ trên đây. Làm chứng như thế cũng đã là việc tốt. Nhưng điều tốt hơn, mà mục vụ và truyền giáo mong muốn nơi ta, là chúng ta làm chứng Chúa Giêsu đã và đang cứu độ ta, trong chính cuộc sống cụ thể của ta, một cuộc sống có vô vàn phức tạp. Hơn nữa, ta cũng làm chứng rằng: chính ta cũng đã và đang cộng tác với Chúa Giêsu trong việc cứu độ những người xung quanh, cả đồng bào ta.
Hôm nay, nếu tôi và nhiều người khác biết sám hối, bỏ được tội lỗi, trở về đàng lành, giải quyết được nhiều vấn đề, thì chính là nhờ ơn cứu độ của Chúa, Đấng đã chịu nạn và phục sinh cho tôi và cho mọi người. Tin Mừng qui chiếu vào hiện tại, vào hôm nay, vào cuộc sống và vấn đề của chúng ta. Tôi có kinh nghiệm như vậy. Những bước đường làm chứng một cách cụ thể như thế sẽ không dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ thực hiện được nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Với sức mạnh của Chúa Thánh Thần
Khi sai các tông đồ đi làm chứng, Chúa Giêsu đã hứa: “Các con sẽ nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần” (Cv 1,8).
Kinh nghiệm cho tôi hiểu lời đó thế này: Chúa Giêsu cứu độ thường đến với ta qua sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Sức mạnh ấy được thể hiện nhiều cách, nhất là ơn đổi mới tâm hồn.
Chẳng hạn, trước đây có những người dễ chạy theo những thú vui hưởng thụ thế gian, thì nay họ trở thành dửng dưng với những thứ đó, để hăng say chìm đắm trong sự bình an của ơn Chúa hiện diện. Trước đây, có những tính tình rất tự phụ tự mãn, coi như đã ximăng-hoá rất vững trong chất kiêu căng, nhưng nay họ trở thành khiêm tốn nhã nhặn, từ các suy nghĩ, đến các cử chỉ thái độ và lời nói.
Các đổi mới như thế thường rất sâu xa, nhưng lại rất âm thầm. Nơi từng cá nhân, nơi cả một tập thể. Tôi coi những đổi mới như thế là sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Nhiều khi, nhìn thấy những sự lạ lùng mà Chúa Thánh Thần đã và đang thực hiện tại đây trong các tâm hồn giữa những hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, tôi có cảm tưởng công việc Ngôi Lời nhập thể vẫn đang tiếp tục. Rất lặng lẽ, rất ẩn dật, nhưng Chúa Thánh Thần đang đưa ơn cứu độ vào lịch sử từng người và từng địa phương.
Chính tôi đã cảm nghiệm được sự kiện đó. Chúa hiện diện trong đời tôi, nhất là trong những giai đoạn tăm tối nhất. Người hiện diện để ủi an, để nâng đỡ, để soi sáng, để thứ tha, để chia sẻ, để cải hoá, để thanh luyện.
Từ kinh nghiệm bản thân, tôi có thể tiên đoán được sự chuyển biến tốt của lịch sử đang diễn ra âm thầm, qua những đổi mới các tâm hồn, do sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Tôi càng có lý để tin điều đó, khi nghĩ đến sự Đức Mẹ đang đồng hành với chúng ta trên đường truyền giáo.
Nhờ Mẹ Maria cầu bầu
Trên thánh giá, Chúa Giêsu đã trối Đức Mẹ cho thánh Gioan: “Này là mẹ con” (Ga 19,26). Tôi coi lời trối quí giá đó cũng dành cho mọi người sẽ được sai đi làm chứng cho Chúa. Xin tạm bỏ qua lý thuyết cắt nghĩa lời đó. tôi chỉ xin dựa vào kinh nghiệm. Kinh nghiệm làm chứng điều này: Đức Mẹ giữ một địa vị rất quan trọng trong việc chúng tôi làm chứng cho Chúa.
Nhiều người biết Đức Mẹ, trước khi biết Chúa. Nhiều nơi cầu nguyện với Đức Mẹ, trước khi cầu nguyện với Chúa. Đức Mẹ là nơi ẩn náu của những ai tội lỗi, là nguồn an ủi cho những ai lo buồn. Đặc biệt, Đức Mẹ là hy vọng của những ai bé nhỏ, mọn hèn.
Riêng với những người làm chứng cho Chúa, Đức Mẹ dạy cho họ cách riêng tinh thần khiêm tốn, khó nghèo. Bởi vì, để làm chứng cho Đấng cứu thế là Đấng rất khiêm tốn, khó nghèo, người ta không thể phản chứng bằng đời sống của mình trái ngược với khó nghèo khiêm tốn.
Hơn nữa, Chúa chỉ ban ơn biết làm chứng về Chúa cho những ai có tinh thần khiêm tốn. Như lời Chúa Giêsu đã nói với Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21). Người sống bé mọn với Chúa, luôn là người sống bé mọn với Đức Mẹ và với Hội Thánh của Chúa.
Trên đây là một thoáng nhìn về con đường tôi theo Mẹ lên trời. Tôi thấy rõ tôi không đi một mình. Chúng tôi đi với nhau, trong tình hiệp thông và phấn đấu, luôn tìm vâng phục thánh ý Chúa, để làm chứng cho Đấng Cứu độ. Người là Tin Mừng cho mọi người. Loan báo Tin Mừng, sống Tin Mừng là con đường Mẹ đã đi để lên trời. Con cái Mẹ cũng theo Mẹ mà đi trên con đường đó, để về trời.
Suy niệm 5: Cảm nghiệm ơn Chúa
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Nếu có ai hỏi: Làm thế nào để tiến bộ trên đường đạo đức, thay đổi nếp sống cũ, biết dấn thân mến Chúa yêu người hơn? Tôi xin thưa: điều quan trọng nhất khởi đầu cho một nếp sống mới là: cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa trong đời mình. Khi đã nhận biết mình được Thiên Chúa yêu thương, ta sẽ không thể làm điều gì khác hơn là mong muốn đáp lại tình yêu ấy.
Tình yêu kêu gọi tình yêu. Tình yêu đáp trả tình yêu. Chúa Thánh Thần, nguồn tình yêu của Thiên Chúa, sẽ giúp ta nhận biết tình yêu Thiên Chúa và soi sáng thúc giục ta đáp lại tình yêu ấy.
Sau khi Đức Mẹ ngoan ngoãn nói lên lời “xin vâng”, Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy tâm hồn Đức Mẹ. Đức Mẹ mở rộng tâm hồn đón nhận và để mặc Người hướng dẫn cuộc đời mình. Tứ đây, cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn biến đổi. Đức Mẹ trở nên một dụng cụ ngoan ngoãn trong tay Chúa Thánh Thần, hiến dâng trọn vẹn tâm hồn và thân xác để đáp lại tình yêu vô biên của Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy những tác động của Chúa Thánh Thần trên Đức Mẹ.
Tác động thứ nhất: sự vội vã
Vội vã đây không phải là sự vội vàng hấp tấp. Cũng không phải là nôn nóng lo âu. Sự vội vã ở đây có nghĩa là sự nhiệt tình hăng hái. Cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa trong tâm hồn, Đức Mẹ mau mắn, tha thiết muốn đáp trả. Nếp sống của cô thôn nữ Maria đã thay đổi. Từ một thôn nữ dịu dàng, sống êm đềm trong cuộc đời bình dị, Đức Mẹ giờ đây trở nên linh hoạt, nhanh nhẹn, hăng hái đền đáp lại Tình Chúa Yêu Thương. Từ một thôn nữ vui với công việc nội trợ, khép mình trong làng xóm, Đức Mẹ đã mở cửa ra đi. Sự mở cửa ra đi làm ta nhớ tới tác động của Chúa Thánh Thần trên các Tông đồ.
Tác động thứ hai: tâm tình tạ ơn
Cảm nghiệm được tình Chúa thương yêu, lòng Đức Mẹ tràn đầy niềm cảm mến biết ơn. Niềm tri ân cảm tạ đầy ứ trong lòng chỉ chờ dịp tuôn ra thành lời. Cảm nghiệm về ơn lành vô biên của Thiên Chúa cũng là cảm nghiệm về sự thấp hèn bất xứng của mình. Hai cảm nghiệm song song đó càng nâng cao, càng đào sâu niềm tri ân cảm tạ. Cảm nghiệm ấy đã biến đổi Đức Mẹ, từ một cô gái kín đáo, âm thầm trở nên một thi sĩ, một ca sĩ lớn tiếng ca tụng Tình Yêu Thiên Chúa đối với kẻ nghèo hèn. Chúa Thánh Thần đã biến Đức Mẹ thành ngòi bút thi sĩ như lời Thánh vịnh: Tim tôi dâng ý thơ tuyệt diệu. Dệt bài ca dâng tiến Đức Vua. Lưỡi tôi tựa bút rung vạn điệu. Trong tay những thi nhân anh tài. Khi nghe bà Isave chào, Đức Mẹ đã ứng khẩu tán tụng Chúa bằng bài kinh ca ngợi tuyệt diệu.
Tác động thứ ba: thái độ chia sẻ
Tình yêu Thiên Chúa bao la đã đổ vào tâm hồn Đức Mẹ tràn đầy niềm vui. Niềm vui thánh thiện và lớn lao đã thúc đẩy Đức Mẹ mau mắn lên đường đi thăm bà Isave. Đức Mẹ không đến để khoe khoang, nhưng để chia sẻ. Nhờ Đức Mẹ đến mà bà Isave và thánh Gioan Baotixita được chúc phúc. Đức Mẹ cũng đến để chúc mừng bà chị họ đã được Chúa đoái thương. Tâm hồn được Chúa chiếm hữu đã khiến Đức Mẹ trở nên quảng đại và hiệp thông, sẵn sàng chia vui sẻ buồn với những người chung quanh.
Tác động thứ bốn: dấn thân phục vụ
Niềm tri ân cảm tạ, niềm vui thánh thiện thực sự sẽ không dừng lại ở những bài ca trên môi miệng. Cảm nghiệm về Tình Yêu Thiên Chúa trong trái tim sẽ mau chóng biến thành hành động. Sự đền đáp tình yêu sẽ thúc đẩy người được yêu dấn thân phục vụ trong những việc làm cụ thể. Chính vì thế Đức Mẹ đã không ngần ngại ở lại phục vụ bà chị họ trong ba tháng.
Mừng lễ Đức Mẹ lên Trời một cách có ý nghĩa nhất, đó là ta hãy noi gương Đức Mẹ: xin Chúa Thánh Thần đến tràn ngập tâm hồn ta như Người đã đến trong lòng Đức Mẹ, giúp ta con người được những ơn lành Chúa ban và giúp ta mau mắn đáp lại tình yêu thương đó.
Xin Đức Mẹ giúp chúng con biết ngoan ngoãn vâng theo ơn Chúa Thánh Thần soi sáng: để vội và ra đi, để hân hoan tạ ơn, để quảng đại chia sẻ và để dấn thân phục vụ anh em. Amen.
Kiểm điểm đời sống
1. Bạn có cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa trong đời bạn không?
2. Sẵn sàng làm theo ơn Chúa Thánh Thần soi sáng, bạn có mong muốn điều này không?
3. Lên trời, dứt khỏi trần gian. Đây có phải là một bước nhảy vọt không? Hay chỉ là tiếp nối của quá trình từ bỏ chính mình trên trần gian?
Suy niệm 6: Đức Maria: Địa chỉ trên cao
(GM Giuse Vũ Duy Thống)
Cách đây ít lâu, khi đọc báo hằng ngày, tình cờ tôi ghi nhận được một mẩu tin là lạ. Đó là mẩu bố cáo đăng ký địa chỉ trên cung trăng. Ai muốn đứng tên chủ quyền một thửa đất trên gương mặt chị hằng bảo đảm có bằng khoán giấy tờ công chứng đường hoàng, hãy mau mau đăng ký, chọn vị trí trên bản đồ và nộp tiền đầy đủ. Bảo đảm, chỉ vài ngày sau là được trao tận tay sổ hồng sổ đỏ, để cứ mỗi đêm trăng sáng là có quyền vác kính viễn vọng ra ngắm nghía chỉ trỏ giới thiệu với bạn bè về dự án tương lai địa chỉ trên cao của mình.
Thấy mẩu tin ngồ ngộ, tôi ghi nhận, và hôm nay lễ Đức Maria Mông Triệu, nghe vẳng bên tai bài hát “Như một vầng trăng tuyệt vời, muôn ngàn tia sáng lung linh chốn thiên cung” ca ngợi Đức Maria, bỗng dưng nhớ lại và liên tưởng: mỗi tín hữu cũng có một địa chỉ trên cao, địa chỉ ấy mang tên Maria.
1. Đức Maria: một địa chỉ thiết định cho lòng tin
Đây không phải là điều huyền hoặc do trí tưởng tượng con người bịa ra trong một giờ cao hứng, đây cũng không phải là sản phẩm mang nặng cảm tính do lòng đạo đức của giới lớp bình dân, đây càng không phải là do nhất trí đồng ý giơ tay tán thành theo kiểu vào hùa mà không cần biết đến có tự do hay không.
Không phải thế, mà là kết quả suy tư lâu dài tìm kiếm của đời sống Giáo Hội. Trước năm 1950, người ta có quyền bán tín bán nghi, tin hay không tin cũng chẳng hề hấn gì, như thánh Tôma tiến sĩ; nhưng kể từ ngày lễ Các Thánh năm 1950, khi Đức Giáo Hoàng công bố sự kiện Đức Maria Mông Triệu như một tín điều, người ta không còn có thể dửng dưng được nữa, mà nhất thiết phải reo lên vui mừng, vì đã sáng tỏ: trên cao, Đức Maria chính là địa chỉ của lòng tin Công Giáo.
Thật vậy, Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, nên không thể chịu hậu quả của Tội nguyên tổ là phải chết. Mẹ trọn đời Đồng Trinh nên cứ lý cũng trọn đời trinh nguyên tồn tại. Mẹ cung cấp chất liệu xác thân cho Ngôi Hai Thiên Chúa bước xuống đồng hành với con người trong kiếp phận loài người, thì khi Phục Sinh về trời vinh quang, Thiên Chúa cũng giữ gìn cho Mẹ mình thoát khỏi cảnh hư nát thân xác. Mẹ là Đấng đầy ơn phúc, nếu đã được Thiên Chúa yêu thương gìn giữ từ thuở đời đời bằng đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, thì cũng được Thiên Chúa giữ gìn cho đến muôn đời bằng đặc ân Mông Triệu tuyệt diệu hơn mọi người trần.
Cách khác, Mẹ Hồn Xác Lên Trời là một ngôn ngữ mang tính dấu chỉ dễ đọc của một địa chỉ trên cao, vốn đã có sẵn trong mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô.
2. Đức Maria: một địa chỉ thiết thân của đời tín hữu
Ngày nay có thể có người nghĩ rằng: Đức Mari Mông Triệu chỉ là một tín điều, nghĩa là một điều được Giáo Hội xác lập như đối tượng phải tin; lại nữa, cũng chỉ được định tín cách nay chưa lâu, mới từ năm 1950, có chi mà quan trọng?
Giữa cộng đoàn, xin được cùng với Giáo Hội nhắc lại rằng: đây không phải là chuyện thuần tuý quy ước, mà đúng là chuyện thiết thân với mọi con người. Khi gọi một chiếc xe là “xe máy” thì nó là “xe máy” dù chẳng có chút máy móc nào mà chỉ là “xe đạp”. Đó là quy ước. Thế nhưng, khi tín điều thiết định thì khác, vì ở đó cả vận mệnh đời sống của những kẻ tin cũng được định hình theo.
Đức Maria về trời, nhưng không về với đôi tay trắng, mà là nặng trĩu vận mệnh của cả Giáo Hội, Đức Kitô là Đầu, mà vinh quang của Đầu tiến đến đâu thì vinh quang của Thân Mình cũng tỏ hiện đến đó, nhưng qua việc Đức Maria về trời, tín hữu nhận thấy rõ hơn vận mệnh đời mình.
Mẹ là người đi đầu cho ta được tiếp bước. Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu sống như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ như người đi trước cho ta được theo sau. Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu sống như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ như người đi trước cho ta được theo sau. Mẹ được đưa về trời là khuôn mẫu cho niềm hy vọng: bên kia địa chỉ trần thế này là một địa chỉ trên cao của cuộc sống phong phú đời đời. Mẹ là người đi mau cho ta được níu kéo dắt dìu. Mẹ về trời xác lập một hướng đi cho lòng yêu mến: yêu trung thành hôm nay sẽ được dẫn tới bến bờ yêu thương tinh ròng vĩnh phúc. Thế đó, Đức Maria địa chỉ trên cao thiết thân cho mệnh đời tín hữu.
3. Đức Maria: một địa chỉ thiết thực cho mỗi cảnh đời
Vấn đề được đặt ra ở đây không chỉ là chuyện hiểu biết và tin tưởng, nghĩa là dừng lại trong nhận thức, cho dẫu đó là bước đầu không thể thiếu được, nhưng quan trọng hơn, là hỏi xem địa chỉ trên cao kia có để lại âm hưởng gì trong đời sống hằng ngày? Có một bài hát “Kinh Tin Kính” kết thúc bằng câu quyết tâm “Tin những gì Hội Thánh dạy con”. Tốt lắm, nhưng nghe sao vẫn cứ ngờ ngợ, tin tất cả mà không lo chuyển hoá niềm tin vào cuộc sống thiết thực, thì tự nó đã hàm chứa một nguy cơ của sự cả tin. Giống như một cha sở cử hành Bí tích Xức Dầu cho một nữ bệnh nhân tân tòng trọng tuổi, với những công thức tuyên tín dài dòng, bệnh nhân ấy trong cơn đau đớn đã thốt lên: “Cha nói thánh tướng nào con cũng tin cả”. Thành thử, hôm nay, khi tuyên xưng Đức Maria hồn xác về trời chính là lúc ta phải nỗ lực tổ chức xây dựng đời sống nơi địa chỉ trần thế sao cho phù hợp tương thích với địa chỉ trên cao mà ta tin yêu hy vọng.
Làm sao có thể về trời thanh nhàn khi cuộc đời này chưa thanh sạch tâm hồn, chưa thanh bạch nếp sống, chưa thanh luyện ý chí, chưa thanh thoát tư duy, chưa thanh cao tình cảm, chưa thanh thản nỗi đau đời và chưa thanh thoả nhiệm vụ người người với nhau? Làm sao có thể về trời thênh thang khi cuộc sống hôm nay vẫn còn bận bịu bỏ neo nơi những khuynh hướng đam mê sùng bái, như là dục vọng buông lơi lòng tham không đáy hay quyền bính vô độ? Và làm sao có thể về trời với Mẹ khi ta hằng ngày vẫn còn gặp mình trên những lo toan tính toán làm ăn không chỉ dừng lại ở mức “lương thực hằng ngày” “cầu vừa đủ xài” của Kinh Lạy Cha, mà còn mong có mọi sự nhiều thêm nữa, trừ một sự là có điểm dừng? Muốn có địa chỉ trên cao, hãy tích cực đăng ký xây dựng ngay từ địa chỉ trần thế này.
Qua một bài báo về kỹ thuật hàng không, được biết rằng người ta đang tính tới chuyện bay cao bay xa và bay nhanh hơn. Điều này đòi hỏi phải giải quyết ba thông số kỹ thuật: giảm nhẹ thân tàu, tăng cường sức đẩy động cơ và trang bị bộ phận định hướng tốt. Bất giác tôi nghĩ đến chuyến bay đời người về địa chỉ trên cao, cũng cần trút nhẹ lo toan, gia tăng ơn thánh, và nỗ lực định hướng theo gương Đức Mẹ. Như vậy, chuyến bay ấy chắc chắn sẽ cao xa nhanh an toàn. Chúc mọi người luôn biết dâng cao tin yêu hy vọng, để làm quen với địa chỉ trên cao ngay từ cuộc sống xem ra còn nhiều lũng thấp hôm nay.
Đức Maria địa chỉ trên cao, dạy cho con biết qua bao tháng ngày, biết đường sống thánh từ nay, ngày mai sẽ được thẳng bay về trời.
Suy niệm 7: Được chúc phúc hơn mọi phụ nữ
(Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Câu chuyện
“… Tôi thực sự cảm thấy yêu mẹ mình và đau lòng khi mẹ khóc. Mẹ đã luôn là người phụ nữ mạnh mẽ, mẹ gánh vác tất cả việc nhà, buôn bán không kể sớm tối để nuôi lớn chị em tôi.”... Đó là tâm sự của Phạm Nga trên một tờ báo Online.
Hình ảnh của người mẹ sinh thành, dưỡng dục cho con vào đời, xa mẹ mới nhớ về mẹ, nhớ về tấm lòng mẹ… Hình ảnh người mẹ hiền với gánh hàng rong bôn ba khắp phố để có tiền nuôi sống gia đình… Hình ảnh đó đã đi vào huyền thoại được các tác giả thể hiện qua những bức tranh sinh động, những bản thơ ca về mẹ…
Suy niệm
Mẹ Maria, Mẹ của chúng ta, Đấng tràn đầy ân sủng như được sứ thần Gabriel chào: “Trinh nữ đầy ân phúc vì Đức Chúa ở cùng trinh nữ” (Lc 1,25), và bà Êlisabéth vang lời ca tụng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1,42).
Hồng ân Mẹ Maria Mông Triệu cả hồn xác được Đức Piô XII tuyên bố bằng tông hiến “Munificentissimus Deus” vào ngày Lễ Kính Các Thánh: 1/11/1950, Đức Giáo hoàng long trọng tuyên tin: “Để tôn vinh Thiên Chúa toàn năng là Đấng đã ban muôn vàn ơn lành đặc biệt của Ngài trên Trinh Nữ Maria, để tôn kính Con Ngài là Vua muôn đời, Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, để Người Mẹ cao cả của Người được hiển vinh hơn… Người Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội của Thiên Chúa, Đức Maria Trinh Nguyên sau khi hoàn tất cuộc đời trần thế của mình, đã được mang lên hưởng vinh quang trên trời cả thân xác lẫn linh hồn”. Hồng ân Mẹ về Trời cả xác hồn là hệ quả tất yếu của các hồng ân: Mẹ Thiên Chúa, sinh con mà vẫn Đồng Trinh và Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Kể từ khi Mẹ rời thế gian lên Trời trong vinh quang với hồng phúc: Được hưởng nước Trời cả hồn lẫn xác trước hết mọi người, Mẹ Maria vẫn không hề bỏ quên những người con ở dưới thế, Mẹ luôn hằng theo từng bước đi của các con. Qua mọi thời đại, với tình Mẹ bao la luôn lo lắng cho đoàn con ở thế gian. Tấm lòng của Mẹ luôn trải rộng để đón các con cái mình, dù ở phương trời nào, khắp mọi chủng tộc, Mẹ đều đón nhận đưa về với Chúa. Hãy chạy đến bên Mẹ nhờ Mẹ chỉ cho con đường đến với Con của Mẹ Đấng là đường là sự thật và là sự sống (x. Ga 14,6).
Thật thế, Mẹ chỉ dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa, như những người con được Mẹ hiền chỉ cho đi trên con đường đời để về với quê thật, như lời nhắn nhủ của Công đồng Vaticanô II: “Với tình mẹ hiền, Người chăm sóc những anh em (của) Con của Người đang lữ hành trên dương thế và đang gặp bao nguy hiểm, thử thách, cho đến khi họ đạt tới hạnh phúc quê trời” (Lumen Gentium - Hiến chế tín lý về Giáo hội 8,62).
Lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy, chúng ta mang đức tin, tin vào Chúa và như Giáo hội dạy: “Ðức tin dẫn chúng ta đến chỗ nhìn nhận địa vị cao cả của Mẹ Thiên Chúa, và thúc đẩy chúng ta lấy tình con thảo yêu mến và noi gương các nhân đức của Mẹ chúng ta” (LG 8,67). Các nhân đức nổi bật nhất mà chúng ta thấy trong
Tin mừng: Nhân đức tin, nhân đức cậy như Mẹ hoàn toàn phó thác vào thánh ý bằng hai tiếng xin vâng (x. Lc 1,38). Nhân đức mến chia sẻ, viếng thăm với người chị họ Êlisabéth cần sự giúp đỡ (x. Lc 1,39-45). Học với Mẹ nhân đức can đảm, Mẹ đối mặt với bao đau thương cuộc đời: Sinh con trong khó khăn (x. Lc 2,6-7), vượt khó trong sự truy bức của Hêrôđê để bảo vệ con trẻ (x. Mt 2,13-15), lạc con và tìm kiếm trong ba ngày (x. Lc 2,41-50), đặc biệt là đau thương chứng kiến cái chết của Chúa (x. Ga 19), Mẹ vẫn một niềm can đảm đối mặt và tin vào Thiên Chúa như Mẹ đã tuyên tin lúc được truyền tin. Nhân đức biết ơn học nơi Mẹ: Mẹ ca tụng cảm tạ hồng ân Thiên Chúa Đấng làm cho mình việc trọng đại, đời sống của Mẹ là một đời sống tạ ơn (x. Lc 1,46-56)…
Chúng ta hãy luôn tiếp bước theo, noi gương Mẹ theo các nhân đức mà chính Mẹ đã sống và dạy lại cho chúng ta.
Ý lực sống:
“Maria đầy ân phúc, bởi vì Thiên Chúa đã đoái nhìn, và vì cô đã tin: Đức tin của mình là hoa trái cây tươi tốt, xinh đẹp của lòng yêu thương khoan dung Thiên Chúa” (Thánh Bernarđô).
Suy niệm 8: Xin vâng với tâm tình phó thác
(Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
Hôm nay chúng ta mừng kính một trong bốn hồng ân trọng đại mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Maria Mẹ của chúng ta.
Mừng lễ hôm nay tự nhiên tôi lại nhớ đến câu chuyện đã xảy ra trong cuộc đời của tôi cách đây hơn gần 20 năm. Cũng vào dịp như thế này vào chiều 15-8-1981. Sau khi tôi vừa dâng lễ xong thì có một người đàn ông trạc độ 50-60 tuổi. Ông tìm đến với tôi và nói với tôi những lời rất chân thành như sau trước mặt mọi người: “Thưa Cha, hôm nay con nghe bài giảng của cha con cảm động quá. Cha còn mặc áo màu vàng...màu vui, màu chiến thắng....Nhưng cha có biết không....hôm nay là ngày giỗ của mẹ con....Mẹ con mất...ở đời con chỉ có mẹ...Con nhớ mẹ con quá....Xin cha cho con địa chỉ của Vatican....Con gửi thư con nói với Chúa....con đòi mẹ con lại. Ở đời con chỉ có mẹ. Đời con chỉ có mẹ. Mẹ là lẽ sống, mẹ là niềm vui của con. Con muốn đòi mẹ con lại.
Vâng kính thưa anh chị em. Mẹ là lẽ sống, là niềm vui. Có Mẹ thật không có gì hạnh phúc hơn.
Không thể có niềm vui nếu không có mẹ. Có lẽ chính vì thế mà Thiên Chúa là Cha đầy lòng thương xót đã ban cho chúng ta một người mẹ tuyệt vời: Mẹ Maria, Mẹ của mỗi người chúng ta.
Hôm nay chúng ta mừng mẹ được về trời. Mẹ về trời có nghĩa là mẹ đang sống. Sự sống của Mẹ không phải chỉ giới hạn trong cuộc đời, nhưng bao trùm cả lịch sử: Lịch sử của cả loài người lẫn lịch sử của mỗi người chúng ta.
Vâng ngay từ thuở đời đời Thiên Chúa đã muốn cho người mẹ đó luôn ở với chúng ta.
1. Ngay từ những ngày tháng đầu tiên khi mới có con người trên trái đất này, Mẹ đã có mặt ở đó:
“Ta sẽ đặt giữa ngươi và người phụ nữ
Giữa dòng dõi ngươi và dòng dõi người nữ một mối cừu địch
Người phụ nữ đó sẽ đạp dập đầu mi”
Vâng ngay từ những ngày đầu tiên của lịch sử loài người Mẹ đã có mặt tại đó như một bảo đảm cho nguồn ơn cứu rỗi, như một lời hứa chắc chắn sẽ được thi hành, như một hy vọng chắc chắn sẽ thành sự thật cho cả loài người mai sau.
2. Rồi khi đến thời đến buổi, lúc Thiên Chúa muốn thực hiện lời hứa của Người. Mẹ Maria đã có mặt ở đó. Bằng Lời Xin vâng với tất cả tâm tình phó thác, Mẹ để cho Thiên Chúa hoàn toàn làm chủ cuộc đời của mình để làm những việc Thiên Chúa muốn trong chương trình cứu rỗi loài người chúng ta.
Sau hai tiếng Xin Vâng cuộc đời của Đức Mẹ không còn gì là của mình nữa. Tất cả đã hoàn toàn thuộc về Chúa.
Ngày Chúa Giêsu Đấng Cứu thế ra đời, khởi đầu công việc cứu thế, Mẹ có mặt ở đó để chứng kiến giây phút trọng đại này.
Mt 2,11: “Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến.”
Lc 2,6: “Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa.”
Lc 2,16: “Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ.”
Lúc Chúa khởi sự cuộc đời công khai, tại tiệc cưới Cana, Mẹ có mặt ở đó như một người mẹ luôn lo lắng cho con cái của mình
Ga 2,1: “ Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Ca-na miền Ga-li-lê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giê-su.
Lúc Chúa rao giảng: Mẹ có mặt xa xa nhưng khi Chúa bị treo trên Thánh Giá: Mẹ đứng thật gần. Thánh Gioan “Mẹ đứng sát cạnh Chúa Giêsu...như một trợ lực cho người con để Ngài làm xong những công việc cần phải làm cho mọi sự được hoàn tất.
Ga 19,25: “Đứng gần thập giá Đức Giê-su, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la.”
Rồi ngày đầu tiên đánh dấu sự ra đời của Giáo hội Mẹ có mặt ở đó với tất cả lòng yêu thương để khích lệ các tông đồ can đảm dấn thân vào cuộc sống mới: Cuộc sống làm chứng cho Chúa Giêsu Phục sinh.
Cv 1,14: “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Ma-ri-a thân mẫu Đức Giê-su, và với anh em của Đức Giê-su.”
Chưa hết: Sau khi Chúa về trời, Mẹ tiếp tục có mặt, có mặt như một nhắc nhở để những người con của mẹ nơi trần thế chớ có vì cuộc sống tạm bợ mà quên mất trời cao.
Đọc lại lịch sử Giáo Hội tôi thấy vào những thế kỷ gần đây Mẹ đã hiện ra với con cái của Mẹ rất nhiều lần.
Mẹ đã hiện ra với nữ tu Catharina Labouré tại khu phố Dubac ở Thủ đô nước Pháp năm 1830
Năm 1846 tại La Salette Mẹ hiện ra với hai trẻ mục đồng: Mélaine (10 tuổi) và Maximin (15 tuổi)
Tại Lộ Đức năm 1858 với cô bé chăn cừu Bernadette
Tại Pontmain 1871 với Cha Barbedette và cậu Eugène
Tại Pellevoisin 1876 với Estelle Faguette (12 tuổi)
Tại Fatima 1917 với ba trẻ: Giaxinta (7 tuổi)- Phanxicô (9 tuổi) - Và Lucia 10 tuổi)
Tại Beauring Bỉ với Albert (11 tuổi) - Fernande Versin (15 tuổi) Gilberte Degeimbre (9 tuổi) và André Degeimbre (14 tuổi)
Và sau đó tại Banneux cũng ở tại nước Bỉ với Mariette (12 tuổi)
Tại Hang Ba suối ở Roma với 1 người đàn ông và ba em nhỏ: Ông Bruno Cornachiola và ba em là: Isala (10 tuổi) - Carlô (7 tuổi) và Gioanfraco (4 tuổi)
Và gần đây ngày 24/6/1981 tại Medjugorji thuộc trung tâm nước Nam tư cũ với hai thiếu nữ Mirjana Dragicevic và Ivanda Ivankovic
Tôi chưa được tới Medjugorji nhưng những sự việc ở Medjugorji ngày hôm nay vẫn đang là một hiện tượng mà Khoa học không thể nào cắt nghĩa được. Tại Medjugorji hằng ngày vẫn có hàng ngàn, hàng ngàn người đến đó để lãnh nhận những sứ điệp rất đặc biệt Đức Mẹ ban để cùng với Đức Mẹ gìn giữ Hòa Bình cho thế giới.
Cuối cùng chúng ta cũng không quên Mẹ đã hiện ra nhiều lần cách đây 200 nam tại Lavang.....
Ngày hôm nay tại Lavang, các tín hữu từ khắp nơi, từ khắp mọi miền đất nước đang tề tựu tại đó chung quanh Mẹ để tạ ơn Thiên Chúa, để cầu xin cho Giáo Hội VN của chúng ta. Chúng ta hãy hiệp lòng hiệp ý với hàng Giáo Phẩm VN trong những ngày trọng đại này.
Tất cả những lần hiện ra như thế dường như chỉ để chứng minh có một điều: Mẹ vẫn có mặt, có mặt thường xuyên và gần gũi với con cái loài người chúng ta, giúp cho con cái loài người hãy biết sống để chiếm hữu được trời cao như Mẹ.
Vâng chúng ta hãy biết nghe lời Mẹ và nhất là hãy biết sống như Mẹ đã sống để mai sau khi kết thúc cuộc đời trần thế này, chúng ta được Đức Mẹ dẫn đưa chúng ta về quê trời.
Tuy còn đang sống ở trần gian những lòng chúng ta đừng quên hướng về trời.
Thánh Giáo phụ Basilio bị điệu ra tòa án Roma trước mặt Hoàng đế:
- Người bỏ đạo, ta sẽ ban cho chức cao lộc hậu.
- Lời dạy bảo của bệ hạ dạy dỗ được trẻ con. Kinh Thánh tôi dạy khác hẳn, nên thà chết hơn lìa bỏ đấng Kitô.
- Ngươi không biết Trẫm là ai sao ?
- Tôi không tuân lệnh Bệ hạ đâu.
- Ngươi không biết ta có quyền ban chức tước cho ngươi sao ?
- Chức tước bổng lộc có thể thay đổi như chính bệ hạ.
Thấy không thể lay chuyển lòng Thánh nhân Vua đe tịch thu tài sản, tra tấn tù tội và giết.
- Tâu bệ hạ tôi chẳng có gia tài cho bệ hạ tịch biên. Lưu đày chăng ? Tôi có quê thiên đàng. Tra tấn ư ? Tôi sẵn sàng chịu vì Chúa. Giết tôi ư ? Càng sớm về trời.
- Ngươi thật điên cuồng!
- Tôi mong được điên mãi như thế này.
Trên con đường chúng ta đi chúng ta chẳng có gì phải sợ hãi. Mẹ sẽ luôn đồng hành với chúng ta. Mẹ sẽ có mặt kịp thời để che chở, phù giúp chúng ta miễn là chúng ta biết tin tưởng ở Mẹ.
Một hôm trong đám những người hành hương đến Arc có một người đàn bà mang đại tang. Bà vào giữa nhà thờ đứng như trời trồng ở giữa mọi người. Bà có vẻ rất đau khổ. Lý do là chồng bà, một người đã bỏ đạo từ lâu cách đây mấy bữa đã nhảy xuống sông tự tử…đã chết mà không được lãnh nhận những bí tích cuối cùng. Cha Gioan Maria Vianney đi qua….Bà chưa kịp nói gì thì Cha ghé vào tai bảo bà: - Ông nhà đã được cứu rỗi rồi.
Thấy người đàn bà có vẻ quá ngạc nhiên, cha nói lại một lần nữa:
- Tôi đã bảo ông nhà đã được cứu rỗi rồi mà.
Bà thắc mắc hỏi lại với một giọng đầy hoài nghi, cha nhấn mạnh từng tiếng:
- Tôi bảo bà là ông nhà đã được cứu rỗi rồi. Ông hiện đang ở trong Luyện ngục. Phải cầu nguyện nhiều cho ông ta. Giữa nhịp cầu và dòng nước ông đã có được một thời gian để ăn năn thống hối. Bà còn nhớ là trong tháng Đức Mẹ, bà đã cho làm một bàn thờ trong phòng của bà không ? Thỉnh thoảng, chồng của bà, mặc dầu đã bỏ đạo cũng đến hợp lời cầu nguyện với bà. Thái độ đó đã đem lại cho ông tạ ơn thống hối và tha tội vào phút cuối cùng của cuộc đời.
Lạy Mẹ Maria
Đã một lần Mẹ nhận nhân loại chúng con làm con của mẹ
Và từ dạo ấy
Mẹ đã yêu nhân loại với tất cả tấm lòng từ mẫu
Chúng con là những người trong khối nhân loại ấy
Và như thế chúng con đã đương nhiên là con của Mẹ
Và đương nhiên là Mẹ thương chúng con
Xin dạy chúng con
biết chiêm ngắm Chúa Kitô
và suy đi nghĩ lại những Lời của Người
trong tâm tình yêu mến như Mẹ
Xin dẫn lối cho chúng con
trên bước đường theo Chúa
cũng như đem Chúa đến cho mọi người
Xin dạy chúng con biết luôn bước đi trên con đường tình yêu
Với tâm tình phó thác
Xin dẫn chúng con
đến sự sống muôn đời
bằng cách đặt bàn tay chúng con
vào bàn tay của Chúa Kitô
Đấng đã có lần nói với mọi người
Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Amen.
9. Mẹ là hoa sen giữa đời
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có lẽ không có loài hoa nào vừa bình dị, vừa cao sang, vừa gần gũi lại rất thanh khiết cao quý cho bằng hoa sen Việt Nam. Cây sen tươi đẹp, hoa sen xinh tươi, thơm ngát, thanh tao nhưng lại rất gần gũi với đời sống người dân Việt Nam. Gần gũi đến nỗi người Việt Nam nào cũng biết nó, cũng yêu quý nó. Gần gũi đến nỗi người ta thi vị nó, nhân cách hoá nó như là tâm hồn của một con người. Một tâm hồn trong sáng, thanh khiết giữa bùn nhơ tội đời.
"Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn mà chằng hôi tanh mùi bùn".
Lời ca dao thật nhẹ nhàng dẫn dắt người nghe về vẻ thanh tao của một loài hoa dân dã, bình dị để gợi mở về hình ảnh người nông dân lam lũ quanh năm nơi đầm lầy nước đọng nhưng tấm lòng lại thanh cao như loài hoa sen.
Ngay từ hai câu đầu tác giả khẳng định về vẻ đẹp của loài hoa sen: "Trong đầm gì đẹp bằng sen - Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng". Quả thực, ở giữa đầm lầy thì bông sen đẹp nhất. Cây sen được nổi lên với những cánh lá xanh nhô lên mặt nước như những cái dù xinh xắn. Bông sen mở cánh trắng muốt sáng lên dưới nắng mặt trời, toả hương ngào ngạt từ nhị hoa vàng. Tất cả tạo lên một bức tranh thôn quê bình dị, yên hàn. Thế nhưng, tác giả dường như không dừng lại ở việc ngắm đoá hoa sen một cách chung chung hay ở đàng xa, mà dường như tác giả nâng niu từng lá sen xanh, chỉ từng bông sen trắng, đếm từng nhị sen vàng. Có như vậy, tác giả mới có thể nói lên rằng:
"Nhị vàng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".
Lời kết tác giả như muốn lội ngược dòng khi tác giả thi vị hoá cây sen thành nét đẹp của tâm hồn con người. Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Từ đây, cây sen đã trở thành biểu tượng của tâm hồn trong sáng, hiền lành của người nông dân chân lấm tay bùn Việt Nam. "Gần bùn" ở đây chính là môi trường tiếp xúc của sen hay nói đúng hơn chính là xã hội phong kiến bất công bấy giờ có quá nhiều những tham nhũng, dơ bẩn, ô uế. Tuy vậy mà bông sen vẫn rực rỡ, sáng ngời, toả ánh hào quang, không hề dơ bẩn. Mà ngược lại nhờ những môi trường xung quanh ấy mà sen càng thêm đẹp, làm tăng sự thanh cao.
Bài ca dao trên là một bài thơ hay. Chỉ bằng những câu từ mộc mạc, giản dị kèm theo thể thơ lục bát bình dân của truyền thống dân tộc Việt Nam, đã làm nổi bật lên hình ảnh nên thơ của người nông dân Việt Nam chân lấm tay bùn nhưng tâm hồn lại thanh cao trong sáng. Họ sống giữa bùn nhơ nhưng không để lòng mình vướng bận những tham sân si giòng đời. Họ sống giữa đầm lầy tội lội nhưng không để lòng mình ngụp lặn trong đam mê tội đời.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Mẹ Hồn Xác về trời. Mẹ Maria chính là một đoá hoa đẹp nhất trần gian. Nhìn vào cuộc đời Mẹ, chúng ta thấy một Maria trong trắng dịu dàng. Một Maria đoan trang mực thước. Một Maria bác ái bao dung. Một Maria nữ tỳ được Chúa yêu thương và chúc phúc. Mẹ luôn giữ lòng thanh khiết giữa bùn nhơ tội đời. Người ta nói Mẹ được ơn Vô Nhiễm ngay tứ lúc trinh thai, nhưng điều quan yếu là Mẹ đã giữ được vẻ thanh khiết vẹn toàn đó giữa môi trường đầy những cám dỗ tội lỗi, đầy những thói đời xấu xa. Mẹ đã thắng mọi cám dỗ để có thể toả ngát hương thơm giữa trần đời. Mẹ là người phụ nữ đẹp rạng ngời giữa muôn ngàn người phụ nữ, tựa như bông sen đẹp lộng lẫy giữa đầm lầy. Tâm hồn Mẹ lại càng thanh cao, thanh cao đến nỗi hoàn toàn xứng đáng cho Con Chúa Trời ngự trị. Mẹ hoàn toàn xứng đáng với lời giới thiệu: "Trong đầm gì đẹp bằng sen". Mẹ xứng đáng là đoá sen không phải là vì nét đẹp kiêu sa mà là vì nét đẹp tâm hồn "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".
Mẹ đã được Chúa đưa cả hồn và xác về trời như là phần thưởng xứng đáng cho những gì Mẹ đã dâng tặng cho Chúa và cho đời. Cuộc đời Mẹ hoàn toàn thanh sạch dành trọn vẹn cho Chúa. Cuộc đời Mẹ luôn toả hương bác ái yêu thương cho tha nhân. Mẹ đã sống một cuộc đời như đoá sen dâng hiến cho trần gian trong sự khiêm nhu của người Nữ Tỳ xin được làm mọi sự vâng theo thánh ý nhiệm màu.
Nguyện xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho mỗi người chúng ta biết gì giữ nét đẹp cao quý nơi phẩm giá làm người và làm con Chúa của chúng ta. Xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta luôn được hồn an xác mạnh, ơn thánh dư đầy để phụng sự Chúa trong mọi người như Mẹ. Amen.
10. Lời Thưa Xin Vâng
Triết gia hiện sinh của Pháp, Albert Camert đã nói rằng: "Con người là tạo vật duy nhất không chấp nhận chính mình. Con người đành phải chịu đựng chính mình và chính vì phải chịu đựng mình mà con người luôn phẫn nộ với những giới hạn của mình và tìm cách vượt qua chính mình".
Một trong những thể hiện của thái độ không chấp nhận chính mình là ước mơ bất tử trường sinh được nuôi dưỡng và bày tỏ bằng nhiều cách khác nhau. Từ các vua chúa của Ai Cập qua Tần Thủy Hoàng của Trung Hoa đến những lãnh tụ độc tài của các thời đại, và cuối cùng, những nhà khoa học của thời đại, con người vẫn tìm đủ mọi cách để trở thành bất tử. Các vua Ai Cập khi qua đời không những được ướp xác, mà người ta còn chôn sống cả những người thân tín của họ. Tần Thủy Hoàng cũng đã suốt một đời đi tìm thuốc trường sinh bất tử. Những cái xác ướp của thời đại hiện đang được trưng bày trong những lăng tẩm nguy nga, mà sự bảo trì đòi hỏi bao nhiêu tốn kém cũng là thể hiện của những giấc mơ được sống mãi, dù chỉ là sống mãi với một thứ hào quang giả tạo.
Giấc mơ được sống lại ấy, ngày nay cũng đang được những nhà khoa học muốn hiện thực hóa qua việc tạo sinh vô tính con người, hay sử dụng tế bào gốc của các phôi thai người để chữa trị những căn bệnh nan y, và như vậy vượt qua biên giới của sự chết. Trước khi chết, người ta chỉ cần để lại một tế bào sống của mình và từ đó các nhà phù thủy khoa học sẽ nối dài cuộc sống của người đó bằng cách tạo sinh vô tính một con người y hệt như người đó. Với tế bào gốc rút ra từ phôi thai người, những nhà phù thủy khoa học cũng sẽ đánh bại thần chết bằng cách chữa trị mọi căn bệnh nan y.
Nhưng viễn tượng mà những nhà khoa học đang vẽ ra vì một vài người trường sinh bất tử trên mặt đất này, không chỉ thỏa mãn ước mơ được sống mãi, nó còn gợi lên bao nhiêu hệ lụy mà một cái nhìn có trách nhiệm không thể làm ngơ. Những con người trường sinh bất tử ấy sẽ là những con người bình thường, hay là những quái thai? Có được phép sử dụng hay sản xuất phôi thai để dùng vào việc chữa trị các căn bệnh nan y và làm cho con người trường sinh bất tử không? Ðó là những câu hỏi mà tinh thần trách nhiệm không thể tránh né được.
Tựu trung, sống và cư xử có trách nhiệm là đòi hỏi tất yếu của con người. Ðã là người đương nhiên phải có trách nhiệm. Nhưng nói đến trách nhiệm cũng là nói đến thân phận giới hạn của con người. Chính vì tính giới hạn ấy của con người mà tự do cũng đương nhiên có tính giới hạn.
Ðây là chân lý mà lễ Ðức Mẹ hồn xác lên trời hôm nay có thể gợi lên cho chúng ta để cùng suy nghĩ. Mẹ Maria là mẫu mực của một con người có trách nhiệm. Trách nhiệm ấy trước tiên là thể hiện qua sự cộng tác của Mẹ trong mầu nhiệm nhập thể. Mẹ đã thưa "Xin Vâng" với tất cả tinh thần trách nhiệm. Thưa "Xin Vâng" là chấp nhận đi vào một chương trình của Thiên Chúa, trong đó sự cộng tác của con người phải là toàn diện. Thưa "Xin Vâng" là ý thức về thân phận bất toàn và giới hạn của con người, nhưng đồng thời cũng triệt để tin tưởng nơi quyền năng tuyệt đối của Thiên Chúa. Chính vì đã thưa xin vâng một cách triệt để mà Mẹ Maria đã là người đầu tiên trong nhân loại vượt qua được ranh giới của sự chết để trở thành trường sinh bất tử thật sự.
Chấp nhận thân phận giới hạn của kiếp người và tin tưởng ở quyền năng của Ðấng có thể làm được mọi sự. Mẹ Maria đã được cất nhắc về trời cả hồn lẫn xác. Mẹ đã trở thành đích điểm của cuộc lữ hành đức tin của chúng ta. Mẹ đã chỉ ra cho chúng ta con đường đích thực để đi, hầu đạt được cứu cánh vĩnh cửu của chúng ta. Nhìn lên Mẹ từ giữa bao nhiêu giới hạn bất toàn và khổ đau của kiếp người, chúng ta được mời gọi củng cố niềm hy vọng của chúng ta. Giữa cuộc đời khổ lụy và tăm tối, chúng ta vẫn nhận ra ánh sáng để tiến tới. Ước gì bài ca Ngợi Khen mà Mẹ và cộng đoàn tiên khởi đã hát vang cũng trở thành tâm tình của chúng ta.
11. Marilyn, Chúng Tôi Thông Cảm Với Cô
(Trích dẫn từ ‘Lẽ Sống’ - Những Bài Suy Niệm và Cầu Nguyện Hằng Ngày của Ðài Phát Thanh Chân Lý Á Châu. Radio Veritas Asia)
"Marilyn, chúng tôi thông cảm với cô": đó là hàng chữ mà hiện nay hàng ngàn du khách đều lâm râm đọc mỗi khi đứng mặc niệm trước mộ của nữ minh tinh Marilyn Monroe tại nghĩa trang Westwood, nằm ở phía Tây thành phố Los Angeles.
Hiện nay, từng giây, từng phút, hàng ngàn cánh hoa được du khách mang đến, phủ kín nơi an nghỉ của người nữ minh tinh xấu số này. Ngày 15/8/1962, người nữ minh tinh với mái tóc bạch kim óng ả lặng lẽ ra đi không một lời dã biệt. Cuộc quyên sinh của cô, cho đến nay vẫn còn là một bí ẩn. Giữa lúc danh vọng đang lên, giữa lúc tiền bạc đang vào ngút ngàn, Marilyn đã chọn lấy cái chết...
Randall Reise, tác giả viết lại cuộc đời của Marilyn Monroe, đã nhận định như sau: "Marilyn không còn là một con người nữa. Cô đã trở thành một huyền thoại. Cô không còn là một nhân vật của Holywood nữa. Cô đã trở thành một yếu tố trong nền văn hóa của nước Mỹ".
Marilyn đã trở thành lý tưởng của rất nhiều ca sĩ và minh tinh điện ảnh hiện nay. Nhưng mãi mãi, cô đã trở thành một câu hỏi lớn cho con người của thời đại: Con người bởi đâu mà ra? Con người sinh ra để làm gì? Ðâu là ý nghĩa của cuộc sống? Tiền bạc, danh vọng có làm cho con người được hạnh phúc không? Marilyn Monroe là hiện thân của những câu hỏi ngàn đời ấy...
"Marilyn, chúng tôi thông cảm với cô", bởi vì cô đã không ngừng bị dằn vặt bởi những khắc khoải quá lớn về cuộc sống. Chúng tôi thông cảm với cô, bởi vì thiếu một niềm tin vào cuộc sống, thì không còn chọn lựa nào hơn là cái chết...
Hôm nay, chúng ta mừng kính Mẹ hồn xác lên trời...
Ngày 22/7/1973, thành phố Giêrusalem đột nhiên biến thành nhộn nhịp khác thường, từng đoàn người tuôn đến vườn Giêtêmani... Có tin cho biết các nhà khảo cổ đã tìm thấy tảng đá trong mồ nơi đặt xác Ðức Mẹ. Ðức Mẹ đã chết. Ðó có lẽ phải là khẳng định đầu tiên mà các nhà khảo cổ có thể đưa ra khi tìm thấy tảng đá...
Chết là số phận tất yếu của thân phận con người. Chúa Giêsu đã chết. Có ai thoát khỏi sự chết! Nhưng có nhiều cái chết. Chúa Giêsu đã chết để phục sinh. Ðức Mẹ đã chết để được cất nhắc cả hồn xác về trời. Với Chúa Giêsu và Ðức Mẹ, cái chết là khởi đầu của hy vọng. Cái chết là ý nghĩa của cuộc sống, bởi vì có chết mới được sống đời đời...
Nếu cái chết của Marilyn Monroe là một dấu hỏi được đặt ra về ý nghĩa của cuộc sống, thì cái chết của Mẹ Maria chính là câu trả lời. Qua cái chết để được cất nhắc về trời, Mẹ Maria đã cho chúng ta thấy được ý nghĩa của cuộc sống, của cái chết và như vậy Mẹ trở thành chính niềm hy vọng của chúng ta.
Trong một cuộc sống không dư tiền dư của như Marilyn đã từng sống, chúng ta vẫn nhận ra được ý nghĩa của cuộc sống. Trong ý nghĩa đó, cái chết đã trở thành khởi điểm cho một sự biến đổi mà chính Ðức Maria đã là dấu hiệu báo trước cho chúng ta... Xin cho niềm tin này củng cố chúng ta trong cuộc sống hiện tại. Xin cho chúng ta luôn biết hướng nhìn về Mẹ Maria, như là đèn pha cho chúng ta giữa những u tối và cuồng phong của cuộc sống.
12. Chân dung Mẹ Maria
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Văn chương Việt Nam thường diễn tả hình ảnh về người mẹ thật mộc mạc chất phác, đơn sơ và giản dị. Người mẹ Việt Nam luôn gắn bó với ruộng rẫy nương dâu, nơi đồng chua nước mặn, ăn mặc giản dị nâu sồng, không phấn sáp xa hoa, mà tâm hồn hiền hòa, đôn hậu. Những bà mẹ sống cuộc đời bình lặng như mặt nước hồ thu, nhưng vẫn giữ tiết kiên trung, cao cả. Chính những bà mẹ ấy đã đem những giọt mồ hôi tưới mát ruộng đồng, làm đẹp cuộc đời và đẹp cả quê hương:
"Mẹ Việt Nam không son, không phấn,
Mẹ Việt Nam chân lấm, tay bùn,
Mẹ Việt Nam không mang nhung gấm,
Mẹ Việt Nam mang tấm nâu sồng".
(Phạm Duy, Trường ca Mẹ Việt Nam)
Hình ảnh của người mẹ Việt Nam thật cao đẹp, công ơn của mẹ đối với con thật bao la. Công ơn ấy đã được khắc ghi sâu đậm vào tâm não của con, bộc phát thành những lời ca, tiếng nhạc hết sức dạt dào:
"Rủi mai này mẹ hiền mất đi, thì con côi...
Như đóa hoa không mặt trời
Như tuổi thơ không nụ cười
Như đời mình không lớn khôn thêm
Như bầu trời thiếu ánh sao đêm.
Mẹ là dòng suối dịu hiền.
Mẹ là bài hát thần tiên,
Là bóng mát trên cao, là mắt sáng trăng sao
Là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối.
Mẹ là lọn mía ngọt ngào,
mẹ là nải chuối, buồng cau,
Là tiếng dế đêm thâu, là nắng ấm nương dâu,
Là vốn liếng yêu thương cho cuộc đời".
Vâng, khi nói về người mẹ trần thế chúng ta thường nói đến công lao trời bể, những hy sinh trải rộng suốt dọc dài cuộc đời của mẹ, thế nhưng, còn người Mẹ thiên quốc thì sao? Xem ra ít ai nhìn thấy những đắng cay mà Mẹ phải chịu trong đời, sau lần thưa xin vâng ấy! Chúng ta quá đề cao ân sủng của Chúa nơi Mẹ mà quên rằng: Mẹ chỉ được ơn phước đó nhờ đời sống luôn nở hoa yêu thương, hoa hy sinh, hoa khiêm nhường, hoa bác ái trong đời sống thường ngày của Mẹ, đến nỗi từ trời cao Thiên Chúa đã nhìn thấy Mẹ "hằng đẹp lòng Thiên Chúa".
Thực vậy, Mẹ hằng đẹp lòng Chúa qua cung lòng thanh khiết không vấn vương tội lỗi, rất xứng đáng nên cung điện cho Con Chúa Trời ngự trị
Mẹ hằng đẹp lòng Thiên Chúa khi Mẹ từ bỏ con đường riêng của mình để thưa xin vâng cho ý Chúa được thực hiện.
Mẹ hằng đẹp lòng Chúa khi Mẹ vội vã băng đồi lội suối, thăm viếng và phục vụ bà chị họ, sinh con trong lúc tuổi già.
Mẹ hằng đẹp lòng Thiên Chúa khi tiếp tục xin vâng trong mọi hoàn cảnh thiếu thốn cùng cực nhất: sinh con trong nghèo khó, chốn chạy qua Ai Cập, trở về Nagiaret với đôi tay tần tảo may vá thêu thùa.
Mẹ hằng đẹp lòng Chúa khi Mẹ đồng công thưa xin vâng với thánh ý Chúa Cha qua cái chết Cứu độ của Chúa Giê-su con Mẹ.
Vâng, Mẹ Maria với tư cách là người mẹ trần thế, mẹ cũng trải qua những gian truân, vất vả để nuôi con khôn lớn như bao bà mẹ khác. Mẹ Maria cũng trải qua những tháng ngày tần tảo một nắng hai sương để gồng gánh gia đình đi qua những thăng trầm của dòng đời. Mẹ Maria còn đau khổ hơn bao bà mẹ khác vì con của Mẹ luôn phải đối đấu với nghi nan và nhất là không ai khổ bằng Mẹ, một người mẹ đau khổ phải ôm thân xác tả tơi, bất động của con yêu quý vào lòng với nỗi niềm xót xa, mà cha ông ta diễn tả rằng: "Lá vàng còn ở trên cây lá xanh rụng xuống trời chăng hỡi trời?".
Hôm nay chúng ta chiêm ngắm Mẹ được Chúa đưa cả hồn và xác về trời. Ðây là phần thưởng mà Thiên Chúa đã tặng ban cho Mẹ sau một đời nỗ lực sống theo thánh ý Chúa. Ðây là vinh quang mà Mẹ nhận lãnh sau hành trình dương thế luôn lắng nghe và thực thi thánh ý Chúa.
Mừng Mẹ về trời cũng là dịp nhắc nhở chúng ta hãy noi gương bắt chước Mẹ trên con đường tìm kiếm và thực thi ý Chúa. Mừng Mẹ về trời để giúp chúng ta hiểu rằng những khốn khó, gian truân đời này chẳng là gì so với hạnh phúc vĩnh cửu trên quê trời.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là người có phúc vì Mẹ luôn tin tưởng vào Thiên Chúa và sống cho thánh ý Chúa. Xin Mẹ giúp chúng con cũng tìm được cõi phúc như Mẹ khi buông mình trong sự tín thác vào Thiên Chúa quan phòng và mau mắn thi hành thánh ý Chúa với trọn niềm mến yêu. Amen.
13. Mẹ Maria là ưu phẩm của Thiên Chúa
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Mỗi lần mừng lễ về Mẹ Maria, chúng ta được mời gọi hướng về Mẹ như là một kiệt tác của Thiên Chúa, một thụ tạo được ưu tuyển và trổi vượt trên hết mọi loài được dựng nên. Bởi lẽ Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương, tuyển chọn cách đặc biệt. Không những thế, Thiên Chúa còn gìn giữ Mẹ cách nhiệm mầu trong chương trình cứu độ. Những ân huệ đó không thể có nơi bất cứ loài thụ tạo nào ngoài Mẹ.
Vì thế, khi mừng kính trọng thể lễ Đức Maria hồn xác về trời, phụng vụ mời gọi chúng ta cùng nhau khám phá vị thế ưu việt của Mẹ trong chương trình cứu độ nơi tín điều, truyền thống và giáo huấn của Giáo Hội. Mặt khác, Giáo Hội cũng chỉ cho con cái mình thấy và hiểu được việc Đức Maria hồn xác lên trời có tầm ảnh hưởng thế nào đến đời sống đức tin và niềm hy vọng cua chúng ta.
1. Giáo huấn của Giáo Hội
Trước tiên, chúng ta tìm hiểu về Giáo Huấn của Giáo Hội qua biến cố Đức Mẹ được đưa lên trời cả hồn lẫn xác.
Lễ Đức Mẹ lên trời là lễ trọng và cũng là lễ cổ xưa nhất trong các ngày lễ kính Đức Mẹ được cử hành trong Giáo Hội hiện nay.Vào thời điểm đầu, lễ này được gọi là lễ Đức Mẹ an giấc. Nhưng đến năm 1950, Đức Cố Giáo Hoàng Piô XII đã đổi tên thành lễ Đức Mẹ lên trời qua Tông hiến Munificentissimus Deus. Với tín điều này, Giáo Hội tin nhận: “Thân xác của Người Phụ Nữ đã trao ban thể xác cho Con Thiên Chúa đã không phải chịu định luật của sự thối rữa”; “Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria Trọn Đời Đồng Trinh, sau khi sống trọn cuộc đời trần thế, đã được triệu hồi cả hồn và xác vào trong vinh quang thiên quốc” (Tông hiến Munificentissimus Deus). Từ lời tuyên bố long trọng hôm ấy, đã trở thành chân lý đức tin cho toàn thể Giáo Hội hôm nay.
Với lời tuyên tín trên, Đức Giáo Hoàng đã liệt kê bốn chân lý tuyệt đối thuộc về lòng tin nơi Đức Maria. Bốn chân lý đó là: 1) Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa; 2) Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội; 3) Đức Maria Đồng Trinh Trọn Đời; 4) Đức Maria Hồn Xác Lên Trời.
Khi tuyên bố cùng lúc những đặc ân đó của Đức Mẹ, Giáo Hội muốn cho các tín hữu hiểu được cách tổng quát những ân huệ cao cả của Đức Maria, và đây cũng là dịp để xác tín hơn nữa những nguyên lý liên quan đến việc Mẹ được đưa lên trời cả hồn lẫn xác.
Nguyên lý thứ nhất: Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Vì Mẹ được ưu tuyển để đón nhận việc cưu mang và sinh hạ Ngôi Hai Thiên Chúa, và Đấng Cứu Thế là Thiên Chúa, nên Mẹ cũng là Thân Mẫu Thiên Chúa.
Việc được Thiên Chúa cất nhắc cả hồn xác Mẹ về trời là điều không có gì khó hiểu, bởi lẽ cả cuộc đời của Mẹ đã hiệp thông cách chặt chẽ vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa qua Đức Giêsu. Nên khi Đức Giêsu về trời, Ngài không thể để lại để thân xác của người mẹ yêu dấu phải hư nát trong mồ được.
Nguyên lý thứ hai: vì Thiên Chúa đã gìn giữ Mẹ khỏi mọi vết nhơ tội lỗi cách nhiệm mầu, nên khi mang thai và sinh hạ Đấng Cứu Thế quyền năng, Mẹ vẫn đồng trinh trước, trong và sau khi sinh. Vì thế, việc đưa cả hồn lẫn xác Mẹ về trời là điều cần thiết để bảo tồn vẻ trinh nguyên nơi Mẹ.
Nguyên lý thứ ba: nếu trước kia, Nguyên Tổ loài người đã bất tuân, chống lại Thiên Chúa và đi vào cõi chết, thì khi Đức Maria xuất hiện với lời “Xin vâng” tuyệt đối, Mẹ đã trở thành Evà mới liên kết mật thiết với Đức Giêsu – Ađam mới, Đấng là nguồn cội của sự sống, đã từ cõi chết sống lại và lên trời hiển vinh, thì không có lẽ gì Mẹ lại phải chịu cảnh hư nát, bởi vì hư nát là kết quả của tội lỗi. Như vay, Mẹ đương nhiên và rất hợp lý để được đưa lên trời cả hồn lẫn xác (x. GLHTCG số 963- 975).
Tóm lại, ngay từ khi thân xác Mẹ cưu mang chính xác thân Đấng Cứu Thế, thì Đức Giêsu con của Mẹ, đồng thời là Thiên Chúa đã thánh hóa Mẹ cả xác và hồn ngay từ lúc đầu thai. Vì vậy, sự phục sinh của Đức Giêsu không thể tách rời việc phục sinh Thân Mẫu là người đã cưu mang Cây Sự Sống nơi cung lòng thanh khiết của mình. Mẹ không thể “nhục thân bất hoại” theo lẽ thường được.
2. Cùng với Mẹ ngợi khen Thiên Chúa
Như vậy, mỗi khi mừng lễ Mẹ lên trời, chúng ta hãy cùng với cả triều thần ca mừng Nữ Hoàng Thiên Quốc: “Kìa bà nào xuất hiện như rạng đông, diễm kiều như vầng nguyệt, lộng lẫy tựa thái dương, oai hùng như đạo binh chỉnh tề hàng ngũ?” (Dc 6,10).
Thế nên, phụng vụ hôm nay làm toát lên vẻ huy hoàng và sắc thái hân hoan, vì: kể từ đây, Mẹ nắm giữ vai trò quan trọng nhất là Nữ Vương trời đất; làm Mẹ Thiên Chúa và làm Mẹ nhân loại.
Mẹ đáng được mọi đời khen ngợi vì Mẹ là “Đấng đầy ơn phúc”; “Thiên Chúa ở cùng Mẹ”. Mẹ trở thành Evà mới, thành Cây Quả Phúc mà Thiên Chúa đem trồng vào vươn Địa Đàng mới để được cưu mang và sinh ra quả phúc trường sinh là chính Đấng Cứu Thế.
Sự xuất hiện của Mẹ đã đưa nhân loại sang một trang sử mới. Lịch sử cứu độ được mở ra với biết bao ân huệ.
Đứng trước hồng ân lớn lao mà Thiên Chúa ban cho Mẹ, và đặt mình trong tâm tình của Mẹ, chúng ta hãy cất cao lời ngợi khen Thiên Chúa vì những điều kỳ diệu Ngài đã làm nơi Mẹ: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thien Chúa Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc” (Lc 1, 46-48).
Đây chính là lời kinh tuyệt mỹ mà Mẹ Maria đã cất lên để ca tụng Thiên Chúa, và đây cũng là những cảm nghiệm về tình yêu của Thiên Chúa dành cho Mẹ cách nhiệm mầu.
Biến cố Mẹ được đưa về trời, đã đem lại cho con người niềm hy vọng lớn lao và tuyệt đối.
Bởi vì sự phục sinh của Mẹ gắn liền với sự phục sinh của Đức Kitô: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu [...] cũng được Thiên Chúa cho sống lại” (x. 1Cr 15, 20-22).
Qua biến cố này, mặc khải cho chúng ta rằng: Mẹ Maria đã được đưa lên trời cả hồn lẫn xác, và nếu chúng ta theo chân Mẹ, sống như Mẹ và thực hành Lời Chúa cách yêu mến, trung thành thì mai ngày cũng được lên trời hiển vinh như Mẹ. “Cuộc Lên Trời của Đức Trinh Nữ rất thánh là sự tham dư độc nhất vô nhị vào sự Phục sinh của Con mình và là việc thể hiện trước sự phục sinh của các Kitô hữu khác” (GLCG, số 966). Bởi vì “Mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người” (x. 1Cr 15, 23-24) cũng sẽ được phục sinh như Người.
“Mẹ Lên Trời là hình ảnh và khởi thủy của Giáo Hội về ơn cứu chuộc của Thiên Chúa cho mọi người chúng ta. Mẹ chiếu sáng như dấu chỉ lòng trông cậy vững vàng và niềm an ủi cho dân Chúa đang lữ hành” (LG. số 69). Mẹ Lên Trời, nhận lãnh vai trò Nữ Vương trời đất, nên hơn bao giờ hết, Mẹ trở nên gần gũi với mọi thành viên trong gia đình nhân loại, và như thế: “Trong Hội Thánh, Đức Trinh Nữ diễm phúc được kêu cầu bằng các tước hiệu là Trạng Sư, Đấng Cứu Giúp, Đấng Phù Hộ, Đấng Trung Gian” (GLHTCG. số 969).
Như vậy, việc Mẹ được đưa lên trời cả hồn lẫn xác đem lại niềm hy vọng phục sinh cho tất cả chúng ta.
Mầu nhiệm Mẹ được rước lên trời cả hồn lẫn xác không chỉ nhắc nhở chúng ta cầu nguyện với Mẹ, mà còn hy vọng được trường sinh để cùng Đức Mẹ mãi mãi chúc tụng Thiên Chúa. Amen.
14. Maria dám tin
Một doanh nhân giàu có ở Mỹ có sáng kiến ngộ nghĩnh để thử lòng người: Ông cho in rất nhiều bích chương và dán khắp nơi trong thành phố nơi ông đang ở. Đại khái nội dung của bích chương loan báo: Bất cứ ai mắc nợ, nếu đến văn phòng của ông ngày đó, tháng đó từ 9g đến 12g đều được ông giúp đỡ để trả nợ. Dĩ nhiên, mọi người đều bàn tán về lời mời gọi này, nhưng đa số đã xem đây là một trò đùa.
Đúng ngày hẹn, doanh nhân ngồi trong văn phòng của mình. Hai giời trôi qua mà không thấy người nào đến. Mãi tới 11giờ mới có một người đàn ông rụt rè đến… Doanh nhân ký cho ông một ngân phiếu để trả hết nợ. Gần 12 giờ một vài người nữa cũng đến… Và dĩ nhiên họ cũng được giúp đỡ tận tình. Còn tất cả những người khác khi hiểu được lời mời gọi của doanh nhân thì đã muộn.
***
Lời hứa của doanh nhân trong câu chuyện trên đây quá lớn, nên đa số đã không tin. Chính vì không tin nên họ đã bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng. Đức Maria, trái lại, Mẹ đã dám tin vào lời Chúa hứa nên Mẹ đã được tràn đầy ân phúc. Bà Êlisabét nói: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.
Tin là để cho Chúa thay đổi hướng đi của cuộc đời mình.
Tin là để cho chương trình cứu độ của Người đảo lộn chương trình sống của chúng ta.
Tin là chấp nhận lên đường, làm một cuộc hành trình mạo hiểm với Chúa.
Trước khi thưa lời “Xin vâng”, Đức Maria đã có chương trình của Mẹ là sẽ sống đời đôi bạn với thánh Giuse. Và qua lời “Xin vâng”, Mẹ đã chấp nhận hoàn toàn để cho Thiên Chúa thay đổi hướng đi cuộc đời mình, để cho Người đảo lộn chương trình sống, và cùng Người bước vào một cuộc mạo hiểm với trọn niềm tin yêu phó thác.
Mẹ ra đi mà không biết mình đi đâu, chỉ biết ra đi theo hướng dẫn của Chúa.
Mẹ đã đi từ bước phiêu lưu này đến cuộc phiêu lưu khác: Từ việc hạ sinh Con Thiên Chúa cách đơn nghèo, cho đến khi lạc mất con trong đền thánh; từ những lời cứng cỏi của con ở Cana và Caphacnaum cho đến khi gặp con dưới chân thập giá.
Mẹ đã “Suy đi nghĩ lại trong lòng” vì những kỷ niệm ấy quả là khó hiểu dưới con mắt loài người.
Mẹ xứng đáng là Mẹ Đấng Cứu Thế vì Mẹ đã dám tin vào lời Chúa và để Chúa thay đổi cuộc đời mình theo chương trình cứu độ của Người.
Mẹ thật diễm phúc vì Mẹ đã chấp nhận lên đường làm một cuộc phiêu lưu với Chúa trong tin yêu và phó thác: “Xin Chúa làm cho tôi như lời Ngài nói”.
Chính vì Mẹ diễm phúc mà lòng Mẹ đã là mái ấm đầu tiên, là Đền Thánh cho Con Thiên Chúa ngự trước khi bước và cuộc đời.
Chính vì cuộc hạnh ngộ đầy linh thánh giữa Mẹ và bà chị họ, mà Thánh Thần đã linh ứng cho bà nhận ra điều mắt thường không thể thấy, đó là chuyện cô em Maria thụ thai Đấng Cứu Thế.
Chính vì niềm hứng khỏi và những lời chúc mừng của Êlisabét đã khiến Mẹ cảm nhận thật sâu sa hồng ân cao cả, và lời ngợi ca Thiên Chúa đã vỡ òa trên bờ môi hạnh phúc trong lời Kinh Manificat.
Vâng, chính cuộc sống tin yêu và phó thác của Mẹ đã tuôn chảy dòng sông của ân phúc, cuộc sống ấy đang tỏa hương thơm của thiên đàng.
15. Hoa thơm quả ngọt của trái đất được đưa về Trời
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Hôm nay, Giáo hội long trọng cử hành lễ Đức Trinh Nữ Maria hồn xác về Trời. Đức Maria lên Trời cho chúng ta biết chết không phải là hết, nhưng ranh giới giữa cuộc sống trần thế lữ hành trong đức tin với cuộc sống mai hậu ở trên trời.
Cuộc đời của Đức Maria là bằng chứn, Mẹ có hai cuộc lữ hành, một là cuộc lữ hành vật chất, Mẹ đi (từ Nazareth đến Bethlehem, từ Bethlehem sang Ai Cập, từ Ai Cập trở về Nazareth, từ Nazareth đến Giêrusalem, lên tới Êphêsô); hai là cuộc lữ hành về tinh thần (Mẹ bước di trong đức tin, vâng phục và yêu thương khởi đi từ lòng Mẹ đến Thiên Chúa, ban tặng cho Chúa Giêsu một trái tim bằng thịt).
Lấy lại những lời lẽ của sắc chiếu định nghĩa tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời Công Đồng Vaticanô II viết như sau: "Được gìn giữ tinh sạch khỏi mọi vết tội nguyên tổ, và sau khi hoàn tất cuộc đời dưới thế, Ðức Nữ Trinh Vô Nhiễm đã được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác, và được Thiên Chúa tôn vinh làm Nữ Vương vũ trụ, để nên giống Con Ngài trọn vẹn hơn, là Chúa các Chúa (x. Kh 19,16), Ðấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết " (Vatican II, LG, số 59).
Bàn về cái chết của Đức Maria, một câu hỏi được đặt ra: Có thể nào Đức Maria Nazareth lại phải trải qua thảm cảnh chết chóc nơi thân xác mình hay không?
Một số nhà thần học đã chủ trương, Đức Maria được miễn khỏi phải chết, Người đã được đưa thẳng từ cuộc sống đời này về vinh quang trên trời. Tuy nhiên, một lưu truyền lâu đời vẫn coi cái chết của Đức Maria như là sự dẫn đưa vào vinh quang trên trời.
Khi suy nghĩ về số phận của Đức Maria và mối tương quan của Người với Chúa Con, một số người khẳng định: chính vì Đức Kitô đã chết, vì thế khó lòng chủ trương một điều trái ngược đối với Thân Mẫu của Chúa.
Theo đường hướng đó Các giáo phụ đã lập luận và không mảy may nghi ngờ gì về điểm này. Thánh Giacôbê Sarug (+ năm 521), viết: “ca đoàn mười hai Tông Đồ, khi Đức Maria đã đến thời đi vào con đường của hết mọi thế hệ, nghĩa là con đường của sự chết, thì đã tụ họp để an táng thân xác trinh khiết của Đấng đáng chúc tụng”. Thánh Modestô Giêrusalem (+ năm 634), sau khi đã dài dòng bàn về “giấc ngủ hạnh phúc của Đức Mẹ Chúa Trời”, đã kết luận: “lời từ giã” qua việc tán dương sự can thiệp diệu kỳ của Chúa Kitô, Đấng đã cho Đức Maria “chỗi dậy từ ngôi mộ” để đưa Người về với mình trong vinh quang. Thánh Gioan Đamascêno (+ năm 704) đã tự hỏi: “Tại làm sao mà Đấng vào lúc sinh hạ đã vượt qua hết mọi giới hạn của thiên nhiên, giờ đây lại phải chịu khuất phục những luật lệ của thiên nhiên, và làm sao thân thể vô nhiễm của Người lại có thể khuất phục cái chết?”. Ngài trả lời: “Chắc hẳn là cái phần hay chết cần phải được chôn táng để có thể mọc lên sự bất tử, xét vì chính Chủ tể thiên nhiên cũng đã không muốn khước từ cảm nghiệm cái chết. Thực vậy, Người đã chết theo xác thể và bằng cái chết Người đã hủy diệt cái chết, Người đã mang lại sự bất diệt cho sự hủy hoại, và Ngài đã biến cái chết thành nguồn của sự sống lại”.
Đành rằng, dựa theo mặc khải, cái chết được trình bày như là án phạt của tội lỗi. Tuy vậy, sự kiện Hội Thánh tuyên bố Đức Maria được giải thoát khỏi tội nguyên tổ do một đặc ân của Chúa, không minh định Đức Maria cũng đã lãnh nhận đặc ân bất tử về thân xác. Bà Mẹ không thể hơn Con mình được, Đấng đã lãnh nhận cái chết, để ban cho nó một ý nghĩa mới và biến đổi nó thành một dụng cụ của sự cứu rỗi.
Cho dù cuộc đời của Đức Maria đã chấm dứt do một sự kiện hữu cơ hay sinh lý nào đi nữa, chúng ta vẫn có thể nói, việc chuyển bước từ cuộc đời này đến cuộc đời bên kia đối với Đức Maria là một sự trưởng thành của ơn thánh tiến tới vinh quang; vì thế cái chết của Người có thể được quan niệm như là một “giấc ngủ”.
Thánh Bernard nói với chúng ta rằng: "“Đức Maria Nữ Trinh vinh hiển về Trời đã gia tăng hạnh phúc và niềm hy vọng nơi chúng ta”. Ngài thêm: “Đức Maria, Phần Tử ưu tú trên địa cầu chúng ta đang sống được đưa từ đất về trời, là một món quà vô cùng cao quí, sự vinh thăng ấy là cuộc trao đổi kỳ diệu giữa đất với trời, giữa con người trần thế với thế giới thần linh. Mẹ là hoa quả tuyệt vời của trái đất đã được đưa lên cao, để từ trên nơi cao xanh ấy ơn sủng lại tuôn đổ chan hòa xuống trên mặt đất, nghĩa là chính từ nơi Đức Maria diễm phúc được rước lên đó, đến lượt mình, Mẹ lôi kéo muôn vàn ân sủng xuống cho nhân loại”.
Ân sủng Mẹ chuyển xuống chính là Lời, Lời mà Mẹ đã đón nhận và cẩn thận ghi nhớ cũng như cưu mang trong lòng. Khi cưu mang Lời trong lòng, Mẹ cũng cưu mang Sự Sống của chúng ta: “Đức Maria vội vã lên đường, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Êlisabét” (Lc 1,39-40). Sự hiện diện của Mẹ Maria làm cho thế giới vui mừng như bà Êlisabét nói: “Vì khi vừa nghư tiếng em chào, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng tôi” (Lc 1,44).
Mẹ vui mừng, Mẹ cũng làm cho thế giới mừng vui, niềm vui của Mẹ trở thành bài thánh ca muôn thủa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng Cứu Độ tôi!” (Lc 1,46-47). Thật là một quả phúc tuyệt vời trên cõi trời cao ban xuống cho nhân loại. Bài Ca Tạ Ơn của Đức Maria đã trở thành Lời Thiên Chúa. Trong bài ca ấy, chúng ta tìm ra con đường để hiểu biết con người và Thiên Chúa như thế nào, và trần thế cũng như thiên đàng ra làm sao. Tất cả hợp nhất cùng nhau và có thể làm như Mẹ đã làm, món quà mà Thiên Chúa làm cho chúng ta trong Con yêu dấu của Chúa qua Đức Maria Trinh Nữ Rất Thánh: để trở thành món quà Chúa cho thế gian, và mai ngày, trở thành món quà của nhân loại dâng lên Thiên Chúa, chúng ta phải noi gương của Đức Maria, người đã bước vào vinh quang trước chúng ta và đang đợi chúng ta ở đó.
Nữ Vương linh hồn và xác lên Trời, cầu cho chúng con. Amen.
16. Mẹ về Trời, niềm hy vọng của chúng ta
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Con rồng trong sách Khải Huyền được mô tả như là mầm mống của sự chết chóc vì nó đứng “rình người nữ sắp sinh con để nuốt lấy đứa trẻ” (Kh 12, 4). Với từ ngữ và hình ảnh tượng trưng, sách Khải Huyền còn gợi lên cuộc chiến lâu dài giữa sự sống và sự chết, giữa Satan với Đức Kitô và Giáo hội của Người. Người sẽ toàn thắng.
Chúng ta biết, cuộc chiến giữa sự sống và sự chết, giữa sự thiện và sự ác là không cùng. Con người dù tiến bộ đến đâu đi chăng nữa, vẫn luôn mang trong mình sự mỏng giòn.
1. Sự mỏng giòn của con người
Vốn mỏng giòn yếu đuối, cộng thêm lo âu, phiền muộn về sức khỏe, việc làm, về công việc gia đình phải gánh vác, những mập mờ vô định ngày mai của cuộc đời, lo con còn trẻ, cha mẹ khi đã về già, ốm đau bệnh tật, khủng hoảng về luân lý…tất cả đè nằng lên lòng trí con người. Làm sao không khỏi ngạc nhiên khi thấy thời đại chúng ta đang tụt hậu trước những biến cố của cuộc đời?
Trước những bất hạnh của thế giới, có người buông xuôi không làm gì hết, để mặc cho số phận. Có người cấp tiến hơn, quyết định từ bỏ một phần và tự sát. Có người từ chối truyền lại sự sống mà họ đã lãnh nhận và không chịu nhận cái khả năng có thể cho tương lai của chính họ và xã hội. Dần dần những nhà trẻ sẽ thay thế nhà hưu dưỡng!
Giữa cảnh đời lữ thứ, người kitô hữu sống ra sao? Đức tin của chúng ta thế nào khi đối diện với các thực tại như thế? Lễ Đức Maria hồn xác về Trời mang lại cho họ hy vọng gì trong cuộc sống?
2. Cuộc chiến thắng!
Chúng ta long trọng cử hành lễ Đức Maria hồn xác về trời với lòng sùng kính, giúp chúng ta trả lời những vấn nạn trên. Trước hết niềm tin của Giáo hội đối với tín điều Đức Piô XII đã xác quyết năm 1950. Chúng ta tin Đức Maria, đã được đặc ân cả hồn lần xác về Trời. Điều đó muốn nói rằng sự chiến thắng con rồng trong sách Khải Huyền hoàn tất nơi Mẹ, Mẹ về ngự bên hữu Chúa để chuẩn bị chỗ cho chúng ta như Thiên Chúa đã dành cho Mẹ.
Chúng ta tự hỏi, Đức Maria đã được rước lên Trời cả hồn lẫn xác có làm chúng ta thay đổi không?
Thánh Phaolô cho chúng ta câu trả lời: “Đức Kitô đã từ cõi chết sống lại, là hoa quả đầu mùa của những kẻ yên giấc” (1 Cr 15, 20). Đức Giêsu sống lại, có người tin, người không tin. Nhưng, Đức Kitô, Con Thiên Chúa đã sống lại thật, đó là niềm hy vọng của chúng ta.
Việc Đức Maria hồn xác lên Trời là một thực tại khác: Đức Maria không phải là Thiên Chúa; Mẹ là nữ tử Israel, là một trong những thụ tạo như chúng ta, là người nữ giữa muôn vàn người nữ trên trần gian. Mẹ đã được tôn vinh, vinh quang của Mẹ liên quan đến chúng ta. Những đặc ân của Mẹ là kết quả cụ thể của ơn cứu độ mà Đức Kitô mang đến cho Mẹ và nhân loại (x. 1 Cr 15, 20-26). Mẹ được vinh hiển là nhờ công nghiệp của Chúa Kitô, Con của Mẹ. Việc Đức trinh Nữ được lên trời hồn xác là sự thông phần cá biệt vào cuộc phục sinh của Con Mẹ, và tiên báo cuộc phục sinh của các tín hữu (GLCG số 966).
Đức tin không nói cho chúng ta biết điều gì về cái chết của Đức Maria. Có người cho rằng Đức Maria không chết, nhưng Đức tin nói với chúng ta rằng sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, Đức Maria được Thiên Chúa tôn vinh. Nơi Mẹ, cũng như Đức Giêsu Con Mẹ, cái chết không phải là hết, sự chết đã bị đập tan. Trái đất không còn là nơi giam hãm con người trong số phận đau thương, các tầng trời mở ra để loan báo một tương lai sáng ngời cho nhân loại. Sự chết đã bị tiêu diệt bởi sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa. Đó là niềm hy vọng lớn lao cho chúng ta!
3. Sống trong hy vọng
Kinh Tạ Ơn của Đức Maria nêu rõ: “Chúa đã ra oai cánh tay thần lực, dẹp tan những ai lòng trí kiêu căng, Chúa lật đổ những người quyền thế, và nâng dậy những kẻ khiêm nhường. Phận đói nghèo Chúa ban của đầy dư... Vì Người nhớ lại lòng thương xót” (x. Lc 1, 39-56). Chắc chắn Thiên Chúa không thể để chúng ta bị nghèo đói đè bẹp, khi chúng ta tin vào lời Chúa hứa.
Mừng kính Đức Trinh Nữ Maria hồn xác về trời, chúng ta không chỉ mừng vì Thiên Chúa đã làm cho Mẹ những điều trọng đại, mà còn mừng vì tương lai của mỗi chúng ta. Thánh Phaolô nói: “Anh em khỏi phải phiền sầu như những người khác, những kẻ không có hy vọng” (1 Tx 4, 13). Chúng ta cố gắng hiểu để sống sao cho xứng danh là người hy vọng.
Vậy mỗi người chúng ta hãy sống hy vọng, hãy làm ngày lại ngày, không buông tay, mặc cho những ngang trái của cuộc đời. Phúc cho chúng ta, nếu chúng ta can đảm chiến đấu mỗi sáng khi thức dậy cho cuộc sống đáng sống của mọi người trên trái đất. Nếu như khi xưa Mẹ đã đến với bà Êlisabet, làm cho cả gia đình bà vui mừng, thì ngày hôm nay Mẹ vẫn đến với chúng ta. Mẹ mở rộng vòng tay nói với chúng ta rằng: hỡi con, hãy tin tưởng và hy vọng, Chúa đã dọn chỗ cho con.
Nữ Vương linh hồn và xác lên Trời, cầu cho chúng con. Amen.
17. Mẹ Lên Trời - J.M
Đối với Đức Ma-ri-a, ngày qua đời là ngày đẹp nhất cuộc đời. Đó là cuộc hành trình hiệp hoan. Mẹ không còn dưới thế nữa. Mẹ về với Chúa Con như Đức Giê-su về với Chúa Cha.
“Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Ta sẽ không phải chết bao giờ”. Đến vời Đức Ma-ri-a, chết là chiến thắng, Mẹ không bị tan biến qua lỗ hổng đen tối của hư vô, nhưng đi vào vinh quang trong cuộc sống muôn đời. Hoàn toàn hiệp thông vô cùng với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần vì các Đấng làm nên một.
Thiên Chúa thỏa mãn mọi cơn đói của Mẹ.
“Ai tin vào Ta sẽ không phải khát bao giờ”. Mẹ Ma-ri-a luôn luôn nói xin vâng lời Thiên Chúa suốt cả đời ở trần thế: Thiên Chúa vui lòng làm thỏa mãn mọi ước nguyện của Mẹ cầu xin đề đáp lại sự vâng lời của Mẹ: “Tất cả những gì anh em cầu xin nhân danh Thầy, Thầy sẽ làm điều đó” (Ga 14, 14) “Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì cứ xin, anh em sẽ được như ý”. (Ga 15, 7). Chúng ta có cậy tin vào sự can thiệp của Đức Mẹ không?
Tin Mừng.
Ngày lể Đức Mẹ Lên Trời là một Tin Mừng mà Giáo Hội loan báo cho tất cả những người nghèo khổ ngày nay: Cho những người sống khó nghèo - Cho những người lao động - Cho những người cam chịu đau khổ trong thử thách - Cho những người vui lòng vững tin vào Thiên Chúa, dù phải sống trong đêm tối.
Từ nay, là những phần tử trong gia đình Thiên Chúa, chúng ta như những đứa trẻ sắp ra đời, không thể nào kể cho xiết hạnh phúc đang đón chờ chúng ta ngày mai.
Trong cuộc đời ngắn ngủi trên trái đất, như Mẹ Ma-ri-a, chúng ta chỉ làm những việc nhỏ mọn nặng nhọc, nhưng chúng ta có thể mang lại lợi ích lớn lao cho nó nhờ vào tình yêu của chúng ta, nhờ vào tình yêu vô cùng của Đức Giê-su Ki-tô đang sống trong chúng ta. Trái đất sẽ qua đi, nhưng lời Chúa hứa không bao giờ qua đi. Chỉ có tình yêu của Ngài tồn tại mãi: “Chính tình yêu mới đáng kể thôi”. Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng đã nói thế.
18. Mẹ lên trời
Trong năm Phụng vụ có bốn ngày lễ lớn. Lễ Giáng sinh để mừng kính Chúa Cha. Lễ Phục sinh để mừng kính Chúa Con. Lễ Hiện xuống để mừng kính Chúa Thánh Thần và lễ Lên Trời để mừng kính cái chết và cuộc khải hoàn của Đức Trinh Nữ Maria.
Lễ Mẹ Hồn xác lên trời trước hết khiến chúng ta tưởng nhớ đến cái chết của Mẹ. Đây là một vấn đề gây nên nhiều cuộc tranh cãi và tìm hiểu, Giáo Hội chỉ công bố Mẹ Maria được đưa về trời cả hồn lẫn xác, nhưng không đả động gì tới cái chết của Mẹ. Có người chủ trương rằng: Mẹ Maria được đưa về trời mà không đi qua khung cửa sự chết. Đây là một đặc ân Ngài được hưởng vì như lời thánh Phaolô đã nói: Vì một người mà tội lỗi đã đột nhập vào trần gian và cũng vì tội lỗi đó là cái chết. Tất cả chúng ta đều phải chết vì tất cả chúng ta đều đã phạm tội. Tiền công của tội lỗi đó là cái chết. Mẹ Maria là Đấng vô nhiễm nguyên tội đã đành, mà trong suốt cuộc sống dương thế, Mẹ cũng chẳng vấp phạm và nghiêng chiều về đàng trái, cho nên Mẹ sẽ chẳng phải lãnh nhận hậu quả thảm khốc của tội lỗi là cái chết.
Tuy nhiên phần đông các nhà thần học đều chủ trương rằng: Mẹ Maria đã đi qua cái chết. Lập trường này được dựa trên những lý chứng chắc chắn. Trước hết Mẹ Maria hẳn không muốn cho mình được ưu đãi trong mối liên hệ với Đức Kitô. Đức Kitô đã muốn chịu chết để tẩy xoá tội lỗi nhân loại. Phải chăng Đức Maria là Đấng đồng công cứu chuộc lại muốn khước từ những đau khổ và cái chết hay sao? Cái chết của Mẹ phải là một cái chết an lành, không mang chút lo lắng, sợ hãi và đắng cay. Làm sao Mẹ có thể sợ hãi khi Mẹ không dính bén một chút tội lỗi. Làm sao Mẹ có thể lo lắng trước vị thẩm phán tối cao cũng chính là Đấng Mẹ đã cưu mang trong lòng. Sự ra đi của Mẹ cũng không phải vì đau yếu bệnh tật, nhưng chỉ vì lòng ao ước được kết hiệp với Đức Kitô, Con Mẹ. Ước ao này, kể từ ngày Chúa về trời, mỗi lúc một thêm tha thiết, và khi tới giờ Chúa đã định, tâm hồn Mẹ nhẹ nhàng thoát khỏi những ràng buộc của thể xác mà không gây nên đau đớn như một ngọn nến chợt tắt như một làn hương trầm toả khói nghi ngút.
Mẹ Maria ra đi bình yên, Mẹ chết trong tình yêu mến Chúa. Cái chết loại này đôi khi cũng xảy ra nơi các thánh. Cách đây mấy chục năm tại nhà dòng Phanxicô ở Bavièra, trong một Thánh lễ an táng, có một chị mặt chăm chú nhìn vào chiếc quan tài và khoảng huyệt đào sẵn, dáng điệu thật đăm chiêu như chìm vào những suy tư. Sau cùng chị cho biết những ý tưởng của mình trong giây phút đó như sau: Tôi muốn về trời. Tôi không hề ghen tức. Mỗi khi có một chị em trong dòng chết đi, thì tôi cũng ao ước được như vậy. Trong phòng riêng, ở nhà cơm hay trong lớp học, khắp nơi tôi đều cảm thấy như ở trong tù ngục. Tôi chỉ được thoải mái khi quỳ trước Thánh Thể Chúa vì tại đây tôi được nếm thử niềm hạnh phúc Nước Trời. Lần khác chị nói: Tôi dường như thờ ơ trước tất cả mọi sự. Những điều tôi nghe cũng như những cái tôi nhìn, đều không đem lại cho tôi những thích thú. Tôi có cảm tưởng rằng mình sẽ mất thời giờ nếu không suy tưởng về Chúa. Một tình yêu sâu xa như thế đã hướng dẫn cả cuộc đời chị, cho đến tận giây phút cuối cùng, chị vẫn còn nói: Tôi muốn trở về nhà Cha. Cái chết của chị không thể nào so sánh với cái chết của Mẹ Maria vì đó mới chỉ là một đặc ân dành cho những tâm hồn hoàn toàn hiến dâng và thuộc về Chúa. Tôi muốn trở về nhà Cha. Các thánh thường chết trong niềm ao ước như thế.
19. Lễ Vọng: Mẹ Maria Lên Trời - J.M
Lc 11, 27-28
Không phải Thiên Chúa ban cho Đức Ma-ri-a được hưởng ơn rất phi thường để làm nhẹ bớt gánh nặng của Mẹ. Như Con Ngài “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin Đấng có quyền cứu ngươi khỏi chết” (Dt. 5, 7). Thì Mẹ cũng phải sống kiếp phàm nhân như vậy. Chính sống qua kiếp đau khổ này, Mẹ đã cảm nghiệm được lòng trung tín với Thiên Chúa.
Một đời sống đức tin.
Đức Ma-ri-a đã sống trong đức tin, tức là sống trong tăm tối như chúng ta, không nắm bắt được những ý nghĩa rối mù luôn xảy đến với Ngài. Nhưng dần dần, ý nghĩa mầu nhiệm của đời Mẹ được liên kết với đời Con Mẹ, dù luôn luôn bao phủ trong sương mù của đức tin cũng hiện lên trong lương tri của Mẹ như mặt trời ló rạng báo hiệu bình minh sáng tỏ ở vầng đông. “Điều làm cho chúng ta thắng được thế gian, đó là lòng tin của chúng ta” (Ga 5, 4). Với đêm Phục Sinh “Bóng tôi đang qua đi, và ánh sáng thật đã tỏ rạng” (1 Ga, 2, 8).
Đức Ma-ri-a sau Phục Sinh của Đức Giê-su và ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống, tiếp tục sống với Giáo Hội đang tiến triển trong đức tin vào Đức Giê-su Ki-tô Phục Sinh. Mẹ Ma-ri-a không được trông thấy sự sống lớn mạnh của Giáo Hội, nhưng mẹ được nếm hạnh phúc vì biết sự sống đó từ nay hiện diện ở những nơi mà Giáo Hội sẽ tới.
Hình bóng của Giáo Hội.
“Con sẽ ở cùng Mẹ mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20) Mẹ Ma-ri-a là hình bóng Giáo Hội đã liên kết chặt chẽ với Đấng mà Mẹ yêu mến, chắc chắn trong bóng tối của đức tin. Mẹ nóng lòng chờ đợi lời hứa này của Con Mẹ thực hiện: “Con đi dọn chỗ cho Mẹ và Con sẽ trở lại để đưa Mẹ về cùng Con, để Con ở bên Chúa Cha, thì Mẹ cũng ở đấy với Con”.
Chính vì thế, người ta có thể hình dung hơi thở cuối cùng của Mẹ Ma-ri-a như cuộc đàm thoại yêu thương hoàn tất bộ Kinh Thánh rằng: Thánh Thần và Tân Nương nói: “Xin Ngài ngự đến”. Đấng rất yêu mến đáp: “Phải chăng bao lâu nữa Ta sẽ ngự đến” “Ô lạy Chúa Giê-su, xin ngự đến!” (Kh 22, 17 và 20).
20. Vững tin giống Mẹ – Về trời như Mẹ”
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Cả cuộc đời dương thế của chúng ta là một cuộc hành hương, một cuộc lữ hành, về nhà Chúa. Giờ đây, tất cả chúng ta là những lữ khách trần gian, có nghĩa rằng chúng ta còn đang đi, cuộc sống này chưa phải là nơi định cư vĩnh viễn. Ngày hôm nay, toàn thể Hội thánh tin và tuyên xưng rằng Mẹ Maria được Thiên Chúa cho lên trời cả hồn lẫn xác. Trong khi đó Mẹ Maria cũng là kẻ lữ hành như chúng ta khi còn ở trần thế và hành trình đức tin của Mẹ Maria cũng lắm gian truân và thậm chí còn đen tối chứ chẳng sáng sủa gì! Thế tại sao Mẹ Maria được đặc ân này? Tin Mừng hôm nay trả lời ngay rằng vì Mẹ đã tin vững vàng vào Thiên Chúa và công trình Người sẽ thực hiện nơi Mẹ và cuộc đời của Mẹ, “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói với em” (Lc 1,45).
Chúng ta tạm ngừng chiêm ngắm những đặc ân cao cả của Mẹ Maria để quay về với cuộc sống bình thường giản dị và đơn sơ của cô Maria tại làng Nazarét nghèo nàn. Chắc chắn, cô Maria cũng như bao cô gái khác trong làng đều có những ước mơ thật tốt đẹp và tươi sáng về cuộc đời mình khi đến tuổi vào đời. Đùng một cái, Thiên Chúa mời cô làm mẹ Con Một của Ngài trong khi cô không biết đến chuyện vợ chồng, liệu cô Maria có tin chuyện ấy có thể xảy ra không? Rồi tới giờ mãn nguyệt khai hoa mà chẳng một ai, một nhà nào cho cô Maria và thánh Giuse mướn một chỗ để sinh, lúc ấy cô Maria có tin mình sắp sinh Ngôi Hai Thiên Chúa không? Rồi nữa, khi thấy con mình đi từ làng này sang làng khác để rao giảng Tin Mừng, chữa lành nhiều bệnh nhân mà không biết mệt mỏi, có lúc quên ăn ăn ngủ, thậm chí quên giờ quên giấc đến nỗi người bà con nói với cô đi bắt con trai Giêsu bà về đi nó điên rồi (Mc 3,20-21), cô có còn tin đó là Con Thiên Chúa thật không? Chưa hết, khi lạc con ba ngày, vừa lo vừa sợ, vừa mệt vừa tủi trong lúc tìm con; khi tìm được rồi chưa kịp mừng thì người con nói một câu như gáo nước lạnh tạc vào mặt, thư hỏi cô có tin đó là Thiên Chúa thật không? Chưa nói, khi thấy con mình bị phỉ nhổ, khinh chê, đánh đập bầm thâm loạn bì và chết trên treo thập giá, liệu cô Maria có tin đó là điều đẹp ý Chúa không?
Quả thật, Mẹ Maria không hề biết trước những chuyện như thế? Cũng không hề nghĩ rằng tất cả là chương trình Thiên Chúa xếp đặt cả rồi, thôi mình cứ cam lòng chịu đựng hết đi rồi sẽ được thưởng công xứng đáng như hôm nay. Ấy thế, Mẹ Maria vẫn tin mạnh mẽ, vững vàng và xin Thiên Chúa cứ thực hiện nơi cô những gì Ngài muốn. Đức tin của Mẹ là đức tin của sự chấp nhận dâng hiến xác hồn, phó thác cuộc đời mình cho Thiên Chúa. Cho nên, Mẹ thưa “xin vâng” để rồi thụ thai Chúa Giêsu trong lòng dạ mình bất chấp rằng chắc chắn mình sẽ bị chồng đưa ra pháp luập, bị ném đá chết tươi vì mới đính hôn mà đã có thai.
Là lữ khách trần gian, Mẹ Maria bước những đi của đức tin tuy nhẹ nhàng nhưng đầy niềm vui và phục vụ; bước những chân nặng nề, cay đắng, gian truân khốn khó nhưng đầy tín thác và hy vọng vì thế Mẹ đã đi tới nơi và trở thành người dẫn lối đưa đường cho chúng ta. Cho nên, Giáo Hội tin và dạy rằng: “Sau khi về trời, vai trò của Mẹ trong công trình cứu độ không chấm dứt, nhưng Mẹ vẫn luôn tiếp tục cầu bầu để đem lại cho chúng ta những ân huệ được phần rỗi đời đời. Với tình Mẹ hiền, Mẹ chăm sóc những anh em của Con Mẹ đang lữ hành trên dương thế và đang gặp biết bao nguy hiểm, thử thách cho đến khi họ đạt tới hạnh phúc Quê Trời” (LG, Số 62).
Cuộc đời dương thế và hành trình đức tin của Mẹ Maria thật lắm tối tăm, nhiều thử thách cam go đồng thời cũng không thiếu gian nan, đắng cay! Nhưng Mẹ Maria đã đến được bến bờ hạnh phúc bằng những hành động đức tin sống động và cụ thể chứ không phải là đức tin tưởng tượng trong trí óc hay trên môi miệng. Đức tin là điều kiện để được cứu độ (Mc 16,16) và đạt hạnh phúc thiên đàng (Mt 25,34), nhưng chúng ta phải làm cho đức tin ấy thật sống động và linh hoạt bằng những hành động cụ thể trong đời sống thường nhật, nhờ đó đức tin mới nên hoàn hảo. Cho nên, Thánh Giacôbê nói: “Đức tin không có hành dộng là đức tin chết” (Gc 2,26), vì chưng, “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11,1).
Chúng ta phải noi gương Mẹ Maria sống đức tin chân thành và kiên trì bằng cách tuân giữ và thi hành Lời Chúa dạy qua việc sống hết mình cho Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô và buông mình cho Chúa Thánh Thần, sau là yêu thương mọi người qua việc khiêm nhường, tha thứ, cầu nguyện và phục vụ tha nhân ngõ hầu mai ngày, Thiên Chúa sẽ đưa ta về Quê Trời như Mẹ. Hành trình đức tin của chúng ta phải được đan kết bằng những kinh nguyện, hy sinh, bác ái, khó nghèo, hiền lành, công chính, nhân hậu, bao dung và từ tâm, đặc biệt hăng say thông truyền Tình Yêu Thiên Chúa cho mọi người hôm nay. Đó chính là những nẻo đường Mẹ Maria và Chúa Giêsu con Mẹ đã đi. Chúng ta hãy mạnh dạn lên đường dấn thân và bước đi trong sự tự do, vui mừng và hy vọng để vác thập giá với Chúa Giêsu có Mẹ cùng bước dù những bước chân vui buồn khập khểnh, từng bước đường sướng khổ gập ghềnh trên dương thế hôm nay để rồi không phải dừng lại ở đồi Canvê trong Mùa Thương nhưng cùng với Mẹ hưởng trọn Mùa Mừng vui và hạnh phúc trên Nước Trời. Amen.
21. Lễ Mẹ về Trời
Có một bà mẹ ẵm đứa nhỏ trên tay, bà nói với nó về Thiên Chúa, là người Cha chúng ta ở trên trời. Bấy giờ đứa nhỏ đơn sơ hỏi lại bà: Thưa má, vậy thì ở trên trời, chúng ta cũng có một người mẹ nữa chứ?
Đúng thế, sống trong Giáo Hội, chúng ta như sống trong một đại gia đình. Ở đó chúng ta có những người anh, những người chị và những người em. Ngước mắt nhìn về quê trời, chúng ta có được chính Thiên Chúa là cha của chúng ta. Đồng thời chúng ta cũng có được một người mẹ dịu hiền. Người mẹ dịu hiến ấy là Đức Maria.
Thực vậy, Đức Maria vừa là mẹ Chúa Giêsu, vừa là mẹ của nhân loại, vừa là mẹ của mỗi người chúng ta. Đời sống trong sạch không vương vấn tội lỗi của Mẹ, cũng như những công nghiệp mà Mẹ đã đóng góp vào chương trình cứu độ, đã khiến Mẹ trở nên xứng đáng được Chúa ân thưởng bội hậu, đã đưa về trời cả hồn lẫn xác liền ngay sau khi chết.
Nhìn vào một thửa ruộng thần nông chúng ta thấy được biết bao nhiêu công lao vất vã từ lúc gieo trồng cho đến lúc gặt hái. Chúng ta có thể nói được rằng những hạt lúa chín vàng là kết quả của biết bao nhiêu giọt mồ hôi, của biết bao lao công chăm sóc: Ai ơi bưng bát cơm đầy, dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.
Cũng vậy, biến cố Mẹ về trời phải chăng cũng chỉ là một kết quả đương nhiên của một cuộc đời trong trắng và chất đầy công nghiệp nơi Mẹ. Một khi những công nghiệp ấy đã chín vàng như những hạt lúa trên ruộng đồng, thì các thiên thần bèn thu lấy mà đem vào kho lẫm của Thiên Chúa.
Trong một bức thư, thánh Phaolô đã bày tỏ ước vọng của mình như sau: Tôi muốn chết đi để được ở cùng Đức Kitô luôn mãi. Trong những ngày còn sống ở trần gian, Mẹ Maria hằng ao ước được kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu, và sau khi Mẹ trút hơi thở cuối cùng, thì ước vọng ấy mới được thực hiện một cách đầy đủ. Cùng với cái chết, bức tường ngăn cách giữa Mẹ Maria và Chúa Giêsu cũng đã sụp đổ để rồi cả hai được kết hiệp mật thiết với nhau.
Cái chết đối với chúng ta là một cái gì cay đắng, bàng hoàng và khủng khiếp vì nó chia lìa hai người bạn thân thương nhất là hồn và xác, đồng thời nó làm cho con người chúng ta bị mục nát và trở về cát bụi. Nhưng với Mẹ Maria thì khác. Cái chết chỉ là một khung cửa qua đó Mẹ tiến thẳng tới nơi gặp gỡ với Chúa Giêsu. Là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, đồng thời cũng là Đấng đã cưu mang Chúa Giêsu, vì thế thân xác của Mẹ không thể nào trở thành miếng mồi ngon cho tử thần. Do đó Chúa Giêsu đã muốn đưa Mẹ về trời cả hồn lẫn xác, như một bông hoa không bao giờ tàn úa nhưng luôn giữ được màu sắc thắm tươi của mình. Thực vậy, Kinh Thánh thường sánh ví Mẹ với những cánh hoa tỏa hương thơm ngào ngạt. Chẳng hạn với bông hồng, với cánh huệ tươi nở ngay từ lúc ban mai. Mẹ Maria cũng vậy, ngay từ buổi ban mai của cuộc đời, nghĩa là ngay từ những ngày còn tấm bé, trái tim Mẹ đã mở ra để đón nhận hồng ân Thiên Chúa.
Từ những điều vừa chia sẻ, tôi muốn đi tới một kết luận, đó là mỗi người chúng ta trong cuộc sống riêng tư, hãy noi gương bắt chước Mẹ để rồi Mẹ ở đâu, thì chúng ta, những người con cái Mẹ cũng sẽ được ở đó với Mẹ.
22. Mẹ Lên Trời
Tại nhiều giáo xứ bên Ý, vào ngày lễ Đức Me hồn xác lên trời, người ta có tục lệ rước kiệu như thế này:
Một kiệu Đức Mẹ từ cuối làng đi lên. Còn một kiệu Chúa Giêsu từ đầu làng đi xuống. Cả hai sẽ gặp nhau tại sân nhà thờ. Người ta sắp đặt để cả hai tượng đều cúi đầu chào nhau ba lần, rồi sau đó cũng tiến vào nhà thờ, tượng trưng cho việc Chúa Giêsu dẫn đưa Mẹ Ngài vào quê hương Nước Trời. Nghi thức này tuy đơn sơ nhưng lại gây một ấn tượng mạnh mẽ nơi những người người tham dự. Ngược dòng lịch sử, chúng ta thấy niềm tin vào việc Đức Mẹ hồn xác lên trời đã được manh nha từ một thời rất xa xưa. Thực vậy, vào năm 457, Đức Giám Mục Giêrusalem đã viết như sau: Mẹ Maria qua đời, có các tông đồ vây quanh. Nhưng rồi sau khi chôn cất được ít lâu, ngôi mộ bỗng được mở ra, các tông đồ nhận thấy nó hoàn toàn trống rỗng và rồi các ông đã kết luận Mẹ đã được đưa về trời cả hồn lẫn xác.
Đúng thế, Chúa Giêsu đa không muốn để Mẹ Ngài phải chịu một giây phút nào dưới quyền lực của Satan và tội lỗi, nên đã ban cho Mẹ đặc ân vô nhiễm nguyên tội. Đồng thời Ngài cũng không muốn thân xác tinh tuyền của Mẹ phải chịu cảnh mục nát trong mồ, nên đã ban cho Mẹ đặc ân được về trời cả hồn lẫn xác. Thiên Chúa Ba Ngôi cùng với triều thần thánh trên trời mừng rỡ chúc tụng Mẹ.
Đó là niềm hạnh phúc của những người thân yêu gặp lại nhau. Và đó cũng là niềm hạnh phúc mà mỗi người chúng ta đều có thể mong đợi. Đúng thế, trong ngày lễ Mẹ về trời chúng ta có thể nghĩ tưởng tới ngày chúng ta cũng sẽ được bước vào quê hương Nước Trời, sau một cuộc đời trung thành phụng sự Chúa. Chính tại quê hương Nước Trời này, chúng ta sẽ được gặp lại những người thân yêu đã ra đi trước chúng ta.
Đồng thời chúng ta cũng có thể suy nghĩ về sự chết. Thực vậy, cái chết không còn là một ngõ cụt, một chấm dứt, như nhiều người thường bảo: chết là hết. Trái lại đối với chúng ta, những người có đức tin, thì chết là giây phút chúng ta được trở về nhà Cha, được sinh ra cho cuộc sống vĩnh cửu, được gặp lại những người thân yêu như lời kinh nguyện Thánh Thể chúng ta vốn thường nghe đọc: Xin cho chúng con được đồng hưởng sự sống đời đời cùng với Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa và toàn thể các thánh.
Chúng ta hãy sốt sắng đọc kinh Kính Mừng và đặc biệt chú ý tới lời kêu xin: Cầu cho chúng con là kẻ tội lỗi, khi này và trong giờ lâm tử.
Vì thế, hãy cầu nguyện và ra sức uốn nắn những sai lỗi để đổi mới cuộc đời, nhờ đó trong ngày sau hết chúng ta cung sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương Nước Trời.
23. Mẹ muốn chúng ta đạt tới cõi phúc trên trời
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Suy niệm Lễ Vọng Đức Maria Hồn Xác về Trời (Lc 11, 27-28)
Với đoạn Tin Mừng ngắn gọn vọng lễ chiều nay dìu chúng ta về với Đức Maria đầy ơn phúc được ân thưởng hồng phúc hồn xác về trời, đồng thời khuyến khích chúng ta chuyên chăm lắng nghe và thực hành Lời Chúa để cũng Chúa thưởng hồng phúc như Mẹ.
Đức Maria Người Nữ hạnh phúc
Chuyện xảy ra là khi Chúa Giêsu đang giảng dạy dân chúng, thì từ giữa đám dân chúng có một phụ nữ vì thấy quyền năng và sự khôn ngoan thể hiện trong lời nói và việc làm của Chúa Giêsu, bà đã không thể kìm hãm nổi sự ngưỡng mộ của mình liên cất tiếng ngợi khen Chúa Giêsu bằng cách ca tụng người mẹ đã cưu mang Chúa: "Phúc cho lòng dạ đã cưu mang Thầy, và vú đã cho Thầy bú" (Lc 11, 27).
Đức Maria là người nữ hạnh phúc, lời đầu tiên của Sứ Thần Gabriel chào Đức Trinh Nữ là bằng chứng: "Kính mừng Maria đầy ơn phúc" (Lc 1, 28) là bằng chứng. Quả thật, mọi phúc lành con người có được kể cả Đức Maria hệ tại ở phúc lành Thiên Chúa ban chứ không tùy thuộc các sự thế trần. Đức Maria là người hạnh phúc, trước hết vì đã được Thiên Chúa yêu thương và tuyển chọn. "Phúc thay kẻ được Người chọn lấy và cho lại gần, nơi tiền đình của Người, nó sẽ lưu lại! " (Ps 65,5). Phúc của Mẹ vượt trên mọi người nữ trần gian, lời của bà Êlisabeth xác nhận: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc" (Lc 1, 42). Mẹ là người diễm phúc vì có: "Thiên Chúa ở cùng" (Lc 1, 28). Trong hạnh phúc của Mẹ có hạnh phúc của mỗi người chúng ta.
Nghe và giữ Lời Chúa thì có phúc hơn
Mẹ hạnh phúc, Mẹ cũng muốn con cái mình hạnh phúc, nên Mẹ dạy: "Người bảo gì các con cứ làm theo" (Ga 2, 5). Lời Chúa Giêsu đáp lại người đàn bà đã khen Đức Maria là người diễm phúc: "Ai nghe và giữ lời Thiên Chúa còn có phúc hơn" (Lc 11, 28) cũng là lời Chúa dạy chúng ta hôm nay. Lời này mạc khải cho chúng ta một mối phúc khác ngoài tám mối phúc đã được Chúa Giêsu công bố trong bài giảng trên núi, chúng ta có thể gọi mối phúc đây là mối phúc "lắng nghe Lời Chúa và sống thực hành Lời Chúa". Chúa Giêsu muốn chúng ta hiểu rằng, mối phúc mà Mẹ Maria đang vui hưởng, là vì Mẹ đã lắng nghe, cẩn thận ghi nhớ và nỗ lực thực hành Lời Chúa từng ngày.
Mẹ trở nên cao trọng không những vì Mẹ đã cưu mang Chúa Giêsu và cho Chúa bú mớm, mà còn vì Mẹ đã lắng nghe và thực thi Lời Chúa hơn ai hết, nhờ vậy Mẹ luôn nhận ra được thánh ý Chúa muốn nơi cuộc đời để rồi cộng tác hết mình với Chúa.
Chúa Giêsu không có ý phủ nhận vai trò của Mẹ Maria trong việc cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Người; nhưng qua những lời trên đây, Chúa mạc khải mối tương quan sâu xa giữa Đức Maria Mẹ Người với Người; tương quan ấy không chỉ dừng lại ở huyết nhục, nhưng hơn ai hết, Mẹ là người đã triệt để lắng nghe và thực hành Lời Thiên Chúa, vì thế Mẹ đã trở nên gương mẫu cho mọi người chúng ta noi theo.
Để được vào số những người diễm phúc
Mừng lễ Đức Maria hồn xác về trời hôm này, chúng ta dễ dàng nhận ra năng động thiêng liêng của Lời Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúng ta có thể trở thành người có phúc do việc thi hành ý muốn của Thiên Chúa: “Ai nghe và giữ lời Thiên Chúa”.
Ai trong chúng ta cũng có thể có được mối phúc ấy, nếu biết khiêm tốn lắng nghe và thực hành lời Chúa truyền dạy. Mối phúc lời Chúa này không phải là độc quyền dành cho Đức Maria. Mẹ đã đi trước làm gương cho chúng ta và muốn cho chúng ta sống như Mẹ đã sống hầu được Thiên Chúa ân thưởng vinh quang hạnh phúc thiên đàng với Mẹ.
Mẹ Maria ơi, trên thiêng đàng con sướng vui, trên thiên đàng con sướng con cùng vui, xin Mẹ giúp chúng con vâng nghe và giữ lời Thiên Chúa, để có được chỗ đứng trên nước trời. Amen.
24. Yêu mến Mẹ
Ngày nọ có một chiếc máy bay bị trục trặc và rơi xuống trong một khu rừng già. Viên phi công tên là Tom Marmon, mặc dù biết rõ khó mà sống sót để trở về quê nhà, nhưng ông vẫn cố gắng. Cuối cùng ông đã được cứu thoát. Các phóng viên báo chí đã hỏi ông nhờ đâu mà đã làm được một việc kỳ diệu như thế. Ông đã trả lời: Nhờ tôi cầu nguyện. Trước sự ngạc nhiên của mọi người, ông đã cắt nghĩa: Tôi đã đọc ít nhầt cả triệu lời kinh Kính Mừng, suốt thời gian dò tìm đường ra. Tôi không đọc nhỏ, nhưng đã đọc thật to với hy vọng có người nào đó sẽ nghe thấy tiếng tôi mà dẫn đường chỉ lối. Nếu không nhờ lòng tin mạnh mẽ này, có lẽ tôi đã không thể nào ra khỏi khu rừng rậm rạp ấy.
Kinh nghiệm của viên phi công cũng đã là kinh nghiệm của hằng triệu Kitô hữu, bởi vì họ cũng đã dành cho Mẹ Maria một chỗ đứng đặc biệt trong tâm hồn và trong cuộc sống của họ. Đó cũng là lý do hôm nay chúng ta vui mừng tụ hợp nhau đây để mừng kính biến cố Mẹ về trời.
Dưới khía cạnh thần học, biến cố này nhắc nhở chúng ta rằng Mẹ Maria hiện đang ở trên trời cả hồn lẫn xác. Bởi vì suốt trong cuộc đời trần gian, Mẹ không hề phạm tội, nên cũng như thân xác Chúa Giêsu, Mẹ đã được chuyển trực tiếp từ trạng thái của con người dương thế sang trạng thái khải hoàn vinh quang trên thiên đàng.
Tuy nhiên dưới khía cạnh thực tiễn, biến cố này nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta cũng sẽ được Chúa đưa về trời cả hồn lẫn xác. Đôi khi chúng ta quên rằng trên thiên đàng, chúng ta vẫn có một thân xác, dĩ nhiên thân xác ấy không phải là thân xác vật chất, mà là thân xác thiêng liêng như lời thánh Phaolô đã xác quyết: Thân xác bị chôn vùi là thân xác hay chết, nhưng khi sống lại, nó sẽ trở thành bất tử. Khi bị chôn vùi, nó xấu xí và yếu đuối, khi sống lại, nó trở thành xinh đẹp và mạnh mẽ. Khi chôn vùi, nó là thân xác vật chất, nhưng khi sống lại, nó trở nên thân xác thần linh.
Điều này dẫn chúng ta đến một điểm thực tiễn khác, đó là Mẹ Maria không ở trên trời một cách thụ động, chỉ biết vui hưởng nhan thánh Chúa. Nghĩa là Mẹ không chỉ ngồi yên chờ đợi chúng ta lên đoàn tu với Ngài. Trái lại, Mẹ vẫn tích cực quan tâm đến chúng ta. Nói cách khác, Mẹ vẫn muốn giúp đỡ chúng ta chiến đấu để được về quê trời.
Vì thế, cũng như viên phi công, chúng ta cần phải chạy đến với Mẹ và kêu cầu Mẹ trợ giúp trong cuộc chiến đấu chống lại sự dữ bao lâu còn sống nơi trần gian, bởi vì như lời thánh Bernado đã nói: Kêu cầu Mẹ chúng ta sẽ không bao giờ phải thất vọng, bước theo Mẹ sẽ không bao giờ bị lầm đường lạc lối.
25. Mẹ lên Trời
Hôm nay chúng ta mừng kính lễ Mẹ hồn xác về trời. Vậy thì về trời có nghĩa là gì?
Về trời ở đây không phải là chuyện đi lên hay đi xuống trong một khoảng không gian, mà là một tình trạng hoàn toàn được kết hiệp với Thiên Chúa, được đem vào sự thánh thiện và sự sống của chính Thiên Chúa.
Như thế, về trời trước hết phải là con đường của Đức Kitô, đây là lẽ đương nhiên bởi vì Ngài vốn là một vị Thiên Chúa, nay trở về với ngôi vị của mình. Có khác chăng là cùng với Ngài, có cả thân xác vật chất của mình nữa.
Tiếp đến, đó phải là con đường của Mẹ Maria. Đối với Mẹ thì về trời là hiệu quả của ơn Phục sinh nơi Đức Kitô, vì Mẹ cũng là một thụ tạo cần được cứu độ. Mẹ là người đầu tiên được hưởng hiệu quả trọn vẹn của ơn cứu độ, vì cuộc đời và sự cộng tác của Mẹ làm cho Mẹ được trở nên xứng đáng với đặc ân cao cả ấy.
Sau cùng về trời còn phải là con đường, còn phải là mục đích cuối cùng mà chúng ta phải theo đuổi trong cuộc sống này, như lời thánh Augustinô đã nói: Tâm hồn tôi luôn băn khoăn lo lắng cho tới khi nào được nghỉ yên trong bàn tay yêu thương của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, để đạt tới mục đích cuối cùng ấy thì chúng ta phải làm gì? Tôi xin thưa là ngay từ bây giờ chúng ta phải sống gắn bó mật thiết với Đức Kitô và cố gắng thực thi những điều Ngài truyền dạy. Phải làm cho Đức Kitô được sinh ra và lớn lên trong tâm hồn chúng ta cũng như trong tâm hồn những người chung quanh.
Con đường ấy chắc chắn sẽ không phải là một con đường rộng rãi thênh thang với những hoa thơm cỏ lạ. Chính Mẹ Maria cũng đã kinh qua một cuộc đời trần gian đầy gian nan và thử thách như lời ông già Simêon đã nói: Một lưỡi gươm sẽ đâm qua lòng bà. Đúng thế, từ lúc xin vâng trong hoạt cảnh truyền tin cho đến khi đứng dưới chân cây thập giá, cuộc đời của Mẹ là một cuộc đời vâng phục đầy khổ đau, đầy cay đắng, thế nhưng chính những khổ đau này đã làm cho Mẹ được trở nên cao trọng trước mặt Thiên Chúa.
Vì thế, chúng ta hãy ngước mắt trông lên Mẹ để thấy được rằng: Đau khổ sẽ làm cho niềm tin thêm tinh ròng, đồng thơi không có một con đường nào của niềm tin mà không có những gian nan thử thách của nó.
Tuy nhiên, chúng ta tin chắc chắn rằng Đức Maria là Mẹ chúng ta, Ngài sẽ ra tay nâng đỡ và dìu dắt chúng ta trên con đường lữ hành của niềm tin cho đến lúc chúng ta được yên nghỉ trong tình thương của Chúa.
26. Đức tin của Mẹ
Hôm nay chúng ta mừng kính lễ Mẹ hồn xác về trời, đó là một ngày vui mừng bởi vì chúng ta có được một người mẹ vừa quyền năng vinh hiển, vừa dạt dào tình thương để bầu cử cho chúng ta ở trên trời. Chúng ta hãy hợp ý với Giáo Hội mà cầu xin cho mỗi người biết luôn hướng tâm hồn lên những sự trên trời, để nhờ đó sẽ được chia sẻ phần hạnh phúc với Mẹ. Bởi vì Nước Trời mới thật sự là quê hương của chúng ta, hay như lời một câu dan ngôn đã bảo: Cuộc đời là quán trọ. Trái đất là con tàu chứ không phải là một nơi cư ngụ vĩnh viễn. Vậy thì tại sao Mẹ Maria lại được Chúa dành cho cái đặc ân cao cả ấy?
Tôi chỉ xin trình bày một cách vắn tắt. Sở dĩ Mẹ được như vậy, vì Mẹ là Mẹ Chúa Giêsu, Mẹ liên kết mật thiết với Chúa trong tình thương, Mẹ chia sẻ với Chúa trong đau khổ. Cho nên Mẹ xứng đáng dự phần vinh quang phục sinh với Chúa. Hơn nữa Mẹ còn là Đấng Vô Nhiêm nguyên tội. Tâm hồn và thân xác Mẹ không hề bị hoen ố bởi tội lỗi, chính vì thế mà thân xác Mẹ sẽ không thể bị mục nát trong mồ.
Sau cùng qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta còn tìm thấy nơi Mẹ một đức tin sống động, làm nền tảng cho cuộc đời của Mẹ. Về điểm này, Đức Hồng Y Renau đã viết như sau: Đức tin của Mẹ Maria là một đức tin can đảm và vững chắc. Mẹ đã phải cùng con trốn sang Ai Cập. Bằng cặp mắt yêu thương Mẹ không ngừng theo dõi và nhìn ngắm Chúa trên mọi nẻo đường truyền giáo, để rồi cuối cùng chính Mẹ đã đứng dưới chân cây thập giá. Mẹ là người phụ nữ có đức tin vững chắc không chao đảo, có một đức tin Kitô giáo trưởng thành.
Từ những điều vừa trình bày, chúng ta hãy xin Mẹ luôn cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta. Là một người mẹ khi còn ở trần gian, Mẹ đã hiểu được thế nào là tình mẫu tử, thế nào là cõi lòng của một người mẹ, thì bây giờ ở trên trời, Mẹ sẽ cầu bầu để Chúa ban xuống cho chúng ta những ơn huệ cần thiết.
Hơn thế nữa, nếu chúng ta hãy chạy đến với Mẹ và suy gẫm cuộc đời của Mẹ, chúng ta sẽ được những tia sáng nhân đức của Mẹ chiếu soi. Cuộc đời của Mẹ là một lời mời gọi. Nhân đức của Mẹ là một cái gì hay lây lan. Nếu thực tâm tôn kính Mẹ, chúng ta sẽ sống một cuộc sống tin tưởng và phó thác, nhân từ và yêu mến, hy sinh và chấp nhận như Mẹ. Việc chúng ta tôn kính, ca tụng và yêu mến Mẹ sẽ làm cho chúng ta, những người con của Mẹ được tốt lành hơn.
Để kêt thúc tôi xin gợi lên ý tưởng đó là nhờ Mẹ mà chúng ta tiến đến cùng Chúa. Đức Kitô chính là trọng tâm, chính là trung điểm của đời sống chúng ta. Thế nhưng nhờ Mẹ mà chúng ta trở nên giống Chúa, nhờ Mẹ mà chúng ta gắn bó mật thiết với Chúa, nhờ Mẹ mà chúng ta có được một đức tin kiên vững và trưởng thành, nhờ Mẹ mà chúng ta trở nên những Kitô hữu biết chu toàn những bổn phận của mình.
27. Mẹ lên Trời
Như chúng ta đã biết Marilyn Monroe là một nữ tài tử nổi tiếng của Mỹ. Cách đây đúng 52 năm, tức là vào ngày 15.8.1962 cô đã chết. Cái chết của cô cho đến ngày hôm nay vẫn còn là một điều bí ẩn. Có thể là cô đã tự tử. Có thể là cô đã bị Mafia hay dòng họ Kennedy giết chết. Cô đã ra đi giữa lúc danh vọng đang lên, tiền bạc đang lắm và thành công đang nhiều. Thế nhưng từ lúc cô nằm xuống cho đến ngày hôm nay, mỗi năm hàng ngàn, hàng vạn du khách đã viếng thăm ngôi mộ của cô tại thành phố Los Angeles và những cánh hồng không ngừng phủ kín nơi an nghỉ của một ngôi sao cô đơn. Viết về cô, người ta đã ghi nhận: Cô không còn là một con người, nhưng đã trở thành một huyền thoại. Cô không còn là một nhân vật, nhưng đã trở thành một thần tượng cho nhiều người. Và hơn thế nữa, mãi mãi cô đã trở thành một câu hỏi được nêu lên cho con người thời nay: Con người bởi đâu mà ra? Con người sống để làm gì? Đâu là ý nghĩa của cuộc đời? Tiền bạc và danh vọng có đủ để đem lại cho con người niềm hạnh phúc đích thực hay không? Trên phần mộ của cô, người ta đọc thấy một hàng chữ như sau: Chúng tôi thông cảm với cô. Bởi vì cô đã không ngừng bị dằn vặt bởi những câu hỏi quá lớn về cuộc sống. Và nhất là, nếu như thiếu vắng một niềm tin vào cuộc sống thì sẽ không còn một chọn lựa nào khác hơn là cái chết.
Còn đối với chúng ta, những người đã có một niềm tin thì sao? Chúng ta không chối cãi: đã là người thì ai cũng phải chết. Cái chết gắn liền với thân phận con người. Nào có ai đã thoát khỏi lưỡi hát của tử thần. Thế nhưng, cũng có người đã chiến thắng được cái chết. Chúa Giêsu đã chết nhưng sau đó Ngài đã sống lại. Mẹ Maria cũng đã chết, nhưng rồi sau đó đã được đưa về trời cả hồn lẫn xác. Với Chúa Giêsu và Mẹ Maria thì cái chết là khởi đầu của niềm hy vọng, là giây phút chúng ta được sinh ra cho cuộc sống vĩnh cửu. Chính cái chết sẽ đem lại ý nghĩa cho cuộc sống, bởi vì có chết thì mới được sống đời đời. Như mùa đông có qua đi thì rồi những đợt nắng xuân hồng mới trở lại. Hạt giống có mục nát, thì mới nẩy mầm, đâm bông và kết trái.
Nếu cái chết của Marilyn là một dấu hỏi được đặt ra về ý nghĩa của cuộc sống, thì cái chết của Mẹ Maria chính là câu trả lời. Qua cái chết để được đưa về trời, Mẹ Maria cho chúng ta thấy ý nghĩa của cuộc sống cũng như của cái chết, để rồi Mẹ trở thành niềm hy vọng cho chúng ta. Cho dù cuộc sống này có nghèo túng, có khổ đau thì nó vẫn có cái giá trị của nó. Bởi vì phải nhờ vào cuộc sống này mà chúng ta mới có thể chiếm lấy niềm hạnh phúc Nước Trời và cái chết chính là nét vẽ cuối cùng hoàn tất cho tác phẩm một đời của chúng ta, để rồi chúng ta sẽ dâng tác phẩm ấy lên Thiên Chúa. Và như vậy, chúng ta sống là để chuẩn bị cho cái chúng ta chết là để được sống đời đời.
28. Mẹ lên Trời
Chúng ta phải hiểu thế nào về tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời?
Một số người trong chúng ta nghĩ tưởng rằng: Đức Mẹ được rước qua chín tầng mây để tới một nơi, gọi là quê trời. Nghĩ tưởng như vậy là lầm, bởi vì Giáo Hội không bao giờ chủ trương một sự chuyển hộ khẩu, một sự thay đổi nơi cư trú, một sự di chuyển trong không gian, trong vũ trụ như thế. Trái lại Giáo Hội muốn chúng ta dựa vào Tin Mừng để tìm hiểu về Mẹ, cho dù Tin Mừng nói rất ít về Mẹ nhưng cũng cho chúng ta một cái nhìn đầy đủ với những đường nét chính yếu về Mẹ.
Thực vậy, Mẹ đã đi vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa bằng một lòng tin tưởng vững mạnh. Mẹ đã trở thành người tín hữu đầu tiên với lời xin vâng trong hoạt cảnh truyền tin: Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền. Hai chữ tôi tớ muốn diễn tả điều gì nếu không phải là tâm tình khiêm cung và niềm tin mến của Mẹ.
Với lời xin vâng ấy, Mẹ đã mở rộng cõi lòng đón nhận Con Thiên Chúa xuống thế làm người, không phải chỉ trong tâm hồn, mà còn nơi thân xác, nghĩa là trọn vẹn nơi con người của Mẹ. Bởi đó Đức Mẹ cũng là mẹ Con Thiên Chúa làm người, không phải chỉ bằng cách đã cưu mang, đã nuôi dưỡng, mà còn bằng cả tâm hồn, cả cõi lòng cũng như bằng cả cách lắng nghe và thực thi ý Chúa.
Mẹ đã đón nhận và hấp thụ trọn vẹn giáo huấn của Chúa Giêsu. Vì thế, không lời nào có tính cách tuyên dương Mẹ một cách mạnh mẽ cho bằng chính lời của Chúa Giêsu: Ai là mẹ Ta và ai là anh em Ta? Đó chính là những người nghe và làm theo ý Cha Ta.
Mẹ Maria là một người tín hữu trọn vẹn. Mẹ đã lãnh nhận trọn vẹn ơn cứu độ nơi tâm hồn và thể xác. Và như thế, Thiên Chúa cũng sẽ đón nhận Mẹ một cách trọn vẹn, cả hồn lẫn xác qua sự sống lại. Thực ra Thiên Chúa đã hứa ban ơn cứu độ cho tất cả những ai tin nơi Ngài vào ngày sau hết, khi mọi người cùng được sống lại.
Thế nhưng qua tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, Giáo Hội muốn tuyên xưng điều đã xảy ra nơi Mẹ Maria thì cũng sẽ xảy ra cho mỗi người chúng ta. Từ đó chúng ta rút ra được một kết luận đó là mừng kính Mẹ Hồn Xác Lên Trời một cách thích hợp nhất đó là chúng ta hãy tiếp nối lời xin vâng của Mẹ một cách trọn vẹn, không so đo, không tính toán trước lời mời gọi của Chúa, để xây dựng một xã hội đầy bác ái và yêu thương.
29. Đi vào mầu nhiệm cứu độ
Trong niềm tin của người Công giáo, Đức Maria đã có một vai trò đặc biệt qua chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Thực vậy Ngài đã được chọn giữa hàng con cái loài người để đón nhận Con Thiên Chúa vào trong thế giới con người và sống cuộc sống con người. Ngài đã khởi sự vai trò của Ngài bằng thái độ xin vâng đầy tin tưởng nơi tình thương của Thiên Chúa khi chương trình ấy còn là một mầu nhiệm. Nhưng thái độ xin vâng và phó thác ấy không thay thế nỗ lực lắng nghe và tìm hiểu. Những lời tiên đoán của các tiên tri về Chúa Giêsu, Con của Ngài, những lời giảng dạy, những thái độ và những việc làm của vị cứu tinh, đều được Đức Maria ghi giữ và suy nghĩ trong tâm trí.
Ngài đã không chỉ bị lôi cuốn vào công trình thực hiện ơn cứu độ xuất phát từ Thiên Chúa, mà Ngài còn đi vào trong mầu nhiệm cứu độ ấy bằng tất cả lòng trí của Ngài. Ngài đã không chỉ đón nhận Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, ơn cứu độ của Thiên Chúa ban cho con người, nơi thân xác Ngài, mà Ngài còn đón nhận ơn cứu độ ấy trong chính tâm hồn của Ngài. Đức Maria đã trở thành người đầu tiên trong hàng ngũ con người được lãnh nhận trọn vẹn ơn cứu độ của Thiên Chúa. Gạt bỏ những hình thức ông sùng mang nặng tính cách tình cảm và vô bổ, theo tôi nghĩ, cách sùng kính Đức Maria một cách đúng đắn nhất, vẫn là noi gương bắt chước Ngài đón nhận và sống ơn cứu độ của Thiên Chúa trong toàn bộ con người và cuộc sống của chúng ta. Xin vâng trước lời mời gọi của Thiên Chúa, đọc và tìm hiểu thánh ý Chúa, nhất là thể hiện thánh ý ấy trong cuộc sống thường ngày của chúng ta. Như Đức Maria, chúng ta phải đi vào trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, để trở thành một con người được cứu độ. Thiên Chúa đã ban cho Đức Maria những ân sủng thật lớn lao, trong đó có ơn Hồn xác lên trời, không phải chỉ vì Ngài đã cưu mang và hạ sinh Chúa Giêsu mà còn chính vì Ngài đã nghe và thực hiện lời Chúa, nghĩa là trở thành con người được cứu độ một cách trọn vẹn. Như thế, những ân sủng Đức Maria lãnh nhận được cũng là những ân sủng Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta. Chúng ta có thể cùng với Đức Maria hát bài ca Ngợi Khen Chúa vì những việc lạ lùng Thiên Chúa đã làm cho Ngài và đang làm cho mỗi người chúng ta.
30. Mẹ lên Trời
Bên ngoài Trinh Nữ Maria cũng giống như hầu hết các cô thôn nữ đồng quê chất phác ở Galilêa. Nhưng bên trong là cả một kho tàng thánh thiện. Và nhất là không ai có thể ngờ: là Mẹ Thiên Chúa.
Sứ thần Gabriel đã chào kính: Mẹ có phước hơn mọi phụ nữ. Trong Kinh Thánh có kể nhiều chuyện về thiên sứ, nhưng không hề ai được thiên sứ cháo trước và chào một cách kính cẩn như với Mẹ: Kính chào Maria. Với Giacaria chẳng hạn, thiên sứ không những không chào mà còn lên giọng nghiêm nghị. Và khi ông tỏ ra bỡ ngỡ: Làm sao có thể được như thế, vì tôi đã già, thì thiên thần liền quở phạt ông: Ngươi sẽ câm cho đến khi mọi sự việc ấy xảy ra.
Với Mẹ thì khác. Khi Mẹ hỏi lại: Làm sao có thể được như thế, vì tôi không biết đến người nam, thì sứ thần đã vội trấn an: Thánh Thần Chúa sẽ ngự xuống trên cô, và quyền lực Đấng Tối Cao sẽ bao trùm cô. Rồi sứ thần còn đưa ra một bằng chứng: Hãy xem Elisabeth, người chị họ của cô. Bà ấy đã già mà cũng đã có thai được sáu tháng, vì đối với Thiên Chúa chẳng có gì khó khăn hết.
Cố nhiên câu vặn hỏi của Mẹ không do lòng thiếu tin tưởng, nhưng do đức hạnh và tinh thần tận hiến thúc bách. Chính vì tư cách siêu phàm ấy Thiên Chúa đã chọn nàng vào một địa vị cao cả: Người con do cô sinh ra sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Và như thế, Mẹ chính là mẹ của Ngôi Lời nhập thể, đồng thời cũng là mẹ chung của toàn thể nhân loại được cứu rỗi, của tất cả những người rồi đây sẽ mang tên Đức Kitô con Mẹ. Bởi vì nhờ Mẹ mà sự sống thần linh được trao lại cho chúng ta.
Hơn thế nữa dưới chân cây thập giá lời Chúa Giêsu còn vang vọng: Này là mẹ con. Này là con mẹ. Phải chăng kể từ giây phút ấy, giây phút của chương trình cứu độ được hoàn tất, cộng tác với Chúa Giêsu, Mẹ đã sinh ra một nhân loại mới, một thế hệ mới.
Và ngày hôm nay Mẹ được Chúa đưa về trời cả hồn lẫn xác để ân thưởng bội hậu. Với chức làm Nữ Vương trời đất, Mẹ dư khả năng để trợ giúp chúng ta. Với chức làm mẹ nhân loại, Mẹ dư tình thương để ra tay cứu vớt, bởi vì người mẹ nào chẳng yêu thương con mình, người mẹ nào mà chẳng muốn cho con mình những sự may mắn tốt lành. Bởi đó hãy tin tưởng và chạy đến với Mẹ như lời kinh chúng ta thường đọc: Xưa nay chưa từng có ai chạy đến cùng Mẹ mà Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời.
31. Maria đến thăm Êlisabét
(Lc 1, 39-45)
I. GIẢI THÍCH
c. 39 - "Lên đường": Luca là người viết về những cuộc lên đường. Toàn quyển Tin Mừng là một cuộc lên đường của ơn cứu độ từ Nagiarét đến Giêrusalem. Quyển kế tiếp của Luca, Công vụ Tông đồ, lại là một cuộc lên đường khác của ơn cứu độ từ Giêrusalem đến trung tâm của thế giới thời đó là Rôma, để từ đó lên đường tỏa đến toàn thể thế giới.
- Đầu tiên hết là cuộc lên đường của Đức Maria. Người vừa được một niềm vui to lớn (x. bài "Truyền tin" Lc 1,26-38). Mà niềm vui thì không được giữ riêng cho mình, phải chia sẻ với người khác. Do đó Maria lên đường.
- Maria lên đường đi tới đâu? "Tới một thành thuộc miền núi vùng Giuđêa". Có lẽ đây là thành Ain Karim, cách Giêrusalem khoảng 6 km về phía Tây. Nếu đi từ Nagiarét thì phải mất chừng 3 hoặc 4 ngày.
- Chú ý trạng từ "vội vã": Maria nôn nóng đem niềm vui tới người khác.
c. 40 - Kẻ mà Maria muốn đem niềm vui tới chia sẻ là Êlisabét, vợ của Tư tế Dacaria. Êlisabét và chồng tuy đã rất già nhưng vừa mới được Thiên Chúa cho thụ thai đứa con đầu lòng.
c. 41 - Khi Maria vừa chào Êlisabét thì thai nhi "nhảy mừng" trong lòng bà. Sự thật có lẽ không đến như thế. Ở đây Luca diễn tả theo niềm tin bình dân: những cử động của bào thai là điềm báo trước tương lai của nó. St 25,22 viết rằng, bà Rêbecca mang thai hai đứa con (Êsau và Giacóp). Hai đứa "va chạm nhau" trong bụng mẹ, báo trước sau này chúng kình địch nhau. Còn trong chuyện này, thai nhi "nhảy mừng" trong bụng Êlisabét nghĩa là sau này nó sẽ là người mang tin mừng cho kẻ khác.
Trong chi tiết này, Luca cũng liên tưởng tới trường hợp của Giêrêmia (Gr 1,5), kẻ đã được Thiên Chúa chọn làm ngôn sứ ngay từ trong bụng mẹ.
Tóm lại, chi tiết này có nghĩa là Gioan Tẩy giả được Thiên Chúa chọn làm Tiền hô cho Đức Giêsu.
c. 42 - Khi ấy Êlisabét "kêu lên lớn tiếng": một phản ứng bất thường. Không phải chỉ lên tiếng đáp lại lời chào của Maria, mà "kêu lớn". Trong nguyên ngữ, động từ này có nghĩa là "bắt giọng", giống như người xướng kinh bắt giọng cho cả nhà thờ đọc kinh.
- "Em được chúc phúc giữa các phụ nữ": Cách nói của người Do Thái để diễn tả sự so sánh tối thượng cấp, nghĩa là: "Em là người có phúc nhất trong tất cả các người nữ".
c. 43 - "Mẹ của Chúa tôi": trong xã hội đa thê thời xưa, một ông vua có nhiều vợ, nhưng trong số đó, người vợ nào là mẹ của thái tử (sẽ lên ngôi) là có uy thế nhất. Bà được gọi là "mẹ của Chúa tôi". Như thế, danh hiệu này chỉ người đàn bà uy thế nhất trong nước.
- Thánh Luca cố ý viết câu nói của Êlisabét giống câu nói của ông Ôzia nói với bà Giuđitha (Gđt 13,18-19) "Bà có phúc trong mọi người nữ, và phúc thay Thiên Chúa là Chúa" (so với Lc 1,42: "Em có phúc trong tất cả các người nữ, và phúc thay hoa trái của lòng em"). Ý của Luca là so sánh Maria với bà Giuđitha, và so sánh Đức Giêsu với Thiên Chúa.
c. 45 - "Phúc cho em vì em đã tin": lịch sử cứu độ của dân Israel bắt đầu bằng một hành vi đức tin (Abraham tin Lời Thiên Chúa) (St 12, 1-5); lịch sử cứu độ của cả loài người cũng bắt đầu bằng một hành vi đức tin (của Maria). Và lịch sử cứu độ của mỗi người chúng ta cũng thế.
II - MỘT SỰ SO SÁNH KHÉO LÉO
Chúng ta đã thấy Luca khéo viết lời của Êlisabét cho giống với lời của ông Ôzia khen bà Giuđitha. Ngoài ra Luca còn cố ý viết toàn câu chuyện này giống với chuyện Đavít mang Hòm Bia về Giêrusalem (2.Sm 6). Sau đây là các chi tiết:
1- Hòm Bia tiến về hướng Giêrusalem, ghé nhà của ông Ôbed-Êdom.
* Maria đi từ Nagiarét theo hướng Giêrusalem, ghé nhà Êlisabét.
2- Đavít đã "kêu lên" rằng: làm sao Hòm Bia của Chúa đến nhà tôi được.
* Êlisabét cũng "kêu lên": làm sao mà mẹ của Chúa tôi đến nhà tôi.
3- Nhờ Hòm Bia ghé ở nhà Ôbed-Êdom mà ông này được Thiên Chúa ban phúc.
* Đức Maria ghé nhà Êlisabét khiến gia đình bà (kể cả thai nhi) được phúc.
4- Hòm Bia ở nhà Obed-Êđom 3 tháng;
* Đức Maria cũng ở nhà Elisabét 3 tháng (xem câu 56)
III. BÀI CA MAGNIFICAT: cc 46-56
A. Nguồn gốc
- Về nội dung, bài thơ này góp nhặt nhiều ý tưởng của Cựu Ước (xem các ghi chú bên lề bản dịch: ít là 14 ý tưởng); về hình thức thì tương tự với bài ca của bà Anna (1Sm 2,1-10).
- Tác giả là ai? Có thể là Giáo Hội sơ khai, soạn để hát trong phụng vụ. Luca đã mượn và thích nghi để đặt vào môi miệng của Maria.
- Ý chính: Ngợi khen Thiên Chúa vì đã a/ bênh vực kẻ nghèo hèn và b/ yêu thương Israel. Khi áp dụng bài ca này cho Đức Maria, Luca muốn nói rằng Đức Maria chính là "người nghèo" chân chính nhất và là "Israel" thật.
B. Giải thích
46-47- Phải biết đến bối cảnh là 1Sm 1-2: Bà Anna là vợ chính của ông Elqanah, nhưng bà không có con, trong khi vợ nhỏ của ông lại có con. Người vợ nhỏ này chế nhạo và chọc tức Anna khiến bà vô cùng đau xót. Bà lên đền thờ cầu nguyện. Cuối cùng Thiên Chúa đã nhậm lời cho bà sinh con, tức là Samuen. Anna hớn hở vui mừng vui mừng cất lời tạ ơn chúc tụng Thiên Chúa.
- "Hớn hở vui mừng" cũng là tâm tình của Đức Maria, vì thế Người ngợi khen Thiên Chúa.
46 "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa":
- "Linh hồn": các tác giả Thánh Kinh thường nói một phần để chỉ toàn thể. Nói "Linh hồn ngợi khen" là nói toàn thề con người ngợi khen. (xem Mc 14,34 "Linh hồn Thầy buồn đến chết")
- "Ngợi khen": cũng đong nghĩa với tạ ơn. Ngợi khen là một cách tạ ơn, tạ ơn bằng cách ngợi khen. Trong tiếng Việt, có một kiểu nói chứa dựng cả 2 ý ngợi khen và tạ ơn, đó là "Tán tạ".
48-53 Lý do 1 để ngợi khen: Vì Thiên Chúa đã bênh vực kẻ nghèo hèn, hiện thân cụ thể là Đức Maria.
- "Kẻ nghèo" (anaw) là một hạng người đặc biệt trong Thánh Kinh. Cái nghèo của họ không phải chỉ có nghĩa kinh tế (không tiền của), mà nhất là theo nghĩa tôn giáo: họ không nương tựa (vì không có, hay đúng ra không muốn có) bất cứ chỗ dựa nào khác (như tiền bạc, quyền lực, tài năng... kể cả uy tín đạo đức của bản thân) ngoài một mình Thiên Chúa. Vì thế chính Thiên Chúa đứng ra làm chỗ nương tựa cho họ, làm Đấng bảo vệ họ. "Kẻ nghèo của Yavê" (anaw Yahweh) là hạng người được Thiên Chúa ưu ái nhất.
- Đức Maria chính là một "kẻ nghèo" được Thiên Chúa ưu ái: a/ Qua biến cố Truyền tin, Chúa đã đoái thương nhìn đến Maria, một thiếu nữ tầm thường ở Nagiarét, khiến Người trở nên biểu tượng của hạnh phúc đến nỗi từ này về sau mọi thế hệ đều khen Người là diễm phúc; b/ Thiên Chúa còn làm cho Maria biết bao điều cao cả: thụ thai đồng trinh, làm mẹ Đấng Messia mà muôn dân hằng trông đợi.
- Sở dĩ Maria được như vậy vì Người có những đức tính của một "kẻ nghèo" đích thực: "kính sợ Ngài", "khiêm nhường", tin tưởng phó thác như một "nữ tì" của Chúa.
54-55 Lý do 2 để ngợi khen: Thiên Chúa đã yêu thương Israel mà Maria cũng là hiện thân:
- Xưa kia Ngài đã nhiều lần hứa với Abraham và các tổ phụ rằng Ngài sẽ cho các ngài có một dòng dõi đông đúc và từ dòng dõi ấy sẽ sinh ra Đấng Messia.
- Những lời hứa đó hôm nay được thực hiện nơi Đức Maria.
32. Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
A. KHÁM PHÁ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA HÔM NAY
Các bài đọc của Lễ hôm nay cho thấy những ơn phúc mà Chúa đã ban cho Đức Mẹ:
- Bài đọc I trích sách Khải Huyền mô tả những nét huy hoàng của Đức Mẹ: “Một người Phụ Nữ mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao”.
- Bài đọc II trích thư 1 Côrintô ám chỉ Đức Mẹ là người đầu tiên được hưởng ơn sự sống trường sinh mà Chúa Giêsu phục sinh đã khơi mào: “Cũng như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô cũng được Thiên Chúa cho sống”.
- Bài Tin Mừng cho chúng ta biết lý do tại sao Đức Mẹ được nhiều đặc ân như thế: đó là, như lời Bà Êlisabét, “Em thật có phúc, vì đã tin…”
B. TÌM HIỂU SỨ ĐIỆP
1. Bài đọc I (Kh 11,9a; 12,1-6a.10ab)
Trong một thị kiến, tác giả sách Khải huyền nhìn thấy “Một người Phụ Nữ mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao”.
Ý nghĩa đầu tiên của Người Phụ Nữ này là chính Giáo Hội.
Nhưng theo nghĩa áp dụng, Người Phụ Nữ này cũng là Đức Maria, người được Thiên Chúa yêu thương điểm trang bằng muôn vàn đặc ân cao quý.
2. Bài đọc II (1 Cr 15,20-27)
Thánh Phaolô nói với tín hữu Côrintô về ơn sống lại:
- Ơn sống lại này do Đức Giêsu Kitô khai mạc. Ngài là kẻ đầu tiên sống lại từ cõi chết.
- Tiếp theo, tất cả những ai liên kết với Đức Kitô thì cũng được chia xẻ ơn sống lại ấy.
Đức Maria là người liên kết mật thiết nhất với Đức Giêsu Kitô cho nên Người cũng là người đầu tiên được chia xẻ ơn sống lại.
Vì tin như thế nên Giáo Hội công bố tín điều Đức Mẹ lên trời.
3. Bài Tin Mừng (Lc 1,39-56)
Đoạn Tin Mừng này gồm 2 lời ca tụng: bà Êlisabét ca tụng Đức Maria; và Đức Maria ca tụng Thiên Chúa. Cả hai lời ca tụng đều nói đến những đặc ân mà Đức Maria được hưởng:
a/ Bà Êlisabét ca tụng Đức Maria:
- Maria người được chúc phúc hơn tất cả mọi người nữ
- Maria là Thân Mẫu của Đức Chúa
- Sở dĩ Maria được như thế là vì Maria đã tin vào Lời Chúa.
b/ Đức Maria ca tụng Thiên Chúa:
- Tuy Maria chỉ là một nữ tì hèn mọn nhưng đã được Thiên Chúa đoái thương nhìn tới
- Đó là cách làm thường xuyên từ xưa đến nay của Thiên Chúa: Đời nọ đến đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Ngài; Chúa hạ bệ những kẻ kiêu căng và nâng cao những người khiêm tốn.
C. RAO GIẢNG SỨ ĐIỆP
I. Gợi ý giảng
1. Có phúc vì đã tin
Bà Êlisabét đã công nhận một sự thật: Đức Maria là người có phúc hơn tất cả mọi phụ nữ (câu 42). Thực ra Êlisabét nói chưa đủ, phải nói là Đức Maria có phúc hơn tất cả mọi người.
Được Thánh Thần soi sáng (câu 41), bà Êlisabét còn biết do đâu mà Đức Maria có phúc như thế: “Em thật có phúc vì đã tin” (câu 45a).
Tin là lý do để được Thiên Chúa chúc phúc; tin là nguồn hạnh phúc.
Nhưng thế nào là “Tin”? Câu hỏi này sẽ tìm được câu trả lời nơi cách sống của Đức Mẹ:
- Trước hết là không hồ nghi về những điều Chúa hứa (câu 45b): Qua miệng Thiên sứ, Chúa đã hứa “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà” (Lc 1,35). Những lời hứa này quá cao trọng đến nỗi một thôn nữ tầm thường như Maria khó mà tin được. Dù vậy Maria vẫn tin. Chúa còn hứa rằng “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37). Theo lý thuyết thì đúng là như vậy. Nhưng trên thực tế, ít ai dám tin như Đức Maria, bởi vì có nhiều việc người ta không tin là Thiên Chúa làm được, cho nên người ta tự làm, hay nhờ những kẻ khác làm giúp.
- Tiếp đến, vì không hồ nghi về những điều Thiên Chúa hứa nên phó thác đời mình cho Thiên Chúa dẫn dắt. Đức Maria đã để Thiên Chúa dẫn dắt vào đời sống hôn nhân, để Thiên Chúa cho mình mang thai, để Thiên Chúa xử lý tình huống rắc rối của một thiếu nữ chưa về nhà chồng mà có thai… Tóm lại là để cho ý Chúa luôn thành sự nơi cuộc đời mình (Lc 1,38: “Xin hãy thành sự nơi tôi như lời Thiên sứ nói”)
Những điều Thiên Chúa đã hứa với Đức Maria (Thánh Thần ngự xuống; Đấng Tối cao rợp bóng) thì Ngài cũng hứa với chúng ta. Lời Thiên Chúa khẳng định với Đức Maria (“Không có gì mà Thiên Chúa không làm được”) thì Ngài cũng khẳng định với chúng ta. Nếu chúng ta cũng tin như Đức Mẹ và cũng phó thác đời mình cho Thiên Chúa dẫn dắt như Đức Mẹ thì chúng ta cũng sẽ hạnh phúc như Đức Mẹ.
2. Có phúc vì “nghèo”
Trong bài ca Magnificat, Đức Maria nhìn nhận rằng mặc dù thân phận Người chỉ là một “nữ tì hèn mọn” (câu 48a) nhưng sở dĩ Người được “hết mọi đời khen rằng diễm phúc” (câu 48b) chỉ vì Chúa quen ưu ái kẻ nghèo hèn (câu 53).
Thế nào là nghèo?
Trong Thánh Kinh, người nghèo (anaw) là người không tìm chỗ dựa nơi tiền bạc của cải, nơi tài trí bản thân, nơi uy quyền người thế… mà chỉ dựa hoàn toàn vào một mình Thiên Chúa mà thôi. Mà Thiên Chúa rất hào hiệp, ai dựa vào Ngài thì Ngài hết lòng bảo vệ, chở che và ban muôn hồng phúc.
Do đó “nghèo” cũng là lý do để được chúc phúc và cũng là nguồn hạnh phúc.
Bài ca Magnificat nhắc chúng ta xét lại xem chỗ dựa của chúng ta là đâu.
II. Để tham khảo thêm
1. Vinh quang của Đức Mẹ
Đức Maria là người phàm duy nhất được lên trời cả hồn và xác. Chẳng những thế, Người còn được tôn làm Nữ vương trời đất. Bởi đâu mà Đức Mẹ được hưởng vinh quang cao cả như vậy? Câu chuyện sau đây sẽ giúp chúng ta hiểu được lý do.
Ở một vùng đất xa xôi hẻo lánh kia có một bộ lạc sinh sống. Năm đó trời hạn hán không mưa nên mùa màng thất bát, cuộc sống khổ cực. Dân bộ lạc tổ chức một buổi lễ cầu mưa. Họ cầu nguyện rằng: “Lạy thần linh, xin chỉ cho chúng con biết chúng con đã phạm tội gì để đáng bị trừng phạt như vậy. Và xin dạy chúng con biết phải làm gì để có mưa”. Họ cầu nguyện như thế suốt 3 ngày nhưng trời vẫn không mưa xuống.
Khi đó những người lớn tuổi rủ nhau lên đồi, vì họ nghĩ rằng lên đó họ sẽ nghe được tiếng trả lời của thần linh trong các luồng gió thổi tới. Và quả thực họ đã được nghe câu trả lời: Lý do khiến họ bị hạn hán là vì họ quá ích kỷ: bấy lâu nay họ chỉ biết khai thác đất đai mà không ban lại cho đất cái gì để nuôi dưỡng đất gì cả. Vậy, để khỏi bị trừng phạt thì họ phải lấy những thứ quý giá nhất trong nhà đem đốt đi thành tro rồi rải xuống đất. Mọi người cảm tạ thần linh đã chỉ bảo và hứa sẽ làm theo. Nhưng khi trở về nhà, nhìn những đồ vật quý giá thì họ lấy làm tiếc. Vì thế, thay vì những món đồ quý, họ chỉ lấy những thứ xoàng xỉnh mà đốt. Dĩ nhiên trời vẫn không mưa.
Trong bộ lạc có một cô bé tên là Miriam. Cô có một con búp bê xinh xắn mà cô quý nhất trên đời. Cô bé hiểu được lý do khiến trời không mưa là vì người ta đã tiếc không dám dâng hiến cho thần linh những thứ quý giá nhất. Thế là cô mang con búp bê lên đồi, đốt nó đi, vừa đốt vừa khóc. Đốt xong, cô lấy tro rải lên mặt đất, rồi ngủ thiếp đi. Khi cô tỉnh dậy thì cả ngọn đồi đều mọc đầy hoa, những cành hoa mọc lên từ đám tro của con búp bê mà cô bé đã đốt. Việc làm của cô bé đã khiến dân làng hiểu ý thần linh: họ xấu hổ vì đã không dám hy sinh nghe lời thần linh như cô bé Miriam. Thế là ai nấy về nhà lấy tất cả những thứ quý giá nhất đem đốt. Ngay sau đó thì trời đổ mưa. Mọi người tung hô cô bé Miriam như một vị anh hùng đã cứu sống cả bộ lạc.
Câu chuyện trên chỉ là truyền thuyết và có thể là hư cấu. Nhưng nó giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa của ngày lễ hôm nay. Cô bé trong câu chuyện tên là Miriam, cũng giống tên Đức Mẹ Maria; Cô bé Miriam được thần linh tôn vinh bằng cách cho bông hoa trổ đầy trên ngọn đồi nơi cô bé ngủ, cô cũng được dân làng tôn vinh như vị cứu tinh của bộ lạc là vì cô đã dám hy sinh món đồ chơi mà cô quý nhất trên đời. Đức Maria cũng thế, Người được tôn vinh làm Nữ vương trời đất và được lên trời cả hồn và xác là vì Mẹ đã hy sinh tất cả cho Chúa: Chúa muốn gì Mẹ cũng vâng theo: (1) Mẹ muốn sống cuộc đời đồng trinh, nhưng khi Thiên Chúa muốn Mẹ thụ thai sinh hạ Chúa Giêsu, Mẹ đã thưa “Xin Vâng”; (2) Chúa Giêsu là người con duy nhất của Mẹ, là nguồn hạnh phúc của Mẹ trong gia đình và là nơi nương tựa của Mẹ trong tuổi già, nhưng vì Thiên Chúa muốn nên Mẹ cũng sẵn sàng hy sinh để Chúa Giêsu ra đi rao giảng Tin Mừng và chịu nạn chịu chết trên Thánh giá để chuộc tội cho nhân loại. Đúng như lời bà Êlisabét nói trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe hồi nãy, Đức Mẹ có phúc hơn tất cả mọi người là vì Đức Mẹ luôn làm theo ý Chúa, luôn “xin vâng” với Chúa.
Gương Đức mẹ dạy chúng ta 2 điều: (1) Chúng ta thường nghĩ rằng hạnh phúc là do “được”, có được những gì mình mong muốn. Đúng vậy. Nhưng hạnh phúc cũng còn do hy sinh, do dám cho đi, cho đi những gì mình tha thiết nhất. Có khi hạnh phúc bởi cho đi còn sâu đậm và cao cả hơn hạnh phúc do nhận được; (2) Đặc biệt trong tương quan giữa chúng ta với Chúa, chúng ta thường chỉ xin Chúa ban cho chúng ta, khi thì xin điều này khi thì xin điều khác, chỉ xin và xin, chỉ nhận và nhận. Ít khi chúng ta cho Chúa, hy sinh vì Chúa. Thực ra Chúa không cần chúng ta cho Ngài điều gì cả. Những thứ mà chúng ta cho Chúa cũng chẳng đáng gì cả. Nhưng những thứ nhỏ bé mà chúng ta cho Chúa như thế chứng tỏ tấm lòng của chúng ta đối với Chúa. Và để đáp lại, Chúa sẽ ban lại cho ta gấp bội.
Noi gương Đức Mẹ Maria, chúng ta hãy tập lắng nghe tiếng Chúa và tập thường xuyên thưa lại với Chúa 2 tiếng “Xin Vâng” (Viết theo Flor Mc Carthy).
2. Đức Mẹ lên trời và Thánh Truyền
Các sách Tân Ước nói rất ít về Đức Mẹ, lần cuối cùng Người được nói đến là khi Người ở giữa các tông đồ trong nhà Tiệc Ly để đón Chúa Thánh Thần hiện xuống. Sau đó Sách Thánh không nói gì về Người nữa. Nhưng Thánh Truyền thì có nói.
Theo Sách Thánh, trước khi tắt thở, Chúa Giêsu đã trối Đức Mẹ lại cho thánh Gioan chăm sóc. Thánh Truyền cho biết thêm là sau đó thánh Gioan đưa Người về ở chung với mình trong một ngôi nhà ở Êphêxô. Rồi cũng như mọi người khác, Đức Mẹ ngày càng già yếu đi. Nhưng không như mọi người khác, Đức Mẹ được hưởng đặc ân vô nhiễm nguyên tội nên đương nhiên cũng không phải chịu những hậu quả của nguyên tội, tức là không phải bệnh hoạn và không phải chết. Vậy thì Người rời khỏi cuộc sống trần gian này như thế nào? Cũng theo thánh truyền, từ khi Chúa Giêsu lên trời, lòng Đức Mẹ lúc nào cũng thương nhớ con mình và rất ước ao được gặp lại con. Những niềm thương nỗi nhớ đó khiến một ngày kia Người lịm đi. Thánh Gioan tưởng là Người đã chết nên cũng lo an táng như mọi người khác, rồi cho người đi báo tin cho các tông đồ. Khi các tông đồ trở về, họ mở mồ Đức Mẹ ra mong được thấy mặt Người lần chót, nhưng khi mở ra thì ngôi mồ trống không: khi đó các ông tin là Chúa đã rước Người lên trời.
Năm 1950, Đức Giáo Hoàng Piô XII đã tuyên bố tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời: “Đức Maria, Mẹ vô nhiễm của Thiên Chúa, trọn đời đồng trinh, vào cuối cuốc sống trần gian đã được đưa lên chốn vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác”.
Khi tuyên bố tín điều này, Đức Giáo Hoàng đã chuẩn nhận những dữ kiện Thánh Kinh và Truyền thống sống động của Giáo Hội trải qua nhiều thế kỷ.
Chúng ta nên hiểu cho đúng kiểu nói “được đưa lên chốn vinh quang trên trời”. Đây là kiểu nói của loài người, bị giới hạn trong các phạm trù không gian và thời gian. Khi loài người muốn diễn đạt những điều siêu nhiên (vượt khung không gian và thời gian) thì ngôn ngữ loài người trở thành bất lực. Loài người chỉ biết tạm mượn những cách diễn tả của phạm trù không gian và thời gian ấy, nhưng ta phải hiểu cao hơn và xa hơn. Trong ngôn ngữ loài người chúng ta, “trời” chỉ cái gì tốt đẹp cao cả, còn “đất” chỉ cái gì xấu xa thấp hèn; “lên” chỉ sự tiến tới một tình trạng tốt hơn, còn “xuống” chỉ sự thụt lùi về một tình trạng xấu hơn.
Thành ra nói Đức Mẹ lên trời là nói đến sự thay đổi tình trạng sống của Đức Mẹ, tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn, vinh quang hơn. Cho nên hôm nay Giáo Hội mừng Đức Mẹ lên trời là mừng tất cả những hạnh phúc và vinh dự của Người: Người là Mẹ sinh ra Chúa Cứu Thế, Người được đặc ân vô nhiễm nguyên tội, Người được Thiên Chúa đặt làm Nữ Vương vũ trụ, tắt một lời, Người là Đấng hạnh phúc và vinh quang vô cùng...
Do đâu mà Đức Mẹ được diễm phúc như vậy? Trong bài Tin Mừng hôm nay chính Đức Mẹ cho chúng ta biết được lý do: Bài ca Magnificat của Đức Mẹ được các nhà Thánh Kinh gọi bằng một tên khác nữa là “Bài ca của người nghèo”. Trong Thánh Kinh, anaw Yahweh, người nghèo của Yavê, là người không có tiền bạc cho nên không cậy dựa vào tiền bạc, có người cũng có tiền nhưng không dựa vào tiền mà chỉ dựa vào Chúa; người nghèo của Yavê còn là người không có quyền thế địa vị cho nên không dựa vào quyền thế và địa vị, có người cũng có quyền thế địa vị nhưng họ không dựa vào đó mà chỉ dựa vào Chúa thôi; người nghèo của Yavê còn là người không cậy dựa vào tài năng, học thức, sức mạnh... Tóm lại người nghèo của Thiên Chúa hoàn toàn không cậy dựa vào bất cứ thứ gì khác, chỉ cậy dựa vào một mình Thiên Chúa mà thôi. Và đây là chỗ dựa vững chắc và an toàn nhất, vì thế chính Thiên Chúa nâng họ lên, chính Thiên Chúa ban cho họ muôn của cải đầy dư, Chúa làm cho họ biết bao điều trọng đại... Thực ra Đức Maria đâu có gì hơn chúng ta, thâm chí còn thua kém chúng ta nữa: một thiếu nữ quê mùa, yếu ớt, ít học, nghèo nàn sinh trưởng tại làng Nazarét nhỏ bé vô danh... Chỉ vì Đức Mẹ khiêm tốn, biết chọn đúng Thiên Chúa làm chỗ dựa duy nhất cho đời mình nên Thiên Chúa đã làm tất cả những điều cao cả tốt đẹp cho Người. Như lời Người đã hát: “Đấng toàn năng đã làm cho tôi bao điều cao cả... Chúa hạ bệ những kẻ kiêu căng và nâng cao những người khiêm nhượng... Kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư, người giàu có đuổi về bàn tay trắng...”.
3. Cảm nghiệm ơn Chúa
Nếu có ai hỏi: Làm thế nào để tiến bộ trên đ¬ường đạo đức, thay đổi nếp sống cũ, biết dấn thân mến Chúa yêu ngư¬ời hơn? Tôi xin th¬ưa: điều quan trọng nhất khởi đầu cho một nếp sống mới là: cảm nghiệm đ¬ược tình yêu Thiên Chúa trong đời mình. Khi đã nhận biết mình được Thiên Chúa yêu th¬ương, ta sẽ không thể làm điều gì khác hơn là mong muốn đáp lại tình yêu ấy.
Tình yêu kêu gọi tình yêu. Tình yêu đáp trả tình yêu. Chúa Thánh Thần, nguồn tình yêu của Thiên Chúa, sẽ giúp ta nhận biết tình yêu Thiên Chúa và soi sáng thúc giục ta đáp lại tình yêu ấy.
Sau khi Đức Mẹ ngoan ngoãn nói lên lời "xin vâng", Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy tâm hồn Đức Mẹ. Đức Mẹ mở rộng tâm hồn đón nhận và để mặc Ngư¬ời h¬ướng dẫn cuộc đòi mình. Từ đây, cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn biến đổi. Đức Mẹ trở nên một dụng cụ ngoan ngoãn trong tay Chúa Thánh Thần, hiến dâng trọn vẹn tâm hồn và thân xác để đáp lại tình yêu vô biên của Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy những tác động của Chúa Thánh Thần trên Đức Mẹ
Tác động thứ nhất: sự vội vã. Vội vã đây không phải là sự vội vàng hấp tấp. Cũng không phải là nôn nóng lo âu. Sự vội vã ở đây có nghĩa là sự nhiệt tình hăng hái. Cảm nghiệm đ-ược tình yêu Thiên Chúa trong tâm hồn, Đức Mẹ mau mắn, tha thiết muốn đáp trả. Nếp sống của cô thôn nữ Maria đã thay đổi. Từ một thôn nữ dịu dàng, sống êm đềm trong cuộc đời bình dị, Đức Mẹ giờ đây trở nên linh hoạt, nhanh nhẹn, hăng hái đền đáp lại Tình Chúa Yêu Th¬ương. Từ một thôn nữ vui với công việc nội trợ, khép mình trong làng xóm, Đức Mẹ đã mở cửa ra đi. Sự mở cửa ra đi làm ta nhớ tới tác động của Chúa Thánh Thần trên các Tông đồ.
Tác động thứ hai: tâm tình tạ ơn. Cảm nghiệm đ¬ược tình Chúa th¬ương yêu, lòng Đức Mẹ tràn đầy niềm cảm mến biết ơn. Niềm tri ân cảm tạ đầy ứ trong lòng chỉ chờ dịp tuôn ra thành lời. Cảm nghiệm về ơn lành vô biên của Thiên Chúa cũng là cảm nghiệm về sự thấp hèn bất xứng của mình. Hai cảm nghiệm song song đó càng nâng cao, càng đào sâu niềm tri ân cảm tạ. Cảm nghiệm ấy đã biến đổi Đức Mẹ, từ một cô gái kín đáo, âm thầm trở nên một thi sĩ, một ca sĩ lớn tiếng ca tụng Tình Yêu Thiên Chúa đối với kẻ nghèo hèn. Chúa Thánh Thần đã biến Đức Mẹ thành ngòi bút thi sĩ như¬ lời Thánh vịnh: Tim tôi dâng ý thơ tuyệt diệu. Dệt bài ca cung tiến Đức Vua. L¬ỡi tôi tựa bút rung vạn điệu. Trong tay những thi nhân anh tài. Khi nghe bà Êlisabét chào, Đức Mẹ đã xuất khẩu tán tụng Chúa bằng bài kinh ca ngợi tuyệt diệu.
Tác động thứ ba: thái độ chia sẻ. Tình yêu Thiên Chúa bao la đã đổ vào tâm hồn Đức Mẹ tràn đầy niềm vui. Niềm vui thánh thiện và lớn lao đã thúc đẩy Đức Mẹ mau mắn lên đường đi thăm bà Êlisabét. Đức Mẹ không đến để khoe khoang, nh¬ưng để chia sẻ. Nhờ Đức Mẹ đến mà bà Êlisabét và thánh Gioan Baotixita đư¬ợc chúc phúc. Đức Mẹ cũng đến để chúc mừng bà chị họ đã đ¬ược Chúa đoái th¬ương. Tâm hồn đ¬ược Chúa chiếm hữu đã khiến Đức Mẹ trở nên quảng đại và hiệp thông, sẵn sàng chia vui sẻ buồn với những ngư¬ời chung quanh.
Tác động thứ bốn: dấn thân phục vụ. Niềm tri ân cảm tạ, niềm vui thánh thiện thực sự sẽ không dừng lại ở những bài ca trên môi miệng. Cảm nghiệm về Tình Yêu Thiên Chúa trong trái tim sẽ mau chóng chuyển sang đôi tay. Niềm tri ân cảm tạ sâu xa sẽ nhanh chóng biến thành hành động. Sự đền đáp tình yêu sẽ thúc đẩy ng¬ời đ¬ược yêu dấn thân phục vụ trong những việc làm cụ thể. Chính vì thế Đức Mẹ đã không ngần ngại ở lại phục vụ bà chị họ trong ba tháng.
Mừng lễ Đức Mẹ lên Trời một cách có ý nghĩa nhất, đó là ta hãy noi g¬ương Đức Mẹ: xin Chúa Thánh Thần đến tràn ngập tâm hồn ta như¬ Ng¬ài đã đến trong lòng Đức Mẹ, giúp ta cảm nghiệm đ¬ược những ơn lành Chúa ban và giúp ta mau mắn đáp lại tình yêu thư¬ơng đó.
Xin Đức Mẹ giúp chúng con biết ngoan ngoãn vâng theo ơn Chúa Thánh Thần soi sáng: để vội vã ra đi, để hân hoan tạ ơn, để quảng đại chia sẻ và để dấn thân phục vụ anh em. Amen.
33. Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
* Lịch sử
Từ thuở ban đầu, các giáo đoàn tiên khởi đều tôn kính Đức Trinh Nữ Maria. Những trích đoạn trong Tân Ước minh chứng điều này; tiếp đến là những bản văn của các giáo phụ; rồi đến Công Đồng chung Êphêsô năm 431 tuyên bố “Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa”. Đã có những thánh lễ nói về giây phút chấm dứt cuộc đời trần thế của Đức Maria. Ai cũng tin cuộc chấm dứt này phải tốt đẹp. Nhưng như thế nào thì không ai dám khẳng định.
Những thánh lễ nói về việc chấm dứt cuộc đời trần thế này, như Dormitio (an giấc); Transitus (chuyển hoá); Natalis (sinh ra trên đời); Assumptio (được nâng lên)... Hình như người ta tránh né cái chết thể lý của Đức Trinh Nữ. Vấn đề này vẫn còn bỏ ngỏ cho đến ngày nay.
Thánh lễ Dormitio (an giấc) của Đức Mẹ đã được long trọng cử hành khắp đó đây trên Giáo Hội Đông Phương, nhất là sau Công Đồng chung Êphêsô 431. Hoàng đế Mauriee (582-602) xác định thánh lễ vào ngày 15 tháng 8 hằng năm, và tuyên bố đó là ngày lễ của nhà nước được nghỉ lao động. Mãi đến thế kỷ thứ 7 thánh lễ này mới du nhập vào Giáo Hội Tây Phương. Công đồng Mayence năm 813 xác định thánh lễ này trong đế quốc của Charlemagne.
Ngày 1.11.1950 Đức Piô XII long trọng tuyên bố tín điều: Đức Maria Hồn Xác Về Trời, và như thế xác nhận niềm tin Kitô giáo này đã bàn bạc trong Hội Thánh qua bao thế kỷ. (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống...
Đức Maria được bà Êlisabét gọi là người có phúc nhất trong tất cả các phụ nữ. Qua đoạn Tin Mừng này, ta có thể thấy được một số lý do khiến Đức Mẹ diễm phúc như thế:
- Vì Mẹ có đức tin vững mạnh: “Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Ngài đã nói với em”.
- Vì Mẹ luôn có Chúa Giêsu trong mình
- Vì Mẹ biết quan tâm mang hạnh phúc đến cho người khác
- Vì Mẹ biết sống như một “người nghèo của Thiên Chúa”: “Kẻ đói nghèo Ngài ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng”.
B.... nẩy mầm.
1. Cái chết của Đức Mẹ được người ta nói tới bằng nhiều cách: Dormitio (an giấc); Transitus (chuyển hoá); Natalis (sinh ra trên đời); Assumptio (được nâng lên)... Toàn là những cách nói đẹp, bởi vì Mẹ đã sống rất đẹp.
2. Có thể ví đời người như một câu văn mà cái chết là dấu chấm câu:
- Có cái chết như một dấu phẩy (,) tức tưởi không trọn vẹn;
- Có cái chết như một dấu chấm than!) buồn hiu hắt;
- Có cái chết như một dấu chấm hỏi (?) băn khoăn ray rứt;
- Có cái chết như dấu 3 chấm (…) còn bỏ ngõ;
- Vá có cái chết như dấu chấm tròn (.) thật đầy đủ, trọn vẹn, tuyệt mỹ.
Cái chết của Đức Mẹ chính là đấu chấm tròn. Còn cái chết của tôi sẽ là gì?
3. Nhà vua bị bệnh nặng. Quan ngự y lo lắng, nhưng đành bó tay. Một nhà chiêm tinh đến bảo vua chỉ khỏi bệnh khi nào được mặc chiếc áo của một người hạnh phúc nhất.
Quan quân đổ xô đi khắp nước để tìm người hạnh phúc nhất. Cuối cùng thì họ cũng tìm được một người hạnh phúc thực sự. Nhưng khổ thay, người ấy quá nghèo, chẳng có lấy một chiếc áo! (Góp nhặt)
4. Suy gẫm mầu nhiệm mân côi 5 sự mừng: “Thứ 4, Đức Chúa Trời cho Đức Bà lên trời. Ta hãy xin cho được thường cùng Đức Mẹ trên Nước Thiên Đàng”
5. “Bà Maria lên đường, vội vã đến miền núi, vào một thành thuộc chi tội Giuđa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét” (Lc 1,39-40)
Mẹ Maria ơi! Ngày xưa Mẹ thật đơn sơ và dễ thương khi hăng hái lên đường giúp bà Êlisabét. Những bước chân nhẹ nhàng, đầy niềm vui phục vụ. Rồi ngày Mẹ lo lắng sợ hãi đem trẻ Giêsu trốn sang Ai cập. Những bước chân nặng nề, cuống cuồng vì tai họa trần gian… Và con không cảm nhận hết tâm trạng của Mẹ khi theo sau Giêsu trên đường lên núi Sọ. Nhìn những giọt máu của con mình cùng cái chết dành cho loại tử tội xấu xa, những bước chân nhục nhã, đau khổ… Thánh giá Mẹ vác quá nặng mà Mẹ vẫn vượt qua và bước tới.
Con cũng biết Tin là Bước đi. Nhưng nhiều khi con chới với, con ngã lòng, con chưa có sức bước trong sự dẫn dắt tuyệt vời của Thiên Chúa. Con chưa tin đủ.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp con xác tín rằng những bước chân vui buồn khấp khểnh ở đời nay, từng bước đường sướng khổ gập ghềnh hôm nay sẽ làm nên lối nhỏ dẫn lên Trời nếu con bước với lòng phó thác, tin yêu. (Hosanna)
34. Niềm tin tưởng
Ngay từ thời Trung cổ, Giáo hội đã tin chắc Mẹ Maria được đặc ân về trời cả hồn lẫn xác, thế nhưng mãi đến năm 1950, Đức Thánh Cha Piô XII mới long trọng công bố tín điều này cho toàn thể thế giới Công giáo.
Vậy dựa vào đâu chúng ta xác quyết được điều ấy?
Qua bài đọc thứ nhất, thánh Gioan đã mô tả cho chúng ta thấy cảnh tượng huy hoàng của Đức Trinh Nữ Maria:
“Một điềm lạ xuất hiện trên không trung. Một người nữ mặc áo mặt trời, chân đạp vừng trăng và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao”.
Công đồng Vatican II đã giải thích về cảnh tượng huy hoàng ấy như sau:
- Thiên Chúa đã nâng Mẹ lên, đặt Mẹ làm Nữ Vương trời đất, bởi vì Mẹ đã liên kết mật thiết với Đức Kitô, Con của Mẹ, Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết.
Một em nhỏ 8 tuổi, được cha mẹ dẫn tới Lộ Đức, và sau khi Đức Mẹ hiện ra, em đã hỏi chị Bernadette một cách đơn sơ:
- Thưa chị, thế Đức Mẹ có đẹp hơn mặt trời hay không?
Và chị Bernadette đã trả lời:
- Đẹp hơn nhiều lắm, nhưng chị vẫn có thể nhìn vào Mẹ.
Đúng thế, Mẹ Maria đẹp hơn cả mặt trời, nhưng không chói lòa, bởi đó trong ngày hôm nay, chúng ta hãy nhìn ngắm Mẹ bằng cặp mắt đơn sơ của chúng ta, cũng như hãy tìm lấy những lời nhủ bảo mà Mẹ muốn truyền đạt cho chúng ta.
Mẹ Maria được đưa về trời cả hồn lẫn xác, đó là một ân huệ đặc biệt Chúa dành cho Mẹ. Tất cả các thánh, dù trong sạch đến đâu chăng nữa, cũng vẫn phải chờ ngày sống lại, thân xác mới được mặc lấy ánh vinh quang. Vậy tại sao Mẹ là người duy nhất được hưởng đặc ân này?
Tôi xin thưa:
Lý do thứ nhất, vì là Mẹ Chúa Giêsu, Đức Maria luôn kết hiệp mật thiết với Chúa và sự vinh quang của Mẹ cũng chỉ là một sự tham dự vào vinh quang của Chúa. Trước khi về trời Chúa Giêsu đã nói:
- Thầy đi để dọn chỗ cho các con.
Chắc hẳn Chúa sẽ không bắt Mẹ phải chờ đợi để thực hiện lời phán hứa ấy.
Lý do thứ hai, với đặc ân Vô Nhiễm, tâm hồn và thể xác Mẹ không hề bị hoen ố bởi tội lỗi, vì thế lý đương nhiên Mẹ sẽ không phải chịu cảnh hư nát trong mồ.
Lý do thứ ba, vì Mẹ đã chia sẻ những đau khổ thập giá với Chúa, nên Mẹ cũng được chia sẻ phần vinh quang phục sinh với Ngài, như lời Mẹ đã nói:
- Đấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại và danh Ngài là thánh.
Mặc dù bây giờ đã lên trời, nhưng Mẹ vẫn còn gần gũi với chúng ta và luôn chăm sóc đến mỗi người chúng ta, như Công đồng Vatican II đã xác quyết:
Với lời xin vâng trong hoạt cảnh truyền tin, với những khổ đau khi đứng dưới chân thập giá, Đức Mearia đã trở nên Mẹ của chúng ta trong đời sống ơn sủng. Và bây giờ ở trên trời, Mẹ không ngừng bầu cử để chúng ta lãnh nhận được những ơn huệ cần thiết, hầu bảo đảm cho chúng ta phần rỗi linh hồn.
Với tấm lòng của một người mẹ, Đức Maria sẽ ra tay nâng đỡ và phù trợ chúng ta trong mọi cơn gian nguy thử thách của cuộc hành trình trần gian, cho đến khi chúng ta đạt tới quê hương hạnh phúc nước trời.
Trên thế giới có những nơi đã được Mẹ chọn lựa để biểu lộ tình thương của Mẹ, như Lavang, như Lộ Đức, như Fatima.
Câu chuyện dưới đây đã xảy ra tại Lộ Đức.
Có một bệnh nhân đau nặng, được đặt nằm trên một chiếc ghế bố, bên cạnh con đường mà cuộc rước kiệu sẽ đi qua. Đức Giám mục cầm mặt nhật và ghi hình thánh giá trước mỗi bệnh nhân.
Người bệnh của chúng ta có một niềm tin tưởng vào Mẹ Maria. Thế nhưng khi Thánh Thể Chúa đi qua, anh vẫn chẳng cảm thấy một chuyển biến nào. Hơi buồn và thất vọng anh đã kêu lên:
- Con sẽ mách với Mẹ Maria cho mà xem.
Vị Giám Mục nghe thấy, quay lại và một lần nữa giơ cao mặt nhật và vẽ hình thánh giá. Lập tức anh ta được khỏi bệnh.
Là Nữ Vương trời đất, Mẹ có dư khả năng, là Mẹ chúng ta Mẹ có dư tình thương. Bởi đó, hãy tin tưởng chạy đến với Mẹ, vì như lời thánh Bênađô đã xác quyết: Kêu cầu Mẹ, chúng ta sẽ không bao giờ phải thất vọng.
35. Lễ Đức Maria Hồn Xác Lên Trời
(Bài giảng của ĐTGM. Têphanô Nguyễn Như Thể - Tổng Giám Mục TGP Huế)
1. Kính thưa cộng đoàn hành hương,
Đức Maria đi thăm người chị họ Êlisabet. Chị em gặp nhau, tay bắt mặt mừng.
Bỗng chốc, như trong phút xuất thần, Đức Maria được Chúa Thánh Linh gợi hứng, liền cất tiếng ngợi khen cảm tạ Thiên Chúa:
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới;
từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.
Đây cũng là tâm tình ngợi khen tạ ơn của toàn thể Giáo Hội và của cộng đoàn hành hương chúng ta hôm nay, khi cùng nhau cử hành phụng vụ Thánh lễ, mừng kính Đức Mẹ được Thiên Chúa đưa về trời cả hồn cả xác.
a. Những lời cảm tạ ngợi ca đó nói lên tất cả tấm lòng của Đức Mẹ: đó là toát lược cả cuộc đời Mẹ, cả chương trình sống của Mẹ, là con đường tu đức của Mẹ: mãi mãi là người tôi tớ xin vâng, luôn luôn tán tụng tạ ơn Chúa và luôn luôn phó thác trong tay Chúa toàn năng và từ bi.
- Quyền năng và tình yêu Chúa đổ xuống tràn đầy trên Mẹ làm cho Mẹ được khỏi tội tổ tông và được đầy ơn Chúa ngay từ giây phút đầu tiên tượng thai trong lòng bà thánh Anna: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.
- Tình yêu và quyền năng Chúa bao phủ suốt cả đời Mẹ trên từng ý nghĩ, từng tình cảm, từng mỗi hành động, từng mỗi bước đi..., khiến cho lòng Mẹ luôn hướng về Chúa mà tạ ơn và ngợi khen: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả... Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người”.
- Quyền năng và tình yêu Chúa được thi thố một cách đặc biệt tận mức và toàn vẹn nhất trong giây phút Chúa đưa Mẹ về trời cả hồn cả xác.
b. Giờ đây trong giây phút lên trời, những lời ca ngợi bên thềm nhà bà Êlisabét mới được thực hiện một cách hoàn hảo trọn vẹn sung mãn nơi mình Mẹ, mới nói lên hết ý nghĩa và tâm tình của Mẹ đối với Chúa toàn năng và yêu thương.
- Tưởng không có lúc nào lòng Mẹ ngợi khen Chúa một cách say sưa nồng nàn cho bằng giây phút Chúa đưa Mẹ về trời hồn xác: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi”. Mẹ được cứu chuộc toàn vẹn. Một mình Mẹ trong con cái loài người đã chiến thắng hoàn toàn ma quỷ và tội lỗi.
- Tưởng không có khi nào Mẹ cảm thấy thân phận tôi tớ hèn mọn nầy lại được cất nhắc cao trọng cho bằng giây phút Mẹ lên trời.
- Tưởng không có lúc nào Mẹ cảm nghiệm được quyền năng và tình yêu vô biên của Chúa cho bằng trong giây phút Chúa hiển dương Mẹ về trời.
2. Anh chị em thân mến,
a. Đức Mẹ đã đi trước chúng ta qua hết mọi nẻo đường đời của một người dân bình thường nghèo khó:
- nẻo đường đi về Bê-lem không nơi trú ngụ, và phải sinh con trong hang bò lừa;
- nẻo đường lánh cư sang Ai cập đầy tiếng khóc la của các bà mẹ, bởi hài nhi con mình vô tội bị giết;
- đường vào tiệc cưới Cana có tiếng vui cười của thực khách và đôi tân hôn;
- đường lên núi Calvariô, có tiếng nguyền rủa, tiếng roi xé thịt, tiếng búa đóng đinh của các lý hình;
- đường loan Tin mừng Chúa Phục Sinh và đường thẳng lên trời hồn xác trong tiếng reo vui của trời đất, của thần thánh, của loài người.
Đức Mẹ đã sống thánh giữa đời, đã nên thánh qua những chặng đường vui, sáng, thương, mừng.
b. Trong cuộc sống hôm nay, chúng ta cũng đang đi lại những chặng đường của Đức Mẹ: có cả vui, sáng, thương, mừng. Chúng ta lần hạt, tràng chuỗi nơi tay, miệng thầm thỉ, lòng kết hiệp với các mầu nhiệm vui mừng và đau thương cùng vinh quang của Đức Mẹ. Chúng ta cũng lần hạt một cách thiết thực nữa trong cuộc sống hằng ngày, mà tràng chuỗi và những hạt chuỗi giờ đây chính là những hạt mồ hôi, những giọt nước mắt, những khổ đau, những oan ức... và cũng chính là những tiếng vui cười, những tia hy vọng, những niềm hân hoan... Đó là tràng chuỗi sống, đi đôi với việc đọc kinh lần hạt suy niệm của chúng ta.
3. Anh chị em thân mến,
a. Ngày lễ Mẹ lên trời hồn xác hôm nay đem lại cho chúng ta một niềm hy vọng lớn lao. Một người trong nhân loại chúng ta đã toàn thắng ma quỷ và tội lỗi: ma quỷ không thể khống chế được Mẹ Maria trong một giây phút nào hết, tội lỗi không thể để lại một dấu vết nào, một hậu quả tác hại nào trên mình Mẹ hết. Lời tiên báo từ ngàn xưa trong vườn địa đàng, khi Chúa tuyên án ma quỷ lấy hình con rắn cám dỗ, thì hôm nay đã được thực hiện một cách viên mãn: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người phụ nữ, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy, dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (St. 3,15).
b. Cử hành mầu nhiệm Mẹ lên trời hồn xác là tôn vinh sự thành công mỹ mãn của ơn thánh Chúa nơi Đức Mẹ, là tôn vinh Thiên Chúa đã ban cho Mẹ ơn cứu độ sung mãn, nhờ được hưởng trước công phúc tử nạn của Chúa Giêsu Kitô.
Hình ảnh Mẹ lên trời hồn xác là một Tin mừng lớn lao, loan báo tương lai chung cục của Giáo Hội và của mỗi người chúng ta rồi cũng sẽ được rực rỡ như vậy:
- nếu chúng ta biết sống như Mẹ,
- nếu chúng ta biết liên kết con đường làm người của chúng ta với những chặng đường mà Mẹ đã đi qua một cách tuyệt vời, trong đức tin, đức cậy và đức mến.
4. Anh chị em thân mến,
a. Một trưa mùa hè oi ả, những hành khách trên chiếc xe đò lặng lẽ nhìn ra con đường đơn điệu. Cái nóng nực và chuyến đi buồn tẻ hầu như giam hãm mọi người trong một thứ thinh lặng nặng nề.
Nhưng ở một trạm dừng kia, mọi người bỗng ra khỏi cái uể oải ngái ngủ, để đưa mắt nhìn về một phụ nữ trẻ bước lên xe. Chiếc xe từ từ lăn bánh. Người phụ nữ bắt đầu nói cười và đùa giỡn với đứa con thơ chị đang bồng trên tay. Khuôn mặt vui tươi của người phụ nữ và tiếng cười hồn nhiên của đứa bé đã thu hút sự chú ý của hành khách trên xe. Trong phút chốc, một ngọn gió mát của hiếu kỳ, của liên đới, của tham dự và của sức sống đã đem lại bầu khí tươi mát cho mọi người. Hành khách như bừng tỉnh ra khỏi cơn gà gật ngái ngủ.
Rồi nơi nầy có người bắt đầu nói chuyện. Nơi kia rộn lên tiếng cười rôm rả. Hành khách chuyện trò cười nói càng lúc càng vui vẻ hơn. Bây giờ thì chuyến đi không còn là một cuộc độc hành lầm lì nữa.
Kính thưa cộng đoàn hành hương,
b. Trên chuyến xe cọc cạch và buồn tẻ của thế giới, một người nữ đã bước lên. Tình yêu và sự sống đã bừng dậy. Người nữ ấy chính là Mẹ Maria. Cùng với Chúa Giêsu, Mẹ đã vội vã lên đường, bước lên chiếc xe ì ạch của một thế giới rã rời, để biến nó thành một cuộc hành trình vui tươi và đầy ý nghĩa. Mẹ mang Chúa Giêsu đến cho trần thế, và với Ngài, Mẹ đã biến đổi cuộc hành trình buồn tẻ của thế giới thành một lễ hội của gặp gỡ, của sẻ chia, của hân hoan và tin tưởng. Từ nay, tuyến đường mà nhân loại đang đi sẽ kết thúc bằng một điểm đến rõ rệt: đó là đến cùng Chúa Giêsu là đường đi, là sự thật, là sự sống.
Nào, tất cả chúng ta hãy cùng Mẹ “vội vã lên đường”:
- con đường Tin, Cậy, Mến,
- con đường yêu thương và phục vụ,
- con đường vui mừng và hy vọng.
c. Bài ca nhập lễ hôm nay mời gọi chúng ta ngước mắt nhìn lên Mẹ. Bài ca trích lại mấy lời trong sách Khải Huyền: “Có điềm lạ xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh. 12,1).
Dấu lạ vĩ đại nầy vẫn luôn chiếu sáng giữa trời đất và càng chiếu sáng hơn nữa trong những giờ phút đen tối đầy sóng gió bão táp của cuộc đời. Toàn thể Giáo Hội không ngừng ngước mắt nhìn lên dấu lạ nầy, vì đó là dấu chỉ lòng cậy trông vững vàng và là niềm an ủi lớn lao cho Dân Chúa đang bước đi trên đường lữ thứ trần gian (x. LG. 68).
Dấu lạ vĩ đại đó là Mẹ Maria khoan nhân dịu dàng, hằng luôn cầu bầu cho chúng ta trước Tòa Chúa, hằng làm cho chúng ta được sống, được vui và được đầy lòng trông cậy. Amen.
36. Lễ Đức Maria Hồn Xác Lên Trời
(Bài giảng Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời của Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh, GM. Thanh Hóa nhân dịp Đặt Viên Đá Đầu Tiên xây dựng Vương Cung Thánh Đường La Vang)
Trọng kính Đức Khâm sứ Tòa Thánh, Đức Hồng Y, Quý Đức Tổng, quý Đức Cha và toàn thể anh chị em.
Lại một lần nữa chúng ta có dịp mừng lễ Đức Maria Hồn Xác Lên Trời tại linh địa La Vang đầy kỷ niệm êm đềm thánh thiêng này. Tâm hồn mỗi người chúng ta rộn lên niềm vui khi nghĩ rằng chúng ta may mắn được làm con của một người Mẹ vô tiền khoáng hậu, được kính trọng nhất trong lịch sử nhân loại.
Chưa một ai đã được tạc tượng tạo ảnh nhiều như Đức Maria. Ở Âu châu, không một ngôi làng nhỏ bé nào không có hình tượng Mẹ; trên thế giới, không một thành phố nào không có nhà nguyện hay linh đài tôn vinh Mẹ.
Lời kinh được đọc nhiều nhất trên hành tinh, lời kinh chưa bao giờ ngừng nghỉ trong lịch sử Giáo Hội, lời kinh của hàng tỉ người công giáo, chính là lời chào bà Isave dành cho Mẹ: "Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà. Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng bà gồm phúc lạ".
Bài ca được hát nhiều nhất không phải là một bản tình ca lừng danh thế giới, nhưng đáng ngạc nhiên lại là bài ca Magnificat, "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, Thần trí tôi hớn hở vui mừng" mà tác giả chính là Đức Maria. Mỗi lần một cộng đoàn Giáo Hội cử hành kinh chiều hay dâng lời ơn, bài ca mầu nhiệm ấy lại trổi lên du dương như một kiệt tác bất khả thay thế.
Đối với rất nhiều Kitô hữu Việt Nam, một ngày không có Kinh Kính Mừng không phải là một ngày đúng nghĩa, một ngày không có Kinh Lạy Nữ Vương là một ngày trơ vơ chênh vênh, một ngày không có Kinh Mân Côi là một ngày rời rạc không nhựa sống...Tắt một lời, ngày không có Đức Maria đồng hành không phải là ngày.
Cũng vì những tâm tình thuơng mến đó mà kể từ ngày Mẹ hiện ra an ủi tín hữu lâm nạn vào cuối thế kỷ 18, hàng hàng lớp lớp khách hành hương đã tuôn về đây mỗi lúc một đông. Họ đã kêu cầu Mẹ và Mẹ đã nhận lời. Những tấm bia tạ ơn dày đặc đàng kia phải chăng là bằng chứng tình Mẹ La Vang luôn dạt dào lai láng?
Rõ ràng là theo dòng thời gian, niềm tri ân Đức Mẹ La Vang, tình yêu mến Đức Mẹ La Vang, lòng cậy trông Đức Mẹ La Vang càng ngày càng thiết tha nồng nàn, càng ngày càng tràn trào dâng cao, không gì đủ hùng mạnh để ngăn cản, không gì đủ rộng rãi để chứa đựng.
Thật vậy, thuở ban đầu La Vang chỉ là vùng kỷ niệm của giáo dân trong khu vực giáo xứ Cổ vưu. Nhưng chẳng bao lâu sau, La Vang đã mau chóng trở thành điểm hành hương của Giáo Phận Huế, để rồi năm 1958, đã được chọn làm nơi tổ chức Đại Hội Thánh Mẫu Toàn Quốc, với sự hiện diện của Đức Hồng Y Agagianian, Tổng Trưởng Bộ Truyền Giáo, được Đức Thánh Cha Gioan XXIII chính thức cử làm đặc sứ. Cũng chính vị Cha Chung hoàn vũ này, ngày 22.08.1961, đã nâng nhà thờ La Vang lên bậc "Tiểu Vương Cung Thánh Đường".
Nhiều đoàn hành hương nước ngoài đã đến La Vang, nhất là năm 1998, nhân dịp kỷ niệm 200 Đức Mẹ hiện ra tại đây, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã cử Đức Hồng Y Tổng Giám Mục Hà Nội thay mặt ngài chủ sự thánh lễ.
Gần đây nhất, nhân dịp Năm Thánh 2010-2012 kỷ niệm 350 năm thành lập hai giáo phận Việt Nam đầu tiên, Đức Thánh Cha Beneđitô XVI đã cử Đức Hồng Y Ivan Dias, Tổng trưởng bộ Truyền Giáo làm đặc sứ của ngài để chủ sự lễ bế mạc ngay tại La Vang này.
Đó là bằng chứng cho thấy La Vang không còn là điểm hành hương của riêng Giáo Hội Việt Nam, nhưng đã được Giáo Hội toàn cầu công nhận và thăm viếng.
Vì thế mà trong lòng mỗi người tín hữu dân Việt, trong nước cũng như hải ngoại, lúc nào cũng cháy bỏng ước mơ sẽ có một nơi xứng đáng để tôn kính Mẹ. Giấc mơ lớn dần và đã chính thức trở thành quyết tâm của các đấng Bản quyền: trong cuộc họp thường niên tại Huế ngày 13.4.1961, các Giám Mục miền Nam đã khấn hứa khi hoàn cảnh thuận lợi, sẽ xây cất một Đền Thánh biệt kính Mẹ La Vang, rồi trong thư luân lưu tháng 8 cùng năm, đã long trọng công nhận La Vang là Trung Tâm Thánh Mẫu toàn quốc VN.
Giấc mơ đó hôm nay đang trở thành hiện thực qua nghi thức đặt viên đá đầu tiên.
Chỉ một viên đá đơn sơ nhưng ý nghĩa thật lớn lao. Lớn lao bởi vì nó kết tụ nguyện vọng của tất cả mọi thế hệ Kitô hữu Việt Nam. Lớn lao bởi vì tuy nhỏ bé, nó là biểu tượng tình hiệp thông rộng lớn của mọi thành phần Dân Chúa. Lớn lao bởi vì trên viên đá này chúng ta sẽ ghi lời khấn nguyện tha thiết nhất của Giáo Hội và dân tộc Việt Nam, của cộng đoàn và của từng tâm hồn chúng ta. Và lớn lao hơn nữa là tại nơi tôn nghiêm này, Mẹ chúng ta sẽ "tiến lên như rạng đông", sẽ "đẹp như mặt trăng", sẽ "rực rỡ như mặt trời", sẽ "oai hùng như đạo binh xếp hàng vào trận".
Có lẽ nhiều người tự hỏi: "Mẹ đã về trời sao còn có thể ở lại đây?"
Thật ra, chúng ta thường tưởng tượng cách sai lầm rằng khi lên trời, Mẹ di chuyển trong không gian từ thấp lên cao. Nhưng theo Thánh Kinh, "được đưa lên trời" chỉ có nghĩa là "được sống trong Chúa sau khi lìa đời". Cũng vì vậy mà khi công bố tín điều Đức Maria mông triệu, Đức Thánh Cha Piô XII đã tránh dùng hai chữ "lên trời". Ngài chỉ diễn tả cách đơn sơ rằng: "sau khi hoàn tất cuộc đời tại thế, Mẹ Thiên Chúa đã được đưa về trời cả hồn lẫn xác, trong vinh quang vĩnh cửu..."
Lúc sinh thời tại thế, muốn thăm viếng ai Mẹ phải dùng đôi chân thể xác đi từ chỗ nọ đến chỗ kia. Nay được "đưa vào vinh quang", Mẹ không cần di chuyển nữa. Cùng một lúc, Mẹ có thể thăm viếng bất kỳ ai trong chúng ta, vì Mẹ cũng ở khắp mọi nơi như Chúa và với Chúa.
Rốt cuộc, đối với Kitô hữu, trời không phải là cõi cao xa vời vợi. Trời chính là sự hiện diện của Chúa và của Mẹ. Đặt viên đá đầu tiên xây dựng thánh đường dâng kính Mẹ, chúng ta cũng "đặt viên đá" cho sự hiện diện linh thiêng bền vững của Mẹ tại linh địa này và nơi thâm sâu cõi lòng chúng ta.
Năm xưa, "trong những ngày ấy, Mẹ đã vội vã lên đường..." Hôm nay, Mẹ cũng đon đả đến La Vang này, nơi con cái Việt Nam đang chờ đón Mẹ. Năm xưa, Mẹ "vào nhà Zacaria và chào bà Isave". Hôm nay, Mẹ cũng đến với từng cuộc đời, ân cần hỏi han hoàn cảnh từng người chúng ta. Năm xưa, khi được Mẹ thăm viếng, "Isave đã được tràn đầy Thánh Thần". Lời chào của Maria đã biến ngôi làng Ain Karem thành Lễ Hiện Xuống đầu tiên. Hôm nay, mỗi lần mở miệng chào "Kính mừng Maria đầy ân phúc", cùng với Mẹ, chúng ta cũng mở đường cho Thần Linh Chúa tiến vào Giáo Hội, tiến vào thế giới và tiến vào cõi lòng chúng ta.
Chính nhờ Mẹ đến thăm, tâm hồn Isave đã tràn ngập niềm vui khiến bà tự hỏi: "Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi."
Dấu chân thăm viếng của Mẹ đã để lại niềm vui dạt dào trong lòng Isave. Khi hiện ra với giáo hữu bị bách hại tại đây, Mẹ cũng tái tạo niềm tin của họ. Nếu cuộc truy lùng của quan quân triều đình đã biến La Vang thành khu rừng sợ hãi, Mẹ đã thăm viếng và đã biến nó thành cõi yên hàn an vui. Mẹ không hề trừng phạt quan quân đã gây khốn khó cho con cái Mẹ. Mẹ đến chỉ để cứu thoát họ khỏi cảnh truy bức hung tàn. Thông điệp phát đi từ La Vang là thông điệp của hòa bình và của trái tim Từ Mẫu.
Lịch sử của La Vang cũng giống như lịch sử của dân tộc VN. Đã bao lần đồng bào đồng hương con Lạc cháu Hồng vì chưa biết yêu thương nhau nên đã gây cảnh huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt, biến đất nước thành một khu rừng chém giết sợ hãi.
Lạy Mẹ Maria,
Chúng con xin Mẹ hãy viếng thăm để cứu chúng con khỏi hận thù thương đau. Ước gì hôm nay, tại linh địa này, viên đá đầu tiên chúng con đặt xuống cũng là viên đá yêu thương, khởi đầu một tương lai yên ấm thuận hòa cho quê hương đất nước thân yêu chúng con. Amen.
37. Mẹ Maria, niềm hy vọng của nhân loại
(Bài giảng lễ Đức Mẹ Lên Trời của ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Khi đọc kinh Mân Côi, chúng ta suy ngắm mầu nhiệm thứ bốn của Mùa mừng: “Đức Chúa Trời cho Đức Bà lên trời; ta hãy xin ơn chết lành trong tay Đức Mẹ”. Như thế, nhắc đến sự kiện Đức Mẹ được cất về trời là nhắc đến việc Đức Mẹ kết thúc cuộc đời trần thế một cách thánh thiện, trong sự trung tín với Chúa, đồng thời là lời nhắc bảo chúng ta hãy sống tốt lành để chết thánh thiện trong tay Đức Mẹ. Các tín hữu từ thuở Giáo Hội sơ khai vẫn tin rằng thân xác Đức Mẹ không hề hư nát trong huyệt mộ. Bởi lẽ thân xác ấy đã được chọn là ngai tòa cho Đấng Cứu thế. Hơn nữa, Đức Mẹ đã được Chúa yêu thương gìn giữ để khỏi vương tội tổ tông. Nhưng phải đợi 19 thế kỷ sau, điều các tín hữu vẫn tin này mới được chính thức định tín. Ngày 1-11-1950, Đức Giáo Hoàng Piô thứ XII long trọng tuyên bố tại Đền thờ Thánh Phêrô ở Rôma: “Chúng tôi công bố, tuyên xưng và định tín giáo lý đã được Thiên Chúa mạc khải này: Đức Maria trọn đời đồng trinh, Mẹ Vô nhiễm của Thiên Chúa, sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, đã được đưa lên trời hiển vinh cả hồn lẫn xác”.
Trong lời tuyên tín long trọng trên đây, Đức Giáo Hoàng đã nhắc tới cả 4 đặc ân mà Thiên Chúa ban cho Đức Mẹ, tức là ơn vô nhiễm nguyên tội; ơn trọn đời đồng trinh, ơn làm Mẹ Thiên Chúa và ơn được về trời cả hồn và xác. Lời tuyên tín cũng nhấn mạnh đến khái niệm “cả hồn lẫn xác” để cho thấy việc Đức Mẹ được Chúa đưa về trời khác với việc các thánh được hưởng phúc thiên đàng. Bởi lẽ các thánh hay những người công chính, sau khi chấm dứt cuộc đời này thì thân xác bị hư nát trong lòng đất. Thỉnh thoảng ta thấy một số vị thánh sau nhiều chục năm an táng mà thân xác vẫn còn nguyên vẹn, nhưng thân xác ấy vẫn tồn tại trong huyệt mộ mà không được về trời. Việc khẳng định rõ “cả hồn lẫn xác” nhằm diễn tả đó là một ơn ban đặc biệt, vì theo Giáo lý Công giáo, chỉ mình Chúa Giêsu được lên trời kèm theo một thân xác trần thế, vì màu nhiệm nhập thể đã gắn liền thần tính với nhân tính nơi Đức Giêsu. Như thế, sau Chúa Giêsu, chỉ có Đức Mẹ được tiến vào vinh quang trong tình trạng có cả xác và hồn.
Lời Chúa trong ngày lễ Đức Mẹ lên trời diễn tả vai trò của Mẹ trong công cuộc cứu độ và vẻ đẹp mà Thiên Chúa trang điểm cho Mẹ. Phụng vụ thánh lễ Vọng của chiều ngày 14-8, nhắc lại việc di chuyển Hòm Bia Thiên Chúa từ nhà ông Ôvết Êđôm về Giêrusalem (Bài I) và lời khen ngợi của Chúa Giê-su dành cho ai “lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa” (Tin Mừng). Khi đọc đoạn sách trích trong cuốn Sử biên niên, chúng ta liên hệ với lời tuyên xưng trong Kinh Cầu Đức Bà: “Đức Bà là Hòm Bia Thiên Chúa vậy”. Hòm Bia trong Cựu Ước chứa đựng mười Điều Răn của Thiên Chúa, một chút Manna và cây gậy nở hoa của Ông Aaron. Đức Mẹ là Hòm Bia vì đã cưu mang Lời Chúa đã thành xác thịt và thành của ăn nuôi dưỡng muôn người. Vì thế, lời ca tụng của Chúa Giêsu như muốn nhắc những người hiện diện: “Đức Maria – người phụ nữ đã cưu mang và sinh hạ Chúa – rất vinh dự vì cưu mang Đấng Cứu Thế, nhưng còn vinh dự hơn vì Mẹ luôn biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa trong cuộc đời.
Phụng vụ trong thánh lễ chính ngày giới thiệu vẻ đẹp của Đức Mẹ. Người phụ nữ được diễn tả trong sách Khải Huyền là hình ảnh Đức Maria. Mẹ được trang điểm bằng mặt trời, mặt trăng và muôn vì tinh tú. Mẹ được giới thiệu như Nữ Vương trời đất để cùng với Đức Giê-su cai trị vũ trụ. Bài ca tạ ơn mà Đức Mẹ cất lên như một lời tôn vinh quyền năng của Chúa, đồng thời cảm tạ tình thương của Ngài dành cho cả nhân loại. Đức Maria đã đại diện cho cả loài người để tạ ơn Chúa, đồng thời tuyên bố thời đại mới đã đến. Đó là thời của ân sủng và tình yêu thương. Đây cũng là thời mà Chúa thực hiện lời hứa đối với ông Abraham và hậu duệ của ông, tức là những ai tin tưởng và cậy trông nơi lòng từ bi của Chúa.
Đức Mẹ đã sống một cuộc đời thật đẹp. Trước hết, đó là ơn của Chúa, nhưng cũng là sự cộng tác của Mẹ. Trong muôn vàn phụ nữ, Chúa đã tuyển chọn Mẹ, một thiếu nữ đơn sơ và thánh thiện. Chúa đã mời gọi Mẹ cộng tác với Chúa để làm cho chương trình cứu độ được thực hiện. Lễ Đức Mẹ lên trời đem đến cho các tín hữu niềm hy vọng vào hạnh phúc vĩnh cửu. Chúa Giê-su đã lên trời để mở cánh cửa Nước Trời cho chúng ta. Đức Mẹ đã lên trời để khẳng định với chúng ta rằng, con người trần thế cũng có thể bước vào cánh cửa mà Chúa Giê-su đã mở, nếu biết lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa. Việc chiêm ngắm Đức Mẹ lên trời “cả hồn lẫn xác” cũng nhắc nhở chúng ta phẩm giá của thân xác con người. Thiên Chúa cứu chuộc con người trọn vẹn, cả hồn và xác. Sau này, Thánh Phaolô khẳng định, thân xác là đền thờ Chúa Thánh Thần. Vì thế, mọi xúc phạm đến thân xác con người cũng là xúc phạm Đấng Tối cao.
Các nghệ nhân thường trình bày Đức Mẹ lên trời bằng những pho tượng hay hình ảnh Đức Mẹ có đông đảo thiên thần vây xung quanh trong làn mây trắng cuồn cuộn, như một cuộc cung nghinh long trọng từ đất lên trời. Hôm nay mừng lễ Đức Mẹ, mỗi tín hữu chúng ta cũng như đang tham dự vào đoàn rước ấy, và chúng ta thầm cầu mong, xin cho chúng ta khi kết thúc cõi đời, được an bình thanh thản. “Đức Chúa Trời cho Đức Bà lên trời; ta hãy xin ơn chết lành trong tay Đức Mẹ”. “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử”. Ước gì những lời kinh đơn sơ ấy luôn được nhắc lại trong trái tim và môi miệng của mỗi người chúng ta. Amen.
38. Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời
(Bài giảng của ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Tên gọi của ngày lễ hôm nay nói lên một ân huệ rất đặc biệt mà Thiên Chúa dành cho Đức Maria. Đức Mẹ được về trời, không chỉ có phần linh hồn, nhưng cả thân xác nhân loại của Mẹ cũng được về trời. Điều đó có nghĩa là một con người trọn vẹn được cứu chuộc và tôn vinh. Ơn cứu chuộc nhờ công nghiệp của Đức Giêsu là ơn cứu chuộc dành cho con người toàn diện. Chúng ta hãy đọc lại tín điều được Đức Giáo Hoàng Pi-ô XII tuyên bố ngày 01-11-1950: “Chúng Tôi công bố, tuyên xưng và định tín giáo lý đã được Thiên Chúa mạc khải này: Đức Maria trọn đời đồng trinh, Mẹ vô nhiễm của Thiên Chúa, sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, đã được đưa lên trời hiển vinh cả hồn lẫn xác”. Thiên Chúa muốn cứu với con người cả hồn và xác. Đạo Chúa không chỉ chú ý tới phần hồn mà quên phần xác; không chỉ chú trọng tới tương lai mà quên hiện tại; không chỉ nhấn mạnh tới sự sống linh thiêng mà quên cuộc sống trần gian.
Ơn cứu độ cũng không chỉ dành riêng cho con người, mà còn dành cho cả vũ tru. Hình ảnh người phụ nữ được diễn tả trong sách Khải Huyền cho thấy Đức Maria là một người phụ nữ vũ trụ. Tác giả say sưa chiêm ngắm một người Phụ nữ kỳ lạ“mình mặc mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao”. Giáo Hội Công giáo đã nhận ra chính là hình ảnh của Đức Maria, người Phụ nữ đã cộng tác với Thiên Chúa để sáng tạo một dân tộc mới trong Đức Giêsu Kitô. 12 ngôi sao tượng trưng cho 12 chi tộc của Israel mới, được tái tạo nhờ sự chết và sự phục sinh của Đức Giêsu. Như thế, cùng với Mẹ, cả một vũ trụ được canh tân tỏa sáng, đem lại niềm hân hoan cho những ai thuộc về Đức Giêsu. Mẹ Maria, một tín hữu suốt đời khiêm cung và tuân phục thánh ý Chúa, thì nay chính Chúa đã dùng cả vũ trụ mà trang điểm cho Mẹ. Mặt trời, mặt trăng, các vì tinh tú… đó là những vị thần linh đối với một số tín ngưỡng bình dân, nhờ sự can thiệp của Thiên Chúa, những gì mà nhiều người coi là thần linh nay chỉ là đồ trang sức của Mẹ.
Đức Mẹ đã làm gì để có thể được tôn vinh như vậy? thưa, Mẹ đã cộng tác với công trình cứu chuộc của Chúa; Mẹ đã miệt mài loan báo tình thương của Ngài. Thánh Luca kể với chúng ta về một cuộc “lên đường” của Mẹ. Mẹ lên đường sau khi nhận lãnh sứ điệp từ trời. Mẹ lên đường cách vội vã để kể lại cho gia đình người chị họ là Bà Isave biết những điều kỳ diệu Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ. Có thể nói, suốt cuộc đời của Mẹ là một cuộc “lên đường”, luôn sẵn sàng và chu đáo, không so đo tính toán. Bài ca tôn vinh mà Mẹ cảm hứng cất lên tại nhà Bà Isave chính là điều Mẹ vẫn tâm niệm. Mẹ đã hòa cuộc đời mình vào niềm mong đợi của Israel. Mẹ đã cùng với cả dân tộc vui mừng trước biến cố Ngôi Lời nhập thể. Đây không còn là một biến cố chỉ dành riêng cho Mẹ, nhưng dành cho cả nhân loại, vì ơn cứu độ của Thiên Chúa được gửi đến cho mọi người và mọi tạo vật. Chính từ thái độ sẵn sàng lên đường của Đức Mẹ, mà hôm nay, Thiên Chúa đã dùng quyền năng của Ngài mà mời Mẹ tham dự một cuộc “lên đường” khác: Mẹ tiến vào thiên quốc trong tiếng reo vui của các thiên thần, cùng với cả nhân loại tung hô, với cả vũ trụ làm đồ trang sức.
Tuy vậy, cuộc đời của Mẹ không phải lúc nào cũng được êm ả an bình. Hình ảnh người Phụ nữ trong sách Khải Huyền bị Con Mãng Xà đe dọa và khủng bố cho ta thấy một Đức Maria phải đối diện với những thử thách, nhưng Mẹ luôn kiên vững và phó thác, ngay cả giờ phút thương đau dưới chân thập giá. Vâng, đó cũng là hình ảnh cuộc đời mỗi tín hữu chúng ta, cần phải noi gương Mẹ mà vươn lên mỗi ngày để trung tín với Chúa trong ơn gọi nên thánh.
Lễ Đức Mẹ linh hồn và xác lên trời đem lại cho chúng ta niềm vui và hy vọng. Bởi lẽ Đức Mẹ là thành phần nhân loại. Mẹ là một con người, mang nơi mình một thân xác như chúng ta, sống giữa cuộc đời trần thế như chúng ta, mà Mẹ đã được thưởng công và tôn vinh. Nếu chúng ta cố gắng sống như Mẹ, yêu mến và vâng phục như Mẹ, chúng ta cũng được về trời để cùng với Mẹ, với các thánh và toàn thể tạo vật tôn vinh Thiên Chúa.
Ngày lễ này cũng mời gọi chúng ta hãy yêu mến Giáo Hội vì mỗi chúng ta là thành phần, yêu mến cuộc sống hôm nay cùng với vũ trụ thiên nhiên xinh đẹp, vì muôn tạo vật sẽ được cứu thoát cùng với chúng ta, trong bài ca ngợi bất tận để tôn vinh Thiên Chúa trong hạnh phúc vĩnh cửu.
39. Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Trong dịp hành hương Đất Thánh, chúng tôi có đến Nhà Thờ Thăm Viếng, nơi có tượng Đức Mẹ ngũ. Từ Nhà Thờ kính Thánh Gioan Tẩy Giả tại En Kerem, đi bộ một đoạn đường khá xa, lên một dốc cao rồi bước thêm đúng 66 bậc thang mới đến Nhà thờ. Từ trên ngọn đồi nhìn xuống thung lũng xa xa, quê hương Thánh Gioan Tiền Hô đẹp như một bức tranh mờ trong sương sớm.
Nhà Thờ dâng kính cuộc thăm viếng của Đức Mẹ. Khi nghe tin bà Isave mang thai, Đức Mẹ đã vượt đường sá xa xôi đến thăm và giúp đỡ. Từ Nazarét về tới En Kerem đường xa lắm, chừng 90 km và rất nhiều trắc trở hiểm nguy. Mẹ đã thể hiện tình yêu thương và sự quan tâm đặc biệt đến người chị họ Isave. Nơi đây, bài Magnificat đã được viết trên tường bằng nhiều thứ tiếng, trong đó có cả tiếng Việt Nam.
Sau kinh cầu nguyện trong Nhà Thờ Thăm Viếng, chúng tôi đi xuống tầng hầm, mỗi người thành kính quỳ gối lần hạt trước tượng Đức Mẹ ngủ. Nhìn Đức Mẹ thánh thiện ngủ giấc bình an, ai cũng cảm động nguyện cầu khấn xin. Nhiều người thổn thức bên Mẹ.
Theo truyền thống xa xưa, Đức Mẹ không chết, mà chỉ ngủ một giấc, rồi Chúa đưa Mẹ lên trời cả hồn lẫn xác.
Phụng vụ đã cử hành ngày qua đời của Mẹ dưới nhiều tên gọi: Dormitio (an giấc), Depositio (an táng), Transitus (qua đời), Natalis (ngày sinh vào Nước Chúa). Tất cả những danh từ đó được dùng để nói tới cái chết của Đức Mẹ. Tiếng “assumptio” (bởi động từ assumere; sumere: cất lấy; ad: kết hợp, đoàn tụ), lúc đầu, ám chỉ việc linh hồn Mẹ được đưa vào vinh quang của Chúa (giống như các thánh); về sau, từ ngữ này được dùng để chỉ việc Mẹ được cất về trời. Giáo hội phân biệt hai từ ngữ ”ascensio” áp dụng cho Chúa Giêsu vì Ngài lên trời do quyền năng riêng, còn “assumptio” áp dụng cho Mẹ để nói rằng Mẹ được Chúa đưa về trời.
Tín điều Đức Maria Hồn Xác Lên Trời được Đức Giáo Hoàng Piô XII công bố vào ngày 1.11.1950: “Sau khi đã mãn cuộc đời dưới đất, Đức Maria được đem về trời cả xác hồn”.
Vào thế kỷ 19, có một luồng thần học chủ trương rằng Đức Maria không phải chết và xin Đức Thánh Cha hãy định tín như vậy. Họ cho rằng Đức Maria không mắc tội nguyên tổ, nên không phải chết bởi vì sự chết là hình phạt của tội nguyên tổ. Tuy nhiên đa số các nhà thần học cho rằng Đức Maria đã chết và sau đó được sống lại. Đức Piô XII không bàn tới vấn đề này, không nói rằng Mẹ không phải chết, cũng chẳng nói Mẹ đã chết và đã sống lại; nhưng chỉ nói rằng: sau khi chấm dứt cuộc đời dương thế, Mẹ được cất về trời cả xác và hồn.
Nhìn Đức Mẹ ngủ, tôi thấy sáng lên vẻ đẹp thánh thiện cao quý. Mẹ tuyệt đẹp vì Mẹ đầy ơn Chúa. Mẹ đẹp thánh thiện vì ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội. Mẹ đẹp cao quý vì làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Mẹ tuyệt mỹ vì niềm tin đơn sơ và cuộc sống khiêm nhường. Nét đẹp ấy thoang thoảng như như một hương thơm hảo hạng toả ra lôi cuốn. Nét đẹp ấy mặn mà như thứ muối thiêng liêng. Nét đẹp ấy lung linh như ánh sáng dịu mát. Nét đẹp ấy huyền diệu như âm nhạc dịu êm mời gọi con người nâng tâm hồn lên tới Chúa.
Hôm nay, Giáo hội mừng kính Đức Maria được khải hoàn bước vào quê hương Nước Trời.
Bầu khí phụng vụ đượm sắc thái vui tươi với những lời ngợi khen và chúc tụng Đức Trinh Nữ lên trời hiển vinh. Từ đây, Đức Mẹ nắm giữ vai trò quan trọng nhất, là Nữ Vương trời đất. Từ nay, Đức Mẹ đảm nhận một địa vị cao cả nhất và cũng thật gần bên Thiên Chúa. Kể từ nay, Đức Mẹ trổi vượt trên mọi tạo vật với địa vị làm Mẹ Thiên Chúa và làm Mẹ nhân loại.
Quyền năng và tình yêu Chúa tràn đầy trên Mẹ làm cho Mẹ được khỏi tội tổ tông và được đầy ơn ơn sủng ngay từ trong lòng mẹ. Quyền năng và tình yêu Chúa bao phủ suốt cả đời Mẹ trên từng ý nghĩ, từng tình cảm, từng mỗi hành động, từng mỗi bước đi... khiến cho tâm hồn Mẹ luôn hướng về Chúa mà tạ ơn và ngợi khen liên lỉ. Quyền năng và tình yêu Chúa đong đầy trọn vẹn nhất trong khoảnh khắc lịch sử, Mẹ lên trời cả hồn cả xác. Đặc ân cao trọng này, chính là triều thiên sáng chói bao phủ lên Mẹ, vốn đã được “Thánh Thần ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao rợp bóng trên bà” (Lc 1,35).
Giáo Hội cùng hiệp ý chung lời với Mẹ ngợi khen tạ ơn Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.
Đó là những lời tán tụng ngợi ca Thiên Chúa phát xuất từ sâu thẳm lòng Mẹ trong ngày thăm viếng người chị họ Isave.
Những lời ngợi ca đó nói lên tất cả tâm hồn của Mẹ. Đó là toát lược cả cuộc đời Mẹ, cả chương trình sống của Mẹ, là con đường tu đức của Mẹ: mãi mãi là người nữ tỳ khiêm tốn, luôn phó thác hoàn toàn trong tay Chúa toàn năng và nhân hậu, hằng dâng lời ngợi khen tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh cuộc sống.
Những lời ca ngợi Magnificat nói lên hết ý nghĩa và tâm tình của Mẹ đối với Thiên Chúa toàn năng và yêu thương.
Mẹ cảm thấy thân phận tôi tớ hèn mọn nầy lại được cất nhắc cao trọng trong giây phút lên trời: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.
Mẹ cảm nghiệm được quyền năng và tình yêu vô biên của Chúa trong giây phút Chúa hiển dương Mẹ về trời: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả...Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người”.
Đức Mẹ được lên trời hồn xác là do đặc ân Chúa ban cho Mẹ và đồng thời, cũng là do cuộc sống thánh thiện của Mẹ hằng luôn hợp tác với ơn Chúa.
Hồn xác lên trời là một hồng ân cao cả mà Thiên Chúa ban cho Mẹ. Mẹ là người diễm phúc nhất trong mọi người nữ. Mẹ có tên gọi đẹp nhất là ”Đấng đầy ơn phúc” vì “Thiên Chúa ở cùng bà”. Mẹ được hết mọi đời khen là diễm phúc chính vì “Đấng toàn năng đã làm cho Mẹ biết bao điều cao cả”. Điều cao cả nhất, là làm Mẹ Chúa Cứu Thế. Mẹ là cây sinh quả phúc và nhờ quả phúc ấy mà Mẹ được biết đến và được ca tụng. Mẹ là cây trường sinh mang quả đầu mùa mà Thiên Chúa đã trồng trong vườn địa đàng mới hầu đem lại sự sống đời đời cho mọi thế hệ loài người. Chính vì thế mà Thiên Chúa muốn cho cây mang quả trường sinh ấy được nhân lên trong vườn địa đàng mà Người muốn mở rộng diện tích tới tận cùng trái đất.
Trong bài giảng tại Thánh địa La Vang ngày 15/8/2007, Đức Tổng Giám Mục Huế đã suy niệm: Đức Mẹ lên trời sau khi đã đi qua hết mọi nẻo đường đời của một người bình thường nghèo khó: nẻo đường không nơi trú ngụ; phải sinh con trong hang đá Bêlem; nẻo đường lánh cư sang Ai Cập đầy tiếng khóc than của các bà mẹ mà những đứa con thơ vô tội bị vua Hêrôđê sát hại; đường vào tiệc cưới Cana có tiếng vui cười của thực khách và đôi tân hôn; đường lên núi Calvariô, có tiếng nguyền rủa, tiếng búa đóng đinh của các lý hình; đường loan Tin mừng Chúa Phục Sinh và đường thẳng lên trời hồn xác trong tiếng reo vui của đất trời, của thần thánh, của loài người. Đức Mẹ đã sống thánh giữa đời, đã nên thánh qua những chặng đường vui, đường sáng, đường thương, đường mừng.
Trong cuộc sống hôm nay, chúng ta cũng đang đi lại những chặng đường của Đức Mẹ: có cả vui, sáng, thương, mừng. Chúng ta lần hạt, tràng chuỗi nơi tay, miệng thầm thỉ, lòng kết hiệp với các mầu nhiệm vui mừng và đau thương của Đức Mẹ. Chúng ta cũng lần hạt một cách thiết thực nữa trong cuộc sống hằng ngày, mà tràng chuỗi và những hạt chuỗi giờ đây, chính là những hạt mồ hôi, những giọt nước mắt, những khổ đau, những oan ức..., và cũng chính là những tiếng vui cười, những tia hy vọng, những niềm hân hoan... Đó là tràng chuỗi sống, đi đôi với việc đọc kinh lần hạt suy niệm của chúng ta.
Đức Mẹ được vinh hiển hồn xác trên trời là hình ảnh và là khởi đầu bảo đảm cho tương lai của chúng ta sau nầy cũng sẽ được như vậy, miễn là bây giờ chúng ta biết noi gương Mẹ mà sống thánh giữa đời, qua những chặng đường vui, sáng, thương, mừng của cuộc sống (x. LG 68).
40. Vầng trăng tuyệt vời!
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Ngày 1-11-1950, đúng vào dịp lễ Các Thánh Nam Nữ, Đức Thánh Cha Piô XII long trọng tuyên bố tín điều Đức Maria Hồn Xác Lên Trời: “Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria Trọn Đời Đồng Trinh, sau khi sống trọn cuộc đời trần thế, đã được triệu hồi cả hồn và xác vào trong vinh quang thiên quốc”. Kể từ lời tuyên bố trong thánh lễ tuyên tín long trọng hôm ấy, mầu nhiệm Đức Maria được Thiên Chúa đưa về trời cả hồn và xác, trở thành chân lý đức tin cho toàn thể Giáo hội.
Chỉ trong một lời tuyên tín ngắn gọn và quan trọng để tuyên bố một tín điều, Đức Thánh Cha Piô XII đã liệt kê cùng lúc đầy đủ bốn đặc ân vô cùng cao cả, ngoài Đức Maria không ai có được. Đó cũng là bốn chân lý tuyệt đối của lòng tin thuộc về đời sống và nhân đức của Đức Maria mà mỗi người Kitô hữu phải tin:
1. Đức Maria làm Mẹ Thiên Chúa.
2. Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ không hề mắc tội tổ tông truyền từ ngay khi thành thai trong lòng mẹ.
3. Đức Maria Đồng Trinh Trọn Đời, dù mang thai và sinh con, Mẹ vẫn trinh khiết vẹn toàn.
4. Đức Maria Hồn Xác Lên Trời, Mẹ được Chúa triệu hồi cả hồn và xác vào trong vinh quang thiên quốc, sống trong hạnh phúc vĩnh cửu.
Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo từ số 963- 975, kể ra 5 lý chứng rất mạnh mẽ và xác thực minh chứng việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời:
1. Vì Đức Maria là Mẹ Chúa Kitô: Thánh Kinh diễn tả rõ ràng Đức Maria hiệp thông chặt chẽ với Chúa Giêsu trong nhiệm cuộc cứu chuộc, và luôn chia sẻ số phận với Con. Vậy xét theo thiên chức làm Mẹ, đương nhiên đòi hỏi phải có việc Mẹ và Con hòa hợp sum vầy với nhau, vì cả hai đã yêu mến nhau tha thiết, cho nên chắc chắn Chúa Kitô vì lòng hiếu thảo, đã ban cho Mẹ mình được hồn xác về Trời sau khi ly trần, là điều hợp tình hợp lý.
2. Vì Đức Maria Trọn Đời Trinh Khiết: Thiên Chúa đã làm cho Đức Maria chịu thai, sinh con mà vẫn trinh nguyên, thì sau khi Mẹ qua đời, Ngài đã gìn giữ thân xác Đức Mẹ khỏi hư nát, và sau khi đem Mẹ về Trời, Ngài đã làm cho xác Mẹ nên vinh hiển. Nên thánh Đamascênô tiến sĩ quả quyết: Vì Đức Mẹ đã được sinh con mà vẫn trinh nguyên, thì cần thiết là sau khi qua đời, xác Đức Mẹ cũng phải được bảo tồn nguyên vẹn.
3. Vì Đức Mẹ luôn hợp tác với Chúa Kitô: ngay từ thế kỷ II, các Giáo Phụ đã trình bày Đức Mẹ như là một Evà Mới hợp tác chặt chẽ với Adam Mới là Chúa Kitô để chiến thắng satan. Vì thế, cũng như Chúa Kitô sống lại vinh hiển là việc thiết yếu và là dấu chiến thắng cuối cùng, thì Đức Mẹ đã cùng Con chiến đấu cũng phải được cùng Con chiến thắng, nghĩa là Thân Xác Đồng Trinh của Đức Mẹ cũng phải được Lên Trời Vinh Hiển.
4. Vì Đức Mẹ Đầy Ơn Phúc: các thánh tiến sĩ đã coi việc Đức Mẹ Hồn Xác về Trời như là bổ túc cho việc Đức Mẹ được Đầy Ơn Phúc. Như lời cha Ađômêô quả quyết: Thân xác Đức Mẹ không hề bị hư nát vì đã kết hợp với linh hồn và đã được đầy ơn.
5. Vì Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội: theo lời xác quyết của Đức Thánh Cha Piô XII: Thân xác con người bị chết và bị tan rã ra tro đất là do hậu quả tội Nguyên Tổ. Đức Maria không hề mắc tội Nguyên Tổ, cũng không hề có tội riêng, cho nên đương nhiên và rất hợp lý là Đức Maria được Hồn Xác Về Trời”.
Mẹ đầy ơn phúc, được Thiên Chúa yêu thương gìn giữ từ thuở đời đời bằng đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội. Mẹ được Thiên Chúa giữ gìn cho đến muôn đời bằng đặc ân Mông Triệu tuyệt diệu hơn mọi người trần.
Quyền năng và tình yêu Chúa tràn đầy trên Mẹ làm cho Mẹ được khỏi tội tổ tông và được đầy ơn ơn sủng ngay từ trong lòng mẹ. Quyền năng và tình yêu Chúa bao phủ suốt cả đời Mẹ trên từng ý nghĩ, từng tình cảm, từng mỗi hành động, từng mỗi bước đi... khiến cho tâm hồn Mẹ luôn hướng về Chúa mà tạ ơn và ngợi khen liên lỉ. Quyền năng và tình yêu Chúa đong đầy trọn vẹn nhất trong khoảnh khắc lịch sử, Mẹ lên trời cả hồn cả xác. Đặc ân cao trọng này chính là triều thiên sáng chói bao phủ lên Mẹ, vốn đã được “Thánh Thần ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao rợp bóng trên bà” (Lc 1,35).
Ngày lễ hôm nay với sắc thái vui tươi với những lời ngợi khen và chúc tụng Đức Trinh Nữ lên trời hiển vinh. Từ đây Đức Mẹ nắm giữ vai trò quan trọng nhất là Nữ Vương trời đất. Từ nay, Đức Mẹ đảm nhận một địa vị cao cả nhất và cũng thật gần bên Thiên Chúa. Kể từ nay, Đức Mẹ trổi vượt trên mọi tạo vật với địa vị làm Mẹ Thiên Chúa và làm Mẹ nhân loại.
Mẹ được Lên Trời Hồn Xác là do đặc ân Chúa ban cho Mẹ và đồng thời cũng là do cuộc sống thánh thiện của Mẹ hằng luôn hợp tác với ơn Chúa. Mẹ là người diễm phúc nhất trong mọi người nữ. Mẹ có tên gọi đẹp nhất là ”Đấng đầy ơn phúc” vì “Thiên Chúa ở cùng bà”. Mẹ được hết mọi đời khen là diễm phúc chính vì “Đấng toàn năng đã làm cho Mẹ biết bao điều cao cả”. Điều cao cả nhất là làm Mẹ Chúa Cứu Thế. Mẹ là cây sinh quả phúc và nhờ quả phúc ấy mà Mẹ được biết đến và được ca tụng. Mẹ là cây trường sinh mang quả đầu mùa mà Thiên Chúa đã trồng trong vườn địa đàng mới hầu đem lại sự sống đời đời cho mọi thế hệ loài người. Chính vì thế mà Thiên Chúa muốn cho cây mang quả trường sinh ấy được nhân lên trong vườn địa đàng mà Người muốn mở rộng diện tích tới tận cùng trái đất.
Giáo hội cùng hiệp ý chung lời với Mẹ ngợi khen tạ ơn Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.
Đó là những lời tán tụng ngợi ca Thiên Chúa phát xuất từ sâu thẳm lòng Mẹ trong ngày thăm viếng người chị họ Isave.
Những lời ngợi ca đó nói lên tất cả tâm hồn của Mẹ. Đó là toát lược cả cuộc đời Mẹ, cả chương trình sống của Mẹ, là con đường tu đức của Mẹ: mãi mãi là người nữ tỳ khiêm tốn, luôn phó thác hoàn toàn trong tay Chúa toàn năng và nhân hậu, hằng dâng lời ngợi khen tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh cuộc sống.
Những lời ca ngợi Magnificat nói lên hết ý nghĩa và tâm tình của Mẹ đối với Thiên Chúa toàn năng và yêu thương.
Mẹ cảm thấy thân phận tôi tớ hèn mọn nầy lại được cất nhắc cao trọng trong giây phút lên trời: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.
Mẹ cảm nghiệm được quyền năng và tình yêu vô biên của Chúa trong giây phút Chúa hiển dương Mẹ về trời: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả...Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người”.
Ngày lễ hôm nay, Giáo hội mừng kính một tạo vật đầu tiên, Mẹ Maria đã được khải hoàn và bước vào quê hương thiên quốc. Thánh Kinh ca tụng Mẹ: “Kìa bà nào xuất hiện như rạng đông, diễm kiều như vầng nguyệt, lộng lẫy tựa thái dương, oai hùng như đạo binh chỉnh tề hàng ngũ” (Dc 6,10); “Có một điềm lớn xuất hiện trên trời: một Phụ nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp vầng trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12,1)…
Mẹ “Như một vầng trăng tuyệt vời, muôn ngàn tia sáng lung linh chốn thiên cung”. Mẹ là người đi đầu cho ta được tiếp bước. Mẹ như người đi trước cho ta được theo sau. Mẹ là người đi mau cho ta được níu kéo dắt dìu.Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu sống như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ được đưa về trời là khuôn mẫu cho niềm hy vọng: yêu trung thành hôm nay sẽ được dẫn tới bến bờ yêu thương tinh ròng vĩnh phúc. “Mẹ Lên Trời là hình ảnh và khởi thủy của Giáo hội về ơn cứu chuộc của Thiên Chúa cho mọi người chúng ta. Mẹ chiếu sáng như dấu chỉ lòng trông cậy vững vàng và niềm an ủi cho dân Chúa đang lữ hành” (LG số 69).
“Cuộc Lên Trời của Đức Trinh Nữ rất thánh là sự tham dự độc nhất vô nhị vào sự Phục sinh của Con mình và là việc thể hiện trước sự phục sinh của các Kitô hữu khác” (GLCG, số 966). Mẹ Lên Trời, trong hạnh phúc tuyệt vời, Mẹ trở nên gần gũi với mọi thành viên trong gia đình nhân loại. “Trong Hội Thánh, Đức Trinh Nữ diễm phúc được kêu cầu bằng các tước hiệu là Trạng Sư, Đấng Cứu Giúp, Đấng Phù Hộ, Đấng Trung Gian” (GLCG số 969).Trong cuộc hành hương nội tâm hay lữ hành nơi dương thế, chúng ta tin rằng, có Mẹ Maria luôn cầu bầu che chở; với niềm hy vọng sẽ được về trời với Mẹ, chúng ta nhìn lên Mẹ như mẫu gương của lòng cậy trông, tin yêu phó thác nơi lòng thương xót Chúa.
Hôm nay mừng Mẹ Lên Trời.
Ngày mai đến lượt mỗi người chúng ta.
41. Phận hèn cao trọng
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Lên trời là niềm hy vọng lớn nhất và là hoài bão cuối cùng của những người tin vào Đức Giêsu Kitô. Lên trời không là chuyện viễn vông như chú Cuội lên cung trăng, cũng không chỉ là “tham quan” mặt trăng, là “khám phá” sao Hỏa, một hành tinh nào đó, hoặc khám phá “lỗ đen” trong vũ trụ. Lên trời là để sống đời trường sinh và đồng hưởng thiên phúc với Thiên Chúa, sau khi thân xác chúng ta được sống lại.
Mừng lễ Đức Mẹ lên trời cả hồn và xác là nhắc nhớ chúng ta về niềm xác tín: “Tôi tin xác loài người ta sẽ sống lại” (Kinh Tin Kính). Niềm tin này được củng cố bằng tín điều Đức Mẹ mông triệu. Ngày 1-11-1950, ĐGH Piô XII ban hành Thông điệp “Munificentissimus Deus” (Thiên Chúa Quảng Đại), long trọng định tín Mẹ Maria linh hồn và xác lên trời là một tín điều buộc mọi người phải tin.
Đại lược thông điệp bất hủ này là: “Sau khi chúc tụng lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa đã yêu thương quan phòng làm êm dịu những khổ đau, đem lại niềm an vui cho các dân tộc, Đức Thánh Cha nêu cao sự kiện ơn Chúa thương, dù giữa thời buổi nhiều người sai lạc chân lý và nhân đức, vẫn có nhiều cách biểu lộ đức tin, lòng sùng mến Mẹ Maria và những con cái Mẹ vẫn được khuyến khích chiêm niệm những đặc ân của Mẹ. Thật vậy, từ muôn đời, Thiên Chúa đã đặc biệt yêu thương Mẹ và rồi ban cho Mẹ dạt dào những đặc ân mà Giáo hội nhận biết và khám phá ra. Nhưng thời đại của chúng ta đã được dành riêng để chiêm ngưỡng đặc ân Đức Mẹ hồn xác lên trời”.
Nói đến việc “lên trời” là ngụ ý sự chết, liên quan Ngày Cánh Chung. Có chết rồi mới sống lại và lên trời. Mà muốn làm công dân Nước Trời thì phải sống trọn vẹn các Giới Răn của Thiên Chúa một cách ngoan cường và anh dũng. Đó là điều chắc chắn!
MẶC KHẢI
Đền Thờ Thiên Chúa ở trên trời mở ra, và rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: “Một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao” (Kh 12,1). Thật uy nghi và vinh hiển, nhưng cũng đầy gian khổ: “Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con” (Kh 12,2). Đó là điều chắc chắn, vì không có vinh quang nào lại không có đau khổ. Chính Đức Kitô cũng đã chịu đau khổ tột cùng rồi mới phục sinh vinh thắng.
Lại có điềm khác xuất hiện trên trời: “Một Con Mãng Xà đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà” (Kh 12,3-4). Nhưng “người con trai này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân” (Kh 12,5a). Sau đó, “Con bà được đưa ngay lên Thiên Chúa, lên tận ngai của Người” (Kh 12,5b), còn “người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc”, nơi mà “Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày” (Kh 12,6). Khi đó, Thánh Gioan nghe có tiếng hô to trên trời: “Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Kitô của Người giờ đây cũng biểu dương quyền bính, vì kẻ tố cáo anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài” (Kh 12,10). Đó chính là Giờ Cứu Độ, là khoảnh khắc cuối cùng, là buổi cánh chung, là ngày tận thế, là lúc Chúa Giêsu giáng lâm.
Cựu ước cũng đã tiên tri về Đức Mẹ: “Hoàng hậu đứng bên hữu Đức Vua, mặc đồ trang điểm vàng ròng lộng lẫy” [Tv 44 (45),10]. Có lời ca vang: “Tôn nương hỡi, xin hãy nghe nào, đưa mắt nhìn và hãy lắng tai, quên dân tộc, quên đi nhà thân phụ” [Tv 44 (45),11]. Một khi đã có Thiên Chúa rồi, được diện kiến Thánh Nhan, thì người ta vô cùng hạnh phúc, thế nên không còn cần gì khác nữa: “Người là Chúa của bà” [Tv 44 (45),12]. Và người đó thể hiện niềm hạnh phúc tuyệt vời cùng những người khác:“Lòng hoan hỷ, đoàn người tiến bước, vẻ tưng bừng, vào tận hoàng cung” [Tv 44 (45),16].
ỨNG NGHIỆM
Thiên Chúa của người sống chứ không phải của người chết. Thánh Phaolô xác định: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1 Cr 15,20). Tại sao? Vì “nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại” (1 Cr 15,21). Thánh Phaolô giải thích: “Như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha” (1 Cr 15,22-24). Thật vậy, Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người: Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết (1 Cr 15,25), nghĩa là Thiên Chúa đã đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Theo Thánh Phaolô, khi nói muôn loài thì dĩ nhiên không kể Đấng đặt muôn loài dưới chân Đức Kitô. Vì “lúc muôn loài đã quy phục Đức Kitô, thì chính Người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy phục Người; và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15,28). Lý luận của Hiền triết Phaolô thật là mạch lạc và tuyệt vời!
Thánh sử Luca kể: Hồi ấy, cô Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa, vào nhà ông Dacaria và chào hỏi chị Êlisabét. Chị Êlisabét vừa nghe tiếng cô em Maria chào thì đứa con trong bụng nhảy lên, và chị Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần, liền nói: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” (Lc 1,42). Rồi chị Êlisabét nói tiếp: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,43-45).
Vấn đề là đức tin, mà phải tin vững vàng chứ không thể mơ hồ. Đức Mẹ diễm phúc nhờ đức tin kiên vững. Điều này nhắc chúng ta phải xem lại đức tin của chính mình!
Nghe chị Êlisabét “khen” vậy, Đức Maria hân hoan dâng lời ca ngợi Chúa mà y như thơ vậy (Lc 1,46-55):
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới;
Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!
Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
Vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Ápraham và cho con cháu đến muôn đời.
Những lời Đức Mẹ nói chứa đầy sự khiêm nhường, lòng tín thác và lòng yêu thương. Đó cũng là lời kinh Magnificat mà Giáo hội vẫn dùng để cầu nguyện hằng ngày, đặc biệt trong giờ kinh Thần vụ (kinh Nhật tụng).
Thánh sử Luca kể: “Đức Maria ở lại với bà Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà” (Lc 1,56). Đức Mẹ không chỉ đi thăm chị họ theo phép xã giao mà còn là để “báo tin mừng”, nhất là để phục vụ bà chị đang mang thai bé Gioan Tẩy giả. Đức Mẹ là một nữ-tu-không-áo-dòng, không đi tu ngày nào, cũng chưa một lần tiên khấn, đơn khấn hoặc vĩnh khấn, nhưng Đức Mẹ đã anh dũng và kiên cường sống trọn vẹn ba lời khấn: Thanh tuân, thanh bần, và thanh khiết. Trên cả tuyệt vời. Một tấm gương chói ngời mà mọi người đều phải “soi” vào.
Lạy Chúa, chúng con tạ ơn Ngài đã ban cho chúng con một người Mẹ Thánh tuyệt vời. Xin thương giúp chúng con biết khiêm nhường phục vụ và “xin vâng” như Mẹ trong mọi hoàn cảnh, để chúng con chắc chắn được cùng Mẹ vui hưởng phúc trường sinh. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Con Yêu Dấu của Mẹ, Sư Phụ và Đại Huynh Trưởng của chúng con. Amen.
42. Đường về
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Mười lăm tháng Tám mừng vui
Chúa cho Đức Mẹ về trời vinh quang
Niềm hy vọng thật rõ ràng
Chúng nhân sẽ được hưởng chung Nước Trời
Đức Mẹ là một thụ tạo nhưng được Thiên Chúa cho về trời cả hồn và xác mà không phải đi qua ngưỡng cái chết, gọi là “mông triệu” (*). Đó là một đặc ân vì Mẹ vô nhiễm nguyên tội, hoàn hảo các nhân đức, và mau mắn xin vâng Thánh ý Chúa Cha. Đức Mẹ về trời là ấn tín bảo đảm cho những người tin vào Đức Kitô cũng sẽ được sống lại và lên trời sau khi hoàn tất chuyến lữ hành trần gian. Lên trời là về Quê Hương Vĩnh Hằng, mục đích của mỗi Kitô hữu là như vậy.
Thánh Gioan kể lại thị kiến, y như một đoạn phim dài đầy kịch tính và nhiều tình tiết: “Đền thờ Thiên Chúa trên trời đã mở ra. Rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao. Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con. Lại có điềm khác xuất hiện trên trời: đó là một Con Mãng Xà, đỏ như lửa, có bảy đầu và mười sừng, trên bảy đầu đều có vương miện. Đuôi nó quét hết một phần ba các ngôi sao trên trời mà quăng xuống đất. Rồi Con Mãng Xà đứng chực sẵn trước mặt người Phụ Nữ sắp sinh con, để khi bà sinh xong là nó nuốt ngay con bà. Bà đã sinh được một người con, một người con trai, người con này sẽ dùng trượng sắt mà chăn dắt muôn dân. Con bà được đưa ngay lên Thiên Chúa, lên tận ngai của Người. Còn người Phụ Nữ thì trốn vào sa mạc; tại đó Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, trong vòng một ngàn hai trăm sáu mươi ngày” (Kh 11:19a, 12:1-6).
Thị kiến kỳ lạ ấy ám chỉ Đức Mẹ. Thánh Gioan cho biết thêm: “Tôi nghe có tiếng hô to trên trời: Thiên Chúa chúng ta thờ giờ đây ban ơn cứu độ, giờ đây biểu dương uy lực với vương quyền, và Đức Kitô của Người giờ đây cũng biểu dương quyền bính, vì kẻ tố cáo anh em của ta, ngày đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nay bị tống ra ngoài” (Kh 12:10). Thị kiến này cũng khiến chúng ta phải cẩn trọng hơn về đức ái, nhất là trong cách đối xử với tha nhân hằng ngày.
Ngay cả Hồi giáo cũng tôn trọng Đức Mẹ, coi Đức Mẹ là phụ nữ cao cả nhất trong Kinh Koran (Kinh thánh của Hồi giáo). Công giáo có nhiều danh xưng dành cho Đức Mẹ: Nữ vương Hòa bình, Đức Maria Trinh Vương, Đức Mẹ Phù hộ các Giáo hữu, Đức Mẹ Ban Ơn Lành, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Đức Mẹ Mân Côi, Đức Mẹ Thương Xót, Đức Mẹ Vô Nhiễm, Đức Mẹ Hoa Hồng,... và Đức Mẹ còn gắn liền với các địa danh trên khắp thế giới, riêng Việt nam cũng có Đức Mẹ La Vang, Đức Mẹ Giang Sơn, Đức Mẹ Mằng Lăng, Đức Mẹ Sao Biển, Đức Mẹ Trà Kiệu,...
Tác giả Thánh vịnh đã từng ca tụng: “Hàng cung nữ, có những vì công chúa, bên hữu ngài, hoàng hậu sánh vai, trang điểm vàng Ô-phia lộng lẫy. Tôn nương hỡi, xin hãy nghe nào, đưa mắt nhìn và hãy lắng tai, quên dân tộc, quên đi nhà thân phụ. Sắc nước hương trời, Quân Vương sủng ái, hãy vào phục lạy: Người là Chúa của bà” (Tv 45:10-12). Chắc hẳn phàm ngôn không thể đủ để diễn tả về Đức Mẹ cho xứng đáng, chúng ta chỉ biết dùng những ngôn từ nào cao trọng nhất để tôn xưng Đức Mẹ mà thôi.
Tất cả phàm nhân đều phải bước qua ngưỡng-cửa-sự-chết theo quy luật sinh-tử, vì ai trong chúng ta cũng từng phạm tội nhiều. Nhưng chết không là hết, mà là biến đổi, như Thánh Phanxicô Assisi xác định: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. Chết đi để được sống lại. Chính Đức Kitô cũng đã chết và phục sinh để bảo đảm về chuyện đời sau. Chết là trực tiếp gặp Thiên Chúa, gặp Đức Kitô, và cũng gặp Đức Mẹ nữa.
Niềm hy vọng của Kitô hữu thật lớn lao và tuyệt vời, nhưng Thánh Phaolô nói: “Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người” (1 Cr 15:19). Niềm hy vọng của chúng ta không hề như vậy. Thánh Phaolô giải thích: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống” (1 Cr 15:20-22).
Ai cũng lần lượt ra đi, kẻ trước người sau, như lá rụng về cội, dù lá xanh hay lá vàng, như Thánh Phaolô giải thích thêm: “Mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha” (1 Cr 15:23-24). Tất cả đều xảy ra đúng theo trật tự Thiên Chúa đã ấn định, như chúng ta thường nói là Thiên Chúa an bài. Chúng ta không thể hiểu thấu, nhưng sự thật là vậy: “Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết” (1 Cr 15:25-26).
Đức Kitô dùng thập giá để chiến thắng tất cả, và cũng chính trên thập giá, Ngài đã tiêu diệt sự thù ghét (x. Ep 2:16) để minh chứng tình yêu vô biên và sâu thẳm của Thiên Chúa, tức là Lòng Chúa Thương Xót, điều mà không ai trong chúng ta khả dĩ hiểu thấu.
Thánh sử Luca kể…
Hồi ấy, Cô em Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. Cô vào nhà Anh Dacaria và chào hỏi Chị Êlisabét. Chị Êlisabét vừa nghe tiếng Dì Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và Chị Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1:42-45).
Đây là cuộc gặp lịch sử. Một người là mẹ Thiên Chúa, còn một người là Mẹ của Vị Tiền Hô Gioan. Thấy Em họ Maria đến, Chị Êlisabét vui mừng thốt lên những lời đầy Thần Khí. Sau đó, Đức Maria cũng quá đỗi vui mừng và dâng lời Kinh Ngợi Khen (Magnificat, Lc 1:46-55), y như một bài thơ vậy:
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới;
Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả,
Danh Người thật chí thánh chí tôn!
Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
Người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
Như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
Vì Người nhớ lại lòng thương xót
Dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời.
Kinh thánh cho biết rằng Đức Maria ở lại với Chị Êlisabét độ ba tháng, rồi mới trở về nhà. Đức Mẹ đã chứng tỏ lòng yêu thương với tha nhân khi vội vã đi thăm Chị Êlisabét, đồng thời lại muốn chứng tỏ tình yêu thương đó qua việc ở lại giúp đỡ người chị đang mang thai trong ba tháng đầu của thai kỳ.
Trong Mầu nhiệm Mân Côi mùa Mừng, mầu nhiệm thứ tư: Đức Chúa Trời cho Đức Mẹ lên trời. Xin cho con được chết lành trong tay Đức Mẹ. Mầu nhiệm thứ năm: Đức Chúa Trời thưởng Đức Mẹ trên trời. Xin cho con được thưởng cùng Đức Mẹ trên Nước Thiên Đàng. Hai mầu nhiệm này không chỉ nhắc nhở chúng ta cầu nguyện với Đức Mẹ, mà còn hy vọng được trường sinh để cùng Đức Mẹ mãi mãi chúc tụng Thiên Chúa. Đường về dù xa hay gần, đường đi có thể gập ghềnh nhiều nỗi, nhưng có Đức Mẹ đồng hành thì chúng ta cứ an tâm tiến bước.
Lạy Thiên Chúa, xin cho chúng con biết “ái mộ những sự trên trời”, quyết tâm hành động vì Nước Trời, dám khước từ trần gian để ưu tiên mọi sự vì Nước Trời, nhờ đó mà chúng con xứng đáng trở thành công dân Nước Trời vĩnh hằng. Lạy Mẹ, xin đồng hành và nâng đỡ chúng con luôn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
***
(*) “Mông triệu” có gốc từ chữ Hán, được rút gọn từ 4 chữ “mông chủ (chúa) sủng triệu”, những từ ngữ thường được nghe trong các phim lịch sử của Trung Hoa. “Mông” là “chịu” hoặc “được”, “triệu” là “gọi” (triệu tập, hiệu triệu). “Mông triệu” có nghĩa là “được sủng ái” (yêu mến) nên được Chủ (Chúa) gọi (về trời), Anh ngữ dùng thuật ngữ “dormition” nghĩa là “ngủ”, tức là “chết mà như ngủ”.
43. Tình Mẹ còn mãi
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một bài hát dân ca về mẹ mà có lẽ trong chúng ta chẳng mấy ai không biết đến:
“Vườn rau, vườn rau xanh ngắt một màu,
“Có đàn, có đàn gà con nương náu,
“Mẹ quê, mẹ quê vất vả sớm chiều,
“Nuôi đàn, nuôi một đàn con chắt chiu…” (nhạc Phạm Duy)
Bài hát diễn tả hình ảnh người Mẹ nơi những vùng thôn quê trên khắp mọi miền đất nước. Nơi thôn quê, bà mẹ ngoài công việc đồng ruộng, có khi còn chịu khó kiếm thêm thu nhập bằng buôn gánh bán bưng. Có bà chiều chiều gióng gánh trên vai đi dạo từ đầu làng đến cuối xóm, để mua lại buồng chuối, dăm trái mãng cầu, vài trái mít… sáng mai ra chợ bán kiếm ít đồng lời. Có bà cũng gióng gánh đi mua lúa, mua gạo để bán lại làm “hàng xáo”!
Trên ruộng đồng, có lúc rau trái dư thừa như ngọn bầu, rau lang, cà pháo, cà dừa, ớt cay…bà Mẹ cũng chịu khó thu gom đem ra chợ bán, mặc dù biết chẳng được bao nhiêu.
Tất cả những điều đó như thể hiện tấm lòng người mẹ. Một người mẹ luôn hy sinh cho con, luôn lo cho con, ngay cả khi con cái đã lớn khôn tung cánh vào đời, mẹ vẫn mong được chăm sóc cho con:
Biết chiều nay con về thứ bảy
Gánh rau xanh mẹ hái nhiều hơn
Chợ huyện cách xa, ngày đông tê tái
Bước chân gầy vẫn bám chặt đường hơn.
Với mẹ, không đứa con nào là lớn cả, dù có làm đến ông nầy bà nọ, vẫn luôn cần đến những lời an ủi chia sẻ hay đơn thuần chỉ là bóng dáng còm cõi theo năm tháng của mẹ hiền. Mẹ luôn bênh vực che chở cho con. Tình thương của mẹ dành cho con luôn bất tử, mãi mãi theo con, cho dù:
“Nếu ngày mai trên đường đời vấp ngã
Con hãy gọi hai tiếng MẸ YÊU!
Mẹ đi xa, nhưng mẹ vẫn bên cạnh.
Linh hồn này, mẹ vẫn mãi theo con”.
Cuộc đời người tín hữu chúng ta cũng có một người mẹ yêu thương, chăm sóc chúng ta. Một người mẹ luôn theo chúng ta suốt đời. Mẹ đi bên cạnh cuộc đời chúng ta không chỉ là linh hồn mà còn cả thân xác Mẹ, đó chính là Đức Trinh Nữ Maria.
Mẹ Maria đã được Chúa đưa cả hồn và xác về trời. Mẹ Maria không chết. Tình Mẹ vẫn mãi mãi thiên thu ở bên đoàn con suốt cuộc đời. Thế nhưng, niềm vui và hạnh phúc chỉ ngập tràn trong cuộc đời chúng ta nếu chúng ta ý thức Mẹ vẫn đang sống bên cạnh chúng ta. Chúng ta đang từng phút giây tận hưởng tình thương và sự chăm sóc vỗ về của Mẹ, nhưng thật bất hạnh nếu chúng ta chỉ sống như người mồ côi, thì có lẽ chúng ta cũng chỉ ngậm ngùi như người Phật Tử nhận lấy bông hồng trắng trong ngày của mẹ với lời ai oán: “Mất mẹ là mất cả bầu trời” thương yêu.
Thế nhưng, biết bao người Công giáo đã sống như những người mồ côi Mẹ. Vì rất nhiều người đã không cầu nguyện cùng Mẹ. Rất nhiều người đã đẩy mẹ ra khỏi cuộc đời mình. Chỉ cần một câu kính mừng, chúng ta ca tụng mẹ là Đấng đầy ân phước để rồi từ đó chúng ta xin Mẹ gìn giữ chúng ta khỏi mọi hiểm nguy trong cuộc đời. Nhiều người cho rằng không có giờ cầu nguyện, nhưng họ quên rằng, tâm lý của các bà mẹ chỉ cần con còn cần đến mẹ thì bà sẵn sàng làm tất cả cho con.
Hôm nay lễ mẹ hồn xác lên trời, thiết tưởng đây là niềm vui cho cuộc đời chúng ta, vì chúng ta có một người Mẹ bất tử, một người Mẹ ở trên thiên quốc luôn sẵn lòng ban ơn cho con cái khi chúng kêu xin. Một người Mẹ đã đi qua biết bao thăng trầm của dòng đời để có thể hiểu hết những khó khăn của con người. Mẹ đã hiểu và chắc chắn Mẹ sẽ chia sẻ với những khó khăn trong cuộc đời chúng ta. Vì thế, với lòng hân hoan chúng ta cùng mượn tâm tình của bài hát “Bông Hồng Cài Áo” của Phạm Thế Mỹ để thưa với Mẹ:
Rồi một chiều nào đó con về nhìn Mẹ yêu, nhìn thật lâu
Rồi nói, nói với Mẹ rằng "Mẹ ơi, Mẹ ơi, Mẹ có biết hay không?"
- Biết gì? "Biết là, biết là con thương Mẹ không?"
Nguyện xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho mỗi người chúng ta luôn được hồn an xác mạnh, ơn thánh dư đầy để phụng sự Chúa trong mọi người như Mẹ. Amen.
44. Mẹ Lên Trời
Ngày 1.11.1950 Đức Thánh Cha Piô XII đã long trọng công bố tín điều Đức Mẹ hồn xác lên trời như sau:"Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đức Maria Vô nhiêm trọn đời đồng trinh, sau khi đã đi trọn cuộc đời trần thế, được triệu vời cả hồn lẫn xác trong vinh quang thiên quốc”. Đặc ân hồn xác lên trời vừa như hoa trái vinh quang của trọn vẹn cuộc đời hoàn toàn thuộc về Chúa, vừa là kết thúc và bao gồm mọi đặc ân Thiên Chúa đã ban cho Mẹ Maria. Khi tuyên dương công trạng đầy tràn của Mẹ Maria bầng việc triệu vời Mẹ về trời, Thiên Chúa đã biểu dương chính hồng ân Chúa ban cho Mẹ. Và như vậy Thiên Chúa muốn đề cao Mẹ Maria như thành quả tuyệt vời có một không hai của ân sung, dể mọi người ở mọi thời ngợi khen Mẹ diễm phúc, và nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng chí thánh chí tôn đã làm cho Mẹ biết bao điều cao cả.
1. “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?"
Bà Êlisabét được đầy tràn Thánh Thần đã lớn tiếng tuyên xưng thiên chức Thánh Mẫu của Mẹ Maria. Thiên chức Thánh Mẫu cao cả giờ đây đang bày tỏ ra nơi chính con người thiếu nữ Maria bằng xương bằng thịt, bình thường, giản dị và khiêm nhường thẳm sâu. Chỉ bằng việc có mặt khi đến thăm và chỉ bằng một lời chào đơn sơ của Đức Maria, bà Êlisabét lại nhận ra thiên chức Thánh Mẫu của Mẹ. Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa bằng cả hồn cả xác của mình.
1.1 Mẹ Thiên Chúa bằng tâm hồn
Trong khi Chúa Giêsu đang giảng thì có một người phụ nữ đã lên tiếng nói với Chúa: "Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm (Lc 11,27). Thuộc giới phụ nữ và trong tư cách làm mẹ. người phụ nữ ở đây cảm phục và yêu mến Chúa Giêsu bao nhiêu, thì lại muốn đề cao và hết lòng ca ngợi hồng phúc của người mẹ đã sinh ra Chúa bấy nhiêu. Đó là cái nhìn thường tình. Nhưng Chúa Giêsu cho thấy cần phải vượt lên trên quan niệm tự nhiên mới có thể đánh giá được hồng phúc làm Mẹ của Đức Maria, và hồng phúc đó trước hết và cốt yếu là ở trong tâm hồn: "Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa".
Một lần kia Mẹ Maria và anh em họ hàng đến thăm Chúa Giêsu và khi nghe biết thế, Chúa Giêsu đã đề cao Mẹ Maria trong chiều sâu thẳm của thiên chức Thánh Mẫu: "Mẹ tôi và anh em tôi, chinh là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,2) Như vậy căn bản thiên chức Thánh Mẫu của Đức Maria, không chỉ do ngài được làm Mẹ Đức Giêsu - Thiên Chúa làm người - tại tâm hồn của Mẹ đã hoàn toàn mở ra cho lời Chúa, và lời Chúa thành sự sống và lẽ sống của Mẹ. Mẹ Maria đã cưu mang lời Chúa trong tâm hồn trước khi cưu mang Lời trong thân xác. Thán Augustinô còn nhận định tư cách môn đệ nơi Đức Maria (Mẹ trong tâm hồn) trổi vượt hơn tư cách làm mẹ nơi Đức Maria (Mẹ trong thân xác).
1.2. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa
Khi Lời Thiên Chúa đã đi vào và thấm nhuần trọn vẹn tâm hồn Đức Maria tới mức sung mãn, thì Lời Thiên Chúa đi vào trong thân xác vô nhiễm của Đức Maria. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa theo một nghĩa trọn vẹn (cả hồn xác.). “Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, và đã làm người” Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa bằng con người toàn diện, cả hồn lẫn xác. Có nghĩa là hồn xác Mẹ vốn đã thuộc về Chúa, dành riêng cho một mình Chúa. Và như vậy thân xác Mẹ không phải hư nát là dấu thuộc về trần gian cát bụi. Mẹ xứng đáng lên trời cả hồn xác. Đó là điều đã được tiền định do ý định khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa khi tuyển chọn Mẹ làm Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể.
2. "Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới"
Trong ngày Truyền tin, Đức Maria đã thưa lời xin vâng với Thiên Chúa, một lời xin vâng toàn vẹn và tuyệt hảo, bao gồm cả quả khứ hiện tại và tương lai. Mẹ đã không ngừng “xin vâng” với mọi lời Thiên Chúa đến với Mẹ từ trước đến nay. Và giờ đây tiếng xin vâng thết ra ngoài miệng là âm vang và kết quả của tâm hồn Mẹ đã hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa. "Tôi đây là nữ tỳ của Chúa" là một lời xác định rằng: từ trước đến nay và mãi mãi sau này, tôi là nữ tỳ của Chúa, hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa. Hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa cả hồn xác trong mọi lúc, là một cách giải thích đặc ân Vô nhiễm nguyên tội và trọn đời đồng trinh của Mẹ Maria.
2.1 Mẹ Maria Vô Nhiễm nguyên tội
Vô nhiễm nguyên tội là không mắc tội nguyên tổ. Có nghĩa là ngay từ giây phút đầu tiên thụ thai trong lòng thân mẫu, con người (hồn xác) của Mẹ hoàn toàn đóng kín, không một kẻ hở nào cho tội lỗi và cho tất cả những gì thuộc trần gian đã bị tội lỗi làm hư thối. Mẹ cũng hoàn toàn đóng kín với chính bản thân của mình, cái "tôi" của mình. Đóng kín với tất cả, để Mẹ có thể trọn vẹn mở ra cho Thiên Chúa và chỉ một mình Thiên Chúa mà thôi. Đó là đặc ân Vô Nhiễm của Mẹ Maria. Với đặc ân này, Mẹ Maria dù vẫn sống cuộc đời trần thế của một con người, Mẹ có thể qui hướng tất cả và trọn vẹn từng chi tiết của bản thân và từng giây phút của đời sống về cho Chúa. Nói cách khác, đặc ân Vô Nhiễm ban cho Mẹ Maria có khả năng không ngừng thuộc về Chúa cả hồn lẫn xác. Mẹ xứng đáng lên trời cả hồn xác để mãi mãi thuộc về Chúa.
2.2 Mẹ Maria trọn đời đồng trinh
Hội Thánh tuyên xưng Mẹ Maria trọn đời đồng trinh trước khi, đang khi và sau khi sinh Chúa Giêsu. Và Phụng Vụ đã giải thích như sau: "Khi Người giáng sinh, đức đồng trinh của Thánh Mẫu đã không vì thế mà bị tổn thương, nhưng đã được thánh hiến" (Lời nguyện tiến lễ, lễ chung Đức Mẹ). Đức đồng trinh của Mẹ rất thánh không thể được nhìn theo thường tình mà phải được nhìn theo đức tin, nghĩa là như ý định nhiệm mầu và khôn ngoan của Thiên Chúa. Thiên Chúa ban cho Mẹ ơn đồng trinh trọn đời có mục đích là để con người toàn vẹn của Mẹ, cả hồn cả xác, hoàn toàn thuộc về Chúa, không sứt mẻ, không biến chất, trái tại luôn luôn nguyên tuyền và mãi mãi toàn vẹn. Do đó khi Con Một Thiên Chúa được thụ thai và được sinh ra bởi Mẹ, thì không những không làm tổn thương hồn xác nguyên tuyền cua Mẹ, mà trái tại còn làm cho hồn xác thuộc về Chúa hơn nữa. Thuộc về Chúa trọn vẹn hồn xác nguyên tuyền và suốt cả cuộc đời từng giây từng phút như vậy, nên việc Mẹ được Chúa đưa lên trời cả hồn cả xác là kết quả đương nhiên và hợp tình hợp lý.
Kết luận
Con đường Thánh Mẫu Maria Vô Nhiễm trọn đời đồng trinh đã đi để được lên trời cả hồn cả xác, là con đường Tin Mừng đã ghi tại: “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” và "Riêng Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng (Lc 2,9-5). Mẹ hằng đón nhận Lời Chúa, ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng, cho tới khi Lời Chúa thành máu thịt, thành hơi thở, thành sự sống cho mình. Và lúc đó hồn xác Mẹ được thánh hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa, thuộc về Chúa từ trong ra ngoài, từ đầu đến chân.
Con đường đưa lên trời cả hồn cả xác của Mẹ Maria được mở ra cho mọi người như Tin Mừng đã ghi tại. Tất cả mọi tín hữu đều được mời gọi đi con đường Mẹ Maria đã đi, để đến nơi Mẹ đã đến.
45. Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời
Dẫn vào Thánh lễ và sám hối
Hôm nay, Giáo Hội tôn vinh người nữ tỳ khiêm tốn làng Nazareth, qua người nữ này mà trần thế nhận được ơn cứu độ. Chúng ta hân hoan vì Mẹ Maria được thông phần vinh quang của Con Mẹ trên thiên quốc. Từ trời cao, Mẹ hằng dõi theo chúng ta. Giờ đây, chúng ta hãy hướng về Chúa, Đấng mà Mẹ Maria đã nói là Người giàu tình yêu và thương xót.
Lạy Chúa Giêsu, lòng thương xót Chúa trải qua từ đời này đến đời kia.
Chúa ban dư đầy những điều thiện hảo cho người khiêm nhường.
Chúa nâng dậy những người hèn mọn biết đặt trọn niềm tin vào Chúa.
Dẫn vào các bài đọc
Bài đọc 1: Kh 11,19a; 12,1-6a.10ab
Mô tả trận chiến giữa Thiên Chúa và sự dữ, với chiến thắng cuối cùng thuộc về Thiên Chúa. Đức Maria và Con của Mẹ là trung tâm điểm của cuộc chiến đấu.
Bài đọc 2: 1 Cr 15,20-26
Chúa Kitô là Adam mới, Đấng xoá bỏ những thiệt hại do Adam cũ gây nên. (Giáo Hội nhìn Đức Maria như Eva mới, Đấng huỷ bỏ những thiệt hại do Eva cũ gây nên).
Tin Mừng: Lc 1,39-56
Đức Maria viếng thăm bà Elizabeth, Mẹ đã cất tiếng hát ngợi khen Thiên Chúa vì muôn điều thiện hảo Người đã ban xuống trên Mẹ và trên dân Người tuyển chọn.
CHÚ GIẢI CÁC BÀI ĐỌC
Bài đọc 1: Sách Khải Huyền mô tả trận chiến cuối cùng giữa Thiên Chúa và sự dữ, hình ảnh tượng trưng là con mãng xà (con rắn của sách Sáng Thế). Người nữ tượng trưng cho Giáo Hội, và con trẻ tượng trưng cho Đức Kitô (Đấng Mêsia). Như người nữ trong thị kiến, Giáo Hội phải trải qua đau khổ và bách hại. Những vần thơ cuối trong bài đọc một, ca ngợi chiến thắng của Thiên Chúa và Đức Kitô.
Là Mẹ của Đấng Cứu Thế, Đức Maria là trung tâm của trận chiến giữa Thiên Chúa và những quyền lực sự dữ, mà bài đọc trích sách Khải Huyền nói đến. Cho nên, thật hoàn toàn phù hợp khi Mẹ cùng được thông phần vinh quang chiến thắng (qua biến cố Mẹ lên trời).
Bài đọc trích sách Khải Huyền rất có ý nghĩa trong việc khích lệ các Kitô hữu tiên khởi, những người đang trải qua đau khổ và bị bách hại lúc bấy giờ. Bài đọc cũng khẳng định chắc chắn rằng cuối cùng Thiên Chúa sẽ chiến thắng. Điều này cũng sẽ khích lệ chúng ta. Thiên Chúa dành cho Mẹ Maria một sự quan tâm đặc biệt. Người cũng sẽ quan tâm, chăm sóc chúng ta. Người không tránh cho ta khỏi phải chạm trán với sự dữ, nhưng Người sẽ giúp chúng ta vượt thắng được chúng.
Bài đọc 2: Chúa Giêsu là Adam mới, Đấng mà qua sự vâng phục của Người, đã phục hồi cho chúng ta những ân sủng đã bị lấy đi bởi sự bất tuân phục của Adam thứ nhất. Giáo Hội nhìn thấy nơi Đức Maria như Evà mới, Đấng mà qua sự vâng phục của Mẹ trước Thiên Chúa, đã xóa bỏ những thiệt hại đã gây nên bởi sự bất tuân phục của Eva thứ nhất.
Trong ngày Truyền tin, Mẹ đã nói: "Việc ấy xảy ra cách nào (…). Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,34a.38). Mẹ đã đón nhận công việc mà Chúa giao phó cho Mẹ. Ngay cả khi Mẹ không thể nào thấu hiểu hết những ẩn ý trong đó, Mẹ vẫn cứ tin rằng Thiên Chúa sẽ ban cho những sự trợ giúp cần thiết.
Ngày hôm nay, biết bao người đang tìm kiếm sự thành toàn và hạnh phúc qua việc "thực hiện chính mình". Họ tin rằng hạnh phúc hệ tại ở chỗ không bị ràng buộc, cam kết, không phải chịu trách nhiệm về điều gì cả. Đức Maria là một mẫu gương tuyệt hảo cho chúng ta, bởi vì cuộc sống áp đặt trên ta hàng loạt những bổn phận, bổn phận với chính mình, với người khác và với Thiên Chúa. Những ai biết đón nhận bổn phận như Đức Maria đã làm, có thể sẽ không tìm thấy hạnh phúc và sự thành toàn trong cái nhìn trần thế, nhưng trong cái nhìn của Thiên Chúa thì họ thực sự đã đạt được.
Bài Tin Mừng: Sau biến cố Truyền Tin, Mẹ có quyền nghỉ ngơi và tập trung lo cho chính mình. Thế mà thay vào đó, Mẹ đã vội vã lên đường thăm bà chị họ mình là Elizabeth, người cũng đang chờ đợi sự chào đời của đứa con. Cuộc viếng thăm của Mẹ là một nghĩa cử quý báu đối với Elizabeth. Nhưng Mẹ cũng nhận lại được lợi ích từ cuộc viếng thăm này. Đây cũng là điều thường tình trong mọi cuộc viếng thăm. Khi chúng ta đến thăm ai, chúng ta cho rằng bản thân mình đã làm một việc tốt cho người đó. Điều đó đúng. Nhưng chính chúng ta cũng được lợi, ít là chúng ta học được nơi người khác cách thức đối phó với những tình huống khó khăn như thế nào.
Elizabeth dùng những từ ngữ tốt đẹp để khẳng định với Maria: "Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em" (Lc 1,45). Đề tài những ai tin được chúc lành là đề tài trung tâm của Tin Mừng.
Tuy nhiên, vấn đề không đơn giản chỉ là tin mà thôi, nhưng là phải tin và sống theo niềm tin ấy. Đức Maria được chúc phúc, không đơn giản vì Mẹ đã tin, nhưng vì Mẹ đã hành động theo đức tin. Niềm tin tôn giáo nơi Mẹ không phải chỉ là vấn đề tình cảm. Đó là điều đã được biến đổi để trở thành hành động.
Đức tin không luôn luôn đưa đến những sự dễ dãi. Thường thì ngược lại. Đức tin buộc chúng ta phải chiến đấu, mà không bảo đảm rằng có kết quả hạnh phúc. Một người sống đức tin sẽ không bao giờ thoái lui.
Đức Maria là môn đệ đầu tiên và hoàn hảo nhất của Chúa Giêsu. Điều này giải thích tại sao Giáo Hội đề cử Mẹ như mẫu gương cho mọi người chúng ta và tại sao chúng ta lại tôn vinh Mẹ trong thánh lễ hôm nay. Chúng ta cũng sẽ được chúc phúc như Đức Maria, nếu chúng ta lắng nghe Lời Chúa và thực hành lời Người.
46. Trận chiến chống lại sự dữ
Sách Khải Huyền mô tả trận chiến cuối cùng giữa Thiên Chúa và sự dữ. Hình ảnh con mãng xà tượng trưng cho quyền lực của sự dữ (con rắn trong sách Sáng Thế). Người nữ tượng trưng cho Giáo Hội, và con trẻ tượng trưng cho Đức Kitô (Đấng Mêsia).
Người phụ nữ đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con, hình ảnh thông thường của quá trình hình thành một thế hệ mới. Con mãng xà tiến đến người phụ nữ với ý định nuốt ngay con của bà. Nhưng con bà được đưa ngay lên cho Thiên Chúa, ám chỉ sự lên trời của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đánh bại con mãng xà và đã ngự trị bên hữu Thiên Chúa. Trong khi đó, người phụ nữ (Giáo Hội) trốn vào trong sa mạc, nơi đó Thiên Chúa đã dọn sẵn cho bà một chỗ ở, để bà được nuôi dưỡng ở đó, giống như dân Israel thuở xưa. Những vần thơ cuối là lời ca ngợi chiến thắng của Thiên Chúa và của Đức Kitô.
Khi thị kiến này được viết ra, như người phụ nữ trong thị kiến, Giáo Hội đang trải qua đau khổ và bị bách hại, và phải đi vào trong hoang mạc để trốn thoát. Bài đọc có ý nghĩa khích lệ các Kitô hữu tiên khởi bằng lời xác quyết rằng Thiên Chúa cuối cùng sẽ chiến thắng. Điều đó cũng khích lệ chúng ta ngày hôm nay.
Mặc dù "người phụ nữ" chủ yếu tượng trưng cho Giáo Hội, nhưng luôn được liên kết với Đức Maria. Là Mẹ của Đấng Mêsia, Mẹ là trung tâm của cuộc chiến giữa Thiên Chúa và quyền lực của sự dữ. Bởi thế, thật hoàn toàn thích hợp khi Mẹ thông phần trong chiến thắng của Con Mẹ (qua biến cố Mẹ lên trời).
Hình ảnh chứa đựng trong sách Khải Huyền không phải là một hình ảnh xinh đẹp. Thật sự, ý tưởng con mãng xà mười sừng bảy đầu đang chực sẵn trước người phụ nữ, để khi bà sinh con xong, nó sẽ nuốt lấy đứa trẻ, cũng thật khủng khiếp. Chúng ta phải nhớ rằng cảnh tượng mô tả ở đây mang tính biểu tượng cao. Nó diễn tả điềm báo trước đầy kịch tính trong sách Sáng Thế, mối thù được đặt giữa con rắn và người phụ nữ. Người phụ nữ đã bị lôi cuốn vào cuộc chiến với những quyền lực sự dữ, biểu tượng là con mãng xà. Nhưng với sức mạnh của Thiên Chúa, người phụ nữ đã chiến thắng.
Hầu hết các bức tượng chân dung về Đức Maria đều diễn tả hình ảnh Mẹ Maria như một nữ sinh xinh xắn dịu dàng, Đấng dường như không hề động đến thế lực của sự dữ trần gian; tiếng kêu la từ xa thẳm phát ra nơi người phụ nữ đang đối đầu với con mãng xà và đã chiến thắng. Dù sao hình ảnh thứ hai mới miêu tả được sự thật quan trọng nơi Đức Maria. Đức Maria phải đối đầu với con mãng xà. Mẹ đã phải trải qua cơn đau đớn của người phụ nữ sinh con. Chẳng bao lâu sau khi sinh con, Mẹ phải lẩn trốn sang Ai cập bởi vì bạo chúa Hêrôđê muốn tìm giết Con Mẹ. Tâm hồn Mẹ như bị lưỡi đòng đâm thâu với những đau khổ trên đồi Canvê khi chứng kiến sự sống Con Mẹ đang bị lấy đi. Đây là câu chuyện về Đức Maria được thuật lại trong Tin Mừng.
Như Đức Kitô là Adam thứ hai, thì Đức Mẹ cũng được xem là Eva thứ hai. Nhưng không như Eva thứ nhất, Mẹ đã hằng vâng phục Thiên Chúa. Bởi thế, Mẹ là ngọn hải đăng hy vọng cho chúng ta, bởi vì Mẹ thoát khỏi nanh vuốt của mãng xà và đã được đưa về trời. Vai trò trung gian của Mẹ cho chúng ta niềm tin tưởng. Gương mẫu của Mẹ mang đến cho chúng ta can đảm và sức mạnh để tiếp tục chiến đấu.
Có rất nhiều nỗi đau, thống khổ và bạo lực trên thế giới. Tất cả chúng ta đều bị tổn thương bởi chúng. Và chúng ta cũng phải chiến đấu chống lại tội lỗi. Và rồi sự dữ lớn nhất cuối cùng mà chúng ta phải đánh bại đó là sự chết.
Như Chúa Giêsu, Đức Maria thu phục những bạo lực, biến đổi nó, để chuyển đổi thành tình yêu và tha thứ. Đây là chiến thắng của tình yêu vượt trên mọi quyền lực huỷ diệt. Không có gì ngoài tình yêu nơi Mẹ Maria. Hãy sống tràn đầy tình yêu khi chúng ta đang trải qua những giai đoạn khó khăn.
47. Đức Maria Đồng Trinh, Hồn Xác Lên Trời
Kinh Thánh im lặng về những ngày sau hết của cuộc đời Mẹ Chúa. Sau lời trối Chúa Giêsu trao Mẹ cho Gioan thì “từ giờ đó, môn đệ này đã lãnh nhận Mẹ Chúa về nhà mình (Ga 19,27). Sách Công vụ nói đến việc “Maria, Mẹ Chúa Giêsu cùng với các môn đệ đồng tâm nhất trí cầu nguyện” (Cv 1,11) để nhận lãnh Chúa Thánh Thần.
Chúa Giêsu về trời, Mẹ cũng rút vào âm thầm cầu nguyện và suy niệm những kỷ niệm đã ghi trong lòng” (Lc 2,51). Mẹ không còn xuất hiện, để các tông đồ lãnh nhận sứ mệnh của mình trước mặt thế gian như Chúa đã truyền: “Các con sẽ chịu lấy quyền năng của Chúa Thánh Thần rồi sẽ đi làm chứng cho Thầy” (Cv 1,8). Nhưng Mẹ vẫn hiện diện giữa cộng đoàn tông đồ để khích lệ tinh thần và đồng thời cũng giúp lời cầu nguyện cho các Ngài, vì Mẹ bao giờ cũng coi mình như là “nữ tỳ Thiên Chúa”.
Mẹ về sống ở Ephesô với thánh Gioan, sau khi thánh Giacôbê bị vua Hêrôdê giết vào năm 42 vì Giêrusalem không còn là nơi an toàn nữa. Theo lời truyền khẩu, Ngài đã qua đời vào khoảng năm 54, hưởng thọ 72 tuổi. Cái chết của Mẹ Chúa là cuộc vuợt qua để về với Chúa. “Đức Trinh Nữ Maria được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác và được Thiên Chúa tôn làm nữ vương vũ trụ để nên giống Con Ngài trọn vẹn hơn” (GH 59).
Niềm tin Đức Trinh Nữ Maria hồn xác lên trời đã có từ lâu đời. Từ thế kỷ VI, người ta đã mừng lễ này với danh hiệu lễ Đức Mẹ ngủ. Đến ngày 1 tháng 11 năm 1950, Đức Piô XII đã long trọng tuyên bố tín điều Đức Maria Đồng Trinh hồn xác về trời. Diễn biến sự kiện này như sau:
Khoảng từ năm 1849 đến năm 1940, Tòa Thánh đã nhận được 1505 thỉnh nguyện tự phát xin định tín việc Mẹ hồn xác lên trời. Ngay trong Công đồng Vaticanô I, gần 200 nghị phụ cũng xin định tín. Sau thế chiến thứ II, từ năm 1945 đến năm 1950, do lần nữa 852 thỉnh nguyện được gửi tới Đức Thánh Cha do các giám mục, các bề trên dòng, các đại học Công giáo. Các nhà thần học của 30 quốc gia cũng đã gửi các thỉnh nguyện tập thể. Ngày 1 tháng 5 năm 1946, Đức Piô XV đã gửi cho mọi giám mục một lá thư, xin các ngài trả lời cho câu hỏi sau đây:
“Theo sự khôn ngoan chín chắn của Đức Cha, Đức Cha có ý kiến gì cho việc Đức Maria hồn xác lên trời được đề ra và xác quyết như một tín điều hay không? Đức Cha với hàng giáo sĩ và dân chúng có muốn điều đó hay không?”
Đã có 1191 thư trả lời, trong đó 1169 thư ưng thuận, 16 thư nghi ngại về tính cách hợp thời của việc tuyên bố tín điều, 6 thư đưa những vấn nạn ngược lại. Tất cả giám mục của 17 Giáo Hội Đông phương hợp nhất với Tòa Thánh Roma trả lời ưng thuận. Ngày 30 tháng 10 năm 1950, đã có một hội nghị công khai với 700 vị trong hàng giáo phẩm tham dự. Đức Thánh Cha Piô XII lại hỏi ý kiến. Tất cả mọi vị đều trả lời ưng thuận. Như thế là đã có một sư đồng ý theo luận lý của mọi giám mục. Sự đồng ý này là một bày tỏ rõ ràng của giáo huấn thông thường. Do sự đồng ý này của quyền giáo huấn hợp với tín điều Công giáo.
Ngày 1 tháng 11 năm 1950, Đức Piô XII trong sắc lệnh công bố tín điều, đã nhắc lại những sự kiện trên. Chúng ta chung một niềm tin với Giáo Hội vì:
- Đã có một liên hệ mật thiết giữa hồn xác lên trời với sự thụ thai vô nhiễm và muôn đời đồng trinh của Đức Maria. Vậy Mẹ đã toàn thắng tội lỗi và đáng được lên trời hồn xác.
- Việc lên trời hồn xác của Mẹ cũng liên hệ với chức vụ làm Mẹ Thiên Chúa. Mẹ đã không bao giờ làm hư hại sự toàn vẹn xác thể nên xác thân mẹ không thề hư hoại.
- Sau nữa, Mẹ đã được cứu chuộc hoàn toàn, nên hiệu qủa của ơn cứu rỗi là sự tôn vinh của con Mẹ cũng được hưởng (Rm 8,29-30; 2Cr 5,2-5).
“Lễ Mông Triệu, ngày 15 tháng, ngày Maria đầy ơn Chúa, đầy hạnh phúc, hồn vô nhiễm và xác trinh trong của Mẹ được vinh hiển, ngày Mẹ được giống Chúa phục sinh cách hoàn toàn nhất. Lễ này làm cho Giáo Hội và nhân loại thấy được hình ảnh của hy vọng cuối cùng của chúng ta, là tất cả những ai được Chúa Kitô, một anh em Người thông phần máu thịt với Người sẽ được hoàn toàn vinh quang” (Dt 2,14) (Marialis Cultus).
48. Kinh Kính Mừng
Vào năm 1917 Đức Mẹ đã hiện ra với ba trẻ nhỏ ở Fatima nước Bồ Đào Nha. Lucia 10 tuổi, Jacinta 7 tuổi và Phaxico 9 tuổi. Khi các em đang chăn cừu, một luồng sáng chói chiếu trên nền trời; bỗng nhiên Đức Mẹ hiện ra và nói với các em: “Ta từ trời đến”. Từ tháng năm đến tháng mười, Đức Mẹ hiện ra với các em 6 lần, lần hiện ra cuối cùng có phép lạ mặt trời nhảy múa và thánh gia thất hiện ra, trong nhân tính của Chúa ban phép lành cho đám đông. Đức Mẹ mặc áo choàng núi Camelô, hàng ngàn người đã chứng kiến phép lạ và chứng thực sự kiện xảy ra.
Dù bạn tin hay không tin sư kiện Fatima. Bạn hãy chú ý đến những gì em Jacinta làm trong những năm sau đó. Em lên núi và đọc kinh “Kính Mừng”, em ngừng lại từng chữ. Em đọc “Kính Mừng” rồi đợi một tiếng dội lại từ vách núi, chậm rãi và kính cẩn em đọc Kính Mừng Maria một cách say sưa.
Em bé đó được nhận ra, cũng vậy bạn và tôi phải ý thức rằng: những lời Kính Mừng Maria được đem từ trời xuống, phần đầu, “Kính mừng Maria đầy ơn phúc” do sứ thần nói với Maria: Người sẽ làm Mẹ Thiên Chúa, phần nhì “Bà có phúc lạ hơn mọi người phụ nữ và con lòng bà gồm phúc lạ” là lời của Bà Elisabeth được linh ứng từ trời trong bài Tin Mừng hôm nay, phần cuối cùng do Giáo hội của Chúa thêm vào cũng với nghĩa được đem xuống từ trời, như khi Đức Mẹ hiện ra ngày 19.8.1917, Mẹ nói với ba em ở Fatima: “Hãy cầu nguyện cho kẻ có tội”.
“Khi nay và trong giờ lâm tử” rất phù hợp với ngày lễ Đức Mẹ lên trời, nghĩa là vào cuối cuộc đời, Đức Mẹ được rước về trời cả hồn lẫn xác. Chúa Giêsu không muốn để Mẹ thanh sạch của Người phải chịu cảnh hư nát trong mồ. Đó là chân lý vinh quang sáng ngời chúng ta mừng lễ hôm nay.
Cùng với Đức Mẹ, chúng ta vui mừng, chúng ta muốn nói với Người rằng: chúng ta vui mừng, chúng ta muốn nói với Người bằng ngôn ngữ của Người, nhưng tốt hơn vẫn là những lời trong kinh Kính Mừng, những lời từ trời đem xuống. Như Sacinta, chúng ta muốn đọc từng lời với tình mến yêu và kính cẩn. Chúng ta mong được nghe từng tiếng dội từ trời.
Đức Maria lên trời là mầu nhiệm thứ tư mùa mừng của chuỗi Môi khôi. Đức Maria thăm viếng trong câu chuyện bài Tin Mừng hôm nay là mầu nhiệm thứ hai năm sự vui. Sau thánh lễ hôm nay, chúng ta đọc to kinh kính mừng trong chuỗi Môi khôi để kính nhớ hai biến cố vui mừng và vinh hiển trong cuộc đời Chúa Giêsu và mẹ Người.
Lời kinh chúng ta sẽ dội lại từ bàn thờ, nơi đây có Chúa ở cùng chúng ta, nơi dây quả phúc của lòng Đức Mẹ lại càng tái sinh. Nơi đây chúng ta xin được ở trên thiên đàng với mẹ Thiên Chúa. Nơi đây chúng ta cử hành nghi lễ cầu nguyện giải cứu chúng ta là những kẻ tội lỗi. Nơi đây chúng ta nghĩ đến sự chết của chúng ta khi chúng ta cử hành sự chết của con Đức Maria, Chúa chúng ta, Đấng cứu độ chúng ta. Xin Mẹ Thiên Chúa giúp chúng ta cử hành hy lễ của con Mẹ với tất cả những gì chúng ta có.
Xin Chúa chúc lành bạn. Amen.
49. Tôi chỉ yêu người
William Lyon Phelps là một nhà phê bình văn học nổi tiếng, một giáo sư Anh văn tại đại học Yale từ năm 1901 đến 1933. Những tác phẩm của ông đã hình thành khuynh hướng văn chương Mỹ lúc bấy giờ. Dưới đây là điều ông viết về lễ Đức Mẹ lên trời. Lễ chúng ta mừng hôm nay.
Dù tôi không phải là một người công giáo, tôi luôn luôn dự lễ tại một nhà thờ công giáo trong ngày lễ Đức Mẹ lên trời. Từ năm 1928 nhà thờ công giáo gần nhất ở cảng Custin tiển bang Michigan cách chỗ tôi ở chừng 12 km. Tôi nhớ nhà thờ này mỗi năm trong ngày ấy để tôn kính Đức Mẹ. Nên nhớ rằng: người công giáo không thờ Đức Trinh Nữ. Họ thờ một mình Thiên Chúa nhưng tôn kính Đức Maria và cầu khẩn với Người.
Đây là một người không Công giáo, một giáo sư học vấn cao tại một đại học quan trọng, một nhà văn đáng kính, một nhà phê bình văn học đã bầy tỏ lòng trìu mến Đức Trinh nữ trong ngày lễ lên trời vinh hiển này. Ông viết trên một cột báo được nhiều người đọc, người có tín ngưõng cũng như không tín ngưỡng. Ong Phelps thích ý tưởng Đức Mẹ cất nhắc lên trời. Tôi thích ý tưởng đó, bạn cũng vậy, nhiều người không công giáo cũng vậy, họ yêu mến, ngưỡng mộ Mẹ Thiên Chúa.
Rất nhiều người công giáo, vâng, và không công giáo họ có thể biết rất ít hay không biết gì về thần học liên can đến đức Maria, nhưng họ khâm phục và yêu mến Người.
Hơn nữa, ngoài mọi giáo huấn chính thức của Giáo hội Chúa Kitô, đối với Đức Maria là lòng mến yêu thâm sâu của chúng ta đối với người phụ nữ được lựa chọn trong các người phụ nữ để cho con của Thiên Chúa, Đấng cứu thế Giêsu bản tính của nhân loại.
Tôi có quyền yêu mến Người mặc dù tôi chưa hiểu người đầy đủ. Chúng ta có thể thích một người nào đó dù chúng ta không biết chắc và đầy đủ tại sao chúng ta thích họ. Tỷ dụ chúng ta thích một người phụ nữ, những phụ nữ khác chúng ta không thích. Dĩ nhiên chúng ta thích, thích người này hơn người khác. Một ít người chúng ta thích nhất, trong vài trường hợp, chúng ta thích hay yêu một người phụ nữ nào đó nhất. Tôi có quyền yêu Đức Mẹ Maria hơn tất cả.
Người là một nhân vật lịch sử. Người thực sự hiện hữu, Người được Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần yêu thương, Người được Chúa Giêsu, Con của Người cũng là Con của Thiên Chúa yêu thương.
Tôi yêu Người vì Chúa Giêsu yêu Người.
Những nhà thi sĩ nổi tiếng, các họa sĩ, nghệ sĩ yêu mến Người. Những người như William Phelps yêu mến Người. Họ ý thức rằng: đây là một phụ nữ trọn hảo, được chính Thiên Chúa làm cho trọn hảo.
Hôm nay, ngày lễ Mẹ lên trời, chúng ta nói với Mẹ: “Chúng con yêu Mẹ, không phải vì Mẹ được lên trời cả hồn và xác; nhưng vì chính Mẹ, Mẹ đáng yêu hơn mọi phụ nữ”
Xin Chúa chúc lành bạn.
50. Thông phần vào vinh quang của con Mẹ
Trong ngày lễ hôm nay, chúng ta kính nhớ việc Đức Maria hồn xác lên trời, nơi đó, Mẹ được thông phần trọn vẹn vào vinh quang của Chúa Giêsu Con Mẹ, Đấng đang ngự bên hữu Chúa Cha. Tất cả hồng ân nơi Mẹ đều đến từ mối tương quan của Mẹ với Chúa Giêsu. Chúng ta không thể hiểu được về Mẹ hoặc nhận định đúng về vai trò của Mẹ trong Giáo Hội, nếu không đặt nền tảng này trong tâm trí ta.
Có một câu chuyện kể về một người phụ nữ rất thích tranh vẽ, tên bà là Adrienne. Ngày nọ, trong một cửa hàng đồ cổ nhỏ bé nơi thôn dã, bà tiến đến một bức tranh nhỏ mà bà tin rằng đó là bức chân dung tự hoạ của một bậc thầy hoạ sĩ vĩ đại. Tự nhiên, bà cảm thấy vui sướng vì phát hiện này của mình. Ngay tức khắc, bà biết rằng rồi sẽ có nhiều rắc rối đến với bà.
Mang bức tranh về đến nhà, bà quét sạch những lớp bụi bám vào. Trong khi làm việc này, bà càng tin chắc rằng đó đích thật là bức tranh nguyên bản, mặc dù tự nhiên bà cũng có thoáng chút hoài nghi.
Nghĩ rằng bảo tàng viện quốc gia sẽ rất chú ý đến phát hiện này của bà, bà gửi những tấm ảnh chụp bức tranh đến các tác giả kiệt xuất về nghệ thuật trong nước. Thật quá đỗi ngạc nhiên đối với bà vì họ chẳng hề quan tâm, hầu hết các nhà chuyên môn chẳng chút bận tâm để đến xem bức tranh khi nó được triển lãm tại một phòng trưng bày công cộng. Giám đốc phòng triển lãm quốc gia tuyên bố chắc nịch rằng bức tranh đó không phải là nguyên bản.
Nhưng Adrienne không đầu hàng. Bà hết sức cố gắng có thể. Bà đem bức tranh đi kiểm chứng bằng tia X quang tại phòng thí nghiệm của cảnh sát, và dưới sự phân tích của tia X quang, tên viết tắt của bậc thầy hội hoạ hiện dần lên trên những lớp màu. Bà lập tức gửi ngay kết quả kiểm định cho một trong những nhà chuyên môn. Ông lịch sự bày tỏ sự quan tâm nhưng vẫn trung thành với nhận định trước đây: bức tranh này không phải là nguyên bản.
Bà tiếp tục nghiên cứu và đào sâu lịch sử, và đã phát hiện được những chứng cớ giúp xoá đi tất cả những nghi ngờ để khẳng định được là bà đúng. Cuối cùng, một buổi lễ long trọng đã diễn ra tại Viện hàn lâm nghệ thuật để ca ngợi bà. Nếu không có những nỗ lực, bền chí và lòng kiên định của bà, bức tranh sẽ không bao giờ được đưa ra ánh sáng.
Chúa Giêsu là chân dung tự hoạ của Thiên Chúa. Nhưng nhờ Đức Maria mà Người đã được hạ sinh giữa loài người chúng ta. Đức Maria đã chăm sóc nuôi nấng Người trong suốt những năm Người sống ẩn dật, không ai biết đến, và chẳng ai nhận ra được Người. Và cuối cùng, khi Người bước ra từ trong bóng mờ, để bắt đầu cuộc sống hoạt động công khai, Người cũng chẳng được toàn thể mọi người hoan hô đón nhận. Thực vậy, giới lãnh đạo tôn giáo từ chối tin vào Người. Nhưng Mẹ Maria vẫn hằng tin tưởng vào Người, giữ vững quan điểm về Người cho đến cùng.
Thiên Chúa đã cho Đức Giêsu chỗi dậy từ cõi chết, phục hồi vinh quang cho Người, "Thiên Chúa siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu" (Pl 2,9). Chúa Giêsu ngự bên hữu Thiên Chúa Cha. Thế nên, Đức Maria chẳng lẽ lại không thông phần với chiến thắng vinh quang của Con Mẹ sao. Thật chính đáng, điều mà chúng ta cử hành hôm nay, tán dương Mẹ Maria, cô thôn nữ khiêm nhường làng Nazareth.
Mỗi người chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa. Như trong tiệc cưới Cana, Đức Maria vẫn tiếp tục cầu thay nguyện giúp cho chúng ta. Mẹ vẫn giúp chúng ta trong cuộc chiến đấu giữa bản năng con người với phẩm giá thần linh, và để sống một cuộc đời phù hợp với phẩm giá cao cả ấy. Với sự trợ giúp của Mẹ, và với ân sủng của Thiên Chúa, chúng ta hy vọng được cùng thông phần vinh quang với Mẹ và với Con Mẹ trên Nước Trời.
51. Sum họp trên trời
Trong một vài thành phố nhỏ quanh thủ đô Rôma, nước Ý, vào ngày lễ Đức Mẹ Hồn xác lên trời, người ta có một tục lệ rất quyến rũ. Tục lệ đó được gọi là Incinata, nghĩa là cuộc rước đón chào. Dân làng kiệu tượng Đức Mẹ theo đường phố chính - Đức Mẹ đang trên đường về trời. Từ hướng đối diện, đoàn rước khác kiệu tượng Chúa Giêsu - Ngài đang tiến gần đến tượng Đức Mẹ. Hai đoàn rước gặp nhau dưới một khung vòm đầy cành lá và hoa rực rỡ. Hai tượng sắp đặt để cúi chào nhau ba lần. Rồi người ta kiệu hai tượng đi song song vào nhà thờ giáo xứ - Chúa chúng ta dẫn mẹ Ngài lên ngai trên trời.
Nghi thức đơn giản, ngây thơ này là một phương cách gây ấn tượng sâu sắc để diễn tả chân lý cao cả và vinh quang mà chúng ta cử hành hôm nay, tức là sự kiện Đức Maria, sau khi qua đời được đưa lên trời cả hồn lẫn xác.
Trở lại năm 457, Đức Giám mục của Giêrusalem đã bày tỏ niềm tin được truyền tụng từ các tông đồ: “Đức Maria qua đời có các tông đồ vây quanh, nhưng về sau khi mộ Ngài được mở ra thì hoàn tòan trống rỗng, và các tông đồ kết luận rằng xác Ngài đã được đưa lên trời”.
Chúa Giêsu không muốn Mẹ Ngài chịu một giây phút nào dưới quyền lực satan, nên Ngài đã ban cho Mẹ đặc ân vô nhiễm nguyên tội. Ngài đã không muốn thân xác tinh tuyền của Mẹ phải chịu mục nát, nên Ngài ban cho Mẹ đặc ân lên trời cả hồn và xác.
Chúa Giêsu vui mừng biết bao khi đón Mẹ Ngài vào nhà Ngài trên trời. Còn Đức Mẹ vui mừng biết bao, khi gặp lại Con trong thể xác; các thiên thần và các thánh trên trời vui mừng biết bao khi đón chào Nữ Vương, Mẹ mình. Chúa Cha trên trời vui mừng biết bao khi đón nhận người con sủng ái. Chúa Thánh Thần vui mừng biết bao khi gặp lại người Phụ nữ được tuyển chọn cộng tác vào việc đem con Thiên Chúa xuống trần gian. Thánh Giuse vui mừng biế bao khi có người bạn đời ở trần gian cùng ở trên trời.
Niềm hạnh phúc này của những người thân yêu gặp lại nhau là điều tất cả chúng ta có thể trông đợi. Trong ngày lễ Mông Triệu này, chúng ta có thể nhìn vào ngày chúng ta sẽ được lên trời, nơi chúng ta sẽ gặp những người thân yêu đã ra đi trước chúng ta. Chúng ta không thể suy tư về điều này cho đủ được.
Chúng ta có nhiều điều để suy nghĩ về sự chết. Vậy hãy suy nghĩ về chân lý vui mừng và hy vọng là một ngày kia chúng ta sẽ gặp lại. Chúng ta cần nắm giữ tư tưởng này trong ngày lễ vui mừng hôm nay.
Bạn hãy cầu nguyện hôm nay với nghĩa đặc biệt theo những lời của Kinh nguyện Thánh Thể II, “Xin cho chúng con được đồng hưởng sự sống đời đời cùng với Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa... và toàn thể các Thánh”. Bạn hãy đọc kinh Kính Mừng và chú ý đặc biệt lời: “Cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử”.
Tất cả chúng ta hãy chia sẻ niềm vui của Đức Mẹ được đón nhận vào Nhà Thiên Chúa với các bạn hữu của Thiên Chúa.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
52. Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời
(Suy niệm của Lm. Phêrô, CRM)
I. TIẾN TRÌNH TÍN ĐIỀU MẸ LÊN TRỜI
Theo hai cha Pohle và Scheeben, mấy thế kỷ đầu không có dấu tích gì về lòng tin Đức Mẹ Maria lên trời. Nhưng một cái quách (sarcophagus) đầu thế kỷ IV hiện ở nền nhà thờ Santa Engracia thành Saragossa (Tây Ban Nha) có bức chạm trổ hình Đức Mẹ lên trời. Và chứng tích của Thánh Epiphanô cho biết niềm tin Mẹ Maria bất tử và thân xác Mẹ vinh quang đã được truyền bá sâu rộng trong một ít giáo đoàn như Antiokia. Do xác tín và ngợi khen "Chức phẩm Thiên Mẫu" và "Đức Đồng trinh" của Mẹ là hai căn nguyên bước vinh quang của Người, Thánh Epiphanô mở đường cho lòng tin và sự xác quyết của các Thánh Giáo phụ, các Đức Giáo hoàng, các Giám mục, các nhà thần học và toàn thể Giáo hội.
A. Các Thánh Giáo phụ
Các Thánh Giáo phụ trong những thế kỷ đầu như các Thánh Môđestô, Basiliô, Giêrônimô, Augustinô, Germanô, Đamascenô, và Thêôđôrê Studium đồng thanh tung hô bước vinh quang của Mẹ Maria do chức phẩm Thiên Mẫu và đức Đồng trinh của Mẹ. Riêng Thánh Đamascênô nói: "Cần thiết rằng Con Thiên Chúa, khi sinh ra đã gìn giữ vẹn tuyền đức Trinh của Mẹ, thì phải gìn giữ Mẹ khi chết khỏi hư hoại. Đấng đã cưu mang Đấng Tạo Hoá cần được ở trong cung điện của Thiên Chúa. Mẹ Thiên Chúa cần phải có tất cả mọi điều thuộc về Con của Mẹ và cần được mọi thụ tạo tôn vinh".
B. Các Đức Giáo hoàng
- Đức Adrianô I và Đức Pascalê I có những đồ thờ trang trí bằng hình ảnh Mẹ lên trời.
- Đức Alexanđrô III nói: "Mẹ Maria thụ thai không bị xấu hổ, sinh con không bị đau đớn, từ trần không bị hư hoại trong mồ, vì theo lời Thiên thần, Mẹ đã được đầy ơn".
- Đức Thánh Piô V sửa đổi lại kinh Phụng vụ với bài đọc lễ Mẹ lên trời.
- Đức Bênêđictô XIV: Về ngày lễ Đức Mẹ lên trời, Giáo hội đọc các bài giảng của thánh Đamascenô và thánh Bênađô thấy rõ ràng Rất thánh Trinh Nữ lên trời cả hồn và xác: Đó là một dấu chỉ và một bằng chứng niềm tin của Giáo hội.
- Đức Piô XII nối tiếp các Đức tiền nhiệm về niềm tin đó. Trong Thông điệp "Corporis Mystici" ngày 29-6-1943, ngài viết: "Chúng ta hãy nài xin Mẹ rất thánh của mọi phần tử của Chúa Kitô mà Ta đã tín thác hiến dâng loài người cho Trái tim Mẹ. Ngày nay ở trên trời, thân xác và linh hồn Mẹ toả sáng trong vinh quang, hiển trị cùng với Con của Mẹ".
C. Các Đức Giám mục và toàn thể Giáo hội
Ngày 23-2-1870, 200 Giám mục của Công đồng Vatican I làm đơn thỉnh nguyện Đức Thánh Cha định tín Đức Mẹ hồn xác lên trời. Năm 1920, 260 Giám mục từ nhiều nước cũng hợp ý tâu xin, đầu tiên là các Giám mục nước Ý, nước Pháp, trong khi các Hội đồng Giám mục nước Đức, Áo, Anh, và Thụy Sĩ còn im lặng. Năm 1934, sau năm năm chiến dịch "Forge Italiane" ráo riết vận động, 600 Tổng Giám mục và Giám mục đã chấp thuận cuộc trưng cầu dân ý khắp thế giới tâu xin Toà thánh định tín.
Tại Pháp và Ý năm 1929, một hội cầu nguyện được thành lập để xin Chúa cho việc định tín được thành tựu. Đại hội Thánh Mẫu tại Nantes năm 1924 cũng bày tỏ nguyện vọng đó.
D. Các nhà thần học
Nối tiếp các Thánh Giáo phụ và Thẩm quyền của Giáo hội, các nhà thần học qua các thế kỷ cũng tích cực đồng tâm nhất trí về tín lý Mẹ Maria hồn xác lên trời:
Thế kỷ XII và XIII, có các Thánh Albertô, Bônaventura, Tôma, Fullertô và các nhà thần học Hugh St. Victor, Sicard Cremona, Durand Mende. Thế kỷ XV có Thánh Antôniô và nhà thần học Gabriel Biel. Thế kỷ XVI có các Thánh Canisiô, Bellarminô, các nhà thần học Suarez, Soto, Đức Hồng y De Berulle và cả trường phái Pháp. Thế kỷ XVII có các nhà thần học Billuart, Theophile Raynaud. Thế kỷ XVIII có Thánh Anphong, Đức Hồng y Lambertini (sau này là Đức Giáo hoàng Beneđictô XIV), các nhà thần học Sedlmayr, Trombelli. Thế kỷ XIX và XX có các nhà thần học Scheeben, Lannerz, Janssens, Lagrange, Jugie, Roschini, Balic, Bittremieux và Đức Hồng y Lépicier. Theo cha Deneffe, từ cha Scheeben có ít là 18 nhà thần học xác quyết rằng tín lý Mẹ hồn xác lên trời có thể định tín. Nhà thần học Sertillanges viết một câu rất dí dỏm về sự phục sinh của Mẹ: "Chúng tôi tin rằng đường lối mọi xác phàm phải ngoắt quay đi khi nói về Đức Trinh Nữ. Anh hùng ca của sâu bọ phải im bặt để chúng ta ca lên trên ngôi mộ này Hoan khúc Magnificat thay vì Ai khúc De profundis".
Như vậy, toàn thể Giáo hội cùng với các Thánh Giáo phụ, các Đức Giáo hoàng và các nhà thần học đều cùng một niềm tin Mẹ Maria lên trời cả hồn và xác. Do đó, cùng với nhà thần học Bainvel, dân Chúa tin tưởng tín lý Mẹ hồn xác lên trời mau chóng được định tín.
E. Chuẩn bị định tín
Ngày 1-5-1946, với Thông điệp "Deiparae Vir-ginis" gửi các Giám mục khắp Giáo hội, Đức Piô XII cho biết từ năm 1840 đến năm 1940 những đơn thỉnh nguyện tâu xin Toà thánh định tín Mẹ Maria hồn xác lên trời đã đóng thành hai cuốn sách. Những đơn thỉnh nguyện này do các Đức Hồng y, các Thượng phụ Giáo chủ, các Giám mục, đặc biệt 200 Nghị phụ Công đồng Vatican I, các linh mục, tu sĩ nam nữ, các trường Đại học, các đoàn thể và đông đảo giáo dân. Đức Thánh Cha xin các Đức Giám mục cho ngài biết lòng sùng kính Đức Mẹ lên trời của hàng giáo sĩ, giáo dân của giáo phận các ngài và xin các ngài theo sự khôn ngoan xét đoán thế nào về việc tuyên tín.
Ngày 30-10-1950, Đức Thánh Cha gửi tông thư cho Cơ mật viện, loan báo vào ngày mồng 1 tháng 11 năm 1950, một biến cố sẽ là niềm vui lớn lao cho toàn thế giới Công giáo. Đó là nhờ ơn soi động và sự trợ lực của Thiên Chúa, ngài sẽ tuyên tín Đức Mẹ hồn xác lên trời. Một tia sáng mới sẽ bừng sáng trên vầng trán của Mẹ mà từ xa xưa qua các thời đại, Giáo hội cùng với các Giáo phụ, tiến sĩ và các nhà thần học vẫn tin tưởng mộ mến và sùng kính Mẹ lên trời cả hồn xác. Đức Thánh Cha cũng hỏi ý kiến Cơ mật viện về việc ngài sẽ long trọng tuyên tín Mẹ hồn xác lên trời như một chân lý đã được Thiên Chúa mạc khải. Sau khi đã biết ý kiến tích cực đồng thuận, Đức Thánh Cha tỏ lòng hoan hỉ được các Hồng y, Giám mục đồng tâm nhất trí với ngài để chứng minh điều Giáo hội vẫn tin tưởng, mộ mến và giảng dạy.
G. Ban hành Thông điệp Munificentissimus Deus
Ngày mồng 1 tháng 11 năm 1950, Đức Piô XII ban hành Thông điệp "Munificentissimus Deus" long trọng định tín Mẹ Maria linh hồn và xác lên trời là một tín điều buộc mọi người phải tin. Đại lược thông điệp bất hủ này là: Sau khi chúc tụng lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa đã yêu thương quan phòng làm êm dịu những khổ đau, đem lại niềm an vui cho các dân tộc, Đức Thánh Cha nêu cao sự kiện ơn Chúa thương, dù giữa thời buổi nhiều người sai lạc chân lý và nhân đức, vẫn có nhiều cách biểu lộ đức tin, lòng sùng mến Mẹ Maria và những con cái Mẹ vẫn được khuyến khích chiêm niệm những đặc ân của Mẹ. Thật vậy, từ muôn đời, Thiên Chúa đã đặc biệt yêu thương Mẹ và rồi ban cho Mẹ dạt dào những đặc ân mà Giáo hội nhận biết và khám phá ra. Nhưng thời đại của chúng ta đã được dành riêng để chiêm ngưỡng đặc ân Mẹ hồn xác lên trời.
Sau đó, Đức Thánh Cha lược qua tiến trình tín lý này qua đức tin của Giáo hội, qua Phụng vụ, các Giáo phụ, các nhà thần học hằng tin tưởng Mẹ thụ thai, hạ sinh và nuôi dưỡng Chúa Kitô, thì sau cuộc đời này, Mẹ cũng được kết hợp với Chúa cả hồn và xác. Và Mẹ đã cùng với Chúa Kitô chiến thắng địch thù hoả ngục, thì Mẹ cũng được cùng với Chúa khải hoàn vinh quang.
Đức Thánh Cha cũng kể qua cuộc chuẩn bị của ngài. Và ngài hy vọng rằng việc ngài định tín sẽ đem lại lợi ích lớn lao cho thế giới quay về với Thiên Chúa Ba Ngôi, cho giáo dân thêm lòng sùng mến Mẹ hơn, hiểu biết giá trị đời sống con người và mục đích cao siêu của linh hồn và xác. Sau hết, đức tin vào Mẹ hồn xác lên trời sẽ làm thêm vững mạnh đức tin của chúng ta vào vinh phúc mai sau.
H. Định Tín
Tín điều Mẹ Maria đầu thai vô nhiễm do Đức Piô IX tuyên tín năm 1854 đã là một viên bích ngọc rực sáng trên triều thiên của Mẹ, và là một luồng sáng rọi chiếu vào tín lý Mẹ lên trời cả hồn xác đã loé sáng lên qua bao thế kỷ, để ngày nay bừng sáng lên thành tín điều thêm một viên hoàng ngọc trên triều thiên vinh quang của Mẹ. Do đó, Lễ Các Thánh ngày mồng 1 tháng 11 năm 1950, tại quảng trường Thánh Phêrô, Rôma, trước 40 Hồng y, 500 Tổng Giám mục và Giám mục, hàng trăm đại diện chính quyền các quốc gia, hàng ngàn linh mục tu sĩ nam nữ và hơn 700,000 dân chúng dưới bầu trời tươi sáng, Đức Piô XII sốt sắng cất tiếng trong máy vi âm ngân vang khắp quảng trường Thánh Phêrô, vọng vang vào đền thờ chật ních hơn 80,000 dân chúng, vang xa khắp hoàn cầu, vang lên tới cung trời cao thẳm những lời trịnh trọng tuyên tín: "Do uy quyền của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, của hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, và với thẩm quyền của Ta, Ta phán quyết, tuyên ngôn, và định tín là tín điều đã được mạc khải rằng: Đức Maria, Mẹ Vô nhiễm của Thiên Chúa trọn đời đồng trinh, sau cuộc sống trần gian này, đã được phúc vinh quang Thiên đàng cả hồn và xác. Nếu ai cả dám tự tình chối bỏ hay nghi ngờ điều Ta đã định tín, thì họ phải biết rằng họ hoàn toàn phản bội đức tin Công giáo của Thiên Chúa".
Đức Thánh Cha vừa dứt lời, thánh ca Te Deum do tất cả mọi người trong quảng trường Thánh Phêrô ca lên hùng tráng hoà nhịp với những tiếng chuông trầm hùng của đền Thánh Phêrô và của 400 đền thờ khắp thành Rôma như cùng với toàn thể thần thánh trên trời hân hoan reo mừng chúc tụng ngợi khen Mẹ vinh quang của Thiên Chúa, của Giáo hội và của toàn thể loài người.
II. LỊCH SỬ PHỤNG VỤ
Đầu tiên Giáo hội Đông phương thành lập lễ tôn vinh Mẹ Thiên Chúa tại Giêrusalem sau Công đồng Êphêsô năm 431, và gọi là "Ngày của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa". Năm 380, giáo đoàn Antiôkia, và đầu thế kỷ VI, Giáo hội Đông phương gọi là "Lễ Mẹ ly trần". Năm 600, hoàng đế Maurice ra sắc lệnh mừng lễ này khắp nước Byzantine. Khi quân Ba tư xâm chiếm Trung đông, các đan sĩ chạy sang Rôma năm 650 đem theo lễ này sang và đổi là "Lễ Mẹ lên trời" và mừng vào ngày 15 tháng 8. Rồi từ Rôma, lễ này được lan đến Milan và Tây Ban Nha. Đức thánh Sergiô I tổ chức một cuộc rước long trọng sùng kính Mẹ lên trời. Thế kỷ VIII lễ này lan sang Anh và Đức như Hội đồng Giám mục Áo tại Salzburg xác nhận, và sang Pháp do Hội đồng Giám mục Pháp tại Mayenne. Dần dần lễ này được lan tới tất cả các nước khắp thế giới.
Đức Lêô IV qui định lễ Mẹ lên trời có tuần tám ngày, và Đức Nicolas I cho biết từ lâu lễ Mẹ lên trời có lễ Vọng ngày áp.
Thế kỷ thứ XIII lễ Mẹ lên trời còn có ngày chay trước lễ và là lễ long trọng nhất các lễ Đức Mẹ. Thế kỷ XVI theo nhà thần học Suarez, lễ này đặc biệt hơn mọi lễ Đức Mẹ, vì bày tỏ cho chúng ta thấy vinh quang, phần thưởng và sự khải hoàn của Rất Thánh Trinh Nữ.
Thời Trung cổ, lễ Mẹ lên trời là ngày làm phép mùa màng và các hoa trái đầu mùa. Năm 1950, lễ Mẹ lên trời có tầm quan trọng trong khắp Giáo hội do Đức Piô XII định tín "Mẹ Maria lên trời cả hồn và xác" và qui định thành Lễ Trọng đặc biệt trong khắp Giáo hội với luật buộc mọi người tham dự Thánh lễ. Năm 1970, Phụng vụ qui định lễ Mẹ lên trời là một lễ Đức Mẹ duy nhất có lễ Vọng vào chiều ngày 14 trước chính ngày lễ 15 tháng 8.
III. Ý NGHĨA PHỤNG VỤ
1. Mẹ Maria hồn xác lên trời là biến cố sau cùng trong mầu nhiệm đời sống Đồng công Cứu chuộc của Mẹ đặc biệt liên đới với mầu nhiệm Nhập Thể Cứu thế của Chúa Giêsu, Con Mẹ.
2. Vì Mẹ đã chịu thai và hạ sinh Chúa Giêsu, thì sau khi về trời vinh quang, Chúa Giêsu cũng đưa Mẹ vào phúc vinh quang cùng với Người.
3. Mẹ đã cho thân xác Chúa sự sống nhân loại, thì đáp lại, Chúa cũng cho thân xác Mẹ sự sống trường sinh vinh quang.
4. Do đặc ân Vô nhiễm Nguyên tội, thân xác trinh trong của Mẹ được thoát án lệ của tội Nguyên tổ mà được sống lại và lên trời cùng với linh hồn trong sáng của Mẹ.
5. Biến cố Mẹ lên trời hồn xác hoàn thành sự thánh thiện và huân nghiệp của Mẹ, là niềm ủi an và hy vọng tràn trề của chúng ta, là khởi đầu và là hình ảnh Hội thánh sẽ được thành toàn trên Nước Trời.
6. Hồn xác Mẹ lên trời vinh quang được Chúa Ba Ngôi tôn phong làm Nữ Vương trời đất và làm Đấng Trung gian ban phát mọi ơn lành cho chúng ta.
7. Đặc ân Mẹ lên trời vinh quang chung qui mọi đặc ân của Mẹ và là cùng đích trót cuộc sống, sứ mạng và huân công của Mẹ. Lễ Mẹ lên trời vinh quang chung kết mọi lễ tôn vinh Mẹ, nên là một lễ trọng thể và là lễ luật buộc. Đặc ân Mẹ lên trời gồm nhiều điều kỳ diệu:
- Mẹ chết êm ái không chút đớn đau,
- Mẹ phục sinh không bị hư thối,
- Mẹ lên trời hiển vinh.
IV. Ý NGHĨA LỜI CHÚA TRONG THÁNH LỄ
Bài đọc I: Khải huyền 11:19; 12:1-6, 10
Tác giả sách Khải huyền mô tả cuộc tranh hùng giữa thiện và ác, giữa dòng dõi con Rồng hoả ngục và dòng dõi người nữ là Mẹ Maria. Mẹ được hình dung là một mỹ nữ mặc áo mặt trời như kiểu Thiên Chúa thường cho người phụ nữ ăn mặc (xem Kn 3:21; Mt 6:30) nghĩa là Thiên Chúa cho Mẹ mặc áo vinh quang tức là ánh sáng rực rỡ nhất là mặt trời. Mẹ chân đạp mặt trăng. Mặt trăng khi tròn khi khuyết tượng trưng sự đổi thay mà Mẹ không bị biến đổi theo thời gian, theo tứ thời bát tiết vì Mẹ làm chủ như đạp trên tất cả. Đầu Mẹ đội một triều thiên mười hai ngôi sao. Các ngôi sao ở trên trời cao (xem G 22:12) tức là Mẹ làm Nữ Vương số đông dân chúng đầy đủ như mười hai chi tộc Israel. Triều thiên tượng trưng sự vinh thắng của Mẹ. Tất cả điều lạ là hình ảnh Khám giao ước mà Thiên Chúa dùng để ở cùng dân Người, và Người ở trong đó như ở trong Đức Trinh Nữ Maria. Mỹ nữ đang mang thai và đã sinh một con trai. Con trai đây là Đức Kitô, là Đấng Thiên Sai mà Thánh vương Đavid đã tiên báo trong Thánh vịnh 2 và 110. Con Rồng lớn màu đỏ là sức mạnh của thần dữ không thể tiêu diệt Con Trai đó. Giáo hội đã trải qua biết bao thời kỳ đẫm máu, nhưng quỉ hỏa ngục cũng không phá nổi (Mt 16:18). Thiên Chúa sắp sẵn cho mỹ nữ một nơi trong sa mạc, nghĩa là Chúa đưa Giáo hội vào nơi gian nan thử thách (xem Đnl 8:2). Giáo hội gặp nhiều thử thách, nhưng Giáo hội vẫn đứng vững. Con trẻ được cất bổng lên ngai Thiên Chúa nghĩa là Chúa Kitô sẽ được phục sinh. Sau hết là bài ca chiến thắng: ơn Cứu độ, quyền năng và vương tước của Thiên Chúa đã toàn thắng và mọi uy quyền đều thuộc về Chúa Kitô.
Bài đọc II: 1 Côrintô 15:20-26
Cuộc chiến thắng thần dữ trong bài đọc này trở thành một chiến thắng thần chết. Sự sống lại của Chúa Kitô là mầm mống sự sống lại của chúng ta và là chân lý căn bản. Thiếu chân lý này, đức tin của chúng ta sẽ trở nên hão huyền (16-19). Chúa Kitô là hoa quả đầu mùa của mọi người đều phải chết. Hoa trái đầu mùa hiến dâng Thiên Chúa tượng trưng sự hiến thánh mùa màng cho Người (xem Đnl 26:1-11). Hoa trái đầu mùa còn là dấu hiệu bảo đảm mùa màng đầy đủ tức là sự phục sinh của chúng ta trong vinh quang. Sức mạnh thần dữ trong thế giới sẽ bị bại hoại và địch thù cuối cùng bị hủy diệt là thần chết. Cuộc chiến thắng thần chết chính là sự chiến thắng của Chúa Kitô phục sinh mà chúng ta sẽ được sống lại để cùng với Mẹ chia sẻ sự phục sinh của Người.
Phúc âm: Luca 1:39-56
Thánh truyện Mẹ Maria thăm viếng bà Elizabeth có nhiều điểm rất ý nghĩa cho lễ Đức Mẹ lên trời. Bà Elizabeth ca ngợi Mẹ Maria là diễm phúc hơn hết mọi phụ nữ, là vì bà nhận biết Mẹ là kẻ đã tin mọi điều Chúa truyền phán cho Mẹ sẽ thành hiện. Lời ca ngợi của bà Elizabeth cũng giống như lời ca khen của một phụ nữ: "Phúc cho lòng dạ cưu mang Ngài và vú Ngài đã bú" (Lc 11:27-28) mà Giáo hội trích đọc trong lễ vọng Mẹ lên trời.
Đáp lại lời ngợi khen, chúc phúc của bà Elizabeth, Mẹ Maria tuyên tụng Chúa Toàn Năng đã làm cho Mẹ những điều cao cả, là vì Chúa đoái nhìn đến phận hèn của nữ tỳ của Người. Do đó, Mẹ nhận biết từ đây mọi thế hệ sẽ khen Mẹ có phúc. Những điều cao cả nhất Chúa đã làm cho Mẹ là một điều chứng tỏ sự quan phòng của Người:
- Hiền ái đối với những kẻ kính sợ Người,
- Cho no phỉ những người nghèo đói,
- Làm tang tóc bè lũ trí lòng kiêu căng,
- Trung thành lời hứa với các tổ phụ.
Trong dịp thăm viếng bà Elizabeth, Đấng toàn năng đã làm nhiều điều trọng đại cho Mẹ.
53. Suy Niệm của Lm. Augustine, S.J.
Con đường về trời của người mẹ trìu mến
Chị giáo dân ấy tên là Huyền Tâm (Helga Schmidt). Hôm ấy chị đến hàng bách hóa mua quà Giáng Sinh cho một số người, mà lòng chị không được phấn khởi. Chị đã ghi một loạt tên những người chị cần mua quà tặng; đó là những người đã nói họ không cần ai tặng quà, nhưng chị biết rõ họ sẽ bị tổn thương nếu chị không mua gì cho họ.
Chị Huyền Tâm không mất nhiều giờ để chọn đồ, nhưng mất đến 20 phút chờ đến lượt trả tiền, để ra khỏi cửa tiệm! Chính ở khâu chót này, chị Huyền Tâm được dành cơ hội tặng một gói quà nhỏ mà giá trị của nó chắc không bao giờ chị quên được.
Số là có hai khách hàng nổi bật ở phía trưóc chị Huyền Tâm. Cậu con trai chừng năm tuổi, cô em gái nhỏ hơn ít là một tuổi, theo sau. Cậu bé mặc chiếc áo khoác rách rưới, đi đôi giày tennis rộng thùng thình thò ra ngoài hai ống quần gin (Jean) quá ngắn. Cậu bé ấy nắm chặt mấy đồng tiến nhàu nát trong lòng bàn tay cáu ghét. Còn cô bé với đầu bù xù một mớ tóc quăn bết lại, có gương mặt rõ ràng phản ánh sự thèm thuồng một bữa cơm tối.
Bé gái cầm trong tay một đôi dép mang trong nhà màu vàng sạch bóng. Khi khúc nhạc Giáng Sinh vang lên qua hệ thống âm thanh của cửa tiệm bách hoá, bé gái này cũng ấp úng hát theo, vẻ đầy hạnh phúc, mặc dầu lạc giọng.
Khi đến chỗ tính tiền, bé gái ấy cẩn thận đặt đôi dép lên quầy, làm như đó là một kho tàng quý báu rất đặc biệt.
Cô thư ký của tiệm xem hoá đơn và nói:
- Hết 6 đôla 9 xu.
Cậu bé liền đặt mấy tờ đô la nhàu nát lên chỗ để hàng, rồi lục lọi để kiếm thêm tiền nơi túi áo và quần. Sau cùng cậu bé chỉ có trong tay 3 đôla 12 xu, nên phải cáo lỗi cô thư ký:
- Chúng cháu xin để lại món hàng này tới khi khác, có lẽ ngày mai chúng cháu sẽ trở lại.
Nghe lời cáo lỗi đó, cô bé thất vọng khóc nức nở và nói:
- Nhưng Hài Nhi Giêsu thích những chiếc giày này.
Cậu bé liền dỗ em một mình với lời hứa:
- Em đừng khóc nữa, chúng ta sẽ trở lại mà!
Đó là lúc chị Huyền Tâm nhập cuộc một cách tự nhiên. Chị kể lại: "Tôi vội đưa cho cô thư ký ba đôla. Bỗng có hai cánh tay ôm chầm lấy tôi giọng nói yếu ớt:
- Cháu cám ơn bà.
Tôi hỏi cô bé:
- Cháu nói Chúa Giêsu thích những chiếc giày này, điều đó có nghĩa gì vậy?
Cậu bé liền trả lời thay em cậu, vẻ mặt đậm nét ưu tư:
- Mẹ chúng cháu bệnh và sắp về trời. Bố nói mẹ có thể ra đi trước lễ Giáng Sinh để ở với Chúa Hài Nhi.
Cô bé liền tiếp lời trong sự phấn khởi:
- Cô giáo dậy lớp giáo lý sáng Chúa Nhật nói rằng: những con đường lên trời lấp lánh vàng như chiếc giày này. Mẹ cháu sẽ chẳng rất xinh đẹp khi bước đi trên những con đường đó bằng những chiếc giày này sao?
Mắt tôi ngập lệ khi nhìn khuôn mặt cô bé có những vệt nước mắt. Tôi gật đầu vui vẻ đồng ý:
- Đã hẳn mẹ cháu rất đẹp rồi!
Tôi hết lòng tạ ơn Chúa vì đã dùng những đứa trẻ này dạy tôi nhiều điều liên quan tới con đường về trời của người mẹ trìu mến."
Câu chuyện vừa kể giúp đặt ta vào bối cảnh của lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Mỗi năm lễ này được cử hành là nhằm giúp các Kitô hữu thấy rõ mục đích đời mình, đồng thời nhờ ơn lành và lời cầu bầu của Mẹ Maria để đạt tới đích đó như sự thành tựu cuối cùng của đời ta. Riêng với chị giáo dân Huyền Tâm, câu chuyện đã dạy chị nhiều điều liên quan tới con đường về trời của người mẹ trìu mến.
Nhưng người mẹ trìu mến nào? Trong câu chuyện, đó là mẹ của hai đứa trẻ. Người mẹ đó đang trong tình trạng gần đất xa trời. Nhưng người bố đã cắt nghĩa cho hai con ông biết mẹ chúng có thể ra đi trước lễ Giáng Sinh để ở với Chúa Hài Nhi. Mọi sự đều ra khác nhờ ánh sáng của việc lên trời để ở với Chúa Giêsu.
Trong Kinh Thánh và trong truyền thống giáo lý của Giáo Hội, sự sống đời đời trong hiệp thông với Thiên Chúa, được mô tả bằng những hình ảnh, như tiệc cưới nơi thiên quốc, sự sống, ánh sáng và bình an. "Lên trời" là một hình ảnh gợi ý về sự thành tựu của con người và về tình trạng hạnh phúc trọn đầy nhờ hiệp thông cách vĩnh viễn với Thiên Chúa. Đó chính là thiên đàng mà mọi Kitô hữu đều nhắm tới như mục đích đời mình.
Lên Trời để ở với Chúa Giêsu
Thiên Đàng cũng được hiểu theo giáo lý, đó là cuộc hiệp thông tròn đầy giữa chư thánh mà Đức Giêsu đã kết hợp lại và đưa về trời. Tất cả những gì Thiên Chúa đã thực hiện mà tạo thành và trong lịch sử đều trở nên suối nguồn của niềm vui bất tận do sự hy sinh lớn lao mà Chúa Giêsu dành cho mỗi người.
Giáo lý cũng dạy ta rằng: Đức Maria kết hợp với Chúa Kitô, đó là nền tảng của vai trò của Mẹ đối với Hội Thánh (964). "Sự liên kết giữa Mẹ và Con trong công cuộc cứu độ được tỏ rõ từ khi Đức Maria thụ thai Chúa Kitô cách trinh khiết. Cho đến khi Chúa Kitô chết, đặc biệt trong cuộc khổ nạn.
Đức Trinh Nữ tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin, trung thành hiệp nhất với Con cho đến bên Thập Giá, là nơi theo ý Thiên Chúa, Mẹ đã đứng ở đó. Đức Maria chịu đau khổ kinh khủng với Người Con duy nhất của mình, dự phần vào hy lễ của Con, với tâm tình của người mẹ ưng thuận hiến dâng lễ vật do lòng mình sinh ra, để cuối cùng khi hấp hối trên Thập Giá, Chúa Giêsu đã trối Mẹ làm mẹ các môn đệ: "Thưa Bà, này là con Bà" (Ga 19,26-27) (LG 58)
Sau khi Chúa Giêsu lên trời, Mẹ Maria đã trợ giúp Hội Thánh sơ khai bằng lời cầu nguyện của mình. Cùng với các tông đồ và vài phụ nữ, "Đức Maria tha thiết cầu xin Thiên Chúa ban Chúa Thánh Thần là Đấng đã bao phủ lấy ngài trong ngày truyền tin." (LG 59)
Sau cùng, được gìn giữ tinh sạch khỏi mọi vết tội nguyên tổ, và sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm đã được đưa lên hưởng vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác, và được Thiên Chúa tôn vinh làm nữ vương vũ trụ, để nên giống Con Mẹ trọn vẹn hơn, là Chúa các Chúa, Đấng đã chiến thắng tội lỗi và sự chết." Được lên trời cả hồn lẫn xác, Đức Maria tham dự cách độc đáo vào cuộc Phục Sinh của Đức Kitô và thể hiện trước sự Phục Sinh của các Kitô hữu khác (GLGHCG, 966).
Vậy bài Tin Mừng hôm nay về cuộc viếng thăm bà Isave rất thích hợp với lễ kính Đức Maria hồn xác lên trời. Đức Maria lên trời để tiếp tục công cuộc thăm viếng đối với mỗi một con người cần được cứu chuộc.
Người bố của ông Gioan Tẩy Giả đã được cho biết là con ông sẽ được đầy tràn Thánh Thần (Lc 1,15). Quả thật, Thánh Thần đã đến bao phủ Đức Maria khiến bà thụ thai Đức Giêsu, từ đó như theo ảnh hưởng giây chuyền, Thánh Thần sẽ tràn lan sang nhiều người, khởi sự với Gioan Tẩy Giả còn trong dạ mẹ, rồi đến bà Isave, sau đến ông Dacaria và ông già Simeon. Rồi đây người ta sẽ thấy Thiên Chúa Cha ra tay uy quyền nâng Đức Giêsu lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống (Cv 2,33) trên dân mới của Thiên Chúa.
Những chuyến viếng thăm không chấm dứt
Đức Maria lên trời là để tiếp tục công trình Thiên Chúa thực hiện nơi Người kể từ biến cố truyền tin đầu tiên. Nói theo cha Vương Văn Uông (René Voillaume) "Thăm viếng mãi mãi sẽ là cuộc lễ của sự hy sinh trọn vẹn đã điều khiển tấm lòng Đức Maria từ lúc mẹ biết mình là mẹ Chúa Giêsu; từ nay, Mẹ bắt đầu một chuỗi vô số các cuộc viếng thăm; những chuyến viếng thăm này sẽ không chấm dứt bao lâu còn có một người sống dưới đất."
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn thấy món quà nhỏ mà chị Huyền Tâm tặng hai đứa nhỏ có giá trị như thế nào so sánh với một lô những quà tặng mà chị dành cho những người đã nói với chị rằng họ không cần ai tặng quà? Bạn nghĩ gì về câu nói của cậu bé "Mẹ chúng cháu bệnh và sắp về trời"? Chính bạn ước ao gì về cuối đời bạn?
2. Bạn nghĩ gì về câu nói "Mẹ bắt đầu một chuỗi vô số các cuộc thăm viếng... bao lâu còn có một người sống dưới đất."?
3. Sách GLGHCG nói gì về Đức Maria Hồn Xác Lên Trời (số 966)?
54. Niềm hy vọng
Lễ Mẹ hồn xác lên trời không phải chỉ đem đến cho chúng ta niềm an ủi, mà còn thắp lên trong chúng ta niềm hy vọng tuyệt vời. Đó chính là điều Đức thánh cha Piô XII đã nhắn nhủ khi công bố tín điều này.
Anh em Tin lành có một bài hát với những lời lẽ như sau:
- Tôi chỉ muốn xây dựng sự lên trời của tôi dựa vào Đức Kitô mà thôi.
Là người Công giáo, chúng ta hoàn toàn đồng ý với những anh em Tin lành:
- Niềm hy vọng về trời của chúng ta phải được đặt nền tảng nơi Đức Kitô.
Thế nhưng, trước mặt chúng ta sự lên trời của Mẹ Maria hôm nay đã thắp lên một ánh lửa dạt dào hy vọng. Với biến cố này, một tia sáng đã chiếu tỏa trên vùng đất tăm tối của sự chết.
Mục đích cuộc hành trình dương thế của chúng ta đã được bảo đảm nơi Mẹ Maria, bởi vì Mẹ là tạo vật đầu tiên đã được bước vào chốn vinh quang.
Án phạt của tội lỗi là sự chết. Thế nhưng với sự phục sinh của Đức Kitô và sự lên trời của Mẹ Maria, chúng ta có thể nói lên như thánh Phaolô:
- Hỡi thần chết, sự chiến thắng của ngươi ở đâu và nọc độc của ngươi ở đâu?
Kể từ nay, cái chết không còn quyền hành gì nữa đối với chúng ta. Là người Kitô hữu, chúng ta lo lắng nhưng không sợ hãi trước cái chết. Thánh Benoit đã chết trong khi còn đang tay cầu nguyện. Thánh Phanxicô thành Assie đã gọi cái chết là người chị yêu dấu. Còn thánh Louis de Gonzague đã nói:
- Chúng ta vui mừng cất bước ra đi…
Người ta kể lại rằng: có một ông bố, đặt khẩu súng đã lên đạn của mình ở đầu giường trong lúc hấp hối và nói với các con của mình rằng:
- Các con hãy yên tâm ra đồng gặt lúa. Bao giờ các con nghe thấy một tiếng súng nổ thì các con biết rằng ba các con đã chết.
Hay như một cụ già khác đã gọi con cháu đến bên giường bệnh và giảng giải cho con cháu biết về sự quan trọng của cái chết.
Cái chết và sự lên trời của Mẹ Maria đã đem đến cho chúng ta niềm hy vọng, bởi vì dù chúng ta sẽ chết cách nào, điều đó không quan trọng, chúng ta sẽ hấp hối làm sao, điều đó cũng không quan trọng. Điều quan trọng đích thực, đó là chúng ta phải chiến thắng trong giờ sau hết.
Với ngày lễ hôm nay, chúng ta không phải chỉ nhìn về dĩ vãng bằng cách cảm tạ những hồng ân Chúa đã ban cho Mẹ, mà còn hướng tới tương lại bằng cách xác định con đường chúng ta sẽ phải đi qua.
Khi lần hạt và suy gẫm về sự ân thưởng và vinh thăng của Mẹ, một chân trời mới đầy hy vọng đã mở ra trước mắt chúng ta, bởi vì cái chết không còn làm cho chúng ta sợ hãi, trái lại nhờ nó mà chúng ta sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương Nước trời, nhờ nó mà chúng ta được trở về nhà Cha, nhờ nó mà chúng ta được sinh ra cho cuộc sống vĩnh cửu.
Vì thế, từ chốn khổ đau này chúng ta luôn cầu khẩn Mẹ giúp chúng ta trong cuộc chiến cam go ấy.
Bên Thụy sĩ, cứ năm năm người ta lại trình diễn vở kịch “Sân khấu thế giới” ngay trước mặt nhà thờ Đức Bà. Đời sống mỗi người là một cảnh tượng diễn ra trước mặt Thiên Chúa là Đấng thấu suốt tất cả. Mỗi người phải thủ một vai trò nào đó, nhưng sau cùng đều phải xuất hiện trước ngai tòa Thiên Chúa để được xét xử về vai trò mình đã đóng có được trọn vẹn hay không. Giữa lúc mọi người lo lắng thì Đức Maria xuất hiện. Mẹ tiến đến trước mặt Thiên Chúa, bầu cử cho họ và mời họ vào dự tiệc vĩnh cửu. Và rồi tất cả cùng hát vang:
- Xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Mẹ mà chẳng được nhận lời.
Với tình thương của người mẹ, Đức Maria sẵn sàng trợ giúp chúng ta với uy quyền của một bậc Nữ Vương ngài có thể thực hiện những gì chúng ta muốn.
Bởi đó, trong ngày hôm nay chúng ta hãy thân thưa với Mẹ:
- Lạy Nữ Vương trời đất, xin bầu cử chúng con trước ngai tòa Chúa.
55. Vinh quang
Ngày lễ Thăng thiên, chúng ta cử hành sự kiện Chúa Giêsu được tôn vinh, còn hôm nay ngày lễ Mông triệu, chúng ta cử hành sự kện Mẹ Maria được tôn vinh. Chúng ta được lãnh nhận ơn Cứu độ từ Chúa Giêsu, nhưng chúng ta được lãnh nhận Chúa Giêsu từ Mẹ Maria.
Có một câu chuyện kể về cách thức người Da Đỏ Comache đã từng cầu nguyện để cho có mưa “Lạy Thầy Linh vĩ đại, xin nói cho chúng tôi biết chúng tôi đã làm điều gì sai trái, khiến cho ngài tức giận. Xin nói cho chúng tôi biết chúng ta phải làm gì, để ngài sẽ cho mưa xuống một lần nữa, và phục hồi sự sống cho mảnh đất của chúng tôi”. Họ cứ cầu nguyện như thế trong vòng ba ngày, nhưng vẫn không hề có mưa. Trẻ con và người già bắt đầu chết.
Thế rồi những người lớn tuổi trên bộ lạc đi lên các ngọn đồi, để lắng nghe tiếng gió thổi, mang theo giọng nói của Thần Linh. Khi trở về, họ nói với dân chúng “Cảnh hạn hán gây ra là do tính ích kỷ của chúng ta. Từ bao năm qua, chúng ta đã lấy đi đủ thứ từ mặt đất, mà không hề trả lại gì cả. Tất cả chúng ta phải làm cuả lễ toàn thiêu, để dâng lên Thần Linh những tài sản giá trị nhất của chúng ta. Chúng ta phải rải tro trên mặt đất. Rồi mưa sẽ đến, và sự sống sẽ trở lại trên mặt đất. Rồi mưa sẽ đến, và sự sống sẽ trở lại trên địa cầu”.
Dân chúng cảm ơn Thần Linh về thông điệp đó. Nhưng khi trở về nhà, và nhìn vào những tài sản giá trị nhất của mình, họ lại lưỡng lự, và bắt đầu tìm cách thoái thác. Thay vì hy sinh những tài sản giá trị nhất, họ chỉ hy sinh một số thứ khác thay thế vào đó. Bây giờ, một cô bé tên là Miriam, có một con búp bê màu xanh, mà cô bé yêu quý trên hết mọi thứ khác. Vì là một đứa trẻ duy nhất còn sống sót, cô bé nhận ra rằng mình cũng phải hy sinh. Thế là một đêm kia, cô bé bò ra khỏi căn lều, đem theo con búp bê và một cây quy diêm, rồi đi lên đỉnh đồi. Tại đó, cô bé châm lửa đốt con búp bê. Vừa khóc, cô bé vừa nhìn con búp bê biến thành tro bụi. Sau đó, cô bé dùng bàn tay thu gom đống tro lại, và ném lên không trung. Sao cho gió sẽ rải đám tro đó lên mặt đất. Rồi cô bé lăn ra ngủ vùi ngay tại đỉnh đồi.
Sáng hôm sau khi thức dậy, cô bé nhìn khắp mặt đất, và thấy mặt đất phủ đầy những bông hoa màu xanh, khắp cả một vùng xa tít tắp mà tầm mắt của cô bé có thể thấy được. Dân chúng rất vui mừng khi nhìn thấy sự kiện xảy ra. Ngay tức khắc, họ nhận ra được điều mình phải làm. Họ cảm thấy xấu hổ vì tính ích kỉ của mình, mỗi người đều lấy số tài sản mà họ đã cất giữ rất cẩn thận, hi sinh đốt đi, và rải đám tro đó lên mặt đất. Một lần nữa, họ bắt đầu cầu nguyện với Thần Linh, và lần này Thần Linh đã nhận lời họ. Chẳng bao lâu, một cơn mưa bắt đầu chút xuống. Khi nhìn thấy sự kiện đó, họ ôm cô bé Miriam, người đã làm cho họ hổ thẹn, vì đã không làm theo yêu cầu của Thần Linh.
Câu chuyện nhỏ này giúp chúng ta hiểu được vai trò của Đức Maria, và nhận ra được tại sao Giáo hội tôn vinh ngài trong ngày hôm nay. Chính thông qua sự hy sinh Con của ngài, mà ơn tha thứ, bình an và yêu thương của Thiên Chúa đã tuôn đổ xuống trên mặt đất, và mang lại sự sống cho chúng ta, Đức Maria đóng một vai trò sống còn trong của lễ hy sinh đó.
Mẹ đã sẵn lòng đem Đức Giêsu đi vào trong thế giới này. Mẹ hết lòng yêu thương Người, và quý trọng Người vượt lên trên tất cả mọi thứ sở hữu khác. Nhưng khi công trình Cứu Độ toàn dân đòi hỏi rằng chính Đức Giêsu phải hy sinh, thì Mẹ vẫn đứng về phía Người, ngay cả mặc dù nỗi đau khổ giống như một lưỡi gươm sắc nhọn, đã đâm thâu qua trái tim Mẹ.
Hôm nay, chúng ta mừng kính ngày Mẹ được tôn vinh trên trời, có nghĩa là Mẹ được chia sẻ trọn vẹn vinh quang của Đức Kitô. Đây là một ngày dành cho niềm vui và ca ngợi. Mẹ sẽ thúc giục chúng ta phải quảng đại hơn trong việc đi theo Con của Mẹ, và trong việc hy sinh những gì chúng ta quý giá, để mang lại sự sống cho những người khác.
Đức Maria được chúc phúc vì Mẹ là mẹ của Đức Giêsu. Nhưng Mẹ còn được chúc phúc hơn vì, giống như cố bé Miriam, Mẹ đã lắng nghe và vâng phục lời của Thiên Chúa. Mẹ sẽ giúp đỡ chúng ta cũng biết vâng phục Lời Chúa, và từ đó, chúng ta được đi theo Đức Giêsu trên đường dẫn tới vinh quang.
56. Lòng tự trọng
Bà Elisabét nói với Đức Maria “Em được chúc phúc nhất trên tất cả mọi phụ nữ”. Quả thật đó là một lời khen ngợi vĩ đại. Lời khen ngợi này nói lên vị trí đứng đầu của Đức Maria. Nhưng điều gì đã xảy ra Mẹ có khước từ lời khen ngợi này một cách nhẹ nhàng, nhưng quy tất cả mọi sự về Thiên Chúa, và về lòng từ ái củ Người đối với Mẹ “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa…Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao nhiêu cao cả”.
Có thể chúng ta đã được dạy dỗ rằng sự khiêm tốn bao hàm sự tự đánh giá thấp bản thân mình. Nhưng đức khiêm nhường trái ngược với điều đó. Đây là sự nhận ra điều tốt đẹp nơi bản thân mình với lòng biết ơn, nhưng thừa nhận rằng điều tốt đẹp đó là một ân sủng của Thiên Chúa.
Ngày nay, về mặt tâm lý trị liệu, người ta nhấn mạnh rất nhiều vào lòng tự trọng. Sự tự ti mặc cảm đưa đến tình trạng bất hạnh cho tất cả mọi người, còn lòng tự trọng cao độ đem lại hạnh phúc cho tất cả mọi người. Chúng ta được hướng dẫn rằng điều quan trọng là cảm thấy bản thân mình tốt đẹp, yêu mến mình, có khả năng để nói rằng “Tôi là người tốt”.
Về một mặt nào đó, đây là một phương pháp tốt. Tự trọng là điều tốt đẹp. Thật quan trọng khi có được một hình ảnh tốt đẹp về bản thân, nhưng sự tự ý thức này phải được xây dựng trên sự thật, nếu không, đó chỉ là một việc xây dựng trên cát.
Chúng ta có lý do để nên có lòng tự trọng cao độ. Mỗi người trong chúng ta đều có thể nói rằng “Tôi có giá trị lớn lao, một nhân cách vĩ đại. Thiên Chúa đã tạo dựng tôi theo hình ảnh Người, Người gìn giữ và yêu thương tôi, vì tôi có tư cách là con cái của Người”. Do đó, chúng ta có quyền cảm thấy hài lòng về bản thân mình được đón nhận mọi sự từ nơi Thiên Chúa. Từ đó, chúng ta không nên chần chừ trong việc đọc lời kinh thật tươi đẹp và vui mừng của chính Đức Maria “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa… Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả”.
Tuy nhiên, điều này không hoàn toàn đúng sự thật đối với chúng ta. Chúng ta cũng có mặt tối tăm, khiến cho chúng ta bị sự dữ chế ngự, và vì thế, chúng ta cần được cứu độ. Tâm lý học sẽ không cứu nỗi chúng ta. Tâm lý học lại còn không thừa nhận rằng chúng ta cần được cứu độ. Chỉ duy nhất một mình Thiên Chúa có thể cứu độ chúng ta. Chúng ta không được e sợ khi nhìn vào khía cạnh tối tăm của bản thân mình.
Sự tự trọng không đúng cách làm cho chúng ta bối rối ngay với chính mình, và do đó khiến chúng ta chỉ tập trung vào bản thân. Mặt khác, lòng tự trọng đích thực lại giúp chúng ta biết quên mình, và làm cho chúng ta biết yêu thương hơn, có nhiều khả năng tiếp cận với người khác hơn. Chúng ta nhận thấy điều này nơi Đức Maria.
Sau khi nghe được những lời khen ngợi tuyệt vời của bà Elisabét, Mẹ có thể trở về nhà ngay tức khắc, và sự phô bày mình ra dưới anh nắng của sự tự khen ngợi mình, mong đợi người khác phục dịch mình. Nhưng thay vào đó, Mẹ ở lại với người chị họ lớn tuổi trong vòng ba tháng, để giúp đỡ bà trong thời kỳ mang thai.
Hôm nay, chúng ta ca ngợi vinh quang của Đức Maria. Bởi vì Mẹ đã chia sẻ cuộc đời, sự thương khó, và sự chết của Đức Giêsu khi còn tại thế, điều này phù hợp với việc Mẹ được chia sẻ vinh quang của Người trên Nước Trời. Nhưng chúng ta không được nghĩ rằng mọi sự đều dễ dàng đối với Mẹ. Sự thật gần như trái ngược lại. Mẹ cũng phải sống cuộc đời của mình trong bóng tối đức tin. Đối với Mẹ, không hề có con đường tắt nào cả. Mẹ đã không chỉ lắng nghe lời Thiên Chúa, mà còn thực hành nữa.
Chúng ta cũng được mời gọi chia sẻ vinh quang của Chúa Giêsu. Đức Maria người mẹ thiêng liêng của chúng ta, sẽ giúp đỡ chúng ta trong những giây phút chán nản và thất bại. Mẹ ở trên trời không có nghĩa là Mẹ không thể giúp đỡ chúng ta trên trái đất này. Nói một cách chính xác, chính vì hiện nay Mẹ đang được ở cùng Thiên Chúa, mà Mẹ càng có thể giúp đỡ chúng ta hơn nữa.
57. Nghe theo Mẹ
Trong một bài giảng về lễ Mẹ hồn xác lên trời, Đức thánh cha Gioan Phaolô II đã nói: khi đặt mình vào trường học của Mẹ.
“khi đặt mình vào trường học của Mẹ một cách đặc biệt, trong đó các tín hữu được mời gọi thực hiện cuộc ăn năn trở lại cách sâu xa hơn, củng cố đức tin của họ, sống chăm chú hơn, lắng nghe lời Chúa và trở nên sẵn sàng hơn để phục vụ những anh chị em của mình. Đối với tất cả những đồ đệ của Chúa Kitô, Mẹ là mẫu gưỡng tốt nhất cho đời sống Kitô, Mẹ chuẩn bị tâm hồn chúng ta đón nhận và trao Chúa Kitô cho chúng ta, giống như xưa kia Mẹ đã trao cho những người giúp việc tại tiệc vưới Cana một mệnh lệnh: “Hãy làm tất cả những gì Chúa truyền dạy”. Mẹ mời gọi chúng ta hãy ra đi đến với những ai đang cần nâng đỡ và trợ giúp của chúng ta như chính Mẹ đã lm cho người chị họ Elizabeth, như thế chúng ta lãnh nhận từ Mẹ rất thân yêu này sự thích thú của cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa và của sứ mạng xống đức ái phục vụ tha nhân”.
Đó là tâm tình của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mong muốn cho mọi thành phần trong Giáo hội, cho tất cả những ai đang tôn kính Mẹ Maria, trong tâm tình này, mọi người hãy kết hiệp với nhau, và Đức Thánh Cha nói là mời Mẹ đến ở nhà chúng ta. Mời Mẹ đến với chúng ta để xin Mẹ giúp thực thi lời Chúa truyền dạy: “Hãy làm những gì Chúa truyền dạy”.
Trẻ em Tây Phương thường được người lớn kể cho câu chuyện thần tiên như sau:
Ngày xửa ngày xưa, có một gia đình nghèo sống bên cạnh rừng, người chồng lo việc tiều phu, người vợ lo việc nội trợ. Họ chỉ có ba người con gái, sáng sớm người chồng đi vào rừng kiếm củi, người vợ đi vào làng để mua thức ăn và cô gái nhỏ trông chừng nhà cửa.
Một buổi sáng nọ, đang nô đùa trước cửa nhà, ba cô bé nhỏ thấy một bà lão đang tiến lại gần, người đàn bà mặc áo đen, từ xa ba cô bé nhỏ cũng có thể nhận ra gương mặt xấu xí của bà. Vừa thấy bà lão đến gần, người chị hét lên:
Mụ phù thủy, mụ phù thủy.
Nghe tiếng báo động của người chị, hai cô bé nhỏ chạy vội vào nhà đóng cửa lại, còn cô lớn chạy ra phía sau nhà để thả chó ra. Lão bà dừng lại trước những tiếng gầm gừ của con chó. Bên trong hai đứa nhỏ vẫn còn run cầm cập. Một lát sau người đàn bà xấu xí đành bỏ đi về phía rừng.
Hôm sau, sinh hoạt của gia đình tiều phu vẫn diễn ra bình thường, người cha vẫn đưa con chó vào rừng, người mẹ đem đứa con gái lớn và cả đứa kế đi ra chợ, chỉ còn lại đứa bé nhỏ nhất mới lên năm tuổi trông nhà. Vào giữa buổi trưa, khi đứa nhỏ đang chơi trước sân thì bà lão xấu xí lại xuất hiện một lần nữa. Vừa trông thấy, nó thét lên như hai đứa chị:
Mụ phù thủy, mụ phù thủy.
Và chạy nhanh vào nhà cài then cửa lại, đứng nhìn người đàn bà. Qua lỗ nhỏ của khe của, bỗng nó nhìn thấy và nhận ra một điều mà nó chưa hề thấy trước đó, người đàn bà không có vẻ gì là một mụ phù thủy cả, nó chỉ thấy một người đàn bà vẻ đau yếu và mệt lả. Đứa bé năm tuổi tự nhiên cảm thấy thương mến bà vô cùng, nó liền mở cửa và tiến đến bên bà thưa:
Thưa bà, cháu có thể giúp bà cái gì được không ạ?
Quả thật, gương mặt bà lão xấu xí kinh khủng. Khi trông thấy đứa bé kháu khỉnh bà nói:
Lão còn phải đi đường xa, lão mệt lắm, cháu có thể cho bà ly nước được không?
Nó liền chạy ra sau nhà, lấy gáo múc nước đem ra cho bà cụ uống. Bà cụ cầm lấy chiếc gáo, cảm ơn đứa bé rồi uống cạn. Bà rùng mình đứng thẳng, đứng thẳng rồi biến thành một cô công chúa xinh đẹp.
58. Ai hy sinh hơn ai?
Có vị bề trên một tu viện nổi tiếng thánh thiện và hạnh phúc. Một tu sinh dưới quyền ngài, khi biết được sự từ bỏ ít người làm được, và thấy đời sống hết sức thánh thiện của ngài, bèn thốt lên:
- “Thưa Cha, đời sống Cha thật là tuyệt vời, Cha đã từ bỏ mọi sự giàu sang sung sướng để tìm Thiên Chúa, và để dạy cho chúng con sự khôn ngoan của Ngài”.
- “Con đã nói phản lại sự thật rồi! - Vị bề trên trả lời - Cha chỉ bỏ có vài cuộn giấy bạc và những thú vui trần tục để chinh phục một niềm phúc lạc vô biên. So với cái kho tàng tâm linh quí báu này thì đó có thật là một sự hy sinh chăng? Trái hẳn lại, chính những người thế gian đã từ bỏ và hy sinh những kho tàng tâm linh vô giá trên đường Đạo để chạy theo những của cải vật chất giả tạm vô thường.
“Những vị khổ tu tuy áo quần đơn sơ thô thiển, trong người không giữ riêng một đồng bạc, lại trở thành những phú ông về tâm linh. Còn những người tỷ phú kiêu hãnh lại là những kẻ đáng thương về tâm linh mà không hay biet. Đó chính là điều mâu thuẫn về sự dứt bỏ và hy sinh”.
Vì thế, trong đời sống Ki-tô hữu hiện nay, chúng ta cần xác định một lần cho rõ ràng và dứt khốt mục đích cuộc đời ta là gì, ta chọn cái lợi lớn hay cái lợi nhỏ, loại hạnh phúc ta mong muốn là loại nào: ngắn hạn hay dài hạn, đích thực hay giả tạm, tùy thuộc hoàn cảnh bên ngoài hay độc lập với mọi hoàn cảnh, v.v… Một khi đã xác định rồi thì ta chỉ cần sống theo sự lựa chọn nền tảng đó. Lúc đó ta không còn nghĩ là mình phải hy sinh cái nay hay cái kia, nghĩ như thế là chỉ nghĩ đến cái ta bị mất mà không nghĩ đến cái ta sẽ được. Thánh Phao-lô nói: “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18). Nếu cái được lớn hơn cái mất thì làm sao gọi là hy sinh được? Còn nếu cái mất lớn hơn cái được thì mới đáng gọi là hy sinh, và nếu lựa chọn như thế thì thật là ngu xuẩn!
Sự khôn ngoan như thế thật đáng khâm phục, nhưng nó vẫn phảng phất mùi vị kỷ: lo cho hạnh phúc của mình, cho dù là hạnh phúc vĩnh cửu. Sự thánh thiện của Mẹ Ma-ri-a không dừng lại ở sự vị kỷ “cao cả” đó, mà vượt lên cao nữa, vượt khỏi những gì là vị kỷ của mình. Theo niềm tin Công giáo, Mẹ đã được Thiên Chúa giữ gìn khỏi mọi tội lỗi và khỏi vòng kiềm tỏa của tội lỗi. Vì thế, nhờ ơn Chúa và nỗ lực bản thân, Mẹ đã thắng vượt mọi hình thức ích kỷ cho dù vi tế nhất. Điều đó không có nghĩa là Mẹ không bị cám dỗ về tính vị kỷ, nhưng Mẹ luôn luôn chiến thắng. Động lực khiến Mẹ luôn luôn chiến thắng chính là tình yêu mạnh mẽ đối với Thiên Chúa và tha nhân. Mẹ yêu Thiên Chúa vì Thiên Chúa, yêu tha nhân vì tha nhân, chứ không phải vì mình. Chính vì thế, Mẹ không còn đặt nặng hạnh phúc - cho dù là vĩnh cửu - của mình, mà đặt nặng vinh quang và thánh ý của Thiên Chúa. Chính vì thế, Mẹ trở nên người đạt được hạnh phúc vĩnh cửu ở mức độ cao nhất, trọn vẹn nhất. Đúng như lời Đức Giê-su nói: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (Mt 16,25; x. Mc 8,35; Lc 9,24; Ga 12,25). Mẹ đã sống tinh thần câu Tin Mừng này một cách trọn hảo nhất.
Mẹ đã được Thiên Chúa thưởng vì sự chọn lựa đầy khôn ngoan và sáng suốt đó. Mẹ đã đạt được hạnh phúc đích thật và vĩnh cửu vì Mẹ đã sống phù hợp với sự chọn lựa đó suốt cả cuộc đời, trong tất cả mọi hoàn cảnh. Viec Mẹ là người duy nhất trên trần gian được về thiên đàng cả hồn lẫn xác cùng với Đức Giê-su là một ơn xứng đáng với sự lựa chọn căn bản rất tuyệt vời của Mẹ. Chúng ta hãy bắt chước Mẹ trong cách chọn lựa căn bản của chúng ta.
59. Chết trong tấm hình
Một bé gái mới năm tuổi được cha mẹ dẫn đến tiệm chụp hình, nhưng em nhất định từ chối, không chịu đứng trước máy ảnh.Để khích lệ em, mẹ cho em xem tấm hình đẹp của ông nội chết ba năm trước. Nhưng em vẫn không muốn chụp hình. Em dứt khoát từ chối. Đe dọa cũng không làm em đổi ý. Hứa hẹn cũng không làm em an lòng, không giải quyết được sự gì.Thấy vậy người cha nói với em:Này con gái cưng của ba! con hãy làm ba vui lòng một chút đi.Người mẹ nói tiếp:Mẹ bảo với con, chụp hình chẳng có gì xấu đâu. Em vẫn khăng khăng không chịu. Bấy giờ người mẹ mới bảo em:Thôi được, ba má không bắt con chụp hình nữa. Nhưng con hãy nói cho ba má hay, tại sao con không để cho người ta chụp hình? Co bé bật khóc nứa nở và nghẹn ngào nói:Con không muốn làm như ông nội. Con không muốn chết trong tấm hình. Thật tội nghiệp Phương An, bé mới mấy tuổi mà đã thiết tha với cuộc sống.Người mẹ nhanh trí voi vàng rút trong bóp một tấm hình gia đình. Phương An nhìn thấy ba má và anh trai của em trong tấm hình nhưng đâu có chết. Lúc đó em mới chịu chụp hình. Em lại còn mỉm cười vui vẻ hơn. Ai trong chúng ta cũng giống cô bé cả. Sợ chết là một bản năng hoạt động rất mạnh trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Chúng ta muốn sống, thực ra đó cũng là bản tính tự nhiên và cũng là ơn gọi của con người trước mặt Thiên Chúa: Ơn gọi làm con Thiên Chúa, ơn gọi sống đời sống trường sinh. Sự sống của chúng ta chính là một ân sủng, một món quà quí báu mà Thiên Chúa ban tặng cho chúng ta. Không ai đã sống mầm sống đó trước chúng ta và cũng không ai sẽ sống sau chúng ta, mỗi một mầm sống được trao ban đều " duy nhất vô nhị ". Sự sống đó có những điều huyền bí chúng ta không thể nào hiểu hết được, nếu không có đức tin soi sáng...Nhất là sống trong thế giới ngày nay: tội lỗi và đau khổ luôn đe doa con người, làm tê liệt và ảnh hưởng đến đức tin của chúng ta vào Thiên Chúa. Đôi khi chúng ta cũng nản lòng và nghi ngờ sự tồn tại cũng như hiện diện của Thiên Chúa nơi vũ trụ này. Ngày lễ Mẹ hồn xác lên trời hôm nay có thể trả lời cho chúng ta một phần nào thắc mắc trên. Vì Mẹ Maria cho chúng ta thấy tình yêu Thiên Chúa thắng sự chết và đau khổ. Ngài sẽ biến sự chết và đau khổ đó bằng sự sống trường sinh. Chính Thiên Chúa sẽ nâng người hèn mọn lên hàng quyền quí cao sang. Hãy nhìn lên gương Mẹ, sợ hãi và nghi ngờ sẽ giúp chúng ta can đảm và tin yêu hơn.
60. Suy niệm của JK
Câu hỏi gợi ý:
1. Mẹ Ma-ri-a trở nên cao cả có phải vì Mẹ mong muốn được như thế không? Mẹ có mong muốn trở nên một nhân vật vĩ đại như Mẹ đang là hiện nay không? Chúng ta có thể rút ra bài học gì cho chính chúng ta?
2. Tại sao nhiều người Ki-tô hữu lại từ bỏ những điều mà người đời phấn đấu cho bằng được để có? Ai khôn ngoan hơn ai? Chiếu theo quan điểm đức tin, sự từ bỏ ấy có thật sự đáng gọi là hy sinh không?
Chia sẻ
1. Đời của Đức Ma-ri-a có nhiều đặc biệt
Cuộc đời của Đức Ma-ri-a có nhiều nét đặc biệt và nghịch lý. Đặc biệt chẳng hạn như là người nữ duy nhất trên trần gian được Thiên Chúa chọn làm Mẹ của Ngôi Hai Nhập Thể, sinh con không phải do kết hợp với người nam mà bởi quyền năng Thánh Thần, sinh con mà vẫn còn đồng trinh, làm con trẻ Gio-an, con bà Ê-li-sa-bét, nhẩy mừng khi Mẹ đến thăm, v.v… Nghịch lý là vì Mẹ sống rất đơn sơ, khiêm nhường, không mong muốn gì cao sang hay đặc biệt hơn người, mà lại trở nên cao sang và đặc biệt hơn bất cứ người nào trên trần gian này.
Nghịch lý ấy là nghịch lý đối với người đời, vì họ quan niệm rằng muốn đạt được những địa vị cao sang thì phải có lý tưởng thật cao vời, nghĩa là phải nhắm những địa vị cao, những mục tiêu lớn, phải quyết tâm trở nên những nhân vật vĩ đại, rồi còn phải bon chen phấn đấu với mọi người, nhất là với những đối thủ cạnh tranh với mình. Nhưng nghịch lý ấy lại là thuận lý theo cách suy nghĩ của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa suy nghĩ và hành động khác hẳn với người đời. Trong bài “Ngợi Khen”, Đức Ma-ri-a đã nêu lên cách hành động của Ngài: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới”, “Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng”.
2. Hai cách suy nghĩ
Thực ra đó là hai cách nghĩ và hành động khác nhau, cả hai cách đều có lý, đều đúng, nhưng có lý và đúng trong hai lãnh vực khác nhau, trong hai không gian khác nhau, và trong hai loại thời gian khác nhau. Cách của người đời – không dựa vào đức tin – thì đúng trong phạm vi nhỏ hẹp của xã hội, trong đời sống vật chất, tầm thường của đời người, và trong một khoảng ngắn thời gian, chẳng hạn vài chục năm của đời người. Còn cách những người sống theo đức tin thì đúng trong phạm vi rộng lớn hơn, trong đời sống tâm linh, siêu việt, và trong thời gian rất dài, trong vĩnh cửu, có thể xuyên qua đời sống của con người, vượt qua cái chết. Cách nào cũng đúng, cũng có lý, nên cách nào cũng có những người thông minh và khôn ngoan vào bậc nhất thế giới ủng hộ, cổ võ.
Vấn đề của chúng ta là chọn cách suy nghĩ nào, cho cách nào là khôn ngoan nhất. Nếu nhắm cái lợi trước mắt và ngắn ngủi thì chúng ta nên suy nghĩ theo kiểu thế gian, không dựa trên đức tin. Còn nếu nhắm cái lợi lâu dài và hết sức to lớn – chỉ có điều bất lợi là khó thấy và không đến ngay – thì chúng ta nên suy nghĩ theo kiểu đức tin. Khi chúng ta đã suy nghĩ và chọn lựa dứt khoát thì chúng ta phải chấp nhận bỏ cái này để được cái kia: hoặc là bỏ cái nhỏ để lấy cái lớn, bỏ cái ngắn để lấy cái dài, hoặc là ngược lại, bỏ cái lớn để lấy cái nhỏ, bỏ cái dài để lấy cái ngắn. Cách suy nghĩ nào cũng đều đòi hỏi phải từ bỏ. Suy nghĩ như thế, ta cảm thấy thoải mái hơn.
Giả sử ta lựa chọn bỏ cái nhỏ để lấy cái lớn, bỏ cái ngắn để lấy cái dài, thì ta sẽ không cảm thấy việc từ bỏ ấy là một sự hy sinh. Cho rằng sự từ bỏ khôn ngoan ấy là một hy sinh thì có thể làm tâm lý chúng ta bị dồn nén, đau khổ, gây trạng thái mất quân bình về tâm lý. Xét cho cùng, sự dồn nén này quả là một dồn nén phi lý, thiếu suy nghĩ. Nếu có dùng chữ hy sinh thì đúng ra chữ đó phải dành cho những ai lựa chọn bỏ cái lớn để lấy cái nhỏ, bỏ cái dài để lấy cái ngắn, như thế thì hợp lý hơn. Chẳng hạn có ai đó cho hai người nọ hai món đồ: một món quí giá và một món rẻ tiền. Thật là phi lý khi bảo người chọn món quí giá và để lại món rẻ tiền cho người kia là đã hy sinh cái nhỏ để lấy cái lớn. Nếu nói đó là một hy sinh thì người chọn cái nhỏ và bỏ lại cái lớn không phải là đã hy sinh nhiều hơn sao?
3. Ai hy sinh hơn ai?
Có vị bề trên một tu viện nổi tiếng thánh thiện và hạnh phúc. Một tu sinh dưới quyền ngài, khi biết được sự từ bỏ ít người làm được, và thấy đời sống hết sức thánh thiện của ngài, bèn thốt lên:
- “Thưa Cha, đời sống Cha thật là tuyệt vời, Cha đã từ bỏ mọi sự giàu sang sung sướng để tìm Thiên Chúa, và để dạy cho chúng con sự khôn ngoan của Ngài”.
- “Con đã nói phản lại sự thật rồi! - Vị bề trên trả lời - Cha chỉ bỏ có vài cuộn giấy bạc và những thú vui trần tục để chinh phục một niềm phúc lạc vô biên. So với cái kho tàng tâm linh quí báu này thì đó có thật là một sự hy sinh chăng? Trái hẳn lại, chính những người thế gian đã từ bỏ và hy sinh những kho tàng tâm linh vô giá trên đường Đạo để chạy theo những của cải vật chất giả tạm vô thường.
“Những vị khổ tu tuy áo quần đơn sơ thô thiển, trong người không giữ riêng một đồng bạc, lại trở thành những phú ông về tâm linh. Còn những người tỷ phú kiêu hãnh lại là những kẻ đáng thương về tâm linh mà không hay biết. Đó chính là điều mâu thuẫn về sự dứt bỏ và hy sinh”.
4. Vấn đề là tin hay không tin, và ai khôn ngoan hơn ai
Vì thế, trong đời sống Ki-tô hữu hiện nay, chúng ta cần xác định một lần cho rõ ràng và dứt khoát mục đích cuộc đời ta là gì, ta chọn cái lợi lớn hay cái lợi nhỏ, loại hạnh phúc ta mong muốn là loại nào: ngắn hạn hay dài hạn, đích thực hay giả tạm, tùy thuộc hoàn cảnh bên ngoài hay độc lập với mọi hoàn cảnh, v.v… Một khi đã xác định rồi thì ta chỉ cần sống theo sự lựa chọn nền tảng đó. Lúc đó ta không còn nghĩ là mình phải hy sinh cái này hay cái kia, nghĩ như thế là chỉ nghĩ đến cái ta bị mất mà không nghĩ đến cái ta sẽ được. Thánh Phao-lô nói: “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18). Nếu cái được lớn hơn cái mất thì làm sao gọi là hy sinh được? Còn nếu cái mất lớn hơn cái được thì mới đáng gọi là hy sinh, và nếu lựa chọn như thế thì thật là ngu xuẩn!
5. Chọn lựa của Mẹ Ma-ri-a
Sự khôn ngoan như thế thật đáng khâm phục, nhưng nó vẫn phảng phất mùi vị kỷ: lo cho hạnh phúc của mình, cho dù là hạnh phúc vĩnh cửu. Sự thánh thiện của Mẹ Ma-ri-a không dừng lại ở sự vị kỷ “cao cả” đó, mà vượt lên cao nữa, vượt khỏi những gì là vị kỷ của mình. Theo niềm tin Công giáo, Mẹ đã được Thiên Chúa giữ gìn khỏi mọi tội lỗi và khỏi vòng kiềm tỏa của tội lỗi. Vì thế, nhờ ơn Chúa và nỗ lực bản thân, Mẹ đã thắng vượt mọi hình thức ích kỷ cho dù vi tế nhất. Điều đó không có nghĩa là Mẹ không bị cám dỗ về tính vị kỷ, nhưng Mẹ luôn luôn chiến thắng. Động lực khiến Mẹ luôn luôn chiến thắng chính là tình yêu mạnh mẽ đối với Thiên Chúa và tha nhân. Mẹ yêu Thiên Chúa vì Thiên Chúa, yêu tha nhân vì tha nhân, chứ không phải vì mình. Chính vì thế, Mẹ không còn đặt nặng hạnh phúc – cho dù là vĩnh cửu – của mình, mà đặt nặng vinh quang và thánh ý của Thiên Chúa. Chính vì thế, Mẹ trở nên người đạt được hạnh phúc vĩnh cửu ở mức độ cao nhất, trọn vẹn nhất. Đúng như lời Đức Giê-su nói: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (Mt 16,25; x. Mc 8,35; Lc 9,24; Ga 12,25). Mẹ đã sống tinh thần câu Tin Mừng này một cách trọn hảo nhất.
Mẹ đã được Thiên Chúa thưởng vì sự chọn lựa đầy khôn ngoan và sáng suốt đó. Mẹ đã đạt được hạnh phúc đích thật và vĩnh cửu vì Mẹ đã sống phù hợp với sự chọn lựa đó suốt cả cuộc đời, trong tất cả mọi hoàn cảnh. Việc Mẹ là người duy nhất trên trần gian được về thiên đàng cả hồn lẫn xác cùng với Đức Giê-su là một ơn xứng đáng với sự lựa chọn căn bản rất tuyệt vời của Mẹ. Chúng ta hãy bắt chước Mẹ trong cách chọn lựa căn bản của chúng ta.
Cầu nguyện
Lạy Mẹ Ma-ri-a, xin cho con bắt chước Mẹ trong việc chọn lựa căn bản nhất của đời con. Xin cho con biết chọn Chúa hơn chọn bản thân con, biết chọn ý Chúa hơn ý riêng, chọn vinh quang của Chúa hơn cả hạnh phúc của con, và biết quan tâm phục vụ tha nhân vì Chúa hơn quan tâm đến chính bản thân con. Xin giúp con trở nên giống Mẹ trong sự lựa chọn ấy. Amen.
61. Suy niệm mầu nhiệm Mẹ Lên Trời
• Đức Trinh Nữ Maria đã lên trời cả hồn lẫn xác. Thời đại chúng ta có vinh dự và niềm vui được nghe công bố chân lý này, qua miệng Đức Giáo Hoàng Piô XII ngày 1-11-1950, với tông hiến “Thiên Chúa vô cùng đại lượng” (Munificentissimus Deus). Nụ hoa tin kính trong dân Chúa từ thế kỷ VI, bày tỏ qua lễ “Đức Mẹ an nghỉ”, đã trở nên đóa hoa tín điều “Đức Mẹ hồn xác lên trời” vào giữa thế kỷ thứ XX.
Vậy là sau khi có một nam nhân thuộc dòng dõi nhân loại, một người anh em đã lên trời với thân xác phục sinh vinh hiển trong tư cách Thiên Chúa, nay chúng ta lại có một phụ nữ từ giữa nhân loại, một người chị em cũng lên trời với xác hồn được gìn giữ nguyên vẹn trong tư cách Mẹ Thiên Chúa.
Vậy là muôn hồng ân quý trọng Trời Cao đã đổ xuống trên một người phàm, cô thiếu nữ Maria làng Nadarét, này đây sinh hoa kết quả cách tuyệt diệu. Hồng ân vạn thuở là chức làm Mẹ Thiên Chúa, hồng ân đầu đời là tình trạng vô nhiễm nguyên tội, hồng ân trọn kiếp là nếp sống đồng trinh, hết thảy đã được Đức Maria đón nhận, phát huy với tất cả tự do và cộng tác của ý chí mình. Những hồng ân đó giờ đây kết nên ân huệ siêu tuyệt, vĩnh viễn là Mẹ được đưa lên thiên cung hồn xác ngay khi xác lìa hồn. “Hỡi con người đầy ân sủng, được biệt đãi, Đức Chúa đã ở cùng bà! Mừng vui lên đi, vì nay bà ở mãi cùng Đức Chúa, được muôn thế hệ mãi ngợi khen là diễm phúc, bởi lẽ Đấng Toàn Năng đã làm cho bà biết bao điều cao cả”.
• Quả thế, Đức Maria là công trình sáng tạo lớn lao nhất của Thiên Chúa, là tác phẩm tuyệt mỹ nhất của Người, của bàn tay và trái tim Người. Người đã từng thiếu một bà mẹ, và đã tạo dựng bà mẹ đó, sau khi đã tạo dựng biết bao bà mẹ cho biết bao đứa con trong gia đình nhân loại. Thiên Chúa đã làm nên Mẹ của Người trước khi Mẹ của Người làm nên Người, bởi lẽ Người đã muốn thực sự làm một con người như bất cứ ai trên trần gian trong kế hoạch nhập thể. Thiên Chúa đã dựng nên Mẹ của Người với một linh hồn tuyệt đối trong sạch và đầy ân sủng, với một ý chí kiên trì và trọn vẹn “xin vâng” cho tới giây phút cuối cùng, với một thân xác đồng trinh và tỏa chiếu ánh sáng rực rỡ đến độ trên trần gian, Người đã không hề biết chán khi nhìn ngắm và ca ngợi thân mẫu. Mẹ của Thiên Chúa đẹp đến nỗi, dù bỏ lại những huy hoàng của thiên quốc, Người đã không cảm thấy chán nản và thất vọng khi ở bên thân mẫu. Người đã biết thế nào là được các thiên sứ tay đỡ tay nâng, nhưng Người đã cảm thấy thua xa đôi tay êm ái dịu hiền của thân mẫu. Người đã hiểu rõ sự thần phục của thần thánh trên trời, nhưng Người thấy thái độ lắng nghe, suy nghĩ, tuân hành lời Người vẫn là tuyệt diệu ở nơi thân mẫu. Như Thiên Chúa đã là “Cha” với tất cả ý nghĩa của từ “Cha”, như Ngôi Lời đã là “Con” với tất cả ý nghĩa của từ “Con”, thì Đức Maria đã là “Mẹ” với tất cả ý nghĩa của từ “Mẹ”.
Nhưng từ khi trở về trời, vị Thiên Chúa nhập thể đã thiếu mẹ, và Đức Maria cũng đã thiếu Con. Mẹ Con đã ngóng trông nhau vò võ. Nay thì Con đã gặp lại Mẹ với hồn, với xác, trực tiếp, trọn vẹn. Thiên Chúa không thể làm khác. Có như thế mới hợp lý hợp tình. Đôi tay đã chạm đến Thiên Chúa không thể cứng đờ. Đôi mắt đã chiêm ngưỡng Thiên Chúa không thể khép kín. Đôi môi đã hôn hít Thiên Chúa không thể bất động. Xác thân tinh tuyền đã cho Thiên Chúa một thân xác tốt đẹp không thể hư thối, trộn lẫn vào đất. Người không thể để Mẹ mình chịu số phận cuối đời như bất cứ phàm nhân nào khác. Điều đó chỉ gây khổ tâm cho Người, khó chấp nhận nổi. Vả lại, có gì ngăn cản Người kết hợp với Mẹ trọn vẹn chứ, một bà mẹ suốt đời đã không một giây phút lụy phục ma quỷ cả trên thể xác lẫn trong tâm hồn. Đúng như lời thánh Gioan Đa-mát đã nói: “Đấng đã bảo toàn được nguyên vẹn đức đồng trinh của mình khi sinh con hẳn cũng giữ gìn được cho thân xác mình khỏi mọi hư hoại khi lìa đời. Đấng đã bồng ẵm Tạo Hóa trong tay mình như bồng ẵm một bé thơ phải được cư ngụ trong nhà Thiên Chúa. Đấng được Chúa Cha nhận làm hiền thê hẳn phải được ở trong loan phòng thiên quốc. Đấng đã ngắm nhìn Con mình trên thập giá và chịu lưỡi gươm đau đớn đâm thâu tâm hồn, lưỡi gươm đã tránh được lúc sinh Con, hẳn phải được ngắm nhìn người Con ấy đang ngự bên hữu Chúa Cha. Đấng làm Mẹ Thiên Chúa phải được những gì thuộc về Con mình và phải được mọi thụ tạo tôn kính như Thân Mẫu Thiên Chúa và như Nữ tỳ của Người”. Nếu thân xác của Đức Trinh Nữ Maria không bị hư hoại và được đưa về trời, thì điều đó chẳng những xứng hợp với chức vị Mẹ Thiên Chúa, mà còn xứng hợp với thân xác đồng trinh rất thánh của Ngài nữa. Thân xác đồng trinh của Mẹ hoàn toàn thánh thiện, hoàn toàn thanh khiết và đích thực là nơi Thiên Chúa ngự. Do đó, thân xác ấy không thể tan thành bụi đất. Nhưng vì là thân xác con người, nên phải được biến đổi mới có thể đạt tới cuộc sống tuyệt vời bất hoại. Tuy nhiên, vẫn chính thân xác ấy nay sống động, vinh hiển rạng ngời, toàn vẹn và được thông chia sự sống hoàn hảo.
• Vả lại, vị Thiên Chúa nhập thể phục sinh, Con Đức Trinh Nữ, Chủ tể vạn vật, đã làm thế cũng vì anh em nhân loại của Người. Để họ có một bà mẹ trên trời, một bà mẹ thật, một bà mẹ từ nơi họ, đủ cả xác hồn, một bà mẹ mạnh thế, vì cũng là Mẹ của Chúa tể vũ trụ.
Xong rồi, Đức Maria đã ở cùng Thiên Chúa ngay từ giây phút nhắm mắt. Mẹ đã gặp lại Con và Con đã gặp lại Mẹ, xác lẫn hồn. Cả hai bên nhau, muôn đời vĩnh cửu. Đây làm một mầu nhiệm chói ngời vẻ đẹp. Và rốt cục loài người đã biết được điều ấy, đã chính thức công nhận điều ấy. Kể từ thời dân Kitô giáo linh cảm mầu nhiệm tình hiếu tử và nghĩa huynh đệ của Đức Giêsu Ngôi Lời Thiên Chúa, thì việc đánh giá cao, đánh giá đủ các hồng ân của Mẹ Người trong thời đại này làm chính Người vui thỏa.
Giờ đây, nhân loại hãy biết khai thác điều ấy. Trên trời họ có một người mẹ hằng chú mục theo dõi họ, với đôi mắt thịt của bà. Trên trời họ có một người mẹ hằng toàn tâm yêu thương họ, với trái tim thịt của bà. Và người mẹ ấy cũng là Mẹ Thiên Chúa, hằng nhìn Thiên Chúa với cùng đôi mắt, hằng yêu Thiên Chúa với cùng trái tim. Nếu láu cá, nhân loại sẽ lợi dụng điều ấy, vì họ biết rằng Thiên Chúa sẽ không thể từ chối Đức Maria điều gì cả. Sao có thể từ chối được, đấy là Thân Mẫu của Người mà! Người đã muốn có Mẹ và Người đã chẳng bao giờ phàn nàn hối tiếc chuyện đó. Nhân loại hãy vững lòng cầu xin với Đức Maria vì “Ngài là Mẹ Thiên Chúa để có tất cả, và là mẹ nhân loại để cho tất cả”, như thánh Bênađô đã dạy.
• Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, Cha thật đáng chúc tụng trong các thánh của Cha. Cha đặc biệt đáng chúc tụng trong kẻ đã được Giáo Hội mọi thời xưng là Đấng Toàn Thánh, Đức Trinh Nữ Maria, người phụ nữ đã được Cha cất nhắc lên trời hôm nay. Cha đã cho Mẹ trở thành khởi đầu và hình ảnh của Hội Thánh viên mãn, trở thành niềm an ủi và nỗi hy vọng tràn trề cho dân thánh chúng con trong cuộc lữ hành trần thế. Cha đã không muốn Mẹ chịu cảnh hư nát trong mồ, vì Mẹ đã sinh hạ Con Cha yêu quý, Đấng ban sự sống cho mọi loài sinh linh. Cha đã đặt Mẹ làm Nữ vương sáng ngời rực rỡ bên hữu Con của Cha và Con của Mẹ là Đức Vua bất tử muôn đời. Lạy Cha, chúng con xin cảm tạ Cha muôn vàn, vì thành quả của đời Mẹ cũng sẽ là thành quả của đời chúng con, phần thưởng Cha ban cho Mẹ cũng là phần thưởng Cha hứa dành cho chúng con, hiện tại Mẹ vui hưởng cũng là tương lai chúng con mong chờ. Xin cho chúng con sống thanh luyện dần mỗi ngày, hầu khi đến trước tòa Cha, chẳng còn cản trở nào khiến chúng con không thể kết hợp với Cha vĩnh viễn. • Lạy Đức Trinh Nữ Maria, xin giúp chúng con trở thành thần dân xứng đáng của Chúa Kitô Vua vũ trụ, của Mẹ là Nữ vương trời đất, thần dân của một Vương quốc tình yêu đã được dựng xây ngay tại thế này. Nay được tôn vinh vượt các thần thánh trên trời, xin Mẹ cầu bầu cùng Thiên Chúa cho chúng con, cho toàn thể nhân loại, cho tới khi mọi gia đình các dân tộc đều hân hoan đoàn tụ trong an bình và hòa thuận, hợp thành một dân duy nhất của Thiên Chúa, hầu tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi đến muôn đời. Amen.
62. Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời - Lm. Vũ Xuân Hạnh
NHỮNG NGƯỜI THUỘC VỀ CHÚA KITÔ
Gọi là lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời. Nhưng sau khi nghe ba bài Kinh Thánh, bạn có để ý nhận ra Giáo Hội muốn nhấn mạnh một điều gì không? Ta cùng điểm qua các bài đọc để hiểu Giáo Hội muốn nói gì.
Bài đọc I (trích sách Khải huyền) kết thúc: “Nay sự cứu độ, quyền năng, uy quyền của Thiên Chúa, và của Đức Kitô đã được thực hiện”. Còn bài đọc II, thánh Phaolô gọi Chúa Kitô là hoa quả đầu mùa, sau đó mới đến những người thuộc về Chúa Kitô. Bài Tin Mừng lại càng rõ nét hơn. Chính Đức Maria ca ngợi Chúa rằng: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, lòng tôi hoan hỷ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu độ tôi”.
Điểm qua ba bài đọc, bạn đã thấy gì chưa. Riêng tôi nhận ra rằng. Dù là lễ Đức Mẹ về trời, nhưng Giáo Hội lại mời gọi ta hướng về Thiên Chúa, hướng về Chúa Kitô. Vì lẽ gì vậy? Sao lại hướng về Chúa trong lễ Đức Mẹ? Vì chỉ nhờ ơn cứu độ do Chúa Kitô thực hiện, Mẹ mới được hồn xác lên trời. Chính lời nguyện đều lễ xác nhận: “Chúa đã đưa lên trời cả hồn xác Đức Maria”. Còn kinh tiền tụng trong lễ này cũng không đi ngoài nội dung ấy: “Mẹ được Thiên Chúa đưa về trời”. Những kiểu nói: “Chúa đã đưa”, “được đưa” nghĩa là gì, nếu không phải là chính ơn Thiên Chúa ban, là chính nhờ cuộc khổ nạn, phục sinh, lên trời của Chúa Kitô, Mẹ mới được đưa về trời cả hồn lẫn xác. Cũng là người như chúng ta, Mẹ không thể tự mình về trời hồn xác. bởi đó trong thánh lễ này, Giáo Hội hướng về Thiên Chúa mà tuyên xưng những hành động kỳ diệu Chúa đã thực hiện nơi Mẹ. Chính Mẹ chứ không phải Giáo Hội hay chúng ta - chính Mẹ chứ không phải ai khác, là người trước tiên tuyên xưng hành động cứu độ ấy của Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa, Đấng Cứu độ tôi”. Những chữ: “Đấng Cứu độ tôi”, quả thật là lời quy hướng về Thiên Chúa và ngợi khen Thiên Chúa, ngợi khen Đấng Cứu độ mình. Chỉ có Đấng Cứu độ, chỉ nhờ Đấng Cứu độ, chỉ trong Đấng Cứu độ, Mẹ mới được đưa lên trời hồn xác, vì Đấng ấy đã cứu độ Mẹ.
Lời ca ngợi quy hướng về Thiên Chúa của Đức Mẹ, còn được hỗ trợ bởi rất nhiều lời Kinh Thánh khác. Chẳng hạn lời của thánh Phaolô trong bài đọc II: “Hoa quả đầu mùa là Đức Kitô, rồi mới đến những người thuộc về Đức Kitô”. Chắc bạn đồng ý với tôi, có ai thuộc về Chúa Kitô cho bằng Đức Maria. Bởi vậy, nếu Chúa Kitô là hoa quả đầu mùa, đã về trời cả hồn và xác, thì Mẹ Maria, người thuộc về hoa quả đầu mùa ấy một cách trọn vẹn, cũng được đưa về trời hồn xác, không phải là điều gì khó hiểu.
Vậy bạn và tôi hãy khẳng định lại một lần nữa rằng, Đức Mẹ không thể tự mình về trời nếu không có Chúa. Khẳng định như vậy không hạ thấp Mẹ chúng ta. Trái lại, ta tuyên xưng đúng vị trí mà Mẹ được Chúa thưởng ban. Trong chính ngày lễ Đức Mẹ hồn xác về trời, bằng các bài Kinh Thánh, bằng các lời nguyện, bằng kinh tiền tụng, Giáo Hội hướng chúng ta về Thiên Chúa, để cùng với Mẹ mà ca ngợi Chúa rằng: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa, Đấng Cứu độ tôi”.
Nếu Mẹ đã ca ngợi Chúa bằng cả cuộc đời của Mẹ thế nào, thì suốt cả cuộc đời của mỗi người, của bạn và của tôi, cũng là một lời ca ngợi Thiên Chúa liên lỷ như Mẹ vậy. Dù trong hoàn cảnh nào, dù cuộc đời có thương đau như một người mang thai “kêu la chuyển bụng, và đau đớn sinh con”, hay nỗi bất hạnh, lao đao, hoặc ngay cả tai họa ập đến dữ dội như một con rồng khổng lồ đang đe dọa hãi hùng mà sách Khải huyền diễn tả, chúng ta vẫn một lòng tin tưởng tín thác đời mình cho Chúa như Mẹ. Để có được ơn vinh quang về trời, Mẹ đã sống đức tin trọn vẹn. Ngay cả khi đứng bên thập giá, nhìn con chết tức tưởi, nhục nhã, Mẹ vẫn tin, vẫn ngợi khen Thiên Chúa, Đấng Cứu độ của Mẹ. Còn ta, sống giữa biển đời, biết bao nhiêu lần gặp thử thách, biết bao nhiêu bi thương ập đến, có khi như muốn vùi lấp cuộc đời mình, những lúc như vậy, ta có còn tin Chúa không? Có đủ trông cậy để cất lên lời ca ngợi: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa, Đấng Cứu độ tôi” như Mẹ của mình? Câu hỏi này xin gởi đến bạn và cũng là nói với chính bản thân tôi, để tất cả tự tra vấn đức tin của mình đối với Thiên Chúa.
Thánh Phaolô nói, Chúa Kitô là hoa quả đầu mùa, rồi mới đến những người thuộc về Chúa Kitô. Mẹ đã thuộc về Chúa Kitô, và chúng ta cũng thuộc về Chúa Kitô. Nếu biết sống đức tin mạnh mẽ như Mẹ, chúng ta cũng được hồn xác về trời giống như Mẹ. Những gì Chúa đã thực hiện nơi Mẹ, Người cũng sẽ thực hiện nơi mỗi người, từng người, từng người một. Mãi mãi bạn hãy cùng tôi xác tín rằng, Chúa Kitô là hoa quả đầu mùa, rồi sẽ đến lược chúng ta, là những kẻ thuộc về Chúa Kitô. Tôi chắc chắn, nếu niềm xác tín của ta đạt đến mức độ cao như Mẹ, thì cũng chắc chắn rằng cả cuộc đời ta cũng sẽ là một cuộc đời ca khen Thiên Chúa cùng Mẹ, như Mẹ và hiệp thông với Mẹ: “Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa, Đấng Cứu độ tôi”.
63. Truyền thống và Thánh Kinh nói gì?
(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)
Ta không biết gì về việc Chúa rước Đức Mẹ hay Đức Mẹ rời cuộc sống trần gian bằng cách thức nào. Chỉ có một văn bản ngụy thư “Đức Mẹ đi vào giấc ngủ” (Mary’s Dormition), thế kỷ thứ V, cho biết, những giây phút cuối đời của Đức Mẹ, khi các tông đồ vây quanh để cầu nguyện thì Chúa Kitô đến đưa Đức Mẹ về Thiên Đàng. Dù sao truyền thống của Hội Thánh và một vài hình ảnh mà nhiều bản văn Kinh Thánh gợi lên, củng cố cho cho đức tin của chúng ta trong việc nhìn nhận Người Mẹ Thật của chúng ta đã tiên phong hưởng hạnh phúc cả hồn lẫn xác.
I. Truyền thống đức tin của Hội Thánh.
Niềm tin Đức Mẹ được triệu hồi cả hồn lẫn xác về trời bắt nguồn từ truyền thống xa xưa của Hội Thánh. Đến thế kỷ VI, Hội Thánh phương đông Đã sớm cử hành lễ Đức Mẹ Đi Vào Giấc Ngủ vào khoảng giữa tháng giêng. Sau này, hoàng đế Maurice (582-602) xác định dứt khoát lễ nay cử hàng ngày 15 tháng 8. Với lòng sùng kính Đức Mẹ cách đặc biệt, Đức Giáo hoàng Theodore (642-649) đã muốn thiết lập lễ này cho nghi lễ Rôma ngay thế kỷ sau đó, thế kỷ thứ VII. Năm 813, Công Đồng Mayence truyền cho toàn Châu Âu cử hành lễ này với tên gọi là Lễ Mông Triệu (Thiên Chúa triệu hồi Đức Mẹ về trời), chính thức nhìn nhận cách mặc nhiên Đức Mẹ được triệu hồi về trời.
Đến năm 1854, sau khi đức Piô IX công bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm, thì phong trào sùng kính Đức Mẹ vốn đã mạnh mẽ từ lâu trong Hội Thánh, nay như được dịp khuấy động dữ dội hơn. Chỉ trong vòng chưa đầy một trăm năm sau, tính đến năm 1945, khắp thế giới có khoảng tám triệu thỉnh nguyện thư của các tín hữu và khoảng gần 100. 000 thỉnh nguyện thư khác đến từ các giám mục, linh mục, các tu sĩ, các nhà thần học xin Tòa Thánh chính thức xác định tín điều về Đức Bà Mông Triệu Thăng Thiên hay Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Trước những lời thỉnh cầu tha thiết ấy, để có thể quyết định một cách thận trọng nhất trước vấn đề đức tin quan trọng này, Đức Piô XII công bố Thông Điệp Deiparae Virginis để xin ý kiến Giám mục đoàn trên khắp thế giới. Thật lạ lùng, sau năm năm hỏi ý kiến, chỉ có sáu giám mục nghi ngờ về tính chất ‘mặc khải’ của việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời.
Dù niềm tin Đức Mẹ hồn xác về trời đã có từ rất lâu trong truyền thống Hội Thánh, nhưng mãi đến ngày 1.11.1950, tức vào ngày lễ các thánh Nam Nữ, bằng một phán quyết long trọng: “Chúng tôi khẳng định, chúng tôi tuyên bố và chúng tôi minh định như một tín điều được Thiên Chúa mặc khải rằng Đức Maria Vô Nhiễm trọn đời đồng trinh, Mẹ Thiên Chúa, sau khi hoàn tất cuộc sống trần gian, đã được cất nhắc về vinh quang trên trời cả xác lẫn hồn” (tông hiến Munificentissimus Deus).
Đức Giáo hoàng đã không chọn ngày nào, lại chọn ngày lễ các thánh Nam Nữ để công bố tín điều Đức Mẹ hồn xác lên trời. Tôi thấy có một ý nghĩa lớn: Giữa hàng ngũ các thánh của Chúa, Đức Maria trổi vượt trên tất cả về sự thánh thiện và lòng yêu mến Chúa. Sự thánh thiện tuyệt vời của Đức Mẹ đã mở đường cho Đức Mẹ đi tiên phong trước mọi thụ tạo, tiến về cùng Chúa, hưởng vinh quang nơi Chúa bằng toàn bộ con người, gồm cả xác lẫn hồn của Đức Mẹ.
II. Vài hình ảnh gợi ý trong các bản văn Thánh Kinh của ngày lễ.
Ta chú ý lời của Đức Maria trong Tin Mừng: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, lòng tôi hoan hỷ trong TYhiên CHúa, Đấng Cứu Độ tôi” (Lc 1, 46-47). Chính Đức Mẹ̣ – Đức Mẹ chứ không phải bất cứ tập thể hay cá nhân nào, dù là Hội Thánh hay chúng ta – đã ca ngợi Chúa, ca ngợi lòng thương xót của Chúa. Đức Mẹ đã tuyên xưng hành động cứu độ của Chúa, và gọi Chúa là “Đấng Cứu độ tôi”. Những chữ “Đấng Cứu độ tôi”, quả thật là lời quy hướng về Chúa. Đức Mẹ đã nhìn nhận, đã tin tưởng thực sự rằng: Chỉ có Chúa, chỉ trong Chúa, Đức Mẹ mới được vinh quang và hạnh phúc vô cùng như thế.
Lời ca ngợi quy hướng về Thiên Chúa của Đức Mẹ” “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, lòng tôi hoan hỷ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu độ tôi”, còn được hỗ trợ bởi nhiều lời Kinh Thánh khác. Chẳng hạn, lời thánh Phaolô trong bài đọc II:: “Đức Kitô đã từ cõi chết sống lại, là hoa quả đầu mùa của nhữn kẻ yên giấc…Hoa quả đầu mùa là Đức Kitô, đoạn đến những kẻ thuộc về Đức Kitô, những kẻ đã tin Người xuống thế: rồi đến tận cùng, khi Người đã trao vương quốc lại cho Thiên Chúa Cha, và đã tiêu diệt mọi đầu mục, quyền năng và thế lực” (1Cr 15, 20tt). Đã từng có ai thuộc về Chúa Kitô như Đức Mẹ? Bởi thế, nếu Chúa Kitô là hoa quả đầu mùa, đã trở về trời cả hồn và xác, thì Đức Mẹ, người thuộc về hoa quả đầu mùa ấy một cách trọn vẹn, cũng được đưa về trời hồn xác, không có gì là điều khó hiểu. Bởi chính Đấng Cứu Độ đã thực thi ơn cứu độ trên khắp nhân loại, chắc chắn sẽ thực thi cách hoàn hảo nhất hành động cứu độ ấy trên chính người mẹ của mình.
Bài đọc I, trích sách Khải Huyền kết thúc: “Nay sự cứu độ, quyền năng, vương quyền của Thiên Chúa chúng ta và uy quyền của Chúa Kitô của Người đã được thực hiện” (Kh 12, 10). Đây là lời nhấn mạnh sự chiến thắng trong ơn cứu độ của Chúa Kitô. Chắc chắn như chúng ta, Đức Mẹ đã không thể làm gì ngoài sức mình. Nhưng Đức Mẹ biết dùng sức mình để chiến đấu trong ơn thánh Chúa. Đức Mẹ đã không sống hay làm một mình, nhưng phó thác đời mình cho Chúa, để nhờ Chúa mà Đức Mẹ chiến thắng. Bởi Đức Mẹ tin chắc rằng, dù phải sống trong đau thương đến đâu, thậm chí nỗi đau đớn đến cùng cực như người mang thai “kêu la chuyển bụng, và đau đớn sinh con”, hay sự dữ ập đến hãi hùng như “con rồng đỏ khổng lồ” đang đe dọa dữ dội, thì sự cứu độ của Chúa và vương quyền của Chúa Kitô đã được thực hiện. Mà sự cứu độ của Chúa đã được thực hiện, thì sự cứu độ ấy, chắc chắc bao trùm lên chính cuộc đời của Đức Mẹ. Đức Mẹ đã sống và chiến đấu với mọi thử thách trong Chúa. Ơn cứu độ dành cho tất cả những ai kiên trì chiến đầu và chiến thắng. Ơn cứu độ ấy thật xứng đáng trước tiên dành cho Mẹ của Chúa Kitô, người phụ nữ chiến thắng.
Điểm qua ba bài đọc, ta nhận ra: cùng đích của mọi ơn lành là chính Chúa Kitô. Bởi thế, dù là lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời, nhưng Hội Thánh lại mời gọi ta hướng về Thiên Chúa, hướng về Chúa Kitô. Bởi chỉ nhờ ơn cứu độ do Chúa Kitô thực hiện trong cuộc phục sinh vinh hiển của Người, theo ý Thiên Chúa, Đức Meï môùi ñöôïc đưa ra khỏi trần gian, được trọng thưởng đặc biệt hồn xác lên trời. Bởi vậy, mừng lễ hôm nay là mừng sự nối kết gần gũi hết sức giữa niềm tin Mông Triệu của Đức Mẹ và niềm tin phục sinh của Chúa Kitô, người Con một yêu dấu của Đức Mẹ. Đó là sợi dây liên kết tất yếu giữa Mẹ và Con. Bởi như Chúa đã phục sinh thế nào, thì Mẹ của Chúa cũng là người trước hết hưởng vinh quang phục sinh của Con mình thế ấy. Chúa đã không để Đức Mẹ chịu cảnh hư nát, vì Đức Mẹ là Mẹ của Chúa, Đấng Vĩnh Cửu. Vì vậy, chúng ta tôn vinh Đức Maria hồn xác lên trời, cũng đồng thời là lúc chúng ta tôn vinh mầu nhiệm phục sinh cao cả của Chúa Kitô.
Đức Mẹ đã về trời, đó là dấu chỉ hữu hiệu cho đức tin của ta: Tương lai không còn là điều đáng ngại lo lắng, nhưng trở nên điều đáng quan tâm xây dựng, và cuộc sống này trở thành những ngày chuẩn bị cho tương lai ấy. Chúng ta chuẩn bị bằng cách bắt chước Đức Mẹ sống lành thánh trong tin yêu, sống niềm phó thác tuyệt đối trong tay Chúa, biết lắng nghe, thực thi Lời Chúa, sống tư cách làm con Chúa trong đời sống bác ái với anh em… Chúng ta hãy nhìn lên Đức Mẹ để thấy rằng, Đức Mẹ dù là người Nữ của chiến thắng, người Nữ vinh quang với triều thiên sao sáng, nhưng bị vây bủa đầy chông gai, thử thách. Nhìn lên Đức Mẹ như thế, để nhận ra chính mình mà vững niềm cậy trông. Bởi chúng ta cũng phải cam chịu nhiều thử thách. Vinh quang chỉ có thể lớn lên từ trong thử thách mà thôi.
Lạy Chúa Giêsu, nhờ công nghiệp của Đức Mẹ, xin thánh hóa toàn bộ cuộc đời chúng con, để chúng con cùng được như Đức Mẹ, xứng đáng lãnh lấy phần thưởng đời đời trên thiên quốc. Amen.
64. Lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời
(Suy niệm của Lm. Vũ Xuân Hạnh)
Để chuẩn bị đón mừng ngày lễ Đức Mẹ được đưa lên trời cả hồn và xác, chúng ta cùng nhau ôn lại vị trí của Mẹ chúng ta trong Thánh Kinh. Từ đó, ta biết giục lòng yêu mến Mẹ nhiều hơn và bắt chước Mẹ luôn sẵn sàng vâng theo thánh ý Chúa.
- Từ thủơ đời đời Mẹ đã có chỗ đứng quan trọng trong Tin-Mừng Nguyên-Thủy, ngay khi Evà bị con rắn quyến-rũ phạm tội, đem cái chết đến cho nhân-loại thì Giavê Thiên-Chúa đã phán bảo con rắn: "Bởi ngươi đã làm thế thì ngươi hãy là đồ chúc dữ giữa mọi thú-vật cùng dã-thú hết thảy! Ngươi hãy lê bụng và ăn đất-bụi mọi ngày đời ngươi. Ta sẽ đặt hận-thù giữa ngươi và NGƯỜI ĐÀN-BÀ, giữa dòng giống ngươi và dòng giống nó, dòng giống nó sẽ đạp đầu ngươi còn ngươi sẽ táp lại gót chân!" (Khởi Nguyên 3,14-15).
-Trong suốt bốn ngàn năm mong-đợi Đấng Cứu-Thế, Mẹ đã được các Tiên-Tri trong Cựu-Ước loan-báo sẽ thụ-thai và sinh-hạ một con trai đặt tên là Ê-ma-nu-el, có nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta: "Chính Đức Chúa sẽ cho các ngươi một dấu-lạ: Này một TRINH NỮ sẽ thụ-thai và sinh-hạ một con trai, và Bà sẽ đặt tên con là Ê-ma-nu-e!" (Isaiia 7, 14).
-Tiên-Tri Mica cũng nói về Mẹ và Con của Mẹ: "Người sẽ phó-nộp chúng cho tới thời-kỳ TRINH-NỮ sinh Con và số-sót anh em Ngài về với Israel. Ngài sẽ bền-vững, Ngài sẽ chăn-dắt dựa vào quyền-năng Giavê, nhờ Uy-Danh Giavê Thiên-Chúa của Ngài. Và chúng sẽ được an-cư, vì bấy giờ Ngài sẽ nên lớn-lao cho đến mút cùng trái-đất!" (Mi-ca 5,2-3).
- Tiên-Tri Zacarya cũng tiên-báo về Mẹ: "Giavê phán: Hãy reo lên! Hãy vui-mừng, hỡi NỮ-TỬ SION! Này Ta đến lưu-trú ở giưã ngươi!" (Za-ca-ry-a 2,14).
- Trong ngày Truyền-Tin, Thiên-Sứ Ga-bri-el đã kính-cẩn chào Mẹ: "KÍNH MỪNG MARIA ĐẦY ƠN-PHÚC, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc hơn mọi người nữ!" (Luca 1,28).
- Bà Isave nghe Mẹ chào, được tràn đầy Thánh-Linh, đã hân-hoan lớn tiếng thốt lên: "Trong nữ-giới có EM LÀ NGƯỜI DIỄM-PHÚC, và đáng chúc-tụng thay hoa-quả lòng Em! Và bởi đâu tôi được thế này, là Mẹ Chúa tôi đến thăm tôi? Vì tai tôi vừa nghe tiếng Em chào, thì hài-nhi trong dạ tôi nhảy mừng! Phúc cho Em là người đã tin Lời Thiên Chúa phán sẽ thành-sự!" (Luca 1, 42-45).
- Đang khi Chúa Giêsu giảng-dạy, thì giữa dân-chúng có một bà cất tiếng nói với Ngài: "Phúc cho LÒNG DẠ CƯU-MANG THÀY, và vú đã cho Thày bú!" (Luca 11,27).
- Đứng bên khổ-giá Đức Giêsu có Mẹ Ngài và người chị họ của Mẹ Ngài là Maria vợ ông Clôpát, và Maria người Magđala. Vậy Đức Giêsu thấy Mẹ Ngài và môn-đồ Ngài yêu-mến đứng bên cạnh thì nói với Mẹ: "Thưa Bà, đây là con Bà!". Đoạn lại nói với môn-đồ: "Đấy là Mẹ con!". Và từ giờ đó môn-đồ đã lãnh lấy Bà về nhà mình." (Gioan 19,25-27).
Chúng ta chạy đến với Mẹ để nhờ Mẹ an-ủi, hộ-vực, dìu-dắt, chia-sẻ kinh-nghiệm và bí-quyết nên thánh. Chúng ta chạy đến với Mẹ để nhờ Mẹ cầu thay nguyện giúp với Thiên-Chúa cho chúng ta, tiến-cử chúng ta với Thiên-Chúa, để chắc-chắn một ngày kia chúng ta cũng sẽ gia-nhập hàng-ngũ các Thánh, cùng với Mẹ là Nữ-Vương các Thiên-Thần và các Thánh Nam Nữ chúc-tụng tôn-vinh Thiên-Chúa, Cha chúng ta!
65. Lễ Mẹ lên trời
Hôm nay chúng ta mừng kính một trong bốn hồng ân trọng đại mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Maria Mẹ của chúng ta.
Mừng lễ hôm nay tự nhiên tôi lại nhớ đến câu truyện đã xẩy ra trong cuộc đời của tôi cách đây hơn gần 20 năm. Cũng vào dịp như thế này vào chiều 15-8-1981. Sau khi tôi vừa dâng lễ xong thì có một người đàn ông trạc độ 50-60 tuổi. Ông tìm đến với tôi và nói với tôi những lời rất chân thành như sau trước mặt mọi người: "Thưa Cha, hôm nay con nghe bài giảng của cha con cảm động quá. Cha còn mặc áo màu vàng... màu vui, màu chiến thắng... Nhưng cha có biết không... hôm nay là ngày giỗ của mẹ con... Mẹ con mất... ở đời con chỉ có mẹ... Con nhớ mẹ con quá... Xin cha cho con địa chỉ của Vatican... Con gửi thư con nói với Chúa... con đòi mẹ con lại. Ở đời con chỉ có mẹ. Đời con chỉ có mẹ. Mẹ là lẽ sống, mẹ là niềm vui của con. Con muốn đòi mẹ con lại.
Vâng kính thưa anh chị em. Mẹ là lẽ sống, là niềm vui. Có Mẹ thật không có gì hạnh phúc hơn.
Không thể có niềm vui nếu không có mẹ. Có lẽ chính vì thế mà Thiên Chúa là Cha đầy lòng thương xót đã ban cho chúng ta một người mẹ tuyệt vời: Mẹ Maria, Mẹ của mỗi người chúng ta.
Hôm nay chúng ta mừng mẹ được về trời. Mẹ về trời có nghĩa là mẹ đang sống. Sự sống của Mẹ không phải chỉ giới hạn trong cuộc đời, nhưng bao trùm cả lịch sử: Lịch sử của cả loài người lẫn lịch sử của mỗi người chúng ta.
Vâng ngay từ thuở đời đời Thiên Chúa đã muốn cho người mẹ đó luôn ở với chúng ta.
1. Ngay từ những ngày tháng đầu tiên khi mới có con người trên trái đất này, Mẹ đã có mặt ở đó:
"Ta sẽ đặt giữa ngươi và người phụ nữ
Giữa dòng dõi ngươi và dòng dõi người nữ
một mối cừu địch
Người phụ nữ đó sẽ đạp dập đầu mi"
2. Rồi khi đến thời đến buổi, lúc Thiên Chúa muốn thực hiện lời hứa của Người. Mẹ Maria đã có mặt ở đó. Bằng Lời Xin vâng với tất cả tâm tình phó thác, Mẹ để cho Thiên Chúa hoàn toàn làm chủ cuộc đời của mình để làm những việc Thiên Chúa muốn làm trong chương trình cứu rỗi loài người chúng ta
+ Ngày Chúa Giêsu Đấng Cứu thế ra đời, khởi đầu công việc cứu thế, Mẹ có mặt ở đó để chứng kiến giây phút trọng đại này.
+ Lúc Chúa khởi sự cuộc đời công khai, tại tiệc cưới Cana, Mẹ có mặt ở đó như một người mẹ luôn lo lắng cho con cái của mình
+ Lúc Chúa rao giảng: Mẹ có mặt xa xa nhưng khi Chúa bị treo trên Thánh Giá: Mẹ đứng thật gần. Thánh Gioan"Mẹ đứng sát cạnh Chúa Giêsu...như một trợ lực cho người con để Ngài làm xong những công việc cần phải làm cho mọi sự được hoàn tất.
+ Rồi ngày đầu tiên đánh dấu sự ra đời của Giáo hội Mẹ có mặt ở đó với tất cả lòng yêu thương để khích lệ các tông đồ can đảm dấn thân vào cuộc sống mới: Cuộc sống làm chứng cho Chúa Giêsu Phục sinh.
+ Chưa hết: Sau khi Chúa về trời
Mẹ cũng tiếp tục có mặt, có mặt như một nhắc nhở để những người con của mẹ nơi trần thế chớ có vì cuộc sống tạm bợ mà quên mất trời cao
+ Mẹ đã hiện ra với nữ tu Catharina Labouré tại khu phố Dubac ở Thủ đô nước Pháp năm 1830
+ Năm 1846 tại La Salette Mẹ hiện ra với hai trẻ mục đồng: Mélaine (10 tuổi) và Maximin (15 tuổi)
+ Tại Lộ Đức năm 1858 với cô bé chăn cừu Bernadette
+ Tại Pontmain 1871 với Cha Barbedette và cậu Eugène
+ Tại Pellevoisin 1876 với Estelle Faguette (12 tuổi)
+ Tại Fatima 1917 với ba trẻ: Giaxinta (7 tuổi)- Phanxicô (9 tuổi) - Và Lucia 10 tuổi)
+ Tại Beauring Bỉ với Albert (11 tuổi) - Fernande Versin (15 tuổi) Gilberte Degeimbre (9 tuổi) và André Degeimbre (14 tuổi)
+ Và sau đó tại Banneux cũng ở tại nước Bỉ với Mariette (12 tuổi)
+ Tại Hang Ba suối ở Roma với 1 người đàn ông và ba em nhỏ: Ông Bruno Cornachiola và ba em là: Isala (10 tuổi) - Carlô (7 tuổi) và Gioanfraco (4 tuổi)
Và gần đây ngày 24/6/1981 tại Medjugorji thuộc trung tâm nước Nam tư cũ với hai thiếu nữ Mirjana Dragicevic và Ivanda Ivankovic
Cuối cùng chúng ta cũng không quên Mẹ đã hiện ra nhiều lần cách đây hơn 200 năm tại Lavang.....
Tất cả những lần hiện ra như thế dường như chỉ để chứng minh có một điều: Mẹ vẫn có mặt, có mặt thường xuyên và gần gũi với con cái loài người chúng ta, giúp cho con cái loài người hãy biết sống để chiếm hữu được trời cao như Mẹ.
Vâng chúng ta hãy biết nghe lời Mẹ.
Một hôm trong đám những người hành hương đến Arc có một người đàn bà mang đại tang. Bà vào giữa nhà thờ đứng như trời trồng ở giữa mọi người. Bà có vẻ rất đau khổ. Lý do là chồng bà, một người đã bỏ đạo từ lâu cách đây mấy bữa đã nhảy xuống sông tự tử… đã chết mà không được lãnh nhận những bí tích cuối cùng. Cha Gioan Maria Vianey đi qua… Bà chưa kịp nói gì thì Cha ghé vào tai bảo bà:
- Ông nhà đã được cứu rỗi rồi.
Thấy người đàn bà có vẻ quá ngạc nhiên, cha nói lại một lần nữa:
- Tôi đã bảo ông nhà đã được cứu rỗi rồi mà.
Bà thắc mắc hỏi lại với một giọng đầy hoài nghi, cha nhấn mạnh từng tiếng:
- Tôi bảo bà là ông nhà đã được cứu rỗi rồi. Ông hiện đang ở trong Luyện ngục. Phải cầu nguyện nhiều cho ông ta. Giữa nhịp cầu và dòng nước ông đã có được một thời gian để ăn năn thống hối. Bà còn nhớ là trong tháng Đức Mẹ, bà đã cho làm một bàn thờ trong phòng của bà không? Thỉnh thoảng, chồng của bà, mặc dầu đã bỏ đạo cũng đến hợp lời cầu nguyện với bà. Thái độ đó đã đem lại cho ông ta ơn thống hối và tha tội vào phút cuối cùng của cuộc đời.
Lạy Mẹ Maria
Đã một lần Mẹ nhận nhân loại chúng con làm con của mẹ
Và từ dạo ấy
Mẹ đã yêu nhân loại với tất cả tấm lòng từ mẫu
Chúng con là những người trong khối nhân loại ấy
Và như thế chúng con đã đương nhiên là con của Mẹ
Và đương nhiên là Mẹ thương chúng con
Xin dạy chúng con
biết chiêm ngắm Chúa Kitô
và suy đi nghĩ lại những Lời của Người
trong tâm tình yêu mến như Mẹ
Xin dẫn lối cho chúng con
trên bước đuờng theo Chúa
cũng như đem Chúa đến cho mọi người
Xin dạy chúng con biết luôn bước đi trên con đường tình yêu
Với tâm tình phó thác
Xin dẫn chúng con
đến sự sống muôn đời
bằng cách đặt bàn tay chúng con
vào bàn tay của Chúa Kitô
Đấng đã có lần nói với mọi người
Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Amen.
66. Lễ Đức Maria Hồn Xác Lên Trời
(Suy niệm của Noel Quesson - Trích trong ‘Lời Chúa Cho Mỗi Chúa Nhật’)
Ngày lễ này đã được các Giáo Hội Phương Đông và Phương Tây mừng kính trọng thể từ thế kỷ thứ V. Đức Giáo Hoàng Piô XII đã xác định Đức Mẹ lên trời như một tín điều của Đức tin ngày 1 tháng mười một 1950. “Đức Mẹ lên trời là đặc ân qua đó Mẹ Vô Nhiễm Nguyên tội của Thiên Chúa được vinh thăng cả hồn lẫn xác khi đời sống trần gian của Mẹ chấm dứt, mà không chờ đến ngày sống lại sau cùng”. Điều này là đức tin của Giáo Hội từ lâu đời, và một chứng cứ, giữa nhiều chứng cứ khác, là cửa kính màu. Đức Maria Ly Trần của nhà thờ chính tòa Angers, vào thế kỷ thứ XII.
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn..."
Đức Maria là người nữ đầu tiên "được cứu”. Bài ca ngợi khen, Maglnficat, của Mẹ đã dâng mọi vinh quang lên "Cứu Chúa", Đấng "Toàn Năng". Trường hợp đặc biệt của Đức Maria được Thiên Chúa cho cả hồn lẫn xác đi vào vinh quang của Người, không do bởi công nghiệp của Mẹ nhưng do ân sủng của Con Mẹ là Đức -Giêsu. Mẹ nhận mình là “nữ tỳ bèn mọn" của Đức Chúa. Bài ca ngợi khen của Mẹ không có điều gì như một bài ca của lòng kiêu hãnh. Đó là một thú nhận của lòng khiêm hạ ! Tất cả những gì của Mẹ đều do Thiên Chúa ban cho bội ân sủng và được dâng lại cho Thiên Chúa bằng lời ngợi khen. Chính vì thế lòng sùng kính chân thật Đức Maria luôn hướng chúng ta về mầu nhiệm Đức Kitô. Để hiểu sự vinh thăng của Đức Trinh Nữ, trước tiên chúng ta phải chiêm niệm vinh quang của Đức Giêsu phục sinh.
Đức Giêsu đã chỗi dậy từ cõi chết mở đường cho những ai yên giấc ngàn thu... mọi người nhờ liên đới với Đức Giêsu, cũng được Đức Giêsu cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: mở đường là Đức Kitô, rồi khi Đức Kitô quang lâm, thì đến lượt những kẻ thuộc về Người... (Cô-rin-tô 15,20-23).
Trong Đức Giêsu Kitô, "thới kỳ sau hết" đã bắt đầu.
Đó là thời cánh chung, theo cách gọi của các nhà thần học, do chữ "eschaton" = sau hết. Khi chúng ta nói đến thời kỳ sau hết, chúng ta luôn luôn có khuynh hướng nghĩ đến giới hạn cuối cùng, đến giây phút cuối cùng của thời gian mà chúng ta không có phương tiện nào để tưởng tượng và chúng
ta quy chiếu vào một tương lai xa vời nào đó. Hỡi ôi, cám dỗ để chúng ta không quan tâm đến ngày "tận thế" là chúng ta cho rằng tận thế ấy không đến lượt chúng ta.
Nhưng từ "tận thế" hay "thế mạt" theo nghĩa cánh chung đích thật, chỉ ra một thực tại hiện nay "đã bắt đầu”, mặc dù "chưa hoàn tất". Cánh chung theo nghĩa này chính là “mục tiêu” hướng dẫn một hành động ngay khi nó mới bắt đầu. "Đức Kitô đã sống lại... (đứng đầu mọi kẻ sống...tất cả sẽ sống lại... mỗi người theo thứ tự của mình). Trong Đức Giêsu Kitô, chính thực tại tối hậu của Thiên Chúa và thực tại tối hậu của con người đã xuất hiện sự sống lại không chỉ là "tận cùng của các sự vật", nhưng là nền tảng của các sự vật". Trong Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta bí mật sâu xa của công trình sáng thế của Người. Chính vì để dẫn chúng ta đến thực tại kỳ diệu của sự sống mà Người đã lên chướng trình cho chúng ta ngay từ khởi điểm. Trong Đức Giêsu sống lại thời sau hết, mục tiêu của lịch sử đã chạm đến chúng ta" (1 Côrintô 10,11).
Bởi ơn đặc biệt, Đức Maria đã đi đến vinh quang ấy và sự phát triển hoàn toàn chính là dự án của Thiên Chúa. Đức Maria có thể nói là "nguyên mẫu” của những gì mà Thiên Chúa đang làm với toàn thể tạo vật. Trong Đức Giêsu Kitô, điều đã đến cho Đức Maria, phải xảy đến với toàn thể Giáo Hội, và với mỗi người chúng ta. Sự biến hóa từ con người phải chết đến con người hằng sống đã hoàn toàn thành tựu trong Đức Giêsu Phục sinh, đã được Đức Maria, mẹ Người tham dự trước. Đối với phần còn lại của nhân loại sự biến hóa ấy đang được tiến hành. Khi mà lịch sử còn diễn tiến thì khuôn mặt chung cuộc, một cách tạm thời, mỗi người chúng ta bị bóng tối sự chết đánh dấu, và chúng ta "Xin mang lấy vào thân cho đủ mức những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh". (Cô-lô-xê 1,24)
Rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao. Bà có thai, đang kêu la đau đớn và quằn quại vì sắp sinh con (Khải Huyền 12, 1-2)
Kêu la... đau đớn và... quằn quại. Khi mà Lịch sử còn tiếp diễn thì đối với chúng ta, nhân loại còn phải chịu khổ như thế. Những bản tin thế giới qua báo chí và truyền hình đem đến cho chúng ta cảnh tượng bi thảm ấy mỗi ngày. Trong ngày mà chúng ta kỷ niệm sự vinh quang và hạnh phúc của Đức Maria, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta tình mẫu tử của Đức Maria đau đớn biết chừng nào, khi Mẹ sinh ra chúng ta, dưới chân thập giá.
Như thế mỗi một thử thách của chúng ta là một lần sinh đẻ. Đau khổ của chúng ta hiện nay là sự sinh nở một thế giới mới, cùng với Đức Kitô trên thập giá.
Quả thế, như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quân thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa Cha. Thật vậy, Đức Kitô phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Thù địch cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết. (1 Cô-rin-tô 15, 22-26)
Một số đầu óc bằng lòng với "tính bất tử của linh hồn". Tại sao, họ nói, còn nói đến "xác loài người ngày sau sống lại"?
Vả lại chúng ta tin rằng Ngôi Lời đã trở nên người phàm và trong mỗi Thánh Thể, Đức Giêsu làm cho chúng ta thành Mình Người... và Đức Maria đã được Thiên Chúa cưu mang cả hồn lẫn xác. Đây không phải là một sự tình cờ hay phụ thuộc. "Ai ăn thịt và uống máu tôi thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết" (Gioan 6,39-54). Trong ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên trời này, chúng ta phải tìm lại ý nghĩa của “thân xác".
Thân xác chúng ta không phải là một yếu tố bên ngoài, mà là một yếu tố cấu tạo nên chính chúng ta, bởi ý muốn của Đấng Sáng Thế. Triết học hiện đại, về điểm này, trở lại với trực giác của Kinh Thánh và bác bỏ chủ nghĩa nhị nguyên của Descartes. Thay vì nói rằng chúng ta gồm có một linh hồn và một thân xác, đúng hơn nên nói rằng "chúng ta là một thể xác có tâm linh" hoặc "một tinh thần nhập thể". Thánh Tôma Akinô đã nói: "Thiên Chúa đã cho con người tinh thần và bàn tay". Chỉ là một vật, vật chất, mà nó hoàn toàn thấm nhuần trí tuệ và chỉ làm điều mà trí óc tôi sai khiến nó. Ngược lại, tinh thần tôi không thể làm được gì nếu không có bàn tay tôi không có sự phân ly nào giữa hai khía cạnh ấy của nhân tính tôi: không có gì hoàn toàn là thân xác, và cũng không có gì hoàn toàn là tâm linh.
Khi chúng ta nói về "linh hồn", chúng ta không nói về một thứ "sự vật" phân ly và đối lập với thân xác. Chúng ta sử dụng cách nói này để nói rằng "nhân vị -con người" trường tồn qua mọi biến đổi thể chất mà nó chịu nhận qua tiến trình lịch sử của một con người: ông cụ già 80 tuổi này với thân xác mỏi mòn và đau đớn cũng là một người với người trưởng thành 40 tuổi ấy khi xưa đã làm việc nhiều với em bé 10 ngày tuổi đã cựa quậy nhẹ nhàng trong nôi của bé. Thân xác ấy đã biến đổi nhiều. Tuy nhiên, đó cũng là một con người (một nhân vị). Yếu tố thường hằng đó, người ta gọi nó là "linh hồn". Vậy, nói như thế không sai. Nhưng vẫn còn chân lý về người nam và người nữ, theo dó Đấng Tạo Hóa đã làm cho chúng ta có nam và có nữ; chính vì thân xác chúng ta là một phần trong toàn thể căn tính của chúng ta. Đức Giêsu có một thân xác. Và sự sống lại của thân xác không phải là một điều tùy phụ, nhưng là một bộ phận trong kế hoạch của Thiên Chúa.
Chúng ta biết rằng việc Đức Maria lên trời cả hồn lẫn xác nằm trong đường hướng mà Thiên Chúa muốn thực hiện cho tất cả chúng ta. Thiên Chúa muốn tiêu diệt hết mọi quyền lực của sự ác cho đến kẻ thù địch cuối cùng là sự chết.
Hồi ấy, bà Maria lên đường vội vã, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. Bà vào nhà Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được tràn đầy Thánh Thần... (Luca 1, 39-41)
Tin mừng về sự Nhập thể không ngừng đưa chúng ta về những thục tại của thân xác. Ở đây, Chúa Thánh Thần sử' dụng cái bụng của hai người phụ nữ để ban tràn đầy Thần Khí cho nhân loại. Thân xác không phải là một vật xấu xa, nặng nề và đáng khinh. Ai khinh khi thân xác là khinh khi Thiên -Chúa. Ai làm hại thân xác, là làm hại một "hình ảnh của Thiên Chúa". Sự Mông Triệu của Đức Maria đã nẩy mầm từ hạt giống chính là cảnh tượng đáng khâm phục này.
Đức Giêsu, con lòng bà gồm phúc lạ... và phần bà, bà được chúc phúc giữa tất cả những người phụ nữ..."
Thật vậy, chúng ta phải kính trọng sự im lặng cũng như sự kín đáo của Kinh Thánh về lúc cuối đời của Đức Maria. Chúng ta không có bất kỳ chi tiết nào về cái chết của Thánh Nữ Đồng Trinh - Đức Maria đã sống những ngày cuối cùng của cuộc đời Mẹ trong sự vô danh và im lặng.. Như thế nào? Không ai biết được. Không ai kể lại với sự chính xác. Người ta chỉ biết rằng Đức Maria chết "sau Con Mẹ" bởi vì Mẹ đã đứng dưới chân thánh giá nhìn con Mẹ từ trần.
Như Tin Mừng, chúng ta hãy chấm dứt sự suy niệm của chúng ta hôm nay bằng cách chiêm ngắm Đức Maria trên dưới tuổi đôi mươi lên đường vội vã, đi bộ đến miền núi xứ Giu-đê, với đứa con Mẹ cưu mang trong bụng... Mẹ đến nhà người chị họ, để giúp đỡ bà: Mẹ sẽ ở lại đó ba tháng !
Sống với Mẹ Maria thật tốt đẹp biết bao ! Mẹ của Thiên Chúa đã sống trọn đời Mẹ trong tình yêu thương tuyệt đối của Đức Chúa và của những người khác: Ngọn lửa thầm khi nhưng nong nàn không để lại "tro tàn". Giờ mà thân xác Mẹ chết, chính là giờ dâng tiến của lễ tình yêu sau cùng của Mẹ, không để sót cái gì. Trong thân xác hoàn toàn được linh hồn ấy tác động, không còn gì chịu hư nát: Tất cả đã được thêu hoá.
67. Suy niệm của R. Gutzwiller
THĂM VIẾNG (1, 39-45)
1. Những sự kiện
Cuộc gặp gỡ giữa bà Êlisabét và Đức Maria mang nhiều ý nghĩa, một khi được liên kết với hai khung cảnh Kinh thánh ta thấy ở trên. Êlisabét biểu hiệu Israel: già cả, gia đình tư tế, bị son sẻ tự nhiên, và nhờ phép lạ của Thiên Chúa trở thành người mẹ có con cái sinh ra vị tiền hô của Đấng Cứu Thế. Maria tượng trưng cho Giáo Hội: trẻ trung, trinh tiết, thành người Mẹ nhờ phép lạ của Thiên Chúa, sắp sinh hạ là Đấng Messia, Đấng Cứu độ. Hai người mẹ mà việc làm Mẹ mang một tầm vóc lịch sử, đã tìm gặp nhau và cùng liên kết với nhau đe cùng tụng ca vinh quang Thiên Chúa.
Maria lên đường đến thăm viếng phần vì –một cách rất tự nhiên- muốn thông dự vào biến cố vĩ đại và rồi bày tỏ tâm tình của mình, nhưng cũng vì muốn giúp đỡ và cuối cùng là đón nhận một dấu hiệu Thiên Chúa đã chỉ: như vậy, Mẹ đã đi sâu vào chương trình vĩ đại của Thiên Chúa.
Đằng sau tất cả những cái đó, người ta khám phá ra được sáng kiến, quyết định cá nhân của Mẹ. Một lời nói của Thiên Thần và sự thúc đẩy của ơn thánh đã đủ. Mẹ hiểu và Mẹ hành động. Tin mừng nói thêm là Mẹ vội vã. Ưng thuận thánh Ý Chúa, vâng lời tiếng mời gọi của Ngài thì không được chậm trễ và nặng nề, nhưng vui vẻ và lanh lẹ. Người nào đi theo tiếng gọi của Thiên Chúa và được Thần Khí thúc đẩy, phải bước đi với tâm hồn hài lòng và tinh thần cởi mở, dầu trên con đường đầy khó khăn.
Việc Maria cất bước đâu phải việc tự nhiên. Một thiếu nữ trẻ tuổi tự ý làm một cuộc hành trình dài ba ngày đường, rồi ở lại cả mấy tháng trời xa nhà xa cửa, hẳn phải là cái gì gây kinh ngạc cho người Do thái thời đó- và có thể được coi là quá đáng. Nhưng Maria đã để kệ tất cả nhưng cái nhìn phàm trần đó một khi muốn thực thi Thánh Ý Chúa.
2. Lời nói
Đức Maria đến chào thăm Êlisabét trong căn nhà của Giacaria. Chúng ta không biết đó là lời chào bình thường hay cùng lúc đó truyền đạt sứ điệp thien thần đã cho biết liên quan đến biến cố kỳ diệu kia. Trong mọi trường hợp, lời nói của Đức Maria làm cho Êlisabét và con bà đang mang trong lòng một sự cảm động và nhiệt tình cả về tự nhiên lẫn thần hứng của Thánh Than. Chính vì đó mà khi đáp lại lời chào, bà Êlisabét đã thốt lên với vẻ cảm động sâu xa: Em có phúc hơn mọi người nữ, và hoa quả bởi lòng em thật đáng chúc phúc. Phần đầu của Kinh Kính mừng được Thiên thần Chúa phát biểu, phần sau đã được Êlisabét xướng lên, và do đó bởi lòng thán phục của loài người. Sau này Giáo Hội đã thêm vào phần thứ ba trong ý nghĩa và theo tinh thần của con người tội lỗi.
Kinh Kính mừng như vậy hoàn toàn có nguồn gốc Kinh Thánh và Giáo Hội, đã là một trong những lời kinh đẹp nhất, sâu xa nhất, nhờ nó mà Êlisabét và Cựu ước nôí kết với Đức Maria và Tân ước, tất cả kết thúc bằng lời Giáo Hội, trong đó hết thảy đều quy tụ về.
Hoa quả của lòng Đức Nữ Trinh đã làm nên đối tượng cho việc vinh chúc, chính vì thế ta hiểu được tại sao Đức Mẹ đáng được ca tụng giữa hàng phụ nữ. ….Việc làm Mẹ của Đức Maria là một bí nhiệm của vẻ lớn lao của Mẹ, đồng thời cũng nói lên sự bí mật trong việc sùng kính Đức Mẹ của tất cả những ai suy nghĩ và tin tưởng theo Kinh Thánh.
Và bởi đâu tôi được Mẹ Chúa đến với tôi?. Bà Êlisabét, dù đã cao niên, cũng nhận thức được và tuyên xưng sự nhỏ bé của mình, ngạc nhiên và sung sướng, ca tụng người em họ này Mẹ của Chúa tôi: bà biết trẻ nhỏ nằm trong lòng trinh nữ là ai, và trẻ này sẽ làm Chúa theo hai nghĩa của danh từ. Vì Ngài là Chúa của mọi người, nên cũng là Chúa của Bà và là Chúa là Vua của vị loan tin, của vị tiền hô mà Bà sắp sinh hạ.
Phúc cho em là kẻ đã tin: vì tất cả những gì Chúa đã phán với em, sẽ nên trọn. Đức Maria thật đã cao cả trong sự kiện, và nhiệm vụ làm Mẹ của Chúa; Mẹ còn cao cả xét về cá nhân Mẹ, vì lòng tin vào sức mạnh và quyền năng của Lời Thiên Chúa. Đức tin này hoàn toàn nghịch laị với sự cứng tin của loài người.
Ngay từ khởi đầu lịch sử ơn cứu độ, đức tin đã được biểu hiện như một sự chấp nhận tiêng nói đòi hỏi, ưng chịu, mời gọi, ban ơn sủng, sinh hạ và tạo thành. Ơn Cứu độ đến từ Thiên Chúa, là công việc của Thiên Chúa. Tuy nhiên,con người phải đón nhận bằng sự sẵn sàng vì Thiên Chúa không thể bỏ qua sự cộng tác này. Hoạt động của Thiên Chúa đòi hỏi sự tham gia của con người. Sự tham gia, cộng tác này, chính là lòng tin biểu lộ ra bằng việc làm: đức tin song động, câu trả lời quả quyết của cả con người đáp ứng lời mời gọi của Thiên Chúa.
Êlisabét ca tụng Đức Mẹ, đó là Israel ca tụng Giáo Hội. Đó là việc Cựu ước thừa nhận Tân ước và đó cũng là sự kính trọng của dân cũ của Thiên Chúa đối với dân mới của Ngài.
Toàn cảnh trên đây đã tạo nên nền tảng cho việc sùng kính Đức Mẹ, vì sự sùng kính này rút từ nguồn gốc của lời nói và trình thuật Kinh thánh, diễn tả hai vẻ lớn lao của Đức Mẹ: lớn lao nơi con người và nơi nhiệm vụ của Mẹ, đồng thời lớn lao về tư cách làm Mẹ của Mẹ và sự sẵn sàng nơi đức tin của Mẹ.
Lời ca tụng của bà Êlisabét nối tiếp lời ca ngợi của thiên thần. Cả hai đã được tiep tục qua môi miệng Giáo Hội và môi miệng của tất cả những người thấm thía lời văn cũng như tinh thần của Kinh Thánh và của Giáo Hội, đã không bao giờ để cạn khô lời tán tụng Mẹ đồng trinh của Chúa Giêsu.
KINH NGỢI KHEN (1, 46-56)
Việc loan báo cho Giacaria đã bị mất hút trong im lặng. Giacaria đã thành câm. Êlisabét sống trong âm thầm hoàn toàn, Vị Tẩy giả lớn sẽ vào sống nơi Sa mạc. Trái lại, việc truyền tin cho Đức Maria đã hoàn thành trong vui mừng khôn tả, niềm tươi dịu như màn sương, lan đi như tiếng chim sơn ca tràn ra từ tâm hồn đầy dư. Nguồn nước tinh thần đã vọt ra… Từ một tạo vật lặng lẽ, chỉ biết suy niệm, ít được Tin mừng nhắc tới, đã toả ra cách dồi dào một bài Thánh thi, một bài Thánh ca, một bài Thánh vịnh đầy hoan lạc:
Linh hồn tôi ngợi khen Chúa.
Các nhà chú giải không đồng ý với nhau về các phần khác nhau của kinh Ngợi Khen. Tuy nhiên dựa vào nội dung của bài kinh, người ta có thể phân ra làm ba chu kỳ ý tưởng và ba phần tương hợp.
PHẦN THỨ NHẤT
Áp dụng vào chính Đức Mẹ. Thực ra thì cái nhìn đầu tiên của Đức Maria, không hướng về Ngài ngay đâu, mà là hướng lên Thiên Chúa và chính nơi một mình Thiên Chúa, Đấng vĩ đại nhất, mà Mẹ thấy được nguồn suối dạt dào, mà Mẹ được hân hạnh dự phần.
Linh hồn tôi chúc tụng Chúa. Tất cả mọi lời ca ngợi đều trao về Thiên Chúa. Người nữ tỳ của Chúa ca tụng Chúa mình và hình như Mẹ không thể tìm ra được những tiếng thích hợp. Đấng Tối Cao, Đấng Vĩ đại, đáng được tôn vinh, ngợi khen Đấng Hùng Vĩ, là nhiệm vụ đầu tiên… Đối với người đạo đức, ngước mắt hướng lên Chua biểu hiện một cử chỉ thật hết sức tự nhiên, nó không đè nén mà là nâng cao. Đó là hơi thở của linh hồn. Nó vượt qua những thung lũng tối tăm, những căn lều ngột ngạt để tới những đám mây vĩnh cửu của Thiên Chúa bất biến.
Phụng vụ ưa dùng đại danh từ chúng tôi hơn là tôi. Nhưng Đức Maria giữ cái chỗ của mình trong khiêm hạ. Thiên thần vừa đến nói với Mẹ bằng những lời đầy mỹ miều. Vì thế chính trong thâm tâm Mẹ đã luôn không ngớt ca tụng hồng ân đặc biệt Chúa dành cho Mẹ. Tuyển sinh duy nhất trên đời này có lý do đặc biệt để khoe ân huệ của Đấng đã chọn mình.
Thần trí tôi nhảy mừng trong Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Linh hồn và tâm trí hợp nhất với nhau để tụng ca Thiên Chúa. Sự hân hoan của con tim là do bởi tiếng vang vọng của một tin vui. Thiên Chúa là Đấng Cứu độ. Tên của Hài nhi mà Mẹ thụ thai là Giêsu: vậy ra là Giavê là Đấng cứu độ.
Mệnh lệnh về ơn cứu độ đã được thông báo cho Đức Maria: Mẹ là người đầu tiên hân hoan đáp lại tiếng của Thiên Chúa xét như Đấng cứu độ. Mẹ mang Chúa Cứu Thế mà lại không nhảy mừng trước biến cố vĩ đại nhất của lịch sử ơn cưu độ này sao?
Phận nữ tỳ, Người đoái thương nhìn tới. Đức Maria không dám coi mình xứng đáng lôi kéo cái nhìn của Thiên Chúa. Dầu vậy, Thiên Chúa vẫn ghé mắt tới Ngài, không phải với cặp mắt của vị thẩm phán, nhưng vơi cái nhìn đầy xót thương, ưu tuyển và âu yếm.
Dưới ánh sáng thần linh Thiên Chúa, con người nhận ra rõ ràng sự thấp kém và khổ sở của mình. Với con mắt của Chúa, tạo vật thực sự nhận thức về thân phận tôi tớ của mình. Đức Maria tuyên nhận tình trạng nữ tỳ của Mẹ. Trước nhan Chúa, thái độ đó lại mang một ý nghĩa lớn lao: nên đã biến đổi tình cảnh đó để từ nữ tỳ trở thành bà chủ.
Từ nay muôn đời sẽ gọi tôi là người diễm phúc. Tiếng từ nay là một khúc ngoặc trong đời sống của Đức Maria, mà từ trước tới bây giờ không được ai biết đến, ít ý nghĩa đến như ẩn dật: giờ đây dưới ánh sáng rạng ngời của Thiên Chúa bao phủ, Mẹ trở thành đối tượng cho mọi người thán phục và ca ngợi.
Tiếng từ nay cũng là một bước rẽ của lịch sử ơn cứu độ: sự dữ và nỗi thất vọng đã kết thúc vì Đấng Thánh Hoá, Đấng Cứu Độ đã đến, đến bởi Mẹ, Bà Mẹ Đồng Trinh. Vì thế tất cả những ai được nghe về Mẹ, đều đồng thanh tung hô Mẹ diễm phúc. Cái nhìn tiên tri về tương lai này là một sự nhận thức trước về sự tôn sùng Đức Mẹ và sự công chính hoá của Mẹ dựa vào lời chính Chúa linh ứng cho Mẹ. Lơi ca tụng của bà Êlisabét em có phúc vì đã tin chỉ như một câu mào đầu. Còn chính kinh ngợi khen mới thực sự là Thánh vịnh. Được Mẹ cất lên, bài ca này sẽ không bao giờ ngừng, nhưng còn vang vọng từ đời nọ tới đời kia, khi thời gian kết thúc, để rồi sang tới thế giới mà thời gian không có điểm dừng.
Đấng Toàn năng đã làm cho tôi những điều trọng đại, Đức Maria không biết tự hạ giả dối, Ngài cũng không cố chấp chối từ ơn Chúa. Mẹ cũng chẳng tự khoe như cánh hoa nhỏ với hàng dậu dài, cũng chẳng như một cô bé lọ lem nấp nơi xó bếp trong truyện cổ, Mẹ không rút vào bóng tối, thẹn thùng. Mẹ biết rằng tất cả những gì lớn lao nơi Mẹ chỉ do bởi ơn Chua. Sẽ vô ơn nếu không ý thức được điểm đó.
Bởi sức mạnh của ơn thánh, Đấng toàn năng đã thực hiện một phép lạ nơi lòng Mẹ, sự quyền năng này đã vượt thắng vẻ yếu hèn của nhân tính mà với sức riêng không thể thực hiện được ơn cứu sống cho mình. Và cũng chính sức mạnh đó đã thắng nổi Maria, cái nôi của ơn cứu độ.
Danh Ngài là Thánh. Cạnh sự quyền năng của Thiên Chúa, là sự Thánh Thiện đã trở thành hữu hình nơi Ngôi Con nhập thể. Đấng Thánh đã đi vào thế giới vô đạo, danh xưng bị tục hoá của Thiên Chúa, sẽ được đón nghe và trở thành hữu hình. Đấng không-thể-đến-gần đã gần đến.
Ngài đã đập phá rồi sẽ mở cái cửa vốn dĩ không vượt qua được của sự thánh thiện Ngài để con người tội lỗi được lôi kéo đến bằng lời mời gọi và bằng ơn sủng. Thế giới sẽ biến thành đền thánh; cái gì là phàm tục đã mất quyền hiện hữu. Như vậy trong phần thứ nhất, một phản đe Thiên Chúa và cái tôi, đòi sự tôn vinh Thiên Chúa, trong đó cái tôi đã tự mất đi.
PHẦN THỨ HAI
Đức Maria đi từ con người mình tới cả nhân loại. Mẹ biết Mẹ không thụ thai hài nhi cho mình, nhưng là cho tha nhân: tình thương Chúa trải qua bao thế hệ, dành cho ai biết kính sợ Ngài. Đó là đầu đề của phần thứ hai và dạy cho ta biết rằng từ nay ân sủng ban cho tất cả mọi người với điều kiện tiên quyết là có thái độ của người nữ tỳ Thiên Chúa như Đức Maria. Đó là kính sợ Thiên Chúa và sống trước nhan Ngài, Đấng đáng ngợi ca, với một thái độ thán phục.
Luật về ơn sủng biểu thị hiệu quả của nó. Cái gì thấy được nơi Đức Maria cũng có giá trị cho mọi nơi va mọi người. Luật đó được phát biểu như sau: Thiên Chúa ban ơn sủng Ngài cho những nơi nào người ta thấy rằng cần ơn của Ngài. Từ nay, nước Thiên Chúa sẽ là nguồn hân hoan cho ai ý thức sự khốn khó của mình. Điều đó được thể hiện trong ba lãnh vực: ân sủng đến với người khiêm hạ, chứ không phải kiêu ngạo; đến với người yếu thế chứ không phải đầy quyền thế; với người chẳng có gì, chứ không phải quá đầy đủ.
Cánh tay Chúa biểu dương uy lực, dẹp tan phường lòng trí tự kiêu. Kiêu ngạo đích thị là kẻ thù của Thiên Chúa. Nâng mình lên quá cái mình có là đưa mình tới chỗ thấp hèn của mình. Siêu nhân sẽ trở thành hèn nhân. Sức mạnh của Thiên Chúa hẳn đa vượt thắng được những chương trình vô đạo, phát sinh từ lòng trí tự kiêu của những con người nuôi ảo vọng có thể tự cứu rỗi bằng sức riêng của mình. Thiên Chúa sẽ làm tán loạn những ghép nối này và làm cho họ chống lại nhau.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao những kẻ khiêm nhu. Hài nhi của người đầy tớ Thiên Chúa đây sẽ lên ngôi Đavít, và những người đang ngồi trên ngai này sẽ lật nhào. Những người chỉ vì danh lợi bạc tiền mà ngồi trên ngai cao, coi mình là quyền năng, hẳn sẽ phải rơi xuống cái thân phận nhỏ bé và dòn mỏng của mình. Những người tự coi mình là vĩ đại đâu thoát được những giờ phút đen tối khi mà cái chết đến đón họ.
Kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư, người giầu có lại đuổi về tay trắng. Sự đói khát Thiên Chúa sẽ thiêu đốt những tâm hồn nhận biết mình chỉ là hư vô, và cảm thấy chẳng có vật thụ tạo nào có thể thoả mãn khoảng không gian trống vắng của con tim cả. Khi đó Thiên Chúa sẽ đổ đầy và đổ cho tràn trề. Nhưng với người đã no say, đầy dẫy chính mình hay đầy dẫy những sự đời này thì làm sao có chỗ cho ơn chúa đến nữa. Để ơn Chúa hiện diện và tràn đầy, thì con người phải biết cởi mở tâm hồn hướng tới những gì cao thượng. Người đầy ảo vọng, đầy vui khoái, đầy của cải, thực sự họ trống vắng Thiên Chúa. Trái lại, kẻ nào đau đớn vì nỗi trống vắng Thiên Chua của hồn mình là đã sẵn sàng để Chúa đổ tràn: sự sắp sẵn của tâm hồn là điều kiện tiên quyết đối với tác động của Thiên Chúa.
PHẦN THỨ BA
Sau khi ngước lên Thiên Chúa và nhìn sang nhân loại, Đức Maria đưa mắt về dan tộc mình, dân Israel. Vì những gì xẩy ra nơi Mẹ thì trong một nghĩa rộng rãi cũng áp dụng được cho tất cả. Và một cách đặc biệt cho dân Israel, từ nay được nâng lên khỏi chính mình để trở thành Israel tinh thần của một dan mới của Thiên Chúa, của Giáo Hội.
Chúa độ trì Israel tôi tớ: Israel là tôi tớ Giavê; nhưng giờ đây, nhờ Hài nhi Đức Maria cưu mang, mối liên hệ chủ tớ đã được thay thế bằng tình nghĩa ruột thịt. Gia nhân, nhờ Người Con, đã trở thành chính người con. Dân được chọn từ nay mang một ý nghĩa mới. Bây giờ Israel nhất định được lựa chọn, được lựa chọn cách đặc biệt vào trong gia đình của chính Thiên Chúa.
Người nhớ lại tình thương của Người. Thiên Chúa nghĩ đến Israel. Ngài không quên dân Ngài. Vì bản tính của Ngài là trung tín và yêu thương. Sự chọn lựa tuỳ thuộc vào lượng từ bi của Thiên Chúa, chứ không vì công nghiệp của tạo vật. Người ta không được chọn lựa. Ân huệ của Thiên Chúa chiếm ưu thế nơi tác vi của con người.
“Như hứa cùng cha ông từ bao thuở, cho tổ phụ Abraham và con cháu tới muôn đời” Thiên Chúa đã phán thì Ngài giữ lời hứa cả khi Israel đã đơn phương phá vỡ Giao ước. Lời hứa đã phán với cha ông và đã làm trọn nơi con cái. Abraham là cha của tất cả những người tin. Giờ đây tất cả những tín hữu đều thuộc về một dòng dõi có Chúa là Cha đích thực. Abraham, đã son sẻ lâu, rồi mới có được đoàn hậu duệ đông như cát bãi biển và như sao trên trời. Nhưng ở đây nói tới một miêu duệ đặc biệt, một người con nào đó của Abraham và người con đó tồn tại mãi mãi. Như vậy, khi kết thúc, bài Kinh Ngợi-Khen đã ám chỉ tới Đấng Messia như là điểm cuối của Israel: Ngài là sự hoàn tất của Cựu ước và của tất cả các lời hứa, là sự cao cả của Đức Maria, của nhân loại và của dân Israel thực sự. Sự cao cả đó đáng được ca tụng với cả tâm tình: Linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa.
68. Chú giải Tin Mừng theo William Barclay
Mâu Thuẫn Của Hạnh Phúc: 1,39-45
Cả đoạn Kinh Thánh này là một điệu nhạc êm đềm về hạnh phúc của Maria. Không ở đâu chúng ta có thể thấy rõ sự mâu thuẫn của hạnh phúc cho bằng trong cuộc đời của Maria. Maria đã được diễm phúc làm mẹ phần xác Con Chúa. Nhận một đặc ân vĩ đại dường ấy, hẳn lòng mẹ chứa chan niềm vui sâu xa và đầy ngạc nhiên kỳ thú. Nhưng cũng chính hạnh phúc đó sẽ là lưỡi gươm sắc thâu qua lòng mẹ. Điều này có nghĩa là một ngày kia mẹ sẽ nhìn thấy con mẹ treo thân trên cây thập giá.
Việc được Chúa lựa chọn thường có nghĩa là cùng một lúc có cả mau nhiệm vinh hiển lẫn thập giá khổ đau. Thực ra Thiên Chúa không chọn lựa một người đó hưởng an nhàn, sung sướng và vui chơi ích kỷ, nhưng để con người đó hoàn thành một nhiệm vụ lớn lao với tất cả con tim, khối óc và tay chân của mình.
Thiên Chúa lựa chọn con người để sử dụng người đó cho công việc của Ngài. Khi Jeanne dAre biết thì giờ của mình chẳng còn bao lâu, bà cầu nguyện rằng: “Con chỉ còn sống một năm nữa thôi, xin Chúa hãy dùng con tận lực”. Khi nhận ra điều này thì những buồn rầu, đau khổ bởi phục vụ Chúa không còn là cớ để than khóc, nhưng đó là vinh hiển của chúng ta, vì chúng ta đã làm mọi sự và chịu mọi sự vì Chúa.
Khi Richard Cameron sa vao tay quân giặc, chúng liền giết chàng, chàng có hai bàn tay rất đẹp, chúng cắt đôi bàn tay gửi cho cha chàng và hỏi ông có nhận ra hai tay đó chăng. Ông trả lời: “Đó là tay của con tôi, con yêu quí của tôi, ý Chúa là tốt lành, Ngài không bao giờ lừa dối tôi”. Những nước mắt của cuộc đời được chiếu long lanh bởi cảm biết chính sự đó cũng nằm trong chương trình của Thiên Chúa. Một thánh nhân Tây Ban Nha đã cầu nguyện cho dân tộc mình: “Cầu xin Chúa chối từ bình an để ban cho anh em vinh hiển”. Một nhà truyền giáo đã nói: “Chúa Giêsu đến không phải để tạo an nhàn cho cuộc sống, nhưng để làm cho con người trở thành vĩ đại”.
Đó chính là mâu thuẫn của phúc lộc, vì nó đem đến đồng thời cả hai điều: sự vui mừng lớn nhất thế gian cùng với trách nhiệm lớn nhất trên đời.
Bài Ca Kỳ Diệu: 1,46-56
Ở đây chúng ta có một đoạn Kinh Thánh đã trở thành một trong những bài ca lớn nhất của Hội Thánh, Bài Ca Ngợi Khen (The Magnificat). Ý tưởng của đoạn Kinh Thánh này tràn ngập trong Cựu Ước, nó rất giống bài ca ngợi của bà Anna trong Samuen 2, 1-10. Có người bảo tôn giáo là thuốc phiện của dân chúng, những Stanley Jones đã nói: “bài ca ngợi khen này là cuộc cách mạng lớn nhất trong thế giới”.Nó đề cập đến ba phương diện trong cuộc cách mạng của Thiên Chúa;
1. “Dẹp tan phường trí kiêu căng”. Đây là cuộc cách mạng luân lý. Kitô giáo phá tan tính kiêu ngạo. Tại sao? Vì nếu ai sống theo gương Chúa Giêsu thì trút bỏ được những vết tích sau cùng của tính kiêu ngạo. Đôi khi có một sự gì xảy ra, ánh sáng phơi bày, khiến chúng ta phải hổ thẹn. O.Henry đã viết một truyện ngắn như sau: có một chàng trai đã lớn lên trong làng quê. Ở trường làng, chàng ngồi cạnh một cô gái và cả hai đều mến nhau. Về sau chàng ra tỉnh, rồi sa vào đường tội lỗi. Chàng trở thành một tay trộm cắp có tài. Một hôm chôm được cái ví tay của một bà lão, chàng tỏ ra khoái trá về tài nghệ của mình. Nhưng khi chàng trông thấy cô gái quen biết ngày xưa đang từ đầu phố đi đến, vóc dáng dịu dàng, rạng rỡ và ngây thơ, tức khắc chàng thấy rõ mình là một kẻ tội phạm hèn hạ xấu xa. Vì quá xấu hổ chàng chúi đầu vào một cây cột đèn lạnh giá và kêu lên: “Lạy Chúa, xin cho con chết”. Anh ta đã thấy chính mình. Chúa Giêsu có quyền năng khiến con người nhìn thấy chính mình. Đó là một đòn chí tử cho tính kiêu ngạo. Cuộc cách mạng luân lý bắt đầu.
2. “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”. Đó là cuộc cách mạng xã hội, kitô giáo hạ những tước vị oai quyền hống hách xuống. Ông Muretus là một học giả lang thang của thời trung cổ. Ông sống cuộc đời nghèo khó tại một thành phố của nước Ý. Ông bị bệnh và được đưa đến một bệnh viện dành cho ke bụi đời. Các bác sĩ bàn luận với nhau bằng tiếng Latinh về bệnh trạng của ông, yên trí rằng ông không thể hiểu được. Họ bàn với nhau vì tên này là một đứa lang thang vô giá trị, nên có thể dùng làm vật thí nghiệm. Muretus nhình thẳng vào họ và trả lời bằng tiếng Latinh rằng: “Đừng coi là vô giá trị một người mà Chúa Cứu Thế đã chết thay cho”. Khi chúng ta nhận thức được Chúa Cứu Thế đã chết cho mọi người thì không thể coi ai là tầm thường được nữa. Các giai cấp trong xã hội không còn nữa.
3. “Kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng”. Đây là cuộc cách mạng kinh tế. Một xã hội ngoài Kitô giáo là xã hội chiếm đoạt, ở đó mỗi người gắng sức thu góp cho mình càng nhiều trong khi kẻ khác quá ít, ở đây tất cả mọi người đều nhận với mục đích để ban phát.
Trong Bài Ca Ngợi Khen này có sự dịu dàng đáng yêu nhưng trong đó cũng có năng lực mạnh mẽ. Kitô giáo khiến nảy sinh cuộc cách mạng trong lòng người và cách mạng trong thế giới.
Đây là phương diện thứ tư và quan trọng nhất trong cuộc cách mạng của Thiên Chúa: cuộc cách mạng tâm linh. Ngài đã ban ân sủng đặc biệt cho trinh nữ Maria. Cô thiếu nữ trẻ trung, đơn sơ, khiêm nhường của Nazaret hai ngàn năm trước đã nhận được sự thăm viếng kỳ diệu của Chúa. Hồng ân tuyệt diệu đó đã tác động, biến đổi, khiến nàng có thể dâng bài ca chúc tụng Chúa Hằng Hữu. “Thiên Chúa là Đấng cứu độ tôi” (c.47) cho thấy nhận thức quan trọng của Maria: cô là một tội nhân như bao nhiêu người khác, đã làm cuộc cách mạng tâm linh, là nguồn động lực lớn lao giúp cô sáng tác Bài Ngợi Khen tuyệt tác và bất hủ này.
69. Chú giải theo Fiches Dominicales
Đức Maria Lên Trời Hồn Xác
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Liên hệ chặt chẽ với biến cố Truyền tin
Vừa tường thuật xong biến “cố truyền tin”, trong đó Luca đã giới thiệu Đức Maria như người tín hữu đầu tiên, người đáp lại lời Thiên Chúa cách tích cực, thì Luca lúc này trình bày Đức Maria chỗi dậy lên đường, hình ảnh Hội Thánh đem Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô đến cho muôn dân.
"Này đây, sứ thần của Thiên Chúa kết thúc câu truyện, bà Elisabét, người chị bà con với Bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai, bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiến hoi. Để đáp lại dấu hiệu mà thiên sứ đã cho, Maria lên đường mau mắn tiến lên một thành miền núi. Cũng như sau này những người chăn chiên Betlem đáp lại dấu hiệu mà các thiên sử cho, củng vội vã đi xem sự gì đã xảy ra. Theo cách nói rất gợi hình của L.Legrand, chúng ta tiến từ người "tín hữu” đón nhận lời Chúa đến người "tôi tớ" hành động, hay đúng hơn lời Chúa hành động qua người ("L'annonce à Maire", Cerf 1981, Lectio divina số 106, trang 222).
Trong Đức Maria, Lời Chúa đã khởi sự lên đường và cuộc hành trình sẽ đưa Người đến cùng trái đất. Tại sao Maria đến nhà chị họ của bà? Phải chăng là vì bác ái: để giúp đỡ bà Elisabet chăng" Luca không làm thoả mãn tính tò mò của chúng ta; điều mà ông quan tâm không phải là cất truyện hay bài dạy luân lý, nhưng đạo lý mạc khải được chuyển tải nhân dịp cuộc gặp gỡ của hai bà mẹ tương lai này. Về điểm này L.Legrand nói rất chí lý: "Nếu đọc đoạn văn theo mặt chữ, ta hầu như có cảm tưởng rằng Đức Maria chỉ đến đó để nhận lời chào của bà Ehsabet và để hát bài ca Magnificat" (sđd trang 219).
2. Một khung cảnh mạc khải mới
Bước vào nhà ông Giacari, Đức Maria chuyển đến bà chị họ lời chào mà bà đã nhận từ thiên sứ. Và lời chào của Maria khởi động quá trình hoạt động. Khi lời chào vang đến lỗ tai bà Ehsabet, trước cả khi bà này mở miệng, thì con trẻ bà mang trong bụng nhảy mừng, một cuộc nhảy mừng mà bản dịch ra (ngôn ngữ của ta đã làm giảm bớt sắc nét, bởi vì bản Hy Lạp nguyên ngữ có nghĩ "nhảy dựng lên" "múa nhảy" "nhảy cao").
Được đầy Thánh Thần trước khi smh ra. Như thiên sứ đã báo tin cho ông Giacari (1,15), Gioan thấy bừng lên thời đại mới, đã hành động trước thời gian sứ mạng của ông, ông nói tiên tri, nói không phải bằng lời, mà bằng việt nhảy mừng, tiên báo Đấng mà người ta vào thời kỳ cuối trông đợi giờ đây đã xuất hiện. Đầy Chúa Thánh Thần, bà Elisabet hiểu ra ý nghĩa của cú nhảy mừng của con bà trong bụng bà và cuộc gặp gỡ mà bà đang diễm phúc được sống. Bà đã kinh ngạc kêu lên, trong khi nhìn nhận rằng Maria và "quả của lòng bà" là đối tượng của phúc lành Thiên Chúa. Sau đó bằng lời tuyên xưng đức tin, bà tuyên bố rằng con của người em họ mình, chính là Đấng mà thánh vịnh 109 loan báo: là Kitô Đức Chúa; và chào Đức Maria với danh hiệu "Mẹ của Chúa tôi". Sau cùng, sau khi chào mừng "người mẹ", bà tung hô "người tin" bằng công thức chúc phúc: "Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì người đã nói với em".
Đây là mối phúc đầu tiên của Phúc âm mà Luca nối kết với một danh hiệu mà ông coi như một tên khác của Maria: "Kẻ đã tin" (Cahier Evangile, số 77, trang 45).
3. Tạ ơn về những việc kỳ diệu
Bài ca "Magnificat" bài suy gẫm đầy hưng phấn của Đức Maria về tất cả những gì đã thực hiện trong Mẹ, thực ra đánh đấu một sự gián đoạn hành động trong chốc lát, giống như khi một ca khúc trữ tình trong một vở kịch opéra, hoặc như khi ca đoàn xen vào trong một vở bi kịch cổ điển, để làm nổi bật ý nghĩa của điều mới xảy ra. Đã từ lâu người ta đã nhận xét rằng: phải chi nhảy từ câu 45 sang 56 thì tư tưởng có sự liên tục hơn. Có lẽ ca khúc này có nguồn gốc độc lập với trình thuật, và chỉ được chêm xen vào sau này. Đặt ca khúc này vào miệng Đức Maria, Luca muốn tỏ bày hình ảnh Đức Maria mà ông mang trong trí óc ông ("Cahiers Evangile" số 77, trang 45).
Câu 46 và 47 chỉ huy toàn bộ bài thơ: đó là một ca khúc tạ ơn.
Nối liền sau là lý do của việc tạ ơn.
a. Trước hết là những sự kỳ diệu mà Thiên Chúa đã làm trong Mẹ: Thiên Chúa can thiệp để làm cho Người trở nên "Mẹ Thiên Chúa". Ở đây bản văn nêu lên sự đối nghịch giữa sự bé mọn của người tôi tớ và sự cao cả của Đấng Quyền năng, làm nên những việc kỳ diệu.
b. Rồi đến những sự kỳ diệu mà Thiên Chúa làm để tỏ lòng từ ái với những người nghèo khó. Ở đây, ca khúc chuyển cách êm nhẹ từ cá nhân (Đức Maria) sang tập thể (dân Israel sự nghèo khó của Maria (1,48) sang nhóm người nghèo khó (1,52), từ người tôi tớ (1,48) sang Israel tôi tớ (1,54) ("Cahiers vangile số 77, trang 47). Những việc kỳ diệu này là những việc nào? Đó là việc tạo dựng, đó là phép lạ xuất thành, đó là ban Lề luật mà nhất là tột đỉnh của các việc kỳ diệu, đó là việc kỳ diệu hoàn thành nơi Đức Maria, việc Con Thiên Chúa sinh ra, nơi Người mọi lời hứa đã được thực hiện. Đấng Messia, Con vua Đavit và Con Thiên Chúa đến, được chấp nhận bằng đức tin, không chỉ là một giáo thuyết; đó còn là một sức mạnh, có sức lay chuyển và đổi thay cả thế giới. Đức Maria xuất hiện ở đây như "phát ngôn viên" của cuộc đảo lộn tình thế, Mẹ giữ vai trò chính yếu của Tin Mừng (Cahiers Evangile số 77, trang 48).
***
II. BÀI ĐỌC THÊM:
1. Đức Maria người tin đầu tiên, gương mẫu của Giáo Hội, mẹ các người tin (Hội đồng Giám mục Pháp trong cuốn "Catechisme pour adultes, 1991, trang 215-216).
Giữa kinh nguyện Thánh Thể I, "Trong sự hiệp thông của toàn thể Giáo Hội, chúng ta kính nhớ Đức Maria trọn đời đồng trinh. Thật vậy, Đức Maria là chi thể của Giáo Hội, tối cao và độc nhất vô nhị, cũng như mẫu mực và gương sáng phi thường của Giáo Hội trên phương diện đức tin và đức ái (LG 53). Vào cuối Công đồng vạt. II, Đức Phaolô VI đã tuyên bố Đức Maria là "Mẹ Giáo Hội", nghĩa là mẹ của các chủ chăn và mẹ các tín hữu. Giống như một người mẹ, Đức Maria có vai trò đặc biệt trong gia đình mà Mẹ là thành phần, vai trò đã được phác hoạ trong Tân ước. Ngay từ hồi sinh Đức Giêsu, Đức Maria đã được trình bày như người tin đầu tiên, tượng trưng Giáo Hội đang cầu nguyện, "để ghi nhớ mọi sự việc đó là suy gẫm trong lòng" (Lc 2,19). Khi Giáo Hội sinh ra vào buổi sáng lễ Ngũ Tuần ở Giêrusalem, Đức Maria cùng với các môn đệ, đã dùng lời cầu nguyện kẻo ơn Chúa Thánh Thần xuống trên dân Chúa (LG. 59). Bởi vậy, Đấng đã hiện diện trong mầu nhiệm Đức Kitô như người mẹ, thì theo ý muốn của Chúa Con và Chúa Thánh Thần, cũng có mặt trong mầu nhiệm Giáo Hội. Và trong Giáo Hội, Mẹ vẫn tiếp tục hiện diện như người mẹ (Rm. 24). Bởi vậy, khi chiêm ngưỡng sự thánh thiện của Đức Trinh Nữ, Hội Thánh cũng được làm mẹ nhờ lời Thiên Chúa mà Hội Thánh trung thành lãnh nhận: thực vậy, nhờ việc rao giảng và ban phép Thánh tẩy, Hội Thánh sinh hạ những người con được thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần và sinh ra do Thiên Chúa để họ lãnh nhận một đời sống mới và bất diệt (l Ga. 64). Sau cùng, vào ngày lên trời, Đức Maria đã được cất nhắc lên toà vinh hiển trên trời: hình ảnh hoàn hảo của Hội thánh trong tương lai, bình minh của Hội Thánh khải hoàn, Người hướng dẫn và nâng đỡ niềm hy vọng của đoàn dân trên đường lữ thứ (xem kinh Tiền Tụng lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời). "Ngay từ bây giờ, mẹ đã chiếu sáng như dấu chỉ lòng cậy trông và niềm an ủi cho Dân Chúa đang lữ hành" (LG. 68). Tôn kính Đức Maria: đó là gia nhập vào việc tôn sùng của dân Chúa (LG 66) đối với Đức Trinh nữ, đó là gia nhập phong trào lâu đời qua các thế hệ tung hô Mẹ là diễm phúc; đó là sùng bái tôn kính, ngợi khen Đức Maria Mẹ Thiên Chúa. Tất nhiên không phải là việc thờ phượng, vì thờ phượng chỉ dành cho Thiên Chúa. Noi gương Đức Maria: là mở tâm hồn đón nhận ân sủng của Thiên Chúa, là sống đức tin như Mẹ đã sống; là phục vụ như Mẹ đã phục vụ. Đức Maria là gương mẫu, là mẫu mực tuyệt hảo sống đời Kitô hữu. Về điều đó mọi Kitô hữu đều nhất trí. Cầu xin Đức Maria: là phó thác vào tình mẫu tử của Mẹ, kêu xin sự trợ giúp và nâng đỡ, là kêu cầu Mẹ bầu cử cho ta trước mặt Con Mẹ.
2. “Đức Maria, một phụ nữ tuyệt vời” (G. Boucher, trong cuốn "en tre ciel ét terre" bán tại nhà tác giả "Residence de Kérampir, 29820 BOHARS).
Trong quá trình cuộc phiêu lưu lạ đời của Mẹ, Đức Maria được gọi để đương đầu với mầu nhiệm. Một mầu nhiệm với tính cách vượt trội nhất của nó: đó là nhân tính của Thiên Chúa. Bị hoang mang vì ngôn ngừ trong biến cố truyền tin, Mẹ đã đặt tin tưởng vào Thiên Chúa, vào ý định cứu rối của Người. Ngạc nhiên vì cách cư xử của Đức Giêsu lúc 12 tuổi, Mẹ đã suy gẫm sự việc này trong lòng để vâng theo kế hoạch của Thiên 'Chúa về Người. Mẹ lo âu muốn giữ con lại nhà lúc con vào tuổi trưởng thành đừng tiến tới để gặp gỡ lịch sử đời mình. Đau khổ trong lòng vì lời Con phán, nhìn nhận cả nhân loại là gia đình, Mẹ đã tin trong đau đớn. Dầm đề nước mắt Mẹ đã theo Con trên đường nhục nhằn, đánh đập, nhạo báng, khi Con bị án tử và bị dẫn đi đóng đinh. Con tim dập nát, và cả thân xác bầm dập, Mẹ đã chứng kiến, bất lực và đầy yêu mến, cái chết của kẻ tử tù, khi Con bị treo trên cây gỗ thập tự. Trung thành cho đến cùng, Mẹ đã ghi khắc lời trối trăn của Con bị đóng đinh. Mẹ đã lấy tình mẫu tử phục vụ các môn đệ và các tín hữu tiên khởi của Giáo Hội mới được khai sinh. Đức Thiên Chúa ngự tin đến ngay cả trong thân xác, Mẹ đã hoàn tất sứ mạng của mình một cách hoàn hảo.
Tràn ngập Thiên Chúa Mẹ được thông phần vinh quang của Người, cả xác lẫn hồn, trong lời ca tụng Magniflcat muôn thuở. "Mẹ Maria một người phụ nữ tuyệt vời".
70. Chú giải theo Fiches Dominicales
Thăm Viếng và Bài Ca Ngợi Khen
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Cuộc gặp gỡ giữa hai phụ nữ
Trong câu chuyện Truyền tin, Luca vừa trình bày Đức Maria như một Kitô hữu tiên khởi khi nhiệt thành đáp trả Lời Thiên Chúa, giờ đây, ông lại cho chúng ta thấy Mariạ chỗi dậy lên đường, hình ảnh của Giáo hội ra đi đem Tin Mừng Đức Giêsu Kitô cho mọi người.
Sứ thần Chúa kết luận: "Kìa Êlisabét, chị họ của bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm muộn..." Biết được tin này, Maria “vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa”, cũng như chẳng bao lâu sau, các mục đồng vội vã đi xem chuyện gì đã xảy ra theo lời sử thần đã báo. Theo cách diễn tả rất gợi hình của L. Legrand, chúng ta đi từ "người tín hữu nhận lãnh Lời (TC) đến người "nữ tỳ” hành động hay đúng hơn qua người nữ tỳ đó, Lời (TC) hành động." (‘Truyền tin cho Maria', Cerf, 1 981, Lectio divina số 106, tr.222). Trong Maria, Lời (TC) đã bắt đầu lên đường, và cuộc hành trình này sẽ dẫn Ngài tới tận cùng bờ cõi trái đất.
Tại sao Maria đến nhà chị họ của mình? Có lẽ là vì bác ái: giúp E-li-sa-bét? Thánh Luca không thỏa mãn tính tò mò của chúng ta vì khi kể câu chuyện này, điều ngài quan tâm không phải là một giai thoại, nhưng là sự mạc khải nhân dịp hai người mẹ tương lai này gặp nhau. Về điều này, L. Legrand đã nhận xét đúng: Khi đọc chính bản văn, hầu như chúng ta có thể tin rằng Maria chỉ đến đó để nhận lời chào của ê-li-sa-bét và hát bài ca ngợi khen. " (sách đã dẫn, tr.21 9)
2. và cuộc gặp gỡ giữa hai đứa con họ đang cưu mang
Khi vào nhà Gia-ca-ri-a, Maria chuyển đến chị họ mình lời chào bà đã nhận từ sứ thần. Lời chào của Maria là dấu nối cho tiến trình. Khi lời chào này vang lên bên tai ê-li-sa-bét, con trẻ trong lòng bà đã nhảy mừng ngay trước khi bà mở miệng; theo tiếng Hy lạp, từ "nhảy mừng " có nghĩa: “Nhảy bật lên”, "nhảy lên”, “nhảy múa”.
Như thiên thần đã báo tin cho Gia-ca-ri-a, Gioan được đầy Thánh Thần ngay trước khi sinh" (1,15) nên Gio-an nhận ra thời buổi mới đã ló dạng và thấy trước sứ mạng của mình. Bởi đó, ông đã nói tiên tri về sự xuất hiện của Đấng muôn người trông đợi, không phải bằng lời nói mà bằng cách nhảy mừng.
Được “đầy Thánh Thần" nên E-li-sa-bét hiểu ý nghĩa của việc con bà nhảy mừng trong lòng và cả ý nghĩa của cuộc gặp gỡ là bà đang trải qua.
- Khi cất tiếng thán phục, E-li-sa-bét nhìn nhận Maria và “đứa con trong lòng"được Thiên Chúa chúc phúc.
Rồi, Ê-li-sa-bét tuyên xưng đức tin khi công bố đứa con của cô em họ chính là Đấng Thánh vịnh 109,1 đã loan báo: là Đức Kitô, và bà chào Maria bằng tước hiệu "Mẹ Chúa tôi”.
Cuối cùng, sau khi đã biểu dương chức vị là Mẹ, bà ca tụng lòng tin của Maria bằng công thức chúc phúc: "Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì người đã nói với em."; "Đây là mối phúc đầu tiên của Tin Mừng. Mối phúc thánh Luca dành cho một tên khác của Maria: “Người đã tin"' (Cahiers- Evangile, số 77, tr.45).
3. Cuộc gặp gỡ là dịp để Maria ca tụng Thiên Chúa thực hiện những lời đã hứa.
Bài ca "Ngợi khen" là một suy niệm chứa chan tình cảm của Maria về tất cả những gì Thiên Chúa vừa thực hiện nơi Mẹ. Nó thực sự đánh dấu: "theo lối văn kể chuyện... một câu hỏi khiến ai đang hành động cũng phí dừng lại trong giây lát, nó giống như đoạn hát sô-lô trong một vở nhạc kịch opéra, hoặc đoạn ca đoàn hát xen vào trong một vở bi kịch cổ điển. Từ thời xưa, người ta đã lưu ý rằng câu chuyện sẽ gắn bó hợp lý hơn nếu đọc thẳng từ câu 45 qua câu 56. Rất có thể bài ca này có nguồn gốc riêng không có trong câu chuyện nguyên thủy, nhưng đã được thêm vào sau này. Khi đặt bài ca trên miệng của Maria, Luca cho chúng ta thấy hình ảnh đẹp ông có về Mẹ. " ("Cahiers-evangile', số 77, tr. 45)
Các câu 46 và 47 chi phối tất cả phần còn lại của bài ca: đó là một bài ca tạ ơn.
Liền sau đó là lý do tạ ơn:
a/ Trước hết, vì những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện nơi Mẹ: Thiên Chúa đã can thiệp làm cho Mẹ trở nên "Mẹ Chúa". Ở đây Luca diễn tả bản văn đầy cảm hứng này qua sự đối lập giữa lòng khiêm tốn của người "nữ tỳ” và sự cao cả của Đấng "quyền uy”, đã thực hiện những điều kỳ diệu.
b/ Nhưng cũng vì những kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện nơi dân nghèo. Và ở đây, bài ca "nhẹ nhàng tự nhiên chuyển từ nhân (Maria) tới tập thể (Israel); từ sự nghèo khó của Maria (1, 48) tới dân nghèo (1, 52); từ người nữ tỳ ( 1,48) tới Israel tôi tớ (1, 54)" ("Cahiers-evangilel số 77, tr.47).
Những kỳ công này là gì? Đó là sự sáng tạo, là phép lạ của cuộc Xuất hành, là Lề Luật, nhưng trên hết, đó là kỳ công đã
hoàn tất nơi Maria: sự giáng sinh của Con Thiên Chúa, nơi Người con này, Thiên Chúa hoàn tất mọi lời đã hứa.
Đón nhận Đấng Cứu Thế đến với lòng tin tưởng không phải một giáo thuyết, nhưng là một sức mạnh chuyển lay nhằm đổi thay và cứu độ thế giới. Ở đây, Maria xuất hiện như: "người phát ngôn về sự đảo ngược tình thế. Sự đảo ngược này là một phần trọng yếu của Tin Mừng." ("Cahiers-evangile", số 77, tr. 48)
***
II. BÀI ĐỌC THÊM
1. “Thăm viếng: cảnh tượng nói lên niềm vui và ân huệ Chúa Thánh Thần lan toả”.
(nhóm Dombes, "Maria trong chương trình của Thiên Chúa và trong sự các thánh cùng thông công", Bayardlcenturion, 1997, tr. 81-82)
158. Thăm viếng là cảnh tượng nói lên niềm vui và ân huệ Chúa Thánh Thần lan tỏa. Vừa được sứ thần báo tin, Đức Maria vội vã đi thăm người chị họ để chia sẻ với chị mình ơn Chúa Thánh Thần Mẹ vừa lãnh nhận, một ơn huệ đánh dấu sự khai mở một kỷ nguyên mới. Sự thăm viếng của Đức Maria là một hành động đáp trả ân sủng Thiên Chúa đã ban cho Mẹ trong đức tin.
159. Khi Ê-li-sa-bét nhận lời chào của Maria, con trẻ trong lòng bà và Gioan Tẩy Giả đã nhảy lên vui mừng, một cử chỉ diễn tả sự rung động vì được chúc phúc (xem Lc 6,23); trong khi ấy, người mẹ được tràn đầy Thánh Thần đã nói tiên tri. Tiếng nói tiên tri đầu tiên trong Tân ước là tiếng nói của một phụ nữ, cũng như sau này chính phụ nữ là những sứ giả đầu tiên loan báo Tin Mừng Chúa sống lại.
160. Lời tiên tri của Ê-li-sa-bét trước tiên là một lời chúc phúc. Trong tất cả các phụ nữ, Đức Maria là đối tượng được chúc phúc đặc biệt, vì Mẹ là Mẹ Đấng Cứu Thế, Đấng được chúc phúc cách tuyệt hảo. Chính Ê-li-sa-bét đã thực hiện một hành vi đức tin khi nhận ra mẹ của Gtêsu cũng là Mẹ Chúa mình. Bà cũng thốt ra mối phúc đầu tiên, mối phúc về đức tin: Maria có phúc vì đã tin mình sẽ trở nên mẹ Đấng Cứu Thế.
161. Lúc ấy, Đức Maria hát bài ca Ngợi khen. Bài ca này lập lại bài ca của Anna (1 Samuel 2,1-10), lời các tiên tri và các thánh vịnh; trước hết tuy Mẹ nói đến việc của riêng mình nhưng lại bằng lời ca tụng và tạ ơn vượt ra khỏi chính mình, bởi vì điều xảy đến cho Mẹ chính là vì lợi ích cho cả nhân loại từ thế hệ này tới thế hệ kia. Do đó, Mẹ mới công bố mọi thế hệ sẽ khen Mẹ là người có phúc. Giáo hội đã dựa vào những lời này mà ca ngợi kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện nơi Đức Maria.
162. Rồi Đức Maria ca ngợi Thiên Chúa vì đã ban sự công chính của Ngài cho nhân loại tội lỗi và vì sự trung tín của Ngài với dân Israel. Mẹ đọc lại lịch sử cứu độ và gắn kết nó với những điều đã xảy ra với mình. Mẹ chiêm ngưỡng chương trình có vẻ nghịch lý của Thiên Chúa, Đấng vữa đến viếng thăm những người khiêm tốn, nghèo khổ và đói khát, để làm trọn lời đã hứa với Abraham nơi họ và qua họ".
2. “Cuộc hội ngộ kín đáo giữa Thiên Chúa và nhân loại”.
(G. Bessière, "Thiên Chúa râr gần. Năm B', DDB, tr. 187-188.)
"Không nên coi Maria là người đặc biệt, ở trên chín tầng trời rồi quên rằng hằng ngày bà vẫn làm bếp, giặt giũ, may vá, hái nho và vả, chuyện trò, cười vui với hàng xóm dưới ánh nắng mặt trời Tin Mừng dù rất ít nói đến bà, cũng kể cho chúng ta biết bà đến thăm người chị bà con có thai đã sáu tháng. Người ta thấy bà “vào trong nhà".
Đứa con Ê-li-sa-bét đang cưu mang "nhảy mừng trong lòng khi Đấng cưu mang Đức Giêsu tất. Hai người phụ nữ, hai đứa trẻ hiện diện: cuộc hội ngộ kín đáo giữa Thiên Chúa và nhân loại cùng thân xác mảnh mai, mỏng dòn. Không có gì lạ lùng: tất cả đều xảy ra ngay trong giây phút trao đổi lời chào và những câu nói đầu tiên.
Và còn cuộc sống rất thực, rất nặng nề mà những lời nhức nhối của bài ca "Ngợi khen" gợi lên. Maria nói bà vui mừng vì Thiên Chúa đã chọn những người hèn mọn, dẹp tan bọn kiêu căng, hạ bệ những ai quyền thế, nâng cao những kẻ khiêm nhu, ban dư đầy cho người đói nghèo, đuổi người giàu trở về tay không... Thiên Chúa đến không phải để duy trì hiện trạng đời sống con người, nhưng khi Ngài đến, mọi tường vách của xã hội sụp đổ và một đời sống khác bắt đầu.
Maria thuộc về những kẻ hèn mọn Thiên Chúa đã chọn. Nơi bà, sự phong phú của Thiên Chúa được thể hiện. Bà là hoa trái của những con người đi lên, là đóa hoa tượt thắm của nhân loại mới.
Ngày mai, bà cũng làm những cử chỉ như vậy. Đi lấy nước, chảy cối xay, nhóm lửa, thăm người bệnh. Và Thần Linh Thiên Chúa yêu mến những cử chỉ này.
Một ngày kia, Thiên Chúa "sẽ đưa bà vào trong vinh quang của Ngài ": Ngài sẽ hoàn tất khát vọng của người công chính khấn nài Ngài đừng để mình lâm cảnh hư nát trong mồ. Nhưng trong cái nhìn và con tim của Maria, Thiên Chúa đang ra đời, khi bà làm trọn bổn phận hằng ngày, khi bà run lên vì giận dữ trước những kẻ kiêu căng và quyền thế, khi bà đòi lại phẩm giá cho những người bé nhỏ và cơm bánh cho người nghèo khổ".
3. "Thiên Chúa của bài ca Ngợi khen”.
( J. Dupont, trong " Ca hiers - Evangile, số 77, " Maria của Tin Mừng; tr. 48 )
"Ơn cứu độ Thiên Chúa hứa ban cho mọi người không loại bỏ những hoàn cảnh cụ thể trong đời sống của họ: Điều thiết yếu đối với Ngài là phải đảo ngược những hoàn cảnh bất công xã hội đã tạo ra cho những người yếu kém và trơ trọi. Thiên Chúa của bài ca Ngợi khen không bay lượn tít thiên cao, xa hẳn thực tại xã hội chính trị: Ngài đứng cùng hàng ngũ với những người nghèo và không có quyền lực. Chính danh dự của tên cực thánh Ngài được hay mất ở điểm này, đó và lòng xót thương của Ngài phải được tỏ lộ qua sức mạnh chống lại cường quyền và người giầu có."
4. "Sự sùng kính Maria cách đích thực”.
(F. Deleclos, trong "Cầm và ăn Lời Chúa”, Duculot-centurion, tr.70.)
Sự sùng kính đích thực dành cho Đức Maria không hệ tại gia tăng và phát triển những lời ngợi khen và thán phục về những ân huệ Mẹ đã nhận lãnh, nhưng là học nơi Mẹ cách trở nên người; có niềm tin và cách là người có niềm tin hơn nữa cần phải nói thêm rằng người ta chỉ có thể đề cập đến đức trinh nữ trong đức tin, nghĩa là qua Mẹ chúng ta tìm chính Thiên Chúa hoặc rõ hơn Đức Giêsu con Chúa". Chính Grignon de Monfort, người nổi tiếng về việc tôn sùng đức Maria, đã viết: “Nêú chúng ta kêu đến Maria, một tiếng vọng trả lời chúng ta: “Đức Giêsu”.
Maria đã theo con đường đầy cam go của con Mẹ và nhiều trang Tin Mừng cho ta thấy để theo con mình với lòng tin, Mẹ đã phải chấp nhận những đau thương xé lòng. Mẹ đã sống bằng đức tin và Ê-li-sa-bét, người chị họ, đã thán phục nhấn mạnh đến điều này khi bà chúc mừng Maria: "Phúc cho em vì đã tin”. Giáo Hội Công đồng Vaticanô II, phụng vụ, đều đi ngược lại với chiều hướng tự nhiên thúc đẩy chúng ta muốn "đề cao Đức Maria một cách quá đáng khi gán cho Mẹ những vầng hào quang quá lạ thườg làm như thế, phải chăng chúng ta đã chẳng đi cùng một chặn đường của Mẹ ! " Đức cha Garrone tự hỏi.
Lộ trình thiêng liêng của Maria có thể là lộ trình của chúng ta. Theo Mẹ, chúng ta tiến gần Đức Giêsu hơn. Có được cái nhìn đức tin của Mẹ, chúng ta sẽ học nhìn Đức Giêsu như chính Mẹ đã chiêm ngắm và từ từ khám phá về Ngài. Như Mẹ, chúng ta có thể tiến triển trong đức tin qua khổ nhọc và niềm vui, qua những khám phá và những việc lạ lùng kỹ diệu, và thường là phải chấp nhận khổ đau cùng những điều không hiểu thấu như Mẹ và Giuse đền thờ (Lc 2,50). Đức cha Garrqne giải thích, cái nhìn của Maria về con mình thực sự tương hợp với những giai đoạn "lớn lên” dần của Đức Giêsu mà Luca đã nói rõ ràng: Maria đã thấy Giêsu: "cùng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và mọi người..." (Lc 2,52). Do đó, chúng ta sẽ đi đúng đường và suy nghĩ đúng như Maria khi cùng với Mẹ làm lại cuộc hành trình chính Mẹ đã trải qua".
71. Chú giải theo Fiches Dominicales
Thăm Viếng: Một bài ca được cất lên bằng giọng hát
I. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Một cảnh tượng liên hệ chặt chẽ với biến cố truyền tin.
Sứ thần truyền tin rời khỏi Đức Maria sau khi cho Mẹ một dấu chỉ: "Kìa Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng…" Ngay lập tức Maria tội vã lên đường ", hình ảnh Hội Thánh đem Tin Mừng của Đức Giêsu-Kitô đến cho muôn dân, "đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuda" Hugues Cousin ghi nhận: "Chủ đề lên đường xuất hiện lần đầu trong câu chuyện mà các nhân vật di chuyển rất nhiều; Lời Chúa bắt đầu cuộc hành trình của mình là cuối cùng, chẳng bao lâu đã được loan báo tới tận Rôma, tượng trưng nơi tận cùng của trái đất" (Cvtđ 18; 28,30-31) ("LEvangile de Luc", Ccnturion, trg 30).
Theo cha Lagrange, chúng ta không biết gì về cuộc hành trình kéo dài khoảng bốn ngày của Đức Maria. Mối quan tâm hàng đầu của thánh sử là quang cảnh khi Maria đến. Một quang cảnh trong đó Luca phối hợp hai chu kỳ mà từ đầu ngài đã khai triển cách biệt nhau: chu kỳ của Gioan và chu kỳ của Đức Giêsu.
2. Nơi định mệnh bí ẩn của hai trẻ sắp sinh ra được mạc khải
Maria vừa nhận lời chào của sứ thần trong biến cố Truyền tin, giờ đây lại chuyển lời chào ấy cho chị họ của mình: "Bà vào nhà ông Giacaria bà chào bà Êlisabét ". Francois Bovon nhận xét: " Có rất nhiều lời chào hỏi trong những chương Tin Mừng này, vì có rất nhiều cuộc gặp gỡ và vì Thiên Chúa can thiệp và khai mở ơn cứu độ qua những tương quan nhân loại." ("L' Evangile selon Saint Luc 1-9 ", Labor et Fỉdcs, trg 86). Lời chào của Maria nối tiếp câu chuyện. Khi đôi tai bà nghe lời chào của Êlisabét, hài nhi trong lòng bà liền nhảy lên vui sướng; dịch như vậy vẫn chưa diễn đạt đúng ý của từ Hylạp có nghĩa: "nhảy lên ", "nhảy lên ", "nhảy múa".
Được đầy tràn Thánh Thần, ngay cả trước khi sinh ra, Gioan đã thấy rạng đông của thời kỳ mới ló dạng và, vì cảm thấy trước sứ vụ của mình, ông đã nói tiên tri, không phải bằng ngôn từ nhưng bằng sự nhảy mừng, rằng Đấng mọi người trông đợi sẽ đến vào thời thế mạt, nay đã hiện diện. Cũng theo F. Bovon: "Thiên Chúa không chỉ dùng lời nói mà còn cả ngôn ngữ của thân thể. "
Được tràn đầy Thánh Thần, Êlisabét hiểu được ý nghĩa sự nhảy mừng của đứa con còn trong bụng mẹ và ý nghĩa cuộc gặp gỡ bà đang sống.
+ Bằng tiếng kêu thán phục, bà nhìn nhận Maria và "hoa trái của lòng dạ mang " được Thiên Chúa chúc phúc.
+ Rồi, với danh nghĩa "Mẹ Thiên Chúa ", bà loan báo đứa con của em mình là Đấng Thánh vịnh 109,1 đã báo trước, chính là Kitô, Đức Chúa.
+ Sau cùng, dưởi hình thức mối phúc, bà ca tụng đức tin của Maria: "Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em. " Thánh Augustinô chú giải: “Maria đã mang thai trong tinh phần trước khi mang thai trong thân xác.”
2. Và nơi Bài ca của Đức Maria, ý nghiã của biến cố được sáng tỏ:
Như bức tranh ghép bằng những bản văn Cựu ước, Bài ca Đức Maria cất lên đóng vai trò gần giống vai trò của một điệu nhạc trong vở ôpêra; nhờ tạm ngừng vở diễn, nó làm sáng tỏ ý nghĩa của biến cố.
Bài ca này được khai triển thành ba đoạn thơ:
- Mở đầu, Bài ca diễn tả lý do Đức Maria ca tụng:
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa... Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều kỳ diệu: Danh Người thật chí Thánh".
- Kế đó là minh họa về sự đảo ngược tình thế và giá trị, đánh dấu sự biến chuyển từ thế giới hiện tại sang thế giới mới "Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. v.v. ".
Để kết luận, Đức Maria công bố rằng sự can thiệp ban ơn cứu độ này là khởi đầu việc hoàn tất lời đã hứa cùng các tổ phụ, dành cho con cháu của Abraham.
Nhưng qua Bài ca của Đức Trinh nữ Maria, chính cộng đoàn Kitô hữu là Hội Thánh cử hành mầu nhiệm của riêng mình; Hội Thánh thấu hiểu, chiêm niệm và ca tụng kinh nghiệm về về ơn cứu độ của Chính mình. L. Monloubou giải thích: "Đức Maria xuất hiện như ca viên lý tưởng của một thánh vịnh mà cộng đoàn Kitô hữu thấu hiểu cách sâu hơn và qua đó, nhận thức rõ ràng hơn ý nghĩa cuộc sống của chính cộng đoàn, khi vừa hát lên thánh vịnh nó vừa nhớ đến Mẹ của Đức Giêsu. Khi ấy, được soi sáng với những lời Đức Maria, Hội Thánh nhìn ngắm đời sống của chính mình; Hội Thánh thấu hiểu hơn nghĩa của cuộc sống ấy. Hội Thánh học để nhận biết rõ ràng hơn chính trong Hội Thánh Thiên Chúa "làm những việc diệu kỳ"; Được Đức Maria dẫn dắt, Hội Thánh dấn thân trên con đường ca ngợi, để chính Hội Thánh nói lên. "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng cứu độ. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới ..Danh người là thánh!" (L'Evangilc đe Luc ", Salvator, trg 70)
***
II. BÀI ĐỌC THÊM
1. Đức khiêm nhường của Đức Maria.
(G. Bouchcr, trong "Leciel sur terrc", trg. 54)
"Hôm đó đã diễn ra một cuộc gặp gỡ đơn giản, bình thường giữa hai con người. Lịch sử không có một ghi nhận nào. Hai người phụ rlữ, hai người mẹ tương lai. Hai người đàn bà hạnh phúc được cưu mang đứa con trong lòng mình. Những đứa con họ không hy vọng có được...”
Đức Maria là trung tâm của câu chuyện. Người chị họ Êlisabét vui mừng đón tiếp em mình. Bà chào Maria, chúc phúc cho Mẹ theo truyền thống dân tộc. Bà công bố Mẹ và đứa con trong lòng được Thiên Chúa chúc phúc.
Chẳng mấy chốc, câu chuyện trao đổi hưởng tới cầu nguyện. Thiên Chúa là trung tâm của lời cầu nguyện ấy. Cuộc nói chuyện của cả hai biến thành lời ca ngợi Thiên Chúa cứu độ.
2. Lời Maria thốt lên là những lời tạ ơn.
Lạy Chúa, Ngài là Đấng kỳ diệu vượt xa hẳn những điều kỳ diệu trên thế giới này. Chúa đã thực hiện điều lạ lùng nơi tôi, một thiếu nữ yếu đuối. Lạy Chúa, toàn năng và là Đức Chúa, Ngài đã kêu gọi nữ tỳ của Ngài dù tôi chỉ là một thiếu nữ, chỉ là một phụ nữ.
Cuộc trao đổi lời chào giữa Maria và Êlisabét diễn tả một cuộc trao đổi khác giữa Thiên Chúa và một phụ nữ, thay mặt cho nhân loại. Maria nhìn thấy vinh quang và thánh thiện của Thiên Chúa tỏ lộ trong giao ước lạ thường này.
Cũng trong chiều hướng ấy, lời cầu nguyện của Maria là lời ca ngợi những ai nhận biết và sẽ nhận biết sự can thiệp quá đỗi lạ lùng, rất khó tin của Thiên Chúa.
Lời cầu nguyện của Mẹ vừa dựa trên những nhận định đầy khôn ngoan về Thiên Chúa, vừa dựa trên những Iý luận về bản tính hay hành động của người. Nhờ đó, tâm hồn Mẹ luôn sẵn sàng vâng theo ý Chúa . Lời cầu nguyện của Mẹ nối kết với Thiên Chúa trên những con đường đầy bất ngờ, trong sự khiêm tốn nhận biết rằng chúng ta hành động là do Thiên Chúa thúc đẩy.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ khiêm tốn loan báo những việc kỳ diệu Thiên Chúa thực hiện nơi Mẹ bởi vì những việc ấy không những là các dấu chỉ về hoạt động của Người mà còn nói lên vẻ huy hoàng và sự thánh thiện của Người nữa.
Lạy Mẹ Maria, sự khiêm tốn của Mẹ đã không hủy diệt gì khi loan báo sự hiện hữu của Thiên Chúa làm người và Đấng vĩnh cửu đi vào lịch sử nhân loại.
Lạy Mẹ Maria, sự khiêm tốn của Mẹ chính là nét đơn sơ trong tâm hồn khi Mẹ đón nhận chương trình của Thiên Chúa về Mẹ và về nhân loại một lần cho mãi mãi, dù về phương diện nhân loại, chương trình ấy khó có thể tưởng tượng nổi.
Lạy Mẹ Maria, sự khiêm tốn của Mẹ đã giúp Mẹ có mặt ngay trung tâm ơn cứu độ nhân loại do Thiên Chúa thực hiện và giúp Mẹ nhất tin với lời hứa của Thiên Chúa từ ngàn xưa khi đồng ý trao ban một thân hình cho con Thiên Chúa.
Lạy Mẹ Maria, sự khiêm tốn của Mẹ mở cửa cho sự thần hóa lạ lùng chưa từng có: Mẹ lên trời ngự bên Thiên Chúa.
3. Hình ảnh cuộc biến đổi của chúng ta.
(F. Deleclos, prends ét mang la Parole", Centurion-ducolot, trg 269-270)
Sự sùng kính Đức Maria đích thực không hệ tại việc gia tăng và triển khai những lời ca ngợi và ngưỡng mộ đối với những đặc ân Mẹ đã lãnh nhận, nhưng là học ở Mẹ để trở nên và để là một người tin. Có thể nói thêm được rằng chúng ta chỉ có thể đề cập đến Đức Maria trong đức tin, "nghĩa là qua Me, chúng ta tìm kiếm chính Thiên Chúa, hoặc nói rõ hơn chính Đức Giêsu con Mẹ ". Chính Grignon de Monfort, một người rất nổi tiếng về lòng sùng kính Đức Maria viết rằng: "Nếu chúng ta gọi tên Maria, tiếng vọng trả lời sẽ là Giêsu".
Maria đã học trong cùng một ngôi trường khắc nghiệt như con mình. Nhiều trang Tin Mừng cho chúng ta thấy những đổ vỡ Mẹ gánh chịu để theo bước con mình trong đức tin. Maria đã sống đức tin cách sâu xa. Chính Êlisabét đã đề cao điều ấy một cách tuyệt diệu khi chúc mừng Mẹ: "Phúc cho em vì đã tin ..."
Đức cha Garron tự hỏi, Hội Thánh, Công đồng Vaticanô II và Phụng vụ đều đi ngược lại với khuynh hướng tự nhiên thúc đẩy chúng ta tô vẽ thái quá cho Đức Maria khi gán cho Mẹ những vinh quang kỳ diệu. Với thái độ như vậy chúng ta sẽ tiên tri tận đâu đây".
Lộ trình thiêng liêng của Đức Marià có thể là lộ trình của chúng ta. Tiến bước theo Mẹ, chúng ta đến gần Đức Giêsu. Mặc lấy cái nhìn đức tin của Mẹ , chúng la học theo Mẹ để nhìn ngắm Đức Giêsu như chính Mẹ đã chiêm niệm và từ từ khám phá. Như Mẹ, chúng ta có thể tiến triển qua niềm vui và nỗi khổ, phát hiện và ngạc nhiên, và thường ngay cả nỗi đau khổ và sự không hiểu, như trường hợp Đức Maria và thánh Giuse ở đền thờ (Lc 2,50). Đức cha Garron giải thích, cái nhìn của Maria về con mình rất tương hợp với những giai đoạn kế tiếp nhau của sự "lớn lên" mà thánh Luca đã nói rõ: Maria đã thấy Đức Giêsu "ngày càng lớn lên, thêm những mạnh, đầy khôn ngoan và hằng được ơn nghĩa cùng Chúa ... " (Lc 2,52). Do đó, chúng ta sẽ tôn trọng chân lý của mọi sự và tư tưởng của chính Đức Maria khi cùng với Mẹ làm lại cuộc hành trình mà trưởc kia Mẹ đã không ngừng rảo bước. Chính trong viễn ảnh này, chúng ta có thể đặt biến cố Mông Triệu như một kết luận. Biến cố ấy nói cho chúng ta biết cuộc phiêu lưu của đức tin sẽ kết thúc thế nào. Đức Maria, Hòm Bia của giao ước mới, bước vào vinh quang của Chúa Cha. Đức Trinh Nữ được Thiên Chúa cho hưởng phúc vinh quang, chính là hình ảnh cho tương lai của chúng ta. Bài đọc thứ nhất so sánh Maria với Hòm Bia đích thực, nghĩa là nơi Thiên Chúa ngự, là lều tạm nơi để Lời Chúa và Bánh Thánh. Biến cố Mông Triệu giống như sự đảo ngược tình thế.
Giờ đây, chính Đức Maria được đón tiếp trong Thiên Chúa. Từ nay Mẹ ở trong Người. Chúng ta không còn ở phạm vi ưu đãi, nhưng bước sang phạm vi ơn gọi chung, vì đạt đến Đất Hứa sau cuộc phiêu lưu trên sa mạc là lời Thiên Chúa hứa cho mỗi người trong chúng ta.
72. Chú giải Tin Mừng theo Hugues Cousin
Thăm Viếng: 1, 39-45
Cảnh này không có cảnh tương ứng thì không có gì lạ: kết quả của nó là việc thành công sự giao liên giữa chu kỳ của Gioan và chu kỳ của Chúa Giêsu. Việc gặp gỡ của hai phụ nữ mang thai cho phép liên kết hai em bé sắp sinh ra. Trong bố cục của Luca, thực ra vị tiên hô bị tống giam trước khi Chúa Giêsu Kitô đến nhận phép rửa (3,20-21).
Đề tài của cuộc hành trình xuất hiện lần đầu tiên trong một tác phẩm mà các nhân vật di chuyển nhiều: Lời bắt đầu lên đường và cuộc hành trình (mau lẹ) sẽ dẫn Lời đến tận La Mã, tượng trưng cho ranh giới cuối cùng của miền đất có người ở (Cv 1,8; 28,30-31). Việc ngự đến của thần khí tiên tri trên bà Elizabeth chắc chắn muốn nói rằng Thiên Chúa đang hành động; nhưng sự can thiệp thần linh này cần sự thông hiệp và suy tư của những con người; ở đây cũng như ở Cv 10 với cuộc gặp gỡ giữa Phêrô và Conêliô, Lời chính là sự gặp gỡ của các nhân vật.
Thực vậy, vai trò của các nhân vật không hoàn toàn thụ động. Khi đa nhận lời thiên sứ chào, Đức Maria liền chuyển giao lời ấy; và điều đó mở đầu cho tiến trình. Khi lời chào vang đến tai bà Elizabeth, con trẻ sắp sinh nhảy mừng trong dạ mẹ. Em được đầy Thánh Thần như sứ thần đã loan báo (1,15), em bé thấy hừng lên bình minh của thời đại mới và nói tiên tri bằng việc nhảy mừng và không phải bằng lời nói, khi hân hoan nhận ra sự hiện diện của Đấng mà thiên hạ đợi trông vào thời cuối cùng. Được đầy thần khí tiên tri, lúc ấy Elizabeth hiểu được đầy đủ ý nghĩa của việc vừa xảy ra trong lòng dạ bà; bà không chỉ bằng lòng nhận ra rằng Đức Maria và đứa con bà cưu mang là đối tượng cho phúc lành của Chúa. Bà còn tuyên xưng người bà con của mình là Mẹ của Chúa tôi; bà Elizabeth nói bằng chính môi miệng mình điều mà đứa con bà đã xác nhận bằng cách nhảy mừng: con của Đức Maria là Đấng Kitô, Chúa đã loan báo trong Thánh vịnh 110, câu 1 (được trích dẫn bởi Lc 20,41-44 và Cv 2,34-36).
Như vậy tiếng kêu lớn của bà Elizabeth như vậy trước hết có ý nghĩa Kitô học: điều được nói về mẹ lại đến trước sự cao cả của Người Con. Nếu Đức Maria cưu mang Đấng Cứu Thế thì thật sự Ngài được chúc phúc hơn mọi phụ nữ. Tự nó, việc thụ thai đồng trinh đề cao Người Con chứ không phải người mẹ – như “Tin Mừng thời thơ ấu” của Mt 1-2 đã cho thấy. Tuy nhiên, Luca cũng lưu ý đến nhân vật Maria, và qua việc đó ông cho thấy một điều mới mẻ. Lời chúc phúc liên quan tới lòng tin của Đức Maria tự căn bản khác với cô thiếu nữ trong sách tiên tri Giacaria (c. 45) và những câu 42-45 cho phép Luca quy tụ trong Đức Maria hai cái phúc, phúc vì được làm mẹ và phúc vì có lòng tin mà ông tách rời ra trong đoạn 11,27-28. Khi tin rằng các lời của Thiên Chúa sẽ được thực hiện, Đức Maria trở thành mẹ; rõ ràng đức tin của người là thiết yếu để cho những lời ấy được thực hiện. Người là mẫu mực cho những ai nghe lời, là gương mẫu cho tín hữu, là Kitô hữu đầu tiên. Người ta cũng không coi thường việc Luca căn cứ vào lời cầu nguyện và suy tư sau này của Giáo Hội về người trinh nữ thành Nagiaret. Diễn ngữ Mẹ của Chúa chắc chắn cũng là dùng để tôn vinh Đức Maria: théotokos, mẹ của Thiên Chúa, cũng như lời nguyện cầu sẽ làm thành phần thứ hai của kinh “kính mừng”.
Lúc ấy, Đức Maria xướng lên bai thứ nhất trong bốn bài thánh ca của Lc 1-2. Đó là một bức tranh ghép toàn bằng những trích dẫn Cựu ước, theo bản dịch Hy Lạp Bảy Mươi. Như thánh ca của Anna (Sm 2,1-10) được Luca đường như khuôn mẫu, thánh ca ngợi khen này có một điểm nối kết với mạch văn, chỉ có câu 48 nối liền với trình thuật trước đó khi gợi lại một cách kín đáo việc truyền tin. Tuy nhiên, kinh Ngợi khen này có ý nghĩa của nó chính nhờ việc Luca đặt nó vào chỗ này. Vai trò của bản thánh ca này làm ta nghĩ đến vai trò của các giai điệu trong một bản nhạc kịch: cử điệu tạm thời bị ngưng lại và tiếng hát lời ca biểu lộ tâm lý của nhân vật trong cảnh hoặc ý nghĩa của biến cố.
Như bà Anna, người đã thụ thai một cách lạ lùng, Đức Maria bắt đầu bằng việc diễn tả điều Ngài cảm thấy (c. 46-47). Sau đó, tới lý do lời ngợi khen: bởi vì, lúc truyền tin, Người đã nhìn đến sự thấp hèn của nữ tỳ nữ Người và bởi vì, Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều kỳ diệu; lý do này bị gián đoạn giữa chừng bởi cái phúc của người tì nữ (c. 48b). So sánh bới St 30,13 thấy rằng: mọi thế hệ sẽ khen Đức Maria có phúc vì người con mà Ngài đang mang trong dạ chứ không phải do một công nghiệp cá nhân nào. Nhưng đồng thời, dường như Luca đã muốn bày tỏ qua điều diễm phúc này một thái độ tự nhiên của Kitô hữu đối với người mẹ đầy niềm tin của Chúa. Dù thế nao đi nữa, đối với nền tảng này của các suy tư sau đó về Đức Maria, điều đáng chú ý là từ câu này trở đi Thiên Chúa là chủ từ mọi động từ, trừ hai câu trong ngoặc này: Người chỉ được diễn tả là Đấng quyền năng, thánh thiện và nhân từ (c. 48-50).
Những câu 51-53 làm thành phần thứ hai cho thấy cảnh đổi lộn các tình huống và giá trị làm nổi bật bước chuyển từ thế giới này sang thế giới mới. Sự can thiệp cứu độ của Thiên Chúa, được bắt đầu với việc thụ thai con người, là Đấng Mêsia, sẽ ưu tiên xét xử công bình cho người thấp hèn, kẻ bị chà đạp. Đó là một suy tư mà Luca ưa thích và ông sẽ khai triển dài hơn khi trình bày các mối phúc và những nỗi bat hạnh (Lc 6,20-26) để giải thích luận đề này. Chúng ta hãy chỉ ghi nhận rằng bố cục của Luca đã đặt trên môi miệng Đức Maria một ngôn ngữ sẽ làm nổi bật tính cách hiển thị của Vương Quốc trong lời rao giảng của Đức Giêsu.
Trong phần kết, sự can thiệp có tính cách cứu độ bắt đầu thực hiện lời hứa với các tổ phụ, cho con cháu của Abraham (cc. 54-55). Luca cẩn thận không nói trước đến đề tài lương dân vào đạo, cũng như tô điểm cho bài thánh ca màu sắc Kitô học hậu-Phục Sinh.
Đức Maria ở lại nhà bà Elizabeth độ ba tháng. Đối với Luca, khoảng thời gian trong khi Đức Maria xa cách Giuse là một dấu chỉ, dưới mắt độc giả, xác minh cho việc thụ thai đồng trinh. Đồng thời, không có vấn đề Đấng Mêsia hiện diện – dù là trong dạ mẹ – vào ngày vị tiền hô sinh ra! Đức Maria trở về nhà mình.
73. Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)
Nói về Maria, viết về Mẹ, muôn đời sẽ không có ngôn từ nào hay chữ nào có thể diễn tả cho hết được những đặc ân và những nhân đức cao quí, tuyệt vời Thiên Chúa đã dành cho Đức Trinh Nữ Maria. Chỉ với đức tin, sống trong lòng tin nhân loại mới nghiệm ra quả thực Mẹ Maria đã có một vai trò đặc biệt và hết sức quan trọng trong lịch sử cứu rỗi nhân loại ! Mẹ đã được tuyển chọn giữa muôn người nữ để đón nhận trong cung lòng trinh khiết Con Thiên Chúa làm người. Mừng lễ Đức Mẹ lên trời hôm nay, nhân loại sẽ được chiêm ngắm hình ảnh đẹp nhất của Mẹ Maria, vẹn tuyền, trinh trong đang hưởng phúc bên ngai tòa Thiên Chúa trên nước trời.
LỜI XIN VÂNG CỦA MẸ ĐÃ BIẾN ĐỔI HOÀN TOÀN CON NGƯỜI MẸ:
Mẹ Maria trong giây phút thinh lặng nhưng hoàn toàn bỡ ngỡ, kinh ngạc trước lời truyền tin của sứ thần Gabrien. Đây là giờ của lời hứa mà các tổ phụ và ngôn sứ trông chờ. Mẹ ngạc nhiên, bối rối, lo âu trước một sứ điệp hết sức quan trọng, một tin vui to lớn mà bất cứ người thiếu nữ nào lúc đó cũng muốn có được: ”Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng tối cao” (Lc 1, 31-32). Lời của sứ thần Thiên Chúa như một tiếng sét làm cho Maria, người nữ tử Sion hết sức run sợ, nhưng sứ thần Gabrien liền trấn an: ”Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa” (Lc 1, 30). Lời loan báo Tin Mừng này ứng nghiệm lời các ngôn sứ nói trước còn hơn những điều họ dám nghĩ và Thiên Thần cắt nghĩa, lý giải việc đó sẽ được thực hiện, xẩy ra như thế nào: ”Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng tối cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1, 35). Maria trong biến cố này đã hoàn toàn phó thác và tin tưởng vào Thiên Chúa. Maria với tâm hồn rất đơn sơ, thành thực và tế nhị đã thưa với sứ thần Thiên Chúa: ”Việc ấy sẽ xẩy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng” (Lc 1, 34). Thiên Thần liền giải thích cho Maria như trên, nên dù mới được cắt nghĩa, mới được Thiên Thần lý giải cùng với trường hợp của bà Isave, người chị họ của Maria đã mang thai 6 tháng, người được coi là son sẻ và dù chưa hiểu các tường tận, nhưng với lòng tin tuyệt vời, Maria đã nhanh nhảu thưa với Thiên Thần: ”Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi theo lời sứ thần nói” (Lc 1, 38). Lời thưa xin vâng của Maria đã làm đảo lộn tất cả và ta có thể nói không sai nếu không có lời xin vâng của mẹ Maria với đức tin sắt đá nhân loại mãi mãi vẫn chìm ngập trong tội lỗi, trong đớn đau và trong bóng tối. Chính lời thưa xin vâng trọn vẹn của Mẹ Maria trong lòng tin và tín thác của Mẹ đã làm cho Ngôi Lời thành xác phàm và cư ngụ giữa nhân loại để cứu thoát mọi người khỏi sự dữ: ”Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1, 14). Mẹ Maria quả thực đã được Thiên Chúa tuyển chọn giữa con cái loài người để Maria đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa nơi thân xác của Người, mà còn đón nhận ơn cứu độ nơi chính tâm hồn của Người. Mẹ Maria đã là người nữ đầu tiên trong hàng ngũ loài người đón nhận trọn vẹn ơn cứu độ của Thiên Chúa.
TUYÊN XƯNG ĐỨC MARIA HỒN XÁC LÊN TRỜI:
Vì được chọn giữa muôn người trong con cái loài người ở thế gian này, Thiên Chúa đã dành cho Mẹ Maria những đặc ân cao quí nhất mà không người nào trong con cái loài người được đón nhận. Đặc ân vô nhiễm nguyên tội, làm Mẹ Thiên Chúa và hồn xác lên trời là những hồng ân quí giá nhất Thiên Chúa dành cho Mẹ. Tuyên xưng Mẹ Maria hồn xác lên trời là nhìn nhận Mẹ đã hưởng trọn vẹn ơn cứu độ của Thiên Chúa khi Mẹ nắm giữ vai trò quan trọng nhất trong việc Mẹ thực hiện ơn cứu độ của Thiên chúa trong lịch sử nhân loại. Mẹ Maria thực sự là một con người trong hàng ngũ con người trong nhân loại đã lắng nghe, đón nhận và thực thi lời Chúa để trở thành con người được cứu độ. Thiên Chúa đã dành cho Maria những đặc ân lớn lao trong đó có ân huệ: ”hồn xác lên trời”, với đặc ân này không phải vì Maria đã cưu mang và hạ sinh Con Thiên Chúa, nhưng vì Mẹ đã nghe và thực hiện lời Chúa, nghĩa là trở thành một con người giữa nhân loại được cứu độ trọn vẹn. Như thế, những ân huệ đặc biệt mà Thiên Chúa dành cho Đức Trinh Nữ Maria, cũng là những ân sủng Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta. Với đặc ân linh hồn và xác lên trời, ta hãy nghe Đức Thánh Cha Piô XII tuyên bố tín điều vô ngộ này: ”Chúng Tôi công bố, tuyên xưng và định tín giáo lý đã được Thiên Chúa mạc khải này: Đức Maria trọn đời đồng trinh, Mẹ vô nhiễm của Thiên Chúa, sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, đã được đưa lên trời hiển vinh cả hồn lẫn xác” (Munificentissimus Deus, Đức Giáo Hoàng Piô XII tuyên bố ngày 01 tháng 11 năm 1950).
Lạy Chúa, Chúa đã đoái thương nhìn đến tôi tớ khiêm nhượng của Chúa là Đức Trinh Nữ Maria, và ban ân huệ tuyệt vời là cho Người làm Mẹ của Con Một Chúa nhập thể, và hôm nay còn ân thưởng cho Người vinh phúc vô song. Phần chúng con đã được Chúa thương cứu chuộc, xin Chúa nhận lời Đức Trinh Nữ cầu thay nguyện giúp, cho chúng con cũng được hưởng vinh quang trên trời” (Lời nguyện nhập lễ, lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời).
74. Maria diễm phúc hơn mọi người nữ
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng gồm ba phần như sau: Phần I (39-40): Đức Ma-ri-a vội vã lên đường thăm viếng bà chị họ Ê-li-sa-bét. Hai bà mẹ đều được chúc phúc vì đã quảng đại đáp lời mời cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Phần II (41-46a): Thai nhi Gio-an trong dạ mẹ đã hân hoan nhảy mừng đón Thai Nhi Giê-su đến ban ơn cứu độ. Phần III (46b-56): Đức Ma-ri-a dâng lời kinh Ma-nhi-phi-cát ca ngợi tình thương cứu độ của Đức Chúa.
CHÚ THÍCH:
- C 39: + Lên đường vội vã: Chỉ một thời gian ngắn sau biến cố Truyền tin, Đức Ma-ri-a đã vội vã lên đường đến thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét (hay cũng gọi là I-sa-ve), mà sứ thần đã cho biết bà mới có thai được 6 tháng. Bà này đã chịu tủi hổ trước mặt người đời, vì bị son sẻ không con. + Đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa: Thành mà Đức Ma-ri-a định tới là một trong mười một địa hạt miền Giu-đê. Nhiếu người nghĩ đó là A-in Ka-rim, cách thủ đô Giê-ru-sa-lem 6 cây số về phía Tây. Con đừong từ Na-da-rét đến A-in Ka-rim dài 150 cây số.
- C 40-41: + bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét: Cuộc gặp gỡ giữa hai bà mẹ chính là cơ hội để thai nhi Giê-su gặp gỡ thai nhi Gio-an là tiền hô của Người. + Đứa con trong bụng nhảy lên: Gio-an Tẩy Giả bắt đầu sứ vụ ngôn sứ bằng động tác nhảy mừng trước Đấng Thiên Sai (Mêsia) đang ẩn mình trong dạ mẹ, giống như vua Đa-vít xưa đã nhảy mừng khi ra đón Hòm Bia Giao Ước. Truyền thống coi sự kiện này là dấu hiệu Gio-an Tẩy Giả được khỏi tội tổ tông truyền. + Bà được đầy ơn Chúa Thánh Thần: Thánh Thần đã tác động khiến bà Ê-li-sa-bét nhận biết cô em họ Ma-ria đang mang Đấng Mê-si-a đến viếng thăm nhà mình.
- C 42-44: + Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc: Bà Ê-li-sa-bét ca tụng Ma-ri-a diễm phúc hơn mọi phụ nữ, vì thai nhi trong lòng Ma-ri-a là Đấng được Thiên Chúa chúc phúc. + Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?: “Chúa tôi” ở đây là danh xưng của Đấng Mê-si-a. Nhờ được Thần Khí tác động mà bà Ê-li-sa-bét đã nhận ra Chúa của mình là Thai nhi mà cô em Ma-ri-a đang cưu mang. Danh xưng Đức Giê-su là “Chúa” được Tin Mừng Lu-ca sử dụng đến 40 lần. + Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng: Ê-li-sa-bét chia sẻ cho Ma-ri-a sự lạ mà bà vừa cảm nghiệm. Đó cũng là lý do khiến bà nhận biết Đức Ma-ri-a đang cưu mang Thai Nhi Cứu Thế.
- C 45: + Em thật có phúc, vì đã tin: Ma-ri-a đã tin vào những lời Chúa phán với mình khi sứ thần truyền tin sẽ được thực hiện, và trở thành người tín hữu đầu tiên của thời Tân Ước. Ngược lại với ông Da-ca-ri-a chồng bà vì không tin và đòi thấy dấu lạ, nên đã bị câm cho đến khi các điều sứ thần nói xảy ra (x. Lc 1,20).
- C 46-50: +“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa: Sau khi nghe bà Ê-li-sa-bét khen là có phúc, Ma-ri-a đã quy hướng lời ca khen đó về cho Thiên Chúa trong bài kinh “Ngợi khen Thiên Chúa” (Magnificat). Bài này mô phỏng theo bài ca mà bà An-na là mẹ của ngôn sứ Sa-mu-en, sau khi được Đức Chúa cho sinh con trai và mang đứa trẻ lên Đền Thờ tại Si-lô thời Tư tế Ê-li, để thánh hiến dâng cho Đức Chúa (x. 1 Sm 2,1-10). Kinh này nhấn mạnh hai đìều: Một là người nghèo hèn bé mọn được Chúa bênh vực (x. Xp 2,3; Mt 5,3); Hai là dân Ít-ra-en được Chúa tuyển chọn và yêu thương (x. Đnl 7,6). Đức Ma-ri-a đã hát lên bài ca này để bày tỏ lòng tri ân của mình (cc 46-49) và của toàn dân It-ra-en (cc 50-55), vì nay đã đến thời điểm lời hứa cứu độ của Đức Chúa được thực hiện.
- C 51-55: + Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh: Chúa dùng quyền năng để can thiệp và bênh vực người hèn yếu (x. Tv 118,15-16). + Vì Người nhớ lại lòng thương xót: Cựu Ước thường ghi là “Thiên Chúa nhớ lại” để diễn tả việc Người luôn trung thành với lời hứa và thi hành những lời Ngừơi đã phán qua các ngôn sứ (x. St 8,1; 9,15; Xh 2,24). Lu-ca cũng không quên ghi lại lời chúc tụng như bài ca của Da-ca-ri-a trước đó: “Người nhớ lại lời xưa giao ước” (Lc 1,72).
- C 56: + Ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng: Ở lại để giúp đỡ bà chị Ê-li-sa-bét, làm các việc nhà thay cho bà trong thời kỳ cuối trước khi bà sinh con. Nhưng Đức Ma-ri-a chỉ phục vụ đúng mức mà thôi. + rồi trở về nhà: Một tuần sau ngày bà Ê-li-sa-bét sinh nở, sau khi con trẻ được đặt tên và chịu phép Cắt Bì để được gia nhập vào dân Ít-ra-en, thì Đức Ma-ri-a đã trở về quê nhà là thành Na-da-rét.
CÂU HỎI: 1) Lý do nào khiến Đức Ma-ri-a vội vã lên đường viếng thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét? 2) Truyền thống Công Giáo khẳng định Gio-an Tẩy Giả được khỏi tội tổ tông truyền từ lúc nào? 3) Bà Ê-li-sa-bét được đầy Thánh Thần đã gọi Đức Ma-ri-a bằng tước hiệu gì? 4) Tại sao bà Ê-li-sa-bét khen Đức Ma-ri-a diễm phúc, khác với ông Gia-ca-ri-a chồng bà? 5) Bài kinh “Ngợi khen Thiên Chúa” (Magnificat) có nguồn gốc thế nào trong Cựu Ước và nội dung gồm những gì? 6) Đức Ma-ri-a ở lại nhà bà Ê-li-sa-bét bao lâu và để làm gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: Bà Ê-li-sa-bét được tràn đầy Thánh Thần đã ca tụng Đức Ma-ri-a rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ” (41-42a),… và: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (45). Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (46).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Đức Maria Hòm Bia của Giao Ước Mới:
+ LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA CỦA HÒM BIA GIAO ƯỚC: Hòm bia hay Khám Giao Ước là một chiếc thùng được làm bằng gỗ keo hình chữ nhật, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi và cao bảy tấc rưỡi. Được dát bằng vàng ròng cả trong lẫn ngoài (x. Xh 37, 1-2). Bên trong chứa đựng hai tấm bia ghi Mười điều răn do chính Thiên Chúa viết và ban cho dân It-ra-en qua trung gian của Mô-sê trên núi Khô-rép (x. Xh 20,1-17; Đnl 5,2-21). Về sau Mô-sê còn viết sách Luật và truyền đặt bên cạnh Hòm Bia (x. Đnl 31,24-27). Trên Hòm Bia có một cái nắp đậy được gọi là Nắp Xá Tội. Hai bên đầu nắp có hai bức tượng thần hộ giá (Kê-ru-bim) bằng vàng gò đặt đối diện nhau và cùng cúi mặt xuống nắp. Hai tượng này có cánh giương lên và phủ trên nắp (x. Xh 25,18-20). Chính nơi Hòm Bia này mà Đức Chúa hiện ra nói chuyện với dân Người và đáp lại lời họ kêu xin (x. Xh 25,22; 1 Sm 4,4). Trong cuộc hành trình qua sa mạc, Hòm Bia Giao Ước luôn được khiêng đi trước dẫn đường cho dân Ít-ra-en. Vua Đa-vít đã đem cả Hòm Bia Giao Ước lẫn Lều Thánh về Giê-ru-sa-lem và làm cho thành này trở thành trung tâm của Vương quốc cả về chính trị lẫn tôn giáo. Vua Sa-lô-môn đã đặt Hòm Bia Giao Ước vào nơi Cực Thánh của Đền Thờ sau khi xây dựng xong. Đối với nhà vua cũng như toàn dân, Hòm Bia Giao Ước mang ý nghĩa lãnh đạo và che chở, đồng thời cũng là lời khuyến cáo phải sống theo thánh ý Thiên Chúa đang ngự giữa dân Người. Sau khi đế quốc Ba-by-lon tàn phá Đền thờ Giê-ru-sa-lem vào năm 587 trước Công Nguyên, họ cũng phá hủy cả Hòm Bia Giao Ước. Từ đó tất cả ý nghĩa của Hòm Bia Giao Ước đều chuyển sang Đền Thờ thứ hai và thành thánh Giê-ru-sa-lem, được coi là ngai tòa và là bệ chân của Thiên Chúa.
+ Đức Maria, Hòm Bia của Giao Ước Mới: Trong Tân Ước, Đức Ma-ri-a được công nhận là nơi Thiên Chúa cư ngụ, giống như Hòm Bia của Giao Ươc mới. Nơi Đức Ma-ri-a, quyền năng của Thiên Chúa đã được tỏ hiện, đúng như sứ thần đã nói với Người: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà” (Lc 1,35). Thực vậy, vinh quang Thiên Chúa đã bao phủ trên Ma-ri-a giống như cột mây cột lửa đã rợp bóng trên dân It-ra-en để bang trợ, phù giúp dân vượt qua biển Đỏ về miền Đất Hứa (x. Xh 14,19-20). Trong biến cố Truyền tin, ngay sau lời thưa “Vâng” của Người, Thánh Thần đã tác động làm cho Đức Ma-ri-a thụ thai mà vẫn còn trinh khiết, và Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập vào Thai nhi ấy, trở thành người có xác có hồn giống như chúng ta (x. Lc 1,38), ngoại trừ không có tội. Đó là Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Tóm lại, Đức Ma-ri-a cũng đựơc ví như Hòm Bia của Giao Ước Mới, nơi mà “Lời Thiên Chúa đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (x. Ga 1,14), và Đức Giê-su trở thành Đấng “Em-ma-nu-en” Nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23). Đức Ma-ri-a là Mẹ cưu mang Hài Nhi Giê-su trong lòng, nên Người cũng được ví như Hòm Bia Thiên Chúa.
2) Mẹ luôn cứu giúp những ai tin cậy kêu cầu:
ĐU-LỚT HAI-ĐƠ (Douglas Hyde) vốn là một người vô tín và thù ghét đạo Công giáo. Ông là chủ bút một tờ báo lớn ở nước Anh. Với tư cách là chủ bút, ông nghiên cứu về Giáo hội để viết những bài phê bình chống đối gay gắt. Tuy nhiên một điều lạ lùng đã xảy ra, là ông càng nghiên cứu về giáo lý bao nhiêu, thì tâm trí ông lại càng thêm tin tưởng vào các chân lý ấy bấy nhiêu. Tuy vậy ông vẫn chưa quyết định dứt khóat tin theo đạo ngay.
Một hôm, trên đường từ nhà đến tòa soạn ở trung tâm thủ đô Luân Đôn, lúc xe lửa đến trạm dừng, Đu-Lớt thấy tấm biển ghi “Nhà thờ Công giáo” ở bên đường, ông liền thử vào bên trong nhà thờ xem sao. Ông ngồi vào hàng ghế ở cuối nhà thờ và rồi thắc mắc tại sao mình lại có mặt ở đây? Bấy giờ ông thấy một cô gái bước vào nhà thờ, nét mặt âu lo buồn khổ. Cô ta đi thẳng đến trước tòa Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp bên trái cung thánh nhà thờ và quỳ dưới hình Đức Mẹ một hồi lâu. Sau đó, cô đứng dậy đi xuống cuối và ra khỏi nhà thờ. Khi cô đi ngang, Đu-lớt nhận thấy nét mặt của cô ta đã bình thản trở lại chứ không còn lo âu sầu não như khi mới bước vào nhà thờ.
Ngay lúc đó Đu-lớt quyết định thử làm theo cô gái là cũng đến quỳ trước ảnh Đức Mẹ. Sau này ông đã viết trong cuốn “tôi tin” (I believed) như sau: “Tôi không biết người ta đã cầu nguyện với Đức Mẹ thế nào? Cuối cùng tôi nghe thấy chính mình sắp nói ra một điều gì đó thích hợp. Tuy nhiên khi bắt đầu thốt ra thì tôi lại thấy lời đó có vẻ kỳ cục làm sao! Nhưng điều này không quan trọng gì. Tôi biết rõ là sự tìm kiếm bấy lâu nay của tôi đã đạt tới đích… Lúc ra khỏi nhà thờ, tôi cố gắng hồi tưởng lại những gì tôi nói và hầu như tôi bật cười khi nhớ lại những lời ấy. Chúng giống hệt những lời ngân lên trong một điệu khiêu vũ!” Cuối cùng Đu-lớt đã đạt tới đức tin vào Chúa Giê-su nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.
3) Những bằng chứng về đặc ân Hồn Xác Lên Trời của Đức Maria:
Ngoài truyền thống hay Thánh Truyền là ký ức tông truyền, Giáo Hội còn dựa trên một số đoạn Thánh Kinh cho thấy Mẹ Thiên Chúa liên kết rất mật thiết với Con Mình và luôn chia sẻ tất cả thân phận của con, để xác tín đặc ân Hồn Xác Lên Trời của Mẹ:
+ “Dòng giống người nữ sẽ đánh vào đầu mi” (St 3,14-15): Câu này có ba cách hiểu: Một là “Sự chiến thắng của dòng giống người đàn bà trên dòng giống con rắn” (Bản văn tiếng Do Thái). Hai là “Người đàn bà sẽ đạp lên đầu mi” (Bản văn tiếng La Tinh), khẳng định vai trò của Mẹ Đấng Mê-si-a trên con rắn hỏa ngục là ma quỷ (x. Kh 12,13.17). Ba là “Người đó sẽ đánh vào đầu mi” (Bản văn Bảy mươi tiếng Hy Lạp), được hiểu là Đức Giê-su, Đấng sẽ chiến thắng con rắn ma quỷ.
+ “Đấng đầy ân sủng, luôn được Thiên Chúa ở cùng” (x. Lc 1,28): Đầy ơn phúc và luôn có Chúa tức là hoàn toàn trong sạch thánh thiện, nên Người không phải chết như loài người chúng ta. “Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai và đặt tên là Giê-su” (Lc 1,31): Đức Ma-ri-a được chọn làm Mẹ Đấng Thiên Sai, Đấng sẽ thay vua Đa-vít cai trị Ít-ra-en và triều đại của Người sẽ luôn vững bền.
+ Đức Maria là Evà Mới: Đã cộng tác với Đức Giê-su là A-Đam mới, để vâng phục Chúa Cha (x. Rm 5,12-19; PI 2,6-11). Mẹ đã tích cực cộng tác với Đức Giê-su trong cuộc khổ nạn (x. Ga 19,25), thì cũng được dự phần vào sự phục sinh vinh quang với Người.
4) Từ tín điều Mẹ Thiên Chúa đến Mẹ Hồn Xác Lên Trời:
+ Từ thuở ban đầu, các giáo đoàn tiên khởi đều tôn kính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Từ những đoạn Thánh Kinh Tân Ước, đến các giáo phụ, rồi Công đồng chung Ê-phê-sô năm 431 đã tuyên bố “Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa”. Đã có những lễ nói đến lúc chấm dứt cuộc đời của Đức Ma-ri-a như: Lễ Đức Mẹ An Giấc (dormitio), Lễ Đức Mẹ Chuyển Biến (Transitus), Lễ Đức Mẹ Sinh Ra Trên Trời (Natalis), Lễ Đức Mẹ được Nâng Lên Trời (Assumptio).
+ Riêng Lễ Đức Mẹ An Giấc (Dormitio) đã được long trọng cử hành đó đây trong Giáo Hội Đông Phương. Nhất là từ sau Công đồng chung Ê-phê-sô năm 431, nhưng mãi đến thế kỷ thứ 7, lễ này mới được du nhập vào Giáo Hội Tây Phương.
Từ đó về sau nhiều thư thỉnh nguyện của các giám mục, các dòng tu, các nhà thần học được gửi đến Đức Giáo Hoàng để xin Ngài định tín về việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Trong Công đồng Va-ti-ca-nô I, nhiều nghị phụ cũng yêu cầu Đức Thánh Cha quyết định điều đó, vì theo các ngài thì việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời có liên quan mật thiết với đức đồng trinh và chức vụ làm mẹ Đấng Cứu Thế của Ngài. Hơn nữa, vì Mẹ đã được cứu chuộc hoàn toàn, nên cũng phải được tôn vinh toàn diện như lời thánh Phao-lô: “Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến người, tức là cho những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8,28-29). Dựa theo các thỉnh nguyện thư đó, năm 1946, Đức Pi-ô 12 đã gửi đến mỗi giám mục một lá thư và yêu cầu trả lời như sau: “Đức cha và hàng giáo sĩ, giáo dân trong giáo phận của Đức cha, có xác tín và có muốn công bố việc Đức Ma-ri-a hồn xác lên trời như một tín điều hay không?” Hầu hết các thư trả lời đều đồng ý và thỉnh nguyện như vậy. Thế là vào ngày 1.11.1950, Đức Pi-ô 12 đã long trọng tuyên bố tín điều Đức Ma-ri-a Hồn Xác Lên Trời cho toàn thể Giáo Hội tin kính và mừng chung vào ngày 15 tháng 8 hằng năm.
+ Đức Thánh Cha đã xác quyết: “Thế nên Đức Thánh Mẫu cao cả, ngay từ đời đời và do cùng một quyết định tiền định, đã được kết hợp với Đức Giê-su Ki-tô một cách huyền nhiệm, vô nhiễm khi đầu thai, đồng trinh vẹn sạch khi làm Mẹ, cộng tác quảng đại với Đấng Cứu Thế, Đấng đã chiến thắng hoàn toàn sự tội và các hiệu quả của nó, thì cuối cùng để kết thúc mọi đặc ân ngài đã được, Đức Trinh Nữ cũng đã gìn giữ khỏi bị hư nát ở trong mồ, để nên giống Con Mình. Sau khi chiến thắng sự chết, ngài cũng được tôn vinh trên trời cả hồn lẫn xác, nơi Ngài được sáng láng làm Nữ Vương ngự bên hữu Con mình là Vua bất tử của mọi thời” (trích CGKPV trang 334).
3. SUY NIỆM:
1) Đức Maria là Mẹ Đức Giêsu:
Là Mẹ đã thụ thai và hạ sinh Đức Giê-su: Tin Mừng Lu-ca thuật lại việc Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đã được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế nhờ có Chúa ở cùng, và luôn kết hiệp mật thiết với Người. Sau lời thưa “xin vâng”, Ma-ri-a đã đuợc thụ thai mà vẫn bảo toàn đức trinh khiết nhờ ơn Thánh Thần (x. Lc 1,28-38). Sau đó Ma-ri-a theo “Ông Giu-se từ thành Na-da-rét miền Ga-li-lê lên thành Bê-lem, miền Giu-đê là thành vua Đa-vít, vì ông thuộc về nhà và gia tộc vua Đa-vít. Ông lên đó khai tên cùng với người đã đính hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc 2,4-7).
2) Đức Maria là Mẹ Hội Thánh:
+ Tin Mừng Gio-an viết: “Đứng gần thập giá Đức Giê-su có Mẹ Người, chị của Mẹ Người là bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la. Khi thấy Mẹ và môn đệ mình thương mến đứng bên, Đức Giê-su nói với Mẹ Người rằng: “Thưa bà, đây là con của Bà”. Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh”. Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình (Ga 19,25-27).
+ Thánh Phao-lô cũng dạy: “Thiên Chúa đặt Người làm Đầu toàn thể Hội Thánh. Mà Hội Thánh là thân thể Đức Ki-tô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (x. Ep 1,22b-23); “Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh” (Cl 1,18). Như vậy Đức Ma-ri-a là Mẹ của Đức Giê-su là Đầu, thì cũng là Mẹ của thân thể Đức Giê-su là Hội Thánh, trong đó có mỗi tín hữu chúng ta.
+ Người nêu gương khiêm nhường cho các tín hữu qua việc luôn lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa và mau mắn xin vâng (x. Lc 1,30-36). Người cũng nêu gương bác ái khi chủ động thăm viếng bà chị họ Ê-li-sa-bét, đem niềm vui ơn cứu độ đến cho gia đình Gia-ca-ri-a, làm cho thai nhi Gio-an “nhảy mừng’ vì được khỏi tội tổ tông truyền. Sau đó Người còn ở lại 3 tháng để phục vụ, giúp đỡ việc nhà cho bà Ê-li-sa-bét trong ba tháng trước ngày bà sinh con, rồi trở về nhà mình (x. Lc 1,39-56). Người cũng quan tâm đến đôi tân hôn trong bữa tiệc cưới bị thiếu rượu tại thành Ca-na khi cầu thay nguyện giúp đội tân hôn với Đức Giê-su, xin Người can thiệp giúp đôi này. Dù Giờ chưa đến, nhưng Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên là biến nước lã trở thành rượu ngon để giúp họ (x. Ga 2,1-11).
3) Đức Maria là Đấng Đầy Ơn Phúc:
Ma-ri-a đầy ơn phúc và được Chúa luôn ở cùng như lời chào của sứ thần truyền tin (x. Lc 1,28).
+ Ma-ri-a có phúc vì tâm hồn Mẹ trong sạch và luôn kết hiệp với Chúa.
+ Ma-ri-a có phúc vì đã tin: Bà Ê-li-sa-bét đã ca tụng Đức Ma-ri-a rằng: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng: Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45).
+ Ma-ri-a có phúc vì được làm Mẹ Đức Giê-su. Là Hòm Bia Giao Ước Mới, Đức Maria chứa đựng chính Ngôi Lời Thiên Chúa làm người, để ở cùng chúng ta (x. Ga 1,14; Mt 1,23).
+ Nhưng nhất là có phúc vì đã trở thành môn đệ Đức Giê-su như Đức Giê-su đã đáp lại lời một phụ nữ khen ngợi người Mẹ đã có công sinh thành nuôi dưỡng Người: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,27-28). Do đó, Đức Giáo Hòang Phao-lô VI đã gọi Đức Ma-ri-a là “môn đệ tiên khởi và tuyệt hảo nhất của Đức Ki-tô”.
4) Đức Maria được rước về trời để chuyển cầu cho chúng ta:
+ Việc Hội Thánh tuyên bố tín điều “Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời” dạy chúng ta phải ý thức về thiên đàng đời sau. Chúng ta chỉ được lên trời nếu ngay từ đời này đã sống theo Lời Chúa Giê-su và đi con đường đau khổ thập giá của Người như Đức Ma-ri-a xưa.
+ Đức Ma-ri-a lên trời, nhưng luôn cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta là con cái Người. Ta hãy xin ơn được chết lành trong tay Đức Mẹ và sau này được hưởng hạnh phúc thiên đàng cùng Mẹ.
+ “Đến với Chúa Giê-su nhờ Mẹ Ma-ri-a” (Ad Jesum per Mariam): Chúng ta cần hiệp cùng Mẹ Ma-ri-a mỗi khi cầu nguyện với Thiên Chúa, noi gương Hội Thánh thời sơ khai (x. Cv 1,14). Ta hãy gắn bó với Mẹ và nhờ Mẹ cầu bầu cùng Chúa ban ơn lành hồn xác cho ta như Mẹ đã làm cho đôi tân hôn tại tiệc cưới thành Ca-na xưa (x. Ga 2,3).
+ Sống đức Tin, Cậy, Mến với Chúa noi gương Đức Mẹ: Tin những Lời Chúa phán, tìm hiểu ý Chúa dạy và xin vâng ý Chúa muốn, chấp nhận mọi may rủi xảy đến cho ta với lòng cậy trông phó thác.
4. THẢO LUẬN: 1) Việc về trời của Đức Mẹ (Lễ Mông Triệu) giống và khác với việc lên trời của Chúa Giê-su (Lễ Thăng Thiên) ra sao? 2) Ngay từ bây giờ chúng ta phải làm gì để sau này cũng được Chúa ban thưởng hạnh phúc lên trời với Mẹ?
5. NGUYỆN CẦU:
1) Lạy Chúa Ba Ngôi Cực Thánh. Hôm nay con cảm tạ Chúa vì Chúa đã thực hiện việc lớn lao nơi Đức trinh Nữ Ma-ri-a, là người con thân yêu và là nữ tỳ hèn mọn của Chúa. Chúa đã thương cho Mẹ trở nên giống Con của mình là Chúa Giê-su: nhờ giữ đức trinh khiết vẹn toàn, tâm hồn không vương chút bùn nhơ tội lỗi; Nhờ biết đặt trọn niềm tin vào lời Chúa phán sẽ được thực hiện; Nhờ luôn xin vâng ý Chúa để trở thành Mẹ Đấng Thiên Sai; Nhờ biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa; Nhờ thông phần với nỗi đau khổ của Chúa Giê-su trên đường thánh giá... mà Mẹ Ma-ri-a đã được Chúa ban thưởng bội hậu lên trời cả hồn lẫn xác.
2) Lạy Đức Maria Là Mẹ Rất Nhân Từ. “Xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ, xin bầu chữa cứu giúp, mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời”. Hôm nay cùng với Hội thánh hoàn cầu, chúng con long trọng mừng lễ Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Xin cho chúng con biết chạy đến với Mẹ trong cơn gian nan thử thách: khi bị thất bại trong việc làm ăn, những khi không biết phải làm gì để vượt qua khó khăn… Trong những giờ phút đau thương ấy, xin cho chúng con biết chạy đến nép mình dưới tà áo Mẹ, để được Mẹ che chở ủi an, để được Mẹ cầu bầu cùng Chúa Giê-su, ban cho chúng con ơn lành hồn xác. Nhất là xin Mẹ đừng để khi nào chúng con đi vào con đường lầm lạc. Xin dạy chúng con luôn lắng nghe Lời Chúa Giê-su con yêu của Mẹ, như Mẹ đã dạy các gia nhân tại tiệc cưới Ca-na: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5).
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
75. Maria Mẹ Đầy Ơn Phúc
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Suy niệm Lễ Vọng Đức Maria Hồn Xác về Trời (Lc 11, 27-28)
"Kính mừng Maria đầy ơn phúc" (Lc 1, 28). Đó là lời đầu tiên của Sứ Thần Gabriel chào Đức Trinh Nữ. Hôm nay từ miệng của một người nữ thích giả đang nghe Chúa Giêsu giảng cũng cất cao giọng nói: "Phúc cho lòng dạ đã cưu mang Thầy, và vú đã cho Thầy bú" (Lc 11, 27)
Vâng Đức Maria là đấng đầy ơn phúc, Mẹ là người diễm phúc. Bài Tin Mừng theo thánh Luca Thánh lễ vọng chiều nay được Giáo hội dùng, dìu chúng ta về với tước hiệu Đức Maria đầy ơn phúc. Người việt ta vẫn thường nói: "Phúc đức tại mẫu", nghĩa là theo quan niêm truyền thống, con cái được thừa hưởng điều tốt lành, may mắn từ người mẹ, do cách ăn ở cư xử, sự gương mẫu, cách giáo dục của người mẹ mà ra. Người mẹ chính là thầy dạy đầu tiên của việc hình thành nhân bản nơi đứa con. Chẳng thế, George Herbert đã viết một câu rằng: "Một bà mẹ tốt thì giá trị hơn cả trăm ông thầy!"
Người Do thái cũng vậy, khi Chúa Giêsu đang giảng cho dân chúng, thì từ giữa đám dân chúng, có một phụ nữ vì ngưỡng mộ con người cũng như cách giảng dạy của Chúa Giêsu, bà cho rằng, Thầy tài giỏi như thế này, hẳn là Mẹ Thầy phải là người có phúc lắm, nên bà đã không ngần ngại vượt qua rào cản của chính mình là phục nữ, bà đã cất tiếng nói với Đức Giêsu về Mẹ của Ngài: "Phúc cho lòng dạ đã cưu mang Thầy, và vú đã cho Thầy bú" (Lc 11, 27).
"Phúc cho lòng dạ đã cưu mang Thầy" (Lc 11, 27)
Đức Maria là người diễm phúc, trước hết vì đã được Thiên Chúa yêu thương và tuyển chọn. "Phúc thay kẻ được Người chọn lấy và cho lại gần, nơi tiền đình của Người, nó sẽ lưu lại! " (Ps 65,5). Câu này ám chỉ, dân có phúc là dân được Thiên Chúa trị vì, nhất là được Thiên Chúa thiết lập ngai báu vương quốc của Ngài ngay giữa họ; người có phúc là người được Thiên Chúa đến ở cùng, và dĩ nhiên chúng ta nghĩ ngay đến Đức Maria, người diễm phúc như lời Thiên Thần Grabirel chào và nói: "Thiên Chúa ở cùng bà " (Lc 1, 28), lời bà Êlisabeth xác nhận cái phúc của Mẹ: "Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc" (Lc 1, 42). Phúc của Mẹ trổi vượt trên mọi thần thánh trên trời, Mẹ có phúc vì Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng là Hồng Phúc đã chọn Mẹ, cư ngụ trong dạ Mẹ chín tháng mười ngày, đến khi chào đời, Mẹ đã ôm ấp bú mớm nâng niu… những điều đó đã làm cho vai trò làm mẹ của Đức Maria trở thành mật thiết, gắn liền với cuộc sống của Chúa Giêsu hơn; không những thế, Chúa Giêsu còn ở với Mẹ trong suốt nhiều năm và đã vâng phục Mẹ. Giờ đây, Mẹ thật diễm phúc và Mẹ luôn hạnh phúc, Chúa Giêsu Con Mẹ đã phủ đầy vinh quang của Ngôi Lời nhập thể trên Mẹ bên trong cũng như bên ngoài, hạnh phúc của Mẹ vượt quá sự hiểu biết của chúng ta.
"Phúc cho vú đã cho Thầy bú" (Lc 11, 27)
Mẹ là người trinh nữ duy nhất đã được vinh dự cưu mang và sinh hạ và dưỡng nuôi Con Một Thiên Chúa Chúa cho trần thế. Người đàn bà khi nghe Chúa Giêsu giảng đã không ngần ngại nói đến những nét đặc trưng và kín đáo của một người mẹ, những gì nơi thân xác mẹ cần cho sự sống của con. Ngoài lòng dạ của thân mẫu Thầy đã cưu mang Thầy, mà còn "vú đã cho Thầy bú mớm" ba năm. Như thế, thân xác và tâm hồn mẹ là cái nôi ru cho con lớn lên. Mẹ vừa cưu mang, vừa lo sinh, lo dưỡng.
Nếu "yêu và được yêu là những điều hạnh phúc nhất trong đời" như kiểu nói của văn hào shakespears, thì Đức Maria là người diễm phúc, vì Mẹ được Chúa yêu thương, chính Mẹ cũng biết dành trọn vẹn tình yêu của mình cho Thiên Chúa. Ngay trong mầu nhiệm lên Trời, Mẹ Maria đã được diễm phúc hưởng nếm ơn phục sinh "hồn xác lên trời" trước bất cứ ai, vì Mẹ chẳng vướng mắc tội truyền. Mẹ hạnh phúc tự nhiên vì cưu mang Con Thiên Chúa trong mầu nhiệm Nhập Thể, nhưng chính Mẹ biết rõ hơn ai: Mẹ hạnh phúc siêu nhiên vì được Tình Yêu Thiên Chúa cưu mang từ thủa đời đời. Mẹ hạnh phúc là như thế đó, và trong hạnh phúc của Mẹ chúng ta tìm thấy hạnh phúc của mỗi người chúng ta.
Mẹ sẵn sàng cưu mang hạnh phúc của mỗi chúng ta
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa mà Mẹ Maria đã cưu mang và cho bú mớm là Đấng Cứu Độ thế gian, mặc lấy xác phàm nhân loại và thánh hiến với tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Trái đất là bệ dưới chân của Đấng là Hồng Phúc. Nên trong hạnh phúc của Mẹ có hạnh phúc của mỗi người chúng ta. Như Mẹ hiền, khi bồng ẵm Chúa Giêsu Con Mẹ, với vòng tay rộng mở của tình mẫu tử, Mẹ ôm cả nhân loại trong tình yêu của Người Con ấy, "vì nhân loại là chi thể của Thân mình Ngài" (Ep 5,30), và Mẹ không xấu hổ vì được gọi là Mẹ của tất cả những ai được sinh ra trong Chúa Kitô nhờ ơn cứu chuộc của Người. Mẹ được gọi là Evà mới "Mẹ của tất cả chúng sinh" (St 3,20), nhưng trong thực thế, Mẹ là Mẹ của những kẻ chết… Vì Evà cũ đã không thực hành ý định của Chúa cách trung thành, Mẹ là người đã hoàn thành mỹ mãn mầu nhiệm ấy. Cũng như Giáo hội là mẹ của tất cả những ai tái sinh trong đời sống Giáo hội. Giáo hội là mẹ của những người sống làm cho mọi người được sống (Ga 11,25; 5,25s). Khi trao ban sự sống cho trần gian dưới nhiều hình thức, Giáo hội đã trao bao sự sống cho tất cả những ai tìm thấy sự sống của mình trong Đấng Hằng Sống.
Chính vì thế, người mẹ diễm phúc của Chúa Kitô là mẹ chúng ta nhờ mầu nhiệm thân thể này, Mẹ cũng tỏ cho chúng ta biết Mẹ rất ân cần và trìu mến… Và giờ đây chúng ta "ở trong sự che chở " của Mẹ "Đấng Tối Cao", chúng ta "ngụ cung cấm của Ðấng Tối Cao, và trọ dưới bóng của Ðấng Toàn năng; Tôi đã đặt Chúa luôn luôn trước mắt, vì có Người bên hữu, tôi sẽ không lay! " (Ps 90,1; 16,8). Hơn nữa, vì Vua vinh quang đã ngự nơi Mẹ, với tình mẫu tử hải hà, Mẹ sẽ chia sẻ vinh quang ấy cho chúng ta.
Mẹ hạnh phúc, Mẹ cũng muốn con cái mình hạnh phúc, nên Mẹ dạy: "Người bảo gì các con cứ làm theo" (Ga 2, 5). Chúa Giêsu bảo: "Ai nghe và giữ lời Thiên Chúa còn có phúc hơn" (Lc 11, 28). Xin Mẹ giúp chúng con vâng nghe và giữ lời Thiên Chúa, để trở nên những người con diễm phúc của Mẹ. Amen.
76. Lễ Mẹ Lên Trời
Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ - Suy Niệm và Giảng Lễ Chúa Nhật của Ðài Phát Thanh Chân Lý Á Châu. Radio Veritas Asia)
Quí ông bà, cô bác, anh chị em thân mến!
Nhân ngày Lễ Mẹ Hồn Xác Lên Trời hôm nay, chúng ta hãy cùng nhau nhắc lại bài giảng của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong Lễ Kính Mẹ Hồn Xác Lên Trời, Ðức Thánh Cha đã giải thích và suy niệm câu: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa" như sau:
"Giáo Hội lữ hành trong lịch sử ngày hôm nay hiệp ý với bài ca vui mừng của Mẹ Maria Ðồng Trinh, Giáo Hội nói lên niềm vui và chúc tụng Thiên Chúa, vì Mẹ của Chúa khải hoàn bước vào vinh quang trên Trời. Trong mầu nhiệm Hồn Xác Lên Trời xuất hiện cho chúng ta thấy ý nghĩa trọn vẹn và quyết định của những lời mà Mẹ Maria đã thốt lên tại Ain Kerem, khi Mẹ đáp lại lời chào của bà Elizabeth: Ðấng Toàn Năng đã làm cho tôi những điều cao cả.
Nhờ vào việc chiến thắng của Chúa Kitô vượt qua sự chết, Ðức Nữ Ðồng Trinh Nazareth được kết hợp cách đặc biệt vào hiệu quả của ơn cứu rỗi. Với lời Xin Vâng, Mẹ đã đáp lại trọn vẹn thánh ý Chúa. Mẹ đã tham dự cách sâu xa vào mầu nhiệm Chúa Kitô và đã bước vào vinh quang trước tiên sau Chúa Kitô với trọn cả hồn xác. Lời thưa Xin Vâng của Mẹ là niềm vui của biết bao người sống trong bóng tối và trong sự chết. Thật vậy, nhờ Mẹ mà Chúa của sự sống bước vào thế gian. Các tín hữu vui mừng và tôn vinh Mẹ như là Mẹ của nhiều người con đã được Chúa Kitô cứu chuộc, một cách đặc biệt trong ngày hôm nay, các tín hữu tôn kính Mẹ như là dấu chỉ của sự an ủi, của niềm vui cho mọi người, mọi dân tộc trên đường lữ hành tiến về Quê Trời.
Chúng ta hãy đưa mắt nhìn lên Mẹ Ðồng Trinh mà Phụng Vụ khẩn cầu Mẹ như là: "Ðấng bẻ gẫy xiêng xích trói buộc cho những kẻ bị áp bức, trả lại ánh sáng cho kẻ bị mù, xua đuổi ra khỏi chúng ta mọi sự dữ và cầu xin cho chúng ta được mọi sự lành".
"Linh hồn tôi chúc tụng Chúa", cộng đoàn Giáo Hội trong ngày lễ trọng thể Kính Mẹ Maria hôm nay lập lại bài ca tạ ơn của Mẹ, và Giáo Hội làm công việc này với tư cách là dân Chúa và xin mọi tín hữu hãy hiệp chung với nhau hát bài ca Magnificat dâng lên Chúa. Ngay từ thế kỷ đầu, thánh Ambrôsiô đã khuyến khích: "Ước chi tâm hồn Mẹ Maria hiện diện nơi từng người để chúc tụng Thiên Chúa, và ước chi thần khí của Mẹ Maria hiện diện nơi mỗi người để hoan hỷ trong Chúa". Những lời của bài ca Magnificat là như chúc thư thiêng liêng của Mẹ Maria Ðồng Trinh. Tuy nhiên, những lời này cũng là phần gia tài cho tất cả những ai nhìn nhận mình là con của Mẹ Maria, quyết định tiếp rước Mẹ Maria về nhà mình, như thánh Tông Ðồ Gioan đã làm khi xưa, tiếp nhận Mẹ là Mẹ của mình trực tiếp từ Chúa Giêsu dưới chân thập giá."
Ðó là những lời khuyến khích của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II cho tất cả mọi người trong ngày Lễ Kính Ðức Mẹ Hồn Xác Lên Trời hôm nay 15 tháng 8. Ðức Thánh Cha còn đề ra cho mọi người mẫu gương của Mẹ như sau:
"Khi đặt mình vào trường học của Mẹ một cách đặc biệt, trong đó các tín hữu được mời gọi thực hiện cuộc ăn năn trở lại cách sâu xa hơn, củng cố đức tin của họ, sống chăm chú hơn, lắng nghe Lời Chúa và trở nên sẵn sàng hơn để phục vụ những anh chị em của mình. Ðối với tất cả những đồ đệ của Chúa Kitô, Mẹ là mẫu gương tốt nhất cho đời sống Kitô, Mẹ chuẩn bị tâm hồn chúng ta đón nhận và trao Chúa Kitô cho chúng ta, giống như xưa kia Mẹ đã trao cho những người giúp việc tại tiệc cưới Cana một mệnh lệnh: "Hãy làm tất cả những gì Chúa truyền dạy". Mẹ mời gọi chúng ta hãy ra đi đến với những ai đang cần nâng đỡ và trợ giúp của chúng ta như chính Mẹ đã làm cho người chị họ Elizabeth, như thế chúng ta lãnh nhận từ Mẹ rất thân yêu này sự thích thú của cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa và của sứ mạng sống đức ái phục vụ tha nhân".
Ðó là tâm tình của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II mong muốn cho mọi thành phần trong Giáo Hội, cho tất cả những ai đang tôn kính Mẹ Maria, trong tâm tình này, mọi tín người hãy kết hiệp với nhau, và như Ðức Thánh Cha nói là mời Mẹ đến ở nhà chúng ta. Mời Mẹ đến với chúng ta để xin Mẹ giúp thực thi lời Chúa truyền dạy: "Hãy làm những gì Chúa truyền dạy".
Trẻ em Tây Phương thường được người lớn kể cho câu truyện thần tiên như sau:
Ngày xửa ngày xưa, có một gia đình nghèo sống bên cạnh rừng, người chồng lo việc tiều phu, người vợ lo nội trợ. Họ chỉ có ba người con gái, sáng sớm người chồng đi vào rừng kiếm củi, người vợ đi vào làng để mua thức ăn và các cô gái nhỏ trông chừng nhà cửa.
Một buổi sáng nọ, đang nô đùa trước cửa nhà, ba cô bé nhỏ thấy một bà lão đang tiến lại gần, người đàn bà mặc áo đen, từ xa ba cô bé nhỏ cũng có thể nhận ra gương mặt xấu xí của bà. Vừa thấy bà lão đến gần, người chị hét lên:
- Mụ phù thủy, mụ phù thủy.
Nghe tiếng báo động của người chị, hai cô bé nhỏ chạy vội vào nhà đóng cửa lại, còn cô lớn chạy ra phía sau nhà để thả chó ra. Lão bà dừng lại trước những tiếng gầm gừ của con chó. Bên trong hai đứa nhỏ vẫn còn run cầm cập. Một lát sau người đàn bà xấu xí đành bỏ về phía rừng.
Hôm sau, người tiều phu vào rừng đốn củi và đem theo con chó, người mẹ lại đem đứa con gái lớn theo phụ giúp mình mua sắm ngoài làng, ở nhà chỉ còn lại hai đứa bé gái nhỏ. Vào giữa buổi trưa, khi hai đứa nhỏ đang chơi trước nhà thì lão bà lại xuất hiện, vẫn bộ quần áo đen của phù thủy, dáng điệu cúi gập người trên cây gậy. Ðứa chị có bổn phận trông coi em, nó lại hét lên:
- Mụ phù thủy, mụ phù thủy.
Và cả hai chạy ù vào nhà đóng cửa kín lại, đứa chị còn kịp nhặt mấy viên đá phòng thân.
Khi bà lão tiến đến gần sân, bà nhìn vào trong chuồng chó thấy chuồng trống không, lại không có tiếng chó sủa, vậy là chú chó đã đi vắng. Người đàn bà tiến đến cửa chính của túp lều và tìm then cửa. Khi bà chưa kịp đụng vào then cửa thì đứa chị đã ném viên đá vào người bà. Một tay chống gậy, một tay đỡ lấy mặt, bà lão xấu xí lầm lũi trở về phía rừng.
Hôm sau nữa, sinh hoạt của gia đình tiều phu vẫn diễn ra bình thường, người cha vẫn đưa con chó vào rừng, người mẹ đem đứa con gái lớn và cả đứa kế đi theo ra chợ, chỉ còn lại đứa bé nhỏ nhất mới lên năm tuổi trông nhà. Vào giữa buổi trưa, khi đứa nhỏ đang chơi trước sân thì bà lão xấu xí lại xuất hiện một lần nữa. Vừa trông thấy, nó thét lên như hai đứa chị:
- Mụ phù thủy, mụ phù thủy.
Và chạy nhanh vào nhà cài then cửa lại, đứng nhìn người đàn bà. Qua lỗ nhỏ của khe cửa, bỗng nó nhìn thấy và nhận ra một điều mà nó chưa hề thấy trước đó, người đàn bà không có vẻ gì là một mụ phù thủy cả, nó chỉ thấy một người đàn bà vẻ đau yếu và mệt lả. Ðứa bé năm tuổi tự nhiên cảm thấy thương mến bà vô cùng, nó liền mở cửa và tiến đến bên bà thưa:
- Thưa bà, cháu có thể giúp bà cái gì được không ạ?
Quả thật, gương mặt bà lão xấu xí kinh khủng. Khi trông thấy đứa bé kháu khỉnh bà nói:
- Lão còn phải đi đường xa, lão mệt lắm, cháu có thể cho bà ly nước được không?
Nó liền chạy ra sau nhà, lấy gáo múc nước đem ra cho bà cụ uống. Bà cụ cầm lấy chiếc gáo, cảm ơn đứa bé rồi uống cạn. Bà rùng mình đứng thẳng, đứng thẳng rồi biến thành một cô công chúa xinh đẹp.
Thì ra lão bà là một cô công chúa đã bị một mụ phù thủy nào đó ghen tức làm cho công chúa biến thành xấu xí. Cô công chúa ấy trở lại nguyên hình nguyên trạng khi có ai đó làm một nghĩa cử đẹp cho cô, nhưng bao nhiêu năm trời không có ai đối xử tử tế với lão bà vì quá xấu xí, cho đến ngày hôm đó cô bé năm tuổi đã làm một nghĩa cử đẹp và hành động ấy đã biến đổi bà, trả lại hình dáng yêu kiều cho cô công chúa.
Anh chị em thân mến,
Trên đây là câu truyện nhân gian kể cho trẻ em nghe, nhưng cũng là câu chuyện xảy ra hằng ngày cho người lớn. Mỗi ngày qua đi trong cuộc sống, không biết bao nhiêu khuôn mặt mà chúng ta gán cho bao nhiêu là nhãn hiệu để cố tình xa lánh, nhưng chỉ cần một cử chỉ tử tế rất nhỏ cũng đủ làm cho khuôn mặt ấy trở thành dễ thương. Ðó là sức mạnh biến đổi của tình yêu, là cốt lõi của Tin Mừng. Ðây là điều mà Chúa Giêsu đến trần gian để dạy cho loài người: "Ngài giấu những sự đó với những người thông thái và kẻ quyền thế, mà chỉ tỏ bày cho trẻ em và những kẻ bé mọn" (Mt 11,25). Thật ra chỉ có trẻ thơ mới nhận ra sức mạnh biến đổi ấy của tình yêu.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu thay nguyện giúp cho chúng con được một tâm hồn luôn tươi trẻ để có đủ sức mạnh biến đổi tình yêu chúng con, xin Mẹ giúp chúng con ý thức rằng, chỉ có tình yêu thương mới biến đổi tâm hồn con người và giúp chúng con biến đổi thế giới, xin Mẹ luôn hiện diện bên Chúa, gìn giữ chúng con trên con đường theo Chúa Kitô và làm cho chúng con được trưởng thành trong đức tin mà chúng con tuyên xưng qua Kinh Tin Kính.
77. Ðến gần bên Chúa Yêsu như Ðức Mẹ
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Suy Niệm:
Nghe qua những bài Kinh Thánh hôm nay, chúng ta thấy phụng vụ dường như muốn hướng tâm hồn chúng ta về trời để thấy Ðức Mẹ đang ở trên đó qua bài sách Khải huyền; Người đang hân hoan ngợi khen Chúa qua bài Tin Mừng; và đặc biệt Người đang cảm mến ơn phúc hồn xác được ở trong vinh quang Thiên Chúa qua bài thư Phaolô. Nhưng nếu đọc kỹ lại, chúng ta có thể tự hỏi chưa chắc những bài Kinh Thánh kia đơn giản như vậy. Và biết đâu khi đó chúng ta sẽ thấy rằng Lời Chúa hôm nay nhắm vào chúng ta hơn Ðức Mẹ và dường như Chúa muốn gương sáng của cuộc đời Ðức Mẹ để giáo huấn và bổ dưỡng chúng ta trong cuộc đời dương thế. Chúng ta hãy thử tìm hiểu những bài đọc Kinh Thánh kia.
A. Bài Sách Khải Huyền
Thánh Yoan thấy Ðiện thờ Thiên Chúa ở trên trời mở ra. Và Khám Giao ước hiện ra trong Ðiện thờ của Người. Tức là người nhìn thấy thời đại cánh chung, thời đại Nước Trời, thời đại Thiên Chúa đến ở cùng nhân loại. Bởi vì theo tâm tư của người Do Thái thời bấy giờ, nói đúng hơn theo các sách Khải huyền thời thánh Yoan, người ta quan niệm đến thời gian sung mãn, Khám Giao ước sẽ lại hiện ra và lúc đó người ta có mạc khải toàn diện về giao ước, tức là về kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa.
Thời gian sung mãn dĩ nhiên là thời đại cánh chung, nhưng cũng là thời đại Thiên sai, thời Ðức Kitô xuất hiện mạc khải toàn diện chương trình của Thiên Chúa cho loài người. Chúng ta đang sống trong thời đại đó. Thế nên hiện tượng hay dấu hiệu mà thánh Yoan sắp nhìn thấy hẳn cũng phải đang xảy ra ở trước mắt chúng ta.
Người thấy một dấu lạ vĩ đại hiện ra ở trên trời: một Bà có mặt trời bao quanh, chân trên mặt trăng và đầu có triều thiên 12 ngôi sao. Chúng ta muốn đồng hóa Bà với Ðức Mẹ. Nhưng những điều thấy sau dường như không cho phép làm như thế. Vì "Bà đang thai nghén và kêu la đau đớn, quằn quại sinh con... Có một con rồng đứng chực trước mặt Bà, để Bà vừa sinh là nó nuốt con Bà... Nhưng con Bà đã được cất bổng lên nơi Thiên Chúa và Bà đã trốn vào sa mạc..."
Thú thật, chúng ta đã thấy khó hiểu rồi. Ðành rằng có thể giải thích: ở đây Yoan muốn nói đến việc Ðức Mẹ sinh Chúa Cứu thế. Nhưng lối giải thích này gặp nhiều khó khăn. Có nơi nào trong Kinh Thánh nói đến việc Ðức Mẹ sinh Chúa Yêsu mà phải đau đớn quằn quại đâu? Và cũng chẳng có nơi nào, nói rằng Ðức Yêsu đã tránh Satan như vậy. Ngược lại, Người phải đến để xua đuổi tà thần ra khỏi tâm trí và định mệnh loài người.
Ðàng khác, trong thư Phaolô có chỗ nói: người cưu mang phần rỗi các giáo dân của người và phải vất vả sinh họ ra trong đức tin. Ý tưởng ấy khuyến khích chúng ta thử nhìn người đàn bà trong đoạn Khải Huyền trên như là hình ảnh về Giáo hội. Giáo hội đang được Ơn Chúa bao bọc và có 12 chi họ, 12 Tông đồ tượng trưng bằng 12 ngôi sao. Giáo hội ở thời đại sung mãn này đang thai nghén đau đớn, quằn quại sinh ra các tín hữu... Ðàng trước Giáo hội và chung quanh Giáo hội, Satan luôn luôn quyện quanh để tìm mồi cắn xé. Nó rình nuốt con cái Giáo hội sinh ra. Nhưng chúng là con cái Chúa, là con cái trong Người Con Một của Thiên Chúa. Và Người Con này hiện đã được cất bổng lên nơi Thiên Chúa, lên ngai của Người. Và theo lời Thánh Kinh nói, những người con khác cũng đang được ở gần Thiên Chúa trong Ðức Yêsu Kitô. Còn người đàn bà kia, tức là Giáo hội đã trốn vào sa mạc, ở đó Thiên Chúa cung dưỡng bà 1,260 ngày. Con số này đã được nói tới ở đoạn trên cũng là 42 tháng và là ba năm rưỡi trời. Sách Ðaniel (7,25; 12,7) coi đó là thời gian bắt đạo thời Antiôkhô Epiphanê và vì thế nó trở thành biểu tượng thời kỳ cấm cách. Như vậy trong suốt thời kỳ bị bắt bớ và gặp khó khăn do Satan rảo quanh tìm mồi cắn xé, Giáo hội không lo sợ vì luôn được ơn Chúa phù trợ và dưỡng nuôi, cho đến ngày mọi sự nên trọn và quyền bính hoàn toàn thuộc về Ðức Kitô Chúa chúng ta.
Như thế bài sách Khải Huyền hướng chúng ta nhìn về Giáo hội. Giáo hội là Mẹ hằng sinh ra con cái Chúa trong đau thương vất vả. Giáo hội luôn bị rình chờ bắt bớ, nhưng đồng thời cả con lẫn mẹ luôn luôn được Chúa phù trợ.
Nhưng thường thường những gì nói về Giáo hội cũng có thể hiểu về Ðức Mẹ và về các linh hồn. Vì Ðức Mẹ là hình ảnh, là khuôn mẫu về Giáo hội. Hơn nữa Người cũng là Mẹ các tín hữu. Và rõ ràng Người phải đồng lao cộng tác với Chúa Cứu thế để sinh ra Giáo hội và các linh hồn. Ấy là chưa kể Ðức Mẹ cũng là một tín hữu, một "linh hồn". Và mỗi linh hồn cũng là người đàn bà trong đoạn Khải huyền trên. Linh hồn nào cũng phải cưu mang đức tin và đời sống ân sủng. Làm được một hành vi bác ái siêu nhiên, sinh ra được những hành động đức tin đẹp lòng Chúa, không phải là dễ. Người ta phải phấn đấu, chống lại Satan, thế gian và xác thịt. Người ta phải quằn quại trong cơn đau sinh nở như thánh Phaolô nói chung về thân phận toàn thể tạo vật hiện nay.
Suy nghĩ như vậy, bài sách Khải huyền đưa mắt chúng ta nhìn lên Ðức Mẹ trên trời thì ít, mà bảo chúng ta nhớ lại cuộc đời của Người ở trần gian thì nhiều. Mỗi lần sách Tin Mừng cho chúng ta thấy Người đứng bên Ðức Yêsu, chúng ta lại được chứng kiến Người như phải đau đớn đi vào con đường đức tin mỗi ngày một hoàn toàn hơn. Và nhất là Người đã thật sự quằn quại khi trở thành Mẹ của Yoan ở dưới chân Thánh giá, để có thể nói hằng ngày Người phải đồng lao cộng tác với Ðức Kitô và Giáo hội để sinh ra con cái Chúa ở trần gian này. Chúng ta phải cảm phục Mẹ và biết ơn Mẹ. Hằng ngày chúng ta phải mượn lời bà Elisabet mà chào Mẹ đầy ơn phúc. Và lúc ấy chúng ta sẽ được Mẹ dạy dỗ thêm.
B. Bài Kinh Tôn Dương
Thánh Luca viết: "Và Maria nói: hồn tôi tôn dương Chúa và thần trí tôi nhảy mừng Thiên Chúa". Nhưng thật ra Người có nói như vậy không? Mạch văn và hoàn cảnh khó cho phép chúng ta tin rằng đây thật là những lời đã trào ra từ lòng Ðức Mẹ khi Người đứng trước mặt bà Elisabet. Vị trí bài kinh "Tôn dương" là một vị trí giả dối. Nó cắt đứt câu truyện thăm viếng khá lâu. Nó lại nặng chất Do thái và Cựu Ước, khiến chúng ta nghĩ nó ít hợp với tư tưởng và văn chương Hylạp của thánh Luca. Và hoàn cảnh lúc hai người bà con gặp nhau chưa hẳn đã thuận lợi đến nỗi làm thốt lên được những cảm tình tôn giáo điêu luyện đến như thế.
Và nếu phân tích kỹ, bài Kinh Tôn dương khác nào một tổng hợp các suy tư của bao bài Thánh vịnh và khôn ngoan. Nó là tiếng nói của một cộng đoàn hơn là của một cá nhân. Nó có tính cách khách quan hơn là chủ quan.
Chúng ta có thể thấy ba phần rõ rệt. Thoạt đầu linh hồn tôn dương Chúa vì Người đã đoái thương đến phận hèn, tôi tớ của mình (46-49). Và như vậy cũng là hợp với đường lối của Người xưa nay hằng nhân nghĩa với kẻ khiêm nhu kính sợ và đuổi về tay không những kẻ giàu sang (50-53). Thái độ nhân nghĩa quảng đại của Chúa tỏ ra rõ rệt nhất khi đáp cứu Israel tôi tớ Người, như đã hứa cùng Abraham và dòng dõi ông (54-55).
Chúng ta không thấy ám chỉ gì tới những ơn trọng đại Ðức Mẹ vừa được. Càng không nêu lên việc Chúa vừa viếng thăm lòng bà Elisabét. Tất cả khiến chúng ta phải kết luận: bài ca tôn dương mà chúng ta vẫn gọi là của Ðức Mẹ, thực ra không phải là của riêng Người và do một mình Người sáng tác ra. Nhưng đó là tâm tình của cả Giáo hội, trong đó có Ðức Maria. Ðó là bản kinh phụng vụ của cộng đoàn Do thái - Kitô giáo tiên khởi đã cảm hứng khi suy nghĩ về ơn Chúa cứu độ mình. Ðược hạnh phúc của ngày hôm nay, Giáo hội thấy mình là đối tượng của lòng Chúa thương yêu đã tuyển chọn mình hầu thừa tự mọi Lời Hứa xưa.
Ðức Mẹ ở trong Giáo hội, là biểu tượng của Giáo hội. Người sẽ chẳng trách thánh Luca đã đặt bản kinh Tôn dương trên môi miệng Người. Và chắc chắn Giáo hội phải cám ơn thánh nhân đã làm cho bản kinh của Dân Thiên Chúa được thêm giá trị khi được mô tả như đã từ lòng Ðức Mẹ thốt ra.
Còn chúng ta khi đọc kinh này, không những chúng ta nghĩ đến những tâm tình chân thật của Ðức Mẹ và của Giáo hội, mà chúng ta cũng phải sung sướng nhận lấy làm của mình. Vì thật sự ai có lòng đạo đức mà không thấy mình trong bản kinh ấy? Tất cả đời sống đạo đức của chúng ta không hoàn toàn là tác phẩm của Thiên Chúa hay sao? Sở dĩ chúng ta được như ngày nay là vì Người đã nhìn đến phận hèn tôi tớ, vì lòng nhân nghĩa của Người từ đời nọ đến đời kia, vì Người nhớ lại Lời Hứa cùng tổ phụ Abraham cho đến muôn đời. Và chúng ta sẽ càng đọc kinh này sốt sắng khi chúng ta càng ý thức đang mang trong mình ơn cứu độ cao cả như Ðức Maria xưa, khi Người được bà Elisabét nhắc đến quả có phúc trong lòng Người.
Như vậy, chúng ta càng quý kinh này hơn khi biết nó là tác phẩm của cả Giáo hội và đã được Ðức Mẹ mà cho thêm giá trị. Và cũng như Giáo hội ngày nay chỉ còn muốn diễn tả kinh này qua tâm tình của Ðức Mẹ, thì chúng ta cũng phải kết hợp với Ðức Mẹ mỗi khi đọc kinh này. Ðức Mẹ, Giáo hội và chúng ta gắn bó mật thiết với nhau như vậy, thế mà nhiều khi chúng ta không hay biết! Ðiều ấy đã đúng trong quá khứ và hiện tại thì cũng đúng trong tương lai như lời thư Phaolô hôm nay cho thấy.
C. Bài Thư Phaolô
Thánh Tông đồ không hiểu sao có người lại không tin sự phục sinh, tức là việc kẻ chết sau này sẽ sống lại. Như vậy thì sự chết hay tử thần sẽ không bao giờ bị giết sao? Mà nó là kết quả của tội lỗi, thì như vậy cũng không bị xóa bỏ hoàn toàn ư? Ơn cứu độ của Chúa Kitô mạnh mẽ như thế nào? Chỉ cần suy nghĩ một tý là đã thấy rõ vấn đề. Không, sự chết cũng sẽ bị hủy diệt. Thế nên lời cuối cùng trong thư hôm nay nói rằng: "Ðịch thù sau hết sẽ bị hủy ra không là sự chết".
Nhưng để đi đến chân lý này, thánh Phaolô không lý luận suông. Người căn cứ vào sự kiện trong lịch sử cứu độ. Người nhắc lại việc Ðức Kitô đã sống lại từ cõi chết. Và Người đã không sống lại cho mình, nhưng với tư cách là tiên thường giữa các vong linh, hay như hoa quả đầu mùa của toàn thể nhân loại. Bởi vì chúng ta không bao giờ được quên Ðức Kitô là Ðầu của một thân thể, khác nào như Ađam là đầu của nhân loại. Nếu do tự Ađam sự chết đã lọt vào thế gian thì lẽ nào sự sống lại ở nơi Ðức Kitô lại không tràn đến tất cả nhân loại? Thế nên ai theo thứ tự nấy sẽ sống lại sau Ðức Kitô.
Ðàng khác, Thiên Chúa đã thề hứa đặt mọi thù địch dưới chân Ngài. Mà sự chết là kẻ thù cuối cùng của nhân loại. Sự chết cũng sẽ bị hủy diệt dưới chân Ðức Kitô để sự sống của Thiên Chúa sẽ ở trong tất cả.
Chúng ta không cần dài dòng diễn tả mầu nhiệm xác thịt sống lại. Chúng ta đã tin vững vàng rồi. Ở đây và hôm nay phụng vụ muốn chúng ta để ý đến một câu trong thư này: ai nấy cũng sẽ theo thứ tự của mình mà sống lại sau Ðức Kitô. Nhưng thứ tự nào, nếu không phải là như lời thư Phaolô, thứ tự thuộc gần hơn về Ðức Kitô? Thế mà ai gần Ðức Kitô hơn Ðức Mẹ? Do đó, tin hồn xác Ðức Mẹ ngày nay đang ở trên trời là khẳng định niềm tin xác thịt chúng ta sau này sẽ sống lại. Và thấy ngày nay Người đã được như thế, thì chúng ta phấn khởi chắc chắn sẽ đến lượt mình.
Và cho được như vậy phải đến gần Chúa Yêsu như Ðức Mẹ, phải chấp nhận phấn đấu để cưu mang đức tin và sinh ra hoa quả các việc lành như người đàn bà trong sách Khải huyền; phải bắt chước Giáo hội luôn sống tôn dương Thiên Chúa đã thương đến phận hèn của mình và ban cho mình tràn trề ơn cứu độ. Nói tóm phải bắt chước Ðức Mẹ trong đời sống phấn đấu, cầu nguyện và cậy trông để luôn luôn được gần Chúa Kitô. Giờ đây Người đến gần chúng ta trong Thánh Thể để ở với chúng ta trong đời sống hầu đưa chúng ta sau này sống lại. Chúng ta hãy có tâm tình của Ðức Mẹ để gần Người ở trần gian hầu được gần Người ở trên trời.
78. Ðể cho được lên cao như Ðức Mẹ
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Suy Niệm:
Trong ba bài học Kinh Thánh hôm nay, bài sách Khải Huyền và bài Tin Mừng như trực tiếp muốn nói với chúng ta về Ðức Mẹ. Còn bài thư Phaolô gợi lên niềm hy vọng của chúng ta cũng sẽ được sống lại để lên trời cả hồn và xác như Ðức Mẹ. Xét theo thời gian chúng ta hãy đọc bài Tin Mừng trước và bài Khải Huyền sau.
Bài Tin Mừng đưa chúng ta nhìn lại một chuyện đã xảy ra trong cuộc đời của Ðức Mẹ ở trần gian. Còn bài Khải Huyền mở cho chúng ta thấy một quang cảnh ở trên trời với hình một người phụ nữ rất đặc biệt. Chúng ta sẽ phải hỏi người phụ nữ đó là ai? Và áp dụng vào Ðức Mẹ thì hình ảnh ấy nói lên sự kiện nào trong đời sống của Người? Nhưng trước hết chúng ta hãy chiêm ngưỡng Người trong câu chuyện Người đến thăm Elisabeth.
1. Người Diễm Phúc
Ðức Maria vừa được thiên thần truyền tin... Người thật vui như lời thiên thần đã chào Người. Ðó là niềm vui to lớn mà càng suy Người càng thấy không thể tưởng tượng được. Bên tai Người còn văng vẳng lời thiên thần: "Thánh Thần sẽ đến trên Người, và quyền năng Ðấng Tối Cao trên Người rợp bóng; bởi thế mà trẻ sắp sinh được gọi là thánh, là Con Thiên Chúa". Những lời ấy nói lên những việc phi thường và trọng đại... Lòng Người đang cưu mang những điều ấy. Không niềm vui nào to lớn hơn. Ðó là niềm vui dân Chúa đón chờ từ đời các tổ phụ. Ðức Maria càng nghĩ, đôi chân Người càng đon đả đi lên miền sơn cước, hướng về thành của Elisabeth, là một người trong hàng thân thích đã già nua son sẻ mà thiên thần lại bảo là mới thụ thai. Ðây cũng là việc lạ Chúa làm mà Người đã mạc khải cho Maria. Người thấy ngay tiếng gọi phải đi thăm Elisabeth vì sự việc xảy đến cho bà hẳn có liên hệ đến ơn mầu nhiệm chính Người đã mang đầy trong lòng.
Vậy Người đã chỗi dậy lên đường không trì hoãn. Niềm vui to lớn trong lòng làm Người quên mọi nhọc nhằn nguy hiểm của "thân gái dặm trường". Người đã vào nhà Elisabeth và chào người bà con. Lập tức bà này thấy rộn ràng trong lòng và được đầy Thánh Linh... Bà thấy rõ ơn Chúa đến với mình, nói đúng hơn, với hài nhi trong lòng mình. Và ơn Chúa đến từ lòng người trinh nữ trước đây là bà con với mình nhưng bây giờ đã trở thành khí cụ của Thiên Chúa. Elisabeth liền chào lại Maria với những lời mà ngày nay trên khắp thế gian ngày nào con cái Hội Thánh cũng không ngừng dâng lên Ðức Mẹ trên trời: Chào Bà có phúc hơn mọi người nữ. Và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ.
Niềm vui to lớn Maria mang trong mình bây giờ người ta đã biết và trở thành công khai. Người thấy ngay bổn phận phải công khai nói lên lòng biết ơn vô vàn đối với Chúa. Do đó Người đã bắt đầu kinh "tôn dương" Chúa.
Những ai biết Kinh Thánh và hiểu đường lối cứu độ đều thấy ngay những lời Ðức Maria thốt ra đã làm vọng lại cả một bầu trời Cựu Ước. Ðó là tiếng nói của dân trông đợi ơn cứu thế phải phát biểu khi ý thức ơn đó đã đến cho mình. Ðó là tâm tình của hết thảy mọi người khi thấy mình được cứu độ theo như đường lối của Thiên Chúa. Chính vì vậy có thể nói Ðức Maria đã nói thay cho dân cũ; Người đã phát biểu đại diện cho dân mới. Lời kinh của Người là mẫu mực để chúng ta tạ ơn Thiên Chúa vì công trình cứu độ của Người. Do đó, Hội Thánh thật có lý khi hát ca vãn của Ðức Mẹ vào giờ kinh chiều, giờ nhìn lại ơn cứu độ của Thiên Chúa đã diễn ra trong ngày và trong lịch sử.
Như vậy chúng ta có đáng giá quá cao lời kinh "tôn dương" của Ðức Maria không? Thiết tưởng công lao của tác giả Luca thật là nhiều. Người đã có công ghi lại tâm tình của Ðức Mẹ và mặc cho nó hình thức hiện nay. Người cho ta thấy tâm hồn của Ðức Maria trước hết là đang "nhảy mừng" vì ơn Chúa cứu độ. Từ ngữ "nhảy mừng" gợi lên cả một truyền thống Kinh Thánh mỗi khi muốn diễn tả lòng hân hoan cảm mến trước hành động cứu dân kỳ diệu của Thiên Chúa. Ở đây hành động cứu thế oai phong này lại xảy ra nơi thân phận mọn hèn tớ nữ của Người, ám chỉ quả có phúc nơi cung lòng trinh nữ Maria.
Ðúng như lời Elisabeth đã nói: Maria thật diễm phúc; nhưng không phải chỉ hơn hết mọi người nữ, mà hơn tất cả mọi người khiến mọi đời sẽ khen Maria có phúc. Ý thức ấy khiến Người phải ngợi khen Thiên Chúa.
Người biết nói gì, nếu không trở đi trở lại hai đề tài sau đây: một đàng ca tụng Chúa thật thánh thiện, uy quyền, nhân nghĩa; và đàng khác thấy mình thân phận mọn hèn tớ nữ bất xứng với ơn cao cả Chúa ban? Giao đi giao lại hai đề tài ấy, Ðức Maria không ngờ đã viết lại những nét chính yếu của lịch sử ơn Cứu độ. Bài ca của Người đã nói lên phong cách của Chúa trong tất cả lịch sử này. Nó diễn tả đường lối cứu độ, và có thể nói, chính bản chất của ơn này.
Cứu độ, theo kinh tôn dương, là những điều cao cả mà Ðấng quyền năng làm. Ngài làm chỉ vì Danh Ngài là thánh; và vì lòng nhân nghĩa của Người đặc biệt đối với nhà Israel. Cách thức Người thi hành tựu trung là một cuộc phân xử: Một bên hạ kẻ kiêu căng, quyền thế, giàu sang và bên kia nâng cao người kính sợ khiêm nhượng và đói khổ.
Ðức Maria thực ra đã chỉ muốn đi từ kinh nghiệm riêng của mình. Thế mà cụ thể kinh nghiệm ấy bây giờ chính là quả có phúc Người đang mang trong lòng. Thành ra khi mô tả kinh nghiệm riêng Người đã diễn tả ơn cứu độ và ơn này chỉ có Một từ đời nọ đến đời kia; nên bài ca của Ðức Mẹ trở thành lời phát biểu của mọi thế hệ về lòng nhân nghĩa của Thiên Chúa. Người đã nói thay cho cả Cựu Ước lẫn Tân Ước. Người đã nói thay cho chúng ta; tức là chúng ta luôn phải mượn lời ca của Người mà ngợi khen ơn cứu thế.
Tuy nhiên có thể nói đây mới chỉ là tiếng hát đầu tiên của Ðức Mẹ khi cưu mang Người con đầu lòng. Sẽ có một lúc khác, Người được lãnh nhận thêm thiên chức làm mẹ loài người. Lúc ấy tiếng hát của Người có một âm điệu đặc biệt mà dường như bài sách Khải Huyền hôm nay còn làm vọng lại.
2. Người Ðau Ðớn
Như mọi ánh văn chương Khải Huyền, đoạn văn này không dễ hiểu tức khắc. Và nhất là đừng giải thích theo nghĩa đen. Câu đầu tiên nói: Ðiện thờ Thiên Chúa trên trời đã mở ra và khám giao ước hiện ra trong điện ấy. Ðiều này chỉ có nghĩa là tác giả được xem thấy mầu nhiệm trên trời. Và đây không phải chỉ là một mầu nhiệm nhưng là tất cả kế hoạch thâm sâu của Thiên Chúa. Vì chúng ta biết Môsê đã được lệnh xây điện thờ Chúa ở dưới đất theo khuôn mẫu đã được thấy ở trên trời. Và trong đền thờ dưới đất, khám giao ước được đặt trong nơi cực thánh không ai được vào trừ vị Thượng tế mỗi năm một lần. Nay nói rằng điện thờ trên trời đã mở và khám giao ước hiện ra, thì chúng ta phải hiểu Thiên Chúa sắp cho tôi tớ của Người xem thấy tất cả mầu nhiệm về giao ước. Ðó là một mạc khải toàn diện.
Vậy tác giả sách Khải Huyền đã thấy gì? Những câu sau viết về một Bà có mặt trời bao quanh, chân trên mặt trăng, đầu có triều thiên mười hai sao; bà đang thai nghén, kêu la đau đớn, quằn quại sinh con. Chắc chắn những nét tả về mặt trời, mặt trăng và mười hai sao có thể khiến ta nghĩ về Ðức Mẹ trong vinh quang trên trời... Nhưng ý tưởng về sự đau đớn sinh con khó có thể hiểu ngay về Ðức Mẹ. Thật ra, ở đây Gioan trực tiếp muốn nói đến Hội Thánh mang mười hai sao trên đầu tức là có mười hai chi họ dân cũ, hay là có tất cả dân mới thuộc mười hai vị tông đồ. Hội Thánh có sự thánh thiện như được bao bọc trong ánh mặt trời; và Hội Thánh có vinh dự như đứng trên mặt trăng. Bản chất của Hội Thánh như vậy nhưng hiện tượng về Hội Thánh thì khác.
Bề ngoài Hội Thánh đang bị bắt bớ nên khác nào một bà đang thai nghén, kêu la, quằn quại. Hội Thánh được người con nào, Satan cũng rình bắt. Nhưng Chúa luôn gìn giữ cả Mẹ và Con trong thời gian 1,260 ngày, tức là trong thời gian bắt đạo vì người Do Thái coi cơn bắt đạo thời Antiochus Epiphane dài ba năm rưỡi là tiêu biểu cho mọi cơn bắt đạo, nhất là vào thời cánh chung.
Do đó bài sách Khải Huyền hôm nay trực tiếp nói về Hội Thánh để khuyến khích tín hữu trong lúc khó khăn. Nhưng áp dụng cho Ðức Mẹ, bài sách cũng rất thích hợp vì hầu hết những gì nói về Hội Thánh cũng hợp cho Ðức Mẹ; và ngược lại cũng vậy. Xét theo nhiều khía cạnh, Ðức Mẹ là hình ảnh và gương mẫu của Hội Thánh mặc dù xét theo một vài khía cạnh khác, Ðức Mẹ lại là con và là một phần tử của Hội Thánh. Vậy, áp dụng đoạn sách Khải Huyền hôm nay vào Ðức Mẹ, chúng ta thấy hình ảnh về Hội Thánh trong cơn đau sinh con cũng có lần lóe ra trong cuộc đời của Ðức Mẹ. Hôm ấy Người đứng dưới chân thánh giá trái tim như bị đâm thâu. Và đang cơn đau đớn ấy, Người được Chúa Giêsu trao cho trách nhiệm làm mẹ của Gioan, tức là của loài người. Ðức Maria trở thành Mẹ các tín hữu trong cơn đau đớn của mầu nhiệm thánh giá. Cơn đau sinh nở này, Người đã chịu từ ngày mật thiết kết hợp với Ðức Kitô; và khi Ðức Kitô khai sinh Hội Thánh trong mầu nhiệm tử nạn thì Ðức Maria trở thành Mẹ của chúng ta.
Do đó hôm nay phụng vụ đọc cho chúng ta nghe hai bài Kinh Thánh về Ðức Mẹ, nói về hai lần làm mẹ của Người; một lần cưu mang Chúa Giêsu và một lần sinh ra các tín hữu. Cưu mang Chúa thì vui và là năm mầu nhiệm đầu tiên chúng ta suy niệm khi lần hạt; sinh ra tín hữu thì đau đớn và là năm mầu nhiệm của chuỗi Mân Côi tiếp theo. Chúng ta có thể nghĩ bài đọc thứ ba hẳn sẽ nói về năm sự mừng và đưa chúng ta vào hy vọng sẽ được lên trời với Ðức Mẹ. Chúng ta thử xem có thể cắt nghĩa như vậy không?
3. Người Lên Trời
Quả thật, như năm sự mừng trong chuỗi Mân Côi bắt đầu với Mầu nhiệm Chúa Giêsu sống lại thì bài thánh thư hôm nay cũng khẳng định điều ấy trước hết. Và vì Người là Adong mới trong mầu nhiệm Phục sinh, nên sự sống lại ở nơi Người trở thành mầm mống sự phục sinh sau này của những ai kết hiệp với Người. Ðiều này tuy là mầu nhiệm, nhưng cũng có thể hiểu được. Bởi vì nếu mọi người đã liên đới với Adong, thì hết thảy cũng đồng phận với Adong mới. Adong cũ vì lỗi phạm đã đưa mọi người vào vòng tội và sự chết, thì Adong mới nhờ lễ đền tội, cũng đem hết thảy chúng ta vào sự thánh thiện và sự sống lại. Chỉ có một điều khác, là chúng ta tự nhiên đã liên đới với Adong cũ vì huyết nhục; còn muốn liên đới với Chúa Kitô là Adong mới, người ta phải có tinh thần muốn kết hợp với Chúa Kitô. Nhưng chắc chắn ai đã kết hiệp với Chúa Kitô thì sẽ đồng phận với Người vì Thiên Chúa đã muốn như thế; và ý muốn của Thiên Chúa luôn có hiệu lực. Và riêng trong trường hợp này, nếu không chúng ta sẽ khó hiểu được sự liên đới với Adong cũ. Người ta phải nhìn đích điểm để hiểu khởi nguyên; nhìn vào ơn cứu độ để hiểu mầu nhiệm tội lỗi; nhìn vào Adong mới để hiểu Adong cũ; như khi nhìn vào mặt thật để hiểu mặt trái của sự vật và sự việc.
Vậy Chúa Kitô đã sống lại chỉ là "tiên thường" và là đầu đi trước để cả thân thể đi sau. Tác giả thư Côrintô nói rõ: tiên thường là Ðức Kitô, rồi đến các kẻ thuộc về Người, ai theo thứ tự nấy, sẽ được tái sinh. Và áp dụng lời này, Hội Thánh cho đến nay chỉ công nhận sau Ðức Kitô mới có Ðức Maria được lên trời hồn xác. Không phải chỉ vì Ðức Mẹ hồn xác vẹn tuyền đã mật thiết kết hiệp với Ðức Kitô trong mọi sự, nhưng còn vì Ðức Mẹ là hình ảnh và tiêu biểu cho Hội Thánh. Dù sao xác thánh phục sinh của Chúa Kitô cũng gợi lên hình ảnh thân thể của Người là Hội Thánh gồm tất cả những ai được cứu độ. Thế nên thánh Phaolô ở chỗ khác đã viết: Sự sống của chúng ta hiện nay đã được tiềm ẩn với Ðức Kitô ở trên trời. Mầu nhiệm Ðức Mẹ hồn xác lên trời làm cho những điều trên đây trở nên cụ thể. Và chúng ta được thêm vững vàng trong niềm tin xác thịt chúng ta sẽ sống lại và Hội Thánh của chúng ta sẽ được vinh quang trên trời.
Như vậy ngày lễ hôm nay đem vui mừng phấn khởi đến cho chúng ta. Mọi người thêm tin tưởng. Hình ảnh Ðức Mẹ hồn xác lên trời thu hút chúng ta. Và cho được lên cao như Ðức Mẹ, chúng ta phải đi qua con đường vui buồn Người đã đi.
Người đã vui khi đón nhận ơn cứu độ, nhưng đã đau khi muốn cứu thế với Ðức Kitô Con Người. Chúng ta hãy bắt chước Người tán dương Chúa đã đoái thương số phận hèn chúng ta mà ban cho chúng ta được mang Ðức Giêsu trong mình. Không những chúng ta được mang danh Kitô hữu nhưng nhất là được mang chính sự sống ân sủng của Người. Có kho tàng quí hóa ấy trên đường đời dĩ nhiên đã phải phấn đấu vất vả với Satan muốn cướp giựt, khác nào Ðức Mẹ cũng đã phải đi trên đàng thánh giá. Nhưng lúc đau đớn nhất là khi phải quằn quại sinh Ðức Giêsu nơi người khác, làm ra các Kitô hữu mới, trở thành mẹ thiêng liêng của các linh hồn. Thế mà ơn gọi của hết thảy chúng ta phải như vậy. Chúng ta phải đem ơn cứu độ đến mọi nơi. Những hy sinh khó nhọc của chúng ta trong tương quan với người khác có giá trị cứu thế. Chúng ta phải can đảm, quảng đại, để như Ðức Mẹ làm cho mọi người sau này được phục sinh và lên trời.
Chúng ta hãy có tâm tình như vậy khi tham dự thánh lễ này. Chúng ta có thể hình dung Ðức Mẹ đứng dưới chân thánh giá. Nhưng lập tức hình ảnh ấy có thể biến ngay sang hình ảnh một bà già có mặt trời bao quanh, chân đạp mặt trăng và có triều thiên 12 sao. Ðó là Ðức Mẹ trên trời... Nhưng đó đúng ra là Hội Thánh và chúng ta sau này. Chúng ta hãy cố gắng lên trời như Ðức Mẹ và để ở với Ðức Mẹ.
79. Bí quyết đón nhận dồi dào ân sủng Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
Có hai người phụ nữ vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại: Một là Evà, hai là Ðức Maria.
Bà Evà là người phụ nữ vĩ đại vì bà là mẹ của nhân loại. Mọi người trên khắp thế gian đều là con, cháu, miêu duệ của bà.
Ðức Maria là phụ nữ vĩ đại thứ hai, vì Mẹ đã hợp tác với Thiên Chúa để sinh ra một nhân loại mới, gồm những người thuộc về gia đình Hội Thánh, thuộc về Ðức Ki-tô.
Nhưng giữa hai người phụ nữ vĩ đại nhất nầy có một sự khác biệt lớn lao: Bà Evà là người bị chúc dữ và đã lôi kéo con cháu vào vòng sa đoạ; còn Ðức Maria là Ðấng-đầy-ơn-phúc và Mẹ đã dẫn đưa muôn người vào vương quốc ân sủng của Thiên Chúa.
Vì đâu có sự khác biệt nầy?
Thiên Chúa là Cha nhân lành và công bằng vô cùng. Ngài không chê bỏ bất cứ ai. Thế nhưng có những người nhận được nhiều ơn sủng của Thiên Chúa như Mẹ, còn những người khác thì chẳng được ơn nào. Tại sao như thế?
Cũng vì thế mà có người oán trách Thiên Chúa: Tại sao Chúa thương người khác mà không thương tôi? Tại sao Chúa ban ơn cho nhiều người khác mà không đoái đến tôi? Tại sao Chúa không đối xử công bình với tôi?
Ơn sủng Thiên Chúa như mưa tuôn xuống cho mọi người không phân biệt, thế nhưng nơi những ngọn núi cao thì nước mưa chảy tuôn xuống hết chẳng còn đọng lại; còn nơi biển sâu thì vì trũng xuống nên tất cả mọi nguồn nước đều tích tụ về.
Xưa kia, Bà Evà không vâng phục Thiên Chúa và muốn nâng mình lên, như một ngọn núi cao, nên ân sủng Thiên Chúa, dù được ban xuống như mưa, nhưng không thể tồn đọng lại. Nước mưa không thể tụ lại đỉnh non cao.
Còn Ðức Maria thì luôn sống hạ mình, luôn luôn vâng phục Thiên Chúa, vui lòng chấp nhận làm tớ nữ thấp hèn của Ngài với lòng khiêm nhượng thẳm sâu, Mẹ hạ mình như thung lũng thấp, nên ơn Chúa tuôn ban được tích tụ nơi Mẹ thật dồi dào.
Bài tán tụng ca của Ðức Maria trong Tin Mừng hôm nay diễn tả điều đó:
Ðối với những ai muốn làm "núi cao" như kiểu Evà, thì họ sẽ bị triệt hạ: "Chúa giơ cánh tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế..."
Còn đối với người khiêm tốn như "lũng sâu", tiêu biểu là Mẹ Maria, thì được Chúa thông ban phúc lộc dư đầy:
"Phận nữ tì hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới, từ nay hết mọi thời sẽ khen tôi diễm phúc... Ðấng Toàn Năng đã làm cho tôi, biết bao điều cao cả... Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường... Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư..."
Vậy thì qua Tin Mừng hôm nay, chúng ta học được một bí quyết thần diệu để có thể tiếp nhận thật nhiều phúc lộc của Thiên Chúa, là hãy trở thành "lũng sâu" như Mẹ Maria, nghĩa là biết mình là kẻ thấp hèn yếu đuối, tự sức riêng chẳng làm được gì nếu không có ơn Chúa, là sống khiêm nhường như Mẹ, là đặt mình làm tôi tớ hèn mọn của Thiên Chúa như Mẹ... và khi đó, muôn vàn ân phúc của Thiên Chúa sẽ tuôn đổ dư đầy cho chúng ta.
Trái lại, phương cách hiệu quả nhất để đánh mất ơn Chúa, để ân huệ Ngài vượt thoát hết khỏi tầm tay... là cậy dựa sức mình mà xem thường ơn Chúa, là tự phụ mình giỏi mình hay... làm như thế là trở nên "núi cao" như kiểu bà Evà xưa. Và vì thế, ân sủng của Thiên Chúa không thể tồn đọng trong tâm hồn và trong cuộc đời chúng ta được.
Nguyện xin Mẹ Maria giúp chúng con sống khiêm nhường như Mẹ, để ân sủng Thiên Chúa lưu lại mãi trong cuộc đời chúng con và biến đổi chúng con ngày càng nên giống Mẹ hơn.
- 14/08 Tinh thần trẻ nhỏ
- 13/08 Không được phân ly
- 12/08 Yêu thương và tha thứ.
- 11/08 Yêu thương trong cầu nguyện và sửa lỗi nhau
- 10/08 Hạt lúa thối đi, sinh nhiều bông hạt.
- 09/08 Chúa Giêsu, mẫu gương vâng phục
- 08/08 Bánh ban sự sống.
- 07/08 Lòng tin lớn bằng hạt cải
- 06/08 Vinh quang Phục Sinh
- 05/08 Chìa khóa nước trời